Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 9

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thai Tông Hội Nghĩa, quyển 4

Đất Cổ Ngô, hậu học Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật

妙法蓮華經綸貫會義

古吳後學蕅益智旭述

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

         

          Giải thích phẩm Hóa Thành Dụ đă xong; kế đó, giải thích phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Kư.

 

8. Phẩm thứ tám: Năm trăm đệ tử được thọ kư (Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Kư phẩm đệ bát, 五百弟子受記品第八)

         

          Phẩm này thọ kư cho một ngàn hai trăm vị, nhưng chỉ nêu ra năm trăm vị. Năm trăm vị được thọ kư cùng một danh hiệu, năm trăm vị ấy thưa tŕnh sự lănh giải.

 

* Nhân duyên thuyết châu: Thọ kư cho hạ căn

 

          Phẩm này thọ kư cho một ngàn hai trăm vị, phẩm sau là phẩm Thọ Học Vô Học Kư, thọ kư cho hai ngàn vị.

         

8.1. Thọ kư cho một ngàn hai trăm vị đệ tử

8.1.1. Thọ kư cho Măn Từ Tử

8.1.1.1. Trần thuật ngài Măn Từ Tử lặng yên lănh ngộ

8.1.1.1.1. Trần thuật Ngài tự lănh ngộ, hoan hỷ  

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử tùng Phật văn thị trí huệ phương tiện, tùy nghi thuyết pháp. Hựu văn thọ chư đại đệ tử A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề kư, phục văn túc thế nhân duyên chi sự, phục văn chư Phật hữu đại tự tại thần thông chi lực, đắc vị tằng hữu, tâm tịnh, dũng dược, tức tùng ṭa khởi, đáo ư Phật tiền, đầu diện lễ túc, khước trụ nhất diện, chiêm ngưỡng tôn nhan, mục bất tạm xả.

          ()爾時富樓那彌多羅尼子。從佛聞是智慧方便隨宜說法。又聞授諸大弟子阿耨多羅三藐三菩提記。復聞宿世因緣之事。復聞諸佛有大自在神通之力。得未曾有。心淨踊躍。即從座起。到於佛前。頭面禮足。卻住一面。瞻仰尊顏。目不暫捨。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử (Pūrṇa Maitrāyaṇīputra) từ đức Phật nghe phương tiện trí huệ ấy, tùy theo cơ nghi mà thuyết pháp. Lại nghe thọ kư Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho các đại đệ tử, lại nghe chuyện nhân duyên trong đời trước, lại nghe chư Phật có sức thần thông đại tự tại, đạt được điều chưa từng có, tâm thanh tịnh, hớn hở, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước đức Phật, đầu mặt lễ chân Phật, đứng qua một bên, chiêm ngưỡng tôn nhan, mắt chẳng tạm rời).

 

          Trước hết, trần thuật nguyên do đạt được giải ngộ có bốn điều:

          - Một, do nghe khai tam hiển nhất trong Pháp Thuyết Châu và Thí Thuyết Châu. [Nhắc đến] “trí huệ” là lănh ngộ chuyện “hiển Thật” tại hai chỗ. Nói “phương tiện tùy nghi” là lănh ngộ “khai Quyền” tại hai chỗ.

          - Hai, nghe ngài Xá Lợi Phất và năm vị đại đệ tử v.v… được thọ kư, các vị đại đệ tử liền lănh ngộ “khai Quyền”. Thọ kư Bồ Đề tức là lănh ngộ hiển Thật.

          - Ba, lại nghe nhân duyên trong đời trước. Trước kia đă dạy đạo vô thượng, tới nay vẫn c̣n nói Pháp Hoa; đó là hiển Thật. “Thường dữ sư câu sanh, tiệm giáo dĩ Phật đạo” (thường sanh cùng với thầy, dần dần dùng Phật đạo để dạy) chính là khai Quyền.

          - Bốn, lại nghe sức thần thông đại tự tại. Quán chuyện xa xôi trước kia giống như ngay trong hiện tại. Quyền biến lập ra hóa thành, như người hướng dẫn kia, cũng đều trọn đủ hai nghĩa Quyền và Thật.

          Kế đó, trần thuật sự nội giải (sự hiểu biết trong tâm) và hoan hỷ. “Đắc vị tằng hữu” (đạt được điều chưa từng có): Trước kia, do chưa được nghe khai Hiển, tới nay mới được nghe. “Tâm tịnh”: Trừ Niết Bàn ái, phá Vô Minh Hoặc. “Dũng dược” (hớn hở): Khai tri kiến của Phật, hoan hỷ, vui sướng to lớn. Sau đó, trần thuật ḷng cung kính được thể hiện ra ngoài như trong chánh kinh đă miêu tả.

          Nếu xét theo Bổn Tích, đó chính là vui mừng trước các Thật hạnh. Quán tâm th́ như trong phần trước đă nói.

 

8.1.1.1.2. Trần thuật Ngài im lặng suy nghĩ, lănh ngộ

 

          (Kinh) Nhi tác thị niệm: “Thế Tôn thậm kỳ đặc, sở vi hy hữu, tùy thuận thế gian nhược can chủng tánh, dĩ phương tiện tri kiến nhi vị thuyết pháp, bạt xuất chúng sanh xứ xứ tham trước. Ngă đẳng ư Phật công đức, ngôn bất năng tuyên. Duy Phật Thế Tôn năng tri ngă đẳng thâm tâm bổn nguyện”.

          ()而作是念。世尊甚奇特。所為希有。隨順世間若干種性。以方便知見而為說法。拔出眾生處處貪著。我等於佛功德。言不能宣。唯佛世尊。能知我等深心本願。

          (Kinh: Mà nghĩ như thế này: - Đức Thế Tôn rất đặc biệt lạ lùng, việc làm hiếm có, tùy thuận bao nhiêu chủng tánh trong thế gian, dùng phương tiện tri kiến để thuyết pháp, cứu vớt chúng sanh khỏi các chỗ tham đắm. Chúng con đối với công đức của Phật chẳng thể dùng ngôn ngữ để tuyên nói được. Chỉ có Phật Thế Tôn có thể biết bổn nguyện trong thâm tâm của chúng con).

 

          Kinh văn có hai ư:

          - Một, thầm suy nghĩ lănh ngộ.

          - Kế đó, từ “duy Phật Thế Tôn” (chỉ Phật Thế Tôn) trở đi, [hàm ư] thầm cầu thỉnh [đức Phật sẽ] nêu rơ Tích và thọ kư.

          Hỏi: Những vị lănh ngộ trong hai châu trước (Pháp Thuyết Châu và Thí Thuyết Châu) đều thưa tŕnh sự lănh ngộ, nay sao [ngài Phú Lâu Na] lại thầm nghĩ?

          Đáp: Trước đó là v́ hạ căn chưa ngộ, đối với Sự tu (tu hành nơi phương diện sự tướng), cần phải nói rơ để khuyên nhủ, nhằm đả động [hàng hạ căn chưa ngộ sẽ phát tâm]. Nay hạ căn đă ngộ, chẳng cần phải khuyên nhủ, đả động. V́ thế, nghĩ thầm (đó là Thế Giới Tất Đàn). Hơn nữa, trong các phần trước, chỉ lănh nhận, giải ngộ, chẳng cầu nêu rơ [sự thị hiện tu tập] nơi Tích, dẫu có nói ra cũng không có vấn đề ǵ. Nay th́ vừa tín giải, vừa cầu phát Tích (nêu rơ sự tu tập nơi Tích), do lănh nhận, tín giải, cho nên suy nghĩ; do tránh chúng sanh chê gièm, cho nên “thầm lặng”. Im lặng suy nghĩ là [cách cư xử] thích đáng (đó là Đối Trị Tất Đàn). Hơn nữa, thầm suy nghĩ để lănh nhận, tín giải chính là sự lănh nhận tín giải to tát, như ngài Tịnh Danh (Duy Ma Cật) im lặng [khi được Văn Thù Bồ Tát hỏi về pháp môn Bất Nhị]; đó chính là chân thật nhập pháp môn Bất Nhị (đấy là Vị Nhân Tất Đàn). Lại nữa, Quyền Thật chẳng thể nghĩ bàn, chẳng nói năng, chẳng suy nghĩ, thế mà lại vừa nói vừa suy nghĩ. Do chẳng nói mà nói, cho nên trong phần trước dùng lời lẽ để trần thuật sự lănh nhập tín giải. Do chẳng suy nghĩ mà suy nghĩ, cho nên nay thầm suy nghĩ để lănh nhận, tín giải (đó là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn).

          Hỏi: Trong phần trước, v́ lẽ nào chẳng cầu nêu rơ Tích?

          Đáp: V́ hạ căn chưa ngộ. Nay hạ căn đă hiểu, chuyện thuộc về quyền biến hóa hiện đă đầy đủ. Nếu hạ căn được nêu rơ Tích, sẽ biết trung căn và thượng căn cũng là Quyền. Nếu “phát Tích” trước cho thượng căn và trung căn, ắt sẽ chẳng thuận tiện cho hạ căn.

          “Thế Tôn thậm kỳ đặc, sở vi hy hữu” (Đức Thế Tôn rất lạ lùng, đặc biệt, việc làm hy hữu): Lănh ngộ Thật Trí. “Tùy thuận thế gian nhược can chủng tánh, nhi vị thuyết pháp” (tùy thuận bao nhiêu chủng tánh trong thế gian mà v́ họ thuyết pháp): Lănh ngộ Quyền Trí. Đó chính là ngộ ư nghĩa “khai hiển” (khai tam hiển nhất) trong phương tiện. “Bạt xuất chúng sanh xứ xứ tham trước” (cứu vớt chúng sanh khỏi các chỗ đắm chấp): Lănh ngộ ư nghĩa “khai hiển” trong nhà lửa. “Ngă đẳng ư Phật công đức, ngôn bất năng tuyên” (chúng con đối với công đức của Phật chẳng thể tuyên nói): Lănh ngộ ư nghĩa “Như Lai lại có vô lượng công đức” v.v… trong phẩm Dược Thảo Dụ. Trong lời thỉnh cầu phát Tích, [hàm ư] chúng con đều nghĩ thỉnh [cầu đức Phật] nêu bày Tích của mọi người. “Thâm tâm” tức là bổn hoài giúp Phật tuyên dương, giáo hóa suốt ba đời. “Bổn nguyện” vốn cầu Vô Thượng Đại Bồ Đề. Do thâm tâm, cho nên cần phải nêu bày Tích. Do bổn nguyện, cho nên cần được thọ kư. Phần thứ nhất, “trần thuật sự im lặng lănh nhận tín giải” đă xong.

 

8.1.1.2. Như Lai trần thuật và thọ kư

8.1.1.2.1. Trường Hàng

8.1.1.2.1.1. Trần thuật Bổn Tích

8.1.1.2.1.1.1. Nêu rơ các chuyện nhân hạnh thuộc Tích [của ngài Phú Lâu Na] trong thời đức Phật Thích Ca

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo chư tỳ-kheo: - Nhữ đẳng kiến thị Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử phủ? Ngă thường xưng kỳ ư thuyết pháp nhân trung, tối vi đệ nhất, diệc thường thán kỳ chủng chủng công đức, tinh cần hộ tŕ, trợ tuyên ngă pháp, năng ư tứ chúng thị giáo lợi hỷ, cụ túc giải thích Phật chi chánh pháp, nhi đại nhiêu ích đồng phạm hạnh giả, tự xả Như Lai, vô năng tận kỳ ngôn luận chi biện.

          ()爾時佛告諸比丘。汝等見是富樓那彌多羅尼子不。我常稱其於說法人中最為第一。亦常歎其種種功德。精勤護持助宣我法。能於四眾示教利喜。具足解釋佛之正法。而大饒益同梵行者。自捨如來。無能盡其言論之辯。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: - Các ông thấy ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử đây chăng? Ta thường ca ngợi ông ta là bậc nhất trong những người thuyết pháp, cũng thường tán thán các thứ công đức của ông ta, siêng năng chuyên ṛng hộ tŕ, giúp đỡ tuyên dương pháp của ta, có thể chỉ dạy khiến cho tứ chúng được lợi lạc, hoan hỷ, giải thích trọn vẹn chánh pháp của Phật, tạo lợi ích to lớn cho những người cùng hạnh thanh tịnh. Ngoại trừ Như Lai, không ai có thể thấu hiểu cùng tận biện tài ngôn luận của ông ta).

 

          Nêu bày bằng cách nói “nhữ đẳng” (các ông) là có hai ư:

          - Một, có thấy hạnh Tiểu Thừa nơi Tích của ông ta hay không?

          - Hai, có thấy công đức nơi Bổn của ông ta hay không?

          Mọi người chỉ thấy nơi Tích, ông ta là Thanh Văn, chẳng thể biết nơi Bổn, ông ta chính là Bồ Tát. V́ thế [đức Phật] nói “kiến phủ” (thấy hay không)? Từ “ngă thường xưng kỳ” (ta thường ca ngợi ông ta) trở đi, nêu ra Tích của ông ta. Nơi Tích th́ ngài Phú Lâu Na là bậc nhất trong các vị thuyết pháp. Nếu chẳng có cái gốc Pháp Thân mầu nhiệm, sẽ chẳng có ǵ để thị hiện dấu tích thù thắng bậc nhất. Đó là nêu ra Tích để hiển lộ Bổn. Từ “diệc thường thán kỳ” (cũng thường tán thán ông ta) trở đi, nêu ra Bổn. Nơi Bổn, phước huệ vạn hạnh trang nghiêm; v́ thế nói là “chủng chủng” (các thứ). Nơi Bổn, đă có các thứ công đức, cớ sao nơi Tích chỉ là Nhị Thừa? Đấy chính là nêu ra Bổn để làm rơ Tích.

          Từ “tinh cần hộ tŕ” (siêng ṛng hộ tŕ) trở đi là giải thích Bổn và Tích. “Trợ tuyên ngă pháp” (giúp tuyên dương pháp của ta) tức là nơi Tích, giúp Phật tuyên dương pháp bán măn. Trong Tam Tạng th́ Tích là ngộ Tứ Chân Đế (Tứ Thánh Đế). Đó là hộ tŕ, giúp tuyên dương pháp thuộc vị lạc [trong ngũ vị]. Nơi Tích th́ trong thời Phương Đẳng, thị hiện hứng chịu bài xích, quở trách; đó là hộ tŕ, giúp tuyên dương pháp thuộc vị sanh tô. Nơi Tích, tiếp nhận Bát Nhă, chuyển giáo Bồ Tát; đó là hộ tŕ, giúp tuyên dương pháp thuộc vị thục tô. Nơi Tích, trong thời Pháp Hoa, do tam châu (Pháp Thuyết, Thí Thuyết, Nhân Duyên Thuyết) mà đắc ngộ; đó là hộ tŕ, giúp đỡ tuyên dương pháp thuộc vị đề hồ. Trọn vẹn công đức Quyền và Thật, nơi Tích th́ dấy lên ngũ vị, chính là giúp Phật điều phục, thuần thục chúng sanh hành theo Thật. V́ thế nói “diệc thường thán kỳ chủng chủng công đức(cũng thường tán thán các thứ công đức của ông ta). “Năng ư tứ chúng thị giáo lợi hỷ” (có thể chỉ dạy khiến cho tứ chúng được lợi lạc, hoan hỷ) chính là trần thuật nơi Tích, giúp Phật tuyên dương pháp môn bán tự. “Cụ túc giải thích Phật chi chánh pháp” (giải thích trọn vẹn chánh pháp của Phật): Trần thuật nơi Tích, ngài Phú Lâu Na giúp đỡ tuyên dương pháp môn măn tự. “Nhi đại nhiêu ích đồng phạm hạnh” (mà tạo lợi ích to lớn cho những người cùng hạnh thanh tịnh) chính là giúp Phật tạo lợi ích cho các đệ tử bán giáo và măn giáo. “Tự xả Như Lai” tức là những người thấp hơn Diệu Giác, sẽ đều chẳng thể biết [công đức của hàng Bồ Tát thị hiện làm Thanh Văn]. Đấy chính là trần thuật công đức nơi Bổn.

 

8.1.1.2.1.1.2. Xét theo đời quá khứ để hiển thị bổn hạnh của Ngài

 

          (Kinh) Nhữ đẳng vật vị Phú Lâu Na đản năng hộ tŕ, trợ tuyên ngă pháp, diệc ư quá khứ cửu thập ức chư Phật sở, hộ tŕ, trợ tuyên Phật chi chánh pháp. Ư bỉ thuyết pháp nhân trung, diệc tối đệ nhất. Hựu ư chư Phật sở thuyết Không pháp, minh liễu, thông đạt, đắc tứ vô ngại trí, thường năng thẩm đế, thanh tịnh thuyết pháp, vô hữu nghi hoặc, cụ túc Bồ Tát thần thông chi lực. Tùy kỳ thọ mạng, thường tu phạm hạnh. Bỉ Phật thế nhân, hàm giai vị chi thật thị Thanh Văn, nhi Phú Lâu Na dĩ tư phương tiện, nhiêu ích vô lượng bách thiên chúng sanh. Hựu hóa vô lượng A-tăng-kỳ nhân, linh lập A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Vị tịnh Phật độ cố, thường tác Phật sự, giáo hóa chúng sanh.

          ()汝等勿謂富樓那但能護持助宣我法。亦於過去九十億諸佛所。護持助宣佛之正法。於彼說法人中。亦最第一。又於諸佛所說空法。明了通達。得四無礙智。常能審諦清淨說法。無有疑惑。具足菩薩神通之力。隨其壽命。常修梵行。彼佛世人。咸皆謂之實是聲聞。而富樓那。以斯方便。饒益無量百千眾生。又化無量阿僧祇人。令立阿耨多羅三藐三菩提。為淨佛土故。常作佛事。教化眾生。

          (Kinh: Các ông đừng cho rằng Phú Lâu Na chỉ có thể hộ tŕ, giúp tuyên dương pháp của ta! Ông ta cũng ở nơi chín mươi ức vị Phật trong quá khứ, hộ tŕ, giúp tuyên dương chánh pháp của Phật. Trong các người thuyết pháp thuở đó, cũng là bậc nhất. Lại c̣n đối với pháp Không do chư Phật đă nói, đều hiểu rơ, thông đạt, đạt được tứ vô ngại trí, thường hay suy nghĩ chắc chắn, thuyết pháp thanh tịnh, chẳng có ngờ vực, trọn đủ sức thần thông của Bồ Tát. Tùy theo thọ mạng, thường tu phạm hạnh. Người đời nơi các đức Phật kia đều cho rằng ông ta thật sự là Thanh Văn, nhưng Phú Lâu Na dùng phương tiện đó để lợi lạc vô lượng trăm ngàn chúng sanh. Lại c̣n giáo hóa vô lượng A-tăng-kỳ người, khiến họ trụ vững nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. V́ thanh tịnh cơi Phật, thường làm Phật sự, giáo hóa chúng sanh).

 

          Hiển Bổn gồm hai nghĩa: Một là viễn Bổn, hai là cận Bổn. Viễn Bổn thăm thẳm, xa vời, khó thể tin tưởng. V́ thế, lược đi chẳng trần thuật, chỉ nói cận Bổn là chín mươi ức vị Phật. Có Túc Mạng Trí, sẽ có thể biết cận Bổn. V́ thế, nêu chuyện gần để chứng thực chuyện xa. Trong phần kinh văn nói về chín mươi ức Phật, nói cặn kẽ [ngài Phú Lâu Na] giúp Phật tuyên dương giáo pháp Quyền và Thật, điều phục chúng sanh. “Hộ tŕ trợ tuyên Phật chi chánh pháp” (hộ tŕ, giúp tuyên dương chánh pháp của Phật) tức là nêu chung “Quyền và Thật đều là chánh pháp”. “Hựu ư Không pháp minh liễu” (lại c̣n đối với pháp Không bèn hiểu rơ): Nói riêng, giúp đỡ tuyên dương chính là v́ Thật mà thực hiện Quyền, biết rơ Tích Không (thấu hiểu cái Không bằng cách phân tích, chia chẻ) chính là từ Đệ Nhất Nghĩa Không mà kiến lập sai biệt, sử dụng [giáo pháp thuộc] ba vị A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhă. “Bỉ Phật thế nhân hàm giai vị chi thật thị Thanh Văn” (người đời trong thuở các đức Phật đó đều cho rằng [Phú Lâu Na] thật sự là Thanh Văn): Thuở ấy, chưa nêu rơ Tích, chỉ nói Tam Tạng là thật chứng. Thời Phương Đẳng, [hàng Nhị Thừa] bị quở trách; thời Bát Nhă th́ được [Phật lực] gia bị, được [đức Phật] sai nói pháp [cho hàng Bồ Tát], [người đời] trọn chẳng biết Ngài là bậc đại Bồ Tát. “Hựu hóa vô lượng linh lập Bồ Đề” (lại c̣n giáo hóa vô lượng [chúng sanh], khiến cho họ trụ vững nơi Bồ Đề): Tức là nói riêng về chuyện khai Quyền hiển Thật, giống như vị đề-hồ của thời Pháp Hoa trong hiện thời. Nhưng ở chỗ quá khứ chư Phật, há Ngài cũng chẳng giúp [chư Phật] tuyên dương các pháp bán, đơn, măn v.v.. ư? Chỉ v́ đức Phật hiện tại (Phật Thích Ca) xuất hiện trong đời ngũ trược, [thuận theo cơ nghi], đáng phải nên dẫn dắt, thực hiện các việc giáo hóa bằng cách “khai, phế, dung hội” v.v… V́ thế, đều nói theo những điều cùng loại, chẳng hạn như quang minh chiếu qua phương Đông, ngài Văn Thù trần thuật chuyện xưa, há có phương cách nào khác? [Đấy chính là] dẫn khởi những biện pháp cùng loại vậy. Lại nữa, [dùng các pháp] đơn bán, đơn măn để giáo hóa chẳng khó! Thực hiện “khai, phế, dung hội” th́ mới trọn hết sự mầu nhiệm “ứng theo bệnh mà cho thuốc” của Như Lai.

 

8.1.1.2.1.1.3. Xét theo sự tu nhân của tam thế chư Phật

 

          (Kinh) Chư tỳ-kheo! Phú Lâu Na diệc ư thất Phật thuyết pháp nhân trung, nhi đắc đệ nhất. Kim ư ngă sở thuyết pháp nhân trung, diệc vi đệ nhất. Ư Hiền Kiếp trung đương lai chư Phật thuyết pháp nhân trung, diệc phục đệ nhất, nhi giai hộ tŕ, trợ tuyên Phật pháp, diệc ư vị lai hộ tŕ, trợ tuyên vô lượng vô biên chư Phật chi pháp, giáo hóa nhiêu ích vô lượng chúng sanh, linh lập A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vị tịnh Phật độ cố, thường cần tinh tấn, giáo hóa chúng sanh.

          ()諸比丘。富樓那亦於七佛說法人中而得第一。今於我所說法人中亦為第一。於賢劫中當來諸佛說法人中亦復第一。而皆護持助宣佛法。亦於未來護持助宣無量無邊諸佛之法。教化饒益無量眾生。令立阿耨多羅三藐三菩提。為淨佛土故。常勤精進教化眾生。

          (Kinh: Này các tỳ-kheo! Phú Lâu Na cũng là bậc nhất trong những người thuyết pháp thời bảy đức Phật. Nay trong các người thuyết pháp của ta, cũng là bậc nhất. Trong số các người thuyết pháp của đương lai chư Phật trong Hiền Kiếp, cũng là bậc nhất, đều hộ tŕ, giúp tuyên dương Phật pháp, cũng trong vị lai hộ tŕ, giúp tuyên dương pháp của vô lượng vô biên chư Phật, giáo hóa, lợi lạc vô lượng chúng sanh, khiến cho họ trụ vững nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, v́ thanh tịnh cơi Phật, thường siêng năng, tinh tấn giáo hóa chúng sanh).

 

          Cũng phỏng theo trên đây mà giúp tuyên dương các pháp bán tự và măn tự thuộc ngũ vị, lợi ích Đại, Tiểu. Phần thứ nhất, “trần thuật Bổn Tích” đă xong.

 

8.1.1.2.1.2. Truyền trao thọ kư

8.1.1.2.1.2.1. Nêu rơ nhân viên, quả măn

          (Kinh) Tiệm tiệm cụ túc Bồ Tát chi đạo, quá vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, đương ư thử độ, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, hiệu viết Pháp Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

          ()漸漸具足菩薩之道。過無量阿僧祇劫。當於此土得阿耨多羅三藐三菩提。號曰法明如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。

          (Kinh: Dần dần trọn đủ đạo Bồ Tát, sau vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, sẽ ở trong cơi này, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiệu là Pháp Minh[1] Như Lai (Dharmaprabhāsa), Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).

 

          Câu thứ nhất, nhắc lại ư nhân viên (cái nhân đă viên măn) trong phần trước. Từ chữ “quá vô lượng” (sau vô lượng) trở đi, nói rơ cái quả đă viên măn.

 

8.1.1.2.1.2.2. Quốc độ rộng lớn, thanh tịnh

8.1.1.2.1.2.2.1. Quốc độ to lớn, trang nghiêm thanh tịnh

         

          (Kinh) Kỳ Phật dĩ hằng hà sa đẳng tam thiên đại thiên thế giới vi nhất Phật độ. Thất bảo vi địa, địa b́nh như chưởng, vô hữu sơn, lăng, khê, giản, câu, hác. Thất bảo đài quán, sung măn kỳ trung. Chư thiên cung điện cận xử hư không, nhân thiên giao tiếp, lưỡng đắc tương kiến.

          ()其佛以恆河沙等三千大千世界為一佛土。七寶為地。地平如掌。無有山陵谿澗溝壑。七寶臺觀。充滿其中。諸天宮殿。近處虛空。人天交接。兩得相見。

          (Kinh: Vị Phật ấy dùng các tam thiên đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng làm thành một Phật độ. Bảy báu làm đất, đất phẳng như ḷng bàn tay, không có núi, g̣, khe, suối, rạch, ng̣i. Viện, đài bằng bảy báu đầy ắp trong đó. Cung điện của chư thiên ở gần trên hư không, trời người giao tiếp, đôi bên trông thấy nhau).

         

          “Địa b́nh như chưởng” (đất bằng phẳng như ḷng bàn tay): Có người nói: “Đáy biển có đá gọi là Chưởng. Đá ấy không có chỗ nào to bằng một vi trần mà chẳng bằng phẳng”. Có người nói: “Kinh Hiền Kiếp nói rơ [“b́nh như chưởng”] tức là như ḷng bàn tay của đức Phật, chẳng phải là nói tới ḷng bàn tay của con người”.

 

8.1.1.2.1.2.2.2. Thuần là thiện đạo

 

          (Kinh) Vô chư ác đạo, diệc vô nữ nhân. Nhất thiết chúng sanh giai dĩ hóa sanh, vô hữu dâm dục.

          ()無諸惡道。亦無女人。一切眾生。皆以化生。無有淫欲。

          (Kinh: Không có các ác đạo, cũng chẳng có nữ nhân. Hết thảy chúng sanh đều là hóa sanh, chẳng có dâm dục).

 

          Có nữ nhân mà chẳng có ác đạo, như cơi của A Súc Phật: Tuy có nữ nhân mà chẳng có chuyện thuộc nữ giới. Nay th́ ác đạo và nữ nhân đều chẳng có th́ như cơi A Di Đà, thanh tịnh bậc nhất.

 

8.1.1.2.1.2.2.3. Trời, người phước huệ trọn đủ

 

          (Kinh) Đắc đại thần thông, thân xuất quang minh, phi hành tự tại, chí niệm kiên cố, tinh tấn, trí huệ. Phổ giai kim sắc, tam thập nhị tướng, nhi tự trang nghiêm. Kỳ quốc chúng sanh, thường dĩ nhị thực: Nhất giả, pháp hỷ thực, nhị giả, Thiền duyệt thực.

          ()得大神通。身出光明。飛行自在。志念堅固。精進智慧。普皆金色。三十二相。而自莊嚴。其國眾生。常以二食。一者法喜食。二者禪悅食。

          (Kinh: Đạt được thần thông to lớn. Thân tỏa quang minh, bay đi tự tại. Chí niệm kiên cố, tinh tấn, trí huệ. [Người trong cơi ấy, thân] đều là sắc vàng, ba mươi hai tướng để tự trang nghiêm. Chúng sanh trong cơi ấy thường dùng hai món ăn: Một là pháp hỷ thực, hai là Thiền duyệt thực).

 

          Nghe Pháp hoan hỷ vun bồi huệ mạng th́ gọi là “pháp hỷ thực”. Nhập Thiền vui sướng, dùng điều này để ǵn giữ Pháp Thân, th́ gọi là “Thiền duyệt thực”, chẳng cần thức ăn phần đoạn!

 

8.1.1.2.1.2.2.4. Số lượng Bồ Tát và Thanh Văn rất nhiều

 

          (Kinh) Hữu vô lượng A-tăng-kỳ thiên vạn ức na-do-tha chư Bồ Tát chúng đắc đại thần thông, tứ vô ngại trí, thiện năng giáo hóa chúng sanh chi loại. Kỳ Thanh Văn chúng toán số giảo kế sở bất năng tri, giai đắc cụ túc Lục Thông, Tam Minh, cập Bát Giải Thoát.

          ()有無量阿僧祇千萬億那由他諸菩薩眾。得大神通。四無礙智。善能教化眾生之類。其聲聞眾。算數校計所不能知。皆得具足六通三明及八解脫。

          (Kinh: Có vô lượng A-tăng-kỳ ngàn vạn ức na-do-tha các vị Bồ Tát đắc đại thần thông, tứ vô ngại trí, khéo có thể giáo hóa các loài chúng sanh. Tính toán, so sánh, tính đếm, đều chẳng thể biết số lượng các vị Thanh Văn. Các Ngài đều trọn đủ Lục Thông, Tam Minh, và Bát Giải Thoát).

 

8.1.1.2.1.2.2.5. Tổng kết sự trang nghiêm

 

          (Kinh) Kỳ Phật quốc độ, hữu như thị đẳng vô lượng công đức trang nghiêm thành tựu.

          ()其佛國土。有如是等無量功德莊嚴成就。

          (Kinh: Cơi Phật ấy có vô lượng công đức trang nghiêm thành tựu như thế đó).

 

          Phần thứ hai, nói rơ quốc độ rộng lớn, thanh tịnh đă xong.

 

8.1.1.2.1.2.3. Tên gọi của kiếp và quốc độ

 

          (Kinh) Kiếp danh Bảo Minh, quốc danh Thiện Tịnh.

          ()劫名寶明。國名善淨。

          (Kinh: Kiếp tên là Bảo Minh (Ratnāvabhāsa), cơi tên là Thiện Tịnh - Suviśuddha)[2].

 

8.1.1.2.1.2.4. Thọ mạng của Phật và thời gian chánh pháp trụ thế

 

          (Kinh) Kỳ Phật thọ mạng vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, pháp trụ thậm cửu.

          ()其佛壽命。無量阿僧祇劫。法住甚久。

          (Kinh: Thọ mạng của đức Phật ấy là vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, Phật pháp trụ thế rất lâu).

 

8.1.1.2.1.2.5. Sau khi Phật diệt độ, cúng dường xá-lợi

 

          (Kinh) Phật diệt độ hậu, khởi thất bảo tháp biến măn kỳ quốc.

          ()佛滅度後。起七寶塔徧滿其國。

          (Kinh: Sau khi Phật diệt độ, dựng tháp bảy báu trọn khắp cả nước).

 

          Phần thứ hai, phần kinh văn Trường Hàng trần thuật sự thọ kư của Như Lai đă xong.

 

8.1.1.2.2. Trùng tụng

8.1.1.2.2.1. Trùng tụng nêu bày Tích

8.1.1.2.2.1.1. Nêu chung Tích của các Thanh Văn

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Chư tỳ-kheo đế thính! Phật tử sở hành đạo, thiện học phương tiện cố, bất khả đắc tư nghị. Tri chúng nhạo tiểu pháp, nhi úy ư đại trí. Thị cố chư Bồ Tát, tác Thanh Văn, Duyên Giác, dĩ vô số phương tiện, hóa chư chúng sanh loại. Tự thuyết thị Thanh Văn, khứ Phật đạo thậm viễn, độ thoát vô lượng chúng, giai tất đắc thành tựu. Tuy tiểu dục giải đăi, tiệm đương linh tác Phật. Nội bí Bồ Tát hạnh, ngoại hiện thị Thanh Văn. Thiểu dục, yếm sanh tử, thật tự tịnh Phật độ. Thị chúng hữu tam độc, hựu hiện tà kiến tướng. Ngă đệ tử như thị, phương tiện độ chúng sanh. Nhược ngă cụ túc thuyết, chủng chủng hóa hiện sự, chúng sanh văn thị giả, tâm tắc hoài nghi hoặc.

          ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。諸比丘諦聽。佛子所行道。善學方便故。不可得思議。知眾樂小法。而畏於大智。是故諸菩薩。作聲聞緣覺。以無數方便。化諸眾生類。自說是聲聞。去佛道甚遠。度脫無量眾。皆悉得成就。雖小欲懈怠。漸當令作佛。內秘菩薩行。外現是聲聞。少欲厭生死。實自淨佛土。示眾有三毒。又現邪見相。我弟子如是。方便度眾生。若我具足說。種種化現事。眾生聞是者。心則懷疑惑。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Các tỳ-kheo lắng nghe! Đạo Phật tử đă hành, do khéo học phương tiện, chẳng thể nghĩ bàn được. Biết chúng thích Tiểu pháp, nhưng sợ hăi đại trí. V́ thế, các Bồ Tát, làm Thanh Văn, Duyên Giác, dùng vô số phương tiện, giáo hóa các chúng sanh. Tự nói là Thanh Văn, cách Phật đạo rất xa, độ thoát vô lượng chúng, thảy đều được thành tựu. Tuy tiểu dục, lười nhác, dần dần sẽ thành Phật. Trong ngầm hành Bồ Tát, ngoài thị hiện Thanh Văn. Thiểu dục, chán sanh tử, thật ra tịnh cơi Phật. Thị hiện có tam độc, lại hiện tướng tà kiến. Đệ tử ta như thế, phương tiện độ chúng sanh. Nếu ta nói đầy đủ, các chuyện họ hóa hiện, chúng sanh nghe như thế, sẽ ôm ḷng nghi hoặc).

          “Tiểu dục” tức là chuyên chú, ưa thích Tiểu Thừa. “Giải đăi” (lười nhác) tức là chẳng cầu Đại Thừa. “Thị chúng hữu tam độc” (thị hiện cho đại chúng thấy chính ḿnh có tam độc): Không chỉ thị hiện làm Thanh Văn, mà c̣n thị hiện là tam độc phàm phu và tà kiến ngoại đạo. Lại như ngài Thân Tử (Xá Lợi Phất) thị hiện sân, ngài Nan Đà thị hiện tham, ngài Điều Đạt (Đề Bà Đạt Đa) thị hiện si v.v…

 

8.1.1.2.2.1.2. Trùng tụng nêu bày Tích của ngài Phú Lâu Na

 

          (Kinh) Kim thử Phú Lâu Na, ư tích thiên ức Phật, cần tu sở hành đạo, tuyên hộ chư Phật pháp, vị cầu vô thượng huệ, nhi ư chư Phật sở, hiện cư đệ tử thượng, đa văn, hữu trí huệ. Sở thuyết vô sở úy, năng linh chúng hoan hỷ, vị tằng hữu b́ quyện, nhi dĩ trợ Phật sự. Dĩ độ đại thần thông, cụ tứ vô ngại trí, tri chư căn lợi độn, thường thuyết thanh tịnh pháp. Diễn sướng như thị nghĩa, giáo chư thiên ức chúng, linh trụ Đại Thừa pháp, nhi tự tịnh Phật độ. Vị lai diệc cúng dường, vô lượng vô số Phật, hộ trợ tuyên chánh pháp, diệc tự tịnh Phật độ. Thường dĩ chư phương tiện, thuyết pháp vô sở úy, độ bất khả kế chúng, thành tựu Nhất Thiết Trí.

          ()今此富樓那。於昔千億佛。勤修所行道。宣護諸佛法。為求無上慧。而於諸佛所。現居弟子上。多聞有智慧。所說無所畏。能令眾歡喜。未曾有疲倦。而以助佛事。已度大神通。具四無礙智。知諸根利鈍。常說清淨法。演暢如是義。教諸千億眾。令住大乘法。而自淨佛土。未來亦供養。無量無數佛。護助宣正法。亦自淨佛土。 常以諸方便。說法無所畏。度不可計眾。成就一切智。

          (Kinh: Nay Phú Lâu Na đây, xưa nơi ngàn ức Phật, siêng tu đạo đă hành. Nói, hộ tŕ Phật pháp, v́ cầu vô thượng huệ, bèn ở nơi chư Phật, hiện thân phận đệ tử, đa văn, có trí huệ. Nói năng không sợ hăi, hay khiến chúng hoan hỷ, chưa hề có mệt mỏi, để giúp hành Phật sự. Đă đắc đại thần thông, đủ tứ vô ngại trí[3], biết các căn lợi độn, thường nói pháp thanh tịnh. Diễn bày nghĩa như thế, dạy ngàn ức đại chúng, khiến trụ pháp Đại Thừa, tự thanh tịnh cơi Phật. Vị lai cũng cúng dường, vô lượng vô số Phật, hộ tŕ, giúp nói pháp, cũng tự tịnh cơi Phật. Thường dùng các phương tiện, thuyết pháp không sợ hăi, độ chẳng tính kể chúng, thành tựu Nhất Thiết Trí).

          Năm bài kệ đầu nhằm trùng tụng hiển Bổn theo quá khứ. Hai bài kệ sau, xét theo hạnh nhân trong thời vị lai Phật để trùng tụng. Lược đi không trùng tụng hiện tại Phật và bảy vị Phật. Phần thứ nhất, “trùng tụng nêu bày Tích” đă xong.

 

8.1.1.2.2.2. Trùng tụng thọ kư

         

          Lược đi, không trùng trùng thọ mạng của Phật, thời gian Phật pháp trụ thế, và sau khi Phật diệt độ, đại chúng dựng tháp.

 

8.1.1.2.2.2.1. Trùng tụng nhân viên quả măn

 

          (Kinh) Cúng dường chư Như Lai, hộ tŕ pháp bảo tạng. Kỳ hậu đắc thành Phật, hiệu danh viết Pháp Minh.

          ()供養諸如來。護持法寶藏。其後得成佛。號名曰法明。

          (Kinh: Cúng dường các Như Lai, hộ tŕ pháp bảo tạng. Sau đó, được thành Phật, danh hiệu là Pháp Minh).

 

8.1.1.2.2.2.2. Trùng tụng tên của quốc độ và kiếp

 

          (Kinh) Kỳ quốc danh Thiện Tịnh, thất bảo sở hợp thành. Kiếp danh vi Bảo Minh.

          ()其國名善淨。七寶所合成。劫名為寶明。

          (Kinh: Quốc độ tên Thiện Tịnh, do bảy báu hợp thành. Kiếp tên là Bảo Minh).

         

8.1.1.2.2.2.3. Trùng tụng quốc độ rộng lớn, thanh tịnh

         

          (Kinh) Bồ Tát chúng thậm đa, kỳ số vô lượng ức, giai độ đại thần thông, oai đức lực cụ túc, sung măn kỳ quốc độ. Thanh Văn diệc vô số. Tam Minh, Bát Giải Thoát, đắc tứ vô ngại trí. Dĩ thị đẳng vi Tăng. Kỳ quốc chư chúng sanh, dâm dục giai dĩ đoạn, thuần nhất biến hóa sanh, cụ tướng trang nghiêm thân. Pháp hỷ, Thiền duyệt thực, cánh vô dư thực tưởng. Vô hữu chư nữ nhân, diệc vô chư ác đạo. Phú Lâu Na tỳ-kheo, công đức tất thành măn, đương đắc tư Tịnh Độ, hiền thánh chúng thậm đa. Như thị vô lượng sự, ngă kim đản lược thuyết.

          ()菩薩眾甚多。其數無量億。皆度大神通。威德力具足。充滿其國土。聲聞亦無數。三明八解脫。得四無礙智。以是等為僧。其國諸眾生。淫欲皆已斷。純一變化生。具相莊嚴身。法喜禪悅食。更無餘食想。無有諸女人。亦無諸惡道。富樓那比丘。功德悉成滿。當得斯淨土。賢聖眾甚多。如是無量事。我今但略說。

          (Kinh: Hàng Bồ Tát rất đông, số đến vô lượng ức, đều đắc đại thần thông, sức oai đức trọn đủ, đầy ắp quốc độ ấy. Thanh Văn cũng vô số. Tam Minh, Bát Giải Thoát, đắc tứ vô ngại trí. Hạng như thế làm Tăng. Các chúng sanh cơi ấy, đều đă đoạn dâm dục, thuần nhất là hóa sanh. Thân đủ tướng trang nghiêm, pháp hỷ, Thiền duyệt thực, chẳng nghĩ ăn ǵ khác. Chẳng có các nữ nhân, cũng chẳng có ác đạo. Tỳ kheo Phú Lâu Na, công đức đều thành măn, sẽ được Tịnh Độ ấy, bậc hiền thánh rất đông. Vô lượng chuyện như thế, ta nay chỉ nói lược).

 

          Phần thứ nhất, thọ kư Măn Từ Tử đă xong.

 

8.1.2. Thọ kư một ngàn hai trăm vị

8.1.2. 1. [Các vị La Hán] nghĩ thỉnh cầu

 

          (Kinh) Nhĩ thời, thiên nhị bách A La Hán tâm tự tại giả, tác thị niệm: “Ngă đẳng hoan hỷ, đắc vị tằng hữu. Nhược Thế Tôn các kiến thọ kư như dư đại đệ tử giả, bất diệc khoái hồ?”

          ()爾時千二百阿羅漢心自在者作是念。我等歡喜。得未曾有。若世尊各見授記如餘大弟子者。不亦快乎。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, một ngàn hai trăm vị A La Hán là những vị tâm được tự tại, nghĩ như thế này: “Chúng ta hoan hỷ, được điều chưa từng có. Nếu đức Thế Tôn thọ kư cho từng người như các vị đại đệ tử khác, cũng chẳng vui sướng lắm ư?”)

 

8.1.2.2. Trao thọ kư

8.1.2.2.1. Trường Hàng

8.1.2.2.1.1. Thọ kư chung cho một ngàn hai trăm vị

         

          (Kinh) Phật tri thử đẳng tâm chi sở niệm, cáo Ma Ha Ca Diếp: - Thị thiên nhị bách A La Hán, ngă kim đương hiện tiền thứ đệ dữ thọ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề kư.

          ()佛知此等心之所念。告摩訶迦葉。是千二百阿羅漢。我今當現前次第與授阿耨多羅三藐三菩提記。

          (Kinh: Phật biết điều họ suy nghĩ trong tâm, bảo ngài Ma Ha Ca Diếp (Mahākāśyapa): - Một ngàn hai trăm A La Hán đây, ta sẽ hiện tiền theo thứ tự thọ kư Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho họ).

 

8.1.2.2.1.2. Thọ kư riêng cho Kiều Trần Như

 

          (Kinh) Ư thử chúng trung, ngă đại đệ tử Kiều Trần Như tỳ-kheo, đương cúng dường lục vạn nhị thiên ức Phật. Nhiên hậu, đắc thành vi Phật, hiệu viết Phổ Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

          ()於此眾中。我大弟子憍陳如比丘。當供養六萬二千億佛。然後得成為佛。號曰普明如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。

          (Kinh: Trong các vị này, đại đệ tử của ta là tỳ-kheo Kiều Trần Như (Ājñātakauṇḍinya) sẽ cúng dường sáu vạn hai ngàn ức Phật. Sau đó, được thành Phật, hiệu là Phổ Minh (Samantaprabha) Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).

 

          Ngài Kiều Trần Như đắc độ trước hết, làm bậc Thượng Tọa trong tăng chúng. Cho nên Ngài được thọ kư riêng.

         

8.1.2.2.1.3. Thọ kư riêng cho năm trăm vị La Hán

 

          (Kinh) Kỳ ngũ bách A La Hán: Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Da Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Ca Lưu Đà Di, Ưu Đà Di, A Nậu Lâu Đà, Ly Bà Đa, Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, Châu Đà, Sa Già Đà đẳng, giai đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, tận đồng nhất hiệu, danh viết Phổ Minh.

          ()其五百阿羅漢。優樓頻螺迦葉。伽耶迦葉。那提迦葉。迦留陀夷。優陀夷。阿樓陀。離婆多。劫賓那。薄拘羅。周陀。莎伽陀等。皆當得阿耨多羅三藐三菩提。盡同一號。名曰普明。

          (Kinh: Năm trăm vị A La Hán: Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp (Uruvilva-kāśyapa), Già Da Ca Diếp (Gayākāśyapa), Na Đề Ca Diếp (Nadīkāśyapa), Ca Lưu Đà Di (Kālodāyin), Ưu Đà Di (Udāyin), A Nậu Lâu Đà (Anirudha), Ly Bà Đa (Revata), Kiếp Tân Na (Kapphiṇa), Bạc Câu La (Bakkula), Châu Đà (Cūḍa), Sa Già Đà (Svāgata) v.v… đều sẽ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều có cùng một danh hiệu là Phổ Minh).

 

          Ca Lưu Đà Di, phương này dịch là Hắc Quang. Sau khi đức Phật thành đạo, phụ vương sai Ngài đến thỉnh Phật. Đức Phật liền dạy Ngài xuất gia. Theo kinh Bảo Tích, Ngài chính là bậc “thiện lai”[4] đắc đạo, dùng sức thần thông, chuyển hóa phụ vương. Theo phần Tỳ Ni trong kinh A Hàm, Ngài là một trong Lục Quần tỳ-kheo. Tuy đă xuất gia, vẫn phạm rất nhiều lỗi. Tuổi ngoài bảy mươi mới được điều phục, chứng A La Hán. Ngài khuyến hóa bậc nhất. Ngài hóa độ vợ chồng đều thấy đạo chân thật số đến một ngàn gia đ́nh. V́ thế, biết căn cơ Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa sở kiến đều khác biệt như thế, há chỉ có thân mật của đức Phật là chẳng thể nghĩ bàn, mà thân mật của các vị đại đệ tử cũng đều là chẳng thể nghĩ bàn!

          Ưu Đà Di, c̣n gọi là Ưu Ba Ly, c̣n phiên âm là Ồ Ba Ly, [phiên âm khác biệt là do đọc] âm tiếng Phạn nặng hay nhẹ, Ngài tŕ luật bậc nhất. Châu Đà, phương này dịch là Đại Lộ, chứng A La Hán, có thể tŕ Tam Tạng, làm bậc đại pháp sư, tức là tên của người anh. Sa Già Đà, phương này dịch là Tiểu Đạo, c̣n dịch là Kế Đạo, tức là tên người em. Người anh truyền cho em một câu kệ, suốt một trăm ngày, [người em] chẳng thể tụng thuộc. Anh đuổi khỏi tăng pḥng, đức Phật đích thân dạy sáu chữ “ngă phất trần, ngă trừ cấu” (ta phủi bụi, ta trừ dơ), Ngài vẫn nhớ phần trước th́ quên phần sau, nhớ phần sau liền quên phần trước. Đức Phật dạy Ngài điều ḥa hơi thở, mới chứng thánh quả, trọn vẹn đại thần lực, hàng phục độc hỏa long.

          Khi liệt kê thánh chúng trong phần trước (trong phẩm Tự), không nêu tên bốn vị tôn giả ấy, nên nay giải thích. Trong phần ấy, lại c̣n liệt kê các vị Kiều Phạm Ba Đề, Tất Lăng Già Bà Tha, Ma Ha Câu Hy La, Nan Đà, Tôn Đà La Nan Đà, năm vị ấy đều không được thọ kư riêng, hoặc là phần tiếng Phạn chưa truyền đến [Trung Hoa], hoặc là nói gộp chung trong năm trăm người, hoặc một ngàn hai trăm người. Phần văn Trường Hàng đă xong.

 

8.1.2.2.2. Kệ tụng

8.1.2.2.2.1. Trùng tụng chuyện thọ kư cho ngài Kiều Trần Như và năm trăm A La Hán

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Kiều Trần Như tỳ-kheo, đương kiến vô lượng Phật. Quá A-tăng-kỳ kiếp, năi thành Đẳng Chánh Giác, thường phóng đại quang minh, cụ túc chư thần thông. Danh văn biến thập phương. Nhất thiết chi sở kính. Thường thuyết vô thượng đạo. Cố hiệu vi Phổ Minh. Kỳ quốc độ thanh tịnh, Bồ Tát giai dũng mănh, hàm thăng diệu lâu các. Du chư thập phương quốc. Dĩ vô thượng cúng cụ, phụng hiến ư chư Phật. Tác thị cúng dường dĩ, tâm hoài đại hoan hỷ. Tu du hoàn bổn quốc. Hữu như thị thần lực. Phật thọ lục vạn kiếp. Chánh Pháp trụ bội thọ. Tượng Pháp phục bội thị. Pháp diệt, thiên nhân ưu. Kỳ ngũ bách tỳ-kheo, thứ đệ đương tác Phật, đồng hiệu viết Phổ Minh, chuyển thứ nhi thọ kư: “Ngă diệt độ chi hậu, mỗ giáp đương tác Phật, kỳ sở hóa thế gian, diệc như ngă kim nhật. Quốc độ chi nghiêm tịnh, cập chư thần thông lực. Bồ Tát, Thanh Văn chúng, Chánh Pháp cập Tượng Pháp, thọ mạng kiếp đa thiểu, giai như thượng sở thuyết”.

            ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。憍陳如比丘。當見無量佛。過阿僧祇劫。乃成等正覺。常放大光明。具足諸神通。名聞徧十方。一切之所敬。常說無上道。故號為普明。其國土清淨。菩薩皆勇猛。咸升妙樓閣。遊諸十方國。以無上供具。奉獻於諸佛。作是供養已。心懷大歡喜。須臾還本國。有如是神力。佛壽六萬劫。正法住倍壽。像法復倍是。法滅天人憂。其五百比丘。次第當作佛。同號曰普明。轉次而授記。我滅度之後。某甲當作佛。其所化世間。亦如我今日。國土之嚴淨。及諸神通力。菩薩聲聞眾。正法及像法。壽命劫多少。皆如上所說。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ tụng rằng: - Tỳ-kheo Kiều Trần Như, sẽ thấy vô lượng Phật. Sau A-tăng-kỳ kiếp, bèn thành Đẳng Chánh Giác, thường phóng quang minh lớn, trọn đủ các thần thông. Tiếng tăm rền mười phương, được hết thảy tôn kính. Thường nói đạo vô thượng; v́ thế, hiệu Phổ Minh. Quốc độ ấy thanh tịnh, Bồ Tát đều dũng mănh, đều lên diệu lâu các. Dạo chơi mười phương cơi, dùng đồ cúng vô thượng, dâng hiến lên chư Phật. Cúng dường như thế xong, ôm ḷng hoan hỷ lớn. Khoảnh khắc về nước ḿnh. Có thần lực như thế. Phật thọ sáu vạn kiếp, Chánh Pháp dài gấp đôi, Tượng Pháp gấp đôi đó. Pháp diệt, trời người buồn. Năm trăm vị tỳ-kheo, theo thứ tự thành Phật, cùng hiệu là Phổ Minh, lần lượt thọ kư nhau: “Sau khi ta diệt độ, ông đó sẽ thành Phật, giáo hóa trong thế gian, cũng như ta ngày nay. Cơi trang nghiêm, thanh tịnh, và các sức thần thông. Hàng Bồ Tát, Thanh Văn, Chánh Pháp và Tượng Pháp, thọ mạng bao nhiêu kiếp, đều như trên đă nói”).

 

          Phần Trường Hàng nói đại lược, kệ tụng nói chi tiết. Trước hết, trong phần trùng tụng ngài Kiều Trần Như được thọ kư, hai câu đầu nói về hạnh nhân. Hai bài kệ kế đó nói về đắc quả. Hai bài kệ rưỡi kế đó nói cơi nước thanh tịnh. Câu kế đó nói về thọ mạng của Phật. Hai câu kế tiếp nói về Chánh Pháp và Tượng Pháp. Câu kế đó, “pháp diệt thiên nhân ưu” (pháp diệt, trời người buồn) kết lại phần trước để dẫn khởi phần sau. Ba bài kệ rưỡi kế đó trùng trụng chuyện thọ kư cho năm trăm vị tỳ-kheo.

 

8.1.2.2.2. Trùng tụng chuyện thọ kư chung cho hết thảy Thanh Văn

         

          (Kinh) Ca Diếp nhữ dĩ tri, ngũ bách tự tại giả, dư chư Thanh Văn chúng, diệc đương phục như thị. Kỳ bất tại thử hội, nhữ đương vị tuyên thuyết.

          ()迦葉汝已知。五百自在者。餘諸聲聞眾。亦當復如是。其不在此會。汝當為宣說。

          (Kinh: Ca Diếp ông đă biết, năm trăm vị tự tại, cùng các Thanh Văn khác, cũng sẽ giống như thế. Ai vắng mặt hội này, ông nên tuyên thuyết cho).

         

          “Dư chư Thanh Văn” (các Thanh Văn khác) tức là một ngàn hai trăm người. Đă thọ kư cho năm trăm vị, c̣n lại bảy trăm vị, và nói chung hết thảy các Thanh Văn, cũng như các vị không hiện diện trong hội này. Bất luận có mặt hay không, đều được thọ kư như nhau. Trong phần thọ kư một ngàn hai trăm vị, phần thứ hai là thọ kư đă xong.

 

8.1.2.3. Lănh nhận tín giải

8.1.2.3.1. Trường Hàng

8.1.2.3.1.1. Người kết tập kinh trần thuật sự hoan hỷ

         

          (Kinh) Nhĩ thời, ngũ bách A La Hán, ư Phật tiền đắc thọ kư dĩ, hoan hỷ, dũng dược, tức tùng ṭa khởi, đáo ư Phật tiền, đầu diện lễ túc, hối quá tự trách.

          ()爾時五百阿羅漢。於佛前得受記已。歡喜踊躍。即從座起。到於佛前。頭面禮足。悔過自責。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, năm trăm vị A La Hán ở trước Phật được thọ kư rồi, hoan hỷ, hớn hở, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước đức Phật, đầu mặt lễ dưới chân đức Phật, hối lỗi, tự trách).

 

          “Hoan hỷ, dũng dược” (hoan hỷ, hớn hở) tức là mừng v́ nay được tín giải. “Hối quá tự trách” (hối lỗi, tự trách) v́ hổ thẹn trước kia chẳng hiểu.

 

8.1.2.3.1.2. Trần thuật sự lănh nhận tín giải

8.1.2.3.1.2.1. Pháp Thuyết

 

          (Kinh) Thế Tôn! Ngă đẳng thường tác thị niệm, tự vị “dĩ đắc cứu cánh diệt độ”. Kim năi tri chi như vô trí giả, sở dĩ giả hà? Ngă đẳng ưng đắc Như Lai trí huệ, nhi tiện tự dĩ tiểu trí vi túc.

          ()世尊。我等常作是念。自謂已得究竟滅度。今乃知之如無智者。所以者何。我等應得如來智慧。而便自以小智為足。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Chúng con thường nghĩ thế này, tự cho là đă đạt được diệt độ rốt ráo, nay mới biết ḿnh như kẻ vô trí. V́ cớ sao vậy? Chúng con đáng nên được trí huệ của Như Lai, mà lại coi tiểu trí là đủ).

 

          “Tự vị dĩ đắc cứu cánh diệt độ” (tự cho là đă đạt được diệt độ rốt ráo): Tức là hối hận, tự trách ḿnh trước đó mê muội! Mừng v́ nay mới ngộ, mới biết trước kia là tiểu trí, hoàn toàn giống như vô trí, cũng tự trách độn căn, chẳng thể sớm ngộ! Từ “sở dĩ giả hà” (v́ cớ sao vậy) trở đi, giải thích ư nghĩa “vô trí”: Ngày nay mới biết chính ḿnh đáng nên đạt được đại trí của Như Lai, nhưng trước kia cứ coi tiểu trí là đủ rồi, khư khư nơi Tiểu pháp, bỏ mất Đại pháp, há chẳng phải giống hệt kẻ vô trí ư?

 

8.1.2.3.1.2.2. Thí Thuyết

8.1.2.3.1.2.2.1. Lập thí dụ

8.1.2.3.1.2.2.1.1. Thí dụ về người say rượu

 

          Ví như tự cho là diệt độ, coi tiểu trí là đủ.

 

8.1.2.3.1.2.2.1.1.1. Thí dụ buộc châu

 

          Trần thuật sự lănh ngộ đối với chuyện “[mười sáu vị] vương tử kết duyên” trong phần trước.

 

          (Kinh) Thế Tôn! Thí như hữu nhân, chí thân hữu gia, túy tửu nhi ngọa. Thị thời thân hữu, quan sự đương hành, dĩ vô giá bảo châu hệ kỳ y lư, dữ chi nhi khứ.

          ()世尊。譬如有人。至親友家。醉酒而臥。是時親友。官事當行。以無價寶珠繫其衣裏。與之而去。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Ví như có người, đến nhà bạn thân, say rượu mà nằm. Khi đó, người bạn thân do có việc công phải đi, đem bảo châu vô giá buộc vào trong áo kẻ đó, tặng cho rồi ra đi).

 

          “Hữu nhân” (Có người) tức là năm trăm vị [La Hán] ấy tự sánh ví. “Thân hữu” ví như mười sáu vị vương tử thuở trước. “Gia” (nhà): Sánh ví giáo pháp Đại Thừa như nhà. “Túy tửu nhi ngọa” (say rượu mà nằm): Ví như vô minh chưa từng tỉnh. Say có hai nghĩa:

          - Một là say bét nhè, hoàn toàn chẳng hay biết. Ví như [do nghe] một câu, một kệ mà kết duyên, chưa từng nhập phẩm vị.

          - Hai là say nhẹ, hơi mất tri giác, c̣n gọi là “bất giác”. Ví như có Văn Huệ đôi chút, thuộc giai đoạn đầu của Ngũ Phẩm, chưa dự vào địa vị Tương Tự.

          “Quan sự đương hành” (có việc quan phải đi) ví như vương tử do căn cơ hưng khởi ở nơi khác, liền thuận theo cơ duyên mà tới ứng hiện, hoằng pháp hóa độ người khác, hoàn toàn chẳng phải là việc riêng. V́ thế nói là “quan sự” (việc quan, việc công). “Vô giá bảo châu” ví như báu Thật Tướng Chân Như Trí của Nhất Thừa. “Hệ kỳ y lư” (buộc vào trong áo): Y ví như cái tâm tàm quư, nhẫn nhục và tín nhạo (tin tưởng, ưa thích) thuở đó. Do lúc nghe pháp mà sanh tín nhạo, được thành tựu chủng tử trí nguyện thuộc về liễu nhân.

 

8.1.2.3.1.2.2.1.1.2. Thí dụ say ngủ chẳng biết

 

          Lănh ngộ chuyện giữa chừng thoái thất Đại Thừa.

 

          (Kinh) Kỳ nhân túy ngọa, đô bất giác tri.

          ()其人醉臥。都不覺知。

          (Kinh: Người ấy say ngủ, trọn chẳng hay biết).

 

          Đây là sánh ví cái tâm vô minh nặng nề, trọn chẳng nhớ ǵ. [Nêu thí dụ này để trần thuật] sự lănh ngộ đối với chuyện “giải đăi, thoái thất giữa chừng, chẳng tiếp nhận Đại pháp”.

 

8.1.2.3.1.2.2.1.1.3. Thí dụ thức dậy bèn du hành

 

          Lănh ngộ sự tiếp nhận Tiểu pháp trong phần trên.

         

          (Kinh) Khởi dĩ du hành, đáo ư tha quốc, vị y thực cố, cần lực cầu sách, thậm đại gian nan. Nhược thiểu hữu sở đắc, tiện dĩ vi túc.

          ()起已遊行。到於他國。為衣食故。勤力求索。甚大艱難。若少有所得。便以為足。

          (Kinh: [Kẻ đó] thức dậy ra đi, đến nước khác, v́ cơm áo, ra sức t́m kiếm, hết sức gian nan[5]. Nếu đạt được chút ít, liền cho là đủ).

 

          “Khởi dĩ du hành” (thức dậy, ra đi) ví như thiện căn sắp phát khởi, chán khổ, cầu lạc. “Đáo ư tha quốc” (tới nước khác) ví như vô minh che lấp kiến giải, chẳng biết hướng đến bổn quốc Đại Thừa. “Y thực” (cơm áo) ví như chánh đạo và trợ đạo. “Cầu sách gian nan” (t́m kiếm nhọc nhằn) ví như lúc chưa nhập chánh pháp, rỗng tuếch, chẳng có chứng đắc. “Đắc thiểu vi túc” (được chút ít cho là đủ): Ví như nương vào Quyền giáo để tu hành, đạt được cái quả Tiểu Thừa, đấy chính là lănh ngộ “trong khoảng trung gian đă tiếp nhận Tiểu pháp”. Thí dụ thứ nhất, “say sưa ngủ mất” đă xong.

 

8.1.2.3.1.2.2.1.2. Thí dụ “được bạn thân giác ngộ”

 

          Lănh ngộ ư trong phần trước “do nhân duyên ấy, nay nói kinh Pháp Hoa, b́nh đẳng ban cho các con cỗ xe trâu trắng lớn”.

 

8.1.2.3.1.2.2.1.2.1. Quở trách

         

          (Kinh) Ư hậu, thân hữu hội ngộ kiến chi, nhi tác thị ngôn: - Đốt tai trượng phu! Hà vị y thực, năi chí như thị?

          ()於後親友會遇見之。而作是言。咄哉丈夫。何為衣食。乃至如是。

          (Kinh: Sau đấy, người bạn thân gặp lại, bèn nói như thế này: - Ôi chao anh kia! Sao lại v́ cơm áo mà đến nỗi như thế?)

 

          “Hội ngộ kiến chi” ví như căn cơ Đại Thừa đă phát động. “Đốt tai” (ôi chao) là lời quở trách, ví như do dấy động chấp trước bèn sanh nghi. Trong tam châu đều có ư này. Trong Pháp Thuyết Châu có nói: “Ngă linh thoát khổ phược” (Ta khiến cho kẻ đó thoát khỏi sự khổ trói buộc) v.v… Trong Thí Thuyết Châu nói “ngă tiên bất ngôn giai vị Tam Bồ Đề da?” (trước đó, ta chẳng nói đều v́ Chánh Giác ư?) Trong Nhân Duyên Châu nói: “Túc thế nhân duyên, ngă kim đương thuyết” (nhân duyên đời trước, ta đều sẽ nói). Đấy đều là những lời quở trách.

 

8.1.2.3.1.2.2.1.2.2. Chỉ ra bảo châu

         

          (Kinh) Ngă tích dục linh nhữ đắc an lạc, ngũ dục tự tứ, ư mỗ niên nhật nguyệt, dĩ vô giá bảo châu hệ nhữ y lư, kim cố hiện tại, nhi nhữ bất tri, cần khổ, ưu năo dĩ cầu tự hoạt, thậm vi si dă.

          ()我昔欲令汝得安樂五欲自恣。於某年日月。以無價寶珠繫汝衣裏。今故現在。而汝不知。勤苦憂惱以求自活。甚為癡也。

          (Kinh: Xưa kia, tôi muốn cho anh được yên vui, vui thỏa ngũ dục, vào ngày, tháng, năm đó đă đem bảo châu vô giá cột vào trong áo của anh, nay vẫn c̣n đó, nhưng anh không biết, cứ vất vả, lo buồn để cầu tự nuôi sống, hết sức si dại).

 

          “An lạc” ví như Vô Thượng Đại Niết Bàn. “Ngũ dục tự tứ” (vui thỏa ngũ dục) ví như thọ dụng chân thật Đại Thừa xứng tánh, như ngũ trần thù thắng, nhiệm mầu được nói đến trong cơi Thật Báo, có thể khiến cho ngài Ca Diếp đứng dậy múa may. “Mỗ niên nhật nguyệt” (ngày tháng năm nào đó) ví như khi giảng lại kinh Pháp Hoa trong thời Đại Thông Trí Thắng Phật. “Kim cố hiện tại” (nay vẫn đang c̣n đó) ví như hiển Thật. Trong phần Pháp Thuyết Châu, nói rộng năm loại Phật, hoặc “b́nh đẳng ban cho cỗ xe lớn” trong phần Thí Thuyết Châu, [hoặc nêu rơ những chuyện đă nói] trong phần Nhân Duyên Châu, vẫn là v́ nói Đại Thừa. Đấy đều là ư nghĩa “chỉ bày bảo châu”.

 

8.1.2.3.1.2.2.1.2.3. Khuyên đổi châu

 

          (Kinh) Nhữ kim khả dĩ thử bảo mậu dịch sở tu, thường khả như ư, vô sở phạp đoản.

          ()汝今可以此寶貿易所須。常可如意。無所乏短。

          (Kinh: Nay anh có thể đem viên bảo châu này đổi lấy thứ cần dùng, sẽ thường được vừa ư, chẳng bị thiếu thốn).

 

          Châu tuy giá trị vô lượng, vẫn cần phải đổi chác th́ mới hữu dụng. Ví như người nội giải liễu nhân dẫu đạt đến mức rốt ráo, ắt cần phải đổi lấy một cách thể hiện khác, nhờ vào “một điều đă hiểu, hết thảy đều hiểu” trước đó để đổi lấy “hành một điều, hết thảy đều hành”. Bản thể của châu chẳng cạn kiệt, đổi chác cũng vô cùng. V́ thế, cần phải càng nghe càng tu th́ mới hiển lộ công dụng của chất báu. Như đạt được châu Ma-ni trong kinh Hoa Nghiêm, mười loại giồi mài [khiến cho bảo châu] trong suốt th́ mới có thể tuôn ra các báu. Giải và hạnh tương xứng th́ mới kham tiếp nhận Phật thọ kư. Từ đấy trở đi, ắt có “áo” Tịch Diệt Nhẫn, “cơm” Thủ Lăng Nghiêm, tự hành, hóa tha vô lượng các báu, thuộc vào địa vị vô công dụng, đôi bên chẳng cùng tận. V́ thế nói: “Thường khả như ư, vô sở phạp đoản” (sẽ thường được như ư, chẳng bị thiếu thốn). Trong Pháp Thuyết Châu, ngài Thân Tử (Xá Lợi Phất) được thọ kư. Trong Thí Thuyết Châu, bốn vị (Ma Ha Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Ma Ha Ca Chiên Diên, Mục Kiền Liên) được thọ kư. Trong Nhân Duyên Châu, hai ngàn vị [Thanh Văn] được thọ kư, đều chính là ư nghĩa “khuyên đổi châu”. Phần thứ nhất, “lập thí dụ” đă xong.

 

8.1.2.3.1.2.2.2. Kết hợp thí dụ với pháp

8.1.2.3.1.2.2.2.1. Kết hợp thí dụ “say rượu” với pháp

8.1.2.3.1.2.2.2.1.1. Kết hợp thí dụ “buộc châu” với pháp

 

          (Kinh) Phật diệc như thị, vi Bồ Tát thời, giáo hóa ngă đẳng, linh phát Nhất Thiết Trí tâm.

          ()佛亦如是。為菩薩時。教化我等。令發一切智心。

          (Kinh: Đức Phật cũng giống như thế. Khi Ngài làm Bồ Tát, đă giáo hóa chúng con, khiến phát tâm Nhất Thiết Trí).

 

8.1.2.3.1.2.2.2.1.2. Kết hợp thí dụ “say sưa nằm ngủ chẳng hay biết” với pháp

 

          (Kinh) Nhi tầm phế vong, bất tri bất giác.

          ()而尋廢忘。不知不覺。

          (Kinh: Nhưng [chúng con] liền quên mất, chẳng biết, chẳng hay).

 

8.1.2.3.1.2.2.2.1.3. Kết hợp thí dụ “tỉnh dậy, lang thang, cầu được chút ít đă cho là đủ” với pháp

 

          (Kinh) Kư đắc A La Hán đạo, tự vị diệt độ, tư sanh gian nan, đắc thiểu vi túc.

          ()旣得阿羅漢道。自謂滅度。資生艱難。得少為足。

          (Kinh: Đă đắc đạo A La Hán, tự cho là đă diệt độ, vất vả kiếm sống, được chút ít đă cho là đủ).

 

          Do vất vả sanh tồn trong tam giới; v́ thế, đối với tiểu quả tự cho là đủ, nhưng chẳng có pháp tài công đức Đại Thừa, tức là vẫn kiếm sống gian nan. Phần thứ nhất, kết hợp thí dụ “say rượu” với pháp đă xong.

 

8.1.2.3.1.2.2.2.2. Kết hợp thí dụ “được thân hữu giác ngộ” với pháp

8.1.2.3.1.2.2.2.2.1. Kết hợp thí dụ “quở trách” với pháp

 

          (Kinh) Nhất thiết trí nguyện do tại bất thất. Kim giả Thế Tôn giác ngộ ngă đẳng, tác như thị ngôn: “Chư tỳ-kheo! Nhữ đẳng sở đắc phi cứu cánh diệt”.

          ()一切智願。猶在不失。今者世尊覺悟我等。作如是言。諸比丘。汝等所得。非究竟滅。

          (Kinh: Hết thảy trí nguyện vẫn c̣n, chẳng mất, nay đức Thế Tôn giác ngộ chúng con, nói như thế này: - Các tỳ-kheo! Điều các thầy đạt được chẳng phải là diệt rốt ráo).

8.1.2.3.1.2.2.2.2.2. Kết hợp thí dụ “chỉ bày châu” với pháp

 

          (Kinh) Ngă cửu linh nhữ đẳng chủng Phật thiện căn. Dĩ phương tiện cố, thị Niết Bàn tướng, nhi nhữ vị vi thật đắc diệt độ.

          ()我久令汝等種佛善根。以方便故。示涅槃相。而汝謂為實得滅度。

          (Kinh: Từ lâu, ta đă khiến cho các thầy gieo thiện căn của Phật. Do v́ phương tiện, mà chỉ bày tướng Niết Bàn, nhưng các thầy lại cho là thật sự được diệt độ).

 

8.1.2.3.1.2.2.2.2.3. Kết hợp thí dụ “khuyên đổi châu” với pháp

 

          (Kinh) Thế Tôn! Ngă kim năi tri thật thị Bồ Tát, đắc thọ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề kư. Dĩ thị nhân duyên, thậm đại hoan hỷ, đắc vị tằng hữu.

          ()世尊。我今乃知實是菩薩。得受阿耨多羅三藐三菩提記。以是因緣。甚大歡喜。得未曾有。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Con nay mới biết [chính ḿnh] thật sự là Bồ Tát, được thọ kư Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Do nhân duyên ấy, hết sức hoan hỷ, đạt được điều chưa từng có).

 

          Trong phần lănh ngộ tín giải, tiểu đoạn thứ nhất là Trường Hàng đă xong.

 

8.1.2.3.2. Kệ Tụng

8.1.2.3.2.1. Trùng tụng sự lănh nhận tín giải trong tâm

 

          (Kinh) Nhĩ thời, A Nhă Kiều Trần Như đẳng, dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Ngă đẳng văn vô thượng, an ổn thọ kư thanh, hoan hỷ vị tằng hữu. Lễ vô lượng trí Phật, kim ư Thế Tôn tiền, tự hối chư quá cữu.

          ()爾時阿若憍陳如等。欲重宣此義而說偈言。我等聞無上。安隱授記聲。歡喜未曾有。禮無量智佛。今於世尊前。自悔諸過咎。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, các vị như A Nhă Kiều Trần Như muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Con nghe tiếng vô thượng, an ổn nói thọ kư, hoan hỷ chưa từng có. Lễ Phật vô lượng trí, nay đối trước Thế Tôn, tự hối các lầm lỗi).

         

          Bài kệ thứ nhất, trùng tụng niềm hoan hỷ do thấu hiểu. Nửa bài kệ kế tiếp trùng tụng sự hối lỗi, tự trách.

8.1.2.3.2.2. Trùng tụng nhằm trần thuật sự lănh nhận tín giải của chính ḿnh

8.1.2.3.2.2.1. Trùng tụng Pháp Thuyết

 

          (Kinh) Ư vô lượng Phật bảo, đắc thiểu Niết Bàn phần, như vô trí ngu nhân, tiện tự dĩ vi túc.

          ()於無量佛寶。得少涅槃分。如無智愚人。便自以為足。

          (Kinh: Nơi vô lượng Phật bảo, được chút phần Niết Bàn, như kẻ ngu vô trí, liền tự cho là đủ).

 

8.1.2.3.2.2.2. Trùng tụng Thí Thuyết

8.1.2.3.2.2.2.1. Trùng tụng lập thí dụ

8.1.2.3.2.2.2.1.1. Trùng tụng thí dụ say rượu

 

          (Kinh) Thí như bần cùng nhân, văng chí thân hữu gia. Kỳ gia thậm đại phú, cụ thiết chư hào thiện. Dĩ vô giá bảo châu, hệ trước nội y lư, mặc dữ nhi xả khứ. Thời ngọa bất giác tri. Thị nhân kư dĩ khởi, du hành nghệ tha quốc. Cầu y thực tự tế, tư sanh thậm gian nan. Đắc thiểu tiện vi túc, cánh bất nguyện hảo giả, bất giác nội y lư, hữu vô giá bảo châu.

          ()譬如貧窮人。往至親友家。其家甚大富。具設諸肴膳。以無價寶珠。繫著內衣裏。默與而捨去。時臥不覺知。是人旣已起。遊行詣他國。求衣食自濟。資生甚艱難。得少便為足。更不願好者。不覺內衣裏。有無價寶珠。

          (Kinh: Ví như kẻ bần cùng, t́m đến nhà bạn thân. Nhà ấy rất giàu có, bày đủ các món ngon. Đem bảo châu vô giá, cột vào trong áo lót, ngầm cho rồi rời đi. Kẻ ấy ngủ chẳng biết, ngủ rồi bèn thức dậy, lang thang sang nước khác. Cầu áo cơm nuôi thân, kiếm sống rất nhọc nhằn, được một ít đă đủ, chẳng mong tốt lành hơn. Chẳng biết trong áo lót, có vô giá bảo châu).

 

          Bảy câu đầu trùng tụng thí dụ “buộc châu”. Câu thứ tám, trùng tụng thí dụ say sưa ngủ mất, chẳng hay biết. Hai bài kệ sau cùng, trùng tụng thí dụ người ấy thức dậy, đi lang thang. Phàm phu chẳng có Tu Đức, gọi là “bần cùng nhân”. Chư Phật Bồ Tát có cùng một tâm tánh với chúng sanh, được gọi là “thân hữu”. Trọn đủ các thứ công đức Quyền và Thật, gọi là “đại phú”. Các giáo pháp phương tiện được gọi là “hào thiện” (cỗ bàn ngon lành). Lư Đốn Giáo Nhất Thừa viên đốn gọi là “bảo châu”. Hổ thẹn, nhẫn nhục gọi là “ngoại y”. Tâm tin tưởng, ưa thích gọi là “nội y”. Lúc mới kết duyên, trọn đủ hai lớp áo. Thoái thất Đại Thừa, đọa vào chốn ác, tức là chẳng có ngoại y. Nếu xét theo hiện thời chẳng có ḷng tin tưởng, ưa thích, th́ nội y cũng chẳng có, nhưng chủng tử vẫn c̣n, chỉ là bị áo che lấp, chẳng phải là hoàn toàn không có! Những điều khác dễ hiểu!

         

8.1.2.3.2.2.2.1.2. Trùng tụng thí dụ thân hữu giác ngộ

         

          (Kinh) Dữ châu chi thân hữu, hậu kiến thử bần nhân, khổ thiết trách chi dĩ, thị dĩ sở hệ châu. Bần nhân kiến thử châu, kỳ tâm đại hoan hỷ, phú hữu chư tài vật, ngũ dục nhi tự tứ.

          ()與珠之親友。後見此貧人。苦切責之已。示以所繫珠。貧人見此珠。其心大歡喜。富有諸財物。五欲而自恣。

          (Kinh: Thân hữu cho châu ấy, sau gặp gă nghèo đó, xỉ vả, trách móc xong, chỉ bày châu trong áo. Gă nghèo thấy châu ấy, tâm hắn rất hoan hỷ, các tài vật giàu có, thỏa thích hưởng ngũ dục).

 

          Phần thứ nhất, “lập thí dụ” đă xong.

 

8.1.2.3.2.2.2.2. Trùng tụng kết hợp thí dụ với pháp

8.1.2.3.2.2.2.2.1. Trùng tụng kết hợp thí dụ “say rượu” với pháp

 

           (Kinh) Ngă đẳng diệc như thị, Thế Tôn ư trường dạ, thường mẫn kiến giáo hóa, linh chủng vô thượng nguyện. Ngă đẳng vô trí cố, bất giác diệc bất tri, đắc thiểu Niết Bàn phần, tự túc bất cầu dư.

          ()我等亦如是。世尊於長夜。常愍見教化。令種無上願。我等無智故。不覺亦不知。得少涅槃分。自足不求餘。

          (Kinh: Chúng con cũng như thế, Thế Tôn trong đêm dài, thường xót thương giáo hóa, khiến gieo vô thượng nguyện. Chúng con do vô trí, chẳng hay cũng chẳng biết, được chút phần Niết Bàn, tự đủ, chẳng cầu khác).

 

          Bài kệ thứ nhất, trùng tụng kết hợp thí dụ “buộc châu” với pháp. Nửa bài kệ kế tiếp, trùng tụng thí dụ “say rượu ngủ mê không biết” với pháp. Nửa bài kệ sau trùng tụng thí dụ “tỉnh dậy, đi lang thang, được chút ít đă cho là đủ” với pháp.

 

8.1.2.3.2.2.2.2.2. Trùng tụng kết hợp thí dụ “giác ngộ” với pháp      

 

          (Kinh) Kim Phật giác ngộ ngă, ngôn phi thật diệt độ, đắc Phật vô thượng huệ. Nhĩ năi vi chân diệt. Ngă kim tùng Phật văn, thọ kư trang nghiêm sự, cập chuyển thứ thọ quyết, thân tâm biến hoan hỷ.

          ()今佛覺悟我。言非實滅度。得佛無上慧。爾乃為真滅。我今從佛聞。授記莊嚴事。及轉次授決。身心徧歡喜。

          (Kinh: Nay Phật giác ngộ con, nói “chẳng thật diệt độ, đắc Phật vô thượng huệ, th́ mới là thật diệt”. Nay con từ Phật nghe, chuyện thọ kư trang nghiêm, và lần lượt thọ kư, thân tâm khắp hoan hỷ).

 

          Nửa bài kệ đầu trùng tụng thí dụ “quở trách” với pháp. Nửa bài kệ kế tiếp, trùng tụng kết hợp thí dụ “chỉ bày bảo châu” với pháp. Bài kệ cuối cùng, trùng tụng kết hợp thí dụ “khuyên đổi châu” với pháp. Thọ kư cho một ngàn hai trăm vị [A La Hán] đă xong.

          Giải thích phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Kư đă xong; kế đó, giải thích phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Kư.

         

9. Phẩm thứ chín: Thọ kư cho bậc hữu học và vô học (Thọ Học Vô Học Nhân Kư phẩm đệ cửu, 授學無學人記品第九)

 

          Nghiên cứu lẽ Chân, đoạn Hoặc, hâm mộ, mong cầu kiến giải thù thắng, th́ gọi là Học, tức Tam Quả Tứ Hướng chân vô lậu huệ. Chân cùng, Hoặc tận, kiến giải thù thắng đă tột cùng, chẳng c̣n học nữa, th́ gọi là Vô Học, tức là quả A La Hán (Học và Vô Học khác biệt, tức Thế Giới Tất Đàn. Nghiên cứu lẽ Chân tức là Vị Nhân Tất Đàn. Đoạn Hoặc tức Đối Trị Tất Đàn. “Chân cùng, Hoặc tận” tức là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn).

          Xét theo giáo, dùng cách phân tích các pháp để thấu hiểu lẽ Chân th́ gọi là Học. Hoặc (phiền năo) hết sạch, thấu triệt cùng tận lẽ Chân th́ gọi là Vô Học; đó là ư nghĩa [Vô Học] trong Tam Tạng. Dùng Thể pháp (Thể Không Quán) để thấu hiểu lẽ Chân th́ gọi là Học. Vô chân, vô Hoặc th́ gọi là Vô Học. Đó là ư nghĩa trong Thông Giáo. Từ cạn đến sâu th́ là Học, Thông Hoặc và Biệt Hoặc đều hết, thấu đạt tột cùng Quyền lư và Thật lư th́ là Vô Học. Đó là ư nghĩa trong Biệt Giáo. Học hỏi, nghiền ngẫm Như Lai Tạng, [đó chính là] hữu học mà vô học. Đối với Pháp Tánh Thật Tướng, chẳng phải là học, chẳng phải là vô học, tuy học mà vô học; đó là ư nghĩa trong Viên Giáo. Hai ngàn vị này hoặc là Học, hoặc là Vô Học, đều là bậc nhất, cùng lúc được thọ kư cùng một danh hiệu. V́ thế, lập riêng thành một phẩm.

          Xét theo Bổn Tích, nơi Tích, ngài A Nan là bậc Hữu Học. Nơi Tích, La Hầu La là bậc Vô Học, nhưng nơi Bổn địa [cả hai vị] đều chẳng thể nghĩ bàn. Dùng điều này để suy lường hai ngàn vị kia, mỗi vị cũng đều phải có Bổn và Tích!

          Xét theo quán tâm, bốn địa vị từ Danh Tự cho tới Phần Chứng được gọi là Học. Riêng địa vị Cứu Cánh được gọi là Vô Học. Địa vị Lư Tức chẳng phải Học, chẳng phải Vô Học. Lại nữa, Lục Tức đều chẳng phải là Học, chẳng phải Vô Học. Từ Phần Chứng trở đi, tuy là Học mà Vô Học. Lại nữa, Lư Tức có thể học mà vô học, cho đến Cứu Cánh cũng là học mà vô học.

 

9.1. Thọ kư hai ngàn người

9.1.1. Thỉnh cầu thọ kư

9.1.1.1. Hai vị thỉnh cầu

9.1.1.1.1. Thầm nghĩ thỉnh cầu

 

          (Kinh) Nhĩ thời, A Nan, La Hầu La nhi tác thị niệm: “Ngă đẳng mỗi tự tư duy, thiết đắc thọ kư, bất diệc khoái hồ?”

          ()爾時阿難羅睺羅而作是念。我等每自思惟。設得授記。不亦快乎。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, ngài A Nan và La Hầu nghĩ như thế này: “Chúng ta thường tư duy, nếu được thọ kư cũng chẳng vui sướng lắm ư?”)

 

9.1.1.1.2. Thốt lời thỉnh cầu

9.1.1.1.2.1. Dẫn lệ [Thanh Văn được thọ kư để thỉnh cầu]

 

          (Kinh) Tức tùng ṭa khởi, đáo ư Phật tiền, đầu diện lễ túc, câu bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă đẳng ư thử, diệc ưng hữu phần, duy hữu Như Lai, ngă đẳng sở quy.

            ()即從座起。到於佛前。頭面禮足。俱白佛言。世尊。我等於此。亦應有分。唯有如來。我等所歸。

            (Kinh: Liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước đức Phật, đều bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Chúng con đối với chuyện này, cũng phải nên có phần, chỉ có Như Lai là chỗ nương về cho chúng con).

 

9.1.1.1.2.2. Dẫn điều mong mỏi [của đại chúng để thỉnh cầu được thọ kư]

         

          (Kinh) Hựu ngă đẳng vi nhất thiết thế gian thiên, nhân, A Tu La sở kiến tri thức. A Nan thường vi thị giả, hộ tŕ pháp tạng. La Hầu La thị Phật chi tử. Nhược Phật kiến thọ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề kư giả, ngă nguyện kư măn, chúng vọng diệc túc.

          ()又我等為一切世間天人阿修羅所見知識。阿難常為侍者。護持法藏。羅睺羅是佛之子。若佛見授阿耨多羅三藐三菩提記者。我願旣滿。眾望亦足。

          (Kinh: Chúng con lại được hết thảy trời, người, A Tu La trong thế gian coi là bậc tri thức. A Nan thường làm thị giả, hộ tŕ pháp tạng. La Hầu La là con của Phật. Phật thọ kư Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác th́ nguyện của con được thỏa, mà điều mong mỏi của đại chúng cũng trọn vẹn).

 

          Xét theo đại chúng đă được liệt kê trước đó, hai vị này đều là bậc được nhiều người hay biết. Nay hai ngàn vị Hữu Học và Vô Học cùng được thọ kư là v́ để dẫn khởi Thật, v́ Tứ Tất Đàn. Phần thứ nhất, “hai vị thỉnh cầu thọ kư” đă xong.

 

9.1.1.2. Kế đó, hai ngàn vị thỉnh cầu

 

          (Kinh) Nhĩ thời, học vô học Thanh Văn đệ tử nhị thiên nhân, giai tùng ṭa khởi, thiên đản hữu kiên, đáo ư Phật tiền, nhất tâm hiệp chưởng, chiêm ngưỡng Thế Tôn, như A Nan, La Hầu La sở nguyện, trụ lập nhất diện.

          ()爾時學無學聲聞弟子二千人。皆從座起。偏袒右肩。到於佛前。一心合掌。瞻仰世尊。如阿難羅睺羅所願。住立一面。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, hai ngàn vị đệ tử Thanh Văn học và vô học, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo phải, đến trước đức Phật, nhất tâm chắp tay, chiêm ngưỡng Thế Tôn, nguyện giống như A Nan và La Hầu La rồi đứng qua một bên).

 

          Chỉ có ư nghĩa dẫn theo thể lệ (tức hàng Thanh Văn được thọ kư), chẳng dẫn điều mong mỏi. V́ thế, chỉ thầm niệm cầu thỉnh, chẳng thốt ra lời. Phần thứ nhất, “thỉnh cầu thọ kư” đă xong.

 

9.1.2. Thọ kư

9.1.2.1. Thọ kư cho hai vị

9.1.2.1.1. Thọ kư A Nan

9.1.2.1.1.1. Trường Hàng

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo A Nan: - Nhữ ư lai thế, đương đắc tác Phật, hiệu Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, đương cúng dường lục thập nhị ức chư Phật, hộ tŕ pháp tạng. Nhiên hậu, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, giáo hóa nhị thập thiên vạn ức hằng hà sa chư Bồ Tát đẳng, linh thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Quốc danh Thường Lập Thắng Phan. Kỳ độ thanh tịnh, lưu ly vi địa. Kiếp danh Diệu Âm Biến Măn. Kỳ Phật thọ mạng, vô lượng thiên vạn ức A-tăng-kỳ kiếp. Nhược nhân ư thiên vạn ức vô lượng A-tăng-kỳ kiếp trung toán số, giảo kế, bất năng đắc tri. Chánh Pháp trụ thế bội ư thọ mạng. Tượng Pháp trụ thế, phục bội Chánh Pháp. A Nan! Thị Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Phật vị thập phương vô lượng thiên vạn ức hằng hà sa đẳng chư Phật Như Lai sở cộng tán thán, xưng kỳ công đức.

          ()爾時佛告阿難。汝於來世。當得作佛。號山海慧自在通王如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。當供養六十二億諸佛。護持法藏。然後得阿耨多羅三藐三菩提。教化二十千萬億恆河沙諸菩薩等。令成阿耨多羅三藐三菩提。國名常立勝幡。其土清淨。琉璃為地。劫名妙音徧滿。其佛壽命。無量千萬億阿僧祇劫。若人於千萬億無量阿僧祇劫中算數校計。不能得知。正法住世。倍於壽命。像法住世。復倍正法。阿難。是山海慧自在通王佛。為十方無量千萬億恆河沙等諸佛如來所共讚歎。稱其功德。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài A Nan: - Ông trong đời mai sau, sẽ được làm Phật, hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương[6] (Sāgaradhara-buddhivikrīḍitarājābhijña) Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ông sẽ cúng dường sáu mươi hai ức chư Phật, hộ tŕ pháp tạng. Sau đấy, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, giáo hóa hai mươi ngàn vạn ức hằng hà sa các vị Bồ Tát, khiến họ đều thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cơi nước tên là Thường Lập Thắng Phan (Avanāmitavaijayantā)[7]. Cơi ấy thanh tịnh, lưu ly làm đất. Kiếp tên Diệu Âm Biến Măn (Manojñaśabdābhi-garjita)[8]. Đức Phật ấy có thọ mạng đến vô lượng ngàn vạn ức A-tăng-kỳ kiếp. Nếu có kẻ trong ngàn vạn ức vô lượng A-tăng-kỳ kiếp tính toán, so, đếm, vẫn chẳng thể biết [con số ấy]. Chánh Pháp trụ thế gấp bội thọ mạng. Tượng Pháp trụ thế lại gấp bội Chánh Pháp. Này A Nan! Vị Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Phật ấy được mười phương vô lượng ngàn vạn ức chư Phật Như Lai nhiều như cát sông Hằng cùng tán thán, ca ngợi công đức của Ngài).

 

9.1.2.1.1.2. Trùng tụng

 

            (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Ngă kim Tăng trung thuyết. A Nan tŕ pháp giả, đương cúng dường chư Phật. Nhiên hậu thành Chánh Giác. Hiệu viết Sơn Hải Huệ, Tự Tại Thông Vương Phật. Kỳ quốc độ thanh tịnh, danh Thường Lập Thắng Phan. Giáo hóa chư Bồ Tát, kỳ số như Hằng sa. Phật hữu đại oai đức. Danh văn măn thập phương. Thọ mạng vô hữu lượng. Dĩ mẫn chúng sanh cố, Chánh Pháp trụ bội thọ, Tượng Pháp phục bội thị, như Hằng hà sa đẳng. Vô số chư chúng sanh, ư thử Phật pháp trung, chủng Phật đạo nhân duyên.

          ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。我今僧中說。阿難持法者。當供養諸佛。然後成正覺。號曰山海慧。自在通王佛。其國土清淨。名常立勝幡。教化諸菩薩。其數如恆沙。佛有大威德。名聞滿十方。壽命無有量。以愍眾生故。正法住倍壽。像法復倍是。如恆河沙等。無數諸眾生。於此佛法中。種佛道因緣。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Nay ta nói trong Tăng, A Nan người tŕ pháp, sẽ cúng dường chư Phật, sau đó thành Chánh Giác. Hiệu là Sơn Hải Huệ, Tự Tại Thông Vương Phật. Cơi nước ấy thanh tịnh, tên Thường Lập Thắng Phan. Giáo hóa các Bồ Tát, số như cát sông Hằng. Phật có oai đức lớn, danh rền khắp mười phương. Thọ mạng chẳng hạn lượng. V́ thương xót chúng sanh, Chánh Pháp gấp bội thọ, Tượng Pháp gấp bội đó, nhiều như cát sông Hằng. Vô số các chúng sanh, ở trong Phật pháp ấy, gieo nhân duyên Phật đạo).

         

9.1.2.1.1.3. Các vị tân phát ư sanh nghi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, hội trung tân phát ư Bồ Tát bát thiên nhân, hàm tác thị niệm: “Ngă đẳng thượng bất văn chư đại Bồ Tát đắc như thị kư. Hữu hà nhân duyên, nhi chư Thanh Văn đắc như thị quyết?

          ()爾時會中新發意菩薩八千人。咸作是念。我等尚不聞諸大菩薩得如是記。有何因緣。而諸聲聞得如是決。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, tám ngàn người thuộc hàng tân phát ư Bồ Tát trong hội, đều nghĩ như thế này: “Chúng ta c̣n chưa nghe các vị đại Bồ Tát được thọ kư như thế. Do có nhân duyên nào mà các Thanh Văn được thọ kư như thế?”)

 

9.1.2.1.1.4. Như Lai giải trừ mối nghi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tri chư Bồ Tát tâm chi sở niệm, nhi cáo chi viết: - Chư thiện nam tử! Ngă dữ A Nan đẳng, ư Không Vương Phật sở, đồng thời phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm. A Nan thường nhạo đa văn, ngă thường cần tinh tấn. Thị cố, ngă dĩ đắc thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nhi A Nan hộ tŕ ngă pháp, diệc hộ tương lai chư Phật pháp tạng, giáo hóa thành tựu chư Bồ Tát chúng. Kỳ bổn nguyện như thị, cố hoạch tư kư.

          ()爾時世尊。知諸菩薩心之所念而告之曰。諸善男子。我與阿難等。於空王佛所。同時發阿耨多羅三藐三菩提心。阿難常樂多聞。我常勤精進。是故我已得成阿耨多羅三藐三菩提。而阿難護持我法。亦護將來諸佛法藏。教化成就諸菩薩眾。其本願如是。故獲斯記。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn biết suy nghĩ của các vị Bồ Tát, bèn bảo rằng: - Các thiện nam tử! Ta cùng A Nan v.v… ở chỗ Không Vương (Dharma-gaganābhyudgatarāja)[9] Phật, cùng lúc phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. A Nan thường chuộng đa văn, ta thường siêng tinh tấn. V́ thế, ta đă thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, c̣n A Nan hộ tŕ pháp của ta, cũng hộ tŕ pháp tạng của chư Phật trong tương lai, giáo hóa ḥng thành tựu các vị Bồ Tát. Bổn nguyện như thế, cho nên được thọ kư như thế).

 

9.1.2.1.1.5. A Nan trần thuật, tán thán

 

          (Kinh) A Nan diện ư Phật tiền, tự văn thọ kư, cập quốc độ trang nghiêm, sở nguyện cụ túc, tâm đại hoan hỷ, đắc vị tằng hữu. Tức thời ức niệm quá khứ vô lượng thiên vạn ức chư Phật pháp tạng, thông đạt vô ngại như kim sở văn, diệc thức bổn nguyện. Nhĩ thời, A Nan nhi thuyết kệ ngôn: - Thế Tôn thậm hy hữu, linh ngă niệm quá khứ, vô lượng chư Phật pháp, như kim nhật sở văn. Ngă kim vô phục nghi, an trụ ư Phật đạo. Phương tiện vi thị giả, hộ tŕ chư Phật pháp.

          ()阿難面於佛前自聞授記。及國土莊嚴。所願具足。心大歡喜。得未曾有。即時憶念過去無量千萬億諸佛法藏。通達無礙。如今所聞。亦識本願。爾時阿難而說偈言。世尊甚希有。令我念過去。無量諸佛法。如今日所聞。我今無復疑。安住於佛道。方便為侍者。護持諸佛法。

          (Kinh: A Nan đối trước đức Phật, tự nghe thọ kư, và cơi nước trang nghiêm, sở nguyện trọn đủ, tâm hoan hỷ to lớn, đạt được điều chưa từng có. Ngay lập tức, nghĩ nhớ pháp tạng của quá khứ vô lượng ngàn vạn ức chư Phật, thông đạt vô ngại như nghe trong hiện thời, và cũng biết bổn nguyện. Khi đó, ngài A Nan bèn nói kệ rằng: - Thế Tôn rất hy hữu, khiến con nhớ quá khứ, vô lượng các Phật pháp, như ngày nay được nghe. Con nay chẳng c̣n nghi, an trụ trong Phật đạo. Phương tiện làm thị giả, hộ tŕ các Phật pháp).

 

          Phần thứ nhất, “thọ kư cho A Nan” đă xong.

 

9.1.2.1.2. Thọ kư La Hầu La

9.1.2.1.2.1. Trường Hàng

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo La Hầu La: - Nhữ ư lai thế, đương đắc tác Phật, hiệu Đạo Thất Bảo Hoa Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đương cúng dường thập thế giới vi trần đẳng số chư Phật Như Lai, thường vị chư Phật nhi tác trưởng tử, do như kim dă. Thị Đạo Thất Bảo Hoa Phật, quốc độ trang nghiêm, thọ mạng kiếp số, sở hóa đệ tử, Chánh Pháp, Tượng Pháp diệc như Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai vô dị, diệc vi thử Phật nhi tác trưởng tử. Quá thị dĩ hậu, đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()爾時佛告羅睺羅。汝於來世。當得作佛。號蹈七寶華如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。當供養十世界微塵等數諸佛如來。常為諸佛而作長子。猶如今也。是蹈七寶華佛。國土莊嚴。壽命劫數。所化弟子。正法像法。亦如山海慧自在通王如來無異。亦為此佛而作長子。過是已後。當得阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài La Hầu La: - Ông trong đời tương lai, sẽ được thành Phật, hiệu là Đạo Thất Bảo Hoa (Saptaratnapadmavikrama)[10] Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Sẽ cúng dường chư Phật Như Lai nhiều như số vi trần trong mười thế giới, thường làm con trưởng của chư Phật giống như hiện thời. Quốc độ của vị Đạo Thất Bảo Hoa Phật ấy trang nghiêm, thọ mạng, kiếp số, các đệ tử được giáo hóa, Chánh Pháp, Tượng Pháp cũng giống như Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai chẳng khác, cũng làm trưởng tử cho vị Phật ấy. Từ đó về sau, sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

9.1.2.1.2.2. Trùng Tụng

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Ngă vi Thái Tử thời, La Hầu vi trưởng tử. Ngă kim thành Phật đạo, thọ pháp vi pháp tử. Ư vị lai thế trung, kiến vô lượng ức Phật, giai vi kỳ trưởng tử. Nhất tâm cầu Phật đạo. La Hầu La mật hạnh, duy ngă năng tri chi. Hiện vi ngă trưởng tử, dĩ thị chư chúng sanh, vô lượng ức thiên vạn, công đức bất khả sổ. An trụ ư Phật pháp, dĩ cầu vô thượng đạo.

          ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。我為太子時。羅睺為長子。我今成佛道。受法為法子。於未來世中。見無量億佛。皆為其長子。一心求佛道。羅睺羅密行。唯我能知之。現為我長子。以示諸眾生。無量億千萬。功德不可數。安住於佛法。以求無上道。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Khi ta làm Thái Tử, La Hầu làm con trưởng. Ta nay thành Phật đạo, thọ pháp làm pháp tử. Ở trong đời vị lai, thấy vô lượng ức Phật, làm con trưởng các Ngài. Nhất tâm cầu Phật đạo. Mật hạnh La Hầu La, chỉ ta có thể biết. Hiện làm con trưởng ta, để chỉ dạy chúng sanh, vô lượng ức ngàn vạn, công đức chẳng thể tính. An trụ trong Phật pháp, để cầu vô thượng đạo).

 

          Phần thứ nhất, “thọ kư cho hai vị” đă xong.

 

9.1.2.2. Kế đó, thọ kư cho hai ngàn vị

9.1.2.2.1. Trường Hàng

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn kiến Học Vô Học nhị thiên nhân, kỳ ư nhu nhuyễn, tịch nhiên thanh tịnh, nhất tâm quán Phật. Phật cáo A Nan: “Nhữ kiến thị Học Vô Học nhị thiên nhân phủ?” “Dụy nhiên dĩ kiến!” “A Nan! Thị chư nhân đẳng, đương cúng dường ngũ thập thế giới vi trần số chư Phật Như Lai, cung kính, tôn trọng, hộ tŕ pháp tạng. Mạt hậu, đồng thời ư thập phương quốc, các đắc thành Phật, giai đồng nhất hiệu, danh viết Bảo Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thọ mạng nhất kiếp. Quốc độ trang nghiêm, Thanh Văn, Bồ Tát, Chánh Pháp, Tượng Pháp, giai tất đồng đẳng”.

          ()爾時世尊。見學無學二千人。其意柔輭。寂然清淨。一心觀佛。佛告阿難。汝見是學無學二千人不。唯然已見。阿難。是諸人等。當供養五十世界微塵數諸佛如來。恭敬尊重。護持法藏。末後同時於十方國。各得成佛。皆同一號。名曰寶相如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。壽命一劫。國土莊嚴。聲聞菩薩。正法像法。皆悉同等。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thấy Học và Vô Học hai ngàn người, tâm ư nhu nhuyễn, vắng lặng, thanh tịnh, nhất tâm quán Phật. Đức Phật bảo A Nan: “Ông có thấy hai ngàn vị Học Vô Học này hay không?” “Thưa vâng, con đă thấy”. “Này A Nan! Những người này sẽ cúng dường chư Phật Như Lai nhiều như số vi trần trong năm mươi thế giới, cung kính, tôn trọng, hộ tŕ pháp tạng. Cuối cùng, đồng thời ở các cơi nước trong mười phương, đều được thành Phật, đều cùng một hiệu, tên là Bảo Tướng (Ratnaketurāja) Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thọ mạng một kiếp, quốc độ trang nghiêm, Thanh Văn, Bồ Tát, Chánh Pháp, Tượng Pháp thảy đều như nhau”).

         

9.1.2.2.2. Trùng tụng

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Thị nhị thiên Thanh Văn, kim ư ngă tiền trụ, tất giai dữ thọ kư, vị lai đương thành Phật, sở cúng dường chư Phật, như thượng thuyết trần số, hộ tŕ kỳ pháp tạng. Hậu đương thành Chánh Giác, các ư thập phương quốc, tất đồng nhất danh hiệu, câu thời tọa đạo tràng, dĩ chứng vô thượng huệ, giai danh vi Bảo Tướng. Quốc độ cập đệ tử, Chánh Pháp dữ Tượng Pháp, tất đẳng vô hữu dị. Hàm dĩ chư thần thông, độ thập phương chúng sanh, danh văn phổ châu biến, tiệm nhập ư Niết Bàn.

          ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。是二千聲聞。今於我前住。悉皆與授記。未來當成佛。所供養諸佛。如上說塵數。護持其法藏。後當成正覺。各於十方國。悉同一名號。俱時坐道場。以證無上慧。皆名為寶相。國土及弟子。正法與像法。悉等無有異。咸以諸神通。度十方眾生。名聞普周徧。漸入於涅槃。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Hai ngàn Thanh Văn này, nay đứng ở trước ta, thảy đều được thọ kư, mai sau sẽ thành Phật. Họ cúng dường chư Phật, như trần số đă nói. Hộ tŕ Phật pháp tạng. Sau đó, thành Chánh Giác, đều trong mười phương cơi, đều cùng một danh hiệu, cùng lúc đến đạo tràng, để chứng vô thượng huệ, đều tên là Bảo Tướng. Quốc độ và đệ tử, Chánh Pháp và Tượng Pháp, đều như nhau chẳng khác, đều dùng các thần thông, độ mười phương chúng sanh, tiếng tăm trọn rền khắp, dần tiến nhập Niết Bàn).

 

9.1.2.2.3. Được thọ kư hoan hỷ

 

          (Kinh) Nhĩ thời, học vô học nhị thiên nhân, văn Phật thọ kư, hoan hỷ, dũng dược, nhi thuyết kệ ngôn: - Thế Tôn huệ đăng minh, ngă văn thọ kư âm, tâm hoan hỷ sung măn, như cam lộ kiến quán.

          ()爾時學無學二千人。聞佛授記。歡喜踊躍而說偈言。世尊慧燈明。我聞授記音。心歡喜充滿。如甘露見灌。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, hai ngàn vị học vô học nghe đức Phật thọ kư, hoan hỷ, hớn hở, bèn nói kệ rằng: - Thế Tôn đèn huệ sáng, con nghe tiếng thọ kư, tâm hoan hỷ tràn đầy, như được rưới cam lộ).

         

          Phần thứ hai, chánh thuyết của Tích Môn đă xong.

          Giải thích phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Kư đă xong, kế tiếp sẽ giải thích phẩm Pháp Sư.

 

10. Phẩm thứ mười: Pháp Sư (Pháp Sư phẩm đệ thập, 法師品第十)

 

          Phẩm này nêu ra năm loại pháp sư: Một là thọ tŕ, hai là đọc, ba là tụng, bốn là giải nói, năm là biên chép. Đại Luận nói sáu loại pháp sư:

          - Một, do tín lực nên Thọ.

          - Hai, do niệm lực nên Tŕ.

          - Ba, do xem kinh văn nên Đọc.

          - Bốn, chẳng quên là Tụng.

          - Năm, tuyên truyền là nói.

          - Sáu, kinh sách của thánh nhân khó hiểu, cần phải giải thích.

          Nay kinh này gộp chung Thọ và Tŕ thành một, gộp chung Giải và Thuyết thành một, cho nên Biên Chép trở thành điều thứ năm. Nếu luận định riêng biệt, bốn điều kia là tự hành, c̣n giải nói (Giải Thuyết) nhằm hóa độ người khác. Nếu luận định chung, nếu chính ḿnh vâng theo năm pháp đó, sẽ gọi là “tự hành pháp sư”. Dạy người khác năm pháp th́ gọi là “hóa tha pháp sư”. V́ sao nói như vậy? “Pháp” là khuôn phép. “Sư” là bậc thầy dạy bảo. Pháp tuy có thể noi theo, nhưng tự nó vốn chẳng thể tự hoằng truyền. Được lưu truyền là do con người. Năm loại người thông kinh (lưu truyền kinh điển) đều được gọi là Sư. Nêu ra pháp để thành tựu tự hạnh, đều lấy diệu pháp làm thầy. Tôn diệu pháp làm thầy, tự hạnh thành tựu; v́ thế gọi là Pháp Sư.

          Lại có năm loại người có thể dùng diệu pháp để dạy bảo họ. V́ thế, nêu ra pháp ḥng đặt tên cho thầy, cho nên gọi là Pháp Sư. Dù là pháp để tự uốn nắn ḿnh, hay là pháp để đào luyện người khác, đều được gọi là Pháp Sư Phẩm. Đấy là giải thích theo Nhân Duyên (Tự hành và hóa độ người khác bất đồng, tức là Thế Giới Tất Đàn. Tự hạnh thành tựu tức là Sanh Thiện Tất Đàn. Hóa độ người khác trừ ác chính là Đối Trị Tất Đàn. Ḿnh và người đều cùng đạt được th́ gọi là Pháp Sư, chính là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn).

          Xét theo giáo, mỗi giáo trong bốn giáo đều có chủ thể diễn nói (năng thuyên) và pháp được diễn nói (sở thuyên), đều được gọi là Pháp. Mỗi giáo đều luận định tự hành và hóa độ người khác, đều được gọi là Sư. Nay chỉ luận theo Viên Giáo, th́ là năm loại [pháp sư] trong Viên Giáo. Nếu nói theo cách rút gọn, th́ gộp năm loại thành bốn loại, tức là Tứ An Lạc Hạnh như sẽ được nói trong phần sau. Lại gom thành ba loại th́ là ba nghiệp:

          - Thọ tŕ là ư nghiệp.

          - Đọc tụng, diễn nói là khẩu nghiệp.

          - Biên chép là thân nghiệp.

          Luận định riêng biệt th́ khẩu nghiệp là hóa độ người khác, c̣n thân nghiệp và ư nghiệp là tự hành. Luận định chung th́ tự uốn nắn ba nghiệp chính là tự hành pháp sư. Dùng tam nghiệp [làm gương] để răn dạy chính là hóa tha pháp sư. V́ thế nói là phẩm Pháp Sư. Lại là ba môn:

          - Hành năm pháp ấy để huân tu chính ḿnh, tức là phước đức môn.

          - Hoằng truyền, tuyên dương năm pháp ḥng lợi ích người khác rộng lớn, tức là hóa tha môn.

          - Tự tu hay lợi ích người khác đều tùy thuận giáo pháp của đức Phật, chính là báo ân môn.

          Luận định riêng th́ tự tu báo ân gọi là tự hành. Tạo ích lợi người khác chính là hóa tha. Luận định chung th́ tự uốn nắn và uốn nắn người khác, đều gọi là pháp sư. V́ thế nói là phẩm Pháp Sư. Lại c̣n là Tam Quỹ (三軌, ba thứ khuôn phép):

          - Đọc tụng và biên chép là ngoại hạnh, tức áo của Như Lai.

          - Thọ tŕ là nội hạnh, tức ṭa của Như Lai.

          - Giải nói ḥng lợi ích người khác, chính là nhà của Như Lai.

          Luận định riêng th́ “nhà” chính là đào tạo người khác, áo và ṭa là tự đào luyện chính ḿnh. Luận định chung, từ bi che chở chúng sanh, lợi ích rộng lớn quy về chính ḿnh, gọi là “như thất” (giống như nhà). Ngăn che điều ác của kẻ khác, chướng ngại điều xấu xa của chính ḿnh, được gọi là Y. An tâm nơi Không th́ mới có thể an người khác. An người khác và an chính ḿnh th́ gọi là Ṭa. Đấy chính là dùng ba pháp để tự uốn nắn ḿnh, cũng gọi là Pháp Sư. Lợi lạc chúng sanh ắt dùng “từ bi nhập thất” làm đầu, ắt kèm thêm dùng nhẫn nhục làm nền tảng. Giúp đỡ người khác, ắt lấy “quên chính ḿnh” làm gốc. Có thể hành ba pháp ấy, đại giáo sẽ được tuyên dương, thông truyền, kham làm bậc y chỉ cho thế gian. V́ thế, gọi là Pháp Sư Phẩm.

          Lại gom thành hai, tức là tự hành và hóa tha, điều này dễ biết. Lại rút gọn thành một, tức là Như Lai hạnh trọn đủ hết thảy các hạnh. Luận định chung th́ Bi dẹp trừ hết thảy các khổ, tức là các nỗi khổ trong bốn đường, tam giới, Nhị Thừa và Bồ Tát. Ḷng Từ ban vui cho hết thảy, tức là các niềm vui nhân, thiên, Niết Bàn thường trụ v.v… Áo “nhu ḥa” ngăn che hết thảy các điều xấu xa, tức là các điều xấu xa như tứ trụ, vô tri, vô minh v.v… “Không ṭa” quên hết thảy các tướng, tức là hữu tướng, vô tướng, phi hữu phi vô tướng. Luận định riêng th́ từ bi sanh ra hết thảy điều thiện, nhu ḥa ngăn che hết thảy điều ác, Không ṭa quét sạch hết thảy các tướng. Lại nữa, Từ và Nhẫn lập hết thảy phước đức, Không ṭa thành tựu hết thảy trí huệ. Trí huệ là mắt, phước đức là chân. Lại nữa, từ bi thắng hết thảy Thanh Văn và Duyên Giác, nhu ḥa thắng hết thảy phàm phu, ngoại đạo. Không ṭa thắng các hạng Bồ Tát Tích, Thể, Thiên v.v…

          Lại nữa, từ bi phá thiên ma, nhu ḥa phá Ấm ma, Không phá phiền năo ma và tử ma. Lại nữa, do Từ và Nhẫn nên có thể hỏi. Do Không ṭa nên có thể đáp, trọn đủ hai thứ trang nghiêm. Lại nữa, do quán Không nên có thể hỏi. Do Từ và Nhẫn nên có thể đáp. Lại nữa, do Từ và Nhẫn cho nên có thể gieo, có thể lập, có thể bồi đắp. Do Không Huệ cho nên có thể cày, có thể phá, có thể hướng dẫn. Lại nữa, do từ bi cho nên há có ǵ ngăn cách. Do nhu ḥa nên há có ǵ trở ngại? Do Không ṭa nên há có ǵ tranh giành? V́ thế, kinh dạy: “Nhất thiết thiện pháp, từ vi căn bản, nhẫn nhục đệ nhất đạo, vô tướng tối thượng” (Hết thảy các thiện pháp, lấy ḷng Từ làm căn bản. Nhẫn nhục đạo bậc nhất, vô tướng tối thượng). Vô tướng chính là các pháp Không. Nếu luận theo hạnh trong Viên Giáo, sẽ nói chẳng thể tận, [luận định] chi tiết th́ như Nhất Tâm Ngũ Hạnh trong phần Huyền Nghĩa đă thâu nhiếp hết thảy các hạnh.

          Hỏi: V́ sao dựa theo ba pháp để giải thích Pháp Sư?

          Đáp: Nếu một mực luận định theo mặt Sự, ắt cần phải đăng đường, y phục tề chỉnh, ngồi nơi ṭa ri mới có thể phô diễn, hoằng dương. V́ thế, dựa theo ba pháp. Nếu gộp chung Sự và Lư để luận định, mê hoặc chẳng ra ngoài ba loại:

          - Một là do khổ quả mà dấy Hoặc, ắt cần dùng từ bi để dẹp khổ, ban vui.

          - Hai là do kết nghiệp mà khởi Hoặc, cần phải dùng nhu ḥa và nhẫn nhục để xa ĺa.

          - Ba là dựa theo đế lư mà khởi Hoặc, cần phải dùng Pháp Không để liễu đạt (hai loại đầu thuộc về Sự, loại cuối thuộc về Lư. Lư và Sự đều là cảnh bị mê).

          Nếu chỉ xét theo Lư, do mê Chân nên đọa khổ, cần phải dùng Từ Bi môn. Do mê Tục nên ch́m đắm trong Không, hưởng lạc, cần phải dùng Ḥa Nhẫn môn (nhu ḥa và nhẫn nhục). Do mê Trung nên trở thành trí chướng, cần phải dùng Pháp Không môn. Bổn Tích và quán tâm có thể hiểu.

 

* Phần lưu thông của Tích Môn

         

          Năm phẩm kinh không chỉ tạo lợi ích phủ rợp thuở ấy, mà c̣n nhuần thấm tận đời vị lai:

          - Một là phẩm Pháp Sư.

- Hai là phẩm Bảo Tháp, đều nêu rơ: Hoằng truyền kinh công đức sâu thẳm, phước nặng, lợi ích rộng lớn.

          - Ba là phẩm Đề Bà Đạt Đa, dẫn chuyện hoằng kinh thuở xa xưa, khiến cho ḿnh lẫn người đều được lợi ích, ḥng chứng minh công đức sâu nặng.

          - Bốn là phẩm Tŕ, tám vạn Đại Sĩ nhẫn lực thành tựu, hoằng kinh trong cơi này. Những người mới được thọ kư, hoằng kinh trong cơi khác.

          - Năm là phẩm An Lạc Hạnh, ngoại phàm sơ tâm vui thích phước thù thắng ấy, thấy Thanh Văn sợ hăi, nghe Bồ Tát bị xua đuổi, làm nhục, nghĩ ḿnh sức kém, vô ích cho ḿnh lẫn người, liền sanh tâm thoái thất. V́ hạng người ấy, đức Phật nói An Lạc Hạnh để họ nương theo đó mà hoằng pháp, chẳng lo nguy khổ.

          Lại nữa, trong phẩm Pháp Sư, đức Thích Ca tự nói công đức và phước đức của việc hoằng kinh, truyền dạy t́m kiếm người [phát nguyện] lưu thông. Trong phẩm Bảo Tháp, Đa Bảo Phật và phân thân [của Phật Thích Ca] vừa chứng minh vừa tán trợ, khuyên nhủ, t́m kiếm người lưu thông (v́ chứng minh kinh Pháp Hoa mà tháp báu hiện tới. Phân thân [của Phật Thích Ca] do giúp mở tháp báu mà tụ tập).

 

10.1. Khen ngợi người có thể tŕ pháp

10.1.1. Nói rơ các đệ tử thọ lănh đạo pháp có công sâu, phước nặng

10.1.1.1. Đệ tử thời đức Phật tại thế

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn nhân Dược Vương Bồ Tát, cáo bát vạn Đại Sĩ: - Dược Vương! Nhữ kiến thị đại chúng trung, vô lượng chư thiên, long vương, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân dữ phi nhân, cập tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cầu Thanh Văn giả, cầu Bích Chi Phật giả, cầu Phật đạo giả, như thị đẳng loại, hàm ư Phật tiền, văn Diệu Pháp Hoa Kinh nhất kệ, nhất cú, năi chí nhất niệm tùy hỷ giả, ngă giai dữ thọ kư đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()爾時世尊。因藥王菩薩。告八萬大士。藥王。汝見是大眾中。無量諸天龍王夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽。人與非人。及比丘比丘尼優婆塞優婆夷。求聲聞者。求辟支佛者。求佛道者。如是等類。咸於佛前聞妙法華經一偈一句。乃至一念隨喜者。我皆與授記。當得阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn do nói với Dược Vương (Bhaiṣajyarāja) Bồ Tát mà bảo tám vạn Đại Sĩ: - Này Dược Vương! Ông thấy trong đại chúng đây, vô lượng chư thiên, long vương, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người và chẳng phải người, cùng với tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di là kẻ cầu Thanh Văn, kẻ cầu Bích Chi Phật, là kẻ cầu Phật đạo, các loại như thế đều ở trước Phật nghe một bài kệ, hoặc một câu kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cho đến một niệm tùy hỷ, ta đều thọ kư [người ấy] sẽ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          “Nhân” là nhờ vào. “Cáo”: Bảo trọn khắp. Dược Vương Bồ Tát[11] vị pháp thiêu thân. Tám vạn Đại Sĩ nhẫn lực sâu chắc, cho nên nay lưu truyền diệu pháp. Trước hết, do nói với Dược Vương mà bảo trọn khắp tám vạn [Bồ Tát], mong họ sẽ siêng ṛng hộ tŕ, giúp đỡ tuyên dương. Từ câu “nhữ kiến thị đại chúng đẳng” (ông thấy đại chúng này hay chăng) trở đi là thọ kư trọn khắp. Không chỉ riêng Thân Tử, mà c̣n có bốn vị, Măn Từ Tử, năm trăm Thanh Văn, và một ngàn, hai ngàn vị Thanh Văn được thọ kư đâu nhé, mà người cầu tam thừa trong tám bộ bốn chúng chỉ nghe một kệ hoặc một câu, nhất niệm tùy hỷ, đều được thành Phật, quyết định chẳng nghi ngờ! V́ thế, nay đều v́ họ mà thọ kư trọn khắp.

          “Nhất kệ, nhất cú” (một kệ, một câu): Nêu ra ít để sánh ví nhiều. “Nhất niệm tùy hỷ”: Nêu cạn để suy ra sâu. Được nghe bất luận bài kệ nào, câu kinh nào, chỉ cần sao cho ư nghĩa ứng hợp với Quyền, Thật, Bổn, Tích, Thập Diệu, Tứ Nhất v.v… th́ công và phước đều là như thế. [Ở đây, nói tới] tùy hỷ th́ chẳng bàn tới đọc tụng hay tu hành, chỉ cốt sao có thể trong một niệm tâm, hiểu sâu đậm “khai Quyền, hiển Thật”, tức là Lư vốn chẳng Quyền, chẳng Thật. Cho nên có thể Quyền, có thể Thật, Quyền và Thật chẳng hai, Sự và Lư viên dung, tánh có đủ phiền năo mà có thể biết tạng bí mật của Như Lai! Lại c̣n ngay trong một niệm tâm, rộng hiểu hết thảy tâm và hết thảy pháp đều là Phật pháp chẳng có chướng ngại. Nếu muốn phân biệt, sẽ biện thuyết vô cùng. Pháp đă là như thế, người cũng là như thế. Trong kinh văn thuộc phần sau, ngài Thường Bất Khinh thọ kư tứ chúng, chính v́ đă lănh hội ư này vậy. Do đó, Đại Kinh nói: “Ninh nguyện thiểu văn, đa giải nghĩa vị” (nguyện thà ít nghe để hiểu được nghĩa vị nhiều hơn). Nghĩa này đến phần sau, khi giải thích phẩm Tùy Hỷ Công Đức sẽ lại nói.

         

10.1.1.2. Đệ tử sau khi đức Phật nhập diệt

 

          (Kinh) Phật cáo Dược Vương: - Hựu Như Lai diệt độ chi hậu, nhược hữu nhân văn Diệu Pháp Hoa Kinh, năi chí nhất kệ, nhất cú, nhất niệm tùy hỷ giả, ngă diệc dữ thọ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề kư.

          ()佛告藥王。又如來滅度之後。若有人聞妙法華經。乃至一偈一句。一念隨喜者。我亦與授阿耨多羅三藐三菩提記。

          (Kinh: Đức Phật bảo ngài Dược Vương: - Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thậm chí một bài kệ, một câu, [mà sanh] một niệm tùy hỷ, ta cũng thọ kư Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho người ấy).

 

          Sau khi Phật diệt độ, nghe kinh tùy hỷ, công và phước ấy giống hệt như khi đức Phật tại thế. Cho nên cũng cùng được thọ kư. Phần thứ nhất, “nói rơ các đệ tử bẩm thọ đạo pháp có công sâu phước nặng” đă xong.

 

10.1.2. Nói rơ Pháp sư dạy đạo công sâu, phước nặng

10.1.2.1. Trường Hàng

         

          Phần này chia thành Biệt Minh và Tổng Minh. “Biệt” là [căn cơ của mỗi] người có thượng, hạ; thời có hiện tại và vị lai. “Tổng” là bất luận thượng hạ, hoặc hiện tại, vị lai, đều nêu rơ: “Trái nghịch sẽ mắc tội, tùy thuận bèn được phước”.

 

10.1.2.1.1. Biệt minh

10.1.2.1.1.1. Nói về đời hiện tại

 

          Đều là dựa theo địa vị của phàm phu để phán định.

 

10.1.2.1.1.1.1. Nói về pháp sư thuộc hạ phẩm

         

          (Kinh) Nhược phục hữu nhân thọ tŕ, độc tụng, giải thuyết, thư tả Diệu Pháp Hoa Kinh, năi chí nhất kệ, ư thử kinh quyển, kính thị như Phật, chủng chủng cúng dường, hoa, hương, anh lạc, mạt hương, đồ hương, thiêu hương, tăng cái, tràng phan, y phục, kỹ nhạc, năi chí hiệp chưởng cung kính.

          ()若復有人。受持讀誦解說書寫妙法華經。乃至一偈。於此經卷。敬視如佛。種種供養。華。香。瓔珞。末香。塗香。燒香。繒葢幢幡。衣服。技樂。乃至合掌恭敬。

            (Kinh: Nếu lại có người thọ tŕ, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thậm chí một bài kệ, đối với quyển kinh này, coi tôn kính như Phật, cúng dường bằng các thứ hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương bôi, hương đốt, lọng lụa, tràng phan, y phục, kỹ nhạc, cho đến chắp tay cung kính).

 

          Trước hết, nói về tướng trạng của pháp sư thuộc hạ phẩm: Một là thọ tŕ, hai là đọc, ba là tụng, bốn là giải nói, năm là biên chép, tức là năm loại pháp sư. Một là hoa, hai là hương, ba là chuỗi ngọc, bốn là hương bột, năm là hương bôi, sáu là hương đốt, bảy là lọng lụa, tràng phan, tám là y phục, chín là kỹ nhạc, mười là chắp tay, tức mười thứ cúng dường.

         

          (Kinh) Dược Vương đương tri: Thị chư nhân đẳng dĩ tằng cúng dường thập vạn ức Phật. Ư chư Phật sở, thành tựu đại nguyện, mẫn chúng sanh cố, sanh thử nhân gian. Dược Vương! Nhược hữu nhân vấn hà đẳng chúng sanh ư vị lai thế đương đắc tác Phật? Ưng thị thị chư nhân đẳng, ư vị lai thế, tất đắc tác Phật. Hà dĩ cố? Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân ư Pháp Hoa kinh, năi chí nhất cú, thọ tŕ, độc tụng, giải thuyết, thư tả, chủng chủng cúng dường kinh quyển, hoa, hương, anh lạc, mạt hương, đồ hương, thiêu hương, tăng cái, tràng phan, y phục, kỹ nhạc, hiệp chưởng cung kính, thị nhân nhất thiết thế gian sở ưng chiêm phụng, ưng dĩ Như Lai cúng dường nhi cúng dường chi. Đương tri thử nhân thị đại Bồ Tát, thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, ai mẫn chúng sanh, nguyện sanh thử gian, quảng diễn, phân biệt Diệu Pháp Hoa Kinh.

          ()藥王當知。是諸人等。已曾供養十萬億佛。於諸佛所成就大願。愍眾生故。生此人間。藥王。若有人問。何等眾生。於未來世當得作佛。應示是諸人等。於未來世必得作佛。何以故。若善男子善女人。於法華經。乃至一句。受持讀誦解說書寫。種種供養經卷。華香瓔珞末香塗香燒香繒葢幢幡衣服技樂合掌恭敬。是人一切世間所應瞻奉。應以如來供養而供養之。當知此人是大菩薩。成就阿耨多羅三藐三菩提。哀愍眾生。願生此間。廣演分別妙法華經。

          (Kinh: Dược Vương hăy nên biết: Những người ấy đă từng cúng dường mười vạn ức Phật. Ở nơi chư Phật, đă thành tựu đại nguyện, v́ thương xót chúng sanh, mà sanh trong nhân gian này. Này Dược Vương! Nếu có kẻ hỏi hạng chúng sanh như thế nào trong đời vị lai sẽ được thành Phật? Hăy nên chỉ hạng người ấy trong đời vị lai, ắt được làm Phật. V́ lẽ nào? Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân đối với kinh Pháp Hoa, thậm chí đối với một câu mà thọ tŕ, đọc tụng, giải nói, biên chép, cúng dường quyển kinh bằng các thứ hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương bôi, hương đốt, lọng lụa, tràng phan, y phục, kỹ nhạc, chắp tay cung kính, người ấy đáng nên được hết thảy thế gian chiêm ngưỡng, phụng sự, đáng nên dùng sự cúng dường Như Lai để cúng dường người ấy. Hăy nên biết người ấy là bậc đại Bồ Tát thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thương xót chúng sanh, nguyện sanh vào cơi này để rộng diễn, phân biệt kinh Diệu Pháp Liên Hoa).

 

          Đoạn này nói cặn kẽ công đức và phước báo của pháp sư thuộc hạ phẩm. Từ câu “dĩ tằng cúng dường” (đă từng cúng dường) trở đi, nói về cái nhân sâu xa trước đó. Từ “mẫn chúng sanh cố” (v́ thương xót chúng sanh) trở đi, nói tới công đức to lớn trong hiện thời. Từ “nhược hữu nhân vấn” (nếu có kẻ hỏi) trở đi, nói tới quả báo sâu dày trong vị lai.

         

10.1.2.1.1.1.2. Nói về pháp sư thuộc thượng phẩm

 

          (Kinh) Hà huống tận năng thọ tŕ chủng chủng cúng dường giả. Dược Vương đương tri, thị nhân tự xả thanh tịnh nghiệp báo, ư ngă diệt độ hậu, mẫn chúng sanh cố, sanh ư ác thế, quảng diễn thử kinh.

          ()何況盡能受持。種種供養者。藥王當知。是人自捨清淨業報。於我滅度後。愍眾生故。生於惡世。廣演此經。

          (Kinh: Huống hồ có thể tận sức thọ tŕ, cúng dường các thứ. Dược Vương hăy nên biết: Người ấy tự xả nghiệp báo thanh tịnh, sau khi ta diệt độ, v́ thương xót chúng sanh, mà sanh trong đời ác để rộng diễn kinh này).

 

          Trước hết, nêu ra tướng trạng của vị pháp sư thượng phẩm. Từ “Dược Vương đương tri” (Dược Vương hăy nên biết) trở đi, nói đại lược công đức và phước báo của vị pháp sư thượng phẩm. Do bi nguyện dẫn dắt, vẫn là quyến thuộc sanh bởi nghiệp, chưa phải là do thần thông ứng hiện thác sanh. Nguyện kèm theo nghiệp, nói cặn kẽ th́ như trong phần Quyến Thuộc Diệu thuộc Huyền Nghĩa. Phần thứ nhất, “nói về đời hiện tại” đă xong.

 

10.1.2.1.1. 2. Nói về đời tương lai

10.1.2.1.1. 2.1. Pháp sư thuộc hạ phẩm

 

          (Kinh) Nhược thị thiện nam tử, thiện nữ nhân, ngă diệt độ hậu, năng thiết vị nhất nhân thuyết Pháp Hoa kinh, năi chí nhất cú, đương tri thị nhân tắc Như Lai sứ, Như Lai sở khiển hành Như Lai sự.

          ()若是善男子善女人。我滅度後。能竊為一人說法華經乃至一句。當知是人。則如來使。如來所遣。行如來事。

          (Kinh: Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân, sau khi ta diệt độ, có thể riêng v́ một người nói kinh Pháp Hoa, thậm chí chỉ một câu, hăy nên biết người ấy là sứ giả của Như Lai, được Như Lai sai khiến làm chuyện của Như Lai).

 

          “Thiết vị nhất nhân” (riêng v́ một người): Nói đến mức cùng cực nhằm mô tả sự giáo hóa rất ít! “Năi chí nhất cú” (thậm chí một câu): Nói tới mức cùng cực nhằm mô tả sự cải biến rất ít. Ấy là v́ có trí huệ nhưng chưa đa văn, chưa kham diễn giảng rộng răi trước đại chúng. Đó là nói tới tướng trạng của pháp sư hạ phẩm. Nhưng kinh này đúng như trí mà nói, nói đúng như lư. Nay hành nhân nương vào giáo pháp như thế để tuyên nói đúng như lư. V́ thế, [người ấy] chính là sứ giả của Như Lai, được Như Lai sai khiến. Lại nữa, như trí chiếu như lư chính là Sự; nay hành nhân nương vào như giáo để hành như lư. V́ thế, đó là “hành Như Lai sự”. Lại nữa, dùng như trí để giáo hóa chúng sanh là Sự”; nay hành nhân có tâm đại bi, có thể đem lư Chân Như trong kinh này nói với người khác, khiến cho họ được lợi ích. V́ thế, gọi là “hành Như Lai sự”. Đấy là nói về công đức và phước báo của vị pháp sư thuộc hạ phẩm.

          Giải thích theo quán tâm, trí tâm quán cảnh, cảnh tức là Chân Như. Cảnh đưa đến bèn phát sanh trí. Trí là do Như sai khiến. “Như Lai sở khiển” (Như Lai sai khiến): Quán trí do Như mà có. “Hành Như Lai sự” (làm chuyện của Như Lai): Trải qua hết thảy các pháp, không ǵ chẳng phải là Chân Như, Chân Như chính là Phật sự.

 

10.1.2.1.1. 2.2. Pháp sư thuộc thượng phẩm

 

          (Kinh) Hà huống ư đại chúng trung, quảng vị nhân thuyết.

          ()何況於大眾中廣為人說。

          (Kinh: Huống hồ ở trong đại chúng, rộng v́ người khác nói).

 

          Do riêng v́ một người [mà công đức c̣n to lớn như thế], huống hồ khắp v́ đại chúng. Thậm chí [chỉ diễn nói] một câu [mà công đức c̣n to tát như thế], huống hồ nói rộng! Đấy là tướng trạng của pháp sư thượng phẩm, công đức và phước báo to lớn, chẳng thể diễn tả để biết được. Phần thứ nhất, tức “phần Biệt Minh” đă xong.

 

10.1.2.1.2. Nói chung về các pháp sư thuộc thượng phẩm và hạ phẩm trong hiện tại hay vị lai

 

          Trái nghịch sẽ mắc tội, thuận tùng sẽ được phước.

 

          (Kinh) Dược Vương! Nhược hữu ác nhân, dĩ bất thiện tâm, ư nhất kiếp trung, hiện ư Phật tiền, thường hủy mạ Phật. Kỳ tội thượng khinh, nhược nhân dĩ nhất ác ngôn, hủy tư tại gia, xuất gia độc tụng Pháp Hoa kinh giả, kỳ tội thậm trọng.

          ()藥王。若有惡人。以不善心。於一劫中。現於佛前常毀罵佛。其罪尚輕。若人以一惡言。毀訾在家出家讀誦法華經者。其罪甚重。

          (Kinh: Này Dược Vương! Nếu có kẻ ác dùng tâm bất thiện, trong một kiếp, đối trước đức Phật thường hủy báng, chửi rủa Phật, tội ấy c̣n nhẹ. Nếu có người dùng một lời ác hủy báng, chê bai người tại gia hay xuất gia đọc tụng kinh Pháp Hoa, tội ấy rất nặng).

 

          Đoạn này trước hết nói rơ “trái nghịch sẽ mắc tội”. Phàm tội phước nặng hay nhẹ, có lúc thuận theo điền[12], có lúc luận theo tâm, hoặc luận theo tổn hại hay lợi ích có nặng hay nhẹ. Ở đây, kinh xét theo tổn hại và lợi ích nặng hay nhẹ. Ví như kẻ ác do cái tâm bất thiện, tức là cái tâm đă nặng nề, hiện tiền chửi Phật, “điền” lại tôn quư. Suốt một kiếp thường chửi, tức là nghiệp lại lâu dài, thế mà nói [tội nghiệp ấy] vẫn c̣n nhẹ, chẳng phải có nghĩa là quả báo của cái tội ấy nhẹ nhàng, chỉ là tội ấy chẳng nặng nề bằng tội hủy báng, chê bai người đọc tụng kinh Pháp Hoa! V́ sao vậy? Đức Phật đă chứng b́nh đẳng đại từ, luôn sanh tâm bi mẫn đối với kẻ ác. Kẻ ác lại chẳng thể bức bách, năo hại Ngài. V́ thế, kẻ đó chửi rủa th́ thoạt đầu ví như đem lễ vật tặng cho người khác, người ta chẳng nhận, đành tự ôm họa trở về, đọa lạc trong tam đồ trăm ngàn ức kiếp. Rốt cuộc ví như đánh chửi Chiên Đàn, vẫn nhuốm mùi thơm, đâm ra được Phật giáo hóa, rốt cuộc được thành tựu nhân duyên xuất thế. Nay sơ tâm hành nhân đọc tụng Pháp Hoa, nhẫn lực chưa thành tựu, dễ bị thoái thất. Nếu thốt lời hủy báng, chê gièm, trở ngại chuyện thù thắng, sẽ là đoạn Phật chủng, tổn hại rất sâu! V́ thế, tội ấy rất nặng.

 

          (Kinh) Dược Vương! Kỳ hữu độc tụng Pháp Hoa kinh giả, đương tri thị nhân, dĩ Phật trang nghiêm nhi tự trang nghiêm, tắc vi Như Lai kiên sở hà đảm. Kỳ sở chí phương, ưng tùy hướng lễ. Nhất tâm hiệp chưởng, cung kính cúng dường, tôn trọng, tán thán. Hoa, hương, anh lạc, mạt hương, đồ hương, thiêu hương, tăng cái, tràng phan, y phục, hào soạn, tác chư kỹ nhạc, nhân trung thượng cúng nhi cúng dường chi. Ưng tŕ thiên bảo nhi dĩ tán chi. Thiên thượng bảo tụ, ưng dĩ phụng hiến. Sở dĩ giả hà? Thị nhân hoan hỷ thuyết pháp, tu du văn chi, tức đắc cứu cánh A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cố.

          ()藥王。其有讀誦法華經者。當知是人。以佛莊嚴而自莊嚴。則為如來肩所荷擔。其所至方。應隨向禮。一心合掌。恭敬供養尊重讚歎。華香瓔珞末香塗香燒香繒葢幢幡衣服肴饌。作諸技樂。人中上供而供養之。應持天寶而以散之。天上寶聚。應以奉獻。所以者何。是人歡喜說法。須臾聞之。即得究竟阿耨多羅三藐三菩提故。

          (Kinh: Này Dược Vương! Nếu có người đọc tụng kinh Pháp Hoa, hăy nên biết người ấy dùng sự trang nghiêm của Phật để tự trang nghiêm, được Như Lai cơng vác trên vai. Người đó đến đâu, hăy nên hướng về đó làm lễ, nhất tâm chắp tay, cung kính cúng dường, tôn trọng, tán thán, hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương bôi, hương đốt, lọng lụa, tràng phan, y phục, thức ăn ngon quư, tấu các kỹ nhạc, dùng vật cúng bậc thượng trong loài người để cúng dường. Hăy nên cầm báu cơi trời để rải lên. Hăy nên dùng khối báu trên trời dâng lên. V́ cớ sao vậy? Người ấy hoan hỷ thuyết pháp, nghe trong khoảnh khắc, liền đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rốt ráo).

 

          Kế đó, nói rơ “tùy thuận sẽ được phước”. Phật dùng Định và Huệ để trang nghiêm. Người ấy có thể tu Định Huệ, v́ thế nói “dĩ Phật trang nghiêm nhi tự trang nghiêm” (dùng sự trang nghiêm của Phật để tự trang nghiêm). Đặt trên lưng là Hà (, cơng), đặt trên vai là Đảm (, gánh). Tu cái Thể của Pháp Thân “chẳng Quyền, chẳng Thật”, tức là “vi Như Lai hà” (được Như Lai cơng). Có đủ tác dụng của hai trí có thể Quyền, có thể Thật, tức là “Như Lai đảm”. “Kỳ sở chí phương, ưng tùy hướng lễ” (người ấy tới nơi đâu đều nên hướng về đó làm lễ): Người ấy hướng tới đâu đều tương ứng với Thật Tướng, đều có thể kính thuận. Thuận chính là Hướng. Kính tức là Lễ. Kính mà thuận theo, và dấy khởi cúng dường. “Ưng tŕ thiên bảo” (hăy nên cầm báu trời): Nêu lên những điều nặng nề để biết những điều nhẹ nhàng. Báu trên cơi trời c̣n phải nên dâng cúng, huống hồ chỉ là các vật cúng trong nhân gian ư? Từ “sở dĩ giả hà” (v́ cớ sao) trở đi, giải thích ư nghĩa [v́ sao] hăy nên lễ, hăy nên cúng. “Tu du đắc cứu cánh” (trong khoảnh khắc liền được rốt ráo): Do có thể hiển lộ trọn vẹn rốt ráo diệu lư. Vẫn cần phải phân biệt, thoạt đầu từ Danh Tự cho đến Cứu Cánh, cho đến rốt ráo Cứu Cánh. Trong phần nói về công sâu phước nặng của vị thầy dạy đạo, phần Trường Hàng đă xong.

 

10.1.2.2. Kệ tụng

10.1.2.2.1. Khuyên nhủ tự hành lợi tha

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Nhược dục trụ Phật đạo, thành tựu Tự Nhiên Trí, thường đương cần cúng dường, thọ tŕ Pháp Hoa giả. Kỳ hữu dục tật đắc, Nhất Thiết Chủng Trí huệ, đương thọ tŕ thị kinh, tịnh cúng dường tŕ giả.

          ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。若欲住佛道。成就自然智。常當勤供養。受持法華者。其有欲疾得。一切種智慧。當受持是經。幷供養持者。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Nếu muốn trụ Phật đạo, thành tựu Tự Nhiên Trí[13], thường nên siêng cúng dường, người thọ tŕ Pháp Hoa. Nếu mong mau đạt được, Nhất Thiết Chủng Trí huệ, nên thọ tŕ kinh này, và cúng dường người tŕ).

 

10.1.2.2.2. Trùng tụng hai nghĩa Biệt và Tổng

10.1.2.2.2.1. Trùng tụng Biệt Minh   

10.1.2.2.2.1.1. Trùng tụng đời này

         

          (Kinh) Nhược hữu năng thọ tŕ, Diệu Pháp Hoa kinh giả, đương tri Phật sở sứ, mẫn niệm chư chúng sanh. Chư hữu năng thọ tŕ, Diệu Pháp Hoa kinh giả, xả ư thanh tịnh độ, mẫn chúng cố sanh thử. Đương tri như thị nhân, tự tại sở dục sanh. Năng ư thử ác thế, quảng thuyết vô thượng pháp. Ưng dĩ thiên hoa hương, cập thiên bảo y phục, thiên thượng diệu bảo tụ, cúng dường thuyết pháp giả.

          ()若有能受持。妙法華經者。當知佛所使。愍念諸眾生。諸有能受持。妙法華經者。捨於清淨土。愍眾故生此。當知如是人。自在所欲生。能於此惡世。廣說無上法。應以天華香。及天寶衣服。天上妙寶聚。供養說法者。

          (Kinh: Nếu có người thọ tŕ, kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hăy biết là Phật sứ, nghĩ thương các chúng sanh. Những ai hay thọ tŕ, kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đă bỏ cơi thanh tịnh, thương chúng mà sanh đây. Nên biết người như vậy, chỗ sanh về tự tại, có thể trong đời ác, rộng nói pháp vô thượng. Hăy dùng hoa hương trời, y phục báu cơi trời, khối diệu bảo trên trời, cúng dường người thuyết pháp).

 

          Hai câu đầu trùng trụng pháp sư hạ phẩm. Hai câu kế đó, trùng tụng công đức và phước báo của pháp sư hạ phẩm. Hai câu kế đó trùng tụng pháp sư thượng phẩm. Mười câu sau đó, trùng tụng công đức và phước báo của pháp sư thượng phẩm.

         

10.1.2.2.2.1.2. Trùng tụng đời vị lai

 

          (Kinh) Ngô diệt hậu ác thế, năng tŕ thị kinh giả, đương hiệp chưởng lễ kính, như cúng dường Thế Tôn. Thượng soạn, chúng cam mỹ, cập chủng chủng y phục, cúng dường thị Phật tử. Kư đắc tu du văn, nhược năng ư hậu thế, thọ tŕ thị kinh giả, ngă khiển tại nhân trung, hành ư Như Lai sự.

          ()吾滅後惡世。能持是經者。當合掌禮敬。如供養世尊。上饌眾甘美。及種種衣服。供養是佛子。冀得須臾聞。若能於後世。受持是經者。我遣在人中。行於如來事。

            (Kinh: Đời ác, ta nhập diệt, với người tŕ kinh này, nên chắp tay lễ kính, như cúng dường Thế Tôn. Đồ ngon ngọt tuyệt diệu, và các thứ y phục, cúng dường Phật tử ấy, mong nghe trong khoảnh khắc! Nếu ai trong đời sau, thọ tŕ bản kinh này, ta sai trong nhân gian, thực hiện chuyện Như Lai).

 

          Hai câu đầu trùng tụng pháp sư thượng phẩm. Sáu câu kế tiếp, nói về công đức và phước báo thượng phẩm (Trường Hàng chẳng nói, nay trong kệ tụng bèn có). Hai câu kế tiếp, trùng tụng pháp sư hạ phẩm. Hai câu sau cùng, trùng tụng công đức và phước báo của pháp sư hạ phẩm. Phần thứ nhất, “trùng tụng Biệt Minh” đă xong.

 

10.1.2.2.2.2. Trùng tụng Tổng Minh

 

          (Kinh) Nhược ư nhất kiếp trung, thường hoài bất thiện tâm, tác sắc nhi mạ Phật, hoạch vô lượng trọng tội. Kỳ hữu độc tụng tŕ, thị Pháp Hoa kinh giả, tu du gia ác ngôn, kỳ tội phục quá bỉ. Hữu nhân cầu Phật đạo, nhi ư nhất kiếp trung, hiệp chưởng tại ngă tiền, dĩ vô số kệ tán. Do thị tán Phật cố, đắc vô lượng công đức. Thán mỹ tŕ kinh giả, kỳ phước phục quá bỉ! Ư bát thập ức kiếp, dĩ tối diệu sắc thanh, cập dữ hương, vị, xúc, cúng dường tŕ kinh giả. Như thị cúng dường dĩ, nhược đắc tu du văn, tắc ưng tự hân khánh, ngă kim hoạch đại lợi.

          ()若於一劫中。常懷不善心。作色而罵佛。獲無量重罪。其有讀誦持。是法華經者。須臾加惡言。其罪復過彼。有人求佛道。而於一劫中。合掌在我前。以無數偈讚。由是讚佛故。得無量功德。歎美持經者。其福復過彼。於八十億劫。以最妙色聲。及與香味觸。供養持經者。如是供養已。若得須臾聞。則應自欣慶。我今獲大利。

          (Kinh: Nếu ở trong một kiếp, thường ôm ḷng chẳng lành, đỏ mặt chửi mắng Phật, mắc vô lượng tội nặng. Đối người đọc, tụng, tŕ, bộ kinh Pháp Hoa này, khoảnh khắc buông lời ác, tội ấy c̣n hơn thế! Có người cầu Phật đạo, bèn ở trong một kiếp, chắp tay đối trước ta, dùng vô số kệ tán. Do v́ tán thán Phật, được vô lượng công đức. Ca ngợi người tŕ kinh, phước ấy lại hơn đó! Trong tám mươi ức kiếp, dùng âm thanh đẹp nhất, cùng với hương, vị, xúc, cúng dường người tŕ kinh. Cúng dường như thế xong, nếu được nghe giây lát, hăy nên tự vui mừng, ta nay được lợi lớn).

 

          Hai bài kệ đầu tiên, trùng trụng ư “kẻ trái nghịch mắc tội”. Bốn bài kệ sau đó trùng tụng ư “thuận theo th́ được phước”. Công đức tán Phật cố nhiên là vô lượng. Phật chẳng do được tán thán mà tăng tấn. Nếu tán thán người tŕ kinh Pháp Hoa, kinh điển ở nơi đâu, nơi đó có Phật, công đức giống hệt như nhau. Lại c̣n khiến cho người tŕ kinh ấy sẽ từ đó mà tăng tấn, cho nên phước thù thắng gấp bội. Phần thứ hai, “trùng tụng hai ư nghĩa Biệt và Tổng” đă xong.

 

10.1.2.2.3. Kết lại, tán thán kinh là bậc nhất

         

          (Kinh) Dược Vương kim cáo nhữ, ngă sở thuyết chư kinh, nhi ư thử kinh trung, Pháp Hoa tối đệ nhất.

          ()藥王今告汝。我所說諸經。而於此經中。法華最第一。

          (Kinh: Dược Vương nay bảo ông, các kinh do ta nói, nhưng trong các kinh ấy, Pháp Hoa tột bậc nhất).

 

          “Thử kinh trung” (trong các kinh ấy), tức là giống như “thử chư kinh trung”, tức là nêu chung các kinh được nói trong suốt một đời giáo hóa [của đức Phật], bắt đầu từ Hoa Nghiêm cho tới kết cục là kinh Niết Bàn. Các kinh Đại Thừa, kinh nào cũng đều được xưng tụng là “lời dạy bậc nhất”. Nhưng đó là bậc nhất tương đối, chẳng bằng kinh này là bậc nhất dứt tuyệt đối đăi. Do vậy gọi là “tối đệ nhất” (đệ nhất tuyệt đối). Phần thứ nhất, “khen ngợi người có thể tŕ pháp” đă xong.

 

10.2. Khen ngợi pháp được tŕ và dạy phương cách lưu thông

10.2.1. Trường Hàng

10.2.1.1. Tán thán kinh pháp

10.2.1.1.1. Xét theo pháp mà tán thán

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật phục cáo Dược Vương Bồ Tát Ma Ha Tát: - Ngă sở thuyết kinh điển, vô lượng thiên vạn ức, dĩ thuyết, kim thuyết, đương thuyết, nhi ư kỳ trung, thử Pháp Hoa kinh, tối vi nan tín, nan giải. Dược Vương! Thử kinh thị chư Phật bí yếu chi tạng, bất khả phân bố, vọng thọ dữ nhân, chư Phật Thế Tôn chi sở thủ hộ. Tùng tích dĩ lai, vị tằng hiển thuyết. Nhi thử kinh giả, Như Lai hiện tại, do đa oán tật, huống diệt độ hậu.

          ()爾時佛復告藥王菩薩摩訶薩。我所說經典。無量千萬億。已說。今說。當說。而於其中。此法華經。最為難信難解。藥王。此經是諸佛秘要之藏。不可分布。妄授與人。諸佛世尊之所守護。從昔已來。未曾顯說。而此經者。如來現在。猶多怨嫉。況滅度後。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật lại bảo Dược Vương Bồ Tát Ma Ha Tát: - Kinh điển do ta đă nói vô lượng ngàn vạn ức, đă nói, đang nói, sẽ nói, nhưng trong số đó, kinh Pháp Hoa này khó tin, khó hiểu nhất. Này Dược Vương! Kinh này là tạng bí yếu của chư Phật, chẳng thể lưu truyền, tùy tiện trao cho người khác, [kinh này] được chư Phật Thế Tôn thủ hộ. Từ xưa đến nay, chưa từng nói rơ. Nhưng kinh này khi Như Lai tại thế mà c̣n có nhiều kẻ oán ghét, huống hồ sau khi Phật diệt độ).

 

          “Dĩ thuyết” (đă nói): Chỉ các giáo pháp Tiệm Đốn từ thời Bát Nhă trở về trước. “Kim thuyết” (nay nói): Chỉ kinh Vô Lượng Nghĩa trong cùng một pháp hội này. “Đương thuyết” (sẽ nói): Chỉ kinh Đại Niết Bàn. Các kinh Đốn Tiệm như Bát Nhă v.v… đều kèm theo phương tiện, dễ tin tưởng. Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “một sanh ra vô lượng”, chưa nói “vô lượng quy hoàn một”, cũng dễ tin tưởng. Nay kinh Pháp Hoa, luận về pháp, th́ hết thảy sai biệt, dung thông quy nhất. Luận về người, th́ Bổn và Tích của thầy và tṛ đều rất lâu xa. Hai môn ấy (pháp và nhân) đều trái ngược với trước kia, [cho nên] khó tin, khó hiểu, là chuyện khó khăn bậc nhất. Hễ đă nói Pháp Hoa th́ kinh Niết Bàn là chuyện về sau, sẽ dễ tin tưởng được.

          “Bí yếu chi tạng” (tạng bí mật, trọng yếu): Ẩn đi chẳng nói, th́ gọi là Bí. Tóm giữ hết thảy các pháp, th́ gọi là Yếu. Chân Như Thật Tướng bao trùm không ǵ ra ngoài được, th́ gọi là Tạng. “Bất khả phân bố” (chẳng thể lưu truyền), tức là do diệu pháp khó tin, chỉ có người trí sâu th́ mới có thể trao truyền; [lầm lạc truyền trao cho] kẻ vô trí, sẽ càng thêm tội. V́ thế “bất khả vọng thọ” (chẳng thể tùy tiện truyền dạy). “Tùng tích dĩ lai, vị tằng hiển thuyết” (từ trước tới nay, chưa từng nói rơ): Trong Tam Tạng, chẳng nói “Nhị Thừa thành Phật”, cũng chẳng nói rơ Bổn Tích của thầy và tṛ. Phương Đẳng, Bát Nhă tuy nói lư Thật Tướng Như Lai Tạng, vẫn chẳng nói “ngũ thừa thành Phật”, mà cũng chẳng chỉ ra Tích, hiển lộ Bổn, các kinh Đốn và Tiệm đều chẳng dung hội. V́ thế, gọi là Bí. Kinh này nói trọn vẹn các bí pháp trước kia, tức là “khai bí mật tạng”, mà cũng chính là bí mật tạng. Tạng bí mật ấy, xưa kia là v́ một loại chúng sanh căn cơ đă chín muồi, tuy có mật thuyết, nhưng hơn bốn mươi năm, chưa từng nói rơ ràng, rành rẽ! “Do đa oán tật” (c̣n có nhiều kẻ oán ghét): Như năm ngàn người lui về! Thuở đức Phật tại thế mà c̣n như thế, huống hồ đời vị lai, đương nhiên là càng khó giáo hóa!

 

10.2.1.1.2. Xét theo người mà tán thán

         

          (Kinh) Dược Vương đương tri: Như Lai diệt hậu, kỳ năng thư tŕ, độc tụng, cúng dường, vị tha nhân thuyết giả, Như Lai tắc vị dĩ y phú chi, hựu vị tha phương hiện tại chư Phật chi sở hộ niệm. Thị nhân hữu đại tín lực, cập chí nguyện lực, chư thiện căn lực. Đương tri thị nhân dữ Như Lai cộng túc, tắc vi Như Lai thủ ma kỳ đầu.

          ()藥王當知。如來滅後。其能書持讀誦供養為他人說者。如來則為以衣覆之。又為他方現在諸佛之所護念。是人有大信力。及志願力。諸善根力。當知是人與如來共宿。則為如來手摩其頭。

          (Kinh: Dược Vương nên biết: Sau khi Như Lai diệt độ, ai có thể biên chép, thọ tŕ, đọc tụng, cúng dường, v́ người khác nói, Như Lai sẽ dùng y phủ lên người ấy. [Người ấy] lại được chư Phật hiện tại trong các phương khác hộ niệm. Người ấy có đại tín lực và chí nguyện lực, các sức thiện căn. Hăy nên biết người ấy ở cùng chỗ với Như Lai, được Như Lai xoa đầu).


         
Pháp này ở nơi người, người bèn tôn quư. “Như Lai y phú” (y của Như Lai che trùm) tức là coi tu học đại nhẫn là Y. “Chư Phật hộ niệm”: Thật Tướng là Phật, Thật Trí là con. Tôn sùng Thật Tướng, sẽ phát sanh Thật Trí; đó chính là “chư Phật sở hộ niệm” (được chư Phật hộ niệm). Tứ bất hoại tín trong Viên Giáo là đại tín lực. Tứ Hoằng Thệ trong Viên Giáo là chí nguyện lực. Đại trí viên diệu là thiện căn lực. Tín chính là tin vào Lư, Lư chính là Pháp Thân. “Chí nguyện” là lập hạnh, hạnh tức là giải thoát. Thiện căn rễ vững, khó động, tức là Bát Nhă. Hăy nên biết ba lực (đại tín lực, chí nguyện lực và thiện căn lực) tức là tam đức bí tạng. Sơ tâm nương vào đấy, chẳng khác ǵ Phật. V́ thế, “dữ Như Lai cộng túc” (cùng ở một chỗ với Phật).

          Lại nữa, tín lực tu Tất Cánh Không Như Lai Trí, Như Lai ngụ nơi nhà Tất Cánh Không, người ấy cũng học Tất Cánh Không. V́ thế, cùng ở chung với Như Lai. Dùng chí nguyện lực và thiện căn lực để tự hành Quyền Thật ḥng cơ cảm. Cơ cảm gọi là Đầu. Như Lai dùng hai trí Hóa Tha Quyền Thật làm tay, để khai phát cái “đầu” Tự Hành Quyền Thật của người ấy, cảm ứng đạo giao; v́ thế nói là “ma đầu” (xoa đầu). “Xoa đầu” tức là thọ kư.

 

10.2.1.1.3. Xét theo xứ mà tán thán

         

          (Kinh) Dược Vương! Tại tại xứ xứ, nhược thuyết, nhược độc, nhược tụng, nhược thư, nhược kinh quyển sở trụ xứ, giai ưng khởi thất bảo tháp, cực linh cao quảng, nghiêm sức, bất tu phục an xá-lợi. Sở dĩ giả hà? Thử trung dĩ hữu Như Lai toàn thân. Thử tháp ưng dĩ nhất thiết hoa, hương, anh lạc, tăng cái, tràng phan, kỹ nhạc, ca tụng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán. Nhược hữu nhân đắc kiến thử tháp lễ bái, cúng dường, đương tri thị đẳng giai cận A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()藥王。在在處處。若說若讀若誦若書。若經卷所住處。皆應起七寶塔。極令高廣嚴飾。不須復安舍利。所以者何。此中已有如來全身。此塔應以一切華香瓔珞繒葢幢幡技樂歌頌供養恭敬尊重讚歎。若有人得見此塔禮拜供養。當知是等皆近阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Này Dược Vương! Nơi nơi chốn chốn, dù nói, dù đọc, dù tụng, dù viết, hễ chỗ nào có kinh quyển, đều nên dựng tháp bảy báu, sao cho tột bậc cao rộng, trang hoàng lộng lẫy, chẳng cần đặt xá-lợi. V́ lẽ nào vậy? Trong ấy đă có toàn thân của Như Lai. Đối với tháp ấy, hăy nên dùng hết thảy hoa, hương, chuỗi ngọc, lọng lụa, tràng phan, kỹ nhạc để ca tụng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán. Nếu có ai được thấy tháp ấy mà lễ bái, cúng dường, hăy nên biết những người như thế đều đă gần với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          Pháp này ở chỗ nào, chỗ đó bèn tôn quư. Phàm chỗ Phật giáng sanh, chỗ đắc đạo, chỗ chuyển pháp luân, chỗ nhập Niết Bàn, đều nên dựng tháp. Kinh này là chỗ sanh của Pháp Thân, là nơi chốn để đắc đạo, là chánh thể của pháp luân, là hang Đại Niết Bàn. V́ thế, phải nên dựng tháp cúng dường. “Bất tu phục an xá-lợi” (chẳng cần đặt xá-lợi): Thích Luận viết: “Xương nát là sanh thân xá-lợi. Kinh quyển là Pháp Thân xá-lợi”. “Dĩ hữu Như Lai toàn thân” (Đă có toàn thân của Như Lai): Sanh thân xá-lợi có nát vụn và có toàn thân. Nát vụn như [xá-lợi của] Phật Thích Ca. Toàn thân như Phật Đa Bảo. Pháp Thân xá lợi cũng có nát vụn và toàn thể. Các giáo pháp phương tiện là nát vụn. Pháp Hoa Nhất Thật là toàn thể (xét theo tứ giáo ngũ thời, hoặc thuần là nát vụn, chẳng có toàn thể, hoặc nát vụn một nửa, chỉ có Pháp Hoa là thuần toàn thể).

 

10.2.1.1.4. Xét theo cái nhân mà tán thán

         

          (Kinh) Dược Vương! Đa hữu nhân tại gia, xuất gia hành Bồ Tát đạo, nhược bất năng đắc kiến, văn, độc, tụng, thư, tŕ, cúng dường thị Pháp Hoa kinh giả, đương tri thị nhân vị thiện hành Bồ Tát đạo. Nhược hữu đắc văn thị kinh điển giả, năi năng thiện hành Bồ Tát chi đạo.

          ()藥王。多有人在家出家行菩薩道。若不能得見聞讀誦書持供養是法華經者。當知是人未善行菩薩道。若有得聞是經典者。乃能善行菩薩之道。

          (Kinh: Này Dược Vương! Có nhiều người tại gia hay xuất gia hành Bồ Tát đạo, nếu chẳng thể thấy, nghe, đọc, tụng, viết, tŕ kinh Pháp Hoa này, hăy nên biết người đó chưa khéo hành Bồ Tát đạo. Nếu có ai được nghe kinh điển này, có thể biết người đó khéo hành đạo Bồ Tát).

 

          Các kinh khác kèm thêm cái nhân phương tiện, nên gọi là Chuyết Độ (độ bằng cách vụng về). Kinh này hiển lộ viên nhân (cái nhân viên măn), nghe hiểu viên nhân th́ mới gọi là Xảo Độ. Xảo Độ là “khéo hành” (Đại Luận coi tất cả các môn thuộc Đại Thừa đều là xảo, kinh này riêng coi Nhất Thật là xảo).

 

10.2.1.1.5. Xét theo quả mà tán thán

10.2.1.1.5.1. Cận quả

         

          (Kinh) Kỳ hữu chúng sanh cầu Phật đạo giả, nhược kiến, nhược văn thị Pháp Hoa kinh, văn dĩ tín giải, thọ tŕ giả, đương tri thị nhân đắc cận A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()其有眾生求佛道者。若見若聞是法華經。聞已信解受持者。當知是人得近阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Nếu có chúng sanh cầu Phật đạo, mà được thấy hay nghe kinh Pháp Hoa này, nghe rồi tin hiểu, thọ tŕ, hăy nên biết người ấy được gần với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          A Nậu Bồ Đề (Anuttara-samyak-saṃbodhi) có hai nghĩa:

          - Một là sơ tâm Bồ Đề, tức Sơ Trụ trong Viên Giáo.

          - Hai là hậu tâm Bồ Đề, tức Diệu Giác cực quả (Phật quả).

          Nay nói “gần” th́ tức là gần với Sơ Trụ Bồ Đề. Trong phần trước tán thán dựa theo cái nhân, tu cái nhân Thông hay Biệt, tức là “chưa khéo”, c̣n cách xa Viên quả. Nếu tu viên nhân, tức là “khéo hành”, gần với Viên quả. Nay dùng Như Thật Trí của Viên Giáo làm nhân, lại c̣n dùng đó làm quả. Đạo tiền Chân Như tuy có ba cái nhân, cùng gọi là Chánh Nhân. (Lư Tức) Trung Đạo Chân Như cũng có ba cái nhân, cùng gọi là Duyên Nhân. (Danh Tự Tức, Quán Hạnh Tức, Tương Tự Tức) cũng gọi là Liễu Nhân. (Phần Chứng Tức) đạo hậu Chân Như, cũng chỉ là ba pháp, đổi tên thành Viên quả (Cứu Cánh Tức). V́ thế, kinh Phổ Hiền Quán nói: “Đại Thừa nhân giả, chư pháp Thật Tướng thị. Đại Thừa quả giả, diệc chư pháp Thật Tướng thị (Cái nhân của Đại Thừa là Thật Tướng của các pháp. Cái quả của Đại Thừa cũng là Thật Tướng của các pháp). Thích Luận nói: “Sơ quán Thật Tướng gọi là Nhân. Quán xong gọi là Quả”. Luận theo Lư, Chân Như Thật Tướng chẳng được coi là nhân quả, cũng chẳng phải là trước sau. Nay xét theo sự tu hành, bèn có trước sau và nhân quả!

 

10.2.1.1.5.2. Lập thí dụ

 

          (Kinh) Dược Vương! Thí như hữu nhân khát phạp tu thủy, ư bỉ cao nguyên, xuyên tạc cầu chi, do kiến càn thổ, tri thủy thượng viễn. Thi công bất dĩ, chuyển kiến thấp thổ, toại tiệm chí nê, kỳ tâm quyết định tri thủy tất cận.

          ()藥王。譬如有人。渴乏須水。於彼高原穿鑿求之。猶見乾土。知水尚遠。施功不已。轉見濕土。遂漸至泥。其心決定知水必近。

          (Kinh: Này Dược Vương! Ví như có người do khát mà t́m nước. Ở chốn cao nguyên đào bới để t́m, vẫn thấy đất khô, biết nước c̣n xa. Ra sức chẳng ngừng, dần dần thấy đất ướt, rồi dần dần đến bùn, tâm biết quyết định ắt đă gần đến nước).

 

          Giải thích đoạn này chia làm hai: Một là xét theo quán môn, hai là xét theo giáo môn.

          1) Quán môn: Tâm chúng sanh có đủ các phiền năo th́ gọi là “cao nguyên”. Tu tập quán trí là “xuyên quật” (穿掘, đào bới; chánh kinh ghi là “xuyên tạc”, 穿鑿), mới chứng Lư vị như đạt được nước trong. Xét theo Thông Quán, Càn Huệ Địa[14] như “càn thổ” (đất khô), Tánh địa như “thấp thổ nê” (đất bùn ướt). Kiến Đế là đạt được nước trong. Xét theo Biệt Quán, từ Giả nhập Không, chỉ thấy Không, chẳng thấy Bất Không. Đoạn Tứ Trụ Hoặc như đào bới đất khô. “Khứ thủy thượng viễn” (cách nước c̣n xa): Từ Không nhập Giả, trước hết biết chẳng phải Giả, nay biết là chẳng phải Không. Do hai phép Quán ấy, được nhập Trung Đạo. Có thể chế phục vô minh, dần dần thấy đất ướt, [biết là] đă gần nước rồi. Nếu viên quán Trung Đạo, “chẳng phải Không, chẳng phải Giả” mà chiếu Không lẫn Giả. Tứ Trụ đă tận, vô minh đă chế phục, đă đạt được tương tự viên giải nơi Trung Đạo. V́ thế nói “như tiệm chí nê” (như dần dần đạt tới bùn). Nếu nhập Sơ Trụ, phát khởi sự hiểu biết thật sự đối với Trung, liền phá vô minh, như bùn lắng xuống, liền thấy Trung Đạo, như có được nước trong. V́ thế, Pháp Hoa Luận viết: “Hăy nên biết thứ tự của nước Phật Tánh”.

          2) Xét theo giáo môn, đất ví như kinh giáo, nước ví như Trung Đạo. Giáo diễn nói Trung Đạo như đất chứa nước. Tam Tạng chưa nói Trung Đạo, giống như đất khô. Phương Đẳng và Bát Nhă phương tiện nói kèm thêm Trung Đạo, giống như đất ướt. Pháp Hoa thẳng thừng nói hiển lộ Trung Đạo, giống như bùn. Do giáo pháp Pháp Hoa mà sanh Văn, Tư, Tu, tức là ngộ Trung Đạo, thật sự thấy Phật tánh, phát sanh chân huệ, chẳng c̣n dựa vào kinh văn, như có được nước trong, chẳng c̣n thấy tướng đất. V́ thế, kinh Hoa Nghiêm nói: “Sơ phát tâm thời, tiện thành Chánh Giác, thành tựu huệ thân, bất do tha ngộ” (Khi vừa mới phát tâm liền thành Chánh Giác, thành tựu thân trí huệ, chẳng do ai khác mà ngộ).

 

10.2.1.1.5.3. Kết hợp thí dụ với pháp

         

          (Kinh) Bồ Tát diệc phục như thị, nhược vị văn, vị giải, vị năng tu tập thị Pháp Hoa kinh, đương tri thị nhân khứ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề thượng viễn. Nhược đắc văn, giải, tư duy, tu tập, tất tri đắc cận A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()菩薩亦復如是。若未聞未解未能修習是法華經。當知是人去阿耨多羅三藐三菩提尚遠。若得聞解思惟修習。必知得近阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Bồ Tát cũng giống như thế. Nếu chưa nghe, chưa hiểu, chưa thể tu tập kinh Pháp Hoa này, hăy nên biết người ấy c̣n cách xa Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nếu được nghe, hiểu, tư duy, tu tập, ắt biết vị ấy đă gần với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          Nơi Pháp Hoa được nghe Văn, Tư, Tu, tức là Tam Huệ trong Viên Giáo th́ mới có thể gần với quả, chẳng phải là Tam Huệ trong các giáo pháp khô khan hay ẩm ướt v.v…

 

10.2.1.1.5.4. Giải thích cận quả

         

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Nhất thiết Bồ Tát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, giai thuộc thử kinh. Thử kinh khai phương tiện môn, thị chân thật tướng. Thị Pháp Hoa kinh tạng, thâm cố u viễn, vô nhân năng đáo, kim Phật giáo hóa thành tựu Bồ Tát, nhi vị khai thị.

          ()所以者何。一切菩薩阿耨多羅三藐三菩提。皆屬此經。此經開方便門。示真實相。是法華經藏。深固幽遠無人能到。今佛教化成就菩薩而為開示。

          (Kinh: V́ cớ sao vậy? Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của hết thảy Bồ Tát đều thuộc vào kinh này. Kinh này mở ra môn phương tiện, chỉ bày tướng chân thật. Kinh tạng Pháp Hoa này sâu xa, u viễn, không ai có thể thấu đạt được. Nay Phật do giáo hóa thành tựu Bồ Tát mà v́ họ khai thị).

 

          “Nhất thiết Bồ Tát” (hết thảy Bồ Tát) là nói tới Quyền nhân (cái nhân quyền biến). A Nậu Bồ Đề là nói tới các Quyền quả. Quyền nhân và Quyền quả đều thuộc về kinh này. Như các thứ đất khô, ướt v.v… đều nương vào nước. “Khai phương tiện môn, thị chân thật tướng” (mở ra cửa phương tiện, chỉ bày tướng chân thật): Trước kia chẳng nói, nay đều nói. Trước kia nói hai phép Quán làm phương tiện môn, nay đều khai, tức là chân thật, há c̣n là môn? Xưa kia nói phương tiện Tiểu Thừa và quả Tiểu Thừa. Quả Tiểu Thừa c̣n chẳng phải là Thật Tướng, huống hồ phương tiện Tiểu Thừa mà được coi là môn ư? Nay đều mở ra, tức là Thật Tướng. “Nhữ đẳng sở hành thị Bồ Tát đạo” (những ǵ các ông đă hành đều là Bồ Tát đạo), giải quyết xong xuôi pháp Thanh Văn. Kinh này là vua trong các kinh, cho đến các ngôn ngữ khiến cho cơi đời b́nh trị, các nghề nghiệp kiếm sống v.v… trước kia có bao giờ nói những thứ đó đều là phương tiện? Nay đều khơi mở, [chỉ rơ] chúng chính là Thật Tướng, chẳng hề trái nghịch, đều khiến cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến của Phật. Mỗi sắc, mỗi hương, không ǵ chẳng phải là Phật pháp. Dù là môn hay chẳng phải môn, thảy đều khơi mở, chỉ bày tướng chân thật, hiển lộ tánh thủy của Phật. Nếu chẳng mở ra, tức là “sâu chắc, u viễn, không ai có thể đạt đến được”. Nhưng nay đă mở, tức là được thấy nước, chẳng có đất khô khan!

         

10.2.1.1.5.5. Loại trừ phi quả

 

          (Kinh) Dược Vương! Nhược hữu Bồ Tát văn thị Pháp Hoa kinh, kinh nghi, bố úy, đương tri thị vi tân phát ư Bồ Tát. Nhược Thanh Văn nhân, văn thị kinh, kinh nghi, bố úy, đương tri thị vi tăng thượng mạn giả.

          ()藥王。若有菩薩。聞是法華經。驚疑怖畏。當知是為新發意菩薩。若聲聞人。聞是經驚疑怖畏。當知是為增上慢者。

          (Kinh: Này Dược Vương! Nếu có Bồ Tát nghe kinh Pháp Hoa này mà kinh hoảng, ngờ vực, sợ hăi, hăy nên biết đó là Bồ Tát vừa mới phát ư. Nếu hàng Thanh Văn nghe kinh này mà kinh hoảng, ngờ vực, sợ hăi, hăy nên biết đó là kẻ tăng thượng mạn).

 

          Tân phát ư Bồ Tát, tăng thượng mạn Thanh Văn đă kinh hoảng, ngờ vực, sợ hăi đối với kinh này, đều là đất khô, c̣n chưa phải là đất ướt, huống hồ có thể thấy nước ư? Phần thứ nhất, “tán thán kinh pháp” đă xong.

 

10.2.1.2. Chỉ bày phương pháp

10.2.1.2.1. Thẳng thừng nêu bày phương pháp

10.2.1.2.1.1. Nêu bày đề mục

 

          (Kinh) Dược Vương! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, Như Lai diệt hậu, dục vị tứ chúng thuyết thị Pháp Hoa kinh giả, vân hà ưng thuyết? Thị thiện nam tử, thiện nữ nhân nhập Như Lai thất, trước Như Lai y, tọa Như Lai ṭa, nhĩ năi ưng vị tứ chúng quảng thuyết tư kinh.

          ()藥王。若有善男子善女人。如來滅後。欲為四眾說是法華經者。云何應說。是善男子善女人。入如來室。著如來衣。坐如來座。爾乃應為四眾廣說斯經。

          (Kinh: Này Dược Vương! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, sau khi Như Lai diệt độ, muốn v́ tứ chúng nói kinh Pháp Hoa này, hăy nên nói như thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi ṭa Như Lai rồi th́ mới nên v́ tứ chúng rộng nói kinh này).

 

10.2.1.2.1.2. Giải thích

 

          (Kinh) Như Lai thất giả, nhất thiết chúng sanh trung đại từ bi tâm thị. Như Lai y giả, nhu ḥa nhẫn nhục tâm thị. Như Lai ṭa giả, nhất thiết pháp không thị.

          ()如來室者。一切眾生中大慈悲心是。如來衣者。柔和忍辱心是。如來座者。一切法空是。

          (Kinh: Nhà Như Lai là tâm đại từ bi đối với hết thảy chúng sanh. Áo Như Lai là tâm nhu ḥa, nhẫn nhục. Ṭa của Như Lai là hết thảy pháp Không).

 

          “Đại từ bi thất”: Nếu là đồng thể th́ chính là Pháp Thân. Nếu tiếp độ chúng sanh, sẽ chính là Giải Thoát. Có thể khiến cho chúng sanh hiểu đồng thể, tức là Bát Nhă. “Áo nhu ḥa, nhẫn nhục”: Nếu xét theo cái được che phủ th́ là Pháp Thân. Nếu xét theo cái có thể che phủ ḥng trang nghiêm thân th́ chính là Bát Nhă. Nếu xét theo chuyện ḥa quang lợi vật th́ chính là Giải Thoát. “Ṭa pháp không” nếu có thể ngồi th́ chính là Bát Nhă. Nếu xét theo cái được ngồi th́ là Pháp Thân. Thân và ṭa ngầm xứng hợp th́ là Giải Thoát. Lại nữa, đại từ an lạc tức là Tư Thành Quỹ (資成軌, khuôn phép giúp cho thành tựu). Nhu ḥa chế phục sân, đoạn Hoặc, tức Quán Chiếu Quỹ (觀照軌). Ngồi nơi ṭa tức Chân Tánh Quỹ (真性軌). Trong phẩm An Lạc Hạnh c̣n nói rộng ba pháp này. Trong phần trước đă nói “dùng sự trang nghiêm của Phật [để tự trang nghiêm]”, lại nói “dùng y để che phủ”, chính là tấm y này. Trong phần trước nói “Như Lai dùng vai để gánh vác”, lại nói “dùng tay xoa đầu”, tức là ṭa này. Trong phần trước nói “ở cùng chỗ với Như Lai” tức là cái nhà này.

 

10.2.1.2.1.3. Khuyên tu

 

          (Kinh) An trụ thị trung, nhiên hậu dĩ bất giải đăi tâm, vị chư Bồ Tát cập tứ chúng, quảng thuyết thị Pháp Hoa kinh.

          ()安住是中。然後以不懈怠心。為諸菩薩及四眾。廣說是法華經。

          (Kinh: An trụ trong ấy, sau đó, dùng cái tâm chẳng lười nhác, v́ các Bồ Tát và tứ chúng rộng nói kinh Pháp Hoa này).

          Đă khuyên an trụ trong ba pháp, c̣n khuyên tâm chẳng lười nhác, sau đó mới rộng nói. V́ thế, biết dùng điều này để thúc giục kẻ quán hạnh sơ tâm đạt tới địa vị Tương Tự, tùy ư diệu âm trọn khắp tam thiên, chẳng đợi khuyên nhủ. Phần thứ nhất, “nói về phương pháp” đă xong.

 

10.2.1.2.2. Nêu ra năm thứ lợi ích

 

          (Kinh) Dược Vương! Ngă ư dư quốc, khiển hóa nhân vị kỳ tập thính pháp chúng, diệc khiển hóa tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di thính kỳ thuyết pháp. Thị chư hóa nhân, văn pháp tín thọ, tùy thuận bất nghịch. Nhược thuyết pháp giả, tại không nhàn xứ, ngă thời quảng khiển thiên, long, quỷ thần, Càn Thát Bà, A Tu La đẳng thính kỳ thuyết pháp. Ngă tuy tại dị quốc thời, thời linh thuyết pháp giả đắc kiến ngă thân. Nhược ư thử kinh vong thất cú độc, ngă hoàn vị thuyết, linh đắc cụ túc.

          ()藥王。我於餘國。遣化人為其集聽法眾。亦遣化比丘比丘尼優婆塞優婆夷聽其說法。是諸化人。聞法信受。隨順不逆。若說法者在空閑處。我時廣遣天龍鬼神乾闥婆阿修羅等聽其說法。我雖在異國時。時令說法者得見我身。若於此經忘失句讀。我還為說。令得具足。

          (Kinh: Này Dược Vương! Ta ở nước khác sai hóa nhân nhóm họp làm đại chúng nghe pháp cho người ấy, cũng sai hóa tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di nghe người ấy thuyết pháp. Các hóa nhân ấy nghe pháp, tin nhận, tùy thuận chẳng trái nghịch. Nếu người thuyết pháp ở chỗ thanh vắng, khi đó, ta rộng sai trời, rồng, quỷ thần, Càn Thát Bà, A Tu La v.v... nghe người ấy thuyết pháp. Ta tuy ở nước khác, vẫn luôn khiến cho người thuyết pháp được thấy thân ta. Nếu người ấy quên mất câu nào trong kinh này, ta c̣n nói cho [người ấy] khiến cho được đầy đủ).

 

          Nếu [người giảng nói Pháp Hoa là kẻ] sơ tâm chưa thuần, [đức Phật] chỉ có thể sai khiến hóa nhân [đến làm nghe pháp], chưa thể sai hóa tứ chúng bát bộ. Nếu [người thuyết pháp] trông thấy, sẽ cậy vào đó mà tự cao, thương tổn đến đạo. V́ thế, chẳng thể khiến cho người ấy trông thấy. Nếu tâm [người thuyết Pháp Hoa] chẳng ỷ lại, chấp trước, sẽ được thấy Phật, lại c̣n đạt được tổng tŕ, chứng lợi ích to lớn, huống hồ [trông thấy] trời, rồng v.v… [đến nghe pháp] ư? Phần thứ hai, kinh văn Trường Hàng tán thán kinh pháp và chỉ dạy phương pháp đă xong.

 

10.2.2. Kệ tụng

10.2.2.1. Tổng khuyến

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Dục xả chư giải đăi, ưng đương thính thử kinh. Thử kinh nan đắc văn, tín thọ giả diệc nan.

          ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。欲捨諸懈怠。應當聽此經。此經難得聞。信受者亦難。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Muốn bỏ các giải đăi, hăy nên nghe kinh này. Kinh này khó được nghe, người tin nhận cũng khó).

 

10.2.2.2. Trùng tụng phần Trường Hàng

10.2.2.2.1. Chỉ trùng tụng sự tán thán dựa theo quả

10.2.2.2.1.1. Trùng tụng lập thí dụ

 

          Lược đi không trùng tụng [các ư nghĩa] cận quả, giải thích cận quả và loại trừ nhân tố chẳng phải quả.

 

          (Kinh) Như nhân khát tu thủy, xuyên tạc ư cao nguyên, do kiến càn táo thổ, tri khứ thủy thượng viễn. Tiệm kiến thấp thổ nê, quyết định tri cận thủy.

          ()如人渴須水。穿鑿於高原。猶見乾燥土。知去水尚遠。漸見濕土泥。決定知近水。

          (Kinh: Như người khát cần nước, đào bới nơi cao nguyên, vẫn thấy đất khô ráo, biết cách nước c̣n xa. Dần dần thấy đất bùn, biết chắc chắn gần nước).

 

10.2.2.2.1.2. Trùng tụng kết hợp thí dụ với pháp

         

          (Kinh) Dược Vương nhữ đương tri, như thị chư nhân đẳng, bất văn Pháp Hoa kinh, khứ Phật trí thậm viễn. Nhược văn thị thâm kinh, quyết liễu Thanh Văn pháp. Thị chư kinh chi vương, văn dĩ đế tư duy. Đương tri thử nhân đẳng, cận ư Phật trí huệ.

          ()藥王汝當知。如是諸人等。不聞法華經。去佛智甚遠。若聞是深經。決了聲聞法。是諸經之王。聞已諦思惟。當知此人等。近於佛智慧。

          (Kinh: Dược Vương hăy nên biết. Những người như thế đó, chẳng nghe kinh Pháp Hoa, cách Phật trí rất xa. Nếu nghe kinh sâu này, hiểu rơ pháp Thanh Văn. Kinh này vua các kinh, nghe rồi suy nghĩ kỹ. Hăy nên biết người ấy, gần với trí huệ Phật).

 

          Phần thứ nhất, “chỉ xét theo quả để trùng tụng phần tán thán” đă xong.

 

10.2.2.2.2. Trùng tụng phương pháp

10.2.2.2.2.1. Nói thẳng vào phương pháp

         

          (Kinh) Nhược nhân thuyết thử kinh, ưng nhập Như Lai thất, trước ư Như Lai y, nhi tọa Như Lai ṭa, xử chúng vô sở úy, quảng vị phân biệt thuyết, đại từ bi vi thất, nhu ḥa nhẫn nhục y. Chư pháp Không vi ṭa. Xử thử vi thuyết pháp. Nhược thuyết thử kinh thời, hữu nhân ác khẩu mạ, như đao, trượng, ngơa, thạch, niệm Phật cố ưng nhẫn.

          ()若人說此經。應入如來室。著於如來衣。而坐如來座。處眾無所畏。廣為分別說。大慈悲為室。柔和忍辱衣。諸法空為座。處此為說法。若說此經時。有人惡口罵。如刀杖瓦石。念佛故應忍。

          (Kinh: Nếu người nói kinh này, nên vào nhà Như Lai, mặc áo của Như Lai, ngồi nơi ṭa Như Lai, trong chúng không sợ hăi, v́ họ rộng phân biệt. Đại từ bi làm nhà, áo nhu ḥa nhẫn nhục. Các pháp Không làm ṭa, ngự nơi đó thuyết pháp. Nếu lúc nói kinh này, có người ác khẩu chửi, dùng đao, gậy, ngói, đá, do niệm Phật nên nhẫn).

 

          Nửa bài kệ đầu trùng tụng nêu các đề mục. Bài kệ kế tiếp trùng tụng lời giải thích. Bài kệ cuối cùng trùng tụng khuyên tu.

         

10.2.2.2.2.2. Trùng tụng năm thứ lợi ích

         

          (Kinh) Ngă thiên vạn ức độ, hiện tịnh kiên cố thân, ư vô lượng ức kiếp, vị chúng sanh thuyết pháp.

          ()我千萬億土。現淨堅固身。於無量億劫。為眾生說法。

          (Kinh: Trong ngàn vạn ức cơi, ta hiện thân chắc sạch, trong vô lượng ức kiếp, v́ chúng sanh thuyết pháp).

 

          Đoạn này nêu chung Như Lai dùng năm chuyện để lợi ích. Chính là do Ứng Thân trọn khắp mười phương, [cho nên] có thể thực hiện năm sự để thủ hộ hành nhân.

 

          (Kinh) Nhược ngă diệt độ hậu, năng thuyết thử kinh giả, ngă khiển hóa tứ chúng, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, cập thanh tịnh nam nữ, cúng dường ư pháp sư.

          ()若我滅度後。能說此經者。我遣化四眾。比丘比丘尼及清淨士女。供養於法師。

          (Kinh: Sau khi ta diệt độ, ai hay nói kinh này, ta sai hóa tứ chúng, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, và nam nữ thanh tịnh, cúng dường cho pháp sư).

 

          Trùng tụng chuyện thứ hai là sai khiến tứ chúng.

 

          (Kinh) Dẫn đạo chư chúng sanh, tập chi linh thính pháp. Nhược nhân dục gia ác, đao, trượng, cập ngơa thạch, tắc khiển biến hóa nhân, vị chi tác vệ hộ.    ()引導諸眾生。集之令聽法。若人欲加惡。刀杖及瓦石。則遣變化人。為之作衞護。

          (Kinh: Hướng dẫn các chúng sanh, tụ tập để nghe pháp. Nếu có kẻ toan hại, dùng đao, gậy, ngói, đá, liền sai người biến hóa, đến bảo vệ pháp sư).

 

          Trùng tụng chuyện thứ nhất: Sai khiến người biến hóa.

 

          (Kinh) Nhược thuyết pháp chi nhân, độc tại không nhàn xứ, tịch mịch vô nhân thanh, độc tụng thử kinh điển, ngă nhĩ thời vị hiện, thanh tịnh quang minh thân. Nhược vong thất chương cú, vị thuyết linh thông lợi.

          ()若說法之人。獨在空閑處。寂寞無人聲。讀誦此經典。我爾時為現。清凈光明身。若忘失章句。為說令通利。   

          (Kinh: Nếu như người thuyết pháp, ở riêng nơi thanh vắng, vắng vẻ, không tiếng người. Đọc tụng kinh điển này, lúc ấy ta bèn hiện, thân quang minh thanh tịnh. Nếu quên mất chương cú, sẽ nói khiến thông suốt).

 

          Trùng tụng chuyện thứ năm: Ban cho tổng tŕ.

 

          (Kinh) Nhược nhân cụ thị đức, hoặc vị tứ chúng thuyết, không xử độc tụng kinh, giai đắc kiến ngă thân.

          ()若人具是德。或為四眾說。空處讀誦經。皆得見我身。

          (Kinh: Nếu người đủ đức ấy, hoặc v́ tứ chúng nói, thanh vắng đọc tụng kinh, đều được thấy thân ta).

 

          Trùng tụng chuyện thứ tư: Khiến cho thấy Phật. “Cụ thị đức” (đủ các đức ấy) tức là nói đến ba đức “nhà, áo, ṭa”.

 

          (Kinh) Nhược nhân tại không nhàn, ngă khiển thiên, long vương, Dạ Xoa, quỷ thần đẳng, vi tác thính pháp chúng. Thị nhân nhạo thuyết pháp, phân biệt vô quái ngại. Chư Phật hộ niệm cố, năng linh đại chúng hỷ.

            ()若人在空閑。我遣天龍王。夜叉鬼神等。為作聽法眾。是人樂說法。分別無罣礙。諸佛護念故。能令大眾喜。

          (Kinh: Nếu ai nơi thanh vắng, ta sai trời, long vương, Dạ Xoa, các quỷ thần, đều làm người nghe pháp. Người ấy thích thuyết pháp, phân biệt không vướng mắc, do chư Phật hộ niệm, khiến đại chúng hoan hỷ).

 

          Trùng tụng chuyện thứ ba: Sai khiến tám bộ. Phần thứ hai, “trùng tụng kinh văn Trường Hàng” đă xong.

         

10.2.2.3. Kết lại lời khuyên      

         

          (Kinh) Nhược thân cận pháp sư, tốc đắc Bồ Tát đạo, tùy thuận thị sư học, đắc kiến hằng sa Phật.

          ()若親近法師。速得菩薩道。隨順是師學。得見恆沙佛。

          (Kinh: Nếu thân cận pháp sư, mau đắc Bồ Tát đạo. Tùy thuận theo thầy học, được thấy hằng sa Phật).

         

          Phẩm Pháp Sư đă xong.

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 9 hết

 

         



[1] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Phật trong lúc tu nhân đă hiểu rơ, thông đạt pháp của chư Phật. Từ cái nhân mà lập danh cho cái quả, v́ thế hiệu là Pháp Minh”.

[2] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Chúng sanh thuở ấy thân tỏa ra quang minh, thân tướng của toàn thể mọi người đều là sắc vàng ṛng. V́ thế, kiếp có tên là Bảo Minh. Do chẳng có ba ác đạo, mà cũng chẳng có dâm dục, cho nên quốc độ có tên là Thiện Tịnh”.

[3] Tứ vô ngại trí tức là tứ biện tài gồm:

- Pháp vô ngại: Đối với giáo pháp chẳng vướng mắc, diễn nói thông đạt đúng lư, khế cơ.

- Nghĩa vô ngại: Thông hiểu giáo nghĩa và nghĩa lư chẳng vướng mắc.

- Từ vô ngại: Thông đạt ngôn từ lẫn các ngôn ngữ địa phương, có thể diễn nói pháp bằng đủ mọi cách vô ngại.

- Nhạo thuyết vô ngại: Diễn nói vô ngại, không chán mệt, không lười mỏi.

[4] Tức là bậc tỳ-kheo khi cầu xuất gia, đức Phật bèn nói “thiện lai tỳ-kheo”, vị ấy liền râu tóc tự rụng, y ca-sa khoác trên thân. Khi râu tóc rụng, phiền năo cũng rơi rớt, tối thiểu là chứng Sơ Quả.

[5] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Sánh ví như bỏ Đại Thừa, tu Tiểu Thừa. Do căn cơ Tiểu Thừa dấy động nên tu hành Tiểu Thừa. V́ thế nói ‘khởi dĩ du hành’. Coi Đại Thừa là ‘bổn quốc’, Tiểu Thừa là ‘tha quốc’ (nước khác). Mê muội đối với Đại bèn chấp Tiểu, nên nói là ‘đáo ư tha quốc’ (đến nước khác). Niết Bàn của Tiểu Thừa ví như cơm áo. V́ cầu Niết Bàn, siêng gắng đoạn Kiến Tư, cho nên nói v́ cơm áo mà ra sức t́m kiếm. Đạo Tiểu Thừa hẹp ḥi, cho nên nói ‘hết sức gian nan’. Hễ đạt được quả vị Tiểu Thừa, đă cho là đủ”.

[6] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Ngài A Nan do cái nhân đa văn, hộ tŕ pháp tạng, cảm vời quả đức trí huệ cao sâu, ví như non cao, biển thẳm. Thần thông tự tại, là vua của các pháp, cho nên khi thành Phật có đức hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương”.

[7] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Phật dùng chánh pháp để duy tŕ cơi đời, được cơi đời quy ngưỡng, như lập cột phan nơi phạm sát (tự viện), nhằm biểu lộ dấu tích thù thắng, khiến cho hết thảy đều quy kính. V́ thế, dùng danh xưng ấy (Thường Lập Thắng Phan) để đặt tên cho quốc độ”.

[8] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Pháp âm vi diệu, tùy thời ứng hợp căn cơ, trọn khắp pháp giới, cho nên dùng danh hiệu ấy (Diệu Âm Biến Măn) để đặt tên cho thời kiếp”.

[9] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Tất Cánh Không là vua của chư Phật. Phật hành Tất Cánh Không, cho nên hiệu là Không Vương Phật. Do vậy, Trí Độ Luận viết: - Tánh Không là hạnh của Bồ Tát, Tất Cánh Không là hạnh của Phật”. Vị Phật này c̣n được nhắc đến trong các kinh. Trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm có nói Phật Thích Ca c̣n tu nhân, từng làm vương tử Thiện Phục con của vua Thắng Quang. Do phát tâm tu Bồ Tát hạnh, vương tử xin vua cha phế trừ nhà tù. Năm trăm vị đại thần kịch liệt phản đối. Vương tử vẫn khăng khăng đ̣i thả tội nhân. Cuối cùng trước sức ép của các đại thần, vua Thắng Quang hạ lệnh xử tử Thiện Phục. Trên đường đến đài hành h́nh, Thiện Phục được nghe Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương Như Lai dạy môn giải thoát sanh thiện căn, liền theo Phật xuất gia. Phật thọ kư: “Đời sau ông sẽ gặp Pháp Không Vương Như Lai để thừa sự, cúng dường. Sau đó, cũng sẽ gặp Không Vương Như Lai để thừa sự cúng dường”. Trong phần hai mươi lăm pháp Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, Hỏa Đầu Kim Cang Ô Sô Sắt Ma (Uế Tích Kim Cang) trần thuật nhân địa, cho biết: Ngài nhiều ức kiếp lâu xa trước kia, tánh nhiều tham dục, có Phật xuất thế, tên là Không Vương Như Lai, dạy Ngài lỗi hại của tham dục, và dạy phép quán các đốt xương trong thân, biến đổi lửa dâm thành lửa trí huệ. Ngài nói: “Con do sức của Hỏa Quang tam-muội mà thành A La Hán, tâm phát đại nguyện, chư Phật thành đạo, con sẽ làm lực sĩ, thân cận chế phục ma oán. Phật hỏi pháp Viên Thông, con quán kỹ noăn xúc (cảm giác ấm nóng) nơi thân tâm lưu thông vô ngại, các lậu liền tiêu, sanh đại bảo diệm (ngọn lửa báu lớn), chứng Vô Thượng Giác. Đó là đệ nhất”. Ngoài ra các kinh Yếu Hành Xả Thân và Quán Phật Tam Muội Hải đều có nhắc đến Không Vương Phật. Do sợ rườm rà, không trích lục vào đây.  

[10] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Trí Độ Luận dùng bảy loại hoa để sánh ví Thất Giác Chi. Nay dùng hoa để biểu thị diệu hạnh, từ hạnh mà nêu rơ cái quả, cho nên gọi là Đạo Thất Bảo Hoa”.

[11] Dược Vương Bồ Tát là một trong hai mươi lăm vị đại Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Sau này, Ngài sẽ thành Phật, có hiệu là Tịnh Nhăn Như Lai. Theo kinh Quán Dược Vương Dược Thượng Bồ Tát, trong quá khứ vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp trước, có một quốc độ tên là Huyền Thắng Phan. Trong cơi ấy, có Phật xuất thế hiệu là Lưu Ly Quang Chiếu Như Lai. Sau khi đức Phật ấy nhập Niết Bàn, trong thời Tượng Pháp có tỳ-kheo Nhật Tạng, thông minh, đa trí, v́ đại chúng rộng nói Đại Thừa. Trong thính chúng, có trưởng giả Tinh Tú Quang nghe kinh Đại Thừa B́nh Đẳng Đại Huệ, trong tâm mười phần hoan hỷ, dùng dược thảo tốt lành tại Tuyết Sơn dâng cúng tỳ-kheo Nhật Tạng và chúng Tăng, phát nguyện hồi hướng công đức ấy về Vô Thượng Bồ Đề. Ngài lại phát nguyện, nếu chúng sanh nghe tên Ngài sẽ trừ bệnh khổ. Lúc đó, em trai của trưởng giả tên là Nguyệt Quang cũng bắt chước anh, dâng thuốc tốt lành lên tỳ-kheo Nhật Tạng và chúng tăng, cũng phát đại Bồ Đề tâm, nguyện được thành Phật. Khi ấy, đại chúng đều cùng tán thán trưởng giả Tinh Tú Quang là bậc dược vương, gọi Nguyệt Quang là dược thượng (bậc đứng đầu về thuốc). Do vậy, hai Ngài thường dùng danh xưng Dược Vương và Dược Thượng để tu hành. Trong kinh Pháp Hoa, có riêng hai phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự và Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự trần thuật nhân hạnh của hai Ngài. Có thuyết nói hai vị Nhật Quang và Nguyệt Quang Bồ Tát (thị giả của Phật Dược Sư chính là Dược Vương và Dược Thượng Bồ Tát). Theo kinh Quán Dược Vương Dược Thượng Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát cao mười hai do-tuần, thân kim sắc, đủ ba mươi hai tướng đại nhân và tám mươi tùy h́nh hảo chẳng khác ǵ Ứng Thân Phật. Trên nhục kế có mười bốn viên châu Ma Ni. Mỗi viên châu có mười bốn cạnh, mỗi cạnh có mười bốn đóa hoa để trang nghiêm măo trời. Trong măo trời có mười phương Phật và các vị Bồ Tát, đều hiện bóng trong các bảo châu. Giữa hai chân mày của Ngài có tướng bạch lưu ly, từ các đầu ngón tay thường tuôn ra mưa bảy báu.

[12] “Điền” tức là phước điền. Phước điền lại chia thành bi điền và kính điền. Kính điền là như Phật, Bồ Tát, Bích Chi Phật, thánh nhân thế gian và xuất thế gian, cha mẹ, trưởng bối, người có ân với ta v.v… Bi điền là những người đáng thương xót cứu vớt, nói rộng là các chúng sanh trong ác đạo hoặc c̣n đang luân hồi.

[13] Tự Nhiên Trí c̣n gọi là Vô Sư Trí, Vô Công Dụng Trí, đều là tên gọi khác của Nhất Thiết Chủng Trí.

[14] Càn Huệ Địa (śukla-vidarśanā-bhūmi) tức là Sơ Địa trong Thập Địa.