Đại
Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh
Giảng
Kư, phần 12
大乘大集地藏十輪經講記
Mộng
Tham lăo ḥa thượng chủ giảng
夢參老和尚主講
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức
Phong và Huệ Trang
V. Sám hối phẩm đệ ngũ (Phẩm thứ
năm, Sám Hối - 懺悔品第五)
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn thuyết thị tụng dĩ,
ư chúng hội trung, hữu vô lượng bách thiên chúng
sanh tằng ngộ văn pháp, mậu sanh Không giải, bát
vô nhân quả, đoạn diệt thiện căn, văng
chư ác thú, văn thuyết thử kinh, hoàn đắc
chánh kiến, tức tùng ṭa khởi, đảnh lễ Phật
túc, ư Thế Tôn tiền, thâm sanh tàm quư, chí thành sám hối,
hiệp chưởng, cung kính, nhi bạch Phật ngôn:
“Đại đức Thế Tôn! Ngă đẳng bổn tại
Thanh Văn Thừa trung, tằng chủng thiện căn, vị
năng thành thục Thanh Văn Thừa khí. Hậu phục
ngộ văn Độc Giác Thừa pháp, mê hoặc bất
liễu, tiện sanh Không kiến, bát vô nhân quả. Do thị
nhân duyên, tạo thân, ngữ, ư vô lượng tội nghiệp,
văng chư ác thú. Ngă đẳng kim giả, ư Thế Tôn tiền, văn thuyết
thử kinh, hoàn đắc chánh kiến, thâm tâm tàm quư, phát lộ
sám hối, bất cảm phú tàng, nguyện
tất trừ diệt. Tùng kim dĩ văng, vĩnh bất phục
tác, pḥng hộ đương lai sở hữu tội
chướng. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn nhiếp thọ,
linh ngă đẳng tội giai tất tiêu diệt, ư
đương lai thế, vĩnh bất cánh tạo. Duy
nguyện Thế Tôn, ai mẫn tế bạt ngă đẳng
đương lai ác thú khổ báo. Ngă đẳng
kim giả hoàn nguyện thọ hành tiên sở
tu tập Thanh Văn Thừa hạnh. Duy nguyện Thế
Tôn ai mẫn giáo thọ”.
(經)爾時,世尊說是頌已,於眾會中有無量百千眾生,曾誤聞法,謬生空解撥無因果,斷滅善根,往諸惡趣。聞說此經,還得正見,即從座起,頂禮佛足,於世尊前深生慚愧,至誠懺悔,合掌恭敬,而白佛言:「大德世尊,我等本在聲聞乘中曾種善根,未能成熟聲聞乘器;後復遇聞獨覺乘法,迷惑不了,便生空見撥無因果,由是因緣,造身語意無量罪業往諸惡趣。我等今者於世尊前,聞說此經還得正見,深心慚愧,發露懺悔,不敢覆藏,願悉除滅,從今已往永不復作,防護當來所有罪障。唯願世尊,哀愍攝受,令我等罪皆悉銷滅,於當來世永不更造。唯願世尊,哀愍濟拔我等當來惡趣苦報。我等今者,還願受行先所修習聲聞乘行。唯願世尊,哀愍教授。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài tụng ấy
xong, trong chúng hội, có vô lượng trăm ngàn chúng sanh từng
nghe lầm pháp, lầm lạc sanh khởi kiến giải
rỗng không, bài bác “chẳng có nhân quả”, đoạn diệt
căn lành, đi vào đường ác, nghe nói kinh này, lại
được chánh kiến, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ dưới chân đức
Phật, đối trước đức Thế Tôn, sanh
ḷng hổ thẹn sâu xa, chí thành sám hối, chắp tay, cung
kính, bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch đại
đức Thế Tôn! Chúng con vốn từng gieo thiện
căn trong Thanh Văn Thừa, nhưng chưa thể thành
thục pháp khí Thanh Văn Thừa. Sau đó lại
được gặp gỡ, nghe pháp Độc Giác Thừa,
bèn mê hoặc, chẳng hiểu rơ, liền sanh tri kiến rỗng
không, bài bác chẳng có nhân quả. Do nhân duyên ấy, tạo
vô lượng tội nghiệp nơi thân, ngữ, ư, vào
trong các đường ác. Chúng con nay ở trước
đức Thế Tôn nghe nói kinh này, lại được
chánh kiến, sanh ḷng hổ thẹn sâu xa, bày tỏ sám hối,
chẳng dám giấu diếm, nguyện trừ diệt hết.
Từ nay trở đi, vĩnh viễn chẳng tái phạm,
sẽ ngăn ngừa các tội chướng mai sau. Kính
mong đức Thế Tôn xót thương nhiếp thọ,
khiến cho tội của chúng con thảy đều tiêu diệt.
Trong đời mai sau, vĩnh viễn chẳng c̣n tạo nữa.
Kính mong đức Thế Tôn xót thương cứu giúp khổ
báo nơi đường ác của chúng con trong mai sau. Chúng
con nay vẫn mong tiếp nhận, hành tŕ các hạnh thuộc
Thanh Văn Thừa đă tu tập trước kia. Kính mong
đức Thế Tôn xót thương dạy bảo”).
Đức
Phật hễ thuyết pháp, sẽ trừ khử
những đau khổ của đại chúng tham dự
pháp hội. V́ sao đức Phật nói các pháp ấy? Đấy
là thuyết pháp đúng theo căn cơ. V́ trong hội Đại
Tập này, có các chúng sanh lầm lạc sanh khởi kiến
giải rỗng không, trong quá khứ họ đă phạm
sai lầm ấy. “Bát vô nhân quả, đoạn diệt
thiện căn” (bài bác “chẳng có nhân quả”, đoạn
diệt căn lành), cho nên đi vào các đường ác,
đọa trong ba ác đạo. Nay “văn thuyết thử
kinh” (nghe nói kinh này), tức là được nghe đức
Phật nói kinh Đại Tập Thập Luân, “hoàn đắc
chánh kiến” (lại được chánh kiến), tức
là lại khôi phục chánh kiến của họ. Họ liền
từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
dưới chân đức Phật, đối trước
đức Thế Tôn, sanh ḷng hổ thẹn sâu xa mà sám hối.
Đây
là phẩm thứ năm, tức phẩm Sám Hối. Khi chúng
ta đọc đoạn kinh văn này, hăy ngẫm xem chính
ḿnh có phạm sai lầm ấy hay không? Nếu có, hăy tùy hỷ
sám hối một phen. Chẳng có, quư vị có thể chẳng
cần tùy hỷ. Bất quá, ai nấy nhất định
sẽ phạm sai lầm, hoặc nhiều hay ít đó thôi,
đều phải nên sám hối. Họ đảnh lễ
dưới chân đức Phật, sám hối. “Hiệp
chưởng cung kính, nhi bạch Phật ngôn” (chắp
tay, cung kính mà bạch cùng đức Phật rằng), cung
kính thưa: “Đại đức Thế Tôn! Ngă đẳng
bổn tại Thanh Văn Thừa trung, tằng chủng thiện
căn” (Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con
vốn từng gieo thiện căn trong Thanh Văn Thừa):
Đă tu đạo, nhưng chẳng thành thục căn khí
của Thanh Văn Thừa, chẳng chứng đạo, chẳng
đạt được thành quả. “Hậu phục
ngộ Độc Giác Thừa pháp” (về sau lại gặp
pháp Độc Giác Thừa), liền mê hoặc, sanh khởi
Không kiến. Hễ Không kiến đă sanh, liền “bác vô
nhân quả” (bài bác “chẳng có nhân
quả”), chẳng tin quả báo thiện ác. V́ nhân duyên ấy,
tạo “thân, ngữ, ư, vô lượng
tội nghiệp” (tạo vô lượng
tội nghiệp nơi thân, ngữ, ư), làm rất nhiều
chuyện lầm lỗi. Do đă làm sai, bèn đọa
vào đường ác. Nay chúng con đối trước
đức Thế Tôn, “văn thuyết thử kinh”
(nghe nói kinh này) mới khôi phục chánh kiến. “Thâm tâm
tàm quư” (sanh ḷng hổ thẹn sâu xa), cảm thấy trong
quá khứ đă sai trái, nay hướng về đức Thế
Tôn phát lộ sám hối. “Bất cảm phú tàng” (chẳng
dám giấu diếm), thỉnh cầu đức Thế Tôn
chứng minh, “nguyện tất trừ diệt” (nguyện
trừ diệt hết sạch) các tội ấy của
con. Đối trước đức Thế Tôn sám hối
xong, [các tội ấy] sẽ trừ diệt. “Tùng kim
dĩ văng, vĩnh bất phục tạo” (từ nay trở
đi, vĩnh viễn chẳng làm nữa): Chẳng c̣n tạo
các tội ấy nữa, chẳng c̣n đọa vào ác kiến
nữa. “Pḥng hộ đương lai sở hữu tội
chướng” (ngăn ngừa tất cả tội
chướng trong mai sau): Con đă sám hối xong; trong
tương lai, những tội ấy lại đưa
đến, con sẽ nhận biết ngay, sẽ chẳng
đọa lạc lần nữa!
“Duy
nguyện Thế Tôn ai mẫn nhiếp thọ, linh ngă đẳng
tội giai tất tiêu diệt” (kính mong đức Thế
Tôn thương xót nhiếp thọ, khiến cho tội của chúng con thảy đều tiêu diệt):
Nay chúng con hướng về đức Phật đă sám hối
xong, Phật sẽ gia tŕ chúng con, khiến cho tội cấu
ấy đều tiêu diệt. “Ư đương lai thế,
vĩnh bất cánh tạo” (trong đời mai sau,
vĩnh viễn chẳng tạo nữa): Chẳng c̣n tạo
tội này nữa! “Duy nguyện Thế Tôn, ai mẫn tế bạt ngă đẳng
đương lai ác thú khổ báo” (kính mong đức
Thế Tôn xót thương cứu vớt khổ báo nơi
đường ác của chúng con trong mai sau): Nếu con
không sám hối, trong tương lai, nhất định phải
hứng chịu quả báo ấy. “Kim giả hoàn nguyện
thọ hành tiên sở tu tập Thanh Văn Thừa hạnh”
(Nay chúng con vẫn mong tiếp nhận, hành tŕ các hạnh
thuộc Thanh Văn Thừa đă tu tập trước
kia): Họ là căn khí Thanh Văn Thừa. Họ nói: Hiện
thời, họ chẳng hâm mộ Độc Giác Thừa, vẫn
muốn tu hành pháp Thanh Văn. “Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn
giáo thọ” [nghĩa là] xin đức Phật lại v́
chúng con nói pháp Thanh Văn lần nữa!
(Kinh)
Thế Tôn cáo viết: “Thiện tai! Thiện tai! Nhữ
đẳng năi năng như thị tàm quư, phát lộ sám hối.
Ư ngă pháp trung, hữu nhị chủng nhân, danh vô sở
phạm: Nhất giả, bẩm tánh chuyên tinh, bổn lai bất
phạm. Nhị giả, phạm dĩ tàm quư, phát lộ sám
hối. Thử nhị chủng nhân, ư ngă pháp trung, danh vi
dũng kiện, đắc thanh tịnh giả”. Ư thị,
Thế Tôn tùy kỳ sở nhạo, phương tiện vị
thuyết Tứ Thánh Đế pháp. Ư bỉ chúng trung, hữu
đắc hạ phẩm Nhẫn giả, hữu đắc
trung phẩm Nhẫn giả, hữu đắc thượng
phẩm Nhẫn giả, hữu đắc thế gian đệ
nhất pháp giả, hữu đắc Dự Lưu quả
giả, hữu đắc Nhất Lai quả giả, hữu
đắc Bất Hoàn quả giả. Ư trung, phục hữu
bát vạn tứ thiên bật-sô, chư lậu vĩnh tận,
tâm đắc giải thoát, ư thiện thanh tịnh, thành A La
Hán, hoan hỷ lễ Phật, hoàn phục bổn ṭa.
(經)世尊告曰:「善哉!善哉!汝等乃能如是慚愧,發露懺悔。於我法中,有二種人,名無所犯:一者、稟性專精,本來不犯;二者、犯已慚愧,發露懺悔。此二種人,於我法中,名為勇健得清淨者。」於是世尊隨其所樂,方便為說四聖諦法。於彼眾中,有得下品忍者,有得中品忍者,有得上品忍者,有得世間第一法者,有得預流果者,有得一來果者,有得不還果者。於中復有八萬四千苾芻,諸漏永盡,心得解脫,意善清淨,成阿羅漢,歡喜禮佛,還復本座。
(Kinh:
Đức Thế Tôn bảo rằng: “Lành thay! Lành thay! Các
ông có thể hổ thẹn và bày tỏ sám hối như vậy.
Trong pháp của ta, có hai loại người được
gọi là chẳng phạm lỗi ǵ: Một là người
bẩm tánh chuyên ṛng, vốn chẳng hề phạm. Hai là
người đă phạm bèn hổ thẹn, phát lộ sám
hối. Hai loại người ấy ở trong pháp của
ta, được gọi là người dũng mănh, mạnh
mẽ, đạt được thanh tịnh”. Ngay khi
đó, đức Thế Tôn bèn thuận theo ḷng ưa thích của
họ, phương tiện nói cho họ pháp Tứ Thánh
Đế. Trong số những người ấy, có
người đắc hạ phẩm Nhẫn, có người
đắc trung phẩm Nhẫn, có người đắc
thượng phẩm Nhẫn, có người đắc
pháp đệ nhất trong thế gian, có người đắc
quả Dự Lưu, có người đắc quả Nhất
Lai, có người đắc quả Bất Hoàn. Trong ấy, lại có tám vạn bốn ngàn bật-sô vĩnh viễn
hết sạch các lậu, tâm được giải thoát,
ư thiện thanh tịnh, thành A La Hán, hoan hỷ lễ Phật,
trở về chỗ ngồi của chính ḿnh).
Đức
Phật liền bảo: “Thiện tai! Thiện tai!”,
hay lắm! “Nhữ đẳng năi năng như thị
tàm quư, phát lộ sám hối” [nghĩa là] như các ông hổ
thẹn, phát lộ sám hối như vậy, các ông phải
nhận biết trong Phật pháp: “Hữu nhị chủng
nhân, danh vô sở phạm” (có hai loại người
được gọi là “không phạm lỗi ǵ”), cũng
là thanh tịnh. “Nhất giả, bẩm tánh chuyên tinh”
(một là bẩm tánh chuyên ṛng): Người ấy có tánh
t́nh giữ giới rất tốt đẹp, chuyên ṛng tŕ
giới, vốn chẳng vi phạm. “Nhị giả, phạm
dĩ tàm quư” tức là hễ đă phạm giới, bèn dấy
lên cái tâm hổ thẹn. “Phát lộ sám hối” th́
cũng sẽ thanh tịnh. Loại người ấy “ư
ngă pháp trung, danh vi dũng kiện, đắc thanh
tịnh giả” (loại người ấy
ở trong pháp của ta, được gọi là người
dũng mănh, mạnh mẽ, đạt được thanh
tịnh), hết thảy tội ác đều sám trừ
thanh tịnh.
“Ư
thị, Thế Tôn tùy kỳ sở nhạo” (do vậy,
đức Thế Tôn thuận theo ḷng ưa thích của họ):
Tâm họ ưa thích điều ǵ? “Phương tiện
vị thuyết Tứ Thánh Đế pháp” (phương
tiện nói pháp Tứ Thánh Đế cho họ): Pháp Tứ
Thánh Đế là Khổ, Tập, Diệt,
Đạo, gồm hai tầng nhân quả. Tập là cái nhân
thế gian, Khổ là cái quả thế gian. Đạo là
cái nhân xuất thế gian, Diệt là cái quả xuất thế
gian. Cái nhân xuất thế gian và cái quả xuất thế
gian, do tu Đạo bèn có thể thoát ĺa. Do đức Phật
nói như thế, ở trong hội ấy, “hữu đắc
hạ phẩm Nhẫn giả, hữu đắc trung phẩm
Nhẫn giả, hữu đắc thượng phẩm Nhẫn
giả, hữu đắc thế gian đệ nhất
pháp giả” (có người đắc hạ phẩm Nhẫn,
có người đắc trung phẩm Nhẫn, có người
đắc thượng phẩm Nhẫn, có người
đắc thế gian đệ nhất pháp): Đó gọi
là bốn địa vị Noăn (煖), Đảnh (頂), Nhẫn (忍), Thế Đệ Nhất (世第一), bèn chứng Sơ Quả, tu hành đă được
Noăn khí (暖氣, hơi ấm). Khi mới vừa
tu hành, chẳng có một tí hơi ấm nào, cũng tức
là chẳng nhập môn. Đă có thể tiến nhập, hoặc
là Định cũng thế, hoặc là đọc tụng
Đại Thừa cũng thế, hoặc là có cảm giác
vui thích. Đấy là Hạ Nhẫn.
“Trung
Nhẫn” lại tiến hơn một bước nữa.
Có thể nói Đảnh (頂) là “đă tiếp
nhận”. Sau đó, đạt đến địa vị
Thế Đệ Nhất, tức là đỉnh điểm
trong pháp thế gian. Sau đó là pháp xuất thế gian. Xuất
thế gian là chứng Sơ Quả. Chứng Sơ Quả
là pháp xuất thế gian. Đấy là hết thảy các
địa vị thuộc Tiểu Thừa. “Hữu đắc
Dự Lưu quả giả” (có người đắc
quả Dự Lưu): Tiến thêm bước nữa, sẽ
thành tựu địa vị này. Dự Lưu quả là
Sơ Quả, dự vào gịng thánh nhân. Tiểu Thừa là Dự
Lưu, c̣n Đại Thừa th́ Tín vị (địa vị
Thập Tín) đă dự vào gịng thánh. Có người đắc
quả Nhất Lai, Nhất Lai là Nhị Quả. Quả vị trước
đó là Tu Đà Hoàn, c̣n quả này là Tư Đà Hàm. Có
người đắc quả Bất Hoàn, tức A Na Hàm,
là Tam Quả.
“Ư
trung, phục hữu bát vạn tứ thiên bật-sô”
(trong ấy lại có tám vạn bốn ngàn bật-sô): Trong
phần trước, chẳng nói đến số lượng, [“tám vạn
bốn ngàn”] ở đây hàm ư “rất nhiều”. Trong đại chúng
hiện diện, c̣n có tám vạn bốn ngàn vị xuất
gia, đắp y ca-sa đỏ. “Chư lậu vĩnh tận”
(vĩnh viễn hết sạch các lậu): Chẳng c̣n bị
luân hồi trong tam giới, bèn chứng đắc quả A La Hán. “Chư lậu
vĩnh tận, tâm đắc giải thoát” (vĩnh viễn
hết sạch các lậu, tâm được giải thoát):
Kiến Tư Hoặc vừa đoạn, tâm đă
được giải thoát. “Ư thiện thanh tịnh,
thành A La Hán, hoan hỷ lễ Phật, hoàn phục bổn
ṭa” (Ư thiện thanh tịnh, thành A La Hán, hoan hỷ lễ
Phật, trở về chỗ ngồi của chính ḿnh): Các
chúng sanh ấy đều rất hoan hỷ, v́ họ thoát
ĺa biển khổ, cũng đă sám hối thanh tịnh.
Đọc
kinh điển Đại Thừa, sẽ vượt qua
Noăn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất, [sự
giác ngộ] hơn hẳn Thanh Văn Thừa, nhưng
đoạn Hoặc chẳng bằng Thanh Văn Thừa!
Tân phát ư Bồ Tát vừa phát Bồ Đề tâm, sẽ vượt
hơn họ (Thanh Văn Thừa). Tuy vẫn thuộc địa
vị phàm phu, nhưng có thể làm chuyện của Bồ
Tát, bất luận khi hoằng pháp, tu đạo, hay lợi
ích chúng sanh, quán tưởng, điểm xuất phát [của
Bồ Tát] là chẳng v́ chính ḿnh, hết thảy đều
v́ người khác. Dẫu làm sai, vấn đề cũng
chẳng to lớn! Nếu v́ chính ḿnh, tuy quư vị làm rất
đúng, rất mỹ măn, nhưng do xen tạp danh lợi,
vấn đề cũng rất to, quư vị hoàn toàn chẳng
đạt được lợi ích!
(Kinh)
Thời, chúng hội trung, phục hữu ngũ thập thất
bách thiên na-dữu-đa chúng sanh, tằng ngộ văn pháp,
mậu sanh Không giải, bát vô nhân quả, đoạn diệt
thiện căn, văng chư ác thú. Văn thuyết thử
kinh, hoàn đắc chánh kiến, tức tùng ṭa khởi,
đảnh lễ Phật túc, ư Thế Tôn tiền, thâm
sanh tàm quư, chí thành sám hối, hiệp chưởng, cung kính,
nhi bạch Phật ngôn: “Đại đức Thế Tôn,
ngă đẳng bổn tại Độc Giác Thừa trung, tằng
chủng thiện căn, vị năng thành thục Độc
Giác Thừa khí, hậu phục ngộ văn thuyết
Đại Thừa pháp, tuy sanh ái nhạo, nhi bất năng
giải, ngu minh nghi hoặc, tiện sanh Không kiến, bát vô
nhân quả. Do thị nhân duyên, tạo thân, ngữ, ư, vô lượng
tội nghiệp. Thừa thử nghiệp duyên, ư vô
lượng kiếp, đọa chư ác thú, thọ chủng
chủng khổ, sở độc nan nhẫn. Ngă đẳng
kim giả, ư Thế Tôn
tiền, văn thuyết thử kinh, hoàn đắc chánh kiến,
thâm tâm tàm quư, phát lộ sám hối, bất cảm phú tàng,
nguyện tất trừ diệt. Tùng kim dĩ văng, vĩnh bất
phục tác, pḥng hộ đương lai sở hữu tội
chướng. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn nhiếp thọ,
linh ngă đẳng tội giai tất tiêu diệt, ư
đương lai thế, vĩnh bất cánh tạo. Duy
nguyện Thế Tôn ai mẫn tế bạt ngă đẳng
đương lai ác thú khổ báo. Ngă đẳng kim giả,
hoàn nguyện thọ hành tiên sở tu tập Độc Giác
Thừa hạnh. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn giáo thọ”.
(經)時眾會中,復有五十七百千那庾多眾生,曾誤聞法,謬生空解撥無因果,斷滅善根,往諸惡趣。聞說此經,還得正見,即從座起,頂禮佛足,於世尊前深生慚愧,至誠懺悔,合掌恭敬,而白佛言:大德世尊,我等本在獨覺乘中曾種善根,未能成熟獨覺乘器;後復遇聞說大乘法,雖生愛樂而不能解,愚冥疑惑,便生空見撥無因果,由是因緣,造身語意無量罪業,乘此業緣,於無量劫墮諸惡趣,受種種苦,楚毒難忍。我等今者於世尊前,聞說此經還得正見,深心慚愧,發露懺悔,不敢覆藏,願悉除滅,從今已往永不復作,防護當來所有罪障。唯願世尊,哀愍攝受,令我等罪皆悉消滅,於當來世永不更造。唯願世尊,哀愍濟拔我等當來惡趣苦報。我等今者,還願受行先所修集獨覺乘行。唯願世尊,哀愍教授。
(Kinh:
Lúc ấy, trong chúng hội lại có năm mươi bảy
trăm ngàn na-dữu-đa chúng sanh từng nghe lầm pháp,
lầm lạc sanh kiến giải rỗng không, bài bác chẳng
có nhân quả, đoạn diệt căn lành, tiến vào các
đường ác, nghe nói kinh này, lại được chánh
kiến, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ dưới chân đức Phật, đối
trước đức Thế Tôn, sanh ḷng hổ thẹn
sâu xa, chí thành sám hối, chắp tay, cung kính mà bạch cùng
đức Phật rằng: “Bạch đại đức
Thế Tôn! Chúng con vốn từng gieo căn lành trong Độc
Giác Thừa, nhưng chưa thể thành thục
pháp khí Độc Giác Thừa. Về sau lại gặp gỡ,
nghe nói pháp Đại Thừa, tuy sanh ḷng yêu thích, nhưng chẳng
thể hiểu, ngu si, tối tăm, ngờ vực, liền
sanh Không kiến, bài bác chẳng có nhân quả, tạo vô
lượng tội nghiệp nơi thân, ngữ, ư.
Nương theo nghiệp duyên ấy, trong vô lượng kiếp,
đọa vào các đường ác, chịu đủ thứ
nỗi khổ, đau đớn khó nhẫn. Chúng con nay
đối trước đức Thế Tôn, nghe nói kinh
này, lại được chánh kiến, sanh ḷng hổ thẹn
sâu xa, bày tỏ sám hối, chẳng dám giấu diếm, nguyện
đều trừ diệt. Từ nay trở đi, vĩnh
viễn chẳng làm nữa, ngăn ngừa tất cả tội
chướng trong đời mai sau. Chỉ mong đức
Thế Tôn xót thương nhiếp thọ, khiến cho tội
của chúng con thảy đều tiêu diệt.
Trong đời mai sau, vĩnh viễn chẳng tạo nữa.
Kính mong đức Thế Tôn xót thương cứu vớt
khổ báo trong đường ác mai sau của chúng con. Chúng
con nay vẫn mong được tiếp nhận, hành tŕ hạnh
Độc Giác Thừa đă tu tâp trước kia. Kính mong
đức Thế Tôn xót thương dạy bảo”).
Phẩm
này là phẩm Sám Hối. Lúc đó, đại
chúng tham gia pháp hội đông đúc ngần ấy, trong hội
Đại Tập này, các thành phần nhóm họp rất phức
tạp, có vô lượng, vô biên chúng sanh. Trước tiên, họ
nói rơ khi mới bắt đầu nghe pháp, nhưng chẳng
cung kính Tam Bảo, cho đến nghe pháp rồi sanh hiểu
lầm. Sự hiểu lầm này đều xét theo tánh Không, ở đây là Ác Thú Không (do chấp
trước Không là rỗng không, không tin nhân quả, nên
đọa vào đường ác). Có người nghe giảng
kinh Kim Cang, [thấy kinh nói] “hết thảy đều là
Không”, kẻ đó bèn thứ ǵ cũng chẳng học,
cứ tạo ác nghiệp. Thiện nghiệp Không, nhưng
ác nghiệp chẳng Không, tạo rất nhiều tội.
Trong
hội này, phần trên nói về Thanh Văn Thừa, ở
đây nói về Độc Giác Thừa. Trong đại
chúng nhóm họp ấy, có bao nhiêu chúng sanh? Có năm
mươi bảy trăm ngàn na-dữu-đa, tức là
năm mươi bảy trăm ngàn mười triệu
chúng sanh, họ cùng nhau đến nghe pháp, hướng về
đức Phật, thỉnh cầu sám hối. V́ trong quá khứ,
họ đă nghe lầm pháp. “Nghe lầm pháp” hoàn toàn chẳng
phải là “thuyết pháp sai lầm”, mà là do người
ấy [nghe pháp xong], lư giải sai lầm. Thật ra,
cũng chẳng phải là họ lư giải sai lầm, mà là
v́ trong quá khứ, người ấy chẳng có nhiều
thiện căn dường ấy, do chẳng tiếp nhận
được, bèn sanh khởi Không kiến sai lầm. Rất
khó phá trừ Không kiến ấy. Nếu sanh khởi Hữu
kiến, tội nghiệp kiểu ấy dễ đoạn.
Sanh khởi Không kiến, tội nghiệp loại này chẳng
dễ đoạn. V́ lúc sanh khởi Hữu kiến, người
ấy vẫn tin tưởng nhân quả, chấp trước
nhân quả. Bất quá, cả hai đằng đều chẳng
đúng. Kinh Phật cũng dạy, có rất nhiều tội
nghiệp chẳng sám hối được. Trong đời
trước, chúng ta đă tạo cái nhân, đời này nhất
định phải thọ báo. Có khá nhiều cách nói sai lầm,
[như nghe nói] “chẳng thể sám hối” bèn lập
luận rằng “phải vĩnh viễn mang theo tội ấy,
nhất định sẽ đọa địa ngục”.
Đó là Hữu kiến sai lầm!
Trong
phần trước, đă nói có hai loại người. Một
là hạng người bẩm tánh chuyên ṛng. Về căn bản,
người ấy chẳng phạm tội. Hai là người
đă phạm bèn hổ thẹn, tức là hổ thẹn,
sám hối, th́ cũng là dũng mănh, can đảm. Đức
Phật nói hai loại người ấy đều là thanh
tịnh. Đă sai lầm khi nghe pháp, lại khăng
khăng chẳng chịu sám hối, chẳng hổ thẹn.
Hiện thời, có rất nhiều người học Phật
pháp, quư vị nói với họ: “Bạn đi theo con
đường ấy chẳng đúng. Bạn có thể
dùng Thánh Giáo Lượng như
đức Phật đă dạy hoặc do thánh nhân đă dạy
để đối chiếu đôi chút, sẽ biết là
đúng hay không”. Nhưng họ đâu có chịu sửa sai,
vẫn cho chính ḿnh là đúng, chấp trước điều
ǵ đó, chấp trước điều được
nói trong kinh chi đó chẳng sai. [Họ khăng khăng]: “Kinh dạy ‘hết thảy
các pháp đều là Không’, kinh Kim Cang dạy
như thế đó!” Nhưng Không nghĩa là ǵ? Họ chẳng
lănh hội, cũng là do nghe pháp rồi nẩy sanh hiểu lầm,
lư giải sai lầm đối với Không.
Lấy
kinh Kim Cang làm thí dụ. Kinh ấy dạy hàng Nhị Thừa
trụ trong Niết Bàn và lư Không mà họ đă chứng
đắc đều chẳng phải là rốt ráo.
Nghĩa Không ấy cũng là do họ tu nhân khế hợp
quả mà đạt được, chẳng phải là
không có nhân quả. Đặc biệt là trong Thiền Tông
Trung Hoa, có người học Thiền bèn hiểu lầm,
hiểu sai “tham Thiền để minh tâm kiến tánh”
thành “bất cứ thứ ǵ cũng đều chẳng cần phải học”. Thậm chí chẳng
tin nhân quả, chỉ cần minh tâm kiến tánh là
được rồi! Chẳng kiến tánh th́ sẽ
như thế nào? Quư vị tạo tội, vẫn phải
thọ báo y hệt! Những người ấy sau khi nghe
pháp có thể uốn nắn các sai lầm; trong quá khứ v́
nghe pháp này đă lư giải nghĩa Không sai lạc! “Bát vô
nhân quả” (bài bác chẳng có nhân quả), đoạn diệt
thiện căn, tạo ác hạnh! Làm ác th́ tự nhiên phải
chịu ác báo. Nay trong pháp hội này, được nghe
đức Phật nói kinh Đại Tập Thập Luân,
nay đă hiểu rơ, liền khôi phục chánh kiến.
Trước
kia đă có chánh kiến, về sau, do bạn ác hướng
dẫn, hoặc là tin lầm lời kẻ khác nói, mới
đánh mất chánh kiến. Có bao nhiêu người như thế?
Có năm mươi bảy trăm ngàn mười triệu
người như vậy, từ chỗ ngồi đứng
dậy, hướng về đức Phật đảnh
lễ, đối trước đức Thế Tôn, sanh
ḷng hổ thẹn sâu xa, chí thành sám hối. Sám hối ǵ vậy?
Trong quá khứ, chúng con tu pháp Độc Giác Thừa, từng
gieo thiện căn, nhưng chẳng thể thành thục
pháp khí Độc Giác Thừa, cũng chẳng chứng
đắc sự giác ngộ trong Độc Giác Thừa.
Sau đó, lại được nghe pháp Đại Thừa,
liền sanh khởi hoan hỷ, tin ưa, cầu Đại
Thừa, nhưng chẳng thể hiểu. Chẳng lư giải
thấu đáo nghĩa lư Đại Thừa, ngu si, tối
tăm, ngờ vực. “Ngu minh” (愚冥) là chẳng có trí huệ, ở trong
tăm tối, do ngờ vực bản thân liền giống
như đang ở trong tăm tối. Hiện thời,
chúng con có rất nhiều hoài nghi. Chướng ngại lớn
nhất trong việc học pháp là hoài nghi, chẳng thể
tin tưởng nổi. Học bất cứ pháp ǵ, đều phải có
tín. Có tín th́ mới có thể sanh khởi giải, giải
là lư giải. Tức là trong khi học, quư vị muốn tu
một pháp nào, trước hết phải hiểu rơ ràng
pháp ấy, thứ tự tu tŕ, dụng công và quán tưởng
như thế nào!
Quư
vị hiểu rơ thứ tự tu hành, sẽ chẳng đi
lầm đường! Giống như chúng ta muốn tới
một chỗ nào đó, quư vị ắt phải thông thuộc
đường lối tới nhà bạn bè. Nếu chẳng
quen thuộc, người ta ở phương Nam, quư vị
lại lái xe đi theo phương Bắc. Như thế
th́ vĩnh viễn cũng chẳng đến được,
càng đi càng xa! Quư vị ắt cần phải quen thuộc
hàm nghĩa được nói trong pháp ấy là ǵ? Đừng
hiểu lầm! “Không” trong Đại Thừa chẳng phải là Ác Thú Không,
mà là trí huệ. Như quư vị học Tâm Kinh, “Quán Tự
Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa thời,
chiếu kiến Ngũ Uẩn giai Không”: Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức đều chẳng tồn tại,
cũng chẳng có ǵ là thiện, cũng chẳng có ǵ là ác.
Nếu quư vị làm ác, tức là trái nghịch Pháp Tánh,
cũng vĩnh viễn chẳng đạt được
cái Không. Nếu làm lành, sẽ dần dần cũng chẳng chấp
trước điều lành, quư vị sẽ nhập Không
nghĩa ấy. Chẳng lư giải điều này, sẽ là
“bát vô nhân quả” (bài bác chẳng có nhân quả).
Do
nhân duyên bài bác không có nhân quả, nơi thân, ngữ, ư của
kẻ đó gây tạo mười ác nghiệp rất nhiều , tạo vô lượng
tội. Nương cái duyên tạo nghiệp ấy, vô
lượng kiếp đọa trong đường ác,
đọa nhập ba ác đạo. “Ác thú” (惡趣) là ba ác đạo,
chịu sự đau khổ rất lớn. Chốn khổ
sở ấy rất khó chịu đựng, “khổ
độc” (苦毒) là các h́nh phạt
phải hứng chịu. Nay chúng con nghe đức Phật
nói như vậy, được khôi phục tri kiến,
giác ngộ trước kia chúng con đă sai trái, bèn phát lộ
sám hối các tội ác do chúng con đă trót tạo, chẳng
dám giấu diếm nữa. Nguyện đức
Thế Tôn gia tŕ chúng con, [khiến cho các tội ấy]
đều trừ diệt. Sau này, sẽ chẳng làm như thế
nữa, vĩnh viễn chẳng tạo nữa, ḥng ngăn
ngừa tội chướng trong tương lai, chẳng
c̣n tái phạm nữa. Tội trước kia đă làm, chỉ
mong đức Thế Tôn xót thương cứu vớt, cứu
giúp, che chở chúng con. Cứu vớt khổ báo trong
đường ác của chúng con trong mai sau, nay chúng con vẫn
phát nguyện “thọ hành tiên sở tu tập Độc
Giác Thừa hạnh” (tiếp nhận, hành tŕ hạnh
Độc Giác Thừa đă tu tập trước kia), học
tập pháp nhân duyên. “Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn giáo
thọ” [nghĩa là] nay chúng con đều
quên sạch pháp nhân duyên, xin đức Phật
dạy răn chúng con lần nữa!
(Kinh)
Thế Tôn cáo viết: “Thiện tai! Thiện tai! Nhữ
đẳng năi năng như thị tàm quư, phát lộ sám hối.
Ư ngă pháp trung, hữu nhị chủng nhân, danh vô sở
phạm: Nhất giả, bẩm tánh chuyên tinh, bổn lai bất
phạm. Nhị giả, phạm dĩ tàm quư, phát lộ sám
hối. Thử nhị chủng nhân, ư ngă pháp trung, danh vi
dũng kiện, đắc thanh
tịnh giả”. Ư thị, Thế Tôn tùy kỳ
sở nhạo, phương tiện vị thuyết chư
duyên khởi pháp, linh bỉ nhất thiết tu Duyên Giác Thừa
tiệm thứ viên măn, giai tất chứng đắc Tràng
Tướng Duyên Định, ư Độc Giác Thừa,
đắc bất thoái chuyển, hoan hỷ lễ Phật,
hoàn phục bổn ṭa.
(經)世尊告曰:「善哉!善哉!汝等乃能如是慚愧,發露懺悔。於我法中,有二種人,名無所犯:一者、稟性專精,本來不犯;二者、犯已慚愧,發露懺悔。此二種人,於我法中,名為勇健得清淨者。」於是世尊隨其所樂,方便為說諸緣起法。令彼一切修緣覺乘,漸次圓滿,皆悉證得幢相緣定,於獨覺乘得不退轉,歡喜禮佛,還復本座。
(Kinh:
Đức Thế Tôn bảo rằng: “Lành thay! Lành thay! Các
ông có thể hổ thẹn, phát lộ sám hối như thế.
Trong pháp của ta, có hai loại người được
gọi là không phạm lỗi ǵ. Một là bẩm tánh chuyên
ṛng, vốn chẳng trái phạm. Hai là phạm rồi bèn hổ
thẹn, phát lộ sám hối. Hai loại người ấy
ở trong pháp của ta được gọi là người
dũng mănh, mạnh mẽ, đạt được thanh
tịnh”. Ngay khi đó, đức Thế
Tôn thuận theo ḷng ưa thích của họ, phương tiện
nói cho họ các pháp duyên khởi, khiến cho hết thảy
lần lượt tu Duyên Giác Thừa viên măn, thảy đều
chứng đắc Tràng Tướng Duyên Định, chẳng
thoái chuyển trong Độc Giác Thừa. Họ hoan hỷ
lễ Phật, trở về chỗ ngồi của chính
ḿnh).
“Thế
Tôn cáo viết: - Thiện tai! Thiện tai!” (đức Thế
Tôn bảo: - Lành thay! Lành thay): Các vị nói rất hay, có tâm
sám hối rất tốt. “Nhữ đẳng năi năng
như thị tàm quư, phát lộ sám hối” (Các ông có thể
hổ thẹn, phát lộ sám hối như thế): Hổ
thẹn chính ḿnh đă làm những chuyện như thế.
Sám hối là sửa lỗi, sửa chữa những ǵ chính
ḿnh đă làm trước kia. “Hối” (悔) là về sau chẳng
c̣n làm chuyện như thế nữa! “Ư ngă pháp trung, hữu
nhị chủng nhân, danh vô sở phạm:
Nhất giả, bẩm tánh chuyên tinh, bổn lai bất phạm.
Nhị giả, phạm dĩ tàm quư, phát lộ sám hối” (trong pháp của
ta, có hai loại người được gọi là không
phạm lỗi ǵ! Một là bẩm tánh chuyên ṛng, vốn chẳng
trái phạm. Hai là đă phạm bèn hổ thẹn, phát lộ
sám hối): Hai hạng người ấy được gọi
là “bậc dũng mănh, mạnh mẽ đạt được
thanh tịnh”. Đă sám hối th́ vẫn là thanh tịnh.
Họ
thỉnh cầu đức Thế Tôn nói pháp nhân duyên cho họ.
Đoạn kinh văn này chẳng nói tường tận,
chỉ nói đại lược. Đức Thế Tôn “tùy
kỳ sở nhạo”, tức là dựa theo sự tin
ưa của họ, phương tiện giảng cho họ
pháp “chư duyên” (các pháp duyên khởi). Độc
Giác Thừa và Duyên Giác Thừa [khác biệt ở chỗ],
khi có Phật tại thế th́ gọi là Duyên Giác, lúc chẳng
có Phật tại thế th́ gọi là Độc Giác, do các
Ngài một ḿnh quán chiếu sự sanh thành, tồn tại, biến hóa của
hết thảy các sự vật. V́ sao đóa hoa này nở?
Nghiên cứu cái duyên của nó! Nếu nói đến mười
hai nhân duyên th́ Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Danh Sắc… Pháp duyên khởi
do Ngài đă nói chính là pháp duyên khởi sơ bộ, c̣n “tánh
không duyên khởi” của Đại Thừa là pháp duyên
khởi theo Đại Thừa. Đối với duyên khởi
ấy, nếu quư vị lư giải sai lầm, sẽ biến
thành Đoạn Diệt Không, bài bác “chẳng có nhân quả”,
v́ chẳng biết Đại Thừa phải theo thứ tự
mà đạt được. Do vậy, đức Phật
nói pháp duyên khởi, dạy họ tu Duyên Giác Thừa. “Tiệm
thứ viên măn” (lần lượt viên măn) th́ mới có
thể chứng đạo. “Giai tất chứng đắc
Tràng Tướng Duyên Định” (đều cùng chứng
đắc Tràng Tướng Duyên Định): Tu Định
nơi duyên khởi, người ấy chẳng thoái chuyển.
“Hoan hỷ lễ Phật, hoàn phục bổn tọa”
(hoan hỷ lễ Phật, trở về chỗ ngồi của
chính ḿnh).
(Kinh)
Thời, chúng hội trung, phục hữu bát thập bách
thiên na-dữu-đa chúng sanh, tằng ư quá khứ chư
Phật pháp trung, hủy báng Phật giáo, hạ chí nhất
tụng. Do thị nhân duyên, đọa chư ác thú, thọ
chúng khổ báo. Sơ phục nhân thân, sanh tiện ấm á,
thường hoạn thiệt cấm, khẩu bất
năng ngôn. Văn thuyết thử kinh, hoàn đắc chánh
kiến, tức tùng ṭa khởi, đảnh lễ Phật
túc, ư Thế Tôn tiền, thâm sanh tàm quư, chí thành sám hối
túc thế ác nghiệp, hiệp chưởng, cung kính, chiêm
ngưỡng Thế Tôn. Phật thần lực cố, giai
tất năng ngữ.
(經)時眾會中,復有八十百千那庾多眾生,曾於過去諸佛法中,譭謗佛教下至一頌,由是因緣墮諸惡趣,受眾苦報,初復人身,生便瘖啞,常患舌𦧈,口不能言。聞說此經,還得正見,即從座起,頂禮佛足,於世尊前深生慚愧,至誠懺悔宿世惡業,合掌恭敬,瞻仰世尊,佛神力故,皆悉能語。
(Kinh:
Khi ấy, trong chúng hội lại có tám mươi trăm
ngàn na-dữu-đa chúng sanh đă từng ở trong pháp của
quá khứ chư Phật, hủy báng Phật giáo, dẫu chỉ
một bài tụng. Do nhân duyên ấy, đọa trong các
đường ác, hứng chịu các khổ báo, mới lại
được làm thân người, bèn sanh ra đă câm ngọng,
thường bị cứng lưỡi, miệng chẳng
thể nói được. Họ nghe nói kinh này, lại
được chánh kiến, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ dưới chân đức
Phật, đối trước đức Thế Tôn, sanh
ḷng hổ thẹn sâu xa, chí thành sám hối ác nghiệp trong
đời trước, cung kính, chắp tay, chiêm ngưỡng
đức Thế Tôn. Do thần lực của đức
Phật, họ đều có thể nói được).
Những
người này tội ác lớn hơn những người
trước. “Hủy báng năi chí nhất tụng” (hủy
báng dẫu chỉ một bài tụng), hoặc là hủy
báng rất ít, nhưng do nhân duyên hủy báng ấy, “đọa
chư ác thú, thọ chúng khổ báo” (đọa vào các
đường ác, chịu các khổ báo): Tuy đă thọ
hết khổ báo, lúc sanh ra, chẳng thể nói năng, “thường
hoạn thiệt cấm” (thường bị cứng
lưỡi): Lưỡi chẳng thể nói được,
chẳng thể phát ra tiếng được, miệng
cũng chẳng thể nói được. Loại người
này cũng tham gia pháp hội, nghe nói kinh này bèn “hoàn đắc
chánh kiến”, tức là khôi phục chánh tri chánh kiến
trước kia. “Tức tùng ṭa khởi, đảnh lễ
Phật túc, ư Thế Tôn tiền, thâm sanh tàm quư, chí thành
sám hối túc thế ác nghiệp” (liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới
chân đức Phật, sanh ḷng hổ thẹn sâu xa, chí thành
sám hối ác nghiệp trong đời trước): Trong
đời trước, họ có ác nghiệp ǵ vậy?
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn tri nhi cố vấn: “Nhữ
đẳng túc thế, tác hà ác nghiệp, kim xử chúng
trung, khẩu bất năng ngữ?” Bỉ chư nhân chúng,
câu thời bạch Phật. Ư trung, nhất loại tác
như thị ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ngă
đẳng văng tích ư Tỳ Bát Thi Như Lai pháp trung, hoặc
ngôn hủy báng Đại Thừa chánh pháp, hoặc ngôn hủy
báng Độc Giác Thừa pháp, hoặc ngôn hủy báng Thanh
Văn Thừa pháp, hạ chí nhất tụng. Ngă đẳng
do thị ác nghiệp chướng cố, cửu thập
nhất kiếp lưu chuyển sanh tử, thường xử
địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, ấm á, vô thiệt,
đô bất năng ngôn, thọ chư khổ độc,
thống thiết nan nhẫn. Thỉ ư kim thế, đắc
phục nhân thân, nhi do ấm á, thường hoạn thiệt
cấm, mông Phật thần lực, phương thỉ
năng ngôn, phục năng ức niệm tự quá khứ
thế sở hữu nhân duyên chư ác nghiệp chướng”.
(經)爾時,世尊知而故問:「汝等宿世作何惡業,今處眾中,口不能語?」彼諸人眾俱時白佛,於中一類作如是言:「大德世尊,我等往昔於毗缽尸如來法中,或言譭謗大乘正法,或言譭謗獨覺乘法,或言譭謗聲聞乘法,下至一頌。我等由是惡業障故,九十一劫流轉生死,常處地獄,傍生、餓鬼,瘖啞無舌,都不能言,受諸苦毒,痛切難忍;始於今世得復人身,而猶瘖啞,常患舌𦧈,蒙佛神力,方始能言,復能憶念自過去世所有因緣諸惡業障。」
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn biết mà cố ư
hỏi: “Đời trước, các ông đă làm ác nghiệp
ǵ, nay ở trong đại chúng, miệng chẳng thể
nói được?” Những người ấy đều
cùng bạch Phật. Trong số ấy, có một loại
người thưa như thế này: “Bạch đại
đức Thế Tôn! Chúng con xưa kia ở trong pháp của
Tỳ Bát Thi Như Lai, hoặc thốt lời hủy báng
chánh pháp Đại Thừa, hoặc thốt lời hủy
báng pháp Độc Giác Thừa, hoặc thốt lời hủy
báng pháp Thanh Văn Thừa, dẫu chỉ một bài tụng.
Chúng con do ác nghiệp chướng ấy, chín mươi mốt
kiếp lưu chuyển sanh tử, thường ở trong
địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, câm, ngọng,
không lưỡi, luôn chẳng thể nói, chịu các khổ
độc, đau đớn cùng cực, khó thể chịu
đựng. Bắt đầu từ đời này mới
lại được thân người, vẫn c̣n câm, ngọng,
thường bị cứng lưỡi, nhờ thần lực
của đức Phật mới có thể nói được,
lại có thể nghĩ nhớ tất cả nhân duyên và các
ác nghiệp chướng trong đời quá khứ”).
Đức
Phật thấy những người ấy sám hối,
đảnh lễ, biết trong quá khứ họ đă tạo
nghiệp ǵ, đức Phật muốn họ tự nói ra,
tuy biết rơ mà vẫn cố ư hỏi. Ngài hỏi: “Trong
đời quá khứ, các vị đă làm ác nghiệp ǵ mà ở
trong đại chúng, miệng chẳng thể nói được?”
“Bỉ chư nhân chúng, câu thời bạch Phật. Ư
trung, nhất loại tác như thị ngôn” (Những
người ấy đều cùng bạch Phật, trong số
đó, có một loại người thưa như thế
này), hoàn toàn chẳng phải là toàn thể, chỉ dẫn lời
của thiểu số nói. “Đại đức Thế
Tôn, ngă đẳng văng tích ư Tỳ Bát Thi Như Lai pháp
trung, hoặc ngôn hủy báng Đại Thừa chánh pháp” (Bạch đại
đức Thế Tôn, chúng con xưa kia đă ở trong pháp
của Tỳ Bát Thi Như Lai, thốt lời hủy báng chánh
pháp Đại Thừa): Tỳ Bát Thi Phật là chính là Tỳ
Bà Thi Phật (Vipaśyin) trong năm
mươi ba vị Phật thường được bái
sám.
Trong
thời Tỳ Bát Thi Phật, chúng con đă báng bổ chánh
pháp Đại Thừa, “hoặc ngôn hủy báng Độc
Giác Thừa pháp, hoặc ngôn hủy báng Thanh Văn Thừa
pháp” (hoặc thốt lời hủy báng pháp Độc
Giác Thừa, hoặc nói hủy báng pháp Thanh Văn Thừa),
cho tới hủy báng một kệ tụng. Tuy hủy báng
rất ít, tội ác vẫn rất lớn. Chúng con do tội nghiệp
ấy, tức tội hủy báng kinh điển Đại
Thừa, kinh điển Độc Giác Thừa, kinh điển
tam thừa, cũng tức là hủy báng kinh điển trọn cả ba thừa, hủy báng Pháp Bảo,
trải qua chín mươi mốt kiếp lưu chuyển
sanh tử, đọa địa ngục kể từ thời
Tỳ Bát Thi Phật.
Từ
địa ngục thoát ra, hoặc là biến thành súc sanh, hoặc
biến thành ngạ quỷ. V́ họ hủy báng pháp, cho nên
chẳng thể nói năng. Nhưng họ sám hối, v́
được đức Phật gia tŕ, họ lại có
thể nói. Điều này biểu thị nghiệp đă
thanh tịnh một phần, nay lại có thể ở trong
pháp hội này, lại được thần lực của
Phật gia tŕ, có thể đắc Túc Mạng Thông. Có thể
nghĩ nhớ th́ ắt phải đạt được Túc Mạng Thông. Nếu
không, làm sao biết được? Thật ra, họ có thể
tham gia pháp hội ấy, tức là nghiệp chướng
c̣n nhẹ hơn chúng ta. Chúng ta vẫn chưa thể tham
gia. Nếu chúng ta thấy Phật, có lẽ sẽ có thể
khai ngộ. Có lẽ những vị ấy là bậc đại
quyền thị hiện, ở trong hội ấy thị hiện
cho người khác thấy. Do vậy, đức Phật
nói mỗi bộ kinh điển đều có rất nhiều
nhân duyên. Có người tuy chẳng mắc lầm lỗi ấy,
nhưng họ lại thị hiện phạm lầm lỗi
ấy. Đấy là nêu bày nhằm cảnh tỉnh các chúng
sanh khác trong pháp hội!
(Kinh) Phục hữu nhất loại,
tác như thị ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ngă
đẳng văng tích ư Thi Khí Như Lai pháp trung, hoặc
ngôn hủy báng Đại Thừa chánh pháp”, các tùy bổn
duyên, như tiền quảng thuyết. Phục hữu nhất
loại, tác như thị
ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ngă đẳng văng
tích ư Tỳ Nhiếp Phù Như Lai pháp trung, hoặc ngôn hủy
báng Đại Thừa chánh pháp”, các tùy bổn
duyên, như tiền quảng thuyết. Phục hữu nhất
loại, tác như thị ngôn: “Đại đức Thế
Tôn! Ngă đẳng văng tích ư Yết Lạc Ca Tôn Đà Như Lai pháp trung, hoặc
ngôn hủy báng Đại Thừa chánh pháp”, các tùy bổn
duyên, như tiền quảng thuyết. Phục hữu nhất
loại, tác như
thị ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ngă đẳng
văng tích ư Yết Nặc Ca Mâu Ni Như Lai pháp trung, hoặc
ngôn hủy báng Đại Thừa chánh pháp”, các tùy bổn
duyên, như tiền quảng thuyết.
(經)復有一類作如是言:「大德世尊,我等往昔於尸棄如來法中,或言譭謗大乘正法。」各隨本緣,如前廣說。復有一類作如是言:「大德世尊,我等往昔於毗攝浮如來法中,或言譭謗大乘正法。」各隨本緣,如前廣說。復有一類作如是言:「大德世尊,我等往昔於羯洛迦孫馱如來法中,或言譭謗大乘正法。」各隨本緣,如前廣說。復有一類作如是言:「大德世尊,我等往昔於羯諾迦牟尼如來法中,或言譭謗大乘正法。」各隨本緣,如前廣說。
(Kinh: Lại có một
loại nói như thế này: “Bạch đại đức
Thế Tôn! Chúng con xưa kia ở trong pháp của Thi Khí
Như Lai, hoặc thốt lời hủy báng chánh pháp Đại
Thừa”, mỗi người tùy theo duyên của chính ḿnh
như trên đă rộng nói. Lại có một loại nói
như thế này: “Bạch đại đức Thế
Tôn! Chúng con xưa kia ở trong pháp của Tỳ Nhiếp
Phù Như Lai, hoặc thốt lời hủy báng chánh pháp
Đại Thừa”, mỗi người tùy theo duyên của
chính ḿnh như trên đă rộng nói. Lại có một loại
nói như thế này: “Bạch đại đức Thế
Tôn! Chúng con xưa kia ở trong pháp của Yết Lạc Ca
Tôn Đà Như Lai, hoặc thốt
lời hủy báng chánh pháp Đại Thừa”, mỗi
người tùy theo duyên của chính ḿnh như trên đă rộng
nói. Lại có một loại nói như thế này: “Bạch
đại đức Thế Tôn! Chúng con xưa kia ở
trong pháp của Yết Nặc Ca Mâu Ni Như Lai, hoặc thốt
lời hủy báng chánh pháp Đại Thừa”, mỗi
người tùy theo duyên của chính ḿnh như trên đă rộng
nói).
Loại ấy nói xong,
lại có một loại, tức là một loại người
khác sám hối thưa bày: “Đại
đức Thế Tôn! Ngă đẳng văng tích ư Thi Khí
Như Lai pháp trung” (Bạch đại
đức Thế Tôn! Xưa kia chúng con ở trong pháp của
Thi Khí Như Lai): Sau Tỳ Bà Thi Phật là Thi Khí Phật (Śikhin). Vị Phật
này cũng thuộc vào bốn vị Phật cuối cùng của
Trang Nghiêm Kiếp. “Phục hữu nhất loại tác
như thị ngôn: - Đại đức Thế Tôn! Ngă
đẳng văng tích ư Tỳ Nhiếp Phù Như Lai, hoặc
ngôn hủy báng Đại Thừa chánh pháp, các tùy bổn
duyên, như tiền quảng thuyết. Phục hữu nhất
loại tác như thị ngôn: - Đại đức Thế
Tôn, ngă đẳng văng tích ư Yết Lạc Ca Tôn Đà
Như Lai pháp trung” (Lại có một loại, nói như thế này: - Bạch đại đức
Thế Tôn! Chúng con xưa kia ở trong pháp của Tỳ Nhiếp
Phù (Viśvabhu,
Tỳ Xá Phù) Như Lai, hoặc thốt lời hủy báng chánh pháp
Đại Thừa. Mỗi người tùy theo cái duyên của
chính ḿnh, như trên đă rộng nói. Lại có một loại
nói như thế này: “Bạch đại đức Thế
Tôn! Chúng con xưa kia ở trong pháp của Yết Lạc Ca
Tôn Đà Như Lai): Đây là Câu Lưu Tôn Phật (Krakucchanda), hoặc
là ở trong pháp của Như Lai mà hủy báng chánh pháp Đại
Thừa. “Các tùy bổn duyên, như tiền
quảng thuyết” (ai nấy đều
tùy theo cái duyên của chính ḿnh, như đă nói rộng trong
phần trước): Lời sám hối đều là lời
lẽ tương đồng, cho nên trong khi đức Phật
thuyết pháp đă lược đi. “Phục hữu nhất
loại tác như thị ngôn: - Đại đức Thế
Tôn, ngă đẳng văng tích ư Yết Nặc Ca Mâu Ni
Như Lai pháp trung”; Đây cũng là Câu Na Hàm Mâu Ni
(Kanakamuni) Phật, “hoặc ngôn hủy báng Đại Thừa
chánh pháp” (hoặc thốt lời hủy báng chánh pháp
Đại Thừa), như thế th́ “các tùy bổn duyên,
như tiền quảng thuyết” (mỗi người
tùy theo cái duyên của chính ḿnh như trong phần trước
đă rộng nói).
(Kinh)
Phục hữu nhất loại, tác như thị ngôn:
“Đại đức Thế Tôn! Ngă đẳng
văng tích ư Ca Diếp Ba Như Lai pháp trung, hoặc ngôn hủy
báng Đại Thừa chánh pháp, hoặc ngôn hủy báng
Độc Giác Thừa pháp, hoặc ngôn hủy báng Thanh
Văn Thừa pháp, hạ chí nhất tụng”.
(經)復有一類作如是言:大德世尊,我等往昔於迦葉波如來法中,或言譭謗大乘正法,或言譭謗獨覺乘法,或言譭謗聲聞乘法,下至一頌。
(Kinh:
Lại có một loại, nói như thế này: “Bạch
đại đức Thế Tôn! Chúng con xưa kia ở
trong pháp của Ca Diếp Ba Như Lai, hoặc thốt lời
hủy báng chánh pháp Đại Thừa, hoặc thốt lời
hủy báng pháp Độc Giác Thừa, hoặc thốt lời
hủy báng pháp Thanh Văn Thừa, dẫu chỉ một
bài kệ tụng”).
Câu
Lưu Tôn Phật, Ca Diếp Phật (Kāśyapa, Ca Diếp Ba), Câu Na Hàm Mâu Ni Phật,
và Thích Ca Mâu Ni Phật là bốn vị Phật trong một
ngàn vị Phật thuộc Nhân Hiền Kiếp. V́ sao chúng
ta hễ xưng niệm bèn niệm “thất Phật”,
v́ mỗi vị trong số bảy vị Phật ấy kế
tiếp nhau [xuất thế]. Sau Ca Diếp Phật là Thích
Ca Như Lai. Sau Thích Ca Mâu Ni Phật là Di Lặc Bồ Tát.
Trước Ca Diếp Phật là Câu Na Hàm Mâu Ni Phật.
Trước Câu Na Hàm Mâu Ni Phật là Câu Lưu Tôn Phật.
Khoảng cách giữa hai vị Phật dài hay ngắn tùy thuộc
vào nhân duyên của chúng sanh. Thích Ca Mâu Ni Phật và Phật
Di Lặc cách nhau năm mươi sáu ức vạn năm,
chúng ta cảm thấy rất dài, Đại Phạm Thiên thấy
rất ngắn!
Một
trăm năm trong nhân gian là một ngày một đêm trên Tứ
Vương Thiên. Năm trăm năm trên Tứ
Vương Thiên bằng một ngày đêm nơi Đao Lợi
Thiên. Một ngàn năm trên Đao Lợi Thiên bằng một
ngày đêm trên Dạ Ma Thiên. Cứ hướng lên trên để
tính, cho tới khi quư vị tính đến Đại Phạm
Thiên, nhân gian có bao nhiêu vạn năm, cứ tăng lên gấp
mười. Chúng ta thấy thời gian rất dài, nhưng
chư thiên thấy rất ngắn, mà Thích Ca Mâu Ni Phật
không chỉ là một vị Thích Ca Mâu Ni Phật! Trong truyện
kư về Đạo Tuyên luật sư có chép, Đạo
Tuyên luật sư được một vị trời
dâng cúng. Vị trời ấy mỗi ngày dâng cúng [thực phẩm
cho] pháp sư Đạo Tuyên. Pháp sư Đạo Tuyên bèn hỏi
vị trời ấy: “Nay Thích Ca Mâu Ni Phật đă nhập
diệt, Ngài đến nơi đâu?” Vị trời hỏi
ngược lại: “Thầy hỏi vị Thích Ca Mâu Ni Phật
nào?” Từ câu hỏi của vị trời ấy, ta biết
có rất nhiều Thích Ca Mâu Ni Phật. Vị ấy hỏi
ngược lại Đạo Tuyên luật sư: “Vị
Thích Ca Mâu Ni Phật nào?” “Tôi hỏi vị Thích Ca Mâu Ni Phật
trong thế giới này”. Ông ta đáp: “Vị Thích Ca Mâu Ni Phật
này chưa nhập diệt. Ngài c̣n đang thuyết pháp trong
thế gian, nhưng các vị chẳng nh́n thấy”. Từ
cuộc vấn đáp ấy, có thể biết: Chỉ là
do nghiệp chướng của chúng ta mà thôi! Mỗi vị
Phật đều như thế, v́ Thích Ca Mâu Ni Phật là
hiện tại, cho nên họ chẳng nói đến Thích Ca
Mâu Ni Phật. Đấy đều là những người
đă tạo ác nơi sáu đức Phật trước
đó. Hướng về đức Thích Ca Mâu Ni Phật
nào để sám hối?
Hoặc
nói: “Con từ trong Độc Giác Thừa hủy báng pháp
Thanh Văn, hoặc từ trong Thanh Văn Thừa hủy
báng pháp Độc Giác, hoặc từ trong Đại Thừa,
hủy báng Độc Giác và Thanh Văn Thừa”, sám hối
lẫn nhau. Tùy thuộc mỗi người hủy báng
như thế nào, mỗi loại đều khác nhau, lời
lẽ hủy báng không nhất định. Hoặc là pháp Tiểu
Thừa, gộp chung Thanh Văn lẫn Duyên Giác lại
để nói. Hoặc là đối với Khổ, Tập,
Diệt, Đạo, nói kẻ [tu theo pháp ấy] là tu nhân thiên
thừa, ta là Bồ Tát, chẳng có ǵ là khổ! Kẻ
đó quán Khổ, Tập, Diệt, Đạo như
mộng, huyễn, bọt, bóng, liền bài bác “chẳng có
nhân quả”, cứ như vậy mà hủy báng người
khác!
Có
lúc đối với căn khí Đại Thừa, đức
Phật quở trách pháp Tiểu Thừa. Ngài nhằm đối
ứng với loại căn cơ ấy mà nói, chẳng phải
là hủy báng. Đó là uẩn tàng Tiểu Thừa, chứ
Ngài chẳng báng Duyên Giác Thừa, chỉ là “quư vị nói
pháp ấy th́ chưa phải là rốt ráo”. Kinh Pháp Hoa nói
như thế đó. Có lúc, đức Phật nói hàng Nhị
Thừa là “tiêu nha, bại chủng” (焦芽敗種, mầm cháy, hạt
lép). Ngài nói hoàn toàn đúng, “tiêu nha” tức là không có mầm
Bồ Đề, chẳng có chủng tử Bồ Đề,
người ấy chẳng thể thành Phật. Nếu
người ấy phát Bồ Đề tâm, sẽ thành Phật
đúng như thế đó. Hàm nghĩa là như thế
đó.
(Kinh)
Ngă đẳng do thị ác nghiệp chướng cố, tùng
nhĩ dĩ lai, lưu chuyển sanh tử, thường xử
địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, ấm, á, vô thiệt,
đô bất năng ngôn, thọ chư khổ độc,
thống thiết nan nhẫn. Thỉ ư kim thế, phục
đắc nhân thân, nhi do ấm á, thường hoạn thiệt
cấm, mông Phật thần lực, phương thỉ
năng ngôn.
(經)我等由是惡業障故,從爾以來,流轉生死,常處地獄、傍生、餓鬼,瘖啞無舌都不能言,受諸苦毒,痛切難忍;始於今世,得復人身,而猶瘖啞,常患舌𦧈。蒙佛神力,方始能言。
(Kinh:
Chúng con do ác nghiệp chướng ấy, từ đó trở
đi, lưu chuyển sanh tử, thường ở trong
địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, câm, ngọng,
không lưỡi, đều chẳng thể nói, chịu các
khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể
chịu đựng. Tới đời này mới lại
được thân người, nhưng vẫn câm, ngọng,
thường bị cứng lưỡi, nhờ thần lực
của đức Phật mới bắt đầu có thể
nói).
Do
hủy báng pháp tam thừa, kể từ lúc hủy báng, bèn
lưu chuyển trong sanh tử, chẳng phải là đọa
trong địa ngục th́ ở trong bàng sanh, hay ngạ quỷ,
một mực câm, ngọng, không có lưỡi, chẳng thể
nói năng. Loại này là chuyên nói về kẻ chẳng thể
nói. Chắc là các đạo hữu thấy người
đông ngần ấy, rất ít thấy người câm,
bèn nghĩ [kẻ câm] chẳng nhiều như vậy.
Đó là chúng ta không ở giữa bọn họ. Quư vị
vào trong loài ḅ, vào trong loài dê, lại c̣n có kiến, kiến
đều là câm, chẳng có cách nào tṛ chuyện được!
(Kinh)
Phục năng ức niệm tự quá khứ thế, sở
hữu nhân duyên chư ác nghiệp chướng. Ngă đẳng
kim giả, ư Thế Tôn tiền, văn thuyết thử
kinh, hoạch đắc chánh kiến, thâm tâm tàm quư, phát lộ
sám hối, bất cảm phú tàng, nguyện tất trừ
diệt. Tùng kim dĩ văng, vĩnh bất phục tác, pḥng hộ
đương lai sở hữu tội chướng. Duy
nguyện Thế Tôn ai mẫn nhiếp thọ, linh ngă đẳng
tội giai tất tiêu diệt. Ư đương lai thế,
vĩnh bất cánh tạo. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn
tế bạt ngă đẳng đương lai ác thú khổ
báo. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn ngă đẳng, vị
thuyết chánh pháp.
(經)復能憶念自過去世所有因緣諸惡業障。我等今者於世尊前,聞說此經,獲得正見,深心慚愧,發露懺悔,不敢覆藏,願悉除滅,從今以往永不復作,防護當來所有罪障。唯願世尊,哀愍攝受,令我等罪皆悉銷滅,於當來世永不更造。唯願世尊,哀愍濟拔我等當來惡趣苦報。唯願世尊,哀愍我等,為說正法。
(Kinh:
Lại có thể nghĩ nhớ tất cả nhân duyên, các
ác nghiệp chướng trong đời quá khứ của chính
ḿnh. Nay chúng con đối trước đức Thế
Tôn, nghe nói kinh này, đạt được chánh kiến,
tâm hổ thẹn sâu xa, bày tỏ sám hối, chẳng dám giấu
diếm, nguyện đều trừ diệt. Từ nay trở
đi, vĩnh viễn chẳng làm nữa, ngăn ngừa tất
cả tội chướng trong mai sau. Kính mong đức Thế
Tôn xót thương nhiếp thọ, khiến cho tội của
chúng con thảy đều tiêu diệt. Trong đời
tương lai, vĩnh viễn chẳng tạo nữa. Kính
mong đức Thế Tôn xót thương cứu vớt khổ
báo nơi đường ác của chúng con trong mai sau. Kính
mong đức Thế Tôn thương xót chúng con, v́ chúng con
nói chánh pháp).
Lại
có thể nghĩ nhớ nhân duyên chính ḿnh đă tạo trong
đời quá khứ. “Chư ác nghiệp chướng,
ngă đẳng kim giả ư Thế Tôn tiền, văn
thuyết thử kinh” (các ác nghiệp chướng, chúng
con nay đối trước đức
Thế Tôn, nghe nói kinh này) mới đạt được
tri kiến chánh xác, trong tâm hết sức hổ thẹn, “phát
lộ sám hối, bất cảm phú tàng” (bày tỏ sám hối,
chẳng dám giấu diếm), “nguyện tất trừ diệt.
Tùng kim dĩ văng, vĩnh bất phục tác” (nguyện đều trừ diệt. Từ
nay trở đi, vĩnh viễn chẳng làm nữa). Từ
nay về sau, chúng con chẳng dám làm như thế nữa,
ngăn ngừa tất cả tội trạng trong mai sau. Phần
này giống hệt như trong phần trước.
(Kinh)
Thế Tôn cáo viết: “Thiện tai! Thiện tai! Nhữ
đẳng năi năng như thị tàm quư, phát lộ sám hối.
Ư ngă pháp trung, hữu nhị chủng nhân, danh vô sở phạm.
Nhất giả, bẩm tánh chuyên tinh, bổn lai bất phạm.
Nhị giả, phạm dĩ tàm quư, phát lộ sám hối.
Thử nhị chủng nhân, ư ngă pháp trung, danh vi dũng
kiện, đắc thanh tịnh giả”. Ư thị, Thế
Tôn tùy kỳ sở nhạo, phương tiện vị thuyết
chủng chủng chánh pháp, các tùy sở nghi, giai đắc
lợi ích, hoan hỷ lễ Phật, hoàn phục bổn
ṭa.
(經)世尊告曰:善哉!善哉!汝等乃能如是慚愧,發露懺悔。於我法中,有二種人,名無所犯:一者、稟性專精,本來不犯;二者、犯已慚愧,發露懺悔。此二種人,於我法中,名為勇健得清淨者。於是世尊隨其所樂,方便為說種種正法,各隨所宜,皆得利益,歡喜禮佛,還復本座。
(Kinh:
Đức Thế Tôn bảo rằng: “Lành thay! Lành thay! Các
ông có thể hổ thẹn, phát lộ sám hối như thế.
Ở trong pháp của ta, có hai loại người
được gọi là không trái phạm ǵ. Một là bẩm
tánh chuyên ṛng, vốn chẳng trái phạm. Hai là phạm rồi
bèn hổ thẹn, phát lộ sám hối. Hai hạng người
ấy ở trong pháp của ta, được gọi là
người dũng mănh, mạnh mẽ, đạt
được thanh tịnh”. Liền đó, đức Thế
Tôn bèn thuận theo ư thích của mỗi người, phương tiện
v́ họ nói các thứ chánh pháp, ai nấy tùy theo căn
cơ đều được lợi ích, hoan hỷ lễ
Phật, trở về chỗ ngồi của chính ḿnh).
Thuyết
pháp đúng với căn cơ. Ở đây là những
người thuộc về tam thừa hướng về
đức Phật sám hối cùng tụ tập rất nhiều.
Đức Phật có thể nói cho từng nhóm như thế
nào? Với số lượng nhiều như thế, nếu
nói kinh Đại Tập Thập Luân [cho từng nhóm], chỉ
sợ suốt bốn mươi chín năm cũng nói chẳng
xong! “Phật dĩ nhất âm diễn thuyết pháp, chúng
sanh tùy loại các đắc giải” (đức Phật
dùng một âm để diễn nói pháp,
chúng sanh tùy theo từng loài đều được hiểu):
Người Đại Thừa nghe đức Phật nói
pháp Đại Thừa, Thanh Văn Thừa nghe đức
Phật nói pháp Thanh Văn, Độc Giác Thừa nghe đức
Phật nói pháp Độc Giác, “tùy loại các đắc giải” (tùy theo từng
loại đều hiểu) chính là đạo lư này.
Hiện
thời có một t́nh h́nh có thể chứng thực loại
cảnh giới này. Giống như trong hội nghị quốc
tế, quư vị có thể nghe đủ loại tiếng từ
máy phát âm cá nhân. Quư vị là người Hoa, máy sẽ nói tiếng
Hoa với quư vị. Quư vị nói tiếng Đài Loan, nó có
thể nói tiếng Đài Loan. Đối với người
nói tiếng Anh th́ máy nói tiếng Anh. Một trăm bảy
mươi, tám mươi quốc gia trên thế giới
này, quư vị nói ngôn ngữ của quốc gia nào, khi hội
họp, máy đều có thể phát ra ngôn ngữ đó. Chuyện
này giống như đức Phật dùng một âm thanh mà
tùy theo từng loài đều hiểu, chính họ nghe đức
Phật nói với họ; thật ra, đức Phật nói
trọn khắp. Loại thần thông này được gọi
là ngữ ngôn tam-muội, hoặc ngữ ngôn đà-la-ni. Loại
thần thông này là “báo đắc”.
Có
người khi c̣n là trẻ thơ đă có thể học
ngôn ngữ của tám nước. Tôi đă gặp một
đứa bé chưa đầy mười tuổi có thể
nói ngôn ngữ của tám nước. Đấy là báo đắc
thông. Có những người sanh ra biết được
quá khứ, biết khá nhiều đời, không chỉ là một
đời. Đôi khi biết một đời th́ chẳng
có ǵ là hiếm lạ! Người ấy có thể biết
khá nhiều đời, nhưng chẳng dám nói. Nói ra, sẽ
bị trời phạt, v́ quỷ thần sẽ khống chế
kẻ đó, sợ kẻ đó “yêu ngôn hoặc chúng”.
Quư vị nói ra chẳng có ai tin tưởng, mọi người
đều chẳng có loại năng lực ấy, điều
đó kỳ quái lắm! Kinh nói “bất khả thuyết,
bất khả thuyết”, đó là chuyện chẳng thể
nói được. Nói ra, sẽ phiền phức lắm, sẽ
đem lại phiền toái cho quư vị. Hiểu ư nghĩa
này là được rồi!
(Kinh)
Thời, chúng hội trung, phục hữu vô lượng
bách thiên Thanh Văn, cập vô lượng bách thiên na-dữu-đa
Bồ Tát, văn thuyết thử kinh, ức tích sở tạo
chư ác nghiệp chướng, tức tùng ṭa khởi,
đảnh lễ Phật túc. Ư Thế Tôn tiền, thâm
sanh tàm quư, chí thành sám hối, hiệp chưởng, cung kính,
giai bạch Phật ngôn: “Đại đức Thế Tôn!
Ngă đẳng ức tích tằng ư vô lượng
chư Phật pháp trung, hoặc hữu thuyết ngôn, ngă
đẳng ư bỉ chư Phật đệ tử, hoặc
thị pháp khí, hoặc phi pháp khí, đa hành phẫn hận,
ha mạ, hủy nhục, cơ thích, khinh tiếu, chủng
chủng phỉ báng, ẩn thiện, dương ác”.
(經)時眾會中,復有無量百千聲聞,及無量百千那庾多菩薩,聞說此經,憶昔所造諸惡業障,即從座起,頂禮佛足,於世尊前深生慚愧,至誠懺悔,合掌恭敬,皆白佛言:大德世尊,我等憶昔曾於無量諸佛法中,或有說言:‘我等於彼諸佛弟子,或是法器,或非法器,多行忿恨,呵罵毀辱,譏刺輕誚,種種誹謗,隱善揚惡。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, trong hội có vô lượng trăm ngàn
Thanh Văn, và vô lượng trăm ngàn na-dữu-đa Bồ
Tát nghe nói kinh này, nhớ lại các ác nghiệp chướng
đă tạo xưa kia, liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, đảnh lễ dưới chân đức Phật,
đối trước đức Thế Tôn, sanh hổ thẹn
sâu xa, chí thành sám hối, chắp tay, cung kính, đều bạch
cùng đức Phật rằng: “Bạch đại đức
Thế Tôn! Chúng con nhớ xưa kia đă từng ở
trong pháp của vô lượng chư Phật, hoặc có người nói rằng: Chúng con
đối với đệ tử của các đức Phật
ấy, hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải là pháp
khí, thường làm nhiều chuyện phẫn hận, quở
trách, chửi bới, hủy nhục, chê bai, châm chọc,
khinh thường, coi rẻ, đủ mọi cách phỉ báng, ẩn
giấu điều thiện, phô phang điều ác”).
Có
đạo hữu nói: “Đă sai lầm rồi th́ phải
nên tốt khoe, xấu che!” Tôi nói: “Kẻ b́nh phàm đă nói
sai rồi, nói như thế chẳng đúng”. Kẻ đó
sám hối tội lỗi của chính ḿnh, nhưng chẳng
nói chuyện tốt của người khác, giấu diếm
chuyện tốt của người ta, cứ tận lực
nói những chỗ xấu của kẻ khác! [Các vị
Thanh Văn và Bồ Tát ấy thưa bày]: Chúng con đối
với Phật sự, đối với đệ tử
Phật, có người là pháp khí, có kẻ chẳng phải
là pháp khí, là phường phá giới, chúng con sanh khởi cái
tâm phẫn hận, tâm oán hận, cho đến quở
trách, chửi bới, hủy nhục, chê bai, khinh miệt bọn
họ. “Khinh tiếu” (輕誚) là khinh miệt,
nói lời dè bỉu, đủ mọi cách hủy báng, chẳng nói chuyện
tốt đẹp của họ, ẩn giấu đạo
đức của họ, chuyên môn kể ra những khuyết
điểm của họ.
Giống
như trong phần nói về lỗi của các tỳ-kheo
trong phần trước, có những kẻ chẳng hề
thấy lỗi lầm của chính ḿnh. Con mắt họ trợn to đùng, chuyên môn chú
ư kẻ kia có khuyết điểm như thế nào, người
này lại như thế nào, lại c̣n ghi chép sơ lược!
Đặc biệt là kẻ làm trong công sở đă lâu, biết
những chuyện riêng tư của người khác, bèn viết
thành đôi chút “tâm đắc”! Trong sổ tay của kẻ
đó ghi chép rất nhiều chuyện riêng tư của kẻ
khác, dùng đó để dọa dẫm. Kẻ đó nói:
“Ngươi đă làm khá nhiều chuyện xấu, hai
người chúng ta phải thảo luận đôi chút. Nếu
ngươi hối lộ ta đôi chút, ta sẽ không nói. Nếu
không, ta sẽ đăng báo”. Người khác sợ bị
tiết lộ, tiết lộ sẽ bẽ mặt lắm,
bèn dúi cho kẻ đó chút tiền. Nhưng đâu có phải
là hết chuyện, đến khi hắn xài hết tiền
rồi, hoặc là thua bạc, lại đến kiếm
quư vị! Nếu từ đầu quư vị thẳng thừng
sám hối, căn bản là chẳng cần nhét tiền cho
hắn, chẳng cần phải nghe hắn nói. Đó gọi
là kẻ xảo trá, loại người này rất đông!
Trong
xă hội quá khứ, có một loại người gọi
là “đao bút tà sanh” (刀筆邪生), mỗi chữ,
mỗi cái chấm của hắn có thể đẩy quư vị
vào chỗ chết, mà cũng do một cái chấm đó có
thể cứu sống quư vị. Quư vị tốn rất
nhiều tiền mới mua nổi chút lập luận
đó. Có lần tôi dùng cơm với một đạo hữu,
tôi nói: “Quốc ưu, dân sầu, vương bất xuất
đầu, thùy vi chủ?” (Nước
đáng lo, dân sầu, vua không ra mặt, ai làm chủ?) Chỉ
là một cái chấm, tức trên đầu chữ
Vương (王) thêm một chấm,
sẽ thành chữ Chủ (主). Câu ông ta đối
lại ư nghĩa cũng khá lắm, bỏ một điểm
đi, “thiên hàn, địa đống, thủy vô nhất
điểm thành băng” (trời lạnh, đất
đông cứng, nước thiếu một điểm sẽ
thành băng)[1].
Đó là một chấm!
C̣n
có một ví dụ về “đao bút tà sanh”. Có một gia
đ́nh, trong nhà mấy đời đều là độc
đinh. Đứa nhỏ ấy bị thổ phỉ bắt
cóc. Thổ phỉ lôi nó theo bọn chúng đi ăn cướp.
Đứa nhỏ đó ngơ ngáo, tự ḿnh thừa nhận
có cướp đoạt. Thật ra, nó chẳng cướp,
nhưng bọn thổ phỉ ấy từ cửa lớn
tiến vào cướp đoạt đồ đạc.
Trong nhà đứa nhỏ ấy có tiền, liền thuê một
vị đao bút tà sanh: “Nếu ông có thể cứu sống
con ta, tôi sẽ trả ông bao nhiêu tiền!” Ông ta bèn đem
cáo trạng về nghiên cứu, nghiên cứu mấy ngày, liền
hiểu rơ, bảo: “Tôi chỉ cần một cái chấm là
được rồi!” Đối với câu “tùng đại
môn nhi nhập” (từ cửa lớn tiến vào), đối
với chữ Đại (大) thêm một chấm
[tức là chữ Khuyển (犬)], trở thành “tùng
khuyển môn nhi nhập” (từ lỗ chó mà vào), tức
là trộm vặt, thường xử lư rất nhẹ, tù
vài năm là được thả! Từ cửa lớn
xông vào, tội cướp đoạt nặng nề, có thể
là tử tội, hoặc là bị tù chung thân!
Bữa
đó, tôi nhớ lại câu chuyện ấy, nghĩ đến
đôi câu đối ấy, cũng dính líu đến một
cái chấm! Khá nhiều mối quan hệ của chúng ta
cũng là một cái chấm, sẽ là một đằng
mê, một đằng ngộ, là kiểu tốt khoe, xấu
che. Điên đảo như thế đó đều là tội
ác. Chúng ta phải biết đạo lư này, chớ nên v́ nói
sai một câu, do một câu mà quư vị có thể phải chịu
đau khổ vô lượng kiếp! Người ta
đang tu pháp Thanh Văn, tu đă sắp thành tựu, quư vị
nói: “Quư vị học Phật pháp kiểu này là pháp Tiểu
Thừa, học làm ǵ chớ! Tôi
có pháp Đại Thừa, pháp của tôi là Mật Tông, Du
Già Mật (Yoganiruttaratantra), quư vị thọ
quán đảnh sẽ thành Phật”. Người ấy thọ
quán đảnh xong, chẳng thành tựu pháp Thanh Văn,
ngược lại c̣n bỏ mất.
Người đó nói: “Ta đă thọ quán đảnh, ta chẳng
sợ chi hết!” Chuyện ǵ xấu cũng đều làm,
vậy là lại đọa vào địa ngục Vô Gián. Ác
hữu và thiện hữu, quư vị phải phân biệt rơ
ràng! C̣n có ác sự và thiện sự, khi người ấy
chỉ dạy quư vị, tuy là chiếu theo thứ tự
để dạy, tuy hơi chậm một chút, nhưng ít
bị nguy hiểm. Loại khác tuy nhanh chóng, rất nguy hiểm!
(Kinh)
Ngă đẳng do thử ác nghiệp chướng cố,
kinh vô lượng kiếp, đọa chư ác thú, thọ
chư trọng khổ, sở độc nan nhẫn, hậu
đắc trị ngộ vô lượng chư Phật,
giai tằng thân cận, thừa sự, cúng dường. Hựu
đắc trị ngộ vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát
chúng, diệc giai thân cận, thừa sự, cúng dường.
Ư nhất nhất Phật, nhất nhất Bồ Tát Ma
Ha Tát tiền, giai thâm tàm quư, phát lộ sám hối chư ác nghiệp
chướng. Ư nhất nhất Phật, nhất nhất
Bồ Tát Ma Ha Tát sở, giai đắc thính thọ vô lượng
pháp môn, tinh cần hộ tŕ, tu học vô lượng nan
hành khổ hạnh. Do bỉ nghiệp chướng hữu
dư vị tận, linh ngă đẳng bối vị
năng chứng đắc an lạc Niết Bàn, vị
năng chứng đắc tam-ma-địa môn thù thắng
công đức. Ngă đẳng kim giả, ư Thế Tôn tiền,
văn thuyết thử kinh, phục thâm tàm quư, phát lộ sám
hối, bất cảm phú tàng, nguyện tất trừ diệt.
Tùng kim dĩ văng, vĩnh bất phục tác, pḥng hộ
đương lai sở hữu tội chướng. Duy
nguyện Thế Tôn ai mẫn nhiếp thọ, linh ngă đẳng
tội, giai tất trừ
diệt. Ư đương lai thế, vĩnh bất cánh
tạo. Duy nguyện Thế Tôn, ai mẫn tế bạt, ngă
đẳng đương lai ác thú khổ báo. Ngă đẳng
kim giả, thừa Phật oai lực, nguyện tùy sở
nhạo, tốc năng chứng đắc an lạc Niết
Bàn, hoặc năng chứng đắc tam-ma-địa môn
thù thắng công đức.
(經)我等由此惡業障故,經無量劫墮諸惡趣,受諸重苦,楚毒難忍。後得值遇無量諸佛,皆曾親近承事供養,又得值遇無量菩薩摩訶薩眾,亦皆親近承事供養;於一一佛、一一菩薩摩訶薩前皆深慚愧,發露懺悔諸惡業障,於一一佛、一一菩薩摩訶薩所,皆得聽受無量法門,精勤護持,修學無量難行苦行。由彼業障有餘未盡,令我等輩,未能證得安樂涅槃,未能證得三摩地門殊勝功德。我等今者,於世尊前聞說此經,復深慚愧,發露懺悔,不敢覆藏,願悉除滅,從今以往永不復作,防護當來所有罪障。唯願世尊,哀愍攝受,令我等罪皆悉除滅,於當來世永不更造。唯願世尊,哀愍濟拔我等當來惡趣苦報。我等今者承佛威力,願隨所樂,速能證得安樂涅槃,或能證得三摩地門殊勝功德。
(Kinh:
Chúng con do ác nghiệp chướng ấy, trải qua vô
lượng kiếp đọa trong các đường ác,
chịu các nỗi khổ nặng nề, khổ sở khó
thể chịu đựng, sau đó được gặp
gỡ vô lượng chư Phật, đều từng
thân cận, thừa sự, cúng dường. Lại
được gặp gỡ vô lượng các vị Bồ
Tát Ma Ha Tát, cũng đều thân cận, thừa sự,
cúng dường. Đối trước mỗi đức
Phật, mỗi vị Bồ Tát Ma Ha Tát, đều hổ
thẹn sâu xa, phát lộ sám hối các ác nghiệp chướng.
Đối trước mỗi đức Phật, mỗi
vị Bồ Tát Ma Ha Tát, đều được nghe nhận
vô lượng pháp môn, siêng ṛng hộ tŕ, tu học vô lượng
khổ hạnh khó làm. Do nghiệp
chướng ấy c̣n sót thừa chưa hết, khiến
cho chúng con chưa thể chứng đắc Niết Bàn an
lạc, chưa thể chứng đắc công đức
thù thắng của tam-ma-địa môn. Nay chúng con đối trước đức
Thế Tôn, nghe nói kinh này, lại càng hổ thẹn sâu xa,
phát lộ sám hối, chẳng dám giấu diếm, nguyện
đều trừ diệt. Từ nay trở đi, vĩnh
viễn chẳng làm nữa, ngăn ngừa tất cả tội
chướng trong tương lai. Kính mong đức Thế
Tôn xót thương nhiếp thọ, khiến cho tội của chúng con đều
được trừ diệt. Trong đời tương
lai, vĩnh viễn chẳng dám tạo nữa. Kính mong đức
Thế Tôn, xót thương cứu vớt khổ báo nơi
đường ác của chúng con trong tương lai. Chúng
con nay nương theo oai lực của
Phật, nguyện tùy theo ḷng ưa thích, sẽ mau chóng chứng
đắc Niết Bàn an lạc, hoặc
có thể chứng đắc công đức thù thắng
của tam-ma-địa môn).
Vô
lượng kiếp, chẳng phải là một, hai ngày, vô
lượng kiếp là khá nhiều vạn vạn năm, rất
khó tính toán nổi! Trải qua vô lượng kiếp như
vậy, “kiếp” ở đây không phải là nói đến
số năm có hạn lượng, mà có nghĩa là “trải qua vô lượng”. Bao nhiêu tội
nghiệp trả hết rồi th́ mới coi như tiêu trừ.
Đọa trong đường ác như vậy, chịu hết
các khổ nạn, khó thể chịu đựng nổi! Chịu
hết [quả báo] do tội lỗi trong vô lượng kiếp
xong, lại “trị ngộ vô lượng chư Phật”
(gặp gỡ vô lượng chư Phật). Các vị
Thanh Văn, Bồ Tát, chúng con đều thân cận, thừa
sự, cúng dường. Sau đó, c̣n gặp gỡ các thiện
hữu, vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát là đại Bồ
Tát, cũng đều “thân cận, thừa sự, cúng
dường. Ư nhất nhất Phật, nhất nhất
Bồ Tát Ma Ha Tát tiền, giai thâm tàm quư, phát lộ sám hối
chư ác nghiệp chướng” (thân cận, thừa sự,
cúng dường. Đối trước mỗi đức
Phật, mỗi vị Bồ Tát Ma Ha Tát, đều hổ
thẹn sâu xa, phát lộ sám hối các nghiệp chướng
ác). Chúng con sám hối tội ấy rất nhiều lần,
v́ chúng con đă làm chuyện sai trái trải qua hai vô lượng
kiếp. Đối với tội [đă trót tạo] trong
vô lượng kiếp, bèn vô lượng kiếp sám hối,
cũng tức là đối trước Phật, Bồ
Tát, chúng con đều phát lộ, sám hối.
“Ư
nhất nhất Phật, nhất nhất Bồ Tát Ma Ha Tát
sở, giai đắc thính thọ vô lượng pháp môn”
(nơi mỗi vị Phật, mỗi vị Bồ Tát Ma Ha
Tát, đều được nghe nhận vô lượng
pháp môn): Lại học lần nữa vô lượng chánh
pháp. “Tinh cần hộ tŕ” (Siêng ṛng hộ tŕ): Tinh tấn
hộ tŕ pháp này. “Tu học vô lượng nan hành khổ
hạnh” (Tu học vô lượng khổ hạnh khó
làm): Pháp môn để tu hành rất nhiều, chuyện rất
khó làm được, chúng con cũng đều làm,
nhưng nghiệp chướng ấy vẫn chẳng hoàn
toàn tiêu trừ. Khi quư vị tạo nghiệp th́ rất dễ
dàng, tùy tiện nói mấy câu bèn tạo vô lượng nghiệp.
Nếu muốn sám trừ tội ấy, rất khó! Giống
như tờ giấy trắng, quư vị vẩy mực lên
tờ giấy trắng, mong khôi phục tờ giấy trắng
nơn như cũ, rất khó! Làm như thế nào đây?
Đổi một tờ khác là được rồi, chứ
tờ giấy trước đó chẳng có cách nào hết!
Chúng ta làm như thế nào? Phải làm cho vọng tâm
ngưng dứt. Hễ nó ngưng dứt th́ là Bồ Đề.
Thay đổi cái tâm, đổi thành tâm ǵ vậy? Đổi
thành tâm Chân Như. “Không thân” huyễn hóa, chẳng có thật
thể. Huyễn hóa Không thân chính là Pháp Thân. Nếu đă chứng đắc
Pháp Thân, quư vị có tội nghiệp ǵ cũng đều
thanh tịnh.
Đấy
là liễu nghĩa Đại Thừa rốt ráo, chúng ta
thường nói “chẳng thể chuyển định
nghiệp”, cũng là như những điều vừa
nói trên đây. Chúng ta bị hướng dẫn sai lầm:
“Tội của quư vị sám hối chẳng được!
Không thể nào chẳng đọa địa ngục, quư vị
bèn đợi ngày đọa địa ngục!” [Người
tạo nghiệp nghe nói như vậy, bèn nghĩ]:
“Chẳng thể chuyển th́ chúng ta c̣n học Phật làm
chi nữa? Có học th́ vẫn chẳng thể lay chuyển
được! Học rồi vẫn phải đọa
địa ngục, chẳng học
cũng đọa địa ngục, học Phật
để làm ǵ cơ chứ?” [Lư luận kiểu đó] sẽ
là đoạn dứt thiện căn của người
khác, chẳng tốt. Có người nói: “Quư vị đă phạm
tội, tội ấy chẳng sám hối được!”
Đó là dọa cho quư vị sợ, đừng phạm tội
lỗi. Đến khi quư vị đă trót phạm tội, lại
cho phép quư vị sám hối. Đối với định
nghiệp chẳng thể chuyển, th́ do sức tam-muội
gia tŕ, tức là nói tu Định, tu Không quán, cũng có thể
quán Không, tội nghiệp của quư vị đều
được sám trừ thanh tịnh. “Tội tánh bổn
Không, duy tâm tạo. Tâm nhược vong thời, tội diệc
vong. Tâm vong, tội diệt, lưỡng câu không. Thị tắc
danh vi chân sám hối” (Tội tánh vốn là Không, chỉ
do tâm tạo. Khi tâm đă mất th́ tội cũng mất.
Tâm mất, tội diệt, hai đằng đều Không.
Đó gọi là sám hối chân thật). Nhưng cách sám hối
ấy rất khó, phải ngộ tánh Không, chứng đắc
Không lư. Tội nghiệp đă thanh tịnh, quư vị vẫn
phải khởi tu. Chẳng tu hành, sẽ không thể thành
Phật được.
Thành
tựu Pháp Thân Phật, Pháp Thân lư thể, chúng ta đều
có sẵn [Pháp Thân ấy]. Pháp Thân thanh tịnh, nhưng quư vị
chẳng có phương tiện thiện xảo, lợi ích
chúng sanh bằng cách nào? Chẳng lợi ích chúng sanh, chẳng
có tướng công đức, ngay cả ba mươi hai
tướng và tám mươi thứ hảo nơi Hóa Thân cũng đều chẳng có. Như báo
thân viên măn của Báo Thân Phật, công đức ấy chẳng
thể nghĩ bàn. Do vậy, vẫn phải tu hành. Nay chúng
ta có tội, tội vẫn chưa hết, v́ sao? V́ chẳng
chứng đắc Niết Bàn rốt ráo. “Niết Bàn an
lạc” chính là Niết Bàn rốt ráo, bất sanh, bất
diệt.
“Vị
năng chứng đắc tam-ma-địa môn thù thắng
công đức” (chưa thể chứng đắc công
đức thù thắng của tam-ma-địa môn): Trụ
trong tam-ma-địa, trụ trong tam-muội thù thắng ấy,
v́ chẳng chứng đắc [Thủ] Lăng Già [Ma] tam-muội
(tức Thủ Lăng Nghiêm tam-muội) trong bộ kinh này.
Trong phần trước đă nói một trăm lẻ tám
môn tam-muội, chứng đắc tam-ma-địa ấy
là tốt rồi! Nay chúng con “ư
Thế Tôn tiền, văn thuyết thử kinh, phục thâm
tàm quư, phát lộ sám hối, bất cảm phú tàng, nguyện
tất trừ diệt” (đối trước đức
Thế Tôn, nghe nói kinh này, lại hổ thẹn sâu xa, phát lộ
sám hối, chẳng dám giấu diếm, nguyện đều
trừ diệt), đối với nghiệp chướng
chưa sám trừ sạch, cũng sẽ sám trừ cho sạch.
Từ nay trở đi, vĩnh viễn chẳng làm nữa!
“Pḥng hộ đương lai sở hữu tội
chướng. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn, nhiếp thọ,
linh ngă đẳng tội giai tất trừ diệt. Ư
đương lai thế, vĩnh bất cánh tạo. Duy
nguyện Thế Tôn, ai mẫn tế bạt, ngă đẳng
đương lai ác thú khổ báo” (Ngăn ngừa tất
cả tội chướng trong tương lai. Kính mong
đức Thế Tôn xót thương, nhiếp thọ, khiến
cho tội của chúng con thảy đều trừ diệt,
trong đời mai sau vĩnh viễn chẳng tạo nữa.
Kính mong đức Thế Tôn, xót thương cứu vớt
khổ báo trong đường ác của chúng con trong mai
sau). Đấy là nêu gương cho chúng sanh. Nơi mỗi đức
Phật, mỗi vị Bồ Tát, họ đều thừa
sự, há c̣n phải đọa vào địa ngục nữa
ư? Chẳng thể nào!
Bọn
họ biết đó đại quyền thị hiện,
nêu gương, cũng chấp thuận cho họ nói những
chuyện đă từng trải qua. Khi Thích Ca Mâu Ni Phật
c̣n là chúng sanh, Ngài cũng đă phạm rất nhiều sai
lầm. Từ kinh Hiền Ngu Nhân Duyên, ta thấy [tiền
thân của] đức Phật có lúc cũng rất ngu si.
Cho đến khi trừ khử ngu si, có trí huệ, Ngài thành
Phật, chẳng c̣n ngu si! Vị Phật nào cũng đều
là như thế. Phật sanh từ chúng sanh, đều
như thế. Quư vị chỉ cần tu, hổ thẹn. Hổ
thẹn th́ sức công đức bèn tăng trưởng,
chẳng kiêu mạn, tự măn!
(Kinh)
Phục hữu thuyết ngôn: “Ngă đẳng ư bỉ
chư Phật đệ tử, hoặc thị pháp khí, hoặc
phi pháp khí, dĩ thô ác ngôn, kỳ khắc bách hiếp. Ngă
đẳng do thử ác nghiệp chướng cố, kinh
vô lượng kiếp, đọa chư ác thú, ưng tri
như tiền, thứ đệ
quảng thuyết”. Phục hữu thuyết ngôn: “Ngă đẳng
ư bỉ chư Phật đệ tử, hoặc thị
pháp khí, hoặc phi pháp khí, đả bổng thương hại.
Ngă đẳng do thử ác nghiệp chướng cố,
kinh vô lượng kiếp, đọa chư ác thú, ưng
tri như tiền thứ đệ quảng thuyết”. Phục
hữu thuyết ngôn: “Ngă đẳng ư bỉ chư Phật
đệ tử, hoặc thị pháp khí, hoặc phi pháp khí,
xâm đoạt y bát. Ngă đẳng do thử ác nghiệp
chướng cố, kinh vô lượng kiếp, đọa
chư ác thú, ưng tri như tiền thứ đệ quảng
thuyết”.
(經)復有說言:‘我等於彼諸佛弟子,或是法器,或非法器,以粗惡言期克迫脅。我等由此惡業障故,經無量劫墮諸惡趣,應知如前次第廣說。’復有說言:‘我等於彼諸佛弟子,或是法器,或非法器,打棒傷害。我等由此惡業障故,經無量劫墮諸惡趣,應知如前次第廣說。’復有說言:‘我等於彼諸佛弟子,或是法器,或非法器,侵奪衣缽。我等由此惡業障故,經無量劫,墮諸惡趣,應知如前次第廣說。
(Kinh:
Lại có người nói rằng: “Chúng con đối với
đệ tử của các đức Phật ấy, hoặc
là pháp khí, hoặc chẳng phải là pháp khí, dùng lời thô
ác, chèn ép, bức hiếp. Chúng con do ác nghiệp chướng
ấy, trải qua vô lượng kiếp, đọa vào các
đường ác, hăy nên biết như trong phần trước
đă nói cặn kẽ theo thứ tự”. Lại có người
nói rằng: “Chúng con đối với các đệ tử
của các đức Phật ấy, hoặc là pháp khí, hoặc
chẳng phải là pháp khí, đánh đập, tổn
thương. Chúng con do ác nghiệp chướng ấy trải
qua vô lượng kiếp, đọa vào các đường
ác, hăy nên biết như trong phần trước
đă nói cặn kẽ theo thứ tự”. Lại có người
nói rằng: “Chúng con đối với đệ tử của
các đức Phật ấy, hoặc là pháp khí, hoặc chẳng
phải là pháp khí mà xâm đoạt y bát. Chúng con do ác nghiệp
chướng ấy, trải qua vô lượng kiếp,
đọa trong các đường ác, hăy nên biết như trong phần trước
đă nói cặn kẽ theo thứ tự”).
Chúng
con do v́ ác nghiệp chướng duyên ấy, “kinh vô lượng
kiếp, đọa chư ác thú, ưng tri như tiền thứ
đệ quảng thuyết” (trải qua vô lượng kiếp, đọa vào các đường
ác, hăy nên biết như trong phần trước
đă nói cặn kẽ theo thứ tự).
Đây là một loại người khác sám hối. Họ
đối với pháp khí, tức là tỳ-kheo tŕ giới
thanh tịnh, cũng như phi pháp khí, tức là tỳ-kheo
phá giới, chẳng tŕ giới. Chúng con nói lời thô ác
đối với họ, mắng chửi, vũ nhục, lại
c̣n bức hiếp, chèn ép họ. Chuyện bức hiếp rất
nhiều, thậm chí vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la
nhốt tù quư vị, mười năm hay mười
lăm năm mới thả ra. Đó gọi là “định
kỳ bách hiếp” (定期迫脅). V́ con đă tạo
ác nghiệp chướng ấy, nên trải qua vô lượng
kiếp, đọa trong đường ác, [chi tiết cụ
thể] giống như đă nói trong phần trước.
“Phục
hữu thuyết ngôn” (lại có người thưa rằng),
lại có một loại người khác sám hối: “Ngă
đẳng ư bỉ chư Phật đệ tử, hoặc
thị pháp khí, hoặc phi pháp khí, đả bổn
thương hại” (Chúng con đối với đệ
tử của các đức Phật ấy, hoặc là pháp
khí, hoặc chẳng phải pháp khí, đánh đập, tổn
thương). Đây là trường hợp
khác, con
không chửi họ, cũng không nói ǵ họ, nhưng con
đánh họ. Các loại t́nh huống khác nhau! Chúng con do ác
nghiệp chướng ấy, “kinh vô lượng kiếp
đọa chư ác thú, ưng tri như tiền
thứ đệ quảng thuyết” (trải qua vô
lượng kiếp, đọa vào các đường ác,
hăy nên biết như trong phần trước đă theo
thứ tự nói cặn kẽ), đều lặp lại!
Như lúc bái sám, mọi người đều rất quen
thuộc văn bản bái sám ấy. Chiếu theo sám văn
để tu Quán, toàn bộ đều bao gồm trong ấy,
vượt ra ngoài kinh Đại Tập Thập Luân. Hết
thảy các kinh luận Đại Thừa hay Tiểu Thừa
đều được bao gồm trong đó. Trong ấy có mấy
câu: “Văng tích sở tạo chư ác nghiệp, giai do vô thỉ
tham, sân, si, tùng thân, ngữ, ư chi sở sanh, nhất thiết
ngă kim giai sám hối” (xưa kia đă tạo bao ác nghiệp,
đều do vô thỉ tham, sân, si. Từ thân, miệng, ư
phát sanh ra. Hết thảy con nay đều sám hối). Cách
[sám hối] này bao gồm vô lượng kiếp, tất cả
các ác nghiệp đă tạo, hết thảy con nay đều
sám hối, đều bao gồm.
Chúng
ta c̣n phát nguyện. Đối ứng với điều
đó, ta phát nguyện mong thành Phật. “Nguyện dĩ
thử công đức, trang nghiêm Phật Tịnh Độ,
thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ
khổ” (nguyện dùng công đức này, trang nghiêm Phật
Tịnh Độ, trên đền bốn ân nặng, dưới
cứu khổ tam đồ): “Tam đồ khổ” là ngạ quỷ,
súc sanh, và địa ngục. “Tứ trọng ân”: Báo
ân Phật, báo ân chúng sanh, lại c̣n báo ân quốc gia, ân
đất đai đều phải báo; nhưng lấy báo
ân chúng sanh làm chánh yếu. Báo ân chư Phật, Bồ Tát chỉ
dạy chúng ta, báo ân chúng sanh, c̣n có ân cha mẹ. Có khi báo là
báo bảy trọng ân; ở đây, chúng ta nói là tứ trọng
ân. Phép sám hối này đă bao gồm trọn hết. C̣n ở
đây, các vị ấy biệt sám (別懺, sám hối từng
tội riêng biệt): Thốt lời ác, nói lời thô ác. Có
người nói: “Tôi trọn chẳng thốt lời ác,
nhưng đả thương họ”. Có người nói:
“Bất luận kẻ ấy là pháp khí, hay chẳng phải
pháp khí, tôi cướp đoạt y bát của họ”. Do ác
nghiệp ấy, trải qua vô lượng kiếp, đọa
vào các đường ác.
(Kinh)
Phục hữu thuyết ngôn: “Ngă đẳng ư bỉ
chư Phật đệ tử, hoặc thị pháp khí, hoặc
phi pháp khí, xâm đoạt chủng chủng tư sanh chúng cụ,
tuyệt kỳ ẩm thực. Ngă đẳng do thử ác
nghiệp chướng cố, kinh vô lượng kiếp,
đọa chư ác thú, ưng tri như tiền, thứ
đệ quảng thuyết”. Phục hữu thuyết
ngôn: “Ngă đẳng ư bỉ vô lượng chư Phật
xuất gia đệ tử, hoặc thị pháp khí, hoặc
phi pháp khí, thoái linh hoàn tục, thoát kỳ ca-sa, khóa thuế
dịch sử. Ngă đẳng do thử ác nghiệp chướng
cố, kinh vô lượng kiếp, đọa chư ác thú,
ưng tri như tiền, thứ đệ quảng thuyết”.
Phục hữu thuyết ngôn: “Ngă đẳng ư bỉ vô
lượng chư Phật xuất gia đệ tử, hoặc
thị pháp khí, hoặc phi pháp khí, hoặc hữu tội phạm,
hoặc vô tội phạm, già tỏa hệ phược, cấm
bế lao ngục. Ngă đẳng do thử ác nghiệp
chướng cố, kinh vô lượng kiếp, đọa
chư ác thú, ưng tri như tiền, thứ đệ quảng
thuyết”. Phục hữu thuyết ngôn: “Ngă đẳng
ư bỉ vô lượng chư Phật xuất gia đệ
tử, hoặc thị pháp khí, hoặc phi pháp khí, khởi
khinh mạn tâm, chủng chủng xúc năo, linh bất an lạc”.
(經)復有說言:我等於彼諸佛弟子,或是法器,或非法器,侵奪種種資生眾具,絕其飲食。我等由此惡業障故,經無量劫,墮諸惡趣,應知如前次第廣說。復有說言:‘我等於彼無量諸佛出家弟子,或是法器,或非法器,退令還俗,脫其袈裟,課稅役使。我等由此惡業障故,經無量劫墮諸惡趣,應知如前次第廣說。復有說言:我等於彼無量諸佛出家弟子,或是法器,或非法器,或有罪犯,或無罪犯,枷鎖繫縛,禁閉牢獄。我等由此惡業障故,經無量劫墮諸惡趣,應知如前次第廣說。復有說言:我等於彼無量諸佛出家弟子,或是法器,或非法器,起輕慢心,種種觸惱,令不安樂。
(Kinh:
Lại có người nói rằng: “Chúng con đối với
đệ tử của các đức Phật ấy, hoặc
là pháp khí, hoặc chẳng phải là pháp khí, xâm đoạt
các thứ vật dụng cần thiết cho cuộc sống,
đoạn tuyệt lương thực của họ.
Chúng con do ác nghiệp chướng ấy, trải qua vô
lượng kiếp, đọa vào các đường ác,
hăy nên biết như trên đă nói cặn kẽ theo thứ
tự”. Lại có người nói rằng: “Chúng con đối
với đệ tử của các đức Phật ấy,
hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải là pháp khí, ép họ
hoàn tục, lột y ca-sa, đánh thuế, sai khiến họ
làm phu phen. Chúng con do ác nghiệp chướng ấy, trải
qua vô lượng kiếp, đọa vào các đường
ác, hăy nên biết như trên đă nói cặn kẽ theo thứ
tự”. Lại có người nói rằng: “Chúng con đối
với đệ tử của các đức Phật ấy,
hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải là pháp khí, dù là có
phạm tội, hay chẳng phạm tội, đều
gông, xiềng, trói buộc, nhốt chặt trong ngục.
Chúng con do ác nghiệp chướng ấy, trải qua vô
lượng kiếp, đọa vào các đường ác,
hăy nên biết như trên đă nói cặn kẽ theo thứ
tự”. Lại có người nói rằng: “Chúng con đối
với đệ tử của các đức Phật ấy,
hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải là pháp khí, dấy
ḷng khinh mạn, đủ mọi cách xúc phạm, năo loạn,
khiến cho họ chẳng an lạc”).
“Phục
hữu thuyết ngôn: Ngă đẳng ư bỉ vô lượng
chư Phật xuất gia đệ tử” (lại có
người nói rằng: “Chúng con đối với đệ
tử xuất gia của các đức Phật ấy”): Lời sám hối của mỗi người mỗi
khác, nhưng sự t́nh đều như nhau, chỉ thay
đổi đôi chút vài câu. “Hoặc
thị pháp khí, hoặc phi pháp khí, thoái linh hoàn tục” (hoặc
là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí, buộc họ
hoàn tục): Loại đệ tử này trong quá khứ nhất
định là có quyền thế. Loại người sám hối
này, nếu chẳng phải là quốc vương, làm sao có
quyền lực bức ép người khác hoàn tục? “Thoái
linh hoàn tục, thoát kỳ ca-sa” (ép buộc hoàn tục, lột
y ca-sa), cho đến đánh thuế. Ḥa thượng chẳng
đóng thuế, v́ họ không có thâu nhập, chẳng cần
nộp thuế.
Phàm
là kẻ bắt ḥa thượng đóng thuế, đánh thuế
chùa miếu, hoặc là sai khiến họ cưỡng bức
lao động, trong tương lai, sẽ đọa địa
ngục. Quư vị nói với các quan chức thâu thuế:
“Được thôi! Quư vị thâu thuế ḥa thượng,
sẽ đọa địa ngục”. Trong kinh Đại Tập
Thập Luân, đức Phật đă nói như thế,
đó gọi là “bách hại” (迫害, bức hại). Nhưng đối
với tỳ-kheo phá giới, có thể có hai cách nói: Họ
kiếm tiền, đi làm, đương nhiên là phải
đánh thuế. Họ kinh doanh, mở cửa tiệm,
đương nhiên là phải nộp thuế. Hiện thời,
quư vị tới đây hóa duyên cũng phải nộp thuế.
Quư vị thâu được bao nhiêu, hóa duyên được
bao nhiêu, cũng phải nộp thuế. Đó gọi là “khóa
dịch” (課役, đánh thuế,
bắt đi làm lao dịch). Cho đến bức ép quư vị
làm lao dịch, cũng là do quư vị không có tiền, nghèo rớt
mồng tơi! Làm phu phen nặng nhọc, làm việc
khổ sở, làm việc nặng mà chẳng trả tiền. Đó gọi là
“cưỡng bức lao động”.
“Phục
hữu thuyết ngôn: Ngă đẳng ư bỉ vô lượng
chư Phật xuất gia đệ tử” (lại có
người nói rằng: “Chúng con đối với các đệ
tử xuất gia của vô lượng chư Phật”): “Vô
lượng” là nói rất nhiều đệ tử Phật
trong quá khứ, bất luận người đó là pháp khí,
hay chẳng phải là pháp khí cũng thế, “khởi
khinh mạn tâm, chủng chủng xúc năo” (dấy tâm khinh
mạn, đủ mọi cách xúc phạm, năo loạn), chẳng
bức hại họ, chẳng chửi mắng họ,
cũng chẳng đánh họ, cũng chẳng đánh thuế
họ, nhưng làm cho họ chẳng an vui, luôn khiến cho
họ sanh khởi phiền năo.
(Kinh)
Ngă đẳng do thử ác nghiệp chướng cố,
kinh vô lượng kiếp, thọ chư
trọng khổ, sở độc nan nhẫn, hậu đắc
trị ngộ vô lượng chư Phật, giai tằng
thân cận, thừa sự, cúng dường. Hựu đắc
trị ngộ vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát chúng, diệc
giai thân cận, thừa sự, cúng dường. Ư nhất
nhất Phật, nhất nhất Bồ Tát Ma Ha Tát tiền,
giai thâm tàm quư, phát lộ sám hối chư ác nghiệp
chướng. Ư nhất nhất Phật, nhất nhất
Bồ Tát Ma Ha Tát sở, giai đắc thính thọ vô lượng
pháp môn, tinh cần hộ tŕ, tu học vô lượng nan
hành khổ hạnh. Do bỉ nghiệp chướng hữu
dư vị tận, linh ngă đẳng bối vị
năng chứng đắc an lạc Niết Bàn, vị
năng chứng đắc tam-ma-địa môn thù thắng
công đức. Ngă đẳng kim giả, ư Thế Tôn tiền, văn thuyết
thử kinh, phục thâm tàm quư, phát lộ sám hối, bất
cảm phú tàng, nguyện tất trừ diệt. Tùng kim
dĩ văng, vĩnh bất phục tác, pḥng hộ
đương lai sở hữu tội chướng. Duy
nguyện Thế Tôn, ai mẫn nhiếp
thọ, linh ngă đẳng tội giai tất tiêu diệt,
ư đương lai thế, vĩnh bất cánh tạo.
Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn tế bạt ngă đẳng
đương lai ác thú khổ báo. Ngă đẳng kim giả
thừa Phật thần lực, nguyện tùy sở nhạo,
tốc năng chứng đắc an lạc Niết Bàn, hoặc
năng chứng đắc tam-ma-địa môn thù thắng
công đức.
(經)我等由此惡業障故,經無量劫受諸重苦,楚毒難忍。後得值遇無量諸佛,皆曾親近承事供養,又得值遇無量菩薩摩訶薩眾,亦皆親近承事供養;於一一佛、一一菩薩摩訶薩前,皆深慚愧,發露懺悔諸惡業障,於一一佛、一一菩薩摩訶薩所,皆得聽受無量法門,精勤護持,修學無量難行苦行。由彼業障有餘未盡,令我等輩,未能證得安樂涅槃,未能證得三摩地門殊勝功德。我等今者,於世尊前聞說此經,復深慚愧,發露懺悔,不敢覆藏,願悉除滅,從今以往永不復作,防護當來所有罪障。唯願世尊,哀愍攝受,令我等罪皆悉消滅,於當來世永不更造。唯願世尊,哀愍濟拔我等當來惡趣苦報。我等今者承佛神力,願隨所樂,速能證得安樂涅槃,或能證得三摩地門殊勝功德。
(Kinh:
Chúng con do ác nghiệp chướng ấy, trải qua vô
lượng kiếp, chịu các nỗi khổ
nặng nề, khổ sở khó thể chịu đựng. Sau đấy, được gặp gỡ vô
lượng chư Phật, đều từng thân cận,
thừa sự, cúng dường. Lại được gặp
gỡ vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát chúng, cũng đều
thân cận, thừa sự, cúng dường. Đối
trước mỗi vị Phật, mỗi vị Bồ Tát
Ma Ha Tát, đều hổ thẹn sâu xa, phát lộ sám hối
các nghiệp chướng ác. Nơi mỗi vị Phật,
mỗi vị Bồ Tát Ma Ha Tát, đều được
nghe nhận vô lượng pháp môn, siêng ṛng hộ tŕ, tu học
vô lượng khổ hạnh khó hành. Do nghiệp chướng
ấy c̣n sót thừa chưa hết, khiến cho chúng con
chưa thể chứng đắc Niết Bàn an lạc,
chưa thể chứng đắc công đức thù thắng
của tam-ma-địa môn. Chúng con nay đối trước
đức Thế Tôn, nghe nói kinh này, lại hổ thẹn
sâu xa, phát lộ sám hối, chẳng dám giấu diếm,
nguyện đều trừ diệt. Từ nay trở
đi, vĩnh viễn chẳng làm nữa, ngăn ngừa tất
cả tội chướng mai sau. Kính xin đức Thế
Tôn xót thương nhiếp thọ, khiến cho tội của
chúng con thảy đều tiêu diệt. Trong đời mai
sau, vĩnh viễn chẳng tạo nữa. Kính xin đức
Thế Tôn xót thương, cứu vớt khổ báo trong
đường ác của chúng con nơi đời mai sau.
Chúng con nay nương vào thần lực của Phật, tùy theo ḷng
ưa thích, sẽ có thể mau chứng đắc Niết
Bàn an lạc, hoặc có thể chứng đắc công
đức thù thắng của tam-ma-địa môn).
Chính
là do trong hiện tại, “văn thuyết thử kinh, phục
thâm tàm quư, phát lộ sám hối” (nghe nói kinh này, lại hổ
thẹn sâu xa, phát lộ sám hối), trước kia tuy đă từng
sám hối, nay nghe đức Phật nói bộ kinh này, càng cảm
thấy hổ thẹn, phát lộ sám hối. Đối với
các nghiệp đă làm, không chỉ sám hối một hai lần,
mà là sám hối vô lượng lần. Từ nay trở
đi, “pḥng hộ đương lai sở hữu tội
chướng” (ngăn ngừa tất cả tội
chướng trong tương lai), chẳng dám tái phạm!
(Kinh)
Ư thị, Thế Tôn phổ cáo Thanh Văn, Bồ Tát
chúng viết: “Thiện tai! Thiện tai! Nhữ đẳng
năi năng như thị tàm quư, phát lộ sám hối.
Hữu nhị chủng nhân, danh vô sở phạm:
Nhất giả, bẩm tánh chuyên tinh, bổn lai bất phạm.
Nhị giả, phạm dĩ tàm quư, phát lộ sám hối.
Thử nhị chủng nhân, ư ngă pháp trung, danh vi dũng
kiện, đắc thanh
tịnh giả. Hựu thiện nam tử! Như thị
năo loạn Phật đệ tử tội, tỷ tiền
sở thuyết Cận Vô Gián tội, bỉ đản hữu
danh, vị túc xưng tội. Nhiên thử năo loạn Phật
đệ tử tội, diệc quá tiền thuyết
Ngũ Vô Gián tội vô lượng bội số. Sở
dĩ giả hà? Nhược chư bật-sô hủy phá cấm
giới, tác chư ác pháp, do năng thị đạo vô
lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa chúng sanh, thiện
thú Niết Bàn, vô điên đảo lộ, dữ chư
chúng sanh, tác đại
công đức, trân bảo phục tạng như tiền
quảng thuyết, huống tŕ cấm giới, tu thiện
pháp giả? Dĩ thị nghĩa cố, nhược hữu
năo loạn Phật đệ tử chúng chư xuất gia
nhân, đương tri tắc vi đoạn Tam Bảo chủng,
diệc tắc danh vi khiêu hoại nhất thiết chúng sanh
pháp nhăn, diệc vi hủy diệt ngă cửu cần khổ
sở đắc chánh pháp, dữ chư chúng sanh tác đại
suy tổn. Thị cố, năo loạn Phật đệ tử
tội, quá tiền sở thuyết ngũ Vô Gián tội vô
lượng bội số”.
(經)於是世尊普告聲聞、菩薩眾曰:善哉!善哉!汝等乃能如是慚愧,發露懺悔。有二種人,名無所犯:一者、稟性專精,本來不犯;二者、犯已慚愧,發露懺悔。此二種人,於我法中,名為勇健得清淨者。又善男子,如是惱亂佛弟子罪,比前所說近無間罪,彼但有名,未足稱罪,然此惱亂佛弟子罪,亦過前說五無間罪無量倍數。所以者何?若諸苾芻毀破禁戒,作諸惡法,猶能示導無量百千俱胝那庾多眾生,善趣涅槃無顛倒路,與諸眾生作大功德珍寶伏藏,如前廣說,況持禁戒修善法者!以是義故,若有惱亂佛弟子眾諸出家人,當知則為斷三寶種,亦則名為挑壞一切眾生法眼,亦為毀滅我久勤苦所得正法,與諸眾生作大衰損。是故惱亂佛弟子罪,過前所說五無間罪無量倍數。
(Kinh:
Ngay khi đó, đức Thế Tôn bảo khắp các vị
Thanh Văn và Bồ Tát rằng: “Lành thay! Lành thay! Các ông có thể
hổ thẹn, phát lộ sám hối như thế. Có hai hạng
người gọi là không sai phạm ǵ: Một là bẩm
tánh chuyên ṛng, vốn chẳng trái phạm. Hai là phạm rồi
hổ thẹn, phát lộ sám hối. Hai loại người
ấy ở trong pháp của ta được gọi là
người dũng mănh, mạnh mẽ, đạt
được thanh tịnh. Lại này thiện nam tử!
Tội năo loạn đệ tử của đức Phật
như thế, so với tội Cận Vô Gián đă nói trong
phần trước th́ tội trước đó chỉ có
danh xưng, chưa đáng gọi là tội, nhưng cái tội
năo loạn đệ tử đức Phật này cũng nặng
hơn tội Ngũ Vô Gián đă nói trước
đó vô lượng lần. V́ cớ sao vậy? Như các bật-sô
hủy phá giới cấm, tạo các ác pháp, vẫn có thể
chỉ dạy vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa
chúng sanh con đường lành, con đường
chẳng điên đảo hướng
đến Niết Bàn, tạo công đức to lớn cho
các chúng sanh, là kho tàng trân bảo như đă rộng nói
trong phần trước, huống hồ người giữ
giới cấm, tu các pháp lành ư? Do v́ nghĩa này, nếu
có kẻ năo loạn những người xuất gia là
đệ tử đức Phật, hăy nên biết chính là
đă đoạn diệt chủng tánh Tam Bảo, cũng gọi
là chọc mù pháp nhăn của hết thảy chúng sanh, mà
cũng là hủy diệt chánh pháp do ta siêng khổ đă lâu
mới đạt được, tạo sự suy tổn
to lớn cho các chúng sanh. V́ thế, tội năo loạn các
đệ tử của đức Phật nặng hơn
tội Ngũ Vô Gián đă nói trong phần trước vô
lượng lần).
Những
lời thưa tŕnh như vậy tuy khác nhau, nhưng ư
nghĩa giống hệt như nhau. Đức Phật bảo
mọi người: “Lành thay! Lành thay! Các ông (tức
các chúng sanh đă nói trên đây) có thể hổ thẹn,
phát lộ sám hối như thế”. Có hai loại chúng
sanh được gọi là không trái phạm, một loại
là “bẩm tánh chuyên tinh, bổn lai bất phạm” (bẩm
tánh chuyên ṛng, vốn chẳng trái phạm), tức là người
tŕ giới thanh tịnh. Loại thứ hai th́ sao? Tuy đă
phạm, vẫn có thể hổ thẹn, vẫn có thể
sám hối, muốn sửa đổi. Hai loại người
này được gọi người dũng mănh, mạnh
mẽ trong pháp của ta.
Sám
hối tội lỗi rất khó! Ở trước mặt
rất nhiều người, nói ra chuyện sai lầm do
chính ḿnh đă phạm phải, rất xấu hổ,
đúng không? Chẳng mở miệng nổi! Khoe công đức,
ca ngợi chính ḿnh dễ nói hơn nhiều. Chỉ có một
tí tẹo, kẻ đó có thể nói thành to đùng. Trái lại,
sám hối tội lỗi của chính ḿnh, chẳng muốn
nói! Làm như thế nào? Đối trước Phật, Bồ
Tát nói, quỷ thần sẽ chứng minh cho quư vị, thần
hộ pháp sẽ chứng minh cho quư vị. Đối
trước mặt mọi người để nói mà
ngượng lắm th́ quư vị có thể đối
trước tượng Phật sám hối, thưa bày. Khi
chúng ta bái sám, v́ sao phải lạy riêng? Người đông,
sám hối chỉ nói những câu ấy, ai nấy đều
như nhau. Câu [văn sám hối]
xướng lên tuy rất viên măn, nhưng tội ác do
quư vị đă tạo th́ thật ra khác nhau. Khi quư vị về
nhà, đối trước tượng Phật, bèn cầu
nguyện: “Con đă phạm các tội ấy”. V́ sao mọi
người nói ta chẳng tốt. Ta làm một tí chuyện
tốt bèn bị người khác phá hoại, đấy là
do nguyên nhân nào? Đại khái là trong đời quá khứ,
ḿnh đă nói người ta chẳng tốt. Quư vị hăy
suy ngẫm, tâm quư vị
[nghĩ xấu cho người khác] cho đến móc rỉa,
hủy báng, khinh miệt kẻ khác, quư vị đă làm bao
nhiêu? Đặc biệt là đối với người
xuất gia, hoặc đối với đạo hữu.
Chúng ta [phạm lỗi với] người xuất gia có lẽ
c̣n ít, chứ giữa các ưu-bà-tắc hoặc ưu-bà-di
với nhau, chuyện kiểu này quá nhiều, đặc biệt
là ưu-bà-di, phải đặc biệt chú trọng! Giữa
các đạo hữu với nhau, chẳng thấy sở
trường của người khác, toàn thấy khuyết điểm. Sở trường của
người khác bèn ẩn giấu, c̣n khuyết điểm
th́ bà ta rêu rao cùng khắp: “Ối trời ơi! Quư vị
thấy đó, cư sĩ X… hôm nay lấy trái cây trong chùa
nè!” Bà ta chẳng biết trái cây đó là do sư phụ cho
[vị cư sĩ đó].
Tôi
đă thấy chuyện kiểu này! Sau đó, lại có
người đến khóc lóc, kể lể, mách tội kẻ
khác. Tôi nói: “Đấy là tôi cho bà ta!” Quư vị đừng
bận tâm, tội nghiệp của quư vị [do bị bà ta
bươi móc] như thế sẽ tiêu trừ. Chớ nên bực
bội, chẳng có chuyện ǵ hết. Do bà ta hủy báng,
quư vị mắc tội đáng lẽ đọa địa
ngục bèn thoát khỏi. Tôi chẳng nói tùy tiện đâu
nhé, kinh Kim Cang dạy như thế đó. Mọi người
đọc kinh Kim Cang, hăy xem thử, có phải là đúng
như thế hay chăng? Như vậy th́ [hễ người
nào bị kẻ
khác hủy báng] sẽ rất vui thích. Nếu chẳng giải
thích như vậy, trong tâm [người đó] bèn sanh phiền
năo, có phải là [tự ḿnh chuốc lấy] phiền năo hay
không? Đặc biệt là chúng ta học rất kiền
thành, rất sợ kẻ khác nói ḿnh không tốt. Nếu ai
vừa nói ta không tốt, nổi nóng ngay! Sau đó, giữa
các đạo hữu với nhau, một chuyện dính thành
hai chuyện, dính dáng rất nhiều! Quư vị không có [những
điều xấu ấy], chớ sợ! Mặc kệ kẻ
đó nói như thế nào đi nữa, kẻ đó cũng chẳng tổn
hại quư vị tí nào, vô dụng! [Hăy tâm niệm]:
“Ngươi nói nhằm khiến cho ta nghe xong sẽ sanh khởi phiền
năo. Ngươi báng bổ thế nào đi nữa, ta chẳng
nghe ngươi nói chi hết!” Bởi lẽ, những chuyện này mỗi
đạo hữu cũng đều có; hễ đụng phải th́ quư vị
làm như thế nào? Quư vị hăy hổ thẹn! Quư vị
chẳng có đức hạnh to dường ấy, mong
người khác đừng nói động đến ḿnh,
chẳng thể nào được! Thích Ca Mâu Ni Phật mà
c̣n bị kẻ khác nói nặng nhẹ, c̣n có kẻ mạo
phạm Ngài, c̣n có người tính vượt hơn Ngài.
Thích Ca Mâu Ni Phật cũng chẳng nói ǵ, nhưng kẻ tạo
nhân quả ấy đối với Ngài, đọa vào
địa ngục, chịu khổ! Có kẻ thọ báo ngay
trong hiện đời, “dựng sào bèn thấy bóng”
đó mà!
Giúp
đỡ người khác, giúp đỡ người
đó tiến hơn bước nữa, người đó
biết chính ḿnh đạo đức chẳng đủ,
v́ sao người ta nói chúng ta này nọ? V́ bản thân chúng
ta chẳng đủ đạo đức! Quư vị phải
hổ thẹn. Hễ nghe thấy, quư vị phải sám hối.
Nếu nói đời này tôi tốt lắm, đời
trước th́ sao? Vô lượng đời th́ sao? Kẻ
hủy báng quư vị là v́ trong quá khứ quư vị đă nói
xấu người ta. V́ sao quư vị chẳng sám hối?
V́ hiện thời quư vị chẳng trông thấy. Nếu tất
cả mọi người đều có thần thông, biết
vốn là chuyện như vậy, sẽ tâm b́nh khí ḥa. Do chẳng
biết quá khứ, chỉ nh́n vào hiện tại. Nh́n vào hiện
tại, sẽ chẳng thể giải quyết vấn
đề. Lúc học kinh, đừng nghĩ những câu
kinh ấy lặp đi lặp lại, quư vị nắm lấy
mấy điểm là được rồi! Chúng tôi luôn cảm
thấy bất luận lúc nào cũng
đều đang sám hối, ngay cả Đẳng Giác Bồ
Tát vẫn c̣n đang sám hối. Bản thân quư vị hăy khéo cầu nơi chính ḿnh, hướng ra ngoài cầu cạnh,
sẽ cầu chẳng được! Hăy cầu nơi cái
tâm của chính ḿnh.
Tôi
kể một câu chuyện cũ, thiền sư Phật Ấn
và Tô Đông Pha hai người đến chùa. Tô Đông Pha
hỏi thiền sư Phật Ấn: “Quán Thế Âm Bồ
Tát cầm tràng hạt để làm ǵ?” Thiền sư Phật
Ấn đáp: “Để niệm”. “Ngài niệm ai?” “Ngài niệm
Quán Thế Âm Bồ Tát!” Tô Đông Pha nói: “Lẽ nào Quán Thế
Âm Bồ Tát niệm Quán Thế Âm Bồ Tát?” Thiền sư
Phật Ấn nói: “Ngài không niệm chính ḿnh th́ niệm ai?”
Đấy là điều thứ nhất. Tô Đông Pha lại
hỏi: “Ngài có đảnh lễ không?” Thiền sư Phật
Ấn nói: “Lạy chứ!” Tô Đông Pha nói: “Lạy ai?” Thiền
sư Phật Ấn nói: “Quán Thế Âm Bồ Tát lạy Quán
Thế Âm Bồ Tát!” Qua vài lượt hỏi đáp, thiền
sư Phật Ấn bảo Tô Đông Pha: “Ông đă khai ngộ”.
Mọi
người ngẫm xem [chúng ta] có khai ngộ hay không? Sợ
rằng chúng ta vẫn chẳng khai ngộ, biết điều
này có nghĩa là ǵ? Tâm của mỗi vị Phật chính là
cái tâm của quư vị. Quư vị chỉ cần niệm nào cũng là Quán Thế
Âm, hay niệm nào cũng là chính ḿnh cũng thế. Chớ
nên niệm sắc thân của chính ḿnh! Sắc thân của
quư vị có thể tạo tội, hăy niệm Pháp Thân của
chính ḿnh. Pháp Thân ấy bao gồm hết thảy chư Phật,
[niệm Pháp Thân của chính ḿnh] là niệm hết thảy
chư Phật, niệm hết thảy Bồ Tát, một tức
là hết thảy, có hàm nghĩa này! V́ sao nói như vậy?
Đức Phật bèn giải thích cho họ. Phát lộ sám
hối có hai loại người, ở trong pháp của ta, “danh
vi dũng kiện đắc thanh tịnh giả”
(được gọi là kẻ dũng mănh, mạnh khỏe,
đạt được thanh tịnh).
Nếu
“thiện nam tử, như thị năo loạn Phật
đệ tử tội, tỷ tiền sở thuyết Cận
Vô Gián tội” (thiện nam tử! Cái tội năo loạn
đệ tử của đức Phật như thế,
so với tội Cận Vô Gián đă nói trong phần trước)
c̣n nặng hơn! [Bởi lẽ, tội Cận Vô Gián] chỉ
có danh xưng, chưa kể là tội. Tức là tội Cận
Ngũ Vô Gián vẫn chưa tính là tội được!
Nhưng cái tội năo loạn đệ tử của đức
Phật “diệc quá tiền thuyết
Ngũ Vô Gián tội vô lượng bội số”
(cũng nặng hơn tội Ngũ Vô Gián đă nói trong phần
trước vô lượng lần), c̣n nặng hơn tội
Ngũ Vô Gián. Do vậy, đọa vào địa ngục, tức là đọa
vào địa ngục vô Gián, thời gian để thoát ra
đặc biệt lâu dài.
V́ lẽ nào vậy? “Nhược chư bật-sô
hủy phá cấm giới, tác chư ác pháp, do năng thị
đạo vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa
chúng sanh, thiện thú Niết Bàn, vô điên đảo lộ” (Như các bật-sô
phá hủy giới cấm, tạo các ác pháp, vẫn có thể
chỉ dạy đường lành hướng đến
Niết Bàn, là con đường chẳng điên đảo
cho vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa chúng
sanh). Tuy kẻ đó phá giới, là tỳ-kheo bại hoại,
nhưng ông ta vẫn có thể thuyết pháp cho vô lượng
trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa chúng sanh nhiều ngần ấy,
khiến cho họ có thể đạt tới Niết Bàn,
[chỉ cho họ] con đường chẳng điên đảo.
Lại c̣n “chúng sanh tác đại
công đức, trân bảo phục tàng” (làm kho báu đại
công đức cho chúng sanh), nghĩa là ông ta là kho báu như
trong phần trước đă rộng nói; huống hồ
một vị [tỳ-kheo] tŕ giới cấm, tu pháp lành [càng
có công đức to lớn hơn ư]? Trong phần trước, đối với t́nh
h́nh này, đức Phật đă nói rất nhiều. Trong phần
kinh văn trước đó, [đức Phật đă bảo]
tỳ-kheo phá giới vẫn là kho tàng báu chứa đựng
trân bảo cho hết thảy chúng sanh, có thể sử dụng
chẳng cùng tận; huống hồ những vị ǵn giữ
giới cấm tốt đẹp, lại c̣n tu thiện
pháp! Kẻ năo loạn các vị như thế, tội c̣n to
hơn nữa!
V́
sao ta (đức Phật) nói tội ác lớn dường ấy?
Kẻ hủy báng, phá diệt, cho đến phá pháp, phá tỳ-kheo
Tăng, đă chọc mù pháp nhăn của hết thảy chúng
sanh, mà cũng là hủy
diệt chánh pháp do ta siêng khổ trong vô lượng ức
kiếp mới đạt được. “Dữ chư
chúng sanh tác đại suy tổn” (tạo sự suy tổn
to lớn cho các chúng sanh): Tổn thương công đức
pháp tạng của chúng sanh. “Thị cố, năo loạn Phật đệ tử tội, quá tiền
sở thuyết Ngũ Vô Gián tội vô lượng bội
số” (v́ thế, cái tội năo loạn đệ tử Phật
vượt hơn tội Ngũ Vô Gián đă nói trong phần
trước vô lượng lần).
(Kinh)
Thị cố, nhữ đẳng kim ư ngă tiền, khởi
chí thành tâm, tăng thượng tàm quư, ân cần khẩn thiết,
phát lộ sám hối văng tích sở tạo chư ác nghiệp
chướng, ngă kim từ bi nhiếp thọ nhữ đẳng,
linh ác nghiệp chướng tiệm đắc tiêu diệt.
Ư thử Phật độ, đại Hiền
Kiếp trung, hữu thiên Như Lai xuất hiện ư thế,
nhữ đẳng ư bỉ chư Như Lai tiền, diệc
đương chí thành phát lộ sám hối, chư ác nghiệp
chướng, pḥng hộ đương lai sở hữu tội
cữu. Ư thử Hiền Kiếp thiên Như Lai trung, tối
hậu Như Lai danh viết Lô Chí Như Lai, Ứng Chánh
Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Măn, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự
Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc Già Phạm, thập
hiệu cụ túc. Nhữ đẳng ư bỉ Lô Chí Phật
tiền, diệc đương chí thành phát lộ sám hối
chư ác nghiệp chướng, năi đắc diệt tận,
vô hữu di dư.
(經)是故汝等今於我前,起至誠心、增上慚愧,慇勤懇切發露懺悔往昔所造諸惡業障,我今慈悲攝受汝等,令惡業障漸得消滅。於此佛土大賢劫中,有千如來出現於世,汝等於彼諸如來前,亦當至誠發露懺悔諸惡業障,防護當來所有罪咎。於此賢劫千如來中,最後如來名曰盧至如來、應正等覺、明行圓滿、善逝、世間解、無上丈夫、調御士、天人師、佛、薄伽梵,十號具足。汝等於彼盧至佛前,亦當至誠發露懺悔諸惡業障,乃得滅盡無有遺餘。
(Kinh: V́ thế, các ông nay đối trước ta, dấy ḷng chí
thành, hổ thẹn tăng thượng, ân cần, khẩn
thiết, phát lộ sám hối các ác nghiệp chướng
đă tạo xưa kia. Ta nay từ bi nhiếp thọ các
ông, khiến cho ác nghiệp chướng dần dần tiêu
diệt. Nơi cơi Phật này, trong đại Hiền Kiếp,
có một ngàn đức Như Lai xuất hiện trong cơi
đời, các ông đối trước các đức
Như Lai ấy, cũng nên chí thành phát lộ sám hối các
ác nghiệp chướng, ngăn ngừa tất cả tội
lỗi trong tương lai. Trong một ngàn vị Như Lai
thuộc Hiền Kiếp này, vị Như Lai cuối cùng
tên là Lô Chí Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh
Viên Măn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư,
Phật, Bạc Già Phạm, mười hiệu trọn
đủ. Các ông đối trước Lô Chí Phật
cũng nên chí thành phát lộ sám hối các ác nghiệp
chướng cho đến diệt tận chẳng c̣n thừa
sót).
Hổ
thẹn chưa đủ, c̣n phải là “tăng thượng
tàm quư”. Chúng ta học pháp nhằm mục đích tăng
thượng cái tâm, khiến cho chúng ta phát tâm, khiến cho
chúng ta phát nguyện, khiến cho sự sám hối tội ác của chúng ta luôn
được tăng thượng. V́ sao chúng ta phải
nghe kinh? Nghe xong một buổi giảng kinh, quư vị sẽ
tăng thượng một phần tâm. Nếu chẳng
nghe, quư vị sẽ chẳng có cái tâm ấy, [cái tâm ấy]
chẳng dễ dàng sanh khởi! Trong Bồ Đề Đạo
Thứ Đệ Luận, đặc biệt chú trọng
tăng thượng duyên; nhưng xét theo tội nghiệp th́
cũng là tăng thượng nghiệp. Ác duyên tăng
thượng, tội nghiệp của
quư vị cũng tăng thượng. Hàm nghĩa của “tăng
thượng” là như thế đó, phải tăng
thượng hổ thẹn, ân cần, khẩn thiết.
Nếu
có thể phát khởi sám hối, quư vị đau đớn
khóc lóc, tối thiểu là khắp thân toát mồ hôi đầm
đ́a, thậm chí rơi lệ, sám hối đến chảy
cả máu mắt th́ mới là thật sự sám hối thanh
tịnh. Thật sự nhận biết tội ác đúng là
đáng sợ. Có kẻ nói nỗi khổ địa ngục
là do đức Phật dọa dẫm chúng ta, thật sự
có nỗi khổ địa ngục hay không? Đợi tới
khi quư vị chịu khổ, sẽ biết, trễ mất
rồi! Giả sử lúc ấy chẳng có thiện căn,
quư vị niệm một tiếng thánh hiệu Địa Tạng
Bồ Tát: “Địa Tạng Bồ Tát hăy mau tới cứu
con! Con đang ở trong địa ngục”. Địa ngục
lập tức thành không, đáng tiếc là lúc đó đă sớm
quên bẵng Địa Tạng Bồ Tát mất
rồi, căn bản là chẳng nghĩ nổi!
Khi
chúng ta nằm mộng thấy được ác duyên bèn tỉnh
mộng, hăy nghĩ xem v́ sao chúng ta chẳng niệm Phật?
Trong mộng, hoảng sợ thân đẫm mồ hôi. Đấy
là lúc b́nh thường không có công sức, tới khi phải
vận dụng, chẳng vận dụng được!
Điện trong nhà quư vị đứt cầu ch́, v́ quư vị
không học [cách sửa chữa], chẳng biết ở chỗ
nào, t́m không thấy! Có thấy cũng chẳng biết, quư
vị chẳng chuyên chú nơi đó, [cho nên] chẳng biết,
mỗi việc đều là như vậy. Thoạt nh́n
chuyện rất đơn giản, [thế nhưng] quư vị
chẳng hiểu, mà cũng chẳng biết. Do vậy, ắt cần phải tăng thượng hổ
thẹn, khéo sám hối, hoặc là cầu Phật từ bi
gia tŕ. Đấy là chẳng thể nghĩ bàn!
Chẳng
hạn như mời thợ, quư vị thấy là chuyện
rất đơn giản. Kẻ đó làm nhoay nhoáy là xong, lại
đ̣i rất nhiều tiền. Quư vị nghĩ không ra: “Chỉ cần làm mấy
bước mà đ̣i ḿnh lắm tiền như vậy?” Tôi kể cho quư vị
nghe một câu chuyện: Tôn
Trung Sơn (Tôn Văn) ở Thượng Hải, khi đó, chỗ ông ta ở đă có hệ thống
nước máy. Ṿi nước bị hư, tắt cũng
không được. Kêu thợ đến sửa, ông Tôn thấy
người thợ vặn hai ba cái, sờ nắn thêm một tí nữa là xong, nước không chảy nữa.
Tôn tiên sinh hỏi: “Tính bao nhiêu tiền?”
Người đó nói: “Hai mươi đồng”. Vào lúc
đó, hai mươi đồng khá lớn! Tôn tiên sinh hỏi:
“Sao mà anh tính mắc quá vậy, đ̣i nhiều tiền dữ
vậy?” Người đó đáp: “Mắc hả? Không mắc
đâu! Tôi tính cho ngài coi. Tôi học
từ Tiểu Học tới Trung Học, tốt nghiệp
Cao Trung (cấp ba), tôi đi học kỹ thuật. Tốn
công mấy năm tôi mới học hiểu. Đấy chẳng
phải là đáng tiền ư?” Tôn tiên sinh suy nghĩ, có lư!
Ta chỉ nghĩ là anh ta tính mắc, chẳng
nghĩ người ta phải học như thế nào mới
có được tay nghề đó!
Giống như Tề Bách Lâm (Ferdinand A. von
Zeppelin) phát minh ra tàu bay[2]. Ông ta bán sạch ruộng
vườn, trang trại. Cuối cùng, khi hỏa lực chẳng
đủ, phàm những ǵ trong nhà có thể đốt
được đều quăng vào ḷ luyện thép. Cuối
cùng, lục thân quyến thuộc đều ĺa bỏ ông
ta, thứ ǵ cũng đều chẳng c̣n, chỉ c̣n lại
một ḿnh ông ta! Rốt cuộc ông ta đă phát minh ra phi
đĩnh (飛艇, thuyền bay), cái phi đĩnh ấy
được gọi bằng danh xưng Zeppelin. Tôi thấy
câu chuyện ấy, bèn nói: “Quư vị phải hiểu,
mỗi phần kiến thức là mỗi phần công sức,
bất luận ngành nghề nào! Huống hồ quư vị
mong học Phật, làm đệ tử đức Phật,
muốn liễu đạo thành Phật, đoạn vô
lượng kiếp sanh tử, cứ tà tà mà có thể
đạt được ư?” Nhất định phải
nhận thức như thế, cái tâm hổ thẹn của
quư vị mới có thể sanh khởi được! Mong
đoạn khổ, được vui, quư vị thấy
người ta đạt được phú quư dễ ợt,
đừng nên ganh tỵ, họ có nhân duyên của họ!
Quư vị đừng thấy làm quan là tốt. Đó là tiêu
tiền để chịu tội! Đợi đến
khi người ấy hứng chịu, ăn năn, kẻ
đó mới biết. Giương chiêu bài “v́ nhân dân phục
vụ”, đợi đến khi nắm được
quyền lực, kẻ đó chẳng nghĩ tới nhân
dân, chẳng làm chuyện tốt cho dân chúng, mà chỉ nghĩ
tới chính ḿnh!
“Ư
thử Phật độ, đại Hiền
Kiếp trung” (trong Đại Hiền Kiếp
nơi cơi Phật này): Trong Nhân Hiền Kiếp, tức
Đại Hiền Kiếp, “hữu thiên Như Lai xuất
hiện ư thế” (có một ngàn vị Như Lai xuất
hiện trong cơi đời): Hiện thời đă qua bốn
vị Phật, hăy c̣n chín trăm chín mươi sáu vị. Ở
chỗ các đức Như Lai ấy, tức là đối
trước mỗi vị Phật trong một ngàn vị Phật,
đối trước mỗi vị Phật đó, quư vị
đều phải nên chí thành sám hối. Các ác nghiệp
chướng quư vị trót tạo, “pḥng hộ
đương lai sở hữu tội cữu” (ngăn
ngừa tất cả tội lỗi trong tương lai),
do sẽ phải thọ báo, do tội lỗi mà mắc quả
báo. Quư vị phải khéo ngăn ngừa. Nếu sám hối,
sẽ chẳng phải hứng chịu. Mối nợ tội
chướng ấy, quư vị có thể tránh khỏi. “Ư
thử Hiền Kiếp thiên Như Lai trung, tối hậu
Như Lai danh viết Lô Chí Như Lai” (trong một ngàn vị
Như Lai thuộc Hiền Kiếp này, vị Như Lai cuối
cùng tên là Lô Chí Như Lai): Đấy là Hộ Pháp Vi Đà,
Ngài thành Phật cuối cùng.
“Ứng
Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Măn, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự
Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc Già Phạm”,
[đó là] mười hiệu của Như Lai. Mỗi vị
Phật đều có đủ mười hiệu ấy.
Các ông hăy nên đối trước Lô Chí Phật giống
như hiện thời đối trước ta vậy! “Phát
lộ sám hối, chư ác nghiệp chướng” (bày tỏ
sám hối các nghiệp chướng ác). Khi ấy mới có
thể “diệt tận vô hữu di dư” (diệt hết
sạch, chẳng c̣n sót thừa), vẫn có thể đối
trước Lô Chí Phật sám hối tất cả nghiệp
chướng của quư vị. Sau đó, sẽ thanh tịnh,
vĩnh viễn chẳng c̣n nữa. Điều này
được gọi là “thọ kư”. Phật sẽ “thọ kư biệt” cho người ấy, chẳng phải là thọ kư
thành Phật, đó là chuyện trong tương lai. Trước
hết, thọ kư biệt cho người ấy, đấy
là [nội dung của] kinh Đại Kư Biệt. Bộ kinh ấy
có tên là Đại Kư Biệt, chẳng phải là hứa
nguyện, mà nhằm bảo họ: Quư vị phải làm
như thế nào để trong tương lai quư vị sẽ
có thể thanh tịnh.
(Kinh)
Thời, chư Thanh Văn, cập Bồ
Tát chúng, câu thời bạch Phật: “Dụy
nhiên Thế Tôn! Ngă đẳng thẩm đương ư
bỉ tối hậu Lô Chí Phật sở, hoạch đắc
chánh kiến, ly chư tà kiến, chư ác nghiệp chướng
tận diệt vô dư, giải thoát nhất thiết chúng
khổ năo giả. Nhược linh ngă đẳng ư
Đại Hiền Kiếp, thường xử Vô Gián đại
địa ngục trung, hằng thọ chủng chủng cực
trọng khổ năo, diệc năng kham nhẫn”. Thế Tôn
cáo viết: “Thiện tai! Thiện tai! Nhữ đẳng
năi năng như thị dũng mănh. Như đẳng do thử
kiên cố tinh tấn tự thệ nguyện lực, định
năng ư bỉ Lô Chí Phật tiền, túc thế sở
tập chư ác nghiệp chướng giai tất tiêu diệt,
định năng phát khởi tăng thượng tín kính,
thân cận, cúng dường Lô Chí Như Lai, định
năng vĩnh đoạn nhất thiết phiền năo, thành A
La Hán, hoặc định năng chứng tam-ma-địa
môn thù thắng công đức”. Thời chư Thanh Văn, cập
Bồ Tát chúng, hoan hỷ lễ Phật, hoàn phục bổn
ṭa.
(經)時諸聲聞及菩薩眾,俱時白佛:「唯然世尊,我等審當於彼最後盧至佛所,獲得正見,離諸邪見,諸惡業障盡滅無餘,解脫一切眾苦惱者。若令我等於大賢劫,常處無間大地獄中,恆受種種極重苦惱,亦能堪忍。」世尊告曰:「善哉!善哉!汝等乃能如是勇猛。汝等由此堅固精進自誓願力,定能於彼盧至佛前,宿世所集諸惡業障皆悉消滅,定能發起增上信敬親近供養盧至如來,定能永斷一切煩惱成阿羅漢,或定能證三摩地門殊勝功德。」時諸聲聞及菩薩眾,歡喜禮佛,還復本座。
(Kinh:
Khi ấy, các vị Thanh Văn và Bồ Tát cùng lúc bạch
Phật: “Kính vâng đức Thế Tôn! Chúng con chắc chắn
sẽ ở nơi vị Phật Lô Chí tối hậu,
đạt được chánh kiến, ĺa các tà kiến, diệt
sạch các ác nghiệp chướng chẳng sót, giải
thoát hết thảy các khổ năo. Dẫu cho chúng con trong
Đại Hiền Kiếp, thường ở trong đại
địa ngục Vô Gián, luôn thọ
các thứ khổ năo cực nặng, cũng có thể kham
chịu”. Đức Thế
Tôn bảo rằng: “Lành thay! Lành thay! Các ông có thể dũng
mănh như thế. Các ông do sức tự thệ nguyện
kiên cố tinh tấn này, chắc chắn sẽ ở
nơi Lô Chí Phật, các nghiệp chướng ác đă tích
tập trong đời trước thảy đều tiêu
diệt, chắc chắn sẽ phát khởi ḷng tín kính
tăng thượng, thân cận, cúng dường Lô Chí
Như Lai, chắc chắn sẽ có thể vĩnh viễn
đoạn trừ hết thảy phiền năo, thành A La Hán,
hoặc chắc chắn có thể chứng công đức
thù thắng nơi tam-ma-địa môn”. Khi ấy, các Thanh
Văn và các vị Bồ Tát hoan hỷ lễ Phật, trở
về chỗ ngồi của chính ḿnh).
Chúng
ta hăy khéo suy xét, nhất định phải quan sát như vậy,
phải làm như vậy. Đối trước Lô Chí Phật,
tức vị Phật cuối cùng [trong Hiền Kiếp] mà
sám hối thanh tịnh. “Hoạch đắc chánh kiến,
ly chư tà kiến, chư ác nghiệp chướng tận
diệt vô dư” (đạt được chánh kiến,
ĺa các tà kiến, các nghiệp chướng ác đều tận
diệt, chẳng c̣n sót), tiêu diệt hết sạch tất
cả các ác nghiệp chướng, chẳng c̣n tồn tại
nữa. “Vô dư” (無餘) là chẳng c̣n
ǵ nữa. “Giải thoát nhất thiết chúng khổ năo
giả” (giải thoát hết thảy các khổ năo): Các nỗi
khổ trong tam đồ, cho đến Kiến Tư phiền
năo, Trần Sa đều có thể giải thoát, nhưng vẫn
chưa đoạn vô minh. “Diệc năng kham nhẫn”
nghĩa là có thể chịu đựng, có thể tiếp
nhận hết thảy các pháp sanh vô lượng nghĩa.
Khi đó, sẽ thật sự trở thành đại pháp
khí. Phải tới khi Lô Chí Phật xuất thế th́ mới
sám hối hết sạch, họ mới có thể thành Phật.
Đối
với công đức của mỗi vị Phật
được nói trong phẩm Xưng Phật Danh Hiệu
của kinh Địa Tạng, nếu nói riêng từng vị
sẽ rất dài. Chúng ta lễ lạy hằng ngày, mỗi
ngày tối thiểu lạy một lượt, quư vị phải
khéo hồi hướng, phải phát nguyện, đừng
nên bỏ lỡ. Mỗi vị Phật đều như thế,
đều có nhân duyên để gọi bằng danh hiệu
Đại Thông Như Lai[3],
quư vị có thể thấy vô lượng ức Phật thọ
kư cho quư vị cho đến khi thành Phật.
Đây
là chúng ta bái sám vị Phật cuối cùng [trong phẩm kinh ấy],
tức Đại Thông Như Lai, phải nên tác ư. “Tác ư” là quư vị phải
nên quan sát, phải tư duy, phải suy tưởng,
đối với công đức đáng đạt
được, đừng nên bỏ lỡ. Khi đáng nên
sám hối tội lỗi, cũng đừng nên bỏ lỡ.
Đấy là công đức. Hơn nữa, tội ác và công
đức hai đằng đều không có, phép Quán ấy
là Bát Nhă Quán. Các pháp đều là duyên khởi, duyên khởi
tánh không. Xét theo bản thể hoặc pháp tánh, chúng đều
chẳng tồn tại. Nhiễm là nói đối lập với
tịnh, tội ác là nói đối lập với công đức.
Cũng chẳng có công đức, mà cũng chẳng có tội
ác. Các pháp tương đối ấy trọn chẳng có,
nhưng quư vị ắt cần phải chứng đắc
địa vị ấy th́ mới có thể nói như thế!
Chẳng đạt tới mức độ ấy, [nói
suông kiểu đó] sẽ là rỗng tuếch. Tôi tát quư vị
mấy cái nổ đom đóm, chửi quư vị dăm câu,
quư vị chẳng thể nào coi là Không được! Có
Không nổi hay chăng? Không chẳng nổi! Nếu ba ngày chúng tôi chẳng cho quư vị
ăn cơm, quư vị đói bụng, một mực
kêu gào ầm ĩ; vài ngày không uống
nước, quư vị chịu nổi hay không? Quư vị nói
Không, thân thể của ta đều là Không, tới lúc
đó, quán chẳng thành, Không chẳng nổi! Đă chẳng
Không được, sẽ chịu khổ liền! Phải
hiểu đạo lư này, lấy ngay chuyện này làm tỷ
dụ. Quư vị đă phạm tội, hoặc là hiện
thời phải thọ báo, chẳng “chích ngừa”, đến
lúc đó, nhất định sẽ phải hứng chịu.
V́ sao Đại Bồ Tát đến hóa độ chúng sanh?
Các Ngài chẳng bị chúng ta huân nhiễm, đă “chích ngừa”,
đă pḥng thủ cái tâm kỹ càng! Tâm các Ngài là Không, đấy
mới là Chân Không, trọn chẳng phải là cái Không
như kiểu chúng ta. Pháp Đại Thừa là liễu
nghĩa, nhưng khi quư vị chưa chứng đắc, sẽ
chẳng dấy lên tác dụng, quư vị chẳng thể sử dụng
được. V́ chẳng dùng được, quư vị mới
ăn nói lớn lối!
V́
sao Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng thể làm chủ cho những
người ấy, nói “được lắm, các vị
sám hối với tôi là được rồi. Tội nghiệp
của quư vị đă thanh tịnh”? Ngài trọn chẳng
nói như thế. Ngài biết quư vị cần phải rèn
giũa dần dần, v́ quư vị hoàn toàn chẳng đạt
tới cảnh giới đó. Như
chúng ta, ngay cả tín tâm cũng chẳng trọn đủ,
phải tu từ từ. Sở dĩ tôi nói “tu từ từ” là v́ quư vị quá tinh tấn! Chúng ta hễ nói “tinh tấn
tu”, [bèn lập tức hiểu lầm] là chuyện ǵ
cũng chẳng làm, cứ bái sám mà thôi! Ai cho quư vị
cơm ăn? Ḥa thượng tự ḿnh ở trong sơn
động tu hành, chẳng lợi ích người khác,
cũng chẳng giúp đỡ người khác, làm sao
người khác giúp quư vị cho được? Đều
là trao đổi lẫn nhau! Tuy chẳng phải là [đổi
chác] ngang giá, nhưng tự nhiên có ư nghĩa này! Tăng nhân
phải làm công đức, ngay cả ăn cơm cũng phải
hồi hướng cho người ta. Ăn uống, ngủ
nghê, bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào, cũng
đều phải nghĩ tới kẻ khác, luôn hồi
hướng cho họ. Nói đến chuyện đi vệ
sinh, chớ nên hồi hướng ư? Đi vệ sinh
càng phải cần [làm như thế]. Khi bước vào
pḥng vệ sinh, quư vị bèn phát nguyện “đương
nguyện chúng sanh, khí tham, sân, si, quyên trừ tội pháp, nhất
thiết thanh tịnh” (nguyện cho chúng sanh, bỏ tham,
sân, si, trừ sạch tội pháp, hết thảy thanh tịnh).
Khi tiến vào đó, tội ác ǵ ta cũng đều bỏ
sạch, nguyện cho hết thảy chúng sanh đều vứt
bỏ tham, sân, si, chứng đắc Niết Bàn. Ngay cả
ở nơi đó, vẫn chẳng buông lung. Đi, đứng,
nằm, ngồi, suốt ngày hai mươi bốn tiếng
đồng hồ, bất cứ lúc nào cũng đều
phát nguyện, nguyện cho chúng sanh thành Phật, luôn luôn sám
hối, sám hối tội nghiệp!
Nguyện
thứ tư trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện
có nói: Nếu tội của chúng ta mà có h́nh tướng, thế
giới này chẳng thể chứa đựng nổi.
Hư không đều nứt vỡ. C̣n may là tội chẳng
có h́nh tướng, là Không. Hăy hiểu đạo lư này. Do vậy,
khi sám hối tội lỗi, ắt phải dựa theo
đại nguyện vương thứ tư trong phẩm
Phổ Hiền Hạnh Nguyện để sám hối; tùy hỷ
công đức th́ phải dựa theo đại nguyện
thứ năm để tùy hỷ.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Kim Cang Tạng Bồ Tát Ma Ha
Tát ngôn: - Thiện nam tử! Ngă dĩ Phật nhăn quán chư
thế gian, kiến vị lai thế, thử Phật độ
trung, hữu vô lượng, vô số bách thiên câu-chi na-dữu-đa
Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, Bà-la-môn Chiên-đồ-la,
tể quan Chiên-đồ-la, cư sĩ Chiên-đồ-la,
trưởng giả Chiên-đồ-la, sa môn Chiên-đồ-la,
Phiệt-xá Chiên-đồ-la, Thú-đạt-la Chiên-đồ-la,
nhược nam, nhược nữ, thiểu chủng thiện
căn, tuy đắc nhân thân, nhi tùy ác hữu, khởi
chư tà kiến, tạo chư ác hạnh, hoại ngă thậm
thâm vô thượng chánh pháp. Ư ngă sở thuyết vô hữu
xí nhiên, diệt xí nhiên pháp, bất sanh tín nhạo, hoặc
ư ngă thuyết dữ Thanh Văn Thừa tương ứng
chánh pháp, phỉ báng, khinh hủy, chướng tế, ẩn
một, bất linh lưu bố. Hoặc ư ngă thuyết
dữ Độc Giác Thừa tương ứng chánh pháp,
phỉ báng, khinh hủy, chướng tế, ẩn một,
bất linh lưu bố. Hoặc ư ngă thuyết dữ
Vô Thượng Thừa tương ứng chánh pháp, phỉ
báng, khinh hủy, chướng tế, ẩn một, bất
linh lưu bố. Hoặc ư quy ngă chư xuất gia nhân,
nhược thị pháp khí, nhược phi pháp khí, đa
hành phẫn hận, ha mạ, hủy nhục, cơ thích,
khinh tiếu, chủng chủng phỉ báng, ẩn thiện,
dương ác, quảng thuyết năi chí khởi khinh mạn
tâm, chủng chủng xúc năo. Như thị chư nhân, phi
thánh pháp khí, tự thật ngu si, hoài thông minh mạn, tùng thử
mạng chung, đọa tam ác thú, thọ vô lượng chủng
tăng thượng mănh lợi, nan nhẫn khổ độc,
kinh ư vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp
nan phục nhân thân, như tiền quảng thuyết.
(經)爾時,世尊告金剛藏菩薩摩訶薩言:「善男子,我以佛眼觀諸世間,見未來世此佛土中,有無量無數百千俱胝那庾多剎帝利旃荼羅、婆羅門旃荼羅、宰官旃荼羅、居士旃荼羅、長者旃荼羅、沙門旃荼羅、茷舍旃荼羅、戍達羅旃荼羅,若男若女,少種善根,雖得人身,而隨惡友,起諸邪見,造諸惡行,壞我甚深無上正法,於我所說無有熾然,滅熾然法,不生信樂。或於我說與聲聞乘相應正法,誹謗輕毀,障蔽隱沒,不令流佈。或於我說與獨覺乘相應正法,誹謗輕毀,障蔽隱沒,不令流佈。或於我說與無上乘相應正法,誹謗輕毀,障蔽隱沒,不令流佈。或于歸我諸出家人,若是法器,若非法器,多行忿恨,呵罵毀辱,譏刺輕誚,種種誹謗,隱善揚惡,廣說乃至起輕慢心種種觸惱。如是諸人,非聖法器,自實愚癡,懷聰明慢,從此命終墮三惡趣,受無量種增上猛利難忍苦毒,經於無量百千俱胝那庾多劫難復人身,如前廣說。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Kim Cang Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: - Này thiện nam tử! Ta dùng Phật
nhăn xem các thế gian, thấy trong đời vị lai,
nơi cơi Phật này, có vô lượng vô số trăm ngàn
câu-chi na-dữu-đa Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la,
Bà-la-môn Chiên-đồ-la, tể quan Chiên-đồ-la, cư
sĩ Chiên-đồ-la, trưởng giả Chiên-đồ-la,
sa môn Chiên-đồ-la, Phiệt-xá Chiên-đồ-la,
Thú-đạt-la Chiên-đồ-la, dù nam hay nữ, ít gieo
căn lành, tuy được làm người, nhưng theo bạn
ác, dấy lên các tà kiến, tạo các ác hạnh, phá hoại
chánh pháp vô thượng rất sâu của ta. Đối với
các pháp “[khiến cho phiền năo] chẳng hừng hực,
diệt [phiền năo] hừng hực” của ta chẳng
sanh ḷng tin ưa, hoặc đối với chánh pháp
tương ứng Thanh Văn Thừa do ta đă nói, bèn phỉ
báng, khinh miệt, hủy hoại, chướng lấp, ẩn
giấu, chẳng cho lưu truyền. Hoặc đối với
chánh pháp tương ứng Độc Giác Thừa do ta
đă nói, bèn phỉ báng, khinh miệt, hủy hoại,
chướng lấp, ẩn giấu, chẳng cho lưu truyền.
Hoặc đối với chánh pháp tương ứng Vô
Thượng Thừa do ta đă nói, bèn phỉ báng, khinh miệt,
hủy hoại, chướng lấp, ẩn giấu, chẳng
cho lưu truyền. Hoặc đối với những người xuất
gia quy y pháp của ta, dù là pháp khí, hay chẳng phải là pháp
khí, thường làm nhiều chuyện phẫn hận, quở
trách, chửi bới, hủy nhục, gièm chê, châm chọc,
khinh rẻ, coi thường, đủ thứ phỉ báng, ẩn
giấu điều thiện, phô phang thói ác. Nói rộng là
cho đến dấy ḷng khinh mạn, đủ mọi cách
xúc phạm, năo loạn. Những kẻ như thế chẳng
phải là pháp khí của các địa vị thánh nhân, tự
ḿnh thật sự ngu si, tự phụ thông minh, từ
đó cho đến khi mạng chung, đọa vào ba
đường ác, hứng chịu vô lượng thứ
khổ độc tăng thượng, mạnh mẽ, khó
thể chịu đựng, trải qua vô lượng
trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp khó lại
được thân người như trong phần trước
đă nói cặn kẽ).
Trong
phần trước đă nói: Hễ tạo nghiệp hủy
báng Tam Bảo, báng bổ pháp do đức Phật đă
nói, có khi là Đại Thừa, có khi là Độc Giác Thừa,
có khi là Thanh Văn Thừa. Hủy báng lẫn nhau, cho đến
đối với người xuất gia, hoặc là bậc
tŕ giới, tu hành tốt đẹp, hoặc kẻ chẳng
tu hành, phá giới, đều năo hại
họ, sanh khởi đủ cách hăm hại. Như thế
th́ sẽ tạo rất nhiều ác nghiệp; trong phần
trên đă có rất nhiều loại chúng sanh hướng về đức Phật sám hối.
Đức Phật liền thọ kư cho họ, nói: Các vị
sám hối, phải cho đến khi đối trước
Phật Lô Chí [là vị Phật
cuối cùng] trong một ngàn vị Phật [thuộc Hiền Kiếp] th́ mới có thể
sám hối thanh tịnh các ác nghiệp đă tích tụ trong
đời trước. Trong thế gian này, thời gian một
ngàn vị Phật [lần lượt xuất thế]
cũng rất dài. Trong phần trước, tôi đă nhắc
đến tam thiên đại thiên thế giới và tiểu
kiếp, trung kiếp, một đằng là nói về
nơi chốn, một đằng nói về thời gian.
C̣n có một cách nói nữa: Hai mươi tiểu kiếp
là một trung kiếp. Tức là [mỗi giai đoạn]
“thành, trụ, hoại, không” đều kéo dài hai mươi
tiểu kiếp. Trụ là hai mươi tiểu kiếp,
Hoại là hai mươi tiểu kiếp, Không là hai
mươi tiểu kiếp. Cấu tạo của địa
cầu hoàn toàn chẳng thể h́nh thành trong thời gian ngắn ngủi được!
Các
nhà khoa học hiện thời nói tinh cầu là do các tinh vân (Nebula) sanh khởi tác dụng giao kết mà h́nh thành. Tác dụng
giao kết ấy nếu thành tựu th́ gọi là Thành Kiếp,
cần thời gian dài bao lâu? Kinh Phật nói là hai mươi
tiểu kiếp. Các nhà khoa học trọn chẳng nói cần
bao nhiêu kiếp; tùy thuộc địa cầu ấy dần
dần từ bé đến lớn. Từ bé đến lớn,
[phát triển dần dần] như thế đó. V́ sao khi
địa cầu này đă thành tựu, nh́n từ bên ngoài, tức
là nh́n từ phi thuyền vũ trụ th́ tinh cầu là màu lam.
“Không” đương nhiên là chẳng có. Không th́ họ chẳng thấy, Không th́
căn bản là chẳng có h́nh tướng. V́ sao quả
địa cầu của chúng ta là màu lam? Địa cầu
bao quanh bằng nước, địa cầu xoay chuyển.
Xét theo toàn thể, chỉ có thể
thấy biển, chỉ trông thấy nước. Do vậy,
nh́n từ bên ngoài, sẽ là màu lam. Đối với “thành,
trụ, hoại, không”, nay chúng ta đang thuộc Trụ Kiếp,
[do địa cầu] đă sớm thành tựu từ lâu rồi.
Dẫu động đất, thủy tai, hỏa hoạn
rất nhiều, hiện thời vẫn chưa đến
lúc địa cầu hư hoại, những thứ ấy
là tiểu tam tai. Lúc có đại tam tai, địa cầu
sẽ bắt đầu hư hoại.
Kinh
Địa Tạng dạy: Tạo tội nghiệp trên quả
địa cầu này, khi địa cầu hư hoại,
có phải là ta chẳng chịu
khổ quả trong địa ngục nơi địa cầu
nữa ư? Chẳng phải vậy, [tội nhân
đang chịu khổ trong địa ngục] sẽ dời sang thế
giới ở phương khác. Ai dời? Nghiệp của
chính quư vị chuyển dời. Thế giới đó hư
hoại rồi, lại chuyển sang thế giới khác.
Đợi cho đến khi thế giới này thành tựu,
v́ quư vị thuộc vào thế giới này, tạo tội
th́ vẫn phải trở về thế giới này. Vậy
là thành, trụ, hoại, không, mỗi giai đoạn đều
trải qua hai mươi tiểu kiếp. “Kiếp” được
luận đoán như thế nào? Cũng là dựa theo thọ
mạng của con người để luận đoán.
“Thành” cũng chẳng phải là thành ngay lập tức, mà
Hoại cũng chẳng phải là hoại ngay lập tức,
mỗi giai đoạn đều trải qua quá tŕnh hai
mươi tiểu kiếp. Nếu dùng số lượng
năm để tính toán, sẽ cần thời gian bao nhiêu ức
triệu năm? Nếu chúng
ta đă sám hối tội thanh tịnh rồi, sẽ có thể
tăng thượng tín tâm. Nay chúng ta đang thuộc
giai đoạn tăng thượng tín tâm, chỉ có thể
nói là tín, chỉ có thể tùy thời gia tăng tín tâm của
chúng ta. Nhưng tín tâm của chúng ta chẳng kiên định,
vẫn chẳng có cội rễ. Tín tâm ấy có thể bị
phá hoại bất cứ lúc nào, chẳng cần đợi
đến đời sau.
Hiện
thời, có rất nhiều đạo hữu mà tín tâm của
họ có thể bị phá hủy bất cứ lúc nào, nẩy
sanh biến hóa, chẳng sanh khởi cái tâm tín kính, tức là
chẳng gặp gỡ thiện tri thức. Tuy Phật, Bồ
Tát, La Hán vẫn ở trong thế giới này, nhưng quư vị
vô duyên, do vô duyên nên chẳng thấy được. V́ chúng
ta ở trên thế giới này, trong năm mươi, sáu
mươi ức nhân khẩu, chúng ta có khả năng tiếp
xúc hoặc quen biết bao nhiêu người? Mọi người
[hiện diện ở nơi đây] đều từ
Đài Loan tới, Đài Loan có hai ngàn ba trăm vạn nhân
khẩu, quư vị quen biết bao nhiêu người? Quư vị
tính toán xem, chẳng được bao nhiêu! V́ sao? Họ vô
duyên với quư vị. Tuy cùng ở trên địa cầu,
thuộc cùng một điều kiện sanh tồn,
nhưng vô duyên, tức là chẳng có duyên tiếp xúc với
họ. Ngay cả mèo, chó, súc sanh, hoặc lũ kiến, quư
vị trông thấy đều là hữu duyên! [Các chúng sanh]
quư vị chẳng thấy quá nhiều! Ngay cả
cái duyên trông thấy cũng chẳng có. Ngay cả cái duyên
nghe thấy cũng chẳng có. Kinh Địa Tạng
đă dạy rất nhiều, khi người khác thọ khổ
v́ tội nghiệp, quư vị chẳng trông thấy. V́ quư vị
chẳng có duyên với người ấy, quư vị
cũng chẳng nghe thấy. Ngay cả cái duyên thấy hay
nghe cũng đều chẳng có. V́ sao? V́ quư vị chẳng
có cái nghiệp ấy. Quư vị nghĩ chúng ta có cái nghiệp
ấy, mong trốn tránh, nhưng trốn chẳng thoát, tuyệt
đối chẳng thể trốn thoát nổi!
Vào
thời điểm Đại Lục nội chiến, có một
nhóm người tới Đài Loan, có người không rời
đi. Người trong cùng một nhà, có người đến
đây một hai người, có một nửa ở lại
Đại Lục, những điều ấy cũng đều
là có nhân duyên. Có người đă sắp lên thuyền, sắp
tới nơi, thuyền ch́m! Tôi có một đạo hữu,
rất tin Phật. Trước kia ông ta làm chuyên viên ở
Ninh Ba, về sau làm chủ tịch tỉnh Liêu Ninh. Cả
chiếc thuyền ấy toàn là người của Quốc
Dân Đảng, đều là các nhân vật từ cấp sảnh
trưởng[4] trở
lên, mang theo rất nhiều tài sản. Có thể là đem
theo quá nhiều vàng, thuyền chở quá nặng, vừa ra
khỏi cảng Thượng Hải, đến chỗ tiếp
giáp với Ninh Ba th́ đă bị ch́m lỉm! Tôi đến
Bắc Kinh t́m em trai của người ấy, tôi hỏi
chuyện, người ấy bảo tôi: “Cả nhà anh tôi,
ngay cả chị dâu tôi dẫn theo con cái toàn bộ đều
chết ch́m hết”. Em trai ông ta chẳng đi, do chẳng
đi, bèn ở lại Bắc Kinh. Nhân duyên ấy là do vận
mạng của họ khác nhau!
Có
lúc tôi bảo các đạo hữu: “Quư vị sanh chín đứa
con, một mẹ sanh chín con, chín đứa con mỗi đứa
mỗi khác. Mỗi đứa có vận mạng riêng, chẳng
cần phải quá bận tâm”. V́ chẳng có cái duyên ấy,
quư vị có miễn cưỡng cũng chẳng được!
Hễ có cái duyên ấy, tự nhiên sẽ thành thục. Nghiệp
duyên ấy, nếu quư vị sám hối, tội lỗi thanh
tịnh, đức Phật thọ kư những người
ấy đến lúc Lô Chí Phật (Rucika) xuất thế,
sám trừ tội lỗi sạch sẽ, có thể đoạn
phiền năo. Đă đoạn phiền năo rồi bèn thành tựu
quả A La Hán, hoặc chứng đắc công đức
thù thắng của tam-ma-địa. Các vị Thanh Văn và
Bồ Tát ấy hoan hỷ lễ Phật, được
thọ kư, họ vui mừng, chẳng c̣n đọa vào tam
đồ nữa! V́ mỗi vị Phật xuất thế,
họ nhất định sẽ được gặp gỡ;
nếu không, đức Phật sẽ chẳng nói. Một
ngàn vị Phật xuất thế, nơi mỗi đức
Phật, quư vị đều sám hối như thế,
cũng đều nói như thế.
Đức
Phật thọ kư cho những người ấy xong, lại
bảo Kim Cang Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát: “Thiện nam tử!
Ta dùng Phật nhăn, thấy nơi cơi Phật này trong đời
vị lai, có vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa
Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương nhiều
ngần ấy. [Số lượng] trăm ngàn
câu-chi na-dữu-đa ấy, không chỉ riêng Chiên-đồ-la
vương, tức ác vương, mà c̣n có ác Bà-la-môn, ác tể
quan, ác cư sĩ, ác trưởng giả, cho đến ác
sa-môn, phá giới sa-môn, bại hoại sa-môn, sa-môn chửi bới
sa-môn càng dữ dằn hơn, sa-môn phá hoại chùa miếu
càng khốc liệt hơn. Những kẻ đó là ma con, ma
cháu do Ba Tuần phái đến. Bọn chúng đến phá
hoại Phật giáo, tận lực phá hoại! Trước
mắt, nh́n vào các đảng phái, thậm chí là trong Phật
giáo chúng ta, khi đảng phái hoặc tổ chức, tập
đoàn nào đó bị sụp đổ th́ họ bị sụp
đổ như thế nào? Trong tập đoàn của họ
thối nát trước rồi mới bị hư hoại,
hoàn toàn chẳng phải là do bên ngoài [nhúng tay]. [Nội bộ]
công kích lẫn nhau, sau đó là thối ruỗng. Phật
giáo cũng như thế. Khi Phật giáo sắp tới lúc
bị tiêu diệt, ai diệt? Chính đệ tử Phật
hủy diệt! Tứ chúng đệ tử đều có
phần, phá hoại lẫn nhau. Tới lúc đó, Phật
pháp chẳng c̣n nữa. Do vậy nói tới những gă
Chiên-đồ-la cũng chẳng hiếm có tí nào cả,
luôn luôn hiện hữu! Thậm chí giới thương nhân
trong bốn chủng tánh, Phiệt-xá là thương nhân hoặc
nông dân, Thú-đạt-la làm nghề đồ tể, cho
đến tạo ác nghiệp, tức những kẻ tạo
ác nghiệp, bất luận nam hay nữ, thiện căn rất
ít, hoàn toàn chẳng phải là tuyệt đối không có. Gieo thiện
căn ít ỏi, người gieo thiện căn, trước
sau đều khác nhau. Nếu là đạo hữu tại
gia, thuở đầu chẳng ăn mặn, có những
người sanh ra đă chẳng ăn mặn, hoặc là
sau khi xuất gia, kiêng ăn mặn, chẳng ăn nữa,
đến tuổi già lại ăn mặn!
Có
rất nhiều người tu hành, b́nh thường rất
tinh tấn dụng công, tới lúc sắp viên tịch, nghiệp
chướng ǵ cũng đều phát hiện, mà cũng chẳng tŕ giới. Rất nhiều sự
nghiệp đều không làm! Do bị bệnh khổ hành hạ,
nghe người ta nói ăn thịt có thể trị lành bệnh,
người đó liền ăn thịt. Muốn người
đó làm ǵ, người đó liền phạm ngay! Đối
với nghiệp, chẳng tự chủ được,
chính ḿnh chẳng làm chủ được. Tôi thấy rất
nhiều đạo hữu, suốt đời khổ tu
trong núi, tới lúc lâm chung, vẫn không buông xuống
được, nghiệp chướng ǵ cũng đều
phát hiện. Đó gọi là “vứt sạch công lao
trước kia”. Tuy đă gieo chủng tử, đă gieo
công đức, nhưng vứt sạch công lao trước
kia, chuyện này chẳng phải hiếm hoi, lạ lùng tí
nào! Dùng Phật nhăn để quán, [sẽ thấy] khi tới
đời Mạt, thiện căn của những người
đó chẳng đầy đủ, chẳng sâu, lại
c̣n gieo [thiện căn] quá ít. Tuy được làm thân
người, chuyển thế làm người, vẫn có thể
trở thành đệ tử của Tam Bảo.
Trong
đời Mạt Pháp, trong Tam Bảo, đặc biệt
là trong tứ chúng đệ tử, tức tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, những vị thật sự
phát tâm Bồ Tát th́ chính là bậc đại Bồ Tát,
cũng có người thật sự phát tâm Thanh Văn,
thành A La Hán, cũng có người thật sự là A Tu La. Họ
khuấy nháo nhào thiện nghiệp, lôi quư vị đọa
xuống, lôi quư vị đọa lạc tam đồ, biến
thành ma vương. V́ sao họ lôi kéo ngay trong Tam Bảo? V́
kẻ thuộc vào Tam Bảo, ít nhiều đều có thiện
căn, cho đến lúc tuổi già, khi suy hoại, vẫn
c̣n có phước báo, phước báo do tu tập trước
kia vẫn c̣n có, kẻ đó có thể chẳng đọa
vào tam đồ, chuyển sang ma vương giới, trở
thành ma tử, ma tôn (ma con, ma cháu), tăng thêm
đội ngũ cho hắn (Ba Tuần). Hắn chỉ t́m
kiếm đệ tử trong Tam Bảo, v́ những kẻ
đó mới có tư cách sanh lên cơi trời. Muốn sanh vào
đội ngũ của Ba Tuần, cũng cần phải
có Thập Thiện Nghiệp. Chẳng có Thập Thiện
Nghiệp, sẽ chẳng thể sanh về đó
được. Tuy là ma, ma cũng phải có phước.
Chẳng có phước th́ làm sao có thể hưởng thụ
cho được? Hiểu đạo lư này là được
rồi!
Bởi
lẽ, mục đích tu hành của chúng ta là chẳng làm ác.
Ta suốt đời làm việc thiện, tới lúc lâm
chung lại làm ác, hoặc là bị bạn ác dụ dỗ,
hoặc là lục thân quyến thuộc của quư vị
trong quá khứ, họ có ác nghiệp rất nặng. Những
kẻ đó có thể lôi kéo quư vị, muốn kéo quư vị
vào đường đó để cùng xum vầy với họ.
Tuy được làm thân người, nhưng bị kẻ
ác xoay chuyển, sanh khởi tà tri, tà kiến. Có rất nhiều
người trong các đệ tử chúng ta, bất luận
tại Đài Loan hay Đại Lục, cũng đều
là như thế! Gặp lúc có quan hệ lợi hại,
trong lúc phải chọn lựa, họ dùng con mắt thịt
để xem xét, đi theo đường
nào sẽ có lợi, [họ chẳng do dự, chọn ngay
con đường đó]: Câu kết với kẻ quyền
thế, câu kết với kẻ có tiền có thế, câu kết
quan lại, ức hiếp ḥa thượng tốt lành. Chuyện
kiểu này, kể từ khi tôi xuất gia tới nay, đă
thấy quá ư là nhiều. Kẻ đó có thể làm rất
nhiều ác hạnh, tạo ác nghiệp, phá hoại chánh pháp
vô thượng rất sâu của đức Phật. Phật
pháp th́ bất luận pháp nào cũng đều là liễu
sanh tử, đều là “ĺa khổ, được vui”,
đều là đoạn phiền năo. Đối với các
pháp do đức Phật đă nói, quư vị đều chẳng
phân biệt ǵ, Hiển, Mật, Đại, Tiểu, chỉ
cần quư vị đạt được đôi chút,
nương theo pháp ấy để làm, quư vị sẽ có
thể đạt được, có thể giải thoát,
có thể đoạn phiền năo!
Dẫu
Phật pháp sâu xa, tốt đẹp đến mấy, nếu
vẫn chẳng hành được, một tí thọ dụng
cũng chẳng có, th́ sẽ chẳng
mảy may nào dính líu tới quư vị. Làm như thế nào
để có thể thực hiện được? [Ngay cả]
niệm một tiếng Phật hiệu mà quư vị
cũng chẳng thể làm được, luôn chẳng thể
kiên tŕ một dạ, c̣n nói đến quán
tưởng rất sâu chi nữa! Cho đến tu hành, làm
sao tu cho nổi? Tín tâm kiểu ấy chẳng thể vun bồi
được, chẳng thể thành tựu tín tâm! Vậy
th́ sẽ như thế nào? Pháp do đức Phật đă
nói chẳng thể sanh khởi
tươi tốt, chỉ có thể khiến cho Phật
pháp dần dần bị diệt mất, chẳng thể
hưng thịnh. Chánh pháp giống như lửa, hễ hừng
hực sẽ khiến cho người khác cảm thấy ấm
áp. Nếu dần dần diệt mất, sau khi đă bị
diệt rồi, sẽ khiến cho quư vị chẳng nẩy
sanh ḷng tin ưa. Đă chẳng có tín tâm th́ cái tâm vui sướng
cũng chẳng
thể dấy lên được.
“Hoặc
ư ngă thuyết dữ Thanh Văn Thừa tương ứng
chánh pháp, phỉ báng, khinh hủy” (hoặc đối với
chánh pháp tương ứng với Thanh Văn Thừa do ta
đă nói mà phỉ báng, khinh hủy): Có những người
nghe Khổ, Tập, Diệt, Đạo, liền
phát tâm. Họ nghe, thấy thế gian là khổ. Khổ do
đâu mà có? Do quư vị đă tạo nghiệp, do quư vị
đă tạo ra cái nhân gây khổ. Ác nhân của quư vị ngưng
dứt, khổ sẽ ngừng. Nếu quư vị tận lực
làm (tạo nghiệp), khổ sẽ vĩnh viễn chẳng
ngừng. Đạo lư này rất đơn giản, ai
nấy đều biết, nhưng thực hiện rất
khó khăn. Thanh Văn Thừa là như thế, mà Duyên Giác
Thừa cũng như thế. Trong phần trước,
[kinh Đại Tập] đă nói rất rơ ràng, đặc
biệt là đối với phi pháp khí bèn có sự lựa
chọn. Kim Cang Tạng Bồ Tát nói phi pháp khí đă là phá hoại,
cớ sao đức Phật dạy vẫn phải cung kính
họ? Vẫn muốn cho hết thảy mọi người
cung kính cúng dường những kẻ đó? V́ những kẻ
đó vẫn có thể làm công đức.
Trong
thời đại Mạt Pháp, muốn t́m một vị tỳ-kheo
thanh tịnh, chẳng t́m được! Ngẫu Ích đại
sư đă nói như thế, mà pháp sư Hoằng Nhất
cũng nói như thế. Ngẫu Ích đại sư đă
thoái giới tỳ-kheo, thọ giới lần nữa. Thật
ra, lần đầu tiên Ngài không đắc giới, cho nên
cũng chẳng có cái gọi là “thoái giới”. Vào cuối
thời Minh, đầu đời Thanh, muốn t́m năm vị
tỳ-kheo thanh tịnh, sẽ chẳng thể t́m được.
Phải có đủ năm vị thuyết giới th́ quư vị
mới có thể đắc giới. Ngẫu Ích đại
sư c̣n nói: “Từ thời Nam Tống trở đi, chẳng
có năm vị tỳ-kheo thanh tịnh”, có nghĩa là thời
đại của chúng ta khá ác!
Đức
Phật nói trong đời tương lai, trong cơi Phật
này, sẽ có vô lượng, vô số, con số khá nhiều,
trên cả ức triệu. Không chỉ là trong thế giới
này, không chỉ là Nam Thiệm Bộ Châu, mà c̣n có rất nhiều
thế giới Sa Bà, rất nhiều bộ châu. “Phật
độ” trong chánh kinh là nói tới cơi Phật nào? Thế
giới Sa Bà Phật độ, chẳng phải là một
cuộc đất bé tí Nam Thiệm Bộ Châu của chúng
ta, cho nên mới có nhiều như vậy. Tính toàn bộ người
trên Nam Thiệm Bộ Châu, một triệu cũng không có,
v́ một triệu là mười ức, có con số mười
ức [Chiên-đồ-la vương] hay không? Ngài nói đến
vua Chiên-đồ-la, mỗi nước chỉ có một
Chiên-đồ-la vương. Vậy mà hắn phá hoại
chánh pháp. Đối với tam thừa, bất luận là
Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, hay Vô Thượng Thừa,
hắn đều phỉ báng, khinh hủy, chướng lấp,
ẩn giấu, chẳng cho lưu truyền. Thậm chí
đối với người xuất gia trong pháp của
ta, dù là pháp khí hay chẳng phải pháp khí, “đa hành phẫn
hận, ha mạ, hủy nhục, cơ thích, khinh tiếu,
chủng chủng phỉ báng, ẩn thiện, dương
ác” (làm nhiều chuyện phẫn hận, quở trách, chửi
bới, hủy nhục, gièm chê, châm chích, khinh rẻ, đủ
loại phỉ báng, ẩn giấu điều lành, phô bày
điều ác).
Những
kẻ ấy vốn rất ngu si. “Ngu si” ở đây có nghĩa là họ
chẳng hiểu biết Phật pháp. Đó là ngu si. Họ
cho rằng chính ḿnh rất thông minh. Đối với pháp
thế gian, họ gây tạo âm mưu, quỷ kế, đấu
đá chánh trị, tự nghĩ chính ḿnh rất thông minh,
nhưng đối với Phật pháp, họ chẳng thông
minh! V́ thế, “ngu si” là nói theo kiểu đó. V́ lẽ đó, họ
phá hoại Tam Bảo, hủy diệt Tam Bảo. Cho đến
sau khi họ mạng chung, đọa vào ba ác đạo, hứng
chịu vô lượng thứ khổ sở dữ dội
tăng thượng, khó thể chịu đựng! Các thứ h́nh cụ
thọ khổ số đến vô lượng. Mọi
người niệm kinh Địa Tạng sẽ biết.
Quư vị nói chúng ta chịu khổ trong nhân gian đủ loại,
đủ cách. Tuy vậy, chúng ta chẳng có cảnh đao
chặt, lửa đốt, chẳng khổ sở kiểu
ấy! Chúng ta quán chiếu đôi chút nỗi đau khổ
trong nội tâm của chính ḿnh, bất luận là ai, trừ
phi quư vị đă đoạn phiền
năo. Đoạn Kiến
Hoặc, th́ vẫn c̣n
đau khổ v́ Tư Hoặc. Tư Hoặc đă đoạn
hết, th́ c̣n có nỗi thống khổ của Trần Sa
và Vô Minh. Có ai chẳng khổ? Chỉ có Phật và Phật
mới chẳng khổ, đạt được vui
sướng rốt ráo; ngoài ra, toàn là khổ. Hàng Nhị Thừa
chịu nỗi khổ Phần Đoạn Sanh Tử, tức là thọ mạng có từng giai đoạn một, chết
đây, sanh kia, [rồi lại] sanh đây, chết kia, đấy
gọi là nỗi khổ Phần Đoạn Sanh Tử. Hàng
Nhị Thừa sau khi đă chứng quả, th́ có nỗi khổ
Biến Dịch Sanh Tử, trong Chân Thường hăy c̣n sót lại
vô minh. Hắc ám, Biến Dịch Sanh Tử khổ, ắt
cần phải đoạn hai mươi loại khổ
theo thứ tự, lên bờ Tam Đức, th́ mới có thể
thật sự chứng đắc Pháp Thân, sự khổ ấy
mới có thể diệt. Nếu
không, sẽ luôn ở trong Khổ.
Do
vậy, hứng chịu vô lượng các thứ khổ.
Theo cái quả [của các sự khổ] ấy, càng trong lúc khổ, th́ càng khó
thể làm lành. Khi con người bị khổ sở bức
bách, thiện tâm chẳng thể sanh khởi nổi, chỉ
có thể nghĩ cách giải trừ thống khổ: “Ta muốn
giải trừ thống khổ, ắt cần phải giá họa
cho người khác!” Ở trong nhà tù, chúng ta nghĩ như vậy
đó. Có những kẻ hằng ngày ŕnh rập tŕnh báo [cho
cai ngục] để làm ǵ? Kẻ đó mong giải trừ
thống khổ của chính ḿnh, tính đem người khác
thay thế. Ở nơi đó, có một khẩu hiệu:
“Nếu ngươi muốn tạo dựng hạnh phúc th́
phải tạo lập trên nỗi đau khổ của kẻ
khác. Nếu không, sẽ chẳng thể tạo dựng
được!” Chúng tôi đă
nói, những kẻ đó ba ngày mà không hại được
ai, sẽ đi lại ủ rũ, cơm cũng chẳng
thể nuốt trôi nổi, nói không nên lời! Kẻ đó
chẳng hại người, sẽ chẳng có cách nào hết,
tinh thần ủ dột. Hành vi ác hắn đă tập quen
thành tánh. Như thế bèn chịu khổ, hứng chịu
vô lượng sự khổ độc
mạnh mẽ khó thể chịu đựng. Phải mất
thời gian bao lâu? Vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa
kiếp, nhiều ngần ấy! Chúng tôi không nói là đại
kiếp, dẫu tính bằng tiểu kiếp th́ thời gian
ấy cũng cực dài! Trong thời gian dài ngần ấy,
mong khôi phục thân người, khó lắm! Chẳng thể
khôi phục nổi. Trong phần trước đă nói rất
nhiều, đă nói cặn kẽ, chẳng nhắc lại nữa!
(Kinh)
Thiện nam tử! Như thị chúng sanh, ninh xử Vô Gián
đại địa ngục trung, thọ chư trọng khổ, bất
thọ như thị bỉ ác nhân thân, kiêu mạn, cống
cao, tùy thuận ác hữu, tạo tác như thị ác bất
thiện nghiệp, lưu chuyển sanh tử, nan khả tế
độ, thường xử sanh tử, thọ chư khổ
năo!
(經)善男子,如是眾生,寧處無間大地獄中受諸重苦,不受如是鄙惡人身,憍慢貢高,隨順惡友,造作如是惡不善業,流轉生死,難可濟度;常處生死,受諸苦惱。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Chúng sanh như thế thà ở trong
đại địa ngục Vô Giác chịu các sự khổ
nặng nề, chẳng nhận lấy thân người hèn
ác, kiêu mạn, ngạo nghễ như thế, tùy thuận bạn
ác, tạo tác các nghiệp ác, bất thiện như thế,
lưu chuyển sanh tử, khó thể tế độ,
thường ở trong sanh tử, chịu các khổ năo).
Giả
sử từ ngục giam thoát ra, nhưng sáu căn chẳng
vẹn toàn, cho đến sanh ra, suốt đời toàn là hại
người, toàn là tạo nghiệp. Tạo tội xong rồi
lại phải trở về, tức là quay lại địa
ngục. Chúng ta thường nói “chẳng có địa ngục”,
nhưng do nghiệp của kẻ đó cảm vời, kẻ
đó sẽ thấy là có! Tại vùng Đông Bắc Trung
Hoa, đă phát sanh sự kiện như thế này: Khi đó,
tôi c̣n rất nhỏ, cũng theo người khác đến
xem. Có một đứa nhỏ, chẳng lớn cho lắm,
chỉ mười tám, mười chín tuổi, bỗng
dưng ở trong nhà của chính ḿnh chạy qua, chạy lại,
ai kêu cũng không chịu ra. Đợi đến khi nó chạy
xong rồi, ngă nhào xuống đất. Thoạt nh́n, nửa
thân dưới của nó đă cháy rộp lên, đáng sợ
lắm! Sau đó, nó mới nói cuộc đất ấy,
chúng tôi cũng chỉ thấy là một cuộc đất
b́nh thường, thứ ǵ cũng đều chẳng có,
nhưng nó thấy toàn là lửa, làm cách nào cũng không chạy
ra khỏi được! Đến khi nó thật sự hết
sạch sức lực, ngă quỵ xuống đất, lửa
cũng chẳng c̣n! Người khác lôi nó ra, toàn thân đều
bị đốt phồng rộp lên, đốt đen thui
luôn. Đấy là nghiệp ǵ vậy? Chẳng thể lư giải.
Huyện của chúng tôi không quá lớn; thuở đó, Thẩm
Dương được gọi là Phụng Thiên[5].
Kư giả của báo Phụng Thiên Tân Văn đến
đó phỏng vấn, cũng chẳng biết do nguyên nhân
nào, bèn viết như thế.
Chúng
ta thấy kinh Phật ghi lại rất nhiều chuyện.
Nếu quư vị đến nhiều nơi, th́ rất nhiều
chuyện trong kinh Phật, quư vị có thể chứng thực.
Chẳng hạn như vùng giáp ranh giữa Tây Tạng với
các tỉnh Thanh Hải, Tứ Xuyên, và Cam Túc, chẳng ai quản
tới. Tại vùng ấy, Di tộc, Tạng tộc, Hắc
Sơn tộc, riêng Di tộc có chín mươi sáu loại,
chẳng phải chỉ đơn thuần một loại,
họ bao gồm Hắc Di, Bạch Di, Hoa Di, khá nhiều bộ
tộc. Những kẻ đó hoàn toàn chẳng hiểu đạo
lư làm người, cách nói của họ khác với chúng ta. Nếu
làm người dân ở nơi đó, sống tại
nơi đó, họ cứ tiếp tục đánh nhau. Tộc
này đánh tộc kia, chẳng có ngày nào không đánh. Nhà này đánh với
nhà kia, đánh đến mức thành oan gia. Hễ đánh
đấm bèn kéo dài cả mấy trăm năm, vẫn
đang đánh, chẳng chấm dứt!
Làm
thế nào biết kẻ ấy là oan gia của ta? Nếu
tôi giết chết một người trong nhà quư vị,
đầu tiên là xung đột, giữa chừng có tộc
khác đến ḥa giải, sẽ không đánh lộn nữa!
Do vậy, bèn bồi thường, trả rất nhiều
tiền, nhưng có những món đồ vật mà giá trị chẳng lớn, như
một cây dù, một cái chén gỗ, lại c̣n có thứ ǵ
đó để tẩy rửa. Sau đó, đưa cho họ ba món ấy. Nhà
ấy bèn giữ kỹ cái chén gỗ, cái dù gỗ ấy. Về
sau, sanh ra con cái, bất luận nam hay nữ, đều nói
với nó: “Con phải nhớ kỹ kẻ sát hại chú hay
ba của con, lớn lên phải báo cừu!” Như vậy
là từ thế hệ này sang thế hệ khác, giết
qua, giết lại, mỗi nhà đều góp nhặt rất
nhiều chén gỗ, chất đống trong tủ, dùng như công cụ
giáo dục, tăng trưởng tâm lư cừu hận.
Hạng
người như thế khi làm người khổ nạn
vô cùng, vĩnh viễn chẳng biết từ địa ngục
ḅ ra bằng cách nào? Sau đó, ngay lập tức
lại quay vào. Quư vị muốn làm người như vậy,
tức hạng người tệ ác như vậy, có ǵ đáng để kiêu căng, ngạo
mạn ư? Người như thế đều thuận
theo bạn ác, “phương dĩ loại tụ, vật
dĩ quần phân” (các phương pháp chia thành từng
loài, các sự vật phân chia theo từng đặc tánh).
Thấy quư vị đàn đúm với hạng người
nào, dường như là chuyện tất nhiên, con người
tự nhiên phân chia như thế đó. Các đảng, các
phái đều là như thế đó; hắc đạo, bạch
đạo đều là như thế. Hạng người
ác sẽ làm chuyện ác, đều là nghiệp bất thiện.
Nghiệp bất thiện đương nhiên sẽ lưu
chuyển trong sanh tử, khó thể tế độ,
thường ở trong sanh tử, chịu các khổ năo.
Đức Phật nói hạng người như vậy,
Phật chẳng có cách nào cứu độ họ! “Nan khả
tế độ, thường xử sanh tử, thọ
chư khổ năo” (khó thể tế độ, thường
ở trong sanh tử, chịu các khổ năo). Những điều
này đều nhằm h́nh dung Địa Tạng Bồ Tát
đă phát nguyện to lớn, v́ rất nhiều kẻ khó
độ, Ngài đều phát nguyện đến độ.
Do vậy, Ngài vào địa ngục. Có những kẻ
đọa địa ngục, đă thoát khỏi địa
ngục rồi lại quay về. Ác hạnh của họ
chồng chất, chẳng có cách nào tính toán được.
Địa Tạng Bồ Tát xuống địa ngục
độ họ, cho nên gọi là kinh Địa Tạng
Đại Tập Thập Luân. Nếu mọi người
xem kinh Địa Tạng, kinh Chiêm Sát, kinh Đại Tập
Thập Luân, phải biết cảm ơn, cảm nhận
ân đức đặc biệt to lớn của Địa
Tạng Bồ Tát đối với chúng ta.
(Kinh)
Nhĩ thời, hội trung hữu vô lượng vô số
đại huệ hữu t́nh, tùng ṭa nhi khởi, đảnh
lễ Phật túc, hiệp chưởng, hướng Phật,
bi khấp đọa lệ, nhi bạch Phật ngôn: “Đại
đức Thế Tôn! Đế quán như thị thế
gian chúng sanh, tuy giai hoạch đắc nan đắc nhân
thân, nhi viễn ly chánh tín, viễn ly chánh nguyện, viễn
ly chánh ư nhạo, viễn ly chánh kiến, viễn ly thiện
tri thức, viễn ly hảo thời, viễn ly hảo xứ, viễn ly tịnh
giới, viễn ly chánh định, viễn ly chánh huệ.
Như thị chúng sanh, tuy giai hoạch đắc nan đắc
nhân thân, nhi do ngu si, kiêu mạn lực
cố, tạo tác như tiền sở thuyết trọng tội,
hủy báng Thế Tôn sở thuyết chánh pháp, xúc năo Thế
Tôn xuất gia đệ tử. Ngă đẳng kim giả,
đối Thế Tôn tiền, dĩ chí thành tâm, phát chân thệ
nguyện. Ngă đẳng tùng kim lưu chuyển sanh tử,
năi chí vị đắc giải thoát dĩ lai, thường
nguyện bất ngộ như thị ác duyên, quyết
định bất tạo như thị trọng tội,
chung bất hủy báng chư Phật chánh pháp, diệc bất
xúc năo chư xuất gia nhân, tất bất khiêu hoại
chúng sanh pháp nhăn, diệc bất đoạn diệt Tam Bảo
chủng tánh. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn nhiếp thọ
ngă đẳng sở phát như thị thệ nguyện”.
(經)爾時,會中有無量無數大慧有情,從座而起,頂禮佛足,合掌向佛,悲泣墮淚,而白佛言:「大德世尊,諦觀如是世間眾生,雖皆獲得難得人身,而遠離正信,遠離正願,遠離正意樂,遠離正見,遠離善知識,遠離好時,遠離好處,遠離淨戒,遠離正定,遠離正慧。如是眾生,雖皆獲得難得人身,而由愚癡憍慢力故,造作如前所說重罪,譭謗世尊所說正法,觸惱世尊出家弟子。我等今者對世尊前,以至誠心發真誓願:‘我等從今流轉生死,乃至未得解脫已來,常願不遇如是惡緣,決定不造如是重罪,終不譭謗諸佛正法,亦不觸惱諸出家人,必不挑壞眾生法眼,亦不斷滅三寶種性。唯願世尊,哀愍攝受我等所發如是誓願。’
(Kinh: Lúc bấy
giờ, trong hội có vô lượng, vô số đại
huệ hữu t́nh, từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ dưới chân đức Phật, chắp
tay, hướng về đức Phật, buồn khóc
rơi lệ, mà bạch với đức Phật rằng:
“Bạch đại đức Thế Tôn! Quán kỹ chúng
sanh trong thế gian như thế, tuy đều đạt
được thân người khó được, nhưng
xa ĺa chánh tín, xa ĺa chánh nguyện, xa ĺa chánh ư nhạo, xa ĺa
chánh kiến, xa ĺa thiện tri thức, xa ĺa thời tốt
đẹp, xa ĺa chỗ tốt
đẹp, xa ĺa tịnh giới, xa ĺa chánh
định, xa ĺa chánh huệ. Chúng sanh như thế tuy
đều đạt được thân người khó
được, nhưng do sức ngu si, kiêu mạn, tạo
tác trọng tội như trên đây đă nói, hủy báng
chánh pháp do đức Thế Tôn đă nói, xúc phạm, năo loạn
các đệ tử xuất gia của đức Thế
Tôn. Chúng con nay đối trước đức Thế
Tôn, dùng tâm chí thành, phát ra thệ nguyện chân thật: Chúng
con từ nay lưu chuyển sanh tử cho đến
trước khi được giải thoát, thường
nguyện chẳng gặp ác duyên như thế, quyết
định chẳng tạo trọng tội như thế,
trọn chẳng hủy báng chánh pháp của chư Phật,
cũng chẳng xúc phạm, năo loạn những người
xuất gia, ắt chẳng chọc mù pháp nhăn của chúng
sanh, cũng chẳng đoạn diệt chủng tánh Tam Bảo.
Kính mong đức Thế Tôn xót thương, nhiếp thọ
thệ nguyện đă phát như thế của chúng con”).
Những
tội đă nói trên đây là do người nào tạo ra?
Trong hội này, có vô lượng, vô số, chẳng phải
là trăm vị, ngàn vị, vạn vị, mà là vô lượng,
vô số. Cho nên có một nhóm các hữu t́nh có đại trí huệ, đương nhiên là họ đều đă phát Bồ Đề
tâm. Các chúng sanh ấy từ chỗ ngồi đứng lên,
hướng về đức Phật đảnh lễ,
khóc lóc đau xót. Có ai thương tâm mà chẳng rơi lệ?
Buồn khóc c̣n thảm hơn chỉ khóc lóc! V́ thế,
rơi lệ th́ vẫn là hữu t́nh chúng sanh. Hữu t́nh có
nước mắt; hễ động ḷng, bèn tuôn nước
mắt. Tâm sân hận nổi lên, bốc hỏa đùng
đùng, tức sùi bọt mép. T́nh cảm sâu nặng bèn tuôn
nước mắt. Hai loại ấy đều chẳng tốt,
chẳng tự nhiên!
Các
vị ấy do thương xót chúng sanh, thấy trên đây
đức Phật đă nói nhiều kẻ ác thọ tội
như vậy, [bèn thưa rằng]: Chúng con đế quán, tức
là đúng lư quan sát, quan sát suy xét chắc thật, th́ gọi
là Đế. Quan sát theo Đế lư, quan sát từ thể
tánh, nương theo giáo nghĩa do đức Phật đă
giáo hóa để đúng lư quan sát tất cả chúng sanh trong
thế gian, [bèn thấy rằng] tuy họ đạt
được thân người khó có như thế. Đức
Phật nói một phen được làm thân người
khó khăn cỡ nào? Đức Phật nói một tỷ dụ:
“Thất nhân thân như đại địa thổ,
đắc nhân thân như trảo thượng trần”.
Tức là quư vị một phen được làm thân người
giống như bụi đất bám
vào kẽ móng tay, ít ỏi như thế đó; đánh mất
thân người th́ nhiều như đất trong đại
địa. Chư vị đạo hữu! V́ sao chúng ta
được làm thân người? Trong nhiều đời
bao kiếp, đă có nhân duyên nhất định đối
với Tam Bảo, tức là đời này chúng ta có dịp
gặp gỡ ở nơi đây, mọi người cùng
nhau học tập, trọn chẳng phải chỉ là một
đời, mà là mười đời, trăm đời
đă gieo thiện căn nơi khá nhiều đức Phật.
Quư
vị dùng t́nh cảnh hiện thực để đối
chiếu với lời đức Phật dạy, đối
chiếu với những điều người có trí huệ
đă nói như thế nào, [sẽ nhận biết] thân
người khó được dường ấy, [thế
mà nay chúng ta] lại coi chẳng đáng một đồng,
hỏng bét mất rồi! Đánh mất thân người lần
này, mong lại được làm người, chẳng giống
như chúng ta nói, hoặc như kẻ khác nói “chết rồi
là chẳng c̣n ǵ nữa”. Đâu có chuyện tiện nghi
như thế, chết rồi chẳng c̣n ǵ nữa ư?
Giết người, phóng hỏa, tạo ác nghiệp nhiều
ngần ấy, quư vị chẳng phải hứng chịu
[hậu quả], chẳng có [hậu quả] ư? Chẳng
thể được! Do vậy, người trên thế
gian này, v́ sao có kẻ giàu to, tiền bạc rủng rỉnh?
Có người hưởng thụ ngần ấy, có người
nghèo túng ngần ấy? Họ đă phí phạm cái thân
người khó có này! Nếu thật sự phá hỏng
hơn nữa, th́ họ dùng tấm thân để tạo
nghiệp, tạo nghiệp ǵ vậy? Tự ḿnh tạo
địa ngục, địa ngục đều là do chính
ḿnh tạo ra!
Như
vậy th́ quư vị đối với thời điểm
tốt đẹp và nơi chốn tốt đẹp đều
xa ĺa. Thời điểm tốt đẹp là ǵ? Lúc đức
Phật xuất thế, quư vị chưa sanh ra. Lúc đức
Phật tại thế, Phật sanh ở nơi đâu, quư
vị chẳng sanh về chỗ đó. Nơi thiện tri
thức đến, quư vị chẳng đến đó. Quư
vị cách các Ngài rất xa, sanh vào vùng biên cương, chẳng
nghe Phật pháp, chẳng nghe chánh pháp. Sau đó, lại tạo
nghiệp. Điều này giống như trong phần
trước đă nói, diệt Phật, diệt Pháp, diệt
Tăng, bức hại pháp khí và chẳng phải pháp khí, hủy
báng chánh pháp do đức Phật đă nói, xúc phạm, năo loạn
đệ tử xuất gia của đức Thế Tôn,
nay chúng ta có cảm giác rất hoảng sợ!
(Kinh) Thời, chúng hội
trung, phục hữu vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa
thông huệ hữu t́nh, tùng ṭa nhi khởi, đảnh lễ
Phật túc, hiệp chưởng, cung kính nhi bạch Phật
ngôn: “Đại đức Thế Tôn, ngă đẳng kim giả,
đối Thế Tôn tiền, dĩ chí thành tâm, phát chân thệ
nguyện, ngă đẳng tùng kim lưu chuyển sanh tử,
năi chí vị đắc Pháp Nhẫn dĩ lai, ư kỳ trung
gian, thường nguyện bất xử chư đế
vương vị, thường nguyện bất xử
chư tể quan vị, thường nguyện bất xử
chư quốc sư vị, thường nguyện bất
xử thành, ấp, tụ lạc, trấn la trưởng vị,
thường nguyện bất xử chư quân tướng
vị, thường nguyện bất xử chư
thương chủ vị, thường nguyện bất xử
nhất thiết từ tự tự quán chủ vị,
thường nguyện bất xử trưởng giả,
cư sĩ, sa-môn chủ vị, thường nguyện bất
xử chư sư trưởng vị, thường nguyện
bất xử chư gia trưởng vị, thường
nguyện bất xử đoán sự giả vị, thường
nguyện bất xử năi chí nhất thiết phú quư tôn vị.
Năi chí vị đắc Pháp Nhẫn dĩ lai, ngă đẳng
nhược xử như thị chư vị, tắc
ư Phật pháp danh ác nhân duyên, tạo chư trọng tội,
hủy báng chư Phật sở thuyết chánh pháp, xúc năo
chư Phật xuất gia đệ tử, tất
đương khiêu hoại chúng sanh pháp nhăn, diệc vi
đoạn diệt Tam Bảo chủng tánh, diệc vi tổn
năo vô lượng hữu t́nh. Do thị định
đương đọa Vô Gián ngục, luân chuyển ác
thú, nan hữu xuất kỳ. Duy nguyện Thế Tôn, ai mẫn
nhiếp thọ ngă đẳng sở phát như thị thệ
nguyện”.
(經)時眾會中,復有無量百千俱胝那庾多聰慧有情,從座而起,頂禮佛足,合掌恭敬,而白佛言:大德世尊,我等今者對世尊前,以至誠心發真誓願:‘我等從今流轉生死,乃至未得法忍已來 於其中間,常願不處諸帝王位,常願不處諸宰官位,常願不處諸國師位,常願不處城邑聚落鎮邏長位,常願不處諸軍將位,常願不處諸商主位,常願不處一切祠祀寺觀主位,常願不處長者、居士、沙門主位,常願不處諸師長位,常願不處諸家長位,常願不處斷事者位,常願不處乃至一切富貴尊位。乃至未得法忍已來,我等若處如是諸位,則於佛法名惡因緣,造諸重罪,譭謗諸佛所說正法,觸惱諸佛出家弟子,必當挑壞眾生法眼,亦為斷滅三寶種性,亦為損惱無量有情,由是定當墮無間獄,輪轉惡趣,難有出期。’唯願世尊,哀愍攝受我等所發如是誓願。
(Kinh: Khi ấy,
trong chúng hội lại có vô lượng trăm ngàn câu-chi
na-dữu-đa hữu t́nh thông huệ, từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ dưới chân đức
Phật, chắp tay, cung kính bạch với đức Phật
rằng: “Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con
nay đối trước đức Thế Tôn, dùng tâm chí
thành, phát ra thệ nguyện chân thật: Chúng con từ nay
trở đi, lưu chuyển trong sanh tử, cho đến
khi chưa đắc Pháp Nhẫn, trong khoảng giữa ấy,
thường nguyện chẳng giữ các ngôi vị đế
vương, thường nguyện chẳng giữ các ngôi
vị tể quan, thường nguyện chẳng giữ
các ngôi vị quốc sư, thường nguyện chẳng
giữ các ngôi vị đứng đầu thành, ấp, xóm làng, thị trấn, thường
nguyện chẳng giữ các ngôi vị tướng lănh trong quân đội, thường
nguyện chẳng giữ các ngôi vị chủ quản kinh
thương, thường nguyện chẳng giữ hết
thảy các ngôi vị đứng đầu các nơi cúng tế,
chùa chiền, đạo quán, thường nguyện chẳng
giữ các ngôi vị đứng đầu giới trưởng
giả, cư sĩ, sa-môn, thường nguyện chẳng
giữ các ngôi vị sư trưởng, thường nguyện
chẳng giữ các ngôi vị gia trưởng, thường
nguyện chẳng giữ các ngôi vị xử đoán, cho
đến thường nguyện chẳng giữ hết
thảy các ngôi vị phú quư tôn quư. Cho đến khi chưa
đắc Pháp Nhẫn, nếu chúng con giữ các ngôi vị
như thế, sẽ gọi là ác nhân duyên trong Phật pháp,
tạo các trọng tội, hủy báng chánh pháp do chư Phật
đă nói, xúc phạm, năo loạn các
đệ tử xuất gia của chư Phật, ắt sẽ
chọc mù pháp nhăn của chúng sanh, cũng sẽ đoạn
diệt chủng tánh Tam Bảo, cũng tổn hại, năo
loạn vô lượng hữu t́nh. Do vậy,
chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục Vô
Gián, luân chuyển trong đường ác, khó có thuở thoát
ra. Kính mong đức Thế Tôn xót thương, nhiếp thọ
các thệ nguyện do chúng con đă phát ra
như thế”).
Những người trong
đại hội mong mỏi làm ǵ? Đừng làm đế
vương! Hoàn toàn tương phản với kẻ b́nh
phàm. Có rất nhiều kẻ đời sau mong làm quốc
vương, c̣n các vị này hoàn toàn tương phản,
mong mỏi đừng làm quốc vương, mong đừng
làm tể quan, mong đừng làm quốc sư. Người
xuất gia làm thầy của hoàng đế th́ gọi là “quốc
sư”. “Thường nguyện bất xử thành, ấp,
tụ lạc, trấn la trưởng vị” [nghĩa
là] hương trưởng (trưởng làng), thôn trưởng,
cho đến khu trưởng, cho đến huyện
trưởng, các địa vị ấy ta đều không
mong muốn. “Thường nguyện bất xử chư
quân tướng vị” (thường nguyện
chẳng giữ địa vị tướng lănh trong quân
đội): Ngàn vạn lần đừng cầm quân, cũng chẳng
làm tướng quân. V́ sao? Trong quá khứ đă có bài thơ
nói về kẻ làm tướng quân: “Nhất tướng
công thành, vạn cốt khô”, [tức là] quư vị làm
tướng quân, cho đến khi đạt được
địa vị tướng quân, sẽ tạo rất nhiều
nghiệp. Nói “vạn” là nói số lượng đại
khái mà thôi, chẳng biết phải giết bao nhiêu người!
Nghiệp ấy rất lớn, cho nên chẳng mong địa
vị làm tướng quân.
Cũng
“thường nguyện bất xử chư thương
chủ vị”, [tức là] đừng làm chủ doanh
nghiệp. Ở nơi đây, có mấy vị đạo hữu
là thương chủ (chủ xí nghiệp, doanh nghiệp);
v́ sao chẳng muốn thuộc địa vị
thương chủ? Chúng ta có thể nghĩ đến
điều này! Chúng ta có các quyến thuộc làm ông bà chủ,
ở đây cũng có mấy vị làm chủ doanh nghiệp,
quư vị ngẫm xem, làm chủ doanh nghiệp quá khổ sở! Chưa kể là hắc đạo (bọn giang
hồ, xă hội đen) quấy nhiễu quư vị,
quan quyền hạch sách, hiếp đáp quư vị. Ḥa
thượng hóa duyên cũng t́m đến quư vị, v́ quư vị
có tiền, khổ càng nhiều hơn!
Mọi
người c̣n biết có chuyện cưỡng ép hóa duyên nữa
cơ! Miền Đông Bắc, tu bổ các ngôi đại tự.
Mọi người đă xem Ảnh Trần Hồi Ức
Lục th́ biết. Có lăo tướng quân Châu Tử Kiều,
trong quá khứ đă làm tướng quân tại Hắc Long
Giang. Tới thời Dân Quốc, ông ta chỉ làm ủy viên
trưởng trong Chẩn Tế Ủy Viên Hội, ông ta
đ̣i Tưởng Giới Thạch cho ḿnh giữ địa
vị ấy. Ông ta nói là muốn làm sự nghiệp từ
thiện, nhưng hóa duyên theo kiểu cưỡng ép. Cưỡng
ép như thế nào? Các bạn bè lâu năm của ông ta
đều bị hóa duyên đến nỗi sợ xanh mặt! Ông
ta sửa chùa cũng nhiều, cứu tế tai nạn
cũng nhiều. Dân bị tai nạn nhiều ngần ấy!
Có lần Hoàng Hà gây nên nạn
lụt, ông liền đến cứu trợ. Tại vùng
Đông Bắc Trung Hoa, ông ta hóa duyên Trương Học
Lương[6],
hóa duyên bao nhiêu vạn gánh cao lương. Người ta cần
ăn, ông chuyển đến từng người một.
Con số hóa duyên của ông ta rất lớn, ông ta sang
Thượng Hải hóa duyên các đạo hữu. Có chuyện
buồn cười là ông ta ngồi đợi ở pḥng
khách nhà bạn, chủ nhà ngồi ĺ trong pḥng vệ sinh không
dám ra. Làm cách nào đây? Ông ta đến tận pḥng vệ
sinh, rống lên: “Ông ra ngay đi! Tôi quyên số tiền đâu có nhiều!
Chỉ là một vạn đồng! Một vạn đồng
là được rồi, có thể đuổi tôi đi
được rồi!” Thuở đó, một vạn đồng
đại dương[7]
rất lớn!
Có
lúc ông ta hóa duyên rất nhiều, nhưng ông ta rất nghèo,
thứ ǵ cũng chẳng có. Là một người rất
có đạo đức, chuyện bất cứ ai không dám
làm, ông ta sẽ làm. Vợ ông ta lớn hơn chồng
mười lăm tuổi, mọi người nghĩ chuyện
ấy chẳng thể nào được! Vợ ông ta chính
là nha hoàn trong nhà. Nhà ông ta cha mẹ mất sớm, ông ta là
con một, người khác đều bỏ đi hết
rồi, cô nha hoàn ấy nuôi ông. Tới khi ông trưởng
thành, tính toán cho nha hoàn như thế nào? Ông bảo: “Tôi và cô
kết hôn là xong!” Nha hoàn nói: “Chuyện này làm sao có thể
được! Tôi lớn hơn cậu quá nhiều!” Ông ta
nói: “Nếu không, tôi chẳng thể báo đáp cô!” Sau đấy,
ông ta lại yêu cầu nha hoàn kết hôn với ông. Đă kết
hôn, ông ta tuyệt đối chẳng hai ḷng, lại c̣n sanh
con cái rất đông!
Nói
về đạo đức cá nhân của người này.
Trong quá khứ, khi ông ta làm tướng quân, được
gọi là “Châu đồ phu” (朱屠夫, gă đồ tể họ
Châu). Mọi người có biết v́ sao bị gọi là “Châu
đồ phu” hay không? Tên ông ta là Châu Khánh Nam, hiệu là
Châu Tử Kiều, giết người quá nhiều! Về
sau, ông ta sám hối, buông dao đồ tể, ngay lập tức
thành Phật. Ông ta nói: “Tôi có thể giết người, mà
cũng có thể cứu người”. Ông ta cứu trợ
tai nạn, chẳng biết đă cứu trợ bao nhiêu
người. Về sau, ông ta thân thiết với lăo pháp
sư Đàm Hư nhất. Ông ta và chúng tôi có thể nói chuyện
thoải mái với nhau. Ông ta nói: “Tôi cứu người nhiều
hơn giết người, có thể chuộc lỗi
được!” Chúng tôi bảo ông ta: “Chuộc không nổi!
Kinh Phật cũng chẳng nói có thể chuộc! Tức
là ông giết những kẻ đó th́ phải đền trả
từng người một; ông cứu những người
khác, th́ mỗi người trong bọn họ sẽ báo
đáp ông. Chẳng có chuyện chuộc!” “Có phương pháp nào
th́ mới có thể chuộc được?” Tôi nói: “Ông tu Không Quán.
Đă là Không, sẽ chẳng có ǵ là người được
cứu và kẻ cứu. Đă không có người được
cứu th́ người giết lẫn kẻ bị giết
đều không có, đều được giải quyết!
Thứ ǵ cũng đều chẳng có”. Đấy là nó về
tâm sám (心懺, sám hối bằng cái
tâm), vạn pháp duy thức. Duy tâm, quư vị phải dùng
điều này để quán tu, hết thảy tội
đều chẳng tồn tại, rỗng không, tội
tánh vốn Không, chỉ do tâm tạo.
Phép
Quán này chẳng dễ tu, nói rất dễ dàng. Chúng tôi giảng
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, quyển hạ giảng
về phép Quán này. Mọi người hăy xem thử phép Quán
này tu khó hay dễ? Bất quá chẳng khẩn yếu, có một
phương pháp. Cuối cùng, Địa Tạng Bồ Tát
dạy chúng ta một phương pháp, niệm danh hiệu
của Ngài, sẽ có thể tu thành phép Quán ấy. Niệm
nào quư vị cũng quán Địa Tạng Bồ Tát là
Không, là cái tâm của chính ḿnh, thế là được rồi!
Nay lại nói về chỗ ḿnh không muốn đến,
trước hết nói về khổ đă. Nỗi khổ
vẫn xảy tới, làm thế nào để ĺa khổ?
Các vị ấy nói: Con chẳng muốn giữ địa
vị sư trưởng, cũng chẳng làm thương
chủ, chẳng muốn kinh doanh to lớn, hoặc làm ông
chủ, cũng chẳng làm miếu chủ cai quản từ
đường, cũng chẳng làm Đương Gia trong
tự viện, những thứ ấy con đều không cần.
Lại c̣n chẳng muốn giữ các địa vị cầm
đầu bọn trưởng giả, cư sĩ, sa-môn!
Người
xuất gia chúng ta phát nguyện làm pháp sư[8]
rất ít. Từ những người tốt nghiệp Phật
Học Viện, t́m một hai vị pháp sư rất khó.
Làm pháp sư rất khó khăn, nghiệp rất nhiều.
Nói sai một câu, bài bác “chẳng có nhân
quả”, sẽ bị đọa lạc. Quư vị chẳng
biết nói sai như thế nào ư? Nhưng chính ḿnh đă
có kiến thức to lớn dường ấy, lại làm
như thế nào đây? Giả sử ai nấy đều
chẳng hoằng dương Phật pháp, chẳng phải
là pháp bị đoạn tuyệt ư? Pháp bị đoạn
tuyệt, hết thảy chúng sanh chẳng được
độ, do chẳng có pháp nhăn. Tội ác như thế chẳng
to lớn ư? Tội do hoằng pháp mà phạm tội và cái
tội chính ḿnh đọa địa ngục [v́ đă xuất
gia mà không hoằng pháp], tội ác nào lớn hơn? Khi ấy,
tôi đă suy xét cả hai đằng, “trước cửa
địa ngục, Tăng, đạo đông”, v́ sao? Mọi
người có thể tưởng tượng được,
tôi chẳng nói nữa!
Đời
Tống, Chân Hiết thiền sư làm phương trượng
chùa Dũng Tuyển tại Cổ Sơn, giảng kinh, hoằng
pháp, đạo đức rất cao. Hơn ngàn người
nghe kinh, tối thiểu là mấy trăm người, công
đức rất lớn. Về sau, khi Ngài bị bệnh,
chuyển qua ở trong một gian nhà gần chỗ hỏa
táng. Cũng có thể nói gian nhà ấy là chỗ để
quàn xác chết. Phàm quư vị bệnh nặng, chữa không
được, chẳng thể nào sống sót, liền
khiêng sang đó. Được khiêng vào đó, hơi lạnh
khiến Ngài tỉnh lại, thấy chính ḿnh đang ở Niết
Bàn Đường, Niết Bàn Đường là bất
sanh bất diệt; khiêng tới đó, chờ thiêu hóa. Sau
đó, Ngài lành bệnh, bèn làm một bài thơ ḥng dạy bảo
những người thuyết pháp: “Giảng đạo, luận pháp thật
khả thương” (giảng đạo,
luận pháp, thật đáng thương), [nghĩa là] giảng
kinh, thuyết pháp, bàn đạo lư, nói đạo lư rành mạch,
nhưng chính ḿnh chẳng chứng đắc th́ là chuyện
thật sự đáng thương tâm. “Chung báo thân ngọa
Niết Bàn Đường” (sắp chết nằm mọp
Niết Bàn Đường): Từ sáng đến tối
chờ chết ở Niết Bàn Đường. “Môn vô
quá khách, song vô chỉ” (Cửa không khách tới, song không
giấy): Khi quư vị làm đại pháp sư, đệ tử
rất đông, người này đến thăm, người
nọ đến viếng. Hễ tới Niết Bàn
Đường, sẽ chẳng có ai hết. Một người
khách cũng không có. Cửa sổ phất giấy, khi ấy
nhằm thời Tống, toàn là dùng giấy dán cửa sổ
để che gió (gọi là “phất giấy”). Gió lùa thổi
rách giấy dán cửa sổ, cũng chẳng có ai tới
dán cửa sổ Niết Bàn Đường. Gian nhà chứa
người chết th́ dán để làm ǵ? Chẳng có ai quản,
cho nên gió lùa vào tận nơi! “Lô hữu hàn hôi, tịch hữu
sương” (tro lạnh đầy ḷ, chiếu nhuốm
sương): Niết Bàn Đường phải nhóm ḷ, rất
lạnh, nhưng không có ai đến nhóm lửa, toàn là tro lạnh
ngắt. C̣n chiếu th́ do cửa sổ chẳng phất giấy,
gió thổi lồng lộng, cuốn theo sương ướt
đẫm chiếu. “Bệnh tùng thỉ tri thân thị khổ”
(bệnh rồi mới biết thân đau khổ): Đợi
đến khi quư vị bị bệnh, mới biết thân
ḿnh khổ nhất, có cái thân là khổ sở nhất! “Kiện
thời đô vị tha nhân mang” (lúc khỏe luôn v́ người
khác bận): Lúc thân thể khỏe mạnh, quư vị chẳng
tu hành, cứ đi giúp người này, gia tŕ cho người
này, cầu cảm ứng cho kẻ kia, niệm kinh hoặc
bái sám cho kẻ nọ, luôn bận bịu v́ chuyện
người khác. Có đúng như thế hay không? Đúng!
Vào lúc ấy, Ngài thốt lời thương tâm, bảo ban
những người giảng đạo, luận pháp,
đừng quên khuấy chính ḿnh, có ư nghĩa như thế
đó. Hai câu cuối nhằm nói: Ngài đă làm được,
cho nên về sau gọi là Chân Hiết (真歇, thật sự ngưng nghỉ). “Lăo
tăng tự hữu an tâm pháp”: Ta luôn có phương pháp
để an cái tâm. “Bát khổ giao tiên tổng bất
phương” (Tám khổ cùng nung chẳng ngại ǵ): Tám
sự khổ đều ùa đến, chẳng sao cả!
Hai câu này nói Ngài đă ngộ đạo
trong Niết Bàn Đường.
V́
lẽ ấy, các vị đại đức trông thấy
t́nh huống kiểu ấy, bèn nói ngàn vạn lần đừng
làm sư trưởng, ngàn vạn lần đừng làm
người đứng đầu. Thậm chí bất luận
quư vị làm ǵ, làm thủ lănh của sa-môn, hay đứng
đầu hoặc lănh đạo các cư sĩ đều
chẳng làm, phát nguyện như vậy. C̣n có hết thảy
các địa vị sư trưởng, trưởng giả,
cho đến xét xử, phán đoán công bằng hay không,
đấy có thể là nói đến chức vụ luật
sư [hay quan ṭa]. “Thường nguyện bất xử
đoán sự giả vị” (thường nguyện chẳng
giữ địa vị làm người xử đoán):
Hoặc làm phán quan xử án, xét xử, cho đến các
địa vị phú quư cao sang. Nói chung, phàm là địa vị
tôn quư, được kẻ khác cung kính, ta đều chẳng
muốn. Trước khi ta đắc Pháp Nhẫn, khi
chưa thành đạo, nếu giữ các địa vị
ấy, nhất định sẽ sanh ra ác nhân duyên trong Phật
pháp, sẽ tạo đủ loại tội. Do vậy, ta
chẳng mong đoạn diệt chủng tánh Tam Bảo, chẳng
mong hủy diệt chánh pháp của Phật, cũng chẳng
mong tổn hại vô lượng hữu t́nh. “Do thị
định đương đọa Vô Gián địa ngục,
luân chuyển ác thú, nan hữu xuất kỳ, duy nguyện
Thế Tôn” (do vậy, nhất định sẽ đọa
vào địa ngục Vô Gián, luân chuyển trong đường
ác, khó có thể thoát ra. Kính mong đức Thế Tôn) hăy từ
bi nhiếp thọ chúng con, khiến cho chúng con được
thỏa măn nguyện đă phát này! Con sẽ làm một kẻ
tu hành b́nh phàm, tín phụng Tam Bảo. Đó là một loại
người nữa!
(Kinh)
Nhĩ thời, nhất thiết chư lai đại chúng,
thiên, long, Dược Xoa, Kiện Đạt Phược,
nhân phi nhân đẳng, giai tùng ṭa khởi, đảnh lễ
Phật túc, bi hào, cảm thiết,
thế lệ giao lưu, hiệp chưởng, cung kính, nhi
bạch Phật ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ngă
đẳng vô thỉ sanh tử dĩ lai, ngu si, kiêu mạn,
khởi chư ác nghiệp, hoặc thân ác nghiệp, hoặc
ngữ ác nghiệp, hoặc ư ác nghiệp, tự tác, giáo
tha, kiến văn tùy hỷ, như thị chư tội,
kim đối Phật tiền, giai thâm tàm quư, phát lộ sám
hối, bất cảm phú tàng, nguyện tất trừ diệt.
Tùng kim dĩ văng, vĩnh bất phục tác, pḥng hộ
đương lai sở hữu tội cữu”. Đệ
nhị, đệ tam diệc như thị thuyết. “Ngă
đẳng chí thành phát chân thệ nguyện, tùng kim năi chí
sanh tử hậu tế, ư kỳ trung gian, thường
nguyện bất phùng chư ác tri thức, diệc nguyện
bất ngộ chư ác nhân duyên. Thiết đương
phùng ngộ, nguyện bất tùy thuận, quyết định
bất tạo như tiền sở thuyết chư ác tội
nghiệp, vật linh ngă đẳng trường dạ thọ
khổ. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn, nhiếp thọ
ngă đẳng, sở phát như thị thệ nguyện”.
(經)爾時,一切諸來大眾,天、龍、藥叉、健達縛、人非人等,皆從座起,頂禮佛足,悲號感切,涕淚交流,合掌恭敬,而白佛言:大德世尊,我等無始生死已來,愚癡憍慢,起諸惡業,或身惡業,或語惡業,或意惡業,自作教他,見聞隨喜。如是諸罪,今對佛前,皆深慚愧,發露懺悔,不敢覆藏,願悉除滅,從今以往永不復作,防護當來所有罪咎。第二第三,亦如是說:我等至誠,發真誓願:從今乃至生死後際,於其中間,常願不逢諸惡知識,亦願不遇諸惡因緣,設當逢遇願不隨順,決定不造如前所說諸惡罪業,勿令我等長夜受苦。唯願世尊,哀愍攝受我等所發如是誓願。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, hết thảy các đại chúng đến
dự pháp hội, trời, rồng, Dược Xoa, Kiện
Đạt Phược (Càn Thát Bà), nhân phi nhân v.v…
đều từ chỗ ngồi đứng lên, đảnh
lễ dưới chân đức Phật, buồn than, cảm
xúc thiết tha, nước mắt ràn rụa, chắp tay,
cung kính bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch
đại đức Thế Tôn! Chúng con từ vô thỉ
sanh tử đến nay, ngu si, kiêu căng, ngạo mạn,
dấy lên các ác nghiệp, hoặc ác nghiệp nơi thân, hoặc
ác nghiệp nơi ngữ, hoặc ác nghiệp nơi ư, tự
làm, dạy người khác làm, thấy nghe bèn tùy hỷ, các
tội như thế đối trước đức Phật
đều hổ thẹn sâu xa, phát lộ sám hối, chẳng
dám giấu diếm, nguyện đều trừ diệt. Từ
nay trở đi, vĩnh viễn chẳng làm nữa,
ngăn ngừa tất cả tội lỗi trong mai sau”. Lần
thứ hai, lần thứ ba cũng nói như thế. “Chúng
con chí thành phát ra thệ nguyện chân thật, từ nay cho
đến hết sanh tử trong đời mai sau, trong khoảng
ấy, thường nguyện chẳng gặp các ác tri thức,
cũng nguyện chẳng gặp các ác nhân duyên. Dẫu có gặp
gỡ, nguyện chẳng thuận theo, quyết định
chẳng tạo các ác tội nghiệp như đă nói trên
đây, chẳng khiến cho chúng con chịu khổ trong
đêm dài. Kính mong đức Thế Tôn xót thương, nhiếp
thọ thệ nguyện do chúng con đă phát ra như thế”).
Đây
là khóc ra tiếng. “Hào” (號) là khóc lớn. “Thế
lệ giao lưu, hiệp chưởng, cung kính nhi bạch
Phật ngôn: - Đại đức
Thế Tôn, ngă đẳng vô thỉ sanh tử dĩ lai, ngu
si, kiêu mạn, khởi chư ác nghiệp, hoặc thân ác nghiệp,
hoặc ngữ ác nghiệp, hoặc ư ác nghiệp” (nước mắt
ràn rụa, chắp tay, cung kính mà bạch cùng đức Phật
rằng: “Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con
từ vô thỉ sanh tử đến nay, ngu si, kiêu căng,
ngạo mạn, dấy lên các ác nghiệp, hoặc ác nghiệp
nơi thân, hoặc ác nghiệp nơi miệng, hoặc ác
nghiệp nơi ư”): Ba nghiệp
toàn là tạo ác, chính ḿnh đă tạo ác th́ thôi, lại c̣n
chỉ dạy kẻ khác! “Kiến văn tùy hỷ,
như thị chư tội, kim đối Phật tiền,
giai thâm tàm quư, phát lộ sám hối, bất cảm phú tàng,
nguyện tất trừ diệt, tùng kim dĩ văng, vĩnh bất
phục tác” (Thấy nghe vui theo, các tội như thế,
nay đối trước Phật, đều hổ thẹn
sâu xa, phát lộ sám hối, chẳng dám giấu diếm,
nguyện đều trừ diệt. Từ nay trở
đi, vĩnh viễn chẳng làm nữa): Phát nguyện chẳng
c̣n làm những điều ác ấy. “Pḥng hộ đương
lai sở hữu tội cữu” (ngăn ngừa tất
cả tội lỗi trong mai sau), “đệ nhị,
đệ tam, diệc như
thị thuyết” (lần thứ hai, lần
thứ ba cũng nói như thế). “Như thị” là
mỗi loại đều phát nguyện như thế,
cũng là họ phát nguyện gần giống như nhau, phần
lớn đều giống nhau.
Đại khái là khi pháp sư Huyền Trang phiên dịch, những
chỗ tương đồng, Ngài chẳng dịch lặp
lại quá nhiều, bèn thêm chữ “đệ nhị,
đệ tam”, đại ư là có ư nghĩa như thế!
Nguyện ǵ vậy? Nguyện chúng con ngàn vạn lần
đừng gặp ác tri thức, bọn chúng sẽ kéo chúng
con vào địa ngục. Chẳng muốn gặp các nhân
duyên ác như thế đó. “Thiết
đương phùng ngộ, nguyện bất tùy thuận”
(nếu như gặp gỡ, nguyện chẳng thuận
theo): Quyết định chẳng tạo các tội nghiệp xấu ác như đă nói
trong phần trước “Vật linh ngă đẳng
trường dạ thọ khổ. Duy nguyện Thế Tôn
ai mẫn nhiếp thọ ngă đẳng, sở phát như
thị thệ nguyện” (Đừng để chúng con
chịu khổ trong đêm dài. Kính mong đức Thế Tôn
xót thương nhiếp thọ thệ nguyện do chúng con
đă phát như thế).
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn phổ cáo nhất thiết
chư lai đại chúng: “Thiện tai! Thiện tai! Nhữ
đẳng năi năng ư hậu thế khổ, thâm kiến
bố úy, phát lộ sám hối. Nhữ đẳng kim giả,
dục độ sanh tử thâm quảng bộc lưu, dục
nhập vô úy Niết Bàn chi thành, phát như thị nguyện.
Chư thiện nam tử! Hữu thập chủng pháp,
năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, hoạch đắc
vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Hà đẳng vi thập?
Chư thiện nam tử, nhược chư Bồ Tát Ma Ha
Tát đẳng, bất trước nội thân, bất
trước ngoại thân, bất trước nội ngoại
thân, bất trước quá khứ thân, bất trước
vị lai thân, bất trước hiện tại thân, danh
đệ nhất pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng
hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn”.
(經)爾時,世尊普告一切諸來大眾:善哉!善哉!汝等乃能於後世苦,深見怖畏,發露懺悔。汝等今者,欲度生死深廣瀑流,欲入無畏涅槃之城,發如是願。諸善男子,有十種法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。何等為十?諸善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著內身,不著外身,不著內外身,不著過去身,不著未來身,不著現在身,名第一法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo khắp hết
thảy các đại chúng đến tham dự: “Lành thay!
Lành thay! Các ông có thể đối với sự khổ
trong đời sau, trông thấy bèn sợ hăi sâu xa,
phát lộ sám hối. Nay các ông muốn vượt thoát khỏi
gịng thác sanh tử sâu rộng, muốn vào ṭa thành Niết
Bàn không sợ hăi, bèn phát nguyện như thế. Này các thiện
nam tử! Có mười loại pháp có thể khiến cho
hàng Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội
chánh lộ Pháp Nhẫn. Những ǵ là mười? Này các thiện
nam tử! Nếu các vị Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp
nội thân, chẳng chấp ngoại thân, chẳng chấp
trước trong ngoài thân, chẳng chấp thân quá khứ,
chẳng chấp thân vị lai, chẳng chấp thân hiện
tại, th́ gọi là pháp thứ nhất có thể khiến
cho hàng Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội
chánh lộ Pháp Nhẫn”).
Trên
đây có nhiều loại chúng sanh như vậy, đối
với từng loại một, đức Phật đều
tổng kết: “Thiện tai! Thiện tai”, [ư nói] các vị
phát nguyện đều rất hay! “Nhữ đẳng
năi năng ư hậu thế khổ, thâm kiến bố
úy”, [nghĩa là] các vị đối với sự khổ
trong đời sau đều có thể hiểu rơ, lại
c̣n quán chiếu rất sâu sắc, phát sanh tâm kinh sợ. Cho
nên “phát lộ sám hối”. Hiện thời, “nhữ
đẳng kim giả dục độ sanh tử thâm quảng
bộc lưu” (nay các ông muốn vượt gịng thác sanh
tử sâu rộng): Biển khổ sanh tử vừa sâu lại
vừa rộng, giống như gịng thác chảy xiết,
mong tiến nhập “vô úy Niết Bàn chi thành” (ṭa thành
Niết Bàn chẳng sợ hăi): Chẳng có sợ hăi, tiến
nhập ṭa thành Niết Bàn, tức là thành đạo, thành
Phật sẽ chẳng sợ hăi. Do vậy, “phát như
thị nguyện. Chư thiện
nam tử! Hữu thập
chủng pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, hoạch
đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn” (phát nguyện
như thế. Này các thiện nam tử! Có mười loại
pháp, có thể khiến cho hàng Bồ Tát Ma Ha Tát đạt
được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn): Chúng ta có
muốn đắc Pháp Nhẫn hay không? Đấy là con
đường chánh đáng để đạt được
Pháp Nhẫn, đạt đến thành đạo.
“Hà
đẳng vi thập? Chư thiện nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát, bất trước
nội thân, bất trước ngoại thân, bất trước
nội ngoại thân, bất trước quá khứ thân, bất
trước vị lai thân, bất trước hiện tại
thân, danh đệ nhất pháp” (Những ǵ là
mười? Này các thiện nam tử! Nếu các vị Bồ
Tát Ma Ha Tát chẳng chấp nội thân, chẳng chấp ngoại
thân, chẳng chấp trước trong ngoài thân, chẳng chấp
thân quá khứ, chẳng chấp thân vị lai, chẳng chấp
thân hiện tại, th́ gọi là pháp thứ nhất): Chớ
nên chấp trước thân thể của quư vị. Thân thể
của quư vị là vô thường. Dùng thân để đại
diện cho những ǵ? Đại diện sắc pháp. Hết
thảy các thứ hữu h́nh, hữu tướng, sẽ
đều tiêu diệt. Đặc biệt là chúng sanh do Ngă
Kiến quá nhiều, đều coi chính ḿnh là chánh yếu.
V́ sao? Thân thể này của ta cần phải hưởng
thụ, thân thể của ta phải thoải mái, luôn luôn là
tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê, đều
v́ cái thân thể này! Trước hết, đoạn trừ
Thân Kiến. Trong thân, ngoài thân, hết thảy các thân đều
phải đoạn. Đấy là phương pháp thuộc
loại thứ nhất, tức là đoạn Thân Kiến.
Đấy là sắc pháp.
V́
trong phần sau, sẽ nói đến Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Sẽ nói đến Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc, cho đến Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức. Nêu ra Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức làm đại diện. Đó là pháp thứ nhất.
Sau đó, lại đoạn trừ tam giới, tức Dục
Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, tổng cộng
là mười pháp, bao gồm các pháp ấy. “Năng linh Bồ
Tát Ma Ha Tát hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn”
(Có thể khiến cho Bồ Tát Ma Ha Tát đạt
được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn). Đấy
là pháp thứ nhất, khiến cho hết thảy Bồ Tát
đều có thể thành Phật.
(Kinh) Hựu thiện nam
tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất
trước nội thọ, bất trước ngoại thọ,
bất trước nội ngoại thọ, bất trước
quá khứ thọ, bất trước vị lai thọ, bất
trước hiện tại thọ, danh đệ nhị
pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc
vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Hựu thiện nam tử,
nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất
trước nội tưởng, bất trước ngoại
tưởng, bất trước nội ngoại tưởng,
bất trước quá khứ tưởng, bất trước
vị lai tưởng, bất trước hiện tại
tưởng, danh đệ tam pháp, năng linh Bồ Tát Ma
Ha Tát đẳng hoạch đắc vô tội chánh lộ
Pháp Nhẫn. Hựu thiện nam tử, nhược chư
Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất trước nội
hành, bất trước ngoại hành, bất trước nội
ngoại hành, bất trước quá khứ hành, bất
trước vị lai hành, bất trước hiện tại
hành, danh đệ tứ pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát
đẳng hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn.
Hựu thiện nam tử, nhược chư Bồ Tát Ma
Ha Tát đẳng, bất trước nội thức, bất
trước ngoại thức, bất trước nội
ngoại thức, bất trước quá khứ thức, bất
trước vị lai thức, bất trước hiện
tại thức, danh đệ ngũ pháp, năng linh Bồ
Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc vô tội chánh lộ
Pháp Nhẫn.
(經)又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著內受,不著外受,不著內外受,不著過去受,不著未來受,不著現在受,名第二法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著內想,不著外想,不著內外想,不著過去想,不著未來想,不著現在想,名第三法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著內行,不著外行,不著內外行,不著過去行,不著未來行,不著現在行,名第四法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著內識,不著外識,不著內外識,不著過去識,不著未來識,不著現在識,名第五法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。
(Kinh: Lại này thiện
nam tử! Nếu các vị Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp
nội thọ, chẳng chấp ngoại thọ, chẳng
chấp nội ngoại thọ, chẳng chấp quá khứ
thọ, chẳng chấp vị lai thọ, chẳng chấp
hiện tại thọ, gọi là pháp thứ hai, có thể
khiến cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được
vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Lại này thiện nam tử!
Nếu các vị Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp nội
tưởng, chẳng chấp ngoại tưởng, chẳng
chấp nội ngoại tưởng, chẳng chấp quá
khứ tưởng, chẳng chấp vị lai tưởng,
chẳng chấp hiện tại tưởng, gọi là pháp
thứ ba, có thể khiến cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát
đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn.
Lại này thiện nam tử! Nếu các vị Bồ Tát Ma
Ha Tát chẳng chấp nội hành, chẳng chấp ngoại
hành, chẳng chấp nội ngoại hành, chẳng chấp
quá khứ hành, chẳng chấp vị lai hành, chẳng chấp
hiện tại hành, được gọi là pháp thứ
tư, có thể khiến cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát
đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn.
Lại này thiện nam tử! Nếu các
vị Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp nội thức, chẳng
chấp ngoại thức, chẳng chấp nội ngoại
thức, chẳng chấp quá khứ thức, chẳng chấp
vị lai thức, chẳng chấp hiện tại thức,
th́ gọi là pháp thứ năm, có thể khiến cho các vị
Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ
Pháp Nhẫn).
“Hựu
thiện nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát
đẳng, bất trước nội thọ, bất
trước ngoại thọ, bất trước nội
ngoại thọ, bất trước quá khứ thọ, bất
trước tương lai thọ, bất trước hiện
tại thọ, danh đệ nhị pháp” (Lại này thiện
nam tử! Nếu các vị Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp
nội thọ, chẳng chấp ngoại thọ, chẳng
chấp nội ngoại thọ, chẳng chấp quá khứ
thọ, chẳng chấp vị lai thọ, chẳng chấp
hiện tại thọ, gọi là pháp thứ hai): Đấy
là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Năm món này
đều đă nói trong phần trước; bất
quá, văn tự biến hóa đôi chút. Trong ấy bao gồm
tám thức, tôi chỉ giảng tổng quát đôi chút. Đối
với những cái được gọi là Ngũ Uẩn,
tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Quán Tự
Tại Bồ Tát do đă hành Bát Nhă sâu xa, soi thấy Ngũ
Uẩn đều Không, tức là Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức [đều Không]. Nay đức Phật
dạy chúng ta: Chỉ cần quư vị chẳng chấp
trước, đó gọi là “tu Quán”. Đồng thời,
quư vị cũng đừng nên chấp trước sắc
này, đừng nên chấp trước sắc kia, như vậy
th́ quư vị sẽ có thể dần dần đạt
được thành tựu. Đó gọi là “chánh lộ
Pháp Nhẫn”.
Tuy
quư vị có thể chẳng chấp trước Ngũ Uẩn,
nhưng dùng trí huệ chiếu Không, chúng ta vẫn chưa
đạt được! V́ quư vị ắt cần phải
tiến thêm một bước nữa, biết Ngũ Uẩn
đều không. Như thế nào th́ mới có thể chẳng
chấp trước, chẳng tham
đắm? Quư vị phải tu Không Quán. Đấy chính là
một ư nghĩa khác. Quư vị dùng Quán Chiếu như trong
phần trên đă nói. Kinh Đại Tập Thập Luân dạy
chúng ta tu Quán, Sổ Tức Quán, hăy khéo tu th́ sẽ có thể
đạt được!
(Kinh)
Hựu thiện nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma
Ha Tát đẳng, bất trước thử thế, danh
đệ lục pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng
hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Hựu
thiện nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát
đẳng, bất trước tha thế, danh đệ
thất pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch
đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Hựu thiện
nam tử, nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng,
bất trước Dục Giới, danh đệ bát pháp,
năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc
vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Hựu thiện nam tử!
Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất
trước Sắc Giới, danh đệ cửu pháp,
năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc
vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Hựu thiện nam tử!
Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất
trước Vô Sắc Giới, danh đệ thập pháp,
năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc
vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn.
(經)又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著此世,名第六法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著他世,名第七法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著欲界,名第八法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著色界,名第九法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著無色界,名第十法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。
(Kinh: Lại
này thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng
chấp đời này, th́ gọi là pháp thứ sáu, có thể
khiến cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được
vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Lại này thiện nam tử!
Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát, chẳng chấp đời
khác, th́ gọi là pháp thứ bảy, có thể khiến cho
các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội
chánh lộ Pháp Nhẫn. Lại này thiện nam tử! Nếu
các Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp Dục Giới, th́ gọi
là pháp thứ tám, có thể khiến cho các vị Bồ Tát
Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ Pháp
Nhẫn. Lại này thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát
Ma Ha Tát chẳng chấp Sắc Giới th́ gọi là pháp thứ
chín, có thể khiến cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đạt
được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Lại này
thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp
Vô Sắc Giới, th́ gọi là pháp thứ mười, có thể
khiến cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được
vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn).
“Thiện
nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng
bất trước thử thế” (Này thiện nam tử!
Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp trước
đời này): Đời này chuyện ǵ quư vị cũng
đều chẳng chấp trước, “bất trước”
(不著) là không chấp trước. Đó là pháp thứ sáu. “Năng
linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc vô tội
chánh lộ Pháp Nhẫn. Hựu thiện nam tử! Nhược
chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng bất trước tha
thế” (có thể khiến cho các Bồ Tát Ma Ha Tát đạt
được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Lại này
thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp
trước đời khác): Chẳng chấp đời
này, mà đời khác cũng chớ nên chấp trước.
Quá khứ cũng vậy, mà tương lai cũng thế,
đều chớ nên chấp trước. Đó gọi là “chẳng
chấp ba đời”. Quá khứ, vị lai: Quá khứ
đă qua, chẳng cần nghĩ tới nữa, hiện tại
có được hay không? [Hiện tại th́] ngay lập tức
lại trở thành quá khứ, biến thành ba đời
đều Không! Tương lai th́ tương lai c̣n chưa
đến, quư vị nghĩ tới nó để làm ǵ? Rốt
cuộc là như thế nào? Chuyện ǵ cũng đều
phải lập kế hoạch. Đó là sai lầm! Kế
hoạch chẳng do quư vị hoạch định! Quư vị
chẳng biết nghiệp quả của chính ḿnh được
an bài như thế nào, ai cũng đều chẳng thể an bài
cho chính ḿnh. Dường như là chính ḿnh an bài cho chính ḿnh,
nhưng thật ra, quư vị mù quáng bận ḷng, đă sớm
an bài sẵn rồi!
Quư
vị làm như thế nào, sẽ hứng chịu như thế
ấy. Trừ phi hiện tại đang chuyển biến,
chuyển biến như thế nào? Quư vị đă nghe Phật
pháp, lại c̣n có thể hành. Nay quư vị mỗi ngày niệm
Địa Tạng Bồ Tát, coi Ngài như vị cứu mạng
vương xuất hiện, lại nắm chặt Ngài
không buông, niệm như thế đó! Chuyển biến tối
thiểu là chẳng thọ tam đồ! Nghe danh hiệu
Địa Tạng Vương, sẽ chẳng rơi vào
tam đồ. Có người nói “đang nằm mộng mà
niệm Địa Tạng Bồ Tát sẽ chẳng linh!”
Chẳng phải là niệm trong mộng không linh, mà là khi quư
vị tỉnh đă niệm chẳng linh, do quư vị chẳng
niệm bằng cái tâm. Hễ niệm bằng tâm, sẽ
linh. Trong khi ngủ mà niệm th́ cảnh trong mơ chẳng
c̣n, [do niệm Bồ Tát] mà mong liễu sanh tử c̣n
được, huống hồ nằm mơ! Phải tin
tưởng!
“Hựu
thiện nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát
đẳng, bất trước Dục Giới, danh đệ
bát pháp” (Lại này thiện nam tử! Nếu các Bồ
Tát Ma Ha Tát chẳng chấp trước Dục Giới th́
gọi là pháp thứ tám): Thế giới chúng ta đang sống
được gọi là Dục Giới. Dục Giới có
sáu tầng trời và nhân gian, lại c̣n có súc sanh, ngạ quỷ,
và địa ngục, các cơi ấy đều thuộc về
Dục Giới. “Bất trước Sắc Giới”:
[Sắc Giới] có mười tám tầng trời, [chẳng
chấp trước Sắc Giới] được gọi
là pháp thứ chín. “Năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng
hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Hựu
thiện nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát
đẳng, bất trước Vô Sắc Giới” (có thể
khiến cho các Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được
vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Lại này thiện nam tử!
Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp trước Vô
Sắc Giới). Vô Sắc Giới là Không. Vô Sắc Giới
đă là Không, c̣n làm chi
nữa? Đă đạt tới Vô Sắc Giới Thiên, chính
là La Hán Định. La Hán Định chẳng phát Bồ
Đề tâm. Đến một lúc nhất định, họ
sẽ dao động, lại phát Bồ Đề tâm. V́ thế,
chớ nên chấp trước Vô Sắc Giới. “Danh vi
đệ thập pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng
hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn”
(được gọi là pháp thứ mười, có thể
khiến cho các Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được
vô tội chánh lộ pháp nhẫn), có thể thành Phật. Nếu
ngay cả tam giới đều không chấp trước,
đương nhiên là sẽ thành tựu, chẳng chịu
khổ.
(Kinh) “Chư thiện nam tử! Thị danh thập pháp,
năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc
vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn”. Thế Tôn vị chúng thuyết
thử pháp thời, ư chúng hội trung, hữu thất
thập nhị bách thiên câu-chi Bồ Tát Ma Ha Tát đồng
thời chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Phục hữu
bát thập tứ bách thiên na-dữu-đa Bồ Tát chứng
đắc Tùy Thuận Pháp Nhẫn. Phục hữu vô lượng
bách thiên Thanh Văn, năi chí vĩnh đoạn nhất thiết
phiền năo, thành A La Hán. Phục hữu bách thiên na-dữu-đa
chúng sanh, tiên vị phát tâm, kim phát Vô Thượng Chánh Đẳng
Giác tâm, ư Như Lai trí, trụ bất thoái địa. Phục
hữu vô lượng, vô số chúng sanh, tiên vị phát tâm,
ư kim năi phát Độc Giác Thừa tâm. Phục hữu vô
lượng, vô số chúng sanh, tiên vị phát tâm, ư kim
năi phát Thanh Văn Thừa tâm.
(經)諸善男子,是名十法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。世尊為眾說此法時,於眾會中,有七十二百千俱胝菩薩摩訶薩,同時證得無生法忍。復有八十四百千那庾多菩薩,證得隨順法忍。復有無量百千聲聞,乃至永斷一切煩惱成阿羅漢。復有百千那庾多眾生,先未發心,今發無上正等覺心,於如來智住不退地。復有無量無數眾生,先未發心,於今乃發獨覺乘心。復有無量無數眾生,先未發心,於今乃發聲聞乘心。
(Kinh:
“Các thiện nam tử! Đó gọi là mười pháp có thể
khiến cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được
vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn”. Khi đức Thế Tôn
v́ đại chúng nói pháp này, ở trong chúng hội, có bảy
mươi hai trăm ngàn câu-chi Bồ Tát Ma Ha Tát đồng
thời chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Lại có tám
mươi bốn trăm ngàn na-dữu-đa Bồ Tát chứng
đắc Tùy Thuận Pháp Nhẫn. Lại có vô lượng
trăm ngàn Thanh Văn, cho đến vĩnh viễn đoạn
tuyệt hết thảy phiền năo, thành A La Hán. Lại có
trăm ngàn na-dữu-đa chúng sanh, trước kia chưa
phát tâm, nay phát Vô Thượng Chánh Đẳng Giác tâm, trụ
địa vị bất thoái chuyển nơi trí Như Lai.
Lại có vô lượng vô số chúng sanh, trước kia
chưa phát tâm, nay bèn phát tâm Độc Giác Thừa. Lại
có vô lượng vô số chúng sanh, trước kia chưa
phát tâm, nay bèn phát tâm Thanh Văn Thừa).
Khi
đức Phật nói pháp ấy, có bảy mươi hai
trăm ngàn câu-chi Bồ Tát Ma Ha Tát đồng thời chứng
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, tức là đăng địa
(chứng Sơ Địa). Nghe nói như thế, mọi
người bèn cầu gia tŕ. Các vị ấy đă
đăng địa, nay chúng ta vẫn chưa nhập, tin
nổi hay không? Hy vọng mọi người tin tưởng,
chúng ta tin Vô Sanh Pháp Nhẫn, hoàn toàn chẳng phải là nhập.
Chúng ta có thể tin Vô Sanh Pháp Nhẫn, trong tương lai nhất
định có thể chứng nhập. Tín là mẹ của
hết thảy các công đức. Có thể tin th́ sẽ có
thể tiến nhập.
Ngoài
ra c̣n có tám mươi bốn trăm ngàn na-dữu-đa Bồ
Tát, đắc Tùy Thuận Pháp Nhẫn. “Phục hữu
bách thiên vô lượng Thanh Văn, năi chí vĩnh đoạn
nhất thiết phiền năo, thành A La Hán. Phục hữu
bách thiên na-dữu-đa chúng sanh, tiên vị phát tâm, kim phát Vô
Thượng Chánh Đẳng Giác tâm” (lại có vô lượng
trăm ngàn Thanh Văn, cho đến vĩnh viễn đoạn
diệt hết thảy các phiền năo, thành A La Hán. Lại
có trăm ngàn na-dữu-đa chúng sanh
trước kia chưa phát tâm, nay phát tâm Vô Thượng
Chánh Đẳng Giác): Ta cũng mong thành Phật,
đấy là phát tâm. Bồ Tát mới vừa phát tâm Bồ
Đề, “ư Như Lai trí, trụ bất thoái địa” (trụ địa vị bất thoái chuyển
nơi trí của Như Lai): Người nào phát tâm, cũng
đều có thể trụ trong địa vị Bất
Thoái Chuyển. Trí huệ của Như Lai là địa vị
chẳng thoái chuyển, đạt tới Sơ Trụ sẽ
bất thoái. Nếu đạt đến Thất Trụ,
Thất Trụ là Vị Bất Thoái. Sơ Trụ là Tâm Bất
Thoái, Thất Trụ là Vị Bất Thoái, tức là địa
vị Bất Thoái. Họ tin tưởng hết thảy
trí huệ của đức Phật, ta nhất định
có thể thành đạo.
C̣n
có vô lượng vô số chúng sanh nay mới phát tâm, phát tâm
ǵ vậy? Chẳng phải là thành Phật. “Phát Độc
Giác Thừa tâm. Phục hữu vô lượng vô số chúng
sanh, tiên vị phát tâm” (phát tâm Độc Giác. Lại có
vô lượng vô số chúng sanh, trước kia chưa phát
tâm), đến nay bèn phát tâm, phát ǵ vậy? Ta liễu sanh tử
là được rồi, tức là phát “Thanh Văn tâm”.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo đại chúng: “Nhược
chư hữu t́nh dĩ đắc Pháp Nhẫn, xử
Sát-đế-lợi quán đảnh vương vị, thọ
dụng chủng chủng thắng đại tài nghiệp,
cập xử chủng chủng phú quư tôn vị, thị ngă
sở hứa, phi dư hữu t́nh”. Kim Cang Tạng Bồ
Tát bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Nhược chư hữu
t́nh vị đắc Pháp Nhẫn, ư Sát-đế-lợi
quán đảnh vương vị, thọ dụng chủng
chủng thắng đại tài nghiệp, cập dư chủng
chủng phú quư tôn vị, định bất hứa xử,
vi diệc hứa da?”
(經)爾時,世尊復告大眾:「若諸有情已得法忍,處剎帝利灌頂王位,受用種種勝大財業,及處種種富貴尊位,是我所許,非餘有情。」金剛藏菩薩白佛言:「世尊,若諸有情未得法忍,於剎帝利灌頂王位,受用種種勝大財業,及餘種種富貴尊位,定不許處,為亦許耶?」
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo
đại chúng: “Nếu các hữu t́nh đă đắc Pháp
Nhẫn, ở ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh,
thọ dụng các thứ đại tài nghiệp thù thắng,
và thuộc các ngôi vị phú quư sang cả, th́ ta chấp thuận,
chẳng phải các hữu t́nh khác”. Kim Cang Tạng Bồ
Tát bạch đức Phật rằng: “Bạch đức
Thế Tôn! Nếu các hữu t́nh chưa đắc Pháp Nhẫn,
đối với vương vị Sát-đế-lợi
quán đảnh, thọ dụng các thứ đại tài
nghiệp thù thắng, và các thứ địa vị sang cả
phú quư, sẽ là chắc chắn chẳng được
phép, hay cũng được phép?”)
Đă
đắc Pháp Nhẫn, “xử Sát-đế-lợi quán
đảnh vương vị, thọ dụng chủng chủng
thắng đại tài nghiệp, cập xử chủng chủng
phú quư tôn vị, thị ngă sở hứa, phi dư hữu
t́nh” (ở ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh,
thọ dụng các thứ tài sản to lớn thù thắng, và
thuộc các ngôi vị phú quư sang cả, th́ ta chấp thuận,
chẳng phải các hữu t́nh khác): Làm Sát-đế-lợi,
ngoại trừ những gă vua chúa Chiên-đồ-la tạo nghiệp,
c̣n có những vị đă chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn,
là bậc đăng địa Bồ Tát. Các vị ấy
muốn thị hiện, hóa hiện, liền ở ngôi vua
quán đảnh. Họ nhận vương vị ấy,
đáng nên hưởng thụ, ta (đức Phật) cho
phép điều ấy, chứ các hữu t́nh khác sẽ chẳng
thể! Kim Cang Tạng Bồ Tát liền hỏi đức
Phật: “Thế Tôn! Nhược chư hữu t́nh vị
đắc Pháp Nhẫn, ư Sát-đế-lợi quán đảnh
vương vị, thọ dụng chủng chủng thắng
đại tài nghiệp, cập dư chủng chủng phú
quư tôn vị, định bất hứa xử” (Bạch
đức Thế Tôn! Nếu các hữu t́nh chưa đắc
Pháp Nhẫn, đối với vương vị Sát-đế-lợi
quán đảnh, thọ dụng các thứ tài sản to lớn thù thắng, và các thứ
địa vị sang cả phú quư, sẽ là chắc chắn
chẳng được phép): Nhất định chẳng
cho phép, “vi diệc hứa da?”, hay cũng có thể
được phép. Tức là trừ những vị đă
đắc Pháp Nhẫn, Phật cũng cho phép ư? Nếu
chưa đắc Pháp Nhẫn, c̣n có phương tiện
nào để cho phép họ ở ngôi vua quán đảnh
Sát-đế-lợi hay chăng?
(Kinh)
Thế Tôn cáo viết: - Nhược chư hữu t́nh, vị đắc
Pháp Nhẫn, hữu năng thọ hành Thập Thiện Nghiệp
Đạo, diệc khuyến chúng sanh linh thọ học giả,
ngă diệc thính hứa xử Sát-đế-lợi quán đảnh
vương vị, thọ dụng chủng chủng thắng
đại tài nghiệp, cập dư chủng chủng phú
quư tôn vị. Nhược chư hữu t́nh vị đắc
Pháp Nhẫn, diệc bất thọ hành Thập Thiện
Nghiệp Đạo, cập khuyến chúng sanh linh cần
thọ học, dĩ cường thế lực, xử
Sát-đế-lợi quán đảnh vương vị, thọ
dụng chủng chủng thắng đại tài nghiệp,
cập xử chủng chủng phú quư tôn vị, danh
Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, cập
dư chủng chủng phú quư tôn vị Chiên-đồ-la
vương, ngu si, kiêu mạn, hủy hoại, nhiễu loạn
ngă thậm thâm pháp, diệt chánh pháp đăng, đoạn
Tam Bảo chủng. Ư ngă xuất gia chư đệ tử
chúng, chủng chủng năo loạn, chủy khảo, h́nh phạt,
đoạt kỳ y bát, cơ nghiệp tài sản, thoái linh
hoàn tục, khóa thuế, dịch sử, hệ bế lao ngục,
năi chí đoạn mạng. Ư ngă sở thuyết vi diệu
pháp nghĩa, phỉ báng, khinh hủy, chướng tế, ẩn
một, bất linh lưu bố, đoạt Tốt-đổ-ba
cập Tăng Kỳ vật. Như thị chư nhân giai
đương đọa Vô Gián địa ngục, thọ
chư kịch khổ, luân chuyển ác thú, nan hữu xuất
kỳ.
(經)世尊告曰:若諸有情未得法忍,有能受行十善業道,亦勸眾生令受學者,我亦聽許處剎帝利灌頂王位,受用種種勝大財業,及餘種種富貴尊位。若諸有情未得法忍,亦不受行十善業道,及勸眾生令勤受學,以強勢力處剎帝利灌頂王位,受用種種勝大財業,及處種種富貴尊位,名剎帝利旃荼羅王,及餘種種富貴尊位旃荼羅王,愚癡憍慢,毀壞擾亂我甚深法,滅正法燈,斷三寶種;於我出家諸弟子眾,種種惱亂,捶拷刑罰,奪其衣缽、基業、財產,退令還俗,課稅役使,係閉牢獄,乃至斷命;於我所說微妙法義,誹謗輕毀,障蔽隱沒,不令流佈,奪窣堵波及僧祗物;如是諸人,皆當墮無間地獄,受諸劇苦,輪轉惡趣,難有出期。
(Kinh: Đức Thế
Tôn bảo rằng: - Nếu các hữu t́nh chưa đắc
Pháp Nhẫn, mà có thể hành Thập Thiện Nghiệp
Đạo, cũng khuyên chúng sanh lănh nhận, học theo, ta
cũng cho phép họ giữ ngôi vua quán đảnh Sát-đế-lợi,
thọ dụng các thứ đại tài nghiệp thù thắng,
và các thứ địa vị phú quư sang cả khác. Nếu các hữu t́nh chưa đắc
Pháp Nhẫn, mà cũng chẳng lănh nhận, thực hiện
Thập Thiện Nghiệp Đạo, và chẳng khuyên chúng sanh siêng
năng lănh nhận, học theo, dùng thế lực mạnh
mẽ để nắm giữ ngôi vua Sát-đế-lợi
quán đảnh, thọ dụng các thứ đại tài
nghiệp thù thắng, và nắm giữ các địa vị
sang cả phú quư, [th́ những kẻ ấy] được
gọi là Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương
và các thứ địa vị Chiên-đồ-la vương
sang cả phú quư khác. [Bọn chúng] ngu si, kiêu mạn, hủy
hoại, nhiễu loạn pháp rất sâu của ta, diệt
đèn chánh pháp, đoạn diệt chủng tánh Tam Bảo.
Đối với các đệ tử xuất gia của
ta, [bọn chúng dùng] đủ mọi cách năo loạn,
đánh đập, tra khảo, trừng phạt, đoạt
y bát, cơ nghiệp, tài sản của họ, buộc họ
hoàn tục, đánh thuế, bắt làm lao
dịch, giam cầm trong tù, cho đến đoạn mạng.
Đối với pháp nghĩa vi diệu do ta đă nói, bèn
khinh miệt, hủy phá, chướng lấp, ẩn giấu,
chẳng cho lưu truyền, đoạt vật dụng của
Tốt-đổ-ba (tháp) và Tăng chúng. Những kẻ
như thế sẽ đều đọa vào địa ngục Vô Gián, chịu các nỗi khổ
cùng cực, luân chuyển trong đường ác, khó có thể
thoát ra).
“Thế
Tôn cáo viết: Nhược chư hữu t́nh vị đắc
Pháp Nhẫn” (Đức Thế Tôn bảo rằng: “Nếu
các hữu t́nh chưa đắc Pháp Nhẫn”): Kẻ đó chẳng chứng đắc Vô Sanh Pháp
Nhẫn, chưa dự lên địa vị ấy, nhưng
kẻ đó có thể tiếp nhận, hành tŕ Thập Thiện
Nghiệp Đạo. Chúng ta đều có thể làm
được điều này, chứ Vô Sanh Pháp Nhẫn
chúng ta vẫn chưa làm được. Dùng Thập Thiện
Nghiệp Đạo để ngăn giữ ba nghiệp
thân, miệng, ư của quư vị, hoàn toàn chẳng phải
là câm điếc, không nói năng! Có người nói: “Ta chẳng
nói chi hết, sẽ ǵn giữ khẩu nghiệp”. Nhưng
kẻ câm, hoặc loại Tăng dê câm có thể thành đạo
hay không? Câm th́ chẳng tạo nghiệp,
nói không nên lời th́ làm sao nói năng ǵ được nữa?
Chẳng phải là ư nghĩa ấy! Đừng nói lời
sai trái, hăy nói lời tán dương Tam Bảo. Quư vị nói
nhiều lời tốt lành, đối với
ai cũng đều đừng nói lời ác, như vậy
là được rồi. Chẳng phải là không nói
năng, hăy nói nhiều kinh Phật. Đối với
người khác, hăy nói nhiều về Tam Bảo và nhân quả.
C̣n
nữa, quư vị có thể thấy phiền năo của chúng
sanh, hoặc là từ các bộ phim t́nh ái, [sẽ thấy]
phiền năo ái t́nh đặc biệt nặng nề, hướng
theo con đường tử vong. Nghiệp lại c̣n hết
sức sâu, chính ḿnh chẳng dẹp trừ nổi tham dục.
Quư vị nh́n từ góc độ nào, đeo cặp kính nào,
sẽ hiện ra như thế ấy, đó là tuyệt
đối. Đeo kính màu để nh́n,
đương nhiên là [thấy mọi vật đều]
có màu ấy! Do vậy, “thọ hành Thập Thiện Nghiệp
Đạo, diệc khuyến chúng sanh linh thọ học giả,
ngă diệc thính hứa xử Sát-đế-lợi quán đảnh
vương vị, thọ dụng chủng chủng thắng
đại tài nghiệp, cập dư chủng chủng phú
quư tôn vị. Nhược chư hữu t́nh vị đắc
Pháp Nhẫn, diệc bất thọ hành Thập Thiện
Nghiệp Đạo, cập khuyến chúng sanh linh cần
thọ học, dĩ cường thế lực” (lănh nhận,
hành tŕ Thập Thiện Nghiệp Đạo, cũng khuyên
chúng sanh lănh nhận, học theo Thập Thiện
Nghiệp Đạo, ta cũng cho phép người đó ở
ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh, thọ dụng
các thứ đại tài nghiệp thù thắng và các địa
vị sang cả phú quư khác. Nếu các hữu t́nh chưa
đắc Pháp Nhẫn, mà cũng chẳng lănh nhận, thực
hành Thập Thiện Nghiệp Đạo và khuyên chúng sanh
siêng năng lănh nhận, học theo, dùng thế lực mạnh
mẽ): Thế lực ấy là thế lực ǵ? Tăng
trưởng quư vị sanh thiên, thậm chí thành đạo,
thậm chí trong tương lai làm người, đời
đời kiếp kiếp đều học. Đức
Phật cũng chấp nhận họ hưởng thụ
các loại đại tài nghiệp (các tài sản, của
báu to lớn) thù thắng. [Kẻ như vậy]
làm vua quán đảnh, chẳng có vấn đề ǵ, kẻ
đó sẽ chẳng tạo nghiệp, có thể hưởng
các loại phú quư.
Trái lại, nếu Sát-đế-lợi, “Chiên-đồ-la
vương, cập dư chủng chủng phú quư tôn vị
Chiên-đồ-la vương, ngu si, kiêu mạn, hủy hoại,
nhiễu loạn ngă thậm thâm pháp, diệt
chánh pháp đăng, đoạn Tam Bảo chủng” ([Sát-đế-lợi] Chiên-đồ-la
vương và các loại địa vị Chiên-đồ-la
vương sang cả phú quư khác, ngu si, kiêu căng, ngạo
mạn, hủy hoại, nhiễu loạn pháp rất sâu của
ta, diệt đèn chánh pháp, đoạn chủng tánh Tam Bảo):
Pháp ấy giống như đèn trí huệ trong xă hội,
có ngọn đèn ấy th́ mới có thể tỏa ra quang
minh, trừ khử hắc ám. Kẻ đó đă đoạn
dứt chủng tánh Tam Bảo. “Ư ngă xuất gia
chư đệ tử chúng, chủng chủng năo loạn,
chủy khảo, h́nh phạt,
đoạt kỳ y bát” (Đối với các
đệ tử xuất gia của ta, đủ mọi
cách năo loạn, đánh đập, tra khảo, hành h́nh, trừng
phạt, tước đoạt y bát của họ): Những
dụng cụ cần thiết cho cuộc sống của
người tu đạo là cơ nghiệp của họ,
đều tước đoạt hết, họ làm sao sống
sót nổi? Hoặc buộc họ hoàn tục, hoặc
đánh thuế, bắt họ lao dịch. “Hệ bế
lao ngục, năi chí đoạn mạng. Ư ngă sở thuyết
vi diệu pháp nghĩa, phỉ báng, khinh hủy, chướng
tế, ẩn một, bất linh lưu bố” (Giam cầm
trong tù ngục, cho đến đoạn mạng. Đối
với pháp nghĩa vi diệu do ta đă nói bèn phỉ báng,
khinh miệt, hủy hoại, chướng lấp, ẩn
giấu, chẳng cho lưu truyền). Tốt-đổ-ba
(Stupa) dịch là tháp, hoặc chùa miếu, cùng với
Tăng Kỳ vật (vật dụng của Tăng chúng
thường trụ) đều bị cướp đoạt.
“Thưởng Tăng Kỳ vật” (搶僧祇物) chính là cướp
đoạt vật dụng thuộc chùa miếu. “Như
thị chư nhân, giai đương trụy đọa Vô
Gián địa ngục, thọ chư kịch khổ”
(những kẻ như thế, sẽ đều đọa
lạc địa ngục Vô Gián, chịu các nỗi khổ
tột cùng): Đấy chẳng phải là vấn đề
nhỏ nhặt, nhất định phải chịu khổ
cùng cực, xoay vần trong đường ác, khó có lúc thoát
ra. Mong thoát ra rất khó!
(Kinh)
Thời, Kim Cang Tạng Bồ Tát phục bạch Phật
ngôn: - Thế Tôn, nhược chư hữu t́nh, vị
đắc Pháp Nhẫn, diệc bất thọ hành Thập
Thiện Nghiệp Đạo, cập khuyến chúng sanh linh
cần thọ học, dĩ cường thế lực, xử
Sát-đế-lợi quán đảnh vương vị, thọ
dụng chủng chủng thắng đại tài nghiệp,
cập dư chủng chủng phú quư tôn vị, phả hữu
biệt duyên, đắc phương tiện cứu, linh kỳ
miễn đọa Vô Gián địa ngục, cập dư
ác thú, thọ chư khổ phủ?
(經)時金剛藏菩薩復白佛言:「世尊,若諸有情未得法忍,亦不受行十善業道,及勸眾生令勤受學,以強勢力處剎帝利灌頂王位,受用種種勝大財業,及餘種種富貴尊位;頗有別緣,得方便救,令其免墮無間地獄及餘惡趣,受諸苦不?
(Kinh:
Khi ấy, Kim Cang Tạng Bồ Tát lại bạch cùng đức
Phật: - Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu t́nh chưa
đắc Pháp Nhẫn, cũng chẳng tiếp nhận,
hành tŕ Thập Thiện Nghiệp Đạo, và khuyên chúng
sanh siêng năng tiếp nhận, học theo, do thế lực
mạnh mẽ mà giữ vương vị Sát-đế-lợi
quán đảnh, thọ dụng các thứ đại tài
nghiệp thù thắng, và các thứ địa vị sang cả
phú quư khác, há có duyên nào khác để phương tiện cứu
vớt, khiến cho họ khỏi đọa vào địa
ngục Vô Gián và các đường ác, hứng chịu các nỗi
khổ hay chăng?)
C̣n
có nguyên nhân ǵ để cứu họ hay không? “Linh kỳ
miễn đọa Vô Gián địa ngục, cập dư
ác thú, thọ chư khổ phủ?” (khiến cho họ
khỏi đọa vào địa ngục Vô Gián và các
đường ác, hứng chịu các nỗi khổ hay
chăng?)
(Kinh)
Thế Tôn cáo viết: - Diệc hữu biệt duyên, đắc
phương tiện cứu, vị hữu chúng sanh, xử
Sát-đế-lợi quán đảnh vương vị, cập
dư chủng chủng phú quư tôn vị, tuy phục vị
đắc thành tựu Pháp Nhẫn, Thập Thiện Nghiệp
Đạo, nhi hữu tín lực tôn kính Tam Bảo, ư Phật
sở thuyết tam thừa tương ứng chư xuất
yếu pháp, hạ chí nhất tụng, chung bất báng hủy,
chướng tế, ẩn một, bất linh lưu bố.
Ư Phật xuất gia chư đệ tử chúng, tŕ giới,
phá giới, hạ chí vô giới, thế trừ tu phát, bị
ca-sa giả, giai bất năo loạn, chủy khảo, trích phạt,
xâm đoạt y bát, cơ nghiệp, tài sản, thoái linh hoàn tục, khóa
thuế, dịch sử, hệ bế lao ngục, năi chí
đoạn mạng, diệc bất xâm đoạt Tốt-đổ-ba
vật, cập Tăng Kỳ vật, giá chế, tồi phục
chư bạo ác nhân, bất linh năo loạn chư xuất
gia chúng, bất linh xâm đoạt Tam Bảo tài vật.
Ư Phật sở thuyết tam thừa tương ứng
chư xuất yếu pháp, cung kính thính thọ. Kư thính thọ
dĩ, tinh tấn tu hành pháp tùy, pháp hành. Ư ngă tam thừa
hiền thánh đệ tử, cung kính cúng dường, thân
cận, thừa sự. Ư Đại Thừa trung, thệ
nguyện kiên cố, chung vô nghi nan, thoái khuất chi tâm, diệc
thường khuyến đạo an trí chúng sanh, linh ư
Đại Thừa tín thọ, tu học. Thử Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la vương, cập dư chủng chủng
phú quư tôn vị Chiên-đồ-la vương, quá khứ
chư Phật, giai cộng thính hứa xử đế
vương vị, cập dư chủng chủng phú quư tôn
vị, tuy phục thọ dụng chủng chủng quốc
độ, thành, ấp, tụ lạc thắng đại
tài nghiệp, nhi đắc miễn đọa Vô Gián địa
ngục, cập dư ác thú. Ngă diệc thính hứa xử
đế vương vị, cập dư chủng chủng
phú quư tôn vị, tuy phục thọ dụng chủng chủng
quốc độ, thành, ấp, tụ lạc, nhi đắc
miễn đọa Vô Gián địa ngục, cập chư
ác thú. Nhược chư hữu t́nh, dục đắc sám
hối, trừ diệt nhất thiết chư ác nghiệp
chướng, linh vô dư giả, ư ngă sở thuyết
như thị pháp môn, đương cần tu học, vật
linh phế vong, hữu năng như thử hiện tiền
đại chúng, tàm quư sám hối chư ác nghiệp giả,
tiên thế sở tạo nhất thiết ác nghiệp, giai
đắc tiêu diệt, vô hữu di dư.
(經)世尊告曰:「亦有別緣,得方便救,謂有眾生處剎帝利灌頂王位,及餘種種富貴尊位,雖復未得成就法忍、十善業道,而有信力尊敬三寶,於佛所說三乘相應諸出要法,下至一頌,終不謗毀、障蔽、隱沒,不令流佈;於佛出家諸弟子眾,持戒、破戒下至無戒,剃除鬚髮、被袈裟者,皆不惱亂捶拷謫罰,侵奪衣缽、基業、財產,退令還俗,課稅役使,係閉牢獄乃至斷命;亦不侵奪窣堵波物及僧祗物,遮制摧伏諸暴惡人,不令惱亂諸出家眾,不令侵奪三寶財物;於佛所說三乘相應諸出要法,恭敬聽受,既聽受已,精進修行,法隨法行;於我三乘賢聖弟子,恭敬供養,親近承事;於大乘中誓願堅固,終無疑難退屈之心,亦常勸導安置眾生,令於大乘信受修學。此剎帝利旃荼羅王,及餘種種富貴尊位旃荼羅王,過去諸佛皆共聽許處帝王位,及餘種種富貴尊位。雖復受用種種國土、城邑、聚落、勝大財業,而得免墮無間地獄及餘惡趣。我亦聽許處帝王位,及餘種種富貴尊位,雖復受用種種國土、執邑、聚落,而得免墮無間地獄及諸惡趣。若諸有情慾得懺悔,除滅一切諸惡業障令無餘者,於我所說如是法門,當勤修學,勿令廢忘。有能如此現前大眾慚愧懺悔諸惡業者,先世所造一切惡業皆得銷滅,無有遺餘。
(Kinh:
Đức Thế Tôn bảo rằng: - Cũng có duyên khác
để phương tiện cứu độ, tức là
có chúng sanh ở ngôi vị Sát-đế-lợi quán đảnh
vương và các địa vị sang cả phú quư khác, tuy
vẫn chưa thành tựu Pháp Nhẫn và Thập Thiện
Nghiệp Đạo, nhưng có tín lực, tôn kính Tam Bảo.
Đối với các pháp xuất thế trọng yếu
tương ứng với tam thừa do đức Phật
đă nói, dẫu chỉ một bài tụng, trọn chẳng
hủy báng, chướng lấp, ẩn giấu, chẳng
ngăn cấm lưu truyền. Đối với các vị
đệ tử xuất gia của Phật, dẫu là tŕ giới,
phá giới, thậm chí kẻ chẳng có giới, cạo bỏ
râu tóc, đắp y ca-sa, đều chẳng năo loạn,
đánh đập, tra khảo, trừng phạt, cướp
đoạt y bát, cơ nghiệp tài sản, ép buộc hoàn tục,
đánh thuế, lao dịch, giam cầm trong tù ngục, cho
đến đoạn mạng, cũng chẳng cướp
đoạt vật từ tháp và vật dụng của
Tăng Kỳ, ngăn trở, chế phục, dẹp yên những
kẻ bạo ác, chẳng cho chúng nó năo loạn các vị xuất
gia, chẳng để cho chúng nó cướp đoạt tài
vật của Tam Bảo. Cung kính nghe nhận các pháp xuất
thế trọng yếu tương ứng với tam thừa
do đức Phật đă nói. Đă nghe nhận rồi bèn
tinh tấn tu hành pháp tùy, pháp hành. Đối với các đệ
tử thuộc tam thừa hiền thánh của ta, cung kính
cúng dường, thân cận, thừa sự. Trong Đại
Thừa, thệ nguyện kiên cố, trọn chẳng có tâm
ngờ vực, lui sụt, cũng thường khuyên dạy,
đặt yên chúng sanh, khiến họ tin nhận, tu học
Đại Thừa. Vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la
ấy và các vua Chiên-đồ-la thuộc địa vị
sang cả phú quư được quá khứ chư Phật
đều cùng cho phép ở ngôi vua và các địa vị
sang cả phú quư khác, tuy lại thọ dụng các thứ
đại tài nghiệp thù thắng nơi quốc độ,
thành, ấp, xóm làng, mà thoát khỏi đọa vào địa
ngục Vô Gián và các đường ác. Ta cũng cho phép họ
ở ngôi vua và các địa vị sang cả phú quư khác, tuy
lại thọ dụng các thứ quốc độ,
thành, ấp, xóm làng, mà thoát khỏi đọa vào địa
ngục Vô Gián và các đường ác. Nếu các hữu t́nh
muốn được sám hối, trừ diệt hết
thảy các ác nghiệp chướng, khiến chẳng
c̣n sót, th́ đối với pháp môn do ta đă nói như thế
này, hăy siêng năng tu học, đừng bỏ phế, quên
mất. Có kẻ nào hổ thẹn, sám hối ác nghiệp
như hiện tiền đại chúng th́ hết thảy ác
nghiệp đă tạo trong đời trước sẽ
được tiêu diệt, chẳng c̣n thừa sót).
Phương
tiện thiện xảo nhằm cứu độ họ.
Có các chúng sanh ở ngôi vị Sát-đế-lợi quán đảnh,
hoặc là các thứ địa vị
sang cả phú quư khác, không nhất định là địa
vị nào, nói chung là các địa vị cao sang phú quư, tuy chẳng
thành tựu Vô Sanh Pháp Nhẫn, hoặc chẳng thành tựu
[các môn] Pháp Nhẫn khác, hoặc chẳng thành tựu Thập
Thiện Nghiệp Đạo, nhưng kẻ đó có tín
tâm. Chỉ cậy vào sự tin tưởng, ngưỡng mộ,
cung kính, tôn kính Tam Bảo. Đối với các pháp xuất
thế trọng yếu tương ứng với Thanh Văn
Thừa, Độc Giác Thừa, và Đại Thừa, họ
cung kính nghe nhận. Pháp xuất yếu chính là phương
pháp quan trọng nhất để xuất ly sanh tử, là
đạo pháp thiện xảo phương tiện trọng
yếu nhất. “Hạ chí nhất tụng” tức là
chỉ nói một bài kệ tụng. Các điều khác chẳng
nói, chỉ biết nói “nhất thiết hữu vi pháp,
như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ diệc
như điển, ưng tác như thị quán” (hết
thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt,
bóng, như sương cũng như chớp, hăy nên quán
như thế): Bài kệ tụng ấy tuyệt diệu
thay! Đó chính là yếu nghĩa của toàn bộ kinh Kim
Cang. Quư vị nói với người khác, “hết thảy các pháp hữu vi đều là khổ,
đều là không, vô thường huyễn hóa”, ta c̣n tham đắm
chi nữa? Họ liền chứng đạo, giải
thoát, công đức của quư vị to lớn!
Vào
thời Chánh Pháp là như thế đó, chỉ cần nghe một
bài kệ tụng liền khai ngộ. Một
trong năm vị tỳ-kheo được đức Phật
độ đầu tiên là tỳ-kheo Mă Thắng (A Thuyết
Thị, Aśvajit), ngài Xá
Lợi Phất thấy oai nghi của tỳ-kheo Mă Thắng
bèn hỏi: “Sư phụ của Ngài là ai? Sư phụ của
Ngài nói pháp ǵ?” Tỳ-kheo Mă Thắng đáp: “Tôi chỉ nói
cho ông hai câu: Chư hành vô thường, là pháp sanh diệt”.
Ngài Xá Lợi Phất liền chứng đắc quả
A La Hán. Đấy là một bài kệ chỉ gồm hai câu
thôi! Lục Tổ Huệ Năng nghe người khác tụng
kinh Kim Cang đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm” (đừng nên trụ vào đâu mà sanh cái tâm), Ngài liền
khai ngộ, thành tựu, một câu thôi! Bất quá, người
tụng kinh Kim Cang hoàn toàn chẳng khai ngộ, người
nghe kinh khai ngộ! Tôi giảng kinh ở đây, tôi chẳng
khai ngộ, các vị khai ngộ; đấy là công đức
của quư vị, tôi cũng có phần.
Người
như thế, đức Phật cũng chấp thuận
cho họ hưởng thụ các của cải ấy. V́
sao? V́ kẻ đó chẳng hủy báng, không ẩn diệt,
tức là không hủy báng, không ẩn diệt thánh pháp, không
ngăn cấm lưu truyền. Đối với các vị
đệ tử xuất gia, tŕ giới, phá giới, cho
đến kẻ chẳng có giới, chỉ cần cạo
bỏ râu tóc, đắp y ca-sa, người đó chẳng
năo loạn, đánh đập, tra khảo, trừng phạt,
cướp đoạt y bát là tài sản cơ nghiệp của
họ. “Thoái linh hoàn tục, khóa thuế, dịch sử,
hệ bế lao ngục, năi chí đoạn mạng” (buộc họ
hoàn tục, đánh thuế, bắt làm phu phen, bắt giam
vào tù, cho đến đoạn mạng): Kẻ đó sẽ
chẳng làm [những chuyện ấy]. Đấy là vua
Sát-đế-lợi có tín tâm. C̣n như đoạn mạng,
“diệc bất xâm đoạt Tốt-đổ-ba vật,
cập Tăng Kỳ vật” (củng chẳng cướp
đoạt vật dụng của tháp thờ và vật dụng
của Tăng chúng), kẻ đó chẳng làm. Đối với
tài sản của Tốt-đổ-ba hoặc chùa miếu,
người đó chẳng dính dáng tí nào, mà cũng chẳng
cướp đoạt. Người đó có thể
ngăn trở, chế phục, dẹp tan những đứa
bạo ác, cũng chẳng để cho chúng nó năo loạn
người xuất gia, cũng chẳng để chúng nó
cướp đoạt tài vật của Tam Bảo. Vua
Sát-đế-lợi có quyền lực, đối với
các pháp xuất yếu tương ứng với tam thừa,
đều có thể cung kính nghe nhận. Đă nghe nhận,
lại c̣n có thể chiếu theo đó mà thực hiện,
tinh tấn tu hành, tu hành pháp tùy và pháp hành.
Thế
nào là pháp tùy, pháp hành? Chẳng hạn như đối với
pháp sanh diệt, người ấy chẳng nói, chỉ
nương theo sự vật, thấy chúng hư hoại,
v́ sao hư hoại? Vô thường! Đó gọi là tùy thuận.
Người ấy chẳng biết đến Phật
pháp, nhưng có thể biết hàm nghĩa ấy, đó gọi
là “tùy thuận Phật pháp”. Trái nghịch Phật pháp
th́ sao? Đức Phật nói vô thường, người ấy
bèn diễn giải thành đoạn diệt,
bảo đó là do chính Thích Ca Thế Tôn đă nói. Đối
với câu “chư hành vô thường”, [bèn hiểu lệch
lạc] vô thường là không có. Như thế là chẳng
tùy thuận pháp. Cùng một câu nói, hễ tùy thuận bèn có
thể thành đạo, phước đức vô lượng.
Chẳng tùy thuận, tội nghiệp vô biên. Đấy là
tùy thuận pháp, chúng ta thường lư giải sai lầm,
cho nên nói là kẻ ấy chẳng tùy thuận pháp này. Đối
với pháp xuất yếu tương ứng với tam thừa
do đức Phật đă nói, hăy cung kính nghe nhận.
Đă nghe nhận rồi bèn có thể “tinh tấn tu hành”,
đó là “pháp tùy, pháp hành”. Tùy thuận
pháp tam thừa th́ chúng ta nói Không, Không theo ư nghĩa “hiển
lộ Diệu Hữu”. Các kho công đức của
Như Lai chẳng không. “Không” là “đoạn sạch
hết thảy phiền năo”, kho công đức của các vị Như Lai chẳng không. Thật sự
trông thấy Pháp Thân, chư Như Lai Tạng cũng không.
Nhưng tùy thuận pháp, tùy thuộc quư
vị nói như thế nào, “ư ngă tam thừa hiền
thánh đệ tử, cung kính cúng dường, thân cận,
thừa sự” (đối với các đệ tử
thuộc tam thừa hiền thánh của ta, bèn cung kính cúng dường, thân cận, thừa sự).
Nhưng
từ đầu đến cuối, đối với
thệ nguyện Đại Thừa, chắc chắn trọn
chẳng hoài nghi, hoặc là nguy nan, hoặc là thoái khuất,
cái tâm ấy chưa bao giờ hoài nghi, tức là “chung vô nghi nan,
thoái khuất chi tâm” (trọn chẳng có
tâm nghi nan hoặc lui sụt), chẳng v́ pháp khó khăn, chẳng
v́ con đường tu hành dài lâu mà ôm ḷng sợ hăi, lui xuống
Nhị Thừa! Đại Thừa kiên cố, “diệc
thường cần đạo, an trí chúng sanh, linh ư
Đại Thừa tín thọ tu học” (cũng thường
siêng năng hướng dẫn, đặt yên chúng sanh, khiến
cho họ tin nhận, tu học Đại Thừa): Khiến
cho hết thảy chúng sanh tin pháp Đại Thừa, khéo
tu, khéo học. “Thử Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la
vương, cập dư chủng chủng phú quư tôn vị
Chiên-đồ-la vương, quá khứ chư Phật giai
cộng thính hứa” (Vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la
ấy và các địa vị vua Chiên-đồ-la phú quư sang
cả khác đều được quá khứ chư Phật
cùng chấp thuận): Nói đến vua ác này, cũng cho phép
ông ta, chỉ cần ông ta sửa đổi, chẳng làm ác
nữa, [chư Phật] cho phép ông ta ở ngôi vị
đế vương. Quá khứ chư Phật đều
cho phép như thế. “Cập dư chủng chủng phú
quư tôn vị, tuy phục thọ dụng chủng chủng
quốc độ, thành, ấp, tụ lạc thắng
đại tài nghiệp” (và các thứ địa vị
sang cả phú quư khác, tuy vẫn thọ dụng các thứ
đại tài nghiệp thù thắng nơi quốc độ,
thành, ấp, xóm, làng): Tất cả của cải trong
nước, kẻ đó được hưởng thụ
mà chẳng đọa vào địa ngục Vô Gián. Đấy
là được đức Phật cho phép, sẽ chẳng
đọa vào các đường ác khác! Ta c̣n “thính hứa
xử đế vương vị, cập dư chủng
chủng phú quư tôn vị, tuy phục thọ dụng chủng
chủng quốc độ, thành, ấp, tụ lạc, nhi
đắc miễn đọa Vô Gián địa ngục cập
chư ác thú” (cho phép kẻ đó ở ngôi vị đế
vương và các địa vị sang cả phú quư khác, tuy
vẫn thọ dụng các thứ quốc độ, thành, ấp,
tụ lạc, mà được thoát khỏi địa ngục
Vô Gián và các đường ác), tức là ác vương chỉ
cần sám hối th́ cũng được
hứa khả!
Tại
Ấn Độ, Đề Bà Đạt Đa và vua Vô Yếm
Túc (A Xà Thế), một người hại
Phật, một người giết vua cha, phạm tội
ngỗ nghịch, cả hai đều đáng đọa
vào địa ngục. Sau này, vua Vô Yếm Túc sám hối, hộ
tŕ Phật pháp, hộ tŕ Tam Bảo, đức Phật
cũng chấp thuận cho ông ta sám hối, đạt
được thanh tịnh. Do vậy, các hữu t́nh có thể
sám hối là được, có thể trừ diệt hết thảy ác nghiệp và nghiệp
chướng.
“Ư
ngă sở thuyết như thị pháp môn, đương cần
tu học” (đối với pháp môn do ta đă nói như
thế, hăy nên siêng tu học): Ta nói ra hai mươi pháp ấy,
phải khéo tu học, một đằng là tu pháp Thập
Thiện Nghiệp, chúng ta thực hiện pháp Thập Thiện
Nghiệp được! Thật ra, Thập Thiện Nghiệp
là chánh lộ Pháp Nhẫn, mọi người hăy thấu hiểu
đôi chút. Thập Thiện Nghiệp là công đức do quư vị thực hiện, có cạn và
sâu. [Chẳng hạn như đối với] “chẳng giết”, không chỉ là ta chẳng
giết, mà c̣n khuyên hết thảy mọi người
đừng giết. Thập Thiện Nghiệp ấy sẽ
chẳng phải là Thập Thiện Nghiệp b́nh phàm. Ta
không chỉ chẳng uống rượu, mà c̣n khuyên hết
thảy chúng sanh không uống rượu. V́ sao không uống
rượu? Hăy nói rơ với bọn họ. Chẳng giết,
chẳng trộm v.v… Đó là Ngũ Giới.
Có
đạo hữu sợ thọ Ngũ Giới, nói là “sợ
thọ v́ lỡ phạm th́ làm thế nào đây?” Đă phạm
th́ đương nhiên là sai lầm. Đă phạm, hăy sám hối.
Hễ phạm, liền sám hối ngay. Nhưng quư vị có
hiểu công đức thọ Ngũ Giới hay không? Quư vị
thọ Ngũ Giới, chẳng mất thân người, có
biết hay không? Quư vị chẳng biết điều này!
Chỉ nghĩ tới phương diện bất lợi,
v́ sao chẳng suy xét phương diện có lợi? Quư vị
thọ Ngũ Giới, sẽ có hai mươi lăm vị
thần hộ pháp thủ hộ quư vị. Quư vị toan phạm
giới, họ sẽ ngăn chặn, khiến cho quư vị
chẳng phạm. Nay quư vị chẳng thọ giới,
đối với năm loại tội, [hễ vi phạm], vẫn có tội báo y hệt! Quư vị giết
người, chẳng phạm tội ư? Có thể thoát tội
hay không? Quư vị đă thọ giới, sau đó giết
người, đối trước Phật, sám hối, niệm
kinh chú gia tŕ, dùng sức mạnh khác để giúp đỡ
quư vị, đừng nên sanh khởi tà tri, tà kiến.
Đă
thọ giới mà phạm giới th́ biết làm sao đây?
Tri kiến ấy chẳng chánh xác. V́ sao lại phạm? Tuy
quư vị chẳng thọ các giới ấy, hễ phạm, vẫn mắc tội.
Đức Phật chế giới, dạy quư vị đừng
nên phạm các giới ấy. Tôi lại nói một
loại công đức của giới. Giới có sức gia
tŕ, tức là gia tŕ khiến cho quư vị chẳng làm. Giết,
trộm, dâm, tôi nghĩ không một chúng sanh nào chẳng phạm,
nhưng quốc gia vẫn chấp nhận cho phạm.
Giống như trách nhiệm thuộc về công việc mà
người ấy phải chấp hành. Quư vị nói đấy
là sát sanh, giết lợn, giết dê, phạm tội ǵ? Ai
định tội cho kẻ đó? Trong quan hệ vợ chồng,
nếu bảo đó là phạm giới dâm th́ loài người
đều đoạn tuyệt! Có thể nói như vậy
hay không? Chẳng thể nào! Không được! Người
ấy (người đă thọ giới) có sức gia tŕ.
Chẳng phải là nói [thọ giới, sợ sẽ] vi phạm.
Quư vị phải suy xét từ phương diện công
đức của thọ giới. [Cũng giống như]
học Phật pháp, nghe nói có nhiều địa ngục
dường ấy, [bèn tự nhủ] “ta không học Phật
th́ tốt hơn!” Đúng hay không? Ta
ngay cả địa ngục cũng chẳng biết, ta
cũng chẳng tin tưởng [có địa ngục, phải
đền trả quả báo], nhưng tội đă làm
th́ quư vị vẫn phải chịu! Ta không tin, sẽ chẳng
phải chịu tội ư? Đâu có tiện nghi như thế!
Quư vị không tin, vẫn phải chịu tội. Bất
quá, đức Phật nói ra th́ có lợi [v́ người
nghe thấy các thứ tội báo, sẽ kinh sợ chẳng
dám phạm tội], đừng nên hiểu lầm ư
nghĩa. Chẳng phải là tôi xúi quư vị thọ Ngũ
Giới. Nếu quư vị cảm thấy “ta chẳng thọ
giới được”, vẫn chẳng cần phải thọ.
Bất quá, quư vị phải nghĩ đến công đức
gia tŕ do thọ Ngũ Giới [để suy xét]!
Sau
này, tôi nghĩ lại, kể từ sau khi xuất gia, đă
thọ giới tỳ-kheo, tôi nói: “Nguy hiểm quá! Hở ra là phạm
lỗi. Hai trăm năm mươi giới, từng giới
điều một, tám vạn bốn ngàn oai nghi, Thanh Quy Giới
Luật nhiều ngần ấy”. Lúc đó, thật sự
muốn xả giới hoàn tục cho rồi, kham chẳng nổi!
Điều này chẳng thể làm, điều kia chẳng
thể làm! Đối với bốn
oai nghi, tùy tiện quư vị làm điều ǵ, ở trong
chùa miếu, lúc mới xuất gia, cử chỉ động
tác, không có ǵ chẳng phạm sai lầm! Tôi nhớ khi quải
đơn, thuở đó vẫn chưa có đèn. Trong
đêm tối, ra nhà vệ sinh quá xa. Nhà vệ sinh cũng chẳng
có đèn, không thể đi. Ban đêm thức dậy tiểu
tiện, làm thế nào đây? Vị thầy tri khách đặt
dưới cửa sổ mấy cái thùng chứa nước
tiểu để mọi người giải quyết tại
đó. Khi đó, vị thầy tri khách nói: “Vị này nhất
định là mới tới quải đơn”. Tôi nói: “Thầy
tri khách này có thần thông, làm sao ổng biết là ḿnh vậy
ḱa?” Hóa ra v́ tôi đi tiểu, chẳng tiểu đúng cách. Mọi người có biết
nghĩa là sao hay không? Tiểu tiện chẳng
thể vang ra tiếng. Hễ có tiếng, sẽ kinh động
người khác! Ăn cơm, tiểu tiện, cho đến
hết thảy các hành động, không có chỗ nào chẳng
có Thanh Quy Giới Luật. Kẻ mới xuất gia vừa
mới thọ Sa Di làm sao giữ cho đúng hết
được?
“Sám
hối trừ diệt nhất thiết chư ác nghiệp
chướng, linh vô dư giả, ư ngă sở thuyết
thị pháp môn” (Sám hối trừ diệt hết thảy
các ác nghiệp chướng khiến cho chẳng thừa sót, đối với
pháp môn do ta đă nói như thế), nếu quư vị khéo tu
học, vậy th́ “tiên thế sở tạo nhất thiết
ác nghiệp, giai đắc tiêu diệt vô hữu di dư”
(hết thảy ác nghiệp đă tạo trong đời
trước đều được tiêu diệt,
chẳng c̣n thừa sót), người ấy đối trước
Phật sám hối chẳng c̣n sót. Nay chúng ta đă nghe kinh
Đại Tập Thập Luân, lúc bái sám, quư vị liền
lạy ba lạy, niệm thầm: “Con nghe kinh Đại Tập
Thập Luân, đức Phật giảng phẩm Sám Hối,
con đều trọn đủ [các tội lỗi ấy].
Con cũng phát nguyện như thế, hy vọng Phật sẽ
gia tŕ con, hy vọng Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ”. Quư
vị cũng sẽ trọn đủ giống như những
người đó. Tôi nói như vậy, quư vị chẳng
tin cũng được! Chẳng phạm lỗi ǵ!
Đại
Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần
12 hết
[1] Đây là cách chơi chữ, bên cạnh
chữ Băng (冰) có hai chấm, trong khi những chữ
thuộc bộ Thủy (水) sẽ có ba chấm, chẳng hạn
như chữ Tương (湘).
[2] “Tàu bay” là từ ngữ dùng
để tạm dịch chữ Airship (phát minh của ông
Zeppelin, người Hoa gọi là “phi đĩnh” hay “phi thuyền”,
trong khi các loại phi thuyền như Appollo sẽ
được gọi là Thái Không Phi Thuyền hoặc
Vũ Trụ Phi Thuyền khi cần phân biệt rơ) để phân biệt với các loại phi
cơ sau này. Đấy là một loại khinh khí cầu có
khung cứng. Mỗi chiếc Zeppelin có h́nh dạng thon dài
trông như một điếu x́ gà, có khung bằng kim loại
(thường là hợp kim bằng đồng và nhôm), bọc
vải dầu. Bên trong chứa những
túi đựng khí hydrogen để giúp Zeppelin có thể bay lên,
có động cơ để điều khiển sức đẩy
và định hướng. Phía dưới cái khung ấy có khoang chứa hành khách.
Zeppelin được sử dụng để chở hành khách tại Âu Châu trước Thế Chiến thứ
nhất. Thời Thế Chiến thứ nhất, Đức
đă dùng Zeppelin để ném bom các nước Đồng
Minh.
[3] Danh hiệu đầy đủ của
vị Phật này là Đại Thông Sơn Vương
Như Lai. Đúng ra, vị Phật cuối cùng trong phẩm
kinh ấy là Nguyệt Diện Phật, nhưng v́ Ngài
được nói gộp chung với Tịnh Nguyệt Phật,
Sơn Vương Phật, Trí Thắng Phật, Tịnh
Danh Vương Phật, Trí Thành Tựu Phật, Vô Thượng
Phật, Diệu Thanh Phật, Măn Nguyệt Phật cho nên
không nói riêng. Đại Thông Sơn Vương Phật là vị
Phật cuối cùng được nói riêng công đức.
[4] Sảnh trưởng (廳長, đúng ra phải đọc là Thính Trưởng, nhưng do thói quen ta vẫn quen đọc là Sảnh Trưởng), là người đứng đầu một cơ quan hành chánh trực thuộc cấp tỉnh, hoặc thành phố, tương đương với ty trưởng. Sảnh trưởng cũng là chức vụ đứng đầu các phân ban chuyên môn trực thuộc Quốc Vụ Viện (phủ Thủ Tướng) theo quy chế của Hoa Lục, tương đương chức cục trưởng.
[5] Thẩm Dương là tỉnh lỵ
của tỉnh Liêu Ninh. Sở dĩ có tên là Thẩm
Dương là v́ thành phố nằm ở phía Bắc sông Thẩm Thủy.
Đến đời Thanh, khi Thanh Thái Tổ (Hoàng Thái Cực)
lập ra vương triều Hậu Kim, đă chọn
nơi đây làm kinh đô, gọi là Thịnh Kinh. Đến
thời Thanh Thế Tổ (Thuận Trị) đă đổi
vùng này thành Phụng Thiên Phủ. Do vậy, Thẩm
Dương được gọi là Phụng Thiên, hay gọi
theo tiếng Măn Châu là Mukden. Tới năm 1929, chính quyền
quân phiệt Trương Học Lương đă dựa theo danh xưng đời Liêu (Thẩm
Châu Thành) để đổi Phụng Thiên thành Thẩm
Dương. Thành phố này đă có từ thời Chiến
Quốc, được coi là một trọng trấn của
nước Yên.
[6] Trương Học Lương
(1901-2001), tự Hán Khanh, hiệu Nghị Am, tên cúng cơm là
Song Hỷ, quê ở Hải Thành thuộc
Phụng Thiên, là quân phiệt vùng Phụng Thiên, vốn là con
trưởng của quân phiệt Trương Tác Lâm. Ông từng làm Tổng Tư Lệnh
Bảo An vùng Đông Bắc. Về
sau, ông theo Quốc Dân Đảng. Trương Học
Lương từng làm đến cấp bậc thượng
tướng trong quân đội Đài Loan, nhưng do từng
trở cờ bắt giam Tưởng Trung Chánh (Tưởng
Giới Thạch) tại Tây An, ông bị nghi kỵ, bị
giam lỏng suốt năm mươi năm tại nhà riêng cho đến
khi Lư Đăng Huy làm tổng thống Đài Loan mới
được trả tự do hoàn toàn.
[7] Đại Dương (大洋) là đồng tiền tṛn đúc bằng
bạc thời Dân Quốc, c̣n gọi là Ngân Viên, Ngân Nguyên,
Viên Ngân, Ngân Bính, Ngân Tiền, Ngân Dương, Dương
Ngân, Đại Dương Tiền, Dương Điền,
hay Quang Dương. Đồng Đại Dương thời
Dân Quốc đúc bằng bạc, nặng 26 gr, thường
là một mặt ghi chữ Nhất Viên (壹圓, một đồng), mặt kia đúc nổi h́nh Tôn
Văn, hay chân dung lănh tụ chính quyền quân phiệt nơi đồng
bạc lưu hành. Đồng tiền này thật ra là hợp
kim bạc pha đồng, và được thay thế bằng
một h́nh thức tiền tệ mới gọi là Pháp Tệ
(法幣) vào năm 1935. Tuy vậy, theo thói quen, đơn vị
tiền tệ vẫn gọi là Viên (圓, Yuan, đôi khi viết thành 元, nguyên), và danh xưng này được dùng tại Đài
Loan cho đến ngày nay tuy đă sử dụng tiền giấy (và từ năm
1949, chính quyền Đài Loan đă phát hành đồng tiền
mới là Tân Đài Tệ, nhưng mọi người vẫn
quen gọi đơn vị tiền tệ là Viên hoặc
Nguyên).
[8] “Pháp sư” ở đây là những
vị thật sự có khả năng thuyết pháp, thông
thuộc, thâm nhập Kinh Tạng, có chánh kiến, giảng pháp tối thiểu không trái nghịch với tinh thần của Phật
và chư tổ, chẳng phải là người có khẩu
tài, khéo biện bác, lập ra dị thuyết, mà cũng chẳng
phải là danh xưng thông thường để gọi các vị
xuất gia như thường sử dụng tại Trung
Hoa và Đài Loan.