Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 7

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thai Tông Hội Nghĩa Quyển 3

Đất Cổ Ngô, Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật

妙法蓮華經綸貫會義

妙法蓮華經台宗會義卷三

古吳後學蕅益智旭述

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

          Giải thích phẩm Tín Giải đă xong, kế đến giải thích phẩm Dược Thảo Dụ.

 

5. Phẩm thứ năm: Dược Thảo Dụ (Dược Thảo Dụ phẩm đệ ngũ, 藥草喻品第五)

 

          Trong phẩm này có đủ núi, sông, mây, mưa, riêng dùng Dược Thảo để đặt tên [cho phẩm này]. Đất đai là cái có thể sanh. Mây và mưa là cái có thể nhuần thấm, cỏ cây là cái được sanh, được nhuần thấm. Cái được sanh và được nhuần thấm nói chung đều có tác dụng (Nếu xét theo ư nghĩa do Như Lai đă nói, trọn hết đại địa, không ǵ chẳng phải là thuốc), nhưng tác dụng của dược thảo mạnh mẽ (nếu xét theo các ư nghĩa do các vị như Ca Diếp v.v… lănh hội th́ chính là [căn cơ của các vị đại đệ tử trong phẩm này được sánh ví như] cỏ thuốc loại trung), ví như các điều thiện hữu lậu đều có thể trừ ác, nhưng [điều thiện] vô lậu thù thắng nhất. Nay bốn vị đại đệ tử trong các vị vô lậu dùng thí dụ để [nêu bày sự] lănh hội [của chính ḿnh đối với] thí dụ của đức Phật, thấu hiểu sâu xa thánh tâm. Đức Phật khen ngợi “lành thay”, rất hy hữu! Trần thuật sự lănh hội của chính ḿnh để khuyên dụ người khác. V́ thế, gọi là phẩm Dược Thảo Dụ (đó là Thế Giới Tất Đàn).

          Cỏ thuốc nẩy nở um tùm đă lâu, hễ gặp được mây tuôn mưa, sẽ tăng trưởng mơn mởn, mầm, thân rậm rạp, tỏ lộ ra ngoài, lực dụng sung măn, tươi nhuận bên trong. Ví như các vị [đă chứng] vô lậu, thân cuối cùng trụ trong Hữu Dư Niết Bàn, lại chẳng nguyện cầu Phật đạo. Nay được nghe kinh này, tự thừa và Phật thừa đều dùng để chuyên chở người khác, dùng âm thanh Phật đạo khiến cho hết thảy đều được nghe. “Trong, ngoài, ta, người” đều trọn đủ lực dụng thù thắng. V́ thế, gọi là phẩm Dược Thảo Dụ (đó là Vị Nhân Tất Đàn).

          Phàm dược thảo có thể chữa trị Tứ Đại, bổ dưỡng ngũ tạng, giữ ǵn vẻ thanh xuân (dược thảo của thế gian có ba loại: Loại hạ có thể điều trị Tứ Đại, loại trung bổ ích ngũ tạng[1], loại thượng có thể duy tŕ, hoặc tái tạo nét thanh xuân; nhưng đều chẳng phải là dược vương. Ví như xưa kia trừ bệnh Tứ Trụ, dưỡng năm phần thân, phục hồi tuổi thọ chân lư, duy tŕ Sắc đang bị biến đổi). Nay nhờ mây mưa, bỗng trở thành dược vương, [trở thành] thuốc men trị khắp các bệnh, đổi thân thể thành tiên; ví như những vị vô lậu nghe kinh, phá Vô Minh Hoặc, khai tri kiến của Phật. Chúng con ngày nay thật sự là Phật tử; khối báu vô thượng chẳng cầu mà tự đạt được. V́ thế, gọi là phẩm Dược Thảo Dụ (phá Hoặc tương ứng với thí dụ “trị khắp”, tức là Đối Trị Tất Đàn. Khai tri kiến của Phật tương ứng với thí dụ “thành tiên”, tức Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn).

          Xét theo giáo, ba loại cỏ là Tạng Giáo, cây nhỏ là Thông Giáo, cây to là Biệt Giáo, mưa thấm đất là Viên Giáo. Trước kia chưa khai hiển th́ Quyền và Thật khác biệt vời vợi. Nay đă khai hiển, ba loại cỏ, hai loại cây đều cùng do một cuộc đất sanh ra, do cùng một trận mưa nhuần tưới. Bốn thứ vi tế sắc nơi rễ, thân, cành, lá có ǵ khác biệt? Phải nên trải khắp năm vị để hiển lộ sự độc diệu.

          Xét theo Bổn Tích, Bổn th́ trụ nơi trí địa, từng thực hiện giăng mây tuôn mưa; nơi Tích là thảo mộc, dẫn khởi tăng trưởng. Quán tâm th́ như trong phần Huyền Nghĩa đă nói sau phần luận định về Lợi Ích Diệu.

 

5.1. Phần thứ ba của Thí Thuyết Châu, Như Lai trần thuật thành tựu

5.1.1. Trần thuật đại lược sự thành tựu

5.1.1.1. Trần thuật Như Lai hai lượt khen ngợi “lành thay”

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Ma Ha Ca Diếp, cập chư đại đệ tử: - Thiện tai, thiện tai! Ca Diếp thiện thuyết Như Lai chân thật công đức, thành như sở ngôn.

          ()爾時世尊。告摩訶迦葉及諸大弟子。善哉善哉。迦葉善說如來真實功德。誠如所言。
          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Ma Ha Ca Diếp và các vị đại đệ tử: - Lành thay! Lành thay! Ca Diếp khéo nói công đức chân thật của Như Lai, đúng như ông đă nói).

 

          Ngài Ca Diếp đứng đầu Tăng chúng; v́ thế, [đức Phật] nói riêng với Ngài. Trong phẩm Tín Giải kể tên đủ bốn vị, tuy ngài Không Sanh (Tu Bồ Đề) được nêu ra đầu tiên, nhưng vị xướng suất trần thuật là ngài Ca Diếp, cho nên nay [đức Phật] nói riêng với Ngài. Kinh văn lại nói “cập chư đại đệ tử” (và các vị đại đệ tử) đủ biết là không chỉ riêng bốn vị ấy đắc ngộ. “Thiện tai” lần thứ nhất trần thuật sự lănh ngộ Thật nơi hai chỗ Pháp và Thí, “thiện tai” lần thứ hai trần thuật sự lănh ngộ Quyền nơi hai chỗ Pháp và Thí. Lại nữa, toan dùng Hoa Nghiêm để hóa độ, đó là lănh ngộ Thật. Dùng Tam Tạng để dẫn dụ, đó là lănh ngộ Quyền. Thời Phương Đẳng thấu hiểu, tin tưởng; thời Bát Nhă chuyển giáo, chính là cùng lănh ngộ Quyền và Thật. Thời Pháp Hoa giao phó gia nghiệp, tức là chỉ bày “Quyền chính là Thật”. Lời lẽ khéo léo, uyển chuyển tột bậc, cho nên nói là “thiện thuyết” (khéo nói). [Những lời hay khéo ấy] đều là Phật pháp. V́ thế nói là “chân thật công đức”. Ấn định chẳng sai lầm, cho nên nói là “thành như sở ngôn (đúng như ông đă nói).

 

5.1.1.2. Chẳng lănh ngộ nổi

 

          (Kinh) Như Lai phục hữu vô lượng vô biên A-tăng-kỳ công đức, nhữ đẳng nhược ư vô lượng ức kiếp, thuyết bất năng tận.

          ()如來復有無量無邊阿僧祇功德。汝等若於無量億劫。說不能盡。

          (Kinh: Như Lai lại có vô lượng vô biên A-tăng-kỳ công đức. Dẫu các ông nói trong vô lượng ức kiếp, vẫn chẳng thể tận).

 

          “Bất cập” (Chẳng đạt tới) là như thế nào? Tức là “thoái, tiến, ngang, dọc, vừa ngang vừa dọc, chẳng phải ngang chẳng phải dọc”, đều chẳng thấu đạt. V́ sao vậy? Mây to phủ trọn, khắp chốn được che chở mát mẻ. Mưa to cùng tưới gội, không ǵ chẳng được thấm đẫm, khiến cho khắp thế gian đều được thấy biết pháp chưa từng có. Sao lại bỗng dưng coi giáo pháp ngang bằng nhất loạt, chỉ lănh ngộ hàng Nhị Thừa đạt được lợi ích, chẳng nói tới loại cỏ nhỏ, tức là hàng nhân thiên [cũng đạt được lợi ích]; đó chính là “thoái sở bất cập” (đối với căn tánh kém hơn [căn tánh của chính ḿnh] bèn chẳng thấu đạt [những người ấy cũng đạt được lợi ích]).

          Bồ Tát được gọi là dược thảo loại thượng, c̣n gọi là cây nhỏ hay cây to, tươi tốt, rậm rạp, lợi ích ta lẫn người, nhưng lại chẳng lănh hội điều ấy. Đó chính là “tấn sở bất cập” (chẳng thấu đạt căn tánh cao hơn). Hơn nữa, mười pháp giới cùng trở thành Phật pháp giới, sao lại chỉ lănh ngộ Nhị Thừa, tám pháp giới khác đều chẳng nhắc tới? Đó là “hoành sở bất cập” (chẳng thấu đạt căn tánh xét theo chiều ngang). Lại nữa, bảy phương tiện từ cạn đến sâu, đều nhập chân thật, sao lại chỉ lănh ngộ Nhị Thừa, c̣n năm phương tiện kia đều chẳng được nhắc tới? Đó là “thụ sở bất cập” (chẳng thấu đạt các căn tánh xét theo chiều dọc). Hơn nữa, lợi ích trong ba đời trọn khắp mười pháp giới trong mười phương, chưa từng tạm thời phế trừ, nhưng đều chẳng nhắc tới. Đó là “diệc hoành diệc thụ lănh sở bất cập” (theo chiều ngang lẫn chiều dọc đều chẳng thấu đạt). Lại nữa, núi, sông, khe, hang v.v… nói chung là một cơi đất. Một cơi đất có thể sanh trưởng, chưa từng chọn lựa! Chủng tử của thảo mộc đều nương vào đất, chẳng nương vào đâu khác. Một vầng mây dầy đặc đen kịt, không đâu chẳng phủ kín. Một trận mưa một vị, chẳng phân biệt [cây cỏ] khô khao hay tươi tốt. Nhuần thấm trọn khắp đă giống hệt nhau, [thảo mộc] đều cùng được tăng trưởng trọn khắp. Như Lai b́nh đẳng chẳng thể nghĩ bàn! Quả thật, chẳng có trước Đốn, sau Tiệm. Thoạt đầu là ba thừa, cuối cùng là Nhất Thừa, như rồng nổi mây, tuôn mưa trọn khắp hết thảy. Chẳng từ thân tâm mà tuôn xuống, trừ nóng bức, được mát mẻ. Đó là ngũ thừa thất phương tiện. Mười phương ba đời b́nh đẳng rộng lớn, rất sâu, rất xa, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng sai biệt. Đó là “không lănh hội thấu đạt chẳng phải ngang, chẳng phải dọc”. Nói “chẳng thấu đạt” trọn chẳng phải là “nhanh chóng đoạt mất”, mà là đặc biệt đem sơ tâm đối ứng với hậu tâm, chưa đạt tới địa vị tột cùng. V́ thế nói là “bất tận” (đó là xét theo nhân duyên).

          Lại nữa, đă ngộ chữ A đầu tiên th́ cũng trọn đủ công đức của chữ Trà [là chữ cuối cùng trong văn tự Tất Đàm (Siddhāṃ)[2]], nhưng sự lănh hội giáo pháp theo kiểu chỉ hạn cuộc nơi tŕnh độ của chính ḿnh th́ sẽ chẳng rảnh rang để tiến nhập lănh hội theo các phương diện ngang dọc trọn khắp! (Đó là xét theo giáo). Lại nữa, bậc quyền hành đại sĩ phải nên [thị hiện lănh ngộ hạn hẹp] như thế (đó là xét theo Bổn Tích).

          Xét theo quán tâm th́ tiến, thoái, ngang, dọc, vừa ngang vừa dọc, chẳng sai biệt mà là sai biệt. Chẳng dọc, chẳng ngang, sai biệt chính là không sai biệt. Quán tâm chính là Không th́ sai biệt chính là chẳng sai biệt. Quán tâm tức Giả th́ không sai biệt chính là sai biệt. Quán tâm tức Trung th́ chẳng sai biệt, chẳng không sai biệt, cùng chiếu sai biệt và không sai biệt (người hiện thời chỉ đọc một bộ sách Tứ Giáo Nghi liền chấp vào ngũ thời chuyên biệt[3] để phán giáo, chỉ là trộm lấy nước răi thừa của ngài Ca Diếp, há có biết tam luân giáo hóa của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn dường ấy ư?) Phần thứ nhất, “trần thuật đại lược sự thành tựu” đă xong.

 

5.1.2. Trần thuật cặn kẽ sự thành tựu

5.1.2.1. Trường Hàng

         

          Đă nói cặn kẽ ba loại cỏ, hai loại cây sai biệt, chẳng sai biệt v.v… đều là do ngài Ca Diếp chẳng lănh hội tới mức, nhưng [đức Phật] vẫn cứ tiếp dẫn. V́ thế, Ngài kết lại lời tán thán như sau: “Nhữ đẳng thậm vi hy hữu, năng tri Như Lai tùy nghi thuyết pháp, năng tín, năng thọ” (Các ông rất hy hữu, có thể biết Như Lai tùy theo cơ nghi thuyết pháp, có thể tin, có thể nhận). Ấy là v́ đại chúng đối với tiến, thoái, ngang, dọc v.v… tuy chẳng thể lănh ngộ kịp, nhưng xét theo đại ư th́ chẳng vượt ra ngoài Quyền và Thật!

         

5.1.2.1.1. Nêu rơ Quyền Thật chẳng thể nghĩ bàn

5.1.2.1.1.1. Pháp thuyết

5.1.2.1.1.1.1. Nêu rơ giáo pháp Quyền Thật chẳng thể nghĩ bàn

         

          (Kinh) Ca Diếp đương tri: Như Lai thị chư pháp chi vương, nhược hữu sở thuyết, giai bất hư dă. Ư nhất thiết pháp, dĩ trí phương tiện nhi diễn thuyết chi. Kỳ sở thuyết pháp, giai tất đáo ư Nhất Thiết Trí địa.

          ()迦葉當知。如來是諸法之王。若有所說。皆不虛也。於一切法。以智方便而演說之。其所說法。皆悉到於一切智地。

          (Kinh: Ca Diếp hăy nên biết: Như Lai là vua của các pháp. Những điều Ngài đă nói đều chẳng hư dối. Trong hết thảy các pháp, Ngài dùng trí phương tiện để diễn nói. Pháp do Ngài đă nói đều đạt đến địa vị Nhất Thiết Trí).

 

          Đây là chỉ bày chung chỗ lănh ngộ không tới mức [của hàng Thanh Văn]. Nếu dựa theo thí dụ đứa con nghèo [trong phẩm Tín Giải để nói], ắt trước hết [đức Phật] toan dùng Đại Thừa; sau đó, [đành phải] dùng Tiểu Thừa để tiếp độ họ. Sau khi họ đă thấu hiểu, tin tưởng, th́ mới có thể tiếp nhận, hiểu biết. Sau khi đă tiếp nhận, hiểu biết, mới có thể giao phó gia nghiệp! Đó chính là đường lối của hàng Thanh Văn độn căn trải khắp ngũ vị ḥng được hưởng lợi ích đó thôi! Há có biết Như Lai là đại pháp vương, đạt được đại tự tại? Ngài dùng một âm thanh diễn thuyết, mỗi loài đều được thông hiểu. Ba loại cỏ, hai loại cây đạt được lợi ích chẳng hư dối. Dùng trí phương tiện để diễn nói pháp, có Quyền pháp nào chẳng thực hiện? Há chỉ thực thi tam thừa ư? Những pháp do Ngài đă nói đều [khiến cho hành nhân] đạt đến địa vị Nhất Thiết Trí, vậy th́ có Thật nào chẳng được hiển lộ, há chỉ Nhị Thừa ư? V́ thế, chẳng thể nghĩ bàn! Nói “Nhất Thiết Trí địa” (địa vị Nhất Thiết Trí) th́ rốt ráo chẳng hai, cho nên nói là Nhất. Tánh ấy rộng lớn, cho nên nói là Thiết. Tịch mà thường chiếu, cho nên gọi là Trí. Từ cái gốc vô trụ mà lập ra hết thảy các pháp, cho nên nói là Địa.

 

5.1.2.1.1.1.2. Nói rơ trí Quyền Thật chẳng thể nghĩ bàn

 

          (Kinh) Như Lai quán tri nhất thiết chư pháp chi sở quy thú, diệc tri nhất thiết chúng sanh thâm tâm sở hành, thông đạt vô ngại. Hựu ư chư pháp cứu tận minh liễu, thị chư chúng sanh nhất thiết trí huệ.

          ()如來觀知一切諸法之所歸趣。亦知一切眾生深心所行。通達無礙。又於諸法究盡明了。示諸眾生一切智慧。

          (Kinh: Như Lai thấy biết chỗ hướng về của hết thảy các pháp, cũng biết sở hành trong thâm tâm của hết thảy chúng sanh, thông đạt vô ngại. Lại nữa, đối với các pháp đều hiểu rơ cùng tận rốt ráo, chỉ bày hết thảy trí huệ cho chúng sanh).

 

          Đây là nói đến các giáo pháp Quyền Thật; do vậy, “giai tất bất hư” (thảy đều chẳng hư dối). “Bất khả tư nghị” (chẳng thể nghĩ bàn) chính là do trí Quyền Thật của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn! “Quán tri nhất thiết chư pháp chi sở quy thú” (thấy biết chỗ hướng về của hết thảy các pháp): Khế hợp lư Quyền Thật, biết thuốc sâu hay cạn, mà cũng biết sở hành trong thâm tâm của hết thảy chúng sanh. “Thông đạt vô ngại” tức là khế hội căn cơ của mười pháp giới, nhận biết bệnh từ gốc đến ngọn. Hết thảy các pháp, mỗi pháp đều có viễn thú và cận thú. Nói “cận thú” (hướng đến cái quả trong thời gian gần) là [các pháp như] giới, thiện v.v… sẽ dẫn tới nhân, thiên. Niệm Xứ, đạo phẩm v.v… sẽ dẫn đến Niết Bàn. [Tu tập] Lục Độ trong ba A-tăng-kỳ dẫn đến Phật quả trong Tam Tạng. Thể quán vô sanh dẫn đến Thật Tướng chung cho tam thừa. Thứ Đệ Tam Quán hướng đến quả đầu[4] Diệu Giác trong Biệt Giáo. Nói “viễn thú” (hướng đến cái quả trong thời gian dài lâu) th́ “giơ tay, cúi đầu” đều là duyên nhân thiện tánh. Hễ nghe một câu, đều là liễu nhân huệ tánh, không ǵ chẳng phải là rốt ráo hướng đến Phật quả tột bậc trong Viên Giáo. Hết thảy các pháp chính là các pháp thuộc mười pháp giới. “Thâm tâm sở hành” chính là căn cơ trong mười pháp giới. Nay nói “tri sở quy thú, thông đạt vô ngại” (biết chỗ hướng về, thông đạt vô ngại) tức là sai biệt mà chẳng sai biệt, tức là Quyền mà chính là Thật. [Điều được] “cứu tận minh liễu” (hiểu rơ rốt ráo cùng tận) chính là lư Thật Tướng. “Nhất thiết trí huệ” (hết thảy trí huệ) là trí tột cùng viên măn. Nay nói “hựu ư chư pháp, thị chư chúng sanh” (lại dùng các pháp dạy cho chúng sanh) tức là chẳng sai biệt mà sai biệt, ngay nơi Thật chính là Quyền. Chẳng sai biệt mà sai biệt, nào phải chỉ có thể dẫn dụ đứa con nghèo? Sai biệt mà chẳng sai biệt, há chỉ hạn cuộc trong ngũ vị (sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ) theo thứ tự? V́ thế, chẳng thể nghĩ bàn! Phần thứ nhất, “pháp thuyết” đă xong!

 

5.1.2.1.1.2. Lập thí dụ

5.1.2.1.1.2.1. Nói rơ “chẳng sai biệt mà sai biệt”, ví như ngay nơi Thật chính là Quyền

5.1.2.1.1.2.1.1. Dựa theo “cái có thể sanh” và “cái được sanh” để nói rơ “chẳng sai biệt mà sai biệt”

 

          (Kinh) Ca Diếp! Thí như tam thiên đại thiên thế giới, sơn, xuyên, khê, cốc thổ địa, sở sanh hủy mộc, tùng lâm, cập chư dược thảo, chủng loại nhược can, danh sắc các dị.

          ()迦葉。譬如三千大千世界山川谿谷土地。所生卉木叢林及諸藥草。種類若干。名色各異。

          (Kinh: Này Ca Diếp! Ví như đất đai nơi núi, sông, khe, hang trong tam thiên đại thiên thế giới sanh ra các loại thảo mộc, rừng rậm, và các loại cỏ thuốc, bao nhiêu chủng loại có tên gọi và h́nh sắc sai khác).

 

          “Tam thiên đại thiên sơn, xuyên, khê, cốc, thổ địa” ất đai nơi núi, sông, khe, hang trong tam thiên đại thiên thế giới) nêu ra “năng sanh” (cái có thể sanh) chẳng sai khác. “Hủy mộc, tùng lâm, dược thảo” (thảo mộc, rừng rậm, cỏ thuốc) là nói tới sở sanh (cái được sanh ra) sai khác. “Tam thiên đại thiên” ví như chúng sanh thế gian. Chúng sanh chẳng phải là pháp nào khác, chỉ nương vào Ngũ Ấm ḥa hợp mà lập ra danh xưng ấy. Tam thiên đại thiên cũng chẳng phải là pháp nào khác, nương vào đất đai nơi núi, sông, khe, hang mà lập ra danh xưng ấy. “Núi” ví như Sắc Ấm, là thứ hiển nhiên có thể trông thấy. “Sông” ví như Thọ Ấm, nước chảy tràn trề hay khô cạn. “Khe” (suối nhỏ) ví như Tưởng Ấm, quanh co sáng tối. “Hang” ví như Hành Ấm, ẩn kín khó thấy. “Đất đai” ví như Thức Ấm, đều là thứ để nương vào. Ngũ Ấm như thế đều là chỗ để hết thảy Tập nhân và Tập quả nương vào, ví như đất đai nơi núi, sông, khe, hang đều là chỗ nương tựa cho hạt giống, rễ, thân, cành, lá của hết thảy thảo mộc. “Hủy” () là tên gọi chung của các loài cỏ. “Mộc” () là tên gọi chung của cây cối. Các thứ cỏ [tụ tập] là Tùng (), các thứ cây tụ tập là Lâm (). Có lực dụng chữa bệnh thù thắng th́ gọi là Dược (, thuốc). Nay nói “dược thảo” tức là nêu ra vô lậu thiện của Nhị Thừa. Ngũ thừa, bảy phương tiện nhân quả bất đồng. V́ thế nói là “chủng loại nhược can” (bao nhiêu chủng loại). Mỗi loài đều có tên gọi riêng, đó là Danh. Mỗi loài đều có thể tướng, đó là Sắc. Nói tóm lại, các pháp nhân quả trong mười pháp giới chẳng ĺa khỏi Ngũ Ấm giả danh. Mười vạn tám ngàn dược phẩm dù có chất độc hay không độc, đều chẳng ĺa đất đai của cơi đại thiên.

          Lại nữa, tam thiên đại thiên có thể sánh ví chánh nhân lư tánh, đều là chỗ nương tựa cho hết thảy. Đất đai nơi núi, sông, khe, hang có thể ví như sắc tâm Ngũ Ấm nơi quả báo của chúng sanh. “Hủy mộc, tùng lâm” (thảo mộc, rừng rậm) có thể sánh ví Tập nhân nơi mười pháp giới của chúng sanh. Ba pháp ấy chẳng tách rời, Tập nhân nương vào các Báo Ấm, Báo Ấm chẳng ĺa khỏi pháp tánh. Như cỏ cây nương vào đất đai nơi núi, sông; đất đai, núi, sông nương vào thế giới. Đó chính là ba cái nhân của Tánh Đức. Pháp tánh chính là chánh nhân Pháp Thân đức. Quả báo chính là duyên nhân Giải Thoát đức. Tập nhân tức là liễu nhân Bát Nhă đức. Nếu đem chánh nhân đối ứng với duyên nhân và liễu nhân của mười pháp giới th́ sẽ là chẳng sai biệt mà sai biệt. “Chủng loại nhược can, danh sắc các dị” (bao nhiêu chủng loại, tên gọi và h́nh sắc mỗi thứ mỗi khác): Nếu đem duyên nhân và liễu nhân đối ứng với chánh nhân lư tánh th́ là sai biệt mà chẳng sai biệt, cùng quy vào một chỗ. Cảnh Quyền Thật như thế chẳng thể nghĩ bàn! Nhanh chóng đánh động Phật, há có phải là riêng hàng Nhị Thừa tự lănh ngộ ư?

 

5.1.2.1.1.2.1.2. Dựa theo “cái có thể nhuần thấm” và “cái được nhuần thấm” để nói rơ “chẳng sai biệt mà sai biệt”

 

          (Kinh) Mật vân di bố, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, nhất thời đẳng chú. Kỳ trạch phổ hiệp, hủy mộc, tùng lâm, cập chư dược thảo, tiểu căn, tiểu hành, tiểu chi, tiểu diệp, trung căn, trung hành, trung chi, trung diệp, đại căn, đại hành, đại chi, đại diệp, chư thụ đại tiểu, tùy thượng, trung, hạ, các hữu sở thọ, nhất vân sở vũ, xứng kỳ chủng tánh, nhi đắc sanh trưởng, hoa quả phu thật.

          ()密雲彌布。遍覆三千大千世界。一時等澍。其澤普洽。卉木叢林及諸藥草。小根小莖小枝小葉。中根中莖中枝中葉。大根大莖大枝大葉。諸樹大小隨上中下。各有所受。一雲所雨。稱其種性而得生長。華果敷實。

          (Kinh: Mây dầy trải khắp, phủ trọn tam thiên đại thiên thế giới, cùng lúc tuôn mưa b́nh đẳng, tưới thấm trọn khắp. Thảo mộc, rừng rậm, và các cỏ thuốc, rễ nhỏ, thân nhỏ, cành nhỏ, lá nhỏ, rễ vừa, thân vừa, cành vừa, lá vừa, rễ to, thân to, cành to, lá to, các cây lớn nhỏ, tùy loại thượng, trung, hạ, mỗi loại đều hấp thụ khác nhau. Một vầng mây tuôn mưa, mỗi loài thuận theo chủng tánh của chính ḿnh mà được sanh trưởng, trổ hoa, kết trái).

 

          “Mật vân biến phú, đẳng chú phổ hiệp” (mây dầy phủ trọn, b́nh đẳng tuôn mưa, tưới ướt trọn khắp): Nêu ra cái có thể nhuần thấm chẳng sai khác. “Căn, hành, chi, diệp, tiểu, trung, đại đẳng các hữu sở thọ xứng kỳ chủng tánh” (rễ, thân, cành, lá, nhỏ, vừa, lớn đều hấp thụ tương xứng với chủng tánh của chúng): Nêu ra cái được nhuần thấm có sai biệt! Mây có h́nh sắc, ví như thân mật của Như Lai. “Di bố biến phú” (trải khắp, phủ trọn): Ví như [thân Như Lai] hiện trọn khắp trước hết thảy các chúng sanh. Lại nữa, đại từ b́nh đẳng che phủ, ví như ư mật. Kinh văn trong phần sau nói “lôi thanh viễn chấn” (tiếng sấm rền xa), tức là sánh ví khẩu mật. “Nhất thời đẳng chú” (cùng lúc b́nh đẳng tuôn xuống) ví như bát âm, tứ biện tài tuyên rót mưa pháp. “Kỳ trạch phổ hiệp” (tưới đẫm trọn khắp) ví như hai thứ hóa nghi Bí Mật và Bất Định. Trong mỗi niệm, mỗi pháp giới trong mười pháp giới đều đạt được các lợi ích Quyền và Thật, chẳng giống như ngài Ca Diếp lănh thọ ngũ vị theo thứ tự, chỉ là trước hết suy tính, sau đó tiếp dẫn, trước là thực hiện, sau đó phế trừ [các pháp quyền biến ấy] đó thôi! Rễ ví như Tín, thân ví như Giới, cành ví như Định, lá ví như Huệ. Đối với Tiểu cơ, bèn thí Giới, Định, Huệ của nhân thiên. Đối với trung cơ, thí Giới, Định, Huệ của Nhị Thừa. Đối đại cơ, thí Tín, Giới, Định, Huệ của Bồ Tát.

          “Chư thụ đại tiểu” (các loại cây lớn nhỏ) chính là hai loại Bồ Tát thuộc Thông Giáo và Biệt Giáo. Trong mỗi loại, đều luận thượng, trung, hạ, nêu ra các căn cơ bất đồng trong vạn hữu, ai nấy đều cùng lúc lănh nhận. Chỉ một vầng thân vân[5], một âm thanh diễn nói, có thể khiến cho tiểu căn chẳng quá phận, đại căn chẳng giảm thiểu, tương xứng với hai loại nhân chủng tánh của Tập báo mà được sanh trưởng, khiến cho Tập quả đơm hoa, báo quả kết trái, trổ hạt. Giáo pháp Quyền và Thật như thế chẳng thể nghĩ bàn, thích ứng trọn khắp các căn cơ, há chỉ riêng xét trên sự lănh ngộ năm vị theo thứ tự ư? Phần thứ nhất, “nêu rơ chẳng sai biệt mà sai biệt, sánh ví Quyền chính là Thật” đă xong.

 

5.1.2.1.1.2.2. Nêu rơ “tuy sai biệt mà chẳng sai biệt” nhằm sánh ví tuy Quyền mà là Thật

 

          (Kinh) Tuy nhất địa sở sanh, nhất vũ sở nhuận, nhi chư thảo mộc, các hữu sai biệt.

          ()雖一地所生。一雨所潤。而諸草木。各有差別。

          (Kinh: Tuy do cùng một cuộc đất sanh trưởng, do một trận mưa nhuần tưới, nhưng các loài cỏ cây mỗi loài đều sai khác).

 

          Nếu xét theo văn nghĩa, tợ hồ kết lại [ư nghĩa] “chẳng sai biệt mà sai biệt”. Nếu luận theo ư nghĩa của thí dụ th́ phần trước sánh ví “chẳng sai biệt mà sai biệt” đă xong. Nay ư nghĩa [ở đây] nhằm hiển thị “ba loại cỏ, hai loại cây, mỗi loài đều có sai biệt, nhưng đất và mưa chẳng sai biệt. “Nhất địa sở sanh” (do cùng một cuộc đất sanh ra), ví như do đạo tiền tâm địa sanh ra, cái nhân rốt cuộc là đạo hậu trí (“Đạo tiền” và “đạo hậu” ở đây đều có thông và biệt. “Đạo hậu” chắc chắn là sau khi đă đắc quả, c̣n “đạo tiền” th́ thông đến phàm phu. V́ thế, trong phẩm Phương Tiện, cũng coi trước khi đạt tới Đẳng Giác là “đạo tiền”. Ở đây, cần phải coi hạng phàm phu lè tè sát đất, chẳng có giới, thiện là “đạo tiền”, coi ngũ thừa là “đạo trung”. V́ thế, lư Chân Như nơi đạo tiền và đạo hậu đều b́nh đẳng là “đất”. Bản thể của đất chẳng khác, nhưng đều có thể sanh thành. V́ thế, biết đạo tiền tâm địa của chúng sanh há có khi nào chẳng có tánh “có thể sanh” ư? “Chẳng thể sanh, chẳng thể thành” ắt sẽ nhờ vào đạo hậu cực quả trí địa khiến cho sanh, khiến cho thành. Sau khi đă phát tâm, trước khi rốt ráo, đều nhờ vào trí địa mà thành thục).

          “Nhất vũ sở nhuận” (một trận mưa nhuần thấm) ví như pháp môn Nhất Thừa do một âm thanh tuyên nói, đă khai phát thiện căn của ngũ thừa thuộc đạo trung. Rốt cuộc là do cùng một giáo pháp b́nh đẳng [được diễn nói bằng] một âm thanh, nhưng các loài cỏ cây mỗi loài đều có [sự hấp thụ] sai biệt! Ví như thiện căn của ngũ thừa nhờ vào mưa pháp của Phật mà tùy phần tăng trưởng, [nhưng chúng sanh thuộc ngũ thừa] chẳng biết cái nhân của năm loại đều nương vào một Phật Tánh, cũng chẳng tự biết giáo pháp ngũ thừa đều là một Đại Thừa, cũng chẳng tự biết [các thừa ấy] đồng quy Phật huệ! Chỉ riêng Như Lai có thể biết mà thôi! Phần thứ hai, “lập thí dụ” đă xong!

 

5.1.2.1.1.3. Đối ứng thí dụ với pháp

5.1.2.1.1.3.1. Đối ứng với pháp chuyện “chẳng sai biệt mà sai biệt”

5.1.2.1.1.3.1.1. Phần đối ứng với pháp chánh yếu

5.1.2.1.1.3.1.1.1. Đối ứng chuyện “có thể nhuần thấm” với pháp

 

          (Kinh) Ca Diếp đương tri, Như Lai diệc phục như thị, xuất hiện ư thế, như đại vân khởi, dĩ đại âm thanh, phổ biến thế giới thiên, nhân, A Tu La như bỉ đại vân, biến phú tam thiên đại thiên quốc độ, ư đại chúng trung, nhi xướng thị ngôn: “Ngă thị Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, vị độ giả linh độ, vị giải giả linh giải, vị an giả linh an, vị Niết Bàn giả linh đắc Niết Bàn. Kim thế, hậu thế, như thật tri chi, ngă thị nhất thiết tri giả, nhất thiết kiến giả, tri đạo giả, khai đạo giả, thuyết đạo giả. Nhữ đẳng thiên, nhân, A Tu La chúng, giai ưng đáo thử, vị thính pháp cố”.

          ()迦葉當知。如來亦復如是。出現於世。如大雲起。以大音聲。普遍世界天人阿修羅。如彼大雲。遍覆三千大千國土。於大眾中而唱是言。我是如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。未度者令度。未解者令解。未安者令安。未涅槃者令得涅槃。今世後世。如實知之。我是一切知者。一切見者。知道者。開道者。說道者。汝等天人阿修羅眾。皆應到此。為聽法故。

          (Kinh: Ca Diếp hăy nên biết, Như Lai cũng giống như thế, xuất hiện trong cơi đời, như mây to giăng phủ, dùng đại âm thanh trọn khắp trời, người, A Tu La trong thế giới, như vầng mây to kia phủ trọn khắp các cơi nước trong tam thiên đại thiên thế giới, trong đại chúng mà xướng như thế này: “Ta là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, khiến cho người chưa được độ sẽ được độ, người chưa hiểu sẽ được hiểu, người chưa an sẽ được an, người chưa đắc Niết Bàn sẽ đắc Niết Bàn. Đời này, đời sau, đều biết như thật. Ta là đấng biết hết thảy, đấng thấy hết thảy, là đấng biết đạo, là đấng khai đạo, là đấng nói đạo. Đại chúng trời, người, A Tu La các ngươi đều nên tới đây để nghe pháp”).

 

          Phần này tương ứng với “mật vân di bố biến phú” (mây dầy trải khắp phủ trọn) [trong thí dụ trên đây], cũng như tương ứng với thí dụ “lôi thanh viễn chấn” (tiếng sấm rền xa) trong phần Kệ Tụng, nhằm hiển thị tam mật của Như Lai. “Xuất hiện ư thế” (xuất hiện trong cơi đời) tức là Ứng Thân xuất thế; đó là thân mật. “Như đại vân khởi” (như mây to kéo giăng): Nêu thí dụ phù hợp khít khao với thân mật. Dùng đại âm thanh trọn khắp các trời, người, A Tu La trong thế giới; đấy chính là khẩu mật. Đó chính là “lôi thanh viễn chấn” được nói trong phần Kệ Tụng. Thân mật và khẩu mật đều do đại từ hun đúc, cho nên ứng hiện chẳng lỡ thời. Thuốc ắt tương ứng với bệnh, kiêm thêm ư nghĩa “ư mật”.

          “Thế giới” là nói chung lục đạo tứ sanh trong tam thiên đại thiên thế giới, hàm nghĩa mười pháp giới. Nói “thiên, nhân, A Tu La” nhằm nêu riêng ba thiện đạo có thể hưởng lợi ích do bẩm thọ thanh giáo[6], mang ư nghĩa sánh ví căn tánh tam thừa như “ba mươi đứa con” [trong phẩm Thí Dụ]. “Như bỉ đại vân biến phú” (như vầng mây to kia bao phủ trọn khắp): Nêu thí dụ phù hợp khít khao với khẩu mật. “Ư đại chúng trung, nhi xướng thị ngôn” (ở trong đại chúng xướng như thế này): Nhắc lại âm thanh to lớn trọn khắp, xướng đại lược sáu loại pháp môn, nhóm họp đại chúng nghe pháp, giống như tiếng sấm rền vang xa:

          - Một, [nói tới các đức hiệu] Như Lai v.v… tức pháp môn Thập Hiệu.

          - Hai, nói “vị độ” (chưa độ) v.v… là pháp môn Tứ Hoằng Thệ, khiến cho kẻ chưa thoát khổ sẽ được thoát khổ, khiến cho người chưa hiểu Tập sẽ hiểu Tập, khiến cho người an trụ nơi đạo sẽ được an trụ trong đạo, khiến cho người chưa chứng Diệt Đế Niết Bàn, sẽ chứng Niết Bàn. Nơi nhân th́ gọi là Tăng Na Tăng Niết (Saṁnāha-samnaddha), phương này dịch là Hoằng Thệ. Quả cùng tột th́ gọi là đại từ đại bi. Bi dẹp trừ Khổ Tập, Từ ban cho Đạo Diệt. Bốn hoằng thệ ấy đă nương vào Tứ Đế. Tứ Đế có “sanh diệt, vô sanh, vô lượng, vô tác” bất đồng. Phát tâm đạt được quả cũng mỗi loại mỗi khác. Nay tự hành chỉ có Viên Giáo (tức vô tác Tứ Đế), c̣n hóa tha (hóa độ người khác) th́ dùng cả bốn loại [Tứ Đế]. Tuy dùng khắp cả bốn loại, cả bốn loại đều quy vào Viên Giáo. Nếu chẳng quy vào Viên Giáo, sẽ chẳng phải là bổn ư xuất thế. Nếu chẳng dùng cả bốn loại, sẽ chẳng thể tiếp thâu căn cơ trọn khắp!

          - Ba, đời này và đời sau đều biết như thật chính là pháp môn Tam Đạt, [tức là] thông đạt ba đời chẳng có chướng ngại.

          - Bốn, “ta là đấng biết hết thảy” chính là pháp môn nhất tâm tam trí.

          - Năm, “đấng biết hết thảy” tức là trọn đủ pháp môn Ngũ Nhăn.

          - Thứ sáu, “đấng biết đạo” tức là pháp môn Tam Bất Hộ[7]. “Tri đạo” nghĩa là ư nghiệp thuận theo trí huệ mà hành. “Khai đạo”: Thân nghiệp thuận theo trí huệ mà hành. “Thuyết đạo”: Khẩu nghiệp thuận theo trí huệ mà hành.

          Hỏi: Cổ đức coi đoạn văn này tương ứng với thí dụ về tuôn mưa, nay sao lại giải thích khác biệt?

          Đáp: Kinh văn trong đoạn sau có nói “tùy theo sức người nghe có thể kham nổi mà thuyết pháp cho họ” chính là tương ứng với chuyện “tuôn mưa”. Ở đây đă tổng kết chuyện khuyên chúng sanh nghe nhận, huống hồ có âm thanh to lớn xướng trọn khắp như thế. Do vậy biết phải ứng hợp [với thí dụ về] “tiếng sấm”.

 

5.1.2.1.1.3.1.1.2. Đối ứng “năng sanh, sở sanh” với pháp

 

          (Kinh) Nhĩ thời, vô số thiên vạn ức chủng chúng sanh lai chí Phật sở nhi thính pháp.

          ()爾時無數千萬億種眾生。來至佛所而聽法。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, vô số ngàn vạn ức loại chúng sanh đến chỗ đức Phật để nghe pháp).

 

          Hai chữ “chúng sanh” tương ứng với giả danh “tam thiên đại thiên thế giới” cũng như “núi, sông, khe, hang, đất đai” Ngũ Ấm, v́ giả danh và Thật pháp chẳng tách ĺa nhau. “Vô số ngàn vạn ức loại” tương ứng với “thảo mộc, rừng rậm, và các cỏ thuốc”. Nói chung, chẳng ra khỏi các căn cơ trong mười pháp giới. Nói riêng, tức là ngũ thừa bảy phương tiện đều có thể được nhuần thấm vậy!

 

5.1.2.1.1.3.1.1.3. Đối ứng “cái có thể nhuần thấm, cái được nhuần thấm” với pháp

5.1.2.1.1.3.1.1.3.1. Đối ứng “cái có thể nhuần thấm” với pháp

 

          (Kinh) Như Lai ư thời, quán thị chúng sanh chư căn lợi độn, tinh tấn, giải đăi, tùy kỳ sở kham, nhi vị thuyết pháp.

          ()如來於時。觀是眾生諸根利鈍。精進懈怠。隨其所堪。而為說法。

          (Kinh: Lúc đó, Như Lai quán các chúng sanh ấy là lợi căn hay độn căn, biếng nhác hay tinh tấn, tùy theo sức họ kham được mà v́ họ thuyết pháp).

 

          Điều này tương ứng với thí dụ “nhất thời đẳng chú” (cùng lúc b́nh đẳng tuôn xuống). Nhưng dùng đám mây tuôn mưa lớn để sánh ví Như Lai thuyết pháp th́ chỉ là sánh ví chút phần. V́ lẽ nào vậy? Mây tuôn mưa là do cộng nghiệp của chúng sanh cảm vời, tức [mưa] là tướng được biến hiện bởi Thức của chúng sanh, chẳng thuộc vào loại hữu t́nh, chỉ thuộc loại vô phú vô kư[8]. Cho nên chẳng thể quán sát căn tánh ḥng [thuyết pháp, hóa độ] thích hợp căn cơ được, lại c̣n có ích hoặc gây tổn hại cho các vật. Như Lai chẳng như vậy! Ngài có đại thệ nguyện, có đại từ bi, có đại trí huệ. Tuy cũng do cộng nghiệp tăng thượng của chúng sanh cảm vời Phật xuất thế, tuy cũng từ tâm thức của mỗi chúng sanh mà tự biến hiện Phật tướng [khác biệt], nhưng bổn chất cảnh là vô lậu thiện, là tác dụng ứng hiện bởi cái Thể của toàn bộ pháp báo. V́ thế, có thể dùng Diệu Quán Sát Trí để quán các chúng sanh ấy là lợi căn hay độn căn, tinh tấn hay biếng nhác, ḥng thuận theo đó, vận dụng Thành Sở Tác Trí, tùy theo sức họ kham được mà thuyết pháp cho họ, tức là dùng Đại Viên Kính Tŕ để ǵn giữ trọn khắp, dùng B́nh Đẳng Tánh Trí để ấn chiếu.

          “Ư thời” (ngay lúc đó) tức là lúc chúng sanh đến chỗ Phật để nghe pháp. “Chư căn lợi độn” (các căn nhạy bén hay chậm lụt): Chẳng thể tiếp nhận đạo th́ là Độn, có thể tiếp nhận đạo th́ là Lợi. Lại nữa, chẳng thể giữ giới th́ là Độn, có thể giữ giới th́ là Lợi. Chẳng thể tu Định th́ là Độn, có thể tu Định th́ là Lợi. Chẳng thể đoạn Hoặc th́ là Độn, có thể đoạn Hoặc, thoát khỏi tam giới th́ Lợi. Tích Không Quán đoạn Hoặc th́ là Độn, Thể Không Quán đoạn Hoặc th́ là Lợi. Quyết chứng Chân Không th́ là Độn, xuất Giả giáo hóa chúng sanh th́ là Lợi. Dùng hai phép Quán làm phương tiện th́ là Độn, quán thẳng vào Trung Đạo th́ là Lợi, truyền thừa khác nhau! Lại nữa, đối với người thuộc ngũ thừa, bảy phương tiện, đều luận định lợi và độn. Tinh tấn và giải đăi cũng thế.

          “Tùy kỳ sở kham” (tùy theo sức họ kham được): Tương xứng với cơ nghi, chẳng phạm khuyết điểm tăng hay giảm. Điều này khởi đầu từ Hoa Nghiêm, kết thúc nơi Bát Nhă, trong mỗi một thời, dù bí mật hay bất định, do một âm thanh thuyết pháp, mỗi loại đều hiểu. Thần lực bất cộng chẳng thể nghĩ bàn, nhưng đều khiến cho [chúng sanh] đạt được lợi ích, khiến cho họ chẳng đọa khổ. Do đó, “nhất thời đẳng chú” (cùng lúc b́nh đẳng tuôn xuống) tức là trong mỗi thời, đều trọn đủ năm vị dù thiên lệch hay viên măn, phù hợp trọn khắp căn tánh của chúng sanh. Cho đến trong hội Pháp Hoa, năm ngàn người lui về, hoặc [trong phẩm Hiện Bảo Tháp, đại chúng nhân thiên] được dời sang phương khác, tuy trong cùng một pháp hội, được gọi là “hiển lộ quyết định”. Nếu so với mười phương th́ chẳng ngại gọi là “bí mật”. Tam mật giáo hóa của Phật chỉ là cùng một đám mây tuôn mưa tưới tắm trọn khắp, nhưng đối với trận mưa vô kư (chẳng thiện, chẳng ác) ấy, [các căn cơ] được lợi ích bất đồng như thế đó! Nếu dựa trên sự lănh ngộ năm thời theo thứ tự của ngài Ca Diếp, sao gọi là “nhất thời đẳng chú” cho được?

 

5.1.2.1.1.3.1.1.3.2. Đối ứng “cái được nhuần thấm” với pháp

 

          (Kinh) Chủng chủng vô lượng, giai linh hoan hỷ, khoái đắc thiện lợi. Thị chư chúng sanh văn thị pháp dĩ, hiện thế an ổn, hậu sanh thiện xứ, dĩ đạo thọ lạc, diệc đắc văn pháp. Kư văn pháp dĩ, ly chư chướng ngại, ư chư pháp trung, nhậm lực sở năng, tiệm đắc nhập đạo.

          ()種種無量。皆令歡喜。快得善利。是諸眾生。聞是法已。現世安隱。後生善處。以道受樂。亦得聞法。旣聞法己。離諸障礙。於諸法中。任力所能。漸得入道。

          (Kinh: Các thứ vô lượng đều khiến cho họ hoan hỷ, vui sướng đạt được lợi ích tốt lành. Các chúng sanh ấy nghe pháp đó xong, trong đời hiện tại an ổn, đời sau sanh vào chốn lành, do đạo mà hưởng vui, cũng được nghe pháp. Đă nghe pháp rồi, ĺa các chướng ngại, ở trong các pháp, tùy theo sức kham nổi mà dần dần nhập đạo).

 

          Đây là nói cặn kẽ lợi ích do nghe pháp, mà các chủng tử đă gieo trong ba đời được thành thục bèn giải thoát. Từ “chủng chủng vô lượng” (các thứ vô lượng) cho đến “hiện thế an ổn” (an ổn trong đời hiện tại) tương ứng với thí dụ “kỳ trạch phổ hiệp” (thấm đẫm trọn khắp). Từ “hậu sanh thiện xứ” (đời sau sanh vào chốn lành) cho đến “diệc đắc văn pháp” (cũng được nghe pháp) tương ứng với thí dụ “xứng kỳ chủng tánh, nhi đắc sanh trưởng” (tương xứng với chủng tánh mà được sanh trưởng). Từ “kư văn pháp dĩ” (đă nghe pháp rồi) cho đến “tiệm linh nhập đạo” (khiến cho dần dần nhập đạo) tương ứng với thí dụ “hoa quả phu thật” (đơm hoa kết trái).

          “Giai linh hoan hỷ” (đều khiến cho hoan hỷ) chính là Thế Giới Ích (Thế Giới Tất Đàn). “An ổn, sanh thiện” là Vị Nhân Ích (Vị Nhân Tất Đàn). “Ly chư chướng ngại” (ĺa các chướng ngại) là Đối Trị Ích (Đối Trị Tất Đàn). “Tiệm đắc nhập đạo” (dần dần được nhập đạo) là Đệ Nhất Nghĩa Ích (Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn). Lại nữa, xét ra th́ nay mới nghe pháp mà gieo thiện căn, đời kế tiếp [nhân duyên] chín muồi, đời sau nữa bèn được giải thoát. Hoặc đă gieo [thiện căn] trong đời quá khứ, nay bèn chín muồi, đời sau giải thoát. Hoặc đời quá khứ đă chín muồi, đời này hễ nghe bèn được giải thoát! Sự chẳng phải là nhất loạt như nhau.

          Lại nữa, bốn thứ lợi ích Tất Đàn bao quát Quyền và Thật, mỗi thứ Tứ Tất Đàn đều là Đốn hay Tiệm khác nhau. Nếu muốn nói cặn kẽ, sẽ mênh mông chẳng có bờ bến, [chỉ đành] nêu bày thô thiển đại cương, ngơ hầu [người nghe sẽ] biết Như Lai thuyết pháp lợi ích trọn khắp vị lai đó thôi! Lại c̣n “chủng chủng giai linh hoan hỷ” (các thứ đều khiến cho hoan hỷ), tức là xứng hợp chủng tánh của mỗi loài mà được sanh trưởng. “Khoái đắc thiện lợi” (vui sướng được hưởng điều lợi ích tốt lành): Có thiện lợi Quyền và Thật của tứ giáo, tức là “hoa phu quả thật” (đơm hoa, kết trái) trong đời này. “Hiện thế an ổn” (đời hiện tại an ổn): Kết lại bốn thứ lợi ích hoan hỷ và thiện lợi trong hiện tại như vừa nói trên đây. “Hậu sanh thiện xứ, dĩ đạo thọ lạc” (đời sau sanh vào chốn lành, do [đă tu tập] đạo mà được hưởng vui): Do báo nhân mà cảm báo quả.

          “Diệc đắc văn pháp” (cũng được nghe pháp): Tập nhân cảm Tập quả. “Sở thọ đạo lạc” (nhận lănh niềm vui do đạo) ắt có Quyền và Thật. Đối với đạo Quyền Thật, lại luận định cạn hay sâu. Đối với pháp được nghe, cũng giống như thế, tức là biện định bốn thứ lợi ích trong đời kế tiếp. “Kư văn pháp dĩ, ly chư chướng ngại” (đă nghe pháp rồi, ĺa các chướng ngại): Cái bị rời ĺa cũng có cạn hay sâu khác nhau; nói chung là báo nhân cảm vời báo quả. “Nhậm lực sở năng, tiệm đắc nhập đạo” (tùy theo sức họ kham nổi mà dần dần nhập đạo): Sở nhập cũng có Quyền và Thật khác nhau. Nói chung là Tập nhân cảm Tập quả, tức là biện định bốn thứ lợi ích trong đời thứ ba, hoặc đời sau nữa! Căn cơ được tiếp độ theo chiều ngang trùm khắp mười pháp giới. Thọ nhận lợi ích theo chiều dọc thấu triệt tứ giáo, như Hoa Nghiêm, Bát Nhă v.v… khiến cho [chúng sanh trong] địa ngục đạt được lợi ích. Những điều khác cứ suy ra mà biết. Phần thứ nhất, “ứng hợp [các thí dụ] với pháp” đă xong!

 

5.1.2.1.1.3.1.2. Nêu ra từng từng thí dụ để kết hợp khít khao với pháp

 

          (Kinh) Như bỉ đại vân, vũ ư nhất thiết hủy mộc, tùng lâm, cập chư dược thảo, như kỳ chủng tánh, cụ túc mông nhuận, các đắc sanh trưởng.

          ()如彼大雲。雨於一切卉木叢林及諸藥草。如其種性。具足蒙潤。各得生長。

          (Kinh: Như đám mây to, xối mưa xuống hết thảy cỏ cây, rừng rậm, và các cỏ thuốc, [mỗi loài] đúng theo chủng tánh của chúng mà đều được nhuần thấm trọn đủ, đều được sanh trưởng).

 

          Mây lớn và mưa có thể nhuần thấm, tương ứng với tam mật và thanh giáo của Như Lai. Hai chữ “nhất thiết” (hết thảy) tương ứng với giả danh “chúng sanh”. “Hủy mộc, tùng lâm, dược thảo” tương ứng với ngũ thừa, bảy phương tiện. “Chủng tánh” tương ứng với “chư căn lợi độn, giải đăi, tinh tấn” (các căn nhạy bén hay chậm lụt, biếng nhác hay tinh tấn). “Cụ túc mông nhuận” (đều được nhuần thấm trọn đủ) tương ứng với “giai linh hoan hỷ, khoái đắc thiện lợi” (đều khiến cho hoan hỷ, vui sướng đạt được lợi ích tốt lành). “Các đắc sanh trưởng” (đều được sanh trưởng) tương ứng với “đời hiện tại an ổn, đời sau sanh vào chốn lành” v.v… Phần thứ nhất, kết hợp “chẳng sai biệt mà sai biệt” với pháp đă xong!

 

5.1.2.1.1.3.2. Đối ứng “sai biệt mà chẳng sai biệt” với pháp

5.1.2.1.1.3.2.1. Chánh thức đối ứng

5.1.2.1.1.3.2.1.1. Đối ứng “một cơi đất sanh trưởng, một trận mưa thấm nhuần” với pháp

 

          (Kinh) Như Lai thuyết pháp, nhất tướng, nhất vị, sở vị giải thoát tướng, ly tướng, diệt tướng, cứu cánh chí ư Nhất Thiết Chủng Trí.

          ()如來說法。一相一味。所謂解脫相。離相。滅相。究竟至於一切種智。

          (Kinh: Như Lai thuyết pháp, một tướng, một vị, tức là tướng giải thoát, tướng ĺa, tướng diệt, cho đến rốt ráo Nhất Thiết Chủng Trí).

 

          “Nhất tướng” là tâm tánh của chúng sanh, đồng nhất Chân Như làm tướng, tương ứng với “nhất địa” (một cơi đất). “Nhất vị” là pháp Nhất Thừa, cùng diễn tả một lư, tương ứng với “nhất vũ” (một trận mưa). Nói “hạ” (tuôn xuống) nhằm cùng giải thích “nhất tướng, nhất vị”.

          “Giải thoát tướng”: Nghiệp chính là giải thoát, vốn chẳng có tướng bị nghiệp thuộc nhị biên trói buộc. “Ly tướng”: Phiền Hoặc chính là Bát Nhă, vốn ĺa hai tướng Thông Hoặc và Biệt Hoặc. “Diệt tướng”: Khổ chính là Pháp Thân, hai thứ sanh tử (Phần Đoạn và Biến Dịch) vốn tịch diệt. Tâm tánh của chúng sanh tức là tướng giải thoát, tướng ĺa, tướng diệt nơi Tánh Đức, tức là tướng “tuy một mà ba, tuy ba mà một”. Một âm thanh của Như Lai nói pháp “tuy một mà chính là ba, tuy ba mà chính là một” ấy, tức là giáo pháp “một vị mà là ba, tuy ba vị mà chính là một”. Chúng sanh vâng theo giáo pháp tu hành, tức là dùng ba tướng hay một tướng của Tánh Đức làm cảnh để quán, nương vào giáo pháp ba vị hay một vị trong tam-muội của đức Phật làm tăng thượng duyên, dấy lên hạnh Trung Đạo ba tướng hay một tướng, rốt ráo thành tựu cái quả Nhất Thiết Chủng Trí ba tướng hay một tướng. Đối với pháp nhất Thật Tướng của Phật, phương tiện mở ra ba, năm, bảy, chín tướng v.v… Đối với giáo pháp nhất vị, nói phân biệt thành các vị nói kèm theo hoặc chỉ đối ứng v.v… Chúng sanh vâng theo giáo pháp tu hành, ai nấy đều được chứng quả. Ai có thể biết được? Chỉ có Phật là có thể biết rốt ráo [các giáo pháp ấy] rốt cuộc quy về một tướng, một vị.

 

5.1.2.1.1.3.2.1.2. Đối ứng “thảo mộc mỗi loại sai biệt” với pháp

5.1.2.1.1.3.2.1.2.1. Chỉ ra chúng sanh giống như thảo mộc cho nên chẳng tự biết

 

          (Kinh) Kỳ hữu chúng sanh văn Như Lai pháp, nhược tŕ độc tụng, như thuyết tu hành, sở đắc công đức, bất tự giác tri.

          ()其有眾生。聞如來法。若持讀誦。如說修行。所得功德。不自覺知。

          (Kinh: Có các chúng sanh nghe pháp của Như Lai, nếu vâng giữ, đọc tụng, tu hành đúng như lời dạy, sẽ đạt được công đức mà chẳng tự hay biết).

 

          “Kỳ hữu chúng sanh” (có các chúng sanh): Nêu chung những kẻ không biết, tương ứng với ba loại cỏ, hai loại cây [trong thí dụ]. “Pháp” chính là pháp “nhất âm, nhất vị”. “Nhược tŕ, độc tụng, như thuyết tu hành” (nếu vâng giữ, đọc tụng, tu hành đúng như lời dạy): Nói rơ chuyện không biết. V́ sao vậy? “Tŕ”“thuyết” bất đồng, tu hành mỗi cách mỗi khác! Nhân thiên hiểu “giới, thiện”; tam thừa hiểu “đế duyên độ” (Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ). Sự hiểu biết đă bất đồng, tức là sai biệt! “Sở đắc công đức bất tự giác tri” (đạt được công đức mà chẳng hay biết): Chẳng biết [giáo pháp của] Phật là giáo pháp nhất vị, chẳng sai biệt, nhưng [chúng sanh thuộc bảy loại phương tiện đối với] bảy loại Quyền công đức, mỗi căn tánh đắc một loại, mỗi căn tánh hiểu theo một loại. Đă chẳng biết rốt ráo [các Quyền công đức ấy] đều rốt ráo quy vào Thật, mà cũng chẳng biết công đức đă đạt được chính là Quyền, tức là đối với Quyền lẫn Thật đều mê, cho nên gọi là “bất tự giác tri” (chẳng tự hay biết).

 

5.1.2.1.1.3.2.1.2.2. Nêu rơ: Chỉ riêng Như Lai là có thể biết v́ giống như mây to, mà lại bất đồng

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Duy hữu Như Lai tri thử chúng sanh chủng tướng, thể tánh, niệm hà sự, tư hà sự, tu hà sự, vân hà niệm, vân hà tư, vân hà tu, dĩ hà pháp niệm, dĩ hà pháp tư, dĩ hà pháp tu, dĩ hà pháp đắc hà pháp, chúng sanh trụ ư chủng chủng chi địa, duy hữu Như Lai như thật kiến chi, minh liễu vô ngại.

          ()所以者何。唯有如來。知此眾生種相體性。念何事。思何事。修何事。云何念。云何思。云何修。以何法念。以何法思。以何法修。以何法。得何法。眾生住於種種之地。唯有如來如實見之。明了無礙。

          (Kinh: V́ cớ sao vậy? Chỉ có Như Lai biết chủng loại, tướng trạng, thể tánh của các chúng sanh ấy, họ nhớ tới chuyện ǵ, nghĩ chuyện ǵ, tu chuyện ǵ, nhớ như thế nào, nghĩ như thế nào, tu như thế nào, dùng pháp ǵ để niệm, dùng pháp ǵ để nghĩ, dùng pháp ǵ để tu, dùng pháp nào để đạt được pháp nào, chúng sanh trụ trong các loại địa vị, chỉ có Như Lai thấy như thật, hiểu rơ vô ngại).

 

          “Như Lai năng tri” (Như Lai có thể biết) tức là biết bằng Nhất Thiết Chủng Trí. “Như thật kiến chi” (Thấy như thật) tức là thấy bằng Phật nhăn. “Minh liễu vô ngại” (hiểu rơ vô ngại) tức là thấu triệt từ đầu đến đuôi, thấu triệt từ trong ra ngoài, thảy đều thấu tỏ. Nếu xét theo cái có thể thấy, có thể biết, chỉ có Phật trí, Phật nhăn. Nếu xét theo cái được thấy, cái được biết, th́ sẽ nêu đại lược một số ít là mười cảnh, hợp thành bốn ư. Mỗi mỗi đều không ǵ “sai biệt chính là chẳng sai biệt, chẳng sai biệt chính là sai biệt”. Bốn ư là: Một là xét theo bốn pháp, hai là xét theo ba pháp, ba là xét theo hai pháp, bốn là xét theo một pháp.

          1) Một, xét theo bốn pháp, tức là chủng, tướng, thể, tánh. “Chủng” có hai nghĩa:   

          - Nếu dựa theo tương đối để luận định Chủng th́ tam đạo chính là tam đức chủng. V́ thế, kinh Tịnh Danh dạy: “Nhất thiết phiền năo chi trù, vi Như Lai chủng” (Hết thảy các thứ phiền năo đều là chủng tánh Như Lai), do phiền năo đạo có chủng tánh Bát Nhă. Lại nói: “Ngũ Vô Gián giai giải thoát tướng” (Năm thứ Vô Gián đều là tướng giải thoát), do bất thiện nghiệp có chủng tử giải thoát của thiện nghiệp. Lại nói: “Nhất thiết chúng sanh tức Niết Bàn tướng, bất khả phục diệt” (hết thảy chúng sanh chính là tướng Niết Bàn, chẳng thể diệt nữa), do đường khổ sanh tử chính là chủng tử của Pháp Thân.

          - Nếu dựa theo loại để luận định Chủng, th́ hết thảy các [hành vi như] “cúi đầu, giơ tay” đều là chủng tử giải thoát! Hết thảy trí thế gian và tâm giải ngộ thuộc tam thừa chính là chủng tử Bát Nhă. Phàm những ai có tâm đều sẽ thành Phật, tức là chủng tử Pháp Thân. Các chủng tử sai biệt như thế, chỉ riêng Phật có thể biết. Hết thảy chủng tử chỉ là một chủng tử, tức là chẳng sai biệt, cũng chỉ riêng Phật có thể biết. Sai biệt chính là chẳng sai biệt, chẳng sai biệt chính là sai biệt, cũng chỉ riêng Phật có thể biết.

          “Tướng” là xét theo bề ngoài, c̣n Thể là bản chất chủ yếu. Tánh là xét theo bề trong, như đă giải thích cặn kẽ trong phần Thập Như Thập Giới. Nếu luận định sai biệt th́ tướng của mười pháp giới chỉ riêng đức Phật có thể biết. Nếu luận theo chẳng sai biệt, th́ chính là tướng của một Phật giới, cũng chỉ riêng đức Phật có thể biết. Sai biệt chính là chẳng sai biệt, chẳng sai biệt chính là sai biệt, cũng chỉ riêng đức Phật có thể biết. Thể và Tánh cũng phỏng theo đó mà biết.

          2) Hai, xét theo ba pháp, tức là Tam Huệ Văn, Tư, Tu, lại c̣n có ba tầng:

          - Một, nói “niệm hà sự, tư hà sự, tu hà sự” (nhớ chuyện ǵ, nghĩ chuyện ǵ, tu chuyện ǵ), tức là cảnh được chấp giữ bởi Tam Huệ. “Chủng, tướng, thể, tánh” được diễn nói bởi giáo, tùy theo từng giáo mà có Tu và Tư bất đồng. Đối trước giới (từng pháp giới trong mười pháp giới) làm cảnh, sẽ có nhiều, ít, tăng, giảm. Quán Thể khéo hay vụng, cứ tùy theo nghĩa, sẽ biết là sai biệt hay chẳng sai biệt, dùng Quyền đối ứng Thật [để luận định].

          - Nói “vân hà niệm, vân hà tư, vân hà tu” (nhớ như thế nào, nghĩ như thế nào, tu như thế nào) [là nói đến] bản thể của Tam Huệ. Cái Thể ấy có thể nghe, có thể nghĩ, có thể tu, và cũng có sai biệt, chẳng sai biệt v.v… Cứ phỏng theo phần trước sẽ biết!

          - Ba là nói “dĩ hà pháp niệm, dĩ hà pháp tư, dĩ hà pháp tu” (dùng pháp nào để nhớ, dùng pháp nào để nghĩ, dùng pháp nào để tu). Đó là nhân duyên của Tam Huệ. Do nghe pháp th́ mới có thể giữ lấy cảnh. V́ thế, dùng chuyện nghe pháp làm nhân duyên. Tam Huệ của tam thừa như thế, trước kia nói cảnh, thể, nhân duyên đều sai khác, tức là sai biệt. Nếu nhập Tam Huệ viên diệu, sẽ chẳng sai biệt. Sự sai biệt ấy chỉ riêng đức Phật có thể biết! Sự “chẳng sai biệt” ấy cũng chỉ riêng đức Phật có thể biết. Lại nữa, sai biệt chính là không sai biệt, không sai biệt chính là sai biệt, cũng chỉ riêng đức Phật có thể biết.

          3) Ba, xét theo hai pháp, tức là nhân quả. Dùng pháp nào làm nhân, đạt được cái quả là pháp nào? Do mỗi nhân của ngũ thừa, đều đạt được cái quả, đó chính là sai biệt, chỉ riêng đức Phật có thể biết. Chúng sanh như, Phật như, nhất như, vô nhị như, chỉ là một nhân, một quả, tức là chẳng sai biệt, cũng chỉ riêng đức Phật có thể biết. Lại nữa, sai biệt chính là chẳng sai biệt, chẳng sai biệt chính là sai biệt, cũng chỉ riêng đức Phật có thể biết!

          4) Bốn, xét theo một pháp, tức “chúng sanh trụ ư chủng chủng chư địa” (chúng sanh trụ nơi các thứ địa vị), tức những người thuộc bảy phương tiện, trụ trong bảy địa vị ấy chính là sai biệt, chỉ riêng đức Phật có thể biết.

          “Như thật kiến chi” (thấy như thật): Chỉ là một địa vị, tức là chẳng sai biệt, cũng chỉ riêng đức Phật có thể biết. Lại nữa, sai biệt chính là chẳng sai biệt, chẳng sai biệt chính là sai biệt, cũng chỉ riêng đức Phật có thể biết. V́ thế nói “minh liễu vô ngại” (hiểu rơ vô ngại). Bốn ư trong ấy thâu nhiếp trọn các pháp. “Chủng, tướng, thể, tánh” là đối tượng của Tam Huệ, bốn pháp được chấp giữ ấy chẳng ra ngoài nhân quả. Cái thể của nhân quả chỉ là Thật Tánh đó thôi!

 

5.1.2.1.1.3.2.1.2.3. Nêu thí dụ phù hợp khít khao với chuyện “chúng sanh không biết”

 

          (Kinh) Như bỉ hủy mộc, tùng lâm, chư dược thảo đẳng, nhi bất tự tri thượng, trung, hạ tánh.

          ()如彼卉木叢林諸藥草等。而不自知上中下性。

          (Kinh: Như thảo mộc, rừng rậm, các cỏ thuốc kia chẳng tự biết có tánh chất thượng, trung, hạ).

 

          Khi chưa khai hiển, người thuộc bảy phương tiện đều giống như thảo mộc, chỉ có thể tiếp nhận sự nhuần thấm để tăng trưởng, chẳng thể tự biết. Sau khi đă được khai hiển, mới biết ba loại cỏ, hai loại cây, dù rễ, dù thân, dù cành, dù lá, dù hoa, dù quả, mỗi mỗi không ǵ chẳng phải là Tứ Vi[9] của đất, bèn có thể ngộ hoàn toàn Tánh Đức lư địa của chúng sanh chính là Nhất Thiết Trí địa rốt ráo của chư Phật. Từ trí địa ấy, nổi mây đại bi, xối mưa Quyền Thật, hóa độ vô lượng. Sở dĩ đức Như Lai thuyết kinh Pháp Hoa là v́ muốn khiến cho mọi người ngộ sự bí yếu ấy của Tánh và Tu đó thôi! Phần thứ nhất, “đối ứng thí dụ với pháp” đă xong.

 

5.1.2.1.1.3.2.2. Kết lại lời giải thích

5.1.2.1.1.3.2.2.1. Tổng kết “sai biệt chính là chẳng sai biệt”

 

          (Kinh) Như Lai tri thị nhất tướng, nhất vị chi pháp, sở vị giải thoát tướng, ly tướng, diệt tướng, cứu cánh Niết Bàn thường tịch diệt tướng, chung quy ư Không.        ()如來知是一相一味之法。所謂解脫相。離相。滅相。究竟涅槃常寂滅相。終歸於空。

            (Kinh: Như Lai biết pháp nhất tướng, nhất vị ấy, tức là tướng giải thoát, tướng ĺa, tướng diệt, tướng Niết Bàn rốt ráo thường tịch diệt, rốt cuộc đều quy vào Không).

 

          “Nhất tướng, nhất vị” như đă giải thích đối với “chúng sanh” trong phần trước. Phân biệt nói pháp “nhất tướng, nhất vị, giải thoát, ly diệt” ấy th́ chính là
“vô lượng trong một”. “Cứu cánh Niết Bàn thường tịch diệt tướng, chung quy ư Không” (tướng Niết Bàn rốt ráo thường tịch diệt, rốt cuộc quy vào Không) chính là “một trong vô lượng”. V́ thế, kết lại “tất cánh vô sai biệt” (rốt ráo chẳng sai biệt). Nói “cứu cánh Niết Bàn” (Niết Bàn rốt ráo) tức là chẳng giống hai thứ Niết Bàn
Hữu Dư và Vô Dư của Nhị Thừa. Nói “thường tịch diệt tướng” th́ chẳng phải là dứt trói buộc th́ mới gọi là giải thoát. Pháp vốn chẳng trói buộc, nay cũng chẳng có thoát. Chẳng phải v́ ĺa bỏ hay kết hợp mà gọi là “ly tướng”. Pháp vốn chẳng kết hợp, cho nên nay cũng chẳng ĺa. Chẳng phải do hết sanh mà gọi là “diệt tướng”. Pháp vốn vô sanh, nay cũng vô diệt. Đó gọi là “chư pháp tùng bổn lai, thường tự tịch diệt tướng” (các pháp từ trước đến nay, tướng thường tự tịch diệt), chẳng giống ba tướng của Nhị Thừa. “Chung quy ư Không” (cuối cùng quy vào Không), tức là quy vào Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Không, trọn chẳng phải là Không do “hôi đoạn” của Nhị Thừa. [Đức Phật] cẩn trọng giải thích lần nữa, nhằm loại trừ [kiến chấp] “Thật khác với Quyền”, ḷng Từ to lớn của Phật ân cần thiết tha tột bậc!

 

5.1.2.1.1.3.2.2.2. Giải thích ư nghĩa “v́ sao chẳng nói ngay vào Thật pháp”

 

          (Kinh) Phật tri thị dĩ, quán chúng sanh tâm dục, nhi tương hộ chi. Thị cố, bất tức vị thuyết Nhất Thiết Chủng Trí.

          ()佛知是已。觀眾生心欲而將護之。是故不卽為說一切種智。

          (Kinh: Đức Phật đă biết như thế, quán sự ưa muốn trong tâm của chúng sanh để bảo vệ họ. V́ thế, chẳng nói ngay vào Nhất Thiết Chủng Trí).

         

          Như Lai đă biết từ đầu đến cuối đều là một, cớ sao chẳng trong hết thảy các thời chỉ nói một Thật pháp? V́ thế, nay bèn giải thích: Do Ngài quán ḷng ưa muốn trong tâm của chúng sanh mà dưỡng dục, hộ tŕ, [cho nên] chẳng lập tức nói pháp ấy. Phần thứ nhất, nói rơ “Quyền Thật chẳng thể nghĩ bàn” đă xong.

 

5.1.2.1.2 Tổng kết lời tán thán, trần thuật

 

          (Kinh) Nhữ đẳng Ca Diếp thậm vi hy hữu, năng tri Như Lai tùy nghi thuyết pháp, năng tín, năng thọ. Sở dĩ giả hà? Chư Phật Thế Tôn tùy nghi thuyết pháp, nan giải, nan tri.

          ()汝等迦葉。甚為希有。能知如來隨宜說法。能信能受。所以者何。諸佛世尊隨宜說法。難解難知。

          (Kinh: Ca Diếp các ông rất là hy hữu, có thể biết Như Lai tùy theo cơ nghi mà thuyết pháp, có thể tin, có thể tiếp nhận. V́ cớ sao vậy? Chư Phật Thế Tôn tùy theo cơ nghi thuyết pháp, khó hiểu, khó biết).

 

          Phần trước đă nói tới vô lượng công đức của Như Lai, dẫu các ông trong vô lượng ức kiếp vẫn chẳng thể nói trọn hết được! Như mây to tuôn mưa, chẳng thể nghĩ bàn như thế đó! Sợ có kẻ nghi ngờ bốn vị đệ tử lănh nhận, giải ngộ dựa theo giáo pháp của chính ḿnh chưa chắc đă là thật, cho nên đức Phật xưng tán, trần thuật. Tuy [bốn vị ấy] chưa đạt đến địa vị Phật rốt ráo, nhưng đă lănh ngộ trọn năm thời Quyền Thật, mở mang tri kiến của Phật, phần chứng Phật quả, cũng thật sự là chẳng hư dối. Lại c̣n muốn dẫn dắt hàng hạ căn phát khởi, khiến cho họ cùng được ngộ. Trước hết, [đức Phật] tán thán các vị ấy hy hữu, [bởi lẽ], phàm phu có kẻ phải nghe đi, nghe lại th́ mới có thể đạt được lợi ích. Bồ Tát coi đó là chuyện của ḿnh (chuyện thuộc về bổn phận của chính ḿnh), dẫu hiểu cũng chẳng thấy là lạ! Nay do chẳng phải là chánh vị (“chánh vị” là đă thật sự chứng đắc chánh trí từ Sơ Địa trở lên) mà có thể xả chứng (bỏ sự chứng đắc nơi Tiểu quả quyền biến) để nhập Thật, cho nên rất hy hữu! [Kinh văn nói các vị ấy] có thể biết [đức Phật] tùy nghi thuyết pháp nhằm trần thuật các vị ấy có thể lănh ngộ [ư chỉ v́ sao đức Phật] mở ra ba thừa. Nói “năng tín, năng thọ” (có thể tin, có thể tiếp nhận) nhằm trần thuật các vị ấy có thể lănh ngộ [ư chỉ v́ sao] đức Phật hiển thị Nhất Thừa. Từ “sở dĩ giả hà” (v́ cớ sao vậy) trở đi, giải thích sự hy hữu, ư nghĩa dễ hiểu!

          Lại nữa, trong phần trước đă nói “nhữ đẳng thuyết bất năng tận” (các ông chẳng thể nói trọn hết được), nay nói “nhữ đẳng thậm vi hy hữu” (các ông rất hiếm có). Trong phần trước là xét theo khía cạnh “Phật ân hóa độ trọn khắp”, giống như mây tuôn mưa, không chẳng được che chở, nhuần thấm. Phật ân chở khắp, giống như đại địa, không chẳng sanh thành, há chỉ một phương, một căn cơ mà thôi ư? V́ thế, “thuyết bất năng tận” (chẳng thể nói trọn hết được). Nay do Phật ân tuy trọn khắp, chúng sanh sử dụng hằng ngày mà chẳng tự hay biết. Như ba loại cỏ, hai loại cây, bén rễ nơi đất, tiếp nhận mưa tưới tắm, nhưng chẳng thể biết. Các ông có thể biết mười ân từ đầu đến cuối, rất là hy hữu. [Nói] “vị độ linh độ” (khiến cho người chưa được độ sẽ được độ) v.v… nhằm trần thuật ân Tứ Hoằng Thệ của Phật rất hy hữu. “Hiện thế an ổn, hậu sanh thiện xứ, dĩ đạo thọ lạc” (đời hiện tại an ổn, đời sau sanh vào chốn lành, do đạo mà hưởng vui), trần thuật họ (các vị đại đệ tử) biết ân “đại từ ban vui” rất hy hữu. “Ly chư chướng ngại, tiệm đắc nhập đạo” (Ĺa các chướng ngại, dần dần được nhập đạo): Trần thuật họ biết ân “đại bi dẹp khổ” rất hy hữu. [Nhắc đến] “Luân vương, Đế Thích, Phạm vương” là tiểu dược thảo, nhằm trần thuật họ biết ân “khuyến thiện, trừ phiền năo” rất hy hữu. Biết do pháp vô lậu có thể đạt được Niết Bàn và chứng Duyên Giác chính là dược thảo loại trung, trần thuật sự hiểu biết ân “trừ lạnh, nóng, kiến chấp, ái kiến” rất hy hữu. Dược thảo loại thượng và cây nhỏ là thẹn [v́ thực hành] Tiểu pháp, hâm mộ Đại pháp, trần thuật ân “biết ngăn che sự hèn kém” rất hy hữu. [Nói đến] cây to là trần thuật ân trang nghiêm rất hy hữu. Sự thật tối hậu là “cùng một cuộc đất, cùng một cơn mưa”, trần thuật ân “giao phó gia tài, ngồi nơi pháp ṭa, [thụ hưởng] tài pháp nơi thân tâm tự tại an lạc” rất hy hữu. Đức Phật trần thuật, tán thán các sự sai biệt ấy. Sau khi nói xong phần kinh văn tán thán mười ân, bèn trần thuật sự tán thán chẳng sai biệt; đó chính là một đại ân. Phần kinh văn Trường Hàng “trần thuật cặn kẽ sự thành tựu” đă xong.

 

5.1.2.2. Trùng tụng

5.1.2.2.1. Trùng tụng Pháp Thuyết

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Phá hữu pháp vương, xuất hiện thế gian, tùy chúng sanh dục, chủng chủng thuyết pháp. Như Lai tôn trọng, trí huệ thâm viễn, cửu mặc tư yếu[10], bất vụ tốc thuyết. Hữu trí nhược văn, tắc năng tín giải, vô trí nghi hối, tắc vi vĩnh thất. Thị cố Ca Diếp, tùy lực vị thuyết, dĩ chủng chủng duyên, linh đắc chánh kiến.

          ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。破有法王。出現世間。隨眾生欲。種種說法。如來尊重。智慧深遠。久默斯要。不務速說。有智若聞。則能信解。無智疑悔。則為永失。是故迦葉。隨力為說。以種種緣。令得正見。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa ấy, bèn nói kệ rằng: - Pháp vương phá các cơi, xuất hiện trong thế gian, thuận ḷng chúng sanh muốn, nói ra đủ loại pháp. Đức Như Lai tôn trọng, có trí huệ sâu xa, với pháp bí yếu này, giữ im lặng đă lâu, chẳng vội nói ra ngay. Nếu người trí được nghe, sẽ có thể tin hiểu. Kẻ trí nghi hối, vĩnh viễn bị mất mát. V́ thế, này Ca Diếp, tùy sức v́ họ nói, vận dụng các thứ duyên, khiến họ được chánh kiến).

 

          “Phá hữu pháp vương” (Đấng pháp vương phá các cơi)[11]: Nhân quả chẳng mất, được gọi là “hữu”. Phàm phu coi Kiến Tư là nhân, Phần Đoạn sanh tử là quả. Nhị Thừa lấy Trần Sa [phiền năo] làm nhân, phương tiện biến dịch làm quả. Bồ Tát lấy vô minh làm nhân, tự tánh biến dịch làm quả. Chỉ có chư Phật, đă mất cái nhân ngũ trụ, chôn vùi cái quả nhị tử (Biến Dịch và Phần Đoạn sanh tử), đắc đại tự tại trong các pháp, xuất hiện trong thế gian chỉ v́ lợi ích chúng sanh. V́ thế, các giáo pháp Quyền, Thật đều khiến cho người lănh thọ đạt được lợi ích chẳng hư dối.

          Hai câu “tùy chúng sanh dục (thuận theo ḷng ham muốn của chúng sanh) trùng tụng Quyền Trí nói Quyền giáo. Bốn câu “Như Lai tôn trọng[12]…” trùng tụng Thật Trí nói Thật giáo. Bốn câu “hữu trí nhược văn…” (nếu kẻ có trí nghe) nhằm giải thích [v́ sao đức Phật] chẳng nhanh chóng nói Thật pháp. Bốn câu từ “thị cố Ca Diếp” (v́ thế này Ca Diếp) trở đi, hiển thị sự hay khéo trước là Quyền, sau là Thật. “Dĩ chủng chủng duyên” (Dùng các thứ duyên) tức là trước hết bèn thí Quyền, khiến cho họ đạt được chánh kiến; sau đấy bèn hiển Thật, chỉ v́ Nhất Thật, cho nên gọi là “chánh kiến”. Do vậy, trong kinh Niết Bàn, Ca Diếp đồng tử[13] đă lănh giải, bèn thưa: “Tự thử dĩ tiền, ngă đẳng giai danh tà kiến nhân” (từ đây trở về trước, chúng con đều đáng gọi là kẻ tà kiến)!

 

5.1.2.2.2. Trùng tụng về thí dụ đă lập

5.1.2.2.2.1. Chẳng sai biệt mà sai biệt

5.1.2.2.2.1.1. Trùng tụng cái có thể nhuần thấm chẳng sai biệt

 

          (Kinh) Ca Diếp đương tri, thí như đại vân, khởi ư thế gian, biến phú nhất thiết, huệ vân hàm nhuận, điện quang hoảng diệu, lôi thanh viễn chấn, linh chúng duyệt dự, nhật quang yểm tế. Địa thượng thanh lương, ái đăi thùy bố, như khả thừa lăm. Kỳ vũ phổ đẳng, tứ phương câu hạ, lưu chú vô lượng, suất thổ sung hiệp.

          ()迦葉當知。譬如大雲。起於世間。遍覆一切。慧雲含潤。電光晃曜。雷聲遠震。令眾悅豫。日光揜蔽。地上清涼。靉靆垂布。如可承攬。其雨普等。四方俱下。流澍無量。率土充洽。

          (Kinh: Ca Diếp hăy nên biết, ví như vầng mây to, nổi lên trong thế gian, che phủ khắp hết thảy. Mây trí huệ nhuần chứa, ánh chớp ḷe chói ngời, tiếng sấm rền xa thẳm, khiến mọi loài sướng vui. Ánh mặt trời ẩn khuất, cơi đất được mát mẻ. Mây dày giăng bủa thấp, dường như nắm lấy được. Mưa tuôn khắp b́nh đẳng, bốn phương đều trút xuống, tuôn rót đều vô lượng, khắp cơi đều tưới đẫm).

 

          Mây ví như Ứng Thân, Ứng Thân thuận theo trí huệ mà hành. V́ thế nói là “huệ vân”. Có thể trọn đủ mười hai bộ pháp; v́ thế nói là “hàm nhuận”. “Điện quang hoảng diệu” (ánh chớp lóe sáng ḷa) ví như thân tỏa quang minh lớn. “Lôi thanh viễn chấn” (tiếng sấm vang rền tận phương xa) ví như miệng tuyên thuyết Tứ Biện Tài. “Nhật quang yểm tế” (ánh sáng mặt trời b che lấp): Ví như chín mươi lăm thứ tà quang chẳng hiện. “Địa thượng thanh lương” (cơi đất được mát mẻ): Ví như chín mươi tám thứ nhiệt năo được trừ khử. “Ái đăi thùy bố, như khả thừa lăm” (mây dày giăng rất thấp, dường như có thể nắm được): Ví như oai nghi và tướng hảo nơi Ứng Thân dường như giống [chúng sanh trong] tam hữu, người có tâm toan nắm bắt, nhưng thật sự chẳng thể được! “Kỳ vũ phổ đẳng, tứ phương câu hạ” (trận mưa ấy b́nh đẳng trọn khắp, bốn phương đều trút xuống): Ví như bát âm, tứ biện tài ứng khắp các căn cơ. “Lưu chú vô lượng” (tuôn rót vô lượng): Ví như trong mỗi thời đều chứa đủ ngũ thời, bát giáo. “Suất thổ sung hiệp” (cả cơi đất đều được tưới đẫm): Sánh ví những ai có tâm đều được lợi ích nhuần thấm. Trong mỗi thời, ai nấy đều đạt được lợi ích thuộc ngũ vị trong Tạng, Thông, Biệt, Viên, đốn, tiệm, bí mật và bất định!

 

5.1.2.2.2.1.2. Trùng tụng “cái có thể sanh” [b́nh đẳng, nhưng] “cái được sanh” th́ được nhuần thấm sai biệt

 

          (Kinh) Sơn, xuyên, hiểm cốc, u thúy sở sanh, hủy mộc, dược thảo, đại tiểu chư thụ, bách cốc miêu giá, cam giá, bồ đào, vũ chi sở nhuận, vô bất phong túc. Càn địa phổ hiệp, dược mộc tịnh mậu. Kỳ vân sở xuất, nhất vị chi thủy. Thảo mộc, tùng lâm, tùy phần thọ nhuận. Nhất thiết chư thụ, thượng, trung, hạ đẳng, xứng kỳ đại tiểu, các đắc sanh trưởng. Căn, hành, chi, diệp, hoa quả quang sắc. Nhất vũ sở cập, giai đắc tiễn trạch.

          ()山川險谷。幽邃所生。卉木藥草。大小諸樹。百穀苗稼。甘蔗葡萄。雨之所潤。無不豐足。乾地普洽。藥木並茂。其雲所出。一味之水。草木叢林。隨分受潤。一切諸樹。上中下等。稱其大小。各得生長。根莖枝葉。華果光色。一雨所及。皆得鮮澤。

          (Kinh: Núi, sông, hang hiểm trở, chỗ tăm tối sanh trưởng, thảo mộc và cỏ thuốc, các loại cây lớn, nhỏ, trăm giống lúa, mộng mạ, các thứ mía và nho, được mưa tưới nhuần thấm, không ǵ chẳng tươi tốt. Đất khô được tưới khắp, thuốc, cây đều sum suê. Vầng mây tuôn mưa xuống, nước chỉ có một vị, nhưng thảo mộc, rừng rậm, tùy phần được tưới tắm. Hết thảy các cây cối, thuộc loại thượng, trung, hạ, tương xứng lớn hay bé, thảy đều được sanh trưởng. Rễ, thân, cùng cành, lá, hoa, quả, sắc sáng đẹp. Một trận mưa tuôn xuống, đều cùng được tươi nhuận).

 

          “Sơn, xuyên, hiểm cốc” (núi, sông, hang hiểm trở): Trùng tụng đại lược chỗ có thể sanh. “U thúy” (tối tăm, sâu thẳm): Ví như tập nhân mà chúng sanh gieo trồng đă lâu, ẩn tàng trong sắc tâm nơi quả báo. “Bách cốc”: Sánh ví Thập Thiện trang nghiêm lẫn nhau. Thập Thiện là “bách” (một trăm). “Cam giá” (mía) thể chất là một, có thể sánh ví cảnh sở duyên bởi Thiền Định. Bồ đào (nho) có h́nh thể nhiều, có thể sánh ví trí huệ phá Hoặc nhiều. Đất khô được tưới đẫm trọn khắp, ví như khiến cho kẻ chưa tin sẽ tin. Những điều khác dễ hiểu. Phần thứ nhất, trùng trụng “chẳng sai biệt mà sai biệt” đă xong!

 

5.1.2.2.2.2. Trùng tụng sai biệt mà chẳng sai biệt

         

          (Kinh) Như kỳ thể tướng, tánh phân đại, tiểu, sở nhuận thị nhất, nhi các tư mậu.

          ()如其體相。性分大小。所潤是一。而各滋茂。

          (Kinh: Như thể tướng của chúng, tánh chia ra lớn, nhỏ, nhuần thấm đều như một, mỗi thứ được sum suê).

 

          Hai câu đầu trùng tụng cái được sanh trưởng, được nhuần thấm. Câu thứ ba trùng tụng chủ thể thực hiện [nhuần thấm] (tức mây tuôn mưa) không sai biệt. Lược đi chẳng trùng tụng cái có thể sanh trưởng (đất đai), tức là coi cái được sanh (cỏ cây, dược thảo, bách cốc, mía, nho) là chuyện nói kèm thêm. Câu thứ tư trùng tụng “[các loài thảo mộc] sai biệt mà chúng chẳng tự biết”. Phần thứ hai, “trùng tụng về thí dụ được lập” đă xong.

 

5.1.2.2.2.3. Trùng tụng chuyện đối ứng thí dụ với pháp

5.1.2.2.2.3.1. Trùng tụng đối ứng “chẳng sai biệt mà sai biệt” với pháp

5.1.2.2.2.3.1.1. Trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của “cái có thể nhuần thấm”

 

          (Kinh) Phật diệc như thị, xuất hiện ư thế. Thí như đại vân, phổ phú nhất thiết. Kư xuất ư thế, vị chư chúng sanh, phân biệt diễn thuyết, chư pháp chi thật. Đại thánh Thế Tôn, ư chư thiên nhân, nhất thiết chúng trung, nhi tuyên thị ngôn, ngă vi Như Lai, lưỡng túc chi tôn, xuất ư thế gian, do như đại vân, sung nhuận nhất thiết, khô cảo chúng sanh, giai linh ly khổ, đắc an ổn lạc, thế gian chi lạc, cập Niết Bàn lạc. Chư thiên nhân chúng, nhất tâm thiện thính, giai ưng đáo thử, cận Vô Thượng Tôn. Ngă vi Thế Tôn, vô năng cập giả, an ổn chúng sanh. Cố hiện ư thế, vị đại chúng thuyết, cam lộ tịnh pháp. Kỳ pháp nhất vị, giải thoát Niết Bàn. Dĩ nhất diệu âm, diễn sướng tư nghĩa, thường vị Đại Thừa, nhi tác nhân duyên.

          ()佛亦如是。出現於世。譬如大雲。普覆一切。旣出於世。為諸眾生。分別演說。諸法之實。大聖世尊。於諸天人。一切眾中。而宣是言。我為如來。兩足之尊。出於世間。猶如大雲。充潤一切。枯槁眾生。皆令離苦。得安隱樂。世間之樂。及涅槃樂。諸天人眾。一心善聽。皆應到此。覲無上尊。我為世尊。無能及者。安隱眾生。故現於世。為大眾說。甘露淨法。其法一味。解脫涅槃。以一妙音。演暢斯義。常為大乘。而作因緣。

          (Kinh: Phật cũng như thế đó, xuất hiện trong cơi đời. Ví như vầng mây to, che trọn khắp hết thảy. Đă xuất hiện trong đời, bèn v́ các chúng sanh, phân biệt để diễn nói, thật tướng của các pháp. Đức đại thánh Thế Tôn, ở trong các trời, người, trong hết thảy đại chúng, tuyên nói như thế này: “Ta chính là Như Lai, là đấng phước trí vẹn, xuất hiện trong thế gian, ví như vầng mây lớn, tưới đẫm cho hết thảy, các chúng sanh khô héo, đều khiến họ ĺa khổ, đạt niềm vui an ổn, cùng niềm vui thế gian, và niềm vui Niết Bàn. Các đại chúng trời người, hăy một dạ lắng nghe, đều nên đến nơi đây, thân cận đấng Vô Thượng. Ta chính là Thế Tôn, không ai sánh bằng nổi, v́ an ổn chúng sanh, nên hiện ra trong đời. V́ đại chúng nói ra, pháp thanh tịnh cam lộ”. Pháp ấy chỉ một vị, giải thoát, đắc Niết Bàn. Dùng một âm mầu nhiệm, diễn nói trọn nghĩa ấy, thường hay v́ Đại Thừa, mà tạo nhân duyên đó).

 

          Ba bài kệ kể từ “kư xuất ư thế” (đă xuất hiện trong thế gian) trở đi, trùng tụng đại lược mười hiệu. Sáu câu như “sung nhuận nhất thiết…” (tưới nhuần sung măn hết thảy) trùng tụng đại lược Tứ Hoằng Thệ, chẳng trùng tụng bốn pháp môn khác. Bốn bài kệ từ câu “chư thiên nhân chúng” trở đi nhằm trùng tụng khuyên nghe nhận. “Kỳ pháp nhất vị” (pháp ấy một vị): Bảy loại phương tiện, không ǵ chẳng đều quy vào Nhất Thừa, sai biệt mà chẳng sai biệt. “Thường vị Đại Thừa, nhi tác nhân duyên” (thường v́ Đại Thừa mà tạo nhân duyên): Đă tạo nhân duyên, ắt dùng phương tiện, tức là chẳng sai biệt mà sai biệt.

 

5.1.2.2.2.3.1.2. Cùng trùng tụng “cái có thể sanh” và “cái được sanh”      

 

          (Kinh) Ngă quán nhất thiết, phổ giai b́nh đẳng, vô hữu bỉ thử, ái tăng chi tâm. Ngă vô tham trước, diệc vô hạn ngại, hằng vị nhất thiết, b́nh đẳng thuyết pháp, như vị nhất nhân, chúng đa diệc nhiên. Thường diễn thuyết pháp, tằng vô tha sự. Khứ, lai, tọa, lập, chung bất b́ yếm, sung túc thế gian, như vũ phổ nhuận.        ()我觀一切。普皆平等。無有彼此。愛憎之心。我無貪著。亦無限礙。恆為一切。平等說法。如為一人。眾多亦然。常演說法。曾無他事。去來坐立。終不疲厭。充足世間。如雨普潤

          (Kinh: Ta quán sát hết thảy, đều trọn là b́nh đẳng, chẳng hề có đây kia, ôm ḷng ghét yêu nhau. Ta chẳng có tham chấp, cũng chẳng bị ngăn ngại, luôn luôn v́ hết thảy, b́nh đẳng mà thuyết pháp. Như v́ một người nói, đông người cũng vẫn thế. Thường luôn diễn nói pháp, chưa từng làm chuyện khác. Đi, đến, và ngồi, đứng, trọn chẳng hề chán mệt, sung túc khắp thế gian, như mưa nhuần thấm khắp).

 

          Đoạn kinh văn trên đây đối ứng pháp với “cái có thể sanh” và “cái được sanh”, tức là nói vô số ngàn vạn ức loại chúng sanh tới chỗ đức Phật để nghe pháp. Bài kệ tụng này nói rơ: Đức Phật quán hết thảy đều trọn khắp b́nh đẳng. Căn cơ Phật là “thử” (cái này), các căn cơ khác là “bỉ” (cái kia). Phật thuyết pháp b́nh đẳng, chẳng đối với người có căn cơ thành Phật mà yêu thương, chán ghét các căn cơ khác! Ví như mưa xối xuống, chẳng chọn lựa khe suối hay hang hốc. Phật sự là Tự, ma sự là Tha. Ứng lúc sau là Khứ (đi), ứng thoạt đầu là Lai (đến). Nhập Thật là Tọa (ngồi), xuất Quyền là Lập (đứng). Các điều khác dễ hiểu.

 

5.1.2.2.2.3.1.3. Trùng tụng kép sự đối ứng “cái có thể nhuần thấm” và “cái được nhuần thấm” với pháp

5.1.2.2.2.3.1.3.1. Trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của cái có thể nhuận

         

          (Kinh) Quư, tiện, thượng, hạ, tŕ giới, hủy giới, oai nghi cụ túc, cập bất cụ túc, chánh kiến, tà kiến, lợi căn, độn căn, đẳng vũ pháp vũ, nhi vô giải quyện.

          ()貴賤上下。持戒毀戒。威儀具足。及不具足。正見邪見。利根鈍根。等雨法雨。而無懈倦。

          (Kinh: Sang, hèn, và trên, dưới, tŕ giới hay hủy giới, oai nghi đều trọn đủ, và kẻ chẳng trọn đủ, chánh kiến với tà kiến, lợi căn hoặc độn căn, b́nh đẳng tuôn mưa pháp, nhưng chẳng hề lười mỏi).

 

          Đây là trùng tụng Như Lai khi đó quán các chúng sanh ấy là lợi căn hay độn căn, tinh tấn hay giải đăi, tùy theo sức họ kham được mà v́ họ thuyết pháp. “Quư, tiện, thượng, hạ” là xét theo địa vị. “Tŕ giới, hủy giới” là xét theo hạnh. Lợi căn hay độn căn là xét theo sự tu tập. Cần phải dựa theo ngũ thừa bảy phương tiện để lần lượt nói.

 

5.1.2.2.2.3.1.3.2. Trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của cái được nhuần thấm

5.1.2.2.2.3.1.3.2.1. Trùng tụng “hoan hỷ thiện lợi, đời hiện tại an ổn” tương ứng với thí dụ “tưới đẫm trọn khắp”

 

          (Kinh) Nhất thiết chúng sanh, văn ngă pháp giả, tùy lực sở thọ, trụ ư chư địa, hoặc xử nhân thiên, Chuyển Luân Thánh Vương, Thích, Phạm chư vương, thị tiểu dược thảo. Tri vô lậu pháp, năng đắc Niết Bàn, khởi lục thần thông, cập đắc Tam Minh, độc xử sơn lâm, thường hành Thiền Định, đắc Duyên Giác chứng, thị trung dược thảo. Cầu Thế Tôn xứ, ngă đương tác Phật, hành tinh tấn Định, thị thượng dược thảo. Hựu chư Phật tử, chuyên tâm Phật đạo, thường hành từ bi, tự tri tác Phật, quyết định vô nghi, thị danh tiểu thụ. An trụ thần thông, chuyển bất thoái luân, độ vô lượng ức, bách thiên chúng sanh. Như thị Bồ Tát, thị danh đại thụ. Phật b́nh đẳng thuyết, như nhất vị vũ, tùy chúng sanh tánh, sở thọ bất đồng. Như bỉ thảo mộc, sở bẩm các dị. Phật dĩ thử dụ, phương tiện khai thị, chủng chủng ngôn từ, diễn thuyết nhất pháp. Ư Phật trí huệ, như hải nhất trích.

          ()一切眾生。聞我法者。隨力所受。住於諸地。或處人天。轉輪聖王。釋梵諸王。是小藥草。知無漏法。能得涅槃。起六神通。及得三明。獨處山林。常行禪定。得緣覺證。是中藥草。求世尊處。我當作佛。行精進定。是上藥草。又諸佛子。專心佛道。常行慈悲。自知作佛。決定無疑。是名小樹。安住神通。轉不退輪。度無量億。百千眾生。如是菩薩。是名大樹。佛平等說。如一味雨。隨眾生性。所受不同。如彼草木。所稟各異。佛以此喻。方便開示。種種言辭。演說一法。於佛智慧。如海一滴。

          (Kinh: Hết thảy các chúng sanh, được nghe pháp của ta, tùy sức ḿnh tiếp nhận, trụ trong các địa vị, hoặc ở trong trời, người, hoặc Chuyển Luân Thánh Vương, Đế Thích, Phạm các vua. Đó là cỏ thuốc nhỏ. Biết do pháp vô lậu, có thể đắc Niết Bàn, dấy lên sáu thần thông, cùng với ba thứ Minh, ở riêng nơi núi rừng, để thường hành Thiền Định, được chứng quả Duyên Giác. Là cỏ thuốc bậc trung. Cầu nơi đức Thế Tôn, con sẽ được thành Phật, thực hành tinh tấn Định, là cỏ thuốc bậc thượng. Lại có các Phật tử, chuyên tâm nơi Phật đạo, thường thực hành từ bi, tự biết sẽ thành Phật, quyết định chẳng ngờ vực. Gọi đó là cây nhỏ. An trụ trong thần thông, chuyển pháp luân bất thoái, hóa độ vô lượng ức, trăm ngàn các chúng sanh. Hàng Bồ Tát như thế, được gọi là cây to. Phật b́nh đẳng thuyết pháp, như mưa chỉ một vị, tùy căn tánh chúng sanh, mà bẩm thọ sai khác. Như loài cỏ cây kia, mỗi loài hưởng mỗi khác. Phật dùng thí dụ này, để phương tiện khai thị, dùng các thứ ngôn từ, ḥng diễn nói một pháp. Ở nơi trí huệ Phật, như một giọt nước biển).

         

          Bài kệ thứ nhất, nêu chung các thứ được nhuần thấm. Bảy bài kệ kế đó, nói riêng từng thứ được nhuần thấm. Ba bài kệ sau cùng nhằm kết luận, và nói rơ “cái có thể nhuần thấm” chẳng thể nghĩ bàn! Các vua trong hàng trời, người đều chưa đoạn Hoặc. V́ thế, tương ứng với cỏ nhỏ. Nhị Thừa đều có đoạn chứng, cho nên tương ứng với thảo mộc loại trung. Hàng Bồ Tát vâng hành Lục Độ, chí cầu làm Phật, đă phát tâm vượt xa hàng Nhị Thừa. V́ thế, riêng họ là thảo mộc bậc thượng. Thông Giáo Bồ Tát đă đoạn Thông Hoặc, thề nâng đỡ hóa độ chúng sanh c̣n có tập khí sót thừa. V́ thế gọi là cây nhỏ. Biệt Giáo Bồ Tát tự hành, hóa độ người khác, phước huệ cao rộng; cho nên gọi là cây to.

          Lại có thể dựa vào ư nghĩa của hàng Bồ Tát trong tam giáo, mỗi giáo đều có ba loại cây tiểu, trung, đại, Lục Độ th́ xét theo ba A-tăng-kỳ, Thông Giáo th́ xét theo Thất Địa, Bát Địa, và Cửu Địa, Biệt Giáo xét theo ba mươi tâm. Trí huệ của Phật như một giọt nước biển có thể thấm nhuần như biển. Đối với một giọt công đức, trong vô lượng ức kiếp, vẫn chẳng thể nói trọn hết được!

 

5.1.2.2.2.3.1.3.2.1.2. Trùng tụng “đời sau sanh vào chốn lành, cho đến dần dần nhập đạo” đối ứng với “sanh trưởng, đơm hoa, kết hạt”

 

          (Kinh) Ngă vũ pháp vũ, sung măn thế gian. Nhất vị chi pháp, tùy lực tu hành, như bỉ tùng lâm, dược thảo chư thụ, tùy kỳ đại tiểu, tiệm tăng mậu hảo. Chư Phật chi pháp, thường dĩ nhất vị, linh chư thế gian, phổ đắc cụ túc, tiệm thứ tu hành, giai đắc đạo quả. Thanh Văn, Duyên Giác, xử ư sơn lâm, trụ tối hậu thân, văn pháp đắc quả. Thị danh dược thảo, các đắc tăng trưởng. Nhược chư Bồ Tát, trí huệ kiên cố, liễu đạt tam giới, cầu tối thượng thừa. Thị danh tiểu thụ, nhi đắc tăng trưởng. Phục hữu trụ Thiền, đắc thần thông lực, văn chư pháp Không, tâm đại hoan hỷ, phóng vô số quang, độ chư chúng sanh. Thị danh đại thụ, nhi đắc tăng trưởng.

            ()我雨法雨。充滿世間。一味之法。隨力修行。如彼叢林。藥草諸樹。隨其大小。漸增茂好。諸佛之法。常以一味。令諸世間。普得具足。漸次修行。皆得道果。聲聞緣覺。處於山林。住最後身。聞法得果。是名藥草。各得增長。若諸菩薩。智慧堅固。了達三界。求最上乘。是名小樹。而得增長。復有住禪。得神通力。聞諸法空。心大歡喜。放無數光。度諸眾生。是名大樹。而得增長。

            (Kinh: Ta tuôn cơn mưa pháp, sung măn khắp thế gian, là pháp chỉ một vị, họ tùy sức tu hành, như khu rừng rậm kia, dược thảo, các loại cây, tùy từng loại lớn, nhỏ, dần dần thêm tươi tốt. Pháp của các vị Phật, thường là dùng một vị, khiến cho các thế gian, trọn đều được đầy đủ, theo thứ tự tu dần, đều sẽ đắc đạo quả. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác, ở trong chốn núi rừng, trụ nơi thân cuối cùng, nghe pháp bèn đắc quả. Đó gọi là cỏ thuốc, mỗi loài được tăng trưởng. Nếu các vị Bồ Tát, trí huệ đều kiên cố, liễu đạt trọn tam giới, mong cầu tối thượng thừa. Đó gọi là cây nhỏ, mà cùng được tăng trưởng. Lại có người trụ Thiền, đạt được sức thần thông, nghe nói các pháp Không, tâm bèn đại hoan hỷ, tỏa vô số quang minh, hóa độ các chúng sanh. Đó gọi là cây to, mà cùng được tăng trưởng).

 

          Hai bài kệ đầu trùng tụng chung sự tăng trưởng. Sáu bài kệ rưỡi kế đó, trùng tụng riêng sự tăng trưởng [của từng loại chúng sanh]. Trong phần trùng tụng riêng, sáu câu kể từ “chư Phật chi pháp” (pháp của chư Phật), nói về sự tăng trưởng của nhân, thiên. Sáu câu kể từ chữ Thanh Văn trở đi, nói đến sự tăng trưởng của Nhị Thừa. “Trụ tối hậu thân” (trụ nơi thân cuối cùng) có hai nghĩa:

          - Một là Nhị Thừa nếu chẳng gặp Phật, chưa chắc đă là thân cuối cùng! Do được thấy Phật, trở thành thân cuối cùng; đó chính là ư nghĩa “tăng trưởng”.

          - Hai là Nhị Thừa đă trụ Hữu Dư Niết Bàn, gọi là “thân cuối cùng”. Nay được nghe pháp Đại Thừa, đạt được quả Đại Thừa, tức là nghĩa “tăng trưởng”.

          Kế đó, sáu câu kể từ “chư Bồ Tát” trở đi, nói về sự tăng trưởng của Thông Giáo, thấu hiểu pháp, trí nhạy bén; v́ thế gọi là “kiên cố”. Đoạn tam giới Hoặc, nên gọi là “liễu đạt”. Kế đó, hai bài kệ từ “phục hữu trụ Thiền” (lại có người trụ Thiền) trở đi, nói về sự tăng trưởng của Biệt Giáo. Thiền và thần thông chính là sức nhập Giả. Nghe các pháp Không, tâm đại hoan hỷ, tức là nghe Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Không, có thể tùy thuận quan sát. Lược đi chẳng trùng tụng sự tăng trưởng Lục Độ. Lục Độ là Quyền trong Quyền. Có giáo mà chẳng có người [tu tập giáo pháp ấy], lại chưa đoạn Hoặc, có thể xếp vào hàng nhân thiên. Phần thứ nhất, trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của “chẳng sai biệt mà sai biệt” đă xong.

 

5.1.2.2.2.3.1.3.2.2. Trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của “sai biệt mà chẳng sai biệt” (kinh văn nói chi tiết, c̣n trùng tụng nói đại lược)

 

          (Kinh) Như thị Ca Diếp! Phật sở thuyết pháp, thí như đại vân, dĩ nhất vị vũ, nhuận ư nhân hoa, các đắc thành thật. Ca Diếp đương tri, dĩ chư nhân duyên, chủng chủng thí dụ, khai thị Phật đạo, thị ngă phương tiện, chư Phật diệc nhiên. Kim vị nhữ đẳng, thuyết tối thật sự. Chư Thanh Văn chúng, giai phi diệt độ. Nhữ đẳng sở hành, thị Bồ Tát đạo, tiệm tiệm tu học, tất đương thành Phật.      ()如是迦葉。佛所說法。譬如大雲。以一味雨。潤於人華。各得成實。迦葉當知。以諸因緣。種種譬喻。開示佛道。是我方便。諸佛亦然。今為汝等。說最實事。諸聲聞眾。皆非滅度。汝等所行。是菩薩道。漸漸修學。悉當成佛。

          (Kinh: Như thế đó, Ca Diếp! Pháp do Phật đă nói, ví như vầng mây to, dùng trận mưa một vị, nhuần thấm các hoa người, khiến họ đều thành Phật. Ca Diếp hăy nên biết, vận dụng các nhân duyên, và các thứ thí dụ, để khai thị Phật đạo, phương tiện của ta, chư Phật cũng như thế. Nay ta v́ các ông, nói sự thật cuối cùng. Các vị Thanh Văn ấy, đều chẳng phải diệt độ. Những ǵ các ông hành, đều là đạo Bồ Tát, hăy tu học dần dần, thảy sẽ đều thành Phật).

 

          Sáu câu đầu nêu thí dụ phù hợp khít khao với ư nghĩa “chẳng sai biệt mà sai biệt, sai biệt tức là chẳng sai biệt”. Mưa một vị là chẳng sai biệt. “Nhuận ư nhân hoa” (nhuần thấm các loại hoa trong loài người) là nói tới bảy loại hoa thiện nhân (bảy loại phương tiện) sai biệt, mỗi loại đều được thành tựu Thật, Tứ Vi rốt ráo cùng trở về đại địa, sai biệt chính là chẳng sai biệt. Ba bài kệ rưỡi kế đó, kết lại [ư nghĩa] “Quyền Thật bất nhị. Dùng các nhân duyên, các loại thí dụ [để hiển thị] “ngay nơi Thật chính là Quyền. Khai thị Phật đạo, ngay nơi Quyền chính là Thật. “Kim vị nhữ đẳng, thuyết tối thật sự” (nay ta v́ các ông, nói sự thật cuối cùng) chính là khai hiển Thật, chẳng giống như Quyền đối với Thật trong Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Bát Nhă v.v… tức là Giáo Nhất. “Thanh Văn giai phi diệt độ” (Các Thanh Văn đều chẳng diệt độ) tức là Nhân Nhất. “Nhữ đẳng sở hành thị Bồ Tát đạo” (Những điều các ông hành chính là Bồ Tát đạo) tức Hạnh Nhất. “Tiệm tiệm tu học, tất đương thành Phật” (tu học dần dần, đều sẽ thành Phật): Tri kiến của Phật chính là Lư Nhất. Phần thứ ba, “Như Lai trần thuật sự thành tựu trong Thí Thuyết Châu” đă xong.

          Giải thích phẩm Dược Thảo Dụ đă xong. Tiếp theo đây, sẽ giải thích phẩm Thọ Kư.

 

6. Phẩm thứ sáu: Thọ Kư (Thọ kư phẩm đệ lục, 授記品第六)

 

            Âm tiếng Phạn là Ḥa Già La (Vyākāraṇa), phương này dịch là Thọ Kư (授記), cũng nói là Thọ Kư (受記), Thọ Quyết (受決), Thọ Biệt (受莂). Thọ () nghĩa là “trao cho”. Thọ () có nghĩa là “đạt được”. Kư () là ghi nhận sự việc. Quyết () là quyết định. Biệt () là liễu biệt (rành rẽ chắc chắn). Các kinh có thể đả phá thọ kư, như kinh Tịnh Danh nói: “Vị tùng Như sanh đắc thọ kư? Vị tùng Như diệt đắc thọ kư? Như vô sanh diệt, tắc tri vô kư” (Do Như sanh mà được thọ kư? Hay do Như diệt mà được thọ kư? Như chẳng có sanh diệt, cho nên biết là chẳng thọ kư). Kinh Tư Ích nói: “Nguyện bất văn thọ kư danh” (nguyện chẳng nghe thấy danh xưng thọ kư). Kinh Đại Phẩm [Bát Nhă] nói: “Thọ kư thị hư luận” (thọ kư là hư luận). Nay kinh này v́ sao [lại thọ kư?]

          Đáp: Nếu thấy có thọ kư và người được thọ kư, th́ cái Thấy ấy cần phải phá trừ. Nếu Bồ Tát thề được thọ kư, sự thọ kư ấy cần phải tương ứng với đường lối tu hành chung (đó là đáp theo cách hiểu thông thường). Lại nữa, Thế Đế th́ có thọ kư, Đệ Nhất Nghĩa th́ không (bốn giáo đều luận Nhị Đế, há nên dùng Chân để cật vấn Tục?) Lại nữa, khi dùng Tứ Tất Đàn để giải thích th́ có thọ kư. Như trong phần sau có nói (bốn giáo, mỗi giáo đều luận định Tứ Tất Đàn). Nay kinh này có năm ư:

          - Hoặc là thọ kư theo đường lối chung, như phần đầu phẩm Pháp Sư; hoặc thọ kư riêng biệt, như cuối phần tam châu (loại thứ nhất là Thông Biệt Kư).

          - Hoặc thọ kư theo chánh nhân như ngài Thường Bất Khinh [thọ kư mọi người đều thành Phật]. Hoặc thọ kư theo duyên nhân, như mười loại cúng dường được nói trong phẩm Pháp Sư. Hoặc thọ kư theo liễu nhân, như thọ kư cho người thuộc ba loại căn cơ. Thọ kư theo chánh nhân th́ rộng, [thọ kư theo] duyên nhân và liễu nhân th́ hẹp (loại thứ hai là Tam Nhân Kư, tức thọ kư theo ba loại nhân).

          - Hoặc thọ kư chậm, hoặc thọ kư nhanh (loại thứ ba là Nhanh Chậm. Chậm th́ như [thọ kư cho] Thanh Văn, nhanh th́ như [thọ kư cho] long nữ).

          - Hoặc thọ kư thành Phật, như kinh văn trong phẩm này. Hoặc thọ kư quả Bồ Tát, như trong phẩm Thường Bất Khinh, tuy không có tên kiếp và quốc độ nhất định, vẫn có thể coi là thọ kư (loại thứ tư là thầy tṛ trọ kư).

          - Lại c̣n có huyền kư, như trong phẩm Hóa Thành, thọ kư cho các đệ tử trong vị lai (loại thứ năm là thọ kư trong hiện tại hay vị lai).

          Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội nói bốn loại thọ kư, nay kinh này đều có đủ [các loại ấy]:

          - Chưa phát tâm đă được thọ kư, như trong phẩm Thường Bất Khinh. Phát tâm hiện tiền vô sanh, chính là sự thọ kư trong tam châu. Xét theo Tứ Tất Đàn, chư Phật vốn v́ một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong thế gian, khiến cho chúng sanh khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật. Nay đại sự đă được hiển lộ, đức Phật đă nói xong, chúng sanh đă nhập, thỏa thích bổn hoài của Phật, nguyện của chúng sanh đă măn, theo đúng pháp phải nên thọ kư. Như cha gặp con, há chẳng giao phó tài sản? Lại nữa, hành nhân có hạnh nguyện trong vô lượng đời và nguyện ở nơi đức Phật hiện tại. Kinh văn chép: “Kỳ bổn nguyện như thử, cố hoạch tư kư” (bổn nguyện của người ấy như thế, cho nên nay được thọ kư như vậy). Hai duyên ấy chính là v́ Thế Giới Tất Đàn mà được thọ kư (loại đầu là so sánh giữa căn cơ và ứng hiện; loại thứ hai chỉ xét theo căn cơ của chúng sanh).

          - Lại nữa, Nhị Thừa nghe kinh, đổi Tiểu pháp, tiến nhập Đại pháp, viên nhân đă trọn, nhân ắt chuốc quả. V́ thế, Như Lai thọ kư. Lại nữa, đại chúng khi ấy đều biết, phát nguyện v́ sanh thân, Pháp Thân, nội ngoại quyến thuộc, hoặc nguyện chỉ sanh về cơi ấy ḥng lợi ích chúng sanh. Hai loại này chính là do Vị Nhân Tất Đàn mà thọ kư (một là tự ḿnh sanh điều lành cho chính ḿnh, hai là có thể sanh điều thiện cho người khác).

          - Lại nữa, thọ kư cho Nhị Thừa, nhằm phá trừ [ư niệm] muốn thoái Đại nhập Tiểu của Bồ Tát. V́ sao? Nếu chắc chắn có Nhị Thừa, sẽ có thể lui sụt thành Tiểu Thừa. Nếu chẳng nhất định có Nhị Thừa, sao có thể lui sụt cho được? (Một là phá điều ác “muốn lui sụt thành Tiểu Thừa”). Lại c̣n phá ư niệm muốn phát tâm Nhị Thừa. Các vị ấy đă xả sở chứng, sao ta c̣n giữ lấy? (Điều thứ hai là phá điều ác “muốn phát tâm Tiểu Thừa”). Lại c̣n phá trừ những kẻ chưa thay đổi ư nguyện [hành tŕ] Tiểu Thừa, tức là thay đổi Tiểu pháp (điều thứ ba là thẳng thừng phá điều ác Tiểu Thừa). Lại c̣n đối với người sắp chứng Tiểu quả, khiến cho chẳng chứng (điều thứ tư là phá điều ác “muốn chứng Tiểu quả”). Bốn loại ấy chính là do Đối Trị Tất Đàn mà thọ kư.

          - Lại nữa, vô sanh hiện tiền, ắt do đă hiểu Thật, mở mang tri kiến của Phật chẳng sai lầm. V́ thế, bèn thọ kư. Lại nữa, hết thảy chúng sanh chỉ có chánh nhân, chẳng có duyên nhân. Nay Tiểu Thừa nghe kinh tín giải, duyên nhân và chánh nhân đều trọn đủ, mở mang tri kiến của Phật, cho nên được thọ kư. Hai loại này chính là v́ Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn mà thọ kư.

          Bốn loại thọ kư ấy đă thâu nhiếp trọn hết thảy các thứ thọ kư. Hạng trung căn nghe “khai tam, hiển nhất” trong hai châu Pháp Thuyết và Thí Thuyết, bèn lănh ngộ, thấu hiểu trọn đủ, [được nghe] Như Lai trần thuật sự thành tựu, tuy tự biết chính ḿnh sẽ thành Phật, nhưng chưa hiểu rơ thời và sự, nếu được lời thành thật của Phật thọ kư họ sẽ đắc cái quả ấy, kiếp số và quốc độ quyết định, hiểu rành rẽ [thời gian thành Phật] gần hay xa, họ sẽ hoan hỷ to lớn. Nay do được đức Phật thọ kư mà đặt tên [cho phẩm kinh này]; v́ thế gọi là phẩm Thọ Kư.

          Lại luận định chung th́ ghi nhớ chuyện trong cả mười pháp giới đều gọi là thọ kư. Nay chỉ thọ kư thành Phật. Lại nữa, Phật trong tứ giáo đều có thọ kư; nhưng nay chỉ nói về Viên Giáo. Lại c̣n có thọ kư cho Pháp Thân và Ứng Thân, nay chỉ nói đến Ứng Thân. Xét theo Bổn Tích, các vị đại đệ tử đă được thọ kư từ lâu, nay nơi Tích thị hiện được thọ kư lần đầu, nhằm dẫn khởi người thực hành quán tâm sẽ có thể quán tâm tánh chính là Không, Giả, Trung, liền được chư Phật thọ kư, và cũng có thể thọ kư cho hết thảy giống như ngài Thường Bất Khinh.

 

6.1. Thí Thuyết Châu, truyền trao thọ kư

6.1.1. Thọ kư cho bậc trung căn

6.1.1.1. Thọ kư cho ngài Đại Ca Diếp

6.1.1.1.1. Trường Hàng

6.1.1.1.1.1. Hạnh nhân

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn thuyết thị kệ dĩ, cáo chư đại chúng, xướng như thị ngôn: - Ngă thử đệ tử Ma Ha Ca Diếp, ư vị lai thế, đương đắc phụng cận tam bách vạn ức chư Phật Thế Tôn, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, quảng tuyên chư Phật vô lượng đại pháp.

          ()爾時世尊說是偈已。告諸大眾。唱如是言。我此弟子摩訶迦葉。於未來世。當得奉覲三百萬億諸佛世尊。供養恭敬尊重讚歎。廣宣諸佛無量大法。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ ấy xong, bảo các đại chúng, xướng lời như thế này: - Đệ tử Ma Ha Ca Diếp này của ta trong đời vị lai, sẽ được phụng sự, thân cận ba trăm vạn ức chư Phật Thế Tôn, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, rộng tuyên vô lượng đại pháp của chư Phật).

 

          Xét ra, khi đức Thế Tôn đă nhập diệt, ngài Ca Diếp liền bạch với đại chúng: “Như Lai xá-lợi phi ngă đẳng sự. Ngă đẳng sự giả, nghi ưng kết tập pháp tạng, vật linh chánh pháp tốc diệt” (Xá-lợi của Như Lai chẳng phải là chuyện của chúng ta. Chuyện của chúng ta là hăy nên kết tập pháp tạng, đừng để chánh pháp nhanh chóng bị diệt mất). Đấy là chứng cứ rơ ràng về sự tuyên dương rộng lớn đại pháp. Ngài truyền tâm ấn của Phật, làm Sơ Tổ của cơi Tây Trúc. Khổ tâm dường ấy, lại thân cận chừng ấy chư Phật rồi mới thị hiện thành Phật. Người thời nay vừa mới đạt được ánh sáng nho nhỏ liền muốn quở Phật, chửi tổ! Buồn thay! Sầu thay!

 

6.1.1.1.1.2. Đắc quả

 

          (Kinh) Ư tối hậu thân, đắc thành vi Phật, danh viết Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

          ()於最後身。得成為佛。名曰光明如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。

          (Kinh: Nơi thân cuối cùng, được thành Phật quả, tên là Quang Minh (Raśmiprabhāsa) Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).

 

          Nơi nhân, thân thường là khối quang minh tử kim viên măn, quả hiệu (danh hiệu khi đắc quả) là Quang Minh Như Lai, lại c̣n truyền tŕ đại pháp chiếu khắp hết thảy. V́ thế, hiệu là Quang Minh.

 

6.1.1.1.1.3. Kiếp số và tên quốc độ

 

          (Kinh) Quốc danh Quang Đức, kiếp danh Đại Trang Nghiêm.

          ()國名光德。劫名大莊嚴。

          (Kinh: Tên nước là Quang Đức (Avabhāsaprāpta), kiếp tên là Đại Trang Nghiêm - Mahāvyūha).

 

6.1.1.1.1.4. Thọ mạng

 

          (Kinh) Phật thọ thập nhị tiểu kiếp.

          ()佛壽十二小劫。

          (Kinh: Phật thọ mười hai tiểu kiếp).

 

6.1.1.1.1.5. Chánh Pháp, Tượng Pháp [trụ thế] bao lâu

 

          (Kinh) Chánh Pháp trụ thế nhị thập tiểu kiếp, Tượng Pháp diệc trụ nhị thập tiểu kiếp.

          ()正法住世二十小劫。像法亦住二十小劫。

          (Kinh: Chánh Pháp trụ thế hai mươi tiểu kiếp, Tượng Pháp cũng trụ hai mươi tiểu kiếp).

 

6.1.1.1.1.6. Quốc độ thanh tịnh

 

          (Kinh) Quốc giới nghiêm sức, vô chư uế ác, ngơa lịch, kinh cức, tiện lợi bất tịnh. Kỳ độ b́nh chánh, vô hữu cao hạ, khanh khảm đôi phụ, lưu ly vi địa, bảo thụ hàng liệt, hoàng kim vi thằng, dĩ giới đạo trắc. Tán chư bảo hoa, châu biến thanh tịnh. Kỳ quốc Bồ Tát, vô lượng thiên ức, chư Thanh Văn chúng, diệc phục vô số. Vô hữu ma sự. Tuy hữu ma, cập ma dân, giai hộ Phật pháp.

          ()國界嚴飾。無諸穢惡瓦礫荊棘便利不淨。其土平正。無有高下坑坎堆阜。琉璃為地。寶樹行列。黃金為繩。以界道側。散諸寶華。周徧清淨。其國菩薩。無量千億。諸聲聞眾。亦復無數。無有魔事。雖有魔及魔民。皆護佛法。

          (Kinh: Cơi nước được tô điểm trang nghiêm, không có các thứ nhơ ác, ngói, sỏi, gai góc, các thứ bài tiết chẳng sạch. Cơi ấy bằng phẳng, chẳng có cao, thấp, hầm hố, g̣, đống. Lưu ly làm đất, cây báu bày hàng, vàng ṛng làm dây để ngăn ranh giới bên đường. Rải các hoa báu, trọn khắp thanh tịnh. Bồ Tát trong cơi ấy vô lượng ngàn ức, các vị Thanh Văn cũng là vô số. Chẳng có ma sự. Tuy có ma và dân ma, nhưng đều hộ tŕ Phật pháp).

 

          Trong lúc tu nhân, thâm tâm hộ tŕ chánh pháp. V́ thế, cảm vời cơi nước thanh tịnh, chẳng có ma sự. Những điều khác dễ hiểu. Phần thứ nhất, văn Trường Hàng đă xong.

 

6.1.1.1.2. Trùng tụng

6.1.1.1.2.1. Trùng tụng do hành nhân mà đạt được quả

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: -Cáo chư tỳ-kheo, ngă dĩ Phật nhăn, kiến thị Ca Diếp, ư vị lai thế, quá vô số kiếp, đương đắc tác Phật, nhi ư lai thế, cúng dường phụng cận, tam bách vạn ức, chư Phật Thế Tôn, vị Phật trí huệ, tịnh tu phạm hạnh, cúng dường tối thượng, Nhị Túc Tôn dĩ, tu tập nhất thiết, vô thượng chi huệ, ư tối hậu thân, đắc thành vi Phật.

          ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。告諸比丘。我以佛眼。見是迦葉。於未來世。過無數劫。當得作佛。而於來世。供養奉覲。三百萬億。諸佛世尊。為佛智慧。淨修梵行。供養最上。二足尊已。修習一切。無上之慧。於最後身。得成為佛。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Bảo với các tỳ-kheo, ta nay dùng Phật nhăn, thấy ông Ca Diếp này, ở trong đời vị lai, trải qua vô số kiếp, sẽ được thành Phật quả, mà trong đời vị lai, cúng, phụng sự, thân cận, tới ba trăm vạn ức, các vị Phật Thế Tôn, v́ trí huệ của Phật, mà tịnh tu phạm hạnh, cúng dường đấng tối thượng, trọn đủ phước lẫn huệ, và tu tập hết thảy, trí huệ tột vô thượng, ở nơi thân cuối cùng, được thành tựu làm Phật).

 

6.1.1.1.2.2. Trùng tụng cơi nước thanh tịnh

 

          (Kinh) Kỳ độ thanh tịnh, lưu ly vi địa, đa chư bảo thụ, hàng liệt đạo trắc, kim thằng giới đạo, kiến giả hoan hỷ, thường xuất hảo hương, tán chúng danh hoa, chủng chủng kỳ diệu, dĩ vi trang nghiêm. Kỳ địa b́nh chánh, vô hữu khâu khanh, chư Bồ Tát chúng, bất khả xưng kế. Kỳ tâm điều nhu, đăi đại thần thông, phụng tŕ chư Phật, Đại Thừa kinh điển, chư Thanh Văn chúng, vô lậu hậu thân, pháp vương chi tử, diệc bất khả kế, năi dĩ thiên nhăn, bất năng sổ tri.

          ()其土清淨。琉璃為地。多諸寶樹。行列道側。金繩界道。見者歡喜。常出好香。散眾名華。種種奇妙。以為莊嚴。其地平正。無有丘坑。諸菩薩眾。不可稱計。其心調柔。逮大神通。奉持諸佛。大乘經典。諸聲聞眾。無漏後身。法王之子。亦不可計。乃以天眼。不能數知。

          (Kinh: Cơi nước ấy thanh tịnh, lưu ly dùng làm đất, có nhiều cây quư báu, xếp dọc theo bên đường, dùng dây vàng ngăn lối, người trông thấy hoan hỷ. Cây thường tỏa hương thơm, rải các thứ hoa quư, cùng các thứ kỳ diệu, được dùng để trang nghiêm. Cơi ấy đất bằng phẳng, chẳng có g̣, hầm hố. Có các vị Bồ Tát, chẳng thể tính kể được. Tâm điều phục, nhu thuận, đều đắc thần thông lớn, phụng tŕ các vị Phật, và kinh điển Đại Thừa. Các vị Thanh Văn chúng, thân cuối cùng vô lậu, là con đấng pháp vương, cũng chẳng thể tính đếm. Dẫu cho dùng thiên nhăn, chẳng thể đếm biết được).

 

6.1.1.1.2.3. Trùng tụng thọ mạng của Phật

 

          (Kinh) Kỳ Phật đương thọ, thập nhị tiểu kiếp.

          ()其佛當壽。十二小劫。

          (Kinh: Vị Phật ấy sẽ thọ, tới mười hai tiểu kiếp).

 

6.1.1.1.2.4. Trùng tụng Chánh Pháp và Tượng Pháp

 

          (Kinh) Chánh Pháp trụ thế, nhị thập tiểu kiếp, Tượng Pháp diệc trụ, nhị thập tiểu kiếp.

          ()正法住世。二十小劫。像法亦住。二十小劫。

          (Kinh: Chánh Pháp sẽ trụ thế, đến hai mươi tiểu kiếp. Tượng Pháp cũng trụ thế, tới hai mươi tiểu kiếp).

 

6.1.1.1.2.5. Tổng kết, lược đi không trùng tụng tên kiếp và tên quốc độ

 

          (Kinh) Quang Minh Thế Tôn, kỳ sự như thị.

          ()光明世尊。其事如是。

          (Kinh: Đức Quang Minh Thế Tôn, chuyện là như thế đó).

 

          Phần thứ nhất, thọ kư cho ngài Đại Ca Diếp đă xong.

 

6.1.1.2. Thọ kư cho ba vị c̣n lại

6.1.1.2.1. Thỉnh cầu thọ kư

6.1.1.2.1.1. Chánh thức thỉnh cầu

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Đại Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Ma Ha Ca Chiên Diên đẳng, giai tất tủng lật[14], nhất tâm hiệp chưởng, chiêm ngưỡng tôn nhan, mục bất tạm xả, tức cộng đồng thanh, nhi thuyết kệ ngôn: - Đại hùng mănh Thế Tôn, chư Thích chi pháp vương, ai mẫn ngă đẳng cố, nhi tứ Phật âm thanh.

          ()爾時大目犍連。須菩提。摩訶迦旃延等。皆悉悚慄。一心合掌。瞻仰尊顏。目不暫捨。卽共同聲而說偈言。大雄猛世尊。諸釋之法王。哀愍我等故。而賜佛音聲。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Đại Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Ma Ha Ca Chiên Diên v.v… thảy đều run sợ, một ḷng chắp tay, chiêm ngưỡng tôn nhan, mắt chẳng tạm rời, liền cùng nhau lên tiếng để nói kệ rằng: - Thế Tôn đại hùng mănh, pháp vương các Thích tử[15], do thương xót chúng con, ban âm thanh của Phật).

 

          “Tủng lật” (run sợ): Đổi từ Tiểu pháp, tiến nhập Đại pháp, khác nào thay da đổi xương. Đúng là một phen cảnh giới trời đất xoay chuyển!

 

6.1.1.2.1.2. Lập thí dụ

 

          (Kinh) Nhược tri ngă thâm tâm, kiến vị thọ kư giả, như dĩ cam lộ sái, trừ nhiệt đắc thanh lương. Như tùng cơ quốc lai, hốt ngộ đại vương thiện, tâm do hoài nghi cụ, vị cảm tức tiện thực. Nhược phục đắc vương giáo, nhiên hậu năi cảm thực.     

          ()若知我深心。見為授記者。如以甘露灑。除熱得清涼。如從饑國來。忽遇大王膳。心猶懷疑懼。未敢卽便食。若復得王教。然後乃敢食。

          (Kinh: Nếu biết thâm tâm con, xin hăy thọ kư cho, như dùng cam lộ rưới, trừ nóng, được mát mẻ. Như từ nước đói tới, bỗng gặp cỗ đại vương, vẫn ôm ḷng nghi sợ, bèn chưa dám ăn ngay. Nếu lại được vua truyền, sau đó mới dám ăn).

 

6.1.1.2.1.3. Đối ứng với pháp

 

          (Kinh) Ngă đẳng diệc như thị, mỗi duy Tiểu Thừa quá, bất tri đương vân hà, đắc Phật vô thượng huệ. Tuy văn Phật âm thanh, ngôn ngă đẳng tác Phật, tâm thượng hoài ưu cụ, như vị cảm tiện thực, nhược mông Phật thọ kư, nhĩ năi khoái an lạc.

          ()我等亦如是。每惟小乘過。不知當云何。得佛無上慧。雖聞佛音聲。言我等作佛。心尚懷憂懼。如未敢便食。若蒙佛授記。爾乃快安樂。

          (Kinh: Chúng con cũng như thế, thường nghĩ lỗi Tiểu Thừa, chẳng biết như thế nào, đắc Phật vô thượng huệ. Tuy nghe tiếng của Phật, nói chúng con thành Phật, vẫn ôm ḷng lo sợ, như chưa dám ăn ngay, nếu được Phật thọ kư, mới vui sướng, an lạc).

 

6.1.1.2.1.4. Kết lại lời thỉnh

 

          (Kinh) Đại hùng mănh Thế Tôn, thường dục an thế gian, nguyện tứ ngă đẳng kư, như cơ tu giáo thực.

          ()大雄猛世尊。常欲安世間。願賜我等記。如饑須教食。

          (Kinh: Thế Tôn đại hùng mănh, thường muốn yên thế gian, xin thọ kư cho con, như đói cần bảo ăn).

 

          Phần thứ nhất, “thỉnh cầu thọ kư” đă xong.

 

6.1.1.2.2. Thọ kư

6.1.1.2.2.1. Thọ kư cho Tu Bồ Đề

6.1.1.2.2.1.1. Trường Hàng

6.1.1.2.2.1.1.1. Hạnh nhân

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tri chư đại đệ tử tâm chi sở niệm, cáo chư tỳ-kheo: - Thị Tu Bồ Đề, ư đương lai thế, phụng cận tam bách vạn ức na-do-tha Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, thường tu phạm hạnh, cụ Bồ Tát đạo.

          ()爾時世尊。知諸大弟子心之所念。告諸比丘。是須菩提。於當來世。奉覲三百萬億那由他佛。供養恭敬尊重讚歎。常修梵行。具菩薩道。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn biết những điều suy nghĩ trong tâm của các vị đại đệ tử, bảo các tỳ-kheo: - Ông Tu Bồ Đề này trong đời tương lai, sẽ phụng sự, thân cận ba trăm vạn ức na-do-tha Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, thường tu phạm hạnh, trọn đủ Bồ Tát đạo).

 

6.1.1.2.2.1.1.2. Đắc quả

 

          (Kinh) Ư tối hậu thân, đắc thành vi Phật, hiệu viết Danh Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

          ()於最後身。得成為佛。號曰名相如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。

          (Kinh: Nơi thân cuối cùng, được trở thành Phật, hiệu là Danh Tướng (Yaśasketu)[16] Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).

 

          Nay tên là Không Sanh, đắc quả th́ có hiệu là Danh Tướng. Danh tướng vốn là Không, Không th́ sẽ trọn đủ hết thảy danh tướng, chẳng giống như khi thị hiện dấu tích quán Không trong nhà đá, chỉ ngộ lư Thiên Không.

 

6.1.1.2.2.1.1.3. Tên kiếp và quốc độ trang nghiêm

 

          (Kinh) Kiếp danh Hữu Bảo, quốc danh Bảo Sanh. Kỳ độ b́nh chánh, pha lê vi địa, bảo thụ trang nghiêm, vô chư khâu, khanh, sa, lịch, kinh cức, tiện lợi chi uế, bảo hoa phú địa, châu biến thanh tịnh. Kỳ độ nhân dân, giai xử bảo đài, trân diệu lâu các. Thanh Văn đệ tử vô lượng vô biên, toán số, thí dụ sở bất năng tri, chư Bồ Tát chúng, vô số thiên vạn ức na-do-tha.

          ()劫名有寶。國名寶生。其土平正。玻瓈為地。寶樹莊嚴。無諸丘坑沙礫荊棘便利之穢。寶華覆地。周徧清淨。其土人民。皆處寶臺。珍妙樓閣。聲聞弟子。無量無邊。算數譬喻所不能知。諸菩薩眾。無數千萬億那由他。

          (Kinh: Kiếp tên là Hữu Bảo (Ratnāvabhāsa), nước tên là Bảo Sanh (Ratnasaṃbhava). Cơi ấy bằng phẳng, pha lê làm đất, cây báu trang nghiêm, không có các g̣, hầm, cát, sỏi, gai góc, các chất bài tiết nhơ uế. Hoa báu phủ đất, trọn khắp thanh tịnh. Nhân dân trong cơi ấy đều ở trên đài báu, lầu, gác quư đẹp. Đệ tử Thanh Văn vô lượng, vô biên, [dùng] toán số, thí dụ [để tính kể] đều chẳng thể biết [được số lượng]. Các vị Bồ Tát vô số ngàn vạn ức na-do-tha).

 

6.1.1.2.2.1.1.4. Thọ mạng

 

          (Kinh) Phật thọ thập nhị tiểu kiếp.

          ()佛壽十二小劫。

          (Kinh: Phật thọ mười hai tiểu kiếp).

 

6.1.1.2.2.1.1.5. Chánh Pháp, Tượng Pháp

 

          (Kinh) Chánh Pháp trụ thế nhị thập tiểu kiếp, Tượng Pháp diệc trụ nhị thập tiểu kiếp. Kỳ Phật thường xử hư không, vị chúng thuyết pháp, độ thoát vô lượng Bồ Tát, cập Thanh Văn chúng.

          ()正法住世二十小劫。像法亦住二十小劫。其佛常處虛空為眾說法。度脫無量菩薩及聲聞眾。

          (Kinh: Chánh Pháp trụ thế hai mươi tiểu kiếp, Tượng Pháp cũng trụ thế hai mươi tiểu kiếp. Vị Phật ấy thường ở trên hư không, v́ đại chúng thuyết pháp, độ thoát vô lượng Bồ Tát và đại chúng Thanh Văn).

 

          Thường ở trên hư không, biểu thị Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Không. Phần Trường Hàng đă xong.

 

6.1.1.2.2.1.2. Trùng tụng

6.1.1.2.2.1.2.1. Răn hăy nghe

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa nhi thuyết kệ ngôn: - Chư tỳ-kheo chúng, kim cáo nhữ đẳng, giai đương nhất tâm, thính ngă sở thuyết.        

          ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。諸比丘眾。今告汝等。皆當一心。聽我所說。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Này các thầy tỳ-kheo, nay ta bảo các vị, hăy đều nên nhất tâm, nghe lời ta sẽ nói).

 

6.1.1.2.2.1.2.2. Trùng tụng hạnh nhân, đắc quả

 

          (Kinh) Ngă đại đệ tử, Tu Bồ Đề giả, đương đắc tác Phật, hiệu viết Danh Tướng, đương cúng vô số, vạn ức chư Phật, tùy Phật sở hành, tiệm cụ đại đạo, tối hậu thân đắc, tam thập nhị tướng, đoan chánh xu diệu, do như bảo sơn.

          ()我大弟子。須菩提者。當得作佛。號曰名相。當供無數。萬億諸佛。隨佛所行。漸具大道。最後身得。三十二相。端正姝妙。猶如寶山。

          (Kinh: Đại đệ tử của ta, là ông Tu Bồ Đề, sẽ được thành Phật quả, danh hiệu là Danh Tướng, sẽ cúng dường vô số, vạn ức các vị Phật, hành theo hạnh của Phật, dần dần trọn đại đạo, thân cuối cùng đạt được, đủ ba mươi hai tướng, đoan chánh đẹp nhiệm mầu, giống như ṭa núi báu).

 

6.1.1.2.2.1.2.3. Trùng tụng quốc độ thanh tịnh

 

          (Kinh) Kỳ Phật quốc độ, nghiêm tịnh đệ nhất, chúng sanh kiến giả, vô bất ái nhạo. Phật ư kỳ trung, độ vô lượng chúng. Kỳ Phật pháp trung, đa chư Bồ Tát, giai tất lợi căn, chuyển bất thoái luân. Bỉ quốc thường dĩ, Bồ Tát trang nghiêm. Chư Thanh Văn chúng, bất khả xưng số, giai đắc Tam Minh, cụ lục thần thông, trụ bát giải thoát, hữu đại oai đức. Kỳ Phật thuyết pháp, hiện ư vô lượng, thần thông biến hóa, bất khả tư nghị, chư thiên nhân dân, số như Hằng sa, giai cộng hiệp chưởng, thính thọ Phật ngữ.

          ()其佛國土。嚴淨第一。眾生見者。無不愛樂。佛於其中。度無量眾。其佛法中。多諸菩薩。皆悉利根。轉不退輪。彼國常以。菩薩莊嚴。諸聲聞眾。不可稱數。皆得三明。具六神通。住八解脫。有大威德。其佛說法。現於無量。神通變化。不可思議。諸天人民。數如恆沙。皆共合掌。聽受佛語。

          (Kinh: Cơi nước đức Phật ấy, trang nghiêm, thanh tịnh nhất, chúng sanh được trông thấy, không ai chẳng yêu thích. Phật ở trong cơi ấy, hóa độ vô lượng chúng. Trong Phật pháp của Ngài, có nhiều vị Bồ Tát, thảy đều là lợi căn, chuyển pháp luân bất thoái. Quốc độ ấy thường dùng, Bồ Tát để trang nghiêm. Các đệ tử Thanh Văn, chẳng thể tính kể được, đều đạt được Tam Minh, trọn đủ sáu thần thông, trụ trong tám giải thoát, đều có oai đức lớn. Đức Phật ấy thuyết pháp, hóa hiện ra vô lượng, các thần thông biến hóa, đều chẳng thể nghĩ bàn. Chư thiên và nhân dân, số như cát sông Hằng, đều cùng nhau chắp tay, nghe nhận lời Phật dạy).

 

6.1.1.2.2.1.2.4. Trùng tụng thọ mạng

 

          (Kinh) Kỳ Phật đương thọ, thập nhị tiểu kiếp.

          ()其佛當壽十二小劫。

          (Kinh: Vị Phật ấy sẽ thọ, đúng mười hai tiểu kiếp).

 

6.1.1.2.2.1.2.5. Trùng tụng Chánh Pháp, Tượng Pháp

 

          (Kinh) Chánh pháp trụ thế, nhị thập tiểu kiếp. Tượng Pháp diệc trụ, nhị thập tiểu kiếp.

          ()正法住世。二十小劫。像法亦住。二十小劫。

          (Kinh: Chánh Pháp trụ trong đời, suốt hai mươi tiểu kiếp. Tượng Pháp cũng trụ thế, cả hai mươi tiểu kiếp).

 

          Phần thứ nhất, thọ kư cho Tu Bồ Đề đă xong.

 

6.1.1.2.2.2. Thọ kư cho Ca Chiên Diên

6.1.1.2.2.2.1. Trường Hàng

6.1.1.2.2.2.1.1. Hạnh nhân

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo chư tỳ-kheo chúng: - Ngă kim ngữ nhữ, thị Đại Ca Chiên Diên, ư đương lai thế, dĩ chư cúng cụ, cúng dường, phụng sự bát thiên ức Phật, cung kính tôn trọng. Chư Phật diệt hậu, các khởi tháp miếu, cao thiên do-tuần. Tung quảng chánh đẳng, ngũ bách do-tuần. Dĩ kim, ngân, lưu ly, xa cừ, mă năo, chân châu, mai khôi, thất bảo hợp thành, chúng hoa, anh lạc, đồ hương, mạt hương, thiêu hương, tăng cái, tràng phan, cúng dường tháp miếu. Quá thị dĩ hậu, đương phục cúng dường nhị vạn ức Phật, diệc phục như thị. Cúng dường thị chư Phật dĩ, cụ Bồ Tát đạo.

          ()爾時世尊。復告諸比丘眾。我今語汝。是大迦旃延。於當來世。以諸供具。供養奉事八千億佛。恭敬尊重。諸佛滅後。各起塔廟。高千由旬。縱廣正等五百由旬。以金銀琉璃硨磲碼瑙真珠玫瑰七寶合成。眾華瓔珞。塗香。末香。燒香。繒葢幢幡。供養塔廟。過是已後。當復供養二萬億佛。亦復如是。供養是諸佛已。具菩薩道。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo các vị tỳ-kheo: - Ta nay bảo các ông, ông Đại Ca Chiên Diên này trong đời tương lai, dùng các vật cúng để cúng dường, phụng sự tám ngàn ức Phật, cung kính, tôn trọng. Sau khi chư Phật diệt độ, đều dựng tháp miếu, cao một ngàn do-tuần, ngang dọc [mỗi bề] vừa đúng năm trăm do-tuần. Dùng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mă năo, chân châu, mai khôi, bảy báu hợp thành, các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương bôi, hương bột, hương đốt, lọng lụa, tràng phan để cúng dường tháp miếu. Từ đó về sau, sẽ lại cúng dường hai vạn ức Phật, cũng giống như thế. Cúng dường các đức Phật ấy xong, trọn đủ Bồ Tát đạo).

 

6.1.1.2.2.2.1.2. Đắc quả

 

          (Kinh) Đương đắc tác Phật, hiệu viết Diêm Phù Na Đề Kim Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

          ()當得作佛。號曰閰浮那提金光如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。

          (Kinh: Sẽ được làm Phật, hiệu là Diêm Phù Na Đề Kim Quang (Jāmbūnadābhāsa)[17] Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).

 

6.1.1.2.2.2.1.3. Quốc độ thanh tịnh

 

          (Kinh) Kỳ độ b́nh chánh, pha lê vi địa, bảo thụ trang nghiêm, hoàng kim vi thằng, dĩ giới đạo trắc, diệu hoa phú địa, châu biến thanh tịnh, kiến giả hoan hỷ. Vô tứ ác đạo, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A Tu La đạo, đa hữu thiên nhân, chư Thanh Văn chúng, cập chư Bồ Tát, vô lượng vạn ức trang nghiêm kỳ quốc.

          ()其土平正。玻瓈為地。寶樹莊嚴。黃金為繩。以界道側。妙華覆地。周徧清淨見者歡喜。無四惡道。地獄。餓鬼。畜生。阿修羅道。多有天人。諸聲聞眾及諸菩薩。無量萬億莊嚴其國。

          (Kinh: Cơi ấy bằng phẳng, pha lê làm đất, cây báu trang nghiêm, vàng ṛng làm dây để ngăn lối bên đường. Hoa nhiệm mầu phủ đất, trọn khắp thanh tịnh, người trông thấy hoan hỷ. Chẳng có bốn ác đạo: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A Tu La đạo. Có nhiều trời, người, các vị Thanh Văn, và các vị Bồ Tát vô lượng vạn ức trang nghiêm cơi đó).

 

6.1.1.2.2.2.1.4. Thọ mạng

         

          (Kinh) Phật thọ thập nhị tiểu kiếp.

          ()佛壽十二小劫。

          (Kinh: Phật thọ mười hai tiểu kiếp).

 

6.1.1.2.2.2.1.5. Chánh Pháp, Tượng Pháp

 

          (Kinh) Chánh Pháp trụ thế nhị thập tiểu kiếp, Tượng Pháp diệc trụ nhị thập tiểu kiếp.

          ()正法住世二十小劫。像法亦住二十小劫。

          (Kinh: Chánh Pháp trụ thế hai mươi tiểu kiếp, Tượng Pháp cũng trụ thế hai mươi tiểu kiếp).

 

          Phần Trường Hàng đă xong.

 

6.1.1.2.2.2.2. Trùng tụng

6.1.1.2.2.2.2.1. Khuyên răn lắng nghe

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Chư tỳ-kheo chúng, giai nhất tâm thính, như ngă sở thuyết, chân thật vô dị.

            ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。諸比丘眾。皆一心聽。如我所說。真實無異。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Này các vị tỳ-kheo, đều nên nhất tâm nghe, như lời ta đă nói, chân thật, chẳng khác lạ).

 

6.1.1.2.2.2.2.2. Trùng tụng hạnh nhân

 

          (Kinh) Thị Ca Chiên Diên, đương dĩ chủng chủng, diệu hảo cúng cụ, cúng dường chư Phật. Chư Phật diệt hậu, khởi thất bảo tháp, diệc dĩ hoa hương, cúng dường xá-lợi.

          ()是迦旃延。當以種種。妙好供具。供養諸佛。諸佛滅後。起七寶塔。亦以華香。供養舍利。

          (Kinh: Ông Ca Chiên Diên này, sẽ dùng đủ các loại, vật cúng dường quư đẹp, để cúng dường chư Phật. Chư Phật nhập diệt rồi, sẽ dựng tháp bảy báu, cũng lại dùng hoa, hương, để cúng dường xá-lợi).

 

6.1.1.2.2.2.2.3. Trùng tụng đắc quả

 

          (Kinh) Kỳ tối hậu thân, đắc Phật trí huệ, thành Đẳng Chánh Giác.

          ()其最後身。得佛智慧。成等正覺。

          (Kinh: Nơi thân cuối cùng ấy, sẽ đắc trí huệ Phật, trở thành Đẳng Chánh Giác).

         

6.1.1.2.2.2.2.4. Trùng tụng quốc độ, lược đi không trùng tụng thọ mạng, Chánh Pháp, Tượng Pháp

 

          (Kinh) Quốc độ thanh tịnh, độ thoát vô lượng, vạn ức chúng sanh, giai vi thập phương, chi sở cúng dường. Phật chi quang minh, vô năng thắng giả. Kỳ Phật hiệu viết, Diêm Phù Kim Quang, Bồ Tát, Thanh Văn, đoạn nhất thiết hữu, vô lượng, vô số, trang nghiêm kỳ quốc.

          ()國土清淨。度脫無量。萬億眾生。皆為十方。之所供養。佛之光明。無能勝者。其佛號曰。閻浮金光。菩薩聲聞。斷一切有。無量無數。莊嚴其國。

          (Kinh: Cơi nước ấy thanh tịnh, Phật độ thoát vô lượng, vạn ức các chúng sanh, được mười phương cúng dường. Quang minh của Phật ấy, không ai hơn được nổi. Danh hiệu của Phật ấy, là Diêm Phù Kim Quang, Bồ Tát và Thanh Văn, đoạn trừ hết thảy hữu, vô lượng, nhiều vô số, để trang nghiêm cơi ấy).

 

          Phần thứ hai, thọ kư cho ngài Ca Chiên Diên đă xong.

 

6.1.1.2.2.3. Thọ kư ngài Mục Kiền Liên

6.1.1.2.2.3.1. Trường hàng

6.1.1.2.2.3.1.1. Hạnh nhân

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo đại chúng: - Ngă kim ngữ nhữ, thị Đại Mục Kiền Liên, đương dĩ chủng chủng cúng cụ, cúng dường bát thiên chư Phật, cung kính, tôn trọng. Chư Phật diệt hậu, các khởi tháp miếu, cao thiên do-tuần. Tung quảng chánh đẳng ngũ bách do-tuần. Dĩ kim, ngân, lưu ly, xa cừ, mă năo, chân châu, mai khôi, thất bảo hợp thành, chúng hoa, anh lạc, đồ hương, mạt hương, thiêu hương, tăng cái, tràng phan, dĩ dụng cúng dường. Quá thị dĩ hậu, đương phục cúng dường nhị bách vạn ức chư Phật, diệc phục như thị.

          ()爾時世尊。復告大眾。我今語汝。是大目犍連。當以種種供具。供養八千諸佛。恭敬尊重。諸佛滅後。各起塔廟。高千由旬。縱廣正等五百由旬。以金銀琉璃硨磲碼瑙真珠玫瑰七寶合成。眾華瓔珞。塗香。末香。燒香。繒葢幢幡。以用供養。過是已後。當復供養二百萬億諸佛。亦復如是。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo đại chúng: - Ta nay bảo các vị, ông Đại Mục Kiền Liên đây sẽ dùng các thứ vật cúng để cúng dường tám ngàn vị Phật, cung kính, tôn trọng. Sau khi chư Phật diệt độ, đều dựng tháp miếu, cao một ngàn do-tuần. Ngang dọc mỗi bề đều vừa đúng năm trăm do-tuần. Dùng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mă năo, chân châu, mai khôi, bảy báu hợp thành, các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương bôi, hương bột, hương đốt, lọng lụa, tràng, phan, dùng để cúng dường. Sau đó trở đi, sẽ lại cúng dường hai trăm vạn ức chư Phật cũng giống như thế).

 

6.1.1.2.2.3.1.2. Đắc quả

 

          (Kinh) Đương đắc thành Phật, hiệu viết Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

          ()當得成佛。號曰多摩羅跋旃檀香如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。

          (Kinh: Sẽ được thành Phật, hiệu là Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Như Lai (Tamālapatracandanagandha)[18], Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).

 

6.1.1.2.2.3.1.3. Tên kiếp và quốc độ

 

          (Kinh) Kiếp danh Hỷ Măn, quốc danh Ư Lạc. Kỳ độ b́nh chánh, pha lê vi địa, bảo thụ trang nghiêm, tán chân châu hoa, châu biến thanh tịnh, kiến giả hoan hỷ, đa chư thiên nhân, Bồ Tát, Thanh Văn, kỳ số vô lượng.

          ()劫名喜滿。國名意樂。其土平正。玻瓈為地。寶樹莊嚴。散真珠華。周徧清淨。見者歡喜。多諸天人。菩薩聲聞。其數無量。

          (Kinh: Kiếp tên là Hỷ Măn (Ratiprapūrṇa), cơi nước tên Ư Lạc (Manobhirāma)[19]. Cơi đất ấy bằng phẳng, pha lê làm đất, cây báu trang nghiêm, rải các hoa bằng chân châu, trọn khắp thanh tịnh, người trông thấy hoan hỷ, có nhiều vị trời, người, Bồ Tát, Thanh Văn, số đến vô lượng).

 

6.1.1.2.2.3.1.4. Thọ mạng

 

          (Kinh) Phật thọ nhị thập tứ tiểu kiếp.

          ()佛壽二十四小劫。

          (Kinh: Phật thọ hai mươi bốn tiểu kiếp).

 

6.1.1.2.2.3.1.5. Chánh Pháp, Tượng Pháp

 

          (Kinh) Chánh Pháp trụ thế tứ thập tiểu kiếp, Tượng Pháp diệc trụ tứ thập tiểu kiếp.

          ()正法住世四十小劫。像法亦住四十小劫。

          (Kinh: Chánh Pháp trụ thế bốn mươi tiểu kiếp, Tượng Pháp cũng trụ thế bốn mươi tiểu kiếp).

 

          Phần Trường Hàng đă xong.

 

6.1.1.2.2.3.2. Trùng tụng

6.1.1.2.2.3.2.1. Trùng tụng hạnh nhân

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Ngă thử đệ tử, Đại Mục Kiền Liên, xả thị thân dĩ, đắc kiến bát thiên, nhị bách vạn ức, chư Phật Thế Tôn. Vị Phật đạo cố, cúng dường, cung kính, ư chư Phật sở, thường tu phạm hạnh, ư vô lượng kiếp, phụng tŕ Phật pháp, chư Phật diệt hậu, khởi thất bảo tháp, trường biểu kim sát[20], hoa, hương, kỹ nhạc, nhi dĩ cúng dường, chư Phật tháp miếu.

          ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。我此弟子。大目犍連。捨是身已。得見八千。二百萬億。諸佛世尊。為佛道故。供養恭敬。於諸佛所。常修梵行。於無量劫。奉持佛法。諸佛滅後。起七寶塔。長表金剎。華香伎樂。而以供養。諸佛塔廟。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa ấy, bèn nói kệ rằng: - Đệ tử này của ta, là Đại Mục Kiền Liên, xả tấm thân này rồi, sẽ được thấy tám ngàn, và hai trăm vạn ức, các đức Phật Thế Tôn. Do v́ đắc Phật đạo, bèn cúng dường, cung kính, ở nơi các đức Phật, thường tu tập phạm hạnh, trong suốt vô lượng kiếp, phụng tŕ pháp của Phật. Chư Phật diệt độ rồi, đều dựng tháp bảy báu, tháp vàng hiển chí đức, dùng hoa, hương, kỹ nhạc, để thực hiện cúng dường, tháp miếu của chư Phật).

 

          “Sát” nói đầy đủ là Sát-ma (Ksamā), phương này dịch là Thổ Điền. Dùng trụ để biểu thị nơi tháp, ḥng tỏ rơ chỗ cư trụ (ư nói: Chỗ có xá-lợi của Phật an trụ).

 

6.1.1.2.2.3.2.2. Trùng tụng đắc quả và tên của quốc độ

 

          (Kinh) Tiệm tiệm cụ túc, Bồ Tát đạo dĩ, ư Ư Lạc quốc, nhi đắc tác Phật, hiệu Đa Ma La, Chiên Đàn chi Hương.

          ()漸漸具足。菩薩道已。於意樂國。而得作佛。號多摩羅。旃檀之香。

          (Kinh: Sẽ dần dần trọn đủ, hành Bồ Tát đạo rồi, bèn trong nước Ư Lạc, được thành tựu Phật quả, hiệu là Đa Ma La Bạt Chiên Hương Phật).

 

6.1.1.2.2.3.2.3. Trùng tụng thọ mạng

 

          (Kinh) Kỳ Phật thọ mạng, nhị thập tứ kiếp.

          ()其佛壽命。二十四劫。

          (Kinh: Thọ mạng của Phật ấy, là hai mươi bốn kiếp).

 

6.1.1.2.2.3.2.4. Trùng tụng quốc độ thanh tịnh

 

          (Kinh) Thường vị thiên nhân, diễn thuyết Phật đạo, Thanh Văn vô lượng, như Hằng hà sa, Tam Minh, lục thông, hữu đại oai đức, Bồ Tát vô số, chí cố tinh tấn, ư Phật trí huệ, giai bất thoái chuyển.

          ()常為天人。演說佛道。聲聞無量。如恆河沙。三明六通。有大威德。菩薩無數。志固精進。於佛智慧。皆不退轉。

          (Kinh: Thường v́ các trời, người, mà diễn nói Phật đạo, hàng Thanh Văn vô lượng, số như cát sông Hằng, đắc Tam Minh, lục thông, đều có oai đức lớn. Bồ Tát nhiều vô số, chí kiên cố tinh tấn, đối với trí huệ Phật, đều đắc bất thoái chuyển).

 

6.1.1.2.2.3.2.5. Trùng tụng Chánh Pháp, Tượng Pháp

         

          (Kinh) Phật diệt độ hậu, Chánh Pháp đương trụ, tứ thập tiểu kiếp, Tượng Pháp diệc nhĩ.

          ()佛滅度後。正法當住。四十小劫。像法亦爾。

          (Kinh: Sau khi Phật diệt độ, Chánh Pháp sẽ trụ thế, tới bốn mươi tiểu kiếp, Tượng Pháp cũng như vậy).

 

          Phần thứ nhất, “thọ kư cho bậc trung căn” đă xong.

 

6.2. Hứa khả sẽ nói nhân duyên túc thế của hàng hạ căn

 

          (Kinh) Ngă chư đệ tử, oai đức cụ túc. Kỳ số ngũ bách, giai đương thọ kư, ư vị lai thế, hàm đắc thành Phật, ngă cập nhữ đẳng, túc thế nhân duyên. Ngô kim đương thuyết, nhữ đẳng thiện thính.

          ()我諸弟子。威德具足。其數五百。皆當授記。於未來世。咸得成佛。我及汝等。宿世因緣。吾今當說。汝等善聽。

          (Kinh: Các đệ tử của ta, oai đức đă trọn đủ, số lượng tới năm trăm, ta sẽ đều thọ kư: Họ trong đời vị lai, đều sẽ được thành Phật. Nhân duyên trong đời trước, của ta và các ông, ta nay sẽ nói ra, các ông hăy khéo nghe).

 

          Hạ căn đă nghe Pháp Thuyết Châu và Thí Thuyết Châu, lại thấy thượng căn và trung căn được thọ kư, sợ họ vẫn ngờ vực chính ḿnh chẳng được thọ kư, sanh ḷng hổ thẹn sâu xa. V́ thế, sáu câu đầu là [đức Phật] hứa khả thọ kư chung. Bốn câu kế đó, hứa khả sẽ nói duyên trong đời trước, làm như thế để dẫn khởi họ tiến nhập. Phần thứ hai, Thí Thuyết Châu đă xong.

          Giải thích phẩm Thọ Kư xong, kế đó, sẽ giải thích phẩm Hóa Thành Dụ.

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 7 hết

 



[1] Ngũ Tạng: Danh xưng tổng quát chỉ các cơ quan nội tạng chủ yếu trong thân thể; nói riêng th́ như trong thiên Ngũ Tạng Biệt Luận của sách Tố Vấn đề xướng, ngũ tạng bao gồm: gan, tim, tỳ, phổi, thận (nếu kể cả màng bao bọc quả tim th́ sẽ thành lục tạng).

[2] Tất Đàm (Siddhāṃ có nghĩa là “thành tựu” hay “hoàn mỹ”, c̣n gọi là Siddhāmātṛkā). Đây là một loại văn tự cổ của Ấn Độ, thường được người Hoa gọi là Phạm Thư hay Phạm Tự, tức là một loại văn tự cổ để ghi chép ngôn ngữ Sankrit (Phạn ngữ) từ 600 năm trước Công Nguyên cho đến năm 1200. Các nhà nghiên cứu cho rằng Tất Đàm phát triển từ bộ chữ Gupta Brahmi, và được sử dụng trong thời kỳ vương triều Cấp Đa (Gupta) của Ấn Độ cổ. Hiện thời, Tất Đàm vẫn chủ yếu sử dụng trong các văn bản Mật giáo để ghi chép các bài thần chú hay các chủng tự (seed syllable) của các bài đà ra ni. Tất Đàm chính là gốc của loại văn tự được sử dụng để ghi chép các ngôn ngữ Assame, Bengali, Tirhuta, Odia, và tiếng Nepali trong hiện thời.  

[3] Gọi là “ngũ thời chuyên biệt” v́ xét theo độn căn chúng sanh, phải trải qua khắp năm thời để dẫn dụ dần dần ḥng chứng nhập Nhất Thừa, chứ đối với bậc lợi căn, vừa nghe liền chứng nhập Chân Đế, sẽ chẳng c̣n có thời nào khác biệt nữa.

[4] Quả đầu (果頭): Quả vị tột bậc trong mỗi giáo th́ được gọi là “quả đầu”. Diệu Giác chính là Phật quả.

[5] Thân Phật có vô lượng tướng hảo, vô lượng tùy h́nh hảo, vô lượng phước đức trang nghiêm, không ǵ có thể sánh ví, suy lường được nên nói là “thân vân” (vầng mây thân thể, hoặc thân rộng lớn như mây).

[6] Đức Phật dùng âm thanh để thuyết pháp, cho nên giáo pháp của Ngài c̣n gọi là “thanh giáo”.

[7] Tam Bất Hộ (Trīni-Tathāgatasyāraksyāni) tức là thân bất hộ, ngữ bất hộ, và ư bất hộ. Tức là tam nghiệp thân, khẩu, ư của Như Lai vốn sẵn thanh tịnh, không lầm lỗi, chẳng cần phải ngăn ngừa, bảo vệ. Đôi khi c̣n thêm Mạng Bất Hộ, trở thành Tứ Bất Hộ (tức là thọ mạng của Phật chẳng ai có thể xâm đoạt, trừ khi v́ bổn nguyện từ bi giảm bớt tuổi thọ để tạo dư phước cho chúng sanh, như Phật Thích Ca giảm thọ hai mươi năm để tạo phước cho chúng sanh trong đời vị lai).

[8] “Phú” ở đây là ngăn chướng thánh đạo, “vô kư” là chẳng thiện chẳng ác. Như vậy, “vô phú vô kư” tức là pháp chẳng thiện chẳng ác, chẳng có tác dụng gây ngăn chướng thánh đạo.

[9] Đây là một khái niệm xuất phát từ tác phẩm Kim Quang Kinh Văn Cú Kư (do ngài Tri Lễ biên soạn vào đời Tống). Có thể hiểu đơn giản Tứ Vi (四微) chính là các phần tử cực vi của Sắc, Hương, Vị và Xúc. Bốn thứ này chính là nguyên tố của Sắc pháp. Do nương vào chúng mà h́nh thành Tứ Đại (Địa, Thủy, Hỏa, Phong).

[10] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Theo chiều dọc, chẳng có ngằn mé, đó là Thâm. Theo chiều ngang, chẳng có giới hạn, đó là Viễn. Chẳng nói là Mặc, nhanh chóng hướng đến là Vụ. Pháp Hoa là lẽ bí yếu của đức Phật, Ngài im lặng hơn bốn mươi năm, chẳng nói ra lẽ bí yếu ấy; cho nên nói là cửu mặc tư yếu, bất vụ tốc thuyết”.

[11] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Đức Phật đă phá hai mươi lăm Hữu, vượt thoát sanh tử, thuộc địa vị pháp vương. V́ thế gọi là ‘phá Hữu pháp vương’. Nói là Hữu v́ chúng sanh chấp Có, đức Phật dùng Không để phá. Pháp Hoa Kinh Sớ nói ‘phá hết thảy các pháp có sở đắc, cho nên gọi là phá Hữu’. Như nói Nhất Thừa, sẽ phá các pháp sở đắc nơi tam thừa. Nói ‘chẳng phải ba, chẳng phải một’ nhằm phá chấp trước pháp sở đắc nơi Nhất Thừa”.

[12] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Riêng vượt xa chín pháp giới là Tôn, phàm lẫn thánh cùng kính ngưỡng là Trọng”.

[13] Ca Diếp đồng tử chính là Ca Diếp Bồ Tát, là một vị Bồ Tát trong pháp hội Đại Bát Niết Bàn. Những lời vấn đáp giữa Ngài và đức Phật được chép thành phẩm Ca Diếp Bồ Tát trong kinh Đại Bát Niết Bàn. Vị này không phải là ngài Ma Ha Ca Diếp, v́ kinh Đại Bát Niết Bàn chép rơ: sau khi đức Phật đă nhập diệt, các đệ tử đă đặt kim thân của đức Phật vào kim quan xong, đậy nắp lại, ngài Ma Ha Ca Diếp đang nhập tam-muội tại núi Kỳ Xà Quật, bỗng tim nhảy, thân rung, liền xuất Định, thấy núi lẫn cây cối đều chấn động, biết đức Như Lai đă nhập Niết Bàn. Ngài than thở, do ḷng kính trọng, chẳng dám dùng thần thông, dẫn năm trăm tỳ-kheo đi bộ bảy ngày mới về đến Câu Thi Na. Đức Phật v́ Ngài hiện thần lực, kim quan mở tung nắp, ngàn bức bạch điệp bọc kim thân đều mở tung ra. Ngài bèn dùng hương thủy tắm rửa kim thân của Phật, dùng bông đâu la miên mới bao phủ thân Phật, dùng một ngàn bức bạch điệp mới bọc thân Phật, chủ tŕ lễ trà-tỳ.

[14] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Tủng Lật là tướng mạo kinh sợ, hoảng hốt. Ba vị này tự cho rằng ḿnh đă hiểu Đại Thừa, nhưng chưa được thọ kư, rất sợ ḿnh chưa hiểu mà nói là đă hiểu, đọa vào tăng thượng mạn. V́ thế, run sợ bất an”.

[15] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Trong những người họ Thích, chỉ riêng đức Phật là pháp vương, cho nên nói [Phật] là chư Thích chi pháp vương”.

[16] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Ngài Tu Bồ Đề giải Không đệ nhất, liễu đạt hết thảy các pháp trọn chẳng phải là thật sự có, chỉ là tướng giả danh. V́ thế, Ngài thành Phật, lập hiệu là Danh Tướng”.

[17] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Diêm Phù là tên cây, Na Đề là sông. Dưới gốc cây Diêm Phù có sông, gọi là Diêm Phù Na Đề. Trong sông sanh ra vàng, sắc vàng bất biến, ví như Phật Tánh. Kim quang tối thắng, ví như Phật trí. V́ thế, Phật có hiệu là Diêm Phù Na Đề Kim Quang”.

[18] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Đa Ma La Bạt được phương này dịch là Tánh Vô Cấu Hiền, chính là từ ngữ để h́nh dung phẩm đức của Chiên Đàn Hương, Phật Tánh vô cấu, diệu dụng như hương. Cùng nêu lên hai thứ Pháp và Dụ để lập danh hiệu”.

[19] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Trong kiếp ấy được gặp Phật, nên gọi là Hỷ Măn. Quốc độ thanh tịnh, nên gọi là Ư Lạc”.

[20] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Sát tức là tháp thờ Phật, cơi này (Trung Hoa) dịch là Thổ Điền, Quốc, hoặc Xứ. Tháp là nơi thờ phụng xá-lợi. Trên đỉnh tháp thường có trụ bằng vàng, cho nên tháp được gọi là Kim Sát. Tháp cao một ngàn do-tuần, biểu thị phẩm đức tột cùng của Phật, nên gọi là trường biểu”.