Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 8

Đất Cổ Ngô, Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật

妙法蓮華經綸貫會義

古吳後學蕅益智旭述

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

7. Phẩm thứ bảy: Hóa Thành Dụ (Hóa Thành Dụ phẩm đệ thất, 化城喻品第七)

 

          “Hóa” là do thần lực tạo thành. Do bởi thần lực, đang là không bỗng có, bèn gọi là Hóa. Ngăn ngừa sai trái, chế ngự kẻ địch, th́ gọi là Thành. Ví như Niết Bàn của Nhị Thừa (thành) do Quyền trí gây tạo (hóa). Do sức của Quyền trí, tuy là không mà nói là có. Dùng giáo là Hóa; ngăn ngừa, chế ngự Kiến Tư th́ gọi là Niết Bàn, vừa mới nghỉ ngơi [nơi Quyền], bèn dẫn nhập [tiến vào Thật] (Tam Tạng là mới vừa nghỉ ngơi; [giáo pháp thuộc] hai thứ tô (sanh tô và thục tô) [trong ngũ vị, tức Phương Đẳng và Bát Nhă] là dẫn khởi, Pháp Hoa là “nhập”). Chưa rốt ráo Thật, (do hóa) bèn nói là “diệt độ”. “Thành” là do Quyền giả lập bày, v́ thế nói là “hóa thành” (cái thành được biến hóa ra). Chữ Dụ th́ như đă giải thích trong phần trước. Đấy là giải thích [tên phẩm] theo nhân duyên (Nếu nói theo căn cơ, là Không mà bỗng thấy. Thấy rồi sanh hoan hỷ, tức là Thế Giới Ích (Thế Giới Tất Đàn). Được dự vào địa vị “tạm nghỉ” tức là Vị Nhân Ích (Vị Nhân Tất Đàn). Ngăn ngừa sai trái, chế ngự kẻ địch, tức là Đối Trị Ích (Đối Trị Tất Đàn). Nói “diệt độ”, tức là Đệ Nhất Nghĩa Ích (Đệ Nhất Tất Đàn). Nếu nói theo sự ứng hóa, quyền biến lập ra cái thành ấy, tức là “thế giới hóa”. Sanh ra điều thiện nhỏ, chính là “vị nhân hóa”. Lại c̣n trừ bỏ Kiến Tư, tức là “đối trị hóa”. Rốt cuộc dẫn vào Đại Thừa, tức là “Đệ Nhất Nghĩa hóa”).

          Xét theo giáo, Tam Tạng đối với Niết Bàn sanh ư tưởng an ổn, sanh ư tưởng diệt độ. Nhị Thừa trong Thông Giáo giống như [Nhị Thừa trong Tam Tạng]. Bồ Tát chẳng vậy! Thích Luận viết: “Như cha đi qua chỗ hiểm nghèo, một chân đă bước vào thành, chân kia c̣n ở ngoài cửa. Do nhớ đến con, từ thành vào chỗ hiểm. Do thề nâng đỡ những kẻ c̣n tập khí thừa sót mà vào sanh tử, nhưng chẳng coi Không là chứng”. Biệt Giáo chẳng nói “thành như hóa”. Dùng thành để pḥng ngự nguy hiểm, từ cửa thành mà đi vượt qua, coi thành như phương tiện để đoạn Kiến Tư Hoặc, chẳng nói đó là tột cùng! Viên Giáo biết chẳng có nhân tố gây bệnh (phiền năo), cũng chẳng cần tới thành. V́ thế nói là “hóa thành”. Ở đây, nói theo ư nghĩa trong Viên Giáo. V́ thế, tựa đề của phẩm này là Hóa Thành Dụ Phẩm (Viên Giáo nói “hóa” th́ trước đó đă bài xích, phủ định, chỉ nói là “chẳng kham”, cũng chưa từng nói “Niết Bàn là hóa”. V́ thế, cho đến giáo pháp hiện thời (giáo pháp trong kinh Pháp Hoa), [hàng Thanh Văn] dấy động chấp trước, bèn khai Quyền mới nói là “hóa”. Cho đến khi hiển Thật, th́ “hóa” trở thành chân, chính là chỗ có của báu” (bảo sở). V́ thế biết: Tạng Giáo và Thông Giáo nói “cùng cực, chẳng phải là hóa”; Biệt Giáo th́ “chẳng phải cùng cực, chẳng phải là hóa”. Viên Giáo th́ “chẳng phải cực là hóa”, mà cũng có thể “vừa là cực vừa là hóa”, mà cũng có thể “là cực, chẳng phải hóa”, tuy có cùng cách nói với Tạng Giáo và Thông Giáo, nhưng ư nghĩa khác biệt. Nay nói theo ư trong Viên Giáo, cũng là do phá trừ sự so đo, cho nên nói là “hóa”. Nếu đă khai hiển, sẽ không ǵ chẳng phải là chân thật).

          Xét theo Bổn Tích, nếu nói theo căn cơ th́ phải nên nói: Bổn là trụ trong thành Tam Đức, Tích th́ vào trong hóa thành. Nếu nói theo sự ứng hiện, sẽ là thị hiện dấu tích để thuyết pháp, hóa độ.

          Xét theo quán tâm, quán “các pháp sanh bởi nhân duyên chính là Không” tức là “nhập hóa thành”. Nhân duyên chính là Giả, tức là “xuất hóa thành”. Nhân duyên tức Trung, chính là “trở về chỗ có của báu”. Lại nữa, quán Không tức là Trung, chính là hiểu rơ “hóa mà chẳng phải là hóa, ngay nơi Quyền chính là Thật”. Lại nữa, đối với hóa thành và bảo sở (chỗ có của báu), nếu luận định chung theo Lục Tức: Tâm tánh vốn là Không, chẳng lúc nào không phải là Không. Đó là Lư Tức hóa thành. Tâm tánh vốn là Trung, không lúc nào chẳng phải là Trung. Đó là Lư Tức bảo sở. Nghe lư tánh ấy, có thể sanh khởi tín giải. Đó là Danh Tự hóa thành và [Danh Tự] bảo sở. Chế phục trọn vẹn ngũ trụ, tức là Quán Hạnh hóa thành và [Quán Hạnh] bảo sở. Cho đến Cứu Cánh [hóa thành và bảo sở], cứ phỏng theo đó sẽ biết.

          Hỏi: Phẩm này nói về chuyện nhân duyên, hạ căn đắc ngộ, đáng lẽ phải gọi là phẩm Túc Thế chứ?

          Đáp: Phần đầu của phẩm này nói rộng về nhân duyên, đến phần cuối th́ kết lại bằng thí dụ về hóa thành. Nếu xét theo phần đầu, [phẩm này] đáng nên gọi là Túc Thế (đời trước). Người kết tập kinh dựa theo phần sau, cho nên nói là Hóa Thành. Lại nữa, nỗi nghi của bậc thượng căn mỏng ít, chỉ chọn lấy việc [đức Phật] tư duy hai mươi mốt ngày dưới cội Bồ Đề [sau khi thành đạo] để nêu rơ cơ duyên. Trung căn do nghi sâu dày, phải kèm thêm thí dụ, chọn lựa sâu xa vô thượng đạo do hai vạn ức vị Phật đă dạy để nói rơ cơ duyên. Hạ căn nghi hoặc càng dày hơn, v́ thế phải nói rơ cơ duyên xa xôi từ đời trước. Nếu xét theo khởi đầu xa xôi th́ gọi là Túc Thế. Nếu xét theo trung gian th́ gọi là Hóa Thành. Nếu xét theo cái rốt ráo th́ gọi là Bảo Sở (chỗ có của báu). Người kết tập kinh đă xét theo trung gian để đặt tên cho phẩm này, ḥng gộp chung ư nghĩa khởi đầu và sau rốt. Xét theo ư nghĩa thuận tiện ấy, cho nên nói là phẩm Hóa Thành Dụ (Kinh Chánh Pháp Hoa[1] gọi phẩm này là phẩm Văng Cổ (xa xưa); do vậy có sự vấn đáp này).

          Hỏi: Hóa thành là Quyền, bảo sở là Thật, v́ lẽ nào mà bỏ Thật theo Quyền?

          Đáp: Do biết thành là hóa hiện, sẽ biết bảo sở là Thật. V́ thế, nêu ra “hóa” mà chẳng đánh mất Thật vậy!

 

* Nhân Duyên Thuyết Châu

 

          Gồm hai phần:

          - Nói thẳng vào nhân duyên.

          - Thọ kư cho hạ căn.

          Đối với hai ư lănh giải (lănh ngộ, tín giải) và thuật thành (trần thuật sự thành tựu), kinh văn có lúc nói trước hay sau bất định. Lại nữa, đối với sự lănh giải th́ hoặc thầm nghĩ, hoặc thốt ra lời khác nhau. Do kinh văn ít ỏi không đủ để chia thành từng phẩm riêng biệt, cho nên đều gom vào phần Thọ Kư.

 

7.1. Nêu ra nhân duyên

7.1.1. Trước hết, nói về sự thấy biết lâu xa

7.1.1.1. Trường Hàng

7.1.1.1.1. Nêu ra chuyện được thấy

         

          (Kinh) Phật cáo chư tỳ-kheo: - Năi văng quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư nghị A-tăng-kỳ kiếp, nhĩ thời, hữu Phật danh Đại Thông Trí Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kỳ quốc danh Hảo Thành, kiếp danh Đại Tướng. Chư tỳ-kheo! Bỉ Phật diệt độ dĩ lai, thậm đại cửu viễn.

          ()佛告諸比丘。乃往過去。無量無邊不可思議阿僧祇劫。爾時有佛。名大通智勝如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。其國名好城。劫名大相。諸比丘。彼佛滅度已來。甚大久遠。

          (Kinh: Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: - Trong quá khứ vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp trước, khi đó, có Phật tên là Đại Thông Trí Thắng (Mahābhijñājñānābhibhū)[2] Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Cơi ấy tên là Hảo Thành (Susaṃbhavā), kiếp tên là Đại Tướng (Mahārūpa)[3]. Này các tỳ-kheo! Vị Phật ấy kể từ khi diệt độ cho tới nay đă rất lâu xa).

 

7.1.1.1.2. Nêu ra thí dụ để chỉ rơ sự lâu xa

 

          (Kinh) “Thí như tam thiên đại thiên thế giới sở hữu địa chủng, giả sử hữu nhân, ma dĩ vi mặc. Quá ư Đông phương thiên quốc độ, năi hạ nhất điểm, đại như vi trần. Hựu quá thiên quốc độ, phục hạ nhất điểm. Như thị triển chuyển, tận địa chủng mặc. Ư nhữ đẳng ư vân hà? Thị chư quốc độ, nhược toán sư, nhược toán sư đệ tử, năng đắc biên tế, tri kỳ số phủ?” “Bất dă, Thế Tôn”. “Chư tỳ-kheo! Thị nhân sở kinh quốc độ, nhược điểm, bất điểm, tận mạt vi trần, nhất trần, nhất kiếp, bỉ Phật diệt độ dĩ lai, phục quá thị số vô lượng vô biên bách thiên vạn ức A-tăng-kỳ kiếp”.

          ()譬如三千大千世界所有地種。假使有人。磨以為墨。過於東方千國土。乃下一點。大如微塵。又過千國土。復下一點。如是展轉。盡地種墨。於汝等意云何。是諸國土。若算師。若算師弟子。能得邊際。知其數不。不也。世尊。諸比丘。是人所經國土。若點不點。盡抹為塵。一塵一劫。彼佛滅度已來。復過是數無量無邊百千萬億阿僧祇劫。

          (Kinh: “Ví như đối với tất cả địa chủng[4] trong tam thiên đại thiên thế giới, giả sử có người đều mài thành mực, đi qua khỏi một ngàn quốc độ[5] ở phương Đông mới chấm một điểm to bằng vi trần. Lại qua một ngàn quốc độ nữa, lại chấm một điểm. Cứ lần lượt như thế cho đến hết mực mài bằng địa chủng [trên đây]. Ư các ông nghĩ sao? Các quốc độ ấy dù là bậc thầy tính toán, hay đệ tử của bậc thầy tính toán có thể biết được chừng hạn, số lượng hay không?” “Bạch Thế Tôn! Không ạ”. “Này các tỳ-kheo! Các quốc độ người ấy đă đi qua, dù có chấm mực hay không, đều đem nghiền hết thành bụi, cứ một hạt bụi là một kiếp. Vị Phật ấy kể từ khi diệt độ đến nay lại lâu hơn số đó vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A-tăng-kỳ kiếp”).

 

7.1.1.1.3. Kết lại bằng ư nghĩa “thấy chuyện xưa như ngay trong hiện tại”

 

          (Kinh) Ngă dĩ Như Lai tri kiến lực cố, quán bỉ cửu viễn do nhược kim nhật.

          ()我以如來知見力故。觀彼久遠。猶若今日。

          (Kinh: Ta do sức tri kiến của Như Lai, thấy chuyện lâu xa ấy giống như trong hiện thời).

 

          Đây là nêu rơ Tam Đạt[6] của Như Lai thấu suốt thẳm sâu. Dẫn chuyện quá khứ phân minh, chẳng hư dối; sau đó nói đến túc duyên. Hăy nên biết mười đời xưa nay, đích xác là từ đầu đến cuối chẳng ĺa một niệm hiện tại. Ĺa khỏi một niệm tâm tánh hiện tại này, chẳng thể đạt được một pháp nào thật sự đến đi! Do v́ vô minh mà hư vọng so đo dời đổi, diệt mất. Trong sự “dời đổi, diệt mất”, có nhớ, có quên. Đối với chuyện nhớ được th́ có xa hay gần. Nhưng chuyện nhớ được dù xa hay gần, hoàn toàn là Tướng Phần được biến hiện bởi một niệm hiện tiền, chẳng phải là ngoài tâm riêng có một vật nào khác! Ngay như chúng ta nhớ lại chuyện thuộc mười năm, hai mươi năm trước, [chuyện ấy] cũng rành rành ở ngay trước mắt. Do vậy, có thể biết tâm tánh vốn theo chiều dọc thấu suốt ba đời, ba đời chẳng ra ngoài một niệm hiện tiền. Chỉ v́ vô minh, chẳng thể thấy xa được! Phật đă đoạn sạch vô minh, tâm tánh rỗng rang, rạng ngời; v́ thế, theo chiều dọc cùng tột ba đời từ đầu đến cuối, theo chiều ngang cùng tột ngằn mé của pháp giới, đều thấy biết rành rành, há đáng để khởi nghi? Phần kinh văn Trường Hàng đă xong.

 

7.1.1.2. Trùng tụng

7.1.1.2.1. Trùng tụng chuyện đă thấy

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Ngă niệm quá khứ thế, vô lượng vô biên kiếp, hữu Phật Lưỡng Túc Tôn, danh Đại Thông Trí Thắng.

          ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。我念過去世。無量無邊劫。有佛兩足尊。名大通智勝。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Ta nhớ đời quá khứ, vô lượng vô biên kiếp, có Phật Lưỡng Túc Tôn, tên Đại Thông Trí Thắng).

 

7.1.1.2.2. Trùng tụng chuyện nêu thí dụ về sự lâu xa

         

          (Kinh) Như nhân dĩ lực ma, tam thiên đại thiên thổ, tận thử chư địa chủng, giai tất dĩ vi mặc. Quá ư thiên quốc độ, năi hạ nhất trần điểm. Như thị triển chuyển điểm, tận thử chư trần mặc. Như thị chư quốc độ, điểm dữ bất điểm đẳng, phục tận mạt vi trần. Nhất trần vi nhất kiếp. Thử chư vi trần số, cộng kiếp phục quá thị. Bỉ Phật diệt độ lai, như thị vô lượng kiếp.

          ()如人以力磨。三千大千土。盡此諸地種。皆悉以為墨。過於千國土。乃下一塵點。如是展轉點。盡此諸塵墨。如是諸國土。點與不點等。復盡抹為塵。一塵為一劫。此諸微塵數。共劫復過是。彼佛滅度來。如是無量劫。

          (Kinh: Như người dùng sức mài, đất tam thiên đại thiên, trọn hết địa chủng ấy, thảy đều mài thành mực. Qua khỏi ngàn quốc độ, bèn chấm một điểm bụi. Lần lượt chấm như thế, hết sạch mực bụi ấy. Các quốc độ như thế, dù chấm hay không chấm, lại mài hết thành bụi. Mỗi bụi là một kiếp, tổng số các kiếp kia, lại hơn số bụi ấy. Phật diệt độ đến nay, vô lượng kiếp như thế).

 

7.1.1.2.3. Trùng tụng “thấy chuyện xưa như trong hiện tại”

 

          (Kinh) Như Lai vô ngại trí, tri bỉ Phật diệt độ, cập Thanh Văn, Bồ Tát, như kiến kim diệt độ. Chư tỳ-kheo đương tri, Phật trí tịnh vi diệu, vô lậu, vô sở ngại, thông đạt vô lượng kiếp.

          ()如來無礙智。知彼佛滅度。及聲聞菩薩。如見今滅度。諸比丘當知。佛智淨微妙。無漏無所礙。通達無量劫。

          (Kinh: Trí Như Lai vô ngại, biết Phật đó diệt độ, và Thanh Văn, Bồ Tát, thấy như hiện thời diệt. Các tỳ-kheo nên biết: Trí Phật sạch, vi diệu, vô lậu, chẳng ngăn ngại, thông đạt vô lượng kiếp).

 

          Do “tức Không” nên Tịnh, do “tức Giả” nên Vi, do “tức Trung” nên Diệu. Lại do tam trí nhất tâm nên Tịnh, do nhất tâm tam trí nên Vi, do “chẳng phải một, chẳng phải ba, mà là ba, là một” nên Diệu. Do Thể viên măn nên “vô lậu”. Do Dụng thông đạt trọn khắp nên “vô sở ngại” (không bị ngăn ngại). Phần thứ nhất, nói về chuyện thấy biết lâu xa đă xong.

 

7.1.2. Nêu ra nhân duyên trong đời trước

7.1.2.1. Trần thuật chi tiết

7.1.2.1. Nguyên do kết duyên

7.1.2.1.1. Nguyên do xa

7.1.2.1.1.1. Trần thuật chuyện Đại Thông Trí Thắng thành Phật

7.1.2.1.1.1.1. Phật thọ dài lâu

 

          (Kinh) Phật cáo chư tỳ-kheo: - Đại Thông Trí Thắng Phật thọ ngũ bách tứ thập vạn ức na-do-tha kiếp.

          ()佛告諸比丘。大通智勝佛。壽五百四十萬億那由他劫。

          (Kinh: Đức Phật bảo các tỳ-kheo: - Đại Thông Trí Thắng Phật thọ năm trăm bốn mươi vạn ức na-do-tha kiếp).

 

7.1.2.1.1.1.2. Chuyện trước khi Ngài thành đạo

 

            (Kinh) Kỳ Phật bổn tọa đạo tràng, phá ma quân dĩ, thùy đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nhi chư Phật pháp bất hiện tại tiền. Như thị nhất tiểu kiếp, năi chí thập tiểu kiếp, kết gia phu tọa, thân tâm bất động, nhi chư Phật pháp do bất hiện tiền.

            ()其佛本坐道場。破魔軍已。垂得阿耨多羅三藐三菩提。而諸佛法。不現在前。如是一小劫。乃至十小劫。結加趺坐。身心不動。而諸佛法。猶不現前。

          (Kinh: Vị Phật ấy vốn ngồi nơi đạo tràng, đă phá ma quân[7], sắp thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nhưng pháp của chư Phật chẳng hiện tiền. Như thế một tiểu kiếp, cho tới mười tiểu kiếp ngồi xếp bằng, thân tâm bất động mà pháp của chư Phật vẫn chẳng hiện tiền).

 

          Đạo của chư Phật giống như nhau, do duyên [khác nhau mà trở thành] sự việc khác nhau. Đức Thích Ca khổ hạnh sáu năm, ngài Di Lặc đắc đạo ngay trong ngày hôm ấy (ngày Ngài xuất gia), đức Phật kia (Đại Thông Trí Thắng) mười kiếp mà [quả Chánh Giác] vẫn chưa hiện tiền, chẳng phải là căn cơ có lợi hay độn, hay đạo có khó hay dễ, chỉ v́ duyên đáng nên dài lâu hay ngắn ngủi, mà phải thị hiện [thời gian tu đạo chứng quả] dài hay ngắn. Trong hết thảy các chỗ, hễ thị hiện tám tướng thành đạo, đều trước hết là phá ma. Sắp thuyết kinh Pháp Hoa, cũng phải thuyết tiệm pháp trước. Lại nói “phá ma” th́ [cơi của Đại Thông Trí Thắng Phật] dường như là uế độ, nhưng xét theo thọ mạng dài lâu, lại chẳng phải là uế độ. V́ thế biết: Cơi Đồng Cư tịnh hay uế, vốn có nhiều tướng. Đối với các chuyện như thành đạo v.v… chẳng bắt buộc phải hoàn toàn giống như [các sự việc đă tường thuật trong thời] Tam Tạng nơi cơi này.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, (Phật vị tọa đạo tràng tiền), Đao Lợi chư thiên tiên vị bỉ Phật, ư Bồ Đề thụ hạ, phu sư tử ṭa, cao nhất do-tuần, (hàm tác thị niệm) “Phật ư thử tọa, đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. (Đăi Phật) thích tọa thử ṭa thời, chư Phạm thiên vương vũ chúng thiên hoa, diện bách do-tuần. Hương phong thời lai, xuy khứ ủy hoa, cánh vũ tân giả. Như thị bất tuyệt, măn thập tiểu kiếp, cúng dường ư Phật. Năi chí diệt độ, thường vũ thử hoa. Tứ vương chư thiên, vị cúng dường Phật, thường kích thiên cổ. Kỳ dư chư thiên, tác thiên kỹ nhạc, măn thập tiểu kiếp, chí ư diệt độ, diệc phục như thị.

          ()爾時(佛未坐道場前)忉利諸天。先為彼佛。於菩提樹下。敷師子座。高一由旬。(咸作是念)佛於此坐。當得阿耨多羅三藐三菩提。(逮佛)適坐此座時。諸梵天王。雨眾天華。面百由旬。香風時來。吹去萎華。更雨新者。如是不絕。滿十小劫。供養於佛。乃至滅度。常雨此華。四王諸天。為供養佛。常擊天鼓。其餘諸天。作天伎樂。滿十小劫。至於滅度。亦復如是。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, (trước khi đức Phật ngồi nơi đạo tràng), chư thiên Đao Lợi đă trước đó v́ đức Phật ấy mà trải ṭa sư tử[8] cao một do-tuần dưới cội Bồ Đề. (Họ đều nghĩ như thế này): “Đức Phật sẽ ở trên ṭa này mà đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. (Đợi) cho đến khi (đức Phật) vừa ngồi trên ṭa ấy, các Phạm thiên vương tuôn các hoa trời, mỗi phía rộng tới một trăm do-tuần. Gió thơm đúng thời thổi đến, cuốn đi hoa héo, lại mưa hoa mới, chẳng ngớt như thế, trọn mười tiểu kiếp cúng dường đức Phật. Cho đến khi Ngài diệt độ, thường mưa hoa ấy. Chư thiên thuộc Tứ Vương Thiên nhằm cúng dường Phật, thường gơ trống trời. Các vị trời khác thường tấu kỹ nhạc[9] cơi trời trọn mười tiểu kiếp, cho đến khi diệt độ, cũng giống như thế).

 

7.1.2.1.1.1.3. Nói về sự thành đạo

 

          (Kinh) Chư tỳ-kheo! Đại Thông Trí Thắng Phật quá thập tiểu kiếp, chư Phật chi pháp năi hiện tại tiền, thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()諸比丘。大通智勝佛過十小劫。諸佛之法乃現在前。成阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Này các tỳ-kheo! Đại Thông Trí Thắng Phật sau mười tiểu kiếp, pháp của chư Phật mới hiện tiền, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

7.1.2.1.1.1.4. Sau khi Phật thành đạo, quyến thuộc cúng dường

 

          (Kinh) Kỳ Phật vị xuất gia thời, hữu thập lục tử. Kỳ đệ nhất giả, danh viết Trí Tích. Chư tử các hữu chủng chủng trân dị ngoạn hảo chi cụ, văn phụ đắc thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, giai xả sở trân, văng nghệ Phật sở. Chư mẫu thế khấp, nhi tùy tống chi. Kỳ tổ Chuyển Luân Thánh Vương, dữ nhất bách đại thần, cập dư bách thiên vạn ức nhân dân, giai cộng vi nhiễu, tùy chí đạo tràng, hàm dục thân cận Đại Thông Trí Thắng Như Lai, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán. Đáo dĩ, đầu diện lễ túc, nhiễu Phật tất dĩ, nhất tâm hiệp chưởng, chiêm ngưỡng Thế Tôn, dĩ kệ tụng viết: - Đại oai đức Thế Tôn, vị độ chúng sanh cố, ư vô lượng ức tuế, nhĩ năi đắc thành Phật. Chư nguyện dĩ cụ túc. Thiện tai! Cát vô thượng. Thế Tôn thậm hy hữu, nhất tọa thập tiểu kiếp, thân thể cập thủ túc, tĩnh nhiên an bất động. Kỳ tâm thường đảm phạ, vị tằng hữu tán loạn. Cứu cánh vĩnh tịch diệt, an trụ vô lậu pháp. Kim giả kiến Thế Tôn, an ổn thành Phật đạo. Ngă đẳng đắc thiện lợi, xưng khánh đại hoan hỷ. Chúng sanh thường khổ năo, manh minh vô đạo sư, bất thức khổ tận đạo, bất tri cầu giải thoát. Trường dạ tăng ác thú, giảm tổn chư thiên chúng, tùng minh nhập ư minh, vĩnh bất văn Phật danh. Kim Phật đắc tối thượng, an ổn vô lậu đạo. Ngă đẳng cập thiên nhân, vị đắc tối đại lợi. Thị cố hàm khể thủ, quy mạng vô thượng tôn.

          ()其佛未出家時。有十六子。其第一者。名曰智積。諸子各有種種珍異玩好之具。聞父得成阿耨多羅三藐三菩提。皆捨所珍。往詣佛所。諸母涕泣而隨送之。其祖轉輪聖王。與一百大臣。及餘百千萬億人民。皆共圍繞。隨至道場。咸欲親近大通智勝如來。供養恭敬尊重讚歎。到已。頭面禮足。繞佛畢已。一心合掌。瞻仰世尊。以偈頌曰。大威德世尊。為度眾生故。於無量億歲。爾乃得成佛。諸願已具足。善哉吉無上。世尊甚希有。一坐十小劫。身體及手足。靜然安不動。其心常憺怕。未曾有散亂。究竟永寂滅。安住無漏法。今者見世尊。安隱成佛道。我等得善利。稱慶大歡喜。眾生常苦惱。盲瞑無導師。不識苦盡道。不知求解脫。長夜增惡趣。減損諸天眾。從冥入於冥。永不聞佛名。今佛得最上。安隱無漏道。我等及天人。為得最大利。是故咸稽首。歸命無上尊。

          (Kinh: Lúc Phật chưa xuất gia, có mười sáu đứa con. Đứa con thứ nhất tên là Trí Tích (Jñānākara)[10]. Các con mỗi người đều có các món vật quư lạ, đáng ưa thích, nghe cha thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều bỏ thứ quư báu, qua tới chỗ Phật. Các bà mẹ khóc lóc đưa tiễn. Ông nội của họ là Chuyển Luân Thánh Vương và một trăm vị đại thần, cùng với trăm ngàn vạn ức nhân dân khác đều cùng vây quanh, theo đến đạo tràng, đều muốn thân cận Đại Thông Trí Thắng Như Lai để cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán. Đă đến nơi, đầu mặt lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh Phật xong xuôi, một dạ chắp tay, chiêm ngưỡng Thế Tôn, dùng kệ tụng rằng: - Thế Tôn oai đức lớn, do v́ độ chúng sanh, trong vô lượng ức năm, mới bèn được thành Phật. Các nguyện đă đầy đủ. Hay thay! Lành vô thượng. Thế Tôn rất hy hữu, tĩnh tọa mười tiểu kiếp, thân thể và tay chân, an tĩnh, chẳng hề động[11]. Tâm Ngài thường tĩnh lặng, chưa hề bị tán loạn. Rốt ráo măi tịch diệt, an trụ pháp vô lậu. Nay được thấy Thế Tôn, an ổn thành Phật đạo. Chúng con được lợi lành, khen mừng, rất hoan hỷ. Chúng sanh thường khổ năo, ḷa tối không thầy dạy, chẳng biết đạo dứt khổ, chẳng biết cầu giải thoát. Đêm dài, tăng đường ác, tổn giảm các thiên chúng, từ tối vào trong tối, măi chẳng nghe tên Phật. Nay Phật đắc tối thượng, đạo an ổn vô lậu. Hàng trời người chúng con, được lợi lớn nhất. Cho nên đều đảnh lễ, quy mạng vô thượng tôn).

 

          Nếu xét theo ư nghĩa biểu pháp, mười sáu vị vương tử chính là Bát Chánh Đạo tự hành, hóa độ người khác.

 

7.1.2.1.1.1.5. Thỉnh chuyển pháp luân

 

          (Kinh) Nhĩ thời, thập lục vương tử kệ tán Phật dĩ, khuyến thỉnh Thế Tôn chuyển ư pháp luân, hàm tác thị ngôn: “Thế Tôn thuyết pháp, đa sở an ổn, lân mẫn nhiêu ích chư thiên, nhân dân”. Trùng thuyết kệ ngôn: - Thế hùng vô đẳng luân, bách phước tự trang nghiêm, đắc vô thượng trí huệ. Nguyện vị thế gian thuyết, độ thoát ư ngă đẳng, cập chư chúng sanh loại, vị phân biệt hiển thị, linh đắc thị trí huệ. Nhược ngă đẳng đắc Phật, chúng sanh diệc phục nhiên. Thế Tôn tri chúng sanh, thâm tâm chi sở niệm, diệc tri sở hành đạo. Hựu tri trí huệ lực, dục lạc cập tu phước, túc mạng sở hạnh nghiệp, Thế Tôn tất tri dĩ, đương chuyển vô thượng luân.

            ()爾時十六王子偈讚佛已。勸請世尊轉於法輪。咸作是言。世尊說法。多所安隱。憐愍饒益。諸天人民。重說偈言。世雄無等倫。百福自莊嚴。得無上智慧。願為世間說。度脫於我等。及諸眾生類。為分別顯示。令得是智慧。若我等得佛。眾生亦復然。世尊知眾生。深心之所念。亦知所行道。又知智慧力。欲樂及修福。宿命所行業。世尊悉知已。當轉無上輪。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, mười sáu vương tử nói kệ tán Phật xong, khuyến thỉnh đức Thế Tôn chuyển pháp luân, đều nói như thế này: “Đức Thế Tôn thuyết pháp, [khiến cho chúng sanh] được nhiều an ổn, Ngài thương xót, tạo lợi ích cho chư thiên, nhân dân”. Lại nói kệ rằng: - Đấng Thế Hùng khôn sánh, trăm phước tự trang nghiêm, đắc trí huệ vô thượng[12]. Nguyện v́ thế gian nói, ḥng độ thoát chúng con, và các loài chúng sanh, mà phân biệt, hiển thị, khiến đắc trí huệ ấy. Nếu chúng con thành Phật, chúng sanh cũng giống vậy. Thế Tôn biết chúng sanh, ư niệm trong thâm tâm, cũng biết đạo họ hành. Lại biết sức trí huệ, ưa muốn và tu phước, nghiệp gây tạo đời trước, Thế Tôn đều biết trọn, hăy chuyển vô thượng luân).

 

          Đă nói “linh đắc thị trí huệ” (khiến cho đạt được trí huệ ấy), lại nói “nhược ngă đẳng đắc Phật” (nếu chúng con được thành Phật), lại kết thúc bằng câu “đương chuyển vô thượng luân” (hăy nên chuyển pháp luân vô thượng). Hăy nên biết [những lời ấy] nhằm thỉnh cầu măn tự giáo, như Phật Hoa Nghiêm trong hiện thời. Phần thứ nhất, “nói về chuyện Đại Thông Trí Thắng thành Phật” đă xong.

 

7.1.2.1.1.2. Phạm vương từ mười phương đến thỉnh pháp

7.1.2.1.1.2.1. Oai quang chiếu thấu khiến họ rúng động

 

          (Kinh) Phật cáo chư tỳ-kheo: - Đại Thông Trí Thắng Phật đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề thời, thập phương các ngũ bách vạn ức chư Phật thế giới, lục chủng chấn động. Kỳ quốc trung gian u minh chi xứ, nhật, nguyệt oai quang sở bất năng chiếu, nhi giai đại minh. Kỳ trung chúng sanh, các đắc tương kiến, hàm tác thị ngôn: “Thử trung vân hà hốt sanh chúng sanh?” Hựu kỳ quốc giới, chư thiên cung điện, năi chí Phạm cung, lục chủng chấn động, đại quang phổ chiếu, biến măn thế giới, thắng chư thiên quang.

          ()佛告諸比丘。大通智勝佛得阿耨多羅三藐三菩提時。十方各五百萬億諸佛世界。六種震動。其國中間幽冥之處。日月威光所不能照。而皆大明。其中眾生。各得相見。咸作是言。此中云何忽生眾生。又其國界。諸天宮殿乃至梵宮。六種震動。大光普照。徧滿世界。勝諸天光。

          (Kinh: Đức Phật bảo các tỳ-kheo: - Khi Đại Thông Trí Thắng Phật đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trong mười phương, mỗi phương đều có năm trăm vạn ức[13] thế giới của chư Phật, sáu thứ chấn động. Chỗ tối tăm trong các cơi ấy[14], oai quang của mặt trời, mặt trăng chẳng thể chiếu thấu, thảy đều sáng bừng. Chúng sanh trong ấy đều trông thấy nhau, đều nói lời này: “Trong đây cớ sao bỗng sanh ra chúng sanh?” Lại nữa, trong quốc giới ấy, cung điện của chư thiên cho đến cung điện của Phạm Thiên, sáu thứ chấn động, quang minh to lớn chiếu khắp, trọn khắp thế giới, vượt xa quang minh của chư thiên).

 

          Lúc đức Phật giáng thần, lúc Ngài sơ sanh, lúc Ngài thành đạo, tự nhiên thế giới chấn động, quang minh to lớn chiếu trọn khắp, nhưng kẻ hữu duyên ở phương khác dẫu xa xôi cũng nhận biết. Kẻ vô duyên dẫu ở gần vẫn chẳng biết. Xét theo quán tâm để giải thích ư nghĩa “hốt sanh chúng sanh” (bỗng sanh ra chúng sanh): Tâm tánh vốn tịnh, do bị Ấm, Nhập, Giới che lấp, cho nên tối tăm. Nếu tu Quán Huệ, lư bổn tánh hiển hiện. Lại nữa, hai quả núi là Nhị Đế, chính giữa đó là Trung Đạo. Mặt trời, mặt trăng là nói đến nhị trí (Quyền Trí và Thật Trí), Phật quang là Trung Đạo. Trí quang (quang minh trí huệ) vô phân biệt chiếu rỗng rang, rạng ngời Tam Đế vốn có.

 

7.1.2.1.1.2.2. Phạm vương đến thỉnh pháp

7.1.2.1.1.2.2.1. Phương Đông

7.1.2.1.1.2.2.1.1. Thấy điềm lành bèn kinh hăi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Đông phương ngũ bách vạn ức chư quốc độ trung Phạm thiên cung điện, quang minh chiếu diệu, bội ư thường minh. Chư Phạm thiên vương các tác thị niệm: “Kim giả cung điện quang minh, tích sở vị hữu, dĩ hà nhân duyên nhi hiện thử tướng?”

          ()爾時東方五百萬億諸國土中梵天宮殿。光明照曜。倍於常明。諸梵天王各作是念。今者宮殿光明。昔所未有。以何因緣而現此相。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, cung điện của Phạm Thiên trong năm trăm vạn ức các quốc độ ở phương Đông được quang minh chiếu sáng rực, gấp bội ánh sáng thường ngày. Các Phạm thiên vương đều nghĩ như thế này: “Nay cung điện sáng ngời từ xưa chưa có, do nhân duyên ǵ mà hiện tướng này?”)

 

7.1.2.1.1.2.2.1.2. Hỏi han lẫn nhau để quyết nghi

 

          (Kinh) Thị thời, chư Phạm thiên vương, tức các tương nghệ, cộng nghị thử sự. Thời bỉ chúng trung, hữu nhất đại Phạm thiên vương, danh Cứu Nhất Thiết, vị chư Phạm chúng, nhi thuyết kệ ngôn: - Ngă đẳng chư cung điện, quang minh tích vị hữu, thử thị hà nhân duyên? Nghi các cộng cầu chi, vi đại đức thiên sanh? Vi Phật xuất thế gian? Nhi thử đại quang minh, biến chiếu ư thập phương.

          ()是時諸梵天王。卽各相詣。共議此事。時彼眾中。有一大梵天王。名救一切。為諸梵眾而說偈言。我等諸宮殿。光明昔未有。此是何因緣。宜各共求之。為大德天生。為佛出世間。而此大光明。徧照於十方。

          (Kinh: Khi đó, các Phạm thiên vương liền đến gặp nhau để cùng bàn chuyện này. Lúc ấy, trong đại chúng có một vị đại Phạm thiên vương tên là Cứu Nhất Thiết (Sarvasattvatrātar) v́ các vị Phạm thiên mà nói kệ rằng: - Cung điện của chúng ta, quang minh xưa chưa có, đây là nhân duyên ǵ? Hăy nên cùng t́m kiếm. Là trời đức lớn sanh? Hay Phật hiện thế gian? Quang minh lớn như thế, chiếu trọn khắp mười phương).

 

7.1.2.1.1.2.2.1.3. Ḍ theo quang minh thấy Phật

 

          (Kinh) Nhĩ thời, ngũ bách vạn ức quốc độ chư Phạm thiên vương, dữ cung điện câu[15], các dĩ y kích, thịnh chư thiên hoa, cộng nghệ Tây phương, suy tầm thị tướng, kiến Đại Thông Trí Thắng Như Lai, xử vu đạo tràng Bồ Đề thụ hạ, tọa sư tử ṭa. Chư thiên, long vương, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng cung kính vi nhiễu, cập kiến thập lục vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân.

          ()爾時五百萬億國土諸梵天王。與宮殿俱。各以衣裓盛諸天華。共詣西方推尋是相。見大通智勝如來。處于道場菩提樹下。坐師子座。諸天龍王乾闥婆緊那羅摩羅伽人非人等恭敬圍繞。及見十六王子請佛轉法輪。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, các vị Phạm thiên vương trong năm trăm vạn ức quốc độ cùng với cung điện, mỗi vị đều dùng lẵng hoa đựng các hoa trời, cùng đến phương Tây t́m kiếm tướng ấy, thấy Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi trên ṭa sư tử dưới cội Bồ Đề[16] nơi đạo tràng. Chư thiên, long vương, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân).

 

7.1.2.1.1.2.2.1.4. Tam nghiệp cúng dường

 

          (Kinh) Tức thời chư Phạm thiên vương đầu diện lễ Phật, nhiễu bách thiên táp. Tức dĩ thiên hoa nhi tán Phật thượng. Kỳ sở tán hoa như Tu Di sơn, tịnh dĩ cúng dường Phật Bồ Đề thụ. Kỳ Bồ Đề thụ cao thập do-tuần. Hoa cúng dường dĩ, các dĩ cung điện phụng thượng bỉ Phật, nhi tác thị ngôn: “Duy kiến ai mẫn nhiêu ích ngă đẳng. Sở hiến cung điện, nguyện thùy nạp xử”. Thời chư Phạm thiên vương tức ư Phật tiền, nhất tâm đồng thanh, dĩ kệ tụng viết: - Thế Tôn thậm hy hữu, nan khả đắc trị ngộ, cụ vô lượng công đức, năng cứu hộ nhất thiết. Thiên nhân chi đại sư, ai mẫn ư thế gian. Thập phương chư chúng sanh, phổ giai mông nhiêu ích. Ngă đẳng sở tùng lai, ngũ bách vạn ức quốc, xả thâm Thiền Định lạc, vị cúng dường Phật cố. Ngă đẳng tiên thế phước, cung điện thậm nghiêm sức, kim dĩ phụng Thế Tôn, duy nguyện ai nạp thọ.

          ()卽時諸梵天王。頭面禮佛。繞百千匝。卽以天華而散佛上。其所散華。如須彌山。幷以供養佛菩提樹。其菩提樹高十由旬。華供養已。各以宮殿奉上彼佛。而作是言。惟見哀愍饒益我等。所獻宮殿。願垂納處。時諸梵天王。卽於佛前。一心同聲以偈頌曰。
世尊甚希有。難可得值遇。具無量功德。能救護一切。天人之大師。哀愍於世間。十方諸眾生。普皆蒙饒益。我等所從來。五百萬億國。捨深禪定樂。為供養佛故。我等先世福。宮殿甚嚴飾。今以奉世尊。惟願哀納受。

          (Kinh: Ngay khi đó, các Phạm thiên vương đầu mặt lễ Phật, nhiễu quanh trăm ngàn ṿng, liền dùng hoa trời rải lên Phật. Hoa được rải như núi Tu Di, cũng dùng [hoa đó] để cúng dường cội Bồ Đề của Phật. Cây Bồ Đề cao mười do-tuần. Cúng dường hoa xong, mỗi vị đem cung điện dâng lên đức Phật ấy, nói như thế này: “Kính mong thương xót, tạo lợi ích cho chúng con. Xin hăy rủ ḷng thâu nhận, ngự trong cung điện dâng lên này”. Khi đó, các Phạm thiên vương liền ở trước đức Phật, một dạ đồng thanh, dùng kệ tụng rằng: - Thế Tôn rất hy hữu, khó thể gặp gỡ được. Đủ vô lượng công đức, cứu, che chở hết thảy. Đấng đại sư trời người, thương xót khắp thế gian. Chúng sanh trong mười phương, đều trọn hưởng lợi ích. Chúng con từ năm trăm, vạn ức quốc độ đến, bỏ vui Thiền Định sâu, v́ để cúng dường Phật. Chúng con phước đời trước, cung điện rất trang nghiêm, nay dâng lên Thế Tôn, kính mong thương nhận lấy).

 

          Hỏi: Phạm thiên tuôn mưa hoa như núi Tu Di. Cây [Bồ Đề] và ṭa [sư tử] đều thấp hơn, tướng trạng ấy là như thế nào?

          Đáp: Chuyện chẳng thể nghĩ bàn, đôi bên chẳng trở ngại nhau!

 

7.1.2.1.1.2.2.1.5. Thỉnh chuyển pháp luân

 

          (Kinh) Nhĩ thời, chư Phạm thiên vương kệ tán Phật dĩ, các tác thị ngôn: “Duy nguyện Thế Tôn chuyển ư pháp luân, độ thoát chúng sanh, khai Niết Bàn đạo”. Thời chư Phạm thiên vương nhất tâm đồng thanh, nhi thuyết kệ ngôn: - Thế Hùng Lưỡng Túc Tôn, duy nguyện diễn thuyết pháp, dĩ đại từ bi lực, độ khổ năo chúng sanh.

          ()爾時諸梵天王偈讚佛已。各作是言。惟願世尊轉於法輪。度脫眾生。開涅縏道。時諸梵天王。一心同聲而說偈言。世雄兩足尊。惟願演說法。以大慈悲力。度苦惱眾生。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, các Phạm thiên vương nói kệ tán Phật xong, ai nấy nói như thế này: “Kính mong đức Thế Tôn chuyển pháp luân, độ thoát chúng sanh, mở đường Niết Bàn”. Khi đó, các Phạm thiên vương nhất tâm đồng thanh mà nói kệ rằng: - Thế Hùng Lưỡng Túc Tôn, kính mong diễn nói pháp, dùng sức đại từ bi, độ chúng sanh khổ năo).

 

          Đă nói “độ chúng sanh khổ năo” tức là thỉnh bán tự giáo, như tại Lộc Uyển trong đời này!

 

7.1.2.1.1.2.2.1.6. Như Lai im lặng hứa khả

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Đại Thông Trí Thắng Như Lai mặc nhiên hứa chi.

          ()爾時大通智勝如來。默然許之。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng chấp thuận).

 

          Nghi thức thọ thỉnh của chư Phật, đương nhiên đều là im lặng hứa khả, v́ tùy thuận quy tắc của các vị Phật trong quá khứ, v́ khiến cho chúng sanh tôn trọng, khát ngưỡng, v́ chẳng giống như phàm phu, ngoại đạo, v́ có thể khiến cho người tận mắt trông thấy sẽ sanh tâm duy tŕ đạo. Phần thứ nhất, phương Đông [thỉnh pháp] đă xong.

 

7.1.2.1.1.2.2.2. Phương Đông Nam

7.1.2.1.1.2.2.2.1. Thấy tướng lành kinh hăi

 

          (Kinh) Hựu chư tỳ-kheo, Đông Nam phương ngũ bách vạn ức quốc độ chư đại Phạm vương, các tự kiến cung điện, quang minh chiếu diệu, tích sở vị hữu, hoan hỷ, dũng dược, sanh hy hữu tâm.

          ()又諸比丘。東南方五百萬億國土諸大梵王。各自見宮殿。光明照曜。昔所未有。歡喜踴躍。生希有心。

          (Kinh: Lại này các tỳ-kheo, các đại Phạm vương trong năm trăm vạn ức quốc độ ở phương Đông Nam đều tự thấy cung điện quang minh chiếu sáng ngời xưa kia chưa từng có, hoan hỷ, hớn hở, sanh ḷng hy hữu).

 

7.1.2.1.1.2.2.2.2. Hỏi lẫn nhau để quyết nghi

 

          (Kinh) Tức các tương nghệ, cộng nghị thử sự. Thời bỉ chúng trung, hữu nhất Đại Phạm thiên vương, danh viết Đại Bi, vị chư Phạm chúng, nhi thuyết kệ ngôn: - Thị sự hà nhân duyên, nhi hiện như thử tướng? Ngă đẳng chư cung điện, quang minh tích vị hữu, vi đại đức thiên sanh? Vi Phật xuất thế gian? Vị tằng kiến thử tướng, đương cộng nhất tâm cầu, quá thiên vạn ức độ, tầm quang cộng suy chi. Đa thị Phật xuất thế, độ thoát khổ chúng sanh.

          ()卽各相詣。共議此事。時彼眾中。有一大梵天王。名曰大悲。為諸梵眾而說偈言。是事何因緣。而現如此相。我等諸宮殿。光明昔未有。為大德天生。為佛出世間。未曾見此相。當共一心求。過千萬億土。尋光共推之。多是佛出世。度脫苦眾生。

          (Kinh: Mỗi vị đều đến gặp nhau, cùng bàn chuyện này. Khi đó, trong đại chúng đó, có một vị Đại Phạm thiên vương, tên là Đại Bi (Adhimātrakāruṇika), v́ các Phạm thiên mà nói kệ rằng: - Chuyện này nhân duyên ǵ, mà hiện tướng như vậy? Cung điện của chúng ta, sáng sủa chưa từng có, là trời đại đức sanh? Hay là Phật xuất thế? Chưa từng thấy tướng này, hăy nên nhất tâm t́m, qua ngàn vạn ức cơi, theo quang minh cùng t́m. Phần nhiều Phật xuất thế, độ chúng sanh thoát khổ).

 

7.1.2.1.1.2.2.2.3. Ḍ theo quang minh thấy Phật

 

          (Kinh) Nhĩ thời, ngũ bách vạn ức chư Phạm thiên vương, dữ cung điện câu, các dĩ y kích, thịnh chư thiên hoa, cộng nghệ Tây Bắc phương, suy tầm thị tướng, kiến Đại Thông Trí Thắng Như Lai, xử ư đạo tràng Bồ Đề thụ hạ, tọa sư tử ṭa. Chư thiên, long vương, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng cung kính vi nhiễu, cập kiến thập lục vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân.

          ()爾時五百萬億諸梵天王。與宮殿俱。各以衣裓盛諸天華。共詣西北方推尋是相。見大通智勝如來。處於道場菩提樹下。坐師子座。諸天龍王乾闥婆緊那羅摩羅伽人非人等恭敬圍繞。及見十六王子請佛轉法輪。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, năm trăm vạn ức các Phạm thiên vương cùng với cung điện, ai nấy đều dùng lẵng hoa đựng các hoa trời, cùng đến phương Tây Bắc t́m ṭi tướng ấy, thấy Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngự dưới cội Bồ Đề nơi đạo tràng, ngồi trên ṭa sư tử. Chư thiên, long vương, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân).

 

7.1.2.1.1.2.2.2.4. Tam nghiệp cúng dường

 

          (Kinh) Thời chư Phạm thiên vương đầu diện lễ Phật, nhiễu bách thiên táp, tức dĩ thiên hoa nhi tán Phật thượng. Sở tán chi hoa như Tu Di sơn, tịnh dĩ cúng dường Phật Bồ Đề thụ. Hoa cúng dường dĩ, các dĩ cung điện phụng thượng bỉ Phật, nhi tác thị ngôn: “Duy kiến ai mẫn, nhiêu ích ngă đẳng. Sở hiến cung điện, nguyện thùy nạp thọ”. Nhĩ thời, chư Phạm thiên vương tức ư Phật tiền, nhất tâm đồng thanh, dĩ kệ tụng viết: - Thánh chúa thiên trung vương. Ca-lăng-tần-già thanh[17], ai mẫn chúng sanh giả. Ngă đẳng kim kính lễ. Thế Tôn thậm hy hữu. Cửu viễn năi nhất hiện. Nhất bách bát thập kiếp, không quá vô hữu Phật. Tam ác đạo sung măn, chư thiên chúng giảm thiểu. Kim Phật xuất ư thế, vị chúng sanh tác nhăn. Thế gian sở quy thú, cứu hộ ư nhất thiết. Vi chúng sanh chi phụ, ai mẫn nhiêu ích giả. Ngă đẳng túc phước khánh. Kim đắc trị Thế Tôn.

          ()時諸梵天王。頭面禮佛。繞百千匝。卽以天華而散佛上。所散之華。如須彌山。幷以供養佛菩提樹。華供養已。各以宮殿奉上彼佛。而作是言。惟見哀愍。饒益我等。所獻宮殿。願垂納受。爾時諸梵天王。卽於佛前。一心同聲以偈頌曰。聖主天中王。迦陵頻伽聲。哀愍眾生者。我等今敬禮。世尊甚希有。久遠乃一現。一百八十劫。空過無有佛。三惡道充滿。諸天眾減少。今佛出於世。為眾生作眼。世間所歸趣。救護於一切。為眾生之父。哀愍饒益者。我等宿福慶。今得值世尊。

          (Kinh: Lúc ấy, các Phạm thiên vương đầu mặt lễ Phật, nhiễu quanh trăm ngàn ṿng, liền dùng hoa trời rải lên đức Phật. Hoa đă rải như núi Tu Di, và cũng dùng [hoa ấy] để cúng dường cây Bồ Đề của Phật. Cúng dường hoa xong, đều đem cung điện dâng lên đức Phật ấy, mà nói như thế này: “Kính mong thương xót, lợi ích chúng con. Kính mong thâu nhận, ngự trong cung điện đă dâng hiến”. Lúc đó, các Phạm thiên vương liền ở trước Phật, một dạ đồng thanh, dùng kệ tụng rằng: - Thánh chúa thiên trung vương, tiếng Ca-lăng-tần-già, đấng thương xót chúng sanh, chúng con nay kính lễ. Thế Tôn rất hy hữu, lâu xa hiện một lần. Một trăm tám mươi kiếp, luống qua chẳng có Phật. Ba ác đạo đầy dẫy, các chúng trời giảm thiểu. Nay Phật hiện trong đời, làm mắt cho chúng sanh[18], chỗ thế gian hướng về, cứu giúp cho hết thảy, làm cha của chúng sanh. Đấng thương xót, lợi ích, chúng con nhờ phước xưa, nay được gặp Thế Tôn).

 

7.1.2.1.1.2.2.2.5. Thỉnh chuyển pháp luân

 

          (Kinh) Nhĩ thời, chư Phạm thiên vương kệ tán Phật dĩ, các tác thị ngôn: “Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn nhất thiết, chuyển ư pháp luân. Độ thoát chúng sanh”. Thời chư Phạm thiên vương nhất tâm đồng thanh, nhi thuyết kệ ngôn: - Đại thánh chuyển pháp luân, hiển thị chư pháp tướng, độ khổ năo chúng sanh, linh đắc đại hoan hỷ. Chúng sanh văn thử pháp, đắc đạo nhược sanh thiên. Chư ác đạo giảm thiểu, nhẫn thiện giả tăng ích.

          ()爾時諸梵天王偈讚佛已。各作是言。惟願世尊哀愍一切。轉於法輪。度脫眾生。時諸梵天王。一心同聲而說偈言。大聖轉法輪。顯示諸法相。度苦惱眾生。令得大歡喜。眾生聞此法。得道若生天。諸惡道減少。忍善者增益。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, các Phạm thiên vương nói kệ tán Phật xong, đều nói như thế này: “Kính mong đức Thế Tôn thương xót hết thảy, chuyển pháp luân độ thoát chúng sanh”. Khi đó, các Phạm thiên vương một dạ đồng thanh, nói kệ rằng: - Đại thánh chuyển pháp luân, hiển thị các pháp tướng, độ chúng sanh khổ năo, khiến được hoan hỷ lớn. Chúng sanh nghe pháp này, đắc đạo hoặc sanh thiên. Các đường ác giảm bớt, người nhẫn thiện tăng thêm).

 

          Đây cũng là thỉnh bán tự giáo giống như trong phần trước.

 

7.1.2.1.1.2.2.2.6. Như Lai yên lặng hứa khả

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Đại Thông Trí Thắng Như Lai mặc nhiên hứa chi.

          ()爾時大通智勝如來。默然許之。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng chấp thuận).

 

          Phần thứ hai, phương Đông Nam đă xong.

 

7.1.2.1.1.2.2.3. Phương Nam

7.1.2.1.1.2.2.3.1. Thấy tướng lành kinh hăi

 

          (Kinh) Hựu chư tỳ-kheo, Nam phương ngũ bách vạn ức quốc độ chư đại Phạm vương, các tự kiến cung điện quang minh chiếu diệu, tích sở vị hữu, hoan hỷ, dũng dược, sanh hy hữu tâm.

          ()又諸比丘。南方五百萬億國土諸大梵王。各自見宮殿。光明照曜。昔所未有。歡喜踴躍。生希有心。

          (Kinh: Lại này các tỳ-kheo, các đại Phạm vương trong năm trăm vạn ức quốc độ ở phương Nam, đều tự thấy cung điện được quang minh chiếu sáng ngời, xưa kia chưa có, hoan hỷ, hớn hở, sanh tâm hy hữu).

 

7.1.2.1.1.2.2.3.2. Hỏi nhau để quyết nghi

 

          (Kinh) Tức các tương nghệ, cộng nghị thử sự, dĩ hà nhân duyên, ngă đẳng cung điện hữu thử quang diệu. Nhi bỉ chúng trung, hữu nhất Đại Phạm thiên vương, danh viết Diệu Pháp, vị chư Phạm chúng, nhi thuyết kệ ngôn: - Ngă đẳng chư cung điện, quang minh thậm oai diệu. Thử phi vô nhân duyên, thị tương nghi cầu chi. Quá ư bách thiên kiếp, vị tằng kiến thị tướng, vi đại đức thiên sanh? Vi Phật xuất thế gian?

          ()卽各相詣。共議此事。以何因緣。我等宮殿有此光曜。而彼眾中。有一大梵天王。名曰妙法。為諸梵眾而說偈言。我等諸宮殿。光明甚威曜。此非無因緣。是相宜求之。過於百千劫。未曾見是相。為大德天生。為佛出世間。

          (Kinh: Mỗi vị liền đến gặp nhau, cùng bàn chuyện này: “Do nhân duyên nào, cung điện của chúng ta sáng ngời như thế?” Nhưng trong đại chúng ấy, có một Đại Phạm thiên vương tên là Diệu Pháp (Sudharma), v́ các vị Phạm thiên mà nói kệ rằng: - Cung điện của chúng ta, quang minh rất oai diệu, chẳng phải không nhân duyên, hăy nên t́m kiếm xem. Trải qua trăm ngàn kiếp, chưa từng thấy tướng này, là trời đức lớn sanh? Hay Phật hiện thế gian?)

 

7.1.2.1.1.2.2.3.3. Ḍ theo quang minh thấy Phật

 

          (Kinh) Nhĩ thời, ngũ bách vạn ức chư Phạm thiên vương, dữ cung điện câu, các dĩ y kích, thịnh chư thiên hoa, cộng nghệ Bắc phương suy tầm thị tướng, kiến Đại Thông Trí Thắng Như Lai xử vu đạo tràng Bồ Đề thụ hạ, tọa sư tử ṭa. Chư thiên, long vương, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng cung kính vi nhiễu, cập kiến thập lục vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân.

          ()爾時五百萬億諸梵天王。與宮殿俱。各以衣裓盛諸天華。共詣北方推尋是相。見大通智勝如來。處于道場菩提樹下。坐師子座。諸天龍王乾闥婆緊那羅摩羅伽人非人等恭敬圍繞。及見十六王子請佛轉法輪。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, năm trăm vạn ức các Phạm thiên vương cùng với cung điện, mỗi vị đều dùng lẵng hoa đựng các hoa trời, cùng tới phương Bắc ḍ t́m tướng ấy, thấy Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngự nơi đạo tràng dưới cội Bồ Đề, ngồi trên ṭa sư tử. Chư thiên, long vương, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân).

 

7.1.2.1.1.2.2.3.4. Tam nghiệp cúng dường

 

          (Kinh) Thời chư Phạm thiên vương đầu diện lễ Phật, nhiễu bách thiên táp, tức dĩ thiên hoa nhi tán Phật thượng. Sở tán chi hoa như Tu Di sơn, tịnh dĩ cúng dường Phật Bồ Đề thụ. Hoa cúng dường dĩ, các dĩ cung điện phụng thượng bỉ Phật, nhi tác thị ngôn: “Duy kiến ai mẫn, nhiêu ích ngă đẳng. Sở hiến cung điện, nguyện thùy nạp thọ”. Nhĩ thời, chư Phạm thiên vương tức ư Phật tiền, nhất tâm đồng thanh, dĩ kệ tụng viết: - Thế Tôn thậm nan kiến. Phá chư phiền năo giả, quá bách tam thập kiếp, kim năi đắc nhất kiến. Chư cơ khát chúng sanh, dĩ pháp vũ sung măn. Tích sở vị tằng đổ, vô lượng trí huệ giả, như Ưu-đàm-bát hoa, kim nhật năi trị ngộ. Ngă đẳng chư cung điện, mông quang cố nghiêm sức. Thế Tôn đại từ mẫn. Duy nguyện thùy nạp thọ.

          ()時諸梵天王。頭面禮佛。繞百千匝。卽以天華而散佛上。所散之華。如須彌山。幷以供養佛菩提樹。華供養已。各以宮殿奉上彼佛。而作是言。惟見哀愍。饒益我等。所獻宮殿。願垂納受。爾時諸梵天王。卽於佛前。一心同聲以偈頌曰。世尊甚難見。破諸煩惱者。過百三十劫。今乃得一見。諸饑渴眾生。以法雨充滿。昔所未曾覩。無量智慧者。如優曇鉢華。今日乃值遇。我等諸宮殿。蒙光故嚴飾。世尊大慈愍。惟願垂納受。

          (Kinh: Lúc ấy, các Phạm thiên vương đầu mặt lễ Phật, nhiễu quanh trăm ngàn ṿng, liền dùng hoa trời rải lên đức Phật. Hoa đă rải như núi Tu Di, và cũng dùng [hoa ấy] để cúng dường cây Bồ Đề của Phật. Cúng dường hoa xong, đều đem cung điện dâng lên đức Phật ấy, mà nói như thế này: “Kính mong thương xót, lợi ích chúng con. Kính mong thâu nhận cung điện đă dâng hiến”. Lúc đó, các Phạm thiên vương liền ở trước Phật, một dạ đồng thanh, dùng kệ tụng rằng: - Thế Tôn rất khó thấy, đấng phá các phiền năo. Trải trăm ba mươi kiếp, nay mới gặp một lần. Các chúng sanh đói khát, dùng mưa pháp sung măn. Xưa kia chưa từng thấy, đấng vô lượng trí huệ, như hoa Ưu-đàm-bát, ngày nay được gặp gỡ. Cung điện của chúng con, được quang minh trang nghiêm. Thế Tôn đại từ mẫn, mong rủ ḷng tiếp nhận).

 

7.1.2.1.1.2.2.3.5. Thỉnh chuyển pháp luân

 

          (Kinh) Nhĩ thời, chư Phạm thiên vương kệ tán Phật dĩ, các tác thị ngôn: “Duy nguyện Thế Tôn chuyển ư pháp luân, linh nhất thiết thế gian chư thiên, ma, Phạm, sa-môn, Bà La Môn, giai hoạch an ổn, nhi đắc độ thoát”. Thời chư Phạm thiên vương, nhất tâm đồng thanh, dĩ kệ tụng viết: - Duy nguyện thiên nhân tôn, chuyển vô thượng pháp luân, kích vu đại pháp cổ, nhi xuy đại pháp loa, phổ vũ đại pháp vũ, độ vô lượng chúng sanh. Ngă đẳng hàm quy thỉnh, đương diễn thâm viễn âm.

          ()爾時諸梵天王偈讚佛已。各作是言。惟願世尊轉於法輪。令一切世間諸天魔梵沙門婆羅門。皆獲安隱而得度脫。時諸梵天王。一心同聲以偈頌曰。惟願天人尊。轉無上法輪。擊于大法鼓。而吹大法螺。普雨大法雨。度無量眾生。我等咸歸請。當演深遠音。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, các Phạm thiên vương nói kệ tán Phật xong, đều nói như thế này: “Kính mong đức Thế Tôn chuyển pháp luân, khiến cho hết thảy chư thiên, ma, Phạm, sa-môn, Bà La Môn trong thế gian đều được an ổn để được độ thoát”. Khi đó, các Phạm thiên vương nhất tâm đồng thanh, dùng kệ tụng nói: “Kính mong thiên nhân tôn, chuyển vô thượng pháp luân, gióng hồi trống đại pháp, và thổi ốc pháp lớn, tuôn khắp mưa pháp lớn, độ vô lượng chúng sanh. Chúng con đều quy thỉnh, xin diễn tiếng sâu xa”).

 

          Đă nói “vô thượng pháp luân”. Lại nói “đại pháp cổ, đại pháp loa” tức là đối với bán giáo mà nói rơ cầu thỉnh măn giáo, như Phương Đẳng trong hiện thời.

 

7.1.2.1.1.2.2.3.6. Như Lai yên lặng hứa khả

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Đại Thông Trí Thắng Như Lai mặc nhiên hứa chi.

          ()爾時大通智勝如來。默然許之。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Đại Thông Trí Thắng Như Lai yên lặng hứa khả).

 

          Phần thứ ba, phương Nam đă xong.

 

7.1.2.1.1.2.2.4. Nêu chung sáu phương kia

 

          (Kinh) Tây Nam phương năi chí hạ phương, diệc phục như thị.

          ()西南方乃至下方。亦復如是。

          (Kinh: Phương Tây Nam cho đến phương dưới cũng giống như thế).

 

          Liệt kê Phạm vương thuộc mười phương. Trong kinh Chánh Pháp Hoa, trước hết nói phương Tây, kế đến là bốn góc (bốn phương bàng), rồi đến phương trên và phương dưới, hoàn toàn tùy theo ư của dịch giả, chẳng rơ thứ tự trong bản gốc tiếng Phạn như thế nào!

 

7.1.2.1.1.2.2.5. Phương trên

7.1.2.1.1.2.2.5.1. Thấy tướng lành kinh hăi

 

          Mười phương thỉnh cầu đă xong, đức Thế Tôn liền nói. Cho nên chẳng yên lặng hứa khả.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, thượng phương ngũ bách vạn ức quốc độ chư đại Phạm vương, giai tất tự đổ sở chỉ cung điện, quang minh oai diệu, tích sở vị hữu, hoan hỷ, dũng dược, sanh hy hữu tâm.

          ()爾時上方五百萬億國土諸大梵王。皆悉自覩所止宮殿。光明威曜。昔所未有。歡喜踴躍。生希有心。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, các đại Phạm vương trong năm trăm vạn ức quốc độ ở phương trên, thảy đều tự thấy cung điện ḿnh đang ở quang minh oai mănh, sáng ngời, xưa kia chưa có, đều hoan hỷ, hớn hở, sanh tâm hy hữu).

 

7.1.2.1.1.2.2.5.2. Hỏi nhau để quyết nghi

 

          (Kinh) Tức các tương nghệ, cộng nghị thử sự: “Dĩ hà nhân duyên, ngă đẳng cung điện hữu tư quang minh?” Thời bỉ chúng trung, hữu nhất Đại Phạm thiên vương, danh viết Thi Khí, vị chư Phạm chúng, nhi thuyết kệ ngôn: - Kim dĩ hà nhân duyên, ngă đẳng chư cung điện. Oai đức quang minh diệu, nghiêm sức vị tằng hữu. Như thị chi diệu tướng, tích sở vị văn kiến. Vi đại đức thiên sanh? Vi Phật xuất thế gian?

          ()卽各相詣。共議此事。以何因緣。我等宮殿有斯光明。時彼眾中。有一大梵天王。名曰尸棄。為諸梵眾而說偈言。今以何因緣。我等諸宮殿。威德光明曜。嚴飾未曾有。如是之妙相。昔所未聞見。為大德天生。為佛出世間。

          (Kinh: Mỗi vị liền đến gặp nhau, cùng bàn chuyện này: “Do nhân duyên nào mà cung điện của chúng ta có quang minh này?” Khi đó, trong đại chúng có một vị Đại Phạm thiên vương tên là Thi Khí (Śikhin), v́ các Phạm thiên mà nói kệ rằng: - Nay do nhân duyên nào, cung điện của chúng ta, quang minh oai đức diệu, trang nghiêm chưa từng có? Diệu tướng như thế đó, xưa chưa được thấy, nghe. Là trời đại đức sanh? Hay là Phật xuất thế?)

 

7.1.2.1.1.2.2.5.3. Ḍ theo quang minh thấy Phật

 

          (Kinh) Nhĩ thời, ngũ bách vạn ức chư Phạm thiên vương, dữ cung điện câu, các dĩ y kích, thịnh chư thiên hoa, cộng nghệ hạ phương suy tầm thị tướng, kiến Đại Thông Trí Thắng Như Lai, xử vu đạo tràng Bồ Đề thụ hạ, tọa sư tử ṭa. Chư thiên, long vương, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng cung kính vi nhiễu, cập kiến thập lục vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân.

          ()爾時五百萬億諸梵天王。與宮殿俱。各以衣裓盛諸天華。共詣下方推尋是相。見大通智勝如來。處于道場菩提樹下。坐師子座。諸天龍王乾闥婆緊那羅摩羅伽人非人等恭敬圍繞。及見十六王子請佛轉法輪。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, năm trăm vạn ức các Phạm thiên vương cùng với cung điện, mỗi vị đều dùng lẵng hoa đựng các hoa trời, cùng tới phương Bắc ḍ t́m tướng ấy, thấy Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngự nơi đạo tràng dưới cội Bồ Đề, ngồi trên ṭa sư tử. Chư thiên, long vương, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân).

 

7.1.2.1.1.2.2.5.4. Tam nghiệp cúng dường

 

          (Kinh) Thời chư Phạm thiên vương đầu diện lễ Phật, nhiễu bách thiên táp. Tức dĩ thiên hoa nhi tán Phật thượng. Sở tán chi hoa như Tu Di sơn, tịnh dĩ cúng dường Phật Bồ Đề thụ. Hoa cúng dường dĩ, các dĩ cung điện phụng thượng bỉ Phật, nhi tác thị ngôn: “Duy kiến ai mẫn, nhiêu ích ngă đẳng. Sở hiến cung điện, nguyện thùy nạp xử”. Thời chư Phạm thiên vương tức ư Phật tiền, nhất tâm đồng thanh, dĩ kệ tụng viết: - Thiện tai kiến chư Phật, cứu thế chi thánh tôn, năng ư tam giới ngục, miễn xuất chư chúng sanh. Phổ trí thiên nhân tôn, ai mẫn quần manh loại, năng khai cam lộ môn, quảng độ ư nhất thiết. Ư tích vô lượng kiếp, không quá vô hữu Phật. Thế Tôn vị xuất thời, thập phương thường ám minh. Tam ác đạo tăng trưởng. A Tu La diệc thịnh, chư thiên chúng chuyển giảm. Tử đa đọa ác đạo, bất tùng Phật văn pháp, thường hành bất thiện sự. Sắc lực cập trí huệ, tư đẳng giai giảm thiểu. Tội nghiệp nhân duyên cố, thất lạc cập lạc tưởng, trụ ư tà kiến pháp, bất thức thiện nghi tắc. Bất mông Phật sở hóa, thường đọa ư ác đạo. Phật vi thế gian nhăn, cửu viễn thời năi xuất. Ai mẫn chư chúng sanh, cố hiện ư thế gian. Siêu xuất thành Chánh Giác. Ngă đẳng thậm hân khánh, cập dư nhất thiết chúng, hỷ thán vị tằng hữu. Ngă đẳng chư cung điện, mông quang cố nghiêm sức. Kim dĩ phụng Thế Tôn, duy thùy ai nạp thọ. Nguyện dĩ thử công đức, phổ cập ư nhất thiết, ngă đẳng dữ chúng sanh, giai cộng thành Phật đạo.

          ()時諸梵天王。頭面禮佛。繞百千匝。卽以天華而散佛上。所散之華。如須彌山。幷以供養佛菩提樹。華供養已。各以宮殿奉上彼佛。而作是言。惟見哀愍。饒益我等。所獻宮殿。願垂納處。時諸梵天王。卽於佛前。一心同聲以偈頌曰。善哉見諸佛。救世之聖尊。能於三界獄。勉出諸眾生。普智天人尊。哀愍群萌類。能開甘露門。廣度於一切。於昔無量劫。空過無有佛。世尊未出時。十方常闇瞑。三惡道增長。阿修羅亦盛。諸天眾轉減。死多墮惡道。不從佛聞法。常行不善事。色力及智慧。斯等皆減少。罪業因緣故。失樂及樂想。住於邪見法。不識善儀則。不蒙佛所化。常墮於惡道。佛為世間眼。久遠時乃出。哀愍諸眾生。故現於世間。超出成正覺。我等甚欣慶。及餘一切眾。喜歎未曾有。我等諸宮殿。蒙光故嚴飾。今以奉世尊。惟垂哀納受。願以此功德。普及於一切。我等與眾生。皆共成佛道。

          (Kinh: Lúc ấy, các Phạm thiên vương đầu mặt lễ Phật, nhiễu quanh trăm ngàn ṿng, liền dùng hoa trời rải lên đức Phật. Hoa đă rải như núi Tu Di, và cũng dùng [hoa ấy] để cúng dường cây Bồ Đề của Phật. Cúng dường hoa xong, đều đem cung điện dâng lên đức Phật ấy, mà nói như thế này: “Kính mong thương xót, lợi ích chúng con. Kính mong thâu nhận, ngự trong cung điện đă dâng hiến”. Lúc đó, các Phạm thiên vương liền ở trước Phật, một dạ đồng thanh, dùng kệ tụng rằng: - Lành thay thấy chư Phật, đấng thánh chuyên cứu đời, hay trong ngục tam giới, cứu thoát các chúng sanh. Thiên nhân tôn[19] trí khắp, thương xót loài quần sanh, hay mở cửa cam lộ, rộng độ hết tất cả. Xưa trong vô lượng kiếp, luống qua chẳng có Phật. Thế Tôn chưa xuất thế, mười phương thường tối tăm. Ba ác đạo tăng trưởng, A Tu La cũng đông, các chúng trời giảm bớt. Chết thường đọa đường ác. Chẳng theo Phật nghe pháp, thường làm chuyện chẳng lành. Sắc lực và trí huệ, các thứ đều giảm ít. Do nhân duyên tội nghiệp, mất lạc và lạc tưởng. Trụ trong pháp tà kiến, chẳng biết thiện nghi tắc. Chẳng được Phật hóa độ, thường đọa trong nẻo ác. Phật là mắt thế gian, lâu xa mới xuất hiện. Thương xót các chúng sanh, nên hiện trong thế gian. Siêu việt thành Chánh Giác. Chúng con rất vui mừng, và hết thảy chúng khác, mừng khen chưa từ có! Cung điện của chúng con, được quang minh trang hoàng. Nay dâng lên Thế Tôn, xin rủ ḷng thương nhận. Nguyện đem công đức này, hướng về khắp hết thảy, chúng con và chúng sanh, đều cùng thành Phật đạo).

 

          Trong đoạn trước, phương Đông Nam nói “một trăm tám mươi kiếp luống qua chẳng có Phật”; phương Nam nói “một trăm ba mươi kiếp mới được thấy Phật”. Nay nói “xưa kia vô lượng kiếp luống qua chẳng có Phật”. Cơ duyên bất đồng, cho nên thấy Phật gần hay xa như thế đó. Được quang minh chiếu đến bèn cùng nhau nhóm họp, há ngẫu nhiên ư? Dùng cổ để suy ra kim, lư chẳng hai nẻo! Hễ thấy, hễ nghe, đều thuận theo mà cảm ứng. Người nghe pháp hăy nên tưởng hân hạnh, khó gặp như thế nào!

 

7.1.2.1.1.2.2.5.5. Thỉnh chuyển pháp luân

 

          (Kinh) Nhĩ thời, ngũ bách vạn ức chư Phạm thiên vương, kệ tán Phật dĩ, các bạch Phật ngôn: “Duy nguyện Thế Tôn chuyển ư pháp luân, đa sở an ổn, đa sở độ thoát”. Thời chư Phạm thiên vương nhi thuyết kệ ngôn: - Thế Tôn chuyển pháp luân, kích cam lộ pháp cổ, độ khổ năo chúng sanh, khai thị Niết Bàn đạo. Duy nguyện thọ ngă thỉnh. Dĩ đại vi diệu âm, ai mẫn nhi phu diễn, vô lượng kiếp tập pháp.

          ()爾時五百萬億諸梵天王。偈讚佛已。各白佛言。惟願世尊轉於法輪。多所安隱。多所度脫。時諸梵天王而說偈言。世尊轉法輪。擊甘露法鼓。度苦惱眾生。開示涅槃道。惟願受我請。以大微妙音。哀愍而敷演。無量劫習法。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, năm trăm vạn ức các Phạm thiên vương nói kệ tán Phật xong, đều bạch cùng đức Phật rằng: “Kính mong đức Thế Tôn chuyển pháp luân, nhiều an ổn, nhiều độ thoát”. Khi đó, các Phạm thiên vương bèn nói kệ rằng: - Thế Tôn chuyển pháp luân, gióng trống pháp cam lộ, độ chúng sanh khổ năo, khai thị đạo Niết Bàn. Mong nhận lời con thỉnh, dùng tiếng vi diệu lớn, thương xót mà diễn bày, pháp tu vô lượng kiếp).

 

          Đă nói “dĩ đại vi diệu âm, phu diễn vô lượng kiếp tập pháp” (dùng âm thanh vi diệu to lớn để diễn bày pháp tu tập trong vô lượng kiếp). Lại nói “độ khổ chúng sanh” v.v… tức là cầu thỉnh măn giáo kèm thêm bán giáo, như Bát Nhă trong hiện thời. Nhưng pháp đạo của chư Phật giống nhau, chẳng nên thỉnh riêng lẻ. Như nay đức Phật từ đầu tới cuối, chuyển trọn vẹn pháp luân ngũ vị (sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ), mỗi mỗi đều là tương ứng với lời thỉnh của Phạm vương. Đức Phật kia cũng nên như thế, nay để nói cho tiện, kinh văn ghi mười sáu vương tử thoạt đầu thỉnh Hoa Nghiêm, cho đến [các vị Phạm vương thuộc] phương trên thỉnh Bát Nhă. Sau đó, mười sáu vị vương tử thỉnh Pháp Hoa, lớp lang rành rành, xưa và nay nhất trí. Phần thứ nhất, “nguyên do kết viễn duyên” đă xong.

 

7.1.2.1.2. Nguyên do gần

 

          Do Phật tiếp nhận lời thỉnh cầu bèn thuyết pháp; v́ thế, lại nhắc lại chuyện kết duyên. Kinh văn được chia thành hai phần: Một, chuyển bán tự pháp luân; hai, chuyển pháp luân phế bán tự, nêu ra măn tự.

 

7.1.2.1.2.1. Thọ thỉnh

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Đại Thông Trí Thắng Như Lai thọ thập phương chư Phạm thiên vương, cập thập lục vương tử thỉnh.

          ()爾時大通智勝如來。受十方諸梵天王及十六王子請。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Đại Thông Trí Thắng Như Lai tiếp nhận lời thỉnh của các vị Phạm thiên vương từ mười phương và mười sáu vị vương tử).

 

7.1.2.1.2.2. Chuyển pháp luân

 

          Ở đây, phải nói tam thừa giống như kinh văn trong phẩm Tự, nhưng nay chẳng nói, chính là v́ luận theo phương diện kết duyên, khai hiển v.v… cho hạ căn mà lược đi chẳng nhắc tới Lục Độ. Lại nữa, đức Phật ấy thành đạo, ắt cũng diễn nói Đại Hoa Nghiêm, nhưng do đó chẳng phải là nguyên do chánh yếu để kết duyên, cho nên lược đi chẳng nói. Kinh văn được chia thành hai phần: Một, nói về Tứ Đế; hai, nói về mười hai nhân duyên.

 

7.1.2.1.2.2.1. Nói về Tứ Đế

 

          (Kinh) Tức thời tam chuyển thập nhị hành pháp luân, nhược sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, ma, Phạm, cập dư thế gian sở bất năng chuyển, vị thị Khổ, thị Khổ Tập, thị Khổ Diệt, thị Khổ Diệt Đạo.

          ()卽時三轉十二行法輪。若沙門。婆羅門。若天。魔。梵。及餘世間所不能轉。謂是苦。是苦集。是苦滅。是苦滅道。

          (Kinh: Lập tức ba lượt chuyển pháp luân mười hai hành, dù sa-môn, Bà La Môn, hay thiên, ma, Phạm, và những kẻ khác trong thế gian đều chẳng thể chuyển, tức là Khổ, là Khổ Tập, là Khổ Diệt, là Khổ Diệt Đạo).

 

          “Tam chuyển”: Một là Thị Chuyển, hai là Khuyến Chuyển, ba là Chứng Chuyển.

          1) Thị Chuyển (chuyển pháp luân bằng cách chỉ bày), tức là nói “đây là Khổ”, tức quả báo trong hai mươi lăm Hữu thuộc tam giới, đều là pháp sanh tử khổ sở. Lạc là Hoại Khổ. Khổ là Khổ Khổ. Chẳng khổ chẳng lạc là Hành Khổ. Thật sự là khổ, chẳng thể khiến cho [chúng sanh] an vui. Đây là Khổ Tập, tức Kiến Tư phiền năo thuộc tam giới, và ba nghiệp “hữu lậu thiện, bất thiện, bất động”, đích xác là cái nhân chuốc khổ, chẳng c̣n cái nhân nào khác! Đây là Khổ Diệt, tức là diệt Kiến Tư, cho nên hữu lậu diệt. Do hữu lậu diệt nên sanh tử diệt. Chỉ có nơi ấy là chỗ tịch tĩnh, an ổn, chẳng có nơi nào khác! Đây là Khổ Diệt Dạo. Do Giới sanh ra Định, do Định phát Huệ. Nương vào Tứ Niệm Xứ, trọn đủ ba mươi bảy đạo phẩm, nhập tam thoát môn[20]; đó là đạo diệt Khổ, chẳng c̣n đạo nào khác.

          2) Khuyến Chuyển (chuyển pháp luân bằng cách khuyên răn): Đây là Khổ, các ngươi nên biết. Đây là Tập, các ngươi nên đoạn. Đây là Diệt, các ngươi nên chứng. Đây là Đạo, các ngươi nên tu.

          3) Chứng Chuyển (chuyển pháp luân bằng chứng nhập): Đây là Khổ, ta đă biết, chẳng c̣n ǵ phải biết nữa. Đây là Tập, ta đă đoạn, chẳng c̣n phải đoạn ǵ nữa. Đây là Diệt, ta đă chứng, chẳng c̣n chứng chi khác. Đây là Đạo, ta đă tu, chẳng c̣n tu ǵ nữa.

          V́ sao tam chuyển? Chư Phật thuyết pháp, pháp trở thành ba là do chúng sanh có ba loại căn cơ (thượng, trung, hạ), v́ sanh khởi Tam Huệ “Văn, Tư, Tu”, v́ sanh Tam Đạo “Kiến, Tu, Vô Học”.

          “Mười hai hành”: Một là xét theo giáo, hai là xét theo hạnh. Xét theo giáo, tức là Thị, Khuyến, Chứng (ba lần bốn thành mười hai, tức là Tứ Đế được chuyển ba lần sẽ thành mười hai Đế). Xét theo hạnh, tam chuyển đều sanh ra “nhăn, trí, minh, giác”, tức: Khổ Pháp Nhẫn là mắt (nhăn), Khổ Pháp Trí là trí, Khổ Loại Nhẫn là minh, Khổ Loại Trí là giác. Ba đế kia (Tập, Diệt, Đạo) cũng thế. Do vậy thành mười sáu tâm (Tứ Đế, mỗi Đế đều có nhăn, trí, minh, giác, cho nên thành mười sáu tâm). Người thuộc ba loại căn cơ đều có mười sáu tâm; do vậy, thành bốn mươi tám hạnh. Lại xét theo một Đế bèn gọi là “mười hai hạnh”. Mười hai đế là giáo pháp luân. Mười hai hạnh là hành pháp luân. Mười hai Đế trong giáo là năng chuyển (chủ thể có thể chuyển), mười hai điều thuộc hạnh là sở chuyển (cái được chuyển). Giáo luân th́ năng chuyển chỉ có một là Quyền Trí. Sở chuyển th́ có mười hai giáo. Đối với hành pháp luân th́ giáo để có thể chuyển (năng chuyển chi giáo) gồm mười hai món. Sở chuyển hạnh cũng có mười hai điều. Hoặc chung cho cả ba loại căn cơ, hoặc chỉ xét theo một loại căn cơ; nay là xét theo Kiến Đế Đạo. Hàng lợi căn trong tam thừa nghe Thị Chuyển, ai nấy đều sanh “nhăn, trí, minh, giác”. Do nói gộp chung ba loại căn cơ, nên nói là “mười hai hành”. “Luân” là chuyển, tức đem các pháp môn đă ngộ trong tâm Phật chuyển sang tâm người khác. V́ thế nói là Luân. Luân lại có nghĩa là “nghiền nát”. Chúng sanh nghe giáo khởi hạnh, phá tan các Hoặc. V́ thế gọi là Luân.

          Sa-môn chẳng nghe, c̣n chẳng thể biết, huống hồ có thể chuyển ư? Bích Chi Phật tuy ngộ, miệng chẳng thể nói. Bà La Môn tuy nghe danh tự, khó hiểu lư này. Thiên, ma, Phạm thiên v.v… cũng thế. V́ thế nói là sở bất năng chuyển” (chẳng thể chuyển). Nhưng Tứ Đế thông Đại, Tiểu, và Thiên, Viên, tức là “sanh diệt, vô sanh, vô lượng, vô tác” [Tứ Đế]. Tùy theo trí thấu hiểu, mỗi mỗi khác biệt. Đại lược như trong phần Huyền Nghĩa đă nói kinh Hoa Nghiêm có phẩm Tứ Thánh Đế do ngài Văn Thù nương vào thần lực của Phật mà tuyên thuyết, há có nên phán định [Tứ Đế] chỉ thuộc vào pháp Thanh Văn ư?

 

7.1.2.1.2.2.2. Mười hai nhân duyên

 

          (Kinh) Cập quảng thuyết thập nhị nhân duyên pháp: Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục Nhập, Lục Nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lăo, Tử, ưu bi khổ năo. Vô Minh diệt tắc Hành diệt. Hành diệt tắc Thức diệt. Thức diệt tắc Danh Sắc diệt. Danh Sắc diệt tắc Lục Nhập diệt. Lục Nhập diệt tắc Xúc diệt. Xúc diệt tắc Thọ diệt. Thọ diệt tắc Ái diệt. Ái diệt tắc Thủ diệt. Thủ diệt tắc Hữu diệt. Hữu diệt tắc Sanh diệt. Sanh diệt tắc Lăo, Tử, ưu bi khổ năo diệt.

          ()及廣說十二因緣法。無明緣行。行緣識。識緣名色。名色緣六入。六入緣觸。觸緣受。受緣愛。愛緣取。取緣有。有緣生。生緣老死憂悲苦惱。無明滅則行滅。行滅則識滅。識滅則名色滅。名色滅則六入滅。六入滅則觸滅。觸滅則受滅。受滅則愛滅。愛滅則取滅。取滅則有滅。有滅則生滅。生滅則老死憂悲苦惱滅。

          (Kinh: Và nói rộng pháp mười hai nhân duyên (Dvādaśāiga Pratityasamutpāda): Vô Minh (Avidyā) duyên Hành (Saṁskāra), Hành duyên Thức (Vijñāna), Thức duyên Danh Sắc (Nāmarūpa), Danh Sắc duyên Lục Nhập (Saḍāyatana), Lục Nhập duyên Xúc (Sparśa), Xúc duyên Thọ (Vedanā), Thọ duyên Ái (Tṛṣṇā), Ái duyên Thủ (Upādāna), Thủ duyên Hữu (Bhava), Hữu duyên Sanh (Jāti), Sanh duyên Lăo Tử (Jarāmaraṇa), ưu bi khổ năo. Vô Minh diệt th́ Hành diệt. Hành diệt th́ Thức diệt. Thức diệt th́ Danh Sắc diệt. Danh Sắc diệt th́ Lục Nhập diệt. Lục Nhập diệt th́ Xúc diệt. Xúc diệt th́ Thọ diệt. Thọ diệt th́ Ái diệt. Ái diệt th́ Thủ diệt. Thủ diệt th́ Hữu diệt. Hữu diệt th́ Sanh diệt. Sanh diệt th́ Lăo Tử, ưu bi khổ năo diệt).

 

          “Cập quảng thuyết” (và nói rộng) tức là nói mười hai nhân duyên, vẫn là nói Tứ Đế theo biệt tướng. Năm chi Vô Minh, Hành, Ái, Thủ, Hữu vẫn là Tập Đế. Bảy chi kia vẫn là Khổ Đế. Vô Minh diệt th́ Hành diệt, cho đến già chết diệt, vẫn là Diệt Đế. Cái trí quán nhân duyên chính là Đạo Đế. V́ thế nói “cập quảng thuyết”. Mười hai pháp ấy cũng thông Đại, Tiểu, Thiên, Viên, tức là tư nghị sanh diệt, tư nghị bất sanh diệt, bất tư nghị sanh diệt, bất tư nghị bất sanh diệt, đại lược như trong phần Huyền Nghĩa đă nói. Trong kinh Hoa Nghiêm, Lục Địa Bồ Tát có mười loại quan sát mười hai nhân duyên, thành tựu Bát Nhă Vô Phân Biệt Trí, há có nên phán định [mười hai nhân duyên] chỉ thuộc vào pháp của Bích Chi Phật? Nay lại nương theo Duy Thức, tŕnh bày đại lược tướng tư nghị sanh diệt.

          - Một, Vô Minh tức là phát nghiệp vô minh (cái vô minh có thể dấy khởi nghiệp), tức là sự ngu muội đối với dị thục quả[21], chẳng hiểu thiện hay ác đều nhất định có quả báo, và ngu muội đối với nghĩa chân thật, tức là do chẳng hiểu tam giới là khổ, không, cho nên có thể phát khởi cái nghiệp chiêu cảm sanh tử. Tuy sân, mạn v.v… đều có thể phát khởi nghiệp, nhưng Vô Minh là chủ yếu. V́ thế, riêng nói đến nó.

          - Hai, Hành chính là ba thứ hữu lậu nghiệp thiện, ác, bất động (chẳng thiện chẳng ác) do vô minh phát khởi, có thể cảm vời dị thục quả thật sự trong tương lai. Hai chi này (Vô Minh và Hành) được gọi là Năng Dẫn Chi (chi có thể dẫn khởi).

          - Ba, Thức: Do Vô Minh và Hành làm cái có thể dẫn khởi, mà tạo thành cái được dẫn khởi là chủng tử của tổng báo trong tương lai,

          - Bốn, Danh Sắc: Do có thức chủng tử của tổng báo, sẽ trọn đủ chủng tử của Ca La La[22] v.v… khi vừa thọ sanh trong tương lai. Bốn Ấm Thọ, Tưởng, Hành, Thức là Danh, Sắc Ấm là Sắc.

          - Năm, Lục Nhập: Đă có chủng tử của Thức và Danh Sắc, sẽ trọn đủ chủng tử của Lục Xứ trong tương lai, [Lục Xứ] tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư.

          - Sáu, Xúc: Đă có chủng tử của Thức, Danh Sắc, và Lục Nhập, sẽ trọn đủ chủng tử Xúc Tâm Sở khi sáu căn tiếp xúc cảnh trong tương lai.

          - Bảy, Thọ: Đă có chủng tử của Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, và Xúc, sẽ trọn đủ chủng tử của ba thứ Thọ Tâm Sở (Khổ, Lạc, Xả) khi lănh nạp các cảnh thuận, nghịch v.v… trong tương lai.

          Năm chi này (Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ) đều được gọi là Sở Dẫn Chi. Do Vô Minh chẳng phát khởi dẫn nghiệp th́ thôi; hễ đă phát khởi dẫn nghiệp, lẽ đương nhiên là dẫn khởi năm thứ chủng tử ấy, chẳng mất, chẳng hoại. Do vậy, chúng được gọi là Sở Dẫn Chi.

          - Tám, Ái: Do từ Vô Minh và Hành đă dẫn khởi năm thứ chủng tử như Thức v.v… được thành tựu trong tương lai. Lại do mê sự mà vô minh, chẳng hiểu cảnh là hư vọng, đối với những điều được cảm thọ mà lầm lạc nẩy sanh tham ái! Tuy ở trong nghịch cảnh, cũng khởi sân v.v… nhưng ái tập (tập khí Ái) như nước, có khả năng nhuận sanh (tăng trưởng tham ái) mạnh nhất. V́ thế, riêng nói đến nó.

          - Chín, Thủ: Do Ái, theo đuổi cảnh giới yêu mến bằng đủ mọi cách, sanh đắm nhiễm sâu đậm.

          - Mười, Hữu: Do từ Ái và Thủ dấy khởi nghiệp lực, nhiều lượt vun bồi Thức v.v… Do chủng tử của năm chi, chủng tử được vun bồi bèn nẩy sanh mầm mống của Hữu, chắc chắn sẽ cảm dị thục quả báo trong tương lai. Ba chi này (Ái, Thủ, Hữu) được gọi là Năng Sanh Chi.

          - Mười một, Sanh tức là cái mầm của hậu hữu (thân trong đời sau). Nó đă thành tựu, hễ xả cuộc đời này bèn sanh vào đời kia.

          - Mười hai, Lăo Tử: Đă sanh, sẽ dần dần biến đổi suy vi, được gọi là Lăo. Rốt cuộc quy vào vô thường th́ gọi là Tử[23].

          Hai chi này (Sanh và Lăo Tử) được gọi là Sở Sanh Chi. Mười chi trước là nhân, cùng thuộc về hiện tại. Hai chi sau cùng là quả, riêng xét theo vị lai. Do mười chi của đời trước, cảm vời sanh tử trong đời này. Do mười chi trong đời này, lại cảm sanh tử trong đời sau. Nhân quả ba đời, luân hồi không dứt. V́ thế gọi là tướng Thập Nhị Duyên Sanh, tức là Khổ Đế và Tập Đế được nói rộng. Nếu chán ghét già chết, hăy biết lăo và tử là do sanh mà có. Kế đó liền chán sanh, biết Sanh do Hữu mà có. Biết Hữu do Thủ, biết Thủ do Ái. Ái có nhân là Thọ, Xúc là nhân của Thọ. Xúc có nhân là Lục Nhập. Lục Nhập có nhân là Danh Sắc. Danh Sắc do Thức mà có, Thức do Hành mà có, Hành do Vô Minh mà có. Vô Minh chỉ v́ điên đảo, vọng tưởng mà có, chẳng c̣n do chi khác.

          Chánh niệm quán sát, chẳng ngu lầm đối với dị thục quả. Tin sâu đậm “làm ác sẽ mắc họa ương, làm lành được vui”, chẳng ngu lầm đối với nghĩa chân thật. Tin sâu “ở trong tam giới là khổ, thoát khỏi tam giới là lạc”. Đó gọi là trí quán nhân duyên. Do bởi trí ấy, Vô Minh bèn diệt. Vô Minh diệt th́ Hành diệt, cho đến già, chết, ưu bi, khổ năo đều diệt. Do đó gọi là Diệt Tướng của mười hai nhân duyên, tức là Đạo Đế và Diệt Đế được nói rộng. Liệu giản ư nghĩa của mười hai chi cũng có nhiều môn, do ở đây chẳng cần thiết lắm, cho nên không sao lục trọn vẹn. Phần Đoạn sanh tử đă là như thế, Biến Dịch sanh tử cũng có tướng duyên sanh và duyên diệt. Phần Đoạn gồm mười hai món, tức là tư nghị sanh diệt. Nếu thấu đạt các pháp ấy chính là Không, sẽ là tư nghị bất sanh diệt. Biến Dịch sanh tử gồm mười hai món, tức là bất tư nghị sanh diệt. Nếu thấu đạt chúng chính là Trung, th́ chính là bất tư nghị bất sanh diệt.

          Lại nữa, nếu ngộ bất tư nghị bất sanh diệt, th́ mười hai món Phần Đoạn sanh tử cũng chính là bất tư nghị bất sanh diệt. V́ thế nói: “Hoặc chính là Bát Nhă, nghiệp chính là Giải Thoát, Khổ chính là Pháp Thân. Đương xứ (ngay nơi ấy) thanh tịnh, đương xứ tự tại. Đương xứ rốt ráo”. Một thứ đă thanh tịnh th́ hết thảy đều thanh tịnh. Một thứ tự tại th́ hết thảy đều tự tại. Một thứ rốt ráo th́ hết thảy đều rốt ráo. Phần thứ hai, “chuyển pháp luân” đă xong!

 

7.1.2.1.2.3. Nghe pháp đắc đạo

 

          (Kinh) Phật ư thiên nhân đại chúng chi trung thuyết thị pháp thời, lục bách vạn ức na-do-tha nhân dĩ bất thọ nhất thiết pháp cố, nhi ư chư lậu tâm đắc giải thoát, giai đắc thâm diệu Thiền Định, tam minh, lục thông, cụ bát giải thoát. Đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thuyết pháp thời, thiên vạn ức hằng hà sa na-do-tha đẳng chúng sanh diệc dĩ bất thọ nhất thiết pháp cố, nhi ư chư lậu tâm đắc giải thoát. Tùng thị dĩ hậu, chư Thanh Văn chúng vô lượng vô biên bất khả xưng số.

          ()佛於天人大眾之中說是法時。六百萬億那由他人。以不受一切法故。而於諸漏心得解脫。皆得深妙禪定。三明六通。具八解脫。第二第三第四說法時千萬億恆河沙那由他等眾生。亦以不受一切法故。而於諸漏心得解脫。從是已後。諸聲聞眾無量無邊。不可稱數。

          (Kinh: Lúc đức Phật ở giữa đại chúng trời người nói pháp ấy, sáu trăm vạn ức na-do-tha người do chẳng thọ hết thảy các pháp, bèn đối với các lậu, tâm được giải thoát, đều đạt được Thiền Định sâu mầu, tam minh, lục thông, trọn tám món giải thoát. Khi thuyết pháp lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, ngàn vạn ức hằng hà sa na-do-tha v.v… chúng sanh cũng do chẳng thọ hết thảy các pháp mà đối với các lậu, tâm được giải thoát. Từ đấy trở đi, các vị Thanh Văn vô lượng vô biên chẳng thể tính kể).

 

          “Bất thọ nhất thiết pháp” (chẳng thọ hết thảy các pháp) tức là chẳng thọ Tứ Kiến[24], chứng Sơ Quả. “Ư chư lậu tâm đắc giải thoát” (đối với các lậu, tâm được giải thoát) tức là thoát khỏi các trói buộc bởi Kiến Tư Hoặc, đă chứng Vô Học. “Thâm diệu Thiền Định”: Quán luyện, huân tu các món Thiền đều được giải thoát.

          Hỏi: Tứ Đế, mười hai nhân duyên đă chung khắp cho tứ giáo, [vậy th́] cũng có người [do nghe Đại Thông Trí Thắng Phật nói Tứ Đế, mười hai nhân duyên mà] chứng Đại pháp hay không?

          Đáp: Chẳng hạn như Phật Thích Ca thoạt đầu nói Tam Quy Ngũ Giới, c̣n có tám vạn chư thiên ngộ Vô Sanh Nhẫn. Phật Phật đạo đồng, lẽ nào vị Phật ấy (Đại Thông Trí Thắng Phật) chẳng giống như vậy? Kinh văn ở đây chú trọng lược thuật nguyên do kết duyên, rảnh đâu để trần thuật các lợi ích bí mật, bất định v.v… thuở xa xưa? Phần thứ nhất, “chuyển bán tự pháp luân” đă xong.

 

7.1.2.2. Chuyển pháp luân phế bán giáo, nêu rơ măn giáo

7.1.2.2.1. Các con xuất gia

 

          (Kinh) Nhĩ thời, thập lục vương tử, giai dĩ đồng tử xuất gia nhi vi sa-di, chư căn thông lợi, trí huệ minh liễu, dĩ tằng cúng dường bách thiên vạn ức chư Phật, tịnh tu phạm hạnh, cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()爾時十六王子。皆以童子出家而為沙彌。諸根通利。智慧明了。已曾供養百千萬億諸佛。淨修梵行。求阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, mười sáu vương tử đều là đồng tử xuất gia làm sa-di, các căn thông suốt, nhạy bén, trí huệ sáng tỏ, đă từng cúng dường trăm ngàn vạn ức chư Phật, tịnh tu phạm hạnh, cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          “Chư căn thông lợi” (các căn thông suốt, nhạy bén) tức là sáu căn thanh tịnh. Hơn nữa, sáu căn dùng lẫn cho nhau gọi là Thông; chứng cảnh giới của Phật là Lợi. “Trí huệ minh liễu” chính là khai thị ngộ nhập (thoạt đầu, xét theo địa vị Tương Tự để giải thích. Kế đó, dựa theo địa vị Phần Chứng để giải thích).

 

7.1.2.2.2. Thỉnh pháp

 

          (Kinh) Câu bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thị chư vô lượng thiên vạn ức đại đức Thanh Văn giai dĩ thành tựu. Thế Tôn diệc đương vị ngă đẳng thuyết A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề pháp. Ngă đẳng văn dĩ, giai cộng tu học. Thế Tôn! Ngă đẳng chí nguyện Như Lai tri kiến, thâm tâm sở niệm, Phật tự chứng tri.

          ()俱白佛言。世尊。是諸無量千萬億大德聲聞。皆已成就。世尊亦當為我等說阿耨多羅三藐三菩提法。我等聞已。皆共修學。世尊。我等志願如來知見。深心所念。佛自證知。

          (Kinh: Đều bạch Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Vô lượng ngàn vạn ức đại đức Thanh Văn đây đều đă thành tựu, Thế Tôn cũng nên v́ chúng con nói pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chúng con nghe rồi, đều cùng tu học. Bạch Thế Tôn! Chúng con chí nguyện tri kiến của Như Lai, thâm tâm nghĩ tưởng, Phật tự chứng biết).

 

          Thoạt đầu, đức Phật ấy nói pháp viên đốn. Các con đều đă trọn đủ công đức Đại Thừa, thương xót các phương tiện (tức bảy loại căn cơ, thường gọi là “bảy phương tiện”), lại thỉnh Phật khai Quyền hiển Thật. “Thanh Văn giai dĩ thành tựu” (Thanh Văn đều đă thành tựu) nói rơ đă trừ chướng, căn cơ [Đại Thừa] đă dấy động. Do vậy, [các vương tử sa-di] v́ họ thỉnh cầu. “Ngă đẳng chí nguyện Như Lai tri kiến giả” (chúng con chí nguyện tri kiến của Như Lai): Kinh Pháp Hoa chỉ nói về tri kiến của Phật, chỉ dốc chí vào đó. Đấy chính là phần kinh văn thỉnh cầu măn tự, phế trừ bán tự vậy!

 

7.1.2.2.3. Những người được dẫn theo cũng xuất gia

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Chuyển Luân Thánh Vương sở tương chúng trung bát vạn ức nhân, kiến thập lục vương tử xuất gia, diệc cầu xuất gia. Vương tức thính hứa.

            ()爾時轉輪聖王所將眾中八萬億人。見十六王子出家。亦求出家。王卽聽許。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, tám vạn ức người trong số những người do Chuyển Luân Thánh Vương dẫn tới, thấy mười sáu vương tử xuất gia, cũng xin xuất gia. Vua liền chấp thuận).

 

7.1.2.2.4. Đức Phật chấp thuận lời thỉnh cầu

 

          (Kinh) Nhĩ thời, bỉ Phật thọ sa-di thỉnh, quá nhị vạn kiếp dĩ, năi ư tứ chúng chi trung, thuyết thị Đại Thừa kinh, danh Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Thuyết thị kinh dĩ, thập lục sa-di vị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cố, giai cộng thọ tŕ, phúng tụng thông lợi.

          ()爾時彼佛受沙彌請。過二萬劫已。乃於四眾之中說是大乘經。名妙法蓮華。教菩薩法。佛所護念。說是經已。十六沙彌。為阿耨多羅三藐三菩提故。皆共受持。諷誦通利。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật nhận lời thỉnh của các sa-di, sau hai vạn kiếp, bèn v́ tứ chúng nói kinh Đại Thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Nói kinh ấy rồi, mười sáu sa-di v́ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đều cùng thọ tŕ, phúng tụng[25] thông suốt).

 

          “Quá nhị vạn kiếp” (qua hai vạn kiếp): Ban bố tam thừa đă lâu, chẳng để cho khoảng giữa vô sự; đối ứng với ư nghĩa trong Trùng Tụng thuộc phần sau, [sẽ biết là trước khi nói kinh Pháp Hoa, Đại Thông Trí Thắng Như Lai] ắt nói Phương Đẳng, Bát Nhă. Kệ tụng ghi: “Thuyết Lục Ba La Mật, cập chư thần thông sự” (nói sáu Ba La Mật và các chuyện thần thông). Bát Nhă là hạnh, thần thông là Sự. Các kinh Phương Đẳng phần nhiều nói về chuyện chẳng thể nghĩ bàn. Kệ tụng c̣n nói: “Phân biệt chân thật pháp”, ngụ ư kinh Đại Phẩm giảng về Thật Tướng Bát Nhă.

 

7.1.2.2.5. Đại chúng khi ấy có người hiểu, có người chẳng hiểu

 

          (Kinh) Thuyết thị kinh thời, thập lục Bồ Tát sa-di giai tất tín thọ. Thanh Văn chúng trung, diệc hữu tín giải. Kỳ dư chúng sanh thiên vạn ức chủng giai sanh nghi hoặc.

          ()說是經時。十六菩薩沙彌。皆悉信受。聲聞眾中。亦有信解。其餘眾生千萬億種。皆生疑惑。

          (Kinh: Lúc nói kinh ấy, mười sáu vị Bồ Tát sa-di thảy đều tin nhận. Trong các vị Thanh Văn, cũng có người tin hiểu. Ngàn vạn ức loại chúng sanh khác đều sanh nghi hoặc).

 

          Tin nhận th́ sẽ có thể hoằng truyền, lưu thông; tin hiểu sẽ có thể nhập Thật. Ngờ vực, chẳng hiểu có đến ngàn vạn ức người, tức là những kẻ kết duyên Pháp Hoa với mười sáu vị vương tử.

          Hỏi: Từ khi Phật chấp thuận lời thỉnh cầu cho tới nay đă qua hai vạn kiếp rồi, v́ lẽ nào mười sáu vị vương tử vẫn chẳng tiến lên thọ Cụ Túc Giới, vẫn gọi là sa-di? Đă là sa-di, sao lại gọi là Bồ Tát?

          Đáp: Mười sáu vị vương tử vốn là Bồ Tát, do sốt sắng học Đại Thừa, chẳng rảnh để tiến nhập Cụ Túc Giới, từ đầu đến cuối hiện thân đồng tử. Sa-di được thọ Bồ Tát đại giới chính là quy củ thường hằng của chư Phật, sao đáng để khởi nghi? Dẫu thọ đại giới, địa vị vẫn là sa-di, chưa hề tiếm việt địa vị tỳ-kheo, rối loạn bản thể trụ tŕ Tăng Bảo! Chẳng hạn như đại thánh Văn Thù [trong] hết thảy [oai nghi] đi ngồi đều nhường ngài Ma Ha Ca Diếp, đă có kinh văn rơ ràng, chỉ do người ta chẳng suy xét đó thôi!

          Hỏi: Ngàn vạn ức người đă chẳng thể hiểu, sao không khiến cho họ lui ra như năm ngàn người [trong hội Pháp Hoa của Thích Ca Mâu Ni Phật]? Sao không dời họ sang cơi Phật ở phương khác [như khi hiện bảo tháp, thuyết thọ mạng của Như Lai] để họ đến nỗi nẩy sanh nghi hoặc?

          Đáp: Dẫu sanh nghi th́ cũng trở thành Kết Duyên Chúng; v́ thế, chẳng dời họ đi. Nếu [là kẻ] sanh ḷng hủy báng, sẽ đọa khổ, cho nên cần phải trục xuất họ. Tức là khi vị Phật hiện tại (Phật Thích Ca) nói Pháp Hoa, đảm bảo chẳng có kẻ sanh nghi!

 

7.1.2.2.6. Thời tiết

 

          (Kinh) Phật thuyết thị kinh, ư bát thiên kiếp vị tằng hưu phế.

          ()佛說是經。於八千劫未曾休廢。

          (Kinh: Đức Phật nói kinh này trong tám ngàn kiếp, chưa từng nghỉ ngơi, phế bỏ).

 

          Hỏi: Tương truyền Phật Thích Ca nói kinh Pháp Hoa chỉ tám năm, đă khó tin rồi. Khai Quyền hiển Thật, khai Tích hiển Bổn th́ phải nói chẳng ngại phiền! Đức Phật kia trong tám ngàn kiếp chưa từng nghỉ ngơi, phế trừ, chẳng biết Ngài nói những ǵ vậy?

          Đáp: Chỉ bốn chữ “khai Quyền, hiển Thật”, giả sử nói trong hằng hà sa kiếp cũng chẳng cùng tận, huống hồ chỉ tám ngàn kiếp, hoặc chỉ tám năm ư? Vả nữa, Thật Tướng của các pháp [được diễn tả] bằng mấy câu, nghĩa lư đă mênh mông, bao gồm thấu triệt trọn hết ba pháp “tánh tu, nhân quả, ngang dọc” trong bách giới Thiên Như chẳng c̣n sót ǵ, có thể diễn nói đến cùng tận đời vị lai, huống hồ khai Tích hiển Bổn nói trọn vẹn chuyện chẳng thể nghĩ bàn trong bao kiếp vời vợi ư? Lại như các vị Bồ Tát từ dưới đất vọt lên, dùng các loại pháp tán thán của Bồ Tát để tán thán đức Phật suốt năm mươi tiểu kiếp. Khi chư Phật hiện thần lực, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, liền [hiện tướng ấy] trọn đủ trăm ngàn năm. Sao lại dùng cái tâm phàm phu để toan suy lường pháp vi diệu rất sâu của Như Lai ư?

 

7.1.2.2.7. Nói xong nhập Định

 

          (Kinh) Thuyết thị kinh dĩ, tức nhập tĩnh thất, trụ ư Thiền Định bát vạn tứ thiên kiếp.

          ()說是經已。卽入靜室。住於禪定八萬四千劫。

          (Kinh: Nói kinh ấy xong, liền vào tĩnh thất, trụ trong Thiền Định tám vạn bốn ngàn kiếp).

 

          Đây chính là nguyên do gần của chuyện kết duyên. Do Phật nhập Định, những người nghi hoặc không có chỗ nào để thưa hỏi. Mười sáu vị vương tử v́ những kẻ chẳng hiểu mà giảng lại kinh này. Kinh văn nói rơ chỗ nhập Định, tức là “tĩnh thất”. “Chánh nhập Định” tức là trụ trong Thiền Định. Thời gian nhập Định là tám vạn bốn ngàn kiếp; nhưng tâm chư Phật không lúc nào chẳng Định, há có xuất nhập? Chỉ v́ cơ duyên của đại chúng thuở ấy ở nơi mười sáu người con, cho nên đối với chừng hạn của việc kết duyên phải nên ấn định thời hạn như thế. Phần thứ nhất, “nguyên do kết duyên” đă xong.

 

7.1.3. Chánh kết duyên

7.1.3.1 Kết duyên cho Pháp Thuyết Châu

7.1.3.1.1. Kết duyên với Phật và Bồ Tát trong quá khứ

7.1.3.1.1.1. [Mười sáu Sa-di Bồ Tát] giảng lại kinh ḥng lợi ích chúng sanh

 

          (Kinh) Thị thời, thập lục Bồ Tát sa-di tri Phật nhập thất tịch nhiên Thiền Định, các thăng pháp ṭa, diệc ư bát vạn tứ thiên kiếp, vị tứ bộ chúng quảng thuyết phân biệt Diệu Pháp Hoa kinh. Nhất nhất giai độ lục bách vạn ức na-do-tha hằng hà sa đẳng chúng sanh, thị giáo lợi hỷ, linh phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm.

          ()是時十六菩薩沙彌。知佛入室寂然禪定。各升法座。亦於八萬四千劫。為四部眾。廣說分別妙法華經。一一皆度六百萬億那由他恆河沙等眾生。示教利喜。令發阿耨多羅三藐三菩提心。

          (Kinh: Khi đó, mười sáu vị Bồ Tát sa-di biết Phật nhập thất, lặng lẽ Thiền Định, đều lên pháp ṭa, cũng trong tám vạn bốn ngàn kiếp, v́ bốn bộ chúng rộng nói phân biệt kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Mỗi vị đều độ chúng sanh nhiều như số cát trong sáu trăm vạn ức na-do-tha sông Hằng, chỉ dạy khiến cho họ được lợi ích, hoan hỷ, khiến cho họ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          Sa-di thăng ṭa [thuyết pháp]; không chỉ mười sáu vị Bồ Tát là như thế, ngay như trong Tỳ Ni Tạng hiện thời cũng có kinh văn ghi chép rơ rệt, chú trọng nơi giải, chứ không phải tuổi tác. “Linh phát đại Bồ Đề tâm” (khiến cho họ phát tâm đại Bồ Đề) th́ gọi là Độ. Thệ nguyện sẽ thành Phật là đă vượt xa thế gian, tức là ư nghĩa “độ bảy loại phương tiện đạt đến bờ kia”.

 

7.1.3.1.1.2. Đức Phật xuất Định, khen ngợi

7.1.3.1.1.2.1. Xưng thán

 

          (Kinh) Đại Thông Trí Thắng Phật quá bát vạn tứ thiên kiếp dĩ, tùng tam-muội khởi, văng nghệ pháp ṭa, an tường nhi tọa, phổ cáo đại chúng: - Thị thập lục Bồ Tát sa-di thậm vi hy hữu, chư căn thông lợi, trí huệ minh liễu, dĩ tằng cúng dường vô lượng thiên vạn ức số chư Phật, ư chư Phật sở, thường tu phạm hạnh, thọ tŕ Phật trí, khai thị chúng sanh, linh nhập kỳ trung.

          ()大通智勝佛過八萬四千劫已。從三昧起。往詣法座安詳而坐。普告大眾。是十六菩薩沙彌。甚為希有。諸根通利。智慧明了。已曾供養無量千萬億數諸佛。於諸佛所。常修梵行。受持佛智。開示眾生。令入其中。

          (Kinh: Đại Thông Trí Thắng Phật qua khỏi tám vạn bốn ngàn kiếp, từ tam-muội dậy, đi đến pháp ṭa, ngồi an tường, bảo khắp các đại chúng: - Mười sáu Bồ Tát sa-di này rất hy hữu, các căn thông suốt, lanh lợi, trí huệ sáng tỏ, đă từng cúng dường vô lượng ngàn vạn ức chư Phật, ở nơi chư Phật thường tu phạm hạnh, thọ tŕ Phật trí, khai thị chúng sanh khiến họ nhập vào trong ấy).

 

7.1.3.1.1.2.2. Khuyên hăy đích thân tin tưởng

 

          (Kinh) Nhữ đẳng giai đương sổ sổ thân cận, nhi cúng dường chi. Sở dĩ giả hà? Nhược Thanh Văn, Bích Chi Phật, cập chư Bồ Tát năng tín thị thập lục Bồ Tát sở thuyết kinh pháp, thọ tŕ bất hủy giả, giai đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Như Lai chi huệ.

          ()汝等皆當數數親近而供養之。所以者何。若聲聞辟支佛及諸菩薩。能信是十六菩薩所說經法。受持不毀者。皆當得阿耨多羅三藐三菩提如來之慧。

          (Kinh: Các ông hăy nên nhiều lượt thân cận để cúng dường. V́ cớ sao vậy? Nếu Thanh Văn, Bích Chi Phật, và các Bồ Tát có thể tin kinh pháp do mười sáu vị Bồ Tát ấy nói, thọ tŕ, chẳng hủy báng, sẽ đều đạt được trí huệ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Như Lai).

 

          Đây là phần kinh văn thọ kư u huyền của vị cổ Phật. Phần thứ nhất, “cùng kết duyên với cổ Phật, Bồ Tát” đă xong.

 

7.1.3.1.2. Gặp gỡ trong khoảng giữa[26]

 

          (Kinh) Phật cáo chư tỳ-kheo: - Thị thập lục Bồ Tát thường nhạo thuyết thị Diệu Pháp Liên Hoa kinh, nhất nhất Bồ Tát sở hóa lục bách vạn ức na-do-tha hằng hà sa đẳng chúng sanh, thế thế sở sanh dữ Bồ Tát câu, tùng kỳ văn pháp, tất giai tín giải. Dĩ thử nhân duyên, đắc trị tứ vạn ức chư Phật Thế Tôn vu kim bất tận.

          ()佛告諸比丘。是十六菩薩。常樂說是妙法蓮華經。一一菩薩。所化六百萬億那由他恆河沙等眾生。世世所生。與菩薩俱。從其聞法。悉皆信解。以此因緣。得值四萬億諸佛世尊。于今不盡。

          (Kinh: Phật bảo các tỳ-kheo: - Mười sáu vị Bồ Tát ấy thường ưa thích nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, mỗi vị Bồ Tát giáo hóa sáu trăm vạn ức na-do-tha hằng hà sa chúng sanh, họ đời đời thường sanh cùng với các Bồ Tát, theo các Ngài nghe pháp, thảy đều tín giải. Do nhân duyên ấy, được gặp bốn vạn ức chư Phật Thế Tôn tới nay chẳng tận).

 

          Gặp gỡ có ba loại:

          - Một là từ thuở đầu thường thọ lănh Đại Thừa, trong khoảng giữa đều đă thành tựu, chẳng đợi đến ngày nay.

          - Hai là người thoạt đầu thọ lănh Đại Thừa, giữa chừng thoái thất Đại Thừa, tiếp đó tu Tiểu pháp. Hạng người này do khoảng giữa chưa tận (chưa đoạn tuyệt thiện căn Đại Thừa), đến nay vẫn gặp đại giáo.

          - Ba là chỉ nói theo người gặp gỡ Tiểu Thừa, chẳng luận người gặp Đại pháp. Hoặc là thoạt đầu tuy thọ Đại Thừa, sau khi thoái thất bèn chẳng có căn cơ, cho nên trong khoảng giữa chưa đắc độ, tới nay cũng chẳng tận (thiện căn đắc độ bởi Đại Thừa chẳng tận), cho đến sau khi Phật diệt độ bèn đắc đạo (hạng người này do thoạt đầu khi nghe Tiểu pháp bèn kết duyên ban đầu, trong khoảng giữa lại chỉ tu tập Tiểu pháp. Nay gặp các vương tử. Hơn nữa, có kẻ thoạt đầu nghe Tiểu pháp, nay thấy trong giáo pháp một đời của Phật Thích Ca có phán định hàng Thanh Văn chưa phát tâm, liền phán đoán những người ấy sẽ vĩnh viễn diệt độ (nhập Thiên Chân Niết Bàn), chẳng phát [tâm Đại Thừa]. Đó là v́ chẳng biết sự giáo hóa dài lâu của Như Lai).

          Hỏi: Từ số kiếp nhiều bằng số vi trần như trên đây cho tới nay mới đắc A La Hán, cho nên biết Vô Sanh Pháp Nhẫn há dễ đạt được!                   

          Đáp: Có thể nói là đại thánh (tức đức Phật) thiện xảo nương theo Tứ Tất Đàn mà nói như thế. Hoặc nói là Phật đạo dài lâu, hoặc nói Phật đạo dễ đạt được, hoặc tùy theo ḷng ham muốn của thế gian, hoặc v́ phát sanh điều thiện trong quá khứ, nhằm đối trị kẻ chán sợ đạo dài lâu mà nói ngắn ngủi, hoặc đối với kẻ có ư tưởng coi đạo là dễ dàng, bèn nói [thời gian tu đạo] dài lâu. Do nghe nói [thời gian tu đạo] dài hay ngắn mà họ được nhập Đệ Nhất Nghĩa. Hăy nên biết: Nói “trải qua kiếp số như thế cho tới nay mới đắc La Hán” chính là quyền hành Tứ Tất Đàn, dẫn khởi các Thật hạnh, ḥng khiến cho họ nhập đạo. Lại nữa, Lư không có dài hay ngắn, dài hay ngắn là do căn cơ, sao không dốc sức tự ḿnh siêng gắng, cần ǵ phải luận định thời gian người khác tu tập dài hay ngắn?

 

7.1.3.1.3. Ngày nay vẫn nói kinh Pháp Hoa

7.1.3.1.3.1. Trước hết kết lại để dung hội xưa và nay

7.1.3.1.3.1. Tổng kết về thầy xưa và nay

 

          (Kinh) Chư tỳ-kheo! Ngă kim ngữ nhữ, bỉ Phật đệ tử thập lục sa-di, kim giai đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, ư thập phương quốc độ, hiện tại thuyết pháp, hữu vô lượng bách thiên vạn ức Bồ Tát, Thanh Văn dĩ vi quyến thuộc. Kỳ nhị sa-di Đông phương tác Phật, nhất danh A Súc tại Hoan Hỷ quốc, nhị danh Tu Di Đảnh. Đông Nam phương nhị Phật, nhất danh Sư Tử Âm, nhị danh Sư Tử Tướng. Nam phương nhị Phật, nhất danh Hư Không Trụ, nhị danh Thường Diệt. Tây Nam phương nhị Phật, nhất danh Đế Tướng, nhị danh Phạm Tướng. Tây phương nhị Phật, nhất danh A Di Đà, nhị danh Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Năo. Tây Bắc phương nhị Phật, nhất danh Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông, nhị danh Tu Di Tướng. Bắc phương nhị Phật, nhất danh Vân Tự Tại, nhị danh Vân Tự Tại Vương. Đông Bắc phương Phật danh Hoại Nhất Thiết Thế Gian Bố Úy. Đệ thập lục, ngă Thích Ca Mâu Ni Phật, ư Sa Bà quốc độ thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

            ()諸比丘。我今語汝。彼佛弟子十六沙彌。今皆得阿耨多羅三藐三菩提。於十方國土現在說法。有無量百千萬億菩薩聲聞以為眷屬。其二沙彌東方作佛。一名阿閦。在歡喜國。二名須彌頂。東南方二佛。一名師子音。二名師子相。南方二佛。一名虛空住。二名常滅。西南方二佛。一名帝相。二名梵相。西方二佛。一名阿彌陀。二名度一切世間苦惱。西北方二佛。一名多摩羅跋旃檀香神通。二名須彌相。北方二佛。一名雲自在。二名雲自在王。東北方佛。名壞一切世間怖畏。第十六我釋迦牟尼佛。於娑婆國土成阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Này các tỳ-kheo! Ta nay bảo các ông, mười sáu sa-di đệ tử của đức Phật ấy, nay đều đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nay đang thuyết pháp trong các cơi nước ở mười phương, có vô lượng trăm ngàn vạn ức Bồ Tát và Thanh Văn làm quyến thuộc. Hai sa-di làm Phật ở phương Đông, vị thứ nhất là A Súc (Akṣobhya) ở nước Hoan Hỷ (Abhirati), vị thứ hai tên là Tu Di Đảnh (Merukūṭa). Hai vị Phật ở phương Đông Nam, vị thứ nhất tên là Sư Tử Âm (Siṃhaghoṣa), vị thứ hai tên là Sư Tử Tướng (Siṃhadhvaja). Phương Nam hai vị Phật, vị thứ nhất tên là Hư Không Trụ (Ākāśapratiṣṭhita), vị thứ hai tên là Thường Diệt (Nityaparinirvṛta). Phương Tây Nam hai vị Phật, vị thứ nhất tên là Đế Tướng (Indradhvaja), vị thứ hai tên là Phạm Tướng (Brahmadhvaja). Phương Tây hai vị Phật, vị thứ nhất tên là A Di Đà (Amitāyus), vị thứ hai tên Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Năo (Sarvalokadhātūpadravodvegapratyuttīrṇa). Phương Tây Bắc hai vị Phật, vị thứ nhất tên Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông (Tamālapatra-candanagandhābhijña), vị thứ hai tên Tu Di Tướng (Merukalpa). Phương Bắc hai vị Phật, vị thứ nhất tên Vân Tự Tại (Meghasvaradīpa), vị thứ hai tên Vân Tự Tại Vương (Meghasvararāja). Phật ở phương Đông Bắc tên là Hoại Nhất Thiết Thế Gian Bố Úy (Sarvalokabhayacchambhitatvavidhvaṃsanakara). Vị Phật thứ mười sáu là ta, Thích Ca Mâu Ni Phật (Śākyamuni), ở trong cơi Sa Bà (Sahālokā) thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác)[27].

          Mười sáu vị sa-di là cổ, thành Phật ở tám phương là kim. A Súc được phương này dịch là Vô Động.

 

7.1.3.1.3.2. Dung hội đệ tử xưa và nay

7.1.3.1.3.2.1. Vốn kết duyên to lớn

                   

          (Kinh) Chư tỳ-kheo! Ngă đẳng vi sa-di thời, các các giáo hóa vô lượng bách thiên vạn ức hằng hà sa đẳng chúng sanh, tùng ngă văn pháp, vị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()諸比丘。我等為沙彌時。各各教化無量百千萬億恆河沙等眾生。從我聞法。為阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Này các tỳ-kheo! Chúng ta khi làm sa-di, mỗi người đều giáo hóa vô lượng trăm ngàn vạn ức hằng hà sa chúng sanh theo chúng ta nghe pháp v́ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          Đây là nói về lúc mới nghe pháp, đều v́ Vô Thượng Bồ Đề. Đó gọi là “tam thừa sơ tâm đều chẳng ngu muội nơi pháp”. Nhưng từ đấy trở đi, có thoái chuyển và bất thoái, khiến cho người được giải thoát có trước sau sai khác!

 

7.1.3.1.3.2.2. Giải trừ mối nghi đối với những người hiện thời vẫn trụ nơi địa vị Thanh Văn

 

          (Kinh) Thử chư chúng sanh vu kim hữu trụ Thanh Văn địa giả, ngă thường giáo hóa A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thị chư nhân đẳng, ưng dĩ thị pháp tiệm nhập Phật đạo. Sở dĩ giả hà? Như Lai trí huệ nan tín, nan giải.

          ()此諸眾生。于今有住聲聞地者。我常教化阿耨多羅三藐三菩提。是諸人等。應以是法漸入佛道。所以者何。如來智慧。難信難解。

          (Kinh: Các chúng sanh ấy tới nay có người trụ trong địa vị Thanh Văn, ta thường giáo hóa Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Những người ấy đáng nên dùng pháp này để dần dần nhập Phật đạo. V́ cớ sao vậy? Trí huệ của Như Lai khó tin, khó hiểu).

 

          Trước hết nói rơ các chúng sanh ấy vào thời Đại Thông [Trí Thắng] Phật đă theo ta nghe pháp, chính là v́ Vô Thượng Bồ Đề. Cớ sao cho đến nay vẫn có người c̣n trụ trong địa vị Thanh Văn? Giải rằng: Ta thường dùng Vô Thượng Bồ Đề để giáo hóa, nhưng do [căn cơ của] những người ấy đáng nên dùng pháp Quyền Tiểu để khiến cho họ dần dần nhập Phật đạo. Lại có kẻ nghi: “Những người ấy v́ lẽ nào đáng nên dùng pháp đó để dần dần tiến nhập?” Giải rằng: Ấy là v́ trí huệ của Như Lai khó tin, khó hiểu.

 

7.1.3.1.3.2.3. Tổng kết dung hội xưa nay

 

          (Kinh) Nhĩ thời, sở hóa vô lượng hằng hà sa đẳng chúng sanh giả, nhữ đẳng chư tỳ-kheo, cập ngă diệt độ hậu, vị lai thế trung Thanh Văn đệ tử thị dă.

          ()爾時所化無量恆河沙等眾生者。汝等諸比丘。及我滅度後。未來世中聲聞弟子是也。

          (Kinh: Vô lượng hằng hà sa chúng sanh được giáo hóa thuở đó chính là hàng tỳ-kheo các ông, và các đệ tử Thanh Văn trong đời vị lai sau khi ta diệt độ).

 

          Nói “nhữ đẳng chư tỳ-kheo” (hàng tỳ-kheo các ông) tức là kết lại, dung hội những người trụ trong địa vị Thanh Văn xưa lẫn nay, và các đệ tử Thanh Văn sau khi ta diệt độ, tức là kết lại ư nghĩa “xưa nay bất tận” trong hiện thời (tức ư nghĩa được nêu ra trong kinh này).

 

7.1.3.1.3.2.4. Giải trừ mối nghi cho các đệ tử trong vị lai

 

          (Kinh) Ngă diệt độ hậu, phục hữu đệ tử bất văn thị kinh, bất tri, bất giác Bồ Tát sở hành, tự ư sở đắc công đức sanh diệt độ tưởng, đương nhập Niết Bàn. Ngă ư dư quốc tác Phật, cánh hữu dị danh. Thị nhân tuy sanh diệt độ chi tưởng, nhập ư Niết Bàn, nhi ư bỉ độ cầu Phật trí huệ, đắc văn thị kinh, duy dĩ Phật thừa nhi đắc diệt độ, cánh vô dư thừa, trừ chư Như Lai phương tiện thuyết pháp.

          ()我滅度後。復有弟子。不聞是經。不知不覺菩薩所行。自於所得功德生滅度想。當入涅槃。我於餘國作佛。更有異名。是人雖生滅度之想。入於涅槃。而於彼土求佛智慧。得聞是經。唯以佛乘而得滅度。更無餘乘。除諸如來方便說法。

          (Kinh: Sau khi ta diệt độ, lại có đệ tử chẳng nghe kinh này, chẳng biết, chẳng hay sở hành của Bồ Tát, đối với công đức do chính ḿnh đạt được tự sanh ư tưởng diệt độ, sẽ nhập Niết Bàn. Ta làm Phật ở nước khác, bèn có danh hiệu khác. Người ấy tuy sanh ư tưởng diệt độ, nhập Niết Bàn, nhưng cầu trí huệ của Phật trong cơi ấy, được nghe kinh này, chỉ dùng Phật thừa để được diệt độ, chẳng có thừa nào khác, trừ các vị Như Lai phương tiện thuyết pháp).

 

          Có kẻ ngờ rằng: Thanh Văn trong hiện thời được nghe đức Phật nói Pháp Hoa, khai hiển, ngộ nhập, tức là hạng người kết duyên. Kẻ trong đời vị lai chẳng nghe Pháp Hoa mà nhập diệt độ, há có thể bỏ Tiểu pháp để nhập Nhất Thừa hay chăng? Giải rằng: Tuy họ sanh ư tưởng nhập Niết Bàn, vẫn sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư, thọ thân Biến Dịch. Ta (Phật Thích Ca) sẽ ở trong cơi đó, ắt vẫn v́ họ nói kinh này, ắt khiến cho họ nhập đạo Nhất Thừa. “Chẳng c̣n thừa nào khác, trừ phi các đức Như Lai phương tiện thuyết pháp” chính là để đoạn nghi. Ba thừa là phương tiện mà giả nói, thật ra chắc chắn chẳng có tam thừa! Phần thứ nhất, kết lại chuyện dung hội xưa nay đă xong.

 

7.1.3.1.3.3. Chỉ rơ “vẫn nói kinh Pháp Hoa”

7.1.3.1.3.3.1. Do đúng thời nên nói

 

          (Kinh) Chư tỳ-kheo! Nhược Như Lai tự tri Niết Bàn thời đáo, chúng hựu thanh tịnh, tín giải kiên cố, liễu đạt Không pháp, thâm nhập Thiền Định, tiện tập chư Bồ Tát, cập Thanh Văn chúng, vị thuyết thị kinh. Thế gian vô hữu Nhị Thừa nhi đắc diệt độ, duy nhất Phật thừa đắc diệt độ nhĩ.

          ()諸比丘。若如來自知涅槃時到。眾又清淨。信解堅固。了達空法。深入禪定。便集諸菩薩及聲聞眾。為說是經。世間無有二乘而得滅度。唯一佛乘得滅度耳。

          (Kinh: Này các tỳ-kheo! Nếu Như Lai tự biết lúc nhập Niết Bàn đă đến, đại chúng lại thanh tịnh, tín giải kiên cố, liễu đạt pháp Không, thâm nhập Thiền Định, liền nhóm họp các vị Bồ Tát và hàng Thanh Văn, v́ họ nói kinh này. Thế gian chẳng có hai thừa để được diệt độ, chỉ có một Phật Thừa để được diệt độ mà thôi!)

 

          “Niết Bàn thời đáo” (lúc nhập Niết Bàn đă đến): Chư Phật xuất thế, lúc hóa đạo sắp hoàn tất, như Ca Diếp Phật, Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật v.v… nói kinh này xong, liền nhập Niết Bàn. Trong kinh này, Phật Thích Ca cũng tuyên xướng chẳng lâu sau Ngài sẽ nhập diệt. V́ vậy, kinh này là lời tuyên xướng cùng cực tối hậu. “Chúng thanh tịnh” tức là Đoạn Đức thành tựu. “Tín” tức là bốn thứ bất hoại tín[28]. “Giải” là vô lậu chánh giải, liễu đạt pháp Không, chứng Chân Đế, đều tức là Trí Đức thành tựu. Trí Đức và Đoạn Đức đă lập, lại c̣n “thâm nhập Thiền Định”, đủ hai món giải thoát, kham nghe đại giáo, có thể tin nhận. Lại nữa, chúng thanh tịnh đạt được lợi ích nơi Tam Tạng giáo, thoát khỏi nạn nhà lửa. Người tín giải kiên cố sẽ đạt được lợi ích nơi giáo pháp Phương Đẳng, tâm dần dần tin tưởng, thấu hiểu. Người liễu đạt Không pháp” đạt được lợi ích nơi giáo pháp Bát Nhă, có thể dạy lại cho người khác. “Tập chư Bồ Tát” (nhóm họp các Bồ Tát) tức là “hội thân tộc” (tụ họp thân tộc) [như trong thí dụ thuộc phẩm Tín Giải]. “Cập Thanh Văn chúng” (và hàng Thanh Văn) tức là “mạng kỳ tử” (sai con ḿnh). Giả sử thời Niết Bàn đă đến, nhưng đại chúng chẳng thanh tịnh, vẫn chẳng thể nói kinh này. Như Đa Bảo Như Lai do trong hiện đời chẳng có cơ duyên, chẳng thể nói kinh Pháp Hoa. V́ thế, Ngài lưu lại tháp chứa đựng toàn thân, thề sau khi diệt độ sẽ làm chứng khắp nơi!

 

7.1.3.1.3.3.2. Giải thích ư nghĩa v́ sao trước đó mở ra ba thừa

 

          (Kinh) Tỳ-kheo đương tri: Như Lai phương tiện thâm nhập chúng sanh chi tánh, tri kỳ chí nhạo tiểu pháp, thâm trước ngũ dục, vị thị đẳng cố, thuyết ư Niết Bàn. Thị nhân nhược văn, tắc tiện tín thọ.

          ()比丘當知。如來方便。深入眾生之性。知其志樂小法。深著五欲。為是等故。說於涅槃。是人若聞。則便信受。

          (Kinh: Tỳ-kheo hăy nên biết: Như Lai phương tiện thâm nhập tánh của chúng sanh, biết họ dốc chí, ưa thích tiểu pháp, chấp sâu ngũ dục, v́ hạng người ấy mà nói Niết Bàn. Kẻ đó nếu được nghe, sẽ liền tin nhận).

 

          Nếu thật sự chẳng có Nhị Thừa để được diệt độ, cớ sao trước kia Như Lai nói Quyền giáo? Giải rằng: Như Lai hiểu rơ chúng sanh có tánh ham ưa Tiểu pháp, chấp trước ngũ trần, bị che lấp bởi ngũ trược. V́ thế, trước hết nói tam thừa, khiến cho họ phá trược, thoát nạn. Sau đó nói Nhất Thừa. Phần thứ nhất, “kết duyên nơi Pháp Thuyết Châu” đă xong.

 

7.1.3.2. Kết duyên nơi Thí Thuyết Châu

7.1.3.2.1. Lập thí dụ

7.1.3.2.1.1. Thí dụ về người dẫn đường

 

          (Kinh) Thí như ngũ bách do-tuần hiểm nạn ác đạo, khoáng tuyệt vô nhân, bố úy chi xứ, nhược hữu đa chúng dục quá thử đạo, chí trân bảo xứ, hữu nhất đạo sư[29], thông huệ minh đạt, thiện tri hiểm đạo thông tắc chi tướng.

          ()譬如五百由旬險難惡道。曠絕無人怖畏之處。若有多眾欲過此道。至珍寶處。有一導師。聰慧明達。善知險道通塞之相。  (Kinh: Ví như con đường ác hiểm nạn [dài] năm trăm do-tuần, hoang vu, trọn chẳng có người, là chỗ đáng sợ hăi. Nếu có nhiều người muốn đi qua con đường đó để tới chỗ có trân bảo, có một người dẫn đường, thông minh, trí huệ, sáng suốt, thấu đạt, khéo biết tướng thông hay tắc nơi đường hiểm).

 

          “Ngũ bách do-tuần” (năm trăm do-tuần): Nếu xét theo quả báo, sẽ tách chỗ Đồng Cư Phần Đoạn thành ba trăm, chỗ Phương Tiện Biến Dịch thành bốn trăm, chỗ Thật Báo Biến Dịch là năm trăm. Nếu xét theo phiền năo, Kiến Tư thuộc tam giới là ba trăm, Trần Sa là bốn trăm, Vô Minh là năm trăm. Nhập Không Quán, có thể vượt qua ba trăm. Nhập Giả Quán, có thể vượt qua bốn trăm. Nhập Trung Quán, có thể vượt qua năm trăm. “Hiểm nạn ác đạo” (đường ác nguy hiểm, lắm tai nạn) ví như nhân quả sanh tử. Phần Đoạn và Biến Dịch chính hiểm nạn nơi quả. Kiến Tư ngũ trụ chính là hiểm nạn nơi nhân. Do nhân quả ấy mà nói là “ác đạo”. Đường có hai loại: Một là tuy hoang vắng, nhưng người có thể nương vào đó. Hai là hoang vắng, không có ai có thể nương cậy. Ví như trong sanh tử có Niết Bàn, trong phiền năo có Bồ Đề, tuy hoang vắng nhưng có người có thể nương vào. Nếu sanh tử phiền năo chẳng có Niết Bàn và Bồ Đề, trong thuốc chẳng có bệnh, trong bệnh chẳng có thuốc th́ là chỗ hoang vắng đáng sợ, trọn chẳng có người! (Biệt Giáo và Viên Giáo chẳng phải là hoang vu, có người. Nhị Thừa trong Thông Giáo th́ hoang vu nhưng có người. Nhị Thừa trong Tam Tạng hoang vu, chẳng có người. Do vậy, v́ hạng người ấy mà lập bày cách giáo hóa).

          “Nhược hữu đa chúng” (nếu có nhiều chúng sanh) ví như các chúng sanh tuy được các vương tử giáo hóa nhưng chưa giải thoát. “Dục quá thử đạo chí trân bảo xứ” (muốn vượt qua đường ấy để tới chỗ có trân bảo): Ví như phát tâm cầu Vô Thượng Bồ Đề. “Hữu nhất đạo sư” (có một người hướng dẫn): Ví như vị vương tử thứ mười sáu (tiền thân của Phật Thích Ca)[30]. Tai thanh tịnh là Thông, ư thanh tịnh là Huệ, mắt thanh tịnh là Minh. Các căn khác thanh tịnh là Đạt. Nói tóm lại, chính là sáu căn thanh tịnh. Lại nữa, Huệ chính là nhất tâm tam trí. Minh chính là trọn đủ năm loại mắt. Hơn nữa, Tam Minh là Minh, Thập Lực là Đạt. “Thiện tri hiểm đạo thông tắc chi tướng” (khéo biết tướng thông tắc nơi đường hiểm): Tuy là đường hiểm có tắc và thông[31], hễ đầy đủ phương tiện th́ tắc thành thông. Thiếu thiện xảo th́ thông thành tắc. Tư lương, khí giới, can đảm, hiểu biết, dũng lực, đều cần phải trọn đủ. Đối với cỏ nước nơi con đường trước mặt, đều cần phải am hiểu!

 

7.1.3.2.1.2. Thí dụ về sự dẫn dường

7.1.3.2.1.3.1. Thí dụ về những người được hướng dẫn  

 

          (Kinh) Tương đạo chúng nhân, dục quá thử nạn.

          ()將導眾人。欲過此難。

          (Kinh: Hướng dẫn mọi người muốn vượt qua [con đường] hiểm nạn ấy)[32].

 

          Sánh ví những người vốn kết duyên nhưng chưa được giải thoát. Duyên ấy chẳng mất, bèn được người dẫn đường dắt d́u.

 

7.1.3.2.1.3.2. Thí dụ về sự lười nhác, thoái thất giữa đường

7.1.3.2.1.3.1. Thoái thất Đại Thừa

 

          (Kinh) Sở tương nhân chúng, trung lộ giải thoái, bạch đạo sư ngôn: “Ngă đẳng b́ cực, nhi phục bố úy, bất năng phục tấn. Tiền lộ do viễn, kim dục thoái hoàn”.

          ()所將人眾。中路懈退。白導師言。我等疲極。而復怖畏。不能復進。前路猶遠。今欲退還。

          (Kinh: Những người được dẫn dắt, nửa đường lười nhác, lui sụt, thưa cùng người dẫn đường: “Chúng tôi mệt mỏi tột bậc, lại c̣n sợ hăi, chẳng thể tiến lên nữa. Đường phía trước c̣n xa, nay muốn lui về”).

 

          “Trung lộ” chẳng phải là nửa đường, chỉ là coi “phát tâm là khởi đầu, thành Phật là kết thúc”. Giữa hai chặng ấy mà dấy ḷng thoái chuyển; v́ thế gọi là “trung lộ”. “Bạch đạo sư”: Đại cơ (căn cơ Đại Thừa) đă thoái thất, Tiểu cơ sẽ sanh. Dùng điều này để ngầm cảm vời ḷng từ bi của Pháp Thân, có ư nghĩa như “bạch”. “B́ cực” (mệt mỏi tột bậc): Ví như thiện căn mỏng manh, bị vô minh che lấp. “Bố úy” (sợ hăi) ví như ghét sợ sanh tử. “Tiền lộ do viễn” (đường phía trước c̣n xa): Ví như Tam Hoặc khó đoạn do thiếu dũng lực Đại Thừa; v́ thế “b́ cực” (mệt mỏi tột cùng). Do thiếu ḷng can đảm, tư lương và khí giới Đại Thừa; cho nên sợ hăi. Do chẳng am hiểu cỏ nước trong con đường phía trước; v́ vậy nói “tiền lộ do viễn”.

 

7.1.3.2.1.3.2. Tiếp dẫn bằng Tiểu Thừa

7.1.3.2.1.3.2.1. Lập phương tiện giáo hóa

 

          (Kinh) Đạo sư đa chư phương tiện, nhi tác thị niệm: “Thử đẳng khả mẫn, vân hà xả đại trân bảo, nhi dục thoái hoàn?” Tác thị niệm dĩ, dĩ phương tiện lực, ư hiểm đạo trung, quá tam bách do-tuần, hóa tác nhất thành, cáo chúng nhân ngôn: “Nhữ đẳng vật bố, mạc đắc thoái hoàn. Kim thử đại thành, khả ư trung chỉ, tùy ư sở tác. Nhược nhập thị thành, khoái đắc an ổn. Nhược năng tiền chí bảo sở, diệc khả đắc khứ”.

          ()導師多諸方便。而作是念。此等可愍。云何捨大珍寶而欲退還。作是念已。以方便力於險道中。過三百由旬。化作一城。告眾人言。汝等勿佈。莫得退還。今此大城。可於中止。隨意所作。若入是城。快得安隱。若能前至寶所。亦可得去。

          (Kinh: Người hướng dẫn có nhiều phương tiện, nghĩ như thế này: “Những kẻ này đáng thương, sao lại bỏ trân bảo to lớn mà muốn lui về?” Nghĩ như thế xong, dùng sức phương tiện ở giữa đường hiểm, qua khỏi ba trăm do-tuần[33], hóa hiện một cái thành, bảo mọi người rằng: “Các ngươi chớ sợ, đừng nên lui về. Nay thành lớn này, có thể nghỉ lại trong đó, tùy ư mà làm[34]. Nếu vào thành này, sẽ được vui sướng, an ổn[35]. Nếu có thể tiến lên trước đến chỗ có của báu th́ cũng có thể đi được”)[36].

 

          “Đa chư phương tiện” (Có nhiều phương tiện): Ví như Quyền Trí của Như Lai có thể suy tính pháp hóa độ thích hợp. “Thử đẳng khả mẫn” (bọn này đáng thương): Biết họ chẳng có căn cơ Đại Thừa. “Hóa tác nhất thành” (hóa hiện một ṭa thành): Biết có thể dùng Tiểu Thừa để tiếp dẫn họ. “Nhữ đẳng vật bố, mạc đắc thoái hoàn” (các ngươi đừng sợ, đừng nên lui về), tức là khuyên họ hăy tiến lên trước, sánh ví Khuyến Chuyển. “Kim thử đại thành khả ư trung chỉ, tùy ư sở tác” (nay ṭa thành lớn này, có thể nghỉ lại trong đó, tùy ư mà làm), tức là chỉ bày “thành có thể ở”, ví như Thị Chuyển. “Nhược nhập thị thành, khoái đắc an ổn” (nếu vào thành này, sẽ vui sướng, an ổn), tức là tán thán công đức của cái thành, ví như Chứng Chuyển. “Nhược năng tiền chí bảo sở, diệc khả đắc khứ” (nếu có thể tiến lên trước đến chỗ có của báu th́ cũng có đến được): Nay trước khi đức Phật khai hiển, do chẳng thể chỉ rơ, cho nên nói lời ấy. Nếu luận định theo sự ngầm nghe, sẽ chẳng trở ngại. Nếu luận theo túc thế, phải nên có lời ấy. V́ sao? Các vương tử đă biết ư tưởng lui sụt của bọn họ, liền giáo hóa rằng: “Nếu các ngươi sợ sanh tử, hăy giữ lấy Niết Bàn, sau đấy mới hành đại đạo th́ cũng tùy ư các ngươi!” Lại nữa, sau khi đă khai Quyền hiển Thật, [đối với những người ấy], sẽ bèn nói [Nhất Thừa], như các vị giữ lấy quả La Hán trong hội Niết Bàn đều ư nghĩa ấy.

 

7.1.3.2.1.3.2.2. Hoan hỷ tiến vào

 

          (Kinh) Thị thời b́ cực chi chúng, tâm đại hoan hỷ, thán vị tằng hữu: “Ngă đẳng kim giả miễn tư ác đạo, khoái đắc an ổn”. Ư thị, chúng nhân tiền nhập hóa thành, sanh dĩ độ tưởng, sanh an ổn tưởng.

            ()是時疲極之眾。心大歡喜。歎未曾有。我等今者免斯惡道。快得安隱。於是眾人前入化城。生已度想。生安隱想。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, những kẻ mệt mỏi tột bậc tâm rất hoan hỷ, khen là chưa từng có, “chúng ta nay thoát khỏi đường dữ này, vui sướng an ổn”. Khi đó, mọi người tiến vào cái thành đă được biến hóa ấy, sanh ư tưởng đă đắc độ, sanh ư tưởng an ổn).

 

          “Đại hoan hỷ” ví như Văn Huệ. “Thán vị tằng hữu” (khen là chưa từng có), ví như địa vị Noăn. “Miễn ác đạo” (tránh thoát đường ác) ví như địa vị Đảnh. “Khoái an ổn” (vui sướng an ổn) ví như địa vị Nhẫn. “Tiền nhập hóa thành” (tiến lên trước, vào trong hóa thành) ví như địa vị Kiến Đế. “Dĩ độ tưởng” (có ư tưởng đă diệt độ) ví như đạt được tận trí. “An ổn tưởng” ví như đắc Vô Sanh Trí. Lại nữa, “dĩ độ tưởng” ví như trọn đủ Trí Đức, “an ổn tưởng” ví như chứng Đoạn Đức. Phần thứ hai, “nửa đường lười mỏi, lui sụt” đă xong.

 

7.1.3.2.1.3.2.3. Thí dụ về diệt hóa thành, dẫn đến chỗ có của báu

 

          (Kinh) Nhĩ thời, đạo sư tri thử nhân chúng kư đắc chỉ tức, vô phục b́ quyện, tức diệt hóa thành, ngữ chúng nhân ngôn: “Nhữ đẳng khứ lai, bảo xứ tại cận. Hướng giả đại thành, ngă sở hóa tác, v chỉ tức nhĩ”.

          ()爾時導師。知此人眾。旣得止息。無復疲倦。卽滅化城。語眾人言。汝等去來。寶處在近。向者大城。我所化作。為止息耳。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, người hướng dẫn biết mọi người đă được nghỉ ngơi, chẳng c̣n mệt mỏi, liền diệt hóa thành, bảo mọi người rằng: “Các ngươi hăy tiến lên, chỗ có của báu gần đây. Thành lớn trước đó do ta biến hóa ra để nghỉ ngơi vậy”).

 

          “Kư đắc chỉ tức” (Đă được nghỉ ngơi) ví như thoát nạn. “Vô phục b́ quyện” (chẳng c̣n mệt mỏi) ví như căn cơ Đại Thừa đă phát khởi. “Bảo xứ tại cận” (chỗ có của báu ở gần đây) ví như hiển Thật. Thành lớn được biến hóa, ví như phế Quyền. “Bảo sở” có hai nghĩa:

          - Nếu xét rốt ráo, coi cực quả là bảo sở, như kinh văn trong phần trước đă nói: “Duy Phật dữ Phật, năi năng cứu tận chư pháp Thật Tướng” (chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo Thật Tướng của các pháp).

          - Nếu xét theo sự tiến nhập một phần, sẽ coi Sơ Phát Tâm Trụ là bảo sở. Như kinh văn trong phần trước đă nói: “Vô thượng bảo tụ, bất cầu tự đắc” (khối báu vô thượng chẳng cầu mà tự đạt được). Lại nói: “Đắc Phật pháp phần, như Phật tử sở ưng đắc giả, giai dĩ đắc chi” (Có phần trong Phật pháp, như những ǵ Phật tử đáng nên đạt được th́ con đă đều đạt được).

          Hỏi: V́ sao [kinh này] “khai tam, hiển nhất” đến năm chỗ, có ǵ khác biệt?

          Đáp: Luận định chung th́ chẳng khác! Nhưng luận định riêng th́ có sai khác. Phẩm Phương Tiện là dựa theo giáo để khai tam hiển nhất. Kinh văn chép: “Như Lai đản dĩ nhất Phật thừa, cố vị chúng sanh thuyết pháp, vô hữu dư thừa, nhược nhị, nhược tam” (Như Lai chỉ dùng một Phật thừa, v́ thế, cho nên v́ chúng sanh thuyết pháp, chẳng có thừa nào khác, dù hai hay ba). Trong thí dụ nhà lửa [thuộc phẩm Thí Dụ], dựa theo hạnh để khai tam hiển nhất. “Xe” có ư nghĩa chuyên chở. Chuyên chở là sánh ví hành. Kinh văn chép: “Các thừa đại xa, du vu tứ phương, hy hư khoái lạc” (Đều cưỡi cỗ xe lớn, dạo chơi bốn phương, đùa giỡn vui sướng). Phẩm Tín Giải th́ dựa theo người để khai tam hiển nhất, quy kết, dung hội kẻ làm thuê chính là con ông trưởng giả. Kinh văn chép: “Ngă đẳng tích lai chân thị Phật tử” (Chúng con từ trước đă thật sự là con Phật). Phẩm Dược Thảo, xét theo sai biệt và không sai biệt để nói rơ Quyền và Thật ḥng chẳng chấp lấy. Nhưng chúng sanh không biết, Phật khiến cho họ biết. Nếu biết bảy loại phương tiện th́ chính là biết Quyền. Cùng nương vào một lư chẳng sai biệt, tức là biết Thật. Sai biệt mà chẳng sai biệt, chẳng sai biệt mà sai biệt, khiến cho họ biết ư ấy, trọn chẳng nói có một, hay không có một (Nhất Thừa). Đó là dựa hai trí thuộc Tự Hành Quyền Thật để thuận theo ư của chính ḿnh để nói. V́ thế, Phật có thể biết, nhưng chúng sanh không biết, cũng thông với phần trước và phần sau, [dựa theo chuyện] biết hay chẳng biết để nói về Quyền và Thật. Nay [thí dụ] hóa thành chính là dựa theo Lư để khai tam hiển nhất. Bảo sở và hóa thành chính là hai lư Đại Thừa và Tiểu Thừa. Phá trừ Quyền lư Nhị Thừa để hiển chân thật nhất lư của Như Lai. Trong kinh văn thuộc phần sau, năm trăm [vị Thanh Văn] lănh nhận, giải ngộ, nêu ra thí dụ viên châu trong chéo áo, cũng là dựa theo Lư. Đấy là một mực dựa theo văn tướng (tướng trạng trong kinh văn) để nói, nhưng mỗi đoạn kinh văn đều có đủ Tứ Nhất (Lư Nhất, Giáo Nhất, Nhân Nhất, Hạnh Nhất), hoàn toàn là điều Như Lai có thể biết, chứ chúng sanh chẳng biết! Nếu biết th́ chính đă “khai tri kiến của Phật”. Phần thứ nhất, “lập thí dụ” đă xong.

 

7.1.3.2.2. Đối ứng thí dụ với pháp

7.1.3.2.2.1. Phần kết hợp chánh yếu

7.1.3.2.2.1.1. Kết hợp thí dụ “người dẫn đường” với pháp

         

          (Kinh) Chư tỳ-kheo! Như Lai diệc phục như thị, kim vị nhữ đẳng tác đại đạo sư, tri chư sanh tử phiền năo ác đạo, hiểm nạn trường viễn, ưng khứ, ưng độ.

          ()諸比丘。如來亦復如是。今為汝等作大導師。知諸生死煩惱惡道。險難長遠。應去應度。

          (Kinh: Này các tỳ-kheo! Như Lai cũng giống như thế, nay làm đại đạo sư cho các ông, biết đường ác sanh tử phiền năo, hiểm nạn dài xa, đáng nên vượt qua).

 

          “Như Lai” tương ứng với “đạo sư” (người dẫn đường) [trong thí dụ]. “Nhữ đẳng” (các ngươi) tương ứng với “chúng đa” (nhiều người) [trong thí dụ “hóa thành”]. Sanh tử tương ứng với “hiểm nạn” nơi quả. “Phiền năo” tương ứng với “hiểm nạn” nơi cái nhân. “Trường viễn” (dài lâu) tương ứng với “ngũ bách do-tuần” (năm trăm do tuần). “Ưng khứ, ưng độ” (hăy nên vượt qua) tương ứng với “tri thông tắc chi tướng” (biết tướng thông tắc), và cũng tương ứng với “dục chí bảo sở” (muốn đến chỗ có của báu).

 

7.1.3.2.2.1.2. Kết hợp thí dụ “dẫn dắt” với pháp

 

          (Kinh) Nhược chúng sanh đản văn nhất Phật thừa giả, tắc bất dục kiến Phật, bất dục thân cận, tiện tác thị niệm: “Phật đạo trường viễn, cửu thọ cần khổ, năi khả đắc thành”. Phật tri thị tâm khiếp nhược hạ liệt, dĩ phương tiện lực, nhi ư trung đạo, v chỉ tức cố, thuyết nhị Niết Bàn. Nhược chúng sanh trụ ư nhị địa, Như Lai nhĩ thời, tức tiện vị thuyết: “Nhữ đẳng sở tác vị biện. Nhữ sở trụ địa cận ư Phật huệ, đương quán sát, trù lượng, sở đắc Niết Bàn phi chân thật dă, đản thị Như Lai phương tiện chi lực, ư nhất Phật thừa, phân biệt thuyết tam”.

          ()若眾生但聞一佛乘者。則不欲見佛。不欲親近。便作是念。佛道長遠。久受勤苦。乃可得成。佛知是心怯弱下劣。以方便力。而於中道。為止息故。說二涅槃。若眾生住於二地。如來爾時卽便為說。汝等所作未辦。汝所住地。近於佛慧。當觀察籌量。所得涅槃。非真實也。但是如來方便之力。於一佛乘。分別說三。

          (Kinh: Nếu chúng sanh chỉ nghe một Phật Thừa, sẽ chẳng muốn thấy Phật, chẳng muốn thân cận, sẽ nghĩ như thế này: “Phật đạo dài lâu, phải chịu siêng khổ lâu dài th́ mới có thể được thành tựu”. Phật biết tâm họ khiếp nhược, hèn kém, bèn dùng sức phương tiện, ở giữa đường, nói ra hai loại Niết Bàn để họ nghỉ ngơi. Nếu chúng sanh trụ trong nhị địa, khi đó, Như Lai liền bảo họ: “Việc làm (việc tu tập) của các ông chưa xong, địa vị các ông đang trụ gần với Phật huệ. Hăy nên quan sát, suy lường Niết Bàn mà các ông đă đắc chẳng phải là chân thật, chỉ là do sức phương tiện của Như Lai từ trong một Phật thừa mà phân biệt nói thành ba”).

 

          Ba chữ “nhược chúng sanh” (nếu chúng sanh) tương ứng với “tương nhân chúng” (dẫn mọi người) trong thí dụ. Từ “đản văn nhất Phật thừa” (chỉ nghe một Phật thừa) cho đến “năi khả đắc thành” (mới có thể được thành tựu) tương ứng với thí dụ “giữa đường lười nhác, thoái thất”. Từ “Phật tri thị tâm” (Phật biết tâm ấy) cho tới “thuyết nhị Niết Bàn” (nói hai loại Niết Bàn) ứng hợp với thí dụ “biến hóa một cái thành”, mang ư nghĩa “đă ra khỏi Đồng Cư, nhưng chưa đạt tới Thật Báo”. Ở trong khoảng giữa ấy th́ gọi là “trung đạo”. Hữu Dư và Vô Dư th́ gọi là “nhị Niết Bàn”, đó cũng là sở chứng của hai hạng Thanh Văn và Duyên Giác. Từ “nhược chúng sanh trụ ư nhị địa” (nếu chúng sanh trụ nơi hai địa vị [Thanh Văn và Duyên Giác]) trở đi, ứng hợp với thí dụ “diệt hóa thành, dẫn đến chỗ có của báu”. Phần thứ nhất, “kết hợp [thí dụ] với pháp” đă xong.

 

7.1.3.2.2.2. Nhắc lại thí dụ để kết hợp chặt chẽ với pháp

 

          (Kinh) Như bỉ đạo sư, vị chỉ tức cố, hóa tác đại thành. Kư tri tức dĩ, nhi cáo chi ngôn: “Bảo xứ tại cận, thử thành phi thật, ngă hóa tác nhĩ”.

          ()如彼導師。為止息故。化作大城。旣知息已。而告之言。寶處在近。此城非實。我化作耳。

          (Kinh: Như người dẫn đường kia, v́ nghỉ ngơi bèn hóa ra một ṭa thành lớn. Đă biết [mọi người] nghỉ xong, bèn bảo rằng: “Chỗ có của báu gần đây, thành này chẳng thật, do ta hóa ra đó thôi”).

 

          Hóa ra thành lớn tương ứng khít khao với chuyện thực thi tam thừa. “Bảo xứ tại cận” (chỗ có của báu ở gần đây) ứng hợp với chuyện hiển nhất (hiển thị Nhất Thừa). Phần thứ nhất, “trần thuật cặn kẽ” đă xong.

 

7.2. Trùng tụng

7.2.1. Trùng tụng nguyên do kết duyên

7.2.1.1. Trùng tụng nguyên do xa

7.2.1.1.1. Trùng tụng chuyện Đại Thông Trí Thắng thành Phật

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Đại Thông Trí Thắng Phật, thập kiếp tọa đạo tràng, Phật pháp bất hiện tiền, bất đắc thành Phật đạo. Chư thiên thần, long vương, A Tu La đẳng chúng, thường vũ ư thiên hoa, dĩ cúng dường bỉ Phật. Chư thiên kích thiên cổ, tịnh tác chúng kỹ nhạc. Hương phong xuy ủy hoa, cánh vũ tân hảo giả. Quá thập tiểu kiếp dĩ, năi đắc thành Phật đạo. Chư thiên cập thế nhân, tâm giai hoài dũng dược. Bỉ Phật thập lục tử, giai dữ kỳ quyến thuộc, thiên vạn ức vi nhiễu, câu hành chí Phật sở, đầu diện lễ Phật túc, nhi thỉnh chuyển pháp luân. Thánh sư tử pháp vũ, sung ngă cập nhất thiết.

            ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。大通智勝佛。十劫坐道場。佛法不現前。不得成佛道。諸天神龍王。阿修羅等眾。常雨於天華。以供養彼佛。諸天擊天鼓。幷作眾伎樂。香風吹萎華。更雨新好者。過十小劫已。乃得成佛道。諸天及世人。心皆懷踴躍。彼佛十六子。皆與其眷屬。千萬億圍繞。俱行至佛所。頭面禮佛足。而請轉法輪。聖師子法雨。充我及一切。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Đại Thông Trí Thắng Phật, mười kiếp ngồi đạo tràng, Phật pháp chẳng hiện tiền, chẳng được thành Phật đạo. Các thiên thần, long vương, chúng A Tu La thảy, thường tuôn mưa hoa trời, để cúng dường Phật ấy. Chư thiên gióng trống trời, và tấu các kỹ nhạc. Gió thơm cuốn hoa héo, lại mưa hoa mới đẹp. Đă qua mười kiếp rồi, bèn được thành Phật đạo. Chư thiên và người đời, đều ôm ḷng hớn hở. Mười sáu người con Phật, cùng với quyến thuộc ḿnh, ngàn vạn ức vây quanh, đều đi tới chỗ Phật. Đầu mặt lễ chân Phật, để thỉnh chuyển pháp luân: - Thánh sư tử mưa pháp, lợi con và hết thảy).

 

          Ba bài kệ đầu, trùng tụng chuyện thứ hai [trong thí dụ, tức là] chuyện trước khi [Đại Thông Trí Thắng Phật] thành đạo. Bài kệ kế tiếp, trùng tụng chuyện thứ ba, tức là chuyện khi Ngài đă thành đạo. Bài tụng thứ năm trùng tụng chuyện thỉnh chuyển pháp luân và chuyện thứ tư là “quyến thuộc cúng dường”. Lược đi không trùng tụng chuyện thứ nhất là “thọ mạng của Phật dài lâu”.

 

7.2.1.1.2. Trùng tụng mười phương Phạm vương thỉnh pháp

7.2.1.1.2.1. Trùng tụng chuyện oai quang chiếu rọi, chấn động Phạm cung                  

          (Kinh) Thế Tôn thậm nan trị, cửu viễn thời nhất hiện, vị giác ngộ quần sanh, chấn động ư nhất thiết.

          ()世尊甚難值。久遠時一現。為覺悟群生。震動於一切。

          (Kinh: Thế Tôn rất khó gặp, đă lâu xa mới hiện, v́ giác ngộ quần sanh, bèn chấn động hết thảy).

 

7.2.1.1.2.2. Trùng tụng chuyện Phạm vương đến cầu thỉnh

         

          (Kinh) Đông phương chư thế giới, ngũ bách vạn ức quốc, Phạm cung điện quang diệu, tích sở vị tằng hữu. Chư Phạm kiến thử tướng, tầm lai chí Phật sở, tán hoa dĩ cúng dường, tịnh phụng thượng cung điện. Chư Phật chuyển pháp luân, dĩ kệ nhi tán thán. Phật tri thời vị chí, thọ thỉnh, mặc nhiên tọa. Tam phương, cập tứ duy, thượng hạ diệc phục nhĩ. Tán hoa, phụng cung điện, thỉnh Phật chuyển pháp luân. Thế Tôn thậm nan trị, nguyện dĩ bổn từ bi, quảng khai cam lộ môn, chuyển vô thượng pháp luân.

          ()東方諸世界。五百萬億國。梵宮殿光曜。昔所未曾有。諸梵見此相。尋來至佛所。散華以供養。幷奉上宮殿。諸佛轉法輪。以偈而讚歎。佛知時未至。受請默然坐。三方及四維。上下亦復爾。散華奉宮殿。請佛轉法輪。世尊甚難值。願以本慈悲。廣開甘露門。轉無上法輪。

          (Kinh: Phương Đông các thế giới, năm trăm vạn ức cơi, cung Phạm thiên chói ngời, xưa kia chưa từng có. Phạm thiên thấy tướng ấy, t́m đến chỗ đức Phật. Rải hoa để cúng dường, và dâng lên cung điện. Chư Phật chuyển pháp luân, dùng kệ để tán thán. Phật biết chưa tới lúc, nhận thỉnh, ngồi yên lặng. Ba phương và bốn góc, trên dưới cũng như thế. Rải hoa, dâng cung điện, thỉnh Phật chuyển pháp luân. Thế Tôn rất khó gặp, nguyện rủ ḷng từ bi, mở rộng cửa cam lộ, chuyển pháp luân vô thượng).

 

          Ba bài kệ đầu tiên trùng tụng phương Đông; hai bài kệ sau, trùng tụng chung chín phương. Phần thứ nhất, “trùng tụng nguyên do xa” đă xong.

 

7.2.1.2. Trùng tụng nguyên do gần

7.2.1.2.1. Trùng tụng chuyển bán tự pháp luân

 

          (Kinh) Vô lượng huệ Thế Tôn, thọ bỉ chúng nhân thỉnh, vị tuyên chủng chủng pháp, Tứ Đế, thập nhị duyên, Vô Minh chí lăo tử, giai tùng sanh duyên hữu. Như thị chúng quá hoạn, nhữ đẳng ưng đương tri. Tuyên sướng thị pháp thời, lục bách vạn ức cai, đắc tận chư khổ tế, giai thành A La Hán. Đệ nhị thuyết pháp thời, thiên vạn hằng sa chúng, ư chư pháp bất thọ, diệc đắc A La Hán. Tùng thị hậu đắc đạo. Kỳ số vô hữu lượng, vạn ức kiếp toán số, bất năng đắc kỳ biên.

          ()無量慧世尊。受彼眾人請。為宣種種法。四諦十二緣。無明至老死。皆從生緣有。如是眾過患。汝等應當知。宣暢是法時。六百萬億姟。得盡諸苦際。皆成阿羅漢。第二說法時。千萬恆沙眾。於諸法不受。亦得阿羅漢。從是後得道。其數無有量。萬億劫算數。不能得其邊。

          (Kinh: Thế Tôn vô lượng huệ, nhận lời mọi người thỉnh, tuyên nói các loại pháp, Tứ Đế, mười hai duyên: Vô Minh đến lăo tử, từ sanh duyên mà có. Các lỗi hại như thế, các ngươi hăy nên biết. Lúc tuyên dương pháp ấy, sáu trăm vạn ức cai[37], hết sạch các nỗi khổ, đều thành A La Hán. Hội thuyết pháp thứ hai, ngàn vạn hằng sa chúng, đối các pháp chẳng thọ, cũng thành A La Hán. Từ sau đó đắc đạo, số lượng chẳng ngằn mé, vạn ức kiếp tính toán, chẳng biết nổi chừng hạn).

 

          Nửa bài kệ đầu trùng tụng chuyện Phật thọ thỉnh. Nửa phần sau bài kệ, trùng tụng chuyện chuyển pháp luân. Ba bài kệ sau đó, trùng tụng chuyện nghe pháp đắc đạo. Nói “Vô Minh chí lăo tử, giai tùng sanh duyên hữu”, tức là nói Vô Minh là sanh duyên của Hành, Hành là sanh duyên của Thức, cho đến Sanh là sanh duyên của Lăo, Tử. Biết lỗi hại của chúng th́ hăy nên dùng sức quán trí để diệt Vô Minh. Do cái này diệt cho nên cái kia diệt.

 

7.2.1.2.2. Trùng tụng chuyển pháp luân phế bán giáo, nói măn giáo

 

          (Kinh) Thời thập lục vương tử, xuất gia tác sa-di, giai cộng thỉnh bỉ Phật, diễn thuyết Đại Thừa pháp: “Ngă đẳng cập doanh tùng, giai đương thành Phật đạo. Nguyện đắc như Thế Tôn, huệ nhăn đệ nhất tịnh”. Phật tri đồng tử tâm, túc thế chi sở hành, dĩ vô lượng nhân duyên, chủng chủng chư thí dụ, thuyết Lục Ba La Mật, cập chư thần thông sự, phân biệt chân thật pháp. Bồ Tát sở hành đạo, thuyết thị Pháp Hoa kinh, như Hằng hà sa kệ. Bỉ Phật thuyết kinh dĩ, tĩnh thất nhập Thiền Định, nhất tâm nhất xứ tọa, bát vạn tứ thiên kiếp.

          ()時十六王子。出家作沙彌。皆共請彼佛。演說大乘法。我等及營從。皆當成佛道。願得如世尊。慧眼第一淨。佛知童子心。宿世之所行。以無量因緣。種種諸譬喻。說六波羅蜜。及諸神通事。分別真實法。菩薩所行道。說是法華經。如恆河沙偈。彼佛說經已。靜室入禪定。一心一處坐。八萬四千劫。

          (Kinh: Mười sáu vương tử ấy, xuất gia làm sa-di, đều cùng thỉnh Phật ấy, diễn nói pháp Đại Thừa: “Chúng con và quyến thuộc, sẽ đều thành Phật đạo. Nguyện được như Thế Tôn, huệ nhăn sạch bậc nhất”. Phật biết tâm đồng tử, các hạnh trong đời trước, dùng vô lượng nhân duyên, cùng các thứ thí dụ, nói Lục Ba La Mật, và các chuyện thần thông, phân biệt pháp chân thật. Đạo Bồ Tát đă hành, nói kinh Pháp Hoa này, kệ như cát sông Hằng. Phật ấy nói kinh xong, tĩnh thất nhập Thiền Định, nhất tâm ngồi một chỗ[38], tám vạn bốn ngàn kiếp).

 

          Hai câu đầu, trùng tụng chuyện thứ nhất “các con xuất gia”. Sáu câu kế tiếp, trùng tụng chuyện thứ hai là “thỉnh pháp”. Lược đi, chẳng trùng tụng chuyện thứ ba, tức “những người được dẫn theo cũng xuất gia”, chỉ dùng hai chữ “doanh tùng” (những kẻ đi theo) để bao gồm. Hai bài kệ từ chữ “Phật tri” (Phật biết) trở đi, trùng tụng chuyện thứ tư, “[Đại Thông Trí Thắng Phật] thọ thỉnh (chấp thuận lời thỉnh cầu chuyển pháp luân của đại chúng) trong hai vạn kiếp”. Trước hết, nói Phương Đẳng, Bát Nhă. Hai câu kế tiếp, trùng tụng “chấp nhận lời thỉnh, nói kinh Pháp Hoa”. Lược đi không trùng tụng chuyện thứ năm “có kẻ hiểu và chẳng hiểu” và chuyện thứ sáu là “thời tiết” (thời gian nói kinh bao lâu). Bài kệ cuối cùng trùng tụng chuyện thứ bảy “nói xong liền nhập Định”. Phần thứ nhất, trùng tụng nguyên do kết duyên đă xong.

 

7.2.2. Trùng tụng chuyện kết duyên

7.2.2.1. Trùng tụng pháp thuyết

7.2.2.1.1. Trùng tụng chuyện cùng nhau kết duyên từ xưa

 

          (Kinh) Thị chư sa-di đẳng, tri Phật Thiền vị xuất, vị vô lượng ức chúng, thuyết Phật vô thượng huệ, các các tọa pháp ṭa, thuyết thị Đại Thừa kinh. Ư Phật yến tịch hậu, tuyên dương trợ pháp hóa. Nhất nhất sa-di đẳng, sở độ chư chúng sanh, hữu lục bách vạn ức, Hằng hà sa đẳng chúng.

          ()是諸沙彌等。知佛禪未出。為無量億眾。說佛無上慧。各各坐法座。說是大乘經。於佛宴寂後。宣揚助法化。一一沙彌等。所度諸眾生。有六百萬億。恆河沙等眾。

          (Kinh: Các vị sa-di ấy, biết Phật chưa xuất Thiền, v́ vô lượng ức chúng, nói Phật vô thượng huệ. Mỗi vị ngồi pháp ṭa, nói kinh Đại Thừa này. Sau khi Phật xả Thiền, tuyên dương giúp pháp hóa. Mỗi một vị sa-di, hóa độ các chúng sanh, có sáu trăm vạn ức, đông như cát sông Hằng).

 

7.2.2.1.2. Trùng tụng chuyện gặp gỡ trong khoảng giữa

 

          (Kinh) Bỉ Phật diệt độ hậu, thị chư văn pháp giả, tại tại chư Phật độ, thường dữ sư câu sanh.

          ()彼佛滅度後。是諸聞法者。在在諸佛土。常與師俱生。

          (Kinh: Sau khi Phật diệt độ, những người nghe pháp ấy, trong khắp các cơi Phật, thường sanh cùng với thầy).

 

7.2.2.1.3. Trùng tụng hiện thời vẫn nói Pháp Hoa

7.2.2.1.3.1. Dung hội xưa nay

 

          (Kinh) Thị thập lục sa-di, cụ túc hành Phật đạo, kim hiện tại thập phương, các đắc thành Chánh Giác. Nhĩ thời, văn pháp giả, các tại chư Phật sở. Kỳ hữu trụ Thanh Văn, tiệm giáo dĩ Phật đạo. Ngă tại thập lục số, tằng diệc vị nhữ thuyết. Thị cố dĩ phương tiện, dẫn nhữ thú Phật huệ.

          ()是十六沙彌。具足行佛道。今現在十方。各得成正覺。爾時聞法者。各在諸佛所。其有住聲聞。漸教以佛道。我在十六數。曾亦為汝說。是故以方便。引汝趣佛慧。

          (Kinh: Mười sáu sa-di ấy, hành Phật đạo trọn đủ, nay đang ở mười phương, đều được thành Chánh Giác. Lúc đó, người nghe pháp, đều ở chỗ chư Phật. Có người trụ Thanh Văn, dần dần dạy Phật đạo. Ta thuộc số mười sáu, cũng từng v́ ông nói. V́ thế, dùng phương tiện, dẫn ông nhập Phật huệ).

 

          Bài kệ thứ nhất, trùng tụng chuyện xưa và nay của thầy (mười sáu vị vương tử). Bài kệ thứ hai, chỉ trùng tụng đệ tử xưa và nay trong hiện tại. Lược đi chẳng trùng tụng các đệ tử trong vị lai.

 

7.2.2.1.3.2. Nêu rơ “vẫn nói Pháp Hoa”

 

          (Kinh) Dĩ thị bổn nhân duyên, kim thuyết Pháp Hoa kinh, linh nhữ nhập Phật đạo, thận vật hoài kinh cụ.

          ()以是本因緣。今說法華經。令汝入佛道。慎勿懷驚懼。

          (Kinh: Do bởi nhân duyên ấy, nay nói kinh Pháp Hoa, khiến ông nhập Phật đạo, cẩn thận, đừng kinh sợ).

 

          Chỉ trùng tụng “do đúng thời nên nói”, lược đi không trùng tụng giải thích ư nghĩa “mở ra ba thừa”. Phần thứ nhất, trùng tụng Pháp Thuyếtđă xong.

 

7.2.2.2. Trùng tụng Thí Thuyết

7.2.2.2.1. Lập thí dụ

7.2.2.2.1.1. Trùng tụng thí dụ về người hướng dẫn

 

          (Kinh) Thí như hiểm ác đạo, huưnh tuyệt đa độc thú, hựu phục vô thủy thảo, nhân sở bố úy xứ. Vô số thiên vạn chúng, dục quá thử hiểm đạo. Kỳ lộ thậm khoáng viễn, kinh ngũ bách do-tuần. Thời hữu nhất đạo sư, cường thức hữu trí huệ, minh liễu tâm quyết định, tại hiểm tế chúng nạn.

          ()譬如險惡道。迥絕多毒獸。又復無水草。人所怖畏處。無數千萬眾。欲過此險道。其路甚曠遠。經五百由旬。時有一導師。強識有智慧。明了心決定。在險濟眾難。

          (Kinh: Ví như đường hiểm ác, hoang vắng, nhiều thú độc, lại chẳng có nước, cỏ, là chỗ người sợ hăi. Vô số ngàn vạn người, muốn vượt đường hiểm ấy. Đường ấy rất dài xa, trải năm trăm do-tuần. Có một vị dẫn đường, hiểu rộng, có trí huệ, sáng suốt, tâm quyết định, cứu nạn trong chốn hiểm).

 

          Phần Trường Hàng nói “khoáng tuyệt, vô nhân” (hoang vu, không có người), nay kệ tụng nói “huưnh tuyệt đa độc thú” (hoang vắng, nhiều thú độc). “Người” là sánh ví Bồ Đề Niết Bàn, “thú” là sánh ví phiền năo sanh tử. Thú đă nhiều lại có độc, chính là v́ căn cơ Tiểu Thừa Kiến Tư Hoặc nặng nề, ngũ trược chướng sâu đậm, chẳng thể đi trên đường thẳng to lớn. “Nước” là sánh ví Thiền Định, “thảo” sánh ví trí huệ. Hai câu từ chữ “cường thức” (hiểu rộng) trở đi, trùng tụng ư “thông huệ minh đạt”. Câu “tại hiểm” trùng tụng ư khéo biết tướng thông tắc của đường hiểm. Những điều khác dễ hiểu!

 

7.2.2.2.1.2. Trùng tụng thí dụ những người được hướng dẫn

7.2.2.2.1.2.1. Trùng tụng những người được hướng dẫn giữa đường lười nhác, lui sụt

7.2.2.2.1.2.1.1. Trùng tụng chuyện mọi người thoái thất Đại Thừa

 

          (Kinh) Chúng nhân giai b́ quyện, nhi bạch đạo sư ngôn, ngă đẳng kim đốn phạp, ư thử dục thoái hoàn.

          ()眾人皆疲倦。而白導師言。我等今頓乏。於此欲退還。

          (Kinh: Mọi người đều mệt mỏi, thưa cùng người hướng dẫn: “Chúng tôi nay kiệt quệ, do vậy muốn lui về”).

 

7.2.2.2.1.2.1.2. Trùng tụng người hướng dẫn dùng Tiểu pháp để tiếp dẫn

7.2.2.2.1.2.1.2.1. Lập phương tiện để hóa độ

 

          (Kinh) Đạo sư tác thị niệm, thử bối thậm khả mẫn, như hà dục thoái hoàn, nhi thất đại trân bảo? Tầm thời tư phương tiện, đương thiết thần thông lực, hóa tác đại thành quách, trang nghiêm chư xá trạch. Châu táp hữu viên lâm, cừ lưu cập dục tŕ. Trùng môn, cao lâu các. Nam nữ giai sung măn. Tức tác thị hóa dĩ, ủy chúng ngôn vật cụ. Nhữ đẳng nhập thử thành, các khả tùy sở nhạo.

          ()導師作是念。此輩甚可愍。如何欲退還。而失大珍寶。尋時思方便。當設神通力。化作大城郭。莊嚴諸舍宅。周匝有園林。渠流及浴池。重門高樓閣。男女皆充滿。卽作是化已。慰眾言勿懼。汝等入此城。各可隨所樂。

          (Kinh: Người dẫn đường nghĩ rằng: “Bọn này rất đáng thương, cớ sao muốn lui về, đánh mất trân bảo lớn?” Lập tức nghĩ phương tiện, nên dùng sức thần thông, hóa ra thành quách lớn, trang nghiêm các nhà cửa. Chung quanh có vườn rừng. Khe suối và ao tắm. Cửa nhiều tầng, lầu cao. Nam nữ đều đông đảo. Biến hóa như thế xong, an ủi bảo đừng sợ: “Các ngươi vào thành này, đều thuận ḷng ưa thích”).

 

          Trong là thành, ngoài là quách, ví như hai loại Niết Bàn Hữu Dư và Vô Dư. “Xá” ví như sanh duyên từ bi của Nhị Thừa, “trạch” ví như sanh không trí cảnh của Nhị Thừa. “Viên lâm” (vườn rừng) ví như rừng pháp tổng tŕ vô lậu của Nhị Thừa. “Cừ lưu” (khe suối) ví như Cửu Thứ Đệ Định. “Dục tŕ” (ao tắm) ví như bát giải thoát. “Trùng môn” (Cửa nhiều tầng) ví như ba cửa tam-muội “Không, Vô Tướng, Vô Nguyện”, cũng sánh ví trùng không tam-muội của Nhị Thừa, tức là Sanh Không và Pháp Không, cho đến vô nguyện cũng vô nguyện (chẳng giống với Nhị Không của Đại Thừa). “Cao lâu các” (lầu gác cao) ví như Tận Trí và Vô Sanh Trí vượt khỏi tam giới. “Nam” ví như trí huệ, “nữ” ví như Thiền Định.

          Giải thích theo quán tâm, trí thể trọn đủ như thành, thiện pháp trọn đủ như quách. Tất Cánh Không là “xá trạch”. Tánh có đủ vạn hạnh là “viên lâm”. Chín loại đại Thiền là “cừ lưu, dục tŕ”. Sanh Không và Pháp Không là “trùng môn”. Nhất tâm tam trí là “cao lâu các”. Trực thiện có thể trở thành tự hành, như nam có thể làm chủ gia đ́nh. Từ bi có thể hóa độ người khác bên ngoài, như nữ th́ kết hôn với người ngoài (giải thích sự giáo hóa theo sự quán tâm th́ cũng thông bốn giáo, nay chỉ xét theo Viên Giáo).

 

7.2.2.2.1.2.1.2.2. Trùng tụng sự hoan hỷ tiến nhập

 

          (Kinh) Chư nhân kư nhập thành, tâm giai đại hoan hỷ, giai sanh an ổn tưởng, tự vị dĩ đắc độ.

          ()諸人旣入城。心皆大歡喜。皆生安隱想。自謂已得度。

          (Kinh: Mọi người đă vào thành, tâm đều hoan hỷ lớn, sanh ư tưởng an ổn, tự cho đă đắc độ).

 

          Phần thứ nhất, trùng tụng “người được hướng dẫn giữa đường lười nhác, thoái thất” đă xong.

 

7.2.2.2.1.3. Trùng tụng diệt hóa thành, dẫn đến chỗ có của báu

 

          (Kinh) Đạo sư tri tức dĩ, tập chúng nhi cáo ngôn: “Nhữ đẳng đương tiền tiến, thử thị hóa thành nhĩ. Ngă kiến nhữ b́ cực, trung lộ dục thoái hoàn. Cố dĩ phương tiện lực, quyền hóa tác thử thành. Nhữ kim cần tinh tấn, đương cộng chí bảo sở”.

            ()導師知息已。集眾而告言。汝等當前進。此是化城耳。我見汝疲極。中路欲退還。故以方便力。權化作此城。汝今勤精進。當共至寶所。

          (Kinh: Người hướng dẫn đă biết, nhóm chúng để bảo rằng: “Các ngươi nên tiến lên, đây là hóa thành thôi. Ta thấy ngươi mệt mỏi, giữa đường muốn lui về. Nên dùng sức phương tiện, quyền biến hóa thành này. Ngươi nay siêng tinh tấn, nên cùng đến chỗ báu”).

 

          Phần thứ nhất, trùng tụng lập thí dụ đă xong.

 

7.2.2.2.2. Trùng tụng nhằm kết hợp thí dụ với pháp

7.2.2.2.2.1. Phần kết hợp chánh yếu

7.2.2.2.2.1.1. Trùng tụng kết hợp thí dụ “người hướng dẫn” với pháp       

 

          (Kinh) Ngă diệc phục như thị, vi nhất thiết đạo sư.

          ()我亦復如是。為一切導師。

          (Kinh: Ta cũng giống như thế, đạo sư của hết thảy).

 

7.2.2.2.2.1.2. Trùng tụng kết hợp thí dụ “hướng dẫn” với pháp

 

          (Kinh) Kiến chư cầu đạo giả, trung lộ nhi giải phế, bất năng độ sanh tử, phiền năo chư hiểm đạo. Cố dĩ phương tiện lực, vị tức thuyết Niết Bàn. Ngôn nhữ đẳng khổ diệt, sở tác giai dĩ biện. Kư tri đáo Niết Bàn, giai đắc A La Hán, nhĩ năi tập đại chúng, vị thuyết chân thật pháp. Chư Phật phương tiện lực, phân biệt thuyết tam thừa, duy hữu nhất Phật thừa, tức xứ cố thuyết nhị. Kim vị nhữ thuyết thật: Nhữ sở đắc phi diệt, vị Phật nhất thiết trí, đương phát đại tinh tấn. Nhữ chứng Nhất Thiết Trí, Thập Lực đẳng Phật pháp, cụ tam thập nhị tướng, năi thị chân thật diệt.   

          ()見諸求道者。中路而懈廢。不能度生死。煩惱諸險道。故以方便力。為息說涅槃。言汝等苦滅。所作皆已辦。旣知到涅槃。皆得阿羅漢。爾乃集大眾。為說真實法。諸佛方便力。分別說三乘。唯有一佛乘。息處故說二。今為汝說實。汝所得非滅。為佛一切智。當發大精進。汝證一切智。十力等佛法。具三十二相。乃是真實滅。

          (Kinh: Thấy các người cầu đạo, giữa đường bèn lười bỏ, chẳng thể vượt sanh tử, các đường hiểm phiền năo. Nên dùng sức phương tiện, v́ nghỉ nói Niết Bàn. Nói “các ngươi diệt khổ, việc làm đă hoàn thành. Đă biết đến Niết Bàn, đều đắc A La Hán, bèn nhóm họp đại chúng, giảng nói pháp chân thật: - Sức phương tiện chư Phật, phân biệt nói tam thừa. Chỉ có một Phật thừa, do nghỉ nên nói hai. Nay v́ ngươi nói thật, sở đắc chẳng phải diệt, v́ Phật Nhất Thiết Trí, hăy phát tinh tấn lớn. Ngươi chứng Nhất Thiết Trí, Thập Lực, các Phật pháp, đủ ba mươi hai tướng, mới là diệt chân thật).

         

          Câu thứ nhất, trùng tụng pháp tương ứng với những người được hướng dẫn. Ba câu kế, trùng trụng pháp tương ứng với thí dụ “giữa đường lười nhác, lui sụt”. Bài kệ kế đó trùng tụng pháp tương ứng với thí dụ “diệt hóa thành, dẫn đến chỗ có của báu”. “Tam thừa” là xét theo các Quyền hạnh có thể dẫn đến [Quyền lư]. “Hai” tức là Quyền lư được [các Quyền hạnh] dẫn đến, chính là Hữu Dư và Vô Dư [Niết Bàn], mà cũng là hai thứ quả chứng của Thanh Văn và Duyên Giác. Nhất Thiết Trí là Bát Nhă. “Ba mươi hai tướng” là Pháp Thân. “Chân thật diệt” là giải thoát. Tam Đức chẳng dọc, chẳng ngang, tức là tạng bí mật của Như Lai. Lại nữa, Nhất Thiết Trí chính là Thức trong pháp tánh. Thập Lực v.v… chính là Thọ, Tưởng, Hành trong pháp tánh. “Ba mươi hai tướng” chính là Sắc trong pháp tánh, đạt được “thường, lạc, ngă, tịnh” rốt ráo nơi Ngũ Ấm trong pháp tánh, cho đến hết đời vị lai chẳng sanh, chẳng diệt. V́ thế gọi là “chân thật diệt”. Há giống như so đo hư vọng và hôi đoạn của Nhị Thừa, vẫn phải hứng chịu Biến Dịch sanh tử ư? Phần thứ nhất, “phần kết hợp chánh yếu pháp với thí dụ” đă xong!

 

7.2.2.2.2.2. Trùng tụng nhắc lại thí dụ để kết hợp với pháp

 

          (Kinh) Chư Phật chi đạo sư, vị tức thuyết Niết Bàn, kư tri thị tức dĩ, dẫn nhập ư Phật huệ.

          ()諸佛之導師。為息說涅槃。旣知是息已。引入於佛慧。

          (Kinh: Chư Phật là đạo sư, v́ nghỉ nói Niết Bàn. Đă biết là nghỉ rồi, dẫn nhập vào Phật huệ).

 

          Hai câu đầu, kết hợp với pháp khít khao chuyện thực hiện Quyền. Hai câu kế đó, kết hợp khít khao với pháp chuyện hiển Thật. Phần thứ ba, nói nhân duyên trong Nhân Duyên Thuyết Châu đă xong.

 

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thai Tông Hội Nghĩa, quyển 3 hết

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa phần 8 hết

 

 

 

 



[1] Chánh Pháp Hoa chính là một bản dịch cổ nhất của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bản này do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào năm Thái Khang thứ bảy (286) đời Tây Tấn. Trong công cuộc dịch kinh này, ngài Trúc Pháp Hộ giảng nghĩa Phạn bản, ngài Nhiếp Thừa Viễn chuyển sang tiếng Hán, các vị Trương Sĩ Minh, Trương Trọng Chánh làm bút thọ, các vị Trúc Lực, Bạch Nguyên Tín giảo đính. Kinh gồm hai mươi bảy phẩm, nội dung tương đồng với bản của ngài La Thập, nhưng có nhiều chi tiết sai biệt. Chẳng hạn như ghép phẩm Đề Bà Đạt Đa và Kiến Bảo Tháp thành một phẩm, gọi là Thất Bảo Tháp Phẩm, dịch toàn bộ chú ngữ sang tiếng Hán, dịch danh hiệu của ngài Quán Thế Âm là Quang Thế Âm (phẩm Phổ Môn thiếu phần kệ tụng) v.v… Do vậy, kinh này được coi là một tài liệu quan trọng để đối chiếu.

[2] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Thần thông của Phật diệu dụng không ngằn mé, do vậy gọi là Đại. Trí huệ của Phật rốt ráo hiểu rơ; v́ thế nói là Thắng. [Trí huệ ấy] Nhị Thừa lẫn Bồ Tát đều chẳng thể sánh bằng được. Do vậy gọi là Đại Thông Trí Thắng”.

[3] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Y báo trang nghiêm nên gọi là Hảo Thành; trụ kiếp lâu xa nên gọi là Đại Tướng”.

[4] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Địa chủng là một loại trong Tứ Đại (địa, thủy, hỏa, phong), tánh nó kiên cố, cho nên gọi là Địa. Có thể sanh ra hết thảy các sắc pháp, nên gọi là Chủng”.

[5] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Một quốc độ là một tam thiên đại thiên thế giới”.

[6] Theo Phật Học Đại Từ Điển của Đinh Phước Bảo, nơi La Hán th́ gọi là Tam Minh, nơi Phật th́ gọi là Tam Đạt, tức Thiên Nhăn, Túc Mạng, và Lậu Tận. Do thấu đạt tột cùng rốt ráo, nên gọi là Tam Đạt.

[7] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Đạo tràng có hai nghĩa: 1) Nơi chốn để do cái nhân vạn hạnh mà thành tựu cái quả Bồ Đề đạo, nơi đó được gọi là Pháp Thân đạo tràng. 2) Cội Bồ Đề nơi xứ Ma Kiệt Đề là cội nguồn của đạo Phật, được gọi là Ứng Thân đạo tràng. Khi chư Phật sắp thành Chánh Giác, ắt có ma vương suất lănh ma chúng quấy phá. V́ thế, cần phải phá ma, sau đó thành đạo”.

[8] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Sư tử là vua trong loài thú, ngạo nghễ một ḿnh chẳng e sợ. V́ thế, trong kinh sánh ví Phật như sư tử trong loài người, hàng phục hết thảy ngoại đạo, tà ma. Ngài ngồi ở nơi đâu, nơi đó được gọi là ṭa sư tử”.

[9] Kỹ nhạc là âm nhạc, “kỹ” có nghĩa là hay khéo. Gọi âm nhạc là kỹ nhạc với ngụ ư: Nhạc được diễn tấu bởi những người chuyên nghiệp hay có tŕnh độ diễn tấu cao.

[10] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Trí Tích là tích tụ vạn đức; do vậy, gọi là Trí Tích. Hơn nữa, nhằm tương ứng cái tâm tu nhân với sự giác ngộ khi đắc quả, cho nên cha tên là Trí Thắng, con là Trí Tích”.

[11] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Năm căn chẳng duyên theo trần cảnh bên ngoài, cho nên chân tay bất động. Tám thức đă ĺa nội nhiễm, cho nên thường tĩnh lặng. Chữ Đảm Phạ có cùng ư nghĩa với chữ “đạm bạc”, đều có nghĩa là điềm tĩnh vô vi”.

[12] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Đây là tán thán đức Phật trí huệ và phước đức đều trọn vẹn. Tu năm độ trước trong Lục Độ là phước, tu độ cuối cùng (Bát Nhă) là huệ. Phước trọn đủ nên nói là Trăm. Huệ trọn đủ nên nói là Vô Thượng”.

[13] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Năm trăm vạn ức là nói đến chúng sanh trong năm đường”.

[14] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Chỗ tối tăm trong cơi ấy chính là trong núi Thiết Vi, tức chốn địa ngục”.

[15] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Chư thiên đi đến đâu, cung điện theo sát thân họ. V́ thế nói là dữ cung điện câu”.

[16] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Cây Bồ Đề vốn là cây Tất Bát La (Pippala). Do Phật ngồi dưới cội cây ấy mà thành Chánh Giác, cho nên gọi là Bồ Đề thụ, dịch nghĩa là Giác Thụ, hay Đạo Thụ”.

[17] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Phật được mười pháp giới tôn trọng, v́ được coi là chúa của các vị thánh, là vua trong chư thiên. Do vậy nói ‘thánh chúa, thiên trung vương’. Ca-lăng-tần-già là tên một loại chim sống tại Tuyết Sơn, tiếng hót cực hay, du dương, ḥa nhă. Loài chim này từ khi c̣n nằm trong trứng đă biết hót. V́ thế dùng tiếng loài chim này để sánh ví âm thanh thuyết pháp vi diệu của đức Phật”.

[18] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Chúng sanh mù ḷa, tăm tối, đánh mất chánh kiến, ở trong đêm dài sanh tử, chẳng biết thoát ra. Đức Phật hướng dẫn họ thoát khỏi, v́ thế nói Ngài làm mắt cho chúng sanh”.

[19] “Thiên nhân tôn” là đấng được trời lẫn người đều tôn kính.

[20] Tam thoát môn (ba cửa giải thoát, trīni vimoksa-mukhāni) tức Không môn (Śūnyatā), Vô Tướng môn (Animitta), và Vô Nguyện môn (Apranihita, c̣n gọi là Vô Tác, Vô Dục).

[21] Dị Thục Quả (Vipāka-phala) chính là quả báo chiêu cảm bởi dị thục nhân. Có nhiều cách giải thích, nhưng phổ biến nhất: Dị Thục Quả chính là quả báo sẽ chín muồi không cùng thời với nhân. Chẳng hạn như tạo nghiệp lành hay ác trong hiện thời, sẽ chiêu cảm cái quả sướng hay khổ trong tương lai, cái quả ấy được gọi là Dị Thục Quả.

[22] Ca La La (Kalala), c̣n phiên âm là Yết La Lam, Yết Lạt Lam, Yết La La v.v… dịch nghĩa là Ngưng Hoạt, Tạp Uế v.v… Tức là thứ do tinh của cha và trứng của mẹ kết hợp thành, khởi điểm của sự thọ thân, thuộc vào giai đoạn bảy ngày đầu tiên khi trứng của mẹ được thụ tinh từ cha. Sách Huyền Ứng Âm Nghĩa giảng: “Yết La Lam, cựu dịch là Ca La La, phương này dịch là Ḥa Hợp, hoặc Ngưng Hoạt, do thứ bất tịnh của cha mẹ ḥa hợp, như mật, như lạc, ngưng đọng thành một giọt. Trong ṿng bảy ngày cấn thai, ngưng đọng như chất lạc”.

[23] Đúng như Tổ đă nói, tùy theo từng giáo, từng tông mà Thập Nhị Nhân Duyên được giải thích theo các mức độ khác nhau, nhưng đối với những kẻ sơ cơ độn căn như mạt nhân th́ Thập Nhị Nhân Duyên [giải thích theo Duy Thức] khá khó hiểu. Nhận thấy lời giảng của pháp sư Phổ Hành tương đối đơn giản dễ hiểu, chúng tôi xin trích lục như sau: “Vô Minh duyên Hành: Hết thảy Hoặc chướng phiền năo trong quá khứ được gọi là Vô Minh. Hết thảy các nghiệp thiện ác đă tạo tác được gọi là Hành. Do v́ mê hoặc mà tạo nghiệp, nên nói là ‘Vô Minh duyên Hành’. Một niệm đầu thai trong hiện tại được gọi là Thức. Cái Thức ấy do nghiệp lực trong quá khứ lôi kéo đến, cho nên nói là Hành duyên Thức. Ngũ Ấm ở trong thai, Sắc Ấm có h́nh tướng, bốn Ấm kia chỉ có tên gọi, nên gọi là Danh. Gọi gộp chung Ngũ Ấm là Danh Sắc. Cái Danh Sắc ấy do Thức [của người đầu thai] nắm giữ tinh huyết của cha mẹ mà thành, cho nên gọi là Thức duyên Danh Sắc. Sáu căn nơi Sắc Ấm là chỗ để các trần tiến nhập (sáu căn tiếp xúc sáu trần), nên gọi là Lục Nhập. Do Lục Nhập mà Danh Sắc tăng trưởng thành h́nh; cho nên nói là Danh Sắc duyên Lục Nhập. Sau khi đă ra khỏi thai, sáu căn có thể tiếp xúc ngoại cảnh, nên nói Lục Nhập duyên Xúc. Do Xúc làm duyên, sanh khởi Thọ (cảm nhận) đối với khổ lạc hay chẳng khổ chẳng lạc, nên nói là Xúc duyên Thọ. Do Thọ làm duyên, sanh ư tưởng ưa thích cảnh lạc, chán ĺa cảnh khổ, nên gọi là Thọ duyên Ái. Do Ái làm duyên, tâm truy cầu cảnh ham muốn, chấp giữ chẳng bỏ, nên gọi là Ái duyên Thủ. Do Thủ làm duyên, tạo các nghiệp thiện hay ác hữu lậu, chắc chắn sanh ra các thứ quả báo trong tam giới nơi đời vị lai, nên nói là Thủ duyên Hữu. Do cái Hữu mang tánh chất quyết định trong đời này, sẽ sanh trong lục đạo thuộc đời sau, cho nên nói Hữu duyên Sanh. Do sanh thân biến đổi, hư hoại, cho nên mới có già, chết, ưu bi khổ năo. V́ thế nói là Sanh duyên lăo tử ưu bi khổ năo. Vô Minh và Hành là cái nhân trong quá khứ. Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc và Thọ là cái quả trong hiện tại. Ái, Thủ, Hữu là cái nhân trong hiện tại. Sanh và Lăo Tử là cái quả trong vị lai”. Đấy là cách giải thích theo giáo nghĩa A Hàm.

[24] Tứ Kiến là bốn cách kiến giải đối với sự vật: Nhất, dị, thường, phi thường. Tức là đối với sự vật khác nhau, chúng ta nghĩ chúng là một hoặc giống nhau (đó là Nhất), chúng hoàn toàn khác nhau (đó là Dị), chúng thường tồn tại vĩnh hằng (đó là Thường), chúng chẳng bền chắc, sẽ bị diệt mất (đó là Phi Thường).

[25] Phúng () là đối trước kinh bổn để đọc ra tiếng, Tụng () là đọc thuộc ḷng, không cần kinh bổn.

[26] Nói trong “khoảng giữa” tức là khoảng thời gian sau khi mười sáu vị Sa-di Bồ Tát nói kinh Pháp Hoa cho đến trước khi các Ngài thành Phật ở mười phương.

[27] Pháp sư Phổ Hành giảng: “A Súc nói đầy đủ là A Súc Bệ, c̣n dịch là Bất Động. Phương Đông thuộc quẻ Chấn [theo kinh Dịch], đứng đầu các sự chấn động. Phật có thể ở trong động mà bất động; v́ thế gọi là A Súc. Hoan Hỷ quốc chính là Diệu Hỷ tịnh độ ở phương Đông. Phật trọn đủ vạn đức, cao vượt tất cả muôn vật, v́ thế gọi là Tu Di Đảnh. Phật thuyết pháp vô úy như sư tử rống. V́ thế tên là Sư Tử Âm. Cử chỉ, biểu lộ thần thái oai nghiêm như sư tử, chẳng giận mà tự uy. V́ thế tên là Sư Tử Tướng. Xa ĺa các cơi, trụ trong pháp tánh Không, cho nên gọi là Hư Không Trụ. Thường ĺa sanh diệt, vắng lặng, dứt bặt các phiền năo. V́ thế tên là Thường Diệt. Phật có oai đức tôn nghiêm, như đế vương trong thế gian. V́ thế tên là Đế Tướng. Phạm hạnh thanh tịnh, nên tên là Phạm Tướng. Kinh Di Đà nói: ‘Đức Phật ấy quang minh vô lượng chiếu mười phương cơi nước. V́ thế tên là A Di Đà’. Lại nói: “Thọ mạng của đức Phật và nhân dân vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp. V́ thế tên là A Di Đà’. Phật dùng đại bi độ người khác, độ trọn hết các hữu t́nh, nên tên là Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Năo. Đa Ma La Bạt dịch nghĩa là Tánh Vô Cấu Hiền, [là từ ngữ] h́nh dung hương Chiên Đàn. Thần thông của Phật có thể độ chúng sanh, ĺa phiền năo cấu, đạt được thanh tịnh. Do vậy gọi là Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông. Tướng hảo trang nghiêm, ví như Tu Di. V́ thế gọi là Tu Di Tướng. Phật tâm vô tư, diệu hạnh vô trụ, ví như mây ph́nh ra hoặc co lại tự tại, che rợp hết thảy, nên gọi là Vân Tự Tại. Thánh đức lưu hành, phủ trùm nhân dân như vua trong thế gian, nên gọi là Vân Tự Tại Vương. Nỗi khổ do già, bệnh, chết là chuyện đáng sợ hăi trong thế gian. Phật độ hữu t́nh ĺa khỏi nỗi khổ ấy, đạt được an ổn. Do vậy tên là Hoại Nhất Thiết Thế Gian Bố Úy. Thích Ca dịch là Năng Nhân, Mâu Ni dịch là Tịch Mặc. Quyền trí lợi lạc chúng sanh, nhuận trạch muôn loài, cho nên gọi là Năng Nhân. Đó chính là diệu dụng nơi Ứng Thân. Thật trí chứng Lư, ĺa ngôn từ, dứt bặt h́nh tướng, cho nên nói là Tịch Mặc. Đó chính là Pháp Thân Lư Thể. Quyền chính là Thật, Thật chính là Quyền, Thể lẫn Dụng đều viên dung. V́ thế gọi là Thích Ca Mâu Ni. Sa Bà được phương này dịch là Nhẫn Độ, có hai nghĩa: Một, như sách Pháp Hoa Văn Cú giảng: ‘Chúng sanh cơi ấy an trụ trong Thập Ác, chẳng chịu xuất ly. Do tánh chất của nhân loại mà đặt tên quốc độ. V́ thế gọi là Kham Nhẫn. Hai, như sách Pháp Hoa Huyền Tán chép: ‘Tiếng Phạn là Sách Ha, phương này dịch là Kham Nhẫn, các hàng Bồ Tát khi làm chuyện lợi lạc, bị nhiều ghen ghét, các nỗi khổ năo hại, các Ngài đều có thể chịu đựng nhọc nhằn, khổ sở. Do vậy mà gọi tên quốc độ như thế. [Phiên âm là] Sa Bà tức là bị sai ngoa”.

[28] Tứ Bất Hoại Tín (catvāro-aveccappasāda), c̣n gọi là Tứ Kiên Tín (bốn niềm tin kiên cố), tức là tin vào Phật, Pháp, Tăng và Giới kiên cố, không ǵ có thể phá hoại được.

[29] Chữ Đạo () ở đây có nghĩa là hướng dẫn, dẫn đường.

[30] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Phật đạo bất nhị, nên nói là Nhất. Có thể hướng dẫn chúng sanh thoát mê nhập ngộ, nên nói là đạo sư”.

[31] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Khế lư là Thông, trái lư là Tắc”.

[32] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Những người được dắt d́u chính là những người được hóa độ bởi mười sáu vị vương tử. Có thể mong cầu Phật đạo, xa ĺa hai thứ chết, th́ gọi là ‘dục quá thử nạn’ (muốn vượt qua nạn ấy)”.

[33] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Đây là thí dụ về sự lập bày giáo pháp. V́ để giải quyết Phần Đoạn sanh tử, thoát ĺa tam giới, cho nên nói ‘quá ba trăm do-tuần’. Giả nói diệt độ, nhưng thật ra chẳng diệt độ, nên nói là hóa tác (biến hóa)”.

[34] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Tùy thuận ư muốn của những người căn cơ Tiểu Thừa để họ tu tập, sanh ư tưởng diệt độ, cho nên nói là tùy ư sở tác”.

[35] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Nếu nhập Niết Bàn, sanh tử đă giải quyết xong. V́ thế nói: - Nhược nhập thị thành, khoái đắc an ổn”.

[36] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Nếu phát Bồ Đề tâm, cũng có thể chứng đắc Phật quả. Do đó nói: Nếu có thể tiến lên trước đến chỗ có của báu th́ cũng có thể đi được”.

[37] Cai () theo cách tính đếm của Trung Hoa cổ, chính là một vạn vạn (đây là cách hiểu con số nhỏ nhất). Từ điển Khang Hy giảng: “Mười triệu là một Kinh, mười Kinh là một Cai”. Theo thuật toán thời cổ, các con số lớn tại Trung Hoa là Vạn, Ức, Triệu, Kinh, Cai, Tỷ, Nhưỡng, Câu, Giản, Chánh, Tải. Các con số này lại có bốn cách tính:

- Hạ số là mỗi số sau gấp 10 lần số trước. Như vậy, một Vạn là mười ngàn, một Ức là mười vạn, một Triệu là một trăm vạn, một Kinh là một ngàn vạn, một Cai là một vạn vạn…

- Vạn tấn, tức là mỗi số sau bằng một vạn lần số trước, tức là một Vạn là mười ngàn, một Ức là một Vạn Vạn, một Triệu là một vạn vạn vạn, một Kinh là một vạn vạn vạn vạn, một Cai là một vạn vạn vạn vạn vạn (1020)…

- Trung số: Một Ức là một vạn vạn, sau đó, kể từ Ức, mỗi số sau đó là một vạn vạn lần số trước. Do vậy, một Triệu là một vạn vạn vạn vạn (1016). Bởi vậy, một Cai là 1032 (sau số 1 là 32 con số 0)…

- Thượng số: Mỗi số sau là lũy thừa hai của số trước. Một Vạn là mười ngàn, một Ức là một vạn vạn, một Triệu là một vạn vạn vạn vạn (1016), một Kinh là 1032, một Cai là 1064.

Không rơ ở đây dùng Cai theo ư nghĩa nào.  

[38] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Quán Tam Đế viên dung, tâm chẳng duyên theo điều nào khác, cho nên nói là ‘nhất tâm’. Sáu căn và sáu trần hợp thành mười hai xứ. Do căn và trần cùng mất, nên gọi là Nhất Xứ. Lại nữa, ư nghiệp bất động là nhất tâm, thân nghiệp bất động là nhất xứ”.