Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh

Giảng Kư, phần 12

大乘大集地藏十輪經講記

Mộng Tham lăo ḥa thượng chủ giảng

夢參老和尚主講

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

V. Sám hối phẩm đệ ngũ (Phẩm thứ năm, Sám Hối - 懺悔品第五)

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn thuyết thị tụng dĩ, ư chúng hội trung, hữu vô lượng bách thiên chúng sanh tằng ngộ văn pháp, mậu sanh Không giải, bát vô nhân quả, đoạn diệt thiện căn, văng chư ác thú, văn thuyết thử kinh, hoàn đắc chánh kiến, tức tùng ṭa khởi, đảnh lễ Phật túc, ư Thế Tôn tiền, thâm sanh tàm quư, chí thành sám hối, hiệp chưởng, cung kính, nhi bạch Phật ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ngă đẳng bổn tại Thanh Văn Thừa trung, tằng chủng thiện căn, vị năng thành thục Thanh Văn Thừa khí. Hậu phục ngộ văn Độc Giác Thừa pháp, mê hoặc bất liễu, tiện sanh Không kiến, bát vô nhân quả. Do thị nhân duyên, tạo thân, ngữ, ư vô lượng tội nghiệp, văng chư ác thú. Ngă đẳng kim giả, ư Thế Tôn tiền, văn thuyết thử kinh, hoàn đắc chánh kiến, thâm tâm tàm quư, phát lộ sám hối, bất cảm phú tàng, nguyện tất trừ diệt. Tùng kim dĩ văng, vĩnh bất phục tác, pḥng hộ đương lai sở hữu tội chướng. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn nhiếp thọ, linh ngă đẳng tội giai tất tiêu diệt, ư đương lai thế, vĩnh bất cánh tạo. Duy nguyện Thế Tôn, ai mẫn tế bạt ngă đẳng đương lai ác thú khổ báo. Ngă đẳng kim giả hoàn nguyện thọ hành tiên sở tu tập Thanh Văn Thừa hạnh. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn giáo thọ”.

          ()爾時,世尊說是頌已,於眾會中有無量百千眾生,曾誤聞法,謬生空解撥無因果,斷滅善根,往諸惡趣。聞說此經,還得正見,即從座起,頂禮佛足,於世尊前深生慚愧,至誠懺悔,合掌恭敬,而白佛言:「大德世尊,我等本在聲聞乘中曾種善根,未能成熟聲聞乘器;後復遇聞獨覺乘法,迷惑不了,便生空見撥無因果,由是因緣,造身語意無量罪業往諸惡趣。我等今者於世尊前,聞說此經還得正見,深心慚愧,發露懺悔,不敢覆藏,願悉除滅,從今已往永不復作,防護當來所有罪障。唯願世尊,哀愍攝受,令我等罪皆悉銷滅,於當來世永不更造。唯願世尊,哀愍濟拔我等當來惡趣苦報。我等今者,還願受行先所修習聲聞乘行。唯願世尊,哀愍教授。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài tụng ấy xong, trong chúng hội, có vô lượng trăm ngàn chúng sanh từng nghe lầm pháp, lầm lạc sanh khởi kiến giải rỗng không, bài bác “chẳng có nhân quả”, đoạn diệt căn lành, đi vào đường ác, nghe nói kinh này, lại được chánh kiến, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân đức Phật, đối trước đức Thế Tôn, sanh ḷng hổ thẹn sâu xa, chí thành sám hối, chắp tay, cung kính, bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con vốn từng gieo thiện căn trong Thanh Văn Thừa, nhưng chưa thể thành thục pháp khí Thanh Văn Thừa. Sau đó lại được gặp gỡ, nghe pháp Độc Giác Thừa, bèn mê hoặc, chẳng hiểu rơ, liền sanh tri kiến rỗng không, bài bác chẳng có nhân quả. Do nhân duyên ấy, tạo vô lượng tội nghiệp nơi thân, ngữ, ư, vào trong các đường ác. Chúng con nay ở trước đức Thế Tôn nghe nói kinh này, lại được chánh kiến, sanh ḷng hổ thẹn sâu xa, bày tỏ sám hối, chẳng dám giấu diếm, nguyện trừ diệt hết. Từ nay trở đi, vĩnh viễn chẳng tái phạm, sẽ ngăn ngừa các tội chướng mai sau. Kính mong đức Thế Tôn xót thương nhiếp thọ, khiến cho tội của chúng con thảy đều tiêu diệt. Trong đời mai sau, vĩnh viễn chẳng c̣n tạo nữa. Kính mong đức Thế Tôn xót thương cứu giúp khổ báo nơi đường ác của chúng con trong mai sau. Chúng con nay vẫn mong tiếp nhận, hành tŕ các hạnh thuộc Thanh Văn Thừa đă tu tập trước kia. Kính mong đức Thế Tôn xót thương dạy bảo”).

 

          Đức Phật hễ thuyết pháp, sẽ trừ khử những đau khổ của đại chúng tham dự pháp hội. V́ sao đức Phật nói các pháp ấy? Đấy là thuyết pháp đúng theo căn cơ. V́ trong hội Đại Tập này, có các chúng sanh lầm lạc sanh khởi kiến giải rỗng không, trong quá khứ họ đă phạm sai lầm ấy. “Bát vô nhân quả, đoạn diệt thiện căn” (bài bác “chẳng có nhân quả”, đoạn diệt căn lành), cho nên đi vào các đường ác, đọa trong ba ác đạo. Nay “văn thuyết thử kinh” (nghe nói kinh này), tức là được nghe đức Phật nói kinh Đại Tập Thập Luân, “hoàn đắc chánh kiến” (lại được chánh kiến), tức là lại khôi phục chánh kiến của họ. Họ liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân đức Phật, đối trước đức Thế Tôn, sanh ḷng hổ thẹn sâu xa mà sám hối.

          Đây là phẩm thứ năm, tức phẩm Sám Hối. Khi chúng ta đọc đoạn kinh văn này, hăy ngẫm xem chính ḿnh có phạm sai lầm ấy hay không? Nếu có, hăy tùy hỷ sám hối một phen. Chẳng có, quư vị có thể chẳng cần tùy hỷ. Bất quá, ai nấy nhất định sẽ phạm sai lầm, hoặc nhiều hay ít đó thôi, đều phải nên sám hối. Họ đảnh lễ dưới chân đức Phật, sám hối. “Hiệp chưởng cung kính, nhi bạch Phật ngôn” (chắp tay, cung kính mà bạch cùng đức Phật rằng), cung kính thưa: “Đại đức Thế Tôn! Ngă đẳng bổn tại Thanh Văn Thừa trung, tằng chủng thiện căn” (Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con vốn từng gieo thiện căn trong Thanh Văn Thừa): Đă tu đạo, nhưng chẳng thành thục căn khí của Thanh Văn Thừa, chẳng chứng đạo, chẳng đạt được thành quả. “Hậu phục ngộ Độc Giác Thừa pháp” (về sau lại gặp pháp Độc Giác Thừa), liền mê hoặc, sanh khởi Không kiến. Hễ Không kiến đă sanh, liền “bác vô nhân quả” (bài bác chẳng có nhân quả), chẳng tin quả báo thiện ác. V́ nhân duyên ấy, tạo “thân, ngữ, ư, vô lượng tội nghiệp” (tạo vô lượng tội nghiệp nơi thân, ngữ, ư), làm rất nhiều chuyện lầm lỗi. Do đă làm sai, bèn đọa vào đường ác. Nay chúng con đối trước đức Thế Tôn, “văn thuyết thử kinh” (nghe nói kinh này) mới khôi phục chánh kiến. “Thâm tâm tàm quư” (sanh ḷng hổ thẹn sâu xa), cảm thấy trong quá khứ đă sai trái, nay hướng về đức Thế Tôn phát lộ sám hối. “Bất cảm phú tàng” (chẳng dám giấu diếm), thỉnh cầu đức Thế Tôn chứng minh, “nguyện tất trừ diệt” (nguyện trừ diệt hết sạch) các tội ấy của con. Đối trước đức Thế Tôn sám hối xong, [các tội ấy] sẽ trừ diệt. “Tùng kim dĩ văng, vĩnh bất phục tạo” (từ nay trở đi, vĩnh viễn chẳng làm nữa): Chẳng c̣n tạo các tội ấy nữa, chẳng c̣n đọa vào ác kiến nữa. “Pḥng hộ đương lai sở hữu tội chướng” (ngăn ngừa tất cả tội chướng trong mai sau): Con đă sám hối xong; trong tương lai, những tội ấy lại đưa đến, con sẽ nhận biết ngay, sẽ chẳng đọa lạc lần nữa!

          “Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn nhiếp thọ, linh ngă đẳng tội giai tất tiêu diệt” (kính mong đức Thế Tôn thương xót nhiếp thọ, khiến cho tội của chúng con thảy đều tiêu diệt): Nay chúng con hướng về đức Phật đă sám hối xong, Phật sẽ gia tŕ chúng con, khiến cho tội cấu ấy đều tiêu diệt. “Ư đương lai thế, vĩnh bất cánh tạo” (trong đời mai sau, vĩnh viễn chẳng tạo nữa): Chẳng c̣n tạo tội này nữa! “Duy nguyện Thế Tôn, ai mẫn tế bạt ngă đẳng đương lai ác thú khổ báo” (kính mong đức Thế Tôn xót thương cứu vớt khổ báo nơi đường ác của chúng con trong mai sau): Nếu con không sám hối, trong tương lai, nhất định phải hứng chịu quả báo ấy. “Kim giả hoàn nguyện thọ hành tiên sở tu tập Thanh Văn Thừa hạnh” (Nay chúng con vẫn mong tiếp nhận, hành tŕ các hạnh thuộc Thanh Văn Thừa đă tu tập trước kia): Họ là căn khí Thanh Văn Thừa. Họ nói: Hiện thời, họ chẳng hâm mộ Độc Giác Thừa, vẫn muốn tu hành pháp Thanh Văn. “Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn giáo thọ” [nghĩa là] xin đức Phật lại v́ chúng con nói pháp Thanh Văn lần nữa!

 

          (Kinh) Thế Tôn cáo viết: “Thiện tai! Thiện tai! Nhữ đẳng năi năng như thị tàm quư, phát lộ sám hối. Ư ngă pháp trung, hữu nhị chủng nhân, danh vô sở phạm: Nhất giả, bẩm tánh chuyên tinh, bổn lai bất phạm. Nhị giả, phạm dĩ tàm quư, phát lộ sám hối. Thử nhị chủng nhân, ư ngă pháp trung, danh vi dũng kiện, đắc thanh tịnh giả”. Ư thị, Thế Tôn tùy kỳ sở nhạo, phương tiện vị thuyết Tứ Thánh Đế pháp. Ư bỉ chúng trung, hữu đắc hạ phẩm Nhẫn giả, hữu đắc trung phẩm Nhẫn giả, hữu đắc thượng phẩm Nhẫn giả, hữu đắc thế gian đệ nhất pháp giả, hữu đắc Dự Lưu quả giả, hữu đắc Nhất Lai quả giả, hữu đắc Bất Hoàn quả giả. Ư trung, phục hữu bát vạn tứ thiên bật-sô, chư lậu vĩnh tận, tâm đắc giải thoát, ư thiện thanh tịnh, thành A La Hán, hoan hỷ lễ Phật, hoàn phục bổn ṭa.

          ()世尊告曰:「善哉!善哉!汝等乃能如是慚愧,發露懺悔。於我法中,有二種人,名無所犯:一者、稟性專精,本來不犯;二者、犯已慚愧,發露懺悔。此二種人,於我法中,名為勇健得清淨者。」於是世尊隨其所樂,方便為說四聖諦法。於彼眾中,有得下品忍者,有得中品忍者,有得上品忍者,有得世間第一法者,有得預流果者,有得一來果者,有得不還果者。於中復有八萬四千苾芻,諸漏永盡,心得解脫,意善清淨,成阿羅漢,歡喜禮佛,還復本座。

          (Kinh: Đức Thế Tôn bảo rằng: “Lành thay! Lành thay! Các ông có thể hổ thẹn và bày tỏ sám hối như vậy. Trong pháp của ta, có hai loại người được gọi là chẳng phạm lỗi ǵ: Một là người bẩm tánh chuyên ṛng, vốn chẳng hề phạm. Hai là người đă phạm bèn hổ thẹn, phát lộ sám hối. Hai loại người ấy ở trong pháp của ta, được gọi là người dũng mănh, mạnh mẽ, đạt được thanh tịnh”. Ngay khi đó, đức Thế Tôn bèn thuận theo ḷng ưa thích của họ, phương tiện nói cho họ pháp Tứ Thánh Đế. Trong số những người ấy, có người đắc hạ phẩm Nhẫn, có người đắc trung phẩm Nhẫn, có người đắc thượng phẩm Nhẫn, có người đắc pháp đệ nhất trong thế gian, có người đắc quả Dự Lưu, có người đắc quả Nhất Lai, có người đắc quả Bất Hoàn. Trong ấy, lại có tám vạn bốn ngàn bật-sô vĩnh viễn hết sạch các lậu, tâm được giải thoát, ư thiện thanh tịnh, thành A La Hán, hoan hỷ lễ Phật, trở về chỗ ngồi của chính ḿnh).

 

          Đức Phật liền bảo: “Thiện tai! Thiện tai!”, hay lắm! “Nhữ đẳng năi năng như thị tàm quư, phát lộ sám hối” [nghĩa là] như các ông hổ thẹn, phát lộ sám hối như vậy, các ông phải nhận biết trong Phật pháp: “Hữu nhị chủng nhân, danh vô sở phạm” (có hai loại người được gọi là “không phạm lỗi ǵ”), cũng là thanh tịnh. “Nhất giả, bẩm tánh chuyên tinh” (một là bẩm tánh chuyên ṛng): Người ấy có tánh t́nh giữ giới rất tốt đẹp, chuyên ṛng tŕ giới, vốn chẳng vi phạm. “Nhị giả, phạm dĩ tàm quư” tức là hễ đă phạm giới, bèn dấy lên cái tâm hổ thẹn. “Phát lộ sám hối” th́ cũng sẽ thanh tịnh. Loại người ấy “ư ngă pháp trung, danh vi dũng kiện, đắc thanh tịnh giả” (loại người ấy ở trong pháp của ta, được gọi là người dũng mănh, mạnh mẽ, đạt được thanh tịnh), hết thảy tội ác đều sám trừ thanh tịnh.

          “Ư thị, Thế Tôn tùy kỳ sở nhạo” (do vậy, đức Thế Tôn thuận theo ḷng ưa thích của họ): Tâm họ ưa thích điều ǵ? “Phương tiện vị thuyết Tứ Thánh Đế pháp” (phương tiện nói pháp Tứ Thánh Đế cho họ): Pháp Tứ Thánh Đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo, gồm hai tầng nhân quả. Tập là cái nhân thế gian, Khổ là cái quả thế gian. Đạo là cái nhân xuất thế gian, Diệt là cái quả xuất thế gian. Cái nhân xuất thế gian và cái quả xuất thế gian, do tu Đạo bèn có thể thoát ĺa. Do đức Phật nói như thế, ở trong hội ấy, “hữu đắc hạ phẩm Nhẫn giả, hữu đắc trung phẩm Nhẫn giả, hữu đắc thượng phẩm Nhẫn giả, hữu đắc thế gian đệ nhất pháp giả” (có người đắc hạ phẩm Nhẫn, có người đắc trung phẩm Nhẫn, có người đắc thượng phẩm Nhẫn, có người đắc thế gian đệ nhất pháp): Đó gọi là bốn địa vị Noăn (), Đảnh (), Nhẫn (), Thế Đệ Nhất (世第一), bèn chứng Sơ Quả, tu hành đă được Noăn khí (暖氣, hơi ấm). Khi mới vừa tu hành, chẳng có một tí hơi ấm nào, cũng tức là chẳng nhập môn. Đă có thể tiến nhập, hoặc là Định cũng thế, hoặc là đọc tụng Đại Thừa cũng thế, hoặc là có cảm giác vui thích. Đấy là Hạ Nhẫn.

          “Trung Nhẫn” lại tiến hơn một bước nữa. Có thể nói Đảnh () là “đă tiếp nhận”. Sau đó, đạt đến địa vị Thế Đệ Nhất, tức là đỉnh điểm trong pháp thế gian. Sau đó là pháp xuất thế gian. Xuất thế gian là chứng Sơ Quả. Chứng Sơ Quả là pháp xuất thế gian. Đấy là hết thảy các địa vị thuộc Tiểu Thừa. “Hữu đắc Dự Lưu quả giả” (có người đắc quả Dự Lưu): Tiến thêm bước nữa, sẽ thành tựu địa vị này. Dự Lưu quả là Sơ Quả, dự vào gịng thánh nhân. Tiểu Thừa là Dự Lưu, c̣n Đại Thừa th́ Tín vị (địa vị Thập Tín) đă dự vào gịng thánh. Có người đắc quả Nhất Lai, Nhất Lai là Nhị Quả. Quả vị trước đó là Tu Đà Hoàn, c̣n quả này là Tư Đà Hàm. Có người đắc quả Bất Hoàn, tức A Na Hàm, là Tam Quả.

          “Ư trung, phục hữu bát vạn tứ thiên bật-sô” (trong ấy lại có tám vạn bốn ngàn bật-sô): Trong phần trước, chẳng nói đến số lượng, [“tám vạn bốn ngàn”] ở đây hàm ư “rất nhiều. Trong đại chúng hiện diện, c̣n có tám vạn bốn ngàn vị xuất gia, đắp y ca-sa đỏ. “Chư lậu vĩnh tận” (vĩnh viễn hết sạch các lậu): Chẳng c̣n bị luân hồi trong tam giới, bèn chứng đắc quả A La Hán. “Chư lậu vĩnh tận, tâm đắc giải thoát” (vĩnh viễn hết sạch các lậu, tâm được giải thoát): Kiến Tư Hoặc vừa đoạn, tâm đă được giải thoát. “Ư thiện thanh tịnh, thành A La Hán, hoan hỷ lễ Phật, hoàn phục bổn ṭa” (Ư thiện thanh tịnh, thành A La Hán, hoan hỷ lễ Phật, trở về chỗ ngồi của chính ḿnh): Các chúng sanh ấy đều rất hoan hỷ, v́ họ thoát ĺa biển khổ, cũng đă sám hối thanh tịnh.

          Đọc kinh điển Đại Thừa, sẽ vượt qua Noăn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất, [sự giác ngộ] hơn hẳn Thanh Văn Thừa, nhưng đoạn Hoặc chẳng bằng Thanh Văn Thừa! Tân phát ư Bồ Tát vừa phát Bồ Đề tâm, sẽ vượt hơn họ (Thanh Văn Thừa). Tuy vẫn thuộc địa vị phàm phu, nhưng có thể làm chuyện của Bồ Tát, bất luận khi hoằng pháp, tu đạo, hay lợi ích chúng sanh, quán tưởng, điểm xuất phát [của Bồ Tát] là chẳng v́ chính ḿnh, hết thảy đều v́ người khác. Dẫu làm sai, vấn đề cũng chẳng to lớn! Nếu v́ chính ḿnh, tuy quư vị làm rất đúng, rất mỹ măn, nhưng do xen tạp danh lợi, vấn đề cũng rất to, quư vị hoàn toàn chẳng đạt được lợi ích!

 

          (Kinh) Thời, chúng hội trung, phục hữu ngũ thập thất bách thiên na-dữu-đa chúng sanh, tằng ngộ văn pháp, mậu sanh Không giải, bát vô nhân quả, đoạn diệt thiện căn, văng chư ác thú. Văn thuyết thử kinh, hoàn đắc chánh kiến, tức tùng ṭa khởi, đảnh lễ Phật túc, ư Thế Tôn tiền, thâm sanh tàm quư, chí thành sám hối, hiệp chưởng, cung kính, nhi bạch Phật ngôn: “Đại đức Thế Tôn, ngă đẳng bổn tại Độc Giác Thừa trung, tằng chủng thiện căn, vị năng thành thục Độc Giác Thừa khí, hậu phục ngộ văn thuyết Đại Thừa pháp, tuy sanh ái nhạo, nhi bất năng giải, ngu minh nghi hoặc, tiện sanh Không kiến, bát vô nhân quả. Do thị nhân duyên, tạo thân, ngữ, ư, vô lượng tội nghiệp. Thừa thử nghiệp duyên, ư vô lượng kiếp, đọa chư ác thú, thọ chủng chủng khổ, sở độc nan nhẫn. Ngă đẳng kim giả, ư Thế Tôn tiền, văn thuyết thử kinh, hoàn đắc chánh kiến, thâm tâm tàm quư, phát lộ sám hối, bất cảm phú tàng, nguyện tất trừ diệt. Tùng kim dĩ văng, vĩnh bất phục tác, pḥng hộ đương lai sở hữu tội chướng. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn nhiếp thọ, linh ngă đẳng tội giai tất tiêu diệt, ư đương lai thế, vĩnh bất cánh tạo. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn tế bạt ngă đẳng đương lai ác thú khổ báo. Ngă đẳng kim giả, hoàn nguyện thọ hành tiên sở tu tập Độc Giác Thừa hạnh. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn giáo thọ”.

          ()時眾會中,復有五十七百千那庾多眾生,曾誤聞法,謬生空解撥無因果,斷滅善根,往諸惡趣。聞說此經,還得正見,即從座起,頂禮佛足,於世尊前深生慚愧,至誠懺悔,合掌恭敬,而白佛言:大德世尊,我等本在獨覺乘中曾種善根,未能成熟獨覺乘器;後復遇聞說大乘法,雖生愛樂而不能解,愚冥疑惑,便生空見撥無因果,由是因緣,造身語意無量罪業,乘此業緣,於無量劫墮諸惡趣,受種種苦,楚毒難忍。我等今者於世尊前,聞說此經還得正見,深心慚愧,發露懺悔,不敢覆藏,願悉除滅,從今已往永不復作,防護當來所有罪障。唯願世尊,哀愍攝受,令我等罪皆悉消滅,於當來世永不更造。唯願世尊,哀愍濟拔我等當來惡趣苦報。我等今者,還願受行先所修集獨覺乘行。唯願世尊,哀愍教授。

          (Kinh: Lúc ấy, trong chúng hội lại có năm mươi bảy trăm ngàn na-dữu-đa chúng sanh từng nghe lầm pháp, lầm lạc sanh kiến giải rỗng không, bài bác chẳng có nhân quả, đoạn diệt căn lành, tiến vào các đường ác, nghe nói kinh này, lại được chánh kiến, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân đức Phật, đối trước đức Thế Tôn, sanh ḷng hổ thẹn sâu xa, chí thành sám hối, chắp tay, cung kính mà bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con vốn từng gieo căn lành trong Độc Giác Thừa, nhưng chưa thể thành thục pháp khí Độc Giác Thừa. Về sau lại gặp gỡ, nghe nói pháp Đại Thừa, tuy sanh ḷng yêu thích, nhưng chẳng thể hiểu, ngu si, tối tăm, ngờ vực, liền sanh Không kiến, bài bác chẳng có nhân quả, tạo vô lượng tội nghiệp nơi thân, ngữ, ư. Nương theo nghiệp duyên ấy, trong vô lượng kiếp, đọa vào các đường ác, chịu đủ thứ nỗi khổ, đau đớn khó nhẫn. Chúng con nay đối trước đức Thế Tôn, nghe nói kinh này, lại được chánh kiến, sanh ḷng hổ thẹn sâu xa, bày tỏ sám hối, chẳng dám giấu diếm, nguyện đều trừ diệt. Từ nay trở đi, vĩnh viễn chẳng làm nữa, ngăn ngừa tất cả tội chướng trong đời mai sau. Chỉ mong đức Thế Tôn xót thương nhiếp thọ, khiến cho tội của chúng con thảy đều tiêu diệt. Trong đời mai sau, vĩnh viễn chẳng tạo nữa. Kính mong đức Thế Tôn xót thương cứu vớt khổ báo trong đường ác mai sau của chúng con. Chúng con nay vẫn mong được tiếp nhận, hành tŕ hạnh Độc Giác Thừa đă tu tâp trước kia. Kính mong đức Thế Tôn xót thương dạy bảo”).

 

          Phẩm này là phẩm Sám Hối. Lúc đó, đại chúng tham gia pháp hội đông đúc ngần ấy, trong hội Đại Tập này, các thành phần nhóm họp rất phức tạp, có vô lượng, vô biên chúng sanh. Trước tiên, họ nói rơ khi mới bắt đầu nghe pháp, nhưng chẳng cung kính Tam Bảo, cho đến nghe pháp rồi sanh hiểu lầm. Sự hiểu lầm này đều xét theo tánh Không, ở đây là Ác Thú Không (do chấp trước Không là rỗng không, không tin nhân quả, nên đọa vào đường ác). Có người nghe giảng kinh Kim Cang, [thấy kinh nói] “hết thảy đều là Không”, kẻ đó bèn thứ ǵ cũng chẳng học, cứ tạo ác nghiệp. Thiện nghiệp Không, nhưng ác nghiệp chẳng Không, tạo rất nhiều tội.

          Trong hội này, phần trên nói về Thanh Văn Thừa, ở đây nói về Độc Giác Thừa. Trong đại chúng nhóm họp ấy, có bao nhiêu chúng sanh? Có năm mươi bảy trăm ngàn na-dữu-đa, tức là năm mươi bảy trăm ngàn mười triệu chúng sanh, họ cùng nhau đến nghe pháp, hướng về đức Phật, thỉnh cầu sám hối. V́ trong quá khứ, họ đă nghe lầm pháp. “Nghe lầm pháp” hoàn toàn chẳng phải là “thuyết pháp sai lầm”, mà là do người ấy [nghe pháp xong], lư giải sai lầm. Thật ra, cũng chẳng phải là họ lư giải sai lầm, mà là v́ trong quá khứ, người ấy chẳng có nhiều thiện căn dường ấy, do chẳng tiếp nhận được, bèn sanh khởi Không kiến sai lầm. Rất khó phá trừ Không kiến ấy. Nếu sanh khởi Hữu kiến, tội nghiệp kiểu ấy dễ đoạn. Sanh khởi Không kiến, tội nghiệp loại này chẳng dễ đoạn. V́ lúc sanh khởi Hữu kiến, người ấy vẫn tin tưởng nhân quả, chấp trước nhân quả. Bất quá, cả hai đằng đều chẳng đúng. Kinh Phật cũng dạy, có rất nhiều tội nghiệp chẳng sám hối được. Trong đời trước, chúng ta đă tạo cái nhân, đời này nhất định phải thọ báo. Có khá nhiều cách nói sai lầm, [như nghe nói] “chẳng thể sám hối” bèn lập luận rằng “phải vĩnh viễn mang theo tội ấy, nhất định sẽ đọa địa ngục”. Đó là Hữu kiến sai lầm!

          Trong phần trước, đă nói có hai loại người. Một là hạng người bẩm tánh chuyên ṛng. Về căn bản, người ấy chẳng phạm tội. Hai là người đă phạm bèn hổ thẹn, tức là hổ thẹn, sám hối, th́ cũng là dũng mănh, can đảm. Đức Phật nói hai loại người ấy đều là thanh tịnh. Đă sai lầm khi nghe pháp, lại khăng khăng chẳng chịu sám hối, chẳng hổ thẹn. Hiện thời, có rất nhiều người học Phật pháp, quư vị nói với họ: “Bạn đi theo con đường ấy chẳng đúng. Bạn có thể dùng Thánh Giáo Lượng như đức Phật đă dạy hoặc do thánh nhân đă dạy để đối chiếu đôi chút, sẽ biết là đúng hay không”. Nhưng họ đâu có chịu sửa sai, vẫn cho chính ḿnh là đúng, chấp trước điều ǵ đó, chấp trước điều được nói trong kinh chi đó chẳng sai. [Họ khăng khăng]: Kinh dạy hết thảy các pháp đều là Không, kinh Kim Cang dạy như thế đó!” Nhưng Không nghĩa là ǵ? Họ chẳng lănh hội, cũng là do nghe pháp rồi nẩy sanh hiểu lầm, lư giải sai lầm đối với Không.

          Lấy kinh Kim Cang làm thí dụ. Kinh ấy dạy hàng Nhị Thừa trụ trong Niết Bàn và lư Không mà họ đă chứng đắc đều chẳng phải là rốt ráo. Nghĩa Không ấy cũng là do họ tu nhân khế hợp quả mà đạt được, chẳng phải là không có nhân quả. Đặc biệt là trong Thiền Tông Trung Hoa, có người học Thiền bèn hiểu lầm, hiểu sai “tham Thiền để minh tâm kiến tánh” thành “bất cứ thứ ǵ cũng đều chẳng cần phải học”. Thậm chí chẳng tin nhân quả, chỉ cần minh tâm kiến tánh là được rồi! Chẳng kiến tánh th́ sẽ như thế nào? Quư vị tạo tội, vẫn phải thọ báo y hệt! Những người ấy sau khi nghe pháp có thể uốn nắn các sai lầm; trong quá khứ v́ nghe pháp này đă lư giải nghĩa Không sai lạc! “Bát vô nhân quả” (bài bác chẳng có nhân quả), đoạn diệt thiện căn, tạo ác hạnh! Làm ác th́ tự nhiên phải chịu ác báo. Nay trong pháp hội này, được nghe đức Phật nói kinh Đại Tập Thập Luân, nay đă hiểu rơ, liền khôi phục chánh kiến.

          Trước kia đă có chánh kiến, về sau, do bạn ác hướng dẫn, hoặc là tin lầm lời kẻ khác nói, mới đánh mất chánh kiến. Có bao nhiêu người như thế? Có năm mươi bảy trăm ngàn mười triệu người như vậy, từ chỗ ngồi đứng dậy, hướng về đức Phật đảnh lễ, đối trước đức Thế Tôn, sanh ḷng hổ thẹn sâu xa, chí thành sám hối. Sám hối ǵ vậy? Trong quá khứ, chúng con tu pháp Độc Giác Thừa, từng gieo thiện căn, nhưng chẳng thể thành thục pháp khí Độc Giác Thừa, cũng chẳng chứng đắc sự giác ngộ trong Độc Giác Thừa. Sau đó, lại được nghe pháp Đại Thừa, liền sanh khởi hoan hỷ, tin ưa, cầu Đại Thừa, nhưng chẳng thể hiểu. Chẳng lư giải thấu đáo nghĩa lư Đại Thừa, ngu si, tối tăm, ngờ vực. “Ngu minh” (愚冥) là chẳng có trí huệ, ở trong tăm tối, do ngờ vực bản thân liền giống như đang ở trong tăm tối. Hiện thời, chúng con có rất nhiều hoài nghi. Chướng ngại lớn nhất trong việc học pháp là hoài nghi, chẳng thể tin tưởng nổi. Học bất cứ pháp ǵ, đều phải có tín. Có tín th́ mới có thể sanh khởi giải, giải là lư giải. Tức là trong khi học, quư vị muốn tu một pháp nào, trước hết phải hiểu rơ ràng pháp ấy, thứ tự tu tŕ, dụng công và quán tưởng như thế nào!

          Quư vị hiểu rơ thứ tự tu hành, sẽ chẳng đi lầm đường! Giống như chúng ta muốn tới một chỗ nào đó, quư vị ắt phải thông thuộc đường lối tới nhà bạn bè. Nếu chẳng quen thuộc, người ta ở phương Nam, quư vị lại lái xe đi theo phương Bắc. Như thế th́ vĩnh viễn cũng chẳng đến được, càng đi càng xa! Quư vị ắt cần phải quen thuộc hàm nghĩa được nói trong pháp ấy là ǵ? Đừng hiểu lầm! Không trong Đại Thừa chẳng phải là Ác Thú Không, mà là trí huệ. Như quư vị học Tâm Kinh, “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai Không”: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều chẳng tồn tại, cũng chẳng có ǵ là thiện, cũng chẳng có ǵ là ác. Nếu quư vị làm ác, tức là trái nghịch Pháp Tánh, cũng vĩnh viễn chẳng đạt được cái Không. Nếu làm lành, sẽ dần dần cũng chẳng chấp trước điều lành, quư vị sẽ nhập Không nghĩa ấy. Chẳng lư giải điều này, sẽ là “bát vô nhân quả” (bài bác chẳng có nhân quả).

          Do nhân duyên bài bác không có nhân quả, nơi thân, ngữ, ư của kẻ đó gây tạo mười ác nghiệp rất nhiều , tạo vô lượng tội. Nương cái duyên tạo nghiệp ấy, vô lượng kiếp đọa trong đường ác, đọa nhập ba ác đạo. “Ác thú” (惡趣) là ba ác đạo, chịu sự đau khổ rất lớn. Chốn khổ sở ấy rất khó chịu đựng, “khổ độc” (苦毒) là các h́nh phạt phải hứng chịu. Nay chúng con nghe đức Phật nói như vậy, được khôi phục tri kiến, giác ngộ trước kia chúng con đă sai trái, bèn phát lộ sám hối các tội ác do chúng con đă trót tạo, chẳng dám giấu diếm nữa. Nguyện đức Thế Tôn gia tŕ chúng con, [khiến cho các tội ấy] đều trừ diệt. Sau này, sẽ chẳng làm như thế nữa, vĩnh viễn chẳng tạo nữa, ḥng ngăn ngừa tội chướng trong tương lai, chẳng c̣n tái phạm nữa. Tội trước kia đă làm, chỉ mong đức Thế Tôn xót thương cứu vớt, cứu giúp, che chở chúng con. Cứu vớt khổ báo trong đường ác của chúng con trong mai sau, nay chúng con vẫn phát nguyện “thọ hành tiên sở tu tập Độc Giác Thừa hạnh” (tiếp nhận, hành tŕ hạnh Độc Giác Thừa đă tu tập trước kia), học tập pháp nhân duyên. “Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn giáo thọ” [nghĩa là] nay chúng con đều quên sạch pháp nhân duyên, xin đức Phật dạy răn chúng con lần nữa!

 

          (Kinh) Thế Tôn cáo viết: “Thiện tai! Thiện tai! Nhữ đẳng năi năng như thị tàm quư, phát lộ sám hối. Ư ngă pháp trung, hữu nhị chủng nhân, danh vô sở phạm: Nhất giả, bẩm tánh chuyên tinh, bổn lai bất phạm. Nhị giả, phạm dĩ tàm quư, phát lộ sám hối. Thử nhị chủng nhân, ư ngă pháp trung, danh vi dũng kiện, đắc thanh tịnh giả”. Ư thị, Thế Tôn tùy kỳ sở nhạo, phương tiện vị thuyết chư duyên khởi pháp, linh bỉ nhất thiết tu Duyên Giác Thừa tiệm thứ viên măn, giai tất chứng đắc Tràng Tướng Duyên Định, ư Độc Giác Thừa, đắc bất thoái chuyển, hoan hỷ lễ Phật, hoàn phục bổn ṭa.

          ()世尊告曰:「善哉!善哉!汝等乃能如是慚愧,發露懺悔。於我法中,有二種人,名無所犯:一者、稟性專精,本來不犯;二者、犯已慚愧,發露懺悔。此二種人,於我法中,名為勇健得清淨者。」於是世尊隨其所樂,方便為說諸緣起法。令彼一切修緣覺乘,漸次圓滿,皆悉證得幢相緣定,於獨覺乘得不退轉,歡喜禮佛,還復本座。

          (Kinh: Đức Thế Tôn bảo rằng: “Lành thay! Lành thay! Các ông có thể hổ thẹn, phát lộ sám hối như thế. Trong pháp của ta, có hai loại người được gọi là không phạm lỗi ǵ. Một là bẩm tánh chuyên ṛng, vốn chẳng trái phạm. Hai là phạm rồi bèn hổ thẹn, phát lộ sám hối. Hai loại người ấy ở trong pháp của ta được gọi là người dũng mănh, mạnh mẽ, đạt được thanh tịnh”. Ngay khi đó, đức Thế Tôn thuận theo ḷng ưa thích của họ, phương tiện nói cho họ các pháp duyên khởi, khiến cho hết thảy lần lượt tu Duyên Giác Thừa viên măn, thảy đều chứng đắc Tràng Tướng Duyên Định, chẳng thoái chuyển trong Độc Giác Thừa. Họ hoan hỷ lễ Phật, trở về chỗ ngồi của chính ḿnh).

 

          “Thế Tôn cáo viết: - Thiện tai! Thiện tai!” (đức Thế Tôn bảo: - Lành thay! Lành thay): Các vị nói rất hay, có tâm sám hối rất tốt. “Nhữ đẳng năi năng như thị tàm quư, phát lộ sám hối” (Các ông có thể hổ thẹn, phát lộ sám hối như thế): Hổ thẹn chính ḿnh đă làm những chuyện như thế. Sám hối là sửa lỗi, sửa chữa những ǵ chính ḿnh đă làm trước kia. “Hối” () là về sau chẳng c̣n làm chuyện như thế nữa! “Ư ngă pháp trung, hữu nhị chủng nhân, danh vô sở phạm: Nhất giả, bẩm tánh chuyên tinh, bổn lai bất phạm. Nhị giả, phạm dĩ tàm quư, phát lộ sám hối” (trong pháp của ta, có hai loại người được gọi là không phạm lỗi ǵ! Một là bẩm tánh chuyên ṛng, vốn chẳng trái phạm. Hai là đă phạm bèn hổ thẹn, phát lộ sám hối): Hai hạng người ấy được gọi là “bậc dũng mănh, mạnh mẽ đạt được thanh tịnh”. Đă sám hối th́ vẫn là thanh tịnh.

          Họ thỉnh cầu đức Thế Tôn nói pháp nhân duyên cho họ. Đoạn kinh văn này chẳng nói tường tận, chỉ nói đại lược. Đức Thế Tôn “tùy kỳ sở nhạo”, tức là dựa theo sự tin ưa của họ, phương tiện giảng cho họ pháp “chư duyên” (các pháp duyên khởi). Độc Giác Thừa và Duyên Giác Thừa [khác biệt ở chỗ], khi có Phật tại thế th́ gọi là Duyên Giác, lúc chẳng có Phật tại thế th́ gọi là Độc Giác, do các Ngài một ḿnh quán chiếu sự sanh thành, tồn tại, biến hóa của hết thảy các sự vật. V́ sao đóa hoa này nở? Nghiên cứu cái duyên của nó! Nếu nói đến mười hai nhân duyên th́ Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Danh Sắc… Pháp duyên khởi do Ngài đă nói chính là pháp duyên khởi sơ bộ, c̣n “tánh không duyên khởi” của Đại Thừa là pháp duyên khởi theo Đại Thừa. Đối với duyên khởi ấy, nếu quư vị lư giải sai lầm, sẽ biến thành Đoạn Diệt Không, bài bác “chẳng có nhân quả”, v́ chẳng biết Đại Thừa phải theo thứ tự mà đạt được. Do vậy, đức Phật nói pháp duyên khởi, dạy họ tu Duyên Giác Thừa. “Tiệm thứ viên măn” (lần lượt viên măn) th́ mới có thể chứng đạo. “Giai tất chứng đắc Tràng Tướng Duyên Định” (đều cùng chứng đắc Tràng Tướng Duyên Định): Tu Định nơi duyên khởi, người ấy chẳng thoái chuyển. “Hoan hỷ lễ Phật, hoàn phục bổn tọa” (hoan hỷ lễ Phật, trở về chỗ ngồi của chính ḿnh).

 

          (Kinh) Thời, chúng hội trung, phục hữu bát thập bách thiên na-dữu-đa chúng sanh, tằng ư quá khứ chư Phật pháp trung, hủy báng Phật giáo, hạ chí nhất tụng. Do thị nhân duyên, đọa chư ác thú, thọ chúng khổ báo. Sơ phục nhân thân, sanh tiện ấm á, thường hoạn thiệt cấm, khẩu bất năng ngôn. Văn thuyết thử kinh, hoàn đắc chánh kiến, tức tùng ṭa khởi, đảnh lễ Phật túc, ư Thế Tôn tiền, thâm sanh tàm quư, chí thành sám hối túc thế ác nghiệp, hiệp chưởng, cung kính, chiêm ngưỡng Thế Tôn. Phật thần lực cố, giai tất năng ngữ.

          ()時眾會中,復有八十百千那庾多眾生,曾於過去諸佛法中,譭謗佛教下至一頌,由是因緣墮諸惡趣,受眾苦報,初復人身,生便瘖啞,常患舌𦧈,口不能言。聞說此經,還得正見,即從座起,頂禮佛足,於世尊前深生慚愧,至誠懺悔宿世惡業,合掌恭敬,瞻仰世尊,佛神力故,皆悉能語。

          (Kinh: Khi ấy, trong chúng hội lại có tám mươi trăm ngàn na-dữu-đa chúng sanh đă từng ở trong pháp của quá khứ chư Phật, hủy báng Phật giáo, dẫu chỉ một bài tụng. Do nhân duyên ấy, đọa trong các đường ác, hứng chịu các khổ báo, mới lại được làm thân người, bèn sanh ra đă câm ngọng, thường bị cứng lưỡi, miệng chẳng thể nói được. Họ nghe nói kinh này, lại được chánh kiến, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân đức Phật, đối trước đức Thế Tôn, sanh ḷng hổ thẹn sâu xa, chí thành sám hối ác nghiệp trong đời trước, cung kính, chắp tay, chiêm ngưỡng đức Thế Tôn. Do thần lực của đức Phật, họ đều có thể nói được).

 

          Những người này tội ác lớn hơn những người trước. “Hủy báng năi chí nhất tụng” (hủy báng dẫu chỉ một bài tụng), hoặc là hủy báng rất ít, nhưng do nhân duyên hủy báng ấy, “đọa chư ác thú, thọ chúng khổ báo” (đọa vào các đường ác, chịu các khổ báo): Tuy đă thọ hết khổ báo, lúc sanh ra, chẳng thể nói năng, “thường hoạn thiệt cấm” (thường bị cứng lưỡi): Lưỡi chẳng thể nói được, chẳng thể phát ra tiếng được, miệng cũng chẳng thể nói được. Loại người này cũng tham gia pháp hội, nghe nói kinh này bèn “hoàn đắc chánh kiến”, tức là khôi phục chánh tri chánh kiến trước kia. “Tức tùng ṭa khởi, đảnh lễ Phật túc, ư Thế Tôn tiền, thâm sanh tàm quư, chí thành sám hối túc thế ác nghiệp” (liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân đức Phật, sanh ḷng hổ thẹn sâu xa, chí thành sám hối ác nghiệp trong đời trước): Trong đời trước, họ có ác nghiệp ǵ vậy?

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tri nhi cố vấn: “Nhữ đẳng túc thế, tác hà ác nghiệp, kim xử chúng trung, khẩu bất năng ngữ?” Bỉ chư nhân chúng, câu thời bạch Phật. Ư trung, nhất loại tác như thị ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ngă đẳng văng tích ư Tỳ Bát Thi Như Lai pháp trung, hoặc ngôn hủy báng Đại Thừa chánh pháp, hoặc ngôn hủy báng Độc Giác Thừa pháp, hoặc ngôn hủy báng Thanh Văn Thừa pháp, hạ chí nhất tụng. Ngă đẳng do thị ác nghiệp chướng cố, cửu thập nhất kiếp lưu chuyển sanh tử, thường xử địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, ấm á, vô thiệt, đô bất năng ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn. Thỉ ư kim thế, đắc phục nhân thân, nhi do ấm á, thường hoạn thiệt cấm, mông Phật thần lực, phương thỉ năng ngôn, phục năng ức niệm tự quá khứ thế sở hữu nhân duyên chư ác nghiệp chướng”.

          ()爾時,世尊知而故問:「汝等宿世作何惡業,今處眾中,口不能語?」彼諸人眾俱時白佛,於中一類作如是言:「大德世尊,我等往昔於毗缽尸如來法中,或言譭謗大乘正法,或言譭謗獨覺乘法,或言譭謗聲聞乘法,下至一頌。我等由是惡業障故,九十一劫流轉生死,常處地獄,傍生、餓鬼,瘖啞無舌,都不能言,受諸苦毒,痛切難忍;始於今世得復人身,而猶瘖啞,常患舌𦧈,蒙佛神力,方始能言,復能憶念自過去世所有因緣諸惡業障。」

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn biết mà cố ư hỏi: “Đời trước, các ông đă làm ác nghiệp ǵ, nay ở trong đại chúng, miệng chẳng thể nói được?” Những người ấy đều cùng bạch Phật. Trong số ấy, có một loại người thưa như thế này: “Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con xưa kia ở trong pháp của Tỳ Bát Thi Như Lai, hoặc thốt lời hủy báng chánh pháp Đại Thừa, hoặc thốt lời hủy báng pháp Độc Giác Thừa, hoặc thốt lời hủy báng pháp Thanh Văn Thừa, dẫu chỉ một bài tụng. Chúng con do ác nghiệp chướng ấy, chín mươi mốt kiếp lưu chuyển sanh tử, thường ở trong địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, câm, ngọng, không lưỡi, luôn chẳng thể nói, chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực, khó thể chịu đựng. Bắt đầu từ đời này mới lại được thân người, vẫn c̣n câm, ngọng, thường bị cứng lưỡi, nhờ thần lực của đức Phật mới có thể nói được, lại có thể nghĩ nhớ tất cả nhân duyên và các ác nghiệp chướng trong đời quá khứ”).

 

          Đức Phật thấy những người ấy sám hối, đảnh lễ, biết trong quá khứ họ đă tạo nghiệp ǵ, đức Phật muốn họ tự nói ra, tuy biết rơ mà vẫn cố ư hỏi. Ngài hỏi: “Trong đời quá khứ, các vị đă làm ác nghiệp ǵ mà ở trong đại chúng, miệng chẳng thể nói được?” “Bỉ chư nhân chúng, câu thời bạch Phật. Ư trung, nhất loại tác như thị ngôn” (Những người ấy đều cùng bạch Phật, trong số đó, có một loại người thưa như thế này), hoàn toàn chẳng phải là toàn thể, chỉ dẫn lời của thiểu số nói. “Đại đức Thế Tôn, ngă đẳng văng tích ư Tỳ Bát Thi Như Lai pháp trung, hoặc ngôn hủy báng Đại Thừa chánh pháp (Bạch đại đức Thế Tôn, chúng con xưa kia đă ở trong pháp của Tỳ Bát Thi Như Lai, thốt lời hủy báng chánh pháp Đại Thừa): Tỳ Bát Thi Phật là chính là Tỳ Bà Thi Phật (Vipaśyin) trong năm mươi ba vị Phật thường được bái sám.

          Trong thời Tỳ Bát Thi Phật, chúng con đă báng bổ chánh pháp Đại Thừa, “hoặc ngôn hủy báng Độc Giác Thừa pháp, hoặc ngôn hủy báng Thanh Văn Thừa pháp” (hoặc thốt lời hủy báng pháp Độc Giác Thừa, hoặc nói hủy báng pháp Thanh Văn Thừa), cho tới hủy báng một kệ tụng. Tuy hủy báng rất ít, tội ác vẫn rất lớn. Chúng con do tội nghiệp ấy, tức tội hủy báng kinh điển Đại Thừa, kinh điển Độc Giác Thừa, kinh điển tam thừa, cũng tức là hủy báng kinh điển trọn cả ba thừa, hủy báng Pháp Bảo, trải qua chín mươi mốt kiếp lưu chuyển sanh tử, đọa địa ngục kể từ thời Tỳ Bát Thi Phật.

          Từ địa ngục thoát ra, hoặc là biến thành súc sanh, hoặc biến thành ngạ quỷ. V́ họ hủy báng pháp, cho nên chẳng thể nói năng. Nhưng họ sám hối, v́ được đức Phật gia tŕ, họ lại có thể nói. Điều này biểu thị nghiệp đă thanh tịnh một phần, nay lại có thể ở trong pháp hội này, lại được thần lực của Phật gia tŕ, có thể đắc Túc Mạng Thông. Có thể nghĩ nhớ th́ ắt phải đạt được Túc Mạng Thông. Nếu không, làm sao biết được? Thật ra, họ có thể tham gia pháp hội ấy, tức là nghiệp chướng c̣n nhẹ hơn chúng ta. Chúng ta vẫn chưa thể tham gia. Nếu chúng ta thấy Phật, có lẽ sẽ có thể khai ngộ. Có lẽ những vị ấy là bậc đại quyền thị hiện, ở trong hội ấy thị hiện cho người khác thấy. Do vậy, đức Phật nói mỗi bộ kinh điển đều có rất nhiều nhân duyên. Có người tuy chẳng mắc lầm lỗi ấy, nhưng họ lại thị hiện phạm lầm lỗi ấy. Đấy là nêu bày nhằm cảnh tỉnh các chúng sanh khác trong pháp hội!

         

          (Kinh) Phục hữu nhất loại, tác như thị ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ngă đẳng văng tích ư Thi Khí Như Lai pháp trung, hoặc ngôn hủy báng Đại Thừa chánh pháp”, các tùy bổn duyên, như tiền quảng thuyết. Phục hữu nhất loại, tác như thị ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ngă đẳng văng tích ư Tỳ Nhiếp Phù Như Lai pháp trung, hoặc ngôn hủy báng Đại Thừa chánh pháp”, các tùy bổn duyên, như tiền quảng thuyết. Phục hữu nhất loại, tác như thị ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ngă đẳng văng tích ư Yết Lạc Ca Tôn Đà Như Lai pháp trung, hoặc ngôn hủy báng Đại Thừa chánh pháp”, các tùy bổn duyên, như tiền quảng thuyết. Phục hữu nhất loại, tác như thị ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ngă đẳng văng tích ư Yết Nặc Ca Mâu Ni Như Lai pháp trung, hoặc ngôn hủy báng Đại Thừa chánh pháp”, các tùy bổn duyên, như tiền quảng thuyết.

          ()復有一類作如是言:「大德世尊,我等往昔於尸棄如來法中,或言譭謗大乘正法。」各隨本緣,如前廣說。復有一類作如是言:「大德世尊,我等往昔於毗攝浮如來法中,或言譭謗大乘正法。」各隨本緣,如前廣說。復有一類作如是言:「大德世尊,我等往昔於羯洛迦孫馱如來法中,或言譭謗大乘正法。」各隨本緣,如前廣說。復有一類作如是言:「大德世尊,我等往昔於羯諾迦牟尼如來法中,或言譭謗大乘正法。」各隨本緣,如前廣說。

          (Kinh: Lại có một loại nói như thế này: “Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con xưa kia ở trong pháp của Thi Khí Như Lai, hoặc thốt lời hủy báng chánh pháp Đại Thừa”, mỗi người tùy theo duyên của chính ḿnh như trên đă rộng nói. Lại có một loại nói như thế này: “Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con xưa kia ở trong pháp của Tỳ Nhiếp Phù Như Lai, hoặc thốt lời hủy báng chánh pháp Đại Thừa”, mỗi người tùy theo duyên của chính ḿnh như trên đă rộng nói. Lại có một loại nói như thế này: “Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con xưa kia ở trong pháp của Yết Lạc Ca Tôn Đà Như Lai, hoặc thốt lời hủy báng chánh pháp Đại Thừa”, mỗi người tùy theo duyên của chính ḿnh như trên đă rộng nói. Lại có một loại nói như thế này: “Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con xưa kia ở trong pháp của Yết Nặc Ca Mâu Ni Như Lai, hoặc thốt lời hủy báng chánh pháp Đại Thừa”, mỗi người tùy theo duyên của chính ḿnh như trên đă rộng nói).

 

          Loại ấy nói xong, lại có một loại, tức là một loại người khác sám hối thưa bày: “Đại đức Thế Tôn! Ngă đẳng văng tích ư Thi Khí Như Lai pháp trung” (Bạch đại đức Thế Tôn! Xưa kia chúng con ở trong pháp của Thi Khí Như Lai): Sau Tỳ Bà Thi Phật là Thi Khí Phật (Śikhin). Vị Phật này cũng thuộc vào bốn vị Phật cuối cùng của Trang Nghiêm Kiếp. “Phục hữu nhất loại tác như thị ngôn: - Đại đức Thế Tôn! Ngă đẳng văng tích ư Tỳ Nhiếp Phù Như Lai, hoặc ngôn hủy báng Đại Thừa chánh pháp, các tùy bổn duyên, như tiền quảng thuyết. Phục hữu nhất loại tác như thị ngôn: - Đại đức Thế Tôn, ngă đẳng văng tích ư Yết Lạc Ca Tôn Đà Như Lai pháp trung” (Lại có một loại, nói như thế này: - Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con xưa kia ở trong pháp của Tỳ Nhiếp Phù (Viśvabhu, Tỳ Xá Phù) Như Lai, hoặc thốt lời hủy báng chánh pháp Đại Thừa. Mỗi người tùy theo cái duyên của chính ḿnh, như trên đă rộng nói. Lại có một loại nói như thế này: “Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con xưa kia ở trong pháp của Yết Lạc Ca Tôn Đà Như Lai): Đây là Câu Lưu Tôn Phật (Krakucchanda), hoặc là ở trong pháp của Như Lai mà hủy báng chánh pháp Đại Thừa. “Các tùy bổn duyên, như tiền quảng thuyết” (ai nấy đều tùy theo cái duyên của chính ḿnh, như đă nói rộng trong phần trước): Lời sám hối đều là lời lẽ tương đồng, cho nên trong khi đức Phật thuyết pháp đă lược đi. “Phục hữu nhất loại tác như thị ngôn: - Đại đức Thế Tôn, ngă đẳng văng tích ư Yết Nặc Ca Mâu Ni Như Lai pháp trung”; Đây cũng là Câu Na Hàm Mâu Ni (Kanakamuni) Phật, “hoặc ngôn hủy báng Đại Thừa chánh pháp” (hoặc thốt lời hủy báng chánh pháp Đại Thừa), như thế th́ “các tùy bổn duyên, như tiền quảng thuyết” (mỗi người tùy theo cái duyên của chính ḿnh như trong phần trước đă rộng nói).

 

          (Kinh) Phục hữu nhất loại, tác như thị ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ngă đẳng văng tích ư Ca Diếp Ba Như Lai pháp trung, hoặc ngôn hủy báng Đại Thừa chánh pháp, hoặc ngôn hủy báng Độc Giác Thừa pháp, hoặc ngôn hủy báng Thanh Văn Thừa pháp, hạ chí nhất tụng”.

          ()復有一類作如是言:大德世尊,我等往昔於迦葉波如來法中,或言譭謗大乘正法,或言譭謗獨覺乘法,或言譭謗聲聞乘法,下至一頌。

          (Kinh: Lại có một loại, nói như thế này: “Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con xưa kia ở trong pháp của Ca Diếp Ba Như Lai, hoặc thốt lời hủy báng chánh pháp Đại Thừa, hoặc thốt lời hủy báng pháp Độc Giác Thừa, hoặc thốt lời hủy báng pháp Thanh Văn Thừa, dẫu chỉ một bài kệ tụng”).

 

          Câu Lưu Tôn Phật, Ca Diếp Phật (Kāśyapa, Ca Diếp Ba), Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, và Thích Ca Mâu Ni Phật là bốn vị Phật trong một ngàn vị Phật thuộc Nhân Hiền Kiếp. V́ sao chúng ta hễ xưng niệm bèn niệm “thất Phật”, v́ mỗi vị trong số bảy vị Phật ấy kế tiếp nhau [xuất thế]. Sau Ca Diếp Phật là Thích Ca Như Lai. Sau Thích Ca Mâu Ni Phật là Di Lặc Bồ Tát. Trước Ca Diếp Phật là Câu Na Hàm Mâu Ni Phật. Trước Câu Na Hàm Mâu Ni Phật là Câu Lưu Tôn Phật. Khoảng cách giữa hai vị Phật dài hay ngắn tùy thuộc vào nhân duyên của chúng sanh. Thích Ca Mâu Ni Phật và Phật Di Lặc cách nhau năm mươi sáu ức vạn năm, chúng ta cảm thấy rất dài, Đại Phạm Thiên thấy rất ngắn!

          Một trăm năm trong nhân gian là một ngày một đêm trên Tứ Vương Thiên. Năm trăm năm trên Tứ Vương Thiên bằng một ngày đêm nơi Đao Lợi Thiên. Một ngàn năm trên Đao Lợi Thiên bằng một ngày đêm trên Dạ Ma Thiên. Cứ hướng lên trên để tính, cho tới khi quư vị tính đến Đại Phạm Thiên, nhân gian có bao nhiêu vạn năm, cứ tăng lên gấp mười. Chúng ta thấy thời gian rất dài, nhưng chư thiên thấy rất ngắn, mà Thích Ca Mâu Ni Phật không chỉ là một vị Thích Ca Mâu Ni Phật! Trong truyện kư về Đạo Tuyên luật sư có chép, Đạo Tuyên luật sư được một vị trời dâng cúng. Vị trời ấy mỗi ngày dâng cúng [thực phẩm cho] pháp sư Đạo Tuyên. Pháp sư Đạo Tuyên bèn hỏi vị trời ấy: “Nay Thích Ca Mâu Ni Phật đă nhập diệt, Ngài đến nơi đâu?” Vị trời hỏi ngược lại: “Thầy hỏi vị Thích Ca Mâu Ni Phật nào?” Từ câu hỏi của vị trời ấy, ta biết có rất nhiều Thích Ca Mâu Ni Phật. Vị ấy hỏi ngược lại Đạo Tuyên luật sư: “Vị Thích Ca Mâu Ni Phật nào?” “Tôi hỏi vị Thích Ca Mâu Ni Phật trong thế giới này”. Ông ta đáp: “Vị Thích Ca Mâu Ni Phật này chưa nhập diệt. Ngài c̣n đang thuyết pháp trong thế gian, nhưng các vị chẳng nh́n thấy”. Từ cuộc vấn đáp ấy, có thể biết: Chỉ là do nghiệp chướng của chúng ta mà thôi! Mỗi vị Phật đều như thế, v́ Thích Ca Mâu Ni Phật là hiện tại, cho nên họ chẳng nói đến Thích Ca Mâu Ni Phật. Đấy đều là những người đă tạo ác nơi sáu đức Phật trước đó. Hướng về đức Thích Ca Mâu Ni Phật nào để sám hối?

          Hoặc nói: “Con từ trong Độc Giác Thừa hủy báng pháp Thanh Văn, hoặc từ trong Thanh Văn Thừa hủy báng pháp Độc Giác, hoặc từ trong Đại Thừa, hủy báng Độc Giác và Thanh Văn Thừa”, sám hối lẫn nhau. Tùy thuộc mỗi người hủy báng như thế nào, mỗi loại đều khác nhau, lời lẽ hủy báng không nhất định. Hoặc là pháp Tiểu Thừa, gộp chung Thanh Văn lẫn Duyên Giác lại để nói. Hoặc là đối với Khổ, Tập, Diệt, Đạo, nói kẻ [tu theo pháp ấy] là tu nhân thiên thừa, ta là Bồ Tát, chẳng có ǵ là khổ! Kẻ đó quán Khổ, Tập, Diệt, Đạo như mộng, huyễn, bọt, bóng, liền bài bác “chẳng có nhân quả”, cứ như vậy mà hủy báng người khác!

          Có lúc đối với căn khí Đại Thừa, đức Phật quở trách pháp Tiểu Thừa. Ngài nhằm đối ứng với loại căn cơ ấy mà nói, chẳng phải là hủy báng. Đó là uẩn tàng Tiểu Thừa, chứ Ngài chẳng báng Duyên Giác Thừa, chỉ là “quư vị nói pháp ấy th́ chưa phải là rốt ráo”. Kinh Pháp Hoa nói như thế đó. Có lúc, đức Phật nói hàng Nhị Thừa là “tiêu nha, bại chủng” (焦芽敗種, mầm cháy, hạt lép). Ngài nói hoàn toàn đúng, “tiêu nha” tức là không có mầm Bồ Đề, chẳng có chủng tử Bồ Đề, người ấy chẳng thể thành Phật. Nếu người ấy phát Bồ Đề tâm, sẽ thành Phật đúng như thế đó. Hàm nghĩa là như thế đó.

 

          (Kinh) Ngă đẳng do thị ác nghiệp chướng cố, tùng nhĩ dĩ lai, lưu chuyển sanh tử, thường xử địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, ấm, á, vô thiệt, đô bất năng ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn. Thỉ ư kim thế, phục đắc nhân thân, nhi do ấm á, thường hoạn thiệt cấm, mông Phật thần lực, phương thỉ năng ngôn.

            ()我等由是惡業障故,從爾以來,流轉生死,常處地獄、傍生、餓鬼,瘖啞無舌都不能言,受諸苦毒,痛切難忍;始於今世,得復人身,而猶瘖啞,常患舌𦧈。蒙佛神力,方始能言。

          (Kinh: Chúng con do ác nghiệp chướng ấy, từ đó trở đi, lưu chuyển sanh tử, thường ở trong địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, câm, ngọng, không lưỡi, đều chẳng thể nói, chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể chịu đựng. Tới đời này mới lại được thân người, nhưng vẫn câm, ngọng, thường bị cứng lưỡi, nhờ thần lực của đức Phật mới bắt đầu có thể nói).

 

          Do hủy báng pháp tam thừa, kể từ lúc hủy báng, bèn lưu chuyển trong sanh tử, chẳng phải là đọa trong địa ngục th́ ở trong bàng sanh, hay ngạ quỷ, một mực câm, ngọng, không có lưỡi, chẳng thể nói năng. Loại này là chuyên nói về kẻ chẳng thể nói. Chắc là các đạo hữu thấy người đông ngần ấy, rất ít thấy người câm, bèn nghĩ [kẻ câm] chẳng nhiều như vậy. Đó là chúng ta không ở giữa bọn họ. Quư vị vào trong loài ḅ, vào trong loài dê, lại c̣n có kiến, kiến đều là câm, chẳng có cách nào tṛ chuyện được!

 

          (Kinh) Phục năng ức niệm tự quá khứ thế, sở hữu nhân duyên chư ác nghiệp chướng. Ngă đẳng kim giả, ư Thế Tôn tiền, văn thuyết thử kinh, hoạch đắc chánh kiến, thâm tâm tàm quư, phát lộ sám hối, bất cảm phú tàng, nguyện tất trừ diệt. Tùng kim dĩ văng, vĩnh bất phục tác, pḥng hộ đương lai sở hữu tội chướng. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn nhiếp thọ, linh ngă đẳng tội giai tất tiêu diệt. Ư đương lai thế, vĩnh bất cánh tạo. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn tế bạt ngă đẳng đương lai ác thú khổ báo. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn ngă đẳng, vị thuyết chánh pháp.

          ()復能憶念自過去世所有因緣諸惡業障。我等今者於世尊前,聞說此經,獲得正見,深心慚愧,發露懺悔,不敢覆藏,願悉除滅,從今以往永不復作,防護當來所有罪障。唯願世尊,哀愍攝受,令我等罪皆悉銷滅,於當來世永不更造。唯願世尊,哀愍濟拔我等當來惡趣苦報。唯願世尊,哀愍我等,為說正法。

          (Kinh: Lại có thể nghĩ nhớ tất cả nhân duyên, các ác nghiệp chướng trong đời quá khứ của chính ḿnh. Nay chúng con đối trước đức Thế Tôn, nghe nói kinh này, đạt được chánh kiến, tâm hổ thẹn sâu xa, bày tỏ sám hối, chẳng dám giấu diếm, nguyện đều trừ diệt. Từ nay trở đi, vĩnh viễn chẳng làm nữa, ngăn ngừa tất cả tội chướng trong mai sau. Kính mong đức Thế Tôn xót thương nhiếp thọ, khiến cho tội của chúng con thảy đều tiêu diệt. Trong đời tương lai, vĩnh viễn chẳng tạo nữa. Kính mong đức Thế Tôn xót thương cứu vớt khổ báo nơi đường ác của chúng con trong mai sau. Kính mong đức Thế Tôn thương xót chúng con, v́ chúng con nói chánh pháp).

 

          Lại có thể nghĩ nhớ nhân duyên chính ḿnh đă tạo trong đời quá khứ. “Chư ác nghiệp chướng, ngă đẳng kim giả ư Thế Tôn tiền, văn thuyết thử kinh” (các ác nghiệp chướng, chúng con nay đối trước đức Thế Tôn, nghe nói kinh này) mới đạt được tri kiến chánh xác, trong tâm hết sức hổ thẹn, “phát lộ sám hối, bất cảm phú tàng” (bày tỏ sám hối, chẳng dám giấu diếm), “nguyện tất trừ diệt. Tùng kim dĩ văng, vĩnh bất phục tác” (nguyện đều trừ diệt. Từ nay trở đi, vĩnh viễn chẳng làm nữa). Từ nay về sau, chúng con chẳng dám làm như thế nữa, ngăn ngừa tất cả tội trạng trong mai sau. Phần này giống hệt như trong phần trước.

 

          (Kinh) Thế Tôn cáo viết: “Thiện tai! Thiện tai! Nhữ đẳng năi năng như thị tàm quư, phát lộ sám hối. Ư ngă pháp trung, hữu nhị chủng nhân, danh vô sở phạm. Nhất giả, bẩm tánh chuyên tinh, bổn lai bất phạm. Nhị giả, phạm dĩ tàm quư, phát lộ sám hối. Thử nhị chủng nhân, ư ngă pháp trung, danh vi dũng kiện, đắc thanh tịnh giả”. Ư thị, Thế Tôn tùy kỳ sở nhạo, phương tiện vị thuyết chủng chủng chánh pháp, các tùy sở nghi, giai đắc lợi ích, hoan hỷ lễ Phật, hoàn phục bổn ṭa.

            ()世尊告曰:善哉!善哉!汝等乃能如是慚愧,發露懺悔。於我法中,有二種人,名無所犯:一者、稟性專精,本來不犯;二者、犯已慚愧,發露懺悔。此二種人,於我法中,名為勇健得清淨者。於是世尊隨其所樂,方便為說種種正法,各隨所宜,皆得利益,歡喜禮佛,還復本座。

          (Kinh: Đức Thế Tôn bảo rằng: “Lành thay! Lành thay! Các ông có thể hổ thẹn, phát lộ sám hối như thế. Ở trong pháp của ta, có hai loại người được gọi là không trái phạm ǵ. Một là bẩm tánh chuyên ṛng, vốn chẳng trái phạm. Hai là phạm rồi bèn hổ thẹn, phát lộ sám hối. Hai hạng người ấy ở trong pháp của ta, được gọi là người dũng mănh, mạnh mẽ, đạt được thanh tịnh”. Liền đó, đức Thế Tôn bèn thuận theo ư thích của mỗi người, phương tiện v́ họ nói các thứ chánh pháp, ai nấy tùy theo căn cơ đều được lợi ích, hoan hỷ lễ Phật, trở về chỗ ngồi của chính ḿnh).

 

          Thuyết pháp đúng với căn cơ. Ở đây là những người thuộc về tam thừa hướng về đức Phật sám hối cùng tụ tập rất nhiều. Đức Phật có thể nói cho từng nhóm như thế nào? Với số lượng nhiều như thế, nếu nói kinh Đại Tập Thập Luân [cho từng nhóm], chỉ sợ suốt bốn mươi chín năm cũng nói chẳng xong! “Phật dĩ nhất âm diễn thuyết pháp, chúng sanh tùy loại các đắc giải” (đức Phật dùng một âm để diễn nói pháp, chúng sanh tùy theo từng loài đều được hiểu): Người Đại Thừa nghe đức Phật nói pháp Đại Thừa, Thanh Văn Thừa nghe đức Phật nói pháp Thanh Văn, Độc Giác Thừa nghe đức Phật nói pháp Độc Giác, “tùy loại các đắc giải” (tùy theo từng loại đều hiểu) chính là đạo lư này.

          Hiện thời có một t́nh h́nh có thể chứng thực loại cảnh giới này. Giống như trong hội nghị quốc tế, quư vị có thể nghe đủ loại tiếng từ máy phát âm cá nhân. Quư vị là người Hoa, máy sẽ nói tiếng Hoa với quư vị. Quư vị nói tiếng Đài Loan, nó có thể nói tiếng Đài Loan. Đối với người nói tiếng Anh th́ máy nói tiếng Anh. Một trăm bảy mươi, tám mươi quốc gia trên thế giới này, quư vị nói ngôn ngữ của quốc gia nào, khi hội họp, máy đều có thể phát ra ngôn ngữ đó. Chuyện này giống như đức Phật dùng một âm thanh mà tùy theo từng loài đều hiểu, chính họ nghe đức Phật nói với họ; thật ra, đức Phật nói trọn khắp. Loại thần thông này được gọi là ngữ ngôn tam-muội, hoặc ngữ ngôn đà-la-ni. Loại thần thông này là “báo đắc”.

          Có người khi c̣n là trẻ thơ đă có thể học ngôn ngữ của tám nước. Tôi đă gặp một đứa bé chưa đầy mười tuổi có thể nói ngôn ngữ của tám nước. Đấy là báo đắc thông. Có những người sanh ra biết được quá khứ, biết khá nhiều đời, không chỉ là một đời. Đôi khi biết một đời th́ chẳng có ǵ là hiếm lạ! Người ấy có thể biết khá nhiều đời, nhưng chẳng dám nói. Nói ra, sẽ bị trời phạt, v́ quỷ thần sẽ khống chế kẻ đó, sợ kẻ đó “yêu ngôn hoặc chúng”. Quư vị nói ra chẳng có ai tin tưởng, mọi người đều chẳng có loại năng lực ấy, điều đó kỳ quái lắm! Kinh nói “bất khả thuyết, bất khả thuyết”, đó là chuyện chẳng thể nói được. Nói ra, sẽ phiền phức lắm, sẽ đem lại phiền toái cho quư vị. Hiểu ư nghĩa này là được rồi!

 

          (Kinh) Thời, chúng hội trung, phục hữu vô lượng bách thiên Thanh Văn, cập vô lượng bách thiên na-dữu-đa Bồ Tát, văn thuyết thử kinh, ức tích sở tạo chư ác nghiệp chướng, tức tùng ṭa khởi, đảnh lễ Phật túc. Ư Thế Tôn tiền, thâm sanh tàm quư, chí thành sám hối, hiệp chưởng, cung kính, giai bạch Phật ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ngă đẳng ức tích tằng ư vô lượng chư Phật pháp trung, hoặc hữu thuyết ngôn, ngă đẳng ư bỉ chư Phật đệ tử, hoặc thị pháp khí, hoặc phi pháp khí, đa hành phẫn hận, ha mạ, hủy nhục, cơ thích, khinh tiếu, chủng chủng phỉ báng, ẩn thiện, dương ác”.

          ()時眾會中,復有無量百千聲聞,及無量百千那庾多菩薩,聞說此經,憶昔所造諸惡業障,即從座起,頂禮佛足,於世尊前深生慚愧,至誠懺悔,合掌恭敬,皆白佛言:大德世尊,我等憶昔曾於無量諸佛法中,或有說言:我等於彼諸佛弟子,或是法器,或非法器,多行忿恨,呵罵毀辱,譏刺輕誚,種種誹謗,隱善揚惡。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, trong hội có vô lượng trăm ngàn Thanh Văn, và vô lượng trăm ngàn na-dữu-đa Bồ Tát nghe nói kinh này, nhớ lại các ác nghiệp chướng đă tạo xưa kia, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân đức Phật, đối trước đức Thế Tôn, sanh hổ thẹn sâu xa, chí thành sám hối, chắp tay, cung kính, đều bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con nhớ xưa kia đă từng ở trong pháp của vô lượng chư Phật, hoặc có người nói rằng: Chúng con đối với đệ tử của các đức Phật ấy, hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải là pháp khí, thường làm nhiều chuyện phẫn hận, quở trách, chửi bới, hủy nhục, chê bai, châm chọc, khinh thường, coi rẻ, đủ mọi cách phỉ báng, ẩn giấu điều thiện, phô phang điều ác”).

 

          Có đạo hữu nói: “Đă sai lầm rồi th́ phải nên tốt khoe, xấu che!” Tôi nói: “Kẻ b́nh phàm đă nói sai rồi, nói như thế chẳng đúng”. Kẻ đó sám hối tội lỗi của chính ḿnh, nhưng chẳng nói chuyện tốt của người khác, giấu diếm chuyện tốt của người ta, cứ tận lực nói những chỗ xấu của kẻ khác! [Các vị Thanh Văn và Bồ Tát ấy thưa bày]: Chúng con đối với Phật sự, đối với đệ tử Phật, có người là pháp khí, có kẻ chẳng phải là pháp khí, là phường phá giới, chúng con sanh khởi cái tâm phẫn hận, tâm oán hận, cho đến quở trách, chửi bới, hủy nhục, chê bai, khinh miệt bọn họ. “Khinh tiếu” (輕誚) là khinh miệt, nói lời dè bỉu, đủ mọi cách hủy báng, chẳng nói chuyện tốt đẹp của họ, ẩn giấu đạo đức của họ, chuyên môn kể ra những khuyết điểm của họ.

          Giống như trong phần nói về lỗi của các tỳ-kheo trong phần trước, có những kẻ chẳng hề thấy lỗi lầm của chính ḿnh. Con mắt họ trợn to đùng, chuyên môn chú ư kẻ kia có khuyết điểm như thế nào, người này lại như thế nào, lại c̣n ghi chép sơ lược! Đặc biệt là kẻ làm trong công sở đă lâu, biết những chuyện riêng tư của người khác, bèn viết thành đôi chút “tâm đắc”! Trong sổ tay của kẻ đó ghi chép rất nhiều chuyện riêng tư của kẻ khác, dùng đó để dọa dẫm. Kẻ đó nói: “Ngươi đă làm khá nhiều chuyện xấu, hai người chúng ta phải thảo luận đôi chút. Nếu ngươi hối lộ ta đôi chút, ta sẽ không nói. Nếu không, ta sẽ đăng báo”. Người khác sợ bị tiết lộ, tiết lộ sẽ bẽ mặt lắm, bèn dúi cho kẻ đó chút tiền. Nhưng đâu có phải là hết chuyện, đến khi hắn xài hết tiền rồi, hoặc là thua bạc, lại đến kiếm quư vị! Nếu từ đầu quư vị thẳng thừng sám hối, căn bản là chẳng cần nhét tiền cho hắn, chẳng cần phải nghe hắn nói. Đó gọi là kẻ xảo trá, loại người này rất đông!

          Trong xă hội quá khứ, có một loại người gọi là “đao bút tà sanh” (刀筆邪生), mỗi chữ, mỗi cái chấm của hắn có thể đẩy quư vị vào chỗ chết, mà cũng do một cái chấm đó có thể cứu sống quư vị. Quư vị tốn rất nhiều tiền mới mua nổi chút lập luận đó. Có lần tôi dùng cơm với một đạo hữu, tôi nói: “Quốc ưu, dân sầu, vương bất xuất đầu, thùy vi chủ? (Nước đáng lo, dân sầu, vua không ra mặt, ai làm chủ?) Chỉ là một cái chấm, tức trên đầu chữ Vương () thêm một chấm, sẽ thành chữ Chủ (). Câu ông ta đối lại ư nghĩa cũng khá lắm, bỏ một điểm đi, “thiên hàn, địa đống, thủy vô nhất điểm thành băng” (trời lạnh, đất đông cứng, nước thiếu một điểm sẽ thành băng)[1]. Đó là một chấm!

          C̣n có một dụ về “đao bút tà sanh”. Có một gia đ́nh, trong nhà mấy đời đều là độc đinh. Đứa nhỏ ấy bị thổ phỉ bắt cóc. Thổ phỉ lôi nó theo bọn chúng đi ăn cướp. Đứa nhỏ đó ngơ ngáo, tự ḿnh thừa nhận có cướp đoạt. Thật ra, nó chẳng cướp, nhưng bọn thổ phỉ ấy từ cửa lớn tiến vào cướp đoạt đồ đạc. Trong nhà đứa nhỏ ấy có tiền, liền thuê một vị đao bút tà sanh: “Nếu ông có thể cứu sống con ta, tôi sẽ trả ông bao nhiêu tiền!” Ông ta bèn đem cáo trạng về nghiên cứu, nghiên cứu mấy ngày, liền hiểu rơ, bảo: “Tôi chỉ cần một cái chấm là được rồi!” Đối với câu “tùng đại môn nhi nhập” (từ cửa lớn tiến vào), đối với chữ Đại () thêm một chấm [tức là chữ Khuyển ()], trở thành “tùng khuyển môn nhi nhập” (từ lỗ chó mà vào), tức là trộm vặt, thường xử lư rất nhẹ, tù vài năm là được thả! Từ cửa lớn xông vào, tội cướp đoạt nặng nề, có thể là tử tội, hoặc là bị tù chung thân!

          Bữa đó, tôi nhớ lại câu chuyện ấy, nghĩ đến đôi câu đối ấy, cũng dính líu đến một cái chấm! Khá nhiều mối quan hệ của chúng ta cũng là một cái chấm, sẽ là một đằng mê, một đằng ngộ, là kiểu tốt khoe, xấu che. Điên đảo như thế đó đều là tội ác. Chúng ta phải biết đạo lư này, chớ nên v́ nói sai một câu, do một câu mà quư vị có thể phải chịu đau khổ vô lượng kiếp! Người ta đang tu pháp Thanh Văn, tu đă sắp thành tựu, quư vị nói: “Quư vị học Phật pháp kiểu này là pháp Tiểu Thừa, học làm ǵ chớ! Tôi có pháp Đại Thừa, pháp của tôi là Mật Tông, Du Già Mật (Yoganiruttaratantra), quư vị thọ quán đảnh sẽ thành Phật”. Người ấy thọ quán đảnh xong, chẳng thành tựu pháp Thanh Văn, ngược lại c̣n bỏ mất. Người đó nói: “Ta đă thọ quán đảnh, ta chẳng sợ chi hết!” Chuyện ǵ xấu cũng đều làm, vậy là lại đọa vào địa ngục Vô Gián. Ác hữu và thiện hữu, quư vị phải phân biệt rơ ràng! C̣n có ác sự và thiện sự, khi người ấy chỉ dạy quư vị, tuy là chiếu theo thứ tự để dạy, tuy hơi chậm một chút, nhưng ít bị nguy hiểm. Loại khác tuy nhanh chóng, rất nguy hiểm!

 

          (Kinh) Ngă đẳng do thử ác nghiệp chướng cố, kinh vô lượng kiếp, đọa chư ác thú, thọ chư trọng khổ, sở độc nan nhẫn, hậu đắc trị ngộ vô lượng chư Phật, giai tằng thân cận, thừa sự, cúng dường. Hựu đắc trị ngộ vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát chúng, diệc giai thân cận, thừa sự, cúng dường. Ư nhất nhất Phật, nhất nhất Bồ Tát Ma Ha Tát tiền, giai thâm tàm quư, phát lộ sám hối chư ác nghiệp chướng. Ư nhất nhất Phật, nhất nhất Bồ Tát Ma Ha Tát sở, giai đắc thính thọ vô lượng pháp môn, tinh cần hộ tŕ, tu học vô lượng nan hành khổ hạnh. Do bỉ nghiệp chướng hữu dư vị tận, linh ngă đẳng bối vị năng chứng đắc an lạc Niết Bàn, vị năng chứng đắc tam-ma-địa môn thù thắng công đức. Ngă đẳng kim giả, ư Thế Tôn tiền, văn thuyết thử kinh, phục thâm tàm quư, phát lộ sám hối, bất cảm phú tàng, nguyện tất trừ diệt. Tùng kim dĩ văng, vĩnh bất phục tác, pḥng hộ đương lai sở hữu tội chướng. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn nhiếp thọ, linh ngă đẳng tội, giai tất trừ diệt. Ư đương lai thế, vĩnh bất cánh tạo. Duy nguyện Thế Tôn, ai mẫn tế bạt, ngă đẳng đương lai ác thú khổ báo. Ngă đẳng kim giả, thừa Phật oai lực, nguyện tùy sở nhạo, tốc năng chứng đắc an lạc Niết Bàn, hoặc năng chứng đắc tam-ma-địa môn thù thắng công đức.

          ()我等由此惡業障故,經無量劫墮諸惡趣,受諸重苦,楚毒難忍。後得值遇無量諸佛,皆曾親近承事供養,又得值遇無量菩薩摩訶薩眾,亦皆親近承事供養;於一一佛、一一菩薩摩訶薩前皆深慚愧,發露懺悔諸惡業障,於一一佛、一一菩薩摩訶薩所,皆得聽受無量法門,精勤護持,修學無量難行苦行。由彼業障有餘未盡,令我等輩,未能證得安樂涅槃,未能證得三摩地門殊勝功德。我等今者,於世尊前聞說此經,復深慚愧,發露懺悔,不敢覆藏,願悉除滅,從今以往永不復作,防護當來所有罪障。唯願世尊,哀愍攝受,令我等罪皆悉除滅,於當來世永不更造。唯願世尊,哀愍濟拔我等當來惡趣苦報。我等今者承佛威力,願隨所樂,速能證得安樂涅槃,或能證得三摩地門殊勝功德。

          (Kinh: Chúng con do ác nghiệp chướng ấy, trải qua vô lượng kiếp đọa trong các đường ác, chịu các nỗi khổ nặng nề, khổ sở khó thể chịu đựng, sau đó được gặp gỡ vô lượng chư Phật, đều từng thân cận, thừa sự, cúng dường. Lại được gặp gỡ vô lượng các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, cũng đều thân cận, thừa sự, cúng dường. Đối trước mỗi đức Phật, mỗi vị Bồ Tát Ma Ha Tát, đều hổ thẹn sâu xa, phát lộ sám hối các ác nghiệp chướng. Đối trước mỗi đức Phật, mỗi vị Bồ Tát Ma Ha Tát, đều được nghe nhận vô lượng pháp môn, siêng ṛng hộ tŕ, tu học vô lượng khổ hạnh khó làm. Do nghiệp chướng ấy c̣n sót thừa chưa hết, khiến cho chúng con chưa thể chứng đắc Niết Bàn an lạc, chưa thể chứng đắc công đức thù thắng của tam-ma-địa môn. Nay chúng con đối trước đức Thế Tôn, nghe nói kinh này, lại càng hổ thẹn sâu xa, phát lộ sám hối, chẳng dám giấu diếm, nguyện đều trừ diệt. Từ nay trở đi, vĩnh viễn chẳng làm nữa, ngăn ngừa tất cả tội chướng trong tương lai. Kính mong đức Thế Tôn xót thương nhiếp thọ, khiến cho tội của chúng con đều được trừ diệt. Trong đời tương lai, vĩnh viễn chẳng dám tạo nữa. Kính mong đức Thế Tôn, xót thương cứu vớt khổ báo nơi đường ác của chúng con trong tương lai. Chúng con nay nương theo oai lực của Phật, nguyện tùy theo ḷng ưa thích, sẽ mau chóng chứng đắc Niết Bàn an lạc, hoặc có thể chứng đắc công đức thù thắng của tam-ma-địa môn).

 

          Vô lượng kiếp, chẳng phải là một, hai ngày, vô lượng kiếp là khá nhiều vạn vạn năm, rất khó tính toán nổi! Trải qua vô lượng kiếp như vậy, “kiếp” ở đây không phải là nói đến số năm có hạn lượng, mà có nghĩa là trải qua vô lượng. Bao nhiêu tội nghiệp trả hết rồi th́ mới coi như tiêu trừ. Đọa trong đường ác như vậy, chịu hết các khổ nạn, khó thể chịu đựng nổi! Chịu hết [quả báo] do tội lỗi trong vô lượng kiếp xong, lại “trị ngộ vô lượng chư Phật” (gặp gỡ vô lượng chư Phật). Các vị Thanh Văn, Bồ Tát, chúng con đều thân cận, thừa sự, cúng dường. Sau đó, c̣n gặp gỡ các thiện hữu, vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát là đại Bồ Tát, cũng đều “thân cận, thừa sự, cúng dường. Ư nhất nhất Phật, nhất nhất Bồ Tát Ma Ha Tát tiền, giai thâm tàm quư, phát lộ sám hối chư ác nghiệp chướng” (thân cận, thừa sự, cúng dường. Đối trước mỗi đức Phật, mỗi vị Bồ Tát Ma Ha Tát, đều hổ thẹn sâu xa, phát lộ sám hối các nghiệp chướng ác). Chúng con sám hối tội ấy rất nhiều lần, v́ chúng con đă làm chuyện sai trái trải qua hai vô lượng kiếp. Đối với tội [đă trót tạo] trong vô lượng kiếp, bèn vô lượng kiếp sám hối, cũng tức là đối trước Phật, Bồ Tát, chúng con đều phát lộ, sám hối.

          “Ư nhất nhất Phật, nhất nhất Bồ Tát Ma Ha Tát sở, giai đắc thính thọ vô lượng pháp môn” (nơi mỗi vị Phật, mỗi vị Bồ Tát Ma Ha Tát, đều được nghe nhận vô lượng pháp môn): Lại học lần nữa vô lượng chánh pháp. “Tinh cần hộ tŕ” (Siêng ṛng hộ tŕ): Tinh tấn hộ tŕ pháp này. “Tu học vô lượng nan hành khổ hạnh” (Tu học vô lượng khổ hạnh khó làm): Pháp môn để tu hành rất nhiều, chuyện rất khó làm được, chúng con cũng đều làm, nhưng nghiệp chướng ấy vẫn chẳng hoàn toàn tiêu trừ. Khi quư vị tạo nghiệp th́ rất dễ dàng, tùy tiện nói mấy câu bèn tạo vô lượng nghiệp. Nếu muốn sám trừ tội ấy, rất khó! Giống như tờ giấy trắng, quư vị vẩy mực lên tờ giấy trắng, mong khôi phục tờ giấy trắng nơn như cũ, rất khó! Làm như thế nào đây? Đổi một tờ khác là được rồi, chứ tờ giấy trước đó chẳng có cách nào hết! Chúng ta làm như thế nào? Phải làm cho vọng tâm ngưng dứt. Hễ nó ngưng dứt th́ là Bồ Đề. Thay đổi cái tâm, đổi thành tâm ǵ vậy? Đổi thành tâm Chân Như. “Không thân” huyễn hóa, chẳng có thật thể. Huyễn hóa Không thân chính là Pháp Thân. Nếu đă chứng đắc Pháp Thân, quư vị có tội nghiệp ǵ cũng đều thanh tịnh.

          Đấy là liễu nghĩa Đại Thừa rốt ráo, chúng ta thường nói “chẳng thể chuyển định nghiệp”, cũng là như những điều vừa nói trên đây. Chúng ta bị hướng dẫn sai lầm: “Tội của quư vị sám hối chẳng được! Không thể nào chẳng đọa địa ngục, quư vị bèn đợi ngày đọa địa ngục!” [Người tạo nghiệp nghe nói như vậy, bèn nghĩ]:
“Chẳng thể chuyển th́ chúng ta c̣n học Phật làm chi nữa? Có học th́ vẫn chẳng thể lay chuyển được! Học rồi vẫn phải đọa địa ngục
, chẳng học cũng đọa địa ngục, học Phật để làm ǵ cơ chứ?” [Lư luận kiểu đó] sẽ là đoạn dứt thiện căn của người khác, chẳng tốt. Có người nói: “Quư vị đă phạm tội, tội ấy chẳng sám hối được!” Đó là dọa cho quư vị sợ, đừng phạm tội lỗi. Đến khi quư vị đă trót phạm tội, lại cho phép quư vị sám hối. Đối với định nghiệp chẳng thể chuyển, th́ do sức tam-muội gia tŕ, tức là nói tu Định, tu Không quán, cũng có thể quán Không, tội nghiệp của quư vị đều được sám trừ thanh tịnh. “Tội tánh bổn Không, duy tâm tạo. Tâm nhược vong thời, tội diệc vong. Tâm vong, tội diệt, lưỡng câu không. Thị tắc danh vi chân sám hối” (Tội tánh vốn là Không, chỉ do tâm tạo. Khi tâm đă mất th́ tội cũng mất. Tâm mất, tội diệt, hai đằng đều Không. Đó gọi là sám hối chân thật). Nhưng cách sám hối ấy rất khó, phải ngộ tánh Không, chứng đắc Không lư. Tội nghiệp đă thanh tịnh, quư vị vẫn phải khởi tu. Chẳng tu hành, sẽ không thể thành Phật được.

          Thành tựu Pháp Thân Phật, Pháp Thân lư thể, chúng ta đều có sẵn [Pháp Thân ấy]. Pháp Thân thanh tịnh, nhưng quư vị chẳng có phương tiện thiện xảo, lợi ích chúng sanh bằng cách nào? Chẳng lợi ích chúng sanh, chẳng có tướng công đức, ngay cả ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo nơi Hóa Thân cũng đều chẳng có. Như báo thân viên măn của Báo Thân Phật, công đức ấy chẳng thể nghĩ bàn. Do vậy, vẫn phải tu hành. Nay chúng ta có tội, tội vẫn chưa hết, v́ sao? V́ chẳng chứng đắc Niết Bàn rốt ráo. “Niết Bàn an lạc” chính là Niết Bàn rốt ráo, bất sanh, bất diệt.

          “Vị năng chứng đắc tam-ma-địa môn thù thắng công đức” (chưa thể chứng đắc công đức thù thắng của tam-ma-địa môn): Trụ trong tam-ma-địa, trụ trong tam-muội thù thắng ấy, v́ chẳng chứng đắc [Thủ] Lăng Già [Ma] tam-muội (tức Thủ Lăng Nghiêm tam-muội) trong bộ kinh này. Trong phần trước đă nói một trăm lẻ tám môn tam-muội, chứng đắc tam-ma-địa ấy là tốt rồi! Nay chúng con “ư Thế Tôn tiền, văn thuyết thử kinh, phục thâm tàm quư, phát lộ sám hối, bất cảm phú tàng, nguyện tất trừ diệt” (đối trước đức Thế Tôn, nghe nói kinh này, lại hổ thẹn sâu xa, phát lộ sám hối, chẳng dám giấu diếm, nguyện đều trừ diệt), đối với nghiệp chướng chưa sám trừ sạch, cũng sẽ sám trừ cho sạch. Từ nay trở đi, vĩnh viễn chẳng làm nữa! “Pḥng hộ đương lai sở hữu tội chướng. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn, nhiếp thọ, linh ngă đẳng tội giai tất trừ diệt. Ư đương lai thế, vĩnh bất cánh tạo. Duy nguyện Thế Tôn, ai mẫn tế bạt, ngă đẳng đương lai ác thú khổ báo” (Ngăn ngừa tất cả tội chướng trong tương lai. Kính mong đức Thế Tôn xót thương, nhiếp thọ, khiến cho tội của chúng con thảy đều trừ diệt, trong đời mai sau vĩnh viễn chẳng tạo nữa. Kính mong đức Thế Tôn, xót thương cứu vớt khổ báo trong đường ác của chúng con trong mai sau). Đấy là nêu gương cho chúng sanh. Nơi mỗi đức Phật, mỗi vị Bồ Tát, họ đều thừa sự, há c̣n phải đọa vào địa ngục nữa ư? Chẳng thể nào!

          Bọn họ biết đó đại quyền thị hiện, nêu gương, cũng chấp thuận cho họ nói những chuyện đă từng trải qua. Khi Thích Ca Mâu Ni Phật c̣n là chúng sanh, Ngài cũng đă phạm rất nhiều sai lầm. Từ kinh Hiền Ngu Nhân Duyên, ta thấy [tiền thân của] đức Phật có lúc cũng rất ngu si. Cho đến khi trừ khử ngu si, có trí huệ, Ngài thành Phật, chẳng c̣n ngu si! Vị Phật nào cũng đều là như thế. Phật sanh từ chúng sanh, đều như thế. Quư vị chỉ cần tu, hổ thẹn. Hổ thẹn th́ sức công đức bèn tăng trưởng, chẳng kiêu mạn, tự măn!

 

          (Kinh) Phục hữu thuyết ngôn: “Ngă đẳng ư bỉ chư Phật đệ tử, hoặc thị pháp khí, hoặc phi pháp khí, dĩ thô ác ngôn, kỳ khắc bách hiếp. Ngă đẳng do thử ác nghiệp chướng cố, kinh vô lượng kiếp, đọa chư ác thú, ưng tri như tiền, thứ đệ quảng thuyết”. Phục hữu thuyết ngôn: “Ngă đẳng ư bỉ chư Phật đệ tử, hoặc thị pháp khí, hoặc phi pháp khí, đả bổng thương hại. Ngă đẳng do thử ác nghiệp chướng cố, kinh vô lượng kiếp, đọa chư ác thú, ưng tri như tiền thứ đệ quảng thuyết”. Phục hữu thuyết ngôn: “Ngă đẳng ư bỉ chư Phật đệ tử, hoặc thị pháp khí, hoặc phi pháp khí, xâm đoạt y bát. Ngă đẳng do thử ác nghiệp chướng cố, kinh vô lượng kiếp, đọa chư ác thú, ưng tri như tiền thứ đệ quảng thuyết”.

          ()復有說言:我等於彼諸佛弟子,或是法器,或非法器,以粗惡言期克迫脅。我等由此惡業障故,經無量劫墮諸惡趣,應知如前次第廣說。復有說言:我等於彼諸佛弟子,或是法器,或非法器,打棒傷害。我等由此惡業障故,經無量劫墮諸惡趣,應知如前次第廣說。復有說言:我等於彼諸佛弟子,或是法器,或非法器,侵奪衣缽。我等由此惡業障故,經無量劫,墮諸惡趣,應知如前次第廣說。

          (Kinh: Lại có người nói rằng: “Chúng con đối với đệ tử của các đức Phật ấy, hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải là pháp khí, dùng lời thô ác, chèn ép, bức hiếp. Chúng con do ác nghiệp chướng ấy, trải qua vô lượng kiếp, đọa vào các đường ác, hăy nên biết như trong phần trước đă nói cặn kẽ theo thứ tự”. Lại có người nói rằng: “Chúng con đối với các đệ tử của các đức Phật ấy, hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải là pháp khí, đánh đập, tổn thương. Chúng con do ác nghiệp chướng ấy trải qua vô lượng kiếp, đọa vào các đường ác, hăy nên biết như trong phần trước đă nói cặn kẽ theo thứ tự”. Lại có người nói rằng: “Chúng con đối với đệ tử của các đức Phật ấy, hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải là pháp khí mà xâm đoạt y bát. Chúng con do ác nghiệp chướng ấy, trải qua vô lượng kiếp, đọa trong các đường ác, hăy nên biết như trong phần trước đă nói cặn kẽ theo thứ tự”).

 

          Chúng con do v́ ác nghiệp chướng duyên ấy, “kinh vô lượng kiếp, đọa chư ác thú, ưng tri như tiền thứ đệ quảng thuyết” (trải qua vô lượng kiếp, đọa vào các đường ác, hăy nên biết như trong phần trước đă nói cặn kẽ theo thứ tự). Đây là một loại người khác sám hối. Họ đối với pháp khí, tức là tỳ-kheo tŕ giới thanh tịnh, cũng như phi pháp khí, tức là tỳ-kheo phá giới, chẳng tŕ giới. Chúng con nói lời thô ác đối với họ, mắng chửi, vũ nhục, lại c̣n bức hiếp, chèn ép họ. Chuyện bức hiếp rất nhiều, thậm chí vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la nhốt tù quư vị, mười năm hay mười lăm năm mới thả ra. Đó gọi là “định kỳ bách hiếp” (定期迫脅). V́ con đă tạo ác nghiệp chướng ấy, nên trải qua vô lượng kiếp, đọa trong đường ác, [chi tiết cụ thể] giống như đă nói trong phần trước.

          “Phục hữu thuyết ngôn” (lại có người thưa rằng), lại có một loại người khác sám hối: “Ngă đẳng ư bỉ chư Phật đệ tử, hoặc thị pháp khí, hoặc phi pháp khí, đả bổn thương hại” (Chúng con đối với đệ tử của các đức Phật ấy, hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí, đánh đập, tổn thương). Đây là trường hợp khác, con không chửi họ, cũng không nói ǵ họ, nhưng con đánh họ. Các loại t́nh huống khác nhau! Chúng con do ác nghiệp chướng ấy, “kinh vô lượng kiếp đọa chư ác thú, ưng tri như tiền thứ đệ quảng thuyết” (trải qua vô lượng kiếp, đọa vào các đường ác, hăy nên biết như trong phần trước đă theo thứ tự nói cặn kẽ), đều lặp lại! Như lúc bái sám, mọi người đều rất quen thuộc văn bản bái sám ấy. Chiếu theo sám văn để tu Quán, toàn bộ đều bao gồm trong ấy, vượt ra ngoài kinh Đại Tập Thập Luân. Hết thảy các kinh luận Đại Thừa hay Tiểu Thừa đều được bao gồm trong đó. Trong ấy có mấy câu: “Văng tích sở tạo chư ác nghiệp, giai do vô thỉ tham, sân, si, tùng thân, ngữ, ư chi sở sanh, nhất thiết ngă kim giai sám hối” (xưa kia đă tạo bao ác nghiệp, đều do vô thỉ tham, sân, si. Từ thân, miệng, ư phát sanh ra. Hết thảy con nay đều sám hối). Cách [sám hối] này bao gồm vô lượng kiếp, tất cả các ác nghiệp đă tạo, hết thảy con nay đều sám hối, đều bao gồm.

          Chúng ta c̣n phát nguyện. Đối ứng với điều đó, ta phát nguyện mong thành Phật. “Nguyện dĩ thử công đức, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ” (nguyện dùng công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ tam đồ): Tam đồ khổ là ngạ quỷ, súc sanh, và địa ngục. “Tứ trọng ân”: Báo ân Phật, báo ân chúng sanh, lại c̣n báo ân quốc gia, ân đất đai đều phải báo; nhưng lấy báo ân chúng sanh làm chánh yếu. Báo ân chư Phật, Bồ Tát chỉ dạy chúng ta, báo ân chúng sanh, c̣n có ân cha mẹ. Có khi báo là báo bảy trọng ân; ở đây, chúng ta nói là tứ trọng ân. Phép sám hối này đă bao gồm trọn hết. C̣n ở đây, các vị ấy biệt sám (別懺, sám hối từng tội riêng biệt): Thốt lời ác, nói lời thô ác. Có người nói: “Tôi trọn chẳng thốt lời ác, nhưng đả thương họ”. Có người nói: “Bất luận kẻ ấy là pháp khí, hay chẳng phải pháp khí, tôi cướp đoạt y bát của họ”. Do ác nghiệp ấy, trải qua vô lượng kiếp, đọa vào các đường ác.

 

          (Kinh) Phục hữu thuyết ngôn: “Ngă đẳng ư bỉ chư Phật đệ tử, hoặc thị pháp khí, hoặc phi pháp khí, xâm đoạt chủng chủng tư sanh chúng cụ, tuyệt kỳ ẩm thực. Ngă đẳng do thử ác nghiệp chướng cố, kinh vô lượng kiếp, đọa chư ác thú, ưng tri như tiền, thứ đệ quảng thuyết”. Phục hữu thuyết ngôn: “Ngă đẳng ư bỉ vô lượng chư Phật xuất gia đệ tử, hoặc thị pháp khí, hoặc phi pháp khí, thoái linh hoàn tục, thoát kỳ ca-sa, khóa thuế dịch sử. Ngă đẳng do thử ác nghiệp chướng cố, kinh vô lượng kiếp, đọa chư ác thú, ưng tri như tiền, thứ đệ quảng thuyết”. Phục hữu thuyết ngôn: “Ngă đẳng ư bỉ vô lượng chư Phật xuất gia đệ tử, hoặc thị pháp khí, hoặc phi pháp khí, hoặc hữu tội phạm, hoặc vô tội phạm, già tỏa hệ phược, cấm bế lao ngục. Ngă đẳng do thử ác nghiệp chướng cố, kinh vô lượng kiếp, đọa chư ác thú, ưng tri như tiền, thứ đệ quảng thuyết”. Phục hữu thuyết ngôn: “Ngă đẳng ư bỉ vô lượng chư Phật xuất gia đệ tử, hoặc thị pháp khí, hoặc phi pháp khí, khởi khinh mạn tâm, chủng chủng xúc năo, linh bất an lạc”.

          ()復有說言:我等於彼諸佛弟子,或是法器,或非法器,侵奪種種資生眾具,絕其飲食。我等由此惡業障故,經無量劫,墮諸惡趣,應知如前次第廣說。復有說言:我等於彼無量諸佛出家弟子,或是法器,或非法器,退令還俗,脫其袈裟,課稅役使。我等由此惡業障故,經無量劫墮諸惡趣,應知如前次第廣說。復有說言:我等於彼無量諸佛出家弟子,或是法器,或非法器,或有罪犯,或無罪犯,枷鎖繫縛,禁閉牢獄。我等由此惡業障故,經無量劫墮諸惡趣,應知如前次第廣說。復有說言:我等於彼無量諸佛出家弟子,或是法器,或非法器,起輕慢心,種種觸惱,令不安樂。

          (Kinh: Lại có người nói rằng: “Chúng con đối với đệ tử của các đức Phật ấy, hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải là pháp khí, xâm đoạt các thứ vật dụng cần thiết cho cuộc sống, đoạn tuyệt lương thực của họ. Chúng con do ác nghiệp chướng ấy, trải qua vô lượng kiếp, đọa vào các đường ác, hăy nên biết như trên đă nói cặn kẽ theo thứ tự”. Lại có người nói rằng: “Chúng con đối với đệ tử của các đức Phật ấy, hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải là pháp khí, ép họ hoàn tục, lột y ca-sa, đánh thuế, sai khiến họ làm phu phen. Chúng con do ác nghiệp chướng ấy, trải qua vô lượng kiếp, đọa vào các đường ác, hăy nên biết như trên đă nói cặn kẽ theo thứ tự”. Lại có người nói rằng: “Chúng con đối với đệ tử của các đức Phật ấy, hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải là pháp khí, dù là có phạm tội, hay chẳng phạm tội, đều gông, xiềng, trói buộc, nhốt chặt trong ngục. Chúng con do ác nghiệp chướng ấy, trải qua vô lượng kiếp, đọa vào các đường ác, hăy nên biết như trên đă nói cặn kẽ theo thứ tự”. Lại có người nói rằng: “Chúng con đối với đệ tử của các đức Phật ấy, hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải là pháp khí, dấy ḷng khinh mạn, đủ mọi cách xúc phạm, năo loạn, khiến cho họ chẳng an lạc”).

 

          “Phục hữu thuyết ngôn: Ngă đẳng ư bỉ vô lượng chư Phật xuất gia đệ tử” (lại có người nói rằng: “Chúng con đối với đệ tử xuất gia của các đức Phật ấy): Lời sám hối của mỗi người mỗi khác, nhưng sự t́nh đều như nhau, chỉ thay đổi đôi chút vài câu. “Hoặc thị pháp khí, hoặc phi pháp khí, thoái linh hoàn tục” (hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí, buộc họ hoàn tục): Loại đệ tử này trong quá khứ nhất định là có quyền thế. Loại người sám hối này, nếu chẳng phải là quốc vương, làm sao có quyền lực bức ép người khác hoàn tục? “Thoái linh hoàn tục, thoát kỳ ca-sa” (ép buộc hoàn tục, lột y ca-sa), cho đến đánh thuế. Ḥa thượng chẳng đóng thuế, v́ họ không có thâu nhập, chẳng cần nộp thuế.

          Phàm là kẻ bắt ḥa thượng đóng thuế, đánh thuế chùa miếu, hoặc là sai khiến họ cưỡng bức lao động, trong tương lai, sẽ đọa địa ngục. Quư vị nói với các quan chức thâu thuế: “Được thôi! Quư vị thâu thuế ḥa thượng, sẽ đọa địa ngục”. Trong kinh Đại Tập Thập Luân, đức Phật đă nói như thế, đó gọi là “bách hại” (迫害, bức hại). Nhưng đối với tỳ-kheo phá giới, có thể có hai cách nói: Họ kiếm tiền, đi làm, đương nhiên là phải đánh thuế. Họ kinh doanh, mở cửa tiệm, đương nhiên là phải nộp thuế. Hiện thời, quư vị tới đây hóa duyên cũng phải nộp thuế. Quư vị thâu được bao nhiêu, hóa duyên được bao nhiêu, cũng phải nộp thuế. Đó gọi là “khóa dịch” (課役, đánh thuế, bắt đi làm lao dịch). Cho đến bức ép quư vị làm lao dịch, cũng là do quư vị không có tiền, nghèo rớt mồng tơi! Làm phu phen nặng nhọc, làm việc khổ sở, làm việc nặng mà chẳng trả tiền. Đó gọi là “cưỡng bức lao động”.

          “Phục hữu thuyết ngôn: Ngă đẳng ư bỉ vô lượng chư Phật xuất gia đệ tử” (lại có người nói rằng: “Chúng con đối với các đệ tử xuất gia của vô lượng chư Phật”): “Vô lượng” là nói rất nhiều đệ tử Phật trong quá khứ, bất luận người đó là pháp khí, hay chẳng phải là pháp khí cũng thế, “khởi khinh mạn tâm, chủng chủng xúc năo” (dấy tâm khinh mạn, đủ mọi cách xúc phạm, năo loạn), chẳng bức hại họ, chẳng chửi mắng họ, cũng chẳng đánh họ, cũng chẳng đánh thuế họ, nhưng làm cho họ chẳng an vui, luôn khiến cho họ sanh khởi phiền năo.

 

          (Kinh) Ngă đẳng do thử ác nghiệp chướng cố, kinh vô lượng kiếp, thọ chư trọng khổ, sở độc nan nhẫn, hậu đắc trị ngộ vô lượng chư Phật, giai tằng thân cận, thừa sự, cúng dường. Hựu đắc trị ngộ vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát chúng, diệc giai thân cận, thừa sự, cúng dường. Ư nhất nhất Phật, nhất nhất Bồ Tát Ma Ha Tát tiền, giai thâm tàm quư, phát lộ sám hối chư ác nghiệp chướng. Ư nhất nhất Phật, nhất nhất Bồ Tát Ma Ha Tát sở, giai đắc thính thọ vô lượng pháp môn, tinh cần hộ tŕ, tu học vô lượng nan hành khổ hạnh. Do bỉ nghiệp chướng hữu dư vị tận, linh ngă đẳng bối vị năng chứng đắc an lạc Niết Bàn, vị năng chứng đắc tam-ma-địa môn thù thắng công đức. Ngă đẳng kim giả, ư Thế Tôn tiền, văn thuyết thử kinh, phục thâm tàm quư, phát lộ sám hối, bất cảm phú tàng, nguyện tất trừ diệt. Tùng kim dĩ văng, vĩnh bất phục tác, pḥng hộ đương lai sở hữu tội chướng. Duy nguyện Thế Tôn, ai mẫn nhiếp thọ, linh ngă đẳng tội giai tất tiêu diệt, ư đương lai thế, vĩnh bất cánh tạo. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn tế bạt ngă đẳng đương lai ác thú khổ báo. Ngă đẳng kim giả thừa Phật thần lực, nguyện tùy sở nhạo, tốc năng chứng đắc an lạc Niết Bàn, hoặc năng chứng đắc tam-ma-địa môn thù thắng công đức.

          ()我等由此惡業障故,經無量劫受諸重苦,楚毒難忍。後得值遇無量諸佛,皆曾親近承事供養,又得值遇無量菩薩摩訶薩眾,亦皆親近承事供養;於一一佛、一一菩薩摩訶薩前,皆深慚愧,發露懺悔諸惡業障,於一一佛、一一菩薩摩訶薩所,皆得聽受無量法門,精勤護持,修學無量難行苦行。由彼業障有餘未盡,令我等輩,未能證得安樂涅槃,未能證得三摩地門殊勝功德。我等今者,於世尊前聞說此經,復深慚愧,發露懺悔,不敢覆藏,願悉除滅,從今以往永不復作,防護當來所有罪障。唯願世尊,哀愍攝受,令我等罪皆悉消滅,於當來世永不更造。唯願世尊,哀愍濟拔我等當來惡趣苦報。我等今者承佛神力,願隨所樂,速能證得安樂涅槃,或能證得三摩地門殊勝功德。

          (Kinh: Chúng con do ác nghiệp chướng ấy, trải qua vô lượng kiếp, chịu các nỗi khổ nặng nề, khổ sở khó thể chịu đựng. Sau đấy, được gặp gỡ vô lượng chư Phật, đều từng thân cận, thừa sự, cúng dường. Lại được gặp gỡ vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát chúng, cũng đều thân cận, thừa sự, cúng dường. Đối trước mỗi vị Phật, mỗi vị Bồ Tát Ma Ha Tát, đều hổ thẹn sâu xa, phát lộ sám hối các nghiệp chướng ác. Nơi mỗi vị Phật, mỗi vị Bồ Tát Ma Ha Tát, đều được nghe nhận vô lượng pháp môn, siêng ṛng hộ tŕ, tu học vô lượng khổ hạnh khó hành. Do nghiệp chướng ấy c̣n sót thừa chưa hết, khiến cho chúng con chưa thể chứng đắc Niết Bàn an lạc, chưa thể chứng đắc công đức thù thắng của tam-ma-địa môn. Chúng con nay đối trước đức Thế Tôn, nghe nói kinh này, lại hổ thẹn sâu xa, phát lộ sám hối, chẳng dám giấu diếm, nguyện đều trừ diệt. Từ nay trở đi, vĩnh viễn chẳng làm nữa, ngăn ngừa tất cả tội chướng mai sau. Kính xin đức Thế Tôn xót thương nhiếp thọ, khiến cho tội của chúng con thảy đều tiêu diệt. Trong đời mai sau, vĩnh viễn chẳng tạo nữa. Kính xin đức Thế Tôn xót thương, cứu vớt khổ báo trong đường ác của chúng con nơi đời mai sau. Chúng con nay nương vào thần lực của Phật, tùy theo ḷng ưa thích, sẽ có thể mau chứng đắc Niết Bàn an lạc, hoặc có thể chứng đắc công đức thù thắng của tam-ma-địa môn).

 

          Chính là do trong hiện tại, “văn thuyết thử kinh, phục thâm tàm quư, phát lộ sám hối” (nghe nói kinh này, lại hổ thẹn sâu xa, phát lộ sám hối), trước kia tuy đă từng sám hối, nay nghe đức Phật nói bộ kinh này, càng cảm thấy hổ thẹn, phát lộ sám hối. Đối với các nghiệp đă làm, không chỉ sám hối một hai lần, mà là sám hối vô lượng lần. Từ nay trở đi, “pḥng hộ đương lai sở hữu tội chướng” (ngăn ngừa tất cả tội chướng trong tương lai), chẳng dám tái phạm!

 

          (Kinh) Ư thị, Thế Tôn phổ cáo Thanh Văn, Bồ Tát chúng viết: “Thiện tai! Thiện tai! Nhữ đẳng năi năng như thị tàm quư, phát lộ sám hối. Hữu nhị chủng nhân, danh vô sở phạm: Nhất giả, bẩm tánh chuyên tinh, bổn lai bất phạm. Nhị giả, phạm dĩ tàm quư, phát lộ sám hối. Thử nhị chủng nhân, ư ngă pháp trung, danh vi dũng kiện, đắc thanh tịnh giả. Hựu thiện nam tử! Như thị năo loạn Phật đệ tử tội, tỷ tiền sở thuyết Cận Vô Gián tội, bỉ đản hữu danh, vị túc xưng tội. Nhiên thử năo loạn Phật đệ tử tội, diệc quá tiền thuyết Ngũ Vô Gián tội vô lượng bội số. Sở dĩ giả hà? Nhược chư bật-sô hủy phá cấm giới, tác chư ác pháp, do năng thị đạo vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa chúng sanh, thiện thú Niết Bàn, vô điên đảo lộ, dữ chư chúng sanh, tác đại công đức, trân bảo phục tạng như tiền quảng thuyết, huống tŕ cấm giới, tu thiện pháp giả? Dĩ thị nghĩa cố, nhược hữu năo loạn Phật đệ tử chúng chư xuất gia nhân, đương tri tắc vi đoạn Tam Bảo chủng, diệc tắc danh vi khiêu hoại nhất thiết chúng sanh pháp nhăn, diệc vi hủy diệt ngă cửu cần khổ sở đắc chánh pháp, dữ chư chúng sanh tác đại suy tổn. Thị cố, năo loạn Phật đệ tử tội, quá tiền sở thuyết ngũ Vô Gián tội vô lượng bội số”.

          ()於是世尊普告聲聞、菩薩眾曰:善哉!善哉!汝等乃能如是慚愧,發露懺悔。有二種人,名無所犯:一者、稟性專精,本來不犯;二者、犯已慚愧,發露懺悔。此二種人,於我法中,名為勇健得清淨者。又善男子,如是惱亂佛弟子罪,比前所說近無間罪,彼但有名,未足稱罪,然此惱亂佛弟子罪,亦過前說五無間罪無量倍數。所以者何?若諸苾芻毀破禁戒,作諸惡法,猶能示導無量百千俱胝那庾多眾生,善趣涅槃無顛倒路,與諸眾生作大功德珍寶伏藏,如前廣說,況持禁戒修善法者!以是義故,若有惱亂佛弟子眾諸出家人,當知則為斷三寶種,亦則名為挑壞一切眾生法眼,亦為毀滅我久勤苦所得正法,與諸眾生作大衰損。是故惱亂佛弟子罪,過前所說五無間罪無量倍數。

          (Kinh: Ngay khi đó, đức Thế Tôn bảo khắp các vị Thanh Văn và Bồ Tát rằng: “Lành thay! Lành thay! Các ông có thể hổ thẹn, phát lộ sám hối như thế. Có hai hạng người gọi là không sai phạm ǵ: Một là bẩm tánh chuyên ṛng, vốn chẳng trái phạm. Hai là phạm rồi hổ thẹn, phát lộ sám hối. Hai loại người ấy ở trong pháp của ta được gọi là người dũng mănh, mạnh mẽ, đạt được thanh tịnh. Lại này thiện nam tử! Tội năo loạn đệ tử của đức Phật như thế, so với tội Cận Vô Gián đă nói trong phần trước th́ tội trước đó chỉ có danh xưng, chưa đáng gọi là tội, nhưng cái tội năo loạn đệ tử đức Phật này cũng nặng hơn tội Ngũ Vô Gián đă nói trước đó vô lượng lần. V́ cớ sao vậy? Như các bật-sô hủy phá giới cấm, tạo các ác pháp, vẫn có thể chỉ dạy vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa chúng sanh con đường lành, con đường chẳng điên đảo hướng đến Niết Bàn, tạo công đức to lớn cho các chúng sanh, là kho tàng trân bảo như đă rộng nói trong phần trước, huống hồ người giữ giới cấm, tu các pháp lành ư? Do v́ nghĩa này, nếu có kẻ năo loạn những người xuất gia là đệ tử đức Phật, hăy nên biết chính là đă đoạn diệt chủng tánh Tam Bảo, cũng gọi là chọc mù pháp nhăn của hết thảy chúng sanh, mà cũng là hủy diệt chánh pháp do ta siêng khổ đă lâu mới đạt được, tạo sự suy tổn to lớn cho các chúng sanh. V́ thế, tội năo loạn các đệ tử của đức Phật nặng hơn tội Ngũ Vô Gián đă nói trong phần trước vô lượng lần).

 

          Những lời thưa tŕnh như vậy tuy khác nhau, nhưng ư nghĩa giống hệt như nhau. Đức Phật bảo mọi người: “Lành thay! Lành thay! Các ông (tức các chúng sanh đă nói trên đây) có thể hổ thẹn, phát lộ sám hối như thế”. Có hai loại chúng sanh được gọi là không trái phạm, một loại là “bẩm tánh chuyên tinh, bổn lai bất phạm” (bẩm tánh chuyên ṛng, vốn chẳng trái phạm), tức là người tŕ giới thanh tịnh. Loại thứ hai th́ sao? Tuy đă phạm, vẫn có thể hổ thẹn, vẫn có thể sám hối, muốn sửa đổi. Hai loại người này được gọi người dũng mănh, mạnh mẽ trong pháp của ta.

          Sám hối tội lỗi rất khó! Ở trước mặt rất nhiều người, nói ra chuyện sai lầm do chính ḿnh đă phạm phải, rất xấu hổ, đúng không? Chẳng mở miệng nổi! Khoe công đức, ca ngợi chính ḿnh dễ nói hơn nhiều. Chỉ có một tí tẹo, kẻ đó có thể nói thành to đùng. Trái lại, sám hối tội lỗi của chính ḿnh, chẳng muốn nói! Làm như thế nào? Đối trước Phật, Bồ Tát nói, quỷ thần sẽ chứng minh cho quư vị, thần hộ pháp sẽ chứng minh cho quư vị. Đối trước mặt mọi người để nói mà ngượng lắm th́ quư vị có thể đối trước tượng Phật sám hối, thưa bày. Khi chúng ta bái sám, v́ sao phải lạy riêng? Người đông, sám hối chỉ nói những câu ấy, ai nấy đều như nhau. Câu [văn sám hối] xướng lên tuy rất viên măn, nhưng tội ác do quư vị đă tạo th́ thật ra khác nhau. Khi quư vị về nhà, đối trước tượng Phật, bèn cầu nguyện: Con đă phạm các tội ấy. V́ sao mọi người nói ta chẳng tốt. Ta làm một tí chuyện tốt bèn bị người khác phá hoại, đấy là do nguyên nhân nào? Đại khái là trong đời quá khứ, ḿnh đă nói người ta chẳng tốt. Quư vị hăy suy ngẫm, tâm quư vị [nghĩ xấu cho người khác] cho đến móc rỉa, hủy báng, khinh miệt kẻ khác, quư vị đă làm bao nhiêu? Đặc biệt là đối với người xuất gia, hoặc đối với đạo hữu. Chúng ta [phạm lỗi với] người xuất gia có lẽ c̣n ít, chứ giữa các ưu-bà-tắc hoặc ưu-bà-di với nhau, chuyện kiểu này quá nhiều, đặc biệt là ưu-bà-di, phải đặc biệt chú trọng! Giữa các đạo hữu với nhau, chẳng thấy sở trường của người khác, toàn thấy khuyết điểm. Sở trường của người khác bèn ẩn giấu, c̣n khuyết điểm th́ bà ta rêu rao cùng khắp: “Ối trời ơi! Quư vị thấy đó, cư sĩ X… hôm nay lấy trái cây trong chùa nè!” Bà ta chẳng biết trái cây đó là do sư phụ cho [vị cư sĩ đó].

          Tôi đă thấy chuyện kiểu này! Sau đó, lại có người đến khóc lóc, kể lể, mách tội kẻ khác. Tôi nói: “Đấy là tôi cho bà ta!” Quư vị đừng bận tâm, tội nghiệp của quư vị [do bị bà ta bươi móc] như thế sẽ tiêu trừ. Chớ nên bực bội, chẳng có chuyện ǵ hết. Do bà ta hủy báng, quư vị mắc tội đáng lẽ đọa địa ngục bèn thoát khỏi. Tôi chẳng nói tùy tiện đâu nhé, kinh Kim Cang dạy như thế đó. Mọi người đọc kinh Kim Cang, hăy xem thử, có phải là đúng như thế hay chăng? Như vậy th́ [hễ người nào bị kẻ khác hủy báng] sẽ rất vui thích. Nếu chẳng giải thích như vậy, trong tâm [người đó] bèn sanh phiền năo, có phải là [tự ḿnh chuốc lấy] phiền năo hay không? Đặc biệt là chúng ta học rất kiền thành, rất sợ kẻ khác nói ḿnh không tốt. Nếu ai vừa nói ta không tốt, nổi nóng ngay! Sau đó, giữa các đạo hữu với nhau, một chuyện dính thành hai chuyện, dính dáng rất nhiều! Quư vị không có [những điều xấu ấy], chớ sợ! Mặc kệ kẻ đó nói như thế nào đi nữa, kẻ đó cũng chẳng tổn hại quư vị tí nào, vô dụng! [Hăy tâm niệm]: “Ngươi nói nhằm khiến cho ta nghe xong sẽ sanh khởi phiền năo. Ngươi báng bổ thế nào đi nữa, ta chẳng nghe ngươi nói chi hết!” Bởi lẽ, những chuyện này mỗi đạo hữu cũng đều; hễ đụng phải th́ quư vị làm như thế nào? Quư vị hăy hổ thẹn! Quư vị chẳng có đức hạnh to dường ấy, mong người khác đừng nói động đến ḿnh, chẳng thể nào được! Thích Ca Mâu Ni Phật mà c̣n bị kẻ khác nói nặng nhẹ, c̣n có kẻ mạo phạm Ngài, c̣n có người tính vượt hơn Ngài. Thích Ca Mâu Ni Phật cũng chẳng nói ǵ, nhưng kẻ tạo nhân quả ấy đối với Ngài, đọa vào địa ngục, chịu khổ! Có kẻ thọ báo ngay trong hiện đời, “dựng sào bèn thấy bóng” đó mà!

          Giúp đỡ người khác, giúp đỡ người đó tiến hơn bước nữa, người đó biết chính ḿnh đạo đức chẳng đủ, v́ sao người ta nói chúng ta này nọ? V́ bản thân chúng ta chẳng đủ đạo đức! Quư vị phải hổ thẹn. Hễ nghe thấy, quư vị phải sám hối. Nếu nói đời này tôi tốt lắm, đời trước th́ sao? Vô lượng đời th́ sao? Kẻ hủy báng quư vị là v́ trong quá khứ quư vị đă nói xấu người ta. V́ sao quư vị chẳng sám hối? V́ hiện thời quư vị chẳng trông thấy. Nếu tất cả mọi người đều có thần thông, biết vốn là chuyện như vậy, sẽ tâm b́nh khí ḥa. Do chẳng biết quá khứ, chỉ nh́n vào hiện tại. Nh́n vào hiện tại, sẽ chẳng thể giải quyết vấn đề. Lúc học kinh, đừng nghĩ những câu kinh ấy lặp đi lặp lại, quư vị nắm lấy mấy điểm là được rồi! Chúng tôi luôn cảm thấy bất luận lúc nào cũng đều đang sám hối, ngay cả Đẳng Giác Bồ Tát vẫn c̣n đang sám hối. Bản thân quư vị hăy khéo cầu nơi chính ḿnh, hướng ra ngoài cầu cạnh, sẽ cầu chẳng được! Hăy cầu nơi cái tâm của chính ḿnh.  

          Tôi kể một câu chuyện cũ, thiền sư Phật Ấn và Tô Đông Pha hai người đến chùa. Tô Đông Pha hỏi thiền sư Phật Ấn: “Quán Thế Âm Bồ Tát cầm tràng hạt để làm ǵ?” Thiền sư Phật Ấn đáp: “Để niệm”. “Ngài niệm ai?” “Ngài niệm Quán Thế Âm Bồ Tát!” Tô Đông Pha nói: “Lẽ nào Quán Thế Âm Bồ Tát niệm Quán Thế Âm Bồ Tát?” Thiền sư Phật Ấn nói: “Ngài không niệm chính ḿnh th́ niệm ai?” Đấy là điều thứ nhất. Tô Đông Pha lại hỏi: “Ngài có đảnh lễ không?” Thiền sư Phật Ấn nói: “Lạy chứ!” Tô Đông Pha nói: “Lạy ai?” Thiền sư Phật Ấn nói: “Quán Thế Âm Bồ Tát lạy Quán Thế Âm Bồ Tát!” Qua vài lượt hỏi đáp, thiền sư Phật Ấn bảo Tô Đông Pha: “Ông đă khai ngộ”.

          Mọi người ngẫm xem [chúng ta] có khai ngộ hay không? Sợ rằng chúng ta vẫn chẳng khai ngộ, biết điều này có nghĩa là ǵ? Tâm của mỗi vị Phật chính là cái tâm của quư vị. Quư vị chỉ cần niệm nào cũng là Quán Thế Âm, hay niệm nào cũng là chính ḿnh cũng thế. Chớ nên niệm sắc thân của chính ḿnh! Sắc thân của quư vị có thể tạo tội, hăy niệm Pháp Thân của chính ḿnh. Pháp Thân ấy bao gồm hết thảy chư Phật, [niệm Pháp Thân của chính ḿnh] là niệm hết thảy chư Phật, niệm hết thảy Bồ Tát, một tức là hết thảy, có hàm nghĩa này! V́ sao nói như vậy? Đức Phật bèn giải thích cho họ. Phát lộ sám hối có hai loại người, ở trong pháp của ta, “danh vi dũng kiện đắc thanh tịnh giả” (được gọi là kẻ dũng mănh, mạnh khỏe, đạt được thanh tịnh).

          Nếu “thiện nam tử, như thị năo loạn Phật đệ tử tội, tỷ tiền sở thuyết Cận Vô Gián tội” (thiện nam tử! Cái tội năo loạn đệ tử của đức Phật như thế, so với tội Cận Vô Gián đă nói trong phần trước) c̣n nặng hơn! [Bởi lẽ, tội Cận Vô Gián] chỉ có danh xưng, chưa kể là tội. Tức là tội Cận Ngũ Vô Gián vẫn chưa tính là tội được! Nhưng cái tội năo loạn đệ tử của đức Phật “diệc quá tiền thuyết Ngũ Vô Gián tội vô lượng bội số” (cũng nặng hơn tội Ngũ Vô Gián đă nói trong phần trước vô lượng lần), c̣n nặng hơn tội Ngũ Vô Gián. Do vậy, đọa vào địa ngục, tức là đọa vào địa ngục vô Gián, thời gian để thoát ra đặc biệt lâu dài.

          V́ lẽ nào vậy? “Nhược chư bật-sô hủy phá cấm giới, tác chư ác pháp, do năng thị đạo vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa chúng sanh, thiện thú Niết Bàn, vô điên đảo lộ” (Như các bật-sô phá hủy giới cấm, tạo các ác pháp, vẫn có thể chỉ dạy đường lành hướng đến Niết Bàn, là con đường chẳng điên đảo cho vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa chúng sanh). Tuy kẻ đó phá giới, là tỳ-kheo bại hoại, nhưng ông ta vẫn có thể thuyết pháp cho vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa chúng sanh nhiều ngần ấy, khiến cho họ có thể đạt tới Niết Bàn, [chỉ cho họ] con đường chẳng điên đảo. Lại c̣n “chúng sanh tác đại công đức, trân bảo phục tàng” (làm kho báu đại công đức cho chúng sanh), nghĩa là ông ta là kho báu như trong phần trước đă rộng nói; huống hồ một vị [tỳ-kheo] tŕ giới cấm, tu pháp lành [càng có công đức to lớn hơn ư]? Trong phần trước, đối với t́nh h́nh này, đức Phật đă nói rất nhiều. Trong phần kinh văn trước đó, [đức Phật đă bảo] tỳ-kheo phá giới vẫn là kho tàng báu chứa đựng trân bảo cho hết thảy chúng sanh, có thể sử dụng chẳng cùng tận; huống hồ những vị ǵn giữ giới cấm tốt đẹp, lại c̣n tu thiện pháp! Kẻ năo loạn các vị như thế, tội c̣n to hơn nữa!

          V́ sao ta (đức Phật) nói tội ác lớn dường ấy? Kẻ hủy báng, phá diệt, cho đến phá pháp, phá tỳ-kheo Tăng, đă chọc mù pháp nhăn của hết thảy chúng sanh, mà cũng là hủy diệt chánh pháp do ta siêng khổ trong vô lượng ức kiếp mới đạt được. “Dữ chư chúng sanh tác đại suy tổn” (tạo sự suy tổn to lớn cho các chúng sanh): Tổn thương công đức pháp tạng của chúng sanh. “Thị cố, năo loạn Phật đệ tử tội, quá tiền sở thuyết Ngũ Vô Gián tội vô lượng bội số” (v́ thế, cái tội năo loạn đệ tử Phật vượt hơn tội Ngũ Vô Gián đă nói trong phần trước vô lượng lần).

 

          (Kinh) Thị cố, nhữ đẳng kim ư ngă tiền, khởi chí thành tâm, tăng thượng tàm quư, ân cần khẩn thiết, phát lộ sám hối văng tích sở tạo chư ác nghiệp chướng, ngă kim từ bi nhiếp thọ nhữ đẳng, linh ác nghiệp chướng tiệm đắc tiêu diệt. Ư thử Phật độ, đại Hiền Kiếp trung, hữu thiên Như Lai xuất hiện ư thế, nhữ đẳng ư bỉ chư Như Lai tiền, diệc đương chí thành phát lộ sám hối, chư ác nghiệp chướng, pḥng hộ đương lai sở hữu tội cữu. Ư thử Hiền Kiếp thiên Như Lai trung, tối hậu Như Lai danh viết Lô Chí Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Măn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc Già Phạm, thập hiệu cụ túc. Nhữ đẳng ư bỉ Lô Chí Phật tiền, diệc đương chí thành phát lộ sám hối chư ác nghiệp chướng, năi đắc diệt tận, vô hữu di dư.

          ()是故汝等今於我前,起至誠心、增上慚愧,慇勤懇切發露懺悔往昔所造諸惡業障,我今慈悲攝受汝等,令惡業障漸得消滅。於此佛土大賢劫中,有千如來出現於世,汝等於彼諸如來前,亦當至誠發露懺悔諸惡業障,防護當來所有罪咎。於此賢劫千如來中,最後如來名曰盧至如來、應正等覺、明行圓滿、善逝、世間解、無上丈夫、調御士、天人師、佛、薄伽梵,十號具足。汝等於彼盧至佛前,亦當至誠發露懺悔諸惡業障,乃得滅盡無有遺餘。

            (Kinh: V́ thế, các ông nay đối trước ta, dấy ḷng chí thành, hổ thẹn tăng thượng, ân cần, khẩn thiết, phát lộ sám hối các ác nghiệp chướng đă tạo xưa kia. Ta nay từ bi nhiếp thọ các ông, khiến cho ác nghiệp chướng dần dần tiêu diệt. Nơi cơi Phật này, trong đại Hiền Kiếp, có một ngàn đức Như Lai xuất hiện trong cơi đời, các ông đối trước các đức Như Lai ấy, cũng nên chí thành phát lộ sám hối các ác nghiệp chướng, ngăn ngừa tất cả tội lỗi trong tương lai. Trong một ngàn vị Như Lai thuộc Hiền Kiếp này, vị Như Lai cuối cùng tên là Lô Chí Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Măn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc Già Phạm, mười hiệu trọn đủ. Các ông đối trước Lô Chí Phật cũng nên chí thành phát lộ sám hối các ác nghiệp chướng cho đến diệt tận chẳng c̣n thừa sót).

 

          Hổ thẹn chưa đủ, c̣n phải là “tăng thượng tàm quư”. Chúng ta học pháp nhằm mục đích tăng thượng cái tâm, khiến cho chúng ta phát tâm, khiến cho chúng ta phát nguyện, khiến cho sự sám hối tội ác của chúng ta luôn được tăng thượng. V́ sao chúng ta phải nghe kinh? Nghe xong một buổi giảng kinh, quư vị sẽ tăng thượng một phần tâm. Nếu chẳng nghe, quư vị sẽ chẳng có cái tâm ấy, [cái tâm ấy] chẳng dễ dàng sanh khởi! Trong Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận, đặc biệt chú trọng tăng thượng duyên; nhưng xét theo tội nghiệp th́ cũng là tăng thượng nghiệp. Ác duyên tăng thượng, tội nghiệp của quư vị cũng tăng thượng. Hàm nghĩa của “tăng thượng” là như thế đó, phải tăng thượng hổ thẹn, ân cần, khẩn thiết.

          Nếu có thể phát khởi sám hối, quư vị đau đớn khóc lóc, tối thiểu là khắp thân toát mồ hôi đầm đ́a, thậm chí rơi lệ, sám hối đến chảy cả máu mắt th́ mới là thật sự sám hối thanh tịnh. Thật sự nhận biết tội ác đúng là đáng sợ. Có kẻ nói nỗi khổ địa ngục là do đức Phật dọa dẫm chúng ta, thật sự có nỗi khổ địa ngục hay không? Đợi tới khi quư vị chịu khổ, sẽ biết, trễ mất rồi! Giả sử lúc ấy chẳng có thiện căn, quư vị niệm một tiếng thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát: “Địa Tạng Bồ Tát hăy mau tới cứu con! Con đang ở trong địa ngục”. Địa ngục lập tức thành không, đáng tiếc là lúc đó đă sớm quên bẵng Địa Tạng Bồ Tát mất rồi, căn bản là chẳng nghĩ nổi!

          Khi chúng ta nằm mộng thấy được ác duyên bèn tỉnh mộng, hăy nghĩ xem v́ sao chúng ta chẳng niệm Phật? Trong mộng, hoảng sợ thân đẫm mồ hôi. Đấy là lúc b́nh thường không có công sức, tới khi phải vận dụng, chẳng vận dụng được! Điện trong nhà quư vị đứt cầu ch́, v́ quư vị không học [cách sửa chữa], chẳng biết ở chỗ nào, t́m không thấy! Có thấy cũng chẳng biết, quư vị chẳng chuyên chú nơi đó, [cho nên] chẳng biết, mỗi việc đều là như vậy. Thoạt nh́n chuyện rất đơn giản, [thế nhưng] quư vị chẳng hiểu, mà cũng chẳng biết. Do vậy, ắt cần phải tăng thượng hổ thẹn, khéo sám hối, hoặc là cầu Phật từ bi gia tŕ. Đấy là chẳng thể nghĩ bàn!

          Chẳng hạn như mời thợ, quư vị thấy là chuyện rất đơn giản. Kẻ đó làm nhoay nhoáy là xong, lại đ̣i rất nhiều tiền. Quư vị nghĩ không ra: Chỉ cần làm mấy bước mà đ̣i ḿnh lắm tiền như vậy?” Tôi kể cho quư vị nghe một câu chuyện: Tôn Trung Sơn (Tôn Văn) ở Thượng Hải, khi đó, chỗ ông ta ở đă có hệ thống nước máy. Ṿi nước bị hư, tắt cũng không được. Kêu thợ đến sửa, ông Tôn thấy người thợ vặn hai ba cái, sờ nắn thêm một tí nữa là xong, nước không chảy nữa. Tôn tiên sinh hỏi: “Tính bao nhiêu tiền?” Người đó nói: “Hai mươi đồng”. Vào lúc đó, hai mươi đồng khá lớn! Tôn tiên sinh hỏi: “Sao mà anh tính mắc quá vậy, đ̣i nhiều tiền dữ vậy?” Người đó đáp: “Mắc hả? Không mắc đâu! Tôi tính cho ngài coi. Tôi học từ Tiểu Học tới Trung Học, tốt nghiệp Cao Trung (cấp ba), tôi đi học kỹ thuật. Tốn công mấy năm tôi mới học hiểu. Đấy chẳng phải là đáng tiền ư?” Tôn tiên sinh suy nghĩ, có lư! Ta chỉ nghĩ là anh ta tính mắc, chẳng nghĩ người ta phải học như thế nào mới có được tay nghề đó!

          Giống như Tề Bách Lâm (Ferdinand A. von Zeppelin) phát minh ra tàu bay[2]. Ông ta bán sạch ruộng vườn, trang trại. Cuối cùng, khi hỏa lực chẳng đủ, phàm những ǵ trong nhà có thể đốt được đều quăng vào ḷ luyện thép. Cuối cùng, lục thân quyến thuộc đều ĺa bỏ ông ta, thứ ǵ cũng đều chẳng c̣n, chỉ c̣n lại một ḿnh ông ta! Rốt cuộc ông ta đă phát minh ra phi đĩnh (飛艇, thuyền bay), cái phi đĩnh ấy được gọi bằng danh xưng Zeppelin. Tôi thấy câu chuyện ấy, bèn nói: Quư vị phải hiểu, mỗi phần kiến thức là mỗi phần công sức, bất luận ngành nghề nào! Huống hồ quư vị mong học Phật, làm đệ tử đức Phật, muốn liễu đạo thành Phật, đoạn vô lượng kiếp sanh tử, cứ tà tà mà có thể đạt được ư? Nhất định phải nhận thức như thế, cái tâm hổ thẹn của quư vị mới có thể sanh khởi được! Mong đoạn khổ, được vui, quư vị thấy người ta đạt được phú quư dễ ợt, đừng nên ganh tỵ, họ có nhân duyên của họ! Quư vị đừng thấy làm quan là tốt. Đó là tiêu tiền để chịu tội! Đợi đến khi người ấy hứng chịu, ăn năn, kẻ đó mới biết. Giương chiêu bài “v́ nhân dân phục vụ”, đợi đến khi nắm được quyền lực, kẻ đó chẳng nghĩ tới nhân dân, chẳng làm chuyện tốt cho dân chúng, mà chỉ nghĩ tới chính ḿnh!

          “Ư thử Phật độ, đại Hiền Kiếp trung” (trong Đại Hiền Kiếp nơi cơi Phật này): Trong Nhân Hiền Kiếp, tức Đại Hiền Kiếp, “hữu thiên Như Lai xuất hiện ư thế” (có một ngàn vị Như Lai xuất hiện trong cơi đời): Hiện thời đă qua bốn vị Phật, hăy c̣n chín trăm chín mươi sáu vị. Ở chỗ các đức Như Lai ấy, tức là đối trước mỗi vị Phật trong một ngàn vị Phật, đối trước mỗi vị Phật đó, quư vị đều phải nên chí thành sám hối. Các ác nghiệp chướng quư vị trót tạo, “pḥng hộ đương lai sở hữu tội cữu” (ngăn ngừa tất cả tội lỗi trong tương lai), do sẽ phải thọ báo, do tội lỗi mà mắc quả báo. Quư vị phải khéo ngăn ngừa. Nếu sám hối, sẽ chẳng phải hứng chịu. Mối nợ tội chướng ấy, quư vị có thể tránh khỏi. “Ư thử Hiền Kiếp thiên Như Lai trung, tối hậu Như Lai danh viết Lô Chí Như Lai” (trong một ngàn vị Như Lai thuộc Hiền Kiếp này, vị Như Lai cuối cùng tên là Lô Chí Như Lai): Đấy là Hộ Pháp Vi Đà, Ngài thành Phật cuối cùng.

          “Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Măn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc Già Phạm”, [đó là] mười hiệu của Như Lai. Mỗi vị Phật đều có đủ mười hiệu ấy. Các ông hăy nên đối trước Lô Chí Phật giống như hiện thời đối trước ta vậy! “Phát lộ sám hối, chư ác nghiệp chướng” (bày tỏ sám hối các nghiệp chướng ác). Khi ấy mới có thể “diệt tận vô hữu di dư” (diệt hết sạch, chẳng c̣n sót thừa), vẫn có thể đối trước Lô Chí Phật sám hối tất cả nghiệp chướng của quư vị. Sau đó, sẽ thanh tịnh, vĩnh viễn chẳng c̣n nữa. Điều này được gọi là “thọ kư”. Phật sẽ “thọ kư biệt cho người ấy, chẳng phải là thọ kư thành Phật, đó là chuyện trong tương lai. Trước hết, thọ kư biệt cho người ấy, đấy là [nội dung của] kinh Đại Kư Biệt. Bộ kinh ấy có tên là Đại Kư Biệt, chẳng phải là hứa nguyện, mà nhằm bảo họ: Quư vị phải làm như thế nào để trong tương lai quư vị sẽ có thể thanh tịnh.

 

          (Kinh) Thời, chư Thanh Văn, cập Bồ Tát chúng, câu thời bạch Phật: “Dụy nhiên Thế Tôn! Ngă đẳng thẩm đương ư bỉ tối hậu Lô Chí Phật sở, hoạch đắc chánh kiến, ly chư tà kiến, chư ác nghiệp chướng tận diệt vô dư, giải thoát nhất thiết chúng khổ năo giả. Nhược linh ngă đẳng ư Đại Hiền Kiếp, thường xử Vô Gián đại địa ngục trung, hằng thọ chủng chủng cực trọng khổ năo, diệc năng kham nhẫn”. Thế Tôn cáo viết: “Thiện tai! Thiện tai! Nhữ đẳng năi năng như thị dũng mănh. Như đẳng do thử kiên cố tinh tấn tự thệ nguyện lực, định năng ư bỉ Lô Chí Phật tiền, túc thế sở tập chư ác nghiệp chướng giai tất tiêu diệt, định năng phát khởi tăng thượng tín kính, thân cận, cúng dường Lô Chí Như Lai, định năng vĩnh đoạn nhất thiết phiền năo, thành A La Hán, hoặc định năng chứng tam-ma-địa môn thù thắng công đức”. Thời chư Thanh Văn, cập Bồ Tát chúng, hoan hỷ lễ Phật, hoàn phục bổn ṭa.

          ()時諸聲聞及菩薩眾,俱時白佛:「唯然世尊,我等審當於彼最後盧至佛所,獲得正見,離諸邪見,諸惡業障盡滅無餘,解脫一切眾苦惱者。若令我等於大賢劫,常處無間大地獄中,恆受種種極重苦惱,亦能堪忍。」世尊告曰:「善哉!善哉!汝等乃能如是勇猛。汝等由此堅固精進自誓願力,定能於彼盧至佛前,宿世所集諸惡業障皆悉消滅,定能發起增上信敬親近供養盧至如來,定能永斷一切煩惱成阿羅漢,或定能證三摩地門殊勝功德。」時諸聲聞及菩薩眾,歡喜禮佛,還復本座。

          (Kinh: Khi ấy, các vị Thanh Văn và Bồ Tát cùng lúc bạch Phật: “Kính vâng đức Thế Tôn! Chúng con chắc chắn sẽ ở nơi vị Phật Lô Chí tối hậu, đạt được chánh kiến, ĺa các tà kiến, diệt sạch các ác nghiệp chướng chẳng sót, giải thoát hết thảy các khổ năo. Dẫu cho chúng con trong Đại Hiền Kiếp, thường ở trong đại địa ngục Vô Gián, luôn thọ các thứ khổ năo cực nặng, cũng có thể kham chịu. Đức Thế Tôn bảo rằng: “Lành thay! Lành thay! Các ông có thể dũng mănh như thế. Các ông do sức tự thệ nguyện kiên cố tinh tấn này, chắc chắn sẽ ở nơi Lô Chí Phật, các nghiệp chướng ác đă tích tập trong đời trước thảy đều tiêu diệt, chắc chắn sẽ phát khởi ḷng tín kính tăng thượng, thân cận, cúng dường Lô Chí Như Lai, chắc chắn sẽ có thể vĩnh viễn đoạn trừ hết thảy phiền năo, thành A La Hán, hoặc chắc chắn có thể chứng công đức thù thắng nơi tam-ma-địa môn”. Khi ấy, các Thanh Văn và các vị Bồ Tát hoan hỷ lễ Phật, trở về chỗ ngồi của chính ḿnh).

 

          Chúng ta hăy khéo suy xét, nhất định phải quan sát như vậy, phải làm như vậy. Đối trước Lô Chí Phật, tức vị Phật cuối cùng [trong Hiền Kiếp] mà sám hối thanh tịnh. “Hoạch đắc chánh kiến, ly chư tà kiến, chư ác nghiệp chướng tận diệt vô dư” (đạt được chánh kiến, ĺa các tà kiến, các nghiệp chướng ác đều tận diệt, chẳng c̣n sót), tiêu diệt hết sạch tất cả các ác nghiệp chướng, chẳng c̣n tồn tại nữa. “Vô dư” (無餘) là chẳng c̣n ǵ nữa. “Giải thoát nhất thiết chúng khổ năo giả” (giải thoát hết thảy các khổ năo): Các nỗi khổ trong tam đồ, cho đến Kiến Tư phiền năo, Trần Sa đều có thể giải thoát, nhưng vẫn chưa đoạn vô minh. “Diệc năng kham nhẫn” nghĩa là có thể chịu đựng, có thể tiếp nhận hết thảy các pháp sanh vô lượng nghĩa. Khi đó, sẽ thật sự trở thành đại pháp khí. Phải tới khi Lô Chí Phật xuất thế th́ mới sám hối hết sạch, họ mới có thể thành Phật.

          Đối với công đức của mỗi vị Phật được nói trong phẩm Xưng Phật Danh Hiệu của kinh Địa Tạng, nếu nói riêng từng vị sẽ rất dài. Chúng ta lễ lạy hằng ngày, mỗi ngày tối thiểu lạy một lượt, quư vị phải khéo hồi hướng, phải phát nguyện, đừng nên bỏ lỡ. Mỗi vị Phật đều như thế, đều có nhân duyên để gọi bằng danh hiệu Đại Thông Như Lai[3], quư vị có thể thấy vô lượng ức Phật thọ kư cho quư vị cho đến khi thành Phật.

          Đây là chúng ta bái sám vị Phật cuối cùng [trong phẩm kinh ấy], tức Đại Thông Như Lai, phải nên tác ư. Tác ư là quư vị phải nên quan sát, phải tư duy, phải suy tưởng, đối với công đức đáng đạt được, đừng nên bỏ lỡ. Khi đáng nên sám hối tội lỗi, cũng đừng nên bỏ lỡ. Đấy là công đức. Hơn nữa, tội ác và công đức hai đằng đều không có, phép Quán ấy là Bát Nhă Quán. Các pháp đều là duyên khởi, duyên khởi tánh không. Xét theo bản thể hoặc pháp tánh, chúng đều chẳng tồn tại. Nhiễm là nói đối lập với tịnh, tội ác là nói đối lập với công đức. Cũng chẳng có công đức, mà cũng chẳng có tội ác. Các pháp tương đối ấy trọn chẳng có, nhưng quư vị ắt cần phải chứng đắc địa vị ấy th́ mới có thể nói như thế! Chẳng đạt tới mức độ ấy, [nói suông kiểu đó] sẽ là rỗng tuếch. Tôi tát quư vị mấy cái nổ đom đóm, chửi quư vị dăm câu, quư vị chẳng thể nào coi là Không được! Có Không nổi hay chăng? Không chẳng nổi! Nếu ba ngày chúng tôi chẳng cho quư vị ăn cơm, quư vị đói bụng, một mực kêu gào ầm ĩ; vài ngày không uống nước, quư vị chịu nổi hay không? Quư vị nói Không, thân thể của ta đều là Không, tới lúc đó, quán chẳng thành, Không chẳng nổi! Đă chẳng Không được, sẽ chịu khổ liền! Phải hiểu đạo lư này, lấy ngay chuyện này làm tỷ dụ. Quư vị đă phạm tội, hoặc là hiện thời phải thọ báo, chẳng “chích ngừa”, đến lúc đó, nhất định sẽ phải hứng chịu. V́ sao Đại Bồ Tát đến hóa độ chúng sanh? Các Ngài chẳng bị chúng ta huân nhiễm, đă “chích ngừa”, đă pḥng thủ cái tâm kỹ càng! Tâm các Ngài là Không, đấy mới là Chân Không, trọn chẳng phải là cái Không như kiểu chúng ta. Pháp Đại Thừa là liễu nghĩa, nhưng khi quư vị chưa chứng đắc, sẽ chẳng dấy lên tác dụng, quư vị chẳng thể sử dụng được. V́ chẳng dùng được, quư vị mới ăn nói lớn lối!

          V́ sao Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng thể làm chủ cho những người ấy, nói “được lắm, các vị sám hối với tôi là được rồi. Tội nghiệp của quư vị đă thanh tịnh”? Ngài trọn chẳng nói như thế. Ngài biết quư vị cần phải rèn giũa dần dần, v́ quư vị hoàn toàn chẳng đạt tới cảnh giới đó.           Như chúng ta, ngay cả tín tâm cũng chẳng trọn đủ, phải tu từ từ. Sở dĩ tôi nói tu từ từ là v́ quư vị quá tinh tấn! Chúng ta hễ nói “tinh tấn tu”, [bèn lập tức hiểu lầm] là chuyện ǵ cũng chẳng làm, cứ bái sám mà thôi! Ai cho quư vị cơm ăn? Ḥa thượng tự ḿnh ở trong sơn động tu hành, chẳng lợi ích người khác, cũng chẳng giúp đỡ người khác, làm sao người khác giúp quư vị cho được? Đều là trao đổi lẫn nhau! Tuy chẳng phải là [đổi chác] ngang giá, nhưng tự nhiên có ư nghĩa này! Tăng nhân phải làm công đức, ngay cả ăn cơm cũng phải hồi hướng cho người ta. Ăn uống, ngủ nghê, bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào, cũng đều phải nghĩ tới kẻ khác, luôn hồi hướng cho họ. Nói đến chuyện đi vệ sinh, chớ nên hồi hướng ư? Đi vệ sinh càng phải cần [làm như thế]. Khi bước vào pḥng vệ sinh, quư vị bèn phát nguyện “đương nguyện chúng sanh, khí tham, sân, si, quyên trừ tội pháp, nhất thiết thanh tịnh” (nguyện cho chúng sanh, bỏ tham, sân, si, trừ sạch tội pháp, hết thảy thanh tịnh). Khi tiến vào đó, tội ác ǵ ta cũng đều bỏ sạch, nguyện cho hết thảy chúng sanh đều vứt bỏ tham, sân, si, chứng đắc Niết Bàn. Ngay cả ở nơi đó, vẫn chẳng buông lung. Đi, đứng, nằm, ngồi, suốt ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ, bất cứ lúc nào cũng đều phát nguyện, nguyện cho chúng sanh thành Phật, luôn luôn sám hối, sám hối tội nghiệp!

          Nguyện thứ tư trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có nói: Nếu tội của chúng ta mà có h́nh tướng, thế giới này chẳng thể chứa đựng nổi. Hư không đều nứt vỡ. C̣n may là tội chẳng có h́nh tướng, là Không. Hăy hiểu đạo lư này. Do vậy, khi sám hối tội lỗi, ắt phải dựa theo đại nguyện vương thứ tư trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện để sám hối; tùy hỷ công đức th́ phải dựa theo đại nguyện thứ năm để tùy hỷ.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Kim Cang Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: - Thiện nam tử! Ngă dĩ Phật nhăn quán chư thế gian, kiến vị lai thế, thử Phật độ trung, hữu vô lượng, vô số bách thiên câu-chi na-dữu-đa Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, Bà-la-môn Chiên-đồ-la, tể quan Chiên-đồ-la, cư sĩ Chiên-đồ-la, trưởng giả Chiên-đồ-la, sa môn Chiên-đồ-la, Phiệt-xá Chiên-đồ-la, Thú-đạt-la Chiên-đồ-la, nhược nam, nhược nữ, thiểu chủng thiện căn, tuy đắc nhân thân, nhi tùy ác hữu, khởi chư tà kiến, tạo chư ác hạnh, hoại ngă thậm thâm vô thượng chánh pháp. Ư ngă sở thuyết vô hữu xí nhiên, diệt xí nhiên pháp, bất sanh tín nhạo, hoặc ư ngă thuyết dữ Thanh Văn Thừa tương ứng chánh pháp, phỉ báng, khinh hủy, chướng tế, ẩn một, bất linh lưu bố. Hoặc ư ngă thuyết dữ Độc Giác Thừa tương ứng chánh pháp, phỉ báng, khinh hủy, chướng tế, ẩn một, bất linh lưu bố. Hoặc ư ngă thuyết dữ Vô Thượng Thừa tương ứng chánh pháp, phỉ báng, khinh hủy, chướng tế, ẩn một, bất linh lưu bố. Hoặc ư quy ngă chư xuất gia nhân, nhược thị pháp khí, nhược phi pháp khí, đa hành phẫn hận, ha mạ, hủy nhục, cơ thích, khinh tiếu, chủng chủng phỉ báng, ẩn thiện, dương ác, quảng thuyết năi chí khởi khinh mạn tâm, chủng chủng xúc năo. Như thị chư nhân, phi thánh pháp khí, tự thật ngu si, hoài thông minh mạn, tùng thử mạng chung, đọa tam ác thú, thọ vô lượng chủng tăng thượng mănh lợi, nan nhẫn khổ độc, kinh ư vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp nan phục nhân thân, như tiền quảng thuyết.

          ()爾時,世尊告金剛藏菩薩摩訶薩言:「善男子,我以佛眼觀諸世間,見未來世此佛土中,有無量無數百千俱胝那庾多剎帝利旃荼羅、婆羅門旃荼羅、宰官旃荼羅、居士旃荼羅、長者旃荼羅、沙門旃荼羅、茷舍旃荼羅、戍達羅旃荼羅,若男若女,少種善根,雖得人身,而隨惡友,起諸邪見,造諸惡行,壞我甚深無上正法,於我所說無有熾然,滅熾然法,不生信樂。或於我說與聲聞乘相應正法,誹謗輕毀,障蔽隱沒,不令流佈。或於我說與獨覺乘相應正法,誹謗輕毀,障蔽隱沒,不令流佈。或於我說與無上乘相應正法,誹謗輕毀,障蔽隱沒,不令流佈。或于歸我諸出家人,若是法器,若非法器,多行忿恨,呵罵毀辱,譏刺輕誚,種種誹謗,隱善揚惡,廣說乃至起輕慢心種種觸惱。如是諸人,非聖法器,自實愚癡,懷聰明慢,從此命終墮三惡趣,受無量種增上猛利難忍苦毒,經於無量百千俱胝那庾多劫難復人身,如前廣說。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Kim Cang Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: - Này thiện nam tử! Ta dùng Phật nhăn xem các thế gian, thấy trong đời vị lai, nơi cơi Phật này, có vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, Bà-la-môn Chiên-đồ-la, tể quan Chiên-đồ-la, cư sĩ Chiên-đồ-la, trưởng giả Chiên-đồ-la, sa môn Chiên-đồ-la, Phiệt-xá Chiên-đồ-la, Thú-đạt-la Chiên-đồ-la, dù nam hay nữ, ít gieo căn lành, tuy được làm người, nhưng theo bạn ác, dấy lên các tà kiến, tạo các ác hạnh, phá hoại chánh pháp vô thượng rất sâu của ta. Đối với các pháp “[khiến cho phiền năo] chẳng hừng hực, diệt [phiền năo] hừng hực” của ta chẳng sanh ḷng tin ưa, hoặc đối với chánh pháp tương ứng Thanh Văn Thừa do ta đă nói, bèn phỉ báng, khinh miệt, hủy hoại, chướng lấp, ẩn giấu, chẳng cho lưu truyền. Hoặc đối với chánh pháp tương ứng Độc Giác Thừa do ta đă nói, bèn phỉ báng, khinh miệt, hủy hoại, chướng lấp, ẩn giấu, chẳng cho lưu truyền. Hoặc đối với chánh pháp tương ứng Vô Thượng Thừa do ta đă nói, bèn phỉ báng, khinh miệt, hủy hoại, chướng lấp, ẩn giấu, chẳng cho lưu truyền. Hoặc đối với những người xuất gia quy y pháp của ta, dù là pháp khí, hay chẳng phải là pháp khí, thường làm nhiều chuyện phẫn hận, quở trách, chửi bới, hủy nhục, gièm chê, châm chọc, khinh rẻ, coi thường, đủ thứ phỉ báng, ẩn giấu điều thiện, phô phang thói ác. Nói rộng là cho đến dấy ḷng khinh mạn, đủ mọi cách xúc phạm, năo loạn. Những kẻ như thế chẳng phải là pháp khí của các địa vị thánh nhân, tự ḿnh thật sự ngu si, tự phụ thông minh, từ đó cho đến khi mạng chung, đọa vào ba đường ác, hứng chịu vô lượng thứ khổ độc tăng thượng, mạnh mẽ, khó thể chịu đựng, trải qua vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp khó lại được thân người như trong phần trước đă nói cặn kẽ).

 

          Trong phần trước đă nói: Hễ tạo nghiệp hủy báng Tam Bảo, báng bổ pháp do đức Phật đă nói, có khi là Đại Thừa, có khi là Độc Giác Thừa, có khi là Thanh Văn Thừa. Hủy báng lẫn nhau, cho đến đối với người xuất gia, hoặc là bậc tŕ giới, tu hành tốt đẹp, hoặc kẻ chẳng tu hành, phá giới, đều năo hại họ, sanh khởi đủ cách hăm hại. Như thế th́ sẽ tạo rất nhiều ác nghiệp; trong phần trên đă có rất nhiều loại chúng sanh hướng về đức Phật sám hối. Đức Phật liền thọ kư cho họ, nói: Các vị sám hối, phải cho đến khi đối trước Phật Lô Chí [là vị Phật cuối cùng] trong một ngàn vị Phật [thuộc Hiền Kiếp] th́ mới có thể sám hối thanh tịnh các ác nghiệp đă tích tụ trong đời trước. Trong thế gian này, thời gian một ngàn vị Phật [lần lượt xuất thế] cũng rất dài. Trong phần trước, tôi đă nhắc đến tam thiên đại thiên thế giới và tiểu kiếp, trung kiếp, một đằng là nói về nơi chốn, một đằng nói về thời gian. C̣n có một cách nói nữa: Hai mươi tiểu kiếp là một trung kiếp. Tức là [mỗi giai đoạn] “thành, trụ, hoại, không” đều kéo dài hai mươi tiểu kiếp. Trụ là hai mươi tiểu kiếp, Hoại là hai mươi tiểu kiếp, Không là hai mươi tiểu kiếp. Cấu tạo của địa cầu hoàn toàn chẳng thể h́nh thành trong thời gian ngắn ngủi được!

          Các nhà khoa học hiện thời nói tinh cầu là do các tinh vân (Nebula) sanh khởi tác dụng giao kết mà h́nh thành. Tác dụng giao kết ấy nếu thành tựu th́ gọi là Thành Kiếp, cần thời gian dài bao lâu? Kinh Phật nói là hai mươi tiểu kiếp. Các nhà khoa học trọn chẳng nói cần bao nhiêu kiếp; tùy thuộc địa cầu ấy dần dần từ bé đến lớn. Từ bé đến lớn, [phát triển dần dần] như thế đó. V́ sao khi địa cầu này đă thành tựu, nh́n từ bên ngoài, tức là nh́n từ phi thuyền vũ trụ th́ tinh cầu là màu lam. Không đương nhiên chẳng có. Không th́ họ chẳng thấy, Không th́ căn bản là chẳng có h́nh tướng. V́ sao quả địa cầu của chúng ta là màu lam? Địa cầu bao quanh bằng nước, địa cầu xoay chuyển. Xét theo toàn thể, chỉ có thể thấy biển, chỉ trông thấy nước. Do vậy, nh́n từ bên ngoài, sẽ là màu lam. Đối với “thành, trụ, hoại, không”, nay chúng ta đang thuộc Trụ Kiếp, [do địa cầu] đă sớm thành tựu từ lâu rồi. Dẫu động đất, thủy tai, hỏa hoạn rất nhiều, hiện thời vẫn chưa đến lúc địa cầu hư hoại, những thứ ấy là tiểu tam tai. Lúc có đại tam tai, địa cầu sẽ bắt đầu hư hoại.

          Kinh Địa Tạng dạy: Tạo tội nghiệp trên quả địa cầu này, khi địa cầu hư hoại, có phải là ta chẳng chịu khổ quả trong địa ngục nơi địa cầu nữa ư? Chẳng phải vậy, [tội nhân đang chịu khổ trong địa ngục] sẽ dời sang thế giới ở phương khác. Ai dời? Nghiệp của chính quư vị chuyển dời. Thế giới đó hư hoại rồi, lại chuyển sang thế giới khác. Đợi cho đến khi thế giới này thành tựu, v́ quư vị thuộc vào thế giới này, tạo tội th́ vẫn phải trở về thế giới này. Vậy là thành, trụ, hoại, không, mỗi giai đoạn đều trải qua hai mươi tiểu kiếp. Kiếp được luận đoán như thế nào? Cũng là dựa theo thọ mạng của con người để luận đoán. “Thành” cũng chẳng phải là thành ngay lập tức, mà Hoại cũng chẳng phải là hoại ngay lập tức, mỗi giai đoạn đều trải qua quá tŕnh hai mươi tiểu kiếp. Nếu dùng số lượng năm để tính toán, sẽ cần thời gian bao nhiêu ức triệu năm? Nếu chúng ta đă sám hối tội thanh tịnh rồi, sẽ có thể tăng thượng tín tâm. Nay chúng ta đang thuộc giai đoạn tăng thượng tín tâm, chỉ có thể nói là tín, chỉ có thể tùy thời gia tăng tín tâm của chúng ta. Nhưng tín tâm của chúng ta chẳng kiên định, vẫn chẳng có cội rễ. Tín tâm ấy có thể bị phá hoại bất cứ lúc nào, chẳng cần đợi đến đời sau.

          Hiện thời, có rất nhiều đạo hữu mà tín tâm của họ có thể bị phá hủy bất cứ lúc nào, nẩy sanh biến hóa, chẳng sanh khởi cái tâm tín kính, tức là chẳng gặp gỡ thiện tri thức. Tuy Phật, Bồ Tát, La Hán vẫn ở trong thế giới này, nhưng quư vị vô duyên, do vô duyên nên chẳng thấy được. V́ chúng ta ở trên thế giới này, trong năm mươi, sáu mươi ức nhân khẩu, chúng ta có khả năng tiếp xúc hoặc quen biết bao nhiêu người? Mọi người [hiện diện ở nơi đây] đều từ Đài Loan tới, Đài Loan có hai ngàn ba trăm vạn nhân khẩu, quư vị quen biết bao nhiêu người? Quư vị tính toán xem, chẳng được bao nhiêu! V́ sao? Họ vô duyên với quư vị. Tuy cùng ở trên địa cầu, thuộc cùng một điều kiện sanh tồn, nhưng vô duyên, tức là chẳng có duyên tiếp xúc với họ. Ngay cả mèo, chó, súc sanh, hoặc lũ kiến, quư vị trông thấy đều là hữu duyên! [Các chúng sanh] quư vị chẳng thấy quá nhiều! Ngay cả cái duyên trông thấy cũng chẳng có. Ngay cả cái duyên nghe thấy cũng chẳng có. Kinh Địa Tạng đă dạy rất nhiều, khi người khác thọ khổ v́ tội nghiệp, quư vị chẳng trông thấy. V́ quư vị chẳng có duyên với người ấy, quư vị cũng chẳng nghe thấy. Ngay cả cái duyên thấy hay nghe cũng đều chẳng có. V́ sao? V́ quư vị chẳng có cái nghiệp ấy. Quư vị nghĩ chúng ta có cái nghiệp ấy, mong trốn tránh, nhưng trốn chẳng thoát, tuyệt đối chẳng thể trốn thoát nổi!

          Vào thời điểm Đại Lục nội chiến, có một nhóm người tới Đài Loan, có người không rời đi. Người trong cùng một nhà, có người đến đây một hai người, có một nửa ở lại Đại Lục, những điều ấy cũng đều là có nhân duyên. Có người đă sắp lên thuyền, sắp tới nơi, thuyền ch́m! Tôi có một đạo hữu, rất tin Phật. Trước kia ông ta làm chuyên viên ở Ninh Ba, về sau làm chủ tịch tỉnh Liêu Ninh. Cả chiếc thuyền ấy toàn là người của Quốc Dân Đảng, đều là các nhân vật từ cấp sảnh trưởng[4] trở lên, mang theo rất nhiều tài sản. Có thể là đem theo quá nhiều vàng, thuyền chở quá nặng, vừa ra khỏi cảng Thượng Hải, đến chỗ tiếp giáp với Ninh Ba th́ đă bị ch́m lỉm! Tôi đến Bắc Kinh t́m em trai của người ấy, tôi hỏi chuyện, người ấy bảo tôi: “Cả nhà anh tôi, ngay cả chị dâu tôi dẫn theo con cái toàn bộ đều chết ch́m hết”. Em trai ông ta chẳng đi, do chẳng đi, bèn ở lại Bắc Kinh. Nhân duyên ấy là do vận mạng của họ khác nhau!

          Có lúc tôi bảo các đạo hữu: “Quư vị sanh chín đứa con, một mẹ sanh chín con, chín đứa con mỗi đứa mỗi khác. Mỗi đứa có vận mạng riêng, chẳng cần phải quá bận tâm”. V́ chẳng có cái duyên ấy, quư vị có miễn cưỡng cũng chẳng được! Hễ có cái duyên ấy, tự nhiên sẽ thành thục. Nghiệp duyên ấy, nếu quư vị sám hối, tội lỗi thanh tịnh, đức Phật thọ kư những người ấy đến lúc Lô Chí Phật (Rucika) xuất thế, sám trừ tội lỗi sạch sẽ, có thể đoạn phiền năo. Đă đoạn phiền năo rồi bèn thành tựu quả A La Hán, hoặc chứng đắc công đức thù thắng của tam-ma-địa. Các vị Thanh Văn và Bồ Tát ấy hoan hỷ lễ Phật, được thọ kư, họ vui mừng, chẳng c̣n đọa vào tam đồ nữa! V́ mỗi vị Phật xuất thế, họ nhất định sẽ được gặp gỡ; nếu không, đức Phật sẽ chẳng nói. Một ngàn vị Phật xuất thế, nơi mỗi đức Phật, quư vị đều sám hối như thế, cũng đều nói như thế.

          Đức Phật thọ kư cho những người ấy xong, lại bảo Kim Cang Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát: “Thiện nam tử! Ta dùng Phật nhăn, thấy nơi cơi Phật này trong đời vị lai, có vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương nhiều ngần ấy. [Số lượng] trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa ấy, không chỉ riêng Chiên-đồ-la vương, tức ác vương, mà c̣n có ác Bà-la-môn, ác tể quan, ác cư sĩ, ác trưởng giả, cho đến ác sa-môn, phá giới sa-môn, bại hoại sa-môn, sa-môn chửi bới sa-môn càng dữ dằn hơn, sa-môn phá hoại chùa miếu càng khốc liệt hơn. Những kẻ đó là ma con, ma cháu do Ba Tuần phái đến. Bọn chúng đến phá hoại Phật giáo, tận lực phá hoại! Trước mắt, nh́n vào các đảng phái, thậm chí là trong Phật giáo chúng ta, khi đảng phái hoặc tổ chức, tập đoàn nào đó bị sụp đổ th́ họ bị sụp đổ như thế nào? Trong tập đoàn của họ thối nát trước rồi mới bị hư hoại, hoàn toàn chẳng phải là do bên ngoài [nhúng tay]. [Nội bộ] công kích lẫn nhau, sau đó là thối ruỗng. Phật giáo cũng như thế. Khi Phật giáo sắp tới lúc bị tiêu diệt, ai diệt? Chính đệ tử Phật hủy diệt! Tứ chúng đệ tử đều có phần, phá hoại lẫn nhau. Tới lúc đó, Phật pháp chẳng c̣n nữa. Do vậy nói tới những gă Chiên-đồ-la cũng chẳng hiếm có tí nào cả, luôn luôn hiện hữu! Thậm chí giới thương nhân trong bốn chủng tánh, Phiệt-xá là thương nhân hoặc nông dân, Thú-đạt-la làm nghề đồ tể, cho đến tạo ác nghiệp, tức những kẻ tạo ác nghiệp, bất luận nam hay nữ, thiện căn rất ít, hoàn toàn chẳng phải là tuyệt đối không có. Gieo thiện căn ít ỏi, người gieo thiện căn, trước sau đều khác nhau. Nếu là đạo hữu tại gia, thuở đầu chẳng ăn mặn, có những người sanh ra đă chẳng ăn mặn, hoặc là sau khi xuất gia, kiêng ăn mặn, chẳng ăn nữa, đến tuổi già lại ăn mặn!

          Có rất nhiều người tu hành, b́nh thường rất tinh tấn dụng công, tới lúc sắp viên tịch, nghiệp chướng ǵ cũng đều phát hiện, cũng chẳng tŕ giới. Rất nhiều sự nghiệp đều không làm! Do bị bệnh khổ hành hạ, nghe người ta nói ăn thịt có thể trị lành bệnh, người đó liền ăn thịt. Muốn người đó làm ǵ, người đó liền phạm ngay! Đối với nghiệp, chẳng tự chủ được, chính ḿnh chẳng làm chủ được. Tôi thấy rất nhiều đạo hữu, suốt đời khổ tu trong núi, tới lúc lâm chung, vẫn không buông xuống được, nghiệp chướng ǵ cũng đều phát hiện. Đó gọi là “vứt sạch công lao trước kia”. Tuy đă gieo chủng tử, đă gieo công đức, nhưng vứt sạch công lao trước kia, chuyện này chẳng phải hiếm hoi, lạ lùng tí nào! Dùng Phật nhăn để quán, [sẽ thấy] khi tới đời Mạt, thiện căn của những người đó chẳng đầy đủ, chẳng sâu, lại c̣n gieo [thiện căn] quá ít. Tuy được làm thân người, chuyển thế làm người, vẫn có thể trở thành đệ tử của Tam Bảo.

          Trong đời Mạt Pháp, trong Tam Bảo, đặc biệt là trong tứ chúng đệ tử, tức tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, những vị thật sự phát tâm Bồ Tát th́ chính là bậc đại Bồ Tát, cũng có người thật sự phát tâm Thanh Văn, thành A La Hán, cũng có người thật sự là A Tu La. Họ khuấy nháo nhào thiện nghiệp, lôi quư vị đọa xuống, lôi quư vị đọa lạc tam đồ, biến thành ma vương. V́ sao họ lôi kéo ngay trong Tam Bảo? V́ kẻ thuộc vào Tam Bảo, ít nhiều đều có thiện căn, cho đến lúc tuổi già, khi suy hoại, vẫn c̣n có phước báo, phước báo do tu tập trước kia vẫn c̣n có, kẻ đó có thể chẳng đọa vào tam đồ, chuyển sang ma vương giới, trở thành ma tử, ma tôn (ma con, ma cháu), tăng thêm đội ngũ cho hắn (Ba Tuần). Hắn chỉ t́m kiếm đệ tử trong Tam Bảo, v́ những kẻ đó mới có tư cách sanh lên cơi trời. Muốn sanh vào đội ngũ của Ba Tuần, cũng cần phải có Thập Thiện Nghiệp. Chẳng có Thập Thiện Nghiệp, sẽ chẳng thể sanh về đó được. Tuy là ma, ma cũng phải có phước. Chẳng có phước th́ làm sao có thể hưởng thụ cho được? Hiểu đạo lư này là được rồi!

          Bởi lẽ, mục đích tu hành của chúng ta là chẳng làm ác. Ta suốt đời làm việc thiện, tới lúc lâm chung lại làm ác, hoặc là bị bạn ác dụ dỗ, hoặc là lục thân quyến thuộc của quư vị trong quá khứ, họ có ác nghiệp rất nặng. Những kẻ đó có thể lôi kéo quư vị, muốn kéo quư vị vào đường đó để cùng xum vầy với họ. Tuy được làm thân người, nhưng bị kẻ ác xoay chuyển, sanh khởi tà tri, tà kiến. Có rất nhiều người trong các đệ tử chúng ta, bất luận tại Đài Loan hay Đại Lục, cũng đều là như thế! Gặp lúc có quan hệ lợi hại, trong lúc phải chọn lựa, họ dùng con mắt thịt để xem xét, đi theo đường nào sẽ có lợi, [họ chẳng do dự, chọn ngay con đường đó]: Câu kết với kẻ quyền thế, câu kết với kẻ có tiền có thế, câu kết quan lại, ức hiếp ḥa thượng tốt lành. Chuyện kiểu này, kể từ khi tôi xuất gia tới nay, đă thấy quá ư là nhiều. Kẻ đó có thể làm rất nhiều ác hạnh, tạo ác nghiệp, phá hoại chánh pháp vô thượng rất sâu của đức Phật. Phật pháp th́ bất luận pháp nào cũng đều là liễu sanh tử, đều là “ĺa khổ, được vui”, đều là đoạn phiền năo. Đối với các pháp do đức Phật đă nói, quư vị đều chẳng phân biệt ǵ, Hiển, Mật, Đại, Tiểu, chỉ cần quư vị đạt được đôi chút, nương theo pháp ấy để làm, quư vị sẽ có thể đạt được, có thể giải thoát, có thể đoạn phiền năo!

          Dẫu Phật pháp sâu xa, tốt đẹp đến mấy, nếu vẫn chẳng hành được, một tí thọ dụng cũng chẳng có, th́ sẽ chẳng mảy may nào dính líu tới quư vị. Làm như thế nào để có thể thực hiện được? [Ngay cả] niệm một tiếng Phật hiệu mà quư vị cũng chẳng thể làm được, luôn chẳng thể kiên tŕ một dạ, c̣n nói đến quán tưởng rất sâu chi nữa! Cho đến tu hành, làm sao tu cho nổi? Tín tâm kiểu ấy chẳng thể vun bồi được, chẳng thể thành tựu tín tâm! Vậy th́ sẽ như thế nào? Pháp do đức Phật đă nói chẳng thể sanh khởi tươi tốt, chỉ có thể khiến cho Phật pháp dần dần bị diệt mất, chẳng thể hưng thịnh. Chánh pháp giống như lửa, hễ hừng hực sẽ khiến cho người khác cảm thấy ấm áp. Nếu dần dần diệt mất, sau khi đă bị diệt rồi, sẽ khiến cho quư vị chẳng nẩy sanh ḷng tin ưa. Đă chẳng có tín tâm th́ cái tâm vui sướng cũng chẳng thể dấy lên được.

          “Hoặc ư ngă thuyết dữ Thanh Văn Thừa tương ứng chánh pháp, phỉ báng, khinh hủy” (hoặc đối với chánh pháp tương ứng với Thanh Văn Thừa do ta đă nói mà phỉ báng, khinh hủy): Có những người nghe Khổ, Tập, Diệt, Đạo, liền phát tâm. Họ nghe, thấy thế gian là khổ. Khổ do đâu mà có? Do quư vị đă tạo nghiệp, do quư vị đă tạo ra cái nhân gây khổ. Ác nhân của quư vị ngưng dứt, khổ sẽ ngừng. Nếu quư vị tận lực làm (tạo nghiệp), khổ sẽ vĩnh viễn chẳng ngừng. Đạo lư này rất đơn giản, ai nấy đều biết, nhưng thực hiện rất khó khăn. Thanh Văn Thừa là như thế, mà Duyên Giác Thừa cũng như thế. Trong phần trước, [kinh Đại Tập] đă nói rất rơ ràng, đặc biệt là đối với phi pháp khí bèn có sự lựa chọn. Kim Cang Tạng Bồ Tát nói phi pháp khí đă là phá hoại, cớ sao đức Phật dạy vẫn phải cung kính họ? Vẫn muốn cho hết thảy mọi người cung kính cúng dường những kẻ đó? V́ những kẻ đó vẫn có thể làm công đức.

          Trong thời đại Mạt Pháp, muốn t́m một vị tỳ-kheo thanh tịnh, chẳng t́m được! Ngẫu Ích đại sư đă nói như thế, mà pháp sư Hoằng Nhất cũng nói như thế. Ngẫu Ích đại sư đă thoái giới tỳ-kheo, thọ giới lần nữa. Thật ra, lần đầu tiên Ngài không đắc giới, cho nên cũng chẳng có cái gọi là “thoái giới”. Vào cuối thời Minh, đầu đời Thanh, muốn t́m năm vị tỳ-kheo thanh tịnh, sẽ chẳng thể t́m được. Phải có đủ năm vị thuyết giới th́ quư vị mới có thể đắc giới. Ngẫu Ích đại sư c̣n nói: “Từ thời Nam Tống trở đi, chẳng có năm vị tỳ-kheo thanh tịnh”, có nghĩa là thời đại của chúng ta khá ác!

          Đức Phật nói trong đời tương lai, trong cơi Phật này, sẽ có vô lượng, vô số, con số khá nhiều, trên cả ức triệu. Không chỉ là trong thế giới này, không chỉ là Nam Thiệm Bộ Châu, mà c̣n có rất nhiều thế giới Sa Bà, rất nhiều bộ châu. “Phật độ” trong chánh kinh là nói tới cơi Phật nào? Thế giới Sa Bà Phật độ, chẳng phải là một cuộc đất bé tí Nam Thiệm Bộ Châu của chúng ta, cho nên mới có nhiều như vậy. Tính toàn bộ người trên Nam Thiệm Bộ Châu, một triệu cũng không có, v́ một triệu là mười ức, có con số mười ức [Chiên-đồ-la vương] hay không? Ngài nói đến vua Chiên-đồ-la, mỗi nước chỉ có một Chiên-đồ-la vương. Vậy mà hắn phá hoại chánh pháp. Đối với tam thừa, bất luận là Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, hay Vô Thượng Thừa, hắn đều phỉ báng, khinh hủy, chướng lấp, ẩn giấu, chẳng cho lưu truyền. Thậm chí đối với người xuất gia trong pháp của ta, dù là pháp khí hay chẳng phải pháp khí, “đa hành phẫn hận, ha mạ, hủy nhục, cơ thích, khinh tiếu, chủng chủng phỉ báng, ẩn thiện, dương ác” (làm nhiều chuyện phẫn hận, quở trách, chửi bới, hủy nhục, gièm chê, châm chích, khinh rẻ, đủ loại phỉ báng, ẩn giấu điều lành, phô bày điều ác).

          Những kẻ ấy vốn rất ngu si. “Ngu si” ở đây có nghĩa là họ chẳng hiểu biết Phật pháp. Đó là ngu si. Họ cho rằng chính ḿnh rất thông minh. Đối với pháp thế gian, họ gây tạo âm mưu, quỷ kế, đấu đá chánh trị, tự nghĩ chính ḿnh rất thông minh, nhưng đối với Phật pháp, họ chẳng thông minh! V́ thế, “ngu si” là nói theo kiểu đó. V́ lẽ đó, họ phá hoại Tam Bảo, hủy diệt Tam Bảo. Cho đến sau khi họ mạng chung, đọa vào ba ác đạo, hứng chịu vô lượng thứ khổ sở dữ dội tăng thượng, khó thể chịu đựng! Các thứ h́nh cụ thọ khổ số đến vô lượng. Mọi người niệm kinh Địa Tạng sẽ biết. Quư vị nói chúng ta chịu khổ trong nhân gian đủ loại, đủ cách. Tuy vậy, chúng ta chẳng có cảnh đao chặt, lửa đốt, chẳng khổ sở kiểu ấy! Chúng ta quán chiếu đôi chút nỗi đau khổ trong nội tâm của chính ḿnh, bất luận là ai, trừ phi quư vị đă đoạn phiền năo. Đoạn Kiến Hoặc, th́ vẫn c̣n đau khổ v́ Tư Hoặc. Tư Hoặc đă đoạn hết, th́ c̣n có nỗi thống khổ của Trần Sa và Vô Minh. Có ai chẳng khổ? Chỉ có Phật và Phật mới chẳng khổ, đạt được vui sướng rốt ráo; ngoài ra, toàn là khổ. Hàng Nhị Thừa chịu nỗi khổ Phần Đoạn Sanh Tử, tức là thọ mạng có từng giai đoạn một, chết đây, sanh kia, [rồi lại] sanh đây, chết kia, đấy gọi là nỗi khổ Phần Đoạn Sanh Tử. Hàng Nhị Thừa sau khi đă chứng quả, th́ có nỗi khổ Biến Dịch Sanh Tử, trong Chân Thường hăy c̣n sót lại vô minh. Hắc ám, Biến Dịch Sanh Tử khổ, ắt cần phải đoạn hai mươi loại khổ theo thứ tự, lên bờ Tam Đức, th́ mới có thể thật sự chứng đắc Pháp Thân, sự khổ ấy mới có thể diệt. Nếu không, sẽ luôn ở trong Khổ.

          Do vậy, hứng chịu vô lượng các thứ khổ. Theo cái quả [của các sự khổ] ấy, càng trong lúc khổ, th́ càng khó thể làm lành. Khi con người bị khổ sở bức bách, thiện tâm chẳng thể sanh khởi nổi, chỉ có thể nghĩ cách giải trừ thống khổ: “Ta muốn giải trừ thống khổ, ắt cần phải giá họa cho người khác!” Ở trong nhà tù, chúng ta nghĩ như vậy đó. Có những kẻ hằng ngày ŕnh rập tŕnh báo [cho cai ngục] để làm ǵ? Kẻ đó mong giải trừ thống khổ của chính ḿnh, tính đem người khác thay thế. Ở nơi đó, có một khẩu hiệu: “Nếu ngươi muốn tạo dựng hạnh phúc th́ phải tạo lập trên nỗi đau khổ của kẻ khác. Nếu không, sẽ chẳng thể tạo dựng được! Chúng tôi đă nói, những kẻ đó ba ngày mà không hại được ai, sẽ đi lại ủ rũ, cơm cũng chẳng thể nuốt trôi nổi, nói không nên lời! Kẻ đó chẳng hại người, sẽ chẳng có cách nào hết, tinh thần ủ dột. Hành vi ác hắn đă tập quen thành tánh. Như thế bèn chịu khổ, hứng chịu vô lượng sự khổ độc mạnh mẽ khó thể chịu đựng. Phải mất thời gian bao lâu? Vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, nhiều ngần ấy! Chúng tôi không nói là đại kiếp, dẫu tính bằng tiểu kiếp th́ thời gian ấy cũng cực dài! Trong thời gian dài ngần ấy, mong khôi phục thân người, khó lắm! Chẳng thể khôi phục nổi. Trong phần trước đă nói rất nhiều, đă nói cặn kẽ, chẳng nhắc lại nữa!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như thị chúng sanh, ninh xử Vô Gián đại địa ngục trung, thọ chư trọng khổ, bất thọ như thị bỉ ác nhân thân, kiêu mạn, cống cao, tùy thuận ác hữu, tạo tác như thị ác bất thiện nghiệp, lưu chuyển sanh tử, nan khả tế độ, thường xử sanh tử, thọ chư khổ năo!

            ()善男子,如是眾生,寧處無間大地獄中受諸重苦,不受如是鄙惡人身,憍慢貢高,隨順惡友,造作如是惡不善業,流轉生死,難可濟度;常處生死,受諸苦惱。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Chúng sanh như thế thà ở trong đại địa ngục Vô Giác chịu các sự khổ nặng nề, chẳng nhận lấy thân người hèn ác, kiêu mạn, ngạo nghễ như thế, tùy thuận bạn ác, tạo tác các nghiệp ác, bất thiện như thế, lưu chuyển sanh tử, khó thể tế độ, thường ở trong sanh tử, chịu các khổ năo).

 

          Giả sử từ ngục giam thoát ra, nhưng sáu căn chẳng vẹn toàn, cho đến sanh ra, suốt đời toàn là hại người, toàn là tạo nghiệp. Tạo tội xong rồi lại phải trở về, tức là quay lại địa ngục. Chúng ta thường nói “chẳng có địa ngục”, nhưng do nghiệp của kẻ đó cảm vời, kẻ đó sẽ thấy là có! Tại vùng Đông Bắc Trung Hoa, đă phát sanh sự kiện như thế này: Khi đó, tôi c̣n rất nhỏ, cũng theo người khác đến xem. Có một đứa nhỏ, chẳng lớn cho lắm, chỉ mười tám, mười chín tuổi, bỗng dưng ở trong nhà của chính ḿnh chạy qua, chạy lại, ai kêu cũng không chịu ra. Đợi đến khi nó chạy xong rồi, ngă nhào xuống đất. Thoạt nh́n, nửa thân dưới của nó đă cháy rộp lên, đáng sợ lắm! Sau đó, nó mới nói cuộc đất ấy, chúng tôi cũng chỉ thấy là một cuộc đất b́nh thường, thứ ǵ cũng đều chẳng có, nhưng nó thấy toàn là lửa, làm cách nào cũng không chạy ra khỏi được! Đến khi nó thật sự hết sạch sức lực, ngă quỵ xuống đất, lửa cũng chẳng c̣n! Người khác lôi nó ra, toàn thân đều bị đốt phồng rộp lên, đốt đen thui luôn. Đấy là nghiệp ǵ vậy? Chẳng thể lư giải. Huyện của chúng tôi không quá lớn; thuở đó, Thẩm Dương được gọi là Phụng Thiên[5]. Kư giả của báo Phụng Thiên Tân Văn đến đó phỏng vấn, cũng chẳng biết do nguyên nhân nào, bèn viết như thế.

          Chúng ta thấy kinh Phật ghi lại rất nhiều chuyện. Nếu quư vị đến nhiều nơi, th́ rất nhiều chuyện trong kinh Phật, quư vị có thể chứng thực. Chẳng hạn như vùng giáp ranh giữa Tây Tạng với các tỉnh Thanh Hải, Tứ Xuyên, và Cam Túc, chẳng ai quản tới. Tại vùng ấy, Di tộc, Tạng tộc, Hắc Sơn tộc, riêng Di tộc có chín mươi sáu loại, chẳng phải chỉ đơn thuần một loại, họ bao gồm Hắc Di, Bạch Di, Hoa Di, khá nhiều bộ tộc. Những kẻ đó hoàn toàn chẳng hiểu đạo lư làm người, cách nói của họ khác với chúng ta. Nếu làm người dân ở nơi đó, sống tại nơi đó, họ cứ tiếp tục đánh nhau. Tộc này đánh tộc kia, chẳng có ngày nào không đánh. Nhà này đánh với nhà kia, đánh đến mức thành oan gia. Hễ đánh đấm bèn kéo dài cả mấy trăm năm, vẫn đang đánh, chẳng chấm dứt!

          Làm thế nào biết kẻ ấy là oan gia của ta? Nếu tôi giết chết một người trong nhà quư vị, đầu tiên là xung đột, giữa chừng có tộc khác đến ḥa giải, sẽ không đánh lộn nữa! Do vậy, bèn bồi thường, trả rất nhiều tiền, nhưng có những món đồ vật mà giá trị chẳng lớn, như một cây dù, một cái chén gỗ, lại c̣n có thứ ǵ đó để tẩy rửa. Sau đó, đưa cho họ ba món ấy. Nhà ấy bèn giữ kỹ cái chén gỗ, cái dù gỗ ấy. Về sau, sanh ra con cái, bất luận nam hay nữ, đều nói với nó: “Con phải nhớ kỹ kẻ sát hại chú hay ba của con, lớn lên phải báo cừu!” Như vậy là từ thế hệ này sang thế hệ khác, giết qua, giết lại, mỗi nhà đều góp nhặt rất nhiều chén gỗ, chất đống trong tủ, dùng như công cụ giáo dục, tăng trưởng tâm lư cừu hận.

          Hạng người như thế khi làm người khổ nạn vô cùng, vĩnh viễn chẳng biết từ địa ngục ḅ ra bằng cách nào? Sau đó, ngay lập tức lại quay vào. Quư vị muốn làm người như vậy, tức hạng người tệ ác như vậy, có ǵ đáng để kiêu căng, ngạo mạn ư? Người như thế đều thuận theo bạn ác, “phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân” (các phương pháp chia thành từng loài, các sự vật phân chia theo từng đặc tánh). Thấy quư vị đàn đúm với hạng người nào, dường như là chuyện tất nhiên, con người tự nhiên phân chia như thế đó. Các đảng, các phái đều là như thế đó; hắc đạo, bạch đạo đều là như thế. Hạng người ác sẽ làm chuyện ác, đều là nghiệp bất thiện. Nghiệp bất thiện đương nhiên sẽ lưu chuyển trong sanh tử, khó thể tế độ, thường ở trong sanh tử, chịu các khổ năo. Đức Phật nói hạng người như vậy, Phật chẳng có cách nào cứu độ họ! “Nan khả tế độ, thường xử sanh tử, thọ chư khổ năo” (khó thể tế độ, thường ở trong sanh tử, chịu các khổ năo). Những điều này đều nhằm h́nh dung Địa Tạng Bồ Tát đă phát nguyện to lớn, v́ rất nhiều kẻ khó độ, Ngài đều phát nguyện đến độ. Do vậy, Ngài vào địa ngục. Có những kẻ đọa địa ngục, đă thoát khỏi địa ngục rồi lại quay về. Ác hạnh của họ chồng chất, chẳng có cách nào tính toán được. Địa Tạng Bồ Tát xuống địa ngục độ họ, cho nên gọi là kinh Địa Tạng Đại Tập Thập Luân. Nếu mọi người xem kinh Địa Tạng, kinh Chiêm Sát, kinh Đại Tập Thập Luân, phải biết cảm ơn, cảm nhận ân đức đặc biệt to lớn của Địa Tạng Bồ Tát đối với chúng ta.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, hội trung hữu vô lượng vô số đại huệ hữu t́nh, tùng ṭa nhi khởi, đảnh lễ Phật túc, hiệp chưởng, hướng Phật, bi khấp đọa lệ, nhi bạch Phật ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Đế quán như thị thế gian chúng sanh, tuy giai hoạch đắc nan đắc nhân thân, nhi viễn ly chánh tín, viễn ly chánh nguyện, viễn ly chánh ư nhạo, viễn ly chánh kiến, viễn ly thiện tri thức, viễn ly hảo thời, viễn ly hảo xứ, viễn ly tịnh giới, viễn ly chánh định, viễn ly chánh huệ. Như thị chúng sanh, tuy giai hoạch đắc nan đắc nhân thân, nhi do ngu si, kiêu mạn lực cố, tạo tác như tiền sở thuyết trọng tội, hủy báng Thế Tôn sở thuyết chánh pháp, xúc năo Thế Tôn xuất gia đệ tử. Ngă đẳng kim giả, đối Thế Tôn tiền, dĩ chí thành tâm, phát chân thệ nguyện. Ngă đẳng tùng kim lưu chuyển sanh tử, năi chí vị đắc giải thoát dĩ lai, thường nguyện bất ngộ như thị ác duyên, quyết định bất tạo như thị trọng tội, chung bất hủy báng chư Phật chánh pháp, diệc bất xúc năo chư xuất gia nhân, tất bất khiêu hoại chúng sanh pháp nhăn, diệc bất đoạn diệt Tam Bảo chủng tánh. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn nhiếp thọ ngă đẳng sở phát như thị thệ nguyện”.

          ()爾時,會中有無量無數大慧有情,從座而起,頂禮佛足,合掌向佛,悲泣墮淚,而白佛言:「大德世尊,諦觀如是世間眾生,雖皆獲得難得人身,而遠離正信,遠離正願,遠離正意樂,遠離正見,遠離善知識,遠離好時,遠離好處,遠離淨戒,遠離正定,遠離正慧。如是眾生,雖皆獲得難得人身,而由愚癡憍慢力故,造作如前所說重罪,譭謗世尊所說正法,觸惱世尊出家弟子。我等今者對世尊前,以至誠心發真誓願:我等從今流轉生死,乃至未得解脫已來,常願不遇如是惡緣,決定不造如是重罪,終不譭謗諸佛正法,亦不觸惱諸出家人,必不挑壞眾生法眼,亦不斷滅三寶種性。唯願世尊,哀愍攝受我等所發如是誓願。

            (Kinh: Lúc bấy giờ, trong hội có vô lượng, vô số đại huệ hữu t́nh, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân đức Phật, chắp tay, hướng về đức Phật, buồn khóc rơi lệ, mà bạch với đức Phật rằng: “Bạch đại đức Thế Tôn! Quán kỹ chúng sanh trong thế gian như thế, tuy đều đạt được thân người khó được, nhưng xa ĺa chánh tín, xa ĺa chánh nguyện, xa ĺa chánh ư nhạo, xa ĺa chánh kiến, xa ĺa thiện tri thức, xa ĺa thời tốt đẹp, xa ĺa chỗ tốt đẹp, xa ĺa tịnh giới, xa ĺa chánh định, xa ĺa chánh huệ. Chúng sanh như thế tuy đều đạt được thân người khó được, nhưng do sức ngu si, kiêu mạn, tạo tác trọng tội như trên đây đă nói, hủy báng chánh pháp do đức Thế Tôn đă nói, xúc phạm, năo loạn các đệ tử xuất gia của đức Thế Tôn. Chúng con nay đối trước đức Thế Tôn, dùng tâm chí thành, phát ra thệ nguyện chân thật: Chúng con từ nay lưu chuyển sanh tử cho đến trước khi được giải thoát, thường nguyện chẳng gặp ác duyên như thế, quyết định chẳng tạo trọng tội như thế, trọn chẳng hủy báng chánh pháp của chư Phật, cũng chẳng xúc phạm, năo loạn những người xuất gia, ắt chẳng chọc mù pháp nhăn của chúng sanh, cũng chẳng đoạn diệt chủng tánh Tam Bảo. Kính mong đức Thế Tôn xót thương, nhiếp thọ thệ nguyện đă phát như thế của chúng con”).

 

          Những tội đă nói trên đây là do người nào tạo ra? Trong hội này, có vô lượng, vô số, chẳng phải là trăm vị, ngàn vị, vạn vị, mà là vô lượng, vô số. Cho nên có một nhóm các hữu t́nh có đại trí huệ, đương nhiên là họ đều đă phát Bồ Đề tâm. Các chúng sanh ấy từ chỗ ngồi đứng lên, hướng về đức Phật đảnh lễ, khóc lóc đau xót. Có ai thương tâm mà chẳng rơi lệ? Buồn khóc c̣n thảm hơn chỉ khóc lóc! V́ thế, rơi lệ th́ vẫn là hữu t́nh chúng sanh. Hữu t́nh có nước mắt; hễ động ḷng, bèn tuôn nước mắt. Tâm sân hận nổi lên, bốc hỏa đùng đùng, tức sùi bọt mép. T́nh cảm sâu nặng bèn tuôn nước mắt. Hai loại ấy đều chẳng tốt, chẳng tự nhiên!

          Các vị ấy do thương xót chúng sanh, thấy trên đây đức Phật đă nói nhiều kẻ ác thọ tội như vậy, [bèn thưa rằng]: Chúng con đế quán, tức là đúng lư quan sát, quan sát suy xét chắc thật, th́ gọi là Đế. Quan sát theo Đế lư, quan sát từ thể tánh, nương theo giáo nghĩa do đức Phật đă giáo hóa để đúng lư quan sát tất cả chúng sanh trong thế gian, [bèn thấy rằng] tuy họ đạt được thân người khó có như thế. Đức Phật nói một phen được làm thân người khó khăn cỡ nào? Đức Phật nói một tỷ dụ: “Thất nhân thân như đại địa thổ, đắc nhân thân như trảo thượng trần”. Tức là quư vị một phen được làm thân người giống như bụi đất bám vào kẽ móng tay, ít ỏi như thế đó; đánh mất thân người th́ nhiều như đất trong đại địa. Chư vị đạo hữu! V́ sao chúng ta được làm thân người? Trong nhiều đời bao kiếp, đă có nhân duyên nhất định đối với Tam Bảo, tức là đời này chúng ta có dịp gặp gỡ ở nơi đây, mọi người cùng nhau học tập, trọn chẳng phải chỉ là một đời, mà là mười đời, trăm đời đă gieo thiện căn nơi khá nhiều đức Phật.

          Quư vị dùng t́nh cảnh hiện thực để đối chiếu với lời đức Phật dạy, đối chiếu với những điều người có trí huệ đă nói như thế nào, [sẽ nhận biết] thân người khó được dường ấy, [thế mà nay chúng ta] lại coi chẳng đáng một đồng, hỏng bét mất rồi! Đánh mất thân người lần này, mong lại được làm người, chẳng giống như chúng ta nói, hoặc như kẻ khác nói “chết rồi là chẳng c̣n ǵ nữa”. Đâu có chuyện tiện nghi như thế, chết rồi chẳng c̣n ǵ nữa ư? Giết người, phóng hỏa, tạo ác nghiệp nhiều ngần ấy, quư vị chẳng phải hứng chịu [hậu quả], chẳng có [hậu quả] ư? Chẳng thể được! Do vậy, người trên thế gian này, v́ sao có kẻ giàu to, tiền bạc rủng rỉnh? Có người hưởng thụ ngần ấy, có người nghèo túng ngần ấy? Họ đă phí phạm cái thân người khó có này! Nếu thật sự phá hỏng hơn nữa, th́ họ dùng tấm thân để tạo nghiệp, tạo nghiệp ǵ vậy? Tự ḿnh tạo địa ngục, địa ngục đều là do chính ḿnh tạo ra!

          Như vậy th́ quư vị đối với thời điểm tốt đẹp và nơi chốn tốt đẹp đều xa ĺa. Thời điểm tốt đẹp là ǵ? Lúc đức Phật xuất thế, quư vị chưa sanh ra. Lúc đức Phật tại thế, Phật sanh ở nơi đâu, quư vị chẳng sanh về chỗ đó. Nơi thiện tri thức đến, quư vị chẳng đến đó. Quư vị cách các Ngài rất xa, sanh vào vùng biên cương, chẳng nghe Phật pháp, chẳng nghe chánh pháp. Sau đó, lại tạo nghiệp. Điều này giống như trong phần trước đă nói, diệt Phật, diệt Pháp, diệt Tăng, bức hại pháp khí và chẳng phải pháp khí, hủy báng chánh pháp do đức Phật đă nói, xúc phạm, năo loạn đệ tử xuất gia của đức Thế Tôn, nay chúng ta có cảm giác rất hoảng sợ!

 

          (Kinh) Thời, chúng hội trung, phục hữu vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa thông huệ hữu t́nh, tùng ṭa nhi khởi, đảnh lễ Phật túc, hiệp chưởng, cung kính nhi bạch Phật ngôn: “Đại đức Thế Tôn, ngă đẳng kim giả, đối Thế Tôn tiền, dĩ chí thành tâm, phát chân thệ nguyện, ngă đẳng tùng kim lưu chuyển sanh tử, năi chí vị đắc Pháp Nhẫn dĩ lai, ư kỳ trung gian, thường nguyện bất xử chư đế vương vị, thường nguyện bất xử chư tể quan vị, thường nguyện bất xử chư quốc sư vị, thường nguyện bất xử thành, ấp, tụ lạc, trấn la trưởng vị, thường nguyện bất xử chư quân tướng vị, thường nguyện bất xử chư thương chủ vị, thường nguyện bất xử nhất thiết từ tự tự quán chủ vị, thường nguyện bất xử trưởng giả, cư sĩ, sa-môn chủ vị, thường nguyện bất xử chư sư trưởng vị, thường nguyện bất xử chư gia trưởng vị, thường nguyện bất xử đoán sự giả vị, thường nguyện bất xử năi chí nhất thiết phú quư tôn vị. Năi chí vị đắc Pháp Nhẫn dĩ lai, ngă đẳng nhược xử như thị chư vị, tắc ư Phật pháp danh ác nhân duyên, tạo chư trọng tội, hủy báng chư Phật sở thuyết chánh pháp, xúc năo chư Phật xuất gia đệ tử, tất đương khiêu hoại chúng sanh pháp nhăn, diệc vi đoạn diệt Tam Bảo chủng tánh, diệc vi tổn năo vô lượng hữu t́nh. Do thị định đương đọa Vô Gián ngục, luân chuyển ác thú, nan hữu xuất kỳ. Duy nguyện Thế Tôn, ai mẫn nhiếp thọ ngă đẳng sở phát như thị thệ nguyện”.

          ()時眾會中,復有無量百千俱胝那庾多聰慧有情,從座而起,頂禮佛足,合掌恭敬,而白佛言:大德世尊,我等今者對世尊前,以至誠心發真誓願:我等從今流轉生死,乃至未得法忍已來 於其中間,常願不處諸帝王位,常願不處諸宰官位,常願不處諸國師位,常願不處城邑聚落鎮邏長位,常願不處諸軍將位,常願不處諸商主位,常願不處一切祠祀寺觀主位,常願不處長者、居士、沙門主位,常願不處諸師長位,常願不處諸家長位,常願不處斷事者位,常願不處乃至一切富貴尊位。乃至未得法忍已來,我等若處如是諸位,則於佛法名惡因緣,造諸重罪,譭謗諸佛所說正法,觸惱諸佛出家弟子,必當挑壞眾生法眼,亦為斷滅三寶種性,亦為損惱無量有情,由是定當墮無間獄,輪轉惡趣,難有出期。唯願世尊,哀愍攝受我等所發如是誓願。

            (Kinh: Khi ấy, trong chúng hội lại có vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa hữu t́nh thông huệ, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân đức Phật, chắp tay, cung kính bạch với đức Phật rằng: “Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con nay đối trước đức Thế Tôn, dùng tâm chí thành, phát ra thệ nguyện chân thật: Chúng con từ nay trở đi, lưu chuyển trong sanh tử, cho đến khi chưa đắc Pháp Nhẫn, trong khoảng giữa ấy, thường nguyện chẳng giữ các ngôi vị đế vương, thường nguyện chẳng giữ các ngôi vị tể quan, thường nguyện chẳng giữ các ngôi vị quốc sư, thường nguyện chẳng giữ các ngôi vị đứng đầu thành, ấp, xóm làng, thị trấn, thường nguyện chẳng giữ các ngôi vị tướng lănh trong quân đội, thường nguyện chẳng giữ các ngôi vị chủ quản kinh thương, thường nguyện chẳng giữ hết thảy các ngôi vị đứng đầu các nơi cúng tế, chùa chiền, đạo quán, thường nguyện chẳng giữ các ngôi vị đứng đầu giới trưởng giả, cư sĩ, sa-môn, thường nguyện chẳng giữ các ngôi vị sư trưởng, thường nguyện chẳng giữ các ngôi vị gia trưởng, thường nguyện chẳng giữ các ngôi vị xử đoán, cho đến thường nguyện chẳng giữ hết thảy các ngôi vị phú quư tôn quư. Cho đến khi chưa đắc Pháp Nhẫn, nếu chúng con giữ các ngôi vị như thế, sẽ gọi là ác nhân duyên trong Phật pháp, tạo các trọng tội, hủy báng chánh pháp do chư Phật đă nói, xúc phạm, năo loạn các đệ tử xuất gia của chư Phật, ắt sẽ chọc mù pháp nhăn của chúng sanh, cũng sẽ đoạn diệt chủng tánh Tam Bảo, cũng tổn hại, năo loạn vô lượng hữu t́nh. Do vậy, chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián, luân chuyển trong đường ác, khó có thuở thoát ra. Kính mong đức Thế Tôn xót thương, nhiếp thọ các thệ nguyện do chúng con đă phát ra như thế”).

 

          Những người trong đại hội mong mỏi làm ǵ? Đừng làm đế vương! Hoàn toàn tương phản với kẻ b́nh phàm. Có rất nhiều kẻ đời sau mong làm quốc vương, c̣n các vị này hoàn toàn tương phản, mong mỏi đừng làm quốc vương, mong đừng làm tể quan, mong đừng làm quốc sư. Người xuất gia làm thầy của hoàng đế th́ gọi là “quốc sư”. “Thường nguyện bất xử thành, ấp, tụ lạc, trấn la trưởng vị” [nghĩa là] hương trưởng (trưởng làng), thôn trưởng, cho đến khu trưởng, cho đến huyện trưởng, các địa vị ấy ta đều không mong muốn. “Thường nguyện bất xử chư quân tướng vị” (thường nguyện chẳng giữ địa vị tướng lănh trong quân đội): Ngàn vạn lần đừng cầm quân, cũng chẳng làm tướng quân. V́ sao? Trong quá khứ đă có bài thơ nói về kẻ làm tướng quân: “Nhất tướng công thành, vạn cốt khô”, [tức là] quư vị làm tướng quân, cho đến khi đạt được địa vị tướng quân, sẽ tạo rất nhiều nghiệp. Nói “vạn” là nói số lượng đại khái mà thôi, chẳng biết phải giết bao nhiêu người! Nghiệp ấy rất lớn, cho nên chẳng mong địa vị làm tướng quân.

          Cũng “thường nguyện bất xử chư thương chủ vị”, [tức là] đừng làm chủ doanh nghiệp. Ở nơi đây, có mấy vị đạo hữu là thương chủ (chủ xí nghiệp, doanh nghiệp); v́ sao chẳng muốn thuộc địa vị thương chủ? Chúng ta có thể nghĩ đến điều này! Chúng ta có các quyến thuộc làm ông bà chủ, ở đây cũng có mấy vị làm chủ doanh nghiệp, quư vị ngẫm xem, làm chủ doanh nghiệp quá khổ sở! Chưa kể là hắc đạo (bọn giang hồ, xă hội đen) quấy nhiễu quư vị, quan quyền hạch sách, hiếp đáp quư vị. Ḥa thượng hóa duyên cũng t́m đến quư vị, v́ quư vị có tiền, khổ càng nhiều hơn!

          Mọi người c̣n biết có chuyện cưỡng ép hóa duyên nữa cơ! Miền Đông Bắc, tu bổ các ngôi đại tự. Mọi người đă xem Ảnh Trần Hồi Ức Lục th́ biết. Có lăo tướng quân Châu Tử Kiều, trong quá khứ đă làm tướng quân tại Hắc Long Giang. Tới thời Dân Quốc, ông ta chỉ làm ủy viên trưởng trong Chẩn Tế Ủy Viên Hội, ông ta đ̣i Tưởng Giới Thạch cho ḿnh giữ địa vị ấy. Ông ta nói là muốn làm sự nghiệp từ thiện, nhưng hóa duyên theo kiểu cưỡng ép. Cưỡng ép như thế nào? Các bạn bè lâu năm của ông ta đều bị hóa duyên đến nỗi sợ xanh mặt! Ông ta sửa chùa cũng nhiều, cứu tế tai nạn cũng nhiều. Dân bị tai nạn nhiều ngần ấy! Có lần Hoàng Hà gây nên nạn lụt, ông liền đến cứu trợ. Tại vùng Đông Bắc Trung Hoa, ông ta hóa duyên Trương Học Lương[6], hóa duyên bao nhiêu vạn gánh cao lương. Người ta cần ăn, ông chuyển đến từng người một. Con số hóa duyên của ông ta rất lớn, ông ta sang Thượng Hải hóa duyên các đạo hữu. Có chuyện buồn cười là ông ta ngồi đợi ở pḥng khách nhà bạn, chủ nhà ngồi ĺ trong pḥng vệ sinh không dám ra. Làm cách nào đây? Ông ta đến tận pḥng vệ sinh, rống lên: “Ông ra ngay đi! Tôi quyên số tiền đâu có nhiều! Chỉ là một vạn đồng! Một vạn đồng là được rồi, có thể đuổi tôi đi được rồi!” Thuở đó, một vạn đồng đại dương[7] rất lớn!

          Có lúc ông ta hóa duyên rất nhiều, nhưng ông ta rất nghèo, thứ ǵ cũng chẳng có. Là một người rất có đạo đức, chuyện bất cứ ai không dám làm, ông ta sẽ làm. Vợ ông ta lớn hơn chồng mười lăm tuổi, mọi người nghĩ chuyện ấy chẳng thể nào được! Vợ ông ta chính là nha hoàn trong nhà. Nhà ông ta cha mẹ mất sớm, ông ta là con một, người khác đều bỏ đi hết rồi, cô nha hoàn ấy nuôi ông. Tới khi ông trưởng thành, tính toán cho nha hoàn như thế nào? Ông bảo: “Tôi và cô kết hôn là xong!” Nha hoàn nói: “Chuyện này làm sao có thể được! Tôi lớn hơn cậu quá nhiều!” Ông ta nói: “Nếu không, tôi chẳng thể báo đáp cô!” Sau đấy, ông ta lại yêu cầu nha hoàn kết hôn với ông. Đă kết hôn, ông ta tuyệt đối chẳng hai ḷng, lại c̣n sanh con cái rất đông!

          Nói về đạo đức cá nhân của người này. Trong quá khứ, khi ông ta làm tướng quân, được gọi là “Châu đồ phu” (朱屠夫, gă đồ tể họ Châu). Mọi người có biết v́ sao bị gọi là “Châu đồ phu” hay không? Tên ông ta là Châu Khánh Nam, hiệu là Châu Tử Kiều, giết người quá nhiều! Về sau, ông ta sám hối, buông dao đồ tể, ngay lập tức thành Phật. Ông ta nói: “Tôi có thể giết người, mà cũng có thể cứu người”. Ông ta cứu trợ tai nạn, chẳng biết đă cứu trợ bao nhiêu người. Về sau, ông ta thân thiết với lăo pháp sư Đàm Hư nhất. Ông ta và chúng tôi có thể nói chuyện thoải mái với nhau. Ông ta nói: “Tôi cứu người nhiều hơn giết người, có thể chuộc lỗi được!” Chúng tôi bảo ông ta: “Chuộc không nổi! Kinh Phật cũng chẳng nói có thể chuộc! Tức là ông giết những kẻ đó th́ phải đền trả từng người một; ông cứu những người khác, th́ mỗi người trong bọn họ sẽ báo đáp ông. Chẳng có chuyện chuộc!” Có phương pháp nào th́ mới có thể chuộc được? Tôi nói: “Ông tu Không Quán. Đă là Không, sẽ chẳng có ǵ là người được cứu và kẻ cứu. Đă không có người được cứu th́ người giết lẫn kẻ bị giết đều không có, đều được giải quyết! Thứ ǵ cũng đều chẳng có”. Đấy là nó về tâm sám (心懺, sám hối bằng cái tâm), vạn pháp duy thức. Duy tâm, quư vị phải dùng điều này để quán tu, hết thảy tội đều chẳng tồn tại, rỗng không, tội tánh vốn Không, chỉ do tâm tạo.

          Phép Quán này chẳng dễ tu, nói rất dễ dàng. Chúng tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, quyển hạ giảng về phép Quán này. Mọi người hăy xem thử phép Quán này tu khó hay dễ? Bất quá chẳng khẩn yếu, có một phương pháp. Cuối cùng, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta một phương pháp, niệm danh hiệu của Ngài, sẽ có thể tu thành phép Quán ấy. Niệm nào quư vị cũng quán Địa Tạng Bồ Tát là Không, là cái tâm của chính ḿnh, thế là được rồi! Nay lại nói về chỗ ḿnh không muốn đến, trước hết nói về khổ đă. Nỗi khổ vẫn xảy tới, làm thế nào để ĺa khổ? Các vị ấy nói: Con chẳng muốn giữ địa vị sư trưởng, cũng chẳng làm thương chủ, chẳng muốn kinh doanh to lớn, hoặc làm ông chủ, cũng chẳng làm miếu chủ cai quản từ đường, cũng chẳng làm Đương Gia trong tự viện, những thứ ấy con đều không cần. Lại c̣n chẳng muốn giữ các địa vị cầm đầu bọn trưởng giả, cư sĩ, sa-môn!  

          Người xuất gia chúng ta phát nguyện làm pháp sư[8] rất ít. Từ những người tốt nghiệp Phật Học Viện, t́m một hai vị pháp sư rất khó. Làm pháp sư rất khó khăn, nghiệp rất nhiều. Nói sai một câu, bài bác chẳng có nhân quả, sẽ bị đọa lạc. Quư vị chẳng biết nói sai như thế nào ư? Nhưng chính ḿnh đă có kiến thức to lớn dường ấy, lại làm như thế nào đây? Giả sử ai nấy đều chẳng hoằng dương Phật pháp, chẳng phải là pháp bị đoạn tuyệt ư? Pháp bị đoạn tuyệt, hết thảy chúng sanh chẳng được độ, do chẳng có pháp nhăn. Tội ác như thế chẳng to lớn ư? Tội do hoằng pháp mà phạm tội và cái tội chính ḿnh đọa địa ngục [v́ đă xuất gia mà không hoằng pháp], tội ác nào lớn hơn? Khi ấy, tôi đă suy xét cả hai đằng, “trước cửa địa ngục, Tăng, đạo đông”, v́ sao? Mọi người có thể tưởng tượng được, tôi chẳng nói nữa!

          Đời Tống, Chân Hiết thiền sư làm phương trượng chùa Dũng Tuyển tại Cổ Sơn, giảng kinh, hoằng pháp, đạo đức rất cao. Hơn ngàn người nghe kinh, tối thiểu là mấy trăm người, công đức rất lớn. Về sau, khi Ngài bị bệnh, chuyển qua ở trong một gian nhà gần chỗ hỏa táng. Cũng có thể nói gian nhà ấy là chỗ để quàn xác chết. Phàm quư vị bệnh nặng, chữa không được, chẳng thể nào sống sót, liền khiêng sang đó. Được khiêng vào đó, hơi lạnh khiến Ngài tỉnh lại, thấy chính ḿnh đang ở Niết Bàn Đường, Niết Bàn Đường là bất sanh bất diệt; khiêng tới đó, chờ thiêu hóa. Sau đó, Ngài lành bệnh, bèn làm một bài thơ ḥng dạy bảo những người thuyết pháp: “Giảng đạo, luận pháp thật khả thương” (giảng đạo, luận pháp, thật đáng thương), [nghĩa là] giảng kinh, thuyết pháp, bàn đạo lư, nói đạo lư rành mạch, nhưng chính ḿnh chẳng chứng đắc th́ là chuyện thật sự đáng thương tâm. “Chung báo thân ngọa Niết Bàn Đường” (sắp chết nằm mọp Niết Bàn Đường): Từ sáng đến tối chờ chết ở Niết Bàn Đường. “Môn vô quá khách, song vô chỉ” (Cửa không khách tới, song không giấy): Khi quư vị làm đại pháp sư, đệ tử rất đông, người này đến thăm, người nọ đến viếng. Hễ tới Niết Bàn Đường, sẽ chẳng có ai hết. Một người khách cũng không có. Cửa sổ phất giấy, khi ấy nhằm thời Tống, toàn là dùng giấy dán cửa sổ để che gió (gọi là “phất giấy”). Gió lùa thổi rách giấy dán cửa sổ, cũng chẳng có ai tới dán cửa sổ Niết Bàn Đường. Gian nhà chứa người chết th́ dán để làm ǵ? Chẳng có ai quản, cho nên gió lùa vào tận nơi! “Lô hữu hàn hôi, tịch hữu sương” (tro lạnh đầy ḷ, chiếu nhuốm sương): Niết Bàn Đường phải nhóm ḷ, rất lạnh, nhưng không có ai đến nhóm lửa, toàn là tro lạnh ngắt. C̣n chiếu th́ do cửa sổ chẳng phất giấy, gió thổi lồng lộng, cuốn theo sương ướt đẫm chiếu. “Bệnh tùng thỉ tri thân thị khổ” (bệnh rồi mới biết thân đau khổ): Đợi đến khi quư vị bị bệnh, mới biết thân ḿnh khổ nhất, có cái thân là khổ sở nhất! “Kiện thời đô vị tha nhân mang” (lúc khỏe luôn v́ người khác bận): Lúc thân thể khỏe mạnh, quư vị chẳng tu hành, cứ đi giúp người này, gia tŕ cho người này, cầu cảm ứng cho kẻ kia, niệm kinh hoặc bái sám cho kẻ nọ, luôn bận bịu v́ chuyện người khác. Có đúng như thế hay không? Đúng! Vào lúc ấy, Ngài thốt lời thương tâm, bảo ban những người giảng đạo, luận pháp, đừng quên khuấy chính ḿnh, có ư nghĩa như thế đó. Hai câu cuối nhằm nói: Ngài đă làm được, cho nên về sau gọi là Chân Hiết (真歇, thật sự ngưng nghỉ). “Lăo tăng tự hữu an tâm pháp”: Ta luôn có phương pháp để an cái tâm. “Bát khổ giao tiên tổng bất phương” (Tám khổ cùng nung chẳng ngại ǵ): Tám sự khổ đều ùa đến, chẳng sao cả! Hai câu này nói Ngài đă ngộ đạo trong Niết Bàn Đường.

          V́ lẽ ấy, các vị đại đức trông thấy t́nh huống kiểu ấy, bèn nói ngàn vạn lần đừng làm sư trưởng, ngàn vạn lần đừng làm người đứng đầu. Thậm chí bất luận quư vị làm ǵ, làm thủ lănh của sa-môn, hay đứng đầu hoặc lănh đạo các cư sĩ đều chẳng làm, phát nguyện như vậy. C̣n có hết thảy các địa vị sư trưởng, trưởng giả, cho đến xét xử, phán đoán công bằng hay không, đấy có thể là nói đến chức vụ luật sư [hay quan ṭa]. “Thường nguyện bất xử đoán sự giả vị” (thường nguyện chẳng giữ địa vị làm người xử đoán): Hoặc làm phán quan xử án, xét xử, cho đến các địa vị phú quư cao sang. Nói chung, phàm là địa vị tôn quư, được kẻ khác cung kính, ta đều chẳng muốn. Trước khi ta đắc Pháp Nhẫn, khi chưa thành đạo, nếu giữ các địa vị ấy, nhất định sẽ sanh ra ác nhân duyên trong Phật pháp, sẽ tạo đủ loại tội. Do vậy, ta chẳng mong đoạn diệt chủng tánh Tam Bảo, chẳng mong hủy diệt chánh pháp của Phật, cũng chẳng mong tổn hại vô lượng hữu t́nh. “Do thị định đương đọa Vô Gián địa ngục, luân chuyển ác thú, nan hữu xuất kỳ, duy nguyện Thế Tôn” (do vậy, nhất định sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián, luân chuyển trong đường ác, khó có thể thoát ra. Kính mong đức Thế Tôn) hăy từ bi nhiếp thọ chúng con, khiến cho chúng con được thỏa măn nguyện đă phát này! Con sẽ làm một kẻ tu hành b́nh phàm, tín phụng Tam Bảo. Đó là một loại người nữa!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, nhất thiết chư lai đại chúng, thiên, long, Dược Xoa, Kiện Đạt Phược, nhân phi nhân đẳng, giai tùng ṭa khởi, đảnh lễ Phật túc, bi hào, cảm thiết, thế lệ giao lưu, hiệp chưởng, cung kính, nhi bạch Phật ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ngă đẳng vô thỉ sanh tử dĩ lai, ngu si, kiêu mạn, khởi chư ác nghiệp, hoặc thân ác nghiệp, hoặc ngữ ác nghiệp, hoặc ư ác nghiệp, tự tác, giáo tha, kiến văn tùy hỷ, như thị chư tội, kim đối Phật tiền, giai thâm tàm quư, phát lộ sám hối, bất cảm phú tàng, nguyện tất trừ diệt. Tùng kim dĩ văng, vĩnh bất phục tác, pḥng hộ đương lai sở hữu tội cữu”. Đệ nhị, đệ tam diệc như thị thuyết. “Ngă đẳng chí thành phát chân thệ nguyện, tùng kim năi chí sanh tử hậu tế, ư kỳ trung gian, thường nguyện bất phùng chư ác tri thức, diệc nguyện bất ngộ chư ác nhân duyên. Thiết đương phùng ngộ, nguyện bất tùy thuận, quyết định bất tạo như tiền sở thuyết chư ác tội nghiệp, vật linh ngă đẳng trường dạ thọ khổ. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn, nhiếp thọ ngă đẳng, sở phát như thị thệ nguyện”.

          ()爾時,一切諸來大眾,天、龍、藥叉、健達縛、人非人等,皆從座起,頂禮佛足,悲號感切,涕淚交流,合掌恭敬,而白佛言:大德世尊,我等無始生死已來,愚癡憍慢,起諸惡業,或身惡業,或語惡業,或意惡業,自作教他,見聞隨喜。如是諸罪,今對佛前,皆深慚愧,發露懺悔,不敢覆藏,願悉除滅,從今以往永不復作,防護當來所有罪咎。第二第三,亦如是說:我等至誠,發真誓願:從今乃至生死後際,於其中間,常願不逢諸惡知識,亦願不遇諸惡因緣,設當逢遇願不隨順,決定不造如前所說諸惡罪業,勿令我等長夜受苦。唯願世尊,哀愍攝受我等所發如是誓願。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, hết thảy các đại chúng đến dự pháp hội, trời, rồng, Dược Xoa, Kiện Đạt Phược (Càn Thát Bà), nhân phi nhân v.v… đều từ chỗ ngồi đứng lên, đảnh lễ dưới chân đức Phật, buồn than, cảm xúc thiết tha, nước mắt ràn rụa, chắp tay, cung kính bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con từ vô thỉ sanh tử đến nay, ngu si, kiêu căng, ngạo mạn, dấy lên các ác nghiệp, hoặc ác nghiệp nơi thân, hoặc ác nghiệp nơi ngữ, hoặc ác nghiệp nơi ư, tự làm, dạy người khác làm, thấy nghe bèn tùy hỷ, các tội như thế đối trước đức Phật đều hổ thẹn sâu xa, phát lộ sám hối, chẳng dám giấu diếm, nguyện đều trừ diệt. Từ nay trở đi, vĩnh viễn chẳng làm nữa, ngăn ngừa tất cả tội lỗi trong mai sau”. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như thế. “Chúng con chí thành phát ra thệ nguyện chân thật, từ nay cho đến hết sanh tử trong đời mai sau, trong khoảng ấy, thường nguyện chẳng gặp các ác tri thức, cũng nguyện chẳng gặp các ác nhân duyên. Dẫu có gặp gỡ, nguyện chẳng thuận theo, quyết định chẳng tạo các ác tội nghiệp như đă nói trên đây, chẳng khiến cho chúng con chịu khổ trong đêm dài. Kính mong đức Thế Tôn xót thương, nhiếp thọ thệ nguyện do chúng con đă phát ra như thế”).

 

          Đây là khóc ra tiếng. “Hào” () là khóc lớn. “Thế lệ giao lưu, hiệp chưởng, cung kính nhi bạch Phật ngôn: - Đại đức Thế Tôn, ngă đẳng vô thỉ sanh tử dĩ lai, ngu si, kiêu mạn, khởi chư ác nghiệp, hoặc thân ác nghiệp, hoặc ngữ ác nghiệp, hoặc ư ác nghiệp” (nước mắt ràn rụa, chắp tay, cung kính mà bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch đại đức Thế Tôn! Chúng con từ vô thỉ sanh tử đến nay, ngu si, kiêu căng, ngạo mạn, dấy lên các ác nghiệp, hoặc ác nghiệp nơi thân, hoặc ác nghiệp nơi miệng, hoặc ác nghiệp nơi ư): Ba nghiệp toàn là tạo ác, chính ḿnh đă tạo ác th́ thôi, lại c̣n chỉ dạy kẻ khác! “Kiến văn tùy hỷ, như thị chư tội, kim đối Phật tiền, giai thâm tàm quư, phát lộ sám hối, bất cảm phú tàng, nguyện tất trừ diệt, tùng kim dĩ văng, vĩnh bất phục tác” (Thấy nghe vui theo, các tội như thế, nay đối trước Phật, đều hổ thẹn sâu xa, phát lộ sám hối, chẳng dám giấu diếm, nguyện đều trừ diệt. Từ nay trở đi, vĩnh viễn chẳng làm nữa): Phát nguyện chẳng c̣n làm những điều ác ấy. “Pḥng hộ đương lai sở hữu tội cữu” (ngăn ngừa tất cả tội lỗi trong mai sau), “đệ nhị, đệ tam, diệc như thị thuyết” (lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như thế). “Như thị” là mỗi loại đều phát nguyện như thế, cũng là họ phát nguyện gần giống như nhau, phần lớn đều giống nhau. Đại khái là khi pháp sư Huyền Trang phiên dịch, những chỗ tương đồng, Ngài chẳng dịch lặp lại quá nhiều, bèn thêm chữ “đệ nhị, đệ tam”, đại ư là có ư nghĩa như thế! Nguyện ǵ vậy? Nguyện chúng con ngàn vạn lần đừng gặp ác tri thức, bọn chúng sẽ kéo chúng con vào địa ngục. Chẳng muốn gặp các nhân duyên ác như thế đó. “Thiết đương phùng ngộ, nguyện bất tùy thuận” (nếu như gặp gỡ, nguyện chẳng thuận theo): Quyết định chẳng tạo các tội nghiệp xấu ác như đă nói trong phần trước “Vật linh ngă đẳng trường dạ thọ khổ. Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn nhiếp thọ ngă đẳng, sở phát như thị thệ nguyện” (Đừng để chúng con chịu khổ trong đêm dài. Kính mong đức Thế Tôn xót thương nhiếp thọ thệ nguyện do chúng con đă phát như thế).

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phổ cáo nhất thiết chư lai đại chúng: “Thiện tai! Thiện tai! Nhữ đẳng năi năng ư hậu thế khổ, thâm kiến bố úy, phát lộ sám hối. Nhữ đẳng kim giả, dục độ sanh tử thâm quảng bộc lưu, dục nhập vô úy Niết Bàn chi thành, phát như thị nguyện. Chư thiện nam tử! Hữu thập chủng pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Hà đẳng vi thập? Chư thiện nam tử, nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất trước nội thân, bất trước ngoại thân, bất trước nội ngoại thân, bất trước quá khứ thân, bất trước vị lai thân, bất trước hiện tại thân, danh đệ nhất pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn”.

          ()爾時,世尊普告一切諸來大眾:善哉!善哉!汝等乃能於後世苦,深見怖畏,發露懺悔。汝等今者,欲度生死深廣瀑流,欲入無畏涅槃之城,發如是願。諸善男子,有十種法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。何等為十?諸善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著內身,不著外身,不著內外身,不著過去身,不著未來身,不著現在身,名第一法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo khắp hết thảy các đại chúng đến tham dự: “Lành thay! Lành thay! Các ông có thể đối với sự khổ trong đời sau, trông thấy bèn sợ hăi sâu xa, phát lộ sám hối. Nay các ông muốn vượt thoát khỏi gịng thác sanh tử sâu rộng, muốn vào ṭa thành Niết Bàn không sợ hăi, bèn phát nguyện như thế. Này các thiện nam tử! Có mười loại pháp có thể khiến cho hàng Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Những ǵ là mười? Này các thiện nam tử! Nếu các vị Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp nội thân, chẳng chấp ngoại thân, chẳng chấp trước trong ngoài thân, chẳng chấp thân quá khứ, chẳng chấp thân vị lai, chẳng chấp thân hiện tại, th́ gọi là pháp thứ nhất có thể khiến cho hàng Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn”).

 

          Trên đây có nhiều loại chúng sanh như vậy, đối với từng loại một, đức Phật đều tổng kết: “Thiện tai! Thiện tai”, [ư nói] các vị phát nguyện đều rất hay! “Nhữ đẳng năi năng ư hậu thế khổ, thâm kiến bố úy”, [nghĩa là] các vị đối với sự khổ trong đời sau đều có thể hiểu rơ, lại c̣n quán chiếu rất sâu sắc, phát sanh tâm kinh sợ. Cho nên “phát lộ sám hối”. Hiện thời, “nhữ đẳng kim giả dục độ sanh tử thâm quảng bộc lưu” (nay các ông muốn vượt gịng thác sanh tử sâu rộng): Biển khổ sanh tử vừa sâu lại vừa rộng, giống như gịng thác chảy xiết, mong tiến nhập “vô úy Niết Bàn chi thành” (ṭa thành Niết Bàn chẳng sợ hăi): Chẳng có sợ hăi, tiến nhập ṭa thành Niết Bàn, tức là thành đạo, thành Phật sẽ chẳng sợ hăi. Do vậy, “phát như thị nguyện. Chư thiện nam tử! Hữu thập chủng pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn” (phát nguyện như thế. Này các thiện nam tử! Có mười loại pháp, có thể khiến cho hàng Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn): Chúng ta có muốn đắc Pháp Nhẫn hay không? Đấy là con đường chánh đáng để đạt được Pháp Nhẫn, đạt đến thành đạo.

          “Hà đẳng vi thập? Chư thiện nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát, bất trước nội thân, bất trước ngoại thân, bất trước nội ngoại thân, bất trước quá khứ thân, bất trước vị lai thân, bất trước hiện tại thân, danh đệ nhất pháp” (Những ǵ là mười? Này các thiện nam tử! Nếu các vị Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp nội thân, chẳng chấp ngoại thân, chẳng chấp trước trong ngoài thân, chẳng chấp thân quá khứ, chẳng chấp thân vị lai, chẳng chấp thân hiện tại, th́ gọi là pháp thứ nhất): Chớ nên chấp trước thân thể của quư vị. Thân thể của quư vị là vô thường. Dùng thân để đại diện cho những ǵ? Đại diện sắc pháp. Hết thảy các thứ hữu h́nh, hữu tướng, sẽ đều tiêu diệt. Đặc biệt là chúng sanh do Ngă Kiến quá nhiều, đều coi chính ḿnh là chánh yếu. V́ sao? Thân thể này của ta cần phải hưởng thụ, thân thể của ta phải thoải mái, luôn luôn là tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê, đều v́ cái thân thể này! Trước hết, đoạn trừ Thân Kiến. Trong thân, ngoài thân, hết thảy các thân đều phải đoạn. Đấy là phương pháp thuộc loại thứ nhất, tức là đoạn Thân Kiến. Đấy là sắc pháp.

          V́ trong phần sau, sẽ nói đến Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sẽ nói đến Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, cho đến Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Nêu ra Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức làm đại diện. Đó là pháp thứ nhất. Sau đó, lại đoạn trừ tam giới, tức Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, tổng cộng là mười pháp, bao gồm các pháp ấy. “Năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn” (Có thể khiến cho Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn). Đấy là pháp thứ nhất, khiến cho hết thảy Bồ Tát đều có thể thành Phật.

 

          (Kinh) Hựu thiện nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất trước nội thọ, bất trước ngoại thọ, bất trước nội ngoại thọ, bất trước quá khứ thọ, bất trước vị lai thọ, bất trước hiện tại thọ, danh đệ nhị pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Hựu thiện nam tử, nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất trước nội tưởng, bất trước ngoại tưởng, bất trước nội ngoại tưởng, bất trước quá khứ tưởng, bất trước vị lai tưởng, bất trước hiện tại tưởng, danh đệ tam pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Hựu thiện nam tử, nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất trước nội hành, bất trước ngoại hành, bất trước nội ngoại hành, bất trước quá khứ hành, bất trước vị lai hành, bất trước hiện tại hành, danh đệ tứ pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Hựu thiện nam tử, nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất trước nội thức, bất trước ngoại thức, bất trước nội ngoại thức, bất trước quá khứ thức, bất trước vị lai thức, bất trước hiện tại thức, danh đệ ngũ pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn.

          ()又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著內受,不著外受,不著內外受,不著過去受,不著未來受,不著現在受,名第二法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著內想,不著外想,不著內外想,不著過去想,不著未來想,不著現在想,名第三法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著內行,不著外行,不著內外行,不著過去行,不著未來行,不著現在行,名第四法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著內識,不著外識,不著內外識,不著過去識,不著未來識,不著現在識,名第五法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Nếu các vị Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp nội thọ, chẳng chấp ngoại thọ, chẳng chấp nội ngoại thọ, chẳng chấp quá khứ thọ, chẳng chấp vị lai thọ, chẳng chấp hiện tại thọ, gọi là pháp thứ hai, có thể khiến cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Lại này thiện nam tử! Nếu các vị Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp nội tưởng, chẳng chấp ngoại tưởng, chẳng chấp nội ngoại tưởng, chẳng chấp quá khứ tưởng, chẳng chấp vị lai tưởng, chẳng chấp hiện tại tưởng, gọi là pháp thứ ba, có thể khiến cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Lại này thiện nam tử! Nếu các vị Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp nội hành, chẳng chấp ngoại hành, chẳng chấp nội ngoại hành, chẳng chấp quá khứ hành, chẳng chấp vị lai hành, chẳng chấp hiện tại hành, được gọi là pháp thứ tư, có thể khiến cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Lại này thiện nam tử! Nếu các vị Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp nội thức, chẳng chấp ngoại thức, chẳng chấp nội ngoại thức, chẳng chấp quá khứ thức, chẳng chấp vị lai thức, chẳng chấp hiện tại thức, th́ gọi là pháp thứ năm, có thể khiến cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn).

 

          “Hựu thiện nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất trước nội thọ, bất trước ngoại thọ, bất trước nội ngoại thọ, bất trước quá khứ thọ, bất trước tương lai thọ, bất trước hiện tại thọ, danh đệ nhị pháp” (Lại này thiện nam tử! Nếu các vị Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp nội thọ, chẳng chấp ngoại thọ, chẳng chấp nội ngoại thọ, chẳng chấp quá khứ thọ, chẳng chấp vị lai thọ, chẳng chấp hiện tại thọ, gọi là pháp thứ hai): Đấy là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Năm món này đều đă nói trong phần trước; bất quá, văn tự biến hóa đôi chút. Trong ấy bao gồm tám thức, tôi chỉ giảng tổng quát đôi chút. Đối với những cái được gọi là Ngũ Uẩn, tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Quán Tự Tại Bồ Tát do đă hành Bát Nhă sâu xa, soi thấy Ngũ Uẩn đều Không, tức là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức [đều Không]. Nay đức Phật dạy chúng ta: Chỉ cần quư vị chẳng chấp trước, đó gọi là “tu Quán”. Đồng thời, quư vị cũng đừng nên chấp trước sắc này, đừng nên chấp trước sắc kia, như vậy th́ quư vị sẽ có thể dần dần đạt được thành tựu. Đó gọi là “chánh lộ Pháp Nhẫn”.

          Tuy quư vị có thể chẳng chấp trước Ngũ Uẩn, nhưng dùng trí huệ chiếu Không, chúng ta vẫn chưa đạt được! V́ quư vị ắt cần phải tiến thêm một bước nữa, biết Ngũ Uẩn đều không. Như thế nào th́ mới có thể chẳng chấp trước, chẳng tham đắm? Quư vị phải tu Không Quán. Đấy chính là một ư nghĩa khác. Quư vị dùng Quán Chiếu như trong phần trên đă nói. Kinh Đại Tập Thập Luân dạy chúng ta tu Quán, Sổ Tức Quán, hăy khéo tu th́ sẽ có thể đạt được!

 

          (Kinh) Hựu thiện nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất trước thử thế, danh đệ lục pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Hựu thiện nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất trước tha thế, danh đệ thất pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Hựu thiện nam tử, nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất trước Dục Giới, danh đệ bát pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Hựu thiện nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất trước Sắc Giới, danh đệ cửu pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Hựu thiện nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất trước Vô Sắc Giới, danh đệ thập pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn.

          ()又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著此世,名第六法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著他世,名第七法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著欲界,名第八法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著色界,名第九法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。又善男子,若諸菩薩摩訶薩等,不著無色界,名第十法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。

            (Kinh: Lại này thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp đời này, th́ gọi là pháp thứ sáu, có thể khiến cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Lại này thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát, chẳng chấp đời khác, th́ gọi là pháp thứ bảy, có thể khiến cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Lại này thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp Dục Giới, th́ gọi là pháp thứ tám, có thể khiến cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Lại này thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp Sắc Giới th́ gọi là pháp thứ chín, có thể khiến cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Lại này thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp Vô Sắc Giới, th́ gọi là pháp thứ mười, có thể khiến cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn).

 

          “Thiện nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng bất trước thử thế” (Này thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp trước đời này): Đời này chuyện ǵ quư vị cũng đều chẳng chấp trước, “bất trước” (不著) là không chấp trước. Đó là pháp thứ sáu. “Năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Hựu thiện nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng bất trước tha thế” (có thể khiến cho các Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Lại này thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp trước đời khác): Chẳng chấp đời này, mà đời khác cũng chớ nên chấp trước. Quá khứ cũng vậy, mà tương lai cũng thế, đều chớ nên chấp trước. Đó gọi là “chẳng chấp ba đời”. Quá khứ, vị lai: Quá khứ đă qua, chẳng cần nghĩ tới nữa, hiện tại có được hay không? [Hiện tại th́] ngay lập tức lại trở thành quá khứ, biến thành ba đời đều Không! Tương lai th́ tương lai c̣n chưa đến, quư vị nghĩ tới nó để làm ǵ? Rốt cuộc là như thế nào? Chuyện ǵ cũng đều phải lập kế hoạch. Đó là sai lầm! Kế hoạch chẳng do quư vị hoạch định! Quư vị chẳng biết nghiệp quả của chính ḿnh được an bài như thế nào, ai cũng đều chẳng thể an bài cho chính ḿnh. Dường như là chính ḿnh an bài cho chính ḿnh, nhưng thật ra, quư vị mù quáng bận ḷng, đă sớm an bài sẵn rồi!

          Quư vị làm như thế nào, sẽ hứng chịu như thế ấy. Trừ phi hiện tại đang chuyển biến, chuyển biến như thế nào? Quư vị đă nghe Phật pháp, lại c̣n có thể hành. Nay quư vị mỗi ngày niệm Địa Tạng Bồ Tát, coi Ngài như vị cứu mạng vương xuất hiện, lại nắm chặt Ngài không buông, niệm như thế đó! Chuyển biến tối thiểu là chẳng thọ tam đồ! Nghe danh hiệu Địa Tạng Vương, sẽ chẳng rơi vào tam đồ. Có người nói “đang nằm mộng mà niệm Địa Tạng Bồ Tát sẽ chẳng linh!” Chẳng phải là niệm trong mộng không linh, mà là khi quư vị tỉnh đă niệm chẳng linh, do quư vị chẳng niệm bằng cái tâm. Hễ niệm bằng tâm, sẽ linh. Trong khi ngủ mà niệm th́ cảnh trong mơ chẳng c̣n, [do niệm Bồ Tát] mà mong liễu sanh tử c̣n được, huống hồ nằm mơ! Phải tin tưởng!

          “Hựu thiện nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất trước Dục Giới, danh đệ bát pháp” (Lại này thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp trước Dục Giới th́ gọi là pháp thứ tám): Thế giới chúng ta đang sống được gọi là Dục Giới. Dục Giới có sáu tầng trời và nhân gian, lại c̣n có súc sanh, ngạ quỷ, và địa ngục, các cơi ấy đều thuộc về Dục Giới. “Bất trước Sắc Giới”: [Sắc Giới] có mười tám tầng trời, [chẳng chấp trước Sắc Giới] được gọi là pháp thứ chín. “Năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Hựu thiện nam tử! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, bất trước Vô Sắc Giới” (có thể khiến cho các Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn. Lại này thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp trước Vô Sắc Giới). Vô Sắc Giới là Không. Vô Sắc Giới đă là Không, c̣n làm chi nữa? Đă đạt tới Vô Sắc Giới Thiên, chính là La Hán Định. La Hán Định chẳng phát Bồ Đề tâm. Đến một lúc nhất định, họ sẽ dao động, lại phát Bồ Đề tâm. V́ thế, chớ nên chấp trước Vô Sắc Giới. “Danh vi đệ thập pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn” (được gọi là pháp thứ mười, có thể khiến cho các Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ pháp nhẫn), có thể thành Phật. Nếu ngay cả tam giới đều không chấp trước, đương nhiên là sẽ thành tựu, chẳng chịu khổ.

 

          (Kinh) “Chư thiện nam tử! Thị danh thập pháp, năng linh Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng hoạch đắc vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn”. Thế Tôn vị chúng thuyết thử pháp thời, ư chúng hội trung, hữu thất thập nhị bách thiên câu-chi Bồ Tát Ma Ha Tát đồng thời chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Phục hữu bát thập tứ bách thiên na-dữu-đa Bồ Tát chứng đắc Tùy Thuận Pháp Nhẫn. Phục hữu vô lượng bách thiên Thanh Văn, năi chí vĩnh đoạn nhất thiết phiền năo, thành A La Hán. Phục hữu bách thiên na-dữu-đa chúng sanh, tiên vị phát tâm, kim phát Vô Thượng Chánh Đẳng Giác tâm, ư Như Lai trí, trụ bất thoái địa. Phục hữu vô lượng, vô số chúng sanh, tiên vị phát tâm, ư kim năi phát Độc Giác Thừa tâm. Phục hữu vô lượng, vô số chúng sanh, tiên vị phát tâm, ư kim năi phát Thanh Văn Thừa tâm.

          ()諸善男子,是名十法,能令菩薩摩訶薩等,獲得無罪正路法忍。世尊為眾說此法時,於眾會中,有七十二百千俱胝菩薩摩訶薩,同時證得無生法忍。復有八十四百千那庾多菩薩,證得隨順法忍。復有無量百千聲聞,乃至永斷一切煩惱成阿羅漢。復有百千那庾多眾生,先未發心,今發無上正等覺心,於如來智住不退地。復有無量無數眾生,先未發心,於今乃發獨覺乘心。復有無量無數眾生,先未發心,於今乃發聲聞乘心。

          (Kinh: “Các thiện nam tử! Đó gọi là mười pháp có thể khiến cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được vô tội chánh lộ Pháp Nhẫn”. Khi đức Thế Tôn v́ đại chúng nói pháp này, ở trong chúng hội, có bảy mươi hai trăm ngàn câu-chi Bồ Tát Ma Ha Tát đồng thời chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Lại có tám mươi bốn trăm ngàn na-dữu-đa Bồ Tát chứng đắc Tùy Thuận Pháp Nhẫn. Lại có vô lượng trăm ngàn Thanh Văn, cho đến vĩnh viễn đoạn tuyệt hết thảy phiền năo, thành A La Hán. Lại có trăm ngàn na-dữu-đa chúng sanh, trước kia chưa phát tâm, nay phát Vô Thượng Chánh Đẳng Giác tâm, trụ địa vị bất thoái chuyển nơi trí Như Lai. Lại có vô lượng vô số chúng sanh, trước kia chưa phát tâm, nay bèn phát tâm Độc Giác Thừa. Lại có vô lượng vô số chúng sanh, trước kia chưa phát tâm, nay bèn phát tâm Thanh Văn Thừa).

 

          Khi đức Phật nói pháp ấy, có bảy mươi hai trăm ngàn câu-chi Bồ Tát Ma Ha Tát đồng thời chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, tức là đăng địa (chứng Sơ Địa). Nghe nói như thế, mọi người bèn cầu gia tŕ. Các vị ấy đă đăng địa, nay chúng ta vẫn chưa nhập, tin nổi hay không? Hy vọng mọi người tin tưởng, chúng ta tin Vô Sanh Pháp Nhẫn, hoàn toàn chẳng phải là nhập. Chúng ta có thể tin Vô Sanh Pháp Nhẫn, trong tương lai nhất định có thể chứng nhập. Tín là mẹ của hết thảy các công đức. Có thể tin th́ sẽ có thể tiến nhập.

          Ngoài ra c̣n có tám mươi bốn trăm ngàn na-dữu-đa Bồ Tát, đắc Tùy Thuận Pháp Nhẫn. “Phục hữu bách thiên vô lượng Thanh Văn, năi chí vĩnh đoạn nhất thiết phiền năo, thành A La Hán. Phục hữu bách thiên na-dữu-đa chúng sanh, tiên vị phát tâm, kim phát Vô Thượng Chánh Đẳng Giác tâm” (lại có vô lượng trăm ngàn Thanh Văn, cho đến vĩnh viễn đoạn diệt hết thảy các phiền năo, thành A La Hán. Lại có trăm ngàn na-dữu-đa chúng sanh trước kia chưa phát tâm, nay phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Giác): Ta cũng mong thành Phật, đấy là phát tâm. Bồ Tát mới vừa phát tâm Bồ Đề, “ư Như Lai trí, trụ bất thoái địa (trụ địa vị bất thoái chuyển nơi trí của Như Lai): Người nào phát tâm, cũng đều có thể trụ trong địa vị Bất Thoái Chuyển. Trí huệ của Như Lai là địa vị chẳng thoái chuyển, đạt tới Sơ Trụ sẽ bất thoái. Nếu đạt đến Thất Trụ, Thất Trụ là Vị Bất Thoái. Sơ Trụ là Tâm Bất Thoái, Thất Trụ là Vị Bất Thoái, tức là địa vị Bất Thoái. Họ tin tưởng hết thảy trí huệ của đức Phật, ta nhất định có thể thành đạo.

          C̣n có vô lượng vô số chúng sanh nay mới phát tâm, phát tâm ǵ vậy? Chẳng phải là thành Phật. “Phát Độc Giác Thừa tâm. Phục hữu vô lượng vô số chúng sanh, tiên vị phát tâm” (phát tâm Độc Giác. Lại có vô lượng vô số chúng sanh, trước kia chưa phát tâm), đến nay bèn phát tâm, phát ǵ vậy? Ta liễu sanh tử là được rồi, tức là phát “Thanh Văn tâm”.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo đại chúng: “Nhược chư hữu t́nh dĩ đắc Pháp Nhẫn, xử Sát-đế-lợi quán đảnh vương vị, thọ dụng chủng chủng thắng đại tài nghiệp, cập xử chủng chủng phú quư tôn vị, thị ngă sở hứa, phi dư hữu t́nh”. Kim Cang Tạng Bồ Tát bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Nhược chư hữu t́nh vị đắc Pháp Nhẫn, ư Sát-đế-lợi quán đảnh vương vị, thọ dụng chủng chủng thắng đại tài nghiệp, cập dư chủng chủng phú quư tôn vị, định bất hứa xử, vi diệc hứa da?”

          ()爾時,世尊復告大眾:「若諸有情已得法忍,處剎帝利灌頂王位,受用種種勝大財業,及處種種富貴尊位,是我所許,非餘有情。」金剛藏菩薩白佛言:「世尊,若諸有情未得法忍,於剎帝利灌頂王位,受用種種勝大財業,及餘種種富貴尊位,定不許處,為亦許耶?」

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo đại chúng: “Nếu các hữu t́nh đă đắc Pháp Nhẫn, ở ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh, thọ dụng các thứ đại tài nghiệp thù thắng, và thuộc các ngôi vị phú quư sang cả, th́ ta chấp thuận, chẳng phải các hữu t́nh khác”. Kim Cang Tạng Bồ Tát bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu các hữu t́nh chưa đắc Pháp Nhẫn, đối với vương vị Sát-đế-lợi quán đảnh, thọ dụng các thứ đại tài nghiệp thù thắng, và các thứ địa vị sang cả phú quư, sẽ là chắc chắn chẳng được phép, hay cũng được phép?)

 

          Đă đắc Pháp Nhẫn, “xử Sát-đế-lợi quán đảnh vương vị, thọ dụng chủng chủng thắng đại tài nghiệp, cập xử chủng chủng phú quư tôn vị, thị ngă sở hứa, phi dư hữu t́nh” (ở ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh, thọ dụng các thứ tài sản to lớn thù thắng, và thuộc các ngôi vị phú quư sang cả, th́ ta chấp thuận, chẳng phải các hữu t́nh khác): Làm Sát-đế-lợi, ngoại trừ những gă vua chúa Chiên-đồ-la tạo nghiệp, c̣n có những vị đă chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, là bậc đăng địa Bồ Tát. Các vị ấy muốn thị hiện, hóa hiện, liền ở ngôi vua quán đảnh. Họ nhận vương vị ấy, đáng nên hưởng thụ, ta (đức Phật) cho phép điều ấy, chứ các hữu t́nh khác sẽ chẳng thể! Kim Cang Tạng Bồ Tát liền hỏi đức Phật: “Thế Tôn! Nhược chư hữu t́nh vị đắc Pháp Nhẫn, ư Sát-đế-lợi quán đảnh vương vị, thọ dụng chủng chủng thắng đại tài nghiệp, cập dư chủng chủng phú quư tôn vị, định bất hứa xử” (Bạch đức Thế Tôn! Nếu các hữu t́nh chưa đắc Pháp Nhẫn, đối với vương vị Sát-đế-lợi quán đảnh, thọ dụng các thứ tài sản to lớn thù thắng, và các thứ địa vị sang cả phú quư, sẽ là chắc chắn chẳng được phép): Nhất định chẳng cho phép, “vi diệc hứa da?”, hay cũng có thể được phép. Tức là trừ những vị đă đắc Pháp Nhẫn, Phật cũng cho phép ư? Nếu chưa đắc Pháp Nhẫn, c̣n có phương tiện nào để cho phép họ ở ngôi vua quán đảnh Sát-đế-lợi hay chăng?

 

          (Kinh) Thế Tôn cáo viết: - Nhược chư hữu t́nh, vị đắc Pháp Nhẫn, hữu năng thọ hành Thập Thiện Nghiệp Đạo, diệc khuyến chúng sanh linh thọ học giả, ngă diệc thính hứa xử Sát-đế-lợi quán đảnh vương vị, thọ dụng chủng chủng thắng đại tài nghiệp, cập dư chủng chủng phú quư tôn vị. Nhược chư hữu t́nh vị đắc Pháp Nhẫn, diệc bất thọ hành Thập Thiện Nghiệp Đạo, cập khuyến chúng sanh linh cần thọ học, dĩ cường thế lực, xử Sát-đế-lợi quán đảnh vương vị, thọ dụng chủng chủng thắng đại tài nghiệp, cập xử chủng chủng phú quư tôn vị, danh Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, cập dư chủng chủng phú quư tôn vị Chiên-đồ-la vương, ngu si, kiêu mạn, hủy hoại, nhiễu loạn ngă thậm thâm pháp, diệt chánh pháp đăng, đoạn Tam Bảo chủng. Ư ngă xuất gia chư đệ tử chúng, chủng chủng năo loạn, chủy khảo, h́nh phạt, đoạt kỳ y bát, cơ nghiệp tài sản, thoái linh hoàn tục, khóa thuế, dịch sử, hệ bế lao ngục, năi chí đoạn mạng. Ư ngă sở thuyết vi diệu pháp nghĩa, phỉ báng, khinh hủy, chướng tế, ẩn một, bất linh lưu bố, đoạt Tốt-đổ-ba cập Tăng Kỳ vật. Như thị chư nhân giai đương đọa Vô Gián địa ngục, thọ chư kịch khổ, luân chuyển ác thú, nan hữu xuất kỳ.

          ()世尊告曰:若諸有情未得法忍,有能受行十善業道,亦勸眾生令受學者,我亦聽許處剎帝利灌頂王位,受用種種勝大財業,及餘種種富貴尊位。若諸有情未得法忍,亦不受行十善業道,及勸眾生令勤受學,以強勢力處剎帝利灌頂王位,受用種種勝大財業,及處種種富貴尊位,名剎帝利旃荼羅王,及餘種種富貴尊位旃荼羅王,愚癡憍慢,毀壞擾亂我甚深法,滅正法燈,斷三寶種;於我出家諸弟子眾,種種惱亂,捶拷刑罰,奪其衣缽、基業、財產,退令還俗,課稅役使,係閉牢獄,乃至斷命;於我所說微妙法義,誹謗輕毀,障蔽隱沒,不令流佈,奪窣堵波及僧祗物;如是諸人,皆當墮無間地獄,受諸劇苦,輪轉惡趣,難有出期。

          (Kinh: Đức Thế Tôn bảo rằng: - Nếu các hữu t́nh chưa đắc Pháp Nhẫn, mà có thể hành Thập Thiện Nghiệp Đạo, cũng khuyên chúng sanh lănh nhận, học theo, ta cũng cho phép họ giữ ngôi vua quán đảnh Sát-đế-lợi, thọ dụng các thứ đại tài nghiệp thù thắng, và các thứ địa vị phú quư sang cả khác. Nếu các hữu t́nh chưa đắc Pháp Nhẫn, mà cũng chẳng lănh nhận, thực hiện Thập Thiện Nghiệp Đạo, và chẳng khuyên chúng sanh siêng năng lănh nhận, học theo, dùng thế lực mạnh mẽ để nắm giữ ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh, thọ dụng các thứ đại tài nghiệp thù thắng, và nắm giữ các địa vị sang cả phú quư, [th́ những kẻ ấy] được gọi là Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương và các thứ địa vị Chiên-đồ-la vương sang cả phú quư khác. [Bọn chúng] ngu si, kiêu mạn, hủy hoại, nhiễu loạn pháp rất sâu của ta, diệt đèn chánh pháp, đoạn diệt chủng tánh Tam Bảo. Đối với các đệ tử xuất gia của ta, [bọn chúng dùng] đủ mọi cách năo loạn, đánh đập, tra khảo, trừng phạt, đoạt y bát, cơ nghiệp, tài sản của họ, buộc họ hoàn tục, đánh thuế, bắt làm lao dịch, giam cầm trong tù, cho đến đoạn mạng. Đối với pháp nghĩa vi diệu do ta đă nói, bèn khinh miệt, hủy phá, chướng lấp, ẩn giấu, chẳng cho lưu truyền, đoạt vật dụng của Tốt-đổ-ba (tháp) và Tăng chúng. Những kẻ như thế sẽ đều đọa vào địa ngục Vô Gián, chịu các nỗi khổ cùng cực, luân chuyển trong đường ác, khó có thể thoát ra).

 

          “Thế Tôn cáo viết: Nhược chư hữu t́nh vị đắc Pháp Nhẫn” (Đức Thế Tôn bảo rằng: “Nếu các hữu t́nh chưa đắc Pháp Nhẫn): Kẻ đó chẳng chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, chưa dự lên địa vị ấy, nhưng kẻ đó có thể tiếp nhận, hành tŕ Thập Thiện Nghiệp Đạo. Chúng ta đều có thể làm được điều này, chứ Vô Sanh Pháp Nhẫn chúng ta vẫn chưa làm được. Dùng Thập Thiện Nghiệp Đạo để ngăn giữ ba nghiệp thân, miệng, ư của quư vị, hoàn toàn chẳng phải là câm điếc, không nói năng! Có người nói: “Ta chẳng nói chi hết, sẽ ǵn giữ khẩu nghiệp”. Nhưng kẻ câm, hoặc loại Tăng dê câm có thể thành đạo hay không? Câm th́ chẳng tạo nghiệp, nói không nên lời th́ làm sao nói năng ǵ được nữa? Chẳng phải là ư nghĩa ấy! Đừng nói lời sai trái, hăy nói lời tán dương Tam Bảo. Quư vị nói nhiều lời tốt lành, đối với ai cũng đều đừng nói lời ác, như vậy là được rồi. Chẳng phải là không nói năng, hăy nói nhiều kinh Phật. Đối với người khác, hăy nói nhiều về Tam Bảo và nhân quả.

          C̣n nữa, quư vị có thể thấy phiền năo của chúng sanh, hoặc là từ các bộ phim t́nh ái, [sẽ thấy] phiền năo ái t́nh đặc biệt nặng nề, hướng theo con đường tử vong. Nghiệp lại c̣n hết sức sâu, chính ḿnh chẳng dẹp trừ nổi tham dục. Quư vị nh́n từ góc độ nào, đeo cặp kính nào, sẽ hiện ra như thế ấy, đó là tuyệt đối. Đeo kính màu để nh́n, đương nhiên là [thấy mọi vật đều] có màu ấy! Do vậy, “thọ hành Thập Thiện Nghiệp Đạo, diệc khuyến chúng sanh linh thọ học giả, ngă diệc thính hứa xử Sát-đế-lợi quán đảnh vương vị, thọ dụng chủng chủng thắng đại tài nghiệp, cập dư chủng chủng phú quư tôn vị. Nhược chư hữu t́nh vị đắc Pháp Nhẫn, diệc bất thọ hành Thập Thiện Nghiệp Đạo, cập khuyến chúng sanh linh cần thọ học, dĩ cường thế lực” (lănh nhận, hành tŕ Thập Thiện Nghiệp Đạo, cũng khuyên chúng sanh lănh nhận, học theo Thập Thiện Nghiệp Đạo, ta cũng cho phép người đó ở ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh, thọ dụng các thứ đại tài nghiệp thù thắng và các địa vị sang cả phú quư khác. Nếu các hữu t́nh chưa đắc Pháp Nhẫn, mà cũng chẳng lănh nhận, thực hành Thập Thiện Nghiệp Đạo và khuyên chúng sanh siêng năng lănh nhận, học theo, dùng thế lực mạnh mẽ): Thế lực ấy là thế lực ǵ? Tăng trưởng quư vị sanh thiên, thậm chí thành đạo, thậm chí trong tương lai làm người, đời đời kiếp kiếp đều học. Đức Phật cũng chấp nhận họ hưởng thụ các loại đại tài nghiệp (các tài sản, của báu to lớn) thù thắng. [Kẻ như vậy] làm vua quán đảnh, chẳng có vấn đề ǵ, kẻ đó sẽ chẳng tạo nghiệp, có thể hưởng các loại phú quư.

          Trái lại, nếu Sát-đế-lợi, “Chiên-đồ-la vương, cập dư chủng chủng phú quư tôn vị Chiên-đồ-la vương, ngu si, kiêu mạn, hủy hoại, nhiễu loạn ngă thậm thâm pháp, diệt chánh pháp đăng, đoạn Tam Bảo chủng” ([Sát-đế-lợi] Chiên-đồ-la vương và các loại địa vị Chiên-đồ-la vương sang cả phú quư khác, ngu si, kiêu căng, ngạo mạn, hủy hoại, nhiễu loạn pháp rất sâu của ta, diệt đèn chánh pháp, đoạn chủng tánh Tam Bảo): Pháp ấy giống như đèn trí huệ trong xă hội, có ngọn đèn ấy th́ mới có thể tỏa ra quang minh, trừ khử hắc ám. Kẻ đó đă đoạn dứt chủng tánh Tam Bảo. “Ư ngă xuất gia chư đệ tử chúng, chủng chủng năo loạn, chủy khảo, h́nh phạt, đoạt kỳ y bát” (Đối với các đệ tử xuất gia của ta, đủ mọi cách năo loạn, đánh đập, tra khảo, hành h́nh, trừng phạt, tước đoạt y bát của họ): Những dụng cụ cần thiết cho cuộc sống của người tu đạo là cơ nghiệp của họ, đều tước đoạt hết, họ làm sao sống sót nổi? Hoặc buộc họ hoàn tục, hoặc đánh thuế, bắt họ lao dịch. “Hệ bế lao ngục, năi chí đoạn mạng. Ư ngă sở thuyết vi diệu pháp nghĩa, phỉ báng, khinh hủy, chướng tế, ẩn một, bất linh lưu bố” (Giam cầm trong tù ngục, cho đến đoạn mạng. Đối với pháp nghĩa vi diệu do ta đă nói bèn phỉ báng, khinh miệt, hủy hoại, chướng lấp, ẩn giấu, chẳng cho lưu truyền). Tốt-đổ-ba (Stupa) dịch là tháp, hoặc chùa miếu, cùng với Tăng Kỳ vật (vật dụng của Tăng chúng thường trụ) đều bị cướp đoạt. “Thưởng Tăng Kỳ vật” (搶僧祇物) chính là cướp đoạt vật dụng thuộc chùa miếu. “Như thị chư nhân, giai đương trụy đọa Vô Gián địa ngục, thọ chư kịch khổ” (những kẻ như thế, sẽ đều đọa lạc địa ngục Vô Gián, chịu các nỗi khổ tột cùng): Đấy chẳng phải là vấn đề nhỏ nhặt, nhất định phải chịu khổ cùng cực, xoay vần trong đường ác, khó có lúc thoát ra. Mong thoát ra rất khó!

 

          (Kinh) Thời, Kim Cang Tạng Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: - Thế Tôn, nhược chư hữu t́nh, vị đắc Pháp Nhẫn, diệc bất thọ hành Thập Thiện Nghiệp Đạo, cập khuyến chúng sanh linh cần thọ học, dĩ cường thế lực, xử Sát-đế-lợi quán đảnh vương vị, thọ dụng chủng chủng thắng đại tài nghiệp, cập dư chủng chủng phú quư tôn vị, phả hữu biệt duyên, đắc phương tiện cứu, linh kỳ miễn đọa Vô Gián địa ngục, cập dư ác thú, thọ chư khổ phủ?

          ()時金剛藏菩薩復白佛言:「世尊,若諸有情未得法忍,亦不受行十善業道,及勸眾生令勤受學,以強勢力處剎帝利灌頂王位,受用種種勝大財業,及餘種種富貴尊位;頗有別緣,得方便救,令其免墮無間地獄及餘惡趣,受諸苦不?

          (Kinh: Khi ấy, Kim Cang Tạng Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật: - Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu t́nh chưa đắc Pháp Nhẫn, cũng chẳng tiếp nhận, hành tŕ Thập Thiện Nghiệp Đạo, và khuyên chúng sanh siêng năng tiếp nhận, học theo, do thế lực mạnh mẽ mà giữ vương vị Sát-đế-lợi quán đảnh, thọ dụng các thứ đại tài nghiệp thù thắng, và các thứ địa vị sang cả phú quư khác, há có duyên nào khác để phương tiện cứu vớt, khiến cho họ khỏi đọa vào địa ngục Vô Gián và các đường ác, hứng chịu các nỗi khổ hay chăng?)

 

          C̣n có nguyên nhân ǵ để cứu họ hay không? “Linh kỳ miễn đọa Vô Gián địa ngục, cập dư ác thú, thọ chư khổ phủ?” (khiến cho họ khỏi đọa vào địa ngục Vô Gián và các đường ác, hứng chịu các nỗi khổ hay chăng?)

 

          (Kinh) Thế Tôn cáo viết: - Diệc hữu biệt duyên, đắc phương tiện cứu, vị hữu chúng sanh, xử Sát-đế-lợi quán đảnh vương vị, cập dư chủng chủng phú quư tôn vị, tuy phục vị đắc thành tựu Pháp Nhẫn, Thập Thiện Nghiệp Đạo, nhi hữu tín lực tôn kính Tam Bảo, ư Phật sở thuyết tam thừa tương ứng chư xuất yếu pháp, hạ chí nhất tụng, chung bất báng hủy, chướng tế, ẩn một, bất linh lưu bố. Ư Phật xuất gia chư đệ tử chúng, tŕ giới, phá giới, hạ chí vô giới, thế trừ tu phát, bị ca-sa giả, giai bất năo loạn, chủy khảo, trích phạt, xâm đoạt y bát, cơ nghiệp, tài sản, thoái linh hoàn tục, khóa thuế, dịch sử, hệ bế lao ngục, năi chí đoạn mạng, diệc bất xâm đoạt Tốt-đổ-ba vật, cập Tăng Kỳ vật, giá chế, tồi phục chư bạo ác nhân, bất linh năo loạn chư xuất gia chúng, bất linh xâm đoạt Tam Bảo tài vật. Ư Phật sở thuyết tam thừa tương ứng chư xuất yếu pháp, cung kính thính thọ. Kư thính thọ dĩ, tinh tấn tu hành pháp tùy, pháp hành. Ư ngă tam thừa hiền thánh đệ tử, cung kính cúng dường, thân cận, thừa sự. Ư Đại Thừa trung, thệ nguyện kiên cố, chung vô nghi nan, thoái khuất chi tâm, diệc thường khuyến đạo an trí chúng sanh, linh ư Đại Thừa tín thọ, tu học. Thử Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, cập dư chủng chủng phú quư tôn vị Chiên-đồ-la vương, quá khứ chư Phật, giai cộng thính hứa xử đế vương vị, cập dư chủng chủng phú quư tôn vị, tuy phục thọ dụng chủng chủng quốc độ, thành, ấp, tụ lạc thắng đại tài nghiệp, nhi đắc miễn đọa Vô Gián địa ngục, cập dư ác thú. Ngă diệc thính hứa xử đế vương vị, cập dư chủng chủng phú quư tôn vị, tuy phục thọ dụng chủng chủng quốc độ, thành, ấp, tụ lạc, nhi đắc miễn đọa Vô Gián địa ngục, cập chư ác thú. Nhược chư hữu t́nh, dục đắc sám hối, trừ diệt nhất thiết chư ác nghiệp chướng, linh vô dư giả, ư ngă sở thuyết như thị pháp môn, đương cần tu học, vật linh phế vong, hữu năng như thử hiện tiền đại chúng, tàm quư sám hối chư ác nghiệp giả, tiên thế sở tạo nhất thiết ác nghiệp, giai đắc tiêu diệt, vô hữu di dư.

          ()世尊告曰:「亦有別緣,得方便救,謂有眾生處剎帝利灌頂王位,及餘種種富貴尊位,雖復未得成就法忍、十善業道,而有信力尊敬三寶,於佛所說三乘相應諸出要法,下至一頌,終不謗毀、障蔽、隱沒,不令流佈;於佛出家諸弟子眾,持戒、破戒下至無戒,剃除鬚髮、被袈裟者,皆不惱亂捶拷謫罰,侵奪衣缽、基業、財產,退令還俗,課稅役使,係閉牢獄乃至斷命;亦不侵奪窣堵波物及僧祗物,遮制摧伏諸暴惡人,不令惱亂諸出家眾,不令侵奪三寶財物;於佛所說三乘相應諸出要法,恭敬聽受,既聽受已,精進修行,法隨法行;於我三乘賢聖弟子,恭敬供養,親近承事;於大乘中誓願堅固,終無疑難退屈之心,亦常勸導安置眾生,令於大乘信受修學。此剎帝利旃荼羅王,及餘種種富貴尊位旃荼羅王,過去諸佛皆共聽許處帝王位,及餘種種富貴尊位。雖復受用種種國土、城邑、聚落、勝大財業,而得免墮無間地獄及餘惡趣。我亦聽許處帝王位,及餘種種富貴尊位,雖復受用種種國土、執邑、聚落,而得免墮無間地獄及諸惡趣。若諸有情慾得懺悔,除滅一切諸惡業障令無餘者,於我所說如是法門,當勤修學,勿令廢忘。有能如此現前大眾慚愧懺悔諸惡業者,先世所造一切惡業皆得銷滅,無有遺餘。

          (Kinh: Đức Thế Tôn bảo rằng: - Cũng có duyên khác để phương tiện cứu độ, tức là có chúng sanh ở ngôi vị Sát-đế-lợi quán đảnh vương và các địa vị sang cả phú quư khác, tuy vẫn chưa thành tựu Pháp Nhẫn và Thập Thiện Nghiệp Đạo, nhưng có tín lực, tôn kính Tam Bảo. Đối với các pháp xuất thế trọng yếu tương ứng với tam thừa do đức Phật đă nói, dẫu chỉ một bài tụng, trọn chẳng hủy báng, chướng lấp, ẩn giấu, chẳng ngăn cấm lưu truyền. Đối với các vị đệ tử xuất gia của Phật, dẫu là tŕ giới, phá giới, thậm chí kẻ chẳng có giới, cạo bỏ râu tóc, đắp y ca-sa, đều chẳng năo loạn, đánh đập, tra khảo, trừng phạt, cướp đoạt y bát, cơ nghiệp tài sản, ép buộc hoàn tục, đánh thuế, lao dịch, giam cầm trong tù ngục, cho đến đoạn mạng, cũng chẳng cướp đoạt vật từ tháp và vật dụng của Tăng Kỳ, ngăn trở, chế phục, dẹp yên những kẻ bạo ác, chẳng cho chúng nó năo loạn các vị xuất gia, chẳng để cho chúng nó cướp đoạt tài vật của Tam Bảo. Cung kính nghe nhận các pháp xuất thế trọng yếu tương ứng với tam thừa do đức Phật đă nói. Đă nghe nhận rồi bèn tinh tấn tu hành pháp tùy, pháp hành. Đối với các đệ tử thuộc tam thừa hiền thánh của ta, cung kính cúng dường, thân cận, thừa sự. Trong Đại Thừa, thệ nguyện kiên cố, trọn chẳng có tâm ngờ vực, lui sụt, cũng thường khuyên dạy, đặt yên chúng sanh, khiến họ tin nhận, tu học Đại Thừa. Vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la ấy và các vua Chiên-đồ-la thuộc địa vị sang cả phú quư được quá khứ chư Phật đều cùng cho phép ở ngôi vua và các địa vị sang cả phú quư khác, tuy lại thọ dụng các thứ đại tài nghiệp thù thắng nơi quốc độ, thành, ấp, xóm làng, mà thoát khỏi đọa vào địa ngục Vô Gián và các đường ác. Ta cũng cho phép họ ở ngôi vua và các địa vị sang cả phú quư khác, tuy lại thọ dụng các thứ quốc độ, thành, ấp, xóm làng, mà thoát khỏi đọa vào địa ngục Vô Gián và các đường ác. Nếu các hữu t́nh muốn được sám hối, trừ diệt hết thảy các ác nghiệp chướng, khiến chẳng c̣n sót, th́ đối với pháp môn do ta đă nói như thế này, hăy siêng năng tu học, đừng bỏ phế, quên mất. Có kẻ nào hổ thẹn, sám hối ác nghiệp như hiện tiền đại chúng th́ hết thảy ác nghiệp đă tạo trong đời trước sẽ được tiêu diệt, chẳng c̣n thừa sót).

 

          Phương tiện thiện xảo nhằm cứu độ họ. Có các chúng sanh ở ngôi vị Sát-đế-lợi quán đảnh, hoặc là các thứ địa vị sang cả phú quư khác, không nhất định là địa vị nào, nói chung là các địa vị cao sang phú quư, tuy chẳng thành tựu Vô Sanh Pháp Nhẫn, hoặc chẳng thành tựu [các môn] Pháp Nhẫn khác, hoặc chẳng thành tựu Thập Thiện Nghiệp Đạo, nhưng kẻ đó có tín tâm. Chỉ cậy vào sự tin tưởng, ngưỡng mộ, cung kính, tôn kính Tam Bảo. Đối với các pháp xuất thế trọng yếu tương ứng với Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa, và Đại Thừa, họ cung kính nghe nhận. Pháp xuất yếu chính là phương pháp quan trọng nhất để xuất ly sanh tử, là đạo pháp thiện xảo phương tiện trọng yếu nhất. “Hạ chí nhất tụng” tức là chỉ nói một bài kệ tụng. Các điều khác chẳng nói, chỉ biết nói “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ diệc như điển, ưng tác như thị quán” (hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương cũng như chớp, hăy nên quán như thế): Bài kệ tụng ấy tuyệt diệu thay! Đó chính là yếu nghĩa của toàn bộ kinh Kim Cang. Quư vị nói với người khác, hết thảy các pháp hữu vi đều là khổ, đều là không, vô thường huyễn hóa”, ta c̣n tham đắm chi nữa? Họ liền chứng đạo, giải thoát, công đức của quư vị to lớn!

          Vào thời Chánh Pháp là như thế đó, chỉ cần nghe một bài kệ tụng liền khai ngộ. Một trong năm vị tỳ-kheo được đức Phật độ đầu tiên là tỳ-kheo Mă Thắng (A Thuyết Thị, Aśvajit), ngài Xá Lợi Phất thấy oai nghi của tỳ-kheo Mă Thắng bèn hỏi: “Sư phụ của Ngài là ai? Sư phụ của Ngài nói pháp ǵ?” Tỳ-kheo Mă Thắng đáp: “Tôi chỉ nói cho ông hai câu: Chư hành vô thường, là pháp sanh diệt”. Ngài Xá Lợi Phất liền chứng đắc quả A La Hán. Đấy là một bài kệ chỉ gồm hai câu thôi! Lục Tổ Huệ Năng nghe người khác tụng kinh Kim Cang đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (đừng nên trụ vào đâu mà sanh cái tâm), Ngài liền khai ngộ, thành tựu, một câu thôi! Bất quá, người tụng kinh Kim Cang hoàn toàn chẳng khai ngộ, người nghe kinh khai ngộ! Tôi giảng kinh ở đây, tôi chẳng khai ngộ, các vị khai ngộ; đấy là công đức của quư vị, tôi cũng có phần.

          Người như thế, đức Phật cũng chấp thuận cho họ hưởng thụ các của cải ấy. V́ sao? V́ kẻ đó chẳng hủy báng, không ẩn diệt, tức là không hủy báng, không ẩn diệt thánh pháp, không ngăn cấm lưu truyền. Đối với các vị đệ tử xuất gia, tŕ giới, phá giới, cho đến kẻ chẳng có giới, chỉ cần cạo bỏ râu tóc, đắp y ca-sa, người đó chẳng năo loạn, đánh đập, tra khảo, trừng phạt, cướp đoạt y bát là tài sản cơ nghiệp của họ. “Thoái linh hoàn tục, khóa thuế, dịch sử, hệ bế lao ngục, năi chí đoạn mạng” (buộc họ hoàn tục, đánh thuế, bắt làm phu phen, bắt giam vào tù, cho đến đoạn mạng): Kẻ đó sẽ chẳng làm [những chuyện ấy]. Đấy là vua Sát-đế-lợi có tín tâm. C̣n như đoạn mạng, “diệc bất xâm đoạt Tốt-đổ-ba vật, cập Tăng Kỳ vật” (củng chẳng cướp đoạt vật dụng của tháp thờ và vật dụng của Tăng chúng), kẻ đó chẳng làm. Đối với tài sản của Tốt-đổ-ba hoặc chùa miếu, người đó chẳng dính dáng tí nào, mà cũng chẳng cướp đoạt. Người đó có thể ngăn trở, chế phục, dẹp tan những đứa bạo ác, cũng chẳng để cho chúng nó năo loạn người xuất gia, cũng chẳng để chúng nó cướp đoạt tài vật của Tam Bảo. Vua Sát-đế-lợi có quyền lực, đối với các pháp xuất yếu tương ứng với tam thừa, đều có thể cung kính nghe nhận. Đă nghe nhận, lại c̣n có thể chiếu theo đó mà thực hiện, tinh tấn tu hành, tu hành pháp tùy và pháp hành.

          Thế nào là pháp tùy, pháp hành? Chẳng hạn như đối với pháp sanh diệt, người ấy chẳng nói, chỉ nương theo sự vật, thấy chúng hư hoại, v́ sao hư hoại? Vô thường! Đó gọi là tùy thuận. Người ấy chẳng biết đến Phật pháp, nhưng có thể biết hàm nghĩa ấy, đó gọi là “tùy thuận Phật pháp”. Trái nghịch Phật pháp th́ sao? Đức Phật nói vô thường, người ấy bèn diễn giải thành đoạn diệt, bảo đó là do chính Thích Ca Thế Tôn đă nói. Đối với câu “chư hành vô thường”, [bèn hiểu lệch lạc] vô thường là không có. Như thế là chẳng tùy thuận pháp. Cùng một câu nói, hễ tùy thuận bèn có thể thành đạo, phước đức vô lượng. Chẳng tùy thuận, tội nghiệp vô biên. Đấy là tùy thuận pháp, chúng ta thường lư giải sai lầm, cho nên nói là kẻ ấy chẳng tùy thuận pháp này. Đối với pháp xuất yếu tương ứng với tam thừa do đức Phật đă nói, hăy cung kính nghe nhận. Đă nghe nhận rồi bèn có thể “tinh tấn tu hành”, đó là pháp tùy, pháp hành”. Tùy thuận pháp tam thừa th́ chúng ta nói Không, Không theo ư nghĩa “hiển lộ Diệu Hữu”. Các kho công đức của Như Lai chẳng không. “Không”“đoạn sạch hết thảy phiền năo”, kho công đức của các vị Như Lai chẳng không. Thật sự trông thấy Pháp Thân, chư Như Lai Tạng cũng không. Nhưng tùy thuận pháp, tùy thuộc quư vị nói như thế nào, “ư ngă tam thừa hiền thánh đệ tử, cung kính cúng dường, thân cận, thừa sự” (đối với các đệ tử thuộc tam thừa hiền thánh của ta, bèn cung kính cúng dường, thân cận, thừa sự).

          Nhưng từ đầu đến cuối, đối với thệ nguyện Đại Thừa, chắc chắn trọn chẳng hoài nghi, hoặc là nguy nan, hoặc là thoái khuất, cái tâm ấy chưa bao giờ hoài nghi, tức là chung vô nghi nan, thoái khuất chi tâm” (trọn chẳng có tâm nghi nan hoặc lui sụt), chẳng v́ pháp khó khăn, chẳng v́ con đường tu hành dài lâu mà ôm ḷng sợ hăi, lui xuống Nhị Thừa! Đại Thừa kiên cố, “diệc thường cần đạo, an trí chúng sanh, linh ư Đại Thừa tín thọ tu học” (cũng thường siêng năng hướng dẫn, đặt yên chúng sanh, khiến cho họ tin nhận, tu học Đại Thừa): Khiến cho hết thảy chúng sanh tin pháp Đại Thừa, khéo tu, khéo học. “Thử Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, cập dư chủng chủng phú quư tôn vị Chiên-đồ-la vương, quá khứ chư Phật giai cộng thính hứa” (Vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la ấy và các địa vị vua Chiên-đồ-la phú quư sang cả khác đều được quá khứ chư Phật cùng chấp thuận): Nói đến vua ác này, cũng cho phép ông ta, chỉ cần ông ta sửa đổi, chẳng làm ác nữa, [chư Phật] cho phép ông ta ở ngôi vị đế vương. Quá khứ chư Phật đều cho phép như thế. “Cập dư chủng chủng phú quư tôn vị, tuy phục thọ dụng chủng chủng quốc độ, thành, ấp, tụ lạc thắng đại tài nghiệp” (và các thứ địa vị sang cả phú quư khác, tuy vẫn thọ dụng các thứ đại tài nghiệp thù thắng nơi quốc độ, thành, ấp, xóm, làng): Tất cả của cải trong nước, kẻ đó được hưởng thụ mà chẳng đọa vào địa ngục Vô Gián. Đấy là được đức Phật cho phép, sẽ chẳng đọa vào các đường ác khác! Ta c̣n “thính hứa xử đế vương vị, cập dư chủng chủng phú quư tôn vị, tuy phục thọ dụng chủng chủng quốc độ, thành, ấp, tụ lạc, nhi đắc miễn đọa Vô Gián địa ngục cập chư ác thú” (cho phép kẻ đó ở ngôi vị đế vương và các địa vị sang cả phú quư khác, tuy vẫn thọ dụng các thứ quốc độ, thành, ấp, tụ lạc, mà được thoát khỏi địa ngục Vô Gián và các đường ác), tức là ác vương chỉ cần sám hối th́ cũng được hứa khả!

          Tại Ấn Độ, Đề Bà Đạt Đa và vua Vô Yếm Túc (A Xà Thế), một người hại Phật, một người giết vua cha, phạm tội ngỗ nghịch, cả hai đều đáng đọa vào địa ngục. Sau này, vua Vô Yếm Túc sám hối, hộ tŕ Phật pháp, hộ tŕ Tam Bảo, đức Phật cũng chấp thuận cho ông ta sám hối, đạt được thanh tịnh. Do vậy, các hữu t́nh có thể sám hối là được, có thể trừ diệt hết thảy ác nghiệp và nghiệp chướng.

          “Ư ngă sở thuyết như thị pháp môn, đương cần tu học” (đối với pháp môn do ta đă nói như thế, hăy nên siêng tu học): Ta nói ra hai mươi pháp ấy, phải khéo tu học, một đằng là tu pháp Thập Thiện Nghiệp, chúng ta thực hiện pháp Thập Thiện Nghiệp được! Thật ra, Thập Thiện Nghiệp là chánh lộ Pháp Nhẫn, mọi người hăy thấu hiểu đôi chút. Thập Thiện Nghiệp là công đức do quư vị thực hiện, có cạn và sâu. [Chẳng hạn như đối với] chẳng giết, không chỉ là ta chẳng giết, mà c̣n khuyên hết thảy mọi người đừng giết. Thập Thiện Nghiệp ấy sẽ chẳng phải là Thập Thiện Nghiệp b́nh phàm. Ta không chỉ chẳng uống rượu, mà c̣n khuyên hết thảy chúng sanh không uống rượu. V́ sao không uống rượu? Hăy nói rơ với bọn họ. Chẳng giết, chẳng trộm v.v… Đó là Ngũ Giới.

          Có đạo hữu sợ thọ Ngũ Giới, nói là “sợ thọ v́ lỡ phạm th́ làm thế nào đây?” Đă phạm th́ đương nhiên là sai lầm. Đă phạm, hăy sám hối. Hễ phạm, liền sám hối ngay. Nhưng quư vị có hiểu công đức thọ Ngũ Giới hay không? Quư vị thọ Ngũ Giới, chẳng mất thân người, có biết hay không? Quư vị chẳng biết điều này! Chỉ nghĩ tới phương diện bất lợi, v́ sao chẳng suy xét phương diện có lợi? Quư vị thọ Ngũ Giới, sẽ có hai mươi lăm vị thần hộ pháp thủ hộ quư vị. Quư vị toan phạm giới, họ sẽ ngăn chặn, khiến cho quư vị chẳng phạm. Nay quư vị chẳng thọ giới, đối với năm loại tội, [hễ vi phạm], vẫn có tội báo y hệt! Quư vị giết người, chẳng phạm tội ư? Có thể thoát tội hay không? Quư vị đă thọ giới, sau đó giết người, đối trước Phật, sám hối, niệm kinh chú gia tŕ, dùng sức mạnh khác để giúp đỡ quư vị, đừng nên sanh khởi tà tri, tà kiến.

          Đă thọ giới mà phạm giới th́ biết làm sao đây? Tri kiến ấy chẳng chánh xác. V́ sao lại phạm? Tuy quư vị chẳng thọ các giới ấy, hễ phạm, vẫn mắc tội. Đức Phật chế giới, dạy quư vị đừng nên phạm các giới ấy. Tôi lại nói một loại công đức của giới. Giới có sức gia tŕ, tức là gia tŕ khiến cho quư vị chẳng làm. Giết, trộm, dâm, tôi nghĩ không một chúng sanh nào chẳng phạm, nhưng quốc gia vẫn chấp nhận cho phạm. Giống như trách nhiệm thuộc về công việc mà người ấy phải chấp hành. Quư vị nói đấy là sát sanh, giết lợn, giết dê, phạm tội ǵ? Ai định tội cho kẻ đó? Trong quan hệ vợ chồng, nếu bảo đó là phạm giới dâm th́ loài người đều đoạn tuyệt! Có thể nói như vậy hay không? Chẳng thể nào! Không được! Người ấy (người đă thọ giới) có sức gia tŕ. Chẳng phải là nói [thọ giới, sợ sẽ] vi phạm. Quư vị phải suy xét từ phương diện công đức của thọ giới. [Cũng giống như] học Phật pháp, nghe nói có nhiều địa ngục dường ấy, [bèn tự nhủ] “ta không học Phật th́ tốt hơn!” Đúng hay không? Ta ngay cả địa ngục cũng chẳng biết, ta cũng chẳng tin tưởng [có địa ngục, phải đền trả quả báo], nhưng tội đă làm th́ quư vị vẫn phải chịu! Ta không tin, sẽ chẳng phải chịu tội ư? Đâu có tiện nghi như thế! Quư vị không tin, vẫn phải chịu tội. Bất quá, đức Phật nói ra th́ có lợi [v́ người nghe thấy các thứ tội báo, sẽ kinh sợ chẳng dám phạm tội], đừng nên hiểu lầm ư nghĩa. Chẳng phải là tôi xúi quư vị thọ Ngũ Giới. Nếu quư vị cảm thấy “ta chẳng thọ giới được”, vẫn chẳng cần phải thọ. Bất quá, quư vị phải nghĩ đến công đức gia tŕ do thọ Ngũ Giới [để suy xét]!

          Sau này, tôi nghĩ lại, kể từ sau khi xuất gia, đă thọ giới tỳ-kheo, tôi nói:Nguy hiểm quá! Hở ra là phạm lỗi. Hai trăm năm mươi giới, từng giới điều một, tám vạn bốn ngàn oai nghi, Thanh Quy Giới Luật nhiều ngần ấy”. Lúc đó, thật sự muốn xả giới hoàn tục cho rồi, kham chẳng nổi! Điều này chẳng thể làm, điều kia chẳng thể làm! Đối với bốn oai nghi, tùy tiện quư vị làm điều ǵ, ở trong chùa miếu, lúc mới xuất gia, cử chỉ động tác, không có ǵ chẳng phạm sai lầm! Tôi nhớ khi quải đơn, thuở đó vẫn chưa có đèn. Trong đêm tối, ra nhà vệ sinh quá xa. Nhà vệ sinh cũng chẳng có đèn, không thể đi. Ban đêm thức dậy tiểu tiện, làm thế nào đây? Vị thầy tri khách đặt dưới cửa sổ mấy cái thùng chứa nước tiểu để mọi người giải quyết tại đó. Khi đó, vị thầy tri khách nói: “Vị này nhất định là mới tới quải đơn”. Tôi nói: “Thầy tri khách này có thần thông, làm sao ổng biết là ḿnh vậy ḱa?” Hóa ra v́ tôi đi tiểu, chẳng tiểu đúng cách. Mọi người có biết nghĩa là sao hay không? Tiểu tiện chẳng thể vang ra tiếng. Hễ có tiếng, sẽ kinh động người khác! Ăn cơm, tiểu tiện, cho đến hết thảy các hành động, không có chỗ nào chẳng có Thanh Quy Giới Luật. Kẻ mới xuất gia vừa mới thọ Sa Di làm sao giữ cho đúng hết được?

          “Sám hối trừ diệt nhất thiết chư ác nghiệp chướng, linh vô dư giả, ư ngă sở thuyết thị pháp môn” (Sám hối trừ diệt hết thảy các ác nghiệp chướng khiến cho chẳng thừa sót, đối với pháp môn do ta đă nói như thế), nếu quư vị khéo tu học, vậy th́ “tiên thế sở tạo nhất thiết ác nghiệp, giai đắc tiêu diệt vô hữu di dư” (hết thảy ác nghiệp đă tạo trong đời trước đều được tiêu diệt, chẳng c̣n thừa sót), người ấy đối trước Phật sám hối chẳng c̣n sót. Nay chúng ta đă nghe kinh Đại Tập Thập Luân, lúc bái sám, quư vị liền lạy ba lạy, niệm thầm: “Con nghe kinh Đại Tập Thập Luân, đức Phật giảng phẩm Sám Hối, con đều trọn đủ [các tội lỗi ấy]. Con cũng phát nguyện như thế, hy vọng Phật sẽ gia tŕ con, hy vọng Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ”. Quư vị cũng sẽ trọn đủ giống như những người đó. Tôi nói như vậy, quư vị chẳng tin cũng được! Chẳng phạm lỗi ǵ!

Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần 12 hết

 

 

 



[1] Đây là cách chơi chữ, bên cạnh chữ Băng () có hai chấm, trong khi những chữ thuộc bộ Thủy () sẽ có ba chấm, chẳng hạn như chữ Tương ().

[2] “Tàu bay” là từ ngữ dùng để tạm dịch chữ Airship (phát minh của ông Zeppelin, người Hoa gọi là “phi đĩnh” hay “phi thuyền”, trong khi các loại phi thuyền như Appollo sẽ được gọi là Thái Không Phi Thuyền hoặc Vũ Trụ Phi Thuyền khi cần phân biệt rơ) để phân biệt với các loại phi cơ sau này. Đấy là một loại khinh khí cầu có khung cứng. Mỗi chiếc Zeppelin có h́nh dạng thon dài trông như một điếu x́ gà, có khung bằng kim loại (thường là hợp kim bằng đồng và nhôm), bọc vải dầu. Bên trong chứa những túi đựng khí hydrogen để giúp Zeppelin có thể bay lên, có động cơ để điều khiển sức đẩy và định hướng. Phía dưới cái khung ấy có khoang chứa hành khách. Zeppelin được sử dụng để chở hành khách tại Âu Châu trước Thế Chiến thứ nhất. Thời Thế Chiến thứ nhất, Đức đă dùng Zeppelin để ném bom các nước Đồng Minh.

[3] Danh hiệu đầy đủ của vị Phật này là Đại Thông Sơn Vương Như Lai. Đúng ra, vị Phật cuối cùng trong phẩm kinh ấy là Nguyệt Diện Phật, nhưng v́ Ngài được nói gộp chung với Tịnh Nguyệt Phật, Sơn Vương Phật, Trí Thắng Phật, Tịnh Danh Vương Phật, Trí Thành Tựu Phật, Vô Thượng Phật, Diệu Thanh Phật, Măn Nguyệt Phật cho nên không nói riêng. Đại Thông Sơn Vương Phật là vị Phật cuối cùng được nói riêng công đức.

[4] Sảnh trưởng (廳長, đúng ra phải đọc là Thính Trưởng, nhưng do thói quen ta vẫn quen đọc là Sảnh Trưởng), là người đứng đầu một cơ quan hành chánh trực thuộc cấp tỉnh, hoặc thành phố, tương đương với ty trưởng. Sảnh trưởng cũng là chức vụ đứng đầu các phân ban chuyên môn trực thuộc Quốc Vụ Viện (phủ Thủ Tướng) theo quy chế của Hoa Lục, tương đương chức cục trưởng.

[5] Thẩm Dương là tỉnh lỵ của tỉnh Liêu Ninh. Sở dĩ có tên là Thẩm Dương v́ thành phố nằm ở phía Bắc sông Thẩm Thủy. Đến đời Thanh, khi Thanh Thái Tổ (Hoàng Thái Cực) lập ra vương triều Hậu Kim, đă chọn nơi đây làm kinh đô, gọi là Thịnh Kinh. Đến thời Thanh Thế Tổ (Thuận Trị) đă đổi vùng này thành Phụng Thiên Phủ. Do vậy, Thẩm Dương được gọi là Phụng Thiên, hay gọi theo tiếng Măn Châu là Mukden. Tới năm 1929, chính quyền quân phiệt Trương Học Lương đă dựa theo danh xưng đời Liêu (Thẩm Châu Thành) để đổi Phụng Thiên thành Thẩm Dương. Thành phố này đă có từ thời Chiến Quốc, được coi là một trọng trấn của nước Yên.

[6] Trương Học Lương (1901-2001), tự Hán Khanh, hiệu Nghị Am, tên cúng cơm là Song Hỷ, quê ở Hải Thành thuộc Phụng Thiên, là quân phiệt vùng Phụng Thiên, vốn là con trưởng của quân phiệt Trương Tác Lâm. Ông từng làm Tổng Tư Lệnh Bảo An vùng Đông Bắc. Về sau, ông theo Quốc Dân Đảng. Trương Học Lương từng làm đến cấp bậc thượng tướng trong quân đội Đài Loan, nhưng do từng trở cờ bắt giam Tưởng Trung Chánh (Tưởng Giới Thạch) tại Tây An, ông bị nghi kỵ, bị giam lỏng suốt năm mươi năm tại nhà riêng cho đến khi Lư Đăng Huy làm tổng thống Đài Loan mới được trả tự do hoàn toàn.

[7] Đại Dương (大洋) là đồng tiền tṛn đúc bằng bạc thời Dân Quốc, c̣n gọi là Ngân Viên, Ngân Nguyên, Viên Ngân, Ngân Bính, Ngân Tiền, Ngân Dương, Dương Ngân, Đại Dương Tiền, Dương Điền, hay Quang Dương. Đồng Đại Dương thời Dân Quốc đúc bằng bạc, nặng 26 gr, thường là một mặt ghi chữ Nhất Viên (壹圓, một đồng), mặt kia đúc nổi h́nh Tôn Văn, hay chân dung lănh tụ chính quyền quân phiệt nơi đồng bạc lưu hành. Đồng tiền này thật ra là hợp kim bạc pha đồng, và được thay thế bằng một h́nh thức tiền tệ mới gọi là Pháp Tệ () vào năm 1935. Tuy vậy, theo thói quen, đơn vị tiền tệ vẫn gọi là Viên (, Yuan, đôi khi viết thành 元, nguyên), và danh xưng này được dùng tại Đài Loan cho đến ngày nay tuy đă sử dụng tiền giấy (và từ năm 1949, chính quyền Đài Loan đă phát hành đồng tiền mới là Tân Đài Tệ, nhưng mọi người vẫn quen gọi đơn vị tiền tệ là Viên hoặc Nguyên).

[8] “Pháp sư” ở đây là những vị thật sự có khả năng thuyết pháp, thông thuộc, thâm nhập Kinh Tạng, có chánh kiến, giảng pháp tối thiểu không trái nghịch với tinh thần của Phật và chư tổ, chẳng phải là người có khẩu tài, khéo biện bác, lập ra dị thuyết, mà cũng chẳng phải danh xưng thông thường để gọi các vị xuất gia như thường sử dụng tại Trung Hoa và Đài Loan.