Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần 5

大乘大集地藏十輪經講記

Mộng Tham lăo ḥa thượng chủ giảng

梦参老和尚主講

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương, sơ đăng vương vị, thọ đế chức dĩ, quán sát quá khứ, vị lai, hiện tại chư vương pháp đạo, ư kỳ chủng chủng vương nghiệp luân trung, dĩ thiện quán sát nhân quả báo trí, tùy kỳ sở ưng, kiến lập nhất thiết phụ thần, liêu tá, phổ cập quốc ấp ngu trí nhân dân tam chủng nghiệp luân. Do thử nghiệp luân, suất độ chúng sanh trường dạ thọ dụng, sở hữu chủng chủng thích ư tư cụ, hỷ lạc tăng trưởng, năng diệt nhất thiết oán địch, ác hữu. Hà đẳng danh vi tam chủng nghiệp luân? Nhất giả, kiến lập đế vương nghiệp luân, vị thiện giáo tập quân trận đấu chiến, hàng tha binh chúng, phủ dục nhân dân. Nhị giả, kiến lập điền trạch nghiệp luân, vị thiện giáo tập tạo xá, doanh nông, linh đắc an ổn, ẩm thực sung túc. Tam giả, kiến lập tài bảo nghiệp luân, vị thiện giáo tập công thương tạp nghệ, linh đắc chủng chủng trân ngoạn, tư tài, tùy ư thọ dụng, tăng chư khoái lạc. Thiện nam tử! Sát-đế-lợi chủng quán đảnh đại vương, thành tựu như thị đệ nhị vương luân. Do thử luân cố, ư tự quốc độ, đắc an lạc trụ, năng phục nhất thiết oán địch, ác hữu, thiện thủ hộ thân, linh tăng thọ mạng.

          ()善男子,如剎帝利灌頂大王,初登王位,受帝職已,觀察過去、未來、現在諸王法道,於其種種王業輪中,以善觀察因、果、報、智,隨其所應,建立一切輔臣僚佐,普及國邑愚智人民三種業輪;由此業輪,率土眾生長夜受用,所有種種適意資具,喜樂增長,能滅一切怨敵惡友。何等名為三種業輪?一者,建立帝王業輪,謂善教習軍陣斗戰,降他兵眾,撫育人民;二者,建立田宅業輪,謂善教習造舍營農,令得安隱,飲食充足;三者,建立財寶業輪,謂善教習工商雜藝,令得種種珍玩資財,隨意受用,增諸快樂。善男子,剎帝利種灌頂大王,成就如是第二王輪。由此輪故,於自國土得安樂住,能伏一切怨敵惡友,善守護身,令增壽命。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi đă được quán đảnh, mới lên ngôi vua, nhận lănh chức vị đế vương xong, quan sát đạo pháp của các vị vua trong quá khứ, vị lai, hiện tại, từ trong các thứ vương nghiệp luân, dùng trí khéo quan sát cái nhân và quả báo, tùy theo lẽ đáng nên mà kiến lập hết thảy các đại thần, quan chức phù tá, phổ cập ba thứ nghiệp luân cho nhân dân dù ngu hay trí trong nước. Do các nghiệp luân ấy, chúng sanh cả nước được thọ dụng trong đêm dài. Tất cả các thứ vật dụng cần dùng đẹp ư, tăng trưởng vui sướng, có thể diệt hết thảy oán địch và bạn ác. Những ǵ là ba thứ nghiệp luân? Một là đế vương nghiệp luân, tức là khéo dạy dỗ, tập luyện quân trận chiến đấu, đánh bại các quân đội khác, vỗ về, nuôi nấng nhân dân. Hai là kiến lập nghiệp luân ruộng đất, nhà cửa, tức là khéo dạy bảo, huấn luyện [dân chúng] tạo dựng nhà cửa, chăm lo nông nghiệp, khiến cho [dân chúng] được an ổn, ăn uống sung túc. Ba là kiến lập nghiệp luân của cải, tức là khéo dạy dỗ, huấn luyện công, thương, các ngành nghề, khiến cho họ đạt được đủ thứ đồ trân ngoạn, vật dụng sanh hoạt, tăng trưởng các sự vui sướng. Này thiện nam tử! Đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi đă được quán đảnh thành tựu vương luân thứ hai như vậy. Do luân ấy, [nhà vua sẽ] trụ an ổn trong quốc độ của chính ḿnh, có thể chế phục hết thảy oán địch và bạn ác, khéo giữ ǵn thân thể, tăng thêm thọ mạng).

 

          Đoạn kinh văn này nói vị vua đă được quán đảnh sau khi kế thừa ngôi vua, đă quan sát pháp luật và tất cả chánh sách cai trị nhân dân do các vị vua trong quá khứ ấn định. Sau khi ông ta quan sát, [nhận thấy] trong ấy có thiện và ác, có tốt đẹp, có xấu xa. V́ sao trong quá khứ, quốc gia có lắm tai họa? Đó là pháp luật chẳng kiện toàn, thậm chí, chẳng tuân chiếu pháp luật để thực hiện. Dùng trí huệ quan sát các loại nhân quả, [nhận thấy] điều ǵ đáng nên cải cách, ông ta bèn sửa đổi. Do như vậy, đối với các quan lại, đại thần, cho đến đối với hết thảy nhân viên công tác, nhà vua kiến lập ba thứ nghiệp luân.

          “Nghiệp” () là cái được thực hiện, “Luân” () là tỷ dụ. “Luân” có thể tiêu trừ hết thảy Hoặc nghiệp của chúng sanh. Ở đây là nói theo Phật giáo. Nói theo người tại gia, sẽ là đập tan những thứ bất chánh, kiến lập những điều chánh xác. Trong mỗi quốc độ, đại đa số các vị quốc vương thuở đầu lập quốc, mới khởi sự đều tốt, dần dần hủ bại, suy vong, đọa lạc. Vương triều mới lại sanh khởi. Đă sanh khởi vương triều mới, sẽ lại kiến lập lần nữa, nhưng nghiệp luân của Phật giáo chẳng phải là như vậy. Trong quá khứ, chúng ta đă là như thế, hiện tại là như thế, tương lai sẽ là như thế, vĩnh viễn như thế.

          Vị vua quán đảnh ấy kiến lập ba loại nghiệp luân, tức là thực hiện các nghiệp. Các nghiệp ấy có tốt và xấu. Ông ta suất lănh chúng sanh sống rất thoải mái, rất vừa ư, rất hưởng thụ. Kiến tạo ba loại nghiệp luân là để khiến cho nhân dân trong quốc gia của ông ta sống an định, vui sướng. Oán địch bên ngoài, hoặc bạn ác bất thiện đều bị đập tan th́ ông ta mới có thể kiến lập sự nghiệp đế vương. Điều thứ nhất là tập luyện vũ trang. Bất cứ quốc gia nào, nếu chẳng có vũ lực để bảo vệ, người khác sẽ lấn hiếp họ. Quốc gia cường đại đều có sức mạnh vũ trang. Mọi người đọc tin tức trên báo chí, [sẽ thấy] nước Pháp không đếm xỉa bị phản đối, vẫn thử vũ khí hạch nhân sâu hơn. V́ sao? Họ muốn đích thân thăm ḍ để chính ḿnh nắm chắc. Chẳng thăm ḍ, khi bị người khác khi dễ, họ cũng chẳng có cách nào! Nhưng thường là giữa các quốc gia, tôi đă có, vẫn chẳng chấp thuận cho anh có. Đấy là nước lớn chèn ép nước nhỏ.

          Hiện thời, từ một nhược quốc chuyển biến thành cường quốc, đă đổi thành một vị vua mới, điều thứ nhất là phải dạy nhân dân của ông ta luyện tập chiến đấu, an định, và giáo dục nhân dân của chính ḿnh. Đấy là loại nghiệp luân thứ nhất, nhằm bảo vệ quốc gia. Tôi nhớ khi c̣n bé, trong huyện thường đắp tường thành v́ sợ cường đạo hay thổ phỉ tấn công. Hiện thời, chỉ sợ ngay cả tường thành cũng chẳng có tác dụng chi hết! Hiện thời, [tường thành] đều bị phá hủy, v́ [bom đạn] có thể từ trên không trung giáng xuống. Càng về sau, càng phát triển, càng dữ dội hơn nữa, giống như kiếp đao binh như đức Phật đă nói: [Những ǵ] thuận tay cầm lấy đều là vũ khí. Cỏ cây đều là binh khí, đều có thể giết người”. Hiện thời đă gần như là vậy. Vũ khí hóa học chẳng phải là như thế hay sao? Loại luân này ắt cần phải kiến lập.

          Loại thứ hai là trước hết phải tạo dựng nhà ở. Có chỗ ở th́ cũng là nghiệp luân về ruộng đất và nhà cửa. Có đất đai để khai phá, có đất đai để canh tác, trồng trọt, kiến tạo nhà ở. Do vậy, ông ta (vị vua quán đảnh) phải có các phương pháp, chỉ dạy họ kiến tạo nhà cửa như thế nào. Chúng tôi đă thấy [nhiều loại] nhà cửa, có rất nhiều nơi không giống nhau. Tôi ở Tứ Xuyên, thấy người Tứ Xuyên dựng nhà tranh. Tôi nói: “Nay quư vị có ngói và gạch, v́ sao không xây nhà?” Họ nói: “Ở trong nhà xây bằng gạch ngói chẳng thoải mái!” Tôi hỏi: “Sao vậy?” Họ nói: “Chúng tôi dựng nhà tranh, Đông ấm, Hạ mát. Nhà xây gạch ngói th́ không được. Những thứ này, đôi ba năm chúng tôi có thể dỡ bỏ, đổi mới. Nhà xây bằng gạch ngói rất khó thay mới”. Nhà tranh ở Tứ Xuyên có sườn nhà bằng trúc, khi gặt hái xong, sẽ lợp mái cỏ mới. Nhà cửa của họ xác thực là có ư vị mới mẻ. Cách mấy năm sẽ đổi một lần, đó là nhà tranh. Tây Tạng càng đơn giản hơn nữa, hết thảy [các vật liệu] đều lấy từ thân ḅ[1]. Dùng lông ḅ dệt thành vải bạt, ghép lại [thành lều], kể như tuyết đổ dầy cách mấy, họ cũng chẳng sợ. Trong khoảng khảy ngón tay, tuyết sẽ trôi tuột đi. Khi họ chuyển nhà, tháo lều ra, chất lên lưng ḅ chở đi, đến chỗ nào cũng đều được. Nhà của họ tùy thời biến hóa, v́ là lều bạt dệt từ lông ḅ. Kiến thiết chỗ ở chính là điều cần thiết nhất trong đời người. Hiện thời, chúng ta sang đất nước của người khác, điều cần phải làm đầu tiên là mua nhà để ở cho thoải mái. Chẳng có nhà, quư vị sẽ chẳng an định.

          Luân thứ hai là đă xây dựng nhà cửa xong, c̣n phải có ruộng đất. Chẳng có ruộng đất, làm sao có thể sống c̣n cho được? Những thứ chúng ta ăn toàn là do đất sanh ra. Như vậy th́ làm cho nhân dân trong nước được an ổn, ăn uống sung túc, có ăn, có mặc, họ mong được hưởng thụ. Do vậy, nói đến “kiến lập tài bảo nghiệp luân”, khéo dạy dỗ, huấn luyện công, thương, tạp nghệ (雜藝, các ngành nghề khác nhau). “Tạp” () là bao gồm rất nhiều [loại khác nhau]. Nay chúng ta thấy các món đồ chơi, các dụng cụ, hoặc máy móc để tập thể dục, thể thao, cho đến các phương tiện giao thông, đều [được gọi chung] là “công thương tạp nghiệp” (工商雜業).

          Trong lịch sử, phần lớn các vị hộ pháp cho Phật giáo đều là thương nhân. Hạng người này có phước báo, họ muốn gieo thiện căn. Quốc vương cũng hộ pháp, bất quá rất ít. Hộ pháp quốc vương là vua thuộc chủng tánh Sát-lợi (Sát-đế-lợi). Có các ác quốc vương, không chỉ chẳng hộ tŕ, mà trái lại c̣n tiêu diệt, tùy thuộc [họ thấy] Phật giáo có lợi cho họ hay không? Thương nhân th́ gieo phước. Mọi người nh́n vào lịch sử Phật giáo, sẽ thấy đại đa số thương nhân hộ pháp. V́ sao phải dạy dân chúng tập luyện công, thương, tạp nghệ? Mọi người mong hưởng thụ, mong có đủ loại của cải trân ngoạn để tùy ư thọ dụng, tăng trưởng lạc thú trong cuộc sống, tăng trưởng sự vui sướng trong đời sống. Do vậy, vị vua Sát-đế-lợi quán đảnh này phải thành tựu vương luân thứ hai. Vương luân thứ hai bao gồm ba thứ nghiệp luân.

          Sau khi đă kiến lập vương luân thứ hai, quốc gia của vua có thể an vui. “Năng phục nhất thiết oán địch, ác hữu” (Có thể chế phục hết thảy oán địch, bạn ác): Khéo có thể bảo vệ gia tài của họ, bảo vệ quốc gia, bảo vệ sự an định của quốc dân, khiến cho hết thảy nhân dân tăng trưởng thọ mạng. Đó là vương luân thứ hai. Ở đây là cách nói tỷ dụ, chẳng chứa đựng ư nghĩa sâu xa nào, cho nên tôi nói đại lược. Dùng chuyện này để tỷ dụ Phật Luân.

         

          (Kinh) Thiện nam tử! Như thị Như Lai sơ thành Phật quả, đắc Vô Thượng Trí, quán sát quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật pháp nhăn, dĩ thiện quán sát chư nghiệp pháp thọ nhân quả báo trí, kiến lập nhất thiết sở hóa hữu t́nh tam chủng nghiệp luân. Do thử nghiệp luân, năng linh Tam Bảo chủng tánh pháp nhăn trường dạ bất diệt, vô thượng chánh pháp xí thịnh lưu thông, linh chư hữu t́nh, trường thọ chủng chủng sanh thiên, Niết Bàn, an ổn khoái lạc, cập linh nhất thiết ngoại đạo tà luận bất năng hàng phục ngă chánh pháp nhăn, nhi năng như pháp tồi bỉ tà luận.

          ()善男子,如是如來初成佛果,得無上智,觀察過去、未來、現在諸佛法眼,以善觀察諸業法受因果報智,建立一切所化有情三種業輪。由此業輪,能令三寶種姓法眼長夜不滅,無上正法熾盛流通,令諸有情長受種種生天涅槃安隱快樂,及令一切外道邪論不能降伏我正法眼,而能如法摧彼邪論。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Lúc Như Lai mới thành Phật quả như vậy, đắc Vô Thuợng Trí,           quan sát pháp nhăn của quá khứ, vị lai, và hiện tại như Phật, dùng trí khéo quan sát các nghiệp pháp lănh nhận nhân và quả báo để kiến lập ba thứ nghiệp luân cho hết thảy hữu t́nh được hóa độ. Do các nghiệp luân ấy, có thể khiến cho pháp nhăn của chủng tánh Tam Bảo bất diệt trong đêm dài, chánh pháp vô thượng lưu thông hưng thịnh, khiến cho các hữu t́nh hưởng măi các thứ vui sướng an ổn do sanh thiên hay chứng đắc Niết Bàn, và khiến cho tà luận của hết thảy các ngoại đạo chẳng thể hàng phục chánh pháp nhăn của ta, và có thể đúng như pháp mà đập tan các tà luận ấy).

 

          “Như thị Như Lai sơ thành Phật quả” (Như Lai mới thành Phật quả như thế): Đức Phật chứng đắc Phật quả, đạt được Vô Thượng Trí, muốn thấy quá khứ chư Phật, và vị lai chư Phật. Hiện tại, tam thế chư Phật đều chứng đắc pháp nhăn thanh tịnh. Phật nhăn quán hết thảy, có thể thấy thấu suốt hết thảy, trí quan sát các nghiệp pháp, cái nhân và quả báo lănh thọ [do đă tạo các nghiệp ấy]. Do có loại trí huệ “nhân quả báo trí”, bèn kiến lập ba thứ nghiệp luân cho hết thảy các hữu t́nh được hóa độ. [Ba thứ nghiệp luân ấy] cũng giống như ba món nghiệp luân được nói đến trong tỷ dụ [về vương luân thứ hai] trên đây.

          Nếu kiến thiết ba loại luân, sẽ có thể khiến cho chủng tánh Tam Bảo luôn hiện diện, chẳng đoạn tuyệt, khiến cho pháp nhăn của hết thảy chúng sanh thanh tịnh, bất diệt trong đêm dài. “Bất diệt” có nghĩa là quang minh, tức quang minh của pháp nhăn. [Do quang minh], có thể biết đâu là chánh pháp, đâu là phi pháp, khiến cho chánh pháp vô thượng của Phật có thể lưu thông hưng thịnh, khiến cho các chúng sanh được giáo hóa của đức Phật trong cơi Phật đều có thể sanh lên trời, cho đến chứng đắc Niết Bàn. Sanh thiên vui sướng hơn ba ác đạo và nhân gian rất nhiều, nhưng hưởng thụ sự vui sướng [chân chánh] th́ phải là chứng đắc rốt ráo sự vui sướng “bất sanh bất diệt rốt ráo”, [có như vậy th́ mới thật sự hưởng] an ổn, sung sướng. Phàm là hết thảy các tà luận có hại của ngoại đạo, tà luận của ngoại đạo tranh chấp với chánh pháp nhăn, Phật pháp có thể hàng phục hết thảy tà luận, có thể đúng như pháp mà dẹp tan các tà luận.

         

          (Kinh) Thiện nam tử! Hà đẳng danh vi tam chủng nghiệp luân? Nhất giả, kiến lập tu Định nghiệp luân. Nhị giả, kiến lập tập tụng nghiệp luân. Tam giả, kiến lập doanh phước nghiệp luân. Thiện nam tử! Vân hà Như Lai tu Định nghiệp luân? Định hữu thập chủng, hà đẳng vi thập? Vị chánh quán sát chư Hữu thức thân, lục chủng cảnh giới, ngă, ngă sở chấp dĩ vi kỳ nhân. Nghiệp vi lương điền, Vô Minh phú cái, Ái vi tư nhuận, vô hữu tự tại, y tha nhi lập, hệ thuộc chúng duyên, vị dục đoạn diệt Nghiệp, Phiền Năo, Khổ, tam chủng lưu cố. Như thị quán sát, vân hà Nghiệp Lưu? Vị chư hữu t́nh sở hành chư hạnh. Nhược thử chư hạnh sở do Vô Minh cập Ái vi nhân, năng sanh chư Hữu, danh Phiền Năo Lưu. Nhược do phiền năo, thức vi kỳ nhân, chúng duyên ḥa hợp, Danh Sắc sanh khởi. Danh Sắc vi nhân, chúng duyên ḥa hợp, Lục Xứ sanh khởi. Lục Xứ vi nhân, chúng duyên ḥa hợp, Xúc, Thọ, Hậu Hữu, Sanh, Lăo, Tử đẳng thứ đệ sanh khởi, thị danh Khổ Lưu.

          ()善男子,何等名為三種業輪?一者,建立修定業輪;二者,建立習誦業輪;三者,建立營福業輪。善男子,云何如來修定業輪?定有十種:何等為十?謂正觀察諸有識身六種境界,我、我所執以為其因,業為良田,無明覆蓋,愛為滋潤,無有自在,依他而立,係屬眾緣。為欲斷滅業、煩惱、苦三種流故,如是觀察。云何業流?謂諸有情所行諸行。若此諸行,所由無明,及愛為因,能生諸有,名煩惱流。若由煩惱,識為其因,眾緣和合,名色生起;名色為因,眾緣和合,六處生起;六處為因,眾緣和合,觸、受、後有、生、老死等,次第生起,是名流。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Những ǵ là ba thứ nghiệp luân? Một là kiến lập tu Định nghiệp luân, hai là kiến lập tập tụng nghiệp luân, ba là kiến lập doanh phước nghiệp luân. Này thiện nam tử! Như Lai tu Định nghiệp luân là như thế nào? Có mười loại Định, những ǵ là mười? Tức là chánh quán sát sáu thứ cảnh giới của thức và thân trong các Hữu (tam giới), do Ngă, và những cái do ta chấp trước làm nhân. Nghiệp là ruộng tốt, do Vô Minh che phủ, Ái làm tưới tắm, chẳng được tự tại, nương vào cái khác để thành lập, phụ thuộc các duyên. V́ muốn đoạn diệt ba loại gịng là Nghiệp, Phiền Năo và Khổ, mà quan sát như thế. Nghiệp Lưu là như thế nào? Chính là các hạnh do các hữu t́nh đă làm. Nếu các hạnh ấy do Vô Minh và Ái làm nhân, có thể sanh ra các Hữu, th́ gọi là Phiền Năo Lưu. Nếu do phiền năo và thức làm nhân của nó, các duyên ḥa hợp th́ Danh Sắc sanh khởi. Danh Sắc làm nhân, các duyên ḥa hợp, Lục Xứ sanh khởi. Lục Xứ làm nhân, Xúc, Thọ, Hậu Hữu, Sanh, Lăo, Tử v.v… theo thứ tự mà sanh khởi th́ gọi Khổ Lưu).

 

          Tam Lưu bao gồm Nghiệp Lưu, Phiền Năo Lưu, và Khổ Lưu. Phải quan sát chúng nó sanh trưởng như thế nào. Nghiệp Lưu là ǵ? Phiền Năo Lưu là ǵ? Khổ Lưu là ǵ? Mỗi danh từ bao hàm rất nhiều ư nghĩa. Nếu quư vị thấu hiểu, sẽ khế nhập kinh Phật. Không chỉ một bộ kinh này, mà rất nhiều bộ kinh, quư vị đều có thể hiểu. Ở đây, nêu ra ba loại Nghiệp Lưu, Nghiệp Lưu là ǵ? Chính là hết thảy mọi sự đă làm trong cuộc sống hằng ngày, kể cả ngủ nghê, thậm chí kể từ lúc sanh ra măi cho đến khi tử vong, quư vị chẳng thể trốn thoát được. Có rời ĺa cũng chẳng rời ĺa được, luôn thuộc vào trong ba loại nghiệp ấy. Nghiệp Lưu là các nghiệp do quư vị đă tạo. Phàm là hữu t́nh, bao gồm động vật, súc sanh, ngựa, trâu, dê, gà, chó, lợn, đều thuộc vào trong ấy, nhưng không tính thực vật. Bất quá, Nghiệp Lưu của nhân loại nặng nề nhất. Quư vị tạo tác các nghiệp, những ǵ quư vị đă làm, đều gọi là Nghiệp Lưu. Lưu là “vĩnh viễn chẳng ngưng dứt”. Lưu () là nghiệp luôn vận động, chuyển măi chẳng ngưng dứt, vĩnh viễn trôi chảy như vậy.

          Phiền Năo Lưu là vô minh và ái. “Ái” là dục vọng của chúng sanh. Dục vọng của chúng sanh chính là căn bản sanh tử của chúng ta, có ái nhiễm. Do vô minh và ái làm cái nhân, từ cái nhân ấy, sanh ra các hành vi. Do đă có hành vi, cho nên quư vị có các nghiệp đă tạo, là nghiệp thiện hay ác, cho nên có thăng lên hay giáng xuống. “Thăng” là sanh lên trời, “giáng” là đọa xuống địa ngục.

          Khi tôi ở Bắc Kinh, có gặp một số công nhân mỏ than. Tôi hỏi họ: “Các vị làm nghề ǵ?” Họ nói: “Có khi tôi xuống địa ngục”. Tôi nói: “Quư vị có thể xuống địa ngục thật sao?” Họ đáp: “Tôi xuống địa ngục”. Tôi hỏi: “Xuống địa ngục cơ à? Xuống địa ngục chẳng chịu khổ hay sao?” Họ nói: “Tôi [xuống địa ngục] làm việc”. Tôi nói: “Làm việc ǵ vậy?” Họ nói: “Tôi cùng Diêm Vương lăo tử đào than”. Tôi nói: “Công việc của các vị có phải là thợ mỏ than hay không?” Họ nói: “Đúng đấy! Hằng ngày chúng tôi đều xuống địa ngục. Chúng tôi mỗi sáng sớm mở mắt ra đều phải xuống đó”. Họ làm việc tại Môn Đầu Câu[2] ở Bắc Kinh, làm đến tối mới ra khỏi mỏ, rất dễ gặp cảnh hầm mỏ sụt lở, bị tầng đất phía trên sụt xuống, hay sập hầm mỏ. Đấy là thuật ngữ nói về hầm mỏ của họ. Mỏ Môn Đầu Câu ở Bắc Kinh đă đào sâu gần mấy chục dặm, họ khai thác ở phía dưới Tây Sơn. “Có lúc chúng tôi cũng có dịp sanh thiên”. Tôi hỏi: “Trong đời này mà quư vị có thể sanh thiên ư?” Họ nói: “Đúng thế!” Tôi hỏi: “Quư vị sanh bằng cách nào?” Họ nói: “Đưa chúng tôi sang Trung Nam Hải[3] là chỗ của các quan to, tôi coi họ như Ngọc Hoàng Đại Đế, [sang đó] vá gạch, lợp ngói. Nhà họ bị dột, sai chúng tôi đến vá gạch, giặm ngói”. Tôi nói: “Bản lănh của ông thật lớn, thăng thiên, nhập địa!”

          Thật ra, cuộc sống của mỗi người đều là như vậy! Khi nào làm thiện nghiệp th́ thăng lên. Có phước báo th́ cuộc sống rất thoải mái, quư vị đừng quên nỗi đau khổ, [đừng quên] chúng ta cũng đă từng chịu khổ. Câu “năng sanh chư Hữu” (có thể sanh ra các Hữu) bao hàm rất nhiều [ư nghĩa] trong ấy. Tam Lưu là Nghiệp Lưu, Phiền Năo Lưu, và Khổ Lưu. Khổ là có phiền năo, Thức làm cái nhân của nó. “Thức” bao gồm sáu thức, tức Nhăn Thức, Nhĩ Thức, Tỵ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, và Ư Thức. Mắt thuộc về Căn. Khi Nhăn Căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, nó chẳng có phân biệt. Cái có thể phân biệt là Nhăn Thức, dùng Nhăn Thức để phân biệt. “Thức” ở đây là sáu thức; nói gộp chung, sẽ là tám thức. Có phiền năo th́ Thức làm nhân, lại c̣n có rất nhiều nhân và rất nhiều duyên thúc đẩy thành tựu, nó mới sanh khởi theo thứ tự như vậy.

          Những ǵ là năm quả trong hiện tại và hai quả trong vị lai? Những thứ ấy đều gọi là Khổ Lưu. Vô Minh và Hành, Hành () có nghĩa là “vận động”. Nếu là tham, sân, si, mạn, nghi, kèm thêm Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Thủ Kiến, Kiến Thủ Kiến, và Tà Kiến, mười loại ấy đều gọi là phiền năo. Mười loại ấy c̣n được gọi là Kết Sử (結使), chúng thúc đẩy quư vị tạo nghiệp. Đó là Hành. Đấy là những thứ trong nội tâm, thuộc về Nhân. Trong tâm tạo nghiệp, vẫn chưa sanh ra hiện thực. Sự vận động của Tưởng trong tâm chính là hoạt động tâm lư v́ quư vị chưa hiểu rơ. Do chẳng hiểu rơ mà cứ hoạt động, chẳng phải là hoạt động dựa theo trí huệ, mà là hoạt động ngu si, thuần túy là hoạt động tạo nghiệp, do mười món Kết Sử chỉ huy. Nghiệp thức để đầu thai, chúng ta thường nói các Kết Sử ấy chính là chủng tử của tám thức. Đó là ác phần, chẳng phải là thiện phần. Trong thức có hai phần Thiện và Ác; Sử thuộc về phần ác. Đă tạo các nghiệp ấy, do tạo cái nghiệp ấy bèn đầu thai.

          V́ hai loại nhân này trong quá khứ mà tạo thành nghiệp. Thức thứ tám c̣n gọi là Hàm Tàng Thức (含藏識), v́ chúng nó (các chủng tử, kết sử) chứa đựng trong thức ấy, tạo thành cái nghiệp ấy. Do v́ nghiệp quá khứ, quư vị thọ báo. “Thọ báo” là tùy theo nghiệp đă tạo mà thọ báo. Có khi sanh thiên để hưởng thụ, đó cũng là Thức của người ấy [sanh thiên]. Như thế th́ đầu thai trong sáu đường, đầu thai làm người là tốt nhất. Nếu quư vị tạo nhiều thiện nghiệp th́ mới có thể sanh làm người. Thông thường, chúng sanh chẳng thể sanh vào nhân đạo được. Quư vị đọa vào ngạ quỷ, súc sanh, [địa ngục], tức ba ác đạo. Nếu đọa vào súc sanh đạo, sẽ càng khổ hơn.

          Bất luận đọa vào đường nào, khi nghiệp thức sắp nhập thai, cứ bảy ngày sẽ biến đổi. Lúc sắp nhập thai, sáu căn c̣n chưa sanh trưởng, ngay cả mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư đều chẳng có, chỉ có thai h́nh, sáu căn chưa đủ. Sau khi lọt ḷng mẹ, ái dục tiếp xúc với cảnh, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, thân thể tiếp xúc, ở trong bụng mẹ rất ấm áp, nay sanh ra, không khí khiến cho từng lỗ chân lông của quư vị bị kích thích. Sự thống khổ ấy quư vị nói không được, chỉ cảm thấy đau khổ. Sự đau khổ ấy chúng ta không biết. Trong nhà tù, khi chịu đủ loại khổ h́nh, miệng quư vị bị bịt kín, mắt bịt chặt, có nh́n cũng chẳng thấy, có nghe cũng chẳng nghe được, sáu căn đều bị đóng kín, chỉ biết chịu khổ, nói chẳng ra lời. Tôi nghĩ nỗi khổ lúc đầu thai tiếp xúc ban đầu chắc cũng chẳng sai khác cho mấy. Chẳng có cách nào biểu đạt! Biểu đạt bằng cách nào đây? Đấy là khổ quả. Đă tiếp xúc ngoại giới, sẽ khác hẳn, sanh khởi cảm giác khổ lạc, cũng là khi trẻ nhỏ chưa nói được, nếu nó chẳng vừa ư, sẽ dùng tiếng khóc để biểu đạt hết thảy. Trẻ nhỏ khóc, người lớn chớ nên dỗ dành quá đáng, nó khóc để biểu đạt. Khi nó khóc, là lúc nó lớn dần. Hết thảy vận động của nó chỉ là khóc, khóc là sự vận động của nó. Khóc nhiều, không sao cả! Nó chỉ biểu đạt nó không thoải mái, trẻ nhỏ vẫn chưa biết nói. Quư vị đáp ứng đúng ư nó, nó sẽ cười. Quư vị chăm sóc trẻ nhỏ nhiều, sẽ cảm nhận điều ấy. Tôi hiểu biết rất ít, quư vị biết rơ hơn tôi, tôi chỉ dựa theo kinh để nói.

          Khi nó sanh ra cảm thọ khổ hay lạc, nghiệp là đầu thai; đấy là quả. Cho tới khi nó sanh trưởng sáu căn, đấy là quả. Lọt ḷng mẹ, tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài cũng là quả. Vừa tiếp xúc, sẽ nhận lănh cảm giác khổ hay lạc. Từ đấy trở đi bèn thọ nhận, suốt cả một đời đều phải thọ nhận. Thọ rồi lại đầu thai, hoặc lại chết đi, vĩnh viễn chẳng ngưng dứt. Do vậy, gọi là Lưu. Lưu () có nghĩa là “chuyển động”, lưu động chẳng ngừng. Đấy là Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục Nhập, Lục Nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ. Đấy là hai cái nhân trong quá khứ. Do hai cái nhân ấy, kết thành năm cái quả [trong hiện tại], tức Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, và Thọ là năm cái quả.

          Do hai cái nhân trong quá khứ mà lănh nhận năm cái quả trong hiện tại, chẳng dừng lại ở đó. Ái, Thủ, Hữu là ba cái nhân trong hiện tại. “Đối cảnh” tức là đối trước hết thảy các cảnh giới, bèn sanh khởi ái dục: “Đóa hoa này đẹp quá, ta mua một đóa”. Ta thấy trong vườn có rất nhiều hoa đẹp, không ai thấy, bèn ngắt một đóa. Đó là phạm giới trộm cắp. Thấy [vật ǵ đó] rất mắc tiền, [mơ tưởng] nếu ḿnh lấy vật đó th́ nhiều tiền lắm, giới trộm cắp đă thành. Tuy nói là “tôi chẳng làm”, chỉ cần đă sanh tâm th́ đều tính cả! Do đă tạo cái nhân đó! Đă tạo nhân, đối với cảnh bèn sanh tham ái, nẩy sanh dục vọng. Đă nẩy sanh dục vọng, sẽ mong đạt được. Cái tốt th́ mong đạt được, cái xấu th́ muốn vứt đi, chẳng mong tiếp nhận. V́ truy cầu điều này, sẽ tạo nghiệp, tức là sẽ tạo tác. Hễ tạo tác, sẽ trở thành nghiệp! Do nghiệp nhân ấy, quư vị sẽ thọ báo. Nay chúng ta làm, hiện tại đang nhận lănh hiện báo. Cái quả báo đang thọ trong hiện tại chỉ là quả báo tạm thời.

          Nếu ta cướp đoạt thứ ǵ của người ta, đương nhiên là sẽ thọ báo, ngay lập tức bị tróc nă, giam cầm trong ngục. Đă bị nhốt rồi, sau đó sẽ bị phán quyết h́nh phạt. Đó là hiện báo (現報, báo trong hiện tại), nhưng vẫn chưa kết thúc, v́ đấy chỉ là pháp luật nhân gian. Đă chịu xong [sự trừng phạt của pháp luật nhân gian], quư vị c̣n phải chịu nhân quả. Quư vị cướp bóc người khác, hay giết người, giết người th́ phải đền mạng. Pháp luật quốc gia đă chấp hành. Cướp bóc của người ta th́ bị bắt, ta bị bắn chết, có phải là đă xong hay chưa? Chưa đủ đâu nhé! Đấy là pháp luật nhân gian, vẫn phải thọ báo. Người ấy vẫn t́m quư vị đ̣i nợ mạng, quư vị vẫn phải trả nợ. Nay quư vị tạo tác cái nhân, trong tương lai vẫn phải chịu khổ quả nơi Ngũ Uẩn, tức Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, khổ quả. Trở lại để thọ, sanh trở lại. [Do đó], Sanh lại Lăo, Lăo lại Tử. Tử rồi lại tạo, tạo rồi lại sanh, sanh rồi lại tử. Cứ thay đổi qua lại liên tục như thế; đó gọi là pháp Thập Nhị Nhân Duyên.

          Từ trong ấy, đức Phật lập ra cái luân thứ ba, tức là kiến lập Tu Định Luân, giải thích Định có mười loại. Quư vị phải quan sát mười loại thân, sáu loại cảnh giới. “Ngă, ngă sở chấp, dĩ vi kỳ nhân” (ngă và những ǵ ta chấp trước sẽ là cái nhân của nó): Ta chấp nó thật sự là ta, nhưng như chúng tôi đă nói trong phần trên. Nghiệp do quư vị đă tạo là ruộng đất, là ruộng tốt, bị vô minh bao trùm, lại c̣n được Ái tưới tắm, cho nên chẳng thể tự tại. Bị cái nhân và nghiệp ấy trói buộc, đều nương vào duyên mà thành lập, tức là “y tha nhi lập” (nương nhờ cái khác mà lập). Đó gọi là “duyên sanh”. Các pháp đều sanh bởi duyên! Hễ sanh bởi nhân duyên, sẽ chẳng có tự thể, sanh mà diệt, diệt mà sanh, sanh rồi diệt, diệt rồi sanh. Do chẳng có tự thể, là duyên khởi, cho nên có ư nghĩa “chẳng thể tồn tại lâu dài”, mà cũng có ư nghĩa “luân chuyển”. Giả sử muốn quan sát Nghiệp Lưu ấy, đă quan sát minh bạch rồi; sau đó, [sẽ thấu hiểu] đủ mọi các hạnh do hết thảy hữu t́nh tạo tác sẽ đều là các nghiệp. Các nghiệp đă tạo ấy lại trở thành Phiền Năo Khổ, v́ nghiệp đă tạo lại phụ thuộc các duyên mà thành tựu. Hễ thành tựu, quư vị sẽ chịu khổ, phải chịu phiền năo khổ. Đă có phiền năo, sẽ chịu khổ quả. Phải thường quan sát ba loại lưu ấy, tức Nghiệp Lưu, Phiền Năo Lưu, và Khổ Lưu. Hết thảy những ǵ hữu t́nh đă làm, đều chẳng vượt ra ngoài pháp Thập Nhị Nhân Duyên được! Thuận theo sự suy tưởng hành động của quư vị trong quá khứ mà lănh thọ [cái quả của những thứ ấy] trong hiện tại và tương lai. Hiện tại lănh thọ [cái quả do] cái nhân từ quá khứ. [Nói cách khác], hiện tại thọ năm cái quả, chính là thọ cái quả của cái nhân trong quá khứ. Tướng mạo của quư vị phát triển đẹp hay xấu, có trí huệ hay không, đều liên quan với Vô Minh và Hành của quư vị trong quá khứ, và cũng liên quan đến thiện nghiệp của quư vị. Vậy th́ lănh nhận bất đồng đều từ Vô Minh và Hành. Vô Minh là trước, Hành là sau. Lại c̣n do có thêm Ái, mới sanh trưởng “chư Hữu”.

          “Chư Hữu” là hết thảy hữu t́nh, chúng ta đều có t́nh cảm. Súc sanh có t́nh cảm hay không? Bất cứ loài súc sanh nào cũng đều có t́nh cảm. Quư vị hăy xem chim đỗ quyên. Nếu chú tâm quan sát, nghiên cứu cẩn thận, nh́n vào hành động của chúng, quư vị sẽ thấy chúng nó cũng có yêu, ghét, lấy, bỏ. Quư vị phải quan sát như thế mới biết. Trong nhà nuôi gà con hoặc chim đỗ quyên, quư vị sẽ thấy những con mái vây quanh con trống. Những con mái nếu không thích con trống, sẽ chẳng kết giao. Con mái thích con trống sẽ kết giao, đấy chẳng phải là Ái hay sao? Chẳng phải là có lấy hay bỏ ư? Hết thảy động vật, hết thảy mọi người đều là như thế.

          Mười hai loại nhân duyên sanh khởi ư thức, hợp thành mười hai điều kiện sanh tồn của hữu t́nh, điều này được gọi là Thập Nhị Chi. V́ ngu si, thiếu trí huệ, chẳng thấy thấu suốt, cho nên mới có Hành. Do có Hành nên mới tạo nghiệp. Nói theo Đại Thừa Khởi Tín Luận: “Một niệm bất giácdi, sanh tam hệ tướng nơi tam tế tướng, đấy là căn bản phiền năo”. Nó sẽ chẳng ngưng dứt, luôn chuyển biến. Do chuyển biến, nó sẽ truy cầu cảnh giới hiện tiền. Cảnh giới ấy vẫn là tự tâm, duyên theo cái Hành ấy. Do nó vận động, sẽ t́m kiếm đối tượng, sẽ chấp lấy cảnh. V́ mong chấp giữ cảnh, sẽ sanh ra Thức, nhưng Thức có phân biệt. Thức có nghĩa là “phân biệt”, người ấy sẽ phân biệt. Do có Thức, duyên theo Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục Nhập, Lục Nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ lại duyên Ái. Tốt th́ người ấy yêu thích. Nếu quư vị dùng roi đánh kẻ khác, đó là Xúc, họ sẽ chẳng tiếp nhận, v́ quá khổ, họ có sự đau khổ. Quá nóng, sẽ đau khổ. Quá lạnh, cũng đau khổ. Sự đau khổ ấy thuộc về cảm thọ (sự cảm nhận) nơi Xúc. Duyên theo Ái như vậy, sẽ có lấy hay bỏ. Hễ có lấy hay bỏ, bèn duyên theo Hữu. Do duyên Thủ bèn có Hữu. Hữu duyên Hữu lại có Sanh. Do duyên theo Thủ là Hữu. Do duyên Hữu bèn có Sanh. Do duyên theo Sanh lại có lăo, tử, ưu bi, khổ năo, các điều họa hoạn to lớn tụ tập nơi thân, hết thảy khổ năo đều nẩy sanh.

          Điều này cho thấy hết thảy các sự vật đều là duyên khởi. Nương vào các thứ khác để khởi hạnh, đều là nương vào duyên mà sanh. Mười hai nhân duyên, [xét theo] quá khứ, hiện tại, vị lai, th́ Vô Minh và Hành là hai cái nhân thuộc quá khứ nối kết với hiện tại. Điều này được gọi là một tầng nhân quả. Tầng nhân quả này bao gồm hai nhân và năm quả: Do cái nhân trong quá khứ, thọ cái quả trong hiện tại. Các quả ấy bao gồm Thức, Danh Sắc, và Lục Xứ; nhưng Lục Xứ do tiếp xúc mà nhận lănh năm cái quả trong hiện tại. Lấy hay bỏ trong ấy, [tức là] có Thủ và có Xả. Do có Ái bèn có Thủ, bèn có sanh tử (đó là Hữu). Đó là ba cái nhân. Ba cái nhân ấy (Ái, Thủ, Hữu) tạo thành khổ quả Sanh và Lăo Tử trong tương lai. Đó gọi là ba nhân (Ái, Thủ, Hữu) và hai quả (Sanh và Lăo Tử).

          Sanh, Lăo, Tử: Có Sanh th́ nhất định có Lăo, có Lăo th́ nhất định có Tử. Đôi khi c̣n nhảy vượt cấp, [tức là] chưa đợi Lăo mà đă chết trước. Có người do nghiệp bất đồng, chỉ chịu khổ, sanh ra đă chết ngay. Thậm chí c̣n có trường hợp thai chết trong bụng mẹ. Nghiệp bất đồng, [tức là] cái nhân trong quá khứ bất đồng, cho nên hứng chịu cái quả cũng khác nhau. Để tu Định nghiệp luân, Định nghiệp luân gồm mười loại. Khi tu Định, phải quan sát, quan sát sáu thứ cảnh giới nơi thân của quư vị.

          Chúng tôi vừa nói về Thập Nhị Nhân Duyên; ở đây, [kinh văn] chỉ nói sáu loại cảnh giới, tức là nói theo cảnh giới nội tại. Trong ấy, c̣n nẩy sanh Ngă và Ngă Sở Chấp, nghĩa là coi chính ḿnh là chủ tể. Chấp trước thuộc về vô minh. Mỗi cá nhân chúng ta do không hiểu rơ, chẳng có trí huệ, tự cho rằng chính ḿnh là đúng, cho ta là bậc nhất, chấp trước kiến giải ấy. Nh́n vào vấn đề, rơ ràng là chẳng đúng, nhưng mỗi người đều có sự chấp trước riêng. Điều đó là do cái nhân riêng của mỗi người. Khi mỗi người xem xét và phân tích vấn đề đều chẳng chuẩn xác, nhưng quư vị cứ cho rằng như vậy là đúng; thật ra đă sai lầm mất rồi! Giống như chúng ta mua cổ phiếu, mua tờ cổ phiếu này cứ nghĩ nhất định sẽ phát tài, nhất định sẽ tăng giá. Kết quả là quư vị mua phải cổ phiếu cúng tiền luôn! Đă không tăng giá, cơ hội sống tốt đẹp hơn đă vuột mất rồi! Quư vị thấy người ta kiếm được rất nhiều tiền, sanh ḷng hâm mộ, quư vị bèn đi mua. Đó là Ngă Chấp. Họ cho rằng nhất định có thể kiếm tiền được; trên thực tế, nhất định là mất trắng tiền! Mất đến nỗi phải nhảy lầu tự sát, có t́nh h́nh này hay không? Cũng có khi nhận biết đúng thời cơ, lúc đó, nhất định phát tài, người ấy đă đầu tư đúng chỗ.

          Những điều này đều thuộc về Ngă Chấp và Ngă Kiến, nhưng nói theo đạo lư trong kinh Phật, nói theo pháp sanh diệt, đă đạt được rồi th́ cũng sẽ tiêu mất. Khi chưa đạt được, phải chịu khổ. Sau khi đă đạt được rồi, sẽ lại chịu khổ. Quư vị đạt được cũng thế, mà không đạt được cũng thế, đều là hư huyễn! Quư vị đạt được điều ǵ, cuối cùng sẽ đều bị tiêu diệt, đều là hư huyễn chẳng thật! Nhưng họ chẳng nhận biết, cứ tưởng là có thật. Thật ra là hư vọng. Muốn họ nghĩ đến vô ngă, hết sức khó khăn! Chẳng diệt cái nhân, chẳng giữ lấy duyên, thực hiện bằng cách nào? Quư vị phải tu. Đức Phật muốn kiến lập tu Định nghiệp luân; trước hết, quư vị phải quán sát Nghiệp Lưu, Phiền Năo Lưu, và Khổ Lưu.

 

          (Kinh) Như thị tam lưu, nghiệp vi lương điền, vô minh vi nhân, ái vi tư nhuận, nhi đắc sanh trưởng. Vị dục khô hạc, nghiệp vi lương điền, vô minh vi nhân, ái vi tư nhuận tam chủng lưu cố, ư Ngũ Thủ Uẩn, quán vi vô thường, cập khổ, vô ngă, ngu độn, vô động, như huyễn, như diễm, như thủy trung nguyệt, như mộng sở kiến, không, vô sở hữu, vô tướng, vô nguyện, vô sở tạo tác, vô sanh, vô khởi, vô xuất, vô tượng, tịch tĩnh, viễn ly, vô sở xuất sanh. Ư Ngũ Thủ Uẩn, như thị quán sát, năng thuận Không Nhẫn, thuận Vô Tướng Nhẫn, thuận Vô Nguyện Nhẫn, vị dục tùy thuận quán Ngũ Thủ Uẩn.

          ()如是三流,業為良田,無明為因,愛為滋潤,而得生長。為欲枯涸業為良田、無明為因、愛為滋潤三種流故,於五取蘊,觀為無常及苦、無我,愚鈍無動,如幻、如焰、如水中月、如夢所見,空無所有、無相、無願,無所造作,無生無起,無出無像,寂靜遠離,無所出生。於五取蘊,如是觀察,能順空忍,順無相忍,順無願忍。為欲隨順觀五取蘊。

          (Kinh: Ba loại lưu như thế, nghiệp làm ruộng tốt, vô minh làm nhân, ái làm tưới tắm, bèn được sanh trưởng. V́ muốn làm khô cạn ba thứ lưu “nghiệp làm ruộng tốt, vô minh làm nhân, ái làm tưới tắm”, cho nên đối với Ngũ Thủ Uẩn, quán chúng nó là vô thường, và khổ, vô ngă, ngu độn, bất động, như huyễn, như bóng nắng gợn, như trăng trong nước, như những ǵ được thấy trong mộng, rỗng không, chẳng sở hữu, vô tướng, vô nguyện, chẳng tạo tác, vô sanh, chẳng dấy lên, không thoát ra, không có h́nh tướng, tịch tĩnh, xa ĺa, không sanh ra ǵ. Quan sát Ngũ Thủ Uẩn như vậy, có thể tùy thuận Không Nhẫn, tùy thuận Vô Tướng Nhẫn, tùy thuận Vô Nguyện Nhẫn, v́ muốn tùy thuận quán Ngũ Thủ Uẩn).

 

          “Nghiệp vi lương điền, vô minh vi nhân, ái vi tư nhuận” (Nghiệp là ruộng tốt, vô minh làm nhân, ái làm tưới tắm): Đây lại là sanh trưởng. Quư vị mong khô cạn Nghiệp Lưu. Có lúc chữ Hạc () này được đọc thành Cố (), có lúc đọc là Hạc. “Khô” () có nghĩa là “khô cạn”. Gịng nước ấy đă khô cạn; do đă khô cạn, sẽ chẳng thể tưới tắmtăng trưởng được. Trước hết, quư vị đoạn Vô Minh, quán hết thảy sự vật đều là vô thường, sẽ chẳng c̣n Ái, chẳng sanh khởi cái tâm tham ái. Do vậy, đức Phật nói “nghiệp là ruộng tốt, vô minh làm nhân, ái làm tưới tắm” th́ [Nghiệp Lưu] mới có thể sanh trưởng, sanh trưởng ǵ vậy? Ngũ Thủ Uẩn, cũng tức là Thủ, c̣n gọi là Tham Thủ. Trong Tâm Kinh, Ngũ Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, [có thể nói gộp chung thành] hai pháp, tức Sắc và Tâm. Thọ, Tưởng, Hành, Thức thuộc về Tâm Pháp, Sắc thuộc về Sắc Pháp. Đó là hai loại, hai loại ấy đều là vô thường.

          Do vậy, quư vị muốn tu Định; trước hết, phải quán những thứ ấy là vô thường, là khổ, là chẳng ngọt ngào, là vô ngă, là căn cội của ngu si. Phải quán những thứ ấy là “như huyễn, như diễm, như thủy trung nguyệt, như mộng sở kiến, không, vô sở hữu, vô tướng, vô nguyện, vô sở tạo tác, vô sanh, vô khởi” (như huyễn, như ánh nắng gợn, như trăng trong nước, như những điều thấy trong mộng, rỗng không, chẳng sở hữu, vô tướng, vô nguyện, chẳng tạo tác, chẳng sanh, chẳng dấy lên). Muốn tu Định nghiệp này th́ có sáu loại. Trước hết, phải quan sát từ Vô Thủ (không chấp giữ), tiến nhập ba môn giải thoát Không, Vô Tướng và Vô Nguyện trước; sau đấy lại tiến nhập. Sau khi chúng ta học Phật, mong tu hành, mong thật sự tiến nhập, mong giải thoát, th́ đây là pháp cơ bản nhất. Hết thảy các môn Chỉ Quán ắt đều phải tu như vậy.

          V́ thế, tôi giới thiệu đôi chút với mọi người. Nếu quư vị muốn nhập Định, phải quan sát mười hai loại lưu của sanh tử, phải đoạn cái nghiệp ấy, phải đoạn Nghiệp Lưu, Phiền Năo Lưu, và Khổ Lưu. Nếu quư vị muốn tu Định, cho đến “sổ, tùy, chỉ, quán, chuyển, tịnh”; đấy chính là những điều được nói trong kinh này. Trí Giả đại sư soạn Thiên Thai Tông Lục Diệu Môn, đă sửa một chữ trong ấy thành “sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh”. Bộ kinh này nói về Chuyển (), Chuyển và Hoàn () có ư nghĩa tương thông. Chuyển biến một phen, “hoàn bổn, hoàn nguyên” (trở về nguồn cội), ư nghĩa như nhau. Nhưng [tu Chỉ Quán th́ phải] có tiền phương tiện; nếu quư vị chẳng có duyên trước, mà mong tu th́ sẽ chẳng nhập được. Do vậy, Trí Giả đại sư đă đề xuất: Nếu muốn tu Chỉ Quán, ắt cần phải trọn đủ nhân duyên. Nếu chẳng có điều kiện ấy, quư vị tu chẳng thành. Có trọn đủ rất nhiều nhân duyên th́ quư vị phát tâm mong tu hành, mong đắc Định, mong khai trí huệ, chứng đắc Định Huệ sẽ có thể trừ khử các khổ nạn. Nếu quư vị muốn hành, phải có đủ duyên. Nếu chẳng có duyên, chẳng tu thành công được. Duyên ǵ vậy? Quư vị đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới, phải tŕ giới. Tối thiểu là tŕ Tam Quy, Ngũ Giới thanh tịnh. Điều thứ nhất là tŕ giới thanh tịnh th́ mới có thể ngưng dứt phiền năo. Do tŕ giới, sanh ra các Thiền Định, và cũng có thể diệt khổ, có thể sanh trưởng trí huệ.

          Điều thứ nhất chính là tŕ giới duyên (tŕ giới làm duyên), nhưng tŕ giới có các t́nh huống bất đồng. Trí Giả đại sư nói: Người tu hành tŕ giới có [ba loại t́nh huống] tŕ giới bất đồng. Ba loại tŕ giới bất đồng nào vậy? Tôi nói đơn giản:

          - Ta đă tŕ, đối với các giới đă thọ, căn bản là chưa hề phạm. Loại thứ nhất như vậy là tốt nhất.

          - Loại thứ hai là ta phạm rất nhỏ, rất nhẹ, chẳng nặng nề, hễ sám hối liền có thể sám hối được.

          - Loại thứ ba là phạm căn bản giới. Quư vị đă thọ Ngũ Giới, nhưng giết, trộm, dâm, dối đều phạm. Đă quy y Tam Bảo, sau đấy, quư vị lại quy y ngoại đạo. Đấy là phá Tam Quy; đây là loại thứ ba. Nhưng quư vị có thể chí thành chiếu theo giáo nghĩa Đại Thừa th́ vẫn có thể sám hối, nhưng ắt cần phải đau đớn, khóc lóc, hằng ngày bái sám suốt ngày đêm hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Sám hối như thế, sám hối đă thanh tịnh, đạt được thanh tịnh, đă được chứng minh rồi, [tức là] thấy tướng hảo. Đă thanh tịnh th́ nhân duyên ấy vẫn có thể thành lập, tu Quán vẫn có thể nhập. Nhưng ắt cần phải là trong đời hiện tại chẳng tạo tội Ngũ Nghịch. Nếu đời hiện tại trót tạo tội Ngũ Nghịch mà mong thành tựu Chỉ Quán, sẽ rất khó!

          Đă sám hối thanh tịnh rồi, đă thành tựu. Người tu Chỉ Quán th́ một là từ trước đến nay chưa hề làm các điều ác, hai là đă làm chuyện ác mà có thể hối hận, vẫn có thể sám hối. Nhưng sám hối có phương thức:

          - Thứ nhất là phải tin nhân quả.

          - Thứ hai là sanh khởi ḷng sợ hăi, tức là sợ đọa địa ngục, sợ thọ luân hồi.

          - Thứ ba là phải sanh ḷng hổ thẹn sâu xa.

          Sau đó, cầu học phương pháp diệt tội, hoặc là lạy theo một sám pháp nào đó như Địa Tạng Sám, Chiêm Sát Sám, Thiên Phật Sám, hay Đại Bi Sám đều có thể được, chỉ tùy thuộc phương pháp nào thích hợp với quư vị.

          Cuối cùng, nếu lúc quư vị tu Quán, hăy quán “tội tánh vốn là Không, chỉ do tâm tạo. Nếu khi tâm đă mất th́ tội cũng mất”, tức là quán Vô Sanh. Nếu người tội nghiệp nặng nề mà quán Vô Sanh, căn bản là chẳng thể quán nổi. Nếu trong đời này thật sự có thiện căn túc thế trong đời trước rất sâu dầy, tu [sám hối] bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày, hoặc một tháng. Chúng ta lạy Chiêm Sát Sám, trong kinh Chiêm Sát, Địa Tạng Bồ Tát đă nói: “Lạy bảy ngày, mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày”. Nếu lạy suốt một tháng, hai tháng mà vẫn chẳng thành, bèn lạy suốt ba năm, chẳng phải như chúng ta mỗi ngày lạy một lượt. Nếu lại c̣n có thể tŕ thánh hiệu th́ sẽ được thanh tịnh.

          Chiếu theo sám pháp của Địa Tạng Bồ Tát, khi tu tập là như thế đó. Điều thứ nhất, quư vị có đầy đủ cái duyên ấy, tôi chỉ nêu ra chuyện quở trách ngũ dục. Ngũ dục là ḷng tham, dục vọng. Cuộc sống chớ nên quá thoải mái. Cuộc sống quá thoải mái, quư vị muốn tiến nhập Chỉ Quán, sẽ chẳng thể tiến nhập được! Vọng tưởng tơi bời tán loạn, vẩn đục, chẳng thanh tịnh, làm sao có thể cấm dục cho được? Quư vị muốn tọa Thiền, ắt cần phải quở trách [ngũ dục]. Ngũ dục là [sự tham ái đối với] Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc. Kẻ ngu si mê mờ trong Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, yêu đắm Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, sanh tham đắm, chẳng biết lỗi lầm tai hại của chúng. Người trí huệ biết chúng nó là họa hoạn, chẳng dám thân cận năm loại ấy; đó gọi là “quở trách ngũ dục”. Trong ấy có rất nhiều thứ, nếu mọi người muốn học, ắt cần phải đọc nhiều!

          Loại thứ hai là trừ bỏ Ngũ Cái[4]. Trong Ngũ Cái, tham dục chính là Tham Dục Cái. Do cảnh giới ngũ trần Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc mà quư vị sanh khởi dục vọng. Đă thế, trong Ư Căn nội tại của quư vị, cũng sanh khởi dục vọng. Khi quư vị tu Thiền, tâm sanh dục ái, chẳng ngồi yên nổi. Do vậy, nó che lấp thiện tâm của quư vị. Lúc b́nh thường th́ vẫn dường như chẳng nóng giận chi hết, phiền năo đều có thể giằn ép, có thể chịu đựng được. Chứ khi tọa Thiền, sẽ chẳng thể nhẫn được, các thứ bị giằn ép trong quá khứ đều ngoi lên, lại c̣n hết sức mạnh mẽ, dữ dội. Do vậy, muốn ngăn dứt các chướng ngại sanh khởi do tu Chỉ hay tu Quán, quư vị phải tu Sổ Tức Quán. Trong quá tŕnh đếm số [theo hơi thở ra vào], có thể là chợt nghĩ tới bữa nào đó, kẻ nào đó xử tệ với ta, làm ta khổ sở, ta phải báo thù. Trong tâm càng nghĩ, càng sân hận, khiến cho quư vị quên sạch sành sanh những ǵ vốn đang tu tập! Thậm chí ngồi không nổi, phải đứng dậy, nghiệp chướng thôi thúc quư vị phải trả đũa. Muốn quở trách ngũ dục, muốn bỏ Ngũ Cái, điều kiện thứ nhất là phải có đủ ngoại duyên. Điều này bao gồm tất cả mười thứ.

          C̣n có loại thứ tư[5] là điều ḥa. Đi, đứng, ngồi, nằm, đều có thể tu, nhưng ngồi th́ thích hợp hơn. Khi tu Chỉ Quán, nhất định phải điều ḥa sao cho thân và tâm thích ứng. Trước hết là điều thân (điều ḥa cái thân) rồi điều tâm (điều ḥa cái tâm). Xong xuôi, bèn điều tức (điều ḥa hơi thở), [tức là theo thứ tự]: Điều thân, điều tức, điều tâm, phải điều ḥa. Đây là loại thứ tư.

          Mười duyên ấy tôi chỉ nêu danh từ. Nếu mọi người thật sự mong tu tập th́ phải nghiên cứu. Duyên thứ năm là phải có phương tiện thiện xảo, tu hành phải có phương tiện thiện xảo. Trí Giả đại sư đă dạy các phương tiện thiện xảo.

          Loại thứ sáu mới là chánh tu, tức thật sự tu Định, hoặc là khi quư vị tĩnh tọa cũng thế, hoặc ngồi xuống để tư duy quán tưởng cũng thế.

          Loại thứ bảy là phát nguyện, khéo phát đại nguyện.

          Loại thứ tám là chính quư vị phải nhận biết ma chướng. Khi chưa tu, ma chướng chẳng hiện. Khi tu, ma chướng sẽ xảy ra.

          Loại thứ chín là đối trị Thiền bệnh. Khi quư vị tu Định, sẽ có rất nhiều bệnh, đó gọi là “Thiền bệnh”. Đấy chẳng phải là thân thể chúng ta mắc bệnh. Quư vị phải biết cặn kẽ Thiền bệnh là ǵ.

          Loại thứ mười là có thể tiến nhập, tức chứng quả Thiền Định.

          Nói chung, “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ư, thị chư Phật giáo” (đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, tự tịnh tâm ư, đức Phật dạy như thế): Nếu các pháp tu khác của quư vị chẳng có điều ấy, th́ khi quư vị tu quán tưởng, hăy niệm bốn câu ấy: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ư, thị chư Phật giáo”. Đấy là lời dạy bảo của đức Phật, khi học Thiền Định. chính ḿnh biết quán, biết tu, trước hết phải có đủ các duyên ấy. Các ngoại duyên đều đă thanh tịnh th́ mới dễ tiến nhập ba môn giải thoát.

          Ba môn giải thoát là:

          1) Không Môn: Không Môn chẳng phải [là rỗng không] như chúng ta nói, bởi có khi dùng hư không làm tỷ dụ. “Không” chẳng phải là [rỗng tuếch] như hư không; nếu hiểu [Không] là “hư không” th́ sai lầm mất rồi. “Không” bao hàm ư nghĩa “hết thảy đều do duyên sanh, hết thảy các pháp đều chẳng có tự thể”. Bản thể của chúng là Không, v́ do rất nhiều duyên hợp thành, cũng từ nhân duyên sanh ra. Giả sử nhận biết hết thảy các pháp đều sanh từ nhân duyên, đều là vô tự tánh. Hôm nào đặc biệt nói đến “Duyên khởi tánh Không”, tôi sẽ giảng rất lâu. Nói “hết thảy các pháp đều chẳng có tự tánh. Chẳng có tự tánh th́ là Không”, lại c̣n bảo “bản thể của nó chính là Không”, trọn chẳng phải là phá tan nó, [đừng hiểu là] phải phá hủy nó th́ mới gọi là Không. Hoàn toàn chẳng phải là ư nghĩa đó. Nhưng nếu “duyên tán”, tức là duyên chẳng c̣n nữa, duyên chẳng trọn đủ, nó sẽ là không (chẳng c̣n tồn tại nữa). Nếu quư vị có thể liễu giải hàm nghĩa này, sẽ rất dễ đạt được tự tại. Quư vị đă biết th́ đối với hết thảy các sự vật, sẽ chẳng dấy lên chấp trước, kể cả có thể đoạn Ngă Chấp. Nhất Thiết Trí chứng đắc bởi A La Hán là Không, [do Ngài đă] chứng đắc tầng ư nghĩa ấy, Ngài đă giải thoát. Đă nhập Không th́ là giải thoát.

          2) Vô Tướng c̣n gọi là Vô Tưởng, hết thảy chẳng tưởng. Quư vị đă biết hết thảy đều là Không, đối với tướng trạng nam, nữ, thật tại là chẳng thể đạt được. Nếu nhận biết “hết thảy các pháp vô tướng”, sẽ ĺa khỏi tướng sai biệt của hết thảy các pháp, đạt được tự tại. V́ quư vị đối với hết thảy các pháp chẳng dấy lên chấp trước, biết nó chẳng có, nó là huyễn tướng, là giả tướng, như bóng, như h́nh. Vô tướng có nghĩa là như thế đó.    

          3) “Vô nguyện, vô tác” cũng gọi là Vô Dục. Quư vị đă biết hết thảy các pháp vô tướng, cho nên ở trong tam giới, chẳng mong cầu điều ǵ. Đă chẳng cầu, quư vị sẽ chẳng tạo nghiệp. Nếu quư vị chẳng tạo nghiệp sanh tử, đương nhiên là sẽ chẳng thọ khổ quả là quả báo của sanh tử. Do vô tướng, quư vị đạt được tự tại, nhất tướng, dị tướng, đồng tướng, chư tướng, sai biệt tướng, chẳng mong cầu các thứ tướng, v́ chúng đều là Không, đều như huyễn.

          Nếu có thể tiến nhập ba môn giải thoát ấy, có trí huệ, thật sự có thể tiến nhập, th́ sẽ là “ở trong thế gian, mà ĺa thế gian”. Tuy quư vị ở trong thế gian, nhưng đă tách khỏi thế gian v́ chẳng bị các pháp thế gian câu thúc.

          Lại xét đến “sổ, tùy, chỉ, quán, chuyển, tịnh” th́ đối với Sổ (), chúng ta thường nói là “đếm số”, tức là một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, đếm số như vậy. Đếm ǵ vậy? Đếm hơi thở ra vào. Đây là tu Định, tâm cần phải chuyên chú nơi một cảnh. Từ một tới mười, rồi lại đếm từ đầu, từ một đến mười. Hễ hơi có tạp niệm, sẽ đếm sai số. Quư vị ắt phải chuyên chú nơi một cảnh, dựa trên các con số ấy, khiến cho cái tâm của quư vị định nơi con số, sẽ chẳng c̣n t́m cầu những vọng niệm khác nữa.

          Loại này có rất nhiều cách tu. Có một khoảng thời gian, tôi sử dụng công phu như thế này: Tôi sử dụng thánh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát, đếm theo từng chữ. Khi hít vào là Nam, thở ra là Mô, xong rồi lại hít vào là Địa, kế đó, lại thở ra là Tạng. Sau đó, hít vào là Bồ, thở ra là Tát. Mỗi chữ đều quán tưởng như vậy. Quư vị thở ra, hít vào như vậy, rồi lại thở ra, hít vào, đó gọi là Xuất Nhập Tức (出入息, hơi thở ra hít vào). Kinh Thập Luân nhằm dạy quư vị quán Xuất Nhập Tức, trọn chẳng nói đến con số để đếm; nhưng nói thông thường, phương pháp đếm [trong Sổ] là từ một đến mười. Lục Diệu Môn nói về chữ Sổ càng tường tận hơn. Đấy là bước đầu trong cách tu Chỉ Quán.

          Kinh Thập Luân dạy giản lược như vậy rồi, đối với mỗi loại, đều nói hai thứ tướng, tức là tướng có thể hít vào, thở ra, đạt được Định nơi tướng thở ra, hít vào. Vậy th́ nay đang lúc thở ra, hít vào, thoạt đầu hơi thở rất thô, cho đến khi quư vị quán tưởng đă lâu, hơi thở sẽ vi tế hơn. Sau khi đă vi tế, [sẽ đạt đến giai đoạn], hơi thở chẳng c̣n nữa. Như tôi niệm Nam Mô Địa Tạng Bồ Tát, niệm miết rồi cũng chẳng thấy có niệm nữa, hơi cũng chẳng thở ra, dường như hơi thở đă an định. Từ thô đến tế, vi tế đến mức hầu như chẳng c̣n cảm thấy nữa, cảm giác đă ngừng thở luôn. Đấy là tướng Xuất Nhập Tức.

          Do quư vị đă tiến nhập công phu Xuất Nhập Tức, sẽ có thể chuyên chú, thuận theo hơi thở ra vào để ngưng dứt các “vọng niệm, vọng tưởng, t́m cầu, ḍ xét”. Nếu quư vị ĺa khỏi vọng tưởng, vọng tưởng sẽ ngưng dứt. Chẳng c̣n t́m cầu nữa, chẳng dấy lên vọng tưởng nữa, quư vị đă đạt được công phu nơi Xuất Nhập Tức. Đạt được công phu, nói thông tục hơn một chút, sẽ là từ thô tướng tiến nhập tế tướng. Giống như lúc thoạt đầu chúng ta mới đếm hơi thở, tâm rất thô, rất phập phều, lao chao, rất xáo động, số đếm chạy lung tung. Càng đếm, tư tưởng lại càng rong ruổi. Khi nghiệp đă có thể trụ vững, tức là trụ nơi hơi thở ra, hít vào, các niệm khác sẽ đều chẳng có nữa! Một niệm như vậy, quán nơi chót mũi, hoặc là quán một tướng nhất định, sẽ chuyên chú một cảnh, có hàm nghĩa như thế đó. Chuyên chú nơi một cảnh, quư vị có thể ngưng dứt vọng niệm, tướng thở ra, hít vào đă trở thành rất nhẹ nhàng, vi tế. Khéo giữ lấy tướng thở ra, hít vào, tướng ấy như có, như không, thế nhưng vẫn chưa ngưng dứt, ắt cần phải đạt tới cảnh giới Chỉ.

          “Tùy, sổ, chỉ, quán, chuyển, tịnh”, sáu điều này liên quan với nhau. Khi đó, quư vị cảm thấy hơi thở ra, hít vào đă diệt, chẳng c̣n hít thở nữa, mà cũng có thể trụ trong Định, hoặc như chúng ta nói là Khinh An, cũng gọi là Tam-ma-địa. Tới lúc ấy, biểu lộ tướng hít thở đă hết. Khi có thể biết đang thở ra hay hít vào đă tận, đó là Quán. Khi thở ra, hít vào đă chấm dứt th́ là Chỉ. Biết hơi thở là thở ra hay hít vào, quan sát hơi thở ra, hít vào. Khi nó đă dứt th́ cái tâm đă an trụ. Khi đó, quư vị phải quan sát chính ḿnh, tâm không dấy động ư niệm nào khác, phải quan sát. Đó gọi là “do Định mà sanh ra Minh”. Minh là trí huệ. Trí huệ có nghĩa là Chiếu, đạt tới bước công phu thứ tư. Khi đó, đối với Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức như đă nói trong phần trước, quư vị đă sớm xả Sắc pháp. Đấy là chuyển tâm pháp. Quư vị có thể bỏ Ngũ Uẩn, dần dần tiến đến đắc Định. Thật sự có thể tiến nhập Định, dần dần có thể tiến nhập thánh địa (địa vị của bậc thánh), có thể thanh tịnh. Khi quư vị đă tịnh, sẽ xả Kết Sử tham, sân, si. Bỏ sạch các Kết Sử ấy, sẽ có thể sanh ra tịnh kiến (淨見, thấy biết thanh tịnh). Như vậy th́ trí huệ đă khai. Nói ra dường như rất dễ dàng, nhưng thực hiện rất khó; trong ấy có các thứ tế hạnh (細行, các hạnh vi tế).

          C̣n nữa, trong khi quư vị tu, vị thầy hướng dẫn sẽ biết quư vị đạt tới cảnh giới nào. Nếu quư vị hỏi thầy: “Nay con đang ở cảnh giới nào?” Đặc biệt là khi ma chướng dấy lên, chính ḿnh sẽ có thể nhận biết. Tuy đă nhận biết, nhưng chẳng thể khắc phục được! Chẳng hạn như nói: “Mỗi ngày chúng ta phải tĩnh tọa ba lần, hoặc tĩnh tọa năm lần”. Khi quư vị đă Định, hoặc là thoạt đầu liền có thể khắc phục hết thảy khó khăn th́ mới thanh tịnh được, chứ vừa mới nhập môn, chướng ngại sẽ xảy ra liền. Hoặc là rất nhiều chuyện ràng buộc, quấy nhiễu trong thế gian xảy đến, khiến cho cái tâm của quư vị chẳng an định, sẽ bị xáo động. Nếu lúc quư vị đang ngồi, hoặc đang đi, hoặc đang trong lúc quán tưởng, hay niệm Phật cũng thế, tuy tâm quư vị trụ tại một cảnh, nhưng tâm bị xao động, tự nhiên cảnh giới bên ngoài sẽ quấy nhiễu quư vị. Dẫu không ai quấy nhiễu quư vị, chính [trong nội tâm] quư vị cũng sẽ t́m ṭi. Đó là Tầm Tứ. Tự quư vị t́m ṭi, lại c̣n thoái lui. Nếu bị như vậy, muốn tu trở lại để đạt được như trước rất khó. Chúng ta do môn Sổ Tức này sẽ có thể tiến nhập, có thể thuận theo (Tùy), xả trừ Tầm và Tứ[6], chẳng truy cầu nữa. Chẳng t́m ṭi th́ tư tưởng chẳng bị phan duyên, cũng có nghĩa là cái tâm vọng tưởng chẳng c̣n nắm níu cái cảnh nữa.        

          Đặc biệt là đối với người tu hành, sẽ phát sanh loại chướng ngại này: Hoặc là trong tâm sanh khởi phiền năo, chẳng muốn thực hiện nữa, chẳng muốn hành tŕ nữa, chẳng nghĩ tu tập nữa. Đấy là [chướng ngại] do từ trong nội tại của chính ḿnh sanh khởi. Hoặc là bằng hữu, thân thuộc [gây trở ngại]. Nói chung là duyên ǵ cũng đều đưa đến. Khi quư vị sắp tiến nhập, chướng ngại liền xảy ra. V́ sao? V́ trong quá khứ, chúng ta chẳng có thiện căn. Do vậy, Trí Giả đại sư mới nói: Khi quư vị tu Quán, muốn tu Định và tu Huệ th́ phải đạt được đầy đủ các ngoại duyên trước đă! Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta phải sám hối, vẫn chưa nói tới tu Định, v́ quư vị muốn tiến nhập, muốn học tập, phải sám hối trước đă. Nếu không, ngay cả cơ hội học tập quư vị cũng chẳng có. Kể như có cơ hội học tập đi nữa, quư vị cũng hoàn toàn chẳng thể tiến nhập được, v́ sẽ bị chướng ngại ngăn lấp!

          Vạn nhất các vị đạo hữu muốn tu Định thành thánh, phát nguyện: “Tôi sẽ nghe trọn vẹn kinh Thập Luân”. Bộ kinh này giảng xong từ đầu đến cuối, người nghe chẳng gián đoạn sợ chẳng được mấy ai. Tôi cũng chẳng dám nói “không có”, hoặc là sẽ bỏ lỡ một hai buổi. Khi giảng kinh Chiêm Sát, tôi đă thí nghiệm, theo như tôi thấy, người học trọn vẹn từ đầu đến đuôi rất ít! Do nguyên nhân ǵ vậy? Nghiệp Lưu! Đặc biệt là trong thời Mạt Pháp, duyên chẳng thịnh. Đặc biệt là nội chướng của chính ḿnh c̣n dữ dội hơn ngoại chướng. Đă có nghiệp, sẽ khởi Hoặc, Hoặc là bất an, bứt rứt, thậm chí dấy lên phiền năo, phiền năo với ai? Phiền năo với chính ḿnh. Không thể kiên nhẫn ngồi nổi. Tu đạo là như thế đó, bất luận quư vị tu môn nào! Bái sám có chướng ngại hay không? Rất khó! Chính ḿnh phát tâm, tự ḿnh ước định. Thoạt đầu là ấn định ba lần, rồi sẽ biến thành hai lần. Sau đó, hai lần biến thành một lần, rất khó! Luôn có những thứ quấy nhiễu, ai quấy nhiễu? Nghiệp Lưu và Phiền Năo Lưu của chính ḿnh. Khổ quả quấy nhiễu quư vị. Quư vị mong siêu thoát, khó lắm thay!

          Do vậy, chúng ta mong trở thành người tu đạo, mong chẳng tạo tác nghiệp sanh tử, mong cắt đứt gịng sanh tử, mà nếu chẳng có cái tâm phát nguyện ấy, làm sao có thể thực hiện cho được? Dẫu quư vị có cái tâm ấy, muốn thực hiện, chướng ngại giữa chừng quá nhiều, quư vị phải khắc phục bằng cách nào? Trừ sức của chính ḿnh ra, hăy cầu Phật, Bồ Tát gia tŕ. Do vậy, chúng ta bái sám, cầu tha lực, dùng tâm lực của chính ḿnh kết hợp với từ bi lực của Phật, Bồ Tát, như thế th́ quư vị mới có thể đoạn tam lưu. Đă đoạn tam lưu, quư vị sẽ chứng, sẽ có thể nhập thánh.

          Khi chúng tôi mới bắt đầu học Hoa Nghiêm, do là căn cơ Nhị Thừa, đối với chuyện sanh về thế giới Cực Lạc, bèn suy nghĩ, cho rằng chẳng có ǵ là cần thiết, thậm chí cho rằng chẳng cần phải học, cứ nghĩ đó là phát đại nguyện. Hiện thời, càng học, càng kinh sợ, càng cảm thấy [chính ḿnh] đă sai lầm. Quả A La Hán của Nhị Thừa đă đoạn sanh tử. Bậc thánh nhân chứng đắc Sơ Quả đă đoạn Kiến Hoặc, c̣n chúng ta thấy ǵ cũng sanh khởi phân biệt, thấy ǵ cũng đều sanh khởi tham ái, cách thánh quá xa. Nói dễ ẹt, làm mới khó. [Vậy th́] “biết” có dễ hay không? Hay là “làm” dễ hơn? Nho gia nói “tri nan hành dị”, ư nói: Biết rất khó, làm dễ dàng hơn! Có những chuyện rất dễ biết, làm rất khó. Tôi thấy: Đối với người học Phật, biết lẫn hành đều khó, nhưng so sánh th́ quư vị ắt cần phải thật sự biết trước đă, rồi mới có thể hành được! Đây là bước đầu tiên. Quư vị chẳng biết, hành bằng cách nào? Cái Biết ấy cần phải có trí huệ. Quư vị phải có khá nhiều loại nhân duyên th́ mới có thể bắt đầu biết được!

          Nếu quư vị gặp phải một vị sư phụ chẳng giỏi cho lắm, chẳng gặp được pháp hội giảng kinh, chúng ta thấy rất đơn giản, chứ thật ra rất khó! Theo như tôi biết, xét theo kinh nghiệm của tôi, hoàn toàn chẳng dễ dàng! Ngay cả biết mà quư vị không biết, hành bằng cách nào đây? Đúng không? Bước đầu tiên là phải biết, điều này là cơ sở. Quư vị phải tin tưởng! Nếu ngay cả tin mà quư vị cũng chẳng tin, làm sao có thể biết cho được? V́ quư vị có tiến nhập th́ mới học. Ngay cả niềm tin cũng chẳng có, tu đạo bằng cách nào? Chúng ta đừng nói chi khác, hăy nh́n vào Tế Công, chúng ta đều rất hâm mộ. Ngài giải đăi dường ấy, thế mà giỏi giang dường ấy, tùy tiện cầm lấy thứ ǵ cũng thành tựu. Ta thấy đối với các vị đại Bồ Tát, không ǵ chẳng phải là Phật pháp, nhưng muốn đạt đến cảnh giới ấy, chẳng phải là dễ đâu nhé!

          Lúc bắt đầu học, đối với hết thảy các pháp đều chớ nên chấp trước. Nay tôi mới thấu hiểu, tôi chẳng có pháp, [vậy th́] chẳng cần chấp trước pháp, bảo tôi bỏ bằng cách nào? Tôi ắt phải nương theo pháp th́ mới có thể trừ bỏ Ngă Chấp. Cho đến khi tôi chẳng có Ngă Chấp nữa, tôi cũng chẳng c̣n y theo pháp nữa. Hiện thời, cái Ngă vẫn c̣n đó, mỗi ngày cảnh giới ngũ dục đều có trọn đủ, mong chẳng cần đến pháp, làm sao quư vị tiến nhập cho được? Quư vị vẫn trôi lăn trong cảnh giới ngũ dục. Có phải là như thế hay không? Do vậy, nói là khó, mà cũng [có thể] nói là “rất dễ dàng”, tức là do cái tâm tín giải chí thành [th́ sẽ thực hiện được]. Sau khi đă tin, tự nhiên quư vị sẽ biết cái nào là tốt, cái nào là xấu, đương nhiên quư vị sẽ xuôi theo cái tốt, tránh né cái xấu. Rơ ràng là hố lửa, ai sẽ nhảy vào? Đức Phật đă dạy rơ ràng “đó là hố lửa”. Tam giới là hầm lửa, quư vị nhất định phải xuất ly. Người giải sâu, sẽ cầu [xuất ly] tha thiết. Nguyện khẩn thiết th́ mới hành được. Quư vị thường niệm vô thường, niệm khổ, mỗi ngày toàn gặp gỡ khổ quả, chẳng phải là chuyện này bức bách, th́ sẽ là chuyện kia bức bách. Vừa mới tốt đẹp một tí, khổ đưa đến liền!

          Rất nhiều đạo hữu kinh doanh, buôn bán cũng thế, mà đi làm cũng thế, nhà cửa đều chẳng có vấn đề ǵ, chuyện ǵ cũng đều ổn, [bỗng dưng] vợ thất nghiệp, chẳng có thâu nhập, quư vị nói có phiền toái hay không? Vừa mới tốt đẹp một chút, trong nhà liền có người bệnh, khám bệnh phải tốn tiền, rất bức bách. Nay những điều chúng ta học, cần phải tu hành, chính là “giữ được ư niệm đến đi”, cũng tức là chúng ta dấy lên ư niệm, hít thở chính là cái niệm đến đi. Hễ niệm dấy lên, thường nắm chắc ư niệm ấy, cũng chẳng dễ dàng! Chúng ta học dần dần, giống như chúng tôi giảng kinh Thập Luân chỉ sợ một hai ngày cũng giảng chẳng xong được! Học kinh để làm ǵ? Có thể dùng được th́ vẫn sử dụng ngay lập tức. Đối với lúc khởi đầu, chúng tôi nói nhiều hơn một lần. Pháp này đối với chúng ta là thuận tiện nhất, mọi người đều có thể nhập được, đều có thể biết. Hôm nay, chúng tôi nói về chuyện “giữ được cái niệm đến đi”, chứ “sổ, tùy, chỉ, quán, chuyển, tịnh” vẫn chưa nói xong! Mọi người có thể xem sách Lục Diệu Môn, đối với mỗi điều, sách ấy đều giảng rất cặn kẽ, nhưng chỉ là chỗ khởi sự để tu hết thảy các môn Định.

          Hiện thời, pháp sư Hoằng Giác đang giảng pháp Chỉ Quán trong Bồ Đề Đạo [Thứ Đệ Luận], đó là chiếu theo giáo nghĩa của Tây Tạng, cũng rất thuận tiện, rất giản dị, rơ ràng. Nếu mọi người tiến nhập, cũng rất dễ dàng. Nếu kết hợp cả hai cách này, sẽ càng hay hơn nữa!

 

          (Kinh) Phục phương tiện tu Nhập Xuất Tức Quán, tức thị tu tập tŕ lai khứ niệm. Vân hà do niệm như thật quán sát nhập tức, xuất tức? Vị chánh quán sát, sổ cố, tùy cố, chỉ cố, quán cố, chuyển cố, tịnh cố. Ưng tri thử trung, Sổ năng tạo tác nhị chủng sự nghiệp: Nhất, năng vi y phục chư Tầm, Tứ. Nhị, năng thủ ư nhập xuất tức tướng. Tùy năng tạo tác nhị chủng sự nghiệp: Nhất, y xuất ly, xả chư Tầm, Tứ. Nhị, năng thiện thủ nhập xuất tức tướng. Chỉ năng tạo tác nhị chủng sự nghiệp: Nhất, năng thị hiện nhập xuất tức diệt. Nhị, năng an trụ thắng tam-ma-địa. Quán năng tạo tác nhị chủng sự nghiệp: Nhất, năng thị hiện nhập xuất tức tận. Nhị, năng an trụ tâm cập tâm pháp, biệt dị quán sát. Chuyển năng tạo tác nhị chủng sự nghiệp: Nhất, năng phương tiện xả chư Thủ Uẩn. Nhị, năng phương tiện thú nhập thánh địa. Tịnh năng tạo tác nhị chủng sự nghiệp: Nhất, năng xả kết, nhị, năng tịnh kiến.

          ()复方便修入出息觀,即是修習持來去念。云何由念如實觀察入息出息?謂正觀察,數故、隨故、止故、觀故、轉故、淨故,應知此中,數能造作二種事業:一、能為依伏諸尋伺,二、能取於入出息相。隨能造作二種事業:一、依出離舍諸尋伺,二、能善取入出息相。止能造作二種事業:一、能示現入出息滅,二、能安住勝三摩地。觀能造作二種事業:一、能示現入出息盡,二、能安住心及心法,別異觀察。轉能造作二種事業:一、能方便舍諸取蘊,二、能方便趣入聖地。淨能造作二種事業:一、能舍結,二、能淨見。

          (Kinh: Lại có phương tiện tu Nhập Xuất Tức Quán (quán hơi thở ra vào), tức là tu tập giữ vững cái niệm đến đi. Như thế nào là do niệm như thật mà quan sát thở ra, hít vào? Tức là chánh quán sát, do các phép Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Chuyển, và Tịnh. Hăy nên biết trong ấy, Sổ có thể tạo tác hai thứ sự nghiệp: Một là có thể dùng nó để chế phục Tầm và Tứ, hai là có thể nắm giữ tướng hít vào, thở ra. “Tùy” có thể tạo tác hai thứ sự nghiệp: Một là dựa vào xuất ly mà bỏ các Tầm và Tứ. Hai là có thể khéo giữ lấy tướng hít vào, thở ra. “Chỉ” có thể tạo tác hai thứ sự nghiệp: Một là có thể thị hiện hít vào, thở ra diệt mất, hai là có thể an trụ trong chánh định thù thắng. “Quán” có thể tạo tác hai thứ sự nghiệp: Một là có thể thị hiện hít vào, thở ra đă chấm dứt, hai là có thể an trụ tâm và tâm pháp sai khác để quán sát. “Chuyển” có thể tạo tác hai thứ sự nghiệp: Một là có thể phương tiện xả các Thủ Uẩn, hai là có thể phương tiện tiến nhập địa vị thánh. “Tịnh” có thể tạo tác hai thứ sự nghiệp: Một là có thể xả kết, hai là có thể tịnh hóa tri kiến).

 

          Phương tiện tối sơ để tu Định nghiệp luân là tu Nhập Xuất Tức Quán. Muốn tu pháp môn phương tiện này th́ có sáu loại, tức là “sổ, tùy, chỉ, quán, chuyển, tịnh”. Pháp quán Nhập Xuất Tức này c̣n gọi là tu tập “tŕ lai khứ niệm” (nắm vững niệm đến đi). Niệm đến, niệm đi [là đối tượng để quán của] phép Sổ Tức Quán. Sổ () là đếm chữ hay đếm số; dùng phương pháp đếm số để nhiếp tâm, nhiếp vọng niệm của quư vị. Chúng ta mới nghe hoặc mới học, cảm thấy [phương pháp này] rất đơn giản. Nếu quư vị thật sự tu tập, [sẽ nhận thấy] chẳng đơn giản cho lắm. Quư vị [chỉ chú trọng] đếm số là sai mất rồi. Có hai cách đếm:

          - Một loại là hít vào đếm một, thở ra đếm hai. Một mực hít vào bèn đếm một, thở ra đếm hai, lại hít vào đếm ba, thở ra đếm bốn. Đây là một cách đếm.

          - Một cách đếm khác là quư vị có thể gộp chung hít vào và thở ra để đếm thành một, [kế tiếp] hít vào thở ra đếm hai. Đếm tới mười là hết (lại đếm từ một trở lại). Một là con số khởi đầu, mười là con số kết thúc. Ṿng mười lượt đầu tiên đă xong, quư vị lại đếm từ một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, lại quán số như vậy.

          Thoạt đầu, quư vị cảm thấy đếm số như vậy rất đơn giản, cứ lo đếm số là sai mất rồi. Nếu tâm chẳng chú ư đôi chút, một là đếm lầm số, hai là hơi thở ra vào sẽ hỗn loạn. Hít vào, thở ra bị hỗn loạn, quư vị ắt cần phải điều ḥa cân bằng hơi thở. Đă nhiếp cho quư vị khỏi hôn trầm, mà cũng nhiếp quư vị chẳng tán loạn. V́ đây là tu Định, là chỗ để tiến nhập đầu tiên, quư vị ắt cần phải tĩnh tâm quán sát. Chẳng hôn trầm, chẳng tán loạn th́ quư vị mới có thể đếm số đúng được!

          Nếu quư vị chẳng sử dụng công phu này, thoạt đầu nghe nói liền cho là quá đơn giản! Quư vị dùng rồi mới thấy thật ra rất khó, thoáng chốc đă đếm sai mất rồi. Nếu quư vị chỉ đếm số đơn, tức là hít vào đếm một, thở ra đếm hai, lại hít vào đếm ba, thở ra đếm bốn. Mười lần như vậy, mỗi lượt tính một ṿng. Nếu hít vào và thở ra tính là một, như vậy mười lượt tức là mười lần hít vào thở ra. Có người cảm thấy vừa hít vào vừa thở ra mới đếm thành một số, sợ sẽ lầm loạn, liền hít vào đếm là một, thở ra đếm là hai, chỉ tùy thuộc sao cho quư vị đắc Định là tốt nhất. Quư vị có thể tự áp dụng phương tiện này. Nhưng khi quư vị đếm đến mười, bèn đếm lại từ đầu. Thoạt đầu, khi mới sử dụng [cách Quán này], vừa ngồi xuống, hơi thở rất nặng nề, rất hào hển. Quư vị cứ hít vào, thở ra, đếm số như vậy, hơi thở sẽ từ thô tháp trở nên nhẹ dịu, tới cuối cùng, thở ra lẫn hít vào đều ngưng. Như thế th́ sẽ dần dần nhập Định.

          Tôi sẽ nói đại lược đôi chút. “Tùy” () là trước hết dựa theo hơi thở ra vào, trước hết thuận theo cách đếm số. Sau là “tùy” theo Chỉ. “Tùy” có thể khởi lên hai thứ tác dụng. Tùy thuận cách đếm số hơi thở ra vào mà có thể quan sát tướng thở ra, hít vào. Trong khi đếm số, đếm tới đếm lui như vậy, điều ḥa hơi thở hết sức vi tế. Dần dần, quư vị sẽ ngừng dứt các tâm mong cầu, tâm phan duyên. Tự quư vị có thể thấy được, chính ḿnh có thể quán tưởng tướng trạng hít vào, thở ra, có thể thấy tướng ra vào của nó. Điều này thuộc về Sắc pháp, thuộc về sắc tướng. Do vậy, phép Quán của quư vị là hữu tướng, có thể dùng nó để hàng phục cái tâm tán loạn. Khi quư vị đếm số, tùy thuận theo tướng hít vào, thở ra ấy, chính ḿnh có thể quan sát. Cách tùy thuận ấy có thể khởi lên hai thứ tác dụng: Một là ngưng dứt cái tâm t́m cầu, hai là hàng phục cái tâm Tầm Tứ.

          Do lúc đếm số, có thể hàng phục cái tâm tán loạn. Cho đến lúc Tùy [như vừa nói trên đây], sẽ có thể xuất ly, bỏ được cái tâm Tầm Tứ. Khi ấy, người đó có thể khéo giữ lấy tướng hít vào, thở ra, [tức là] trong khi đang tu, có thể dần dần quan sát. Đó là tác dụng của Tùy. Tác dụng của Chỉ là khi đang Tùy, đối với tướng hít vào, thở ra đă hiện hữu ấy, sẽ có thể diệt trừ tướng hít vào, thở ra. Khi ấy, quư vị đă có thể dần dần nhập Định, an trụ trong Định. Khi quư vị cảm thấy đă có thể dần dần nhập Định, đó là quán chiếu, nó có thể báo cho quư vị biết hơi hít vào, thở ra đă hết, hoàn toàn bất động, đă diệt tận, có thể an trụ cái tâm.

          “Chuyển” có nghĩa là hàng phục cái tướng ấy, có thể xả Sắc Pháp và Sắc Uẩn. Tướng thở ra hít vào thuộc về Sắc Uẩn. Người ấy dần dần đoạn phiền năo, có thể nhập địa vị thánh, tức là đă đoạn phiền năo. Khi cảm thấy tĩnh, người ấy có thể xả các thứ Kết Sử, bỏ được tham, sân, si, mạn, nghi, Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Thủ Kiến, Kiến Thủ Kiến, Tà Kiến, tức mười phiền năo Kết Sử ấy. Xả hoàn toàn chẳng phải là đoạn, vẫn chưa đạt tới cảnh giới ấy. Khi có thể đoạn, sẽ có thể sanh ra chánh tri, chánh kiến. Đó gọi là sáu loại phương tiện. Sáu loại phương tiện ấy chính từ phép Sổ mà Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Chuyển, Tịnh. Trí Giả đại sư viết Lục Diệu Môn, đă sửa [Chuyển] thành Hoàn, [với ư nghĩa] “hoàn nguyên” (還原, trở lại) thanh tịnh.

          Mỗi loại phương tiện đều có hai thứ tượng trưng: Một là thô, hai là tế. Khi quư vị mới tu, lúc đếm số, tùy thuộc chính ḿnh chọn lựa cách nào. Khi tôi sử dụng, tôi niệm thánh hiệu Địa Tạng: Cứ mỗi một chữ, hít vào ở chữ Nam, thở ra ở chữ Mô. Xong xuôi lại hít vào là chữ Địa, lại thở ra là chữ Tạng. Lại hít vào là chữ Bồ. Lại thở ra là chữ Tát. Tôi chia sáu chữ thành ba lượt. Hít vào, thở ra, hít vào, thở ra, hít vào, thở ra; niệm Phật mười lần th́ là tôi niệm trọn sáu mươi chữ. Lúc đầu rất thô, phải tập trung tinh lực; hơi lơi lỏng, lười nhác sẽ bị sai lầm ngay. Khi sử dụng đă khá tinh thông, đếm tới, đếm lui, dần dần hơi thở được hàng phục, trong tâm liền tĩnh lặng. Đă chẳng thể dấy vọng tưởng, mà cũng chớ nên hôn trầm. Nếu tư tưởng chẳng chú ư đôi chút, quư vị sẽ chẳng thể quán chiếu được, sẽ bị lầm. Thoạt đầu, quư vị cảm thấy như vậy quá phức tạp, có thể rút ngắn cho giản đơn hơn. Trước hết là đếm từ lúc hít vào, hít vào đếm là một, thở ra đếm là hai, vậy th́ lại hít vào là ba, lại thở ra là bốn. Do vậy, trong năm ṿng hít thở, sẽ đủ mười số.

          Chiếu theo kinh nghiệm của tôi, nếu quư vị có thể đếm tới lần thứ năm trăm, bất luận quư vị đi lại cũng thế, mà ngồi cũng thế, có khi ngồi ở đó đếm số, quư vị sẽ cảm thấy giống như thằng ngốc, ngồi ngơ ngẩn tại đó. V́ quư vị chuyên chú vào một cảnh, kinh dạy “chuyên chú một cảnh, sẽ có thể nhiếp tâm”, đă hàng phục cảm giác thô, sẽ tiến nhập [cảm giác] tế. Khi đă tế, quư vị càng phải chú ư. Tế sẽ dễ trở thành ǵ? Dễ bị hôn trầm! Nhất định phải quán chiếu hơi thở ra vào, nhưng ắt cần phải chú ư: Quư vị chú tâm chuyên chú một cảnh, sẽ chẳng đếm sai số. Như thế th́ hết thảy tâm vọng tưởng, tâm t́m cầu quan sát sẽ ngừng lại, Khi hơi thở đă ngừng, chúng nó sẽ bị khuất phục theo. Quư vị coi cái tướng tùy thuận ấy như là tướng của hơi thở ra vào.

          Khi đă tùy, sẽ có thể xả, có thể ĺa khỏi hết thảy tướng hơi thở ra vào ấy, “ĺa khỏi” là Xả. Đó là ư nghĩa của“Tùy”. “Tùy” có nghĩa là “khi có thể xả, sẽ là tùy thuận”. Cũng có nghĩa là “đă ĺa bỏ tướng hít vào, thở ra” ấy, xả ĺa tướng thô của Tầm Tứ. Nhưng trong lúc đó, chỉ c̣n sót lại tướng hít vào, thở ra rất vi tế. Tướng ấy ắt cần phải đạt đến Chỉ, tức là trong t́nh huống Tùy, ắt cần phải đạt đến Chỉ th́ quư vị mới có thể nhập Định. Đă nhập Định, tướng hít vào, thở ra sẽ chẳng có. Đă chẳng có, th́ là đă ở trong Định; bất quá, Định ấy vẫn chưa phải là Đại Định.

          Khi quư vị Chỉ, thị hiện tướng hít vào, thở ra đă diệt. Tam-ma-địa là Định. Lúc quư vị mới đắc Định, cảm giác hết sức hoan hỷ. Chuyện này phải thực hiện theo từng bước một, chẳng thể lướt qua được, chẳng thể nhảy cóc, quư vị ắt cần phải thực hiện theo từng bước một. Chúng ta thường nói “Định có thể sanh ra Huệ”, Huệ ở đây có nghĩa là Chiếu, chẳng c̣n phân biệt, chẳng c̣n t́m kiếm. Hễ t́m kiếm, sẽ lại rơi vào Tầm và Tứ trong phần trước. Chẳng phải là ư nghĩa như thế! Nó là chiếu, chiếu soi, quan sát, rồi lại quan sát. Đă chiếu soi, tướng hít vào, thở ra chẳng c̣n nữa. Như vậy bèn chẳng có thở ra, hít vào, măi cho đến khi cái tướng [thở ra, hít vào] ấy cũng chẳng có. Trước tiên là chế phục Tầm và Tứ; sau đó, diệt tướng thở ra, hít vào. Cho đến khi Tùy, măi cho đến khi tướng thở ra lẫn hít vào đều dần dần trở thành rất vi tế, cho tới khi chẳng c̣n nữa, th́ là lúc đă đạt tới Chỉ, [thở ra, hít vào] hoàn toàn hết hẳn, đă ĺa bỏ rồi. Đă hoàn toàn hết th́ khi đó quư vị biết cái tâm đă an trụ trong Định cảnh, chuyên chú nơi một cảnh, đấy là an trụ. Tâm, tâm sở, biệt ư quan sát, tâm là tâm sở pháp. Chúng ta học Bách Pháp, biết Sắc Pháp có mười một món, Tâm Pháp có tám[7], Tâm Sở Pháp gồm năm mươi mốt món.

          “Quán sát” không có nghĩa là phân biệt, t́m ṭi. Hễ t́m ṭi, sẽ rơi vào Tầm Tứ, mà [quán sát] là Chiếu, chiếu soi phiền năo của quư vị để hàng phục hôn trầm và tán loạn. [Hôn trầm và tán loạn] đều thuộc về Tâm Sở Pháp. Tùy theo ư thức của quư vị khởi phân biệt mà thành Lục Nhập, tức tai nghe tiếng, mắt thấy sắc, lưỡi biết vị… Quư vị chiếu soi sáu căn, những hiện tượng trên đây sẽ chẳng c̣n nữa. Đấy chẳng phải là ngây ngốc, mà cũng chẳng phải là ngủ mê, phải quan sát. V́ quư vị ở trong Định sanh khởi huệ tâm sở, đấy là bước đầu.

 

          (Kinh) Như thị lục chủng phương tiện, tu tập Nhập Xuất Tức Quán, tiện năng tùy thuận quán Ngũ Thủ Uẩn. Sở dĩ giả hà? Như thị nhập tức, xuất tức tự tánh, danh Sắc Thủ Uẩn. Như thị nhập tức, xuất tức lănh nạp, danh Thọ Thủ Uẩn. Như thị nhập tức, xuất tức thủ tướng, danh Tưởng Thủ Uẩn. Như thị nhập tức, xuất tức tạo tác, danh Hành Thủ Uẩn. Như thị nhập tức, xuất tức liễu biệt, danh Thức Thủ Uẩn. Như thị sở thuyết ngũ chủng Thủ Uẩn, các các biệt dị, hỗ bất tương tự, tân tân phi cố, vô trụ, vô tích, bất khả ngôn thuyết. Như thị quán sát ngũ chủng Thủ Uẩn, năng trừ tam hạnh. Nhược năng như thị cứu cánh tùy quán tam chủng hạnh tận, tiện năng ư thử chư Hữu thức thân lục chủng cảnh giới, cứu cánh tùy quán Ngă, Ngă Sở Chấp nghiệp, ư vô minh, ái, nhân điền phú nhuận, nhất thiết giai tận.

          ()如是六種方便,修習入出息觀,便能隨順觀五取蘊。所以者何?如是入息出息自性,名色取蘊;如是入息出息領納,名受取蘊;如是入息出息取相,名想取蘊;如是入息出息造作,名行取蘊;如是入息出息了別,名識取蘊;如是所說五種取蘊,各各別異,互不相似,新新非故,無住無積,不可言說。如是觀察五種取蘊,能除三行。若能如是究竟,隨觀三種行盡,便能於此諸有識身,六種境界究竟隨觀,我、我所執業,於無明、愛、因田覆潤,一切皆盡。

          (Kinh: Sáu thứ phương tiện như thế, tu tập Nhập Xuất Tức Quán (quán hít vào, thở ra), sẽ có thể tùy thuận quán Ngũ Thủ Uẩn. V́ cớ sao vậy? Tự tánh của hít vào, thở ra như thế được gọi là Sắc Thủ Uẩn. Sự lănh nạp nơi hít vào, thở ra như thế, được gọi là Thọ Thủ Uẩn. Giữ lấy tướng của hít vào, thở ra như thế, th́ gọi là Tưởng Thủ Uẩn. Tạo tác của hít vào, thở ra như thế th́ gọi là Hành Thủ Uẩn. Liễu biệt hít vào, thở ra như thế th́ gọi là Thức Thủ Uẩn. Năm loại Thủ Uẩn đă nói như thế, mỗi loại đều khác nhau, chẳng tương tự với nhau, luôn mới mẻ, chẳng cũ, chẳng trụ, chẳng tích tập, chẳng thể diễn tả bằng ngôn ngữ được. Quan sát năm loại Thủ Uẩn như thế, có thể trừ ba hạnh. Nếu có thể quan sát rốt ráo ba thứ hạnh ấy chấm dứt, sẽ có thể đối với các thức, thân thể, sáu loại cảnh giới trong các Hữu mà rốt ráo tùy quán Ngă và các thứ được Ngă chấp trước, giống như thửa ruộng do vô minh và ái làm cái nhân, che phủ, tưới tắm, hết thảy đều tận).

 

          Sáu loại phương tiện này đều là phương tiện ban đầu để nhập Định. Đừng tưởng rằng Chỉ [trong Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Chuyển, Tịnh] là tam-ma-địa thù thắng, đấy chẳng phải là đại định. Bất quá chỉ là trong một trăm lẻ tám môn tam-muội, mới nhập Sơ Hỷ Tịnh, cũng là lúc thoạt đầu mới tiến nhập tu hành. Cho đến khi Chuyển, lại khởi đầu, lại xả Uẩn. Uẩn () là chứa đựng. Đă nắm vững Uẩn, th́ đă nhập thánh địa (địa vị thánh nhân). Như Sơ Quả thánh nhân đă đoạn Kiến Hoặc đại khái là như thế đó. Khi ấy, đă sâu rồi, có thể xả Kết Sử, chẳng truy cầu, nhưng chưa phải là đoạn, giống như chữ Xả trong giai đoạn Tùy ở phần trước. Người ấy đă đạt được chánh tri, chánh kiến. Thanh tịnh pháp nhăn đă tịnh, tức là sáu thứ phương tiện dùng để tu quán t́nh huống của hơi thở ra, hít vào. Lúc đó, có thể tùy thuận tiến tu thêm bước nữa. Vậy th́ kinh văn giải thích rằng: Tiến tu thêm một bước nữa, quán cái Thể của hơi thở ra, hít vào cũng chính là tự tánh của hơi thở ra hít vào. Cái Thể ấy thuộc về Sắc Pháp, cho nên gọi là Sắc Thủ Uẩn. Vậy th́ hết thảy các sắc được uẩn tàng đến đây đă ngưng dứt. Hít vào, thở ra, một vào, một ra, mang ư nghĩa lănh nạp, điều đó được gọi là “lănh thọ”, cũng gọi là Thọ Thủ Uẩn.

          Thủ tướng (, nắm giữ tướng) hít vào, thở ra, “thủ tướng” chính là tưởng trong tư tưởng (suy tưởng), cho nên gọi là Tưởng Thủ Uẩn. Tạo tác do hít vào, thở ra như thế, có ư nghĩa “vận chuyển”. Do vận chuyển sự tạo tác ấy, nên gọi là Hành Thủ Uẩn. Liễu biệt (了別, thấy hiểu phân biệt rơ ràng) sự hít vào, thở ra như thế. Hít vào, thở ra, [rồi lại] hít vào, thở ra. Sự liễu biệt ấy được gọi là Thức Thủ Uẩn.

          Năm thứ đó được gọi là Ngũ Thủ Uẩn (五取蘊). Ngũ Thủ Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. “Thủ” () có nghĩa là quư vị vốn đă trọn đủ. Ngũ Thủ Uẩn là trọn đủ. Mỗi người chúng ta đều trọn đủ. Chỉ cần là hữu t́nh, đều có đủ năm Uẩn Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức ấy. Năm Uẩn ấy, mỗi món đều khác biệt. Món này chẳng tương tự món kia; khi ấy, chúng là chẳng tương tự. Tiến thêm một bước nữa, những thứ trên đây đều bỏ sạch, th́ gọi là Hậu (). Có thô Ngũ Thủ Uẩn và tế Ngũ Thủ Uẩn. Do những thứ ấy chẳng trụ, nên nói là “tân tân phi cố” (新新非故, luôn mới mẻ, chẳng cũ), [hàm ư]: Chẳng phải là cái đă có sẵn, mà là luôn thay thế, đổi mới lẫn nhau. Do chúng nó chẳng trụ, có phải là tích tụ một chỗ hay chăng? Chẳng phải vậy! Mong dùng ngôn ngữ để giải thích rơ ràng Ngũ Uẩn th́ chẳng thể dùng ngôn ngữ để giảng giải được. Chỉ có thể khi quán chiếu, quư vị bèn chiếu soi nó.

          Quư vị có thể đạt tới t́nh huống như vậy, sẽ đạt được “tam hạnh”. “Tam hạnh” là ǵ vậy? Chính là phước, tội, và vô tác. “Vô tác” có nghĩa là vô động, cũng có nghĩa là chẳng khởi lên ư niệm về phước, mà cũng chẳng khởi ư niệm về tội. Đối với “tam hạnh”, quư vị có thể trừ khử phước, tội, vô động, c̣n gọi là vô kư, [tức là] chẳng tội, chẳng phước, có tánh chất vô kư. Nếu có thể tùy thuận, quán ba hạnh ấy đều đă hết, trong hiện tại, thân tâm sẽ thanh tịnh. [Trong câu “tiện năng ư thử chư Hữu thức thân lục chủng cảnh giới”], “thức” là tâm, “thân” là thân thể. Thân thể thuộc vào Sắc Pháp, tâm là Tâm Pháp. Đối với hai pháp Sắc và Tâm ấy, lục căn đều thanh tịnh. Khi đó, có thể tiến nhập Ngă Chấp để dần dần thâm nhập quán Vô Ngă. Phá trừ vô ngă, sẽ có thể tiến nhập các pháp chấp trước bởi Ngă. Năng Chấp (chủ thể chấp trước) là Ngă, Ngă Sở Chấp (cái bị chấp trước bởi Ngă) chính là hết thảy các tướng cảnh giới. Chấp trước những tướng cảnh giới nào? Có vô minh ái làm nhân, [tức là như trong chánh kinh, sánh ví vọng tâm như] “thửa ruộng có ái và vô minh làm nhân, bị hết thảy các tội nghiệp che lấp”. Các tội phước [do thửa ruộng ấy] sanh ra đều đă tận. Đó là bước đầu.

 

          (Kinh) Như thị tu tập tứ chủng Niệm Trụ giai đắc viên măn, năi chí tu tập Bát Chi Thánh Đạo giai đắc viên măn, như thị năi chí tu tập thập bát bất cộng Phật pháp giai đắc viên măn. Như thị năi chí tu Nhất Thiết Chủng Vô Sanh Pháp Nhẫn, Thủ Lăng Già Ma tam-ma-địa đẳng, giai đắc viên măn. Như thị tu tập tŕ lai khứ niệm, nhập chư Tĩnh Lự, danh trụ chánh pháp thắng nghĩa hữu t́nh, danh vi chân thật tu tập Tĩnh Lự, danh vi chân thật cúng dường tam thế chư Phật Thế Tôn, danh nhất thiết Phật tâm trung chi tử, tùng Phật khẩu sanh, thị pháp sở thành, thị pháp sở hóa.

          ()如是修習四種念住,皆得圓滿;乃至修習八支聖道,皆得圓滿;如是乃至修習十八不共佛法,皆得圓滿;如是乃至修一切種無生法忍,首楞伽摩三摩地等,皆得圓滿。如是修習持來去念,入諸靜慮,名住正法勝義有情,名為真實修習靜慮,名為真實供養三世諸佛世尊,名一切佛心中之子,從佛口生,是法所成,是法所化。

          (Kinh: Tu tập bốn loại Niệm Trụ như thế đều được viên măn, cho đến tu tập tám chi thánh đạo đều được viên măn, như thế cho đến tu tập mười tám Phật pháp bất cộng đều được viên măn, như thế cho đến tu Nhất Thiết Chủng Vô Sanh Pháp Nhẫn (Nhất Thiết Chủng Trí), Thủ Lăng Già Ma tam-ma-địa (Thủ Lăng Nghiêm chánh định) v.v… đều được viên măn. Tu tập giữ vững niệm đến đi như thế, nhập các Tĩnh Lự, gọi là hữu t́nh trụ trong nghĩa thù thắng của chánh pháp, gọi là tu tập Tĩnh Lự chân thật, gọi là chân thật cúng dường tam thế chư Phật Thế Tôn, gọi là con trong tâm của hết thảy các đức Phật, sanh từ miệng Phật, do pháp thành tựu, được hóa độ bởi pháp).

 

          Sau khi đă tu xong các pháp ấy, mới có thể tiến nhập tu tập bốn loại Niệm Trụ. Khởi quán bốn loại Niệm Trụ là “quán thân bất tịnh, quán Thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngă”. Thực hiện từ công phu Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Chuyển, Tịnh. Sau đấy, lại khởi quán Tứ Niệm Xứ, có thể tiến nhập rất nhanh, thành công rất nhanh. “Viên măn” có nghĩa là “thành tựu”. Thoạt đầu, đều là từ Sổ mà bắt đầu, tức là cần phải từ trong Định, quư vị tấn tu thêm bước nữa là tu Tư Duy. Sau khi bốn loại Niệm Trụ như vậy đều đă viên măn, Bát Thánh Đạo đều viên măn, cho đến tu Thập Bát Bất Cộng Phật pháp đều viên măn, cho đến tu Nhất Thiết Chủng Vô Sanh Pháp Nhẫn, cũng tức là Nhất Thiết Chủng Trí. Vô Sanh Pháp Nhẫn là chấp nhận các pháp vô sanh. Pháp vô sanh chỉ có một loại trí huệ, đạt được Thủ Lăng Già tam-ma-địa (Thủ Lăng Nghiêm tam-muội). Đấy đều là nói tóm tắt. Nếu nói cặn kẽ, sẽ là mỗi món Định đều phải viên măn. Trên đây là giải thích đại lược môn Phật Luân thứ hai như thế.

          Tu “tŕ lai khứ niệm” (giữ vững mỗi niệm đến đi) chính là tu cái niệm của quư vị. Do cái niệm ấy, tu niệm nhập Tĩnh Định, “trụ chánh pháp thắng nghĩa hữu t́nh” (là hữu t́nh trụ trong nghĩa thù thắng của chánh pháp). “Chánh pháp thắng nghĩa” là ǵ? Chính là nói đến Đệ Nhất Nghĩa, tức là nói đến Thật Tướng, nói  tới ư nghĩa chân thật bất biến. Hữu t́nh ấy đă thành tựu, có thể chân thật tu hành Tĩnh Lự, chân thật tu hành Định.

          Bát Chi Thánh Đạo là Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định, và Chánh Kiến. Đối với Phật pháp, chẳng nẩy sanh tà tri, tà kiến, giải thích rất chánh xác, rời xa các kiến giải hư vọng như duy thần, duy vật, duy ngă. Tuy chỉ là hai chữ, nhưng Chánh Kiến cũng rất khó nẩy sanh. Rất nhiều người trong chúng ta hy vọng có thần thông, mong mỏi có cảm ứng, hoặc là Ngă Chấp, Ngă Kiến rất sâu. Phàm là đối với chính ḿnh, luôn đặt Ngă Kiến (kiến giải của chính ḿnh) vào địa vị bậc nhất. Ngă Kiến chẳng phải là chánh kiến. Trong [các loại kiến giải] duy thần, duy ngă, và duy vật, luôn tách tâm và cảnh thành hai. Tâm và cảnh bị tách làm đôi, duy cảnh là duy vật chất (chỉ chấp nhận vật chất tồn tại), duy vật chỉ chấp nhận vật chất. Đừng nên xếp vật chất thành tánh chất bậc nhất, hoặc xếp duy tâm thành tánh chất bậc nhất, [những chấp trước ấy] đều là sai lầm. [Chẳng chấp trước như thế] th́ mới là giải thích Phật pháp chánh xác. Ngoài tâm chẳng có pháp hay có cảnh. Ngoài cảnh cũng chẳng có tâm, mà ngoài pháp cũng chẳng có tâm. Cách giải thích ấy rất sâu. Chúng tôi chỉ nói [đơn giản Chánh Kiến] là nẩy sanh kiến giải chân chánh, chẳng sanh ra tà tri, tà kiến là được rồi. [Hễ có chánh kiến], nh́n vào vấn đề, sẽ có thể thấy nhập lư sâu hơn một chút. Cái lư ấy nếu phải giải thích th́ cũng rất nhiều. Nói đơn giản th́ là chân tâm (tức là chân lư).

          Tư tưởng của chúng ta hoạt động, chẳng thể ĺa khỏi ba loại. Nói theo phía nhân loại th́ một là vật lư, hai là tâm lư, c̣n một loại nữa là sanh lư. Rất nhiều người căn cứ theo sanh lư, khi hết thảy vật chất được sanh ra, họ có lập luận như thế này: Xét theo phương diện vật lư, hết thảy vật chất biến hóa, sanh, trụ, dị, diệt, họ có thể t́m ra quy luật. Đối với tâm lư, tức là đối với sự tư duy trong cái tâm của chính ḿnh, cũng có sự biến hóa nhất định, cũng có quy luật nhất định. Nhưng nếu thống nhất sanh lư với vật lư hoặc tâm lư th́ hoàn toàn chẳng dễ dàng. Giống như một quốc gia lập ra pháp luật, ắt cần phải liễu giải t́nh h́nh trong nước, tánh t́nh của con người, đối với quan hệ giữa con người và gia tộc của họ, quan hệ lục thân quyến thuộc, quan hệ với quốc gia, quư vị chẳng thể không suy xét [các mối quan hệ ấy]. V́ thế, khi lập pháp, nhất định phải chú ư đến t́nh cảm của người dân. Pháp luật lập ra chẳng hợp ḷng dân, th́ pháp luật ấy sẽ chẳng thể thành lập, chẳng trở thành pháp luật.

          V́ thế, chúng ta thường nói tới thiên lư và ḷng người, c̣n có quốc pháp, cũng là “t́nh, lư, pháp”. Nói đạo lư th́ có thể lôi đạo lư ra nói được, nhưng phải phù hợp t́nh người, phù hợp đạo lư, phù hợp phép nước. Trong ba loại đó, hễ trái nghịch một loại, sẽ chẳng thể thành lập. Lập ra một pháp hoàn toàn trái nghịch t́nh người, nói theo đạo lư th́ cũng có thể suông sẻ, nhưng xét theo t́nh người sẽ chẳng thông. Quư vị sẽ bị toàn dân phản đối, vậy th́ cũng không được. [Nếu chỉ] phù hợp t́nh lư, theo t́nh lư th́ làm như vậy được, nhưng xét theo khía cạnh pháp luật, sẽ chẳng thể chấp nhận được. Không cần biết quư vị gặp khó khăn ǵ đi nữa, quốc gia ắt cần phải có pháp luật thống nhất. Thiên lư, quốc pháp, và nhân t́nh, quư vị phải hiểu ba điều ấy. Đă hiểu rồi, quư vị quay trở lại nghiên cứu sanh lư, vật lư, và tâm lư.

          Như vừa rồi chúng tôi vừa nhắc đến Chánh Kiến, để dạy bảo chúng sanh, đức Phật luôn có phương tiện thiện xảo, mong cho quư vị đạt tới chân lư, đạt tới cảnh giới chân thật. Trước hết, Ngài chiếu theo t́nh huống để nói. Tánh t́nh mỗi người mỗi khác, v́ sao phải quán cơ (觀機, xem xét căn cơ) thuyết pháp? Tiền nhân (前因, cái nhân trước đó) của họ khác nhau. Tiền nhân là Lư, tư tưởng và lư luận của họ trong hiện tại lại khác biệt. Đức Phật đều quan sát mỗi phương diện, thuyết pháp cho họ, họ có thể khai ngộ. Chúng ta nói tới Chánh Kiến, điều thứ nhất là phải vô ngă. Ngă Chấp quá nặng, chưa bàn đến Pháp Chấp. Khi chưa đoạn Ngă Chấp, có thể nào nói tới pháp được ư? Chuyện ǵ cũng đều đặt chính ḿnh vào bậc nhất, đấy chẳng phải là Chánh Kiến. Phàm là có Ngă Chấp, sẽ chẳng phải là Chánh Kiến. Tôi chỉ nói cặn kẽ một điều, những điều khác chẳng thể nói chi tiết.

          Chánh Tư Duy: Vọng tưởng, tham dục, mong cầu đều chẳng chánh đáng. Chúng ta mong mỏi vĩnh viễn chẳng ngă bệnh, chuyện này chẳng thể được! Chỉ cần quư vị có nhục thể, [nhục thể ấy] do Địa, Thủy, Hỏa, Phong ḥa hợp, do các duyên ḥa hợp, mà mong mỏi vô bệnh, bất luận là ai cũng đều chẳng thể được. Thích Ca Mâu Ni Phật cũng mắc bệnh, [tức là] Ngài cũng thị hiện bị bệnh. Nếu quư vị có suy nghĩ vĩnh viễn chẳng ngă bệnh, đó là tư duy chẳng chánh xác. C̣n có tham luyến, tham dục. Đấy cũng chẳng phải là Chánh Tư Duy. Hoặc là chúng ta hy vọng nghe pháp nhiều, tăng thêm huệ mạng, mở mang trí huệ hơn, lấy trí huệ làm sanh mạng của chúng ta. Đó là chánh xác, khiến cho đạo nghiệp nơi sự tu đạo của chúng ta sớm có ngày thành tựu. Tư duy như vậy là Chánh Tư Duy. Phải có Chánh Kiến th́ mới có thể sanh ra Chánh Tư Duy. Kiến giải của quư vị có trí huệ hay không? Từ cách nh́n của quư vị đối với vấn đề, sẽ biểu hiện ra [quư vị có Chánh Kiến hay không].

          Chánh Ngữ rất dễ hiểu: Đừng nên nói bừa băi, đừng hủy báng người khác, đừng hư luận, đừng ác khẩu, đừng chọc ngoáy thị phi. Sai lầm này rất dễ phạm: Nói chuyện thị phi của người ta, chính quư vị đang tạo thị phi! Mọi người hăy ngẫm xem, có phải đúng là như vậy hay không? Cái này đúng, cái kia chẳng đúng. Đúng là Thị, chẳng đúng là Phi. [Bàn luận] “chuyện Trương Tam làm khi đó là không đúng, Lư Tứ khi ấy là đúng. Quư vị chơ mồm bàn leo mấy câu, bàn chuyện thị phi, nói đúng thành sai, bẻ cong đúng sai! Phải chiếu theo điều ǵ? Chiếu theo vô ngă, chiếu theo cái thấy chánh xác. Do tư duy chánh xác, sẽ thốt ra lời lẽ chánh xác. Giống như Trung Hoa có câu: “Phi lễ vật ngôn, phi lễ vật thị, phi lễ vật động” (phi lễ chớ nói, phi lễ chớ nh́n, phi lễ chớ làm). Phải hiểu Lễ như thế nào? Nói theo Phật giáo, Lễ là hợp với pháp tắc, xứng hợp lời Phật dạy th́ sẽ là Lễ. Chánh Ngữ là phù hợp với pháp, phù hợp lời đức Phật dạy. Chẳng nói dối, chẳng nói thêu dệt, chẳng nói đôi chiều, chẳng nói lời ác. Đấy là đại tiền đề, là bốn tiêu chuẩn; nhưng trong ấy c̣n có rất nhiều [tiêu chuẩn khác nữa], chính quư vị phải tự quan sát.

          Chánh Nghiệp: Phàm những ǵ phù hợp Phật, Pháp, Tăng, phù hợp lời đức Phật dạy, th́ sẽ là Chánh Nghiệp. Nhưng nghề nghiệp của quư vị đang làm trong xă hội, quư vị theo đuổi một nghề nào, một đằng là giới pháp do đức Phật giáo hóa, một đằng là pháp luật của quốc gia. Nếu hai đằng mâu thuẫn với nhau, tức là quốc pháp và giới pháp do đức Phật chỉ dạy xung đột, phải tuân theo quốc pháp. Tuy đức Phật dạy bảo như thế ấy, nhưng khi quư vị tuân theo quốc pháp, chẳng tính là phạm giới. Quư vị tuân thủ giới pháp, có thể là quốc gia chẳng chấp thuận. Trong quốc độ quư vị đang ở, chẳng thể làm như vậy, quư vị hăy nên buông xuống, phải tùy thuận quốc pháp. Đấy mới là hành vi chánh đáng. Khi ấy, chỉ cần quư vị chẳng trái pháp luật, chẳng thương tổn kẻ khác, chẳng tính toán v́ lợi ích của chính ḿnh, chúng tôi cho rằng làm như vậy là cao thượng! Mỗi quốc độ, mỗi chủng tộc, tập quán sanh hoạt của mỗi dân tộc, tất cả t́nh cảm cao thượng đều khác nhau. Chúng tôi nêu lên mối quan hệ giữa hai tánh chất để thí dụ. Có rất nhiều quốc độ, rất nhiều dân tộc có cách nh́n khác nhau, quốc pháp cũng khác nhau.

          Chiếu theo lời đức Phật chỉ dạy, hễ tà dâm, quư vị đă phạm dâm giới. Cái quư vị chẳng nên có, mà đạt được bằng cách phi pháp, th́ là phạm giới, tức là phạm giới trộm cắp. Thậm chí giết người, phạm sát giới. Theo Bồ Tát giới, giết súc sanh cũng phạm giới giống như giết người. Trong giới tỳ-kheo, giới tỳ-kheo-ni, hoặc là Bát Quan Trai Giới, giới của ưu-bà-tắc và ưu-bà-di, sát giới thuần là nói đến chuyện giết người, quư vị trót phạm [sát sanh, nhưng không giết người] th́ cũng không mất giới. Bát Chánh Đạo được nói tùy theo nơi chốn, tùy theo từng hạng người, đó cũng là đối cơ (對機, phù hợp căn cơ). Nói theo Bồ Tát sẽ hoàn toàn bất đồng; nói theo phàm phu, sẽ lại khác hẳn. Phải hiểu đạo lư này! Đă là Bát Chánh Đạo th́ quư vị ăn nói phải phù hợp Bồ Đề đạo. Chúng tôi giải thích như vậy, sâu hơn một tầng.

          Chánh Mạng: Nếu phù hợp tiêu chuẩn giới luật, dũng mănh, tinh tấn tu đạo, tu hành Giới, Định, Huệ, dùng sự tinh tấn ấy để ǵn giữ tánh mạng của quư vị. Đó là Chánh Mạng. Chánh Mạng là tôn trọng chính ḿnh. Có lúc v́ tu đạo, thà xả thân mạng; đó là tà mạng hay chánh mạng? Chúng ta thấy rất nhiều đạo tràng, như Xả Thân Nhai (捨身崖, vách đá xả thân) ở núi Nga Mi, hoặc trong kinh Pháp Hoa, Pháp Hỷ (Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến) Bồ Tát đốt thân cúng Phật; đấy là chánh mạng hay tà mạng? Tùy thuộc quư vị dũng mănh tinh tấn tới mức độ nào, cũng tùy thuộc quư vị tu đạo, nhận thức đă đạt tới địa vị nào? Có những người do tŕ giới mà chết, chẳng v́ để sống sót mà phá giới, tùy thuộc quư vị lư giải như thế nào! Chủ yếu là do cái tâm và quan niệm của quư vị ngay trong lúc ấy là như thế nào, tôi lư giải như thế đó. Nếu v́ khiến cho chủng tử Tam Bảo chẳng đoạn dứt, hoặc là tạm nhân nhượng v́ lợi ích toàn cục, quư vị là Bồ Tát v́ muốn hộ tŕ Tam Bảo chẳng đoạn dứt, mà chẳng chú trọng hết thảy tế hạnh. Thế nhưng, hiện tượng trái phạm giới đơn lẻ ấy chẳng thể dùng làm khuôn phép, chẳng thể coi là pháp thường sử dụng được. Giới luật do đức Phật chế định mới là pháp thường hằng. Nói tới Chánh Mạng tức là chẳng sống bằng tà mạng. Ví dụ như nói đến chuyện xem thiên văn, xem địa lư, đoán số tử vi, y phương, nhưng Bồ Tát có học vấn Ngũ Minh, cũng phải làm các chuyện ấy, chẳng coi các chuyện ấy là không đúng. Ngài có phương tiện thiện xảo độ chúng sanh; tuy vậy, nếu quư vị là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni. lúc làm các chuyện ấy, sẽ là tà mạng! Nếu quư vị thọ Bồ Tát Giới, và cũng thọ tỳ-kheo giới, sẽ chẳng thể làm. Nói là Chánh, tức là có nhiều cách chọn lựa như thế đó!

          Cuối cùng, Chánh Niệm là chúng ta phải rời xa hết thảy các vọng tưởng điên đảo. Người được gọi là “chẳng mất chánh niệm” là người niệm nào cũng đều chẳng quên Tam Bảo. C̣n có Bồ Tát đă dự vào Tín vị (các địa vị thuộc Thập Tín), nhận biết tiền niệm dấy lên ư niệm bất hảo, sẽ chẳng để cho hậu niệm dấy lên, ngay lập tức uốn nắn. Có một loại người tuy phạm giới mà có thể sám hối, đă sám hối sẽ lại được thanh tịnh. C̣n một loại khác th́ là căn bản chẳng phạm giới, tŕ giới rất thanh tịnh. Cả hai loại người ấy đều thanh tịnh. Chữ Chánh chính là sanh khởi trí huệ chân chánh, từ Định mà khiến cho thân tâm của chính ḿnh đạt tới nhân cách viên măn, giống như nhân cách của đệ tử Phật, vâng theo quy định của Tam Bảo về nhân cách của hết thảy các đệ tử. Chúng ta phải giải thích như thế đó. Tôi giải thích Bát Chánh Đạo giản lược như vậy. Có rất nhiều cách giải thích Bát Chánh Đạo, tùy thuộc quư vị đă đạt đến địa vị nào, bèn giải thích theo địa vị ấy để nói thích ứng. Nói thông thường th́ giải thích như thế đó.

          Nhất Thiết Chủng Trí là hết thảy các loại. Tam Trí là Nhất Thiết Trí, Đạo Chủng Trí, và Nhất Thiết Chủng Trí. “Chủng tử” (種子) có nghĩa là nẩy sanh. Nhất Thiết Trí là tổng trí huệ, là hết thảy các pháp được chấp giữ trong pháp Thanh Văn và Duyên Giác. Nhất Thiết Trí là đoạn Kiến Tư Hoặc. Đă đoạn Kiến Tư phiền năo, nhưng Trần Sa và Vô Minh vẫn chưa đoạn. Đạo Chủng Trí là nói đến Bồ Tát. Ngài có thể biết tướng sai biệt của hết thảy các pháp. Nhất Thiết Chủng Trí là nói về Phật. Trong ba trí ấy, Nhất Thiết Chủng Trí có thể biết cái nhân của hết thảy chúng sanh. Chúng ta nêu ra mỗi một chúng sanh, Ngài đều có thể thấy từ vô lượng kiếp đến nay, kẻ ấy đă gieo thiện căn, đă tin Phật từ khi nào. Nhất Thiết Chủng Trí c̣n gọi là trí huệ của Phật. Chỉ có thành Phật th́ mới đắc Nhất Thiết Chủng Trí. Đă thành Phật, sẽ trọn đủ hết thảy các loại trí huệ, điều đó được gọi là Nhất Thiết Chủng Trí, biết hết thảy các pháp và hết thảy các phương pháp thành đạo, biết cái nhân của hết thảy chúng sanh. Lại c̣n biết họ đáng nên nhận pháp nào để nói cho họ pháp ấy, mà cũng biết trí sai biệt của hết thảy các chúng sanh.

          “Nhất Thiết Chủng Vô Sanh Pháp Nhẫn” chính là Nhất Thiết Trí. “Thủ Lăng Già Ma tam-ma-địa” là Thủ Lăng Nghiêm tam-ma-địa, một trăm lẻ tám môn Định, đă có thể thành tựu viên măn. Lúc thoạt đầu, tu Định là tu “tŕ lai khứ niệm”. “Nhập chư Tĩnh Lự”: Từ khởi đầu, tu “tŕ lai khứ niệm”, nhập Định, nhập đến mức trụ trong Tĩnh Lự. Kế đó, giải thích tất cả những môn Định đă nắm vững. Đối với nghĩa thù thắng của chánh pháp, loài hữu t́nh này chân thật tu hành Tĩnh Lự. Chân thật tu hành Tĩnh Lự th́ sẽ đạt được [các môn Định]. Từ Nhất Thiết Trí, Đạo Chủng Trí, và Nhất Thiết Chủng Trí, người đạt được các loại trí ấy th́ mới thật sự cúng dường tam thế chư Phật Thế Tôn. Nói như vậy đă bao gồm cả chủng tánh Bồ Tát, tức là nói đến Đạo Chủng Tánh. Nếu tu hành như vậy, tu hành đến mức độ ấy th́ mới là Phật tử có thể thành đạo của chư Phật. “Tùng Phật khẩu sanh” (sanh từ miệng Phật): “Sanh từ miệng Phật” là pháp do đức Phật đă nói. Đối với những pháp do đức Phật đă nói, người ấy nương theo pháp mà thành đạo. Như vậy th́ sanh thân của người ấy đă lấy pháp làm thân, do các pháp hóa độ.

 

          (Kinh) Hoặc hữu Bồ Tát như thị tu tập, tiệm tiệm thoái chuyển, năi chí Lậu Tận, thành A La Hán, cụ lục thần thông. Hoặc hữu Bồ Tát như thị tu tập, tiệm tiệm tăng trưởng, công đức viên măn, thành đại Bồ Tát, năi chí Thập Bát Bất Cộng Phật pháp, Nhất Thiết Chủng Trí tu tập viên măn, thử nhân bất cửu đương đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Thiện nam tử! Ngă dĩ như thị chư nghiệp pháp thọ nhân quả báo trí, quán sát tam thế chư Phật pháp nhăn, an lập hữu t́nh, ư thử thập chủng tu Định nghiệp luân, linh kỳ tu tập. Thiện nam tử! Thị danh Như Lai tu Định nghiệp luân.

          ()或有菩薩,如是修習漸漸退轉,乃至漏盡,成阿羅漢,具六神通;或有菩薩,如是修習漸漸增長,功德圓滿,成大菩薩;乃至十八不共佛法,一切種智修習圓滿,此人不久,當得無上正等菩提。善男子,我以如是諸業法受因果報智,觀察三世諸佛法眼,安立有情,於此十種修定業輪,令其修習。善男子,是名如來修定業輪。

          (Kinh: Hoặc có Bồ Tát tu tập như thế, sẽ dần dần thoái chuyển, cho đến Lậu Tận, thành A La Hán, đủ sáu món thần thông. Hoặc có Bồ Tát tu tập như thế, dần dần tăng trưởng, công đức viên măn, thành đại Bồ Tát, cho đến tu tập viên măn mười tám món Phật pháp bất cộng và Nhất Thiết Chủng Trí. Người ấy chẳng lâu sau sẽ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Này thiện nam tử! Ta dùng trí [liễu giải] các nghiệp pháp, thọ nhân và quả báo như thế, dùng pháp nhăn của tam thế chư Phật để quan sát, an lập hữu t́nh, khiến cho họ tu tập mười thứ nghiệp luân ấy. Này thiện nam tử! Đó gọi là Như Lai tu Định nghiệp luân).

 

          Có Bồ Tát sau khi đă chứng đắc Diệt Tận Định, đă đắc Tịch Tĩnh Định, chẳng c̣n tu hành tiến cao hơn nữa. Nói là “thoái chuyển” v́ vị ấy ngừng ở nơi đây, cũng có nghĩa là coi như đă bị “lui sụt”. Lậu Tận (漏盡): Lậu Tậnhết sạch những ǵ? Hoặc nghiệp, tức Kiến Tư Hoặc Lậu của người ấy đă hết. Lậu đă tận, tức là chẳng c̣n [phiền năo] ṛ rỉ nữa, chẳng c̣n rơi rớt, đọa xuống tam giới, đă thành tựu Vô Sanh. A La Hán c̣n dịch là Vô Sanh, vô sanh bèn vô diệt. A La Hán tự cho rằng sở đắc của chính ḿnh đă là vô sanh, vô diệt, chẳng khác ǵ Phật, chẳng c̣n mong mỏi tiến cao hơn nữa. Đối với sáu loại thần thông, tức Thiên Nhĩ, Thiên Nhăn, Tha Tâm, Túc Mạng… vị ấy đă đạt được Lậu Tận Thông. C̣n như báo thông (報通, thần thông đạt được do quả báo) của trời, người, hay quỷ thần th́ chẳng có Lậu Tận, v́ Kiến Tư Hoặc vẫn c̣n. Phát đại tâm, [tức là] phát Bồ Đề tâm, tu theo phương thức Chỉ Quán chính là tiến tu cao hơn, chẳng hề tới đây bèn dừng lại. Ngài khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể đạt đến mức độ ấy. Bậc Sơ Phát Ư Bồ Tát hoàn toàn chẳng ngang hàng với A La Hán, ắt cần phải đạt đến Thập Địa Bồ Tát th́ mới ngang hàng với A La Hán, nhưng do đă phát đại tâm, cho nên vượt cao hơn Tiểu Thừa. V́ tâm Bồ Đề chẳng có chỗ giới hạn, vị Bồ Tát ấy sẽ chẳng ngưng dứt, nhất định mong thành Phật.

          V́ lẽ ấy, có Bồ Tát dần dần thoái chuyển, cảm thấy đạo Phật dài lâu, sanh khởi cái tâm thoái thất. Vậy th́ vị ấy sẽ chứng đắc quả A La Hán, nhập Bát Niết Bàn. C̣n bậc đại tâm Bồ Tát dần dần tăng trưởng công đức của chính ḿnh, tăng trưởng thành Ma Ha Tát, tức là Đại Bồ Tát. Nội dung của Thập Bát Bất Cộng Pháp rất dài. Tôi vừa mới nói về Nhất Thiết Chủng Trí, tu hành viên măn, tu tập đă thành công, sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, [hay nói thông dụng hơn là] “thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”.

          “Thiện nam tử”: Đây là đức Phật trả lời Địa Tạng Bồ Tát. “Ngă dĩ như thị chư nghiệp pháp thọ nhân quả báo trí” (ta dùng trí liễu giải quả báo sẽ phải thọ do cái nhân từ các nghiệp pháp như thế), “chư nghiệp” là tất cả tạo tác. Tạo tác ǵ vậy? Chính là phương pháp tu Định. Cái trước là nhân, cái sau là quả. Cho đến hết thảy Đạo Chủng Trí rốt ráo báo đền công đức đă đều viên măn rốt ráo, “quán sát tam thế chư Phật pháp nhăn, an lập hữu t́nh”, tức là dùng Phật nhăn [của tam thế chư Phật] để quan sát hết thảy. Pháp nhăn của tam thế chư Phật thấy rơ hết thảy quá khứ, hiện tại, tương lai, khiến cho hết thảy hữu t́nh, tức hết thảy chúng sanh đang trong lúc tu Định, sẽ tu tập mười loại tu Định nghiệp luân ấy. [Đó là ư nghĩa của câu] “linh kỳ tu tập” (khiến cho họ tu tập). Nhưng ở đây, phải chú trọng “tŕ lai khứ niệm” (giữ vững niệm đến đi). Đoạn kinh văn này chú trọng việc tu tập “tŕ lai khứ niệm”. “Thị danh Như Lai tu Định nghiệp luân” (đó gọi là tu Định nghiệp luân của Như Lai): Tu Định nghiệp luân, nếu thâm nhập sâu hơn một chút, sẽ là thâm nhập Chỉ Quán như kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo đă nói. Trong phần trước, đức Phật đă nêu ra tam luân [trong Phật Luân thứ hai]. Đầu tiên là tu Định nghiệp luân, loại thứ hai [sẽ được nói tiếp sau đây] là tập tụng nghiệp luân.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Vân hà Như Lai tập tụng nghiệp luân? Vị chư bật-sô, hoặc bật-sô-ni, Ổ-ba-sách-ca, Ổ-ba-tư-ca, hoặc phục tịnh tín chư thiện nam tử, hoặc thiện nữ nhân, thiện căn vi bạc, y Thế Tục Đế, căn cơ vị thục, ngă đương an trí như thị hữu t́nh, linh kỳ tập tụng, sơ dạ, hậu dạ, tinh cần vô đăi. Nhược chư hữu t́nh cầu Vô Thượng Trí, ngă đương an trí thuần tịnh Đại Thừa, linh kỳ tự độc, hoặc giáo tha độc, linh kỳ tự tụng, hoặc giáo tha tụng, linh kỳ tự thuyết, hoặc giáo tha thuyết. Ư Đại Thừa trung, linh kỳ tự tập, hoặc giáo tha tập. Vị linh tự thân, cập tha thân trung đại phiền năo tụ, giai trừ diệt cố, vị linh chứng đắc Vô Thượng Trí cố, vị trừ nhất thiết hữu t́nh khổ cố, vị linh thú nhập vô úy thành cố.

          ()善男子,云何如來習誦業輪?謂諸苾芻,或苾芻尼、鄔波索迦、鄔波斯迦,或復淨信諸善男子,或善女人,善根微薄,依世俗諦,根機未熟,我當安置如是有情,令其習誦初夜、後夜,精勤無怠。若諸有情求無上智,我當安置純淨大乘,令其自讀,或教他讀,令其自誦,或教他誦,令其自說,或教他說;於大乘中,令其自習,或教他習;為令自身及他身中大煩惱聚皆除滅故,為令證得無上智故,為除一切有情苦故,為令趣入無畏城故。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như thế nào là tập tụng nghiệp luân của Như Lai? V́ các tỳ-kheo, hoặc tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, hoặc là các thiện nam tử và thiện nữ nhân có tín tâm thanh tịnh, thiện căn mỏng nhẹ, nương theo Thế Tục Đế, căn cơ chưa chín muồi, ta sẽ an bài các hữu t́nh như thế, khiến cho họ tập tụng. Đầu đêm, cuối đêm, siêng ṛng, chẳng lười nhác. Nếu các hữu t́nh cầu Vô Thượng Trí, ta sẽ sắp đặt Đại Thừa thuần tịnh cho họ tự đọc, hoặc dạy người khác đọc, khiến cho họ tự tụng, hoặc dạy người khác tụng, khiến cho họ tự nói, hay dạy người khác nói. Khiến cho họ tự tu tập Đại Thừa, hoặc dạy người khác tu tập. V́ muốn khiến cho khối phiền năo to lớn nơi thân ḿnh và thân người khác đều trừ diệt, v́ khiến cho họ chứng đắc Vô Thượng Trí, v́ trừ khổ cho hết thảy hữu t́nh, v́ khiến cho họ tiến nhập ṭa thành vô úy).

 

          Nghiệp luân thứ hai là học tập tụng, học tập đọc như thế nào, cũng có nghĩa là đọc tụng Đại Thừa. Nếu tu Định mà chẳng có thiện căn này, sẽ chẳng đắc Định, tu chẳng thành. Quư vị hăy đọc tụng kinh điển cho nhiều, hoặc là đọc tụng kinh điển Đại Thừa, hoặc đọc tụng kinh điển của Thanh Văn và Duyên Giác Thừa, kinh điển của ba thừa đều được. Nếu quư vị tiến nhập đồng thời cả ba thừa cũng được. Tôi cảm thấy đức Phật từ Đại Thừa nói đến Trung Thừa, rồi nói đến Tiểu Thừa. Nói pháp Bồ Tát xong, bèn nói đến pháp Duyên Giác. Nói xong Duyên Giác, bèn nói đến Thanh Văn. Tùy thuộc trong ba thừa ấy, quư vị thuộc loại căn cơ nào, chủ yếu là khiến cho quư vị ĺa khổ, được vui, đoạn trừ phiền năo. Mục đích, tức tông chỉ của Ngài là nói với tứ chúng đệ tử, tức tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, Cận Sự Nam, Cận Sự Nữ. Ổ-ba-sách-ca (Upāsaka) dịch là Cận Sự Nam (近事男), Ổ-ba-tư-ca (Upāsikā) dịch là Cận Sự Nữ (近事女). Đó là tứ chúng đệ tử, [bao gồm] hai chúng tại gia và hai chúng xuất gia. C̣n có những người chưa quy y, chưa thọ pháp, hoặc là có những thiện nam tử và thiện nữ nhân có ḷng tin thanh tịnh, do căn cơ tu Định của họ trong đời quá khứ mỏng ít, thiện căn trong quá khứ chẳng dầy, sẽ chiếu theo Thế Tục Đế, chẳng y chiếu nghĩa Chân Đế.

          Trong phần trước, chúng tôi đă nói, đại khái là nương theo lẽ Chân để tu tập. Tu tập Định chính là nương theo lẽ Chân, bước đầu cũng là thế tục, dần dần sẽ tiến nhập lẽ Chân. Họ quán tâm, sẽ từ lư tánh tiến nhập. Đối chiếu giữa hai đằng, Định vốn phải từ lư tánh tiến nhập, họ lại nói chuyện này chiếu theo Thế Tục Đế, tức là căn cơ chưa chín muồi. Đức Phật khiến cho các hữu t́nh ấy học tập “tập tụng”. Tập tụng cũng có yêu cầu nhất định, hoàn toàn chẳng phải là chúng ta niệm một đoạn kinh, hoặc niệm một bộ kinh mà được coi là “tập tụng”. Chúng ta niệm quá ít, quá ngắn, đức Phật dạy họ tập tụng vào lúc đầu đêm, cuối đêm, và giữa đêm, [hay nói cách khác] bốn giờ đầu đêm, bốn giờ giữa đêm, và bốn giờ cuối đêm, tức là mười hai giờ. Trong mười hai giờ ấy, trừ bốn giờ thuộc giữa đêm có thể nghỉ ngơi đôi chút, có thể không đọc tụng. Ngoài ra, vào lúc đầu đêm và cuối đêm, đều phải siêng ṛng, chẳng lười nhác, đều phải tập tụng.

          V́ căn cơ của người ấy rất nông cạn, mỏng tanh, nhưng phát tâm rất lớn, nguyện rất lớn. Trong quá khứ, người ấy đă gieo chủng tử có căn tánh Đại Thừa. Do vậy, người ấy khẩn cầu Vô Thượng Trí. Vô Thượng Trí là mong đạt tới thành Phật. Đức Phật bảo: Ta sẽ xếp đặt sao cho kẻ đó sẽ ở nơi Đại Thừa thuần tịnh, học đọc pháp Đại Thừa, niệm kinh điển Đại Thừa, khiến cho kẻ ấy tự đọc, lại c̣n dạy người khác đọc. Nếu quư vị phát đại tâm tự đọc, mà cũng dạy kẻ khác đọc, tự học, lại c̣n dạy người khác học, có ư niệm kiêm độ chúng sanh. Hoặc là tự ḿnh tụng, hoặc là tụng kinh Pháp Hoa, hoặc tụng kinh Bát Nhă. Nếu chẳng thể đọc tụng toàn bộ Bát Nhă, bèn tụng kinh Kim Cang, hoặc tụng Tâm Kinh. Tự tụng, kiêm dạy người khác tụng. Chính ḿnh nói, hoặc dạy người khác nói. Hoặc chính ḿnh nghiên cứu, học tập kinh điển Đại Thừa, mà cũng dạy người khác học tập. Dùng phương pháp như vậy khiến cho chính ḿnh và người khác đều đọc tụng kinh điển Đại Thừa ḥng đoạn phiền năo.

          Bất luận mục đích học Phật sâu hay cạn, tập Định hay tập Huệ, tiến nhập từ phương diện Huệ, hay tiến nhập từ phương diện Định, đều phải tu Định. Đọc tụng Đại Thừa đă hàm chứa ư nghĩa tu Định, chẳng phải là vào lúc đó mới đặt bày thứ tự như thế này: Hễ lúc nào tu Định, Định sẽ thuộc địa vị cao nhất. Nếu hoàn toàn tách rời Định và Huệ, ta chỉ học tập Định, chẳng học Huệ, sẽ chẳng thể được! Chỉ tu tập Huệ, không tu tập Định, cũng chẳng được! Ắt phải là Định và Huệ cân bằng. Nhưng nói theo thứ tự th́ Định có thể sanh ra Huệ, do Huệ cũng có thể nhập Định. Khi đọc kinh, đọc đến chỗ tương ứng, chẳng có người đọc và kinh được đọc, chẳng có tướng Tự và Tha, đấy cũng là một thứ công phu thuộc về Định cảnh. Thế nhưng, tu Định cũng thế, mà tu Huệ cũng thế, đọc tụng Đại Thừa cũng thế, mà “tŕ lai khứ niệm” cũng thế, mục đích đều nhằm đoạn phiền năo. V́ phiền năo hôn trầm hay tán loạn, nếu chẳng phải là tán loạn, th́ sẽ là hôn trầm. Hễ có phân biệt, chuyện ǵ cũng đều chẳng thể thành. Tâm chẳng an, làm sao có thể thành cho được? Cái tâm chúng ta chẳng định được! Nếu chẳng có Định, quư vị đọc tụng Đại Thừa cũng chẳng định được. Quư vị ngồi ở đó, đối trước kinh bổn niệm tụng, [do tâm rong ruổi], chẳng biết niệm tới chỗ nào rồi. Niệm miết mà chính ḿnh cũng chẳng t́m được [đang niệm tới đâu], niệm đến nỗi ngủ gục. A! Niệm đến đâu rồi? Chẳng biết! Hoặc là dấy lên vọng tưởng th́ cũng là sai lầm mất rồi!

          Tôi cảm thấy chính ḿnh hoàn toàn chẳng phải là kẻ dụng công. Người thật sự dụng công vài chục năm th́ cũng phải nên có nhập xứ; hiện thời, tôi vẫn chưa được! Tôi nói thật đấy! Bất luận tu Định cũng thế, chỉ cần là đệ tử học Phật, quư vị ắt phải đoạn phiền năo. Phiền năo có nhiều lắm hay không? Quá nhiều! Tôi sao chép từ Bách Pháp Minh Môn Luận để nói với mọi người về các phiền năo; chuyện này cũng rất hữu dụng.

          “Đại, trung phiền năo” (phiền năo bậc lớn và bậc trung): “Đại phiền năo” là căn bản phiền năo. Chúng tùy thuận cái tâm quư vị, bầu bạn với tâm sở pháp của quư vị. Chỉ cần khởi tâm động niệm, phiền năo sẽ đi theo ngay! Quư vị chẳng ĺa khỏi nó được. Điều thứ nhất là do chẳng có trí huệ, vô minh, ngu si. Ngu si thường được diễn tả bằng danh xưng khác là Tà Kiến, hoặc Vô Minh, chúng ta đều có rất nhiều! Buông lung bao gồm rất nhiều thứ, chúng ta suy ngẫm th́ ai nấy đều hiểu. Buông lung, giải đăi là vào lúc giữa đêm, c̣n đầu đêm và cuối đêm đều đọc tụng Đại Thừa, [vậy th́] ban ngày quư vị làm ǵ? Hành phóng dật ư? Chẳng thể được! Một ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ, đức Phật đều dạy quư vị đọc tụng, hoặc là tu Định. Quư vị chẳng giữ giới luật, [nhưng do tu tập nghiêm ngặt như vậy], sẽ tự nhiên tŕ giới. Chúng ta ngu si, buông lung, giải đăi, chẳng tin, v́ sao chẳng khởi tâm tinh tấn? Căn bản là do tín tâm không trọn đủ! Chẳng tin tưởng lời nói của mọi người, bất luận ai nói ra cũng đều phản bác. Đă không tin, ta c̣n ngồi ở đây làm chi nữa? Ḷng tin ấy hữu hạn, hiện thời ḷng tin của chúng ta chẳng kiên định. V́ tín tâm chẳng nhạy bén, tinh tấn chẳng thể dấy lên được, nói tương đối như thế đó.

          Câu Xá Luận gọi hôn trầm và điệu cử (掉舉, trạo cử) là đại phiền năo. [Đại phiền năo] bao gồm sáu loại, tức tham, sân, si, mạn, nghi, [và ác kiến]. Từ trong ác kiến, sanh ra năm món, tức là Thân Kiến, Biên Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Cấm Thủ Kiến. [Năm món Kiến ấy cộng với tham, sân, si, mạn, nghi] thành Thập Sử phiền năo (mười món Kết Sử), là căn bản phiền năo. “Đại phiền năo” có thể hiểu là căn bản phiền năo.

          “Trung phiền năo” lại là ǵ? Có thể là Tùy phiền năo (Upakleśa). “Trung phiền năo” gồm hai mươi món phiền năo. Chúng ta chia hai mươi món phiền năo thành Đại Tùy, Trung Tùy, và Tiểu Tùy. Đại Tùy phiền năo gồm tám món; đấy cũng là Tùy Phiền Năo trong căn bản phiền năo. Bất Tín (Aśrāddhya), Giải Đăi (Kausīdya), Điệu Cử (Auddhatya, trạo cử, lao chao, xáo động), Hôn Trầm (Styāna)các Tùy tâm sở. Căn bản phiền năo tùy thuộc cái tâm. Tâm pháp gồm có tám món, tức là [các thức] nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, Mạt Na, và A Lại Da. Đó gọi là “tám tâm thức” (tám tâm vương). Tâm pháp gồm tám món, c̣n Tâm Sở Pháp gồm năm mươi mốt món. Ở đây, chúng tôi chỉ nêu ra hai mươi món, tức là Đại Tùy phiền năo gồm tám món đă được nói trên đây, tức Bất Tín, Giải Đăi, Điệu Cử, Hôn Trầm, Phóng Dật (Pramāda, buông lung), cộng thêm Thất Chánh Niệm (thất niệm, Muṣitasmṛti), Tán Loạn (Vikṣepa), Bất Chánh Tri (Asamprajanya), thành tám món Đại Tùy Phiền Năo. Bất Chánh Tri là Đại Tùy phiền năo, [gọi nó là] Đại Tùy phiền năo nhằm biểu thị nó rất nặng nề.

          Trung Tùy phiền năo rất đơn giản, thứ nhất là Tàm (, thẹn), thứ hai là Quư (, hổ)[8]. Chúng ta thường nói gộp chung thành Tàm Quư. Thật ra, Tàm là Tàm, Quư là Quư, giải thích như thế nào? Tàm là trong tâm chính ḿnh khó chịu, xấu hổ đối với chính ḿnh, trong tâm ngượng ngùng, cảm thấy ḿnh trót làm điều sai trái, chẳng nên nghĩ “có phạm giới cũng chẳng sao”, hoặc “có làm vẫn chẳng sao hết”, cho đến khi làm chuyện sai quấy, trong tâm sanh hổ thẹn. Quư là đối với người khác, đối với Tam Bảo, đối với đạo hữu, có sự hổ thẹn, có điều thẹn thuồng với chính ḿnh, xấu hổ đối với người khác. Tàm và Quư là Trung Tùy Phiền Năo. Đó là Trung Tùy Phiền Năo. Tám món Đại Tùy và hai món Trung Tùy, gộp chung lại thành mười món. C̣n có Tiểu Tùy phiền năo gồm mười món, gộp chung lại thành hai mươi món. Tiểu Tùy phiền năo gồm Phẫn (Krodha), Hận (Pradāśa), Năo (Upanāha), Phú (Mrakśa), Cuống (Māyā), Siểm (Asāṭhya), Kiêu (Mada), Hại (Vihiṃsā), Tật (Īrṣyā), Xan (Mātsarya, keo kiệt), mười món.

          Phẫn (忿) là như thế nào? Bất b́nh! Chúng ta nói “bất b́nh khiến ta kêu ca”, chẳng nhịn nổi. Nói thông tục là “chẳng nhịn tức nổi”. Chuyện này quư vị chẳng thể nhịn nổi, bất luận là xảy ra trên thân người khác, hoặc là quư vị thấy một t́nh cảnh khiến cho quư vị cảm thấy bất b́nh. Bất quá, đó là cách suy tưởng trong tâm quư vị. Hận () là có oán cừu, cho rằng người khác hại ḿnh, quư vị liền hận. Hận bèn sâu hơn một chút. Năo () có nghĩa làm quư vị buồn bực, quấy rối quư vị. Trong mỗi danh từ đều hàm chứa một ư nghĩa. Phú () có nghĩa là “che lấp”, v́ nó che lấp quư vị, khiến cho trí huệ chẳng thể phát khởi. Phú là hành vi của quư vị, hoặc chướng ngại trong tâm khiến cho trí huệ chẳng thể phát xuất. Tật () là ghen ghét. Chính ḿnh keo kiệt, tham lam, chẳng chịu xả, thấy kẻ khác bố thí, bèn dấy ḷng ghen ghét: “Kẻ đó luôn gây náo động, khiến cho ta bị khuất lấp!” Trong tâm luôn có ư nghĩ ấy, thấy người khác làm chuyện tốt, sẽ chẳng tùy hỷ, nẩy sanh ganh tỵ. Quư vị cứ làm đi! Người ấy chẳng làm, hạng người như vậy keo kiết đối với tài vật!

          Xan và Tật coi như nhẹ tội một chút! Đặc biệt là đối với pháp, người ấy chẳng để cho người khác giảng. Người khác mà giảng, kẻ đó sẽ ghen ghét liền. V́ kẻ đó có cái tâm keo tham. Khi bị đọa lạc vào ḷng keo tham đối với pháp, sẽ đọa vào ngạ quỷ đạo rất thảm. Chuyện kiểu này rất nhiều! Đối với pháp, chớ nên keo tham, chớ nên ghen tỵ, thấy người khác làm, hăy đều nên tùy hỷ, chớ nên keo tham! V́ sao phải keo tham? Keo và tham là v́ lẽ nào? Kẻ đó dùng pháp để trao đổi điều kiện trong thế gian! Hễ được giá, sẽ đối đăi b́nh đẳng: “Ta thuyết pháp cho ngươi, ngươi phải cúng dường ta. Phải xem ngươi có trả đủ giá hay không? Có đủ th́ ta mới nói, không đủ chẳng thèm nói!

          Đối với người học pháp, phải khuyên người khác đọc tụng Đại Thừa. [Thế mà] kẻ đó chẳng khuyên người khác th́ thôi, thấy người khác khuyên người ta đọc, hắn bèn nẩy ḷng ghen tỵ, “chỉ có ta là tốt, chỉ có ta là mạnh mẽ”, phun ra lời đố kỵ, thậm chí thốt lời phá hoại. “Xan” là kẻ ấy chẳng chịu làm, ta truyền dạy cách tu pháp này cho ngươi, ngươi phải cúng dường ta thật xộp đó nghe! Có vị thượng sư nói theo kiểu đó, nhưng mỗi người mỗi khác, hăy tùy thuộc tâm lực của quư vị mà cân nhắc. Có vị thượng sư nói như vậy đó, “ngươi phải đem nhiều tiền đến đây”, giống như kiểu nói tại Tây Tạng: “Ngươi dẫn một thớt ngựa tốt đến [biếu ta], ta sẽ truyền quán đảnh cho ngươi”. Tôi từng hỏi sư phụ tôi: “Điều ấy có nghĩa là ǵ?” Thầy dạy: “Gă [đệ tử] đó keo tham, yêu quư con ngựa ấy như tánh mạng, há có thể cầu pháp được ư? [Thượng sư] bảo hắn ‘đem con ngựa tặng cho ta, ta sẽ truyền pháp cho ngươi’. Hắn mà xả được th́ tu tập sẽ đạt được thành tựu. Ta chẳng cần con ngựa của hắn, đem tặng lại cho người khác”. Thế nhưng quư vị chẳng thuộc địa vị ấy, cũng chẳng có Tha Tâm Thông, hoặc chẳng có phẩm đức ấy, chớ có đ̣i hỏi người khác, hoặc là đ̣i người khác phải trả một giá tiền nhất định. Được cúng dường rất nhiều vàng, bạc, của cải để làm ǵ chớ?

          Mọi người hăy xem truyện của tôn giả Mật Lặc Nhật Ba (Milarepa)[9], sư phụ của Ngài là Mă Nhĩ Ba (Marpa)[10] yêu cầu Ngài cúng dường toàn bộ sở hữu rồi mới truyền pháp cho Ngài. Nhưng [nếu ta bắt chước làm như vậy], lời ta nói xuất phát từ keo tham, ta chẳng có bản lănh ấy, kẻ kia sẽ chẳng chịu xả, không chịu cúng dường pháp. Lừa gạt người khác, chẳng có tín nghĩa. Nói dối, siểm nịnh, quư vị rất dễ dàng nh́n ra. Phàm là bất cứ ai, đối với kẻ thấp kém hơn ḿnh, nếu lúc nổi tâm kiêu mạn, nhất định sẽ nịnh nọt kẻ bề trên của ḿnh. Kiêu ngạo đối với kẻ dưới, nhất định sẽ bợ đỡ bề trên. Trông thấy người có quyền, hoặc là có tiền bạc, nhất định kẻ đó sẽ cúi đầu, khom lưng, có ư nghĩa như thế đó. Những lời bợ đỡ, ngon ngọt ǵ hắn cũng đều tuôn ra hết. Ta có thể thấy chuyện này trên TV. Người hiện thời có bộ dạng như vậy rất nhiều, người học Phật chớ nên nịnh nọt!

          Cuống siểm (誑諂) là chẳng nói lời thành thật. Trong ấy, lại chia thành hữu ư và vô ư. Quư vị chỉ cầu lợi, v́ cái danh mà gạt gẫm người ta. Quư vị có mục đích, cái tội Cuống (, lường gạt) lại lớn hơn một chút nữa. Tùy tiện nói giỡn với người khác, hoặc nói bỡn cợt để trêu đùa, tội này sẽ nhẹ hơn nhiều. Cuống và Siểm đều thuộc loại vọng ngữ; nhưng Cuống ở đây không phải là như vậy, Cuống ở đây là cố ư, v́ danh lợi. Siểm mị (諂媚, nịnh nọt, ve vuốt) cũng v́ danh lợi.

          Hại () khá rơ ràng, hoặc là hại người, nhưng kẻ đó cứ tưởng hại người, thật ra là hại chính ḿnh. Phàm là hại người th́ cũng đâu có hại được người ta, mà trái lại thành toàn cho người ta đấy chứ! Quư vị vừa hăm hại, đâm ra khiến cho người ta tiêu tai. Mọi người đọc kinh Kim Cang, [sẽ biết]: Nếu có ai bị kẻ khác khinh miệt, tội [của người đó] trong đời trước cũng sẽ tiêu diệt. Hoặc là quư vị bị kẻ khác hăm hại, cầu c̣n không được! Kẻ đó hại quư vị, tội trong đời trước của quư vị bị tiêu diệt. Vốn đáng bị đọa địa ngục, do kẻ đó hăm hại quư vị, ngay cả địa ngục cũng chẳng bị đọa, cái tội ấy cũng tiêu mất rồi!

          Mạn () là kiêu mạn. Chữ Kiêu () trong “kiêu mạn” có rất nhiều cách giải thích. Mạn có mấy loại? Có mười loại mạn và mười loại kiêu. Tôi chỉ nói đại khái: Kẻ ấy vốn chẳng có bản lănh, vốn chẳng nên hồn, vẫn cảm thấy ḿnh ngon lành hơn người khác. Hạng người này rất nhiều! Kiến thức của kẻ đó chẳng to lớn ǵ, lại ngỡ chính ḿnh rất lỗi lạc, giỏi giang hơn bất cứ ai khác. Ai cũng bị hắn khinh rẻ. Thậm chí cho rằng: “Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng thật, ta mới là Phật thật”. Quả thật có kẻ như vậy đó, ḥa thượng kiểu đó cũng có, cư sĩ kiểu đó cũng có luôn. Trong thời đại hiện tại, thứ ǵ cũng đều có! Phẫn, hận, năo, phú, xan, tật, cuống, siểm, hại, kiêu, hiện thời chúng ta có mấy thứ? Hai mươi món Tùy phiền năo, đều là phiền năo của chúng ta. Có mấy thứ ấy, làm sao khai ngộ cho nổi? Có tu hành nổi hay không? Bất luận đọc tụng Đại Thừa cũng thế, mà tu Định cũng thế, chúng đều ngăn chướng quư vị, làm sao quư vị có thể tiến nhập cho nổi? Rất khó tiến nhập! Bất quá, đấy đều là tật xấu của chúng ta. Đức Phật dạy chúng ta có quá nhiều tật xấu, mọi người ắt phải tự ḿnh đối chiếu một phen, đừng tới đây để nghe những lời lẽ êm tai! Kinh Thập Luân có rất ít lời lẽ êm tai, càng về sau càng phức tạp. Ở đây là nói đại khái về những khuyết điểm của chúng ta. [Ở đây nhắc tới] các loại phiền năo lớn; trong phần sau, sẽ nói cặn kẽ từng điều một, chỉ ra những lầm lỗi của chúng ta đang nẩy sanh trong hiện thời.

           Nếu diệt trừ những lầm lỗi ấy th́ tốt lắm, quư vị tu Định cũng có thể tiến nhập, đọc tụng Đại Thừa cũng có thể sanh huệ. Đọc tụng Đại Thừa th́ quư vị đọc tụng kinh điển Đại Thừa, nhập Định, có lẽ trông thấy thánh cảnh. Đọc phẩm Tịnh Hạnh, sẽ thấy Văn Thù Bồ Tát, chẳng sai biệt cho mấy! Đọc phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, sẽ thấy Phổ Hiền Bồ Tát, đọc kinh Địa Tạng sẽ thấy Địa Tạng Bồ Tát. Đọc Phổ Môn sẽ thấy Quán Thế Âm Bồ Tát, thật sao? Chính do cái tâm của quư vị biến hóa. V́ cái tâm của quư vị đă định, đọc kinh, sẽ sanh khởi. Đấy là huyễn cảnh, đừng ngỡ là thánh cảnh. Nếu quư vị hơi sanh khởi Ngă Kiến, vừa chấp trước: “Ta khá quá chớ, có thể đọc kinh cảm ứng Bồ Tát hiện thân”. Đấy là kiêu, sẽ lập tức chuốc lấy phiền năo. Đó là huyễn cảnh, nếu quư vị chẳng chấp trước, cứ đọc kinh sách y như cũ, [thánh cảnh] hiện cũng được, mà không hiện cũng chẳng sao! Giống như Văn Hỷ Bồ Tát: “Ông là ông, tôi là tôi”. Khi Văn Thù Bồ Tát hiện thân trước Văn Hỷ, chiếu lư cho Sư. Sư nói: “Văn Thù là Văn Thù, Văn Hỷ là Văn Hỷ. Ông chẳng thể làm thay tôi”[11]. Có chí khí như thế đấy! Do vậy, hiện cảnh giới ǵ đi nữa, đều chẳng chấp trước, đáng nên làm ǵ th́ cứ làm, đáng nên tu hành như thế nào, quư vị cứ tu hành đúng như thế đó!

          Khi nhập Định, quư vị cũng có thể thấy rất nhiều cảnh giới. Đặc biệt là lúc mới vừa tu hành, Phật, Bồ Tát rất linh, dường như quư vị cầu ǵ cũng đều rất tương ứng. Tin lâu ngày, dường như Phật, Bồ Tát càng lúc càng xa. Trọn chẳng phải là Phật, Bồ Tát cách xa, mà là cái tâm của quư vị dấy lên biến hóa. Như người xuất gia chúng ta, xuất gia một năm th́ Phật ở trước mắt, xuất gia mười năm th́ Phật dọn qua Tây Thiên. Sau mười năm, người ấy chẳng biết nữa, Phật chẳng c̣n! Do nguyên nhân nào vậy? Sau khi học Phật, sanh khởi rất nhiều phiền năo. Vốn là thánh sự, quư vị biến nó thành phiền năo. Nơi Tục Đế c̣n chưa đủ, thêm vào Không Môn, chắc là chẳng rỗng không. Nếu thật sự chẳng không, tức là c̣n tăng thêm một cái Không nữa, Không trong hư không. Cái Không ấy rất lợi hại, khiến cho quư vị đọa lạc rất nhanh: “Chẳng có vấn đề ǵ! Không mà!” Đem toàn bộ nhân quả báo ứng một nét bút xóa sạch. Kẻ đó chẳng học Phật th́ c̣n đỡ một tí, chẳng có lá gan lớn như vậy. Sau khi học Phật, to gan lắm: “Phật nói là Không mà!” Cho nên chuyện ǵ kẻ đó cũng đều dám làm. Sau khi đă làm, chắc chắn là [tội nghiệp] chẳng không rồi! Đợi đến khi thọ khổ, bụng đau, sọ nhức, mới biết là Không chẳng được! Một tí tẹo cũng chẳng coi là Không được! Kẻ đó biết sự lợi hại, cho nên sẽ thật thà học.

          Trong phần trước, chúng tôi đă nói về tập tụng nghiệp luân, nói đến
“trung đại phiền năo tụ, giai trừ diệt cố, vị linh chứng Vô Thượng Trí cố” (các khối phiền năo to lớn trong ấy đều trừ diệt, v́ khiến cho chứng Vô Thượng Trí).  Chúng tôi nhắc lại một chút. Trong phần trước, nói về tu Định nghiệp, tức là tu Định; ở đây dạy về tập tụng nghiệp. Sợ rằng mọi người sợ tập tụng th́ nhiều, mà tu Định th́ ít. V́ chúng ta đọc kinh Kim Cang, hoặc đọc kinh Di Đà,
tập tụng là đọc tụng Đại Thừa. Thông thường, mọi người nh́n theo mặt chữ, niệm một lượt là xong. Có lúc, do thời gian rất vội vàng, dường như tăng tốc độ đọc cho lẹ hơn. Trong t́nh huống như vậy, khi đọc tụng, quư vị chẳng dễ ǵ tiến nhập. Tôi nói “không thể tiến nhập”, v́ trong khi tập tụng, chẳng thể thuận theo đạo lư trong kinh văn mà nhập Quán, chỉ chiếu theo văn tự mà đọc. Tập tụng kiểu đó, công lực kém cỏi hơn. Tập tụng kiểu đó, đoạn phiền năo sẽ có phần khó khăn!

          Tập tụng nghiệp và tu Định nghiệp giống như nhau. Nếu quư vị có thể chí tâm đọc, chẳng hạn như đọc phẩm Phổ Môn, nếu đă có thể nghe qua, đă được giảng qua th́ càng tốt hơn. Chưa được nghe giảng, hoặc là nghe vị sư phụ nào nói “đọc phẩm Phổ Môn sẽ có lợi ích”, quư vị bèn thỉnh một quyển kinh Phổ Môn để đọc như vậy. Chẳng có sư phụ truyền dạy, chẳng có ai bảo quư vị đọc như thế nào, quư vị đạt được hiệu quả sẽ kém hơn một chút. V́ sao? Trong tụng nghiệp luân, có thêm vào một chữ Tập. “Tập” () là học tập. Sau khi quư vị đă học tập rồi mới đọc. Khi quư vị tu tập tụng nghiệp luân, tức là khi ta đọc tụng Đại Thừa, chớ nên giải đăi. Đầu đêm, cuối đêm [đều phải tụng đọc]. Nay chúng ta đang thuộc thời Mạt, sợ rằng với t́nh huống thân thể của chúng sanh trong hiện thời, sẽ chẳng thể chịu đựng nổi! Mọi người chỉ đọc, hoặc là phẩm Phổ Môn, hoặc là phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, hoặc là kinh Dược Sư, hoặc kinh Di Đà, đọc một bộ là được rồi. Vậy th́ chẳng dùng đến đầu đêm và cuối đêm, chẳng trở thành vấn đề tốn thời gian quá lớn.

          Khi đọc, nhất định phải tuân theo nghi thức. Nói chung, cần phải có một lư hương. Đồng thời, tùy theo sức của quư vị lo nổi mà cúng chút hoa. Nếu chẳng thể cúng nhiều th́ một bông cũng được. Quư vị dùng một cái b́nh hoa nhỏ, đổ vào đó chút nước để dâng cúng hoa, thắp một nén hương, nghi thức ấy cần phải có. Bày kinh bổn ra, chúng ta trước hết phải đảnh lễ ba lượt. Lễ xong, mở kinh bổn ra, quư vị phải lắng ḷng một chốc. Sau đó, phải tĩnh tâm một thoáng, quán tưởng trong chốc lát. Tâm đă tĩnh, bèn mở kinh bổn ra để niệm. Niệm th́ ắt cần phải từng chữ rành mạch, phân minh. Lúc mới niệm, càng phải rơ ràng, rành rẽ. Nếu quư vị muốn thâm nhập đôi chút, bèn thuận theo kinh văn mà nhập quán.

          Nếu quư vị đọc phẩm Phổ Môn, phẩm Phổ Môn tán thán công đức của Quán Thế Âm Bồ Tát, tán thán Quán Thế Âm Bồ Tát như sau: Hễ quư vị gặp phải tai nạn ǵ, chỉ cần niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát có thể cứu khổ cứu nạn. Kinh văn dạy như thế đó. Quư vị phải biết: Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát th́ phải chí tâm; chẳng chí tâm, sẽ không thể được. Nếu quư vị biết tu Quán, khi đọc phẩm Phổ Môn, quư vị quán tưởng v́ sao Quán Thế Âm Bồ Tát phát nguyện to lớn dường ấy? Ta cũng mong học theo Ngài, đọc tụng chuyện Ngài đă làm trong quá khứ, cũng là những chuyện cũ, đó là các chuyện Quán Thế Âm Bồ Tát đă thực hiện trong quá khứ. Quư vị đọc [kinh văn dạy về] Ngài, cũng phải học theo Ngài phát nguyện.

          Khi tụng kinh, nếu thêm vào Quán, hiệu quả sẽ to lớn. Như thế th́ mới có thể đoạn phiền năo. Có các đạo hữu đă từng hỏi tôi như thế này: “Con đă tụng phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện mấy ngàn bộ. Mỗi ngày tụng một bộ, con tụng mười mấy năm, thế nhưng một tí hiệu quả cũng chẳng có”. Tôi hỏi: “Quư vị tụng như thế nào?” Người ấy thưa: “Con cầm kinh bổn lên niệm”. Đúng hay không? Đúng! Tôi nói: “Quư vị nói hiệu quả th́ là cầu hiệu quả ǵ vậy? Thoạt đầu, quư vị phát nguyện ǵ vậy?” Khi tập tụng, quư vị phát nguyện. Quư vị đọc một bộ kinh nào, hoặc là kinh Địa Tạng, hoặc đọc phẩm Phổ Môn, hay phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, như thế th́ sẽ tùy thuận Địa Tạng Bồ Tát mà phát nguyện để đọc kinh Địa Tạng. Quư vị đọc phẩm Phổ Môn, sẽ tùy thuận Quán Thế Âm Bồ Tát mà phát nguyện. Đọc phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, sẽ thuận theo Phổ Hiền Bồ Tát để phát nguyện. Quư vị tụng như vậy, hiệu quả sẽ to lớn. Nếu quư vị có thể liễu giải ư nghĩa bao hàm trong bộ kinh ấy, khi tụng, nếu chẳng dấy lên chấp trước, chẳng thấy ta là người có thể tụng, chẳng có kinh được tụng. Khi niệm kinh, đọc tụng, tâm của quư vị và kinh kết thành một thể, tâm của quư vị và Quán Thế Âm Bồ Tát kết thành một thể. Quư vị đọc bộ kinh nào, sẽ kết thành một Thể với vị Bồ Tát trong bộ kinh đó. Đó gọi là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Đấy là một phương thức đọc kinh.

          Đọc kinh xong, nhất định phải hồi hướng. Khi bắt đầu đọc th́ phải phát nguyện, đọc xong phải hồi hướng. Phải làm theo quá tŕnh nhất định, đó gọi là “tu hành”. Quư vị đọc kinh là hành Bồ Tát đạo ở ngay nơi đây, là tu hành. [Quư vị thắc mắc]: “Bản thân con ngồi ở đây niệm kinh, làm sao hành Bồ Tát đạo cho được?” Công đức đọc tụng kinh của quư vị gia tŕ, hồi hướng cho hết thảy chúng sanh, đặc biệt là chúng sanh trong ba ác đạo. Quư vị phát nguyện, hy vọng Bồ Tát gia tŕ, độ thoát họ, trừ khử tai nạn cho họ. Ư nghĩa của hồi hướng là dùng tâm lực của chúng ta, dùng sức mạnh do sự nghiệp chúng ta đă làm, hễ đạt được sự báo đáp nào, đều trao cho họ hết. Giống như chúng ta làm việc, đem tiền lương kiếm được cúng dường Tam Bảo. Sau đấy, thấy chúng sanh nghèo khổ, bèn bố thí cho họ, công đức ấy rất lớn. Nhưng quư vị chẳng biết khi đọc tụng kinh th́ cũng giống như thế. Quư vị đạt được sự báo đáp là do Bồ Tát gia bị quư vị, Tam Bảo gia tŕ quư vị, bèn mong mỏi Tam Bảo sẽ gia tŕ hết thảy chúng sanh, bất luận hữu duyên hay vô duyên. Như vậy th́ khi quư vị đọc tụng mới có thể đoạn phiền năo.

          Khi tập tụng có thể trừ diệt trung và đại phiền năo, đạt được Vô Thượng Trí. Nếu không, quư vị chiếu theo kinh văn, chỉ niệm văn tự, sẽ chẳng đạt được [hiệu quả trừ phiền năo như vậy]. Khi đọc, khi niệm, phải thêm vào sức quán tưởng, như vậy th́ mới có thể đạt được Vô Thượng Trí. Do mọi người ít tu Định, niệm kinh Dược Sư nhằm tiêu tai miễn nạn, giảm trừ đau khổ, khiến cho thân tâm khỏe mạnh, chẳng bị bệnh tật. Thậm chí nếu đă mắc bệnh, sẽ được lành bệnh, Bồ Tát gia bị lành bệnh. Quư vị đọc kinh Dược Sư cũng phải biết đọc. Đồng thời, lúc quư vị đọc, hăy thuận theo ư nghĩa của kinh văn mà nhập Quán, Định và Huệ hai đằng cùng kết hợp lại. Khi quư vị đọc, nếu tâm chẳng tạp loạn, quư vị đọc rồi sẽ có thể nhập Định. Đấy hoàn toàn chẳng phải là ngủ mê. Nếu đọc rồi hôn trầm, [tưởng rằng] cũng giống như nhập Định, vậy là lẫn lộn mất rồi! Nói đến ư nghĩa nhập Định là như quư vị đọc kinh Hoa Nghiêm, sẽ nhập vào cảnh giới Hoa Nghiêm.

          Trong quá khứ, có một vị lăo ḥa thượng là như vậy, Ngài đọc trong Định, tốc độ đọc rất nhanh, nhanh như thế nào? Ngài trên đường từ Thiên Vương Điện[12] đến đại điện, đă đọc xong một bộ kinh Hoa Nghiêm! Mọi người biết kinh Hoa Nghiêm có tám mươi quyển, Ngài mới đi một hai trăm bước như vậy mà đă đọc xong một bộ kinh Hoa Nghiêm, Ngài đọc trong Định! Nếu đọc phổ biến th́ “một chính là hết thảy”. Sau đó, vị thị giả nêu câu hỏi, không tin Ngài, t́m tám mươi người, mỗi người cầm một quyển. Tám mươi người nghe Ngài đọc kinh, lấy quyển thứ nhất nghe Ngài đọc một quyển, lấy tám mươi quyển nghe Ngài đọc tám mươi quyển, Ngài đọc thông suốt.

          Tuy chúng ta vẫn chưa đạt đến định lực ấy, nhưng chúng ta có thể thực hiện từ mức sơ khởi, nông cạn. Quư vị đọc kinh Địa Tạng, đọc được phẩm nào liền quán tưởng phẩm ấy, biết phẩm ấy có ư nghĩa ǵ, phải hiểu ư nghĩa rồi mới lại đọc, hiệu quả sẽ tốt hơn một chút. Thậm chí khi đọc kinh, đừng để chuyện vụn vặt chất chứa trong đầu. Khi đọc kinh, chớ nên dấy vọng tưởng. Khi tâm tưởng của quư vị rối beng, ngồi yên nơi đó đọc kinh, vừa đọc liền ngủ gật. T́nh huống này cũng có, đọc th́ cứ đọc, nhưng dấy vọng tưởng, hôn trầm, chẳng biết đọc đến đâu rồi. Tu Định th́ chẳng được lao chao, chẳng được hôn trầm, đọc kinh cũng phải như vậy. Chớ nên điệu cử (lao chao), mà cũng chớ nên hôn trầm. Nếu quư vị điệu cử, bộ kinh ấy sẽ xem được rất ít. Quư vị đọc trong một thời gian rất dài, vẫn đọc không xong, sẽ sanh phiền chán! Nếu gặp một bộ kinh dài, quư vị sẽ càng đọc không nổi. Đó chính là các lầm lỗi quư vị phải pḥng ngừa th́ mới có thể đạt đến Nhất Thiết Trí.

          Đọc kinh là tu Huệ, mà cũng là tu phước. Kinh Kim Cang giảng về nghĩa Không của Bát Nhă. Đọc kinh Kim Cang, phước đức to lớn. [Kinh ấy dạy đọc tụng kinh Kim Cang] công đức to hơn công đức bố thí do “dùng bảy báu chất đầy tam thiên đại thiên thế giới để cúng dường”. Đấy là phước, lại c̣n có thể sử dụng, tức là có thể dùng [cái phước ấy] để đạt được Huệ. Đó là Huệ. Phước huệ song tu th́ mới có thể đạt được trí Bát Nhă. Trong kinh văn [kinh Kim Cang], dường như không nói ǵ đến cách tu, nhưng thật ra, mỗi bộ kinh đều dạy chúng ta phương pháp. Quư vị tu tập, lúc tu tập chính là lúc học, như thế th́ quư vị mới có thể đạt được thọ dụng. Đức Phật khiến cho hết thảy chúng sanh, nếu ai có căn cơ Đại Thừa, chuyên môn tu Đại Thừa, sẽ làm cho người ấy tập đọc tụng Đại Thừa. Không chỉ là chính ḿnh học tập và đọc, mà c̣n khuyên người khác học tập và đọc. Như thế th́ sẽ có thể đạt được trí huệ vô thượng, v́ đọc kinh điển Đại Thừa, hồi hướng cho hết thảy chúng sanh, trừ hết thảy các khổ, có thể tiêu trừ tất cả khổ nạn của chúng sanh. Chính quư vị đọc, khiến cho hết thảy chúng sanh cũng đọc, khiến cho họ tiến nhập ṭa thành Vô Úy.

          “Vô Úy thành” là sau khi đă thành Phật, sẽ có tứ vô sở úy. Úy () là sợ hăi. Hiện thời, t́nh h́nh đáng sợ rất nhiều. Có rất nhiều đạo hữu đọc kinh Địa Tạng, cảm ứng bất đồng, hoặc là thấy quỷ thần, hoặc là phát lạnh. Đấy đều chẳng phải là các hiện tượng xấu! Khi đó, chúng ta phải hỏi: Người ấy có sợ hăi, chẳng dám đọc kinh nữa hay không? Vốn đọc kinh là để tiêu trừ sợ hăi, nhưng người ấy có nỗi sợ hăi, do đọc kinh mà cảm nhận sợ hăi, t́nh huống kiểu này rất nhiều! Không chỉ là kinh Địa Tạng, đọc kinh khác cũng sẽ có. Trước hết, quư vị phải hiểu rơ: Đọc tụng kinh Đại Thừa, sẽ có hộ pháp bảo vệ, lẽ nào lại có cảm giác kinh hoảng? Vốn là khi đọc kinh, có thể tiến nhập vô úy, tiến nhập chẳng sợ sệt. Tứ Vô Sở Úy của đức Phật chính là Nhất Thiết Trí Vô Úy, chướng đạo vô sở úy (chẳng sợ sệt các pháp chướng đạo). Khi quư vị tu đạo, [đức Phật] bèn nói rơ ràng các pháp chướng ngại ấy. Khi Ngài đang nói, đều vô sở úy. Chỉ có đức Phật mới có thể nói rơ ràng hết thảy các pháp chướng đạo. Quư vị muốn tu đạo, th́ Ngài ắt sẽ nói rơ ràng cho quư vị biết các pháp chướng đạo. Khi nói, Ngài chẳng hề sợ hăi. Lại c̣n có Lậu Tận Vô Úy. Lậu Tận có nghĩa là chẳng bỏ sót tam giới, cho đến chẳng bỏ sót hết thảy chúng sanh, khiến cho họ vĩnh viễn đều đạt đến giải thoát. Điều thứ tư là Tận Khổ Đạo Vô Úy, tức là nói “chấm dứt khổ đạo” không sợ hăi. Khi nói, chẳng sợ hăi. Do trí huệ, đức Phật có thể biết [cặn kẽ]. Đó là cầu Đại Thừa. Cầu Đại Thừa th́ phải mong nhập Phật trí, đạt đến cảnh giới của Phật, trừ khổ cho hết thảy chúng sanh. Khi đọc tụng kinh điển Đại Thừa, sẽ có thể đạt được các lợi ích ấy. Chuyện này giống hệt như cầu lợi ích đắc Định trong phần trước.

 

          (Kinh) Nhược chư hữu t́nh cầu Duyên Giác thừa, ngă đương an trí chư duyên khởi pháp, linh kỳ tập tụng. Nhược chư hữu t́nh cầu Thanh Văn thừa, ngă đương an trí bách thiên văn tụng Tứ A Cấp Ma, bách thiên văn tụng Tỳ Nại Da Tạng, bách thiên văn tụng A Tỳ Đạt Ma, cập Tỳ Bà Sa, linh kỳ tập tụng. Thiện nam tử! Thị danh Như Lai tập tụng nghiệp luân.

          ()若諸有情求緣覺乘,我當安置諸緣起法,令其習誦。若諸有情求聲聞乘,我當安置百千文頌四阿笈摩,百千文頌毗奈耶藏,百千文頌阿毗達磨,及毗婆沙,令其習誦。善男子,是名如來習誦業輪。

          (Kinh: Nếu các hữu t́nh cầu Duyên Giác thừa, ta sẽ xếp đặt các pháp duyên khởi để họ tụng tập. Nếu các hữu t́nh cầu Thanh Văn thừa, ta sẽ an bài trăm ngàn văn tụng Tứ A Cấp Ma, trăm ngàn văn tụng Tỳ Nại Da Tạng, trăm ngàn văn tụng A Tỳ Đạt Ma và Tỳ Bà Sa để họ tập tụng. Này thiện nam tử! Đó gọi là tập tụng nghiệp luân của Như Lai).

 

          Nếu kẻ đó chẳng phải là căn khí Đại Thừa, đọc tụng Đại Thừa sẽ chẳng thể tiến nhập, đức Phật liền nói Duyên Giác Thừa. Duyên Giác Thừa là pháp Thập Nhị Nhân Duyên. Mười hai pháp nhân duyên ấy cũng có thể nói là “pháp duyên khởi”. Thấy hết thảy sự vật sanh diệt, biến hóa, biết v́ sao phải thọ khổ? V́ sao sẽ hưởng vui? Đương nhiên, chứng Tịch Diệt là vui, luân hồi trong sanh tử là khổ. V́ duyên theo sự biến hóa của hết thảy sự vật, từ trí huệ của vị ấy, có thể sanh khởi sự giác ngộ, sanh ra trí huệ. Vị ấy thấy cây cối đă xanh lại vàng, bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, cho đến thọ mạng của con người dài ngắn khác nhau. Đối với những chuyện đó, vị ấy dụng tâm nghiên cứu, t́m ra nguyên nhân. Hai cái nhân trong quá khứ sanh ra khổ quả trong hiện tại, Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục Nhập, Lục Nhập duyên Xúc. Khi đức Phật thuyết pháp, tức là lúc có Phật xuất thế, Duyên Giác sẽ nương theo pháp nhân duyên do đức Phật đă nói mà khai ngộ. Lúc chẳng có Phật ra đời, chính vị ấy thấy hết thảy sự sanh diệt, biến hóa mà ngộ đạo, bèn gọi là Độc Giác. Cũng có trường hợp do thiện căn trong quá khứ, đối với loại chúng sanh này, bèn nói pháp nhân duyên, nói pháp duyên khởi, dạy họ niệm loại kinh này.

          Nếu là Thanh Văn Thừa th́ sao? Xếp đặt cho họ hàng trăm ngàn văn trường hàng và kệ tụng của Tứ Cấp Ma. Tứ A Cấp Ma chính là Tứ A Hàm (Catvāri Āgama), có kinh Trường A Hàm (Dīrgha Āgama), kinh Trung A Hàm (Madhyama Āgama), kinh Tăng Nhất A Hàm (Ekottara Āgama), và kinh Tạp A Hàm (Saṃyukta Āgama). A Hàm (Āgama) có nghĩa là “truyền thừa thánh điển về giáo pháp của đức Phật”. Đấy là trong thời đại khởi nguyên của Phật giáo, đệ tử Phật và các tín đồ đă dùng h́nh thức văn tự giống như thơ và các câu văn ngắn gọn, đơn giản để truyền lại những lời đức Phật chỉ dạy và các pháp do Ngài đă nói mà họ đă được nghe thấy. H́nh thức thơ ca đều là truyền miệng, chẳng giống như chúng ta dùng văn tự để ghi lại. Vào thời điểm ấy, toàn là truyền miệng, trực tiếp khẩu truyền. Như vậy bèn gọi là “chân truyền”. V́ phải tích cực truyền thừa, cho nên mới dần dần phát triển thành h́nh thức truyền tụng. Do vậy, họ dùng văn tự ngắn gọn để ghi chép lại. Vào thời điểm ấy, tại Ấn Độ toàn dùng h́nh thức thi ca. Văn tự để tụng do đó mà có. Đấy là duyên khởi h́nh thành kinh A Hàm.

           Trường A Hàm có tất cả hai mươi hai quyển. Trong ấy có bốn phần, gồm ba mươi bộ kinh văn. Quyển thứ nhất ghi chép những điều liên quan đến cuộc đời đức Phật. Phần thứ hai là tu hành, là kinh điển liên quan đến giáo lư. Phần thứ ba là ngoại đạo chất vấn, tranh luận với nhau, đả phá các tà tri, tà kiến của ngoại đạo. Phần thứ tư nói về đạo lư sanh, trụ, dị, diệt, thành, trụ, hoại, không của thế giới này. Nói chung, Tứ A Hàm đều có những ư nghĩa đó.

          Trung A Hàm chỉ dạy Tứ Đế (Catvāri Āryasatyāni), thập nhị nhân duyên (Pratītya-samutpāda-aṅga), hoặc là nêu thí dụ, cũng chính là những lời lẽ khi đức Phật và các đệ tử luận nghị, cho đến những việc mà các Ngài đă làm. Giống như khi chúng ta tụng kinh chỉ là ngôn ngữ, nhưng Trung A Hàm dạy chúng ta cách hành như thế nào, tức là phương pháp tu hành. Do vậy, kinh này thuộc về Hành. Nương theo ngôn ngữ chỉ dạy mà hành tŕ, cho nên thuộc về Hành.

          Tăng Nhất A Hàm là nói theo con số. V́ khi tu theo bộ kinh điển này, cứ mười số th́ tăng thêm một, bèn có mười một pháp. Cứ mười pháp lại tăng thêm một, chữ Tăng Nhất (增壹) có ư nghĩa như thế đó. Kinh có năm mươi quyển, lại tăng thêm một quyển, nên thành năm mươi mốt quyển.

          Tạp A Hàm ghi chép rất nhiều loại hỗn hợp, chẳng thuộc loại kinh văn dài, chẳng phải là cùng một nghĩa lư, mà là rất nhiều nghĩa lư.

          Vậy th́ nguyên thủy Phật giáo có bốn loại kinh điển, tức Tứ A Hàm. Thuận theo kinh văn, tôi nói đại khái với mọi người đôi chút. “An trí bách thiên văn tụng A Cấp Ma, bách thiên văn tụng Tỳ Nại Da Tạng” (xếp đặt trăm ngàn văn tụng A Cấp Ma, trăm ngàn văn tụng Tỳ Nại Da Tạng): “Tỳ Nại Da” (Vinaya) là Luật Tạng, chuyên nói về giới luật. Giới là quy củ, là pháp luật mà đệ tử Phật phải nên tuân thủ. Sở dĩ gọi là “giới luật”, chẳng gọi là pháp luật, v́ nó có hai loại là Tŕ và Giá. “Tŕ” là đáng nên làm, có Chỉ Tŕ và Tác Tŕ. Chỉ Tŕ là không được phép làm. Tác Tŕ là nhất định phải làm, cần phải làm; quư vị chẳng làm, sẽ phạm giới. Bảo quư vị đừng nên làm, mà quư vị cứ khăng khăng làm th́ cũng phạm giới. Cần phải chia ra thành hai loại Chỉ và Tác, trong ấy, nói rất nhiều điều. Như mọi người rất quen thuộc Tam Quy. Tam Quy có nói giới hay không? Tam Quy cũng là giới. Quy y Phật nhằm ngăn che quư vị quy y ngoại đạo. Sau khi đă quy y Phật, chẳng thể quy y thiên ma, ngoại đạo nữa. Sau khi đă học Phật, nhất định phải tŕ tụng Tam Bảo, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Đấy là Tác Tŕ. Chẳng thể quy y ngoại đạo, chớ nên xem điển tịch của ngoại đạo. Khi quy y Pháp, chớ nên xem điển tịch của ngoại đạo. Đó là Chỉ Tŕ. Nhất định phải đọc kinh Phật là Tác Tŕ. Mỗi điều đều là như thế. Khi quy y Tăng, Tăng là tăng nhân, cũng là hết thảy người xuất gia, quư vị chẳng thể quy y tà đạo, đó lại là Chỉ Tŕ.

          Phàm là trong giới luật, đối với bộ phận giới luật của Thanh Văn Thừa th́ giới tỳ-kheo gồm hai trăm năm mươi điều. Cả hai trăm năm mươi giới điều đều chẳng phạm, đă tŕ thanh tịnh, nhất định sẽ chứng đắc quả A La Hán. Đấy là nói kể từ ngày thọ giới trở đi, một mực chẳng phạm. Nếu quư vị trót phạm, theo đúng pháp sám hối th́ là Tác Tŕ. Có pháp Yết Ma, tức là [những cách thức] dạy cho quư vị [sám hối, phát lộ] như thế nào, bèn làm như thế ấy. Quư vị đă phạm tội, phạm vào điều giới nhỏ, rất nhẹ mỏng, đă sám hối, bèn được thanh tịnh, khôi phục thanh tịnh, đó là Tác Tŕ. [Cách thức phát lộ, thưa bày trước Tăng đoàn, chân thành sám hối] gọi là pháp Yết Ma.

          A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma) thuộc về Luận Tạng. [A Cấp Ma, Tỳ Nại Da, và A Tỳ Đạt Ma] là Kinh, Luật, Luận. Trong nguyên thủy Phật giáo, kinh A Hàm là Kinh, A Tỳ Đạt Ma là Luận. Kinh, Luật, Luận là Tam Tạng. Tỳ Bà Sa (Vibhāṣā) là luận được phê b́nh, chú giải cũng rất nhiều[13]. Đối với người học Duyên Giác hay Thanh Văn, sẽ dạy họ tập tụng những thứ đó.

          “Thị danh Như Lai tập tụng nghiệp luân” (đó gọi là tập tụng nghiệp luân của Như Lai): Trên đây đă nói tập tụng như thế nào? Niệm những thứ ấy. Quư vị tự cảm thấy loại nào thích hợp với chính ḿnh. Quư vị đọc kinh Tứ A Hàm, cảm thấy rất hay, vậy th́ quư vị đọc kinh Tứ A Hàm. Quư vị đọc kinh điển Đại Thừa, kinh Kim Cang, kinh Di Đà, cảm thấy rất hay, hăy đọc kinh điển Đại Thừa. Sau khi quư vị quy y một vị sư phụ nào đó, rất ít người hướng về sư phụ thỉnh pháp: “Thưa sư phụ! Con nên đọc kinh ǵ là tốt nhất?” Rất ít người hỏi về vấn đề này. Thọ Tam Quy xong là bỏ đi, ngay cả niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng đều chẳng niệm, c̣n đọc kinh ǵ nữa! Họ chẳng thỉnh cầu chuyện ấy! Nếu có thỉnh cầu, sư phụ sẽ giảng cặn kẽ đôi chút. Có vị sư phụ chẳng nói với quư vị; quư vị chẳng hỏi, thầy cũng chẳng nói. Quư vị đă thọ Tam Quy, có khi c̣n muốn thọ Ngũ Giới. Thọ Ngũ Giới th́ [sư phụ] nhất định phải giảng cho quư vị. Giảng ư nghĩa Tam Quy cho quư vị, tức là quư vị từ đấy về sau đừng quên niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Nhất định phải giảng những điều ấy; đó là tập tụng.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Vân hà Như Lai doanh phước nghiệp luân? Vị chư hữu t́nh căn cơ ngu độn, vị chủng thiện căn, trí huệ vi liệt, giải đăi, thất niệm, nhiễm trước chủng chủng thọ dụng tư cụ, viễn ly thiện hữu, ngă đương an trí như thị hữu t́nh, sử doanh phước nghiệp, vị linh tu tác Phật, Pháp, Tăng sự, cập thân giáo sư, quỹ phạm sư sự. Thiện nam tử! Thị danh Như Lai doanh phước nghiệp luân.

          ()善男子,云何如來營福業輪?謂諸有情,根機愚鈍,未種善根,智慧微劣,懈怠失念,染著種種受用資具,遠離善友,我當安置如是有情,使營福業,謂令修作佛、法、僧事,及親教師、軌範師事。善男子,是名如來營福業輪。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như thế nào là doanh phước nghiệp luân của Như Lai? Tức là các hữu t́nh căn cơ ngu độn, chưa gieo thiện căn, trí huệ kém ít, lười nhác, thất niệm, nhiễm đắm nơi hưởng thụ các vật dụng, xa ĺa bạn lành, ta sẽ sắp xếp cho các hữu t́nh như thế, khiến cho họ chăm lo tu tạo phước nghiệp, tức là khiến cho họ phụng sự Phật, Pháp, Tăng, và phụng sự các vị thân giáo sư, quỹ phạm sư. Này thiện nam tử! Đó gọi là doanh phước nghiệp luân của Như Lai).

 

          Nếu tu Định chẳng được, tập tụng cũng chẳng tập tụng được, Như Lai c̣n có pháp môn phương tiện. Có pháp môn phương tiện ǵ vậy? Doanh phước nghiệp luân. Nghiệp là Tác (làm). Quư vị làm đôi chút phước đức, tức là tu phước. Đấy là nói tới một loại hữu t́nh, căn tánh rất độn, chẳng thể đọc kinh, càng chẳng thể tu Định, ngu dốt, chậm lụt, chẳng có trí huệ. V́ trong quá khứ, họ chẳng gieo thiện căn, trí huệ rất kém thiếu, rất kém cỏi, mà cũng có nghĩa là chẳng có trí huệ. Vậy th́ họ biểu hiện thành lười nhác, thất niệm. Mọi người đều thất niệm dễ dàng! Chúng ta có khi cầm xâu chuỗi, hễ lần chuỗi th́ nghĩ tới Phật, Pháp, Tăng. Buông xâu chuỗi xuống liền quên bẵng. Cầm lấy xâu chuỗi mới niệm. Nói đến “niệm” th́ là niệm nào cũng đều chẳng quên Tam Bảo, hoặc là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng đều được. Quư vị chuyên niệm Phật cũng được. V́ kẻ đó trí huệ kém cỏi, thiện căn lại ít, những lúc thất niệm sẽ càng nhiều hơn. Họ chấp trước sự hưởng thụ, mong hưởng thụ hết thảy những vật dụng trong cuộc sống. Họ thà đi đánh tám ván mạt chược, bảo họ đến nghe giảng kinh ở đây một buổi chừng một tiếng rưỡi thôi, họ cảm thấy rất khổ. Mỗi người có sở thích khác nhau. Như chỉ lấy giảng kinh làm thí dụ, kẻ không tin Phật th́ không cần nói đến, đối với đệ tử Phật chúng ta, quư vị bảo họ vui chơi, tinh thần họ tràn đầy hăng hái, bảo họ niệm kinh, hoặc là tu Định, họ sẽ uể oải. Đối với thân thể hay vật dụng cần thiết cho cuộc sống, họ sẽ giữ rất kỹ, chẳng lười nhác, rất tinh tấn, hoàn toàn tương phản! Đấy là v́ họ tham ái, có dục vọng đối với thế giới này.

          Đồng thời, cũng là do chẳng có “thiện hữu” (bạn lành) giúp đỡ họ. Được gọi là “thiện hữu” bao gồm quư vị, hoặc là quan hệ vợ chồng, hoặc quan hệ bạn bè, hoặc quan hệ lục thân quyến thuộc. V́ chúng ta có một người lục thân quyến thuộc tin Phật, người ấy sẽ khuyên quư vị tin Phật, mong dẫn dắt quư vị tin Phật. Do người ấy, quư vị có cơ hội tin Phật. Nếu chẳng có nhân duyên ấy, chẳng gặp vị thiện hữu ấy, cho đến giữa các bạn đạo giúp đỡ lẫn nhau, nhắc nhở lẫn nhau, khiến cho quư vị tu hành, chẳng giải đăi. Giải đăi là nói tương phản với tinh tấn, thất niệm là nói tương phản với chánh niệm. Chẳng có thiện hữu, sẽ giống như loại hữu t́nh [ngu si, độn căn đang nói ở đây]. Đức Phật dạy: “Ta sẽ an bài cho họ, khiến cho họ chăm lo tu phước”. “Doanh phước” (營福) chính là tu tập, tích cóp chút phước. Niệm Phật, niệm Pháp, hoặc là đến chùa miếu làm việc thiện, hoặc sửa chùa, tham gia tu tập, giống như rất nhiều đạo hữu làm nghĩa công (義工, làm thiện nguyện, hoặc làm công quả), tùy thuộc quư vị hồi hướng phước nghiệp ấy như thế nào. Tuy là thực hiện phước nghiệp rất bé, quư vị phải hồi hướng, khuếch trương nó thành to lớn. Chuyện này liên quan đến ư niệm.

          C̣n có những vị sư phụ mà quư vị thọ quy y, hoặc là thân giáo sư, hoặc quỹ phạm sư, khi họ hiện hữu, hăy làm thị giả cho họ, hoặc là chăm sóc họ. Khi họ tu hành, quư vị làm chút việc cho họ, đấy đều là “doanh phước” (chăm lo tu phước). Chăm lo tu phước th́ ở trong chùa đỡ đần cho chư tăng. Vậy th́ các vị cư sĩ tại gia, tức các vị Ưu-bà-tư-ca, Ưu-bà-sách-ca, cũng chính là Cận Sự Nam, Cận Sự Nữ. Cận Sự Nam và Cận Sự Nữ chính là doanh phước. Bước đầu tiên là đối với vị thân giáo sư của chính ḿnh, nói thông thường, vị thân giáo sư là ḥa thượng, cũng có nghĩa là vị ḥa thượng mà quư vị thọ giới, hoặc các vị Yết Ma, Giáo Thọ, Quỹ Phạm Sư, Dẫn Lễ Sư truyền giới cho quư vị đều được kể vào trong ấy. Quư vị làm chút việc cho họ. Nếu quư vị tu Định chẳng thành, đọc kinh cũng chẳng thành, vậy th́ quư vị hăy làm đôi chút việc tốt. Nếu quư vị làm thầy hương đăng trước bàn Phật, hoặc nếu trong nhà quư vị có thờ tượng Phật, mỗi ngày quư vị lau dọn bàn thờ, thắp hương, đó đều là những chuyện doanh phước. Chuyện doanh phước rất nhiều; đó là thành tựu Phật Luân thứ hai của Như Lai.

         

          (Kinh) Thiện nam tử! Ngă thành như thị đệ nhị Phật Luân. Do thử luân cố, dĩ kỳ vô thượng tam thế nghiệp trí, như thật liễu tri nhất thiết hữu t́nh chư nghiệp pháp thọ nhân cập quả báo, tùy kỳ sở ưng, lập tam nghiệp luân, thành thục nhất thiết sở hóa hữu t́nh, đắc an ổn trụ, đắc vô kinh khủng, đắc vô sở úy, tồi chư thiên ma, ngoại đạo tà luận, chuyển đại phạm luân, thành đại phạm hạnh, như thật liễu tri chúng sanh nhân báo.

          ()善男子,我成如是第二佛輪。由此輪故,以其無上三世業智,如實了知一切有情,諸業法受因及果報,隨其所應立三業輪,成熟一切所化有情,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,摧諸天魔外道邪論,轉大梵輪,成大梵行,如實了知眾生因報。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật Luân thứ hai như thế. Do v́ luân ấy, dùng vô thượng tam thế nghiệp trí, đúng như thật biết rơ các nghiệp pháp thọ nhân và quả báo của các hữu t́nh, tùy theo căn tánh của mỗi hữu t́nh mà lập ra ba nghiệp luân để thành thục hết thảy các hữu t́nh được hóa độ, khiến cho họ trụ trong an ổn, được chẳng kinh hoàng, được chẳng sợ hăi, dẹp tan tà luận của thiên ma và ngoại đạo, chuyển đại phạm luân, thành tựu đại phạm hạnh, đúng như thật biết rơ nhân và báo của chúng sanh).

 

          “Do thử luân cố, dĩ kỳ vô thượng tam thế nghiệp trí, như thật liễu tri nhất thiết hữu t́nh chư nghiệp pháp thọ nhân cập quả báo” (Do v́ luân ấy, dùng vô thượng tam thế nghiệp trí, đúng như thật biết rơ các nghiệp pháp thọ nhân và quả báo của các hữu t́nh): “Tam thế nghiệp trí” là nói đến đức Phật. Đối với ba đời quá khứ, vị lai và hiện tại, Ngài đều có thể biết rơ nghiệp ba đời, đều biết đúng như thật nghiệp của hết thảy chúng sanh. Hết thảy chúng sanh trong quá khứ, hiện tại, tương lai đă làm những ǵ, đă tạo những ǵ, đă gieo nhân nào, nay phải hứng chịu quả báo, đức Phật đều biết rơ đúng như thật. Do vậy, sẽ “tùy cơ ứng hóa”, tùy theo lẽ đáng nên, tức là thích ứng với căn cơ của họ mà lập ra ba loại nghiệp luân. Có thể nói “tam nghiệp luân” chính là ba nghiệp luân trên đây, tức định nghiệp, tập tụng nghiệp, và doanh phước nghiệp, thuận theo căn cơ, thấy họ thích hợp loại nào, tức nghiệp luân nào, bèn dạy họ hăy nương theo nghiệp luân ấy để tu, khiến cho hết thảy các chúng sanh được đức Phật hóa độ đều có thể được an ổn. “An ổn” có nghĩa là chẳng bị khổ nạn, chẳng kinh hoảng, chẳng sợ sệt v́ tam ác đạo, khiến cho họ chẳng sợ hăi. Đọa vào ba ác đạo là khổ, thậm chí chẳng cần nói đến chuyện đọa vào ba ác đạo, dẫu là làm người, như trong hiện thời mọi người đều là người, tức là nói theo nhân đạo, th́ hiện thời chúng ta đều là đệ tử Phật, thuộc về tứ chúng đệ tử, quư vị có hoảng sợ, sầu lo hay không? Mỗi ngày đều phải lo được, lo mất, có hoảng sợ, v́ sao vậy? Quư vị chẳng tu Định nghiệp tốt đẹp. Thậm chí đối với cái luân thứ ba, phước đức cũng chẳng đủ, phước nghiệp cũng chẳng đủ!

          Đức Phật không như vậy. Ngài thành tựu, đối với hết thảy chúng sanh, biết đúng thật thiện căn của chúng sanh sâu hay cạn, cũng như biết họ đă tạo nghiệp dầy hay mỏng. Nghiệp đă tạo là thiện nghiệp hay ác nghiệp, đă gieo cái nhân có sâu hay không? Có lớn hay không? Cho đến đối với quả báo họ đang lănh nhận, có khổ nạn hay không? Có sợ hăi hay không? Biết quư vị có nỗi sợ hăi. V́ quư vị có sợ hăi, đức Phật sẽ dạy quư vị phương pháp trừ sợ hăi, tức là ba nghiệp luân như vừa mới nói. Trong ấy, bao gồm cách tu tập Định, có bao nhiêu loại Định? Cho đến đối với tập tụng, tập tụng quá nhiều! Tùy thuộc quư vị [ưa thích] đọc tụng loại kinh nào. Doanh phước rất rộng! Hiện thời, mọi người đều mong tưởng đủ loại thiện căn; đối với chuyện đọc tụng kinh điển Đại Thừa, chúng ta cũng biến thành tu phước! Tuy quư vị chẳng đạt được huệ, đọc tụng kinh điển vẫn là có phước đức, ngay cả phước đức được nghe danh tự cũng chẳng dễ dàng! Đối với thiện căn trong quá khứ, đức Phật có trọn đủ Nhất Thiết Chủng Trí, Ngài đều có thể biết, khiến cho quư vị chẳng c̣n kinh sợ nữa, khiến cho quư vị rốt ráo thành Phật, cũng có thể giống hệt như Ngài, cũng có thể đập tan tà luận của hết thảy thiên ma và ngoại đạo.

          “Chuyển đại phạm luân”: “Phạm” () có nghĩa là thanh tịnh. Có thể đạt tới thanh tịnh, như vậy th́ những nghiệp quư vị đă làm, đă tu hành, đều có thể trở thành phạm hạnh thanh tịnh. “Phạm hạnh” có nghĩa là thanh tịnh. Nói theo phía đức Phật, đức Phật chuyển đại pháp luân, chuyển thanh tịnh pháp luân. Ngài có thể đúng như thật biết nhân duyên quả báo của hết thảy chúng sanh.

 

          (Kinh) Thiện nam tử, như Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương thành thiện xảo trí, quán sát nhất thiết sa-môn, Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Phiệt-xá, Thú-đạt-la đẳng, chủng chủng công đức, đa văn, dũng kiện, công xảo kỹ nghệ. Nhược chư chúng sanh phú hữu công đức, thành xảo tiện trí, tinh tấn, dũng mănh, kiên cố bất thoái, chủng chủng phước đức nhi tự trang nghiêm.

          ()善男子,如剎帝利灌頂大王,成善巧智,觀察一切沙門、婆羅門、剎帝利、筏舍、戍達羅等種種功德,多聞、勇健、工巧、技藝。若諸眾生,富有功德成巧便智,精進勇猛堅固不退,種種福德而自莊嚴。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi đă được quán đảnh thành tựu trí thiện xảo, quan sát các thứ công đức, đa văn, dũng kiện, tài nghệ hay khéo của hết thảy sa-môn, Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Phiệt-xá, Thú-đạt-la v.v… Nếu các chúng sanh giàu có công đức, thành tựu trí phương tiện thiện xảo, tinh tấn, dũng mănh, kiên cố chẳng lui sụt, có đủ loại phước đức để tự trang nghiêm).

 

          Dùng vương luân này để tỷ dụ Phật Luân thứ ba. Chúng ta đă nói Phật Luân thứ nhất và thứ hai, nay nêu lên vương luân thứ ba của vua Sát-đế-lợi. Trước là tỷ dụ, sau là pháp. Pháp là nói về Phật Luân, đó là pháp. Dùng Sát-đế-lợi trong thế gian, đấy cũng là quư tộc trong bốn loại chủng tánh của Ấn Độ. Sau khi ông ta được quán đảnh, tiếp nhận vương vị, thành tựu trí phương tiện thiện xảo. Vua xem xét nhân dân trong nước, quan sát hết thảy. Sa-môn (Śramaṇa) là người xuất gia. Sa-môn ở đây bao gồm cả xuất gia Bà-la-môn, không phải chỉ là hàng xuất gia của Phật giáo. Bà-la-môn cũng có người xuất gia. Các ngoại đạo khác cũng có người xuất gia. Họ dùng chữ Sa-môn để gọi chung. Sa-môn dịch nghĩa là Cần Tức (), tức là “cần tu Giới, Định, Huệ, tức diệt tham, sân, si” (siêng tu Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham, sân, si). Nếu nói rộng về các ư nghĩa được bao hàm trong từ ngữ Sa-môn, sẽ có rất nhiều cách giải thích. Nói chung th́ có ư nghĩa như vậy.

          Ấn Độ có bốn loại chủng tánh (Vara) ở ngoài sa-môn, bốn loại nào vậy? Chính là Bà-la-môn (Brāhmaṇa), Sát-đế-lợi (Kṣatriya), Phiệt-xá (Vaiśya), Thú-đạt-la (Śūdra). Bà-la-môn giống như người đọc sách tại Trung Hoa, ở Ấn Độ th́ gọi là “học giả”, tức là người có học vấn. Sát-đế-lợi là quư tộc, là ḍng dơi vua chúa. Phiệt-xá bao gồm giới công thương nghiệp, cũng là sĩ, nông, công, thương. Phiệt-xá phần nhiều là nói về thương nhân. Thú-đạt-la là chủng tánh hạ tiện, tức là những kẻ làm đồ tể, nô bộc. Bốn loại chủng tánh cộng thêm sa-môn là toàn thể nhân dân trong nước. Quốc vương đối với nhân dân trong nước có mấy loại chủng tánh, nhà vua đều biết tài năng như thế nào để khiến cho họ vun bồi phước, như thế th́ mới thích hợp với sự nghiệp của họ.

          “Chủng chủng công đức, đa văn, dũng kiện, công xảo kỹ nghệ” (các thứ công đức, đa văn, mạnh mẽ dũng cảm, tài nghệ khéo léo): Đấy là nói tùy thuộc loại người như thế nào, bèn đối đăi đúng lẽ như thế đấy. Sau đó, vua sẽ phân phối, ban cho họ trân bảo, tiền tài, thóc gạo, ruộng đất, nhà cửa, nô tỳ, tôi tớ. Do vậy, vua cũng quan sát những người ấy, hạng người nào có công đức lớn, đáng nên hưởng thụ như thế nào, loại người nào đa văn, có trí huệ. Đa văn là học tập rộng răi. Đa văn là nói đến học tập, không hoàn toàn là nói về học tập Phật pháp. Như Thú-đạt-la, căn bản là họ cũng chẳng học Phật pháp, có những kẻ không tin Phật. “Công xảo kỹ nghệ” là Công Xảo Minh, Công Xảo (, hay khéo) là như thương nhân. Phiệt-xá bao gồm công nhân, có kỹ thuật, hội họa, trang hoàng, tu bổ, đều được gộp vào trong ấy. Chữ “kỹ nghệ” bao gồm rất nhiều thứ. Giả sử đối đăi với những người có công đức, có trí huệ ấy (bất quá ở đây là nói những người hành xử rất thông minh, đừng lẫn lộn với trí huệ trong nhà Phật).

          “Thành xảo tiện trí” (thành tựu trí phương tiện thiện xảo): Vị vua quán đảnh này đối với sa-môn, Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Phiệt-xá, và Thú-đạt-la, tức năm loại người trong nước, [xét thấy] công đức của họ lớn hay nhỏ, năng lực mạnh hay yếu, kỹ thuật cao hay thấp, giả sử là người có công đức rất dồi dào, tức là công đức rất lớn, đấy là một loại, hoặc là có phương tiện rất hay khéo, rất thông minh tức là rất lanh lợi, hoặc là có những sự vụ cống hiến rất lớn đối với quốc gia, tinh tấn, dũng mănh, cho đến hễ làm chuyện ǵ, họ đều kiên cố chẳng lui sụt, dùng phước đức của chính ḿnh để trang nghiêm. Như vậy th́ vị vua quán đảnh ấy sẽ căn cứ theo nhu cầu, trí huệ, phẩm đức và năng lực của họ lớn hay nhỏ. Giống như tiền lương trong hiện thời, quư vị có thể làm chuyện ǵ, năng lực mạnh sẽ kiếm được nhiều tiền, năng lực kém sẽ kiếm ít hơn!

 

          (Kinh) Thử Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương, tùy bỉ sở ưng, cấp thí trân bảo, tài cốc, điền trạch, nô tỳ, bộc sử. Ư tự quốc độ, nhược chư chúng sanh, đức nghệ khinh vi, công nghiệp tiễn bạc, thử Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương, tùy bỉ sở ưng, vi gia chẩn tuất. Ư tự quốc độ, nhược chư chúng sanh, công đức bạc liệt, thiểu ư tinh tấn, giải đăi, lăn nọa, vong thất chánh niệm, vô từ bi tâm, bất tri ân báo. Ư hậu thế khổ, bất kiến bố úy, một cư gia nê, tích chư ác hạnh, thử Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương, tùy bỉ sở ưng, chủng chủng trích phạt, hoặc dĩ ngôn giáo khổ thiết ha trách, hoặc đoạt chủng chủng trân bảo, tư tài, hoặc đoạt thọ dụng như ư sản nghiệp, hoặc phạt tiên trượng, hoặc cấm lao ngục, hoặc đoạn chi tiết, hoặc trảm thân thủ. Như thị vô lượng tùy ưng trích phạt.

          ()此剎帝利灌頂大王,隨彼所應,給施珍寶、財谷、田宅、奴婢、僕使。於自國土,若諸眾生,德藝輕微,功業鮮薄;此剎帝利灌頂大王,隨彼所應,微加賑恤。於自國土,若諸眾生,功德薄劣,少於精進,懈怠懶惰,忘失正念,無慈悲心,不知恩報,於後世苦不見怖畏,沒居家泥,積諸惡行;此剎帝利灌頂大王,隨彼所應,種種謫罰,或以言教苦切呵責,或奪種種珍寶資財,或奪受用如意產業,或罰鞭杖,或禁牢獄,或斷支節,或斬身首,如是無量隨應謫罰。

          (Kinh: Vị đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi đă được quán đảnh ấy tùy theo lẽ đáng nên mà ban thí trân bảo, tiền tài, gạo thóc, ruộng đất, nhà cửa, nô tỳ, tôi tớ. Trong cơi nước của ḿnh, nếu các chúng sanh, đức hạnh lẫn tài nghệ kém cỏi, công lao, sự nghiệp ít ỏi, mỏng manh, vị vua quán đảnh Sát-đế-lợi ấy theo lẽ đáng nên sẽ chẩn cấp, giúp đỡ họ đôi chút. Trong cơi nước của chính ḿnh, nếu các chúng sanh công đức mỏng kém, ít chịu tinh tấn, giải đăi, biếng nhác, quên mất chánh niệm, chẳng có tâm từ bi, chẳng biết báo ân, đối với nỗi khổ trong đời sau chẳng thấy sợ hăi, ch́m đắm trong bùn lầy gia nghiệp, tích tập các hạnh ác, vị vua quán đảnh Sát-đế-lợi ấy sẽ theo đúng lẽ đáng nên, áp dụng đủ loại trừng phạt. Hoặc dùng ngôn từ dạy bảo, quở trách nặng nề, hoặc tước đoạt các thứ trân bảo, của cải, hoặc tước đoạt các thứ thọ dụng như ư và sản nghiệp, hoặc trừng phạt bằng roi, gậy, hoặc giam trong nhà tù, hoặc chặt chân tay, hoặc chém phăng đầu. Vô lượng sự trừng phạt theo đúng lẽ như thế đó).

 

          “Tùy bỉ sở ưng, thí cấp trân bảo tài cốc, điền trạch, nô tỳ, bộc sử” (theo lẽ đáng nên mà ban thí trân bảo, tiền tài, gạo thóc, ruộng đất, nhà cửa, nô tỳ, tôi tớ): Trong quốc độ của chính họ, đối với các loài chúng sanh, bèn có sự phân biệt. Giống như tại Trung Hoa xưa kia, [các quan chức] có chín bậc, từ chức vụ Tể Tướng cho đến tri huyện là thất phẩm, cho đến nha dịch, đến thư biện[14], cho đến thôn trưởng, hương trưởng, tổng cộng thành chín phẩm. Tùy thuộc họ thích hợp làm ǵ, bèn giao cho họ làm việc đó. Đối với bậc thượng, bèn ban cho họ trân bảo, ruộng nương, nhà cửa, tôi tớ. Nếu chẳng có đức ǵ, đức chẳng trọng cho lắm, ban cấp rất ít. Công đức ít cũng là tương ứng với họ. Nếu năng lực của họ là ngay cả cái ăn, cái mặc cũng chẳng kiếm được, quốc vương liền từ bi, cứu tế, chẩn tuất cho họ. C̣n có những kẻ công đức c̣n thấp kém hơn nữa, chẳng tinh tấn, giải đăi, lười nhác, quên mất chánh niệm, chẳng thể làm nổi chuyện tốt, đối với người khác chẳng có tâm từ bi. Thậm chí ban cho họ ân huệ rất lớn, họ cũng chẳng biết báo ân. Hiện thời, họ chẳng làm chuyện tốt, trong tương lai, nhất định hứng chịu quả báo. Đối với chuyện thọ khổ báo trong đời sau, họ chẳng sợ hăi, cũng chẳng kinh hoảng, làm một kẻ ác chẳng kiêng sợ chi hết.        

          “Một cư gia nê, tích chư ác hạnh” (ch́m đắm trong bùn lầy gia nghiệp, tích tập các ác hạnh): “Ch́m đắm trong bùn lầy gia nghiệp” là nói đến sa-môn [chẳng lo tu hành, chỉ lo toan kiếm lợi, hưởng thụ, chẳng khác người tại gia], chẳng phải là xuất gia. Cư gia” là tại gia, tại gia giống như hố bùn, ch́m lỉm trong hố bùn. Không chỉ là sa-môn, mà c̣n có những kẻ khác. Có thể giải thích “cư gia” bằng nhiều cách, như là kẻ ấy chẳng làm thiện nghiệp, chuyên làm ác nghiệp, quốc gia sẽ có pháp luật trừng phạt kẻ đó. Đó gọi là “thưởng phạt phân minh”. Trên đây là nói công đức lớn, nhỏ, nhiều, ít, cống hiến cho quốc gia như thế nào. Cống hiến lớn, sẽ ban thưởng trọng hậu; cống hiến nhỏ, sẽ ít hơn. Cho đến kẻ chẳng hề cống hiến, chẳng thể duy tŕ cuộc sống, [quốc vương] c̣n phải chẩn tế, c̣n phải thương xót, giúp đỡ họ.

          C̣n những kẻ tạo ác th́ làm như thế nào? Kẻ tích tập các ác hạnh, vua Sát-đế-lợi bèn trừng phạt họ. C̣n phải “chủng chủng trích phạt” (các thứ trừng phạt). Đấy là pháp luật, hoặc là phê b́nh họ, nếu ác nghiệp nặng nề hơn, sẽ trừng phạt, quở trách họ, hoặc tịch thâu tài sản, tước đoạt các thứ trân bảo, tài sản, hoặc tịch thâu sản nghiệp của họ. Nếu vẫn chưa đủ, hoặc là dùng roi, gậy đánh phạt họ, quất rất nhiều roi. Hoặc là tống họ vào tù, hoặc là cắt chặt chi thể, hoặc là chém đầu, tùy thuộc họ phạm tội ác lớn hay nhỏ. Những điều ấy chỉ là tỷ dụ. Chúng ta nói những điều này chủ yếu nhằm hiển thị Phật Luân. V́ chúng sanh tạo nghiệp rất nhiều, làm ác hạnh cũng rất nhiều. Khi mâu thuẫn với pháp luật của quốc gia, h́nh phạt cũng rất nhiều, có vô lượng h́nh phạt. Tuy tầng cấp tưởng thưởng cũng rất nhiều, nhưng tầng cấp trừng phạt cũng rất nhiều.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Sát-đế-lợi chủng quán đảnh đại vương, thành tựu như thị đệ tam vương luân. Do thử luân cố, linh tự quốc độ tăng trưởng an lạc, năng phục nhất thiết oán địch, ác hữu, thiện thủ hộ thân, linh tăng thọ mạng. Thiện nam tử! Như thị Như Lai thành tựu thiện xảo tri căn cơ trí. Nhược chư đệ tử, viễn ly phước huệ xảo phương tiện trí, cập dĩ bố thí, điều phục tịch tĩnh, thất niệm, tâm loạn, lai chí ngă sở, quy y ư ngă, nhi ngă thiện tri bỉ căn ư nhạo, tùy miên, thắng giải, tùy kỳ sở ưng, vị thuyết trị phạt Tỳ Nại Da pháp.

          ()善男子,剎帝利種灌頂大王,成就如是第三王輪。由此輪故,令自國土增長安樂,能伏一切怨敵惡友,善守護身,令增壽命。善男子,如是如來成就善巧知根機智,若諸弟子遠離福慧巧方便智及以佈施、調伏、寂靜,失念心亂,來至我所,歸依於我,而我善知彼根意樂、隨眠、勝解,隨其所應,為說治罰毗奈耶法。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Đại vương gịng Sát-đế-lợi được quán đảnh thành tựu vương luân thứ ba như thế. Do v́ luân ấy, khiến cho cơi nước của chính ḿnh tăng trưởng an vui, có thể chế phục hết thảy oán địch, bạn ác, khéo thủ hộ thân, khiến cho thọ mạng tăng trưởng. Này thiện nam tử! Như Lai thành tựu trí biết căn cơ hay khéo như thế. Nếu các đệ tử, xa ĺa trí phước huệ, phương tiện hay khéo, và bố thí, điều phục tịch tĩnh, thất niệm, loạn tâm, đến chỗ ta, quy y ta, do ta khéo biết ư căn cơ, ư thích, tùy miên, và thắng giải của họ, sẽ theo lẽ đáng nên mà nói cho họ các pháp trị phạt thuộc Tỳ Nại Da).

 

          “Thiện nam tử! Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương, thành tựu như thị đệ tam vương luân” (Này thiện nam tử! Đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi đă được quán đảnh thành tựu vương luân thứ ba như thế): Đấy là chuyện quốc vương của một nước phải nên làm. Dùng chuyện này làm tỷ dụ, v́ phải làm như thế th́ mới có thể khiến cho quốc gia của ông ta yên vui, mới có thể hàng phục hết thảy oán địch và bạn ác, khiến cho quốc gia ấy b́nh an, mọi người đều có thể sống tốt đẹp.

          “Thiện nam tử! Như thị Như Lai thành tựu thiện xảo tri căn cơ trí” (Này thiện nam tử! Như Lai thành tựu trí biết căn cơ hay khéo như thế): Biết căn cơ của hết thảy chúng sanh. Loại trí huệ này chẳng phải là trí thiện xảo của vua quán đảnh Sát-đế-lợi, mà là trí huệ biết căn cơ của chúng sanh. “Nhược chư đệ tử viễn ly phước huệ xảo phương tiện trí, cập dĩ bố thí, điều phục tịch tĩnh, thất niệm, tâm loạn, lai chí ngă sở, quy y ư ngă” (nếu các đệ tử xa ĺa trí phương tiện thiện xảo phước huệ, cùng với bố thí, điều phục tịch tĩnh, thất niệm, loạn tâm, đến chỗ của ta, quy y ta): Vị đệ tử Phật ấy thoạt đầu khi mới tin Phật, đến chỗ đức Phật, cầu Phật độ thoát, những người ấy có trí phước huệ phương tiện thiện xảo, cho đến có thể bố thí, điều phục phiền năo, đều có thể đạt đến tịch tĩnh, đắc Định, cho đến đạt được chánh niệm. Nếu đă thất niệm, sẽ chẳng thể nhập Định, tâm rối loạn, do thất niệm nên loạn tâm. “Lai chí ngă sở” (đến chỗ ta) là hướng về đức Phật cầu pháp, quy y đức Phật.

          “Nhi ngă thiện tri bỉ căn ư nhạo” [nghĩa là] ta (đức Phật) biết người ấy thuộc căn cơ ǵ, biết người ấy thích ǵ, biết căn bản phiền năo của người ấy là ǵ, biết người ấy trọn đủ rất nhiều trí huệ, trọn đủ rất nhiều thiện căn. Đấy là thắng giải (hiểu biết thù thắng). Thắng giải sâu nhất khi đạt đến địa vị Phật, trọn đủ Phật trí. “Các chúng sanh đến chỗ Phật” tượng trưng cho hết thảy chúng sanh, v́ trong quá khứ, họ đă có trí phương tiện phước huệ thiện xảo, bố thí, điều phục tịch tĩnh, nay thất niệm, tâm loạn, đức Phật liền quan sát, cho họ quy y Phật. V́ Ngài liễu giải căn cơ của họ, hiểu biết tùy miên, căn bản phiền năo của họ, hoặc là trí huệ của họ to hay nhỏ, sức thắng giải như thế nào, Ngài sẽ thuyết pháp thích ứng căn cơ.

          “Lai chí ngă sở” (đến chỗ ta), họ bèn theo đức Phật xuất gia. [Đức Phật] v́ họ giảng pháp Tỳ Nại Da. Tỳ Nại Da (Vinaya) là giới luật. Phàm là quy y Phật, tối thiểu là thọ Tam Quy. Tam Quy, ngũ giới, hoặc là tám giới, mười giới, cho đến hai trăm năm mươi giới [của tỳ-kheo], ba trăm bốn mươi tám giới [của tỳ-kheo-ni], bốn giới trọng và hai mươi tám giới khinh, hoặc sáu giới trọng và hai mươi tám giới khinh [của Bồ Tát giới trong Ưu Bà Tắc Giới Kinh]. Tỳ Nại Da có nghĩa là “giới pháp”.

         

          (Kinh) Nhược chư chúng sanh, kỳ tánh hận lệ, ư chư học xứ, bất năng phụng tŕ, vi linh cửu trụ ngă chi thánh giáo, đa hữu sở tác, hoặc vị chế lập ức niệm trị phạt, hoặc dĩ ngôn giáo khủng bố ha trách, hoặc tạm khu tẫn, hoặc linh chiết phục, quy thành lễ bái, hoặc bất dữ ngữ, bất cộng đồng lợi, hoặc như thảo bố, hoặc phục diệt tẫn.

          ()若諸眾生,其性佷戾,於諸學處不能奉持,為令久住我之聖教,多有所作,或為制立憶念治罰,或以言教恐怖呵責,或暫驅擯,或令折伏歸誠禮拜,或不與語、不共同利,或如草布,或覆滅擯。

          (Kinh: Nếu các chúng sanh tánh rất hung dữ, chẳng thể thọ tŕ các học xứ, v́ khiến cho thánh giáo của ta tồn tại lâu dài [trong cơi đời], được nhiều người hành tŕ, mà hoặc là chế lập các cách nghĩ nhớ, quở phạt, hoặc dùng ngôn giáo để đe dọa, quở trách, hoặc tạm thời xua đuổi để chiết phục họ quy hướng chân thành, lễ bái, hoặc chẳng nói chuyện với họ, chẳng cùng chia sẻ lợi lộc với họ, hoặc [kẻ đó trót đă phạm tội] bèn cho sám hối, hoặc lại diệt tẫn).

 

          C̣n có Tác Tŕ, cũng là luật pháp. Nếu các chúng sanh ấy căn tánh ương bướng, dữ dằn, hung ác, thô bạo, chẳng khéo tùng thuận, đối với Tam Quy, Ngũ Giới, cho đến tám giới mà họ đă thọ nhận (“học xứ” là nói đến giới, cũng có thể hiểu là luật học họ đă được học), chẳng thể thọ tŕ, chẳng tuân phụng. Các giới luật ấy bảo vệ thánh giáo tồn tại lâu dài. Nếu chẳng có giới luật, Phật pháp sẽ chẳng thể tồn tại lâu dài. V́ sao đức Phật cần phải chế giới? Khiến cho chánh pháp cửu trụ (久住), tức là khiến cho thánh giáo có thể tồn tại lâu dài trên thế gian, khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể đạt được lợi ích trong tương lai. Phật pháp tồn tại lâu dài trong thế gian, người được lợi ích cũng rất nhiều. V́ thế, yêu cầu tất cả đều đến chỗ ta quy y, đệ tử của ta đều phải nên phụng tŕ giới luật. Mục đích phụng tŕ giới luật là khiến cho thánh giáo cửu trụ, khiến cho Phật pháp cửu trụ.

          Giới luật nhằm ngăn ngừa, bảo vệ, giống như tường thành để bảo vệ dân chúng. Giới luật nhằm bảo vệ tâm địa của quư vị, thân chẳng lay động, tâm chẳng loạn, bảo vệ thân tâm của quư vị. Giới luật được chế định bao gồm các loại pháp: Hoặc quư vị trót phạm sai lầm, hễ nhớ lại bèn sám hối. Hoặc là dùng ngôn ngữ đáng sợ, nói “ngươi đă phạm giới, trong tương lai phải thọ báo, đọa địa ngục”. Đó là dùng ngôn ngữ đáng sợ để quở trách. Nếu nghiêm trọng hơn, phạm giới căn bản, sẽ liền “khu tẫn” (驅擯, trục xuất) người ấy, đuổi ra ngoài Phật pháp. Hoặc buộc kẻ ấy sám hối, tùy thuộc kẻ ấy phạm loại nào. Hoặc là bắt kẻ ấy quay về lễ bái, hoặc mọi người chẳng nói chuyện với kẻ ấy. Không nói chuyện tức là Tăng đoàn không quan tâm đến kẻ ấy nữa. Thậm chí chẳng “cộng lợi” (共利), [tức là] nếu thí chủ tại gia cúng dường các thứ tài vật v.v… sẽ chẳng chia sẻ cho kẻ đó. Đó gọi là “bất cộng lợi”.

          “Hoặc như thảo bố”: “Thảo bố” (草布, cỏ bao phủ) tức là kẻ đó phạm tội quá nhiều, lớn nhỏ đều có, như cỏ che đất. Kẻ đó phạm tội giống như bùn lầy, lầy lội đến nỗi chẳng thể đi qua được, phải phủ cỏ lên mới đi qua được. Đấy là phương thức sám hối tội lỗi. Tội lỗi kẻ ấy đă phạm cũng có tội nghiêm trọng, mà cũng có tội không nghiêm trọng. Phạm rất nhiều, nếu kể ra từng điều, khi mọi người cho kẻ đó sám hối sẽ chẳng thuận tiện cho lắm. Đấy là một kiểu tổng sám. Giống như khi chúng ta bái sám, chuyện trong rất nhiều đời ta cũng chẳng biết. Kiếp này chúng ta chẳng phạm Ngũ Nghịch, Thập Ác, như vậy th́ khi bái sám, chúng ta cứ hồi hướng như vậy. Vậy th́ có thể là trong quá khứ, tức là trong bao nhiêu đời khác trước kia, đă từng phạm tội Ngũ Nghịch, Thập Ác, cho nên sám hối như vậy. Đấy là những chuyện được tổng sám, v́ chúng ta chẳng biết quá khứ, chẳng có trí huệ. “Thảo bố” là như cỏ che phủ mặt đất, dùng cỏ phủ mặt đất, tức là pháp sám hối tương đương với chuyện dùng cỏ phủ đất, trải lên mặt đất để quư vị có thể đi qua chỗ bùn lầy. Nếu đă phạm rất nhiều lầm lỗi, quư vị bèn sám hối. Đấy là ư nghĩa của tổng sám hối.

          Hoặc là trong thật tại, đă hết cách, chẳng thể kê toa cứu chữa được, Tăng đoàn chẳng thể giữ quư vị lại, bèn diệt tẫn (滅擯), tức là đuổi quư vị ra ngoài. Tại các chùa miếu thuộc Đại Lục, hễ phạm giới căn bản, sẽ bị khai trừ, trục xuất ra khỏi chùa miếu. Mỗi khu vực khác nhau, tại Đại Lục là Mặc Tẫn (默擯). Phàm là phá giới kiểu này, kẻ ấy chẳng dám trở về chùa miếu, chính ḿnh bỏ đi; điều này được gọi là pháp Mặc Tẫn.

 

          (Kinh) Ngă dĩ diệu trí, tri chư hữu t́nh Bổ Đặc Già La căn cơ, ư nhạo, tùy miên, thắng giải, như ưng trích phạt, vị linh giai phá quảng đại tích tụ vô nghĩa hắc ám, khô kiệt phiền năo chư bộc lưu cố, linh đắc sanh thiên, Niết Bàn lạc cố, vị hành ác đạo Bổ Đặc Già La đắc điều phục cố, tùy kỳ sở ưng, thuyết trị phạt pháp, quán sát hắc thuyết, đại thuyết sai khác, tùy kỳ sở ưng, thọ dữ trị phạt hành ác đạo pháp.

          ()我以妙智知諸有情、補特伽羅根機、意樂、隨眠、勝解,如應謫罰,為令皆破廣大積聚無義黑闇,枯竭煩惱諸瀑流故,令得生天涅槃樂故,為行惡道補特伽羅得調伏故,隨其所應,說治罰法;觀察黑說大說差別,隨其所應,授與治罰行惡道法。

          (Kinh: Ta do diệu trí, biết căn cơ, ư thích, tùy miên, và thắng giải của các hữu t́nh Bổ Đặc Già La mà trừng phạt đúng lẽ, v́ khiến cho họ đều phá trừ hắc ám vô nghĩa tích tụ rộng lớn, khô cạn các gịng thác phiền năo, khiến cho họ được hưởng niềm vui sanh thiên hay Niết Bàn, v́ điều phục Bổ Đặc Già La hành theo ác đạo, theo đúng lẽ mà nói pháp đối trị, trừng phạt, quan sát hắc thuyết và đại thuyết sai khác, theo đúng lẽ mà truyền trao các pháp đối trị, trừng phạt kẻ hành theo ác đạo).

 

          “Ngă dĩ diệu trí, tri chư hữu t́nh Bổ Đặc Già La căn cơ, ư nhạo, tùy miên, thắng giải, như ưng trích phạt” (Ta do diệu trí, biết căn cơ, ư thích, tùy miên, và thắng giải của các hữu t́nh Bổ Đặc Già La mà trừng phạt đúng lẽ): Bổ Đặc Già La (Pudgala) nghĩa là “người”, tức hữu t́nh chúng sanh. Đời đời kiếp kiếp lưu chuyển, cái chủ yếu bị lưu chuyển chính là ư nghĩa bao hàm trong từ ngữ Bổ Đặc Già La. Mục đích của việc “tùy theo tội ác quư vị đă phạm mà đối trị, trừng phạt” chính là để phá trừ hắc ám cho quư vị. Trong quá khứ, quư vị đă tích tụ những thứ vô nghĩa, chẳng có ư nghĩa thắng giải, chẳng có ư nghĩa tịnh hạnh, những thứ ấy đều hắc ám, muốn khô cạn các gịng thác phiền năo ấy, tiêu trừ NChấp, NKiến. Đấy là hàm nghĩa của giới luật, là mục đích của việc trừng phạt, khiến cho [người phạm tội] sau khi đă sám hối, sẽ được hưởng sự vui sướng sanh thiên, chứng đắc Niết Bàn. Đấy là nói rộng, không nhất định chỉ nói đến người xuất gia. [Mục đích] là điều phục hạng chúng sanh làm ác.

          Rất nhiều người trông thấy chùa miếu, hoặc là nghe thấy Phật pháp, họ trọn chẳng gia nhập đoàn thể Phật giáo, chẳng tin Phật, cũng chẳng phải là ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, tỳ-kheo, hay tỳ-kheo-ni. C̣n loại Bổ Đặc Già La này có thể nghe Phật pháp, hoặc trông thấy chùa miếu, bèn gieo thiện căn cho họ, nhưng họ thấy giới luật của chúng ta, cảm thấy chẳng thể lănh nhận được, cho nên chẳng dám gia nhập. Ta bèn nói với họ về phương diện tốt đẹp, để phương diện trị phạt sang một bên, [cho họ biết trong Phật pháp] c̣n có phương diện vun bồi phước, cũng chính là ba thứ luân đă nói trong phần trên (tu Định nghiệp, tập tụng, và doanh phước). Quan sát tội ác của họ lớn hay nhỏ, tội ác sai khác, để nói với họ về phương pháp đối trị, trừng phạt. Chẳng hạn như nói “sẽ đọa địa ngục”, chính là nói cho họ nghe phương pháp đối trị, trừng phạt. Nói họ sẽ thọ báo, sẽ bị đủ thứ bệnh. Đối với các quả báo ác ấy, trong tương lai, quư vị phải hứng chịu quả báo ǵ, đấy đều là hắc pháp. Các điều ấy được gọi là “hắc thuyết, đại thuyết”, nhưng phải xét xem những chúng sanh căn tánh kém hèn ấy tới mức độ nào!

         

          (Kinh) Ngă dĩ diệu trí, tri chư hữu t́nh, cụ túc thành tựu tăng thượng tín kính, thuần tịnh ư nhạo, tùy kỳ sở ưng, vị thuyết chủng chủng thiện phẩm sai biệt, linh kỳ tu học, năi chí linh bỉ nhất thiết thiện căn, giai đắc viên măn, nhập vô úy thành. Thiện nam tử! Ngă thành như thị đệ tam Phật Luân, do thử luân cố, tri chư hữu t́nh Bổ Đặc Già La, chủng chủng căn cơ, ư nhạo, tùy miên, cập dữ thắng giải, chư nghiệp pháp thọ, tùy kỳ sở ưng, lợi ích an lạc, đắc an ổn trụ, đắc vô kinh khủng, đắc vô sở úy, tự xưng ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, tồi chư thiên ma, ngoại đạo tà luận, xử đại chúng trung, chánh sư tử hống.

          ()我以妙智知諸有情,具足成就,增上信敬,純淨意樂,隨其所應,為說種種善品差別,令其修學,乃至令彼一切善根,皆得圓滿入無畏城。善男子,我成如是第三佛輪。由此輪故,知諸有情補特伽羅,種種根機、意樂、隨眠及與勝解、諸業法受,隨其所應,利益安樂,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,摧諸天魔外道邪論,處大眾中正師子吼。

          (Kinh: Ta do diệu trí biết các hữu t́nh thành tựu đầy đủ sự tín kính tăng thượng, ư thích thuần tịnh, theo đúng lẽ đáng nên mà nói các thứ thiện phẩm sai khác để họ tu học, cho đến khiến cho hết thảy các thiện căn đều được viên măn, vào trong ṭa thành vô úy. Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật Luân thứ ba như thế đó. Do luân này, biết các thứ căn cơ, ư thích, cùng với thắng giải, các nghiệp pháp nhận lănh của các hữu t́nh Bổ Đặc Già La, theo đúng lẽ đáng nên mà lợi ích, an lạc, trụ trong an ổn, được chẳng kinh hoảng, được chẳng sợ hăi, tự xưng ta ở nơi địa vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, dẹp tan tà luận của các thiên ma và ngoại đạo, thực hiện sư tử hống giữa đại chúng).

 

          Đây là khiến cho kẻ ấy có thể tăng thượng tín tâm. Đây là một loại trí huệ vi diệu của đức Phật, khiến cho các hữu t́nh tăng thêm cái tâm kính tín đối với Tam Bảo, khiến cho tâm ư của họ thanh tịnh, tâm chẳng tán loạn, nói cho họ biết các thứ thiện phẩm sai khác. Hành Thập Thiện, đừng sanh ác nghiệp, chớ nên nói dối, chớ nên nói bịa đặt, đừng nói những lời lẽ thêu dệt, đừng trộm cắp của người khác, chớ nên giết người. Hai điều ấy nhằm so sánh: Một đằng là thiện pháp luân, đằng kia là ác pháp luân. Thiện pháp luân có thể tăng thượng tín tâm của họ, chẳng nhất định [những người ấy phải thật sự] đến chỗ Phật. Trong phần trước, kinh văn nói “lai chí ngă sở” (đến chỗ của ta), nhưng trong thời đại hiện tại, hễ đến chỗ Tam Bảo th́ cũng kể như là “đến chỗ của Phật”. Không nhất định phải đến đó để cầu xuất gia, mà là cầu thọ Tam Quy. Có những người thân cận Phật pháp, hoặc là đến Phật đường, chúng ta nói với họ về hai đường thiện ác. Chuyện này cũng cần phải có nhân duyên. Có người ngay cả loại nhân duyên này cũng chẳng được thấy. Loại chúng sanh ấy chẳng có cách nào tăng trưởng thiện căn, do chẳng có loại nhân duyên này.

          Hễ có loại nhân duyên này, sẽ dùng Phật Luân để chỉ dạy họ, khiến cho thiện căn của họ đạt đến viên măn. Sau khi đă viên măn, sẽ khiến cho họ chẳng c̣n sợ hăi. Hết thảy chúng sanh, sanh nhằm thời đại này, sanh nhằm thời đại Mạt Pháp, đều cảm thấy “không có nơi để trở về, không chốn nương thân”, kinh hoàng, sợ sệt. Chúng ta thấy rất nhiều người đang trong đời loạn, giữa cảnh chiến tranh loạn lạc, chúng ta khoan nói đến đao binh, ngay như trong lúc bị thiên tai như nạn châu chấu hoặc lũ lụt, họ chẳng có cái ăn, rất khó duy tŕ mạng sống, thậm chí c̣n bị mất mạng! Khi ấy, quư vị nói với họ mười thiện pháp: “V́ sao quư vị cảm lấy cái quả ấy? Đó là v́ trong quá khứ, quư vị chẳng gieo nhân lành. Hăy đừng gieo nhân nữa, tức là hiện thời, quư vị đừng làm ác nữa. Muốn chuyển biến cái quả sẽ rất khó khăn. Quư vị có thể tạo cái nhân cho vị lai, hăy gieo chủng tử mới, khiến cho các thiện căn khác viên măn. Lúc đức Phật chẳng tại thế, đệ tử Phật đại diện đức Phật.

          Phàm là tứ chúng đệ tử, đều phải nên làm như vậy, khiến cho thiện căn của hết thảy chúng sanh đều được viên măn. Những ǵ đức Phật đă nói là trong khi Ngài c̣n đang tại thế. Đức Phật thành tựu các thiện nam tử: “Ta thành tựu Phật Luân thứ ba như thế”. Nhưng đức Phật chẳng c̣n tại thế, hiện thời, vua Sát-đế-lợi rất ít, ngay của vua Sát-đế-lợi cũng chẳng có. Do vậy, minh quân xuất thế, quốc gia sẽ rất hưng thịnh, mưa gió đúng thời, chẳng có tai họa. Nếu quốc vương ấy rất ác, h́nh phạt rất nặng, quốc vương mong muốn tạo ác, các quốc sư phải khuyên nhủ hắn: “Hăy nên giảm h́nh phạt, đại xá. Giảm bớt các tội, [những kẻ phạm] các tội nhẹ đều thả ra”. Đấy đều là ư nghĩa sám hối. Khi bậc thánh quân tại thế, quốc gia sẽ rất b́nh an, được vài chục năm b́nh an. Như thời Măn Thanh tại Trung Hoa, triều Khang Hy là thịnh thế. Những vị minh quân gần như chiếm nửa thời gian trị v́ của triều đại Măn Thanh. Đời Càn Long, trong suốt sáu mươi năm, chẳng có chiến tranh, nhân dân sống rất b́nh an, chính nhà vua cũng rất hạnh phúc. Vua suốt ngày làm thơ, làm câu đối, tức là vui chơi. Quốc gia chẳng có tai hại ǵ, thiên tai lẫn nhân họa đều rất ít. Thời điểm đó chính là lúc thánh quân tại thế. Đời nhà Châu cũng đều là như vậy. V́ cứu vớt nhân dân mà [Châu Vũ Vương] phạt Trụ, tức là trừng phạt kẻ cai trị tàn bạo. Hiện thời, chẳng có vua Sát-đế-lợi, Phật cũng chẳng có, Phật cũng chẳng tại thế, nhưng pháp của tiên đế c̣n đó, nhân, nghĩa, lễ, trí, hiếu, đễ, trung, tín, cựu pháp trị quốc của tiên vương lại dọn ra. Phật pháp thường là như thế, Phật pháp của chư Phật đều là như thế.

          Do luân này sẽ khiến cho căn cơ, ư nhạo, tùy miên, phiền năo, và thắng giải của các loại Bổ Đặc Già La, cũng như các nghiệp pháp mà họ lănh nhận, “tùy kỳ sở ưng, lợi ích an lạc” (theo đúng lẽ đáng nên mà lợi ích, an lạc), tức là hết thảy nhân dân, hết thảy chúng sanh, đều được lợi lạc. “An ổn” là chẳng kinh sợ. Chẳng kinh sợ th́ họ sẽ không sợ hăi. Đó chính là đức Phật tự xưng thuyết: “Ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, tồi chư thiên ma, ngoại đạo tà luận, xử đại chúng trung, chánh sư tử hống” (ta ở nơi địa vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, dẹp tan tà loạn của các thiên ma và ngoại đạo, ở giữa đại chúng thực hiện sư tử hống): Chẳng sợ hăi, phát khởi sư tử hống, toàn nói ra chánh pháp. “Sư tử hống” (師子吼, sư tử rống) là từ ngữ h́nh dung. Sư tử tôn quư nhất trong trăm thú. Sư tử rống lên, trăm loài thú nghe thấy đều nứt năo! Đó là cách nói h́nh dung, chúng ta chớ nên quá mức chấp trước.       

          Khi tôi ở Bắc Kinh, có một vị đạo hữu đă hỏi tôi: “Kinh Phật nói sư tử hống dường như rất ghê gớm, nhưng sư phụ ơi! Sư tử trong sở thú rống lên vẫn chẳng được như vậy!” Trả lời người ấy như thế nào đây? Có những câu hỏi nhức đầu lắm! Tôi nói: “Sư tử có rống hay không? Tôi đă đến sở thú rất nhiều lần, vẫn chưa nghe thấy nó rống”. Ông ta nói đă từng nghe, cũng chẳng ra sao cả! Tôi nói: “Bây giờ nó bị nhốt trong lồng th́ làm sao được? Ông thả nó ra thử coi. Phật giáo chúng ta dùng sư tử hống là cách nói h́nh dung, biểu thị đức Phật ở giữa đại chúng thuyết pháp có oai lực rất cường thịnh. Ông chẳng thể so sánh [thô thiển] như vậy. Ông so sánh như vậy là không đúng, đây là đức Phật tự nói”. Nếu chúng ta tự nói, sẽ chẳng dám đem súc sanh so với Phật. Sư tử là súc sanh mà!

          Như các đại tướng hoặc nguyên soái trong quá khứ được gọi là “hổ tướng”, chúng ta luôn dùng hổ để sánh ví. Nếu quư vị nói [họ dũng mănh] như hổ th́ được, chứ nếu nói họ là súc sanh, chỉ sợ đă bị họ gỡ cái sọ mất rồi! Quốc vương đều là rồng, Trung Hoa thường vẽ rồng, rồng biểu thị sự tôn quư nhất. Thế nhưng rồng là súc sanh. Nếu quư vị trông thấy quốc vương, bèn nói “bệ hạ là súc sanh”, đầu của quư vị lập tức “dọn nhà” mất! Tôi nói: “Ông nói như vậy không được! Đó là cách nói tỷ dụ, là từ ngữ h́nh dung, nhằm h́nh dung oai lực của Phật, chớ nên đem chuyện này ra so đo. Hễ so đo sẽ trở thành khập khiễng!” Nếu quư vị nói đại nguyên soái oai vũ như hổ, ông ta sẽ cao hứng, cười không khép miệng! Do vậy, có khi chỗ nào cũng đều chấp trước, có rất nhiều chỗ biểu lộ chấp trước, tức là đă chấp chặt vào đó. Chẳng nói theo pháp nghĩa chính là mong t́m khuyết điểm trong từ ngữ.

          Doanh phước (chăm lo tu phước), quư vị làm chuyện tốt, trông thấy tăng nhân, đừng hủy báng, hăy coi họ như thân giáo sư, hăy coi họ như đại đức để cung kính họ, quư vị sẽ tích phước. Trong tâm quư vị cung kính là được rồi. C̣n nữa, khi đọc tụng, trước hết, hăy dâng cúng một đóa hoa, một nén hương. Ở đây, tôi c̣n muốn bổ sung mấy câu; nếu không, sẽ có khuyết điểm. Có một vị đạo hữu đă hỏi tôi: “Con làm công nhân, mấy người cùng ở chung một chỗ. Con thật sự muốn niệm kinh, không thắp hương, không cắm hoa, trong tâm dường như khó chịu lắm. Cái nhà con đang ở chẳng thể thắp hương, chẳng thể cúng Phật, chỉ có một cái giường, con bày chỗ nào đây?” Tôi nói: “Được thôi! Ông trải khăn phủ lên cái giường đó, vải của cái gối đầu phải sạch sẽ một chút, đặt kinh bổn lên đó rồi ông quán tưởng”. Nếu như niệm kinh Địa Tạng, ông quán tưởng Địa Tạng Bồ Tát đến đó, ngồi ngay trên đó. Lại quán tưởng dọn đồ từ công ty bách hóa hoặc siêu thị”. Ông ta nói: “Làm sao con dám?” Tôi nói: “Chẳng phải vậy! Ông dùng cái tâm để dọn, chứ ông không trả tiền mà đ̣i dọn thật th́ làm sao được? Ông cái ǵ cũng đều chẳng có, dùng tâm để cúng là được rồi. Ông chắp tay, hoa cũng cúng, hương cũng cúng, thứ ǵ cũng đều có, sẽ có cảm giác đúng pháp. Ông mở kinh bổn ra để niệm, như vậy th́ chẳng sao hết. Người khác cho là ông đang xem sách, không đọc ra tiếng th́ vẫn được.

          Lại c̣n có thể dùng cách Kim Cang Tŕ để niệm kinh. Kim Cang Tŕ là ǵ? Chính ḿnh niệm, chính ḿnh nghe. Quư vị chỉ cần động đầu lưỡi, tai nghe được, chính ḿnh nghe thấy, chứ người khác không nghe. Kiểu ấy gọi là Kim Cang Tŕ, tức là cách tụng niệm thầm. Đấy gọi là “chẳng chấp trước”, đừng v́ h́nh thức mà chậm trễ chánh hạnh của quư vị. Đó gọi là phương tiện thiện xảo, là phương tiện chánh hạnh. Niệm như thế xong là được, chẳng thể lạy th́ lạy trong tâm là được! Nhà cửa chật hẹp như vậy, giường tầng th́ quư vị lạy sao được? Tôi ở trong tù, ngay cả dập đầu lễ cũng không được, bèn lạy trong tâm, cai tù không biết. Khi quư vị [lạy thầm trong tâm], chẳng chắp tay cũng không sao, chẳng cần để người khác nh́n thấy h́nh thức bề ngoài. Trong tâm quư vị thanh tịnh, nội tâm làm công đức là được rồi. Đó gọi là trí phương tiện thiện xảo.

          Quư vị chớ nên chấp trước, chuyện muốn làm hễ đạt tới mục đích là được rồi. Nếu kinh ǵ cũng chẳng thể niệm, niệm Phật có thể bao gồm trọn hết. Niệm thánh hiệu có thể bao gồm trọn hết. Quư vị ngồi đó, hương, hoa đều đă cúng dường xong. Đại nguyện thứ ba của Phổ Hiền Bồ Tát là “quảng tu cúng dường”, quư vị đă cúng dường trọn khắp, dọn hết những thứ từ các chỗ quư vị đă từng đến trên thế giới, không sao hết. Quư vị cúng ở đó, cúng xong bèn niệm. Nếu chẳng thể bày kinh bổn ra, có thể nhớ rơ mười đại nguyện vương th́ từ “nhất giả, lễ kính chư Phật” cho đến “thập giả, phổ giai hồi hướng”. Nếu như vậy mà cũng chẳng thể làm được th́ niệm A Di Đà Phật cũng được! Chỉ cần quư vị chịu phát Bồ Đề tâm, quư vị nếu muốn ǵ, đều có thể làm được. Quư vị chẳng phát tâm, cứ viện cớ thoái thác! Nay Phật đường của chúng ta rất tốt, có người giảng kinh, thuyết pháp, quư vị cũng chẳng thèm đến nghe. Nhân duyên do chính ḿnh sáng tạo, phước đức do chính ḿnh tu. Tội nghiệp do chính ḿnh làm, thiện căn do chính ḿnh gieo.

          Mọi người hăy nên học tập doanh phước như thế, học tập tŕ tụng như thế, học tập tu Định như thế. Nếu muốn đợi cho bốn duyên đều trọn đủ, sẽ phải chờ rất lâu! Cứ muốn chờ thứ ǵ cũng đều được chuẩn bị tốt đẹp, muốn chờ gió Đông thổi, vậy th́ gió Đông sẽ vĩnh viễn chẳng thổi đến, mà cũng chẳng có Gia Cát Lượng tính toán. Quư vị tự ḿnh sáng tạo Gia Cát Lượng là được rồi, tự ḿnh làm như vậy là được! Chờ ư? Quư vị đừng nên chờ. Sanh mạng vô thường, chờ cái nỗi ǵ? Thật sự là chẳng có cách nào, niệm thánh hiệu cũng được, công đức b́nh đẳng, trong tâm quư vị nhất định phải b́nh đẳng. Trong Phật đường rất trang nghiêm, cứ cho là như vậy th́ công đức mới lớn. Thật ra, ở nhà mà [chí tâm tu tập] như vậy th́ cũng b́nh đẳng y hệt. Bất b́nh đẳng là do cái tâm của quư vị. Nếu quư vị dấy tâm phân biệt, đương nhiên là bất b́nh đẳng, sẽ khác hẳn. Tâm địa quư vị b́nh đẳng, có thể tôi luyện phiền năo là được rồi. Lúc nào cũng đều chẳng sanh phiền năo, người khác chửi bới, chọc tức quư vị cách nào đi nữa, quư vị vẫn chẳng nổi cáu, chẳng bốc hỏa, họ sẽ chẳng có cách nào hết. Khi mọi người tập tụng, đọc tụng, những yêu cầu tôi đă nói trên đây rất nghiêm ngặt, quư vị nghe tôi nói như vậy, bèn kêu ca: “Con không đủ điều kiện, con đọc không được!” Như vậy là tôi đă tạo tội rồi, cho nên sau đó, phải giải thích đôi chút. Chỉ cần quư vị làm được là tốt rồi. Làm nhiều không được, làm ít cũng không thể, vậy th́ niệm một câu Phật hiệu. Mỗi ngày niệm mười tiếng cũng đủ rồi, chỉ xem quư vị niệm mười tiếng ấy như thế nào!

Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần 5 hết

 



[1] Ḅ ở đây là một loại ḅ đặc biệt ở Tây Tạng mà họ gọi là Yak (nếu nh́n vào văn tự Tây Tạng, phải ghi là gYag, nhưng khi phát âm, họ bỏ hẳn âm g, chỉ đọc thành Yak), có tên khoa học là Bos Grunniens), người Hoa gọi nó là “mao ngưu” (牦牛), thân h́nh to hơn ḅ thường, lông dài và rất rậm, chỉ sống ở cao nguyên Tây Tạng, cao nguyên quanh rặng Hy Mă Lạp Sơn, và rải rác một số ít tại Bắc Miến Điện, Tứ Xuyên, và Vân Nam. Loại ḅ này cao từ 1,6 mét đến 1,8 mét, sừng cong, hơi khoằm về phía trước. Lông chúng mọc rất dày ở trước ngực, phủ dài, che kín hông, ngực và nửa chân để chống lạnh. Đuôi của chúng giống như đuôi ngựa. Lông ḅ có thể cuộn và xe sợi để dệt vải, thắt thành các loại dây thừng, đan thảm. Da của chúng dùng để bọc khung gỗ làm thuyền, làm túi xách, giày. Chúng là phương tiện chủ yếu để chuyên chở, và cung cấp sữa và thịt cho con người. Sữa của chúng thường chế thành bơ để thắp đèn, và làm phó mát. Đối với mọi người dân, sữa ḅ, bơ và phó mát làm từ sữa Yak cùng với trà trộn vào lúa mạch rang, vo thành viên (gọi là Tsampa) là thức ăn chủ yếu hằng ngày. Phân ḅ cũng được sử dụng làm chất đốt.

[2] Môn Đầu Câu (門頭溝) là một quận trực thuộc thành phố Bắc Kinh, 90% diện tích là núi non, đồi g̣. Việc khai thác than đá đă bắt đầu từ cuối thời Minh.

[3] Trung Nam Hải là tên gọi khu vực ở phía Tây Tử Cấm Thành Bắc Kinh, gần với ba cái hồ lớn có tên gọi là Bắc Hải, Trung Hải, và Nam Hải. Từ đời Kim, khu này cảnh sắc rất tươi đẹp, ba cái hồ ấy được gọi chung là Thái Dịch Tŕ, và được xếp vào một trong Yên Kinh Bát Cảnh (tám cảnh đẹp tại Bắc Kinh). Đời Minh, Thanh, khu vực này được gọi là Tây Uyển. Nơi này có nhiều cung điện cũ của các triều đại. Sau khi Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc thành lập, các cơ quan trọng yếu như Quốc Vụ Viện, Trung Ương Thư Kư Xứ (văn pḥng tổng bí thư), và các cơ sở đầu năo khác của đảng và nhà nước cũng đặt tại đây. Các viên chức cao cấp như Mao Trạch Đông, Châu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu B́nh, Châu Đức, Giang Thanh, Bành Đức Hoài, Dương Thượng Côn, Hồ Diệu Bang, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Tập Cận B́nh… đều có biệt thự ở khu vực này, xa hoa tột đỉnh.

[4] Ngũ Cái (Pañca-nivāraṇani) c̣n gọi là Ngũ Chướng bao gồm Tham Dục (Abhidhyā), Sân Khuể (Vyāpāda), Thùy Miên (Styāna-middha, ham ngủ, thần chí hôn ám), Điệu Hối (Auddhatya- Kaukṛtya, tâm t́nh phập phều bất định, đă làm thiện sự lại hối hận) và Hoài Nghi (Vicikitsā).

[5] Không thấy lăo pháp sư nhắc đến duyên thứ ba, có lẽ Ngài bỏ sót.

[6] Tầm () và Tứ (): Tầm là cái tâm phân biệt nơi thô tướng của sự việc phát xuất từ ư thức, c̣n Tứ cũng là sự phân biệt nhưng chú trọng đến tế tướng. Nói chung, đây là tác dụng phân biệt, chấp trước chia chẻ sự vật cũng như các pháp dựa theo mức độ từ sâu đến cạn. Ở mức độ cạn th́ gọi là Tầm, ở mức độ sâu hơn th́ gọi là Tứ.

[7] Sắc pháp tức là những thứ sắc chất, bị ngăn ngại gồm năm căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và năm trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc) cộng với một phần Pháp xứ. Tâm pháp gồm tám thức (nhăn thức, nhĩ thức, cho đến A Lại Da Thức). Tâm sở pháp là các tác dụng tâm lư của tám thức.

[8] Ở đây, lăo pháp sư nói nhầm. Trung Tùy phiền năo phải là Vô Tàm (Āhrīkya) và Vô Quư (Anapatrapya), c̣n Tàm và Quư được xếp vào Thiện Tâm Sở.

[9] Jetsun Milarepa (1028–1111) là một vị đại hành giả thành tựu (Mahasiddha) của Phật giáo Tây Tạng. Ngài sanh trong một gia đ́nh giàu có ở miền Tây xứ Tây Tạng. Khi cha Ngài mất sớm, chú và thím Ngài đă t́m mọi cách tước đoạt gia sản, khiến cho mẹ, bản thân Ngài và em gái đều khốn cùng. Căm thù, Ngài bỏ nhà, t́m học thuật phù thủy, dùng phù chú giết chết chú, thím. Say máu trả thù, Ngài giết chết rất nhiều người. Sau đó, Ngài hối hận sâu xa, xin theo học với đại dịch giả Marpa, chịu rất nhiều thử thách và bị hành hạ rất khắc nghiệt. Chẳng hạn, tôn giả Marpa bắt Ngài xây một cái tháp ba tầng, xây xong, bắt phá tan rồi xây lại. Bất cứ chuyện lớn nhỏ ǵ, Milarepa cũng đều bị đánh, chửi thậm tệ. Cuối cùng, sau nhiều năm, Marpa chấp thuận và dạy pháp cho Ngài. Đến lúc đó, Marpa mới cho biết ông cố ư hành hạ như vậy để tiêu trừ nghiệp chướng cho Milarepa. Sau khi đắc pháp, nhất là pháp môn Lục Du Già của Naropa, Milarepa lui về ẩn tu trong một sơn cốc, sống khổ hạnh, và cuối cùng chứng ngộ, trở thành bậc đại hành giả về nhiều Mật pháp. Những bài thơ của Ngài diễn tả sự chứng ngộ được phổ thành ca khúc và lưu truyền rất rộng răi. Một đệ tử đắc pháp của Ngài là Gamgopa đă truyền thừa pháp mạch của Ngài, đặc biệt là pháp Đại Thủ Ấn (Mahamudra). Các môn đệ của Gamgopa đă lập nên tông phái Kargyupa (một trong bốn tông phái lớn nhất của Phật giáo Tây Tạng). Trong đó, tôn giả Dusum Khyenpa, đệ tử của Gamogopa, đă sáng lập chi phái Karma Kargyu và trở thành Karmapa đời thứ nhất.

[10] Marpa Lotsawa (1012–1097), đôi khi c̣n gọi là Marpa Chökyi Lodrö, hoặc danh xưng thông dụng nhất là Đại Dịch Giả Marpa. Ngài quê ở miền Nam Tây Tạng, sanh trưởng trong một gia đ́nh khá giả. Từ trẻ, Ngài đă theo học với Drokmi Shakay Yeshe, và thông thạo tiếng Sankrit. Do thấy kinh sách tại Tây Tạng không đủ và thiếu sót sau pháp nạn Phật giáo dưới thời vua Lang Dharma, Ngài phát tâm sang Ấn Độ cầu Mật Pháp. Ngài đă tham học với nhiều bậc đại hành giả Mật Tông Ấn Độ thời đó. Sau cùng, đắc pháp với ngài Naropa và đại đệ tử của Naropa là Maitripada. Sau mười hai năm miệt mài học tập, Ngài mang kinh sách trở về Tây Tạng và truyền bá Mật Pháp theo truyền thống Naropa. Tuy vậy, Ngài trở sang Ấn Độ hai lần nữa, vẫn theo học với Naropa để hoàn thiện kiến thức về Mật Tông, và được Naropa công nhận là pháp tử. Sau lần tham học lần cuối tại Ấn Độ, Ngài dành trọn thời gian phiên dịch kinh sách từ tiếng Phạn sang tiếng Tây Tạng.

[11] Theo cụ Nam Hoài Cẩn (南懷瑾), đây là một câu chuyện khá nổi tiếng trong nhà Thiền: Thiền sư Văn Hỷ xuất gia từ bé, ba mươi mấy tuổi mới bắt đầu tham Thiền. V́ tu măi vẫn chẳng khai ngộ, Ngài bèn tam bộ nhất bái từ phương Nam đến núi Ngũ Đài mong được Văn Thù Bồ Tát chỉ điểm. Khi đến động Kim Cang ở Ngũ Đài, Sư gặp một ông lăo dắt trâu, đầu bạc phơ, mời Sư vào lều tranh uống chén trà, hỏi Sư từ đâu đến. Văn Hỷ thưa từ phương Nam đến, mong gặp Văn Thù Bồ Tát. Ông cụ hỏi: “Phật giáo ở phương Nam như thế nào?” Sư thưa: “Lộn xộn lắm, nên tôi đến đây cầu pháp”. Cụ già cười bảo: “Ở đây cũng thế, rắn rồng hỗn tạp, phàm thánh đồng cư!” Ông lăo hỏi tiếp Phật pháp, Sư không trả lời được. Ông lăo nhíu mày, gọi: “Quân Đề! Tiễn khách!” Một bé trai chạy ra nói: “Xin mời sư phụ theo tôi”. Dẫn Sư ra khỏi lều, Sư quay lại định cảm tạ chú bé, chỉ thấy Văn Thù Bồ Tát cưỡi trên con sư tử xanh đứng trên hư không. Giây lát Ngài biến mất. Ngàn dặm gian lao tam bộ nhất bái mong được Bồ Tát chỉ dạy, thế mà chẳng nhận biết Bồ Tát. Sư khóc lóc, sám hối, phát phẫn quyết chí tu tập, rốt cuộc đại triệt đại ngộ. Sau khi đại ngộ, Sư phát nguyện phụng sự đại chúng, làm Phạn Đầu (người nấu cơm cho chư tăng) trong tùng lâm. Mỗi bữa phải nấu cơm cho cả ngàn vị Tăng ăn. Có một hôm đang nấu cháo, Sư bỗng thấy ngài Văn Thù hiện thân trong nồi cháo, vẫn cưỡi trên sư tử, chạy ṿng quanh trong nồi. Văn Hỷ bèn dùng cái xẻng để quấy cháo đuổi đánh Văn Thù, quát to: “Văn Thù là Văn Thù, Văn Hỷ là Văn Hỷ. Ngài chạy đến đây làm chi? Ngài là Ngài, tôi là tôi”. Ngài Văn Thù cười to: “Khổ qua th́ rễ cũng đắng, dưa ngọt th́ cuống dưa cũng ngọt. Tu hành ba đại kiếp, đâm ra bị lăo tăng ghét”.

[12] Trong các đại tùng lâm, Thiên Vương Điện là điện thờ ngay sau sơn môn (cửa tam quan) của chùa. Trong điện thờ Di Lặc Bồ Tát ngồi chính giữa, bốn vị thiên vương chầu hầu bốn góc, nên gọi là điện Thiên Vương.

[13] Do lăo pháp sư nói câu này hơi khó hiểu, chúng tôi xin được nói thêm như sau: Chữ Vibhāṣā theo nghĩa gốc có nghĩa là “khái luận, khái yếu, giải thích”, do vậy, từ ngữ này được dịch sang chữ Hán thành “quảng giải, quảng thuyết, thắng thuyết, chủng chủng thuyết”. Đây là một từ ngữ dùng để chỉ các tác phẩm chú thích, chú giải các bộ luật hay luận. Bộ Tỳ Bà Sa nổi tiếng nhất là A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Ba Sa Luận. Riêng bộ Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận của ngài Long Thọ là ngoại lệ, v́ đấy là tác phẩm chú giải kinh Thập Trụ.

[14] Thư biện (書辦) là danh xưng để gọi chung các nha lại tại các phủ huyện chuyên quản trị, biên chép văn thư, thống kê hồ sơ, biên soạn các văn bản theo mạng lệnh của các quan trên.