Phật
Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh Giảng Kư
佛說無量壽經講記
Phần
1
Chủ giảng: Trưởng
lăo Đạo Nguyên (道源長老)
Địa điểm:
Chí Liên Tinh Xá Đài Bắc
Thời gian: Tháng Tám
năm Dân Quốc 67 (1978)
Cư sĩ Thí Vượng Khôn bút kư
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
(theo bản điện
tử của Đài Trung Liên Xă)
Giảo chánh: Đức
Phong và Huệ Trang
Giới thiệu đại lược
hành trạng trưởng lăo Đạo Nguyên
Cao tăng Đạo Nguyên
pháp danh Năng Tín (能信), pháp tự Đạo Nguyên, biệt hiệu là Trung
Luân sa-môn (Trung Luân (中輪): Pháp luân Hữu tức Không, Không tức Hữu).
Ngài Đạo Nguyên sanh năm 1900 tại trấn Châu Khẩu,
huyện Thương Thủy, tỉnh Hà Nam. Chín tuổi, Ngài mồ côi mẹ, được thím nuôi nấng
khôn lớn. Khi Ngài hai mươi tuổi, thím qua đời,
Ngài cảm ngộ nhân sanh vô thường, cương quyết
nương tựa chùa Phổ Tĩnh tại trấn Châu Khẩu,
xin xuống tóc dưới ṭa của thượng nhân Long
Phẩm. Năm 1923, Sư tṛn hai mươi bốn tuổi,
đến chùa Quy Nguyên tại Hán Dương, tỉnh Hồ
Bắc, nương cậy luật sư Giác Thanh thọ
tam đàn đại giới. Năm 1929, Sư tṛn ba
mươi tuổi, xin nhập học tại Phật Học
Viện Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc, có duyên phận
thân cận bậc Bắc Đẩu trong Phật môn là Thái
Hư đại sư. Năm 1930, Sư bế quan tiềm
tu ba năm tại chùa Bảo Thông ở Hồng Sơn.
Năm 1934, sau khi triều bái hai thánh địa Phật giáo
là Phổ Đà Sơn và Cửu Hoa Sơn, Sư may mắn
được thọ giáo với vị tổ thứ
mười ba của Tịnh Độ Tông là Ấn Quang
đại sư. Năm sau, Sư tới Thượng Hải,
được dự vào hàng môn hạ của pháp sư Viên
Anh.
Năm 1943, lúc bốn
mươi bốn tuổi, trưởng lăo Đạo
Nguyên nhận lời mời của lăo ḥa thượng Việt
Trần thuộc Vân Tuyền Thiền Tự ở Tứ
Nhi Sơn tại Trương Gia Khẩu (chùa này được
sáng lập từ năm Hồng Vũ 26 (1393) thời Minh
Thái Tổ Châu Nguyên Chương) đến trụ tích tại
Nam Đường của chùa để diễn giảng
giới luật, chấn hưng phong khí nhà chùa suốt sáu
năm, cải biến Vân Tuyền Thiền Tự từ một
ngôi “tử tôn tự miếu”[1] thành
thuyết pháp tùng lâm. Ngài đă ba lượt cử hành lễ
truyền giới vào lúc cuối Thu tại chùa này. Trưởng
lăo Đạo Nguyên hai lần đảm nhiệm vai tṛ
Đắc Giới Ḥa Thượng, một lần làm Giáo
Thọ A Xà Lê (Quỹ Phạm Sư). Trong các đàn truyền
giới, Sư giảng giải tam đàn giới luật.
Sư dựng cao pháp tràng, rộng ban pháp nhũ, tạo ảnh
hưởng khá lớn, thanh danh lan xa, nối tiếp
hưng thịnh Phật chủng, tín, giải, hạnh, chứng,
phát tâm từ bi, hành Bồ Tát nguyện, hết ḷng dốc
sức lo liệu kiến thiết tự miếu chẳng
tiếc sức thừa. Sư từ tâm thương xót
người nghèo khổ như con ruột, bố thí, quyên
góp giúp đỡ, làm rất nhiều chuyện lợi lạc
cho nhân dân, v́ pháp quên ḿnh. Sư tŕ giới cực nghiêm,
nghiêm ngặt tuân thủ chế định của nhà Phật,
chỉ ăn một bữa Ngọ, sống đời
nghèo khó, b́nh thản trước mọi nỗi phong ba.
Sư từng đảm nhiệm chức Lư Sự Trưởng
của hội Phật giáo tỉnh Sát Cáp Nhĩ (Chahar)[2], khiến
cho Phật pháp tại vùng biên ải hưng thịnh.
Năm 1949, Sư về Thượng Hải rồi sang
Đài Loan. Năm 1951, Sư sáng lập Hải Hội Tự
tại thành phố
Cơ Long, Đài Loan.
Năm 1963, Sư nhận lời
thỉnh, kiêm nhiệm chức viện trưởng Đông
Sơn Phật Học Viện tại Đài Bắc. Sư
nhiều lần hướng dẫn phái đoàn Phật Giáo
Đài Loan tham dự hội nghị Phật giáo thế giới,
cũng như nhận lời cầu thỉnh từ
Hương Cảng, Tân Gia Ba, và các nước tại Đông
Nam Á chống tích trượng đến hoằng pháp khắp
nơi, hoằng dương pháp môn Tịnh Độ. Tại
Đài Loan, Sư nhiều lần được các sơn
môn cung thỉnh vào ngôi Tam Sư trong đại giới
đàn, diễn giảng giới luật, tiếp độ
hàng hậu học. Lúc sáu mươi lăm tuổi, Sư
được chư sơn môn công cử làm Lư Sự
Trưởng của
hội Phật Giáo Trung Hoa tại Đài Loan, được tôn xưng mỹ
hiệu “thuyết pháp bậc
nhất”, tứ chúng ngưỡng vọng, là bậc y chỉ
sư cho khắp tứ chúng. Ngày Mười Sáu tháng Tư năm 1988, vào lúc bảy giờ
rưỡi tối, Sư an nhiên thị tịch tại chùa
Hải Hội, hưởng thọ tám mươi chín tuổi, giới lạp sáu mươi sáu
năm.
Phật
Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh Giảng Kư
佛說無量壽經講記
Hôm nay, tôi muốn giảng
cho chư vị bộ kinh có tựa đề là Phật Thuyết
Vô Lượng Thọ Kinh, v́ sao phải giảng bộ kinh này? Trước hết, tôi tŕnh
bày nhân duyên cùng quư vị. Đại Thừa Phật giáo tại
Trung Hoa có tám tông phái, Tịnh Độ Tông là một tông
phái trong ấy. Từ xưa, căn cứ chủ yếu của
Tịnh Độ Tông là ba bộ kinh và một bộ luận,
tức là Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh, Phật
Thuyết A Di Đà Kinh, Phật Thuyết Quán Vô Lượng
Thọ Kinh (c̣n gọi là Thập Lục Quán Kinh), và Văng Sanh
Luận (c̣n gọi là Tịnh Độ Luận). Cận
đại, Ấn Quang đại sư đề xướng
Tịnh Độ Ngũ Kinh, tức là tăng thêm hai bộ Lăng Nghiêm Kinh Đại
Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương và
Hoa Nghiêm Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm. Trong
quá khứ, tại Chí Liên Tinh Xá, Đạo Nguyên đă giảng
Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải, Phật Thuyết
Quán Vô Lượng Thọ Kinh và Văng Sanh Luận. Đáng lẽ
năm ngoái phải nên giảng Phật Thuyết Vô Lượng
Thọ Kinh, nhưng v́ kinh văn trong bộ kinh này quá dài, giảng
một, hai tuần sẽ chẳng xong. Do đó,
năm ngoái tôi giảng trước Lăng Nghiêm Kinh Đại
Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương và
Hoa Nghiêm Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm. V́ thế,
trong năm kinh Tịnh Độ, chỉ c̣n kinh Vô Lượng
Thọ chưa giảng.
Năm nay, tôi muốn giảng
Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh cho quư vị, bộ
kinh này quan trọng nhất trong Tịnh Độ Ngũ
Kinh, v́ sao quan trọng? Kinh nói từ lúc A Di Đà Phật
phát ra tâm nguyện ban đầu, do đâu mà có A Di Đà Phật?
Do đâu mà có Tây Phương Cực Lạc thế giới?
A Di Đà Phật là quả báo pháp, Tây Phương Cực Lạc
thế giới cũng là quả báo pháp. Cái nhân ở chỗ
nào? Cái nhân ở ngay trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ
Kinh. Do vậy, [kinh này] đặc biệt quan trọng! Chẳng
giảng kinh Vô Lượng Thọ, làm sao biết A Di Đà
Phật từ đâu mà ra? Cũng chẳng thể hiểu Tây Phương Cực Lạc thế
giới từ đâu mà có? Do vậy, nhất định phải
giảng kinh Vô Lượng Thọ, nói tới tầm quan trọng
của nhân địa A Di Đà Phật, biết chỗ
khác biệt so với ngoại đạo. Do có những kẻ
chẳng có tín tâm đối với chuyện niệm Phật
cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới của
Tịnh Tông; v́ vậy, phải nghiên cứu đạo lư.
Có người nói: “Chúng ta tin
Phật, niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, chẳng phải
là giống như Cơ Đốc Giáo niệm Thượng Đế cầu sanh
thiên quốc ư?” Kiến giải kiểu đó sẽ có
vấn đề to lớn! Tuyệt đối chẳng giống
nhau! V́ sao tuyệt đối chẳng giống nhau? Thích Ca
Mâu Ni Phật thuyết pháp dựa trên hai chữ “nhân quả” để nói.
Đức Phật nói kinh giáo tam tạng mười hai bộ loại, đều
chẳng ra ngoài hai chữ “nhân
quả”. Hễ ĺa khỏi nhân quả, sẽ chẳng thể
thuyết pháp. Bởi lẽ, trên thế giới, chẳng có cái quả nào mà không có nhân,
tại Ấn Độ [điều này] được gọi
là “hợp Nhân Minh”, tại
phương Tây th́ kêu là “hợp
la-tập” (phù hợp logic). Nếu chẳng có cái nhân mà
sanh ra cái quả th́ chẳng hợp Nhân Minh, mà cũng chẳng
hợp la-tập! Quư vị nói đạo lư ấy chỉ
có thể đến thiên quốc mà nói, chẳng thể nói
trong thế giới này! V́ sao? V́ trong thế giới này, toàn
là những cái quả có nhân, lấy đâu ra Thượng
Đế? Cái quả mà chẳng có nhân th́ thiên quốc do
đâu mà có? Cái quả mà chẳng có nhân th́ được gọi là “tin tưởng vào ngẫu giáo”,
v́ [theo tín lư của họ], quư vị không tin sẽ chẳng
thể được cứu! [Theo các tôn giáo khác], nếu không tin [theo giáo lư của họ], quư vị sẽ đọa địa ngục. Đấy
là tôn giáo nói theo kiểu không cần quan tâm đến lư!
Nếu nói theo đạo lư, chẳng
có nhân, lấy đâu ra quả? Nói theo kiểu Nhân Minh của
Ấn Độ sẽ nói như thế nào đây? Quư vị
lập ra cái nhân, lập ra cái quả, quư vị phải nêu
ra một thí dụ. Trên thế giới này, có cái quả nào mà chẳng có nhân hay
chăng? Nếu quư vị bảo là chẳng có nhân, v́ sao? Quư vị phải nêu được
thí dụ! Nếu chẳng nêu ra được, đủ
thấy lư luận do quư vị đă kiến lập sẽ chẳng thể đứng
vững. Tại Ấn Độ, Phật Thích Ca xuất thế,
có chín mươi lăm loại ngoại đạo mở
hội biện luận, biện luận phù hợp Nhân Minh,
nay gọi là “la-tập”
(logic) th́ sẽ là luân lư, tức là pháp tắc phù hợp
luân lư. Chẳng thể tùy tiện mù quáng nói lung tung
được! Vậy th́ đạo lư phải biện
định cho rơ ràng như thế nào? Phải phù hợp
Nhân Minh, tức là “hợp la-tập”,
phải hợp Luân Lư Học (c̣n gọi là Lư Tắc Học). Vậy
th́ phải có một
quy củ nhất định
để biện luận. Đối với cái quả mà chẳng
có nhân, hăy nêu ra một
thí dụ đi chứ! Chẳng
nêu ra được, vậy th́ lư luận ấy của quư vị chẳng thể kiến lập!
Nay Phật giáo suy vi, chỉ có thể đóng cửa nói
đạo lư, chẳng dám biện luận với ngoại
đạo. Không chỉ là chẳng dám biện luận, hễ
nhắc tới ngoại đạo bèn sợ hăi. V́ sao? Trong
Phật giáo, chúng ta thiếu khuyết nhân tài giảng kinh,
thuyết pháp, mọi người phải hiểu rơ đạo
lư này. Đă hiểu rơ rồi th́ phải sốt sắng cầu
học Phật pháp, phải hoằng dương Phật
pháp. Quư vị chẳng phá tà, làm sao hiển chánh cho
được? “Tà” là ngoại
đạo, quư vị phải phá trừ tà tri, tà kiến của
ngoại đạo th́ mới có thể hiển dương chánh pháp của Phật giáo. Phá tà như thế
nào? Quư vị phải nghiên cứu Phật lư. Nếu mọi
người chẳng nghiên cứu, Phật giáo sẽ ngày
càng suy nhược, ngoại đạo ngày càng hưng thịnh;
do đó, chúng sanh sẽ trầm luân trong biển khổ!
Phật giáo th́ phải độ
chúng sanh. Chẳng có Phật giáo, làm sao có thể độ
chúng sanh? Mọi người đều phải phát tâm
Đại Thừa, muốn cứu độ chúng sanh, nhất
định phải nghiên cứu Phật học th́ mới
có thể hoằng dương Phật pháp. Muốn cứu độ
chúng sanh th́ phải dấy khởi hai chữ “nhân quả”. Tôi nhắc nhở
mọi người một phen: Học lư của Phật
giáo được kiến lập trên hai chữ “nhân quả”. Nhất là trong xă
hội hiện thời, trừ ngoại đạo ra, c̣n
có những thứ tà tri, tà kiến. Hễ quư vị nhắc
tới hai chữ “nhân quả”, bọn chúng sẽ lắc đầu rủa xả
“Phật giáo các ngươi mê tín”, chửi bới hết sức
dữ dội! Chúng ta đều chẳng dám mở miệng,
tạo thành [phong thái] người trong xă hội đều
chẳng nói tới nhân quả. V́ sao họ phải đả
đảo đạo lư nhân quả? Họ thích làm ác hại
kẻ khác; do vậy, thế giới này vĩnh viễn chẳng
thể thái b́nh. Mọi người chẳng sợ nhân quả,
sẽ đều dám làm ác, thế giới này làm
sao thái b́nh cho nổi? Xă hội làm sao an định cho
được? V́ thế, chẳng nói đến nhân quả,
không chỉ là chúng sanh chẳng thể thành Phật, mà ngay cả
cuộc sống b́nh phàm của cá nhân cũng đều chẳng thể an định! Tôi nói lời
này nhằm nhắc nhở chư vị, quư vị nghiên cứu
đạo lư Phật học, hăy ghi nhớ một nguyên lư,
nguyên tắc: “Chẳng ra ngoài
hai chữ nhân quả”. Hiện thời, giảng kinh Vô
Lượng Thọ là nói từ nhân cho đến quả của
A Di Đà Phật, từ nhân cho đến quả của
thế giới Cực Lạc. Lần này, giảng bộ kinh này, tôi châm chước đôi ba lượt,
v́ kinh văn của bộ kinh này dài, nhân duyên giảng giải
th́ ít, chẳng dễ ǵ có nhân duyên giảng bộ kinh Vô Lượng Thọ này! Quư vị nhất định phải nắm
vững cơ hội bền ḷng [lắng nghe] cho đến
lúc viên măn!
Phật Thuyết Vô Lượng Thọ
Kinh Thượng Quyển
佛說無量壽經上卷
1. Tổng thích danh đề (giải thích chung về danh xưng, tựa đề kinh)
1.1. Giải thích tựa đề kinh
Phật Thuyết Vô Lượng
Thọ Kinh là đề mục của bộ kinh này. Mỗi bộ kinh đều có
đề mục. Kinh Phật rất nhiều, đề mục
cũng rất nhiều, nhưng kinh Phật được
đặt tên theo nguyên tắc, nguyên lư, tức là từ ba yếu tố là Nhân (人, người), Pháp (法) và Dụ
(喻, thí dụ) kết hợp [để tạo thành tên
kinh]:
1) Hoặc là đơn Nhân
(chỉ có Nhân) để đặt tên, hoặc là
đơn Pháp để đặt tên, hoặc đơn Dụ
để đặt tên, tức là dùng thí dụ để đặt tên. Ba loại
này được gọi là Đơn Tam (單三, ba cách đặt tên đơn).
2) Hoặc dùng Nhân và Pháp để
đặt tên, hoặc dùng Nhân và Dụ để đặt
tên, hoặc dùng Pháp và Dụ để đặt tên. Hai
pháp kết hợp lại để tạo thành tựa
đề một bộ kinh; cách này gọi là Phức Tam (複三, ba cách đặt tên kép).
3) Từ Nhân, Pháp, Dụ ba
pháp kết hợp lại để đặt tựa
đề cho một bộ kinh, gọi là Cụ Túc Nhất (俱足一, một cách đặt tên trọn đủ [Nhân,
Pháp, Dụ]).
Dùng ba pháp Nhân, Dụ và Pháp hợp
lại để đặt tựa đề kinh, chẳng
ngoài “đơn tam, phức tam,
cụ túc nhất”! Đấy
là bảy loại phương thức. Kinh Phật thiên sai
vạn biệt, nhưng đề mục kinh chẳng ra
ngoài ba loại pháp tướng ấy, không ra ngoài bảy
cách đặt tựa đề ấy.
Bộ kinh Phật Thuyết Vô
Lượng Thọ này là “đơn
nhân lập đề”. Đức Phật thành Phật
trong nhân gian, là bậc rốt ráo. Chủ thể nói kinh là Thích
Ca Mâu Ni Phật, là một người rốt ráo, đức
Phật Vô Lượng Thọ được nói đến
[trong kinh này] cũng là bậc rốt ráo. Trong tựa đề
ấy, chẳng nói đến pháp, mà cũng chẳng có tỷ
dụ. Đó gọi là “đơn
nhân lập đề” (chỉ dùng Nhân để đặt
tên).
1) “Phật
Thuyết”: “Phật” là Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng ta niệm danh hiệu Thích
Ca Mâu Ni Phật, nhất định phải niệm thêm hai
chữ Bổn Sư (本師), v́ vị Phật này là vị thầy
căn bản của chúng ta. Chẳng có Thích Ca Mâu Ni Phật,
danh hiệu của bất cứ vị Phật nào chúng ta
cũng đều chẳng biết! Mười phương
ba đời hết thảy chư Phật đều do Thích
Ca Mâu Ni Phật nói ra. Ngài chẳng nói th́ ngay cả một vị
Phật chúng ta cũng chẳng biết! Ngay cả Tây
Phương Cực Lạc thế giới Vô Lượng
Thọ Phật cũng do đức Bổn Sư nêu ra. V́
thế, chúng ta niệm danh hiệu Thích Ca Mâu Ni Phật, nhất
định phải thêm vào hai chữ Bổn Sư nhằm
biểu lộ ḷng đặc biệt tôn trọng.
2) “Vô
Lượng Thọ” là Vô Lượng Thọ Phật. Vô
Lượng Thọ Phật là A Di Đà Phật. Chúng ta
đều biết niệm A Di Đà Phật, tiếng Phạn
là A Di Đà
(Amitabha). Thích Ca Mâu Ni Phật đă
phiên dịch nghĩa lư cho chúng ta, danh hiệu ấy có nghĩa
là Vô Lượng Quang Phật, c̣n gọi là Vô Lượng
Thọ Phật. Do quang minh của A Di Đà Phật có thể
chiếu trọn khắp mười phương thế giới;
v́ thế, tên là Vô Lượng Quang. Do v́ lẽ ǵ mà gọi
là Vô Lượng Thọ Phật? Thọ mạng vô lượng.
Hiện thời, trong bộ kinh này, đă dựa theo tiếng
Phạn là A Di Đà mà dịch thành Vô Lượng Thọ. Trên
thực tế, c̣n có ư nghĩa Vô Lượng Quang bao hàm
trong [danh xưng] Vô Lượng Thọ. Chúng ta biết Vô
Lượng Thọ Phật là A Di Đà Phật là
được rồi. Đối với vị Phật A
Di Đà trong Tây Phương Cực Lạc thế giới,
do Tịnh Độ Tông rất phổ biến tại Trung
Hoa, toàn thể đệ tử Phật thượng, trung,
hạ căn đều niệm A Di Đà Phật, chẳng
cần phiên dịch mà mọi người đều rất
quen thuộc. Hễ nói đến Vô Lượng Thọ th́
phải nhớ [điều này].
A Di Đà Phật ở Tây
Phương Cực Lạc thế giới rốt cuộc
là Ứng Thân Phật hay là Báo Thân Phật? Là Ứng Thân Phật,
nhưng Ứng Thân Phật có thọ mạng vô lượng.
Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật tại Ấn Độ,
Ngài là Ứng Thân Phật hay Báo Thân Phật? Là Ứng Thân Phật,
nhưng thọ mạng của Ngài rất ngắn, xuất
thế tám mươi năm bèn nhập Niết Bàn. Tây
Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật,
thọ mạng của Ứng Thân Phật rất dài, nên gọi
Vô Lượng Thọ Phật. Ngài là vô lượng theo kiểu
hữu lượng. Hai chữ Vô Lượng là tên gọi
của một con số to lớn, bọn phàm phu chúng ta cũng
chẳng thể tính ra là bao nhiêu năm, bao nhiêu kiếp, nên
gọi là Vô Lượng. Trên thực tế là Hữu Lượng,
khi hóa duyên (化緣, duyên giáo hóa) của Ngài đă hết th́ Ngài
cũng sẽ nhập Niết Bàn. Sau khi A Di Đà Phật
nhập Niết Bàn, sẽ do Quán Thế Âm Bồ Tát thành Phật.
Sau khi Quán Thế Âm Bồ Tát nhập Niết Bàn, sẽ do
Đại Thế Chí Bồ Tát thành Phật. Do vậy, Vô
Lượng Thọ của A Di Đà chẳng phải là vô
lượng trong vô lượng, mà là vô lượng trong hữu
lượng. Vô Lượng Thọ [trong tựa đề
kinh này] là Vô Lượng Thọ Phật, từ thuở ban
đầu phát tâm cho đến khi Ngài tu thành Phật, Ngài là
nhân vật được nói đến trong bộ kinh này,
cho nên [kinh này được] gọi là Phật Thuyết Vô
Lượng Thọ Kinh.
3) Chữ “Kinh” (經), tiếng
Phạn là Tu-đa-la (Sūtra), dịch sang tiếng Hán là Khế Kinh (契經). V́ người Hoa thích nói đơn giản, bèn
lược bớt chữ Khế. Khế (契) là như chữ Khế trong chữ khế
ước (契約) khi ta mua nhà, mua đất. Trên là khế hợp
lư của chư Phật, dưới là khế hợp
căn cơ của chúng sanh, nên gọi là Khế Kinh. Phàm
đức Phật nói kinh, phải khế hợp với lư của chư Phật. Nếu
không, sẽ chẳng gọi là Kinh. Khế hợp với lư
của chư Phật, chẳng phải là rất cao ư?
Chẳng phải là rất cao. Chỉ cần quư vị học
th́ sẽ có thể lănh hội, v́ Ngài phải dưới là
khế hợp căn cơ của chúng sanh. Kinh là “thâm nhập thiển xuất”,
tức là đều biến hóa Phật lư sâu thẳm sao cho
nông cạn [nhằm tương ứng với tŕnh độ
của chúng sanh, ngơ hầu] chẳng có ai học mà không hiểu.
Nếu học mà chẳng thể hiểu, sẽ chẳng thể lưu thông trong thế
gian. Do vậy, phải dưới là khế hợp căn
cơ của chúng sanh. Do “khế lư, khế cơ” nên gọi là Tu-đa-la, phiên dịch sang tiếng Hán một cách
đơn giản th́ sẽ là Kinh.
[Tựa đề kinh ghi
thêm] hai chữ “Quyển Thượng”
là do kinh văn của bộ kinh này quá dài, [dịch giả]
đă chia thành hai quyển thượng và hạ. “Quyển” (卷) có nghĩa là ǵ? Chính là cuộn lại. Thời
cổ, [kinh sách] chẳng phải là một cuốn sách
như trong hiện thời, mà là từng cuốn giấy cuộn
lại. Do cuộn thành một cuốn không được, phải cuộn thành
hai cuốn, nên gọi là quyển thượng và quyển hạ.
1.2. Dịch giả và bản dịch
Tào Ngụy Khang Tăng Khải dịch
曹魏康僧鎧譯。
Tào Ngụy là nước Ngụy
trong thời đại Tam Quốc. Đối với Tam Quốc,
Tào Tháo là kẻ được mọi người biết
đến nhiều nhất. Con Tào Tháo là Tào Phi đă soán ngôi
nhà Hán, đặt quốc hiệu là Ngụy. V́ sao c̣n thêm chữ
Tào vào đây? V́ cuối đời Tấn, thiên hạ đại
loạn, người Hồ ở phương Bắc [Trung
Hoa] là Thác Bạt Khuê [vào Trung Nguyên] lập quốc, cũng
lấy hiệu là Ngụy. Nhằm phân biệt chẳng phải
là nước Ngụy nào khác, mà là nước Ngụy trong
thời đại Tam Quốc, nên gọi là Tào Ngụy[3].
Khang Tăng Khải là vị
sa-môn dịch kinh, tiếng Phạn là Tăng Già Bạt Ma (Saṃghavarman). Vào thời
cổ, nhằm lúc dịch kinh, do người Hoa tôn trọng
ḍng họ, mà người xuất gia chẳng có họ, xă hội
thấy vậy cho là chuyện rất lạ lùng, họ nói:
“Cớ sao người xuất gia các vị chẳng có họ?” Do
đó, rất nhiều vị xuất gia cũng phải miễn cưỡng
đặt họ trước pháp danh. Về sau, kinh Niết
Bàn truyền đến [Trung Hoa], [pháp sư Thích Đạo
An chủ trương] “hễ
là đệ tử xuất gia của Thích Ca Mâu Ni Phật
th́ đều mang họ Thích Ca”, nói đơn giản là
họ Thích. Trước khi kinh Niết Bàn xuất hiện
[tại Trung Hoa], người xuất gia từ chỗ nào
đến bèn lấy chỗ đó làm họ. Chẳng hạn
như ngài Khang Tăng Khải đến từ nước
Khang Cư (康居, Sogdiana)[4], nên
được coi là họ Khang. Trên thực tế, Ngài chỉ
là theo đường từ xứ đó (Khang Cư) đến xứ này. Ngài là người Ấn
Độ, tên tiếng Phạn là Tăng Già Bạt Ma, dịch
sang tiếng Hán thành Tăng Khải. Khải (鎧) là áo giáp, mặc áo giáp, có ư nghĩa tinh tấn, tức là nếu muốn
đoạn phiền năo,
chứng Bồ Đề, th́ phải tinh tấn, chẳng thể
giải đăi, buông lung, giống như khoác áo giáp đánh
giặc. Do đó, dịch thành Khải. Tên Ngài là Tăng Khải, trên thực tế là danh xưng tiếng Phạn (Tăng - Saṃgha) ghép
chung với
tiếng Hán. Theo ghi chép trong Cao Tăng Truyện, ngài Khang
Tăng Khải là người Ấn Độ, học rộng
các kinh, thông suốt nghĩa lư và ư chỉ sâu kín. Ngài đến
Trung Hoa vào cuối niên hiệu Gia B́nh[5] nhà Tào
Ngụy, trụ tại chùa Bạch Mă ở Lạc
Dương, dịch kinh Vô Lượng Thọ.
Tại Trung Hoa, kinh Vô Lượng
Thọ được phiên dịch nhiều nhất, tổng
cộng có tất cả mười hai loại bản dịch,
c̣n giữ được năm bản, bảy bản
đă thất truyền, gọi là “ngũ tồn thất khiếm” (五存七欠), [có nghĩa là] năm loại c̣n bảo tồn,
bảy loại đă khiếm khuyết. Quư vị tra mục
Ngũ Tồn Thất Khiếm trong Phật Học Đại
Từ Điển sẽ biết. V́ sao kinh Vô Lượng
Thọ được dịch thành mười hai lần? Chúng ta có thể suy luận các vị cao
tăng đại đức học pháp môn Tịnh Độ
tại Ấn Độ đều dựa vào kinh Vô Lượng
Thọ làm công khóa. Căn tánh của người Ấn
Độ hoàn toàn tương phản với người
Hoa. Người Hoa chuộng đơn giản, kinh văn
quá dài sẽ ngại phiền phức; người Ấn
Độ khác hẳn, kinh văn quá ngắn họ không thích
niệm, kinh văn dài họ mới có hứng thú. Các vị
cao tăng học pháp môn Tịnh Độ đều thuộc
ḷng bộ kinh này. Do đó, các vị cao tăng đại đức
Ấn Độ thuộc pháp môn Tịnh Độ đến Trung Hoa hoằng dương Tịnh
Độ Tông, họ cho rằng bộ kinh này hay nhất,
[cho nên] đều phiên dịch kinh này. Mỗi vị đại
đức mang văn bản tiếng Phạn đến,
chính Ngài đă thuộc ḷng, lại có thể giảng, phiên
dịch kinh này một lượt. Lại có một vị
đại đức khác đến, dịch thêm lần nữa.
Tối thiểu là có mười hai vị cao tăng đại
đức phiên dịch, nên có mười hai bản. Thời
đó, cao tăng đại đức Ấn Độ học
pháp môn Tịnh Độ niệm kinh Vô Lượng Thọ,
gần
giống như chúng ta niệm
kinh A Di Đà trong hiện thời. Hiện nay, gần
như chúng ta ai nấy đều có thể niệm kinh A Di Đà. Nhưng trong năm loại bản
dịch c̣n giữ được, đều là dịch
chưa đủ hay, v́ dịch từ tiếng Phạn của
Ấn Độ sang tiếng Hán chẳng phải là chuyện
đơn giản! Hiện thời, đối với mọi
người, tiếng Anh rất phổ biến, nhưng dịch
một bài văn từ tiếng ngoại quốc sang tiếng
Hán cũng chẳng dễ, huống hồ là phiên dịch một bộ kinh ư? Đời
Tống có một vị cư sĩ là Vương Nhật
Hưu đă thâu thập kinh văn từ năm bản dịch
gốc c̣n giữ được để nghiên cứu,
dùng văn tự Trung Hoa để biên tập lần nữa,
đặt tên là Đại Bổn A Di Đà Kinh.
Kinh văn [của bản
biên tập ấy] rất thông thuận, nhưng chẳng có
ai niệm. V́ sao? V́ vào thời cổ, sau khi kinh Phật đă
được bậc đại đức phiên dịch, nếu quư vị chẳng có bản tiếng
Phạn để làm căn cứ, chẳng thể tùy tiện
sửa
đổi, đó gọi là “chẳng thể mở ra tiền
lệ này”. Nay quư vị hiềm kinh văn không hay bèn sửa
chữa, kẻ khác chê kinh văn không hay, lại sửa tiếp, kinh bị
sửa đổi tán loạn. Khi đó, quư vị cho là
đă sửa hay lắm, nhưng có thể là sửa đổi
hoàn toàn
chẳng hay! Kết quả
là sửa đổi kinh văn loạn cào cào, phạm vào
điều kỵ húy này! Bản do cư sĩ Vương
Nhật Hưu biên soạn tuy hay, nhưng chẳng có ai niệm.
Hiện thời, tôi nói cho mọi người biết, muốn
nghiên cứu kinh Vô Lượng Thọ, chẳng ngại
dùng bản ấy để tham khảo.
Tới thời Dân Quốc, tại
Bắc B́nh (Bắc Kinh)[6], có vị
cư sĩ Hạ Liên Cư lại sửa đổi lần
nữa. Sửa lần nữa mà cũng chẳng có ai đọc, mà cũng chẳng có ai
xem bản ấy,
cũng là chẳng nên sửa đổi kinh Phật. Nhất
là ông ta đă gộp bốn mươi tám đại nguyện
lại, sửa
thành hai mươi đại
nguyện, mọi người càng cho rằng không nên; do
đó, cũng chẳng có ai xem[7]. Trong
kinh Phật có một quy củ, quư vị có thể tạo luận, chẳng thể soạn kinh, v́
kinh là do đức Phật nói. Thuở đức Phật
tại thế, có năm loại người có thể soạn
kinh. Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, Bồ
Tát, La Hán, cho đến bọn phàm phu Đại Thừa
chúng ta chỉ có thể tạo luận, mà luận có hai loại.
Loại thứ nhất gọi là Tông Kinh Luận, loại
thứ hai là Thích Kinh Luận. Thích (釋) là chữ Thích trong giải thích (解釋). Quư vị cho rằng kinh khó hiểu, có thể
giải thích từng đoạn một, từng câu một,
tức là [các bản]
chú sớ trong hiện thời
được gọi là Thích Kinh Luận. Hoặc là do kinh
văn dịch chưa đủ hay, quư vị có thể tạo
Tông Kinh Luận (宗經論), tức là dựa theo ư chỉ của bộ kinh
ấy để tạo ra một bộ luận khác,
nhưng chẳng gọi đó là Kinh, chỉ có thể gọi
là Luận.
Chú giải kinh Vô Lượng
Thọ, khi chúng tôi c̣n là pháp sư nhỏ tuổi, lăo pháp
sư bảo chúng tôi: “Để
nghiên cứu kinh Vô Lượng Thọ, phải dùng bản
dịch của ngài Khang Tăng Khải. Trong năm bản
dịch hiện c̣n, ngài Khang Tăng Khải phiên dịch tốt nhất. Nghiên cứu
chú giải th́ có thể tham khảo bản Phật Thuyết
Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ do Huệ Viễn
đại sư soạn vào đời Tùy, và bộ Vô
Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận do cư sĩ Bành
Tế Thanh soạn vào đời Thanh”.
Nay đă giảng xong đề
mục kinh, tôi bắt đầu giảng vào kinh văn.
2. Chánh thích kinh văn (chính thức giải thích kinh văn)
Văn từ trong kinh Phật
có dài hay ngắn, nhưng đều có quy củ nhất
định. Mỗi bộ kinh đều chia thành ba phần
lớn: Tự Phần, Chánh Tông Phần và Lưu Thông Phần.
Kinh ngắn được chia thành ba phần lớn, mà
kinh dài cũng chia thành ba phần lớn. Đấy là kết
cấu văn tự trong kinh Phật. Bộ kinh này cũng
chia thành ba phần lớn; trước hết nói về Tự
Phần, nhằm tự thuật duyên do của pháp hội
này. Tự Phần được chia thành hai loại, cũng
có một
quy củ nhất định.
Thứ nhất là Chứng Tín Tự (證信序), thứ hai là Phát Khởi Tự (發起序). Chứng Tín Tự được gọi
là Lục Chủng Thành Tựu (六種成就, sáu thứ thành tựu). Giảng xong
đoạn kinh văn gồm sáu thứ thành tựu ấy,
sẽ chứng tỏ kinh này do đức Phật
nói, đoạn kinh văn kế tiếp sẽ là phát khởi. Đối với sáu thứ
thành tựu, mỗi bộ kinh đều có một đoạn
kinh văn này, bất quá là địa điểm khác nhau, số
người khác nhau, chứ sáu loại thành tựu đều
như nhau. Đối với Phát Khởi Tự, mỗi bộ
kinh đều có phần Phát Khởi Tự riêng cho mỗi
bộ. Bộ kinh này có phần Phát Khởi Tự nhất
định chẳng giống với những bộ kinh khác! Nay tôi nói trước về
Chứng Tín Tự, cũng là sáu thứ thành tựu.
2.1. Tự Phần
2.1.1. Chứng Tín Tự
2.1.1.1. Nêu ra thời điểm và nơi chốn
của pháp hội
(Kinh) Ngă văn như thị.
(經)我聞如是。
(Kinh: Tôi nghe như thế này).
Bộ kinh này chẳng ghi là “như thị ngă văn” mà là “ngă văn như thị”, khác
với văn tự trong các bộ kinh khác, nhưng nghĩa
lư chẳng hai. Là v́ tiếng Phạn đều viết câu
văn theo lối đảo ngữ, đại sư Khang
Tăng Khải dịch kinh Vô Lượng Thọ đă
đảo lại. “Ngă văn
như thị” chính là “như
thị ngă văn”, đạo lư chẳng
khác nhau. Hăy nhớ, chúng ta thuận theo lời văn để
nói, đáng lẽ phải giảng hai chữ “ngă văn” trước, nhưng
trong sáu thứ thành tựu, phải nên giảng hai chữ “như thị” trước,
v́ “như thị” là Tín Thành
Tựu. “Biển cả Phật
pháp, chỉ có ḷng tin là có thể tiến nhập”.
2.1.1.1.1. Như Thị - Tín Thành Tựu
Trước hết, nói về
Tín Thành Tựu (信成就). Đối với hai chữ Như Thị (如是), dựa theo cách giải thích của các vị
pháp sư thời cổ, như trong bộ Di Lặc Thượng
Sanh Sớ do ngài
Khuy Cơ biên soạn, Ngài nói đă thấy có ba mươi lăm cách
giải thích [chữ
Như Thị]. Ngài
sưu tập mười sáu cách giải thích hay nhất.
Chúng ta chẳng có thời gian để giải thích hai chữ
Như Thị theo mười sáu cách, [bởi nói như thế],
có thể
là suốt cả tuần
cũng giải thích không xong. Tôi giảng kinh luôn dựa theo
ba cách giải thích từ cạn đến sâu ḥng giải
thích minh bạch hai chữ Như Thị, lại c̣n giải
thích đến lư luận sâu nhất là đủ rồi.
1) Thứ nhất, hai chữ
Như Thị (如是) giải thích nông cạn, dễ hiểu nhất
sẽ là “từ ngữ để
chỉ pháp”. Như Thị là nói đến bộ kinh
này; bộ kinh như thế này là do “ta” (tôn giả A Nan) đích thân nghe từ nơi đức
Phật. Phật pháp có thể giải thích nông cạn, mà
cũng có thể giải thích sâu xa, chớ đừng giải
thích sai! Giải thích nông cạn nhất th́ Như Thị nhằm
chỉ bộ kinh này.
2) Cách giải thích thứ
hai, Như Thị là từ ngữ tín thuận, biểu thị
Tín Thành Tựu. Đức Phật nói như thế nào,
chúng ta tín thuận như thế ấy. Chẳng tín thuận,
sẽ chẳng phải là Như Thị. Như Thị biểu
thị sự tín thuận của chúng ta; đấy là có tín
tâm, có sự thuận theo, nên gọi là “từ ngữ tín thuận”. Hai cách này giải thích
nông cạn nhất.
3) Cách giải thích thứ ba
là giải thích thâm nhập hơn đôi chút: Hai chữ
Như Thị là từ ngữ để hiển lư. Hiển
lư ǵ vậy? Hiển lộ diệu lư Thật Tướng.
Trước hết, tôi giải thích hai chữ Như Thị dựa theo
văn tự. Thế nào là Như? Thế nào là Thị? Bất
biến th́ gọi là Như, chẳng sai th́ gọi là Thị.
Loại pháp nào chẳng biến động th́ gọi là
Như, loại pháp ấy quyết định “vô phi”, tức là chẳng sai
th́ mới nói là Thị, tức là đúng như vậy.
Dựa vào ư nghĩa
văn tự của hai chữ ấy để hiển lư.
Pháp ǵ th́ mới là bất biến? Hết thảy các pháp
đều có sanh, trụ, dị, diệt, đều có Thành,
Trụ, Hoại, Không, đều là vô thường. V́ sao?
Nó sẽ biến động. Mỗi người chúng ta, đều
do cha mẹ sanh ra ta nên gọi là Sanh. Hiện thời, vẫn
c̣n ở trong thế gian th́ gọi là Trụ, nhưng trụ
chẳng lâu dài. Bắt đầu từ [thuở c̣n là]
đứa bé đă biến đổi khác biệt, trẻ
nhỏ biến thành người lớn, người lớn
biến thành ông già bà cả, đó là Dị (異, khác). Dị là biến dị (變異, đổi khác), biến đổi đến cuối cùng là chết, đă Diệt (滅), chẳng c̣n nữa. Loài người đă
là như vậy, mà hết thảy hữu t́nh đều là
như vậy. Pháp vô t́nh th́ Thành, Trụ, Hoại, Không. Lớn th́ như thế giới này, nhỏ th́ như
một cái bàn, một cái ghế, một chén trà. Thế giới
của chúng ta đă h́nh thành, thành một quả địa
cầu, người hiện thời sống trên địa
cầu th́ gọi là Trụ, nhưng Trụ chẳng lâu xa,
dần dần sẽ hoại, đó gọi Thành, Trụ, Hoại.
Đă hoại th́ địa cầu chẳng c̣n nữa. V́
sao hiện thời hăy c̣n có địa cầu? Hiện thời
c̣n chưa đến lúc [địa cầu hư hoại].
Đến tối, quư vị thấy sao băng trên
hư không. Đó là tinh cầu bùng nổ, sẽ là Không. To
như địa cầu, bé như chén trà, đều là t́nh
trạng ấy, tức Thành, Trụ, Hoại, Không, đều
là biến động. Biến động th́ chẳng gọi
là Như.
“Diệu
lư Thật Tướng, xưa nay chẳng thay đổi th́ gọi là
Như. Nương vào lư Thật Tướng, niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ, quyết định chẳng
sai th́ gọi là Thị”. Hai câu này do Ngẫu Ích đại
sư giải thích trong A Di Đà Kinh Yếu Giải; nếu
chúng ta nghe rồi
mà chẳng hiểu rơ, làm
như thế nào để nương vào diệu lư Thật
Tướng, niệm Phật cầu sanh Tây Phương,
tuyệt đối chẳng sai, đó là Thị. Như Thị
là từ ngữ hiển thị Lư, [tức là] hiển thị
diệu lư Thật Tướng ấy. Dựa vào diệu lư Thật Tướng,
niệm danh hiệu A Di Đà Phật, cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, tuyệt đối
chẳng sai lầm; đó là Thị. V́ “niệm Phật” là
niệm cái tâm của chính ḿnh, đấy chính là “tâm này là Phật”. Cái tâm của
ta là diệu lư Thật Tướng. Nương vào cái tâm diệu
lư Thật Tướng của ta để niệm Phật
cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới;
đấy là “tâm này làm Phật”.
Nương theo đạo lư, A Di Đà Phật là tự
tánh của ta, Tây Phương Cực Lạc thế giới
chỉ là cái tâm của ta. Nhưng chúng ta phải ghi nhớ,
muốn chứng đắc “tự
tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ” th́ vẫn là “tâm này làm Phật”. “Làm” là tạo tác. Tạo tác
chính là niệm danh hiệu A Di Đà Phật, cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, nương vào
diệu lư Thật Tướng để niệm, nương
vào cái tâm “tâm này là Phật”
để niệm, tuyệt đối sẽ chẳng có sai
lầm.
Trong Phật môn, Tịnh
Độ được gọi là Hữu Môn. [Bởi lẽ],
phương Tây có thế giới Cực Lạc, thế giới
Cực Lạc có một vị A Di Đà Phật, chẳng
nói đến Không, mà thực hiện từ Có. Để
thực hiện từ Có th́ phải khởi sự từ Tín,
quyết định phải tin tưởng. “Quyết định phải tin
tưởng” chẳng phải là mê tín, chẳng ép buộc
quư vị phải tin, chẳng phải là niềm tin theo kiểu
“tin vào Thượng Đế
sẽ được lên thiên quốc. Chẳng tin sẽ không
được, chẳng tin tưởng
sẽ đọa địa ngục”. Như vậy th́ [Tín trong Tịnh Độ Tông] là như thế
nào? Phải nghiên cứu đạo lư này! Trong Phật pháp
Đại Thừa ở Trung Hoa, Tịnh Độ Tông là một
tông, bảy tông phái kia đều chẳng niệm Phật
cầu sanh Tây Phương, chẳng tán thành tông phái niệm
Phật, muốn bài bác đạo lư niệm Phật, v́ sao
Tịnh Độ Tông có thể kiến lập thành một
tông phái, mà họ chẳng thể bài bác được? V́
nó có đạo lư quyết định chẳng bị lay
động. Do vậy, quư vị phải tin tưởng điều
ǵ? Tin tưởng niệm A Di Đà Phật là niệm cái
tâm của chính ḿnh. Niệm
cái tâm của chính ḿnh, vậy th́ sanh về Tây Phương
vẫn là sanh trong cái tâm của chính ḿnh. Đó là “tâm này là Phật”.
Tâm này đă là Phật, cần ǵ phải niệm? Quư vị
chẳng niệm A Di Đà Phật, chẳng sanh về Tây Phương
Cực Lạc thế giới, cái “tâm này là Phật” của quư vị chỉ là lư luận,
chỉ là nói suông! “Tự tánh Di Đà” của quư vị làm sao hiển hiện cho nổi?
Hiển hiện không được th́ “duy tâm Tịnh Độ” của quư vị có hiển lộ hay chăng? Chẳng hiển lộ
được! Đấy chẳng phải là biến thành
nói suông ư?
Phật pháp là mong liễu sanh
thoát tử, là mong vượt thoát luân hồi, chẳng phải
do nói suông! Nói suông th́ trong lúc quư vị một hơi thở
hắt ra, không hít vào được nữa, chuyện ǵ
cũng chẳng làm được, quư vị vẫn phải
lưu chuyển sanh tử! Do vậy, quư vị đă hiểu
“tâm này là Phật” rồi, vẫn
phải “tâm này làm Phật”,
dùng cái tâm đă là tâm Phật ấy để tạo thành một
vị Phật. “Tạo thành”
chính là tu hành, tu như thế nào? Tịnh Độ Tông dạy
chúng ta một phương pháp: Niệm A Di Đà Phật, cầu
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, quư vị chứng
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, sẽ biết A Di Đà Phật
là chính bản thân ta, Tây Phương Cực Lạc thế
giới là chính ḿnh, chẳng hai, chẳng khác! Nhưng sau khi
quư vị đă được sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới th́ mới có thể chứng minh sự
thật ấy. Nếu không, sẽ là bàn lư luận suông, vẫn
là một gă đại phàm phu!
Trong kinh Duy Ma Cật, có một
câu nói rất cao sâu, “tâm tịnh
tức thị Phật độ tịnh”, nghĩa là cái
tâm của ta đă tịnh th́ cơi Phật sẽ tịnh, tức là Tịnh Độ,
[vậy th́] c̣n phải cầu
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để
làm chi nữa? [Vặn hỏi như thế] chính là chấp
Lư phế Sự. Quư vị cứ ngỡ là đă thấu hiểu
đạo lư trong kinh Duy Ma Cật; thật ra, quư vị chẳng
hiểu rơ! V́ sao quư vị chẳng hiểu rơ? Nói “tâm tịnh th́ cơi Phật tịnh”
có sai hay chăng? Chẳng sai! Sai lầm ở chỗ quư vị
chẳng thấu hiểu, cái tâm của
quư vị có tịnh hay
chưa? Tâm quư vị chẳng tịnh, [đương nhiên
là] cơi Phật của quư vị chẳng thể tịnh. Do
vậy, quư vị ở trong thế giới Sa Bà này, vẫn
ở trong cơi nước ô nhiễm. Cái tâm đă tịnh th́
cơi nước sẽ tịnh theo, [khi ấy], cần ǵ c̣n phải sanh về Tây Phương chi nữa? Sanh về Tây
Phương vẫn chẳng phải là chuyện tùy tiện,
đơn giản đâu nhé, quư vị niệm A Di Đà Phật
th́ mới có thể sanh về. Niệm A Di Đà Phật, quư
vị niệm có công phu, phải niệm đến mức
nhất tâm bất loạn th́ mới có thể sanh về. Niệm
A Di Đà Phật mà niệm đến mức nhất tâm bất
loạn tức
là khiến cho cái tâm của quư vị tịnh. Niệm A Di Đà Phật là
phương pháp ǵ vậy? Là phương pháp tịnh tâm, niệm
đến mức nhất tâm bất loạn, chẳng có
hai niệm. Tâm chẳng thanh tịnh mà dần dần trở
thành cái tâm thanh tịnh, sẽ sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Vậy th́ quư vị chẳng niệm
Phật, tâm quư vị sẽ chẳng tịnh. Chẳng tịnh
th́ quư vị chẳng sanh về Tây Phương, quư vị vẫn
ở trong cơi nước ô nhiễm nơi thế giới
Sa Bà, làm chúng sanh khổ năo!
Giảng hai chữ Như Thị
từ cạn đến sâu, thứ nhất là “từ ngữ chỉ pháp” nhằm
chỉ bộ kinh này. Thứ hai là “từ ngữ tín thuận”, đức Phật
thuyết pháp, chúng ta tuyệt đối tin tưởng, tuyệt
đối thuận tùng, từ ngữ tín thuận gọi
là Như Thị. Thứ ba là “từ
ngữ để hiển lư”, hiển lộ diệu lư
Thật Tướng, xưa nay bất biến th́ là Như.
Nương vào diệu lư Thật Tướng, niệm Phật
cầu sanh thế giới Cực Lạc, quyết định
chẳng sai, đó là Thị.
2.1.1.1.2. Ngă Văn - Văn Thành Tựu
Lại nói đến hai chữ
Ngă Văn (我聞). Trong Ngă Văn, Ngă (我) là tôn giả A Nan tự xưng. Thuở đức
Phật tại thế, chẳng có kinh bổn. Lời đức
Phật nói được gọi là Kinh. Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật
nhập Niết Bàn, các đệ tử ghi chép lời Phật thuyết
pháp, gọi là kinh Phật, có kinh Tiểu Thừa và kinh
Đại Thừa. Kinh Tiểu Thừa cũng do tôn giả
A Nan đọc thuộc ḷng, tôn giả Ca Diếp làm thủ lănh, có năm trăm vị đại A La
Hán kết tập Kinh Tạng. Kinh Đại Thừa cũng do tôn giả
A Nan đọc thuộc ḷng, nhưng do Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát kết tập.
Hai chữ Như Thị là
Tín Thành Tựu, tuyệt đối phải tin tưởng.
“Biển cả Phật pháp, chỉ
Tín mới có thể vào”. Hai chữ Ngă Văn là Văn
Thành Tựu (聞成就). Quư vị tin mà chẳng nghe kinh sẽ không được! Phật lư cần
phải nghe nhiều, tôn giả A Nan đa văn bậc nhất,
Ngài đă nêu gương cho chúng ta. Chúng ta lắng nghe cho nhiều,
đó gọi là Văn Thành Tựu. Giải thích câu “như thị ngă văn” nông cạn,
dễ hiểu nhất, sẽ là “tôi
là tôn giả A Nan đích thân được nghe bộ kinh
Vô Lượng Thọ này từ chỗ đức Phật”.
(Kinh) Nhất thời, Phật trụ
Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung.
(經)一時,佛住王舍城,耆闍崛山中。
(Kinh: Một thời, đức
Phật ở thành Vương Xá, ngự trong núi Kỳ Xà Quật).
2.1.1.1.3. Thời Thành Tựu
“Nhất
thời” (一時) là nói tới thời gian giảng kinh. Đối
với thời gian giảng kinh, bất luận bộ kinh
nào cũng đều ghi là “nhất
thời”, chẳng ghi năm nào, tháng nào, ngày nào. V́ sao? V́
thuở đức Phật tại thế, khắp Ấn
Độ có hơn mười sáu nước hùng mạnh,
các nước nhỏ c̣n chưa tính tới. Mỗi nước
có tục lệ bất đồng, chẳng có cách nào ghi
chép năm,
ngày, tháng [thống nhất]. Phật Thích Ca có
lúc thuyết pháp tại nhân gian, có khi thuyết pháp trên trời;
“năm, tháng, ngày” càng chẳng có cách nào ghi chép. Do vậy, chẳng
ghi năm nào, tháng nào, ngày nào, chỉ ghi là Nhất Thời.
Các vị đại đức
thời cổ giải thích Nhất Thời như sau: “Sư tư đạo hợp,
thuyết thính cứu cánh” (thầy tṛ hợp đạo, nói nghe rốt ráo). “Sư tư đạo hợp”:
“Sư” (師) là thầy, “tư”
(資) là đệ tử. Thầy giảng kinh,
đệ tử nghe kinh, đạo ḥa hợp. Thầy muốn giảng kinh, tṛ muốn nghe kinh, đạo ấy tương hợp
th́ gọi là “sư tư đạo
hợp”. “Thuyết thính cứu
cánh”: Thầy nói bộ kinh này đă nói viên măn. “Cứu
cánh” (究竟) có nghĩa là viên măn. Đệ tử nghe kinh đă nghe viên măn, nghe đến rốt cùng, đó gọi
là “thuyết thính cứu cánh”.
Nói gộp chung lại là “sư
tư đạo hợp, thuyết thính cứu cánh”, khoảng thời gian ấy
được gọi là Nhất Thời.
Thời gian thành tựu hết
sức quan trọng. Chẳng có thời gian thành tựu, sẽ
chẳng thể giảng kinh. Thuở đức Phật tại thế đă là như thế,
hiện thời càng quan trọng hơn! V́ trong hiện thời,
thế giới đại loạn, thầy bằng ḷng giảng
kinh, các vị bằng ḷng nghe kinh, mà vẫn chẳng có cách
nào mở pháp hội, v́ chẳng thái b́nh! Do vậy, hiện
thời chẳng có chiến tranh, chúng ta c̣n có thể giảng
kinh, c̣n có thể nghe kinh, thời gian này hết sức quư
báu, hy vọng mọi người phải nắm vững
thời gian quư báu này, đừng nên lăng phí thời gian, phải
nghiêm túc nghe, hăy lắng nghe cho kỹ!
2.1.1.1.4. Chủ Thành Tựu
Một chữ Phật là loại
thành tựu thứ tư, được gọi là Chủ
Thành Tựu (主成就), [nói về] vị chủ tŕ thuyết pháp. Phật
là vị chủ tŕ thuyết pháp, tiếng Phạn là Phật
Đà Da (Buddhaya). Chữ Da là âm cuối trong lời ăn tiếng
nói, thường bị lược đi, tiếng Phạn
gọi là Phật Đà, dịch sang tiếng Hán là Giác Giả.
Giác Giả (覺者) là một vị đại giác ngộ. V́ sao
không dịch chữ “bậc đại giác ngộ” thành Giác
Giả? V́ chữ Phật Đà trong tiếng Phạn có ba
thứ ư nghĩa là “tự giác,
giác tha, giác hạnh viên măn” th́ mới gọi là Phật
Đà. Ngài đă tự ḿnh giác ngộ, đồng thời sẽ c̣n
giác ngộ người khác, th́ gọi là “tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn”. Giác hạnh
viên măn chính là “cứu cánh”
trong “thuyết thính cứu cánh”
(nói và nghe đều rốt ráo) vừa được nói
trên đây. Tự giác th́ giác đến mức rốt ráo,
giác tha th́ cũng có thể làm cho người khác giác đến chỗ rốt ráo. Tự giác viên măn, giác tha viên
măn, đó là “giác hạnh viên
măn”, như thế mới gọi là Phật Đà.
Đây chính là danh xưng để gọi bậc độc
tôn vượt trỗi chín giới.
Lục phàm pháp giới: Ba thiện
đạo và ba ác đạo, sáu đường này đều là phàm phu, gọi là “lục phàm pháp giới”. Lục
phàm pháp giới bất giác, bất giác là đang mê. Lục
phàm pháp giới mê chứ chẳng giác. Thánh nhân Nhị Thừa
đă giác ngộ, mong liễu sanh tử, thoát tam giới,
chuyển phàm thành thánh, [tức là] chuyển phàm phu thành thánh
nhân, tự ḿnh đă giác ngộ. Hàng Nhị Thừa chẳng phát đại
tâm giác ngộ kẻ khác. Phật không chỉ vượt trỗi
lục phàm bất giác, mà c̣n vượt trỗi sự tự giác của hàng Nhị Thừa, lại c̣n phải giác tha. Đại Thừa Bồ
Tát cũng giác tha, nhưng bản thân Đại Thừa Bồ
Tát vẫn chưa thành Phật, giác tha chẳng viên
măn, tự giác cũng chẳng viên măn. V́ vậy, chỉ có
thể gọi là Bồ Tát. Phật vượt trỗi Bồ
Tát; do đó, Phật vượt trỗi lục phàm pháp giới,
vượt trỗi tam thừa thánh nhân pháp giới, là đấng
độc tôn vượt trỗi chín pháp giới, tự
giác, giác tha, giác hạnh viên măn, nên gọi là Phật.
Sáu thứ thành tựu chính là
sáu loại nhân duyên, nay ta nói là “hội đủ sáu điều
kiện th́ mới thành tựu một pháp hội giảng
kinh”. Trong sáu điều kiện ấy, Phật là Chủ
Thành Tựu, là điều kiện chủ yếu. Năm thứ
nhân duyên khác của pháp hội này đều trọn
đủ, nhưng chẳng có vị chủ tŕ thuyết
pháp, pháp hội ấy vẫn chẳng thể thành tựu.
Pháp hội giảng kinh của
chúng ta trong hiện tại cũng giống như thế,
chẳng có pháp sư, làm sao pháp hội thành tựu cho
được? Do vậy, mời một vị pháp sư
đến giảng kinh cho chúng ta, pháp sư là điều
kiện chủ yếu, rất quan trọng, rất ư quan
trọng! Nếu gặp đức Phật giảng kinh, quư
vị có thể ngay lập tức đại triệt đại
ngộ. Không chỉ là đại triệt đại ngộ,
mà c̣n có thể ngay lập tức chứng quả, v́ đức
Phật thuyết pháp ứng theo căn cơ, giống
như danh y trị bệnh. Danh y, chẳng phải là dung y
(庸醫, thầy thuốc dốt nát, vụng về).
Người ấy vừa nh́n là có thể thấy căn
nguyên bệnh tật của quư vị, một thang thuốc
uống vào đă lành bệnh. Dung y cũng mong trị lành bệnh
cho quư vị, nhưng chẳng t́m ra căn nguyên chứng bệnh.
Trước hết, cho quư vị uống một, hai thang thuốc thử xem; do vậy, sẽ
tốn thời gian. Nếu gặp Phật, quư vị đến
nghe pháp, sẽ đạt được lợi ích rất
lớn. Không chỉ là khai ngộ, mà c̣n chứng quả.
Đáng tiếc là chúng ta chẳng đủ thiện căn
để chẳng ra đời trước Phật hay chẳng
ra đời sau Phật. Trước Phật và sau Phật
là một trong tám nạn, học Phật pháp gặp phải
nạn duyên (難緣, duyên gây chướng nạn). Tức là
khi Phật Thích Ca xuất thế, chẳng biết chúng ta đang
đọa địa ngục ở nơi đâu? Đợi
đến khi quư vị từ địa ngục thoát ra, Phật
Thích Ca đă nhập Niết Bàn hơn hai ngàn năm, đấy
là sự bất hạnh của chính ḿnh! May là hiện thời
có kinh Vô Lượng Thọ, nghe xong hăy khéo phát tâm, niệm A
Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương, thân cận A Di
Đà Phật. Quư vị đến Tây Phương nghe A Di
Đà Phật thuyết pháp, hoa nở thấy Phật, liền
nghe Phật thừa, nhanh chóng khai Phật huệ. Ở bên ấy
rất nhanh chóng, v́ A Di Đà Phật biết căn cơ của
chúng ta, Ngài có thể ứng cơ mà thuyết pháp.
“Đốn
khai Phật huệ” là ngay lập tức mở mang trí huệ
của Phật. Nay nói đến pháp hội của chúng ta,
pháp sư Đạo Nguyên tôi đây làm chủ. Tôi chẳng
dám kiêu căng, ngă mạn, nói Đạo Nguyên lỗi lạc
cỡ nào! Tôi muốn kính khuyên quư vị, quư vị hăy khéo lắng
nghe. V́ Đạo Nguyên đă giảng kinh vài chục
năm, tôi có thể giải thích văn tự cho quư vị,
giải thích ư nghĩa, nêu rơ lư, khuyên tu hành, chắc chắn
sẽ nói đơn giản sao cho quư vị hiểu rơ. Trong
kinh Phật, Phật Thích Ca cũng khuyên chúng ta “danh sư nan ngộ” (bậc
thầy hữu danh khó gặp), tôi không đáng được
coi là danh sư, nhưng tôi có thể giảng kinh Phật rơ
ràng cho quư vị. Hiện thời đă đến thời
đại Mạt Pháp, quư vị muốn t́m một vị pháp
sư giảng đơn giản, dễ hiểu cho quư vị th́ vẫn là khó gặp. Quư vị
chẳng biết pháp sư Đạo Nguyên giảng được
lắm, hằng ngày cứ dấy vọng tưởng chuyện
này, chuyện kia, quư vị có quá nhiều chuyện, chẳng
đến nghe. Về sau, quư vị muốn t́m Đạo
Nguyên, có c̣n t́m được nữa chăng? Tôi nói những
lời này chẳng phải là tâng bốc chính ḿnh, mà nhằm
khuyên quư vị phát tâm muốn nghe pháp, phải nghiêm túc nghe cho
hết bộ kinh Vô Lượng Thọ này!
2.1.1.1.5. Xứ Thành Tựu
“Phật
trụ Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung”:
Đức Phật ở tại thành Vương Xá, trong núi
Kỳ Xà Quật. Đấy là món thành tựu thứ
năm, tức Xứ Thành Tựu (處成就). Xứ (處) là xứ sở, tức là chỗ để giảng
kinh.
“Vương
Xá thành” là tên gọi của một kinh đô. Không giảng
kinh trong thành Vương Xá (Rājagṛha) mà là ở
trên núi ngoài thành, quả núi ấy tên là “Kỳ Xà Quật sơn” (Gṛdhrakūṭa), dịch sang tiếng Hán là Linh Thứu Sơn. “Thứu” (鷲) là chim ưng, được gọi là “thứu điểu” (鷲鳥). Loài
ưng này rất có linh cảm, nên gọi là Linh Thứu. Cổ
nhân có mấy cách giải thích:
1) Một cách nói là loài chim thứu
này có linh khí. Loại linh thứu ấy sống trong núi đó,
nên gọi là Linh Thứu Sơn.
2) Một cách giải thích
khác, núi ấy có h́nh dáng giống như đầu chim thứu;
do vậy c̣n gọi là Thứu Đầu Sơn (鷲頭山, núi có h́nh đầu chim ưng). Năm xưa, Đạo Nguyên triều
bái thánh địa, đă đến triều bái núi Linh Thứu, [quả thật trông thấy
núi ấy] có h́nh dáng như đầu chim thứu, nên gọi
là Linh Thứu Sơn. Kinh Vô Lượng Thọ được
nói ở núi Linh Thứu, kinh Pháp Hoa nổi tiếng nhất
cũng được giảng tại núi Linh Thứu. Tôi
đến triều
bái thánh địa,
cùng rất nhiều người triều bái Linh Thứu
Sơn. Sáng sớm thức dậy, tôi cùng mười mấy
người cùng nhau trèo lên núi, triều bái Linh Thứu Sơn. Trèo lên
đầu núi, chẳng có khoảng đất trống nào.
Như trong giảng đường của chúng ta lớn
hay nhỏ, sẽ có chỗ dựng tháp. [Trên núi Linh Thứu]
chẳng có tháp. Vào hơn một ngàn năm trước, Phật
giáo Ấn Độ đă bị lũ giặc Hồi Giáo hủy hoại, toàn thể các thánh địa
Phật giáo tại Ấn Độ đều bị phá hoại,
tất cả các ṭa tháp đều bị phá hoại. Mọi
người đến Linh Thứu Sơn đều thắp
nhang, lễ bái. Do nhang mang theo chẳng có lư hương, đều
cắm xuống đất. Tôi cũng mang theo nhang để cắm, cũng khấu
đầu đảnh lễ, nhưng trong ḷng hoài nghi, cớ
sao chẳng có chỗ đất trống, nói kinh Pháp Hoa th́
nói như thế nào đây? Nói kinh Pháp Hoa lâu đến tám
năm, đương nhiên là bậc đại Bồ Tát
đều có thể
tĩnh tọa trong hang
đá. Kinh Pháp Hoa có nói người nghe pháp trong pháp hội
khi ấy quá đông, Thích Ca Mâu Ni Phật phải mở rộng
thế giới Sa Bà. Đó là cảnh giới chẳng thể
nghĩ bàn. C̣n có các quốc vương, đại thần,
phàm phu, họ chẳng thể ngồi trong hang đá, ngồi
ở chỗ nào đây? Trong tâm rất hoài nghi, nhưng chẳng
dám nói. Triều bái thánh địa dựa vào tín tâm của
chúng ta, khấu đầu đảnh lễ là được
rồi. Đợi đến khi xuống núi Linh Thứu, đi về phía trước, thấy có một tấm biển, hiện
thời, Phật giáo tại Ấn Độ đă bị hủy
hoại, Bà La Môn giáo cũng hủy báng Phật giáo, nhưng họ muốn chèo kéo khách nước
ngoài đến văn cảnh, [cho nên] phải sửa sang những
thánh tích ấy. Ở chỗ nói kinh Pháp Hoa trên núi Linh Thứu,
có một tấm biển viết bằng tiếng Anh, tôi
không đọc được, người phiên dịch vừa
thấy bèn nói: Phía dưới có một di tích cũ gọi là tháp Pháp Hoa. Trong tâm tôi
dấy lên ư niệm, “đă có câu trả lời rồi!”
Tháp Pháp Hoa nhất định là nơi để nói kinh
Pháp Hoa, cách đó không xa lắm. Trông thấy tháp ấy có một
tấm biển, nói rơ tháp vốn có bảy tầng để
kỷ niệm nơi [đức Phật nói] kinh Pháp Hoa. Do
bọn giặc Hồi kéo đến, ngay cả tháp lẫn
tự viện đều bị phá hoại. Tín đồ
chẳng có cách nào, tự ḿnh phá hủy bốn tầng, chừa
lại ba tầng dưới, dùng đất vùi lấp. Nay
đào đất ra, mới có ba tầng tháp Pháp Hoa ấy,
tôi mới t́m được câu trả lời. Đức
Phật nói kinh Pháp Hoa là nói ở dưới chân núi Linh Thứu,
chẳng phải là ở trên đỉnh núi. Ngọn núi giống
như đầu chim linh thứu, nên gọi là Linh Thứu
Sơn.
Xứ Thành Tựu là nhân duyên
rất quan trọng. Chẳng có một nơi chốn th́ giảng kinh sẽ giảng ở chỗ
nào? Tôi vừa mới nói Phật, Bồ Tát có thể giảng
trên hư không, hoặc giảng trên trời, nhưng phàm phu
sẽ chẳng có cách nào được lợi ích nghe pháp,
nhất định phải có một xứ sở [trong nhân
gian]. Nay chúng ta cũng vậy, giảng kinh ắt cần phải có giảng đường. Chẳng
có giảng đường, sẽ giảng ở chỗ
nào, nghe ở chỗ nào? V́ thế, điều kiện xứ
sở hết sức quan trọng!
Kế tiếp là món thành tựu
thứ sáu, gọi là Chúng Thành Tựu (眾成就). Pháp hội đă có năm thứ thành tựu
trên đây, nhưng chẳng có người nghe kinh, vẫn
chẳng thể thành tựu. Dưới đây là các vị
đại tỳ-kheo và các vị đại Bồ Tát. Những vị
thính chúng nghe kinh ấy được gọi là Chúng Thành Tựu.
2.1.1.2. Liệt kê đại chúng cùng nghe kinh
2.1.1.2.1. Thanh Văn chúng
2.1.1.2.1.1. Phân định rơ loại đại
chúng này
(Kinh) Dữ đại tỳ-kheo
chúng.
(經)與大比丘眾。
(Kinh: Cùng các vị đại
tỳ-kheo).
[Kinh chép] “dữ đại tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên
nhân câu, nhất thiết đại thánh, thần thông dĩ
đạt” (cùng các vị đại tỳ-kheo một vạn
hai ngàn người nhóm họp, hết thảy đại
thánh thần thông đă đạt). “Dữ đại tỳ-kheo chúng” (Và các vị đại tỳ-kheo) nhằm
trước hết nói về chúng Thanh Văn, cũng là
chúng tỳ-kheo. Đức Phật là vị chủ thuyết
pháp, đức Phật cùng các vị đại tỳ-kheo
[tụ tập giảng kinh, nghe kinh]. Tỳ-kheo (Bhikṣu) là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán
có ba ư nghĩa, tức Bố Ma, Khất Thực và Phá Ác.
1) Khi tỳ-kheo sắp
đăng tỳ-kheo đàn, thọ giới tỳ-kheo, cung ma chấn động,
ma vương kinh hăi, nên gọi là Bố Ma (怖魔, làm cho ma kinh hoàng).
2) Người ấy xuất
gia, bỏ hết tài sản trong nhà để xuất gia.
Sau khi đă xuất gia th́ phải ôm bát xin cơm, nên gọi
là Khất Thực (乞食).
3) V́ sao phải bỏ tài sản
trong nhà? V́ đoạn phiền năo, phá trừ ác pháp, nên gọi
là Phá Ác (破惡).
Tỳ-kheo đứng đầu
trong bốn chúng đệ tử của Phật. Loại
thứ hai là tỳ-kheo- ni, người nữ xuất gia
th́ gọi là tỳ-kheo-ni. “Ni”
(尼) [trong tiếng Phạn] là nữ, [danh
xưng] tỳ-kheo-ni (Bhikṣuni) cũng bao hàm ba ư nghĩa (Bố Ma, Khất
Thực, Phá Ác) trên đây. Hai loại đệ tử tại
gia là Ưu-bà-tắc (Upāsaka, cận sự nam) và Ưu-bà-di (Upāsikā, cận sự nữ). Nêu ra loại thứ nhất là tỳ-kheo,
nhưng trên thực tế, bốn loại đệ tử
đều có.
“Đại
tỳ-kheo”: “Đại” là tỳ-kheo Đại Thừa. Kinh Vô Lượng
Thọ thuộc về kinh điển Đại Thừa.
Các vị ấy vốn học pháp Thanh Văn, trước
là học pháp Tiểu Thừa, nên gọi là tỳ-kheo. Đến
pháp Đại Thừa, các vị ấy hồi Tiểu
hướng Đại, nên gọi là “đại tỳ-kheo”.
“Chúng”:
Tỳ-kheo là một chúng. “Chúng” (眾) là dịch
từ hai chữ Tăng Già. Chúng ta niệm kinh A Di Đà thấy
chép “đại tỳ-kheo
tăng”, [ở đây] dịch chữ Tăng thành Chúng.
2.1.1.2.1.2. Biện định số lượng
(Kinh) Vạn nhị thiên nhân câu.
(經)萬二千人俱。
(Kinh: Một vạn hai ngàn
người nhóm họp).
Những kinh khác đều
nói là một ngàn hai trăm năm mươi người, bộ
kinh Vô Lượng Thọ này nêu ra số lượng tỳ-kheo
rất đông, có đến một vạn hai ngàn người.
Một vạn hai ngàn người là nói về Thường
Tùy Chúng, số lượng những người nghe pháp khác c̣n nhiều hơn nữa.
2.1.1.2.1.3. Tán thán đức hạnh của các ngài
(Kinh) Nhất thiết đại
thánh, thần thông dĩ đạt.
(經)一切大聖,神通已達。
(Kinh: Hết thảy đại
thánh, thần thông đă đạt).
“Đại
thánh” nếu chỉ nói theo Thanh Văn Thừa sẽ là Tứ
Quả A La Hán. Chứng Sơ Quả th́ gọi là thánh nhân,
Nhị Quả, Tam Quả cũng gọi là thánh nhân, chẳng
gọi là đại thánh. Chứng đắc Tứ Quả
mới được gọi là đại thánh. [Chữ
Đại Thánh] không chỉ là nói về Tứ Quả A La
Hán, mà c̣n nhằm nói đến thánh nhân Đại Thừa.
Các Ngài đă chứng quả A La Hán, lại học pháp
Đại Thừa. Tam Hiền, Thập Thánh[8] đều
có thể chứng đắc; do vậy, gọi là thánh nhân
Đại Thừa.
“Thần
thông dĩ đạt”: Nói thông thường, có sáu loại
thần thông, tức Thiên Nhăn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Túc Mạng
Thông, Tha Tâm Thông, Thần Túc Thông, và Lậu Tận Thông. Sáu
loại thần thông này không ǵ chẳng thông đạt,
nhưng phải nhớ: “Thần
thông dĩ đạt” ở sau “nhất thiết đại thánh”, [hàm nghĩa] quư
vị đă chứng đắc địa vị thánh nhân Đại
Thừa, tự nhiên sẽ là “thần
thông đă đạt”. Học Phật pháp th́ trước
hết là học đoạn phiền năo. Đă chứng
thánh quả, chẳng cần phải cầu thần thông.
Quư vị đă chứng đắc quả vị thánh nhân, tự nhiên sẽ có thần
thông. Quư vị học Phật pháp mà học thần thông
trước, chưa đạt được thần
thông mà đă bị ma dựa trước! Bị ma dựa,
sẽ sanh ra bệnh thần kinh. Điều này rất quan
trọng, hăy nhớ kỹ!
2.1.1.2.1.4. Liệt kê danh xưng
(Kinh) Kỳ danh viết: Tôn giả
Liễu Bổn Tế, tôn giả Chánh Nguyện, tôn giả
Chánh Ngữ, tôn giả Đại Hiệu, tôn giả Nhân Hiền,
tôn giả Ly Cấu, tôn giả Danh Văn, tôn giả Thiện
Thật, tôn giả Cụ Túc, tôn giả Ngưu Vương,
tôn giả Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, tôn giả Già Da Ca
Diếp, tôn giả Na Đề Ca Diếp, tôn giả Ma Ha Ca
Diếp, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Đại
Mục Kiền Liên, tôn giả Kiếp Tân Na, tôn giả Đại
Trụ, tôn giả Đại Tịnh Chí, tôn giả Ma Ha
Châu Na, tôn giả Măn Nguyện Tử, tôn giả Ly Chướng,
tôn giả Lưu Quán, tôn giả Kiên Phục, tôn giả Diện
Vương, tôn giả Dị Thừa, tôn giả Nhân Tánh, tôn
giả Gia Lạc, tôn giả Thiện Lai, tôn giả La Vân,
tôn giả A Nan, giai như tư đẳng thượng thủ
giả dă.
(經)其名曰:尊者了本際、尊者正願、尊者正語、尊者大號、尊者仁賢、尊者離垢、尊者名聞、尊者善實、尊者具足、尊者牛王、尊者優樓頻螺迦葉、尊者伽耶迦葉、尊者那提迦葉、尊者摩訶迦葉、尊者舍利弗、尊者大目犍連、尊者劫賓那、尊者大住、尊者大淨志、尊者摩訶周那、尊者滿願子、尊者離障、尊者流灌、尊者堅伏、尊者面王、尊者異乘、尊者仁性、尊者嘉樂、尊者善來、尊者羅云、尊者阿難,皆如斯等上首者也。
(Kinh: Tên các Ngài là tôn giả Liễu
Bổn Tế, tôn giả Chánh Nguyện, tôn giả Chánh Ngữ,
tôn giả Đại Hiệu, tôn giả Nhân Hiền, tôn giả
Ly Cấu, tôn giả Danh Văn, tôn giả Thiện Thật,
tôn giả Cụ Túc, tôn giả Ngưu Vương, tôn giả
Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, tôn giả Già Da Ca Diếp,
tôn giả Na Đề Ca Diếp, tôn giả Ma Ha Ca Diếp,
tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Đại Mục
Kiền Liên, tôn giả Kiếp Tân Na, tôn giả Đại
Trụ, tôn giả Đại Tịnh Chí, tôn giả Ma Ha
Châu Na, tôn giả Măn Nguyện Tử, tôn giả Ly Chướng,
tôn giả Lưu Quán, tôn giả Kiên Phục, tôn giả Diện
Vương, tôn giả Dị Thừa, tôn giả Nhân Tánh,
tôn giả Gia Lạc, tôn giả Thiện Lai, tôn giả La
Vân, tôn giả A Nan, đều là các bậc thượng thủ
như vậy).
Tiếp đó là ba
mươi mốt vị tôn giả. Chúng ta niệm kinh A Di
Đà, thấy nêu tên mười sáu vị tôn giả, bộ
kinh Vô Lượng Thọ này nêu ra ba mươi mốt vị
tôn giả. “Tôn giả” có ư nghĩa
giống như “trưởng
lăo” (Mahāthera) trong Tiểu Bổn A Di Đà Kinh, tức là “đức lạp câu túc”, có
nghĩa là đạo đức cao, giới lạp[9] lớn,
v́ thế gọi là Trưởng Lăo. Ở đây, “tôn giả” có ư nghĩa đạo
đức lẫn giới lạp đều trọn đủ,
nên mới được người khác tôn kính, cũng có
nghĩa là vị ấy đạo đức to lớn, giới
lạp sâu dầy, nên mới gọi là Tôn Giả. Nếu phối
hợp với đoạn văn trước th́ không chỉ
là đại tỳ-kheo, mà c̣n là thánh nhân Đại Thừa.
V́ thế, gọi là Tôn Giả. Cả ba mươi mốt
vị trên đây đều là Tôn Giả.
Vị thứ nhất là Liễu
Bổn Tế. Phật Thích Ca thành Phật, trước hết
độ năm vị tỳ-kheo, vị khai ngộ đầu
tiên là Kiều Trần Như (Ājñātakauṇḍinya), dịch sang tiếng Hán là Liễu Bổn
Tế. “Liễu” (了) là liễu đạt (了達). Bổn Tế (本際) là bản tánh. Ngài khai ngộ Phật Tánh mà chính
ḿnh sẵn có, đă thông đạt cái lư sẵn có [trong tự
tâm], nên gọi là Liễu Bổn Tế. Đức Phật
độ năm vị tỳ-kheo, Ngài là người khai ngộ
đầu tiên, nên được nêu tên đầu tiên. Liễu
Bổn Tế là Kiều Trần Như. Theo kinh Kim Cang,
đời trước, Kiều Trần Như là vua Ca Lợi (Kalābu). Ca Lợi Vương dịch sang tiếng
Hán là Cực Ác Quốc Vương! Khi Thích Ca Mâu Ni Phật
c̣n chưa thành Phật, Ngài làm Nhẫn Nhục tiên nhân (Kșhāntivāda), tu hạnh nhẫn nhục, gặp phải vua Ca
Lợi không nói đạo lư. Ông ta là quốc vương có
thế lực, cầm thanh gươm chặt đứt
chân tay của Nhẫn Nhục. Khi ấy, Nhẫn Nhục
tiên nhân phát nguyện: “Ta tuyệt
đối chẳng có tâm sân hận. Nay ta phát nguyện,
trong tương lai thành Phật, sẽ độ
ngươi đầu tiên”. Khi đó, ác quốc
vương sanh ḷng hổ thẹn, cầu sám hối; từ
đấy trở đi, sửa lỗi, hướng thiện.
Nhẫn Nhục tiên nhân tu hành thành Phật là Thích Ca Mâu Ni Phật,
vua Ca Lợi cũng tu hành, tu cho đến khi Phật Thích
Ca xuất thế, Ngài bèn xuất gia làm tỳ-kheo, tức
Kiều Trần Như. Do vậy, đức Phật độ
người đầu tiên là vua Ca Lợi.
Đây là nói đến Tự
Phần của bộ kinh này, mọi người nghe kinh Phật
phải chú ư. Kinh Phật ví như ăn mật, chính giữa
hay ngoài ŕa đều ngọt. Nghe kinh th́ nghe từ đầu,
nghe khúc giữa, hay nghe phần sau, [đều là] “sơ thiện, trung thiện, hậu
thiện”. Bắt đầu nghe là sự tốt đẹp
ban đầu. “Thiện” là
tốt đẹp. Trung gian cũng là thiện hảo, nghe đoạn
cuối cùng là Lưu Thông Phần vẫn tốt đẹp.
Giống như ăn mật ong, quư vị ăn miếng thứ nhất là ngọt,
miếng thứ hai cũng ngọt, ăn đến miếng
cuối cùng vẫn ngọt. Chính giữa hay ngoài ŕa đều
ngọt. Quư vị nghe đến đâu bèn học đến
đó. Sau danh hiệu của những vị tôn giả này,
[kinh c̣n nêu] công đức của hàng Bồ Tát, đều nhằm
dạy chúng ta học, nêu gương cho chúng ta. Danh hiệu
của Phật được gọi là “vạn đức hồng danh”, “hồng danh” (洪名) tức là đại danh (danh xưng to lớn),
thường nói là “đại
danh đỉnh đỉnh” (大名鼎鼎, danh cao chót vót, danh nổi như cồn).
Ngài có danh xưng to lớn, to cỡ nào? Trọn đủ
một vạn công đức, gọi là “vạn đức hồng danh”. Những vị
tôn giả ấy, danh hiệu của mỗi vị đều
có đủ một phần công đức, hợp lại
thành một vạn hai ngàn vị, tức là có một vạn
hai ngàn công đức. Những điều này đều nhằm
bảo chúng ta hăy học theo.
Vị tôn giả thứ nhất
là Liễu Bổn Tế. Trước hết, quư vị phải
hiểu rơ chính ḿnh vốn sẵn có Phật Tánh. Đấy
là công phu thuộc bước đầu tiên. Quư vị chẳng
hiểu rơ Phật Tánh, làm sao có thể chứng thánh quả
cho được? Do vậy nói: “Giảng
đến đâu, học đến đó”. Liễu
đạt bổn tánh tức là chính ḿnh khai ngộ, ngộ
Phật Tánh vốn có của chính ḿnh, minh tâm kiến tánh,
đại triệt đại ngộ. Kiến tánh là đă
thấy Bổn Tế, làm thế nào để có thể thấy
Bổn Tế? Quư vị đoạn phiền năo, đoạn
ba căn bản phiền năo, tức là tham, sân, si. Tham, sân,
si là căn bản phiền năo, nhưng dữ dội nhất
là sân phiền năo. Quư vị dấy ḷng sân khuể, không chỉ
là chẳng thể tu hành, mà tất cả công đức của
quư vị đều bị phá hoại. Do vậy, “lửa sân khuể có thể
đốt trụi rừng công đức”. Đó gọi
là “một niệm sân tâm khởi,
trăm vạn chướng môn khai”. Nó có thể dẫn
đến khá nhiều chướng ngại. V́ thế, thứ
nhất là quư vị phải đoạn sân hận phiền
năo. Chẳng đoạn cái tâm sân khuể, quư vị sẽ vĩnh
viễn chẳng thể liễu Bổn Tế. V́ sao nói
đến Kiều Trần Như, nói đến kinh Kim Cang?
V́ kinh Kim Cang mọi người đều đă niệm,
có thể là có người chưa từng niệm kinh Vô
Lượng Thọ. Kinh Kim Cang đặc biệt hữu
duyên với người Hoa. Ai nấy đều biết
công án này. Nói đến công án ấy có phải là đă
đi quá xa [chủ đề đang giảng] hay không? Chẳng
xa! Quư vị
muốn học được, muốn liễu Bổn Tế, phải đoạn cái tâm sân hận. Để
độ chúng sanh th́ phải là oán thân b́nh đẳng. Phật
Thích Ca làm Nhẫn Nhục tiên nhân v́ sao có thể thành Phật?
Oán thân b́nh đẳng. Đối với vua Ca Lợi đă
chặt đứt chân tay ḿnh, đức Phật phát nguyện
độ nhà vua trước. Đối với oan gia đối
đầu th́ phải b́nh đẳng. Ngay khi ấy, vua Ca Lợi
cầu sám hối, bằng ḷng học theo Ngài; kết quả
là Phật Thích Ca đă thành Phật, vua Ca Lợi chuyển sanh làm Kiều
Trần Như, bèn khai ngộ đầu tiên, liễu đạt
bản tánh, đều là do đoạn cái tâm sân hận th́
mới đạt được lợi ích chân thật
trong Phật pháp.
Vị thứ hai là tôn giả
Chánh Nguyện (tức
ngài Mă Thắng - Aśvajit). “Nguyện”
(願) là chí nguyện, ngoại đạo phát nguyện
th́ là tà nguyện, hàng Nhị Thừa phát nguyện th́ là “thiên nguyện” (偏願, nguyện lệch lạc). Ngoại đạo
tà chứ chẳng chánh, hàng Nhị Thừa th́ thiên lệch,
chẳng chánh. Phải là nguyện do đệ tử Đại
Thừa đă phát th́ mới là “chánh
nguyện”, tức là mong tự lợi, lợi người
khác. Phát Bồ Đề đại nguyện như vậy
th́ là “chánh nguyện”.
Vị thứ ba là tôn giả
Chánh Ngữ (tức
ngài Ly Bà Đa - Revata). Trong Bát Chánh Đạo có Chánh Ngữ (Samyag-vāk). Ngữ (語) có nghĩa là nói năng. Lời lẽ của
phàm phu đều là ngu si, điên đảo, chẳng gọi
là Chánh Ngữ. Lời nói của ngoại đạo là lời
lẽ tà tri, tà kiến, cũng chẳng gọi là Chánh Ngữ.
Nếu có thể nói pháp Đại Thừa, rộng độ
hết thảy chúng sanh th́ mới là Chánh Ngữ. V́ những
ǵ quư vị nói ra đều có thể lợi ích chúng sanh, gieo
thiện căn cho chúng sanh, khuyên dạy chúng sanh phát Bồ
Đề tâm, hành Bồ Tát đạo, độ hết thảy
chúng sanh đều thành Phật. Lời lẽ nào cũng
đều chẳng chánh đáng bằng những lời
này. V́ thế, lời lẽ nói về pháp Đại Thừa
được gọi là Chánh Ngữ. [Vị tôn giả
Chánh Ngữ này] đối ứng với tôn giả Chánh Nguyện trong phần trên. Chúng ta học phát đại nguyện Bồ
Đề, mong độ hết thảy chúng sanh, độ
bằng cách nào? Quư vị học giảng kinh, học Chánh Ngữ. Chẳng biết giảng kinh th́ phải học.
Giảng kinh th́ không biết giảng, do không biết giảng
mới phải học. Phải học giảng kinh th́ mới
có thể thỏa măn đại nguyện Bồ Đề
của quư vị.
Vị thứ tư là tôn giả
Đại Hiệu (Mahānāma). Hiệu (號) là tên gọi. [Đại Hiệu là] danh hiệu
to lớn, tức là có tiếng tăm to lớn. Tham danh,
tham lợi là phiền năo. Đức Phật đại
danh, cái danh ấy hoàn toàn chẳng do tham mà có. Thanh danh là “thật chí danh quy” (có thực
chất th́ sẽ nổi tiếng). Có công đức chân thật,
tự nhiên chúng sanh biết đến đại danh. V́ thế,
gọi là Đại Hiệu, tức là danh hiệu to lớn.
Vị thứ năm là tôn giả
Nhân Hiền (Bhadrika). Có ḷng nhân từ và hiền đức th́
gọi là Nhân Hiền.
Vị thứ sáu là tôn giả
Ly Cấu. Cấu (垢) là phiền
năo. Xa ĺa phiền năo tức là xa ĺa ô nhiễm th́ là Ly Cấu.
Vị thứ bảy là tôn giả Danh Văn.
Tiếng tăm thông thấu trọn khắp, vị này chính
là ngài Ma Ha Câu Hy La (Mahākausthila) trong kinh A Di Đà, vấn đáp bậc nhất.
Vị thứ
tám là tôn giả Thiện Thật. Có đức hiền thiện,
có đức chân thật,
nên gọi là Thiện Thật.
Vị thứ chín là tôn giả
Cụ Túc, [hàm ư] phước trọn đủ, huệ trọn
đủ. Do phước lẫn huệ đều trọn
đủ, nên gọi là Cụ Túc.
Vị thứ mười là
tôn giả Ngưu Vương. “Ngưu
vương” (牛王, trâu chúa) là từ ngữ để tán thán.
Ấn Độ tán thán một người nào lỗi lạc
th́ khen là Ngưu Vương, hoặc ca ngợi là Tượng
Vương (象王, voi chúa), chẳng phải là Ngưu Ma
Vương trong Tây Du Kư! Ngưu Vương [ở đây]
chính là tôn giả Kiều Phạm Ba Đề (Gavāṃpati) như chúng ta niệm trong kinh A Di Đà, c̣n
dịch là Ngưu Tư (牛呞, trâu nhơi). V́ đời trước
Ngài thốt ra một câu ác khẩu, do có một vị tỳ-kheo
già đă rụng răng, trong khi ứng cúng, tướng miệng
nhai rất khó coi. Ngài nói vị tỳ-kheo già ấy ăn cơm giống như trâu đang nhơi cỏ. Do thốt ra một câu nói ác miệng
ấy, chuốc lấy quả báo! Đời kế tiếp, Ngài bị tướng xấu ấy,
ăn cơm giống như trâu nhơi cỏ. Về sau,
khi Ngài chẳng ăn cơm, miệng vẫn nhóp nhép. Do vậy,
mọi người trông thấy đều cười cợt
Ngài. Cười cợt đều là tạo khẩu nghiệp.
V́ thế, đức Phật chẳng cho Ngài thọ cúng
dường trong nhân gian, mà bảo Ngài đến nhận sự
cúng dường của cơi trời. Chư thiên có thần
thông, biết đời trước Ngài đă tạo ra cái
nghiệp ác khẩu, mắc lấy quả báo, ai cũng
đều chẳng dám cười cợt Ngài. V́ thế,
Ngài được xưng tụng là “thọ thiên cúng dường đệ nhất”
(được cơi trời cúng dường bậc nhất).
V́ Ngài là một vị A La Hán, Ngài lại hồi Tiểu
hướng Đại; do đó, tán thán Ngài là Ngưu
Vương.
Vị thứ mười một
là tôn giả Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp (Uruvilvā-kāśyapa), dịch sang tiếng Hán là Mộc Qua Lâm
(rừng cây đu đủ). Ngài tu đạo là tu hành trong
rừng Mộc Qua.
Vị thứ mười hai
là tôn giả Già Da Ca Diếp (Gayā-kāśyapa). Chữ Diếp (葉) [trong tiếng Phổ Thông] đọc là Shè (ㄕㄜˋ), [Già Da trong] tiếng Hán là Tượng Đầu
Sơn (núi đầu voi). Ngài tu hành ở Tượng Đầu
Sơn.
Vị thứ mười ba là
tôn giả Na Đề Ca Diếp (Nadī-kāśyapa). Na Đề là sông. Ngài tu hành ở bên
sông.
Ba vị tôn giả trên
đây được gọi là Tam Ca Diếp. Ba anh em các
Ngài đều xuất gia học theo ngoại đạo, cầm
đầu ngoại đạo. Ba người các Ngài
được đức Phật giáo hóa. Tính gộp cả
đồ chúng vốn có của ba vị là một ngàn
người, đều cùng nhau theo Phật xuất gia.
Vị thứ mười bốn
là tôn giả Ma Ha Ca Diếp (Mahākāśyapa), dịch sang tiếng Hán là Đại Ẩm
Quang (大飲光). Quang minh trên thân ngài có thể hút mất
các thứ quang minh khác. Sau khi Phật Thích Ca nhập Niết
Bàn, Ngài là Tổ Sư đời thứ nhất của Thiền
Tông, là vị Đầu Đà bậc nhất. Đệ tử
Phật có năm vị tôn giả Ca Diếp, bộ kinh này
chỉ nói bốn vị. Trong năm vị tỳ-kheo
được đức Phật hóa độ [đầu
tiên], có một vị tên là Thập Lực Ca Diếp (Daśabalakāśyapa).
Vị thứ mười
lăm là tôn giả Xá Lợi Phất (Śāriputra). Xá Lợi Phất dịch sang tiếng Hán là Thân Tử (身子), c̣n dịch là Thu Tử (鶖子). Xá Lợi (Śāri) là tên của mẹ ngài Xá Lợi Phất.
V́ thân tướng của mẹ Ngài trang nghiêm, nên dịch
thành Thân Tử. Mắt của mẹ ngài Xá Lợi Phất
rất xinh đẹp, giống như mắt chim Thu, nên có tên
là Thu Tử. Trong chúng Thanh Văn, Ngài là trí huệ bậc nhất,
cũng là bậc đương cơ trong kinh Di Đà.
Vị thứ mười sáu
là tôn giả Đại Mục Kiền Liên (Mahā-Maudgalyayana), dịch sang tiếng Hán là Đại Thái
Thục Thị. Thái Thục Thị (采菽氏) là họ của Ngài, Ngài thần thông bậc
nhất.
Vị thứ mười bảy
là tôn giả Kiếp Tân Na (Kappina), dịch sang tiếng Hán
là Pḥng Tú (房宿)[10].
Cha mẹ Ngài cầu đảo sao Pḥng Tú mà sanh ra Ngài.
Vị thứ mười tám
là tôn giả Đại Trụ. Hồi Tiểu hướng
Đại, nghe pháp Đại Thừa rồi hành đạt
đến địa vị Tam Hiền, đạt tới
địa vị Thập Trụ, gọi là “nhập Trụ”. Chẳng thoái chuyển, đạt đến
Đăng Địa Bồ Tát th́ là Đại Trụ.
Ngài đích thân chứng Pháp Thân nên gọi là Đại Trụ.
Vị thứ mười chín
là tôn giả Đại Tịnh Chí. Chí (志) là chí nguyện. Phát đại nguyện,
độ hết thảy chúng sanh. Tịnh (淨) là thanh tịnh. Phát đại nguyện
độ hết thảy chúng sanh mà chẳng chấp tướng
th́ gọi là Đại Tịnh Chí.
Vị thứ hai mươi
là tôn giả Ma Ha Châu Na. Ma Ha là đại, Châu Na là diệu lư.
[Ma Ha Châu Na là] đại diệu lư. Ngài chứng đắc
diệu lư Thật Tướng chẳng thể nghĩ bàn.
Vị thứ hai mươi
mốt là tôn giả Măn Nguyện Tử, c̣n gọi là Măn Từ
Tử. Đấy là tên dịch theo nghĩa của danh xưng Phú Lâu Na Di Đa
La Ni Tử (Purna Maitrayani-putra) trong tiếng Phạn. Ngài thuyết pháp bậc
nhất.
Vị thứ hai mươi
hai là tôn giả Ly Chướng. Xa ĺa tam chướng, tức
Hoặc chướng, nghiệp chướng, và báo chướng.
Vị thứ hai mươi
ba là tôn giả Lưu Quán. Lưu (流) tức là pháp lưu, giảng kinh thuyết pháp
cho người khác nghe. Quán (灌) là tưới đẫm, giáo hóa hết thảy
chúng sanh, dùng pháp tưới đẫm chúng sanh.
Vị thứ hai mươi
bốn là tôn giả Kiên Phục. Dùng tâm kiên cố để
hàng phục hết thảy phiền năo.
Vị thứ hai mươi
lăm là tôn giả Diện Vương, mặt như
trăng tṛn. Đức Phật có ba mươi hai tướng,
mặt như trăng tṛn, đấy là một trong các tướng
hảo. Vị tỳ-kheo này có tướng hảo ấy.
Đức Phật tán thán tỳ-kheo Diện Vương, giống
như Tử Lộ của Nho gia, Ngài mặc ca-sa rách, c̣n
quư vị ăn vận đẹp đẽ cách mấy vẫn
chẳng sánh bằng Ngài. Ngài có công phu ấy.
Vị thứ hai mươi sáu là tôn giả Dị Thừa. Dị
Thừa là khác với Nhị Thừa. Dị (異) là không giống nhau. Ngài hồi Tiểu
hướng Đại, hành hạnh Đại Thừa.
Vị thứ hai mươi
bảy là tôn giả Nhân Tánh. Nhân Tánh là bản tánh nhân từ.
Vị thứ hai mươi tám là Gia Lạc, Gia (嘉) là rất tốt đẹp. Ngài có pháp lạc
tươi đẹp, tốt lành.
Vị thứ hai mươi chín
là tôn giả Thiện Lai (Susvāgata). Thiện Lai là thiện căn chín muồi.
“Thiện lai tỳ-kheo”: Quư vị đến đây tốt
lắm, nên gọi là Thiện Lai. Người ấy thiện
căn chín muồi, gặp Phật bèn đắc độ,
khai ngộ, chứng quả. Người ấy thiện
căn chín muồi, c̣n thiếu một bước gặp
Phật [là có thể đắc độ]. Sau khi Phật
Thích Ca thành Phật, vị ấy đến xuất gia,
đức Phật quan sát căn cơ của chúng sanh. Vừa
trông thấy thiện căn của người ấy
đă chín muồi, quư vị đến đây hay quá! [Bèn gọi]
“Tỳ-kheo! Thiện lai tỳ-kheo”.
Vừa gọi, [người ấy] râu tóc tự rụng, y
ca-sa choàng trên thân, nhất thời chứng Tứ Quả.
Vị thứ ba mươi
là tôn giả La Vân. La Vân chính là La Hầu La (Rāhula), [La Vân] là một cách phiên âm tiếng Phạn
khác [của
chữ La Hầu La]. [Dịch nghĩa sang] tiếng Hán là Giá Chướng
(遮障, ngăn che, chướng ngại). Ngài là Thái
Tử của đức Phật.
Vị thứ ba mươi mốt
là tôn giả A Nan (Ānanda), dịch sang tiếng Hán là Khánh Hỷ.
Ngài sanh nhằm ngày Phật Thích Ca thành đạo; vừa
chúc mừng đức Phật thành đạo, vừa chúc
mừng Ngài sanh ra, v́ thế, gọi là Khánh Hỷ. Ngài
đa văn bậc nhất, hết thảy kinh tạng
được kết tập đều là do tôn giả A
Nan [trùng tuyên].
“Giai như tư đẳng thượng thủ giả
dă” (Đều
là các vị thượng thủ như vậy). Nói gộp
chung ba mươi mốt vị trên đây, tức là một
vạn hai ngàn vị đại tỳ-kheo thảy đều
giống như ba mươi mốt vị tôn giả trên
đây, đều là Thượng Thủ. “Giai như tư đẳng” là nói ba mươi mốt
vị này đều là bậc Thượng Thủ, đều
là bậc Thượng Tọa[11], nói rơ một
vạn hai ngàn vị tỳ-kheo đều là như thế
cả.
Trong quyển thượng của
bộ Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ, Huệ Viễn
đại sư đă viết: “Kim
thử thả liệt tam thập nhị nhân giai như
tư đẳng Thượng Thủ giả dă” (Nay kể
ra ba mươi hai người ấy đều là bậc Thượng
Thủ như thế đó). Ngài nói có ba
mươi hai vị tôn giả, nhưng Đạo Nguyên
tính đi tính lại, chỉ có ba mươi mốt vị
tôn giả. Chánh kinh ghi ba mươi mốt vị tôn giả,
trong quyển thượng của bộ Nghĩa Sớ của
Ngài (Huệ Viễn) cũng là ba mươi mốt vị tôn
giả. Lại tra trong bộ Vô Lượng Thọ Kinh Khởi
Tín Luận, vẫn là ba mươi mốt vị tôn giả,
không biết từ khi nào đă lược bớt một vị,
chỉ có ba mươi mốt vị tôn giả, chẳng có
ba mươi hai vị tôn giả!
2.1.1.2.2. Bồ Tát chúng
2.1.1.2.2.1. Nêu rơ sự sai biệt của loại
đại chúng này
(Kinh) Hựu dữ Đại Thừa
chúng Bồ Tát câu.
(經)又與大乘眾菩薩俱。
(Kinh: Lại cùng với chúng
Đại Thừa Bồ Tát nhóm họp).
Chữ Hựu (lại) diễn
tả: Cùng với chúng Thanh Văn trong phần trước.
“Hựu dữ Đại Thừa
chúng” (Lại cùng với chúng Đại Thừa):
“Đại Thừa chúng” là
đại Bồ Tát. “Câu” (俱) là cùng tụ lại một chỗ.
2.1.1.2.2.2. Liệt kê danh tự của các Ngài
(Kinh) Phổ Hiền Bồ Tát, Diệu
Đức Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát đẳng,
thử Hiền Kiếp trung nhất thiết Bồ Tát. Hựu
Hiền Hộ đẳng thập lục Chánh Sĩ, Thiện
Tư Nghị Bồ Tát, Tín Huệ Bồ Tát, Không Vô Bồ
Tát, Thần Thông Hoa Bồ Tát, Quang Anh Bồ Tát, Huệ Thượng
Bồ Tát, Trí Tràng Bồ Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Nguyện
Huệ Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bảo
Anh Bồ Tát, Trung Trụ Bồ Tát, Chế Hạnh Bồ
Tát, Giải Thoát Bồ Tát, giai tuân Phổ Hiền đại
sĩ chi đức.
(經)普賢菩薩、妙德菩薩、慈氏菩薩等,此賢劫中一切菩薩,又賢護等十六正士,善思議菩薩、信慧菩薩、空無菩薩、神通華菩薩、光英菩薩、慧上菩薩、智幢菩薩、寂根菩薩、願慧菩薩、香象菩薩、寶英菩薩、中住菩薩、制行菩薩、解脫菩薩,皆遵普賢大士之德。
(Kinh: Phổ Hiền Bồ
Tát, Diệu Đức Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát
v.v… là hết thảy các vị Bồ Tát trong Hiền Kiếp
này. Lại có mười sáu vị Chánh Sĩ thuộc nhóm
Hiền Hộ, tức Thiện Tư Nghị Bồ Tát, Tín
Huệ Bồ Tát, Không Vô Bồ Tát, Thần Thông Hoa Bồ
Tát, Quang Anh Bồ Tát, Huệ Thượng Bồ Tát, Trí
Tràng Bồ Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Nguyện Huệ Bồ
Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát,
Trung Trụ Bồ Tát, Chế Hạnh Bồ Tát, Giải
Thoát Bồ Tát, đều tuân theo phẩm đức của
Phổ Hiền đại sĩ).
Tiếp đó, nêu ra danh tự
của mấy vị Thượng Thủ. “Phổ Hiền Bồ Tát, Diệu Đức Bồ
Tát, Từ Thị Bồ Tát đẳng”: Nêu ra danh tự
của ba vị Bồ Tát, xếp Phổ Hiền Bồ Tát
đứng đầu, v́ pháp môn Tịnh Độ chủ
trương tu hành, chủ trương hạnh môn, mà Phổ
Hiền Bồ Tát được gọi là Đại Hạnh
Bồ Tát.
Diệu Đức Bồ Tát
là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, dịch sang tiếng Hán
là Diệu Đức. Ngài có công đức chẳng thể
nghĩ bàn, v́ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là thầy của
bảy vị Phật. Nay ở trước Phật Thích
Ca, Ngài thị hiện thân phận đệ tử, công
đức chẳng thể nghĩ bàn. Do vậy, gọi là
Diệu Đức.
Từ Thị Bồ Tát chính
là Di Lặc Bồ Tát. Di Lặc dịch sang tiếng Hán là Từ
Thị. Từ Thị tức là họ Từ, Ngài tên là A Dật
Đa (Ajita), dịch sang tiếng Hán là Vô Năng Thắng (無能勝, không ai có thể vượt hơn), là
Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Giả.
“Thử
Hiền Kiếp trung nhất thiết Bồ Tát” (Hết thảy các vị Bồ Tát trong Hiền
Kiếp này): Ở đây là tổng kết. Trang Nghiêm Kiếp
là kiếp Trang Nghiêm (Vyūhakalpa) trong đời quá khứ, có một ngàn vị
Phật xuất thế. Hiện tại là Hiền Kiếp
(Bhadrakalpa), có một ngàn vị Phật xuất thế.
Vị lai là Tinh Tú Kiếp (Nakśatra kalpa), có một ngàn vị Phật xuất thế.
Trong tết Nguyên Đán, rất nhiều tự viện
đều lạy Thiên Phật Sám, thực tế là Tam Thiên
Phật Danh. Lạy ba ngàn vị Phật là ba ngàn vị Phật
trong ba kiếp, tức Quá Khứ Trang Nghiêm Kiếp, Hiện
Tại Hiền Kiếp, và Vị Lai Tinh Tú Kiếp, mỗi
kiếp đều có một ngàn vị Phật xuất thế.
“Thử Hiền Kiếp trung nhất
thiết Bồ Tát” nói như thế nào? Phải biết
Hiền Kiếp có một ngàn vị Phật xuất thế,
Thích Ca Mâu Ni Phật là vị Phật thứ tư trong Hiện
Tại Hiền Kiếp, c̣n có chín trăm chín mươi sáu
vị Phật sẽ xuất thế, hăy c̣n có những vị
Bồ Tát chưa xuất thế. Do vậy, chín trăm chín
mươi sáu vị Bồ Tát sẽ thành Phật trong Hiền
Kiếp đều hiện diện trong pháp hội này.
“Hựu
Hiền Hộ đẳng thập lục Chánh Sĩ” (Lại có mười sáu vị Chánh Sĩ
thuộc nhóm Hiền Hộ): “Hựu”
là lại có một loại Bồ Tát khác trong hàng Đại Thừa Bồ Tát chúng. “Chánh Sĩ” (正士) c̣n dịch là Bồ Tát, cũng c̣n
được dịch là Khai Sĩ (開士). Đây là hàng tại gia Bồ Tát. Lại
có thêm mười sáu vị tại gia Bồ Tát thuộc
nhóm Hiền Hộ. Đấy là nói chung, kế đó là danh
tự riêng của từng vị.
Vị thứ nhất là Hiền
Hộ (Bhadra-pāla) Bồ Tát[12].
Vị thứ hai là Thiện Tư Nghị Bồ
Tát. Tại gia Bồ Tát có tư tưởng Đại Thừa
Phật pháp, nên có tên là Thiện Tư Nghị Bồ Tát.
Vị thứ ba là Tín Huệ
Bồ Tát, tín ngưỡng Đại Thừa, có trí huệ
Đại Thừa, nên tên là Tín Huệ Bồ Tát.
Vị thứ tư là Không Vô
Bồ Tát, thấy hết thảy là Không, đối với
hết thảy các pháp đều quán Không.
Vị thứ năm là Thần
Thông Hoa Bồ Tát. Tại gia Bồ Tát tu hành cũng có thể
đắc thần thông. Thần Thông là trong địa vị
tu nhân, có một thứ gọi là Thông Hoa, trong địa vị
tu nhân của Bồ Tát, sẽ có được loại hoa
ấy.
Vị thứ sáu là Quang Anh Bồ
Tát. Quang Anh là trí huệ. Tại gia Bồ Tát khai phát đại
trí huệ, trí huệ bậc nhất.
Vị thứ bảy là Huệ
Thượng Bồ Tát. Huệ Thượng và Quang Anh có
cùng ư nghĩa. Trí huệ tối thượng th́ gọi là
Huệ Thượng Bồ Tát.
Vị thứ tám là Trí Tràng Bồ Tát. Đă đạt
được trí huệ cao, có thể dựng cao pháp tràng.
Vị thứ chín là Tịch
Căn Bồ Tát. Căn (根) là sáu căn, Tịch (寂) là tịch diệt. Tuy Ngài là tại gia Bồ Tát,
lại tŕ giới xuất gia, sáu căn tịch diệt
thanh tịnh, trọn chẳng tham luyến hồng trần.
Vị thứ mười là
Nguyện Huệ Bồ Tát, có nguyện Đại Thừa,
có trí huệ Đại Thừa.
Vị thứ mười một
là Hương Tượng Bồ Tát: Tượng (voi) biểu
thị đại hạnh của Ngài. Hương Tượng
là voi chúa trong các con voi.
Vị thứ mười hai
là Bảo Anh Bồ Tát. Xét trong hàng tại gia nếu quy y Phật,
Pháp, Tăng Tam Bảo, Ngài anh tuấn nhất.
Vị thứ mười ba là
Trung Trụ Bồ Tát. Trụ (住) là an trụ. [Trung Trụ là] an trụ nơi Trung
Đạo.
Vị thứ mười bốn
là Chế Hạnh Bồ Tát. Chế Hạnh tức là tŕ giới
hết sức tinh tấn.
Vị thứ mười
lăm là Giải Thoát Bồ Tát. Do tŕ giới tinh tấn, có
thể giải thoát phiền năo. Nhưng đến đây
tôi cũng tính ra, kể cả Hiền Hộ Bồ Tát, chỉ
có mười lăm vị Bồ Tát, kinh văn nói “mười sáu vị Chánh Sĩ”,
chẳng biết bỏ mất ở đâu một vị![13]
Cuối cùng, tổng kết
lại: “Giai tuân Phổ Hiền
đại sĩ chi đức” (đều tuân theo đức
hạnh của Phổ Hiền đại sĩ). Mười sáu vị tại gia
Bồ Tát phải học theo hàng xuất gia Bồ Tát. Xuất
gia Bồ Tát th́ Phổ Hiền Bồ Tát là vị đứng
đầu. Những vị này đều tuân thủ công
đức của Phổ Hiền Bồ Tát, học theo Phổ
Hiền Bồ Tát. Phổ Hiền Bồ Tát tu hành như thế
nào, tại gia Bồ Tát bèn học theo tu hành như thế
đó! Tóm lại, mười sáu vị tại gia Bồ Tát
ấy, đều trọn đủ công đức của
Phổ Hiền Bồ Tát, v́ họ tuân thủ công đức
của Phổ Hiền Bồ Tát. Trong phần trước đă
nhắc đến hàng xuất gia Bồ Tát, trong phần liệt
kê danh xưng của các vị thủ lănh của hàng tại gia Bồ Tát, đă kể ra rất
nhiều vị đại Bồ Tát, các Ngài thảy đều tuân thủ phẩm
đức của Phổ Hiền đại sĩ. “Phổ Hiền đại sĩ”
chính là Phổ Hiền Bồ Tát, bậc nhất trong các vị
đại Bồ Tát. “Phổ
Hiền đại sĩ chi đức” là trọn đủ
các phẩm đức của chư Phật. Chúng ta học
Phật th́ trước hết là học theo Bồ Tát. Học
theo Bồ Tát chính là học theo Phổ Hiền Bồ Tát. Học
theo Phổ Hiền Bồ Tát th́ cũng là học theo chư
Phật. Đối với câu kinh văn này, phải chú ư chữ
Tuân. Tuân (遵) là tuân
thủ. Tuân thủ th́ sẽ phụng hành, tức là chư
đại Bồ Tát thảy đều học theo Phổ
Hiền Bồ Tát. Phổ Hiền Bồ Tát có công đức
ǵ, các vị đại Bồ Tát này đều tuân thủ,
đều phụng hành. V́ thế, đều học thành bậc
đại Bồ Tát.
2.1.1.2.2.3. Tán thán đức của các Ngài
2.1.1.2.2.3.1.
Tán thán Quyền Đức và Thật Đức
2.1.1.2.2.3.1.1.
Tán thán đại lược đức hạnh của các
Ngài
(Kinh) Cụ chư Bồ Tát vô
lượng hạnh nguyện, an trụ nhất thiết
công đức chi pháp, du bộ thập phương, hành quyền
phương tiện.
(經)具諸菩薩無量行願,安住一切功德之法。遊步十方,行權方便。
(Kinh: Trọn đủ vô lượng hạnh nguyện
của các vị Bồ Tát, an trụ trong hết thảy
các pháp công đức, du hóa mười phương, thực
hiện phương tiện quyền biến).
“Cụ
chư Bồ Tát vô lượng hạnh nguyện” (trọn
đủ vô lượng hạnh nguyện của các vị
Bồ Tát): Không chỉ trọn đủ công đức của
Phổ Hiền Bồ Tát, lại c̣n trọn đủ công
đức của hết thảy Bồ Tát. Hết thảy
đại hạnh đại nguyện của Bồ Tát đều
trọn đủ. “An trụ nhất
thiết công đức chi pháp” (An trụ
trong hết thảy các pháp công đức):
“An trụ” tức là chẳng thoái chuyển, v́ các Ngài học
theo những vị xuất gia Bồ Tát, hết thảy
đại hạnh đại nguyện đều học hiểu, ngay cả đại hạnh đại
nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát cũng đều
học hiểu. V́ thế, “an
trụ nhất thiết công đức chi pháp”. Trong món
thành tựu thứ sáu là Chúng Thành Tựu, đă giảng xong
Thanh Văn chúng đại tỳ-kheo, lại nói về Bồ
Tát chúng, [trong Bồ
Tát chúng] có xuất gia Bồ Tát và
tại gia Bồ Tát. Dưới đây c̣n có một đoạn lớn nói về
công đức của những vị Bồ Tát ấy.
Toàn thể bản kinh chia
thành ba phần lớn. Phần thứ nhất là Tự Phần,
trong Tự Phần chia thành hai loại. Loại thứ nhất
là Chứng Tín Tự. Trong Chứng Tín Tự có sáu loại thành
tựu. Loại thứ sáu gọi là Chúng Thành Tựu, đấy
là đại chúng nghe kinh thành tựu. Trong Chúng Thành Tựu
có hai loại đại chúng, thứ nhất là Thanh Văn
chúng, thứ hai là Bồ Tát chúng. Thanh Văn chúng đă nói
xong. Các vị Bồ Tát thủ lănh trong pháp hội cũng
đă nói xong, tiếp đó là tán thán công đức của
các vị đại Bồ Tát. Nói về Bồ Tát chúng th́ phải
tán thán công đức của những vị đại Bồ
Tát. Đoạn văn này rất
dài, chẳng giống các kinh khác. Trong Chứng Tín Tự của
các kinh khác, chỉ kể rơ có bao nhiêu Thanh Văn chúng. Chúng
ta thường niệm kinh A Di Đà, thấy phần nói về
chúng trời, người [như sau]: “Dữ đại
tỳ-kheo tăng, thiên nhị bách ngũ thập nhân câu”
(cùng với các vị đại tỳ-kheo
tăng, một ngàn hai trăm năm mươi người
nhóm họp). Một, hai câu giới thiệu là xong!
Bộ kinh Vô Lượng Thọ
này nói đến Bồ Tát chúng, bèn tán thán công đức của
Bồ Tát, lại c̣n tán thán rất nhiều. V́ sao tán thán
công đức của Bồ Tát nhiều ngần ấy? V́ kinh
Vô Lượng Thọ là kinh Đại Thừa. Kinh Đại
Thừa lấy các vị đại Bồ Tát làm
đương cơ, nhằm dạy chúng ta học theo những
vị đại Bồ Tát. Học theo đại Bồ
Tát th́ hăy xem các Ngài phát tâm như thế nào? Tu hành ra sao? Chúng
ta hăy khéo theo chân các vị đại Bồ Tát ấy. Do vậy
mới tán thán công đức của những vị Bồ
Tát ấy rất nhiều!
Tôi vừa mới nói “tán thán
công đức của Bồ Tát, nhằm nêu gương cho
chúng ta”, chúng ta học Phật bằng cách nào? Trước hết
là học theo Bồ Tát. Học theo Bồ Tát th́ học như thế nào? Học theo Phổ Hiền Bồ Tát. Chúng
ta học chẳng thành Bồ Tát, chẳng phải là do nghe
ít, mà là v́ chẳng tuân thủ. Nghe giảng xong, kinh đi
đằng kinh, chúng ta đi đằng chúng ta, chẳng hề
tuân thủ phụng hành. Do vậy nghe kinh, chữ Tuân rất
quan trọng. Chư đại Bồ Tát đều học
theo Phổ Hiền Bồ Tát, tuân thủ phụng hành đức
của Phổ Hiền Bồ Tát. “Cụ chư Bồ Tát vô lượng hạnh nguyện”
(Đầy đủ vô lượng hạnh
nguyện của các Bồ Tát): Lại c̣n đối với
hạnh nguyện của các vị đại Bồ Tát thảy
đều học hiểu, nên nói là “cụ
túc” (đầy
đủ). Hết thảy các vị
đại Bồ Tát đều phát đại nguyện, lập
đại hạnh. Những vị đại Bồ Tát ấy
thảy đều trọn đủ đại nguyện
và đại hạnh của hết thảy các vị Bồ
Tát. “An trụ nhất thiết công đức
chi pháp” (An trụ trong hết
thảy các pháp công đức): Công
đức của những vị đại Bồ Tát ấy
cũng là pháp công đức của chư Phật. Chúng ta
phải tuân thủ, phụng hành, phải tŕ, phải học.
Chúng ta là Sơ Phát Tâm Bồ
Tát, chẳng thể an trụ. V́ sao chẳng thể an trụ?
V́ chúng ta chẳng thể hàng phục cái tâm vọng tưởng.
Tâm vọng tưởng là tâm phiền năo. Phiền năo
căn bản nhất trong cái tâm phiền năo là tham, sân, si.
Tâm tham, tâm sân hận, và tâm ngu si đang làm chủ, chúng ta chẳng làm chủ được! Biết rơ chuyện này là công đức, nhưng
người ấy chẳng làm. V́ sao chẳng làm? Chẳng
phải là dấy tâm tham, th́ cũng là dấy tâm sân hận.
Chẳng dấy tâm sân hận th́ là dấy tâm ngu si, gây
chướng ngại cho nó. Nếu an trụ trong địa vị Bồ
Tát, viên măn Thập Tín, dự vào địa vị Thập
Trụ, sẽ chẳng thoái chuyển. Đây vẫn là
Tương Tự Bất Thoái Chuyển, chứ thật sự
an trụ trong Bất Thoái Chuyển sẽ là đăng
địa Bồ Tát (những vị Bồ Tát chứng đắc
từ Sơ Địa trở lên), tức là những vị Pháp Thân đại
sĩ đă đích thân chứng Pháp Thân, các Ngài mới có thể
“an trụ trong hết thảy các pháp công đức”. Hàng phục tham, sân, si, th́ cũng coi
như là đoạn trừ chúng nó, [khiến cho] phiền năo chẳng dấy
lên được. Muốn đoạn sạch [tham, sân, si] th́ chẳng có cách nào đoạn được,
trước hết là hàng phục khiến cho chúng nó chẳng dấy lên. Đó là “tiên phục hậu đoạn”,
[tức là để] đoạn phiền năo th́ trước
là chế phục, sau là đoạn trừ. Chúng ta hiểu ư
nghĩa này.
Đoạn phiền năo nói dễ
lắm, trước hết là hàng phục nó, nhưng hàng phục
bằng cách nào đây? Tu pháp công đức cho nhiều. Tức
là công đức của chư đại Bồ Tát, công
đức của chư Phật, chúng ta đều học
theo, quán tưởng những công đức ấy, chẳng
làm th́ vẫn không quen! Đây là bàn theo kinh nghiệm. Quư vị
làm công đức sẽ quen, chứ quư vị chẳng làm sẽ
vẫn
không quen, [cứ làm quen
tay] sẽ có sức mạnh. Hàng phục tham, sân, si, khiến cho chúng chẳng thể dấy
lên được. Cứ tinh tấn dụng công, đă tinh
tấn lại càng tinh tấn hơn, sẽ có thể triệt để hàng phục
phiền năo, sẽ đoạn hết phiền năo. Đấy
là có thể “an trụ trong hết thảy các pháp công đức”. Đấy là các vị đại Bồ
Tát đă an trụ. Các Ngài là hàng Bồ Tát thuộc địa
vị Thập Trụ, là đăng địa Pháp Thân
đại sĩ, tự nhiên an trụ, để cho chúng ta
học theo, học làm nhiều pháp công đức. “Làm” là biến nó thành thói quen,
giống như chúng ta đă quen thói tham, sân, si, nay làm nhiều
công đức, làm thành thói quen th́ sẽ tốt đẹp, công phu to lớn. “An trụ trong pháp công đức”, chính ḿnh đạt được lợi
ích th́ mới có thể giáo hóa chúng sanh.
“Du
bộ thập phương, hành quyền phương tiện” (du hóa mười
phương, thực hiện phương tiện quyền
biến): “Du bộ” (遊步) là du hành, du hóa. “Thập
phương” là Đông, Tây, Nam, Bắc, tứ duy (四維, bốn góc), trên, dưới. Mười
phương thế giới đều có chúng sanh, phải
đến độ chúng sanh trong mười phương
thế giới, chẳng thể an trụ một
phương, mà phải du bộ mười phương. “Du bộ thập phương,
hành quyền phương tiện”: Công đức của
chư Bồ Tát chính là công đức của chư Phật, nói tổng quát th́ có hai loại: Một loại là
Thật, loại kia là Quyền. Thật (實) là công đức chân thật. Quyền (權) là công đức quyền biến, xảo
diệu. Công đức chân thật th́ các Ngài đă tự ḿnh chứng đắc và liễu giải Thật
Tướng. Đó là công đức chân thật do chính các
Ngài đă đạt được. Các Ngài muốn độ
chúng sanh mà chẳng dùng phương tiện
quyền xảo th́ sẽ chẳng được. Vị Bồ
Tát ấy học theo Phật th́ phải học theo Phổ
Hiền Bồ Tát, phải độ chúng sanh, đến mười
phương thế giới để độ chúng sanh.
Căn cơ của chúng sanh thiên sai vạn biệt, quư vị
chẳng dùng công đức quyền biến th́ sẽ chẳng
được. “Quyền”
là quyền xảo. Quyền xảo là phương tiện,
tức là thấy chúng sanh nào, trông thấy kẻ ấy liền
biết đáng nên dùng pháp môn ǵ để độ, bèn dùng
pháp môn ấy. Đấy là phương tiện quyền xảo!
2.1.1.2.2.3.1.2. Tán dương rộng răi đức
hạnh của các Ngài
2.1.1.2.2.3.1.2.1. Tán thán Thật Đức
(Kinh) Nhập Phật pháp tạng,
cứu cánh bỉ ngạn.
(經)入佛法藏,究竟彼岸。
(Kinh: Vào pháp tạng của Phật,
rốt ráo đến bờ kia).
Thâm nhập pháp tạng của
Phật. Những pháp do đức Phật đă nói,
được gọi chung là “pháp
tạng”. Phải thâm nhập pháp tạng của Phật,
nói theo hiện thời sẽ là Kinh Tạng. Nói suy rộng
ra, Kinh, Luật, Luận Tam Tạng đều là pháp tạng
của Phật. Phải thâm nhập, nghiên cứu pháp tạng
của Phật.
“Cứu
cánh bỉ ngạn”: “Cứu cánh” có nghĩa là viên măn, có thể đạt đến
bỉ ngạn. “Bỉ ngạn” (Bờ kia) là đắc Niết Bàn. Chúng sanh
đang ở trong đường sanh tử giống
như ở bờ bên này. Quư vị thâm nhập pháp tạng
của Phật, tự nhiên là có thể tu hành, có thể liễu
sanh tử, có thể chứng Niết Bàn; đấy là “cứu cánh bỉ ngạn”.
“Hành
quyền phương tiện” là phương pháp, “nhập Phật pháp tạng, cứu cánh bỉ
ngạn” là mục đích. Quư vị
thực hiện [bằng cách] “du
bộ thập phương, hành quyền phương tiện”.
Để giáo hóa chúng sanh, do căn cơ của chúng sanh chẳng
đồng nhất, nên phải hành phương tiện quyền
xảo. Phương tiện quyền xảo là một
phương pháp nhằm mục đích dẫn dắt chúng sanh tới “thâm
nhập pháp tạng”, độ chúng sanh đến bờ
kia Niết Bàn. Đấy mới được coi là độ chúng sanh!
2.1.1.2.2.3.1.2.2. Tán thán Quyền Đức
2.1.1.2.2.3.1.2.2.1. Tán thán chung
(Kinh) Ư vô lượng thế
giới, hiện thành Đẳng Giác.
(經)於無量世界,現成等覺。
(Kinh: Trong vô lượng thế
giới, hiện thành Đẳng Giác).
Hai câu này là tổng thuyết,
cũng là tương
ứng với “hành quyền phương tiện” trong phần trên. Phương tiện lớn nhất
là thị hiện thành Phật. Bản thân Bồ Tát c̣n
chưa thành Phật, Ngài thị hiện thành Phật, vẫn
là phương tiện quyền xảo. Tức là có thế
giới nào mà thiện căn của chúng sanh [trong ấy] đă
chín muồi, đáng nên thấy Phật để đắc
độ, nhưng trong thế giới ấy chẳng có một
vị Bồ Tát nào đến đó thành Phật. Đấy
là v́ nhân duyên chẳng thể xảo hợp, Bồ Tát có thần
thông, Ngài quan sát căn cơ của chúng sanh, đối
với những ai thiện căn đă chín muồi,
đáng nên thấy Phật để đắc độ,
các vị Bồ Tát bèn thị hiện dáng vẻ thành Phật.
Thị hiện thành Phật nhằm khiến cho những
chúng sanh thiện căn đă chín muồi sẽ đắc
độ. Đấy là phương tiện quyền xảo
lớn nhất! Nếu Bồ Tát thị hiện thành Phật,
xét theo Viên Giáo Bồ Tát, sẽ là “Thập Tín măn tâm, bách giới tác Phật”, tức
là Viên Giáo Bồ Tát tu viên măn Thập Tín, chỉ cần có thể
dự vào địa vị Sơ Trụ, đă có thể thị
hiện thành Phật trong một trăm thế giới. Trong
đoạn
kinh này, không hạn định
chỉ là một trăm thế giới, mà là trong vô lượng thế giới các Ngài đều có thể thị hiện
thành Phật, chứng tỏ những vị Bồ Tát này tối
thiểu là từ
Bát Địa Bồ Tát trở
lên. Nếu cao hơn nữa, sẽ là Đẳng Giác Bồ
Tát. “Hiện thành Đẳng
Giác” chính là thị hiện thành Phật. [Chữ Đẳng Giác
trong câu “hiện thành Đẳng
Giác”] chẳng phải là Đẳng
Giác của
bậc Đẳng
Giác Bồ Tát, mà là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
2.1.1.2.2.3.1.2.2.2. Nêu riêng từng Quyền Đức
2.1.1.2.2.3.1.2.2.2.1. Thăng Đâu Suất Thiên
(Kinh) Xử Đâu Thuật Thiên,
hoằng tuyên chánh pháp.
(經)處兜術天,弘宣正法。
(Kinh: Ở trên trời Đâu
Thuật, hoằng dương, tuyên thuyết chánh pháp).
Đâu Thuật Thiên (Tuṣita) chính là Đâu Suất Thiên, phiên âm bất
đồng. Tiếng Phạn là Đâu Suất Thiên, dịch
sang tiếng Hán là Đổ Sử Đa Thiên, là tầng trời
thứ tư trong Dục Giới. Tầng trời này chia
thành hai viện nội và ngoại. Nội viện là chỗ
ở của bậc Bổ Xứ Bồ Tát. Ngoại viện
là chỗ ở của chư thiên Dục Giới. Chư
thiên ở ngoại viện thuộc tầng trời thứ tư của Dục
Giới sẽ hưởng thụ niềm vui ngũ dục,
nhưng chư thiên trong tầng trời thứ tư biết
đủ, v́ thường nghe Bổ Xứ Bồ Tát giáo
hóa. V́ thế, [tầng
trời này được] gọi là Tri Túc Thiên, là chỗ Bổ Xứ Bồ
Tát ở.
Tiếp đó, kinh nói đến phương tiện thị hiện thành Phật
của chư đại Bồ Tát, [nói chi tiết sẽ
là] tám tướng thành đạo. Hoàn toàn chiếu theo dáng
vẻ của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tại
Ấn Độ để nói. Phật Thích Ca thành Phật
tại Ấn Độ là thị hiện tám tướng
thành đạo. Mỗi vị Phật đến nhân gian
thành Phật, đều phải thị hiện tám tướng
thành đạo. Đó gọi là “Phật
Phật đạo đồng”, tức là đạo của
mỗi vị Phật đều giống nhau. Do vậy,
các vị Bồ Tát này muốn thị hiện thành Phật,
đều phải hiện tám loại tướng. Chư
vị phải ghi nhớ những điều sẽ nói
dưới đây. Đấy đều là tám loại
tướng để hàng Bồ Tát thị hiện thành Phật.
Nếu trong quá khứ quư vị chưa từng nghe kinh, chẳng
biết tám tướng thành đạo của Phật Thích
Ca, hôm nay giống như quư vị nghe lịch sử của
Phật Thích Ca. Nhưng quư vị phải biết: Đây chẳng
phải là nói về lịch sử của Phật Thích Ca,
mà là nói các vị đại Bồ Tát thị hiện tám tướng
thành đạo.
“Xử
Đâu Thuật Thiên, hoằng tuyên chánh pháp”: Điều
này vẫn chưa thuộc vào tám tướng, mà là nói đến
Bổ Xứ Bồ Tát. Trong quá khứ, Phật Thích Ca
chưa giáng hạ thành Phật, Ngài ngự tại Đâu Suất Thiên, hoằng
dương Phật pháp. Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc
Bồ Tát hiện thời vẫn c̣n đang ở trong Di Lặc
Nội Viện. Mỗi vị Phật xuất thế đều
trụ nơi đó, nhưng trụ nơi đó, Ngài chẳng nghỉ ngơi, mà vẫn hoằng
dương, tuyên thuyết chánh pháp trên cơi trời.
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.2. Tướng nhập thai
(Kinh) Xả bỉ thiên cung, giáng thần
mẫu thai.
(經)捨彼天宮,降神母胎。
(Kinh: Bỏ cung trời ấy,
giáng hạ thần thức vào thai mẹ).
Hai câu này chính là hai tướng
trong tám tướng thành đạo. Thứ nhất là “xả bỉ thiên cung”, tức
là từ trời Đâu Suất giáng hạ. Chữ Xả (捨) nên hiểu là “rời”, ĺa bỏ cung trời
ấy, giáng hạ nhân gian. Đấy là một tướng.
Tướng thứ hai là
“giáng thần mẫu thai”. “Giáng” (降) là từ trời hạ xuống. “Thần” (神) là thức thần của chính Ngài. Do vậy bèn vào trong thai mẹ, chúng ta nói
là Phật Thích Ca vào trong thai của Ma Da phu nhân. Đấy
là tướng thứ hai.
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.3. Tướng xuất thai
(Kinh) Tùng hữu hiếp sanh, hiện
hành thất bộ, quang minh hiển diệu, phổ chiếu
thập phương, vô lượng Phật độ, lục
chủng chấn động. Cử thanh tự xưng: “Ngô
đương ư thế, vi vô thượng tôn”. Thích Phạm
phụng thị, thiên nhân quy ngưỡng.
(經)從右脅生,現行七步。光明顯耀,普照十方。無量佛土,六種震動。舉聲自稱:吾當於世,為無上尊。釋梵奉侍,天人歸仰。
(Kinh: Sanh từ hông phải, hiện
đi bảy bước, quang minh chói ngời, chiếu khắp
mười phương. Vô lượng cơi Phật sáu thứ
chấn động. Cất tiếng tự xưng: “Ta trong
cơi đời là đấng vô thượng”. Đế
Thích, Phạm vương hầu hạ, trời người hướng về chiêm
ngưỡng).
“Tùng
hữu hiếp sanh” (Sanh từ hông phải [của mẹ]), đây là
tướng xuất thai. Vào trong thai mẹ, thuận theo
pháp thế gian, phải ở trong thai mười tháng. Ở
đây, chẳng nói đến tướng nhập thai, vẫn
dựa theo tám tướng thành đạo của Thanh Văn
Thừa để nói. Xuất thai th́ chẳng giống với
phàm phu b́nh phàm: Ngài lọt ḷng từ hông phải của mẹ. Sanh từ hông phải của
mẹ th́ sanh ra như thế nào?
Giống như từ trong mây mù bước ra, mẹ chẳng cảm
thấy đau khổ tí nào. Đấy là tướng xuất
thai.
“Hiện
hành thất bộ” (Hiện đi bảy bước), Phật vừa
ra đời, từ hông phải của mẹ hạ sanh, đă
có thể đi lại. “Hiện”
(現) là thị hiện, “hành” (行) là
đi lại. Đi bảy bước, dưới mỗi
bước đều có hoa sen nâng đỡ bước
chân Ngài. V́ sao đi bảy bước? Biểu thị Thất
Giác Chi trong ba mươi bảy Đạo Phẩm. “Quang minh” là đứa trẻ
vừa mới sinh ra bèn tỏa ra ánh sáng.
“Quang
minh hiển diệu, phổ chiếu thập phương,
vô lượng Phật độ lục chủng chấn
động” (Quang minh chói ngời, chiếu khắp mười
phương, vô lượng cơi Phật, sáu thứ chấn
động). Quang minh chiếu sáng ngời, lại c̣n chiếu
khắp vô lượng cơi Phật trong mười
phương. Mỗi cơi Phật là một tam thiên đại thiên thế
giới. Chiếu khắp vô lượng cơi Phật trong
mười phương, tức là trong thế giới này,
một vị Phật thành Phật, quang minh bèn chiếu sáng
ngời mười phương thế giới. Mười
phương thế giới đều cảm nhận có
sáu thứ chấn động.
“Lục
chủng chấn động” (sáu thứ chấn động)
là động đất
trong hiện thời. Người Đài Loan nói là “địa động”, có sáu
loại
tướng:
1) Động (動): Đất lay động khe khẽ, ví như tướng
lắc lư.
2) Dũng (湧): Giống như dưới đất có
nước vọt lên, cảm giác đất chuyển
động, cảm thấy như có từng vồng đất
dồn lên trên. Vậy là đă động, lại c̣n chuyển
động.
3) Chấn (震) là rung động mạnh mẽ.
4) Giác (覺): Hết thảy chúng sanh đều cảm
nhận được, đại địa rúng động
họ đều nhận biết.
5) Hống (吼): Địa chấn rung động
mạnh mẽ, phát ra âm thanh.
6) Khởi (起): Đại địa chấn động,
lại
vừa phát ra âm thanh vang rền,
cảm giác như đất một mực nâng lên!
Sáu loại chấn động
này chẳng phải là đại địa chấn động
v́ gặp phải nạn động đất trong hiện
thời. Quan trọng là hai thứ tướng Chấn và
Giác trong ấy. Đất đă chấn động khiến
cho chúng sanh cảnh giác. Cảnh giác chúng sanh điều ǵ vậy?
Khiến cho họ cảm nhận thế giới vô thường,
quư vị phải ngay lập tức học Phật tu pháp.
Chúng ta cứ ngỡ đất kiên cố bất hoại
nhất, là thứ lâu dài nhất, chẳng biết nó vẫn
thuộc
loại pháp vô thường.
Đất có thể bị hư hoại, có thứ ǵ chẳng
bị hư hoại? Có cái tâm cảnh giác này, quư vị sẽ
có thể
tiếp cận Phật
pháp. Do đó, một vị Phật ra đời, [chúng sanh] sẽ cảm
nhận mặt đất có sáu thứ chấn động. Đấy là ư
nghĩa cảnh giác chúng sanh, chẳng phải là gặp tai
nạn động đất!
“Cử
thanh tự xưng” (Cất tiếng tự xưng): Tiểu hài tử
vừa lọt ḷng mẹ, đă có thể nói năng. “Cử thanh” (舉聲) là lớn tiếng, “tự xưng” là chính ḿnh xưng, chính ḿnh nói. “Ngô đương ư thế,
vi vô thượng tôn” (Ta trong cơi đời, là đấng vô thượng):
Nay ta ra khỏi thai mẹ, trụ trong thế giới, ta đáng
nên làm bậc tôn quư vô thượng trong thế gian.
“Thích
Phạm phụng thị, thiên nhân quy ngưỡng”: Thích
là Đế Thích Thiên, Phạm là Đại Phạm Thiên.
Đế Thích Thiên và Đại Phạm Thiên đều phải
hầu hạ. Trước khi chúng ta thấy Phật, cứ
ngỡ chư thiên là tôn quư nhất. Nay chúng ta lạy ông trời,
kinh Phật nói [ông trời]
là Đế Thích Thiên. Đối
với Ấn Độ th́ cao nhất là lạy Đại
Phạm Thiên, Bà La Môn giáo lạy Đại Phạm Thiên, chẳng
biết là hễ Phật xuất thế th́ Đế Thích
Thiên lẫn Đại Phạm Thiên đều phải
đến hầu hạ, trời người sẽ đều quy ngưỡng, đều sẽ
quy y Phật. Đấy là đức Phật tự nói “hăy kính ngưỡng ta”. Đấy là Thích Ca Mâu Ni Phật xuất
thế, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống
đất, lớn tiếng xướng rằng: “Thiên thượng, thiên hạ,
duy ngă độc tôn”. Hai câu nói ấy văn tự bất
đồng, nhưng ư nghĩa như nhau. “Thiên thượng, thiên hạ, duy ngă độc tôn”:
Chẳng có ai vượt trỗi Phật. Trẻ nhỏ lớn lên th́ trước hết
là học tập học vấn thế gian, vẫn là thị
hiện. Ngài đă có thể thị hiện thành Phật, nhưng
thị hiện thành Phật trong nhân gian, trước hết
phải mong cầu học vấn của nhân gian.
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.4. Tướng đồng tử
(Kinh) Thị hiện toán kế,
văn nghệ xạ ngự, bác tổng đạo thuật,
quán luyện quần tịch.
(經)示現算計,文藝射御,博綜道術,貫練羣籍。
(Kinh: Thị hiện tính toán, văn
nghệ, bắn cung, điều
khiển xe, thông thạo rộng khắp các đạo
thuật, xem rành, ôn luyện các sách vở).
“Thị
hiện toán kế”: [“Toán kế”] là toán học trong
hiện thời. “Văn nghệ
xạ ngự”: “Văn nghệ”
là văn học nghệ thuật. “Xạ ngự” là vơ thuật thời cổ. “Xạ” (射) là bắn tên, “ngự”
(御) là điều khiển xe. Thời cổ
c̣n có xe cộ và vũ khí phải học. “Xạ ngự” bao gồm hết thảy vơ thuật.
“Bác tổng đạo thuật”
(Thông thạo rộng khắp các đạo
thuật): Học
rộng răi hết thảy các thứ
đạo thuật trong hết thảy các giáo, bất luận là học
vấn của giáo nào cũng đều phải học hiểu. “Quán luyện
quần tịch”: [“Quần
tịch”] là hết thảy sách vở trong thế gian. “Tịch” (籍) là thư tịch (sách vở), “quần” (羣) là đông nhiều. Toàn bộ rất nhiều
các sách vở thảy
đều phải quán
thông, luyện tập. Đối với học
vấn thế gian, chẳng có ǵ không hiểu, chẳng có ǵ
không biết.
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.5. Tướng cưới vợ
(Kinh) Du ư hậu viên, giảng
vơ, thí nghệ. Hiện xử cung trung, sắc vị chi
gian.
(經)遊於後園,講武試藝。現處宮中,色味之間。
(Kinh: Dạo chơi vườn
sau, giảng vơ, đua tài, hiện ở trong cung, trong chốn
sắc vị).
“Du
ư hậu viên, giảng vơ thí nghệ” (Dạo chơi nơi vườn sau, giảng
vơ, đua tài): Ở đây là chuyên nói về luyện tập công phu, giống như Phật
Thích Ca, khi đến hoa viên đằng sau [vương
cung] để du ngoạn, phải học vơ thuật, thi thố
vơ nghệ. Học những pháp thế gian ấy để
làm ǵ? V́ muốn độ chúng sanh trong thế gian, nếu
quư vị chẳng thông đạt rành rẽ pháp thế
gian, sẽ chẳng thể độ chúng sanh trong thế
gian được! Thập Địa Bồ Tát khi chứng
đến Đệ Ngũ Địa, c̣n chưa hiểu
thấu suốt pháp thế gian, vẫn phải học tập.
Những vị Bồ Tát ở đây đều là Đẳng
Giác Bồ Tát, các Ngài đều học hiểu, nhằm thị hiện làm gương cho chúng ta.
V́ sao hiện thời chúng ta chẳng thể hoằng
dương Phật pháp? Thứ nhất là do không hiểu Phật
pháp. Sau khi đă hiểu Phật pháp, quư vị chẳng thể
hoằng dương nổi, chẳng có cách nào độ
chúng sanh. V́ sao? V́ quư vị chẳng hiểu pháp thế gian.
Do vậy, quư vị đừng quá coi rẻ pháp thế gian!
V́ chúng sanh trong thế gian học pháp thế gian, quư vị
chẳng hiểu học vấn của họ, quư vị giảng
Phật pháp, họ nghe chẳng hiểu, chẳng hợp
nhau, [thế là] quư vị chẳng thể dùng phương
tiện quyền xảo để tiếp dẫn chúng sanh.
Do đó, nếu quư vị muốn độ chúng sanh trong thế
gian, bản lănh học vấn thế gian quư vị đều
phải học. Chẳng học hiểu, quư vị sẽ
không thể độ chúng sanh. Quư vị nh́n vào lịch sử
của Phật Thích Ca, từ thuở c̣n bé, Ngài đă cầu
học, bất luận là văn học hay vơ nghệ, đều
toàn là thi đậu hạng nhất. Do vậy, mọi
người đều tôn trọng Ngài. Chỉ nói về pháp thế gian,
chẳng có ai không tôn trọng Ngài. Ngài c̣n có một thứ nữa
là Phật pháp; do vậy, mọi người đều muốn
quy y Ngài. Ngài không chỉ là văn nghệ, vơ nghệ đều
học hiểu, mà chín mươi lăm loại ngoại
đạo tại Ấn Độ, ngoại đạo lớn
nhất là Bà La Môn giáo, những đạo lư họ nói Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đều học hiểu. Quư vị
cứ việc nói! Bất luận quư vị nói kiểu nào,
tôi đều hiểu; bản lănh của quư vị tôi đều biết,
nhưng Phật pháp của tôi quư vị chẳng hiểu, tôi
nói cho quư vị nghe nhé, hàng phục họ!
Phật pháp truyền tới
Trung Hoa, những vị đại tổ sư trong quá khứ,
chẳng có vị nào không thông thạo học vấn Trung
Hoa. Học vấn cao nhất của Trung Hoa là Lăo, Trang, Khổng, Mạnh. Lăo Tử và Trang Tử là học
vấn của Đạo gia. Khổng Tử và Mạnh Tử
là học vấn của Nho gia, chẳng có ǵ không thông thạo!
Quư vị xem những bản chú giải các đại tổ
sư Trung Hoa thời cổ, toàn là dẫn chứng những
thuyết của Lăo, Trang, Khổng, Mạnh, chúng sanh vừa
xem liền hiểu. V́ sao? Họ hiểu Lăo,
Trang, Khổng, Mạnh, [do vận dụng những học
thuyết ấy] đă tiếp dẫn được họ.
Cho đến hiện thời là thời đại khoa học,
là thời đại triết học, chúng ta hoằng
dương Phật pháp mà thường thức khoa học
lẫn triết học đều chẳng có, quư vị giảng
Phật pháp cho người hiện thời, họ nghe chẳng
hiểu, sẽ chẳng có cách nào cả! Muốn dùng phương tiện quyền xảo, nhưng
hướng về họ mà nói tỷ dụ không được,
những thứ học vấn họ nói đến chúng ta
đều không biết. Do vậy, mọi người nếu
phát tâm hoằng dương Phật pháp, thứ nhất là phải
nghiên cứu Phật học, thứ nh́ là phải hiểu học
vấn thế gian, ư nghĩa ở chỗ này!
“Hiện
xử cung trung, sắc vị chi gian” (Hiện ở trong cung, trong chốn sắc
vị). Trẻ nhỏ trưởng thành, đến tuổi
kết hôn. “Hiện xử cung
trung” là thị hiện sống ở trong hoàng cung. “Sắc vị
chi gian” là hưởng thụ niềm vui ngũ dục. Ngũ
dục là sắc, thanh, hương, vị, xúc. V́ quư vị
tham đắm trần cảnh ngũ dục, trần cảnh ngũ dục ô nhiễm con người dữ dội nhất là sắc trần và
vị trần. Mắt trông thấy sắc đẹp, quư vị bèn dấy
tâm yêu mến. Lưỡi nếm vị ngon lành, quư vị dấy
ḷng yêu mến. Tiếp theo đây là nói vị Bồ Tát ấy
thị hiện sự giác ngộ.
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.6. Tướng xuất gia
(Kinh) Kiến lăo bệnh tử,
ngộ thế phi thường, khí quốc tài vị, nhập
sơn học đạo, phục thừa bạch mă, bảo
quan anh lạc, khiển chi linh hoàn. Xả trân diệu y, nhi
trước pháp phục. Thế trừ tu phát, đoan tọa
thụ hạ, cần khổ lục niên, hành như sở
ưng.
(經)見老病死,悟世非常。棄國財位,入山學道。服乘白馬,寶冠瓔珞,遣之令還。捨珍妙衣,而著法服。剃除鬚髮,端坐樹下,勤苦六年,行如所應。
(Kinh: Thấy già, bệnh, chết,
ngộ cơi đời chẳng thường hằng, bỏ
nước, của cải, địa vị, vào núi học
đạo, cỡi con ngựa trắng, măo báu, chuỗi ngọc,
sai đem trở về, bỏ áo quư đẹp, để
mặc pháp phục. Cạo bỏ râu tóc, ngồi ngay ngắn
dưới gốc cây, siêng khổ sáu năm, hành pháp nên
hành).
“Kiến
lăo, bệnh, tử, ngộ thế phi thường” (Thấy già, bệnh, chết, ngộ cơi đời
vô thường): Dựa trên kinh nghiệm của Phật Thích
Ca là ra chơi bốn cửa thành, ở cửa Đông thấy
người già, ở cửa Nam thấy người bệnh,
ở cửa Tây thấy người chết. Trông thấy
sanh, già, bệnh, chết, mới ngộ pháp thế gian vô
thường. Nếu không, ở trong hoàng cung, hưởng
thụ thú vui ngũ dục, làm Thái Tử của quốc
vương, đấy chẳng phải là gần như hưởng
phước trời ư? Chẳng biết là vẫn phải
già, phải bệnh, phải chết. Trông thấy già, bệnh,
chết, mới ngộ nhân gian chẳng phải là thường
trụ.
“Khí
quốc tài vị, nhập sơn học đạo” (Bỏ nước, của cải, địa
vị, vào núi học đạo): Đây là nói đến
chuyện thị hiện tướng xuất gia. Ngài có thể
hưởng lạc trong hoàng cung, nhưng trông thấy già, bệnh,
chết, bèn giác ngộ thế gian vô thường. Phật
Thích Ca tới cửa Bắc thấy một vị xuất
gia, Ngài muốn học xuất gia, tu hành. “Khí quốc tài vị”:
“Quốc tài” (tài sản của nước nhà), phước như bốn biển. Làm
quốc vương th́ tài sản trong cả nước
đều là sở hữu của nhà vua. Cho nên phước
như bốn biển. “Vị”
(位) là địa vị cao nhất khôn sánh
trong nhân gian. “Khí” (棄) là vứt bỏ. Tài sản quốc gia,
địa vị tối cao, thảy đều buông bỏ, vào núi học đạo.
“Phục
thừa bạch mă, bảo quan anh lạc, khiển chi linh
hoàn” (cỡi con ngựa trắng, măo báu, chuỗi ngọc, sai đem
trở về): Xét theo lịch sử của Thích Ca Mâu Ni Phật,
Ngài muốn xuất gia tu hành, cha Ngài là quốc vương
Tịnh Phạn (Śuddhodana
Gautama) biết Thái Tử muốn
xuất gia, tu đạo, đă hạ lệnh khóa chặt
cửa cung, không cho Ngài ra nữa. Thái Tử trông thấy
già, bệnh, chết, thấy người xuất gia, bèn
mong cầu xuất gia. Do đó, quốc vương chẳng
cho Thái Tử ra ngoài. Nhưng khi nhân duyên đă tới,
đáng nên xuất gia, Thái Tử nghe đằng sau có
người kêu: “Ngài chớ nên tham cầu niềm vui ngũ
dục, chẳng xuất gia sẽ không được. Nhân
duyên xuất gia của Ngài đến rồi đó!” Nghe thấy
trên đường có người nói với Ngài những lời ấy, Ngài gọi người
chăn ngựa là Xa Nặc (Chandaka) chuẩn bị ngựa.
Tuy cửa cung điện bị khóa chặt, nhưng
người chăn ngựa đương nhiên nghe theo mệnh
lệnh của Thái Tử. Xa Nặc liền lấy yên báu
và đồ trang nghiêm khoác lên thân ngựa chúa Kiền Trắc
(Kanthaka), dâng lên Thái Tử. Thái Tử cưỡi
lên ngựa, thớt
ngựa ấy liền bay vọt lên không. Đấy là do
tứ đại thiên vương nâng chân ngựa, bay vọt
lên không. Khi ấy, người chăn ngựa Xa Nặc
đứng trên mặt đất, thấy sao ngựa lại
bay lên không? Ông ta ngay lập tức nắm đuôi ngựa
chẳng để nó bay lên, nào ngờ chẳng kéo lại
được, ngay cả người chăn ngựa
cũng bị bạch mă lôi theo, bay ra ngoài thành. Ngựa vượt
ra khỏi thành, bay được một đoạn rồi
rơi xuống. Người chăn ngựa liền quỳ
xuống, thỉnh cầu: “Quốc vương chẳng cho
Thái Tử xuất cung, nay Thái Tử cưỡi ngựa nhảy
ra khỏi thành, thần làm sao thưa tŕnh đây?” Thái Tử
bảo: “Ngươi đem măo báu ta đang đội trên đầu,
quần áo và chuỗi ngọc, y phục và những thứ trang sức trên thân ta, gỡ
xuống đem về. Đấy là một cách để
thưa tŕnh. Xuất gia là do bản thân ta muốn đi, chẳng
liên quan ǵ đến kẻ chăn ngựa như
ngươi. Ta nhất định phải xuất gia tu
hành”. Do vậy, Thái Tử liền hiện tướng xuất
gia, dặn người chăn ngựa trở về bẩm
báo.
“Xả
trân diệu y” (Bỏ áo quư đẹp): Cởi bỏ y phục
Thái Tử đang mặc trên thân.
“Nhi trước pháp phục” (mà mặc pháp phục): Mặc đạo phục
vào. “Thế trừ tu phát” (cạo bỏ râu tóc): Ngay cả râu lẫn
tóc thảy
đều cạo sạch.
Xét theo tứ chúng đệ tử của Phật Thích Ca
để nói, cạo đầu tóc th́ phải là mười
chín tuổi. Nếu không, lấy đâu ra râu ria? Quư vị
đến Ấn Độ sẽ biết, người Ấn
Độ mười tám, mười chín tuổi, mặt
đầy râu ria, cho nên Phật Thích Ca xuất gia lúc mười
chín tuổi, đầu tóc lẫn râu ria đều cạo
sạch. “Đoan tọa thụ
hạ, cần khổ lục niên” (Ngồi ngay ngắn dưới gốc cây,
siêng khổ sáu năm) tức là hiện tướng xuất gia, vào núi Tuyết (Himalaya)
tu khổ hạnh sáu năm. Thái Tử chẳng làm quốc
vương, mà muốn xuất gia. Đấy là quá tŕnh trông
thấy già, bệnh, chết vô thường, thị hiện
tướng xuất gia của Phật Thích Ca.
Phải nhớ! Ở đây
là Đẳng Giác Bồ Tát thị hiện, nói theo thế
gian chúng ta, đấy là căn cơ thượng đẳng.
“Lương mă kiến tiên ảnh nhi tẩu” (Ngựa tốt thấy bóng roi liền chạy): “Lương
mă” (良馬) là loại ngựa tốt nhất, chẳng
cần phải đánh. Nó thấy bóng roi liền chạy rất
nhanh. Ngựa kém hơn th́ quư vị lấy roi đánh thế
nào đi nữa, nó vẫn chẳng chạy mau. V́ thế, bản
thân Thái Tử hoàn toàn chẳng già, chẳng bệnh, chẳng
chết, Ngài thấy kẻ khác già, bệnh, chết,
liền giác ngộ. Nay chúng ta đă bị bệnh rất
nhiều lần, sắp chết mà vẫn chẳng thể
giác ngộ. Đă già khọm, vẫn chẳng thể giác ngộ.
Đấy là v́ chúng ta căn cơ chẳng đủ, phải biết thế
gian vô thường, phải giác ngộ. Nếu không, tuy học
Phật pháp mà chẳng đạt được lợi
ích chân thật. “Hành như sở
ưng” (Làm điều đáng nên làm): Trên đây
đă nêu đại lược mấy thứ là chuyện
phải nên làm của người xuất gia, thảy đều
phải nên thị hiện. Đó gọi là “hành như sở ưng”.
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.7. Tướng thành Phật đạo
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.7.1. Tắm gội gột rửa
dơ bẩn trên thân
(Kinh) Hiện ngũ trược
sát, tùy thuận quần sanh, thị hữu trần cấu,
mộc dục kim lưu, thiên án thụ chi, đắc phan
xuất tŕ.
(經)現五濁剎,隨順群生。示有塵垢,沐浴金流。天按樹枝,得攀出池。
(Kinh: Thị hiện trong cơi
ngũ trược, tùy thuận các chúng sanh, thị hiện
[thân thể] có bụi bặm,
dơ bẩn, tắm gội nơi ḍng nước vàng, trời
đè nhánh cây, để Ngài nắm lấy ra khỏi nước).
“Hiện
ngũ trược sát, tùy thuận quần sanh” (Thị hiện trong cơi năm thứ dơ
bẩn, tùy thuận các chúng sanh): Thị hiện trong đời
ác ngũ trược. Trong kinh A Di Đà có danh từ Ngũ
Trược, tức Kiếp Trược, Kiến Trược,
Phiền Năo Trược, Chúng Sanh Trược, và Mạng
Trược. V́ có năm thứ trược, cho nên thế giới này mới biến thành
thế giới ác, gọi là Ngũ Trược Ác Thế. “Sát” (剎) là thế giới, thị hiện trong Ngũ
Trược Ác Thế.
“Thị
hữu trần cấu” (Thị hiện có bụi nhơ): Ngài tu khổ
hạnh sáu năm trong Tuyết Sơn. Lấy Phật Thích
Ca làm thí dụ, mỗi ngày ăn một hạt mè, hoặc
một hạt lúa mạch. Trong sáu năm trọn chẳng đắc
đạo, mới cảm nhận khổ hạnh chưa phải là pháp rốt
ráo. Ngài từ núi Tuyết xuống, khắp thân là bụi
dơ, v́ suốt sáu năm chẳng tắm rửa, vẫn
là thị hiện.
“Mộc
dục kim lưu” (Tắm gội trong ḍng nước vàng): “Kim lưu” là ḍng nước chảy qua chỗ cát
vàng.
“Thiên án
thụ chi” là
chư thiên đè nhánh cây, “đắc
phan xuất tŕ” (để Ngài nắm lấy ra khỏi
chỗ nước). “Tŕ” ở
đây chẳng phải là cái ao nước, mà là con sông. Xét
theo trường hợp của Phật Thích Ca, Ngài đến
sông Ni Liên (Nairañjanānadi) tắm rửa. Khi tắm rửa,
v́ Ngài tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn
một hạt mè, hay một hạt lúa mạch, trên người chẳng
có chút hơi
sức nào, nói thẳng là trèo lên
bờ không nổi. Chư thiên đè cành cây xuống, cho Ngài
vịn lấy, trèo lên cành cây, mới lên bờ được!
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.7.2. Đi đến đạo
tràng
(Kinh) Linh cầm dực tùng, văng
nghệ đạo tràng.
(經)靈禽翼從,往詣道場。
(Kinh: Chim thiêng chầu hầu,
đi đến đạo tràng).
“Văng
nghệ”: “Nghệ” (詣) là đến. Chỗ để tu đạo
gọi là “đạo tràng”,
tức Bồ Đề Tràng. Bồ Đề c̣n dịch
là Thành Đạo. “Văng
nghệ đạo tràng” là từ sông Ni Liên đi đến
Bồ Đề đạo tràng, có năm trăm con chim sẻ
có linh cảm bay theo chân Ngài, v́ thế nói là “linh cầm dực tùng”.
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.7.3. Nhận cỏ, ngồi yên
(Kinh) Cát Tường cảm
trưng, biểu chương công tộ. Ai thọ thí thảo,
phu Phật thụ hạ, già phu nhi tọa.
(經)吉祥感徵,表章功祚。哀受施草,敷佛樹下,跏趺而坐。
(Kinh: Trưởng giả Cát
Tường được cảm vời [Phật] sẽ
biểu hiện rành rành công phu và phước báo, bèn khẩn khoản xin Phật tiếp nhận
cỏ cúng thí, trải dưới cội cây của Phật,
để Ngài ngồi xếp bằng).
“Cát
Tường cảm trưng, biểu chương công tộ”:
[Đức Phật] từ sông Ni Liên tắm gội sạch
sẽ, đi đến đạo tràng, đến chỗ
dưới cội cây Bồ Đề. Khi ấy, có một vị
trưởng giả tên là Cát Tường t́m đến. Cát Tường là tên người. Trưởng
giả Cát Tường “cảm
trưng”, “trưng” (徵) là triệu vời. Ai đă triệu vời
ông ta đến? Công đức của đức Phật
đă triệu vời ông ta đến. “Biểu chương công tộ”: Bên cạnh chữ
Chương (章) c̣n có
ba dấu nháy, tức Chương (彰). Thời cổ, hai chữ này (章 và 彰) dùng lẫn
nhau. “Công tộ”: “Tộ” (祚) là phước báo. Đức Phật ắt
sẽ thị hiện ngồi tĩnh tọa dưới cội
Bồ Đề, có công đức, có phước báo, đấy
là “biểu chương công tộ”.
“Ai
thọ thí thảo” (khẩn khoản xin Phật tiếp nhận
cỏ cúng thí), ư nói
trưởng giả Cát Tường là người đă cắt
cỏ. Ông ta dâng thí cỏ rất mềm mịn, có thể
ngồi lên được. “Ai”
(哀) là cầu xin, [“ai
thọ thí thảo”] là cầu Phật tiếp nhận cỏ
do ông ta dâng thí. “Phu Phật thụ
hạ”, “phu” (敷) là trải đều cỏ đă dâng thí
ra, xếp dưới cội cây Bồ Đề là nơi
Phật sẽ thành đạo.
“Già phu
nhi tọa”: “Già phu” (跏趺) là tĩnh tọa. Tĩnh tọa v́ sắp
thành Phật. “Già phu”: Đối
với tĩnh tọa th́ “già
phu” là chánh tọa, “già” (跏) là hai chân xếp chéo nhau, “phu” (趺) là lưng bàn chân. Chân chúng ta có ḷng bàn chân
và lưng bàn chân. Hai lưng bàn chân đâu vào nhau, như thế
là “già phu đại tọa”
(ngồi xếp bằng, ngồi ṭa hoa sen), là “già phu chánh tọa”.
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.7.4. Thần lực hàng ma
(Kinh) Phấn đại quang minh,
sử ma tri chi. Ma suất quan thuộc, nhi lai bức thí, chế
dĩ trí lực, giai linh hàng phục.
(經)奮大光明,使魔知之。魔率官屬,而來逼試。制以智力,皆令降伏。
(Kinh: Tỏa rực quang minh lớn,
khiến cho ma biết. Ma suất lănh bầy tôi, quyến
thuộc đến bức bách, thử thách. Ngài dùng trí lực
chế ngự, khiến chúng đều hàng phục).
Chúng ta nói “tám tướng thành đạo”, đem những
điều trên đây tính toán đôi chút. Thứ nhất là
từ trời Đâu Suất giáng hạ, thứ hai là nhập
thai, thứ ba là xuất thai, thứ tư là xuất gia, thứ
năm là hàng ma. Đây là tướng thứ năm tức hàng ma. Phật Thích Ca ngồi xếp bằng
đều là thị hiện. “Phấn
đại quang minh, sử ma tri chi” [nghĩa là] đức
Phật phóng đại quang minh để ma vương hay
biết. Ma vương là chúa tầng trời thứ sáu
trong Dục Giới. Ông ta là chúa cơi trời Tha Hóa Tự Tại.
Tất cả chúng sanh trong Dục Giới đều do ông
ta cai quản. Chúng sanh Dục Giới muốn liễu sanh
thoát tử, muốn vượt thoát tam giới, ông ta sẽ
t́m cách làm phiền, gây hại cho quư vị. “Ma” (魔) có nghĩa là hại người. “Ma suất quan thuộc”: Phật
khiến cho ma biết, ma liền suất lănh “quan thuộc” (官屬, quần thần, quyến thuộc), tức
ma con, ma cháu. “Nhi lai bức thí”
[nghĩa là] đến bức bách người sắp thành
đạo, thử thách người ấy. “Chế dĩ trí lực”: Vị Bồ Tát sắp
thành Phật dùng trí huệ của chính ḿnh để chế
phục, hàng phục ma.
Xét theo lịch sử của
Thích Ca Mâu Ni Phật, ma thiên sai vạn biệt. Phân loại
đại lược th́ có hai loại: Một loại là nhuyễn
ma (軟魔, ma mềm mỏng), loại kia là ngạnh
ma (硬魔, ma cứng cỏi). “Nhuyễn ma” là ma vương sai hai cô gái đến
dụ dỗ Phật. Đức Phật dùng trí huệ hàng
phục bọn họ. Ma vương lại sai thiên binh,
thiên tướng của hắn, đấy là ngạnh ma, họ cầm thương, đao, gươm,
toan sát hại đức Phật. Khi ấy, đức Phật phóng từ
bi quang, ma chẳng thể giết nổi thân Ngài, đức
Phật c̣n thuyết pháp cho bọn chúng, dùng trí huệ để
hàng phục quần ma.
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.7.5. Hiện thành Phật đạo
(Kinh) Đắc vi diệu pháp,
thành tối Chánh Giác.
(經)得微妙法,成最正覺。
(Kinh: Đắc pháp vi diệu,
thành Chánh Giác cao tột).
“Đắc
vi diệu pháp, thành tối Chánh Giác”: Đây là tướng
thứ
sáu, tức tướng thành đạo, là một loại trong tám tướng thành đạo.
“Đắc vi diệu pháp”:
Đạt được pháp vi diệu chẳng thể
nghĩ bàn. “Thành tối Chánh
Giác”: [Tối
Chánh Giác] là Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, [thành tối Chánh Giác] tức là thành Phật.
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.8. Tướng chuyển pháp luân
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.8.1. Thỉnh chuyển pháp luân đầu
tiên
(Kinh) Thích Phạm kỳ khuyến,
thỉnh chuyển pháp luân.
(經)釋梵祈勸,請轉法輪。
(Kinh: Đế Thích, Phạm Vương cầu xin, khuyên lơn, xin đức
Phật chuyển pháp luân).
Đây là tướng thứ
bảy, chuyển pháp luân. “Thích
Phạm kỳ khuyến” (Đế Thích, Phạm Vương
cầu xin, khuyên lơn): “Thích”
là Đế Thích Thiên, “Phạm”
là Đại Phạm Thiên. Đức Phật đă thành Phật,
muốn thuyết pháp, phàm phu chẳng biết thỉnh Phật
thuyết pháp như thế nào? Đế Thích Thiên và Đại
Phạm Thiên biết đức Phật đă thành Phật,
bèn giáng hạ, suất lănh chúng sanh trong nhân gian đến
thỉnh.
“Thỉnh
chuyển pháp luân” là thỉnh Phật thuyết pháp. Thuyết pháp gọi
là “chuyển pháp luân”. Hăy ghi
nhớ cách giải thích này: Luân (輪) là thí dụ, đức Phật thuyết pháp giống
như Luân. Luân là bánh xe trong hiện thời. Bánh xe có hai thứ
công dụng: Một là nghiền nát, hai là chuyên chở.
Dưới đất có rác rưởi ǵ, bánh xe lăn qua,
chúng đều bị nghiền nát. Bánh xe có thể chuyên chở
cái xe ở phía trên, có thể chuyên chở chúng sanh, từ
nơi này chở đến nơi kia. Đấy là ư
nghĩa “chuyên chở”. Đức Phật thuyết pháp giống
như bánh xe, có thể nghiền nát phiền năo, phá tan phiền
năo. Từ sanh tử ở nơi đây, chuyên chở chúng
sanh đến bờ kia Niết Bàn. Do vậy, đức
Phật thuyết pháp giống như bánh xe, gọi là Pháp
Luân.
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.8.2. Do lời thỉnh mà thuyết
pháp
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.8.2.1. Thân và miệng dấy lên sự
giáo hóa
(Kinh) Dĩ Phật du bộ, Phật
hống nhi hống, khấu pháp cổ, xuy pháp loa, chấp
pháp kiếm, kiến pháp tràng; chấn pháp lôi, diệu pháp điện, chú pháp
vũ, diễn pháp thí, thường dĩ pháp âm, giác chư thế
gian.
(經)以佛遊步,佛吼而吼。扣法鼓,吹法螺,執法劍,建法幢;震法雷,曜法電,澍法雨,演法施。常以法音,覺諸世間。
(Kinh: Dùng các oai nghi của Phật,
diễn nói như Phật, đánh trống pháp, thổi ốc
pháp, cầm gươm pháp, dựng tràng pháp; rền sấm pháp, xẹt chớp pháp, xối
mưa pháp, diễn pháp thí, thường dùng các pháp âm để
giác ngộ thế gian).
“Dĩ
Phật du bộ, Phật hống nhi hống”: Vị Phật
mới thành đạo, tức là do Bồ Tát thị hiện.
Ngài thị hiện thành Phật, hết thảy đều
giống như Phật. Đế Thích Thiên, Đại Phạm
Thiên thỉnh Ngài chuyển pháp luân, Ngài bèn “dĩ Phật du bộ” (dùng các oai nghi của Phật),
“du bộ” bao gồm bốn đại
oai nghi “hành, trụ, tọa, ngọa”. “Hành” là đi lại,
đi như thế nào? Giống như Phật. “Trụ” là đứng, đứng
có oai nghi của
đứng. “Tọa, ngọa”: Ngồi hay ngủ đều có
oai nghi. Đi, đứng, ngồi, nằm đều giống
như Phật. Đấy là dùng thân nghiệp để giáo
hóa chúng sanh.
“Phật
hống nhi hống”: [“Phật
hống”] là Phật thuyết pháp. [“Phật hống nhi hống”]
là học theo cách Phật thuyết pháp, thuyết pháp giống
như Phật. Đức Phật thuyết pháp được
gọi là “sư tử hống”
(sư tử rống). “Rống”
là thí dụ. Sư tử vừa rống,
trăm thú bị chấn động, kinh hăi! Đức Phật
vừa thuyết pháp, hết thảy các ngoại đạo
đều bị hàng phục, giống như sư tử
rống. Bồ Tát thị hiện Phật đă thành đạo,
tướng chuyển pháp luân sẽ giống hệt như
Phật, như sư tử rống!
Phải chú ư hai câu này! V́ sao Bồ
Tát thuyết pháp phải học theo sự du bộ của
Phật, tức là nói đến tứ đại oai nghi? Chúng
ta học theo Phật chuyển pháp luân, học theo Phật
thuyết pháp th́ đều có sự trang nghiêm nhất định.
Nhấn mạnh sự oai nghi nơi thân nghiệp, quư vị
ắt cần phải chú trọng oai nghi. Chẳng chú trọng
oai nghi, chúng sanh vừa nh́n vào dáng vẻ của quư vị,
[sẽ cho rằng] quư vị chẳng đủ tư cách để
làm pháp sư, chẳng sanh khởi cái tâm cung kính đối
với quư vị, họ sẽ chẳng nghe quư vị thuyết
pháp. Bởi lẽ, trong hiện thời, có những vị
pháp sư trẻ tuổi, tận hết sức mong học
giảng kinh, thuyết pháp, nhưng chẳng chú trọng oai
nghi. Đấy là sai lầm to lớn!
Các vị đă từng đọc
Mạnh Tử hay chưa? Mạnh Tử đến nước
Lương, gặp Lương Huệ Vương.
Lương Huệ Vương[14] khi ấy
là quốc vương của nước Lương, sống
ở Bắc Kinh. Lương Huệ Vương đă chết,
con ông ta là Lương Tương Vương kế vị
làm quốc vương. Khi Lương Tương
Vương làm quốc vương, Mạnh Tử đến
gặp nhà vua. Mạnh Tử gặp Lương Tương
xong, đi ra nói với người khác: “Vọng chi bất tự nhân quân, tựu chi nhi bất
kiến sở úy yên”. Nghĩa là Mạnh Tử gặp
Lương Vương xong, ra nói với người khác:
Thoạt nh́n vua Lương chẳng giống một vị
vua, lại chẳng có ai nghe theo lời ông ta nói. Thoạt nh́n, thấy h́nh dáng, chẳng
giống một vị quốc vương. Lại nghe ông
ta nói chuyện, hoàn toàn trật lất. V́ thế, Mạnh Tử
liền rời khỏi nước Lương. Đấy
là một thí dụ về sự rất khẩn yếu của oai nghi. Quốc
vương có oai nghi của quốc vương. Quư vị
làm quốc vương mà hoàn toàn chẳng giống một vị
vua, chẳng ra vẻ một vị quốc vương. Nay
quư vị làm pháp sư mong giảng kinh, thuyết pháp, nhất
định phải có oai nghi của pháp sư. Chẳng
đủ oai nghi, chúng sanh c̣n có thể nghe quư vị giảng
kinh nữa hay sao? Các pháp sư thanh niên nhất định
phải chú ư oai nghi. “Dĩ Phật
du bộ, Phật hống nhi hống”: Hai câu này là tướng
thứ bảy, nêu tổng quát về tướng chuyển
pháp luân. Tám câu kế tiếp là nói riêng từng điều,
nhằm phân biệt rơ rệt “Phật
hống nhi hống” là rống như thế nào?
“Khấu
pháp cổ, xuy pháp loa, chấp pháp kiếm, kiến pháp tràng”,
bốn câu này đều là thuyết pháp. Bốn câu ấy
tương ứng với bốn pháp Văn, Tư, Tu, Chứng.
Nếu chúng sanh nghe pháp, sẽ khởi lên Văn Huệ. “Nghe pháp” giống như “khấu pháp cổ” (đánh trống
pháp). “Xuy pháp loa” (thổi ốc pháp): Chúng sanh nghe pháp khiến
cho họ tư duy. “Chấp pháp
kiếm” (cầm gươm pháp): Tương xứng
với tu hành, v́ gươm có thể phá trừ hết thảy,
giống như tu hành th́ mới có thể diệt trừ hết
thảy phiền năo. “Kiến
pháp tràng” (lập tràng pháp) tương xứng với
“chứng pháp” trong phần
trên. Chứng đắc Phật pháp th́ mới có thể dựng
cao pháp tràng.
“Chấn
pháp lôi, diệu pháp điện, chú pháp vũ, diễn pháp thí”:
Bốn câu này tương xứng Tứ Vô Ngại Trí, và bốn thứ vô ngại biện tài. Cái
đạt được từ trong tâm là trí huệ, thốt
ra miệng là biện tài. Phật chứng đắc Tứ
Vô Ngại Trí, từ trong miệng thốt ra, gọi là Tứ
Vô Ngại Biện. “Chấn
pháp lôi” (rền sấm pháp): Trong bốn loại biện
tài, thứ nhất là Pháp Vô Ngại Biện. Vị ấy
thuyết pháp vô ngại, giống như “chấn pháp lôi”. “Diệu
pháp điện” (chói ḷa tia chớp pháp): Muốn nổi sấm, xối
mưa to, tia chớp xẹt sáng, đều là giảng pháp,
nghĩa lư vô ngại th́ gọi là Nghĩa Vô Ngại Biện.
“Diệu pháp điện” (xẹt tia chớp pháp), giống như tỏa
ra quang minh. “Chú pháp vũ” (tuôn mưa pháp): Trời đổ mưa,
đức Phật thuyết pháp giống như “chú pháp vũ”. Đấy là Từ Vô Ngại Biện. Đức
Phật thuyết pháp ngôn từ vô
ngại. “Diễn pháp thí”:
Dùng pháp để bố thí, giống như Nhạo Thuyết
Vô Ngại Biện. Chúng sanh thích nghe pháp ǵ, bèn hướng về
họ nói pháp ấy, khiến cho chúng sanh nghe rất hoan hỷ.
Chuyện này giống như Pháp Bố Thí.
“Thường
dĩ pháp âm, giác chư thế gian” (Thường dùng pháp âm để giác ngộ
thế gian): Hai câu này là tổng kết. Sau khi đức Phật
đă thành Phật bèn thuyết pháp, một mực thuyết
pháp cho đến khi nhập Niết Bàn vẫn thuyết
pháp. Đấy là “thường
dĩ pháp âm” để giác ngộ chúng sanh trong hết thảy
các thế giới.
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.8.2.2.
Thân và miệng nhiếp thọ tạo lợi ích
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.8.2.2.1.
Dùng thân nghiệp hàng phục ma, khiến ĺa tà nghiệp
(Kinh) Quang minh phổ chiếu vô
lượng Phật độ. Nhất thiết thế giới
lục chủng chấn động, tổng nhiếp ma giới,
động ma cung điện. Chúng ma triệp bố, mạc
bất quy phục.
(經)光明普照無量佛土。一切世界,六種震動。總攝魔界,動魔宮殿。眾魔慴怖,莫不歸伏。
(Kinh: Quang minh chiếu trọn khắp vô lượng
cơi Phật. Hết thảy các thế giới sáu thứ chấn
động, nhiếp trọn ma giới, lay động cung
điện ma. Các ma kinh hoảng, không ai chẳng quy phục).
“Quang
minh phổ chiếu vô lượng Phật độ”
[nghĩa là] đức Phật thuyết pháp sẽ tỏa
quang minh, quang minh sẽ chiếu trọn khắp vô lượng
cơi Phật. “Nhất thiết
thế giới, lục chủng chấn động” (Hết thảy các thế giới sáu thứ
chấn động): Đức Phật thuyết pháp có oai
nghi, có thể khiến cho hết thảy vô lượng thế
giới, mỗi thế giới đều có sáu thứ chấn
động. Trong phần trước đă nói, chuyện
này nhằm cảnh giác chúng sanh.
“Tổng
nhiếp ma giới, động ma
cung điện. Chúng ma triệp bố, mạc bất quy phục” (Nhiếp trọn ma giới, lay động
cung điện ma. Các ma kinh hoảng, không ai chẳng quy phục):
Trong phần hiện tám tướng thành đạo đă
nói trên đây, hàng ma là một tướng, thành đạo
là một tướng nữa. Ở đây chẳng phải
là tướng thành Phật hàng ma, mà là hàng phục ma trong mười
phương thế giới. Trong phần trước
đă nói Ngài “thường
dĩ pháp âm, giác chư thế gian, quang minh phổ chiếu
vô lượng Phật độ” (thường dùng các
pháp âm để giác ngộ các thế gian, quang minh chiếu
khắp vô lượng cơi Phật), phóng quang minh chiếu thấu vô lượng cơi Phật, vô lượng
thế giới. “Nhất thiết
thế giới, lục chủng chấn động”, [ư
nói] chẳng phải là một thế giới có sáu thứ chấn
động, mà là vô lượng thế giới đều
có sáu thứ chấn động. Tiếp đó nói “tổng nhiếp ma giới”
(nhiếp trọn ma giới): Nhiếp (攝) là thâu nhiếp. Thâu nhiếp hết thảy
ma giới. Hết thảy các thế giới đều có
cung điện của ma vương, thảy đều bị
chấn động. “Chúng ma triệp
bố”: “Triệp bố”
(慴怖) là kinh hăi, hốt hoảng, sợ hăi. “Mạc bất quy phục”: Ma
trong vô lượng thế giới đều quy y, điều
phục. Dưới đây lại nói về chuyện hàng
phục ngoại đạo.
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.8.2.2.2. Khẩu nghiệp phá tà, khiến
ĺa phiền năo
(Kinh) Quặc liệt tà vơng, tiêu diệt
chư kiến, tán chư trần lao, hoại chư dục
tiệm, nghiêm hộ pháp thành, khai xiển pháp môn, tẩy trạc
cấu ô, hiển minh thanh bạch, quang dung Phật pháp,
tuyên lưu chánh hóa.
(經)摑裂邪網,消滅諸見。散諸塵勞,壞諸欲壍。嚴護法城,開闡法門。洗濯垢汙,顯明清白。光融佛法,宣流正化。
(Kinh: Xé rách lưới tà, tiêu
diệt các kiến, phá tan các trần lao, hủy hoại các
hào dục, giữ nghiêm ngặt pháp thành, mở mang, xiển
dương pháp môn, gột rửa nhơ bẩn, sáng sủa
thanh bạch, dung hội rạng ngời Phật pháp, tuyên
lưu sự giáo hóa chánh đáng).
“Quặc
liệt tà vơng, tiêu diệt chư kiến” (Xé rách lưới tà, tiêu diệt các kiến
giải): Trong phần trước đă nói tới chuyện
hàng phục ma vương. Trong mỗi thế giới đều
có bọn ngoại đạo. Tri kiến của bọn
người đạo ấy đều là tà tri tà kiến.
Những pháp môn do họ đặt ra đều là các tà
pháp. Tà pháp không chỉ là một thứ, giống như
lưới giăng khiến cho chúng sanh bị mê hoặc [nên
gọi là “tà vơng”]. “Quặc liệt tà vơng”: “Quặc liệt” (摑裂) là phá vỡ, tức là đả phá tà pháp
của ngoại đạo. “Tiêu
diệt chư kiến”: Phá tan tà pháp, tà tri tà kiến của
bọn ngoại đạo. Lại c̣n phải tiêu diệt
những thứ ấy. “Tà vơng”
(lưới
tà) là tà pháp ngoài tâm, phá “chư kiến” là tiêu diệt
tà kiến trong tâm.
“Tán
chư trần lao, hoại chư dục tiệm” (phá các trần lao, hoại các hào dục):
Đây là nói về phàm phu. Phiền năo của phàm phu là do mê
hoặc bởi ngũ dục. “Tán
chư trần lao” (Phá tan trần lao): Trần lao là một loại phiền
năo. Trần lao là loạn tưởng. Hết thảy các phiền
năo nhiễu loạn chúng sanh, phiền năo do đâu mà có? Do trần
cảnh bên ngoài đưa đến. Phàm phu luôn tham cầu
cảnh giới sáu trần, tức sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp. Hễ tham cầu cảnh giới
sáu trần, sẽ nhiễu loạn cái tâm của chính ḿnh. “Lao” (勞) là rối loạn. Phá tan tất cả trần
lao của chúng sanh, “tán” (散) là phá trừ.
“Hoại
chư dục tiệm”: “Dục”
(欲) là ham muốn niềm vui ngũ dục. “Tiệm”
(壍) là hào nước sâu. Chúng sanh tham cầu
thú vui ngũ dục, rơi xuống hào sâu chẳng thoát ra được, bị trần lao của
niềm vui ngũ dục lôi xuống, ch́m lỉm trong hào sâu
ngũ dục. Phải đập nát, phá hoại hào sâu
ngũ dục, giống như cứu họ thoát khỏi
hào sâu. Đây là tán thán công đức của các vị Bồ
Tát ấy. Không chỉ là tạo công đức trong một thế
giới, mà là trong vô lượng thế giới, vô lượng
cơi Phật đều làm công đức. Trước hết
là phá tà hiển chánh. Trong phần trước có nói tới
chuyện hàng phục ma vương; đấy là phá tà. Hàng
phục ngoại đạo vẫn là phá tà. Hàng phục phàm
phu vẫn là phá tà. Phá tan tà tri tà kiến để hiển
chánh. Dưới đây là hiển dương chánh pháp, tức
là tuyên dương chánh pháp của Phật.
“Nghiêm
hộ pháp thành, khai xiển pháp môn”: Bảo vệ Phật
pháp nghiêm mật, giống như một quốc gia bảo
vệ thành tŕ của chính ḿnh, đấy là “nghiêm hộ pháp thành”.
“Khai xiển pháp môn”: Ta muốn mở cửa thành khiến
cho nhân dân đều vào trong cái thành này của ta. Đấy
là muốn khai chuyển pháp luân. Khai chuyển pháp luân nói tổng
quát sẽ là pháp môn Lục Độ. Lục Độ nếu
mở rộng ra sẽ là muôn loại hạnh môn.
“Tẩy
trạc cấu ô, hiển minh thanh bạch” (gột rửa nhơ bẩn, hiện rơ sự
thanh bạch): “Cấu ô” (垢汙) là vô minh phiền năo. “Khai xiển pháp môn” cho chúng sanh là dạy chúng sanh
tu hành, tu hành để làm ǵ? Tu hành nhằm đoạn phiền
năo. Phiền năo là “cấu ô”.
Thân thể vốn thanh tịnh, trong trắng, v́ bị trần cấu ô nhiễm, cần
phải “tẩy trạc” (洗濯, gột rửa). Rửa đi rửa lại
th́ là Trạc (濯). “Tẩy trạc
cấu ô” là gột sạch tập khí trần cấu ô
nhiễm. “Hiển minh thanh bạch”:
Hiển lộ cái thân thể vốn sẵn thanh tịnh, trong trắng, làm lộ rơ cái thân thanh bạch. Vốn sẵn
thanh bạch, nhưng bị nhuốm bẩn bởi trần lao, trần cấu.
Trần cấu c̣n có một danh xưng khác là Khách Trần. “Khách” (客) [hàm ư] chẳng phải là chính ḿnh, nó đến từ bên ngoài. “Trần” (塵) cũng là trần cảnh, là cảnh giới
ở ngoài tâm, quư vị chớ nên tham cầu nó. Hễ tham cầu, quư vị sẽ bị
nhiễm bẩn. V́ thế, hiểu rơ Khách Trần chẳng
phải là chủ nhân trong nhà của ta, sẽ rất dễ
dàng đả phá nó, rất dễ gột sạch nó. Lư Thể Pháp Thân của ta vốn thanh tịnh, trong trắng, nhưng đối với
chúng sanh, nó chẳng hiển hiện được, v́ bị
trần lao phiền năo làm nhơ bẩn. Hiện thời, học
Phật pháp th́ phải tu hành, đoạn phiền năo, ḥng
hiển hiện Pháp Thân vốn sẵn thanh tịnh, trong sạch.
Bồ Tát cứu độ
chúng sanh th́ phải hoằng dương chánh pháp. Hoằng
dương chánh pháp th́ trước hết phải dạy chúng
sanh tà pháp là ǵ? Phá trừ tà pháp, sửa trừ những tà
kiến trong tâm, mới có thể khiến cho chúng sanh tiếp
nhận chánh pháp, nẩy sanh ḷng tín ngưỡng. Đă tín
ngưỡng rồi bèn thông hiểu, đă thông hiểu rồi th́ sẽ tu hành. Tu hành là làm
ǵ? Phải ghi nhớ! Tu hành là đoạn phiền năo. Tu
hành chẳng phải là tu Pháp Thân, [bởi lẽ], Pháp Thân vốn
sẵn có, chẳng cần phải tu mới thành. Nếu cần phải tu tập để thành tựu
Pháp Thân, Pháp Thân sẽ trở
thành thứ giả trất, chúng ta có thể tự ḿnh sửa
chữa, chế tạo. Thứ do phàm phu sửa chữa và
chế tạo th́ c̣n có phải là thật hay chăng? Do vậy, Pháp Thân vốn sẵn
có, là diệu lư Thật Tướng, là chân lư chưa bao giờ
biến động. Pháp Thân vốn thanh bạch, v́ bị khách trần nhiễm bẩn,
cho nên cần tẩy rửa. “Tẩy trạc” là tu hành, tu rồi lại tu, giặt đi giặt lại, ḥng đoạn hết sạch phiền năo, Pháp Thân sẽ hiện tiền.
Do vậy, đợi đến khi Pháp Thân hiện tiền
bèn thành Phật, đạt được cái “chẳng
đạt được”, v́ Pháp Thân vốn sẵn có, chẳng
do từ bên ngoài mà có!
“Quang
dung Phật pháp, tuyên lưu chánh hóa” (Dung hội rạng ngời Phật pháp,
tuyên dương, lưu thông sự giáo hóa chánh đáng): “Quang dung Phật pháp” là nói
tương ứng với “khai
xiển pháp môn” trong phần trước. Phật pháp
như cái thành lớn. Thành cần phải mở cửa, hết
thảy đại chúng mới có thể đi vào. Vậy
th́ mở cửa thành sẽ chẳng chỉ mở một
cửa. “Khai xiển pháp môn”
(Mở mang, xiển dương pháp môn) hoàn toàn chẳng phải là một thứ,
v́ căn cơ của chúng sanh sai khác, chẳng đồng
nhất, đức Phật cũng có đủ loại
pháp môn. Nêu lên đại cương th́ có Lục Độ,
lại mở rộng ra th́ là muôn loại pháp môn, nhưng Phật
pháp chẳng có hai món. Ở đây phải “quang dung Phật pháp”.
“Quang” là phóng trí huệ quang, “dung”
(融) là dung hội, quán thông, [tức là] hợp
các loại pháp môn lại thành một Phật pháp th́ gọi
là “quang dung Phật pháp”. Dung
hội, quán thông như thế nào? Đạt được
trí huệ. V́ thế, người mới học hăy cân nhắc
một pháp môn để có thể giúp họ đoạn phiền
năo. Quư vị học một pháp môn này, kẻ khác học
pháp môn khác, dường như chẳng có ǵ chung giữa
đôi bên, chẳng biết Phật pháp không có hai loại.
Khi trí huệ cao sâu dấy lên, tỏa ra quang minh trí huệ
th́ sẽ có thể dung hội, quán thông, hiểu thấu suốt
thảy đều là một Phật pháp. “Tuyên lưu chánh hóa”: Phật pháp cần phải
tuyên dương, lưu truyền, truyền bá rộng răi.
Tuyên lưu, truyền bá rộng răi th́ phải tuyên
dương Phật pháp. Tuyên dương Phật pháp mới
là sự giáo hóa chánh đáng.
Tôi thường xuyên nhắc
nhở chư vị: Nghe kinh là để chúng ta học Phật
pháp. Quư vị nghe đến đâu, học đến
đó. Pháp ấy sẽ dẫn dắt quư vị, quư vị
nghe đến chỗ này, bèn học đến chỗ này.
Hiện thời, tại Trung Hoa, kinh Đại Thừa có
tám tông phái, vẫn chẳng phải là có tám vạn bốn
ngàn pháp môn. Đối với tám tông phái ấy, nói chung là học
theo một tông phái, khéo tu hành, khéo đoạn phiền năo.
Thế nhưng quư vị chớ nên chấp trước, tu
Thiền Tông sẽ hủy báng Tịnh Độ, học Tịnh
Độ sẽ hủy báng Thiền Tông; học Mật
Tông bèn hủy báng Hiển Giáo, học Hiển Giáo sẽ hủy
báng Mật Tông. Hủy báng tới, hủy báng lui, toàn là tự
ḿnh đánh ḿnh! Thiền Tông là Phật pháp, Tịnh Độ
Tông cũng là Phật pháp; Hiển Giáo là Phật pháp, Mật
Tông cũng là Phật pháp. Trong ṿng các tông, hủy báng lẫn
nhau, chẳng hủy báng tà ma ngoại đạo, trông thấy
ngoại đạo bèn sợ hăi, cũng chẳng dám hủy
báng, tận hết sức ḿnh đánh người trong nhà của chính ḿnh, Phật pháp làm sao có thể hưng thịnh
cho nổi? Do đó, quư vị phải dung hội, quán thông,
hết thảy các pháp đều là Phật pháp.
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.8.2.2.3. Thân nghiệp tiếp nhận
cúng dường, sanh ra phước thiện cho người
khác
(Kinh) Nhập quốc phân vệ,
hoạch chư phong thiện. Trữ công đức, thị
phước điền.
(經)入國分衛,獲諸豐膳。貯功德,示福田。
(Kinh: Vào quốc thành khất
thực, đạt được các thức ăn phong
phú, chất chứa công đức,
chỉ bày phước điền).
“Nhập
quốc phân vệ”: Chữ Phân Vệ (分衛, Piṇḍapāta) trong tiếng Phạn dịch sang tiếng
Hán là Khất Thực. Kinh Kim Cang chép: “Nhập Xá Vệ đại thành khất thực”
(Vào trong đại thành Xá Vệ để
khất thực). Phật Thích Ca làm như thế, mà hết
thảy các vị đại Bồ Tát thị hiện thành
Phật cũng đều là như vậy. “Nhập quốc”: Quư vị đang ở nước
nào, bèn vào trong nước ấy. Phật Thích Ca vào đại
thành Xá Vệ, các vị Bồ Tát khác mỗi vị ở
cơi Phật của chính ḿnh, vào trong quốc thành của họ
để khất thực. Bồ Tát đều có thể
thị hiện thành Phật, cần ǵ phải ăn uống
nữa? Đấy là v́ lợi ích chúng sanh. Tiếp đó
bèn nói: V́ lẽ ǵ Bồ Tát c̣n phải khất thực, c̣n
phải ăn uống? Chính là v́ đạo lư này.
“Hoạch
chư phong thiện”: Hoạch (獲) là thu
được, [“hoạch
chư phong thiện”] là đạt được món
ăn phong phú. “Thiện” (膳) chính là những thứ để ăn.
“Trữ
công đức, thị phước điền”: Hai câu này nhằm nói rơ v́ sao Phật,
Bồ Tát phải xin cơm ăn? Nhằm lợi ích chúng
sanh, khiến cho chúng sanh tích tụ “công đức”. Trữ (貯) là tích tụ, giống như chúng ta ra ngân hàng gởi
tiền vậy. Ngày hôm nay gởi vào mấy đồng,
ngày mai gởi mấy đồng nữa, đấy gọi
là Trữ. Hôm nay người ấy dâng thí đức Phật
một chén cơm, ngày mai lại dâng thí một chén cơm,
giống như ra ngân hàng gởi tiền vậy, tích “trữ công đức”. “Thị phước điền”
(Chỉ bày ruộng phước): Khai thị
chúng sanh, khiến cho chúng sanh gieo phước. Chúng ta muốn
gieo lúa mạch th́ ra ruộng lúa mạch mà gieo. Muốn gieo
hạt gạo th́ ra ruộng trồng lúa gạo mà gieo. Quư vị
muốn gieo phước, hăy gieo trên thân người xuất
gia! Đức Phật thị hiện tướng tỳ-kheo,
quư vị cúng dường người xuất gia dùng bữa
là gieo phước. Người xuất gia được
gọi là “phước điền
tăng”, [“thị phước
điền”] là khai thị cho chúng sanh gieo phước
điền.
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.8.2.2.4. Khẩu nghiệp thuyết
pháp, khiến cho [người nghe] tu đạo xuất ly
(Kinh) Dục tuyên pháp, hiện hân tiếu,
dĩ chư pháp dược, cứu liệu tam khổ, hiển
hiện đạo ư, vô lượng công đức, thọ
Bồ Tát kư, thành Đẳng Chánh Giác.
(經)欲宣法,現欣笑。以諸法藥,救療三苦。顯現道意,無量功德。授菩薩記,成等正覺。
(Kinh: Muốn tuyên nói pháp, hiện
vẻ tươi cười, dùng các pháp dược cứu
chữa ba khổ, hiển hiện đạo ư, vô lượng
công đức, thọ kư cho hàng Bồ Tát thành Đẳng
Chánh Giác).
“Dục
tuyên pháp, hiện hân tiếu” (Muốn tuyên nói pháp, hiện vẻ tươi cười):
Quư vị đọc kinh Kim Cang, [sẽ thấy chép]: “Nhĩ thời Thế Tôn, thực
thời, trước y tŕ bát, nhập
Xá Vệ đại thành khất thực, ư kỳ thành
trung, thứ đệ khất dĩ, hoàn chí bổn xứ,
phạn thực ngật, thâu y bát, tẩy túc dĩ, phu ṭa
nhi tọa” (Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn đến giờ ăn, bèn
đắp y, cầm bát, vào thành lớn Xá Vệ khất thực.
Ở trong thành ấy, theo thứ tự khất thực
xong, trở về chỗ ḿnh, dùng cơm xong, cất y bát, rửa
chân rồi, trải ṭa mà ngồi). Thích Ca Mâu Ni Phật vào
đại thành Xá Vệ khất thực xong, trở về
Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên, dùng cơm xong, cất dọn y bát, rửa chân
rồi, trải
ṭa ra để ngồi. “Tẩy
túc dĩ” là rửa chân, tĩnh tọa th́ phải ngồi xuống, ngồi
xuống rồi sẽ giảng kinh Kim Cang. Chư đại
Bồ Tát thị hiện thành Phật, thuyết pháp cũng
giống như vậy, khất thực xong bèn dùng cơm. “Dục
tuyên pháp” là muốn thuyết pháp, thuyết pháp th́ vẻ mặt phải “hiện
hân tiếu”, [tức là] vẻ mặt rất hoan hỷ.
Trong phần kinh văn dưới đây, khi nói đến
phần Phát Khởi Tự, Phật Thích Ca giảng kinh Vô
Lượng Thọ cũng mang vẻ mặt hoan hỷ, tươi cười. V́ sao đức Phật
thuyết pháp bèn hiện vẻ tươi cười, hân
hoan? V́ chúng sanh đă thành tựu cái duyên đắc độ
tốt đẹp. Chúng sanh muốn thoát ly biển khổ
th́ chỉ có Phật xuất thế thuyết pháp, chúng sanh sẽ
có thể đắc độ. Phật đến cứu
độ chúng sanh, thấy chúng sanh sắp thoát ly biển
khổ, cho nên Ngài mang vẻ mặt tươi cười.
“Dĩ
chư pháp dược, cứu liệu tam khổ” (Dùng các pháp dược cứu chữa ba khổ):
V́ sao cần phải thuyết pháp? Pháp giống như thuốc men; v́ sao bảo chúng sanh uống thuốc? V́
chúng sanh có bệnh khổ năo. Khổ năo rất nhiều,
nói tổng hợp th́ có ba loại khổ. Thứ nhất,
khổ là Khổ Khổ. Thứ hai, lạc là Hoại Khổ.
Thứ ba, chẳng khổ chẳng lạc là Hành Khổ.
Trong nhân gian, ba thứ khổ này đều có, Dục Giới
Thiên trọn
đủ hai thứ khổ, hai giới
trên đó là Sắc Giới và Vô Sắc Giới đều
có một thứ khổ. Nhân gian th́ cả ba thứ khổ đều có, chúng sanh
trong nhân gian chịu khổ, tức là khổ càng thêm khổ:
1) Cái thân Ngũ Ấm của
chúng ta vốn là cái gốc khổ. Thân thể của chúng ta do cha mẹ sanh ra là để
chịu khổ. Quư vị chẳng ăn cơm, sẽ khổ
v́ đói, chẳng uống nước, sẽ khổ v́
khát. Mùa Hè th́ khổ v́ nóng, mùa Đông khổ v́ lạnh, khổ
v́ bệnh tật, già cả th́ khổ v́ già. Cái thân Ngũ Ấm
là căn bản của khổ, đă khổ càng thêm khổ,
th́ gọi là Khổ Khổ.
2) Nếu quư vị đang
hưởng phước sung sướng, sung sướng chẳng
thể lâu dài. Lạc là Hoại Khổ. Nếu lạc
đă bị hoại, đấy mới là khổ năo dữ dội, khiến cho quư vị chẳng
thể chịu đựng nổi. Chẳng hạn như
quư vị vốn chẳng phát tài, vốn chẳng làm quan to,
đấy là Khổ Khổ, chịu đựng nỗi khổ nghèo hèn, vẫn có thể chịu
đựng được. Nếu quư vị làm quan lớn,
giàu sụ, về sau, thời thế xoay chuyển, địa
vị quan to mất đi, tiền tài bị kẻ khác tịch
thu, khi ấy sẽ khổ sở dữ dội, khổ đến nỗi chẳng thể sống nổi. Do vậy,
lạc là Hoại Khổ.
3) C̣n có một loại
người, họ chẳng vui sướng to lớn mà
cũng chẳng khổ lắm, rất b́nh phàm, nhưng sự
b́nh phàm cũng chẳng thể giữ măi, đấy là Hành
Khổ. “Hành” (行) là đổi dời chẳng ngừng.
Quư vị cảm thấy cuộc sống rất b́nh lặng,
ta chẳng khổ mà cũng chẳng sướng, cuộc
sống này rất tốt! Nhưng đổi dời chẳng
ngừng, sanh mạng của quư vị chẳng thể
ngưng nghỉ, tự nhiên sẽ từ tráng niên trở thành già nua, từ già đến chết.
Đấy là Hành Khổ.
Đối với chúng sanh
trên cơi trời, trời chia thành tam giới. Dục Giới
có sáu tầng trời, Dục Giới hưởng niềm
vui ngũ dục đều là diệu lạc. “Diệu” (妙) nghĩa là chúng ta chẳng thể suy
tưởng được. Họ hưởng thiên lạc
(niềm
vui trong cơi trời) rất tốt đẹp, nhưng cái lạc mà họ
hưởng là Hoại Khổ. Phước trời sẽ
có lúc hưởng hết. Hưởng hết th́ vẫn phải luân hồi. Kinh Phật có nói, có một
vị trời từ trên trời đọa xuống, lập
tức đọa vào trong bụng của một con lợn
nái ghẻ lở. Con lợn nái ấy sanh ra đă là toàn thân
ghẻ lở. Người trên cơi trời có thần thông, vị
trời ấy trông thấy, nhưng khi đọa xuống,
phải đầu thai trong bụng con lợn nái ghẻ
lác, quư vị xem đó! Họa hoạn kiểu đó có thể
chịu đựng nổi hay chăng? V́ thế, sanh lên trời
cảm giác chẳng tránh khỏi mối họa ấy. Dục
Giới gọi Lạc là Hoại Khổ, họ chẳng có
Khổ Khổ, v́ họ chỉ hưởng phước trời,
hưởng lạc, nhưng lạc chẳng lâu dài. Hưởng
hết phước trời, vẫn phải luân hồi xuống
thấp hơn, nên gọi Lạc là Hoại Khổ,
nhưng chư thiên có hai thứ khổ là Hoại Khổ và
Hành Khổ. Hai giới trên đó là Sắc Giới và Vô Sắc
Giới, họ tu Tứ Thiền Bát Định, chẳng hứng chịu Khổ Khổ trong nhân gian, mà cũng chẳng
hưởng thụ niềm vui ngũ dục như Dục
Giới Thiên. Họ chẳng khổ, chẳng lạc, đạt
được cảnh giới Thiền Định rất
tốt đẹp. Nhưng quư vị phải hiểu, họ
vẫn bị đổi dời không ngừng, vẫn có lúc
Định lực tiêu tán, chẳng thoát khỏi phạm vi
của lục đạo luân hồi. Do vậy, hai giới
trên là Sắc Giới và Vô Sắc Giới chẳng có Khổ
Khổ và cũng chẳng có Hoại Khổ, nhưng có Hành
Khổ. Nói tới ba nỗi khổ này, ngay cả chư thiên
trong tam giới cũng đều phải kể đến.
Nh́n lại loài người chúng ta, cả ba nỗi khổ
đều có.
Học Phật pháp th́ trước
hết là biết khổ, Thích Ca Mâu Ni Phật đă thành Phật, Ngài muốn cứu độ chúng sanh bèn thuyết
pháp. Thuyết pháp th́ trước hết là đến độ năm vị tỳ-kheo,
nói pháp môn Tứ Đế, tức Khổ, Tập, Diệt,
Đạo. Trước hết nói đến Khổ, bảo
năm vị tỳ-kheo hăy biết Khổ. Khổ do đâu
mà có? Khổ là khổ quả. Khổ do Tập mà có. Tập
là phiền năo, do đă tạo cái nhân phiền năo mà có. Nếu
quư vị biết Khổ, trước hết hăy đoạn
Tập, tức là đoạn phiền năo. “Mộ Diệt tu Đạo” (Do hâm mộ Diệt mà tu Đạo), “Diệt” là tịch diệt, tức
Niết Bàn. [“Mộ Diệt” là]
ngưỡng mộ Tịch Diệt Niết Bàn. Quư vị
ngưỡng mộ [mong muốn] đạt được
Niết Bàn th́ phải tu Đạo. Phật Thích Ca nói pháp
môn Tứ Đế là nói với năm vị tỳ-kheo.
Trên thực tế, đức Phật thuyết pháp suốt
bốn mươi chín năm, chẳng rời khỏi pháp Tứ
Đế: “Biết Khổ
đoạn Tập, mộ Diệt tu Đạo”. Nếu
quư vị giảng Phật pháp mà chẳng thể khiến
cho chúng sanh biết khổ, những ǵ quư vị đă giảng
toàn là nói suông. V́ sao? Họ chẳng biết khổ, làm sao
tu hành? Họ chẳng tu hành, quư vị giảng Phật pháp
cho họ nửa ngày, chẳng phải là đă nói những lời rỗng
tuếch ư? Lại
nói về kinh văn, đây là chư đại Bồ Tát thị
hiện tám tướng thành đạo: Thành Phật, chuyển
pháp luân, thuyết pháp cho chúng sanh nghe, giống như cho
chúng sanh uống thuốc để cứu chữa bệnh
tật của chúng sanh. Bệnh ǵ vậy? Ba loại bệnh
khổ. Đấy là “cứu
liệu tam khổ” (cứu chữa ba khổ).
“Hiển
hiện đạo ư, vô lượng công đức”: Cứu
vớt ba thứ khổ của chúng sanh, [khiến cho họ] có thể vượt thoát tam giới, chứng
đắc cực quả là A La Hán, hay Bích Chi Phật. Đấy
là Tiểu Thừa. Cứu độ chúng sanh th́ nhất
định phải khiến cho họ thành Phật. Quư vị
cứu độ chúng sanh thoát khỏi tam giới th́ vẫn
chưa phải là Phật pháp rốt ráo. Đó là Tiểu Thừa.
Nhưng căn cơ của chúng sanh khác nhau, có kẻ tu Tiểu
Thừa mà c̣n tu chẳng được, trước hết
hăy bảo họ tu Nhân Thiên Thừa, bảo họ thọ
Tam Quy Y, thọ Ngũ Giới, giữ cho thân người
chẳng mất. Đấy gọi là pháp Nhân Thiên. Pháp Nhân Thiên cứu họ chẳng đọa
ba ác đạo, vẫn là cứu ba nỗi khổ ấy.
C̣n có những chúng sanh căn cơ cao hơn một chút, bèn
dạy họ tu mười thứ thiện pháp, khiến
cho họ thăng thiên, hưởng thụ phước trời.
C̣n có những người tư tưởng cao hơn một
chút, bèn dạy họ tu Tứ Thiền Bát Định để
sanh lên Sắc Giới Thiên hoặc Vô Sắc Giới Thiên.
Đấy đều là phương tiện, gọi là pháp
Thiên Thừa. Pháp Thiên Thừa vượt thoát nhân giới,
nhưng thiên giới vẫn chẳng phải là lâu dài, phải
làm cho họ tu pháp Nhị Thừa, tức là tu pháp Tứ
Đế, tu pháp Thập Nhị Nhân Duyên, dạy họ
vượt thoát tam giới, thoát ly lục đạo luân hồi. Như thế th́ vẫn
chưa phải là pháp rốt ráo, rốt ráo là như thế
nào? Dạy họ phát Bồ Đề tâm.
Nh́n vào kinh văn, “cứu liệu tam khổ” (cứu
chữa tam khổ) là độ chúng sanh thoát khỏi tam giới.
Đấy là một phương tiện, khiến cho họ
“hiển hiện đạo ư”.
“Đạo” là Bồ Đề,
“ư” là tâm, [“hiển hiện đạo ư” chính là] khiến cho
họ phát Bồ Đề tâm. Đă phát Bồ Đề
tâm, bèn dạy họ hành Bồ Tát đạo, bảo họ
tu “vô lượng công đức”.
Hành Bồ Tát đạo, tích lũy công đức. Họ
tu đến Bát Địa Bồ Tát. “Thọ Bồ Tát kư”: Thọ kư bậc Bát Địa
Bồ Tát sẽ thành Phật th́ gọi là “thọ Bồ Tát kư”. Tiếng
Phạn dịch sang tiếng Hán, giải thích văn tự
khá tốn công! “Thọ Bồ
Tát kư” tức là thọ kư sẽ thành Phật. Thọ kư
ai sẽ thành Phật? Thọ kư Bát Địa Bồ Tát sẽ
thành Phật. “Thành Đẳng
Chánh Giác”, khiến cho chúng sanh trong tương lai sẽ
có thể thành Phật, quư vị mới được coi
là độ chúng sanh!
2.1.1.2.2.3.1.2.1.2.9.
Tướng nhập Niết Bàn
(Kinh) Thị hiện diệt
độ, chửng tế vô cực, tiêu trừ chư lậu,
thực chúng đức bổn.
(經)示現滅度,拯濟無極。消除諸漏,植眾德本。
(Kinh: Thị hiện diệt
độ, cứu vớt vô cực, tiêu trừ các lậu,
trồng các cội đức).
“Thị
hiện diệt độ”: Đây là thị hiện tám
tướng thành đạo. Tướng thứ bảy là
chuyển pháp luân. Tướng thứ tám là nhập Niết
Bàn. “Diệt độ” là dịch
nghĩa từ tiếng Phạn, tức là chữ Niết Bàn dịch
sang tiếng Hán th́ là Diệt Độ, vẫn là thị hiện.
V́ thế giới này chẳng có vị Phật nào thành Phật,
[thế mà có những] chúng sanh đáng nên thấy Phật
để đắc độ, vị Bồ Tát này bèn đến
thế giới đó, thị hiện tám tướng thành
đạo, thị hiện thành Phật, thuyết pháp độ
chúng sanh. Độ chúng sanh [căn
cơ] đă chín muồi, thọ kư họ sẽ thành Phật.
Những chuyện khác đă làm xong, Ngài bèn thị hiện Niết
Bàn.
“Chửng
tế vô cực”: Chửng tế (拯濟) là cứu độ. “Vô
cực” (無極) là vô cùng vô số chúng sanh. Cứu độ vô số
chúng sanh như vậy th́ là “chửng
tế vô cực”. “Tiêu trừ
chư lậu”: “Lậu” (漏) là tên gọi khác của phiền năo. Hết
thảy các phiền năo gọi là “chư
lậu”. Độ chúng sanh bằng cách nào? Khiến cho
chúng sanh tiêu trừ phiền năo. Tiêu trừ phiền năo, phá
hoại phiền năo, c̣n phải tu tập tốt đẹp,
dạy họ tích lũy công đức. “Đức bổn” (德本) c̣n gọi là thiện căn. Dạy chúng sanh làm
nhiều công đức, vun bồi nhiều thiện căn,
th́ gọi là “thực chúng đức
bổn”.
2.1.1.2.2.3.1.3. Tiểu kết lời tán thán Quyền
Đức và Thật Đức
(Kinh) Cụ túc công đức, vi
diệu nan lượng. Du chư Phật quốc, phổ
hiện đạo giáo.
(經)具足功德,微妙難量。遊諸佛國,普現道教。
(Kinh: Đầy đủ công
đức, vi diệu khó lường. Dạo các cơi Phật,
hiện trọn khắp giáo pháp của Phật đạo).
“Cụ
túc công đức”: Khiến cho hết thảy chúng sanh
đều được thọ kư thành Phật, trong
tương lai, họ sẽ đều có thể thành Phật,
công đức trọn đủ. Ở đây, [kinh văn]
tổng kết tám tướng thành đạo, thị hiện
Niết Bàn, công đức của vị Bồ Tát ấy đă
trọn đủ. Hăy ghi nhớ! Những vị Bồ Tát
này đến vô lượng thế giới để thị
hiện tám tướng thành đạo ḥng độ chúng sanh. Công đức của
các Ngài “vi diệu nan lượng”, “vi diệu” là chẳng thể
nghĩ bàn, vô lượng vô biên công đức, đều
là công đức chẳng thể nghĩ bàn.
“Du
chư Phật quốc”: “Du”
(遊) là du hóa, đến các cơi Phật để
du hóa. “Phổ hiện đạo
giáo”, “đạo giáo” ở
đây chẳng phải là giáo pháp của đạo sĩ
trong hiện thời, mà là phổ biến thị hiện
giáo pháp của Phật đạo.
2.1.1.2.2.3.2. Tán thán công đức tự lợi và
lợi tha của các vị Bồ Tát
2.1.1.2.2.3.2.1. Tán thán đại lược
(Kinh) Kỳ sở tu hành, thanh tịnh
vô uế. Thí như huyễn sư, hiện chúng dị tượng,
vi nam, vi nữ, vô sở bất biến. Bổn học minh
liễu, tại ư sở vi. Thử chư Bồ Tát, diệc
phục như thị, học nhất thiết pháp, quán tổng
lũ luyện, sở trụ an đế, mị bất cảm
hóa. Vô số Phật độ, giai tất phổ hiện.
Vị tằng mạn tứ, mẫn thương chúng sanh.
Như thị chi pháp, nhất thiết cụ túc.
(經)其所修行,清淨無穢。譬如幻師,現眾異像。為男為女,無所不變。本學明了,在意所為。此諸菩薩,亦復如是。學一切法,貫綜縷練。所住安諦,靡不感化。無數佛土,皆悉普現。未曾慢恣,愍傷眾生。如是之法,一切具足。
(Kinh: Sự tu hành của các
Ngài thanh tịnh, chẳng nhơ. Ví như nhà huyễn thuật
hiện ra các h́nh tượng lạ lùng, hiện nam, hiện
nữ, không ǵ chẳng biến hóa, do hiểu rơ điều
ḿnh đă học, tùy ư thực hiện. Các vị Bồ Tát
này cũng giống như vậy, học hết thảy
các pháp, thông suốt, luyện tập tỉ mỉ, trụ
an định, vững chắc [trong Phật pháp], không ai chẳng
bị cảm hóa. Trong vô số cơi Phật, thảy đều
hiện khắp, chưa hề khinh mạn, phóng túng,
thương xót chúng sanh. Các pháp như thế hết thảy
đều đầy đủ).
“Kỳ
sở tu hành, thanh tịnh vô uế” (Sự tu hành của các Ngài thanh tịnh, chẳng
nhơ): Các Ngài thành Phật là thị hiện, bổn vị
vẫn là Bồ Tát, c̣n đang tu Bồ Tát hạnh, những
ǵ các Ngài đă tu đều là đạo hạnh thanh tịnh,
chẳng có chút nào ô nhiễm xen tạp. Đó là “thanh tịnh vô uế”. Phải
chú ư! Trong phần trước, tôi đă nói, tán thán các vị
đại Bồ Tát này đều là bậc Đẳng
Giác Bồ Tát. Các Ngài có thể thị hiện thành Phật,
chỉ kém Phật một bậc. Nói đến những
công đức này, nhằm dạy hàng Sơ Phát Tâm Bồ
Tát chúng ta học tập. Nếu không, tán thán những công đức
ấy, chép vào kinh bổn để làm ǵ? Nhằm dạy
hàng Sơ Phát Tâm Bồ Tát chúng ta hăy học theo. Chúng ta cũng là Bồ Tát,
nhưng là hạng Bồ Tát ǵ? Là Sơ Phát Ư Bồ Tát. Ư c̣n
gọi là Tâm; do vậy, c̣n gọi là Sơ Phát Tâm Bồ Tát.
“Kỳ sở tu hành, thanh tịnh
vô uế” (Sự tu hành của các Ngài thanh tịnh, chẳng
nhơ): Đấy là bảo chúng ta hăy học theo. Những việc làm của bậc Bát Địa Bồ Tát toàn
là thanh tịnh vô uế, huống hồ bậc Đẳng
Giác Bồ Tát! Các Ngài tu hành c̣n có thể xen tạp phiền
năo hay không? Chẳng thể nào! Dạy hàng Sơ Phát Tâm Bồ
Tát chúng ta hăy học theo!
Nay chúng ta phát Bồ Đề
tâm, chúng ta là Sơ Phát Tâm Bồ Tát, đă phát tâm hành Bồ
Tát đạo, hành Bồ Tát đạo th́ phải chú ư: Quư vị chớ nên xen tạp phiền
năo. Một câu nói quan trọng nhất, quư vị hăy dụng
công học, tôi tùy tiện nêu ra một ví dụ: Chẳng hạn
như hằng ngày quư vị niệm Phật bao nhiêu đó,
hoặc là mỗi ngày tĩnh tọa mấy tiếng đồng
hồ, những điều này đều là tu hành. Trong tu
hành, quư vị hàng phục cái tâm vọng tưởng, ba căn
bản phiền năo trong cái tâm vọng tưởng là tham,
sân, si. Ví như quư vị đang niệm Phật, thường
khóa hằng ngày là niệm một vạn câu A Di Đà Phật,
lần tràng hạt niệm đến một vạn tiếng. Thực
hiện công khóa viên măn, chính quư vị phải chú ư. Trong khi
quư vị lần tràng niệm A Di Đà Phật một vạn
tiếng, trong thời gian ấy, có dấy vọng tưởng hay chăng? Dấy
vọng tưởng th́ có vọng tưởng tham, sân, si trong ấy hay không? Ngay trong lúc niệm Phật, đột
nhiên nghĩ ham muốn tiền tài, phương pháp để
tham cầu tiền tài rất nhiều đúng không? Chẳng
cần nêu thí dụ tỉ mỉ, chúng ta chẳng có nhiều
thời gian, quư vị hăy tự ḿnh suy xét. Bỗng dưng
nghĩ tới chuyện phát tài, tay vẫn c̣n đang lần
tràng hạt, miệng niệm Nam-mô A Di Đà Phật.
Niệm nam-mô A Di Đà Phật [mà c̣n xen tạp những ư
niệm ấy], tức là hạnh môn thanh tịnh đều
bị quư vị nhuốm bẩn mất rồi. V́ quư vị
dấy lên ư niệm phát tài! Hoặc là quư vị đang niệm
Phật, bỗng nghĩ tới một kẻ oan gia đối
đầu: “Gă đó đúng là xài không được, phạm
đủ thứ sai trái đối với ta, ta chẳng thể
nào không báo thù!” Đấy là dấy động cái tâm sân hận,
miệng vẫn đang niệm Phật, tay vẫn đang
lần tràng hạt, trong tâm khởi lên tâm niệm sân hận,
muốn báo cừu rửa hận, đă bị cái tâm sân hận
ô nhiễm mất rồi! Cứ suy rộng như vậy,
chính ḿnh t́m ra tật xấu của chính ḿnh. Quư vị tu
hành, hoặc là đang niệm kinh, hoặc đang tĩnh tọa, hoặc là đang niệm Phật, bất
luận dùng công phu ǵ đều là hạnh môn thanh tịnh, đừng
nên bị nhiễm bẩn bởi tham, sân, si. Như thế
th́ quư vị mới có thể tu hành, có thể dụng công.
Nếu không, hạnh môn thanh tịnh của quư vị đều
bị phiền năo nhuốm bẩn, giống như món
ăn ngon bỏ thêm một chút thuốc độc vào, hoàn
toàn biến thành chất
độc! Quư vị phải
đặc biệt chú ư hai câu này. Bồ Tát tu hành thanh tịnh,
vô uế, [kinh chép những điều này] nhằm dạy
chúng ta hăy noi gương. Tiếp đó, kinh lại nói thí dụ
nhằm dạy chúng ta hăy khéo hiểu rơ, v́ sao các vị Bồ
Tát ấy tu hành có thể đạt tới công phu thanh tịnh,
vô uế?
“Thí
như huyễn sư”, [nghĩa
là] ví như những nhà huyễn thuật (ảo thuật
gia). Huyễn thuật tại Ấn Độ rất nhiều.
Chúng thấy trong quá khứ tại Trung Hoa có “biến hư pháp” (cách biến hiện
ra đồ vật hoặc trạng thái lạ lùng để
giải trí cho quần chúng), hiện thời Âu Tây gọi nó
là ảo thuật. Huyễn thuật của Ấn Độ
thật sự có một loại phương pháp có thể
biến ra người nam, người nữ. “Hiện chúng dị tượng”: Chúng sanh rất đông, “dị tượng” (異像) là các h́nh tượng khác nhau. “Vi nam, vi nữ”: Hoặc là hiện ra tướng
nam nhân, hoặc hiện ra tướng nữ nhân. “Vô sở bất biến” (Không ǵ chẳng biến ra), đều có thể
biến ra. “Bổn học minh
liễu, tại ư sở vi”: [“Bổn
học minh liễu” có nghĩa là] vị thầy ảo
thuật ấy hiểu rành, thông đạt học thức căn bản. “Tại ư sở vi”: Chữ Tại (在) phải hiểu là chữ Nhậm (任, tùy ư). Kẻ ấy mặc sức hành động, muốn biến ra thứ
ǵ sẽ biến thành thứ đó; nhưng người ấy chẳng chấp tướng, v́ biết đó là
giả.
“Thử
chư Bồ Tát, diệc phục như thị” [nghĩa
là] những vị Bồ Tát ấy giáo hóa chúng sanh cũng giống
như thế. “Học nhất
thiết pháp, quán tổng lũ luyện” (Học hết thảy các pháp, thông suốt,
luyện tập tỉ mỉ):
“Quán tổng” (貫綜) là nắm chắc toàn bộ đại
cương. “Lũ luyện”
(縷練) là luyện tập công phu cặn kẽ. “Lũ” (縷) là tinh tế, công phu luyện tập Phật pháp tinh tế.
“Sở
trụ an đế”: Ngài trụ tŕ Phật pháp rất an định,
rất sâu chắc. “Đế”
(諦) có nghĩa là rất cặn kẽ. Hiểu
rơ đạo lư, hiểu rơ rất cặn kẽ th́ gọi
là Đế. Ngài an trụ trong Phật pháp, thông hiểu Phật
pháp rất tường tận, th́ gọi là An Đế. “Mị bất cảm hóa” (không ai chẳng bị cảm
hóa): Hết thảy chúng sanh
đều bị vị Bồ Tát ấy cảm hóa.
“Vô số
Phật độ, giai tất phổ hiện” (Vô số cơi Phật thảy đều có thể
hiện trọn khắp): Trong mỗi cơi Phật, Ngài đều
có thể đến đó thị hiện, đều có thể
đến hóa độ chúng sanh, nhưng các Ngài chẳng chấp
tướng chúng sanh, giống như nhà ảo thuật biến
hiện các huyễn thuật. Ngài biết hết thảy
chúng sanh đều là như huyễn như hóa; do vậy,
Ngài chẳng chấp tướng, chẳng động phiền
năo. V́ thế, những hạnh đă tu đều là hạnh
môn thanh tịnh, chẳng có tạp uế.
“Vị
tằng mạn tứ, mẫn thương chúng sanh. Như thị
chi pháp, nhất thiết cụ túc” (Chưa hề khinh mạn, buông lung, xót
thương chúng sanh. Các pháp như thế, hết thảy
đều đầy đủ): Tán thán công đức của
Bồ Tát. Các hạnh môn mà Ngài đă tu đều là hạnh
môn thanh tịnh, hoàn toàn chẳng có tí ti tạp uế nào! Tiếp
đó, lại nói rơ [các vị Bồ Tát ấy] chẳng kiêu
mạn, chẳng tùy tiện phóng túng. Mặc t́nh mà làm th́ là Tứ
(恣), tức buông lung. Câu nói này càng chứng minh
[kinh chép những lời tán thán này] nhằm dạy hàng
Sơ Phát Tâm Bồ Tát chúng ta hăy học tập theo! A La Hán đoạn
hết Kiến Hoặc và Tư Hoặc trong tam giới,
Ngài chẳng có ngă mạn, mà cũng chẳng buông lung. Đẳng
Giác Bồ Tát c̣n có thể ngă mạn, buông lung nữa ư?
Những điều này đều nhằm dạy hàng Sơ
Phát Tâm Bồ Tát chúng ta học theo!
Quư vị học hiểu một
chút Phật pháp, có thể giảng kinh, thuyết pháp cho
chúng sanh nghe, trước hết tự ḿnh dấy lên sự
ngă mạn. V́ sao dấy ḷng ngă mạn? V́ quư vị giảng
kinh, thuyết pháp cho người khác nghe, người ta coi
quư vị như pháp sư mà cung kính, cúng dường, đảnh
lễ quư vị, dâng cúng dường. Quư vị quên bẵng
chính ḿnh là một gă phàm phu, ngỡ ḿnh ghê gớm lắm, “ta
tuyệt diệu đến cỡ nào? Nếu ta chẳng
tuyệt diệu, lẽ nào các ngươi đảnh lễ,
cúng dường ta?” Dưỡng thành thói ngă mạn như
thế đó! V́ thế, trong Phật giáo hiện thời có
một câu nói thông tục: “Pháp
sư ngạo nghễ lắm”. Pháp sư ngạo nghễ
sẽ khó thể hầu hạ, ai trông thấy pháp sư mà
chẳng sợ hăi. Thỉnh pháp sư giảng kinh là chuyện
tốt, nhưng pháp sư quá kiêu căng, chẳng dễ hầu
hạ, đấy chẳng phải là một thứ chướng
ngại hay sao? V́ sao pháp sư kiêu căng? V́ pháp sư dấy
lên phiền năo ngă mạn đó thôi! V́ sao dấy lên phiền
năo ngă mạn? Vị ấy chẳng biết hồi quang phản chiếu, trông thấy
kẻ khác đảnh lễ, cúng dường, cứ ngỡ
chính ḿnh thật sự ghê gớm lắm, nuôi dưỡng
thói ngă mạn như thế đó. Vậy th́ hằng ngày
quư vị giảng kinh, thuyết pháp, chẳng phải là
đang trưởng dưỡng vô minh hay sao? Càng dưỡng,
vô minh càng to; dấy
ḷng ngă mạn càng lớn! Nếu quư vị c̣n có thể tŕ giới
thanh tịnh th́ c̣n may! Nếu không, đă dấy lên cái tâm ngă mạn, sẽ chẳng
kiềm chế chính ḿnh được!
“Tứ”
(恣) là mặc sức tùy ư, hễ mặc sức tùy ư
th́ sẽ buông lung. Đă buông lung lại c̣n chẳng có ai quản
giáo quư vị, v́ quư vị là pháp sư, là kẻ quản giáo
người khác, chẳng ai dám nói quư vị. Quư vị lại
c̣n buông lung, đấy chẳng phải là tự hại
chính ḿnh ư? V́ thế, quư vị muốn học Phật
pháp để giảng cho chúng sanh nghe, giáo hóa chúng sanh là
đúng, nhưng trọn chớ nên xen tạp phiền năo. Thứ
nhất, chớ nên ngă mạn. Thứ hai, chớ nên mặc
t́nh tùy ư, tức là chớ nên buông lung. Bồ Tát chẳng có
những chuyện ấy, chúng ta phải học điều
này! V́ thế, nói những lời này chính là những lời
lẽ khuyên tu tập.
Những vị Bồ Tát ấy
đều chẳng có ngă mạn, chẳng mặc t́nh buông
lung, vậy th́ v́ sao các Ngài đến các thế giới
để giáo hóa? Chính là v́ “mẫn
thương” các “chúng sanh”.
Trông thấy chúng sanh đang hứng chịu nỗi khổ
sanh tử, chúng sanh chịu khổ mà chính họ vẫn chẳng
biết, không biết là khổ, vẫn coi khổ là vui. Họ
chẳng biết đó là khổ th́ gọi là “ngu si”. Coi khổ
là lạc th́ gọi là “điên đảo”. Chúng sanh đúng
là kẻ đáng thương xót; v́ thế, phải “mẫn thương chúng sanh” (thương xót chúng
sanh), phải giảng kinh cho họ nghe. “Như thị chi pháp, nhất thiết cụ túc”
(Các pháp như thế hết thảy đều
đầy đủ): Pháp môn cứu độ chúng sanh, những
vị Bồ Tát ấy đều có đầy đủ!
2.1.1.2.2.3.2.2. Tán thán chi tiết
2.1.1.2.2.3.2.2.1. Nương vào pháp của Bồ Tát
để tu những hạnh thuộc về bổn phận
(Kinh) Bồ Tát kinh điển, cứu
sướng yếu diệu. Danh xưng phổ chí, đạo
ngự thập phương.
(經)菩薩經典,究暢要妙。名稱普至,道御十方。
(Kinh: Thấu suốt tột
cùng những điều trọng yếu huyền diệu
trong kinh điển của Bồ Tát, tiếng tăm vang khắp,
dẫn dắt, điều ngự mười
phương).
“Bồ
Tát kinh điển, cứu sướng yếu diệu”
(Thấu suốt tột cùng những điều
trọng yếu huyền diệu trong kinh điển của
Bồ Tát): Đại Thừa Bồ Tát tự lợi, lợi
tha, hai câu này là tự lợi. Nếu quư vị muốn
độ chúng sanh, trước hết phải học bản
lănh độ chúng sanh, muốn lợi tha th́ trước hết
phải tự lợi. Kinh điển của Bồ Tát được
gọi là kinh điển Đại Thừa. Đối với
kinh điển Đại Thừa, đều nghiên cứu
thông suốt, lưu loát, nắm được chỗ trọng
yếu, huyền diệu, đấy là đạt
được tự lợi. Đă đạt được
tự lợi, sẽ có thể lợi tha.
“Danh
xưng phổ chí” (Tiếng vang trọn khắp): Quư vị là đại pháp sư,
thanh danh sẽ vang dội. Thanh danh vang dội th́ mới có
thể độ chúng sanh. “Đạo
ngự thập phương”: Nay ở dưới chữ
Đạo (道) thêm chữ
Thốn (寸), tức
là chữ Đạo (導, hướng
dẫn) trong đạo sư (導師). “Đạo”
(道) là dẫn đạo (引導, hướng dẫn, dẫn dắt), Ngự
(御) là điều ngự (調御). Đức Phật được gọi
là Đại Đạo Sư (大導師), c̣n gọi là Điều Ngự Sư (調御師). Bồ Tát luôn học theo Phật giáo hóa
chúng sanh, làm đạo sư, làm điều ngự sư cho
chúng sanh, làm ở nơi đâu? Làm trong mười
phương thế giới, đến mười phương
thế giới dẫn dắt chúng sanh, điều ngự
chúng sanh. Đấy là lợi tha.
2.1.1.2.2.3.2.2.2. Nương vào Phật pháp, tu hạnh
thắng tấn
(Kinh) Vô lượng chư Phật,
hàm cộng hộ niệm. Phật sở trụ giả,
giai dĩ đắc trụ. Đại thánh sở lập,
nhi giai dĩ lập. Như Lai đạo hóa, các năng
tuyên bố. Vị chư Bồ Tát, nhi tác đại sư.
Dĩ thậm thâm thiền huệ, khai đạo chúng sanh,
thông chư pháp tánh, đạt chúng sanh tướng, minh liễu
chư quốc.
(經)無量諸佛,咸共護念。佛所住者,皆已得住。大聖所立,而皆已立。如來道化,各能宣布。為諸菩薩,而作大師。以甚深禪慧,開導眾生。通諸法性,達眾生相。明了諸國。
(Kinh: Vô lượng chư Phật
đều cùng hộ niệm. Chỗ Phật đă trụ,
thảy đều đă trụ. Pháp do đại thánh
đă lập, thảy đều đă lập. Như Lai
đạo hóa, đều có thể tuyên bố. V́ các vị
Bồ Tát mà làm bậc đại sư. Dùng thiền huệ
rất sâu, khơi gợi, hướng dẫn chúng sanh thông
suốt tánh của các pháp, thấu đạt tướng
của chúng sanh, hiểu rơ các cơi Phật).
“Vô
lượng chư Phật, hàm cộng hộ niệm” (Vô lượng chư Phật đều cùng
hộ niệm): Các vị Bồ Tát ấy có thể học
đến mức độ ấy, mười
phương chư Phật sẽ đều hộ niệm.
“Phật sở trụ giả,
giai dĩ đắc trụ” (Chỗ Phật đă trụ, thảy đều
được trụ): Chỗ Phật trụ là Đại
Niết Bàn, là Vô Trụ Niết Bàn, các vị Bồ Tát ấy
đều có thể đạt được, cũng an
trụ trong Đại Niết Bàn. “Đại thánh sở lập, nhi giai dĩ lập”
(Pháp do bậc đại thánh đă lập,
thảy đều đă lập): Đại Thánh vẫn là
Phật. Phật là bậc thánh trong các thánh; v́ thế gọi
là Đại Thánh. Pháp môn do đức Phật kiến lập
tức là lục độ vạn hạnh, những vị
Bồ Tát này đều có thể kiến lập. “Như Lai đạo hóa, các năng
tuyên bố” (Như Lai đạo hóa, đều có thể
tuyên bố): Như Lai giáo hóa chúng sanh, nói ra pháp môn nào, những
vị Bồ Tát ấy đều có thể nói, đều
có thể tuyên bố. “Vị
chư Bồ Tát, nhi tác đại sư” (Làm bậc đại sư cho các vị Bồ
Tát): So với
hết thảy các vị
Bồ Tát thông thường, các Ngài là Đẳng Giác Bồ
Tát, được gọi là Ma Ha Tát trong hàng Bồ Tát. Ma Ha
là Đại, v́ thế gọi là Đại Sư.
“Dĩ
thậm thâm Thiền Huệ, khai đạo chúng sanh” (Dùng
Thiền Định và trí huệ rất sâu để khơi
mở, hướng dẫn chúng sanh): Quư vị giáo hóa chúng
sanh tu hành, dạy họ tu Định, tu Huệ. “Thiền” tức là Thiền
Định. Hàng Nhị Thừa cũng có Thiền Định,
cũng cầu trí huệ, nhưng [trí huệ và Thiền Định
của họ] chẳng gọi là Thậm Thâm. Ở đây
là dùng Đại Thừa Thiền, dùng Đại
Thừa huệ, nên gọi là “thậm
thâm Thiền Huệ”, để khơi mở, hướng
dẫn chúng sanh.
“Thông
chư pháp tánh, đạt chúng sanh tướng” (Thông đạt tánh của các pháp, thấu
hiểu tướng chúng sanh): Thông đạt bản tánh của
các pháp, tức là liễu đạt bản thể của
hết thảy các pháp, lại c̣n liễu đạt tướng
của hết thảy chúng sanh. Hằng ngày thuyết pháp, hằng
ngày độ chúng sanh, nhưng chẳng chấp vào tướng
của chúng sanh, thấu đạt tướng của
chúng sanh đều là như huyễn, như hóa; như kinh
Kim Cang đă dạy: “Độ
nhất thiết chúng sanh đô nhập Vô Dư Niết Bàn,
nhi thật vô chúng sanh đắc diệt độ giả”
(Độ hết thảy chúng sanh đều nhập
Vô Dư Niết Bàn, mà thật sự chẳng có chúng sanh
được diệt độ). Liễu đạt
tướng của chúng sanh là huyễn hóa. “Minh liễu chư quốc” (Hiểu rơ các cơi nước): Các quốc
độ thuộc y báo đều là như huyễn,
như hóa, chẳng chấp tướng của thế giới
và quốc độ.
2.1.1.2.2.3.2.2.3. Nương vào Tự Phần trên
đây, tu rộng răi ḥng thành tựu đức hạnh
2.1.1.2.2.3.2.2.3.1. Thâu nhiếp các phương tiện
tu tập
2.1.1.2.2.3.2.2.3.1.1. Tu tự lợi, hiểu rơ giáo
pháp mà tu hành
(Kinh) Cúng dường
chư Phật, hóa hiện kỳ thân, do như điện
quang, thiện học vô úy chi vơng, hiểu liễu huyễn
hóa chi pháp.
(經)供養諸佛。化現其身,猶如電光。善學無畏之網,曉了幻化之法。
(Kinh: Cúng dường chư Phật,
hóa hiện thân ḿnh giống như tia chớp, khéo học
lưới vô úy, hiểu rơ pháp huyễn hóa).
“Cúng
dường chư Phật, hóa hiện kỳ thân, do như
điển quang” (Cúng dường chư Phật, hóa hiện
thân ḿnh giống như tia chớp): Ngài là Bồ Tát, chính
Ngài c̣n phải tu phước, c̣n phải tu huệ. Tu
phước là cúng dường chư Phật, đến mười
phương vô lượng thế giới cúng dường
vô lượng chư Phật. Để cúng dường vô
lượng chư Phật, biến thân thể của chính
ḿnh thành vô lượng thân thể đi cúng dường, rất mau chóng, nhanh
như vô lượng tia chớp! Ngay lập tức, phân
thân vô lượng, đến trước vô lượng chư
Phật dâng hiến cúng dường. Cúng dường
chư Phật là cầu phước, Ngài c̣n mong cầu trí
huệ.
“Thiện
học vô úy chi vơng, hiểu liễu huyễn hóa chi pháp” (Khéo học lưới vô úy, hiểu rơ pháp
huyễn hóa): Phật có bốn thứ Vô Sở Úy, trên thực
tế, bao gồm hết thảy những điều vô sở
úy (không sợ hăi). Hết thảy các pháp vô sở úy của Phật được gọi
là “vô úy chi vơng” (lưới
vô úy), Bồ Tát đều học hiểu những điều này. Đấy gọi là cầu
trí huệ của Phật, liễu đạt pháp huyễn
hóa. Hết thảy các pháp huyễn hóa trong thế gian Bồ
Tát thảy đều liễu đạt triệt để.
Đấy chính là đạt được phước, đạt được huệ, chính ḿnh đă đạt
được tự lợi, lại c̣n lợi ích chúng sanh.
2.1.1.2.2.3.2.2.3.1.2. Nói về chuyện lợi tha, dạy
người khác ĺa lỗi
(Kinh) Hoại liệt ma vơng, giải
chư triền phược.
(經)壞裂魔網,解諸纏縛。
(Kinh: Xé rách lưới ma, tháo
gỡ các trói buộc).
“Ma
vơng” (lưới ma) là những thứ tà pháp làm hại
chúng sanh của ma vương, do quá nhiều nên gọi là
Vơng (網, lưới). Đối với những
thứ lưới ma làm hại chúng sanh này, kể cả
thiên ma ngoại đạo, Bồ Tát thảy đều phá
tan. “Giải chư triền
phược”: Dạy chúng sanh phải đoạn trừ
hết thảy phiền năo, đừng để bị phiền
năo trói buộc.
2.1.1.2.2.3.2.2.3.1.3. Lại nói về tự lợi nhằm
nói rơ hạnh để tu chứng
(Kinh) Siêu việt Thanh Văn, Duyên
Giác chi địa, đắc Không, Vô Tướng, Vô Nguyện
tam-muội.
(經)超越聲聞、緣覺之地,得空無相無願三昧。
(Kinh: Vượt trỗi các
địa vị Thanh Văn và Duyên Giác, đạt
được Không, Vô Tướng, Vô Nguyện tam-muội).
Thanh Văn, Duyên Giác là hàng Nhị
Thừa, c̣n gọi là hàng Tiểu Thừa. Theo phần trên,
[những vị Bồ Tát] ở đây học Bồ Tát
pháp, học kinh điển Đại Thừa, cho nên vượt
trỗi địa vị Nhị Thừa.
“Đắc
Không, Vô Tướng, Vô Nguyện tam-muội”: Đạt
được ba thứ tam-muội. Trung Hoa dịch tam-muội
(Samādhi) là Chánh Định. Đạt được ba
thứ Chánh Định: Không Định, Vô Tướng
Định, và Vô Nguyện Định. Tiểu Thừa
cũng có ba loại Định; ở đây là Đại
Thừa tam-muội:
1) Thứ nhất là Không tam-muội.
Ngài hiểu hết thảy các pháp đều là pháp huyễn
hóa. Hết thảy các pháp đều sanh từ nhân duyên. Pháp
sanh từ nhân duyên đều chẳng có bản thể, chẳng
có tự tánh. Hằng ngày ở trong đó độ chúng
sanh mà chẳng có chúng sanh để có thể độ. V́
thế, hết thảy đều là Không, đạt
được Không tam-muội.
2) Vô Tướng: Ngay cả
cái tướng nhân duyên của pháp được sanh bởi
nhân duyên cũng là Không. Không chỉ là chúng sanh không, mà pháp
cũng là không, hết thảy các tướng đều là
không. Đấy là chúng sanh ngoài tâm, các pháp ngoài tâm.
3) Đă là không, đă là vô
tướng, trong tâm cũng chẳng có nguyện cầu.
Trong tâm chẳng có một mảy vọng tưởng.
Đấy là Vô Nguyện. “Nguyện”
tức là có cái tâm mong cầu. Ta độ chúng sanh bèn chấp
vào tướng chúng sanh, tức là có nguyện. Nếu quư vị
cầu pháp mà chấp tướng, tức là có một nguyện.
Ta đă là “tướng của
chúng sanh là Không”, hết thảy các pháp đều là vô
tướng, trong tâm ta chẳng dấy lên một mảy
vọng tưởng nào! Đó gọi là Vô Nguyện tam-muội.
Ba thứ tam-muội c̣n gọi
là Tam Giải Thoát. Trước tự viện Phật giáo
có ba cái cổng lớn, gọi là Tam Môn, tức là Không Môn,
Vô Tướng Môn, và Vô Nguyện Môn.
2.1.1.2.2.3.2.2.3.1.4.
Lại nói về lợi tha, dạy chúng sanh tu thiện
(Kinh) Thiện lập
phương tiện, hiển thị tam thừa. Ư thử
hóa chung, nhi hiện diệt độ.
(經)善立方便,顯示三乘。於此化終,而現滅度。
(Kinh: Khéo lập phương tiện, hiển thị ba thừa. Sự giáo hóa ở nơi
đây đă kết thúc, bèn hiện diệt độ).
“Thiện
lập phương tiện, hiển thị tam thừa”
(Khéo lập phương tiện, hiển thị ba thừa): Ngài học pháp Đại Thừa,
vượt trỗi địa vị Thanh Văn và Duyên Giác, nhưng
Ngài giáo hóa chúng sanh, khéo lập phương tiện. Trong chúng
sanh, có những kẻ chẳng thể học Đại Thừa,
Ngài bèn lập ra pháp môn tam thừa, nói pháp Tứ Đế,
và cũng nói pháp Thập Nhị Nhân Duyên, và cũng nói pháp Lục
Độ. Đấy là “hiển
thị tam thừa”.
“Ư thử hóa
chung, nhi hiện diệt độ” [nghĩa là] duyên giáo hóa chúng sanh đă hết, Ngài thị
hiện nhập Niết Bàn.
2.1.1.2.2.3.2.2.3.2. Đức được thành tựu
do tu cái nhân
2.1.1.2.2.3.2.2.3.2.1. Công đức tự lợi
2.1.1.2.2.3.2.2.3.2.1.1. Sở chứng b́nh đẳng
(Kinh) Diệc vô sở tác, diệc
vô sở hữu, bất khởi bất diệt, đắc
b́nh đẳng pháp.
(經)亦無所作,亦無所有。不起不滅,得平等法。
(Kinh: Cũng không có ǵ
được làm, cũng chẳng sở hữu ǵ, chẳng
dấy lên, chẳng diệt mất, đạt được
pháp b́nh đẳng).
Đây là dựa trên lư thể
Thật Tướng trong Đại Thừa mà nói rơ về
lư b́nh đẳng. Nơi lư thể Thật Tướng, “diệc vô sở tác, diệc vô sở
hữu”. Quư vị hằng ngày đang hành Bồ Tát đạo,
đang thuyết pháp độ chúng sanh, tức là có “sở tác” (có chuyện để
làm, để thực hiện), nhưng các Ngài (các vị Bồ
Tát đang nói ở đây) chẳng chấp tướng.
Các Ngài hiểu [những pháp ấy] đều là pháp huyễn
hóa, nên xứng tánh khởi tu, nương vào bản tánh của
chính ḿnh. Bản tánh là vô tướng, nương vào bản
tánh của chính ḿnh để tu Bồ Tát đạo. V́ thế,
các Ngài chẳng có làm, chẳng chấp vào tướng tu tập
hay tạo
tác (vô tu tác tướng).
“Diệc
vô sở hữu”: Có Sở Hữu là có cái để
đạt được. Ta đạt được Bát
Địa Bồ Tát, đạt đến Đẳng Giác
Bồ Tát, được thành Phật, chẳng chấp các
tướng ấy. V́ những ǵ đă chứng đắc
đều là “y tánh khởi tu,
toàn tu tại tánh”. Đối với những công đức
do quư vị đă tu, hễ chứng đắc quả vị
Bồ Tát, [sẽ thấy những công đức ấy] vẫn
là bản tánh của quư vị! Bản tánh chẳng có tướng,
há có ǵ để sở hữu ư? Có ǵ để đắc
nữa ư?
“Diệc
vô sở tác, diệc vô sở hữu, bất khởi, bất diệt, đắc b́nh đẳng
pháp”: Nếu là người
đă nghe giảng kinh nhiều th́ rất dễ liễu giải
câu này. Nếu là người mới nghe th́ chẳng dễ
hiểu cho lắm. Nhất là nếu như quư vị đă
từng nghe Tâm Kinh, kinh Kim Cang, toàn là những lời giảng
nhằm hiển thị đạo lư về Chân Không Lư Thể.
Cái Không được nói trong kinh Phật được gọi
là Chân Không. Chân Không chẳng phải là hư không, mà cũng
chẳng phải là Đoạn Diệt Không. Chân Không là cái
Thể của chân lư, nên gọi là Chân Không Lư Thể. Câu này
nói về Chân Không Lư Thể, c̣n gọi là diệu lư Thật
Tướng, c̣n gọi là Nhất Chân pháp giới, c̣n gọi
là Phật Tánh, c̣n gọi là tự tánh. Tên gọi khác nhau,
nhưng đều nhằm nói rơ có một cái Thể chân lư.
“Diệc
vô sở tác”: “Tác” là tạo tác, tu tác (tu tập, thực hiện). Chúng ta thường nói là tu hành, hoặc tu nhân. “Diệc
vô sở hữu”: Tu hành th́ phải nên có cái để chứng
đắc, c̣n gọi là “chứng quả”. Ở đây nói là “chẳng có tu nhân”, mà cũng “chẳng có chứng quả”,
chẳng dễ hiểu ở chỗ này! Phật giáo nói về
nhân quả, tôi nói với quư vị một lần nữa,
[những điều] được nói trong Tam Tạng
mười hai bộ loại chỉ là hai chữ Nhân Quả!
V́ sao ở đây nói là “chẳng có nhân quả”? “Chẳng có
nhân quả” chẳng phải là tà kiến bác bỏ không có
nhân quả, mà là nói theo Chân Không Lư Thể, [sẽ là] chẳng
có cái nhân để hành, mà cũng chẳng có cái quả
để chứng.
“Diệc
vô sở tác” là chẳng có tu hành. V́ sao hằng ngày đều
tu hành mà kết quả là “chẳng có tu hành”? Điều này
gọi là “toàn tánh khởi tu, tu
tức vô tu”.
“Diệc
vô sở hữu” tức là cũng chẳng có chứng quả. Tu nhân th́ nhất
định có quả, v́ sao nói là “chẳng có chứng quả”?
Đó là “toàn tu tại tánh, chứng
tức vô chứng”.
Cách giải thích này dựa
theo cách giải thích của Ngẫu Ích đại sư
trong bộ Di Đà Yếu Giải. Quư vị học theo
Đại Thừa Bồ Tát tu hành, trước hết phải
ngộ bản tánh của chính ḿnh. Sau khi đă ngộ bèn khởi
sự tu tập, đă ngộ bản tánh của chính ḿnh,
bèn nương theo cái lư mà quư vị đă ngộ để
tu. Đấy gọi là “toàn
tánh khởi tu”. “Tánh” là tự
tánh của chính ḿnh, c̣n gọi là bản tánh, hoặc là bản
thể. Danh tự bất đồng, nhưng nói về
cùng một Lư Thể. Quư vị đă ngộ Chân Không Lư Thể
bèn lại tu hành. Đó gọi là “toàn
tánh khởi tu”. Toàn tánh khởi tu th́ tu chính là chẳng
tu, do quư vị tu tới tu lui th́ vẫn là bản tánh của chính ḿnh. Cớ
sao nói là “chẳng tu”? Quư vị tu nhân, nhất định sẽ chứng
quả, chứng được ǵ? Chứng bản tánh của
chính ḿnh. Bản tánh hiện thành, chẳng phải do quư vị
tu được, [vậy th́] lấy đâu ra chứng
đắc? Do vậy, “diệc
vô sở hữu” mà cũng là “vô
sở đắc”, v́ bản tánh vốn sẵn có. Chúng ta
tuy lưu chuyển trong sanh tử, bản tánh chưa hề
dao động. Tu hành là đoạn phiền năo, phá vô minh,
chẳng phải là tu bản tánh. Bản tánh [do phiền năo
đă đoạn, vô minh đă phá] mà thấu lộ ra, chẳng phải là do quư
vị tu được. Do vậy, nói theo bản tánh th́ chẳng có ǵ
để gọi là tu nhân, mà cũng chẳng có ǵ để
gọi là chứng quả!
“Bất
khởi bất diệt” chính là “bất sanh bất diệt” trong Tâm Kinh. “Khởi” là sanh khởi, điều
này dễ dàng liễu giải. Sanh khởi là tịnh pháp
sanh khởi. Hằng ngày tu hành, hằng ngày dụng công, tịnh
pháp sanh khởi, pháp ô nhiễm bèn diệt. Thoạt đầu
là pháp ô nhiễm giảm bớt. Pháp ô nhiễm càng lúc càng
ít, đă ít lại càng ít hơn, ít đến cuối cùng là
ngay cả vô minh cũng phá, hoàn toàn diệt mất, pháp ô nhiễm
chẳng c̣n nữa, tức là diệt. Ở đây nói nó
cũng chẳng sanh khởi, mà cũng chẳng diệt trừ.
V́ sao? Nơi Chân Không Lư Thể, nó là b́nh đẳng. Đă chẳng
có tịnh pháp sanh khởi, mà cũng chẳng có pháp ô nhiễm
để diệt trừ. Hễ có cái sanh khởi, th́ sẽ
có cái để diệt trừ! Đấy vẫn là nói theo
phương diện giả tướng. Thiên Thai Tông gọi
điều này là Giả Quán. Nói theo Giả Quán th́ nó là có.
Nói theo Pháp Tướng Tông, Lư Thể này được
gọi là Chân Không, hoặc gọi là Tất Cánh Không. Hết
thảy giả tướng đều gọi là “như huyễn hữu” (có mà
như huyễn), [tức là] giống như cái Có do huyễn
thuật biến hiện. Trong giả tướng như
huyễn ấy, vẫn có tịnh pháp sanh khởi, có nhiễm
pháp bị trừ diệt. Xét theo Lư Thể b́nh đẳng,
đă chẳng có tịnh pháp sanh khởi th́ cũng chẳng
có nhiễm pháp để trừ diệt. V́ thế, cổ
nhân có một câu nói: “B́nh đẳng
chân pháp giới, Phật chẳng độ chúng sanh”.
Trong Nhất Chân pháp giới, “b́nh
đẳng chân pháp giới” chính là Lư Thể b́nh đẳng.
Trong Nhất Chân pháp giới, nó là b́nh đẳng. V́ sao “Phật chẳng độ chúng
sanh”? Căn bản là chẳng có chúng sanh. Phật và chúng
sanh là danh xưng giả lập đối đăi. Do đó, hễ nói đến Lư Thể b́nh đẳng th́ đă là chẳng
có Phật, mà cũng chẳng có chúng sanh, độ ǵ
đây? Hăy hiểu rơ đạo lư này, đấy là đạo
lư cao sâu nhất, đạo lư rốt ráo nhất của Phật giáo.
V́ vậy, tiếp đó [kinh
văn] có giải thích, đạt được pháp b́nh
đẳng ấy, là hữu sở đắc trong vô sở
đắc. “Vô sở hữu”
là vô sở đắc. Trong vô sở đắc mà lại có
sở đắc, đắc ǵ vậy? Đạt
được một pháp b́nh đẳng. Trong phần trước
đă nói là như nhà ảo thuật dùng huyễn thuật biến
huyễn. Bồ Tát muốn độ chúng sanh th́ phải thị
hiện thành Phật. Trước hết, đối với
tám tướng thành đạo, phải dựa theo quy củ
để làm, một tướng cũng chẳng thiếu. Đă độ hết chúng sanh hữu
duyên, Ngài bèn thị hiện bát Niết Bàn. Sắc thân là thị
hiện, chặng giữa bèn xuất gia, hàng ma, thành đạo,
chuyển pháp luân, vẫn là thị hiện. Duyên hóa độ
đă hoàn tất, bèn thị hiện nhập Niết Bàn, vẫn
là thị hiện. Giống như nhà ảo thuật
đang biểu diễn, biến ra những tṛ vui thích cho
quư vị thấy. Trông thấy rất náo nhiệt! Ông ta thu
pháp thuật lại, thứ ǵ cũng đều chẳng
có. Đấy gọi là “nói theo
pháp Lư Thể rốt ráo, một pháp chẳng lập”.
Không chỉ là tướng của chúng sanh là Không, mà tướng
của Phật cũng là Không. Như thế th́ quư vị sẽ liễu giải lư b́nh đẳng.
Đối với “như huyễn như mộng”,
phần sau kinh Kim Cang có tỷ dụ: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn,
bào, ảnh” (Hết thảy các pháp hữu vi, như mộng,
huyễn, bọt, bóng). Tôi vừa mới nói, “như huyễn” là như huyễn
sư (nhà ảo thuật) biến hiện tṛ vui, như nhà ảo
thuật làm tṛ ảo thuật. Khi biến hóa th́ có sanh, có diệt,
nhưng bản thể của chính nó là Không. “Như mộng” th́ càng dễ hiểu hơn, ai nấy đều nằm mộng. Quư vị
đang nằm mộng, mộng thấy quư vị làm pháp
sư, mộng thấy quư vị đang giảng kinh, thuyết
pháp, rất nhiều người nghe, rất nhiều
người quy y quư vị, rất nhiều người theo
quư vị xuất gia tu hành. Kết quả là mọi người
đều đắc đạo, chứng thánh quả… Quư
vị hoan hỷ, tỉnh giấc, hết thảy đều
là không. Phật, Bồ Tát độ chúng sanh, đều là “đại tác mộng trung Phật
sự” (thực hiện Phật sự to lớn trong giấc
mộng), giống như nằm mộng.
Do vậy, nơi Lư Thể b́nh đẳng, tướng ǵ
cũng đều chẳng có, nhưng hiểu lư này, quư vị
đừng nên hiểu sai! [Nếu hiểu sai], sẽ đọa
vào chấp Không. Chẳng phải là chấp trước Đoạn
Diệt Không, cũng chẳng phải là chấp trước
hư không. Nơi Phật lư th́ c̣n có một danh từ chuyên
biệt gọi là Ác Thủ Không (惡取空), [nghĩa là]: Do quư vị chấp trước
cái Không ấy, Chân Không là thiện pháp, bị biến thành ác
pháp, nên gọi là Ác Thủ Không, c̣n gọi là Khoát Đạt
Không (豁達空). Học pháp Đại Thừa, học đến
cái Không mà chẳng học rơ ràng, đối với hết
thảy đều [tưởng là] chẳng cần quan tâm, quư vị bảo họ tu hành, họ nói:
“Hết thảy đều là không, tu cái ǵ nữa?” Họ
ngỡ tĩnh tọa, niệm Phật, lạy Phật, những
việc ấy đều là chấp tướng, vốn
đều là không mà! Họ tưởng họ đă hiểu
rơ đạo lư tối cao của Đại Thừa, kết quả
là Ác Thủ Không, c̣n gọi là Khoát Đạt Không. Trong Chứng
Đạo Ca, thiền sư Vĩnh Gia đă viết: “Khoát đạt không, bài bác nhân quả,
mờ mịt chuốc lấy ương
họa”.
Quư vị đọa vào Khoát
Đạt Không, quư vị thấy cái này là không, cái kia
cũng là không, bảo quư vị tu hành, quư vị chẳng
tu. Quư vị tưởng chính ḿnh đă hiểu đạo
lư cao nhất trong Đại Thừa. Kết quả th́ sao?
Thoạt đầu, quư vị liễu giải lư Không trong
Đại Thừa, hễ quư vị ác thủ không, sẽ
biến thành đại tà kiến, bài bác nhân quả. Đă
gạt bỏ nhân quả, quư vị c̣n cho rằng chính ḿnh vẫn
liễu giải những điều đức Phật dạy
trong kinh ư? [Quư vị cứ biện bác] “chẳng có sở
tác, chẳng có sở hữu, chẳng có nhân, chẳng có quả,
[vậy th́] có nhân quả ǵ đâu!” Quư vị hiểu trật mất rồi. Những điều đó dựa theo lư
b́nh đẳng để nói th́ là như thế. Xét theo phía
bọn phàm phu chúng ta, quư vị chẳng tu nhân, sẽ không
chứng quả, quư vị vẫn là một kẻ phàm phu, cho đến khi nào đi nữa, vẫn chẳng
thể thành Phật! Quư vị bác sạch nhân quả, nhân quả
vẫn chẳng dung quư vị. Bảo quư vị tu hành, quư vị
chẳng tu, cứ muốn tạo ác nghiệp. Tạo ác nghiệp,
quư vị vẫn đọa trong ba ác đạo. “Mờ mịt chuốc lấy họa
ương”, biến thành một gă lỗ măng (măng đăng
hán). “Măng đăng hán” (莽蕩漢) là tiếng địa phương thời
ấy, hiện thời nói là một gă liều lĩnh, thứ
ǵ kẻ ấy cũng đều chẳng sợ. Khuyên kẻ
ấy đừng làm ác, làm ác sẽ phải đọa địa
ngục, kẻ ấy cho rằng: “Chỗ nào có địa ngục? Địa ngục
th́ hết thảy đều là không!” Trong khi quư vị tạo
ác nghiệp, đọa vào địa ngục, Diêm Vương
lăo tử đối với quư vị há có phải là Không? “Chiêu ương họa”: Học
Phật mà đọa địa ngục, đấy chẳng
phải là oan uổng ư?
Vậy th́ [sẽ có kẻ thắc
mắc] “kinh điển Đại Thừa dạy chúng ta
tu nhân, chứng quả là được rồi, giảng
lư Chân Không b́nh đẳng để làm ǵ chớ?” Quư vị
phải hiểu, giảng đến pháp ǵ th́ mới nói những
điều phù hợp với pháp ấy. Nếu là pháp nhân
thừa, hoặc pháp thiên thừa, sẽ chẳng nhắc
đến lư Chân Không. Thọ Tam Quy Y, tŕ Ngũ Giới là pháp
Nhân Thừa. Tại gia tu Thập Thiện, tu Tứ Thiền
Bát Định, tức là thiện pháp trong hai giới trên (Sắc
Giới và Vô Sắc Giới), cũng chẳng nhắc tới Chân Không. V́ xét theo quy củ, quư vị phải tŕ giới, tu Thiền
là đúng. Do vậy, bèn nói pháp Nhị Thừa là tu Tứ
Đế, tu Thập Nhị Nhân Duyên, cũng chẳng giảng
lư b́nh đẳng. Tới pháp Đại Thừa mới
nói. Đại Thừa c̣n chia thành Quyền Giáo Đại
Thừa và Thật Giáo Đại Thừa. Quyền Giáo Đại
Thừa cũng
chẳng nhắc tới
lư b́nh đẳng. Nói tới Thật Giáo Đại Thừa
th́ không giảng [lư thể b́nh đẳng] sẽ chẳng
được. Không giảng, quư vị chẳng hiểu lư
Chân Không là b́nh đẳng, sự tu tập của quư vị
sẽ là chấp tướng. Quư vị tu tập mà chấp
tướng, sẽ đọa trong phương tiện quyền
xảo của Đại Thừa, sẽ là Quyền Thừa,
chẳng phải là Thật Thừa. V́ thế, chẳng giảng
đến chỗ cao nhất th́ sẽ không được.
Kinh Vô Lượng nói ra
đoạn đạo lư này, toàn là đạo lư của bậc
Đẳng Giác Bồ Tát. Chúng ta là Sơ Phát Tâm Bồ Tát chẳng
học đến mức cao như thế, giảng cao sâu
ngần ấy để làm ǵ? Tôi nhắc lại lần nữa
cùng quư vị: [Kinh nói tới] công đức của Bồ
Tát nhằm dạy chúng ta học theo. Nay quư vị nghe chỗ
cao nhất, nay quư vị bèn học theo. Học theo th́ quư vị
sẽ chẳng chấp tướng. Trong phần trước
đă nói những vị Bồ Tát này chẳng kiêu mạn,
chẳng “nhậm tứ” (任恣, tùy tiện buông lung). “Nhậm tứ” là phóng dật, các Ngài chẳng phóng
dật. Chúng ta mới học Phật pháp, mới học
Đại Thừa Phật pháp, v́ tôi là một pháp sư, cho
nên mượn chuyện pháp sư để làm thí dụ,
nói đến chuyện
hống hách của pháp sư. Kẻ làm một vị pháp sư mà ra vẻ hống hách là do chẳng
hiểu lư Chân Không. Kẻ ấy giảng kinh bèn chấp vào
tướng giảng kinh, kẻ đó hống hách làm ra vẻ ta đây. Trong Phật môn, c̣n có hai
câu: “Pháp sư hống hách, kẻ
tu hành đă lâu dễ nóng giận”. Pháp sư giảng
kinh bèn chấp tướng; hễ chấp tướng, sẽ
khởi kiêu mạn, c̣n gọi là “cống
cao, ngă mạn”. Tỏ thái độ vênh váo, vị pháp sư ấy rất
khó hầu hạ. Người tu hành đă lâu chẳng giảng
kinh, hằng ngày kẻ ấy tĩnh tọa, niệm Phật,
dụng công tu hành. Dụng công tu hành nhưng như thế
nào? Chấp tướng! Chấp tướng th́ hằng
ngày kẻ ấy dụng công nơi đó, trên thực tế
là trưởng
dưỡng vô minh. Vô minh
càng dưỡng càng to, lửa vô minh cháy đến Tam Thập
Tam Thiên, ai cũng chẳng dám đụng đến kẻ
ấy. Quư vị hơi đụng vào một vị tu hành
đă lâu ấy, kẻ đó bèn nổi đóa, nóng máu, có khuyên cũng chẳng được,
so với người b́nh phàm c̣n nóng nảy hơn! Đó là đạo lư ǵ vậy? Kẻ
ấy tu hành chấp tướng, chẳng hiểu đạo
lư Chân Không b́nh đẳng.
Xem kinh văn, quư vị phải
chú ư, đừng nên thiên lệch một bên. “Diệc vô sở tác, diệc vô sở hữu”: Chẳng
có sở tác, mà cũng chẳng có sở hữu, đấy
là chẳng có tu nhân, mà cũng chẳng có chứng quả. “Bất khởi bất diệt”,
chẳng có tịnh pháp sanh khởi, mà cũng chẳng có nhiễm
pháp để diệt trừ. “Đắc
b́nh đẳng pháp” v́ Chân Không Lư Thể là b́nh đẳng.
Quư vị đừng nên đọa vào Thiên Không. [Kinh văn]
có chữ Đắc, [tức là] đắc pháp b́nh đẳng.
Trong “chẳng chấp tướng”, sẽ tùy ư tự nhiên
có sở đắc. Đấy là từ trong vô sở đắc
mà có sở đắc, cái “đắc” ấy chẳng chấp tướng. Quư vị chấp
tướng th́ sai mất rồi. Không chấp tướng,
sẽ đắc pháp b́nh đẳng. Quư vị thấy
trong phần tiếp theo, nó chẳng phải là Đoạn
Diệt Không, mà là Chân Không Bất Không, đắc pháp b́nh
đẳng là như thế nào vậy?
2.1.1.2.2.3.2.2.3.2.1.2. Thành tựu khá nhiều
(Kinh)
Cụ túc thành tựu vô lượng tổng tŕ bách thiên tam-muội,
chư căn trí huệ.
(經)具足成就無量總持百千三昧。諸根智慧。
(Kinh: Thành tựu đầy đủ vô lượng
tổng tŕ, trăm ngàn tam-muội, các căn trí huệ).
Quư vị đạt
được lư thể của pháp b́nh đẳng, nó là
Chân Không Lư Thể. Chân Không chẳng phải là hư không, chẳng
phải là Đoạn Diệt Không. Chân Không bất không, tức là Diệu Hữu, hết thảy
thiện pháp công đức đều có, nhưng chẳng
phải là cái Có của phàm phu, mà là cái Có chẳng thể
nghĩ bàn. “Diệu” (妙) là chẳng thể nghĩ bàn, tức là Diệu Hữu! Chân Không bất không tức
là Diệu Hữu; do vậy, các Ngài đạt được
rất nhiều pháp Diệu Hữu chẳng thể nghĩ
bàn.
“Cụ
túc thành tựu vô lượng tổng tŕ” (Thành tựu trọn đủ vô lượng
tổng tŕ): Tổng Tŕ tiếng Phạn là Đà La Ni (Dhāraṇī), tiếng Hán là Tổng Tŕ (總持), [ư nói] “tổng nhất thiết pháp, tŕ vô lượng
nghĩa” (gồm trọn hết thảy các pháp, giữ
vô lượng nghĩa). Đắc pháp môn đại đà-la-ni, trong ấy trọn đủ “bách thiên tam-muội” (trăm
ngàn tam-muội). Tam-muội trong tiếng Hán là Chánh Định,
trăm ngàn tam-muội đều đạt được.
“Chư
căn trí huệ”: “Chư
căn” là các loại
thiện căn, giải thích thông
thường [chư căn] là Tín, Tấn, Niệm, Định,
Huệ, tức Ngũ Căn. Tín Căn, Tinh Tấn Căn,
Niệm Căn, Định Căn, Huệ Căn, đấy
là năm loại thiện căn. Các Ngài đă đắc
pháp b́nh đẳng, tức là trọn đủ trăm ngàn
tam-muội. “Chư căn trí huệ”
là công đức do quư vị đă làm, đều là thiện
căn. Các thiện căn đă làm đều có thể
khơi mở, phát khởi trí huệ, chư căn trí huệ
thảy đều đạt được.
2.1.1.2.2.3.2.2.3.2.1.3. Sở chứng sâu rộng
(Kinh) Quảng phổ tịch
định, thâm nhập Bồ Tát pháp tạng.
(經)廣普寂定,深入菩薩法藏。
(Kinh: Thiền Định vắng
lặng, rộng lớn, trọn khắp, thâm nhập pháp tạng
của Bồ Tát).
“Quảng
phổ tịch định, thâm nhập Bồ Tát pháp tạng”:
Hết thảy công đức, hết thảy trí huệ
đều đạt được, c̣n đạt đến
“quảng phổ tịch định”,
[tức là] đạt được công phu Thiền Định
rất rộng lớn, rất phổ biến, trạm tịch
(trong lặng). Do Huệ và Định đều cùng đạt
được, bèn “thâm nhập
Bồ Tát pháp tạng”. Là Đại Thừa Bồ Tát,
quư vị sẽ đều có thể thâm nhập. “Thâm nhập” có hai cách giải
thích: Một loại là ngộ nhập, loại kia là chứng
nhập. Nói nông cạn, [sẽ là] đă triệt để ngộ nhập “Bồ Tát pháp tạng”, thảy
đều ngộ thấu triệt, ngộ đến rốt
cùng. Đấy là ngộ nhập. Sự ngộ nhập này
vẫn là ngộ Lư, vẫn cần phải chứng nhập.
Đấy mới là thâm nhập, là chứng đắc sâu
xa Bồ Tát pháp tạng.
2.1.1.2.2.3.2.2.3.2.1.4. Thành tựu thù thắng
(Kinh) Đắc Phật Hoa Nghiêm tam-muội.
(經)得佛華嚴三昧。
(Kinh: Đạt được
Hoa Nghiêm tam-muội của Phật).
Vị Bồ Tát này đă học hoàn toàn pháp Bồ Tát, lại tiến thêm bước
nữa là mong đạt được pháp của Phật,
đạt được Hoa Nghiêm tam-muội của Phật.
Hoa Nghiêm tam-muội c̣n gọi là Pháp Giới Định, là đại
định do chư Phật chứng đắc. Đạt
được Hoa Nghiêm tam-muội, đă nhập đại
định Hoa Nghiêm tam-muội. Môn Định này chẳng
phải là như chúng ta thường tĩnh tọa, nhập
Định một khoảng thời gian rồi lại xuất Định. Hoa Nghiêm tam-muội là
đi, đứng, ngồi, nằm thường ở trong
đại định, ở trong Định bèn thuyết
pháp, chẳng phải là xuất Định rồi mới
có thể thuyết pháp.
2.1.1.2.2.3.2.2.3.2.2. Nói về công đức lợi
tha
(Kinh) Tuyên dương diễn thuyết
nhất thiết kinh điển.
(經)宣揚演說一切經典。
(Kinh: Tuyên dương, diễn
nói hết thảy các kinh điển).
Đắc Hoa Nghiêm tam-muội,
có thể “tuyên dương diễn
thuyết nhất thiết kinh điển”, tức là có thể giống như Phật. Đức
Phật thuyết kinh như thế nào, quư vị đều
có thể nói [giống như vậy], tuyên nói hết thảy
kinh điển.
2.1.1.2.2.3.2.2.3.3. Lại nói về khởi tu
(Kinh) Trụ thâm định môn, tất
đổ hiện tại vô lượng chư Phật. Nhất
niệm chi khoảnh, vô bất châu biến, tế chư kịch
nạn, chư nhàn bất nhàn, phân biệt hiển thị chân thật chi tế,
đắc chư Như Lai biện tài chi trí, nhập chúng ngôn âm,
khai hóa nhất thiết.
(經)住深定門,悉覩現在無量諸佛。一念之頃,無不周徧。濟諸劇難,諸閑不閑。分別顯示真實之際,得諸如來辯才之智。入眾言音,開化一切。
(Kinh: Trụ trong định môn
sâu xa, đều thấy vô lượng chư Phật trong
hiện tại. Trong khoảng một niệm, không đâu
chẳng trọn khắp, cứu giúp những kẻ nạn
khổ dữ dội. Ở nơi thanh nhàn và chẳng thanh
nhàn [trong nhân gian], phân biệt, hiển thị Chân Thật Tế,
đạt được trí biện tài của các đức Như Lai, thông hiểu ngôn
ngữ của muôn loài, khơi gợi, hóa độ hết
thảy).
“Trụ
thâm định môn”: Trong phần trên đă nói, quư vị
đắc Hoa Nghiêm tam-muội đại định, ở
trong Định có thể giảng kinh, thuyết pháp. Giảng
kinh, thuyết pháp nhưng vẫn trụ trong “thâm định
môn”, hoàn toàn chẳng động. Đó gọi là “đi, đứng, nằm, ngồi
thường ở trong Định”, c̣n gọi là “thuyết mặc đồng thời”,
[nghĩa là] đồng thời thuyết pháp và im lặng chẳng
thuyết pháp. Đang nhập Định mà chẳng trở ngại
thuyết pháp, thuyết pháp chẳng ngăn ngại nhập
Định, động và định như một.
“Tất
đổ hiện tại vô lượng chư Phật. Nhất
niệm chi khoảnh, vô bất châu biến” (Đều thấy vô lượng chư Phật
trong hiện tại. Trong khoảng một niệm, không đâu
chẳng trọn khắp): Phật chia thành ba đời, tức
đời quá khứ, đời hiện tại, và đời
vị lai. Quá khứ chư Phật đă nhập Niết Bàn, vị lai chư Phật vẫn
chưa thành Phật, hiện tại th́ trong mười phương thế giới có
vô lượng chư Phật, chúng ta cũng chẳng thấy
một vị nào. Ở đây, chúng ta có Thích Ca Mâu Ni Phật
đă nhập Niết Bàn, Di Lặc Bồ Tát là vị lai Phật
c̣n chưa giáng thế, hiện thời mười
phương Phật, Bồ Tát rất đông, nhưng một
vị ta cũng chẳng thấy. V́ sao chẳng thấy? V́
trong tâm chúng ta, một tâm trọn đủ mười pháp
giới, nay chúng ta là nhân tâm (tâm con người), rơi vào
trong nhân pháp giới. “Giới”
(界) có giới hạn, do giới hạn ấy
bèn sanh chướng ngại. Quư vị trông thấy loài người nhiều đến vô lượng, đi đến
đâu cũng đều trông thấy người, v́ cái tâm
của chúng ta là nhân tâm, là cái tâm của nhân pháp giới, tâm
quư vị chẳng biến thành Phật tâm, cho nên một vị
Phật cũng chẳng thấy. Vị Bồ Tát này dụng
công tới mức đắc Hoa Nghiêm tam-muội của Phật,
Ngài có thể ở trong môn định sâu thẳm, ngay lập
tức ḥa nhập vào Phật giới, tâm Ngài biến thành
tâm Phật, [cho nên] hiện tại vô lượng chư Phật
thảy đều trông thấy, chẳng cần đến
vô lượng thế giới để gặp, chẳng cần
phải đi khắp một ṿng. Trong một niệm, không
ǵ chẳng trọn khắp là v́ tâm quư vị đă biến
thành tâm Phật, biến thành chân tâm. Chân tâm không ǵ chẳng
trọn khắp, hiện mười phương pháp giới.
Mười phương pháp giới chư Phật, thảy
đều ở trong một niệm, quư vị đều
nh́n thấy. Tâm quư vị đă biến thành tâm Phật, vô
lượng chư Phật đều trông thấy; đạo
lư này vẫn là rất cao sâu!
Nói theo cách nông cạn khác, tôi
vừa mới nói “chúng ta mang cái tâm con người”, là cái tâm thuộc về nhân pháp giới,
[cho nên] trông thấy toàn là người. Người c̣n chia thành
thiện nhân và ác nhân. [Nếu] tâm quư vị là tâm kẻ ác,
quư vị sẽ chẳng nhận biết một thiện
nhân nào! Bạn bè quư vị kết giao, những người
qua lại với quư vị toàn là kẻ ác! Cái tâm ác của quư
vị trọn khắp hết thảy mọi nơi, trong một
niệm, sẽ trông thấy rất nhiều kẻ ác. Vậy
th́ quư vị hăy phân tích một phen: “V́ sao ta muốn làm kẻ
ác, chẳng làm người lành?” Một niệm của quư
vị quay về thiện pháp, quư vị sẽ nhận biết
thiện nhân. Trước kia, chẳng thấy một
người lành nào, sau này, sẽ thấy thiện nhân rất ư là nhiều! Trong một niệm, quư vị thấy rất
nhiều thiện nhân ngần ấy, đạo lư này rất dễ
liễu giải.
“Tế
chư kịch nạn, chư nhàn bất nhàn. Phân biệt hiển thị chân thật chi tế” (Cứu tế những nơi hoạn nạn
dữ dội nhất, đối với chỗ thanh nhàn và
chẳng thanh nhàn, phân biệt, hiển thị Chân Thật Tế):
Vị Bồ Tát này cũng chẳng phải là hàng Nhị Thừa. Hàng Nhị
Thừa đạt được Phật pháp, bản thân
họ trụ trong Thiên Không Niết Bàn, hưởng thụ
thanh phước của chính ḿnh. Kinh Phật nói là họ
hưởng thụ pháp lạc, c̣n chúng sanh chịu khổ ǵ
đi nữa, họ chẳng màng. Họ chẳng hiểu tấm
ḷng đại bi. Vị Bồ Tát này trước hết hiểu
tâm đại bi, lại phát Bồ Đề tâm, thấy
chúng sanh khổ sở bèn phát Bồ Đề tâm. Phát Bồ
Đề tâm rồi lại học Phật pháp, học Phật
pháp để làm ǵ? Cứu độ chúng sanh. Chúng sanh có hoạn
nạn mới cần quư vị cứu. Chư Phật, Bồ
Tát chẳng có hoạn nạn, chẳng cần quư vị phải
cứu. Chúng sanh có tai ương, có hoạn nạn, mới
cần quư vị đến cứu tế!
Kinh Phật gọi các nạn
của chúng sanh là “tam đồ
bát nạn”. Chẳng phải là ngoài tam đồ mà có riêng
tám nạn đâu nhé! Tính luôn cả tam đồ th́ có tám nạn.
V́ trong tám thứ nạn ấy, tam đồ khổ nhất,
nên gọi là “kịch nạn”.
“Kịch” (劇) là rất nghiêm trọng, rất dữ dội.
Tam đồ là ba ác đạo: Súc sanh đạo, ngạ
quỷ đạo, địa ngục đạo. Đọa
lạc ba ác đạo, gặp phải “kịch
nạn” là tai nạn lớn nhất, cần
được Bồ Tát ngay lập tức đến cứu
tế. Nhân gian có bốn loại nạn, giải thích chữ
Nạn như thế nào? Nạn là tai nạn. Nạn là chướng
nạn, học Phật pháp mà sanh ra chướng ngại. Hễ
người ấy đọa lạc trong ba ác đạo,
học Phật pháp sẽ nẩy sanh chướng ngại.
Hễ người ấy đọa lạc trong ba ác đạo, học Phật
pháp sẽ chẳng học được, sanh ra chướng
nạn. Nhân gian có bốn loại nạn:
1) Loại nạn thứ nhất
là manh, lung, ấm, á, sáu căn chẳng trọn đủ. “Manh” (盲) là mù mắt, “lung”
(聾) là tai điếc, “ấm á” (瘖啞, ngọng câm) là miệng không nói năng được, câm nín. Đấy là loại
chướng nạn học Phật pháp thứ nhất.
2) Loại nạn thứ hai
là Thế Trí Biện Thông, tức là trí huệ thế gian.
[Kẻ ấy] miệng có thể nói, có thể giảng, vừa
có biện tài lại
vừa thông minh. Có thể
nói người như vậy là thiên tài. Quư vị nói ǵ, kẻ
đó đều có thể biện luận với quư vị.
Nhưng lư lẽ biện luận của họ là đạo
lư tà tri tà kiến, quư vị vẫn chẳng thể biện
luận thắng họ, nẩy sanh chướng nạn. Đó là
Thế Trí Biện Thông.
3) Loại nạn thứ ba là Phật tiền, Phật
hậu: Trong khoảng giữa của hai vị Phật, chẳng
thấy Phật. Sanh sau khi Phật Thích Ca [đă diệt
độ] và sanh trước khi Phật Di Lặc [giáng thế],
là chướng nạn chẳng thấy Phật.
4) Loại nạn thứ
tư, gọi là Bắc Câu Lô Châu (Uttarakuru). Nói tới Khổ với người ở
Bắc Câu Lô Châu, bảo họ biết khổ, nhưng Bắc
Câu Lô Châu là thế giới Cực Lạc trong nhân gian, họ
chẳng cảm nhận nỗi khổ. Quư vị nói khổ
ǵ đi nữa, họ cũng đều chẳng hiểu.
Họ chẳng hiểu, chẳng tin Phật pháp, nên cũng
sanh ra chướng nạn.
Nhân gian có bốn loại nạn
này, “mù, điếc, ngọng, câm”, Thế Trí Biện Thông, “trước
Phật, sau Phật”, và Bắc Câu Lô Châu. Tam đồ
như vừa kể trên và bốn nạn của người
học Phật trong nhân gian đă hợp thành bảy nạn.
Loại thứ tám là Trường
Thọ Thiên, tức là trên trời có một loại nạn
thuộc về Sắc Giới Thiên. Ngoại đạo tu
hành nhằm sanh lên Trường Thọ Thiên. Ngoại
đạo tu trường sanh bất lăo. Họ sanh lên cơi
trời thọ mạng rất lâu dài, cứ ngỡ là sẽ vĩnh viễn chẳng
già, vĩnh viễn bất tử. Quư vị khuyên họ học
Phật pháp, họ chẳng học. Do đó, trong Sắc Giới
Thiên có một loại nạn, tức là Trường Thọ
Thiên chẳng tiếp nhận Phật pháp.
Tính gộp chung lại là tám
nạn.
Bồ Tát học Phật pháp,
học đến mức cao sâu nhất, đến chỗ
rốt ráo nhất để dùng làm ǵ? Vẫn là dùng để cứu độ
chúng sanh. V́ chúng sanh có khổ, có nạn, các Ngài cứu những
nỗi khổ sở, tai nạn nặng nề nhất ấy.
Khổ nạn nặng nề nhất là ba ác đạo. So
sánh trong ba ác đạo, khổ nhất là địa ngục.
Do vậy, Địa Tạng Bồ Tát phát nguyện: “Địa ngục chẳng trống, thề chẳng thành Phật”. Ngài mong độ hết chúng sanh, trước
hết Ngài độ chúng sanh trong địa ngục, muốn
độ chúng sanh trong địa ngục sao cho chẳng
c̣n ai, v́ chúng sanh trong địa ngục quá khổ.
“Tế
chư kịch nạn” (cứu giúp nơi tai nạn dữ dội nhất)
là đến ba ác đạo. “Chư
nhàn bất nhàn”, “nhàn” (閑) là nhàn hạ. “Nhàn
hạ” là chịu khổ gián đoạn, có thể
được ngưng nghỉ, được thảnh thơi.
Đọa vào địa ngục, địa ngục Vô Gián
chẳng có lúc nào gián đoạn [hành h́nh], ngày đêm sáu thời
thường khổ sở, chẳng được
ngưng nghỉ, mà cũng chẳng được thảnh
thơi. Ở đây, “kịch
nạn” là ba ác đạo. “Chư
nhàn bất nhàn” là nói đến nhân gian, nhân gian có kẻ hứng chịu khổ sở nặng nề. “Bất
nhàn” là chẳng được nhàn hạ,
chẳng có thời gian nhàn hạ, kẻ đó sẽ không
thể học Phật pháp. Có kẻ chịu khổ nạn rất nhẹ, thời gian nhàn hạ nhiều,
hạng
người này được gọi là “chư
nhàn”. [Ở
trong những nơi] “chư nhàn” sẽ học Phật pháp dễ dàng, họ
có nhiều thời gian, nhiều công phu. Khổ sở nặng
nề, chẳng được nhàn hạ th́ gọi là “bất nhàn”. Khổ nhẹ
th́ gọi là “chư nhàn”. Có
thời gian nhàn hạ th́ là có “chư
nhàn”. Bất luận họ là chúng sanh khổ
sở dữ dội trong ba ác đạo, hoặc là “chư nhàn” trong nhân gian, tức
là các chúng sanh khổ nhẹ và chúng sanh “bất nhàn” khổ sở dữ dội, Bồ Tát đều b́nh
đẳng cứu tế. “Phân
biệt hiển thị chân thật chi tế” (phân biệt hiển thị
Chân Thật Tế), cứu như thế nào? Bảo cho quư vị biết
ai nấy đều có một cái Chân Thật Tế. Chân Thật Tế tức là ai
nấy đều có Phật Tánh, tôi vừa mới nói là diệu
lư Chân Không. Phân biệt khai thị cho họ nghe [chân lư ấy].
“Đắc chư Như Lai biện
tài chi trí. Nhập chúng ngôn âm, khai hóa nhất thiết” (Đạt được trí biện tài của các
Như Lai, thông hiểu ngôn ngữ của muôn loài, khơi gợi,
hóa độ hết thảy): Trong phần trước là
đắc Hoa Nghiêm tam-muội của chư Phật; ở
đây, lại nói là đạt được trí huệ biện
tài của chư Phật. Trong phần trên đă có nói, đạt
được trong tâm là trí huệ, thốt ra đằng
miệng là biện tài. Nói gộp lại, sẽ là “biện tài tri chí”. Đạt
được trí biện tài của chư Phật, đạt
được “nhập chúng
ngôn âm” (thông hiểu ngôn ngữ của muôn loài). Biện tài có bốn loại
là Pháp, Nghĩa, Từ, Nhạo Thuyết, tức Pháp Vô Ngại
Biện, Nghĩa Vô Ngại Biện, Từ Vô Ngại Biện,
và Nhạo Thuyết Vô Ngại Biện, có bốn loại Vô
Ngại Biện ấy. Loại thứ ba là Từ Vô Ngại
Biện, [hay c̣n gọi là] Từ Vô Ngại, tức là trong
khi ăn nói, sử dụng ngôn từ, đều có thể
biện định vô ngại. Tức là đối với
hết thảy các ngôn âm của chúng sanh nói ra, Ngài đều
hiểu. Ngài biết nói ngôn âm của chúng sanh. Quư
vị là người, Ngài sẽ nói bằng ngôn âm nhân gian. Nếu
quư vị là súc sanh, Ngài có thể nói tiếng súc sanh. Nếu quư vị là ngạ quỷ,
Ngài có thể nói tiếng ngạ quỷ. Đối với
chúng sanh trong ba ác đạo, chúng ta chỉ trông thấy súc sanh,
nhưng người có đại trí huệ hiểu âm thanh
của súc sanh, huyền diệu như thế đó! Chỉ
nói riêng về con người, người ở những địa
phương khác nhau, ngôn ngữ đă bất đồng. Vị
Bồ Tát này đắc trí huệ biện tài, quư vị là
người Hoa, Ngài hiểu tiếng nói của quư vị.
Quư vị là người Mỹ, Ngài cũng hiểu tiếng
của quư vị. Như vậy th́ quư vị mới có thể
cứu độ người Hoa, mà cũng có thể cứu
độ người Mỹ. V́ thế, quư vị nhập “ngôn âm” của chúng sanh th́ mới
thể khai hóa hết thảy.
2.1.1.2.2.3.2.2.3.4.
Lại nói về những điều thành tựu
(Kinh) Siêu quá thế gian chư sở
hữu pháp, tâm thường đế trụ độ thế
chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, nhi tùy
ư tự tại. Vị chư thứ loại, tác bất thỉnh
chi hữu, hà phụ quần sanh, vị chi trọng đảm.
(經)超過世間諸所有法,心常諦住度世之道。於一切萬物,而隨意自在。為諸庶類,作不請之友。荷負群生,為之重擔。
(Kinh: Vượt trỗi các pháp vốn có trong thế
gian, tâm thường trụ vững nơi đạo độ
đời. Đối với hết thảy vạn vật,
đều tùy ư tự tại. V́ các chủng loại hữu
t́nh, làm bạn chẳng thỉnh. V́ các quần sanh, gánh vác
gánh nặng).
“Siêu
quá thế gian chư sở hữu pháp” (vượt
trỗi các pháp vốn có trong thế gian): Bồ Tát pháp, Phật
pháp, đều vượt trỗi hết thảy các pháp của
phàm phu trong thế gian.
“Tâm
thường đế trụ độ thế chi đạo”
(tâm thường trụ vững nơi đạo
độ đời), đấy là tâm niệm và tâm hướng
của Bồ Tát. Các Ngài chẳng hưởng thú vui ngũ
dục. Thú vui ngũ dục là chuyện của phàm phu, các
Ngài nghĩ tưởng điều ǵ? Chính là nghĩ tưởng
làm thế nào để cứu độ chúng sanh trong thế
gian? “Đế trụ”: “Đế” (諦) là “tường
thẩm”, “tường” (詳) là cặn kẽ, “thẩm” (審) là suy xét, [“tường
thẩm”] là suy xét rất
tỉ mỉ. “Trụ” (住) là an trụ bất động. Tâm Bồ
Tát suy xét rất tường tận, rất cặn kẽ,
lại c̣n an trụ bất động, suy nghĩ tỉ mỉ
cặn kẽ nhiều lượt đều nhằm độ
chúng sanh. “Độ thế chi đạo”:
An trụ trong đạo độ đời ấy.
“Ư nhất
thiết vạn vật” (đối với hết thảy vạn vật)
cũng là nói tới hết thảy chúng sanh, “nhi tùy ư tự tại”, độ
loại chúng sanh nào cũng đều có thể thuận
theo tâm ư của chính ḿnh mà đắc tự tại. Giống
như “huyễn thuật
sư” (nhà ảo thuật) đă nói trong phần trước,
ông ta muốn biến
thành một người
nam liền biến
thành người nam, muốn
biến
thành một người
nữ liền biến thành người nữ, đấy
chẳng phải là tùy ư tự tại ư? Bồ Tát
cũng là như thế đó.
“Vị
chư thứ loại”: “Thứ”
(庶) là đông đảo. “Chúng loại” (眾類) là hết thảy các loại chúng sanh. “Tác
bất thỉnh chi hữu” (Làm bạn chẳng thỉnh): Quư vị muốn giảng
kinh, thuyết pháp cho chúng sanh, chúng sanh phải lễ thỉnh
quư vị. V́ sao? Đó gọi là “tôn
trọng Phật pháp”. Nhưng đó là những người
liễu giải nghi thức lễ thỉnh pháp sư, liễu
giải đạo lư tôn trọng Phật pháp, chứ kẻ
b́nh phàm không biết, quư vị có cần phải độ
họ hay chăng? Khi ấy, quư vị sẽ “tác bất thỉnh chi hữu”
cho họ. Họ chẳng thỉnh ta, ta t́m đến họ,
thuyết pháp cho họ, như vậy mới là đại
từ đại bi.
“Hà
phụ quần sanh, vị chi trọng đảm” (V́ các quần sanh, gánh vác gánh nặng): Chúng sanh
quá nhiều, vô biên chúng sanh, ta đều thệ nguyện
độ thoát, ta phải gánh lấy trách nhiệm này. Trách
nhiệm ấy là trọng trách, ta t́nh nguyện gánh vác gánh nặng
ấy, đấy mới gọi là “Bồ Tát phát tâm”.
2.1.1.2.2.3.2.2.4. Nương vào sự thắng tấn
trên đây, biện định về các đức đă
tu tập thành tựu
2.1.1.2.2.3.2.2.4.1. Trước hết, biện định
những điều đă tu
(Kinh) Thọ tŕ Như Lai thậm
thâm pháp tạng, hộ Phật chủng tánh, thường sử
bất tuyệt, hưng đại bi, mẫn chúng sanh, diễn
từ biện, thọ pháp nhăn, đỗ tam thú, khai thiện
môn. Dĩ bất thỉnh chi pháp, thí chư lê thứ.
Như thuần hiếu chi tử, ái kính phụ mẫu.
Ư chư chúng sanh, thị nhược tự kỷ.
(經)受持如來甚深法藏,護佛種性,常使不絕。興大悲,愍眾生。演慈辯,授法眼。杜三趣,開善門。以不請之法,施諸黎庶。如純孝之子,愛敬父母。於諸眾生,視若自己。
(Kinh: Thọ tŕ pháp tạng rất
sâu của Như Lai, bảo vệ chủng tánh của Phật,
thường khiến cho chẳng dứt, dấy ḷng đại
bi, thương xót chúng sanh, diễn từ biện, trao pháp
nhăn, đóng chặt ba đường ác, mở cửa
lành. Dùng pháp chẳng thỉnh thí cho muôn loài, như đứa
con thuần hiếu yêu kính cha mẹ. Đối với các
chúng sanh, xem như chính ḿnh).
Trong phần trước,
[kinh văn đă nói là] đối với pháp tạng của
Bồ Tát đều thâm nhập, nay lại tiến thêm
bước nữa, có thể “thọ
tŕ Như Lai thậm thâm pháp tạng”, có thể thay Phật
làm việc. Phật là đấng độ chúng sanh, Bồ
Tát đều có thể độ chúng sanh, có thể gánh vác
trọng trách độ chúng sanh, có thể thay Phật độ
chúng sanh.
“Hộ Phật
chủng tánh, thường sử bất tuyệt” (Bảo vệ chủng tánh của Phật thường
khiến cho chẳng bị đoạn tuyệt): “Hộ” (護) là bảo vệ, [“hộ
Phật chủng tánh” là] bảo vệ chủng tánh của Phật.
“Thường sử bất tuyệt”:
Phật chủng chẳng dứt; đấy là quư vị cứu
chúng sanh bèn dùng Đại Thừa Phật pháp để cứu.
Đại Thừa Phật pháp cứu độ chúng sanh, dạy
chúng sanh trước hết hăy phát Bồ Đề tâm. Đă phát Bồ Đề tâm tức là gieo chủng tử thành Phật, lại bảo
họ tu Đại Thừa hạnh, Thập Tín viên măn, dự
vào địa vị Sơ Trụ, Phật chủng sẽ chẳng đoạn.
Các chúng sanh ấy bèn đắc bất thoái chuyển, trong tương
lai, nhất định sẽ thành Phật. Đấy là
quư vị độ chúng sanh thành Phật, khiến cho chủng
tánh của Phật chẳng đến nỗi bị đoạn
diệt.
“Hưng
đại bi, mẫn chúng sanh”: Dấy ḷng đại bi, tức là đối với thân, khẩu, ư, ư nghiệp của Phật, Bồ Tát hoàn
toàn là đại bi tâm, thương xót chúng sanh, ôm tấm ḷng thương xót chúng sanh. Khẩu
nghiệp của Bồ Tát là giảng kinh, thuyết pháp cho
chúng sanh nghe. Giảng kinh, thuyết pháp th́ phải dùng biện
tài, biện tài hoàn toàn là ban pháp lạc cho chúng sanh.
“Từ” là có thể ban vui. “Diễn từ biện”: Sự diễn nói đích
thị là từ biện (慈辯, biện tài từ bi). Tuyên dương là Diễn.
Do ḷng Từ mà có thể ban vui, đó là Từ. Biện
tài vô ngại là Biện. [“Diễn
từ biện”] nghĩa là giảng kinh thuyết pháp hoàn
toàn có thể ban pháp lạc cho chúng sanh.
“Thọ
pháp nhăn” (Trao pháp nhăn): Dạy chúng sanh mở mang chánh nhăn Phật
pháp. Chúng sanh chẳng liễu giải Phật pháp, quư vị
mở con mắt trí huệ cho họ, giống như quư vị
trao pháp nhăn cho họ.
“Đỗ
tam thú” (Đóng lấp ba đường ác): Trước
hết dạy chúng sanh chớ nên đọa lạc trong ba
ác đạo, đó là nỗi thống khổ tai nạn cùng
cực dữ dội! “Đỗ”
(杜) là cắt đứt, [“đỗ tam thú”] là cắt đứt con đường dẫn đến ba ác
đạo.
“Khai thiện
môn”: Thiện có thế gian thiện và xuất thế
gian thiện. Thế gian thiện là nhân thiên thiện pháp. Dạy
họ trước hết hăy tu nhân thiên thiện pháp để
họ chẳng đọa trong ba ác đạo. Đấy
là “đỗ tam thú”.
“Khai
thiện môn”: Thiện pháp xuất thế gian c̣n có Đại
Thừa và Tiểu Thừa. Tu Tiểu Thừa rồi tu
Đại Thừa, cũng đều là vượt thoát
sanh tử luân hồi trong tam giới. Đối với kẻ
có thể học pháp Đại Thừa, quư vị bèn dạy
kẻ ấy pháp Đại Thừa, mở mang trí huệ của
Phật, cũng có thể độ chúng sanh.
“Dĩ
bất thỉnh chi pháp, thí chư lê thứ” (Dùng pháp chẳng thỉnh thí cho muôn loài): “Lê thứ” (黎庶) vẫn là chúng sanh. Trong phần trước,
[kinh
văn] đă nói quư vị “làm bạn chẳng thỉnh”. “Làm bạn chẳng thỉnh” là
quư vị giảng Phật pháp cho người ấy nghe. “Dĩ bất thỉnh chi pháp”
(Dùng pháp chẳng thỉnh): Kẻ ấy chẳng
thỉnh ta thuyết pháp, ta phải thuyết pháp cho người ấy. V́ cứu
độ những chúng sanh ấy, ta ban Pháp Bố Thí cho họ.
Đó gọi là “thí chư lê thứ”.
Coi chúng sanh như thế nào? “Như thuần hiếu chi tử, ái kính phụ mẫu” (Như đứa con thuần hiếu yêu kính cha mẹ): Coi các chúng sanh ấy đều như cha mẹ. Quư vị coi chúng sanh là chúng sanh khổ năo, bản thân quư vị sẽ có thể dấy ḷng kiêu căng, ngă mạn. Quư vị coi chúng sanh đều là cha mẹ của chính ḿnh, v́ sao? V́ chúng ta đều lưu chuyển sanh tử trong lục đạo luân hồi, đời này ta có cha mẹ của đời này, đời trước c̣n có cha mẹ t