Phật
Thuyết Kinh Vô Lượng Thọ Giảng Kư
佛說無量壽經講記
Phần
4
Chủ giảng: Trưởng
lăo Đạo Nguyên (道源長老)
Địa điểm:
Chí Liên Tinh Xá Đài Bắc
Thời gian: Tháng Tám
năm Dân Quốc 67 (1978)
Cư sĩ Uông Không bút kư
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
(theo bản in của
Đài Trung Liên Xă)
Giảo chánh: Đức
Phong và Huệ Trang
Kinh Vô Lượng Thọ, quyển Hạ
2.2.3. Nêu rơ đối tượng
được nhiếp thọ
2.2.3.1. Nhiếp thủ kẻ hạ căn
cùng sanh về cơi ấy
2.2.3.1.1. Nêu rơ người sanh về cơi ấy,
trụ Chánh Định Tụ, khiến cho người khác
hâm mộ, mong cầu
(Kinh)
Phật cáo A Nan: “Kỳ hữu chúng sanh, sanh bỉ quốc
giả, giai tất trụ ư Chánh Định chi tụ.
Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc trung, vô
chư Tà Tụ, cập Bất Định Tụ”.
(經)佛告阿難:其有眾生,生彼國者,皆悉住於正定之聚。所以者何?彼佛國中,無諸邪聚,及不定聚。
(Kinh:
Đức Phật bảo ngài A Nan: “Nếu có chúng sanh sanh
vào cơi ấy, thảy đều trụ trong Chánh Định
Tụ. V́ cớ sao vậy? Trong cơi Phật ấy, chẳng
có các Tà Tụ và Bất Định Tụ”).
Nói
đi nói lại Tây Phương Cực Lạc thế giới
chánh báo tốt đẹp và y báo tốt đẹp, đều
nhằm dạy chúng ta phải tin tưởng. Sau khi đă
tin tưởng, phải phát nguyện văng sanh. Ở đây, [kinh văn] lại nói đến những chúng sanh
đă văng sanh Tây Phương. “Kỳ
hữu chúng sanh, sanh bỉ quốc giả, giai tất trụ
ư Chánh Định chi tụ. Sở dĩ giả hà? Bỉ
Phật quốc trung, vô chư Tà Tụ, cập Bất
Định Tụ” (nếu có chúng sanh sanh vào cơi ấy, thảy đều
trụ trong Chánh Định Tụ. V́ cớ sao vậy?
Trong cơi Phật ấy, chẳng có các Tà Tụ và Bất
Định Tụ). Hết thảy chúng sanh được
chia thành ba “tụ” lớn, Tụ
(聚) là loại. [Chia thành Tam Tụ tức là]
chia thành ba loại lớn:
1) Loại
thứ nhất gọi là Tà Định Tụ. Tà Định
tức là chắc
chắn ở nơi tà. Quư vị nói Phật pháp với họ, chắc
chắn họ chẳng tiếp nhận. Loại này gọi
là Tà Định Tụ.
2) Loại
thứ hai là Bất Định Tụ. Gặp phải tà
sư, tà giáo, họ sẽ tin theo tà. Gặp thiện tri thức
bàn luận Phật pháp với họ, họ cũng có thể
theo học Phật pháp. Đấy gọi là Bất Định
Tụ.
3) Loại
thứ ba là Chánh Định Tụ, là hạng chúng sanh tuyệt
đối dấy lên chánh tri chánh kiến.
Trong thế
giới Sa Bà có ba đại tụ này, thế giới Cực
Lạc chỉ có một tụ, [tức là] chỉ có chúng sanh thuộc về Chánh
Định Tụ, v́ thế giới Cực Lạc chẳng
có Tà Định Tụ, mà cũng chẳng có chúng sanh thuộc
về Bất Định Tụ. Trong thế giới Sa Bà,
phải dựa theo địa vị tu hành để phân
định. Trước khi dấy lên tâm tín ngưỡng
Đại Thừa Phật pháp th́ đều gọi là Tà
Định Tụ. Sau khi đă dấy lên tâm tín ngưỡng đối với Đại Thừa Phật
pháp th́ gọi là Sơ Phát Tín Tâm Bồ Tát. Có mười
địa vị được gọi là Thập Tín vị,
từng bước tiến cao hơn. Nếu đă viên măn
địa vị Thập Tín, bèn dự vào Thập Trụ vị.
Hàng Bồ Tát thuộc vào Thập Tín vị, tiến tiến
lùi lùi, gặp Phật pháp, sẽ tinh tấn tu đạo,
tiến bộ. Gặp phải cảnh giới vui sướng
ngũ dục, họ sẽ bị lôi kéo, lại bị lui sụt.
Đấy gọi là Bất Định Tụ. Nếu viên
măn Thập Tín, dự vào Thập Trụ vị, họ sẽ
chẳng bị thoái chuyển, đó gọi là Chánh Định
Tụ. Dự vào Thập Trụ vị, Thập Hạnh vị,
Thập Hồi Hướng vị, thuộc ba thánh vị ấy,
sẽ gọi là địa vị Tam Hiền. Đấy là
bậc hiền nhân trong Đại Thừa Phật giáo. Sau
khi đă đăng địa (chứng nhập Sơ Địa) th́ có mười địa vị, đạt
được Thập Thánh Địa, cũng gọi là Thập
Thánh Vị, c̣n là mười loại thánh nhân Đại Thừa.
Tam Hiền Thập Thánh gọi là Chánh Định Tụ, chẳng
thể là Bất Định Tụ, lại càng chẳng thể
là Tà Định Tụ.
Một
kẻ phàm phu từ lúc phát tâm tu hành cho đến khi thành Phật,
phải trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp, bắt
đầu tính từ lúc nào? Từ khi đă dự vào Trụ
vị, tức là đă dự vào các địa vị thuộc
Thập Trụ, người ấy chỉ có tiến, chẳng
lùi. Khi ấy mới tính đến kiếp số ba đại
A-tăng-kỳ kiếp. Từ Thập Trụ, Thập Hạnh,
cho đến Thập Hồi Hướng, [trải qua] ba
hiền vị ấy mới là một đại
A-tăng-kỳ kiếp. [Thời gian tu tập] từ
Sơ Địa, Nhị Địa cho đến Bát Địa
là đại A-tăng-kỳ kiếp thứ hai. Đạt
đến Bát Địa, được thọ kư thành Phật,
giống như trong kinh Kim Cang, Thích Ca Mâu Ni Phật
được Nhiên Đăng Phật thọ kư thành Phật.
Từ Bát Địa Bồ Tát lại tu cho đến khi
thành Phật, vẫn
phải mất một
đại A-tăng-kỳ kiếp nữa. Ba đại
A-tăng-kỳ kiếp mới tu viên măn. Hàng Bồ Tát thuộc
Thập Tín tiến tiến, lùi lùi, chẳng thể tính kiếp
số. Đời sau, đời kế, vẫn chuyển sanh làm người, chẳng
liên tục, dụng công bị gián đoạn. Hễ gặp
sự
vui ngũ dục, sẽ bị
chúng nó lôi kéo, xoay chuyển. V́ thế, đức Phật Thích Ca chẳng dạy chúng ta cầu
phước báo nhân thiên, v́ c̣n phải bị thoái chuyển.
Nếu lui sụt vào trong ba ác đạo, thời gian ấy
càng dài hơn. Do đó, hàng Bồ Tát thuộc Thập Tín vị
chẳng thể tính toán kiếp số.
Nhưng
theo như Đại Thừa Khởi Tín Luận đă nói,
phát Bồ Đề tâm liền tu hành, chỉ tiến chẳng
lùi, phải mất một vạn đại kiếp mới
tiến nhập Trụ vị. Hăy nhớ nhé! Chỉ tiến
chẳng lùi, phải trải qua một vạn đại
kiếp mới nhập Thập Trụ vị. Vậy th́
nay chúng ta được nghe pháp môn Tịnh Độ, tin tưởng pháp
môn Tịnh Độ bèn phát Bồ Đề tâm niệm Phật,
cầu sanh Tây Phương, tức là chúng ta đă phát tín
tâm, vẫn thuộc về Thập Tín vị, vẫn là Bất
Định Tụ, nhưng hễ sanh về Tây
Phương th́ sao? Sẽ là A Bệ Bạt Trí, chẳng
thoái chuyển, sanh sang Tây Phương là Chánh Định Tụ.
Tây Phương chẳng có Bất Định Tụ, càng chẳng
có Tà Định Tụ. Vậy th́ quư vị chỉ cần
niệm Phật sanh về Tây Phương, tối thiểu
là đă bỏ qua thời gian một vạn đại kiếp!
2.2.3.1.2. Nêu lên những người nghe danh
hiệu Phật đều được văng sanh ḥng
tăng trưởng cái tâm mong sanh về cho mọi người
(Kinh)
Thập phương hằng sa chư Phật Như Lai,
giai cộng tán thán Vô Lượng Thọ Phật oai thần
công đức bất khả tư nghị. Chư hữu
chúng sanh, văn kỳ danh hiệu, tín tâm hoan hỷ, năi chí
nhất niệm chí tâm hồi hướng, nguyện sanh bỉ quốc,
tức đắc văng sanh, trụ Bất Thoái Chuyển. Duy
trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp.
(經)十方恆沙諸佛如來,皆共讚歎無量壽佛威神功德不可思議!諸有眾生,聞其名號,信心歡喜,乃至一念至心迴向,願生彼國,即得往生,住不退轉。唯除五逆,誹謗正法。
(Kinh:
Mười phương chư Phật Như Lai nhiều
như số cát trong sông Hằng đều cùng tán thán oai thần
và công đức chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng
Thọ Phật. Có các chúng sanh nghe danh hiệu của Ngài,
tín tâm, hoan hỷ, dẫu chỉ một niệm chí tâm hồi
hướng, nguyện sanh về cơi ấy, liền
được văng sanh, trụ Bất Thoái Chuyển, chỉ
trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp).
“Thập phương hằng sa
chư Phật Như Lai, giai cộng tán thán Vô Lượng
Thọ Phật oai thần công đức bất khả
tư nghị” (mười phương chư Phật
Như Lai nhiều như số cát trong sông Hằng đều
cùng tán thán oai thần và công đức chẳng thể nghĩ
bàn của Vô Lượng Thọ Phật): Trong cơi Phật ấy, chẳng có chúng sanh
thuộc về Tà Định Tụ và Bất Định,
mười phương chư Phật Như Lai số nhiều
như cát sông Hằng đều cùng tán thán. Trong bản kinh
A Di Đà do ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch th́ là sáu
phương Phật, nhưng bản kinh A Di Đà do pháp sư Huyền Trang dịch th́ là mười
phương Phật, thảy đều tán thán Vô Lượng
Thọ Phật trong thế giới Tây Phương có oai thần
và công đức chẳng thể nghĩ bàn!
“Chư hữu
chúng sanh, văn kỳ danh hiệu, tín tâm hoan hỷ, năi chí
nhất niệm chí tâm hồi hướng, nguyện sanh bỉ
quốc, tức đắc văng sanh, trụ Bất Thoái Chuyển.
Duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp” (có các chúng sanh nghe danh hiệu của Ngài, tín
tâm, hoan hỷ, dẫu chỉ một niệm chí tâm hồi
hướng, nguyện sanh về cơi ấy, liền
được văng sanh, trụ Bất Thoái Chuyển, chỉ
trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp): Đấy là mười phương
chư Phật đều tán thán oai thần và công đức
của A Di Đà Phật chẳng thể nghĩ bàn! Đức
Phật Thích Ca vẫn nói cho lũ chúng sanh phàm phu chúng ta
nghe: Nếu “chư hữu chúng
sanh, văn kỳ danh hiệu” (có các chúng sanh nghe danh hiệu
của Ngài), mười phương chư Phật đều
đang tán thán Vô Lượng Thọ Phật, chúng ta nghe tiếng,
liền sanh tín tâm, phát tâm hoan hỷ, quư vị bèn niệm A
Di Đà Phật, hồi hướng Tây Phương Cực
Lạc thế giới, niệm bao nhiêu? “Năi chí nhất niệm chí tâm hồi hướng, nguyện
sanh bỉ quốc, tức đắc văng sanh, trụ Bất
Thoái Chuyển” (cho đến một niệm chí tâm hồi
hướng, nguyện sanh về cơi ấy, liền
được văng sanh, trụ Bất Thoái Chuyển): Sanh về Tây Phương, chẳng lâu sau,
sẽ là một chúng sanh thuộc về Chánh Định Tụ.
Trong phần
trước, [đoạn
kinh văn] nói về bốn
mươi tám đại nguyện, có hai câu như sau: “Duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ
báng chánh pháp” (chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ
báng chánh pháp). Tạo trọng tội Ngũ Nghịch là giết
cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá ḥa hợp Tăng, làm
thân Phật chảy máu. Trọng tội Ngũ Nghịch
đặc biệt nặng nề. Kẻ đó phỉ báng
chánh pháp, chắc chắn chẳng thể sanh về Tây
Phương. Trong khi giảng về bốn mươi tám
đại nguyện, tôi có nói trong Thập Lục Quán Kinh chấp
nhận kẻ phạm trọng tội Ngũ Nghịch văng
sanh, [vậy th́ phải] dung hội quán thông với kinh Vô
Lượng Thọ như thế nào? Kinh Vô Lượng Thọ
chú trọng nơi tội phỉ báng chánh pháp. Nếu quư vị
là kẻ phạm trọng tội Ngũ Nghịch mà biết
sám hối, chẳng phỉ báng chánh pháp, nghe danh hiệu A Di
Đà Phật, phát tâm tín ngưỡng, phát tâm hoan hỷ, nhất
định sẽ được văng sanh. Đă tạo trọng
tội Ngũ Nghịch, lại c̣n phỉ báng chánh pháp, nghe, thấy kinh điển chẳng tin tưởng, lại c̣n phỉ báng, làm sao có thể tùy
thuận, hoan hỷ cho được? Làm sao kẻ
ấy chịu niệm danh hiệu A Di Đà Phật cho nổi?
Chẳng tín ngưỡng, chẳng phát nguyện cầu sanh
Tây Phương, chẳng niệm A Di Đà Phật, sanh về
Tây Phương bằng cách nào đây? Hai bộ kinh ấy
hoàn toàn chẳng chống trái nhau, trọng tội Ngũ Nghịch
vẫn có thể văng sanh, chỉ cần quư vị đừng
phỉ báng chánh pháp.
Trong phần
trên đă nói đến bốn mươi tám nguyện của
Vô Lượng Thọ, nguyện thứ mười tám trong
ấy là: “Thập phương
chúng sanh, chí tâm tín nhạo, dục sanh ngă quốc, năi chí thập
niệm, nhược bất sanh giả, bất thủ
Chánh Giác” (mười phương chúng sanh chí tâm tin
ưa, muốn sanh về nước ta, cho đến
mười niệm mà nếu chẳng sanh về, tôi chẳng
giữ lấy ngôi Chánh Giác). Niệm Phật hiệu mười
câu, quyết định văng sanh. Phần sau kinh Quán Vô Lượng
Thọ Phật, trong phần Hạ Phẩm Hạ Sanh, có một đoạn kinh văn như thế
này: “Như thị chí tâm, linh
thanh bất tuyệt, cụ túc thập niệm, xưng
nam-mô A Di Đà Phật” (chí tâm như thế khiến cho tiếng niệm
chẳng dứt, trọn đủ mười niệm
xưng “nam-mô A Di Đà Phật”), cũng nói đến mười niệm
niệm Phật. Ở đây, [kinh Vô Lượng Thọ]
nói “một niệm” nhằm
cực lực nói sanh về Tịnh Độ dễ dàng,
niệm Phật mười niệm đă có thể văng
sanh, niệm Phật một niệm cũng có thể văng sanh. Nay chúng ta nghiên cứu,
mười niệm hay một niệm ấy là niệm
trong lúc b́nh thời, hay là mười niệm khi lâm chung? Quư
vị thấy đó, sanh về Tây Phương rất dễ dàng. Chúng ta niệm A Di Đà Phật
mười niệm, bèn có thể sanh về Tây Phương, nay ta niệm
Phật mười niệm để chuẩn bị văng
sanh Tây Phương. [Nếu chỉ nghĩ như vậy],
sợ rằng quư vị sẽ lầm lỡ đại sự
của chính ḿnh! Đấy chẳng phải là nói niệm trong lúc b́nh thường, mà là niệm khi lâm
chung! Đến khi lâm chung, niệm mười niệm sẽ
sanh về Tây Phương, quyết định sanh về.
Thậm chí, tới khi lâm chung, niệm một niệm, cũng
quyết định văng sanh, đều là nói khi lâm chung. Hoặc là quư vị nghe nói,
đă hiểu rơ mười niệm hoặc một niệm
đều là niệm
vào lúc lâm chung, [bèn lầm
tưởng như vậy] th́ cũng rất dễ dàng! Nay ta chẳng cần gấp gáp, hiện
thời gấp gáp để làm chi? Chờ tới khi lâm
chung, ta niệm mười niệm bèn sanh về Tây Phương, thậm chí một niệm
bèn sanh về Tây Phương. Nếu quư vị nghĩ như
vậy, sẽ bị lầm lỡ đại sự của
chính ḿnh! V́ sao sẽ bị lỡ chuyện? V́ lúc b́nh thường quư vị chẳng
niệm, tới khi lâm chung, chính là cửa ải giữa sanh và tử,
thường là bị tám nỗi khổ nung đốt, tới
khi đó, quư vị chẳng nhớ niệm Vô
Lượng Thọ Phật, chẳng nghĩ tới chuyện niệm
Phật, mười niệm cũng chẳng niệm
được, [thậm chí] một niệm cũng chẳng
niệm nổi, làm sao quư vị có thể sanh về Tây
Phương cho được? Há chẳng phải là lầm
lỡ đại sự sanh tử của chính ḿnh ư? Do
vậy, niệm Phật th́ hiện thời đă nghe, quư vị
phải dấy lên tín tâm, đă phát tín tâm lại c̣n phải
chân thật, c̣n phải kiên cố. Đă có tín tâm rồi phải
phát nguyện, quyết định sanh về Tây
Phương, lại c̣n phải nhất định là khẩn
thiết, chẳng sanh về Tây Phương sẽ không
được! Niệm Phật lúc b́nh thường cũng
phải nghiêm túc niệm, v́ niệm một câu A Di Đà Phật
nhằm mong liễu sanh tử, phải niệm một câu A
Di Đà Phật để sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Niệm qua loa, qua quít, sẽ chẳng
đắc lực. Do vậy, hiện thời phải niệm,
có niệm th́ tới khi lâm chung mới biết niệm Phật.
Nếu không, tới lúc đó, chẳng nghĩ tới A Di
Đà Phật, làm sao niệm cho nổi?
2.2.3.1.3. Biện định hạnh nghiệp
để văng sanh nhằm dạy [người nghe] tu tập
văng sanh
(Kinh)
Phật cáo A Nan: - Thập phương thế giới
chư thiên nhân dân, kỳ hữu chí tâm nguyện sanh bỉ
quốc, phàm hữu tam bối.
(經)佛告阿難:十方世界諸天人民,其有至心願生彼國,凡有三輩。
(Kinh: Đức Phật bảo
ngài A Nan: - Chư thiên nhân dân trong mười phương thế
giới, có những người chí tâm nguyện sanh về
cơi ấy, nói chung có ba bậc).
“Phật cáo A Nan: - Thập
phương thế giới chư thiên nhân dân, kỳ hữu
chí tâm nguyện sanh bỉ quốc, phàm hữu tam bối”
(đức Phật bảo ngài A Nan: - Chư thiên và nhân dân
trong mười phương thế giới, có những
người chí tâm nguyện sanh về cơi ấy, nói chung th́
có ba bậc): Đây là nói đến những người
chưa sanh về, tính gộp chung cả những người
đă sanh về như trong phần trên th́ có ba loại lớn,
gọi là Tam Bối. Chúng ta niệm bài kệ tán Phật “A Di Đà Phật thân kim sắc…”
gồm tám câu, trong đó chỉ có một câu phát xuất từ
kinh Vô Lượng Thọ, tức là “tứ thập bát nguyện độ chúng sanh”.
Câu thứ tám là “cửu phẩm
hàm linh đăng bỉ ngạn”, đó là từ Thập
Lục Quán Kinh. Kinh Vô Lượng Thọ chẳng nói chín phẩm,
chỉ nói Tam Bối. Tam Bối và chín phẩm trong Thập
Lục Quán Kinh có phải là giống như nhau hay không?
Như nhau! Tam Bối là Thượng, Trung, Hạ. Trong [mỗi
bậc] Thượng, Trung, Hạ, lại chia cặn kẽ
thành Thượng, Trung, Hạ, thành ra chín phẩm. Đấy
là nói theo số lượng tổng quát th́ là Tam Bối, Thập
Lục Quán Kinh lại chia tỉ mỉ thành chín phẩm.
2.2.3.1.3.1. Thượng bối văng sanh
(Kinh)
Kỳ thượng bối giả, xả gia khí dục nhi
tác sa-môn, phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên
niệm Vô Lượng Thọ Phật, tu chư công đức,
nguyện sanh bỉ quốc. Thử đẳng chúng sanh,
lâm thọ chung thời, Vô Lượng Thọ Phật, dữ
chư đại chúng, hiện kỳ nhân tiền, tức
tùy bỉ Phật văng sanh kỳ quốc, tiện ư thất
bảo hoa trung, tự nhiên hóa sanh, trụ Bất Thoái Chuyển.
Trí huệ dũng mănh, thần thông tự tại. Thị cố
A Nan! Kỳ hữu chúng sanh, dục ư kim thế kiến
Vô Lượng Thọ Phật, ưng phát Vô Thượng Bồ
Đề chi tâm, tu hành công đức, nguyện sanh bỉ
quốc.
(經)其上輩者,捨家棄欲而作沙門,發菩提心,一向專念無量壽佛,修諸功德,願生彼國。此等眾生,臨壽終時,無量壽佛,與諸大眾,現其人前,即隨彼佛往生其國,便於七寶華中,自然化生,住不退轉。智慧勇猛,神通自在。是故,阿難!其有眾生,欲於今世見無量壽佛,應發無上菩提之心,修行功德,願生彼國。
(Kinh: Bậc thượng là
người bỏ nhà, ĺa dục để làm sa-môn, phát Bồ
Đề tâm, một mực chuyên niệm Vô Lượng Thọ
Phật, tu các công đức, nguyện sanh về cơi ấy.
Các chúng sanh ấy khi sắp lâm chung, Vô Lượng Thọ
Phật và các đại chúng, hiện ra trước người
ấy, [người ấy] liền theo đức Phật
đó sanh về cơi kia, liền tự nhiên hóa sanh trong hoa bảy
báu, trụ Bất Thoái Chuyển, trí huệ dũng mănh, thần
thông tự tại. Do vậy, A Nan! Nếu có chúng sanh muốn
ngay trong đời này thấy Vô Lượng Thọ Phật,
hăy nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, tu hành công
đức, nguyện sanh về cơi đó).
Trước
hết, nói đến Thượng Bối. “Kỳ thượng bối giả, xả gia khí dục,
nhi tác sa-môn” (bậc thượng là người bỏ
nhà, ĺa dục để làm sa-môn). “Sa-môn” (Śramaṇa) là tiếng
gọi chung của hàng xuất gia, ĺa bỏ gia đ́nh, cắt
đứt thú vui ngũ dục, phát tâm dũng mănh xuất
gia. Xuất gia th́ phải “phát
Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm Vô
Lượng Thọ Phật” (phát Bồ Đề tâm, một
mực chuyên niệm A Di Đà Phật). Hăy nhớ, phải
phát Bồ Đề tâm niệm Phật, niệm danh hiệu
Vô Lượng Thọ Phật. “Tu
chư công đức” (tu các công đức), v́ phát tâm xuất gia, ĺa bỏ
chuyện gia đ́nh, đúng là nên tu các công đức,
đem hết thảy công đức đều hồi
hướng về Tây Phương. “Nguyện sanh bỉ quốc” (nguyện sanh về cơi đó). “Thử đẳng chúng sanh” (những chúng sanh ấy) tức là chúng sanh
thuộc về bậc thượng “lâm thọ chung thời, Vô Lượng Thọ Phật
dữ chư đại chúng, hiện kỳ nhân tiền, tức
tùy bỉ Phật văng sanh kỳ quốc” (khi sắp lâm
chung, Vô Lượng Thọ Phật và các đại chúng hiện
ra trước người ấy, [người ấy] liền
theo đức Phật đó sanh về cơi kia), theo sau A Di
Đà Phật, theo chân đại chúng, văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới. “Tiện ư thất bảo hoa trung, tự nhiên hóa
sanh, trụ Bất Thoái Chuyển, trí huệ dũng mănh, thần thông tự tại” (liền ở trong hoa bảy báu, tự nhiên
hóa sanh, trụ Bất Thoái Chuyển, trí huệ dũng mănh,
thần thông tự tại): Hóa sanh trong hoa sen bảy báu.
Đă hóa sanh th́ sẽ chẳng thoái chuyển, trí huệ
dũng mănh, thần thông tự tại.
Tiếp
đó, [kinh văn] lại nói đến chúng sanh thuộc
thượng bối: “Thị cố,
A Nan! Kỳ hữu chúng sanh, dục ư kim thế kiến
Vô Lượng Thọ Phật, ưng phát Vô Thượng Bồ
Đề chi tâm, tu hành công đức, nguyện sanh bỉ
quốc” (do vậy, này A Nan! Nếu có chúng sanh muốn
thấy Vô Lượng Thọ Phật trong đời này,
hăy nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, tu hành công
đức, nguyện sanh về cơi ấy). Quư vị chẳng
phải chờ sau khi mạng chung mới thấy A Di Đà
Phật, mà ngay trong đời hiện tại sẽ thấy
A Di Đà Phật. Thấy bằng cách nào? Quư vị phát tâm Vô
Thượng Bồ Đề, tu các công đức, nguyện
sanh về Tây Phương, như vậy th́ mới có thể
thấy. Tổ sư đời thứ nhất của Tịnh
Độ Tông là Huệ Viễn đại sư, ngay trong
lúc Ngài c̣n sống, đă ba lượt thấy A Di Đà Phật.
Tới lần thứ tư, A Di Đà Phật bảo Ngài: “Bảy ngày sau, ông sẽ văng sanh
nước ta”. Ngài mới bảo mọi người: “Trước kia, ta đă ba lượt
thấy A Di Đà Phật, hôm nay ta thấy A Di Đà Phật
bảo ta bảy ngày sau, ta sẽ sanh về Tây
Phương, cho nên ta cáo từ mọi người”.
Đấy là chúng sanh thuộc thượng phẩm thượng
bối, c̣n có trung bối và hạ bối đều là không
xuất gia mà vẫn có thể văng sanh. Chỉ cần niệm
thánh hiệu A Di Đà Phật, quư vị cũng có thể
văng sanh.
2.2.3.1.3.2. Trung bối văng sanh
(Kinh) Phật
cáo A Nan: - Kỳ trung bối giả, thập phương thế
giới chư thiên nhân dân, kỳ hữu chí tâm nguyện
sanh bỉ quốc, tuy bất năng hành tác sa-môn, đại
tu công đức, đương phát Vô Thượng Bồ
Đề chi tâm, nhất hướng chuyên niệm Vô Lượng
Thọ Phật, đa thiểu tu thiện, phụng tŕ trai
giới, khởi lập tháp tượng, phạn thực
sa-môn, huyền tăng, nhiên đăng, tán hoa, thiêu
hương, dĩ thử hồi hướng, nguyện
sanh bỉ quốc. Kỳ nhân lâm chung, Vô Lượng Thọ
Phật, hóa hiện kỳ thân, quang minh, tướng hảo,
cụ như chân Phật, dữ chư đại chúng, hiện
kỳ nhân tiền. Tức tùy hóa Phật, văng sanh kỳ quốc,
trụ Bất Thoái Chuyển. Công đức trí huệ, thứ
như thượng bối giả dă.
(經)佛告阿難:其中輩者,十方世界諸天人民,其有至心願生彼國,雖不能行作沙門,大修功德。當發無上菩提之心,一向專念無量壽佛,多少修善,奉持齋戒,起立塔像,飯食沙門,懸繒然燈,散華燒香,以此迴向,願生彼國。其人臨終,無量壽佛,化現其身,光明相好,具如真佛,與諸大眾,現其人前。即隨化佛往生其國,住不退轉。功德智慧,次如上輩者也。
(Kinh:
Đức Phật bảo ngài A Nan: - Bậc trung là chư thiên nhân dân trong mười
phương thế giới, nếu có ai chí tâm nguyện
sanh về cơi ấy, tuy chẳng thể làm sa-môn, tu công
đức to lớn, hăy nên phát tâm Vô Thượng Bồ
Đề, một mực chuyên niệm Vô Lượng Thọ
Phật, tu thiện nhiều hay ít, vâng giữ trai giới,
tạo lập tháp tượng, đăi cơm sa-môn, treo phan,
thắp đèn, rải hoa, đốt hương. Dùng những
điều này để hồi hướng, nguyện sanh
về cơi ấy. Người ấy lâm chung, Vô Lượng
Thọ Phật sẽ hóa hiện thân Ngài, quang minh, tướng
hảo, đầy đủ như vị Phật thật,
cùng với các đại chúng, hiện ra trước
người ấy, [người ấy] liền theo hóa Phật,
văng sanh cơi ấy, trụ Bất Thoái Chuyển. Công đức
và trí huệ kém hơn bậc thượng).
“Phật cáo A Nan: - Kỳ trung bối
giả, thập phương thế giới chư thiên nhân
dân” (đức Phật bảo ngài A Nan: - Bậc trung là chư thiên nhân dân
trong mười phương thế giới): Chúng sanh trên
cơi trời cũng mong cầu văng sanh, chúng sanh trong nhân gian cũng mong cầu
văng sanh. “Kỳ hữu chí tâm
nguyện sanh bỉ quốc” (nếu có ai chí tâm nguyện sanh về cơi ấy), “chí tâm” là tâm chí thành, bằng
ḷng văng sanh cơi An Lạc. “Tuy bất
năng hành tác sa-môn, đại tu công đức” (tuy chẳng thể làm sa-môn, tu công đức
lớn lao). Hăy ghi nhớ! Người thuộc trung bối văng sanh chẳng phải là bậc xuất gia, v́ nhân duyên xuất gia của
người ấy chẳng trọn đủ, chẳng thể
làm sa-môn, chẳng thể tu công đức lớn lao, v́ xuất
gia th́ mới có thể tu công đức lớn lao, nhưng
phát tâm niệm Phật th́ giống hệt như nhau. “Đương phát Vô Thượng
Bồ Đề chi tâm” (hăy nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề),
điều này giống hệt như bậc thượng.
“Nhất hướng chuyên niệm
Vô Lượng Thọ Phật” (một mực chuyên niệm Vô Lượng Thọ
Phật), giống hệt như bậc thượng.
“Đa thiểu
tu thiện, phụng tŕ trai giới, khởi lập tháp
tượng, phạn thực sa-môn, huyền tăng, nhiên
đăng, tán hoa, thiêu hương. Dĩ thử hồi hướng, nguyện sanh bỉ
quốc” (tu thiện nhiều hay ít, vâng giữ trai giới,
tạo lập tháp tượng, đăi cơm sa-môn, treo phan,
thắp đèn, rải hoa, đốt hương. Dùng những
điều này để hồi hướng, nguyện sanh
về cơi ấy): Quư vị chẳng thể tu công đức
lớn lao, vẫn phải làm các thiện sự. “Đa thiểu tu thiện” (tu thiện nhiều hay ít), hai chữ “đa thiểu” có ư nói: Tùy theo
tâm lực và tài lực của quư vị là những người
tại gia. Quư vị phát tâm to chừng nào, bèn làm thiện sự
nhiều ngần ấy. Quư vị phát tâm to lớn mà tài lực
chẳng xuể, cũng chỉ đành tùy theo tài lực của
chính ḿnh mà làm thiện sự, nhưng chẳng thể không
tu thiện, dẫu nhiều hay ít cũng đều phải tu! Tu những việc
thiện nào vậy?
Tiếp
đó, Phật Thích Ca dạy chúng ta, phải “phụng tŕ trai giới” (vâng
giữ trai giới). Kẻ tại gia chẳng thể xuất
gia, cũng phải thọ Bát Quan Trai Giới. Hăy chú ư, phải
hiểu chữ Trai như thế nào? Chữ Trai (齋) nghĩa là “quá
ngọ không ăn”. Bát Quan Trai Giới là chín điều
đầu tiên trong giới xuất gia của Sa-di và
Sa-di-ni. Tám điều đầu tiên là Quan (關), điều thứ chín là “bất phi thời thực” (không ăn phi thời)[1] là Trai,
gọi gộp chung là Bát Quan Trai Giới. Quư vị chẳng
thể hằng ngày tŕ Bát Quan Trai Giới th́ cũng phải
thọ Bát Quan Trai Giới một lần! Bát Quan Trai Giới
lấy một ngày một đêm làm giới thể. Ắt
cần phải thọ vào buổi sáng, buổi chiều th́
quá Ngọ chẳng ăn cơm, [điều này] gọi là
Trai. Hừng đông ngày hôm sau bèn giải trừ giới thể
ấy. Vậy th́ thọ vào khi nào? Hoặc là thánh đản
của Phật, Bồ Tát, hoặc nhằm sinh nhật, ngày
giỗ của cha mẹ quư vị, hoặc là sinh nhật của
chính quư vị; đấy là ngày mẹ chịu nạn,
đều có thể thọ [Bát Quan Trai Giới]. Một
ngày một đêm thọ Bát Quan Trai Giới tức là tạm
thời làm người xuất gia trong một ngày một
đêm. Trên thực tế, tại gia đệ tử hăy
nên trước hết là thọ Tam Quy Y, rồi thọ Ngũ
Giới. Đấy là giới suốt đời. Tam Quy Y
là “quy y Phật, quy y Pháp, quy
y Tăng”. Tam Quy Y c̣n gọi là Tam Quy Giới. Tại
gia thọ Ngũ Giới, tức là “không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không
nói dối, không uống rượu”. Đấy là giới vâng giữ suốt đời
của hai chúng đệ tử tại gia, thường nói
là Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di.
Sau khi
đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới, quư vị lại thọ
thêm Bát Quan Trai Giới; đấy gọi là “hành gia hạnh”, [hàm nghĩa hành tŕ thêm các] giới để tăng tấn công hạnh
vậy, [cho nên] c̣n gọi là “gia
hạnh giới”. Sau khi đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới,
đệ tử tại gia có thể thọ tại gia Bồ
Tát giới. Tại gia Bồ Tát giới là nương theo
kinh Ưu Bà Tắc Giới để thọ tŕ, bao gồm
sáu giới trọng và hai mươi tám giới khinh. Trong
đó, có một điều là Lục Trai Nhật, hoặc
là Lục Trai Giới, tức là mỗi tháng phải thọ
tŕ Bát Quan Trai Giới sáu ngày, chẳng cần phải thọ
Bát Quan Trai Giới chi khác. Mỗi tháng bèn thọ sáu ngày Bát
Quan Trai Giới th́ gọi là “tŕ
thiên trai”.
“Phụng tŕ
trai giới, khởi lập tháp tượng” (vâng giữ trai giới, tạo lập tháp
tượng). Đấy là làm các thiện sự. Tŕ giới,
tŕ trai cũng là thiện sự. Tŕ giới, tŕ trai nhằm
chú trọng trừ khử ác pháp, cho nên viết “tŕ trai, tŕ giới” thành điều
đầu tiên. Quư vị trước hết là “pḥng phi, chỉ ác” (ngăn ngừa
sai trái, dứt điều ác), [cho nên] hiện thời thọ
giới. Nếu quư vị chẳng giữ giới, những
công đức đă làm đều xen tạp ác pháp trong
đó, những công đức đă làm đều chẳng
thanh tịnh. Do vậy, trước hết phải tŕ giới.
Đă tŕ giới tốt đẹp rồi, quư vị lại
tu các pháp lành. Thiện pháp lớn nhất là ǵ?
“Khởi lập tháp tượng”
là tạo tháp Phật, tạo tượng Phật. “Tháp” (塔) ở đây bao gồm tự viện. Tại Ấn Độ,
tháp và chùa chẳng phân biệt. Tháp chính là chùa, chùa
chính là tháp. Truyền đến Trung Hoa, chùa là chùa, tháp là
tháp. Chữ Tháp trong đoạn kinh văn này bao gồm cả
Tự (chùa). Trong tự viện của hàng xuất gia, quư vị
sửa tháp, sửa chùa, tu bổ tượng Phật. Tại
Trung Hoa th́ c̣n bao gồm tượng Bồ Tát, tượng
La Hán cũng được tính gộp vào đó.
“Phạn thực
sa-môn” là trai tăng. “Sa-môn” là tiếng gọi chung
người xuất gia. “Phạn
thực” đọc là “ㄈㄢˋㄙˋ”
(fàn ś). Đặt chữ Phạn (飯) ra trước th́ là động từ, có ư nghĩa
là “ăn”. Đặt chữ Thực (食) ra sau bèn biến thành danh từ, [có nghĩa] là thức
ăn. “Phạn thực sa-môn”
là nấu cơm chay cúng dường đại chúng. Công
đức trai tăng lớn nhất, công đức trai
tăng to cỡ nào? Thượng bối văng sanh trong phần
trước là đệ tử xuất gia, họ đă xuất
gia, phát tâm Bồ Đề niệm Phật, sẽ tu công
đức to lớn. Không ăn th́ không được,
nhưng theo giới luật của hàng xuất gia, họ chẳng được kinh doanh, buôn bán,
làm ruộng, trồng trọt, vậy th́ cơm họ
ăn do đâu mà có? Đức Phật Thích Ca đă ấn
định một quy củ: Đệ tử tại gia
cúng dường đệ tử xuất gia. Đệ tử
tại gia có thể kinh doanh, có thể buôn bán, cũng có thể
làm ruộng, trồng trọt, quư vị cúng dường
đệ tử xuất gia. Đệ tử xuất gia
ăn một bữa cơm của quư vị, công đức
của
quư vị sẽ to lớn.
Công đức lớn cỡ nào? Vị ấy tu công đức
rất to lớn, những công đức do vị ấy
đă tu đều là công đức của quư vị. Vị
ấy chẳng ăn cơm của quư vị, sẽ chẳng
có cách nào tu công đức. Vị ấy phát nguyện niệm
Phật, trong tương lai sanh về Tây Phương, [công
đức ấy] cũng là công đức của quư vị.
Vị ấy chẳng ăn cơm của quư vị, làm sao
[vị ấy có hơi sức] niệm Phật cho
được? Do vậy, công đức trai tăng lớn
nhất.
Phật
pháp truyền đến Trung Hoa, “thác bát
hóa phạn” (托鉢化飯, ôm bát khất thực), tức là quy củ đi khất thực
chẳng được thực hiện. V́ sao chẳng thể thực hiện? V́ Trung Hoa khinh rẻ kẻ
ăn mày nhất. Quư vị ôm bát xin cơm, họ chẳng
biết quư vị là người xuất gia, là bậc đáng
tôn trọng, mà tưởng quư vị là kẻ ăn mày chẳng có cơm ăn, coi rẻ
quư vị! Ấn Độ không như vậy! Khất sĩ
tại Ấn Độ chẳng do Thích Ca Mâu Ni Phật
đề xướng. Ấn Độ có một loại [tôn giáo là] Bà-la-môn giáo. [Chủng tộc] Bà-la-môn là chủng tộc bậc nhất
trong các chủng tộc tại Ấn Độ, họ
định ra một quy củ: Bà-la-môn phải xuất gia
một khoảng thời gian. Trong thời gian xuất gia,
phải ôm bát khất thực. Xă hội tôn trọng Bà-la-môn
là chủng tộc bậc nhất, địa vị [của
Bà-la-môn] vượt trỗi quốc vương, đại
thần. Khi họ ôm bát khất thực chính là dụng công tu hành, ai nấy
đều tôn trọng người ấy là một vị
thánh nhân; cho nên quư vị cúng dường cơm cho
vị khất thực ấy, công đức sẽ to lớn.
Khi vị thánh nhân ấy ôm bát khất thực, mọi người đều biểu lộ ḷng cung kính, cho nên Phật Thích
Ca dạy các đệ tử xuất gia chúng ta học theo
quy củ ôm bát khất thực này, ḥng khỏi phải v́ chuyện ăn uống mà
bận tâm. Bởi lẽ, ôm bát khất thực ở Ấn
Độ rất dễ dàng. Tôi đă sang Thái Lan hai lần,
Thái Lan vẫn hành theo quy củ khất thực của Thích
Ca Mâu Ni Phật. Người xuất gia bên đó cũng chẳng
niệm kinh, mà cũng chẳng bái sám. Tín đồ tại
gia nếu muốn cầu phước th́ cầu công đức
ǵ? Phải trai tăng; trừ môn ấy ra, chẳng có môn thứ
hai nào nữa! Quư vị mong cầu điều nguyện ǵ?
Quư vị bèn trai tăng. Do vậy, ở Thái Lan, thân phận
người xuất gia được hết sức tôn trọng.
Họ nhất loạt mặc y phục màu vàng, chỉ cần
[trông thấy] người mặc quần áo màu vàng, [mọi người] sẽ tôn trọng khôn sánh. Tại Trung Hoa,
từ thời cổ, đă chẳng kiến lập chế
độ ôm bát khất thực; hiện thời, nếu
chúng ta muốn thực hành chế độ ấy, sẽ hết sức khó khăn. Ăn
cơm th́ hằng ngày đều phải ăn, hôm nay ôm bát khất thực chẳng xin được,
đói một ngày chẳng sao, chứ đói vài ngày, ai nấy
đều chẳng đi lại được. Nếu
đói thêm vài ngày nữa, sẽ chết. V́ thế, tại Trung Hoa, rất
khó kiến lập chế độ ấy.
Tôi sang
Thái Lan, mỗi lần đều xem họ đi khất thực,
[cảm thấy họ khất thực] hết sức dễ
dàng. [Chư Tăng khất thực, đại
chúng cúng dường] đă thành một loại phong tục
tập quán. Từ sáu giờ đến bảy giờ sáng
là thời gian ôm bát khất thực. Tới sáu giờ sáng,
chúng tôi ra đường xem, tín đồ tại gia nhà nào
cũng đều đặt một chén cơm, chờ sẵn ở cửa, thấy
người xuất gia đến, ngay lập tức quỳ
xuống. Cái bát khất thực của người xuất
gia rất lớn, trút một chén cơm vào trong bát, kể
như tín đồ đă làm xong chuyện tốt trong ngày
hôm ấy. [Làm như vậy] đă trở thành phong tục
tập quán. Sáng sớm thức dậy, nấu cơm xong, họ
không dám ăn, trước hết, bới một chén để cúng trai
tăng, ở ngoài cửa chờ người xuất gia
đến, đem chén cơm ấy cúng dường người
xuất gia rồi mới trở về nhà ăn sáng.
Người xuất gia xin một chén không đủ cho một
bữa ăn, họ c̣n phải ăn bữa trưa, vậy
th́ vị ấy tiếp tục đi tới, nhà khác sẽ
lại sớt cho vị ấy một chén. Bản thân vị
ấy thấy [cái bát khất thực] đă chứa đủ
rồi, bèn đậy bát lại, trở về tự viện
của chính ḿnh. Do vậy, trong khoảng thời gian từ
sáu giờ đến bảy giờ, cả đường
phố toàn là người xuất gia mặc y phục màu
vàng. Cho tới sau bảy giờ, chẳng có ai nữa,
đă quay về cả rồi, rất dễ dàng. V́ sao rất
dễ dàng? Phật giáo truyền sang Thái Lan bèn đề
xướng chế độ ôm bát khất thực, đă trở thành phong tục
tập quán.
“Phạn thực sa-môn” là đệ
tử tại gia bậc trung làm phước, c̣n phải làm
phước ǵ nữa? “Huyền
tăng, nhiên đăng” (treo phan, thắp đèn): “Tăng” (繒) là loại
lụa dệt bằng tơ tằm. [“Tăng” ở đây] bao gồm những thứ
như tràng phan, bảo cái (寶蓋, lọng báu) v.v… để cúng Phật. [“Huyền tăng, nhiên đăng”] là treo tràng phan, bảo cái, lại c̣n “nhiên đăng”, tức là thắp
đèn cúng Phật. Lại c̣n “tán
hoa, thiêu hương” (rải hoa, đốt hương)
để cúng dường. Hồi hướng những
công đức ấy về Tây Phương, tức là nguyện
dùng công đức ấy để trang nghiêm Tịnh Độ của Phật.
“Dĩ thử hồi hướng,
nguyện sanh bỉ quốc” [nghĩa là dùng những công đức
ấy] hồi hướng nguyện
sanh về cơi ấy. “Kỳ
nhân lâm chung” (người ấy lâm chung): Trung bối tại
gia đệ tử tới lúc lâm chung, “Vô Lượng Thọ Phật, hóa hiện kỳ
thân, quang minh, tướng hảo, cụ như chân Phật”
(Vô Lượng Thọ Phật hóa hiện thân Ngài, quang minh,
tướng hảo đầy đủ như vị Phật
thật), hóa thân Phật hiện đến, nhưng quang
minh và tướng hảo giống hệt như vị Phật
thật sự. Ngài cũng hướng dẫn đại
chúng Bồ Tát đến trước [người lâm chung ấy],
“dữ chư đại chúng,
hiện kỳ nhân tiền, tức tùy hóa Phật văng sanh kỳ
quốc, trụ Bất Thoái Chuyển” (cùng với đại chúng, hiện
ra trước người ấy, [người ấy] liền
theo Hóa Phật văng sanh cơi ấy, trụ Bất Thoái Chuyển). Văng sanh cơi ấy cũng là trụ nơi
địa vị Bất Thoái Chuyển. “Công đức, trí huệ, thứ như thượng
bối giả dă” (công đức và trí huệ kém bậc thượng),
chỉ là so với thượng bối văng sanh th́ kém một
bậc!
2.2.3.1.3.3. Hạ bối văng sanh
(Kinh)
Phật cáo A Nan: - Kỳ hạ bối giả, thập
phương thế giới chư thiên nhân dân, kỳ hữu
chí tâm dục sanh bỉ quốc, giả sử bất
năng tác chư công đức, đương phát Vô
Thượng Bồ Đề chi tâm, nhất hướng chuyên
ư, năi chí thập niệm, niệm Vô Lượng Thọ Phật,
nguyện sanh kỳ quốc. Nhược văn thâm pháp,
hoan hỷ tín nhạo, bất sanh nghi hoặc, năi chí nhất
niệm, niệm ư bỉ Phật, dĩ chí thành tâm, nguyện
sanh kỳ quốc. Thử nhân lâm chung, mộng kiến bỉ
Phật, diệc đắc văng sanh, công đức, trí huệ, thứ như trung bối giả
dă.
(經)佛告阿難:其下輩者,十方世界諸天人民,其有至心欲生彼國,假使不能作諸功德,當發無上菩提之心,一向專意,乃至十念,念無量壽佛,願生其國。若聞深法,歡喜信樂,不生疑惑,乃至一念,念於彼佛,以至誠心,願生其國。此人臨終,夢見彼佛,亦得往生,功德智慧,次如中輩者也。
(Kinh:
Đức Phật bảo ngài A Nan: - Bậc hạ là
chư thiên, nhân dân trong mười phương thế giới,
nếu có ai chí tâm muốn sanh về cơi ấy, giả sử
chẳng thể làm các công đức, hăy nên phát tâm Vô Thượng
Bồ Đề, một mực chuyên tâm, cho đến
mười niệm, niệm Vô Lượng Thọ Phật,
nguyện sanh về cơi của Ngài. Nếu nghe pháp sâu, hoan hỷ,
tin ưa, chẳng sanh nghi hoặc, dẫu chỉ một niệm,
niệm đức Phật ấy, dùng ḷng chí thành nguyện
sanh về cơi ấy. Người ấy lâm chung, mộng thấy
đức Phật ấy, cũng được văng sanh.
Công đức, trí huệ kém bậc trung).
“Phật cáo A Nan: - Kỳ hạ bối
giả” (đức Phật bảo ngài A Nan: - Bậc hạ
là…): Thượng bối và trung bối đă nói
rồi, [nay] nói đến hạ bối. “Thập phương thế giới chư thiên nhân
dân, kỳ hữu chí tâm dục sanh bỉ quốc, giả sử
bất năng tác chư công đức” (chư thiên nhân dân trong mười
phương thế giới, nếu có ai chí tâm muốn sanh
về cơi ấy, giả sử chẳng thể làm các công
đức). “Bất năng tác
chư công đức” (chẳng thể làm các công đức) tức là chẳng thể hành hạnh sa-môn, tu các
công đức. “Đương
phát Vô Thượng Bồ Đề chi tâm” (hăy nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề): Giống như thượng bối và trung bối,
phải phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. “Nhất hướng chuyên ư”:
Một mực chuyên tâm dốc ư nơi Vô Lượng Thọ
Phật. “Năi chí thập niệm,
niệm Vô Lượng Thọ Phật” (cho đến mười niệm, niệm
Vô Lượng Thọ Phật): “Năi
chí” (乃至) là từ ngữ giản lược, [nghĩa
là] thậm chí quư vị mỗi ngày niệm Phật mười
câu, niệm Vô Lượng Thọ Phật. “Nguyện sanh kỳ quốc” (nguyện sanh về cơi ấy), nguyện
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Nhược văn thâm pháp” (nếu nghe pháp sâu): Quư vị niệm Phật
ít một chút, nhưng quư vị được nghe pháp sâu,
nghe đạo lư Đại Thừa Phật pháp, “hoan hỷ tín nhạo”, [nghĩa
là] nếu phát tâm hoan hỷ, phát tâm tín ngưỡng, phát tâm
ưa thích, “bất sanh nghi hoặc”
(chẳng sanh ḷng ngờ vực), đối với pháp sâu
Đại Thừa, chẳng dấy lên ḷng ngờ vực. “Năi chí nhất niệm, niệm
ư bỉ Phật” (dẫu chỉ một niệm, niệm đức
Phật ấy). Trong phần trên là “cho đến mười niệm”, [ở đây]
là giảm thiểu đến một niệm, niệm
đức Vô Lượng Thọ Phật ấy. “Dĩ chí thành tâm, nguyện sanh kỳ
quốc, thử nhân lâm chung, mộng kiến bỉ Phật,
diệc đắc văng sanh, công đức trí huệ, thứ
như trung bối giả dă” (dùng ḷng chí thành nguyện sanh về cơi ấy.
Người ấy lâm chung, mộng thấy đức Phật
ấy, cũng được văng sanh. Công đức, trí huệ
kém bậc trung): Quư vị nằm
mơ, mộng thấy Vô Lượng Thọ Phật đến
đón quư vị sanh về Tây Phương, cũng có thể
sanh về. Công đức và trí huệ kém bậc trung.
Mong cầu
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, phải
ghi nhớ! Có một điều kiện khẩn yếu nhất:
Phàm là ba bậc chúng sanh muốn sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới, phải phát tâm Vô Thượng Bồ
Đề. Tiếng Phạn là Bồ Đề (Bodhi), tiếng
Hán là Đạo, [phát Bồ
Đề tâm] chính là phát đạo tâm. “Đạo
tâm” là Đại Thừa đạo tâm.
Đại Thừa đạo tâm là đạo tâm như thế nào? Tâm trên cầu Phật
đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Ta phải
phát tâm trên cầu Phật đạo, ta phải phát tâm
dưới hóa độ chúng sanh. Như thế bèn niệm
A Di Đà Phật, một niệm liền sanh Tây
Phương. Phát cái tâm Vô Thượng Bồ Đề ấy,
sanh về Tây Phương, hễ niệm Phật liền
sanh về, v́ cái tâm ấy giống như tâm A Di Đà Phật.
V́ sao A Di Đà Phật tạo ra thế giới
An Lạc? Chính là v́ Ngài đă nương theo tâm Vô
Thượng Bồ Đề đă phát để tạo dựng. Ngài phát ra bốn
mươi tám đại nguyện, cũng là dựa trên tâm
Vô Thượng Bồ Đề để phát. Ngài hành hạnh
môn công đức trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp
cũng là dựa trên tâm Vô Thượng Bồ Đề
để hành. Nay chúng ta vừa phát tâm Vô Thượng Bồ
Đề bèn tương thông với tâm của A Di Đà Phật.
Hễ tương thông bèn cảm ứng đạo giao, quư
vị niệm mười niệm, A Di Đà Phật cũng
đến tiếp dẫn quư vị. Quư vị niệm một
niệm, Ngài cũng tiếp dẫn quư vị; trong ấy
chẳng có chướng ngại, đă thông cả rồi!
C̣n có một
chỗ giống nhau: Ba bậc thượng, trung, hạ, chỉ cần sanh về nước An
Dưỡng th́ đều chẳng thoái chuyển. Chúng ta
sanh về Tây Phương, lợi ích duy nhất là Bất
Thoái Chuyển. V́ ở trong thế giới Sa Bà, luân hồi
trong lục đạo, quư vị đời này phát tâm tu
hành, cho đến khi thọ mạng đă hết, đời
sau, đời kế sẽ chuyển sanh vào đâu? Quư vị
chẳng làm chủ được! Thời gian chuyển
sanh trong ba ác đạo lâu dài, chẳng biết kiếp nào sẽ thoát khỏi ba ác đạo? Nhưng đời
sau, đời kế vẫn chuyển sanh làm người
th́ [sự
tu hành] trong ấy vẫn bị
gián đoạn, chẳng thể nào đời sau chuyển
sanh làm người, vừa lọt ḷng mẹ liền tiếp
tục tu hành. V́ thế, do sanh vào thế giới Sa Bà, thọ mạng ngắn
ngủi, luân hồi trong lục đạo, dụng công tu
hành rất khó khăn, nhất định phải sanh về
Tây Phương để làm ǵ? Nhằm cầu Bất Thoái
Chuyển, cầu thọ mạng vô lượng. Chúng sanh
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới giống
hệt
như A Di Đà Phật,
[cơi ấy]
chẳng có lục đạo
luân hồi, chỉ có tiến bộ, sẽ không lùi bước.
Do vậy mới có thể thỏa măn đại nguyện
Bồ Đề của quư vị.
Có kẻ
tâm hoài nghi nặng nề, cứ nói: “V́ sao phải sanh vào
Tây Phương? Phát Bồ Đề tâm, tu Bồ Tát đạo,
mong độ hết thảy chúng sanh, ta ở trong thế
giới Sa Bà là được rồi. Nay ta phát Bồ Đề
tâm, nay ta hành Bồ Tát đạo, ta độ chúng sanh ngay
trong hiện tại”. Vĩnh viễn hóa độ là
đúng, nhưng trong ấy có chỗ không đúng, tức là thọ mạng ngắn ngủi, luân hồi
trong lục đạo, bản thân quư vị chẳng làm chủ chút nào! Quư vị
phát tâm hoàn toàn đúng, “nay ta phát Bồ Đề
tâm, nay ta hành Bồ Tát đạo, thực hiện ngay trong
hiện tại, vĩnh viễn hóa độ”. Điều này chẳng sai, sai ở chỗ quư vị
chẳng liễu giải sanh mạng ngắn ngủi, sai ở
chỗ quư vị chẳng hiểu nỗi khổ luân hồi!
C̣n nữa,
thế giới Sa Bà là đời ác ngũ trược, hoàn
cảnh quá tệ! Như vừa mới nói, ta đă phát Bồ Đề tâm, nay ta hành Bồ Tát
đạo, nay ta độ chúng sanh, thọ mạng ngắn
ngủi là chuyện thuộc đời thứ hai, luân hồi
trong lục đạo cũng là chuyện thuộc vào đời
thứ hai. Đời này ta làm [chuyện hành Bồ Tát đạo,
độ chúng sanh] trước đă, đoạn này chẳng sai, nhưng quư vị chẳng
hiểu rơ ràng. Chẳng hiểu rơ ràng như thế nào vậy? Quư vị chẳng nhận biết rơ ràng
hoàn cảnh. Thế giới Sa Bà này nhằm đời ác ngũ
trược, có Chúng Sanh Trược, chúng sanh đều là ô trược, chẳng trong sạch, chẳng
có bạn bè tốt đẹp, chẳng có người giúp
đỡ quư vị dụng công tu hành, toàn là những
người khiến cho quư vị đâm quàng ngơ rẽ,
ngáng chân quư vị. Chẳng cần nói đời sau quư vị
do luân hồi trong lục đạo nên dụng công bị
gián đoạn, ngay trong đời này, kiếp này, quư vị
có thể bị thoái thất Bồ Đề tâm rất mau
chóng. Thoái thất Bồ Đề tâm, quư vị c̣n hành Bồ
Tát đạo được chăng? Kiếp này, đời
này hành không nên thân, v́ sao? Người xấu quá nhiều,
ngáng chân quư vị. Người kéo quư vị lui lại quá
nhiều, kẻ lôi tay, kẻ chẹn vai, chẳng có ai [giúp
đỡ quư vị] tiến về phía trước!
Kinh A Di
Đà có một câu quan trọng nhất, sanh về Tây
Phương, “đắc dữ
như thị chư thượng thiện nhân câu hội nhất
xứ” (được cùng với các vị thượng thiện nhân
như thế nhóm họp một chỗ). “Chư thượng thiện nhân” là thiện nhân
thượng đẳng, là hàng đại Bồ Tát Nhất
Sanh Bổ Xứ. Chúng ta ở cùng một chỗ với họ,
quư vị c̣n có thể nào thoái lui hay chăng? Do vậy, trong
Di Đà Yếu Giải của Ngẫu Ích đại
sư, Ngài đă chú giải câu kinh văn trên đây bằng
một câu: “Như thượng
vô thượng đại sự nhân duyên” (đại sự
nhân duyên vô thượng như trên đây). Hết thảy
các pháp do nhân duyên sanh; sanh về Tây Phương cũng là
pháp sanh bởi nhân duyên. “Đắc
dữ như thị chư thượng thiện nhân, tụ hội nhất xứ” (được cùng với các vị
thượng thiện nhân như thế nhóm họp một
chỗ). Đấy là nhân duyên vô thượng, quư vị có
muốn thoái thất cũng chẳng thể thoái thất!
Toàn là Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát làm đạo hữu
của quư vị, làm sao quư vị có thể thoái thất cho
được? Sanh trong thế giới Sa Bà toàn là chúng sanh
hỗn trược, làm bầu bạn với ta, thảy
đều là những kẻ kéo quư vị tụt hậu, lẽ
nào quư vị chẳng thụt lùi cho được?
Đạo
Nguyên sống đă lâu, năm tháng xuất gia nhiều một
tí, tôi đă từng thấy khá nhiều đồng tham
đạo hữu, có những đồng tham đạo hữu
có trí huệ, chí hướng cao cả, nói: “Nay ta phải phát Bồ Đề tâm, nay ta phải
hành Bồ Tát đạo, chẳng cần phải đi một
đường ṿng lớn về Tây Phương”. Đối
với pháp môn Tây Phương Tịnh Độ, họ chẳng
nghiêm túc nghiên cứu, cứ ngỡ chính ḿnh là đúng, càng
như vậy th́ càng bị ma dựa lẹ hơn! V́ sao bị ma dựa mau lẹ? Kẻ
đó phát tâm rất lớn, lập chí hướng rất
cao, chẳng biết chính ḿnh chẳng đủ phước
báo, chẳng đủ trí huệ, oán thân trái chủ từ
vô thỉ kiếp đến nay đều đuổi theo
quư vị tính sổ. Họ vừa thấy quư vị phát Bồ
Đề tâm, quư vị sẽ ra đi, lẽ nào họ
để cho quư vị thoát thân ư? Quư vị muốn trốn
khỏi tam giới, lẽ đâu họ để cho quư vị
đào tẩu ư? Không thể nào chẳng kéo quư vị lại.
Phát tâm càng lớn, ma dựa càng nhanh! Vậy th́ v́ sao niệm
A Di Đà Phật chẳng bị ma dựa? Đấy là chỗ
thù thắng của pháp môn Tịnh Độ: Niệm A Di Đà Phật có Phật lực
gia bị. Những tông phái khác, các pháp môn khác hoàn toàn dựa
vào sức của chính ḿnh, dễ dàng bị ma dựa! Pháp
môn Tịnh Độ cậy vào Phật lực gia bị.
Quư vị niệm Phật mỗi ngày, Phật quang sẽ
chiếu khắp chúng ta, những loài tà thần, tà quỷ
dám t́m đến làm phiền chúng ta ư? Oán thân trái chủ
c̣n dám hoạnh họe chúng ta ư? Sở dĩ người
niệm Phật chẳng bị ma dựa là do cậy vào Phật
lực gia bị.
C̣n có kẻ
phê b́nh: “Pháp môn Niệm Phật là pháp môn tiêu cực. Pháp môn Niệm Phật là pháp môn trốn
tránh hiện thực”. Nếu đấy là lời ngoại đạo
phê b́nh chúng ta th́ c̣n có thể dung thứ được, v́
có thể là bọn họ chẳng tin Phật giáo. Nhưng
nếu chính chúng ta cũng nói hùa theo, tức là chính ḿnh
đă tạo khẩu nghiệp. V́ sao phải niệm Phật
cầu sanh Tây Phương? V́ muốn trên là cầu Phật
đạo, dưới là hóa độ chúng sanh. Chẳng
phát Bồ Đề tâm, chẳng thể sanh về Tây
Phương. Người thuộc ba bậc [văng sanh] đều có điều kiện này! “Phát Bồ Đề tâm” là
trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ
chúng sanh, đấy chẳng phải là cái tâm tích cực nhất
ư? Tôi vừa mới nói rất nhiều, chúng ta chẳng
có phước báo, chẳng có trí huệ, phát tâm là nguyện
rỗng tuếch, trên là chẳng cầu Phật đạo
được, dưới là chẳng hóa độ chúng
sanh được! V́ thế, phải sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới ḥng thân cận A Di Đà Phật để học bản lănh “trên là cầu Phật đạo, dưới là hóa
độ chúng sanh”, tiêu cực ở chỗ nào? Trốn
tránh hiện thực ở chỗ nào?
Kinh Vô
Lượng Thọ có nói: Thượng bối văng sanh là
người xuất gia. Người xuất gia có thể
tu công đức to lớn; đă xuất gia th́ tu công đức
to lớn bằng cách nào? Hiện thời, quư vị muốn
kiến lập một đại đạo tràng, nay quư vị
muốn rộng độ chúng sanh xuất gia tu hành. Đấy
là tu công đức lớn lao. Trung bối và hạ bối
là đệ tử tại gia chẳng làm chuyện ấy.
Bản thân họ là cư sĩ, làm sao có thể độ
chúng sanh xuất gia được? Bản thân họ là
cư sĩ, mệt nhoài v́ gia đ́nh, làm sao có thể kiến
lập đại đạo tràng cho được? Do vậy,
đă xuất gia, quư vị phát Bồ Đề tâm niệm
Phật, hiện thời quư vị chẳng phải là tiêu cực,
hiện thời quư vị đang tu công đức to lớn.
Nói trở lại, kiến lập một đại đạo
tràng, độ hết thảy chúng sanh đều xuất
gia. Chuyện này thuộc về đại nguyện; trên sự
thật, quư vị có làm được hay không, vẫn là một
câu hỏi! V́ sao? Vẫn phải cậy vào phước
báo. Quư vị chẳng có phước báo, kiến lập một
đại đạo tràng sẽ tạo dựng chẳng nổi. Quư vị chẳng
có phước báo, độ kẻ khác xuất gia, chẳng
có ai theo quư
vị xuất gia. Nay chúng ta muốn
phát tâm, ta dựng trước một đạo tràng nhỏ,
tôi độ một người xuất gia, độ hai
người xuất gia trước đă. Cổ nhân nói: “Một
người cũng là đạo tràng, trăm người
cũng là đạo tràng”. Nhưng đạo tràng này của
ta là nơi tu đạo, quyết định phải tu tập
Phật đạo. Điều này chẳng sai, như vậy
th́ từ tiểu đạo tràng dần dần biến
thành đạo tràng bậc trung, đạo tràng bậc
trung biến thành đại đạo tràng, chẳng phải
là tu công đức to lớn hay sao? Ta độ trước
một hai người xuất gia, [dần dần sẽ]
độ một trăm người, độ một
ngàn người xuất gia; đấy là tu công đức
to lớn.
Trước
hết, quư vị phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, đấy là điều khẩn yếu; sau đấy, tu công đức to lớn, thực hiện hạnh
môn này, thực hiện cho đến khi lâm chung, chắc chắn
sẽ là thượng bối văng sanh. Vậy là quư vị đă đạt mục
đích. Hiện thời, phải phát Bồ Đề tâm,
hiện thời phải tu công đức to lớn, đừng
nên tránh né khó khăn, ăn xổi ở th́! Quư vị phê
b́nh kẻ khác tiêu cực, trốn tránh hiện thực,
nhưng bản thân quư vị lại tránh né khó khăn,
ăn xổi ở th́, chính ḿnh chẳng làm tí ti công đức
nào; chẳng phải là quư vị trốn tránh hiện thực,
chẳng phải là phần tử tiêu cực ư? Hễ dấy
lên cái tâm tránh né khó khăn, ăn xổi ở th́, sống
trong tự viện, quư vị sẽ chẳng thể ở
yên nổi! V́ sao ở chẳng yên? Hiện thời, tuy là thời
đại Mạt Pháp, nói riêng tại Đài Loan, tự viện
nào cũng đều phải tụng niệm khóa sáng, thảy
đều là trời chưa tỏ đă thức dậy tụng
khóa sáng, vẫn phải thực hiện quy củ ấy.
Quư vị chê là quá nhọc nhằn, khổ sở, chính ḿnh
nhất định phải sống trong núi, ở trong lều
tranh, tự ḿnh tu hành. Đấy chẳng phải là tự
ḿnh tu hành, mà là tự ḿnh tránh né khó khăn, ăn xổi ở
th́, muốn tự do! Quư vị sống trong lều tranh chẳng
phải là để chuyên tu ư? Khóa sáng của quư vị
chẳng đều đặn, thoạt đầu th́ có thể
là ba ngày vẫn c̣n tụng, tụng tới ngày thứ
tư, có thể là quư vị muốn ngủ nướng. Do
vậy, quư vị đừng quên chính ḿnh là một tên phàm
phu, phải nương theo đại chúng, dựa vào đại chúng.
V́ sao
tùng lâm được gọi là tùng lâm? Trong tùng lâm chẳng
có cây nào cong quẹo. Rất nhiều cây mọc cùng một
chỗ th́ gọi là “tùng lâm” (叢林). Cây trong tùng lâm đều thẳng thớm,
chẳng có cây nào cong vẹo. V́ sao? Cây nương vào nhau
để tăng trưởng. Quy củ trong tùng lâm dành cho
đại chúng, phải nương theo chúng, cậy vào
chúng. Quư vị muốn đọa lạc, hễ ngủ
nướng, sẽ cảm thấy ngượng ngùng. Trời
chưa tỏ, vẫn phải thức dậy tụng niệm
khóa sáng. Quư vị chẳng hiểu rơ chính ḿnh, muốn sống
trong lều tranh, muốn tự ḿnh tu tập, kết quả
là ngủ nướng. Đây là tôi thừa dịp nhân duyên
này, nói mấy câu để cúng dường các đồng
đạo xuất gia.
Vậy th́ tôi lại cúng dường các vị cư sĩ
tại gia mấy câu: Trung bối và hạ bối đều
là cư sĩ tại gia, quư vị nhất định phải
phát Bồ Đề tâm, phải niệm Vô Lượng Thọ
Phật. Chúng ta dựa theo kinh A Di Đà bèn niệm A Di
Đà Phật, mong cầu sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới; vậy th́ quư vị có thể thọ
bao nhiêu giới, sẽ thọ bấy nhiêu giới. Thọ
Tam Quy, thọ Ngũ Giới, thọ Bát Quan Trai Giới, tại
gia Bồ Tát giới, thọ giới càng nhiều càng hay. Quư vị niệm Phật cũng là càng nhiều
càng hay. Trong phần trước đă nói “mười niệm có thể văng sanh, một
niệm vẫn có thể văng sanh”. Đấy
là tới khi lâm chung, mười niệm hay một niệm
trong lúc cuối cùng, chứ dụng công trong lúc b́nh thường
vẫn là niệm càng nhiều càng tốt. Một niệm ấy
chính là một niệm cuối cùng vào lúc lâm chung, chứ dụng
công trong lúc b́nh thường, chẳng thể nói mỗi ngày
chỉ niệm một câu Phật hiệu. Pháp Thập Niệm
cũng có thể dùng trong lúc b́nh thường. Hiện thời
bèn nói quư vị tối thiểu phải niệm Phật
mười câu, nhưng phải niệm mỗi ngày, đừng
nên gián đoạn; v́ gián đoạn th́ chẳng gọi là “công phu”. Mỗi ngày niệm mười niệm, mười
niệm có hai loại phương pháp:
1) Một
loại là niệm mười tiếng, nam-mô A Di Đà Phật,
nam-mô A Di Đà Phật… Dùng mười đầu ngón tay
để ghi nhớ, chẳng cần tới tràng hạt. Hạng người này đều
là trong gia đ́nh ngay cả Phật đường cũng
chẳng có, sáng sớm thức dậy, rửa mặt, súc
miệng, đứng niệm, chắp tay lại, dùng mười
đầu ngón tay để ghi nhớ: Nam-mô A Di Đà Phật,
nam-mô A Di Đà Phật, nam-mô A Di Đà Phật… Niệm
mười niệm, niệm xong bèn niệm bài văn hồi
hướng “nguyện sanh Tây
Phương…”. Quư vị chẳng biết niệm [văn hồi hướng], không sao cả, bèn nói: “Đệ tử con tên là… nguyện sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới”. Đấy
là bài văn hồi hướng, nhưng chớ nên gián
đoạn. Mỗi ngày đều phải niệm. Đấy
là một phương pháp.
2) Loại
phương pháp thứ hai là niệm mười hơi, chẳng
cần biết số lượng, cứ tính theo chuyện
hít vào thở ra. Một lần thở ra, một lần hít
vào, đấy là “một hít, một thở” th́ gọi là một
niệm. Hăy nhớ, hít vào th́ không tính, thở ra một
hơi bèn tính là một niệm. Nhưng hơi thở ấy
vẫn là tự do tự tại hít vào, thở ra, chẳng cần phải đặc biệt
kéo dài. Đặc biệt kéo dài, người sẽ mắc
bệnh! Dùng hơi thở ấy để ghi nhớ, tức
là chỉ quan tâm cái tâm, đừng cho nó dấy lên vọng
tưởng, quư vị niệm mười hơi. Đó cũng
gọi là pháp Thập Niệm.
2.2.3.2. Nhiếp thủ bậc thượng
căn cùng sanh về cơi ấy
2.2.3.2.1. Phần trường hàng biện
định đại lược
(Kinh)
Phật cáo A Nan: - Vô Lượng Thọ Phật, oai thần
vô cực. Thập phương thế giới vô lượng
vô biên bất khả tư nghị chư Phật Như
Lai, mạc bất xưng thán. Ư bỉ Đông phương
hằng hà sa Phật quốc, vô lượng vô số
chư Bồ Tát chúng, giai tất văng nghệ Vô Lượng
Thọ Phật sở, cung kính cúng dường, cập
chư Bồ Tát, Thanh Văn chi chúng, thính thọ kinh pháp,
tuyên bố đạo hóa. Nam, Tây, Bắc phương, tứ
duy, thượng, hạ, diệc phục như thị.
(經)佛告阿難:無量壽佛,威神無極。十方世界無量無邊不可思議諸佛如來,莫不稱歎。於彼東方恆河沙佛國,無量無數諸菩薩眾,皆悉往詣無量壽佛所,恭敬供養,及諸菩薩聲聞之眾,聽受經法,宣布道化。南西北方,四維上下, 亦復如是。
(Kinh: Đức Phật bảo
ngài A Nan: - Vô Lượng Thọ Phật oai thần vô cực,
mười phương thế giới vô lượng vô
biên chẳng thể nghĩ bàn chư Phật Như Lai không
vị nào chẳng xưng tụng, tán thán. Trong các cơi Phật
nhiều như số cát sông Hằng ở phương
Đông cơi Cực Lạc, vô lượng vô số các vị
Bồ Tát thảy đều đi đến chỗ Vô
Lượng Thọ Phật cung kính cúng dường [A Di Đà Phật] và các vị Bồ Tát, Thanh Văn, nghe nhận kinh
pháp, tuyên bố đạo hóa, Phương Nam, Tây, Bắc,
bốn góc, trên, dưới, cũng đều giống
như vậy).
“Phật cáo A Nan: - Vô Lượng
Thọ Phật, oai thần vô cực. Thập phương
thế giới vô lượng vô biên bất khả tư
nghị chư Phật Như Lai, mạc bất xưng thán”
(đức Phật bảo ngài A Nan: - Vô Lượng Thọ
Phật oai thần vô cực. Mười phương thế giới vô lượng
vô biên chẳng thể nghĩ bàn chư Phật Như Lai
không vị nào chẳng xưng tụng, tán thán): Chẳng phải
chỉ là riêng ta, Thích Ca Mâu Ni Phật, nay đang xưng
dương, tán thán, mà mười phương vô lượng
vô biên chư Phật Như Lai không vị nào chẳng xưng dương, tán thán. “Ư bỉ Đông phương
hằng hà sa Phật quốc, vô lượng vô số
chư Bồ Tát chúng, giai tất văng nghệ Vô Lượng
Thọ Phật sở, cung kính cúng dường” (trong các cơi Phật nhiều như số cát
sông Hằng ở phương Đông cơi ấy, vô lượng
vô số các vị Bồ Tát thảy đều đi đến
chỗ Vô Lượng Thọ Phật cung kính cúng dường):
Do mười phương thế giới chư Phật
đều tán thán Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng
Thọ Phật ngự trong Tây Phương An Lạc Quốc,
hằng hà sa số chư Phật Như Lai ở
phương Đông đều đang tán thán, các vị Bồ
Tát ở trong các cơi ấy nghe nói, sẽ đều đến
cung kính cúng dường Vô Lượng Thọ Phật. Do ở phương Đông có hằng hà
sa số cơi Phật, cho nên có vô lượng vô số các vị Bồ
Tát, “giai tất văng nghệ”
(thảy đều đi đến), “nghệ” (詣) là
đến, đến “Vô
Lượng Thọ Phật sở” (chỗ Vô Lượng
Thọ Phật), đến quốc độ Ngài đang ngự để cung kính đảnh lễ, cúng
dường. “Cập chư Bồ
Tát Thanh Văn chi chúng” (cùng với các vị Bồ Tát, Thanh Văn), “cúng dường” là cúng dường
Vô Lượng Thọ Phật. Tây Phương Cực Lạc
thế giới c̣n có Bồ Tát chúng, Thanh Văn chúng, [những
vị Bồ Tát đến từ phương Đông] c̣n sẽ
cúng Tăng, tức là đối với Bồ Tát Tăng,
Thanh Văn Tăng, sẽ đều cúng dường.
Sau khi
đă cúng dường, họ “thính
thọ kinh pháp” (nghe nhận kinh pháp), [tức là] nghe Vô Lượng Thọ Phật giảng
kinh, thuyết pháp, “tuyên bố
đạo hóa”. Phương Đông có vô lượng Bồ
Tát trong vô lượng thế giới đến thế giới
Cực Lạc như vậy đó, họ đến thế
giới An Dưỡng để cúng dường, đến
nghe pháp. “Nam, Tây, Bắc
phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị” [nghĩa là] chư Phật ở
phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn
góc, trên, dưới, cũng đều tán thán Vô Lượng Thọ
Phật. Các vị đại Bồ Tát trong mỗi quốc
độ cũng đều đến Tây Phương
để thân cận A Di Đà Phật, cúng dường A
Di Đà Phật, lại c̣n cúng dường Bồ Tát
Tăng và Thanh Văn Tăng trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới, lại c̣n nghe giảng Phật pháp.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết tụng viết:
(經)爾時世尊,而說頌曰。
(Kinh:
Khi ấy, đức Thế Tôn bèn nói kệ tụng rằng).
“Nhĩ thời Thế Tôn, nhi thuyết
tụng viết” (khi ấy, đức Thế Tôn bèn nói kệ tụng
rằng): Tiếp
theo đây là ba mươi bài kệ tụng. Những bài kệ tụng
ấy nhằm trùng tụng
đoạn kinh văn trường hàng này. Trong những
kinh khác, phần kinh văn trường hàng dài, phần kệ
tụng rất ít. Đoạn kinh văn này rất đặc
biệt, văn trường hàng rất ngắn, kệ tụng
gồm ba mươi bài. Mười lăm bài kệ tụng
đầu nhằm trùng tụng mười phương Bồ
Tát đến Tây Phương Cực Lạc thế giới
để cúng dường, nghe pháp.
2.2.3.2.2. Phần kệ tụng nhằm luận
định chi tiết
2.2.3.2.2.1. Trùng tụng sự việc Bồ
Tát cùng đến cúng dường như đă nói trong phần
sau của đoạn [trường hàng] trên đây
2.2.3.2.2.1.1. Trùng tụng chuyện Bồ Tát
cùng đến (gồm hai bài kệ)
(Kinh)
Đông phương chư Phật quốc, kỳ số
như hằng sa, bỉ độ Bồ Tát chúng, văng cận
Vô Lượng Giác. Nam, Tây, Bắc, tứ duy, thượng, hạ diệc phục nhiên, bỉ độ
Bồ Tát chúng, văng cận Vô Lượng Giác.
(經)東方諸佛國,其數如恆沙,彼土菩薩眾,往覲無量覺。南西 北 四維,上下亦復然,彼土菩薩眾,往覲無量覺。
(Kinh:
Các cơi Phật phương Đông, số như cát sông Hằng,
Bồ Tát chúng cơi ấy, thân cận Vô Lượng Giác. Nam,
Tây, Bắc, bốn góc, trên dưới cũng như
thế, Bồ Tát chúng cơi ấy, thân cận Vô Lượng
Giác).
“Đông phương chư Phật
quốc, kỳ số như hằng sa” [nghĩa là] các
cơi Phật ở phương Đông số nhiều như
cát sông Hằng. “Bỉ độ
Bồ Tát chúng, văng cận Vô Lượng Giác” (các vị Bồ Tát trong những cơi ấy
đến thân cận Vô Lượng Thọ Phật). Vô
Lượng Giác là Vô Lượng Thọ Phật. “Cận” (覲) là kẻ làm đệ tử đến lễ
kính sư trưởng, hoặc người vai vế thấp
hơn đến gặp người thuộc vai vế
trên. Cung kính hữu lễ th́ gọi là Cận.
“Nam, Tây, Bắc, tứ duy”:
Phương Nam, phương Tây, phương Bắc. “Tứ duy” (四維) là bốn góc, tức Đông Nam, Tây Nam,
Đông Bắc, Tây Bắc. “Thượng
hạ diệc phục nhiên” [nghĩa là] phía trên, phía
dưới, chư Phật trong thế giới chín
phương đều là như vậy. “Bỉ độ Bồ Tát chúng” (các vị Bồ Tát trong những cơi ấy):
Những vị Bồ Tát trong các thế giới ở chín phương, “văng cận Vô Lượng Giác”,
[nghĩa là] cũng đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới để lễ kính Vô Lượng Thọ
Phật.
2.2.3.2.2.1.2. Kệ tụng về sự cung
kính cúng dường như đă nói trong những phần
kinh văn trước đó
2.2.3.2.2.1.2.1. Thấy Phật, cúng dường
(gồm bốn bài kệ)
(Kinh)
Nhất thiết chư Bồ Tát, các tê thiên diệu hoa, bảo
hương vô giá y, cúng dường Vô Lượng Giác. Hàm
nhiên tấu thiên nhạc, sướng phát ḥa nhă âm, ca thán tối
thắng tôn, cúng dường Vô Lượng Giác. Cứu
đạt thần thông huệ, du nhập thâm pháp môn, cụ
túc công đức tạng, diệu trí vô đẳng luân. Huệ
nhật lăng thế gian, tiêu trừ sanh tử vân, cung kính nhiễu
tam táp, khể thủ Vô Thượng Tôn.
(經)一切諸菩薩,各賷天妙華,寶香無價衣,供養無量覺。咸然奏天樂,暢發和雅音,歌歎最勝尊,供養無量覺。究達神通慧,遊入深法門,具足功德藏,妙智無等倫,慧日朗世間,消除生死雲,恭敬遶三帀,稽首無上尊。
(Kinh:
Hết thảy các Bồ Tát, đều cầm hoa trời
đẹp, hương báu, y vô giá, cúng dường Vô Lượng
Giác. Thảy đều tấu nhạc trời, tiếng
ḥa nhă du dương, ca ngợi đấng tối thắng,
cúng dường Vô Lượng Giác. Thần thông, huệ rốt ráo, chứng nhập pháp môn
sâu, đầy đủ tạng công đức, diệu
trí khôn sánh tầy. Huệ nhật rạng thế gian, tiêu
trừ mây sanh tử, cung kính nhiễu ba ṿng, đảnh lễ
đấng Vô Thượng).
“Nhất thiết chư Bồ
Tát” (hết thảy các Bồ Tát), các vị Bồ
Tát trong những các thế giới của mười
phương vô lượng số chư Phật. “Các tê thiên diệu hoa” (ai nấy cầm hoa trời đẹp
đẽ), “tê” (賷) là đem theo những phẩm vật cúng
dường. Hàng Bồ Tát ở mỗi cơi đều
đem theo vật phẩm cúng dường. Đem theo vật
phẩm cúng dường ǵ vậy? Thiên diệu hoa! “Thiên” (天) có nghĩa là tự nhiên, [“thiên diệu hoa”] là hoa đẹp đẽ chẳng
thể nghĩ bàn. “Bảo
hương, vô giá y”: C̣n có hương báu, tức là
hương tốt nhất; c̣n có y phục vô giá. Đó gọi
là hoa cúng dường, hương cúng dường, y cúng
dường. “Cúng dường
Vô Lượng Giác” [tức là] cúng dường Vô Lượng
Thọ Phật.
“Hàm nhiên tấu thiên nhạc”
(đều cùng tấu nhạc trời): C̣n dùng âm nhạc
để cúng dường, âm nhạc là thiên nhạc. “Thiên” có nghĩa là tự nhiên.
“Thiên nhạc” [có ư nói] mọi
người đều tự nhiên tấu nhạc trời,
dùng âm nhạc để cúng dường. “Sướng phát ḥa nhă âm” (âm ḥa nhă du dương):
Tiếng âm nhạc rất ḥa nhă, lại c̣n xướng lên
lời tán thán. “Ca thán Tối Thắng
tôn” (ngợi ca đấng tối thắng): “Tối thắng
tôn” là Vô Lượng Thọ Phật. Ca vịnh
để tán thán, tức là như nay chúng ta làm Phật sự
bèn xướng những bài tán, dùng âm nhạc, dùng ca hát
để tán thán, để cúng dường Vô Lượng
Thọ Phật. Kế đó là những lời tán thán.
“Cứu đạt thần thông
huệ, du nhập thâm pháp môn, cụ túc công đức tạng,
diệu trí vô đẳng luân, huệ nhật lăng thế gian, tiêu trừ sanh tử
vân” (thần thông, trí huệ rốt ráo, thâm nhập pháp
môn sâu, trọn đủ tạng công đức, diệu
trí khôn sánh tầy, huệ nhật rạng thế gian, tiêu
trừ mây sanh tử): Sáu câu này là sáu câu tán thán. Các vị nếu
biết cách soạn lời tán, hoặc là hiểu nhạc
lư[2], vận
dụng nhạc lư để soạn th́ càng hay hơn nữa,
lại c̣n gieo vần, tán thán công đức của Vô Lượng
Thọ Phật. “Cứu đạt
thần thông huệ” (liễu đạt rốt ráo thần thông và trí huệ):
Vô Lượng Thọ Phật đă thành Phật, thần thông và trí huệ của
Ngài đều đạt đến viên măn rốt ráo. “Du nhập thâm pháp môn” (dạo chơi, tiến nhập pháp môn sâu
xa): Ngài có thể tự do tự tại dạo chơi, tiến
nhập pháp môn rất sâu. “Cụ
túc công đức tạng”: Hết thảy các tạng
công đức Ngài đều trọn đủ. “Diệu trí vô đẳng luân”
(trí mầu khôn sánh tầy): Trí huệ của
Ngài chẳng thể nghĩ bàn, chẳng có ǵ có thể sánh bằng,
nên gọi là “vô đẳng
luân” (無等倫). “Huệ nhật
lăng thế gian” (mặt trời trí huệ sáng ngời thế
gian): Quang minh của Phật giống như “huệ
nhật” (慧日, mặt trời trí huệ). Trí huệ của Phật
giống như mặt trời, mặt trăng, chiếu rạng
ngời thế gian. “Tiêu trừ
sanh tử vân” (tiêu trừ
mây sanh tử): “Vân” (mây) hàm nghĩa che lấp.
Sanh tử che lấp chúng sanh giống như mây sanh tử.
Nay đă tiêu trừ, tiêu trừ
mây sanh tử. Sáu câu này hợp thành bài tán để tán thán
Phật. Tán thán xong rồi lại đảnh lễ. “Cung kính nhiễu tam táp”: Rất
cung kính nhiễu quanh đức Phật ba ṿng. “Khể
thủ Vô Thượng Tôn” (đảnh lễ đấng
Vô Thượng). “Khể thủ”
(稽首) là lại đảnh lễ Vô Lượng
Thọ Phật.
2.2.3.2.2.1.2.2. Thấy cơi nước bèn nguyện
cầu (một bài kệ)
(Kinh)
Kiến bỉ nghiêm tịnh độ, vi diệu nan tư
nghị, nhân phát vô lượng tâm, nguyện ngă quốc diệc
nhiên.
(經)見彼嚴淨土,微妙難思議,因發無量心,願我國亦然。
(Kinh: Thấy cơi nghiêm tịnh ấy,
vi diệu, khó nghĩ bàn; bèn phát tâm vô lượng, nguyện
nước ḿnh cũng thế).
Các vị
đại Bồ Tát trong mười phương thảy
đều đến Tây Phương An Lạc quốc.
Đă tới cơi An Lạc, bèn dâng hiến cúng dường,
tấu âm nhạc, tán thán, đảnh lễ. Đảnh lễ
xong xuôi, “kiến bỉ nghiêm tịnh
độ” (trông thấy cơi trang nghiêm thanh tịnh ấy),
tức là thấy cơi nước Tây Phương An Lạc
là cơi nước thanh tịnh, vi diệu. “Vi diệu” đến mức độ nào? Khó nghĩ,
khó bàn! Do vậy bèn phát vô lượng đại Bồ
Đề tâm, “nguyện ngă quốc
diệc nhiên” (nguyện nước ḿnh cũng thế). “Ngă quốc” ở đây là
các thế giới do các vị Bồ Tát tự nói. Chẳng
hạn như một vị Bồ Tát trong thế giới
chi đó ở phương Đông, Ngài bèn phát nguyện:
“Nguyện cơi nước của con [trong tương lai] cũng
thanh tịnh trang nghiêm, vi diệu khó nghĩ bàn như Tây
Phương Cực Lạc thế giới”. Đấy là
các vị đại Bồ Tát chẳng quên căn bản.
Ngài trở
thành một vị Bồ
Tát như thế nào? Do được đức Phật
trong cơi nước
của chính ḿnh giáo hóa. Đức Phật trong nước
ấy giáo hóa vị Bồ Tát ấy. Đức Phật
trong cơi nước
của vị Bồ Tát ấy chính là Bổn Sư của Ngài. Ân đức Bổn
Sư khó quên; do vậy, Ngài đă tới Tây Phương Cực Lạc
thế giới, trông thấy sự trang nghiêm chẳng thể
nghĩ bàn của Tây Phương Cực Lạc thế giới,
bèn nghĩ sẽ làm thế nào để khiến cho quốc
độ của chính ḿnh cũng trang nghiêm giống như
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chẳng hạn
như chúng ta là một người xuất gia, sau khi đă
xuất gia, thọ giới, nhất định phải
đi ra ngoài tham học. Trông thấy đại tùng lâm của
người ta kiến trúc hết sức trang nghiêm, quy củ và pháp tắc trong ấy hết sức tốt đẹp, bèn nghĩ
sẽ làm cho ngôi tự miếu xuất gia của chính ḿnh cũng
được trang nghiêm giống như ngôi đại tùng lâm ấy. Như vậy th́
mới có thể báo đáp ân của ngôi chùa miếu là
nơi chính ḿnh đă xuất gia.
2.2.3.2.2.1.3. Kệ tụng về chuyện
nghe pháp, tuyên bố đạo hóa (tám bài kệ)
(Kinh)
Ứng thời Vô Lượng Tôn, động dung phát hân tiếu,
khẩu xuất vô số quang, biến chiếu thập
phương quốc. Hồi quang vi nhiễu thân, tam táp tùng
đảnh nhập, nhất thiết thiên nhân chúng, dũng
dược giai hoan hỷ. Đại sĩ Quán Thế Âm,
chỉnh phục khể thủ vấn, bạch Phật hà
duyên tiếu, dụy nhiên nguyện thuyết ư. Phạm thanh do lôi chấn, bát âm sướng
diệu hưởng, đương thọ Bồ Tát kư.
Kim thuyết nhân đế thính. Thập phương lai
Chánh Sĩ, ngô tất tri bỉ nguyện, chí cầu nghiêm tịnh
độ, thọ quyết đương tác Phật, giác
liễu nhất thiết pháp, do như mộng, huyễn,
hưởng, măn túc chư diệu nguyện, tất thành
như thị sát. Tri pháp như điện ảnh, cứu
cánh Bồ Tát đạo, cụ chư công đức bổn,
thọ quyết đương tác Phật, thông đạt
chư pháp tánh, nhất thiết không vô ngă, chuyên cầu tịnh
Phật độ, tất thành như thị sát.
(經)應時無量尊,動容發欣笑,口出無數光,徧照十方國。迴光圍遶身,三帀從頂入,一切天人眾,踊躍皆歡喜。大士觀世音,整服稽首問,白佛何緣笑,唯然願說意。梵聲猶雷震,八音暢妙響,當授菩薩記,今說仁諦聽。十方來正士,吾悉知彼願,志求嚴淨土,受決當作佛。覺了一切法,猶如夢幻響,滿足諸妙願,必成如是剎。知法如電影,究竟菩薩道,具諸功德本,受決當作佛。通達諸法性,一切空無我,專求淨佛土,必成如是剎。
(Kinh: Ngay đó, Vô Lượng
Tôn, lộ vẻ mặt vui cười, miệng phóng vô số
quang, chiếu khắp mười phương cơi. Quang trở
về nhiễu thân, ba ṿng từ đảnh nhập. Hết
thảy chúng trời người, hớn hở, đều
hoan hỷ. Đại sĩ Quán Thế Âm, chỉnh áo, đảnh
lễ hỏi, bạch Phật duyên ǵ cười, kính mong
Ngài nói cho. Tiếng Phạm như sấm rền, tám âm vang
tiếng mầu, sẽ thọ kư Bồ Tát, ta nay nói, lắng
nghe! Mười phương Chánh Sĩ đến, ta đều
biết nguyện họ, chí cầu cơi nghiêm tịnh, thọ
kư quyết thành Phật, thông hiểu hết thảy pháp, ví
như mộng, huyễn, vang, tṛn đủ các diệu nguyện,
ắt thành cơi như thế. Biết pháp như chớp, ảnh,
rốt ráo đạo Bồ Tát, đủ các cội công
đức, thọ kư quyết thành Phật. Thông đạt
tánh các pháp, hết thảy Không, Vô Ngă, chuyên cầu tịnh cơi Phật, ắt thành cơi
như thế).
“Ứng thời Vô Lượng
Tôn, động dung phát hân tiếu, khẩu xuất vô lượng
quang, biến chiếu thập phương quốc” (ngay trong lúc đó, đức Vô Lượng
Thọ Phật, lộ vẻ vui cười, miệng Ngài
phóng ra vô lượng quang minh, chiếu trọn khắp các
cơi nước trong mười phương): “Ứng thời” là đúng vào
lúc mười phương Bồ Tát sắp phát ra nguyện
ấy, “Vô Lượng Tôn”
là đức Thế Tôn Vô Lượng Thọ, cũng là A
Di Đà Phật, “động
dung phát hân tiếu” [nghĩa là] vẻ mặt tỏ lộ nét tươi cười.
“Khẩu xuất vô lượng
quang” (miệng
tỏa ra vô lượng quang minh): Trước khi miệng sắp thuyết
pháp bèn phóng quang trước. Quang minh chiếu trọn khắp
mười phương quốc độ.
“Hồi quang vi nhiễu thân, tam
táp tùng đảnh nhập, nhất thiết thiên nhân chúng, dũng
dược giai hoan hỷ” (quang minh trở về xoay ṿng quanh thân Phật ba
ṿng rồi nhập vào đỉnh đầu đức Phật.
Hết thảy trời người hớn hở, đều
hoan hỷ): “Hồi quang vi nhiễu
thân” (quang
minh trở lại xoay ṿng quanh thân): Quang minh ấy sau khi thâu hồi, bèn nhiễu
quanh thân của chính Ngài. “Tam táp
tùng đảnh nhập” (ba ṿng, theo đỉnh
đầu mà vào): [Quang minh đă phóng ra bèn]
nhiễu quanh thân của
chính Ngài ba ṿng, lại từ đỉnh đầu, thâu hết
quang minh trở vào thân. “Nhất
thiết thiên nhân chúng, dũng dược giai hoan hỷ”
[nghĩa là] thiên chúng và nhân chúng trông thấy Vô Lượng
Thọ Phật phóng quang minh, ai nấy hớn hở, sanh
ḷng hoan hỷ to lớn.
“Đại sĩ Quán Thế Âm,
chỉnh phục khể thủ vấn, bạch Phật hà
duyên tiếu, dụy nhiên nguyện thuyết ư” (Đại
Sĩ Quán Thế Âm chỉnh đốn y phục, đảnh lễ thưa hỏi,
bạch Phật do duyên ǵ mà cười? Kính xin đức
Phật hăy nói cho con biết ư nghĩa): “Đại Sĩ Quán Thế Âm” tức là Quán Thế
Âm đại sĩ. Hai chữ Bồ Tát dịch sang tiếng
Hán cũng được dịch là Đại Sĩ, hoặc
c̣n dịch là Chánh Sĩ, hoặc c̣n dịch là Khai Sĩ. “Quán Thế Âm đại sĩ”
là thủ tọa trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới, Ngài là vị Bồ Tát đệ nhất. Do vậy,
Ngài phải đứng ra thưa hỏi. “Chỉnh phục khể thủ vấn” [nghĩa
là] Quán Thế Âm đại sĩ liền chỉnh đốn
y phục của ḿnh, nhằm biểu lộ ḷng cung kính. Bồ
Tát đến trước đức Phật, dập đầu
làm lễ, hỏi Phật Thích Ca, “bạch Phật hà duyên tiếu” (bạch đức
Phật, do duyên ǵ mà Ngài cười). Đức Thế Tôn,
do nhân duyên ǵ mà Ngài hiện vẻ tươi cười. “Dụy nhiên nguyện thuyết
ư”: “Dụy nhiên” là khẩu
ngữ khi chuyện tṛ của người Ấn Độ.
[Câu này có nghĩa là] thỉnh cầu đức Thích Ca Thế
Tôn nói rơ tâm ư của Ngài, v́ sao Ngài cười?
“Phạm thanh do lôi chấn, bát âm
sướng diệu hưởng, đương thọ Bồ
Tát kư, kim thuyết nhân đế thính” (tiếng Phạm như sấm rền, âm
thanh của Phật có tám đặc tánh tốt lành thốt
lên vang vọng vi diệu, [đức Phật nói]: Ta sẽ
thọ kư cho Bồ Tát, ta nay sẽ nói, nhân giả hăy lắng
nghe). Âm thanh của đức Phật trọn đủ tám loại âm thanh.
Trước hết, tôi nói về tám thứ âm thanh:
1) “Cực hảo âm”: Đây là
nói tổng quát về âm thanh của đức Phật, là âm thanh tột bậc êm tai, êm
tai cỡ nào? Những loại dưới đây đều
là những danh xưng riêng nhằm phân biệt rành rẽ sự
hay đẹp của âm thanh ấy.
2) “Nhu nhuyễn âm”: Âm thanh của
Phật hết sức mềm mỏng. V́ đức Phật
chẳng có vô minh phiền năo, chẳng có khí chất cứng
cỏi, hung bạo, mà hết sức mềm mỏng. Do vậy
gọi là Nhu Nhuyễn Âm.
3) “Ḥa thích âm”: Lời lẽ
đức Phật nói ra, âm thanh nói năng rất nhu ḥa,
thích đáng. Ḥa hoăn, thích đáng như thế nào? Tức là
khi nói năng, trầm, bổng, nhanh, chậm [đều
thích đáng], chẳng vội vă, chẳng rề rà. Đó là
âm thanh êm đềm thích đáng nhất.
4) “Tôn huệ âm”: Ví như một
người có học vấn, vừa nghe người ấy
nói năng sẽ biết người ấy có học vấn.
Vừa nghe đức Phật nói năng, liền biết Ngài là người có trí huệ.
Trí huệ của Ngài vượt trỗi trí huệ của
hàng Bồ Tát, là trí huệ tôn quư nhất.
5) “Bất nữ âm”: Đây là
để phân biệt tách bạch “nhu nhuyễn âm” và “ḥa
thích âm”. “Nhu nhuyễn âm”
và “ḥa thích âm” có thể là âm
thanh của nữ nhân. Chẳng phải vậy, [tiếng
nói của] Phật không có âm thanh của nữ nhân.
6) “Bất ngộ âm”: Đức
Phật thuyết pháp là ứng cơ thuyết pháp. Ngài quán
cơ trao truyền giáo pháp phù hợp, chẳng hề sai lầm!
7) “Thanh viễn âm”: Âm thanh của
đức Phật quư vị nghe ở gần sẽ chẳng
phải là âm thanh quá lớn. Nghe ở chỗ xa, cũng chẳng
phải là tiếng quá nhỏ. Hiện thời, các nhà y học
biết trong cổ họng con người có một sợi thanh đới (vocal cord). Từ thanh đới
sẽ phát ra âm thanh, nhưng “thanh
viễn âm” như trong kinh Phật đă nói chẳng phải
do từ thanh đới phát ra, mà thường gọi là “khí luân phát âm”, tức là âm
thanh phát ra từ bụng. Thanh viễn âm chẳng cần đến thanh đới
th́ có được hay không? Đương nhiên là cần có thanh đới, nhưng chỉ có thanh
đới th́ sẽ chẳng đủ để vang xa. Nhất
định phải là âm thanh phát ra từ bụng th́ mới
có thể vang xa. Trong phần trước, tôi đă giải
thích với mọi người, hiện thời là thời
đại khoa học, Phật giáo có những chỗ nêu ra
danh tướng và đạo lư chẳng phù hợp khoa học,
đệ tử Phật phải vận dụng trí huệ để dung hội quán thông, chớ
nên tôn sùng khoa học rồi đả đảo Phật
giáo. Tuy trong kinh Phật chẳng nhắc đến thanh
đới, nhưng chỉ có thanh đới, sẽ chẳng
thể phát âm vang xa. V́ sao? Nếu là kẻ thân thể suy
nhược, họ nói năng đúng là nghe không ra, họ
có thanh đới đấy chứ! Nhưng chỉ có thanh
đới mà khí chẳng đủ, âm thanh phát ra sẽ
mười phần yếu ớt. Quư vị cứ thử
nghiệm một phen sẽ biết: Âm thanh phát ra từ bụng
sẽ hết sức vang dội, rơ ràng. Đấy là chẳng cần phải mê
muội tin vào khoa học để dẫn chứng.
8) “Bất kiệt âm”: Chúng ta nói
quá nhiều, sẽ hết hơi! Đó là Kiệt (cạn
kiệt), Chỉ có thanh đới sẽ vô dụng. “Kiệt” (竭) là cạn sạch. Đó gọi là “tiếng rè, sức cạn”, nói không ra tiếng! Đức Phật suốt ngày từ sáng đến
tối thuyết pháp, trước nay cổ họng chưa
hề bị rát, chẳng có hiện tượng nói không ra
tiếng, nên gọi là “bất
kiệt âm”.
“Phạm thanh do lôi chấn” (tiếng Phạm như sấm rền): “Phạm
thanh” là lời xưng tụng chung, khen
ngợi chung âm thanh của đức Phật là phạm
thanh. “Phạm thanh” có nghĩa
là [âm thanh] “thanh tịnh”. “Do lôi chấn” (như sấm rền): Đức Phật
thuyết pháp nhằm cảnh giác chúng sanh, [câu kệ này] nhằm
nêu lên ư nghĩa cảnh giác, chẳng phải là như trời
nổi sấm, nổ rất lớn tiếng, khiến cho người ta bị dọa
sợ nhảy dựng! Chẳng phải là như vậy,
đức Phật thuyết pháp giống như “sư tử hống” (sư tử
rống). “Sư tử hống”
là h́nh dung đức Phật thuyết pháp, có thể dùng âm
thanh hàng phục thiên ma, ngoại đạo, hoàn toàn chẳng
giống như sư tử rống lớn tiếng như
vậy! Phải hiểu đạo lư này! “Phạm thanh do lôi chấn”: Đức Phật
thuyết pháp là âm thanh thanh tịnh, có thể cảnh giác
chúng sanh, giống như trời nổi sấm vậy, mang
ư nghĩa cảnh tỉnh.
“Bát âm sướng diệu hưởng”
(giọng nói có đủ tám âm (tám đặc
tánh) vang vọng mầu nhiệm). Phân tích tỉ mỉ, âm
thanh của đức Phật có trọn đủ tám loại âm. “Sướng diệu hưởng” (vang vọng tiếng mầu
nhiệm): Từ âm thanh mới xuất
phát tiếng vang, đều là vang vọng chẳng thể
nghĩ bàn. Vô Lượng Thọ Phật mở miệng nói
năng là nói ǵ vậy? Hai câu sau
đấy đă nêu rơ: “Đương
thọ Bồ Tát kư” (sẽ thọ kư cho hàng Bồ Tát). Này Quán Thế Âm
đại sĩ, chẳng phải là ông đă hỏi v́ sao
ta hiện vẻ tươi cười ư? Hôm nay có thể
có một đại sự, hôm nay ta sẽ thọ kư mười
phương chư Phật [vị lai] sẽ đều
thành Phật. “Thọ kư” (授記) là danh từ chuyên môn của Phật giáo.
Đấy là một đại sự trong suốt một
đời tu hành của hàng Bồ Tát. Tu hành suốt hai
đại A-tăng-kỳ kiếp, khi đă đạt tới
Bát Địa Bồ Tát th́ mới được thọ kư
thành Phật. Do c̣n có một đại A-tăng-kỳ kiếp,
vị Bồ Tát ấy sẽ thành Phật. Đấy là một
điển lễ long trọng nhất, bởi lẽ, vị
Bồ Tát ấy dụng công tu hành, chẳng phí uổng
hơi sức, có phần thành Phật. Đức Phật sẽ đối trước
vị ấy, ấn chứng trong tương lai, vị ấy sẽ
thành Phật trong thế giới nào đó, danh hiệu là Phật
ǵ? Như kinh Kim Cang đă nói, Nhiên Đăng Phật thọ
kư cho Thích Ca Mâu Ni Phật, có ư nghĩa giống nhau.
“Kim thuyết, nhân đế thính”
(nay ta sẽ nói, nhân giả hăy lắng nghe).
Câu kệ tụng chỉ có năm chữ, trong phần
trước, Quán Thế Âm Bồ Tát đă hỏi v́ sao ta lộ
vẻ tươi cười? Ta nói cho ông biết. “Nhân” là nhân giả (仁者, bậc có ḷng nhân), đức Phật tôn
xưng Quán Thế Âm Bồ Tát là “nhân
giả”. Ông phải ‘đế
thính” (lắng nghe). “Đế”
(諦) có nghĩa là “tường
thẩm”, Tường (詳) là cặn kẽ, Thẩm (審) là suy xét. Đức Phật thuyết
pháp, đều bảo đệ tử hăy “đế thính”.
“Đế thính” là phải nghe cho tường tận, cặn
kẽ, phải thật sự nghe. Đức Phật bảo
Quán Thế Âm Bồ Tát “đế
thính” cũng giống như dạy chúng ta phải đế
thính. Quư vị nghe pháp, phải nghe tường tận, nghe
cặn kẽ, phải chân thật lắng nghe th́ mới có
thể đạt được lợi ích chân thật
nơi Phật pháp.
“Thập phương lai Chánh Sĩ,
ngô tất tri bỉ nguyện, chí cầu nghiêm tịnh độ.
thọ quyết đương tác Phật” (các vị Chánh Sĩ từ mười
phương đến, ta đều biết nguyện của
họ là dốc chí mong cầu cơi nước trang nghiêm,
thanh tịnh. Ta thọ kư họ chắc chắn sẽ thành
Phật). “Thập phương
lai Chánh Sĩ” (các vị
Chánh Sĩ đến từ mười phương): Chánh Sĩ (正士) dịch từ chữ Bồ Tát. Đại
Sĩ cũng dịch từ chữ Bồ Tát. [Câu này có nghĩa]
các vị đại Bồ Tát đến từ mười
phương. “Ngô tất tri bỉ
nguyện” (ta đều biết nguyện của họ): “Tất” (悉) là Giai
(皆, đều). Ta đều biết, thảy
đều biết, biết “bỉ”
(họ), biết mỗi vị Bồ Tát phát nguyện
như thế nào. Tức là họ trông thấy quốc
độ của ta trang nghiêm, họ nghĩ lại quốc
độ của chính ḿnh, cũng mong trang nghiêm nó giống y như vậy. Ta biết đại
nguyện này của họ. “Chí
cầu nghiêm tịnh độ” (dốc chí mong cầu cơi nước trang nghiêm,
thanh tịnh). “Chí” (志) là “nguyện”. Chí
nguyện của họ là mong cầu một quốc độ
thanh tịnh trang nghiêm. “Thọ
quyết đương tác Phật” (thọ kư họ quyết định sẽ
thành Phật): Đă phát đại nguyện ấy, họ
sẽ có tư cách thành Phật. “Thọ
quyết” (受決) là thọ kư. Thọ kư họ trong tương
lai, quyết định sẽ thành Phật. V́ sao họ phát đại
nguyện này? Họ phát nguyện này chẳng phải để
chính ḿnh hưởng thụ, mà v́ độ hết thảy
chúng sanh, giống như ta là A Di Đà Phật, v́ sao phải
trang nghiêm thế giới Cực Lạc? V́ độ mười
phương chúng sanh đó thôi! Hiện thời, các vị Bồ
Tát từ mười phương đến, họ phát
nguyện muốn trở về trang nghiêm quốc độ
của chính ḿnh, chẳng phải là để cho chính họ
hưởng thụ, mà là v́ độ mười
phương chúng sanh. Do vậy bèn có tư cách thành Phật,
cho nên ta sẽ thọ kư họ thành Phật.
Chúng ta
nghe kinh điển Đại Thừa đă quen, rất dễ
liễu giải đạo lư này. Nhưng chúng ta suy ngẫm,
tâm nguyện của phàm phu, những chuyện phàm phu đă
làm đều thua kém Bồ Tát quá xa, Bồ Tát trang nghiêm quốc
độ của chính ḿnh, nguyện cho mười
phương chúng sanh đều đến quốc độ
chính ḿnh để tu hành thành Phật. [Đối với
người] nghe kinh
điển Đại Thừa đă quen, điều này chẳng
đáng coi là hiếm hoi, lạ lùng chi, [thế nhưng] phải ngẫm nghĩ chúng ta nay đang là
phàm phu trong thế giới Sa Bà, thật sự thua kém quá xa! Cớ sao thua kém quá xa? Anh em ruột cùng cha
cùng mẹ, v́ tranh giành một căn nhà, sẽ c̣n căi cọ,
c̣n muốn lôi nhau ra ṭa. Nhà của anh chẳng nhường
cho em ở, nhà của em chẳng nhường cho anh ở. Vậy th́ hàng xóm láng giềng làm sao có thể
đến ở trong nhà ta cho được? Quư vị hăy
ngẫm xem, đấy chẳng phải là thua kém quá xa hay
sao? Đấy là những kẻ chẳng học Phật
pháp trong xă hội, coi một căn nhà c̣n nghiêm trọng hơn
tam thiên đại thiên thế giới, v́ họ chẳng học
Phật pháp. Chúng ta là người xuất gia, phải phát
đại tâm, trong phần trước đă có nói, thượng
bối văng sanh là người xuất gia. Người xuất
gia phải tu công đức lớn lao. Tu công đức lớn
lao th́ phải tu như thế nào? Quư vị phải mở
đạo tràng độ chúng sanh, độ hết thảy
chúng sanh xuất gia, chẳng phải là độ anh em của
ta. Ta căn bản chẳng có anh, mà cũng chẳng có em, vậy
th́ độ bằng cách nào? Có anh, có em, mà họ chẳng
muốn xuất gia, ta cũng chẳng độ được!
Ta muốn mở đạo tràng độ người
trong mười phương, cái tâm ấy là tâm Bồ Tát.
Quư vị phát cái tâm to lớn ấy, sẽ có thể tu công
đức to lớn, tu như thế nào? Ta lập một
đạo tràng, dựng một tự viện, người
đến càng đông, tâm ta càng hoan hỷ. Phát nguyện to,
có thức ăn ngon, mọi người ăn ngon hơn một
chút. Tự viện rất thanh bần th́ ăn dở
hơn một chút, mọi người đồng cam cộng
khổ, nhưng chẳng sợ rất nhiều người,
người càng nhiều, tâm ta càng hoan hỷ. Ta phát đại
thệ nguyện ấy, ta muốn mở đạo tràng
to, muốn thành tựu người xuất gia trong mười
phương. Đó gọi là Bồ Tát. Quư vị sanh về
Tây Phương cũng là thượng bối văng sanh. Tiếp
đó, Vô Lượng Thọ Phật, tức A Di Đà Phật,
sẽ giảng phương pháp tu hành. Chỉ phát nguyện
suông sẽ chẳng được, nguyện đă phát là
nguyện rỗng tuếch; c̣n phải lập hạnh môn, tức là dụng công tu hành.
“Giác liễu nhất
thiết pháp, do như mộng, huyễn, ảnh, măn túc
chư diệu nguyện, tất thành như thị sát” (giác liễu hết thảy các pháp như mộng, huyễn, ảnh, viên
măn các nguyện mầu nhiệm, ắt thành cơi như thế).
Đây là đức Phật giảng cho Quán Thế Âm Bồ
Tát, mà cũng là bảo các vị đại Bồ Tát từ
mười phương đến, nay ta sẽ thọ kư
quư vị thành Phật, quư vị c̣n một đại
A-tăng-kỳ kiếp nữa là thành Phật. Quư vị chỉ
phát đại nguyện suông th́ vẫn không được,
quư vị phải
lập đại hạnh,
phải thật sự trang nghiêm quốc độ của
chính ḿnh. Trang nghiêm như thế nào?
Thứ
nhất, quán pháp hữu vi là Không, chớ nên chấp tướng.
Phải “giác liễu nhất
thiết pháp”. “Nhất thiết
pháp” là hết thảy các pháp hữu vi, giác liễu chúng
bằng cách nào? Giác ngộ, hiểu rơ hết thảy các pháp hữu vi, “do
như mộng, huyễn, hưởng” [nghĩa là] giống
như nằm mộng, giống như huyễn hóa, giống
như tiếng vọng. “Mộng,
huyễn, hưởng”, hết thảy các pháp giống
như nằm mộng, quư vị chấp trước ǵ nữa?
Trong Chứng Đạo Ca của thiền sư Vĩnh Gia
có câu: “Mộng trung minh minh hữu
lục thú, giác hậu không không vô đại thiên” (trong mộng rành rành có sáu nẻo, giác rồi
ba cơi rỗng toang hoang). Khi quư vị nằm mộng, “lục thú” (六趣, sáu đường, lục đạo)
đều có. Quư vị có thể mộng lên thiên đường,
có thể mộng xuống địa ngục. Quư vị có
thể mộng thấy đời sau, kiếp sau làm một
người đại phú, đại quư. “Lục thú” là lục đạo luân hồi, rành
rành là có, thật ra là v́ đang nằm mộng! Nhưng sau
khi quư vị đại giác, đại ngộ, “giác hậu không không vô đại
thiên” (giác rồi ba cơi rỗng toang hoang), quư vị tỉnh
giấc, thiên đường ở chỗ nào? Địa
ngục ở chỗ nào? Đấy là lư luận cao nhất
của Phật giáo; do đó, Phật pháp khó học ở
ngay tại chỗ này. Quư vị chẳng tin tưởng thiên đường, địa ngục.
Trước hết, bảo với quư vị, quư vị nhất
định phải tin tưởng [thiên đường,
địa ngục]. Chẳng tin, quư vị sẽ chẳng
tin tưởng nhân quả. Quư vị chẳng tin vào nhân quả
ba đời, sẽ chẳng làm việc thiện, toàn làm
chuyện ác, khiến cho chính ḿnh đọa vào địa
ngục, lẽ nào thành Phật cho nổi? Nhất định
phải tin tưởng “thiện có thiện báo,
ác có ác báo”, thật sự có thiên đường, có
địa ngục. Đó là cảnh giới của phàm phu.
C̣n có công phu tiến cao hơn bước nữa, quư vị
phải biết phàm phu tin vào pháp hữu vi. Pháp hữu vi là
pháp có tạo tác, do phàm phu tạo ra. Quư vị tạo thiên
đường, bèn có thiên đường. Quư vị tạo
địa ngục, bèn có địa ngục. Đợi đến khi quư vị đă giác ngộ,
chuyển từ phàm phu thành một vị thánh nhân, sẽ
đối với cảnh giới của phàm phu, “một thứ đă không, hết thảy
đều không”, giống như nằm mộng, c̣n có ǵ
đáng để chấp trước nữa chăng? Giống
như huyễn hóa. Giống như nhà ảo thuật biến
hóa thế giới, quư vị có ǵ để chấp trước
nữa đây? Giống như tiếng vọng. Chúng ta ở
trong hang núi, quư vị hô một tiếng, nơi ấy nhất
định có tiếng vọng lại. Quư vị kêu tiếng
nhỏ, tiếng vọng nhỏ. Quư vị lớn tiếng
kêu, nó vọng lại tiếng lớn. Quư vị chẳng gọi,
chẳng có tiếng vọng. Quư vị nói tiếng vọng
là do có ai đó ở bên kia [đáp trả] hả? Chẳng
có ai đâu nhé! Chẳng thể nói là không có tiếng vọng,
nhưng bản thể của tiếng vọng là rỗng
không. Pháp hữu vi trong thế gian đều là như mộng,
như huyễn, như tiếng vọng. Trước hết,
hăy quán pháp hữu vi là Không. Quán Không, đừng nên rơi
vào cảnh giới Tiểu Thừa, đừng rơi vào
bên Thiên Không.
“Măn túc chư diệu nguyện”
(thỏa măn trọn vẹn các nguyện mầu
nhiệm): Quán pháp hữu vi là Không, vừa khéo để
phát đại tâm, hành Bồ Tát đạo th́ mới có thể
thỏa măn “chư diệu nguyện”
(các nguyện
mầu nhiệm) của
quư vị. Quư vị phát đại nguyện là nguyện
suông, phải dùng hạnh môn của chính ḿnh, dùng nó để
thực hiện th́ mới có thể thỏa măn nguyện.
Quư vị chẳng tu hạnh môn, làm sao có thể măn nguyện
được? Quư vị c̣n trang nghiêm cơi nước Phật
của chính ḿnh, tu hết thảy công đức to lớn
để trang nghiêm quốc độ thanh tịnh. “Tất thành như thị sát”
(ắt
thành cơi như thế), nghĩa là chắc chắn có thể trang nghiêm quốc
độ của quư vị giống như thế giới
Cực Lạc của ta.
“Tri pháp như điện, ảnh,
cứu cánh Bồ Tát đạo, cụ chư công đức
bổn, thọ quyết đương tác Phật” (biết các pháp như tia chớp, như h́nh
bóng, rốt ráo đạo Bồ Tát, đầy đủ
các cội công đức, ta thọ kư người ấy chắc
chắn sẽ thành Phật). “Tri
pháp như điện ảnh” (biết các pháp như tia chớp và h́nh bóng): [“Điện” (電, tia chớp) và “ảnh” (影, h́nh bóng)] là hai tỷ dụ, chẳng phải là điện
ảnh (phim ảnh) như chúng ta đang xem trong hiện thời;
v́ thuở đức Phật tại thế, c̣n chưa phát
minh điện ảnh! Bài kệ tụng trong phần cuối
kinh Kim Cang là: “Nhất thiết
hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ
diệc như điện” (hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn,
bọt, bóng, như sương cũng như chớp). “Như mộng, huyễn, bào, ảnh”,
đấy là Ảnh. “Như lộ, diệc như điện” (như sương, cũng
như chớp), đấy
là Điện. Hết thảy các pháp hữu vi như “điện”, tức là như
khi trời âm u, đổ mưa, trong hư không có tia chớp,
sáng ḷa một cái rồi chẳng thấy nữa. Đây là
h́nh dung hết thảy các pháp hữu vi vô thường, rất
nhanh chóng chẳng có nữa. Hết thảy các pháp hữu vi như “ảnh”, đấy là h́nh dung hết thảy các
pháp hữu vi chẳng thật sự tồn tại. Quư vị
thấy có thứ chi đó, nó là bóng dáng, chẳng phải là
bản thể chân thật. Hết thảy các pháp hữu vi
đều như bóng dáng, giống như hiện thời
phát minh ra điện ảnh, đem gộp chung hai thứ lại, cũng có thể dùng làm thí dụ. Phim ảnh
chẳng phải là thứ hư huyễn, chẳng thật
hay sao? Quư vị thấy t́nh huống trong vở kịch buồn, vui, chia ĺa, tái hợp, diễn xuất khá lắm. Diễn đến
nỗi khi hoan hỷ, quư vị ngoác miệng cười
theo ầm ầm. Diễn đến chỗ bi
thương, đau đớn, quư vị cũng ứa
nước mắt theo. Quư vị coi nó thành một thứ
thật sự, chẳng biết khi phim kết thúc, phim hết
người tan, thứ ǵ cũng đều chẳng có. Hết
thảy các pháp hữu vi đều là như vậy,
như tia chớp vô thường, như ảnh chẳng thật
sự tồn tại, giống như phim ảnh kết hợp,
hư huyễn chẳng thật.
“Cứu cánh Bồ Tát đạo”
(rốt ráo Bồ Tát đạo): Quư vị
biết rơ triệt để pháp hữu vi như chớp,
như ảnh, quư vị mới có thể hoàn thành rốt
ráo Bồ Tát đạo của chính ḿnh, tức là khi quư vị
hành Bồ Tát đạo, tuyệt đối chớ nên chấp
tướng. Hễ chấp tướng, Bồ Tát đạo
của quư vị sẽ chẳng thể rốt ráo. “Cứu cánh” (究竟) có nghĩa là viên măn. Quư vị chẳng thể
viên măn. Chẳng chấp tướng th́ sẽ tu hành, khi tu
hành vẫn đừng nên chấp tướng, đấy
mới có thể rốt ráo Bồ Tát đạo. “Cụ chư công đức bổn”
(trọn đủ cội công đức): Hết
thảy căn bản của công đức quư vị đều
đầy đủ. “Thọ
quyết đương tác Phật” (thọ kư [người như vậy] chắc
chắn sẽ thành Phật): Quư vị được thọ
kư thành Phật, trong tương lai chắc chắn sẽ
làm Phật.
“Thông đạt chư pháp tánh, nhất
thiết Không, Vô Ngă, chuyên cầu tịnh
Phật độ, tất thành như thị sát” (thông đạt tánh của pháp: hết thảy đều là Không, Vô Ngă, chuyên cầu cơi Phật thanh tịnh, ắt
thành cơi như thế): Đây vẫn là khơi mở,
hướng dẫn chư đại Bồ Tát trang nghiêm
cơi Phật như thế nào? Vẫn phải quán pháp hữu vi là Không. “Thông đạt chư pháp tánh” (thông đạt tánh của các pháp): Hết
thảy các pháp hữu vi thiên sai vạn biệt, chúng có bản
tánh. “Bản tánh” là Không Tánh,
[tức
là] chẳng có bản thể,
chẳng có tự tánh. Điều này được gọi
là Pháp Tánh của hết thảy các pháp. V́ sao Pháp Tánh của
hết thảy các pháp chẳng có bản thể? Hết thảy
các pháp sanh từ nhân duyên; pháp sanh bởi nhân duyên th́ chẳng có bản thể,
chẳng có tự tánh. Duyên tụ bèn sanh, duyên tán bèn diệt,
chẳng t́m được bản thể của nó. Ví
như pháp hội giảng kinh của chúng ta, quư vị nói
xem, pháp hội giảng kinh này có pháp hay không? Có chứ! Ở
nơi đây, tôi đang giảng kinh, quư vị đang nghe
kinh, có giảng đường, c̣n có bàn, ghế. Đấy
chẳng phải là một pháp hội giảng kinh rất
trang nghiêm, rất long trọng hay sao, cớ sao chẳng có? Quư vị hăy t́m bản thể của nó, bản thể
của nó là ǵ vậy? Quư vị t́m tự tánh của nó, thứ
ǵ cũng chẳng t́m thấy. Nó là pháp sanh bởi các duyên.
Tôi tới giảng kinh, các vị đến nghe kinh, lại
c̣n chuẩn bị giảng đường, chuẩn bị
bàn ghế, pháp hội này bèn thành tựu. Đó gọi là “duyên tụ bèn sanh”. Đợi đến khi tôi giảng xong, tôi đi rồi,
các vị cũng đi rồi, bàn ghế đều dọn
cất, rỗng tuếch! Pháp nào là bản thể tự
tánh của giảng đường? Chẳng có! Bản
tánh của hết thảy các pháp đều là như thế
đó. “Nhất thiết Không, Vô Ngă” (hết thảy là Không, Vô Ngă): Hết thảy các pháp đều rỗng
không. Đă là rỗng không, “trong” chẳng có ta, “ngoài” chẳng
có cái của ta (ngă sở). Đă chẳng có ta, há có pháp sở
hữu bởi ta? Đấy gọi là “hết thảy các pháp đều Không”. Quư vị
đă ngộ “hết thảy
các pháp đều Không” rồi lại “chuyên cầu tịnh Phật độ”, [tức là] quư vị mới có thể chuyên tâm nhất
ư thanh tịnh cơi Phật của quư vị. “Tất thành như thị sát” (ắt thành cơi như thế): Vậy th́ quư vị
trang nghiêm thế giới Cực Lạc sẽ nhất
định hoàn thành!
A Di
Đà Phật thuyết pháp, nói ra pháp môn tu hành, là pháp môn
trang nghiêm tịnh độ. Ba bài kệ tụng đă dạy
chúng ta tu hành như thế nào? Đă phát nguyện th́ phải
tu hành ra sao? Trước hết, ắt cần phải quán
pháp hữu vi là Không. [Ắt phải thực hành] ba bài kệ
tụng đều như nhau th́ mới có thể hành Bồ
Tát đạo, mới có thể trang nghiêm cơi Phật.
Đây hoàn toàn chẳng phải là những lời thọ kư
cho các vị đại Bồ Tát, những vị ấy
đều là Bát Địa Bồ Tát, c̣n cần phải nói
cặn kẽ chi nữa? Đây là [những lời dạy]
truyền sang thế giới Sa Bà nhằm nói cho chúng ta là
hàng Sơ Phát Tâm Bồ Tát nghe. Rất khó có là các vị phát đại nguyện, mong kiến lập một
đạo tràng, hễ quư vị chấp tướng,
căn bản là quư vị chẳng thành công. Nói theo bản
thân chúng ta, ví như ba người chúng ta đều xuất
gia, đều phát đại nguyện, muốn tạo lập
một tự viện vĩ đại, muốn rộng
độ hết thảy mọi người xuất gia ở
nơi này, chúng ta phải ấn định một quy củ
đàng hoàng ḥng những người xuất gia ở
đây đều đi theo thánh đạo. Thệ nguyện
ấy đă phát đúng rồi, chúng ta mới bắt đầu
xây dựng đạo tràng này. Đấy là tu hành, đấy
là phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo. Hành Bồ
Tát đạo th́ quư vị phải nhớ kỹ: Chẳng
thể chấp tướng! Hễ quư vị chấp tướng,
chúng ta đều là phàm phu, ư kiến sẽ xung đột.
Đạo tràng c̣n chưa thành công mà đă tranh danh trước,
đoạt lợi trước! Ví như một ngôi chùa to,
ai sẽ làm Trụ Tŕ, ai làm Giám Viện, ai làm hộ tŕ? Ba
người ấy tranh giành; đấy là tranh danh. Nếu
như dựng một ngôi chùa, quy mô c̣n chưa hoàn thành, tín
đồ đến dâng hương, lễ bái, sẽ cúng
dường. Món tiền ấy sẽ đưa cho ai trông
coi? Quư vị dùng nhiều hơn mấy đồng không
được đâu nhé! Chúng ta tính toán sổ sách, ba người tranh chấp ư kiến. Đạo
tràng ấy trọn chẳng thể hoàn thành. Muốn hoàn
thành một “như thị sát”
(cơi nước như thế), [dù là] cơi Phật hay là một
ngôi chùa, hễ quư vị chấp tướng, sẽ chẳng
làm tốt đẹp được. Những điều
này nhằm nói cho chúng ta nghe. Ba người ấy sẽ thất
bại, đúng là mười phương chư Phật
đều phải thở dài! Quư vị hăy ngẫm xem,
người tin tưởng
Phật nhiều ngần
ấy, có ai chịu phát tâm xuất gia? Rất khó có ba
người phát tâm xuất gia như thế ấy, [bởi
lẽ], người xuất gia rất đông, có ai muốn
phát tâm mở một thập phương đạo tràng?
Ba người ấy phát tâm muốn tạo dựng đạo
tràng, đấy chẳng phải là ba người xuất
gia thật sự khó có ư? Kết quả là do chấp
tướng, chẳng mở đạo tràng thành công, mười
phương chư Phật đều phải thở dài!
Trên
đây đă giảng mười lăm bài kệ, mười
phương Bồ Tát tới Tây Phương Cực Lạc
thế giới, thân cận A Di Đà Phật, được
thọ kư. Dưới đây c̣n có mười lăm bài kệ
tụng, chia thành hai đoạn: Năm bài kệ tụng
đầu là mười phương chư Phật sai các
Bồ Tát đệ tử của các Ngài đến thân cận
A Di Đà Phật. Tôi giảng đoạn này trước.
2.2.3.2.2.2. Trùng tụng chư Phật cùng
tán thán
2.2.3.2.2.2.1. Trùng tụng mười
phương chư Phật cùng tán thán (gồm năm bài kệ)
(Kinh)
Chư Phật cáo Bồ Tát, linh cận An Dưỡng Phật,
văn pháp nhạo thọ hành, tật đắc thanh tịnh
xứ. Chí bỉ nghiêm tịnh quốc, tiện tốc
đắc thần thông, tất ư Vô Lượng Tôn, thọ
kư thành Đẳng Giác. Kỳ Phật bổn nguyện lực,
văn danh dục văng sanh, giai tất đáo bỉ quốc,
tự trí Bất Thoái Chuyển. Bồ Tát hưng chí nguyện,
nguyện kỷ quốc vô dị, phổ niệm độ
nhất thiết, danh hiển măn thập phương. Phụng
sự ức Như Lai, phi hóa biến chư sát, cung kính hoan
hỷ khứ, hoàn đáo An Dưỡng quốc.
(經)諸佛告菩薩,令覲安養佛,聞法樂受行,疾得清淨處。至彼嚴淨國,便速得神通,必於無量尊,受記成等覺。其佛本願力,聞名欲往生,皆悉到彼國,自致不退轉。菩薩興至願,願己國無異,普念度一切,名顯滿十方。奉事億如來,飛化徧諸剎,恭敬歡喜去,還到安養國。
(Kinh: Chư Phật bảo Bồ
Tát, thân cận An Dưỡng Phật, nghe pháp, thích thọ hành, mau được chốn
thanh tịnh. Đến cơi nghiêm tịnh ấy, sẽ mau
đắc thần thông. Ắt được Vô Lượng
Tôn, thọ kư thành Đẳng Giác. Do nguyện lực Phật
ấy, nghe danh, muốn văng sanh, thảy đều đến
cơi đó, tự đạt Bất Thoái Chuyển. Bồ Tát
dấy chí nguyện, nguyện
nước ḿnh chẳng khác, niệm độ khắp hết
thảy, danh rạng trọn mười phương. Phụng
sự ức Như Lai, bay, biến khắp các cơi, cung kính,
hoan hỷ đi, trở về nước An Dưỡng).
“Chư Phật cáo Bồ Tát, linh
cận An Dưỡng Phật, văn pháp nhạo thọ
hành, tật đắc thanh tịnh xứ” (chư Phật bảo Bồ Tát, dạy họ
hăy thân cận vị Phật trong cơi An Dưỡng, nghe
pháp, ưa thích, vâng nhận, hành tŕ, sẽ mau chóng đạt
được chốn thanh tịnh). “Chư Phật cáo Bồ Tát” (chư Phật bảo Bồ Tát): “Chư Phật” là mười
phương chư Phật, bảo các vị Bồ Tát trong
nước ḿnh. “Linh cận An
Dưỡng Phật” (hăy đến thân cận vị Phật trong cơi An
Dưỡng): Nay quư vị muốn đến “thân cận”, tức là triều
bái, lễ kính, thân cận đức Phật trong cơi An
Dưỡng. Tây Phương Cực Lạc thế giới
cũng dịch là Cực Lạc, dịch thành An Lạc, và
cũng dịch thành An Dưỡng. Tiếng Phạn là một chữ, nhưng dịch thành các danh từ khác
nhau. “Văn pháp nhạo thọ
hành, tật đắc thanh tịnh xứ” (nghe pháp ưa thích, tiếp nhận, hành tŕ,
mau chóng đạt được cơi thanh tịnh): Quư vị
đến triều bái A Di Đà Phật, đến lễ
kính A Di Đà Phật. “Văn
pháp nhạo thọ hành” (nghe pháp ưa thích, tiếp nhận, hành tŕ): Quư vị
sẽ thỉnh A Di Đà Phật thuyết pháp. Đức
Phật thuyết pháp, quư vị sanh ḷng hoan hỷ, ưa
thích, hăy nên tiếp nhận hạnh môn của Ngài. Ngài chỉ
dạy quư vị tu hành như thế nào? Quư vị phải
tiếp nhận. “Nhạo” (樂) là hoan hỷ, ưa thích tiếp nhận,
quư vị bèn tu hành đúng như lời Ngài đă chỉ dạy.
“Tật đắc thanh tịnh
xứ” (mau đạt được chốn thanh tịnh):
Quư vị sẽ đạt được chỗ thanh tịnh
rất nhanh chóng, có thể trang nghiêm quốc độ thanh
tịnh.
“Chí bỉ nghiêm tịnh quốc,
tiện tốc đắc thần thông, tất ư Vô
Lượng Tôn, thọ kư thành Đẳng Giác” (đến
cơi trang nghiêm, thanh tịnh ấy, sẽ mau chóng đắc
thần thông, ắt ở chỗ đức Vô Lượng Thọ Phật, thọ kư thành
Chánh Đẳng Chánh Giác). “Chí bỉ
nghiêm tịnh quốc” (đến cơi nước trang
nghiêm, thanh tịnh ấy): Quư vị đă tới nước
An Dưỡng trang nghiêm thanh tịnh ở phương Tây.
“Tiện tốc đắc thần
thông” [nghĩa là] rất nhanh chóng đạt được
thần thông. Đối với câu này, có một điều nghi vấn: Mười phương Bồ
Tát đều có thần thông; nếu chẳng có thần
thông, há lại có thể bay tới Tây Phương Cực Lạc
thế giới ư? Nhưng thần thông có sâu hay cạn
khác nhau. Chẳng hạn như nói thần thông của hàng
Nhị Thừa chẳng sánh bằng Bồ Tát, Bồ Tát thuộc
địa vị Tam Hiền chẳng sánh bằng Thập
Địa, mà Sơ Địa Bồ Tát lại chẳng
sánh bằng Nhị Địa. Ở đây là thần thông
của Bát Địa Bồ Tát. Thần thông của Bát
Địa vi diệu, thần thông của Bát Địa là
vô công dụng hạnh. Ngài chẳng sanh tâm động niệm,
đến khi đáng hiển hiện thần thông, Ngài sẽ
tùy ư tự nhiên hiện ra. Ở đây, [câu kệ này có ư nói] sẽ rất nhanh
chóng đạt được thần thông của Bát Địa
Bồ Tát. “Tất ư Vô
Lượng Tôn, thọ kư thành Đẳng Giác” (ắt ở
nơi đấng Vô Lượng Thọ Phật, được
Ngài thọ kư thành Đẳng Giác): Vô Lượng Tôn là Vô
Lượng Thọ Phật Thế Tôn, là A Di Đà Phật.
Quư vị nhất định ở trước A Di Đà
Phật được Ngài thọ kư thành Phật. Trong
tương lai, quư vị sẽ thành Đẳng Giác, trong
tương lai sẽ thành Phật. Đấy là mỗi vị
Phật trong mỗi nước huấn dụ các vị Bồ
Tát của chính ḿnh.
“Kỳ Phật bổn nguyện
lực, văn danh dục văng sanh, giai tất đáo bỉ
quốc, tự trí Bất Thoái Chuyển” (do sức bổn nguyện của đức
Phật ấy, nghe danh hiệu, muốn văng sanh, thảy
đều đến cơi ấy, tự đạt
được Bất Thoái Chuyển): Đấy là mười
phương chư Phật chỉ dạy hàng Bồ Tát
trong nước ḿnh, tán thán sức bổn nguyện của
A Di Đà Phật. “Kỳ Phật” là A Di Đà Phật,
Ngài có sức bổn nguyện. “Văn
danh dục văng sanh” [nghĩa là] nếu quư vị nghe danh
hiệu A Di Đà Phật, bằng ḷng văng sanh quốc độ
của Ngài, sẽ “giai tất
đáo bỉ quốc” (thảy đều đến cơi
đó), quư vị sẽ nhất định măn nguyện, có
thể tới Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đă tới bên ấy, liền đắc
Bất Thoái Chuyển. “Tự
trí Bất Thoái Chuyển” (tự đạt đến Bất Thoái Chuyển): “Trí” (致) là đạt được, tự nhiên đạt
được Bất Thoái Chuyển.
“Bồ Tát hưng chí nguyện,
nguyện kỷ quốc vô dị, phổ niệm độ
nhất thiết, danh hiển măn thập phương” (Bồ
Tát hưng khởi chí nguyện, nguyện cơi nước của
chính ḿnh sẽ chẳng khác [Cực Lạc], niệm độ
trọn khắp hết thảy, thanh danh tỏa rạng khắp
mười phương): “Bồ
Tát hưng chí nguyện” (Bồ Tát dấy lên chí nguyện):
Chư đại Bồ Tát, tức các vị Bồ Tát trong
mười phương, do vâng theo mạng lệnh của
đức Phật trong cơi ḿnh, thảy đều đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đă đến
Tây Phương Cực Lạc, vừa thấy Tây
Phương Cực Lạc thế giới thanh tịnh
trang nghiêm quá sức tuyệt diệu, bèn dấy lên tâm nguyện
chí thành: “Nguyện kỷ quốc
vô dị” (nguyện cho cơi nước của chính ḿnh
chẳng khác [Cực Lạc]). Nguyện cơi nước của
chính ḿnh “vô dị”, tức
là chẳng sai khác Tây Phương Cực Lạc thế giới.
“Phổ niệm độ nhất
thiết, danh hiển măn thập phương” [nghĩa
là] ta mong thành tựu quốc độ của chính ḿnh cũng
có thể giống như Tây Phương, ta cũng có thể
giống như A Di Đà Phật, nghĩ độ trọn
khắp hết thảy chúng sanh, ta cũng giống như A
Di Đà Phật, thanh danh tỏa rạng trọn khắp
mười phương thế giới.
“Phụng sự ức Như Lai,
phi hóa biến chư sát, cung kính hoan hỷ khứ, hoàn
đáo An Dưỡng quốc” (phụng sự ức Như Lai, bay đi, biến
hóa đến trọn khắp các cơi, cung kính, hoan hỷ ra
đi, trở về nước An Dưỡng): Những vị
Bồ Tát ấy đă tới Tây Phương Cực Lạc
thế giới, phát đại nguyện, A Di Đà Phật
đều biết. Do đă biết, đức Phật bèn
thọ kư các vị Bồ Tát ấy sẽ thành Phật. Đă thọ kư thành Phật
rồi, sẽ giảng
khai thị cho các Ngài, dạy các Ngài tu hành đừng chấp tướng. Tu hành chẳng chấp tướng chính là công phu
bậc nhất. Các vị được đến thân cận mười phương chư
Phật, sẽ cúng dường mười phương
chư Phật. Nếu quư vị muốn trang nghiêm thế
giới Cực Lạc của chính ḿnh mà nếu chẳng có
phước báo, chẳng có trí huệ, hai điều kiện
ấy quá tệ, sẽ trang nghiêm chẳng được,
đại nguyện đă phát sẽ là nguyện suông. Quư vị
muốn trang nghiêm cơi Phật của chính ḿnh, thứ nhất
là quư vị phải
có phước báo, thứ
hai là quư vị phải có trí huệ. Vậy th́ phước
báo do đâu mà có? Quư vị cúng dường mười
phương chư Phật, chuyện này vun bồi phước
nhanh nhất, lớn nhất. Quư vị đến thân cận
mười phương chư Phật, thỉnh các Ngài giảng
pháp cho quư vị, quư vị đạt được trí huệ
cao nhất, nhanh nhất. Mười phương Bồ Tát
đă tới Tây Phương Cực Lạc thế giới,
đạt được thần thông cao nhất; do vậy,
đến mười phương thế giới cúng
dường chư Phật. “Phụng
sự ức Như Lai”, chữ Ức này [phải hiểu]
là vô lượng vô số Như Lai. “Phi hóa biến chư sát” (phi hành, biến hóa trọn khắp các cơi): Phi hành
biến hóa tới các cơi của chư Phật để
cúng dường chư Phật. “Cung
kính hoan hỷ khứ” (cung kính, hoan hỷ ra đi): Sau khi cung kính đảnh lễ, nghe pháp,
bèn hoan hỷ trở về. “Hoàn
đáo An Dưỡng quốc” (trở về nước An
Dưỡng): Trở
lại Tây Phương Cực Lạc thế giới, vẫn
thân cận A Di Đà Phật.
Năm
bài kệ này nhằm nói mười phương chư Phật
chỉ dạy các vị Bồ Tát trong nước ḿnh đến thân cận A Di Đà Phật.
Dưới
đây c̣n có ba bài kệ tụng do Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật chỉ dạy chúng ta, do vậy
càng thân thiết hơn, phải lưu tâm nghe nhé!
2.2.3.2.2.2.2. Phật Thích Ca tự tán thán khiến
cho kẻ khác cùng đến [Cực Lạc]
2.2.3.2.2.2.2.1. Nêu bày kinh này khó được
nghe, hăy hoan hỷ tu hành (gồm ba bài kệ)
(Kinh)
Nhược nhân vô thiện tâm, bất đắc văn thử
kinh. Thanh tịnh hữu giới giả, năi hoạch văn
chánh pháp. Tằng cánh kiến Thế
Tôn, tắc năng tín thử sự. Khiêm kính, văn phụng
hành, dũng dược, đại hoan hỷ. Kiêu, mạn, tệ, giải đăi, nan dĩ tín thử pháp, túc thế
kiến chư Phật, nhạo thính như thị giáo.
(經)若人無善心,不得聞此經,清淨有戒者,乃獲聞正法。曾更見世尊,則能信此事,謙敬聞奉行,踊躍大歡喜。憍慢弊懈怠,難以信此法,宿世見諸佛,樂聽如是教。
(Kinh: Nếu người chẳng
thiện tâm, chẳng được nghe kinh này. Kẻ thanh
tịnh tŕ giới, bèn được nghe chánh pháp. Đă từng
thấy Thế Tôn, sẽ tin tưởng chuyện này. Khiêm
kính, nghe, phụng hành, hớn hở, đại hoan hỷ.
Kiêu, mạn, tệ, biếng nhác, khó tin nổi pháp này. Đời
trước thấy chư Phật, thích nghe dạy như
thế).
“Nhược nhân vô thiện tâm, bất
đắc văn thử kinh” (nếu người nào chẳng có thiện tâm, sẽ
chẳng được nghe kinh này): Quư vị có thể nghe
bộ kinh Vô Lượng Thọ này, chớ nên coi rẻ
chính ḿnh, quư vị là người có thiện tâm. Nếu quư
vị chẳng có thiện tâm, căn bản là chẳng
được nghe bộ kinh Vô Lượng Thọ này. Quư
vị phải tin tưởng chính ḿnh có thiện căn. “Thanh tịnh hữu giới giả,
năi hoạch văn chánh pháp” (kẻ thanh tịnh, giữ giới, bèn được
nghe chánh pháp): Quư vị là người tŕ giới thanh tịnh.
“Giả” (者) là từ ngữ để chỉ người,
[người thanh tịnh tŕ giới th́] mới có thể
nghe được chánh pháp này. “Thiện
tâm”: Thiện tâm tŕ giới thanh tịnh, đấy cũng
là thiện căn. Một mặt là nói đến đời
này, kiếp này, mặt khác là suy đến đời trước, kiếp trước.
Quư vị
trong đời này, kiếp
này đă phát sanh thiện căn, [có ư niệm] “ta muốn
học pháp môn Tịnh Độ” th́ quư vị mới có thể nghe kinh Vô
Lượng Thọ. Cái tâm học pháp môn Tịnh Độ của quư vị trong
đời này, kiếp này vẫn c̣n chưa phát khởi [mà vẫn được
nghe kinh Vô Lượng Thọ, tức là] suy đến đời trước, kiếp trước, quư vị đă từng phát [cái tâm ấy].
Có thiện căn ấy th́ mới được. Đối với chuyện tŕ giới thanh tịnh cũng suy trong đời
này và suy từ đời trước. Nếu
đời này quư vị là một người tŕ giới
thanh tịnh, quư vị mới có thể nghe chánh pháp trong bộ
kinh Vô Lượng Thọ này. Nếu đời này, kiếp
này, tướng tŕ giới của quư vị vẫn chưa
thanh tịnh, như vậy th́ đời trước nhất
định là đă có thiện căn tŕ giới, đời
trước quư vị nhất định là một người
giữ giới luật thanh tịnh. Do thiện căn ấy dấy lên hiện hành, quư vị mới có
thể nghe chánh pháp này; ngàn muôn phần đừng coi rẻ chính ḿnh!
“Tằng cánh kiến Thế Tôn, tắc
năng tín thử sự, khiêm kính văn phụng hành, dũng
dược đại hoan hỷ” (đă từng gặp
đức Thế Tôn th́ mới có thể tin chuyện này,
khiêm tốn, cung kính nghe dạy, phụng hành, hớn hở,
hết sức hoan hỷ): Thích Ca Như Lai nói thêm, chúng ta có
thiện căn đă từng gặp Phật. “Tằng cánh kiến Thế Tôn, tắc
năng tín thử sự” (đă từng thấy Thế
Tôn, sẽ có thể tin chuyện này). Đời trước,
kiếp trước, không chỉ là đời trước,
kiếp trước, mà thậm chí nhiều đời, nhiều kiếp
trước kia, nhất định là đă thấy Phật.
Vậy th́ ta đă thấy Phật, v́ sao cho tới hiện thời, ta vẫn là phàm
phu? Đấy là nỗi khổ năo luân hồi trong lục
đạo. Người Hoa đều biết niệm kinh
Kim Cang. Kinh Kim Cang có nói, tới thời đại Mạt
Pháp, quư vị có thể nghe kinh Kim Cang mà tâm tin tưởng,
chẳng nghi, phát tâm thanh tịnh. [chứng tỏ] thiện căn của người ấy
sâu dầy, chẳng phải là đă gieo thiện căn
nơi một vị Phật, hai vị Phật, ba, bốn,
năm vị Phật, mà là đă gieo thiện căn nơi
vô lượng ngàn vạn chư Phật. Phật Thích Ca cũng
nói, thiện căn của chúng ta rất lớn, nhưng bản
thân chúng ta chẳng dám thừa nhận, tâm cứ nghĩ: “Há ta có thiện căn to lớn ngần ấy
ư? Ta từng thân cận một vị Phật, hai vị
Phật, ba, bốn, năm vị Phật, thân cận vô
lượng vô số chư Phật nhiều ngần ấy,
cớ sao cho đến nay ta vẫn là một chúng sanh
khổ năo?” Đấy là nỗi khổ năo do luân hồi
trong lục đạo. Nếu quư vị hiểu đạo
lư này, quư vị mới có thể phát nguyện sanh về Tây
Phương, mới có thể phát khởi tín tâm quyết
định mong sanh về Tây Phương. Vậy là trong
đời trước, kiếp trước đă từng
gặp Phật, dẫu gặp Phật, mười thứ
tín tâm vẫn chẳng tu viên măn, [cho nên] bèn vật vờ
theo gió cuốn. Bồ Tát thuộc địa vị Thập
Tín, được gọi là “mao
tháo Bồ Tát” (毛躁菩薩), [nghĩa là] giống như chiếc lông
vũ [chao đảo] trong không trung, c̣n nhẹ hơn không
khí. Chiếc lông vũ bị gió cuốn qua Đông, qua Tây. Gió Đông thổi, nó giạt qua Tây; gió Tây thổi, nó giạt sang Đông. Tức
là gặp duyên được thầy dạy dỗ, người
ta giảng kinh, thuyết pháp, kẻ đó tiến bộ. Gặp
phải duyên vui thú ngũ dục lạc, lại bị lôi
kéo, xoay chuyển! Cái tâm của phàm phu tham cầu niềm
vui ngũ dục, quả báo của niềm vui ngũ dục
đưa tới nhanh chóng, lập tức họ lại đọa vào địa ngục, chẳng
biết đến kiếp nào mới có thể lắc ḿnh
thoát ta. V́ thế nói, thấy Phật th́ đă từng thấy,
tuy tu hành mà chẳng thành công, nhưng thiện căn vẫn
có, đời này gặp Vô Lượng Thọ Phật, mới
có thể tin tưởng chuyện này, mới có thể phát
khởi tín tâm.
“Khiêm kính
văn phụng hành” (khiêm tốn, cung kính, nghe rồi sẽ phụng
hành): “Khiêm kính” là chẳng
kiêu ngạo, chẳng ngạo mạn, có cái tâm khiêm tốn,
có tâm cung kính, nghe pháp này sẽ phụng hành, phụng hành bằng
cách nào? Tu công đức lớn lao, làm nhiều thiện sự.
“Bất khả dĩ thiểu
thiện căn phước đức nhân duyên đắc
sanh bỉ quốc” (chẳng thể do chút thiện căn, phước đức, nhân
duyên mà được sanh về cơi ấy), nhất
tâm nhất ư niệm danh hiệu A Di Đà Phật, cầu
sanh Tây Phương. Sẽ có dáng vẻ như thế này, “dũng dược, đại
hoan hỷ” (hớn hở, hoan hỷ lớn), trong tâm quư
vị nhất định sẽ nhất định sanh khởi
cái tâm đại hoan hỷ, nay quư vị thật sự gặp
gỡ diệu pháp vô thượng. Sanh tử từ vô thỉ
kiếp đến nay, ngày nay có thể liễu thoát!
“Kiêu mạn, tệ giải
đăi, nan dĩ tín thử pháp, túc thế kiến chư Phật,
nhạo thính như thị giáo” (kiêu căng, ngạo mạn, tệ
hại, biếng nhác, sẽ khó thể tin pháp này, [do] đời
trước thấy chư Phật, [đời này] mới
thích nghe giáo pháp như thế): “Kiêu mạn, tệ giải
đăi, nan dĩ tín thử pháp” (kiêu căng, ngạo mạn, tệ ác, biếng
nhác, sẽ khó thể tin pháp này): Trong phần trước có nói “khiêm kính văn phụng hành” (khiêm tốn, cung kính,
nghe dạy rồi vâng làm theo), khiêm tốn, cung kính nhằm đối trị “kiêu mạn”, tức là kiêu ngạo,
ngạo mạn. Quư vị có hai thứ tâm ấy, sẽ chẳng
thể dấy lên tín tâm đối với pháp này được!
“Tệ” là một thứ ác
tâm. Đă có kiêu, mạn, tệ ác, chắc chắn sẽ dấy
ḷng “giải đăi”. Sanh tâm
giải đăi th́ chắc chắn sẽ dấy ḷng buông
lung. Do giải đăi, buông lung, cho nên chẳng thể tin
pháp môn này. “Túc thế kiến
chư Phật, nhạo thính như thị giáo” (do đời trước đă thấy
chư Phật, [đời
này mới] thích nghe dạy như thế):
“Túc thế” là đời
trước, kiếp trước, cho đến nhiều
đời, nhiều kiếp trước, đều gọi
là “túc thế”. Quư vị
đă từng thấy chư Phật, đă ở trước
chư Phật gieo thiện căn; đời này, kiếp
này, quư vị mới có thể hoan hỷ, ưa thích nghe giáo
pháp như vậy, nghe lời dạy về pháp môn Tịnh
Độ này.
2.2.3.2.2.2.2.2. Tán thán trí đức thù thắng
của Phật Di Đà khiến cho người khác quy
hướng (gồm bốn bài kệ)
(Kinh)
Thanh Văn hoặc Bồ Tát, mạc năng cứu thánh
tâm, thí như tùng sanh manh, dục hành khai đạo nhân.
Như Lai trí huệ hải, thâm quảng vô nhai để,
Nhị Thừa phi sở trắc, duy Phật độc
minh liễu. Giả sử nhất thiết nhân, cụ túc
giai đắc đạo, tịnh huệ tri bổn không, ức
kiếp tư Phật trí. Cùng lực cực giảng thuyết,
tận thọ do bất tri, Phật huệ vô biên tế,
như thị trí thanh tịnh.
(經)聲聞或菩薩,莫能究聖心,譬如從生盲,欲行開導人。如來智慧海,深廣無涯底,二乘非所測,唯佛獨明了。假使一切人,具足皆得道,淨慧知本空,億劫思佛智。窮力極講說,盡壽猶不知,佛慧無邊際,如是致清淨。
(Kinh: Thanh Văn hoặc Bồ
Tát, chẳng thấu hiểu thánh tâm, ví như mù bẩm
sinh, muốn dẫn đường người khác. Biển
trí huệ Như Lai, sâu rộng không bờ đáy, Nhị
Thừa chẳng thể lường, chỉ riêng Phật
hiểu rơ. Giả sử hết thảy người, thảy
đều cùng đắc đạo, tịnh huệ biết
vốn không, ức kiếp suy Phật trí, cạn sức
để giảng nói, đến chết vẫn chẳng hay,
Phật huệ không ngằn mé, đạt thanh tịnh
như thế).
“Thanh Văn hoặc Bồ Tát, mạc
năng cứu thánh tâm. Thí như tùng sanh manh, dục hành khai đạo
nhân” (Thanh Văn hoặc Bồ
Tát, đều chẳng thể thấu hiểu tột cùng thánh tâm. Ví như kẻ mù từ lúc lọt
ḷng mà muốn dẫn đường cho người khác).
Lại dạy bảo hàng Nhị Thừa và Sơ Phát Tâm Bồ
Tát. “Thanh Văn hoặc Bồ
Tát”, bất luận quư vị là Thanh Văn, hay là Sơ Phát Tâm Bồ Tát, “mạc năng cứu thánh tâm”,
nghĩa là quư vị chẳng thể nghiên cứu rơ ràng tâm
Phật được. V́ sao đức Phật phải
nói pháp môn Tịnh Độ? Đấy là bi tâm triệt để của
đức Phật. Chẳng có pháp môn Tịnh Độ, sẽ
chẳng thể phổ độ chúng sanh. Những pháp môn
khác đều có thể độ, nhưng các pháp ấy chỉ
có thể độ chúng sanh thượng căn lợi trí,
chúng sanh trung căn đều chẳng thể tu tập
được! [Vậy th́] độ chúng sanh hạ
căn bằng cách nào? [Đối với chuyện] phổ
độ chúng sanh, chữ Phổ sẽ không thể nói sao
cho suông sẻ được. Muốn có thể phổ
độ chúng sanh, chẳng do pháp môn Tịnh Độ, sẽ
không thể được. Đó là Phật tâm, là đại
bi tâm. Quư vị là hàng Nhị Thừa hoặc Sơ Phát Tâm Bồ
Tát, sẽ chẳng thể nghiên cứu rơ ràng thánh tâm của
Phật. “Thí như tùng sanh manh,
dục hành khai đạo nhân” (ví như kẻ mù từ lúc lọt ḷng mà muốn dẫn
đường cho người khác): “Sanh manh” (生盲) là người mù [từ lúc lọt ḷng], quư
vị muốn làm vị thiện tri thức hướng dẫn
người khác, làm người dẫn đường cho
chúng sanh, nhưng quư vị là “sanh
manh”, làm sao dẫn đường cho chúng sanh được?
Quư vị chẳng thấu hiểu Phật tâm, chẳng biết
chỗ áo diệu của pháp môn Tịnh Độ, quư vị
mong làm thiện tri thức để cứu độ chúng
sanh th́ cũng giống như kẻ “sanh manh” làm đạo sư cho chúng sanh vậy!
“Như Lai trí huệ hải, thâm
quảng vô nhai để, Nhị Thừa phi sở trắc,
duy Phật độc minh liễu” (biển trí huệ của Như Lai sâu rộng
không có bờ hay đáy, hàng Nhị Thừa chẳng thể
suy lường được, chỉ riêng có Phật là thấu
hiểu). “Như Lai trí huệ
hải, thâm quảng vô nhai để” (biển trí huệ của Như Lai sâu rộng
không có bờ hay đáy): Muốn nghiên cứu Phật tâm th́
Phật tâm là tâm đại trí huệ. Tâm đại trí huệ
ví như biển rộng, nên gọi là “trí huệ hải”, rất sâu chẳng có bờ,
mà cũng chẳng có đáy. Chẳng có bờ là rộng lớn;
chẳng có đáy là quá sâu. “Nhị
Thừa phi sở trắc, duy Phật độc minh liễu”
(hàng Nhị Thừa chẳng thể lường
được, chỉ riêng Phật là hiểu rơ): Hàng Nhị
Thừa chứng đắc A La Hán chẳng thể suy
lường trí huệ của Phật được, chỉ
có Phật mới có thể
hiểu rành rẽ.
“Giả sử
nhất thiết nhân, cụ túc giai đắc đạo, tịnh
huệ tri bổn không, ức kiếp tư Phật trí” (giả sử hết thảy mọi người
trọn đều đắc đạo A La Hán,
do trí huệ thanh tịnh mà biết [hết thảy các pháp] vốn
là Không, trong ức kiếp suy nghĩ trí huệ của Phật).
“Giả sử nhất thiết
nhân, cụ túc giai đắc đạo”, [hàm ư]: Đừng nói là một vị Thanh Văn
hoặc một vị A La Hán chẳng thể biết trí huệ
của Phật, mà giả sử hết thảy mọi
người, “cụ túc” (trọn
đủ), tức là ai nấy đều đắc Tứ
Quả A La Hán th́ gọi là “cụ
túc giai đắc đạo” (trọn đều đắc
đạo). “Tịnh huệ tri bổn không” (trí huệ thanh tịnh
biết [hết thảy các pháp] vốn là Không): A La Hán đạt được trí huệ
thanh tịnh, Ngài chỉ biết “bổn
không”, [tức là] chỉ biết Ngă Không. Ngài biết lư
Không căn bản ấy; do đă biết, bèn cho là chính ḿnh có trí huệ, nhưng trí huệ ấy
chỉ
là trí huệ Thiên Không! “Ức kiếp tư Phật trí”
(trong ức kiếp suy nghĩ Phật trí): “Ức kiếp” là một thời
gian dài. Dùng một ức đại kiếp để suy
tưởng trí huệ của đức Phật sâu rộng
cỡ nào!
“Cùng lực cực giảng thuyết,
tận thọ do bất tri, Phật huệ vô biên tế,
như thị trí thanh tịnh” (tận hết sức cực lực giảng nói,
cho đến hết tuổi thọ vẫn không biết, trí huệ của Phật không có ngằn mé,
do như vậy nên mới đạt đến thanh tịnh): Hết thảy mọi người đều
chứng A La Hán, đều ở tại đó dốc cạn
sức lực để nói, để giảng trí huệ
của Phật to cỡ nào th́ sao? “Tận thọ do bất tri” (hết tuổi thọ vẫn chẳng biết):
Nói cho khi tuổi thọ đă hết, báo tận, vẫn chẳng
thể biết trí huệ của Phật. “Phật huệ vô biên tế, như thị trí thanh tịnh”
(trí huệ của Phật chẳng có ngằn
mé, do như vậy nên mới đạt được
thanh tịnh). V́ trí huệ của Phật chẳng có ngằn
mé, mà cũng chẳng có bờ, đáy, rộng lớn rất
sâu, nên mới có thể “trí
thanh tịnh” (đạt đến thanh tịnh), mới
có thể đạt được cơi Phật thanh tịnh.
2.2.3.2.2.2.2.3. Dùng Lư để khuyên dạy
(gồm ba bài kệ)
(Kinh)
Thọ mạng thậm nan đắc, Phật thế diệc
nan trị, nhân hữu tín huệ nan, nhược văn tinh
tấn cầu. Văn pháp năng bất vong, kiến kính
đắc đại khánh, tắc ngă thiện thân hữu,
thị cố đương phát ư. Thiết măn thế giới
hỏa, tất quá yếu văn pháp, hội
đương thành Phật đạo, quảng độ
sanh tử lưu.
(經)壽命甚難得,佛世亦難值,人有信慧難,若聞精進求。聞法能不忘,見敬得大慶,則我善親友,是故當發意。設滿世界火,必過要聞法,會當成佛道,廣度生死流。
(Kinh:
Thọ mạng rất khó được, Phật tại
thế khó gặp, khó có kẻ trí huệ, nếu nghe, tinh tấn
cầu, nghe pháp chẳng quên mất, thấy, kính, đạt
vui lớn, thiện thân hữu của ta. V́ thế, nên phát
tâm, dẫu thế giới toàn lửa, ắt vượt qua
nghe pháp, sẽ có thể thành Phật, rộng độ
ḍng sanh tử).
“Thọ mạng thậm nan đắc”
(thọ mạng rất khó có): Đức Phật
lại chỉ dạy, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
đại từ đại bi, bi tâm vô lượng chỉ
dạy chúng ta, chỉ sợ chúng ta nghe pháp này mà chẳng
tinh tấn. Quư vị phải biết, người học
Phật pháp tu hành, dụng công, có ba cửa ải khó
khăn:
1) Thứ
nhất là thọ mạng khó có. V́ thọ mạng trong thế
giới Sa Bà ngắn ngủi, đại bộ phận con
người chẳng sống tới một trăm tuổi. Dẫu quư vị sống
đến một trăm hai mươi tuổi đi nữa,
trong khoảng sát-na đă qua, thọ mạng khó có! 2) Thứ hai, khó gặp Phật
tại thế. Phật pháp tồn tại trên thế gian,
Chánh Pháp là một ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn
năm, Mạt Pháp một vạn năm. Đời này quư vị
chẳng tu hành, chẳng cầu sanh Tây Phương Tịnh
Độ, vừa
xoay vần th́ pháp vận
một vạn hai ngàn năm đă qua, quư vị có muốn học
Phật pháp cũng chẳng có. “Phật
thế diệc nan trị” [nghĩa là] khó gặp Phật tại thế, quư vị
khó thể
gặp gỡ.
3) “Nhân hữu tín huệ nan” (khó có kẻ có tín huệ). Hiện thời, ta c̣n có thọ mạng, chưa chết,
Phật pháp mới trải qua hơn hai ngàn năm, tuy
đă khởi đầu thời Mạt Pháp, đức Phật tại thế ta cũng đă gặp
gỡ, nhưng c̣n có cửa ải khó khăn thứ ba. Vừa có tín tâm vừa có trí huệ rất
khó, v́ sao đă gặp pháp môn Tịnh Độ mà quư vị
chẳng tin tưởng? V́ quư vị chẳng có trí huệ!
Có trí huệ th́ quư vị mới có thể tin tưởng,
đó gọi là “tín huệ rất
khó”. Hiện thời, đối với cửa ải thứ
ba là cửa ải cuối cùng, quư vị cũng tin tưởng,
chứng tỏ quư vị có trí huệ, mới có thể nghe
pháp môn Tịnh Độ này. Đă nghe pháp môn Tịnh Độ
này, quư vị phải tinh tấn cầu sanh Tây
Phương. Nghe mà chẳng tinh tấn tu hành th́ cũng
như chẳng nghe!
“Văn pháp năng bất vong, kiến
kính đắc đại khánh, tắc ngă thiện thân hữu,
thị cố đương phát ư” (nghe pháp mà có thể chẳng quên, đă gặp
[pháp môn Tịnh Độ] bèn cung kính, đạt được
niềm vui to lớn, th́ người ấy là bạn thân tốt
lành của ta. V́ thế, hăy nên phát tâm). “Văn pháp năng bất vong” (nghe pháp mà có thể chẳng quên): Đức
Phật lại chỉ dạy chúng ta, quư vị nghe pháp môn Tịnh
Độ mà có thể chẳng quên mất, thường
xuyên nghĩ nhớ trong tâm. “Kiến
kính đắc đại khánh”: Nếu quư vị nghe pháp
môn Tịnh Độ mà dấy ḷng cung kính, nhất định
sẽ đạt được sự vui mừng to lớn.
“Tắc ngă thiện thân hữu”
(là bạn thân tốt nhất của ta): Quư
vị sẽ là thân hữu tốt lành nhất của Thích
Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật đúng là đại từ
đại bi! “Thị cố
đương phát ư” (do vậy, hăy nên phát tâm): Vậy th́ quư vị chẳng
muốn làm bằng hữu thân nhất, tốt lành nhất của Thích Ca Mâu Ni Phật ư? “Thị cố” (do vậy), do lẽ này, quư vị hăy nên ngay
lập tức phát tâm, “đương
phát ư” là phát tâm, phải phát tâm cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới nhé!
“Thiết măn thế giới hỏa,
tất quá yếu văn pháp, hội đương thành Phật
đạo, quảng độ sanh tử lưu” (giả sử cả thế giới lửa
ngập tràn, ắt phải vượt qua để nghe
pháp, sẽ có thể thành tựu Phật đạo, rộng
độ chúng sanh trong gịng sanh tử): Trong phần trên, câu “thị cố
đương phát ư” (do vậy, hăy nên phát tâm) nhằm dạy chúng ta
hăy nên phát đại nguyện. Bài kệ tụng cuối
cùng này nhằm mong chúng ta hăy lập thệ. “Thiết măn thế giới hỏa, tất quá yếu
văn pháp”, [nghĩa là] giả sử trọn khắp thế
giới đều là lửa lớn, quư vị phải
lướt qua trận lửa lớn ngập tràn thế giới
ấy th́ mới có thể đến Tây Phương Cực
Lạc thế giới nghe pháp, ta quyết định phải
vượt qua. “Hội
đương thành Phật đạo, quảng độ
sanh tử lưu”, [ư nói]: Như vậy th́ quư vị mới
có thể sanh về Tây Phương, mới có thể thành
Phật đạo. Thành Phật đạo th́ mới có thể
rộng độ chúng sanh vượt thoát gịng sanh tử.
Đă giảng
xong phần kệ tụng, nay tôi nói đến phần kinh
văn Trường Hàng. Phần kinh văn Trường
Hàng này nhằm quy nạp những điều đă nói trong
phần trước: Tây Phương Cực Lạc thế giới thù
thắng, an lạc như thế nào, thành tựu công đức
như thế nào? [Những
điều ấy được] quy nạp
lại, chia thành tám đoạn
văn. Cả tám đoạn văn này đều là tổng kết, tán thán sự an lạc thù thắng
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trong phần
trước đă nói rồi, nhắc lại lần nữa
để làm ǵ? Đấy chính là bi tâm khẩn thiết của
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, chỉ sợ chúng ta không
tin, Ngài bèn nhắc lại, hy vọng tín tâm của chúng ta sẽ
kiên cố. Do tín tâm kiên cố, sẽ có thể phát nguyện
văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Điều này cần tới nguyện lực khẩn thiết. Đă có tín tâm, lại có nguyện lực, sẽ nhất
tâm tŕ niệm thánh hiệu A Di Đà Phật. Đấy gọi
là “tu hành”.
Ba chữ
Tín, Nguyện, Hạnh là ba tư lương để văng
sanh Tây Phương. “Tư
lương” (資糧) là tỷ dụ, chúng ta ra khỏi cửa đi
đường xa, nhất định phải giắt theo
mấy đồng tiền, c̣n phải mang theo đồ
ăn, đấy là “tư
lương”. Sanh về Tây Phương th́ sao? Cũng cần
phải có tư lương. Ba pháp Tín, Nguyện, Hạnh là tư lương để
sanh về Tây Phương. Tín, Hạnh, Nguyện là ba tư
lương của Tịnh Độ, giống như cái đỉnh có đủ ba chân,
thiếu một chân sẽ không được. Đỉnh
(鼎) là cái ḷ để đốt hương,
phía dưới có ba cái chân, thiếu một chân sẽ không
được. Nhưng điều quan trọng nhất là
tín tâm và nguyện lực; có thể sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới hay không, hoàn toàn cậy vào tín tâm và nguyện
lực. Đă có tín tâm, lại có nguyện lực, quư vị tu hành, tu
hành là tŕ niệm thánh hiệu A Di Đà Phật, quư vị
niệm nhiều hay ít, chẳng có ai không sanh về Tây
Phương. V́ quư vị đă có tín tâm, lại có nguyện lực, niệm nhiều hay ít đều
có thể sanh Tây Phương. Bởi lẽ, trong phần
trước đă nói, “mười
niệm có thể văng sanh”, “một
niệm cũng có thể văng sanh”. “Niệm” ở đây là tu hành. Điều quan trọng
nhất là tín tâm phải kiên cố, nguyện lực phải
khẩn thiết. Đấy là nói đến tín tâm và nguyện
lực trước hết, [v́ chúng] khá trọng yếu;
trên thực tế, đối với ba pháp, chẳng thể coi trọng hay coi nhẹ
[pháp nào] được, như ba chân của cái đỉnh,
khuyết một chân ở phía nào th́ sao? Nó sẽ lệch về
phía đó. Quư vị chớ nên nghe kẻ nào nói tu hành niệm
danh hiệu A Di Đà Phật th́ nhất định là phải
[niệm] bao nhiêu đó! Mười niệm có thể văng
sanh, một niệm cũng có thể văng sanh, vậy th́
[nghe nói như vậy, bèn tưởng] cứ niệm hời
hợt, qua loa là được rồi. Nếu quư vị
nghĩ như vậy, vẫn chẳng thể sanh về Tây
Phương! V́ sao? Điều này chứng tỏ tín tâm
của quư vị chẳng đủ kiên cố, nguyện lực
chẳng đủ khẩn thiết. Tín tâm kiên cố, nguyện
lực khẩn thiết, chắc chắn là sẽ chẳng
niệm Phật qua quít, hời hợt. Kinh nói “mười niệm có thể văng sanh, một
niệm cũng có thể văng sanh”, đấy
là cường điệu tán thán đại nguyện lực
của A Di Đà Phật. Trên thực tế, chúng ta có thể
niệm bao nhiêu bèn tận hết sức niệm bấy
nhiêu! Mỗi người một ngày niệm mấy ngàn tiếng,
đấy là chuyện b́nh thường. Niệm một vạn
câu, hay ba vạn câu, cũng là chuyện b́nh thường. Cổ
đức có những vị mỗi ngày niệm mười
vạn câu A Di Đà Phật.
Có một
vị cư sĩ hỏi tôi, [ông ta] nghe tôi giảng kinh Vô
Lượng Thọ, muốn niệm Vô Lượng Thọ
Phật, nhưng do b́nh thường niệm A Di Đà Phật,
bèn hỏi tôi có phải thay đổi hay không? Tôi nói không cần
thay đổi! Tịnh Độ Tông có ba bộ kinh, niệm
danh hiệu A Di Đà Phật là dựa theo kinh A Di Đà
để niệm. So sánh th́ niệm A Di Đà Phật là niệm
danh hiệu bằng tiếng Phạn, tốt hơn niệm
danh hiệu phiên dịch là Vô Lượng Thọ. Tốt
như thế nào? A Di Đà Phật dịch nghĩa thành Vô
Lượng Thọ, Vô Lượng Quang. Kinh Vô Lượng
Thọ dịch [danh hiệu Phật] thành Vô Lượng Thọ
Phật, đă lược mất ư nghĩa Vô Lượng
Quang. Trong thực tế, phần kinh văn đă được
giảng trong những phần trước có ư nghĩa Vô
Lượng Quang, chẳng phải là [đức Phật]
đă nói [về Vô Lượng Quang] rất nhiều đấy
ư? Nhưng khi quư vị niệm Vô Lượng Thọ Phật
th́ đă lược bớt Vô Lượng Quang, cho nên chẳng
bằng niệm A Di Đà theo âm tiếng Phạn. A Di Đà
Phật trọn đủ ư nghĩa vô lượng thọ
và vô lượng quang. Vô Lượng Thọ là nói đến
niên đại theo chiều dọc, mang ư nghĩa “theo chiều dọc, trọn khắp
ba đời”. Vô Lượng Quang là “theo chiều ngang, trọn khắp mười
phương”. Vô Lượng Thọ và Vô Lượng
Quang gộp lại là bản thể của pháp giới, bao
gồm hết thảy vô lượng pháp, hết thảy
vô lượng công đức đều được gộp trong bản thể của pháp giới ấy.
V́ thế, quư vị niệm một câu A Di Đà Phật, sẽ có thể vượt thoát trọng tội
trong tám mươi ức kiếp sanh tử, sức công
đức to ngần ấy. Trong Thập Lục Quán Kinh, phần
nói về Hạ Phẩm Trung Sanh đă nói rơ ràng: Niệm một câu A Di Đà Phật
sẽ giống như là bản thể của pháp giới,
hết thảy vô lượng công đức đều trọn
đủ trong một câu danh hiệu ấy.
2.2.3.3. Lại nói về chuyện nhiếp
độ người căn cơ bậc hạ cùng văng
sanh
2.2.3.3.1. Rộng nêu những chuyện thù thắng
nhiệm mầu trong cơi Vô Lượng Thọ Phật khiến
cho mọi người nguyện cầu
2.2.3.3.1.1. Rộng nêu những sự vui thù
thắng trong cơi Vô Lượng Thọ
2.2.3.3.1.1.1. Nêu rơ thọ mạng dài lâu trong
cơi ấy
(Kinh)
Phật cáo A Nan: - Bỉ quốc Bồ Tát, giai
đương cứu cánh Nhất Sanh Bổ Xứ, trừ
kỳ bổn nguyện vị chúng sanh cố, dĩ hoằng
thệ công đức nhi tự trang nghiêm, phổ dục
độ thoát nhất thiết chúng sanh.
(經)佛告阿難:彼國菩薩,皆當究竟一生補處,除其本願為眾生故,以弘誓功德,而自莊嚴,普欲度脫一切眾生。
(Kinh: Đức Phật bảo
ngài A Nan: - Bồ Tát trong cơi ấy sẽ đều là rốt
ráo Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, trừ khi do bổn
nguyện v́ chúng sanh của chính ḿnh mà dùng công đức của thệ nguyện
rộng lớn để tự trang nghiêm, muốn độ
thoát trọn khắp hết thảy chúng sanh).
Đoạn
văn trên đây trong phần trước cũng đă từng nói rồi, nay lại khuyến
thỉnh chư vị tín tâm phải kiên cố, nguyện lực
phải khẩn thiết rồi mới phát tâm niệm danh
hiệu của Phật. Nay tôi sẽ giảng kinh văn,
trước hết là nói về đoạn thứ nhất:
“Phật cáo A Nan” (đức
Phật bảo ngài A Nan), bảo ngài A Nan th́ cũng là
như bảo mọi người chúng ta. “Bỉ quốc Bồ Tát giai đương cứu
cánh Nhất Sanh Bổ Xứ” (hàng Bồ Tát trong nước ấy sẽ đều
rốt ráo Nhất Sanh Bổ Xứ): Trong phần trước
đă từng nói [chuyện này], ở đây nhắc lại,
tức là câu này hết sức khẩn yếu đối với
người sanh về Tây Phương. “Trừ kỳ bổn nguyện” [nghĩa là] trừ
phi vị Bồ Tát sanh về Tây Phương có bổn nguyện
riêng. Ví như Đạo Nguyên tôi phát nguyện sanh về
Tây Phương, đó là bổn nguyện của tôi. Bổn
nguyện là ǵ? Chính là sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới, thấy A Di Đà Phật, nghe A Di Đà Phật
thuyết pháp, cũng chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Sau khi đă chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, tôi sẽ
trở lại thế giới Sa Bà để độ
chúng sanh. Đấy là bổn nguyện của tôi. Mỗi vị
Bồ Tát đều có bổn nguyện. Trừ phi do bổn
nguyện của vị ấy, “vị
chúng sanh cố, dĩ hoằng thệ công đức, nhi tự
trang nghiêm, phổ dục độ thoát nhất thiết
chúng sanh” (do v́ chúng sanh mà dùng công đức của thệ
nguyện rộng lớn, muốn độ thoát trọn khắp
hết thảy chúng sanh), vị ấy chẳng muốn ở
Tây Phương Cực Lạc thế giới chờ đợi
làm một vị Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát. Vị
ấy đă chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn th́ cũng có thể trở về nước
ḿnh để độ chúng sanh. Trừ những vị Bồ
Tát có bổn nguyện riêng; nếu sống lâu ngày trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới, những vị
Bồ Tát ấy đều có thể đạt đến
địa vị Bổ Xứ ngay trong một đời.
Nhất Sanh Bổ Xứ th́ trong phần trên đă có nói rồi,
chính là ngay trong một đời sẽ được bổ
xứ vào địa vị Phật, giống như địa
vị của Di Lặc Bồ Tát trong thế giới Sa Bà vậy,
trong tương lai, vị sẽ thành Phật là Di Lặc Bồ
Tát. Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát trong Tây Phương
Cực Lạc chẳng thể dùng toán số mà ḥng biết
được, có thể nói là nhiều vô lượng vô
biên, tức là đầy ắp trong thế giới ấy
toàn là bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát.
Các Ngài tu
như thế nào cũng đều có thể đạt đến Nhất Sanh Bổ Xứ,
v́ thọ mạng vô lượng. Thọ mạng của A
Di Đà Phật là vô lượng, nhân dân của Ngài cũng
có thọ mạng vô lượng. Do thọ mạng dài lâu,
nhất định sẽ có thể tu đạt đến
Nhất Sanh Bổ Xứ. Thọ mạng dài lâu, lại có
thể dụng công tinh tấn, cho nên chỉ có tiến bộ,
chẳng bị thoái chuyển. Đấy c̣n là một đại
nhân duyên. Sanh về Tây Phương đều là Bất
Thoái Chuyển, đầy khắp thế giới đều
là bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, tức là
như kinh A Di Đà đă nói, chư thượng thiện
nhân tụ hội một chỗ. Chúng ta mới sanh về
Tây Phương, chẳng phải là Nhất Sanh Bổ Xứ,
v́ chúng ta là phàm phu đới nghiệp văng sanh. Đới
nghiệp văng sanh, sanh về Tây Phương, làm đạo
hữu của bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát,
đấy là một đại nhân duyên vô thượng
để tu hành. Quư vị muốn lui sụt, cũng chẳng
thể lui sụt. Quư vị muốn chẳng tiến bộ
cũng vẫn tiến bộ v́ hàng Nhất Sanh Bổ Xứ
làm đạo hữu của quư vị.
2.2.3.3.1.1.2. Nêu rơ quang minh thù thắng, nhiệm
mầu
của đại chúng
bên đó
(Kinh)
A Nan! Bỉ Phật quốc trung chư Thanh Văn chúng, thân
quang nhất tầm, Bồ Tát quang minh chiếu bách do-tuần.
Hữu nhị Bồ Tát, tối tôn đệ nhất, oai
thần quang minh, phổ chiếu tam thiên đại thiên thế
giới.
A Nan bạch
Phật: - Bỉ nhị Bồ Tát, kỳ hiệu vân hà?
Phật
ngôn: - Nhất danh Quán Thế Âm, nhị danh Đại Thế
Chí. Thử nhị Bồ Tát ư thử quốc độ,
tu Bồ Tát hạnh, mạng chung chuyển hóa, sanh bỉ Phật
quốc.
(經)阿難!彼佛國中諸聲聞眾,身光一尋。菩薩光明照百由旬。有二菩薩,最尊第一,威神光明,普照三千大千世界。阿難白佛:彼二菩薩,其號云何?佛言:一名觀世音,二名大勢至。此二菩薩,於此國土,修菩薩行,命終轉化, 生彼佛國。
(Kinh:
Này A Nan! Các vị Thanh Văn trong cơi Phật ấy quang minh
nơi thân chiếu xa một tầm, quang minh của Bồ
Tát chiếu một trăm do-tuần. Có hai vị Bồ
Tát, tôn quư bậc nhất, oai thần, quang minh chiếu khắp
tam thiên đại thiên thế giới.
Ngài A Nan bạch
Phật: - Hai vị Bồ Tát ấy danh hiệu như thế
nào?
Đức Phật
nói: - Vị thứ nhất tên là Quán Thế Âm, vị thứ
hai tên là Đại Thế Chí. Hai vị Bồ Tát ấy ở
trong quốc độ này tu Bồ Tát hạnh, mạng chung
chuyển hóa, sanh sang nước Phật ấy).
Đức
Phật gọi bậc đương cơ một tiếng:
“A Nan! Bỉ Phật quốc
trung chư Thanh Văn chúng, thân quang nhất tầm” (này A Nan! Các vị Thanh Văn trong cơi Phật
ấy, quang minh nơi thân chiếu xa một tầm). Đoạn
thứ hai nói đến chúng sanh trong cơi ấy, tức là
chúng Thanh Văn, trên thân đều có quang minh. Quang minh
nơi thân của chúng Thanh Văn chiếu xa một tầm.
Một Tầm (尋) là tám
thước, chỉ chiếu xa tám thước như vậy.
Quang minh của Bồ Tát lớn hơn, quang minh của Bồ
Tát chiếu xa một trăm do-tuần.
“Do-tuần” (Yojana)[3]: Tiểu
do-tuần là bốn mươi dặm, “bách do-tuần” là [tối thiểu] chiếu xa bốn ngàn dặm. Ở đây, lại giới thiệu hai vị đại
Bồ Tát. “Hữu nhị Bồ
Tát, tối tôn đệ nhất” (có hai vị Bồ Tát tôn quư bậc nhất):
Tây Phương Cực Lạc thế giới có rất nhiều
Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, nhưng trong đó, có
hai vị thượng tọa thủ lănh, tôn quư bậc nhất.
“Oai thần quang minh, phổ chiếu
tam thiên đại thiên thế giới” (oai thần, quang minh chiếu khắp tam
thiên đại thiên thế giới): Quang minh của những
vị Bồ Tát khác chỉ chiếu xa một trăm do-tuần, hai vị Bồ Tát này
oai đức thần thông và quang minh có thể chiếu thấu trọn khắp tam thiên đại thiên thế
giới.
“A Nan bạch Phật ngôn: - Bỉ
nhị Bồ Tát, kỳ hiệu vân hà?” (ngài A Nan bạch đức Phật rằng:
- Hai vị Bồ Tát ấy danh hiệu như thế nào?)
Ngài A Nan hỏi, tức là tôn giả A Nan và đức Phật
biểu diễn ở nơi đó, hoằng dương
pháp hóa, một xướng, một họa! Ngài A Nan hỏi
đức Phật giống như hỏi thay cho chúng ta, muốn
chúng ta đặc biệt chú ư đức hiệu của
hai vị Bồ Tát ấy. Thật ra, ngài A Nan không hỏi
đức Phật, đức Phật vẫn sẽ bảo
cho Ngài biết, vậy th́ v́ sao Ngài c̣n phải hỏi? V́
ngài A Nan hỏi để chúng ta đặc biệt chú ư tới đức hiệu của hai vị Bồ
Tát ấy.
“Phật ngôn: - Nhất danh Quán Thế
Âm, nhị danh Đại Thế Chí” (đức Phật
nói: - Vị thứ nhất tên là Quán Thế Âm, vị thứ
hai là Đại Thế Chí), nói đến Tây Phương
Tam Thánh, phía sau giảng đường thờ ba vị
này. Chính giữa là A Di Đà Phật, vị bên trái đức
Phật là Quán Thế Âm Bồ Tát, vị bên kia là Đại
Thế Chí Bồ Tát. Lại xem hai câu kế tiếp càng quan trọng hơn nữa: “Thử nhị
Bồ Tát, ư thử quốc độ, tu Bồ Tát hạnh,
mạng chung chuyển hóa, sanh bỉ Phật quốc” (hai vị Bồ Tát ấy tu Bồ Tát hạnh
trong quốc độ này, mạng chung chuyển hóa, sanh sang cơi kia). [Nói] “thử quốc” và “bỉ quốc”
nhằm đối chiếu. “Bỉ
quốc” (cơi kia) là Tây Phương Cực Lạc thế
giới; “thử quốc” (cơi này) là thế giới Sa Bà của chúng ta.
Hai vị đại Bồ Tát này là Bồ Tát trong thế giới
Sa Bà, tu Bồ Tát hạnh là tu trong thế giới Sa Bà. Các
Ngài phát nguyện sanh về Tây Phương, sau khi mạng
chung bèn chuyển hóa sanh sang nước Phật ấy.
Từ
hai câu kinh văn này, chúng ta biết: V́ sao Quán Thế Âm Bồ
Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát đặc biệt có
duyên với chúng ta? V́ các Ngài vốn là Bồ Tát trong thế
giới Sa Bà, sanh sang Tây Phương, đă đắc đạo, vẫn phải trở về thế giới
Sa Bà để độ chúng sanh. Do vậy, chúng ta đặc
biệt có duyên với các Ngài. A Di Đà Phật có duyên với
chúng ta. Ngoài ra, so sánh giữa hai vị Bồ Tát
này, Quán Thế Âm Bồ Tát lại càng hữu duyên với
chúng ta. Xét theo những điều được nói trong
kinh này, hăy c̣n có danh hiệu của những vị Bồ
Tát khác, nhưng có thể là quư vị đọc xong, chẳng thể nhớ
được, càng có
thể là nay vừa đọc, đă ngay lập tức chẳng
nhớ nữa. Nhưng người niệm kinh nhớ danh
hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát th́ chẳng kể, chứ
người chẳng niệm kinh cũng nhớ. V́ sao vậy?
Là v́ ở Trung Hoa có hai câu: “Nhân
nhân A Di Đà, gia gia Quán Thế Âm” (người người A Di Đà, nhà nhà
Quán Thế Âm). Hai câu ấy có nghĩa là ai nấy đều
biết niệm A Di Đà Phật, mọi nhà đều thờ
tượng Quán Thế Âm Bồ Tát. V́ sao chẳng thờ
tượng Phật và Bồ Tát khác? Là v́ A Di Đà Phật
và Quán Thế Âm Bồ Tát đặc biệt có duyên với
chúng sanh trong cơi này, do kết duyên đặc biệt nhiều!
2.2.3.3.1.1.3. Nêu rơ thân tướng trọn
đủ của chúng sanh nơi ấy
(Kinh)
A Nan! Kỳ hữu chúng sanh, sanh bỉ quốc giả, giai
tất cụ túc tam thập nhị tướng.
(經)阿難!其有眾生,生彼國者,皆悉具足三十二相。
(Kinh: Này A Nan! Nếu có chúng
sanh sanh vào cơi ấy, thảy đều trọn đủ
ba mươi hai tướng).
Đoạn
thứ ba lại tán thán: “A Nan!
Kỳ hữu chúng sanh, sanh bỉ quốc giả, giai tất
cụ túc tam thập nhị tướng” (này A Nan! Nếu có chúng sanh sanh vào cơi ấy,
thảy đều trọn đủ ba mươi hai
tướng). Một kẻ phàm phu lè tè sát đất sanh về
Tây Phương, ngay lập tức liên hoa hóa sanh. Ngoài liên
hoa hóa sanh ra, c̣n là ba mươi hai thứ tướng đại nhân. Ba mươi
hai tướng là tướng hảo giống hệt
như Thích Ca Mâu Ni Phật.
Trong những
phần trước, [kinh văn] đă đôi ba lượt nhắc đi
nhắc lại, nhất là đối với những vị
đă quen nghe kinh, quư vị có thể cảm thấy ba
mươi hai tướng ấy chẳng có ǵ là hiếm
hoi, lạ lùng! Hoặc có thể là quư vị cảm thấy
kinh nói đến tướng của Phật, Bồ Tát chẳng
có ǵ hiếm hoi, lạ lùng. Quư vị chẳng biết: Muốn
sanh ra mà có được ba mươi hai tướng ấy,
đúng là chẳng dễ dàng! Thích Ca Mâu Ni Phật tu hành
trong thế giới Sa Bà, phải tu ba đại A-tăng-kỳ
kiếp mới có thể tu thành Phật, nhưng muốn
độ chúng sanh mà chẳng có tướng hảo trang
nghiêm th́ sẽ không được. Ngài lại tu tướng
hảo thêm một trăm [đại] kiếp nữa. Một trăm đại kiếp,
thời gian dài lắm đấy! Tu ba đại
A-tăng-kỳ kiếp viên măn, đă thành Phật, lại
c̣n phải tu hành thêm một trăm đại kiếp nữa
nhằm chuyên cầu ba mươi hai tướng, khó
khăn như thế đó! Quư vị bèn hiểu: Muốn đạt được ba
mươi hai tướng, chẳng dễ dàng đâu nhé! Sanh về Tây Phương, là một kẻ
phàm phu lè tè sát đất, hoa sen vừa nở bèn có ba
mươi hai tướng th́ chỉ trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới mới có sự diệu lạc thù
thắng như thế đó!
2.2.3.3.1.1.4. Nêu rơ trí đức thù thắng
của đại chúng trong cơi ấy
(Kinh)
Trí huệ thành măn, thâm nhập chư pháp, cứu sướng
yếu diệu, thần thông vô ngại, chư căn minh lợi.
Kỳ độn căn giả, thành tựu nhị Nhẫn. Kỳ lợi căn giả, đắc
bất khả kế Vô Sanh Pháp Nhẫn.
(經)智慧成滿,深入諸法,究暢要妙,神通無礙,諸根明利。其鈍根者,成就二忍。其利根者,得不可計無生法忍。
(Kinh: Trí huệ thành tựu
viên măn, thâm nhập các pháp, thông đạt thấu suốt
các pháp trọng yếu, nhiệm mầu, thần thông vô ngại,
các căn sáng suốt, nhạy bén. Kẻ độn căn
thành tựu hai món Nhẫn, bậc lợi
căn đắc chẳng thể tính Vô Sanh Pháp Nhẫn).
Nói đến
đoạn thứ tư, “trí
huệ thành măn” (trí huệ
thành tựu viên măn): Chúng sanh sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới, cầu trí huệ, đều có thể
thành tựu trí huệ viên măn. “Thâm
nhập chư pháp” (thâm nhập các pháp): V́ có trí huệ rất sâu, họ
mới có thể thâm nhập các pháp. “Cứu sướng yếu diệu” (thông đạt rốt ráo pháp trọng yếu,
mầu nhiệm): Đối với chỗ rất sâu, chỗ
ảo diệu nhất của các pháp, đều thể
thông suốt, liễu đạt rốt ráo. “Thần thông vô ngại”: Đă có trí huệ th́ sẽ
có thần thông, do thần thông bèn có thể chẳng bị
chướng ngại. Trong phần trước tôi đă
nói, học Phật pháp đừng nên cầu thần thông,
hăy cầu trí huệ trước đă! Phối hợp hai
pháp trí huệ và thần thông để nói th́: “Trí huệ là căn bản của
thần thông, thần thông là diệu dụng của trí huệ”.
Quư vị chứng đắc trí huệ, sẽ tùy ư tự
nhiên dấy lên thần thông. Hăy ghi nhớ hai câu giải
thích này. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
trí huệ thành tựu. Hễ có trí huệ, thần thông sẽ
tự nhiên vô chướng, vô ngại, thần thông dấy khởi diệu dụng
mà!
Nhưng
chúng sanh sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
căn cơ khác nhau. Trước khi thành tựu trí huệ
và có thần thông, căn cơ vẫn có sai biệt. “Chư căn minh lợi” (các căn sáng suốt, nhạy bén): Đă
đạt đến trí huệ thành tựu, thần thông
vô ngại, chúng sanh nào cũng đều là “chư căn minh lợi”, tức là sáu căn mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, và ư đều sáng suốt, nhạy bén. Điều
căn bản là trí huệ và thần thông có ǵ khác biệt với
khi chưa thành tựu? Kẻ độn căn chỉ có thể
thành tựu hai thứ Nhẫn. Trong phần trước, [kinh văn]
đă nói ba thứ Nhẫn, thứ nhất là Âm Hưởng
Nhẫn, thứ hai là Nhu Thuận Nhẫn; [kẻ độn
căn có thể] thành tựu [hai món Nhẫn ấy]. Bậc
lợi căn có thể thành tựu ba loại Nhẫn, có thể
đạt được chẳng thể tính kể Vô Sanh
Pháp Nhẫn.
2.2.3.3.1.1.5. Nêu rơ người sanh về cơi ấy
vĩnh viễn ĺa khỏi đường ác
(Kinh)
Hựu bỉ Bồ Tát, năi chí thành Phật, bất thọ
ác thú. Thần thông tự tại, thường thức túc mạng.
Trừ sanh tha phương ngũ trược ác thế, thị
hiện đồng bỉ, như ngă quốc dă.
(經)又彼菩薩,乃至成佛,不受惡趣。神通自在,常識宿命。除生他方五濁惡世,示現同彼,如我國也。
(Kinh: Lại nữa, các vị
Bồ Tát ấy cho đến khi thành Phật, chẳng sanh
trong đường ác. Thần thông tự tại, thường
biết túc mạng. Trừ khi sanh trong đời ác ngũ
trược, thị hiện giống như họ, giống
như [sanh vào] nước ta vậy).
Đoạn
thứ năm, “hựu bỉ Bồ
Tát, năi chí thành Phật, bất thọ ác thú” (lại nữa,
các vị Bồ Tát ấy cho đến khi thành Phật, chẳng
sanh trong đường ác): Tây Phương Cực Lạc
thế giới có một thứ công đức thành tựu
là “chẳng có ba ác đạo”. Chỉ cần quư vị sanh về Tây
Phương, sẽ vĩnh viễn chẳng thọ quả
báo trong đường ác. “Thần
thông tự tại, thường thức túc mạng” (thần thông tự tại, thường biết
túc mạng): Sáu loại thần thông đều được
tự tại, trong đó có một loại là Túc Mạng
Thông, tức là chuyện trong đời trước, kiếp
trước, hoặc nhiều đời, nhiều kiếp
trước, người ấy đều biết. V́ thế,
người ấy sẽ chẳng dấy lên ác niệm, chẳng
tạo ác nghiệp nữa. V́ khởi ác niệm, tạo ác
nghiệp, cho nên mới có thể gặp quả báo trong ba ác đạo. Sanh
về Tây Phương, người ấy đắc Túc Mạng
Thông, tự quan sát chính ḿnh đời trước, kiếp
trước đă từng đọa trong ba ác đạo,
tự ḿnh hổ thẹn chẳng kịp, lẽ nào lại
c̣n sanh ác niệm, lại c̣n tạo ác nghiệp nữa ư? Do vậy, người ấy vĩnh
viễn ĺa khỏi ác đạo. Trừ khi người ấy
là bậc Bồ Tát có bổn nguyện chẳng ở trong Cực
Lạc, muốn thị hiện sanh trong đời ác ngũ
trược ở phương khác để cứu độ
chúng sanh. “Trừ sanh tha
phương ngũ trược ác thế, thị hiện
đồng bỉ, như ngă quốc dă” (trừ khi sanh trong đời ác ngũ
trược nơi phương khác, thị hiện giống
như họ, như sanh trong nước ta vậy): Đời
ác ngũ trược ở những thế giới
phương khác rất nhiều, thế giới Sa Bà chỉ
là một cơi [trong số đó]. Ở đây, Phật Thích
Ca lấy thế giới Sa Bà làm thí dụ. Bồ Tát trong
Tây Phương Cực Lạc thế giới đă chứng
Vô Sanh Pháp Nhẫn, chẳng phải là muốn trở lại
độ chúng sanh ư? Nhưng v́ sao chúng ta đều chẳng
trông thấy? Có ai thấy chư Phật, Bồ Tát trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới có h́nh dạng
như thế nào hay chăng? Chẳng có ai thấy cả!
V́ các Ngài thị hiện giống như chúng sanh trong đời
ác ngũ trược. Thế nhưng, do các Ngài là thị hiện,
cho nên chẳng thọ quả báo trong đường ác.
Từ
thời Dân Quốc đến nay, có một vị pháp
sư đề xướng Tịnh Độ Tông là Ấn
Quang đại sư, mọi người đều cùng suy tôn Ngài là tổ sư đời thứ
mười ba của Tịnh Độ Tông. Lúc Ngài tại
thế, có người nói Ngài là Đại Thế Chí Bồ
Tát tái lai. V́ khi Ngài đả Phật Thất tại Thượng
Hải, có kẻ nằm mộng, mơ thấy có người
bảo kẻ đó: “Đại
Thế Chí Bồ Tát đang chuyển pháp luân tại Thượng
Hải, sao ngươi không ngay lập tức sang Thượng
Hải thân cận Đại Thế Chí Bồ Tát?” Giấc
mộng ấy không đơn giản! B́nh thường
người ấy cũng chưa hề nằm mộng
như vậy, mà cũng chẳng hề niệm Đại
Thế Chí Bồ Tát, v́ sao lại nằm mộng như vậy?
Do đó, chẳng thể nào không vội vă sang Thượng
Hải t́m Đại Thế Chí Bồ Tát. Đă tới
Thượng Hải, [tin tức] rúng động toàn thể
Thượng Hải là Ấn Quang đại sư từ
Tô Châu lên Thượng Hải, đả Phật Thất,
giảng khai thị, người ấy bèn chắc chắn
pháp sư Ấn Quang là Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai, nhưng
Ngài thị hiện giống như chúng ta, vẫn là một
vị ḥa thượng b́nh phàm!
2.2.3.3.1.1.6. Nêu rơ người sanh về cơi ấy
có thể hưng khởi sự cúng dường
(Kinh)
Phật ngữ A Nan: - Bỉ quốc Bồ Tát, thừa Phật
oai thần, nhất thực chi khoảnh, văng nghệ thập
phương vô lượng thế giới, cung kính cúng
dường chư Phật Thế Tôn, tùy tâm sở niệm,
hoa hương, kỹ nhạc, y cái, tràng phan, vô số vô lượng
cúng dường chi cụ, tự nhiên hóa sanh, ứng niệm
tức chí. Trân diệu thù đặc, phi thế sở hữu,
triếp dĩ phụng tán chư Phật, cập chư Bồ
Tát, Thanh Văn chi chúng. Tại hư không trung, hóa thành hoa
cái, quang sắc dục thước, hương khí phổ
huân. Kỳ hoa châu viên tứ bách lư giả. Như thị
chuyển bội, năi phú tam thiên đại thiên thế giới,
tùy kỳ tiền hậu, dĩ thứ hóa một. Kỳ
chư Bồ Tát, thiêm nhiên hân duyệt. Ư hư không trung,
cộng tấu thiên nhạc, dĩ vi diệu âm, ca thán Phật
đức, thính thọ kinh pháp, hoan hỷ vô lượng.
Cúng dường Phật dĩ, vị thực chi tiền, hốt
nhiên khinh cử, hoàn kỳ bổn quốc.
(經)佛語阿難:彼國菩薩,承佛威神,一食之頃,往詣十方無量世界,恭敬供養諸佛世尊。隨心所念,華香、伎樂、衣蓋、幢旛,無數無量供養之具,自然化生,應念即至。珍妙殊特,非世所有。輒以奉散諸佛,及諸菩薩聲聞之眾。在虛空中化成華蓋,光色昱爍,香氣普熏。其華周圓四百里者,如是轉倍,乃覆三千大千世界,隨其前後,以次化沒。其諸菩薩,僉然欣悅。於虛空中,共奏天樂,以微妙音,歌歎佛德,聽受經法,歡喜無量。供養佛已,未食之前,忽然輕舉,還其本國。
(Kinh:
Đức Phật bảo A Nan: - Bồ Tát trong cơi ấy
nương theo oai thần của Phật, trong khoảng bữa
ăn, qua đến mười phương vô lượng
thế giới, cung kính cúng dường chư Phật Thế
Tôn. Tùy theo tâm niệm, hoa, hương, kỹ nhạc, y, lọng,
tràng phan, vô số, vô lượng vật
cúng dường tự nhiên hóa sanh, vừa nghĩ liền
có. Trân quư, đẹp đẽ, đặc biệt thù thắng,
trong cơi đời chẳng hề có. Họ liền dùng [những
thứ ấy] để dâng rải lên chư Phật và các
vị Bồ Tát, Thanh Văn. Ở trong hư không, [những
vật phẩm cúng dường ấy] hóa thành lọng hoa,
quang minh và màu sắc rạng ngời, mùi thơm xông khắp.
Hoa ấy tṛn trặn bốn trăm dặm. Như thế
lần lượt tăng dần, cho đến che phủ
khắp tam thiên đại thiên thế giới, tùy theo thứ
tự trước sau mà biến mất. Các vị Bồ
Tát ḥa hợp, vui sướng, ở trong hư không, cùng tấu
nhạc trời, dùng âm thanh vi diệu ca ngợi, tán thán Phật
đức, nghe nhận kinh pháp, hoan hỷ vô lượng.
Cúng dường Phật xong, trước khi chưa ăn,
bỗng nhẹ nhàng cất ḿnh lên, trở về nước
ḿnh).
Đoạn
thứ sáu, “Phật ngữ A
Nan: - Bỉ quốc Bồ Tát, thừa Phật oai thần”
(đức Phật bảo ngài A Nan: - Bồ Tát trong nước
ấy nương theo oai thần của đức Phật):
Bồ Tát sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới, vị ấy do nương vào oai đức và thần thông của A Di Đà Phật
gia bị, thần thông của Ngài lại chẳng thể
nghĩ bàn. “Nhất thực chi
khoảnh” là thời gian ăn một bữa cơm. “Văng nghệ thập phương
vô lượng thế giới, cung kính cúng dường
chư Phật Thế Tôn” (qua đến mười phương vô lượng
thế giới, cung kính cúng dường chư Phật Thế
Tôn). Người muốn thành Phật cần phải
phước huệ song tu. Trong phần trên, tôi đă nói rồi, vừa tu phước, vừa
tu huệ. Hễ tu lệch lạc, sẽ nẩy sanh khuyết
điểm; quư vị phải tu phước lẫn tu huệ. Muốn cầu phước th́
phải tu ở nơi đâu? Chính là cúng dường Tam Bảo.
Quư vị cúng dường một vị Phật, sẽ
được phước báo của một vị Phật.
Nếu
quư vị cúng dường
vô lượng Phật, chẳng phải là sẽ có vô
lượng phước báo ư? Cúng dường Phật
nhiều ngần ấy, lại có được vật phẩm
cúng dường nhiều ngần ấy. Do có vật phẩm
cúng dường nhiều ngần ấy, cũng đạt
được phước báo nhiều ngần ấy. Quư
vị chẳng có phước báo nhiều ngần ấy, muốn lo liệu vật phẩm cúng dường
nhiều ngần ấy, quư vị cũng lo không nổi. Do
đó, hàng Bồ Tát sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới muốn vun bồi phước báo sẽ
rất dễ dàng.
V́ A Di
Đà Phật gia bị quư vị, Ngài gia bị khiến cho
quư vị thần thông chẳng thể nghĩ bàn: Trong thời
gian một bữa ăn, có thể cúng dường mười
phương vô lượng chư Phật. Cúng dường
mười phương vô lượng chư Phật phải
cần đến vật phẩm cúng dường. “Tùy tâm sở niệm” [nghĩa
là] chỉ cần tâm quư vị vừa động niệm, vật phẩm cúng dường liền
xuất hiện. “Hoa, hương, kỹ nhạc”, hoa cúng dường, hương cúng dường,
âm nhạc cúng dường. “Y
cái, tràng phan” (y phục,
lọng, tràng phan): Cúng dường y phục. “Cái” (蓋) là lọng
báu, tràng phan để cúng dường. “Vô số vô lượng cúng dường chi
cụ” (vô số, vô lượng vật cúng dường): Những
vật phẩm cúng dường khác, quư vị chỉ cần
tùy tâm động niệm, sẽ rất dễ dàng đạt được.
“Tự nhiên hóa sanh, ứng niệm
tức chí” (tự nhiên hóa sanh, vừa nghĩ đă xuất
hiện): Trong phần trước đă từng nói, Bát Địa Bồ Tát rất dễ
dàng lấy những vật dụng từ hư không. Trong
phần trước có đề cập, trong tay quư vị muốn ǵ, sẽ có thể
biến hóa được thứ ấy. Vừa nghĩ,
[thứ ấy] bèn hóa hiện ra, vừa nghĩ bèn có. “Trân diệu thù đặc”
[nghĩa là] những vật phẩm cúng dường ấy
đều là vật phẩm cúng dường đặc biệt thù thắng trân quư nhất, đẹp đẽ nhất.
“Phi thế sở hữu” (chẳng phải là thứ
mà trong cơi đời có được): Chẳng phải là người trong nhân
gian mà ḥng có được! “Triếp
dĩ phụng tán chư Phật, cập chư Bồ Tát, Thanh Văn chi chúng” (liền lấy [những vật cúng dường
ấy] dâng rải lên chư Phật, và đại chúng Thanh
Văn, Bồ Tát): Cúng Phật và Tăng, đến mỗi
thế giới cúng dường Phật, Bồ Tát và chúng
Thanh Văn trong thế giới ấy. Do cúng dường Phật,
Bồ Tát, và chúng Thanh Văn trong vô lượng thế giới,
vậy
th́ quư vị chẳng đạt
được vô lượng phước báo ư?
Những
vị Bồ Tát ấy đến cúng dường, không phải
chỉ là một hai vị, mà là rất nhiều vị Bồ
Tát đến cúng dường nhiều ngần ấy, những
thứ đem đến
cúng dường lại
nhiều như thế, cầm lấy những vật cúng dường ấy
để cúng đến nơi đâu? “Tại hư không trung hóa thành hoa cái” (ở trong hư không, hóa thành lọng hoa),
cúng trong hư không. Ở trong hư không, hóa thành một cái lọng hoa. Bất luận vật phẩm cúng
dường nào, ở trong hư không đều kết
thành một cái lọng hoa. Không chỉ là hoa cúng dường,
hương cúng dường, y cúng dường, thảy
đều biến hóa thành một cái lọng hoa. “Quang sắc dục thước”
[nghĩa là] quang minh và màu sắc đều rất đẹp
mắt. “Dục thước”
(昱爍) là quang minh to lớn, màu sắc rất rực
rỡ, chói
ḷa. Lại c̣n “hương khí phổ huân”
(mùi thơm xông khắp). Lọng hoa ấy to cỡ nào? “Kỳ hoa châu viên tứ bách lư giả”
(hoa ấy tṛn trặn bốn trăm dặm), to chừng mười do-tuần[4]. “Như thị chuyển bội”
(lần lượt tăng dần lên như
thế), chẳng phải chỉ là bốn trăm dặm. “Chuyển bội” (tăng dần lên) là c̣n có [những lọng hoa] to tám trăm dặm,
một ngàn sáu trăm dặm, “năi
phú tam thiên đại thiên thế giới” (cho đến
che phủ một tam thiên đại thiên thế
giới), tức là lọng
hoa do những vật phẩm cúng dường kết thành,
che rợp cả một tam thiên đại thiên thế giới,
tức một cơi Phật.
“Tùy kỳ tiền hậu, dĩ
thứ hóa một” (theo thứ tự trước sau mà biến mất).
Vật phẩm cúng dường của một vị Bồ
Tát này che rợp một tam thiên đại thiên thế giới,
tức một cơi Phật, vậy th́ vị Bồ Tát thứ
hai sẽ cúng
dường như thế nào? “Tùy kỳ tiền hậu” (theo thứ lớp trước sau), lúc vị Bồ Tát thứ hai muốn cúng
dường, những vật cúng dường trước
đó sẽ tự nhiên chẳng c̣n nữa. Đấy là cảnh
giới chẳng thể nghĩ bàn. “Dĩ thứ hóa một” (theo thứ tự biến mất): Ví như chúng ta
nói theo cơi này, vị Bồ Tát trước đốt
hương, vị Bồ Tát sau cũng muốn dâng
hương, vị Bồ Tát thứ nhất cắm hoa, vị
Bồ Tát thứ hai đến dâng hoa, sẽ chỉ
đành nhổ hoa của người trước ra th́ mới
có thể cắm cành hoa thứ hai. Trong cơi này, chúng ta chẳng
được tự nhiên như vậy, nhưng trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới, hàng Bồ Tát có
thần thông diệu dụng, “dĩ
thứ hóa một” (theo thứ tự biến mất), vật phẩm cúng dường tự
nhiên chẳng c̣n nữa!
“Kỳ chư Bồ Tát, thiêm nhiên
hân duyệt” (các vị Bồ Tát ấy ḥa hợp, hân
hoan, vui sướng): Có thể viên măn ư nguyện cúng dường
chư Phật, trong tâm sẽ có nhiều niềm hoan hỷ.
“Ư hư không trung, cộng tấu
thiên nhạc” (ở trong hư không, cùng tấu nhạc
trời): Lại dùng âm nhạc để cúng dường. “Thiên nhạc” là âm nhạc tự
nhiên. “Dĩ vi diệu âm, ca thán
Phật đức” (dùng âm thanh vi diệu, ca ngợi Phật đức):
Tấu âm nhạc, lại c̣n xướng những lời
ca để tán thán công đức của Phật. “Thính thọ kinh pháp” (nghe nhận kinh pháp), cúng dường xong, lại
xướng lời tán thán rồi nghe Phật giảng kinh,
thuyết pháp. “Hoan hỷ vô
lượng”: Nghe xong hoan hỷ vô lượng. Niềm
hoan hỷ trong phần trên là do thỏa măn ư nguyện cúng Phật,
niềm hoan hỷ ở đây là do đạt được
pháp lạc, tức niềm hoan hỷ do nghe đức Phật
thuyết pháp.
“Cúng dường Phật dĩ, vị
thực chi tiền, hốt nhiên khinh cử, hoàn kỳ bổn
quốc” (cúng dường Phật xong, trong khoảng
chưa đến giờ ăn, bỗng nhẹ nhàng cất
thân lên, trở về nước ḿnh): Sáng sớm thức dậy,
cúng dường mười phương chư Phật, chẳng
có vị Phật nào mà không cúng dường, [cúng dường
đă xong mà] vẫn chưa đến lúc dùng cơm! “Khinh cử” (nhẹ nhàng cất thân lên), rất nhẹ
nhàng quay về nước ḿnh, [tức là] trở lại
Tây Phương Cực Lạc thế giới, vẫn
chưa đến lúc ăn trưa.
Đoạn
kinh văn này thuyết minh hàng Bồ Tát trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới v́ sao có thể
đạt đến Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát? Không chỉ là do thọ mạng dài lâu, mà
c̣n là do có năng lực tu phước và tu huệ, có thể
tu nhiều như vậy. Cho nên các Ngài thành tựu mau chóng. Tây Phương Cực
Lạc thế giới toàn là Nhất Sanh Bổ Xứ, các
Ngài chẳng phải là bỗng dưng mà thành tựu Nhất
Sanh Bổ Xứ, vẫn là do tu thành. Bất quá, các Ngài tu
hành dễ dàng hơn so với chúng ta tu hành trong thế giới
Sa Bà nhiều
lắm. V́ các Ngài sanh vào Tây
Phương Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật
gia bị các Ngài, thần thông diệu dụng chẳng thể
nghĩ bàn. Các Ngài có thể trong thời gian một bữa
ăn, đến cúng dường chư Phật và vô lượng
Thanh Văn, Bồ Tát, sử dụng những vật cúng
thuận theo ḷng muốn bèn xuất hiện. Tu phước
như vậy sẽ tu lớn lao. Cúng dường xong xuôi, lại tán
thán, lại nghe đức Phật thuyết pháp. Nay chúng ta
mong học Phật pháp, được thân cận bậc
danh sư hoặc thiện tri thức. Vị danh sư hoặc
thiện tri thức ấy khéo giảng Phật pháp cho quư vị,
quư vị sẽ đạt được nhiều lợi ích. Trong thế giới
này, một vị danh sư hoặc thiện tri thức thị
hiện làm một phàm phu, nếu quư vị thân cận một
vị Phật giảng giải Phật pháp cho quư vị, chẳng
phải là quư vị sẽ mau chóng đạt được
trí huệ ư? Một vị Phật giảng Phật pháp
cho quư vị, quư vị sẽ đạt được trí
huệ rất nhiều; vậy th́ vô lượng chư Phật
thuyết pháp cho quư vị, chẳng phải là quư vị sẽ
đắc vô lượng trí huệ ư? Do vậy bèn cầu
phước vô lượng, cầu huệ cũng vô lượng.
Phước huệ song tu, kết quả là phước huệ
viên măn, lẽ nào chẳng thể đạt đến Nhất Sanh Bổ Xứ?
Sẽ giống như đă thành Phật.
Những
lời [kinh] này đều nhằm nói cho chúng ta nghe, sau khi
đă sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
lại tu phước và tu huệ sẽ dễ dàng hơn
nhiều! Nay chúng ta phước huệ song tu, nay chúng ta là
đệ tử Phật, mỗi người có điều
thiên trọng riêng. Kẻ thích tu phước, chẳng thích
tu huệ. Kẻ thích tu huệ, chẳng thích tu phước.
V́ sao phải phước huệ song tu? “Phước thị huệ chi tư, huệ thị
phước chi đạo” (phước giúp đỡ huệ, huệ hướng
dẫn phước). Nếu nhớ rơ hai câu chú giải ấy,
quư vị sẽ có thể
thọ dụng suốt một
đời. “Phước thị
huệ chi tư” (phước giúp đỡ huệ), “tư” (資) có nghĩa là giúp đỡ. V́ sao phải
tu phước? Phước báo giúp đỡ trí huệ. Nó
có thể giúp cho quư vị tu huệ. Nói cách khác, nếu chẳng
có phước báo, căn bản là chẳng cầu trí huệ
được! Nếu
muốn cầu trí huệ, ắt cần phải có phước
báo. Phước là cái giúp
đỡ cho huệ, [có kẻ nghe nói như vậy, bèn vọng
tưởng] “vậy th́ chúng ta tu phước là được
rồi!” Không tu huệ th́ lại lệch lạc, sai lầm
mất rồi! “Huệ thị
phước chi đạo” (huệ hướng dẫn
phước), “đạo” (導) là dẫn
dắt. Quư vị chỉ tu phước [không tu huệ th́] là tu sai mất rồi! Chẳng phải là ngoại đạo
cũng tu phước đó sao? Họ tu cúng dường
đấy thôi! Họ cúng dường thiên tôn, Thượng
Đế đấy mà! Chẳng phải là họ đang
cúng dường hay sao? Quư vị phải hiểu, họ chẳng
có trí huệ, cầu phước mà đâm ra chuốc lấy
tội lỗi. Giống như những cuộc cúng lễ
lớn trong tỉnh này (Đài Loan) th́ phải mổ lợn,
giết rất nhiều sanh mạng. V́ sao làm như vậy?
V́ cầu phước, do chẳng có trí huệ, cho nên cầu
được tội lỗi! “Huệ
thị phước chi đạo” (huệ hướng dẫn
phước), “đạo” là dẫn dắt, phải có trí huệ th́ mới
có thể hướng dẫn cái phước của quư vị,
đi theo đại đạo Niết Bàn. Do đó, chớ
nên thiên lệch, phế bỏ một môn. Đấy là
khuyên hàng đệ tử Phật chúng ta, mọi người
đều phải chú ư. Có những người thích
thắp hương, dâng hoa, thích cúng dường, chẳng
thích nghe kinh, xem kinh, càng chẳng thích nghiên cứu kinh. Có những
người thích nghiên cứu kinh điển, suốt ngày từ
sáng đến tối nghiên cứu, bảo họ đốt
hương, dâng hoa, họ không chịu. Đấy đều
là lệch lạc. Phải phước huệ song tu, phải
ghi nhớ “phước để
giúp đỡ huệ, huệ hướng dẫn phước”.
Chớ nên thiên về một bên, phế bỏ bên kia!
2.2.3.3.1.1.7. Nêu rơ người sanh về cơi ấy
nghe pháp chẳng dứt
(Kinh)
Phật ngữ A Nan: - Vô Lượng Thọ Phật, vị
chư Thanh Văn, Bồ Tát, thiên, nhân ban tuyên pháp thời,
đô tất tập hội thất bảo giảng
đường, quảng tuyên đạo giáo, diễn
sướng diệu pháp, mạc bất hoan hỷ, tâm giải
đắc đạo. Tức thời tứ phương tự
nhiên phong khởi, xuy thất bảo thụ, xuất ngũ
âm thanh. Vô lượng diệu hoa, tùy phong tứ tán, tự
nhiên cúng dường, như thị bất tuyệt. Nhất
thiết chư thiên, giai tê thiên thượng bách thiên hoa
hương, vạn chủng kỹ nhạc, cúng dường
kỳ Phật, cập chư Bồ Tát, Thanh Văn chi chúng.
Phổ tán hoa hương, tấu chư âm nhạc. Tiền
hậu lai văng, cánh tương khai tỵ, đương
tư chi thời, hy di khoái lạc, bất khả thắng
ngôn.
(經)佛語阿難:無量壽佛,為諸聲聞菩薩天人頒宣法時,都悉集會七寶講堂,廣宣道教,演暢妙法,莫不歡喜,心解得道。即時四方自然風起,吹七寶樹,出五音聲。無量妙華,隨風四散,自然供養,如是不絕。一切諸天,皆賷天上百千華香,萬種伎樂,供養其佛,及諸菩薩聲聞之眾。普散華香,奏諸音樂。前後來往,更相開避。當斯之時,熙怡快樂,不可勝言。
(Kinh:
Đức Phật bảo ngài A Nan: - Khi Vô Lượng Thọ
Phật ban bố, tuyên nói pháp cho các vị Thanh Văn, Bồ
Tát, trời, người, [mọi người] thảy
đều nhóm họp tại giảng đường bảy
báu, [đức Phật] rộng tuyên đạo giáo, diễn
giảng thông suốt diệu pháp, không ai chẳng hoan hỷ, tâm giải
ngộ, đắc đạo. Ngay khi đó, bốn
phương tự nhiên gió trỗi lên, thổi qua các cây báu,
vang ra năm âm thanh. Vô lượng diệu hoa theo gió rải
rắc bốn phía, tự nhiên cúng dường như thế
chẳng dứt. Hết thảy chư thiên đều cầm
trăm ngàn hoa hương trên cơi trời, muôn thứ kỹ
nhạc để cúng dường đức Phật ấy
và các vị Bồ Tát, đại chúng Thanh Văn, rải khắp
hoa, hương, tấu các
âm nhạc. Trước sau qua lại, lần lượt
lui ra nhường lối, ngay trong lúc ấy, khoan khoái, vui
sướng chẳng thể kể xiết).
“Phật ngữ A Nan: - Vô Lượng
Thọ Phật, vị chư Thanh Văn, Bồ Tát, thiên,
nhân ban tuyên pháp thời, đô tất tập hội thất
bảo giảng đường” (đức Phật bảo ngài A Nan: - Khi Vô Lượng
Thọ Phật ban bố, tuyên nói pháp cho các vị Thanh
Văn, Bồ Tát, trời, người, [mọi người]
thảy đều nhóm họp tại giảng đường
bảy báu): [Dùng chữ] “ban” (頒) với ư nghĩa tôn kính, tức là khi đức
Phật tuyên dương Phật pháp, do tôn kính Phật nên
nói là “ban tuyên”, [hàm ư] giống
như Ngài ban thưởng pháp âm cho chúng ta. Mọi người
đều nhóm đến giảng đường bảy
báu. Tây Phương Cực Lạc thế giới có Thanh
Văn, Bồ Tát, trời, người vô số, giảng
đường ấy to lớn chẳng có ngằn mé. Đấy đều
là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
“Quảng tuyên đạo giáo”:
Tuyên dương rộng răi giáo pháp của Phật đạo.
“Diễn sướng diệu
pháp”: Diễn nói lưu loát, thông đạt diệu pháp
chẳng thể nghĩ bàn. “Mạc
bất hoan hỷ, tâm giải đắc đạo” (không ai chẳng hoan hỷ, tâm giải ngộ,
đắc đạo): Người nghe A Di Đà Phật
thuyết pháp đều đạt được pháp hỷ.
V́ sao đạt được pháp hỷ? [Do] trong tâm giải ngộ. Chữ Giải (解) ở đây nên đọc là X́e (ㄒㄧㄝˋ, âm Hán Việt là Giải). Họ vừa
nghe liền giải ngộ; hễ giải ngộ, sẽ có thể đạt được Phật
đạo. Do vậy, khi đó mọi người đều
đạt được pháp hỷ và pháp lạc. Nghe pháp
mà đạt được pháp hỷ và pháp lạc, sẽ
muốn cúng dường, giống như trong đoạn thứ
sáu trên đây. Đoạn thứ sáu là nói họ tới các
thế giới Phật ở phương khác, trước
hết là dâng hiến cúng dường rồi mới nghe
pháp. Trong thế giới Cực Lạc, nghe pháp trước
rồi sau đấy mới cúng dường.
“Tức thời tứ
phương tự nhiên phong khởi, xuy thất bảo thụ,
xuất ngũ âm thanh” (ngay khi đó, tự nhiên gió trỗi lên, thổi qua
các cây bảy báu, vang ra tiếng ngũ âm): Những vị
Thanh Văn, Bồ Tát nghe pháp ấy, muốn dâng cúng dường,
trước hết dâng âm nhạc cúng dường. Trong tâm vừa dấy niệm, bên ngoài liền
nổi gió. Gió trỗi lên liền thổi qua cây bảy báu,
cây bảy báu phát ra âm thanh âm nhạc, tức là tấu lên
năm loại âm thanh của âm nhạc: Cung, Thương,
Giốc, Chủy, Vũ. Lại dâng hoa cúng dường. “Vô lượng diệu hoa, tùy
phong tứ tán, tự nhiên cúng dường, như thị bất
tuyệt” (vô lượng hoa mầu nhiệm, theo gió rải
bốn phía, tự nhiên cúng dường chẳng ngớt
như thế): Cúng dường âm nhạc, cúng dường
hoa trời, cúng dường chẳng ngưng dứt. Đấy
là nói trong Tây Phương Cực Lạc thế giới,
đại chúng trong giảng đường, ngoài chúng Thanh
Văn và Bồ Tát ra, c̣n có thiên chúng và nhân chúng. “Nhất thiết chư thiên, giai
tê thiên thượng bách thiên hoa hương” (hết thảy chư thiên đều cầm
trăm ngàn hoa hương trên cơi trời), “tê” (賷) là
đem đến, cầm đến, trăm ngàn loại
hoa hương. “Vạn chủng
kỹ nhạc” là muôn thứ âm nhạc, đến “cúng dường kỳ Phật”,
tức là cúng dường Vô Lượng Thọ Phật, “cập chư Bồ Tát Thanh
Văn chi chúng”, và cũng cúng dường những vị
Bồ Tát, Thanh Văn và Tăng chúng. “Phổ tán hoa hương, tấu chư âm nhạc”
(rải khắp hoa, hương, tấu các
âm nhạc): Rải hoa, rải hương, diễn tấu
âm nhạc để cúng dường. “Tiền hậu lai văng, cánh tương khai tỵ”
(trước sau qua lại, nhường lối
cho nhau): Chư thiên đông đảo, phía trước là một
nhóm chư thiên đến cúng dường, lại có một
nhóm tiếp ngay theo sau. “Cánh
tương khai tỵ” [nghĩa là] nhóm phía trước rời đi để
cho nhóm chư thiên phía sau cúng dường. Nhóm thứ hai cúng
dường xong, nhóm thứ ba tiến lên, nhóm thứ hai lại
nhường lối. “Đương
tư chi thời” (ngay trong lúc ấy): Trong lúc cúng dường. “Hy di khoái lạc, bất khả
thắng ngôn” (hân hoan, vui sướng, chẳng thể nói
xiết): “Hy di” (熙怡) là người lui tới không ngừng cúng
dường, ai nấy đều cảm giác hết sức
vui sướng, vui sướng cỡ nào? Chẳng thể
có cách nào dùng ngôn ngữ để h́nh dung được!
2.2.3.3.1.1.8. Nêu rơ hàng Bồ Tát trong cơi ấy
hạnh đức viên măn
2.2.3.3.1.1.8.1. Trước hết nêu ra các biệt
đức
2.2.3.3.1.1.8.1.1. Tu hành ĺa lỗi
(Kinh)
Phật ngữ A Nan: - Sanh bỉ Phật quốc chư Bồ
Tát đẳng, sở khả giảng thuyết, thường
tuyên chánh pháp, tùy thuận trí huệ, vô vi, vô thất. Ư kỳ quốc độ,
sở hữu vạn vật, vô ngă sở tâm, vô nhiễm
trước tâm, khứ lai tấn chỉ, t́nh vô sở hệ,
tùy ư tự tại, vô sở đích mạc, vô bỉ, vô ngă,
vô cạnh, vô tụng. Ư chư chúng sanh, đắc đại
từ bi nhiêu ích chi tâm. Nhu nhuận điều phục, vô
phẫn hận tâm, ly cái thanh tịnh, vô yếm đăi tâm,
đẳng tâm, thắng tâm, thâm tâm, định tâm, ái pháp, nhạo pháp, hỷ pháp chi
tâm. Diệt chư phiền năo, ly ác thú tâm, cứu cánh nhất
thiết Bồ Tát sở hành.
(經)佛語阿難:生彼佛國諸菩薩等,所可講說,常宣正法。隨順智慧,無違無失。於其國土所有萬物,無我所心,無染著心。去來進止,情無所係。隨意自在,無所適莫。無彼無我,無競無訟。於諸眾生,得大慈悲饒益之心。柔潤調伏,無忿恨心。離蓋清淨,無厭怠心。等心、勝心、深心、定心,愛法、樂法、喜法之心。滅諸煩惱,離惡趣心。 究竟一切菩薩所行。
(Kinh:
Đức Phật bảo ngài A Nan: - Các hàng Bồ Tát sanh về
cơi Phật ấy có thể giảng nói, thường tuyên
dương chánh pháp, tùy thuận trí huệ, chẳng trái nghịch,
chẳng sai sót. Đối với tất cả muôn vật
trong cơi nước ấy, không có tâm ngă sở, tâm chẳng
nhiễm đắm. Đến, đi, cư xử, chẳng
vướng mắc trong t́nh thức, tùy ư tự tại,
không có ǵ yêu ghét. Không người, không ta, chẳng tranh
giành, chẳng tranh tụng. Đối với các chúng sanh,
mang ḷng đại từ bi, tạo lợi ích. Nhu nhuận,
điều phục, không có tâm phẫn hận, ĺa khỏi
những thứ kết sử, thanh tịnh, không có tâm chán
ngán, lười nhác. Tâm b́nh đẳng, tâm thù thắng, thâm
tâm, định tâm, yêu mến pháp, ưa thích pháp, tâm vui thích
pháp, diệt các phiền năo, tâm ĺa các đường ác, rốt
ráo hạnh của hết thảy các Bồ Tát).
Đoạn
thứ tám nói đến người trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới, tất cả hạnh môn và công đức thảy đều thành tựu
viên măn. “Phật ngữ A Nan: -
Sanh bỉ Phật quốc chư Bồ Tát đẳng, sở
khả giảng thuyết, thường tuyên chánh pháp”
(đức Phật bảo ngài A Nan: - Các vị Bồ Tát
sanh trong cơi Phật ấy có thể giảng nói, thường
tuyên dương chánh pháp). Trong phần trước là sau khi
nghe đức Phật thuyết pháp và học theo đức Phật thuyết pháp, đă học hiểu
rồi, nay th́ chính ḿnh sẽ hoằng pháp. V́ sao? Phát nguyện sanh về Tây
Phương bèn học giảng kinh, thuyết pháp, muốn
độ chúng sanh th́ phải thuyết pháp. Do vậy, trong
Tây Phương Cực Lạc thế giới, trước
hết là luyện tập. Đă nghe A Di Đà Phật thuyết
pháp, đă học hiểu rồi, bèn giảng kinh ngay trong
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Ở trước
mặt chư Phật, cầu đạt được
trí huệ. Lại c̣n ở ngay trước mặt A Di
Đà Phật, cầu đạt được trí huệ.
Giảng kinh, thuyết pháp, diễn nói “tùy thuận trí huệ”.
“Vô vi, vô thất”, “vi” (違) là trái nghịch chánh pháp, “thất” (失) là sai
lạc chánh pháp. Pháp
được nói ra sẽ chẳng trái nghịch chánh pháp, mà cũng
chẳng có điều sai sót, v́ sao? V́ Ngài nói thuận theo
trí huệ. Giống như chúng ta nay đang học giảng
kinh, thuyết pháp, cũng phải “tùy thuận trí huệ”, nói đến mức “vô vi, vô thất”. Chúng ta là hạng
phàm phu lè tè sát đất, lấy đâu ra trí huệ? Dựa
theo Thánh Ngôn Lượng để giải nói. “Thánh ngôn” là lời lẽ của
Phật và Bồ Tát. [Thánh Ngôn Lượng] là lấy lời của bậc
thánh làm tiêu chuẩn. “Lượng”
(量) là tiêu chuẩn. Dựa theo lời Phật
và Bồ Tát đă dạy trong kinh Phật để làm tiêu
chuẩn th́ chúng ta giải nói sẽ có thể đạt
đến mức
độ “vô vi, vô thất”. Đối
với những lời dạy trong kinh Phật, đôi khi xem không hiểu, hăy xem chú giải
của các vị tổ sư đại đức thời
cổ. Tôi thường nói với các vị pháp sư trẻ
tuổi:
- Nay quư
vị trước hết hăy học bằng cách xem chú giải, chứ lăo pháp sư có thể
giảng cho quư vị mấy bộ kinh? Quư vị học hiểu
bằng cách xem chú giải th́ mới có thể làm pháp sư.
Lăo pháp sư dạy bảo, sẽ khuyên quư vị: Để
giảng một bộ kinh nào, phải xem bộ chú giải
nào. Chúng ta học theo lăo pháp sư sẽ đạt
được lợi ích ấy. Ví như quư vị học giảng kinh Kim Cang,
chúng tôi ở Đại Lục, lăo pháp sư liền bảo
chúng tôi dựa theo bộ chú giải Kim Cang Tâm Ấn Sớ[5] để
giảng. Nếu không, quư vị thấy trong Vạn Tự
Tục Tạng[6], chỉ
riêng chú giải kinh Kim Cang đă có hơn một trăm thứ,
quư vị phải xem đến khi nào th́ mới có thể học
hiểu để giảng kinh Kim Cang? Mỗi bộ lại
c̣n giảng giải mỗi kiểu, quư vị sẽ giảng
như thế nào đây? Có bản chú giải giảng nói dính đến ngoại đạo, quư vị
giảng sai th́ biết làm sao được? Lăo pháp sư
đă chỉ dạy quư vị, giảng bộ kinh nào, hăy
xem bộ chú giải nào, như vậy là “tùy thuận trí huệ, vô vi, vô thất” (tùy thuận trí huệ, chẳng
chống trái, chẳng sai lạc). Chớ nên hời hợt, qua loa! Đấy
là nói hàng Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới có trí huệ, có thể giảng kinh, lại nói
đến công phu tu hành và sự thành tựu nơi hạnh môn của các
Ngài trong Tây Phương Cực Lạc thế giới.
“Ư kỳ quốc độ sở
hữu vạn vật, vô ngă sở tâm, vô nhiễm trước
tâm” (đối với tất cả muôn vật trong cơi
nước ấy, chẳng có tâm ngă sở, chẳng có tâm
nhiễm đắm): Muôn vật trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới đều trang nghiêm bằng bảy báu, các vị Bồ
Tát ấy chẳng nghĩ món nào là đồ của ta. Tất cả phiền
năo của chúng ta đều từ cái tâm sở hữu của
ta dẫn khởi. Cái này là món ta sở hữu; đấy
là tâm tham, chúng ta sẽ tham thứ này, ta sẽ tham thứ
kia. Đấy là dấy ḷng tham. Hễ tham chẳng
được, bèn dấy ḷng sân hận, suốt ngày từ
sáng đến tối dấy động ư niệm tham, sân,
si, sanh ra phiền năo, cho nên mới tạo nghiệp. Do tạo
nghiệp mới chịu khổ. Hàng Bồ Tát sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có
tâm tham, trông thấy cảnh giới bảy báu trang nghiêm tốt
đẹp dường ấy, Ngài chẳng nghĩ thứ
ǵ là sở hữu của chính ḿnh, chẳng có cái tâm sở
hữu của ta. “Vô nhiễm
trước tâm”(tâm chẳng
đắm nhiễm): Bất luận bảy báu trang nghiêm tốt đẹp đến mấy đi nữa, bất luận
đẹp mắt đến mấy đi nữa, chẳng
có tí xíu tâm đắm nhiễm nào!
“Khứ lai tấn chỉ, t́nh vô sở hệ” [nghĩa là] đi, đứng, ngồi, nằm, đều có oai nghi, quyết
chẳng dấy động t́nh tự tham dục, hoặc
bị ràng buộc bởi bất cứ vật phẩm nào!
“Tùy ư tự tại, vô sở
đích mạc” (tùy ư tự tại, chẳng có ǵ yêu ghét): Chữ
Thích (適) phải đọc là Dí (ㄉㄧˊ, âm Hán Việt là Đích), [câu này có nghĩa
là] tùy ư tự tại, chẳng đối với thứ ǵ
dấy ḷng yêu mến thiên vị. “Đích” là yêu mến thiên vị, Mạc (莫) là chẳng yêu mến. Đối với
chúng sanh, ta thuyết pháp, chúng sanh đến nghe, ta chẳng hề đối
xử trọng hậu hay bạc bẽo đối với
chúng sanh nào, thảy đều chẳng có. Chẳng có cái
tâm tham dục, sẽ chẳng dấy động cái tâm phẫn
hận. “Vô bỉ, vô ngă, vô cạnh, vô tụng” (không người, không
ta, không cạnh tranh, không kiện cáo): Chẳng có ngươi, chẳng có ta, chẳng
dấy lên tri kiến ta hay người, sẽ chẳng cạnh tranh với
người khác. “Tụng” (訟) có nghĩa là tranh tụng.
“Ư chư chúng sanh, đắc
đại từ bi nhiêu ích chi tâm” [nghĩa là] đối
với hết thảy chúng sanh đều b́nh đẳng,
đại từ, đại bi, có tấm ḷng từ bi, b́nh
đẳng, có cái tâm tạo lợi ích, luôn luôn tạo nhiều
lợi ích cho chúng sanh. “Nhu nhuận
điều phục, vô phẫn hận tâm” (mềm mỏng, kiềm chế, không có tâm
phẫn hận): Nếu là người có cái tâm hiền dịu, biết kiềm chế, sẽ hết sức
dịu dàng, sẽ chẳng dấy ḷng sân hận. “Ly cái thanh tịnh”: Đừng
hiểu Cái (蓋) ở
đây Bảo Cái (寶蓋, lọng báu), mà nó chính là năm thứ Cái như đă nói trong phần
trước, tức
tham dục cái, sân khuể
cái, thùy miên cái, điệu hối cái, và nghi pháp cái. Đều xa ĺa năm món Cái ấy, cho nên tự tánh của các Ngài
thanh tịnh. “Vô yếm đăi
tâm”: Chẳng có cái tâm chán ngán, lười nhác.
“Đẳng tâm, thắng tâm, thâm
tâm, định tâm”: Vậy th́ Ngài là tâm ǵ? Tâm b́nh đẳng,
tâm thắng diệu, thâm tâm, định tâm. Nói theo Đại
Thừa Khởi Tín Luận, “thâm
tâm” là cái tâm mong trụ trong hết thảy các thiện
pháp. Do thâm tâm, sẽ ưa thích làm các thiện công đức. “Định
tâm” là tâm Thiền Định. “Ái pháp, nhạo pháp, hỷ pháp chi tâm”: Điều
khiến cho cái tâm của quư vị hoan hỷ, ưa thích là
Phật pháp. Quư vị yêu mến Phật pháp, ưa thích Phật
pháp, hoan hỷ Phật pháp. “Diệt
chư phiền năo, ly ác thú tâm” (tâm diệt các phiền năo, ĺa
đường ác): Xa ĺa hết thảy phiền năo, diệt trừ
chúng, tự nhiên do vậy mà ĺa khỏi đường ác. “Cứu cánh nhất thiết Bồ
Tát sở hành, cụ túc thành tựu vô lượng công đức”
(rốt ráo hết thảy những điều
được hành bởi Bồ Tát, thành tựu trọn đủ vô lượng
công đức): Xét theo ngữ pháp th́ phải đọc hai
câu này một mạch, nhưng “cứu
cánh nhất thiết Bồ Tát sở hành” (rốt ráo hết
thảy những điều phải hành của hàng Bồ
Tát) nhằm tổng kết những câu trên đây, c̣n “cụ túc thành tựu vô lượng
công đức” (thành tựu trọn đủ vô lượng
công đức) là nêu tổng quát [những điều sẽ
nói] dưới đây.
2.2.3.3.1.1.8.1.2. Thành tựu trọn vẹn
các đức
(Kinh)
Cụ túc thành tựu vô lượng công đức, đắc
thâm Thiền Định, chư thông minh huệ, du chí Thất
Giác, tu tâm Phật pháp. Nhục nhăn thanh triệt, mị bất
phân liễu. Thiên nhăn thông đạt, vô lượng vô hạn.
Pháp nhăn quán sát, cứu cánh chư đạo. Huệ nhăn kiến
chân, năng độ bỉ ngạn. Phật nhăn cụ
túc, giác liễu pháp tánh. Dĩ vô ngại trí, vị nhân diễn
thuyết.
(經)具足成就無量功德。得深禪定,諸通明慧,遊志七覺,修心佛法。肉眼清徹,靡不分了。天眼通達,無量無限。法眼觀察,究竟諸道。慧眼見真,能度彼岸。佛眼具足,覺了法性。以無礙智,為人演說。
(Kinh:
Thành tựu đầy đủ vô lượng công đức,
đắc Thiền Định sâu, đạt được
các món thần thông, Tam Minh, trí huệ, dạo chơi trong Thất
Giác để tu tâm Phật pháp. Nhục nhăn sáng tỏ, không
ǵ chẳng phân biệt rành rẽ. Thiên nhăn thông đạt, vô lượng, vô hạn. Pháp nhăn quán sát rốt ráo các đạo. Huệ
nhăn thấy chân thật, có thể vượt sang bờ
kia. Phật nhăn trọn đủ, giác liễu pháp tánh. Dùng
vô ngại trí để v́ người khác diễn nói).
Hàng Bồ
Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới “cụ túc thành tựu vô lượng
công đức” (thành tựu đầy đủ vô
lượng công đức), đều là những công
đức như thế nào? Kế đó, [đức Phật]
bèn “biệt minh”, tức là
nói rơ từng điều riêng biệt. “Đắc thâm Thiền Định”, [nghĩa là]
đạt được Thiền Định rất sâu. “Chư thông minh huệ”: “Chư thông” là sáu thứ thần
thông, Minh là Tam Minh, hết thảy trí huệ đều
đạt được. “Du
chí Thất Giác” (dạo chơi trong Thất Giác Chi), “du” (遊) là du hành; chí nguyện trong tâm là dạo chơi
nơi cảnh giới Thất Giác. Tâm chúng ta dạo
chơi trong cảnh giới tham, sân, si; c̣n tâm niệm của
hàng Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới,
nghĩ tới, nghĩ lui đều là trong Thất Giác. Thất
Giác c̣n gọi là Thất Giác Chi (Saptabodhyanga), tức là Thất
Bồ Đề Phần như kinh A Di Đà đă nói:
1) Thứ
nhất là Trạch Pháp Giác (Dharma-pravicaya-bodhyanga), “Giác” (覺) có nghĩa là “giác
sát” (覺察, nhận biết, cảm nhận), giác ngộ.
Nếu quư vị tu hành, hiện thời quư vị phải
phân biệt, chọn lựa Phật pháp. Đầu
tiên, quư vị phải phân biệt rạch ṛi chân và ngụy,
“ngụy” (偽) là ngoại đạo, là giả Phật
pháp, “chân” (真) là Phật pháp thật sự. Quư vị học
Phật, chớ nên học theo ngoại đạo. Hăy chọn
lựa Phật pháp thật sự, lại c̣n phải chọn
lấy pháp tương ứng căn cơ, tức là pháp
môn nào sẽ phù hợp với căn cơ của chính ḿnh.
Đó gọi là Trạch Pháp Giác.
2) Thứ
hai, Tinh Tấn Giác (Virya-bodhyanga). Đă chọn lựa pháp ổn thỏa
rồi, phải nên dũng mănh tinh tấn.
3) Thứ
ba, Hỷ Giác (Prīti-bodhyanga): Quư vị
tinh tấn th́ mới có thể đạt được
pháp hỷ.
4) Thứ
tư, Khinh An Giác (Prasrabhi-bodhyanga): Thân
tâm nhẹ nhàng, an định, đạt được
pháp lạc thật sự.
5) Thứ
năm, Niệm Giác (Smṛti-bodhyanga). Niệm
là niệm Định và Huệ b́nh đẳng, chớ nên
thiên về Định hay thiên về Huệ.
6) Thứ
sáu, Định Giác (Samādhi-bodhyanga). Định
ở đây chẳng phải là lệch về Định,
mà là Định sao cho
Định và Huệ cân bằng.
7) Thứ
bảy, Xả Giác (Upekkhā-bodhyanga): Xả trừ hết thảy các pháp thế
gian, ngay cả Phật pháp cũng chẳng chấp tướng,
cũng phải xả.
Bảy
món giác này được gọi là Thất Bồ Đề
Phần, c̣n gọi là Thất Giác Chi. Lại xem kinh văn, “du chí Thất Giác, tu tâm Phật
pháp” (dạo chơi nơi Thất Giác, tu tâm Phật pháp). “Phật pháp” ở đây nằm ngay trong cái tâm của
chính ḿnh. Phải tu Phật pháp ngay trong cái tâm của chính
ḿnh, cũng giống như Thất Giác Chi vừa được
nhắc đến trên đây. Hễ giác cái tâm của chính ḿnh, quư vị sẽ
giác ngộ.
Tiếp
đó, lại nói về Ngũ Nhăn (Pañcacakṣu) viên minh:
1) Thứ
nhất là Nhục Nhăn (Māṃsacakṣu), “nhục nhăn
thanh triệt” (nhục nhăn trong sáng, thấu triệt): Nhục
nhăn hết sức trong trẻo, chẳng giống nhục
nhăn b́nh phàm. “Mị bất phân
biệt”, “mị” (靡) là không, [“mị
bất phân biệt” là] không ǵ chẳng hiểu rơ.
2) Thứ
hai là Thiên Nhăn (Divyacakṣu). “Thiên Nhăn
thông đạt, vô lượng, vô hạn”.
3) Thứ
ba là Pháp Nhăn (Dharmacakṣu). Xét theo mức độ sâu hay cạn
để nói, loại thứ ba phải là Huệ Nhăn, loại
thứ tư mới là Pháp Nhăn. “Pháp
Nhăn quan sát, cứu cánh chư đạo” (Pháp Nhăn quan sát,
rốt ráo các đạo). Pháp Nhăn là mắt của Bồ
Tát, có thể hiểu thấu rốt ráo các đạo.
4) Thứ
tư là Huệ Nhăn (Prajñācakṣu). “Huệ Nhăn
kiến chân, năng độ bỉ ngạn” (Huệ
Nhăn thấy lẽ Chân, có thể vượt lên bờ kia).
Huệ nhăn là mắt của Thanh Văn, có thể thấy
Chân Không, có thể vượt sang bờ kia.
5) Thứ
năm là Phật Nhăn (Buddhacakṣu). “Phật Nhăn cụ túc, giác liễu pháp tánh” (Phật Nhăn trọn đủ, giác liễu
pháp tánh): Giác ngộ bản tánh của hết thảy các
pháp.
Sau khi
năm loại mắt ấy đă viên minh, có thể “dĩ vô ngại trí, vị nhân diễn
thuyết” (dùng trí vô ngại, v́ người khác diễn
nói). Quư vị đă đạt được trí huệ vô ngại,
muốn lợi ích chúng sanh. Năm loại mắt viên minh
trên đây là sau khi đă “thượng
cầu Phật đạo”, quư vị phải “hạ hóa chúng sanh”, [nghĩa là] dưới th́ hóa độ chúng sanh như thế nào? Phải
dùng trí huệ vô ngại, thường xuyên v́ người
khác diễn nói Phật pháp. Ở đây có một nghi vấn,
tức là đă thành Phật th́ Ngũ Nhăn mới viên minh.
V́ sao hàng Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới lại trọn đủ Phật Nhăn? V́ các Ngài
đều là Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, trí huệ
và công đức của Phật các Ngài thảy đều
viên măn. Do đó, các Ngài cũng viên măn Phật Nhăn giống hệt
như vậy, chỉ đợi cho đến khi nhân duyên
chín muồi, sẽ thị hiện thành Phật, chứ thực
tế đă vốn là một vị Phật.
2.2.3.3.1.1.8.1.3. Tu hành trọn đủ
(Kinh)
Đẳng quán tam giới, không vô sở hữu, chí cầu
Phật pháp, cụ chư biện tài, trừ diệt chúng
sanh phiền năo chi hoạn. Tùng Như Lai sanh, giải pháp
như như. Thiện tri Tập Diệt âm thanh
phương tiện, bất hân thế ngữ, nhạo tại
chánh luận. Tu chư thiện bổn, chí sùng Phật đạo. Tri nhất thiết
pháp, giai tất tịch diệt. Sanh thân phiền năo, nhị
dư câu tận. Văn thậm thâm pháp, tâm bất nghi cụ,
thường năng tu hành kỳ đại bi giả, thâm
viễn vi diệu, mị bất phú tái.
(經)等觀三界,空無所有。志求佛法,具諸辯才。除滅眾生煩惱之患。從如來生,解法如如。善知集滅音聲方便。不欣世語,樂在正論。修諸善本,志崇佛道。知一切法,皆悉寂滅。生身煩惱,二餘俱盡。聞甚深法,心不疑懼。常能修行其大悲者。深遠微妙,靡不覆載。
(Kinh: B́nh đẳng quán tam giới
là Không, chẳng có sở hữu,
chí cầu Phật pháp, đầy đủ các món biện
tài, trừ diệt ương hoạn phiền năo cho chúng
sanh. Sanh từ Như Lai, hiểu pháp như như. Khéo biết
âm thanh và phương tiện Tập, Diệt. Chẳng vui
thích lời lẽ thế gian, ưa thích chánh luận. Tu các
cội lành, chí hướng tôn sùng Phật đạo. Biết
hết thảy các pháp thảy đều là tịch diệt,
sanh thân phiền năo, nhị dư đều hết. Nghe
pháp rất sâu, tâm chẳng ngờ vực, sợ hăi, thường
có thể tu hành ḷng đại bi sâu xa, vi diệu, không ǵ chẳng
chở che).
“Đẳng quán tam giới, không
vô sở hữu” (b́nh đẳng quán tam giới là Không, chẳng có sở hữu): Những vị
Bồ Tát ấy đều chiếu kiến Ngă Không và Pháp
Không, b́nh đẳng quán sát ba cơi, hết thảy đều
là Không, nên nói là “không, vô sở
hữu”. “Chí cầu Phật
pháp, cụ chư biện tài, trừ diệt chúng sanh phiền
năo chi hoạn” (chí cầu Phật pháp, đầy đủ
các món biện tài, trừ diệt ương hoạn phiền
năo cho chúng sanh): Nếu là người thường nghe Phật
pháp th́ đoạn văn này rất thông suốt. Nếu là
người chẳng thường nghe Phật pháp th́ dường
như đoạn văn này rất mâu thuẫn! Bồ Tát
đă quán sát tam giới là Không, vô sở hữu, vậy th́
chẳng có chuyện ǵ hết, Ngài cần ǵ phải lập
chí nguyện cầu Phật pháp, c̣n mong đắc biện
tài, c̣n phải diệt trừ các ương hoạn phiền
năo cho chúng sanh chi nữa? Đấy là sự phát tâm khác biệt
giữa Bồ Tát và hàng Nhị Thừa. Hàng Nhị Thừa
thấy “không, vô sở hữu”,
bèn tự ḿnh liễu sanh tử. Bồ Tát thấy “không, vô sở hữu”, Ngài vận
dụng công phu của chính ḿnh để chiếu kiến “Ngũ Uẩn đều là Không”. Đă là Không, Vô Sở Hữu, chiếu kiến Ngă Không và Pháp Không th́ mới
là Không, Vô Sở Hữu. Nhưng chúng sanh khổ năo trong tam
giới chẳng có tí nào là Không, các vị Bồ Tát ấy
thấy những chúng sanh đang chịu khổ trong ấy,
rơ ràng [vạn pháp] là rỗng không, mà chúng sanh chẳng [giác
ngộ tánh] Không được. Do vậy, [Bồ Tát] mới
dấy khởi Bồ Đề tâm, phải dốc chí cầu Phật pháp, mong cầu
biện tài, ḥng dẹp trừ nỗi khổ hoạn phiền
năo cho chúng sanh.
“Tùng Như Lai
sanh, giải pháp như như” (sanh từ Như Lai, hiểu pháp như
như): Chữ Giải này nên đọc là Xiè (ㄒㄧㄝˋ), có nghĩa là “khai ngộ”. Thấu hiểu
pháp này là pháp như như. Hết thảy các pháp chẳng
ngoài hai pháp Lư và Trí, tức cái Trí để quán (năng quán
chi trí) và cái Lư được quán (sở quán chi lư). Cái Lư
được quán chính là diệu lư Chân Như Thật
Tướng, là cái Lư như như bất động. Cái
trí năng quán cũng là trí huệ như như bất
động. V́ thế, ghép hai chữ Như Như lại.
Chữ Như trước là “như
Trí”, chữ Như sau là “như
Lư”, gọi gộp chung là Như Như, tức là dùng Trí Như Như để khế hợp Lư
Như Như. “Khế” (契) là phù hợp. Ngài giải ngộ hết
thảy các pháp đều là như như, bất động,
V́ sao Ngài giải ngộ? Do được Vô Lượng
Thọ Phật dạy. “Tùng
Như Lai sanh”, [nghĩa là] sanh từ miệng của Vô
Lượng Thọ Như Lai. Do vậy, Bồ Tát
được gọi là Phật Tử, tức là con cái của
Phật. V́ sao gọi là con cái của Phật? Các Ngài sanh từ Như Lai, sanh từ miệng của
Như Lai. Đây là quy kết công lao về Như Lai.
“Thiện tri Tập Diệt âm
thanh phương tiện” (khéo biết âm thanh và phương tiện Tập,
Diệt): “Thiện” (善) là dễ dàng liễu tri nhất, liễu tri pháp Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Nói đến Khổ bèn có Tập, nói đến Diệt
bèn có Đạo. Ngài có thể khéo liễu tri pháp Khổ, Tập,
Diệt, Đạo, sẽ thuyết pháp cho chúng sanh, [tức
là] phát ra âm thanh Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Hướng
về chúng sanh để nói ra âm thanh Khổ, Tập, Diệt,
Đạo, [nhưng điều này] vẫn chẳng dễ
liễu giải, cho nên cần phải có phương tiện
quyền biến hay khéo. Những vị Bồ Tát này biết
phương tiện quyền biến hay khéo, không chỉ là
khéo nói pháp Khổ, Tập, Diệt, Đạo, mà c̣n hiểu
phương tiện quyền biến hay khéo.
“Bất hân thế ngữ, nhạo
tại chánh luận” (chẳng ưa thích ngôn ngữ thế gian, ưa
thích chánh luận): “Hân” (欣) là hoan hỷ. [“Bất
hân thế ngữ”] là không ưa thích ngôn ngữ thế
gian, kể cả hết thảy học vấn thế gian
cũng chẳng hoan hỷ, chuyên ưa thích “nhạo tại chánh luận” (ưa thích chánh luận), [chánh luận] là ngôn luận của Phật. Trong phần trước
là Ngài cầu giải, phần này lại nói đến sự
tu hành. “Tu chư thiện bổn,
chí sùng Phật đạo” (tu các cội lành, chí nguyện tôn sùng Phật đạo):
Ngài lập chí, phát nguyện tôn sùng Phật đạo, “tri nhất thiết pháp, giai tất
tịch diệt” (biết hết thảy các pháp thảy
đều tịch diệt). Đây là do “đẳng quán tam giới, không vô sở hữu”
(b́nh đẳng quán tam giới là Không, Vô Sở Hữu)
trong phần trên mà có. Ngài muốn độ hết thảy
chúng sanh, biết tam giới “Không, Vô Sở Hữu”, nhưng chúng sanh chẳng biết, cho nên Bồ
Tát phải đến độ chúng sanh. Tuy chính Ngài biết
“tu chư thiện bổn, chí
sùng Phật đạo” (tu các cội lành, chí tôn sùng Phật
đạo), Ngài biết hết thảy
các pháp “giai tất tịch diệt” (thảy đều tịch
diệt), tức là hết thảy
các pháp vốn bất sanh, bất diệt, là cảnh giới
như như bất động, là cảnh giới tịch
diệt.
“Sanh thân phiền năo, nhị
dư câu tận” (sanh thân phiền năo, hai thứ dư
đều hết sạch): “Sanh thân” là khổ quả, “phiền
năo” là khổ nhân. Hai pháp ấy đều đoạn hết,
chẳng c̣n sót thừa. Hai pháp khổ nhân và khổ quả,
ngay cả dư tập (tập khí sót thừa) đều
đoạn sạch, nên gọi là “nhị dư câu tận” (nhị dư đều
hết). “Văn thậm thâm
pháp, tâm bất nghi cụ” (nghe pháp rất sâu, tâm chẳng ngờ vực, sợ
hăi): “Thâm pháp” cũng là pháp
Nhị Không, hoặc pháp Tam Không[7], nghe Ngă
Không, nghe Pháp Không, “tâm bất
nghi cụ” (tâm chẳng ngờ vực, sợ hăi), cho
đến nghe Nhị Không tức là Ngă Không và Pháp Không cũng Không, [đấy là]
đạo lư Tam Không, tâm chẳng ngờ vực, sợ hăi.
Đấy chính là như kinh Kim Cang đă nói, “bất kinh, bất bố, bất
úy” (chẳng kinh hoàng, chẳng sợ hăi, chẳng hoảng
sợ). “Thường năng
tu hành kỳ đại bi giả” (thường có thể tu hành ḷng đại
bi), phải phát tâm đại bi. “Thâm
viễn vi diệu” (sâu xa vi diệu): Chính ḿnh phải học hiểu
pháp yếu sâu xa vi diệu, phải phổ độ chúng
sanh. “Mị bất phú tái” (không ǵ chẳng che chở): Giống như
trời đất che chở chúng sanh, trời đất
che chở trọn khắp hết thảy chúng sanh. Bồ
Tát phát tâm đại từ bi, giống như trời đất
che chở chúng sanh, không ǵ chẳng che chở.
2.2.3.3.1.1.8.1.4. Thành tựu đức thù thắng
(Kinh)
Cứu cánh Nhất Thừa, chí ư bỉ ngạn. Quyết
đoạn nghi vơng, huệ do tâm xuất. Ư Phật giáo
pháp, cai la vô ngoại. Trí huệ như đại hải,
tam-muội như sơn vương. Huệ quang minh tịnh,
siêu du nhật nguyệt. Thanh bạch chi pháp, cụ túc viên
măn. Do như Tuyết Sơn, chiếu chư công đức
đẳng nhất tịnh cố. Do như đại
địa, tịnh uế hảo ác vô dị tâm cố. Do
như tịnh thủy, tẩy trừ trần lao chư cấu
nhiễm cố. Do như hỏa vương, thiêu diệt
nhất thiết phiền năo tân cố. Do như đại
phong, hành chư thế giới vô chướng ngại cố.
Do như hư không, ư nhất thiết hữu vô sở
trước cố. Do như liên hoa, ư chư thế gian
vô nhiễm ô cố. Do như Đại Thừa, vận tải
quần manh xuất sanh tử cố. Do như trùng vân, chấn
đại pháp lôi, giác vị giác cố. Do như đại
vũ, vũ cam lộ pháp nhuận chúng sanh cố. Như
kim cang sơn, chúng ma ngoại đạo bất năng
động cố. Như Phạm thiên vương, ư
chư thiện pháp tối thượng thủ cố.
Như Ni Câu Loại thụ, phổ phú nhất thiết cố.
Như Ưu-đàm-bát hoa, hy hữu nan ngộ cố.
Như kim xí điểu, oai phục ngoại đạo cố.
Như chúng du cầm, vô sở tạng tích cố. Do như
ngưu vương, vô năng thắng cố. Do như
tượng vương, thiện điều phục cố.
Như sư tử vương, vô sở úy cố. Khoáng
nhược hư không, đại từ đẳng cố.
(經)究竟一乘,至於彼岸。決斷疑網,慧由心出。於佛教法,該羅無外。智慧如大海,三昧如山王。慧光明淨,超踰日月。清白之法,具足圓滿。猶如雪山,照諸功德等一淨故。猶如大地,淨穢好惡無異心故。猶如淨水,洗除塵勞諸垢染故。猶如火王,燒滅一切煩惱薪故。猶如大風,行諸世界無障礙故。猶如虛空,於一切有無所著故。猶如蓮華,於諸世間無染汙故。猶如大乘,運載群萌出生死故。猶如重雲,震大法雷覺未覺故。猶如大雨,雨甘露法潤眾生故。如金剛山,眾魔外道不能動故。如梵天王,於諸善法最上首故。如尼拘類樹,普覆一切故。如優曇鉢華,希有難遇故。如金翅鳥,威伏外道故。如眾遊禽,無所藏積故。猶如牛王,無能勝故。猶如象王,善調伏故。如師子王,無所畏故。曠若虛空,大慈等故。
(Kinh: Rốt ráo Nhất Thừa,
đạt đến bờ kia. Đoạn trừ lưới
nghi, huệ xuất phát từ tâm. Bao trùm giáo pháp của Phật,
không ǵ ra ngoài. Trí huệ như biển cả, tam-muội
như núi chúa. Ánh sáng trí huệ thanh tịnh, vượt trỗi
mặt trời, mặt trăng. Trọn đủ viên măn
pháp trắng sạch. Giống như núi Tuyết, v́ chiếu
các công đức b́nh đẳng một mực thanh tịnh.
Giống như đại địa, v́ đối với
tịnh, uế, xấu, tốt, chẳng có tâm sai khác. Giống như nước sạch, v́ gột trừ các trần lao cấu nhiễm.
Giống như hỏa vương, v́ đốt sạch hết
thảy củi phiền năo. Giống như gió to, v́ thổi
qua các thế giới chẳng chướng ngại. Giống
như hư không, v́ đối với hết thảy các Hữu chẳng chấp trước. Giống
như hoa sen, v́ ở trong các thế gian chẳng
ô nhiễm. Giống như Đại Thừa, v́ chở quần
manh thoát khỏi sanh tử. Giống như mây dầy, v́ rền
sấm pháp to lớn để giác ngộ kẻ chưa giác. Giống như
mưa to, v́ mưa pháp cam lộ nhuần thấm chúng sanh.
Như núi kim cang, v́ các ma và ngoại đạo chẳng thể động.
Như Phạm thiên vương, v́ là thượng thủ bậc
nhất trong các thiện pháp. Như cây Ni Câu Loại v́ che phủ
khắp hết thảy. Như hoa Ưu-đàm-bát v́ hiếm
có khó gặp. Như chim cánh vàng v́ oai lực chế ngự
ngoại đạo. Như các loài chim phiêu du, v́ không chất
chứa. Giống như trâu chúa, v́ chẳng thể thắng
được. Giống như voi chúa, v́ khéo điều phục.
Như sư tử vương v́ không sợ hăi. Mênh mông
dường hư không v́ đại từ b́nh đẳng).
“Cứu cánh Nhất Thừa, chí
ư bỉ ngạn” (rốt ráo Nhất Thừa, đạt đến
bờ kia): Bồ Tát độ chúng sanh cũng là học
theo Phật. Nếu nói theo pháp Nhất Thừa, chúng sanh chẳng
dễ dàng liễu giải, cho nên trước hết nói Khổ,
Tập, Diệt, Đạo, nói pháp Nhị Thừa, lại
nói Quyền Giáo Đại Thừa, nói pháp Tam Thừa, mục
đích rốt ráo vẫn là pháp Nhất Thừa. Đối
với pháp Nhất Thừa Phật đạo, nhất
định phải học pháp Nhất Thừa rốt ráo
th́ mới có thể đạt tới bờ kia Niết
Bàn. Do vậy, kinh Pháp Hoa có nói: “Duy
hữu Nhất Thừa Pháp, vô nhị, diệc vô tam” (chỉ có pháp Nhất Thừa, không hai, cũng
không ba). Pháp Nhị Thừa, pháp Tam Thừa đều là
phương tiện quyền biến hay khéo, pháp Nhất Thừa
mới là Phật pháp chân thật, mới có thể đạt
đến bờ kia Niết Bàn.
“Quyết
đoạn nghi vơng, huệ do tâm xuất. Ư Phật giáo
pháp, cai la vô ngoại” (nhất quyết đoạn
trừ lưới nghi, trí huệ phát xuất từ tâm, bao
trùm giáo pháp của Phật, chẳng có pháp nào lọt ra ngoài
được). “Quyết đoạn nghi vơng”: “Nghi” là một
trong năm thứ căn bản phiền năo, tức tham,
sân, si, mạn, nghi. Đối với Phật pháp, sanh khởi
đủ thứ nghi hoặc, đan xen lẫn nhau như
cái lưới. Nay những vị Bồ Tát này có thể quyết
định đoạn trừ những lưới nghi ấy,
do vậy đại triệt đại ngộ, khai trí huệ.
“Huệ do tâm xuất” đối
ứng với câu “tùng Như
Lai sanh”. Trong phần trước là đă ngộ Phật
pháp đến mức Như Như Trí, Như Như Lư, biết
diệu pháp là do đức
Phật dạy, sanh từ
miệng Phật. Nay lại tiến hơn một bước
nữa, mới biết Phật pháp chẳng do đức
Phật dạy cho chúng ta, mà là trong tâm vốn sẵn có, từ
tâm của chính ḿnh lưu xuất. Do vậy, đối với
chân tâm của ta, không có ǵ to lớn mà ra ngoài [chân tâm]
được, nó bao trùm hết thảy Phật pháp. “Ư Phật giáo pháp, cai la vô ngoại”
(bao trùm Phật pháp, không ǵ ra ngoài được),
“cai la”: “Cai” (該) là bao
gồm, “la” là “sưu la” (蒐羅, thâu tóm), hết thảy Phật pháp đều ở
trong tâm ta.
“Trí huệ như đại hải,
tam-muội như sơn vương” (trí huệ như biển cả, tam-muội
như núi chúa): Bồ Tát tu Huệ th́ phải [tu tập] sao cho Định và Huệ cân bằng. Trong Thất
Giác Chi đă được nhắc đến trong phần
trước, có Niệm Giác Chi, tức là Định và Huệ
cân bằng, chẳng thể thiên trọng Huệ, mà cũng
chớ nên thiên trọng Định. Bồ Tát dụng công
đến mức độ này, các Ngài biết chớ nên
thiên trọng Huệ, mà cũng chớ nên thiên trọng
Định. Định và Huệ phải cân bằng. Từ
Định Huệ cân bằng, lại hợp thành Định
và Huệ như một. Khi ấy, dụng công đến mức
tột cùng, [ở đây, kinh văn] nêu một thí dụ,
trí huệ giống như biển cả, rộng lớn rất
sâu. “Tam-muội” là Thiền
Định, tiếng Hán dịch là Chánh Định. Thiền
Định như “sơn
vương” (núi chúa), ṿi vọi bất động. Hai
thí dụ “đại hải”
và “sơn vương” là tổng
thí dụ; kế đó, c̣n có mười chín thí dụ
riêng biệt. “Huệ quang minh tịnh,
siêu du nhật nguyệt” (ánh sáng trí huệ thanh tịnh
vượt trỗi mặt trời, mặt trăng): Trí huệ
quang minh thanh tịnh. “Du” (踰) là vượt trỗi, [“siêu du nhật nguyệt” là] vượt trỗi ánh sáng của mặt
trời, mặt trăng. “Thanh
bạch chi pháp, cụ túc viên măn” (trọn đủ viên măn pháp trong sạch), tức là Phật pháp đều
trọn đủ, đều viên măn. Đây vẫn là tán
thán trí huệ và tam-muội. Tiếp theo là mười chín
thí dụ “do như” (giống
như).
1) “Do như Tuyết Sơn, chiếu
chư công đức đẳng nhất tịnh cố”
(giống như núi Tuyết, v́ chiếu các
công đức b́nh đẳng, một mực thanh tịnh):
Chứng đắc pháp Định Huệ cân bằng, giống
như Tuyết Sơn (Himalaya). Tuyết Sơn th́ khắp núi đều là tuyết,
chiếu các công đức đều là một bầu thanh
tịnh như nhau. Tuyết Sơn hoàn toàn là tuyết thanh tịnh.
2) “Do như đại địa,
tịnh uế, hảo ác vô dị tâm cố” (giống như đại địa, v́
đối với tịnh, uế, tốt, xấu, tâm chẳng
sai khác): Tâm Bồ Tát giống như đại địa.
Đối với hết thảy chúng sanh, đại địa đều có thể
chuyên chở hết thảy vạn vật, nhưng nó chẳng
có tâm phân biệt, bất luận là thanh tịnh, ô uế, tốt,
xấu, đại địa chẳng có tâm phân biệt. Bồ
Tát đối với hết thảy chúng sanh cũng giống
như vậy, giống như đại địa.
3) “Do như tịnh thủy, tẩy
trừ trần lao chư cấu nhiễm cố” (giống như nước sạch v́ gột
trừ trần lao, các cấu nhiễm): Bồ Tát thuyết
pháp giống như nước thanh tịnh, có thể gột
sạch trần lao nhơ bẩn của hết thảy
chúng sanh.
4) “Do như hỏa vương,
thiêu diệt nhất thiết phiền năo tân cố” (giống như hỏa vương, v́ đốt
trụi hết thảy củi phiền năo). “Hỏa vương” là từ
ngữ tán thán. “Thiêu diệt nhất
thiết phiền năo tân cố” (đốt rụi hết
thảy củi phiền năo): Bồ Tát thuyết pháp có thể
đoạn trừ phiền năo của chúng sanh. Phiền năo
giống như “tân”
(薪), “tân” là củi
đốt. Trí huệ thuyết pháp của đức Phật
giống như lửa, thiêu sạch tâm phiền năo của
chúng sanh.
5) “Do như đại phong, hành
chư thế giới vô chướng ngại cố” (giống như gió to, v́ thổi qua các thế
giới chẳng bị chướng ngại): Gió thổi
trong thế giới này chẳng có chướng ngại. Bồ
Tát hóa độ chúng sanh trên thế giới cũng là vô
chướng, vô ngại.
6) “Do như hư không, ư nhất
thiết hữu vô sở trước cố” (giống như hư không, v́ đối với
hết thảy pháp hữu vi chẳng đắm trước):
Trong hết thảy các pháp hữu vi đều chẳng
vướng mắc giống như hư không. Bồ Tát cũng
giống như vậy, hằng ngày độ chúng sanh, kết
quả là chẳng chấp trước ǵ!
7) “Do như liên hoa, ư chư thế
gian vô nhiễm ô cố” (giống như hoa sen, v́ ở trong các thế gian
mà chẳng bị ô nhiễm): Bồ Tát độ chúng sanh
trong thế gian, chẳng bị chúng sanh nhuốm bẩn, giống
như hoa sen sanh từ bùn lầy mà chẳng nhuốm bẩn.
8) “Do như Đại Thừa, vận
tải quần manh xuất sanh tử cố”: “Do như Đại Thừa”: Giống như một cỗ xe to. “Vận tải quần manh”:
Chuyên chở chúng sanh thoát khỏi sanh tử.
9) “Do như trùng vân, chấn đại
pháp lôi giác vị giác cố” (giống như tầng mây dầy, v́ rền tiếng sấm pháp to lớn
để giác ngộ kẻ chưa
giác): “Trùng vân” (重雲) là mây rất dầy. Có mây rất dầy
th́ sẽ nổi sấm. Bồ Tát “chấn đại pháp lôi giác vị giác” (rền
tiếng sấm pháp to lớn để giác ngộ kẻ chưa giác):
Chữ Giác trước là Bồ Tát, chữ “vị giác” chỉ chúng sanh. Dùng tiên giác để
giác hậu giác tức là “giác vị
giác”.
10) “Do như đại vũ, vũ
cam lộ pháp nhuận chúng sanh cố” (giống như mưa to, v́ mưa pháp cam lộ nhuần thấm
chúng sanh): Bồ Tát thuyết pháp giống như cam lộ
pháp thủy, nhuần thấm hết thảy chúng sanh.
11) “Như kim cang sơn, chúng ma ngoại
đạo bất năng động cố” (như núi kim cang v́ các loài ma và ngoại đạo
chẳng thể lay động): Bồ Tát hoằng pháp lợi
sanh, có các loài ma và ngoại đạo muốn tới nhiễu
loạn. Bồ Tát ṿi vọi bất động, giống
như núi kim cang, chẳng bị các loài ma và ngoại đạo lay động.
12) “Như Phạm thiên vương,
ư chư thiện pháp tối thượng thủ cố”
(như Đại Phạm thiên vương v́ là bậc thượng thủ cao tột
trong các pháp lành): Trên thế giới, Đại Phạm
Thiên Vương là thiên vương lớn nhất, là bậc
thượng thủ cao nhất trong các thiện pháp. Bồ
Tát thuyết pháp cũng giống như thế.
13) “Như Ni Câu Loại thụ, phổ
phú nhất thiết cố” (như cây Ni Câu Loại, v́ che phủ hết thảy):
Ở Trung Hoa chẳng có cây Ni Câu Loại (Nyagrodha), Ấn
Độ có cây này. [Ni Câu
Loại] dịch sang tiếng Hán
là Tung Quảng Thụ. Tung (縱) là cao, [Quảng là rộng]. Cây ấy cao ba trượng mới có thể
trổ cành. Thân cây cao lớn khôn sánh. “Tung” là cao lớn khôn sánh. “Quảng” (廣) là lá
cây có thể to đến mức che khắp đại
địa. Ví như Bồ Tát thuyết pháp che rợp hết
thảy chúng sanh, giống như cây Ni Câu Loại.
14) “Như Ưu-đàm-bát hoa, hy hữu
nan ngộ cố” (như hoa Ưu-đàm-bát, v́ hiếm có khó gặp).
Trong phần trước đă có nói, “Ưu-đàm-bát hoa” (Uḍumbara) c̣n gọi là hoa Linh Thụy
(靈瑞), ba ngàn năm mới nở một lần,
quư vị chẳng dễ ǵ gặp được! Bồ
Tát thuyết pháp, phát tâm dài lâu, thường xuyên thuyết
pháp, nhưng nhân duyên của quư vị chẳng đủ sẽ
không gặp được. Hễ gặp gỡ, quư vị
đừng bỏ lỡ cơ hội!
15) “Như kim xí điểu, oai phục
ngoại đạo cố”: Giống như kim xí điểu
(Garuda)[8] có thể
dùng oai lực khuất phục hết thảy ngoại
đạo.
16) “Như chúng du cầm, vô sở
tàng tích cố” (như các loài chim phiêu du, v́ chẳng cất
chứa): Có một loài du điểu bay tới, bay lui, chính
ḿnh chẳng có tổ, chúng chẳng tích chứa ǵ. Bồ
Tát du hành giáo hóa, chẳng hề cất chứa, chẳng giấu
diếm một chút Phật pháp nào, có Phật pháp ǵ thảy
đều dạy hết cho chúng sanh.
17) “Do như ngưu vương, vô
năng thắng cố” (giống như trâu chúa v́ không ai có thể thắng
được).
18) “Do như tượng
vương, thiện điều phục cố” (giống như voi chúa v́ khéo điều phục).
19) “Như sư tử vương,
vô sở úy cố” (như sư tử chúa v́ không sợ hăi): “Do như tượng
vương” (giống như voi chúa) có thể khéo điều
phục. Lại giống như sư tử vương,
không sợ hăi.
Đến
đây tổng cộng là mười chín tỷ dụ. “Khoáng nhược hư không,
đại từ đẳng cố” (mênh mông dường hư không v́ đại
từ, b́nh đẳng): “Khoáng”
(曠) là khoáng đạt (曠達, rộng răi), giống như hư không. Tâm
đại từ của Bồ Tát b́nh đẳng, giống
như hư không.
2.2.3.3.1.1.8.1.5. Hạnh tu tăng tấn
(Kinh)
Tồi diệt tật tâm, bất kỵ thắng cố.
Chuyên nhạo cầu pháp, tâm vô yếm túc, thường dục
quảng thuyết, chí vô b́ quyện. Kích pháp cổ, kiến
pháp tràng, diệu huệ nhật, trừ si ám. Tu Lục Ḥa
Kính, thường hành pháp thí. Chí dũng tinh tấn, tâm bất
thoái nhược. Vi thế đăng minh, tối thắng
phước điền. Thường vi sư đạo,
đẳng vô tăng ái. Duy nhạo chánh đạo, vô
dư hân thích. Bạt chư dục thích, dĩ an quần
sanh, công huệ thù thắng, mạc bất tôn kính. Diệt
tam cấu chướng, du chư thần thông.
(經)摧滅嫉心,不忌勝故。專樂求法,心無厭足。常欲廣說,志無疲倦。擊法鼓,建法幢,曜慧日,除癡闇。修六和敬,常行法施。志勇精進,心不退弱。為世燈明,最勝福田。常為師導,等無憎愛。唯樂正道,無餘欣戚。拔諸欲刺,以安群生。功慧殊勝,莫不尊敬。滅三垢障,遊諸神通。
(Kinh:
Dẹp tan tâm ganh ghét v́ chẳng đố kỵ người
hơn ḿnh. Chuyên thích cầu pháp, tâm không chán đủ,
thường muốn nói rộng răi, chí nguyện chẳng mệt
mỏi. Đánh trống pháp, dựng pháp tràng, chói ngời mặt
trời trí huệ, trừ si ám. Tu Lục Ḥa Kính, thường
hành pháp thí. Chí nguyện dũng mănh, tinh tấn, tâm chẳng
lui sụt, yếu đuối. Làm đèn soi đời, ruộng
phước tối thắng. Thường làm bậc đạo sư, b́nh đẳng, không yêu ghét. Chỉ thích chánh
đạo, không yêu mến, lo lắng điều chi khác. Nhổ
các gai dục để an định các chúng sanh. Công đức,
trí huệ thù thắng, không ai chẳng tôn kính. Diệt trừ
tam cấu chướng, dạo chơi trong các thần
thông).
“Tồi diệt tật tâm, bất
kỵ thắng cố”(dẹp tan tâm ganh ghét v́ chẳng đố kỵ
người hơn ḿnh): Ở đây chẳng phải là thí
dụ. Đây là trực tiếp nói về công đức của
Bồ Tát. “Tồi diệt tật
tâm” (dẹp tan tâm ganh ghét): Bồ Tát chẳng có
tâm ganh tỵ, v́ sao Ngài dẹp tan tâm đố kỵ? Ngài chẳng ganh tỵ người vượt
trỗi ḿnh. Thấy người khác vượt trỗi
ḿnh, tâm Ngài sanh hoan hỷ, Ngài tùy hỷ công đức, trọn
chẳng ganh tỵ người vượt trỗi Ngài. Do
vậy, Ngài chẳng có tâm ganh ghét. Tôi lần nữa hướng
về các vị nói về công đức của Bồ Tát
nhằm dạy chúng ta tham học. Rất khó hàng phục
ḷng ganh ghét v́ lũ phàm phu chúng ta có cái Ngă, có ngă tri, ngă kiến, cho nên dễ chấp trước, chỉ
sợ người khác vượt trỗi ta. Trông thấy người khác giảng kinh, thuyết
pháp hay hơn ta, trong tâm bèn chịu không nổi. Thấy
người khác tu hành dụng công hơn ta, cũng chịu
không nổi. Do như vậy mà dấy lên tâm ganh tỵ. Phải
phát tâm tùy hỷ công đức. Người khác giảng
kinh, thuyết pháp là công đức, ta phải tùy hỷ.
Người khác tu hành dụng công là công đức, ta phải
tùy hỷ. Phải thường xuyên phát tâm tùy hỷ công
đức, hàng phục cái tâm ganh tỵ. Tiến thêm một
bước nữa là phá dẹp nó.
“Chuyên nhạo cầu pháp, tâm vô yếm
túc, thường dục quảng thuyết, chí vô b́ quyện”
(chuyên thích cầu pháp, tâm chẳng chán đủ,
thường muốn rộng nói, chí chẳng chán mệt): Hai câu này là tự lợi và lợi tha nhằm
kết thúc những công đức [đă được
đề cập] trong phần trước, tổng kết
chúng. Tâm Bồ Tát là tâm tự lợi, lợi tha, cầu tự
lợi, cầu Phật pháp, chuyên tâm dốc ư ưa thích mong
cầu Phật pháp. “Tâm vô yếm
túc” (tâm chẳng chán, đủ) là cái tâm “chưa
thành Phật sẽ không ngưng nghỉ”, chẳng có cái tâm
chán ngán, [cảm thấy đă] đủ rồi. V́ Bồ
Tát trên là cầu Phật đạo, dưới hóa độ
chúng sanh, vừa cầu Phật pháp, vừa giảng cho
chúng sanh nghe. “Thường dục
quảng thuyết” (thường muốn nói rộng răi): Phải nói [Phật pháp] cho nhiều. “Chí vô b́ quyện” (chí chẳng mệt mỏi): Chí nguyện trong tâm chưa hề có ư
tưởng mệt mỏi.
“Kích pháp cổ, kiến pháp tràng,
diệu huệ nhật, trừ si ám” (đánh trống
pháp, dựng pháp tràng, sáng ngời mặt trời trí huệ,
trừ si sám): Ba câu đầu là Bồ Tát thuyết pháp. “Kích pháp cổ, kiến pháp tràng,
diệu huệ nhật” là phát ra ánh sáng trí huệ, sau
đó là “trừ si ám”, tức
là lợi ích chúng sanh, mong trừ ngu si hắc ám cho chúng sanh.
“Tu Lục Hoà Kính, thường
hành pháp thí”: Đấy là phải tôn kính Lục Ḥa Tăng. Quư vị là một
vị Bồ Tát, phải thuyết pháp lợi ích chúng sanh. Nếu
Bồ Tát đông đảo, chẳng phải là lợi ích
chúng sanh càng nhiều hơn ư? Điều này phát xuất
từ “tồi diệt tật
tâm” (dẹp tan tâm ganh ghét) trong phần trước, hy vọng
đại chúng Tăng đều có thể giảng kinh,
thuyết pháp, lợi ích chúng sanh. Đối với đại
chúng Tăng, phải thể hiện sự cung kính
theo Lục Ḥa. [Tăng trong] chữ Phạn là Tăng-già (Saṃgha), tiếng Hán là Ḥa Hợp Chúng. Ḥa Hợp
Chúng có sáu thứ ḥa hợp, tức là thân, khẩu, ư, giới,
kiến, và lợi. Lục Ḥa Kính có sáu thứ:
1) Thứ
nhất, Thân Ḥa Đồng Trụ. Người xuất gia
thân thể phải ḥa đồng th́ mới có thể cùng trụ trong một đạo
tràng.
2) Thứ
hai, Khẩu Ḥa Vô Tránh. Ngoài giảng kinh, thuyết pháp ra, chẳng
dấy lên tranh luận.
3) Thứ
ba, Ư Ḥa Đồng Duyệt. Thân và Khẩu đă ḥa, Ư [cũng
phải] ḥa. Trong tâm phải hoan hỷ. Ba pháp “thân, khẩu, ư” đều ḥa hợp.
4) Thứ
tư, Giới Ḥa Đồng Tu, tức là đối với
giới của mọi người đă thọ, dẫu là
tỳ-kheo giới hay Bồ Tát giới đều như nhau.
5) Thứ
năm, Kiến Ḥa Đồng Giải: Mọi người
đều tu Đại Thừa Phật
pháp, kiến giải giống như nhau.
6) Thứ
sáu, Lợi Ḥa Đồng Quân: Đối với lợi
dưỡng th́ mọi người đều bằng nhau.
Đó gọi
là Giới, Kiến, Lợi tam ḥa, lại c̣n có Thân, Khẩu, Ư tam ḥa, hợp thành Lục Ḥa, [đoàn thể đệ
tử Phật tuân theo Lục Ḥa th́] gọi là Lục Ḥa Tăng. Câu này có ư nói:
Phải tu Lục Ḥa Kính, bản thân ta phải trọn hết
trách nhiệm của chính ḿnh. Ta đối với đại chúng Tăng, phải
hành Lục Ḥa cung kính. Nói theo danh từ hiện thời, sẽ là “tinh
thành đoàn kết” (精誠團結, đoàn kết thành một đoàn thể
tinh ṛng, chí thành). Quư vị là một người hoằng
pháp lợi lạc chúng sanh, nếu đại chúng ḥa hợp
tăng đều đoàn kết với nhau, đều
cùng hoằng dương Phật pháp, chẳng phải là
chúng sanh sẽ đạt được lợi ích càng nhiều
hơn ư? Do vậy, thường tu Lục Ḥa Kính,
thường hành pháp bố thí.
“Chí dũng tinh
tấn, tâm bất thoái nhược” (chí nguyện dũng mănh, tinh tấn, tâm chẳng
lui sụt, yếu ớt): Quư vị phải thường hành Pháp Bố Thí, phát cái tâm khó có ấy, nhưng quư vị
phải biết thế giới Sa Bà là đời ác ngũ
trược, quư vị phát tâm hoằng dương Phật
pháp lợi ích chúng sanh, sẽ nẩy sanh ma cảnh. Đó gọi
là “đạo cao một thước,
ma cao một trượng”. Quư vị gặp phải
đôi chút cảnh giới chẳng vừa ḷng, ma cảnh
hiện tiền, ôi chao! Ta vẫn nên tự ḿnh sống trong
lều tranh tu hành đi thôi! Như vậy là quư vị
đă lui sụt, yếu ḷng, phải dũng mănh tinh tấn,
tâm chẳng lui sụt, yếu ớt, phải chiến thắng
ma cảnh.
“Vi thế đăng minh, tối
thắng phước điền” (làm đèn soi sáng cho cơi đời, là ruộng
phước tối thắng): Phải phát nguyện làm ánh
sáng chiếu tan hắc ám cho chúng sanh, phải phát nguyện làm ruộng cho chúng
sanh gieo
phước. Chúng sanh chẳng có trí
huệ, ta ban trí huệ cho họ. Chúng sanh chẳng có phước,
ta vun bồi phước cho họ. Ban cho họ trí huệ
th́ giống như cho họ đèn sáng. Vun bồi phước
cho họ th́ giống như gieo phước điền cho
họ.
“Thường vi sư đạo,
đẳng vô tăng ái” (thường làm bậc hướng dẫn, b́nh
đẳng, chẳng yêu ghét): Ta phát nguyện thường
làm bậc đạo sư của chúng sanh, thường v́
chúng sanh thuyết pháp, nhưng đối với chúng sanh,
ta phát tâm b́nh đẳng. “Đẳng
vô tăng ái” (b́nh
đẳng, không yêu ghét) là chẳng có hai ư niệm yêu, ghét sai khác. Đối
với những chúng sanh đáng ghét liền oán hận,
đối với những chúng sanh ưa thích liền yêu mến
thiên vị. Đấy đều là cái tâm phàm phu, chẳng
phải là tâm Bồ Tát. Bồ Tát phải b́nh đẳng
không ghét, không yêu.
“Duy nhạo chánh đạo, vô
dư hân thích” (chỉ
yêu thích chánh đạo, không yêu thích hay bận tâm v́ những
thứ khác), nghĩa là tâm Bồ Tát chỉ
yêu thích chánh đạo của Phật, chẳng có những pháp nào khác khiến
cho Bồ Tát ưa chuộng hay khiến cho Bồ Tát bận ḷng. Chỉ có một
tâm là tâm cầu chánh đạo. Hai câu “duy nhạo chánh pháp, dư vô hân thích” trên đây
chính là công phu tự lợi.
Kế
đó, “bạt chư dục
thích, dĩ an quần sanh” (nhổ các gai dục để
an định quần sanh): Hai câu này là lợi tha. Ta hoằng
pháp lợi sanh là để cho chúng sanh đoạn trừ
cái tâm dục ái, tham dục. [Những món ái dục ấy] giống
như cây lao xiên cá đâm vào tâm chúng sanh, ta phải nhổ
cây lao xiên cá ấy ra, khiến cho chúng sanh an lạc. Đó
là “dĩ an quần sanh”
(để an định quần sanh).
“Công huệ thù
thắng, mạc bất tôn kính” [nghĩa là] công đức và trí huệ của
quư vị đều hết sức thù thắng, hết thảy
chúng sanh không ai chẳng tôn kính quư vị. Quư vị hiểu
đạo lư này, nhất định sẽ phát đại nguyện, sẽ thuyết pháp lợi ích chúng sanh. Hiện
thời, Phật pháp chẳng hưng thịnh, người
trong xă hội trông thấy bậc xuất gia chẳng dấy
ḷng tôn kính. V́ sao? Chúng ta chẳng thuyết pháp cho họ
nghe. Họ chẳng thấy trí huệ của quư vị. Quư
vị chẳng làm công đức, họ chẳng biết
quư vị có ưu điểm ǵ! Do vậy, họ chẳng
cung kính quư vị. Quư vị phải làm nhiều công đức,
bố thí trí huệ cho nhiều. Làm nhiều công đức,
chúng sanh sẽ không ai chẳng tôn kính quư vị.
“Diệt tam cấu chướng,
du chư thần thông” (diệt trừ ba cấu chướng, dạo
chơi trong các thần thông): Quư vị muốn lợi ích
chúng sanh, trước hết phải đoạn sạch
phiền năo. Tham, sân, si là Tam Cấu. Tam Cấu sanh ra chướng
ngại. Quư vị diệt trừ Tam Cấu phiền năo, thần
thông sẽ tự nhiên hiện tiền, sẽ lại “du chư thần thông” (dạo chơi trong các thần
thông), tức là tự do tự
tại giáo hóa chúng sanh.
2.2.3.3.1.1.8.1.6. Các lực trọn đủ
(Kinh)
Nhân lực, duyên lực, ư lực, nguyện lực,
phương tiện chi lực. Thường lực, thiện
lực, định lực, huệ lực, đa văn chi
lực. Thí, giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền
Định, trí huệ chi lực. Chánh niệm Chỉ Quán,
chư thông minh lực. Như pháp điều phục
chư chúng sanh lực. Như thị đẳng lực, nhất
thiết cụ túc.
(經)因力、緣力、意力、願力、方便之力。常力、善力、定力、慧力,多聞之力。施戒忍辱精進禪定智慧之力。正念止觀,諸通明力。如法調伏諸眾生力。如是等力,一切具足。
(Kinh: Nhân lực, duyên lực,
ư lực, nguyện lực, phương tiện lực.
Thường lực, thiện lực, định lực,
huệ lực, đa văn lực. Sức thí, giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, Thiền Định, trí huệ. Sức
chánh niệm Chỉ Quán, sức các món thần thông, tam minh.
Sức điều phục chúng sanh đúng pháp. Các sức như thế, hết thảy
đều trọn đủ).
“Nhân lực, duyên lực, ư lực,
nguyện lực, phương tiện chi lực”: Tiếp
đó, có rất nhiều lực. V́ sao cần đến lực?
V́ lực [được nói đến ở đây] chính
là lực dụng (tác dụng của lực), tức là diệu
dụng của Bồ Tát. Lực cũng là bản lănh của
Bồ Tát, Bồ Tát độ chúng sanh th́ phải có bản
lănh độ chúng sanh. Bồ Tát có năng lực độ
chúng sanh hay không? Tiếp đó, [kinh văn nói đến] bản
lănh và năng lực độ chúng sanh của Bồ Tát.
“Nhân lực,
duyên lực”: Hết
thảy các pháp sanh từ nhân duyên, Bồ Tát cũng sanh từ
nhân duyên. “Nhân lực” là thiện
căn đă gieo trong đời trước, kiếp
trước. Đấy chính là sức mạnh và lực dụng
của cái nhân. “Duyên lực”
là thiện căn đă vun bồi trong đời trước,
kiếp trước, gặp cái duyên là thầy dạy dỗ,
gặp thiện tri thức giảng giải Phật pháp,
nhân duyên trọn đủ. “Ư lực”
là sức mạnh của cái tâm, gặp thiện tri thức
đang nói Phật pháp, quư vị có phát tâm học Phật
hay không? Hễ
phát tâm th́ là “ư lực”. Đă phát tâm, quư vị
có phát đại nguyện độ chúng sanh hay không? Ta phát
[đại nguyện độ chúng sanh], đấy là “nguyện lực”. Phát nguyện
độ chúng sanh mà vẫn chẳng độ được,
quư vị phải học phương tiện quyền biến,
xảo diệu. Sức phương tiện quyền biến,
xảo diệu gọi là “phương
tiện chi lực”. “Thường lực”:
Quư vị phát tâm hoằng pháp mà chẳng phát tâm dài lâu, sẽ
chẳng được. “Thiện
lực” là sức mạnh tốt lành nhất. “Định lực, huệ lực”:
Có Thiền Định lực, có trí huệ lực. “Đa văn chi lực”: Đối với Phật pháp, phải đa
văn. Bản lănh độ chúng sanh của quư vị chẳng
đủ là v́ quư vị nghe pháp quá ít. Hễ đa văn, bản
lănh sẽ to lớn. Trên đây đă nói nhiều thứ lực
như vậy, đều là những năng lực phát sanh
nơi phương diện cầu Giải.
Kế
đó, nói đến năng lực phát sanh nơi
phương diện tu hành. “Thí,
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền Định,
trí huệ chi lực”: Bồ Tát tu hành bèn tu Lục Ba La Mật,
tức là tu Lục Độ: Bố Thí Độ, Tŕ Giới Độ, Nhẫn Nhục Độ, Tinh Tấn Độ, Thiền Định
Độ, và Trí Huệ Độ. Do tu hành Lục Độ
mà phát sanh năng lực. “Chánh
niệm Chỉ Quán”: Do chánh niệm hiện tiền, tu hạnh
môn Chỉ Quán, sanh ra sức mạnh. “Chư thông minh lực”: Quư vị dụng công tu
hành, đạt được Lục Thông, đắc Tam
Minh, sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn. “Như pháp điều phục
chư chúng sanh lực” (sức điều phục
các chúng sanh đúng pháp): Quư vị thấy chúng sanh nào bèn biết phải
nên dùng phương pháp ǵ để điều phục
người ấy. Đấy gọi là “như pháp điều phục chư chúng sanh lực”. “Như thị đẳng lực,
nhất thiết cụ túc” (những lực như thế hết thảy
đều trọn đủ): Sức mạnh cầu Giải,
sức mạnh cầu Hành, Giải lẫn Hành đều
coi trọng, những sức mạnh ấy hết thảy
đều trọn đủ.
2.2.3.3.1.1.8.1.7. Thông với các đức,
tán thán những điều thù thắng đă được
nêu bày trên đây
(Kinh)
Thân sắc tướng hảo, công đức biện tài,
cụ túc trang nghiêm, vô dữ đẳng giả. Cung kính
cúng dường vô lượng chư Phật, thường
vị chư Phật sở cộng xưng thán. Cứu cánh
Bồ Tát chư Ba La Mật, tu Không, Vô Tướng, Vô Nguyện
tam-muội, bất sanh bất diệt chư tam-muội
môn, viễn ly Thanh Văn, Duyên Giác chi địa.
(經)身色相好,功德辯才,具足莊嚴,無與等者。恭敬供養無量諸佛,常為諸佛所共稱歎。究竟菩薩諸波羅蜜,修空、無相、無願三昧,不生不滅諸三昧門,遠離聲聞緣覺之地。
(Kinh:
Sắc thân, tướng hảo, công đức biện tài,
trang nghiêm trọn đủ, chẳng ai sánh bằng. Cung
kính cúng dường vô lượng chư Phật, thường
được chư Phật cùng khen ngợi. Rốt ráo
các Ba La Mật của hàng Bồ Tát, tu Không, Vô Tướng,
Vô Nguyện tam-muội, các môn tam-muội bất sanh bất
diệt, xa ĺa địa vị Thanh Văn, Duyên Giác).
“Thân sắc tướng hảo,
công đức biện tài, cụ túc trang nghiêm” (sắc thân, tướng hảo, công đức
biện tài, trang nghiêm trọn đủ): Sắc tướng
nơi thân thể toàn là kim sắc. “Tướng hảo”: Có ba mươi hai thứ
tướng, và tám mươi hai loại tùy h́nh hảo[9], công
đức biện tài hết thảy trọn đủ
trang nghiêm. “Vô dữ đẳng
giả” (chẳng có ai sánh bằng): Chẳng có Bồ
Tát trong cơi nước nào vượt trỗi hàng Bồ Tát
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Cung kính cúng dường vô lượng
chư Phật, thường vị chư Phật sở cộng
xưng thán” (cung kính cúng dường vô lượng
chư Phật, thường được chư Phật
cùng khen ngợi): Trong phần trước đă nói, Bồ
Tát trong Tây Phương Cực Lạc đều cúng dường
mười phương vô lượng chư Phật Thế
Tôn, mười phương chư Phật cũng xưng
dương, tán thán các Ngài. “Cứu
cánh Bồ Tát chư Ba La Mật” (rốt ráo các Ba La Mật của hàng Bồ Tát):
Trong phần trước, Bồ Tát tu Lục Độ
chưa tu viên măn, lúc này, tu Lục Độ đều tới
mức đạt tới bờ kia, đều viên măn. “Tu Không, Vô Tướng, Vô Nguyện
tam-muội”: Trong phần trên đă nói chuyện này vài
lượt, những tam-muội này được gọi
là Tam Tam-muội. “Bất sanh bất
diệt chư tam-muội môn”: Tu bất sanh bất diệt
tam-muội, tức là tam-muội [liễu ngộ] hết thảy
các pháp vốn bất sanh, vốn bất diệt. “Viễn ly Thanh Văn, Duyên Giác
chi địa” (xa ĺa địa vị Thanh Văn và Duyên
Giác): Bồ Tát tu hành là v́ chúng sanh mà tu hành. Thanh Văn và
Duyên Giác gọi là Nhị Thừa, gọi gộp chung là Tiểu
Thừa, chỉ chịu tự lợi, chẳng chịu lợi ích chúng sanh. Bồ Tát xa ĺa địa
vị Thanh Văn, Duyên Giác.
2.2.3.3.1.1.8.2. Tổng kết lời tán thán
(Kinh)
A Nan! Bỉ chư Bồ Tát, thành tựu như thị vô
lượng công đức, ngă đản vị nhữ
lược ngôn chi nhĩ. Nhược quảng thuyết giả,
bách thiên vạn kiếp bất năng cùng tận.
(經)阿難!彼諸菩薩,成就如是無量功德,我但為汝略言之耳。若廣說者,百千萬劫不能窮盡。
(Kinh: Này A Nan! Các vị Bồ
Tát ấy thành tựu vô lượng công đức như
thế đó, ta chỉ nói đại lược cho các ông
đó thôi. Nếu nói chi tiết, trăm ngàn vạn kiếp
chẳng thể nói trọn hết).
Nói đến
đây, đă nói xong về công đức của hàng Bồ
Tát trong Cực Lạc thế giới, [đức Phật]
bèn gọi ngài A Nan một tiếng: “A Nan! Bỉ chư Bồ Tát, thành tựu như thị
vô lượng công đức” (này A Nan! Các vị Bồ Tát trong cơi ấy thành tựu
vô lượng công đức như thế): “Bỉ” là Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Những vị Bồ Tát ấy
đă thành tựu vô lượng công đức như vậy. “Ngă đản vị nhữ
lược ngôn chi nhĩ” (ta chỉ v́ ông nói đại lược đó
thôi): Nay ta nói nhiều ngần ấy, vẫn là nói giản
lược. “Nhược quảng
thuyết giả, bách thiên vạn kiếp bất năng
cùng” [nghĩa là] nếu nói chi tiết, trăm ngàn vạn
kiếp cũng nói chẳng xong công đức của họ.
Tám
đoạn kinh văn trên đây đều là tán thán công
đức nơi hạnh môn của hàng Bồ Tát trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới, mà cũng là các
sự vui mà họ được thọ dụng trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới. V́ sao gọi là
Tây Phương Cực Lạc thế giới? “Vô hữu chúng khổ, đản
thọ chư lạc” (chẳng có các sự khổ, chỉ hưởng
những sự vui).
Ba đoạn
lớn kinh văn tiếp theo đây sẽ nói rơ nỗi khổ
phải hứng chịu trong thế giới Sa Bà. Tây
Phương Cực Lạc thế giới chẳng có các thứ
khổ, so sánh đối chiếu [để chỉ rơ]
thế giới Sa Bà chịu
khổ rất nhiều, chịu đựng những nỗi
khổ ǵ vậy? Hứng chịu nỗi khổ do tham, sân,
si. V́ sao thế giới Sa Bà phải hứng chịu đau
khổ? Từ khổ năo sanh ra. Phiền năo có ba thứ
căn bản phiền năo: Tham phiền năo, sân hận phiền
năo, và ngu si phiền năo. Do vậy, trong ba đoạn
kinh văn lớn tiếp theo đây, sẽ nói: Do tâm tham
sanh ra khổ, từ tâm sân hận sanh ra khổ, từ tâm
ngu si sanh ra khổ, dạy chúng ta đă biết th́ hăy gắng
đoạn khổ. Đoạn khổ là đoạn tham,
sân, si. Nói đến đây bèn thay đổi vị
đương cơ, vị đương cơ [trong phần
kế tiếp] của phần này là Di Lặc Bồ Tát.
Đương cơ trong những phần trước
đều là ngài A Nan; v́ sao thay đổi người
đương cơ? V́ sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật nhập
Niết Bàn, đức Đương Lai Hạ Sanh là Di Lặc
Tôn Phật. Di Lặc Bồ Tát là Nhất Sanh Bổ Xứ
Bồ Tát, v́ bậc Bổ Xứ Bồ Tát trong thế giới
Sa Bà là vị này, trong tương lai Ngài sẽ giáng sanh thành
Phật. V́ thế, đức Phật nói với bậc hạ
sanh trong tương lai là Di Lặc Bồ Tát. Ngài lại c̣n
bảo hết thảy trời, người hăy lắng nghe, hăy khéo tôn trọng pháp do Thích Ca Như Lai đă giảng,
phải cảnh giác chính ḿnh đoạn trừ tham, sân, si,
thoát khỏi các nỗi khổ. Phải đoạn trừ
tham, sân, si, thoát khỏi các thứ khổ như thế nào?
Tu hành trong thế giới Sa Bà chẳng dễ dàng, nhất
định phải tin vào Tây Phương Cực Lạc thế
giới, phải phát nguyện văng sanh, phải niệm danh
hiệu Vô Lượng Thọ Phật th́ mới có thể
đoạn tham, sân, si, thoát khỏi các nỗi khổ.
Phật
Thuyết Kinh Vô Lượng Thọ Giảng Kư
Phần
4 hết
[1] “Phi
thời” không chỉ là không ăn quá Ngọ, mà c̣n là ngoài bữa sáng và bữa ngọ
ra, không ăn lặt vặt.
[2] Nguyên văn là “ngũ tuyến phổ” tức là cách ghi các notes nhạc
trong hệ thống kư âm của nhạc phương Tây. Do
nhạc phổ được ghi lại bằng cách viết
các nốt nhạc trên các khuôn nhạc gồm năm
đường kẻ song song nên gọi là “ngũ tuyến phổ”.
[3]
Do-tuần c̣n được phiên âm là Du Xà Na, Du Thiện Na,
Du Tuần,
hoặc Do Diên. Nghĩa gốc của chữ này là “quăng đường
mà một con trâu đeo ách có
thể đi được trong một ngày”. Dặm ở
đây là nói theo dặm Tàu. Một do-tuần tính ra là từ
12 cho đến 15 km.
[4]
Nói là “mười
do tuần” v́ tính theo tiểu do-tuần th́ mỗi do-tuần
là bốn mươi dặm. Do vậy, bốn trăm dặm
là mười do-tuần.
[5]
Bộ sớ này do ngài Phổ Uyển
chùa Pháp Giới ở Vân Nam biên soạn vào đời Thanh.
Ngài Phổ Uyển là xứ Côn Sơn, họ Cố, tự
là Lan Cốc, không rơ năm sanh và năm mất. Chỉ biết
Ngài đến Vân Nam vào năm đầu đời vua Thuận
Trị. Do thời cuộc biến loạn, Ngài ẩn
cư tiềm tu nhiều năm. Trong niên hiệu Khang Hy, do
tứ chúng quy ngưỡng, cầu thỉnh, Ngài bèn
đăng đàn giảng kinh thuyết pháp tại chùa Pháp
Giới và Báo Quốc ở Côn Minh. Những bộ sớ giải
nổi tiếng của Ngài là Kim Cang Kinh Tâm Ấn Sớ,
Lăng Nghiêm Kinh Bảo Kính Sớ v.v…
[6]
Vạn Tự Tục Tạng có tên gọi đầy đủ
là Đại Nhật Bản Tục Tạng Kinh. Đây là tổng
tập những kinh điển,
chú sớ, và trước
tác Phật giáo chưa được đưa vào Đại
Nhật Bản Giảo Đính Tạng Kinh (Vạn Đại
Tạng Kinh). Vạn Tục
Tạng Kinh được biên soạn từ
năm Minh Trị 38 đến năm Đại Chánh Nguyên
Niên (1905-1912). Đây là một công tŕnh khá đồ sộ,
thâu thập 1.756 bộ
kinh sách, chia thành 150 tập, phân thành 7.144 quyển. Trong ấy
có rất nhiều bản đă thất truyền ở
Trung Hoa.
[7] Nhị Không là Nhân Không (Ngă Không) và Pháp Không. Tam
Không là Nhân Không, Pháp Không, và Nhân Pháp Câu Không.
[8]
Garuda, thường phiên âm là Ca Lâu La, hoặc dịch nghĩa là
Đại Bằng Kim Xí Điểu, là một loài trong Thiên
Long Bát Bộ. Ca Lâu La thân chim, đầu người, mũi
ưng, thân màu xanh như ngọc bích, cánh rất to, rộng
đến ba trăm do-tuần, óng ánh như vàng, bay rất
nhanh, mắt rất tinh, thích ăn thịt các loài rồng.
Đôi khi,
Ca Lâu La được tạc có h́nh người vạm vỡ,
mũi như mỏ chim ưng, có hai tay, hoặc
bốn tay. Ca Lâu La giữ vai tṛ thủ hộ núi Tu Di và trời
Đao Lợi, nên các chùa miếu thuộc Phật giáo Nam
Truyền như tại Thái Lan, Cao Miên, Lào, Bali (Indonesia)
thường tạc h́nh Ca Lâu La ở bốn góc chùa (thường
gọi là Krud). Do Ca Lâu La thường
được
tạc tượng với vẻ mặt hung dữ, người
Campuchia hay gọi tượng
Ca Lâu La là “tượng
chằn”.
[9]
Kinh thường chép là “tám mươi tùy
h́nh hảo”, ở đây ḥa thượng nói là “tám
mươi hai”, không biết có phải là do lỗi của
người ghi lại lời giảng hay không?