Đại Thừa Địa Tạng Thập
Luân Kinh Giảng Kư, phần 10
大乘大集地藏十輪經講記
Mộng Tham lăo
ḥa thượng chủ giảng
夢參老和尚主講
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
IV. Hữu Y Hạnh phẩm đệ tứ (有依行品第四, phẩm thứ tư: Hữu Y Hạnh)
Nay
tôi bắt đầu giảng phẩm Hữu Y Hạnh. Hữu
Y (有依) là nương
cậy Tam Bảo, có thể sanh ra các loại công đức
lực.
(Kinh)
Nhĩ thời, Kim Cang Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, ư đại
chúng trung, tùng ṭa nhi khởi, đảnh lễ Phật túc,
thiên đản nhất kiên, hữu tất trước
địa, hiệp chưởng, cung kính, dĩ tụng vấn
viết:
(經)爾時,金剛藏菩薩摩訶薩於大眾中,從座而起,頂禮佛足,偏袒一肩,右膝著地,合掌恭敬,以頌問曰。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Kim Cang Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ở
trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ dưới chân đức Phật, trật
một vai áo, gối phải đặt sát đất, chắp
tay, cung kính, dùng kệ tụng hỏi rằng).
Kim
Cang Tạng Bồ Tát nêu ra câu hỏi. Ngài hỏi: “Đức
Phật nói pháp này, dường như có chỗ chẳng giống
với những điều đă nói trước đó, có
chỗ mâu thuẫn, hăy nên dung thông như thế nào?” Bản
thân Kim Cang Tạng Bồ Tát đă dung thông, nhưng Ngài biết
chúng sanh trong vị lai có thể sẽ thắc mắc, ngờ
vực tam thừa có b́nh đẳng hay không? Bởi lẽ,
trong kinh Pháp Hoa, đức Phật đă nói: “Duy thử
nhất thị thật, dư nhị giai phi chân” (chỉ
có một pháp này là thật, hai pháp khác đều chẳng thật).
Trong kinh Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật c̣n nói kinh Kim Cang là rốt
ráo, những kinh khác đều chẳng phải. V́ sao có lúc
đức Phật nói thế này, có khi lại nói thế
khác? Phải dung thông như thế nào?
(Kinh)
Tích ngôn: Phá giới, thất tịnh đức, phi hiền
thánh khí, phi ngă tử. Chư sa-môn pháp khí như tẫn, bất
ưng ư ngă thanh chúng trung. Tam cấu sở ô, thất diệt
đạo, bỉ bất kham tiêu thắng cúng dường.
Ư thí tứ phương Tăng chúng vật, thiểu phần
ngă diệc bất thính thọ. Tứ căn bản tội,
tùy phạm nhất, thanh chúng sở khí như hải thi. Vân
hà kim thuyết ác bật-sô, ưng nhẫn, ưng bi, giá
trích phạt? Phục khuyến ưng cần cúng dường
bỉ. Bi mẫn, vật
sanh vi ác tâm. Cung kính thính thọ sở thuyết pháp,
đương hoạch phước huệ đại bi
giả. Lục Thông cứu thế dư kinh thuyết: “Nhữ đẳng giai
đương tín Đại Thừa. Chánh trực, vi diệu Bồ Đề đạo. Ưng xả Nhị Thừa
giải thoát lộ”. Vân hà kim phục
thuyết tam thừa, phổ khuyến thính, tŕ, tu cúng dường?
Căn, lực, giác đạo sa-môn quả, thử kinh trung
hữu, dư xứ vô. Bát chi thánh đạo vô đẳng
luân. Tam thừa giai đồng hành thử đạo. Dục
cầu giải thoát, cần tinh tấn. Các tùy sở nguyện chứng
Bồ Đề. Hữu t́nh trung tôn đương chiếu
sát, hội kim tích giáo sử vô vi, linh chư thiên nhân Bồ
Tát chúng, giải ngộ, tâm hoan, chứng
chân thật. Văn thuyết Đại Thừa thùy hữu
ích? Văn thuyết Đại Thừa thùy hữu tổn?
Thập chủng giải thoát Thanh Văn Thừa, văn
thuyết thùy tổn, thùy hữu ích? Hà nhân văn pháp chuyển
thăng tấn? Hà nhân văn pháp phiên thoái một? Vân hà yếm
hoạn chư hữu vi? Năng tốc khô kiệt ư lăo
tử. Trú dạ cần tu chư thiện giả, y hà diệu
lư, ngự hà thừa? Năng độ thâm quảng tứ
bộc lưu. Cứu thế giai đương vị
tuyên thuyết.
(經)昔言破戒失淨德,非賢聖器非我子,諸沙門法棄如燼,不應居我清眾中。三垢所污失滅道,彼不堪消勝供養,於施四方僧眾物,少分我亦不聽受。四根本罪隨犯一,清眾所棄如海尸,云何今說惡苾芻,應忍應悲遮謫罰,復勸應勤供養彼,悲愍勿生微噁心,恭敬聽受所說法,當獲福慧大悲者?六通救世餘經說,汝等皆當信大乘,正直微妙菩提道,應舍二乘解脫路。云何今復說三乘,普勸聽持修供養,根力覺道沙門果,此經中有餘處無?八支聖道無等倫,三乘皆同行此道,欲求解脫勤精進,各隨所願證菩提。有情中尊當照察,會今昔教使無違,令諸天人菩薩眾,解悟心歡證真實。聞說大乘誰有益?聞說大乘誰有損?十種解脫聲聞乘,聞說誰損誰有益?何人聞法轉升進?何人聞法翻退沒?云何厭患諸有為,能速枯竭於老死?晝夜勤修諸善者,依何妙理御何乘,能渡深廣四瀑流。救世皆當為宣說。
(Kinh:
Xưa nói: “Phá giới, mất tịnh đức, chẳng
phải pháp khí, con của Phật. Bỏ pháp sa-môn như
tro tàn, chẳng được ở cùng thanh tịnh chúng.
Tam cấu nhuốm bẩn, diệt mất đạo. Chẳng
thể kham thọ các cúng dường. Các vật cúng thí tứ
phương Tăng, chút phần ta chẳng cho thọ dụng.
Bốn tội căn bản, hễ phạm một, biển
thanh tịnh chúng chẳng chứa xác”. Sao nay lại nói ác bật-sô,
nên nhẫn, nên thương, cấm trừng phạt? Lại
khuyên nên siêng cúng dường họ, thương xót, đừng
sanh chút ác tâm? Cung kính nghe nhận
pháp Phật nói, sẽ thường được phước
huệ đại bi. Lục Thông, cứu thế, kinh khác nói:
“Các ngươi đều nên tin Đại Thừa, chánh trực,
vi diệu Bồ Đề đạo. Hăy xả đường
giải thoát Nhị Thừa”. Sao nay lại nói đến
tam thừa, khuyên khắp nghe, tŕ, tu cúng dường?
Căn, Lực, Giác, Đạo sa-môn quả,
riêng kinh này có, kinh khác không! Tám chi thánh đạo khôn sánh bằng,
tam thừa đều cùng hành đạo này. Muốn cầu
giải thoát, siêng tinh tấn, đều theo ước nguyện
chứng Bồ Đề. Đấng chúng tôn quư nên xét chiếu,
dung hội pháp xưa nay chẳng trái, khiến cho trời,
người, các Bồ Tát, giải ngộ, tâm vui, chứng
chân thật. Nghe nói Đại Thừa, ai được lợi? Nghe nói Đại Thừa,
ai tổn hoại? Mười thứ giải thoát Thanh
Văn Thừa, nghe nói ai tổn? Ai có ích? Người
nào nghe pháp sẽ thăng tấn? Ai nghe pháp rồi sẽ
thoái thất? Chán sợ hữu vi bằng cách nào? Mau chóng khô
cạn già và chết, ngày đêm siêng tu các điều thiện,
nương diệu lư nào? Tu thừa nào? Sẽ
vượt bốn gịng thác rộng sâu. Đấng cứu
thế xin v́ tuyên nói).
“Tích
ngôn phá giới thất tịnh đức, phi hiền thánh
khí phi ngă tử, chư sa-môn pháp khí như tẫn, bất
ưng cư ngă thanh chúng trung” (Xưa kia đức Phật
nói: -Kẻ phá giới, đánh mất công đức thanh tịnh, chẳng
phải là căn cơ hiền thánh, chẳng phải là con
ta. Kẻ đó đă vứt bỏ các pháp sa-môn, giống như tro tàn. Kẻ đó chẳng
nên ở trong Tăng chúng thanh tịnh của ta): Bài tụng
này ư nói tỳ-kheo phá giới chẳng có công đức,
đánh mất công đức thanh tịnh, chẳng thể
trở thành bậc hiền nhân, mà cũng chẳng thể
trở thành thánh nhân, chẳng phải là dụng cụ chứa
đựng pháp (pháp khí), chẳng phải là đệ tử
của ta. Ta chẳng phải là đại sư của kẻ
đó, kẻ đó chẳng phải là đệ tử của
ta. Có ư nghĩa như thế đó.
“Chư
sa-môn pháp khí như tẫn, bất
ưng cư ngă thanh chúng trung” (Vứt bỏ các pháp sa-môn giống như tro tàn, chẳng nên ở trong Tăng chúng thanh tịnh
của ta): Kẻ phạm giới
chẳng nên ở chung với đại chúng nữa.
Mỗi bộ kinh luận đều nói như thế. “Tam
cấu sở ô thất diệt đạo, bỉ bất
kham tiêu thắng cúng dường, ư thí tứ
phương Tăng chúng vật, thiểu phần ngă diệc
bất thính thọ” ([kẻ phá giới
đó] bị nhuốm bẩn bởi tam cấu, diệt mất
đạo. Kẻ đó chẳng kham tiêu nổi của cúng
dường thù thắng. Đối với các vật thí
cho tứ phương Tăng, ta cũng không cho phép kẻ ấy
hưởng chút phần): Trong Giới Kinh, đức Phật
đă từng nói, nếu tỳ-kheo phá giới, sẽ chẳng thể hưởng dụng các vật
thuộc về tứ phương Tăng. Thậm chí một chút cũng không cho phép kẻ đó
được thọ dụng. V́ đấy
là vật cúng dường thù thắng.
“Tứ căn bản tội tùy phạm nhất.
Thanh
chúng sở khí như hải thí” (trong bốn
tội căn bản mà phạm bất cứ một tội
nào, Tăng chúng sẽ vứt bỏ kẻ đó như biển
không dung nạp xác chết): Biển cả chẳng dung nạp
xác chết. Chết trong biển, sóng nhất
định đẩy xác quư vị lên bờ. Đấy là nói tỳ-kheo phạm giới bị thanh trừ
khỏi các vị tỳ-kheo thanh tịnh. “Vân hà kim thuyết
ác bật-sô, ưng nhẫn, ưng bi, giá trích phạt?”
(V́ sao nay lại nói phải nên nhẫn thọ, từ bi, [lại c̣n] ngăn trở trừng phạt
ác bật-sô?): Nhưng v́ sao bộ kinh
này nói như vậy? Phải nhẫn thọ ác tỳ-kheo,
phải thương xót hắn, chớ nên tùy tiện quở
trách, chửi bới hắn? “Phục khuyến ưng cần
cúng dường bỉ, bi mẫn, vật sanh vi ác tâm” (Lại
khuyên nên siêng năng cúng dường
hắn, hăy thương xót, đừng sanh chút ác tâm): Phải dấy
ḷng đại bi cúng dường kẻ đó, thương
xót kẻ đó, đừng sanh khởi chút xíu ác tâm
nào, v́ kẻ đó mặc ca-sa đỏ.
“Cung
kính thính thọ sở thuyết pháp, thường hoạch
phước huệ đại bi giả, lục thông cứu
thế dư kinh thuyết, nhữ đẳng giai
đương tín Đại Thừa” (Cung kính nghe nhận
pháp do Phật nói; thường đạt
được phước huệ và đại bi. Trong các
kinh khác, đấng Lục Thông, cứu đời đă dạy: “Các ngươi
đều phải nên tin Đại Thừa”): Đối với
lời đức Phật dạy, chúng ta đều cung
kính lắng nghe, tiếp nhận; đă nghe nhận rồi,
nhất định sẽ đạt được
phước huệ đại bi. Đối với pháp,
chúng ta phải cung kính, phải nghe nhận, phải hộ
tŕ. Như vậy th́ mới có thể đạt được
phước huệ. “Lục Thông cứu thế dư kinh
thuyết” (Trong các kinh khác, đấng Lục Thông cứu
thế đă nói): Đức Phật trọn đủ
Lục Thông. Lục Thông là Thiên Nhăn Thông,
Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, Thần Túc
Thông, và Lậu Tận Thông. Lậu Tận
của Phật là lậu tận rốt ráo, đạt
đến thanh tịnh rốt ráo. “Nhữ đẳng
giai đương tín Đại Thừa” (các
ngươi đều nên tin Đại Thừa) [ư nói]: Chớ
nên học pháp Nhị Thừa, phải tin pháp Đại Thừa.
“Chánh trực vi diệu Bồ Đề đạo,
ưng xả Nhị Thừa giải thoát lộ” (chánh trực,
vi diệu, Bồ Đề đạo, nên xả đường
giải thoát Nhị Thừa): Giải thoát trong Nhị Thừa
chưa phải là giải thoát thật sự, c̣n đây là Bồ
Đề đạo vi diệu chẳng thể nghĩ bàn,
chớ nên tham đắm Tiểu Thừa.
“Vân
hà kim phục thuyết tam thừa, phổ khuyến thính tŕ
tu cúng dường” (nay sao lại nói pháp tam thừa,
khuyên khắp mọi người nghe nhận, thọ tŕ, tu
tập, cúng dường): Trong bộ kinh này,
đức Phật nói Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa,
và Bồ Tát Thừa, ba thừa đều phải khéo tu,
khuyên mọi người đều nghe giảng, hành tŕ,
đều phải cúng dường. Cớ sao nói mâu thuẫn
với trước kia? Bài kệ này có ư nghĩa như thế
đó! “Căn, lực giác đạo sa-môn quả, thử
kinh trung hữu, dư xứ vô” (kinh này có nói căn, lực,
giác đạo, sa-môn quả, chứ trong các kinh khác chẳng
có): Nay nói Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, cho đến
chứng đắc Tứ Quả Sa-môn (Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hoàn, A Na Hàm, A La Hán), bộ kinh này nói
như thế. Kinh điển Đại Thừa chẳng
nói như vậy. “Bát chi thánh đạo vô đẳng
luân, tam thừa giai đồng hành thử đạo”
(Tám chi thánh đạo khôn sánh bằng, ba thừa đều
cùng hành đạo này): Tam thừa b́nh đẳng, đều
tu Bát Thánh Đạo như thế! “Dục cầu giải
thoát, cần tinh tấn, các tùy sở nguyện chứng Bồ
Đề” (muốn cầu giải thoát, siêng tinh tấn,
đều tùy ước nguyện chứng Bồ Đề):
Nương theo Bát Thánh Đạo, mong tưởng tinh tấn
tu hành, mong cầu giải thoát, quư vị phát nguyện ǵ bèn
chứng quả Bồ Đề ấy.
“Hữu
t́nh trung tôn đương chiếu sát, hội kim tích giáo sử
vô vi” (Đấng tôn quư trong các hữu t́nh hăy nên chiếu
soi, xem xét, dung hội giáo pháp trước kia và hiện thời, để các pháp ấy đừng mâu thuẫn với
nhau): Phật là đấng tôn quư trong hết thảy chúng
sanh, Ngài hăy nên dùng trí huệ chiếu soi. “Hội” (會) có nghĩa là “dung hội” (融會). Lời dạy hiện thời và trước kia chẳng
mâu thuẫn nhau th́ mới nên! “Linh chư thiên, nhân, Bồ
Tát chúng, giải ngộ, tâm hoan, chứng chân thật” (khiến
cho chư thiên, người, các vị Bồ Tát đều
giải ngộ, tâm hoan hỷ, chứng chân thật): Nghe
[giáo pháp hiện thời và trước kia trái nghịch
nhau] như vậy, họ sẽ chẳng ưa thích. V́ sao?
Họ chẳng thể giải ngộ, chẳng thể chứng
đắc chân thật, rốt cuộc như thế nào th́
mới là đúng? Có ư nghĩa này!
“Văn
thuyết Đại Thừa thùy hữu ích? Văn thuyết
Đại Thừa thùy hữu tổn? Thập chủng giải
thoát Thanh Văn Thừa, văn thuyết thùy tổn, thùy hữu
ích?” (Nghe nói Đại Thừa ai hữu ích? Nghe nói Đại
Thừa ai bị tổn? Mười loại giải thoát
Thanh Văn Thừa, ai được lợi ích? Ai tổn hại?) Người nào sẽ được
lợi ích? Người nào bị tổn hại? Đại
Thừa cũng thế, mà Thanh Văn Thừa cũng thế.
Người được nghe nói và người diễn
nói, rốt cuộc ai được lợi ích? Ai sẽ bị
tổn hại?
“Hà
nhân văn pháp chuyển thăng tấn? Hà nhân văn pháp
phiên thoái một?” (Người nào nghe pháp sẽ thăng
tấn? Ai nghe pháp rồi sẽ thoái thất?) Phải
như thế nào th́ nghe pháp mới có thể tiến cao
hơn, tinh tấn tiến lên? Người nào nghe pháp sẽ
đâm ra thoái thất? Như thế th́ sẽ nẩy sanh hoài
nghi, nghĩ tưởng báng pháp. Hễ báng pháp bèn thoái thất,
lui sụt, đọa vào địa ngục.
“Vân
hà yếm hoạn chư hữu vi, năng tốc khô kiệt
ư lăo tử” (Chán ghét hữu vi bằng cách nào? Mau chóng
khô cạn già và chết): Hết thảy các pháp hữu vi,
như thế nào th́ mới có thể khiến cho họ biết
lỗi hại của chúng, mới có thể khiến cho họ
tránh khỏi nỗi khổ sanh, lăo, bệnh, tử. “Khô
kiệt lăo tử” (Khô cạn già chết): “Khô kiệt”
(枯竭) là diệt. Làm
như thế nào để nẩy sanh sự chán ghét đối
với hữu vi? Làm thế nào để đoạn sanh tử?
Hết thảy các pháp trong thế gian đều là pháp hữu
vi; già, chết cũng là pháp thế gian. Làm thế nào
để chán ghét sanh, lăo, bệnh, tử, cầu xuất
ly?
“Trú
dạ cần tu chư thiện giả, y hà diệu lư? Ngự hà thừa?” (Ngày đêm siêng tu các
điều thiện, nương diệu lư nào? Ngồi thừa nào): Những người tu thiện
nghiệp, Thanh Văn cũng thế, mà Bồ Tát cũng thế,
rốt cuộc dùng đạo lư nào th́ mới có thể “ngự”?
“Ngự” (御) có nghĩa là “điều khiển cỗ xe”.
Thanh Văn Thừa tốt đẹp? Hay Duyên Giác Thừa tốt
đẹp? Hay là Bồ Tát Thừa tốt đẹp? Hay là
nương vào pháp Tứ Đế, pháp nhân duyên, và pháp Lục
Độ?
“Năng
độ thâm quảng tứ bộc lưu, cứu thế
giai đương vị tuyên thuyết” (Có thể
vượt qua bốn gịng thác chảy xiết rộng sâu,
xin đấng cứu đời hăy đều v́ chúng con
tuyên nói): Bốn gịng thác, thứ nhất là gịng thác Dục,
tức cảnh giới ngũ dục. Nói thông thường,
tài, sắc, danh, ăn uống, ngủ nghê là ngũ dục.
Rất rơ ràng, chúng nó là năm cội rễ của địa
ngục. Chúng được gọi là cảnh giới
ngũ dục.
Loại
thứ hai là Tứ Giới Vô Sắc Giới. Bốn gịng
thác chỉ Tứ Giới Vô Sắc Giới. Tứ Giới
là bốn giới nào vậy? Địa, thủy, hỏa,
phong. Vô Sắc Giới chẳng có địa, thủy, hỏa,
phong. Đây là loại thứ hai. Trong Tứ Giới Vô Sắc
Giới, đều có tham, kiêu mạn, hoài nghi; đó là những
thứ nổi bật nhất. Hết thảy chúng sanh hoài
nghi, hiểu lầm đạo lư tu Bồ Đề đạo. Hoài nghi th́ sẽ chẳng tin, gặp
chuyện ǵ cũng đều phết dấu hỏi.
Nhưng Kim Cang Tạng Bồ Tát thay mặt cho chúng sanh, Ngài
biết chúng sanh nhất định sẽ thắc mắc.
Loại
thứ ba là Kiến. Kiến (見) là tri kiến. Chúng ta có rất nhiều tri kiến
sai lầm, tà tri, tà kiến, điên đảo kiến.
Loại
thứ tư, đại Bồ Tát cũng trọn đủ
vô minh căn bản phiền năo, chưa đạt đến
Diệu Giác. Diệu Giác th́ mới có thể đoạn trừ,
nó rất vi tế. “Cứu thế giai đương vị
tuyên thuyết” (đấng cứu thế hăy tuyên nói cho
con): Con thỉnh vấn, mong đức Phật sẽ giải
đáp cho con, chỉ dạy con, có ư nghĩa như thế
đó.
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật cáo Kim Cang Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát
ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Thiện nam tử! Nhữ
kim vị dục lợi ích, an lạc vô lượng hữu
t́nh, vị chư thiên, nhân, A Tố Lạc đẳng, tác
đại nghĩa lợi, thỉnh vấn
Như Lai như thị thâm nghĩa. Nhữ ưng đế
thính, thiện tư niệm chi, ngô đương vị nhữ
phân biệt, giải thuyết”. Kim Cang Tạng Bồ Tát
ngôn: “Dụy nhiên, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục
văn”. Phật ngôn: “Thiện nam tử! Hữu thập chủng
Bổ Đặc Già La, luân hồi sanh tử, nan đắc
nhân thân. Hà đẳng vi thập Bổ Đặc Già La? Nhất
giả, bất chủng thiện căn. Nhị giả, vị
tu phước nghiệp. Tam giả, tạp nhiễm
tương tục. Tứ giả, tùy ác hữu hành. Ngũ
giả, bất kiến, bất úy hậu thế khổ quả.
Lục giả, mănh lợi tham dục. Thất giả, mănh
lợi sân khuể. Bát giả, mănh lợi ngu si. Cửu giả,
kỳ tâm mê loạn. Thập giả, thủ ác tà kiến.
Như thị thập chủng Vô Y Hạnh nhân, linh chư
chúng sanh phạm căn bản tội, hủy phạm Thi
La, đọa chư ác thú”.
(經)爾時,佛告金剛藏菩薩摩訶薩言:善哉!善哉!善男子,汝今為欲利益安樂無量有情,為諸天、人、阿素洛等,作大義利,請問如來如是深義。汝應諦聽,善思念之,吾當為汝分別解說。金剛藏菩薩言:「唯然世尊,願樂欲聞。佛言:善男子,有十種補特伽羅,輪迴生死,難得人身。何等為十補特伽羅?一者、不種善根,二者、未修福業,三者、雜染相續,四者、隨惡友行,五者、不見不畏後世苦果,六者、猛利貪慾,七者、猛利瞋恚,八者、猛利愚癡,九者、其心迷亂,十者、守惡邪見。如是十種無依行因,令諸眾生犯根本罪,毀犯尸羅,墮諸惡趣。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Kim Cang Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử!
Ông nay v́ muốn lợi ích, an lạc vô lượng hữu
t́nh, v́ các trời, người, A Tố Lạc v.v… tạo
đại nghĩa lợi mà thưa hỏi Như Lai
nghĩa sâu như thế. Ông hăy nên lắng nghe, ta sẽ v́
ông phân biệt, giải nói”. Kim Cang Tạng Bồ Tát
thưa: “Thưa vâng, đức Thế Tôn! Con vui thích mong
được nghe”. Đức Phật dạy: “Này thiện
nam tử! Có mười loại Bổ Đặc Già La luân
hồi sanh tử, khó được làm thân người. Những
ǵ là mười loại Bổ Đặc Già La? Một là
chẳng gieo thiện căn. Hai là chưa tu phước
nghiệp. Ba là liên tục tạp nhiễm. Bốn là làm theo
bạn ác. Năm là chẳng thấy, chẳng sợ khổ
quả đời sau. Sáu là tham dục mạnh mẽ. Bảy
là sân khuể mạnh mẽ. Tám là ngu si mạnh mẽ. Chín
là tâm kẻ đó mê loạn. Mười là chấp giữ
tà kiến ác. Mười loại nguyên nhân Vô Y Hạnh
như thế khiến cho các chúng sanh phạm tội căn
bản, hủy phạm Thi La, đọa vào các đường
ác”).
Mười
loại Bổ Đặc Già La tạo nghiệp là v́ họ
không có thiện căn để nương cậy. Một
tí thiện căn cũng chẳng có, phước ǵ cũng
đều chẳng tu, đă thế họ c̣n tạo nghiệp
tạp nhiễm liên tục, chưa hề ngưng nghỉ!
Do trong quá khứ đă có mười loại Vô Y Hạnh làm cái nhân, cho nên họ chẳng tu phước
nghiệp, chẳng gieo thiện căn.
(Kinh)
Hà đẳng danh vi Thập Vô Y Hạnh? Vị ngă pháp trung
nhi xuất gia giả, hữu gia hạnh hoại, ư nhạo
bất hoại. Hữu ư nhạo hoại, gia hạnh bất
hoại. Hữu gia hạnh, ư nhạo câu hoại. Hữu giới
hoại, kiến bất hoại. Hữu kiến hoại,
giới bất hoại. Hữu giới, kiến câu hoại. Hữu ư gia
hạnh, ư nhạo, giới, kiến tuy giai bất hoại,
nhi đản y chỉ ác hữu lực hành, tác Vô Y Hạnh.
Hữu tuy y chỉ thiện hữu lực hạnh, nhi phục
ngu độn, do như á dương, ư chư sự
nghiệp, đô bất phân biệt, văn thiện hữu
thuyết thiện, bất thiện pháp, bất năng lănh thọ,
bất năng kư tŕ, bất năng giải liễu thiện,
bất thiện nghĩa; do thị nhân duyên, tác Vô Y Hạnh.
Hữu ư chủng chủng tài bảo chúng cụ, thường
vô yếm túc, truy cầu nhân duyên, kỳ tâm mê loạn, tác Vô
Y Hạnh. Hữu vị chúng bệnh chi sở bức năo,
tiện cầu chủng chủng từ tự, chú thuật,
do thị nhân duyên, tác Vô Y Hạnh. Như thị thập chủng
Vô Y Hạnh nhân, linh chư chúng sanh phạm căn bản tội,
ư hiện pháp trung phi hiền thánh khí, hủy phạm Thi
La, đọa chư ác thú.
(經)何等名為十無依行?謂我法中而出家者,有加行壞,意樂不壞;有意樂壞,加行不壞;有加行、意樂俱壞;有戒壞、見不壞;有見壞、戒不壞;有戒、見俱壞;有於加行、意樂、戒、見,雖皆不壞,而但依止惡友力行,作無依行;有雖依止善友力行,而復愚鈍猶如啞羊,於諸事業都不分別,聞善友說善不善法,不能領受,不能記持,不能解了善不善義,由是因緣,作無依行;有於種種財寶眾具常無厭足,追求因緣,其心迷亂,作無依行;有為眾病之所逼惱,便求種種祠祀咒術,由是因緣,作無依行。如是十種無依行因,令諸眾生犯根本罪,於現法中非賢聖器,毀犯尸羅,墮諸惡趣。
(Kinh:
Những ǵ gọi là mười Vô Y Hạnh? Tức là kẻ
xuất gia trong pháp của ta, có kẻ gia hạnh hoại
mà ư nhạo chẳng hoại. Có kẻ ư nhạo hoại mà
gia hạnh chẳng hoại. Có kẻ gia hạnh và ư nhạo
đều hoại. Có kẻ giới hoại, kiến chẳng
hoại. Có kẻ kiến hoại, giới chẳng hoại.
Có kẻ giới lẫn kiến đều hoại. Có kẻ
tuy gia hạnh, ư nhạo, giới và kiến đều bất
hoại, nhưng do nương tựa lực hạnh của
bạn ác mà làm Vô Y Hạnh. Có kẻ tuy y chỉ lực hạnh
của bạn lành, nhưng lại ngu độn ví như
con dê câm, đối với các sự
nghiệp đều chẳng phân biệt, nghe bạn lành nói
thiện pháp và bất thiện pháp chẳng thể lănh nhận,
chẳng thể nhớ, giữ, chẳng thể thấu hiểu
nghĩa thiện và bất thiện. Do nhân duyên ấy mà làm
Vô Y Hạnh. Có kẻ đối với các thứ của cải,
các vật dụng thường chẳng chán đủ, do
nhân duyên truy cầu [những thứ ấy] mà cái tâm mê loạn,
làm Vô Y Hạnh. Có chúng sanh v́ bệnh tật bức bách, năo
hại, liền cầu đủ thứ cúng bái, chú thuật.
Do nhân duyên ấy mà làm Vô Y Hạnh. Mười cái nhân gây nên
Vô Y Hạnh như thế khiến cho các chúng sanh phạm tội
căn bản, chẳng phải là căn khí hiền thánh trong
pháp hiện thời, hủy phạm Thi La, đọa vào các
đường ác).
V́ sao họ phạm tội căn bản? V́
họ có cái nhân ấy, tất nhiên sẽ
phạm tội. Mười loại Vô Y Hạnh như thế
khiến cho hết thảy chúng sanh phạm tội căn bản,
chẳng phải là căn khí hiền thánh trong pháp hiện tại,
cho nên họ sẽ hủy phạm giới cấm, đọa
vào các đường ác.
(Kinh)
Thiện nam tử! Nhược hữu Bổ Đặc
Già La gia hạnh hoại, ư nhạo bất hoại, tùy ngộ
nhất chủng Vô Y Hạnh nhân, phạm căn bản tội,
tiện thâm bố cụ, tàm quư khí xả, nhi bất sổ
sổ tác chư ác hạnh. Như Lai vị ích bỉ cố,
thuyết hữu ô đạo sa-môn. Sở dĩ giả hà?
Bỉ tác như thị trọng ác nghiệp dĩ, tức tiện
phát lộ, bất cảm phú tàng, tàm quư sám hối. Bỉ do
như thị tàm quư sám hối, tội đắc trừ diệt,
vĩnh đoạn tương tục, bất phục cánh
tác. Tuy ư nhất thiết sa-môn pháp sự, giai ưng tẫn
xuất, nhất thiết sa-môn sở hữu tư cụ,
bất thính thọ dụng, nhi do bỉ nhân ư tam thừa
trung, thành pháp khí cố, Như Lai từ bi, hoặc vị bỉ
thuyết Thanh Văn Thừa pháp, hoặc vị bỉ thuyết
Duyên Giác Thừa pháp, hoặc vị bỉ thuyết Vô
Thượng Thừa pháp. Bỉ hữu thị xứ, chuyển
ư đệ nhị, đệ tam sanh trung, phát chánh nguyện
lực, ngộ thiện hữu lực, nhất thiết sở
tác chư ác nghiệp chướng giai tất tiêu diệt.
Hoặc hữu chứng đắc Thanh Văn Thừa quả,
hoặc hữu chứng đắc Duyên Giác Thừa quả
nhi bát Niết Bàn, hoặc hữu ngộ nhập quảng
đại thậm thâm Vô Thượng Thừa lư. Như thị
giới hoại, kiến bất hoại giả, ưng tri
diệc nhĩ.
(經)善男子,若有補特伽羅,加行壞、意樂不壞,隨遇一種無依行因,犯根本罪,便深怖懼,慚愧棄舍,而不數數作諸惡行,如來為益彼故,說有污道沙門。所以者何?彼作如是重惡業已,即便發露,不敢覆藏,慚愧懺悔。彼由如是慚愧懺悔,罪得除滅,永斷相續,不復更作。雖於一切沙門法事皆應擯出,一切沙門所有資具不聽受用,而由彼人於三乘中成法器故,如來慈悲,或為彼說聲聞乘法,或為彼說緣覺乘法,或為彼說無上乘法;彼有是處轉於第二、第三生中,發正願力,遇善友力,一切所作諸惡業障皆悉消滅,或有證得聲聞乘果,或有證得緣覺乘果,而般涅槃,或有悟入廣大甚深無上乘理。如是戒壞、見不壞者,應知亦爾。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Nếu có Bổ Đặc Già La gia hạnh
hoại, mà ư nhạo chẳng hoại, hễ gặp bất
cứ một loại nhân nào gây nên Vô Y Hạnh, khiến phạm
tội căn bản, liền sợ hăi sâu xa, hổ thẹn
buông bỏ, chẳng nhiều lượt làm các hạnh ác.
Như Lai v́ lợi ích kẻ đó, bèn nói có ô đạo
sa-môn. V́ cớ sao vậy? Kẻ đó tạo ác nghiệp nặng
nề như thế xong, liền lập tức phơi bày,
chẳng dám giấu diếm, hổ thẹn sám hối. Kẻ
đó do hổ thẹn sám hối như vậy, tội
được trừ diệt, vĩnh viễn đoạn
sự tiếp nối [của ác nghiệp], chẳng c̣n làm
nữa. Tuy trong hết thảy các pháp sự của hàng
sa-môn, vẫn bị trục xuất, chẳng được
phép thọ dụng hết thảy các vật dụng của
sa-môn, nhưng do kẻ đó trở thành pháp khí trong tam thừa,
cho nên Như Lai từ bi, hoặc v́ kẻ đó nói pháp Thanh
Văn Thừa, hoặc v́ kẻ đó nói pháp Duyên Giác Thừa,
hoặc v́ kẻ đó nói pháp Vô Thượng Thừa. Do v́
điều này, kẻ ấy chuyển sanh sang đời thứ
hai, đời thứ ba, do sức phát nguyện chân chánh, do
sức gặp gỡ bạn lành, hết thảy các nghiệp
chướng ác trót làm thảy đều tiêu diệt. Hoặc
là có khi chứng đắc quả Thanh Văn Thừa, hoặc
có kẻ chứng đắc quả Duyên Giác Thừa rồi
bát Niết Bàn, hoặc có người ngộ nhập lư Vô Thượng
Thừa rộng lớn rất sâu. Như thế th́ đối
với kẻ giới hoại mà kiến chẳng hoại
cũng nên biết sẽ giống như thế).
Tiếp
đó, đối với mỗi nhân [tạo tác Vô Y Hạnh]
đều nói lại một lượt.
Tuy
đă phá giới, nhưng trong đời này, kẻ ấy
có thể sám hối sửa lỗi, đức Phật lại
nói pháp tam thừa cho kẻ đó. Trong đời thứ
hai, hay đời thứ ba, kẻ đó do sức phát khởi
chánh nguyện, lại được gặp gỡ các thượng thiện hữu, tất cả
các ác nghiệp chướng đều tiêu diệt. Do vậy,
chứng đắc pháp Thanh Văn Thừa, hoặc có
người chứng đắc pháp Duyên Giác Thừa, hoặc
chứng đắc pháp Vô Thượng Thừa rộng lớn
rất sâu. Đó gọi là “giới hoại, kiến bất
hoại, ưng tri diệc nhĩ” (đó gọi là giới
hoại, kiến chẳng hoại, hăy nên biết cũng thế).
Thứ
nhất là “gia hạnh hoại, ư nhạo bất hoại”
và “ư nhạo hoại, gia hạnh bất hoại”, gộp
chung cả hai điều để giải thích. “Gia hạnh
hoại” là chẳng có phương tiện thiện xảo.
V́ đă phá giới, sẽ chẳng có phương tiện
thiện xảo. Tuy gia hạnh đă hoại, nhưng ư nhạo
bất hoại, [nghĩa là] người ấy
c̣n có thể hổ thẹn, có thể sám hối, c̣n có thể
phát lộ. Tuy là ô đạo sa-môn, vẫn có thể phát lộ
sám hối, có biểu hiện hối cải, tội của
kẻ đó có thể bị trừ diệt. Do vậy,
đức Phật dạy: “Đối với ô đạo
sa-môn, cũng phải nên cúng dường, phải nên tôn
kính”, là do ư nghĩa này.
Tuy
ô đạo sa-môn chẳng thể chứng quả trong
đời này, nhưng trong đời thứ hai, hoặc đời thứ ba, sức mạnh chánh kiến
của người ấy sẽ phát huy. Lại gặp thiện
hữu d́u dắt, vậy th́ hết thảy các nghiệp
chướng ác do người ấy đă tạo đều
bị tiêu diệt. C̣n như chứng đắc quả
Thanh Văn Thừa, hoặc chứng đắc quả
Duyên Giác Thừa rồi bát Niết Bàn, sẽ chẳng nhất
định, phải tùy thuộc t́nh huống tu tập của
người ấy trong đời thứ hai, hay đời
thứ ba.
“Hoặc
hữu ngộ nhập quảng đại thậm thâm Vô Thượng Thừa lư, như thị giới hoại, kiến bất
hoại” (hoặc là có kẻ ngộ nhập lư Vô Thượng Thừa rộng
lớn rất sâu, giới hoại mà kiến chẳng hoại
như thế): Người ấy tuy phá giới, nhưng
tri kiến chẳng bị phá hoại, vẫn nhận biết
chính ḿnh sai lầm. Có những kẻ tuy làm sai, nhưng chẳng
thừa nhận, c̣n cho rằng chính ḿnh làm đúng, đó là
thật sự ác. Tuy đă phá giới, người ấy vẫn
có chánh tri, chánh kiến, có thể sám hối sửa đổi.
(Kinh)
Nhược hữu Bổ Đặc Già La ư nhạo hoại,
gia hạnh bất hoại, Như Lai vị ích bỉ cố,
thuyết cầu Tứ Phạm Trụ pháp. Bỉ thị
Thanh Văn Thừa khí, hoặc thị Duyên Giác Thừa khí.
Nhược hữu Bổ Đặc Già La gia hạnh, ư nhạo
câu hoại, bỉ ư chư thừa, giai phi pháp khí,
Như Lai vị ích bỉ cố, tán thuyết bố thí.
Nhược hữu Bổ Đặc Già La kiến hoại,
giới bất hoại, Như Lai vị ích bỉ cố,
thuyết duyên khởi pháp linh xả ác kiến, ư hiện
thân trung, nhập Thanh Văn pháp, hoặc Duyên Giác pháp, hoặc
ư dư thân, phương năng ngộ nhập.
(經)若有補特伽羅,意樂壞,加行不壞,如來為益彼故,說求四梵住法,彼是聲聞乘器,或是緣覺乘器。若有補特伽羅,加行、意樂俱壞,彼於諸乘皆非法器,如來為益彼故,讚說佈施。若有補特伽羅,見壞、戒不壞,如來為益彼故,說緣起法令舍惡見,於現身中入聲聞法,或緣覺法,或於餘身方能悟入。
(Kinh: Nếu có Bổ
Đặc Già La ư nhạo hoại, gia hạnh bất hoại,
Như Lai v́ lợi ích người đó, nói hăy cầu pháp Tứ Phạm Trụ.
Người ấy là pháp khí Thanh Văn Thừa, hoặc là
pháp khí Duyên Giác Thừa. Nếu có Bổ Đặc Già La mà
gia hạnh lẫn ư nhạo đều hư hoại th́ kẻ
đó chẳng phải là pháp khí nơi các thừa, Như
Lai v́ lợi ích người đó bèn khen nói bố thí. Nếu
có Bổ Đặc Già La mà kiến hoại, giới bất
hoại, Như Lai v́ lợi ích người đó, sẽ
nói pháp duyên khởi, khiến cho người ấy bỏ
ác kiến, nơi thân hiện tại bèn nhập pháp Thanh
Văn, hoặc pháp Duyên Giác, hoặc từ nơi thân khác mới
có thể ngộ nhập).
“Nhược hữu Bổ
Đặc Già La ư nhạo hoại, gia hạnh bất hoại”
(Nếu có Bổ Đặc Già La ư nhạo hoại,
gia hạnh bất hoại), [nghĩa là] tuy người ấy
chẳng ưa thích Phật giáo, chẳng tin tưởng Phật
pháp cho lắm (đó là “ư nhạo hoại”), nhưng người ấy tu tập chẳng gián
đoạn, niệm kinh, theo thường lệ mà tụng
niệm khóa tụng, theo lệ thường mà lễ bái
(đó là “gia hạnh bất
hoại”). Ư nhạo của
người ấy bị hoại, tín tâm chẳng trọn
đủ, chẳng nẩy sanh hứng thú, nhưng gia hạnh
bất hoại, cứ theo lệ thường mà hành tŕ. Do
sức gia tŕ của Tam Bảo, có thể khiến cho
người ấy c̣n thể t́m lại, khôi phục ư nhạo.
Phương tiện thiện
xảo, phương tiện chứng đạo, khi quư vị
muốn tu đạo, trước đó phải có gia hạnh.
Gia hạnh (加行) là ǵ vậy? Là
phương tiện thiện xảo. Không nhất định
rạp lạy mười vạn lần, chẳng nhất
định là niệm mười vạn Bách Tự Minh Chú[1],
cũng chẳng nhất định phải niệm mười
vạn lần bài Tam Bảo Tụng. Đó là tu gia hạnh
theo kiểu Mật Tông. Trong Hiển giáo, đọc tụng,
lễ bái, sám hối, tụng niệm sáng tối đều
gọi là gia hạnh. Đó là phương tiện thiện
xảo trước khi tu đạo, gia hạnh là
phương tiện thiện xảo. Như Lai v́ làm cho
người ấy đạt được lợi ích, “thuyết
cầu Tứ Phạm Trụ pháp” (nói hăy cầu pháp Tứ
Phạm Trụ). Pháp Tứ Phạm Trụ lả Tứ Vô
Lượng Tâm. Tứ Vô Lượng Tâm là từ, bi, hỷ,
xả, có thể thanh tịnh cái tâm của quư vị. Nếu
là pháp khí Thanh Văn Thừa, hoặc là pháp khí Duyên Giác Thừa,
thế th́ người ấy tu Duyên Giác Thừa, hay tu Thanh
Văn Thừa, sẽ có thể thoát
ĺa nỗi khổ. V́ thế, đối với loại tỳ-kheo
ô đạo, tức ô đạo sa-môn, đức Phật
đă tạo phương tiện thiện xảo như thế
để nhiếp thọ họ.
“Nhược
hữu Bổ Đặc Già La gia hạnh, ư nhạo câu hoại,
bỉ ư chư thừa, giai phi pháp khí” (Nếu có Bổ
Đặc Già La gia hạnh lẫn ư nhạo đều hoại,
kẻ đó đối với các thừa đều chẳng
phải là pháp khí): Gia hạnh hư hoại, mà ư nhạo
cũng hư hoại. Đối với Duyên Giác Thừa
cũng thế, mà đối với Thanh Văn Thừa
cũng thế, đối với Đại Thừa Phật
pháp cũng thế, kẻ đó đều chẳng phải
là pháp khí. Làm như thế nào đây? Đức Phật liền
v́ kẻ đó khen nói pháp bố thí, hăy làm thiện sự
cho nhiều, thí xả cho nhiều. Đấy cũng là một
phương pháp nhiếp thọ khác.
“Nhược
hữu Bổ Đặc Già La kiến hoại, giới bất
hoại” (nếu có Bổ Đặc Già La kiến hoại,
giới bất hoại), tức là tuy tri kiến bất
chánh, nhưng kẻ đó chẳng phá giới. Như thế
th́ Như Lai do gia hộ kẻ đó, bèn nói pháp duyên khởi,
khiến cho kẻ đó xả ác kiến, khiến cho kẻ
đó nhận biết các pháp do nhân duyên sanh khởi. “Ư
hiện thân trung, nhập Thanh Văn pháp, hoặc Duyên Giác
pháp, hoặc ư dư thân, phương năng ngộ nhập”
(Trong thân hiện tại, nhập pháp Thanh Văn, hoặc
pháp Duyên Giác, hoặc từ nơi thân khác mới
có thể ngộ nhập): Đời này vẫn chưa
được, đời sau mới có thể ngộ nhập.
Loại
thứ tư là “giới hoại, kiến bất hoại”.
Đối với “giới hoại, kiến bất hoại”
và “kiến hoại, giới bất hoại” có thể
giải thích cùng lúc. Như Lai v́ khiến cho kẻ đó
được lợi ích, liền “thuyết
duyên khởi pháp, linh xả ác kiến” (nói pháp duyên khởi
khiến cho họ bỏ ác kiến). Hoặc là kiến hoại,
giới bất hoại, hoặc kẻ đó là giới hoại,
kiến bất hoại, hai loại ấy đều
tương tự; cho nên chẳng cần phải nhắc lại.
(Kinh)
Nhược hữu Bổ Đặc Già La giới kiến
câu hoại, bỉ ư thánh pháp, diệc bất thành khí.
Như Lai vị ích bỉ cố, tán thuyết bố thí.
Nhược hữu Bổ Đặc Già La, gia hạnh, ư nhạo,
giới, kiến bất hoại, nhi đản y chỉ ác
hữu lực hạnh, Như Lai vị ích bỉ cố,
tán thuyết Thập Thiện Nghiệp Đạo. Nhược
hữu Bổ Đặc Già La tuy phục y chỉ thiện
hữu lực hạnh, nhi phục ngu độn, do như
á dương, bất năng lănh thọ thiện, bất thiện pháp. Như Lai vị
ích bỉ cố, tán thuyết tập tụng. Nhược
vị chủng chủng tham bệnh sở bức, hữu
vị chủng chủng kiến thú mê hoặc, Như Lai vị
ích như thị đẳng cố, cầu giải thoát giả,
vị kỳ khai thị năng xuất sanh tử, thú Thanh Văn Thừa Tứ Thánh
Đế pháp. Đoạn Kiến Luận giả, vị kỳ tán thuyết
chư duyên khởi pháp. Thường Kiến Luận giả, vị thuyết tam giới, chư hữu,
chư thú, tử thử, sanh bỉ,
như đào gia luân văng lai vô tuyệt, vô thường đẳng
pháp.
(經)若有補特伽羅,戒、見俱壞,彼於聖法亦不成器,如來為益彼故,讚說佈施。若有補特伽羅,加行、意樂、戒、見不壞,而但依止惡友力行,如來為益彼故,讚說十善業道。若有補特伽羅,雖復依止善友力行,而復愚鈍猶如啞羊,不能領受善不善法,如來為益彼故,讚說習誦。若為種種貪病所逼,有為種種見趣迷惑,如來為益如是等故,求解脫者,為其開示能出生死,趣聲聞乘四聖諦法;斷見論者,為其讚說諸緣起法;常見論者,為說三界諸有諸趣,死此生彼如陶家輪,往來無絕無常等法。
(Kinh: Nếu có Bổ
Đặc Già La giới lẫn kiến đều hoại,
kẻ đó đối với thánh pháp cũng chẳng
thành pháp khí. Như Lai v́ lợi ích kẻ đó, khen nói bố
thí. Nếu có Bổ Đặc Già La, gia hạnh, ư nhạo,
giới, kiến chẳng hoại, chỉ v́ y chỉ lực
hạnh của bạn ác, Như Lai do lợi ích kẻ
đó, bèn khen nói Thập Thiện Nghiệp Đạo. Nếu
có Bổ Đặc Già La tuy y chỉ lực hạnh của
bạn lành, nhưng lại ngu độn giống như dê
câm, chẳng thể lănh nhận thiện pháp và bất thiện
pháp. Như Lai v́ lợi ích kẻ đó, khen nói tập tụng.
Nếu có kẻ bị các thứ bệnh tham bức bách, bị
các kiến giải mê hoặc, Như Lai v́ lợi ích những
kẻ cầu giải thoát như thế, liền v́ họ
khai thị pháp Tứ Thánh Đế để họ có thể thoát khỏi đường
sanh tử theo Thanh Văn Thừa.
V́ kẻ chấp Đoạn Kiến Luận mà khen ngợi
các pháp duyên khởi. V́ kẻ chấp Thường Kiến
Luận mà nói các hữu, các đường trong tam giới, chết đây,
sanh kia như cái bánh xe của thợ gốm xoay tṛn không dứt,
vô thường v.v…)
“Nhược
hữu Bổ Đặc Già La, giới kiến câu hoại,
bỉ ư thánh pháp, diệc bất
thành khí” (Nếu có Bổ Đặc Già La giới lẫn kiến
đều hoại, kẻ đó đối với thánh pháp
cũng chẳng thành pháp khí): Như thế th́ đức Phật
sẽ v́ kẻ đó nói pháp bố thí, khiến cho Bổ
Đặc Già La ấy cũng có thể được cứu.
“Nhược
hữu Bổ Đặc Già La gia hạnh, ư nhạo, giới,
kiến bất hoại” (Nếu có Bổ Đặc Già
La gia hạnh, ư nhạo, giới và kiến đều chẳng hoại), gia hạnh cũng bất hoại,
ư nhạo cũng bất hoại, giới cũng bất hoại,
kiến cũng bất hoại. Đấy chẳng phải
là rất tốt hay sao? Nhưng kẻ đó có bạn ác, kẻ
bại hoại kết bè kéo đảng, nương theo sức
của bạn ác, làm theo bạn ác, hỏng bét mất rồi!
Chẳng hạn như anh ngài A Nan là Đề Bà Đạt
Đa, chẳng phải là thân đọa hăm trong địa
ngục ư? Ông ta lôi kéo năm trăm vị tỳ-kheo
tách khỏi Tăng đoàn, năm trăm vị tỳ-kheo ấy
theo ông ta phá ḥa hợp Tăng. Năm trăm vị tỳ-kheo
ấy kiến cũng bất hoại, giới cũng bất
hoại, ư nhạo cũng bất hoại,
nhưng làm theo ác hữu, phạm tội Nhất Xiển
Đề, ḷng tin chẳng trọn đủ!
“Nhược
hữu Bổ Đặc Già La tuy phục y chỉ thiện
hữu lực hạnh, nhi phục ngu độn” (Nếu
có Bổ Đặc Già La tuy vẫn y chỉ lực hạnh
của thiện hữu, nhưng lại ngu độn): Loại
này trái ngược. Có một loại đi theo bạn lành,
nhưng tŕ độn quá mức, chuyện ǵ cũng đều
chẳng biết, đă chẳng thể
thuyết pháp, mà cũng chẳng thể phân biệt rơ ràng
nghĩa lư, giống hệt như dê câm. Dê câm chẳng thể nói được.
Đức Phật dùng con dê câm để tỷ dụ kẻ
đó chẳng hiểu biết Phật pháp chi cả, cũng chẳng
thể tiếp nhận ǵ là thiện pháp, ǵ là bất thiện
pháp, là một vị Tăng giống như con dê câm.
“Như
Lai vị ích bỉ cố, tán thuyết tập tụng” (Như Lai v́ lợi
ích kẻ đó mà khen nói tập tụng): Người
đó hăy đọc nhiều kinh sách Đại
Thừa, đọc nhiều kinh điển, học tập
tụng kinh.
“Nhược
vị chủng chủng tham bệnh sở bức, hữu
vị chủng chủng kiến thú mê hoặc. Như Lai vị
ích như thị đẳng cố, cầu giải thoát giả,
vị kỳ khai thị năng xuất sanh tử, thú Thanh Văn Thừa Tứ Thánh Đế pháp” (Nếu có người
bị các thứ bệnh tham bức bách, có người bị
các thứ tri kiến mê hoặc. Như Lai v́ lợi ích những
kẻ cầu giải thoát như thế, bèn v́ họ khai thị
pháp Tứ Thánh Đế thoát khỏi đường sanh tử
theo pháp Thanh Văn Thừa), tức là pháp Khổ, Tập,
Diệt, Đạo. Bổ Đặc Già La có mười
loại, trong loại thứ tám bèn nói đến cả loại
thứ chín và thứ mười, hoàn toàn chẳng nêu ra từng
điều [riêng rẽ]. Đó là có lúc nói gộp lại, có
khi nói tách ra, quư vị cứ chiếu theo kinh văn, vừa
nh́n sẽ biết ngay.
Đối
với “Đoạn Kiến Luận giả,
vị kỳ tán thuyết chư duyên khởi pháp. Thường Kiến
Luận giả,
vị thuyết tam giới, chư hữu, chư thú, tử thử, sanh bỉ” [nghĩa
là] nếu đối với kẻ theo Thường Kiến
Luận, bèn nói pháp chẳng thường, tức là: Do [kẻ
tuân theo] Thường Kiến Luận cho rằng hết thảy,
tức núi, sông, đại địa, đều bất biến,
vĩnh viễn tồn tại. Người chết đi rồi
sẽ lại
tái sanh. Tuy là sống sống, chết chết, chết
chết, sống sống, kẻ đó vẫn nghĩ là thường
hằng. Hoặc là đối với thọ mạng, mong sống
một ngàn năm. Đấy là chúng sanh theo Thường Kiến.
Họ thấy hết thảy sự vật dường như
chẳng hư hoại, cho nên tăng trưởng tâm tham.
Nhưng đấy là sai lầm, tam giới đều là vô
thường!
Đức
Phật nói một tỷ dụ là “đào gia luân” (陶家輪, cái bàn xoay của
thợ gốm). Làm đồ sứ th́ có một cái bánh xe
(bàn xoay), đặt đồ gốm trên ấy, sẽ xoay
tṛn như vậy để nặn. [Cái bánh xe ấy] chuyển
động không ngừng, [dùng vật này để tỷ dụ]
chẳng có pháp thường hằng để đạt
được. Dùng điều này để h́nh dung vô
thường.
(Kinh) Thiện nam tử! Như Lai vô hữu sở
thuyết, danh tự, ngôn thuyết, âm thanh, không vô quả giả,
vô bất giai vị thành thục hữu t́nh. Thị cố, nhất
thiết hủy báng Như Lai sở thuyết chánh pháp, hoại
chư hữu t́nh chánh pháp nhăn tội, quá chư Vô Gián, tự
Vô Gián đẳng vô lượng trọng tội. Nhược
hữu ư ngă vị dục lợi lạc nhất thiết
hữu t́nh sở thuyết chánh pháp, vị y Thanh Văn Thừa
sở thuyết chánh pháp, hoặc y Duyên Giác Thừa sở
thuyết chánh pháp, hoặc y Đại Thừa sở thuyết
chánh pháp, phỉ báng, giá chỉ, chướng tế, ẩn
một, hạ chí nhất tụng, đương tri thị
danh báng chánh pháp giả, diệc danh hủy diệt Bát Thánh
Đạo giả, diệc danh phá hoại nhất thiết
hữu t́nh chánh pháp nhăn giả. Như thị chi nhân, kư tự
tập hành đại vô lợi hạnh, diệc linh nhất
thiết hữu t́nh tập hành đại vô lợi hạnh.
Thử nhân y chỉ vô tàm quư Tăng,
như thị hủy báng Như Lai chánh pháp.
(經)善男子,如來無有所說名字,言說音聲空無果者,無不皆為成熟有情。是故一切譭謗如來所說正法,壞諸有情正法眼罪,過諸無間,似無間等無量重罪。若有於我為欲利樂一切有情所說正法,謂依聲聞乘所說正法,或依緣覺乘所說正法,或依大乘所說正法,誹謗遮止,障蔽隱沒,下至一頌,當知是名謗正法者,亦名毀滅八聖道者,亦名破壞一切有情正法眼者。如是之人,既自習行大無利行,亦令一切有情習行大無利行。此人依止無慚愧僧,如是譭謗如來正法。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Như Lai chẳng có ǵ để nói,
danh tự, ngôn thuyết, âm thanh đều là Không, chẳng
thực tại, không ǵ chẳng nhằm đều khiến
cho hữu t́nh thành thục. V́ thế, hết thảy tội
hủy báng chánh pháp do Như Lai đă nói, làm hư con mắt
chánh pháp của hữu t́nh, c̣n nặng
hơn vô lượng trọng tội như tội Vô Gián, hay tội tương tự Vô Gián v.v… Nếu
có kẻ đối với chánh pháp do ta đă nói nhằm lợi
lạc hết thảy hữu t́nh, tức là chánh pháp đă
nói do dựa theo Thanh Văn Thừa, chánh pháp đă nói do dựa
theo Duyên Giác Thừa, hoặc chánh pháp đă nói do dựa theo
Đại Thừa, mà phỉ báng, ngăn trở, chướng
lấp, ẩn giấu, dẫu chỉ một bài tụng,
hăy nên biết [tội ấy] sẽ gọi là hủy báng
chánh pháp, cũng gọi là hủy diệt Bát Thánh Đạo,
cũng gọi là phá hoại con mắt
chánh pháp của hết thảy hữu t́nh. Người
như thế đă tự làm hạnh vô ích to lớn, mà
cũng khiến cho hết thảy hữu t́nh tập làm hạnh
vô ích to lớn. Kẻ đó y chỉ hạng tăng sĩ
không hổ thẹn, hủy báng chánh pháp của Như Lai
như thế đó).
Danh
tự, ngôn thuyết và âm thanh do Như Lai đă nói đều
là Không, chẳng có thật thể. “Vô quả” (無果) là chẳng có thực tại, đều là Không. Do vậy,
tướng danh tự, tướng ngôn thuyết, âm thanh,
đều là giả, như mộng, huyễn, bọt, bóng.
Nói là Không, “vô quả” tức là chẳng có thực tại.
“Vô bất giai vị thành thục hữu t́nh” (không ǵ
chẳng đều v́ thành thục hữu t́nh): Mục
đích là khiến cho chúng sanh đắc độ, nhằm
mục đích này!
“Thị
cố nhất thiết hủy báng Như Lai sở thuyết
chánh pháp, hoại chư hữu t́nh chánh pháp nhăn tội, quá
chư Vô Gián, tự như Vô Gián đẳng vô lượng
trọng tội” (V́ thế, hết thảy các tội hủy
báng chánh pháp do Như Lai đă nói, phá hư con mắt chánh
pháp của hữu t́nh c̣n nặng hơn vô lượng trọng
tội như tội Vô Gián, hay tội
tương tự Vô Gián v.v…): Nếu quư vị hủy báng
pháp như vậy, sẽ mắc tội ác rất lớn. Hủy
diệt pháp do Như Lai đă nói, sẽ giống như hủy
diệt con mắt chánh pháp của chúng sanh, đó gọi là “phạm
tội hủy diệt pháp”. So với các tội Vô Gián
trong thế gian, cho đến tội tương tự Vô
Gián, vô lượng các tội, tội diệt pháp lớn nhất.
Đây là trả lời cho điều hoài nghi của Kim
Cang Tạng Bồ Tát.
(Kinh) Phục thứ thiện nam tử!
Hữu tứ chủng Tăng, hà đẳng vi tứ? Nhất
giả, thắng nghĩa Tăng. Nhị giả, thế tục
Tăng. Tam giả, á dương Tăng. Tứ giả, vô
tàm quư Tăng. Vân hà danh thắng nghĩa Tăng? Vị Phật
Thế Tôn, nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát chúng, kỳ
đức tôn cao, ư nhất thiết pháp, đắc tự
tại giả, nhược Độc Thắng Giác, nhược
A La Hán, nhược Bất Hoàn, nhược Nhất Lai,
nhược Dự Lưu, như thị thất chủng Bổ
Đặc Già La, thắng nghĩa Tăng nhiếp. Nhược
chư hữu t́nh, đới tại gia tướng, bất
thế tu phát, bất phục ca-sa, tuy bất đắc thọ
nhất thiết xuất gia biệt giải thoát giới,
nhất thiết yết-ma, bố-tát, tự tứ, tất
giai giá khiển, nhi hữu thánh pháp, đắc thánh quả
cố, thắng nghĩa Tăng nhiếp, thị danh thắng
nghĩa Tăng. Vân hà danh thế tục Tăng? Vị thế
tu phát, bị phục ca-sa, thành tựu xuất gia biệt
giải thoát giới, thị danh thế tục Tăng. Vân
hà danh á dương Tăng? Vị bất liễu tri căn
bản đẳng tội, phạm dữ bất phạm,
bất tri khinh trọng, hủy phạm chủng chủng
tiểu tùy, tiểu tội, bất tri phát lộ sám hối
sở phạm, xuẩn ngu, lỗ độn, ư vi tiểu
tội bất kiến, bất úy, bất y thông minh thiện
sĩ nhi trụ, bất thời thời
gian, văng nghệ
đa văn, thông minh giả sở thân cận, thừa sự,
diệc bất sổ sổ cung kính thỉnh vấn: “Vân hà vi thiện?
Vân hà bất thiện? Vân hà hữu tội? Vân hà vô tội?
Tu hà vi diệu? Tác hà vi ác?” Như thị nhất thiết Bổ
Đặc Già La, á dương Tăng nhiếp, thị danh
á dương Tăng. Vân hà danh vô tàm quư Tăng? Vị
nhược hữu t́nh, vị hoạt
mạng cố, quy y ngă pháp, nhi cầu xuất gia. Đắc
xuất gia dĩ, ư sở thọ tŕ biệt giải
thoát giới, nhất thiết hủy phạm, vô tàm, vô quư, bất
kiến, bất úy hậu thế khổ quả, nội
hoài hủ bại, như uế oa loa, bối âm cẩu hạnh,
thường háo hư ngôn, tằng vô nhất thật, xan
tham, tật đố, ngu si, kiêu mạn, ly tam thắng nghiệp,
tham trước lợi dưỡng,
cung kính, danh dự, đam miện lục trần, háo nhạo
dâm dật, ái dục, sắc, thanh, hương, vị,
xúc cảnh. Như thị nhất thiết Bổ Đặc
Già La, vô tàm Tăng nhiếp, hủy báng chánh pháp, thị danh
vô tàm quư Tăng.
(經)復次,善男子,有四種僧,何等為四?一者、勝義僧,二者、世俗僧,三者、啞羊僧,四者、無慚愧僧。云何名勝義僧?謂佛世尊,若諸菩薩摩訶薩眾,其德尊高,於一切法得自在者,若獨勝覺,若阿羅漢,若不還,若一來,若預流,如是七種補特伽羅,勝義僧攝。若諸有情,帶在家相,不剃鬚發,不服袈裟,雖不得受一切出家別解脫戒,一切羯磨、布薩、自恣悉皆遮遣,而有聖法得聖果故,勝義僧攝。是名勝義僧。云何名世俗僧?謂剃鬚發,被服袈裟,成就出家別解脫戒,是名世俗僧。云何名啞羊僧?謂不了知根本等罪,犯與不犯;不知輕重,毀犯種種小隨小罪;不知發露懺悔所犯,蠢愚魯鈍,於微小罪,不見不畏;不依聰明善士而住;不時時間往詣多聞聰明者所,親近承事;亦不數數恭敬請問:‘云何為善?云何不善?云何有罪?云何無罪?修何為妙?作何為惡?’如是一切補特伽羅,啞羊僧攝。是名啞羊僧。云何名無慚愧僧?謂若有情為活命故,皈依我法而求出家,得出家已,於所受持別解脫戒,一切毀犯無慚無愧,不見不畏後世苦果,內懷腐敗如穢蝸螺,貝音狗行,常好虛言曾無一實,慳貪、嫉妒、愚癡、憍慢,離三勝業,貪著利養,恭敬名譽,耽湎六塵,好樂婬泆,愛慾色聲香味觸境。如是一切補特伽羅,無慚僧攝,譭謗正法。是名無慚愧僧。
(Kinh:
Lại này thiện nam tử! Có bốn loại Tăng, những
ǵ là bốn? Một là thắng nghĩa Tăng. Hai là thế
tục Tăng. Ba là Tăng dê câm. Bốn là Tăng không hổ
thẹn. Thế nào là thắng nghĩa Tăng? Tức là Phật
Thế Tôn, hoặc là các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đức hạnh tôn quư, cao cả,
được tự tại trong hết thảy các pháp, hoặc
là Độc Thắng Giác, hoặc A La Hán, hoặc Bất
Hoàn, hoặc Nhất Lai, hoặc Dự Lưu. Bảy loại
Bổ Đặc Già La như thế thuộc vào thắng
nghĩa Tăng. Nếu các hữu t́nh mang h́nh tướng tại
gia, chẳng cạo râu tóc, chẳng đắp ca-sa, tuy chẳng
được thọ hết thảy các biệt giải
thoát giới của hàng xuất gia, hết thảy các pháp yết-ma,
bố-tát, tự tứ đều bị cấm dự, bị
đuổi ra, nhưng người ấy có thánh pháp. Do
đắc thánh quả, nên thuộc về thánh nghĩa
Tăng. Đó gọi là thắng nghĩa Tăng. Thế nào
là thế tục Tăng? Tức là cạo bỏ râu tóc,
khoác đắp ca-sa, thành tựu biệt giải thoát giới
của hàng xuất gia. Đó gọi là thế tục
Tăng. Thế nào Tăng dê câm? Tức là đối với
các tội căn bản, chẳng biết rơ có phạm hay
chẳng phạm, chẳng biết nặng hay nhẹ, hủy
phạm đủ thứ tiểu tùy[2],
tiểu tội, chẳng biết phơi bày, sám hối các tội
đă phạm, ngu xuẩn, thô lỗ, đần độn,
chẳng thấy, chẳng sợ các tội nhỏ nhặt, chẳng nương
theo bậc thiện sĩ thông minh để trụ, chẳng
thường luôn đến chỗ bậc đa văn,
thông minh để thân cận, phụng sự, cũng chẳng
nhiều lượt cung kính thưa hỏi: “Thế nào là
thiện? Thế nào là bất thiện? Thế nào là có tội?
Thế nào là vô tội? Tu pháp ǵ là tốt nhất? Làm điều
ǵ là ác?” Hết thảy Bổ Đặc Già La như thế
thuộc loại Tăng dê câm. Đó là Tăng dê câm. Thế
nào là Tăng không hổ thẹn? Tức là nếu có hữu
t́nh v́ để nuôi thân mà quy y pháp của ta, cầu xuất
gia. Đă được xuất gia, đối với biệt
giải thoát giới đă thọ, bèn hủy phạm
hết thảy, chẳng hổ, chẳng thẹn, chẳng
thấy, chẳng sợ khổ quả trong đời sau,
ḷng ôm ấp những điều thối nát như con ốc
sên dơ bẩn, hành theo hạnh của chó, thường
ham chuộng lời rỗng tuếch, chẳng nói một
điều nào chân thật, keo kiệt, tham lam, ganh ghét, ngu
si, kiêu mạn, ĺa ba nghiệp thù thắng, tham đắm lợi dưỡng,
cung kính, danh dự, đắm đuối sáu trần,
ưa chuộng dâm dật, ái dục, và cảnh thanh,
hương, vị, xúc. Hết thảy Bổ Đặc
Già La như thế thuộc loại Tăng không hổ thẹn,
hủy báng chánh pháp. Đó gọi là Tăng không hổ thẹn).
“Phục
thứ thiện nam tử! Hữu tứ chủng Tăng”
(Lại này thiện nam tử! Có bốn loại Tăng):
Kinh văn chẳng nói đến loại Tăng kéo bè, kết
đảng. “Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, thắng
nghĩa Tăng. Nhị giả, thế tục Tăng. Tam
giả, á dương Tăng. Tứ giả, vô tàm quư
Tăng” (Những ǵ là bốn? Một là thắng
nghĩa Tăng. Hai là thế tục Tăng. Ba là Tăng dê
câm. Bốn là Tăng không hổ thẹn). Thắng nghĩa
Tăng là ǵ? “Vị Phật Thế Tôn, nhược chư
Bồ Tát Ma Ha Tát chúng, kỳ đức tôn cao, ư nhất
thiết pháp đắc tự tại giả” (Tức là
Phật Thế Tôn, hoặc các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đức hạnh tôn quư, cao cả, được tự
tại trong hết thảy các pháp), đó là Thắng
Nghĩa Tăng. “Nhược Độc
Thắng Giác, nhược A La Hán” (hoặc là Độc Thắng
Giác, hoặc A La Hán), [Độc
Thắng Giác] tức là Độc Giác,
A La Hán là Vô Sanh. “Nhược Bất Hoàn” tức là Tam
Quả Bất Hoàn (A Na Hàm, Anāgāmin). “Nhược
Nhất Lai” là Nhị Quả (Tư Đà Hàm, Sakṛdāgāmin). “Nhược
Dự Lưu” là thánh nhân Sơ Quả (Tu Đà Hoàn, Srotāpanna). Tu Đà Hoàn, A
Na Hàm, Tư Đà Hàm, và A La
Hán là quả Tứ Thánh Đế. Lại c̣n thêm Phật, Bồ
Tát, và Độc Giác, tổng cộng bảy loại Bổ
Đặc Già La. Phật cũng là một loại chúng sanh.
Trong bảy loại Bổ Đặc Già La, Phật, Bồ
Tát, Duyên Giác là ba loại, lại c̣n bốn quả, tức
Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, và Tứ Quả,
là bảy loại Bổ Đặc Già La. Bảy loại
này đều thuộc vào Thắng Nghĩa Tăng.
“Nhược
chư hữu t́nh đới tại gia tướng” (nếu
các hữu t́nh mang h́nh tướng tại gia), tuy chưa xuất
gia, nhưng tâm người ấy xuất gia, thân chưa xuất
gia, “bất thế tu phát, bất phục ca-sa” (chẳng
cạo râu tóc, chẳng đắp ca-sa). Tuy chưa thọ
biệt giải thoát giới của hàng xuất gia, hết
thảy các pháp yết-ma, bố-tát, tự tứ, người
ấy đều chẳng được phép tham gia. Đó
chính là “giá khiển, giá chỉ” (遮遣,遮止, ngăn che,
đuổi ra [không cho tham dự]). “Nhi hữu thánh pháp”
(nhưng có thánh pháp), tại gia cũng có người đắc
quả vị thù thắng. Hạng người này cũng thuộc
loại Thắng Nghĩa Tăng. Tại gia đạt
được quả vị thù thắng th́
cũng gọi là Thắng Nghĩa Tăng.
“Vân
hà danh thế tục Tăng? Vị thế tu phát, bị phục
ca-sa, thành tựu xuất gia biệt giải thoát giới,
thị danh thế tục Tăng” (Thế nào là thế tục
Tăng? Tức là cạo râu tóc, thành tựu biệt giải
thoát giới của hàng xuất gia th́ gọi là thế tục
Tăng): Do không chứng thắng quả, nên gọi là thế
tục Tăng.
Thế
nào là Tăng như dê câm? Chẳng biết rơ các tội
căn bản có phạm hay không! Đối với căn bản
giới, người đó chẳng biết ǵ là phạm,
ǵ là không phạm. Phạm là như thế nào? Trong mỗi
giới, đều trọn đủ năm duyên, chẳng
hạn như sát giới: Sát nhân, sát pháp, sát duyên, sát nghiệp
(cái nhân gây ra giết chóc, cách giết, duyên giúp cho sát nghiệp
thành tựu, nghiệp giết), cho đến mạng tận.
“Mạng tận” (命盡) là giết chết,
đó mới là “phạm”. Nếu mạng chưa hết,
nhưng có cái nhân giết chóc, tức ta muốn giết kẻ
đó, mà cũng có cái duyên, chẳng hạn như dao, dùng vật
dụng ǵ đó [để giết], th́ gọi là Duyên. Sát
nghiệp là nghĩ cách thức, tức là nghĩ giết bằng
cách nào, hoặc là dùng dao chém, hoặc là bắn, hoặc dùng súng bắn cho chết. Tạo
nghiệp ấy, cho đến nghĩ đủ mọi cách.
Đối tượng bị giết chết, quư vị liền
phạm tội này. Chẳng có những điều ấy,
hễ thiếu một duyên th́ tội chẳng thành. Quư vị
ắt cần phải học, chẳng học sẽ không
biết. Tăng dê câm chẳng học, họ không biết ǵ
là phạm, ǵ là chẳng phạm, đấy gọi là “Tăng
dê câm”. Kẻ đó chẳng học, mà cũng chẳng
thể nói cho người khác!
Thế
nào là Tăng đáng hổ thẹn? Kẻ đó v́ mạng
sống, thấy bát cơm ḥa thượng dễ ăn quá,
đến trà trộn ăn chực cơm của người
xuất gia. Tuy kẻ đó quy y Phật pháp, sau khi xuất
gia, cũng thọ biệt giải thoát giới, nhưng hết
thảy đều phạm. Kẻ đó căn bản là chẳng
nghĩ tới xuất gia, cho nên hết thảy các giới
đều phạm. Đă phạm lại chẳng sám hối,
“vô tàm, vô quư” (không hổ, không thẹn), c̣n cho rằng
bản thân đă làm đúng, cũng chẳng thấy khổ
quả trong đời sau. Nội tâm thối nát,
“như uế oa loa”, [nghĩa là bẩn thỉu] giống
như con ốc nhồi hoặc ốc sên, “bối âm cẩu
hạnh” là học theo hạnh của
chó. Đă học theo chó mà c̣n ăn nói lớn lối,
c̣n nói lời giả dối. “Thường háo hư ngôn,
tằng vô nhất thật” (thường chuộng lời
hư dối, chưa hề nói một lời thành thật):
Một câu lời nói thật đều chẳng có, đều
là lời nói dối.
“Xan
tham, tật đố, ngu si, kiêu mạn” (keo tham, ghen tỵ,
ngu si, kiêu mạn): Ba nghiệp thù thắng kẻ đó đều
ĺa, [tức là] đối với ba nghiệp thù thắng
nơi thân, miệng, ư, kẻ đó hoàn toàn xa ĺa. Kiêu mạn, ngu
si, tham lam, keo kiệt, mười ác đều phạm toàn
bộ. Lại c̣n tham đắm lợi dưỡng,
cung kính, danh dự, tham đắm sáu trần, tức cảnh
giới sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp, chẳng bỏ một thứ nào. “Háo nhạo dâm dật”
(ham chuộng dâm dật): “Háo nhạo dâm dật” là chỉ cầu
hưởng thụ. Nói đơn giản là “ái dục, sắc,
thanh, hương, vị, xúc cảnh. Như thị nhất
thiết Bổ Đặc Già La, vô tàm Tăng nhiếp, hủy
báng chánh pháp, thị danh vô tàm quư Tăng” (ái dục, sắc,
thanh, hương, vị, xúc cảnh. Hết thảy Bổ
Đặc Già La như thế thuộc loại Tăng không
thẹn, hủy báng chánh pháp. Đó là Tăng không hổ thẹn).
(Kinh)
Thiện nam tử! Thắng nghĩa Tăng giả, ư
trung hoặc hữu, diệc thị thắng đạo sa-môn sở nhiếp. Ngôn thắng
đạo giả, vị nhược năng y bát chi thánh
đạo, tự độ nhất thiết phiền năo sử
lưu, diệc linh tha độ. Thử phục vân hà? Vị
Phật Thế Tôn, cập Độc Thắng Giác, chư A
La Hán, như thị tam chủng Bổ Đặc Già La,
dĩ ly nhất thiết hữu chi quyến thuộc, cố
danh Thắng Đạo.
(經)善男子,勝義僧者,於中或有,亦是勝道沙門所攝。言勝道者,謂若能依八支聖道,自度一切煩惱駛流,亦令他度。此復云何?謂佛世尊,及獨勝覺,諸阿羅漢,如是三種補特伽羅,已離一切有支眷屬,故名勝道。
(Kinh: Này thiện nam tử! Trong thắng
nghĩa Tăng cũng có thể bao gồm thắng đạo
sa-môn. Nói “thắng đạo” nghĩa là vị ấy có thể
nương theo Bát Chánh Đạo, tự vượt qua hết
thảy các gịng nước phiền năo sử, và
cũng độ người khác. Điều này lại
như thế nào? Tức là Phật Thế
Tôn, và Độc Thắng Giác, các vị A La Hán, ba loại Bổ
Đặc Già La như thế đă ĺa hữu chi quyến
thuộc, cho nên gọi là Thắng Đạo).
Có
tất cả bốn loại Sa-môn, lại c̣n thêm loại
[sa-môn] kết bè kéo đảng, thành năm loại. V́ Kim
Cang Tạng Bồ Tát hỏi đức Phật: - Trước
kia, đức Phật đă nói ô đạo sa-môn phá giới
giống như xác chết trong biển cả, bị vứt
ra ngoài biển của chư Phật. Hết thảy các thọ
dụng của Tăng chúng đều chẳng chia cho kẻ
đó, kẻ đó cũng chẳng thể có phần. V́ sao
đức Phật c̣n khuyên các đệ tử phải cúng
dường, phải từ bi đối với kẻ
đó?
Chữ
“thiện nam tử” ở đây là nói với Kim Cang Tạng
Bồ Tát, đức Phật khen ngợi Kim Cang Tạng Bồ
Tát. “Thắng nghĩa” (勝義) là nói đến
thắng đạo sa-môn. Thắng Nghĩa được
gộp vào trong thắng đạo sa-môn; đấy là Thắng
Nghĩa. “Thắng đạo” bao gồm vài loại,
loại nào sẽ là thắng nghĩa Tăng? Nói đơn
giản, sẽ là nương theo đạo thù thắng mà
chứng quả. Phật Thế Tôn, Độc Giác, Thanh
Văn, tức là Duyên Giác và Thanh Văn, Thanh Văn là A La
Hán, ba loại Bổ Đặc Già La ấy đều là hữu
t́nh Bổ Đặc Già La. Phật cũng là một loại
Bổ Đặc Già La, các Ngài đoạn dứt Kiến Tư phiền năo, phiền
năo chẳng phải là quyến thuộc của các Ngài. “Hữu
chi” (有支) là tất cả
phiền năo, tổng cộng gồm hai mươi lăm Hữu[3]
trong tam giới. Những điều này thuộc về danh
từ Pháp Tướng; ở
đây nói ba loại. Các Ngài đều đă ĺa phiền
năo, cho nên gọi là Thắng Đạo sa-môn!
(Kinh) Phục hữu Bồ
Tát Ma Ha Tát chúng, bất giả tha duyên, ư nhất thiết
pháp trí kiến vô chướng, nhiếp thọ lợi lạc
nhất thiết hữu t́nh, diệc danh thắng đạo
sa-môn sở nhiếp. Kỳ thắng nghĩa Tăng, cập
thế tục Tăng, ư trung hoặc hữu, diệc thị
thị đạo sa-môn sở nhiếp. Nhược hữu
thành tựu biệt giải thoát giới chân thiện dị
sanh, năi chí cụ túc thế gian chánh kiến, bỉ do kư thuyết
biến hiện lực cố, năng quảng vị tha
tuyên thuyết, khai thị chư thánh đạo pháp.
Đương tri như thị Bổ Đặc Già La,
danh tối hạ liệt thị đạo sa-môn. Chứng
Dự Lưu quả Bổ Đặc Già La, thị danh
đệ nhị, chứng Nhất Lai quả Bổ Đặc
Già La, thị danh
đệ tam, chứng Bất Hoàn quả Bổ Đặc
Già La, thị danh đệ tứ. Phục hữu Bồ
Tát Ma Ha Tát chúng, thị danh đệ ngũ, vị trụ
Sơ Địa, chí Đệ Thập Địa, năi chí an
trụ tối hậu hữu thân, thử giai thị đạo
sa-môn sở nhiếp. Nhược hữu thành tựu biệt
giải thoát giới, quỹ tắc sở hành, thanh tịnh
cụ túc, thử giai mạng đạo sa-môn sở nhiếp.
Dĩ đạo hoạt mạng, cố danh mạng đạo.
(經)復有菩薩摩訶薩眾,不假他緣,於一切法智見無障,攝受利樂一切有情,亦名勝道沙門所攝。其勝義僧,及世俗僧,於中或有,亦是示道沙門所攝。若有成就別解脫戒,真善異生,乃至具足世間正見,彼由記說變現力故,能廣為他宣說開示諸聖道法,當知如是補特伽羅,名最下劣示道沙門。證預流果補特伽羅,是名第二。證一來果補特伽羅,是名第三。證不還果補特伽羅,是名第四。復有菩薩摩訶薩眾,是名第五,謂住初地至第十地,乃至安住最後有身,此皆示道沙門所攝。若有成就別解脫戒,軌則所行,清淨具足,此皆命道沙門所攝。以道活命,故名命道。
(Kinh: Lại có các vị
Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng nhờ vào các duyên, đối với
trí thấy hết thảy các pháp chẳng chướng ngại,
nhiếp thọ lợi lạc hết thảy hữu t́nh,
cũng gọi là “thuộc về thắng đạo
sa-môn”. Trong số các vị thắng nghĩa Tăng và thế
tục Tăng, cũng có người có thể thuộc vào
loại thị đạo sa-môn (sa-môn dạy đạo). Nếu
có chân thiện dị sanh thành tựu biệt giải thoát giới,
cho đến trọn đủ chánh kiến thế gian,
người ấy do sức kư thuyết (có thể nói pháp
tương ứng với ước muốn của
người nghe pháp) biến hiện, sẽ có thể v́
người khác tuyên thuyết, khai thị các pháp thánh đạo.
Hăy nên biết Bổ Đặc Già La như thế
được gọi là hạng thị đạo sa-môn
kém cỏi nhất. Bổ Đặc Già La chứng quả
Dự Lưu được gọi là thứ hai. Bổ
Đặc Già La chứng quả Nhất Lai được
gọi là thứ ba. Bổ Đặc Già La chứng quả
Bất Hoàn được gọi là thứ tư. Lại
có các vị Bồ Tát Ma Ha Tát được gọi là thứ
năm, tức là trụ từ Sơ Địa cho đến
Đệ Thập Địa, cho đến các vị an trụ
nơi thân tối hậu, những vị ấy đều
thuộc loại thị đạo sa-môn. Nếu có ai thành tựu
biệt giải thoát giới, làm theo đúng các khuôn phép,
thanh tịnh trọn đủ, th́ những
người ấy đều thuộc loại mạng
đạo sa-môn. Do dùng đạo để nuôi mạng, nên
gọi là mạng đạo).
“Bồ
Tát Ma Ha Tát chúng, bất giả tha duyên” (Các vị Bồ
Tát Ma Ha Tát chẳng nhờ vào các duyên khác): Khi Bồ Tát tạo
lợi ích cho chúng sanh, tuy chưa thành đạo, xét theo
phương diện chứng quả, các Ngài chẳng bằng
Thanh Văn, chẳng bằng Độc Giác, nhưng xét theo
phương diện lợi sanh, các Ngài vượt hẳn
Thanh Văn, vượt hơn Độc Giác. Cũng có vị
là đại quyền thị hiện, Ngài đă chứng
đắc, trở lại thị hiện, hoặc là thị
hiện làm phàm phu. “Bất giả tha duyên” (chẳng nhờ
vào các duyên khác): Các Ngài chẳng giống những vị
sa-môn khác, cũng có khi các Ngài chẳng xuất gia. Bồ Tát
Ma Ha Tát không nhất định đều là người
xuất gia, cũng có các vị Bồ Tát tại gia. Trong hết
các pháp, các Ngài có thể thấy “Không và Hữu chẳng
hai”, ngộ Trung Đạo, trí huệ bèn có Căn Bản
Trí, mà cũng có Hậu Đắc Trí. Hậu Đắc Trí
là phương tiện thiện xảo.
Do
vậy, các Ngài là chánh tri, chánh kiến, lợi sanh chẳng
bị chướng ngại, nơi Trí Độ chẳng
có chướng ngại. Mục đích của các Ngài là nhiếp
thọ hết thảy hữu t́nh, độ chúng sanh. Bồ
Tát quá nửa là thị hiện thân phận tại gia, v́ các
Ngài phải độ chúng sanh, chẳng nghĩ đến
chính ḿnh, luôn suy nghĩ v́ hết thảy chúng sanh. Mọi
người đọc phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện,
hoặc đọc Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm,
sẽ thấy [các vị Bồ Tát] thành Phật để
độ chúng sanh, nguyện cho hết thảy chúng sanh
đều thành Phật. Đấy cũng thuộc về
thắng đạo sa-môn.
Ngoài
ra, c̣n có thắng nghĩa Tăng và thế tục Tăng.
Thế tục Tăng chưa chứng đạo, ở
trong thế gian này, trong ấy bao gồm Sơ Quả, Nhị
Quả (Nhị Quả c̣n phải trở lại thế
gian), Tam Quả chẳng trở lại thế gian, những
địa vị ấy đều thuộc thế tục
Tăng. Chứng đắc quả A La Hán th́ mới gọi
là Thắng Nghĩa Tăng. Nói thông thường, trong giáo nghĩa Thanh Văn, theo
như kinh A Hàm và luận Câu Xá đă nói, vị chứng Sơ Quả
được coi là thánh nhân. Ở đây, [chánh kinh] tách ra
để nói, những địa vị khác thuộc về
Thắng Nghĩa Tăng và Thế Tục Tăng.
Cũng
có những vị “thị đạo sa-môn sở nhiếp”
(thuộc loại thị đạo sa-môn). “Thị đạo”
(示道) là như đức
Phật thuyết pháp cho một nhóm chúng sanh, hoặc là hiển
thị Khổ, Tập, Diệt, Đạo, hoặc là hiển
thị pháp mười hai nhân duyên, hoặc hiển thị
Lục Ba La Mật, tức [hiển thị] các pháp thuộc
tam thừa. Ngài chẳng nói tách rời, mà chỉ nói tổng
quát. Đấy là thị đạo sa-môn, thuộc về
phương diện tốt lành. Lại c̣n có những vị
thành tựu biệt giải thoát giới. “Chân thiện dị
sanh” là chân thiện Bổ Đặc Già La, là hữu t́nh
đă đạt được giải thoát, nhưng không
nhất định là bậc xuất gia. “Dị sanh”
(異生) hàm nghĩa dùng
pháp để sống, từ pháp hóa sanh. “Dị sanh”
được giải thích như thế, tức là đă
thật sự giải thoát, người ấy có thể
đạt được giải thoát. C̣n có người
thành tựu biệt giải thoát giới. Biệt giải
thoát giới của bậc thiện dị sanh chính là hai
trăm năm mươi giới của tỳ-kheo, là biệt biệt giải thoát giới (別別解脫戒, biệt giải thoát giới
riêng biệt)[4]. Hễ
tŕ một giới, sẽ được giải thoát một
phần, tŕ thêm một giới, sẽ được giải
thoát thêm một phần nữa, đó cũng coi như là “thiện
dị sanh”.
“Chân
thiện” có nghĩa là “giải thoát”. Cho đến
người chưa thọ Cụ Túc Giới, nhưng có
chánh tri, chánh kiến. Trọn đủ chánh tri, chánh kiến,
tri kiến chẳng điên đảo, biết hết thảy
các pháp vô thường, biết hết thảy các pháp đều
là khổ, hết thảy các pháp vô ngă, hết thảy các
pháp đều là Không. Đó gọi là Tứ Pháp Ấn. Hết
thảy các pháp đều là Thật Tướng duy nhất,
đó gọi là “nhất thật cảnh giới”, gọi
là “nhất pháp ấn”. Dùng điều này để ấn
chứng, có loại tri kiến ấy, sẽ là chánh tri,
chánh kiến. Người ấy cầu đắc cái Không
trong trí Bát Nhă, nhưng chẳng rơi vào Đoạn Diệt
Không, thị hiện hết thảy các pháp là có mà chẳng
rơi vào Thường Kiến. Đấy mới gọi
là chánh kiến.
“Khởi
điên đảo kiến” (dấy lên tri kiến
điên đảo). Người ấy có năng lực
phân định thị phi. Hiện thời, trong cuộc sống
hiện thực, có rất nhiều người cũng nói
Phật pháp; thật ra, họ vẫn dùng quan điểm ngoại
đạo để giải thích, chẳng phù hợp lời
dạy của đức Phật. Người như thế
chẳng thuộc loại thị đạo sa-môn. Người
ấy có trọn đủ Chánh Kiến hay không? Lời lẽ
của người ấy có phải là Chánh Ngữ hay
chăng? Có phù hợp lời dạy của đức Phật
hay không? Cho đến phải xét xem khẩu nghiệp của
người ấy có ác ngữ, ăn nói thô lỗ, tục tằn,
nói dối, nói đôi chiều hay không? Chẳng có những
thứ ấy th́ là Chánh Ngữ. Hễ có những thứ ấy,
sẽ chẳng phải là Chánh Ngữ.
Có kẻ thân tuy xuất gia, tâm chẳng xuất gia, cái tâm
tham vẫn rất nặng. Kẻ đó làm ra vẻ giống
như Phật giáo đồ, nhưng
những ǵ kẻ đó làm chẳng phải là Phật giáo,
những ǵ kẻ đó đă thể hiện chỉ
v́ tự ḿnh, v́ ngũ dục của chính ḿnh, v́ sự tham
cầu hưởng thụ của chính
ḿnh.
Nêu
một thí dụ, xây dựng chùa công đức vô lượng,
ai nấy đều biết, nhưng phải coi kẻ
đó dùng cái tâm ǵ làm chủ đạo. Nếu cái tâm danh lợi
là chủ đạo, dẫu xây chùa, chẳng có công đức!
Chỉ cần ngôi chùa ấy tồn tại, nghiệp của
kẻ đó vĩnh viễn tồn tại. Ngôi chùa ấy bị
hủy, nghiệp của kẻ đó cũng tiêu mất. Nếu
phan duyên, sử dụng đủ loại thủ đoạn
bất chánh, tuy xây cất chùa, kẻ ấy chết đi,
nhất định sẽ đọa vào địa ngục!
Đợi đến khi ngôi chùa ấy hoàn toàn chẳng c̣n,
nghiệp ấy mới tiêu. Chùa kiểu đó không nhất
định có Tăng chúng ở. Có những ngôi chùa dựng
lên, chẳng có ḥa thượng ở. Tuy là đạo tràng
tại gia, vẫn chẳng coi là cư sĩ, do tri kiến
đều chẳng phải là chánh kiến. Điều này
chúng ta phải cậy vào trí huệ để phán đoán,
có phải là chánh tri, chánh kiến hay không! Phải cậy vào
chính ḿnh nương theo giáo nghĩa để ấn chứng
có phù hợp lời dạy của đức Phật hay
không, sẽ biết tri kiến ấy có phải là chánh kiến
hay không.
“Bỉ
do kư thuyết biến hiện lực cố” (kẻ ấy
do sức kư thuyết biến hiện): Sức biến
hiện là có thần thông. Người ấy chứng
đắc Tha Tâm Trí, cho nên trọn đủ
một loại trí huệ, [tức là có khả
năng] thấy rơ đối với
loại chúng sanh nào th́ phải nên nói loại
pháp nào [để phù hợp với chí hướng
và sự ưa thích của họ], bèn khai thị cho họ
pháp ấy (khả năng ấy được gọi là “kư
thuyết”). Những điều ấy đều thuộc
loại “kư thuyết biến hiện lực” (記說變現力). Loại Bổ
Đặc Già La ấy [v́ chưa chứng
thánh quả, cho nên] là loại thị đạo
sa-môn thấp kém nhất. Thị đạo sa-môn kiểu này thuộc loại nào
vậy? Tiếp đó, [chánh kinh] bèn chỉ rơ: “Chứng Dự
Lưu quả Bổ Đặc Già La”, Dự Lưu Quả
là Sơ Quả. Thánh nhân Sơ Quả là Tu Đà Hoàn, Ngài c̣n
phải bảy lượt sanh tử trong cơi trời hoặc
nhân gian rồi mới chứng quả A La Hán, sẽ bất thoái.
Cũng tức là đoạn dứt mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ư, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng,
lưỡi biết vị, mũi ngửi thơm, thối,
thân tiếp xúc, tâm phân biệt. Đă đoạn dứt tám
mươi tám món Sử thuộc Kiến Hoặc. Dự
Lưu (預流) là dự vào
gịng thánh nhân. Loại chúng sanh Bổ Đặc Già La hữu
t́nh này cao hơn loại trước, cũng có nghĩa là
so với loại “kư thuyết” tuyên dương Phật
pháp th́ phải cao hơn một chút. Họ chẳng thuộc
vào loại Thắng Nghĩa Tăng, chỉ là thị đạo
sa-môn.
“Chứng
Nhất Lai quả Bổ Đặc Già La thị danh đệ
tam” (Bổ Đặc Già La chứng quả Nhất Lai
th́ gọi là đệ tam): Quả thứ ba c̣n trở lại nhân gian một lần, tức
là tái sanh trong cơi trời hay nhân gian một lần nữa,
chỉ tái sanh một lần, Ngài liền chứng đắc
Tứ Quả A La Hán, gọi là quả Tư Đà Hàm. Bổ
Đặc Già La chứng quả Bất Hoàn được
gọi là thứ tư. Bất Hoàn (不還) là chẳng
sanh trở lại trong nhân gian, được gọi là quả
A Na Hàm. Ngài đă đoạn dứt Tư Hoặc thuộc
phẩm thứ ba, nhưng vẫn chưa thể đoạn
tập khí, vẫn chưa thể đoạn vô minh. Đó gọi
là loại thứ tư.
“Phục
hữu Bồ Tát Ma Ha Tát chúng thị danh đệ ngũ”
(lại có các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, gọi là thứ
năm): Nương theo tứ giáo hay ngũ giáo để
phán đoán hàm nghĩa của các giáo. Bồ Tát Ma Ha Tát là nói
đến Thông Giáo. [Ngũ giáo là] Tiểu, Thỉ, Chung,
Đốn, Viên. [Bồ Tát được nói trong đoạn
này là] Bồ Tát trong Tiểu Giáo, Thỉ Giáo, và Thông Giáo, v́
trong phần kế tiếp, sẽ nói đến [các vị
Bồ Tát] từ Sơ Địa cho đến Thập
Địa, cũng là các vị trụ thân tối hậu.
So với sự chứng đắc của A La Hán th́ [Thông
Giáo Bồ Tát] đạt đến Thất Địa mới
bằng A La Hán. Viên Giáo chẳng phải là như vậy,
Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo đă là như thế
(đă chứng đắc bằng với A La Hán). Các loại
Bồ Tát ấy đều gọi là thị đạo
sa-môn. Thị đạo sa-môn tự ḿnh có chánh tri, chánh kiến,
đă lư giải Phật pháp, vị ấy cũng có thể
lợi ích chúng sanh, làm cho chúng sanh lư giải.
“Thành
tựu biệt giải thoát giới”, đối với
giới thanh tịnh đă thọ, người ấy chẳng
trái phạm, cho đến thực hiện hết thảy
mọi việc đều tiếp nhận các quy tắc do
đức Phật đă dạy để hành sự. Quy tắc
ấy bao gồm hết thảy những chuyện đáng
nên làm th́ sẽ đều làm. Giới của nhà Phật có
hai loại: Một là Chỉ Tŕ, tức là những chuyện
chẳng thể làm. C̣n có Tác Tŕ là những điều quư vị
ắt phải nên làm. Chẳng hạn như nói một vị
tỳ-kheo phạm lỗi, mọi người ắt phải
tác pháp yết-ma cho ông ta, Tăng chúng làm
pháp sự yết-ma, đó gọi là “biện
sự” (辦事, thực hiện
công việc). Chuyện nên làm th́ ắt phải làm. Lại c̣n trong
chùa miếu, có các trách nhiệm phải gánh vác th́ đều
phải nên thực hiện. Nội dung của Tác Tŕ rất
nhiều, đều là những chuyện tỳ-kheo nên làm.
Đó gọi là “quy tắc”.
Phật
giáo truyền đến Trung Hoa. Thiền sư Bách Trượng
của Trung Hoa đă chế lập Thanh Quy Giới Luật
cho Trung Hoa, v́ ở trong chùa miếu có rất
nhiều người, chẳng thể chiếu theo chế
định của đức Phật để thực hiện.
V́ tại quốc độ của chúng ta, t́nh huống sanh
hoạt có những điều bất đồng, cho nên
Ngài ấn định riêng Thanh Quy Giới Luật. Giống
như chúng ta mặc lễ phục, sáng tối lên chánh
điện tụng niệm công khóa. Thuở đức Phật
tại thế, chẳng có công khóa sáng tối. Thiền
sư Bách Trượng trích lấy các chú ngữ và kinh
điển Đại Thừa, như buổi sáng thức dậy
bèn niệm chú Lăng Nghiêm, buổi tối lễ bái Bát Thập
Bát Phật (tức Hồng
Danh Bảo Sám), hoặc niệm kinh Di Đà. Đấy
là công khóa sáng tối, đều thuộc về quy tắc,
đều thuộc về giới luật.
“Xuất
pha” (出坡)[5],
quét đất, lên núi trồng trọt. Thuở đức
Phật tại thế chẳng cho phép trồng trọt v́ sẽ
thương tổn chúng sanh. [Phật giáo] truyền đến
quốc độ của chúng ta, chẳng thể nào không
làm như thế. V́ chùa miếu đều ở trong núi,
chính quư vị không trồng trọt, lấy ǵ mà ăn? Thuở
đức Phật tại thế, cũng đă ấn
định một số quy tắc. Phàm là đối với
những quy tắc đă ấn định, cho đến
những giới luật ước thúc, những chuyện
đáng nên làm, đều thực hiện rất tốt đẹp, th́ sẽ “thanh tịnh cụ
túc”. Đó gọi là “mạng đạo sa-môn”, tức
là dùng đạo làm mạng sống.
Điều
không được chấp thuận là
làm thuốc, bói toán, xem tướng. Nay là thời Mạt
Pháp, ḥa thượng làm thầy thuốc vẫn là rất tốt,
rất thanh cao, nhưng
trong giới luật nhà Phật th́ chẳng được
phép, đó gọi là “kiếm sống bằng tà mạng”. Có
năm loại tà mạng, [nói như vậy, chắc có kẻ
sẽ bắt bẻ] kinh Chiêm Sát chẳng phải là tà mạng
ư? Chẳng phải! Kinh Chiêm Sát là v́ quư vị tu đạo
mà Địa Tạng Bồ Tát đặc biệt nói ra. Do
vậy, khi Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thỉnh Phật thuyết
pháp, đă hỏi đức Phật: “Chúng sanh đời Mạt Pháp, tâm
hoài nghi đặc biệt nặng nề, làm thế nào
để đoạn nghi cho chúng sanh?” Đức Phật
liền mời Địa Tạng Bồ Tát nói, chứ bản
thân Ngài không nói ǵ. V́ đức Phật đă chế giới,
điều ấy chẳng được phép! Địa
Tạng Bồ Tát bèn thiện xảo phương tiện,
v́ Ngài đă đạt tới “nhất thật cảnh
giới, nhị chủng quán đạo”. Khi sử dụng
Chiêm Sát Luân, chớ nên hoài nghi. Nếu dùng pháp đó để
cầu danh lợi, hoặc là đoán quẻ cho người
khác để lấy tiền, sẽ là phạm giới, chẳng
được phép! Mục đích chủ yếu của
Chiêm Sát Luân là để quư vị chiêm nghiệm, xét coi chính
ḿnh đă đoạn tham, sân, si cỡ nào, hiện
tại có phải là chứng đắc hay chưa? Chính ḿnh
đă chứng địa vị Ngũ Phẩm hay chưa? Nếu chính ḿnh không biết, th́ quư vị bèn chiêm
sát đôi chút. Nay ta có thể tu hai loại quán đạo
hay không? V́ theo như kinh Chiêm Sát đă dạy, nếu khi
[chiêm sát mà thấy] luân tướng chẳng thanh tịnh, tức là chẳng chấp thuận
cho quư vị tu hai loại quán đạo, sẽ tu chẳng
thành. Có tu th́ cũng dễ bị ma dựa. [Dụng ư của]
chiêm sát luân là muốn cho quư vị đoạn ma, hiểu
hàm nghĩa này là được rồi! V́ thế, những
sa-môn ấy đều là “khấu đạo sa-môn sở
nhiếp”, tức là dùng đạo làm mạng sống,
cho nên gọi là “mạng đạo”.
(Kinh)
Phục hữu Bồ Tát Ma Ha Tát chúng, vị dục nhiếp
thọ, lợi ích, an lạc nhất thiết hữu t́nh, cụ
túc tu hành Lục Đáo Bỉ Ngạn, diệc danh mạng
đạo. Như thị thắng đạo, thị đạo,
mạng đạo, tam chủng sa-môn, danh vi thế gian chân
thật phước điền. Sở dư sa-môn danh vi ô
đạo, tuy phi chân thật, diệc đắc đọa
tại phước điền số trung.
(經)復有菩薩摩訶薩眾,為欲攝受利益安樂一切有情,具足修行六到彼岸,亦名命道。如是勝道、示道、命道三種沙門,名為世間真實福田。所餘沙門,名為污道,雖非真實,亦得墮在福田數中。
(Kinh:
Lại có các vị Bồ Tát Ma Ha Tát v́ muốn nhiếp thọ,
lợi ích, an lạc hết thảy hữu t́nh, tu hành trọn
vẹn Lục Đáo Bỉ Ngạn, cũng gọi là “mạng
đạo”. Ba loại sa-môn thắng đạo, thị
đạo, và mạng đạo như thế, được
gọi là “phước điền chân thật của thế
gian”. Các sa-môn khác được gọi là ô đạo, tuy
chẳng phải là chân thật, nhưng vẫn thuộc vào
phước điền).
Đại
Bồ Tát lợi ích chúng sanh, khiến cho hết thảy
chúng sanh hữu t́nh đều có thể giác ngộ, nhiếp
thọ họ, trao truyền những điều tốt
đẹp, họ mới tin tưởng. Đối với
bố thí th́ Bồ Tát cũng phải hành bố thí, từ
bi đối với chúng sanh. Phải ái ngữ, đồng
sự, lợi hành, làm chuyện có lợi cho họ, họ
sẽ vui thích. Như thế th́ quư vị mới có thể
nhiếp thọ họ, độ họ được. Tiến
hơn bước nữa là tu tập bố thí, tŕ giới,
nhẫn nhục, Thiền Định, Lục Độ vạn
hạnh, cho đến Thiền Định, Bát Nhă. Đấy
cũng gọi là “mạng đạo”. Trong Đại Thừa và Tiểu Thừa,
đều có mạng đạo sa-môn và thị đạo
sa-môn. Tam thừa đều có các hạng
sa-môn này.
“Như thị thắng đạo, thị
đạo, mạng đạo tam chủng sa-môn, danh vi thế
gian chân thật phước điền” (ba loại
sa-môn thắng đạo, thị đạo, và mạng
đạo như thế, gọi là phước điền
chân thật trong thế gian): Cúng dường các vị mạng
đạo sa-môn, thị đạo sa-môn, và thắng đạo
sa-môn ấy, đương nhiên là phước đức
càng to hơn nữa. Đấy đều là phước điền
chân thật trong thế gian. “Sở dư sa-môn” (các
sa-môn khác), trừ ba loại ấy ra, đều là “ô đạo
sa-môn”. Ô đạo sa-môn là tỳ-kheo phá giới, giới
luật chẳng thanh tịnh, hoặc là [chẳng tuân thủ] quy tắc
thanh tịnh. Họ đối với Tam Bảo có ô nhiễm,
chẳng phải là chân thật. Tuy họ chẳng phải là
chân thật, nhưng đức Phật dạy vẫn coi họ
như phước điền Tăng. V́ sao? Trong thời Mạt
Pháp, thắng đạo sa-môn, thị đạo sa-môn, và mạng
đạo sa-môn đă chẳng c̣n, phải chọn lựa
trong các ô đạo sa-môn, cho nên quư vị vẫn phải
cúng dường, vẫn phải tôn kính họ. Đấy
là câu trả lời cho lời hỏi của Kim Cang Tạng
Bồ Tát.
(Kinh) Nhược hữu y chỉ vô tàm quư
tăng Bổ Đặc Già La, ư ngă chánh pháp Tỳ Nại
Da trung, danh vi “tử thi”, ư thanh chúng hải, ưng đương
tẫn khí, phi pháp khí cố. Ngă ư bỉ nhân, bất
xưng đại sư, bỉ nhân ư ngă, diệc phi
đệ tử. Hữu vô tàm Tăng, bất thành pháp khí, xưng
ngă vi sư, ư ngă xá-lợi, cập ngă h́nh tượng,
thâm sanh kính tín. Ư ngă Pháp, Tăng, thánh sở ái giới, diệc
thâm kính tín. Kư bất tự chấp chư ác tà kiến, diệc
bất linh tha chấp ác tà kiến, năng quảng vị
tha tuyên thuyết ngă pháp, xưng dương, tán thán,
bất sanh hủy báng, thường phát chánh nguyện; tùy sở
phạm tội, sổ sổ yếm xả, phát lộ sám hối,
chúng đa nghiệp chướng, giai năng trừ diệt.
Đương tri như thị Bổ Đặc Già La, tín
kính Tam Bảo thánh giới lực cố, thắng cửu
thập ngũ chư ngoại đạo chúng đa bách thiên
bội, phi tốc năng nhập bát Niết Bàn thành, Chuyển
Luân Thánh Vương thượng bất năng cập, huống
dư tạp loại nhất thiết hữu t́nh? Dĩ
thị nghĩa cố, Như Lai quán
sát nhất thiết hữu t́nh, chư nghiệp
pháp thọ sai biệt tướng dĩ, tác như thị thuyết: “Ư ngă
pháp trung, thế trừ tu phát, bị ca-sa giả, ngă chung bất
thính Sát-đế-lợi đẳng hủy nhục, trích
phạt. Nhược hữu hủy nhục, trích phạt
nhất thiết xuất gia chi nhân, sở hoạch tội
báo như tiền quảng thuyết”.
(經)若有依止無慚愧僧補特伽羅,於我正法毗奈耶中名為死尸,於清眾海應當擯棄,非法器故。我於彼人,不稱大師;彼人於我,亦非弟子。有無慚僧,不成法器,稱我為師;於我舍利及我形像,深生敬信;於我法僧聖所愛戒,亦深敬信;既不自執諸惡邪見,亦不令他執惡邪見;能廣為他宣說我法,稱揚讚歎,不生譭謗;常發正願,隨所犯罪,數數厭舍;發露懺悔,眾多業障,皆能除滅。當知如是補特伽羅,信敬三寶、聖戒力故,勝九十五諸外道眾多百千倍,非速能入般涅槃城,轉輪聖王尚不能及,況餘雜類一切有情?以是義故,如來觀察一切有情,諸業法受差別相已,作如是說:‘於我法中,剃除鬚髮、被袈裟者,我終不聽剎帝利等毀辱謫罰。若有毀辱謫罰一切出家之人,所獲罪報,如前廣說。
(Kinh: Nếu có Bổ
Đặc Già La y chỉ vị Tăng không hổ thẹn,
th́ đối với Tỳ Nại Da trong chánh pháp của
ta, được gọi là “xác chết”, hăy nên xua đuổi,
vứt bỏ khỏi biển Tăng chúng thanh tịnh, do
[kẻ đó] chẳng phải là pháp khí. Ta đối với
kẻ đó chẳng xưng là đại sư, mà kẻ
đó đối với ta cũng chẳng phải
là đệ tử. Có Tăng sĩ chẳng thẹn hổ,
chẳng thành pháp khí, gọi ta là thầy, đối với
xá-lợi và h́nh tượng của ta, sanh ḷng kính tin sâu xa.
Đối với Pháp, Tăng và giới được các
vị thánh yêu mến của ta, cũng sanh ḷng kính tin sâu xa.
Đă chẳng tự chấp các tà kiến ác, cũng chẳng
để cho kẻ khác chấp tà kiến ác, có thể rộng
v́ họ tuyên nói pháp của ta, xưng dương, tán thán,
chẳng sanh hủy báng, thường phát ra chánh nguyện.
Đối với các tội đă phạm, nhiều lượt
chán bỏ, phát lộ, sám hối. Khá nhiều nghiệp
chướng đều có thể trừ diệt. Hăy nên biết
Bổ Đặc Già La như thế do sức tín kính thánh giới
của Tam Bảo, cho nên vượt hơn chín mươi
lăm các loại ngoại đạo trăm ngàn lần. Tuy
chẳng thể mau chóng vào ṭa thành bát Niết
Bàn, nhưng Chuyển Luân Thánh Vương vẫn chẳng
thể sánh bằng kẻ đó. Huống hồ hết thảy
hữu t́nh thuộc các loại khác ư? Do v́ nghĩa này,
Như Lai quán sát hết thảy các tướng nghiệp
pháp thọ sai biệt của các hữu t́nh rồi nói
như thế này: “Đối với kẻ ở trong pháp của
ta, cạo bỏ râu tóc, mặc ca-sa, ta trọn chẳng cho
phép những kẻ như Sát-đế-lợi v.v… hủy nhục,
trừng phạt họ. Nếu có kẻ nào hủy nhục,
trừng phạt hết thảy người xuất gia, sẽ
mắc phải tội báo như đă nói rộng trong phần
trước”).
Tuy
vị Tăng không hổ thẹn chẳng phải là pháp
khí, nhưng trong ấy c̣n chọn lọc
đôi chút. V́ thế nói “đối với ô đạo
sa-môn, cũng phải cúng dường”, bao hàm ư nghĩa
như thế đó. Bổ Đặc Già La chẳng hổ,
chẳng thẹn là kẻ đă phạm giới, đă phá giới, nhưng chẳng sám hối.
Đối với pháp tam thừa, đặc biệt là
đối với các giới trong Tỳ Nại
Da của chánh pháp, những kẻ đó cũng chẳng tu.
“Tử thi” là xác của người đă chết, thi
thể c̣n chưa rữa nát. Trong biển đại chúng
thanh tịnh chẳng thể dung chứa, sẽ
tẫn xuất những kẻ đó ra ngoài Tăng đoàn.
Tuy những kẻ đó chẳng phải là pháp khí, nhưng
trong đó c̣n có những người có đôi chút điểm
tốt. Đối với những kẻ đó, tuy họ cũng chẳng phải là đệ tử Phật, nhưng
có những tăng sĩ không hổ thẹn, vẫn tôn xưng
đức Phật là thầy. V́ sao? Họ đối với
xá-lợi và h́nh tướng của Phật vẫn sanh ḷng
kính tín sâu đậm, đối với Phật pháp “diệc
thâm kính tín” (cũng kính tín sâu xa). Tuy họ chẳng hổ
thẹn, chẳng trở thành pháp khí,
nhưng họ vẫn tôn đức Phật làm thầy.
Đối với xá-lợi và h́nh tướng của Phật,
họ vẫn sanh ḷng kính tín sâu đậm, đối với
các giới đă thọ, họ vẫn sanh ḷng kính tín sâu
đậm, có tín tâm thành kính sâu sắc, tha
thiết.
Những
điều họ nói vẫn là chánh pháp, khiến cho quư vị
trừ khử tri kiến tà vạy, điên đảo, dạy
quư vị trừ khử Ngă Chấp, dạy quư vị tu
Không Quán, chẳng chấp trước hết thảy các
pháp, có thể tuyên nói Phật pháp cho hết thảy chúng
sanh, lại c̣n có thể “xưng dương tán thán, bất
sanh hủy báng, thường phát chánh nguyện” (xưng
dương, tán thán, chẳng sanh hủy báng, thường
phát nguyện chân chánh). Phát nguyện rồi sẽ “tùy sở
phạm tội, sổ sổ yếm xả” (hễ phạm
tội, nhiều lượt ghét bỏ), do ghét bỏ liền
sám hối. Do ghét bỏ, chẳng c̣n tái phạm nữa. Biết
chuyện ấy chớ nên làm, bèn chẳng làm, lại
c̣n có thể phát lộ sám hối, khá nhiều nghiệp chướng
đều có thể trừ diệt. Tuy kẻ đó trót tạo
rất nhiều tội, cũng gây ra rất nhiều nghiệp
chướng, nhưng do sám hối mà được thanh tịnh,
lại phục hồi sự thanh tịnh.
Trước
tiên là nói về Tăng sĩ không hổ thẹn. Kế
đó lại nói đến các Tăng sĩ
không hổ thẹn, đáng phải trục xuất, chẳng
thành pháp khí, nhưng vẫn c̣n có những biểu hiện
sám hối, những người xuất gia ấy
so với chín mươi lắm thứ ngoại đạo,
hay so sánh với thế tục, vẫn tốt hơn nhiều lắm! Tuy hiện thời,
những người ấy vẫn chưa
thể chứng nhập Niết Bàn, vẫn chưa thể
thành đạo, nhưng công đức, phước đức,
và trí huệ của họ vẫn tồn
tại. “Chuyển Luân Thánh Vương thượng bất
năng cập” (Chuyển Luân Thánh Vương vẫn chẳng
thể sánh bằng): Dẫu là Chuyển Luân Thánh
Vương th́ phước đức và trí huệ vẫn
chẳng to bằng phước đức và trí huệ của
vị tỳ-kheo đó. “Huống dư tạp loại nhất
thiết hữu t́nh” (huống hồ hết thảy các
loài hữu t́nh khác) ư? Các hữu t́nh khác càng chẳng thể
sánh bằng.
Do
đạo lư này, Như Lai biết nghiệp, pháp, và sự sai biệt của hết thảy
chúng sanh, hết thảy hữu t́nh. Chẳng thể nói hết
thảy các tướng kiểu “vơ đũa cả nắm”
được. Nói theo kiểu “vơ
đũa cả nắm” th́ các Tăng sĩ không
hổ thẹn đều là ô đạo sa-môn. Nhưng trong
các ô đạo sa-môn, hăy c̣n có những người tốt
đẹp đôi chút. Mỗi loại chúng
sanh nào cũng đều có thượng, trung, hạ. Trong ô
đạo sa-môn, c̣n có thượng phẩm, cũng có trung
phẩm, và hạ phẩm. V́ lẽ này, đức Phật
mới nói như thế này: “Ư ngă pháp trung, thế trừ
tu phát, bị ca-sa giả, ngă chung bất thính Sát-đế-lợi
đẳng hủy nhục, trích phạt” (Ta trọn chẳng
cho phép Sát-đế-lợi v.v… hủy nhục, trừng phạt
kẻ nào ở trong pháp của ta, cạo bỏ râu tóc,
đắp y ca-sa), có ư nghĩa như vậy đó. V́ sao đức Phật chẳng cho phép Sát-đế-lợi,
tức các quốc vương, dùng pháp luật thế gian
chế tài họ? V́ họ đă cạo bỏ râu tóc, đắp
y ca-sa, đă gieo phước đức, tướng pháp
tràng ấy vẫn tồn tại. Nếu hủy nhục,
khiển trách họ, [tức là xâm phạm]
hết thảy người xuất gia, sẽ chuốc lấy tội báo như đă nói cặn
kẽ trong phần trước, trong phẩm Vô Y Hạnh
đă nói rất nhiều!
(Kinh)
Hựu y ngă pháp, xả tục xuất gia, thế trừ tu
phát, bị xích ca-sa, tức vị nhất thiết quá khứ,
vị lai, hiện tại chư Phật từ bi hộ niệm.
Oai nghi, h́nh tướng, sở phục ca-sa, diệc vị
quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật Thế
Tôn từ bi thủ hộ. Thị cố, khinh hủy thế trừ tu phát, bị
xích ca-sa xuất gia nhân giả, tức thị khinh hủy
nhất thiết quá khứ, vị lai, hiện tại
chư Phật Thế Tôn. Do thị nhân duyên, chư hữu
trí huệ, yếm bố chúng khổ, hân cầu nhân, thiên,
Niết Bàn lạc giả, bất ưng khinh hủy xả
tục xuất gia, thế trừ tu phát, bị ca-sa giả.
Hữu vô tàm Tăng, hủy phá cấm giới, bất thành
tam thừa hiền thánh pháp khí, kư tự kiên chấp chư
ác tà kiến, diệc năng linh tha chấp ác tà kiến, vị
vi chân thiện Sát-đế-lợi, chân thiện Bà-la-môn,
chân thiện tể quan, chân thiện cư sĩ, chân thiện
sa-môn, chân thiện trưởng giả, chân thiện Phiệt-xá,
chân thiện Thú-đạt-la.
(經)又依我法,舍俗出家,剃除鬚髮,被赤袈裟,即為一切過去、未來、現在諸佛慈悲護念。威儀形相,所服袈裟,亦為過去、未來、現在諸佛世尊慈悲守護。是故輕毀剃除鬚髮、被赤袈裟、出家人者,即是輕毀一切過去未來現在諸佛世尊。由是因緣,諸有智慧厭怖眾苦,欣求人天涅槃樂者,不應輕毀舍俗出家、剃除鬚髮、被袈裟者。有無慚憎,毀破禁戒,不成三乘賢聖法器,既自堅執諸惡邪見,亦能令他執惡邪見。謂為真善剎帝利、真善婆羅門、真善宰官、真善居士、真善沙門、真善長者、真善筏舍、真善戍達羅。
(Kinh: Lại có kẻ
nương theo pháp của ta, bỏ tục xuất gia, cạo
bỏ râu tóc, đắp ca-sa đỏ, liền được
hết thảy quá khứ, vị lai, hiện tại chư
Phật từ bi hộ niệm. Oai nghi, h́nh tướng,
ca-sa đă mặc cũng được quá khứ, vị
lai, hiện tại chư Phật Thế Tôn từ bi thủ hộ. V́ thế, khinh miệt,
hủy báng người xuất gia cạo bỏ râu tóc, mặc
ca-sa đỏ, chính là khinh miệt, hủy báng hết thảy
quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật Thế
Tôn. Do nhân duyên ấy, những người có trí huệ chán
sợ các khổ, ưa cầu niềm vui nhân, thiên, Niết
Bàn, chớ nên khinh miệt, hủy báng người xả tục
xuất gia, cạo bỏ râu tóc, đắp y ca-sa. Có Tăng sĩ
không hổ thẹn, hủy phá giới cấm, chẳng trở
thành pháp khí của tam thừa hiền thánh, đă tự chấp
trước kiên cố các tà kiến ác, lại c̣n có thể
khiến cho kẻ khác chấp trước tà kiến ác, tức
là v́ chân thiện Sát-đế-lợi, chân thiện Bà-la-môn,
chân thiện tể quan, chân thiện cư sĩ, chân thiện
sa-môn, chân thiện trưởng giả, chân thiện Phiệt-xá,
chân thiện Thú-đạt-la…)
Tam
thế chư Phật thủ hộ tấm ca-sa ấy. Tấm
ca-sa là tướng pháp tràng của hết thảy chư Phật.
Do duyên cớ ấy, đối với người xuất
gia cạo bỏ râu tóc, đắp ca-sa đỏ, chẳng
cho phép kẻ tại gia như quốc vương, đại
thần, cho đến Bà-la-môn v.v… bức hại, vũ nhục
họ; trái lại, phải cúng dường họ. Do nhân duyên đó, đức Phật nói như
vậy, và cũng nhằm trả lời Kim Cang Tạng Bồ
Tát. V́ thế, hết thảy những ai muốn
cầu phước nghiệp, chớ nên khinh rẻ những
người xuất gia. Bất luận kẻ đó phá giới
cũng thế, vẫn đều phải tôn kính, cúng dường
kẻ đó, th́ những người ấy sẽ có thể
đạt được phước đức.
“Hữu
vô tàm Tăng, hủy phá cấm giới, bất thành tam thừa
hiền thánh pháp khí, kư tự kiên chấp chư ác tà kiến,
diệc năng linh tha chấp ác tà kiến” (Có Tăng sĩ không hổ thẹn, hủy phá giới cấm,
chẳng trở thành pháp khí cho tam thừa hiền thánh,
đă tự chấp chặt các ác tà kiến, lại c̣n có
thể khiến cho kẻ khác chấp trước tà kiến
ác): Đó là ác tri thức. Trong phần trước đă nói,
ô đạo sa-môn có hai loại, loại trước là tốt (tức là loại tin kính Phật,
Pháp, Tăng, biết hổ thẹn, sám hối, không có tà kiến
ác) th́ c̣n có thể thân cận, c̣n có thể cúng dường.
Ở đây nói đến loại tồi tệ. Nếu có
các quốc vương tốt lành, tức chân thiện quốc
vương, chân thiện Bà-la-môn, chân thiện tể
quan, chân thiện cư sĩ. “Chân thiện” là nói họ
mong cầu giải thoát. Cho đến chân thiện trưởng
giả, chân thiện Phiệt-xá, chân thiện Thú-đạt-la,
tức là bốn loại chủng tánh.
(Kinh) Nhược
nam, nhược nữ, thuyết chư thế gian vô phụ,
vô mẫu, năi chí vô hữu thiện nghiệp, ác nghiệp sở
đắc quả báo, vô hữu năng đắc thánh
đạo quả giả, nhất thiết chư pháp bất
tùng nhân sanh. Hoặc hữu chấp ngôn, Sắc Giới
thị thường, phi biến hoại pháp. Hoặc hữu
chấp ngôn, Vô Sắc Giới thường, phi biến hoại
pháp. Hoặc hữu chấp ngôn, ngoại đạo sở
kế chư khổ hạnh pháp đắc cứu cánh tịnh.
Hoặc hữu chấp ngôn, duy Thanh Văn Thừa
đắc cứu cánh tịnh, phi Độc Giác Thừa,
diệc phi Đại Thừa. Ư Thanh Văn Thừa, tín
kính, xưng tán, tuyên thuyết, khai thị. Ư Độc
Giác Thừa, cập ư Đại Thừa, phỉ báng,
khinh hủy, chướng tế, ẩn một, bất linh
lưu bố. Hoặc hữu chấp ngôn, duy Độc Giác
Thừa đắc cứu cánh tịnh, phi Thanh Văn Thừa,
diệc phi Đại Thừa. Ư Độc Giác Thừa,
tín kính, xưng tán, tuyên thuyết, khai thị. Ư Thanh
Văn Thừa, cập ư Đại Thừa, phỉ
báng, khinh hủy, chướng tế, ẩn một, bất
linh lưu bố. Hoặc hữu chấp ngôn, duy hữu
Đại Thừa đắc cứu cánh tịnh, phi Thanh
Văn Thừa, phi Độc Giác Thừa. Ư Đại
Thừa pháp, kư tự sanh tín, giáo tha sanh tín, kư tự cung
kính, giáo tha cung kính, kư tự xưng tán, giáo tha xưng tán, kư
tự thư tả, giáo tha thư tả, kư tự độc
tụng, giáo tha độc tụng, kư tự thính thọ,
giáo tha thính thọ, kư tự tư duy, giáo tha tư duy, ư
tha hữu t́nh, nhược thị pháp khí, nhược phi
pháp khí, giai vị quảng thuyết, khai thị, giải
thích vi tế thậm thâm Đại Thừa pháp nghĩa.
Ư Thanh Văn Thừa, cập Độc Giác Thừa, phỉ
báng, khinh hủy, chướng tế, ẩn một, bất
linh lưu bố, tự bất sanh tín, chướng tha sanh
tín, tự bất cung kính, chướng tha cung kính, tự bất
xưng tán, chướng tha xưng tán, tự bất thư
tả, chướng tha thư tả, tự bất độc
tụng, thính thọ, tư duy, chướng tha độc
tụng, thính thọ, tư duy, bất nhạo quảng thuyết,
khai thị, giải thích nhị thừa pháp
nghĩa.
(經)若男若女,說諸世間無父無母,乃無有善業惡業所得果報,無有能得聖道果者,一切諸法不從因生。或有執言,色界是常,非變壞法。或有執言,無色界常,非變壞法。或有執言,外道所計諸苦行法,得究竟淨。或有執言,唯聲聞乘得究竟淨,非獨覺乘,亦非大乘;於聲聞乘,信敬稱讚,宣說開示,於獨覺乘及於大乘,誹謗輕毀,障蔽隱沒,不令流佈。或有執言,唯獨覺乘得究竟淨,非聲聞乘,亦非大乘;於獨覺乘,信敬稱讚,宣說開示,於聲聞乘及於大乘,誹謗輕毀,障蔽隱沒,不令流佈。或有執言,唯有大乘得究竟淨,非聲聞乘,非獨覺乘;於大乘法,既自生信、教他生信,既自恭敬、教他恭敬,既自稱讚、教他稱讚,既自書寫、教他書寫,既自讀誦、教他讀誦,既自聽受、教他聽受,既自思惟、教他思惟,於他有情,若是法器,若非法器,皆為廣說,開示解釋,微細甚深大乘法義;於聲聞乘及獨覺乘,誹謗輕毀障蔽隱沒,不令流佈,自不生信、障他生信,自不恭敬、障他恭敬,自不稱讚、障他稱讚,自不書寫、障他書寫,自不讀誦聽受思惟、障他讀誦聽受思惟,不樂廣說開示解釋二乘法義。
(Kinh: Dù nam, hay nữ,
nói các thế gian không cha, không mẹ, cho đến chẳng
có chuốc lấy quả báo do thiện nghiệp hay ác nghiệp,
chẳng có ai có thể đắc quả nơi thánh đạo,
hết thảy các pháp chẳng do nhân mà sanh. Hoặc có kẻ
chấp rằng Sắc Giới là thường, chẳng phải
là pháp biến hoại. Hoặc có kẻ chấp rằng Vô
Sắc Giới là thường, chẳng phải là pháp biến
hoại. Hoặc có kẻ chấp rằng ngoại đạo
do tu khổ hạnh mà đạt được thanh tịnh
rốt ráo. Hoặc có kẻ chấp rằng, chỉ có Thanh
Văn Thừa đạt được thanh tịnh rốt
ráo, chẳng phải Độc Giác Thừa, cũng chẳng
phải Đại Thừa. Đối với Thanh Văn
Thừa, tín kính, xưng tán, tuyên thuyết, khai thị. Đối
với Độc Giác Thừa, và Đại Thừa liền phỉ báng, khinh hủy,
ngăn trở, ẩn giấu, chẳng cho lưu truyền.
Hoặc có kẻ chấp rằng chỉ có Độc Giác
Thừa đạt được thanh tịnh rốt ráo,
chẳng phải Thanh Văn Thừa, cũng chẳng phải
Đại Thừa. Đối với Độc Giác Thừa,
tín kính, xưng tán, tuyên thuyết, khai thị. Đối với
Thanh Văn Thừa và Đại Thừa, phỉ báng, khinh hủy,
ngăn trở, ẩn giấu, chẳng cho lưu truyền.
Hoặc có kẻ chấp rằng, chỉ có Đại Thừa
đạt được thanh tịnh rốt ráo, chẳng
phải Thanh Văn Thừa, chẳng phải Độc
Giác Thừa. Đối với pháp Đại Thừa, tự
ḿnh đă sanh ḷng tin, dạy người khác sanh ḷng tin, tự
ḿnh đă cung kính, dạy người khác cung kính, tự
ḿnh đă xưng tán, dạy người khác xưng tán, tự
ḿnh đă biên chép, dạy người khác biên chép, tự
ḿnh đă đọc tụng, dạy người khác đọc
tụng, tự ḿnh đă nghe nhận, dạy người
khác nghe nhận, tự ḿnh đă tư duy, dạy người
khác tư duy. Đối với các hữu t́nh khác, hoặc
là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí, đều v́ họ
rộng nói, khai thị, giải thích pháp nghĩa Đại
Thừa vi tế rất sâu. Đối với Thanh Văn
Thừa và Độc Giác Thừa, bèn phỉ báng, khinh hủy,
ngăn chướng, ẩn giấu, chẳng cho lưu truyền,
tự chẳng sanh ḷng tin, chướng ngại người
khác sanh ḷng tin, tự ḿnh chẳng cung kính, chướng ngại
người khác cung kính, tự ḿnh chẳng xưng tán,
chướng ngại người khác xưng tán, tự ḿnh
chẳng biên chép, chướng ngại người khác biên
chép, tự ḿnh chẳng đọc tụng, nghe nhận,
tư duy, chướng ngại người khác đọc
tụng, nghe nhận, tư duy, chẳng thích nói rộng,
khai thị, giải thích pháp nghĩa Nhị Thừa).
Đoạn kinh văn này nói về ác tri thức có
ác tánh rất sâu, tà kiến rất sâu. Vị quốc
vương, hoặc bốn chủng tánh cầu giải
thoát, bất luận là nam hay nữ, chớ nên học theo
những kẻ đó, chớ
nên thân cận các ác tri thức đó. Những kẻ xấu
đó, bất luận là nam hay nữ, làm thế nào để
phân định rơ ác tà kiến của họ? Kẻ đó
nói thế gian không cha, không mẹ. Hiện thời, có rất
nhiều kẻ ngỗ nghịch.
Đó là chẳng tin cha mẹ, tổn thương cha mẹ,
giết hại cha mẹ. Ăn nói kiểu đó, sợ rằng
mọi người đều đă nghe thấy, chúng tôi chẳng
cần phải giải thích cặn kẽ. Hiện thời,
thường thấy chuyện giết cha, giết mẹ.
Trong quá khứ rất ít; hiện thời nghiệp
càng lúc càng nặng.
Bài bác chẳng có nhân quả,
[đối với chuyện] “làm thiện
được thiện báo, làm ác được ác báo”, họ đều không tin. Do cho rằng “người đă chết
là hết”, cho nên họ tận lực tạo ác, phóng túng ngũ dục,
căn bản là chẳng thể thành thánh, chứng đạo
quả. Kẻ đó cho rằng đấy là gạt người,
chẳng chân thật. Kẻ đó cho rằng hết thảy
các pháp cũng chẳng sanh từ các nhân, chẳng có nhân quả,
c̣n nói Sắc Giới là thường, vĩnh viễn chẳng
biến hóa. Cho đến nói Vô Sắc Giới là thường,
cũng vĩnh viễn chẳng biến hóa. Hoặc là chấp
vào các khổ hạnh của bọn ngoại đạo, chẳng
hạn như Bà-la-môn hành khổ hạnh nuốt lửa,
cho đến Bà-la-môn nhịn đói, thậm chí lạy ḅ,
lạy chó, đấy đều là [tà hạnh của] ngoại
đạo, [thế mà] họ nói do các pháp đó, sẽ có thể
đạt được thanh tịnh rốt ráo.
Hoặc
có kẻ chấp trước, cũng nói chấp chặt rằng: Chỉ có Thanh
Văn Thừa mới có thể đạt đến thanh
tịnh rốt ráo, chứ Độc Giác Thừa và Đại
Thừa đều chẳng thể được. Đấy
là do chấp trước Thanh Văn Thừa, bèn hủy báng
Độc Giác Thừa, hủy báng Đại Thừa. Hoặc
là tin tưởng Độc Giác Thừa; v́ thế, lại
hủy báng Thanh Văn Thừa, tức là kẻ đó trọn chẳng b́nh
đẳng đối với pháp tam thừa. Kẻ đó
chấp trước một thừa, phủ nhận
hai thừa kia. Kẻ đó tin pháp Thanh Văn bèn hủy báng pháp
nhân duyên, hủy báng pháp Lục Độ. Do vậy, pháp
nhân duyên và pháp Lục Độ sẽ dần dần bị ẩn mất. Hoặc là nói ngược
lại, kẻ đó chấp trước Độc Giác Thừa,
đối với Thanh Văn Thừa và Đại Thừa
cũng đều hủy báng. Hoặc kẻ đó chấp
trước Đại Thừa, đối với Thanh
Văn Thừa và Độc Giác Thừa đều hủy
báng, chẳng cho người khác học, thậm chí khiến
cho các pháp ấy bị ẩn giấu, chẳng cho phép truyền
bá.
Trong
các pháp tam thừa, chấp trước lẫn nhau, hủy
báng lẫn nhau, kẻ đó tin thừa nào bèn nói thừa ấy
là tốt, khiến cho người khác tin pháp ấy, khiến
cho các đệ tử cũng đều không tin các thừa
khác. Kẻ đó tin [thừa nào] bèn cung kính; hễ không tin
bèn hủy báng. Chính ḿnh dạy như vậy, mà dạy
người khác cũng thế. Kẻ đó tự ḿnh
xưng tán Thanh Văn Thừa tốt đẹp, xưng tán
pháp thuộc Thanh Văn Thừa, kinh A Hàm và luận Câu Xá là
hay, c̣n Lục Độ vạn hạnh và mười hai
nhân duyên đều chẳng tốt. Tự kẻ đó nói
như thế, mà cũng dạy người khác như thế.
Chính kẻ đó biên chép như thế,
mà cũng dạy người khác biên chép như thế.
Có
những kẻ học pháp Đại Thừa, học theo
kinh Pháp Hoa, nói hàng Nhị Thừa là “tiêu nha, bại chủng”
(焦芽敗種, mầm bị
cháy, hạt giống hư), [chẳng thấu hiểu]
đức Phật quở trách các vị ấy, v́ các vị
ấy chẳng phát tâm Bồ Đề. Nếu quư vị chấp
trước lời đó, cũng là sai lầm. Pháp tam thừa
đều hay, hết thảy các pháp nghĩa do đức
Phật đă dạy đều nói thích đáng căn
cơ. Nói đối ứng căn cơ, pháp tam thừa
đều b́nh đẳng, chớ nên tin thừa này, bèn hủy báng thừa kia. Nếu làm như vậy, sẽ
là hủy diệt Phật pháp. Thậm chí có kẻ nói chỉ
có tu bố thí th́ mới có thể đạt được
thanh tịnh rốt ráo, chứ tŕ giới, nhẫn nhục,
học trí, đều vô dụng, tu Thiền Định vô
dụng. Hoặc là có kẻ lại chấp trước
học Thiền Định sẽ hữu dụng, cho đến
đối với tŕ giới, bố thí, nhẫn nhục, học
Bát Nhă đều vô dụng, tức là chấp một pháp,
phủ nhận các pháp khác. Đối với Lục Độ
vạn hạnh cũng là như thế, kẻ đó chấp
một Độ trong Lục Độ vạn hạnh, phủ
nhận năm Độ kia!
(經)或有執言,唯修佈施得究竟淨,非戒、非忍乃至非慧。或有執言,唯修禁戒得究竟淨,非施、非忍乃至非慧。或有執言,唯修安忍得究竟淨,非施、非戒乃至非慧。或有執言,唯修精進得究竟淨,非施、非戒乃至非慧。或有執言,唯修靜慮得究竟淨,非施、非戒乃至非慧。或有執言,唯修般若得究竟淨,非施、非戒乃至非定。或有執言,唯修種種世間所習諸技藝智得究竟淨。或有執言,唯修種種投岩赴火自餓等行得究竟淨。
(Kinh: Hoặc có kẻ
chấp trước rằng: Chỉ có tu bố thí th́ mới
đạt được thanh tịnh rốt ráo, chẳng
phải giới, chẳng phải nhẫn, cho đến chẳng
phải huệ. Hoặc có kẻ chấp rằng: Chỉ
có tu cấm giới th́ mới đạt được
thanh tịnh rốt ráo, chẳng phải thí, chẳng phải
nhẫn, cho đến chẳng phải huệ. Hoặc có
kẻ chấp rằng: Chỉ có tu an nhẫn th́ mới
đạt được thanh tịnh rốt ráo, chẳng
phải thí, chẳng phải giới, cho đến chẳng
phải huệ. Hoặc có kẻ chấp rằng: Chỉ
có tu tinh tấn th́ mới đạt được thanh tịnh
rốt ráo, chẳng phải thí, chẳng phải giới,
cho đến chẳng phải huệ. Hoặc có kẻ chấp
rằng: Chỉ có tu Tĩnh Lự th́ mới đạt
được thanh tịnh rốt ráo, chẳng phải
thí, chẳng phải giới, cho đến chẳng phải
huệ. Hoặc có kẻ chấp rằng: Chỉ có tu Bát
Nhă th́ mới đạt được thanh tịnh rốt
ráo, chẳng phải thí, chẳng phải giới, cho đến
chẳng phải Định. Hoặc có kẻ chấp rằng:
Chỉ có tu các thứ nghề khéo và các trí như thế
gian thường làm th́ mới đạt được
thanh tịnh rốt ráo. Hoặc có kẻ chấp rằng:
Chỉ có tu các loại hạnh như gieo ḿnh xuống gộp
đá, gieo thân vào lửa, tự nhịn đói v.v… th́ mới
đạt được thanh tịnh rốt ráo).
“Hoặc
hữu chấp ngôn: Duy tu bố thí đắc cứu cánh tịnh,
phi giới, phi nhẫn” (Hoặc có kẻ chấp trước
rằng: Chỉ có tu bố thí th́ mới đạt
được thanh tịnh rốt ráo, chẳng phải giới,
chẳng phải nhẫn), cũng chẳng phải là Giới, cũng chẳng
phải là Thi La Ba La Mật, cũng chẳng phải là Nhẫn
Nhục Ba La Mật, cho đến cũng chẳng phải
là Bát Nhă Ba La Mật. Hoặc có kẻ chấp rằng: Chỉ
có tu giới cấm th́ sẽ đạt được
thanh tịnh rốt ráo, tức là do tu Thi La Ba La Mật th́ mới
có thể đạt đến thanh tịnh rốt ráo, các
Ba La Mật khác đều không tốt. Đấy là điều
bị đức Phật quở trách, v́ đó là ác tánh chấp
trước, là ác kiến. Đó gọi là chấp trước
tà kiến. Ngoại đạo lại càng chẳng cần
phải nói nữa, hoặc là tu đủ kiểu
[khổ hạnh] như quăng ḿnh xuống gộp đá,
gieo thân vào lửa, nhịn đói. Họ cứ nghĩ tu
các hạnh môn đó th́ mới là rốt ráo. Đấy là
nói điên đảo. Ở đây, nêu ra thí dụ, “đầu
nham” (投岩, quăng ḿnh xuống
gộp đá) tức là trèo lên đỉnh
núi, nhảy xuống vách núi, cứ nghĩ nhảy xuống
sẽ thành đạo. Tại núi Nga Mi có Xả Thân Nhai (舍身崖, vách núi xả
thân), trong kinh Pháp Hoa, Diệu Hỷ Bồ Tát tự đốt thân, đấy đều chẳng phải
là các pháp thường hằng, chớ nên phỏng theo lệ
ấy. Kinh điển Đại Thừa nói tới những
trường hợp ấy là do các nhân duyên riêng biệt. C̣n
các chuyện gieo ḿnh xuống vách đá, nhảy vào lửa,
nhịn đói như ngoại đạo đă
nói, cứ ngỡ làm như vậy sẽ có thể đạt
được thanh tịnh rốt ráo. Đó là sai lầm!
(Kinh)
Thiện nam tử! Như thị phá giới, ác hạnh bật-sô,
phi pháp khí giả, chủng chủng dụ hoặc chân thiện
pháp khí chư hữu t́nh đẳng, linh chấp ác kiến. Bỉ do điên đảo
chư ác kiến cố, phá hoại chân thiện Sát-đế-lợi
vương, năi chí chân thiện Thú-đạt-la đẳng, nhược nam, nhược
nữ, sở hữu tịnh tín, giới, văn, xả, huệ,
chuyển Sát-đế-lợi thành Chiên-đồ-la, năi chí
Phiệt-xá, Thú-đạt-la đẳng thành Chiên-đồ-la.
Thử phi pháp khí, phá giới bật-sô, tịnh Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la đẳng, sư cập đệ tử,
câu đoạn thiện căn, năi chí đương đọa
Vô Gián địa ngục. Thiện nam tử! Như nhân tử
thi, bàng trướng, lạn xú, chư lai kiến giả,
giai vị xú huân, tùy sở xúc cận lạn xú tử thi, hoặc
dữ giao ngoạn, tùy bị xú uế chi sở huân nhiễm.
Như thị chân thiện Sát-đế-lợi
vương, năi chí chân thiện Thú-đạt-la đẳng,
nhược nam, nhược nữ, tùy sở thân cận
phá giới, ác hạnh, phi pháp khí Tăng, hoặc dữ giao
du, hoặc cộng trụ chỉ, hoặc đồng sự
nghiệp, tùy bị ác kiến xú uế huân nhiễm. Như
thị, như thị, linh bỉ chân thiện Sát-đế-lợi
vương, năi chí chân thiện Thú-đạt-la đẳng,
nhược nam, nhược nữ, thoái thất tịnh
tín, giới, văn, xả, huệ, thành Chiên-đồ-la,
sư cập đệ tử, câu đoạn thiện
căn, năi chí đương đọa Vô Gián địa ngục.
(經)善男子,如是破戒惡行苾芻,非法器者,種種誘惑真善法器諸有情等,令執惡見;彼由顛倒諸惡見故,破壞真善剎帝利王,乃至真善戍達羅等,若男若女,所有淨信戒聞舍慧,轉剎帝利成旃荼羅,乃至筏舍戍達羅等成旃荼羅。此非法器破戒苾芻,並剎帝利旃荼羅等,師及弟子,俱斷善根,乃至當墮無間地獄。善男子,如人死尸,膨脹爛臭,諸來見者,皆為臭熏,隨所觸近爛臭死尸,或與交玩,隨被臭穢之所熏染;如是真善剎帝利王,乃至真善戍達羅等,若男若女,隨所親近破戒惡行非法器僧,或與交遊,或共住止,或同事業,隨被惡見臭穢熏染。如是,如是,令彼真善剎帝利王,乃至真善戍達羅等,若男若女,退失淨信戒聞舍慧,成旃荼羅,師及弟子,俱斷善根,乃至當墮無間地獄。
(Kinh: Này thiện nam tử!
Bật-sô phá giới, ác hạnh
như thế, chẳng phải là pháp khí, dùng đủ mọi
cách dụ dỗ, mê hoặc các hữu t́nh là bậc chân thiện
pháp khí, khiến cho họ chấp trước ác kiến.
Những kẻ đó do các ác kiến điên đảo, bèn
phá hoại chân thiện Sát-đế-lợi vương,
cho đến chân thiện Thú-đạt-la v.v… Dù nam hay nữ,
tất cả tịnh tín, giới, văn, xả, huệ
[đều bị thoái thất], chuyển Sát-đế-lợi
thành Chiên-đồ-la, cho đến Phiệt-xá, Thú-đạt-la
v.v… thành Chiên-đồ-la. Bật-sô phá giới chẳng phải
pháp khí ấy và Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la v.v… thầy
lẫn tṛ đều đoạn mất thiện căn,
cho đến sẽ đọa vào địa ngục Vô
Gián. Này thiện nam tử! Như xác người
chương phềnh, nứt nẻ, hôi thối, những
người đến xem đều bị mùi thối xông
xực. Hễ đến gần xác chết nứt nẻ,
hôi thối, hoặc đi qua, đều bị xú uế hun
nhiễm. Chân thiện Sát-đế-lợi vương cho
đến chân thiện Thú-đạt-la v.v… như thế,
dù nam hay nữ, hễ thân cận Tăng nhân phá giới, ác
hạnh, chẳng phải là pháp khí, hoặc giao du, hoặc ở
chung, hoặc có cùng sự nghiệp, sẽ bị ác kiến
xú uế hun nhuốm. Đúng như thế đó, đúng
như thế đấy, sẽ khiến cho chân thiện
Sát-đế-lợi vương ấy, cho đến chân
thiện Thú-đạt-la v.v… dù nam hay nữ thoái thất tịnh
tín, giới, văn, xả, huệ, trở thành Chiên-đồ-la,
thầy lẫn tṛ đều đoạn thiện căn,
cho đến sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián).
Đây
là tổng kết. Các tỳ-kheo phá giới, ác hạnh
đó chẳng phải là pháp khí, tức chẳng phải
là dụng cụ chứa đựng pháp. Họ là phường
tà tri, tà kiến, nói dối, gạt gẫm, dụ hoặc.
Đối với bậc chân thiện pháp khí, đối với
người thật sự tu hành, thật sự là chánh tri,
chánh kiến, những ác Tăng đó sẽ
khuyên họ dấy lên ác kiến, khuyên họ vứt bỏ
chánh kiến. Bản thân những gă
đó do có ác kiến điên đảo, sẽ phá hoại
quốc vương tốt lành, thương nhân tốt
lành, cho đến những người tốt lành thuộc
các chủng tánh thấp hèn. Thú-đạt-la là chủng tánh
thấp hèn, là chủng tánh thấp nhất trong bốn chủng
tánh. [Những gă ác Tăng ấy] đều khiến
cho những người đó dấy lên ác kiến.
Tại
Ấn Độ, thành phần giai cấp chủng tánh hết
sức nghiêm trọng. Tôn giả Ưu Ba Ly là vị tŕ giới
bậc nhất, vốn là thợ cạo tóc cho hoàng đế
trong cung đ́nh. Khi ngài A Nan xuất gia,
đức Phật bảo A Nan hăy lễ dưới chân
ngài Ưu Ba Ly, A Nan không lễ, nói: “Đây là gă hầu chuyên cạo tóc của tôi, làm sao tôi lễ hắn ta cho được?” Đức Phật bảo: “Hễ
vào Phật pháp th́ đều là b́nh đẳng như nhau.
Thầy ấy là bậc Thượng Tọa, xuất gia sớm
hơn ông, đă chứng đắc quả A La Hán, ông phải
nên lễ bái”. Đối với Phật, pháp đều b́nh
đẳng. Phật độ chúng sanh chẳng phân biệt
giai cấp, đều b́nh đẳng độ. Do vậy,
đức Phật xét theo căn cơ mà nói hết thảy
các pháp.
Pháp
tam thừa, Tiểu Thừa là pháp Tứ Đế, Duyên
Giác Thừa là pháp mười hai nhân duyên, Bồ Tát Thừa
là Lục Độ vạn hạnh, đấy đều
là nêu đại ư. Luật Tạng tạng kinh, trong ấy
cũng chứa đựng nghĩa lư Đại Thừa.
Như niệm A Di Đà Phật chính là ư nghĩa Đại
Thừa, điều này được nói trong giới kinh.
Có các pháp dạy chúng ta phải khéo học, nhưng ở
đây là nói về tỳ-kheo ác tánh, tỳ-kheo phá giới, họ
hướng dẫn chúng sanh, khiến cho chúng sanh buông xả
tín, giới, huệ, bố thí, chuyển chân thiện
Sát-đế-lợi vương thành Chiên-đồ-la
Sát-đế-lợi vương. Hoặc là chân thiện Phiệt-xá,
Thú-đạt-la đều bị chuyển thành phường
Chiên-đồ-la, đều chuyển thành phường ác
tánh, hành theo hạnh của các ác tỳ-kheo. Tỳ-kheo phá giới
chẳng phải là pháp khí, đă hướng dẫn những
người ấy đều trở thành ác tánh.
Đề
Bà Đạt Đa dạy vua A Xà Thế giết cha, dạy
ông ta hăy soán đoạt ngôi vị hoàng đế, đó là tội
Ngũ Nghịch. Đề Bà
Đạt Đa muốn thay thế đức Phật, liền
lăn tảng đá đè Phật, toan đè chết đức
Phật, quăng trúng chân đức Phật, khiến cho
thân Phật chảy máu, ông ta ngay lập tức đọa
địa ngục. Đấy là biểu thị tánh ác. Ở
đây là tỳ-kheo phá giới chẳng phải là pháp khí, cho
đến những kẻ đi theo hắn, tin tưởng
hắn, nên sanh ra ác kiến. Các Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la vương cho đến Thú-đạt-la
Chiên-đồ-la ấy đều trở thành kẻ có tánh
ác. “Sư cập đệ tử, câu đoạn thiện
căn” (thầy lẫn đệ tử đều
đoạn thiện căn): Bất luận kẻ dạy
bảo hay đệ tử của kẻ đó đều đoạn
dứt thiện căn. “Đương đọa Vô Gián
địa ngục” (sẽ đều đọa vào địa ngục Vô
Gián): Mọi người đều đọa vào địa
ngục Vô Gián.
“Linh
bỉ chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí
chân thiện Thú-đạt-la đẳng, nhược nam,
nhược nữ, thoái thất tịnh tín, giới,
văn, xả, huệ” (khiến cho chân thiện Sát-đế-lợi
vương cho đến chân thiện Thú-đạt-la v.v… dù
nam hay nữ, đều thoái thất tịnh tín, giới,
văn, xả, huệ): Xả là bố thí, Huệ là trí huệ, Văn là nghe pháp. Toàn bộ
tịnh giới, nghe pháp, trí huệ đều buông bỏ,
trở thành ác tánh Chiên-đồ-la, thiện căn đều
bị đoạn dứt, sẽ đọa vào địa
ngục Vô Gián. Do vậy, đức Phật bảo Kim Cang
Tạng Bồ Tát, ta nói “phải nên cúng dường”
là có chọn lựa, chẳng phải là không chọn lựa!
Đối với hai đằng thiện và ác, phải phân
biệt đại lược: Tuy đều là
ô đạo sa-môn, nhưng trong các ô đạo sa-môn, c̣n có một
số người là tốt. Điều này có nghĩa là
nương theo Tam Bảo, nương theo điều thiện
để tu hành, sẽ có thể thành đạo. Nếu
lui sụt thành Vô Y, quư vị tu hành, nhưng chẳng
có công đức, lui sụt xuống phẩm Vô Y Hạnh.
Phẩm Vô Y Hạnh và phẩm Hữu Y Hạnh phải gộp
chung lại để nói. V́ sao lại vô y, chẳng y theo
Tam Bảo? Do chẳng có chánh tri, chánh kiến, sẽ đọa
vào địa ngục Vô Gián. Nương
theo Tam Bảo, có chánh tri, chánh kiến, sẽ là thị
đạo sa-môn, mạng đạo sa-môn, hay thắng đạo sa-môn, có ư nghĩa này.
Nói về kẻ ác xong, đức Phật lại giảng
về người lành.
(Kinh)
Thiện nam tử! Nhữ quán như thị Sát-đế-lợi
đẳng vô lượng hữu t́nh, thân cận như thị
phá giới, ác hạnh, phi pháp khí Tăng, thoái thất nhất thiết
sở hữu thiện pháp, năi chí đương đọa
Vô Gián địa ngục. Thị cố dục đắc
thượng diệu sanh thiên, Niết Bàn lạc giả,
giai ưng thân cận, thừa sự, cúng dường thắng
đạo sa-môn, tứ bẩm, thính văn tam
thừa yếu pháp, hoặc cầu thị đạo, mạng
đạo sa-môn. Nhược vô như thị tam đạo
sa-môn, đương ư ô đạo sa-môn trung cầu,
tuy phục giới hoại, nhi hữu chánh kiến, cụ
túc ư nhạo, cập gia hạnh giả, ưng văng thân cận,
thừa sự, cúng dường, tứ bẩm, thính văn tam thừa yếu pháp, bất
ưng thân cận, thừa sự, cúng dường gia hạnh,
ư nhạo, cập kiến hoại giả. Bỉ tuy giới
hoại, nhi vô tà kiến, ư nhạo, gia hạnh, kiến cụ
túc cố, ưng nghệ kỳ sở, tứ bẩm, thính văn Thanh Văn Thừa pháp,
Độc Giác Thừa pháp, cập Đại Thừa pháp,
bất ưng khinh hủy. Ư tam thừa trung, tùy ư sở
nhạo, phát nguyện tinh tấn, tùy học nhất thừa,
ư sở dư thừa, bất ưng khinh hủy.
Nhược ư tam thừa, tùy khinh hủy nhất, hạ
chí nhất tụng, bất ưng thân cận, hoặc dữ
giao du, hoặc cộng trụ chỉ, hoặc đồng
sự nghiệp. Nhược hữu thân cận, hoặc dữ
giao du, hoặc cộng trụ chỉ, hoặc đồng
sự nghiệp, câu định đương đọa
Vô Gián địa ngục.
(經)善男子,汝觀如是剎帝利等無量有情,親近如是破戒惡行非法器僧,退失一切所有善法,乃至當墮無間地獄。是故欲得上妙生天涅槃樂者,皆應親近承事供養勝道沙門,諮稟聽聞三乘要法,或求示道、命道沙門。若無如是三道沙門,當於污道沙門中求。雖復戒壞,而有正見,具足意樂及加行者,應往親近承事供養、諮稟聽聞三乘要法,不應親近承事供養加行、意樂及見壞者。彼雖戒壞,而無邪見,意樂、加行、見具足故,應詣其所,諮稟聽聞聲聞乘法、獨覺乘法及大乘法,不應輕毀。於三乘中,隨意所樂,發願精進隨學一乘,於所餘乘不應輕毀。若於三乘隨輕毀一,下至一頌,不應親近,或與交遊,或共住止,或同事業。若有親近,或與交遊,或共住止,或同事業,俱定當墮無間地獄。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Ông hăy quán vô lượng hữu t́nh
như Sát-đế-lợi v.v… như thế, thân cận
Tăng nhân phá giới, ác hạnh, chẳng phải là pháp
khí như thế, sẽ thoái thất tất
cả hết thảy thiện pháp, cho đến sẽ
đọa vào địa ngục Vô Gián. Do vậy, kẻ muốn
đạt được niềm vui thượng diệu
do sanh thiên hay chứng Niết Bàn, đều phải nên
thân cận, thừa sự, cúng dường bậc thắng
đạo sa-môn để thưa hỏi,
nghe pháp trọng yếu trong tam thừa, hoặc cầu bậc
thị đạo, hay mạng đạo sa-môn. Nếu chẳng có ba loại
đạo sa-môn như thế, hăy nên cầu nơi ô đạo
sa-môn. Họ tuy giới hư hoại, nhưng có chánh kiến,
trọn đủ ư nhạo và gia hạnh, hăy nên đến
thân cận, thừa sự, cúng dường, thưa hỏi,
nghe pháp trọng yếu trong tam thừa. Chớ nên thân cận,
thừa sự, cúng dường kẻ có gia hạnh, ư nhạo,
và kiến đều hoại. Đối với những
người tuy giới hoại, nhưng chẳng có tà kiến,
[lại c̣n] ư nhạo, gia hạnh, và kiến đều trọn
đủ, hăy nên đến chỗ kẻ đó, thưa hỏi,
lắng nghe pháp Thanh Văn Thừa, pháp Độc Giác Thừa, và pháp Đại Thừa, chớ nên khinh hủy. Trong
tam thừa, tùy ḷng yêu thích, hăy phát nguyện tinh tấn, học
lấy một thừa, đối với hai thừa kia, chớ
nên khinh hủy. Nếu kẻ nào đối với tam thừa,
hễ khinh hủy bất cứ một thừa nào, dẫu
chỉ một bài tụng, chớ nên thân cận hoặc
giao du, hoặc ở chung chỗ, hoặc làm cùng sự nghiệp.
Nếu có thân cận, hoặc giao du, hoặc cùng ở chung
chỗ, hoặc làm cùng sự nghiệp, sẽ đều
đọa vào địa ngục Vô Gián).
Trong
phần trước đă nói về mười ác luân, hễ
có một luân nào, không chỉ thoái thất thiện pháp trong
đời này, mà thiện pháp do quư vị đă tu hành trong
nhiều đời đều bị thoái thất. “Một
niệm sân tâm khởi, trăm vạn cửa chướng
mở”. Không chỉ thoái thất, mà trong vị lai, quư vị sẽ
toàn gặp chướng ngại. Dấy lên một niệm
sân tâm, khởi ḷng tham, bản thân là ngu si, chứa đựng
vô minh. Nếu chẳng có Vô Minh Hoặc, quang minh trí huệ
sẽ chiếu rọi, người ấy sẽ chẳng
dấy ḷng tham, cũng chẳng dấy ḷng sân. Đó là hai
đường thiện, ác.
Từ
nhiều đời, nhiều kiếp đến nay, v́ sao chúng ta chẳng
thể thành đạo, cứ tiến tiến lùi lùi? Đời
này gặp gỡ thiện tri thức, tiến lên được
một thời gian, sau đó, lại gặp ác tri thức,
lại bị lui sụt. Cứ tiến tiến lùi lùi, lùi
lùi tiến tiến như thế, thời gian sẽ lâu dài!
Bái sám, tu hành, niệm Phật hiệu, thánh hiệu, hoặc
là niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, hoặc là niệm Địa
Tạng Bồ Tát, tùy tiện quư vị làm ǵ đều là
tiến lên. Nếu có thể trong lúc lâm chung mà giữ vững,
nếu có Túc Mạng Trí, trong đời sau, sẽ biết
đời trước ta đă làm ǵ, quư vị sẽ chẳng
làm ác nữa, đời này tối thiểu ắt phải
tu được Túc Mạng Trí. Quư vị mong đạt
được sự vui sướng thượng diệu
sanh lên trời, hay chứng Niết Bàn, phải nên làm
như thế nào? Phải nên “thân cận, thừa sự,
cúng dường thắng đạo sa-môn”. Nay là thời
Mạt Pháp, t́m đâu ra vị nào đă chứng đắc
quả vị A La Hán, hoặc c̣n thể thấy Phật
ư? Chẳng thể nào! Quư vị làm như thế nào
đây? T́m một vị trong số các ô đạo
sa-môn cũng được, nhưng chớ t́m tỳ-kheo
nào phá giới, ác hạnh, tà tri, tà kiến. Kẻ đó sẽ
dẫn quư vị vào địa ngục đấy!
Đă
chẳng có thắng đạo sa-môn, như vậy th́ t́m thị
đạo sa-môn, chuyện này cũng chẳng dễ dàng!
Nay chúng ta cũng chẳng nhận biết, cũng chẳng
đạt đến trí huệ ấy. Mạng đạo
sa-môn cũng thế! “Nhược vô tam đạo sa-môn” nghĩa
là thắng đạo sa-môn chẳng có, thị đạo
sa-môn quư vị cũng chẳng gặp được, mạng
đạo sa-môn cũng chẳng gặp luôn, vậy th́ làm
như thế nào? “Đương ư ô đạo sa-môn
trung cầu” (hăy nên cầu nơi ô đạo sa-môn). Hiện
thời, ngay cả ô đạo sa-môn cũng khó gặp gỡ.
Ô đạo sa-môn tuy phá giới, nhưng có chánh kiến, tri
kiến của vị ấy chẳng hoại. Phá giới,
Phật c̣n có thể cứu; phá kiến th́ Phật chẳng
có cách nào cứu nổi! Kẻ đó không tin, dẫu quư vị nói như thế nào đi nữa, kẻ
đó vẫn chẳng tin! Tuy sanh khởi tri kiến
điên đảo, kẻ đó
đối với Phật pháp vẫn có ḷng ưa thích, vẫn
có tâm mong cầu. Gia hạnh là phương tiện thiện
xảo, kẻ đó phải tu. Gia hạnh chính
phương tiện đạo. Nay chúng ta đọc kinh, lễ
bái, sám hối, cho đến xưng niệm thánh hiệu,
đều coi như gia hạnh đạo.
Vậy
th́ quư vị hăy nên “thân cận, thừa sự, cúng dường,
tứ bẩm, thính văn tam thừa
yếu pháp” (thân cận, thừa sự, cúng
dường, thưa hỏi, nghe nhận các pháp trọng yếu
trong tam thừa). Thắng đạo sa-môn quư vị chẳng
gặp được, mạng đạo sa-môn cũng chẳng
gặp được, cho đến thị đạo
sa-môn cũng chẳng gặp được! Làm như thế
nào đây? Đến cuối cùng, ngay cả ô đạo
sa-môn cũng chẳng gặp gỡ, người khoác ca-sa
đều chẳng có, pháp đă bị diệt! Pháp đă
thật sự bị diệt, muốn thỉnh một bộ
kinh cũng chẳng thấy. Quư vị đừng thấy
hiện thời Pháp Bảo rất nhiều! Tới lúc pháp
diệt, ngay lập tức chẳng có chi hết! Chúng tôi
không biết đó là do sức mạnh nào, chẳng c̣n ǵ hết!
Tại Đại Lục (Hoa Lục) là như vậy
đó. Trong rất nhiều chùa miếu, Tàng Kinh Lâu đều
bị niêm phong. Kinh ở trong đó,
nhưng quư vị chẳng dám xem, cũng chẳng lấy ra
được! Hễ xem, sẽ là phạm pháp, phạm tội.
Đấy là nói chuyện trước kia. Vua Chiên-đồ-la
vương hành pháp Chiên-đồ-la, tức ác pháp, quư vị
chẳng có cách nào hết! Tuy vị Tăng ấy (ô
đạo sa-môn) phá giới, nhưng tri kiến vẫn rất
tốt, chẳng có tà kiến. Vậy th́ người đó
có ư nhạo (tâm ưa thích Phật pháp), ư nhạo th́ sẽ
mong mỏi, có tâm hoan hỷ, đối với Phật giáo
có tâm hoan hỷ, c̣n hành các gia hạnh. “Ưng nghệ kỳ
sở, tứ bẩm thính văn Thanh Văn Thừa pháp,
Độc Giác Thừa pháp, cập Đại Thừa pháp,
bất ưng khinh hủy” (Hăy nên đến chỗ kẻ
đó, thưa hỏi, nghe nhận pháp Thanh Văn Thừa,
pháp Độc Giác Thừa, và pháp Đại Thừa, chớ
nên khinh hủy), phải sanh ḷng cung kính đối với
người ấy.
“Ư
tam thừa trung, tùy ư sở nhạo, phát nguyện tinh tấn”
(trong ba thừa, tùy ḷng ưa thích, phát nguyện tinh tấn), trong ba thừa, tùy ư
quư vị thích pháp nào, bèn tu pháp ấy là được! “Tùy
học nhất thừa” (Tùy ư học một thừa),
không nhất định, quư vị đối với nhân
duyên nào rất sâu dầy, bèn học pháp ấy, điều
này phải tùy duyên. Tôi mong học pháp Thanh Văn Thừa,
nhưng chẳng gặp kinh A Hàm, chẳng gặp luận
Câu Xá, sẽ lại học như thế nào? Đồng thời,
quư vị gặp một vị thầy, nhưng vị thầy
ấy chưa hề học luận Câu Xá, cũng chẳng
học kinh A Hàm, vị ấy sẽ nói cho quư vị pháp ǵ
đây? Vị ấy học pháp ǵ, quư vị sẽ học
pháp ấy. Khi tôi ở Hạ Môn, khôi phục Mân Nam Phật
Học Viện[6]
tại chùa Nam Phổ Đà, lúc đó tôi là Giáo Vụ Trưởng,
tới đâu để mời giáo sư đây? [Phật pháp tại Hoa Lục] đă bị gián
đoạn [gần bốn mươi năm]. Học tṛ
hai mươi mấy tuổi, chúng tôi khi đó đă hơn
bảy mươi tuổi. Quư vị muốn t́m một vị
thầy vào lứa tuổi bốn mươi, năm
mươi, chẳng có!
Trước
kia, Mân Nam Phật Học Viện tu Duy Thức Tông, nhưng
hiện thời, mong mời giảng sư giảng Bát Thức
Quy Củ Tụng th́ chẳng có ai có thể giảng, đều
chưa từng học. [Các giảng sư] có vị học
tứ giáo, có vị học ngũ giáo, có vị học Tịnh
Độ, bèn giảng kinh A Di Đà. Làm như thế nào? Vị
nào biết điều ǵ, sẽ dạy điều
đó. Do vậy, dạy rất phức tạp.
Chương tŕnh học không đủ, tôi mời mấy
giáo sư từ đại học Hạ Môn, là các vị
giáo sư già đến dạy. Văn học cũng học,
chúng tôi cũng có các lớp tiếng Anh, tiếng Nhật, tức
là dạy rất phức tạp. V́ sao vậy? Tùy duyên! Quư vị
mong quyết định học môn ǵ, chẳng có [giảng
sư], làm như thế nào? Lại c̣n phải có sách giáo
khoa, học tṛ phải có sách. Chẳng có sách, học thế
nào đây? Dùng cách in ronéo, mượn mấy bản từ thư
viện, t́m người in lại, dùng để dạy học!
Kinh
điển tam thừa, tùy tiện quư vị muốn học
bộ nào, có thể cùng nhau học, chớ nên khinh miệt,
hủy báng. Nhưng với kẻ ác hạnh, quư vị chớ
nên thân cận, chớ nên giao du với hắn. Nếu quư vị
thân cận, giao du với hắn, quư vị sẽ khốn
đốn! Do vậy, khi học pháp tam thừa, hoặc là
khi học Hiển giáo, chúng ta v́ gieo phước, chớ nên
hủy báng thừa khác. Bất luận pháp sư nào giảng
kinh, cũng đều tán thán, tùy hỷ, đừng nên sanh
ḷng hủy báng. Quư vị chớ nên b́nh luận vị ấy
giảng kinh hay, giảng kinh dở. Nếu quư vị có
duyên với vị ấy, vui th́ quư vị đến nghe,
không vui th́ có thể không nghe, chẳng có ǵ sai trái hết! Nếu
quư vị hủy báng, vô duyên vô cớ t́m phiền năo cho chính
ḿnh, tự chuốc lấy tội. Chẳng có tội, quư vị
lại muốn thọ tội, việc ǵ phải vậy? Bất
luận đối với người, hay đối với
pháp, trong tâm quư vị luôn có Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo.
Chúng tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, [trong
kinh ấy đă nói] niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng, công đức rất lớn. Khi quư vị niệm
Pháp, Tam Tạng mười hai bộ hết thảy các
kinh, các pháp do mười phương chư Phật đă
dạy đều ở trong ấy, chẳng có lựa chọn.
Hết thảy các vị Tăng thù thắng có thể dẫn
khởi ḷng yêu thích của quư vị. V́ do có phàm
Tăng, quư vị có thể nghĩ đến các vị thánh
Tăng. Do có thánh Tăng, quư vị có thể nghĩ
đến Phật, sẽ gieo công đức.
(Kinh)
Thiện nam tử! Thị cố nhược dục ư
tam thừa trung, tùy y nhất thừa, cầu xuất sanh tử,
hân nhạo an lạc, yếm nguy khổ giả, ưng
ư Như Lai sở thuyết chánh pháp, hoặc y Thanh
Văn Thừa sở thuyết chánh pháp, hoặc y Độc
Giác Thừa sở thuyết chánh pháp, hoặc y Đại
Thừa sở thuyết chánh pháp, phổ thâm tín kính, vật
sanh báng hủy, chướng tế, ẩn một, hạ
chí nhất tụng, thường ưng cung kính, độc
tụng, thính văn, ưng phát kiên lao chánh nguyện cầu
chứng. Báng hủy tam thừa, tùy nhất pháp giả, bất
ưng cộng trụ, hạ chí nhất túc, bất ưng
thân cận, tứ bẩm, thính pháp. Nhược chư hữu
t́nh, tùy ư tam thừa, hủy báng nhất thừa, hoặc
phục thân cận báng tam thừa nhân, tứ bẩm, thính
thọ, do thử nhân
duyên, giai định đương đọa Vô Gián địa ngục, thọ đại
khổ năo, nan hữu xuất kỳ.
(經)善男子,是故若欲於三乘中,隨依一乘求出生死,欣樂安樂厭危苦者,應於如來所說正法,或依聲聞乘所說正法,或依獨覺乘所說正法,或依大乘所說正法,普深信敬,勿生謗毀、障蔽、隱沒下至一頌,常應恭敬、讀誦、聽聞,應發堅牢正願求證。謗毀三乘隨一法者,不應共住下至一宿,不應親近諮稟聽法。若諸有情,隨於三乘譭謗一乘,或復親近謗三乘人諮稟聽受,由此因緣,皆定當墮無間地獄,受大苦惱,難有出期。
(Kinh:
Này thiện nam tử! V́ thế, nếu người nào muốn
trong tam thừa, nương theo một thừa nào đó
để cầu thoát khỏi sanh tử, ưa thích an lạc,
chán nỗi khổ hiểm nguy, hăy nên đối với
chánh pháp do đức Như Lai đă nói, hoặc
nương theo chánh pháp được nói trong Thanh Văn
Thừa, hoặc nương theo chánh pháp được nói
trong Độc Giác Thừa, hoặc nương theo chánh
pháp được nói trong Đại Thừa, tin kính sâu xa
trọn khắp, đừng sanh ḷng hủy báng, chướng
lấp, ẩn giấu, dẫu chỉ một bài tụng.
Hăy thường nên cung kính, đọc tụng, lắng
nghe, hăy nên phát chánh nguyện kiên cố cầu chứng. Hễ
kẻ nào báng hủy bất cứ một pháp nào trong tam thừa,
chớ nên ở chung với kẻ đó, dẫu chỉ một đêm, hoặc là thân cận kẻ
báng bổ tam thừa, vâng nhận, lắng nghe. Do nhân duyên ấy,
chắc chắn sẽ đều đọa vào địa
ngục Vô Gián, chịu khổ năo to lớn, khó có lúc thoát
ra).
Do
vậy, “thiện nam tử! Dục ư tam thừa trung,
tùy y nhất thừa, cầu xuất sanh tử, hân nhạo
an lạc” (thiện nam tử! Muốn trong ba thừa,
nương theo một thừa nào đó để cầu
thoát khỏi sanh tử, ưa thích an lạc). Quư vị chán
ghét sự nguy nan, chán ĺa xă hội này. Muốn thoát khỏi
sanh tử, phải nên vâng theo chánh pháp do đức Như
Lai đă nói, hoặc vâng theo chánh pháp đă nói trong Thanh
Văn Thừa, hoặc vâng theo chánh pháp đă nói trong Độc
Giác Thừa, hay vâng theo chánh pháp đă
nói trong Đại Thừa, tin kính sâu xa, trọn khắp. “Phổ”
(普) là sâu trọn
khắp, chẳng phải là tri kiến nông cạn, mà là tín
ngưỡng rất sâu. Nếu quư vị chứng đắc
bốn quả vị A La Hán, thần thông cũng vô ngại,
có thể biết chuyện trong tám vạn đại kiếp,
khá lắm! Nhưng quư vị chẳng trụ trong môn Định
ấy, đấy là Bồ Tát.
Nhưng
xin quư vị hăy “vật sanh báng hủy, chướng tế,
ẩn một” (sanh ḷng hủy báng, chướng lấp,
ẩn giấu). Nếu hủy báng, chướng lấp, ẩn
giấu th́ chính là do tâm lư ghen tỵ. Kẻ đó tin tưởng pháp ấy, chỉ mong hoằng
dương pháp ấy, sợ kẻ khác cũng hoằng
dương, hoặc thấy chùa
người ta đệ tử rất đông, kẻ
đó nẩy ḷng chướng ngại, sẽ phá hoại,
đặt điều. Đấy là đặc điểm
trong thời Mạt Pháp, cũng là đặc điểm
trong thời hiện tại. Không chỉ là hàng xuất gia,
mà tại gia cư sĩ cũng là như vậy. Ở
đây, tôi không nêu thí dụ, mọi người đều
có thể hiểu, hằng ngày đều có thể gặp
phải, nhưng chúng ta chớ nên làm [như vậy]. Các
pháp được dạy trong tam thừa đều hay, nếu
nguyện lực của quư vị chẳng kiên định,
tri kiến bất chánh, nguyện sẽ chẳng chánh! Quư vị
chẳng có chánh nguyện; [bởi lẽ], chẳng có chánh
kiến, quư vị sẽ chẳng thể sanh khởi chánh
nguyện. Bàng môn, tà đạo,
quư vị muốn thoát ly biển khổ, chẳng thể
nào được!
Nếu
là “báng hủy tam thừa pháp, tùy nhất pháp giả, bất
ưng cộng trụ” (kẻ hủy báng bất cứ
một pháp nào trong pháp tam thừa, chẳng nên ở chung).
Hiện thời, quyền lợi “trụ” ấy,
đại chúng Tăng cũng chẳng c̣n nữa. Như
chùa Nam Phổ Đà có hơn năm trăm người ở
đó, nếu quư vị thấy kẻ nào bất hảo, tẫn
xuất kẻ đó, hắn sẽ thưa quư vị lên Cục
Tôn Giáo. Tôi nói: “Kẻ đó đă phá giới”. Họ nói: “Chẳng
thấy kẻ đó phạm sai lầm ǵ, một vị ḥa
thượng sao có thể dây dưa với nữ nhân
được? Chẳng phạm pháp!” Quư vị làm như
thế nào đây? Vẫn phải mời kẻ đó ở
lại thôi! Tới thời
đại này, phải nên biết thời thế, biết
là đang nhằm thời nào, hăy nên biết các giới hạn,
biết quư vị đang ở trong quốc giới nào. C̣n
phải biết nhân, biết duyên, biết pháp, biết nghiệp.
Có trí huệ th́ quư vị phải tùy duyên, đó gọi là “tùy
duyên”. Nhưng bản thân quư vị đừng nên biến
đổi, nếu kẻ khác nhậu nhẹt, ta cũng nhậu
nhẹt theo, kẻ khác t́m đàn bà, ta cũng t́m, hoặc là
nữ nhân [do thấy] kẻ khác t́m nam nhân, ta cũng t́m! Phật
Học Viện của nữ chúng, người hoàn tục
cũng rất nhiều; trong xă hội nhằm thời
đại Mạt Pháp này là như thế đó. Nếu [bắt
chước] làm theo như vậy, quư vị sẽ đọa
vào địa ngục Vô Gián, chẳng có lúc thoát ra!
(Kinh) Hà dĩ cố? Thiện nam tử! Ngă
ư quá khứ, tu Bồ Tát hạnh, tinh cần cầu chứng
vô thượng trí thời, hoặc vị cầu thỉnh
y Thanh Văn Thừa sở thuyết chánh pháp, hạ chí nhất
tụng, năi chí khí xả tự thân thủ, túc, huyết, nhục,
b́, cốt, đầu, mục, tủy, năo, hoặc vị cầu
thỉnh y Độc Giác Thừa sở thuyết chánh pháp,
hạ chí nhất tụng, năi chí khí xả tự thân thủ,
túc, huyết, nhục, b́, cốt, đầu, mục, tủy,
năo, hoặc vị cầu thỉnh y ư Đại Thừa
sở thuyết chánh pháp, hạ chí nhất tụng, năi chí
khí xả tự thân thủ, túc, huyết, nhục, b́, cốt,
đầu, mục, tủy, năo. Như thị cần khổ,
ư tam thừa trung, hạ chí cầu đắc nhất tụng
pháp dĩ, thâm sanh hoan hỷ, cung kính thọ tŕ, như thuyết
tu hành, thời vô tạm phế, kinh vô lượng kiếp,
tu hành nhất thiết nan hành khổ hạnh, năi chứng cứu
cánh vô thượng trí quả. Phục vị lợi ích, an
lạc hữu t́nh, tuyên thuyết, khai thị tam thừa chánh pháp.
Dĩ thị nghĩa cố, bất ưng báng hủy,
chướng tế, ẩn một, hạ chí nhất tụng,
thường ưng cung kính, độc tụng, thính
văn, ưng phát kiên lao chánh nguyện cầu chứng.
(經)何以故?善男子,我於過去修菩薩行,精勤求證無上智時,或為求請依聲聞乘,所說正法下至一頌,乃至棄舍自身手足、血肉皮骨、頭目髓腦;或為求請依獨覺乘,所說正法下至一頌,乃至棄舍自身手足、血肉皮骨、頭目髓腦;或為求請依於大乘,所說正法下至一頌,乃至棄舍自身手足、血肉皮骨、頭目髓腦。如是勤苦,於三乘中下至求得一頌法已,深生歡喜,恭敬受持,如說修行,時無暫廢,經無量劫修行一切難行、苦行,乃證究竟無上智果;復為利益安樂有情,宣說開示三乘正法。以是義故,不應謗毀、障蔽、隱沒下至一頌,常應恭敬、讀誦、聽聞,應發堅牢正願求證。
(Kinh:
V́ cớ nào? Này thiện nam tử! Ta trong quá khứ tu Bồ
Tát hạnh, lúc siêng ṛng cầu chứng Vô Thượng Trí, hoặc v́ cầu
thỉnh nương theo chánh pháp được nói trong
Thanh Văn Thừa, dẫu chỉ một bài kệ tụng,
mà thậm chí buông xả tay, chân, máu, thịt, da,
xương, đầu, mắt, tủy, năo của chính
ḿnh. Hoặc v́ cầu thỉnh nương theo chánh pháp
được nói trong Độc Giác Thừa, dẫu chỉ
một bài kệ tụng, mà thậm chí buông xả tay, chân,
máu, thịt, da, xương, đầu, mắt, tủy, năo
của chính ḿnh. Hoặc v́ cầu thỉnh nương theo
chánh pháp được nói trong Đại Thừa, dẫu
chỉ một bài kệ tụng mà thậm chí buông xả tay,
chân, máu, thịt, da, xương, đầu, mắt, tủy,
năo của chính ḿnh. Siêng khổ như thế để cầu
trong tam thừa dẫu chỉ cầu được một
bài tụng, sau đó sanh ḷng hoan hỷ
sâu xa, cung kính thọ tŕ, tu hành đúng như lời dạy,
chưa lúc nào tạm bỏ, trải qua vô lượng kiếp
tu hành hết thảy khổ hạnh khó hành, cho đến
chứng trí quả vô thượng rốt ráo. Lại v́ lợi
ích an lạc hữu t́nh mà tuyên nói, khai thị chánh pháp tam thừa.
Do v́ nghĩa ấy, chớ nên báng hủy, chướng lấp,
ẩn giấu, dẫu chỉ một kệ tụng, hăy
thường nên cung kính, đọc tụng, nghe nhận,
hăy nên phát khởi chánh nguyện kiên cố cầu chứng).
Do
duyên cớ nào? “Thiện nam tử! Ngă ư quá khứ tu Bồ
Tát hạnh, tinh cần cầu chứng vô thượng trí
thời” (Này thiện nam tử! Khi ta trong quá khứ tu Bồ
Tát hạnh, siêng ṛng cầu chứng đắc vô thượng trí): Đức Phật
tự dùng bản thân làm dẫn chứng để nói: Trong
quá khứ, khi Ngài hành Bồ Tát đạo, mong chứng
đắc trí huệ của Phật. Lúc đó, [đức
Bổn Sư c̣n là Bồ Tát], để thỉnh Phật
nói một câu kệ, đă xả mạng để cúng
dường Phật. Mọi người đọc truyện
Thích Ca Mâu Ni Phật, [sẽ thấy] những chuyện kiểu
ấy rất nhiều. V́ cầu một bài kệ mà xả
thân mạng, hoặc v́ cầu nửa bài kệ, thí xả
tay, chân, máu, thịt, da, xương, đầu, mắt, tủy,
năo của chính ḿnh. Chỉ cần cầu được
pháp, tâm sanh hoan hỷ, cung kính thọ tŕ. Nếu xả thân
mạng, tay, chân để đổi lấy như thế,
cái tâm cung kính, tâm tin ưa, tâm cầu chứng của quư vị
sẽ rất dũng mănh.
Nay
nếu chúng ta nghe kinh ở đây, tôi chẳng nói xả tay, chân, chỉ
cần bỏ ra hai, ba ngày khéo bế quan để tu hành.
Hăy ngẫm xem, nói kiểu đó mà c̣n xả chẳng
được, [cứ than văn] chẳng có thời
gian! Há c̣n có thể xả tay, chân, hoặc xả đầu,
mắt được sao? Chúng ta chẳng có sức mạnh
ấy. V́ sao? Ắt cần phải có tín tâm
kiên định. Phải kiên định tín tâm thanh tịnh
th́ quư vị mới làm được. Chúng ta hằng ngày
nói phải “sáu thời tu hành”, trong kinh bổn nói
như thế đó, chính ḿnh thật sự chẳng làm
được! Hăy nên sanh tâm hổ thẹn!
Khi
bái sám, chẳng biết các đạo hữu có nghĩ tới
hay không? Hăy nên đối với cái thân xác trong hiện thời
của chính ḿnh mà sanh ḷng hổ thẹn. Mọi người
đều rất bảo vệ chính ḿnh, toàn là đặt
sự chú ư nơi cái thân của ḿnh, ăn ǵ cho thân thể
khoẻ hơn một chút, khí lực mạnh hơn một
chút, hễ có bệnh tật ǵ bèn kiểm tra ngay lập tức.
Thật ra, phải nên hướng sự chú ư ra ngoài, làm thế
nào để ta thành tựu, khiến cho mọi người
thành tựu lẫn nhau. Đă thành tựu th́
trong vị lai chúng ta mới có thể cùng nhau thoát ly biển
khổ. Quư vị đừng dốc hết sự chú ư vào
thân thể! Chẳng có ai bất tử, thân thể ai cũng chẳng
thể bảo tồn măi được! Quư vị muốn
vĩnh viễn bảo tŕ như thế, chẳng thể
được! Bất tử ư? Nếu thế giới
này bất tử, đă sớm chẳng chứa nổi dân
cư rồi!
Để
ĺa khỏi sự khổ này, phải hành khổ hạnh.
Khó hành mà có thể làm, chúng ta hăy nên làm thế nào? Nói tới
điều chúng ta có thể làm được th́ lạy Phật,
niệm kinh có thể làm được hay không? Quư vị
nói chuyện ấy cũng chẳng thể được,
tôi đang đi làm, niệm Phật th́ được! Chẳng
niệm ra tiếng th́ được! Trong tâm nghĩ đến
cũng được! Quư vị hăy chăm sóc kỹ càng ư
niệm của chính ḿnh! Như trong kinh văn của quyển
hạ kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo [đă dạy], mỗi ngày
trong mười hai thời, quư vị phải chú ư tâm niệm
của chính ḿnh. Hễ khởi niệm bèn chú ư, v́ sao sanh khởi
ư niệm ấy? Đó gọi là “tu hành”.
Do
vậy, đối với tam thừa chánh pháp, chớ nên hủy
báng, ngăn lấp, cho đến dẫu chỉ một câu
nói mà có thể khai ngộ. Lại c̣n phải cung kính, đọc
tụng, lắng nghe. Bất quá, đôi khi đức Phật
lại quở trách đọc tụng, quở trách nghe nhận.
Chẳng hạn đức Phật quở ngài A Nan: “A Nan
túng cường kư, bất miễn lạc tà tư” (A Nan
dẫu nhớ dai, chẳng khỏi rơi vào suy nghĩ tà vạy).
V́ ngài A Nan được nghe pháp hằng ngày, nhưng gặp
phải cô Ma Đăng Già, Ngài chẳng có cách nào, dễ
dàng nẩy sanh tà kiến. Nhưng chúng ta cung kính nghe nói,
đọc tụng, sẽ lập tức có sáu
phương Phật hộ niệm ta. Đông, Tây, Nam, Bắc,
trên, dưới, sáu phương Phật,
không chỉ là một phương, trước hết
nêu ra mấy vị làm đại biểu rồi sau đó
nói “hằng hà sa số” (nhiều như số lượng
hạt cát trong sông Hằng). Hằng hà sa số chư
Phật trong sáu phương đều hộ niệm quư vị.
Mọi
người đọc kinh Di Đà, có chú ư hay không? Đời
này ta chưa văng sanh, vẫn chẳng sao! Đời này chẳng
sanh th́ đời sau nhất định sanh. Đời sau
chưa sanh th́ đời sau nữa vẫn có thể sanh.
[Kinh ấy] có ba câu “nhược dĩ sanh”, tức là
đă sanh về thế giới Cực Lạc. “Nhược
kim sanh”, đời này ta niệm, sẽ có thể sanh về
thế giới Cực Lạc. Nếu đă sanh, nếu
đang sanh, đời này nhất định có thể văng
sanh. Chẳng văng sanh cũng không sao, sáu phương chư
Phật hộ niệm ta. “Nhược đương
sanh”, trong vị lai nhất định sẽ sanh. Nếu
quư vị niệm A Di Đà Phật, niệm kinh A Di Đà,
phát ra nguyện ấy, con đến thế giới Cực
Lạc, nay chưa đến được, không sao cả!
Quư vị chưa mua vé máy bay được, vài ngày sau lại
mua, luôn có phi cơ, sẽ có thể
bay đến nơi. Nếu phi cơ chẳng cất cánh,
quư vị chẳng có cách nào hết. Chúng ta vĩnh viễn
đều có thể lên thuyền về Cực Lạc, v́
trong tâm của chính quư vị sanh khởi.
Do
vậy, có những kẻ nói: “Sư phụ! Con chẳng thể
văng sanh, làm thế nào đây?” Tôi nói: “Sợ ǵ! Sanh không
được th́ đời sau lại sanh.
Đời sau vẫn chưa sanh được th́ đời
kế sẽ sanh, sáu phương chư Phật hộ niệm,
quư vị nhất định có thể văng sanh! Nếu chẳng
thể văng sanh, Thích Ca Mâu Ni Phật sẽ trở thành nói dối”.
Kinh A Di Đà đă nói rất rơ ràng: “Nhược dĩ
sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh”,
ra đi trước để chứng minh cho quư vị.
Đời này có rất nhiều người văng sanh, nay
chúng ta chưa đi được, chẳng
đi được th́ đợi chuyến
phi cơ sau, đều giống hệt như nhau! Do
đó, phải có tín niệm như vậy, có chánh nguyện
tinh tấn dũng mănh như vậy, có cái tâm cầu chứng.
Đó là điều chủ yếu.
(Kinh)
Thiện nam tử! Như thị tam thừa xuất yếu
chánh pháp, nhất thiết quá khứ, vị lai, hiện tại
quá Căng Già sa chư Phật đồng thuyết, đại
oai thần lực cộng sở hộ tŕ, vị dục bạt
tế nhất thiết hữu t́nh sanh tử đại khổ,
vị dục thiệu long Tam Bảo chủng tánh, linh bất
đoạn tuyệt. Thị cố, ư thử tam thừa
chánh pháp, ưng phổ tín kính, vật sanh báng hủy,
chướng tế, ẩn một. Nhược hữu báng
hủy, chướng tế, ẩn một tam thừa chánh
pháp, hạ chí nhất tụng, quyết định
đương đọa Vô Gián địa ngục.
(經)善男子,如是三乘出要正法,一切過去、未來、現在過殑伽沙諸佛同說,大威神力共所護持,為欲拔濟一切有情生死大苦,為欲紹隆三寶種姓令不斷絕。是故於此三乘正法,應普信敬,勿生謗毀、障蔽、隱沒。若有謗毀、障蔽、隱沒三乘正法,下至一頌,決定當墮無間地獄。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Chánh pháp xuất yếu trong tam thừa
như thế được hết thảy chư Phật
trong quá khứ, vị lai, hiện tại nhiều hơn
cát sông Hằng cùng nói, dùng sức đại oai thần cùng
hộ tŕ, v́ muốn dẹp tan nỗi khổ sanh tử to
lớn cho hết thảy các hữu t́nh, v́ muốn tiếp
nối hưng thịnh chủng tánh Tam Bảo chẳng
đoạn tuyệt. V́ thế, đối với chánh pháp
tam thừa, hăy đều nên tin kính trọn khắp, đừng
sanh ḷng hủy báng, chướng lấp, ẩn giấu. Nếu
có kẻ nào hủy báng, chướng lấp, ẩn giấu
chánh pháp tam thừa, dẫu chỉ một kệ tụng,
chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục Vô
Gián).
“Thiện
nam tử! Như thị tam thừa xuất yếu chánh
pháp, nhất thiết quá khứ, vị lai, hiện tại
quá Căng Già sa chư Phật đồng thuyết” (Này
thiện nam tử! Chánh pháp xuất yếu trong tam thừa
như thế, do hết thảy chư Phật trong quá khứ,
vị lai, hiện tại nhiều hơn cát sông Hằng
cùng nói): Không chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật nói những lời
như vậy, mà quá khứ, hiện tại, vị lai
chư Phật số nhiều như
cát sông Hằng cũng đều nói như vậy, dùng “đại
oai thần lực cộng sở hộ tŕ” (sức oai
thần to lớn cùng hộ tŕ). Quá khứ, hiện tại,
vị lai chư Phật hộ tŕ điều ǵ? Hộ tŕ
người tin tưởng chánh pháp xuất yếu trong tam
thừa, khiến cho hết thảy hữu t́nh có thể
thoát ly nỗi khổ sanh tử to lớn, mà cũng có thể
“thiệu long Tam Bảo chủng tánh, linh bất đoạn
tuyệt” (tiếp nối hưng thịnh chủng tánh
Tam Bảo, khiến cho chẳng đoạn tuyệt). Chủng
tánh Tam Bảo chẳng đoạn tuyệt, sẽ khiến
cho hết thảy chúng sanh đều có thể ĺa khổ. “Thị
cố, ư tam thừa chánh pháp, ưng phổ tín kính”
(v́ thế, đối với chánh pháp tam thừa, đều nên tin kính trọn
khắp).
Đến
cuối cùng, nếu quư vị tin Thanh Văn Thừa,
Duyên Giác Thừa, Bồ Tát Thừa, quư vị đừng
nên sanh ḷng hủy báng, đừng sanh tâm chướng lấp,
ẩn giấu. Đừng coi điều ḿnh tin tưởng, ngưỡng mộ là đúng, coi những
điều khác đều là sai. Căn bệnh ấy rất
lớn, rất nặng; đó gọi là nghiệp chướng.
Nghiệp chướng có h́nh dạng như thế nào? Chính
là như vậy. Nếu ẩn giấu chánh pháp tam thừa,
chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục Vô
Gián.
(Kinh) Phục thứ, thiện nam tử!
Ư vị lai thế, thử Phật độ trung, hữu
Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, Bà-la-môn Chiên-đồ-la,
tể quan Chiên-đồ-la, cư sĩ Chiên-đồ-la,
sa-môn Chiên-đồ-la, trưởng giả Chiên-đồ-la,
Phiệt-xá Chiên-đồ-la, Thú-đạt-la Chiên-đồ-la,
nhược nam, nhược nữ, siểm khúc, ngu si, hoài thông minh mạn,
kỳ tánh hung bột, thảo lệ, thô quánh, bất kiến,
bất úy hậu thế khổ quả, háo hành sát sanh, năi
chí tà kiến, tật đố, xan tham, tăng bội thiện
hữu, thân cận ác hữu, phi thị tam thừa hiền
thánh pháp khí. Hoặc thiểu thính tập Thanh Văn Thừa
pháp, tiện ư chư Phật cộng sở hộ tŕ
Độc Giác Thừa pháp, Vô Thượng Thừa pháp phỉ
báng, hủy tử, chướng tế, ẩn một, bất
linh lưu bố. Hoặc thiểu thính tập Độc
Giác Thừa pháp, tiện ư chư Phật cộng sở
hộ tŕ Thanh Văn Thừa pháp, Vô Thượng Thừa
pháp phỉ báng, hủy tử, chướng tế, ẩn một,
bất linh lưu bố. Hoặc thiểu thính tập Vô
Thượng Thừa pháp, tiện ư chư Phật cộng
sở hộ tŕ Thanh Văn Thừa pháp, Độc Giác Thừa
pháp phỉ báng, hủy tử, chướng tế, ẩn một,
bất linh lưu bố. Vị cầu danh lợi, xướng
như thị ngôn: “Ngă thị Đại Thừa, thị
Đại Thừa đảng, duy nhạo thính tập, thọ
tŕ Đại Thừa, bất nhạo Thanh Văn, Độc
Giác Thừa pháp, bất nhạo thân cận học Nhị
Thừa nhân”. Như thị trá xưng Đại Thừa nhân
đẳng, do tự ngu si, kiêu mạn thế lực,
như thị báng hủy, chướng tế,
ẩn một tam thừa chánh pháp, bất linh lưu bố,
tăng tật tu học tam thừa pháp nhân, phỉ báng, hủy
nhục, linh vô oai thế.
(經)復次,善男子,於未來世此佛土中,有剎帝利旃荼羅、婆羅門旃荼羅、宰官旃荼羅、居士旃荼羅、沙門旃荼羅、長者旃荼羅、茷舍旃荼羅、戍達羅旃荼羅,若男若女,諂曲愚癡,懷聰明慢,其性凶悖、懆厲、粗獷,不見不畏後世苦果,好行殺生,乃至邪見,嫉妒慳貪,憎背善友,親近惡友,非是三乘賢聖法器。或少聽習聲聞乘法,便於諸佛共所護持獨覺乘法、無上乘法,誹謗毀呰,障蔽隱沒,不令流佈。或少聽習獨覺乘法,便於諸佛共所護持聲聞乘法、無上乘法,誹謗毀呰,障蔽隱沒,不令流佈。或少聽習無上乘法,便於諸佛共所護持聲聞乘法、獨覺乘法,誹謗毀呰,障蔽隱沒,不令流佈;為求名利,唱如是言:‘我是大乘,是大乘黨,唯樂聽習受持大乘,不樂聲聞、獨覺乘法,不樂親近學二乘人。’如是詐稱大乘人等,由自愚癡憍慢勢力,如是謗毀、障蔽、隱沒三乘正法,不令流佈;憎嫉修學三乘法人,誹謗毀辱,令無威勢。
(Kinh:
Lại này thiện nam tử! Trong đời vị lai,
nơi cơi Phật này, có Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la,
Bà-la-môn Chiên-đồ-la, tể quan Chiên-đồ-la, cư
sĩ Chiên-đồ-la, sa-môn Chiên-đồ-la, trưởng
giả Chiên-đồ-la, Phiệt-xá Chiên-đồ-la,
Thú-đạt-la Chiên-đồ-la, dù nam hay nữ, siểm
khúc, ngu si, tự phụ thông minh, tánh t́nh hung hăng, phóng
túng, thô lỗ, tục tằn, chẳng thấy, chẳng sợ
khổ quả đời sau, ưa chuộng sát sanh, cho
đến tà kiến, ganh tỵ, keo kiệt, tham lam, ghét bỏ
bạn lành, thân cận bạn ác, chẳng phải là pháp khí
để trở thành hiền thánh trong tam thừa. Hoặc
do nghe nhận, tu tập đôi chút pháp Thanh Văn Thừa,
liền phỉ báng, chê bai, chướng lấp, ẩn giấu,
chẳng cho lưu truyền pháp Độc Giác Thừa và
pháp Vô Thượng Thừa là các pháp được chư
Phật cùng hộ tŕ. Hoặc do nghe nhận, tu tập
đôi chút pháp Độc Giác Thừa, liền phỉ báng,
chê bai, chướng lấp, ẩn giấu, chẳng cho
lưu truyền pháp Thanh Văn Thừa và pháp Vô Thượng
Thừa là các pháp được chư Phật cùng hộ
tŕ. Hoặc do nghe nhận, tu tập đôi chút pháp Vô Thượng
Thừa, liền phỉ báng, chê bai, chướng lấp, ẩn
giấu, chẳng cho lưu truyền pháp Thanh Văn Thừa
và pháp Độc Giác Thừa là các pháp được
chư Phật cùng hộ tŕ. V́ cầu danh lợi, bèn xướng
như thế này: “Ta là Đại Thừa, thuộc bè đảng
Đại Thừa, chỉ thích nghe nhận, tu tập Đại
Thừa, chẳng thích pháp Thanh Văn và Độc Giác Thừa,
chẳng thích thân cận kẻ học pháp Nhị Thừa”. Giả dối
xưng là người Đại Thừa như thế, do
thế lực ngu si, kiêu mạn của chính ḿnh mà hủy
báng, chướng lấp, ẩn giấu chánh pháp tam thừa,
chẳng cho lưu truyền, ghen ghét người tu học
pháp tam thừa, phỉ báng, hủy nhục, khiến cho những
người ấy chẳng có oai thế).
“Hoài
thông minh mạn” (ôm ḷng tự phụ thông minh), tức là kẻ
chẳng thông minh. “Mạn” (慢) là biểu hiện của
sự không thông minh. Tự cho là thông minh, v́ kẻ đó
nghĩ ḿnh mạnh hơn người khác. Rơ ràng là chẳng
bằng người ta, mà vẫn tự nhận chính ḿnh ngon lành hơn người khác, dẫu chỗ nào cũng
đều thua kém kẻ khác! Chúng ta hăy tự vấn cẩn
thận, ai nấy đều mắc phải tật này,
thường coi rẻ kẻ khác, luôn cảm
thấy chính ḿnh khá lắm. Đó là Ngă Chấp. Thật ra,
khi quư vị thấy người khác luôn tốt đẹp
hơn bất cứ ai, khi đó, quư vị là tốt nhất.
Kẻ đó cũng chẳng cảm nhận được
chuyện này, bản thân hắn ngu si, vẫn cho rằng
chính ḿnh thông minh lắm. Người ấy có cái tâm kiêu mạn
đó.
“Kỳ
tánh hung bột” (tánh người ấy hung hăng,
ương bướng), “bột” (悖) là rất khó điều phục, nhu thuận. Chúng ta
thấy trâu, hoặc ngựa, hoặc lừa, dùng roi
đánh đập, trói chặt vào cột, nó vẫn chẳng đổi
tánh. Đọa làm súc sanh, tánh của nó càng hung hăng, trái
nghịch. “Thảo lệ thô quánh” (懆厲、粗獷) [nghĩa là] hành
động hết sức chẳng tuân thủ quy củ,
ăn nói cũng rất thô lỗ, tục tằn! Vỉ sao kẻ ấy
làm như vậy? Kẻ đó chẳng sợ đời
sau, chẳng tin nhân quả. Kẻ như vậy chẳng phải
là pháp khí trong tam thừa. Đối với Thanh Văn Thừa,
Duyên Giác Thừa, và Bồ Tát Thừa, đều chẳng
phải là pháp khí. Hoặc là do thấy nghe sơ sài pháp Thanh
Văn Thừa, nghe pháp Khổ, Tập, Diệt, Đạo
rồi bèn phá hoại [các pháp khác]. Họ được
nghe đôi chút pháp Thanh Văn, ngỡ ḿnh ghê gớm lắm,
đối với các pháp Độc Giác Thừa và Thượng
Thừa bèn hủy báng rất kịch liệt.
Phật
pháp tại các nước Tư Lư Lan Kha (Sri Lanka) và Thái Lan rất
tốt. Chúng ta có rất nhiều đệ tử tới
đó du học. Đó là Phật pháp thuần túy khi đức
Phật tại thế, nhưng đối với Trung Hoa
Đại Thừa, cho đến Mật Tông của Tây Tạng,
họ tuyệt đối chẳng tin tưởng. Người
Hoa học pháp Đại Thừa, đặc biệt là
người học Thiền Tông, đối với giới
luật, đối với chuyện nghe kinh, đại
đa số quăng ra sau ót. Khi tôi ở Cổ Sơn, Thiền
đường tranh chấp với học đường
của chúng tôi, chẳng phải là đấu lư, mà là tranh lợi!
Đường khẩu nào có nhiều đồ vật,
đường khẩu nào có cuộc sống dễ chịu
hơn! Lo tranh giành những thứ ấy, quên bẵng pháp
tam thừa như thế đó!
Đối
với pháp tam thừa do chư Phật cùng hộ tŕ, họ
nghe pháp Thanh Văn Thừa, bèn hủy báng pháp Độc
Giác Thừa, hủy báng pháp Đại Thừa. Họ nghe
pháp Độc Giác Thừa, liền hủy báng pháp Thanh
Văn Thừa và pháp Đại Thừa. Nghe xong pháp Đại
Thừa, liền hủy báng pháp Thanh Văn và Độc
Giác, mong ẩn giấu các pháp ấy, chẳng cho lưu turyền.
Nhưng có một điều kiện cơ bản là “vị
cầu danh lợi, xướng như thị ngôn” (v́ cầu
danh lợi, xướng như thế này): Nội tâm của
họ là v́ danh lợi, chẳng phải v́ pháp. [Họ rêu
rao] họ là Đại Thừa, thuộc bè phái Đại
Thừa. Thanh Văn Thừa th́ là bè đảng Thanh Văn
Thừa. Độc Giác Thừa th́ là bè đảng Độc
Giác Thừa. Kéo bè kết cánh đấu đá, [kêu gào]: “Các
vị đều như nhau, chúng ta là một đảng.
Chúng ta đều là Đại Thừa. Bọn Độc
Giác Thừa kia là Nhị Thừa. Chúng ta khác bọn chúng, hăy
bài xích bọn chúng!” Kết bè kéo đảng đấu
đá kẻ có tri kiến khác biệt, công kích [đối
phương] là dị đoan. Nếu quư vị trở thành
mấy đảng, lẽ nào chẳng công kích nhau? Đă
công kích nhau, mà mong chung sống ḥa b́nh, sẽ chẳng thể
được! Nếu ta nâng ḿnh lên th́ phải đè kẻ
khác xuống, chuyện là như thế đó!
Kẻ
dối trá xưng là Đại Thừa như thế, thêm một
chữ Trá (詐, dối trá) là
v́ kẻ đó chẳng phải là Đại Thừa. Nếu
kẻ đó thật sự là Đại Thừa, thật sự
là Bồ Tát, sẽ chẳng hủy báng bất cứ pháp
nào. Địa Tạng Bồ Tát hoằng dương pháp
môn Địa Tạng, chẳng báng Quán Âm. Quán Âm cũng
đến đây giúp Ngài tuyên dương. Kim Cang Tạng Bồ
Tát là Không, Hư Không Tạng Bồ Tát cũng là Không. Kẻ
đó chẳng phải là Đại Thừa, mà là trá hiện
Đại Thừa, chẳng phải là chân chánh Đại
Thừa. Do thế lực ngu si, kiêu mạn của chính ḿnh,
kẻ đó nhất định có sức lực, có sức
mạnh xă hội. V́ kẻ đó kéo bè kết đảng
công kích kẻ khác, người tin theo hắn vẫn chẳng
ít. Càng tới thời Mạt Pháp, kẻ tin hắn càng nhiều.
Làm người tốt không được nữa. Hiện
thời chẳng thể nói chuyện [làm người tốt]
được nữa! Quư vị nói hắc đạo không
tốt, nhưng có quốc gia nào chẳng có xă hội
đen, đảng phái nào mà chẳng có những kẻ
đen tối? Tới thời này là thời Mạt Pháp. Những
kẻ đó trá xưng Đại Thừa, mọi người
phải chú ư chữ Trá, chúng chẳng phải là người
Đại Thừa thật sự. Do thế lực của
bọn chúng, bèn hủy báng, chướng
ngăn, ẩn giấu chánh pháp tam thừa, chẳng cho
lưu truyền, ghen ghét người tu học pháp tam thừa.
Người nào tuyên truyền chánh pháp, sẽ bị kẻ
đó ghen ghét. Hiện thời, ngoại đạo ghen ghét,
chín mươi sáu loại ngoại đạo ghen ghét đức
Phật khôn cùng! [Ở đây, những kẻ trá xưng
Đại Thừa] phỉ báng, hủy nhục [người
học pháp tam thừa], khiến cho họ chẳng có oai thế.
(Kinh)
Thiện nam tử! Nhất thiết quá khứ, vị lai, hiện
tại chư Phật Thế Tôn, cập chư Bồ Tát Ma
Ha Tát, vị dục lợi lạc nhất thiết hữu
t́nh, dĩ đại bi lực hộ tŕ nhị sự. Nhất
giả, vị dục thiệu long Tam Bảo chủng tánh,
thường linh bất tuyệt, xả tục xuất
gia, thế trừ tu phát, bị phục ca-sa. Nhị giả,
tam thừa xuất yếu Tứ Thánh Đế đẳng
tương ứng chánh pháp. Như thị nhị sự,
duy Phật Thế Tôn, cập đại Bồ Tát năng
thiện hộ tŕ, phi chư Thanh Văn, Độc Thắng
Giác đẳng, diệc phi bách thiên na-dữu-đa số Đại Phạm
Thiên Vương, cập Thiên Đế Thích vương, tứ
đại châu Chuyển Luân Vương đẳng sở
năng hộ tŕ.
(經)善男子,一切過去、未來、現在諸佛世尊,及諸菩薩摩訶薩,為欲利樂一切有情,以大悲力護持二事:一者、為欲紹隆三寶種姓常令不絕,舍俗出家,剃除鬚髮,被服袈裟;二者、三乘出要四聖諦等相應正法。如是二事,唯佛世尊及大菩薩能善護持,非諸聲聞、獨勝覺等,亦非百千那庾多數大梵天王及天帝釋王、四大洲轉輪王等所能護持。
(Kinh: Này thiện nam tử!
Hết thảy quá khứ, vị lai, hiện tại chư
Phật Thế Tôn và các Bồ Tát Ma Ha Tát v́ muốn lợi
lạc hết thảy hữu t́nh, dùng sức đại bi
hộ tŕ hai sự: Một là v́ muốn tiếp nối
hưng thịnh chủng tánh Tam Bảo, thường chẳng
dứt tuyệt, xả tục xuất gia, cạo bỏ
râu tóc, khoác mặc ca-sa. Hai là các pháp xuất thế trọng
yếu trong tam thừa như Tứ Thánh Đế v.v… tương ứng
chánh pháp. Hai chuyện như thế, chỉ có Phật Thế
Tôn và đại Bồ Tát là có thể khéo hộ tŕ, chẳng
phải là các hàng Thanh Văn, Độc Thắng Giác v.v…
cũng chẳng phải trăm ngàn na-dữu-đa các Đại
Phạm Thiên Vương và Thiên Đế Thích Vương,
các Chuyển Luân Vương trong bốn đại bộ
châu mà có thể hộ tŕ).
Các vị đại Bồ
Tát và chư Phật v́ lợi ích hết thảy chúng sanh,
dùng sức đại bi hộ tŕ hai chuyện. “Nhất
giả, vị dục thiệu long Tam Bảo chủng tánh,
thường linh bất tuyệt, xả tục xuất
gia, thế trừ tu phát, bị phục ca-sa” (Một
là v́ muốn tiếp nối hưng thịnh chủng tánh
Tam Bảo thường chẳng dứt tuyệt, xả tục
xuất gia, cạo bỏ râu tóc, khoác mặc ca-sa). Đấy
là dùng sức đại bi để hộ tŕ chuyện thứ
nhất, tức là khiến cho Tam Bảo thường
được lưu truyền chẳng dứt, thường
chẳng bị đoạn tuyệt. Như thế nào th́ mới
có thể khiến cho chủng tánh Tam Bảo chẳng đoạn?
Phải hộ tŕ người xuất gia để trụ
tŕ Tam Bảo. Bản thân Tăng nhân là
như vậy, họ cạo bỏ râu tóc, khoác đắp
ca-sa, vẫn chưa bàn đến chuyện họ có tŕ giới
hay không. Tŕ giới th́ càng tốt hơn! Chỉ cần có
thể khoác đắp ca-sa, xả tục xuất gia, cạo
bỏ râu tóc, họ đă làm được bước
đầu tiên ấy, th́ cũng đă tốt lắm rồi!
“Nhị
giả, tam thừa xuất yếu Tứ Thánh Đế
đẳng tương ứng chánh pháp” (Hai là các pháp xuất
thế trọng yếu trong tam thừa như Tứ Thánh
Đế v.v… tương ứng chánh pháp): Điểm thứ
hai là phải hộ tŕ tam thừa xuất yếu, tức
là đạo trọng yếu để xuất thế
[trong tam thừa]. Bất luận Thanh Văn Thừa, Duyên
Giác Thừa, hay Bồ Tát Thừa, điều thứ nhất
là phải kiến lập xuất ly tâm, ắt phải có
tâm xuất ly tam giới khổ hải. Chẳng có cái tâm ấy,
thứ ǵ cũng đều chẳng thành. Xuất ly tâm là
điểm chung của tam thừa. Tứ Thánh Đế, tức
Khổ, Tập, Diệt, Đạo là Tứ Thánh Đế.
Thanh Văn Thừa nói Khổ, Tập, Diệt, Đạo,
chính ḿnh đă chứng đắc, tức chứng đắc
Niết Bàn là đủ rồi. Bồ Tát Thừa khác hẳn,
dẫu nhiều người như vậy, đợi cho họ
đă đều liễu thoát rồi, ta mới liễu
thoát. Địa Tạng Bồ Tát đợi họ đều
thành Phật cả rồi, Ngài mới thành Phật, mong trọn
hết trách nhiệm độ chúng sanh. Đấy là “tương
ứng hết thảy chánh pháp”. Khổ, Tập, Diệt,
Đạo là pháp Tứ Thánh Đế, Thanh Văn Thừa,
Duyên Giác Thừa tức Độc Giác Thừa đều
phải trọn đủ.
“Như
thị nhị sự” (hai sự như thế) chỉ
có chư Phật Thế Tôn và bậc đại Bồ Tát mới
có thể khéo hộ tŕ, chẳng phải hàng Thanh Văn,
Duyên Giác mà có thể làm được, cũng chẳng phải
trăm ngàn na-dữu-đa Đại Phạm Thiên
Vương và Thiên Đế Thích Thiên, các Chuyển Luân
Vương trong bốn đại bộ châu có thể hộ
tŕ được. Chỉ có Phật và đại Bồ Tát
mới có thể hộ tŕ.
(Kinh)
Ư vị lai thế, thử Phật độ trung, hữu
Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, kiến
y ngă pháp nhi đắc xuất gia, thế trừ tu phát, bị
ca-sa giả, phương tiện tứ cầu sở phạm
quá thất, dĩ chủng chủng duyên, ha mạ, hủy
nhục, hoặc gia tiên trượng, hoặc bế lao ngục,
hoặc đoạt tư cụ, hoặc thoát ca-sa, phế
linh hoàn tục, sử tác chủng chủng cư gia sự
nghiệp, hoặc hoành khu dịch, hoặc lạm tẫn
khiển, hoặc đoạn ẩm thực, hoặc hại
thân mạng. Bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la
vương, dĩ kỷ ngu si, kiêu mạn thế lực, hủy
nhục, trích phạt chư Phật, Bồ Tát dĩ đại
bi lực cộng sở hộ tŕ ngă chư đệ tử,
phỉ báng, hủy diệt chư Phật, Bồ Tát dĩ
đại bi lực cộng sở hộ tŕ ngă thậm
thâm pháp, ư kỳ tam thế chư Phật, Bồ Tát cộng
sở hộ tŕ tam thừa chánh pháp, chướng tế, ẩn
một, bất linh lưu bố.
(經)於未來世此佛土中,有剎帝利旃荼羅王,見依我法而得出家,剃除鬚髮、被袈裟者,方便伺求所犯過失,以種種緣呵罵毀辱,或加鞭杖,或閉牢獄,或奪資具,或脫袈裟廢令還俗使作種種居家事業,或橫驅役,或濫擯遣,或斷飲食,或害身命。彼剎帝利旃荼羅王,以己愚癡憍慢勢力,毀辱謫罰諸佛菩薩以大悲力共所護持我諸弟子,誹謗毀滅諸佛菩薩以大悲力共所護持我甚深法,於其三世諸佛菩薩共所護持三乘正法,障蔽隱沒,不令流佈。
(Kinh:
Trong đời vị lai, nơi cơi Phật này, có vua
Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la thấy người
nương theo pháp của ta để xuất gia, cạo
bỏ râu tóc, mặc ca-sa, bèn dùng các phương tiện
bươi móc lỗi lầm người ấy đă phạm,
dùng đủ mọi duyên quở
trách, chửi bới, hủy nhục, hoặc đánh bằng
roi, gậy, hoặc nhốt vào tù, hoặc tước
đoạt các vật dụng cần dùng, hoặc lột
ca-sa, bắt phải hoàn tục, sai người đó làm
các thứ sự nghiệp tại gia, hoặc ngang ngược
sai khiến họ phục dịch,
hoặc lạm quyền xua đuổi, hoặc cắt
lương thực, hoặc hại thân mạng. Vua
Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la ấy dùng thế lực
ngu si, kiêu mạn của chính ḿnh để hủy nhục,
trừng phạt các đệ tử của ta là những
người được chư Phật và Bồ Tát cùng
dùng sức đại bi hộ tŕ, phỉ báng, hủy diệt
pháp rất sâu của ta do chư Phật và Bồ Tát cùng dùng
sức đại bi hộ tŕ, chướng lấp, ẩn
giấu chánh pháp tam thừa được chư Phật
và Bồ Tát cùng hộ tŕ, khiến cho pháp ấy chẳng
được lưu truyền).
Đoạn
này nói về lúc Mạt Pháp. Có ác vương, Chiên-đồ-la
(Caṇḍāla) nghĩa là “ác độc, chẳng có thiện tín”. Hắn thấy
các vị xuất gia, tức là hàng xuất gia cạo bỏ
râu tóc, nương theo Phật pháp để xuất gia, bèn
bươi móc các loại lỗi lầm của họ. “Tứ
sát” (伺察) là t́m kiếm,
bươi móc những lỗi lầm đă phạm. Dùng
đủ mọi nhân duyên để quở trách, chửi mắng,
hủy nhục, cho đến dùng roi, gậy đánh đập
những người xuất gia. Những chuyện đó
thuộc về trách phạt! Hoặc là tống họ vào
lao ngục. Trong quá khứ, cũng có loại t́nh huống
này. Đời Minh lẫn triều Măn Thanh đều có. Mọi
người thấy Tử Bách lăo nhân và Hám Sơn đại
sư đều từng bị tù. Tử Bách lăo nhân chết
trong nhà giam. Vào thời Măn Thanh, lạt-ma, ḥa thượng
cũng [mắc nạn] rất nhiều. Như gần
đây nhất là Bát Chỉ đầu đà tức Tế
Thiền đại sư cũng từng bị giam. Vào thời
Mạt Pháp, luôn có hiện tượng này!
Khi
đó, thiện căn của chúng sanh mỏng, ít, kẻ làm
quốc vương có phước đức. Do phước
đức từ nhiều đời bao kiếp đă chín
muồi, kẻ đó làm quốc vương. Trong thời Mạt
Pháp, hắn thấy người xuất gia, thấy người
nương theo Phật pháp để xuất gia bèn
bươi móc lỗi lầm của họ. Như Hám
Sơn đại sư và Tử Bách lăo nhân bị Hoàng Thái Hậu liên lụy, v́
hoàng đế [Vạn Lịch, tức Minh Thần Tông] và Hoàng Thái Hậu có mâu thuẫn.
Thái Hậu tôn kính các
Ngài làm thầy, cúng cho các Ngài rất nhiều tiền để
dựng chùa, nhà vua [do mê Đạo giáo] liền vịn vào cớ
ấy để nhốt các Ngài vào tù. Trong nhà tù, chẳng
cho những người xuất gia chúng tôi nói chuyện với
nhau, buồng giam cũng khác nhau. Sau đó, cho ra lao động,
dẫu nghiêm ngặt cỡ nào, khi cho ra hóng gió, cũng có thể
tṛ chuyện. Tôi biết họ được Phật, Bồ
Tát gia tŕ. Hễ nói ra, sẽ khiến cho mọi người cảm
thấy rất chẳng thể nghĩ bàn. Trong ấy, có chứa
đựng sự linh cảm gia tŕ của Phật, Bồ
Tát.
Chuyện
kiểu này có khi là Cộng Nghiệp, gọi là Kiếp
Trược. Vào lúc đó, mọi người đều phạm
Cộng Nghiệp. Kẻ bức hại chúng ta cũng là cả
một tập đoàn. Vậy th́ kẻ bị hại
cũng là một nhóm người. Bất luận tại
gia hay xuất gia, đều là kẻ bị hại. Do cộng
nghiệp trong quá khứ của quư vị cảm vời, ắt
phải hứng chịu. Tiêu hết nợ, được
gia tŕ, tùy thuộc công lực của quư vị như thế
nào, tùy thuộc quư vị đền trả như thế
nào! Thật sự đến lúc đó, thấy hết thảy
đều là Không, sẽ chẳng sao cả! Nh́n từ hiện
tướng (h́nh tướng biểu hiện), dường
như rất tệ, nhưng nh́n từ thực chất, do
đă thọ báo rồi, cũng sẽ chẳng c̣n nữa.
Đấy cũng là bản thể của Tập [trong Tứ
Thánh Đế].
Do
vậy, vào thời Mạt Pháp, ác vương đó thấy
người mặc ca-sa bèn chẳng hoan hỷ cho lắm,
dùng đủ mọi duyên để
quở mắng, chửi bới, hủy nhục, cho đến
dùng roi đánh, nhốt vào lao ngục, tịch thâu hết
các vật dụng cần dùng của đại chúng
Tăng trong chùa miếu, khiến họ chẳng thể sống nổi, chẳng cho họ làm ḥa thượng
nữa. Hoặc cưỡng bức họ cởi ca-sa hoàn
tục. Không chỉ hoàn tục, mà c̣n bắt họ làm những
chuyện của người tại gia. Hoặc ngang
ngược sai khiến họ làm kẻ phục dịch,
coi họ như đầy tớ hèn mọn. Hoặc lạm
quyền tẫn xuất. “Lạm quyền tẫn
xuất” tức là chẳng
dựa theo quy chế của đức Phật, chẳng dựa
theo Tăng pháp để tẫn xuất, mà là lạm quyền
tẫn xuất.
Hoặc
cắt đứt thực phẩm, hoặc hại sanh mạng
của họ. Gă ác quốc vương ấy do bản thân
ngu si, dùng thế lực kiêu mạn để hủy nhục
các vị đệ tử xuất gia, cho đến phỉ
báng, hủy diệt. Tức là hủy diệt Tăng, hủy
diệt Pháp. Nếu chẳng có Tăng, chẳng có Pháp,
tượng Phật cũng bị hủy diệt. Đó là
hủy diệt Tam Bảo. Chánh pháp Đại Thừa do tam
thế chư Phật hộ tŕ bị kẻ đó hủy
diệt, sẽ chướng lấp, ẩn mất, pháp chẳng
thể lưu truyền. Như tại Đài Loan, dùng h́nh
tượng Quán Thế Âm Bồ Tát để quảng cáo,
đầy đường đều là như vậy. Bao
b́ có in h́nh Ngài bị xé rách, vứt đầy đường.
Như thế th́ tuy chẳng phải là diệt pháp,
nhưng làm kiểu đó chẳng khác Đại Lục cho
lắm, căn bản là không tôn kính. Cái nghiệp ấy
cũng lớn, mọi người dùng văn vật Phật
giáo để tuyên truyền, tạp chí cũng sử dụng
[h́nh Phật, Bồ Tát] tràn lan. Kể ra, chúng ta có những
đạo hữu tin Phật, thấy h́nh tượng Phật
trên các tạp chí đó, quư vị có cảm tưởng ǵ?
Rất nhiều thứ bị vứt loạn xạ! Thậm
chí tại các xưởng in kinh, những thứ ấn phẩm
[có h́nh tượng Phật, Bồ Tát] bị hư rách vứt
đầy mặt đất. Đó là làm ǵ? Công đức
in kinh và chuyện tổn phước gần như
tương đương, đều là hiện tượng
hủy diệt Phật pháp. Chẳng phải là được
tam thế chư Phật hộ tŕ ư? V́ sao c̣n bị hủy
diệt? Nghiệp lực của chúng sanh c̣n lớn hơn
Phật lực. Nếu không lớn hơn Phật lực,
Phật đă độ chúng ta hết rồi! Do nghiệp
chướng của chúng ta ngăn trở, chẳng thể
vượt qua được, cho nên chẳng thể
lưu truyền!
(Kinh) Hữu Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la vương, năi chí Phiệt-xá, Thú-đạt-la
đẳng Chiên-đồ-la nhân, nhược nam, nhược
nữ, ngu si, kiêu mạn, tự hiệu Đại Thừa,
bỉ nhân thượng phi Thanh Văn, Độc Giác Nhị
Thừa pháp khí, huống thị vô thượng Đại
Thừa pháp khí? Vị cầu lợi dưỡng, cung kính,
danh dự, cuống hoặc thế gian ngu si tạp loại,
tự ngôn “ngă đẳng thị Đại Thừa nhân”,
báng hủy Như Lai Nhị Thừa chánh pháp. Như thị
nhân đẳng, ngu si, siểm khúc, kiêu mạn, tật đố,
xan tham nhân duyên, hủy ngă pháp nhăn, linh tốc ẩn diệt.
Bỉ ư tam thế nhất thiết chư Phật phạm
đại quá tội, diệc ư tam thế nhất thiết
Bồ Tát phạm đại quá tội. Hựu ư tam thế
nhất thiết Thanh Văn phạm đại quá tội,
bất cửu tiện đương chi thể phế
khuyết, tao ngộ chủng chủng trọng ác tật bệnh.
Bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương,
năi chí Phiệt-xá, Thú-đạt-la đẳng Chiên-đồ-la
nhân, nhược nam, nhược nữ, do tạo ác nghiệp,
khởi đảo kiến cố, tổn đoạn nhất
thiết sở hữu thiện căn. Tuy phục hữu
thời đa tu thí phước, ư vị lai thế,
đương sanh quỷ thú, bàng sanh thú trung, thọ phú lạc
quả, nhi bỉ thân trung, thượng bất năng khởi
Sắc, Vô Sắc Giới hạ liệt thiện căn, huống
đương năng chủng Thanh Văn, Độc Giác,
cập Vô Thượng Thừa, vô công dụng
khởi Nhất Thiết Trí trí thiện căn chủng tử?
Hựu linh kỳ thiệt vi bệnh sở hại, ư
đa nhật dạ, kết thiệt bất ngôn, thọ
chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn, mạng
chung định đương sanh ư Vô Gián đại
địa ngục trung.
(經)有剎帝利旃荼羅王,乃至筏舍、戍達羅等旃荼羅人,若男若女,愚癡憍慢,自號大乘,彼人尚非聲聞、獨覺二乘法器,況是無上大乘法器?為求利養、恭敬、名譽,誑惑世間愚癡雜類,自言‘我等是大乘人’,謗毀如來二乘正法。如是人等,愚癡、諂曲、憍慢、嫉妒、慳貪因緣,毀我法眼,令速隱滅。彼於三世一切諸佛,犯大過罪;亦於三世一切菩薩,犯大過罪;又於三世一切聲聞,犯大過罪;不久便當肢體廢缺,遭遇種種重惡疾病。彼剎帝利旃荼羅王,乃至筏舍、戍達羅等旃荼羅人,若男若女,由造惡業起倒見故,損斷一切所有善根。雖復有時多修施福,於未來世,當生鬼趣、傍生趣中,受富樂果;而彼身中,尚不能起色、無色界下劣善根,況當能種聲聞、獨覺及無上乘無功用起一切智智善根種子?又令其舌為病所害,於多日夜結舌不言,受諸苦毒痛切難忍,命終定當生於無間大地獄中。
(Kinh: Có vua Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la cho tới những kẻ Phiệt-xá,
Thú-đạt-la Chiên-đồ-la v.v… dù nam hay nữ, ngu si,
kiêu mạn, tự xưng là Đại Thừa. Những kẻ
đó c̣n chẳng phải là pháp khí của Thanh Văn, Độc
Giác Nhị Thừa, huống hồ là pháp khí của vô
thượng Đại Thừa! V́ cầu lợi dưỡng,
cung kính, danh dự, mà dối gạt các hạng người
ngu si trong thế gian, tự nói “chúng ta là bậc Đại
Thừa”, hủy báng chánh pháp Nhị Thừa của Như
Lai. Những kẻ như thế do nhân duyên ngu si, siểm
khúc, kiêu mạn, ghen tỵ, keo kiệt, tham lam, mà hủy hoại
pháp nhăn của ta, khiến cho mau chóng ẩn diệt. Những kẻ đó
phạm tội lỗi lớn đối với ba đời
hết thảy chư Phật, cũng phạm tội lỗi
lớn đối với ba đời hết thảy Bồ
Tát. Lại phạm tội lỗi lớn đối với
ba đời hết thảy Thanh Văn. Chẳng lâu sau, sẽ
bị tứ chi tàn phế, thiếu khuyết, gặp đủ
các loại bệnh tật nặng nề, ngặt nghèo. Vua
Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la ấy cho đến
bọn Phiệt-xá, Thú-đạt-la Chiên-đồ-la, dù nam
hay nữ, do tạo ác nghiệp, dấy lên tri kiến
điên đảo, tổn hại, đoạn dứt hết thảy
các thiện căn họ vốn có. Tuy có lúc tu nhiều
phước bố thí, trong đời vị lai, sẽ sanh
vào đường quỷ, hay đường bàng sanh,
hưởng quả giàu vui, nhưng nơi thân họ, c̣n chẳng
thể khởi lên các căn lành kém hèn trong Sắc Giới
và Vô Sắc Giới, huống hồ có thể gieo chủng
tử của trí Nhất Thiết Trí vô công dụng trong
Thanh Văn, Độc Giác, và Vô Thượng Thừa ư? Lại
c̣n khiến cho những kẻ đó mắc bệnh về
lưỡi. Trong nhiều ngày đêm, bị đớ
lưỡi chẳng thể nói được, chịu các
nỗi khổ độc, đau đớn cùng cực, khó
thể chịu đựng. Mạng chung, chắc chắc sẽ
sanh vào đại địa ngục Vô Gián).
Đoạn
này nói ǵ vậy? Ác vương ấy cho đến các kẻ
ác, dân ác ấy, cho đến đại thần, tể
quan, bất luận nam nữ, do họ ngu si, chẳng có trí
huệ, kiêu ngạo, tự măn, tự xưng là Đại
Thừa, học pháp Đại Thừa, muốn báng bổ
pháp Thanh Văn, báng bổ pháp Duyên Giác, thậm chí
chẳng cho phép lưu truyền. Đức Phật nói hạng
người ấy ngay cả “Thanh Văn, Độc Giác
Nhị Thừa pháp khí” c̣n chẳng có! Chẳng có thiện
căn, họ làm sao có thể tiến nhập vô thượng
Đại Thừa pháp khí cho được? Chỉ có thể
là mắc tội báng pháp. Nhưng kẻ đó v́ “cầu
lợi dưỡng, cung kính, danh dự”, mà dối gạt “cuống hoặc thế gian ngu si tạp
loại” (lường gạt mê hoặc các loài ngu si trong
thế gian). “Tạp loại” (雜類) là nói đến các chúng sanh, nói
đến loài người. V́ mục đích này, những kẻ
đó nói chính ḿnh học Đại Thừa, chẳng cần
đến pháp Nhị Thừa, chẳng cần pháp mười
hai nhân duyên của Thanh Văn và Duyên Giác, cho nên chẳng cho
phép lưu thông bất cứ một pháp [Nhị Thừa]
nào, dần dần chúng sẽ bị mất đi. Đấy
là hủy báng chánh pháp Nhị Thừa của Như Lai.
“Như
thị nhân đẳng ngu si, siểm khúc, kiêu mạn, tật
đố, xan tham” (những kẻ như thế ngu si,
siểm khúc, kiêu mạn, ghen ghét, keo kiệt, tham lam), do các
thứ nhân duyên ấy, cho nên hủy hoại pháp nhăn của
ta, khiến cho pháp nhăn nhanh chóng bị ẩn diệt. Pháp là
huệ nhăn của chư Phật, cũng là pháp nhăn của chư
Phật. Những pháp ấy quư vị rất khó liễu giải
được! Có thể nghe danh tự đă chẳng dễ
dàng. Hiện thời, có rất nhiều danh tự kinh luận
chúng ta không nghe nói đến, do chẳng có ai nói, quư vị
sẽ chẳng nghe biết. Như kinh Đại Tập Thập
Luân, không nói tới đạo hữu tại gia, người
xuất gia chúng tôi, rất nhiều người nghe danh tự
của bộ kinh này đều rất ngỡ ngàng! Chưa hề
nghe nói đến, mà cũng chẳng có ai phê chú. Trong quá khứ,
các bậc đại đức chẳng đề xướng,
sẽ chẳng có ai nói. V́ thời ấy, có rất nhiều
thành kiến, chấp trước, cho rằng đây là pháp
Tiểu Thừa, [cho rằng] kinh Địa Tạng toàn nói
về quỷ thần, Địa Tạng Bồ Tát ở
trong địa ngục cũng chẳng thừa nhận
Ngài là đại Bồ Tát. Nay nhằm thời Mạt Pháp,
hiện tượng ǵ cũng đều có. Quư vị chưa
hề nghe nói, làm sao có thể học cho được? Chẳng
thể học!
Đối
với pháp Nhị Thừa, [tại Trung Hoa], cũng chỉ
[nhắc đến] kinh A Hàm và luận Câu Xá. Lúc tôi xuất
gia, học các pháp ấy rất ít. Về sau, do giao thiệp
với Sri Lanka và Thái Lan, chúng ta cũng gởi Tăng sinh du học đến các quốc gia ấy,
hoặc từ Nhật Bản truyền vào. Họ coi trọng
kinh A Hàm và Nam Truyền Phật giáo, chẳng hủy báng.
Trước kia, Nam Truyền Phật giáo chẳng truyền
vào Đại Lục được. Đại Lục chỉ
có Thiền Tông, cho nên vào lúc Thiền Tông hưng thịnh nhất,
rất nhiều pháp bị ẩn mất. V́ sao? Vào lúc Tam
Vũ diệt Phật, không cho phép học, không cho phép tu, chẳng
có cách nào, không cho phép quư vị xuất gia! Các vị đại
đức bèn ẩn cư trong núi, chỉ có thể tham Thiền,
chẳng có kinh sách để đọc.
Do vậy, riêng Thiền Tông hưng thịnh, trong thời diểm
ấy, rất nhiều kinh đều bị ẩn diệt.
V́ thế, quốc
vương có mối quan hệ rất trọng yếu. Nếu
quốc vương là đệ tử Tam Bảo,
mạnh mẽ đề xướng Phật giáo, nhân dân
cũng gieo phước dễ dàng! Nhưng bọn họ v́
tiếng tăm, lợi dưỡng, lừa bịp, gạt
gẫm thế gian, cho nên mới đề xướng hủy
diệt pháp Nhị Thừa. Pháp Nhị Thừa cũng
được tam thế chư Phật hộ tŕ, [thế mà] họ (các ác quốc vương) chẳng cho phép
học tập, sẽ phạm tội lỗi rất nặng.
Sẽ gặp phải quả báo ǵ vậy? Tứ chi tàn phế,
thiếu khuyết, mắc phải đủ loại bệnh
tật nặng nề, ngặt nghèo. Những kẻ ác tánh ấy,
dù nam hay nữ, do tạo ác kiến ấy, tạo ác nghiệp
ấy, dấy khởi tri kiến điên đảo. Tri kiến
điên đảo chính là “coi chánh pháp là phi pháp,
coi phi pháp là chánh pháp”. Tri kiến điên đảo khiến cho hết thảy
thiện căn trước hết là cứ giảm thiểu
măi cho đến khi toàn bộ bị đoạn tuyệt.
Hết thảy tất cả thiện căn, kể cả
thiện căn đă gieo và phước báo đă vun bồi
trong quá khứ đều bị hủy diệt trong đời
này. Khi gieo thiện căn, tu phước ở nơi
đây, sẽ rất khó khăn.
Phước
đức tích lũy cũng rất dễ dàng mất
đi, chẳng kiên cố. Đức Phật gọi các
chúng sanh ấy là “mao đạo phàm phu” (毛道凡夫), [hàm ư] giống
như sợi lông trên không trung, chẳng cần có gió to, băo
lớn, chỉ một tí gió nhẹ đă thổi bay quư vị,
v́ quư vị chẳng định được! Có những kẻ
tuy là ác tánh, nhưng do một chút thiện căn phát khởi,
có phước do tu bố thí, do phước ấy, sẽ
được thọ dụng, nhưng kẻ đó sanh vào
đường quỷ, hoặc vào đường bàng
sanh. Nói là trâu ngựa, hoặc là biến thành đại
chúng, sanh trong loài bàng sanh, kẻ ấy cũng hưởng
phước lạc quả!
Tại
Ấn Độ, “hung tượng quải anh lạc”
(voi thơm đeo anh lạc), trong quốc độ này,
chúng ta cũng có thể trông thấy. Như các vua Mông Cổ,
tọa kỵ của họ là ngựa, những con ngựa
ấy hưởng thụ sướng hơn nông nô rất
nhiều! Một con ngựa luôn có hai nô lệ chăm sóc thớt
ngựa ấy, họ được gọi là “mă phu” (kẻ
chăn ngựa). Khi chúng tôi ở Đông Bắc, lúc ấy,
chẳng có xe hơi, chẳng có phi cơ, thổ phỉ và
quân đội đều cưỡi ngựa. Các tướng
lănh cao cấp từ sư trưởng trở lên, các thớt
ngựa của họ được cho ăn rất đầy
đủ, do những người chăn ngựa phụng
dưỡng. Đó gọi là “bàng sanh hưởng phước
báo”. Voi tại Ấn Độ rất khổ, phải
chở nặng rất nhiều, nhưng có những con voi
có phước báo, đặc biệt là “hương
tượng quải anh lạc”, có hàm nghĩa ấy!
Tuy
có phước báo ấy, kẻ đó vẫn rơi vào quỷ
đạo, đại lực quỷ vương là như
thế đó. Các loại chúng sanh như vậy, trong đời
hiện tại chẳng có thiện căn sanh thiên. [Kinh
văn nói đến] Sắc Giới và Vô Sắc Giới tức
là sanh thiên, họ chẳng có phước đức ấy. Ngay cả
phước đức kém cỏi mà c̣n chẳng có, làm sao có
thể gieo thiện căn Thanh Văn, Độc Giác, và Vô
Thượng Thừa cho được? Cho đến chủng
tử thiện căn của trí Nhất Thiết Trí, những
kẻ đó chẳng có thiện căn Phật pháp, chẳng
có thiện căn Thanh Văn và Độc Giác. Vô thượng thừa, vô công dụng,
trí Nhất Thiết Trí, các chủng tử thiện căn ấy
càng chẳng có. Đồng thời, do báng pháp trong đời
hiện tại, khiến cho những kẻ đó bị bệnh
lưỡi, v́ báng pháp đều là do miệng hủy báng.
Khi gặp phải quả báo, sẽ “vị bệnh sở
hại, đa nhật dạ kết thiệt bất ngôn”
(bị mắc bệnh trong nhiều ngày đêm, đớ
lưỡi chẳng nói được), nói chẳng nên lời.
“Thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn,
mạng chung định đương sanh ư Vô Gián
đại địa ngục trung” (chịu các nỗi
khổ độc, đau đớn cùng cực, khó thể
chịu đựng, mạng chung nhất định sẽ
sanh trong đại địa ngục Vô Gián), sau khi chết
sẽ đọa địa ngục!
(Kinh)
Thị cố Như Lai từ bi lân mẫn nhất thiết
chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện
Thú-đạt-la đẳng, nhược nam, nhược nữ,
linh đắc trường dạ lợi ích an lạc, ân cần,
khẩn thiết, tác như thị ngôn: “Nhữ đẳng
ưng đương ư quy ngă pháp, thế trừ tu phát,
bị phiến ca-sa, xuất gia nhân sở, thận vật
năo loạn, cơ ha, trích phạt. Ư ngă sở
thuyết tam thừa chánh giáo, thận vật báng hủy,
chướng tế, ẩn một. Nhược vi ngă ngôn,
nhi cố tác giả, sở hoạch tội báo như tiền
quảng thuyết”.
(經)是故如來慈悲,憐愍一切真善剎帝利王,乃至真善戍達羅等,若男若女,令得長夜利益安樂,慇勤懇切作如是言:‘汝等應當於歸我法,剃除鬚髮、被片袈裟出家人所,慎勿惱亂譏呵謫罰。於我所說三乘正教,慎勿謗毀、障蔽、隱沒。若違我言而故作者,所獲罪報如前廣說’。
(Kinh:
V́ vậy, Như Lai từ bi thương xót hết thảy
các vua chân thiện Sát-đế-lợi cho đến chân
thiện Thú-đạt-la v.v… dù nam hay nữ, khiến cho họ
được lợi ích, an lạc trong đêm dài, bèn ân cần,
khẩn thiết, nói như thế này: “Đối với
người xuất gia quy y pháp của ta, cạo bỏ râu
tóc, khoác một mảnh ca-sa, các
ngươi hăy nên cẩn thận, đừng
năo loạn, chê bai, quở trách, trừng phạt. Đối
với chánh giáo tam thừa do ta đă nói, hăy cẩn thận,
đừng hủy báng, chướng lấp, ẩn giấu.
Nếu trái lời ta, cố ư làm, sẽ mắc tội báo
như đă nói rộng trong phần trên”).
Trong
chủng tánh thấp hèn, cũng có người phát tâm, nhưng kẻ tánh ác chẳng
phát tâm. Cũng có chân thiện Thú-đạt-la tốt lành,
tuy đời này, họ đọa vào chủng tánh thấp
hèn. Trong số
đó, cũng có người làm nghề đồ tể,
nhưng họ giác ngộ hết thảy, buông dao mổ xuống,
chẳng làm nghề ấy nữa. Bữa trước, chúng
tôi có nói mười nhà thổ bằng một tiệm
rượu, mở khách sạn bán rượu, người
ấy đổi nghề chẳng làm khách sạn nữa,
đă tỉnh ngộ. Nhưng chuyện này rất khó,
đă hăm vào đó, mà c̣n có thể giác ngộ, rất khó! Ắt cần phải do cái nhân lành trong đời trước đă
chín muồi! Đối với những người đó,
bất luận nam hay nữ, đều làm cho họ
vĩnh viễn thọ dụng lợi ích và yên vui.
Do
vậy, đức Phật ân cần, khẩn thiết nói với
họ: “Nhữ đẳng ưng đương ư
quy ngă pháp, thế trừ tu phát, bị phiến ca-sa, xuất
gia nhân sở, thận
vật năo loạn, cơ ha, trích phạt” (Đối với
người xuất gia, quy y pháp của
ta, cạo bỏ râu tóc, khoác một mảnh ca-sa, các ngươi hăy nên cẩn thận đừng
năo loạn, chê bai, quở trách, trừng phạt): Ngàn vạn
lần đừng nên năo hại những người ấy.
Đối với chánh pháp tam thừa do ta đă nói, “thận
vật báng hủy, chướng tế, ẩn một” (hăy cẩn thận, đừng hủy
báng, chướng lấp, ẩn giấu). Nếu như
trái nghịch lời dạy của ta, “nhi cố tác giả”
(cố ư làm), “sở hoạch tội báo như tiền quảng
thuyết” (sẽ mắc tội báo như
đă nói rộng trong phần trước), tức là không
chỉ chuốc lấy tội báo đọa địa ngục
trong vị lai, mà c̣n trong đời này, hoặc là lưỡi
chẳng thể nói được, cho đến bị
đứt mất chân tay, các thứ bệnh khổ.
(Kinh) Sở dĩ giả hà? Thử quy ngă
pháp, thế trừ tu phát, bị xích ca-sa, xuất gia h́nh
tướng, năi thị quá khứ, vị lai, hiện tại
chư Phật, Bồ Tát đại bi thần lực chi sở
hộ tŕ. Thử thế tu phát, bị xích ca-sa, xuất
gia oai nghi, thị chư hiền thánh giải thoát tràng
tướng, diệc thị nhất thiết Thanh Văn Thừa
nhân thọ dụng giải thoát pháp vị tràng tướng,
diệc thị nhất thiết Độc Giác Thừa nhân
thọ dụng giải thoát pháp vị tràng tướng, diệc
thị nhất thiết Đại Thừa chi nhân thọ dụng
giải thoát pháp vị tràng tướng. Như Lai sở
thuyết tam thừa chánh pháp, diệc thị tam thế
chư Phật, Bồ Tát đại bi thần lực chi sở
hộ tŕ, thị chư hiền thánh giải
thoát y chỉ, diệc thị nhất thiết Thanh Văn
Thừa nhân thọ dụng giải thoát pháp vị y chỉ,
diệc thị nhất thiết Độc Giác Thừa nhân
thọ dụng giải thoát pháp vị y chỉ, diệc thị
nhất thiết Đại Thừa chi nhân thọ dụng
giải thoát pháp vị y chỉ.
(經)所以者何?此歸我法,剃除鬚髮、被赤袈裟出家形相,乃是過去、未來、現在諸佛菩薩,大悲神力之所護持。此剃鬚發、被赤袈裟出家威儀,是諸賢聖解脫幢相;亦是一切聲聞乘人,受用解脫法味幢相;亦是一切獨覺乘人,受用解脫法味幢相;亦是一切大乘之人,受用解脫法味幢相。如來所說三乘正法,亦是三世諸佛菩薩,大悲神力之所護持,是諸賢聖解脫依止;亦是一切聲聞乘人,受用解脫法味依止;亦是一切獨覺乘人,受用解脫法味依止;亦是一切大乘之人,受用解脫法味依止。
(Kinh:
V́ cớ sao vậy? Những người ấy quy y pháp của
ta, cạo bỏ râu tóc, mặc sa-sa đỏ, mang h́nh
tướng xuất gia, được thần lực
đại bi của quá khứ, vị lai, hiện tại
chư Phật, Bồ Tát hộ tŕ. Những người có
oai nghi xuất gia, cạo râu tóc, mặc ca-sa đỏ ấy
là tràng tướng giải thoát của các vị hiền
thánh, cũng là pháp vị giải thoát tràng tướng
được thọ dụng bởi hết thảy những
người thuộc Thanh Văn Thừa, cũng là pháp vị
giải thoát tràng tướng được thọ dụng
bởi hết thảy những người thuộc Độc
Giác Thừa, cũng là pháp vị giải thoát tràng tướng
được thọ dụng bởi hết thảy những
người thuộc Đại Thừa. Chánh pháp tam thừa
do Như Lai đă nói cũng được thần lực
đại bi của tam thế chư Phật và Bồ Tát hộ
tŕ, là chỗ y chỉ để giải thoát cho các vị
hiền thánh, cũng là chỗ y chỉ để thọ dụng
pháp vị giải thoát cho hết thảy những người
thuộc Thanh Văn Thừa, cũng là chỗ y chỉ
để thọ dụng pháp vị giải thoát cho hết
thảy những người thuộc Độc Giác Thừa,
cũng là chỗ y chỉ để thọ dụng pháp vị
giải thoát cho hết thảy những người thuộc
Đại Thừa).
V́
sao ta phải nói như vậy? “Thử quy ngă pháp, thế
trừ tu phát, bị xích ca-sa xuất gia h́nh tướng” (những
người ấy quy y pháp ta, cạo bỏ râu tóc, mặc
ca-sa đỏ, có h́nh tướng xuất gia). Kiểu h́nh
tướng ấy thể hiện tướng trạng của
vị Tăng xuất gia. Oai nghi, hành động, cho đến
một mảnh ca-sa của các vị xuất gia đắp
ca-sa, cạo bỏ râu tóc ấy chính là “giải thoát tràng
tướng”. Tướng pháp tràng có nghĩa là “tạo lập chánh pháp”. Quư vị trông
thấy những người ấy, bèn nghĩ tới Phật,
nghĩ tới Pháp. Đức Phật thuyết pháp nhằm
dạy chúng ta giải thoát, chẳng phải là trói buộc.
Hiện thời, thân tâm của chúng ta có đủ thứ
trói buộc, nhất là những thứ trói buộc nơi
thân đặc biệt nghiêm trọng, chẳng thể giải
thoát được! Tham, sân, si, mạn, nghi, Thân Kiến,
Biên Kiến, Giới Thủ Kiến, Kiến Thủ Kiến,
Tà Kiến, cho đến giết, trộm, dâm, dối, các
thứ ấy đều trói buộc thân thể chúng ta, chẳng thể đạt được giải
thoát!
Nếu
là “Đại Thừa chi nhân thọ dụng giải thoát
pháp vị tràng tướng” (là tràng tướng để
người Đại Thừa thọ dụng pháp vị
giải thoát): Bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, Thiền
Định, trí huệ, những pháp ấy đều là
tràng tướng của Đại Thừa. Nếu y theo
đó, quư vị sẽ có thể giải thoát, có thể trở
thành Bồ Tát. Nếu y theo Khổ, Tập, Diệt, Đạo
để tu hành, sẽ có thể trở thành Thanh Văn.
Quán hết thảy các pháp sanh khởi, quán hết thảy
các pháp hoàn diệt, quán hết thảy các pháp tuần hoàn
thiện ác nhân quả báo ứng trong thế giới, sẽ
thuộc vào pháp Độc Giác Thừa. Pháp thuộc mỗi thừa
đều có thể khiến cho quư vị đạt được
giải thoát. Nếu thật sự thọ tŕ, quư vị sẽ
có cảm giác giải thoát thù thắng. Giống như
ăn uống, bản thân quư vị sẽ ham mê một loại
hương vị nào đó, ăn vào sẽ cảm thấy
khoái trá. Nếu quư vị chẳng ham mê hương vị ấy,
ăn vào sẽ chẳng cảm thấy thoải mái. Có những
người không ăn ớt được, nếu cho họ dùng một chén đồ ăn nêm ớt, họ sẽ khổ
chết luôn, chẳng cảm thấy thích hợp! Người
ta là pháp khí Tiểu Thừa mà quư vị lại nói pháp Đại
Thừa với người ấy, sẽ rất
không thích hợp.
Hiện
thời, quốc độ này đều nói pháp Đại
Thừa, nói pháp Tiểu Thừa không ai nghe. Quư vị nêu ra hết
thảy các hiện tượng trong cuộc sống khách
quan, họ chẳng nghe lọt tai. Thậm chí nói theo giới
luật, nói theo biệt biệt giải thoát giới (别别解脱戒), họ cảm
thấy quá trói buộc, chẳng
thích hợp. V́ sao họ lại tin pháp Đại Thừa?
Họ chẳng phải thật sự tin, mà v́ pháp Đại
Thừa thuận tiện. Chúng ta là đệ tử Phật
phải nên biết: Hết thảy các pháp do đức Phật
đă nói đều là đối ứng căn cơ mà nói,
tức là [người nghe thuộc] căn cơ ǵ bèn
nói cho họ pháp ấy. Chẳng đúng với căn
cơ th́ là sai lầm. Làm thế nào để có thể
đúng với căn cơ? [Trong thời Mạt Pháp], từ
bản thân người đó (người giảng kinh,
thuyết pháp), từ chướng ngại ngôn ngữ và
văn tự của người đó, lại c̣n thêm
chướng ngại về pháp, người đó chẳng
biết đối với đối tượng này th́ phải nên nói pháp ǵ. V́ vậy, người đó
chỉ có thể giảng bộ kinh này. Nếu quư vị
nghe pháp này mà thọ dụng, tức là quư vị tương ứng
với pháp này. Chẳng thọ dụng,
quư vị có thể không nghe. V́ sao có t́nh huống như vậy?
V́ phước báo của mọi người đều mỏng
tanh! Thuở đức Phật tại thế, chúng ta chẳng
gặp gỡ. Cho đến sau khi đức Phật nhập
Niết Bàn, hăy c̣n có các vị đại A La Hán trụ thế,
chúng ta cũng chẳng hề gặp gỡ! Tới lúc Mạt
Pháp, thứ ǵ cũng đều chẳng có! Bất quá c̣n cảm
được thời Mạt Pháp, c̣n có tượng Phật,
kinh sách, c̣n có người xuất gia đắp y ca-sa. Nếu
trải qua hai ngàn năm nữa, chẳng cần tới một
vạn năm, chỉ sợ hai ngàn năm sau, những [h́nh
tướng ấy] cũng đều chẳng có, dần dần
bị đoạn tuyệt. Hiện thời, kỹ thuật ấn loát rất
phát triển, chúng ta ấn loát nhiều kinh sách ngần ấy,
lẽ nào sẽ chẳng có? Tới lúc đó, các kinh sách sẽ
tự biến mất, do nghiệp chướng cảm vời,
mở ra toàn là kinh bổn không có chữ, đều biến
thành Vô Tự Thiên Thư (sách trời không có
chữ)! V́ sao chẳng có chữ? Hoặc là do v́ khí hậu, hoặc
v́ ẩm ướt, bị mục nát, chữ chẳng c̣n
nữa! Hoặc do mực in dính cả vầng lem luốc.
Chuyện này liên quan tới phước báo.
(Kinh) Thiện nam tử! Dĩ thị
nghĩa cố, cầu giải thoát giả, ưng
đương thân cận, cung kính, cúng dường chư
quy ngă pháp, thế trừ tu phát, bị xích ca-sa, xuất gia
chi nhân, ưng tiên tín kính Thanh Văn Thừa pháp. Nhược
tự thính thọ, giáo tha thính thọ, nhược tự
độc tụng, giáo tha độc tụng, nhược
tự thư tả, giáo tha thư tả, nhược tự
thí dữ, giáo tha thí dữ, nhược tự tuyên thuyết,
giáo tha tuyên thuyết, tư duy tu hành, quảng linh lưu bố.
Như thị tín kính Độc Giác Thừa pháp. Nhược
tự thính thọ, giáo tha thính thọ, nhược tự
độc tụng, giáo tha độc tụng, nhược
tự thư tả, giáo tha thư tả, nhược tự
thí dữ, giáo tha thí dữ, nhược tự tuyên thuyết,
giáo tha tuyên thuyết, tư duy, tu hành, quảng linh lưu
bố. Như thị tín kính ư Đại Thừa pháp,
nhược tự thính thọ, giáo tha thính thọ, nhược
tự độc tụng, giáo tha độc tụng,
nhược tự thư tả, giáo tha thư tả,
nhược tự thí dữ, giáo tha thí dữ, nhược
tự tuyên thuyết, giáo tha tuyên thuyết, tư duy tu hành,
quảng linh lưu bố. Nhược phi khí giả, bất
ưng tự thính, vật giáo tha thính, năi chí quảng thuyết.
(經)善男子,以是義故,求解脫者應當親近,恭敬供養諸歸我法,剃除鬚髮、被赤袈裟出家之人。應先信敬聲聞乘法,若自聽受、教他聽受,若自讀誦、教他讀誦,若自書寫、教他書寫,若自施與、教他施與,若自宣說、教他宣說,思惟修行,廣令流佈。如是信敬獨覺乘法,若自聽受、教他聽受,若自讀誦、教他讀誦,若自書寫、教他書寫,若自施與、教他施與,若自宣說、教他宣說,思惟修行,廣令流佈。如是信敬於大乘法,若自聽受、教他聽受,若自讀誦、教他讀誦,若自書寫、教他書寫,若自施與、教他施與,若自宣說、教他宣說,思惟修行,廣令流佈。若非器者,不應自聽,勿教他聽,乃至廣說。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Do v́ nghĩa này, kẻ cầu giải
thoát hăy nên thân cận, cung kính, cúng dường những vị
xuất gia quy y pháp của ta, cạo bỏ râu tóc, mặc
ca-sa đỏ. Trước hết, hăy nên tín kính pháp Thanh
Văn Thừa. Hoặc là tự nghe nhận, dạy người
khác nghe nhận. Hoặc tự đọc tụng, dạy
người khác đọc tụng. Hoặc tự biên chép,
dạy người khác biên chép. Hoặc tự trao tặng,
dạy người khác trao tặng. Hoặc tự tuyên nói,
dạy người khác tuyên nói, tư duy tu hành, lưu truyền
rộng răi. Cũng giống như thế, hăy tín kính pháp
Độc Giác Thừa. Hoặc là tự nghe nhận, dạy
người khác nghe nhận. Hoặc tự đọc tụng,
dạy người khác đọc tụng. Hoặc tự
biên chép, dạy người khác biên chép. Hoặc tự trao
tặng, dạy người khác trao tặng. Hoặc tự
tuyên nói, dạy người khác tuyên nói, tư duy tu hành,
lưu truyền rộng răi. Cũng như thế, hăy tín kính
pháp Đại Thừa pháp. Hoặc là tự nghe nhận, dạy
người khác nghe nhận. Hoặc tự đọc tụng,
dạy người khác đọc tụng. Hoặc tự
biên chép, dạy người khác biên chép. Hoặc tự trao
tặng, dạy người khác trao tặng. Hoặc tự
tuyên nói, dạy người khác tuyên nói, tư duy, tu hành,
lưu truyền rộng răi. Nếu chẳng phải là pháp
khí, đừng nên tự nghe, đừng dạy người
khác nghe, cho đến rộng nói).
Đối
với người xuất gia cạo bỏ râu tóc, đắp
y ca-sa, phải nên tin tưởng, kính trọng họ; đồng
thời cũng nên tin kính pháp Thanh Văn Thừa. Khổ, Tập,
Diệt, Đạo, quả thật lợi ích cho cuộc sống
hằng ngày của chúng ta. Quư vị hăy quán tưởng cho
nhiều, những thứ ta lănh nhận có phải là khổ
hay không, khổ do đâu mà có? Do chính quư vị cảm vời,
do chính quư vị tụ tập, “tập” (集) có nghĩa là “tụ
tập”. Chính quư vị cảm vời, tụ tập,
chính ḿnh hứng chịu. Đó là nhân quả thế gian, là
hai Đế Khổ và Tập, là nhân quả thế gian,
chiêu cảm bởi các nghiệp do quư vị đă tạo,
trong ấy có vui sướng, nhưng đau khổ chiếm
đa số. Suy ngẫm cuộc sống hiện thực của
chúng ta, dẫu có của cải, quư vị chẳng thể
tránh khỏi ốm đau, mà cũng chẳng thể khiến
cho tư tưởng của quư vị rất vui sướng
được. Có kẻ của cải rất nhiều,
quư vị nói chuyện với kẻ đó, [sẽ thấy]
kẻ đó hoàn toàn chẳng vui sướng. Trong tâm kẻ
ấy chẳng giải thoát, đó gọi là “đầy
tớ của tiền tài”, chẳng phải là chủ
nhân của tiền tài. Ngạn ngữ Trung Hoa có cách nói “thần
giữ của”, kẻ đó bảo vệ tiền tài, chính ḿnh cũng chẳng dám dùng. Đối với cha mẹ,
vợ con đều chẳng dám bỏ ra. Thần giữ của
là như vậy đó! Kẻ đó c̣n có thể thí xả
cho người ngoài được sao? Chẳng thể nào!
Nghe
pháp cũng là chẳng thể nghĩ bàn! Nếu quư vị
muốn ĺa khổ, “ĺa khổ được vui”, phải tu đạo
xuất ly. Tu đạo sẽ có thể chứng đắc,
chứng đắc ǵ vậy? Chứng đắc tịch
diệt, đó là “ĺa khổ”. Chứng đắc
Đạo Đế và Diệt Đế, tức là nhân quả
xuất thế gian. Loại pháp này rất tốt
đối với đời hiện tại của chúng
ta. Đối với Lục Độ, vạn hạnh, cho
đến Bát Nhă Ba La Mật, dường như gieo thiện
căn th́ c̣n có thể, chứ chẳng thọ dụng
được. V́ sao? Nếu là người có phước
đức, có trí huệ, sẽ thọ dụng được;
kẻ chẳng có trí huệ sẽ không thể thọ dụng
được. Trong pháp Nhị Thừa, có rất nhiều
công phu Thiền Định. Nếu quư vị tọa Thiền,
thân tâm của quư vị hết sức an định. Quư vị
chẳng dễ dàng tiến nhập Đại Thừa Thiền
Định. V́ sao chẳng thể nhập Đại Thừa
Thiền Định? Trong cuộc sống hằng ngày, bất
cứ quư vị làm chuyện ǵ, đều phải dùng công
phu Thiền Định. Theo kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo, công phu Thiền Định là niệm nào cũng đều
chẳng rời Tam Bảo. Đó là Định. Có thể
niệm nào cũng đều chẳng rời [Tam Bảo]
th́ là Định. Hễ rời, sẽ chẳng phải là
Định, đă xuất Định rồi! Xuất
Định th́ sẽ là làm chuyện khác, sẽ làm chuyện
thế gian. Chuyện thế gian có thiện, ác, và vô kư (無記, không thiện,
không ác). Quư vị chẳng làm chuyện thương tổn
người khác th́ là không thiện, không ác. Làm thiện sự,
người khác được lợi ích, th́ gọi là thiện.
Quư vị làm chuyện ác, khiến kẻ khác mắc hại
th́ là ác. Thông thường, dùng điều này để phán
đoán. Đại Thừa Định là “Na Già thường
tại Định” (đức Phật
luôn ở trong Định), Na Già Định chẳng
dễ dàng, chẳng phải do đă gieo thiện căn
trong vô lượng kiếp, sẽ rất khó đắc
Định!
Trong
pháp Đại Thừa, chúng ta cần phải bái sám, bất
luận bái sám theo nghi thức nào, đều là Đại
Thừa. Bất luận kinh luận nào, hễ lúc nào nói tới
bái sám, quư vị phải quán tưởng hồi hướng
pháp giới chúng sanh. Đấy là pháp thuộc về Đại
Thừa. Hễ có thể tham gia bái sám, Đại Bi Sám
cũng thế, mà Dược Sư Sám, Chiêm Sát Sám, đối
với bất cứ pháp sám nào, nếu chẳng đă từng
gieo thiện căn nơi vô lượng chư Phật, quư
vị sẽ chẳng gặp được. Khi quư vị
bái sám, cũng sẽ chẳng dũng mănh tham gia, lạy xong
rồi thôi, ba ngày đánh cá, hai ngày phơi lưới, có ư
nghĩa như thế đó! Nhưng lạy một lần
th́ được công đức một lần, lạy lâu
ngày sẽ được giải thoát, chẳng có chướng
ngại, nhưng đấy là chuyện rất khó khăn.
Vẫn chẳng thể nói tương lai là như thế
nào, nhưng ngay trong hiện tại, trong khi quư vị bái
sám, có thể nẩy sanh rất nhiều chướng ngại.
Quư vị muốn bái sám, nhưng không thể chăm sóc
người trong nhà, phải chăm sóc con cái. Đă ấn
định thời gian bái sám, nhưng rồi quư vị phải
làm cơm, phải đưa con đến trường!
“Không được, ta phải bái sám”. Vậy là làm không
được, mà bái sám cũng chẳng thành, trong nhà quư vị
sẽ nẩy sanh chướng ngại. Ắt phải thuận theo pháp thế gian, lại
có thể tu pháp xuất thế gian, khiến cho hết thảy
nhân duyên đều chín muồi, thiện căn ấy chẳng
dễ dàng!
Tôi
nói điều này chắc mọi người không tin. Quư vị
thấy các sư phụ ḥa thượng và tỳ-kheo-ni
chúng tôi có phải là dũng mănh, tinh tấn tu hành hay không? Lấy
ngay tôi để nói, tôi chẳng phải là như thế,
tôi làm không được. Chính ḿnh có nên tu hay không? Đáng
nên phải tu, v́ sao chẳng làm? Nghiệp chướng. Luôn
luôn có rất nhiều duyên lôi kéo khiến cho quư vị chẳng làm
được! Quư vị muốn làm cái kia, lại bỏ mất
cái này. Nếu quư vị có thể bái sám, đó là phước
đức đă gieo từ vô lượng kiếp trước.
Hiện thời, trên địa cầu này có hơn sáu
mươi ức người, người có thể làm
được những chuyện [bái sám] này có bao nhiêu
người? Thiện chủng yếu ớt, ác chủng
hưng thịnh. Đến thời Mạt Pháp, ác thịnh,
thiện yếu, sức mạnh của cường quyền
to lực, sức của người tu thiện nhỏ
nhoi! Chẳng phải là có nhiều thần hộ pháp ngần
ấy ư? Thần hộ pháp chẳng cự nổi ác lực!
Chúng ta nói “quỷ sợ kẻ ác”, đồ tể cầm
dao mổ, quỷ đều sợ, ngay cả quỷ thần
cũng đều chẳng dám thân cận kẻ đó. Hiểu
đạo lư này, quư vị sẽ biết!
(Kinh)
Hựu ưng viễn ly nhất thiết ác pháp, ưng xả
ác hữu, ưng thân thiện hữu, ưng cần tu tập
Lục Đáo Bỉ Ngạn, ưng sổ sám hối nhất
thiết ác nghiệp, ưng tùy sở nghi cần phát chánh
nguyện. Nhược năng như thị, tư hữu
thị xứ, hiện thân đắc thành Thanh Văn Thừa
khí, hoặc Độc Giác Thừa chủng tử bất
thoái, hoặc phục Đại Thừa chủng tử bất
thoái. Thị cố tam thừa giai ưng tu học, bất
ưng kiêu ngạo, vọng hiệu Đại Thừa, báng
hủy Thanh Văn, Độc Giác Thừa pháp, ngă tiên duy vị
Đại Thừa pháp khí kiên tu hành giả, thuyết
như thị ngôn: “Duy tu Đại
Thừa, năng đắc cứu cánh”. Thị cố kim tích thuyết bất
tương vi!
(經)又應遠離一切惡法,應舍惡友,應親善友,應勤修習六到彼岸,應數懺悔一切惡業,應隨所宜勤發正願。若能如是,斯有是處,現身得成聲聞乘器,或獨覺乘種子不退,或復大乘種子不退。是故三乘皆應修學,不應憍傲妄號大乘,謗毀聲聞、獨覺乘法。我先唯為大乘法器堅修行者說如是言:‘唯修大乘,能得究竟。’是故今昔說不相違。
(Kinh:
Lại nên xa ĺa hết thảy ác pháp, nên bỏ bạn ác,
nên thân cận bạn lành, nên siêng tu tập Lục Đáo Bỉ
Ngạn, nên nhiều lượt sám hối hết thảy
ác nghiệp, hăy nên thuận theo cơ
nghi mà siêng năng phát nguyện
chánh đáng. Nếu có thể làm như thế, th́ chắc
chắn là thân trong đời hiện tại sẽ trở
thành pháp khí của Thanh Văn Thừa, hoặc chủng tử
Độc Giác Thừa bất thoái, hoặc lại là chủng
tử Đại Thừa bất thoái. V́ thế, đều
nên tu học tam thừa, chớ nên kiêu ngạo, xằng bậy
xưng là Đại Thừa, hủy báng pháp Thanh Văn và
Độc Giác Thừa. Trước kia, ta v́ chỉ v́ làm
cho người thuộc pháp khí Đại Thừa
tu hành kiên cố, mà nói như thế này: “Chỉ có tu Đại
Thừa th́ mới có thể đạt được rốt
ráo”. Do vậy, lời nói xưa kia và hiện thời chẳng
mâu thuẫn!)
Những người ấy
phải nên xa ĺa các ác pháp ấy, hăy nên bỏ bạn ác, thân
cận bạn lành. Đối với những kẻ không
nghe [lời dạy của đức Phật], chuyên môn gây
chướng ngại, ngàn vạn phần quư vị đừng
nên đàn đúm với họ. Đàn đúm với họ,
quư vị sẽ bị họ nhuốm bẩn, họ sẽ
lôi kéo quư vị, quư vị không nghe theo cũng không được.
Có ư nghĩa như thế đó. Có những gia đ́nh, vợ
tin mà chồng không tin, hoặc chồng tin, vợ chẳng
tin, luôn luôn là giằng co với nhau. Nếu chẳng nói chuyện
để cảm thông với nhau, mà vẫn chẳng xảy
ra cảnh giằng co với nhau, rất hiếm có! Thường
là luôn giằng co, tạo chướng ngại cho nhau!
Bố
thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền Định,
trí huệ, sáu môn ấy, quư vị đạt được bất cứ một
môn nào đều được, nhưng phải kiên tŕ tu
hành. Cùng tu cả sáu môn lại càng tuyệt diệu!
Nhưng hiện thời, đối với Lục Ba La Mật,
chúng ta phạm phải một khuyết điểm. Khuyết
điểm ǵ vậy? Chẳng tinh tấn, giải đăi,
bất cứ môn nào cũng đều chẳng tu thành công.
Chúng ta chẳng có tín tâm, v́ sao? Người có tín tâm tinh tấn,
vừa nghe pháp này bèn kiên quyết thực hiện, lại
c̣n có thể trừ khử hết thảy chướng ngại,
thà xả thân mạng vẫn luôn hành, như thế th́ mới
có thể coi là có tín tâm kiên định. Nếu không,
chẳng thể coi là có tín tâm được. Hễ gặp những
thử thách, người ấy chẳng làm, chẳng có tín
tâm. Tín tâm vẫn là sợi lông mong manh, gió vừa thổi
bèn chao đảo. Hễ có tín tâm, người ấy sẽ
bài trừ hết thảy các chướng ngại.
Lúc
mỗi người xuất gia đều phải trải
qua khá nhiều khó khăn. Quá khứ lẫn hiện tại
đều là như thế, râu tóc chẳng dễ rơi rụng
như thế, nói xuất gia bèn xuất gia được liền, sẽ có khá nhiều
chướng ngại. Sau khi đă xuất gia, c̣n có rất
nhiều chướng duyên, khiến cho quư vị hoàn tục.
Nghiệp chướng phát hiện như thế đó, quư
vị không muốn hoàn tục cũng không
được. Nó sẽ khiến cho chính quư vị cũng
bằng ḷng hoàn tục. Đă xuất gia, đă học nhiều
pháp như vậy, v́ sao c̣n muốn hoàn tục? Đó là v́
nghiệp chướng phát hiện. Nghiệp chướng
đă phát hiện, sẽ thoái đạo. Chớ nên thân cận
những kẻ đó! Do vậy, tu tập Lục Ba La Mật,
siêng tu Lục Ba La Mật, có thể đến được
bờ kia, có thể siêu thoát, liễu sanh tử.
Chúng
ta luôn mong có thần thông. Để có thần thông th́ phải
nghĩ phương tiện,
bèn t́m một bí quyết để có thần thông. Nghe nói
được truyền một bài chú nào mà hễ niệm
th́ sẽ có thần thông; lại nghe nói ở
nơi nào đó lại có phương pháp chi đó khiến
cho quư vị phát tài, khiến cho thân thể quư vị khỏe
mạnh, quư vị đến liền. Kết quả là mắc
lỡm, chẳng ra ǵ cả! Chính quư vị cầu, tự
ḿnh cũng cầu được, cầu đạt
được thần thông, nhưng đă có thần thông
mà bị đọa lạc, sẽ bị mất đi. Lục
thông tiên nhân tại Ấn Độ là ngoại đạo,
chẳng phải là Phật đạo. Trước kia, khi
họ đến ứng cúng đều bay từ không trung
xuống. Có một lần quốc vương cúng dường
họ, thỉnh các tiên nhân ấy. Quốc vương vừa
nghĩ muốn dâng lên các vật cúng, vừa cầu khẩn,
tiên nhân các nơi đều bay đến. Quốc vương
tính thử đạo lực của họ, liền sai cung
nữ đến đảnh lễ họ. Vừa tiếp
xúc, có ngoại đạo rất kiên định, tu hành khá,
chẳng có vấn đề ǵ, trong tâm chẳng động
niệm, [nhận cúng dường rồi] bay đi. Có ngoại
đạo, khi các cung nữ đảnh lễ ôm chân kẻ
đó, do tay các cô rất mềm mại, kẻ đó động
niệm. Vừa động niệm, chẳng thể bay lên
được, lập tức mất thần thông!
Mọi
người đều biết tôn giả A Nan. Có một
hôm Ngài đi khất thực, tới một dâm xá, cô Ma
Đăng Già nh́n trúng Ngài. V́ hai người có nhân duyên trong
năm trăm đời quá khứ, cô ta không gả cho Ngài
sẽ không cam ḷng, bèn yêu cầu mẹ ḿnh dùng tà chú. Mẹ
cô ta nói: “Chớ nên! Đây là đệ tử của đại
sư. Hơn nữa, A Nan rất nổi tiếng, chú thuật
của ta không được, phải dùng chú của Phạm
Thiên”. Con gái cứ một mực cầu khẩn; nếu
không, sẽ tự sát. Mẹ cô ta bất đắc dĩ,
dùng chú khiến cho A Nan mê muội. Ngài vừa mê, đức
Phật biết ngay, sai Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
đến đó, tŕ chú Lăng Nghiêm, cũng là thần chú
Lăng Già. Đối với bài chú ấy, quư vị niệm một câu “tất
đát đa bát đát ra” là được
rồi, không cần phải thuộc ḷng toàn bộ chú ấy.
Nhớ trọn hết th́ quư vị không nhớ nổi, chỉ
niệm chú tâm “tất đát đa bát đát ra”. Nếu
tŕ linh nghiệm, thần chú này sẽ phá tà chú kia. Đấy
là v́ nhân duyên trong quá khứ của Ngài đă chín muồi,
cho nên có biểu hiện như vậy. Cô Ma Đăng Già
theo Ngài đến trước Phật thưa: “Tôi chẳng
có chàng, sẽ chết, Phật phải độ tôi”. Đức
Phật liền thuyết pháp cho cô ta, “quán thân bất tịnh,
quán thọ là khổ, quán tâm vô thường”. Vừa nói
pháp ấy, cô ta tâm khai ư giải, lập tức chứng
đắc A La Hán.
Từ thân phận dâm nữ mà có thể
chứng đắc A La Hán, lại càng chẳng cần nói tới
chuyện long nữ trong kinh Pháp Hoa thành Phật ngay trong thân
rồng. Đó là do cô ta đă tích lũy thiện căn
trong quá khứ. Nếu chỉ nh́n vào t́nh huống hiện
thực, sẽ cho rằng đó là chuyện không thể, v́ quư vị chẳng thấy rơ t́nh huống
hiện thực. Nếu quư vị mong tu thần thông, muốn
niệm một bài chú, bế quan một trăm ngày, chỉ
cầu thần thông. Đấy là có phương pháp,
nhưng phương pháp ấy tôi chẳng muốn học!
Thần thông thật sự là ǵ? “Thần” là ǵ? Thần
là cái tâm tự nhiên, cũng là một niệm tâm hiện tiền
của quư vị. “Thông” là trí huệ mở mang. Thông là
huệ tánh. Thần là nói về thiên tâm (天心, tâm tự
nhiên), Thông là nói về huệ tánh, tức là cái tâm của
chính quư vị mở mang trí huệ, nghiệp chướng
tiêu mất, sẽ thông suốt. Sự thông suốt ấy
chính là “chân thông”.
Nếu
tu Lục Ba La Mật, phải nên tu như thế nào? Phải
nên sám hối! Sám hối là bái sám, chẳng phải là một,
hai lượt, phải sám hối nhiều lượt. Sám
hối ác nghiệp cho thanh tịnh, thiện nghiệp sẽ
sanh trưởng, phải nên tùy nghi siêng năng phát chánh nguyện.
Phát chánh nguyện cầu thành Phật, cầu lợi ích
chúng sanh. Niệm phẩm Tịnh Hạnh, phẩm Phạm
Hạnh, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện chính là học
tập phát nguyện. Chánh nguyện: Khá nhiều nguyện
đều chẳng ĺa mười đại nguyện của
Phổ Hiền Bồ Tát. Rất nhiều bài phát nguyện văn đều
trích lục từ đó. Nếu có thể phát nguyện
như vậy th́ mới có thể có nhập xứ, mới
có thể thành tựu. Thân hiện tại có thể thành tựu
pháp khí của Thanh Văn Thừa, thành tựu pháp khí Độc
Giác Thừa, thành tựu chủng tử bất thoái của
Độc Giác Thừa, hoặc chủng tử bất thoái
của Đại Thừa. Độc Giác Thừa sâu
hơn [Thanh Văn Thừa], Đại Thừa càng sâu
hơn nữa. Chúng ta gieo thiện căn, gieo chủng tử
đó, có thể khiến cho chúng ta chẳng thoái thất.
Trong đời hiện tại, có thể chứng đắc
quả vị tam thừa, quư vị hăy khéo tu, khéo học,
đời này chưa chứng đắc th́ đời vị
lai có thể chứng đắc.
Phát
nguyện sanh về thế giới Cực Lạc, quư vị
chớ nên thoái tâm. Ngay trong đời này, đời sau, hoặc
đời sau nữa, sẽ nhất
định có thể văng sanh, v́ có sáu phương Phật hộ
tŕ quư vị văng sanh. Quyển tám mươi mốt trong
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh là phẩm
Phổ Hiền Hạnh Nguyện dẫn về Cực Lạc,
mọi người tụng phẩm Phổ Hiền Hạnh
Nguyện sẽ là thượng phẩm thượng sanh.
Ai tụng phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, sẽ
sanh về thế giới Cực Lạc thượng phẩm
thượng sanh.
Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo khi giảng
đến quyển hạ có nói “cảnh giới Nhất
Thật, hai thứ quán đạo”. Tu chẳng thành, sẽ
chẳng tiến nhập. Làm thế nào? Như thế này
th́ sẽ tốt đẹp! Quư vị thật sự chẳng
có cách nào niệm danh hiệu của ta (Địa Tạng
Bồ Tát) [theo cách quán đạo] th́ mỗi ngày niệm một
vạn câu, ta sẽ khiến cho quư vị thành tựu.
Điều này có thể làm được, đấy mới
là phương tiện thiện xảo. Chớ nên t́m tà môn
ngoại đạo! Theo tà môn ngoại đạo, sẽ chẳng
thể tiến nhập được. Không chỉ chẳng
tiến nhập được, mà c̣n có thể bị ma dựa!
Hễ bị ma dựa, sẽ khổ sở, đọa lạc
vào đường ma! Tam thừa tu hành như thế
đó, “bất ưng kiêu ngạo, vọng hiệu Đại
Thừa, báng hủy Thanh Văn, Độc Giác Thừa pháp.
Ngă tiên duy vị Đại Thừa pháp khí kiên tu hành giả”
(chớ nên kiêu ngạo, xằng bậy xưng là Đại
Thừa, hủy báng pháp Thanh Văn và Độc Giác Thừa. Trước kia, ta chỉ v́
người thuộc pháp khí Đại Thừa tu hành kiên cố): Đấy
là Phật tự nói, Ngài bảo: “V́ sao trước kia ta chỉ
đề xướng pháp khí Đại Thừa? Là v́ loại
căn cơ này, ta mới nói như thế. Nay ta chẳng
nói mâu thuẫn, thậm chí pháp tam thừa đều nói,
hoàn toàn chẳng mâu thuẫn, mà là đúng với căn
cơ!”
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn trùng hiển thử
nghĩa,
nhi thuyết tụng viết: “Đối chư đại
chúng tiền, Kim Cang Tạng vấn ngă, vân hà khuyến cúng dường,
phá giới ác bật-sô. Thất đỗ-đa công đức,
si ác kiến sở tŕ, phi pháp khí, ô đạo, nhi bất
thính trích phạt? Phục thuyết
tùng bỉ văn, tam thừa vi diệu pháp, chân giải
thoát lương dược, thú tịch tĩnh Niết Bàn? Hà cố dư kinh ngôn, nhất
Đại Thừa giải thoát, giá học Nhị Thừa
pháp, kim phục thuyết tam thừa? Ai mẫn chư hữu
t́nh, linh xả tà ác nghiệp, đắc lợi ích an lạc,
nguyện vị thuyết trừ nghi. Vị ích Sát-đế-lợi,
năi chí Thú-đạt-la, bất thính năo bật-sô, khủng bỉ
nhiễm đại tội, thế phát, bị ca-sa, chư
Phật pháp tràng tướng, chư Phật đẳng hộ
tŕ, giải thoát đạo chi phục”.
(經)爾時,世尊重顯此義,而說頌曰:對諸大眾前,金剛藏問我:云何勸供養,破戒惡苾芻,失杜多功德,癡惡見所持,非法器污道,而不聽謫罰?復說從彼聞,三乘微妙法真解脫良藥,趣寂靜涅槃?何故餘經言,一大乘解脫,遮學二乘法,今復說三乘?哀愍諸有情,令舍邪惡業,得利益安樂,願為說除疑。為益剎帝利,乃至戍達羅,不聽惱苾芻,恐彼染大罪。剃髮被袈裟,諸佛法幢相,諸佛等護持,解脫道之服。
(Kinh: Lúc bấy giờ, để nêu rơ lại
nghĩa này, đức Thế Tôn bèn nói kệ tụng rằng:
“Đối trước các đại chúng, Kim Cang Tạng
hỏi ta, cớ sao khuyên cúng dường, ác bật-sô phá giới?
Mất công đức đầu-đà,
si ác kiến nắm giữ, ô đạo, phi pháp khí, lại
chẳng cho trừng phạt? Lại bảo nghe họ
giảng, pháp vi diệu tam thừa, thuốc lành, chân giải
thoát, đến tịch tĩnh Niết Bàn? V́ sao kinh khác
nói, chỉ Đại Thừa giải thoát, ngăn học pháp Nhị Thừa, nay lại
nói ba thừa? Thương xót các hữu t́nh, khiến bỏ
tà ác nghiệp, được lợi ích an lạc, xin hăy
nói trừ nghi. V́ lợi ích Sát-lợi, cho đến
Thú-đạt-la, cấm năo loạn bật-sô, sợ nhuốm
phải tội lớn. Cạo tóc, đắp ca-sa, tướng
pháp tràng chư Phật, chư Phật đều hộ
tŕ, y phục đạo giải thoát”).
Đức
Phật lại trùng tuyên ư nghĩa này một phen. Đối
trước đại chúng, Kim Cang Tạng Bồ Tát
thưa hỏi đức Phật. Kim Cang Tạng Bồ Tát
hỏi như thế nào? “Vân hà khuyến cúng dường,
phá giới ác bật-sô”, tức là hỏi đức Phật
v́ sao lại khuyên mọi người hăy cúng dường tỳ-kheo
phá giới? “Thất đỗ-đa công đức” (đánh
mất công đức đầu-đà): Diệt trừ
Trần Sa phiền năo th́ gọi là “đỗ-đa”. “Đỗ-đa”
(Dhuta, đầu-đà) là một
loại khổ hạnh, tức là một loại khổ hạnh
của người tu đạo. “Si ác kiến sở
tŕ” (bị tri kiến si ác nắm giữ): Các tỳ-kheo
ấy chẳng phải là pháp khí, đă khiến cho đạo,
tức đạo mà họ tu, cho đến những lời
đức Phật dạy, đều bị
ô nhiễm, chẳng thanh tịnh. “Nhi bất thính trích phạt”
(nhưng chẳng cho phép trừng phạt): V́ sao ta bảo
quư vị chớ nên trừng phạt những tỳ-kheo ấy,
lại c̣n phải cúng dường họ? Trong phần
trước đă giải thích. Trong các ô đạo sa-môn ấy,
cũng có người có thể thuyết pháp. Do vậy, từ
họ, quư vị cũng có thể nghe pháp vi diệu tam thừa,
nghe rồi sẽ có thể giải thoát. Đó là
lương dược giải thoát, là con đường
tốt lành để tiến hướng Niết Bàn tịch
tĩnh, cũng là Bồ Đề đạo. Do vậy,
đối với ô đạo sa-môn, chẳng cần lựa
chọn để cúng dường là do nguyên nhân này! Các kinh
khác chẳng nói như vậy.
“Hà
cố dư kinh ngôn, nhất Đại Thừa giải
thoát, giá học Nhị Thừa pháp, kim phục thuyết tam
thừa, ai mẫn chư hữu t́nh, linh xả tà ác nghiệp”
(v́ sao các kinh khác chỉ nói một đạo Đại Thừa
giải thoát, ngăn cấm học pháp Nhị
Thừa, nay Phật lại nói tam thừa. Do thương xót các
hữu t́nh, khiến cho họ bỏ nghiệp tà ác): Có những
chỗ (trong các kinh khác) nói đạo Nhất Thừa Đại
Thừa là giải thoát, khi ngăn che quư vị học các thừa
khác là v́ ngăn chặn loại căn khí ấy (căn khí
Đại Thừa) đừng rơi vào Nhị Thừa.
Trong quá khứ, kinh dạy như vậy, c̣n hiện thời
ta lại nói tam thừa, tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát
Thừa đều cùng nói, là v́ thương xót các hữu
t́nh, khiến cho hết thảy các chúng sanh đều bỏ
các nghiệp tà ác, “đắc lợi ích an lạc”, cho
nên bằng ḷng v́ họ nói, ḥng trừ nghi
hoặc của họ.
“Vị
ích Sát-đế-lợi, năi chí Thú-đạt-la, bất thính
năo bật-sô, khủng bỉ nhiễm đại tội”
(V́ lợi ích Sát-đế-lợi cho đến Thú-đạt-la,
chẳng cho phép những người ấy năo loạn bật-sô,
sợ họ nhiễm đại tội): Ta không cho bọn
họ kể lỗi tỳ-kheo v́ sợ phạm phải tội
to lớn. “Thế phát, bị ca-sa, chư Phật pháp
tràng tướng” (cạo tóc, đắp ca-sa, đó là tướng
pháp tràng chư Phật): Chỉ cần người nào cạo
râu tóc, hiện tướng tỳ-kheo, đấy chính là
tướng pháp tràng của chư Phật. “Chư Phật
đẳng hộ tŕ, giải thoát đạo chi phục”
(Chư Phật đều hộ tŕ y phục
của đạo giải thoát): Ta hộ tŕ kẻ đó là
v́ hộ tŕ tràng tướng của đạo giải
thoát, hộ tŕ ca-sa đỏ.
(Kinh)
Tuy phá chư luật nghi, phi vĩnh giá giải thoát, năng
xả chư ác kiến, đương tốc thú Niết
Bàn. Như hủ bại
lương dược, do năng liệu chúng bệnh,
như thị phá luật nghi, diệc năng diệt tha khổ.
Bất thính bỉ bật-sô, tại bố-tát, yết-ma, hứa
vị tha thuyết pháp, câu hoạch phước vô nghi.
Nhược quy kính Tam Bảo, xưng ngă vi đại
sư, năng khí xả chúng ác, thắng chư ngoại
đạo chúng. Như đọa La Sát chử,
thương chúng tất kinh hoàng, các chấp thú nhất mao,
độ hải đắc miễn nạn. Như thị phá giới giả,
ly chư ác tà kiến, do nhất tín vi nhân, thoát phiền năo
La Sát. Do hộ giải thoát tướng, chư Phật
đẳng hộ tŕ, bất năo phá giới Tăng, năng
ly chư trọng ác. Chư lạc đa phước nhân,
hân cầu chân giải thoát, đẳng hộ khí, phi khí, chứng giải thoát vô nan.
Si mạn hiệu Đại Thừa, bỉ vô hữu trí lực,
thượng mê Nhị Thừa pháp, huống năng giải
Đại Thừa? Thí như khuyết
hoại nhăn, bất năng kiến chúng sắc, như thị
khuyết hoại tín, bất năng giải Đại Thừa.
Vô lực ẩm tŕ hà, cự năng thôn đại hải?
Bất tập Nhị Thừa pháp, hà năng học Đại
Thừa? Tiên tín Nhị Thừa pháp, phương năng tín
Đại Thừa. Vô tín, tụng Đại Thừa, không
ngôn, vô sở ích!
(經)雖破諸律儀,非永遮解脫,能舍諸惡見,當速趣涅槃。如腐敗良藥,猶能療眾病,如是破律儀,亦能滅他苦。不聽彼苾芻,在布薩羯磨,許為他說法,俱獲福無疑。若歸敬三寶,稱我為大師,能棄舍眾惡,勝諸外道眾。如墮羅剎渚,商眾悉驚惶,各執獸一毛,渡海得免難;如是破戒者,離諸惡邪見,由一信為因,脫煩惱羅剎。由護解脫相,諸佛等護持,不惱破戒僧,能離諸重惡。諸樂多福人,欣求真解脫,等護器非器,證解脫無難。癡慢號大乘,彼無有智力,尚迷二乘法,況能解大乘?譬如闕壞眼,不能見眾色,如是闕壞信,不能解大乘。無力飲池河,詎能吞大海?不習二乘法,何能學大乘?先信二乘法,方能信大乘,無信誦大乘,空言無所益。
(Kinh: Tuy phá các luật
nghi, chẳng măi ngăn giải thoát. Xả được
các ác kiến, sẽ mau chứng Niết Bàn. Như thuốc
tốt hư nát, vẫn trị lành các bệnh. Phá luật
nghi cũng thế, vẫn diệt khổ kẻ khác. Chẳng
cho bật-sô đó, làm bố-tát, yết-ma. Vẫn được phép thuyết pháp,
đều được phước chẳng nghi. Nếu
quy kính Tam Bảo, xưng ta là đại sư, vứt bỏ
các điều ác, hơn hẳn các ngoại đạo. Như
đọa chốn La Sát, các thương nhân kinh hoàng, mỗi
người nắm lông thú, vượt biển, được
thoát nạn. Như kẻ phá giới kia, ĺa các tà kiến
ác, do ḷng tin làm nhân, thoát phiền năo La Sát. Tướng giải
thoát như thế, chư Phật cùng hộ tŕ, chẳng
năo phá giới Tăng, xa rời các ác nặng. Người
có nhiều phước lạc, vui cầu chân giải
thoát, hộ tŕ khí, phi khí, chứng giải thoát khó ǵ. Si, mạn,
xưng Đại Thừa, chẳng hề có trí lực, c̣n
mê pháp Nhị Thừa, hiểu Đại Thừa sao nổi?
Ví như kẻ mắt mù, chẳng thể thấy các sắc.
Khuyết hoại tín như thế, chẳng thể hiểu Đại Thừa.
Không sức uống ao, sông; sao nuốt được
biển cả? Chẳng tu pháp Nhị Thừa,
sao học Đại Thừa được? Trước
tin pháp Nhị Thừa, mới tin nổi Đại Thừa.
Chẳng tin, tụng Đại Thừa, nói suông, chẳng
ích ǵ!)
“Tuy
phá chư luật nghi, phi vĩnh giá giải thoát” (tuy phá
các luật nghi, vĩnh viễn chẳng ngăn che giải
thoát): Quư vị đừng thấy kẻ đó nay đang
phá giới, chẳng tu đạo, là phường ác đạo,
ô đạo! Kẻ đó chẳng phải là vĩnh viễn
không giải thoát, kẻ đó nhất định có thể
giải thoát. Khi nào kẻ đó buông xả ác kiến, sẽ
nhanh chóng tiến hướng Bồ Đề, nhất
định sẽ chứng đắc quả Bồ Đề
rất nhanh. Giống như thuốc tốt lành, dẫu mục
nát, vẫn có thể trị các bệnh. Tỳ-kheo phải
t́m trong đống rác để kiếm thuốc uống,
uống thuốc đă hư, đấy là do Phật chế
định: “Tỳ-kheo có bệnh, kiếm thuốc hư
nát để uống”. Uống thuốc hư nát, nhờ Phật
lực gia tŕ, sẽ lành bệnh.
“Như
thị phá luật nghi, diệc năng diệt tha khổ”
(kẻ chẳng giữ luật nghi như thế, cũng
có thể diệt khổ cho người khác): Quư vị
đừng thấy kẻ đó là ô đạo sa-môn, kẻ
đó vẫn có thể diệt khổ cho người khác.
Người khác vẫn có thể gieo phước điền
nơi kẻ đó. “Bất thính bỉ bật-sô, tại
bố-tát, yết-ma” (Chẳng cho phép bật-sô đó tham
dự bố-tát, yết-ma): Tuy là kẻ đó không
được nghe tỳ-kheo tụng giới, không
được hưởng sự cúng dường dành cho đại chúng Tăng, nhưng vẫn cho phép kẻ
đó thuyết pháp cho chúng sanh. V́ sao? Khi kẻ đó thuyết
pháp, sẽ đạt được phước đức,
tiêu trừ nghiệp chướng. Người nghe cũng
có phước đức. Đấy là điều quyết
định, chẳng nghi ngờ chi nữa!
“Nhược
quy kính Tam Bảo, xưng ngă vi đại sư, năng khí
xả chúng ác, thắng chư ngoại đạo chúng”
(nếu quy kính Tam Bảo, xưng ta là đại sư, có
thể bỏ các ác, hơn hẳn các ngoại đạo):
Chỉ cần quy y ta, kẻ đó xưng tụng ta là
đại sư, buông xả các điều ác, th́ sẽ mạnh
mẽ hơn các ngoại đạo rất nhiều. “Như
đọa la sát chử, thương chúng tất kinh hoàng”
(như đọa vào bờ bến của La Sát, các
thương nhân đều kinh hoàng): Các thương nhân
đi [vào biển] thâu nhặt bảo
vật, đến lầm chỗ La
Sát, sợ gần chết. Nếu “các chấp thú nhất
mao, độ hải đắc miễn nạn” (nếu
mỗi người nắm lấy lông con thần thú, sẽ
vượt khỏi biển, thoát nạn): Con thú ấy rất
lớn, chỉ cần nắm lấy một sợi lông của
nó, cũng có thể nổi trên biển để thoát ra. “Như
thị phá giới giả, ly chư ác tà kiến, do nhất
tín vi nhân, thoát phiền năo La Sát” (Kẻ phá giới
cũng giống như thế, do ĺa các tà kiến ác, dùng
ḷng tin làm nhân, thoát khỏi phiền năo La Sát): “Nhất
tín” là kẻ đó c̣n có tín tâm. Do có tín tâm như vậy,
cho nên cũng có thể giải thoát.
“Như
thị giải thoát tướng, chư Phật đẳng
hộ tŕ” (Tướng giải thoát như thế,
chư Phật đều cùng hộ tŕ): Kẻ đó đắp
ca-sa, hiện ra tướng giải thoát như thế, hết
thảy chư Phật đều hộ tŕ tướng giải
thoát ấy. “Bất năo phá giới
Tăng, năng ly chư trọng ác” (Chẳng năo loạn
Tăng phá giới, có thể ĺa khỏi các điều ác nặng
nề): Quư vị chớ nên năo loạn tỳ-kheo phá giới
th́ cũng có thể ĺa thoát biển khổ. “Chư lạc
đa phước nhân, hân cầu chân giải thoát, đẳng
hộ khí phi khí” (người có nhiều phước lạc,
ưa thích cầu giải thoát chân thật, sẽ b́nh đẳng
hộ tŕ pháp khí và phi pháp khí): B́nh đẳng hộ tŕ, bất
luận là pháp khí hay phi pháp khí. Quư vị mong cầu sự
giải thoát chân chánh, hăy b́nh đẳng đối đăi tỳ-kheo
phá giới và giữ giới. Chỉ có kinh này nói như vậy,
các kinh khác rất ít nói như thế. Nếu học giới
kinh, sẽ thấy hoàn toàn bất đồng.
Kinh
Đại Tập Thập
Luân chính là kinh đặc biệt từ bi của Địa
Tạng Bồ Tát. “Thí như khuyết hoại nhăn”
[nghĩa là ví như] kẻ nhăn căn bị hư hoại, “bất
năng kiến chúng sắc” (chẳng thể thấy các
sắc): Sắc ǵ mắt cũng chẳng thấy! “Như
thị khuyết hoại tín, bất năng giải Đại
Thừa” (cũng vậy, kẻ ḷng tin khuyết hoại,
sẽ chẳng thể hiểu Đại Thừa): Tín tâm
đă chẳng có, lẽ nào có thể tin Đại Thừa
cho được? “Vô lực ẩm tŕ hà, cự năng
thôn đại hải” (không có sức uống cạn ao,
sông, làm sao có thể nuốt biển cả): Ngay cả
nước sông c̣n nuốt không nổi, làm sao có thể nuốt
sạch nước đại dương? Chẳng thể
nào được! Nếu “bất tập Nhị Thừa
pháp, hà năng học Đại Thừa”, [nghĩa là]
quư vị chẳng học pháp Nhị Thừa, học ngay
vào pháp Đại Thừa, làm sao có thể học được?
Phải là “tiên tín Nhị Thừa pháp, phương
năng tín Đại Thừa” (trước hết là tin
pháp Nhị Thừa th́ mới có thể tin pháp Đại Thừa):
Đấy là theo thứ tự. “Vô tín tụng Đại
Thừa, không ngôn vô sở ích” (không có tín tâm mà đọc
tụng Đại Thừa th́ là nói suông, chẳng có lợi
ích): Tín tâm đă chẳng có, quư vị tụng kinh điển
Đại Thừa có ích lợi ích ǵ?
(Kinh)
Nội chân hoài Đoạn Kiến, vọng tự hiệu
Đại Thừa, bất hộ tam nghiệp tội, hoại
loạn ngă chánh pháp. Bỉ nhân mạng chung hậu, định
đọa Vô Gián ngục. Cố ưng quán cơ thuyết,
vật vị phi khí giả. Kiêu ngạo, vô từ bi, bạo
ác, chí hạ liệt, trí giả ưng đương tri,
thị hoại Đoạn Kiến giả. Phi Thanh Văn
Duyên Giác, diệc phi Đại Thừa khí, siểm hủy, báng chư Phật, tất đọa
Vô Gián ngục. Tŕ giới nhạo huyên náo, xan pháp, úy khổ
ác. Trí giả ưng đương liễu. Thị danh
Thanh Văn Thừa. Nhạo thí, quán sanh diệt, thường
hân độc tĩnh xứ, trí giả ưng
đương liễu. Thị danh Độc Giác Thừa.
Cụ túc chư thiện căn. Thủ hộ từ bi bổn.
Thường nhạo nhiếp lợi vật. Thị danh vi
Đại Thừa. Xả thân mạng hộ giới. Bất
năo hại chúng sanh, tinh tấn cầu Không pháp, ưng tri thị
Đại Thừa. Tâm kham nhẫn chư pháp, thiện ngôn
vô bí lận. Ư pháp thường hân nhạo, ưng tri thị
Đại Thừa. Pháp khí, phi pháp khí, lợi lạc tâm b́nh
đẳng, bất nhiễm chư thế pháp, ưng tri thị
Đại Thừa. Thị cố hữu trí giả, phổ
kính thuyết tam thừa, bất năo ngă Tăng đồ, tốc thành Vô
Thượng Giác.
(經)內真懷斷見,妄自號大乘,不護三業罪,壞亂我正法,彼人命終後,定墮無間獄。故應觀機說,勿為非器者,憍傲無慈悲,暴惡志下劣。智者應當知,是壞斷見者,非聲聞緣覺,亦非大乘器,諂譭謗諸佛,必墮無間獄。持戒樂喧鬧,慳法畏苦惡,智者應當了,是名聲聞乘。樂施觀生滅,常欣獨靜處,智者應當了,是名獨覺乘。具足諸善根,守護慈悲本,常樂攝利物,是名為大乘。舍身命護戒,不惱害眾生,精進求空法,應知是大乘。心堪忍諸法,善言無秘吝,於法常欣樂,應知是大乘。法器非法器,利樂心平等,不染諸世法,應知是大乘。是故有智者,普敬說三乘,不惱我僧徒,速成無上覺。
(Kinh:
Trong tâm đầy Đoạn Kiến, dối trá xưng
Đại Thừa, chẳng pḥng tam nghiệp tội, hoại
loạn Phật chánh pháp. Kẻ đó mạng chung rồi,
quyết định đọa Vô Gián. V́ thế, nên quán
cơ, đừng v́ phi khí nói. Kiêu ngạo, chẳng từ
bi, bạo ác, chí kém hèn. Bậc trí hăy nên biết, là kẻ hoại
Đoạn Kiến. Chẳng Thanh Văn, Duyên Giác, chẳng
phải bậc Đại Thừa. Siểm hủy báng
chư Phật, ắt đọa ngục Vô Gián. Tŕ giới,
thích huyên náo, tiếc pháp, sợ khổ ác. Bậc trí hăy nên
hiểu. Đó gọi Thanh Văn Thừa. Ưa thí, quán sanh
diệt, thường thích chỗ riêng tĩnh, bậc trí
hăy nên biết, đó gọi Độc Giác Thừa. Trọn
đủ các thiện căn. Hộ tŕ gốc từ bi, thường
thích nhiếp lợi vật. Đó gọi là Đại Thừa.
Xả thân mạng giữ giới. Chẳng năo hại chúng
sanh, tinh tấn cầu Không pháp, nên biết là Đại Thừa.
Tâm kham nhẫn các pháp, lời lành chẳng giấu tiếc.
Thường ưa thích các pháp, nên biết là Đại Thừa.
Pháp khí, phi pháp khí, tâm lợi lạc b́nh đẳng, chẳng
nhiễm pháp thế gian, nên biết là Đại Thừa.
V́ thế, người có trí, cung kính nói tam thừa. Chẳng
năo hại chư Tăng, mau thành Vô Thượng Giác).
“Nội
chân hoài Đoạn Kiến” (Trong tâm thật sự ôm giữ
Đoạn Kiến): Trong tâm chấp giữ tâm lư Đoạn
Kiến, tức là học lư Không mà chẳng thấu
đáo, đâm ra trở thành Đoạn Diệt Kiến.
Cái Không trong Bát Nhă chẳng phải là rỗng không như
hư không, chẳng phải là Đoạn Kiến Không! “Vọng
tự hiệu Đại Thừa” (xằng bậy, tự
xưng là Đại Thừa): Kẻ học pháp Đại
Thừa ấy, cho rằng hết thảy các pháp như mộng,
huyễn, bọt, bóng, như sương, như chớp,
đối với chuyện ăn thịt, uống rượu,
lấy vợ, lập gia đ́nh, tự nhận là chẳng
có vấn đề ǵ, ta là Đại Thừa mà, không
vướng, không mắc, [không cần câu nệ giới luật
nữa]. Ăn thịt, uống rượu có sao đâu? Thân
thể này vướng mắc, đấy là nói tỷ dụ.
Trong tâm kẻ đó ôm giữ tư tưởng Đoạn
Kiến, vẫn cứ nói chính ḿnh là Đại Thừa. “Bất
hộ tam nghiệp tội, hoại loạn ngă chánh pháp”
(Chẳng ngăn ngừa tội lỗi nơi ba nghiệp,
hoại loạn chánh pháp của ta): Đối với ba nghiệp
thân, khẩu, ư, Thập Ác nghiệp, trọn chẳng
ngăn ngừa tí nào, tạo nghiệp Thập Ác, phá hoại
chánh pháp. Người ấy sau khi mạng chung, nhất định đọa vào ngục Vô Gián.
“Cố
ưng quán cơ thuyết, vật vị phi khí giả”
(Cho nên phải quán sát căn cơ mà nói pháp, đừng nói
với kẻ chẳng phải là pháp khí): Đối với
pháp Đại Thừa, quư vị phải xét xem người
ấy có phải là pháp khí hay không, phải quán cơ! Khi
chúng ta nói pháp, chúng ta chẳng
thể quán cơ, chẳng biết
mấy trăm năm hay bao nhiêu
đại kiếp trước, kẻ đó đă tạo
thiện căn nào, chẳng thể quán cơ. Làm như thế
nào đây? Trước hết, phải sám hối. Trước
tiên, hăy
quán tưởng đây là Thích Ca Mâu Ni Phật nói, là đức
Phật đang nói, chẳng
phải ta đang nói. Mỗi khi hồi
hướng, sám hối tội lỗi, nhất định
phải kèm thêm một điều: “Con thuyết pháp sẽ
được Phật gia tŕ, là Phật đến nói, chẳng
phải là con nói”. Nhất định phải quán tưởng. Sau đó,
sám hối tội lỗi, sám tội ǵ vậy? Đă nói sai,
người ta chẳng đạt được lợi
ích, nghe pháp mà vẫn chưa thể giải thoát, tức là ta có tội. Người nói có tội, chẳng
liên quan ǵ đến người nghe.
“Kiêu
ngạo vô từ bi, bạo ác, chí hạ liệt” (kiêu ngạo, chẳng
từ bi; bạo ác, chí kém hèn): Rất kiêu ngạo, chẳng
có tâm từ bi. Thuyết pháp cần phải trọn đủ
tâm từ bi. Mục đích thuyết
pháp là khiến cho người khác đạt được
giải thoát, muốn người khác nghe rồi sẽ khai
ngộ, tối thiểu là gieo thiện căn, nhất
định phải trọn đủ! Nếu quư vị
kiêu ngạo, lại chẳng có tâm từ bi, đấy là
khinh thường chúng sanh, chí hướng kém hèn. Do vậy,
người có trí huệ phải nên biết, ôm giữ
Đoạn Kiến là ǵ, như thế nào mới là ôm giữ
Đoạn Kiến?
“Kiêu
ngạo vô từ bi, bạo ác chí hạ liệt, trí giả
đương ưng tri, thị hoài Đoạn Kiến giả,
phi Thanh Văn, Duyên Giác, diệc phi Đại Thừa khí,
siểm hủy báng chư Phật, tất đọa Vô Gián
ngục” (Kiêu ngạo, chẳng từ bi, bạo ác, chí
kém hèn, người trí hăy nên biết, kẻ ôm giữ Đoạn
Kiến, chẳng phải là Thanh Văn hay Duyên Giác, mà
cũng chẳng phải là pháp khí Đại Thừa. Kẻ
đó siểm nịnh, hủy báng chư Phật, ắt
đọa địa ngục Vô Gián): Quư vị chẳng phải
là Thanh Văn, Duyên Giác, mà cũng chẳng phải là Đại
Thừa, tam thừa đều chẳng phải! Chỉ là kẻ nịnh hót ác quốc
vương, nịnh nọt các đại thần, hủy
báng Phật pháp, ắt đọa vào địa ngục Vô
Gián. Có các tể quan trong tâm họ chẳng
muốn hủy báng Đại Thừa, nhưng v́ thế lực
của ác pháp, ác quốc vương bức bách,
sai khiến họ, khiến cho họ chẳng
thể không làm như vậy. Họ làm như vậy v́ lợi
ích, cầu an lạc trong đời hiện tại mà hủy
báng, tố giác người khác. Do chỉ nghĩ đến
lợi ích, v́ lợi dưỡng, tội ấy bèn nặng
nề!
“Tŕ
giới nhạo huyên náo, xan pháp, úy khổ ác, trí giả
ưng đương liễu, thị danh Thanh Văn Thừa”
[nghĩa là]: Người đó muốn tŕ giới, ắt
phải đến chỗ thanh tịnh, chỗ tịch
tĩnh, chẳng dám ở nơi đô thị. Nếu huyên
náo, người đó chỉ sợ tŕ giới chẳng thành,
mở mắt cũng phạm giới, tai nghe thấy
cũng là âm nhạc tà ác, xem TV đều phạm giới,
chỗ nào cũng đều là phạm giới! Làm thế
nào đây? Đến chỗ không có dấu vết
con người, xa ĺa ồn náo. “Xan pháp, úy khổ ác” (tiếc pháp, sợ khổ
ác): Người ấy chẳng chịu thuyết pháp, sợ
ǵ vậy? Sợ bị kẻ khác cảm nhiễm, sợ
thuyết pháp sẽ thọ khổ. “Trí giả ưng
đương liễu” (Người trí hăy nên biết
rơ): Người có trí huệ sẽ biết Thanh Văn là
như thế đó!
“Nhạo
thí, quán sanh diệt, thường hân độc tĩnh xứ,
trí giả ưng đương tri, thị danh Độc
Giác Thừa” (thích bố thí, quán sanh diệt. Thường
thích ở một ḿnh nơi thanh vắng. Người trí
hăy nên biết. Đó gọi là Độc Giác Thừa):
Độc Giác Thừa cũng thích bố thí, quán pháp sanh diệt,
hết thảy các pháp vô thường, quán sanh diệt là
quán nhân duyên; nhưng họ cũng thích tu tập một ḿnh. V́ sao gọi là Độc Giác?
Tĩnh tọa một ḿnh, đó gọi là Độc Giác Thừa.
“Cụ túc chư thiện căn, thủ hộ từ bi
bổn” (trọn đủ các thiện căn, thủ hộ
gốc từ bi): Đấy là tâm đại từ đại
bi, thủ hộ từ bi. “Thường nhạo nhiếp
lợi vật, thị danh vi Đại Thừa” (Thường
thích nhiếp thọ, lợi lạc chúng sanh, đó gọi
là Đại Thừa): Thường luôn hoan hỷ nhiếp
thọ chúng sanh, dùng Tứ Nhiếp Pháp để lợi
ích chúng sanh. “Xả thân mạng hộ giới, bất năo
hại chúng sanh” (Xả thân mạng để hộ tŕ
giới, chẳng năo hại chúng sanh): Thà xả thân mạng
để hộ tŕ giới cấm của Phật. “Tinh
tấn cầu Không pháp, ưng tri thị Đại Thừa”
(tinh tấn cầu pháp Không, nên biết đó là Đại
Thừa): Cầu trí huệ Bát Nhă, do hết thảy các pháp hữu vi đều chẳng thể Không, bèn tu pháp vô vi, trọn chẳng năo hại chúng sanh.
“Tâm
kham nhẫn chư pháp, thiện ngôn vô bí lận, ư pháp
thường hân nhạo, ưng tri thị Đại Thừa”
(Tâm kham nhẫn các pháp, chẳng giấu tiếc lời
lành, thường ưa thích các pháp, nên biết là Đại
Thừa): Tâm kham nhẫn, “nhẫn” (忍) có nghĩa là “thừa
nhận”, hết thảy các pháp đều thiện. Bồ
Tát th́ ngay cả pháp thế gian cũng chẳng xả. Chẳng
có pháp thế gian, th́ cũng chẳng có Phật pháp. V́ sao ta
thuyết pháp thường dùng pháp thế gian để tỷ
dụ? Pháp xuất thế gian th́ chúng sanh sẽ chẳng tiến nhập được, bèn nói pháp thế
gian cho họ, chúng sanh hiểu pháp thế gian, dùng pháp thế
gian để hiển lộ pháp xuất thế gian, như
thế th́ họ sẽ có thể tiến nhập! Chớ
nên keo tiếc. Pháp chẳng có bí mật, nói Phật pháp là bí
mật th́ là sai lầm. Phật pháp chẳng có bí mật, chẳng
có một pháp nào không thể nói với chúng sanh, mà là đều
có thể nói; nhưng nếu không đúng căn cơ th́
đối với chúng sanh này là Mật, đối
với chúng sanh khác sẽ là Hiển. Mật
là Hiển, Hiển là Mật, phải hiểu đạo lư này. Trong hết
thảy các giáo pháp do đức Phật đă nói, phải
thường luôn sanh khởi tâm tin ưa, tâm hoan hỷ.
Đấy là Đại Thừa.
“Pháp
khí, phi pháp khí, lợi lạc tâm b́nh đẳng” (tâm b́nh
đẳng lợi lạc pháp khí lẫn phi pháp khí): Không v́
đấy là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí,
người thông minh có đại đệ tử trí huệ
bèn hết sức vui thú, đối với các đệ tử
ngu si, hồ đồ, bèn sanh ḷng ghét bỏ, thậm chí
khinh thường. Đấy chẳng phải là Bồ Tát.
Pháp khí cũng thế, đối với họ bèn b́nh đẳng lợi
lạc, mà phi pháp khí cũng thế, đều b́nh đẳng
lợi lạc họ. Tâm b́nh đẳng lợi lạc
chúng sanh. “Bất nhiễm chư thế pháp” (chẳng
nhiễm các pháp thế gian): Tuy chẳng đắm nhiễm
các pháp thế gian, nói Bồ Tát làm hết thảy công đức
mà chẳng có công đức. V́ sao chẳng có công đức?
Họ chẳng đắm nhiễm tướng công đức.
Đấy là Đại Thừa.
“Thị
cố hữu trí giả, phổ kính thuyết tam thừa, bất
năo ngă Tăng đồ,
tốc thành Vô Thượng Giác” (v́ thế,
người có trí huệ sẽ cung kính nói trọn khắp
ba thừa, chẳng năo hại các đệ tử Tăng của
ta, mau chóng thành Vô Thượng Giác): Đừng năo hại
đệ tử của ta, đừng năo hại Tăng
nhân phá giới!
Đại
Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần
10 hết
[1] Bách Tự Minh Chú là một bài chú, do
gồm có một trăm âm, cho nên gọi tên như vậy, tức: “Oṃ Vajrasatva Samaya
Manupālaya, Vajrasatva Tvenopa Tiṣṭḥā, Dṛḍho
Me Bhava, Sutoṣyo Me Bhava, Anurakto Me Bhava, Supoṣyo Me Bhava, Sarva
Siddhim Me Prayaccha, Sarva Karmasu Ca Me Cittaṃ Śriyāṃ
Kuru Hūṃ, Haha Haha Hoḥ, Bhagavān Sarva Tathāgata
Vajra Ma Me Muñca, Vajri Bhava Mahā Samaya Satva Āḥ”. Bài chú này do Kim Cang Tát
Đỏa Bồ Tát (Vajrasattva) nói ra. Theo Mật giáo Tây Tạng,
bài chú này có công năng thanh lọc thân tâm, tiêu trừ nghiệp
chướng, bổ khuyết những thiếu sót trong khi
tu tập, tương ứng với tam-ma-địa, trừ
diệt tội Ngũ Vô Gián, trừ hết thảy khổ
năo, cầu hết thảy Như Lai gia tŕ, thành tựu các Tất-địa,
chứng nhập thể tánh của hết thảy Như
Lai. Theo Chân Ngôn Tông, Kim Cang Tát Đỏa là hóa thân của Phổ
Hiền Bồ Tát khi dạy Mật Giáo, c̣n Tạng Truyền
Phật Giáo lại nói Ngài là hóa thân Phật của Phổ
Hiền Vương Như Lai (Samantabhadra Rājā Tathāgata, c̣n gọi là A Đề
Phật, tức Nguyên Thỉ Phật, là Pháp Thân của hết
thảy chư Phật). Vị này đóng vai tṛ trọng yếu
trong Chân Ngôn Tông, v́ Đông Mật coi Ngài là nhị
tổ (Đại Nhật Như Lai là Sơ Tổ), tam tổ
Long Thọ Bồ Tát đă học Mật Pháp từ Kim Cang Tát
Đỏa Bồ Tát nơi tháp sắt ở Nam Ấn Độ.
Kim Cang Tát Đỏa biểu thị tâm linh thuần tịnh.
Trước khi tu bất cứ Mật pháp nào, để thật
sự đủ tư cách tiếp nhận quán đảnh,
hành giả phải tịnh hóa thân tâm bằng cách thực hiện
pháp sám hối (thường gọi là Nyunge trong tiếng Tạng)
bao gồm ẩn cư, lễ bái mười vạn đại
lễ (cách lễ từ đứng thẳng rồi quỳ
rạp xuống đất, duỗi thẳng thân và tay áp sát
mặt đất), tụng mười vạn chú Bách Tự
Minh Chú, các bài tán tụng chẳng hạn Tam Bảo Tụng,
cúng dường bằng cách quán tưởng và phụng hiến
Mạn-đà-la (thường là dâng cúng bằng gạo hay đá
quư). Để thực hiện viên măn nghi lễ chuẩn bị
này, hành giả tối thiểu phải hành tŕ liên tục mỗi
ngày từ ba năm đến năm năm mới có thể
hoàn tất. Sau đó, mới có tư cách
được
truyền thọ Mật pháp. Sau khi đă được truyền
thọ Mật pháp, lại phải nhập thất hành tŕ
cho đến khi vị A Xà Lê xét thấy đệ tử đủ
tư cách mới ấn chứng, cho phép truyền dạy đạo.
V́ thế, những ai tự xưng theo học với các vị
chân sư Tây Tạng, trong ba năm, năm năm, đă được
gia tŕ quán đảnh làm A Xà Lê, chứng đắc này nọ,
phần lớn đều là mạo xưng, lừa gạt
tín đồ. Kinh Tô Tất Địa đă dạy rất
chi tiết về tiêu chuẩn của một vị A Xà Lê.
[2] Tiểu Tùy là các loại tâm sở được xếp vào loại Tiểu Tùy Phiền Năo tức Phẫn, Hận, Phú (giấu diếm tội lỗi của chính ḿnh), Năo (năo loạn người khác), Tật (ghen ghét), Xan (keo kiệt), Khí (hẹp ḥi), Cuống (lường gạt người khác), Hại (làm hại người khác), Kiêu.
[3] Hai
mươi lăm Hữu là cách phân loại chi tiết sanh tử
luân hồi trong tam giới. Do có nhân, ắt phải có quả,
nhân và quả đều chẳng mất, nên gọi là Hữu,
bao gồm: 1) Địa Ngục Hữu 2) Súc Sanh Hữu 3)
Ngạ Quỷ Hữu 4) A Tu La Hữu 5) Phất Bà Đề
Hữu (Đông Thắng Thần Châu) 6) Cù Da Ni Hữu (Tây
Ngưu Hóa Châu) 7) Uất Đan Việt Hữu (Bắc Câu
Lô Châu) 8) Diêm Phù Đề Hữu 9) Tứ Thiên Xứ Hữu
10) Tam Thập Tam Thiên Hữu 11) Diễm Ma Thiên Hữu 12) Đâu Suất Thiên Hữu 13) Hóa Lạc Thiên
14) Tha Hóa Tự Tại Thiên Hữu 15) Sơ Thiền Hữu
16) Đại Phạm Thiên Hữu 17) Nhị Thiền
Hữu 18) Tam Thiền Hữu 19) Tứ Thiền Hữu 20)
Vô Tưởng Hữu 21) Tịnh Cư A Na Hàm Hữu 22)
Không Xứ Hữu 23) Thức Xứ Hữu 24) Bất Dụng
Xứ Hữu 25) Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Hữu.
[4] Do giới luật trong Phật pháp
luôn dẫn đến sự giải thoát, chẳng phải
là các giới cấm khổ hạnh vô ích như trong ngoại
đạo, nên gọi là Biệt Giải Thoát Giới. Trong
các Biệt Giải Thoát Giới của Phật pháp, giới
Cụ Túc lại dành riêng cho người xuất gia tu đạo,
nên gọi là Biệt Biệt Giải Thoát Giới.
[5] “Xuất pha” c̣n gọi là “phổ
thỉnh” (普请) tức là những
việc lao động cần thiết trong tự viện
cần mời Tăng chúng chia nhau làm.
Theo tinh thần “một ngày không làm, một ngày không
ăn” của tổ Bách Trượng, Tăng chúng bất
luận có địa vị như thế nào trong chùa, trừ
người già yếu hay bệnh tật, đều phải
tham gia lao động tập thể chẳng hạn như
cày cấy, thâu hoạch mùa màng, bửa củi, trồng rau,
gánh nước, dọn dẹp với mục đích giữ
vững Định tâm trong mọi hoàn cảnh, cũng
như tự cung cấp cho cuộc sống, không ỷ lại
tín thí cúng dường để rồi sẽ phải bận
ḷng chiều chuộng đàn-na tín thí, mong cầu lợi
dưỡng. Nhưng hễ nói đến “xuất pha”, thông thường là
nói đến việc trồng trọt, thâu hoạch theo
tinh thần Nông Thiền. Tổ Bách Trượng đến
tuổi già vẫn cày cuốc. Chấp sự Tăng
xót xa, giấu nông cụ, xin Ngài nghỉ ngơi, Ngài bèn nhịn
ăn.
[6] Mân Nam Phật Học Viện gần
như là học viện đầu tiên của Phật giáo
Trung Hoa. Phật Học Viện được sáng lập và
chính thức hoạt động vào ngày mồng Một tháng
Chín năm 1925 theo đề nghị của ḥa thượng
Truyền Phùng, trụ tŕ chùa Nam Phổ Đà. thỉnh pháp
sư Hội Tuyền làm viện trưởng. Đến
năm 1927, Thái Hư đại sư làm viện trưởng
nhiệm kỳ 2. Do vậy, Mân Nam Phật Học Viện
chủ yếu học về Duy Thức. Năm 1929, Phật
Học Viện này cùng với Vũ Xương Phật Học
Viện được coi là trường cao cấp Phật
giáo toàn Trung Hoa. Năm 1934, Hoằng Nhất đại
sư lập thêm Dưỡng Chánh Viện (trường
trung học phổ thông) cho Phật Học Viện này. Phật
Học Viện hoạt động đến năm 1943
th́ bị chính quyền Mao Trạch Đông cấm hoạt
động, chùa
Nam Phổ Đà
cũng bị đóng cửa, Tăng sĩ phải đi học
tập cải tạo, hoặc buộc hoàn tục. Măi cho tới
năm 1985, dưới thời
Đặng Tiểu B́nh, chánh sách khoan dung tôn giáo được
áp dụng, Phật Học Viện
mới được phép mở cửa lại, do pháp
sư Diệu Trạm làm viện trưởng. Pháp sư Diệu
Trạm đă thỉnh pháp sư Mộng Tham mới ra khỏi
tù về làm Giáo Vụ Trưởng.