Tịnh Độ Thập
Nghi Luận Giảng Kư
凈土十疑論講記
Đời Tùy, Thiên Thai Trí Giả đại
sư thuyết
Pháp sư Trí Viên giảng giải
隋天台智者大師說
智圓法師講解
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
Vài nét về pháp sư Trí Viên
Pháp sư Trí Viên là dịch nghĩa tiếng
Hán của danh xưng
Khenpo[1] Yeshe
Phuntosk Rinpoche (người Hoa thường phiên âm là Kham Bố
Ích Tây Bành Thố Nhân Ba Thiết, Kān Bù Ý Xī Péng Cụ Rén Bō Qiè). Sư sinh năm 1971, nguyên quán ở làng Tông
Khoa, huyện Nhưỡng Đường (Zamtang), châu A Bả
(Ngawa), tỉnh Tứ Xuyên. Sư vốn là người Tây Tạng.
Từ năm 1978 đến năm 1983, vừa theo học
Tiểu Học, Sư đă dành nhiều công sức để học
các văn bản truyền
thống của Tây Tạng.
Năm 1985, Sư xin vào trường Trung Học Văn Hóa Tây Tạng tại tỉnh Tứ Xuyên. Từ
năm 1986, Sư theo học Phật pháp (Hiển Giáo và Mật Giáo) với thượng sư Pháp Vương Như
Ư Bảo Tấn Mỹ Bành Thố (Jigme Phuntsok) của Lạt Dung Ngũ Minh Phật Học
Viện (Larung Ngarik Nangten Lopling) thuộc ḍng Cổ Mật
(Ninh Mă phái, Nyingmapa) tại huyện Sắc Đạt
(Sertha) tỉnh Cam Túc. Sau khi được công nhận là
Khenpo, Sư chuyên trách giáo vụ tại Phật Học Viện
này, chú trọng bồi dưỡng Tăng tài theo hệ thống
truyền thừa Phật giáo Tây Tạng suốt chín năm.
Từ năm 1996, Sư vâng lệnh ngài Tấn Mỹ Bành Thố
chuyên giảng pháp cho các tự viện nói tiếng Hán tại
Trung Hoa. Tuy xuất thân từ Mật Tông, Sư đặc
biệt yêu thích Tịnh Độ, và giảng diễn rất
nhiều kinh sách Đại Thừa, đặc biệt là các kinh sách thuộc hệ
thống Bát Nhă và Tịnh Độ.
Điều lư thú là khi giảng về pháp môn Tịnh Độ,
Sư hoàn toàn dựa theo Tịnh Độ Ngũ Kinh, chứ
không hề chú trọng cách tu Tịnh Độ bằng phương
tiện quán tưởng và tŕ chú như trong truyền thống
Mật
Tông Tây Tạng.
Lời mở đầu
Tịnh
Độ Thập Nghi Luận được tán
dương là “Đông Độ
đệ nhất Tịnh Độ luận điển”
(bộ luận bậc nhất về Tịnh Độ của
Đông Độ) là do có nguyên nhân sâu xa. Trí Giả đại
sư thấu hiểu thông suốt cương tông của
đại đạo Tịnh Độ, biết đường
lối để chúng sanh đạt được
lợi ích to lớn “văng sanh,
đạt được thành tựu”, lợi ích do văng
sanh, và tướng đại duyên khởi của pháp môn.
Do đó, Ngài dốc sức bài trừ những nỗi nghi
hoặc đă tồn tại lâu dài trong ḷng người từ
trước đến nay. Những nỗi nghi hoặc ấy
như: Có kẻ ngờ vực tiến
tŕnh theo thứ tự trên đường Bồ Đề, có kẻ
ngờ vực chỗ bất đồng giữa các pháp môn
theo lối thông thường [và pháp môn Tịnh Độ],
có kẻ nghi hoặc giữa sự chuyên tu và phổ tu (tu theo đường lối
chung, thông thường, tu phổ quát), có kẻ ngờ phàm phu có
thể văng sanh hay không, làm thế nào để văng sanh v.v…
Do bộ luận này [mà người đọc] giống
như nhà tối ngàn năm bỗng được ánh nắng
chiếu vào, cũng như người ngồi tàu thủy sẽ
nhanh chóng đạt đến chỗ đáng tin[2]. Những điều ấy đều là do
chính sức lực của đại sư tạo nên. Chúng
ta học tập bộ luận này, sẽ phát hiện: Mỗi chỗ đều đủ sức đoạn
nghi, sanh tín, trọn đủ rốt ráo những luận
thuyết chánh đáng đầy sức thuyết phục. Sau
khi đă phá trừ mười mối nghi, những mối
nghi vốn cao ngất trong tâm đều triệt để sụp đổ; từ đó, sẽ thấy
rơ đại đạo Tịnh Độ, kiến lập
cơ sở tín nguyện trong tâm. V́ thế, đây là giáo
điển căn bản của Tịnh Độ vậy.
Lược truyện Trí Giả đại
sư
Đại
sư có pháp danh là Trí Khải[3], là tổ
sư khai tông của tông Thiên Thai, được cơi đời
xưng tụng là Thiên Thai Đại Sư. Họ ngoài đời là Trần, cha
Ngài là Ích Dương Hầu[4] dưới
triều Lương, mẹ họ Từ. Khi đó, mẹ
Ngài mộng thấy khói hương ngũ sắc quẩn
quanh vùng bụng, toan gạt bỏ đi, bỗng nghe có tiếng
nói: “Nhân duyên đời trước kư thác nơi
vương đạo, do phước đức tự
nhiên mà đến, làm sao có
thể gạt bỏ cho
được?” Mẹ Ngài lại mộng thấy nuốt
con chuột trắng. Đôi ba lượt [nằm mộng] như thế, bà cảm thấy rất lạ
lùng, liền đi xem bói. Thầy bói bảo: “Đây là điềm
rồng trắng”. Tối hôm đại sư đản
sanh, trong pḥng là một vầng sáng ngời, liên tiếp suốt
hai đêm [như vậy], quang minh mới ẩn mất.
Mắt
đại sư có hai tṛng, lông mi chia thành tám màu, có trọn
đủ tướng linh dị giống như bậc
thánh nhân thời cổ là Đường Nghiêu và Đại
Thuấn. Trong ngoài gia đ́nh đều rất hoan hỷ,
bày yến tiệc lớn để ăn mừng. Bỗng
có hai vị tăng nhân gơ cửa, nói: “Lành thay! Đứa trẻ
có công đức sâu nặng như vậy nhất định
sẽ xuất gia”. Nói xong, biến mất. Khách khứa
đến dự tiệc đều lấy làm lạ. Bà Từ
nhớ lại điềm lành khi trước, bèn đặt
tên cho đại sư là Vương Đạo. Lại v́
sau đó, tướng quang minh hiện đầy nhà, nên gọi
là Quang Đạo. Do vậy, thuở bé, đại sư có hai tên gọi
là Vương Đạo và Quang Đạo.
Thuở
bé, khi nằm trên giường, đại sư nhất
định chắp tay; hễ ngồi dậy, nhất
định sẽ ngoảnh mặt về phương Tây.
Cho đến khi lớn hơn đôi chút, miệng chẳng
ăn tạp loạn. Hễ trông thấy thánh tượng
bèn lễ bái, gặp gỡ tăng nhân nhất định
sẽ cung kính. Lúc bảy tuổi, Ngài thích đến chỗ
thanh tĩnh trong chốn già-lam, các tăng nhân đều kinh ngạc trước
tâm ư và chí hướng của Ngài, bèn dạy truyền khẩu
phẩm Phổ Môn. Họ vừa nói xong một lượt,
Ngài đă có thể
ghi nhớ.
Mười
bảy tuổi, Ngài phát thệ làm sa-môn, mười tám tuổi
xuất gia, hai mươi tuổi thọ Cụ Túc Giới,
tinh thông Luật Tạng. Sư lại c̣n thường thích
trụ trong Thiền duyệt. Theo Pháp Hoa Kinh Truyện Kư ghi
chép, sau khi tṛn hai mươi ba tuổi, đại sư
theo học với thiền sư Huệ Tư ở núi
Đại Tô tại Quang Châu. Thiền sư Huệ Tư
thường cảm thán: “Xưa
kia, trong hội Linh Sơn, chúng ta cùng nghe kinh Pháp Hoa, do túc
duyên theo đuổi, nay lại t́m đến”. Sư liền
chỉ dạy Phổ Hiền Hành Pháp, tuyên nói Tứ An Lạc
Xứ Hạnh. Trí Giả đại sư ở trên núi ấy
tu hành Pháp Hoa tam-muội, mới trải qua ba buổi tối,
tụng phẩm Dược Vương [trong kinh Pháp Hoa], tâm duyên theo khổ hạnh [của Dược
Vương Bồ Tát], đến câu “thị chân tinh tấn” (là tinh tấn thật sự),
Ngài liền sanh khởi sự giải ngộ, thấy chính
ḿnh và thiền sư Huệ Tư ở trong Tịnh Độ
thất bảo trên núi Linh Thứu, cùng với tám vạn vị
Bồ Tát, một vạn hai ngàn vị Thanh Văn, cùng nhau nghe đức Phật thuyết
pháp. Do vậy, thiền sư Huệ Tư nói: “Chẳng phải là ngươi không
thể cảm, chẳng phải là ta không thể biết.
Đấy là tiền phương tiện của Pháp Hoa tam-muội”.
Trong phần
chú thích của sách ấy (Pháp Hoa Kinh Truyện Kư) có chép: “Đạo Tuyên luật tổ (tổ sư Nam Sơn Luật Tông
là ngài Đạo Tuyên) đă từng hỏi một vị trời:
‘Thiền sư Huệ Tư đời Trần và Trí Giả
đại sư đời Tùy, công đức siêu quần,
thuở trước đă từng cùng nhau nghe kinh Pháp Hoa
trong hội Linh Sơn, chẳng biết xưa kia các Ngài là
ai? Các Ngài cũng đều nói kinh pháp xứng hợp tâm ư của
đức Phật hay chăng?’ Vị trời ấy
đáp: - Các vị ấy vốn đều là cổ Phật, hóa hiện làm bậc
thánh nhân đến du hóa khắp nơi. Thiền sư Huệ
Tư là Quán Thế Âm Bồ Tát, trong phẩm Phổ Môn có
nói về công đức của Ngài. Trí Giả đại
sư là Dược Vương Bồ Tát, đă xuất hiện
nơi cơi đời trong thời Nhật Nguyệt Tịnh
Minh Đức Phật. Thuở ấy, Ngài đă nhanh chóng xả thân để cúng dường
pháp. Phẩm Dược Vương trong kinh Pháp Hoa đă
nói về sự tu hành của Ngài. Các Ngài không chỉ hoằng
dương kinh pháp trong hiện thời, mà c̣n trong thuở
lâu xa trước kia, đă giảng kinh Pháp Hoa khi đức
Phật diệt độ. [Giảng dạy như vậy]
suốt thời một ngàn vị Phật
ra đời trong quá khứ, cho đến thời ba vị
Phật xuất thế trong Hiền Kiếp, đều giống
như hiện thời. Các Ngài khế hội rất sâu yếu
chỉ trong kinh pháp của đức Phật”.
Sau
đó, đại sư lại đến núi Bạch Sa ở
Tây Châu, nhập Quán giống như trên đây. Hễ xem kinh
văn mà có chỗ nào nghi hoặc, liền thấy thiền
sư Huệ Tư ở trong cảnh giới bí mật giải
thích. Thuở ấy, thiền sư Huệ Tư thường
sai Trí Giả đại sư thay ḿnh giảng giải kinh
luận, c̣n chính ḿnh th́ cầm cành như ư xem, nghe. Huệ
Tư đại sư bảo các học tṛ: “Đây là ư nhi của ta, chỉ hận
là nó c̣n thiếu định lực” (nghĩa là trí huệ
của Huệ Tư đại sư đă truyền sang
tâm Trí Giả đại sư). Lại nói, sau khi học
thành tài, Trí Giả đại sư từ biệt sư phụ,
Huệ Tư đại sư bảo: “Ngươi có duyên với nước Trần, đến
đó nhất định sẽ có thể tạo lợi
ích”. Huệ Tư đến Nam Nhạc trước, c̣n
Trí Giả đại sư th́ sang Kim Lăng (tức Nam
Kinh).
Trí Giả
đại sư tới Kim Lăng, trụ tại chùa Ngơa Quan tám năm, giảng kinh Pháp Hoa. Các vị
đại đức nhà Lương, nhà Trần đều
đến thưa hỏi, nghị luận. Thuở ấy,
các vị vương hầu, tầng lớp cao sang đều
ngưng chuyện triều chánh để tới tham dự
pháp hội. Trong lúc Trí Giả đại sư khởi sự
giảng phẩm Tự cho đến cuối phần ngài Văn
Thù trả lời câu hỏi [của Di Lặc Bồ Tát], bỗng
dưng
hội Linh Sơn hiện
ra trên hư không, lúc đó có dăm ba người trông thấy.
Trên trời tuôn mưa diệu hoa, màu sắc trắng tinh.
Hoa ấy có hơn ba mươi cánh, các cánh hoa san sát, lơ
lửng trong hư không chẳng rơi xuống, cao hơn một
thước, giống như cánh hoa sen vậy. Khi Ngài giảng
đến phẩm Bảo Tháp, trong thính chúng có người
nằm mơ thấy chùa Ngơa Quan ba lượt biến thành
Tịnh Độ, phân thân của Phật Thích Ca trọn khắp tám
phương. Lại có người trông thấy cảnh
tượng Phổ Hiền Bồ Tát từ phương xa
hiện đến. Thuở ấy, những người
được lợi ích bởi mưa pháp và những sự
kiện ngấm ngầm đạt được lợi
ích chẳng thể tính đếm. Trong lúc đại sư
giảng kinh Pháp Hoa, Ngài cảm Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi
voi trắng giáng xuống thuyết pháp trước mặt. Thuở
đó, đại sư dùng Ngũ Thời Bát Giáo để phán định, giải thích thấu
triệt tột cùng giáo pháp suốt một đời đức
Phật.
Từ
lúc ba mươi tuổi đại sư đến Nam
Kinh, ở tại đó suốt tám năm. Trong khi nói
năng hay im lặng, khi nghĩ tới núi rừng, sông, suối,
Ngài thường mơ thấy quang cảnh vách đá muôn tầng
hiểm trở, vách núi phủ mây trắng vờn quanh mặt
trời, dưới đó là biển xanh bát ngát không bờ
bến trong suốt, dập dềnh. Lại thấy một tăng nhân vẫy tay, đến
bên đường núi, duỗi tay kéo đại sư lên
núi v.v… Đại sư kể cho môn nhân nghe về giấc
mộng ấy, họ đều thưa: “Đấy là núi Thiên
Thai”. V́ thế, đại sư cùng nhóm Huệ Biện v.v… hơn hai mươi người đi về
phương Nam, vào núi Thiên Thai ẩn cư.
Đại
sư chọn Phật Lũng để ở, hàng ma tại
Hoa Đảnh. Vào tháng Chín năm ấy, đại sư
tiến vào hậu sơn của Thiên Thai, trụ tại ngọn Hoa Đảnh. Có
một tối, đại sư tĩnh tọa tư duy
trên giường đá nơi đỉnh núi, nhằm
đang lúc huân luyện hạnh Đầu Đà, bỗng
dưng cuồng phong cuồn cuộn, sấm rền hang núi,
xuất hiện hai đại ma đầu, một hung
hăng, một mềm mỏng, hung mănh tập kích đại
sư. Nhưng đại sư đă thấu triệt rỗng rang Thật Tướng của
các pháp, chẳng bị lay động, vẫn ngồi ngay
ngắn an định. Do vậy, hai gă đại ma đầu
cũng chẳng thể làm ǵ được, đành chịu
thua, bỏ đi.
Trần
Thiếu Chúa[5]
lại thỉnh đại sư trụ tại chùa Quang Trạch ở Kim Lăng để giảng kinh Pháp Hoa. Thái Tử nhà Tùy (về
sau là Tùy Dạng Đế, tức Dương Quảng) xin thọ giới với đại
sư, lại c̣n dâng tặng Ngài danh hiệu Trí Giả. Từ
đấy trở đi, Ngài được gọi là Trí Giả
Đại Sư. Kế đó, tại Ngọc Tuyền
thuộc Kinh Châu, đại sư truyền thọ Ngũ Giới cho Quan Công[6], tuyên
nói Pháp Hoa Huyền Nghĩa và Ma Ha Chỉ Quán. Lúc năm
mươi tám tuổi, Ngài trở về Thiên Thai. Lúc sáu
mươi tuổi, Ngài truyền trao các loại pháp môn rồi
an nhiên nhập tịch. Nhục thân được
đưa vào khám thờ tại ngọn núi Tây Nam ở Phật
Lũng. Vào năm Đại Nghiệp nguyên niên (605) thời
Tùy Dạng Đế, mở khám ra xem, chỉ thấy
giường và trướng trống trơn, chẳng thấy
nhục thể của đại sư đâu cả!
Suốt
cuộc đời, đại sư kiến tạo ba
mươi sáu ngôi chùa, khắc mười lăm bộ
Đại Tạng Kinh, tạc tám mươi vạn bức
tượng, thế độ một vạn bốn ngàn
người, truyền pháp cho ba mươi hai người,
có hơn một ngàn người đắc ngộ, [thế
mà] suốt ba mươi năm chỉ có một cái nạp
y (áo chằm bằng các mụn vải, tức y ca-sa).
(Tham khảo các bộ Thiên Thai Cửu
Tổ Truyện, Pháp Hoa Truyện Kư, Linh Phong Tông Luận
v.v…)
Tịnh Độ Thập Nghi Luận
凈土十疑論
1. Mối nghi thứ nhất
(Luận) Đệ nhất
nghi. Vấn: Chư Phật, Bồ Tát dĩ đại bi vi
nghiệp, nhược dục cứu độ chúng sanh, chỉ
ưng nguyện sanh tam giới, ư ngũ trược tam
đồ trung cứu khổ chúng sanh, nhân hà cầu sanh Tịnh
Độ, tự an kỳ sanh, xả ly chúng sanh, tắc thị
vô đại từ bi, chuyên vị tự lợi, chướng
Bồ Đề đạo!
(論)第一疑。問:諸佛菩薩以大悲為業。若欲救度眾生,只應願生三界, 於五濁三途中救苦眾生。因何求生凈土,自安其生,舍離眾生。則是無大慈悲,專為自利,障菩提道。
(Luận:
Điều nghi thứ nhất. Hỏi: Chư Phật, Bồ
Tát lấy đại bi làm nghiệp. Nếu muốn cứu
độ chúng sanh, chỉ nên nguyện sanh trong ba cơi, ở
trong ba nẻo ác ngũ trược để cứu khổ
cho chúng sanh, cớ sao lại cầu sanh về Tịnh
Độ để tự sống an nhàn, ĺa bỏ chúng
sanh, tức là chẳng có ḷng đại từ bi, chuyên v́ lợi
lạc chính ḿnh, chướng ngại đạo Bồ
Đề).
[Đại
sư] nêu câu hỏi: Chư Phật, Bồ Tát mang tâm đại
từ bi, chuyện cần phải làm là lợi ích chúng sanh.
Ngoài chuyện ấy ra, chẳng có chuyện ǵ khác! Muốn
lợi ích chúng sanh, chỉ nên sanh trong tam giới, ở
trong tam đồ ngũ trược ḥng cứu khổ
chúng sanh. V́ sao c̣n cầu sanh về Tịnh Độ để
tự sống an nhàn, ĺa bỏ chúng sanh? Thành ra chẳng có
ḷng đại từ bi, chuyên môn lo tự lợi, như vậy
th́ sẽ chướng ngại đạo Bồ Đề.
Có
nghĩa là vốn đáng nên ở trong tam đồ thuộc
uế độ ngũ trược để cứu khổ
chúng sanh, ngươi lại chạy sang Tịnh Độ,
ngươi đă đi sai phương hướng mất
rồi! Làm kiểu ấy hoàn toàn chẳng đúng! Căn bản
của đạo Đại Thừa là tâm đại bi, “bỏ chúng sanh, giữ lấy Tịnh
Độ” tức
là chuyên cầu tự lợi.
Làm như vậy chính là trái nghịch tâm đại bi, sẽ
chướng ngại đạo Bồ Đề. C̣n có thể
nói: Ngươi làm như vậy sẽ làm chậm lại tiến
tŕnh thành đạo, hoặc là từ Đại Thừa
lùi xuống Tiểu Thừa, hoặc là hành vi ích kỷ v.v…
Nghe kiểu
giải thuyết
này, rất nhiều
người cho rằng hết sức đúng. Đă tu
Đại Thừa, phải vận dụng tâm đại
bi lợi lạc chúng sanh, đương nhiên điều
thích đáng duy nhất là phải ở trong uế độ,
chẳng ĺa khỏi các cha mẹ hữu t́nh, ḥng tạo lợi ích cho họ, sao lại
coi chuyện tự lợi là điều chủ yếu?
Nghe nói kiểu này, rất nhiều người bèn vứt bỏ Tịnh Độ, cho rằng
cầu sanh Tịnh Độ là trật, chướng ngại
đạo Bồ Đề, hoặc tŕ hoăn đạo Bồ
Tát, lui sụt vào Tiểu Thừa v.v…
Đối
với [cách cật vấn] này, dùng tám chữ để
đáp lại: “Phân thanh giai
đoạn, quyết trạch nhân duyên” (Phân định rơ ràng từng giai đoạn,
để chọn lựa dứt khoát nhân duyên). Phân chia theo từng giai đoạn, Bồ Tát có hai loại: Bồ
Tát đă đắc Vô Sanh Nhẫn và Bồ Tát chưa đắc
Vô Sanh Nhẫn. Loại trước nên lấy chuyện lợi
tha làm chánh yếu; loại sau nên lấy tự lợi làm chủ
yếu. Trong việc lựa chọn nhân duyên, đối với
hàng tiểu Bồ Tát chưa đắc Vô Sanh Nhẫn, phải
xét xem: Thành tựu Vô Sanh Nhẫn trong uế độ dễ
dàng? Hay thành tựu Vô Sanh Nhẫn trong Tịnh
Độ dễ dàng? Sau khi đă chọn lựa, sẽ phát
hiện: Ở trong Tịnh Độ, do nương cậy đức Phật, sẽ
có thể nhanh chóng thành tựu Vô Sanh Nhẫn, tăng nhanh đạo
Bồ Đề, có thể thật sự hoàn thành sự
nghiệp đại bi lợi tha. Do vậy, phải dứt
khoát, kiên quyết cầu sanh Tịnh Độ.
1.1. Phân rơ giai đoạn
(Luận)
Đáp: Bồ Tát hữu nhị chủng. Nhất giả, cửu tu hành Bồ Tát đạo,
đắc Vô Sanh Nhẫn giả, thật đương sở
trách. Nhị giả, vị đắc dĩ hoàn, cập
sơ phát tâm phàm phu. Phàm phu Bồ Tát giả, yếu tu thường bất
ly Phật. Nhẫn lực thành tựu, phương kham xử
tam giới nội, ư ác thế trung, cứu khổ chúng sanh.
(論)答:菩薩有二種。一者,久修行菩薩道,得無生忍者,實當所責。二者,未得已還,及初發心凡夫,凡夫菩薩者,要須常不離佛。忍力成就,方堪處三界內。於惡世中,救苦眾生。
(Luận:
Đáp: Bồ Tát có hai loại. Một là người đă
tu hành Bồ Tát đạo từ lâu, đắc Vô Sanh Nhẫn,
[đối với hạng này] th́ đáng nên trách móc. Hai là từ
hạng chưa đắc [Vô Sanh Nhẫn] trở xuống,
và hạng phàm phu mới phát tâm, phàm phu Bồ Tát th́ cần
phải thường chẳng ĺa Phật. Nhẫn lực
đă thành tựu th́ mới có thể ở trong tam giới,
ở trong đời ác cứu khổ chúng sanh).
Ở chỗ
này [đại sư] nói: Chớ nên phán đoán mơ hồ
t́nh huống của các loại Bồ Tát, trong khoảng thời gian từ sơ phát tâm cho đến khi thành Phật, có lịch tŕnh [tu chứng rơ ràng]. Phân định rơ ràng giai đoạn th́ sẽ chẳng dùng yêu cầu
đối với hàng Bồ Tát ở địa vị cao
để phê b́nh hàng Bồ Tát thuộc địa vị thấp.
Giống
như một người phát triển đến giai
đoạn tráng niên làm sự nghiệp to lớn, cần phải có một quá tŕnh. Chẳng thể nói “hễ là người
th́ phải nên v́ xă hội, v́ quốc gia cống hiến”,
dùng điều
yêu cầu ấy để
trách cứ bọn trẻ thơ, nhi đồng. Dựa
theo giai đoạn tu học của hàng Bồ Tát th́ có thể
chia thành hai loại:
1) [Hàng Bồ
Tát đă có] thời gian tu hành Bồ Tát đạo lâu dài, đă chứng đắc Vô Sanh Pháp
Nhẫn. Đối với hạng người như thế,
đúng là phải quở trách: “Ngươi đă có bản
lănh, ở trong cảnh giới khách trần sẽ chẳng
bị mê mất, có năng lực lợi ích chúng sanh, vậy
th́ đương nhiên phải nên coi chuyện lợi lạc
chúng sanh là chánh yếu. Thế mà ngươi lại chạy
qua Tịnh Độ, chẳng màng đến chúng sanh!” Chuyện này đáng phải quở trách; giống như một người đă
qua giai đoạn thơ ấu và giai đoạn cầu học
trong tuổi thiếu niên và thanh niên, đă có năng lực
tạo phước cho xă hội, nhưng kẻ ấy lại
ĺa bỏ xă hội, chỉ cầu sự an nhàn cho riêng ḿnh.
Kẻ đó đáng bị trách móc!
2) Những
kẻ kể từ hạng chưa đắc Vô Sanh Nhẫn
Lực cho đến phàm phu sơ phát tâm, những vị
phàm phu Bồ Tát ấy cần phải thường chẳng
ĺa khỏi Phật. Đợi cho đến sau khi đă
thành tựu Nhẫn Lực th́ mới có năng lực ở
trong tam giới, ở trong đời ác cứu khổ cho chúng
sanh. Đối với loại Bồ Tát này, chẳng nên
trách cứ, giống như chẳng nên trách cứ bọn
nhi đồng, thiếu niên: “Sao các ngươi không phục
vụ xă hội? V́ sao vẫn muốn học hành, chẳng dốc
hết sức làm chuyện lợi lạc người
khác?” Quở trách kiểu ấy chẳng thích đáng!
(Luận)
Cố Trí Độ Luận vân: “Cụ phược phàm phu,
hữu đại bi tâm, nguyện sanh ác thế, cứu khổ
chúng sanh giả, vô hữu thị xứ”.
(論)故智度論云,具縛凡夫,有大悲心願生惡世,救苦眾生者,無有是處。
(Luận: V́ thế, Trí Độ
Luận viết: “Phàm phu đầy dẫy triền phược
có tâm đại bi, nguyện sanh trong đời ác cứu khổ
cho chúng sanh, chẳng có chuyện ấy”).
Trên
đây, người hỏi cảm thấy [bắt bẻ
như vậy] rất hữu lư. Là một người tu
Đại Thừa, đương nhiên phải sanh trong thế
giới ác, cứu khổ cho chúng sanh, v́ ta có tâm đại
bi. Ở đây, [Trí Giả đại sư] bèn dẫn lời
của Long Thọ Bồ Tát trong Trí Độ Luận để
lập tông (luận đề chủ yếu). Luận có
nói: Một kẻ phàm phu đầy dẫy triền phược
mà nói là có tâm đại bi, phát nguyện sanh trong thế giới ác để
cứu khổ chúng sanh, chẳng có tí nào đúng cả, sai lầm
quá đỗi! Lập luận này khiến cho người
nghe hết sức kinh động, v́ nó khiến cho mọi
người tin chịu. Dưới đây là nêu ra lư do.
1.2. Lựa chọn nhân duyên
Hiện thời, chẳng nói đến các vị đại
Bồ Tát đă đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, các Ngài tự
nhiên biết phải hóa thân trong các cơi nước nhiều
như vi trần để lợi ích chúng sanh khổ nạn,
chẳng cần chúng ta dạy dỗ! Chúng ta chủ yếu
chọn lựa cho hàng phàm phu Bồ Tát chưa đắc Vô
Sanh Nhẫn Lực phải nên đi theo con đường
nào: Lựa chọn sanh vào Tịnh Độ,
hay là sanh trong uế độ. Đối với chuyện
này, [phải vận dụng] lư trí nh́n thấu suốt nhân
duyên để quyết định, hoàn toàn chẳng phải
là dựa theo cách nghĩ “tưởng như là đúng, nhưng
thật ra sai bét” của cá nhân, hay dựa theo cảm giác, hoặc
nói hùa theo! Chỉ dùng sức lư trí để nh́n vào duyên khởi,
thấy được con đường nào sẽ có lợi
ích, th́ mới có thể chọn lựa chánh xác
được! Đối với chuyện này, chia thành hai
điều để phán đoán, luận định:
a) “Tu
hành trong uế độ, đắc Vô Sanh Nhẫn, hoàn
thành chuyện lợi tha” là đạo khó hành.
b) “Tu
hành trong Tịnh Độ, đắc Vô Sanh Nhẫn, hoàn
thành chuyện lợi tha” là đạo dễ hành.
1.2.1. “Tu hành
trong uế độ, đắc Vô Sanh Nhẫn, hoàn thành
chuyện lợi tha” là đạo khó hành
(Luận)
Hà dĩ cố? Ác thế giới, phiền năo cường,
tự vô nhẫn lực, tâm tùy cảnh chuyển, thanh sắc
sở phược, tự đọa tam đồ, yên
năng cứu chúng sanh? Giả linh đắc sanh nhân trung,
thánh đạo nan đắc. Hoặc nhân Thí, Giới, tu
phước, đắc sanh nhân trung, đắc tác quốc
vương, đại thần, phú quư tự tại. Túng ngộ
thiện tri thức, bất khẳng tín dụng, tham mê,
phóng dật, quảng tạo chúng tội. Thừa thử ác
nghiệp, nhất nhập tam đồ, kinh vô lượng
kiếp. Tùng địa ngục xuất, thọ bần tiện
thân, nhược bất phùng thiện tri thức, hoàn đọa
địa ngục. Như thử luân hồi, chí ư kim nhật,
nhân nhân giai như thị. Thử danh Nan Hành Đạo dă!
(論)何以故?惡世界煩惱強,自無忍力心隨境轉,聲色所縛自墮三塗,焉能救眾生?假令得生人中,聖道難得。或因施戒修福得生人中,得作國王大臣富貴自在。縱遇善知識,不肯信用。貪迷放逸廣造眾罪,乘此惡業一入三塗經無量劫。從地獄出受貧賤身,若不逢善知識還墮地獄。如此輪迴至於今日,人人皆如是。此名難行道也。
(Luận:
V́ sao vậy? Trong thế giới ác, phiền năo mạnh mẽ,
bản thân chẳng có nhẫn lực, tâm bị chuyển
theo cảnh, bị thanh sắc trói buộc, tự đọa
vào tam đồ, há có thể cứu chúng sanh nổi ư?
Giả sử được sanh trong loài người, sẽ
khó đắc thánh đạo. Hoặc do tu phước Thí, Giới, được sanh trong loài người,
được làm quốc vương hay đại thần,
phú quư tự tại. Dẫu gặp thiện tri thức, chẳng
chịu tin tưởng, tu tập, tham, mê, buông lung, rộng
tạo các tội. Nương theo ác nghiệp ấy, hễ
vào trong tam đồ, sẽ trải qua vô lượng kiếp.
Từ địa ngục thoát ra, chịu thân nghèo hèn, nếu
chẳng gặp thiện tri thức, vẫn đọa vào
địa ngục. Luân hồi như thế đó, cho
đến ngày nay, ai nấy đều là như vậy.
Đấy gọi là đạo khó hành vậy!)
Ở
đây, hiển thị t́nh h́nh sai lầm quá đỗi [khi chọn sai đường
lối], đích xác là chẳng có
điều ǵ là đúng. Chẳng chọn lựa nhân duyên tốt
đẹp, chọn sai đường lối, sẽ dẫn
đến “một điều
sai, sẽ là trăm sai, ngàn sai, vạn sai”, lưu chuyển
trong luân hồi vô số kiếp, măi cho đến ngày hôm nay, vẫn
chẳng cứu nổi một người nào thoát khỏi
luân hồi. Chính ḿnh c̣n bị trầm luân vô số kiếp,
vẫn là phàm phu. Từ đây, sẽ thấy cách nh́n ấy
(quan niệm “người tu
Đại Thừa phải ở trong uế độ
đoạn phiền năo, cứu độ chúng sanh”) chẳng
đúng tí nào. Cách nói ấy là cao giọng nói lớn
lối, chẳng thiết thực, hại người khác
chẳng cạn!
Đoạn
này đă chứng thực chúng sanh phàm phu có bi nguyện sanh
trong thế giới ác để cứu chúng sanh th́ chẳng
có lẽ ấy! [Đoạn này cũng] chứng thực phương
pháp [chọn lựa đường lối tu tập thích đáng]
là phải nh́n từ trước về sau, [phải cân nhắc]
đời này, đời sau, đời thứ ba sẽ phát
triển như thế nào, con đường ấy có
đi thông suốt hay là không, sẽ là ta lẫn người
đều cùng được lợi, hay là ta lẫn
người đều bị tổn hại? Ắt cần
phải thấy rơ ràng! Sau đấy, sẽ phát hiện
đi theo đường này chẳng đúng chút nào; do vậy,
hoàn toàn tỉnh ngộ, nỗ lực cầu văng sanh.
Để chứng thực con đường này, phải xét theo nhân duyên, trừ nhân duyên trong
và ngoài ra, chẳng có sức mạnh nào khác chi phối! Trong
là phiền năo mạnh mẽ, ngoài là thế giới xấu
ác, [chính ḿnh] lại chẳng có Vô Sanh Nhẫn Lực, chắc
chắn là tâm sẽ bị cảnh chuyển, bị thanh sắc
trói buộc, rơi vào tam đồ, chính ḿnh c̣n chẳng thể
tự cứu, há c̣n có thể cứu chúng sanh nữa ư?
Từ
câu “giả linh đắc sanh
nhân trung” (giả sử được sanh trong loài
người) trở đi là nói tới trạng huống “tam thế oan”. Loại thứ
nhất là “khó đắc thánh
đạo”. Từ vô thỉ tới nay, chúng ta đă tạo
nghiệp quá loạn, đời này có thể gặp Phật
pháp, đời sau rất khó gặp lại, giống
như trong tối tăm chỉ có tia chớp lóe sáng trong
sát-na, đôi khi thiện căn phát hiện; sau đó, lại hăm trong các thứ tập khí xấu hèn!
Trong thức điền của chúng ta có chủng tử ngộ
thánh đạo, mà cũng có chủng tử lệch khỏi
thánh đạo, tỷ lệ của loại tập khí sau
hết sức to lớn. Do vậy, dẫu chuyển sanh sang
kiếp khác, làm thân người, vẫn dễ dàng bị mê
mất. Căn bản là chẳng tin tưởng Phật
pháp, tạo tội nghiệp, hoặc lọt vào hàng ngoại
đạo.
Loại
t́nh huống thứ hai là v́ sức phước đức
thế gian to lớn, bèn làm quốc vương, đại
thần, phú quư tự tại, nhưng do tâm kiêu mạn to lớn,
dẫu gặp gỡ thiện tri thức, vẫn chẳng
nghe theo lời dạy bảo, chỉ thuận theo cách nghĩ của chính ḿnh. Toàn
là tạo tội nghiệp như vậy, cho
nên đời thứ ba đă đọa trong đường
ác, mà “tam đồ nhất phục
ngũ thiên kiếp” (vừa lọt vào tam đồ bèn
là năm ngàn kiếp), hết sức lâu dài! Lại xem sau
đó, giả sử vô lượng kiếp sau, từ địa
ngục thoát ra, khi đó, hứng chịu tấm thân nghèo
hèn, chẳng gặp gỡ thiện tri thức, lại phải
đọa địa ngục.
Giống
như thế đó, một niệm sai lầm, chọn sai
đường, đúng là từ vô lượng kiếp này
lại sang vô lượng kiếp khác. Cuối cùng, đại sư nói: “Như thị luân hồi, chí ư kim nhật, nhân
nhân giai như thị” (Luân hồi như thế, cho đến ngày nay, ai
nấy đều là như vậy). Cũng tức là
người tu hành trong đời này th́ đời trước
đă đều từng tu tập, lịch tŕnh về
cơ bản đều là như thế đó. Từ chuyện
này, có thể thấy: Từ quá khứ lâu xa cho đến
nay, thích ở trong uế độ, chẳng có ngày ngoi
đầu thoát ra! Do vậy, nh́n vào con đường
đă đi trong quá khứ, sẽ phát hiện [con đường
này] khá khó đi, cho đến nay vẫn luôn luôn chẳng thành công, vẫn là phàm phu Hoặc
nghiệp sâu nặng! Nếu vẫn đi theo con đường
này, sẽ có thể đoán trước t́nh huống trong
tương lai cũng chẳng khác biệt cho mấy!
Như vậy, đương nhiên là đạo khó hành!
Điều
khó khăn ở đây là bất cứ lúc nào cũng có thể
đọa lạc, chẳng đọa lạc trong một đời th́ sẽ đọa lạc trong hai đời! Ngay cả chính ḿnh c̣n đọa trong
đường ác, làm sao có thể cứu chúng sanh cho
được? Hiện thời, hăy suy xét sâu xa, v́ sao bị
đọa lạc? [Nguyên do là v́] chẳng có Vô Sanh Nhẫn Lực,
phiền năo mạnh mẽ dường ấy, ở trong một
thế giới ác trược ngần ấy, hễ tiếp
xúc cảnh giới, sẽ phát sanh tham, sân. Ví như cảnh
đẹp ư vừa xuất hiện, sẽ chẳng thể
trụ trong Vô Sanh, ngay lập tức dấy ḷng tham. Cảnh
chẳng đẹp ư vừa hiện tiền, chẳng có
cách nào trụ trong tánh Không, kết quả là nổi sân. Phát
sanh tham, sân rất nhanh chóng như thế đó, căn bản
là chẳng nắm chắc, hễ một nghiệp hiện
hành, đă đủ khiến cho chính ḿnh đọa
lạc trong đường ác!
Có kẻ
hỏi: “Thật như vậy ư?” Thường là các vị
sơ phát tâm Bồ Tát đạo lực chẳng đủ,
loại
chuyện như thế này quá nhiều! Ví như tôn giả Kỳ Dạ
Đa, chín mươi mốt kiếp trước là con của vị trưởng giả.
Thuở ấy, Ngài chán bỏ ngũ dục, rất muốn
xuất gia. Nếu Ngài xuất gia, nhất định sẽ
có thể đoạn phiền năo, chứng đắc thánh
quả, nhưng cha mẹ Ngài chẳng cho phép, ép Ngài lập
gia đ́nh. Sau khi Ngài cưới vợ, đă sanh con, vẫn
muốn xuất gia; ngay lúc ấy, cha mẹ Ngài gọi đứa
con ấy ôm chặt lấy Ngài kêu: “Cha ơi! Cha ĺa bỏ con,
sau này ai nuôi con? Nếu cha nhất quyết ra đi, giết
con rồi
hăy đi!” Ngài thấy vậy, mềm
ḷng, chẳng nỡ ḷng ra đi, bảo: “V́ con, cha không xuất
gia nữa!” Do vậy, trong lúc ấy, dấy ḷng ái, sẽ
chẳng thể xuất ly; sau đấy, một mực trôi
lăn trong sáu đường! Có thể thấy là hết sức
khó khăn!
Lại
nói, dẫu đă phát Bồ Đề tâm, vẫn rất khó
hoàn thành. Như tôn giả Xá Lợi Phất trong quá khứ
gặp nhân duyên có người xin mắt. Người
đó muốn xin mắt, [Ngài đă móc mắt] trao cho, đối
phương ghét con mắt nhơ bẩn, quăng phịch
xuống đất, xéo lên. Kết quả là tôn giả không
có cách nào chịu đựng nổi, trong sáu mươi kiếp
lui xuống Tiểu Thừa. Ngoài ra, kinh Tăng Hộ Nhân
Duyên có nói, vào thời Phật Ca Diếp, rất nhiều vị
tu hành trái nghịch nhân quả, lập tức đọa
vào địa ngục, măi cho đến khi Phật Thích Ca
xuất thế, họ vẫn c̣n chịu khổ trong địa
ngục. Thuở ấy, họ cũng là một phen hảo
tâm xuất gia tu hành, nhưng phàm phu chẳng có cách nào nắm
chắc tự tâm, hễ lầm loạn nhân quả sẽ bị đọa lạc. Trong kinh Hiền Ngu
cũng kể rất nhiều câu chuyện tương tự,
họ đều v́ lầm loạn nhân quả trước
thời đức Phật mà đọa lạc.
Cận
đại, cũng có rất nhiều chuyện thuộc về
phương diện này. Chẳng hạn như ông Tăng ở
núi Nhạn Đăng chuyển sanh làm Tần Cối. Do đời
trước tu đạo mà chẳng cầu sanh Tịnh
Độ, đời thứ hai sống trong cơi đời,
được đại phú quư. V́ trong tâm ngầm chứa
rất nhiều chủng tử phiền năo, hễ gặp
phải cảnh duyên tương ứng, sẽ dễ dàng dấy
ḷng gian trá, hư
ngụy, ghen tỵ v.v… Kết quả
là do tạo đại ác nghiệp mà đọa lạc. Lại nữa, vị
ni sư tụng kinh Pháp Hoa, đời
sau chuyển thành ca kỹ. Bà ta đời trước
thường tụng kinh Pháp Hoa, nhưng do làm người,
đă tạo nghiệp rất phức tạp, cho nên chuyển
thế phải trôi lăn trong chốn gió bụi!
Chúng ta hăy
khảo sát chính ḿnh, hiện thời đang thuở ngũ trược
hết sức lừng lẫy, lại chẳng có sức chứng
tánh Không, miệng bàn những điều cao xa hết sức dễ dàng,
nhưng vừa gặp cảnh giới, phiền năo sẽ
lập tức hiện hành. Tốc độ quá nhanh chóng,
chẳng có cách nào
khống chế. Hơn nữa,
hễ phiền năo xuất hiện, sẽ là mấy giờ,
mấy ngày, mấy tháng luôn hăm trong ấy, cho thấy nghiệp
lực mạnh mẽ [cỡ nào]! Thêm nữa, ḷng ngă mạn của con người hết sức lớn, hết sức
tà! Chúng ta chỉ cần nghiên cứu sâu xa cơ chế Tập
Đế, sẽ phát hiện sức mạnh của tánh tà
đặc biệt mạnh mẽ. Chẳng hạn như tham
sắc, tham tài, tham danh, tham địa vị v.v… đều
là bẩm sanh, sức mạnh [của ḷng tham ấy] đặc
biệt to lớn! Vô Sanh Nhẫn th́ như thế nào? So sánh
giữa hai đằng, cái nào có sức mạnh lớn hơn?
[Quư vị sẽ] phát hiện cái sau chỉ là nói suông, chứ cái trước có sức
mạnh hết sức to lớn. Hễ gặp cảnh, nó sẽ nhanh chóng, mạnh mẽ hiện hành. Nó đă thâm nhập cốt tủy,
chẳng cần nghĩ tới, vừa xuất hiện nó
bèn hiện diện. Đấy là do nguyên nhân ǵ vậy? Tập
khí nhiều đời như dầu dính vào mặt, khó thể
trừ bỏ, đă quen thuộc đến mức tùy ư dấy
lên. Ví như nh́n thấy kẻ khác phái, nếu như cảnh
duyên khá mạnh mẽ, những kẻ phàm phu tục tử
chẳng có ai không bị vây hăm, đọa lạc. Tuy tạm
thời tránh né hoàn cảnh để tu hành, nhưng v́ chẳng
thành tựu đạo lực, đời sau do sức
phước đức tu tập Giới và Thí, sẽ chuyển
sanh thành quan to, bậc phú hào v.v… Khi ấy, thuận
theo ḷng ham muốn tự tại, sẽ phát triển đến
mức độ hết sức đáng sợ! Tận t́nh hưởng
thụ thanh sắc ngũ dục, giống hệt những kẻ đọa lạc trong lịch
sử. Khi đó, nếu cảnh duyên sắc đẹp đặc
biệt to lớn, ai có thể giữ vững? Hoặc là kẻ
ở trong t́nh cảnh quyền thế rất cao, có ai mà chẳng
v́ thuận theo sự khoái ư nhất
thời của chính ḿnh để rồi chịu tội muôn đời?
Cân nhắc
nhiều phương diện như thế, sẽ phát hiện
xác suất đọa lạc hết sức cao. Một
đời chẳng đọa, khó tránh hai đời sẽ đọa. Hễ đọa lạc,
sẽ là vô số kiếp chẳng thoát ra được. Có
thể thấy rằng: Chọn lựa thành tựu ở trong thời ác trược để Vô Sanh Nhẫn Lực ḥng độ
chúng sanh sẽ hết sức khó khăn! Ngay cả chính ḿnh
c̣n khó tránh khỏi đọa lạc, c̣n cứu chúng sanh bằng cách nào nữa? Do đó, con đường này rất hung
hiểm.
1.2.2. “Tu hành trong Tịnh Độ, đắc
Vô Sanh Nhẫn, hoàn thành chuyện lợi tha” là đạo dễ
hành
Phần
này lại thông qua [các luận điểm] chánh diện và phản
diện để chỉ rơ, ḥng [người đọc] nhận rơ
sự thù thắng của con đường này. Trước
hết, nhờ vào bốn thí dụ để chỉ rơ: Nếu
chẳng sanh về Tịnh Độ, chỉ cậy vào bi
nguyện, tức là một loại xung động đơn giản, kết quả sẽ
hoàn toàn trái ngược. Không chỉ là cả ḿnh lẫn người đều chẳng
thể được lợi, mà ngược lại, cả ḿnh lẫn người đều bị
tổn hại! Kế đó, xét từ chánh diện, chỉ
rơ đường lối để văng sanh Tịnh Độ
thành công. Khi chúng ta nh́n vào một, hai, ba lộ tŕnh, sau khi
đă phát hiện đây là con đường chỉ tiến
chứ không lùi, nhanh chóng hoàn thành Phật đạo, sẽ
biết nó là đạo dễ hành.
1.2.2.1. Trước hết, dùng thí dụ
tương phản để chỉ rơ
(Luận)
Cố Duy Ma kinh vân: “Tự tật bất năng cứu, nhi
năng cứu chư tật nhân?” Hựu Trí Độ Luận
vân: “Thí như nhị nhân các hữu thân quyến vị thủy
sở nịch. Nhất nhân t́nh cấp, trực nhập thủy
cứu, vị vô phương tiện lực cố, bỉ
thử câu một. Nhất nhân hữu phương tiện,
văng thủ thuyền phiệt, thừa chi cứu tiếp, tất
giai đắc thoát thủy nịch chi nạn. Tân phát ư Bồ
Tát, diệc phục như thị. Như thị vị
đắc Nhẫn lực, bất năng cứu chúng sanh. Vị
thử, thường tu cận Phật, đắc Vô Sanh Nhẫn
dĩ, phương năng cứu chúng sanh, như đắc
thuyền giả”. Hựu Luận vân: “Thí như anh nhi, bất đắc ly
mẫu. Nhược dă ly mẫu, hoặc đọa khanh tỉnh,
khát nhũ nhi tử. Hựu như điểu tử, xí
vũ vị thành, chỉ đắc y thụ truyền chi, bất
năng viễn khứ. Xí vũ thành tựu, phương
năng phi không, tự tại vô ngại”.
(論)故維摩經云,自疾不能救,而能救諸疾人?又智度論云:譬如二人各有親眷為水所溺,一人情急直入水救,為無方便力故彼此俱沒。一人有方便,往取船筏乘之救接,悉皆得脫水溺之難,新發意菩薩亦復如是,如是未得忍力,不能救眾生。為此常須近佛,得無生忍已,方能救眾生,如得船者。又論云,譬如嬰兒不得離母,若也離母,或墮坑井渴乳而死。又如鳥子翅羽未成,只得依樹傳枝不能遠去。翅翮成就,方能飛空自在無礙。
(Luận:
V́ thế, kinh Duy Ma chép: “Chẳng thể cứu bệnh của
chính ḿnh mà có thể cứu những người khác mắc
bệnh ư?” Lại nữa, Trí Độ Luận viết:
“Ví như hai người, mỗi người đều có thân quyến bị nước nhấn
ch́m. Một kẻ do t́nh thế cấp bách, bèn nhảy thẳng
xuống nước cứu, do chẳng có sức
phương tiện, đôi bên đều chết. Một
người có phương tiện, đi lấy thuyền,
bè, bơi thuyền ra cứu vớt, thảy đều
được thoát khỏi nạn chết ch́m. Bồ Tát mới
phát tâm cũng giống như thế. Nếu chưa đắc
Nhẫn lực, sẽ chẳng thể cứu chúng sanh. V́ lẽ
này, cần phải thường thân cận Phật. Đă
đắc Vô Sanh Nhẫn th́ mới có thể cứu chúng
sanh như đă có thuyền”. Luận lại viết: “Ví
như trẻ thơ, chẳng được ĺa mẹ. Nếu
như ĺa mẹ, có thể rơi xuống hầm, xuống
giếng, khát sữa mà chết. Lại như chim non, cánh
chưa mọc lông vũ, chỉ được
nương theo cây chuyền cành, chẳng thể đi xa.
Cánh đă mọc lông vũ đầy đủ th́ mới
có thể bay lên không trung, tự tại vô ngại”).
Ư nguyện
của chúng ta thường chẳng phù hợp với t́nh huống thực tế. Do vậy, phải dùng trí
huệ để điều khiển từ bi, tín tâm
cũng phải dùng trí huệ để nhiếp tŕ. Nếu
không, sẽ rơi vào hai loại lỗi lầm to lớn: Một
là do từ bi mà nẩy sanh tai họa; hai là do tự tin mà
thành cuồng vọng. Hai thí dụ đầu, tức thí dụ
về bệnh và thí dụ về cứu nạn, nêu rơ: Nếu
chẳng có trí huệ, sẽ có trạng huống “từ bi
nẩy sanh họa hại”. Sau đó, thí dụ về trẻ
con và chim non, phô rơ lỗi lầm to lớn do chẳng dùng
trí huệ để nhiếp tŕ, do tự tin mà trở thành
lỗi
lầm cuồng vọng to lớn!
Đầu
tiên, hăy xem “từ bi nẩy sanh họa hại” là như thế nào! Thứ nhất là thí
dụ về bệnh. Đây là nói đến một loại
hành vi từ bi mù quáng, cho rằng thiên hạ có rất nhiều
người hứng chịu quá nhiều bệnh khổ, ta nhất định phải
cứu họ. Thế nhưng chẳng thể phán đoán trạng huống của chính ḿnh,
ngay cả thân thể chính ḿnh mắc bệnh tật giống hệt mà không có
cách nào chữa lành, làm sao có thể chữa trị bệnh
khổ của thiên hạ? Đấy là ngu si. Nếu vẫn
ương ngạnh mà làm, đương nhiên sẽ khó
tránh khỏi xuất hiện lỗi họa những kẻ
chẳng hiểu biết mà làm nghề y, lang băm giết
chết người, chẳng thể trị lành người nào, mà ngược
lại, c̣n khiến cho cả đống người bệnh t́nh nguy ngập
hơn!
Thứ
hai là thí dụ về cứu nạn. Có hai người
đều có thân quyến bị ch́m xuống nước.
Trong ấy, có một người bản thân chẳng có sức
phương tiện, khi trông thấy người khác bị
nước nhấn ch́m, bèn nghĩ “ta phải liều dốc
sức, chẳng màng bản thân”, nhất định phải
cứu người ấy lên, [mặc dù] ngay cả chính
ḿnh không biết bơi cũng chẳng biết! Loại xúc động mù quáng ấy khiến
cho ḿnh lẫn người đều bị chết ch́m, chẳng
cứu được ai; ngược lại, đều vùi thây
trong nước. Một người khác tuy có ḷng từ bi, nhưng người ấy
nghĩ “mù quáng nhảy xuống th́ không chỉ chẳng cứu
được người, mà c̣n có thể vùi thân ḿnh luôn”.
Sau đấy bèn nghĩ: “Ta trước hết hăy t́m một
chiếc thuyền rồi chèo ra”. Do có sức phương tiện ấy, có thể thực
hiện tâm nguyện từ bi, không chỉ là chính ḿnh chẳng
chết ch́m, mà c̣n có thể cứu ngàn vạn người!
Do nguyên nhân này, phàm phu ắt cần phải sanh về Tịnh
Độ trước
ḥng thường thân cận
Phật. Đă đắc Vô Sanh Nhẫn Lực rồi, sẽ quay lại cứu chúng sanh.
Hai thí dụ
kế tiếp đă chỉ rơ “ḷng tự tin cuồng vọng
sẽ hủy diệt chính ḿnh”. Thí dụ thứ ba là thí dụ
về trẻ thơ. Trẻ con tự nghĩ chính ḿnh phải
độc lập, chẳng cần dựa dẫm mẹ.
Nó tự cậy năng lực của chính ḿnh quá cao. Trên thực
tế, chẳng có mẹ chăm bẵm, cho ăn, che chở, tất nhiên là nó sẽ sảy hầm, té
giếng mà chết rất nhanh, hoặc v́ thiếu sữa
mà chết. Đấy là lỗi lầm do cuồng vọng.
Thứ tư là thí dụ về chim non. Chim non cứ
ngỡ nay ta ắt phải bay lượn trên trời cao th́ mới có
thể chứng minh năng lực của ta. Nào có biết
trước hết phải trải qua giai đoạn
nương theo cây chuyền nhánh để cánh dần dần
mọc lông vũ, chẳng thể mù quáng tung ḿnh lên không
trung, nhất định sẽ rớt phịch xuống mà
chết tốt! Điều này nhằm nói rơ Sơ Phát Tâm Bồ
Tát trước hết chớ nên ĺa Phật, chớ nên ĺa
Tịnh Độ, đă được trưởng
dưỡng, tràn đầy sức mạnh, sau đấy
mới có thể tự tại vô ngại phổ độ
chúng sanh. Nếu chẳng biết năng lực tự thân
cỡ nào, cứ phô trương cậy vào ḷng tự tin
để làm bừa, tất nhiên là sanh mạng sẽ bị
kết thúc sớm. Đấy đều là do chẳng lựa
chọn bằng lư trí.
(Luận)
Phàm phu vô lực, duy đắc chuyên niệm A Di Đà Phật,
sử thành tam-muội. Dĩ nghiệp thành cố, lâm chung
liễm niệm đắc sanh, quyết định bất
nghi. Kiến Di Đà Phật, chứng Vô Sanh Nhẫn dĩ,
hoàn lai tam giới, thừa Vô Sanh Nhẫn thuyền, cứu
khổ chúng sanh, quảng thí Phật sự, nhậm ư tự
tại. Cố Luận vân: “Du hư địa ngục hành giả, sanh
bỉ quốc đắc Vô Sanh Nhẫn dĩ, hoàn nhập sanh
tử quốc, giáo hóa địa ngục thọ khổ
chúng sanh”. Dĩ thị nhân duyên, cầu sanh Tịnh Độ,
nguyện thức kỳ giáo. Cố Thập Trụ Bà Sa luận
danh Dị
Hành Đạo dă.
(論)凡夫無力,唯得專念阿彌陀佛使成三昧。以業成故,臨終斂念得生決定不疑。見彌陀佛證無生忍已,還來三界乘無生忍船救苦眾生,廣施佛事任意自在。故論云:「遊戲地獄,行者生彼國,得無生忍已,還入生死國,教化地獄受苦眾生」。以是因緣求生淨土,願識其教。故十住婆沙論名易行道也。
(Luận:
Phàm phu không có sức, chỉ nên chuyên niệm A Di Đà Phật
khiến cho thành tam-muội. Do nghiệp đă thành, lâm chung
thâu liễm ư niệm, được sanh về cơi ấy,
chắc chắn chẳng nghi. Thấy A Di Đà Phật,
đă chứng Vô Sanh Nhẫn, trở lại tam giới, ngồi
thuyền Vô Sanh Nhẫn cứu khổ chúng sanh, thực hiện
rộng răi các Phật sự, tùy ư tự tại. V́ thế,
Luận viết: “Hành giả
dạo chơi trong địa ngục, sanh về cơi ấy,
đắc Vô Sanh Nhẫn rồi bèn trở vào cơi này, giáo hóa
chúng sanh đang chịu khổ trong địa ngục”. Do
nhân duyên này, cầu sanh Tịnh Độ, nguyện hiểu
biết giáo ấy. V́ thế, Thập Trụ Bà Sa Luận gọi [pháp môn này] là đạo dễ
hành”).
Đây là chỉ bày con đường thứ hai
theo phương diện thuận. Bản thân phàm phu chẳng
có sức lực, ắt cần phải chuyên nhất mong cầu
nương cậy A Di Đà Phật văng sanh Tịnh Độ.
Con đường này như thế nào? Phải nh́n vào
đường lối trong nhiều đời:
-
Đời thứ nhất niệm Phật,
lâm chung được Phật tiếp dẫn văng sanh.
-
Đời thứ hai gặp Phật
đắc Nhẫn.
-
Đời thứ ba sanh vào tam giới
cứu độ chúng sanh, tùy ư tự tại. “Đời thứ ba” [như
đă nói ở đây] chỉ là cách biểu đạt quyền
biến thiện xảo, trên thực tế, chẳng phải
là giống như phàm phu có luân hồi thọ sanh, chẳng
qua chỉ là tùy thuận nguyện lực của chính ḿnh, bỏ tuổi thọ
trong Tịnh Độ để tùy ư tự tại vào trong
thế gian ḥng cứu khổ chúng sanh. Có thể thấy: Đi theo con đường này sẽ thông suốt, có thể
hoàn thành sự nghiệp tâm đại bi lợi tha. Do vậy,
sẽ nhanh chóng thành đạo Bồ Đề.
Bộ Luận này đă chỉ bày con đường
như sau: Chúng ta là sơ phát tâm phàm phu, chẳng có năng lực
bơi thuyền trong biển sanh tử để cứu
chúng sanh, giống như đứa trẻ vừa mới sanh
ra, chẳng có năng lực làm những sự nghiệp giống
như người đă trưởng thành. V́ thế, trước
hết, nó phải nương cậy một bà mẹ, bà mẹ
ấy chính là A Di Đà Phật, phải nương nhờ
một hoàn cảnh hết sức tốt đẹp, hoàn cảnh
ấy chính là thế giới Cực Lạc. Ở bên
đó, được bà mẹ A Di Đà Phật và các vị
huynh trưởng là Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ
Tát nuôi nấng, bảo vệ, và thường tắm gội
trong đức thủy (nước tám công đức), gió
nhẹ, quang minh v.v… Đă được tư nhuận, vun bồi trong hoàn cảnh ấy, khai phát bổn tâm,
trừ khử Hoặc nghiệp; do vậy, sẽ dần dần đạt
thành Vô Sanh Nhẫn Lực. Sau khi đă đạt được
thành tựu thù thắng, có thể vào trong vườn rừng
để chơi đùa, tức là vào trong tam giới mà tự
tại lợi ích chúng sanh. Đường lối là như
thế đó. Do vậy bèn nói, nay chúng ta là phàm phu chẳng có
sức mạnh, [phương cách] duy nhất là phải chuyên
niệm A Di Đà Phật, thành tựu Niệm Phật tam-muội,
nhất tâm trụ
nơi niệm Phật.
Do v́ tịnh nghiệp đă thành tựu, lâm chung thâu nhiếp ư niệm, bèn sanh vào Tịnh Độ, quyết
định chẳng nghi hoặc. Đấy là bước
đầu tiên, tức “thấy
Phật, văng sanh”.
Bước
thứ hai là sau khi đă sanh trong Tịnh Độ, thấy
A Di Đà Phật, được Phật gia bị liền
ngộ Vô Sanh, đạt được đại thành tựu.
Bước
thứ ba, sau khi đă chứng đắc Vô Sanh Nhẫn, do thuở ban đầu
đă có bi nguyện muốn vào trong thế giới khổ
sở để độ chúng sanh, lúc ấy mới có thể
sanh trong tam giới, ở trong tam đồ ngũ trược
cứu khổ chúng sanh, thậm chí giống như Địa
Tạng Bồ Tát vào trong địa ngục độ chúng
sanh. Bất luận trong cảnh giới nào, đều chẳng
bị thanh sắc trói buộc, tâm chẳng bị cảnh chuyển,
sẽ chẳng bị mê mất nhất linh chân tánh, như vậy th́ sẽ thật sự thực
hiện hạnh nguyện Phổ Hiền. Đó gọi là “ta đă văng sanh cơi ấy, hiện
tiền thành tựu đại nguyện này, hết thảy
đều viên măn hoàn toàn, lợi lạc hết thảy
chúng sanh giới”, và cũng “được
đức Như Lai ấy thọ kư rồi, hóa thân vô số
trăm câu-chi, trí lực rộng lớn trọn khắp mười
phương, lợi lạc trọn khắp hết thảy
chúng sanh giới” v.v… Vào trong biển sanh tử, nhiếp
tŕ hết thảy chúng sanh, khiến cho họ phát Bồ Đề tâm, đều
đặt yên họ nơi diệu đạo Vô Thượng
Bồ Đề. Đấy là hoàn thành sự nghiệp phổ
độ chúng sanh của Đại Thừa.
V́ để
nhanh chóng thành tựu con đường đại đạo
này, nhanh chóng thành tựu viên măn tâm nguyện phổ độ
chúng sanh, phải cầu sanh về Tịnh Độ. Con
đường này rất dễ đạt thành, thực
hiện dễ dàng, sẽ đạt tới viên măn. Nó
cũng là đạo Nhất Thừa thành Phật, cũng
là đạo thành Phật nhanh chóng do được sức
bi nguyện của Phật Di Đà nhiếp tŕ. V́ thế,
Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận[7] gọi
[con đường này] là “đạo
dễ hành”.
1.2.2.2. Tổng kết
Nói theo
phía Sơ Phát Tâm Bồ Tát th́ “quyết
định cầu sanh Tịnh Độ” xác định là con đường mười phần
sáng suốt. Quan sát từ cả hai phương diện
chánh diện và phản diện, nếu lựa chọn sanh
trong uế độ, sẽ trở thành “đạo khó hành”. Xét theo t́nh huống phổ biến,
nó sẽ là một tuyệt lộ, hết sức nguy hiểm,
hễ đọa lạc, sẽ là vô lượng kiếp, [kẻ
khăng khăng đi theo con đường ấy] thuộc
loại chẳng biết lượng sức. Đấy là
v́ ḷng từ bi không được nhiếp tŕ bởi lư
trí, đánh giá cao năng lực của chính ḿnh, chọn lựa
một cách khinh suất. Rất nhiều người do
điều này mà chướng ngại sanh mạng trụ đạo, không chỉ là chẳng thể cứu nổi
chúng sanh, mà đâm ra lại bị sức tội nghiệp của chính ḿnh kéo vào đường ác,
hoặc phạm lầm lỗi “lang
băm hại người”. Ngược lại, nếu
lựa chọn sanh vào Tịnh Độ, đây là con
đường Nhất Thừa, viên măn, chẳng thể
nghĩ bàn, tột bậc thù thắng, do nương cậy
vào nguyện lực đă thành tựu từ vô lượng
kiếp của A Di Đà Phật. Nói theo phía phàm phu trong hiện
tiền, đây là sự lựa chọn hết sức lư
trí. Hiểu rơ đường lối, biết sức lực
của chính ḿnh, biết ḷng từ bi của Phật, biết
sự thù thắng của Tịnh Độ, chỉ cần
có tín nguyện, đi theo con đường này, chắc chắn
sẽ thành tựu nhanh chóng, đến cuối cùng, sẽ hoàn thành nguyện lực đại
bi.
Sau khi
đă thấy
như vậy, sẽ biết: Mỗi vị
Sơ Phát Tâm Bồ Tát kiến lập bi nguyện, sau khi đă thông hiểu
đường lối, đều phải nên đến Tịnh
Độ thân cận Phật, v́ phải tụ tập hết
sức nhiều nhân duyên th́ mới có thể nhanh chóng thành tựu
Vô Sanh Nhẫn Lực ḥng thực hiện bi nguyện. Nhân duyên chẳng tụ
tập, sẽ hết sức khó khăn. Dẫu có tâm nguyện,
nhưng do sức phiền năo của bản thân, sức
nhân duyên bên ngoài, cùng với các loại nghiệp lực rắc
rối, phức tạp lôi kéo, ngăn trở, sẽ tŕ hoăn tiến tŕnh, khiến cho vô
số kiếp đều chẳng thể thực hiện.
Nhưng đi theo con đường văng sanh Tịnh Độ
này, do có Phật lực nhiếp tŕ, các phương diện
đều chuẩn bị tốt đẹp cho quư vị, sẽ tột cùng thuận tiện. V́ thế, sau
khi sanh về Tịnh Độ, nhân duyên để hoàn thành
Vô Sanh Nhẫn Lực hết sức có ưu thế, hết
sức thù thắng. Nh́n từ các nhân tố như cái thân
đạt được, thầy bạn để nương cậy, hoàn cảnh cư trụ, nghe pháp môn, cho
đến thọ mạng vô lượng, toàn là viên măn,
đáng gọi là thân viên măn, thầy viên măn, bạn viên măn,
pháp viên măn, thời viên măn v.v… Nói chung, chẳng có tí nào thoái
chuyển, toàn là nhân duyên tăng tấn, trong khoảng sát-na
có thể tích tập vô số tư lương, nghe pháp ǵ
cũng đều có thể khai phát vô số thiện
căn Bồ Đề. Cũng giống như thế, đối
với duyên cớ ḥng có thể nhanh chóng thành tựu viên măn
Vô Sanh Nhẫn Lực, ắt cần phải noi theo đại
duyên khởi này!
Trong kinh
Hoa Nghiêm, trước hết, Phổ Hiền Bồ Tát đối trước
Hoa Nghiêm hải chúng tuyên nói mười đại nguyện
vương, nhưng đối với phàm phu mà nói, điều
này hết sức xa xôi, chẳng có một con đường tắt thù thắng, nhiệm
mầu, sẽ khó thể hoàn thành được, nhưng Tịnh
Độ của A Di Đà Phật chính là nơi chốn
đại duyên khởi để hoàn thành nhanh chóng. V́ thế,
Phổ Hiền Bồ Tát suất lănh hải chúng nhất
trí dẫn
về thế giới Cực
Lạc, v́ [ở nơi đó] sẽ dễ dàng hoàn thành Phổ
Hiền nguyện hải, mà Phổ Hiền nguyện hải
sẽ được thực hiện trong các cơi
nước hóa hiện nhiều như vi trần, dùng
phương thức trọn khắp, chẳng gián đoạn,
thường hằng, ḥng lợi ích hết thảy các hữu t́nh. Đă thấy
chỗ quy kết cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm là Tây
Phương Tịnh Độ, phải nên biết đấy
là con đường tắt cùng nhau phải đi của hết
thảy các hành giả Bồ Đề. Cũng giống
như vậy, thấy mọi người đi theo con
đường khác, chẳng đi theo đường
lối như thế này (tức con đường cầu
sanh Tịnh Độ ḥng thân cận Phật), tự tâm bèn chốt lại: “V́ để
hoàn thành thệ nguyện đại bi, trước hết, phải văng sanh Tây Phương Tịnh
Độ!”
2. Mối nghi thứ hai
(Luận)
Đệ nhị nghi, vấn: Chư pháp thể Không, bổn
lai vô sanh, b́nh đẳng tịch diệt, kim năi xả thử,
cầu bỉ, sanh Tây Phương Di Đà Tịnh Độ,
khởi bất quai lư tai? Hựu kinh vân: “Nhược cầu
Tịnh Độ, tiên tịnh kỳ tâm, tâm tịnh cố
tức Phật độ tịnh”, thử vân hà thông?
(論)第二疑。問:諸法體空,本來無生,平等寂滅。今乃捨此,求彼生西方彌陀淨土,豈不乖理哉?又經云:「若求淨土,先淨其心,心淨故即佛土淨。」此云何通?
(Luận:
Mối nghi thứ hai, hỏi: Bản thể của các pháp
là Không, vốn vô sanh, b́nh đẳng tịch diệt, nay bỏ
cơi này, cầu cơi kia, sanh về Tây Phương Di Đà Tịnh
Độ, há chẳng phải là trái lư ư? Kinh c̣n dạy:
“Nếu cầu Tịnh Độ, trước hết hăy
thanh tịnh cái tâm, do tâm tịnh th́ cơi Phật sẽ tịnh”,
điều này nói sao cho suông đây?)
Ở
đây, nêu ra hai vấn đề:
- Thứ
nhất, cầu sanh Tây Phương có trái nghịch lư “các pháp vô sanh” hay không?
- Thứ
hai, làm sao để nói dung thông giữa cầu sanh Tây
Phương và “do tâm tịnh
th́ cơi Phật tịnh”?
Cụ
thể là nêu ra câu hỏi như thế này: Các pháp b́nh đẳng
tịch diệt, trong Thật Tướng chẳng có sanh,
người văng sanh, và chỗ để sanh về! Nay liền
bỏ phương này, cầu phương kia, sanh về Tây
Phương Di Đà Tịnh Độ, chẳng phải là
đă trái nghịch lư Vô Sanh hay sao? Hơn nữa, kinh Duy Ma Cật
c̣n dạy: Muốn cầu cơi nước thanh tịnh,
trước hết phải làm sao cho cái tâm của chính ḿnh
thanh tịnh. Hễ cái tâm tịnh th́ cơi nước bèn tịnh.
Làm thế nào để có thể dung thông cách nói kiểu ấy với chuyện cầu
sanh Tây Phương Tịnh Độ?
2.1. Tổng đáp
(Luận)
Đáp: Thích hữu nhị nghĩa. Nhất giả tổng
đáp, nhị giả biệt đáp. Tổng đáp giả,
nhữ nhược ngôn cầu sanh Tây Phương Di Đà Tịnh
Độ, tắc thị xả thử cầu bỉ, bất
trúng lư giả! Nhữ chấp trụ thử, bất cầu
Tây Phương, tắc thị xả bỉ trước thử,
thử hoàn thành bệnh, bất trúng lư dă. Hựu chuyển
kế vân: “Ngă diệc bất cầu sanh bỉ, diệc bất
cầu sanh thử” giả, tắc Đoạn Diệt Kiến. Cố Kim Cang Bát Nhă kinh vân: “Tu Bồ Đề,
nhữ nhược tác thị niệm, phát A Nậu Bồ
Đề giả, thuyết chư pháp đoạn diệt tướng,
mạc tác thị niệm, hà dĩ cố? Phát Bồ Đề
tâm giả, ư pháp bất thuyết đoạn diệt
tướng”.
(論)答:釋有二義,一者總答,二者別答。總答者,汝若言求生西方彌陀淨土,則是捨此求彼,不中理者。汝執住此,不求西方,則是捨彼著此,此還成病,不中理也。又轉計云,我亦不求生彼,亦不求生此者,則斷滅見。故金剛般若經云:「須菩提,汝若作是念,發阿耨菩提者,說諸法斷滅相。莫作是念,何以故?發菩提心者,於法不說斷滅相。」
(Luận:
Đáp: Giải thích bằng hai nghĩa. Một là đáp
chung, hai là đáp riêng. Đáp chung là nếu ông nói “cầu
sanh Tây Phương Di Đà Tịnh Độ chính là bỏ
cơi này, cầu cơi kia, chẳng trúng lư”, [vậy là] ông chấp
trước trụ trong cơi này, chẳng cầu Tây
Phương, tức là bỏ cơi kia, chấp cơi này, đấy
vẫn là thành bệnh, chẳng trúng lư. Nếu lại chuyển
sang nói: “Ta cũng chẳng cầu sanh cơi kia, mà cũng chẳng
cầu sanh cơi này”, tức là kiến giải Đoạn Diệt.
V́ thế, kinh Kim Cang Bát Nhă nói: “Này Tu Bồ Đề! Nếu
ông nghĩ như thế này, phát A Nậu Bồ Đề (phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác), nói tướng đoạn diệt của
các pháp, đừng nghĩ như thế, cớ sao vậy?
Phát Bồ Đề tâm th́ đối với các pháp, chẳng
nói đến tướng đoạn diệt”).
Phần
giải thích có hai bộ phận là tổng đáp và biệt
đáp. Tổng đáp là trả lời chung cho hai nghi vấn,
biệt đáp là phân biệt trả lời từng điều
một.
Trước
hết là tổng đáp, dùng cùng một lư để phá. Nếu
quư vị nói cầu sanh Tây Phương Di Đà Tịnh
Độ là “bỏ phương
này, cầu phương kia”, [tức là] thật sự có
phương này để bỏ, thật sự có
phương kia để cầu sanh về. Nếu [quư vị
cho rằng] mong sanh về phương kia là chẳng phù hợp
lư vô sanh tịch diệt; vậy th́ quư vị chấp
trước ở lại phương này, chẳng cầu
sanh phương kia, cũng là thấy hai nơi đều thật sự có! Ta chẳng ưa thích phương kia, nên sẽ không đến đó; ta ưa thích phương này liền ở nơi đây.
Đấy chẳng phải là “bỏ
phương kia, chấp phương này”, do Pháp Chấp
mà thấy “có sanh” ư?
Đều chẳng phù hợp diệu lư như nhau!
Nếu đổi
cách nói: “Ta cũng chẳng cầu sanh phương kia, mà
cũng chẳng cầu sanh phương này”. Đấy
cũng là cho rằng: Phương kia lẫn phương
này đều chẳng thể cầu sanh; hễ cầu sanh, sẽ trái nghịch lư Vô Sanh. Cho nên chẳng cầu sanh cả hai nơi.
Như thế th́ sẽ đọa vào Đoạn Kiến.
Quư vị lại dấy lên Pháp Chấp, cho rằng phương
này lẫn phương kia đều chẳng thể cầu
sanh, nhất định phải giữ chặt Vô Sanh! Như
thế là khăng khăng chấp chặt nơi Vô, sẽ
là Đoạn Diệt Kiến.
Hơn nữa,
đă là phương này lẫn phương kia đều
chẳng thể sanh, vậy th́ quư vị ngồi ở
nơi đây sẽ chẳng thể động đậy!
Nếu đi về phương Đông, tức là xả
Tây, hướng về Đông. Nếu đi về
phương Tây, tức là bỏ Đông, hướng về
Tây, đều trở thành “có
sanh”, có đến, có đi, đấy đều chẳng phải là trái nghịch Vô Sanh
đó sao? Do lẽ này, quư vị hẳn là chẳng nên động
đậy mảy may, hoặc là đáng nên biến thành
hư không! Nhưng thân thể quư vị hằng ngày đều
đổi cũ thay mới, ruột và dạ dày co bóp, trái
tim đập đều, lại c̣n phải đi đông,
đi tây v.v… Những điều ấy há chẳng phải
đều là trái phạm lư Vô Sanh ư? Chuyện ǵ cũng
đều chẳng thể làm ư? Cũng giống như vậy, quư vị đă
từ bên Hữu rơi vào bên Vô, mà cứ tưởng trụ
nơi bên Vô bất động th́ mới phù hợp Vô Sanh.
Đấy gọi là “rơi vào
Đoạn Kiến”.
Do
đó, kinh Kim Cang chép: “Tu Bồ
Đề! Nếu như ông suy nghĩ như thế này,
phát A Nậu Bồ Đề (Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác), nói tướng đoạn diệt của các
pháp, đừng nghĩ như thế! V́ duyên cớ nào? Phát Bồ Đề tâm là đối với các pháp chẳng nói đến
tướng đoạn diệt, mà cũng chẳng thể
dùng hai món Đoạn Kiến và Thường Kiến để
quán Như Lai”. Ư của
đức Thế Tôn là đừng dùng tướng để
quán, đấy chỉ là một cách nói
ngăn chặn. Lại phải biết, hết thảy
Như Lai đều trọn đủ tướng hảo và công đức, đấy là cách nói biểu
lộ. Nếu chẳng lănh hội như vậy, sẽ
đọa vào Đoạn Diệt Kiến. Do vậy, phải
biết: Nói đến tướng th́ muôn pháp sâm la, trong thực
tế, chẳng có ǵ để đắc. Nói theo Tánh th́ tịch
diệt như nhau, chẳng trở ngại tùy duyên dấy lên
tác dụng, chẳng phải là đoạn diệt! Phải
nên lănh hội như thế đó!
2.2. Biệt đáp
(Luận)
Nhị, biệt đáp giả.
(論)二别答者。
(Luận:
Thứ hai là biệt đáp).
Phân biệt
giải thích hai nghi vấn trên đây. Thứ nhất, do Sanh chính là Vô Sanh, hoàn toàn chẳng phải là ở ngoài Sanh bèn có Vô Sanh; do vậy, sanh về Tịnh Độ chẳng trái nghịch
lư Vô Sanh. Tiếp đó, [đại sư] dùng chánh lư và thánh
giáo để nói rơ.
2.2.1. Biện định bất sanh bất
diệt
(Luận)
Phù bất sanh bất diệt giả, ư sanh duyên trung,
chư pháp ḥa hợp, bất thủ tự tánh. Cầu ư
sanh thể, diệc bất khả đắc. Thử sanh
sanh thời, vô sở tùng lai, cố danh bất sanh. Bất
diệt giả, chư pháp tán thời, bất thủ tự
tánh, ngôn ngă tán diệt. Thử tán diệt thời, khứ
vô sở chí, cố ngôn bất diệt. Phi vị nhân duyên sanh
ngoại, biệt hữu bất sanh bất diệt, diệc
phi bất cầu sanh Tịnh Độ, hoán tác Vô Sanh!
(論)夫不生不滅者,於生緣中,諸法和合,不守自性。求於生體,亦不可得此生。生時無所從來,故名不生。不滅者,諸法散時,不守自性,言我散滅。此散滅時,去無所至,故言不滅。非謂因緣生外,別有不生不滅。亦非不求生淨土,喚作無生。
(Luận:
Phàm bất sanh bất diệt là trong các sanh duyên (các duyên tạo
thành sự sanh), các pháp ḥa hợp, chẳng giữ lấy tự
tánh. Cầu t́m cái bản thể của Sanh cũng chẳng
thể được. Khi cái sanh ấy mà sanh, nó chẳng từ
đâu đến, nên gọi là “bất sanh”. “Bất diệt”
là khi các pháp phân tán, chẳng giữ lấy tự tánh, nói là
cái Ngă tan tác, diệt mất. Trong khi tán diệt ấy, nó chẳng
đi đến nơi đâu, v́ thế, nói là “bất diệt”. Chẳng phải là
ngoài “nhân duyên sanh” mà riêng có bất sanh bất diệt,
cũng chẳng phải là “không cầu sanh Tịnh Độ”
th́ mới gọi là Vô Sanh!)
Nói “bất sanh bất diệt” là
nói: Trong khá nhiều
các nhân duyên có thể sanh ra
cái quả, các pháp ḥa hợp, chẳng giữ lấy tự
tánh, bỗng dưng hiện ra quả pháp (pháp là cái quả
của các nhân duyên trên đây), nhưng t́m kiếm thể
tánh của Sanh th́ cũng chẳng thể được.
Cái Sanh ấy, lúc nó sanh th́ chẳng có ǵ từ đâu đến,
nên gọi là “bất sanh”. Nếu
chẳng quan sát, bèn ngỡ là có chuyện ǵ đó được
sanh; trên thực tế, lúc suy cầu, sẽ chẳng t́m được [pháp
nào là] sanh, nên bảo “Sanh chính là Vô Sanh”.
Có thể xét theo phương diện Lư “có
nhiều nhân duyên” để nhận định điểm
này. Ví như hễ nói đến sanh, nhất định
là có một pháp thật sự đưa đến, vậy
th́ nó đưa đến như thế nào? Nó chỉ do một
nhân duyên từ trong các nhân duyên có thể sanh [ra cái quả]
mà có, hay là do các nhân duyên ḥa hợp với nhau mà sanh ra nó? Nếu
xét riêng từng nhân duyên, mỗi nhân duyên đều chẳng
thể sanh ra cái quả. Đă là mỗi nhân duyên đều
chẳng thể sanh ra quả, [vậy th́] nhiều duyên hợp
lại cũng chẳng thể thấy có một cái quả
thật sự xuất hiện từ đó. Giống
như mỗi hạt cát đều chẳng có cách nào sanh ra dầu, vậy th́ gộp các hạt
cát lại, cũng sẽ chẳng thể ép ra dầu
được. Cũng vậy, trên thực tế, chẳng
có một quả pháp thật sự từ nơi nào đó
đưa đến, do đó, [tạm đặt cho một
giả danh là] Vô Sanh. Hoặc nh́n theo phương diện Lư
“ĺa tứ tánh mà sanh” để
xem xét th́ tự sanh (do chính nó sanh ra), tha sanh (do pháp khác sanh
ra), cộng sanh (do các pháp cùng nhau kết hợp mà sanh), vô
nhân sanh (không có nhân mà sanh ra) đều chẳng thành lập,
lại chẳng có phương thức thứ năm nào
khác! Do xét theo cách này, sẽ chẳng thể lập ra cái
Sanh được. Hoặc là do quan sát như vậy, mối
quan hệ giữa cái Sanh ấy và quả pháp là như thế
nào? Là cùng một Thể, hay là có một cái Thể nào khác? Nếu
là cái Thể nào khác, vậy là cái Sanh ấy ở ngoài quả
pháp, làm sao có thể nói là cái quả ấy có sanh cho
được? Nếu là một Thể, cái được
gọi là Sanh ấy “đang sanh”, chẳng phải là “đă
sanh”. Đang sanh th́ sẽ không có quả, làm sao có thể
thành lập “do sự Sanh ấy mà sanh ra cái quả này” cho
được? Nh́n từ hai bên, [cách lư giải nào] cũng
đều chẳng thể thành lập. Dựa trên những
điều này, sẽ phát hiện: Khi chẳng quan sát bèn nói
là có sự kiện Sanh, xét theo thực tế, chẳng thể
thành lập Sanh được! Đó gọi là “Sanh chính là Vô Sanh”.
Thêm nữa,
“bất diệt” là nói các
pháp khi tán diệt, chẳng có pháp nào giữ lấy một
tự tánh nhất định, chẳng phải là nói ta
đang tán diệt một pháp nào đó. Trong khi tán diệt,
trọn chẳng phải là có một pháp thật sự nào
đó đi đến nơi đâu, cho nên nói là “bất
diệt”. Cũng tức là nếu thừa nhận thật
sự có Diệt, ắt cần phải có một pháp
thật sự diệt mất; nhưng khi duyên tán, nó sẽ bỗng nhiên chẳng
có, trọn chẳng phải là có một pháp thật sự
đi về đâu. Do vậy, chẳng có Diệt. Hoặc là nói “Diệt là phát sanh nơi quả pháp”, nếu thật sự có Diệt, vậy th́ Diệt và quả pháp có mối quan hệ như thế
nào? Là một Thể, hay khác Thể? Nếu khác Thể, vậy
th́ quả pháp ở ngoài Diệt, bàn đến Diệt chi nữa? Nếu bảo là một Thể,
Diệt có nghĩa là “chẳng có”, quả pháp
là pháp Hữu, làm sao có thể nói là một Thể cho được? Nói
chung, chẳng thể kiến lập Diệt, mà cũng chẳng có Diệt thật sự. Do vậy, khi không
quan sát bèn nói “lúc duyên tán, bèn diệt
mất”, truy t́m nơi thực tế th́ chẳng có Diệt! V́ thế, nói “Diệt chính là Vô Diệt”.
C̣n có thể quan sát như thế này, dùng hai sát-na để làm thí dụ. Sát-na
trước thuộc về nhân, sát-na ngay sau đó thuộc
về quả. Sát-na trước chẳng có quả pháp, chẳng
thể nói là “có sanh”; trong sát-na sau, quả pháp đă có, vẫn
chẳng thể kiến lập Sanh, v́ Sanh là đang sanh, chẳng
phải là đă sanh! Lại xét tới Diệt, trong sát-na trước th́ có, trong sát-na
sau th́ không. Nếu trong sát-na trước, nó là đang có, sẽ chẳng thể nói là Diệt. Nếu trong sát-na sau, nó đă không
có, vẫn chẳng thể nói là Diệt, rốt cuộc vẫn chẳng thể kiến
lập Diệt! V́ thế, sanh diệt là giả lập
khi không quan sát, chứ trên thực tế, sẽ chẳng
t́m được!
Như vậy
bèn biết: Hoàn toàn chẳng phải là ở ngoài “nhân duyên sanh” mà có một cái bất sanh bất diệt. Ta
cũng hiểu rơ: Chẳng phải là quyết định
không cầu sanh về Tịnh Độ, ngồi bất
động tại đó mới duy nhất là Vô Sanh! Nói cách
khác, ở trong cơi tục mà chẳng quan sát, bèn an lập
chuyện cầu sanh Tịnh Độ. Trong chân thật, chẳng
t́m thấy Sanh, điều này được diễn
tả là “Sanh chính là Vô Sanh”. V́ thế, sanh về Tịnh Độ chẳng
hề trái nghịch lư Vô Sanh!
(Luận)
Vị thử, Trung Luận kệ vân: “Nhân duyên sở sanh
pháp, ngă thuyết tức thị Không, diệc danh vi giả danh,
diệc danh Trung Đạo nghĩa”. Hựu vân: “Chư pháp
bất tự sanh, diệc bất tùng tha sanh, bất cộng,
bất vô nhân. Thị cố tri vô sanh”. Hựu Duy Ma kinh vân:
“Tuy tri chư Phật quốc, cập dữ chúng sanh không,
nhi thường tu Tịnh Độ, giáo hóa chư quần
sanh”. Hựu vân: “Thí như hữu nhân tạo lập cung thất,
nhược y không địa, tùy ư vô ngại. Nhược
y hư không, chung bất
năng thành. Chư Phật thuyết pháp, thường y Nhị
Đế, bất hoại giả danh, nhi thuyết chư
pháp Thật Tướng”.
(論)為此中論偈云:「因緣所生法,我說即是空,亦名為假名,亦名中道義。」又云:「諸法不自生,亦不從他生,不共不無因,是故知無生。」又維摩經云:「雖知諸佛國及與眾生空,而常修淨土教化諸群生。」又云:「譬如有人,造立宮室。若依空地,隨意無礙。若依虛空,終不能成。諸佛說法,常依二諦。不壞假名,而說諸法實相。」
(Luận:
Do vậy, Trung Luận có bài kệ rằng: “Pháp sanh bởi
nhân duyên, ta nói chính là Không, cũng gọi là giả danh,
cũng gọi nghĩa Trung Đạo”. Lại nói: “Các pháp
chẳng tự sanh, chẳng từ pháp khác sanh, chẳng
cùng, chẳng không nhân. V́ thế, biết vô sanh”. Kinh Duy Ma Cật
lại nói: “Tuy biết các cơi Phật cùng với chúng sanh
đều là Không, nhưng thường tu Tịnh Độ,
giáo hóa các quần sanh”. Lại nói: “Ví như có người
tạo dựng cung điện, nếu
dựa vào chỗ đất trống, sẽ tùy ư vô ngại.
Nếu dựa trên hư không, trọn chẳng
thể thành công được. Chư Phật thuyết
pháp thường dựa trên Nhị Đế, chẳng hoại
giả danh mà nói Thật Tướng của các pháp”).
Do nguyên
nhân này, Trung Luận[8] nói: “Pháp sanh bởi nhân duyên, trên thực
tế là rỗng không, chẳng có tự tánh” v.v… Lại
nói: “Các pháp chẳng phải là
tự sanh, tha sanh, cộng sanh, vô nhân sanh. Do vậy biết
các pháp sanh chính là vô sanh”. Thêm nữa, kinh Duy Ma Cật nói:
“Tuy biết các cơi Phật và
chúng sanh là Không, nhưng thường tu Tịnh Độ,
thường giáo hóa các quần sanh”. Lại nói: “Giống như người xây dựng
cung điện, nếu xây nơi đất trống, sẽ
có thể tùy ư vô ngại; nếu xây trên hư không, sẽ trọn
chẳng thể xây thành công. Chư Phật thuyết pháp
thường dựa trên Nhị Đế (Chân Đế và
Tục Đế), chẳng hoại giả danh mà nói Thật
Tướng của các pháp. V́ thế, đối ứng với
Sanh trong thế tục mà nói là Vô Sanh”.
Trên
đây, đă dẫn thánh giáo để chứng minh, đức Phật thuyết pháp nhằm vào pháp sanh bởi
nhân duyên, hoặc là từ Sanh mà nói Vô Sanh, nói Không. Tuy nói Chân Đế vô tướng, tức là nói “cơi Phật và chúng sanh là Không,
nhưng Tục Đế rành rành, nghiễm nhiên vẫn
thường tu Tịnh Độ, giáo hóa quần sanh, trọn
chẳng phế bỏ sự tướng”. Do vậy, chẳng
phải là “ĺa khỏi Sanh mà nói Vô Sanh”, [chẳng
phải là] rời khỏi sự tướng để nói
lư tánh.
2.2.2. Xét theo chuyện cầu sanh Tịnh
Độ, liễu đạt “Sanh chính là Vô Sanh”. Đấy chính là “do tâm tịnh mà cơi Phật tịnh”
(Luận)
Trí giả xí nhiên cầu sanh Tịnh Độ, đạt
sanh thể bất khả đắc, tức thị chân Vô Sanh. Thử vị “tâm tịnh cố, tức Phật độ tịnh”.
(論)智者熾然求生淨土,達生體不可得,即是真無生,此謂心淨故即佛土淨。
(Luận:
Bậc trí nồng nhiệt cầu sanh Tịnh Độ,
liễu đạt “thể tánh của Sanh trọn chẳng thể được”
chính là Vô Sanh thật sự. Điều này được
nói là “do tâm tịnh, cho nên cơi Phật tịnh”).
Bậc
trí háo hức cầu sanh Tịnh Độ, liễu đạt
ngay trong đó chẳng có Sanh. V́ thế, chẳng chấp tướng Sanh. Do vậy, tâm rỗng rang, thanh tịnh,
sẽ có thể văng sanh Tịnh Độ với phẩm vị
cao. Đấy gọi là “do tâm
tịnh, cho nên cơi Phật tịnh”.
Chữ
Tịnh ở đây nhằm nói người ấy chẳng
đắm chấp “thật sự có Sanh”. Từ tầng bậc tịnh này mà có
công năng lực dụng Bát Nhă, đạt được
quả vị cao, xuất hiện Tịnh Độ càng vi
diệu hơn. Đó chính là “do
tâm tịnh mà cơi Phật tịnh”, hoàn toàn chẳng phải
là rời ĺa chuyện sanh về Tịnh Độ th́ mới
có thể “do tâm tịnh cho nên
cơi Phật tịnh”.
(Luận)
Ngu giả vị Sanh sở phược, văn Sanh tức tác Sanh giải, văn Vô Sanh tức tác Vô Sanh giải, bất tri Sanh giả tức thị Vô Sanh, Vô Sanh tức thị Sanh. Bất đạt thử lư, hoạnh
tương thị phi, sân tha cầu sanh Tịnh Độ,
kỷ hứa ngộ tai! Thử tắc thị báng pháp tội
nhân, tà kiến ngoại đạo dă.
(論)愚者為生所縛,聞生即作生解,聞無生即作無生解。不知生者即是無生,無生即是生,不達此理,橫相是非。瞋他求生淨土,幾許誤哉。此則是謗法罪人,邪見外道也。
(Luận:
Kẻ ngu bị trói buộc bởi Sanh, nghe nói Sanh bèn hiểu là [thật sự có] Sanh, nghe nói Vô Sanh bèn hiểu là Vô Sanh, chẳng biết “Sanh chính là Vô Sanh, Vô Sanh chính là Sanh”. Chẳng thông đạt lư này, ngang
bướng nẩy sanh thị phi, bực tức với kẻ
cầu sanh Tịnh Độ, sai lầm lắm thay! Đấy
chính là tội nhân báng pháp, tà kiến ngoại đạo vậy).
“Kẻ ngu” là kẻ chẳng thấu đạt diệu lư, chẳng
thể hiểu sự lư viên dung “Sanh chính là Vô Sanh”. Kẻ ấy bị hư luận về Sanh ràng buộc, vừa nghe nói Sanh liền tưởng là thật sự có
pháp để sanh; vừa nghe nói đến Vô Sanh, bèn
nghĩ “giống như hư không, cái ǵ cũng chẳng có”,
chẳng chấp thuận “có điều ǵ để thực
hiện”, rơi vào bên Đoạn. Kẻ ấy chẳng biết
“Sanh chính là Vô Sanh, Vô Sanh chính là Sanh”. V́ chẳng liễu đạt diệu lư Trung Đạo, sanh khởi cái tâm thị phi vô lư, cho rằng nếu
đă nói đến Vô Sanh th́ sanh [về Tịnh Độ]
chẳng đúng, sanh tâm sân khuể đối với
người cầu sanh Tịnh Độ, sai lầm lắm
thay! Như vậy th́ sẽ trở thành tội nhân báng pháp,
trở
thành ngoại đạo
tà kiến.
3. Mối nghi thứ ba
(Luận)
Đệ tam nghi, vấn: Thập phương chư Phật
nhất thiết Tịnh Độ, Pháp Tánh b́nh đẳng,
công đức diệc đẳng. Hành giả phổ niệm
nhất thiết công đức, sanh nhất thiết Tịnh
Độ. Kim năi thiên cầu nhất Phật Tịnh Độ,
dữ b́nh đẳng tánh quai, vân hà sanh Tịnh Độ?
(論)第三疑。問:十方諸佛,一切淨土,法性平等,功德亦等。行者普念一切功德,生一切淨土。今乃偏求一佛淨土,與平等性乖。云何生淨土?
(Luận:
Điều nghi thứ ba, hỏi: Hết thảy các Tịnh
Độ của mười phương chư Phật Pháp
Tánh b́nh đẳng, công đức cũng b́nh đẳng,
hành giả niệm trọn khắp hết thảy các công đức, sanh vào hết thảy các Tịnh
Độ. Nay lại riêng cầu Tịnh Độ của
một vị Phật, trái nghịch tánh b́nh đẳng, làm
sao sanh về Tịnh Độ cho được?)
Nêu lên
câu hỏi: Hết thảy các Tịnh Độ của
mười phương chư Phật Pháp Tánh b́nh đẳng,
công đức cũng b́nh đẳng, hành giả lẽ ra phải
dùng cái tâm rộng lớn để niệm trọn khắp
hết thảy các công đức, sanh vào hết thảy Tịnh
Độ, nay lại khăng khăng chỉ cầu sanh vào
Tịnh Độ của một vị Phật, trái nghịch
tánh b́nh đẳng, làm sao c̣n có thể sanh về Tịnh
Độ được nữa?
Đối
phương chất vấn, nghi ngờ: Pháp Tánh vốn b́nh
đẳng, vậy th́ phải b́nh đẳng niệm, sanh
trong trọn khắp các cơi; nay lại thiên vị cầu một vị Phật,
thiên vị sanh vào một cơi Tịnh Độ, [đấy
chính là] trái nghịch tánh b́nh đẳng, làm sao có thể
sanh về Tịnh Độ cho nổi? Bởi lẽ,
đă trái nghịch Pháp Tánh!
Trả
lời: Đối với vấn đề này, chẳng thể
mơ hồ, xí xóa được. Phải biết, Phật
có ba thân là Pháp, Báo, Hóa, cơi có ba loại là Pháp, Báo, Ứng. Phàm
phu muốn nhập môn b́nh đẳng, niệm hết thảy
Phật, sanh vào hết thảy cơi, lại phải có lịch
tŕnh của
riêng họ (quá tŕnh tu tập từng
bước một), phải có phương tiện tiếp
dẫn. Chẳng thể trách móc phàm phu: “V́ sao ngươi chẳng
thể ngay lập tức niệm hết thảy Phật,
sanh vào hết thảy các cơi?” Do vậy, hiện thời phải
xem xét: Có thể thuận lợi dẫn dắt hết thảy
chúng sanh vào Tịnh Độ hay không, cuối cùng, sẽ hết sức nhanh chóng đạt
đến “niệm hết thảy
Phật, sanh vào hết thảy cơi” hay chăng? Đây là
điều chúng ta phải chú ư. V́ thế nói: Thiên vị niệm
một vị Phật, thiên vị cầu một cơi,
đúng là phương tiện nhanh chóng để vào Tịnh
Độ, mà cũng sẽ là rốt ráo được thấy
hết thảy Phật, sanh vào hết thảy các cơi. V́ thế, [kinh văn] hướng dẫn
chúng ta riêng cầu Tịnh Độ của một vị
Phật.
“Riêng niệm một vị Phật”
ở đây phải dựa trên sự nhận thức về
hiệu quả ứng hợp căn cơ và xác suất thành tựu. Trước hết, cần
biết chúng sanh trong cơi này lắm kẻ trược loạn,
do tâm loạn sẽ khó đạt được
tam-muội (những điều duyên theo quá nhiều sẽ
gây nên động loạn, chẳng có cách nào Định
được). Do cái tâm chẳng thể định, sẽ
chẳng thể hiện trọn khắp h́nh bóng. V́ thế,
nói theo kẻ b́nh phàm trong cơi này, nếu niệm trọn khắp
hết thảy các vị Phật, sanh vào hết thảy các
cơi, chuyện
ấy hết sức khó
khăn, chẳng ứng hợp căn cơ! Kế đó,
phải biết: Do v́ căn tánh chậm lụt, kém cỏi,
nếu dạy họ chỉ giữ lấy một đối
tượng để duyên theo, dụng công liên tục chẳng
gián đoạn, sẽ có thể thành tựu tam-muội.
Sau khi tam-muội đă thành, sẽ có thể thấy hết
thảy các vị Phật. Đấy là điều trọng
yếu!
Giống
như mặt trời có thể tỏa nhiệt, nếu làm cho ánh sáng mặt trời
tụ lại một điểm, nó sẽ rất nhanh chóng
đạt đến điểm cháy, sanh ra lửa. Nếu
ánh sáng chẳng tụ lại, vậy th́ vĩnh viễn chẳng đạt
được tí lửa nào! Ở đây, đích xác là vấn
đề hữu hiệu. Hễ tụ tập [ánh sáng mặt
trời], trong một giờ là có thể đốt cháy. Chẳng
tụ tập, mười giờ, một trăm giờ, một
ngàn giờ, một vạn giờ, một ức giờ v.v… vẫn chẳng có cách nào đốt
cháy; có thể thấy tầm quan trọng của việc ứng
hợp căn cơ. Nếu pháp chẳng ứng hợp
căn cơ, chẳng thích hợp với họ, họ sẽ
chẳng tu nổi. Vậy th́ mười ngày tu không nổi,
trăm ngày chẳng tu nổi, ngàn ngày chẳng nổi, suốt
một đời chẳng tu nổi, mười đời
chẳng tu nổi, trăm đời chẳng tu nổi
v.v… sẽ khó thể thành tựu! Nếu họ giữ lấy
một [đối tượng], dốc hết năng
lượng nội tâm ở nơi ấy, tâm thuần nhất liên tục, sẽ
liên kết với A Di Đà Phật ngày càng chặt chẽ,
càng ngày càng tương ứng, càng ngày càng được gia
bị. Như vậy th́ qua một khoảng thời gian khó
khăn, sẽ bắt đầu thuần thục, bắt
đầu thân cận, bắt đầu càng tu càng khá. Trong
đời này, dùng thời gian hữu hạn để tập
trung vận dụng nơi một điểm, chắc chắn
sẽ là một trăm căn cơ th́ một trăm người văng sanh, một ngàn
căn cơ sẽ là một ngàn người văng sanh. Xác suất
thành công là một trăm phần trăm. Nếu chẳng
làm như vậy, để cho cái tâm tán loạn, căn tánh của họ
chậm lụt, kém cỏi, tâm lại tạp loạn, lâu ngày chầy tháng sẽ nẩy sanh rất
nhiều tác dụng phụ, dẫn đến chuyện tu
lâu ngày mà chẳng thành tựu!
Thuốc
phải đúng bệnh, pháp phải thích ứng căn
cơ. Có thể tưởng tượng, nếu có kẻ
trọn đủ tín nguyện, chiếu theo đường
lối “một mực chuyên niệm”
để hành, chuyên tương ứng với A Di Đà Phật,
như vậy th́ sẽ dần dần thâm nhập, chắc
chắn là “một trăm người
tu, một trăm người thành công”. Một khi đă tương ứng với A Di
Đà Phật, chắc chắn sẽ được biển
nguyện của đức Phật nhiếp thọ, chắc chắn là một
trăm người tu th́ một trăm người thành Phật, đạo
lư là như thế đó. Phật Thích Ca hoàn toàn trông thấy
căn tánh của chúng sanh trong thế giới này phổ biến
như thế ấy, cho nên Ngài khuyên dạy: Trước hết, hăy chuyên
niệm một vị Phật, khởi đầu bằng
vị hữu duyên nhất là A Di Đà Phật. Như thế th́ chắc chắn sẽ giải
thoát ngay trong đời này. Khi đă sanh sang Tịnh Độ,
liền dự vào địa vị Bất Thoái Chuyển,
sau đó, nhanh chóng thành tựu viên măn hạnh nguyện
Phổ Hiền rồi thành Phật. Lộ tŕnh này hết sức
trọng yếu; v́ thế, đức Thế Tôn khuyên bảo
mọi người chuyên niệm một vị Phật,
chuyên sanh về một Tịnh Độ.
Dưới
đây, chia thành hai điều để biện luận và
tŕnh bày:
a) Một
đằng là thuận tiện, bởi [dốc tâm] nơi một
pháp sẽ dễ thành tựu tam-muội, dễ sanh về Tịnh
Độ của Phật.
b) Một
đằng là rốt ráo, bởi “một
chính là hết thảy”.
3.1. Một đằng là thuận tiện,
bởi [dốc tâm] nơi một pháp sẽ dễ thành tựu
tam-muội, sanh về Tịnh Độ của Phật
(Luận)
Đáp: Nhất thiết chư Phật độ, thật giai
b́nh đẳng, đản chúng sanh căn độn, trược
loạn giả đa. Nhược bất chuyên hệ nhất
tâm, nhất cảnh, tam-muội nan thành. Chuyên niệm A Di
Đà Phật, tức thị Nhất Tướng tam-muội.
Dĩ tâm chuyên chí, đắc sanh bỉ quốc. Như Tùy
Nguyện Văng Sanh Kinh vân: “Phổ Quảng Bồ Tát vấn Phật:
‘Thập phương tất hữu Tịnh Độ, Thế
Tôn hà cố thiên tán Tây Phương Di Đà Tịnh Độ,
chuyên khiển văng sanh?’ Phật cáo Phổ Quảng: - Diêm Phù
Đề chúng sanh, tâm đa trược loạn, vị thử
thiên tán Tây Phương nhất Phật Tịnh Độ, sử
chư chúng sanh chuyên tâm nhất cảnh, tức dị đắc
văng sanh. Nhược tổng niệm nhất thiết Phật
giả, niệm Phật cảnh khoan, tắc tâm tản mạn,
tam-muội nan thành, cố bất đắc văng sanh”.
(論)答:一切諸佛土,實皆平等。但眾生根鈍,濁亂者多,若不專繫一心一境,三昧難成。專念阿彌陀佛,即是一相三昧。以心專至,得生彼國。如隨願往生經云,普廣菩薩問佛:「十方悉有淨土,世尊何故偏贊西方彌陀淨土,專遣往生?」佛告普廣:「閻浮提眾生,心多濁亂,為此偏贊西方一佛淨土。使諸眾生,專心一境,即易得往生。若總念一切佛者,念佛境寬,則心散漫,三昧難成,故不得往生」。
(Luận:
Đáp: - Hết thảy các cơi Phật đều thật sự
b́nh đẳng, nhưng chúng sanh căn cơ chậm lụt,
trược loạn th́ nhiều. Nếu chẳng chuyên buộc
ư nơi một tâm, một cảnh, tam-muội sẽ khó
thành. Chuyên niệm A Di Đà Phật chính là Nhất Tướng
tam-muội, do tâm chuyên chí, sẽ được sanh về
cơi ấy. Như trong kinh Tùy Nguyện Văng Sanh[9]
đă chép: “Phổ Quảng Bồ Tát hỏi đức Phật:
‘Mười phương đều có Tịnh Độ, v́
sao đức Thế Tôn riêng khen ngợi Tây Phương Di
Đà Tịnh Độ, chuyên dạy văng sanh [về đó]?’
Đức Phật bảo ngài Phổ Quảng: - Chúng sanh
trong cơi Diêm Phù Đề tâm phần nhiều ô trược,
tán loạn. Do vậy, phải riêng ca ngợi một Phật
Tịnh Độ ở phương Tây, khiến cho các chúng
sanh chuyên tâm nơi một cảnh, sẽ dễ được
văng sanh. Nếu niệm chung hết thảy các đức
Phật, do cảnh niệm Phật rộng răi, tâm sẽ tản
mạn, tam-muội khó thành. V́ thế, chẳng được
văng sanh”).
Ở
đây, [đại sư] chỉ ra: Hết thảy các cơi
Phật, thực tế đều b́nh đẳng, nhưng
hiện thời, điều cần phải chú trọng là
làm thế nào để khiến cho chúng sanh chứng nhập cảnh b́nh đẳng
ấy, vậy th́ nhất định phải lập bày một
pháp môn khế hợp căn tánh của chúng sanh trong thế
giới Sa Bà. Nếu pháp môn có thể khế cơ, dễ
thành công, đáng phải nên đề xướng [pháp môn ấy].
Nếu pháp môn chẳng khế cơ, chẳng dễ thành công,
sẽ chẳng đề xướng nó. Như vậy, rốt
cuộc phải nên lập bày pháp nào, hoàn toàn tùy thuộc
căn tánh của chúng sanh.
Chúng sanh
trong cơi [Sa Bà] này căn cơ chậm lụt, kém cỏi,
trong tâm phần nhiều là trạng huống chẳng thanh tịnh,
tạp loạn. Đối ứng với loại chúng sanh
này, nếu chẳng đề xướng chuyên môn buộc
tâm chỉ
duyên theo một cảnh,
sẽ khó thể thành tựu tam-muội. Nhưng chuyên niệm
A Di Đà Phật là Nhất Tướng tam-muội, v́ tâm
chuyên chú nơi một đức Phật, sẽ có thể
sanh về cơi ấy. Trong kinh Tùy Nguyện Văng Sanh, đức
Phật cũng dạy bảo như vậy. Phổ Quảng Bồ Tát cũng nhắc
tới vấn đề này: Mười phương đều có cơi Phật,
v́ sao đức Thế Tôn riêng khen ngợi Di Đà Tịnh
Độ, dạy chúng sanh chuyên môn duyên niệm và văng sanh?
Đức Phật bảo Phổ Quảng: Có quan hệ với
căn tánh của chúng sanh trong Diêm Phù Đề! Tâm họ hết sức chẳng thanh tịnh,
tạp loạn, do như vậy [đức Phật] bèn tất yếu riêng ca ngợi một cơi
Tây Phương Tịnh Độ, khiến cho các chúng sanh chuyên tâm nơi một cảnh, sẽ
dễ văng sanh. Tuy cũng có pháp môn niệm trọn khắp
hết thảy các đức Phật, nhưng cảnh giới
niệm Phật [trong pháp môn ấy] rộng lớn, tâm chúng
sanh tán loạn. Do vậy, khó thể thành tựu tam-muội,
sẽ chẳng thể văng sanh.
Tóm lại,
đức Thế Tôn quan sát căn tánh phổ biến của
chúng sanh trong cơi này, nếu đề xướng pháp môn phổ
niệm, xác suất thành công sẽ rất nhỏ, dẫu có mà cũng như
không, v́ chẳng sanh về Tịnh Độ. Nếu đề
xướng pháp môn chuyên niệm, sẽ khế hợp căn cơ của chúng sanh, trăm
người tu, trăm kẻ văng sanh, ngàn người tu, ngàn kẻ văng sanh. Hơn nữa, nh́n vào lúc
lâm chung, phàm phu chấp tướng sẽ do phương
hướng [xác định] bởi tín nguyện trong tâm để quyết định thọ sanh ở
nơi đâu. Chúng sanh lúc lâm chung chẳng có cách nào duyên theo
vị Phật này hay vị Phật kia. Nếu cứ làm như
vậy, nói theo phía các phàm phu b́nh phàm, chỉ sợ chẳng
sanh vào Tịnh Độ. Thế nhưng, duyên niệm
nơi một vị Phật A Di Đà, chỉ cần cái tâm chuyên chú vào đó, ứng hợp với nguyện lực của
đức Phật, ngay khi ấy, sẽ có thể văng sanh.
V́ thế, đức Thế Tôn đề cao pháp môn “chuyên niệm một vị Phật,
sanh về một Tịnh Độ”.
3.2. Một đằng là rốt ráo, bởi
“một chính là hết thảy”
Phải
biết Phật có ba thân, cơi có ba cơi. Một vị Phật
Di Đà, một cơi Tây Phương vốn là Pháp Thân Phật,
là Pháp Tánh Độ (cơi được kiến lập bởi
Pháp Tánh). Do “một chính là hết thảy”, do đường
tắt này bèn có thể thông đến chỗ rốt
ráo, cũng có nghĩa là “niệm
một vị Phật chính là niệm hết thảy chư
Phật, sanh vào một cơi chính là sanh trong hết thảy các
cơi”. Xác định rành rẽ điều này, sẽ biết
“do phương tiện mà đạt
đến rốt ráo, do một môn mà thành phổ môn (trọn
khắp các môn)”. Từ chỗ này sẽ thấy, do con đường này
bèn có thể chứng nhập tánh b́nh đẳng, đạt
tới mục đích “niệm
hết thảy Phật, sanh trong hết thảy cơi”; do vậy, phải nên đề xướng.
Dưới đây là sự chứng thực về đạo
lư ấy.
(Luận)
Hựu cầu nhất Phật công đức, dữ nhất
thiết Phật công đức vô dị, dĩ đồng
nhất Phật Pháp Tánh cố. Vị thử, niệm A Di Đà Phật, tức niệm
nhất thiết Phật; sanh nhất Tịnh Độ, tức sanh nhất
thiết Tịnh Độ. Cố Hoa Nghiêm kinh vân: “Nhất
thiết chư Phật thân, tức thị nhất Phật
thân. Nhất tâm, nhất trí huệ, lực, vô úy diệc
nhiên”. Hựu vân: “Thí như tịnh măn nguyệt, phổ ứng
nhất thiết thủy. Ảnh tượng tuy vô lượng,
bổn nguyệt vị tằng nhị. Như thị vô ngại
trí, thành tựu Đẳng Chánh Giác. Ứng hiện nhất
thiết sát, Phật thân vô hữu nhị”. Trí giả dĩ
thí dụ đắc giải. Trí giả nhược năng đạt nhất
thiết nguyệt ảnh tức nhất nguyệt ảnh,
nhất nguyệt ảnh tức nhất thiết nguyệt ảnh.
Nguyệt ảnh vô nhị cố, nhất Phật tức nhất
thiết Phật, nhất thiết Phật tức nhất Phật.
Pháp Thân vô nhị cố, xí nhiên niệm nhất Phật thời,
tức thị niệm nhất thiết Phật dă.
(論)又求一佛功德,與一切佛功德無異,以同一佛法性故。為此念阿彌陀佛,即念一切佛。生一淨土,即生一切淨土。故華嚴經云:「一切諸佛身,即是一佛身。一心一智慧,力無畏亦然。」又云:「譬如淨滿月,普應一切水。影像雖無量,本月未曾二。如是無礙智,成就等正覺。應現一切剎,佛身無有二。」智者以譬喻得解,智者若能達一切月影即一月影,一月影即一切月影。月影無二,故一佛即一切佛,一切佛即一佛。法身無二故,熾然念一佛時,即是念一切佛也。
(Luận: Lại
nữa, cầu công đức của một vị Phật
chẳng khác cầu công đức của hết thảy
các vị Phật, do cùng một Phật Pháp Tánh. Do vậy,
niệm A Di Đà Phật chính là niệm hết thảy Phật,
sanh vào một Tịnh Độ chính là sanh vào hết thảy
Tịnh Độ. V́ thế, kinh Hoa Nghiêm chép: “Thân hết
thảy chư Phật, chính là một Phật thân. Một
tâm, một trí huệ, lực, vô úy cũng thế”. Lại
nói: “Ví như trăng tṛn sạch, hiện khắp hết
thảy chỗ có nước, tuy h́nh bóng vô lượng, vầng
trăng chẳng hề hai. Trí vô ngại cũng thế, thành
tựu Đẳng Chánh Giác, ứng hiện hết thảy
cơi, thân Phật chẳng có hai”. Kẻ trí nhờ vào thí dụ
mà hiểu. Nếu kẻ trí có thể thông đạt hết
thảy bóng trăng chính là bóng của một vầng
trăng, bóng của một vầng trăng là hết thảy
bóng trăng, bởi lẽ bóng trăng chẳng hai. Một
vị Phật chính là hết thảy các vị Phật, hết
thảy các vị Phật chính là một vị Phật, v́ Pháp Thân chẳng hai. Khi hăng hái niệm
một vị Phật chính là niệm hết thảy các vị
Phật).
Hơn nữa,
cầu công đức của một vị Phật chẳng
khác [cầu] công đức của hết thảy các vị
Phật. Do duyên cớ ǵ? V́ duyên cớ chư Phật đều có cùng một Pháp
Tánh. Phật Phật đạo đồng, Lư Thể và
công đức đều b́nh đẳng. Do đó, niệm
A Di Đà Phật là niệm hết thảy Phật, sanh Tây
Phương Tịnh Độ là sanh vào hết thảy các
cơi. Cũng v́ vậy, kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết thảy chư Phật đều có cùng một
Pháp Thân, cùng một trí huệ, cùng một công đức”.
Kinh c̣n nói: Ví như vầng trăng viên măn, thanh tịnh, hiện
khắp trong hết thảy các ḍng nước, tuy có vô
lượng h́nh bóng, nhưng chẳng có hai vầng trăng
gốc. Trí vô ngại thành tựu Đẳng Chánh Giác, từ Pháp Thân ứng theo cơ nghi của
chúng sanh mà hiện trọn khắp trong hết thảy cơi
nước, nhưng thân Phật vốn có trọn chẳng
có hai!
Bậc
trí sẽ từ thí dụ này mà lư giải, cũng có
nghĩa là bậc trí có thể liễu đạt bóng
trăng trong hết thảy ngàn muôn gịng sông chính là bóng của một vầng
trăng, bóng dáng của một vầng trăng chính là bóng
trăng [soi] trong hết thảy sông ng̣i; bởi lẽ, vầng trăng chẳng hai. Chẳng thể nói vầng trăng gốc nơi
bóng trăng trong một
gịng nước ít hơn một chút, vầng trăng gốc nơi
bóng trăng trong ngàn sông
ng̣i sẽ nhiều hơn một chút. Điều này
biểu đạt bóng của một vầng trăng chính
là hết thảy các bóng trăng. Cũng tức là nói theo
cái nguyên gốc (vầng trăng thật sự, Pháp Thân của
Phật) th́ không hai. Công đức của Phật Di Đà
chẳng ít, công đức của chư Phật chẳng
nhiều! Pháp Giới Tạng Thân của A Di Đà Phật
vốn là như vậy, trọn chẳng phải là ít
hơn hết thảy Phật, mà hết thảy Phật
cũng chẳng nhiều hơn A Di Đà Phật. Do vậy
bèn liễu giải: Do tam thân chẳng hai, niệm một vị
A Di Đà Phật chính là niệm hết thảy Phật. Do
bốn cơi viên dung, sanh vào một cơi của Tây Phương Tịnh
Độ chính là sanh vào hết thảy các cơi. Đây là từ
một pháp chuyên môn nhằm dẫn dắt phàm phu dễ thấy Phật, dễ
sanh vào cơi tịnh, rốt cuộc là sẽ chắc chắn
thấy hết thảy Phật, sanh trong hết thảy
cơi, v́ bản thể chẳng hai vậy.
Nói rơ
ràng hơn th́ h́nh bóng của thân Phật chỉ là do vọng thức biến hiện. Sở
dĩ nói là “vọng” v́ trong
chân thật sẽ chẳng có [h́nh bóng ấy], nhưng do chúng
sanh có sức tập khí ḥa hợp với bi nguyện
của chư Phật, nay quư vị trông thấy h́nh bóng [thân
Phật sai khác], nhưng trong chân thật th́ chỉ có Pháp Giới
Tạng Thân A Di Đà Phật, thuần túy là Pháp Thân đang
khởi tác dụng. Trong chân thật đă không có các h́nh bóng ấy, những thứ ấy đều
là thân Phật bất nhị. V́ thế, đừng nên đối với chuyện
này mà dấy lên cách nh́n [so đo] hơn kém, [bởi lẽ], hết thảy các vị Phật đă hiện ra, trên thực tế đều là
lực dụng của Pháp Thân, chẳng sai khác. Đă là lực
dụng của Pháp Thân, tức toàn là do Pháp Thân khởi tác dụng. Hiểu được
điều này, sẽ biết “một
chính là hết thảy, hết thảy đều là Pháp Thân,
hết thảy đều chẳng hai”.
Điều
then chốt là phải nh́n vào bổn nhân (thân Phật thật
sự, Pháp Thân), đừng nên nh́n vào những h́nh bóng hiển
hiện bởi vọng thức, [để rồi so đo] rốt cuộc là “một” th́ tốt hơn, hay “nhiều”
th́ tốt hơn. Nếu so đo nơi vọng
thức, đây là “một”, kia là “nhiều”, dường
như “nhiều” sẽ hay hơn một! Nhưng phải
biết: Phía sau của cái “một” này và phía sau của cái
“nhiều” kia, đều vốn là cùng một thứ. Giống
như một vị A Di Đà Phật hóa hiện vô số
vị A Di Đà Phật, đều là do cùng một Pháp Thân
Phật khởi tác dụng, chẳng phải là hai cái Thể khởi lên tác dụng! Phía sau của
sắc thân A Di Đà Phật mà quư vị trông thấy
trước mặt chẳng phải là Pháp Thân Phật hay sao?
Phía sau của bao nhiêu h́nh tượng thân Phật chẳng
phải là cùng một Pháp Thân hay sao? Các thân ấy vốn chẳng
hai! Cái thật sự tương ứng chính là một Pháp Thân Phật, do vậy gọi
là “niệm một vị Phật
chính là niệm hết thảy các vị Phật”.
Cuối
cùng, chúng ta phải nắm vững trọng điểm “do chuyên mà phổ” (từ
chuyên nhất niệm một vị Phật mà thành niệm
trọn khắp các vị Phật). Đương nhiên là
người hỏi [cật vấn như thế] chẳng
sai, phải niệm hết thảy các đức[10], phải
sanh vào hết thảy cơi, chẳng thể thiên lệch
nơi một điều nào, v́ tâm tánh của chúng ta trọn
khắp, b́nh đẳng. Hơn nữa, hết thảy chư
Phật đều ở trong tâm, hết thảy các đức đều ở trong tâm; nhưng cần phải
phân định giai đoạn rơ ràng! Thực tế ấy chính là nội hàm (nội
dung được chứa đựng) trong đại hạnh
Phổ Hiền, nó trọn khắp, vô tận, viên măn. V́ thế,
bất cứ nguyện nào cũng đều nói “tận pháp giới, hư không giới”, “niệm niệm tương tục
vô hữu gián đoạn” (niệm nào cũng đều
liên tục, chẳng gián đoạn), cũng đều là
vào trọn khắp hết thảy các cơi, niệm trọn
khắp hết thảy các vị Phật, tu trọn khắp
hết thảy các hạnh, không ǵ chẳng viên măn trọn
khắp. Sau khi đă hiển lộ rơ rệt pháp giới
tâm, do xứng hợp với pháp giới tâm mà xuất hiện
đại hạnh như thế đó, nhưng phải
phân định rơ rệt từng giai đoạn: Chuyện
này chẳng phải là phàm phu mà ḥng tu được, chênh lệch
quá xa! Nếu xét theo trạng huống tu hành trước mắt
của chúng ta, chỉ sợ vô số kiếp cũng khó thể
đạt được! Phổ Hiền Bồ Tát thống
nhiếp, dẫn dắt Hoa Tạng hải chúng đều
cùng về thế giới Cực Lạc chính là con
đường tắt để thực hiện biển nguyện của Phổ Hiền. Đấy chính là đạo
trọng yếu để chứng nhập thế giới
Hoa Tạng, phát sanh đại hạnh của Phổ Hiền.
Thông qua con
đường này, ai nấy đều có thể thành tựu
viên măn hạnh nguyện Phổ Hiền. Do vậy, đấy
chính là lộ tŕnh “từ chuyên
đến phổ”. “Chuyên”
là chuyên niệm một vị A Di Đà Phật, chuyên sanh về
một cơi Tây Phương. “Phổ”
là hễ đến nơi đó, sẽ được thuận
duyên hết sức tốt đẹp gia bị, sẽ nhanh chóng khai phát bổn tánh. Hễ trí Văn Thù
được khai phát, sẽ nhanh chóng tiêu trừ tập
khí vọng chấp (chấp trước hư vọng),
pháp giới chân tâm sẽ hiện tiền. Đương
nhiên là cuối cùng sẽ giống như Quán Thế Âm Bồ
Tát, hết thảy các vị Phật đều ở trong
pháp giới tâm, đương nhiên là cúng trọn khắp hết
thảy các vị Phật, niệm trọn khắp hết
thảy đức, hành trọn khắp hết thảy thiện.
Đấy là đạo lư tự nhiên. Do vậy, trước
hết phải mong cầu chuyên, sau đấy sẽ đạt
đến phổ. Đấy là đường tắt,
tránh khỏi vô số ngơ rẽ, vô số đường
ṿng, vô số ḍ dẫm mù mờ và thoái chuyển ḥng có thể nhanh chóng thành tựu.
Tiếp
đó, lại dùng thánh giáo để chứng minh điều
này. Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm nói: “Ngă kư văng sanh bỉ quốc
dĩ, hiện tiền thành tựu thử đại nguyện”
(Tôi đă văng sanh cơi ấy rồi, hiện
tiền thành tựu đại nguyện này). Lại nói: “Trí lực quảng đại biến
thập phương, phổ lợi nhất thiết chúng
sanh giới” (Trí lực rộng lớn trọn mười
phương, lợi khắp hết thảy chúng sanh giới),
hạnh
trọn khắp hết thảy, hạnh b́nh đẳng hoàn toàn được
thực hiện. Kinh Văn Thù Bát Nhă nói: “Buộc tâm nơi một vị Phật, chuyên
xưng danh hiệu của Ngài, như thế th́ sẽ có thể
niệm nào cũng liên tục nơi một vị Phật,
sẽ có thể trong một niệm mà thấy quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật, v́ công đức
niệm một vị Phật và công đức do niệm
vô lượng Phật chẳng hai”. Đă thế, c̣n nói so sánh: Phật pháp do
ngài A Nan được nghe vẫn thuộc vào số lượng
hữu hạn. Nếu đạt được Nhất Hạnh
tam-muội, đối với các pháp môn trong các kinh, đều
phân biệt liễu
tri từng thứ một, ngày
đêm tuyên nói, trí huệ biện tài trọn chẳng
ngưng dứt. Đa văn biện tài của ngài A Nan chẳng bằng một phần
trăm ngàn [sự đa văn biện tài của người
đă đắc Nhất Hạnh tam-muội]. Có thể thấy
là do thâm nhập một môn, cuối cùng sẽ có thể thấy
vô lượng Phật, đắc Nhất Hạnh tam-muội,
có thể biết trọn khắp vô lượng pháp. Đấy
cũng là một chứng cớ rơ rệt cho chuyện “từ chuyên mà đạt tới
phổ”.
Hơn nữa,
từ Di Đà nguyện hải, sẽ có thể biết
[tánh chánh xác của đường lối “từ chuyên đến phổ”]. Chẳng hạn
như trong nguyện thứ bốn mươi lăm [của A Di Đà Phật]
có nói: “Các vị Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu
của ta đều có thể đắc Phổ Đẳng
tam-muội. An trụ trong tam-muội này, măi cho đến
khi thành Phật, sẽ thường thấy vô lượng
chẳng thể nghĩ bàn hết thảy chư Phật”.
Đấy cũng là do chuyên mà đạt đến phổ,
có thể thấy vô lượng Phật. Lại c̣n nói
đến cảnh giới thành tựu Thần Túc Thông: “Trời, người trong nước
chẳng đắc Thần Túc, trong khoảng một niệm
tối thiểu là chẳng thể vượt qua trăm
ngàn ức na-do-tha các cơi Phật, tôi chẳng giữ lấy
ngôi Chánh Giác”. Có thể thấy là hễ sanh về Tịnh Độ, liền được Phật gia bị, trong khoảng
một niệm, tối thiểu sẽ vượt qua
trăm ngàn ức na-do-tha cơi Phật, có thể thừa sự,
cúng dường vô lượng Phật.
Tương
tự như thế, một mai khai phát bổn tánh, do v́ chân
tâm trọn khắp, tự nhiên sẽ có thể phát sanh hạnh
Phổ Hiền, lại c̣n sẽ dần dần viên măn. Tất
nhiên rốt cuộc là niệm khắp hết thảy các vị
Phật, cúng khắp hết thảy chư Phật, tu trọn
khắp hết thảy đức, sẽ thực hiện
biển hạnh Phổ Hiền như thế đó.
4. Mối
nghi thứ tư
(Luận) Đệ tứ
nghi, vấn: Đẳng thị niệm cầu sanh nhất
Phật Tịnh Độ, hà bất thập phương
Phật độ trung, tùy niệm nhất Phật Tịnh
Độ, tùy đắc văng sanh, hà tu thiên niệm Tây
Phương Di Đà Phật da?
(論)第四疑。問:等是念求生一佛淨土,何不十方佛土中,隨念一佛淨土隨得往生,何須偏念西方彌陀佛耶?
(Luận: Điều
nghi thứ tư, hỏi: Đă đều là niệm Phật
cầu sanh về Tịnh Độ của một vị
Phật, sao chẳng từ trong các cơi Phật ở mười
phương, tùy ư niệm Tịnh Độ của một
vị Phật để tùy ư được sanh [về cơi
đó], sao cứ khăng khăng niệm Phật Di Đà ở
Tây Phương vậy?)
Kế
đó, lại nêu câu hỏi: Cùng niệm Phật, cầu
sanh về Tịnh Độ của một vị Phật giống
hệt như nhau, v́ sao chẳng tùy tiện niệm Tịnh
Độ của một vị Phật trong trong mười phương cơi Phật để tùy ư văng sanh, cớ ǵ cứ nhất định phải
khăng khăng niệm A Di Đà Phật vậy? Có
nghĩa là mười phương đều có cơi Phật
thanh tịnh, chúng ta tùy tiện chọn một cơi Phật
để văng sanh là được rồi, v́ sao cứ
khăng khăng chọn Tây Phương Cực Lạc thế
giới, khăng khăng niệm A Di Đà Phật vậy?
Trả
lời: Ở đây có khá nhiều nhân duyên, dùng năm nguyên
nhân để nói rơ: a) Do nghe lời đức Phật dạy bảo.
b) Do bi
nguyện nhiếp thọ chúng sanh của Phật Di Đà.
c) Do
chư Phật đă chứng thực.
d) Do Phật
Di Đà đặc biệt có duyên với cơi này.
e) Do các
cơi Phật khác đều chẳng bằng cơi Phật Di
Đà là nơi được kinh luận ân cần dặn
ḍ, khuyên nhủ văng sanh.
(Luận)
Đáp: Phàm phu vô trí, bất cảm tự chuyên, chuyên dụng
Phật ngữ, cố năng thiên niệm A Di Đà Phật.
(論)答:凡夫無智,不敢自專。專用佛語,故能偏念阿彌陀佛。
(Luận:
Đáp: Phàm phu vô trí, chẳng dám tự chuyên, chuyên nương
theo lời Phật; v́ thế, đặc biệt niệm A
Di Đà Phật).
Trả
lời: Phàm phu chẳng có trí huệ như Phật, tự
ḿnh phán đoán thường không chánh xác, chẳng thích
đáng. V́ thế, chẳng dám dùng ư thức của chính ḿnh để quyết định,
cần phải nhất tâm nghe theo lời đức Phật
chỉ dạy. Do trong kinh, đức Phật đă chỉ
dạy duyên cớ, chúng ta có thể xác định “cần
phải đặc biệt niệm A Di Đà Phật”.
4.1. Do nghe lời đức Phật dạy
bảo
(Luận)
Vân hà dụng Phật ngữ? Thích Ca đại sư nhất
đại thuyết pháp, xứ xứ thánh giáo, duy khuyến
chúng sanh chuyên tâm thiên niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Như Vô Lượng
Thọ Kinh, Quán Kinh, Văng Sanh Luận đẳng, sổ thập
dư bộ kinh luận văn đẳng, ân cần chỉ
thọ, khuyến sanh Tây Phương, cố thiên niệm dă.
(論)云何用佛語?釋迦大師一代說法,處處聖教,唯勸眾生,專心偏念阿彌陀佛,求生西方極樂世界。如無量壽經、觀經、往生論等,數十餘部經論文等,殷勤指授,勸生西方,故偏念也。
(Luận:
V́ sao vâng theo lời Phật? Thích Ca đại sư một
đời thuyết pháp, trong mọi thánh giáo, chỉ khuyên
chúng sanh chuyên tâm riêng niệm A Di Đà Phật, cầu sanh
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Như kinh Vô
Lượng Thọ, Quán Kinh, Văng Sanh Luận v.v…
hơn mấy chục bộ kinh, luận đều ân cần
chỉ dạy, khuyên sanh Tây Phương. V́ thế, riêng niệm
[A Di Đà Phật]).
V́ sao dựa
theo lời chỉ dạy do chính miệng đức Phật
đă nói mà lựa chọn riêng niệm A Di Đà Phật?
Đấy là v́ thấy Phật Thích Ca là bậc đại
đạo sư của chúng sanh trong giai đoạn này, suốt
một đời Ngài thuyết pháp, mọi nơi mọi
chốn trong thánh giáo chỉ một mực khuyên bảo chúng sanh chuyên tâm riêng niệm A
Di Đà Phật, cầu sanh về thế giới Cực Lạc.
Như trong kinh Vô Lượng Thọ, Quán Kinh, Văng Sanh Luận v.v… hơn mấy chục bộ
kinh, luận đều ân cần chỉ bảo, truyền
dạy, khuyên bảo pháp môn văng sanh thế giới Cực Lạc.
Chúng ta chẳng có trí huệ, chẳng biết v́ sao phải
hành như vậy, nhưng do đức Phật dùng Nhất Thiết Chủng
Trí thấy như vậy, đă xếp đặt cho chúng ta như vậy,
cho nên chúng ta tin tưởng lời đức Phật dạy
bảo. V́ lẽ đó, [chúng ta] riêng niệm A Di Đà Phật.
4.2. Do bi nguyện nhiếp thọ chúng sanh
văng sanh của Phật Di Đà
(Luận)
Hựu A Di Đà Phật biệt hữu đại bi tứ
thập bát nguyện, tiếp dẫn chúng sanh. Hựu Quán
Kinh vân: “A Di Đà Phật hữu bát vạn tứ thiên
tướng, nhất nhất tướng hữu bát vạn
tứ thiên hảo, nhất nhất hảo phóng bát vạn tứ
thiên quang minh, biến chiếu pháp giới niệm Phật
chúng sanh, nhiếp thủ bất xả. Nhược hữu
niệm giả, cơ cảm tương ứng, quyết
định đắc sanh”.
(論)又阿彌陀佛別有大悲四十八願,接引眾生。又觀經云:「阿彌陀佛有八萬四千相,一一相有八萬四千好。一一好放八萬四千光明,遍照法界。念佛眾生,攝取不捨。若有念者,機感相應,決定得生。」
(Luận: Lại
nữa, A Di Đà Phật có riêng bốn mươi tám nguyện đại
bi tiếp dẫn chúng sanh. Lại nữa,
Quán Kinh nói: “A Di Đà Phật có tám vạn bốn ngàn tướng,
mỗi một tướng có tám vạn bốn ngàn hảo,
mỗi một hảo tỏa ra tám vạn bốn ngàn quang
minh, chiếu trọn khắp chúng sanh niệm Phật trong
pháp giới, nhiếp thủ chẳng bỏ. Nếu có kẻ
niệm Ngài, cơ cảm tương ứng, chắc chắn
sẽ được văng sanh”).
Lại
nữa, nói theo bổn nguyện của A Di Đà Phật,
Ngài đặc biệt do ḷng đại bi mà phát khởi bốn
mươi tám nguyện để tiếp dẫn chúng sanh.
Quán Kinh cũng nói: A Di Đà Phật có tám vạn bốn
ngàn tướng, mỗi một tướng có tám vạn bốn
ngàn hảo, mỗi một hảo tỏa ra tám vạn bốn
ngàn quang minh. Quang minh ấy chiếu trọn khắp cả
một khu vực to lớn là pháp giới, chiếu đến
chúng sanh niệm Phật, một mực nhiếp thủ chẳng
bỏ. Chỉ cần niệm A Di Đà Phật, cơ cảm
của chính ḿnh hễ tương ứng với bi nguyện
của Phật th́ sẽ chắc chắn được
văng sanh.
Nguyện
của A Di Đà Phật chân thật, chẳng hư giả,
chiếu vào tâm ta. Do vậy, chúng ta riêng niệm A Di Đà Phật,
quyết định văng sanh thế giới Cực Lạc.
Bi nguyện của A Di Đà Phật chẳng có nguyện
nào hư dối, ta tin tưởng điều này, lại
tin tưởng sự chỉ dạy của Phật Thích
Ca, cho nên riêng niệm A Di Đà Phật.
4.3. V́ chư Phật đă chứng thực
(Luận)
Hựu A Di Đà Kinh, Đại Vô Lượng Thọ Kinh, Cổ Âm Vương Đà La Ni Kinh đẳng vân: “Thích Ca Phật thuyết
kinh thời, giai hữu thập phương hằng
sa chư Phật, thư kỳ thiệt tướng, biến
phú tam thiên đại thiên thế giới, chứng thành nhất
thiết chúng sanh niệm A Di Đà Phật, thừa Phật
đại bi bổn nguyện lực cố, quyết định
đắc sanh Cực Lạc thế giới”.
(論)又阿彌陀經、大無量壽經、鼓音王陀羅尼經等云:「釋迦佛說經時,皆有十方恒沙諸佛,舒其舌相,遍覆三千大千世界,證成一切眾生念阿彌陀佛,乘佛大悲本願力故,決定得生極樂世界。」
(Luận: Lại nữa,
kinh A Di Đà, kinh Đại Vô Lượng Thọ, kinh Cổ
Âm Vương Đà La Ni v.v… đều nói: “Khi đức
Phật Thích Ca thuyết pháp, đều có chư Phật
nhiều như cát sông Hằng trong mười phương
thè lưỡi che khắp tam thiên đại thiên thế giới,
chứng thực hết thảy chúng sanh niệm A Di Đà
Phật, nương vào sức bổn nguyện đại
bi của Phật, quyết định được sanh
về thế giới Cực Lạc”).
Lại
nữa, mười phương hằng hà sa số chư
Phật đều hiện tướng lưỡi rộng
dài cùng chứng minh điều này: Niệm A Di Đà Phật,
sanh vào quốc độ của Ngài, chắc chắn là sẽ
đạt được lợi ích chẳng thể
nghĩ bàn. Ta tin tưởng mười phương
chư Phật chẳng nói lời dối gạt. Do vậy,
nghe đức Phật dạy riêng niệm A Di Đà Phật
th́ [tin tưởng lời đức Phật dạy] chắc
chắn là đúng. Trong các kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ,
kinh Cổ Âm Vương Đà La Ni v.v… đều nói: Khi
đức Phật nói những kinh ấy, đều có
chư Phật trong mười phương thế giới
nhiều như số cát sông Hằng cùng nhau hiện tướng lưỡi rộng
dài, bao trùm trọn khắp phạm vi tam thiên đại
thiên thế giới, chứng thực hết thảy chúng sanh
niệm A Di Đà Phật, do nương vào sức bổn
nguyện đại bi của A Di Đà Phật, sẽ chắc
chắn có thể sanh vào thế giới Cực Lạc.
Người
đời đều biết, hễ nói dối th́ lưỡi
sẽ ngắn, thè ra, ngay cả chót mũi cũng chẳng
chạm tới, nhưng chư Phật thè lưỡi che khắp
tam thiên đại thiên thế giới, làm sao có chút vọng
ngữ nào cho được? Các Ngài muốn chứng minh:
Dùng pháp môn đơn giản, dễ dàng như thế này, sẽ có thể đạt được
lợi ích tột cùng thù thắng. Tuy chúng ta là nhục nhăn
phàm thai, chẳng thấy duyên khởi, sức Pháp Tánh v.v… của
chuyện hiếm hoi, lạ lùng này, thật sự là quá sâu,
quá mầu
nhiệm, quá hết sức chẳng
thể nghĩ bàn, nhưng chúng ta tin tưởng chư Phật
chẳng nói dối gạt người khác, đặc biệt tin tưởng Thánh
Ngôn Lượng, tin lời đức Phật chỉ dạy, chỉ cần riêng
niệm A Di Đà Phật, nhất định sẽ đạt
được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Do vậy,
chúng ta riêng niệm A Di Đà Phật, chẳng có mảy may
do dự!
4.4. Do Phật Di Đà đặc biệt hữu
duyên với cơi này
(Luận)
Đương tri A Di Đà Phật dữ thử thế
giới, thiên hữu nhân duyên. Hà dĩ đắc tri? Vô
Lượng Thọ kinh vân: “Mạt thế pháp diệt chi
thời, đặc trụ thử kinh bách niên tại thế,
tiếp dẫn chúng sanh văng sanh bỉ quốc”. Cố tri A Di
Đà Phật, dữ thử thế giới cực ác chúng sanh,
thiên hữu nhân duyên.
(論)當知阿彌陀佛與此世界,偏有因緣。何以得知?無量壽經云:「末世法滅之時,特駐此經,百年在世,接引眾生往生彼國。」故知阿彌陀佛與此世界極惡眾生,偏有因緣。
(Luận: Hăy nên biết A Di Đà
Phật và thế giới này riêng có nhân duyên, v́ sao biết?
Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Thời Mạt khi pháp diệt,
đặc biệt lưu lại kinh này một trăm
năm trên cơi đời để tiếp dẫn chúng sanh
văng sanh cơi ấy”. V́ thế, biết A Di Đà Phật và chúng
sanh cực ác trong thế giới này riêng có nhân duyên).
Phải
biết A Di Đà Phật có nhân duyên đặc biệt với
chúng sanh trong thế giới này. V́ sao biết? Trong kinh Vô
Lượng Thọ, đức Phật Thích Ca đă nói:
“Trong đời Mạt, khi pháp diệt, đức Phật đặc biệt dùng sức từ bi
lưu lại kinh này một trăm năm trên cơi đời
ḥng tiếp dẫn chúng sanh văng sanh cơi nước của A
Di Đà Phật”. Do vậy biết: A Di Đà Phật có
nhân duyên đặc biệt với chúng sanh cực ác trong thế
giới này, cũng v́ vậy mà chúng sanh có thể
nương cậy Ngài. Dẫu thế giới trược
ác cách mấy, thậm chí tới thời kỳ Phật pháp
bị diệt mất, pháp này vẫn có thể độ
sanh. Bởi lẽ đó, Phật Thích Ca dùng sức từ
bi đặc biệt lưu pháp này lại trụ thế một
trăm năm.
Chúng sanh
trong cơi này và A Di Đà Phật đặc biệt hữu
duyên, đặc biệt dễ dàng dùng pháp môn Di Đà để
đắc độ. Tới khi những pháp môn khác đều
chẳng thể cứu, chúng sanh chỉ cần nhất tâm
niệm A Di Đà Phật th́ sẽ có thể được
tiếp dẫn sang Tây Phương quốc độ. Nếu
chẳng có duyên, lại ở trong thời kỳ trược
ác như vậy, lẽ nào có thể vượt thoát luân hồi
cho được? Chỉ v́ hết sức hữu duyên, tâm
chúng sanh bèn hướng về nơi đó, giống như
con nhớ mẹ. Mẹ con có thiên tánh tương quan, do được Phật
lực nhiếp tŕ mà sanh về thế giới Cực Lạc.
Giống như trên cơi đời, hễ có duyên bèn thành mẹ
con. Do hữu duyên bèn nhất tâm niệm “mẹ ơi”, cầu
mẹ đến giúp đỡ, chẳng cầu ai khác!
Duyên phận mỏng manh sẽ chẳng quan tâm tới, hoặc
là chẳng dấy lên tác dụng thân thiết. Nếu duyên rất
sâu, rất gần, sẽ có thể lập tức khởi
tác dụng, nhất định sẽ kéo chúng sanh ra khỏi
luân hồi.
4.5. V́ các cơi Phật khác đều chẳng
bằng cơi Phật Di Đà là nơi được kinh luận
luôn ân cần dặn ḍ, khuyên nhủ văng sanh
(Luận)
Kỳ dư chư Phật, nhất thiết Tịnh Độ,
tuy nhất kinh, lưỡng kinh lược khuyến văng
sanh, bất như Di Đà Phật quốc, xứ xứ
kinh luận, ân cần đinh ninh, khuyến văng sanh dă.
(論)其餘諸佛,一切淨土,雖一經兩經,略勸往生。不如彌陀佛國,處處經論,殷勤叮嚀,勸往生也。
(Luận:
Hết thảy các Tịnh Độ của những vị
Phật khác tuy được một hai kinh đại lược
khuyên văng sanh, chẳng bằng cơi của đức Phật
Di Đà, kinh luận nào cũng đều ân cần căn
dặn, khuyên nhủ văng sanh).
Thích Ca Mâu
Ni Phật quán chiếu toàn thể thế giới Sa Bà, [nhận
thấy] phàm phu trong đời Mạt trược ác càng cần
phải trông cậy A Di Đà Phật cứu độ. V́
thế, trong các kinh, đức Phật Thích Ca luôn ân cần
căn dặn, khuyên lơn chúng sanh văng sanh Di Đà Phật
quốc. Chẳng như những cơi Phật khác chỉ
được khuyên bảo văng sanh đại lược
trong một hai bộ kinh. Chúng ta phải thấy dụng ư
của đức Phật ở nơi đâu!
* Nêu bày điều tâm yếu
Bản thể của Phật Di Đà và hết thảy chư Phật
chẳng hai, lại do Ngài có duyên với chúng ta nhất, cho nên đặc
biệt niệm A Di Đà Phật.
Từ
hai câu hỏi như thế trở đi, chúng ta thấy rơ
chân tướng của duyên khởi. Ở đây, phải nêu ra một
câu hỏi: Hết
thảy các Tịnh Độ của
chư Phật đều rất thù thắng, v́ sao đối
với các Tịnh Độ khác, đức Phật chỉ
nói đơn giản trong một, hai bộ kinh? Nhưng đối với Di Đà Tịnh Độ,
sao lại trong các kinh nhiều ngần ấy Ngài luôn ân cần căn dặn, khuyên dạy
văng sanh?
Phật
Thích Ca trông thấy đại duyên khởi ở chỗ
nào, có những chúng sanh hữu duyên với Tịnh Độ
của các vị Phật ấy, muốn sanh về đó.
V́ thế, đức Phật cũng nhắc đến,
nhưng những cơi ấy hoàn toàn chẳng mang tánh chất
phổ biến. Do đó, Ngài chỉ nói trong một hai bộ kinh là
được rồi. Nhưng pháp môn Tây Phương Tịnh
Độ khác hẳn, nó và các chúng sanh trong giáo pháp suốt một
đời đức Phật có mối quan hệ đặc
biệt to lớn, chủ yếu là hai điều:
1) Thứ
nhất, trong thế giới Sa Bà, măi cho đến lúc Phật
pháp diệt mất, có hết sức nhiều chúng sanh hữu
duyên với A Di Đà Phật, giống như người
trong thế gian lập gia đ́nh, hoặc là người với
người sống chung với nhau, có duyên th́ mới có thể
ở chung một chỗ được. Lại giống
như sư phụ trong quá khứ, thâu nhận đồ
đệ đều phải xem xét nhân duyên. Vị ấy chẳng có tâm riêng tư, nếu duyên phận [của tṛ] với thầy chẳng sâu, thầy sẽ chỉ dạy quư vị:
“Ngươi hữu duyên với vị sư phụ ở
nơi nào đó, ngươi hăy tới đó”. Hữu duyên
th́ sẽ có thể đắc độ, thành công hết sức
dễ dàng. V́ thế, đức Phật cũng phải xem
xét cái duyên. Từ điều này, có thể thấy: Phần
đông chúng sanh trong thế giới Sa Bà có duyên cùng A Di
Đà Phật.
2) Chúng
sanh trong cơi này chẳng tương ứng với các Tịnh
Độ khác, chỉ có Tịnh Độ của A Di
Đà Phật là dễ sanh về nhất. Một mai đă tin
nhận, chân tâm mong mỏi được văng sanh, cậy vào phép Tŕ Danh
đơn giản là đă có thể sanh về đó. Từ
lúc đức Phật xuất thế cho đến một
trăm năm trước khi Phật pháp hoàn toàn diệt mất,
trong khoảng thời gian dài như vậy, chúng sanh nhiều
ngần ấy thảy đều trông cậy A Di Đà Phật
mà giải thoát, mà thành Phật. Chuyện này khá trọng
đại. Do vậy, trong kinh đức Phật mới ân
cần căn dặn, đặc biệt nhấn mạnh,
trong ấy có duyên cớ đại duyên khởi rất lớn.
Chúng ta
không có trí huệ, chẳng biết nhân duyên bao đời
nhiều kiếp và mối quan hệ với A Di Đà Phật,
chính ḿnh cần phải cậy vào pháp môn nào hữu duyên, phải đi theo con đường
nào để được độ thoát, nhưng Phật
Thích Ca đă biết hoàn toàn. Chúng ta chỉ cần tin sâu lời
đức Phật chỉ dạy, nhất tâm nhất ư niệm
A Di Đà Phật, nhất tâm nhất ư cầu sanh về thế
giới Cực Lạc, như vậy th́ chắc chắn sẽ
ở chung với Phật. Quyết định giống
như lăng tử đă phiêu bạt nhiều đời, rốt
cuộc t́m được mẹ, t́m được quê nhà,
t́m được con đường của chính ḿnh. Sau
khi đă nhận định như vậy, bèn nhất tâm nhất ư niệm A Di Đà Phật,
cầu sanh về thế giới Cực Lạc. Phải lănh
hội giống như thế đó!
Những
kẻ b́nh phàm thường cho rằng phổ niệm đặc
biệt thù thắng, nhưng qua chọn lựa như vậy,
sẽ thấy vẫn là chuyên niệm tốt hơn. [Chuyên
niệm] khế cơ, xác suất thành công cao, cuối cùng lại
c̣n có thể đạt tới phổ niệm. Như thế
th́ sẽ chọn lựa chuyên niệm một vị Phật.
Hơn nữa, trong chuyên niệm, lại chọn vị tốt
nhất là A Di Đà Phật, Ngài và chúng ta hữu duyên nhất,
đặc biệt dễ thành công! Do điều này bèn biết,
pháp môn Tịnh Độ đặc biệt tốt đẹp,
do Phật Thích Ca đă chọn lựa chắc chắn cho
chúng ta, chẳng phải do là chủ trương của người nào khác. Đức Phật trụ thế tám
mươi năm rồi ra đi rất nhanh, nhưng Ngài
đă sắp xếp tốt đẹp ngàn thu muôn đời cho con người. Nếu chẳng nói ra một
pháp có thể nhiếp trọn khắp đại chúng, thực
hiện dễ dàng, lại đặc biệt tột bậc
thù thắng, người đời sau biết làm như thế
nào đây? Cậy vào ai để được độ
thoát? Đă chẳng thấy Phật, lại chẳng có
duyên y chỉ, làm sao có thể ngay trong đời này vượt thoát luân hồi, hoàn thành chuyện
thành Phật cho được? Gần như là chẳng thể
nào được!
Phật
Thích Ca ḷng Từ sâu xa, tâm Bi to lớn, hoàn toàn thấy duyên khởi, thấy
chiếc bè Từ khiến cho chúng sanh đắc độ
là pháp môn Di Đà. V́ thế, trong rất nhiều kinh giáo,
đức Phật đều đặc biệt chỉ
bày Tây Phương Tịnh Độ. Có thể nói là đây
là chuyện được căn dặn đi, căn dặn
lại, ủy thác, giao phó trọng yếu nhất, có thể
suy ra mà biết tầm quan trọng của chuyện này. Sau
khi đă hiểu rơ như vậy, chúng ta sẽ nhất tâm
nhất ư chuyên niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Cực
Lạc Tịnh Độ, chẳng c̣n có cách nghĩ nào khác!
5. Mối nghi thứ năm
(Luận)
Đệ ngũ nghi, vấn: Cụ phược phàm phu, ác
nghiệp hậu trọng, nhất thiết phiền năo nhất
hào vị đoạn, Tây Phương Tịnh Độ xuất
quá tam giới, cụ phược phàm phu vân hà đắc sanh?
(論)第五疑。問:具縛凡夫惡業厚重,一切煩惱一毫未斷,西方淨土出過三界,具縛凡夫云何得生?
(Luận:
Mối nghi thứ năm, hỏi: Phàm phu đầy dẫy triền phược, ác nghiệp sâu
nặng, hết thảy phiền năo chưa đoạn mảy
may, Tây Phương Tịnh Độ vượt khỏi
tam giới, phàm phu đầy dẫy triền phược
làm sao sanh về đó cho được?)
Nêu câu hỏi:
Phàm phu đầy dẫy triền phược, ác nghiệp
rất
sâu nặng, hết thảy
phiền năo chưa đoạn mảy may nào, nhưng Tây
Phương Tịnh Độ là cơi thánh vượt khỏi
tam giới, phàm phu đầy dẫy triền phược
làm sao có thể sanh về đó cho được?
Đây
là nêu ra nghi ngờ chất vấn [về vấn đề]
nhân và quả chẳng phù hợp: Chỉ cần có Hoặc
Nghiệp chừng bằng mảy tóc, sẽ thọ sanh trong tam giới, chẳng có cách
nào sanh vào Tịnh Độ ở ngoài tam giới được.
Hiện thời, ác nghiệp sâu dầy dường ấy, phiền năo chẳng
đoạn tí nào, làm sao có thể sanh về cơi Tịnh
Độ ở ngoài tam giới cho được? Đơn
giản là chuyện viễn vông!
Khi giải
trừ [nghi vấn] này, trước hết sẽ chỉ
ra, nhận thức của quư vị đối với luật
nhân quả hăy c̣n rất hẹp ḥi. Luật nhân quả không
chỉ giới hạn trong nhân quả thuộc về tự
lực, mà c̣n có nhân quả do tha lực thêm vào đó. Hơn
nữa, xét theo tha lực, Phật lực đă đạt
tới mức tối cao vô thượng. Nếu chỉ nói
theo tự lực, đương nhiên là nhân quả chẳng
phù hợp, nhưng nói theo [phương diện được]
tha lực thêm vào, sẽ hết sức hợp lư. Giống
như kẻ mù tịt về kiến thức khoa học,
chỉ cậy vào sức ḿnh mà toan phát minh máy bay, computer v.v… làm các chuyện thuộc
về khoa học kỹ thuật, đương nhiên là
nhân quả chẳng phù hợp. Kẻ đó ngay cả định
luật vật lư đơn giản c̣n chẳng hiểu,
làm sao có thể nắm vững nguyên lư khoa học phức tạp,
tiến tới phát minh, khai phá cho được? Thế nhưng,
dựa vào tha lực làm Tăng Thượng Duyên, kẻ mù
tịt về kiến thức khoa học cũng có thể
ngồi phi cơ bay lên trời xanh, có thể nghe điện
thoại vượt ngoài biển thẳm và đại
dương, có thể dùng computer tốc độ cao để
tính toán, hoàn toàn có thể lư giải được. Cũng
giống như thế, phàm phu đầy dẫy triền
phược có thể phối hợp sức tín nguyện với
sức oai thần của Phật mà có thể văng sanh Tịnh
Độ.
Đối
với nghi vấn này, [Trí Giả đại sư] đă
chia thành ba đoạn để giải thích:
a) Trong
t́nh h́nh như vậy, chỉ cậy vào tự lực sẽ
chẳng thể văng sanh, kiêm nhờ vào tha lực th́ sẽ có
thể văng sanh.
b) Dựa
theo luận Tỳ Bà Sa để nhận định Nan Hành Đạo và Dị Hành Đạo.
c) Dùng
thí dụ để chứng thực.
5.1. Trong t́nh h́nh như vậy, chỉ cậy
vào tự lực sẽ chẳng thể văng sanh, kiêm nhờ
vào tha lực th́ sẽ có thể văng sanh
Đối
với t́nh h́nh như thế này, phải chia ra hai loại
t́nh huống là tự lực và tha lực. Chỉ cậy
vào tự lực, sẽ chẳng thể sanh về Tịnh
Độ; cậy thêm tha lực th́ sẽ có thể sanh về
Tịnh Độ.
(Luận)
Đáp: Hữu nhị chủng duyên, nhất giả tự
lực, nhị giả tha lực. Tự lực giả, thử
thế giới tu đạo, thật vị đắc sanh
Tịnh Độ. Thị cố, Anh Lạc kinh vân: “Thỉ tùng cụ phược
phàm phu vị thức Tam Bảo, bất tri thiện ác nhân chi
dữ quả. Sơ phát Bồ Đề tâm, dĩ tín vi bổn.
Trụ tại Phật gia, dĩ giới vi bổn, thọ Bồ
Tát giới, thân thân tương tục, giới hạnh bất
khuyết, kinh nhất kiếp, nhị kiếp, tam kiếp,
thỉ chí Sơ Phát Tâm Trụ. Như thị tu hành Thập
Tín, Thập Ba La Mật đẳng, vô lượng hạnh
nguyện, tương tục vô gián, măn nhất vạn kiếp,
phương thỉ chí đệ lục Chánh Tâm Trụ.
Nhược cánh tăng tấn chí đệ thất Bất
Thoái Trụ, tức chủng tánh vị”. Thử ước
tự lực, tốt vị đắc sanh Tịnh Độ.
(論)答:有二種緣,一者自力,二者他力。自力者,此世界修道,實未得生淨土。是故瓔珞經云:「始從具縛凡夫,未識三寶,不知善惡因之與果,初發菩提心。以信為本住在佛家,以戒為本受菩薩戒。身身相續戒行不闕,經一劫二劫三劫,始至初發心住。如是修行十信十波羅蜜等無量行願,相續無間滿一萬劫,方始至第六正心住。若更增進,至第七不退住,即種性位。」此約自力,卒未得生淨土。
(Luận:
Đáp: Có hai thứ duyên, một là tự lực, hai là tha lực.
Tự lực là tu đạo trong thế giới này th́ quả thật chưa
thể sanh về Tịnh Độ được! Do
đó, kinh Anh Lạc nói: “Thoạt đầu từ địa
vị phàm phu đầy dẫy triền phược,
chưa hiểu biết Tam Bảo, chẳng biết nhân và
quả thiện ác, mới phát Bồ Đề tâm, lấy
tín làm gốc, trụ trong nhà Phật, lấy giới làm gốc,
thọ giới Bồ Tát, đời này liên tiếp sang
đời kia, giới hạnh chẳng khuyết, trải
qua một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, mới đạt
đến Sơ Phát Tâm Trụ. Tu hành Thập Tín, Thập
Ba La Mật v.v… vô lượng hạnh nguyện như thế
liên tục, chẳng gián đoạn, trọn đủ một
vạn kiếp th́ mới đạt đến địa
vị thứ sáu là Chánh Tâm Trụ. Nếu tăng tấn
hơn, đạt tới địa vị thứ bảy
là Bất Thoát Trụ, tức địa vị thuộc vào
chủng tánh”. Đấy là xét theo tự lực, rốt cuộc
chưa sanh về Tịnh Độ được).
Nhân duyên
thành tựu Tịnh Độ có hai loại là tự lực
và tha lực. Xét theo tự lực, tu đạo trong thế
giới này, [chúng sanh] ở mức độ này chẳng thể
nào sanh về Tịnh Độ. V́ thế, kinh Anh Lạc
đă miêu tả cụ thể tiến tŕnh tu đạo. Tịnh
Độ là quả vị xuất tam giới đặc biệt
cao, nhưng phàm phu do thuộc t́nh trạng trọn đủ
triền phược (phiền năo), cậy vào sức của
chính ḿnh để phát triển từng bước, sẽ
là một quá tŕnh phải tốn thời gian rất lâu dài, đạt tới tŕnh độ tu chứng
đặc biệt cao mới vượt thoát tam giới,
sanh vào Tịnh Độ. Nói cụ thể, sẽ là như
thế này:
Một
phàm phu đầy đủ phiền năo triền phược,
thoạt đầu từ chẳng nhận biết Tam Bảo,
chẳng biết thiện ác, nhân quả, sau khi gặp gỡ
thiện duyên, bắt đầu quy y, tin nhân quả. Đấy
là phàm phu khởi sự nhập đạo. Nhưng phải
biết: Trong tâm thật sự kiến lập [niềm tin
để] quy y và [thấu hiểu] nhân quả, đặc
biệt khó khăn! Phải là sau khi [đă kiến lập tín tâm và sự hiểu
biết] như vậy th́ mới có thể phát Bồ Đề
tâm, dùng tín tâm làm căn bản, mà cũng là đă chân thật
phát khởi đạo tâm, tiến nhập Đại Thừa
đạo. Sau đó, thọ Bồ Tát giới làm căn bản,
trụ trong nhà Phật, từ đời này tiếp nối
sang đời khác, giới hạnh chẳng khuyết, trải
qua một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, mới đạt
tới địa vị Sơ Phát Tâm Trụ. Quá tŕnh chuyển
từ cái tâm phàm phu thành cái tâm của bậc Sơ Phát Tâm Trụ
rất lâu dài. Sau đấy, tu tập Thập Tín, Thập
Ba La Mật v.v… vô lượng hạnh nguyện, liên tục,
chẳng gián đoạn, trọn hết một vạn kiếp,
mới đạt tới
địa vị thứ
sáu là Chánh Tâm Trụ. Lại tăng tấn đến địa
vị thứ bảy là Bất Thoái Trụ. Tới đây mới
được coi là “chủng
tánh vị” (địa vị thuộc vào chủng tánh Phật).
Có thể thấy rằng, xét theo phương diện cậy
vào tự lực, rốt cuộc chẳng thể do trạng
huống kém cỏi như thế mà sanh vào Tịnh Độ
được! Nh́n từ trạng huống trước mắt
của phàm phu, ác nghiệp rất nặng, chẳng đoạn
một mảy phiền năo, thậm chí c̣n chưa thể
đè nén [phiền năo] nổi. Trong t́nh huống này, tất
nhiên là sẽ tiếp tục luân hồi, ngay cả thân người
c̣n khó thể giữ được, làm sao có thể sanh về
Tịnh Độ cho nổi?
Xem tiếp,
tuy chưa đoạn một mảy phiền năo, nhưng nếu
cậy thêm tha lực, tức nguyện lực đại
bi của A Di Đà Phật, sẽ có thể ngay trong một
đời vượt khỏi khổ luân, sanh vào Tịnh
Độ ở ngoài tam giới.
(Luận)
Tha lực giả, nhược tín A Di Đà Phật đại
bi nguyện lực, nhiếp thủ niệm Phật chúng sanh,
tức năng phát Bồ Đề tâm, hành Niệm Phật
tam-muội, yếm ly tam giới thân, khởi hành Thí, Giới,
tu phước, ư nhất nhất hạnh trung, hồi nguyện
sanh bỉ Di Đà Tịnh Độ, thừa Phật nguyện
lực, cơ cảm tương ứng, tức đắc
văng sanh.
(論)他力者,若信阿彌陀佛大悲願力攝取念佛眾生,即能發菩提心行念佛三昧,厭離三界身。起行施戒修福,於一一行中,回願生彼彌陀淨土,乘佛願力機感相應即得往生。
(Luận:
Tha lực là nếu tin vào đại bi nguyện lực của
A Di Đà Phật nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật,
liền có thể phát Bồ Đề tâm, hành Niệm Phật
tam-muội, chán ĺa cái thân trong tam giới, thực hành Thí, Giới, tu
phước, trong mỗi một hạnh, đều hồi
hướng nguyện sanh về cơi Di Đà Tịnh Độ
kia, nương vào nguyện lực của Phật, cơ cảm
tương ứng, liền được văng sanh).
Xét theo
trạng huống của tha lực, dẫu là phàm phu đầy
dẫy triền phược, nhưng do có đủ nội
hàm Tín, Nguyện, Hạnh, tương ứng với Phật lực, th́ sẽ được văng sanh. Nói đến
Tín th́ chủ yếu là tin tưởng vào đại bi nguyện
lực của A Di Đà Phật có thể nhiếp thủ
chúng sanh niệm Phật. V́ thế, một dạ gieo ḿnh
vào biển nguyện của Phật Di Đà. “Nguyện” là tùy sức phát tâm
xuất ly, Bồ Đề tâm dẫn về Tịnh Độ.
Cũng là phát khởi cái tâm “ta
muốn thành Phật”, chán ĺa cái thân trong tam giới, mong
sanh về Tịnh Độ ở ngoài tam giới. Đối
với mỗi loại thiện hạnh đă hành như
Thí, Giới, tu tam phước, đều hồi hướng
nguyện văng sanh Di Đà Tịnh Độ. Đấy là nội
dung của Nguyện. Hành Niệm Phật tam-muội,
v́ để văng sanh thành Phật mà nhất tâm niệm A Di
Đà Phật. Đă có nội hàm ba tư lương Tín, Nguyện,
Hạnh, sẽ có thể cảm ứng Phật, được
Phật lực nhiếp tŕ, bèn sanh vào thế giới Cực Lạc. Đấy
là t́nh h́nh nơi tha lực.
5.2. Dựa theo luận Tỳ Bà Sa để
nhận định Nan Hành Đạo và Dị Hành Đạo
(Luận)
Thị cố Thập Trụ Bà Sa Luận vân: “Ư thử
thế giới tu đạo, hữu nhị chủng, nhất giả Nan Hành
Đạo, nhị giả Dị Hành Đạo. Nan Hành giả, tại ư ngũ trược
ác thế, ư vô Phật thời cầu A Bệ Bạt
Trí, thậm nan khả đắc. Thử nan vô số trần
sa, thuyết bất khả tận. Lược trần hữu
ngũ”.
(論)是故十住婆沙論云:「於此世界修道有二種,一者難行道,二者易行道。難行者,在於五濁惡世,於無佛時,求阿裨跋致甚難可得。此難無數塵沙說不可盡,略陈有五。
(Luận: Do vậy, Thập Trụ
Bà Sa Luận viết: “Tu đạo trong thế giới này
có hai loại, một là đạo khó hành, hai là đạo
dễ hành. Khó hành là ở trong đời ác ngũ trược,
nhằm lúc không có Phật mà cầu Bất Thoái Chuyển, rất
khó thể đạt được. Sự khó khăn này
[dẫu sánh ví nhiều]
như vô số bụi cát, vẫn chẳng thể nói trọn
hết được. Trần thuật đại lược
th́ có năm điều”).
Như trong phần trên đă nói, có hai phương
thức tu hành là chỉ cậy vào tự lực và [tự lực] cậy thêm Phật lực! V́ thế, Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận có nói: Tu đạo
trong thế giới này ḥng đạt Bất Thoái Chuyển
th́ có hai loại là Nan Hành Đạo và Dị Hành Đạo.
“Nan hành” (Khó hành) là
nói trong đời ác ngũ trược, nhằm thời kỳ
không có Phật, cầu Bất Thoái Chuyển đặc biệt
khó thể thành tựu. Những chỗ khó khăn nhiều
lắm, dẫu dùng số lượng lớn như vô số
trần sa [để sánh ví] vẫn chẳng
thể nói trọn hết được. Nếu với mỗi
điều đều nêu cặn kẽ sự khó khăn
này, sự khó khăn nọ, đúng là ngàn muôn nỗi khó khăn, có vô số khó khăn. Ở
đây, trần thuật giản yếu năm chỗ khó
khăn:
(Luận) Nhất giả,
ngoại đạo tương thiện, loạn Bồ Tát
pháp.
(論)一者外道相善,亂菩薩法。
(Luận: Một là ngoại đạo
đem những “điều lành” làm loạn pháp Bồ Tát).
Một
là trong chánh pháp của đức Phật, Tiểu Thừa
có ba pháp ấn là Vô Thường, Vô Ngă, Tịch Diệt, Đại
Thừa có một pháp ấn là Thật Tướng, một
mực tu hành, ắt đều đạt được
thánh quả. Ngoại đạo chẳng vậy, mê hoặc,
tà kiến. Những điều họ nói là tương tự
thiện, chẳng phải là thiện chân thật, dùng tà loạn
chánh. Ai chẳng thể phân biệt, biện định, sẽ
trở thành nhân duyên chướng đạo rất sâu, phá
hoại Bồ Tát pháp của người ta.
(Luận)
Nhị giả, vô lại ác nhân, phá tha thắng đức.
(論)二者無賴惡人,破他勝德。
(Luận:
Hai là kẻ ác vô lại phá hoại đức thù thắng của
người khác).
Hai là trong
đời ô trược, kẻ ác trông thấy người
tu đạo sẽ chẳng giúp cho họ thành tựu, mà ngược
ngạo tuyên nói những lời gièm chê, báng bổ, phá hoại,
hủy báng, [đấy] cũng là [người tu đạo]
bị kẻ ác nhiễu loạn.
(Luận)
Tam giả, điên đảo thiện quả, năng hoại phạm
hạnh.
(論)三者顛倒善果,能壞梵行。
(Luận:
Ba là điên đảo thiện quả có thể phá hoại
phạm hạnh).
Chữ “thiện quả” chỉ quả
báo nhân thiên, hoàn toàn chẳng phải là vô lậu thiện. Tạm
thời hưởng vui, rốt cuộc rơi vào khổ th́
gọi
là “điên đảo”. Trong thế
gian này, thường có những kẻ chấp lấy phước
báo nhân thiên, phá hỏng pháp hạnh xuất thế tiến
hướng Niết Bàn tịch tĩnh!
(Luận)
Tứ giả, Thanh Văn tự lợi, chướng ư
đại từ.
(論)四者聲聞自利,障於大慈。
(Luận:
Bốn là Thanh Văn do tự lợi mà chướng ngại ḷng đại từ).
Thường bị rơi vào tự lợi, đấy chính là sự tác ư chủ yếu
của hàng Tiểu Thừa, chướng ngại tâm đại
từ bi dấy khởi.
(Luận)
Ngũ giả, duy hữu tự lực, vô tha lực tŕ.
(論)五者唯有自力,無他力持。
(Luận:
Năm là chỉ có tự lực, chẳng có tha lực nhiếp
tŕ).
Dẫu
tiến nhập hạnh Đại Thừa, nhưng v́ khuyết
thiếu tha lực, chỉ cậy vào tự lực, lại
có rất nhiều chỗ khó khăn, chính ḿnh chẳng thể
làm chủ, có thể đi vào ngơ rẽ, chẳng có sức
giúp đỡ, khó thể khai phát v.v…
(Luận)
Thí như bả nhân bộ hành, nhất nhật bất quá sổ
lư, cực đại tân khổ, vị tự lực dă.
(論)譬如跛人步行,一日不過數里,極大辛苦,謂自力也。
(Luận:
Ví như người thọt chân đi bộ, một ngày bất
quá được vài dặm, tột cùng khó nhọc, đó
là nói đến tự lực vậy).
Cũng giống
như vậy, sẽ gặp phải ngoại đạo chướng,
phàm phu chướng, Tiểu Thừa chướng, duy tự
lực chướng (chướng ngại do chỉ cậy vào tự lực). Giống
như một người thọt chân tập tễnh muốn
đi đường rất xa, một ngày chẳng đi được
mấy dặm, đặc biệt vất vả. Đó gọi
là “tự lực”.
(Luận)
Dị Hành Đạo giả, vị tín Phật ngữ, giáo
Niệm Phật tam-muội, nguyện sanh Tịnh Độ,
thừa Di Đà Phật nguyện lực nhiếp tŕ, quyết
định văng sanh bất nghi dă. Như nhân thủy lộ
hành, tạ thuyền lực cố, tu du tức chí thiên lư, vị
“tha lực” dă. Thí như liệt phu tùng Chuyển Luân
Vương, nhất nhật nhất dạ, châu hành Tứ
Thiên Hạ, phi thị tự lực, Chuyển Luân Vương
lực dă.
(論)易行道者,謂信佛語,教念佛三昧,願生淨土。乘彌陀佛願力攝持,決定往生不疑也。如人水路行,藉船力故須臾即至千里,謂他力也。譬如劣夫從轉輪王,一日一夜周行四天下,非是自力,轉輪王力也。
(Luận:
Đạo dễ hành tức là tin tưởng lời đức
Phật dạy Niệm Phật tam-muội, nguyện sanh về
Tịnh Độ, nương vào nguyện lực của
Phật Di Đà nhiếp tŕ, quyết định văng sanh,
chẳng ngờ chi. Như người đi đường
thủy, nhờ vào sức thuyền, nên trong khoảnh khắc có thể đến
ngàn dặm, đấy gọi là “tha lực”. Ví như kẻ
kém cỏi, do theo Chuyển Luân Vương, trong một ngày
một đêm có thể đi trọn khắp Tứ Thiên Hạ,
chẳng phải là tự lực, mà là do sức của Chuyển Luân Vương).
“Dị
Hành Đạo” là nói tới chuyện tin nhận pháp môn Niệm
Phật tam-muội do đức Phật đă dạy, nguyện
sanh về Tịnh Độ, nương vào nguyện lực
của A Di Đà Phật nhiếp tŕ, quyết định văng
sanh, chẳng ngờ chi nữa! Trong đó, “tin lời Phật” là nói đă trọn đủ
Tín, “nguyện sanh” là trọn
đủ Nguyện, “thừa
Di Đà Phật nguyện lực
nhiếp tŕ” chính là sức tín nguyện kết hợp với Phật lực, “quyết định văng sanh” là nói tới cái quả sanh vào Tịnh Độ. Đây
là chỉ dạy rành rẽ hành tướng của Dị
Hành Đạo: Bản thân chỉ cần có đủ tín
nguyện, do Phật lực gia bị, chắc chắn sẽ
đạt được cái quả sanh về cơi Tịnh
Độ thù thắng nhiệm mầu, có thể thấy chỗ
sai khác vời vợi so với Nan Hành Đạo. Giống
như người theo đường thủy, do mượn
dùng sức thuyền, cho nên trong giây lát có thể đi được
ngàn dặm. Đấy là tha lực.
Dùng thí dụ
để nói th́ ví như có một người hết sức
gầy g̣, yếu ớt, chẳng có một tí năng lực ǵ, nhưng người ấy
đi theo Chuyển Luân Vương, v́ Ngài có đủ đức
tướng tín, nguyện v.v… Người ấy bằng ḷng
quy phục, theo hầu Chuyển Luân Vương. Chuyển
Luân Vương do ḷng từ bi có thể dẫn người
ấy theo. Nếu người ấy đă không tin, lại
chẳng nguyện, dẫu có năng lực to lớn như
chư thiên, Chuyển Luân Vương cũng chẳng dẫn
người ấy theo. Nếu năng lực nhỏ yếu,
chỉ cần có ḷng tín thuận, có đức phát nguyện,
mong muốn, sẽ được Chuyển Luân
Vương nhiếp thọ, được dẫn lên Luân
Bảo, trong một ngày, một đêm, có thể dạo trọn khắp Tứ Thiên Hạ. Đấy
chẳng phải là sức ḿnh, mà là do sức của Chuyển Luân Vương. Điều
này hiển thị tướng trạng của tha lực.
5.3. Dùng thí dụ để chứng thực
(Luận)
Nhược ngôn hữu lậu phàm phu bất đắc
sanh Tịnh Độ giả, diệc khả hữu lậu
phàm phu ưng bất đắc kiến Phật thân. Nhiên Niệm
Phật tam-muội, tịnh vô lậu thiện căn sở
khởi. Hữu lậu phàm phu, tùy phần đắc kiến
Phật thân thô tướng dă, Bồ Tát kiến vi tế
tướng, Tịnh Độ diệc nhĩ, tuy thị vô
lậu thiện căn sở khởi, hữu lậu phàm
phu phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, cầu sanh Tịnh
Độ, thường niệm Phật cố, phục diệt
phiền năo, đắc sanh Tịnh Độ, tùy phần
đắc kiến thô tướng, Bồ Tát kiến vi diệu
tướng, thử hà sở nghi? Cố Hoa Nghiêm kinh thuyết:
“Nhất thiết chư Phật sát, b́nh đẳng phổ
nghiêm tịnh, chúng sanh nghiệp hạnh dị, sở kiến
các bất đồng”, tức kỳ nghĩa dă.
(論)若言有漏凡夫不得生淨土者,亦可有漏凡夫應不得見佛身。然念佛三昧並無漏善根所起,有漏凡夫隨分得見佛身粗相也,菩薩見微細相。淨土亦爾,雖是無漏善根所起,有漏凡夫發無上菩提心,求生淨土,常念佛故伏滅煩惱,得生淨土,隨分得見粗相,菩薩見微妙相,此何所疑?故華嚴經說:「一切諸佛剎,平等普嚴淨,眾生業行異,所見各不同。」即其義也。
(Luận: Nếu nói phàm phu hữu
lậu chẳng được sanh vào Tịnh Độ, lẽ
ra phàm phu hữu lậu cũng sẽ chẳng trông thấy
thân Phật. Nhưng Niệm Phật tam-muội hoàn toàn do vô
lậu thiện căn dấy lên. Phàm phu hữu lậu tùy
phần được thấy thô tướng nơi thân Phật,
Bồ Tát thấy tướng vi tế. Tịnh Độ cũng
thế, tuy do vô lậu thiện căn dấy khởi, nhưng
phàm phu hữu lậu phát tâm Vô Thượng Bồ Đề,
cầu sanh Tịnh Độ, do thường niệm Phật,
chế phục, diệt trừ phiền năo, được
sanh về Tịnh Độ, tùy phần được thấy
thô tướng, Bồ Tát thấy tướng vi diệu,
chuyện này có ǵ đáng nghi? Do đó, kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết
các cơi Phật b́nh đẳng, trang nghiêm, thanh tịnh trọn
khắp, do nghiệp hạnh của chúng sanh sai khác mà mỗi
người thấy mỗi khác”, chính là nói về ư nghĩa
này vậy).
Đây
là dùng chánh báo để suy ra y báo. Nếu nói phàm phu hữu
lậu chẳng thể sanh vào Tịnh Độ, vậy th́
nói theo cùng một lư, lẽ ra phàm phu hữu lậu cũng sẽ chẳng
thể thấy thân Phật! Thế nhưng, tuy Niệm Phật tam-muội do
thiện căn vô lậu dấy khởi, nhưng phàm phu hữu
lậu có thể tùy phần trông thấy thô tướng nơi
thân Phật, c̣n Bồ Tát có thể thấy tế tướng
nơi thân Phật. Cùng một lư mà suy, tuy Tịnh Độ
do thiện căn vô lậu dấy khởi, nhưng phàm phu hữu
lậu phát tâm Vô Thượng Bồ Đề cầu sanh Tịnh
Độ, do thường niệm Phật, có thể chế
phục, diệt trừ phiền năo, được sanh về
Tịnh Độ, sẽ tùy phần thấy thô tướng của Tịnh
Độ, Bồ Tát thấy tướng vi tế; chuyện này có ǵ đáng để hoài nghi?
V́ thế, kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết
thảy các cơi Phật b́nh đẳng, thanh tịnh, trang
nghiêm, chúng sanh do nghiệp hạnh khác biệt mà mỗi
người thấy khác nhau”. Phàm phu văng sanh thấy thô tướng,
Bồ Tát văng sanh sẽ thấy tế tướng. Do được
Phật lực gia bị, hữu lậu phàm phu cũng có thể
sanh về Tịnh Độ.
Tóm lại,
nếu chỉ nh́n theo tự lực, phàm phu đầy dẫy
triền phược sẽ chẳng thể sanh về Tịnh
Độ ở ngoài tam giới v́ chưa đoạn Hoặc
nghiệp. Nhưng do pháp môn này kiêm cậy vào tha lực, do thần lực của Phật chẳng
thể nghĩ bàn, kẻ có đủ tín nguyện niệm Phật
chắc chắn sẽ có thể văng sanh.
Tịnh Độ Thập
Nghi Luận
Phần 1 hết
[1]
Khenpo là một danh xưng cao quư trong Phật giáo Tây Tạng,
gần như tương đương với danh
xưng Ḥa Thượng. Trong truyền thống Tây Tạng,
người được mang danh xưng này phải theo học
Phật học tối thiểu mười ba năm tại
các Phật Học
Viện lớn và
đậu các kỳ sát hạch nghiêm ngặt. Để
được công nhận là một Khenpo, tăng sinh phải
có khả năng diễn giảng và bảo vệ các luận
điểm của ḿnh trong các cuộc tranh luận trên tối
thiểu năm khoa mục chủ
yếu của Đại Thừa tức
Bát Nhă, Trung Quán, Giảo Lượng, A Tỳ Đạt Ma, và Luật Tạng.
[2]
Nguyên văn “亦如人乘上轮船迅速达到信心之地那样”.
[3]
Đúng ra, pháp danh của Tổ phải là Trí Nghĩ (智顗),
nhưng do từ trước đến nay các sách vở
thường phiên âm tên Ngài là Trí Khải, nên chúng tôi vẫn
vâng theo thói quen xưa nay.
[4]
Cha Ngài là Trần Khởi Tổ, giỏi
chữ, lại có tài quân sự. Khi Tiêu Dịch làm thứ sử
Kinh Châu, ông Trần Khởi Tổ đă làm mạc khách (cố
vấn). Khi Tiêu Dịch trở thành Lương Nguyên Đế,
đă phong cho ông Trần làm Ích Dương Huyện Khai Quốc
Hầu, nên thường gọi là Ích Dương Hầu.
[5]
Trần Thiếu Chúa chính là Trần Hậu Chủ (tức
Trần Thục Bảo) là vua cuối cùng của nhà Nam Trần
thời Nam Bắc Triều. Trần Hậu Chúa là vị vua
ham mê tửu sắc, giỏi văn chương, thích đạo
Phật, thích nghe pháp, nhưng không nghiêm túc tu tập. Năm
589, kinh đô Kiến Khang (Nam Kinh) của nhà Trần bị
rơi vào tay quân đội nhà Tùy, nhà Trần diệt vong.
Ông được Tùy Văn Đế (Dương Kiên) quản
thúc tại kinh thành Trường An của nhà Tùy và đối
đăi tử tế cho đến khi chết.
[6]
Theo bộ Thiên Thai Cửu Tổ Truyện do ngài Sĩ Hành
biên soạn vào đời Nam Tống, Trí Giả đại
sư nhập định trên núi Ngọc Tuyền, bỗng
thấy Quan Vũ (Quan Vân Trường, Quan Công) hiện ra cầu
xin được truyền Tam Quy Ngũ Giới, và thề sẽ hộ
tŕ đạo tràng của tông Thiên Thai. Do vậy, tông Thiên
Thai khởi sự thờ Quan Công làm thần hộ pháp, và gọi ngài là Già
Lam Bồ Tát. Từ đó, các tông phái khác cũng thờ Quan
Công như vị đứng đầu các vị Già Lam Bồ
Tát trong chùa.
[7]
Thập Trụ Tỳ Ba Sa Luận (Daśabhūmika-vibhāsā-śāstra), c̣n gọi là Thập Trụ Luận, do ngài Long
Thọ trước tác để chú giải phẩm Thập
Trụ của kinh Hoa Nghiêm (tuy dịch là Thập Trụ,
nhưng nội dung thật sự là địa vị Thập
Địa). Tông Hoa Nghiêm tin rằng: Sau khi
đem kinh Hoa Nghiêm từ long cung về, Long Thọ Bồ
Tát đă viết Đại Bất Tư Nghị Luận
để chú giải bộ
kinh ấy gồm mười vạn bài tụng,
Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận chỉ là một phẩm
trong bộ luận ấy. Bộ luận này được
ngài Cưu Ma La Thập dịch sang tiếng Hán vào đời
Diêu Tần gồm mười sáu quyển.
[8]
Trung Luận (Mūlamadhyamakakārikā) c̣n gọi là Trung Quán Luận, Trung Quán Tụng,
hay Trung Quán Căn Bản Luận, là một tác trước
tác quan trọng nhất của ngài Long Thọ, được
coi là giáo điển căn bản của học phái Trung
Quán. Tam Luận Tông của Phật giáo Trung Hoa đă
được sáng lập dựa theo các giáo nghĩa trong Trung
Luận, Thập Nhị Môn Luận và Bách Luận. Trung Luận
được ngài Cưu Ma La Thập dịch sang tiếng
Hán, có khá nhiều bản chú giải. Trong Hán Tạng, tối
thiểu là có bảy bản dịch các tác phẩm chú giải
bộ luận này như bản chú giải của các vị
Thanh Mục, Vô Trước, An Huệ v.v…
[9]
Tùy Nguyện Văng Sanh Kinh là tên gọi
tắt của bộ kinh Phật Thuyết Quán Đảnh
Tùy Nguyện Văng Sanh Thập Phương Tịnh Độ
Kinh, tức là quyển thứ mười một của Phật
Thuyết Quán Đảnh Kinh do ngài Thi Lê Mật Đa La dịch vào thời Đông Tấn.
Kinh nói đến danh hiệu các vị Phật và Tịnh
Độ của các Ngài, khuyên đại chúng hăy phát nguyện
văng sanh.
[10]
Mỗi danh hiệu Phật là tên gọi của một
đức hạnh; do vậy, niệm danh hiệu hết thảy
các vị Phật chính là nghĩ tưởng hết thảy
các đức hạnh của tự tâm.