Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh

Giảng Kư, phần 8

大乘大集地藏十輪經講記

Mộng Tham lăo ḥa thượng chủ giảng

夢參老和尚主講

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Kinh) Nhĩ thời, tôn giả Ưu Ba Ly văn Phật sở thuyết, tùng ṭa nhi khởi, chinh lư y phục, đảnh lễ Phật túc, thiên đản nhất kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng, cung kính, bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Như Phật sở thuyết, cực thiện hộ tŕ tứ căn bản giới, chư thiện nam tử, cập thiện nữ nhân, ư kỳ pháp khí, cập phi pháp khí, kỳ tâm b́nh đẳng, bất cơ, bất lộng, bất tự cống cao, bất suất ha cử. Nhược như thị giả, ư vị lai thế, hữu chư bật-sô phá giới, ác hạnh, thật phi sa-môn, tự xưng sa-môn, thật phi phạm hạnh, tự xưng phạm hạnh, chư bật-sô Tăng ư thị nhân đẳng, vân hà phương tiện ha cử, khu tẫn?”

          ()爾時,尊者優波離聞佛所說,從座而起,整理衣服,頂禮佛足,偏袒一肩,右膝著地,合掌恭敬白佛言:世尊,如佛所說,極善護持四根本戒,諸善男子及善女人,於其法器及非法器,其心平等,不譏不弄,不自貢高,不呵舉。若如是者,於未來世,有諸苾芻破戒惡行,實非沙門自稱沙門,實非梵行自稱梵行。諸苾芻僧,於是人等,云何方便呵舉驅擯?

          (Kinh: Lúc bấy giờ, tôn giả Ưu Ba Ly nghe lời đức Phật dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục, đảnh lễ dưới chân đức Phật, trật một bên vai áo, gối phải đặt sát đất, chắp tay, cung kính bạch với đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Như đức Phật đă nói, các thiện nam tử và thiện nữ nhân hộ tŕ cực tốt đẹp bốn giới căn bản, đối với pháp khí và chẳng phải pháp khí, tâm họ b́nh đẳng, chẳng chê bai, chẳng cười nhạo, chẳng tự kiêu căng, chẳng khinh suất quở mắng, cử tội. Nếu là như vậy th́ trong đời vị lai, có các bật-sô phá giới, ác hạnh, thật sự chẳng phải là sa-môn, tự xưng là sa-môn, thật sự chẳng phải là phạm hạnh, mà tự xưng là phạm hạnh, các vị bật-sô Tăng đối với những người ấy sẽ dùng cách nào để quở trách, cử tội, trục xuất?”)

 

          Tôn giả Ưu Ba Ly (Upāli) là vị tŕ luật bậc nhất trong các đệ tử Phật. Luật Tạng được kết tập là do tôn giả Ưu Ba Ly chủ tŕ kết tập, Ngài hộ tŕ giới luật. Ngài nghe đức Phật nói, đối với hết thảy đều phải b́nh đẳng như thế, vẫn chẳng quở trách tỳ-kheo phá giới, ác hạnh. Nếu nói như vậy, Tăng đoàn sẽ phải làm như thế nào? Ngài liền hỏi đức Phật. Phần đầu đoạn kinh văn này nói về các nghi thức khi Ngài thỉnh vấn. Ngài hỏi, chiếu theo lời đức Phật dạy, thiện nam tử, thiện nữ nhân hộ tŕ bốn giới căn bản, đấy là pháp khí. Nếu đối với kẻ chẳng phải là pháp khí, phá giới, [cụ thể là] phá bốn giới căn bản, phải đối xử b́nh đẳng với họ như thế nào? Lại c̣n chẳng cho phép gièm chê, trào phúng họ. chẳng được phép trêu chọc họ. Tỳ-kheo tŕ giới chẳng được kiêu căng, ngă mạn, chẳng thể tùy tiện quở mắng, cử tội tỳ-kheo phá giới. Nếu là như vậy, trong tương lai, những kẻ phá giới, ác hạnh ấy, căn bản chẳng phải là sa-môn, tự xưng sa-môn, những ǵ kẻ đó làm đều là ô nhiễm. Kẻ đó tự nói là phạm hạnh, là thanh tịnh hạnh, [vậy th́] trong đại chúng, phải chế tài kẻ đó như thế nào?

 

          (Kinh) Phật cáo tôn giả Ưu Ba Ly ngôn: “Ngă chung bất hứa ngoại đạo, tục nhân cử bật-sô tội, ngă thượng bất hứa chư bật-sô Tăng bất y ư pháp, suất nhĩ ha cử phá giới bật-sô, hà huống khu tẫn? Nhược bất y pháp suất nhĩ ha cử phá giới bật-sô, hoặc phục khu tẫn, tiện hoạch đại tội”.

          ()佛告尊者優波離言:我終不許外道俗人舉苾芻罪!我尚不許諸苾芻僧,不依於法,率爾呵舉破戒苾芻,何況驅擯?若不依法,率爾呵舉破戒苾芻,或復驅擯,便獲大罪。

          (Kinh: Đức Phật bảo tôn giả Ưu Ba Ly rằng: “Ta trọn chẳng cho phép ngoại đạo và kẻ thế tục cử tội bật-sô, ta c̣n chẳng cho phép các bật-sô Tăng chẳng theo đúng pháp, khinh suất quở trách, cử tội phá giới bật-sô, huống hồ trục xuất? Nếu chẳng theo đúng pháp mà tùy tiện quở mắng, cử tội phá giới bật-sô, hoặc lại xua đuổi, sẽ mắc tội lớn”).

 

          Trong Phật pháp, ngoại đạo tức là chẳng thuộc vào Phật giáo. Lại c̣n có kẻ tại gia, tức tục nhân, cho đến quốc vương, đại thần, [đức Phật] chẳng cho phép họ cử tội người xuất gia, không cho phép họ trừng trị tà hạnh của người xuất gia. Nếu lúc cần phải quở trách, cử tội họ, phải vâng theo pháp. Vâng theo pháp ǵ vậy? Đức Phật đối với tỳ-kheo phạm giới có bảy loại phương pháp chế tài. Bảy thứ chế tài nào vậy? Cũng là làm pháp sự. Thứ nhất là hiện tiền pháp, thứ hai là ức niệm pháp, thứ ba là bố thí pháp, thứ tư là tự nhiên chế pháp, thứ năm là nghịch tội hướng pháp, thứ sáu là đa nhân dữ pháp (nhiều người chấp thuận cho kẻ đó được phép sám hối hay không), thứ bảy là thảo phu địa pháp (cho phép người phạm tội tự bái sám, sám hối tội khiên)[1]. Phải dựa theo những điều ấy để làm pháp Yết Ma.

          Kể tội tỳ-kheo th́ phải vâng theo pháp, cũng tức là muốn quở trách, cử tội vị tỳ-kheo phá giới, phải do chư Tăng [thực hiện]. Một người không được, tối thiểu là phải có ba vị Tăng trở lên th́ mới được phép cử tội tỳ-kheo. Quư vị chẳng vừa ư ông ta, thấy ông ta phá giới, nội tâm sanh khởi phiền năo, liền tùy tiện quở mắng, cử tội, trách móc vị tỳ-kheo phá giới ấy, hoặc là đuổi ra, [hay nói trang trọng hơn là] “khu tẫn” (驅擯). “Tiện hoạch đại tội” (liền mắc tội lớn). Đấy là tội của chính ḿnh, phải chịu lấy trừng phạt. Tội ấy đương nhiên chẳng phải là Tăng Già bố-tát, mà cũng chẳng phải là tội Ba La Di, mà là phạm tội chửi mắng Tăng, tội coi thường Tam Bảo, tội phá hoại Tam Bảo. Tội của quư vị rất lớn. Do vậy, sau khi nói xong, đức Phật liền bảo ngài Ưu Ba Ly…

 

          (Kinh) Ưu Ba Ly! Nhữ kim đương tri, hữu thập phi pháp suất nhĩ ha cử phá giới bật-sô, tiện hoạch đại tội, chư hữu trí giả giai bất ưng thọ. Hà đẳng vi thập? Nhất giả, bất ḥa Tăng chúng, ư quốc vương tiền, suất nhĩ ha cử phá giới bật-sô. Nhị giả, bất ḥa Tăng chúng, Phạm-chí chúng tiền, suất nhĩ ha cử phá giới bật-sô. Tam giả, bất ḥa Tăng chúng, tể quan chúng tiền, suất nhĩ ha cử phá giới bật-sô. Tứ giả, bất ḥa Tăng chúng, ư chư trưởng giả, cư sĩ chúng tiền, suất nhĩ ha cử phá giới bật-sô. Ngũ giả, nữ nhân chúng tiền, suất nhĩ ha cử phá giới bật-sô. Lục giả, nam tử chúng tiền, suất nhĩ ha cử phá giới bật-sô. Thất giả, tịnh nhân chúng tiền, suất nhĩ ha cử phá giới bật-sô. Bát giả, chúng đa bật-sô, bật-sô ni tiền, suất nhĩ ha cử phá giới bật-sô. Cửu giả, túc oán hiềm tiền, suất nhĩ ha cử phá giới bật-sô. Thập giả, nội hoài phẫn hận, suất nhĩ ha cử phá giới bật-sô. Như thị thập chủng, danh vi phi pháp suất nhĩ ha cử phá giới bật-sô, tiện hoạch đại tội. Thiết y thật sự nhi ha cử giả, thượng bất ưng thọ, huống ư phi thật? Chư hữu thọ giả, diệc đắc đại tội!

          ()優波離,汝今當知有十非法,率爾呵舉破戒苾芻,便獲大罪;諸有智者,皆不應受。何等為十?一者、不和僧眾,於國王前,率爾呵舉破戒苾芻;二者、不和僧眾,梵志眾前,率爾呵舉破戒苾芻;三者、不和僧眾,宰官眾前,率爾呵舉破戒苾芻;四者、不和僧眾,於諸長者、居士眾前,率爾呵舉破戒苾芻;五者、女人眾前,率爾呵舉破戒苾芻;六者、男子眾前,率爾呵舉破戒苾芻;七者、淨人眾前,率爾呵舉破戒苾芻;八者、眾多苾芻、苾芻尼前,率爾呵舉破戒苾芻;九者、宿怨嫌前,率爾呵舉破戒苾芻;十者、內懷忿恨,率爾呵舉破戒苾芻。如是十種,名為非法率爾呵舉破戒苾芻,便獲大罪。設依實事而呵舉者,尚不應受,況於非實?諸有受者,亦得大罪。

          (Kinh: Này Ưu Ba Ly! Ông nay nên biết có mười loại phi pháp khinh suất quở trách, cử tội bật-sô phá giới, liền mắc tội lớn, những người có trí đều chẳng nên tiếp nhận. Những ǵ là mười? Một là Tăng chúng bất ḥa, đối trước quốc vương, khinh suất quở mắng, cử tội bật-sô phá giới. Hai là Tăng chúng bất ḥa, đối trước các phạm-chí, khinh suất quở mắng, cử tội bật-sô phá giới. Ba là Tăng chúng bất ḥa, đối trước các tể quan, khinh suất quở mắng, cử tội bật-sô phá giới. Bốn là Tăng chúng bất ḥa, đối trước các trưởng giả và cư sĩ, khinh suất quở mắng, cử tội bật-sô phá giới. Năm là đối trước các nữ nhân, khinh suất quở mắng, cử tội bật-sô phá giới. Sáu là đối trước các người nam, khinh suất quở mắng, cử tội bật-sô phá giới. Bảy là đối trước các tịnh nhân, khinh suất quở mắng, cử tội bật-sô phá giới. Tám là đối trước nhiều vị bật-sô và bật-sô-ni, khinh suất quở mắng, cử tội bật-sô phá giới. Chín là đối trước kẻ sẵn có oán hiềm từ trước mà khinh suất quở mắng, cử tội bật-sô phá giới. Mười là trong ḷng ôm nỗi phẫn hận mà khinh suất quở mắng, cử tội bật-sô phá giới. Mười loại như thế gọi là phi pháp khinh suất quở mắng, cử tội bật-sô phá giới, sẽ mắc tội lớn. Nếu dựa theo sự thật để quở mắng, cử tội, c̣n chẳng nên làm, huống hồ chẳng thật. Những người chấp thuận [sự kể tội ấy] cũng mắc tội lớn!)

 

          Quư vị nay đă biết “hữu thập chủng phi pháp suất nhĩ ha cử phá giới bật-sô, tiện hoạch đại tội” (có mười loại phi pháp khinh suất quở mắng, cử tội phá giới bật-sô, sẽ mắc tội lớn). Hễ phù hợp với mười loại trách mắng tỳ-kheo ấy, [tội] sẽ thành lập. Người có trí huệ chẳng nên làm như thế. Những ǵ là mười? Ta nói mười loại phi pháp, mười loại ǵ vậy? “Tăng chúng chẳng ḥa hợp”, phải hết sức chú ư điều này! Phàm là Tăng chúng [chẳng ḥa hợp], tức là ư kiến chẳng ḥa hợp, hoặc quyền lợi chẳng ḥa hợp. Ư kiến chẳng ḥa hợp th́ mọi người đều biết, quư vị có cách nh́n của quư vị, tôi có cách nh́n của tôi, tranh chấp rất nhiều! Quyền lợi bất ḥa tức là phân phối các vật thuộc thường trụ, phân phối chẳng hợp lư, đương nhiên là sẽ chẳng ḥa hợp.

          Ở Đại Lục cũng như thế, [khi phân chia tiền tín thí cúng dường], vị Đương Gia sư, Tri Khách sư, lăo ḥa thượng trong chùa, họ lấy hai mươi đồng, quư vị [không giữ chức vụ] chỉ được một đồng. Thời đức Phật tại thế, như vậy là không được! Phật cũng chỉ nhận một đồng! Tôi chỉ nêu thí dụ, thật ra, thời đức Phật tại thế, chẳng có ai cúng dường tiền, đức Phật cũng chẳng nhận tiền. Ngài cấm tỳ-kheo cầm vàng, bạc. Cúng dường y phục, tăng y, muốn cúng dường y th́ mỗi vị một bộ. Sau khi tôn giả Ca Lưu Đa Di (Kālodayin) mất đi, tài sản Ngài sở hữu trị giá sáu mươi vạn. Sáu mươi vạn thuở đó, chẳng biết là bao nhiêu tiền. Thuở đức Phật tại thế, tôn giả Ca Lưu Đà Di thị hiện tham lam, cố ư làm ra dáng vẻ đó. Ngài đă chứng quả A La Hán, đạt được vô ngă. V́ sao Ngài c̣n phải làm như thế? Thị hiện, như thế th́ [đức Phật] mới thuận tiện chế giới! Tôi nêu lên thí dụ ấy.

          Do đó, có mười loại không được phép quở trách tỳ-kheo phá giới như vậy. Điều kiện thứ nhất là “Tăng chẳng ḥa hợp”, quư vị chẳng thể làm Phật sự, vốn là chẳng ḥa hợp. Hoặc là ở trước mặt quốc vương, “suất nhĩ ha cử phá giới bật-sô” (khinh suất quở trách, cử tội tỳ-kheo phá giới). Quốc vương đến chùa miếu, đương nhiên là vị tỳ-kheo phá giới chẳng thể tiếp nhận [bị quở trách, cử tội], ông ta cũng coi thường quốc vương. Tỳ-kheo phá giới rất kiêu ngạo, ngay cả giới c̣n chẳng thọ, ông ta c̣n sợ ǵ chứ? Hai là Tăng chúng chẳng ḥa hợp, ở chỗ phạm-chí[2] tu hành hạnh thanh tịnh, [“phạm-chí” tại Ấn Độ] giống như bậc trưởng giả hoặc học giả trong Nho giáo tại Trung Hoa. Ở ngay trước mặt họ, chẳng thể trách lỗi của tỳ-kheo. Ba là Tăng chúng chẳng ḥa hợp, đối trước quan trên, quan chức địa phương, hoặc quan viên cao cấp, quư vị chẳng thể trách lỗi của tỳ-kheo, trách cứ ông ta sai trái chi đó. Chuyện này chớ nên! Bốn là Tăng chúng chẳng ḥa hợp, đối trước các vị trưởng lăo, trưởng giả, cư sĩ, đối trước các vị trưởng giả và cư sĩ thuộc tại gia tục nhân, chẳng thể dễ dăi trách lỗi tỳ-kheo phá giới. Năm là đối trước nữ nhân, chớ nên trách lỗi tỳ-kheo phá giới. Sáu là đối trước những nam tử tục gia, chớ nên khinh suất trách lỗi tỳ-kheo. Bảy là đối trước các vị tịnh nhân, đừng khinh suất trách lỗi tỳ-kheo. Các tịnh nhân ấy sống trong chùa miếu, chẳng phải là người xuất gia. Như chúng ta có người tới làm công việc đôi chút, hoặc làm công quả th́ gọi là “tịnh nhân”. Nhưng do họ ở trong chùa lâu ngày, chớ nên ở trước mặt bọn họ mà trách lỗi tỳ-kheo. Thứ tám là đối trước đông đảo bật-sô và bật-sô-ni, mọi người đang hội họp đông đảo, [tức là] đối trước rất nhiều tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni, chớ nên trách lỗi tỳ-kheo, sợ rằng tỳ-kheo [đang được nói ở đây] là tỳ-kheo phá giới! Chín là do đối trước kẻ sẵn có hiềm oán từ trước, vị tỳ-kheo ấy có hiềm oán với những kẻ khác, quư vị chớ nên đối trước người có hiềm oán với ông ta, bèn quở mắng, trách tội của ông ta, chớ nên! Thứ mười là trong tâm ôm nỗi niềm phẫn hận, trong tâm đă dấy lên oán hận, quư vị liền trách lỗi tỳ-kheo, chớ nên! Tuy kẻ đó phá giới, quư vị chẳng thể khinh suất. Chưa thông qua phương cách đúng pháp để chỉ lỗi của ông ta, quư vị sẽ chẳng thể quở trách, cử tội của tỳ-kheo được!

          “Như thị thập chủng, danh vi phi pháp suất nhĩ ha cử phá giới bật-sô” (mười loại như thế được gọi là phi pháp khinh suất quở mắng và cử tội của hàng tỳ-kheo phá giới): Ở đây có một vấn đề, mọi người hăy suy ngẫm đôi chút: Tỳ-kheo đă phá giới mà đức Phật c̣n che chở họ như vậy để làm ǵ? V́ sao không cho phép người khác quở trách họ? C̣n chẳng chấp thuận cho kẻ khác kể tội họ? Quá khứ hết thảy chư Phật đều như thế! Tuy các tỳ-kheo ấy đă phá giới, nhưng chủng tử thanh tịnh hăy c̣n sót lại, khi kẻ đó có một niệm thọ giới, trong một niệm ấy, cho đến trong quá tŕnh kẻ đó xuất gia, trong tương lai, sẽ nhất định có thể thành Phật. Do v́ lẽ ấy, chúng ta liên tưởng hết thảy chúng sanh được nghe Phật pháp, các Bổ Đặc Già La có thể thân cận Phật pháp, sẽ nhất định có thể thành Phật. Thành Phật vào lúc nào? Không nhất định, thời gian sẽ rất dài! Họ đă gieo chủng tử, nhất định sẽ sanh rễ, nẩy mầm, tăng trưởng, nhất định có thể thành Phật.

          “Thiết y thật sự nhi ha cử giả, thượng bất ưng thọ, huống ư phi thật” (nếu dựa theo sự thật để quở trách, cử tội, c̣n chẳng nên tiếp nhận, huống hồ chẳng thật): Kẻ đó phạm sai lầm; phạm giới là sự thật, cũng là t́nh huống thật sự. Phải nên [thực hiện] trong Tăng chúng, nương theo pháp của Tăng Già để cử tội người ấy. Có hai mươi vị tăng nhân, mười tăng nhân, hoặc [tối thiểu] là ba vị tăng nhân, nương theo pháp Yết Ma như vậy để cử tội người đó. Trong phần kinh văn kế tiếp, sẽ nêu thí dụ. Nếu chẳng làm như vậy, sẽ là phi pháp. Huống hồ chuyện [phạm giới] ấy, quư vị nghe thấy, có phải là sự thật hay không, vẫn cần phải khảo sát. Chứ nếu [chỉ nghe nói] như vậy mà đă cử tội th́ chẳng được! Phàm là vị tỳ-kheo quở trách, cử tội kiểu đó, cũng mắc tội lớn. “Chư hữu thọ giả nhi y sự thật ha cử tha, thượng bất ưng thọ, hà huống bất y sự thật” (Các vị tiếp nhận [lời than phiền], nếu dựa theo sự thật để quở trách, cử tội, c̣n chẳng nên tiếp nhận [ngay lập tức trước khi điều tra rơ], huống hồ [vội vàng quở trách, cử tội dựa theo những lời tố cáo] chẳng dựa trên sự thật). Chữ Thọ () này nói về điều ǵ? Có người tố giác, đến lúc đại chúng Tăng tác pháp, chẳng nên tiếp nhận ngay [lời tố cáo ấy để quở trách, cử tội người bị tố giác], trước hết, phải nên điều tra. Điều tra rơ ràng rồi mới chấp nhận [cử tội]. Nếu là sự thật cũng phải thận trọng, bởi [cử tội không thận trọng như vậy] rất dễ phá hoại Tăng đoàn.

          Như tỳ-kheo Đại Thiên (Mahadeva) tại Ấn Độ bị quở trách, cử tội, đă đơn độc chia thành một chúng riêng, gồm năm trăm người, lập riêng pháp của ông ta, tức là có thêm pháp của Đại Thiên, [thường gọi là] “Đại Thiên ngũ pháp”. Đấy là đối với danh tướng của giới luật, v́ ư kiến chẳng hợp nhau mà [Tăng đoàn] phân liệt. Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, kết tập giới luật, bèn chia thành hai mươi nhóm, tức là lúc ấy chia thành hai mươi bộ phái[3]. Đó là v́ ư kiến bất đồng. Quư vị tán thành vị tỳ-kheo này phá giới, muốn tác pháp Yết Ma, tôi không tán thành. Nhóm quư vị tán thành th́ quư vị tác pháp, bọn tôi không tán thành, tôi bèn tách ra thành nhóm riêng. Lúc đó, chia thành hai mươi bộ phái. Chuyện này phải học giới Luật mới biết. Đây là chuyên nói về tỳ-kheo ḥa hợp chúng. Đối với vấn đề này, đức Phật hết sức thận trọng, đă nói hết sức nhiều.

 

          (Kinh) Phục hữu thập chủng phi pháp ha cử phá giới bật-sô, tiện hoạch đại tội, chư hữu trí giả diệc bất ưng thọ. Hà đẳng vi thập? Nhất giả, chư dư ngoại đạo ha cử bật-sô. Nhị giả, bất tŕ cấm giới tại gia bạch y ha cử bật-sô. Tam giả, tạo Vô Gián tội ha cử bật-sô. Tứ giả, phỉ báng chánh pháp ha cử bật-sô. Ngũ giả, hủy tử hiền thánh ha cử bật-sô. Lục giả, si cuồng tâm loạn ha cử bật-sô. Thất giả, thống năo sở triền ha cử bật-sô. Bát giả, tứ phương Tăng tịnh nhân ha cử bật-sô. Cửu giả, thủ viên lâm nhân ha cử bật-sô. Thập giả, bị phạt bật-sô ha cử bật-sô. Như thị thập chủng phi pháp ha cử phá giới bật-sô, tiện hoạch đại tội. Thiết y thật sự nhi ha cử giả, diệc bất ưng thọ, huống ư phi thật. Chư hữu thọ giả, diệc đắc đại tội.

          ()復有十種非法呵舉破戒苾芻,便獲大罪,諸有智者亦不應受。何等為十?一者、諸餘外道,呵舉苾芻;二者、不持禁戒在家白衣,呵舉苾芻;三者、造無間罪,呵舉苾芻;四者、誹謗正法,呵舉苾芻;五者、毀呰賢聖,呵舉苾芻;六者、癡狂心亂,呵舉苾芻;七者、痛惱所纏,呵舉苾芻;八者、四方僧淨人,呵舉苾芻;九者、守園林人,呵舉苾芻;十者、被罰苾芻,呵舉苾芻。如是十種非法呵舉破戒苾芻,便獲大罪。設依實事而呵舉者,亦不應受,況於非實?諸有受者,亦得大罪。

          (Kinh: Lại có mười loại phi pháp quở trách, cử tội phá giới bật-sô, sẽ mắc tội lớn, những người có trí cũng chẳng nên làm theo. Những ǵ là mười? Một là các ngoại đạo khác quở trách, cử tội bật-sô. Hai là tại gia bạch y chẳng tŕ giới cấm mà quở trách, cử tội bật-sô. Ba là kẻ tạo tội Vô Gián quở trách, cử tội bật-sô. Bốn là kẻ phỉ báng chánh pháp quở trách, cử tội bật-sô. Năm là kẻ hủy báng, chê bai hiền thánh quở trách, cử tội bật-sô. Sáu là kẻ si cuồng, loạn tâm quở trách, cử tội bật-sô. Bảy là kẻ bị đau đớn, khổ năo trói buộc mà quở trách, cử tội bật-sô. Tám là tịnh nhân của tứ phương Tăng quở trách, cử tội bật-sô. Chín là kẻ trông coi vườn, rừng quở trách, cử tội bật-sô. Mười là bật-sô bị phạt lại quở trách, cử tội bật-sô. Mười thứ quở trách, cử tội phá giới bật-sô phi pháp như thế, sẽ chuốc lấy tội lớn. Nếu dựa theo sự thật mà quở trách, cử tội th́ cũng chẳng nên tiếp nhận, huống hồ chẳng thật! Những ai tiếp nhận th́ cũng mắc tội lớn).

 

          Chớ nên tiếp nhận, chớ nên lănh nạp vấn đề loại này. Những ǵ là mười? Chớ nên [cho phép] các ngoại đạo quở trách, cử tội tỳ-kheo. Bạch y tại gia chẳng tŕ giới cấm quở trách, cử tội tỳ-kheo, “cấm giới ” (禁戒) [được nói ở đây] là giới cấm tại gia. Quư vị thọ Ngũ Giới hoặc Bát Quan Trai Giới. Đức Phật cấm chỉ, nói theo Luật, hàng bạch y tại gia chẳng thể quở trách, cử tội tỳ-kheo. Ba là kẻ tạo tội Vô Gián quở trách, cử tội bật-sô. Quư vị đă tạo tội Vô Gián, càng chẳng thể quở trách, cử tội tỳ-kheo. Dẫu quư vị đă sám hối, vẫn chẳng thể quở trách, cử tội tỳ-kheo. Bốn là kẻ phỉ báng chánh pháp, chẳng thể quở trách, cử tội tỳ-kheo. Năm là người hủy báng, gièm chê hiền thánh mà quở trách, cử tội bật-sô. Hạng người này cũng chẳng thể quở trách, cử tội tỳ-kheo. Do vậy, bạch y tại gia quở trách, cử tội tỳ-kheo thanh tịnh, quư vị đă phạm tội, tạo tội Vô Gián. Đối với tỳ-kheo phá giới, quư vị cũng chẳng thể quở trách, cử tội người đó. Trước hết, quư vị hăy kiểm tra chính ḿnh thanh tịnh hay không thanh tịnh. Trong phần trên là ḥa hợp Tăng chúng. Nếu Tăng chúng chẳng ḥa hợp, sẽ chẳng thể cử tội của tỳ-kheo.

          “Lục giả, si cuồng tâm loạn ha cử bật-sô” (Sáu là kẻ si cuồng, tâm loạn quở trách, cử tội bật-sô): Nội tâm của quư vị bất b́nh thường, lời nói chẳng đáng tin. Ngay cả quở trách, cử tội cũng chẳng thể tin tưởng được, [nếu để cho kẻ như vậy tùy tiện cử tội] th́ [người cho phép] cũng phạm tội lớn. Kẻ đó tinh thần phân liệt, chớ nên [cho phép kẻ đó quở trách, cử tội]. “Thất giả, thống năo sở triền ha cử bật-sô” (Bảy là kẻ bị đau khổ trói buộc quở trách, cử tội tỳ-kheo): Bản thân kẻ đó bị phiền năo trói buộc, lại t́m ṭi khuyết điểm của tỳ-kheo để quở trách, cử tội! “Bát giả, tứ phương Tăng tịnh nhân ha cử bật-sô” (Tám là tịnh nhân của tứ phương Tăng quở trách, cử tội bật-sô): Tứ phương Tăng tịnh nhân là tịnh nhân ở chung với Tăng Già. Chữ “tịnh nhân” chuyên chỉ người tại gia, trọn chẳng phải là hàng xuất gia. Họ ở trong chùa làm lụng, cũng là tịnh nhân của Tăng Già. Thứ chín là kẻ trông nom vườn, rừng. Trông nom vườn rừng của Tăng Già, cũng là người thủ hộ tài sản của tăng nhân. Họ chẳng thể quở trách, cử tội tỳ-kheo. “Thập giả, bị phạt bật-sô ha cử bật-sô” (Mười là bật-sô bị phạt quở trách, cử tội bật-sô): Chính quư vị là kẻ bị xử phạt, chẳng có quyền lực ǵ để quở trách, cử tội tỳ-kheo.

          Mười loại như trên, “như thị thập chủng phi pháp ha cử phá giới bật-sô, tiện hoạch đại tội. Thiết y thật sự nhi ha cử giả, diệc bất ưng thọ” (mười loại quở trách, cử tội phi pháp như thế sẽ mắc đại tội. Nếu họ nương theo sự thật để quở trách, cử tội, cũng chớ nên tiếp nhận): Tăng đoàn chớ nên tiếp nhận, những hạng người trên đây dẫu nói sự thật c̣n chẳng nên tiếp nhận, bởi [những lời cáo buộc của họ] là “phi pháp”. Huống hồ, họ chẳng nói sự thật! Nếu ai tiếp nhận [những lời cáo buộc ấy] rồi quở trách tỳ-kheo, sẽ mắc tội lớn. Nói như vậy, tỳ-kheo phá giới có thể ở chung với Tăng chúng hay không?

         

          (Kinh) Phục thứ Ưu Ba Ly! Nhược hữu bật-sô, hủy phạm cấm giới, dữ Tăng cộng trụ. Ư Tăng chúng trung, hữu dư bật-sô, quỹ tắc sở hành giai tất cụ túc, nhất thiết ngũ đức vô bất viên măn, ưng tùng ṭa khởi, chỉnh lư y phục, cung kính đảnh lễ bật-sô Tăng túc, tiện chí phá giới ác bật-sô tiền, cầu thính cử tội, tác như thị ngôn: “Trưởng lăo ức niệm! Ngă kim dục cử trưởng lăo sở phạm, dĩ thật, phi hư vọng, ưng thời, bất phi thời, nhuyễn ngữ, phi thô quánh, từ tâm, bất sân khuể, lợi ích, phi tổn giảm, vị linh Như Lai pháp nhăn, pháp đăng cửu xí thịnh cố. Trưởng lăo thính giả, ngă đương như pháp cử trưởng lăo tội”. Bỉ nhược thính giả, tiện ưng như pháp, như thật cử chi. Bỉ nhược bất thính, phục ưng đảnh lễ Thượng Tọa Tăng túc, cung kính bạch ngôn: “Như thị bật-sô phạm như thị sự, ngă y ngũ pháp, như thật cử chi”. Thời Tăng chúng trung Thượng Tọa bật-sô, ưng thẩm quán sát năng cử, sở cử, cập sở phạm sự hư, thật, khinh, trọng, y Tỳ Nại Da, cập Tố Đát Lăm, phương tiện kiểm vấn, ủy dụ, ha trách, dĩ thất chủng pháp, như ưng diệt trừ. Nhược phạm trọng tội, ưng trọng trị phạt. Nhược phạm trung tội, ưng trung trị phạt. Nhược phạm khinh tội, ưng khinh trị phạt, linh kỳ tàm quư, sám hối sở phạm.

          ()復次,優波離,若有苾芻,毀犯禁戒,與僧共住。於眾僧中有餘苾芻,軌則所行,皆悉具足,一切五德,無不圓滿,應從座起,整理衣服,恭敬頂禮苾芻僧足,便至破戒惡苾芻前,求聽舉罪作如是言:長老憶念!我今欲舉長老所犯,以實非虛妄,應時不非時,軟語非粗獷,慈心不瞋恚,利益非損減,為令如來法眼、法燈久熾盛故,長老聽者,我當如法舉長老罪。彼若聽者,便應如法如實舉之;彼若不聽,復應頂禮上座僧足,恭敬白言:如是苾芻犯如是事,我依五法如實舉之。時僧眾中上座苾芻,應審觀察能舉所舉,及所犯事虛實輕重,依毗奈耶及素怛纜,方便檢問,慰喻呵責,以七種法如應滅除。若犯重罪,應重治罰;若犯中罪,應中治罰;若犯輕罪,應輕治罰,令其慚愧,懺悔所犯。

          (Kinh: Lại này Ưu Ba Ly! Nếu có bật-sô hủy phạm cấm giới ở chung với Tăng chúng. Trong Tăng chúng, có bật-sô khác hành theo khuôn phép thảy đều trọn đủ, hết thảy năm đức không ǵ chẳng viên măn, hăy nên từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục, cung kính đảnh lễ dưới chân bật-sô Tăng, đến trước phá giới ác bật-sô, xin người ấy hăy nghe cử tội, nói như thế này: “Trưởng lăo nghĩ nhớ! Tôi nay muốn nêu ra các chuyện trưởng lăo đă phạm, nêu sự thật, chẳng hư vọng, đúng lúc, chẳng sai thời, nói mềm mỏng, chẳng thô lỗ, cộc cằn, từ tâm, chẳng sân khuể, lợi ích, chẳng tổn giảm, v́ khiến cho mắt pháp và đèn pháp của Như Lai rực rỡ lâu dài. Trưởng lăo chịu nghe, tôi sẽ đúng như pháp mà nêu ra tội của trưởng lăo”. Nếu kẻ đó chịu nghe, sẽ đúng như pháp, đúng sự thật mà nêu ra. Nếu kẻ đó chẳng nghe, hăy nên đảnh lễ dưới chân vị tăng Thượng Tọa, cung kính bạch rằng: “Bật-sô như vậy phạm chuyện như thế này, con sẽ theo đúng năm pháp, đúng sự thật mà nêu ra”. Khi đó, vị bật sô Thượng Tọa trong Tăng chúng hăy nên suy xét, quan sát người cử tội và kẻ bị cử tội, cũng như các chuyện đă phạm là giả, thật, nhẹ, nặng, dựa theo Tỳ Nại Da và Tố Đát Lăm (Kinh Tạng) để phương tiện xét hỏi, kiểm chứng, an ủi, khuyên dụ, quở trách, dùng bảy loại pháp để theo đúng lẽ diệt trừ. Nếu phạm trọng tội, hăy nên trừng phạt nặng. Nếu phạm tội bậc trung, hăy nên trừng phạt bậc trung. Nếu phạm tội nhẹ, hăy nên trừng phạt tội nhẹ, khiến cho người ấy hổ thẹn, sám hối các điều đă phạm).

 

          Kẻ đó hủy phạm giới cấm, tức là đă vi phạm những điều đức Phật cấm đoán, nhưng vẫn ở trong Tăng đoàn, ở chung với đại chúng Tăng. Như vậy th́ vị tỳ-kheo khác là người vâng giữ quy củ, chẳng phạm giới, thanh tịnh, hành tŕ giới thanh tịnh thảy đều trọn đủ, hết thảy năm đức không ǵ chẳng viên măn. E rằng năm đức ấy chẳng giống ngũ đức thường nói. Ngũ đức là trong ngày kết hạ an cư, có thể “tự tứ cử tội”. “Tự tứ cử tội” là như thế nào? “Tự tứ” (自諮) có nghĩa là tùy ư. “Tự tứ” là tùy theo ư của quư vị, mà cũng thuận theo ư kiến của người khác, nên gọi là Tự Tứ. Hăy nên hiểu chữ Tứ () có nghĩa là Ư; [tự tứ] là tùy thuận ư của quư vị, mà cũng tùy thuận ư của người khác. Như thế th́ sẽ nêu bày sai lầm của nhau. Cũng tức là kết hạ an cư từ Rằm tháng Tư đến Rằm tháng Bảy, khi an cư viên măn, bèn sám hối tội đă phạm trong quá khứ. Đó là nói đến đời này, trong một khoảng thời gian ngắn ngủi. Một năm mới kết hạ an cư một lần. Trong một năm ấy, quư vị có làm chuyện sai trái nào hay chăng? Đối trước đại chúng, bản thân quư vị có thể tự nêu bày, mà người khác cũng có thể vạch lỗi quư vị. Trong ấy bao gồm “thấy, nghe, nghi”. Ngay cả hoài nghi cũng đều có thể nói ra, nhưng chẳng thành sự thật, th́ sẽ chẳng thể sám tội!

          Một vị tỳ-kheo có tâm sân hận, nói vị tỳ-kheo khác phạm bất tịnh hạnh, nhưng trên thực tế, ông ta kể tội ǵ vậy? Do vị đó thấy dê đực và dê cái đang làm chuyện bất tịnh, [vị tỳ-kheo mang tâm sân hận] bèn nói vị tỳ-kheo kia cũng hành bất tịnh hạnh. Chuyện kiểu này cũng tính là sự thật ư? Đó gọi là “sở kiến phi thật, sở cử diệc phi thật” (điều trông thấy chẳng thật, điều được nêu ra cũng chẳng thật). Đó gọi là “hoài nghi”, tội này không tính! Tuy đối trước các vị tỳ-kheo khác công khai sám hối, nhưng phải xét xem tội ác lớn hay nhỏ. Tội lớn th́ ba tỳ-kheo, lớn hơn nữa th́ mười vị tỳ-kheo. Sám hối thanh tịnh xong, lại khéo tu hành. Đó là Tự Tứ. Tự Tứ có năm đức: Tự ḿnh nói ra, đối với chính ḿnh chẳng trở ngại, chẳng thẹn, chẳng hổ, chẳng nghi. “Tự tứ bất tự tứ tri chi” [nghĩa là] tôi tự nghĩ tôi có tội ấy, có phải là thật sự phạm tội hay không? Chính tôi vẫn chẳng thể biết, tôi nói ra để mọi người chứng thực cho tôi một phen. Mọi người nói: “Thầy không phạm tội ấy” th́ quư vị sẽ không phạm. Nếu nói quư vị phạm tội, quư vị liền sám hối. Đó gọi là “tự ngũ đức” (năm đức của chính ḿnh).

          Thứ hai là “cử tội ngũ đức” (năm đức khi kể tội), c̣n gọi là Tha Ngũ Đức. “Tri thời” (biết thời): Quư vị phải biết lúc nào th́ mới có thể cử tội của tỳ-kheo. Biết lúc nào cũng chính là lúc tự tứ trước đại chúng Tăng để sám hối. Đó là đúng thời. Thông thường, đại chúng Tăng tụ hội, trước hết, quư vị bước ra xin phép. Nếu kẻ đó (kẻ bị cử tội) chấp nhận, [tức là] “quư vị cứ nêu tội”. Người ấy đă chấp nhận, quư vị mới có thể cử tội. Nếu là chân thật, có lợi ích cho kẻ đó, có lợi cho chính ḿnh, có lợi cho Tăng đoàn, phải nhu ḥa, thiện thuận, lại c̣n phải có tâm từ bi. Đó là Ngũ Đức, được gọi chung là Tự Tha Ngũ Đức. Trọn đủ ngũ đức như vậy, năm đức của chính ḿnh và người khác đều viên măn. Một vị tỳ-kheo như vậy từ chỗ ngồi đứng lên, chỉnh đốn y phục gọn ghẽ, “cung kính đảnh lễ bật-sô Tăng túc(cung kính đảnh lễ dưới chân đại chúng bật-sô Tăng), lễ đại chúng. Tiếp đó, vị ấy lại đối trước vị bật-sô phá giới, thưa: “Tôi sẽ cử tội thầy, thầy có cho phép hay không?” “Tác thị ngôn” (nói như thế này): Nói với người ấy như thế nào? Nói “trưởng lăo ức niệm”: Thầy hăy suy nghĩ, tư duy, nhớ lại đôi chút, nay tôi muốn nói tội thầy đă phạm.

          “Ngă kim dục cử trưởng lăo sở phạm” (tôi nay muốn nêu ra điều trưởng lăo đă phạm): Tôi nói sự thật, chẳng phải là hư vọng. Nay lúc này là đúng thời, chẳng phải sai thời. Nay tôi nhu ḥa, thiện thuận, nói nhẹ nhàng, chẳng phải là ăn nói cộc cằn, thô ác. Tôi chẳng có tâm sân hận, tôi muốn khiến cho Tăng đoàn thanh tịnh, khiến cho thầy khéo tu hành thanh tịnh. Tôi do từ tâm, chẳng phải v́ sân khuể. Tôi v́ tạo lợi ích cho thầy, chẳng phải là tổn hại, giảm thiểu đạo đức của thầy. V́ khiến cho chánh pháp nhăn tạng và đèn pháp của Như Lai vĩnh cửu sáng hừng hực trong nhân gian. V́ lẽ như vậy, tôi xin trưởng lăo cho phép tôi kể lỗi của Ngài.

          “Thính giả” (chịu nghe, cho phép): Nếu vị tỳ-kheo trên đây nghe vị Tăng muốn cử tội nói đúng, cho phép vị ấy kể ra, th́ vị ấy có thể đúng như pháp mà cử tội ấy. Nếu vị kia, tức vị bị tố giác chẳng chấp thuận, không để ư tới vị xin cử tội, nói: “Lời ngươi nói không đúng, ta đâu có phạm sai lầm”, th́ vị [xin cử tội] ấy phải làm như thế nào? Vị ấy sẽ đảnh lễ Thượng Tọa.

          “Thượng Tọa” hoặc là ngài Ưu Ba Ly, hoặc là các vị xuất gia đă lâu, cũng là bậc Thượng Tọa đại đức xuất gia, tăng lạp[4] cao, chủ tŕ pháp hội ấy. Liền hướng về vị Thượng Tọa ấy đảnh lễ, cũng sẽ cung kính thưa bày như thế, nói tỳ-kheo như thế đă phạm tội như vậy. “Ngă y ngũ pháp, như thật cử chi” (con sẽ nương theo năm pháp, đúng như thật mà nêu ra): Năm pháp ấy chỉ năm loại giới trọng đầu [trong Thất TTịnh Giới của tỳ-kheo], tức Ba La Di (Pārājika), Tăng Tàn (Saṃghāvaśeṣa), chín mươi giới thuộc Ba Di Đề (Pāyattika, Đơn Đọa), cho đến ba mươi ba giới thuộc Ni Sa Ba Di Đề (Naiḥsargika-pāyattika, Xả Đọa), cũng là bốn pháp, cộng thêm hai giới thuộc loại Bất Định, nhưng hai giới Bất Định (Aniyata) sẽ không tính, có thể bỏ qua. C̣n có một trăm điều thuộc Chúng Học Pháp (Sabahulāh Śaiksa-dharmāh), đều y theo các giới điều trong giới bổn, ắt cần phải đúng sự thật mà nêu ra.         

          Ngoài ra, c̣n có năm pháp là Yết Ma Pháp, đấy là chuyện của người xuất gia. Năm pháp ấy chỉ nên nói với người xuất gia, chẳng thể nói với hàng tại gia. Ngoài ra, c̣n có năm pháp là khi đại chúng Tăng đă tụ tập, cần phải xướng lên. “Cử trù” (舉籌, giơ thẻ) giống như phiếu bầu, [biểu thị] quư vị có tán thành kể tội người đó hay không? Nếu có một người không tán thành, sẽ chẳng thể cử tội. C̣n có rất nhiều pháp, chỉ để nói với người xuất gia. Đối với Tăng chúng như vậy, vị tỳ-kheo Thượng Tọa phải nên quan sát. “Năng cử, sở cử”: Người cử tội và kẻ bị cử tội, chuyện của vị kể tội và tội đă phạm là giả, hay thật, là bịa ra, hay có thật, là nặng, hay là nhẹ. Vậy th́ lại dựa theo Tỳ Nại Da, tức là vâng theo Luật Tạng, Tố Đát Lăm (Sūtra) là Kinh Tạng, vâng theo kinh do đức Phật đă nói, vâng theo giới luật do đức Phật đă dạy, “phương tiện” là phương tiện thiện xảo để kiểm nghiệm một phen. Khi ấy, vừa vỗ về, vừa quở trách kẻ đó.

          “Dĩ thất chủng pháp, như ưng diệt trừ” (dùng bảy loại pháp, theo đúng lẽ mà diệt trừ): Cũng chính là bảy loại pháp như chúng tôi vừa mới nói, tức ức niệm pháp (pháp nghĩ nhớ), tự tứ pháp, tự thuyết pháp (pháp tự nói, tự nêu ra tội lỗi), cho đến cuối cùng là kẻ ấy đă phạm tội lỗi lớn nhỏ quá nhiều, như cỏ che rợp đất, đối trước đại chúng sám hối như vậy. Nhưng [các tội đă phạm] chẳng phải là bốn căn bản (giết, trộm, dâm, dối). Phạm bốn căn bản th́ không được! Tội nặng th́ dùng cách trị tội nặng, tội nhẹ th́ dùng cách trị tội nhẹ. “Linh kỳ tàm quư, sám hối sở phạm” (Khiến cho kẻ đó hổ thẹn, sám hối tội đă phạm), đạt tới mục đích ǵ? Khiến cho vị tỳ-kheo phá giới nhất định sẽ biểu lộ sám hối; về sau, không tái phạm nữa! Đại chúng Tăng chế tài kẻ đó, bảo kẻ đó bái sám, bắt kẻ đó “diện bích” (面壁, nh́n vách sám hối). Cấm túc (禁足), tức là không cho kẻ đó ra ngoài. Đấy đều là các phương pháp chế tài. Tùy t́nh huống lúc đó mà định. Hiện thời, pháp này đă gần như chẳng thể thực hiện được, mà bản thân Tăng đoàn chẳng phải là ḥa hợp như thế! Hiện thời là anh xạc tôi, tôi xạc anh, Tăng đoàn càng hỗn loạn, chỉ có vâng theo kinh, chính ḿnh sám hối! Làm như vậy có được hay không? V́ lẽ này, tôn giả Ưu Ba Ly lại thỉnh vấn đức Phật.

 

          (Kinh) Thời, Ưu Ba Ly phục bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Nhược thật hữu quá, ác hạnh bật-sô, thị bạch y lực, hoặc tài bảo lực, hoặc đa văn lực, hoặc từ biện lực, hoặc đệ tử lực, dĩ như thị đẳng chư thế lực cố, lăng cự Tăng chúng Thượng Tọa bật-sô, tŕ Tố Đát Lăm, cập Tỳ Nại Da, cập Ma Đát Lư Ca giả, như pháp giáo hối, giai bất thừa thuận. Như thị bật-sô, vân hà trị phạt?” Phật ngôn: “Ưu Ba Ly! Thượng Tọa bật-sô tŕ Tam Tạng giả, ưng ḥa Tăng chúng, khiển sứ cáo bạch quốc vương, đại thần, linh trợ oai lực. Nhiên hậu, như thật y pháp trị phạt”. Thời, Ưu Ba Ly phục bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Nhược bỉ hữu quá, ác hạnh bật-sô, dĩ tài bảo lực, hoặc đa văn lực, hoặc từ biện lực, hoặc dĩ chủng chủng xảo phương tiện lực, linh bỉ quốc vương, đại thần hoan hỷ, giai trụ phá giới phi pháp bằng trung, dung túng như thị ác bật-sô tội, bất thính như thật y pháp trị phạt. Nhĩ thời, Tăng chúng ưng đương vân hà?” Phật ngôn: “Ưu Ba Ly! Nhược bỉ bật-sô hành Vô Y Hạnh, ư tăng chúng trung, thô trọng tội tướng vị chương lộ giả, thị thời Tăng chúng ưng quyền xả trí. Nhược bỉ bật-sô hành Vô Y Hạnh, ư Tăng chúng trung, thô trọng tội tướng dĩ chương lộ giả, thị thời Tăng chúng ưng cộng ḥa hợp, y pháp khu tẫn, linh xuất Phật pháp. Ưu Ba Ly! Thí như yến mạch, tại mạch điền trung, nha, hành, chi, diệp, dữ mạch tương tự, uế tạp tịnh mạch. Cập chí bỉ thảo, kỳ tuệ vị xuất, thị thời nông phu ưng quyền xả trí. Tuệ kư xuất dĩ, thị thời nông phu khủng uế tịnh mạch, tịnh căn tiễn bạt, khí ư điền ngoại. Hành Vô Y Hạnh, phá giới bật-sô diệc phục như thị, thị bạch y đẳng chủng chủng thế lực, trụ ư Tăng trung, oai nghi, h́nh tướng, dữ Tăng tương tự, uế tạp thanh chúng, năi chí thiện thần vị tương giác phát. Ư Tăng chúng trung, thô trọng tội tướng vị chương lộ giả, thị thời Tăng chúng ưng quyền xả trí. Nhược chư thiện thần dĩ tương phát giác, ư Tăng chúng trung, thô trọng tội tướng dĩ chương lộ giả, thị thời Tăng chúng ưng cộng ḥa hợp, y pháp khu tẫn, linh xuất Phật pháp.

          ()時,優波離復白佛言:世尊,若實有過惡行苾芻,恃白衣力,或財寶力,或多聞力,或詞辯力,或弟子力,以如是等諸勢力故,凌拒僧眾;上座苾芻,持素怛纜及毗奈耶及摩怛理伽者,如法教誨,皆不承順,如是苾芻,云何治罰?佛言:優波離,上座苾芻持三藏者,應和僧眾,遣使告白國王、大臣,令助威力,然後如實依法治罰。時,優波離復白佛言:世尊,若彼有過惡行苾芻,以財寶力,或多聞力,或詞辯力,或以種種巧方便力,令彼國王、大臣歡喜,皆住破戒非法朋中,容縱如是惡苾芻罪,不聽如實依法治罰,爾時僧眾應當云何?佛言:優波離,若彼苾芻行無依行,於僧眾中,粗重罪相未彰露者,是時僧眾應權舍置。若彼苾芻行無依行,於僧眾中,粗重罪相已彰露者,是時僧眾應共和合,依法驅擯,令出佛法。優波離,譬如燕麥,在麥田中,芽、莖、枝、葉與麥相似,穢雜淨麥,及至彼草其穗未出,是時農夫應權舍置。穗既出已,是時農夫恐穢淨麥,並根剪拔棄於田外。行無依行破戒苾芻亦復如是,恃白衣等種種勢力,住於僧中威儀形相與僧相似,穢雜清眾,乃至善神未相覺發,於僧眾中,粗重罪相未彰露者,是時僧眾應權舍置。若諸善神已相覺發,於僧眾中,粗重罪相已彰露者,是時僧眾應共和合,依法驅擯,令出佛法。

          (Kinh: Khi đó, ngài Ưu Ba Ly lại bạch với đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nếu ác hạnh bật-sô thật sự có lỗi, ỷ vào sức của kẻ tại gia, hoặc sức tiền của, hoặc sức đa văn, hoặc sức từ biện, hoặc sức đệ tử, do các thế lực như thế, lấn hiếp, chống cự Tăng chúng và Thượng Tọa bật-sô tŕ Kinh Tạng, Luật Tạng, và Luận Tạng, đối với lời răn dạy đúng pháp đều chẳng vâng theo. Bật-sô như thế th́ trị phạt như thế nào?” Đức Phật dạy: “Này Ưu Ba Ly! Thượng Tọa bật-sô là vị tŕ Tam Tạng, hăy nên cùng với Tăng chúng, sai người đến báo với quốc vương và đại thần để họ giúp oai lực. Sau đấy, đúng như thật, theo pháp mà trị phạt”. Khi đó, ngài Ưu Ba Ly lại bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nếu ác hạnh bật-sô có lỗi ấy dùng sức tiền của, hoặc sức đa văn, hoặc sức từ biện, hoặc dùng đủ loại sức phương tiện khéo léo, khiến cho các quốc vương và đại thần ấy hoan hỷ, đều trụ trong đám bè đảng phá giới, phi pháp, dung túng tội của ác bật-sô như thế, chẳng chấp thuận đúng như thật, theo pháp trị phạt. Lúc đó, Tăng chúng hăy nên làm như thế nào?” Đức Phật dạy: “Này Ưu Ba Ly! Nếu ác hạnh bật-sô hành Vô Y Hạnh, mà trong tăng chúng, tội tướng thô nặng của kẻ đó chưa lộ ra rơ rệt, lúc đó, Tăng chúng hăy nên tạm thời bỏ đó. Nếu bật-sô hành Vô Y Hạnh ấy, ở trong Tăng chúng, tội tướng thô nặng đă lộ rơ ràng, khi đó, Tăng chúng cùng ḥa hợp, theo đúng pháp trục xuất kẻ đó ra ngoài Phật pháp. Này Ưu Ba Ly! Ví như yến mạch, ở trong ruộng lúa mạch, [các loại cỏ dại] có mầm, thân, cành, lá tương tự như lúa mạch, làm tạp uế lúa mạch. Khi các loại cỏ ấy chưa trổ đ̣ng đ̣ng, lúc đó, nông phu hăy nên tạm thời bỏ đó. Lúa đă trổ đ̣ng đ̣ng, lúc ấy, nông phu sợ chúng sẽ làm ô uế lúa mạch, bèn nhổ cắt tận rễ, vứt ra ngoài ruộng. Phá giới bật-sô hành Vô Y Hạnh cũng giống như thế, cậy vào các thứ thế lực của kẻ tại gia v.v… ở trong Tăng chúng, oai nghi và h́nh tướng tương tự với Tăng, uế tạp Tăng chúng thanh tịnh, cho đến thiện thần cũng chưa nhận biết. Ở trong Tăng chúng, tội tướng thô nặng [của tỳ-kheo phá giới ấy] chưa tỏ lộ, khi đó, Tăng chúng tạm thời bỏ đó. Nếu các thiện thần đă phát giác, tội tướng thô nặng đă tỏ lộ trong Tăng chúng, khi ấy, Tăng chúng hăy nên cùng ḥa hợp, theo đúng pháp xua đuổi kẻ đó ra ngoài Phật pháp).

 

          “Ma Đát Lư Ca” (Mātŗkā) là Luận Tạng. [Tỳ-kheo phá giới, ác hạnh đối với] giáo huấn đúng pháp trong Tam Tạng đều chẳng thừa nhận. Bất luận Tăng chúng giáo huấn kẻ đó như thế nào, hắn cũng đều chẳng tiếp nhận. “Như thị bật-sô, vân hà trị phạt?” (Bật-sô như thế trị phạt như thế nào): Đối với loại tỳ-kheo ác tánh như thế, chúng con lại nên làm như thế nào? Đức Phật liền bảo tôn giả Ưu Ba Ly: “Thượng Tọa bật-sô tŕ Tam Tạng giả” [ư nói vị Thượng Tọa bật-sô] là người tinh thông Tam Tạng Kinh, Luật, Luận, “ưng ḥa Tăng chúng” (nên cùng với Tăng chúng), hăy nên liên hợp toàn thể đại chúng, đại chúng trong đại hội nhất trí, phái một vị Tăng sĩ đến nói với quốc vương, đại thần, hy vọng quốc vương, đại thần đừng hợp tác với ác hạnh tỳ-kheo, sẽ tăng trưởng oai lực của Tăng đoàn. Sau đấy, đúng như thật, vâng theo pháp để chế tài, trị phạt kẻ đó!

          Tôn giả Ưu Ba Ly lại nói: “Bạch Thế Tôn! Nếu bật-sô ấy là kẻ có lỗi ác, có ác hạnh, có sức mạnh tiền bạc, mua chuộc quốc vương, mua chuộc đại thần”. Tiền có thể thông thần! Mọi người đều biết: Thuở đức Phật tại thế, đă có t́nh h́nh này! Nếu không, làm sao có thể chế giới cho được? “Hoặc hữu đa văn lực” (hoặc có sức đa văn): Kẻ đó nghe kinh nhiều, biện tài lại rất lưu loát, sức từ biện (ngôn từ biện tài) biện luận vô ngại. Kẻ đó có tội, căi thành vô tội, căi phăng đen thành trắng; cũng có hạng người như vậy! Cũng có khi họ c̣n có thể nêu kinh, dẫn luận [để chứng minh bản thân vô tội]. “Hoặc dĩ chủng chủng phương tiện lực” (hoặc dùng đủ loại sức phương tiện): Nghĩ đủ loại phương pháp để phá hoại Tăng đoàn, khiến cho quư vị chẳng thể trị tội kẻ đó được. Hoặc là kẻ đó khiến cho các quốc vương, đại thần hoan hỷ, dùng đủ loại phương pháp đút lót quốc vương, đại thần, hoặc là điên đảo trắng đen. Các quốc vương, đại thần ấy đều là bè đảng của tỳ-kheo phá giới, họ là bằng hữu của kẻ đó, thuộc vào đảng của kẻ đó. Dung túng tội của bật-sô như thế, quốc vương và đại thần sẽ chẳng giúp đỡ Tăng chúng thanh tịnh. “Nhĩ thời, Tăng chúng ưng đương vân hà?” (lúc bấy giờ, Tăng chúng phải nên làm như thế nào): Tới lúc ấy, chúng ta lại nên xử lư như thế nào?

          “Phật ngôn: - Ưu Ba Ly! Nhược bỉ bật-sô hành Vô Y Hạnh” (Đức Phật dạy: “Này Ưu Ba Ly! Nếu bật-sô ấy hành Vô Y Hạnh”): Vô Y Hạnh chẳng sanh công đức, chẳng sanh thiện pháp, chẳng nương theo đạo do đức Phật đă dạy để hành. Đó gọi là Vô Y Hạnh. Nhưng “ư Tăng chúng trung” (ở trong Tăng chúng), kẻ đó đă phạm tội, bất luận thô tội hay trọng tội, cho đến tội nhẹ, hễ c̣n chưa lộ rơ, chẳng phải công khai, chẳng phải là mọi người đều biết đến, vẫn chưa hiển lộ. Khi đó, Tăng chúng hăy nên dùng phương tiện quyền xảo, tạm thời chẳng quan tâm tới hắn. “Xả trí” (舍置) là chẳng hỏi tới kẻ đó, chẳng có cách nào, đành bỏ đó không hỏi tới! “Nhược bỉ bật-sô hành Vô Y Hạnh, ư Tăng chúng trung, thô trọng tội tướng, dĩ chương lộ giả” (Nếu bật-sô ấy hành Vô Y Hạnh, ở trong Tăng chúng, tội tướng thô nặng đă tỏ lộ): Ở trong Tăng đoàn, mọi người đều biết; khi đó, Tăng chúng hăy nên vâng theo pháp, nương theo giáo pháp của ta để trục xuất kẻ đó, đuổi kẻ đó ra khỏi Tăng đoàn, khiến cho kẻ đó rời ĺa Phật pháp.

          Đức Phật lại bảo ngài Ưu Ba Ly: Ví như yến mạch (燕麥, Oat). Yến mạch được trồng trong ruộng c̣n chưa trổ hạt. Ở trong ruộng lúa mạch, các thứ [lúa dại hoặc cỏ dại khác] có mầm, thân, cành, lá giống hệt lúa mạch tốt, quư vị chẳng thể phân định rơ ràng nổi. Chỉ v́ nó chẳng có hạt, chưa kết hạt mà! “Tạp uế tịnh mạch” nghĩa là loại cỏ hay lúa dại tạp nhiễm xen lẫn với lúa mạch thuần túy; khi ấy, chúng vẫn c̣n đang là mạ non. “Bỉ thảo” (các thứ cỏ đó): Trước khi chúng trổ đ̣ng đ̣ng, kết hạt, quư vị vẫn chẳng thể đoán định nó là yến mạch được. Quư vị xử lư nó, người khác vẫn không chấp nhận, đợi cho tới khi lúa đă trổ đ̣ng đ̣ng, sẽ biết thứ nào chẳng phải là lúa mạch. Cỏ dại đương nhiên chẳng trổ đ̣ng đ̣ng, chẳng thành lương thực, chẳng kết thành hạt lúa. Khi đó, nông phu mới nhổ bỏ, vứt đi. Chứ khi vừa mới nẩy mầm, nông phu cũng chẳng phân biệt được. Đợi cho đến khi lúa trổ đ̣ng đ̣ng, sẽ kết luận nó chẳng thể kết hạt, như thế th́ nông phu sẽ nhổ cỏ tận gốc, vứt khỏi ruộng, quăng ra ngoài ruộng. Tỳ-kheo hành Vô Y pháp, phá giới cũng giống như thế. Hắn cậy vào các thứ thế lực của kẻ tại gia, trụ trong Tăng chúng, có oai nghi và h́nh tướng vẫn tương tự như Tăng chúng.

          “Uế tạp thanh chúng” [nghĩa là] khiến cho đại chúng thanh tịnh bị nhuốm bẩn, chẳng thể thanh tịnh. Đồng thời, thiện thần vẫn chưa phát giác, thiện thần chưa tố giác, thần hộ pháp chẳng tố giác, tội tướng thô nặng trong Tăng chúng c̣n chưa lộ rơ. Khi ấy, Tăng chúng chẳng quan tâm đến hắn, gác lại đó. Khi thiện thần đả phát giác, thần hộ pháp đă phát giác, tội tướng thô nặng của hắn đă lộ rơ trong Tăng chúng. Lúc đó, Tăng chúng hăy nên cùng ḥa hợp, nương theo pháp mà trục xuất, đuổi gă đó ra ngoài Tăng đoàn Phật pháp.

 

          (Kinh) “Ưu Ba Ly! Thí như đại hải, bất túc tử thi, ngă Thanh Văn Tăng chư đệ tử chúng diệc phục như thị, bất dữ phá giới, ác hạnh bật-sô tử thi cộng trụ”. Thời, Ưu Ba Ly phục bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Nhược bỉ phá giới, ác hạnh bật-sô, Tăng chúng ḥa hợp cộng khu tẫn dĩ, bỉ ác bật-sô, dĩ tài bảo lực, hoặc đa văn lực, hoặc từ biện lực, hoặc dĩ chủng chủng xảo phương tiện lực, linh bỉ quốc vương, đại thần hoan hỷ, giai trụ phá giới, phi pháp bằng trung, dĩ oai thế lực lăng bức Tăng chúng, hoàn linh như thị phá giới bật-sô dữ Tăng cộng trụ. Nhĩ thời, Tăng chúng đương phục vân hà?” Phật ngôn: “Ưu Ba Ly! Nhĩ thời, Tăng trung hữu năng hối quư tŕ giới bật-sô, vị hộ giới cố, bất ưng sân mạ phá giới bật-sô, đản ưng cáo bạch quốc vương, đại thần, hoặc khủng lăng bức, nhi bất cáo bạch, ưng xả bổn cư, biệt văng dư xứ”.

          ()優波離,譬如大海不宿死尸;我聲聞僧諸弟子眾亦復如是,不與破戒惡行苾芻死尸共住。時,優波離復白佛言:「世尊,若彼破戒惡行苾芻,僧眾和合共驅擯已;彼惡苾芻以財寶力,或多聞力,或詞辯力,或以種種巧方便力,令彼國王、大臣歡喜,皆住破戒非法朋中,以威勢力凌逼僧眾,還令如是破戒苾芻與僧共住,爾時僧眾當復云何?佛言:優波離,爾時僧中有能悔愧持戒苾芻,為護戒故,不應瞋罵破戒苾芻,但應告白國王大臣;或恐凌逼,而不告白,應舍本居,別往餘處。

          (Kinh: “Này Ưu Ba Ly! Ví như biển cả chẳng chứa xác chết, các đệ tử Thanh Văn Tăng của ta cũng giống như thế, chẳng cùng ở chung với xác chết bật-sô phá giới, ác hạnh”. Khi đó, ngài Ưu Ba Ly lại bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nếu bật-sô phá giới ác hạnh ấy đă bị Tăng chúng cùng ḥa hợp trục xuất rồi, liền dùng sức tiền của, hoặc sức đa văn, hoặc sức từ biện, hoặc dùng các loại sức phương tiện khéo léo, khiến cho quốc vương và đại thần hoan hỷ, đều trụ trong bè đảng phá giới, phi pháp, dùng sức oai thế lấn hiếp Tăng chúng, c̣n ép buộc họ phải cho bật-sô phá giới ở chung với chư Tăng. Khi ấy, Tăng chúng nên làm như thế nào?” Đức Phật dạy: “Này Ưu Ba Ly! Lúc bấy giờ, trong Tăng có vị bật-sô có thể sám hối, hổ thẹn, v́ hộ giới, chẳng nên giận dữ, chửi mắng bật-sô phá giới, chỉ nên thưa rơ với quốc vương, đại thần. Nếu sợ bị lấn hiếp, bức bách mà chẳng thưa rơ, hăy nên bỏ chỗ đang ở, sang ở riêng chỗ khác”).

 

          Nếu quư vị nhảy xuống biển chết đi, nước biển nhất định sẽ dùng sóng đẩy trả xác quư vị lên bờ. Biển chẳng chứa tử thi. “Ngă Thanh Văn Tăng chư đệ tử chúng diệc phục như thị, bất dữ phá giới, ác hạnh bật-sô tử thi cộng trụ” (Các đệ Thanh Văn Tăng của ta cũng giống như thế, chẳng ở chung với “xác chết” của bật-sô phá giới, ác hạnh), tuyệt đối chẳng ở chung với kẻ đó! “Thời Ưu Ba Ly phục bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Nhược bỉ phá giới, ác hạnh bật-sô, Tăng chúng ḥa hợp cộng khu tẫn dĩ, bỉ ác bật-sô, dĩ tài bảo lực, hoặc đa văn lực, hoặc từ biện lực, hoặc dĩ chủng chủng xảo phương tiện lực, linh bỉ quốc vương, đại thần hoan hỷ” (Khi đó, ngài Ưu Ba Ly lại bạch với đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Nếu bật-sô phá giới, ác hạnh ấy đă bị Tăng chúng ḥa hợp cùng trục xuất rồi, nhưng hắn dùng sức tiền của, hoặc sức đa văn, hoặc sức từ biện, hoặc dùng sức của các loại phương tiện khéo léo khiến cho quốc vương và đại thần hoan hỷ): Quốc vương và đại thần đều đứng về phía tỳ-kheo phá giới, kéo bè kết đảng, dùng sức oai thế lấn hiếp, bức ép Tăng chúng, khiến họ phải ở chung với tỳ-kheo như thế. Trong quá khứ, quốc vương Ấn Độ làm chuyện này rất nhiều. Do vậy, đă chia ḥa hợp Tăng thành hai chúng. Tỳ-kheo phá giới vẫn có kẻ tán thành họ, chẳng hạn như các tỳ-kheo giải đăi, phóng dật bèn ở chung với họ. Do vậy, ngay trong thuở đức Phật tại thế, đă có hiện tượng Tăng chúng phân liệt này!

          Vậy th́ lại phải làm như thế nào? Đuổi, họ không đi, họ ở lỳ trong Tăng chúng. “Phật ngôn: - Ưu Ba Ly! Nhĩ thời, Tăng trung hữu năng hối quư, tŕ giới bật-sô, vị hộ giới cố, bất ưng sân mạ phá giới bật-sô, đản ưng cáo bạch quốc vương, đại thần, hoặc khủng lăng bức nhi bất cáo bạch, ưng xả bổn cư, biệt văng dư xứ” (Đức Phật bảo: - Này Ưu Ba Ly! Lúc bấy giờ, trong Tăng có vị bật-sô có thể sám hối, hổ thẹn, tŕ giới, v́ hộ giới, chớ nên giận dữ, chửi mắng bật-sô phá giới, chỉ nên bảo rơ với quốc vương và đại thần. Hoặc là sợ bị lấn hiếp, bức ép mà chẳng thưa rơ với quốc vương và đại thần, hăy nên bỏ chỗ đang ở, sang sống riêng ở một nơi khác). Đó là đă bị phân liệt, làm như thế nào đây? Phương pháp xử lư là là vị tỳ-kheo tốt hăy rời đi, chính ḿnh t́m một chỗ khác để ở. Quư vị chẳng thể trêu vào hắn được, hăy náu ḿnh đi! Có ư nghĩa như vậy đó. Vẫn chẳng cho phép khống chế, trừng phạt kẻ đó. Đây là nói rơ thiện tín của quốc vương lúc ấy đang bị thế lực ác vây quanh!

          Đề Bà Đạt Đa và vua A Xà Thế muốn đoạt vương vị, [Đề Bà Đạt Đa] sai A Xà Thế đoạt ngôi vua của phụ vương A Xà Thế. Ông ta nói: “Khi Ngài làm hoàng đế, tôi sẽ làm Phật”. Thuở đức Phật tại thế, chuyện kiểu này đă xảy ra. Đă thế, ông ta c̣n rất ác. Do có thế lực, ông ta là anh của ngài A Nan, cũng thuộc vương tộc. V́ vậy, ông ta dùng đủ loại phương thức để hại Phật. Ở trên đỉnh núi, dùng đá toan đè nát Phật. Chẳng đè Phật được, đâm ra làm thân Phật chảy máu. Ngay khi đó, đại địa liền nứt ra, nhanh chóng hút Đề Bà Đạt Đa vào, thân hăm trong địa ngục. Phá hoại ḥa hợp Tăng đoàn cũng [sẽ chuốc lấy tội lỗi] giống như thế!

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát phục bạch Phật ngôn: - Đại đức Thế Tôn! Phả hữu Phật độ ngũ trược ác thế, không vô Phật thời, kỳ trung chúng sanh phiền năo xí thịnh, tập chư ác hạnh, ngu si hận lệ, nan khả hóa phủ? Vị Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan Chiên-đồ-la, cư sĩ Chiên-đồ-la, trưởng giả Chiên-đồ-la, sa-môn Chiên-đồ-la, Bà-la-môn Chiên-đồ-la, như thị đẳng nhân, thiện căn vi thiểu, vô hữu tín tâm, siểm khúc, ngu si, hoài thông minh mạn, bất kiến, bất úy hậu thế khổ quả, ly thiện tri thức, năi chí thú hướng Vô Gián địa ngục.

          ()爾時,地藏菩薩摩訶薩復白佛言:大德世尊,頗有佛土五濁惡世空無佛時,其中眾生煩惱熾盛,習諸惡行,愚癡佷戾,難可化不?謂剎帝利旃荼羅、宰官旃荼羅、居士旃荼羅、長者旃荼羅、沙門旃荼羅、婆羅門旃荼羅。如是等人,善根微少,無有信心,諂曲愚癡,懷聰明慢,不見不畏後世苦果,離善知識,乃至趣向無間地獄。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát lại bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch đại đức Thế Tôn! có cơi Phật nào nhằm thời ngũ trược ác thế, trống rỗng, chẳng có Phật, chúng sanh trong ấy phiền năo lừng lẫy, quen làm các điều ác, ngu si, hung hăng, dữ tợn, khó thể hóa độ hay chăng? Tức là Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan Chiên-đồ-la, cư sĩ Chiên-đồ-la, trưởng giả Chiên-đồ-la, sa-môn Chiên-đồ-la, Bà-la-môn Chiên-đồ-la, những kẻ như thế thiện căn ít ỏi, chẳng có tín tâm, siểm nịnh, cong quẹo, ngu si, tự phụ thông minh, chẳng thấy, chẳng sợ khổ quả trong đời sau, ĺa thiện tri thức, cho đến hướng tới địa ngục Vô Gián).

 

          Sau khi ngài Ưu Ba Ly hỏi xong, Địa Tạng Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng lên, hướng về đức Phật, thưa: “Đại đức Thế Tôn! Trong thời Mạt Pháp, có rất nhiều Phật quốc độ, không chỉ là Phật quốc độ này của chúng ta”, “phả hữu Phật độ” hàm nghĩa không chỉ là thế giới Sa Bà, mà vô lượng thế giới khác. Trong vô biên thế giới, có Phật quốc độ cũng thị hiện ngũ trược ác thế. Ngũ trược ác thế là Kiếp Trược, Kiến Trược, Phiền Năo Trược, Chúng Sanh Trược, và Mạng Trược; đấy là Ngũ Trược. Thời đại ấy rất chẳng thanh tịnh. Cũng là thế gian lúc ấy rất ác, lại chẳng có Phật, là lúc rỗng không, chẳng có Phật. Vị Phật trước đă nhập diệt, vị Phật sau chưa giáng sanh. Khi đó, chúng sanh trong thế giới này, chúng sanh trong cơi Phật phiền năo nặng nề khôn ngằn!

          “Xí thịnh” (熾盛, hừng hực): Rất hưng thịnh, giống như lửa lớn. Chẳng làm chuyện tốt, làm điều ác, ai nấy đều quen làm. Đối với cảnh giới ngũ dục, mọi người tranh nhau tập luyện giết, trộm, dâm, dối. Hiện thời là như thế đó, quư vị có thể dùng kinh Phật để đối chiếu một phen. Ngu si cũng là tâm sân hận rất nặng, vô minh rất nặng, hết sức hung bạo. “Lệ” () có nghĩa là hung bạo. Đối với chữ Hận () phải nên dùng bút khoanh lại [để đánh dấu], [chẳng giống như] chữ Ngận () thuộc bộ Khuyển (), Hận () có nghĩa là chẳng dễ giáo hóa, ương ngạnh, khó điều phục.

          Có khi là ác đế vương, Sát-đế-lợi, quốc vương đó là Chiên-đồ-la, là kẻ ác. Chiên-đồ-la (旃荼羅, Caṇḍāla)[5] biểu thị ư nghĩa ác. Cũng có tể quan Chiên-đồ-la. “Ác quan”: Đă có quốc vương ác th́ sẽ có quan lại ác. Các cư sĩ ấy chẳng phải là cư sĩ đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới, mà là kẻ tại gia. Kẻ tại gia Chiên-đồ-la, trưởng giả Chiên-đồ-la, trưởng giả chẳng phải [người hành] Thập Thiện ư? Đôi khi trưởng giả có của cải, giàu có, có oai lực lớn, họ cũng biến thành kẻ ác. Kẻ ác trong các trưởng giả, tức là ác trưởng giả, Bà-la-môn Chiên-đồ-la v.v… Những kẻ như thế thiện căn ít ỏi, chẳng có tín tâm, siểm khúc, ngu si. “Khúc” () là chẳng ngay thẳng. Tâm họ chẳng chánh trực, siểm mị, không ngay thẳng. Quư vị thấy một kẻ đối với quan trên, đối với thượng cấp của hắn nịnh nọt khôn cùng! Ở trong văn pḥng của quan trên, hắn sẽ kḥm lưng, chùng gối, đứng hết sức cung kính, khi trở về văn pḥng của chính ḿnh, nhất định sẽ đối xử kiêu căng, ngạo mạn với thuộc hạ. Hễ siểm nịnh cấp trên, nhất định sẽ kiêu căng với kẻ dưới. Kẻ đó chẳng có trí huệ, là kẻ ngu si, nhưng hắn ỷ chính ḿnh thông minh, rất biết xu nịnh. Gian tướng, gian thần đều là kẻ rất thông minh. Họ làm chuyện xấu hết sức thông minh. V́ bọn họ làm chuyện xấu hết sức thông minh, bèn kiêu căng, ngạo mạn, thấy ai cũng chẳng bằng họ. Nhưng đối với khổ quả trong vị lai, họ chẳng trông thấy, mà cũng chẳng sanh ḷng kinh sợ, cũng chẳng tin tưởng. Nếu chúng ta nói nghiệp báo thiện ác với họ, nói vị lai sẽ như thế nào, căn bản là họ chẳng tin tưởng, bởi họ chỉ thấy người sống chịu tội, chẳng thấy người chết mang gông!

          Tôi đă gặp một kẻ rất ác; hiện thời, hắn đă già rồi. Trong quá khứ, hắn làm đao phủ. Hiện thời, đổi sang xử tử bằng súng, hắn chẳng c̣n việc nữa. Hiện thời, hắn rất già, rất nghèo túng, rất khổ sở. Hắn vẫn chẳng sửa đổi thói quen ấy, tôi cũng tán gẫu với hắn suốt ngày. Tôi khuyên hắn tin Phật. Tôi nói: “Ông có thể thay đổi ác quả trong tương lai”. Hắn nói: “Tôi chẳng tin chuyện ông nói!” Chẳng tin th́ thôi, tôi vẫn tṛ chuyện với hắn. Hắn khoe với tôi: Đao của hắn chẳng giống như chúng ta tưởng tượng. Chúng ta thường nghĩ giết người nhất định phải dùng một cây đao rất lớn. Chẳng phải vậy! Đao của hắn rất nhỏ, giống như dao xắt trái cây vậy, nhưng rất sắc bén, rất mỏng. Khi hắn giết người, chẳng phải là như chúng ta hung hăng chặt chém, hoàn toàn chẳng phải là như vậy. Đao của hắn bỏ trong ống, giấu trong tay áo. Tới lúc muốn giết quư vị, bèn vỗ áo lên cổ quư vị, nhấn mạnh một cái, sọ rụng xuống liền! Đao hết sức sắc bén, rất mỏng. Hắn thấy kẻ khác, bất luận là mẹ, hay cha, hay thân nhân của hắn, hắn sẽ nh́n vào cái ót của họ, xem sẽ hạ đao ở chỗ nào! Hắn chuyên môn xem chỗ nào có thể cứa đao, đốt xương nào có chỗ trống, trừ một tầng da ra! Hắn sẽ cứa ngay tại đó, giống như mổ ḅ. Một con ḅ hắn giết rất nhanh, t́m được chỗ khớp xương để cứa gọn rất nhanh. Loại người ác như vậy trong tâm toàn nghĩ đến chuyện ác, chỉ biết chuyện ǵ có lợi cho hắn là được rồi!

          Trong xă hội này, mỗi người chúng ta cũng từng bị hại, quư vị có từng hại người khác hay không? Chắc cũng đă từng hại! Trong quan hệ lợi ích, kẻ hoàn toàn chưa hại người khác, tôi nghĩ vẫn là số ít. Nếu thật sự có hạng người như thế, thật sự là Bồ Tát. Trong đời ác ngũ trược này, chúng ta đừng tưởng rằng lúc này chẳng tốt! Trong lúc này mà quư vị có thể thọ Tam Quy, Ngũ Giới, trong tâm hướng thiện, so với lúc quư vị ở trong thế giới thanh tịnh, cũng như lúc thế giới này có Phật, công đức của quư vị hơn họ hành thiện trong mười năm, trăm năm, ngàn năm! V́ vậy, vào lúc chẳng thể làm việc thiện, chẳng có sức làm việc thiện, chẳng có sức để đột phá hoàn cảnh hiện thực. Do vậy, nếu quư vị chẳng làm ác, sẽ bị hết thảy các thứ công kích, áp bức từ những kẻ làm ác. Chỗ nào quư vị cũng bị hạn chế, ước thúc. Nói cách khác, quư vị bị khốn đốn khắp nơi! Chúng tôi nói “thần hộ pháp bảo vệ quư vị”, [tuy vậy], có khi sức mạnh của thần hộ pháp cũng chẳng đủ! V́ sao? Ác quỷ và ác thần có sức mạnh c̣n to hơn thần hộ pháp! Nhân gian c̣n chưa loạn, cơi trời đă loạn trước. A Tu La và chư thiên đánh nhau trước, chỉ sợ lúc ấy, chư thiên bận đánh giặc, thế lực của kẻ ác bèn tăng cường. Cho nên có khổ quả trong đời sau như vậy, ĺa khỏi thiện tri thức, tiến hướng địa ngục Vô Gián.

 

          (Kinh) Như thị đẳng nhân vị tài lợi cố, dữ chư phá giới, ác hạnh bật-sô, tương trợ cộng vi phi pháp bằng đảng, giai định thú hướng Vô Gián địa ngục. Nhược hữu thị xứ, ngă đương trụ bỉ, dĩ Phật Thế Tôn Như Lai pháp vương, lợi ích an lạc nhất thiết hữu t́nh. Vô thượng vi diệu cam lộ pháp vị, phương tiện hóa đạo, linh đắc thọ hành, bạt tế như thị Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, năi chí Bà-la-môn Chiên-đồ-la, linh bất thú hướng Vô Gián địa ngục.

          ()如是等人,為財利故,與諸破戒惡行苾芻,相助共為非法朋黨,皆定趣向無間地獄。若有是處,我當住彼,以佛世尊如來法王,利益安樂一切有情,無上微妙甘露法味,方便化導令得受行,拔濟如是剎帝利旃荼羅,乃至婆羅門旃荼羅,令不趣向無間地獄。

          (Kinh: Những kẻ như thế v́ tài lợi mà cùng với các bật-sô ác hạnh, phá giới, giúp đỡ nhau, cùng kết thành bè đảng phi pháp, đều chắc chắn tiến hướng địa ngục Vô Gián. Nếu có chỗ như thế, con sẽ ở nơi đó, dùng pháp của Phật Thế Tôn Như Lai pháp vương để lợi ích, an lạc hết thảy hữu t́nh, [cho họ hưởng] pháp vị cam lộ vi diệu vô thượng, phương tiện giáo hóa, hướng dẫn, khiến cho họ tiếp nhận, vâng hành, cứu vớt Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến Bà-la-môn Chiên-đồ-la như thế, khiến cho họ chẳng tiến hướng địa ngục Vô Gián).

 

          Đây là Địa Tạng Bồ Tát phát nguyện, là trọng điểm của kinh Thập Luân. Trước hết, Địa Tạng Bồ Tát hướng về đức Phật thưa bày: Trong đời ác ngũ trược, nhằm thuở Mạt Pháp, vào lúc chẳng có Phật, phiền năo của chúng sanh rất mạnh. Trong loài người cũng có kẻ ác, mà quốc vương cũng ác, tể quan cũng ác, nhân dân cũng ác, cho đến kẻ làm gương mẫu như bậc trưởng giả cũng là ác trưởng giả, học giả Bà-la-môn cũng ác, cũng đều là Chiên-đồ-la. Những người như thế chẳng có thiện căn, lại chẳng có tín tâm, lại chẳng chí tâm, lại chẳng sợ khổ quả đời sau. Giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo cho họ nghe chẳng có tác dụng cho mấy, họ chẳng tin, có tác dụng chi đâu!

          “Giai định thú hướng Vô Gián địa ngục” (đều chắc chắn tiến hướng địa ngục Vô Gián). V́ sao? Kẻ đó v́ lợi, hạng người như kẻ đó c̣n chẳng phải v́ danh, mà chuyên v́ lợi. Kẻ v́ danh c̣n tốt đẹp hơn một tí, v́ c̣n phải quan tâm đến thể diện, phải giữ ǵn thanh danh tốt đẹp. Kẻ tham tài lợi, hết thảy đều bất kể! Những kẻ xấu ác đó lại cùng tỳ-kheo phá giới, ác hạnh kết bầy với nhau, c̣n có thể tố giác giả dối, hạng người này ở đâu cũng đều có! Trong giới Phật giáo, trong giới ḥa thượng, cũng có những kẻ xu nịnh, dựa thần, cậy thế! Khi mới xuất gia, tư tưởng [của những kẻ ấy đă] có vấn đề, hoàn toàn chẳng phải là thanh tịnh xuất gia. Cũng có sư phụ thâu nhận kẻ đó, kiến lập trên quan hệ tài lợi. Có các chùa v́ bảo tồn chính ḿnh mà mong hại người khác, [cứ nghĩ] “chẳng hại người khác, sẽ chẳng thể bảo tồn chính ḿnh. Hại người khác th́ mới bảo tồn chính ḿnh”. Nhưng trên thực tế, quư vị niệm kinh, niệm Phật, lễ bái, tŕ tụng cũng có thể bảo vệ chính ḿnh, thiện pháp hộ pháp thần sẽ bảo vệ quư vị.

          Bất quá, trong hiện thời, ngay cả thiện pháp thần cũng bảo hộ chẳng xuể, ác thần quá nhiều! V́ thế, Địa Tạng Bồ Tát bèn phát nguyện này: Nếu có nơi như vậy, con nhất định đến đó. “Ngă đương trụ bỉ” (con sẽ trụ trong đó), sẽ dùng pháp của đức Như Lai pháp vương trong Phật pháp để an vui hết thảy hữu t́nh, khiến cho họ đạt được pháp vị cam lộ vi diệu vô thượng, phương tiện giáo hóa, hướng dẫn, khiến cho họ có thể tiếp nhận, hành tŕ, chẳng tiến vào địa ngục Vô Gián. Chúng tôi giảng kinh Thập Luân nhằm mục đích nói rơ công lực to lớn của Địa Tạng Bồ Tát, Ngài chuyên độ các chúng sanh chẳng thể giáo hóa. Khi họ đọa địa ngục, Ngài sẽ đến giáo hóa họ. Đợi cho tới lúc họ vào đó chịu khổ, may ra có thể chuyển biến đôi chút. Bất quá, chuyện này cũng rất khó nói!

          Khi tôi ở Bắc Kinh, có một vị lăo ḥa thượng, ở trên đường, thấy một bà già dắt đứa cháu nhỏ, hai bà cháu đi xin ăn. Sư trông thấy, sanh ḷng thương xót, Sư cũng đă hoàn tục. Bất quá, khi nhắc đến, chúng tôi vẫn kêu ông ta là lăo ḥa thượng. Bản thân ông ta có chỗ ở, chỗ ở rất rộng răi. Sư bảo bà già: “Bà hăy để cho cháu bé này theo tôi xuất gia. Bà cũng tới đó làm tịnh nhân, chúng ta cùng sống với nhau, cần ǵ phải đi xin ăn nữa?” Đấy chẳng phải là hảo ư ư? Bà già đó nổi quạu: “Bọn tao ăn mày, đă mạt rệp cực đỉnh rồi, c̣n phải làm ḥa thượng nữa hả?” Sư nói với tôi: “Pháp sư! Người hiện thời, đúng là chẳng có cách nào hết!” Tôi hỏi: “Sao vậy!” “Tôi muốn giúp bà ta an cư lạc nghiệp, sống ở chỗ tôi chẳng phải là rất tốt ư?” Bà ta liền nói: Bà ta đă mạt rệp đến cùng cực, lại c̣n phải làm ḥa thượng hả? C̣n bảo tôi: Làm ḥa thượng tệ hại hơn ăn mày!” Ông ta bảo tôi: “Thầy vẫn đừng nên làm pháp sư, đừng nên trở về chùa”. Tôi nói: “Tôi vẫn c̣n là phạm nhân! Chưa hoàn toàn khôi phục [tư cách công dân]”. Ông ta nói: “Bỏ đi! Mai sau khi được khôi phục, đừng nên làm ḥa thượng nữa!” Ôi! Thật sự đáng thương. Nếu như vậy, Phật pháp sẽ chẳng có ai giảng nữa! Quư vị nói xem, xă hội này có ác hay không? Ác đến nỗi coi ḥa thượng thành như vậy đó!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: - Thiện nam tử! Ư vị lai thế, thử Phật độ trung, hữu chư chúng sanh phiền năo xí thịnh, tập chư ác hạnh, ngu si hận lệ, nan khả hóa đạo, vị Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan Chiên-đồ-la, cư sĩ Chiên-đồ-la, trưởng giả Chiên-đồ-la, sa-môn Chiên-đồ-la, Bà-la-môn Chiên-đồ-la, như thị đẳng nhân, thiện căn vi thiểu, vô hữu tín tâm, siểm khúc, ngu si, hoài thông minh mạn, ly thiện tri thức, ngôn vô chân thật, bất năng tùy thuận thiện tri thức ngữ, thường hành phỉ báng, hủy tử, mạ lỵ. Ư chư chánh pháp, do dự đảo kiến, bất kiến, bất úy hậu thế khổ quả, thường nhạo tập cận chư ác luật nghi, háo hành sát sanh, năi chí tà kiến, khi cuống thế gian, tự tha câu tổn. Thị Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, năi chí Bà-la-môn Chiên-đồ-la, hoại loạn ngă pháp. Ư ngă pháp trung, nhi đắc xuất gia, hủy phá cấm giới, nhạo doanh tục nghiệp. Bỉ Sát-đế-lợi, năi chí Bà-la-môn đẳng, cung kính cúng dường, tham lợi cầu tài, hữu ngôn vô hạnh, truyền thư tống ấn, thông tín văng lai, thương cổ bản dịch, háo tập ngoại điển, chủng thực doanh nông, tàng trữ bảo vật, thủ hộ viên trạch, thê, thiếp, nam, nữ, tập hành phù ấn, chú thuật sử quỷ, chiêm tướng cát hung, hợp ḥa thang dược, liệu bệnh cầu tài, dĩ tự hoạt mạng, tham trước ẩm thực, y phục, bảo sức, cần doanh tục vụ, hủy phạm Thi La, hành chư ác pháp, bối âm cẩu hạnh, thật phi sa-môn, tự xưng sa-môn, thật phi phạm hạnh, tự xưng phạm hạnh. Bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, năi chí Bà-la-môn Chiên-đồ-la, ái nhạo thân cận, cung kính cúng dường, thính thọ ngôn giáo. Thử phá giới giả, ư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, năi chí Bà-la-môn Chiên-đồ-la, diệc nhạo thân cận, cung kính cúng dường, thính thọ ngôn giáo. Nhược kiến hữu nhân, ư ngă pháp trung, đắc xuất gia dĩ, cụ giới, phú đức, tinh tấn tu hành, Học, Vô Học hạnh, năi chí chứng đắc tối hậu cực quả, bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, năi chí Bà-la-môn Chiên-đồ-la, phản sanh tăng tật, bất nhạo thân cận, cung kính cúng dường, thính thọ ngôn giáo.

          ()爾時,佛告地藏菩薩摩訶薩言:善男子,於未來世此佛土中,有諸眾生煩惱熾盛,習諸惡行,愚癡佷戾,難可化導,謂剎帝利旃荼羅、宰官旃荼羅、居士旃荼羅、長者旃荼羅、沙門旃荼羅婆羅門旃荼羅。如是等人,善根微少,無有信心,諂曲愚癡,懷聰明慢,離善知識,言無真實,不能隨順善知識語,常行誹謗毀呰罵詈,於諸正法猶豫倒見,不見不畏後世苦果,常樂習近諸惡律儀,好行殺生,乃至邪見,欺誑世間,自他俱損。是剎帝利旃荼羅,乃至婆羅門旃荼羅,壞亂我法,於我法中而得出家,毀破禁戒,樂營俗業。彼剎帝利乃至婆羅門等,恭敬供養,貪利求財,有言無行,傳書送印,通信往來,商賈販易,好習外典,種植營農,藏貯寶物,守護園宅、妻妾、男女,習行符印,咒術使鬼,佔相吉凶,合和湯藥,療病求財,以自活命,貪著飲食、衣服、寶飾,勤營俗務,毀犯尸羅,行諸惡法,貝音狗行,實非沙門自稱沙門,實非梵行自稱梵行。彼剎帝利旃荼羅,乃至婆羅門旃荼羅,愛樂親近,恭敬供養,聽受言教。此破戒者,於剎帝利旃荼羅,乃至婆羅門旃荼羅,亦樂親近,恭敬供養,聽受言教。若見有人於我法中,得出家已具戒富德,精進修行學無學行,乃至證得最後極果,彼剎帝利旃荼羅,乃至婆羅門旃荼羅,反生憎嫉,不樂親近,恭敬供養,聽受言教。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: - Này thiện nam tử! Trong đời vị lai, trong cơi Phật này, có các chúng sanh phiền năo lừng lẫy, quen hành các ác hạnh, ngu si, hung tợn, khó thể giáo hóa, hướng dẫn, tức là Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan Chiên-đồ-la, cư sĩ Chiên-đồ-la, trưởng giả Chiên-đồ-la, sa-môn Chiên-đồ-la, Bà-la-môn Chiên-đồ-la. Những kẻ như thế thiện căn ít ỏi, chẳng có tín tâm, siểm nịnh, cong vạy, ngu si, tự phụ thông minh, ĺa thiện tri thức, lời nói chẳng chân thật, chẳng thể tùy thuận lời thiện tri thức, thường làm chuyện phỉ báng, chê gièm, chửi bới. Đối với chánh pháp bèn do dự, tri kiến điên đảo, chẳng thấy, chẳng sợ khổ quả trong đời sau. Thường thích hành tŕ, gần gũi các ác luật nghi, ưa thích sát sanh, cho đến tà kiến, dối gạt thế gian, ḿnh lẫn người đều tổn hại. Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến Bà-la-môn Chiên-đồ-la ấy phá hoại, rối loạn pháp của ta. Ở trong pháp của ta mà được xuất gia, hủy phá giới cấm, thích lo toan sự nghiệp thế tục. Các Sát-đế-lợi cho đến Bà-la-môn ấy cung kính cúng dường, tham lợi cầu tài, chỉ nói suông, chẳng có đức hạnh, truyền thư trao ấn, thông tin qua lại, buôn bán, đổi chác, chuộng học tập kinh sách ngoài Phật giáo, gieo trồng, canh nông, cất chứa vật báu, bảo vệ vườn, nhà, thê thiếp, con trai, con gái, tập luyện bùa, ấn, chú thuật để sai khiến quỷ, xem tướng cát hung, pha chế thuốc men, trị bệnh để kiếm tiền, ḥng tự nuôi thân, tham đắm thức ăn, y phục, vật trang sức báu, siêng năng lo liệu sự vụ thế tục, hủy phạm Thi La, hành các pháp ác, học theo hạnh của chó, thật chẳng phải là sa-môn mà tự xưng là sa-môn, thật sự chẳng phải là phạm hạnh mà tự xưng là phạm hạnh. Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến Bà-la-môn Chiên-đồ-la ấy ưa thích thân cận, cung kính cúng dường, nghe nhận ngôn giáo [kẻ đó]. Kẻ phá giới ấy đối với Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến Bà-la-môn cũng thích thân cận, cúng dường, cung kính, nghe nhận ngôn giáo. Nếu thấy có người ở trong pháp của ta, đă được xuất gia, đủ giới, lắm đức, tinh tấn tu hành, tu tập hạnh Hữu Học và Vô Học, cho đến chứng đắc cực quả tối hậu, các Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến Bà-la-môn Chiên-đồ-la ấy ngược ngạo sanh ḷng ghen ghét, chẳng thích thân cận, cung kính cúng dường, nghe nhận ngôn giáo).

 

          Chánh pháp dường như bị hủy diệt, tâm hoài nghi của chúng sanh đặc biệt nặng nề, tri kiến điên đảo đặc biệt nghiêm trọng. Thậm chí đă vào Phật môn, họ vẫn sanh khởi tri kiến điên đảo, vẫn tin theo tà ma, ngoại đạo. Đấy là v́ kẻ đó ở trong Phật pháp, trong Phật giáo, chẳng đạt được bất cứ lợi ích ǵ. Tôi nghĩ mọi người có lẽ hoài nghi điều này. Kẻ đó tin Phật rất lâu, chẳng có thâu hoạch ǵ, v́ kẻ đó có cái tâm cầu đạt được! Cầu ǵ vậy? “Phật, Bồ Tát phù hộ cho con phát tài. Phật, Bồ Tát phù hộ gia đ́nh con b́nh an. Phật, Bồ Tát phù hộ nhà con ai nấy b́nh an, không bệnh tật, bất cứ tai nạn ǵ cũng chẳng xảy đến. Như vậy th́ con muốn buôn bán ǵ, muốn làm chuyện ǵ, cũng sẽ đều phát tài”, thậm chí “con muốn hại kẻ khác, cũng phải giúp đỡ con hại được kẻ đó!”

          Những chuyện như vậy tôi đă đều gặp cả rồi. Kẻ đó nói: “Có thể giúp tôi hay không?” Tôi hỏi: “Làm ǵ?” Kẻ đó bảo: “Thằng nhóc nhà tôi đặc biệt hư hỏng, tôi không thể nào không chỉnh nó!” Tôi bảo: “Tôi chẳng thể giúp ông! Hễ tôi giúp ông, nó sẽ giết tôi chết. Làm sao tôi giúp ông cho nổi?” Rất nhiều kẻ hiểu lầm Phật pháp, Phật pháp là vấn đề kiến giải. Quư vị ắt cần phải hiểu rơ Phật pháp là ǵ? Phật pháp chính là tâm pháp của quư vị. Quư vị phải giác ngộ, nó chính là quư vị, chính quư vị là chính ḿnh. Tự ḿnh nhận thức chính ḿnh, đừng có tri kiến điên đảo. Đấy mới là chánh tri chánh kiến thật sự. Ăn nói phải chánh ngữ, làm việc phải chánh hạnh. Thân, ngữ, ư phải là chánh kiến, chánh ngữ, chánh ư, đều phải chánh, hết thảy đều phải chánh, chớ nên điên đảo. Phải tin đời này quư vị làm tí ti chuyện hại người, về sau, phải đền bồi gấp mười lần, lại c̣n phải trả tiền lời nữa! Hoa báo, quả báo, dư báo! Chẳng hạn như quư vị thường xuyên bị bệnh. Đấy là do quư vị sát sanh quá nặng, c̣n mắc nợ mạng, đền mạng vẫn chưa đủ, c̣n phải trả tiền lời, c̣n phải chịu dư báo.

          Thân thể của quư vị chẳng khỏe mạnh. Đấy là quả. Tùy tiện quư vị t́m thầy thuốc nào đó, t́m A Di Đà Phật, t́m Thích Ca Mâu Ni Phật, t́m Dược Sư Phật, các vị thầy thuốc ấy gần như đều có thể chữa khỏi bệnh cho quư vị. Quư vị t́m thầy thuốc thế gian sẽ trị chẳng hết, phải trị theo nhân quả báo ứng của quư vị. Lường gạt thế gian như vậy, chính ḿnh tự hại chính ḿnh, tự ḿnh lẫn kẻ khác đều bị tổn hại. Do vậy, Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến Bà-la-môn Chiên-đồ-la “hoại loạn ngă pháp” (phá hoại, làm rối loạn pháp của ta), tức là phá hoại Phật pháp! Các Chiên-đồ-la ấy là những kẻ có quyền lực, có thế lực, có của cải, họ phá hoại bằng cách nào? Họ cấu kết với sa-môn [phá giới, ác hạnh]. Hễ cấu kết với sa-môn th́ sẽ phá hoại được. Do vậy, trong kinh Đại Bát Niết Bàn có chép: Khi đức Phật sắp Niết Bàn, ma vương Ba Tuần t́m đến. Lúc đó, đức Phật vẫn chưa quyết định nhập Niết Bàn, c̣n đang xem xét căn cơ của chúng sanh. Nếu lúc ấy, ngài A Nan đến chỗ Phật trước Ba Tuần, thỉnh Phật trụ thế, sẽ chẳng có chuyện ǵ! A Nan đến sau Ba Tuần, không được rồi! Ba Tuần đến trước, hắn thưa với đức Phật: “Bạch Thế Tôn! Ngài nên ra đi. Ngài đă độ con ma, cháu ma của tôi nhiều lắm rồi. Trong tương lai, tôi sẽ phá hoại Ngài”. Đức Phật hỏi: “Ngươi sẽ phá hoại ta như thế nào?” Hắn nói sẽ phá hoại Phật pháp như thế này, như thế nọ, đức Phật đều cười bảo: “Ngươi chẳng phá hoại được!” Hắn nói thêm: “Tôi c̣n có một phương pháp tốt nhất. Tôi sẽ sai ma con, ma cháu đều làm người xuất gia trong pháp của Ngài, làm tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni, ăn cơm của Ngài, mặc y phục của Ngài, nhưng chẳng làm chuyện của Ngài. Như vậy th́ sẽ phá hoại được!”

          Mọi vật cần phải mục nát trước rồi sau đó mới sanh ra gịi, trùng. Xuất phát từ nội bộ hư nát trước đă; sau đấy mới sanh ra trùng. Hết thảy mọi thứ đều là như vậy. Do vậy, người ngoài chẳng thể phá hoại Phật pháp được! Vậy th́ ḥa thượng, tỳ-kheo-ni mặc áo ḥa thượng, làm chuyện xấu xa. Người khác nh́n vào, thấy họ là người xuất gia, [bèn vơ đũa cả nắm] “Phật pháp là như vậy đó!” Quư vị có thấy hay không? Ai c̣n tin được nữa! Họ đă phá hoại rồi! Quư vị phải biết các ḥa thượng phá hoại, các tỳ-kheo-ni phá hoại ấy đều ma con, ma cháu kéo tới. Chuyện này đă có dự ngôn rồi! Nhưng các ác Sát-đế-lợi, ác Bà-la-môn, cho đến hết thảy các ác cư sĩ như đă nói trong phần trên cung kính, cúng dường các tăng sĩ ác ấy hoàn toàn chẳng phải là thiện tín thật sự, họ là những kẻ tri kiến điên đảo. Họ cúng dường bọn tham tài cầu lợi, chỉ nói suông, chẳng tu hành ấy, thậm chí c̣n gởi thư, trao đổi tin tức qua lại, buôn bán, kinh doanh, thích học tập các sách vở của ngoại đạo, đủ mọi thứ kinh doanh, trồng trọt, tàng trữ bảo vật, bảo vệ vườn tược, nhà cửa.

          Kết duyên th́ được, chẳng v́ cầu lợi, chuyên v́ lợi ích chúng sanh th́ vẫn có thể dung thông. Hết thảy sự vật đều có thể dung thông. Do vậy, có những chuyện có lợi có thể mưu tính, dung thông được. Chúng ta dung thông với Địa Tạng Bồ Tát th́ cũng có thể dung thông được. Vậy th́ đối với Địa Tạng Bồ Tát, niệm danh hiệu của Ngài, học tập kinh Thập Luân, niệm kinh Địa Tạng cũng là dung thông với Ngài, nhưng đấy là dung thông với thiện pháp, chẳng dung thông với ác pháp! Trong lúc ấy, trao đổi tin tức qua lại, học kinh sách ngoại đạo, bán buôn, kinh doanh thương nghiệp. Hiện thời, chùa miếu của Nhật Bản đều là công ty! Chùa miếu Trung Hoa hiện thời cũng học đ̣i kiểu đó! E rằng Đại Lục đă học theo giỏi lắm, đă bắt đầu làm như vậy rồi! Tự lực cánh sanh, quư vị kinh doanh, chánh phủ cổ vũ, khích lệ. Hiện thời, c̣n phải mua vé vào cửa. Quư vị vào chùa thắp hương lễ Phật, phải cầm tiền mua hương, phải mua vé vào cửa!

          Tôi đến chùa Nam Phổ Đà (ở Hạ Môn, tỉnh Phước Kiến), [vé vào cửa thuở đó là] một xu, nay chúng tôi trở về là một đồng, trong tương lai, sẽ tăng lên năm đồng! Cần bán vé vào cửa! Nếu không, hơn năm trăm người sẽ sống bằng cách nào? Phải dựa vào tiền bán vé vào cửa! Quư vị đến triều bái Phật, lễ Phật, thắp hương cũng phải tốn tiền, cũng phải mua. Đó là chẳng có cách nào, đó là Mạt Pháp! C̣n có kẻ luyện chú thuật để sai khiến quỷ thần, xem tướng cát, hung. C̣n có kẻ bán thuốc, pha chế thuốc thang. Bán thuốc giả th́ hỏng bét, bán thuốc thật th́ c̣n đỡ một chút. Hiện thời, bán thuốc giả rất nhiều. Đặc biệt là trên núi, khoe là thuốc của ta từ núi Vũ Di ở Phước Kiến, do chùa nào tạo tác, do vị lăo ḥa thượng nào đó bào chế. Được lắm, vậy là rất có giá! Có rất nhiều chuyện như vậy, “dĩ tự hoạt mạng, tham trước ẩm thực, y phục, bảo sức, cần doanh tục vụ, hủy phạm Thi La” (để tự nuôi sống, tham đắm thức ăn, quần áo, vật trang sức báu, siêng năng lo liệu sự vụ thế tục, hủy phạm Thi La). Thi La là giới. Những chuyện đức Phật chế định không được làm, họ đều làm tuốt, phạm hết. Chủ yếu nhất là Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối (bốn loại giáo huấn rơ ràng về hạnh thanh tịnh), cũng chính là bốn giới căn bản. Bốn giới căn bản như vậy đều có thể phạm, những sai lầm khác càng nhiều. Thân giết, trộm, dâm, miệng nói đôi chiều, nói dối, nói thêu dệt, ác khẩu, cho đến ư tham, sân, si. Những thứ ấy đều có thể làm th́ gọi là hành ác hạnh”.

          “Bối âm cẩu hạnh” (貝音狗行) tức là học tập phương pháp của loài chó. Thời Mạt, tỳ-kheo phỉ báng lẫn nhau, đôi bên ngờ vực, ghen ghét lẫn nhau, ch́m đắm trong vô ích mà chẳng thể tự cứu. Dùng chó làm thí dụ, “bỉ chi hành thử pháp, vị chi hành cẩu pháp” (kẻ hành pháp ấy chính là hành pháp của chó), cũng tức là “bối âm cẩu hạnh” có nghĩa là hành theo phương pháp của chó. Khi làm như vậy, kẻ đó đă đánh mất bản thể của sa-môn, phạm vào bốn giới căn bản, chẳng phải là sa-môn. Bất luận nơi ư nghĩa, hay nơi bản thể, đều đă mất tư cách sa-môn; nhưng chính kẻ đó không chịu sám hối. Nếu bản thân kẻ đó chẳng thể tuân thủ, có thể “thoái giới”. Cảm thấy [các giới ấy] đối với chính ḿnh chẳng thích hợp, quư vị có thể thoái giới. Nhưng kẻ đó lại chẳng thoái giới, vẫn lẫn lộn trong Tăng chúng. Thoái giới (退戒) chính là bỏ đạo hoàn tục. V́ sao kẻ ấy làm như thế? Hắn thoái giới sẽ chẳng có chỗ nào kiếm cơm ăn! Ở trong chùa miếu, Tăng chúng rất đông, nói chung là có bậc đại đức. Bậc có đức sẽ cảm ứng ăn, mặc, ở đưa tới, kẻ đó c̣n hưởng thụ được! Do vậy, hạng người như thế đă thật hành phương pháp của chó, cho nên nói là “bối âm cẩu hạnh”.

          Những ǵ bản thân kẻ đó làm chẳng phải là hạnh thanh tịnh. “Phạm hạnh” có nghĩa là hạnh thanh tịnh. Chính ḿnh làm hạnh ô nhiễm, hắn vẫn tự xưng là phạm hạnh. Đấy là h́nh dung loại tỳ-kheo phá giới, vẫn có những hạng người tin tưởng, ngưỡng mộ hắn! Nếu ác Sát-đế-lợi vương, hễ thêm vào từ ngữ Chiên-đồ-la đều có nghĩa “thuộc loại ác nhân”. Trước đó (trước mỗi chủng loại), thêm vào chữ Chiên-đồ-la, hàm nghĩa ác quốc vương, ác Bà-la-môn, họ rất chịu thân cận hạng tỳ-kheo phá giới ấy. Đó gọi là “phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân” (các phương pháp được phân chia theo từng loại, sự vật dựa theo từng đặc tánh giống nhau mà chia ra). Xú khí (臭氣, hơi hôi thối, tức những kẻ xấu xa) thu hút nhau, thân thiết với nhau, kết hợp thành bè đảng. “Cung kính cúng dường”: Nói là “cung kính cúng dường” tức là cung kính, cúng dường các tỳ-kheo phá giới đó. “Thính thọ ngôn giáo” (nghe và tiếp nhận ngôn giáo): Đối với những lời lẽ do kẻ chẳng hành phạm hạnh nói ra, họ cũng chịu nghe, bằng ḷng tiếp nhận sự giáo hóa của kẻ đó!

          Kẻ phá giới ấy đối với Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến Bà-la-môn Chiên-đồ-la luôn ưa thích thân cận, cúng dường, lắng nghe, tiếp nhận ngôn giáo của kẻ đó. Nếu thấy có kẻ, “ư ngă pháp trung” (ở trong pháp của ta), “ư ngă pháp” là ở trong Phật pháp xuất gia, thọ Cụ Túc Giới. Trong phần trước là nói về “hoại tỳ-kheo” (tỳ-kheo xấu), c̣n tiểu đoạn này nói đến các tỳ-kheo tốt. Sau khi đă xuất gia, sau khi đă thọ Cụ Túc Giới, có thể tuân thủ, có thể tŕ giới. “Phú đức” (富德) là đạo đức rất phong phú, đức hạnh dồi dào, trọn đủ giới đức, lại có thể tinh tấn hành. “Học hành” là tu hành. Học là “học pháp”, tức là địa vị Hữu Học. “Vô Học hạnh” là chứng đắc quả A La Hán. Tính từ Sơ Quả, thánh nhân đă chứng quả chẳng học giống như chúng ta, sự học của các Ngài là vô học, cho đến cuối cùng chứng đắc Phật quả. Nhưng có thể nói [Vô Học Hạnh] là quả A La Hán, từ Sơ Quả cho đến Tứ Quả.

          Điều này có nghĩa là ǵ? Chính là nói Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, Bà-la-môn Chiên-đồ-la đối với tỳ-kheo ác hạnh bèn thân cận, cúng dường, nghe nhận ngôn giáo của gă đó, nhưng đối với bậc tỳ-kheo có đạo đức, không chỉ chẳng thân cận, mà c̣n ngược ngạo “tăng tật” (憎嫉), “tăng” () là chán ghét, “tật” () là ganh tỵ, tức là chẳng thích thân cận, cũng chẳng ưa thích cung kính cúng dường, cũng chẳng nghe dạy, tiếp nhận các vị tỳ-kheo có đạo đức cho đến chứng quả ấy. Họ chẳng thân cận, chẳng tiếp nhận ngôn giáo của các Ngài.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Thí như hữu nhân, nhập bảo châu chử, khí xả chủng chủng đế thanh, đại thanh, kim, ngân, chân châu, hồng liên hoa sắc Phiệt Lưu Ly đẳng đại giá chân bảo, thủ Ca Giá châu. Ư vị lai thế, thử Phật độ trung, hữu Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, năi chí Bà-la-môn Chiên-đồ-la, diệc phục như thị. Nhập ngă chánh pháp bảo châu chử trung, khí xả chủng chủng cụ giới, phú đức, nhạo Thắng Nghĩa Đế, cụ túc tàm quư Học, Vô Học nhân, cập thiện dị sanh, tinh cần tu học Lục Đáo Bỉ Ngạn, cụ chư công đức chân thánh đệ tử, thủ chư phá giới, háo hành chúng ác, vô tàm, vô quư, ngôn từ thô quánh, thân tâm kiêu ngạo, ly chư bạch pháp, vô từ, vô bi, ác hạnh bật-sô, dĩ vi phước điền, cung kính cúng dường, thính thọ ngôn giáo. Như thị ác nhân, sư cập đệ tử, câu định thú hướng Vô Gián địa ngục.

          ()善男子,譬如有人入寶洲渚,棄舍種種帝青、大青、金、銀、真珠、紅蓮華色筏琉璃等大價真寶,取迦遮珠。於未來世此佛土中,有剎帝利旃荼羅,乃至婆羅門旃荼羅,亦復如是,入我正法寶洲渚中,棄舍種種具戒富德、樂勝義諦、具足慚愧學無學人,及善異生,精勤修學六到彼岸、具諸功德真聖弟子;取諸破戒好行眾惡,無慚無愧,言辭粗獷,身心憍傲,離諸白法,無慈無悲惡行苾芻,以為福田,恭敬供養聽受言教。如是惡人師及弟子,俱定趣向無間地獄。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Ví như có người vào bến băi báu, vứt bỏ các thứ báu thật sự giá trị cao như đế thanh[6], đại thanh, vàng, bạc, chân châu, Phiệt Lưu Ly màu hoa sen hồng, v.v… để lấy châu Ca Giá. Trong đời vị lai, trong cơi Phật này, có Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến Bà-la-môn Chiên-đồ-la cũng giống như thế, vào trong bến băi bảo châu chánh pháp của ta, vứt bỏ những vị đủ giới, giàu đức, thích Thắng Nghĩa Đế, là bậc Học, Vô Học, trọn đủ hổ thẹn, và những loài dị sanh tốt lành, và các vị đệ tử của bậc chân thánh thật sự siêng ṛng tu học sáu Ba La Mật, đầy đủ các công đức, để chọn lấy các bật-sô ác hạnh, phá giới, thích làm các điều ác, không thẹn, không hổ, ngôn ngữ thô bạo, tục tằn, thân tâm kiêu ngạo, ĺa các bạch pháp, không từ, không bi, coi những gă đó là phước điền, cung kính, cúng dường, nghe nhận ngôn giáo. Kẻ ác như thế, thầy lẫn đệ tử chắc chắn đều tiến vào địa ngục Vô Gián).

 

          Ca Giá (Kāca) châu cũng là một loại Ma-ni châu, nhưng kém xa Phiệt Lưu Ly (Vaiḍūrya, Phệ Lưu Ly, Tỳ Lưu Ly, Lưu Ly, Lapis Lazuly), tức là thua hẳn một bậc. Thứ tốt, kẻ đó chẳng lấy, mà lấy thứ kém hơn. Đây là đức Phật nêu tỷ dụ, nhằm nói vào thời Mạt Pháp, trong Phật quốc độ này của ta, có khi là ác vương Sát-đế-lợi, có lúc là Bà-la-môn Chiên-đồ-la tức là ác Bà-la-môn cũng giống như vậy. Đối với vị tỳ-kheo có đạo đức, họ chẳng tin tưởng, chẳng thân cận, chẳng nghe nhận lời dạy bảo. Đối với tỳ-kheo phá giới, ác hạnh, bèn “ngưu tầm ngưu, mă tầm mă” (ngựa t́m ngựa, trâu t́m trâu), c̣n hướng về gă đó cầu pháp, nghe nhận lời dạy của hắn!

          Đă tới bến băi châu báu chánh pháp của ta, lại vứt bỏ hạng trọn giới, lắm đức, vứt bỏ vị ưa thích Thắng Nghĩa Đế. Thắng Nghĩa Đế có nghĩa là Thật Tướng. Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là cảnh giới Thật Tướng, là Thắng Nghĩa Đế, tức là nghĩa lư tối thắng. Họ cũng vứt bỏ bậc trọn hổ thẹn, “Học, Vô Học nhân”.“Học nhân” là c̣n chưa chứng quả vị. “Vô Học nhân” là người đă chứng đắc quả vị. “Cập thiện dị sanh” (và các loài dị sanh tốt lành), tức là thiện Bổ Đặc Già La. Cho đến họ cũng vứt bỏ ưu-bà-tắc, ưu-bà-di là người thật sự tu hành, thật sự tin tưởng, ngưỡng mộ chánh pháp, cung kính chánh pháp. Thậm chí vứt bỏ đệ tử của bậc “chân thánh” thật sự siêng ṛng tu học Lục Đáo Bỉ Ngạn, tức là hành Lục Độ Ba La Mật, trọn đủ công đức. Đấy là đệ tử [Phật] thật sự!

          “Chân thánh” (真聖) là nói đến đức Phật. Họ là đệ tử thật sự của đức Phật, [đối với những vị ấy], những kẻ [ác hạnh Sát-đế-lợi, tể quan v.v…] đều chẳng thân cận, mà ngược ngạo “thủ chư phá giới, háo hành chúng ác, vô tàm, vô quư, ngôn từ thô quánh, thân tâm kiêu ngạo, ly chư bạch pháp, vô từ, vô bi, ác hạnh bật-sô, dĩ vi phước điền” (chọn lấy các ác hạnh bật-sô phá giới, thích làm các điều ác, không thẹn, không hổ, ngôn từ thô lỗ, tục tằn, thân tâm kiêu ngạo, ĺa các bạch pháp, chẳng từ, chẳng bi, coi đó là phước điền). Như vậy th́ sẽ nhận được kết quả như thế nào? “Như thị ác nhân, sư cập đệ tử, câu định thú hướng Vô Gián địa ngục” (Kẻ ác như thế, thầy và đệ tử đều chắc chắn tiến vào địa ngục Vô Gián). Quư vị tiếp nhận ngôn giáo của kẻ đó, tin tưởng, ngưỡng mộ hắn, sẽ theo hắn cùng xuống địa ngục. Điều này chắc chắn chẳng thể nghi ngờ. Do vậy, sẽ sanh ra một loại tà tri, tà kiến. Trong thời đại Mạt Pháp hiện tại, thật sự chẳng ít kẻ [như vậy]. Nếu mọi người nương theo giáo điển, vận dụng trí huệ của chính ḿnh, sử dụng chánh tri, chánh kiến, quư vị sẽ có thể biện định được.

          Đối với hiện thời, chuyện này hết sức cụ thể, cũng rất hiện thực, nhưng quư vị có thể dùng cách thức như đức Phật đă dạy để phán đoán, chẳng thuận theo ư kiến của chính ḿnh, mà dùng giáo điển của đức Phật, dùng Phật pháp làm thầy, chẳng lấy cái tâm của chính ḿnh làm thầy. Quư vị có thể thấy kẻ nào dẫn quư vị xuống địa ngục. Kẻ đó cũng làm Phật sự, nhưng bẻ cong Phật sự, dùng tri kiến điên đảo để làm Phật sự. Phật pháp vốn là phương pháp tốt đẹp để minh tâm kiến tánh, kẻ đó dùng Phật pháp để tạo danh lợi, làm giao dịch buôn bán, chẳng xuống địa ngục hay sao? Do vậy, đức Phật nói ra mười loại luân. Mười loại ấy hoàn toàn chẳng phải là thiện luân, mà là ác luân.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Hữu thập ác luân, ư vị lai thế, thử Phật độ trung, hữu Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan Chiên-đồ-la, cư sĩ Chiên-đồ-la, trưởng giả Chiên-đồ-la, sa-môn Chiên-đồ-la, Bà-la-môn Chiên-đồ-la, như thị đẳng nhân, ư thập ác luân, hoặc tùy thành nhất, hoặc cụ thành tựu, tiên sở tu tập nhất thiết thiện căn, tồi hoại, thiêu diệt, giai vi hôi tẫn, bất cửu tiện đương chi thể phế khuyết, ư đa nhật dạ kết thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn, mạng chung định sanh Vô Gián địa ngục.

          ()善男子,有十惡輪,於未來世此佛土中,有剎帝利旃荼羅、宰官旃荼羅、居士旃荼羅、長者旃荼羅、沙門旃荼羅、婆羅門旃荼羅,如是等人,於十惡輪,或隨成一,或具成就,先所修集一切善根,摧壞燒滅皆為灰燼,不久便當肢體廢缺,於多日夜結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Có mười ác luân, trong đời vị lai, trong cơi Phật này, có Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan Chiên-đồ-la, cư sĩ Chiên-đồ-la, trưởng giả Chiên-đồ-la, sa-môn Chiên-đồ-la, Bà-la-môn Chiên-đồ-la, những người như thế, trong mười ác luân nếu thành tựu một luân nào, hoặc thành tựu trọn đủ, th́ hết thảy các thiện căn đă tu tập trước đó sẽ bị hư nát, cháy tiêu, đều thành tro tàn, chẳng lâu sau, tứ chi sẽ tàn phế, thiếu khuyết, bị đớ lưỡi chẳng thể nói được trong nhiều ngày đêm, chịu các nỗi khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể chịu đựng. Sau khi chết đi, chắc chắn sanh vào địa ngục Vô Gián).

 

          Các tỳ-kheo phá giới, tỳ-kheo ác hạnh, Bà-la-môn Chiên-đồ-la trong phần trước, “như thị đẳng nhân” (những kẻ như thế), từ các quốc vương cho đến dân chúng, cho đến hạng b́nh dân, cho đến người xuất gia, cho đến học giả, đều được bao gồm trong ấy. Có những người như thế, do mười ác luân như sẽ kể dưới đây, “hoặc tùy thành nhất, hoặc cụ thành tựu” (nếu thành tựu một loại nào đó, hoặc thành tựu trọn đủ). Hễ trọn đủ một luân, hoặc có đủ hai luân, hoặc trọn đủ ba luân không nhất định, hoặc chỉ có một luân, thiện căn do người ấy đă tu tập, tích tụ trong nhiều đời bao kiếp sẽ đều bị đập tan, hoặc bị đốt rụi. Nếu thành tựu một điều trong mười luân ấy, tất cả thiện căn và thiện niệm đă hành của người ấy trong nhiều đời bao kiếp đều hóa thành tro tàn! Do vậy, chúng ta cảm thấy chỉ gieo thiện căn, chỉ học tập Phật pháp, hoàn toàn chẳng thật sự đoạn phiền năo; trong tương lai, quư vị có thể cũng sẽ rơi vào trong Thập Ác Luân này! V́ hễ chuyển thế, nếu quư vị chẳng tu đắc Túc Mạng Thông, sẽ dễ bị danh lợi và ái dục quấn trói mà dễ dàng đọa vào Thập Ác Luân.

          Chúng ta học kinh Thập Luân, học kinh Địa Tạng, đọc tụng kinh Địa Tạng, cho đến đọc kinh Đại Tập Thập Luân, cho đến được Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ, khiến cho chúng ta trong đời này có thiện căn và nhân duyên như vậy. Kết duyên với Địa Tạng Bồ Tát, chúng ta sẽ chẳng đọa vào Thập Ác Luân, v́ Địa Tạng Bồ Tát đă hướng về Thích Ca Mâu Ni Phật cam đoan. Chúng ta đọc kinh Địa Tạng, sẽ có thể cảm nhận, thấu hiểu các vị đại Bồ Tát ấy. Phàm là đối với các vị Bồ Tát xuất hiện trong kinh Địa Tạng, cũng như trong phẩm nói về danh hiệu các vị Phật, tức phẩm thứ chín của kinh Địa Tạng, chúng ta tŕ bất cứ danh hiệu nào, sẽ vĩnh viễn chẳng đọa vào tam đồ. Nếu chúng ta kiến lập tín tâm kiên cố như vậy, sẽ chẳng dính líu Thập Ác Luân, sẽ chẳng bị đọa lạc. Do nguyên nhân nào? Do sức gia tŕ của Địa Tạng Bồ Tát, mà cũng là do Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ, khiến cho chúng ta chẳng đọa vào ác luân. Thậm chí trong thời Mạt Pháp, có chuyện thân cận Phật môn, tiến nhập Phật môn chừng bằng vi trần, bé tí ti như vậy, Địa Tạng Bồ Tát nhất định sẽ gia tŕ quư vị. Nhưng nếu quư vị cự tuyệt sự gia tŕ của Ngài, thậm chí chẳng thèm dính dáng đến Ngài th́ sẽ là chuyện khác!

          “Bất cửu tiện đương chi thể phế khuyết” (Không lâu sau, tứ chi sẽ bị tàn phế, thiếu khuyết): Đó là trong đời hiện tại. “Ư đa nhật dạ, kết thiệt bất ngôn” (trong nhiều ngày đêm, bị đớ lưỡi chẳng thể nói được): Chẳng thể nói năng, lục căn đă mất tác dụng. “Thọ chư khổ độc” (chịu các khổ độc): Loại khổ này ngay cả diễn tả, cũng chẳng thể diễn tả được! Chúng ta thấy rất nhiều người bị đụng xe, sau đó, biến thành người sống đời thực vật. Trước kia, tôi nghĩ người sống đời thực vật chắc là không nhiều, nhưng năm 1993, tôi sang Đài Loan, đến tổng y viện Vinh Dân và y viện Trường Canh ở Lâm Khẩu, tôi mới thấy người sống đời thực vật trong bệnh viện quá nhiều. V́ thế, các điều mô tả trên đây chính là nói đến những người ấy. Bị khổ độc, thân thể lở loét, chẳng nói được, thứ ǵ cũng đều tàn phế, thiếu khuyết, đều hư hoại cùng cực. Đầu óc tàn phế, biến thành người thực vật. Hoặc là do nghiệp trong đời này, hoặc v́ nghiệp của người ấy trong đời trước, đau đớn cùng cực khó thể chịu đựng. Vẫn chưa nói đến chuyện sau khi chết đi, hiện thời, người ấy vẫn c̣n sống, đă đau khổ cùng cực khó thể chịu đựng, chịu cảnh chi thể tàn phế, thiếu khuyết. Kẻ đầy đủ Thập Ác Luân, nhất định sẽ sanh vào địa ngục Vô Gián.

 

          (Kinh) Hà đẳng vi thập? Như thị phá giới, ác hạnh bật-sô, hữu Sát-đế-lợi, cập tể quan đẳng nhẫn thọ ác kiến, báng A Luyện Nhă thanh tịnh bật-sô ngôn: “Chư nhân giả! Như thị bật-sô ngu si, phàm ổi, trá hiện dị tướng, cuống hoặc thế gian, vị cầu ẩm thực, y phục, lợi dưỡng, cung kính, danh dự, tự tán, hủy tha, tật đố đấu loạn, tham trước danh lợi, vô hữu yếm túc, ưng đương tẫn truất, vật thọ kỳ ngôn. Như thị bật-sô chuyên hành vọng ngữ, ly đế thật pháp, ư thử giai vô đắc đạo quả giả, diệc vô ly dục, vĩnh tận chư lậu, đản vị lợi dưỡng, cung kính, danh dự, trụ A Luyện Nhă, tự hiện hữu đức. Thận mạc cúng dường, cung kính, thừa sự, như thị siểm khúc, phi chân phước điền, phi hành đạo giả”. Thời Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, năi chí Bà-la-môn Chiên-đồ-la, ư A Luyện Nhă thanh tịnh bật-sô, bất năng sanh thật tín tâm, hy hữu chi tưởng, tâm vô cung kính, ư hoài lăng miệt, bất nhạo thân cận, thừa sự, cúng dường, sở hữu ngôn thuyết, giai bất thính thọ. Khinh hủy như thị trụ A Luyện Nhă thanh tịnh bật-sô, tức thị khinh hủy nhất thiết pháp nhăn Tam Bảo chủng tánh.

          ()何等為十?如是破戒惡行苾芻,有剎帝利及宰官等,忍受惡見,謗阿練若清淨苾芻言:諸仁者,如是苾芻愚癡凡猥,詐現異相,誑惑世間,為求飲食、衣服、利養,恭敬名譽,自讚毀他,嫉妒斗亂,貪著名利,無有厭足,應當擯黜勿受其言。如是苾芻專行妄語,離諦實法,於此皆無得道果者,亦無離欲永盡諸漏;但為利養、恭敬、名譽住阿練若,自現有德,慎莫供養恭敬承事。如是諂曲,非真福田,非行道者。時,剎帝利旃荼羅,乃至婆羅門旃荼羅,於阿練若清淨苾芻,不能生實信心希有之想,心無恭敬,意懷凌蔑,不樂親近,承事供養,所有言說皆不聽受。輕毀如是住阿練若清淨苾芻,即是輕毀一切法眼三寶種姓。

          (Kinh: Những ǵ là mười? Bật-sô phá giới, ác hạnh như thế, do có Sát-đế-lợi và tể quan v.v… tiếp nhận ác kiến [của hắn], liền báng bổ vị bật-sô thanh tịnh trong A Luyện Nhă rằng: “Này các vị nhân giả! Bật-sô như thế ngu si, tầm thường, bỉ ổi, dối trá hiện tướng lạ, lường gạt, mê hoặc thế gian, ḥng cầu thức ăn, quần áo, lợi dưỡng, cung kính, danh dự, tự khen ḿnh, chê người, ghen ghét, đấu đá, gây rối, tham đắm danh lợi chẳng hề chán đủ, đáng nên bị trục xuất, xua đuổi, đừng tin lời hắn. Bật-sô như thế chuyên môn nói dối, ĺa pháp chắc thật, đối với pháp ấy, hắn ta đều chẳng đắc đạo quả, cũng chẳng ĺa dục, vĩnh viễn hết thảy các lậu. Chỉ v́ lợi dưỡng, cung kính, danh dự, mà ở trong A Luyện Nhă, làm ra vẻ có đạo đức. Hăy thận trọng, đừng cúng dường, cung kính, thừa sự kẻ siểm nịnh, cong vạy, chẳng phải là ruộng phước chân thật, chẳng phải là người tu đạo”. Khi đó, Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến Bà-la-môn Chiên-đồ-la đối với vị bật-sô thanh tịnh ở trong A Luyện Nhă, chẳng thể sanh tín tâm thật sự, chẳng có ư nghĩ hy hữu, tâm chẳng cung kính, ôm ḷng lấn hiếp, khinh miệt, chẳng thích thân cận, thừa sự, cúng dường, đối với tất cả ngôn thuyết của vị ấy đều chẳng nghe nhận. Khinh miệt, hủy báng vị bật-sô thanh tịnh trụ trong A Luyện Nhă như thế tức là khinh miệt, hủy báng hết thảy pháp nhăn chủng tánh Tam Bảo).

 

          Từ đây trở đi, thuyết minh Thập Ác Luân. “Như thị phá giới ác hạnh bật-sô, hữu Sát-đế-lợi cập tể quan đẳng, nhẫn thọ ác kiến” (Bật-sô phá giới, ác hạnh như thế, do có Sát-đế-lợi và tể quan v.v… tiếp nhận ác kiến [của hắn]): Đối với tỳ-kheo ác hạnh ấy, có các Sát-đế-lợi và tể quan Chiên-đồ-la tiếp nhận, cũng như tin tưởng, nghe theo lời hắn, thậm chí cùng hắn làm ác. Làm ác ǵ vậy? “Báng A Luyện Nhă thanh tịnh bật-sô ngôn” (báng bổ vị bật-sô thanh tịnh trụ trong A Lan Nhă): Báng bổ vị tỳ-kheo thanh tịnh ấy. A Luyện Nhă (A Lan Nhă, Araṇya) là chỗ tịch tĩnh, núi rừng, dưới tàng cây cọ. Nói theo kiểu hiện thời, là tu trong núi rừng, tự ḿnh thanh tu. Tỳ-kheo ác hạnh ấy hủy báng những vị đó, thốt ra những lời lẽ nào? Tỳ-kheo ác hạnh bảo vua Sát-đế-lợi và tể quan: Những kẻ ở trong núi rừng ấy đều rất ngu si. Họ hiện h́nh tướng khác lạ, cố ư làm ra vẻ tu hành, là bọn lường gạt. “Cuống hoặc thế gian” (lừa gạt, mê hoặc thế gian), “vị cầu ẩm thực, y phục, lợi dưỡng, cung kính, danh dự, tự tán, hủy tha, tật đố đấu loạn, tham trước danh lợi, vô hữu yếm túc, ưng đương tẫn truất, vật thọ kỳ ngôn” (v́ cầu thức ăn, quần áo, lợi dưỡng, cung kính, danh dự, khen ḿnh, chê người, ghen tỵ, đấu đá, gây rối, tham đắm danh lợi chẳng hề chán đủ. Hăy nên trục xuất, xua đuổi, đừng nghe lời họ).

          Đấy là tỳ-kheo ác hạnh phê phán tỳ-kheo thanh tịnh. Đoạn sau đây là lời lẽ hủy báng của hắn: “Như thị bật-sô chuyên hành vọng ngữ, ly đế thật pháp. Ư thử giai vô đắc đạo quả giả, diệc vô ly dục, vĩnh tận chư lậu, đản vị lợi dưỡng, cung kính, danh dự, trụ A Luyện Nhă” (Bật-sô như thế chuyên hành vọng ngữ, ĺa khỏi pháp chắc thật, đều chẳng đắc đạo quả trong đó, mà cũng chẳng ĺa dục, chẳng vĩnh viễn hết sức các lậu, chỉ v́ lợi dưỡng, cung kính, danh dự mà trụ trong A Luyện Nhă): Tức là nói họ trên thực tế chẳng đắc đạo quả, mà cũng chẳng ly dục, cũng chẳng hết sạch các lậu, chỉ v́ lợi dưỡng, cung kính, danh dự, v́ những thứ đó nên họ mới trụ trong nơi thanh tịnh, tịch tĩnh. “Tự hiện hữu đức, thận mạc cúng dường, cung kính, thừa sự, như thị siểm khúc, phi chân phước điền, phi hành đạo giả” (tự làm ra vẻ có đức, hăy cẩn thận, đừng cúng dường, cung kính, thừa sự kẻ siểm nịnh, cong vạy, chẳng phải là phước điền thật sự, chẳng phải là kẻ tu hành như thế). Đó là những lời lẽ hủy báng vị tỳ-kheo thanh tịnh của tỳ-kheo ác hạnh!

          “Thời Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, năi chí Bà-la-môn Chiên-đồ-la, ư A Luyện Nhă thanh tịnh bật-sô, bất năng sanh thật tín tâm, hy hữu chi tưởng” (khi ấy, Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến Bà-la-môn Chiên-đồ-la đối với bật-sô thanh tịnh ở A Luyện Nhă chẳng thể sanh tín tâm chân thật và ư tưởng hy hữu): Đối với vị tỳ-kheo tốt đẹp, họ chẳng sanh khởi ḷng thành tín thật sự, chẳng sanh ư tưởng đấy là vị thiện tri thức hy hữu khó t́m, cho nên họ chẳng có tâm cung kính, mà ôm ḷng lấn hiếp, khinh miệt. “Lăng” () là lấn hiếp, chúng ta nói là “thịnh khí lăng nhân” (盛氣陵, khí thế hừng hực áp đảo kẻ khác) có ư nghĩa này. Miệt thị vị ấy. Khinh miệt, hủy báng vị bật-sô thanh tịnh trụ trong A Luyện Nhă như thế, tức là khinh miệt, hủy báng hết thảy chủng tánh pháp nhăn Tam Bảo. Sau khi nói như vậy, tỳ-kheo ác hạnh hủy báng vị tỳ-kheo thanh tịnh, lôi kéo bọn ác nhân từ Sát-đế-lợi cho đến Bà-la-môn cùng nhau hủy báng. Chuyện ấy sanh ra hiệu quả như thế nào? Do bọn họ muốn hủy diệt chủng tánh Tam Bảo. “Pháp nhăn”: “Nhăn” có nghĩa là quan sát. Chẳng có pháp, hủy diệt pháp thanh tịnh. Các chúng sanh ấy đă làm toàn điều ác, chẳng có con mắt chánh pháp, cho nên điên đảo. Nói thiện thành ác, ngược ngạo biến các điều ác do chính ḿnh đă làm thành thiện. Như thế th́ sẽ nhận được kết quả như thế nào?

 

          (Kinh) Thời bỉ quốc trung, hữu chư thiên, long, Dược Xoa thần đẳng, tín kính Tam Bảo vô động hoại giả, ư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, tâm sanh sân phẫn, hỗ tương vị ngôn: “Nhân đẳng! Đương quán thử Sát-đế-lợi, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, giai tất khinh hủy nhất thiết pháp nhăn Tam Bảo chủng tánh, tổn giảm thiện căn, do ác hữu lực, nhiếp chư tội nghiệp, đương đọa ác thú. Ngă đẳng tùng kim vật phục ủng hộ thử Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la đẳng, tịnh kỳ sở cư quốc độ, thành, ấp”. Tác thị ngữ dĩ, nhất thiết thiên, long, Dược Xoa thần đẳng giai tất khí xả, bất phục ủng hộ bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la đẳng, tịnh bỉ sở cư quốc độ, thành, ấp. Ư bỉ quốc độ, nhất thiết pháp khí chân thật phước điền, giai xuất kỳ quốc. Thiết hữu trụ giả, diệc sanh xả tâm, bất phục hộ niệm. Do chư thiên, long, Dược Xoa thần đẳng, cập chư pháp khí chân thật phước điền, ư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la đẳng, tịnh bỉ sở cư quốc độ, thành, ấp, giai xả thủ hộ, bất hộ niệm dĩ, thời bỉ quốc độ, tự quân, tha quân, cạnh khởi xâm lăng, cánh tương tàn hại, tật dịch, cơ cẩn, nhân thử phục hưng. Bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, nhất thiết quốc dân, giai vô hoan lạc. Tiên sở ái nhạo, kim tất biệt ly. Bằng hữu, quyến thuộc cánh tương sân hận, tiềm mưu sai nhị, vô từ, vô bi, tật đố, xan tham, chúng ác giai khởi. Sở vị sát sanh, năi chí tà kiến, vô tàm, vô quư, thực dụng nhất thiết Tốt-đổ-ba vật, cập Tăng Kỳ vật, tằng vô hối tâm. Bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương tăng tật trung hiền, ái nhạo siểm nịnh, linh kỷ quan thứ hỗ tương xâm lăng, phẫn khuể kết oán, hưng chư đấu tránh, cộng dư lân quốc giao trận chiến thời, quân sĩ ly tâm, vô bất thoái bại. Bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, bất cửu tiện đương chi thể phế khuyết, ư đa nhật dạ, kết thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn, mạng chung định sanh Vô Gián địa ngục.

          ()時,彼國中有諸天、龍、藥叉神等,信敬三寶無動壞者,於剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,心生瞋忿,互相謂言:仁等當觀此剎帝利、宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,皆悉輕毀一切法眼三寶種姓,損減善根,由惡友力攝諸罪業,當墮惡趣。我等從今勿復擁護此剎帝利旃荼羅等,並其所居國土城邑。作是語已,一切天、龍、藥叉神等,皆悉棄舍,不復擁護彼剎帝利旃荼羅等,並彼所居國土城邑。於彼國土一切法器真實福田皆出其國,設有住者,亦生舍心,不復護念。由諸天、龍、藥叉神等,及諸法器真實福田,於剎帝利旃荼羅等,並彼所居國土城邑,皆舍守護不護念已;時彼國土自軍他軍,競起侵凌,更相殘害,疾疫饑饉,因此復興。彼剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,一切國民皆無歡樂,先所愛樂今悉別離,朋友眷屬更相瞋恨,潛謀猜貳,無慈無悲,嫉妒慳貪,眾惡皆起,所謂殺生乃至邪見,無慚無愧,食用一切窣堵波物及僧祇物,曾無悔心。彼剎帝利旃荼羅王,憎嫉忠賢,愛樂諂佞,令己官庶互相侵凌,憤恚結怨,興諸斗諍;共餘鄰國交陣戰時,軍士離心,無不退敗。彼剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,不久便當肢體廢缺,於多日夜結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, trong nước ấy có các trời, rồng, Dược Xoa thần v.v… tin kính Tam Bảo chẳng bị lay động, phá hoại, đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến các sa-môn, Bà-la-môn v.v… toàn là hạng Chiên-đồ-la, tâm sanh sân hận, phẫn nộ, nói với nhau: “Các vị! Hăy xem bọn Chiên-đồ-la Sát-đế-lợi, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn này thảy đều khinh miệt, hủy báng hết thảy chủng tánh Tam Bảo pháp nhăn, tổn giảm thiện căn, do sức của bạn ác mà thâu tóm các tội nghiệp, sẽ đọa vào đường ác. Từ nay, chúng ta chẳng c̣n ủng hộ bọn Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la v.v… ấy và quốc độ, thành, ấp nơi bọn chúng sống nữa”. Nói lời ấy xong, hết thảy trời, rồng, Dược Xoa thần v.v… thảy đều vứt bỏ, chẳng c̣n ủng hộ bọn Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la v.v… ấy nữa, và cơi nước, thành, ấp nơi bọn chúng sống. Trong quốc độ ấy, hết thảy các bậc pháp khí, phước điền chân thật đều ra khỏi nước ấy. Nếu có vị nào ở lại th́ cũng sanh tâm ĺa bỏ, chẳng c̣n hộ niệm nữa. Do chư thiên, rồng, Dược Xoa thần v.v… và các bậc pháp khí, chân thật phước điền đối với bọn Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la v.v… ấy và quốc độ, thành, ấp nơi bọn chúng sống đều buông bỏ sự thủ hộ, chẳng hộ niệm nữa, trong quốc độ đó, lúc ấy, quân của chính ḿnh và quân nước khác đua nhau dấy lên xâm lăng, tàn hại lẫn nhau. Dịch bệnh, đói kém do vậy lại dấy lên. Vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến những gă Chiên-đồ-la thuộc loại sa-môn, Bà-la-môn… hết thảy quốc dân, đều chẳng được vui sướng. Những ǵ yêu thích trước kia, nay đều biệt ly. Bạn bè và quyến thuộc sân hận lẫn nhau, ngầm tính mưu kế, nghi ngờ, chẳng từ, chẳng bi, ghen ghét, keo tham. Các điều ác đều dấy lên, như là sát sanh, cho đến tà kiến, chẳng thẹn, chẳng hổ, ăn dùng hết thảy những vật thuộc về Tốt-đổ-ba (tháp thờ Phật) và vật thuộc về Tăng chúng, chưa từng có tâm hối hận. Vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương ghen ghét bậc trung hiền, ưa thích phường siểm nịnh, khiến cho quan và dân của chính ḿnh xâm phạm lẫn nhau, phẫn, sân, kết oán, dấy lên các sự đấu tranh. Khi cùng các nước lân cận giao chiến, do ḷng quân ly tán, không lúc nào chẳng thua chạy. Vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, và bọn tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la ấy chẳng lâu sau sẽ bị tứ chi tàn phế, thiếu khuyết, trong nhiều ngày đêm bị đớ lưỡi chẳng thể nói, chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể chịu đựng, mạng chung nhất định sanh vào địa ngục Vô Gián).

 

          Các vị thiện thần hộ pháp nổi tâm sân hận. “Hỗ tương vị ngôn” nghĩa là các thần nói với nhau: “Nhân đẳng! Đương quán thử Sát-đế-lợi, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la nhân” (Các vị! Hăy xem bọn Sát-đế-lợi, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la này). Họ nói hiện thời, trong quốc độ này, từ quốc vương, cho đến tể quan, cư sĩ, trưởng giả của ông ta, thậm chí c̣n có hàng xuất gia, Bà-la-môn đều là Chiên-đồ-la. Chiên-đồ-la là ác nhân. Ác nhân hành ác pháp. Chúng nó hủy báng Tam Bảo và hết thảy chủng tánh pháp nhăn Tam Bảo, tổn giảm căn lành. Người trong quốc độ ấy chẳng có thiện căn, do sức của bạn ác thâu nhiếp các tội nghiệp. Từ ác lực, tạo ra hết thảy ác nghiệp. “Đương đọa ác thú” (sẽ đọa vào đường ác), nhất định đọa vào tam đồ!

          “Ngă đẳng tùng kim, vật phục ủng hộ thử Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la đẳng, tịnh kỳ sở cư quốc độ, thành, ấp. Tác thị ngữ dĩ, nhất thiết thiên, long, Dược Xoa thần đẳng, giai tất khí xả” (“Chúng ta từ nay trở đi chẳng c̣n ủng hộ bọn Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la này nữa và quốc độ, thành, ấp nơi bọn chúng cư ngụ”. Nói lời ấy rồi, hết thảy trời, rồng, Dược Xoa thần v.v… thảy đều vứt bỏ). Các vị thiện thần rời khỏi quốc độ ấy, chỉ c̣n lại La Sát, Dạ Xoa ác! Từ đấy trở đi, quốc độ ấy chẳng cát tường, các vị hộ pháp thiện thần chẳng c̣n ủng hộ nữa! “Thiết hữu trụ giả, diệc sanh xả tâm” (nếu có vị nào ở lại, cũng sanh tâm buông bỏ): Hoặc c̣n một số ít c̣n ở lại, chưa đi, nhưng chẳng hộ tŕ bọn chúng, sanh tâm buông bỏ. Không chỉ là thần, mà người xuất gia chúng ta [cũng buông xả]! Có thể nh́n thấy hiện tượng xă hội này: Sau khi các vị tỳ-kheo thiện lương đều buông bỏ, không thủ hộ, không c̣n hộ niệm bọn Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la và quốc độ, thành, ấp nơi bọn chúng sống nữa. Sau khi chẳng c̣n hộ niệm, “thời bỉ quốc độ, tự quân, tha quân, cạnh khởi xâm lăng” (khi ấy, trong quốc độ đó, quân của nước ḿnh và quân nước khác đua nhau dấy lên xâm lăng): “Tự quân” là quân đội của chính nước ḿnh đánh lẫn nhau, giống như tại Trung Hoa Đại Lục, quân Mao Trạch Đông và quân Quốc Dân Đảng đánh nhau rất nhiều năm. Sau đó, “tha quân” (quân nước khác), người Nhật Bản liền xâm lược quốc gia. “Tha quân” (quân khác) tức người khác đánh xong, quân nước ḿnh lại đánh, giết hại lẫn nhau, cho đến dịch bệnh, đói kém. C̣n có tai ương nước, lửa. “Phục hưng” [ở đây] có nghĩa là các tai họa ấy lại dấy lên. “Bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, nhất thiết quốc dân, giai vô hoan lạc” (Bọn vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến bọn sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-La, hết thảy nhân dân trong nước đều chẳng vui sướng): Chẳng thể vui sướng nổi! “Tiên sở ái nhạo, kim tất biệt ly” nghĩa là những ǵ được hưởng thụ, yêu thích trong quá khứ, các cảnh tượng khoái hoạt đều chẳng c̣n nữa, đều rời bỏ cả rồi!

          “Bằng hữu quyến thuộc, cánh tương sân hận” (bạn bè và quyến thuộc sân hận lẫn nhau): Thân nhân của chính ḿnh sân hận lẫn nhau, năo hại lẫn nhau. Chuyện này chẳng cần giải thích! Không chỉ Đài Loan có nhiều, mà Đại Lục cũng nhiều. Hằng ngày quư vị đều có thể trông thấy, giống như chúng ta thấy ngay cả bầu bán cũng đấu đá. “Vô tàm, vô quư” (không hổ, không thẹn), khi đó “tật đố xan tham, chúng ác giai khởi” (ghen ghét, keo tham, các điều ác đều dấy lên). Toàn là tạo ác nghiệp, cho đến sát nghiệp, tà kiến. “Chẳng hổ, chẳng thẹn”, bao gồm rất nhiều tà kiến! Chúng tôi nêu một thí dụ đơn giản nhất. Trong khi họ ăn các chúng sanh khác, họ nói các chúng sanh đó được sanh ra để cho họ ăn! Đó gọi là tà kiến. Lợn, dê chi nữa đều là những thứ thức ăn ư? Lợn, dê sanh ra để cho con người ăn, vậy th́ gà sanh ra cũng để cho người ăn ư? Nói như vậy, con người sanh ra cũng là để cho chó sói, cho cọp ăn ư? [Bị vặn hỏi như thế], bọn họ mới chẳng nghĩ như vậy, và cũng chẳng nói như vậy. Chuyện này gọi là tà kiến! Tà tri, tà kiến, chẳng hổ, chẳng thẹn! Thậm chí đối với tiền bạc nơi chùa miếu, bọn chúng đều đến cướp lấy xài, chẳng sợ địa ngục Vô Gián. Tiền bạc từ tất cả chùa miếu, họ đều cướp lấy để dùng. “Tăng Kỳ vật” là những thứ cúng dường trong chùa miếu của Tăng chúng, bọn họ đều cướp lấy để dùng, một tí tâm hối cải cũng chẳng có !

          Những kẻ đó, “bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương tăng tật trung hiền” (gă vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la ấy ghen ghét bậc trung thần, hiền thần): Ghen ghét người hiền, ghen ghét người tốt, sủng ái bọn siểm mị, gian nịnh. “Nịnh” () là gian thần, là kẻ xấu. Chúng ta nói họ trở thành người xấu. Đă làm quan, cho đến đă được bầu làm thượng nghị sĩ, đều xâm phạm lẫn nhau. Có lúc xuất phát từ tư lợi, có lúc xuất phát từ đảng phái, chưa hề lo toan nhân dân cả nước như thế nào, tuy họ luôn rêu rao “ta suy xét cho toàn thể quốc dân”, mượn cái chiêu bài ấy để thành tựu danh lợi cho chính ḿnh. “Hỗ tương xâm lăng”: Trong lúc đó, sức kẻ đó chẳng chống nổi quư vị, quư vị liền giết phăng hắn đi, hoặc là tàn sát cả gia tộc của hắn. Cái tâm phẫn hận của bọn họ kết chặt thành “phẫn khuể” trong tâm. “Phẫn khuể” là sức mạnh phẫn nộ mà chẳng tiết phát được, kết trong tâm sẽ sanh ra khuể nộ. Đấy là kết thù chuốc oán, cho đến lúc chết c̣n nói: “Ta thành quỷ cũng phải báo cừu!” Vậy là kết hận, uất hận kết lại trong tâm. Đời sau tái sanh, nếu gặp gỡ nhau, kẻ đó có thể đối xử tốt với quư vị hay không? V́ sao có người vừa mới thấy kẻ khác, chẳng có mảy may liên hệ ǵ với người đó, cũng rút súng bắn liền? Đấy chẳng phải là kiếp này, mà là [oan trái] đă kết trong đời quá khứ. Kẻ đó vừa trông thấy, bèn chẳng thể nào không giết chết kẻ kia, v́ đời trước ngươi đă giết chết ta. V́ kẻ đó chẳng thấy đời trước, đấy là “khuể kết”.

          “Hưng chư đấu tránh” (dấy lên đấu đá, tranh chấp): Đề xướng đấu tranh, tuyên dương đấu tranh. Đấu đến nỗi con đấu với cha, vợ chồng đấu nhau, gia tộc đấu nhau. “Cộng dư lân quốc giao trận chiến thời” (lúc giao chiến với nước lân cận): Quốc gia như vậy, binh sĩ trong quân đội cũng chẳng thể đánh trận. Khi giao chiến với người khác, quân sĩ tức là các binh sĩ tác chiến, tâm họ đă ră rời, chẳng nghĩ bảo vệ quốc gia ấy, chẳng nghĩ sẽ xả thân bảo vệ quốc gia. Do vậy, cùng địch nhân giao chiến sẽ bị chiến bại! “Bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, bất cửu tiện đương chi thể phế khuyết” (bọn vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la và lũ Chiên-đồ-la tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn ấy chẳng lâu sau tứ chi sẽ bị tàn phế, thiếu khuyết): Tức là những kẻ ấy hoặc bị người khác giết hại, tàn hại, hoặc chính ḿnh ngă bệnh, bất luận bệnh tật như thế nào, đều sanh ra ác bệnh chẳng thể chữa trị, bị bệnh rất lâu. Trong nhiều ngày đêm, đớ lưỡi chẳng thể nói, có miệng mà chẳng thể ăn ǵ được!

 

          (Kinh) Phục thứ, thiện nam tử! Hữu Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, tùy ác hữu hành, thiện căn vi thiểu, siểm khúc, ngu si, hoài thông minh mạn, ư Tam Bảo sở, vô thuần tịnh tâm, bất kiến, bất úy hậu thế khổ quả. Thử hữu nhất loại, ư Thanh Văn Thừa đắc vi thiểu tín, thật thị ngu si, tự vị thông mẫn, ư ngă sở thuyết Duyên Giác Thừa pháp, cập Đại Thừa pháp, hủy tử, phỉ báng, bất thính chúng sanh thọ tŕ, độc tụng, hạ chí nhất tụng.

          ()復次,善男子,有剎帝利旃荼羅王、宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,隨惡友行,善根微少,諂曲愚癡,懷聰明慢,於三寶所無淳淨心,不見不畏後世苦果。此有一類,於聲聞乘得微少信,實是愚癡,自謂聰敏,於我所說緣覺乘法,及大乘法,毀呰誹謗,不聽眾生受持讀誦,下至一頌。

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Có vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, cho đến những gă Chiên-đồ la tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn làm theo bạn ác, thiện căn ít ỏi, siểm khúc, ngu si, tự phụ thông minh, đối với Tam Bảo, tâm chẳng thuần tịnh, chẳng thấy, chẳng sợ khổ quả đời sau. Hạng người như vậy tin tưởng Thanh Văn Thừa đôi chút, thật sự là phường ngu si, tự cho là thông minh, mẫn tiệp, đối với pháp thuộc Duyên Giác Thừa và pháp Đại Thừa do ta đă nói bèn chê gièm, phỉ báng, chẳng cho phép chúng sanh thọ tŕ, đọc tụng, dẫu chỉ một bài kệ tụng).

 

          Đây là một loại ác luân khác. Có quốc vương là ác quốc vương, tất cả tể quan, thần dân, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, và Bà-la-môn của hắn đều là kẻ ác. “Tùy ác hữu hành” (làm theo bạn ác). “Ác hữu” (惡友, bạn ác) là sa-môn phá giới như chúng ta vừa nói, cho đến sa-môn giả mạo! Hiện thời, có rất nhiều sa-môn giả mạo. Một kẻ tại gia cũng tự xưng là pháp sư, cũng mặc áo hậu vàng, đắp y đỏ của ḥa thượng, cũng thăng ṭa thuyết pháp, giải thích Phật pháp theo một kiểu khác biệt. Tôi ở Đài Loan nghe nói quư vị c̣n có thể phát sóng trên truyền h́nh. Gă đó mua một tiết mục nói mấy phút. Đó là điên đảo. Kẻ như vậy, thuận theo ác hữu làm những chuyện ǵ? “Siểm khúc, ngu si”. Hắn c̣n tưởng chính ḿnh rất thông minh. Nói là “thông minh”, v́ hắn cho rằng tà kiến của chính ḿnh rất thông minh, thông minh tới mức độ nào? Chẳng có tín tâm đối với Tam Bảo, chẳng có tâm thuần tịnh, chẳng có tâm cung kính, chẳng tin nhân quả. Lúc ấy, có thể lộ rơ hắn là kẻ chẳng tin nhân quả. Hễ tin nhân quả, hắn trọn chẳng dám làm các việc ấy! Đấy là kẻ chẳng học Phật pháp. Có lúc, tâm hắn không dám làm chuyện ác, hắn chẳng làm được, v́ trong quốc độ của chúng ta, chẳng hạn như dân tộc Trung Hoa, Nho giáo cũng thế, trong truyền thống lịch sử mấy ngàn năm cũng thế, tuy [trong lúc] chưa có Phật pháp, họ cũng biết chuyện này chẳng thể làm, chẳng làm chuyện hại người, lợi ḿnh. Nho giáo cũng dạy như thế. “Phi lễ vật thị” (chuyện phi lễ chớ nh́n), chẳng hợp đạo lư chớ nên nh́n, chẳng hợp đạo lư th́ đừng nên làm, các âm thanh chẳng hợp đạo lư đừng nên nghe. “Phi lễ vật thị, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật thính” (chuyện phi lễ đừng nh́n, lời phi lễ chớ nói, chuyện phi lễ chớ nghe), những điều này ứng hợp với Phật giáo. Đấy là “chú trọng nhân quả”.

          “Hại nhân giả, nhân hằng hại chi. Sát nhân giả, nhân hằng sát chi” (kẻ hại người, người khác luôn hại hắn. Kẻ giết người, người khác luôn giết hắn). Nhưng hắn chẳng tin, cứ nghĩ chính ḿnh rất thông minh. Nếu quư vị nói với hắn pháp Thanh Văn, hắn bảo: “Ta là Đại Thừa!” Nếu quư vị nói pháp Bồ Tát với hắn, bảo hắn hành Bồ Tát đạo, hắn nói: “Ta là Tiểu Thừa, là tự lợi.” Rốt cuộc hắn là thừa nào? Một thừa cũng chẳng phải! Hắn là địa ngục thừa, mà cũng là tam đồ thừa. Hắn ngồi lên cỗ xe ấy, cái xe đó chuyên chở hắn vào trong tam đồ, thậm chí hắn c̣n thỏa thích nữa!

          Hoặc là đối với pháp nhân duyên, kẻ đó hiểu đôi chút, bèn báng pháp Thanh Văn, báng pháp Đại Thừa, báng pháp Lục Độ. Hoặc là kẻ đó học pháp Thanh Văn, học Khổ, Tập, Diệt, Đạo, liền báng pháp Duyên Giác, báng Đại Thừa, báng pháp Lục Độ. Hắn tự cho ḿnh là viên măn, chính ḿnh đang học pháp Đại Thừa, sanh khởi hủy báng đối với pháp Tiểu Thừa. Đối với pháp Tiểu Thừa, đức Phật cũng tán thán. Học pháp Đại Thừa, cứ nghĩ chẳng cần học pháp Nhị Thừa, [thế nhưng] đức Phật hoàn toàn chẳng hủy báng pháp Nhị Thừa. Đức Phật đối với người căn cơ Đại Thừa, bèn nói cho họ pháp Đại Thừa. Quư vị đă phát Bồ Đề tâm, độ hết thảy chúng sanh, hết thảy chúng sanh đều có thể độ, huống hồ thánh nhân Nhị Thừa ư? Do vậy, pháp tam thừa đều đúng. Phải thấu hiểu đức Phật đối ứng căn cơ mà thuyết pháp, chẳng phải là chuyên nói một pháp nào! Nếu có các chúng sanh thuộc loại căn cơ này, Ngài sẽ nói cho họ loại pháp y. Đối với loại căn cơ khác, Ngài sẽ nói một loại phương pháp khác. Phương pháp tu hành có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn, phương pháp rất nhiều, tùy thuộc nói với người nào! Nói với kẻ đó mà chẳng thích hợp th́ sẽ chẳng thể nói, ư nghĩa như thế đó!

          Thấu hiểu tầng ư nghĩa này, đối với pháp tam thừa, đều phải nên đọc tụng, chớ nên hủy báng. Ở đây lại nói, đối với những người xuất gia, cũng như đối với ưu-bà-di cư sĩ, giữa các cư sĩ với nhau, giữa người xuất gia với nhau, các thiện nam nữ tại gia tịnh tín, đối đăi tứ chúng đệ tử, quan tâm lẫn nhau, phải nên tôn trọng. Đối với một tỳ-kheo phá giới trên đây, phải nên đối đăi như thế nào? Kẻ đó có nhân quả của chính hắn, quư vị cứ một mực coi kẻ đó như thánh nhân. Quư vị dùng cái tâm thánh nhân, thấy hết thảy mọi người đều là thánh nhân. Thọ tŕ đọc tụng pháp tam thừa, tối thiểu là một bài kệ tụng.

 

          (Kinh) Phục hữu nhất loại, ư Duyên Giác Thừa, đắc vi thiểu tín, thật thị ngu si, tự vị thông mẫn, ư ngă sở thuyết Thanh Văn Thừa pháp, cập Đại Thừa pháp, hủy tử, phỉ báng, bất thính chúng sanh thọ tŕ, độc tụng, hạ chí nhất tụng. Phục hữu nhất loại, ư Đại Thừa pháp đắc vi thiểu tín, thật thị ngu si, tự vị thông mẫn, ư ngă sở thuyết Thanh Văn Thừa pháp, Duyên Giác Thừa pháp, hủy tử, phỉ báng, bất thính chúng sanh thọ tŕ, độc tụng, hạ chí nhất tụng. Như thị đẳng nhân, danh vi hủy báng Phật chánh pháp giả, diệc vi vi nghịch tam thế chư Phật, phá tam thế chư Phật nhất thiết pháp tạng, phần thiêu đoạn diệt, giai vi hôi tẫn, đoạn hoại nhất thiết bát chi thánh đạo, khiêu hoại vô lượng chúng sanh pháp nhăn. Nhược Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, ư Phật sở thuyết Thanh Văn Thừa pháp, Duyên Giác Thừa pháp, cập Đại Thừa pháp, chướng ngại phú tàng, linh kỳ ẩn một, năi chí nhất tụng.

          ()復有一類,於緣覺乘得微少信,實是愚癡,自謂聰敏,於我所說聲聞乘法,及大乘法,毀呰誹謗,不聽眾生受持讀誦,下至一頌。復有一類,於大乘法得微少信,實是愚癡,自謂聰敏,於我所說聲聞乘法,緣覺乘法,毀呰誹謗,不聽眾生受持讀誦,下至一頌。如是等人,名為譭謗佛正法者,亦為違逆三世諸佛,破三世佛一切法藏,焚燒斷滅,皆為灰燼,斷壞一切八支聖道,挑壞無量眾生法眼。若剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,於佛所說聲聞乘法、緣覺乘法及大乘法,障礙覆藏,令其隱沒,乃至一頌。

          (Kinh: Lại có một loại tin tưởng Duyên Giác Thừa đôi chút, thật sự là ngu si, tự cho ḿnh thông minh, mẫn tiệp, đối với pháp Thanh Văn Thừa và pháp Đại Thừa do ta đă nói, chê gièm, phỉ báng, chẳng cho phép chúng sanh thọ tŕ, đọc tụng, dẫu chỉ một bài kệ tụng. Lại có một loại người tin tưởng pháp Đại Thừa đôi chút, thật sự là ngu si, tự cho là thông minh, mẫn tiệp, đối với pháp Thanh Văn Thừa và Duyên Giác Thừa do ta đă nói, chẳng cho phép chúng sanh thọ tŕ, đọc tụng, dẫu chỉ một bài kệ tụng. Hạng người như thế gọi là hủy báng chánh pháp của Phật, cũng là trái nghịch tam thế chư Phật, phá hết thảy pháp tạng của tam thế Phật, thiêu đốt, đoạn diệt đều thành tro tàn, dứt trừ, đoạn hoại hết thảy tám chi thánh đạo, chọc mù pháp nhăn của vô lượng chúng sanh. Nếu vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến bọn người sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la đối với pháp Thanh Văn Thừa, pháp Duyên Giác Thừa, và pháp Đại Thừa do đức Phật đă nói mà chướng ngại, che giấu, khiến bị ẩn mất, dẫu chỉ một bài kệ tụng).

 

          “Phục hữu nhất loại, ư Duyên Giác Thừa đắc vi thiểu tín” (Lại có một loại người đối với Duyên Giác Thừa tin tưởng đôi chút): Thật sự là kẻ ngu si, họ chẳng chứng đắc đạo Duyên Giác, tự cho chính ḿnh thông minh, bèn báng pháp Thanh Văn Thừa. Đấy gọi là “hủy báng chánh pháp”. Quư vị có biết “Án, ma ni bát di hồng” (Auṃ, maṇi padme hūṃ) chứa đựng ư nghĩa ǵ hay không? Quư vị ắt phải dùng cách hiển thị, dùng ngôn ngữ chỉ bày để giải thích một phen, quư vị mới có thể biết. “Án, ma ni bát di hồng”, tất cả các kinh luận của Quán Tự Tại Bồ Tát đều có thể bao hàm trong sáu chữ ấy, thậm chí được bao gồm trong một chữ Án. Một chữ Án trọn đủ hết thảy. Chẳng có cơ sở Hiển Giáo, quư vị chẳng hiểu, làm sao có thể nhập cho được? Đấy là dạy chúng ta đối với chánh pháp Tam Bảo, phải nên hộ tŕ, chớ nên hủy báng. Nếu hủy báng, quư vị đă hủy báng chánh pháp, đó là pháp tạng của tam thế chư Phật. Đối với bất luận các tông, các phái, dù Hiển hay Mật, quư vị cho rằng pháp nào đó không đúng th́ chẳng học là được rồi. Pháp ấy chẳng thích hợp với căn cơ của quư vị. Quư vị phải t́m pháp nào đúng với căn cơ của quư vị. Hủy báng tương đương với “phần thiêu đoạn diệt” (thiêu đốt, đoạn diệt), chọc mù pháp nhăn của vô lượng chúng sanh, khiến cho chúng sanh đều thành kẻ mù, chẳng có trí huệ nơi pháp.

          “Nhược Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, ư Phật sở thuyết Thanh Văn Thừa pháp, Duyên Giác Thừa pháp, cập Đại Thừa pháp, chướng ngại, phú tàng” (Nếu vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến bọn sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la đối với pháp Thanh Văn Thừa, pháp Duyên Giác Thừa, và pháp Đại Thừa do đức Phật đă nói mà chướng ngại, che giấu), khiến cho các pháp ấy chẳng thể hoằng dương, “linh kỳ ẩn một” (khiến chúng bị ẩn mất). Bộ kinh nào chẳng được nói, bộ kinh ấy sẽ dần dần chẳng c̣n trên cơi đời. V́ sao có người nói “khi pháp diệt, kinh A Di Đà vẫn c̣n trụ thế một trăm năm”? V́ có nhiều người hoằng dương Tịnh Độ. [Trong khi đó, có các kinh] giáo nghĩa rất sâu, nhưng giải thích quá ít, bất luận bộ kinh nào [gặp phải t́nh cảnh ấy, sẽ dần dần bị ẩn mất]. Hiện thời, trong Kinh Tạng có rất nhiều phương pháp tốt đẹp, nhưng rất nhiều pháp đều bị ẩn mất!

          Nếu duyệt tạng (閱藏, đọc Đại Tạng Kinh), quư vị có thể cảm nhận bộ kinh ấy đối với quư vị rất thích hợp, lại chẳng có ai giảng, chẳng có ai hoằng dương, chẳng có ai đề xướng, chẳng được ấn hành. Chúng ta trừ mấy bộ kinh như kinh Kim Cang, kinh A Di Đà, kinh Dược Sư ra, rất nhiều kinh dần dần không được nhắc đến nữa, chúng sẽ dần dần biến mất. Chẳng có ai hoằng dương, sẽ bị mai một. Hoằng dương kinh A Di Đà nhiều v́ pháp này thích hợp căn cơ của chúng ta trong đời Mạt Pháp, xác thật là đối ứng căn cơ. Quư vị học chẳng hiểu, cứ niệm câu A Di Đà Phật là được rồi! Niệm câu A Di Đà Phật cũng có thể đắc độ. Nhưng nếu đă học, phải học cho kỹ, học kỹ là như thế nào? Có rất nhiều phương pháp niệm A Di Đà Phật. Trước hết, hăy thanh tịnh cái tâm của quư vị, tự hỏi chính ḿnh dùng cái tâm ǵ để niệm? Niệm Phật chẳng phải là miệng niệm, niệm Phật phải từ tâm khởi niệm. Niệm nào cũng đều phải quy vào tâm. Cái tâm này của quư vị là Phật, tâm này làm Phật. A Di Đà chính là quư vị. Chính quư vị có thể phóng vô lượng quang, nhưng quư vị ắt phải học thấu đáo. Nếu quư vị hủy báng, pháp ấy liền bị chướng ngại, dần dần sẽ bị hủy diệt!

 

          (Kinh) Đương tri thị nhân danh bất cung kính nhất thiết pháp nhăn Tam Bảo chủng tánh, do thị nhân duyên, linh hộ quốc độ nhất thiết thiên, long, Dược Xoa thần đẳng, tín kính Tam Bảo vô động hoại giả, ư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, tâm sanh sân phẫn, quảng thuyết năi chí bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, bất cửu tiện đương chi thể phế khuyết, ư đa nhật dạ kết thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn, mạng chung định sanh Vô Gián đại ngục.

          ()當知是人,名不恭敬一切法眼三寶種姓。由是因緣,令護國土一切天、龍、藥叉神等,信敬三寶無動壞者,於剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,心生瞋忿;廣說乃至彼剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,不久便當支體廢缺,於多日夜結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間大獄。

          (Kinh: Hăy nên biết người ấy được gọi là chẳng cung kính hết thảy chủng tánh pháp nhăn Tam Bảo. Do nhân duyên ấy, khiến cho hết thảy trời, rồng, Dược Xoa thần v.v… hộ tŕ quốc độ ấy là những vị tín kính Tam Bảo chẳng lay động, chẳng bị phá hoại, sanh tâm sân phẫn đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến bọn người Chiên-đồ-la sa-môn, Bà-la-môn, nói rộng là cho đến bọn vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la ấy chẳng bao lâu sau sẽ bị tứ chi tàn phế, thiếu khuyết, trong nhiều ngày đêm, đớ lưỡi chẳng thể nói được, chịu các nỗi khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể chịu đựng, mạng chung nhất định sanh vào ngục lớn Vô Gián).

 

          Kẻ hủy báng hăy nên biết: Ai hủy báng, ai là “bất cung kính nhất thiết pháp nhăn Tam Bảo chủng tánh, do thị nhân duyên, linh hộ quốc độ nhất thiết thiên, long, Dược Xoa thần đẳng, tín kính Tam Bảo vô động hoại giả” (chẳng cung kính hết thảy chủng tánh pháp nhăn Tam Bảo. Do nhân duyên ấy, khiến cho hết thảy trời, rồng, Dược Xoa thần v.v… hộ tŕ quốc độ ấy là những vị tín kính Tam Bảo chẳng lay động, chẳng bị phá hoại): Ḷng tin của các vị quỷ thần ấy có nền tảng, chẳng tùy tiện dao động. “Vô động hoại giả” [nghĩa là] chẳng hề dao động tín tâm, chẳng thể phá hoại tín tâm của họ được. Trời, rồng, Dược Xoa thần như vậy, trong các vị trời, rồng, Dược Xoa thần là Dạ Xoa, có thiện và ác. Người có thiện và ác, thần cũng có thiện và ác giống hệt như vậy. Thiện thần hộ pháp đối với vua Chiên-đồ-la Sát-đế-lợi cho đến những kẻ Chiên-đồ-la trong giới sa-môn, Bà-la-môn v.v… sanh tâm sân phẫn, nói rộng là cho đến bọn người gồm vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn là những kẻ Chiên-đồ-la chẳng bao lâu tứ chi sẽ bị tàn phế, thiếu khuyết. Kẻ báng pháp “ư đa nhật dạ kết thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn, mạng chung định sanh Vô Gián đại ngục” (trong nhiều ngày đêm, đớ lưỡi chẳng thể nói được, chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể chịu đựng, mạng chung nhất định sanh vào đại ngục Vô Gián): Điều này giống như trong phần trước [đă nói], quyết định sanh vào đại ngục Vô Gián, đó cũng là địa ngục Vô Gián.

 

          (Kinh) Phục thứ, thiện nam tử! Hữu Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, tùy trục phá giới ác bật-sô hành, quảng thuyết năi chí ư bỉ quốc trung hữu chư pháp khí, chân thật phước điền, ư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la đẳng, giai trụ xả tâm, nhi bất hộ niệm. Tuy cư kỳ quốc, nhi y pháp trụ, thường bất hỷ nhạo tục gian cư chỉ, diệc bất sổ sổ văng thí chủ gia. Thiết linh tạm văng, nhi hộ ngữ ngôn. Túng hữu ngữ ngôn, tằng vô hư cuống, chung bất đối bỉ tại gia nhân tiền, cơ hủy, khinh lộng chư phá giới giả. Ư chư phá giới ác hạnh bật-sô, chung bất khinh nhiên triếp tương kiểm vấn, diệc bất hiện tướng, cố hiển kỳ phi, thường cận phước điền, viễn chư phá giới. Nhi bỉ phá giới, ác hạnh bật-sô, ư thử tŕ giới, chân thiện hạnh giả, phản sanh sân hận, khinh hủy xâm lăng, ư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, tại gia nam, nữ, đại, tiểu đẳng tiền, chủng chủng siểm khúc, hư vọng đàm luận, hủy tử, phỉ báng thử tŕ giới giả, linh Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, ư ngă đệ tử thiểu dục, tri túc, tŕ giới, đa văn, cụ diệu biện tài chư bật-sô sở, tâm sanh sân hận, chủng chủng thô ngôn, ha mạ, bức thiết, linh tâm ưu năo, thân bất an thái, hoặc đoạt y, bát, chư tư thân cụ, linh kỳ quỹ phạp, hoặc đoạt sở thí tứ phương Tăng vật, bất thính thọ dụng, hoặc bế lao ngục, già tỏa khảo sở, hoặc giải chi tiết, hoặc trảm thân thủ.

          ()復次,善男子,有剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,隨逐破戒惡苾芻行,廣說乃至於彼國中,有諸法器真實福田,於剎帝利旃荼羅等,皆住舍心而不護念。雖居其國而依法住,常不喜樂俗間居止,亦不數數往施主家。設令暫往,而護語言;縱有語言,曾無虛誑,終不對彼在家人前,譏毀輕弄諸破戒者,於諸破戒惡行苾芻,終不輕然輒相檢問,亦不現相故顯其非,常近福田,遠諸破戒;而彼破戒惡行苾芻,於此持戒真善行者,反生瞋恨,輕毀侵凌,於剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,在家男女大小等前,種種諂曲虛妄談論,毀呰誹謗此持戒者,令剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,於我弟子少欲知足,持戒多聞,具妙辯才諸苾芻所,心生瞋恨,種種粗言,呵罵逼切,令心憂惱,身不安泰,或奪衣缽諸資身具令其匱乏,或奪所施四方僧物不聽受用,或閉牢獄,枷鎖拷楚,或解支節,或斬身首。

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Có Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn là những Chiên-đồ la làm theo ác bật-sô phá giới, nói rộng là cho đến trong nước ấy có những vị là pháp khí, là ruộng phước chân thật, đối với bọn Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la ấy, đều mang tâm ĺa bỏ, chẳng hộ niệm chúng. Tuy ở trong nước ấy, nhưng theo đúng pháp mà trụ, thường chẳng ưa thích sống trong thế tục, cũng chẳng nhiều lượt đến nhà thí chủ. Dẫu có tạm đến, bèn ǵn giữ lời ăn tiếng nói. Dẫu có nói năng, chưa từng hư dối, trọn chẳng đối trước kẻ tại gia mà gièm chê, hủy báng, khinh thường, trào lộng các kẻ phá giới. Đối với các bật-sô ác hạnh, phá giới, trọn chẳng khinh suất tùy tiện tra hỏi, cũng chẳng hiện tướng cố ư hiển lộ sai trái của họ, thường gần phước điền, xa các kẻ phá giới. Nhưng gă bật-sô phá giới, ác hạnh ấy đối với bậc tŕ giới, thiện hạnh chân thật đó lại ngược ngạo sanh ḷng sân hận, khinh miệt, hủy báng, xâm lấn, đối trước vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến bọn sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la, tại gia nam, nữ, lớn, nhỏ, đủ loại siểm khúc, đàm luận hư vọng, chê bai, phỉ báng vị tŕ giới ấy, khiến cho vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến những kẻ Chiên-đồ-la thuộc sa-môn, Bà-la-môn đối với các đệ tử bật-sô thiểu dục, tri túc, tŕ giới, đa văn, trọn đủ biện tài hay khéo của ta, sanh tâm sân hận, dùng đủ mọi lời lẽ thô lỗ, quở trách, chửi bới, bức bách, khiến cho tâm họ ưu năo, thân chẳng yên ổn, hoặc cướp đoạt y, bát, các vật dụng cần dùng, khiến họ bị thiếu thốn, hoặc đoạt vật thí cho tứ phương Tăng, hoặc giam vào lao ngục, gông, xiềng, tra khảo, hoặc chặt chân tay, hoặc chém đứt đầu).

 

          Đoạn kinh văn này nói: Từ ác vương cho đến ác nhân, đều bị thiện thần hộ tŕ quốc độ ấy ĺa bỏ, chẳng hộ niệm bọn chúng nữa. Cũng có vị vẫn ở trong quốc độ ấy, có vị đă bỏ đi, có vị vẫn chưa rời đi. Tuy chẳng rời đi, cũng chẳng quản, chẳng hộ niệm quốc độ, chẳng hộ niệm những kẻ trên đây! Hạng người ấy chẳng thích trụ trong thế gian, thích sống nơi tịch tĩnh, tức là như trong phần trước đă nói là “trụ tịch tĩnh xứ”, nơi đó được gọi là A Lan Nhă (hoặc A Luyện Nhă). Họ cũng chẳng thường xuyên đến nhà thí chủ, đó cũng là nhà thí chủ có tín tâm. “Thiết linh tạm văng” (Giả sử tạm đến), hoặc là do có chuyện ǵ phải đến một phen, đối với lời ăn tiếng nói của chính họ, họ khéo giữ ǵn, chẳng nói lời hư dối, chẳng nói lời gạt gẫm, mê hoặc kẻ khác. Cũng chẳng ở trước mặt hàng tại gia “cơ hủy khinh lộng” (gièm chê, hủy báng, khinh miệt, trào lộng) các kẻ phá giới, tức là trọn chẳng nói lỗi của tỳ-kheo phá giới, bất luận đối với ai, bất luận đối với quốc vương! Trên đây, đă nêu rất nhiều trường hợp, đều chẳng nói lỗi của tỳ-kheo ác hạnh. “Cố hiển kỳ phi” tức là cố ư hiển lộ lỗi lầm của tỳ-kheo phá giới, ác hạnh. “Thường cận phước điền, viễn chư phá giới” (thường gần ruộng phước, xa những kẻ phá giới): Bản thân họ chẳng ở chung với tỳ-kheo phá giới, nhưng bật-sô phá giới, ác hạnh ngược ngạo sanh ḷng sân hận đối với người tŕ giới. V́ thiện nhân, thiện hạnh tỳ-kheo do ǵn giữ ngôn hạnh, chẳng có câu nào nhắc đến lỗi quấy của hắn. Nhưng tỳ-kheo ác hạnh lại khác, hắn đâm ra “khinh hủy, xâm lăng” (khinh miệt, hủy báng, xâm phạm), xâm phạm vị thiện tỳ-kheo ấy, đối trước “Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân” (vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến những gă Chiên-đồ-la trong giới sa-môn, Bà-la-môn), hoặc đối trước tại gia nam, nữ, bất luận người lớn, kẻ nhỏ, đủ loại siểm khúc, hư vọng đàm luận, “hủy tử, phỉ báng thử tŕ giới giả” (hủy báng, gièm pha, phỉ báng người tŕ giới ấy), nói xấu người thanh tịnh ấy, tức vị tỳ-kheo thanh tịnh, khiến cho vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến bọn sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la ấy tâm sanh sân hận, cho đến dùng đủ loại lời lẽ thô ác, quở trách, chửi bới, bức bách, khiến cho tâm họ ưu năo, khiến cho các tỳ-kheo như thế, tức các tỳ-kheo tu hành thân lẫn tâm đều chẳng được an ổn, thanh thản! Hoặc c̣n tệ hơn nữa là cướp đoạt y, bát, và các vật dụng sinh hoạt của các vị thiện tỳ-kheo, khiến cho họ bị thiếu thốn. Hoặc đoạt những vật thí cho tứ phương Tăng. Những thứ do người khác cúng dường cho tỳ-kheo, họ đều tước đoạt, chẳng cho hưởng dụng. Tệ hơn nữa là “hoặc bế lao ngục, già tỏa khảo sở, hoặc giải chi tiết, hoặc trảm thân thủ” (hoặc nhốt vào lao ngục, gông xiềng tra khảo, hoặc chặt chân tay, hoặc chém đầu). Đủ mọi h́nh phạt, phi lư hành hạ!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Đương quán như thị chư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, thân cận phá giới, ác hạnh bật-sô, tạo tác như thị chủng chủng đại tội, năi chí đương đọa Vô Gián địa ngục. Nhược chư chúng sanh tác Ngũ Vô Gián, hoặc phạm trọng giới, hoặc cận Vô Gián tánh tội, giá tội do khinh. Như thị chư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, thân cận phá giới, việt pháp trọng tội. Thiện nam tử! Như thị phá giới, ác hạnh bật-sô, tuy tác như thị việt pháp trọng tội, nhi y ngă pháp, thế trừ tu phát, bị phục ca-sa, tấn chỉ oai nghi, đồng chư hiền thánh, ngă thượng bất hứa quốc vương, đại thần, chư tại gia giả, y tục chánh pháp, dĩ tiên, trượng đẳng, chủy khảo kỳ thân, hoặc bế lao ngục, hoặc phục ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn kỳ mạng, huống y phi pháp? Quốc vương, đại thần, chư tại gia giả, nhược tác thử sự, tiện hoạch đại tội, quyết định đương sanh Vô Gián địa ngục. Ư chư phá giới, ác hạnh bật-sô, do thượng bất ưng như thị trích phạt, hà huống tŕ giới chân thiện hạnh giả? Thiện nam tử! Nhược hữu bật-sô, ư chư căn bản tánh trọng tội trung, tùy phạm nhất tội, tuy danh phá giới ác hạnh bật-sô, nhi ư thân giáo ḥa hợp Tăng trung, sở đắc luật nghi, do bất đoạn tuyệt, năi chí khí xả sở học Thi La, do hữu bạch pháp hương khí tùy trục, quốc vương, đại thần, chư tại gia giả, vô hữu luật nghi, bất ưng khinh mạn, cập gia trích phạt. Như thị bật-sô tuy phi pháp khí, thoái thất thánh pháp, uế tạp thanh chúng, phá hoại nhất thiết sa-môn pháp sự, bất đắc thọ dụng tứ phương Tăng vật, nhi ư thân giáo ḥa hợp Tăng trung, sở đắc luật nghi bất khí xả cố, do thắng nhất thiết tại gia bạch y. Phạm tánh tội giả, thượng ưng như thị, huống phạm kỳ dư chư tiểu giá tội. Thị cố, bất hứa quốc vương, đại thần, chư tại gia giả, khinh mạn, trích phạt.

          ()善男子,當觀如是諸剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,親近破戒惡行苾芻,造作如是種種大罪,乃至當墮無間地獄。若諸眾生作五無間,或犯重戒,或近無間性罪,遮罪猶輕。如是諸剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,親近破戒越法重罪。善男子,如是破戒惡行苾芻,雖作如是越法重罪,而依我法剃除鬚髮,被服袈裟,進止威儀同諸賢聖,我尚不許國王、大臣、諸在家者,依俗正法,以鞭杖等捶拷其身,或閉牢獄,或復呵罵,或解肢節,或斷其命,況依非法?國王、大臣、諸在家者,若作此事,便獲大罪,決定當生無間地獄。於諸破戒惡行苾芻,猶尚不應如是謫罰,何況持戒真善行者?善男子,若有苾芻,於諸根本性重罪中,隨犯一罪,雖名破戒惡行苾芻,而於親教和合僧中,所得律儀猶不斷絕,乃至棄舍所學尸羅,猶有白法香氣隨逐。國王、大臣、諸在家者,無有律儀,不應輕慢及加謫罰。如是苾芻,雖非法器,退失聖法,穢雜清眾,破壞一切沙門法事,不得受用四方僧物,而於親教和合僧中,所得律儀不棄舍故,猶勝一切在家白衣!犯性罪者尚應如是,況犯其餘諸小遮罪!是故不許國王、大臣、諸在家者,輕慢謫罰。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Hăy nên quán các vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến bọn sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la như thế, thân cận bật-sô phá giới, ác hạnh, tạo tác đủ mọi tội to lớn như thế, cho đến sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián. Nếu các chúng sanh tạo tội Ngũ Vô Gián, hoặc phạm trọng giới, hoặc tánh tội Cận Vô Gián, giá tội c̣n nhẹ. Các vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến bọn người sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la như thế thân cận kẻ phá giới, vượt pháp, phạm trọng tội. Này thiện nam tử! Bật-sô phá giới, ác hạnh như thế, tuy tạo trọng tội vượt pháp như thế, nhưng do nương theo pháp của ta, cạo bỏ râu tóc, mặc khoác ca-sa, oai nghi cư xử, giống như các vị hiền thánh, ta c̣n chẳng cho phép quốc vương, đại thần, những kẻ tại gia nương theo chánh pháp của thế tục dùng roi, gậy v.v… để đánh đập, tra khảo thân họ, hoặc giam trong lao ngục, hoặc lại quở trách, chửi mắng, hoặc chặt chân tay, hoặc đoạn mạng họ, huống hồ nương theo phi pháp! Quốc vương, đại thần, các kẻ tại gia, nếu làm chuyện ấy, sẽ mắc tội lớn, quyết định sẽ sanh vào địa ngục Vô Gián. Đối với các bật-sô ác hạnh, phá giới, c̣n chẳng nên trừng phạt như thế, hà huống [làm như thế đối với] bậc tŕ giới, thiện hạnh thật sự ư? Này thiện nam tử! Nếu có bật-sô đối với các trọng tội mang tánh chất căn bản, hễ phạm một tội, tuy gọi là “bật-sô phá giới, ác hạnh”, nhưng luật nghi đă được truyền thọ bởi Tăng chúng thân giáo ḥa hợp vẫn chẳng đoạn tuyệt, thậm chí kẻ đó vứt bỏ Thi La đă học, vẫn c̣n có hương thơm bạch pháp đọng lại. Quốc vương, đại thần, những kẻ tại gia, do chẳng có luật nghi, chớ nên khinh mạn và ra tay trừng phạt. Bật-sô như thế, tuy chẳng phải là pháp khí, lui mất thánh pháp, uế tạp Tăng chúng thanh tịnh, phá hoại hết thảy các pháp sự của sa-môn, chẳng được thọ dụng vật dụng của tứ phương Tăng, nhưng chẳng vứt bỏ luật nghi đă đạt được từ thân giáo ḥa hợp Tăng, vẫn hơn hẳn hết thảy kẻ bạch y tại gia. Kẻ phạm tánh tội c̣n nên như thế, huống hồ kẻ phạm những giá tội nhỏ khác. V́ thế, chẳng cho phép quốc vương, đại thần, và những kẻ tại gia khinh mạn, trừng phạt).

 

          “Như thị chủng chủng đại tội” (đủ loại tội lớn như thế) tức là v́ dùng đủ mọi cách hăm hại bậc tỳ-kheo thiện lương, tỳ-kheo tŕ giới, tỳ-kheo tu hành, tức là phạm vào đủ loại tội lớn, “đương đọa Vô Gián địa ngục” (sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián). “Nhược chư chúng sanh tác Ngũ Vô Gián, hoặc phạm trọng giới, hoặc Cận Vô Gián tánh tội” (nếu các chúng sanh tạo tội Ngũ Vô Gián, hoặc phạm trọng giới, hoặc tánh tội Cận Vô Gián): Tội Cận Vô Gián, c̣n chưa phạm đại tội Ngũ Vô Gián. Tôi nêu thí dụ như sau: Giết người, nhưng chưa giết chết, [tức là] tuy người ấy bị giết, nhưng sau đó không chết, cái tội ấy là tội Cận Ngũ Vô Gián, vẫn chưa phải là tội Ngũ Vô Gián. Chẳng hoàn thành th́ vẫn chưa kể là phạm giới căn bản. Nhưng tỳ-kheo có ác hạnh ấy đă là tỳ-kheo phá giới. “Thiện nam tử! Như thị phá giới ác hạnh bật-sô, tuy tác như thị việt pháp trọng tội” (Này thiện nam tử! Bật-sô ác hạnh, phá giới như thế tuy tạo trọng tội vượt pháp như vậy), kẻ đó đă tạo loại trọng tội ấy, tội Vô Gián ấy, nhưng do kẻ đó nương theo pháp của ta cạo bỏ râu tóc, khoác mặc ca-sa, oai nghi cử chỉ vẫn giống bậc hiền thánh. Quốc vương đối với tỳ-kheo ác hạnh, cũng có quốc vương thiện lương, chẳng hoàn toàn là quốc vương mang tánh ác. Ác tánh quốc vương có cùng một thể với kẻ đó (tỳ-kheo phá giới), đương nhiên sẽ chẳng giết kẻ đó, chẳng hại kẻ đó, v́ nghĩ hắn làm đúng. Quốc vương thiện lương, đối với gă ác tánh tỳ-kheo ấy, tuy hắn chẳng thể vâng theo chánh pháp, hoặc là gă tỳ-kheo ấy trộm cắp, hoặc là gă tỳ-kheo ấy giết người, đáng phải đền mạng. Chiếu theo chánh pháp [của thế tục], phải đoạn dứt sanh mạng của gă tỳ-kheo ấy, điều này chớ nên! V́ hắn đă thị hiện tướng trạng giống như bậc hiền thánh, là Tăng Bảo có thiện căn thọ giới, hăy c̣n thế lực sót lại của thiện pháp. Thế lực ấy chưa tiêu hết sạch, [cho nên] chẳng thể đoạn mạng hắn, huống hồ [xử trí theo] phi pháp ư? Dẫu hợp pháp, cũng chẳng thể làm như vậy, vâng theo phi pháp th́ càng chẳng thể được!

          Do đó, “quốc vương, đại thần, chư tại gia giả, nhược tác thử sự, tiện hoạch đại tội” (quốc vương, đại thần, những kẻ tại gia, nếu làm chuyện này sẽ mắc tội lớn): Nếu đối với vị tỳ-kheo phá giới mà làm chuyện ấy, tức là trừng phạt kẻ đó, sẽ mắc tội lớn. “Quyết định đương sanh Vô Gián địa ngục” (quyết định sẽ sanh vào địa ngục Vô Gián), tương đương với quư vị đă sát sanh. Đối với các bật-sô phá giới, ác hạnh như thế, c̣n chẳng nên trách phạt như vậy, huống hồ là [trách phạt như vậy đối với] bậc tŕ giới, thiện hạnh chân thật? Đối với tỳ-kheo phá giới c̣n chẳng thể làm như vậy, cho đến đối với người tu hành, tỳ-kheo thật sự tŕ giới, cho đến tỳ-kheo hoằng pháp, cho đến tỳ-kheo thật sự trụ tŕ chánh pháp, càng chẳng thể làm như thế. Làm như vậy, tội càng lớn hơn nữa!

          Bốn giới “giết, trộm, dâm, dối”, hễ phá bất cứ một giới nào trong ấy, đều gọi là “tỳ-kheo phá giới, ác hạnh”, nhưng luật nghi đă được truyền thọ từ thân giáo ḥa hợp Tăng vẫn chẳng đoạn tuyệt. Kẻ ấy vẫn chưa hoàn toàn đánh mất, vẫn chẳng đoạn giới thể của luật nghi đă thọ. Thậm chí đối với Thi La đă học, tuy tỳ-kheo phá giới, ác hạnh ấy đă hoàn toàn vứt bỏ, chẳng học nữa, nhưng hắn vẫn c̣n có mùi hương của pháp thanh tịnh. Thế lực sót lại của giới hương vẫn c̣n đọng lại, [ví như] đàn hương đă đốt, khói đă chẳng c̣n, nhưng quư vị ở trong căn nhà ấy đă lâu, trên thân quư vị vẫn có mùi hương, c̣n có mùi đàn hương, hoặc mùi trầm hương, có hàm nghĩa như vậy.

          “Quốc vương, đại thần, chư tại gia giả, vô hữu luật nghi, bất ưng khinh mạn” (Quốc vương, đại thần, những kẻ tại gia do chẳng có luật nghi, chớ nên khinh mạn): Quốc vương, đại thần, bản thân quư vị chẳng thọ giới, chẳng có giới luật nghi, làm sao có thể khinh mạn kẻ đó cho được? Huống hồ lại c̣n trách phạt! “Như thị bật-sô, tuy phi pháp khí, thoái thất thánh pháp, uế tạp thanh chúng, phá hoại nhất thiết sa-môn pháp sự, bất đắc thọ dụng tứ phương Tăng vật, nhi ư thân giáo ḥa hợp Tăng trung, sở đắc luật nghi bất khí xả cố” (Bật-sô như thế tuy chẳng phải là pháp khí, lui mất thánh pháp, uế tạp Tăng chúng thanh tịnh, phá hoại pháp sự của hết thảy sa-môn, chẳng được thọ dụng vật của tứ phương Tăng, nhưng do chẳng vứt bỏ luật nghi đă được truyền thọ từ thân giáo ḥa hợp Tăng). Do v́ thoạt đầu thọ giới, học Luật từ Thân Giáo Sư của người ấy, kẻ đó vẫn chưa hoàn toàn vứt bỏ luật nghi đă được truyền thọ bởi ḥa hợp Tăng. Do vậy, kẻ đó vẫn hơn hẳn hết thảy hàng bạch y tại gia. Đă phạm giới căn bản, “phạm tánh tội giả, thượng ưng như thị” ([đối với] kẻ phạm tánh tội, c̣n nên như thế). Đối với [tỳ-kheo] phạm giới căn bản, hàng tại gia bạch y, hoặc quốc vương c̣n chẳng nên coi thường kẻ đó, chớ nên trách phạt kẻ đó. Cho đến trường hợp tỳ-kheo phá giới ấy phạm giá tội nhỏ, lại càng không nên làm, tức là càng không nên trách phạt kẻ đó.

          Nếu quốc vương, đại thần, các kẻ tại gia khinh mạn, trách phạt [tỳ-kheo phá giới] th́ chẳng đúng! Chớ nên trách phạt, khinh mạn kẻ đó. Nói như vậy, dường như đức Phật rất bảo vệ các đệ tử, kẻ đă phá giới mà c̣n bảo vệ như vậy! Hoàn toàn chẳng phải là do nguyên nhân này. Chẳng phải là bảo vệ họ, mà là bảo vệ quư vị, bảo vệ kẻ tại gia hủy báng họ, sợ quư vị sẽ chôn vùi phước đức, sẽ đọa địa ngục. Chẳng phải là bảo vệ kẻ [phá giới] đó! Nếu chúng ta quan sát sai lầm, [sẽ tưởng] đức Phật bảo vệ đệ tử phá giới của Ngài, giống như bọn tại gia chúng ta bảo vệ con cái của chính ḿnh, hoặc như công ty bảo vệ viên chức của chính ḿnh. Dùng quan niệm ấy để nhận thức đức Phật th́ sai lầm mất rồi! V́ sao nói như vậy? V́ đức Phật bảo vệ quư vị khiến cho quư vị đừng tạo tội, hoàn toàn chẳng phải là bảo vệ tỳ-kheo phá giới ấy. Ai hủy báng kẻ đó, kẻ đó làm ǵ th́ kẻ đó phải chịu báo, chứ nếu quư vị hủy báng kẻ đó, sẽ mắc tội. Đây là bảo vệ quư vị, chớ nên làm như vậy.

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Thiện nam tử! Năi văng quá khứ, hữu Ca Xa quốc vương danh Phạm Thọ, sắc Chiên-đồ-la: “Hữu đại tượng vương, danh Thanh Liên Mục, lục nha cụ túc, trụ Tuyết sơn biên, nhữ khả văng bỉ, bạt thủ nha lai. Nhược bất đắc giả, nhữ đẳng ngũ nhân, định vô hoạt nghĩa”. Thời Chiên-đồ-la vị hộ thân mạng, chấp tŕ cung tiễn, phi xích ca-sa, trá hiện sa-môn oai nghi h́nh tướng, văng Tuyết sơn biên, chí tượng vương sở. Thời, bỉ mẫu tượng dao kiến nhân lai, chấp tŕ cung tiễn, kinh bố tŕ tẩu, nghệ tượng vương sở, bạch ngôn: “Đại Thiên! Kim kiến hữu nhân trương cung, niệp tiễn, từ hành thị siêm, lai thú ngă đẳng, tương phi ngă đẳng mạng dục tận da?” Tượng vương văn dĩ, cử mục tiện kiến thế trừ tu phát, trước ca-sa nhân, tức vị mẫu tượng, nhi thuyết tụng viết: “Bị Căng-già sa đẳng, chư Phật pháp tràng tướng, quán thử ly chư ác, tất bất hại chúng sanh”. Thời bỉ mẫu tượng dĩ tụng đáp viết: “Tuy tri bị pháp phục, nhi chấp tŕ cung tiễn, thị ác Chiên-đồ-la, nhạo ác, vô bi mẫn”. Thời đại tượng vương phục thuyết tụng viết: “Kiến ca-sa nhất tướng, tri thị từ bi bổn, thử tất quy Phật giả, mẫn niệm chư chúng sanh. Nhữ vật hoài nghi lự, nghi ưng tốc nhiếp tâm, bị thử pháp y nhân, dục độ sanh tử hải”.

    ()所以者何?善男子乃往過去有迦奢國王,名梵授,敕旃荼羅:有大象王,名青蓮目,六牙具足,住雪山邊,汝可彼拔取牙來。若不得者,汝等五人定無活義。時旃荼羅為護身命,執持弓箭,披赤袈裟,詐現沙門威儀形相,往雪山邊,至象王所。時彼母象,遙見人來執持弓箭,驚怖馳走,詣象王所,白言大天,今見有人張弓捻箭,徐行視覘來趣我等,將非我等命欲盡耶?象王聞已,舉目便見剃除鬚髮著袈裟人,即為母象而說頌曰:殑伽沙等,諸佛法幢相,觀此離諸惡,必不害眾生。時,彼母象以頌答曰:雖知被法服,而執持弓箭,是惡旃荼羅,樂惡無悲愍。時,大象王復說頌曰:見袈裟一相,知是慈悲本,此必歸佛者,愍念諸眾生。汝勿懷疑慮,宜應速攝心,被此法衣人,欲渡生死海。

          (Kinh: V́ cớ sao vậy? Này thiện nam tử! Trong thời quá khứ, có nước Ca Xa, vua tên Phạm Thọ, sắc truyền Chiên-đồ-la: “Có voi chúa lớn, tên là Thanh Liên Mục, có đủ sáu ngà, ở cạnh núi Tuyết, các ngươi hăy sang đó, bẻ lấy ngà về. Nếu chẳng lấy được, năm đứa ngươi đừng mong sống nữa!” Khi đó, Chiên-đồ-la v́ giữ tánh mạng, cầm nắm cung, tên, khoác ca-sa đỏ, giả vờ hiện oai nghi và h́nh tướng sa-môn, đến bên núi Tuyết, tới chỗ voi chúa. Khi ấy, voi cái từ xa trông thấy có người đi đến, cầm nắm cung, tên, bèn kinh sợ rảo chạy đến chỗ voi chúa, bạch rằng: “Đại Thiên! Nay tôi thấy có kẻ giương cung, lắp tên, đi thong thả nh́n ngó, tới chỗ chúng ta, chẳng phải là muốn đoạn mạng của chúng ta ư?” Voi chúa nghe nói, nhướng mắt liền thấy người cạo bỏ râu tóc, đắp y ca-sa, liền v́ voi cái nói bài tụng rằng: “Người đắp tướng pháp tràng, của Hằng sa chư Phật, xét ra, ĺa các ác, ắt chẳng hại chúng sanh”. Lúc đó, voi cái dùng kệ tụng đáp: “Tuy biết mặc pháp phục, nhưng cầm nắm cung, tên, là ác Chiên-đồ-la, chuộng ác, chẳng thương xót”. Khi ấy, đại tượng vương lại nói kệ tụng rằng: “Trông thấy tướng ca-sa, biết vốn là từ bi, người ấy ắt quy Phật, nghĩ thương các chúng sanh. Ngươi đừng lo ngờ nữa, hăy nên mau nhiếp tâm, người mặc pháp y này, muốn vượt biển sanh tử”).

 

          Đây là đức Phật tự ḿnh nêu thí dụ: Có voi chúa lớn tên là Thanh Liên Mục (mắt như sen xanh). Voi trắng sáu ngà là voi báu. Nó ở chỗ nào? Ở bên núi Tuyết. Trong quá khứ, có nước tên Ca Xa La, quốc vương tên là Phạm Thọ. Vua t́m mấy gă ác nhân Chiên-đồ-la, tức ác nhân thuộc chủng tánh Chiên-đồ-la, vua bảo họ: “Có voi chúa lớn tên là Thanh Liên Mục, có đủ sáu ngà đang ở bên núi Tuyết. Ngà của nó là ngà báu. Các ngươi qua nơi đó, bẻ ngà nó về cho ta. Nếu các ngươi chẳng bẻ được ngà, ta sẽ giết toàn bộ các ngươi”. Năm gă Chiên-đồ-la ấy chẳng có cách nào, v́ bảo vệ thân mạng của chính ḿnh, bèn đi giết con voi ấy. Bọn họ biết dùng sức của chính họ, nhất định sẽ bị con voi ấy đạp chết. V́ voi có oai lực rất lớn, bọn họ làm cách nào? Bọn họ liền cầm theo cung, tên, ở chỗ cách xa con voi ấy, hóa trang thành sa-môn, cạo tóc, t́m y ca-sa đỏ, giả làm oai nghi và h́nh tướng sa-môn. “Văng Tuyết sơn biên, chí tượng vương sở” (đến bên núi Tuyết, tới chỗ voi chúa). Voi chúa ấy có voi cái; từ xa, voi cái thấy có kẻ cầm cung tên đến nơi đây, rất kinh hoảng, chạy đến trước mặt voi chúa thưa tŕnh, tán thán voi chúa, tán thán đại thiên: “Kim kiến hữu nhân trương cung, niệp tiễn, từ hành thị siêm” (nay thấy có người giương cung, lắp tên, đi thong thả ḍm ngó). Nó nói: “Chỉ sợ bọn chúng đến gây thương tổn cho chúng ta. Chúng nó vừa đi, vừa ḍ xét t́m kiếm”. “Lai thú ngă đẳng” nghĩa là đến chỗ chúng ta, há chẳng phải là muốn đoạn mạng chúng ta ư? Có phải là chúng ta sẽ chết hay không?

          Voi chúa nghe xong, đưa mắt nh́n, liền thấy người cạo bỏ râu tóc, đắp ca-sa, bèn nói kệ tụng bảo voi cái: “Bị Căng-già sa đẳng, chư Phật pháp tràng tướng, quán thử ly chư ác, tất bất hại chúng sanh” (người khoác tướng pháp tràng, của Hằng sa chư Phật, quán họ ĺa các ác, ắt chẳng hại chúng sanh). Nó nói: “Ngươi sai lầm rồi. Những người này đắp y ca-sa, đă gieo thiện căn nơi chư Phật nhiều như cát sông Hằng. Y phục họ mặc chính là tướng pháp tràng của hết thảy chư Phật. Đấy là y ca-sa, bọn họ đă ĺa các ác, sao có thể hại chúng sanh cho được?” Voi chúa nói như thế. Voi cái lại đáp lời: “Tuy biết là họ mặc pháp phục, nhưng họ cầm nắm cung tên, tức là ác Chiên-đồ-la, thích làm ác, chẳng có ḷng bi mẫn”. Do bọn họ chẳng thể bi mẫn, sẽ thích làm chuyện ác. Những kẻ đó đều là ác Chiên-đồ-la. Tuy mặc pháp phục, sao lại có thể cầm cung tên cho được? Bọn họ giả vờ đấy!

          Voi chúa vẫn nói, lại dùng kệ tụng bảo: “Kiến ca-sa nhất tướng, tri thị từ bi bổn” (thấy tướng khoác ca-sa, biết vốn là từ bi): Voi chúa nói: “Mặc kệ họ đi! Chỉ cần thấy ca-sa, sẽ trọn đủ từ bi. Người khoác ca-sa căn bản là từ bi, nhất định từ bi đối với hết thảy chúng sanh”. “Thử tất quy Phật giả” (kẻ ấy ắt quy hướng Phật), nhất định là đệ tử Phật. “Mẫn niệm chư chúng sanh” (thương xót các chúng sanh): Từ mẫn, thương xót hết thảy chúng sanh. “Nhữ vật hoài nghi lự” (ngươi đừng ôm ḷng lo ngờ), ư nói: Ngươi đừng ngờ vực quá mức. “Nghi ưng tốc nhiếp tâm” (hăy nên mau nhiếp tâm): Ngươi hăy thâu nhiếp cái tâm lại, đừng nghĩ như vậy nữa! Người mặc ca-sa muốn vượt biển sanh tử, lẽ nào có thể hại chúng sanh cho được?

 

          (Kinh) Thời Chiên-đồ-la tức dĩ độc tiễn, loan cung thẩm xạ, trúng tượng vương tâm. Mẫu tượng kiến chi, cử thanh hào đào, bi ai ngạnh ế, dĩ tụng bạch ngôn: “Bị thử pháp y nhân, nghi ưng định quy Phật, oai nghi tuy tịch tĩnh, nhi hoài độc ác tâm, ưng tốc đạp bỉ thân, linh kỳ mạng căn đoạn, diệt thử oán linh tận, dĩ xạ thiên thân cố”. Thời đại tượng vương dĩ tụng đáp viết: “Ninh tốc xả thân mạng, bất ưng sanh ác tâm, bỉ tuy hoài trá tâm, do tự Phật đệ tử. Trí giả phi vị mạng, nhi hoại thanh tịnh tâm, vị độ chư hữu t́nh, thường tập Bồ Đề hạnh”. Thời đại tượng vương tâm sanh bi mẫn, từ vấn nhân viết: “Nhữ hà sở tu?” Bỉ nhân đáp viết: “Dục tu nhữ nha”. Tượng vương hoan hỷ, tức tự bạt nha, thí Chiên-đồ-la, nhi thuyết tụng viết: “Ngă dĩ bạch nha kim thí nhữ, vô phẫn, vô hận, vô tham tích, nguyện thử thí phước đương thành Phật, diệt chư chúng sanh phiền năo bệnh”.

          ()時,旃荼羅即以毒箭彎弓審射,中象王心。母象見之,舉聲號啕,悲哀哽噎,以頌白言:被此法衣人,宜應定歸佛,威儀雖寂靜,而懷毒噁心。應速蹋彼身,令其命根斷,滅此怨令盡,以射天身故。時,大象王以頌答曰:寧速舍身命,不應生噁心,彼雖懷詐心,猶似佛弟子。智者非為命,而壞清淨心,為度諸有情,常習菩提行。時大象王心生悲愍,徐問人曰:汝何所須?彼人答曰:欲須汝牙。象王歡喜,即自拔牙施旃荼羅,而說頌曰:我以白牙今施汝,無忿無恨無貪惜,願此施福當成佛,滅諸眾生煩惱病。

          (Kinh: Khi đó, Chiên-đồ-la liền dùng mũi tên độc kéo cung, ngắm bắn, trúng tim voi chúa. Voi cái trông thấy, lớn tiếng gào rú, bi ai, nghẹn ngào, dùng kệ tụng rằng: “Kẻ mặc pháp y này, đáng nên quy y Phật, oai nghi tuy tịch tĩnh, nhưng ôm tâm độc ác, mau giẫm đạp thân chúng, ḥng đoạn mạng căn chúng, diệt hết nỗi oán này, dám bắn thân đại thiên”. Khi ấy, đại tượng vương dùng kệ tụng đáp rằng: “Thà mau xả thân mạng, chẳng nên sanh tâm ác, tâm họ tuy gian trá, vẫn giống đệ tử Phật. Người trí chẳng v́ mạng, mà hoại tâm thanh tịnh. V́ độ các hữu t́nh, thường tu Bồ Đề hạnh”. Khi đó, đại tượng vương sanh tâm bi mẫn, thong thả hỏi mấy người ấy rằng: “Ngươi cần ǵ?” Những kẻ đó đáp rằng: “Muốn ngà của ngươi”. Voi chúa hoan hỷ, tức tự nhổ ngà, thí Chiên-đồ-la, lại nói kệ tụng rằng: “Nay dùng ngà trắng thí cho ngươi, không phẫn, không hận, chẳng tham tiếc. Nguyện phước thí này sẽ thành Phật, diệt bệnh phiền năo cho chúng sanh”).

 

          Ngay trong lúc [voi chúa] đang nói, kẻ ác Chiên-đồ-la giương cung, bắn mũi tên độc trúng vào tim con voi ấy. “Mẫu tượng kiến chi, cử thanh hào đào, bi ai ngạnh ế, dĩ tụng bạch ngôn: - Bị thử ca-sa nhân, nghi ưng định quy Phật, oai nghi tuy tịch tĩnh, nhi hoài độc ác tâm” (Voi cái trông thấy, lớn tiếng gào rú, bi ai, nghẹn ngào, dùng kệ tụng thưa rằng: - Kẻ mặc ca-sa này, đáng nên quy y Phật, oai nghi tuy tịch tĩnh, nhưng ôm ḷng độc ác). Oai nghi của họ trông tốt đẹp lắm, nhưng tâm quá xấu xa! “Ưng tốc đạp bỉ thân” (hăy mau giẫm thân họ): Voi cái nói, ta sẽ giết bọn họ. “Linh kỳ mạng căn đoạn” (ḥng dứt tánh mạng họ). Giết chết, tức là đoạn dứt mạng căn. “Diệt thử oán linh tận” (diệt hết nỗi oán này): Cái tâm oán hận này, tôi chẳng diệt họ, sẽ không cam ḷng! Tiêu diệt bọn họ, hận tâm của tôi mới có thể tiêu mất, mới tiêu hết nỗi oán. Đại tượng vương không chấp thuận, dùng kệ tụng bảo voi cái: “Ninh tốc xả thân mạng, bất ưng sanh ác tâm” (thà mau xả thân mạng, chẳng nên sanh tâm ác): Khuyên lơn voi cái, ngươi ngàn vạn lần đừng sanh tâm ác, ta xả thân mạng là được rồi. “Bỉ tuy hoài trá tâm, do tự Phật đệ tử” (tuy họ ḷng gian trá, vẫn giống đệ tử Phật): Tuy bọn họ chẳng phải là đệ tử Phật thật sự, họ lường gạt, nhưng họ tương tự. V́ sao? Họ khoác áo của đệ tử Phật. “Trí giả phi vị mạng” (người trí chẳng v́ mạng): Người có trí huệ tuyệt đối chẳng v́ bảo vệ sanh mạng của chính ḿnh, “nhi hoại thanh tịnh tâm” (mà hoại tâm thanh tịnh): Phá hủy cái tâm thanh tịnh của chúng ta. Xả thân mạng chẳng sao cả! Chẳng thể phá hoại tâm thanh tịnh. “Vị độ chư hữu t́nh, thường tập Bồ Đề hạnh” (V́ độ các hữu t́nh, thường tu hạnh Bồ Đề): Phải phát khởi Bồ Đề nhân, tu hạnh Bồ Đề. Có thanh tịnh tâm chính là Bồ Đề hạnh, nhất định có thể chứng quả Bồ Đề.

          “Thời đại tượng vương tâm sanh bi mẫn” (khi ấy, đại tượng vương sanh tâm bi mẫn): Đối với kẻ bắn nó, không chỉ chẳng thương tổn, mà ngược lại c̣n thương xót họ. “Từ vấn nhân viết” (thong thả hỏi họ rằng): “Từ” () là chậm răi, nhu ḥa, thiện thuận. “Nhữ hà sở tu?” (ngươi cần ǵ): Hỏi các ngươi v́ sao phải bắn ta, các ngươi cần ǵ vậy? Bọn họ đáp, tức các gă Chiên-đồ-la ấy trả lời: “Dục tu nhữ nha!” tức là “muốn có ngà của ngươi”. Voi chúa nghe xong, rất hoan hỷ, tự ḿnh nhổ ngà cho Chiên-đồ-la, bố thí cho bọn chúng. “Ngă dĩ bạch nha kim thí nhữ, vô phẫn, vô hận, vô tham tích” (Ngà trắng nay đem thí cho ngươi, chẳng phẫn, chẳng hận, không tham tiếc): Ta chẳng có ḷng tham, đối với cơ thể của chính ḿnh chẳng có ḷng tham, ta cũng chẳng luyến tiếc. Ngươi bắn ta, ta cũng chẳng phẫn hận ngươi, chẳng oán hận ngươi. Mục đích của ta là nguyện bố thí cho ngươi chiếc ngà này, do phước đức bố thí này mà sẽ thành Phật. Trong tương lai, ta nhất định có thể thành Phật, và cũng có thể dùng công đức để này diệt hết thảy bệnh phiền năo của chúng sanh. Ta phát nguyện tiêu diệt phiền năo và bệnh khổ của hết thảy chúng sanh.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Đương quán như thị quá khứ tượng vương, tuy thọ vô hạ bàng sanh thú thân, vị cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cố, nhi năng khí xả thân mạng vô lận, cung kính, tôn trọng trước ca-sa nhân, tuy bỉ vi oán, nhi bất gia báo. Nhiên vị lai thế hữu Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, thật thị ngu si, hoài thông minh mạn, siểm khúc, hư trá, khi cuống thế gian, bất kiến, bất úy hậu thế khổ quả. Ư quy ngă pháp nhi xuất gia giả, nhược thị pháp khí, nhược phi pháp khí chư đệ tử sở, năo loạn, ha mạ, hoặc dĩ tiên, trượng sở thát kỳ thân, hoặc bế lao ngục, năi chí đoạn mạng. Thử ư nhất thiết quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật, phạm chư đại tội, quyết định đương thú Vô Gián địa ngục, đoạn diệt thiện căn, phần thiêu tương tục, nhất thiết trí giả chi sở viễn ly.

          ()善男子,當觀如是過去象王,雖受無暇傍生趣身,為求阿耨多羅三藐三菩提故,而能舍棄身命無吝,恭敬尊重著袈裟人,雖彼為怨,而不加報。然未來世,有剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,實是愚癡,懷聰明慢,諂曲虛詐,欺誑世間,不見不畏後世苦果,於歸我法而出家者,若是法器、若非法器諸弟子所,惱亂呵罵,或以鞭杖楚撻其身,或閉牢獄,乃至斷命。此於一切過去、未來、現在諸佛,犯諸大罪,決定當趣無間地獄,斷滅善根,焚燒相續,一切智者之所遠離。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Hăy nên quán voi chúa trong quá khứ như thế, tuy thọ thân không nhàn hạ trong đường bàng sanh, v́ cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho nên có thể buông xả thân mạng chẳng keo tiếc, cung kính, tôn trọng người đắp y ca-sa. Tuy kẻ đó gây oán, chẳng báo thù. Nhưng trong đời vị lai có vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn là những gă Chiên-đồ-la thật sự ngu si, tự phụ thông minh, siểm nịnh, cong vạy, dối trá, lường gạt thế gian, chẳng thấy, chẳng sợ khổ quả trong đời sau, nếu đối với các đệ tử nương theo pháp của ta xuất gia, dù là pháp khí, hay chẳng phải là pháp khí, mà năo loạn, quở trách, chửi mắng, hoặc dùng roi, gậy đánh đập thân họ, hoặc giam trong lao ngục, cho đến đoạn mạng. Kẻ đó phạm các đại tội nơi hết thảy quá khứ, vị lai, và hiện tại chư Phật, quyết định sẽ tiến vào địa ngục Vô Gián, đoạn diệt căn lành, thiêu đốt liên tục, hết thảy người có trí đều xa ĺa).

 

          Voi chúa ấy vốn là súc sanh, thọ thân bàng sanh, tức súc sanh. “Vị cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cố, nhi năng khí xả thân mạng vô lận” (v́ cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà có thể buông bỏ thân mạng chẳng keo tiếc): Buông xả thân mạng chẳng keo tiếc, chẳng oán hận, có thể cung kính, tôn trọng người đắp y ca-sa, cung kính người mặc ca-sa. Ca-sa (Kāṣāya) là nhẫn nhục y. Ca-sa có rất nhiều hàm nghĩa. “Tuy bỉ vi oán, nhi bất gia báo” (tuy kẻ đó gây oán mà không báo thù): Kẻ đó bắn chết nó, nó đáng lẽ phải cừu hận, phải kết oán, nhưng nó chẳng trả thù. Nếu dùng sức của voi chúa để trả thù, năm gă ấy sẽ chẳng c̣n mạng sống!

          “Nhiên vị lai thế hữu Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, thật thị ngu si, hoài thông minh mạn, siểm khúc, hư trá, khi cuống thế gian, bất kiến, bất úy hậu thế khổ quả. Ư quy ngă pháp nhi xuất gia giả, nhược thị pháp khí, nhược phi pháp khí” (nhưng trong đời vị lai có vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn là những gă Chiên-đồ-la, thật sự ngu si, tự phụ là thông minh, siểm khúc, dối trá, lường gạt thế gian, chẳng thấy, chẳng sợ khổ quả trong đời sau, đối với người quy y pháp ta xuất gia, dù là pháp khí, hay chẳng phải pháp khí): “Pháp khí” là đệ tử tŕ giới, “phi pháp khí” là đệ tử phá giới. Bất luận pháp khí, hay phi pháp khí tức tỳ-kheo phá giới, đều coi như cao hơn hết thảy người thế tục, bất luận quốc vương, đại thần, hay thứ dân. Nếu đối với tỳ-kheo mà quở trách, chửi mắng, năo loạn, quất đánh, cho đến giam cầm trong tù ngục, thậm chí đoạn mạng, sẽ là phá hoại Phật pháp của hết thảy chư Phật trong quá khứ, vị lai, và hiện tại, diệt chánh pháp nhăn tạng, phạm phải tội lớn. “Quyết định đương thú Vô Gián địa ngục” (quyết định đọa vào địa ngục Vô Gián), quyết định đọa địa ngục, lại c̣n vĩnh viễn đoạn dứt thiện căn. Loại tội ác ấy tiếp tục không ngừng, giống như lửa thiêu đốt liên tục. “Nhất thiết trí giả chi sở viễn ly” (hết thảy người có trí đều xa ĺa), chuyện này hết thảy người có trí huệ sẽ tuyệt đối chẳng làm, rời xa ác sự này!

 

          (Kinh) Bỉ kư tạo tác như thị trọng tội, phục hoài ngạo mạn, cuống hoặc thế gian, tự xưng “ngă đẳng diệc cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, ngă thị Đại Thừa, đương đắc tác Phật”. Thí như hữu nhân, tự khiêu kỳ mục, manh vô sở kiến, nhi dục đạo tha đăng thượng đại sơn, chung vô thị xứ! Ư vị lai thế, hữu Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, diệc phục như thị, ư quy ngă pháp, nhi xuất gia giả, nhược thị pháp khí, nhược phi pháp khí chư đệ tử sở, năo loạn, ha mạ, hoặc dĩ tiên, trượng sở thát kỳ thân, hoặc bế lao ngục, năi chí đoạn mạng. Thử ư nhất thiết quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật, phạm chư đại tội, đoạn diệt thiện căn, phần thiêu tương tục, nhất thiết trí giả chi sở viễn ly, quyết định đương thú Vô Gián địa ngục.

          ()彼既造作如是重罪,復懷傲慢,誑惑世間,自稱我等亦求無上正等菩提,我是大乘,當得作佛。譬如有人,自挑其目,盲無所見,而欲導他登上大山,終無是處。於未來世有剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,亦復如是,於歸我法而出家者,若是法器、若非法器諸弟子所,惱亂呵罵,或以鞭杖楚撻其身,或閉牢獄,乃至斷命。此於一切過去、未來、現在諸佛,犯諸大罪,斷滅善根,焚燒相續,一切智者之所遠離,決定當趣無間地獄。

          (Kinh: Kẻ đó đă tạo tác trọng tội như thế, lại c̣n ôm ḷng ngạo mạn, dối gạt, mê hoặc thế gian, tự xưng “chúng ta cũng cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, ta là Đại Thừa, sẽ được làm Phật”. Ví như có kẻ tự chọc mù mắt ḿnh, mù ḷa chẳng thấy ǵ, mà muốn hướng dẫn người khác trèo lên núi lớn, chẳng có lẽ ấy! Trong đời vị lai, có vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la và bọn tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn là những kẻ Chiên-đồ-la cũng giống như thế, đối với các đệ tử quy y pháp của ta xuất gia, dẫu là pháp khí hay chẳng phải pháp khí, mà năo loạn, quở trách, chửi bới, hoặc dùng roi, gậy đánh đập thân họ, hoặc nhốt vào lao ngục, cho đến đoạn mạng. Kẻ đó phạm các đại tội đối với hết thảy chư Phật trong quá khứ, vị lai, và hiện tại, đoạn diệt căn lành, thiêu đốt liên tục, hết thảy người có trí đều xa ĺa, quyết định sẽ vào địa ngục Vô Gián).

 

          Giả sử có vua Sát-đế-lợi, cho đến những kẻ thuộc chủng tánh Bà-la-môn, hoặc Sát-đế-lợi tạo tội này, bản thân họ vẫn rất ngạo mạn. “Cuống hoặc thế gian” (lừa dối, mê hoặc thế gian), lừa dối, mê hoặc như thế nào? “Ngă đẳng diệc cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề”, tức là chúng ta cũng cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. C̣n nói ǵ nữa? “Ngă thị Đại Thừa, đương đắc tác Phật” (ta là Đại Thừa, sẽ được làm Phật): Đây là lừa bịp, dối trá! Kẻ đó làm chuyện ác, c̣n gạt gẫm người khác là chính hắn đang học pháp Đại Thừa, chẳng chấp tướng, các pháp đều là Không. Gạt gẫm, lừa bịp thế gian! “Thí như hữu nhân, tự khiêu kỳ mục, manh vô sở kiến, nhi dục đạo tha đăng thượng đại sơn, vô hữu thị xứ” nghĩa là: Như có một người tự làm mù mắt của chính ḿnh, sau đó, c̣n muốn làm người dẫn đường, lănh đạo kẻ khác lên núi, có thể làm nổi hay không? Chẳng có chuyện đó, tuyệt đối chẳng thể nào được!

          Trên đây là tỷ dụ, nay nói về pháp. Kẻ xuất gia trong pháp của ta, nương theo pháp của ta mà xuất gia, hoặc là pháp khí, tức tỳ-kheo thanh tịnh, hoặc chẳng phải là pháp khí, tức là tỳ-kheo phá giới. Đối với các đệ tử ấy của ta mà “năo loạn, ha mạ, hoặc dĩ tiên, trượng sở thát kỳ thân, hoặc bế lao ngục, năi chí đoạn mạng. Thử ư nhất thiết quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật phạm chư đại tội, đoạn diệt thiện căn, phần thiêu tương tục, nhất thiết trí giả chi sở viễn ly, quyết định đương thú Vô Gián địa ngục” (năo loạn, quở trách, chửi bới, hoặc dùng roi, gậy đánh đập thân họ, hoặc nhốt vào lao ngục, cho đến đoạn mạng. Kẻ đó phạm các tội lớn đối với quá khứ, vị lai, và hiện tại chư Phật, đoạn diệt căn lành, thiêu đốt liên tục, hết thảy người có trí đều xa ĺa, chắc chắn đọa vào địa ngục Vô Gián). Những điều này đều là nhắc lại. Mỗi câu phía trước và phía sau đều giống nhau, chỉ có vài câu t́nh tiết trong phần giữa là khác mà thôi!

 

          (Kinh) Bỉ kư tạo tác như thị trọng tội, phục hoài ngạo mạn, cuống hoặc thế gian, tự xưng “ngă đẳng diệc cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, ngă thị Đại Thừa, đương đắc tác Phật”. Bỉ do năo loạn xuất gia nhân cố, hạ tiện nhân thân, thượng nan khả đắc, huống đương năng chứng Nhị Thừa Bồ Đề? Vô Thượng Đại Thừa, ư kỳ tuyệt phần.

          ()彼既造作如是重罪,復懷傲慢,誑惑世間,自稱我等亦求無上正等菩提,我是大乘,當得作佛。彼由惱亂出家人故,下賤人身尚難可得,況當能證二乘菩提?無上大乘,於其絕分!

          (Kinh: Kẻ đó đă tạo tác trọng tội như thế, lại c̣n ôm ḷng ngạo mạn, lừa dối, mê hoặc thế gian, tự xưng “chúng ta cũng cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, ta là Đại Thừa, sẽ được làm Phật”. Kẻ đó do năo loạn người xuất gia, làm thân người hạ tiện c̣n khó thể được, huống hồ sẽ có thể chứng Nhị Thừa Bồ Đề ư? Trọn chẳng có phần nơi Vô Thượng Đại Thừa).

 

          Kẻ đó lừa gạt ǵ vậy? Dùng lời lẽ lừa gạt! Hạng người như thế luôn lường gạt thế gian, c̣n có thể thành Phật nổi ư? Kẻ đó năo loạn người xuất gia, ngay cả được chuyển sanh làm thân người thấp hèn vẫn chưa thể, đều chẳng đạt được! [Đó chính là ư nghĩa của câu] “thượng nan khả đắc”. Kẻ đó c̣n nói sẽ đắc Nhị Thừa Bồ Đề, cho đến cứu cánh Bồ Đề của Đại Thừa ư? Đối với kẻ đó mà nói, trọn chẳng thể được!

 

          (Kinh) Hựu thiện nam tử! Quá khứ hữu quốc danh Bàn Giá La, vương hiệu Thắng Quân, thống lănh bỉ quốc. Thời bỉ hữu nhất đại khâu khoáng sở, danh Khiết Lam Bà, thậm khả bố úy, Dược Xoa, La Sát, đa trụ kỳ trung. Nhược hữu nhập giả, tâm kinh, mao thụ. Thời hữu quốc nhân, tội ưng hợp tử, vương sắc điển ngục phược kỳ ngũ xứ, tống Khiết Lam Bà đại khâu khoáng sở, linh chư ác quỷ thực đạm kỳ thân. Tội nhân văn dĩ, vị hộ mạng cố, tức thế tu phát, cầu mịch ca-sa, ngộ đắc nhất phiến, tự hệ kỳ cảnh. Thời điển ngục giả như vương sở sắc, phược kỳ ngũ xứ, tống khâu khoáng trung, chư nhân hoàn dĩ.

          ()又善男子,過去有國,名般遮羅,王號勝軍,統領彼國。時彼有一大丘壙所,名朅藍婆,甚可怖畏,藥叉、羅剎多住其中,若有入者,心驚毛豎。時有國人,罪應合死,王敕典獄縛其五處,送朅藍婆大丘壙所,令諸惡鬼食啖其身。罪人聞已,為護命故,即剃鬚發,求覓袈裟,遇得一片,自系其頸。時典獄者,如王所敕,縛其五處,送丘壙中,諸人還已。

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Trong quá khứ, có quốc gia tên là Bàn Giá La, vua tên là Thắng Quân, thống lănh nước ấy. Khi đó, nước ấy có một chỗ g̣ mả hoang vu to lớn, tên là Khiết Lam Bà, rất đáng kinh sợ. Dược Xoa, La Sát phần nhiều ở trong đó. Nếu có ai vào đó, tâm sẽ kinh hăi, rởn da gà. Khi đó, hễ nước ấy có tội nhân mắc tội đáng chết, vua truyền người giám ngục trói năm chỗ trên thân kẻ đó, đưa đến vùng g̣ hoang lớn Khiết Lam Bà để các ác quỷ ăn nuốt thân kẻ đó. Tội nhân nghe rồi, v́ bảo vệ tánh mạng, liền cạo râu tóc, t́m kiếm ca-sa, gặp được một mảnh, bèn buộc vào cổ. Khi đó, người giám ngục tuân lời vua truyền, trói kẻ đó ở năm chỗ, đưa vào g̣ hoang. Mọi người đều quay về hết rồi).

 

          “Quá khứ hữu quốc danh Bàn Giá La” (trong quá khứ có quốc gia tên là Bàn Giá La), đây là một trong mười sáu đại quốc của Ấn Độ, tên là nước Bàn Giá La (Pañcāla)[7]. Quốc vương ấy hiệu là Thắng Quân (Jayasena), là vua của nước đó, thống lănh quốc gia ấy. Nước ấy có một chỗ tên là Khiết Lam Bà, dịch sang nghĩa tiếng Hán là “đại khâu khoáng” (大邱壙, chỗ g̣ mả to lớn). Đại khâu khoáng là ǵ? Đại khâu khoáng là nơi mồ mả, tức là người sau khi đă chết, chôn vùi vào nơi đất vô chủ, c̣n gọi là “loạn phần” (亂墳, nơi mồ hoang). Ai cũng có thể chôn vào đó. Lại c̣n là nơi hoang đă, rất ít người ở. “Đại khâu khoáng sở” là Khiết Lam Bà. “Thậm khả bố úy” (rất đáng kinh sợ): Chỗ ấy hết sức đáng sợ, không ai ṃ đến đó. La Sát và Dược Xoa đều đến chỗ đó, ở trong đó. Giả sử có người trông thấy nơi ấy, tới nơi ấy, sẽ đều kinh sợ, rởn hết da gà, [đó là ư nghĩa của câu] tâm kinh, mao thụ”.

          Thuở ấy, trong nước Bàn Giá La, hễ có người phạm tội, tội ấy đáng phải xử tử, vua Thắng Quân liền truyền kẻ chấp pháp, tức giám ngục, trói buộc năm chỗ nơi thân tội nhân, tức hai tay, hai chân, trói chặt hai tay và hai chân, dùng thừng thít chặt hai chân, tṛng lên cổ, đó gọi là “ngũ xứ” (năm chỗ). Trói chặt kẻ đó xong, đưa đến g̣ mả hoang ấy, cũng tức là chỗ hoang vu Khiết Lam Bà để ác quỷ ăn thịt kẻ đó, thế là xong, chẳng cần phải giết hại hắn! V́ vậy, quốc vương ấy chẳng giết hại chúng sanh, mà đem tội nhân đến chốn hoang dă, thí cho quỷ thần.

          Gă tội nhân nghe biết quốc vương sẽ tống hắn đến chỗ đó, đại khái là nghe biết sự thù thắng của ca-sa, liền cạo trọc đầu, hóa thân thành sa-môn. “Cầu mịch ca-sa” (t́m kiếm ca-sa): Hắn muốn t́m một tấm ca-sa mà chẳng t́m được, chỉ t́m thấy một mảnh ca-sa, chỉ được một mảnh ca-sa, hoặc là ca-sa mục nát. Có được một mảnh ca-sa như vậy, hắn buộc vào cổ. Giám ngục bèn đưa hắn đến chỗ g̣ hoang. Những người áp tải hắn đă quay về hết, tới ban đêm. Quỷ thần ở chốn hoang vu ấy ban ngày chẳng xuất hiện. Quỷ thần lẩn tránh thái dương, âm khí chẳng thắng nổi dương khí của vầng thái dương. Tuy chúng ta sợ quỷ; thật ra, quỷ cũng sợ người, đặc biệt là đệ tử Phật. Chính ḿnh chẳng thấy quang minh của chính ḿnh. Quỷ thần trông thấy kẻ đó, nhưng kẻ đó chẳng tin Tam Bảo, cũng chẳng có thần hộ pháp gia tŕ, nhiệt năng, hỏa lực, và dương khí trên người kẻ đó khiến quỷ thần e ngại. Quỷ sợ người, người cũng sợ quỷ. Người ta nghe nói đến quỷ bèn sợ hăi. Thật ra, quỷ cũng sợ hăi con người. Quư vị không làm chuyện phải thẹn với ḷng, đâu có sợ quỷ gơ cửa! Quư vị đă trót làm, có chuyện [sai trái] th́ mới sợ hăi. Hơn nữa, bậc chánh nhân quân tử chẳng sợ quỷ, thứ ǵ cũng đều chẳng sợ. Tâm quư vị bất chánh th́ mới sợ. Đă làm chuyện hổ thẹn với ḷng ḿnh, đă làm chuyện sai trái đối với người khác, trong tâm quư vị có quỷ. Quư vị sợ quỷ là sợ quỷ ngay trong ḷng ḿnh, có ư nghĩa này!

 

          (Kinh) Chí ư dạ phần, hữu đại La Sát mẫu, danh Đao Kiếm Nhăn, dữ ngũ thiên quyến thuộc lai nhập trủng gian. Tội nhân dao kiến, thân tâm kinh tủng. Thời La Sát mẫu kiến hữu thử nhân bị phược ngũ xứ, thế trừ tu phát, phiến xích ca-sa hệ kỳ cảnh hạ, tức tiện hữu nhiễu, tôn trọng, đảnh lễ, hiệp chưởng cung kính, nhi thuyết tụng ngôn: “Nhân khả tự an ủy, ngă chung bất hại nhữ, kiến thế phát, nhiễm y, linh ngă ức niệm Phật”. Thời, La Sát tử bạch kỳ mẫu ngôn: “Mẫu, ngă vị cơ khát, thậm bức thiết thân tâm, nguyện thính thực thử nhân, tức khổ, thân tâm lạc”. Thời, La Sát mẫu tiện cáo tử ngôn: “Bị Căng-già sa Phật, giải thoát tràng tướng y, ư thử khởi ác tâm, định đọa Vô Gián ngục”. Thời La Sát tử dữ chư quyến thuộc, hữu nhiễu thử nhân, tôn trọng, đảnh lễ, hiệp chưởng cung kính, nhi thuyết tụng viết: “Sám hối nhiễm y nhân, ngă ninh ư phụ mẫu, tạo thân, ngữ, ư ác, ư nhữ chung vô hại”.

          ()至於夜分,有大羅剎母,名刀劍眼,與五千眷屬來入塚間,罪人遙見,身心驚悚。時,羅剎母見有此人被縛五處,剃除鬚髮,片赤袈裟系其頸下,即便右繞尊重頂禮,合掌恭敬,而說頌言:人可自安慰,我終不害汝,見剃髮染衣,令我憶念佛。時,羅剎子白其母言:母我為飢渴,甚逼切身心,願聽食此人,息苦身心樂。時,羅剎母便告子言:被殑伽沙佛,解脫幢相衣,於此起噁心,定墮無間獄。時羅剎子與諸眷屬,右繞此人,尊重頂禮,合掌恭敬,而說頌曰:懺悔染衣人,我寧於父母,造身語意惡,於汝終無害。

          (Kinh: Tới ban đêm, có đại La Sát mẫu tên là Đao Kiếm Nhăn, và năm ngàn quyến thuộc vào trong chỗ mồ mả. Tội nhân từ xa trông thấy, thân tâm kinh hoảng, run rẩy. Khi đó, La Sát mẫu thấy có người bị trói năm chỗ, cạo bỏ râu tóc, mảnh ca-sa đỏ buộc dưới cổ, liền nhiễu theo chiều bên phải, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay cung kính, mà nói kệ tụng rằng: “Ông hăy tự an ủi, tôi trọn chẳng hại ông, thấy tóc cạo, áo nhuộm, khiến tôi nghĩ nhớ Phật”. Khi đó, các La Sát con thưa với mẹ rằng: “Mẹ, con bị đói khát, rất bức bách thân tâm, cho con ăn người này, dứt khổ, thân tâm sướng”. Khi đó, La Sát mẫu bèn bảo các con rằng: “Mặc y tràng giải thoát, của Hằng sa chư Phật, ác tâm với người ấy, nhất định đọa Vô Gián”. Khi đó, các La Sát con và các quyến thuộc nhiễu theo chiều bên phải của người ấy, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay cung kính mà nói kệ tụng rằng: “Sám hối bậc áo nhuộm, con thà với cha mẹ, tạo thân, ngữ, ư ác, trọn chẳng hại đến Ngài”).

 

          Tới nửa đêm, quỷ thần t́m tới. “Hữu đại La Sát mẫu, danh Đao Kiếm Nhăn, dữ ngũ thiên quyến thuộc, lai nhập trủng gian” (có đại La Sát mẫu tên là Đao Kiếm Nhăn (mắt như đao gươm), và năm ngàn quyến thuộc đến trong mồ mả), đến chỗ g̣ mả hoang. Tội nhân từ xa trông thấy, thân tâm kinh hoảng, run rẩy. La Sát mẫu thấy có người “bị phược ngũ xứ, thế trừ tu phát” (bị trói năm chỗ, cạo bỏ râu tóc), c̣n có một mảnh ca-sa đỏ buộc dưới cổ, bèn rất cung kính, liền nhiễu theo chiều phải ba ṿng, giống như chúng ta vào điện Phật, nhiễu theo chiều phải ba ṿng. Tại Đại Lục, mỗi lần chúng ta tiến vào đại điện th́ trong đại điện đều có thể đi chung quanh thông suốt, nhất định là quư vị có thể nhiễu Phật, chẳng giống như đại điện của chúng ta ở đây, quư vị chẳng thể đi ṿng ra sau được, v́ tượng Phật chẳng đặt ở chính giữa, xây tháp vây quanh. Hễ bước vào tháp, nhiễu quanh bốn phía tháp ba ṿng, hoặc bảy ṿng, phước điền sẽ vô lượng. Sau khi nhiễu th́ mới có thể đảnh lễ. Bước vào cửa, động tác đầu tiên là nhiễu quanh tháp ba ṿng, nhiễu tháp kinh hành. Đấy là quy chế của Phật. Do vậy, La Sát mẫu vừa thấy người có một mảnh ca-sa, bèn nhiễu quanh người ấy ba ṿng. Sau khi nhiễu xong, “tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay, cung kính” nói kệ tán tụng: “Nhân khả tự an ủy, ngă chung bất hại nhữ” (Ông hăy tự an ḷng, ta trọn chẳng hại ông). Đừng nên sợ hăi, ông có thể an ổn. V́ ta trông thấy ông, “kiến thế phát nhiễm y, linh ngă ức niệm Phật” (thấy cạo tóc, y nhuộm, khiến ta nhớ nghĩ Phật): Ta nghĩ tới đức Phật, ông đừng nên sợ hăi. Ta sẽ chẳng thương tổn ông. Nhưng con cái bà ta, và năm ngàn quyến thuộc lại khác. Các La Sát con liền nói với mẹ, tức “bạch mẫu ngôn”, mẹ ơi! “Ngă vị cơ khát”, nay con vừa khát vừa đói. “Cơ” () là đói, “khát” () là mong được uống nước. “Thậm bức thiết thân tâm” [nghĩa là] thân tâm của con rất bất an. “Nguyện thính thực thử nhân, tức khổ, thân tâm lạc” (cho con ăn người này, dứt khổ, thân tâm sướng): Mẹ hăy cho phép con ăn thịt hắn!

          La Sát mẫu liền bảo các con của bà ta: “La Sát mẫu tiện cáo tử ngôn: - Bị Căng-già sa Phật, giải thoát tràng tướng y, ư thử sanh ác tâm, định đọa Vô Gián ngục” (La Sát mẫu liền bảo con rằng: - [Người này] mặc y mang h́nh tướng giải thoát tràng của chư Phật số nhiều như sông Hằng, sanh ác tâm đối với người y, chắc chắn đọa vào địa ngục Vô Gián): Các con chớ sanh khởi ư niệm ấy! Đây là tấm y giải thoát của chư Phật nhiều như cát sông Hằng, “tràng tướng y” là pháp tràng, rất thù thắng. Đối với người ấy mà sanh khởi ác tâm, “định đọa Vô Gián ngục”, các con nhất định đọa vào địa ngục Vô Gián, đừng sanh khởi cái tâm ấy. Các La Sát con và quyến thuộc vừa nghe La Sát mẫu nói như thế, họ đều học theo La Sát mẫu, vây quanh thân người ấy, nhiễu ba ṿng theo chiều phải, “tôn kính, đảnh lễ, hiệp chưởng, cung kính thuyết tụng viết: - Sám hối nhiễm y nhân, ngă ninh ư phụ mẫu, tạo thân, ngữ, ư ác, ư nhữ chung vô hại” (tôn kính, đảnh lễ, chắp tay, cung kính nói kệ tụng rằng: - Xin sám hối đối với bậc đắp y nhuộm, tôi thà đối với cha mẹ tạo các điều ác nơi thân, ngữ, ư, trọn chẳng làm hại ông). Khuyên ông hăy an tâm, chúng tôi sẽ không hại ông. Giả sử chúng tôi chẳng nghe lời cha mẹ, cho đến có thể chống đối cha mẹ, nhưng chẳng dám tổn thương ông. V́ sao? Ông là người sám hối, mặc áo thâm. Ông là bậc sám hối, cầu đạo, là đệ tử của Phật.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, phục hữu đại La Sát mẫu, danh Lư Loa Xỉ, diệc hữu ngũ thiên quyến thuộc vi nhiễu, lai nhập trủng gian. Thời La Sát mẫu diệc kiến thử nhân bị phược ngũ xứ, thế trừ tu phát, phiến xích ca-sa hệ kỳ cảnh hạ, tức tiện hữu nhiễu, tôn trọng, đảnh lễ, hiệp chưởng, cung kính, nhi thuyết tụng ngôn: “Nhân ư ngă vật bố, nhữ cảnh sở hệ phục, thị tiên tràng tướng y, ngă đảnh lễ cúng dường”. Thời La Sát tử bạch kỳ mẫu viết: “Nhân huyết nhục cam mỹ, nguyện mẫu thính ngă thực, tăng trưởng thân tâm lực, dũng mănh, vô sở úy”. Thời La Sát mẫu tiện cáo tử ngôn: “Nhân thiên đẳng diệu lạc, do cung kính xuất gia, cố cúng dường nhiễm y, đương hoạch vô lượng lạc”. Thời La Sát tử dữ chư quyến thuộc, hữu nhiễu thử nhân, tôn trọng, đảnh lễ, hiệp chưởng, cung kính, nhi thuyết tụng viết: “Ngă kim cung kính lễ, thế phát nhiễm y nhân, nguyện thường ư vị lai, kiến Phật thâm sanh tín”.

          ()爾時,復有大羅剎母,名驢騾齒,亦有五千眷屬圍繞來入塚間。時,羅剎母亦見此人被縛五處,剃除鬚髮,片赤袈裟系其頸下,即便右繞尊重頂禮,合掌恭敬,而說頌言:人於我勿怖,汝頸所繫服,是仙幢相衣,我頂禮供養。時,羅剎子白其母曰:人血肉甘美,願母聽我食,增長身心力,勇猛無所畏。時,羅剎母便告子言:人天等妙樂,由恭敬出家,故供養染衣,當獲無量樂。時羅剎子與諸眷屬,右繞此人,尊重頂禮,合掌恭敬,而說頌曰:我今恭敬禮,剃髮染衣人,願常於未來,見佛深生信。  

          (Kinh: Lúc bấy giờ, lại có đại La Sát mẫu, tên là Lư Loa Xỉ (Răng Lừa), cũng có năm ngàn quyến thuộc vây quanh, vào trong khu g̣ mả. Khi đó, La Sát mẫu cũng thấy người ấy bị trói năm chỗ, cạo bỏ râu tóc, một mảnh ca-sa đỏ buộc dưới cổ, liền nhiễu theo chiều phải, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay, cung kính, mà nói kệ tụng rằng: “Ông đừng sợ hăi tôi, cổ ông có đeo buộc, tràng tướng của đại tiên, tôi đảnh lễ, cúng dường”. Khi đó, các La Sát con thưa với mẹ rằng: “Máu thịt người thơm ngọt, xin mẹ cho con ăn, tăng trưởng sức thân tâm, dũng mănh, chẳng sợ hăi”. Khi đó, La Sát mẫu liền bảo các con rằng: “Vui mầu nhiệm trời, người, do cung kính xuất gia, nên cúng dường y nhuộm, sẽ được vô lượng lạc”. Khi đó, các La Sát con và các quyến thuộc nhiễu theo chiều phải quanh thân người ấy, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay, cung kính mà nói kệ tụng rằng: “Con nay cung kính lễ, người cạo tóc, y nhuộm, nguyện thường trong vị lai, thấy Phật, sanh thâm tín”).

         

          Ngoại trừ tên La Sát Mẫu không giống trong phần trước, những điều khác đều tương đồng, đều là nhắc lại. C̣n có kệ tán thán có đôi chút sai khác. “Nhân ư ngă vật bố, nhữ cảnh sở hệ phục, thị tiên tràng tướng y, ngă đảnh lễ, cúng dường” (ông đừng sợ hăi ta, cổ ông có đeo buộc, tràng tướng y đại tiên. Tôi đảnh lễ cúng dường): La Sát mẫu trông thấy kẻ phạm tội ấy trên cổ có một mảnh ca-sa, do vậy, liền nói với kẻ đó: Ông chẳng cần sợ hăi, đừng kinh hoảng, tôi cung kính mảnh ca-sa buộc trên cổ ông. Y ca-sa là pháp tràng tướng y của các vị đại tiên, tức là chư Phật, tôi đảnh lễ cúng dường, cũng là do ư nghĩa ức niệm đức Phật. Tuy La Sát mẫu là như thế, các La Sát con vẫn muốn xin mẹ cho phép ăn kẻ đó: “Nhân huyết nhục cam mỹ, nguyện mẫu thính ngă thực, tăng trưởng thân tâm lực, dũng mănh vô sở úy” (Máu thịt người thơm ngọt, xin mẹ cho con ăn, tăng trưởng sức thân tâm, dũng mănh, không sợ hăi): Các La Sát con hướng về mẹ yêu cầu, máu và thịt người rất thơm ngọt, quỷ nói như thế. “Nguyện mẫu thính ngă thực”, chữ Thực () này có nghĩa là “ăn”. Hy vọng mẹ cho phép con, chấp thuận cho con ăn gă này. Ăn rồi sẽ tăng trưởng sức lực nơi thân tâm con, con sẽ chẳng sợ hăi, dũng mănh, chẳng sợ sệt.

          Quỷ tử mẫu liền bảo bọn chúng: “Nhân thiên đẳng diệu lạc, do cung kính xuất gia, cố cung kính nhiễm y, đương hoạch vô thượng lạc”, nghĩa là: Sở dĩ nhân thiên có thể đạt được phước báo trời, người, hưởng thụ các loại sung sướng vi diệu, đều là do cung kính người xuất gia. Cho nên hăy cung kính người mặc ca-sa này, sẽ có thể đạt được vô lượng vui sướng. V́ lẽ đó, các con chẳng thể ăn người này! Mẹ con quỷ La Sát nói với nhau như thế, các La Sát con cũng như năm ngàn quyến thuộc của chúng, cũng đi nhiễu theo chiều bên phải của người ấy. “Tôn trọng, đảnh lễ, hiệp chưởng, cung kính nhi thuyết tụng viết: - Ngă kim cung kính lễ, thế phát nhiễm y nhân, nguyện thường ư vị lai, kiến Phật sanh thâm tín” (Tôn trọng, đảnh lễ, hiệp chưởng, cung kính, mà nói kệ tụng rằng: - Tôi nay cung kính lễ, bậc y nhuộm, cạo tóc, nguyện thường trong tương lai, thấy Phật, sanh thâm tín): Đấy là họ phát nguyện. Những quỷ con ấy và các quyến thuộc của chúng phát nguyện: Tôi nay cung kính đảnh lễ người cạo tóc, đắp y nhuộm này, nguyện trong đời tương lai, khi tôi chuyển thế, sẽ được gặp gỡ Phật. Khi thấy Phật có thể sanh khởi tín tâm thanh tịnh, thoát ĺa biển khổ, chẳng c̣n luân chuyển nữa!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, phục hữu đại La Sát mẫu, danh Tranh Nanh Phát, diệc hữu ngũ thiên quyến thuộc vi nhiễu, lai nhập trủng gian. Thời La Sát mẫu diệc kiến thử nhân bị phược ngũ xứ, thế trừ tu phát, phiến xích ca-sa hệ kỳ cảnh hạ, tức tiện hữu nhiễu, tôn trọng, đảnh lễ, hiệp chưởng, cung kính, nhi thuyết tụng ngôn: “Đại tiên tràng tướng y, trí giả ưng tán phụng, nhược năng tu cúng dường, tất đoạn chư hữu phược”. Thời, La Sát tử bạch kỳ mẫu viết: “Thử nhân thân huyết nhục, quốc vương chi sở lăi, nguyện thính ngă ẩm đạm, đắc lực thừa sự mẫu”. Thời La Sát mẫu tiện cáo tử ngôn: “Như thị nhiễm y nhân, phi nhữ sở ưng thực, ư thử khởi ác giả, đương thành đại khổ khí”. Thời La Sát tử dữ chư quyến thuộc, hữu nhiễu thử nhân, tôn trọng, đảnh lễ, hiệp chưởng cung kính, nhi thuyết tụng viết: “Nhữ thị đại tiên chủng, kham vi lương phước điền, cố ngă tu cúng dường, nguyện tuyệt chư hữu phược”.

          ()爾時,復有大羅剎母名猙獰發,亦有五千眷屬圍繞來入塚間。時,羅剎母亦見此人被縛五處,剃除鬚髮,片赤袈裟系其頸下,即便右繞尊重頂禮,合掌恭敬,而說頌言:大仙幢相衣,智者應讚奉,若能修供養,必斷諸有縛。時,羅剎子白其母曰:此人身血肉,國王之所賚,願聽我飲啖,得力承事母。時,羅剎母便告子言:如是染衣人,非汝所應食,於此起惡者,當成大苦器。時,羅剎子與諸眷屬,右繞此人尊重頂禮,合掌恭敬,而說頌曰:汝是大仙種,堪為良福田,故我修供養,願絕諸有縛。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, lại có đại La Sát mẫu, tên là Tranh Nanh Phát (phát khởi hung ác), cũng có năm ngàn quyến thuộc vây quanh, vào trong g̣ mả. Khi đó, La Sát mẫu cũng thấy người ấy bị trói năm chỗ, cạo bỏ râu tóc, mảnh ca-sa đỏ buộc ở dưới cổ, liền nhiễu theo chiều phải, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay, cung kính, mà nói kệ tụng rằng: “Đại tiên tràng tướng y, người trí phải khen trọng, nếu hay tu cúng dường, ắt đoạn các hữu phược”. Khi đó, các La Sát con thưa cùng mẹ rằng: “Máu thịt thân người này, do quốc vương ban tặng, nguyện cho con ăn, uống, có sức hầu hạ mẹ”. Khi đó, La Sát mẫu liền bảo con rằng: “Người áo nhuộm như thế, các con chớ nên ăn, với người này khởi ác, sẽ chịu khổ sở lớn”. Khi đó, các La Sát con và các quyến thuộc, nhiễu theo chiều phải của người ấy, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay, cung kính, mà nói kệ tụng rằng: “Ông thuộc ḍng đại tiên, đáng làm ruộng phước tốt, nên tôi tu cúng dường, nguyện dứt các hữu phược”).

 

          “Đại tiên” là nói đến đức Phật. Cái y ấy của đức Phật giống như tràng báu, dựng lập tướng ấy, sẽ có nghĩa là ǵ? Chính là ĺa khổ được vui. Người có trí huệ hăy nên tán thán, cúng dường, cung kính. Nếu ai có thể tu cúng dường, sẽ có thể đoạn hết thảy các phược (phiền năo trói buộc). Có rất nhiều Phược. Nếu nói rộng ra, sẽ là hai mươi lăm món Phược. Hai mươi lăm Hữu trong tam giới đều có thể trói buộc quư vị, cho đến phiền năo của chúng ta, tức tám vạn bốn ngàn phiền năo đều trói buộc quư vị, phải có ư nghĩ đoạn phiền năo. Nếu ai có thể cúng dường các vị xuất gia, sẽ nhất định có thể đoạn kết sử, đoạn phiền năo. La Sát con cũng hướng về mẹ xin ăn thịt người đó. “Thử nhân thân huyết nhục”: Trên thân kẻ đó có đủ máu và thịt. “Quốc vương chi sở lăi” (do quốc vương ban tặng): Quốc vương ban cho chúng ta ăn, đem kẻ này bỏ ở đây. “Nguyện thính ngă ẩm đạm”: Xin mẹ hăy cho phép chúng con ăn thịt hắn. “Đắc lực thừa sự mẫu”: [Ăn thịt hắn xong], thân tâm con khỏe mạnh, có sức, con sẽ khéo hiếu kính mẹ. La Sát mẫu liền bảo các con: “Như thị nhiễm y nhân, phi nhữ sở ưng thực, ư thử khởi ác giả, đương thành đại khổ khí” (người áo nhuộm như thế, con chớ có nên ăn. Khởi ác với người ấy, sẽ chịu khổ to tát): Các con chớ nên ăn thịt người cạo tóc, đắp y nhuộm. Nếu các con phát khởi ác niệm đối với người ấy, sanh khởi ác tâm, con sẽ biến thành kẻ chịu khổ! “Khí” () là dụng cụ, đồ đụng. Dụng cụ ấy chứa đựng sự khổ. Pháp khí chứa đựng pháp, đấy là cách nói h́nh dung.

          “Thời La Sát tử dữ chư quyến thuộc” (khi đó, các La Sát con và các quyến thuộc) cũng nghe lời La Sát mẫu nói. “Hữu nhiễu thử nhân, tôn trọng, đảnh lễ, hiệp chưởng, cung kính, nhi thuyết tụng viết: - Nhữ thị đại tiên chủng, kham vi lương phước điền, cố ngă tu cúng dường, nguyện tuyệt chư hữu phược” (nhiễu quanh người ấy theo chiều bên phải, tôn trọng đảnh lễ, chắp tay, bèn nói kệ tụng rằng: Ông thuộc ḍng đại tiên, kham làm ruộng phước tốt. V́ thế, tu cúng dường. Nguyện dứt các hữu phược): “Nguyện tuyệt chư hữu phược” giống như “tất đoạn chư hữu phược” (ắt đoạn các trói buộc trong các Hữu). Mỗi bài kệ tụng đều có ư nghĩa giống nhau, chỉ là cách dùng từ trong mỗi câu thay đổi đôi chút. Thật ra, những bài kệ tụng ấy chỉ thuyết minh một vấn đề: Đối với người xuất gia đắp y nhuộm, bèn tôn trọng tấm y ấy, hoàn toàn chẳng phải là người ấy. La Sát đều có thần thông. Họ biết kẻ đó là phần tử phạm tội, nhưng do kẻ đó khoác tấm y ấy, chẳng thể thương tổn tánh mạng của hắn. Tổn hại tánh mạng của hắn chính là hủy diệt pháp tướng của đức Phật. Điều này có hàm nghĩa như thế đó!


          (Kinh) Nhĩ thời, phục hữu đại La Sát mẫu, danh Đao Kiếm Khẩu, diệc hữu ngũ thiên quyến thuộc vi nhiễu, lai nhập trủng gian. Thời La Sát mẫu diệc kiến thử nhân bị phược ngũ xứ, thế trừ tu phát, phiến xích ca-sa hệ kỳ cảnh hạ, tức tiện hữu nhiễu, tôn trọng, đảnh lễ, hiệp chưởng, cung kính, nhi thuyết tụng ngôn: “Nhữ kim bị pháp y, tất thú Niết Bàn lạc, cố ngă bất hại nhữ, khủng chư Phật sở ha”. Thời, La Sát tử bạch kỳ mẫu viết: “Ngă thường hấp tinh khí, ẩm đạm nhân huyết nhục, nguyện thính thực thử nhân, linh sắc lực sung thịnh”. Thời La Sát mẫu tiện cáo tử ngôn: “Nhược hại chư ca-sa, thế trừ tu phát giả, tất đọa Vô Gián ngục, cửu thọ đại khổ khí”. Thời, La Sát tử dữ chư quyến thuộc, hữu nhiễu thử nhân, tôn trọng, đảnh lễ, hiệp chưởng, cung kính, nhi thuyết tụng viết: “Ngă đẳng bố địa ngục, cố bất hại nhữ mạng, đương giải phóng nhữ thân, nguyện thoát địa ngục khổ”.

          ()爾時,復有大羅剎母名刀劍口,亦有五千眷屬圍繞來入塚間。時,羅剎母亦見此人被縛五處,剃除鬚髮,片赤袈裟系其頸下,即便右繞尊重頂禮,合掌恭敬,而說頌言:汝今被法衣,必趣涅槃樂,故我不害汝,恐諸佛所呵。時,羅剎子白其母曰:我常吸精氣,飲啖人血肉,願聽食此人,令色力充盛。時,羅剎母便告子言:若害諸袈裟,剃除鬚髮者,必墮無間獄,久受大苦器。時,羅剎子與諸眷屬,右繞此人尊重頂禮,合掌恭敬,而說頌曰:我等怖地獄,故不害汝命,當解放汝身,願脫地獄苦。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, lại có đại La Sát mẫu tên là Đao Kiếm Khẩu (miệng như đao gươm), cũng có năm ngàn quyến thuộc vây quanh, vào trong g̣ mả. Khi đó, La Sát mẫu cũng thấy người ấy bị trói năm chỗ, cạo bỏ râu tóc, một mảnh ca-sa đỏ buộc ở dưới cổ, liền nhiễu theo chiều phải, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay, cung kính, mà nói kệ tụng rằng: “Ông nay mặc pháp y, ắt đạt Niết Bàn lạc, nên ta chẳng hại ông, sợ chư Phật quở trách”. Khi đó, các La Sát con thưa cùng mẹ rằng: “Con thường hút tinh khí, ăn uống máu thịt người, xin cho ăn người này, khiến sắc lực sung măn”. Khi đó, La Sát mẫu liền bảo các con rằng: “Nếu hại người đắp y, và cạo bỏ râu tóc, ắt đọa ngục Vô Gián, chịu khổ lớn dài lâu”. Khi đó, các La Sát con nhiễu quanh thân người ấy theo chiều bên phải, tôn trọng, đảnh lễ, hiệp chưởng, cung kính, mà nói kệ tụng rằng: “Chúng tôi sợ địa ngục, nên chẳng hại mạng ông. Sẽ cởi trói cho ông, nguyện thoát khổ địa ngục”).

 

          “Xích sắc” là màu đỏ, nhưng thuở đức Phật tại thế, y của Ngài [chế định] luôn là y nhuộm hoại sắc, chẳng phải là đỏ tươi. Chẳng hạn như y phục của lạt-ma mặc đều là màu đỏ pha sắc tía (màu Maroon), y vàng cũng chẳng phải là vàng tươi. Sau khi [Phật giáo] truyền sang Trung Hoa, y phục của chúng ta biến thành màu đỏ tươi, vàng tươi. Đấy là v́ quốc vương thuở ấy, cũng tức là vua Sát-đế-lợi muốn làm như vậy, nhằm thể hiện ư nghĩa tôn trọng, [cho nên] tăng nhân đều sửa lại. Nhưng người xuất gia chúng ta mặc trang phục này, áo dài vạt vuông, cổ tṛn, chính là y phục của người thời Hán.

          Hơn nữa, chùa miếu được gọi là Tự, đó là tên gọi của dinh phủ quan lại thời Hán, tức là nơi làm việc, tức nha môn của chánh phủ. Thuở đó, [quốc khách] từ ngoại quốc đến, hoặc từ Ấn Độ đến, đều đưa tới Hồng Lô Tự[8], tương đương với chỗ chiêu đăi của bộ ngoại giao. Ở đó, có rất nhiều pḥng ốc để tiếp đăi họ. Do vậy, lập một ngôi chùa, chẳng gọi là tự miếu, cũng chẳng gọi là Tăng già-lam, mà gọi là Tự. Tự vốn là Hồng Lô Tự đời Hán. Các sảnh, các viện của chánh phủ đều gọi là Tự. Biết ư nghĩa này là được rồi. Nay ư nghĩa được bao hàm trong đoạn kinh văn này có chút sai khác. “Xích ca-sa” là áo ca-sa màu đỏ. Y ca-sa dịch nghĩa là “giải thoát phục”, [hàm ư] mặc y phục ấy sẽ giải thoát. Nhưng hiện thời chẳng giải thoát được, đắp y vẫn chẳng giải thoát, giống như trong phần trước chúng tôi đă nói: Có rất nhiều tỳ-kheo phá giới, đức Phật vẫn cho phép quư vị cúng dường, vẫn phải ủng hộ kẻ đó, chẳng cho phép thương tổn kẻ đó. Đấy có nghĩa là ǵ? Do ư nghĩa: Kẻ đó vẫn có thể làm cho người khác trông thấy h́nh tướng tỳ-kheo, làm phước điền cho người khác. Hiện thời, có lúc ngay cả tỳ-kheo phá giới cũng chẳng trông thấy. Một vạn năm sau này trong thời Mạt Pháp, tướng trạng Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo đă chẳng c̣n! Trên Đại Lục đă có thời gian suốt hơn ba mươi năm chẳng có [h́nh tướng tỳ-kheo]!

          Do vậy, quỷ tử mẫu Đao Kiếm Khẩu cũng như thế. Vị La Sát Mẫu này chúng ta thường dịch là Quỷ Tử Mẫu[9]. La Sát mẫu có năm ngàn quyến thuộc vây quanh vào trong vùng g̣ mả ấy. La Sát mẫu thấy kẻ đó bị trói năm chỗ, c̣n có một mảnh ca-sa đỏ buộc trên cổ, bèn nhiễu theo chiều phải, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay, cung kính. “Nhữ kim bị pháp y” (ông nay đeo pháp y), đấy là pháp y của người tu đạo. Nếu chúng ta thọ Tam Quy Ngũ Giới, Ngũ Giới cho phép có một cái y để mặc khi lễ sám, đó cũng gọi là “pháp phục”. Đấy là chế định của đức Phật, nhưng trong ấy chỉ có năm điều[10], chẳng có điều ngang. Có điều ngang nhằm biểu thị điều ǵ? Giống như đất ruộng. Đó là phước điền, làm ruộng phước cho chúng sanh. Quư vị thấy cái y ấy, liền gieo phước điền. Nếu có thể lễ bái, phước lớn hơn một chút, cúng dường th́ phước lớn hơn chút nữa. Hơn nữa, chỉ cần quư vị trông thấy cái y ấy, sẽ gieo thiện căn, cho nên gọi là pháp y. “Nhữ kim bị pháp y” (ông nay mặc pháp y): Bất luận ông là giả vờ cũng thế, mà thật sự cũng thế, chỉ cần ông đă mặc. “Tất thú Niết Bàn lạc” (ắt đạt đến niềm vui Niết Bàn): Trong tương lai, nhất định chứng đắc Phật quả, Niết Bàn có nghĩa là “bất sanh, bất diệt”. “Cố ngă bất hại nhữ”: Do vậy, tôi sẽ chẳng thương tổn ông. “Khủng chư Phật sở ha” (sợ chư Phật quở trách): Nếu tôi tổn thương ông, chư Phật sẽ quở trách, hoặc trách phạt tôi, tôi sẽ mắc tội!

          “Thời La Sát tử bạch kỳ mẫu viết: ‘Ngă thường hấp tinh khí, ẩm đạm nhân huyết nhục, nguyện thính thực thử nhân, linh sắc lực sung thịnh’. Thời La Sát mẫu tiện cáo tử ngôn: - Nhược hại trước ca-sa, thế trừ tu phát giả” (Khi đó, La Sát con thưa với mẹ rằng: “Con thường hút tinh khí, ăn thịt, uống máu người. Cho con ăn người này, khiến sắc lực sung măn”. Khi đó, La Sát mẫu liền bảo con rằng: “Nếu hại kẻ đắp y, cạo bỏ râu lẫn tóc”): Nếu các con hại người xuất gia, “tất đọa Vô Gián ngục, cửu thọ đại khổ khí” (ắt đọa ngục Vô Gián, chịu khổ lớn dài lâu): Sẽ trở thành một dụng cụ chứa đựng khổ, chịu sự khổ độc lâu dài! “Thời La Sát tử dữ chư quyến thuộc hữu nhiễu thử nhân, tôn trọng, đảnh lễ, hiệp chưởng, cung kính, nhi thuyết tụng viết: - Ngă đẳng bố địa ngục, cố bất hại nhữ mạng, đương giải phóng nhữ thân, nguyện thoát địa ngục khổ” (Lúc ấy, các La Sát con và các quyến thuộc nhiễu quanh người ấy theo chiều bên phải, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay, cung kính, mà nói kệ tụng rằng: - Chúng tôi sợ địa ngục, nên chẳng hại mạng ông, sẽ giải thoát thân ông, nguyện thoát khổ địa ngục): Chúng tôi v́ sợ chịu khổ trong địa ngục, cho nên sẽ chẳng hại mạng ông. Nếu không, chúng tôi sẽ ăn thịt ông! “Đương giải phóng nhữ thân, nguyện thoát địa ngục khổ”: Tôi sẽ thả ông đi, hồi hướng cho chính ḿnh trong tương lai chẳng c̣n phải chịu nỗi khổ trong địa ngục.

 

          (Kinh) Thời chư La Sát mẫu, tử, quyến thuộc, đồng khởi từ tâm, giải thử nhân phược, sám tạ, ủy dụ, hoan hỷ phóng hoàn. Thử nhân thanh đán tật chí vương sở, dĩ như thượng sự, cụ bạch ư vương. Thời, Thắng Quân vương cập chư quyến thuộc, văn chi kinh dược, thán vị tằng hữu, tức lập điều chế, ban cáo quốc nhân: “Tự kim dĩ hậu, ư ngă quốc trung, hữu Phật đệ tử, nhược tŕ giới, nhược phá giới, hạ chí vô giới, đản thế tu phát, bị phục ca-sa, chư hữu xâm lăng, hoặc gia hại giả, đương dĩ tử tội nhi h́nh phạt chi”. Do thử nhân duyên, chúng nhân mộ đức, tiệm tiệm quy hóa, vương Thiệm Bộ Châu, giai cộng thành tâm, quy kính Tam Bảo. Thiện nam tử! Đương quán như thị quá khứ La Sát, tuy thọ vô hạ ngạ quỷ thú thân, hấp nhân tinh khí, ẩm đạm huyết nhục, ác tâm xí thịnh, vô hữu từ bi, nhi kiến vô giới, thế trừ tu phát, dĩ phiến ca-sa quải kỳ cảnh giả, tức tiện hữu nhiễu, tôn trọng, đảnh lễ, cung kính, tán tụng, vô tổn hại tâm.

          ()時,諸羅剎母子眷屬,同起慈心,解此人縛,懺謝慰喻,歡喜放還。此人清旦疾至王所,以如上事具白於王。時勝軍王及諸眷屬,聞之驚躍,嘆未曾有。即立條制頒告國人:自今已後,於我國中,有佛弟子,若持戒、若破戒,下至無戒,但剃鬚發,被服袈裟,諸有侵凌或加害者,當以死罪而刑罰之。由此因緣,眾人慕德,漸漸歸化王贍部洲,皆共誠心歸敬三寶。善男子,當觀如是過去羅剎,雖受無暇餓鬼趣身,吸人精氣,飲啖血肉,噁心熾盛,無有慈悲,而見無戒剃除鬚髮,以片袈裟掛其頸者,即便右繞尊重頂禮,恭敬讚頌,無損害心。

          (Kinh: Lúc ấy, các mẹ con La Sát và quyến thuộc cùng dấy từ tâm, cởi trói cho người ấy, sám hối, tạ từ, an ủi, khuyên dụ, hoan hỷ thả người ấy về. Người ấy sáng sớm vội đến chỗ nhà vua, đem chuyện trên đây tâu cặn kẽ cùng vua. Khi đó, vua Thắng Quân và các quyến thuộc nghe xong, kinh ngạc, hớn hở, than là chưa từng có, lập tức chế định điều luật, bố cáo với dân trong nước: “Từ nay trở đi, trong nước của ta, có đệ tử Phật, dù tŕ giới, hay phá giới, thậm chí chẳng có giới, chỉ cạo bỏ râu tóc, đắp khoác ca-sa, mà nếu có kẻ nào xâm phạm, hiếp đáp, hoặc làm hại, sẽ dùng tội tử h́nh để trừng phạt”. Do nhân duyên ấy, mọi người hâm mộ đức, dần dần quy hướng sự giáo hóa. Trong Thiệm Bộ Châu của nhà vua, [dân chúng] đều cùng thành tâm quy kính Tam Bảo. Này thiện nam tử! Hăy nên quán La Sát trong quá khứ như thế, tuy thọ thân không nhàn hạ trong đường ngạ quỷ, hút tinh khí của kẻ khác, ăn thịt, uống máu, ác tâm lừng lẫy, chẳng có từ bi, mà thấy kẻ chẳng có giới, cạo bỏ râu tóc, dùng một mảnh ca-sa đeo vào cổ, liền nhiễu theo chiều phải, tôn trọng, đảnh lễ, cung kính, tán tụng, chẳng có tâm tổn hại).

 

          Đoạn này bao gồm rất nhiều mẹ con La Sát và quyến thuộc như đă nói trên đây “đồng khởi từ tâm”. Chữ Đồng () có nghĩa là mọi người đều phát khởi tâm từ bi. “Giải thử nhân phược” [nghĩa là] tháo gỡ dây thừng hoặc dụng cụ hành h́nh cho kẻ đó. “Sám tạ ủy dụ” đồng thời sám hối, hoan hỷ, an ủi kẻ đó. “Hoan hỷ phóng hoàn” (hoan hỷ thả về): Nói ông hăy quay về, để cho kẻ đó chạy đi. Đây là chuyện trong đêm! “Thử nhân thanh đán tật chí vương sở” (người ấy sáng sớm, vội đến chỗ vua): “Thanh đán” là sáng sớm. Đến sáng mai, kẻ đó c̣n chưa chết, bèn rất nhanh chóng, “tật” () là nhanh chóng, tới chỗ quốc vương, vào vương cung. “Dĩ như thượng sự cụ bạch ư vương” (đem chuyện trên đây tâu cặn kẽ với vua): Đem những chuyện kẻ đó đă từng trải hôm qua, tức chuyện mẹ con La Sát chẳng hại mạng hắn, tâu lên quốc vương. “Thời Thắng Quân vương cập chư quyến thuộc văn chi kinh dược” (khi đó, vua Thắng Quân và các quyến thuộc nghe kể, kinh ngạc, hớn hở): Vua Thắng Quân là quốc vương xử phạt hắn, c̣n có các đại thần, quyến thuộc, nghe kẻ đó kể lại như vậy, ngạc nhiên khôn cùng! “Thán vị tằng hữu” có nghĩa là kinh ngạc than thở! “Tức lập điều chế” (liền lập ra quy chế): Lập ra quy định. Nói theo hiện thời là đối với hiến pháp đă lập, liền tăng thêm điều khoản này, tuyên cáo khắp thiên hạ: “Tự kim dĩ hậu, ư ngă quốc trung, hữu Phật đệ tử, nhược tŕ giới, nhược phá giới, hạ chí vô giới” (từ nay trở đi, trong nước của ta, có đệ tử Phật, dù là tŕ giới, hay phá giới, thậm chí không có giới): “Vô giới” là c̣n chưa xuất gia, v́ phải tỵ nạn, ĺa khỏi cảm giác hoảng sợ, mới t́m ca-sa, nhưng chẳng t́m được, chỉ có được một mảnh. Mảnh ca-sa ấy cứu kẻ đó, đấy là kẻ “vô giới”. Chỉ cần cạo bỏ râu tóc, khoác mặc ca-sa, không cho phép bất cứ ai xâm phạm, lấn hiếp, hay lăng nhục kẻ đó. Nếu quư vị xâm hại, hoặc làm hại người cạo bỏ râu tóc, đắp khoác ca-sa, sẽ dùng h́nh phạt tử tội để trừng phạt. Đấy là pháp luật do vua Thắng Quân định ra.

          “Do thử nhân duyên, chúng nhân mộ đức, tiệm tiệm quy hóa vương Thiệm Bộ Châu” (Do nhân duyên ấy, mọi người hâm mộ đức dần dần quy hướng sự giáo hóa sự giáo hóa của vua nơi Thiệm Bộ Châu): Do vua Thắng Quân làm như vậy, định ra loại pháp luật này, miễn trừ tử h́nh, miễn trừ tử tội, chẳng phải là dành cho hết thảy mọi người, mà là đối với người xuất gia, phải cung kính, phải lễ bái, phải kính lễ. V́ có nhân duyên như vậy, các quốc độ khác, hoặc là nhân dân đều dần dần ngưỡng mộ đạo đức của nhà vua, dần dần quy hướng về sự giáo hóa của ông ta. Vua Thắng Quân làm như vậy, cho nên dần dần đă đề cao thế lực của quốc vương.

          “Quy hóa” là như mọi người đều biết, đă tới Gia Nă Đại, phải nhập quốc tịch. Đó gọi là “quy hóa”. Quư vị phải tuyên thệ, c̣n phải thề. Khi tôi ở Nữu Ước, có một đạo hữu sau khi tuyên thệ, trở về nói với tôi: “Hôm nay người khảo hạch đă hỏi con: Giả sử chúng ta đánh nhau với Trung Quốc, đánh nhau với người Hoa. Chúng tôi phái ông đi đánh giặc, ông có đi hay không?” Tôi hỏi: “Ông trả lời ra sao?” Ông ta trả lời: “Đi thôi! Đương nhiên là đi”. Tôi bảo: “Ông trả lời như vậy chẳng phải là đệ tử Phật!”. Ông ta rất ngạc nhiên hỏi: “Con nên trả lời như thế nào?” Tôi bảo: “Ông nên trả lời, tôi hy vọng quư vị không gây chiến. Quư vị sai tôi đi chiến đấu, tôi không đi, chẳng nhập tịch th́ thôi!” V́ La Sát quỷ tử mẫu muốn quư vị quy hóa, quư vị cũng quy phục và chịu để cho chúng nó giáo hóa ư? Mọi người hăy ngẫm xem, có thể là chẳng bị hỏi câu ấy, nhưng cũng có thể bị hỏi vấn đề này!

          Phàm là chuyện gây nguy hại cho kẻ khác, ta sẽ không làm. [Chuyện nguy hại cho] súc sanh ta cũng chẳng làm! Muốn chúng ta giết súc sanh, chúng ta chẳng giết súc sanh. Ngay cả La Xoa (La Sát), Dạ Xoa, là những quỷ ác nhất, họ c̣n như vậy, huống hồ chúng ta là người ư? Bất luận quư vị vào quốc tịch nước nào, sai quư vị đi giết đồng bào của ḿnh, quư vị có thể phát cái nguyện ấy hay không? Hăy chú ư, chớ nên v́ lợi ích trước mắt mà bỏ lỡ rất nhiều hạnh phúc trong tương lai. Nếu cho rằng đấy là nói suông, chẳng có vấn đề ǵ! Ôi chao! Quư vị đừng nghĩ là nói suông, khi tuyên thệ nhập tịch, chẳng phải là nguyện, mà là thệ nguyện. Tuyên thệ xong, quư vị không làm, sẽ là vọng ngữ; nếu làm, lại thương tổn kẻ khác, ngay cả thương tổn súc sanh cũng chẳng được!

          “Thiện nam tử! Đương quán như thị quá khứ La Sát, tuy thọ vô hạ ngạ quỷ thú thân” (Này thiện nam tử! Hăy nên quán La Sát trong quá khứ như thế, tuy thọ thân chẳng nhàn hạ trong đường ngạ quỷ): hạ” (無暇) là khiến cho người học Phật pháp chẳng rảnh rang, thân thể chịu khổ, không thể nhàn hạ nổi! Giống như các đạo hữu có lúc bận tíu tít, chịu đựng các tai nạn không ngớt, chính ḿnh mong tu hành, chẳng thể được! “Vô hạ”: Có rất nhiều người phát nguyện nghe giảng viên măn bộ kinh này, chẳng thiếu một buổi nào, chẳng thể được! Quư vị c̣n có chuyện phải làm. Hễ phải làm th́ sẽ rời khỏi chỗ này. Hoặc là v́ bệnh tật mà phải rời đi, hoặc v́ có chuyện mà phải rời đi, hoặc là bận việc trong công ty mà phải rời đi, chẳng thể nghe. Đấy là giải đăi, chẳng tinh tấn. Đó là nghiệp quá khứ, hoặc v́ nghiệp chướng gây chướng ngại. Chẳng có cách nào, đó là chuyện nhỏ! Dũng mănh, tinh tấn th́ sẽ có thể làm được! “Bát vô hạ, thập viên măn”[11]: Mong cầu được làm thân người như vậy đều chẳng thể được!

          Lấy ngay bản thân tôi làm thí dụ. Tôi ở trong tù vài chục năm, tôi mong học Phật pháp, lễ bái, sám hối đều chẳng thể, chẳng có cơ hội ấy. Đó gọi là “vô hạ”. Quư vị mong cái thân viên măn, rất khó khăn! Họ vốn là thân quỷ La Sát, đă là không rảnh rang, là ngạ quỷ. Họ có thể thấy kẻ đó mà chẳng ăn thịt, đấy là rất khó có! Họ dựa vào hút tinh khí, uống máu, ăn thịt [để tồn tại], ác tâm của họ hết sức dữ dội, chẳng có quan niệm từ bi chi hết! Nhưng thấy một kẻ chẳng có giới, cạo bỏ râu tóc, chỉ dùng một mảnh ca-sa buộc vào cổ, họ c̣n có thể nhiễu theo chiều bên phải, c̣n có thể tôn kính, đảnh lễ, cung kính, tán thán kẻ đó, tiêu trừ cái tâm tổn hại!

 

          (Kinh) Nhiên vị lai thế hữu Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, tâm hoài độc ác, vô hữu từ mẫn, tạo tội quá ư Dược Xoa, La Sát, ngu si, ngạo mạn, đoạn diệt thiện căn. Ư quy ngă pháp, nhi xuất gia giả, nhược thị pháp khí, nhược phi pháp khí, thế trừ tu phát, bị phục ca-sa chư đệ tử sở, bất sanh cung kính, năo loạn, ha mạ, hoặc dĩ tiên trượng sở thát kỳ thân, hoặc bế lao ngục, năi chí đoạn mạng. Thử ư nhất thiết quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật phạm chư đại tội, đoạn diệt thiện căn, phần thiêu tương tục, nhất thiết trí giả chi sở viễn ly, quyết định đương sanh Vô Gián địa ngục.

          ()然未來世,有剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,心懷毒惡,無有慈愍,造罪過於藥叉、羅剎,愚癡傲慢,斷滅善根,於歸我法而出家者,若是法器,若非法器,剃除鬚髮,被服袈裟,諸弟子所,不生恭敬,惱亂呵罵,或以鞭杖楚撻其身,或閉牢獄,乃至斷命。此於一切過去、未來、現在諸佛,犯諸大罪,斷滅善根,焚燒相續,一切智者之所遠離,決定當生無間地獄。

          (Kinh: Nhưng đời vị lai có vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn là những kẻ Chiên-đồ-la, ôm ḷng độc ác, chẳng có từ mẫn, tạo tội c̣n hơn Dược Xoa, La Sát, ngu si, ngạo mạn, đoạn diệt thiện căn. Đối với các đệ tử quy y pháp của ta xuất gia, dù là pháp khí, hay chẳng phải pháp khí, cạo bỏ râu tóc, khoác đắp ca-sa mà chẳng sanh cung kính, năo loạn, quở trách, chửi bới, hoặc dùng roi, gậy đánh đập thân họ, hoặc giam trong lao ngục, cho đến đoạn mạng. Kẻ đó phạm các đại tội nơi hết thảy quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật, đoạn diệt thiện căn, thiêu đốt liên tục, hết thảy người có trí đều xa ĺa, quyết định sẽ sanh vào địa ngục Vô Gián).

 

          Những gă Chiên-đồ-la ấy làm ác c̣n vượt quá La Sát, Dược Xoa. “Ngu si ngạo mạn”, chẳng có trí huệ. Chính ḿnh chẳng có trí huệ, vẫn rất kiêu ngạo. “Đoạn diệt thiện căn. Ư quy ngă pháp nhi xuất gia giả, nhược thị pháp khí, nhược phi pháp khí” (đoạn diệt thiện căn, đối với kẻ quy y pháp của ta xuất gia, dù là pháp khí, hay chẳng phải pháp khí): Pháp khí là vị tỳ-kheo thanh tịnh, tốt đẹp. Phi pháp khí là tỳ-kheo phá giới, nhưng chỉ cần người ấy là đệ tử cạo bỏ râu tóc, khoác đắp ca-sa. Đối trước họ mà “bất sanh cung kính, năo loạn, ha mạ, hoặc dĩ tiên, trượng sở thát kỳ thân, hoặc bế lao ngục, năi chí đoạn mạng. Thử ư nhất thiết quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật, phạm chư đại tội” (chẳng sanh ḷng cung kính, năo loạn, quở trách, chửi bới, hoặc dùng roi, gậy đánh đập thân kẻ đó, hoặc giam trong lao ngục, cho đến đoạn mạng. Kẻ đó đă phạm các tội lớn nơi hết thảy chư Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại): Đă phạm vào tội ác lớn nhất đối với tam thế chư Phật, đoạn diệt thiện căn. Trong quá khứ có chút thiện căn, do lần này [tạo tội như thế] liền đoạn diệt. “Phần thiêu tương tục” (thiêu đốt liên tục): Đây là cách nói h́nh dung. “Nhất thiết trí giả chi sở viễn ly, quyết định đương sanh Vô Gián địa ngục” (hết thảy người có trí sẽ xa ĺa, quyết định sẽ sanh vào địa ngục Vô Gián): Khi phạm loại tội này, chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián!

Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần 8 hết



[1] Do đây là những pháp dành riêng cho người xuất gia, lăo pháp sư không tiện giải thích chi tiết, chỉ nêu danh xưng. Trong luật điển của hàng xuất gia th́ có giải thích cụ thể.

[2] Phạm-chí (Brahmacārin) có thể hiểu đơn giản là “chí cầu phạm hạnh”. Trong một đời của Bà-la-môn, sẽ có một khoảng thời gian họ lắng tâm tu hành, sống trong núi rừng, hoặc nơi thanh vắng. Thời gian đó gọi là phạm-chí, hoặc có những Bà-la-môn phát nguyện suốt đời tu hành tịch tĩnh, cũng gọi là Phạm-chí.

[3] Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, do bất đồng về quan điểm giới luật, Tăng đoàn đă tách thành hai nhóm chánh là Thượng Tọa Bộ (Sthaviravāda) và Đại Chúng Bộ (Mahāsāṃghika) do chấp nhận quan điểm của Đại Thiên hay không. Theo thời gian, từ hai nhóm lớn này đă tách ra thành các nhóm nhỏ hơn, gọi chung là các bộ phái:

1) Từ Thượng Tọa Bộ tách ra thành mười một bộ phái là Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivāda), Tuyết Sơn Bộ (Haimavata), Độc Tử Bộ (Vatsīputrīya), Pháp Thượng Bộ (Dharmotara), Hiền Trụ Bộ (Bhadrayānīya), Chánh Lượng Bộ (Saṃmitīya), Mật Lâm Sơn Bộ (Channagirika), Hóa Địa Bộ (Mahisasaka), Pháp Tạng Bộ (Dharmaguptaka), Ẩm Quang Bộ (Kāśyapīya) và Kinh Lượng Bộ (Sautrāntika).

2) Đại Chúng Bộ tách thành chín bộ phái: Nhất Thuyết Bộ (Ekavyāvahārika), Thuyết Xuất Thế Bộ (Lokottaravāda), Kê Dận Bộ (Gokulika), Đa Văn Bộ (Bahuśrutīya), Thuyết Giả Bộ (Prajñaptivāda), Chế Đa Sơn Bộ (Caitika), Tây Sơn Trụ Bộ (Aparaśaila), và Bắc Sơn Trụ Bộ (Uttaraśaila).

[4] Tăng lạp (僧臘) là số năm xuất gia của một tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni. Theo truyền thống Trung Hoa, Tăng lạp chỉ được tính kể từ khi vị ấy đă thọ Cụ Túc Giới. Nghiêm ngặt hơn, nếu năm tháng nào mà phạm giới (dù lớn hay nhỏ) th́ đều không được tính vào Tăng lạp.

[5] Chiên-đồ-la c̣n phiên âm là Chiên Đà La, có nghĩa gốc là “đồ tể, bạo ác”. Thoạt đầu từ ngữ này dùng để chỉ những kẻ thuộc chủng tánh thấp, chuyên làm những nghề bị coi là hạ tiện như đồ tể, thuộc da. Dần dần, Chiên-đồ-la được dùng để chỉ những kẻ hung bạo, tàn nhẫn.

[6] Đế thanh (帝青) là màu xanh da trời đậm. Sách Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa giảng: “Đế thanh tiếng Phạn là Nhân Đà La Ni La Mục Đa, có nghĩa là một món báu của Đế Thích, có màu xanh biếc”.

[7] Bàn Giá La là một vương quốc cổ nằm giữa hai sông Hằng và Á Mục Nạp (Yamuna), tương đương với huyện Farrukhabad hiện thời thuộc tiểu bang Uttar Pradesh của Ấn Độ. Về sau, nó bị sát nhập vào đế quốc của Khổng Tước vương triều (Maurya) rồi hoàn toàn bị xóa sổ bởi đế quốc Gupta (Cấp Đa).

[8] Hồng Lô Tự (鴻盧寺) là cơ quan đặc trách tiếp khách ngoại quốc, nhất là các sứ đoàn ngoại giao. Cơ quan này dưới thời Tần có tên là Điển Khách, sang thời Hán đổi thành Đại Hành Lệnh. Hán Vũ Đế đổi thành Đại Hồng Lô với ư nghĩa lớn tiếng truyền tụng tán dương, thể hiện ư nghĩa hướng dẫn các nghi lễ. Đứng đầu là Hồng Lô Tự Khanh, phó là Thiếu Khanh, ngoài ra c̣n có các chức Thừa, Chủ Bạ phụ tá. Cơ quan này đặc trách việc đón tiếp sứ đoàn, tiếp nhận, và giám định các phẩm vật tiến cống, an trí chỗ nghỉ ngơi, khoản đăi các sứ đoàn, hướng dẫn các nghi lễ, tặng quà cho sứ đoàn theo quy định. Đến thời Minh, cơ quan này kiêm thêm việc phụ giúp bộ Lễ tổ chức các điển lễ, tế tự, tiệc tùng, tang ma của triều đ́nh. Đến đời Thanh, lại đặt thêm các viện trực thuộc Hồng Lô Tự như Truyền Pháp đặc trách san nhuận kinh văn, và Tăng Lục Ty để chưởng quản danh sách tăng ni, tự viện trong nước... Hai triều đại Kim và Nguyên không có cơ cấu này, mọi trách nhiệm của Hồng Lô Tự giao về bộ Lễ.

[9] Chữ Quỷ TMẫu ở đây chỉ có nghĩa là mẹ của lũ quỷ con. Khi kinh Phật nói Quỷ Tử Mẫu mà không nêu rơ danh xưng th́ là nói đến quỷ mẫu Ha Rị Đế (Hariti), c̣n dịch là Hoan Hỷ Mẫu, Bạo Ác Mẫu, hoặc Ái Tử Mẫu. Bà này có trăm năm đứa con, được đức Phật hóa độ, phát nguyện chuyên bảo hộ trẻ con.

[10] “Điều” là một mảnh vải. Ở đây lăo pháp sư nói Mạn Y (縵衣) dành cho cư sĩ theo kiểu cổ gồm năm miếng dọc không có những mảnh ngang. Trong khi y ngũ điều của chư tăng th́ mỗi mảnh dọc ấy lại cắt thành những mảnh nhỏ hơn, thông thường là một mảnh dài, một mảnh ngắn. Hiện thời, hầu như mạn y thường may nguyên khối vải, hay chỉ do hai miếng vải ghép lại. Thông thường, Mạn Y dành cho người tại gia đă thọ Bồ Tát Giới. Nhưng có những đạo tràng như Phật Quang Sơn, thọ Ngũ Giới đă cho phép đắp y. Nói chung, truyền thống Trung Hoa khuyến cáo chỉ đắp y khi sám hối, hoặc tụng giới, không nên mặc tràn lan. Cũng như đắp là để nhớ giới đă thọ, không phải để khoe khoang, tự măn.

[11] Bát vô hạ” tức là tám nạn, hàm ư người gặp một trong tám nạn ấy sẽ bị phiền năo và các khổ nạn quấn trói, không thể thanh thản tu đạo giải thoát được. “Bát vô hạ” là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, biên địa, sanh trong cơi trời trường thọ, sanh nhằm cơi đời không có Phật, các căn chẳng đủ, và có tà kiến. “Thập viên măn” là mười nhân duyên viên măn khiến cho người ấy có thể nghe pháp tu hành: Sanh làm người, sanh tại nơi có văn hóa cao, các căn đầy đủ, chẳng có túc nghiệp điên đảo, chánh tín, nhằm lúc Phật xuất thế, có người giảng nói chánh pháp, giáo pháp trụ thế, tin tưởng hành theo chánh pháp, gặp gỡ thiện tri thức chỉ dạy.