Đại
Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần
5
大乘大集地藏十輪經講記
Mộng
Tham lăo ḥa thượng chủ giảng
梦参老和尚主講
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh:
Đức Phong và Huệ Trang
(Kinh)
Thiện nam tử! Như Sát-đế-lợi quán đảnh
đại vương, sơ đăng vương vị,
thọ đế chức dĩ, quán sát quá khứ, vị
lai, hiện tại chư vương pháp đạo, ư
kỳ chủng chủng vương nghiệp luân trung,
dĩ thiện quán sát nhân quả báo trí, tùy kỳ sở
ưng, kiến lập nhất thiết phụ thần,
liêu tá, phổ cập quốc ấp ngu trí nhân dân tam chủng
nghiệp luân. Do thử nghiệp luân, suất độ
chúng sanh trường dạ thọ dụng, sở hữu
chủng chủng thích ư tư cụ, hỷ lạc tăng
trưởng, năng diệt nhất thiết oán địch,
ác hữu. Hà đẳng danh vi tam chủng nghiệp luân? Nhất
giả, kiến lập đế vương nghiệp
luân, vị thiện giáo tập quân trận đấu chiến,
hàng tha binh chúng, phủ dục nhân dân. Nhị giả, kiến
lập điền trạch nghiệp luân, vị thiện
giáo tập tạo xá, doanh nông, linh đắc an ổn, ẩm
thực sung túc. Tam giả, kiến lập tài bảo nghiệp
luân, vị thiện giáo tập công thương tạp nghệ,
linh đắc chủng chủng trân ngoạn, tư tài, tùy
ư thọ dụng, tăng chư khoái lạc. Thiện nam tử!
Sát-đế-lợi chủng quán đảnh đại
vương, thành tựu như thị đệ nhị
vương luân. Do thử luân cố, ư tự quốc
độ, đắc an lạc trụ, năng phục nhất
thiết oán địch, ác hữu, thiện thủ hộ
thân, linh tăng thọ mạng.
(經)善男子,如剎帝利灌頂大王,初登王位,受帝職已,觀察過去、未來、現在諸王法道,於其種種王業輪中,以善觀察因、果、報、智,隨其所應,建立一切輔臣僚佐,普及國邑愚智人民三種業輪;由此業輪,率土眾生長夜受用,所有種種適意資具,喜樂增長,能滅一切怨敵惡友。何等名為三種業輪?一者,建立帝王業輪,謂善教習軍陣斗戰,降他兵眾,撫育人民;二者,建立田宅業輪,謂善教習造舍營農,令得安隱,飲食充足;三者,建立財寶業輪,謂善教習工商雜藝,令得種種珍玩資財,隨意受用,增諸快樂。善男子,剎帝利種灌頂大王,成就如是第二王輪。由此輪故,於自國土得安樂住,能伏一切怨敵惡友,善守護身,令增壽命。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Như đại vương thuộc
chủng tánh Sát-đế-lợi đă được quán
đảnh, mới lên ngôi vua, nhận lănh chức vị
đế vương xong, quan sát đạo pháp của các
vị vua trong quá khứ, vị lai, hiện tại, từ
trong các thứ vương nghiệp luân, dùng trí khéo quan sát
cái nhân và quả báo, tùy theo lẽ đáng nên mà kiến lập
hết thảy các đại thần, quan chức phù tá, phổ
cập ba thứ nghiệp luân cho nhân dân dù ngu hay trí trong
nước. Do các nghiệp luân ấy, chúng sanh cả nước
được thọ dụng trong đêm dài. Tất cả
các thứ vật dụng cần dùng đẹp
ư, tăng trưởng vui sướng, có thể diệt hết
thảy oán địch và bạn ác. Những ǵ là ba thứ
nghiệp luân? Một là đế vương nghiệp
luân, tức là khéo dạy dỗ, tập luyện quân trận
chiến đấu, đánh bại các quân đội khác, vỗ
về, nuôi nấng nhân dân. Hai là kiến lập nghiệp
luân ruộng đất, nhà cửa, tức là khéo dạy bảo,
huấn luyện [dân chúng] tạo dựng nhà cửa,
chăm lo nông nghiệp, khiến cho [dân chúng] được
an ổn, ăn uống sung túc. Ba là kiến lập nghiệp
luân của cải, tức là khéo dạy dỗ, huấn luyện
công, thương, các ngành nghề, khiến cho họ đạt
được đủ thứ đồ trân ngoạn, vật
dụng sanh hoạt, tăng trưởng các sự vui
sướng. Này thiện nam tử! Đại vương
thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi đă được
quán đảnh thành tựu vương luân thứ hai
như vậy. Do luân ấy, [nhà vua sẽ] trụ an ổn
trong quốc độ của chính ḿnh, có thể chế phục
hết thảy oán địch và bạn ác, khéo giữ ǵn
thân thể, tăng thêm thọ mạng).
Đoạn
kinh văn này nói vị vua đă được quán đảnh
sau khi kế thừa ngôi vua, đă quan sát pháp luật và tất
cả chánh sách cai trị nhân dân do các vị vua trong quá khứ
ấn định. Sau khi ông ta quan sát, [nhận thấy]
trong ấy có thiện và ác, có tốt đẹp, có xấu
xa. V́ sao trong quá khứ, quốc gia có lắm tai họa?
Đó là v́ pháp luật chẳng
kiện toàn, thậm chí, chẳng tuân chiếu pháp luật
để thực hiện. Dùng trí huệ quan sát các loại
nhân quả, [nhận thấy] điều ǵ đáng nên cải
cách, ông ta bèn sửa đổi. Do như vậy, đối
với các quan lại, đại thần, cho đến
đối với hết thảy nhân viên công tác, nhà vua kiến
lập ba thứ nghiệp luân.
“Nghiệp”
(業) là cái được thực hiện, “Luân” (輪) là tỷ dụ. “Luân” có thể tiêu trừ hết
thảy Hoặc nghiệp của chúng sanh. Ở đây là
nói theo Phật giáo. Nói theo người tại gia, sẽ là
đập tan những thứ bất chánh, kiến lập
những điều chánh xác. Trong mỗi quốc độ,
đại đa số các vị quốc vương thuở đầu lập quốc, mới khởi sự đều tốt,
dần dần hủ bại, suy vong, đọa lạc. Vương triều
mới lại sanh khởi. Đă sanh khởi
vương triều mới, sẽ lại kiến
lập lần nữa, nhưng nghiệp luân của Phật
giáo chẳng phải là như vậy. Trong quá khứ, chúng
ta đă là như thế, hiện tại là như thế,
tương lai sẽ là như thế, vĩnh viễn
như thế.
Vị
vua quán đảnh ấy kiến lập ba loại nghiệp
luân, tức là thực hiện các nghiệp. Các nghiệp ấy
có tốt và xấu. Ông ta suất lănh chúng sanh sống rất
thoải mái, rất vừa ư, rất hưởng thụ.
Kiến tạo ba loại nghiệp luân là để khiến cho nhân
dân trong quốc gia của ông ta sống an định, vui
sướng. Oán địch bên ngoài, hoặc bạn ác bất
thiện đều bị đập tan th́ ông ta mới có
thể kiến lập sự nghiệp đế
vương. Điều thứ nhất là tập luyện
vũ trang. Bất cứ quốc gia nào, nếu chẳng có
vũ lực để bảo vệ, người khác sẽ
lấn hiếp họ. Quốc gia cường đại
đều có sức mạnh vũ trang. Mọi người
đọc tin tức trên báo chí, [sẽ thấy] nước
Pháp không đếm xỉa bị phản đối, vẫn
thử vũ khí hạch nhân sâu hơn. V́ sao? Họ muốn
đích thân thăm ḍ để chính ḿnh nắm chắc. Chẳng
thăm ḍ, khi bị người khác khi dễ, họ cũng chẳng có cách
nào! Nhưng thường là giữa các quốc gia, tôi đă
có, vẫn chẳng chấp thuận cho anh có. Đấy là
nước lớn chèn ép nước nhỏ.
Hiện
thời, từ một nhược quốc chuyển biến
thành cường quốc, đă đổi thành một vị
vua mới, điều thứ nhất là phải dạy
nhân dân của ông ta luyện tập chiến đấu, an
định, và giáo dục nhân dân của chính ḿnh.
Đấy là loại nghiệp luân thứ nhất, nhằm
bảo vệ quốc gia. Tôi nhớ khi c̣n bé, trong huyện
thường đắp tường thành v́ sợ cường
đạo hay thổ phỉ tấn công. Hiện thời,
chỉ sợ ngay cả tường thành cũng chẳng
có tác dụng chi hết! Hiện thời, [tường
thành] đều bị phá hủy, v́ [bom đạn] có thể
từ trên không trung giáng xuống. Càng về sau, càng phát triển,
càng dữ dội hơn nữa, giống như kiếp
đao binh như đức Phật đă nói: “[Những ǵ] thuận tay cầm lấy
đều là vũ khí. Cỏ cây đều là binh khí, đều
có thể giết người”. Hiện thời
đă gần như là vậy. Vũ khí hóa học chẳng
phải là như thế hay sao? Loại luân này ắt cần
phải kiến lập.
Loại
thứ hai là trước hết phải tạo dựng nhà
ở. Có chỗ ở th́ cũng là nghiệp luân về ruộng đất và nhà cửa. Có đất đai
để khai phá, có đất đai để canh tác, trồng
trọt, kiến tạo nhà ở. Do vậy, ông ta (vị
vua quán đảnh) phải có các phương pháp, chỉ dạy
họ kiến tạo nhà cửa như thế nào. Chúng tôi
đă thấy [nhiều loại] nhà cửa, có rất nhiều
nơi không giống nhau. Tôi ở Tứ Xuyên, thấy
người Tứ Xuyên dựng nhà tranh. Tôi nói: “Nay quư vị
có ngói và gạch, v́ sao không xây nhà?” Họ nói: “Ở trong nhà
xây bằng gạch ngói chẳng thoải mái!” Tôi hỏi: “Sao vậy?” Họ nói: “Chúng tôi dựng nhà tranh,
Đông ấm, Hạ mát. Nhà xây gạch
ngói th́ không được. Những thứ này, đôi ba
năm chúng tôi có thể dỡ bỏ, đổi mới.
Nhà xây bằng gạch ngói rất khó thay mới”. Nhà tranh ở
Tứ Xuyên có sườn nhà bằng trúc, khi gặt
hái xong, sẽ lợp mái cỏ mới.
Nhà cửa của họ xác thực là có ư vị mới mẻ.
Cách mấy năm sẽ đổi một
lần, đó là nhà tranh. Tây Tạng càng đơn giản
hơn nữa, hết thảy [các vật liệu] đều
lấy từ thân ḅ[1].
Dùng lông ḅ dệt thành vải bạt, ghép lại [thành lều],
kể như tuyết đổ dầy cách mấy, họ
cũng chẳng sợ. Trong khoảng khảy ngón tay, tuyết
sẽ trôi tuột đi. Khi họ chuyển nhà, tháo lều
ra, chất lên lưng ḅ chở đi, đến chỗ nào
cũng đều được. Nhà của họ tùy thời
biến hóa, v́ là lều bạt dệt từ lông ḅ. Kiến
thiết chỗ ở chính là điều cần thiết nhất
trong đời người. Hiện thời, chúng ta sang
đất nước của người khác, điều
cần phải làm đầu tiên là mua nhà để ở
cho thoải mái. Chẳng có nhà, quư vị sẽ chẳng an
định.
Luân
thứ hai là đă xây dựng nhà cửa xong, c̣n phải có
ruộng đất. Chẳng có ruộng đất, làm sao
có thể sống c̣n cho được?
Những thứ chúng ta ăn toàn là do đất sanh ra.
Như vậy th́ làm cho nhân dân trong nước được
an ổn, ăn uống sung túc, có ăn, có mặc, họ
mong được hưởng thụ. Do vậy, nói đến
“kiến lập tài bảo nghiệp luân”, khéo dạy dỗ,
huấn luyện công, thương, tạp nghệ (雜藝, các ngành nghề
khác nhau). “Tạp” (雜) là bao gồm rất
nhiều [loại khác nhau]. Nay chúng ta thấy các món đồ
chơi, các dụng cụ, hoặc máy móc để
tập thể dục, thể thao, cho đến các
phương tiện giao thông, đều [được gọi
chung] là “công thương tạp nghiệp” (工商雜業).
Trong
lịch sử, phần lớn các vị hộ pháp cho Phật
giáo đều là thương nhân. Hạng người này
có phước báo, họ muốn gieo thiện căn. Quốc
vương cũng hộ pháp, bất quá rất ít. Hộ
pháp quốc vương là vua thuộc chủng tánh Sát-lợi
(Sát-đế-lợi). Có các ác quốc vương, không chỉ
chẳng hộ tŕ, mà trái lại c̣n tiêu diệt, tùy thuộc
[họ thấy] Phật giáo có lợi cho họ hay không?
Thương nhân th́ gieo phước. Mọi người
nh́n vào lịch sử Phật giáo, sẽ thấy đại
đa số thương nhân hộ pháp. V́ sao phải dạy
dân chúng tập luyện công, thương, tạp nghệ? Mọi
người mong hưởng thụ, mong có đủ loại
của cải trân ngoạn để tùy ư thọ dụng,
tăng trưởng lạc thú trong cuộc sống,
tăng trưởng sự vui sướng trong đời
sống. Do vậy, vị vua Sát-đế-lợi quán đảnh
này phải thành tựu vương luân thứ hai.
Vương luân thứ hai bao gồm ba thứ nghiệp
luân.
Sau
khi đă kiến lập vương luân thứ hai, quốc
gia của vua có thể an vui. “Năng phục nhất thiết
oán địch, ác hữu” (Có thể chế phục hết
thảy oán địch, bạn ác): Khéo có thể bảo vệ
gia tài của họ, bảo vệ quốc gia, bảo vệ
sự an định của quốc dân, khiến cho hết
thảy nhân dân tăng trưởng thọ mạng. Đó
là vương luân thứ hai. Ở đây là cách nói tỷ dụ,
chẳng chứa đựng ư nghĩa sâu xa nào, cho nên tôi nói
đại lược. Dùng chuyện này để tỷ dụ
Phật Luân.
(Kinh)
Thiện nam tử! Như thị Như Lai sơ thành Phật
quả, đắc Vô Thượng Trí, quán sát quá khứ, vị
lai, hiện tại chư Phật pháp nhăn, dĩ thiện quán
sát chư nghiệp pháp thọ nhân quả báo trí, kiến lập
nhất thiết sở hóa hữu t́nh tam chủng nghiệp
luân. Do thử nghiệp luân, năng linh Tam Bảo chủng
tánh pháp nhăn trường dạ bất diệt, vô thượng
chánh pháp xí thịnh lưu thông, linh chư hữu t́nh,
trường thọ chủng chủng sanh thiên, Niết Bàn, an ổn khoái lạc, cập linh nhất
thiết ngoại đạo tà luận bất năng hàng
phục ngă chánh pháp nhăn, nhi năng như pháp tồi bỉ
tà luận.
(經)善男子,如是如來初成佛果,得無上智,觀察過去、未來、現在諸佛法眼,以善觀察諸業法受因果報智,建立一切所化有情三種業輪。由此業輪,能令三寶種姓法眼長夜不滅,無上正法熾盛流通,令諸有情長受種種生天涅槃安隱快樂,及令一切外道邪論不能降伏我正法眼,而能如法摧彼邪論。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Lúc Như Lai mới thành Phật quả
như vậy, đắc Vô Thuợng Trí, quan sát pháp nhăn của quá khứ, vị lai,
và hiện tại như Phật, dùng trí khéo quan sát các nghiệp pháp lănh nhận nhân và quả báo để
kiến lập ba thứ nghiệp luân cho hết thảy hữu
t́nh được hóa độ. Do các nghiệp luân ấy,
có thể khiến cho pháp nhăn của chủng tánh Tam Bảo
bất diệt trong đêm dài, chánh pháp vô thượng
lưu thông hưng thịnh, khiến cho các hữu t́nh hưởng măi các thứ vui sướng an ổn do sanh thiên hay chứng đắc Niết
Bàn, và khiến cho tà luận của hết thảy các ngoại
đạo chẳng thể hàng phục chánh pháp nhăn của
ta, và có thể đúng như pháp mà đập tan các tà luận
ấy).
“Như
thị Như Lai sơ thành Phật quả” (Như Lai mới
thành Phật quả như thế): Đức Phật chứng
đắc Phật quả, đạt được Vô
Thượng Trí, muốn thấy quá khứ chư Phật,
và vị lai chư Phật. Hiện tại, tam thế
chư Phật đều chứng đắc pháp nhăn thanh tịnh.
Phật nhăn quán hết thảy, có thể thấy thấu
suốt hết thảy, trí quan sát các nghiệp pháp, cái nhân
và quả báo lănh thọ [do đă tạo các nghiệp ấy].
Do có loại trí huệ “nhân quả báo trí”, bèn kiến
lập ba thứ nghiệp luân cho hết thảy các hữu
t́nh được hóa độ. [Ba thứ nghiệp luân ấy]
cũng giống như ba món nghiệp luân được
nói đến trong tỷ dụ [về vương luân thứ
hai] trên đây.
Nếu
kiến thiết ba loại luân, sẽ có thể khiến
cho chủng tánh Tam Bảo luôn hiện diện, chẳng
đoạn tuyệt, khiến cho pháp nhăn của hết thảy
chúng sanh thanh tịnh, bất diệt trong đêm dài. “Bất
diệt” có nghĩa là quang minh, tức quang minh của pháp
nhăn. [Do quang minh], có thể biết
đâu là chánh pháp, đâu là phi pháp, khiến cho chánh pháp vô
thượng của Phật có thể lưu thông hưng thịnh,
khiến cho các chúng sanh được giáo hóa của đức Phật trong cơi Phật
đều có thể sanh lên trời, cho đến chứng
đắc Niết Bàn. Sanh thiên vui sướng hơn ba ác
đạo và nhân gian rất nhiều, nhưng hưởng
thụ sự vui sướng [chân chánh] th́ phải là chứng
đắc rốt ráo sự vui sướng “bất sanh bất
diệt rốt ráo”, [có như vậy th́ mới thật
sự hưởng] an ổn, sung sướng. Phàm là hết
thảy các tà luận có hại của ngoại đạo,
tà luận của ngoại đạo tranh chấp với
chánh pháp nhăn, Phật pháp có thể hàng phục hết thảy
tà luận, có thể đúng như pháp mà dẹp tan các tà luận.
(Kinh)
Thiện nam tử! Hà đẳng danh vi tam chủng nghiệp
luân? Nhất giả, kiến lập tu Định nghiệp
luân. Nhị giả, kiến lập tập
tụng nghiệp luân. Tam giả, kiến
lập doanh phước nghiệp luân. Thiện nam tử!
Vân hà Như Lai tu Định nghiệp luân? Định hữu
thập chủng, hà đẳng vi thập? Vị chánh quán
sát chư Hữu thức thân, lục chủng
cảnh giới, ngă, ngă sở chấp dĩ vi kỳ nhân.
Nghiệp vi lương điền, Vô Minh phú cái, Ái vi
tư nhuận, vô hữu tự tại, y tha nhi lập, hệ
thuộc chúng duyên, vị dục đoạn diệt Nghiệp, Phiền Năo, Khổ, tam chủng
lưu cố. Như thị quán sát, vân hà Nghiệp Lưu? Vị
chư hữu t́nh sở hành chư hạnh. Nhược thử
chư hạnh sở do Vô Minh cập Ái vi
nhân, năng sanh chư Hữu, danh Phiền
Năo Lưu. Nhược do phiền năo, thức vi kỳ nhân,
chúng duyên ḥa hợp, Danh Sắc sanh khởi.
Danh Sắc vi nhân,
chúng duyên ḥa hợp, Lục Xứ sanh khởi.
Lục Xứ vi nhân, chúng
duyên ḥa hợp, Xúc, Thọ, Hậu Hữu, Sanh, Lăo, Tử đẳng
thứ đệ sanh khởi, thị danh Khổ Lưu.
(經)善男子,何等名為三種業輪?一者,建立修定業輪;二者,建立習誦業輪;三者,建立營福業輪。善男子,云何如來修定業輪?定有十種:何等為十?謂正觀察諸有識身六種境界,我、我所執以為其因,業為良田,無明覆蓋,愛為滋潤,無有自在,依他而立,係屬眾緣。為欲斷滅業、煩惱、苦三種流故,如是觀察。云何業流?謂諸有情所行諸行。若此諸行,所由無明,及愛為因,能生諸有,名煩惱流。若由煩惱,識為其因,眾緣和合,名色生起;名色為因,眾緣和合,六處生起;六處為因,眾緣和合,觸、受、後有、生、老死等,次第生起,是名苦流。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Những ǵ là ba thứ nghiệp
luân? Một là kiến lập tu Định nghiệp luân,
hai là kiến lập tập tụng nghiệp luân, ba là kiến
lập doanh phước nghiệp luân. Này thiện nam tử!
Như Lai tu Định nghiệp luân là như thế nào? Có
mười loại Định, những ǵ là mười?
Tức là chánh quán sát sáu thứ cảnh giới của thức và thân trong các Hữu (tam giới), do Ngă, và những
cái do ta chấp trước làm nhân. Nghiệp là ruộng tốt,
do Vô Minh che phủ, Ái làm tưới tắm, mà chẳng được tự tại, nương
vào cái khác để thành lập, phụ thuộc các duyên. V́
muốn đoạn diệt ba loại gịng là Nghiệp, Phiền
Năo và Khổ, mà quan sát như thế. Nghiệp Lưu là
như thế nào? Chính là các hạnh do các hữu t́nh đă
làm. Nếu các hạnh ấy do Vô Minh và Ái làm nhân,
có thể sanh ra các Hữu, th́ gọi
là Phiền Năo Lưu. Nếu do phiền năo và thức làm
nhân của nó, các duyên ḥa hợp th́ Danh Sắc sanh khởi.
Danh Sắc làm nhân, các duyên ḥa hợp, Lục Xứ sanh khởi.
Lục Xứ làm nhân, Xúc, Thọ, Hậu Hữu, Sanh, Lăo, Tử
v.v… theo thứ tự mà sanh khởi th́ gọi Khổ
Lưu).
Tam
Lưu bao gồm Nghiệp Lưu, Phiền Năo Lưu, và Khổ
Lưu. Phải quan sát chúng nó sanh trưởng như thế
nào. Nghiệp Lưu là ǵ? Phiền Năo Lưu là ǵ? Khổ
Lưu là ǵ? Mỗi danh từ bao hàm rất nhiều ư
nghĩa. Nếu quư vị thấu hiểu, sẽ khế nhập
kinh Phật. Không chỉ một bộ kinh này, mà rất nhiều
bộ kinh, quư vị đều có thể hiểu. Ở
đây, nêu ra ba loại Nghiệp Lưu, Nghiệp Lưu là
ǵ? Chính là hết thảy mọi sự đă làm trong cuộc
sống hằng ngày, kể cả ngủ nghê, thậm chí kể
từ lúc sanh ra măi cho đến khi tử vong, quư vị chẳng thể
trốn thoát được. Có rời ĺa cũng chẳng rời
ĺa được, luôn thuộc vào trong ba loại nghiệp
ấy. Nghiệp Lưu là các nghiệp do quư vị đă tạo.
Phàm là hữu t́nh, bao gồm động vật, súc sanh, ngựa,
trâu, dê, gà, chó, lợn, đều thuộc vào trong ấy,
nhưng không tính thực vật. Bất
quá, Nghiệp Lưu của nhân loại nặng nề nhất.
Quư vị tạo tác các nghiệp, những ǵ quư vị
đă làm, đều gọi là Nghiệp Lưu. Lưu là “vĩnh
viễn chẳng ngưng dứt”. Lưu (流) là nghiệp
luôn vận động, chuyển măi chẳng ngưng dứt,
vĩnh viễn trôi chảy như vậy.
Phiền
Năo Lưu là vô minh và ái. “Ái” là dục vọng của
chúng sanh. Dục vọng của chúng sanh chính là căn bản
sanh tử của chúng ta, có ái nhiễm. Do vô minh và ái làm cái
nhân, từ cái nhân ấy, sanh ra các hành vi. Do đă có hành vi,
cho nên quư vị có các nghiệp đă tạo, là nghiệp thiện
hay ác, cho nên có thăng lên hay giáng xuống. “Thăng” là
sanh lên trời, “giáng” là đọa xuống địa
ngục.
Khi
tôi ở Bắc Kinh, có gặp một số công nhân mỏ
than. Tôi hỏi họ: “Các vị làm nghề ǵ?” Họ nói:
“Có khi tôi xuống địa ngục”. Tôi nói: “Quư vị có
thể xuống địa ngục thật sao?” Họ
đáp: “Tôi xuống địa ngục”. Tôi hỏi: “Xuống
địa ngục cơ à? Xuống địa ngục chẳng
chịu khổ hay sao?” Họ nói: “Tôi [xuống địa
ngục] làm việc”. Tôi nói: “Làm việc ǵ vậy?” Họ
nói: “Tôi cùng Diêm Vương lăo tử đào than”. Tôi nói: “Công
việc của các vị có phải là thợ mỏ than hay
không?” Họ nói: “Đúng đấy! Hằng ngày
chúng tôi đều xuống địa ngục. Chúng tôi mỗi
sáng sớm mở mắt ra đều phải xuống
đó”. Họ làm việc tại Môn Đầu Câu[2]
ở Bắc Kinh, làm đến tối mới ra khỏi mỏ,
rất dễ gặp cảnh hầm mỏ sụt lở,
bị tầng đất phía trên sụt xuống, hay sập
hầm mỏ. Đấy là thuật ngữ nói về hầm
mỏ của họ. Mỏ Môn Đầu Câu ở Bắc
Kinh đă đào sâu gần mấy chục dặm, họ
khai thác ở phía dưới Tây Sơn. “Có lúc chúng tôi
cũng có dịp sanh thiên”. Tôi hỏi: “Trong đời này mà
quư vị có thể sanh thiên ư?” Họ nói: “Đúng thế!”
Tôi hỏi: “Quư vị sanh bằng cách nào?” Họ nói:
“Đưa chúng tôi sang Trung Nam Hải[3]
là chỗ của các quan to, tôi coi họ
như Ngọc Hoàng Đại Đế, [sang đó] vá gạch,
lợp ngói. Nhà họ bị dột, sai chúng tôi đến
vá gạch, giặm ngói”. Tôi nói: “Bản lănh của ông thật
lớn, thăng thiên, nhập địa!”
Thật
ra, cuộc sống của mỗi người đều
là như vậy! Khi nào làm thiện
nghiệp th́ thăng lên. Có phước
báo th́ cuộc sống rất thoải mái, quư vị đừng
quên nỗi đau khổ, [đừng quên] chúng ta cũng
đă từng chịu khổ. Câu “năng sanh chư Hữu”
(có thể sanh ra các Hữu) bao hàm rất nhiều [ư
nghĩa] trong ấy. Tam Lưu là
Nghiệp Lưu, Phiền Năo Lưu, và Khổ Lưu. Khổ
là có phiền năo, Thức làm cái nhân của nó. “Thức”
bao gồm sáu thức, tức Nhăn Thức, Nhĩ Thức, Tỵ
Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, và Ư Thức. Mắt
thuộc về Căn. Khi Nhăn Căn tiếp xúc cảnh giới
bên ngoài, nó chẳng có phân biệt. Cái có thể phân biệt
là Nhăn Thức, dùng Nhăn Thức để phân biệt. “Thức”
ở đây là sáu thức; nói gộp chung, sẽ
là tám thức. Có phiền năo th́ Thức làm nhân, lại c̣n có
rất nhiều nhân và rất nhiều duyên thúc đẩy
thành tựu, nó mới sanh khởi theo thứ tự như
vậy.
Những
ǵ là năm quả trong hiện tại và hai quả trong vị
lai? Những thứ ấy đều gọi là Khổ
Lưu. Vô Minh và Hành, Hành (行) có nghĩa là “vận
động”. Nếu là tham, sân, si, mạn, nghi, kèm thêm
Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Thủ Kiến, Kiến
Thủ Kiến, và Tà Kiến, mười loại ấy
đều gọi là phiền năo. Mười loại ấy
c̣n được gọi là Kết Sử (結使), chúng thúc đẩy
quư vị tạo nghiệp. Đó là Hành. Đấy là những
thứ trong nội tâm, thuộc về Nhân. Trong tâm tạo
nghiệp, vẫn chưa sanh ra hiện thực. Sự vận
động của Tưởng trong tâm chính là hoạt động
tâm lư v́ quư vị chưa hiểu rơ. Do chẳng hiểu rơ mà cứ
hoạt động, chẳng phải là hoạt động
dựa theo trí huệ, mà là hoạt động ngu si, thuần
túy là hoạt động tạo nghiệp, do mười món Kết Sử chỉ
huy. Nghiệp thức để đầu thai, chúng ta
thường nói các Kết Sử ấy chính là chủng tử
của tám thức. Đó là ác phần, chẳng phải là
thiện phần. Trong thức có hai phần Thiện và Ác; Sử
thuộc về phần ác. Đă tạo các nghiệp ấy,
do tạo cái nghiệp ấy bèn đầu thai.
V́
hai loại nhân này trong quá khứ mà tạo thành nghiệp. Thức
thứ tám c̣n gọi là Hàm Tàng Thức (含藏識), v́ chúng nó (các chủng
tử, kết sử) chứa đựng trong thức ấy,
tạo thành cái nghiệp ấy. Do v́ nghiệp quá khứ,
quư vị thọ báo. “Thọ báo” là tùy theo nghiệp
đă tạo mà thọ báo. Có khi sanh thiên để hưởng
thụ, đó cũng là Thức của người ấy
[sanh thiên]. Như thế th́ đầu thai trong sáu đường,
đầu thai làm người là tốt nhất. Nếu quư
vị tạo nhiều thiện nghiệp th́ mới có thể
sanh làm người. Thông thường, chúng sanh chẳng thể
sanh vào nhân đạo được. Quư vị đọa
vào ngạ quỷ, súc sanh, [địa ngục], tức ba ác đạo.
Nếu đọa vào súc sanh đạo, sẽ càng khổ hơn.
Bất
luận đọa vào đường nào, khi nghiệp thức
sắp nhập thai, cứ bảy ngày sẽ biến đổi.
Lúc sắp nhập thai, sáu căn c̣n chưa sanh trưởng,
ngay cả mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư đều
chẳng có, chỉ có thai h́nh, sáu căn chưa đủ.
Sau khi lọt ḷng mẹ, ái dục tiếp xúc với cảnh,
mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, thân thể tiếp
xúc, ở trong bụng mẹ rất ấm áp, nay sanh ra,
không khí khiến cho từng lỗ chân lông của quư vị
bị kích thích. Sự thống khổ ấy quư vị nói không
được, chỉ cảm thấy đau khổ. Sự
đau khổ ấy chúng ta không biết. Trong nhà tù, khi chịu
đủ loại khổ h́nh, miệng quư vị bị bịt
kín, mắt bịt chặt, có nh́n cũng chẳng thấy,
có nghe cũng chẳng nghe được, sáu căn đều
bị đóng kín, chỉ biết chịu khổ, nói chẳng
ra lời. Tôi nghĩ nỗi khổ lúc đầu thai tiếp
xúc ban đầu chắc cũng chẳng sai khác cho mấy.
Chẳng có cách nào biểu đạt! Biểu đạt bằng
cách nào đây? Đấy là khổ quả. Đă tiếp
xúc ngoại giới, sẽ khác hẳn, sanh khởi cảm
giác khổ lạc, cũng là khi trẻ nhỏ chưa nói
được, nếu nó chẳng vừa ư, sẽ dùng tiếng
khóc để biểu đạt hết thảy. Trẻ nhỏ
khóc, người lớn chớ nên dỗ dành quá đáng, nó
khóc để biểu đạt. Khi nó khóc, là lúc nó lớn
dần. Hết thảy vận động của nó chỉ
là khóc, khóc là sự vận động của nó. Khóc nhiều,
không sao cả! Nó chỉ biểu đạt
nó không thoải mái, trẻ nhỏ vẫn chưa biết
nói. Quư vị đáp ứng đúng ư nó, nó sẽ cười.
Quư vị chăm sóc trẻ nhỏ nhiều, sẽ cảm
nhận điều ấy. Tôi hiểu biết rất ít,
quư vị biết rơ hơn tôi, tôi chỉ dựa theo kinh
để nói.
Khi
nó sanh ra cảm thọ khổ hay lạc, nghiệp là đầu
thai; đấy là quả. Cho tới khi nó sanh trưởng
sáu căn, đấy là quả. Lọt ḷng mẹ, tiếp
xúc với cảnh giới bên ngoài cũng là quả. Vừa
tiếp xúc, sẽ nhận lănh cảm giác khổ hay lạc.
Từ đấy trở đi bèn thọ nhận, suốt
cả một đời đều phải thọ nhận. Thọ rồi lại đầu thai, hoặc lại
chết đi, vĩnh viễn chẳng ngưng dứt. Do vậy,
gọi là Lưu. Lưu (流) có nghĩa là “chuyển
động”, lưu động chẳng ngừng. Đấy
là Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục
Nhập, Lục Nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ. Đấy
là hai cái nhân trong quá khứ. Do hai cái nhân ấy, kết thành năm cái quả [trong hiện tại], tức Thức,
Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, và Thọ là năm cái quả.
Do
hai cái nhân trong quá khứ mà lănh nhận năm cái quả
trong hiện tại, chẳng dừng lại ở đó. Ái,
Thủ, Hữu là ba cái nhân trong hiện tại. “Đối
cảnh” tức là đối trước hết thảy
các cảnh giới, bèn sanh khởi ái dục:
“Đóa hoa này đẹp quá, ta mua một đóa”. Ta thấy
trong vườn có rất nhiều hoa đẹp, không ai thấy,
bèn ngắt một đóa. Đó là phạm giới trộm
cắp. Thấy [vật ǵ đó] rất mắc tiền, [mơ tưởng] nếu ḿnh lấy vật đó
th́ nhiều tiền lắm, giới trộm
cắp đă thành. Tuy nói là “tôi chẳng làm”, chỉ cần
đă sanh tâm th́ đều tính cả! Do đă tạo cái
nhân đó! Đă tạo nhân, đối với cảnh bèn
sanh tham ái, nẩy sanh dục vọng. Đă nẩy sanh dục
vọng, sẽ mong đạt được. Cái tốt
th́ mong đạt được, cái xấu th́ muốn vứt
đi, chẳng mong tiếp nhận.
V́ truy cầu điều này, sẽ tạo nghiệp, tức
là sẽ tạo tác. Hễ tạo tác, sẽ trở thành
nghiệp! Do nghiệp nhân ấy, quư vị sẽ thọ
báo. Nay chúng ta làm, hiện tại đang nhận lănh hiện
báo. Cái quả báo đang thọ trong hiện tại chỉ
là quả báo tạm thời.
Nếu
ta cướp đoạt thứ ǵ của người ta,
đương nhiên là sẽ thọ báo, ngay lập tức
bị tróc nă, giam cầm trong ngục.
Đă bị nhốt rồi, sau đó sẽ bị phán quyết
h́nh phạt. Đó là hiện báo (現報, báo trong hiện tại), nhưng vẫn
chưa kết thúc, v́ đấy chỉ là pháp luật nhân
gian. Đă chịu xong [sự trừng phạt của pháp
luật nhân gian], quư vị c̣n phải chịu nhân quả.
Quư vị cướp bóc người khác, hay giết người,
giết người th́ phải đền mạng. Pháp luật
quốc gia đă chấp hành. Cướp bóc của người
ta th́ bị bắt, ta bị bắn chết, có phải là
đă xong hay chưa? Chưa đủ đâu nhé! Đấy
là pháp luật nhân gian, vẫn phải thọ báo. Người
ấy vẫn t́m quư vị đ̣i nợ mạng, quư vị
vẫn phải trả nợ. Nay quư vị tạo tác cái nhân,
trong tương lai vẫn phải chịu khổ quả
nơi Ngũ Uẩn, tức Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp, khổ quả. Trở lại để thọ, sanh trở lại. [Do đó], Sanh lại Lăo, Lăo lại Tử. Tử
rồi lại tạo, tạo rồi lại sanh, sanh rồi
lại tử. Cứ thay đổi qua lại liên tục
như thế; đó gọi là pháp Thập Nhị Nhân Duyên.
Từ
trong ấy, đức Phật lập ra cái luân thứ ba, tức là kiến lập Tu Định Luân, giải
thích Định có mười loại. Quư vị phải
quan sát mười loại thân, sáu loại cảnh giới.
“Ngă, ngă sở chấp, dĩ vi kỳ nhân” (ngă và những
ǵ ta chấp trước sẽ là cái nhân của
nó): Ta chấp nó thật sự là ta, nhưng như chúng tôi
đă nói trong phần trên. Nghiệp do quư vị đă tạo
là ruộng đất, là ruộng tốt, bị vô minh bao
trùm, lại c̣n được Ái tưới tắm, cho nên
chẳng thể tự tại. Bị cái nhân và nghiệp ấy
trói buộc, đều nương vào duyên mà thành lập, tức
là “y tha nhi lập” (nương nhờ cái khác mà lập).
Đó gọi là “duyên sanh”. Các pháp đều sanh bởi
duyên! Hễ sanh bởi nhân duyên, sẽ chẳng có tự thể,
sanh mà diệt, diệt mà sanh, sanh rồi diệt, diệt rồi
sanh. Do chẳng có tự thể, là duyên khởi, cho nên có ư
nghĩa “chẳng thể tồn tại
lâu dài”, mà cũng có ư nghĩa “luân chuyển”. Giả sử
muốn quan sát Nghiệp Lưu ấy, đă quan sát minh bạch
rồi; sau đó, [sẽ
thấu hiểu] đủ mọi các hạnh do hết thảy
hữu t́nh tạo tác sẽ đều là các nghiệp. Các
nghiệp đă tạo ấy lại trở thành Phiền
Năo Khổ, v́ nghiệp đă tạo lại phụ thuộc
các duyên mà thành tựu. Hễ thành tựu, quư vị sẽ
chịu khổ, phải chịu phiền năo khổ. Đă
có phiền năo, sẽ chịu khổ quả. Phải
thường quan sát ba loại lưu ấy, tức Nghiệp
Lưu, Phiền Năo Lưu, và Khổ Lưu. Hết thảy
những ǵ hữu t́nh đă làm, đều chẳng vượt
ra ngoài pháp Thập Nhị Nhân Duyên được! Thuận theo sự
suy tưởng và hành động của
quư vị trong quá khứ mà lănh thọ [cái quả của những
thứ ấy] trong hiện tại và tương lai. Hiện
tại lănh thọ [cái quả do] cái nhân từ quá khứ. [Nói cách khác], hiện tại thọ năm cái quả,
chính là thọ cái quả của cái nhân trong quá khứ.
Tướng mạo của quư vị phát triển đẹp
hay xấu, có trí huệ hay không, đều liên quan với
Vô Minh và Hành của quư vị trong quá khứ, và cũng liên
quan đến thiện nghiệp của quư vị. Vậy
th́ lănh nhận bất đồng đều từ Vô Minh
và Hành. Vô Minh là trước, Hành là sau. Lại c̣n do có
thêm Ái, mới sanh trưởng “chư Hữu”.
“Chư
Hữu” là hết thảy hữu t́nh, chúng
ta đều có t́nh cảm. Súc sanh có t́nh cảm hay không? Bất
cứ loài súc sanh nào cũng đều có t́nh cảm. Quư vị
hăy xem chim đỗ quyên. Nếu chú tâm quan
sát, nghiên cứu cẩn thận, nh́n vào hành động của
chúng, quư vị sẽ thấy chúng nó cũng có yêu, ghét, lấy,
bỏ. Quư vị phải quan sát như thế mới biết.
Trong nhà nuôi gà con hoặc chim đỗ quyên, quư vị sẽ
thấy những con mái vây quanh con trống.
Những con mái nếu không thích con
trống, sẽ chẳng kết giao. Con mái thích con trống
sẽ kết giao, đấy chẳng phải là Ái hay sao?
Chẳng phải là có lấy hay bỏ ư? Hết thảy
động vật, hết thảy mọi người
đều là như thế.
Mười
hai loại nhân duyên sanh khởi ư thức, hợp thành mười
hai điều kiện sanh tồn của hữu t́nh, điều
này được gọi là Thập Nhị Chi. V́ ngu si, thiếu
trí huệ, chẳng thấy thấu suốt, cho nên mới
có Hành. Do có Hành nên mới tạo nghiệp. Nói theo Đại
Thừa Khởi Tín Luận: “Một niệm bất giácdi, sanh tam hệ
tướng nơi tam tế tướng, đấy là
căn bản phiền năo”. Nó sẽ chẳng
ngưng dứt, luôn chuyển biến. Do chuyển biến,
nó sẽ truy cầu cảnh giới hiện tiền. Cảnh
giới ấy vẫn là tự tâm, duyên theo cái Hành ấy. Do
nó vận động, sẽ t́m kiếm đối tượng,
sẽ chấp lấy cảnh. V́ mong chấp giữ cảnh,
sẽ sanh ra Thức, nhưng Thức có phân biệt. Thức
có nghĩa là “phân biệt”, người ấy sẽ
phân biệt. Do có Thức, duyên theo Danh Sắc, Danh Sắc
duyên Lục Nhập, Lục Nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ,
Thọ lại duyên Ái. Tốt th́ người ấy yêu
thích. Nếu quư vị dùng roi đánh kẻ khác, đó là Xúc,
họ sẽ chẳng tiếp nhận, v́ quá khổ, họ có sự đau khổ. Quá nóng,
sẽ đau khổ. Quá lạnh, cũng đau khổ. Sự
đau khổ ấy thuộc về cảm thọ (sự
cảm nhận) nơi Xúc. Duyên theo Ái như vậy, sẽ
có lấy hay bỏ. Hễ có lấy hay bỏ, bèn duyên theo Hữu.
Do duyên Thủ bèn có Hữu. Hữu duyên Hữu lại có
Sanh. Do duyên theo Thủ là Hữu. Do duyên Hữu bèn có Sanh. Do
duyên theo Sanh lại có
lăo, tử, ưu bi, khổ năo, các điều họa hoạn
to lớn tụ tập nơi thân, hết thảy khổ
năo đều nẩy sanh.
Điều
này cho thấy hết thảy các sự vật đều
là duyên khởi. Nương vào các thứ khác để khởi
hạnh, đều là nương vào duyên mà sanh. Mười
hai nhân duyên, [xét theo] quá khứ, hiện tại, vị lai,
th́ Vô Minh và Hành là hai cái nhân thuộc quá khứ nối kết
với hiện tại. Điều này được gọi
là một tầng nhân quả. Tầng nhân quả này bao gồm
hai nhân và năm quả: Do cái nhân trong quá khứ, thọ cái
quả trong hiện tại. Các quả ấy bao gồm Thức,
Danh Sắc, và Lục Xứ; nhưng Lục Xứ do tiếp
xúc mà nhận lănh năm cái quả trong hiện tại. Lấy
hay bỏ trong ấy, [tức là] có Thủ và có Xả. Do có
Ái bèn có Thủ, bèn có sanh tử (đó là Hữu). Đó là ba
cái nhân. Ba cái nhân ấy (Ái, Thủ, Hữu) tạo thành khổ
quả Sanh và Lăo Tử trong tương lai. Đó gọi là
ba nhân (Ái, Thủ, Hữu) và hai quả
(Sanh và Lăo Tử).
Sanh, Lăo, Tử:
Có Sanh th́ nhất định có Lăo, có Lăo th́ nhất
định có Tử. Đôi khi c̣n nhảy vượt cấp,
[tức là] chưa đợi Lăo mà đă chết trước.
Có người do nghiệp bất đồng, chỉ chịu
khổ, sanh ra đă chết ngay. Thậm chí c̣n có trường
hợp thai chết trong bụng mẹ. Nghiệp bất
đồng, [tức là] cái nhân trong quá khứ bất đồng,
cho nên hứng chịu cái quả cũng khác nhau. Để
tu Định nghiệp luân, Định nghiệp luân gồm
mười loại. Khi tu Định, phải quan sát, quan
sát sáu thứ
cảnh giới nơi thân của quư vị.
Chúng tôi vừa nói về Thập
Nhị Nhân Duyên; ở
đây, [kinh văn] chỉ nói sáu loại cảnh giới, tức
là nói theo cảnh giới nội tại. Trong ấy, c̣n nẩy
sanh Ngă và Ngă Sở Chấp, nghĩa là coi chính ḿnh là chủ
tể. Chấp trước thuộc về vô minh. Mỗi
cá nhân chúng ta do không hiểu rơ, chẳng có trí huệ, tự
cho rằng chính ḿnh là đúng, cho ta là bậc nhất,
chấp trước kiến giải ấy. Nh́n vào vấn
đề, rơ ràng là chẳng đúng, nhưng mỗi người
đều có sự chấp trước riêng. Điều đó
là do cái nhân riêng của mỗi người. Khi mỗi
người xem xét và phân tích vấn đề đều chẳng
chuẩn xác, nhưng quư vị cứ cho rằng như vậy
là đúng; thật ra đă sai lầm mất rồi! Giống
như chúng ta mua cổ phiếu, mua tờ cổ phiếu
này cứ nghĩ nhất định sẽ phát tài, nhất
định sẽ tăng giá. Kết quả là quư vị mua
phải cổ phiếu cúng tiền luôn! Đă không tăng giá,
cơ hội sống tốt đẹp hơn đă vuột
mất rồi! Quư vị thấy người ta kiếm
được rất nhiều tiền, sanh ḷng hâm mộ,
quư vị bèn đi mua. Đó là Ngă Chấp.
Họ cho rằng nhất định có thể kiếm tiền
được; trên thực tế, nhất định là mất
trắng tiền! Mất đến nỗi phải nhảy
lầu tự sát, có t́nh h́nh này hay không? Cũng có khi nhận
biết đúng thời cơ, lúc đó, nhất định
phát tài, người ấy đă đầu tư đúng chỗ.
Những
điều này đều thuộc về Ngă Chấp và Ngă Kiến,
nhưng nói theo đạo lư trong kinh Phật, nói theo pháp
sanh diệt, đă đạt được rồi th́ cũng
sẽ tiêu mất. Khi chưa đạt được, phải
chịu khổ. Sau khi đă đạt được rồi,
sẽ lại chịu khổ. Quư vị đạt
được cũng thế, mà không đạt được
cũng thế, đều là hư huyễn! Quư vị đạt được điều ǵ, cuối
cùng sẽ đều bị tiêu diệt, đều là hư huyễn
chẳng thật! Nhưng họ chẳng nhận biết,
cứ tưởng là có thật. Thật ra là hư vọng.
Muốn họ nghĩ đến vô ngă, hết sức khó
khăn! Chẳng diệt cái nhân, chẳng giữ lấy
duyên, thực hiện bằng cách nào? Quư vị phải tu.
Đức Phật muốn kiến lập tu Định
nghiệp luân; trước hết, quư vị phải quán sát
Nghiệp Lưu, Phiền Năo Lưu, và Khổ Lưu.
(Kinh)
Như thị tam lưu, nghiệp vi lương điền,
vô minh vi nhân, ái vi tư nhuận, nhi đắc sanh trưởng.
Vị dục khô hạc, nghiệp vi lương điền,
vô minh vi nhân, ái vi tư nhuận tam chủng lưu cố,
ư Ngũ Thủ Uẩn, quán vi vô thường, cập khổ,
vô ngă, ngu độn, vô động, như huyễn, như
diễm, như thủy trung nguyệt, như mộng sở
kiến, không, vô sở hữu, vô tướng, vô nguyện,
vô sở tạo tác, vô sanh, vô khởi, vô xuất, vô tượng,
tịch tĩnh, viễn ly, vô sở xuất sanh. Ư
Ngũ Thủ Uẩn, như thị
quán sát, năng thuận Không Nhẫn, thuận Vô Tướng
Nhẫn, thuận Vô Nguyện Nhẫn, vị dục tùy thuận
quán Ngũ Thủ Uẩn.
(經)如是三流,業為良田,無明為因,愛為滋潤,而得生長。為欲枯涸業為良田、無明為因、愛為滋潤三種流故,於五取蘊,觀為無常及苦、無我,愚鈍無動,如幻、如焰、如水中月、如夢所見,空無所有、無相、無願,無所造作,無生無起,無出無像,寂靜遠離,無所出生。於五取蘊,如是觀察,能順空忍,順無相忍,順無願忍。為欲隨順觀五取蘊。
(Kinh:
Ba loại lưu như thế, nghiệp làm ruộng tốt,
vô minh làm nhân, ái làm tưới tắm, bèn được
sanh trưởng. V́ muốn làm khô cạn ba thứ lưu
“nghiệp làm ruộng tốt, vô minh làm nhân, ái làm tưới
tắm”, cho nên đối với Ngũ Thủ Uẩn, quán
chúng nó là vô thường, và khổ, vô ngă, ngu độn, bất
động, như huyễn, như bóng nắng gợn,
như trăng trong nước, như những ǵ được
thấy trong mộng, rỗng không, chẳng sở hữu,
vô tướng, vô nguyện, chẳng tạo tác, vô sanh, chẳng
dấy lên, không thoát ra, không có h́nh tướng, tịch
tĩnh, xa ĺa, không sanh ra ǵ. Quan sát Ngũ Thủ Uẩn
như vậy, có thể tùy thuận Không Nhẫn, tùy thuận
Vô Tướng Nhẫn, tùy thuận Vô Nguyện Nhẫn, v́
muốn tùy thuận quán Ngũ Thủ Uẩn).
“Nghiệp
vi lương điền, vô minh vi nhân, ái vi tư nhuận”
(Nghiệp là ruộng tốt, vô minh làm nhân, ái làm tưới
tắm): Đây lại là sanh trưởng. Quư vị mong khô
cạn Nghiệp Lưu. Có lúc chữ Hạc (涸) này được
đọc thành Cố (固), có lúc đọc
là Hạc. “Khô” (枯) có nghĩa là “khô
cạn”. Gịng nước ấy đă khô cạn; do
đă khô cạn, sẽ chẳng thể tưới tắm và tăng trưởng được. Trước hết,
quư vị đoạn Vô Minh, quán hết thảy sự vật
đều là vô thường, sẽ chẳng c̣n Ái, chẳng
sanh khởi cái tâm tham ái. Do vậy, đức Phật nói “nghiệp
là ruộng tốt, vô minh làm nhân, ái làm tưới tắm” th́
[Nghiệp Lưu] mới có thể sanh trưởng, sanh
trưởng ǵ vậy? Ngũ Thủ Uẩn, cũng tức
là Thủ, c̣n gọi là Tham Thủ. Trong Tâm Kinh, Ngũ Uẩn
là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, [có thể nói
gộp chung thành] hai pháp, tức Sắc và Tâm. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức thuộc về Tâm Pháp, Sắc thuộc về
Sắc Pháp. Đó là hai loại, hai loại ấy đều
là vô thường.
Do
vậy, quư vị muốn tu Định; trước hết,
phải quán những thứ ấy là vô thường, là khổ,
là chẳng ngọt ngào, là vô ngă, v́ là căn cội của
ngu si. Phải quán những thứ ấy là “như huyễn,
như diễm, như thủy trung nguyệt, như mộng
sở kiến, không, vô sở hữu, vô tướng, vô nguyện,
vô sở tạo tác, vô sanh, vô khởi” (như huyễn,
như ánh nắng gợn, như trăng trong nước,
như những điều thấy trong mộng, rỗng
không, chẳng sở hữu, vô tướng, vô nguyện, chẳng
tạo tác, chẳng sanh, chẳng dấy lên). Muốn tu
Định nghiệp này th́ có sáu loại. Trước hết,
phải quan sát từ Vô Thủ (không chấp giữ), tiến
nhập ba môn giải thoát Không, Vô Tướng và Vô Nguyện
trước; sau đấy lại tiến nhập. Sau khi
chúng ta học Phật, mong tu hành, mong thật sự tiến
nhập, mong giải thoát, th́ đây là pháp cơ bản nhất.
Hết thảy các môn Chỉ Quán ắt đều phải
tu như vậy.
V́
thế, tôi giới thiệu đôi chút với mọi
người. Nếu quư vị muốn nhập Định,
phải quan sát mười hai loại lưu của sanh tử,
phải đoạn cái nghiệp ấy,
phải đoạn Nghiệp Lưu, Phiền Năo Lưu, và
Khổ Lưu. Nếu quư vị muốn tu Định, cho
đến “sổ, tùy, chỉ, quán, chuyển, tịnh”;
đấy chính là những điều được
nói trong kinh này. Trí Giả đại sư soạn Thiên Thai
Tông Lục Diệu Môn, đă sửa một chữ trong ấy
thành “sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh”. Bộ kinh
này nói về Chuyển (轉), Chuyển và Hoàn (還) có ư nghĩa
tương thông. Chuyển biến một phen, “hoàn bổn,
hoàn nguyên” (trở về nguồn cội), ư nghĩa
như nhau. Nhưng [tu Chỉ Quán th́ phải] có tiền
phương tiện; nếu quư vị chẳng có duyên
trước, mà mong tu th́ sẽ chẳng nhập được.
Do vậy, Trí Giả đại sư đă đề xuất:
Nếu muốn tu Chỉ Quán, ắt cần phải trọn
đủ nhân duyên. Nếu chẳng có điều kiện ấy,
quư vị tu chẳng thành. Có trọn đủ rất
nhiều nhân duyên th́ quư vị phát tâm mong tu hành, mong đắc
Định, mong khai trí huệ, chứng đắc Định
Huệ sẽ có thể trừ khử các khổ nạn. Nếu
quư vị muốn hành, phải có đủ duyên. Nếu chẳng
có duyên, chẳng tu thành công được. Duyên ǵ vậy?
Quư vị đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới, phải tŕ giới.
Tối thiểu là tŕ Tam Quy, Ngũ Giới thanh tịnh.
Điều thứ nhất là tŕ giới thanh tịnh th́ mới
có thể ngưng dứt phiền năo. Do tŕ giới, sanh ra
các Thiền Định, và cũng có thể diệt khổ,
có thể sanh trưởng trí huệ.
Điều
thứ nhất chính là tŕ giới duyên (tŕ giới làm duyên),
nhưng tŕ giới có các t́nh huống bất đồng.
Trí Giả đại sư nói: Người tu hành tŕ giới
có [ba loại t́nh huống] tŕ giới bất đồng.
Ba loại tŕ giới bất đồng nào vậy? Tôi nói
đơn giản:
-
Ta đă tŕ, đối với các giới đă thọ,
căn bản là chưa hề phạm. Loại thứ nhất
như vậy là tốt nhất.
-
Loại thứ hai là ta phạm rất nhỏ, rất nhẹ,
chẳng nặng nề, hễ sám hối liền có thể
sám hối được.
-
Loại thứ ba là phạm căn bản giới. Quư vị
đă thọ Ngũ Giới, nhưng giết, trộm, dâm,
dối đều phạm. Đă quy y Tam Bảo, sau đấy,
quư vị lại quy y ngoại đạo. Đấy là phá
Tam Quy; đây là loại thứ ba. Nhưng quư vị có thể
chí thành chiếu theo giáo nghĩa Đại Thừa th́ vẫn
có thể sám hối, nhưng ắt cần phải đau đớn,
khóc lóc, hằng ngày bái sám suốt ngày đêm hai mươi bốn
tiếng đồng hồ. Sám hối như thế, sám hối
đă thanh tịnh, đạt được thanh tịnh,
đă được chứng minh rồi, [tức là] thấy
tướng hảo. Đă thanh tịnh th́ nhân duyên ấy vẫn
có thể thành lập, tu Quán vẫn có thể nhập.
Nhưng ắt cần phải là trong đời hiện tại
chẳng tạo tội Ngũ Nghịch. Nếu đời
hiện tại trót tạo tội Ngũ Nghịch mà mong thành
tựu Chỉ Quán, sẽ rất khó!
Đă
sám hối thanh tịnh rồi, đă thành tựu. Người
tu Chỉ Quán th́ một là từ trước đến nay
chưa hề làm các điều ác, hai là đă làm chuyện
ác mà có thể hối hận, vẫn có thể sám hối.
Nhưng sám hối có phương thức:
-
Thứ nhất là phải tin nhân quả.
-
Thứ hai là sanh khởi ḷng sợ hăi, tức là sợ
đọa địa ngục, sợ thọ luân hồi.
-
Thứ ba là phải sanh ḷng hổ thẹn sâu xa.
Sau
đó, cầu học phương pháp diệt tội, hoặc
là lạy theo một sám pháp nào đó như Địa Tạng
Sám, Chiêm Sát Sám, Thiên Phật Sám, hay Đại Bi Sám đều
có thể được, chỉ tùy thuộc phương
pháp nào thích hợp với quư vị.
Cuối
cùng, nếu lúc quư vị tu Quán, hăy quán “tội tánh vốn
là Không, chỉ do tâm tạo. Nếu khi tâm đă mất th́ tội
cũng mất”, tức là quán Vô Sanh. Nếu người
tội nghiệp nặng nề mà quán Vô Sanh, căn bản
là chẳng thể quán nổi. Nếu trong đời này thật
sự có thiện căn túc thế trong đời trước
rất sâu dầy, tu [sám hối] bảy ngày hoặc hai
mươi mốt ngày, hoặc một tháng. Chúng ta lạy
Chiêm Sát Sám, trong kinh Chiêm Sát, Địa Tạng Bồ Tát
đă nói: “Lạy bảy ngày, mười bốn ngày, hai
mươi mốt ngày”. Nếu lạy suốt một
tháng, hai tháng mà vẫn chẳng thành, bèn lạy suốt ba
năm, chẳng phải như chúng ta mỗi ngày lạy một
lượt. Nếu lại c̣n có thể tŕ thánh hiệu th́
sẽ được thanh tịnh.
Chiếu
theo sám pháp của Địa Tạng Bồ Tát, khi tu tập
là như thế đó. Điều thứ nhất, quư vị
có đầy đủ cái duyên ấy, tôi chỉ nêu ra chuyện
quở trách ngũ dục. Ngũ dục là ḷng tham, là dục vọng. Cuộc sống
chớ nên quá thoải mái. Cuộc sống quá thoải mái,
quư vị muốn tiến nhập Chỉ Quán, sẽ chẳng
thể tiến nhập
được! Vọng tưởng tơi bời tán loạn,
vẩn đục, chẳng thanh tịnh, làm sao có thể cấm
dục cho được? Quư vị muốn tọa Thiền,
ắt cần phải quở trách [ngũ dục]. Ngũ dục
là [sự tham ái đối với] Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc. Kẻ ngu si mê mờ trong Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, yêu đắm Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc, sanh tham đắm, chẳng biết
lỗi lầm và tai hại của chúng. Người trí huệ biết
chúng nó là họa hoạn, chẳng dám thân cận năm loại
ấy; đó gọi là “quở trách ngũ dục”.
Trong ấy có rất nhiều thứ, nếu mọi người
muốn học, ắt cần phải đọc nhiều!
Loại
thứ hai là trừ bỏ
Ngũ Cái[4].
Trong Ngũ Cái, tham dục chính là Tham Dục Cái. Do cảnh
giới ngũ trần Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc
mà quư vị sanh khởi dục vọng. Đă thế, trong
Ư Căn nội tại của quư vị, cũng sanh khởi
dục vọng. Khi quư vị tu Thiền, tâm sanh dục ái,
chẳng ngồi yên nổi. Do vậy, nó che lấp thiện
tâm của quư vị. Lúc b́nh thường th́ vẫn dường
như chẳng nóng giận chi hết, phiền năo đều
có thể giằn ép, có thể chịu đựng
được. Chứ khi tọa Thiền, sẽ chẳng
thể nhẫn được, các thứ bị giằn ép
trong quá khứ đều ngoi lên, lại c̣n hết sức
mạnh mẽ, dữ dội. Do vậy, muốn ngăn dứt
các chướng ngại sanh khởi do tu Chỉ hay tu Quán,
quư vị phải tu Sổ Tức Quán. Trong quá tŕnh đếm
số [theo hơi thở ra vào], có thể là chợt nghĩ
tới bữa nào đó, kẻ nào
đó xử tệ với ta, làm ta khổ sở, ta phải
báo thù. Trong tâm càng nghĩ, càng sân hận, khiến cho quư vị
quên sạch sành sanh những ǵ vốn đang tu tập! Thậm
chí ngồi không nổi, phải đứng dậy, nghiệp
chướng thôi thúc quư vị phải trả đũa. Muốn
quở trách ngũ dục, muốn bỏ Ngũ Cái, điều
kiện thứ nhất là phải có đủ ngoại
duyên. Điều này bao gồm tất cả mười thứ.
C̣n
có loại thứ tư[5]
là điều ḥa. Đi, đứng, ngồi, nằm, đều
có thể tu, nhưng ngồi th́ thích hợp hơn. Khi tu Chỉ
Quán, nhất định phải điều ḥa sao cho thân và
tâm thích ứng. Trước hết là điều thân
(điều ḥa cái thân) rồi điều tâm (điều
ḥa cái tâm). Xong xuôi, bèn điều tức (điều ḥa
hơi thở), [tức là theo thứ tự]: Điều
thân, điều tức, điều tâm, phải điều
ḥa. Đây là loại thứ tư.
Mười
duyên ấy tôi chỉ nêu danh từ. Nếu mọi người
thật sự mong tu tập th́ phải nghiên cứu. Duyên thứ
năm là phải có phương tiện thiện xảo, tu
hành phải có phương tiện thiện xảo. Trí Giả
đại sư đă dạy các phương tiện thiện
xảo.
Loại
thứ sáu mới là chánh tu, tức thật sự tu Định,
hoặc là khi quư vị tĩnh tọa cũng thế, hoặc
ngồi xuống để tư duy quán tưởng
cũng thế.
Loại
thứ bảy là phát nguyện, khéo phát đại nguyện.
Loại
thứ tám là chính quư vị phải nhận biết ma
chướng. Khi chưa tu, ma chướng chẳng hiện.
Khi tu, ma chướng sẽ xảy ra.
Loại
thứ chín là đối trị Thiền bệnh. Khi quư vị
tu Định, sẽ có rất nhiều bệnh, đó gọi
là “Thiền bệnh”. Đấy chẳng phải là
thân thể chúng ta mắc bệnh. Quư vị phải biết
cặn kẽ Thiền bệnh là ǵ.
Loại
thứ mười là có thể tiến nhập, tức chứng
quả Thiền Định.
Nói
chung, “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự
tịnh kỳ ư, thị chư Phật giáo” (đừng
làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, tự
tịnh tâm ư, đức Phật dạy như thế): Nếu
các pháp tu khác của quư vị chẳng có điều ấy,
th́ khi quư vị tu quán tưởng, hăy niệm bốn câu ấy:
“Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh
kỳ ư, thị chư Phật giáo”. Đấy là lời
dạy bảo của đức Phật, khi học Thiền
Định. chính ḿnh biết quán, biết tu, trước hết phải
có đủ các duyên ấy. Các ngoại duyên đều
đă thanh tịnh th́ mới dễ tiến nhập ba môn giải
thoát.
Ba
môn giải thoát là:
1)
Không Môn: Không Môn chẳng phải [là rỗng không] như
chúng ta nói, bởi có khi dùng hư không làm tỷ dụ. “Không”
chẳng phải là [rỗng tuếch] như hư không; nếu
hiểu [Không] là “hư không” th́ sai lầm
mất rồi. “Không” bao hàm ư nghĩa “hết thảy
đều do duyên sanh, hết thảy các pháp đều chẳng
có tự thể”. Bản thể của chúng là Không, v́ do
rất nhiều duyên hợp thành,
cũng từ nhân duyên mà sanh ra. Giả sử
nhận biết hết thảy các pháp đều sanh từ
nhân duyên, đều là vô tự tánh. Hôm nào đặc biệt
nói đến “Duyên khởi tánh Không”, tôi sẽ giảng
rất lâu. Nói “hết thảy các pháp đều chẳng
có tự tánh. Chẳng có tự tánh th́ là Không”, lại c̣n
bảo “bản thể của nó chính là Không”, trọn
chẳng phải là phá tan nó, [đừng hiểu là] phải
phá hủy nó th́ mới gọi là Không. Hoàn toàn chẳng phải
là ư nghĩa đó. Nhưng nếu “duyên tán”, tức là
duyên chẳng c̣n nữa, duyên chẳng trọn đủ, nó
sẽ là không (chẳng c̣n tồn tại nữa). Nếu
quư vị có thể liễu giải hàm nghĩa này, sẽ rất
dễ đạt được tự tại. Quư vị
đă biết th́ đối với hết thảy các sự
vật, sẽ chẳng dấy lên chấp trước, kể
cả có thể đoạn Ngă Chấp. Nhất Thiết
Trí chứng đắc bởi A La Hán là Không, [do Ngài đă]
chứng đắc tầng ư nghĩa ấy, Ngài đă giải
thoát. Đă nhập Không th́ là giải thoát.
2)
Vô Tướng c̣n gọi là Vô Tưởng, hết thảy
chẳng tưởng. Quư vị đă biết hết thảy
đều là Không, đối với tướng trạng nam, nữ, thật tại là chẳng thể đạt
được. Nếu nhận biết “hết thảy
các pháp vô tướng”, sẽ ĺa khỏi tướng sai
biệt của hết thảy các pháp, đạt được
tự tại. V́ quư vị đối với hết thảy
các pháp chẳng dấy lên chấp trước, biết nó
chẳng có, nó là huyễn tướng, là giả tướng,
như bóng, như h́nh. Vô tướng có nghĩa là như thế
đó.
3)
“Vô nguyện, vô tác” cũng gọi là Vô Dục. Quư vị
đă biết hết thảy các pháp vô tướng, cho nên ở
trong tam giới, chẳng mong cầu điều ǵ. Đă chẳng
cầu, quư vị sẽ chẳng tạo nghiệp. Nếu
quư vị chẳng tạo nghiệp sanh tử,
đương nhiên là sẽ chẳng thọ khổ quả
là quả báo của sanh tử. Do vô tướng, quư vị
đạt được tự tại, nhất tướng,
dị tướng, đồng tướng, chư tướng,
sai biệt tướng, chẳng mong cầu các thứ tướng, v́
chúng đều là Không, đều như huyễn.
Nếu
có thể tiến nhập ba môn giải thoát ấy, có trí huệ,
thật sự có thể tiến nhập, th́ sẽ là “ở
trong thế gian, mà ĺa thế gian”. Tuy quư vị ở
trong thế gian, nhưng đă tách khỏi thế gian v́ chẳng
bị các pháp thế gian câu thúc.
Lại
xét đến “sổ, tùy, chỉ, quán, chuyển, tịnh”
th́ đối với Sổ (数), chúng ta thường
nói là “đếm số”, tức là một, hai, ba, bốn,
năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, đếm số như
vậy. Đếm ǵ vậy? Đếm hơi thở ra
vào. Đây là tu Định, tâm cần phải chuyên chú
nơi một cảnh. Từ một tới mười, rồi
lại đếm từ đầu, từ một đến
mười. Hễ hơi có tạp niệm, sẽ đếm
sai số. Quư vị ắt phải chuyên chú nơi
một cảnh, dựa trên các con số ấy, khiến cho
cái tâm của quư vị định nơi con số, sẽ
chẳng c̣n t́m cầu những vọng niệm khác nữa.
Loại
này có rất nhiều cách tu. Có một khoảng thời
gian, tôi sử dụng công phu như thế này: Tôi sử dụng
thánh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát, đếm theo từng chữ. Khi hít vào là Nam, thở
ra là Mô, xong rồi lại hít vào là Địa, kế đó,
lại thở ra là Tạng. Sau đó, hít vào là Bồ, thở
ra là Tát. Mỗi chữ đều quán tưởng như vậy. Quư vị thở ra, hít vào như
vậy, rồi lại thở ra, hít vào, đó gọi là
Xuất Nhập Tức (出入息, hơi thở ra
hít vào). Kinh Thập Luân nhằm dạy quư vị quán Xuất
Nhập Tức, trọn chẳng nói đến con số để đếm;
nhưng nói thông thường, phương pháp đếm
[trong Sổ] là từ một
đến mười. Lục Diệu Môn nói về chữ
Sổ càng tường tận hơn. Đấy là bước
đầu trong cách tu Chỉ Quán.
Kinh
Thập Luân dạy giản lược như vậy rồi,
đối với mỗi loại, đều nói hai thứ
tướng, tức là tướng có thể hít vào, thở
ra, đạt được Định nơi tướng
thở ra, hít vào. Vậy th́ nay đang lúc thở ra, hít vào,
thoạt đầu hơi thở rất thô, cho đến
khi quư vị quán tưởng đă lâu, hơi thở sẽ
vi tế hơn. Sau khi đă vi tế, [sẽ đạt
đến giai đoạn], hơi thở chẳng c̣n nữa.
Như tôi niệm Nam Mô Địa Tạng Bồ Tát, niệm
miết rồi cũng chẳng thấy có niệm nữa,
hơi cũng chẳng thở ra, dường như hơi
thở đă an định. Từ thô đến tế, vi
tế đến mức hầu như chẳng c̣n cảm
thấy nữa, cảm giác đă ngừng thở luôn. Đấy
là tướng Xuất Nhập Tức.
Do
quư vị đă tiến nhập công phu Xuất Nhập Tức,
sẽ có thể chuyên chú, thuận theo hơi thở ra vào
để ngưng dứt các “vọng niệm, vọng
tưởng, t́m cầu, ḍ xét”. Nếu quư vị ĺa khỏi
vọng tưởng, vọng tưởng sẽ ngưng dứt.
Chẳng c̣n t́m cầu nữa, chẳng dấy lên vọng
tưởng nữa, quư vị đă đạt được
công phu nơi Xuất Nhập Tức. Đạt được
công phu, nói thông tục hơn một chút, sẽ là từ thô
tướng tiến nhập tế tướng. Giống
như lúc thoạt đầu
chúng ta mới đếm hơi thở, tâm rất thô, rất
phập phều, lao chao, rất xáo động, số đếm
chạy lung tung. Càng đếm, tư tưởng lại
càng rong ruổi. Khi nghiệp đă có thể trụ vững,
tức là trụ nơi hơi thở ra, hít vào, các niệm khác
sẽ đều chẳng có nữa! Một niệm như
vậy, quán nơi chót mũi, hoặc là quán một tướng
nhất định, sẽ chuyên chú một cảnh, có hàm
nghĩa như thế đó. Chuyên chú nơi một cảnh, quư vị có thể
ngưng dứt vọng niệm, tướng thở ra, hít vào đă trở thành rất
nhẹ nhàng, vi tế. Khéo giữ lấy tướng thở ra, hít vào, tướng ấy như có, như không, thế
nhưng vẫn chưa ngưng dứt, ắt cần phải
đạt tới cảnh giới Chỉ.
“Tùy,
sổ, chỉ, quán, chuyển, tịnh”, sáu điều
này liên quan với nhau. Khi đó, quư vị cảm thấy
hơi thở ra, hít vào đă diệt, chẳng c̣n hít thở
nữa, mà cũng có thể trụ trong Định, hoặc
như chúng ta nói là Khinh An, cũng gọi là Tam-ma-địa.
Tới lúc ấy, biểu lộ tướng hít thở
đă hết. Khi có thể biết đang thở ra hay hít
vào đă tận, đó là Quán. Khi thở
ra, hít vào đă chấm dứt th́ là Chỉ. Biết hơi
thở là thở ra hay hít vào, quan sát hơi thở ra, hít vào.
Khi nó đă dứt th́ cái tâm đă an trụ. Khi đó, quư vị
phải quan sát chính ḿnh, tâm không dấy động ư niệm
nào khác, phải quan sát. Đó gọi là “do Định mà
sanh ra Minh”. Minh là trí huệ. Trí huệ có nghĩa là Chiếu,
đạt tới bước công phu thứ tư. Khi
đó, đối với Sắc, Thọ, Tưởng, Hành,
Thức như đă nói trong phần trước, quư vị
đă sớm xả Sắc pháp. Đấy là chuyển tâm
pháp. Quư vị có thể bỏ Ngũ Uẩn, dần dần
tiến đến đắc Định. Thật sự
có thể tiến nhập Định, dần dần có thể
tiến nhập thánh địa (địa vị của bậc
thánh), có thể thanh tịnh. Khi quư vị đă tịnh, sẽ
xả Kết Sử tham, sân, si. Bỏ
sạch các Kết Sử ấy, sẽ có
thể sanh ra tịnh kiến (淨見, thấy biết
thanh tịnh). Như vậy th́ trí huệ đă khai. Nói ra
dường như rất dễ dàng, nhưng thực hiện
rất khó; trong ấy có các thứ tế hạnh (細行, các hạnh vi tế).
C̣n
nữa, trong khi quư vị tu, vị thầy hướng dẫn
sẽ biết quư vị đạt tới cảnh giới
nào. Nếu quư vị hỏi thầy: “Nay con đang ở cảnh
giới nào?” Đặc biệt là khi ma chướng dấy
lên, chính ḿnh sẽ có thể nhận biết. Tuy đă nhận
biết, nhưng chẳng thể khắc phục được!
Chẳng hạn như nói: “Mỗi ngày chúng ta phải
tĩnh tọa ba lần, hoặc tĩnh tọa năm lần”.
Khi quư vị đă Định, hoặc là thoạt đầu
liền có thể khắc phục hết thảy khó
khăn th́ mới thanh tịnh được, chứ vừa
mới nhập môn, chướng ngại sẽ xảy ra liền.
Hoặc là rất nhiều chuyện ràng buộc, quấy
nhiễu trong thế gian xảy đến, khiến cho cái
tâm của quư vị chẳng an định, sẽ bị
xáo động. Nếu lúc quư vị đang ngồi, hoặc đang đi, hoặc
đang trong lúc quán tưởng, hay niệm Phật
cũng thế, tuy tâm quư vị trụ tại một cảnh,
nhưng tâm bị xao động, tự nhiên cảnh giới
bên ngoài sẽ quấy nhiễu quư vị. Dẫu không ai quấy
nhiễu quư vị, chính [trong nội tâm] quư vị cũng sẽ
t́m ṭi. Đó là Tầm
Tứ. Tự quư vị t́m ṭi, lại c̣n thoái lui. Nếu
bị như vậy, muốn tu trở lại để
đạt được như trước rất khó.
Chúng ta do môn Sổ Tức này sẽ có thể tiến
nhập, có thể thuận theo (Tùy), xả trừ Tầm
và Tứ[6],
chẳng truy cầu nữa. Chẳng t́m ṭi th́ tư tưởng
chẳng bị phan duyên, cũng có nghĩa là cái tâm vọng
tưởng chẳng c̣n nắm níu cái cảnh nữa.
Đặc
biệt là đối với người tu hành, sẽ phát
sanh loại chướng ngại này: Hoặc là trong tâm sanh
khởi phiền năo, chẳng muốn thực hiện nữa,
chẳng muốn hành tŕ nữa, chẳng nghĩ tu tập nữa.
Đấy là [chướng ngại] do từ trong nội tại
của chính ḿnh sanh khởi. Hoặc là bằng hữu, thân
thuộc [gây trở ngại]. Nói chung là duyên ǵ cũng đều
đưa đến. Khi quư vị sắp tiến nhập,
chướng ngại liền xảy ra. V́ sao? V́ trong quá khứ,
chúng ta chẳng có thiện căn. Do vậy, Trí Giả
đại sư mới nói: Khi quư vị tu Quán, muốn tu
Định và tu Huệ th́ phải đạt được
đầy đủ các ngoại duyên trước đă!
Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta phải sám hối,
vẫn chưa nói tới tu Định, v́ quư vị muốn
tiến nhập, muốn học tập, phải sám hối
trước đă. Nếu không, ngay cả cơ hội học
tập quư vị cũng chẳng có. Kể như có cơ hội
học tập đi nữa, quư vị cũng hoàn toàn chẳng
thể tiến nhập được, v́ sẽ bị
chướng ngại ngăn lấp!
Vạn
nhất các vị đạo hữu muốn tu Định
thành thánh, phát nguyện: “Tôi sẽ nghe trọn vẹn kinh Thập
Luân”. Bộ kinh này giảng xong từ đầu đến
cuối, người nghe chẳng gián đoạn sợ chẳng
được mấy ai. Tôi cũng chẳng dám nói “không
có”, hoặc là sẽ bỏ lỡ một hai buổi. Khi giảng
kinh Chiêm Sát, tôi đă thí nghiệm, theo như tôi thấy,
người học trọn vẹn từ đầu đến
đuôi rất ít! Do nguyên nhân ǵ vậy? Nghiệp Lưu!
Đặc biệt là trong thời Mạt Pháp, duyên chẳng
thịnh. Đặc biệt là nội chướng của
chính ḿnh c̣n dữ dội hơn ngoại chướng.
Đă có nghiệp, sẽ khởi Hoặc, Hoặc là bất
an, bứt rứt, thậm chí dấy lên phiền năo, phiền
năo với ai? Phiền năo với chính ḿnh. Không thể kiên nhẫn
ngồi nổi. Tu đạo là như thế đó, bất
luận quư vị tu môn nào! Bái sám có chướng ngại hay
không? Rất khó! Chính ḿnh phát tâm, tự ḿnh ước định.
Thoạt đầu là ấn định ba lần, rồi
sẽ biến thành hai lần. Sau đó, hai lần biến
thành một lần, rất khó! Luôn có những thứ quấy
nhiễu, ai quấy nhiễu? Nghiệp Lưu và Phiền
Năo Lưu của chính ḿnh. Khổ quả quấy nhiễu
quư vị. Quư vị mong siêu thoát, khó lắm thay!
Do
vậy, chúng ta mong trở thành người tu đạo,
mong chẳng tạo tác nghiệp sanh tử, mong cắt
đứt gịng sanh tử, mà nếu chẳng có cái tâm phát
nguyện ấy, làm sao có thể thực hiện cho
được? Dẫu quư vị có cái tâm ấy, muốn thực
hiện, chướng ngại giữa chừng quá nhiều,
quư vị phải khắc phục bằng cách nào? Trừ sức
của chính ḿnh ra, hăy cầu Phật, Bồ Tát gia tŕ. Do vậy,
chúng ta bái sám, cầu tha lực, dùng tâm lực của chính
ḿnh kết hợp với từ bi lực của Phật,
Bồ Tát, như thế th́ quư vị mới có thể
đoạn tam lưu. Đă đoạn tam lưu, quư vị
sẽ chứng, sẽ có thể nhập thánh.
Khi
chúng tôi mới bắt đầu học Hoa Nghiêm, do là
căn cơ Nhị Thừa, đối với chuyện
sanh về thế giới Cực Lạc, bèn suy nghĩ, cho
rằng chẳng có ǵ là cần thiết, thậm chí cho rằng
chẳng cần phải học, cứ nghĩ đó là
phát đại nguyện. Hiện thời, càng học, càng
kinh sợ, càng cảm thấy [chính ḿnh] đă sai lầm. Quả
A La Hán của Nhị Thừa đă đoạn sanh tử.
Bậc thánh nhân chứng đắc Sơ Quả đă
đoạn Kiến Hoặc, c̣n chúng ta thấy ǵ cũng
sanh khởi phân biệt, thấy ǵ cũng đều sanh khởi
tham ái, cách thánh quá xa. Nói dễ ẹt, làm mới khó. [Vậy
th́] “biết” có dễ hay không? Hay là “làm” dễ hơn? Nho
gia nói “tri nan hành dị”, ư nói: Biết rất khó, làm dễ
dàng hơn! Có những chuyện rất dễ biết, làm rất
khó. Tôi thấy: Đối với người học Phật,
biết lẫn hành đều khó, nhưng so sánh th́ quư vị
ắt cần phải thật sự biết trước
đă, rồi mới có thể hành được! Đây
là bước đầu tiên. Quư vị chẳng biết,
hành bằng cách nào? Cái Biết ấy cần phải có trí
huệ. Quư vị phải có khá nhiều loại nhân duyên th́
mới có thể bắt đầu biết được!
Nếu
quư vị gặp phải một vị sư phụ chẳng
giỏi cho lắm, chẳng gặp được pháp hội
giảng kinh, chúng ta thấy rất đơn giản, chứ
thật ra rất khó! Theo như tôi biết, xét theo kinh nghiệm
của tôi, hoàn toàn chẳng dễ dàng! Ngay cả biết mà
quư vị không biết, hành bằng cách nào đây? Đúng
không? Bước đầu tiên là phải biết, điều
này là cơ sở. Quư vị phải tin tưởng! Nếu
ngay cả tin mà quư vị cũng chẳng tin, làm sao có thể biết cho được? V́ quư vị
có tiến nhập th́ mới học. Ngay cả niềm tin
cũng chẳng có, tu đạo bằng cách nào? Chúng ta đừng
nói chi khác, hăy nh́n vào Tế Công, chúng ta đều rất hâm
mộ. Ngài giải đăi dường ấy, thế mà giỏi
giang dường ấy, tùy tiện cầm lấy thứ
ǵ cũng thành tựu. Ta thấy đối với các vị
đại Bồ Tát, không ǵ chẳng phải là Phật
pháp, nhưng muốn đạt đến cảnh giới
ấy, chẳng phải là dễ đâu nhé!
Lúc
bắt đầu học, đối với hết thảy
các pháp đều chớ nên chấp trước. Nay tôi mới
thấu hiểu, tôi chẳng có pháp, [vậy th́] chẳng cần
chấp trước pháp, bảo tôi bỏ bằng cách nào?
Tôi ắt phải nương theo pháp th́ mới có thể trừ
bỏ Ngă Chấp. Cho đến khi tôi chẳng có Ngă Chấp
nữa, tôi cũng chẳng c̣n y theo pháp nữa. Hiện thời,
cái Ngă vẫn c̣n đó, mỗi ngày cảnh giới ngũ dục
đều có trọn đủ, mong chẳng cần đến
pháp, làm sao quư vị tiến nhập cho được? Quư
vị vẫn trôi lăn trong cảnh giới ngũ dục.
Có phải là như thế hay không? Do vậy, nói là khó, mà
cũng [có thể] nói là “rất dễ dàng”, tức là do cái
tâm tín giải chí thành [th́ sẽ thực hiện được].
Sau khi đă tin, tự nhiên quư vị sẽ biết cái nào là
tốt, cái nào là xấu, đương nhiên quư vị sẽ
xuôi theo cái tốt, tránh né cái xấu. Rơ ràng là hố lửa,
ai sẽ nhảy vào? Đức Phật đă dạy rơ ràng
“đó là hố lửa”. Tam giới là hầm lửa, quư vị
nhất định phải xuất ly. Người giải
sâu, sẽ cầu [xuất ly] tha thiết. Nguyện khẩn
thiết th́ mới hành được. Quư vị thường
niệm vô thường, niệm khổ, mỗi ngày toàn gặp
gỡ khổ quả, chẳng phải là chuyện này bức
bách, th́ sẽ là chuyện kia bức bách. Vừa mới tốt
đẹp một tí, khổ đưa đến liền!
Rất
nhiều đạo hữu kinh doanh, buôn bán cũng thế,
mà đi làm cũng thế, nhà cửa đều chẳng có
vấn đề ǵ, chuyện ǵ cũng đều ổn,
[bỗng dưng] vợ thất nghiệp, chẳng có thâu nhập,
quư vị nói có phiền toái hay không? Vừa mới tốt
đẹp một chút, trong nhà liền có người bệnh,
khám bệnh phải tốn tiền, rất bức bách. Nay
những điều chúng ta học, cần phải tu hành,
chính là “giữ được ư niệm đến
đi”, cũng tức là chúng ta dấy lên ư niệm, hít
thở chính là cái niệm đến đi. Hễ niệm dấy
lên, thường nắm chắc ư niệm ấy, cũng chẳng
dễ dàng! Chúng ta học dần dần, giống như
chúng tôi giảng kinh Thập Luân chỉ sợ một hai
ngày cũng giảng chẳng xong được! Học
kinh để làm ǵ? Có thể dùng được th́ vẫn
sử dụng ngay lập tức. Đối với lúc khởi
đầu, chúng tôi nói nhiều hơn một lần. Pháp
này đối với chúng ta là thuận tiện nhất, mọi
người đều có thể nhập được,
đều có thể biết. Hôm nay, chúng tôi nói về chuyện
“giữ được cái niệm đến đi”,
chứ “sổ, tùy, chỉ, quán, chuyển, tịnh” vẫn
chưa nói xong! Mọi người có thể xem sách Lục
Diệu Môn, đối với mỗi điều, sách ấy
đều giảng rất cặn kẽ, nhưng chỉ
là chỗ khởi sự để tu hết thảy các môn
Định.
Hiện
thời, pháp sư Hoằng Giác đang giảng pháp Chỉ
Quán trong Bồ Đề Đạo [Thứ Đệ Luận],
đó là chiếu theo giáo nghĩa của Tây Tạng, cũng
rất thuận tiện, rất giản dị, rơ ràng. Nếu
mọi người tiến nhập, cũng rất dễ
dàng. Nếu kết hợp cả hai cách này, sẽ càng hay
hơn nữa!
(Kinh)
Phục phương tiện tu Nhập Xuất Tức Quán,
tức thị tu tập tŕ lai khứ niệm. Vân hà do niệm
như thật quán sát nhập tức, xuất tức? Vị
chánh quán sát, sổ cố, tùy cố, chỉ cố, quán cố,
chuyển cố, tịnh cố. Ưng tri thử trung, Sổ
năng tạo tác nhị chủng sự nghiệp: Nhất,
năng vi y phục chư Tầm, Tứ. Nhị, năng thủ
ư nhập xuất tức tướng. Tùy năng tạo
tác nhị chủng sự nghiệp: Nhất, y xuất ly, xả
chư Tầm, Tứ. Nhị, năng thiện thủ nhập
xuất tức tướng. Chỉ năng tạo tác nhị
chủng sự nghiệp: Nhất, năng thị hiện
nhập xuất tức diệt. Nhị, năng an trụ
thắng tam-ma-địa. Quán năng tạo tác nhị chủng
sự nghiệp: Nhất, năng thị hiện nhập xuất
tức tận. Nhị, năng an trụ tâm cập tâm pháp,
biệt dị quán sát. Chuyển năng tạo tác nhị chủng
sự nghiệp: Nhất, năng phương tiện xả
chư Thủ Uẩn. Nhị, năng phương tiện
thú nhập thánh địa. Tịnh năng tạo tác nhị
chủng sự nghiệp: Nhất, năng xả kết, nhị,
năng tịnh kiến.
(經)复方便修入出息觀,即是修習持來去念。云何由念如實觀察入息出息?謂正觀察,數故、隨故、止故、觀故、轉故、淨故,應知此中,數能造作二種事業:一、能為依伏諸尋伺,二、能取於入出息相。隨能造作二種事業:一、依出離舍諸尋伺,二、能善取入出息相。止能造作二種事業:一、能示現入出息滅,二、能安住勝三摩地。觀能造作二種事業:一、能示現入出息盡,二、能安住心及心法,別異觀察。轉能造作二種事業:一、能方便舍諸取蘊,二、能方便趣入聖地。淨能造作二種事業:一、能舍結,二、能淨見。
(Kinh:
Lại có phương tiện tu Nhập Xuất Tức
Quán (quán hơi thở ra vào), tức là tu tập giữ vững
cái niệm đến đi. Như thế nào là do niệm
như thật mà quan sát thở ra, hít vào? Tức là chánh quán
sát, do các phép Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Chuyển, và Tịnh.
Hăy nên biết trong ấy, Sổ có thể tạo tác hai thứ
sự nghiệp: Một là có thể dùng nó để chế
phục Tầm và Tứ, hai là có thể nắm giữ
tướng hít vào, thở ra. “Tùy” có thể tạo tác hai thứ
sự nghiệp: Một là dựa vào xuất ly mà bỏ các
Tầm và Tứ. Hai là có thể khéo giữ lấy tướng
hít vào, thở ra. “Chỉ” có thể tạo tác hai thứ sự
nghiệp: Một là có thể thị hiện hít vào, thở
ra diệt mất, hai là có thể an trụ trong chánh định
thù thắng. “Quán” có thể tạo tác hai thứ sự nghiệp:
Một là có thể thị hiện hít vào, thở ra đă chấm
dứt, hai là có thể an trụ tâm và tâm pháp sai khác để
quán sát. “Chuyển” có thể tạo tác hai thứ sự nghiệp:
Một là có thể phương tiện xả các Thủ Uẩn,
hai là có thể phương tiện tiến nhập địa
vị thánh. “Tịnh” có thể tạo tác hai thứ sự
nghiệp: Một là có thể xả kết, hai là có thể
tịnh hóa tri kiến).
Phương
tiện tối sơ để tu Định nghiệp luân
là tu Nhập Xuất Tức Quán. Muốn tu pháp môn
phương tiện này th́ có sáu loại, tức là “sổ,
tùy, chỉ, quán, chuyển, tịnh”. Pháp quán Nhập Xuất
Tức này c̣n gọi là tu tập “tŕ lai khứ niệm”
(nắm vững niệm đến đi). Niệm đến,
niệm đi [là đối tượng để quán của] phép
Sổ Tức Quán. Sổ (數) là đếm chữ
hay đếm số; dùng phương pháp đếm số
để nhiếp tâm, nhiếp vọng niệm của quư
vị. Chúng ta mới nghe hoặc mới học, cảm thấy
[phương pháp này] rất đơn giản. Nếu quư vị
thật sự tu tập, [sẽ nhận thấy] chẳng
đơn giản cho lắm. Quư vị [chỉ chú trọng]
đếm số là sai mất rồi. Có hai cách đếm:
- Một loại là hít
vào đếm một, thở ra đếm hai. Một mực
hít vào bèn đếm một,
thở ra đếm hai, lại hít vào đếm ba, thở
ra đếm bốn. Đây là một cách đếm.
- Một cách đếm
khác là quư vị có thể gộp chung hít vào và thở ra
để đếm thành một, [kế tiếp] hít vào thở
ra đếm hai. Đếm tới
mười là hết (lại đếm từ một trở
lại). Một là con số khởi đầu, mười
là con số kết thúc. Ṿng mười lượt đầu
tiên đă xong, quư vị lại đếm từ một,
hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, lại
quán số như vậy.
Thoạt
đầu, quư vị cảm thấy đếm số
như vậy rất đơn giản, cứ lo đếm
số là sai mất rồi. Nếu tâm chẳng chú ư đôi
chút, một là đếm lầm số, hai là hơi thở
ra vào sẽ hỗn loạn. Hít vào, thở ra bị hỗn
loạn, quư vị ắt cần phải điều ḥa cân
bằng hơi thở. Đă nhiếp cho quư vị khỏi
hôn trầm, mà cũng nhiếp quư vị chẳng tán loạn.
V́ đây là tu Định, là chỗ để tiến nhập
đầu tiên, quư vị ắt cần phải tĩnh
tâm quán sát. Chẳng hôn trầm, chẳng tán loạn th́ quư vị
mới có thể đếm số đúng được!
Nếu
quư vị chẳng sử dụng công phu này, thoạt đầu
nghe nói liền cho là quá đơn giản! Quư vị dùng rồi mới thấy thật ra rất khó, thoáng chốc
đă đếm sai mất rồi. Nếu quư vị chỉ
đếm số đơn, tức là hít vào đếm một,
thở ra đếm hai, lại hít vào đếm ba, thở
ra đếm bốn. Mười lần như vậy, mỗi
lượt tính một ṿng. Nếu hít vào và thở ra tính là
một, như vậy mười lượt tức là
mười lần hít vào thở ra. Có người cảm
thấy vừa hít vào vừa thở ra mới đếm
thành một số, sợ sẽ lầm loạn, liền
hít vào đếm là một, thở ra đếm là hai, chỉ
tùy thuộc sao cho quư vị đắc Định là tốt
nhất. Quư vị có thể tự áp dụng phương
tiện này. Nhưng khi quư vị đếm đến
mười, bèn đếm lại
từ đầu. Thoạt đầu, khi mới sử dụng
[cách Quán này], vừa ngồi xuống, hơi thở rất
nặng nề, rất hào hển. Quư vị cứ hít vào, thở
ra, đếm số như vậy, hơi thở sẽ từ
thô tháp trở nên nhẹ dịu, tới cuối cùng, thở
ra lẫn hít vào đều ngưng. Như thế th́ sẽ
dần dần nhập Định.
Tôi
sẽ nói đại lược đôi chút. “Tùy” (隨) là trước hết
dựa theo hơi thở ra vào, trước
hết thuận theo cách đếm số. Sau là “tùy” theo Chỉ. “Tùy” có thể khởi
lên hai thứ tác dụng. Tùy thuận cách đếm số
hơi thở ra vào mà có thể quan sát tướng
thở ra, hít vào. Trong khi đếm số, đếm tới đếm
lui như vậy, điều ḥa hơi thở hết sức
vi tế. Dần dần, quư vị sẽ ngừng dứt
các tâm mong cầu, tâm phan duyên. Tự quư vị có thể thấy
được, chính ḿnh có thể quán tưởng tướng
trạng hít vào, thở ra, có thể thấy tướng ra
vào của nó. Điều này thuộc về Sắc pháp, thuộc
về sắc tướng. Do vậy, phép Quán của
quư vị là hữu tướng, có thể dùng nó để hàng phục
cái tâm tán loạn. Khi quư vị đếm số, tùy thuận
theo tướng hít vào, thở ra ấy, chính ḿnh có thể
quan sát. Cách tùy thuận ấy có thể khởi lên hai thứ
tác dụng: Một là ngưng dứt cái tâm t́m cầu, hai là
hàng phục cái tâm Tầm Tứ.
Do
lúc đếm số, có thể hàng phục cái tâm tán loạn.
Cho đến lúc Tùy [như vừa nói trên đây], sẽ có
thể xuất ly, bỏ được cái tâm Tầm Tứ.
Khi ấy, người đó có thể khéo giữ lấy
tướng hít vào, thở ra, [tức là] trong khi đang tu,
có thể dần dần quan sát. Đó là tác dụng của
Tùy. Tác dụng của Chỉ là khi đang Tùy, đối với
tướng hít vào, thở ra đă hiện hữu ấy, sẽ
có thể diệt trừ tướng hít vào, thở ra. Khi ấy,
quư vị đă có thể dần dần nhập Định,
an trụ trong Định. Khi quư vị cảm thấy
đă có thể dần dần nhập Định, đó là
quán chiếu, nó có thể báo cho quư vị biết hơi hít
vào, thở ra đă hết, hoàn toàn bất động,
đă diệt tận, có thể an trụ cái tâm.
“Chuyển”
có nghĩa là hàng phục cái tướng ấy, có thể xả
Sắc Pháp và Sắc Uẩn. Tướng thở ra hít vào
thuộc về Sắc Uẩn. Người ấy dần dần
đoạn phiền năo, có thể nhập địa vị
thánh, tức là đă đoạn phiền năo. Khi cảm thấy
tĩnh, người ấy có thể xả các thứ Kết Sử, bỏ được
tham, sân, si, mạn, nghi, Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Thủ
Kiến, Kiến Thủ Kiến, Tà Kiến, tức mười
phiền năo Kết Sử ấy. Xả hoàn toàn chẳng phải
là đoạn, vẫn chưa đạt tới cảnh giới
ấy. Khi có thể đoạn, sẽ có thể sanh ra chánh
tri, chánh kiến. Đó gọi là “sáu loại
phương tiện”. Sáu loại
phương tiện ấy chính từ phép Sổ mà Sổ, Tùy, Chỉ,
Quán, Chuyển, Tịnh. Trí Giả đại sư viết
Lục Diệu Môn, đă sửa [Chuyển] thành Hoàn, [với
ư nghĩa] “hoàn nguyên” (還原, trở lại) thanh tịnh.
Mỗi
loại phương tiện đều có hai thứ tượng
trưng: Một là thô, hai là tế. Khi quư vị mới tu,
lúc đếm số, tùy thuộc chính ḿnh chọn lựa
cách nào. Khi tôi sử dụng, tôi niệm thánh hiệu Địa
Tạng: Cứ mỗi một chữ, hít vào ở chữ
Nam, thở ra ở chữ Mô. Xong xuôi lại
hít vào là chữ Địa, lại thở ra là chữ Tạng.
Lại hít vào là chữ Bồ. Lại thở
ra là chữ Tát. Tôi chia sáu chữ thành ba lượt. Hít vào,
thở ra, hít vào, thở ra, hít vào, thở ra; niệm Phật
mười lần th́ là tôi niệm trọn sáu mươi chữ.
Lúc đầu rất thô, phải tập trung tinh lực; hơi lơi lỏng, lười
nhác sẽ bị sai lầm ngay. Khi sử
dụng đă khá tinh thông, đếm tới, đếm
lui, dần dần hơi thở được hàng phục,
trong tâm liền tĩnh lặng. Đă chẳng thể dấy
vọng tưởng, mà cũng chớ nên hôn trầm. Nếu
tư tưởng chẳng chú ư đôi chút, quư vị sẽ
chẳng thể quán chiếu được, sẽ bị
lầm. Thoạt đầu, quư vị cảm thấy
như vậy quá phức tạp, có thể rút ngắn cho giản đơn hơn. Trước
hết là đếm từ lúc hít vào, hít vào đếm là một,
thở ra đếm là hai, vậy th́ lại hít vào là ba, lại
thở ra là bốn. Do vậy, trong năm ṿng hít thở, sẽ
đủ mười số.
Chiếu
theo kinh nghiệm của tôi, nếu quư vị có thể
đếm tới lần thứ năm trăm, bất luận
quư vị đi lại cũng thế, mà ngồi cũng thế,
có khi ngồi ở đó đếm số, quư vị sẽ
cảm thấy giống như thằng ngốc, ngồi
ngơ ngẩn tại đó. V́ quư vị chuyên chú vào một
cảnh, kinh dạy “chuyên chú một cảnh, sẽ có thể
nhiếp tâm”, đă hàng phục cảm giác thô, sẽ tiến
nhập [cảm giác] tế. Khi đă tế, quư vị càng
phải chú ư. Tế sẽ dễ trở thành ǵ? Dễ bị
hôn trầm! Nhất định phải quán chiếu hơi
thở ra vào, nhưng ắt cần phải chú ư: Quư vị
chú tâm chuyên chú một cảnh, sẽ chẳng đếm sai số. Như thế
th́ hết thảy tâm vọng tưởng, tâm t́m cầu
quan sát sẽ ngừng lại, Khi hơi thở đă ngừng,
chúng nó sẽ bị khuất phục theo. Quư vị coi cái
tướng tùy thuận ấy như là tướng của
hơi thở ra vào.
Khi
đă tùy, sẽ có thể xả, có thể ĺa khỏi hết
thảy tướng hơi thở ra vào ấy, “ĺa khỏi” là Xả. Đó là ư nghĩa của“Tùy”.
“Tùy” có nghĩa là “khi có thể xả, sẽ là tùy thuận”.
Cũng có nghĩa là “đă ĺa bỏ tướng hít vào,
thở ra” ấy, xả ĺa tướng thô của Tầm
và Tứ. Nhưng trong
lúc đó, chỉ c̣n sót lại tướng hít vào, thở ra
rất vi tế. Tướng ấy ắt cần phải
đạt đến Chỉ, tức là trong t́nh huống Tùy,
ắt cần phải đạt đến Chỉ th́ quư vị
mới có thể nhập Định. Đă nhập Định,
tướng hít vào, thở ra sẽ chẳng có. Đă chẳng
có, th́ là đă ở trong Định; bất quá, Định
ấy vẫn chưa phải là Đại Định.
Khi
quư vị Chỉ, thị hiện tướng hít vào, thở
ra đă diệt. Tam-ma-địa là Định. Lúc quư vị
mới đắc Định, cảm giác hết sức
hoan hỷ. Chuyện này phải thực hiện theo từng
bước một, chẳng thể lướt qua
được, chẳng thể nhảy cóc, quư vị ắt
cần phải thực hiện theo từng bước một.
Chúng ta thường nói “Định có thể sanh ra Huệ”,
Huệ ở đây có nghĩa là Chiếu, chẳng c̣n phân
biệt, chẳng c̣n t́m kiếm. Hễ t́m kiếm, sẽ lại
rơi vào Tầm và Tứ trong phần trước. Chẳng
phải là ư nghĩa như thế! Nó là chiếu, chiếu
soi, quan sát, rồi lại quan sát. Đă chiếu soi, tướng
hít vào, thở ra chẳng c̣n nữa. Như vậy bèn chẳng
có thở ra, hít vào, măi cho
đến khi cái tướng [thở ra, hít vào] ấy
cũng chẳng có. Trước tiên là chế phục Tầm
và Tứ; sau đó, diệt tướng thở ra, hít vào. Cho đến
khi Tùy, măi cho đến khi tướng thở ra lẫn hít
vào đều dần dần trở thành rất vi tế, cho
tới khi chẳng c̣n nữa, th́ là lúc đă đạt tới
Chỉ, [thở ra, hít
vào] hoàn toàn hết hẳn, đă ĺa bỏ rồi. Đă
hoàn toàn hết th́ khi đó quư vị biết cái tâm đă an
trụ trong Định cảnh, chuyên chú nơi một cảnh,
đấy là an trụ. Tâm, tâm sở, biệt ư quan sát, tâm
là tâm sở pháp. Chúng ta học Bách Pháp, biết Sắc Pháp có
mười một món, Tâm Pháp có tám[7],
Tâm Sở Pháp gồm năm
mươi mốt món.
“Quán
sát” không có nghĩa là phân biệt, t́m ṭi. Hễ t́m ṭi, sẽ
rơi vào Tầm Tứ, mà [quán sát] là Chiếu, chiếu soi
phiền năo của quư vị để hàng phục hôn trầm
và tán loạn. [Hôn trầm và tán loạn] đều thuộc
về Tâm Sở Pháp. Tùy theo ư thức của quư vị khởi
phân biệt mà thành Lục Nhập, tức tai nghe tiếng,
mắt thấy sắc, lưỡi biết vị… Quư vị
chiếu soi sáu căn, những hiện tượng trên
đây sẽ chẳng c̣n nữa. Đấy chẳng phải
là ngây ngốc, mà cũng chẳng phải là ngủ mê, phải
quan sát. V́ quư vị ở trong Định sanh khởi huệ
tâm sở, đấy là bước đầu.
(Kinh)
Như thị lục chủng phương tiện, tu tập
Nhập Xuất Tức Quán, tiện năng tùy thuận quán
Ngũ Thủ Uẩn. Sở dĩ giả hà? Như thị
nhập tức, xuất tức tự tánh, danh Sắc Thủ
Uẩn. Như thị nhập tức, xuất tức lănh nạp,
danh Thọ Thủ Uẩn. Như thị nhập tức, xuất
tức thủ tướng, danh Tưởng Thủ Uẩn.
Như thị nhập tức, xuất tức tạo tác,
danh Hành Thủ Uẩn. Như thị nhập tức, xuất
tức liễu biệt, danh Thức Thủ Uẩn. Như
thị sở thuyết ngũ chủng Thủ Uẩn, các
các biệt dị, hỗ bất tương tự, tân tân
phi cố, vô trụ, vô tích, bất khả ngôn thuyết.
Như thị quán sát ngũ chủng Thủ Uẩn, năng
trừ tam hạnh. Nhược năng như thị cứu
cánh tùy quán tam chủng hạnh tận, tiện năng ư
thử chư Hữu thức
thân lục chủng cảnh giới, cứu cánh tùy quán Ngă,
Ngă Sở Chấp nghiệp, ư vô minh, ái, nhân điền
phú nhuận, nhất thiết giai tận.
(經)如是六種方便,修習入出息觀,便能隨順觀五取蘊。所以者何?如是入息出息自性,名色取蘊;如是入息出息領納,名受取蘊;如是入息出息取相,名想取蘊;如是入息出息造作,名行取蘊;如是入息出息了別,名識取蘊;如是所說五種取蘊,各各別異,互不相似,新新非故,無住無積,不可言說。如是觀察五種取蘊,能除三行。若能如是究竟,隨觀三種行盡,便能於此諸有識身,六種境界究竟隨觀,我、我所執業,於無明、愛、因田覆潤,一切皆盡。
(Kinh:
Sáu thứ phương tiện như thế, tu tập Nhập
Xuất Tức Quán (quán hít vào, thở ra), sẽ có thể
tùy thuận quán Ngũ Thủ Uẩn. V́ cớ sao vậy? Tự
tánh của hít vào, thở ra như thế được gọi
là Sắc Thủ Uẩn. Sự lănh nạp nơi hít vào, thở
ra như thế, được gọi là Thọ Thủ Uẩn.
Giữ lấy tướng của hít vào, thở ra như
thế, th́ gọi là Tưởng Thủ Uẩn. Tạo tác
của hít vào, thở ra như thế th́ gọi là Hành Thủ
Uẩn. Liễu biệt hít vào, thở ra như thế th́ gọi
là Thức Thủ Uẩn. Năm loại Thủ Uẩn
đă nói như thế, mỗi loại đều khác nhau,
chẳng tương tự với nhau, luôn mới mẻ,
chẳng cũ, chẳng trụ, chẳng tích tập, chẳng
thể diễn tả bằng ngôn ngữ được.
Quan sát năm loại Thủ Uẩn như thế, có thể
trừ ba hạnh. Nếu có thể quan sát rốt ráo ba thứ
hạnh ấy chấm dứt, sẽ có thể đối
với các thức, thân thể, sáu loại cảnh giới trong các Hữu mà rốt ráo tùy quán Ngă
và các thứ được Ngă chấp trước, giống
như thửa ruộng do vô minh và ái làm cái nhân, che phủ,
tưới tắm, hết thảy đều tận).
Sáu
loại phương tiện này đều là phương
tiện ban đầu để nhập Định. Đừng
tưởng rằng Chỉ [trong Sổ, Tùy, Chỉ, Quán,
Chuyển, Tịnh] là tam-ma-địa thù thắng, đấy
chẳng phải là đại định. Bất quá chỉ
là trong một trăm lẻ tám môn tam-muội, mới nhập
Sơ Hỷ Tịnh, cũng là lúc thoạt đầu mới
tiến nhập tu hành. Cho đến khi Chuyển, lại
khởi đầu, lại xả Uẩn. Uẩn (蕴) là chứa
đựng. Đă nắm vững Uẩn, th́ đă nhập
thánh địa (địa vị thánh nhân). Như Sơ Quả
thánh nhân đă đoạn Kiến Hoặc đại khái là
như thế đó. Khi ấy, đă sâu rồi, có thể xả
Kết Sử, chẳng truy cầu, nhưng chưa phải
là đoạn, giống như chữ Xả trong giai đoạn
Tùy ở phần trước. Người ấy đă
đạt được chánh tri, chánh kiến. Thanh tịnh
pháp nhăn đă tịnh, tức là sáu thứ phương tiện
dùng để tu quán t́nh huống của hơi thở ra,
hít vào. Lúc đó, có thể tùy thuận tiến tu thêm bước
nữa. Vậy th́ kinh văn giải thích rằng: Tiến
tu thêm một bước nữa, quán cái Thể của
hơi thở ra, hít vào cũng chính là tự tánh của
hơi thở ra hít vào. Cái Thể ấy thuộc về Sắc
Pháp, cho nên gọi là Sắc Thủ Uẩn. Vậy th́ hết
thảy các sắc được uẩn tàng đến
đây đă ngưng dứt. Hít vào, thở ra, một vào, một
ra, mang ư nghĩa lănh nạp, điều đó được
gọi là “lănh thọ”, cũng gọi là Thọ Thủ
Uẩn.
Thủ
tướng (取相, nắm giữ tướng)
hít vào, thở ra, “thủ tướng” chính là tưởng
trong tư tưởng (suy tưởng), cho nên gọi là
Tưởng Thủ Uẩn. Tạo tác do hít vào, thở ra
như thế, có ư nghĩa “vận chuyển”. Do vận
chuyển sự tạo tác ấy, nên gọi là Hành Thủ Uẩn.
Liễu biệt (了別, thấy hiểu phân biệt
rơ ràng) sự hít vào, thở ra như thế. Hít vào, thở
ra, [rồi lại] hít vào, thở ra. Sự liễu biệt
ấy được gọi là Thức Thủ Uẩn.
Năm
thứ đó được gọi là Ngũ Thủ Uẩn (五取蘊). Ngũ Thủ Uẩn
là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. “Thủ”
(取) có nghĩa là “quư vị vốn đă trọn đủ”. Ngũ Thủ Uẩn
là trọn đủ. Mỗi người chúng ta đều
trọn đủ. Chỉ cần là hữu t́nh, đều
có đủ năm Uẩn Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức ấy. Năm Uẩn ấy, mỗi món đều
khác biệt. Món này chẳng tương tự món kia; khi ấy,
chúng là chẳng tương tự. Tiến thêm một
bước nữa, những thứ trên đây đều bỏ
sạch, th́ gọi là Hậu (后). Có thô Ngũ Thủ
Uẩn và tế Ngũ Thủ Uẩn. Do những thứ ấy
chẳng trụ, nên nói là “tân tân phi cố” (新新非故, luôn mới mẻ, chẳng cũ), [hàm ư]: Chẳng phải là cái đă có
sẵn, mà là luôn thay thế, đổi mới lẫn nhau.
Do chúng nó chẳng trụ, có phải là tích tụ một chỗ
hay chăng? Chẳng phải vậy! Mong dùng ngôn ngữ
để giải thích rơ ràng Ngũ Uẩn th́ chẳng thể
dùng ngôn ngữ để giảng giải được.
Chỉ có thể khi quán chiếu, quư vị bèn chiếu soi
nó.
Quư
vị có thể đạt tới t́nh huống như vậy,
sẽ đạt được “tam hạnh”. “Tam hạnh”
là ǵ vậy? Chính là phước, tội, và vô tác. “Vô tác”
có nghĩa là vô động, cũng có nghĩa là chẳng khởi
lên ư niệm về phước, mà cũng chẳng khởi
ư niệm về tội. Đối với “tam hạnh”,
quư vị có thể trừ khử “phước, tội,
vô động”, c̣n gọi là vô
kư, [tức là] chẳng tội, chẳng phước, có tánh
chất vô kư. Nếu có thể tùy thuận, quán ba hạnh ấy
đều đă hết, trong hiện tại, thân tâm sẽ
thanh tịnh. [Trong câu “tiện năng ư thử chư
Hữu thức
thân lục chủng cảnh giới”], “thức”
là tâm, “thân” là thân thể. Thân thể thuộc vào Sắc
Pháp, tâm là Tâm Pháp. Đối với hai pháp Sắc và Tâm ấy,
lục căn đều thanh tịnh. Khi đó, có thể
tiến nhập Ngă Chấp để dần dần thâm nhập
quán Vô Ngă. Phá trừ vô ngă, sẽ có thể tiến nhập các pháp chấp trước bởi Ngă. Năng Chấp (chủ thể chấp trước) là Ngă, Ngă
Sở Chấp (cái bị chấp trước bởi Ngă)
chính là hết thảy các tướng cảnh giới. Chấp
trước những tướng cảnh giới nào? Có vô
minh và ái làm nhân, [tức là như
trong chánh kinh, sánh ví vọng tâm như] “thửa ruộng
có ái và vô minh làm nhân, bị hết thảy các tội nghiệp
che lấp”. Các tội phước [do thửa ruộng ấy]
sanh ra đều đă tận. Đó là bước đầu.
(Kinh)
Như thị tu tập tứ chủng Niệm Trụ giai
đắc viên măn, năi chí tu tập Bát Chi Thánh Đạo giai
đắc viên măn, như thị năi chí tu tập thập bát
bất cộng Phật pháp giai đắc
viên măn. Như thị năi chí tu Nhất Thiết Chủng Vô Sanh
Pháp Nhẫn,
Thủ Lăng Già Ma tam-ma-địa đẳng,
giai đắc viên măn. Như thị tu tập tŕ lai khứ
niệm, nhập chư Tĩnh Lự, danh trụ chánh pháp
thắng nghĩa hữu t́nh, danh vi chân thật tu tập
Tĩnh Lự, danh vi chân thật cúng dường tam thế
chư Phật Thế Tôn, danh nhất thiết Phật tâm
trung chi tử, tùng Phật khẩu sanh, thị pháp sở
thành, thị pháp sở hóa.
(經)如是修習四種念住,皆得圓滿;乃至修習八支聖道,皆得圓滿;如是乃至修習十八不共佛法,皆得圓滿;如是乃至修一切種無生法忍,首楞伽摩三摩地等,皆得圓滿。如是修習持來去念,入諸靜慮,名住正法勝義有情,名為真實修習靜慮,名為真實供養三世諸佛世尊,名一切佛心中之子,從佛口生,是法所成,是法所化。
(Kinh:
Tu tập bốn loại Niệm Trụ như thế
đều được viên măn, cho đến tu tập
tám chi thánh đạo đều được viên măn,
như thế cho đến tu tập
mười tám Phật pháp bất cộng đều
được viên măn, như thế cho đến tu Nhất
Thiết Chủng Vô Sanh Pháp Nhẫn (Nhất Thiết
Chủng Trí), Thủ Lăng Già Ma tam-ma-địa (Thủ Lăng Nghiêm chánh định) v.v… đều
được viên măn. Tu tập giữ vững niệm
đến đi như thế, nhập các Tĩnh Lự, gọi
là hữu t́nh trụ trong nghĩa thù thắng của chánh
pháp, gọi là tu tập Tĩnh Lự chân thật, gọi
là chân thật cúng dường tam thế chư Phật Thế
Tôn, gọi là con trong tâm của hết thảy các đức
Phật, sanh từ miệng Phật, do pháp thành tựu,
được hóa độ bởi pháp).
Sau
khi đă tu xong các pháp ấy, mới có thể tiến nhập
tu tập bốn loại Niệm Trụ. Khởi quán bốn
loại Niệm Trụ là “quán thân bất tịnh, quán Thọ
là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngă”. Thực
hiện từ công phu Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Chuyển, Tịnh.
Sau đấy, lại khởi quán Tứ Niệm Xứ, có
thể tiến nhập rất nhanh, thành công rất nhanh. “Viên
măn” có nghĩa là “thành tựu”. Thoạt đầu,
đều là từ Sổ mà bắt đầu, tức là cần phải từ trong Định,
quư vị tấn tu thêm bước nữa là tu Tư Duy. Sau khi bốn loại
Niệm Trụ như vậy đều đă viên măn, Bát
Thánh Đạo đều viên măn, cho đến tu Thập
Bát Bất Cộng Phật pháp đều viên măn, cho đến
tu Nhất Thiết Chủng Vô Sanh Pháp Nhẫn, cũng tức
là Nhất Thiết Chủng Trí. Vô Sanh Pháp Nhẫn là chấp
nhận các pháp vô sanh. Pháp vô sanh chỉ có một loại trí
huệ, đạt được Thủ Lăng Già
tam-ma-địa (Thủ Lăng Nghiêm tam-muội). Đấy
đều là nói tóm tắt. Nếu nói cặn kẽ, sẽ
là mỗi món Định đều phải viên măn. Trên đây
là giải thích đại lược môn Phật Luân thứ
hai như thế.
Tu
“tŕ lai khứ niệm” (giữ vững mỗi niệm
đến đi) chính là tu cái niệm của quư vị. Do
cái niệm ấy, tu niệm nhập Tĩnh Định, “trụ chánh pháp thắng nghĩa hữu t́nh” (là hữu t́nh trụ trong nghĩa thù thắng của chánh pháp). “Chánh pháp thắng
nghĩa” là ǵ? Chính là nói đến Đệ Nhất Nghĩa,
tức là nói đến Thật Tướng, nói tới ư nghĩa chân thật
bất biến. Hữu t́nh ấy đă thành tựu, có thể
chân thật tu hành Tĩnh Lự, chân thật tu hành Định.
Bát
Chi Thánh Đạo là Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ,
Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm,
Chánh Định, và Chánh Kiến. Đối với Phật
pháp, chẳng nẩy sanh tà tri, tà kiến, giải thích rất
chánh xác, rời xa các kiến giải hư vọng như
duy thần, duy vật, duy ngă. Tuy chỉ là hai chữ,
nhưng Chánh Kiến cũng rất khó nẩy sanh. Rất
nhiều người trong chúng ta hy vọng có thần thông, mong mỏi có cảm ứng, hoặc là Ngă Chấp,
Ngă Kiến rất sâu. Phàm là đối với chính ḿnh, luôn
đặt Ngă Kiến (kiến giải
của chính ḿnh) vào địa vị bậc
nhất. Ngă Kiến chẳng phải là chánh kiến. Trong
[các loại kiến giải] duy thần, duy ngă, và duy vật,
luôn tách tâm và cảnh thành hai. Tâm và cảnh bị tách làm
đôi, duy cảnh là duy vật chất (chỉ chấp nhận vật chất tồn
tại), duy vật chỉ chấp nhận vật chất.
Đừng nên xếp vật chất thành tánh chất bậc
nhất, hoặc xếp duy tâm thành tánh chất bậc nhất,
[những chấp trước ấy] đều là sai lầm.
[Chẳng chấp trước như thế] th́ mới là
giải thích Phật pháp chánh xác. Ngoài tâm chẳng có pháp hay
có cảnh. Ngoài cảnh cũng chẳng có tâm, mà ngoài pháp
cũng chẳng có tâm. Cách giải thích ấy rất sâu.
Chúng tôi chỉ nói [đơn giản Chánh Kiến] là nẩy
sanh kiến giải chân chánh, chẳng sanh ra tà tri, tà kiến
là được rồi. [Hễ có chánh kiến], nh́n vào vấn
đề, sẽ có thể thấy nhập lư sâu hơn một
chút. Cái lư ấy nếu phải giải thích th́ cũng rất
nhiều. Nói đơn giản th́ là chân tâm (tức là chân
lư).
Tư
tưởng của chúng ta hoạt động, chẳng thể
ĺa khỏi ba loại. Nói theo phía nhân loại th́ một là vật
lư, hai là tâm lư, c̣n một loại nữa là sanh lư. Rất nhiều
người căn cứ theo sanh lư, khi hết thảy vật
chất được sanh ra, họ có lập luận
như thế này: Xét theo phương diện vật lư, hết
thảy vật chất biến hóa, sanh, trụ, dị, diệt,
họ có thể t́m ra quy luật. Đối với tâm lư, tức
là đối với sự tư duy trong
cái tâm của chính ḿnh, cũng có sự biến hóa nhất
định, cũng có quy luật nhất định.
Nhưng nếu thống nhất sanh lư với vật lư hoặc
tâm lư th́ hoàn toàn chẳng dễ dàng. Giống như một
quốc gia lập ra pháp luật, ắt cần
phải liễu giải t́nh h́nh trong nước, tánh t́nh của
con người, đối với quan hệ giữa con người và gia tộc của họ, quan hệ lục
thân quyến thuộc, quan hệ với quốc gia, quư vị
chẳng thể không suy xét [các mối quan hệ ấy]. V́
thế, khi lập pháp, nhất định phải chú ư
đến t́nh cảm của người dân. Pháp luật lập ra chẳng hợp ḷng dân, th́ pháp luật
ấy sẽ chẳng thể thành lập, chẳng trở
thành pháp luật.
V́
thế, chúng ta thường nói tới thiên lư và ḷng người,
c̣n có quốc pháp, cũng là “t́nh, lư, pháp”. Nói đạo
lư th́ có thể lôi đạo lư ra nói được,
nhưng phải phù hợp t́nh người, phù hợp đạo
lư, phù hợp phép nước. Trong ba loại đó, hễ
trái nghịch một loại, sẽ chẳng thể thành lập.
Lập ra một pháp hoàn toàn trái nghịch t́nh người,
nói theo đạo lư th́ cũng có thể suông sẻ,
nhưng xét theo t́nh người sẽ chẳng thông. Quư vị
sẽ bị toàn dân phản đối, vậy th́ cũng không được. [Nếu chỉ] phù hợp
t́nh lư, theo t́nh lư th́ làm
như vậy được, nhưng xét theo khía cạnh
pháp luật, sẽ chẳng thể chấp nhận
được. Không cần biết quư vị gặp khó
khăn ǵ đi nữa, quốc gia ắt cần phải có
pháp luật thống nhất. Thiên lư, quốc pháp, và nhân
t́nh, quư vị phải hiểu ba điều ấy. Đă
hiểu rồi, quư vị quay trở lại nghiên cứu
sanh lư, vật lư, và tâm lư.
Như
vừa rồi chúng tôi vừa nhắc đến Chánh Kiến, để dạy bảo chúng sanh, đức Phật luôn có
phương tiện thiện xảo, mong cho quư vị đạt
tới chân lư, đạt tới cảnh giới chân thật.
Trước hết, Ngài chiếu theo t́nh huống để nói.
Tánh t́nh mỗi người mỗi khác, v́ sao phải quán
cơ (觀機, xem xét căn
cơ) thuyết pháp? Tiền nhân (前因, cái nhân trước
đó) của họ khác nhau. Tiền nhân là Lư, tư tưởng
và lư luận của họ trong hiện tại lại khác
biệt. Đức Phật đều quan sát mỗi
phương diện, thuyết pháp cho họ, họ có thể
khai ngộ. Chúng ta nói tới Chánh Kiến, điều thứ
nhất là phải vô ngă. Ngă Chấp quá nặng, chưa bàn đến
Pháp Chấp. Khi chưa đoạn Ngă Chấp, có thể nào
nói tới pháp được ư? Chuyện ǵ cũng
đều đặt chính ḿnh vào bậc nhất, đấy
chẳng phải là Chánh Kiến. Phàm là có Ngă Chấp, sẽ
chẳng phải là Chánh Kiến. Tôi chỉ nói cặn kẽ
một điều, những điều khác chẳng thể
nói chi tiết.
Chánh
Tư Duy: Vọng tưởng, tham dục, mong cầu đều
chẳng chánh đáng. Chúng ta mong mỏi vĩnh viễn chẳng
ngă bệnh, chuyện này chẳng thể được! Chỉ
cần quư vị có nhục thể, [nhục thể
ấy] do Địa, Thủy, Hỏa, Phong ḥa hợp, do các
duyên ḥa hợp, mà mong mỏi vô bệnh, bất luận là
ai cũng đều chẳng thể được. Thích
Ca Mâu Ni Phật cũng mắc bệnh, [tức là] Ngài
cũng thị hiện bị bệnh. Nếu quư vị có
suy nghĩ vĩnh viễn chẳng ngă bệnh, đó là
tư duy chẳng chánh xác. C̣n có tham luyến, tham dục.
Đấy cũng chẳng phải là Chánh Tư Duy. Hoặc
là chúng ta hy vọng nghe pháp nhiều, tăng thêm huệ mạng,
mở mang trí huệ hơn, lấy trí huệ làm sanh mạng
của chúng ta. Đó là chánh xác, khiến cho đạo nghiệp
nơi sự tu đạo của chúng ta sớm có ngày thành
tựu. Tư duy như vậy là Chánh Tư Duy. Phải có
Chánh Kiến th́ mới có thể sanh ra Chánh Tư Duy. Kiến
giải của quư vị có trí huệ hay không? Từ cách
nh́n của quư vị đối với vấn đề, sẽ
biểu hiện ra [quư vị có Chánh Kiến hay không].
Chánh
Ngữ rất dễ hiểu: Đừng nên nói bừa băi,
đừng hủy báng người khác, đừng hư luận,
đừng ác khẩu, đừng chọc ngoáy thị phi.
Sai lầm này rất dễ phạm: Nói chuyện thị phi
của người ta, chính quư vị đang tạo thị
phi! Mọi người hăy ngẫm xem, có phải đúng là
như vậy hay không? Cái này đúng, cái kia chẳng đúng.
Đúng là Thị, chẳng đúng là Phi. [Bàn luận]
“chuyện Trương Tam làm khi đó là không đúng, Lư
Tứ khi ấy là đúng”. Quư vị chơ mồm
bàn leo mấy câu, bàn chuyện thị phi, nói đúng thành sai,
bẻ cong đúng sai! Phải chiếu theo điều ǵ?
Chiếu theo vô ngă, chiếu theo cái thấy chánh xác. Do tư
duy chánh xác, sẽ thốt ra lời lẽ
chánh xác. Giống như Trung Hoa có câu: “Phi lễ vật
ngôn, phi lễ vật thị, phi lễ vật động”
(phi lễ chớ nói, phi lễ chớ nh́n, phi lễ chớ
làm). Phải hiểu Lễ như thế nào? Nói theo Phật
giáo, Lễ là “hợp với
pháp tắc”, xứng hợp
lời Phật dạy th́ sẽ là Lễ. Chánh Ngữ là phù
hợp với pháp, phù hợp lời đức Phật dạy.
Chẳng nói dối, chẳng nói thêu dệt, chẳng nói
đôi chiều, chẳng nói lời ác. Đấy là đại
tiền đề, là bốn tiêu chuẩn; nhưng trong ấy
c̣n có rất nhiều [tiêu chuẩn khác nữa], chính quư vị
phải tự quan sát.
Chánh
Nghiệp: Phàm những ǵ phù hợp Phật,
Pháp, Tăng, phù hợp lời đức Phật dạy,
th́ sẽ là Chánh Nghiệp. Nhưng nghề nghiệp của
quư vị đang làm trong xă hội,
quư vị theo đuổi một nghề nào, một đằng
là giới pháp do đức Phật giáo hóa, một đằng
là pháp luật của quốc gia. Nếu hai đằng mâu
thuẫn với nhau, tức là quốc pháp và giới pháp do
đức Phật chỉ dạy xung đột, phải
tuân theo quốc pháp. Tuy đức Phật
dạy bảo như thế ấy, nhưng khi quư vị
tuân theo quốc pháp, chẳng tính là phạm giới. Quư vị
tuân thủ giới pháp, có thể là quốc gia chẳng chấp
thuận. Trong quốc độ quư vị đang ở, chẳng
thể làm như vậy, quư vị hăy nên buông xuống, phải
tùy thuận quốc pháp. Đấy mới là hành vi chánh
đáng. Khi ấy, chỉ cần quư vị chẳng trái
pháp luật, chẳng thương tổn kẻ khác, chẳng
tính toán v́ lợi ích của chính ḿnh, chúng tôi cho rằng làm như vậy là cao thượng! Mỗi
quốc độ, mỗi chủng tộc, tập quán sanh
hoạt của mỗi dân tộc, tất cả t́nh cảm
cao thượng đều khác nhau. Chúng tôi nêu lên mối
quan hệ giữa hai tánh chất để thí dụ. Có rất
nhiều quốc độ, rất nhiều dân tộc có
cách nh́n khác nhau, quốc pháp cũng khác nhau.
Chiếu
theo lời đức Phật chỉ dạy, hễ tà dâm,
quư vị đă phạm dâm giới. Cái quư vị chẳng nên
có, mà đạt được bằng cách phi pháp, th́ là phạm
giới, tức là phạm giới trộm cắp. Thậm
chí giết người, phạm sát giới. Theo Bồ Tát
giới, giết súc sanh cũng phạm giới giống
như giết người. Trong giới tỳ-kheo, giới
tỳ-kheo-ni, hoặc là Bát Quan Trai Giới, giới của
ưu-bà-tắc và ưu-bà-di, sát giới thuần là nói đến
chuyện giết người, quư vị trót phạm [sát
sanh, nhưng không giết người] th́ cũng không mất
giới. Bát Chánh Đạo được nói tùy theo nơi
chốn, tùy theo từng hạng người, đó cũng
là đối cơ (對機, phù hợp căn cơ).
Nói theo Bồ Tát sẽ hoàn toàn bất đồng; nói theo phàm phu, sẽ lại khác hẳn.
Phải hiểu đạo lư này! Đă là Bát Chánh Đạo
th́ quư vị ăn nói phải phù hợp Bồ Đề
đạo. Chúng tôi giải thích như vậy, sâu hơn một
tầng.
Chánh
Mạng: Nếu phù hợp tiêu chuẩn giới luật,
dũng mănh, tinh tấn tu đạo, tu hành Giới, Định,
Huệ, dùng sự tinh tấn ấy để ǵn giữ
tánh mạng của quư vị. Đó là Chánh Mạng. Chánh Mạng
là tôn trọng chính ḿnh. Có lúc v́ tu đạo, thà xả thân mạng;
đó là tà mạng hay chánh mạng? Chúng ta thấy rất
nhiều đạo tràng, như Xả Thân Nhai (捨身崖, vách đá xả thân) ở
núi Nga Mi, hoặc trong kinh Pháp Hoa, Pháp Hỷ (Nhất Thiết
Chúng Sanh Hỷ Kiến) Bồ Tát đốt thân cúng Phật;
đấy là chánh mạng hay tà mạng? Tùy thuộc quư vị
dũng mănh tinh tấn tới mức độ nào, cũng
tùy thuộc quư vị tu đạo, nhận thức đă
đạt tới địa vị nào? Có những người
do tŕ giới mà chết, chẳng v́ để sống sót mà
phá giới, tùy thuộc quư vị lư giải như thế
nào! Chủ yếu là do cái tâm và quan niệm của quư vị
ngay trong lúc ấy là như thế nào, tôi lư giải như
thế đó. Nếu v́ khiến cho chủng tử Tam Bảo
chẳng đoạn dứt, hoặc là tạm nhân nhượng
v́ lợi ích toàn cục, quư vị là Bồ Tát v́ muốn hộ
tŕ Tam Bảo chẳng đoạn dứt, mà chẳng chú trọng
hết thảy tế hạnh. Thế nhưng, hiện
tượng trái phạm giới đơn lẻ ấy chẳng
thể dùng làm khuôn phép, chẳng thể coi là pháp thường
sử dụng được. Giới luật do đức
Phật chế định mới là pháp thường hằng.
Nói tới Chánh Mạng tức
là chẳng sống bằng tà mạng. Ví dụ như nói
đến chuyện xem thiên văn, xem địa lư,
đoán số tử vi, y phương, nhưng Bồ Tát có
học vấn Ngũ Minh, cũng phải làm các chuyện ấy,
chẳng coi các chuyện ấy là không đúng. Ngài có
phương tiện thiện xảo độ chúng sanh; tuy
vậy, nếu quư vị là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni. lúc làm các chuyện ấy,
sẽ là tà mạng! Nếu quư vị thọ Bồ Tát Giới,
và cũng thọ tỳ-kheo giới, sẽ chẳng thể
làm. Nói là Chánh, tức là có nhiều cách chọn lựa
như thế đó!
Cuối
cùng, Chánh Niệm là chúng ta phải rời xa hết thảy
các vọng tưởng điên đảo. Người
được gọi là “chẳng mất chánh niệm”
là người niệm nào cũng đều chẳng quên
Tam Bảo. C̣n có Bồ Tát đă dự vào Tín vị (các địa vị thuộc Thập Tín), nhận biết
tiền niệm dấy lên ư niệm bất hảo, sẽ
chẳng để cho hậu niệm dấy lên, ngay lập
tức uốn nắn. Có một loại người tuy phạm
giới mà có thể sám hối, đă sám hối sẽ lại
được thanh tịnh. C̣n một loại khác th́ là
căn bản chẳng phạm giới, tŕ giới rất
thanh tịnh. Cả hai loại người ấy đều
thanh tịnh. Chữ Chánh chính là sanh khởi trí huệ chân
chánh, từ Định mà khiến cho thân tâm của chính
ḿnh đạt tới nhân cách viên măn, giống như nhân
cách của đệ tử Phật, vâng theo quy định
của Tam Bảo về nhân cách của hết thảy các
đệ tử. Chúng ta phải giải thích như thế
đó. Tôi giải thích Bát Chánh Đạo giản lược
như vậy. Có rất nhiều cách giải thích Bát Chánh
Đạo, tùy thuộc quư vị đă đạt đến
địa vị nào, bèn giải thích theo địa vị ấy
để nói thích ứng. Nói thông thường th́ giải
thích như thế đó.
Nhất
Thiết Chủng Trí là hết thảy các loại. Tam Trí là
Nhất Thiết Trí, Đạo Chủng Trí, và Nhất Thiết
Chủng Trí. “Chủng tử” (種子) có nghĩa là “nẩy sanh”. Nhất Thiết
Trí là tổng trí huệ, là hết thảy các pháp được
chấp giữ trong pháp Thanh Văn và Duyên Giác. Nhất Thiết
Trí là đoạn Kiến Tư Hoặc. Đă đoạn
Kiến Tư phiền năo, nhưng Trần Sa và Vô Minh vẫn chưa đoạn. Đạo Chủng
Trí là nói đến Bồ Tát. Ngài có thể biết tướng
sai biệt của hết thảy các pháp. Nhất Thiết
Chủng Trí là nói về Phật. Trong ba trí ấy, Nhất
Thiết Chủng Trí có thể biết cái nhân của hết
thảy chúng sanh. Chúng ta nêu ra mỗi một chúng sanh, Ngài
đều có thể thấy từ vô lượng kiếp
đến nay, kẻ ấy đă gieo thiện căn,
đă tin Phật từ khi nào. Nhất Thiết Chủng Trí
c̣n gọi là trí huệ của Phật. Chỉ có thành Phật
th́ mới đắc Nhất Thiết Chủng Trí. Đă thành Phật, sẽ trọn đủ
hết thảy các loại trí huệ, điều đó được gọi là Nhất Thiết
Chủng Trí, biết hết thảy các pháp và hết thảy các
phương pháp thành đạo, biết cái nhân của hết
thảy chúng sanh. Lại c̣n biết họ đáng nên nhận
pháp nào để nói cho họ pháp ấy, mà cũng biết
trí sai biệt của hết thảy các chúng sanh.
“Nhất
Thiết Chủng Vô Sanh Pháp Nhẫn” chính là Nhất Thiết
Trí. “Thủ Lăng Già Ma tam-ma-địa” là Thủ
Lăng Nghiêm tam-ma-địa, một trăm lẻ tám môn
Định, đă có thể thành tựu viên măn. Lúc thoạt
đầu, tu Định
là tu “tŕ lai khứ niệm”. “Nhập chư Tĩnh
Lự”: Từ khởi đầu, tu “tŕ lai khứ niệm”,
nhập Định, nhập đến mức trụ trong
Tĩnh Lự. Kế đó, giải thích tất cả
những môn Định đă nắm vững. Đối
với nghĩa thù thắng của chánh pháp, loài hữu t́nh
này chân thật tu hành Tĩnh Lự. Chân thật tu hành
Tĩnh Lự th́ sẽ đạt được [các môn
Định]. Từ Nhất Thiết Trí, Đạo Chủng
Trí, và Nhất Thiết Chủng Trí, người đạt
được các loại trí ấy th́ mới thật sự
cúng dường tam thế chư Phật Thế Tôn. Nói
như vậy đă bao gồm cả chủng tánh Bồ Tát, tức là nói đến Đạo Chủng Tánh. Nếu tu hành
như vậy, tu hành đến mức độ
ấy th́ mới là Phật tử có thể thành đạo
của chư Phật. “Tùng Phật khẩu sanh” (sanh từ
miệng Phật): “Sanh từ miệng Phật” là pháp
do đức Phật đă nói. Đối với những
pháp do đức Phật đă nói, người ấy
nương theo pháp mà thành đạo. Như vậy th́ sanh
thân của người ấy đă lấy pháp làm thân, do
các pháp hóa độ.
(Kinh)
Hoặc hữu Bồ Tát như thị tu tập, tiệm
tiệm thoái chuyển, năi chí Lậu Tận, thành A La Hán, cụ
lục thần thông. Hoặc hữu Bồ Tát như thị
tu tập, tiệm tiệm tăng trưởng,
công đức viên măn, thành đại Bồ Tát, năi chí Thập
Bát Bất Cộng Phật pháp, Nhất Thiết Chủng
Trí tu tập viên măn, thử nhân bất cửu
đương đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ Đề. Thiện nam tử! Ngă dĩ như thị
chư nghiệp pháp thọ nhân quả báo trí, quán sát tam thế
chư Phật pháp nhăn, an lập hữu t́nh, ư thử thập
chủng tu Định nghiệp luân, linh kỳ tu tập.
Thiện nam tử! Thị danh Như Lai tu Định nghiệp
luân.
(經)或有菩薩,如是修習漸漸退轉,乃至漏盡,成阿羅漢,具六神通;或有菩薩,如是修習漸漸增長,功德圓滿,成大菩薩;乃至十八不共佛法,一切種智修習圓滿,此人不久,當得無上正等菩提。善男子,我以如是諸業法受因果報智,觀察三世諸佛法眼,安立有情,於此十種修定業輪,令其修習。善男子,是名如來修定業輪。
(Kinh:
Hoặc có Bồ Tát tu tập như thế, sẽ dần
dần thoái chuyển, cho đến Lậu Tận, thành A
La Hán, có đủ sáu món
thần thông. Hoặc có Bồ Tát tu tập như thế, dần
dần tăng trưởng, công đức viên măn, thành
đại Bồ Tát, cho đến tu tập viên măn mười
tám món Phật pháp bất cộng và Nhất Thiết Chủng
Trí. Người ấy chẳng lâu sau sẽ đắc Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Này thiện
nam tử! Ta dùng trí [liễu giải] các nghiệp pháp, thọ
nhân và quả báo như thế, dùng pháp nhăn của tam thế
chư Phật để quan sát, an lập hữu t́nh, khiến
cho họ tu tập mười thứ nghiệp luân ấy.
Này thiện nam tử! Đó gọi là Như Lai tu Định
nghiệp luân).
Có
Bồ Tát sau khi đă chứng đắc Diệt Tận
Định, đă đắc Tịch Tĩnh Định,
chẳng c̣n tu hành tiến cao hơn nữa. Nói là “thoái
chuyển” v́ vị ấy ngừng ở nơi đây,
cũng có nghĩa là coi như đă bị “lui sụt”.
Lậu Tận (漏盡): Lậu Tận là hết sạch những ǵ? Hoặc nghiệp, tức Kiến Tư Hoặc Lậu của người ấy đă hết. Lậu
đă tận, tức là chẳng c̣n [phiền năo] ṛ rỉ nữa,
chẳng c̣n rơi rớt, đọa xuống tam
giới, đă thành tựu Vô Sanh. A La Hán c̣n dịch là Vô
Sanh, vô sanh bèn vô diệt. A La Hán tự cho rằng sở
đắc của chính ḿnh đă là vô sanh, vô diệt, chẳng
khác ǵ Phật, chẳng c̣n mong mỏi tiến cao hơn nữa.
Đối với sáu loại thần thông, tức Thiên
Nhĩ, Thiên Nhăn, Tha Tâm, Túc Mạng… vị ấy đă đạt
được Lậu Tận Thông. C̣n như báo thông (報通, thần thông
đạt được do quả báo) của trời, người, hay quỷ thần
th́ chẳng có Lậu Tận, v́ Kiến Tư Hoặc vẫn
c̣n. Phát đại tâm, [tức là] phát Bồ Đề tâm,
tu theo phương thức Chỉ Quán chính là tiến tu cao
hơn, chẳng hề tới đây bèn dừng lại.
Ngài khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể
đạt đến mức độ ấy. Bậc Sơ
Phát Ư Bồ Tát hoàn toàn chẳng ngang hàng với A La Hán, ắt
cần phải đạt đến Thập Địa Bồ
Tát th́ mới ngang hàng với A La Hán, nhưng do đă phát
đại tâm, cho nên vượt cao hơn Tiểu Thừa.
V́ tâm Bồ Đề chẳng có chỗ giới hạn, vị Bồ Tát ấy sẽ chẳng ngưng dứt, mà nhất định
mong thành Phật.
V́
lẽ ấy, có Bồ Tát dần dần thoái chuyển, cảm
thấy đạo Phật dài lâu, sanh khởi cái tâm thoái thất.
Vậy th́ vị ấy sẽ chứng đắc
quả A La Hán, nhập Bát Niết Bàn. C̣n bậc đại
tâm Bồ Tát dần dần tăng trưởng công đức
của chính ḿnh, tăng trưởng thành Ma Ha Tát, tức
là Đại Bồ Tát. Nội dung của Thập Bát Bất
Cộng Pháp rất dài. Tôi vừa mới nói về Nhất
Thiết Chủng Trí, tu hành viên măn, tu tập đă thành công,
sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ Đề, [hay nói thông dụng hơn là] “thành tựu
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”.
“Thiện
nam tử”: Đây là đức Phật trả lời
Địa Tạng Bồ Tát. “Ngă dĩ như thị
chư nghiệp pháp thọ nhân quả báo trí” (ta dùng trí
liễu giải quả báo sẽ phải thọ do cái nhân từ
các nghiệp pháp như thế), “chư nghiệp”
là tất cả tạo tác. Tạo tác ǵ vậy? Chính là phương
pháp tu Định. Cái trước là nhân, cái sau là quả.
Cho đến hết thảy Đạo Chủng Trí rốt
ráo báo đền công đức đă đều viên măn rốt
ráo, “quán sát tam thế chư Phật pháp nhăn, an lập hữu
t́nh”, tức là dùng Phật nhăn [của tam thế chư
Phật] để quan sát hết thảy. Pháp nhăn của
tam thế chư Phật thấy rơ hết thảy quá khứ,
hiện tại, tương lai, khiến cho hết thảy
hữu t́nh, tức hết thảy chúng sanh đang trong lúc
tu Định, sẽ tu tập mười loại tu Định
nghiệp luân ấy. [Đó là ư nghĩa của câu] “linh kỳ
tu tập” (khiến cho họ tu tập). Nhưng ở
đây, phải chú trọng “tŕ lai khứ niệm” (giữ
vững niệm đến đi). Đoạn kinh
văn này chú trọng việc tu tập “tŕ lai khứ niệm”.
“Thị danh Như Lai tu Định nghiệp luân” (đó
gọi là tu Định nghiệp luân của Như Lai): Tu
Định nghiệp luân, nếu thâm nhập sâu hơn một
chút, sẽ là thâm nhập Chỉ Quán như kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo đă nói. Trong phần trước, đức
Phật đă nêu ra tam luân [trong Phật Luân thứ hai].
Đầu tiên là tu Định nghiệp luân, loại thứ
hai [sẽ được nói tiếp sau đây] là tập tụng
nghiệp luân.
(Kinh)
Thiện nam tử! Vân hà Như Lai tập tụng nghiệp
luân? Vị chư bật-sô, hoặc bật-sô-ni, Ổ-ba-sách-ca,
Ổ-ba-tư-ca, hoặc phục tịnh tín chư thiện
nam tử, hoặc thiện nữ nhân,
thiện căn vi bạc, y Thế Tục Đế, căn
cơ vị thục, ngă đương an trí như thị
hữu t́nh, linh kỳ tập tụng, sơ dạ,
hậu dạ, tinh cần vô đăi. Nhược
chư hữu t́nh cầu Vô Thượng Trí, ngă
đương an trí thuần tịnh Đại Thừa,
linh kỳ tự độc, hoặc
giáo tha độc, linh kỳ tự tụng, hoặc giáo tha
tụng, linh kỳ tự thuyết, hoặc giáo tha thuyết.
Ư Đại Thừa trung, linh kỳ tự tập, hoặc
giáo tha tập. Vị linh tự thân, cập tha thân trung
đại phiền năo tụ, giai trừ diệt
cố, vị linh chứng đắc Vô Thượng Trí cố,
vị trừ nhất thiết hữu t́nh khổ cố, vị
linh thú nhập vô úy thành cố.
(經)善男子,云何如來習誦業輪?謂諸苾芻,或苾芻尼、鄔波索迦、鄔波斯迦,或復淨信諸善男子,或善女人,善根微薄,依世俗諦,根機未熟,我當安置如是有情,令其習誦初夜、後夜,精勤無怠。若諸有情求無上智,我當安置純淨大乘,令其自讀,或教他讀,令其自誦,或教他誦,令其自說,或教他說;於大乘中,令其自習,或教他習;為令自身及他身中大煩惱聚皆除滅故,為令證得無上智故,為除一切有情苦故,為令趣入無畏城故。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Như thế nào là tập tụng nghiệp
luân của Như Lai? V́ các tỳ-kheo, hoặc tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, hoặc là các thiện nam tử
và thiện nữ nhân có tín tâm thanh tịnh, thiện căn
mỏng nhẹ, nương theo Thế Tục Đế,
căn cơ chưa chín muồi, ta sẽ an bài các hữu
t́nh như thế, khiến cho họ tập tụng. Đầu
đêm, cuối đêm, siêng ṛng, chẳng lười nhác. Nếu
các hữu t́nh cầu Vô Thượng Trí, ta sẽ sắp
đặt Đại Thừa thuần tịnh cho họ tự
đọc, hoặc dạy người khác đọc, khiến
cho họ tự tụng, hoặc dạy người khác tụng,
khiến cho họ tự nói, hay dạy người khác nói.
Khiến cho họ tự tu tập Đại Thừa, hoặc
dạy người khác tu tập. V́ muốn khiến cho khối phiền năo to lớn
nơi thân ḿnh và thân người khác đều trừ diệt,
v́ khiến cho họ chứng đắc Vô Thượng
Trí, v́ trừ khổ cho hết thảy hữu t́nh, v́ khiến
cho họ tiến nhập ṭa thành vô úy).
Nghiệp
luân thứ hai là học tập tụng, học tập
đọc như thế nào, cũng có nghĩa là đọc
tụng Đại Thừa. Nếu tu Định mà chẳng
có thiện căn này, sẽ chẳng đắc Định,
tu chẳng thành. Quư vị hăy đọc tụng kinh điển
cho nhiều, hoặc là đọc tụng kinh điển
Đại Thừa, hoặc đọc tụng kinh điển
của Thanh Văn và Duyên Giác Thừa, kinh điển
của ba thừa đều được. Nếu quư vị
tiến nhập đồng thời cả ba thừa
cũng được. Tôi cảm thấy đức Phật
từ Đại Thừa nói đến Trung Thừa, rồi
nói đến Tiểu Thừa. Nói pháp Bồ Tát xong, bèn nói
đến pháp Duyên Giác. Nói xong Duyên Giác, bèn nói đến
Thanh Văn. Tùy thuộc trong ba thừa ấy, quư vị thuộc
loại căn cơ nào, chủ yếu là khiến cho quư vị
ĺa khổ, được vui, đoạn trừ phiền
năo. Mục đích, tức tông chỉ của Ngài là nói với
tứ chúng đệ tử, tức tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
Cận Sự Nam, Cận Sự Nữ. Ổ-ba-sách-ca (Upāsaka)
dịch là Cận Sự Nam (近事男), Ổ-ba-tư-ca
(Upāsikā) dịch
là Cận Sự Nữ (近事女). Đó là tứ
chúng đệ tử, [bao gồm] hai chúng tại gia và hai
chúng xuất gia. C̣n có những người chưa quy y,
chưa thọ pháp, hoặc là có những thiện nam tử
và thiện nữ nhân có ḷng tin thanh tịnh, do căn cơ
tu Định của họ trong đời quá khứ mỏng
ít, thiện căn trong quá khứ chẳng
dầy, sẽ chiếu theo Thế Tục Đế, chẳng
y chiếu nghĩa Chân Đế.
Trong
phần trước, chúng tôi đă nói, đại khái là
nương theo lẽ Chân để tu tập. Tu tập
Định chính là nương theo lẽ Chân, bước
đầu cũng là thế tục, dần dần sẽ
tiến nhập lẽ Chân. Họ quán tâm, sẽ từ lư
tánh tiến nhập. Đối chiếu giữa hai đằng,
Định vốn phải từ lư tánh tiến nhập, họ
lại nói chuyện này chiếu theo Thế Tục Đế,
tức là căn cơ chưa chín muồi. Đức Phật
khiến cho các hữu t́nh ấy học tập “tập tụng”.
Tập tụng cũng có yêu cầu nhất định,
hoàn toàn chẳng phải là chúng ta niệm một đoạn
kinh, hoặc niệm một bộ kinh mà được coi
là “tập tụng”. Chúng ta niệm quá ít, quá ngắn, đức Phật
dạy họ tập tụng vào lúc đầu đêm, cuối
đêm, và giữa đêm, [hay nói cách khác] bốn giờ
đầu đêm, bốn giờ giữa đêm, và bốn
giờ cuối đêm, tức là mười hai giờ.
Trong mười hai giờ ấy, trừ bốn giờ thuộc
giữa đêm có thể nghỉ ngơi đôi chút, có thể
không đọc tụng. Ngoài ra, vào lúc đầu đêm và
cuối đêm, đều phải siêng ṛng, chẳng lười
nhác, đều phải tập tụng.
V́
căn cơ của người ấy rất nông cạn,
mỏng tanh, nhưng phát tâm rất lớn, nguyện rất
lớn. Trong quá khứ, người ấy đă gieo chủng
tử có căn tánh Đại Thừa. Do vậy, người
ấy khẩn cầu Vô Thượng Trí. Vô Thượng
Trí là mong đạt tới thành Phật. Đức Phật
bảo: Ta sẽ xếp đặt sao cho kẻ đó sẽ
ở nơi Đại Thừa thuần tịnh, học
đọc pháp Đại Thừa, niệm kinh điển
Đại Thừa, khiến cho kẻ ấy tự đọc,
lại c̣n dạy người khác đọc. Nếu quư vị
phát đại tâm tự đọc, mà cũng dạy kẻ
khác đọc, tự học, lại c̣n dạy người
khác học, có ư niệm kiêm độ chúng sanh. Hoặc là tự
ḿnh tụng, hoặc là tụng kinh Pháp Hoa, hoặc tụng
kinh Bát Nhă. Nếu chẳng thể đọc tụng toàn bộ
Bát Nhă, bèn tụng kinh Kim Cang, hoặc tụng Tâm Kinh. Tự tụng,
kiêm dạy người khác tụng. Chính ḿnh nói, hoặc dạy
người khác nói. Hoặc chính ḿnh nghiên cứu, học tập
kinh điển Đại Thừa, mà cũng dạy người
khác học tập. Dùng phương pháp như vậy khiến
cho chính ḿnh và người khác đều đọc tụng
kinh điển Đại Thừa ḥng đoạn phiền
năo.
Bất
luận mục đích học Phật sâu hay cạn, tập
Định hay tập Huệ, tiến nhập từ
phương diện Huệ, hay tiến nhập từ
phương diện Định, đều phải tu
Định. Đọc tụng Đại Thừa đă
hàm chứa ư nghĩa tu Định, chẳng phải là vào
lúc đó mới đặt bày thứ tự như thế này: Hễ lúc nào tu Định,
Định sẽ thuộc địa vị cao nhất. Nếu
hoàn toàn tách rời Định và Huệ, ta chỉ học tập
Định, chẳng học Huệ, sẽ chẳng thể
được! Chỉ tu tập Huệ,
không tu tập Định, cũng chẳng được!
Ắt phải là Định và Huệ cân bằng. Nhưng nói
theo thứ tự th́ Định có thể sanh ra Huệ, do Huệ cũng có thể nhập Định. Khi đọc
kinh, đọc đến chỗ tương ứng, chẳng
có người đọc và kinh được đọc,
chẳng có tướng Tự và Tha, đấy cũng là một thứ công phu thuộc về Định
cảnh. Thế nhưng, tu Định cũng thế, mà tu
Huệ cũng thế, đọc tụng Đại Thừa
cũng thế, mà “tŕ
lai khứ niệm” cũng thế, mục đích đều
nhằm đoạn phiền năo. V́ phiền năo mà hôn trầm hay tán loạn, nếu chẳng phải
là tán loạn, th́ sẽ là hôn trầm. Hễ có phân biệt,
chuyện ǵ cũng đều chẳng thể thành. Tâm chẳng
an, làm sao có thể thành cho được? Cái tâm chúng ta chẳng
định được! Nếu chẳng có Định,
quư vị đọc tụng Đại Thừa cũng chẳng
định được. Quư vị ngồi ở đó,
đối trước kinh bổn niệm tụng, [do tâm rong ruổi], chẳng biết niệm
tới chỗ nào rồi. Niệm miết mà chính ḿnh cũng
chẳng t́m được [đang niệm tới
đâu], niệm đến nỗi ngủ gục. A! Niệm
đến đâu rồi? Chẳng biết! Hoặc là dấy
lên vọng tưởng th́ cũng là sai lầm mất rồi!
Tôi
cảm thấy chính ḿnh hoàn toàn chẳng phải là kẻ dụng
công. Người thật sự dụng công vài chục
năm th́ cũng phải nên có nhập xứ; hiện thời,
tôi vẫn chưa được! Tôi nói thật đấy! Bất luận tu Định cũng thế, chỉ cần
là đệ tử học Phật, quư vị ắt phải
đoạn phiền năo. Phiền năo có nhiều lắm hay
không? Quá nhiều! Tôi sao chép từ Bách Pháp Minh Môn Luận
để nói với mọi người về các phiền
năo; chuyện này cũng rất hữu dụng.
“Đại, trung phiền năo” (phiền năo bậc lớn và bậc trung): “Đại phiền năo” là căn bản
phiền năo. Chúng tùy thuận cái
tâm quư vị, bầu bạn với tâm sở pháp của quư vị. Chỉ cần khởi
tâm động niệm, phiền năo sẽ đi theo ngay! Quư
vị chẳng ĺa khỏi nó được. Điều thứ
nhất là do chẳng có trí huệ, vô minh, ngu si. Ngu si thường
được diễn tả bằng danh xưng khác là Tà
Kiến, hoặc Vô Minh, chúng ta đều có rất nhiều!
Buông lung bao gồm rất nhiều thứ, chúng ta suy ngẫm
th́ ai nấy đều hiểu. Buông lung, giải đăi là
vào lúc giữa đêm, c̣n đầu đêm và cuối đêm
đều đọc tụng Đại Thừa, [vậy
th́] ban ngày quư vị làm ǵ? Hành phóng dật ư? Chẳng thể
được! Một ngày hai mươi bốn tiếng đồng
hồ, đức Phật đều dạy quư vị đọc
tụng, hoặc là tu Định. Quư vị chẳng giữ
giới luật, [nhưng do tu tập nghiêm ngặt như vậy],
sẽ tự nhiên tŕ giới. Chúng ta ngu si, buông lung, giải
đăi, chẳng tin, v́ sao chẳng khởi tâm tinh tấn? Căn bản là do tín tâm không trọn
đủ! Chẳng tin tưởng lời nói của mọi
người, bất luận ai nói ra cũng đều phản
bác. Đă không tin, ta c̣n ngồi ở đây làm chi nữa?
Ḷng tin ấy hữu hạn, hiện thời ḷng tin của
chúng ta chẳng kiên định. V́ tín tâm chẳng nhạy
bén, tinh tấn chẳng thể dấy lên được,
nói tương đối như thế đó.
Câu
Xá Luận gọi hôn trầm và điệu cử (掉舉, trạo cử)
là đại phiền năo. [Đại phiền năo] bao gồm
sáu loại, tức tham, sân, si, mạn, nghi, [và ác kiến]. Từ
trong ác kiến, sanh ra năm món, tức là Thân Kiến, Biên
Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Cấm
Thủ Kiến. [Năm món Kiến ấy cộng với
tham, sân, si, mạn, nghi] thành Thập Sử phiền năo (mười món Kết Sử), là căn bản
phiền năo. “Đại phiền năo” có thể hiểu
là căn bản phiền năo.
“Trung phiền năo” lại là ǵ? Có thể
là Tùy phiền năo (Upakleśa). “Trung phiền
năo” gồm hai mươi món phiền năo. Chúng ta chia hai mươi
món phiền năo thành Đại Tùy, Trung Tùy, và Tiểu
Tùy. Đại Tùy phiền năo gồm tám món; đấy cũng
là Tùy Phiền Năo trong căn bản phiền năo. Bất Tín (Aśrāddhya), Giải
Đăi (Kausīdya), Điệu Cử (Auddhatya, trạo
cử, lao chao, xáo động), Hôn Trầm
(Styāna) là các Tùy tâm sở. Căn
bản phiền năo tùy thuộc cái tâm. Tâm pháp gồm có tám món, tức là [các thức]
nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, Mạt Na, và A
Lại Da. Đó gọi là “tám tâm thức” (tám tâm vương). Tâm pháp
gồm tám món, c̣n Tâm Sở Pháp gồm năm mươi mốt
món. Ở đây, chúng tôi chỉ nêu ra hai mươi món, tức
là Đại Tùy phiền năo gồm tám món đă được
nói trên đây, tức Bất Tín, Giải
Đăi, Điệu
Cử, Hôn Trầm,
Phóng Dật
(Pramāda, buông lung), cộng
thêm Thất
Chánh Niệm
(thất niệm, Muṣitasmṛti), Tán Loạn
(Vikṣepa), và Bất Chánh Tri (Asamprajanya), thành tám món Đại
Tùy Phiền Năo. Bất Chánh Tri là Đại Tùy phiền
năo, [gọi nó là] Đại Tùy phiền năo nhằm biểu
thị nó rất nặng nề.
Trung
Tùy phiền năo rất đơn giản, thứ nhất là
Tàm (慚, thẹn), thứ hai là Quư (愧, hổ)[8].
Chúng ta thường nói gộp chung thành Tàm Quư. Thật ra, Tàm là Tàm, Quư là Quư, giải thích như thế
nào? Tàm là trong tâm chính ḿnh khó chịu, xấu hổ đối
với chính ḿnh, trong tâm ngượng ngùng, cảm thấy ḿnh
trót làm điều sai trái, chẳng nên nghĩ “có phạm giới
cũng chẳng sao”, hoặc “có làm vẫn chẳng sao hết”,
cho đến khi làm chuyện sai quấy, trong tâm sanh hổ
thẹn. Quư là đối với người khác, đối
với Tam Bảo, đối với đạo hữu, có
sự hổ thẹn, có điều thẹn thuồng với
chính ḿnh, xấu hổ đối với người khác.
Tàm và Quư là Trung Tùy Phiền Năo. Đó là Trung
Tùy Phiền Năo. Tám món Đại Tùy và hai món Trung Tùy, gộp
chung lại thành mười món. C̣n có Tiểu Tùy phiền
năo gồm mười món, gộp chung lại thành hai mươi
món. Tiểu Tùy phiền năo gồm Phẫn
(Krodha), Hận
(Pradāśa), Năo (Upanāha), Phú (Mrakśa), Cuống
(Māyā), Siểm
(Asāṭhya), Kiêu (Mada),
Hại
(Vihiṃsā), Tật
(Īrṣyā), và Xan (Mātsarya, keo kiệt), mười
món.
Phẫn
(忿) là như thế
nào? Bất b́nh! Chúng ta nói “bất b́nh khiến ta kêu ca”, chẳng
nhịn nổi. Nói thông tục là “chẳng nhịn tức
nổi”. Chuyện này quư vị chẳng thể nhịn nổi,
bất luận là xảy ra trên thân người khác, hoặc
là quư vị thấy một t́nh cảnh khiến cho quư vị
cảm thấy bất b́nh. Bất quá, đó là cách suy tưởng
trong tâm quư vị. Hận (恨) là có oán cừu,
cho rằng người khác hại ḿnh, quư vị liền hận.
Hận bèn sâu hơn một chút. Năo (惱) có nghĩa làm quư vị buồn bực, quấy rối
quư vị. Trong mỗi danh từ đều hàm chứa một
ư nghĩa. Phú (覆) có nghĩa là “che
lấp”, v́ nó che lấp quư vị, khiến cho trí huệ
chẳng thể phát khởi. Phú là hành vi của quư vị, hoặc chướng
ngại trong tâm khiến cho trí huệ chẳng thể phát
xuất. Tật (嫉) là ghen ghét. Chính
ḿnh keo kiệt, tham lam, chẳng chịu xả, thấy kẻ
khác bố thí, bèn dấy ḷng ghen ghét: “Kẻ
đó luôn gây náo động,
khiến cho ta bị khuất lấp!” Trong tâm luôn có ư nghĩ ấy,
thấy người khác làm chuyện tốt, sẽ chẳng
tùy hỷ, nẩy sanh ganh tỵ. Quư vị cứ làm đi!
Người ấy chẳng làm, hạng người như
vậy keo kiết đối với tài vật!
Xan
và Tật coi như nhẹ tội một chút! Đặc biệt
là đối với pháp, người ấy chẳng để
cho người khác giảng. Người khác mà giảng, kẻ
đó sẽ ghen ghét liền. V́ kẻ đó có cái tâm keo tham. Khi bị đọa lạc
vào ḷng keo tham đối với pháp, sẽ đọa vào ngạ
quỷ đạo rất thảm. Chuyện kiểu này rất
nhiều! Đối với pháp, chớ nên keo tham, chớ
nên ghen tỵ, thấy người khác làm, hăy đều nên
tùy hỷ, chớ nên keo tham! V́ sao phải keo tham? Keo và tham
là v́ lẽ nào? Kẻ đó dùng pháp để trao đổi
điều kiện trong thế gian! Hễ được
giá, sẽ đối đăi b́nh đẳng: “Ta thuyết pháp cho
ngươi, ngươi phải cúng dường ta. Phải
xem ngươi có trả đủ giá hay không? Có đủ
th́ ta mới nói, không đủ chẳng thèm nói!”
Đối
với người học pháp, phải khuyên người
khác đọc tụng Đại Thừa. [Thế mà] kẻ
đó chẳng khuyên người khác th́ thôi, thấy người
khác khuyên người ta đọc, hắn bèn nẩy ḷng
ghen tỵ, “chỉ có ta là tốt, chỉ có ta là mạnh mẽ”,
phun ra lời đố kỵ, thậm chí thốt lời
phá hoại. “Xan” là kẻ ấy chẳng chịu làm, “ta truyền dạy cách tu pháp này cho ngươi,
ngươi phải cúng dường ta thật xộp đó nghe!” Có vị
thượng sư nói theo kiểu đó, nhưng mỗi
người mỗi khác, hăy tùy thuộc tâm lực của
quư vị mà cân nhắc. Có vị thượng sư nói
như vậy đó, “ngươi phải đem nhiều tiền
đến đây”, giống như kiểu nói tại Tây Tạng:
“Ngươi dẫn một thớt ngựa tốt đến
[biếu ta], ta sẽ truyền quán đảnh cho
ngươi”. Tôi từng hỏi sư phụ tôi: “Điều
ấy có nghĩa là ǵ?” Thầy dạy: “Gă [đệ tử]
đó keo tham, yêu quư con ngựa ấy như tánh mạng, há
có thể cầu pháp được ư? [Thượng
sư] bảo hắn ‘đem con ngựa tặng cho ta, ta sẽ
truyền pháp cho ngươi’. Hắn mà xả được
th́ tu tập sẽ đạt được thành tựu.
Ta chẳng cần con ngựa của hắn, đem tặng
lại cho người khác”. Thế nhưng quư vị chẳng
thuộc địa vị ấy, cũng chẳng có Tha Tâm
Thông, hoặc chẳng có phẩm đức ấy, chớ
có đ̣i hỏi người khác, hoặc là đ̣i người
khác phải trả một giá tiền nhất định. Được cúng
dường rất nhiều vàng, bạc, của cải
để làm ǵ chớ?
Mọi
người hăy xem truyện của tôn giả Mật Lặc
Nhật Ba (Milarepa)[9],
sư phụ của Ngài là Mă Nhĩ Ba (Marpa)[10]
yêu cầu Ngài cúng dường toàn bộ sở hữu rồi
mới truyền pháp cho Ngài. Nhưng [nếu ta bắt
chước làm như vậy], lời ta nói xuất phát từ
keo tham, ta chẳng có bản lănh ấy, kẻ kia sẽ chẳng
chịu xả, không chịu cúng dường pháp. Lừa gạt
người khác, chẳng có tín nghĩa. Nói dối, siểm
nịnh, quư vị rất dễ dàng nh́n ra. Phàm là bất cứ
ai, đối với kẻ thấp kém hơn ḿnh, nếu
lúc nổi tâm kiêu mạn, nhất định sẽ nịnh
nọt kẻ bề trên của ḿnh. Kiêu ngạo đối
với kẻ dưới, nhất định sẽ bợ
đỡ bề trên. Trông thấy người có quyền,
hoặc là có tiền bạc, nhất định kẻ
đó sẽ cúi đầu, khom lưng, có ư nghĩa như
thế đó. Những lời bợ đỡ, ngon ngọt
ǵ hắn cũng đều tuôn ra hết. Ta có thể thấy
chuyện này trên TV. Người hiện thời có bộ dạng
như vậy rất nhiều, người học Phật
chớ nên nịnh nọt!
Cuống
siểm (誑諂) là chẳng nói
lời thành thật. Trong ấy, lại chia thành hữu ư và
vô ư. Quư vị chỉ cầu lợi, v́ cái danh mà gạt gẫm
người ta. Quư vị có mục đích, cái tội Cuống
(誑, lường gạt) lại lớn hơn một
chút nữa. Tùy tiện nói giỡn với người khác,
hoặc nói bỡn cợt để trêu đùa, tội này sẽ
nhẹ hơn nhiều. Cuống và Siểm đều thuộc
loại vọng ngữ; nhưng Cuống ở đây không
phải là như vậy, Cuống ở đây là cố ư,
v́ danh lợi. Siểm mị (諂媚, nịnh nọt,
ve vuốt) cũng v́ danh lợi.
Hại
(害) khá rơ ràng, hoặc
là hại người, nhưng kẻ đó cứ tưởng
hại người, thật ra là hại chính ḿnh. Phàm là hại
người th́ cũng đâu có hại được
người ta, mà trái lại thành toàn cho người ta
đấy chứ! Quư vị vừa hăm hại, đâm ra khiến
cho người ta tiêu tai. Mọi người đọc
kinh Kim Cang, [sẽ biết]: Nếu có ai bị kẻ khác
khinh miệt, tội [của người đó] trong đời
trước cũng sẽ tiêu diệt. Hoặc là quư vị
bị kẻ khác hăm hại, cầu c̣n không được!
Kẻ đó hại quư vị, tội trong đời
trước của quư vị bị tiêu diệt. Vốn
đáng bị đọa địa ngục, do kẻ
đó hăm hại quư vị, ngay cả địa ngục
cũng chẳng bị đọa, cái tội ấy cũng tiêu mất rồi!
Mạn
(慢) là kiêu mạn. Chữ Kiêu (憍) trong “kiêu mạn” có rất nhiều cách giải
thích. Mạn có mấy loại? Có mười loại mạn
và mười loại kiêu. Tôi chỉ nói đại khái: Kẻ
ấy vốn chẳng có bản lănh, vốn chẳng nên hồn,
vẫn cảm thấy ḿnh ngon lành hơn người khác. Hạng
người này rất nhiều! Kiến thức của kẻ
đó chẳng to lớn ǵ, lại ngỡ chính ḿnh rất lỗi
lạc, giỏi giang hơn bất cứ ai khác. Ai cũng bị
hắn khinh rẻ. Thậm chí cho rằng: “Thích Ca Mâu Ni Phật
chẳng thật, ta mới là Phật thật”. Quả thật
có kẻ như vậy đó, ḥa thượng kiểu
đó cũng có, cư sĩ kiểu đó cũng có luôn.
Trong thời đại hiện tại, thứ ǵ cũng
đều có! Phẫn, hận, năo, phú, xan, tật, cuống, siểm,
hại, kiêu, hiện thời chúng ta có mấy
thứ? Hai mươi món Tùy phiền năo, đều là phiền
năo của chúng ta. Có mấy thứ ấy, làm sao khai ngộ
cho nổi? Có tu hành nổi hay không? Bất luận đọc
tụng Đại Thừa cũng thế, mà tu Định
cũng thế, chúng đều ngăn chướng quư vị,
làm sao quư vị có thể tiến nhập cho nổi? Rất
khó tiến nhập! Bất quá, đấy đều là tật
xấu của chúng ta. Đức Phật dạy chúng ta có
quá nhiều tật xấu, mọi người ắt phải
tự ḿnh đối chiếu một phen, đừng tới
đây để nghe những lời lẽ êm tai! Kinh Thập
Luân có rất ít lời lẽ êm tai, càng về sau càng phức
tạp. Ở đây là nói đại khái về những
khuyết điểm của chúng ta. [Ở đây nhắc tới]
các loại phiền năo lớn; trong phần sau, sẽ nói cặn
kẽ từng điều một, chỉ ra những lầm
lỗi của chúng ta đang nẩy sanh trong hiện thời.
Nếu diệt trừ những lầm
lỗi ấy th́ tốt lắm, quư vị tu Định
cũng có thể tiến nhập, đọc tụng Đại
Thừa cũng có thể sanh huệ. Đọc tụng
Đại Thừa th́ quư vị đọc tụng kinh
điển Đại Thừa, nhập Định, có lẽ
trông thấy thánh cảnh. Đọc phẩm Tịnh Hạnh,
sẽ thấy Văn Thù Bồ Tát, chẳng sai biệt cho mấy!
Đọc phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, sẽ
thấy Phổ Hiền Bồ Tát, đọc kinh Địa
Tạng sẽ thấy Địa Tạng Bồ Tát. Đọc
Phổ Môn sẽ thấy Quán Thế Âm Bồ Tát, thật
sao? Chính là do cái tâm của quư vị biến hóa. V́ cái tâm của
quư vị đă định, đọc kinh, sẽ sanh khởi.
Đấy là huyễn cảnh, đừng ngỡ là thánh cảnh.
Nếu quư vị hơi sanh khởi Ngă Kiến, vừa chấp
trước: “Ta khá quá chớ, có thể đọc kinh cảm
ứng Bồ Tát hiện thân”. Đấy là kiêu, sẽ lập
tức chuốc lấy phiền năo. Đó là huyễn cảnh,
nếu quư vị chẳng chấp trước, cứ đọc
kinh sách y như cũ, [thánh cảnh] hiện cũng
được, mà không hiện
cũng chẳng sao! Giống như Văn Hỷ Bồ Tát:
“Ông là ông, tôi là tôi”. Khi Văn Thù Bồ Tát hiện thân
trước Văn Hỷ, chiếu lư cho Sư. Sư nói: “Văn
Thù là Văn Thù, Văn Hỷ là Văn Hỷ. Ông chẳng thể
làm thay tôi”[11]. Có chí khí
như thế đấy! Do vậy, hiện cảnh giới
ǵ đi nữa, đều chẳng chấp trước,
đáng nên làm ǵ th́ cứ làm, đáng nên tu hành như thế
nào, quư vị cứ tu hành đúng như thế đó!
Khi
nhập Định, quư vị cũng có thể thấy rất
nhiều cảnh giới. Đặc biệt là lúc mới vừa
tu hành, Phật, Bồ Tát rất linh, dường như quư
vị cầu ǵ cũng đều rất tương ứng.
Tin lâu ngày, dường như Phật, Bồ Tát càng lúc càng
xa. Trọn chẳng phải là Phật, Bồ Tát cách xa, mà
là cái tâm của quư vị dấy lên biến hóa. Như
người xuất gia chúng ta, xuất gia một năm th́
Phật ở trước mắt, xuất gia mười
năm th́ Phật dọn qua Tây Thiên. Sau mười năm,
người ấy chẳng biết
nữa, Phật chẳng c̣n! Do nguyên nhân nào vậy? Sau khi học
Phật, sanh khởi rất nhiều phiền năo. Vốn là
thánh sự, quư vị biến nó thành phiền năo. Nơi Tục
Đế c̣n chưa đủ, thêm vào Không Môn, chắc
là chẳng rỗng không. Nếu thật sự chẳng không,
tức là c̣n tăng thêm một cái Không nữa, Không trong hư không. Cái Không ấy rất
lợi hại, khiến cho quư vị đọa lạc rất
nhanh: “Chẳng có vấn đề ǵ! Không mà!” Đem toàn bộ
nhân quả báo ứng một nét bút xóa sạch. Kẻ đó
chẳng học Phật th́ c̣n đỡ một tí, chẳng
có lá gan lớn như vậy. Sau khi học Phật, to gan lắm:
“Phật nói là Không mà!” Cho nên chuyện ǵ kẻ đó cũng đều
dám làm. Sau khi đă làm, chắc chắn là [tội nghiệp]
chẳng không rồi! Đợi đến khi thọ khổ,
bụng đau, sọ nhức, mới biết là Không chẳng
được! Một tí tẹo cũng chẳng coi là Không
được! Kẻ đó biết sự lợi hại,
cho nên sẽ thật thà học.
Trong
phần trước, chúng tôi đă nói về tập tụng
nghiệp luân, nói đến
“trung đại phiền năo tụ, giai trừ diệt cố,
vị linh chứng Vô Thượng Trí cố” (các khối
phiền năo to lớn trong ấy đều trừ diệt,
v́ khiến cho chứng Vô Thượng Trí). Chúng tôi nhắc lại một
chút. Trong phần trước, nói về tu Định nghiệp,
tức là tu Định; ở đây dạy về tập
tụng nghiệp. Sợ rằng mọi người sợ
tập tụng th́ nhiều, mà tu Định th́ ít. V́ chúng ta
đọc kinh Kim Cang, hoặc đọc kinh Di Đà, “tập tụng” là đọc tụng
Đại Thừa. Thông thường, mọi người
nh́n theo mặt chữ, niệm một lượt là xong. Có lúc, do thời gian rất vội vàng, dường như
tăng tốc độ đọc cho lẹ hơn. Trong
t́nh huống như vậy, khi đọc tụng, quư vị
chẳng dễ ǵ tiến nhập. Tôi nói “không thể tiến
nhập”, v́ trong khi tập tụng, chẳng thể thuận
theo đạo lư trong kinh văn mà nhập
Quán, chỉ chiếu theo văn tự mà đọc. Tập
tụng kiểu đó, công lực kém cỏi hơn. Tập
tụng kiểu đó, đoạn phiền năo sẽ có phần
khó khăn!
Tập
tụng nghiệp và tu Định nghiệp giống như
nhau. Nếu quư vị có thể chí tâm đọc, chẳng hạn
như đọc phẩm Phổ Môn, nếu đă có thể
nghe qua, đă được giảng qua th́ càng tốt
hơn. Chưa được nghe giảng, hoặc là nghe vị
sư phụ nào nói “đọc phẩm Phổ Môn sẽ có
lợi ích”, quư vị bèn thỉnh một quyển kinh Phổ
Môn để đọc như vậy. Chẳng có sư phụ
truyền dạy, chẳng có ai bảo quư vị đọc
như thế nào, quư vị đạt được hiệu
quả sẽ kém hơn một chút. V́ sao? Trong tụng nghiệp
luân, có thêm vào một chữ Tập. “Tập” (習) là học tập. Sau khi quư vị đă học tập
rồi mới đọc. Khi quư vị tu tập tụng
nghiệp luân, tức là khi ta đọc tụng Đại
Thừa, chớ nên giải đăi. Đầu đêm, cuối
đêm [đều phải tụng đọc]. Nay chúng ta
đang thuộc thời Mạt, sợ rằng với t́nh
huống thân thể của chúng sanh trong hiện thời, sẽ
chẳng thể chịu đựng nổi! Mọi người
chỉ đọc, hoặc là phẩm Phổ Môn, hoặc là
phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, hoặc là kinh
Dược Sư, hoặc kinh Di Đà, đọc một bộ
là được rồi. Vậy th́ chẳng dùng đến
đầu đêm và cuối đêm, chẳng trở thành vấn
đề tốn thời gian quá lớn.
Khi
đọc, nhất định phải tuân theo nghi thức.
Nói chung, cần phải có một lư hương. Đồng
thời, tùy theo sức của quư vị lo nổi mà cúng chút
hoa. Nếu chẳng thể cúng nhiều th́ một bông
cũng được. Quư vị dùng một cái b́nh hoa nhỏ,
đổ vào đó chút nước để dâng cúng hoa, thắp
một nén hương, nghi thức ấy cần phải
có. Bày kinh bổn ra, chúng ta trước hết phải
đảnh lễ ba lượt. Lễ xong, mở kinh bổn
ra, quư vị phải lắng ḷng một chốc. Sau đó,
phải tĩnh tâm một thoáng, quán tưởng trong chốc
lát. Tâm đă tĩnh, bèn mở kinh bổn ra để niệm.
Niệm th́ ắt cần phải từng chữ rành mạch, phân minh. Lúc mới niệm,
càng phải rơ ràng, rành rẽ. Nếu quư vị muốn thâm
nhập đôi chút, bèn thuận theo kinh văn mà nhập
quán.
Nếu
quư vị đọc phẩm Phổ Môn, phẩm Phổ Môn
tán thán công đức của Quán Thế Âm Bồ Tát, tán thán
Quán Thế Âm Bồ Tát như sau: Hễ quư vị
gặp phải tai nạn ǵ, chỉ cần niệm Quán Thế
Âm Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát có thể cứu khổ
cứu nạn. Kinh văn dạy như thế đó. Quư vị
phải biết: Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát th́ phải
chí tâm; chẳng chí tâm, sẽ không thể được. Nếu
quư vị biết tu Quán, khi đọc phẩm Phổ Môn,
quư vị quán tưởng v́ sao Quán Thế Âm Bồ Tát phát
nguyện to lớn dường ấy? Ta cũng mong học theo Ngài, đọc tụng chuyện
Ngài đă làm trong quá khứ, cũng là những chuyện
cũ, đó là các chuyện Quán Thế Âm Bồ Tát đă thực
hiện trong quá khứ. Quư vị đọc [kinh văn dạy về] Ngài, cũng phải
học theo Ngài phát nguyện.
Khi
tụng kinh, nếu thêm vào Quán, hiệu
quả sẽ to lớn. Như thế th́ mới có thể
đoạn phiền năo. Có các đạo hữu đă từng
hỏi tôi như thế này: “Con đă tụng phẩm Phổ
Hiền Hạnh Nguyện mấy ngàn bộ. Mỗi ngày tụng
một bộ, con tụng mười mấy năm, thế
nhưng một tí hiệu quả cũng chẳng có”. Tôi hỏi:
“Quư vị tụng như thế nào?” Người ấy
thưa: “Con cầm kinh bổn lên niệm”. Đúng hay không?
Đúng! Tôi nói: “Quư vị nói hiệu quả th́ là cầu hiệu
quả ǵ vậy? Thoạt đầu, quư vị phát nguyện
ǵ vậy?” Khi tập tụng, quư vị phát nguyện. Quư vị
đọc một bộ kinh nào, hoặc là kinh Địa Tạng,
hoặc đọc phẩm Phổ Môn, hay phẩm Phổ Hiền
Hạnh Nguyện, như thế th́ sẽ tùy thuận Địa
Tạng Bồ Tát mà phát nguyện để đọc kinh
Địa Tạng. Quư vị đọc phẩm Phổ
Môn, sẽ tùy thuận Quán Thế Âm Bồ Tát mà phát nguyện.
Đọc phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, sẽ
thuận theo Phổ Hiền Bồ Tát để phát nguyện.
Quư vị tụng như vậy, hiệu quả sẽ to lớn.
Nếu quư vị có thể liễu giải ư nghĩa bao hàm
trong bộ kinh ấy, khi tụng, nếu chẳng dấy
lên chấp trước, chẳng thấy ta là người
có thể tụng, chẳng có kinh được tụng.
Khi niệm kinh, đọc tụng, tâm của quư vị và
kinh kết thành một thể, tâm của quư vị và Quán Thế
Âm Bồ Tát kết thành một thể. Quư vị đọc
bộ kinh nào, sẽ kết thành một Thể với vị
Bồ Tát trong bộ kinh đó. Đó gọi là cảnh giới
chẳng thể nghĩ bàn. Đấy là một
phương thức đọc kinh.
Đọc
kinh xong, nhất định phải hồi hướng.
Khi bắt đầu đọc th́ phải phát nguyện, đọc xong phải hồi hướng.
Phải làm theo quá tŕnh nhất định, đó gọi là “tu
hành”. Quư vị đọc kinh là hành Bồ Tát đạo
ở ngay nơi đây, là tu hành. [Quư vị thắc mắc]:
“Bản thân con ngồi ở đây niệm kinh, làm sao hành Bồ
Tát đạo cho được?” Công đức đọc
tụng kinh của quư vị gia tŕ, hồi hướng cho
hết thảy chúng sanh, đặc biệt là chúng sanh trong
ba ác đạo. Quư vị phát nguyện, hy vọng Bồ
Tát gia tŕ, độ thoát họ, trừ khử tai nạn
cho họ. Ư nghĩa của hồi hướng là dùng tâm lực của chúng ta, dùng sức mạnh
do sự nghiệp chúng ta đă làm, hễ đạt
được sự báo đáp nào, đều trao cho họ
hết. Giống như chúng ta làm việc, đem tiền
lương kiếm được cúng dường Tam Bảo.
Sau đấy, thấy chúng sanh nghèo khổ, bèn bố thí cho
họ, công đức ấy rất lớn. Nhưng quư vị
chẳng biết khi đọc tụng kinh th́ cũng giống
như thế. Quư vị đạt được sự
báo đáp là do Bồ Tát gia bị quư vị, Tam Bảo gia
tŕ quư vị, bèn mong mỏi Tam Bảo sẽ gia tŕ hết
thảy chúng sanh, bất luận hữu duyên hay vô duyên.
Như vậy th́ khi quư vị đọc tụng mới có
thể đoạn phiền năo.
Khi
tập tụng có thể trừ diệt trung và đại
phiền năo, đạt được Vô Thượng Trí.
Nếu không, quư vị chiếu theo kinh văn, chỉ niệm
văn tự, sẽ chẳng đạt được [hiệu
quả trừ phiền năo như vậy]. Khi đọc,
khi niệm, phải thêm vào sức quán tưởng, như vậy
th́ mới có thể đạt được Vô Thượng
Trí. Do mọi người ít tu Định, niệm kinh
Dược Sư nhằm tiêu tai miễn nạn, giảm trừ đau khổ, khiến cho thân tâm khỏe mạnh, chẳng
bị bệnh tật. Thậm chí nếu đă mắc bệnh,
sẽ được lành bệnh, Bồ Tát gia bị lành bệnh.
Quư vị đọc kinh Dược Sư cũng phải
biết đọc. Đồng thời, lúc quư vị đọc,
hăy thuận theo ư nghĩa của kinh văn mà nhập Quán,
Định và Huệ hai đằng cùng kết hợp lại.
Khi quư vị đọc, nếu tâm chẳng tạp loạn,
quư vị đọc rồi sẽ có thể nhập Định.
Đấy hoàn toàn chẳng phải là ngủ mê. Nếu
đọc rồi hôn trầm, [tưởng rằng]
cũng giống như nhập Định, vậy là lẫn
lộn mất rồi! Nói đến ư nghĩa nhập
Định là như quư vị đọc kinh Hoa Nghiêm, sẽ
nhập vào cảnh giới Hoa Nghiêm.
Trong
quá khứ, có một vị lăo ḥa thượng là như vậy,
Ngài đọc trong Định, tốc độ đọc
rất nhanh, nhanh như thế nào? Ngài trên đường
từ Thiên Vương Điện[12]
đến đại điện, đă đọc xong một
bộ kinh Hoa Nghiêm! Mọi người biết kinh Hoa Nghiêm
có tám mươi quyển, Ngài mới đi một hai
trăm bước như vậy mà đă đọc xong một
bộ kinh Hoa Nghiêm, Ngài đọc trong Định! Nếu
đọc phổ biến th́ “một chính là hết thảy”.
Sau đó, vị thị giả nêu câu hỏi, không tin
Ngài, t́m tám mươi người, mỗi người cầm
một quyển. Tám mươi người nghe Ngài đọc
kinh, lấy quyển thứ nhất nghe Ngài đọc một
quyển, lấy tám mươi quyển nghe Ngài đọc
tám mươi quyển, Ngài đọc thông suốt.
Tuy
chúng ta vẫn chưa đạt đến định lực
ấy, nhưng chúng ta có thể thực hiện từ mức sơ khởi, nông cạn. Quư vị đọc
kinh Địa Tạng, đọc được phẩm
nào liền quán tưởng phẩm ấy, biết phẩm
ấy có ư nghĩa ǵ, phải hiểu ư nghĩa rồi mới
lại đọc, hiệu quả sẽ tốt hơn một
chút. Thậm chí khi đọc kinh, đừng để
chuyện vụn vặt chất chứa trong đầu.
Khi đọc kinh, chớ nên dấy vọng tưởng.
Khi tâm tưởng của quư vị rối beng, ngồi yên
nơi đó đọc kinh, vừa đọc liền ngủ
gật. T́nh huống này cũng có, đọc th́ cứ
đọc, nhưng dấy vọng tưởng, hôn trầm,
chẳng biết đọc đến đâu rồi. Tu
Định th́ chẳng được lao chao, chẳng
được hôn trầm, đọc kinh cũng phải
như vậy. Chớ nên điệu cử (lao chao), mà cũng chớ nên hôn trầm. Nếu
quư vị điệu cử, bộ kinh ấy sẽ xem được
rất ít. Quư vị đọc trong một thời gian rất
dài, vẫn đọc không xong, sẽ sanh phiền chán! Nếu
gặp một bộ kinh dài, quư vị sẽ càng đọc
không nổi. Đó chính là các lầm lỗi quư vị phải
pḥng ngừa th́ mới có thể đạt đến Nhất
Thiết Trí.
Đọc
kinh là tu Huệ, mà cũng là tu phước. Kinh Kim Cang giảng
về nghĩa Không của Bát Nhă. Đọc kinh Kim Cang,
phước đức to lớn. [Kinh ấy dạy đọc
tụng kinh Kim Cang] công đức to hơn công đức bố
thí do “dùng bảy báu chất đầy tam thiên đại
thiên thế giới để cúng dường”. Đấy
là phước, lại c̣n có thể sử dụng, tức
là có thể dùng [cái phước ấy] để đạt
được Huệ. Đó là Huệ. Phước huệ
song tu th́ mới có thể đạt được trí Bát
Nhă. Trong kinh văn [kinh Kim Cang], dường như không nói
ǵ đến cách tu, nhưng thật ra, mỗi bộ kinh
đều dạy chúng ta phương pháp. Quư vị tu tập,
lúc tu tập chính là lúc học, như thế th́ quư vị mới
có thể đạt được thọ dụng. Đức
Phật khiến cho hết thảy chúng sanh, nếu ai có
căn cơ Đại Thừa, chuyên môn tu Đại Thừa,
sẽ làm cho người ấy tập đọc tụng
Đại Thừa. Không chỉ là chính ḿnh học tập và
đọc, mà c̣n khuyên người khác học tập và
đọc. Như thế th́ sẽ có thể đạt
được trí huệ vô thượng, v́ đọc kinh
điển Đại Thừa, hồi hướng cho hết
thảy chúng sanh, trừ hết thảy các khổ, có thể
tiêu trừ tất cả khổ nạn của chúng sanh.
Chính quư vị đọc, khiến cho hết thảy chúng
sanh cũng đọc, khiến cho họ tiến nhập
ṭa thành Vô Úy.
“Vô
Úy thành” là sau khi đă thành Phật, sẽ có tứ vô sở
úy. Úy (畏) là sợ hăi. Hiện
thời, t́nh h́nh đáng sợ rất nhiều. Có rất
nhiều đạo hữu đọc kinh Địa Tạng,
cảm ứng bất đồng, hoặc là thấy quỷ
thần, hoặc là phát lạnh. Đấy đều chẳng
phải là các hiện tượng xấu! Khi đó, chúng ta
phải hỏi: “Người ấy
có sợ hăi, chẳng dám đọc kinh nữa hay không?” Vốn đọc kinh
là để tiêu trừ sợ hăi, nhưng người ấy
có nỗi sợ hăi, do đọc kinh mà cảm nhận sợ
hăi, t́nh huống kiểu này rất nhiều! Không chỉ là
kinh Địa Tạng, đọc kinh khác cũng sẽ có.
Trước hết, quư vị phải hiểu rơ: Đọc
tụng kinh Đại Thừa, sẽ có hộ pháp bảo
vệ, lẽ nào lại có cảm giác kinh hoảng? Vốn
là khi đọc kinh, có thể tiến nhập vô úy, tiến
nhập chẳng sợ sệt. Tứ Vô Sở Úy của
đức Phật chính là Nhất Thiết Trí Vô Úy, chướng
đạo vô sở úy (chẳng sợ sệt các pháp chướng
đạo). Khi quư vị tu đạo, [đức Phật]
bèn nói rơ ràng các pháp chướng ngại ấy. Khi Ngài
đang nói, đều vô sở úy. Chỉ có đức Phật
mới có thể nói rơ ràng hết thảy các pháp chướng
đạo. Quư vị muốn tu đạo, th́ Ngài ắt sẽ nói rơ ràng cho quư vị biết các pháp chướng
đạo. Khi nói, Ngài chẳng hề sợ hăi. Lại c̣n
có Lậu Tận Vô Úy. Lậu Tận có nghĩa là chẳng
bỏ sót tam giới, cho đến chẳng bỏ sót hết
thảy chúng sanh, khiến cho họ vĩnh viễn đều
đạt đến giải thoát. Điều thứ
tư là Tận Khổ Đạo Vô Úy, tức là nói “chấm
dứt khổ đạo” không sợ hăi. Khi nói, chẳng
sợ hăi. Do trí huệ, đức Phật có thể biết
[cặn kẽ]. Đó là cầu Đại Thừa. Cầu
Đại Thừa th́ phải mong nhập Phật trí, đạt
đến cảnh giới của Phật, trừ khổ
cho hết thảy chúng sanh. Khi đọc tụng kinh điển
Đại Thừa, sẽ có thể đạt được
các lợi ích ấy. Chuyện này giống hệt như cầu
lợi ích đắc Định trong phần trước.
(Kinh)
Nhược chư hữu t́nh cầu Duyên Giác thừa, ngă
đương an trí chư duyên khởi pháp, linh kỳ tập
tụng. Nhược chư hữu t́nh cầu Thanh Văn
thừa, ngă đương an trí bách thiên văn tụng Tứ
A Cấp Ma, bách thiên văn tụng Tỳ Nại Da Tạng,
bách thiên văn tụng A Tỳ Đạt Ma, cập Tỳ
Bà Sa, linh kỳ tập tụng. Thiện nam tử! Thị
danh Như Lai tập tụng nghiệp luân.
(經)若諸有情求緣覺乘,我當安置諸緣起法,令其習誦。若諸有情求聲聞乘,我當安置百千文頌四阿笈摩,百千文頌毗奈耶藏,百千文頌阿毗達磨,及毗婆沙,令其習誦。善男子,是名如來習誦業輪。
(Kinh:
Nếu các hữu t́nh cầu Duyên Giác thừa, ta sẽ xếp
đặt các pháp duyên khởi để họ tụng tập.
Nếu các hữu t́nh cầu Thanh Văn thừa, ta sẽ
an bài trăm ngàn văn tụng Tứ A Cấp Ma, trăm
ngàn văn tụng Tỳ Nại Da Tạng, trăm ngàn
văn tụng A Tỳ Đạt Ma và Tỳ Bà Sa để
họ tập tụng. Này thiện nam tử! Đó gọi
là tập tụng nghiệp luân của Như Lai).
Nếu
kẻ đó chẳng phải là căn khí Đại Thừa,
đọc tụng Đại Thừa sẽ chẳng thể
tiến nhập, đức Phật liền nói Duyên Giác Thừa. Duyên Giác Thừa là pháp Thập
Nhị Nhân Duyên. Mười hai pháp nhân duyên ấy cũng có
thể nói là “pháp duyên khởi”. Thấy hết thảy
sự vật sanh diệt, biến hóa, biết v́ sao phải
thọ khổ? V́ sao sẽ hưởng vui? Đương
nhiên, chứng Tịch Diệt là vui, luân hồi
trong sanh tử là khổ. V́ duyên theo sự biến hóa của hết thảy sự
vật, từ trí huệ của vị ấy, có thể
sanh khởi sự giác ngộ, sanh ra trí huệ. Vị ấy
thấy cây cối đă xanh lại vàng, bốn mùa Xuân, Hạ,
Thu, Đông, cho đến thọ mạng của con người
dài ngắn khác nhau. Đối với những chuyện
đó, vị ấy dụng tâm nghiên cứu, t́m ra nguyên nhân.
Hai cái nhân trong quá khứ sanh ra khổ quả trong hiện tại,
Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục
Nhập, Lục Nhập duyên Xúc. Khi đức Phật thuyết
pháp, tức là lúc có Phật xuất thế, Duyên Giác sẽ
nương theo pháp nhân duyên do đức Phật đă nói
mà khai ngộ. Lúc chẳng có Phật ra đời, chính vị
ấy thấy hết thảy sự sanh diệt, biến
hóa mà ngộ đạo, bèn gọi là Độc Giác. Cũng
có trường hợp do thiện căn trong quá khứ,
đối với loại chúng sanh này, bèn nói pháp nhân duyên,
nói pháp duyên khởi, dạy họ niệm loại kinh này.
Trường A Hàm có tất cả
hai mươi hai quyển. Trong ấy có bốn phần, gồm
ba mươi bộ kinh văn. Quyển thứ nhất ghi
chép những điều liên quan đến cuộc đời
đức Phật. Phần thứ hai là tu hành, là kinh điển
liên quan đến giáo lư. Phần thứ ba là ngoại đạo
chất vấn, tranh luận với nhau, đả phá các tà
tri, tà kiến của ngoại đạo. Phần thứ
tư nói về đạo lư “sanh, trụ, dị,
diệt, thành, trụ, hoại, không” của thế giới này. Nói chung, Tứ A Hàm đều có những ư nghĩa đó.
Trung
A Hàm chỉ dạy Tứ Đế (Catvāri Āryasatyāni), thập nhị
nhân duyên (Pratītya-samutpāda-aṅga), hoặc là nêu
thí dụ, cũng chính là những lời lẽ khi đức
Phật và các đệ tử luận nghị, cho đến
những việc mà các Ngài đă làm. Giống như khi chúng
ta tụng kinh chỉ là ngôn ngữ, nhưng Trung A Hàm dạy
chúng ta cách hành như thế nào, tức là phương pháp
tu hành. Do vậy, kinh này thuộc về Hành. Nương theo
ngôn ngữ chỉ dạy mà hành tŕ, cho nên thuộc về
Hành.
Tăng
Nhất A Hàm là nói theo con số. V́ khi tu theo bộ kinh điển
này, cứ mười số th́ tăng thêm một, bèn có
mười một pháp. Cứ mười pháp lại
tăng thêm một, chữ Tăng Nhất (增壹) có ư nghĩa như thế đó.
Kinh có năm mươi quyển, lại tăng thêm một
quyển, nên thành năm mươi mốt quyển.
Tạp
A Hàm ghi chép rất nhiều loại hỗn hợp, chẳng
thuộc loại kinh văn dài, chẳng phải là cùng một
nghĩa lư, mà là rất nhiều nghĩa lư.
Vậy
th́ nguyên thủy Phật giáo có bốn loại kinh điển,
tức Tứ A Hàm. Thuận theo kinh văn, tôi nói đại
khái với mọi người đôi chút. “An trí bách thiên
văn tụng A Cấp Ma, bách thiên văn tụng Tỳ Nại
Da Tạng” (xếp đặt trăm ngàn văn tụng
A Cấp Ma, trăm ngàn văn tụng Tỳ Nại Da Tạng):
“Tỳ Nại Da” (Vinaya) là Luật Tạng, chuyên nói về
giới luật. Giới là quy củ, là pháp luật mà đệ
tử Phật phải nên tuân thủ. Sở dĩ gọi
là “giới luật”, chẳng gọi là pháp luật, v́
nó có hai loại là Tŕ và Giá. “Tŕ” là đáng nên làm, có Chỉ
Tŕ và Tác Tŕ. Chỉ Tŕ là không được phép làm. Tác Tŕ
là nhất định phải làm, cần phải làm; quư vị
chẳng làm, sẽ phạm giới. Bảo quư vị đừng
nên làm, mà quư vị cứ khăng khăng làm th́ cũng phạm
giới. Cần phải chia ra thành hai loại Chỉ và Tác,
trong ấy, nói rất nhiều điều. Như mọi người
rất quen thuộc Tam Quy. Tam Quy có nói giới hay không? Tam
Quy cũng là giới. Quy y Phật nhằm ngăn che quư vị
quy y ngoại đạo. Sau khi đă quy y Phật, chẳng
thể quy y thiên ma, ngoại đạo nữa. Sau khi đă
học Phật, nhất định phải tŕ tụng Tam
Bảo, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Đấy
là Tác Tŕ. Chẳng thể quy y ngoại đạo, chớ
nên xem điển tịch của ngoại đạo. Khi
quy y Pháp, chớ nên xem điển tịch của ngoại
đạo. Đó là Chỉ Tŕ. Nhất định phải
đọc kinh Phật là Tác Tŕ. Mỗi điều đều
là như thế. Khi quy y Tăng, Tăng là tăng nhân,
cũng là hết thảy người xuất gia, quư vị
chẳng thể quy y tà đạo, đó lại là Chỉ
Tŕ.
Phàm
là trong giới luật, đối với bộ phận giới luật của Thanh Văn Thừa th́ giới
tỳ-kheo gồm hai trăm năm mươi điều.
Cả hai trăm năm mươi giới điều
đều chẳng phạm, đă tŕ thanh tịnh, nhất
định sẽ chứng đắc quả A La Hán. Đấy
là nói kể từ ngày thọ giới trở đi, một
mực chẳng phạm. Nếu quư vị trót phạm, theo
đúng pháp sám hối th́ là Tác Tŕ. Có pháp Yết Ma, tức là
[những cách thức] dạy cho quư vị [sám hối, phát lộ]
như thế nào, bèn làm như thế ấy. Quư vị
đă phạm tội, phạm vào điều giới nhỏ,
rất nhẹ mỏng, đă sám hối, bèn được
thanh tịnh, khôi phục thanh tịnh, đó là Tác Tŕ. [Cách
thức phát lộ, thưa bày trước Tăng đoàn,
chân thành sám hối] gọi là pháp Yết Ma.
A
Tỳ Đạt Ma (Abhidharma) thuộc về Luận Tạng.
[A Cấp Ma, Tỳ Nại Da, và A Tỳ Đạt Ma] là
Kinh, Luật, Luận. Trong nguyên thủy Phật giáo, kinh A
Hàm là Kinh, A Tỳ Đạt Ma là Luận. Kinh, Luật,
Luận là Tam Tạng. Tỳ Bà Sa (Vibhāṣā)
là luận được phê b́nh, chú giải cũng rất
nhiều[13].
Đối với người học Duyên Giác hay Thanh
Văn, sẽ dạy họ tập tụng những thứ
đó.
“Thị
danh Như Lai tập tụng nghiệp luân” (đó gọi
là tập tụng nghiệp luân của Như Lai): Trên
đây đă nói tập tụng như thế nào? Niệm những
thứ ấy. Quư vị tự cảm thấy loại nào
thích hợp với chính ḿnh. Quư vị đọc kinh Tứ
A Hàm, cảm thấy rất hay, vậy th́ quư vị đọc
kinh Tứ A Hàm. Quư vị đọc kinh điển Đại
Thừa, kinh Kim Cang, kinh Di Đà, cảm thấy rất hay,
hăy đọc kinh điển Đại Thừa. Sau khi quư
vị quy y một vị sư phụ nào đó, rất ít
người hướng về sư phụ thỉnh pháp:
“Thưa sư phụ! Con nên đọc kinh ǵ là tốt nhất?”
Rất ít người hỏi về vấn đề này.
Thọ Tam Quy xong là bỏ đi, ngay cả niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng đều chẳng niệm,
c̣n đọc kinh ǵ nữa! Họ chẳng thỉnh cầu
chuyện ấy! Nếu có thỉnh cầu, sư phụ sẽ
giảng cặn kẽ đôi chút. Có vị sư phụ chẳng
nói với quư vị; quư vị chẳng hỏi, thầy
cũng chẳng nói. Quư vị đă thọ Tam Quy, có khi c̣n
muốn thọ Ngũ Giới. Thọ Ngũ Giới th́
[sư phụ] nhất định phải giảng cho quư vị.
Giảng ư nghĩa Tam Quy cho quư vị, tức là quư vị từ
đấy về sau đừng quên niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng. Nhất định phải giảng
những điều ấy; đó là tập tụng.
(Kinh)
Thiện nam tử! Vân hà Như Lai doanh phước nghiệp
luân? Vị chư hữu t́nh căn cơ ngu độn, vị
chủng thiện căn, trí huệ vi liệt, giải
đăi, thất niệm, nhiễm trước chủng chủng
thọ dụng tư cụ, viễn ly thiện hữu, ngă
đương an trí như thị hữu t́nh, sử doanh
phước nghiệp, vị linh tu tác Phật, Pháp, Tăng
sự, cập thân giáo sư, quỹ phạm sư sự.
Thiện nam tử! Thị danh Như Lai doanh phước
nghiệp luân.
(經)善男子,云何如來營福業輪?謂諸有情,根機愚鈍,未種善根,智慧微劣,懈怠失念,染著種種受用資具,遠離善友,我當安置如是有情,使營福業,謂令修作佛、法、僧事,及親教師、軌範師事。善男子,是名如來營福業輪。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Như thế nào là doanh phước
nghiệp luân của Như Lai? Tức là các hữu t́nh
căn cơ ngu độn, chưa gieo thiện căn, trí
huệ kém ít, lười nhác, thất niệm, nhiễm
đắm nơi hưởng thụ các vật dụng, xa
ĺa bạn lành, ta sẽ sắp xếp cho các hữu t́nh
như thế, khiến cho họ chăm lo tu tạo phước nghiệp,
tức là khiến cho họ phụng sự Phật, Pháp,
Tăng, và phụng sự các vị thân giáo sư, quỹ phạm
sư. Này thiện nam tử! Đó gọi là doanh phước
nghiệp luân của Như Lai).
Nếu
tu Định chẳng được, tập tụng cũng
chẳng tập tụng được, Như Lai c̣n có pháp
môn phương tiện. Có pháp môn phương tiện ǵ vậy?
Doanh phước nghiệp luân. Nghiệp là Tác (làm). Quư vị
làm đôi chút phước đức, tức là tu phước.
Đấy là nói tới một loại hữu t́nh, căn
tánh rất độn, chẳng thể đọc kinh, càng
chẳng thể tu Định, ngu dốt, chậm lụt,
chẳng có trí huệ. V́ trong quá khứ, họ chẳng gieo
thiện căn, trí huệ rất kém thiếu, rất kém cỏi,
mà cũng có nghĩa là “chẳng có trí huệ”. Vậy th́ họ biểu hiện thành lười
nhác, thất niệm. Mọi người đều thất
niệm dễ dàng! Chúng ta có khi cầm xâu chuỗi, hễ lần
chuỗi th́ nghĩ tới Phật, Pháp, Tăng. Buông xâu chuỗi
xuống liền quên bẵng. Cầm lấy xâu chuỗi mới
niệm. Nói đến “niệm” th́ là niệm nào
cũng đều chẳng quên Tam Bảo, hoặc là niệm
Phật, niệm Pháp, niệm Tăng đều được.
Quư vị chuyên niệm Phật cũng được. V́ kẻ
đó trí huệ kém cỏi, thiện căn lại ít, những
lúc thất niệm sẽ càng nhiều hơn. Họ chấp
trước sự hưởng thụ, mong hưởng thụ
hết thảy những vật dụng trong cuộc sống.
Họ thà đi đánh tám ván mạt chược, bảo họ
đến nghe giảng kinh ở đây một buổi
chừng một tiếng rưỡi thôi, họ cảm thấy
rất khổ. Mỗi người có sở thích khác nhau. Như chỉ lấy giảng kinh làm thí dụ,
kẻ không tin Phật th́ không cần nói đến, đối
với đệ tử Phật chúng ta, quư vị bảo họ
vui chơi, tinh thần họ tràn đầy hăng hái, bảo
họ niệm kinh, hoặc là tu Định, họ sẽ uể
oải. Đối với thân thể hay vật dụng cần
thiết cho cuộc sống, họ sẽ giữ rất kỹ,
chẳng lười nhác, rất tinh tấn, hoàn toàn
tương phản! Đấy là v́ họ tham ái, có dục
vọng đối với thế giới này.
Đồng
thời, cũng là do chẳng có “thiện hữu” (bạn
lành) giúp đỡ họ. Được gọi là “thiện
hữu” bao gồm quư vị, hoặc là quan hệ vợ
chồng, hoặc quan hệ bạn bè, hoặc quan hệ lục
thân quyến thuộc. V́ chúng ta có một người lục
thân quyến thuộc tin Phật, người ấy sẽ
khuyên quư vị tin Phật, mong dẫn dắt quư vị tin
Phật. Do người ấy, quư vị có
cơ hội tin Phật. Nếu chẳng có nhân duyên ấy,
chẳng gặp vị thiện hữu ấy, cho đến
giữa các bạn đạo giúp đỡ lẫn nhau, nhắc
nhở lẫn nhau, khiến cho quư vị tu hành, chẳng giải
đăi. Giải đăi là nói tương phản với tinh
tấn, thất niệm là nói tương phản với
chánh niệm. Chẳng có thiện hữu, sẽ giống
như loại hữu t́nh [ngu si, độn căn đang
nói ở đây]. Đức Phật dạy: “Ta sẽ an
bài cho họ, khiến cho họ chăm lo tu phước”.
“Doanh phước” (營福) chính là tu tập,
tích cóp chút phước. Niệm Phật, niệm Pháp, hoặc
là đến chùa miếu làm việc thiện, hoặc sửa
chùa, tham gia tu tập, giống như rất nhiều đạo
hữu làm nghĩa công (義工, làm thiện
nguyện, hoặc làm công quả), tùy thuộc quư vị hồi
hướng phước nghiệp ấy như thế nào.
Tuy là thực hiện
phước nghiệp rất bé, quư vị phải hồi
hướng, khuếch trương nó thành to lớn. Chuyện
này liên quan đến ư niệm.
C̣n
có những vị sư phụ mà quư vị thọ quy y, hoặc
là thân giáo sư, hoặc quỹ phạm sư, khi họ hiện
hữu, hăy làm thị giả cho họ, hoặc là chăm sóc
họ. Khi họ tu hành, quư vị làm chút việc cho họ,
đấy đều là “doanh phước” (chăm lo
tu phước). Chăm lo tu phước th́ ở trong chùa
đỡ đần cho chư tăng. Vậy th́ các vị
cư sĩ tại gia, tức các vị Ưu-bà-tư-ca, Ưu-bà-sách-ca,
cũng chính là Cận Sự Nam, Cận Sự Nữ. Cận
Sự Nam và Cận Sự Nữ chính là doanh phước.
Bước đầu tiên là đối với vị thân
giáo sư của chính ḿnh, nói thông thường, vị thân
giáo sư là ḥa thượng, cũng có nghĩa là vị ḥa
thượng mà quư vị thọ giới, hoặc các vị
Yết Ma, Giáo Thọ, Quỹ Phạm Sư, Dẫn Lễ
Sư truyền giới cho quư vị đều được
kể vào trong ấy. Quư vị làm chút việc cho họ. Nếu
quư vị tu Định chẳng thành, đọc kinh cũng
chẳng thành, vậy th́ quư vị hăy làm đôi chút việc
tốt. Nếu quư vị làm thầy hương đăng
trước bàn Phật, hoặc nếu trong nhà quư vị có
thờ tượng Phật, mỗi ngày quư vị lau dọn
bàn thờ, thắp hương, đó đều là những
chuyện doanh phước. Chuyện doanh phước rất
nhiều; đó là thành tựu Phật Luân thứ hai của
Như Lai.
(Kinh)
Thiện nam tử! Ngă thành như thị đệ nhị
Phật Luân. Do thử luân cố, dĩ kỳ vô thượng
tam thế nghiệp trí, như thật liễu tri nhất
thiết hữu t́nh chư nghiệp pháp thọ nhân cập
quả báo, tùy kỳ sở ưng, lập tam nghiệp luân,
thành thục nhất thiết sở hóa hữu t́nh, đắc
an ổn trụ, đắc vô kinh khủng, đắc vô sở
úy, tồi chư thiên ma, ngoại đạo tà luận, chuyển
đại phạm luân, thành đại phạm hạnh,
như thật liễu tri chúng sanh nhân báo.
(經)善男子,我成如是第二佛輪。由此輪故,以其無上三世業智,如實了知一切有情,諸業法受因及果報,隨其所應立三業輪,成熟一切所化有情,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,摧諸天魔外道邪論,轉大梵輪,成大梵行,如實了知眾生因報。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật Luân thứ hai
như thế. Do v́ luân ấy, dùng vô thượng tam thế
nghiệp trí, đúng như thật biết rơ các nghiệp pháp thọ nhân và quả báo của các hữu t́nh, tùy
theo căn tánh của mỗi hữu t́nh mà lập ra ba nghiệp
luân để thành thục hết thảy các hữu t́nh
được hóa độ, khiến cho họ trụ
trong an ổn, được chẳng kinh
hoàng, được chẳng sợ
hăi, dẹp tan tà luận của thiên ma và ngoại đạo,
chuyển đại phạm luân, thành tựu đại phạm
hạnh, đúng như thật biết rơ nhân và báo của
chúng sanh).
“Do
thử luân cố, dĩ kỳ vô thượng tam thế
nghiệp trí, như thật liễu tri nhất thiết hữu
t́nh chư nghiệp pháp thọ nhân cập quả báo” (Do
v́ luân ấy, dùng vô thượng tam thế nghiệp trí,
đúng như thật biết rơ các nghiệp pháp thọ nhân và quả báo của các hữu t́nh): “Tam
thế nghiệp trí” là nói đến đức Phật.
Đối với ba đời quá khứ, vị lai và hiện
tại, Ngài đều có thể biết rơ nghiệp ba
đời, đều biết đúng như thật nghiệp
của hết thảy chúng sanh. Hết thảy chúng sanh
trong quá khứ, hiện tại, tương lai đă làm những
ǵ, đă tạo những ǵ, đă gieo nhân nào, nay phải hứng
chịu quả báo, đức Phật đều biết
rơ đúng như thật. Do vậy, sẽ “tùy cơ ứng
hóa”, tùy theo lẽ đáng nên, tức là thích ứng với
căn cơ của họ mà lập ra ba loại nghiệp
luân. Có thể nói “tam nghiệp luân” chính là ba nghiệp
luân trên đây, tức định nghiệp, tập tụng
nghiệp, và doanh phước nghiệp, thuận theo căn
cơ, thấy họ thích hợp loại nào, tức nghiệp
luân nào, bèn dạy họ hăy nương theo nghiệp luân ấy
để tu, khiến cho hết thảy các chúng sanh
được đức Phật hóa độ đều
có thể được an ổn. “An ổn” có
nghĩa là chẳng bị khổ nạn, chẳng kinh hoảng,
chẳng sợ sệt v́ tam ác đạo, khiến cho họ
chẳng sợ hăi. Đọa vào ba ác đạo là khổ,
thậm chí chẳng cần nói đến chuyện đọa
vào ba ác đạo, dẫu là làm người, như trong hiện
thời mọi người đều là người, tức
là nói theo nhân đạo, th́ hiện thời chúng ta đều
là đệ tử Phật, thuộc về tứ chúng
đệ tử, quư vị có hoảng sợ, có sầu lo hay không? Mỗi ngày đều phải lo
được, lo mất, có hoảng sợ, v́ sao vậy?
Quư vị chẳng tu Định nghiệp tốt đẹp.
Thậm chí đối với cái luân thứ ba, phước
đức cũng chẳng đủ, phước nghiệp
cũng chẳng đủ!
Đức
Phật không như vậy. Ngài thành tựu, đối với
hết thảy chúng sanh, biết đúng thật thiện
căn của chúng sanh sâu hay cạn, cũng như biết
họ đă tạo nghiệp dầy hay mỏng. Nghiệp
đă tạo là thiện nghiệp hay ác nghiệp, đă gieo
cái nhân có sâu hay không? Có lớn hay không? Cho đến đối
với quả báo họ đang lănh nhận, có khổ nạn
hay không? Có sợ hăi hay không? Biết quư vị có nỗi sợ
hăi. V́ quư vị có sợ hăi, đức Phật sẽ dạy
quư vị phương pháp trừ sợ hăi, tức là ba nghiệp
luân như vừa mới nói. Trong ấy, bao gồm cách
tu tập Định, có bao nhiêu loại Định? Cho
đến đối với tập tụng, tập tụng
quá nhiều! Tùy thuộc quư vị [ưa thích] đọc tụng
loại kinh nào. Doanh phước rất rộng! Hiện thời,
mọi người đều mong tưởng đủ
loại thiện căn; đối với chuyện đọc
tụng kinh điển Đại Thừa, chúng ta cũng
biến thành tu phước! Tuy quư vị
chẳng đạt được huệ, đọc tụng
kinh điển vẫn là có phước đức, ngay cả
phước đức được nghe danh tự
cũng chẳng dễ dàng! Đối với thiện
căn trong quá khứ, đức Phật có trọn đủ
Nhất Thiết Chủng Trí, Ngài đều có thể biết,
khiến cho quư vị chẳng c̣n kinh sợ nữa, khiến
cho quư vị rốt ráo thành Phật, cũng có thể giống
hệt như Ngài, cũng có thể đập tan tà luận
của hết thảy thiên ma và ngoại đạo.
“Chuyển
đại phạm luân”: “Phạm” (梵) có nghĩa là
thanh tịnh. Có thể đạt tới thanh tịnh,
như vậy th́ những nghiệp quư vị đă làm,
đă tu hành, đều có thể trở thành phạm hạnh
thanh tịnh. “Phạm hạnh” có nghĩa là thanh tịnh.
Nói theo phía đức Phật, đức Phật chuyển
đại pháp luân, chuyển thanh tịnh pháp luân. Ngài có thể
đúng như thật biết nhân duyên quả báo của hết
thảy chúng sanh.
(Kinh)
Thiện nam tử, như Sát-đế-lợi quán đảnh
đại vương thành thiện xảo trí, quán sát nhất
thiết sa-môn, Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Phiệt-xá,
Thú-đạt-la đẳng, chủng chủng công đức,
đa văn, dũng kiện, công xảo kỹ nghệ.
Nhược chư chúng sanh phú hữu công đức, thành xảo
tiện trí, tinh tấn, dũng mănh, kiên cố bất thoái, chủng
chủng phước đức nhi tự trang nghiêm.
(經)善男子,如剎帝利灌頂大王,成善巧智,觀察一切沙門、婆羅門、剎帝利、筏舍、戍達羅等種種功德,多聞、勇健、工巧、技藝。若諸眾生,富有功德成巧便智,精進勇猛堅固不退,種種福德而自莊嚴。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Như đại vương thuộc
chủng tánh Sát-đế-lợi đă được
quán đảnh thành tựu trí thiện xảo, quan sát các thứ
công đức, đa văn, dũng kiện, tài nghệ hay
khéo của hết thảy sa-môn, Bà-la-môn, Sát-đế-lợi,
Phiệt-xá, Thú-đạt-la v.v… Nếu
các chúng sanh giàu có công đức, thành tựu trí
phương tiện thiện xảo, tinh tấn, dũng mănh, kiên cố
chẳng lui sụt, có đủ loại phước đức
để tự trang nghiêm).
Dùng
vương luân này để tỷ dụ Phật Luân thứ
ba. Chúng ta đă nói Phật Luân thứ nhất và thứ hai,
nay nêu lên vương luân thứ ba của vua Sát-đế-lợi.
Trước là tỷ dụ, sau là pháp. Pháp là nói về Phật
Luân, đó là pháp. Dùng Sát-đế-lợi trong thế gian,
đấy cũng là quư tộc trong bốn loại chủng
tánh của Ấn Độ. Sau khi ông ta được quán
đảnh, tiếp nhận vương vị, thành tựu
trí phương tiện thiện xảo. Vua xem xét nhân dân
trong nước, quan sát hết thảy. Sa-môn (Śramaṇa) là người
xuất gia. Sa-môn ở đây bao gồm cả xuất gia Bà-la-môn,
không phải chỉ là hàng xuất gia của Phật giáo.
Bà-la-môn cũng có người xuất gia. Các ngoại đạo
khác cũng có người xuất gia. Họ dùng chữ
Sa-môn để gọi chung. Sa-môn dịch nghĩa là Cần
Tức (勤息), tức là “cần tu Giới, Định, Huệ,
tức diệt tham, sân, si” (siêng tu Giới, Định,
Huệ, dứt diệt tham, sân, si). Nếu nói rộng về
các ư nghĩa được bao hàm trong từ ngữ Sa-môn,
sẽ có rất nhiều cách giải thích. Nói chung th́ có ư
nghĩa như vậy.
Ấn
Độ có bốn loại chủng tánh (Varṇa) ở ngoài
sa-môn, bốn loại nào vậy? Chính là Bà-la-môn (Brāhmaṇa), Sát-đế-lợi
(Kṣatriya), Phiệt-xá (Vaiśya), và Thú-đạt-la (Śūdra). Bà-la-môn giống
như người đọc sách tại Trung Hoa, ở Ấn
Độ th́ gọi là “học giả”, tức là
người có học vấn. Sát-đế-lợi là quư tộc,
là ḍng dơi vua chúa. Phiệt-xá bao gồm giới công
thương nghiệp, cũng là sĩ, nông, công,
thương. Phiệt-xá phần nhiều là nói về thương
nhân. Thú-đạt-la là chủng tánh hạ tiện, tức
là những kẻ làm đồ tể, nô bộc. Bốn loại
chủng tánh cộng thêm sa-môn là toàn thể nhân dân trong
nước. Quốc vương đối với nhân dân
trong nước có mấy loại chủng tánh, nhà vua đều
biết tài năng như thế nào để khiến cho họ
vun bồi phước, như thế th́ mới thích hợp
với sự nghiệp của họ.
“Chủng
chủng công đức, đa văn, dũng kiện, công xảo kỹ nghệ” (các thứ công
đức, đa văn, mạnh mẽ dũng cảm, tài
nghệ khéo léo): Đấy là nói tùy thuộc loại người
như thế nào, bèn đối đăi đúng lẽ như
thế đấy. Sau đó, vua sẽ phân phối, ban cho họ
trân bảo, tiền tài, thóc gạo, ruộng đất, nhà
cửa, nô tỳ, tôi tớ. Do vậy, vua cũng quan sát những
người ấy, hạng người nào có công đức
lớn, đáng nên hưởng thụ như thế nào, loại
người nào đa văn, có trí huệ. Đa văn là học
tập rộng răi. Đa văn là nói
đến học tập, không hoàn toàn là nói về học tập
Phật pháp. Như Thú-đạt-la, căn bản là họ
cũng chẳng học Phật pháp, có những kẻ không tin
Phật. “Công xảo kỹ nghệ” là Công Xảo Minh,
Công Xảo (工巧, hay khéo) là như thương nhân. Phiệt-xá bao gồm
công nhân, có kỹ thuật, hội họa, trang hoàng, tu bổ,
đều được gộp vào trong ấy. Chữ “kỹ
nghệ” bao gồm rất nhiều thứ. Giả sử
đối đăi với những người có công đức,
có trí huệ ấy (bất quá ở đây là nói những
người hành xử rất thông minh, đừng lẫn
lộn với trí huệ trong nhà Phật).
“Thành
xảo tiện trí” (thành tựu trí phương tiện
thiện xảo): Vị vua quán đảnh này đối với
sa-môn, Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Phiệt-xá, và Thú-đạt-la,
tức năm loại người trong nước, [xét thấy]
công đức của họ lớn hay nhỏ, năng lực
mạnh hay yếu, kỹ thuật cao hay thấp, giả sử
là người có công đức rất dồi dào, tức
là công đức rất lớn, đấy là một loại,
hoặc là có phương tiện rất hay khéo, rất thông
minh tức là rất lanh lợi, hoặc là có những sự
vụ cống hiến rất lớn đối với quốc
gia, tinh tấn, dũng mănh, cho đến hễ làm chuyện
ǵ, họ đều kiên cố chẳng lui sụt, dùng
phước đức của chính ḿnh để trang
nghiêm. Như vậy th́ vị vua quán đảnh ấy sẽ
căn cứ theo nhu cầu, trí huệ, phẩm đức
và năng lực của họ lớn hay nhỏ. Giống
như tiền lương trong hiện thời, quư vị
có thể làm chuyện ǵ, năng lực mạnh sẽ kiếm
được nhiều tiền, năng lực kém sẽ
kiếm ít hơn!
(Kinh)
Thử Sát-đế-lợi quán đảnh đại
vương, tùy bỉ sở ưng, cấp thí trân bảo,
tài cốc, điền trạch, nô tỳ, bộc sử.
Ư tự quốc độ, nhược chư chúng sanh,
đức nghệ khinh vi, công nghiệp tiễn bạc,
thử Sát-đế-lợi quán đảnh đại
vương, tùy bỉ sở ưng, vi gia chẩn tuất.
Ư tự quốc độ, nhược chư chúng sanh,
công đức bạc liệt, thiểu ư tinh tấn, giải
đăi, lăn nọa, vong thất chánh niệm, vô từ bi tâm,
bất tri ân báo. Ư hậu thế khổ, bất kiến
bố úy, một cư gia nê, tích chư ác hạnh, thử
Sát-đế-lợi quán đảnh đại
vương, tùy bỉ sở ưng, chủng chủng trích
phạt, hoặc dĩ ngôn giáo khổ thiết ha trách, hoặc
đoạt chủng chủng trân bảo, tư tài, hoặc
đoạt thọ dụng như ư sản nghiệp, hoặc
phạt tiên trượng, hoặc cấm lao ngục, hoặc
đoạn chi tiết, hoặc trảm thân thủ. Như
thị vô lượng tùy ưng trích phạt.
(經)此剎帝利灌頂大王,隨彼所應,給施珍寶、財谷、田宅、奴婢、僕使。於自國土,若諸眾生,德藝輕微,功業鮮薄;此剎帝利灌頂大王,隨彼所應,微加賑恤。於自國土,若諸眾生,功德薄劣,少於精進,懈怠懶惰,忘失正念,無慈悲心,不知恩報,於後世苦不見怖畏,沒居家泥,積諸惡行;此剎帝利灌頂大王,隨彼所應,種種謫罰,或以言教苦切呵責,或奪種種珍寶資財,或奪受用如意產業,或罰鞭杖,或禁牢獄,或斷支節,或斬身首,如是無量隨應謫罰。
(Kinh:
Vị đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi
đă được quán đảnh ấy tùy theo lẽ
đáng nên mà ban thí trân bảo, tiền tài, gạo thóc, ruộng
đất, nhà cửa, nô tỳ, tôi tớ. Trong cơi nước
của ḿnh, nếu các chúng sanh, đức hạnh lẫn
tài nghệ kém cỏi, công lao, sự nghiệp ít ỏi, mỏng
manh, vị vua quán đảnh Sát-đế-lợi ấy
theo lẽ đáng nên sẽ chẩn cấp, giúp đỡ họ
đôi chút. Trong cơi nước của chính ḿnh, nếu các
chúng sanh công đức mỏng kém, ít chịu tinh tấn, giải
đăi, biếng nhác, quên mất chánh niệm, chẳng có tâm
từ bi, chẳng biết báo ân, đối với nỗi
khổ trong đời sau chẳng thấy sợ hăi, ch́m
đắm trong bùn lầy gia nghiệp, tích tập các hạnh
ác, vị vua quán đảnh Sát-đế-lợi ấy sẽ
theo đúng lẽ đáng nên, áp dụng đủ loại
trừng phạt. Hoặc dùng ngôn từ dạy bảo, quở
trách nặng nề, hoặc tước đoạt các thứ
trân bảo, của cải, hoặc tước đoạt
các thứ thọ dụng như ư và sản nghiệp, hoặc
trừng phạt bằng roi, gậy, hoặc giam trong nhà tù,
hoặc chặt chân tay, hoặc chém phăng đầu. Vô
lượng sự trừng phạt theo đúng lẽ
như thế đó).
“Tùy
bỉ sở ưng, thí cấp trân bảo tài cốc, điền
trạch, nô tỳ, bộc sử” (theo lẽ đáng nên
mà ban thí trân bảo, tiền tài, gạo thóc, ruộng đất,
nhà cửa, nô tỳ, tôi tớ): Trong quốc độ của
chính họ, đối với các loài chúng sanh, bèn có sự
phân biệt. Giống như tại Trung Hoa xưa kia, [các
quan chức] có chín bậc, từ chức vụ Tể
Tướng cho đến tri huyện là thất phẩm,
cho đến nha dịch, đến thư biện[14],
cho đến thôn trưởng, hương trưởng, tổng
cộng thành chín phẩm. Tùy thuộc họ thích hợp làm
ǵ, bèn giao cho họ làm việc đó. Đối với bậc
thượng, bèn ban cho họ trân bảo, ruộng
nương, nhà cửa, tôi tớ. Nếu chẳng có đức
ǵ, đức chẳng trọng cho lắm, ban cấp rất
ít. Công đức ít cũng là tương ứng với họ.
Nếu năng lực của họ là ngay cả cái ăn,
cái mặc cũng chẳng kiếm được, quốc
vương liền từ bi, cứu tế, chẩn tuất
cho họ. C̣n có những kẻ công đức c̣n thấp
kém hơn nữa, chẳng tinh tấn, giải đăi,
lười nhác, quên mất chánh niệm, chẳng thể
làm nổi chuyện tốt, đối với người
khác chẳng có tâm từ bi. Thậm chí ban cho họ ân huệ
rất lớn, họ cũng chẳng biết báo ân. Hiện
thời, họ chẳng làm chuyện tốt, trong
tương lai, nhất định hứng chịu quả
báo. Đối với chuyện thọ khổ báo trong đời
sau, họ chẳng sợ hăi, cũng chẳng kinh hoảng,
làm một kẻ ác chẳng kiêng sợ chi hết.
“Một
cư gia nê, tích chư ác hạnh” (ch́m đắm trong bùn
lầy gia nghiệp, tích tập các ác hạnh): “Ch́m đắm
trong bùn lầy gia nghiệp” là nói đến sa-môn [chẳng
lo tu hành, chỉ lo toan kiếm lợi, hưởng thụ,
chẳng khác người tại gia], chẳng phải
là xuất gia. “Cư gia” là tại gia, tại gia giống như hố bùn, ch́m lỉm trong hố
bùn. Không chỉ là sa-môn, mà c̣n có những kẻ khác. Có thể
giải thích “cư gia” bằng nhiều cách, như là
kẻ ấy chẳng làm thiện nghiệp, chuyên làm ác nghiệp,
quốc gia sẽ có pháp luật trừng phạt kẻ
đó. Đó gọi là “thưởng phạt phân minh”.
Trên đây là nói công đức lớn, nhỏ, nhiều, ít,
có cống hiến cho quốc gia như thế nào. Cống
hiến lớn, sẽ ban thưởng trọng hậu; cống hiến nhỏ, sẽ ít hơn. Cho đến
kẻ chẳng hề cống hiến, chẳng thể duy
tŕ cuộc sống, [quốc vương] c̣n phải chẩn
tế, c̣n phải thương xót, giúp đỡ họ.
C̣n
những kẻ tạo ác th́ làm như thế nào? Kẻ tích
tập các ác hạnh, vua Sát-đế-lợi bèn trừng phạt
họ. C̣n phải “chủng chủng trích phạt” (các
thứ trừng phạt). Đấy là pháp luật, hoặc
là phê b́nh họ, nếu ác nghiệp nặng nề hơn, sẽ
trừng phạt, quở trách họ, hoặc tịch thâu
tài sản, tước đoạt các thứ trân bảo,
tài sản, hoặc tịch thâu sản nghiệp của họ.
Nếu vẫn chưa đủ, hoặc là dùng roi, gậy
đánh phạt họ, quất rất nhiều roi. Hoặc
là tống họ vào tù, hoặc là cắt chặt chi thể,
hoặc là chém đầu, tùy thuộc họ phạm tội
ác lớn hay nhỏ. Những điều ấy chỉ là tỷ
dụ. Chúng ta nói những điều này chủ yếu nhằm
hiển thị Phật Luân. V́ chúng sanh tạo nghiệp rất
nhiều, làm ác hạnh cũng rất nhiều. Khi mâu thuẫn
với pháp luật của quốc gia, h́nh phạt cũng rất
nhiều, có vô lượng h́nh phạt. Tuy tầng cấp
tưởng thưởng cũng rất nhiều, nhưng
tầng cấp trừng phạt cũng rất nhiều.
(Kinh)
Thiện nam tử! Sát-đế-lợi chủng quán đảnh
đại vương, thành tựu như thị đệ
tam vương luân. Do thử luân cố, linh tự quốc
độ tăng trưởng an lạc, năng phục nhất
thiết oán địch, ác hữu, thiện thủ hộ
thân, linh tăng thọ mạng. Thiện nam tử! Như
thị Như Lai thành tựu thiện xảo tri căn
cơ trí. Nhược chư đệ tử, viễn ly phước
huệ xảo phương tiện trí, cập dĩ bố
thí, điều phục tịch tĩnh, thất niệm, tâm loạn, lai chí ngă sở, quy y
ư ngă, nhi ngă thiện tri bỉ căn ư nhạo, tùy miên,
thắng giải, tùy kỳ sở ưng, vị thuyết
trị phạt Tỳ Nại Da pháp.
(經)善男子,剎帝利種灌頂大王,成就如是第三王輪。由此輪故,令自國土增長安樂,能伏一切怨敵惡友,善守護身,令增壽命。善男子,如是如來成就善巧知根機智,若諸弟子遠離福慧巧方便智及以佈施、調伏、寂靜,失念心亂,來至我所,歸依於我,而我善知彼根意樂、隨眠、勝解,隨其所應,為說治罰毗奈耶法。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Đại vương gịng Sát-đế-lợi
được quán đảnh thành tựu vương luân
thứ ba như thế. Do v́ luân ấy, khiến cho cơi
nước của chính ḿnh tăng trưởng an vui, có thể
chế phục hết thảy oán địch, bạn ác,
khéo thủ hộ thân, khiến cho thọ mạng tăng
trưởng. Này thiện nam tử! Như Lai thành tựu
trí biết căn cơ hay khéo như thế. Nếu các
đệ tử, xa ĺa trí phước huệ, phương
tiện hay khéo, và bố thí, điều phục tịch
tĩnh, thất niệm, loạn tâm, đến chỗ ta,
quy y ta, do ta khéo biết ư căn cơ, ư thích, tùy miên, và thắng
giải của họ, sẽ theo lẽ đáng nên mà nói cho
họ các pháp trị phạt thuộc Tỳ Nại Da).
“Thiện
nam tử! Sát-đế-lợi quán đảnh đại
vương, thành tựu như thị đệ tam
vương luân” (Này thiện nam tử!
Đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi
đă được quán đảnh thành tựu
vương luân thứ ba như thế): Đấy là chuyện
quốc vương của một nước phải nên
làm. Dùng chuyện này làm tỷ dụ, v́ phải làm như thế
th́ mới có thể khiến cho quốc gia của ông ta yên
vui, mới có thể hàng phục hết thảy oán địch
và bạn ác, khiến cho quốc gia ấy b́nh an, mọi người
đều có thể sống tốt đẹp.
“Thiện
nam tử! Như thị Như Lai thành tựu thiện xảo
tri căn cơ trí” (Này thiện nam tử! Như Lai thành tựu trí biết căn cơ hay khéo như thế): Biết
căn cơ của hết thảy chúng sanh. Loại trí huệ này chẳng phải là trí thiện xảo
của vua quán đảnh Sát-đế-lợi, mà là trí huệ
biết căn cơ của chúng sanh. “Nhược chư
đệ tử viễn ly phước huệ xảo
phương tiện trí, cập dĩ bố thí, điều
phục tịch tĩnh, thất niệm, tâm loạn, lai chí
ngă sở, quy y ư ngă” (nếu các đệ tử xa
ĺa trí phương tiện thiện xảo phước huệ,
cùng với bố thí, điều phục tịch tĩnh,
thất niệm, loạn tâm, đến chỗ của ta,
quy y ta): Vị đệ tử Phật ấy thoạt
đầu khi mới tin Phật, đến chỗ đức
Phật, cầu Phật độ thoát, những người
ấy có trí phước huệ phương tiện thiện
xảo, cho đến có thể bố thí, điều phục
phiền năo, đều có thể đạt đến tịch
tĩnh, đắc Định, cho đến đạt
được chánh niệm. Nếu đă thất niệm,
sẽ chẳng thể nhập Định, tâm rối loạn,
do thất niệm nên loạn tâm. “Lai chí ngă sở”
(đến chỗ ta) là hướng về đức Phật
cầu pháp, quy y đức Phật.
“Nhi
ngă thiện tri bỉ căn ư nhạo” [nghĩa là] ta
(đức Phật) biết người ấy thuộc
căn cơ ǵ, biết người ấy thích ǵ, biết
căn bản phiền năo của người ấy là ǵ,
biết người ấy trọn đủ rất nhiều
trí huệ, trọn đủ rất nhiều thiện
căn. Đấy là thắng giải (hiểu biết thù
thắng). Thắng giải sâu nhất khi đạt đến
địa vị Phật, trọn đủ Phật
trí. “Các chúng sanh đến chỗ Phật” tượng
trưng cho hết thảy chúng sanh, v́ trong quá khứ, họ
đă có trí phương tiện phước huệ thiện
xảo, bố thí, điều phục tịch tĩnh, nay
thất niệm, tâm loạn, đức Phật liền
quan sát, cho họ quy y Phật. V́ Ngài liễu giải căn
cơ của họ, hiểu biết tùy miên, căn bản
phiền năo của họ, hoặc là trí huệ của họ
to hay nhỏ, sức thắng giải như thế nào, Ngài
sẽ thuyết pháp thích ứng căn cơ.
“Lai
chí ngă sở” (đến chỗ ta), họ bèn theo đức
Phật xuất gia. [Đức Phật] v́ họ giảng
pháp Tỳ Nại Da. Tỳ Nại Da (Vinaya) là giới luật.
Phàm là quy y Phật, tối thiểu là thọ Tam Quy. Tam Quy,
ngũ giới, hoặc là tám giới, mười giới,
cho đến hai trăm năm mươi giới [của
tỳ-kheo], ba trăm bốn mươi tám giới [của
tỳ-kheo-ni], bốn giới trọng và hai mươi tám
giới khinh, hoặc sáu giới trọng và hai mươi
tám giới khinh [của Bồ Tát giới trong Ưu Bà Tắc
Giới Kinh]. Tỳ Nại Da có nghĩa là “giới pháp”.
(Kinh)
Nhược chư chúng sanh, kỳ tánh hận lệ, ư
chư học xứ, bất năng
phụng tŕ, vi linh cửu trụ ngă chi thánh giáo, đa hữu
sở tác, hoặc vị chế lập ức niệm trị
phạt, hoặc dĩ ngôn giáo khủng bố ha trách, hoặc
tạm khu tẫn, hoặc linh chiết phục, quy thành lễ
bái, hoặc bất dữ ngữ, bất cộng đồng
lợi, hoặc như thảo bố, hoặc phục diệt
tẫn.
(經)若諸眾生,其性佷戾,於諸學處不能奉持,為令久住我之聖教,多有所作,或為制立憶念治罰,或以言教恐怖呵責,或暫驅擯,或令折伏歸誠禮拜,或不與語、不共同利,或如草布,或覆滅擯。
(Kinh:
Nếu các chúng sanh tánh rất hung dữ, chẳng thể thọ
tŕ các học xứ, v́ khiến cho thánh giáo của ta tồn
tại lâu dài [trong cơi đời], được nhiều
người hành tŕ, mà hoặc là chế lập các cách nghĩ
nhớ, quở phạt, hoặc dùng ngôn giáo để
đe dọa, quở trách, hoặc tạm thời xua đuổi
để chiết phục họ quy hướng chân thành,
lễ bái, hoặc chẳng nói chuyện với họ, chẳng
cùng chia sẻ lợi lộc với họ, hoặc [kẻ
đó trót đă phạm tội] bèn cho sám hối, hoặc lại
diệt tẫn).
C̣n
có Tác Tŕ, cũng là luật pháp. Nếu các chúng sanh ấy căn
tánh ương bướng, dữ dằn, hung ác, thô bạo,
chẳng khéo tùng thuận, đối với Tam Quy, Ngũ
Giới, cho đến tám giới mà họ đă thọ nhận
(“học xứ” là nói đến giới, cũng có thể
hiểu là luật học mà họ đă
được học), chẳng thể thọ tŕ, chẳng
tuân phụng. Các giới luật ấy
bảo vệ thánh giáo tồn tại lâu dài. Nếu chẳng
có giới luật, Phật pháp sẽ chẳng thể tồn
tại lâu dài. V́ sao đức Phật cần phải chế
giới? Khiến cho chánh pháp “cửu trụ” (久住), tức là khiến
cho thánh giáo có thể tồn tại lâu dài trên thế gian,
khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể
đạt được lợi ích trong tương lai. Phật
pháp tồn tại lâu dài trong thế gian, người
được lợi ích cũng rất nhiều. V́ thế,
yêu cầu tất cả đều đến chỗ ta quy
y, đệ tử của ta đều phải nên phụng
tŕ giới luật. Mục đích phụng tŕ giới luật
là khiến cho thánh giáo cửu trụ, khiến cho Phật
pháp cửu trụ.
Giới
luật nhằm ngăn ngừa, bảo vệ, giống
như tường thành để bảo vệ dân chúng. Giới
luật nhằm bảo vệ tâm địa của quư vị,
thân chẳng lay động, tâm chẳng loạn, bảo vệ
thân tâm của quư vị. Giới luật được chế
định bao gồm các loại pháp: Hoặc quư vị trót
phạm sai lầm, hễ nhớ lại
bèn sám hối. Hoặc là dùng ngôn ngữ đáng sợ, nói
“ngươi đă phạm giới, trong tương lai phải
thọ báo, đọa địa ngục”. Đó là dùng ngôn
ngữ đáng sợ để quở trách. Nếu nghiêm trọng
hơn, phạm giới căn bản, sẽ liền “khu
tẫn” (驅擯, trục xuất)
người ấy, đuổi ra ngoài Phật pháp. Hoặc
buộc kẻ ấy sám hối, tùy thuộc kẻ ấy
phạm loại nào. Hoặc là bắt kẻ ấy quay về
lễ bái, hoặc mọi người chẳng nói chuyện
với kẻ ấy. Không nói chuyện tức là Tăng đoàn
không quan tâm đến kẻ ấy nữa. Thậm chí chẳng
“cộng lợi” (共利), [tức là] nếu
thí chủ tại gia cúng dường các
thứ tài vật v.v… sẽ chẳng chia sẻ cho kẻ đó.
Đó gọi là “bất cộng lợi”.
“Hoặc như thảo bố”:
“Thảo bố” (草布, cỏ
bao phủ) tức là kẻ đó phạm tội quá nhiều,
lớn nhỏ đều có, như cỏ che đất. Kẻ đó phạm tội giống như bùn lầy,
lầy lội đến nỗi chẳng thể đi
qua được, phải phủ cỏ lên mới đi
qua được. Đấy là phương thức sám hối
tội lỗi. Tội lỗi kẻ ấy đă phạm cũng
có tội nghiêm trọng, mà cũng có tội không
nghiêm trọng. Phạm rất nhiều, nếu kể ra từng
điều, khi mọi người cho kẻ đó sám hối
sẽ chẳng thuận tiện cho lắm. Đấy là một
kiểu tổng sám. Giống như khi chúng ta bái sám, chuyện
trong rất nhiều đời ta cũng chẳng biết.
Kiếp này chúng ta chẳng phạm Ngũ Nghịch, Thập
Ác, như vậy th́ khi bái sám, chúng ta cứ hồi hướng
như vậy. Vậy th́ có thể là trong quá khứ, tức
là trong bao nhiêu đời khác trước kia, đă từng
phạm tội Ngũ Nghịch, Thập Ác, cho nên sám hối
như vậy. Đấy là những chuyện được
tổng sám, v́ chúng ta chẳng biết quá khứ, chẳng
có trí huệ. “Thảo bố” là như cỏ che phủ
mặt đất, dùng cỏ phủ mặt đất, tức là pháp sám hối
tương đương với chuyện dùng cỏ phủ
đất, trải lên mặt đất để quư vị
có thể đi qua chỗ bùn lầy. Nếu đă phạm
rất nhiều lầm lỗi, quư vị bèn sám hối.
Đấy là ư nghĩa của tổng sám hối.
Hoặc
là trong thật tại, đă hết cách, chẳng thể kê
toa cứu chữa được, Tăng đoàn chẳng
thể giữ quư vị lại, bèn “diệt tẫn” (滅擯), tức là
đuổi quư vị ra ngoài. Tại các chùa miếu thuộc
Đại Lục, hễ phạm giới căn bản, sẽ
bị khai trừ, trục xuất ra khỏi chùa miếu. Mỗi
khu vực khác nhau, tại Đại Lục là Mặc Tẫn
(默擯). Phàm là phá giới
kiểu này, kẻ ấy chẳng dám trở về chùa miếu,
chính ḿnh bỏ đi; điều này được gọi
là pháp Mặc Tẫn.
(Kinh)
Ngă dĩ diệu trí, tri chư hữu t́nh Bổ Đặc
Già La căn cơ, ư nhạo, tùy miên, thắng giải,
như ưng trích phạt, vị linh giai phá quảng đại
tích tụ vô nghĩa hắc ám, khô kiệt phiền năo
chư bộc lưu cố, linh đắc sanh thiên, Niết
Bàn lạc cố, vị hành ác đạo Bổ Đặc
Già La đắc điều phục cố, tùy kỳ sở
ưng, thuyết trị phạt pháp, quán sát hắc thuyết,
đại thuyết sai khác, tùy kỳ sở ưng, thọ
dữ trị phạt hành ác đạo pháp.
(經)我以妙智知諸有情、補特伽羅根機、意樂、隨眠、勝解,如應謫罰,為令皆破廣大積聚無義黑闇,枯竭煩惱諸瀑流故,令得生天涅槃樂故,為行惡道補特伽羅得調伏故,隨其所應,說治罰法;觀察黑說大說差別,隨其所應,授與治罰行惡道法。
(Kinh:
Ta do diệu trí, biết căn cơ, ư thích, tùy miên, và thắng
giải của các hữu t́nh Bổ Đặc Già La mà trừng
phạt đúng lẽ, v́ khiến cho họ đều phá
trừ hắc ám vô nghĩa tích tụ rộng lớn, khô cạn
các gịng thác phiền năo, khiến cho họ được
hưởng niềm vui sanh thiên hay Niết Bàn, v́ điều
phục Bổ Đặc Già La hành theo ác đạo, theo
đúng lẽ mà nói pháp đối trị, trừng phạt,
quan sát hắc thuyết và đại thuyết sai khác, theo
đúng lẽ mà truyền trao các pháp đối trị, trừng
phạt kẻ hành theo ác đạo).
“Ngă
dĩ diệu trí, tri chư hữu t́nh Bổ Đặc Già
La căn cơ, ư nhạo, tùy miên, thắng giải, như
ưng trích phạt” (Ta do diệu trí, biết căn
cơ, ư thích, tùy miên, và thắng giải của các hữu
t́nh Bổ Đặc Già La mà trừng phạt đúng lẽ):
Bổ Đặc Già La (Pudgala) nghĩa là “người”, tức
hữu t́nh chúng sanh. Đời đời kiếp kiếp
lưu chuyển, cái chủ yếu bị lưu chuyển
chính là ư nghĩa bao hàm trong từ ngữ Bổ Đặc
Già La. Mục đích của việc “tùy theo tội ác quư
vị đă phạm mà đối trị, trừng phạt”
chính là để phá trừ hắc ám cho quư vị. Trong quá
khứ, quư vị đă tích tụ những thứ vô
nghĩa, chẳng có ư nghĩa thắng giải, chẳng có
ư nghĩa tịnh hạnh, những thứ ấy đều
hắc ám, muốn khô cạn các gịng thác phiền năo ấy,
tiêu trừ Ngă Chấp, Ngă Kiến. Đấy là hàm nghĩa của giới luật,
là mục đích của việc trừng phạt, khiến
cho [người phạm tội] sau khi đă sám hối, sẽ
được hưởng sự vui sướng sanh thiên,
chứng đắc Niết Bàn. Đấy là nói rộng,
không nhất định chỉ nói đến người
xuất gia. [Mục đích] là điều phục hạng
chúng sanh làm ác.
Rất
nhiều người trông thấy chùa miếu, hoặc là
nghe thấy Phật pháp, họ trọn chẳng gia nhập
đoàn thể Phật giáo, chẳng tin Phật, cũng chẳng
phải là ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, tỳ-kheo, hay tỳ-kheo-ni. C̣n loại Bổ Đặc Già La này có thể nghe Phật
pháp, hoặc trông thấy chùa miếu, bèn gieo thiện
căn cho họ, nhưng họ thấy giới luật của
chúng ta, cảm thấy chẳng thể lănh nhận
được, cho nên chẳng dám gia nhập. Ta bèn nói với
họ về phương diện tốt đẹp, để
phương diện trị phạt sang một bên, [cho họ
biết trong Phật pháp] c̣n có phương diện vun bồi
phước, cũng chính là ba thứ luân đă nói trong phần
trên (tu Định nghiệp, tập tụng, và doanh phước). Quan sát tội ác của họ lớn
hay nhỏ, tội ác sai khác, để nói với họ về
phương pháp đối trị, trừng phạt. Chẳng
hạn như nói “sẽ đọa địa ngục”,
chính là nói cho họ nghe phương pháp đối trị,
trừng phạt. Nói họ sẽ thọ báo, sẽ bị đủ
thứ bệnh. Đối với các quả báo ác ấy,
trong tương lai, quư vị phải hứng chịu quả
báo ǵ, đấy đều là hắc pháp. Các điều ấy
được gọi là “hắc thuyết, đại thuyết”,
nhưng phải xét xem những chúng sanh căn tánh kém hèn ấy
tới mức độ nào!
(Kinh)
Ngă dĩ diệu trí, tri chư hữu t́nh, cụ túc thành tựu
tăng thượng tín kính, thuần tịnh ư nhạo, tùy
kỳ sở ưng, vị thuyết chủng chủng thiện
phẩm sai biệt, linh kỳ tu học, năi chí linh bỉ nhất
thiết thiện căn, giai đắc viên măn, nhập vô
úy thành. Thiện nam tử! Ngă thành như thị đệ
tam Phật Luân, do thử luân cố, tri chư hữu t́nh Bổ
Đặc Già La, chủng chủng căn cơ, ư nhạo,
tùy miên, cập dữ thắng giải, chư nghiệp pháp
thọ, tùy kỳ sở ưng, lợi ích an lạc, đắc
an ổn trụ, đắc vô kinh khủng, đắc vô sở
úy, tự xưng ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển
ư Phật Luân, tồi chư thiên ma, ngoại đạo
tà luận, xử đại chúng trung, chánh sư tử hống.
(經)我以妙智知諸有情,具足成就,增上信敬,純淨意樂,隨其所應,為說種種善品差別,令其修學,乃至令彼一切善根,皆得圓滿入無畏城。善男子,我成如是第三佛輪。由此輪故,知諸有情補特伽羅,種種根機、意樂、隨眠及與勝解、諸業法受,隨其所應,利益安樂,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,摧諸天魔外道邪論,處大眾中正師子吼。
(Kinh:
Ta do diệu trí biết các hữu t́nh thành tựu đầy
đủ sự tín kính tăng thượng, ư thích thuần
tịnh, theo đúng lẽ đáng nên mà nói các thứ thiện
phẩm sai khác để họ tu học, cho đến khiến
cho hết thảy các thiện căn đều được
viên măn, vào trong ṭa thành vô úy. Này thiện nam tử! Ta thành tựu
Phật Luân thứ ba như thế đó. Do luân này, biết
các thứ căn cơ, ư thích, cùng với thắng giải,
các nghiệp pháp nhận lănh của các hữu t́nh Bổ
Đặc Già La, theo đúng lẽ đáng nên mà lợi ích,
an lạc, trụ trong an ổn, được chẳng kinh hoảng, được chẳng sợ
hăi, tự xưng ta ở nơi địa vị đại
tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, dẹp tan tà luận của
các thiên ma và ngoại đạo, thực hiện
sư tử hống giữa đại chúng).
Đây
là khiến cho kẻ ấy có thể tăng thượng
tín tâm. Đây là một loại trí huệ vi diệu của
đức Phật, khiến cho các hữu t́nh tăng thêm
cái tâm kính tín đối với Tam Bảo, khiến cho tâm ư
của họ thanh tịnh, tâm chẳng tán loạn, nói cho họ
biết các thứ thiện phẩm sai khác. Hành Thập Thiện,
đừng sanh ác nghiệp, chớ nên nói dối, chớ
nên nói bịa đặt, đừng nói những lời lẽ
thêu dệt, đừng trộm cắp của người
khác, chớ nên giết người. Hai điều ấy
nhằm so sánh: Một đằng là thiện pháp luân, đằng
kia là ác pháp luân. Thiện pháp luân có thể tăng thượng
tín tâm của họ, chẳng nhất định [những
người ấy phải thật sự] đến chỗ
Phật. Trong phần trước, kinh văn nói “lai chí
ngă sở” (đến chỗ của ta), nhưng trong thời
đại hiện tại, hễ đến chỗ Tam Bảo
th́ cũng kể như là “đến chỗ của Phật”.
Không nhất định phải đến đó để
cầu xuất gia, mà là cầu thọ Tam Quy. Có những
người thân cận Phật pháp, hoặc là đến
Phật đường, chúng ta nói với họ về hai
đường thiện và ác. Chuyện này
cũng cần phải có nhân duyên. Có người ngay cả
loại nhân duyên này cũng chẳng được thấy.
Loại chúng sanh ấy chẳng có cách nào tăng trưởng
thiện căn, do chẳng có loại nhân duyên này.
Hễ
có loại nhân duyên này, sẽ dùng Phật Luân để chỉ
dạy họ, khiến cho thiện căn của họ
đạt đến viên măn. Sau khi đă viên măn, sẽ khiến
cho họ chẳng c̣n sợ hăi. Hết thảy chúng sanh,
sanh nhằm thời đại này, sanh nhằm thời
đại Mạt Pháp, đều cảm thấy “không có
nơi để trở về, không chốn nương
thân”, kinh hoàng, sợ sệt. Chúng ta thấy rất nhiều
người đang trong đời loạn, giữa cảnh
chiến tranh loạn lạc, chúng ta khoan nói đến
đao binh, ngay như trong lúc bị thiên tai như nạn
châu chấu hoặc lũ lụt, họ chẳng có cái
ăn, rất khó duy tŕ mạng sống, thậm chí c̣n bị
mất mạng! Khi ấy, quư vị nói với họ mười thiện
pháp: “V́ sao quư vị cảm
lấy cái quả ấy? Đó là v́ trong quá khứ, quư vị
chẳng gieo nhân lành. Hăy đừng gieo nhân nữa, tức
là hiện thời, quư vị đừng làm ác nữa. Muốn
chuyển biến cái quả sẽ rất khó khăn. Quư vị có thể tạo
cái nhân cho vị lai, hăy gieo chủng tử mới, khiến
cho các thiện căn khác viên măn”. Lúc đức Phật
chẳng tại thế, đệ tử Phật đại
diện đức Phật.
Phàm
là tứ chúng đệ tử, đều phải nên làm
như vậy, khiến cho thiện căn của hết thảy
chúng sanh đều được viên măn. Những ǵ đức
Phật đă nói là trong khi Ngài c̣n đang tại thế.
Đức Phật thành tựu các thiện nam tử: “Ta
thành tựu Phật Luân thứ ba như thế”. Nhưng
đức Phật chẳng c̣n tại thế, hiện thời,
vua Sát-đế-lợi rất ít, ngay của vua Sát-đế-lợi
cũng chẳng có. Do vậy, minh quân xuất thế, quốc
gia sẽ rất hưng thịnh, mưa gió đúng thời,
chẳng có tai họa. Nếu quốc vương ấy rất
ác, h́nh phạt rất nặng, quốc vương mong muốn
tạo ác, các quốc sư phải khuyên nhủ hắn:
“Hăy nên giảm h́nh phạt, đại xá. Giảm bớt
các tội, [những kẻ phạm] các tội nhẹ
đều thả ra”. Đấy đều là ư nghĩa sám
hối. Khi bậc thánh quân tại thế, quốc gia sẽ
rất b́nh an, được vài chục năm b́nh an.
Như thời Măn Thanh tại Trung Hoa, triều Khang Hy là thịnh
thế. Những vị minh quân gần như chiếm nửa
thời gian trị v́ của triều đại Măn Thanh.
Đời Càn Long, trong suốt sáu mươi năm, chẳng
có chiến tranh, nhân dân sống rất b́nh an, chính nhà vua
cũng rất hạnh phúc. Vua suốt ngày làm thơ, làm câu
đối, tức là vui chơi. Quốc gia chẳng có tai hại
ǵ, thiên tai lẫn nhân họa đều rất ít. Thời
điểm đó chính là lúc thánh quân tại thế. Đời
nhà Châu cũng đều là như vậy. V́ cứu vớt
nhân dân mà [Châu Vũ Vương] phạt Trụ, tức là
trừng phạt kẻ cai trị tàn bạo. Hiện thời,
chẳng có vua Sát-đế-lợi, Phật cũng chẳng
có, Phật cũng chẳng tại thế, nhưng pháp của
tiên đế c̣n đó, nhân, nghĩa, lễ, trí, hiếu,
đễ, trung, tín, cựu pháp trị quốc của tiên
vương lại dọn ra. Phật pháp thường là
như thế, Phật pháp của chư Phật đều
là như thế.
Do
luân này sẽ khiến cho căn cơ, ư nhạo, tùy miên, phiền
năo, và thắng giải của các loại Bổ Đặc
Già La, cũng như các nghiệp pháp mà họ lănh nhận, “tùy
kỳ sở ưng, lợi ích an lạc” (theo đúng lẽ
đáng nên mà lợi ích, an lạc), tức là hết thảy
nhân dân, hết thảy chúng sanh, đều được
lợi lạc. “An ổn” là chẳng kinh sợ. Chẳng
kinh sợ th́ họ sẽ không sợ hăi. Đó chính là đức
Phật tự xưng thuyết: “Ngă xử đại
tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, tồi chư
thiên ma, ngoại đạo tà luận, xử đại
chúng trung, chánh sư tử hống” (ta ở nơi địa
vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, dẹp
tan tà loạn của các thiên ma và ngoại đạo, ở
giữa đại chúng thực hiện sư tử hống):
Chẳng sợ hăi, phát khởi sư tử hống, toàn nói
ra chánh pháp. “Sư tử hống” (師子吼, sư tử rống)
là từ ngữ h́nh dung. Sư tử tôn quư nhất trong
trăm thú. Sư tử rống lên, trăm loài thú nghe thấy
đều nứt năo! Đó là cách nói h́nh dung, chúng ta chớ
nên quá mức chấp trước.
Khi
tôi ở Bắc Kinh, có một vị đạo hữu
đă hỏi tôi: “Kinh Phật nói sư tử hống dường
như rất ghê gớm, nhưng sư phụ ơi! Sư
tử trong sở thú rống lên vẫn chẳng được
như vậy!” Trả lời người ấy như thế
nào đây? Có những câu hỏi nhức đầu lắm!
Tôi nói: “Sư tử có rống hay không? Tôi đă đến
sở thú rất nhiều lần, vẫn chưa nghe thấy
nó rống”. Ông ta nói đă từng nghe, cũng chẳng ra
sao cả! Tôi nói: “Bây giờ nó bị nhốt trong lồng
th́ làm sao được? Ông thả nó ra thử coi. Phật
giáo chúng ta dùng sư tử hống là cách nói h́nh dung, biểu
thị đức Phật ở giữa đại chúng
thuyết pháp có oai lực rất cường
thịnh. Ông chẳng thể so sánh [thô thiển] như vậy.
Ông so sánh như vậy là không đúng, đây là đức
Phật tự nói”. Nếu chúng ta tự nói, sẽ chẳng
dám đem súc sanh so với Phật. Sư tử là súc sanh mà!
Như
các đại tướng hoặc nguyên soái trong quá khứ
được gọi là “hổ tướng”, chúng ta
luôn dùng hổ để sánh ví. Nếu quư vị nói [họ
dũng mănh] như hổ th́ được, chứ nếu
nói họ là súc sanh, chỉ sợ đă bị họ gỡ
cái sọ mất rồi! Quốc vương đều là
rồng, Trung Hoa thường vẽ rồng, rồng biểu
thị sự tôn quư nhất. Thế nhưng rồng là súc
sanh. Nếu quư vị trông thấy quốc vương, bèn
nói “bệ hạ là súc sanh”, đầu của quư vị lập
tức “dọn nhà” mất! Tôi nói: “Ông nói như vậy không
được! Đó là cách nói tỷ dụ, là từ ngữ
h́nh dung, nhằm h́nh dung oai lực của Phật, chớ
nên đem chuyện này ra so đo. Hễ so đo sẽ trở thành khập khiễng!”
Nếu quư vị nói đại nguyên soái oai vũ như hổ,
ông ta sẽ cao hứng, cười không khép miệng! Do vậy,
có khi chỗ nào cũng đều chấp trước, có rất
nhiều chỗ biểu lộ chấp trước, tức
là đă chấp chặt vào đó. Chẳng nói theo pháp
nghĩa chính là mong t́m khuyết điểm trong từ ngữ.
Doanh
phước (chăm lo tu phước), quư vị làm chuyện
tốt, trông thấy tăng nhân, đừng hủy báng, hăy
coi họ như thân giáo sư, hăy coi họ như đại
đức để cung kính họ, quư vị sẽ tích
phước. Trong tâm quư vị cung kính là được rồi.
C̣n nữa, khi đọc tụng, trước hết, hăy
dâng cúng một đóa hoa, một nén hương. Ở
đây, tôi c̣n muốn bổ sung mấy câu; nếu không, sẽ
có khuyết điểm. Có một vị đạo hữu
đă hỏi tôi: “Con làm công nhân, mấy người cùng ở
chung một chỗ. Con thật sự
muốn niệm kinh, không thắp hương, không cắm
hoa, trong tâm dường như khó chịu lắm. Cái nhà con đang ở chẳng thể
thắp hương, chẳng thể cúng Phật, chỉ có
một cái giường, con bày chỗ nào đây?” Tôi nói:
“Được thôi! Ông trải khăn phủ lên cái giường
đó, vải của cái gối đầu phải sạch
sẽ một chút, đặt kinh bổn lên đó rồi
ông quán tưởng”. Nếu như niệm kinh
Địa Tạng, ông quán tưởng Địa Tạng
Bồ Tát đến đó, ngồi ngay trên đó. Lại
quán tưởng dọn đồ từ công ty bách hóa hoặc
siêu thị”. Ông ta nói: “Làm sao con dám?” Tôi nói: “Chẳng phải
vậy! Ông dùng cái tâm để dọn, chứ ông không trả
tiền mà đ̣i dọn thật th́ làm sao được? Ông cái ǵ cũng đều chẳng có, dùng tâm để
cúng là được rồi. Ông chắp tay, hoa
cũng cúng, hương cũng cúng, thứ ǵ cũng đều
có, sẽ có cảm giác đúng pháp. Ông mở kinh bổn
ra để niệm, như vậy th́ chẳng sao hết.
Người khác cho là ông đang xem sách,
không đọc ra tiếng th́ vẫn được”.
Lại
c̣n có thể dùng cách Kim Cang Tŕ để niệm kinh. Kim Cang
Tŕ là ǵ? Chính ḿnh niệm, chính ḿnh nghe. Quư vị chỉ cần
động đầu lưỡi, tai nghe được,
chính ḿnh nghe thấy, chứ người khác không nghe. Kiểu
ấy gọi là Kim Cang Tŕ, tức là cách tụng niệm thầm.
Đấy gọi là “chẳng chấp trước”, đừng
v́ h́nh thức mà chậm trễ chánh hạnh của quư vị.
Đó gọi là phương tiện thiện xảo, là
phương tiện chánh hạnh. Niệm như thế
xong là được, chẳng thể lạy th́ lạy
trong tâm là được! Nhà cửa chật hẹp như
vậy, giường tầng th́ quư vị lạy sao được?
Tôi ở trong tù, ngay cả dập đầu lễ cũng
không được, bèn lạy trong tâm, cai tù không biết.
Khi quư vị [lạy thầm trong tâm], chẳng chắp tay
cũng không sao, chẳng cần để người khác
nh́n thấy h́nh thức bề ngoài. Trong tâm quư vị thanh tịnh,
nội tâm làm công đức là được rồi.
Đó gọi là trí phương tiện thiện xảo.
Quư
vị chớ nên chấp trước, chuyện muốn làm
hễ đạt tới mục đích là được rồi.
Nếu kinh ǵ cũng chẳng thể niệm, niệm Phật
có thể bao gồm trọn hết. Niệm thánh hiệu có
thể bao gồm trọn hết. Quư vị ngồi đó,
hương, hoa đều đă cúng dường xong. Đại
nguyện thứ ba của Phổ Hiền Bồ Tát là “quảng
tu cúng dường”, quư vị đă cúng dường trọn
khắp, dọn hết những thứ từ các chỗ quư vị
đă từng đến trên thế giới, không sao hết.
Quư vị cúng ở đó, cúng xong bèn niệm. Nếu chẳng
thể bày kinh bổn ra, có thể nhớ rơ mười
đại nguyện vương th́ từ “nhất giả,
lễ kính chư Phật” cho đến “thập giả,
phổ giai hồi hướng”. Nếu như vậy mà
cũng chẳng thể làm được th́ niệm A Di Đà Phật
cũng được! Chỉ cần quư vị chịu phát
Bồ Đề tâm, quư vị nếu muốn ǵ, đều
có thể làm được. Quư vị chẳng phát tâm, cứ
viện cớ thoái thác! Nay Phật đường của
chúng ta rất tốt, có người giảng kinh, thuyết
pháp, quư vị cũng chẳng thèm đến nghe. Nhân duyên
do chính ḿnh sáng tạo, phước đức do chính ḿnh tu.
Tội nghiệp do chính ḿnh làm, thiện căn do chính ḿnh
gieo.
Mọi
người hăy nên học tập doanh phước như thế,
học tập tŕ tụng như thế, học tập tu
Định như thế. Nếu muốn đợi cho bốn
duyên đều trọn đủ, sẽ phải chờ rất
lâu! Cứ muốn chờ thứ ǵ cũng đều
được chuẩn bị tốt đẹp, muốn
chờ gió Đông thổi, vậy th́ gió Đông sẽ
vĩnh viễn chẳng thổi đến, mà cũng chẳng
có Gia Cát Lượng tính toán. Quư vị tự ḿnh sáng tạo
Gia Cát Lượng là được rồi, tự ḿnh làm
như vậy là được! Chờ ư? Quư vị
đừng nên chờ. Sanh mạng vô thường, chờ
cái nỗi ǵ? Thật sự là chẳng có cách nào, niệm
thánh hiệu cũng được, công đức b́nh
đẳng, trong tâm quư vị nhất định phải
b́nh đẳng. Trong Phật đường rất trang
nghiêm, cứ cho là như vậy th́ công đức mới lớn.
Thật ra, ở nhà mà [chí tâm tu tập] như vậy th́
cũng b́nh đẳng y hệt. Bất b́nh
đẳng là do cái tâm của quư vị. Nếu quư vị dấy
tâm phân biệt, đương nhiên là bất b́nh đẳng,
sẽ khác hẳn. Tâm địa quư vị b́nh đẳng,
có thể tôi luyện phiền năo là được rồi.
Lúc nào cũng đều chẳng sanh phiền năo, người
khác chửi bới, chọc tức quư vị cách nào đi nữa,
quư vị vẫn chẳng nổi cáu, chẳng bốc hỏa,
họ sẽ chẳng có cách nào hết. Khi mọi người
tập tụng, đọc tụng, những yêu cầu tôi
đă nói trên đây rất nghiêm ngặt, quư vị nghe tôi
nói như vậy, bèn kêu ca: “Con không đủ điều kiện,
con đọc không được!” Như vậy là tôi
đă tạo tội rồi, cho nên sau đó, phải giải
thích đôi chút. Chỉ cần quư vị làm được
là tốt rồi. Làm nhiều không được, làm ít
cũng không thể, vậy th́ niệm một câu Phật hiệu.
Mỗi ngày niệm mười tiếng cũng đủ rồi,
chỉ xem quư vị niệm mười tiếng ấy
như thế nào!
Đại Thừa
Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần 5 hết
[1] Ḅ ở đây là một loại ḅ
đặc biệt ở Tây Tạng mà họ gọi là Yak (nếu nh́n vào văn tự Tây Tạng,
phải ghi là gYag, nhưng khi phát âm, họ bỏ
hẳn âm g, chỉ đọc thành Yak), có tên khoa học là
Bos Grunniens), người Hoa gọi nó là “mao ngưu” (牦牛), thân h́nh to
hơn ḅ thường, lông dài và rất rậm, chỉ sống
ở cao nguyên Tây Tạng, cao nguyên quanh rặng
Hy Mă Lạp Sơn, và rải rác một số ít tại
Bắc Miến Điện, Tứ Xuyên, và Vân Nam. Loại ḅ
này cao từ 1,6 mét đến 1,8
mét, sừng cong, hơi khoằm về phía trước. Lông
chúng mọc rất dày ở trước ngực, phủ
dài, che kín hông, ngực và nửa chân để chống lạnh.
Đuôi của chúng giống như đuôi ngựa. Lông ḅ có
thể cuộn và xe sợi để dệt vải, thắt
thành các loại dây thừng, đan thảm. Da của chúng
dùng để bọc khung gỗ làm thuyền, làm túi xách,
giày. Chúng là phương tiện chủ yếu để
chuyên chở, và cung cấp sữa và thịt cho con người.
Sữa của chúng thường chế thành bơ để
thắp đèn, và làm phó mát. Đối với mọi
người dân, sữa ḅ, bơ và phó mát làm từ sữa Yak cùng với
trà trộn vào lúa mạch rang, vo thành viên (gọi là Tsampa) là
thức ăn chủ yếu hằng ngày. Phân ḅ cũng
được sử dụng làm chất đốt.
[2] Môn Đầu
Câu (門頭溝) là một quận trực thuộc thành phố Bắc
Kinh, 90% diện tích là núi non, đồi g̣. Việc khai thác
than đá đă bắt đầu từ cuối thời Minh.
[3] Trung Nam Hải là tên gọi khu vực
ở phía Tây Tử Cấm Thành Bắc Kinh, gần với ba cái hồ lớn
có tên gọi là Bắc Hải, Trung Hải, và Nam Hải. Từ
đời Kim, khu này cảnh sắc rất tươi
đẹp, ba cái hồ ấy được gọi chung
là Thái Dịch Tŕ, và được xếp vào một trong
Yên Kinh Bát Cảnh (tám cảnh đẹp tại Bắc
Kinh). Đời Minh, Thanh, khu vực này được gọi
là Tây Uyển. Nơi này có nhiều cung điện cũ của
các triều đại. Sau khi Cộng Ḥa
Nhân Dân Trung Quốc thành lập, các cơ quan trọng yếu như Quốc
Vụ Viện, Trung Ương Thư Kư Xứ (văn pḥng tổng bí thư), và các
cơ sở đầu năo khác của đảng và nhà
nước cũng đặt tại đây. Các viên chức cao cấp như Mao Trạch Đông, Châu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ,
Đặng Tiểu B́nh, Châu Đức, Giang Thanh, Bành Đức
Hoài, Dương Thượng Côn, Hồ Diệu Bang, Giang Trạch
Dân, Hồ Cẩm Đào, Tập Cận B́nh… đều có
biệt thự ở khu vực này, xa hoa tột đỉnh.
[4] Ngũ
Cái (Pañca-nivāraṇani)
c̣n gọi là Ngũ Chướng bao gồm Tham Dục (Abhidhyā), Sân Khuể (Vyāpāda), Thùy Miên (Styāna-middha, ham ngủ,
thần chí hôn ám), Điệu Hối (Auddhatya- Kaukṛtya, tâm t́nh phập phều
bất định, đă làm thiện sự lại hối
hận) và Hoài Nghi (Vicikitsā).
[5] Không thấy lăo pháp sư nhắc
đến duyên thứ ba, có lẽ Ngài bỏ sót.
[6] Tầm (尋) và Tứ (伺): Tầm là cái tâm phân biệt nơi
thô tướng của sự việc phát xuất từ ư
thức, c̣n Tứ cũng là sự phân biệt nhưng chú
trọng đến tế tướng. Nói chung, đây là
tác dụng phân biệt, chấp trước chia chẻ sự
vật cũng như các pháp dựa theo mức độ từ
sâu đến cạn. Ở mức độ cạn th́ gọi
là Tầm, ở mức độ sâu hơn th́ gọi là Tứ.
[7] Sắc pháp tức là những thứ
sắc chất, bị ngăn ngại gồm năm căn
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và năm trần (sắc,
thanh, hương, vị, xúc) cộng với một phần
Pháp xứ. Tâm pháp gồm tám thức (nhăn thức, nhĩ thức,
cho đến A Lại Da Thức). Tâm sở pháp là các tác dụng
tâm lư của tám thức.
[8] Ở đây, lăo pháp sư nói nhầm.
Trung Tùy phiền năo phải là Vô Tàm (Āhrīkya) và Vô Quư (Anapatrapya), c̣n Tàm và Quư được xếp
vào Thiện Tâm Sở.
[9] Jetsun Milarepa (1028–1111) là một vị đại hành giả
thành tựu (Mahasiddha) của Phật giáo Tây Tạng.
Ngài sanh trong một gia đ́nh giàu có ở miền Tây xứ
Tây Tạng. Khi cha Ngài mất sớm, chú và thím Ngài đă t́m
mọi cách tước đoạt gia sản, khiến cho mẹ, bản
thân Ngài
và em gái đều khốn cùng. Căm thù, Ngài bỏ nhà, t́m học
thuật phù thủy, dùng phù chú giết chết chú, thím. Say máu
trả thù, Ngài giết chết rất nhiều người.
Sau đó, Ngài hối hận sâu xa, xin theo học với đại
dịch giả Marpa, chịu rất nhiều thử thách và
bị hành hạ rất khắc nghiệt.
Chẳng hạn, tôn giả Marpa bắt Ngài xây một cái tháp
ba tầng, xây xong, bắt phá tan rồi xây lại. Bất cứ
chuyện lớn nhỏ ǵ, Milarepa cũng đều
bị đánh, chửi thậm tệ. Cuối cùng, sau nhiều năm, Marpa chấp thuận và dạy pháp
cho Ngài. Đến lúc đó, Marpa mới cho biết ông cố
ư hành hạ như vậy để tiêu trừ nghiệp
chướng cho Milarepa. Sau khi đắc pháp, nhất là pháp
môn Lục Du Già của Naropa, Milarepa lui về ẩn tu trong một sơn
cốc, sống khổ hạnh, và cuối cùng chứng ngộ, trở thành bậc đại hành giả về nhiều
Mật pháp.
Những bài thơ của Ngài diễn tả sự chứng
ngộ được phổ thành ca khúc và lưu
truyền rất rộng răi.
Một đệ tử đắc pháp của Ngài là Gamgopa đă
truyền thừa pháp mạch của Ngài, đặc biệt là pháp Đại Thủ Ấn (Mahamudra). Các môn đệ
của Gamgopa đă lập nên tông phái Kargyupa (một trong bốn
tông phái lớn nhất của Phật giáo Tây Tạng). Trong
đó, tôn giả Dusum Khyenpa,
đệ tử của Gamogopa, đă sáng lập
chi phái Karma Kargyu và trở thành Karmapa đời thứ nhất.
[10] Marpa Lotsawa (1012–1097), đôi
khi c̣n gọi là Marpa Chökyi Lodrö, hoặc danh xưng thông dụng
nhất là Đại Dịch Giả Marpa. Ngài quê ở miền
Nam Tây Tạng, sanh trưởng trong một gia đ́nh khá giả.
Từ trẻ, Ngài đă theo học với Drokmi Shakay Yeshe, và thông thạo tiếng
Sankrit. Do thấy kinh sách tại Tây Tạng không đủ
và thiếu sót sau pháp nạn Phật giáo dưới thời
vua Lang Dharma, Ngài phát tâm sang Ấn Độ cầu Mật
Pháp. Ngài đă tham học với nhiều bậc đại
hành giả Mật Tông Ấn Độ thời đó. Sau
cùng, đắc pháp với ngài Naropa và đại đệ
tử của Naropa là Maitripada. Sau mười hai năm miệt
mài học tập, Ngài mang kinh sách trở về Tây Tạng
và truyền bá Mật Pháp theo truyền thống Naropa. Tuy vậy,
Ngài trở sang Ấn Độ hai lần nữa, vẫn
theo học với Naropa để hoàn thiện kiến thức
về Mật Tông, và được Naropa công nhận là pháp
tử. Sau lần tham học lần cuối tại Ấn
Độ, Ngài dành trọn thời gian phiên dịch kinh sách
từ tiếng Phạn sang tiếng Tây Tạng.
[11] Theo cụ Nam Hoài Cẩn
(南懷瑾), đây là một câu chuyện khá nổi
tiếng trong nhà Thiền: Thiền sư Văn Hỷ xuất
gia từ bé, ba mươi mấy tuổi mới bắt
đầu tham Thiền. V́ tu măi vẫn chẳng khai ngộ,
Ngài bèn tam bộ nhất bái từ phương Nam đến
núi Ngũ Đài mong được Văn Thù Bồ Tát chỉ
điểm. Khi đến động Kim Cang ở Ngũ
Đài, Sư gặp một ông lăo dắt trâu, đầu bạc
phơ, mời Sư vào lều tranh uống chén trà, hỏi
Sư từ đâu đến. Văn Hỷ thưa từ
phương Nam đến, mong gặp Văn Thù Bồ Tát.
Ông cụ hỏi: “Phật giáo ở phương Nam như
thế nào?” Sư thưa: “Lộn xộn lắm, nên tôi
đến đây cầu pháp”. Cụ già cười bảo:
“Ở đây cũng thế, rắn rồng hỗn tạp,
phàm thánh đồng cư!” Ông lăo hỏi tiếp Phật
pháp, Sư không trả lời được. Ông lăo nhíu mày,
gọi: “Quân Đề! Tiễn khách!” Một bé trai chạy
ra nói: “Xin mời sư phụ theo tôi”. Dẫn
Sư ra khỏi lều, Sư quay lại định cảm
tạ chú bé, chỉ thấy Văn Thù Bồ Tát cưỡi
trên con sư tử xanh đứng trên hư không. Giây lát
Ngài biến mất. Ngàn dặm gian lao tam bộ nhất bái
mong được Bồ Tát chỉ dạy, thế mà chẳng
nhận biết Bồ Tát. Sư khóc lóc, sám hối, phát phẫn
quyết chí tu tập, rốt cuộc đại triệt
đại ngộ. Sau khi đại ngộ, Sư phát nguyện
phụng sự đại chúng, làm Phạn Đầu
(người nấu cơm cho chư tăng) trong tùng lâm. Mỗi
bữa phải nấu cơm cho cả ngàn vị Tăng
ăn. Có một hôm đang nấu cháo, Sư bỗng thấy
ngài Văn Thù hiện thân trong nồi cháo, vẫn cưỡi
trên sư tử, chạy ṿng quanh trong nồi. Văn Hỷ
bèn dùng cái xẻng để quấy cháo đuổi đánh
Văn Thù, quát to: “Văn Thù là Văn Thù, Văn Hỷ là
Văn Hỷ. Ngài chạy đến đây làm chi? Ngài là
Ngài, tôi là tôi”. Ngài Văn Thù cười to: “Khổ qua
th́ rễ cũng đắng, dưa ngọt th́ cuống
dưa cũng ngọt. Tu hành ba đại kiếp, đâm
ra bị lăo tăng ghét”.
[12] Trong các đại tùng lâm, Thiên
Vương Điện là điện thờ ngay sau sơn
môn (cửa tam quan) của chùa. Trong điện thờ Di Lặc
Bồ Tát ngồi chính giữa, bốn vị thiên
vương chầu hầu bốn góc, nên gọi là điện
Thiên Vương.
[13] Do lăo pháp sư nói câu này hơi khó hiểu,
chúng tôi xin được nói thêm như sau: Chữ Vibhāṣā theo nghĩa
gốc có nghĩa là “khái luận, khái yếu, giải thích”,
do vậy, từ ngữ này được dịch sang chữ
Hán thành “quảng giải, quảng thuyết, thắng thuyết,
chủng chủng thuyết”. Đây là một từ ngữ dùng để chỉ các tác phẩm chú thích, chú
giải các bộ luật hay luận. Bộ Tỳ Bà Sa nổi
tiếng nhất là A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ
Ba Sa Luận. Riêng bộ Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận
của ngài Long Thọ là ngoại lệ, v́ đấy là tác
phẩm chú giải kinh Thập Trụ.
[14] Thư biện (書辦) là
danh xưng để gọi chung các nha lại tại các phủ
huyện chuyên quản trị, biên chép văn thư, thống
kê hồ sơ, và biên soạn các văn bản
theo mạng lệnh của các quan trên.