Phật Thuyết Kinh Vô Lượng Thọ Giảng Kư

佛說無量壽經講記

Phần 4

Chủ giảng: Trưởng lăo Đạo Nguyên (道源長老)

Địa điểm: Chí Liên Tinh Xá Đài Bắc

Thời gian: Tháng Tám năm Dân Quốc 67 (1978)

Cư sĩ Uông Không bút kư

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

(theo bản in của Đài Trung Liên Xă)

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

Kinh Vô Lượng Thọ, quyển Hạ

2.2.3. Nêu rơ đối tượng được nhiếp thọ

2.2.3.1. Nhiếp thủ kẻ hạ căn cùng sanh về cơi ấy

2.2.3.1.1. Nêu rơ người sanh về cơi ấy, trụ Chánh Định Tụ, khiến cho người khác hâm mộ, mong cầu

 

          (Kinh) Phật cáo A Nan: “Kỳ hữu chúng sanh, sanh bỉ quốc giả, giai tất trụ ư Chánh Định chi tụ. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc trung, vô chư Tà Tụ, cập Bất Định Tụ”.

          ()佛告阿難:其有眾生,生彼國者,皆悉住於正定之聚。所以者何?彼佛國中,無諸邪聚,及不定聚。

          (Kinh: Đức Phật bảo ngài A Nan: “Nếu có chúng sanh sanh vào cơi ấy, thảy đều trụ trong Chánh Định Tụ. V́ cớ sao vậy? Trong cơi Phật ấy, chẳng có các Tà Tụ và Bất Định Tụ”).

 

          Nói đi nói lại Tây Phương Cực Lạc thế giới chánh báo tốt đẹp và y báo tốt đẹp, đều nhằm dạy chúng ta phải tin tưởng. Sau khi đă tin tưởng, phải phát nguyện văng sanh. Ở đây, [kinh văn] lại nói đến những chúng sanh đă văng sanh Tây Phương. “Kỳ hữu chúng sanh, sanh bỉ quốc giả, giai tất trụ ư Chánh Định chi tụ. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc trung, vô chư Tà Tụ, cập Bất Định Tụ” (nếu có chúng sanh sanh vào cơi ấy, thảy đều trụ trong Chánh Định Tụ. V́ cớ sao vậy? Trong cơi Phật ấy, chẳng có các Tà Tụ và Bất Định Tụ). Hết thảy chúng sanh được chia thành ba “tụ” lớn, Tụ () là loại. [Chia thành Tam Tụ tức là] chia thành ba loại lớn:

          1) Loại thứ nhất gọi là Tà Định Tụ. Tà Định tức là chắc chắn ở nơi tà. Quư vị nói Phật pháp với họ, chắc chắn họ chẳng tiếp nhận. Loại này gọi là Tà Định Tụ.

          2) Loại thứ hai là Bất Định Tụ. Gặp phải tà sư, tà giáo, họ sẽ tin theo tà. Gặp thiện tri thức bàn luận Phật pháp với họ, họ cũng có thể theo học Phật pháp. Đấy gọi là Bất Định Tụ.

          3) Loại thứ ba là Chánh Định Tụ, là hạng chúng sanh tuyệt đối dấy lên chánh tri chánh kiến.

          Trong thế giới Sa Bà có ba đại tụ này, thế giới Cực Lạc chỉ có một tụ, [tức là] chỉ có chúng sanh thuộc về Chánh Định Tụ, v́ thế giới Cực Lạc chẳng có Tà Định Tụ, mà cũng chẳng có chúng sanh thuộc về Bất Định Tụ. Trong thế giới Sa Bà, phải dựa theo địa vị tu hành để phân định. Trước khi dấy lên tâm tín ngưỡng Đại Thừa Phật pháp th́ đều gọi là Tà Định Tụ. Sau khi đă dấy lên tâm tín ngưỡng đối với Đại Thừa Phật pháp th́ gọi là Sơ Phát Tín Tâm Bồ Tát. Có mười địa vị được gọi là Thập Tín vị, từng bước tiến cao hơn. Nếu đă viên măn địa vị Thập Tín, bèn dự vào Thập Trụ vị. Hàng Bồ Tát thuộc vào Thập Tín vị, tiến tiến lùi lùi, gặp Phật pháp, sẽ tinh tấn tu đạo, tiến bộ. Gặp phải cảnh giới vui sướng ngũ dục, họ sẽ bị lôi kéo, lại bị lui sụt. Đấy gọi là Bất Định Tụ. Nếu viên măn Thập Tín, dự vào Thập Trụ vị, họ sẽ chẳng bị thoái chuyển, đó gọi là Chánh Định Tụ. Dự vào Thập Trụ vị, Thập Hạnh vị, Thập Hồi Hướng vị, thuộc ba thánh vị ấy, sẽ gọi là địa vị Tam Hiền. Đấy là bậc hiền nhân trong Đại Thừa Phật giáo. Sau khi đă đăng địa (chứng nhập Sơ Địa) th́ có mười địa vị, đạt được Thập Thánh Địa, cũng gọi là Thập Thánh Vị, c̣n là mười loại thánh nhân Đại Thừa. Tam Hiền Thập Thánh gọi là Chánh Định Tụ, chẳng thể là Bất Định Tụ, lại càng chẳng thể là Tà Định Tụ.

          Một kẻ phàm phu từ lúc phát tâm tu hành cho đến khi thành Phật, phải trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp, bắt đầu tính từ lúc nào? Từ khi đă dự vào Trụ vị, tức là đă dự vào các địa vị thuộc Thập Trụ, người ấy chỉ có tiến, chẳng lùi. Khi ấy mới tính đến kiếp số ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Từ Thập Trụ, Thập Hạnh, cho đến Thập Hồi Hướng, [trải qua] ba hiền vị ấy mới là một đại A-tăng-kỳ kiếp. [Thời gian tu tập] từ Sơ Địa, Nhị Địa cho đến Bát Địa là đại A-tăng-kỳ kiếp thứ hai. Đạt đến Bát Địa, được thọ kư thành Phật, giống như trong kinh Kim Cang, Thích Ca Mâu Ni Phật được Nhiên Đăng Phật thọ kư thành Phật. Từ Bát Địa Bồ Tát lại tu cho đến khi thành Phật, vẫn phải mất một đại A-tăng-kỳ kiếp nữa. Ba đại A-tăng-kỳ kiếp mới tu viên măn. Hàng Bồ Tát thuộc Thập Tín tiến tiến, lùi lùi, chẳng thể tính kiếp số. Đời sau, đời kế, vẫn chuyển sanh làm người, chẳng liên tục, dụng công bị gián đoạn. Hễ gặp sự vui ngũ dục, sẽ bị chúng nó lôi kéo, xoay chuyển. V́ thế, đức Phật Thích Ca chẳng dạy chúng ta cầu phước báo nhân thiên, v́ c̣n phải bị thoái chuyển. Nếu lui sụt vào trong ba ác đạo, thời gian ấy càng dài hơn. Do đó, hàng Bồ Tát thuộc Thập Tín vị chẳng thể tính toán kiếp số.

          Nhưng theo như Đại Thừa Khởi Tín Luận đă nói, phát Bồ Đề tâm liền tu hành, chỉ tiến chẳng lùi, phải mất một vạn đại kiếp mới tiến nhập Trụ vị. Hăy nhớ nhé! Chỉ tiến chẳng lùi, phải trải qua một vạn đại kiếp mới nhập Thập Trụ vị. Vậy th́ nay chúng ta được nghe pháp môn Tịnh Độ, tin tưởng pháp môn Tịnh Độ bèn phát Bồ Đề tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, tức là chúng ta đă phát tín tâm, vẫn thuộc về Thập Tín vị, vẫn là Bất Định Tụ, nhưng hễ sanh về Tây Phương th́ sao? Sẽ là A Bệ Bạt Trí, chẳng thoái chuyển, sanh sang Tây Phương là Chánh Định Tụ. Tây Phương chẳng có Bất Định Tụ, càng chẳng có Tà Định Tụ. Vậy th́ quư vị chỉ cần niệm Phật sanh về Tây Phương, tối thiểu là đă bỏ qua thời gian một vạn đại kiếp!

 

2.2.3.1.2. Nêu lên những người nghe danh hiệu Phật đều được văng sanh ḥng tăng trưởng cái tâm mong sanh về cho mọi người

 

          (Kinh) Thập phương hằng sa chư Phật Như Lai, giai cộng tán thán Vô Lượng Thọ Phật oai thần công đức bất khả tư nghị. Chư hữu chúng sanh, văn kỳ danh hiệu, tín tâm hoan hỷ, năi chí nhất niệm chí tâm hồi hướng, nguyện sanh bỉ quốc, tức đắc văng sanh, trụ Bất Thoái Chuyển. Duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp.

          ()十方恆沙諸佛如來,皆共讚歎無量壽佛威神功德不可思議!諸有眾生,聞其名號,信心歡喜,乃至一念至心迴向,願生彼國,即得往生,住不退轉。唯除五逆,誹謗正法。

          (Kinh: Mười phương chư Phật Như Lai nhiều như số cát trong sông Hằng đều cùng tán thán oai thần và công đức chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật. Có các chúng sanh nghe danh hiệu của Ngài, tín tâm, hoan hỷ, dẫu chỉ một niệm chí tâm hồi hướng, nguyện sanh về cơi ấy, liền được văng sanh, trụ Bất Thoái Chuyển, chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp).

 

          “Thập phương hằng sa chư Phật Như Lai, giai cộng tán thán Vô Lượng Thọ Phật oai thần công đức bất khả tư nghị” (mười phương chư Phật Như Lai nhiều như số cát trong sông Hằng đều cùng tán thán oai thần và công đức chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật): Trong cơi Phật ấy, chẳng có chúng sanh thuộc về Tà Định Tụ và Bất Định, mười phương chư Phật Như Lai số nhiều như cát sông Hằng đều cùng tán thán. Trong bản kinh A Di Đà do ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch th́ là sáu phương Phật, nhưng bản kinh A Di Đà do pháp sư Huyền Trang dịch th́ là mười phương Phật, thảy đều tán thán Vô Lượng Thọ Phật trong thế giới Tây Phương có oai thần và công đức chẳng thể nghĩ bàn!

          “Chư hữu chúng sanh, văn kỳ danh hiệu, tín tâm hoan hỷ, năi chí nhất niệm chí tâm hồi hướng, nguyện sanh bỉ quốc, tức đắc văng sanh, trụ Bất Thoái Chuyển. Duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp” (có các chúng sanh nghe danh hiệu của Ngài, tín tâm, hoan hỷ, dẫu chỉ một niệm chí tâm hồi hướng, nguyện sanh về cơi ấy, liền được văng sanh, trụ Bất Thoái Chuyển, chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp): Đấy là mười phương chư Phật đều tán thán oai thần và công đức của A Di Đà Phật chẳng thể nghĩ bàn! Đức Phật Thích Ca vẫn nói cho lũ chúng sanh phàm phu chúng ta nghe: Nếu “chư hữu chúng sanh, văn kỳ danh hiệu” (có các chúng sanh nghe danh hiệu của Ngài), mười phương chư Phật đều đang tán thán Vô Lượng Thọ Phật, chúng ta nghe tiếng, liền sanh tín tâm, phát tâm hoan hỷ, quư vị bèn niệm A Di Đà Phật, hồi hướng Tây Phương Cực Lạc thế giới, niệm bao nhiêu? “Năi chí nhất niệm chí tâm hồi hướng, nguyện sanh bỉ quốc, tức đắc văng sanh, trụ Bất Thoái Chuyển” (cho đến một niệm chí tâm hồi hướng, nguyện sanh về cơi ấy, liền được văng sanh, trụ Bất Thoái Chuyển): Sanh về Tây Phương, chẳng lâu sau, sẽ là một chúng sanh thuộc về Chánh Định Tụ.

          Trong phần trước, [đoạn kinh văn] nói về bốn mươi tám đại nguyện, có hai câu như sau: “Duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp” (chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp). Tạo trọng tội Ngũ Nghịch là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá ḥa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu. Trọng tội Ngũ Nghịch đặc biệt nặng nề. Kẻ đó phỉ báng chánh pháp, chắc chắn chẳng thể sanh về Tây Phương. Trong khi giảng về bốn mươi tám đại nguyện, tôi có nói trong Thập Lục Quán Kinh chấp nhận kẻ phạm trọng tội Ngũ Nghịch văng sanh, [vậy th́ phải] dung hội quán thông với kinh Vô Lượng Thọ như thế nào? Kinh Vô Lượng Thọ chú trọng nơi tội phỉ báng chánh pháp. Nếu quư vị là kẻ phạm trọng tội Ngũ Nghịch mà biết sám hối, chẳng phỉ báng chánh pháp, nghe danh hiệu A Di Đà Phật, phát tâm tín ngưỡng, phát tâm hoan hỷ, nhất định sẽ được văng sanh. Đă tạo trọng tội Ngũ Nghịch, lại c̣n phỉ báng chánh pháp, nghe, thấy kinh điển chẳng tin tưởng, lại c̣n phỉ báng, làm sao có thể tùy thuận, hoan hỷ cho được? Làm sao kẻ ấy chịu niệm danh hiệu A Di Đà Phật cho nổi? Chẳng tín ngưỡng, chẳng phát nguyện cầu sanh Tây Phương, chẳng niệm A Di Đà Phật, sanh về Tây Phương bằng cách nào đây? Hai bộ kinh ấy hoàn toàn chẳng chống trái nhau, trọng tội Ngũ Nghịch vẫn có thể văng sanh, chỉ cần quư vị đừng phỉ báng chánh pháp.

          Trong phần trên đă nói đến bốn mươi tám nguyện của Vô Lượng Thọ, nguyện thứ mười tám trong ấy là: “Thập phương chúng sanh, chí tâm tín nhạo, dục sanh ngă quốc, năi chí thập niệm, nhược bất sanh giả, bất thủ Chánh Giác” (mười phương chúng sanh chí tâm tin ưa, muốn sanh về nước ta, cho đến mười niệm mà nếu chẳng sanh về, tôi chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác). Niệm Phật hiệu mười câu, quyết định văng sanh. Phần sau kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, trong phần Hạ Phẩm Hạ Sanh, có một đoạn kinh văn như thế này: “Như thị chí tâm, linh thanh bất tuyệt, cụ túc thập niệm, xưng nam-mô A Di Đà Phật” (chí tâm như thế khiến cho tiếng niệm chẳng dứt, trọn đủ mười niệm xưng nam-mô A Di Đà Phật), cũng nói đến mười niệm niệm Phật. Ở đây, [kinh Vô Lượng Thọ] nói “một niệm” nhằm cực lực nói sanh về Tịnh Độ dễ dàng, niệm Phật mười niệm đă có thể văng sanh, niệm Phật một niệm cũng có thể văng sanh. Nay chúng ta nghiên cứu, mười niệm hay một niệm ấy là niệm trong lúc b́nh thời, hay là mười niệm khi lâm chung? Quư vị thấy đó, sanh về Tây Phương rất dễ dàng. Chúng ta niệm A Di Đà Phật mười niệm, bèn có thể sanh về Tây Phương, nay ta niệm Phật mười niệm để chuẩn bị văng sanh Tây Phương. [Nếu chỉ nghĩ như vậy], sợ rằng quư vị sẽ lầm lỡ đại sự của chính ḿnh! Đấy chẳng phải là nói niệm trong lúc b́nh thường, mà là niệm khi lâm chung! Đến khi lâm chung, niệm mười niệm sẽ sanh về Tây Phương, quyết định sanh về. Thậm chí, tới khi lâm chung, niệm một niệm, cũng quyết định văng sanh, đều là nói khi lâm chung. Hoặc là quư vị nghe nói, đă hiểu rơ mười niệm hoặc một niệm đều là niệm vào lúc lâm chung, [bèn lầm tưởng như vậy] th́ cũng rất dễ dàng! Nay ta chẳng cần gấp gáp, hiện thời gấp gáp để làm chi? Chờ tới khi lâm chung, ta niệm mười niệm bèn sanh về Tây Phương, thậm chí một niệm bèn sanh về Tây Phương. Nếu quư vị nghĩ như vậy, sẽ bị lầm lỡ đại sự của chính ḿnh! V́ sao sẽ bị lỡ chuyện? V́ lúc b́nh thường quư vị chẳng niệm, tới khi lâm chung, chính là cửa ải giữa sanh và tử, thường là bị tám nỗi khổ nung đốt, tới khi đó, quư vị chẳng nhớ niệm Vô Lượng Thọ Phật, chẳng nghĩ tới chuyện niệm Phật, mười niệm cũng chẳng niệm được, [thậm chí] một niệm cũng chẳng niệm nổi, làm sao quư vị có thể sanh về Tây Phương cho được? Há chẳng phải là lầm lỡ đại sự sanh tử của chính ḿnh ư? Do vậy, niệm Phật th́ hiện thời đă nghe, quư vị phải dấy lên tín tâm, đă phát tín tâm lại c̣n phải chân thật, c̣n phải kiên cố. Đă có tín tâm rồi phải phát nguyện, quyết định sanh về Tây Phương, lại c̣n phải nhất định là khẩn thiết, chẳng sanh về Tây Phương sẽ không được! Niệm Phật lúc b́nh thường cũng phải nghiêm túc niệm, v́ niệm một câu A Di Đà Phật nhằm mong liễu sanh tử, phải niệm một câu A Di Đà Phật để sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Niệm qua loa, qua quít, sẽ chẳng đắc lực. Do vậy, hiện thời phải niệm, có niệm th́ tới khi lâm chung mới biết niệm Phật. Nếu không, tới lúc đó, chẳng nghĩ tới A Di Đà Phật, làm sao niệm cho nổi?

 

2.2.3.1.3. Biện định hạnh nghiệp để văng sanh nhằm dạy [người nghe] tu tập văng sanh

 

          (Kinh) Phật cáo A Nan: - Thập phương thế giới chư thiên nhân dân, kỳ hữu chí tâm nguyện sanh bỉ quốc, phàm hữu tam bối.

          ()佛告阿難:十方世界諸天人民,其有至心願生彼國,凡有三輩。

          (Kinh: Đức Phật bảo ngài A Nan: - Chư thiên nhân dân trong mười phương thế giới, có những người chí tâm nguyện sanh về cơi ấy, nói chung có ba bậc).

 

          “Phật cáo A Nan: - Thập phương thế giới chư thiên nhân dân, kỳ hữu chí tâm nguyện sanh bỉ quốc, phàm hữu tam bối” (đức Phật bảo ngài A Nan: - Chư thiên và nhân dân trong mười phương thế giới, có những người chí tâm nguyện sanh về cơi ấy, nói chung th́ có ba bậc): Đây là nói đến những người chưa sanh về, tính gộp chung cả những người đă sanh về như trong phần trên th́ có ba loại lớn, gọi là Tam Bối. Chúng ta niệm bài kệ tán Phật “A Di Đà Phật thân kim sắc…” gồm tám câu, trong đó chỉ có một câu phát xuất từ kinh Vô Lượng Thọ, tức là “tứ thập bát nguyện độ chúng sanh”. Câu thứ tám là “cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn”, đó là từ Thập Lục Quán Kinh. Kinh Vô Lượng Thọ chẳng nói chín phẩm, chỉ nói Tam Bối. Tam Bối và chín phẩm trong Thập Lục Quán Kinh có phải là giống như nhau hay không? Như nhau! Tam Bối là Thượng, Trung, Hạ. Trong [mỗi bậc] Thượng, Trung, Hạ, lại chia cặn kẽ thành Thượng, Trung, Hạ, thành ra chín phẩm. Đấy là nói theo số lượng tổng quát th́ là Tam Bối, Thập Lục Quán Kinh lại chia tỉ mỉ thành chín phẩm.

 

2.2.3.1.3.1. Thượng bối văng sanh

         

          (Kinh) Kỳ thượng bối giả, xả gia khí dục nhi tác sa-môn, phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật, tu chư công đức, nguyện sanh bỉ quốc. Thử đẳng chúng sanh, lâm thọ chung thời, Vô Lượng Thọ Phật, dữ chư đại chúng, hiện kỳ nhân tiền, tức tùy bỉ Phật văng sanh kỳ quốc, tiện ư thất bảo hoa trung, tự nhiên hóa sanh, trụ Bất Thoái Chuyển. Trí huệ dũng mănh, thần thông tự tại. Thị cố A Nan! Kỳ hữu chúng sanh, dục ư kim thế kiến Vô Lượng Thọ Phật, ưng phát Vô Thượng Bồ Đề chi tâm, tu hành công đức, nguyện sanh bỉ quốc.

          ()其上輩者,捨家棄欲而作沙門,發菩提心,一向專念無量壽佛,修諸功德,願生彼國。此等眾生,臨壽終時,無量壽佛,與諸大眾,現其人前,即隨彼佛往生其國,便於七寶華中,自然化生,住不退轉。智慧勇猛,神通自在。是故,阿難!其有眾生,欲於今世見無量壽佛,應發無上菩提之心,修行功德,願生彼國。

          (Kinh: Bậc thượng là người bỏ nhà, ĺa dục để làm sa-môn, phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật, tu các công đức, nguyện sanh về cơi ấy. Các chúng sanh ấy khi sắp lâm chung, Vô Lượng Thọ Phật và các đại chúng, hiện ra trước người ấy, [người ấy] liền theo đức Phật đó sanh về cơi kia, liền tự nhiên hóa sanh trong hoa bảy báu, trụ Bất Thoái Chuyển, trí huệ dũng mănh, thần thông tự tại. Do vậy, A Nan! Nếu có chúng sanh muốn ngay trong đời này thấy Vô Lượng Thọ Phật, hăy nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, tu hành công đức, nguyện sanh về cơi đó).

 

          Trước hết, nói đến Thượng Bối. “Kỳ thượng bối giả, xả gia khí dục, nhi tác sa-môn” (bậc thượng là người bỏ nhà, ĺa dục để làm sa-môn). “Sa-môn” (Śramaṇa) là tiếng gọi chung của hàng xuất gia, ĺa bỏ gia đ́nh, cắt đứt thú vui ngũ dục, phát tâm dũng mănh xuất gia. Xuất gia th́ phải “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật” (phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm A Di Đà Phật). Hăy nhớ, phải phát Bồ Đề tâm niệm Phật, niệm danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật. “Tu chư công đức” (tu các công đức), v́ phát tâm xuất gia, ĺa bỏ chuyện gia đ́nh, đúng là nên tu các công đức, đem hết thảy công đức đều hồi hướng về Tây Phương. “Nguyện sanh bỉ quốc” (nguyện sanh về cơi đó). “Thử đẳng chúng sanh” (những chúng sanh ấy) tức là chúng sanh thuộc về bậc thượng “lâm thọ chung thời, Vô Lượng Thọ Phật dữ chư đại chúng, hiện kỳ nhân tiền, tức tùy bỉ Phật văng sanh kỳ quốc” (khi sắp lâm chung, Vô Lượng Thọ Phật và các đại chúng hiện ra trước người ấy, [người ấy] liền theo đức Phật đó sanh về cơi kia), theo sau A Di Đà Phật, theo chân đại chúng, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Tiện ư thất bảo hoa trung, tự nhiên hóa sanh, trụ Bất Thoái Chuyển, trí huệ dũng mănh, thần thông tự tại” (liền ở trong hoa bảy báu, tự nhiên hóa sanh, trụ Bất Thoái Chuyển, trí huệ dũng mănh, thần thông tự tại): Hóa sanh trong hoa sen bảy báu. Đă hóa sanh th́ sẽ chẳng thoái chuyển, trí huệ dũng mănh, thần thông tự tại.

          Tiếp đó, [kinh văn] lại nói đến chúng sanh thuộc thượng bối: “Thị cố, A Nan! Kỳ hữu chúng sanh, dục ư kim thế kiến Vô Lượng Thọ Phật, ưng phát Vô Thượng Bồ Đề chi tâm, tu hành công đức, nguyện sanh bỉ quốc” (do vậy, này A Nan! Nếu có chúng sanh muốn thấy Vô Lượng Thọ Phật trong đời này, hăy nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, tu hành công đức, nguyện sanh về cơi ấy). Quư vị chẳng phải chờ sau khi mạng chung mới thấy A Di Đà Phật, mà ngay trong đời hiện tại sẽ thấy A Di Đà Phật. Thấy bằng cách nào? Quư vị phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, tu các công đức, nguyện sanh về Tây Phương, như vậy th́ mới có thể thấy. Tổ sư đời thứ nhất của Tịnh Độ Tông là Huệ Viễn đại sư, ngay trong lúc Ngài c̣n sống, đă ba lượt thấy A Di Đà Phật. Tới lần thứ tư, A Di Đà Phật bảo Ngài: “Bảy ngày sau, ông sẽ văng sanh nước ta”. Ngài mới bảo mọi người: “Trước kia, ta đă ba lượt thấy A Di Đà Phật, hôm nay ta thấy A Di Đà Phật bảo ta bảy ngày sau, ta sẽ sanh về Tây Phương, cho nên ta cáo từ mọi người”. Đấy là chúng sanh thuộc thượng phẩm thượng bối, c̣n có trung bối và hạ bối đều là không xuất gia mà vẫn có thể văng sanh. Chỉ cần niệm thánh hiệu A Di Đà Phật, quư vị cũng có thể văng sanh.

 

2.2.3.1.3.2. Trung bối văng sanh

 

          (Kinh) Phật cáo A Nan: - Kỳ trung bối giả, thập phương thế giới chư thiên nhân dân, kỳ hữu chí tâm nguyện sanh bỉ quốc, tuy bất năng hành tác sa-môn, đại tu công đức, đương phát Vô Thượng Bồ Đề chi tâm, nhất hướng chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật, đa thiểu tu thiện, phụng tŕ trai giới, khởi lập tháp tượng, phạn thực sa-môn, huyền tăng, nhiên đăng, tán hoa, thiêu hương, dĩ thử hồi hướng, nguyện sanh bỉ quốc. Kỳ nhân lâm chung, Vô Lượng Thọ Phật, hóa hiện kỳ thân, quang minh, tướng hảo, cụ như chân Phật, dữ chư đại chúng, hiện kỳ nhân tiền. Tức tùy hóa Phật, văng sanh kỳ quốc, trụ Bất Thoái Chuyển. Công đức trí huệ, thứ như thượng bối giả dă.

          ()佛告阿難:其中輩者,十方世界諸天人民,其有至心願生彼國,雖不能行作沙門,大修功德。當發無上菩提之心,一向專念無量壽佛,多少修善,奉持齋戒,起立塔像,飯食沙門,懸繒然燈,散華燒香,以此迴向,願生彼國。其人臨終,無量壽佛,化現其身,光明相好,具如真佛,與諸大眾,現其人前。即隨化佛往生其國,住不退轉。功德智慧,次如上輩者也。

          (Kinh: Đức Phật bảo ngài A Nan: - Bậc trung là chư thiên nhân dân trong mười phương thế giới, nếu có ai chí tâm nguyện sanh về cơi ấy, tuy chẳng thể làm sa-môn, tu công đức to lớn, hăy nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, một mực chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật, tu thiện nhiều hay ít, vâng giữ trai giới, tạo lập tháp tượng, đăi cơm sa-môn, treo phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương. Dùng những điều này để hồi hướng, nguyện sanh về cơi ấy. Người ấy lâm chung, Vô Lượng Thọ Phật sẽ hóa hiện thân Ngài, quang minh, tướng hảo, đầy đủ như vị Phật thật, cùng với các đại chúng, hiện ra trước người ấy, [người ấy] liền theo hóa Phật, văng sanh cơi ấy, trụ Bất Thoái Chuyển. Công đức và trí huệ kém hơn bậc thượng).

 

          “Phật cáo A Nan: - Kỳ trung bối giả, thập phương thế giới chư thiên nhân dân” (đức Phật bảo ngài A Nan: - Bậc trung là chư thiên nhân dân trong mười phương thế giới): Chúng sanh trên cơi trời cũng mong cầu văng sanh, chúng sanh trong nhân gian cũng mong cầu văng sanh. “Kỳ hữu chí tâm nguyện sanh bỉ quốc” (nếu có ai chí tâm nguyện sanh về cơi ấy), “chí tâm” là tâm chí thành, bằng ḷng văng sanh cơi An Lạc. “Tuy bất năng hành tác sa-môn, đại tu công đức” (tuy chẳng thể làm sa-môn, tu công đức lớn lao). Hăy ghi nhớ! Người thuộc trung bối văng sanh chẳng phải là bậc xuất gia, v́ nhân duyên xuất gia của người ấy chẳng trọn đủ, chẳng thể làm sa-môn, chẳng thể tu công đức lớn lao, v́ xuất gia th́ mới có thể tu công đức lớn lao, nhưng phát tâm niệm Phật th́ giống hệt như nhau. “Đương phát Vô Thượng Bồ Đề chi tâm” (hăy nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề), điều này giống hệt như bậc thượng. “Nhất hướng chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật” (một mực chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật), giống hệt như bậc thượng.

          “Đa thiểu tu thiện, phụng tŕ trai giới, khởi lập tháp tượng, phạn thực sa-môn, huyền tăng, nhiên đăng, tán hoa, thiêu hương. Dĩ thử hồi hướng, nguyện sanh bỉ quốc” (tu thiện nhiều hay ít, vâng giữ trai giới, tạo lập tháp tượng, đăi cơm sa-môn, treo phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương. Dùng những điều này để hồi hướng, nguyện sanh về cơi ấy): Quư vị chẳng thể tu công đức lớn lao, vẫn phải làm các thiện sự. “Đa thiểu tu thiện” (tu thiện nhiều hay ít), hai chữ “đa thiểu” có ư nói: Tùy theo tâm lực và tài lực của quư vị là những người tại gia. Quư vị phát tâm to chừng nào, bèn làm thiện sự nhiều ngần ấy. Quư vị phát tâm to lớn mà tài lực chẳng xuể, cũng chỉ đành tùy theo tài lực của chính ḿnh mà làm thiện sự, nhưng chẳng thể không tu thiện, dẫu nhiều hay ít cũng đều phải tu! Tu những việc thiện nào vậy?

          Tiếp đó, Phật Thích Ca dạy chúng ta, phải “phụng tŕ trai giới” (vâng giữ trai giới). Kẻ tại gia chẳng thể xuất gia, cũng phải thọ Bát Quan Trai Giới. Hăy chú ư, phải hiểu chữ Trai như thế nào? Chữ Trai () nghĩa là “quá ngọ không ăn”. Bát Quan Trai Giới là chín điều đầu tiên trong giới xuất gia của Sa-di và Sa-di-ni. Tám điều đầu tiên là Quan (), điều thứ chín là “bất phi thời thực” (không ăn phi thời)[1] là Trai, gọi gộp chung là Bát Quan Trai Giới. Quư vị chẳng thể hằng ngày tŕ Bát Quan Trai Giới th́ cũng phải thọ Bát Quan Trai Giới một lần! Bát Quan Trai Giới lấy một ngày một đêm làm giới thể. Ắt cần phải thọ vào buổi sáng, buổi chiều th́ quá Ngọ chẳng ăn cơm, [điều này] gọi là Trai. Hừng đông ngày hôm sau bèn giải trừ giới thể ấy. Vậy th́ thọ vào khi nào? Hoặc là thánh đản của Phật, Bồ Tát, hoặc nhằm sinh nhật, ngày giỗ của cha mẹ quư vị, hoặc là sinh nhật của chính quư vị; đấy là ngày mẹ chịu nạn, đều có thể thọ [Bát Quan Trai Giới]. Một ngày một đêm thọ Bát Quan Trai Giới tức là tạm thời làm người xuất gia trong một ngày một đêm. Trên thực tế, tại gia đệ tử hăy nên trước hết là thọ Tam Quy Y, rồi thọ Ngũ Giới. Đấy là giới suốt đời. Tam Quy Y là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Tam Quy Y c̣n gọi là Tam Quy Giới. Tại gia thọ Ngũ Giới, tức là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Đấy là giới vâng giữ suốt đời của hai chúng đệ tử tại gia, thường nói là Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di.

          Sau khi đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới, quư vị lại thọ thêm Bát Quan Trai Giới; đấy gọi là “hành gia hạnh”, [hàm nghĩa hành tŕ thêm các] giới để tăng tấn công hạnh vậy, [cho nên] c̣n gọi là “gia hạnh giới”. Sau khi đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới, đệ tử tại gia có thể thọ tại gia Bồ Tát giới. Tại gia Bồ Tát giới là nương theo kinh Ưu Bà Tắc Giới để thọ tŕ, bao gồm sáu giới trọng và hai mươi tám giới khinh. Trong đó, có một điều là Lục Trai Nhật, hoặc là Lục Trai Giới, tức là mỗi tháng phải thọ tŕ Bát Quan Trai Giới sáu ngày, chẳng cần phải thọ Bát Quan Trai Giới chi khác. Mỗi tháng bèn thọ sáu ngày Bát Quan Trai Giới th́ gọi là “tŕ thiên trai”.

          “Phụng tŕ trai giới, khởi lập tháp tượng” (vâng giữ trai giới, tạo lập tháp tượng). Đấy là làm các thiện sự. Tŕ giới, tŕ trai cũng là thiện sự. Tŕ giới, tŕ trai nhằm chú trọng trừ khử ác pháp, cho nên viết “tŕ trai, tŕ giới” thành điều đầu tiên. Quư vị trước hết là “pḥng phi, chỉ ác” (ngăn ngừa sai trái, dứt điều ác), [cho nên] hiện thời thọ giới. Nếu quư vị chẳng giữ giới, những công đức đă làm đều xen tạp ác pháp trong đó, những công đức đă làm đều chẳng thanh tịnh. Do vậy, trước hết phải tŕ giới. Đă tŕ giới tốt đẹp rồi, quư vị lại tu các pháp lành. Thiện pháp lớn nhất là ǵ?

          “Khởi lập tháp tượng” là tạo tháp Phật, tạo tượng Phật. “Tháp” () ở đây bao gồm tự viện. Tại Ấn Độ, tháp và chùa chẳng phân biệt. Tháp chính là chùa, chùa chính là tháp. Truyền đến Trung Hoa, chùa là chùa, tháp là tháp. Chữ Tháp trong đoạn kinh văn này bao gồm cả Tự (chùa). Trong tự viện của hàng xuất gia, quư vị sửa tháp, sửa chùa, tu bổ tượng Phật. Tại Trung Hoa th́ c̣n bao gồm tượng Bồ Tát, tượng La Hán cũng được tính gộp vào đó.

          “Phạn thực sa-môn” là trai tăng. “Sa-môn” là tiếng gọi chung người xuất gia. “Phạn thực” đọc là “ㄈㄢˋˋ” (fàn ś). Đặt chữ Phạn () ra trước th́ là động từ, có ư nghĩa là “ăn”. Đặt chữ Thực () ra sau bèn biến thành danh từ, [có nghĩa] là thức ăn. “Phạn thực sa-môn” là nấu cơm chay cúng dường đại chúng. Công đức trai tăng lớn nhất, công đức trai tăng to cỡ nào? Thượng bối văng sanh trong phần trước là đệ tử xuất gia, họ đă xuất gia, phát tâm Bồ Đề niệm Phật, sẽ tu công đức to lớn. Không ăn th́ không được, nhưng theo giới luật của hàng xuất gia, họ chẳng được kinh doanh, buôn bán, làm ruộng, trồng trọt, vậy th́ cơm họ ăn do đâu mà có? Đức Phật Thích Ca đă ấn định một quy củ: Đệ tử tại gia cúng dường đệ tử xuất gia. Đệ tử tại gia có thể kinh doanh, có thể buôn bán, cũng có thể làm ruộng, trồng trọt, quư vị cúng dường đệ tử xuất gia. Đệ tử xuất gia ăn một bữa cơm của quư vị, công đức của quư vị sẽ to lớn. Công đức lớn cỡ nào? Vị ấy tu công đức rất to lớn, những công đức do vị ấy đă tu đều là công đức của quư vị. Vị ấy chẳng ăn cơm của quư vị, sẽ chẳng có cách nào tu công đức. Vị ấy phát nguyện niệm Phật, trong tương lai sanh về Tây Phương, [công đức ấy] cũng là công đức của quư vị. Vị ấy chẳng ăn cơm của quư vị, làm sao [vị ấy có hơi sức] niệm Phật cho được? Do vậy, công đức trai tăng lớn nhất.

          Phật pháp truyền đến Trung Hoa, “thác bát hóa phạn” (托鉢化飯, ôm bát khất thực), tức là quy củ đi khất thực chẳng được thực hiện. V́ sao chẳng thể thực hiện? V́ Trung Hoa khinh rẻ kẻ ăn mày nhất. Quư vị ôm bát xin cơm, họ chẳng biết quư vị là người xuất gia, là bậc đáng tôn trọng, mà tưởng quư vị là kẻ ăn mày chẳng có cơm ăn, coi rẻ quư vị! Ấn Độ không như vậy! Khất sĩ tại Ấn Độ chẳng do Thích Ca Mâu Ni Phật đề xướng. Ấn Độ có một loại [tôn giáo là] Bà-la-môn giáo. [Chủng tộc] Bà-la-môn là chủng tộc bậc nhất trong các chủng tộc tại Ấn Độ, họ định ra một quy củ: Bà-la-môn phải xuất gia một khoảng thời gian. Trong thời gian xuất gia, phải ôm bát khất thực. Xă hội tôn trọng Bà-la-môn là chủng tộc bậc nhất, địa vị [của Bà-la-môn] vượt trỗi quốc vương, đại thần. Khi họ ôm bát khất thực chính là dụng công tu hành, ai nấy đều tôn trọng người ấy là một vị thánh nhân; cho nên quư vị cúng dường cơm cho vị khất thực ấy, công đức sẽ to lớn. Khi vị thánh nhân ấy ôm bát khất thực, mọi người đều biểu lộ ḷng cung kính, cho nên Phật Thích Ca dạy các đệ tử xuất gia chúng ta học theo quy củ ôm bát khất thực này, ḥng khỏi phải v́ chuyện ăn uống mà bận tâm. Bởi lẽ, ôm bát khất thực ở Ấn Độ rất dễ dàng. Tôi đă sang Thái Lan hai lần, Thái Lan vẫn hành theo quy củ khất thực của Thích Ca Mâu Ni Phật. Người xuất gia bên đó cũng chẳng niệm kinh, mà cũng chẳng bái sám. Tín đồ tại gia nếu muốn cầu phước th́ cầu công đức ǵ? Phải trai tăng; trừ môn ấy ra, chẳng có môn thứ hai nào nữa! Quư vị mong cầu điều nguyện ǵ? Quư vị bèn trai tăng. Do vậy, ở Thái Lan, thân phận người xuất gia được hết sức tôn trọng. Họ nhất loạt mặc y phục màu vàng, chỉ cần [trông thấy] người mặc quần áo màu vàng, [mọi người] sẽ tôn trọng khôn sánh. Tại Trung Hoa, từ thời cổ, đă chẳng kiến lập chế độ ôm bát khất thực; hiện thời, nếu chúng ta muốn thực hành chế độ ấy, sẽ hết sức khó khăn. Ăn cơm th́ hằng ngày đều phải ăn, hôm nay ôm bát khất thực chẳng xin được, đói một ngày chẳng sao, chứ đói vài ngày, ai nấy đều chẳng đi lại được. Nếu đói thêm vài ngày nữa, sẽ chết. V́ thế, tại Trung Hoa, rất khó kiến lập chế độ ấy.

          Tôi sang Thái Lan, mỗi lần đều xem họ đi khất thực, [cảm thấy họ khất thực] hết sức dễ dàng. [Chư Tăng khất thực, đại chúng cúng dường] đă thành một loại phong tục tập quán. Từ sáu giờ đến bảy giờ sáng là thời gian ôm bát khất thực. Tới sáu giờ sáng, chúng tôi ra đường xem, tín đồ tại gia nhà nào cũng đều đặt một chén cơm, chờ sẵn ở cửa, thấy người xuất gia đến, ngay lập tức quỳ xuống. Cái bát khất thực của người xuất gia rất lớn, trút một chén cơm vào trong bát, kể như tín đồ đă làm xong chuyện tốt trong ngày hôm ấy. [Làm như vậy] đă trở thành phong tục tập quán. Sáng sớm thức dậy, nấu cơm xong, họ không dám ăn, trước hết, bới một chén để cúng trai tăng, ở ngoài cửa chờ người xuất gia đến, đem chén cơm ấy cúng dường người xuất gia rồi mới trở về nhà ăn sáng. Người xuất gia xin một chén không đủ cho một bữa ăn, họ c̣n phải ăn bữa trưa, vậy th́ vị ấy tiếp tục đi tới, nhà khác sẽ lại sớt cho vị ấy một chén. Bản thân vị ấy thấy [cái bát khất thực] đă chứa đủ rồi, bèn đậy bát lại, trở về tự viện của chính ḿnh. Do vậy, trong khoảng thời gian từ sáu giờ đến bảy giờ, cả đường phố toàn là người xuất gia mặc y phục màu vàng. Cho tới sau bảy giờ, chẳng có ai nữa, đă quay về cả rồi, rất dễ dàng. V́ sao rất dễ dàng? Phật giáo truyền sang Thái Lan bèn đề xướng chế độ ôm bát khất thực, đă trở thành phong tục tập quán.

          “Phạn thực sa-môn” là đệ tử tại gia bậc trung làm phước, c̣n phải làm phước ǵ nữa? “Huyền tăng, nhiên đăng” (treo phan, thắp đèn): “Tăng” () là loại lụa dệt bằng tơ tằm. [“Tăng” ở đây] bao gồm những thứ như tràng phan, bảo cái (寶蓋, lọng báu) v.v… để cúng Phật. [“Huyền tăng, nhiên đăng”] là treo tràng phan, bảo cái, lại c̣n “nhiên đăng”, tức là thắp đèn cúng Phật. Lại c̣n “tán hoa, thiêu hương” (rải hoa, đốt hương) để cúng dường. Hồi hướng những công đức ấy về Tây Phương, tức là nguyện dùng công đức ấy để trang nghiêm Tịnh Độ của Phật. “Dĩ thử hồi hướng, nguyện sanh bỉ quốc” [nghĩa là dùng những công đức ấy] hồi hướng nguyện sanh về cơi ấy. “Kỳ nhân lâm chung” (người ấy lâm chung): Trung bối tại gia đệ tử tới lúc lâm chung, “Vô Lượng Thọ Phật, hóa hiện kỳ thân, quang minh, tướng hảo, cụ như chân Phật” (Vô Lượng Thọ Phật hóa hiện thân Ngài, quang minh, tướng hảo đầy đủ như vị Phật thật), hóa thân Phật hiện đến, nhưng quang minh và tướng hảo giống hệt như vị Phật thật sự. Ngài cũng hướng dẫn đại chúng Bồ Tát đến trước [người lâm chung ấy], “dữ chư đại chúng, hiện kỳ nhân tiền, tức tùy hóa Phật văng sanh kỳ quốc, trụ Bất Thoái Chuyển” (cùng với đại chúng, hiện ra trước người ấy, [người ấy] liền theo Hóa Phật văng sanh cơi ấy, trụ Bất Thoái Chuyển). Văng sanh cơi ấy cũng là trụ nơi địa vị Bất Thoái Chuyển. “Công đức, trí huệ, thứ như thượng bối giả dă” (công đức và trí huệ kém bậc thượng), chỉ là so với thượng bối văng sanh th́ kém một bậc!

 

2.2.3.1.3.3. Hạ bối văng sanh

 

          (Kinh) Phật cáo A Nan: - Kỳ hạ bối giả, thập phương thế giới chư thiên nhân dân, kỳ hữu chí tâm dục sanh bỉ quốc, giả sử bất năng tác chư công đức, đương phát Vô Thượng Bồ Đề chi tâm, nhất hướng chuyên ư, năi chí thập niệm, niệm Vô Lượng Thọ Phật, nguyện sanh kỳ quốc. Nhược văn thâm pháp, hoan hỷ tín nhạo, bất sanh nghi hoặc, năi chí nhất niệm, niệm ư bỉ Phật, dĩ chí thành tâm, nguyện sanh kỳ quốc. Thử nhân lâm chung, mộng kiến bỉ Phật, diệc đắc văng sanh, công đức, trí huệ, thứ như trung bối giả dă.

          ()佛告阿難:其下輩者,十方世界諸天人民,其有至心欲生彼國,假使不能作諸功德,當發無上菩提之心,一向專意,乃至十念,念無量壽佛,願生其國。若聞深法,歡喜信樂,不生疑惑,乃至一念,念於彼佛,以至誠心,願生其國。此人臨終,夢見彼佛,亦得往生,功德智慧,次如中輩者也。

          (Kinh: Đức Phật bảo ngài A Nan: - Bậc hạ là chư thiên, nhân dân trong mười phương thế giới, nếu có ai chí tâm muốn sanh về cơi ấy, giả sử chẳng thể làm các công đức, hăy nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, một mực chuyên tâm, cho đến mười niệm, niệm Vô Lượng Thọ Phật, nguyện sanh về cơi của Ngài. Nếu nghe pháp sâu, hoan hỷ, tin ưa, chẳng sanh nghi hoặc, dẫu chỉ một niệm, niệm đức Phật ấy, dùng ḷng chí thành nguyện sanh về cơi ấy. Người ấy lâm chung, mộng thấy đức Phật ấy, cũng được văng sanh. Công đức, trí huệ kém bậc trung).

 

          “Phật cáo A Nan: - Kỳ hạ bối giả” (đức Phật bảo ngài A Nan: - Bậc hạ là…): Thượng bối và trung bối đă nói rồi, [nay] nói đến hạ bối. “Thập phương thế giới chư thiên nhân dân, kỳ hữu chí tâm dục sanh bỉ quốc, giả sử bất năng tác chư công đức” (chư thiên nhân dân trong mười phương thế giới, nếu có ai chí tâm muốn sanh về cơi ấy, giả sử chẳng thể làm các công đức). “Bất năng tác chư công đức” (chẳng thể làm các công đức) tức là chẳng thể hành hạnh sa-môn, tu các công đức. “Đương phát Vô Thượng Bồ Đề chi tâm” (hăy nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề): Giống như thượng bối và trung bối, phải phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. “Nhất hướng chuyên ư”: Một mực chuyên tâm dốc ư nơi Vô Lượng Thọ Phật. “Năi chí thập niệm, niệm Vô Lượng Thọ Phật” (cho đến mười niệm, niệm Vô Lượng Thọ Phật): “Năi chí” (乃至) là từ ngữ giản lược, [nghĩa là] thậm chí quư vị mỗi ngày niệm Phật mười câu, niệm Vô Lượng Thọ Phật. “Nguyện sanh kỳ quốc” (nguyện sanh về cơi ấy), nguyện sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Nhược văn thâm pháp” (nếu nghe pháp sâu): Quư vị niệm Phật ít một chút, nhưng quư vị được nghe pháp sâu, nghe đạo lư Đại Thừa Phật pháp, “hoan hỷ tín nhạo”, [nghĩa là] nếu phát tâm hoan hỷ, phát tâm tín ngưỡng, phát tâm ưa thích, “bất sanh nghi hoặc” (chẳng sanh ḷng ngờ vực), đối với pháp sâu Đại Thừa, chẳng dấy lên ḷng ngờ vực. “Năi chí nhất niệm, niệm ư bỉ Phật” (dẫu chỉ một niệm, niệm đức Phật ấy). Trong phần trên là “cho đến mười niệm”, [ở đây] là giảm thiểu đến một niệm, niệm đức Vô Lượng Thọ Phật ấy. “Dĩ chí thành tâm, nguyện sanh kỳ quốc, thử nhân lâm chung, mộng kiến bỉ Phật, diệc đắc văng sanh, công đức trí huệ, thứ như trung bối giả dă” (dùng ḷng chí thành nguyện sanh về cơi ấy. Người ấy lâm chung, mộng thấy đức Phật ấy, cũng được văng sanh. Công đức, trí huệ kém bậc trung): Quư vị nằm mơ, mộng thấy Vô Lượng Thọ Phật đến đón quư vị sanh về Tây Phương, cũng có thể sanh về. Công đức và trí huệ kém bậc trung.

          Mong cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, phải ghi nhớ! Có một điều kiện khẩn yếu nhất: Phàm là ba bậc chúng sanh muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, phải phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Tiếng Phạn là Bồ Đề (Bodhi), tiếng Hán là Đạo, [phát Bồ Đề tâm] chính là phát đạo tâm. “Đạo tâm” là Đại Thừa đạo tâm. Đại Thừa đạo tâm là đạo tâm như thế nào? Tâm trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Ta phải phát tâm trên cầu Phật đạo, ta phải phát tâm dưới hóa độ chúng sanh. Như thế bèn niệm A Di Đà Phật, một niệm liền sanh Tây Phương. Phát cái tâm Vô Thượng Bồ Đề ấy, sanh về Tây Phương, hễ niệm Phật liền sanh về, v́ cái tâm ấy giống như tâm A Di Đà Phật. V́ sao A Di Đà Phật tạo ra thế giới An Lạc? Chính là v́ Ngài đă nương theo tâm Vô Thượng Bồ Đề đă phát để tạo dựng. Ngài phát ra bốn mươi tám đại nguyện, cũng là dựa trên tâm Vô Thượng Bồ Đề để phát. Ngài hành hạnh môn công đức trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp cũng là dựa trên tâm Vô Thượng Bồ Đề để hành. Nay chúng ta vừa phát tâm Vô Thượng Bồ Đề bèn tương thông với tâm của A Di Đà Phật. Hễ tương thông bèn cảm ứng đạo giao, quư vị niệm mười niệm, A Di Đà Phật cũng đến tiếp dẫn quư vị. Quư vị niệm một niệm, Ngài cũng tiếp dẫn quư vị; trong ấy chẳng có chướng ngại, đă thông cả rồi!

          C̣n có một chỗ giống nhau: Ba bậc thượng, trung, hạ, chỉ cần sanh về nước An Dưỡng th́ đều chẳng thoái chuyển. Chúng ta sanh về Tây Phương, lợi ích duy nhất là Bất Thoái Chuyển. V́ ở trong thế giới Sa Bà, luân hồi trong lục đạo, quư vị đời này phát tâm tu hành, cho đến khi thọ mạng đă hết, đời sau, đời kế sẽ chuyển sanh vào đâu? Quư vị chẳng làm chủ được! Thời gian chuyển sanh trong ba ác đạo lâu dài, chẳng biết kiếp nào sẽ thoát khỏi ba ác đạo? Nhưng đời sau, đời kế vẫn chuyển sanh làm người th́ [sự tu hành] trong ấy vẫn bị gián đoạn, chẳng thể nào đời sau chuyển sanh làm người, vừa lọt ḷng mẹ liền tiếp tục tu hành. V́ thế, do sanh vào thế giới Sa Bà, thọ mạng ngắn ngủi, luân hồi trong lục đạo, dụng công tu hành rất khó khăn, nhất định phải sanh về Tây Phương để làm ǵ? Nhằm cầu Bất Thoái Chuyển, cầu thọ mạng vô lượng. Chúng sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới giống hệt như A Di Đà Phật, [cơi ấy] chẳng có lục đạo luân hồi, chỉ có tiến bộ, sẽ không lùi bước. Do vậy mới có thể thỏa măn đại nguyện Bồ Đề của quư vị.

          Có kẻ tâm hoài nghi nặng nề, cứ nói: “V́ sao phải sanh vào Tây Phương? Phát Bồ Đề tâm, tu Bồ Tát đạo, mong độ hết thảy chúng sanh, ta ở trong thế giới Sa Bà là được rồi. Nay ta phát Bồ Đề tâm, nay ta hành Bồ Tát đạo, ta độ chúng sanh ngay trong hiện tại”. Vĩnh viễn hóa độ là đúng, nhưng trong ấy có chỗ không đúng, tức là thọ mạng ngắn ngủi, luân hồi trong lục đạo, bản thân quư vị chẳng làm chủ chút nào! Quư vị phát tâm hoàn toàn đúng, nay ta phát Bồ Đề tâm, nay ta hành Bồ Tát đạo, thực hiện ngay trong hiện tại, vĩnh viễn hóa độ. Điều này chẳng sai, sai ở chỗ quư vị chẳng liễu giải sanh mạng ngắn ngủi, sai ở chỗ quư vị chẳng hiểu nỗi khổ luân hồi!

          C̣n nữa, thế giới Sa Bà là đời ác ngũ trược, hoàn cảnh quá tệ! Như vừa mới nói, ta đă phát Bồ Đề tâm, nay ta hành Bồ Tát đạo, nay ta độ chúng sanh, thọ mạng ngắn ngủi là chuyện thuộc đời thứ hai, luân hồi trong lục đạo cũng là chuyện thuộc vào đời thứ hai. Đời này ta làm [chuyện hành Bồ Tát đạo, độ chúng sanh] trước đă, đoạn này chẳng sai, nhưng quư vị chẳng hiểu rơ ràng. Chẳng hiểu rơ ràng như thế nào vậy? Quư vị chẳng nhận biết rơ ràng hoàn cảnh. Thế giới Sa Bà này nhằm đời ác ngũ trược, có Chúng Sanh Trược, chúng sanh đều ô trược, chẳng trong sạch, chẳng có bạn bè tốt đẹp, chẳng có người giúp đỡ quư vị dụng công tu hành, toàn là những người khiến cho quư vị đâm quàng ngơ rẽ, ngáng chân quư vị. Chẳng cần nói đời sau quư vị do luân hồi trong lục đạo nên dụng công bị gián đoạn, ngay trong đời này, kiếp này, quư vị có thể bị thoái thất Bồ Đề tâm rất mau chóng. Thoái thất Bồ Đề tâm, quư vị c̣n hành Bồ Tát đạo được chăng? Kiếp này, đời này hành không nên thân, v́ sao? Người xấu quá nhiều, ngáng chân quư vị. Người kéo quư vị lui lại quá nhiều, kẻ lôi tay, kẻ chẹn vai, chẳng có ai [giúp đỡ quư vị] tiến về phía trước!

          Kinh A Di Đà có một câu quan trọng nhất, sanh về Tây Phương, “đắc dữ như thị chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ” (được cùng với các vị thượng thiện nhân như thế nhóm họp một chỗ). “Chư thượng thiện nhân” là thiện nhân thượng đẳng, là hàng đại Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Xứ. Chúng ta ở cùng một chỗ với họ, quư vị c̣n có thể nào thoái lui hay chăng? Do vậy, trong Di Đà Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư, Ngài đă chú giải câu kinh văn trên đây bằng một câu: “Như thượng vô thượng đại sự nhân duyên” (đại sự nhân duyên vô thượng như trên đây). Hết thảy các pháp do nhân duyên sanh; sanh về Tây Phương cũng là pháp sanh bởi nhân duyên. “Đắc dữ như thị chư thượng thiện nhân, tụ hội nhất xứ” (được cùng với các vị thượng thiện nhân như thế nhóm họp một chỗ). Đấy là nhân duyên vô thượng, quư vị có muốn thoái thất cũng chẳng thể thoái thất! Toàn là Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát làm đạo hữu của quư vị, làm sao quư vị có thể thoái thất cho được? Sanh trong thế giới Sa Bà toàn là chúng sanh hỗn trược, làm bầu bạn với ta, thảy đều là những kẻ kéo quư vị tụt hậu, lẽ nào quư vị chẳng thụt lùi cho được?

          Đạo Nguyên sống đă lâu, năm tháng xuất gia nhiều một tí, tôi đă từng thấy khá nhiều đồng tham đạo hữu, có những đồng tham đạo hữu có trí huệ, chí hướng cao cả, nói: “Nay ta phải phát Bồ Đề tâm, nay ta phải hành Bồ Tát đạo, chẳng cần phải đi một đường ṿng lớn về Tây Phương”. Đối với pháp môn Tây Phương Tịnh Độ, họ chẳng nghiêm túc nghiên cứu, cứ ngỡ chính ḿnh là đúng, càng như vậy th́ càng bị ma dựa lẹ hơn! V́ sao bị ma dựa mau lẹ? Kẻ đó phát tâm rất lớn, lập chí hướng rất cao, chẳng biết chính ḿnh chẳng đủ phước báo, chẳng đủ trí huệ, oán thân trái chủ từ vô thỉ kiếp đến nay đều đuổi theo quư vị tính sổ. Họ vừa thấy quư vị phát Bồ Đề tâm, quư vị sẽ ra đi, lẽ nào họ để cho quư vị thoát thân ư? Quư vị muốn trốn khỏi tam giới, lẽ đâu họ để cho quư vị đào tẩu ư? Không thể nào chẳng kéo quư vị lại. Phát tâm càng lớn, ma dựa càng nhanh! Vậy th́ v́ sao niệm A Di Đà Phật chẳng bị ma dựa? Đấy là chỗ thù thắng của pháp môn Tịnh Độ: Niệm A Di Đà Phật có Phật lực gia bị. Những tông phái khác, các pháp môn khác hoàn toàn dựa vào sức của chính ḿnh, dễ dàng bị ma dựa! Pháp môn Tịnh Độ cậy vào Phật lực gia bị. Quư vị niệm Phật mỗi ngày, Phật quang sẽ chiếu khắp chúng ta, những loài tà thần, tà quỷ dám t́m đến làm phiền chúng ta ư? Oán thân trái chủ c̣n dám hoạnh họe chúng ta ư? Sở dĩ người niệm Phật chẳng bị ma dựa là do cậy vào Phật lực gia bị.

          C̣n có kẻ phê b́nh: “Pháp môn Niệm Phật là pháp môn tiêu cực. Pháp môn Niệm Phật là pháp môn trốn tránh hiện thực. Nếu đấy là lời ngoại đạo phê b́nh chúng ta th́ c̣n có thể dung thứ được, v́ có thể là bọn họ chẳng tin Phật giáo. Nhưng nếu chính chúng ta cũng nói hùa theo, tức là chính ḿnh đă tạo khẩu nghiệp. V́ sao phải niệm Phật cầu sanh Tây Phương? V́ muốn trên là cầu Phật đạo, dưới là hóa độ chúng sanh. Chẳng phát Bồ Đề tâm, chẳng thể sanh về Tây Phương. Người thuộc ba bậc [văng sanh] đều có điều kiện này! “Phát Bồ Đề tâm” là trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, đấy chẳng phải là cái tâm tích cực nhất ư? Tôi vừa mới nói rất nhiều, chúng ta chẳng có phước báo, chẳng có trí huệ, phát tâm là nguyện rỗng tuếch, trên là chẳng cầu Phật đạo được, dưới là chẳng hóa độ chúng sanh được! V́ thế, phải sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới ḥng thân cận A Di Đà Phật để học bản lănh “trên là cầu Phật đạo, dưới là hóa độ chúng sanh”, tiêu cực ở chỗ nào? Trốn tránh hiện thực ở chỗ nào?

          Kinh Vô Lượng Thọ có nói: Thượng bối văng sanh là người xuất gia. Người xuất gia có thể tu công đức to lớn; đă xuất gia th́ tu công đức to lớn bằng cách nào? Hiện thời, quư vị muốn kiến lập một đại đạo tràng, nay quư vị muốn rộng độ chúng sanh xuất gia tu hành. Đấy là tu công đức lớn lao. Trung bối và hạ bối là đệ tử tại gia chẳng làm chuyện ấy. Bản thân họ là cư sĩ, làm sao có thể độ chúng sanh xuất gia được? Bản thân họ là cư sĩ, mệt nhoài v́ gia đ́nh, làm sao có thể kiến lập đại đạo tràng cho được? Do vậy, đă xuất gia, quư vị phát Bồ Đề tâm niệm Phật, hiện thời quư vị chẳng phải là tiêu cực, hiện thời quư vị đang tu công đức to lớn. Nói trở lại, kiến lập một đại đạo tràng, độ hết thảy chúng sanh đều xuất gia. Chuyện này thuộc về đại nguyện; trên sự thật, quư vị có làm được hay không, vẫn là một câu hỏi! V́ sao? Vẫn phải cậy vào phước báo. Quư vị chẳng có phước báo, kiến lập một đại đạo tràng sẽ tạo dựng chẳng nổi. Quư vị chẳng có phước báo, độ kẻ khác xuất gia, chẳng có ai theo quư vị xuất gia. Nay chúng ta muốn phát tâm, ta dựng trước một đạo tràng nhỏ, tôi độ một người xuất gia, độ hai người xuất gia trước đă. Cổ nhân nói: “Một người cũng là đạo tràng, trăm người cũng là đạo tràng”. Nhưng đạo tràng này của ta là nơi tu đạo, quyết định phải tu tập Phật đạo. Điều này chẳng sai, như vậy th́ từ tiểu đạo tràng dần dần biến thành đạo tràng bậc trung, đạo tràng bậc trung biến thành đại đạo tràng, chẳng phải là tu công đức to lớn hay sao? Ta độ trước một hai người xuất gia, [dần dần sẽ] độ một trăm người, độ một ngàn người xuất gia; đấy là tu công đức to lớn.

          Trước hết, quư vị phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, đấy là điều khẩn yếu; sau đấy, tu công đức to lớn, thực hiện hạnh môn này, thực hiện cho đến khi lâm chung, chắc chắn sẽ là thượng bối văng sanh. Vậy là quư vị đă đạt mục đích. Hiện thời, phải phát Bồ Đề tâm, hiện thời phải tu công đức to lớn, đừng nên tránh né khó khăn, ăn xổi ở th́! Quư vị phê b́nh kẻ khác tiêu cực, trốn tránh hiện thực, nhưng bản thân quư vị lại tránh né khó khăn, ăn xổi ở th́, chính ḿnh chẳng làm tí ti công đức nào; chẳng phải là quư vị trốn tránh hiện thực, chẳng phải là phần tử tiêu cực ư? Hễ dấy lên cái tâm tránh né khó khăn, ăn xổi ở th́, sống trong tự viện, quư vị sẽ chẳng thể ở yên nổi! V́ sao ở chẳng yên? Hiện thời, tuy là thời đại Mạt Pháp, nói riêng tại Đài Loan, tự viện nào cũng đều phải tụng niệm khóa sáng, thảy đều là trời chưa tỏ đă thức dậy tụng khóa sáng, vẫn phải thực hiện quy củ ấy. Quư vị chê là quá nhọc nhằn, khổ sở, chính ḿnh nhất định phải sống trong núi, ở trong lều tranh, tự ḿnh tu hành. Đấy chẳng phải là tự ḿnh tu hành, mà là tự ḿnh tránh né khó khăn, ăn xổi ở th́, muốn tự do! Quư vị sống trong lều tranh chẳng phải là để chuyên tu ư? Khóa sáng của quư vị chẳng đều đặn, thoạt đầu th́ có thể là ba ngày vẫn c̣n tụng, tụng tới ngày thứ tư, có thể là quư vị muốn ngủ nướng. Do vậy, quư vị đừng quên chính ḿnh là một tên phàm phu, phải nương theo đại chúng, dựa vào đại chúng.

          V́ sao tùng lâm được gọi là tùng lâm? Trong tùng lâm chẳng có cây nào cong quẹo. Rất nhiều cây mọc cùng một chỗ th́ gọi là “tùng lâm” (叢林). Cây trong tùng lâm đều thẳng thớm, chẳng có cây nào cong vẹo. V́ sao? Cây nương vào nhau để tăng trưởng. Quy củ trong tùng lâm dành cho đại chúng, phải nương theo chúng, cậy vào chúng. Quư vị muốn đọa lạc, hễ ngủ nướng, sẽ cảm thấy ngượng ngùng. Trời chưa tỏ, vẫn phải thức dậy tụng niệm khóa sáng. Quư vị chẳng hiểu rơ chính ḿnh, muốn sống trong lều tranh, muốn tự ḿnh tu tập, kết quả là ngủ nướng. Đây là tôi thừa dịp nhân duyên này, nói mấy câu để cúng dường các đồng đạo xuất gia.

          Vậy th́ tôi lại cúng dường các vị cư sĩ tại gia mấy câu: Trung bối và hạ bối đều là cư sĩ tại gia, quư vị nhất định phải phát Bồ Đề tâm, phải niệm Vô Lượng Thọ Phật. Chúng ta dựa theo kinh A Di Đà bèn niệm A Di Đà Phật, mong cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới; vậy th́ quư vị có thể thọ bao nhiêu giới, sẽ thọ bấy nhiêu giới. Thọ Tam Quy, thọ Ngũ Giới, thọ Bát Quan Trai Giới, tại gia Bồ Tát giới, thọ giới càng nhiều càng hay. Quư vị niệm Phật cũng là càng nhiều càng hay. Trong phần trước đă nói mười niệm có thể văng sanh, một niệm vẫn có thể văng sanh. Đấy là tới khi lâm chung, mười niệm hay một niệm trong lúc cuối cùng, chứ dụng công trong lúc b́nh thường vẫn là niệm càng nhiều càng tốt. Một niệm ấy chính là một niệm cuối cùng vào lúc lâm chung, chứ dụng công trong lúc b́nh thường, chẳng thể nói mỗi ngày chỉ niệm một câu Phật hiệu. Pháp Thập Niệm cũng có thể dùng trong lúc b́nh thường. Hiện thời bèn nói quư vị tối thiểu phải niệm Phật mười câu, nhưng phải niệm mỗi ngày, đừng nên gián đoạn; v́ gián đoạn th́ chẳng gọi là công phu. Mỗi ngày niệm mười niệm, mười niệm có hai loại phương pháp:

          1) Một loại là niệm mười tiếng, nam-mô A Di Đà Phật, nam-mô A Di Đà Phật… Dùng mười đầu ngón tay để ghi nhớ, chẳng cần tới tràng hạt. Hạng người này đều là trong gia đ́nh ngay cả Phật đường cũng chẳng có, sáng sớm thức dậy, rửa mặt, súc miệng, đứng niệm, chắp tay lại, dùng mười đầu ngón tay để ghi nhớ: Nam-mô A Di Đà Phật, nam-mô A Di Đà Phật, nam-mô A Di Đà Phật… Niệm mười niệm, niệm xong bèn niệm bài văn hồi hướng “nguyện sanh Tây Phương…”. Quư vị chẳng biết niệm [văn hồi hướng], không sao cả, bèn nói: “Đệ tử con tên là… nguyện sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới”. Đấy là bài văn hồi hướng, nhưng chớ nên gián đoạn. Mỗi ngày đều phải niệm. Đấy là một phương pháp.

          2) Loại phương pháp thứ hai là niệm mười hơi, chẳng cần biết số lượng, cứ tính theo chuyện hít vào thở ra. Một lần thở ra, một lần hít vào, đấy là “một hít, một thở” th́ gọi là một niệm. Hăy nhớ, hít vào th́ không tính, thở ra một hơi bèn tính là một niệm. Nhưng hơi thở ấy vẫn là tự do tự tại hít vào, thở ra, chẳng cần phải đặc biệt kéo dài. Đặc biệt kéo dài, người sẽ mắc bệnh! Dùng hơi thở ấy để ghi nhớ, tức là chỉ quan tâm cái tâm, đừng cho nó dấy lên vọng tưởng, quư vị niệm mười hơi. Đó cũng gọi là pháp Thập Niệm.

 

2.2.3.2. Nhiếp thủ bậc thượng căn cùng sanh về cơi ấy

2.2.3.2.1. Phần trường hàng biện định đại lược

 

          (Kinh) Phật cáo A Nan: - Vô Lượng Thọ Phật, oai thần vô cực. Thập phương thế giới vô lượng vô biên bất khả tư nghị chư Phật Như Lai, mạc bất xưng thán. Ư bỉ Đông phương hằng hà sa Phật quốc, vô lượng vô số chư Bồ Tát chúng, giai tất văng nghệ Vô Lượng Thọ Phật sở, cung kính cúng dường, cập chư Bồ Tát, Thanh Văn chi chúng, thính thọ kinh pháp, tuyên bố đạo hóa. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị.

          ()佛告阿難:無量壽佛,威神無極。十方世界無量無邊不可思議諸佛如來,莫不稱歎。於東方恆河沙佛國,無量無數諸菩薩眾,皆悉往詣無量壽佛所,恭敬供養,及諸菩薩聲聞之眾,聽受經法,宣布道化。南西北方,四維上下, 亦復如是。

          (Kinh: Đức Phật bảo ngài A Nan: - Vô Lượng Thọ Phật oai thần vô cực, mười phương thế giới vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn chư Phật Như Lai không vị nào chẳng xưng tụng, tán thán. Trong các cơi Phật nhiều như số cát sông Hằng ở phương Đông cơi Cực Lạc, vô lượng vô số các vị Bồ Tát thảy đều đi đến chỗ Vô Lượng Thọ Phật cung kính cúng dường [A Di Đà Phật] và các vị Bồ Tát, Thanh Văn, nghe nhận kinh pháp, tuyên bố đạo hóa, Phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc, trên, dưới, cũng đều giống như vậy).

 

          “Phật cáo A Nan: - Vô Lượng Thọ Phật, oai thần vô cực. Thập phương thế giới vô lượng vô biên bất khả tư nghị chư Phật Như Lai, mạc bất xưng thán” (đức Phật bảo ngài A Nan: - Vô Lượng Thọ Phật oai thần vô cực. Mười phương thế giới vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn chư Phật Như Lai không vị nào chẳng xưng tụng, tán thán): Chẳng phải chỉ là riêng ta, Thích Ca Mâu Ni Phật, nay đang xưng dương, tán thán, mà mười phương vô lượng vô biên chư Phật Như Lai không vị nào chẳng xưng dương, tán thán. “Ư bỉ Đông phương hằng hà sa Phật quốc, vô lượng vô số chư Bồ Tát chúng, giai tất văng nghệ Vô Lượng Thọ Phật sở, cung kính cúng dường” (trong các cơi Phật nhiều như số cát sông Hằng ở phương Đông cơi ấy, vô lượng vô số các vị Bồ Tát thảy đều đi đến chỗ Vô Lượng Thọ Phật cung kính cúng dường): Do mười phương thế giới chư Phật đều tán thán Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Thọ Phật ngự trong Tây Phương An Lạc Quốc, hằng hà sa số chư Phật Như Lai ở phương Đông đều đang tán thán, các vị Bồ Tát ở trong các cơi ấy nghe nói, sẽ đều đến cung kính cúng dường Vô Lượng Thọ Phật. Do ở phương Đông có hằng hà sa số cơi Phật, cho nên có vô lượng vô số các vị Bồ Tát, “giai tất văng nghệ” (thảy đều đi đến), “nghệ” () là đến, đến “Vô Lượng Thọ Phật sở” (chỗ Vô Lượng Thọ Phật), đến quốc độ Ngài đang ngự để cung kính đảnh lễ, cúng dường. “Cập chư Bồ Tát Thanh Văn chi chúng” (cùng với các vị Bồ Tát, Thanh Văn), “cúng dường” là cúng dường Vô Lượng Thọ Phật. Tây Phương Cực Lạc thế giới c̣n có Bồ Tát chúng, Thanh Văn chúng, [những vị Bồ Tát đến từ phương Đông] c̣n sẽ cúng Tăng, tức là đối với Bồ Tát Tăng, Thanh Văn Tăng, sẽ đều cúng dường.

          Sau khi đă cúng dường, họ “thính thọ kinh pháp” (nghe nhận kinh pháp), [tức là] nghe Vô Lượng Thọ Phật giảng kinh, thuyết pháp, “tuyên bố đạo hóa”. Phương Đông có vô lượng Bồ Tát trong vô lượng thế giới đến thế giới Cực Lạc như vậy đó, họ đến thế giới An Dưỡng để cúng dường, đến nghe pháp. “Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị” [nghĩa là] chư Phật ở phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn góc, trên, dưới, cũng đều tán thán Vô Lượng Thọ Phật. Các vị đại Bồ Tát trong mỗi quốc độ cũng đều đến Tây Phương để thân cận A Di Đà Phật, cúng dường A Di Đà Phật, lại c̣n cúng dường Bồ Tát Tăng và Thanh Văn Tăng trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, lại c̣n nghe giảng Phật pháp.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết tụng viết:

          ()爾時世尊,而說頌曰。

          (Kinh: Khi ấy, đức Thế Tôn bèn nói kệ tụng rằng).

 

          “Nhĩ thời Thế Tôn, nhi thuyết tụng viết” (khi ấy, đức Thế Tôn bèn nói kệ tụng rằng): Tiếp theo đây ba mươi bài kệ tụng. Những bài kệ tụng ấy nhằm trùng tụng đoạn kinh văn trường hàng này. Trong những kinh khác, phần kinh văn trường hàng dài, phần kệ tụng rất ít. Đoạn kinh văn này rất đặc biệt, văn trường hàng rất ngắn, kệ tụng gồm ba mươi bài. Mười lăm bài kệ tụng đầu nhằm trùng tụng mười phương Bồ Tát đến Tây Phương Cực Lạc thế giới để cúng dường, nghe pháp.

 

2.2.3.2.2. Phần kệ tụng nhằm luận định chi tiết

2.2.3.2.2.1. Trùng tụng sự việc Bồ Tát cùng đến cúng dường như đă nói trong phần sau của đoạn [trường hàng] trên đây

2.2.3.2.2.1.1. Trùng tụng chuyện Bồ Tát cùng đến (gồm hai bài kệ)

 

          (Kinh) Đông phương chư Phật quốc, kỳ số như hằng sa, bỉ độ Bồ Tát chúng, văng cận Vô Lượng Giác. Nam, Tây, Bắc, tứ duy, thượng, hạ diệc phục nhiên, bỉ độ Bồ Tát chúng, văng cận Vô Lượng Giác.

          ()東方諸佛國,其數如恆沙,彼土菩薩眾,往覲無量覺。南西 四維,上下亦復然,彼土菩薩眾,往覲無量覺。

          (Kinh: Các cơi Phật phương Đông, số như cát sông Hằng, Bồ Tát chúng cơi ấy, thân cận Vô Lượng Giác. Nam, Tây, Bắc, bốn góc, trên dưới cũng như thế, Bồ Tát chúng cơi ấy, thân cận Vô Lượng Giác).

 

          “Đông phương chư Phật quốc, kỳ số như hằng sa” [nghĩa là] các cơi Phật ở phương Đông số nhiều như cát sông Hằng. “Bỉ độ Bồ Tát chúng, văng cận Vô Lượng Giác” (các vị Bồ Tát trong những cơi ấy đến thân cận Vô Lượng Thọ Phật). Vô Lượng Giác là Vô Lượng Thọ Phật. “Cận” () là kẻ làm đệ tử đến lễ kính sư trưởng, hoặc người vai vế thấp hơn đến gặp người thuộc vai vế trên. Cung kính hữu lễ th́ gọi là Cận.

          “Nam, Tây, Bắc, tứ duy”: Phương Nam, phương Tây, phương Bắc. “Tứ duy” (四維) là bốn góc, tức Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc. “Thượng hạ diệc phục nhiên” [nghĩa là] phía trên, phía dưới, chư Phật trong thế giới chín phương đều là như vậy. “Bỉ độ Bồ Tát chúng” (các vị Bồ Tát trong những cơi ấy): Những vị Bồ Tát trong các thế giới ở chín phương, “văng cận Vô Lượng Giác”, [nghĩa là] cũng đến Tây Phương Cực Lạc thế giới để lễ kính Vô Lượng Thọ Phật.

 

2.2.3.2.2.1.2. Kệ tụng về sự cung kính cúng dường như đă nói trong những phần kinh văn trước đó

2.2.3.2.2.1.2.1. Thấy Phật, cúng dường (gồm bốn bài kệ)

 

          (Kinh) Nhất thiết chư Bồ Tát, các tê thiên diệu hoa, bảo hương vô giá y, cúng dường Vô Lượng Giác. Hàm nhiên tấu thiên nhạc, sướng phát ḥa nhă âm, ca thán tối thắng tôn, cúng dường Vô Lượng Giác. Cứu đạt thần thông huệ, du nhập thâm pháp môn, cụ túc công đức tạng, diệu trí vô đẳng luân. Huệ nhật lăng thế gian, tiêu trừ sanh tử vân, cung kính nhiễu tam táp, khể thủ Vô Thượng Tôn.

          ()一切諸菩薩,各賷天妙華,寶香無價衣,供養無量覺。咸然奏天樂,暢發和雅音,歌歎最勝尊,供養無量覺。究達神通慧,遊入深法門,具足功德藏,妙智無等倫,慧日朗世間,消除生死雲,恭敬遶三帀,稽首無上尊。

          (Kinh: Hết thảy các Bồ Tát, đều cầm hoa trời đẹp, hương báu, y vô giá, cúng dường Vô Lượng Giác. Thảy đều tấu nhạc trời, tiếng ḥa nhă du dương, ca ngợi đấng tối thắng, cúng dường Vô Lượng Giác. Thần thông, huệ rốt ráo, chứng nhập pháp môn sâu, đầy đủ tạng công đức, diệu trí khôn sánh tầy. Huệ nhật rạng thế gian, tiêu trừ mây sanh tử, cung kính nhiễu ba ṿng, đảnh lễ đấng Vô Thượng).

 

          “Nhất thiết chư Bồ Tát” (hết thảy các Bồ Tát), các vị Bồ Tát trong những các thế giới của mười phương vô lượng số chư Phật. “Các tê thiên diệu hoa” (ai nấy cầm hoa trời đẹp đẽ), “tê” () là đem theo những phẩm vật cúng dường. Hàng Bồ Tát ở mỗi cơi đều đem theo vật phẩm cúng dường. Đem theo vật phẩm cúng dường ǵ vậy? Thiên diệu hoa! “Thiên” () có nghĩa là tự nhiên, [“thiên diệu hoa”] là hoa đẹp đẽ chẳng thể nghĩ bàn. “Bảo hương, vô giá y”: C̣n có hương báu, tức là hương tốt nhất; c̣n có y phục vô giá. Đó gọi là hoa cúng dường, hương cúng dường, y cúng dường. “Cúng dường Vô Lượng Giác” [tức là] cúng dường Vô Lượng Thọ Phật.

          “Hàm nhiên tấu thiên nhạc” (đều cùng tấu nhạc trời): C̣n dùng âm nhạc để cúng dường, âm nhạc là thiên nhạc. “Thiên” có nghĩa là tự nhiên. “Thiên nhạc” [có ư nói] mọi người đều tự nhiên tấu nhạc trời, dùng âm nhạc để cúng dường. “Sướng phát ḥa nhă âm” (âm ḥa nhă du dương): Tiếng âm nhạc rất ḥa nhă, lại c̣n xướng lên lời tán thán. “Ca thán Tối Thắng tôn” (ngợi ca đấng tối thắng): “Tối thắng tôn” là Vô Lượng Thọ Phật. Ca vịnh để tán thán, tức là như nay chúng ta làm Phật sự bèn xướng những bài tán, dùng âm nhạc, dùng ca hát để tán thán, để cúng dường Vô Lượng Thọ Phật. Kế đó là những lời tán thán.

          “Cứu đạt thần thông huệ, du nhập thâm pháp môn, cụ túc công đức tạng, diệu trí vô đẳng luân, huệ nhật lăng thế gian, tiêu trừ sanh tử vân” (thần thông, trí huệ rốt ráo, thâm nhập pháp môn sâu, trọn đủ tạng công đức, diệu trí khôn sánh tầy, huệ nhật rạng thế gian, tiêu trừ mây sanh tử): Sáu câu này là sáu câu tán thán. Các vị nếu biết cách soạn lời tán, hoặc là hiểu nhạc lư[2], vận dụng nhạc lư để soạn th́ càng hay hơn nữa, lại c̣n gieo vần, tán thán công đức của Vô Lượng Thọ Phật. “Cứu đạt thần thông huệ” (liễu đạt rốt ráo thần thông và trí huệ): Vô Lượng Thọ Phật đă thành Phật, thần thông và trí huệ của Ngài đều đạt đến viên măn rốt ráo. “Du nhập thâm pháp môn” (dạo chơi, tiến nhập pháp môn sâu xa): Ngài có thể tự do tự tại dạo chơi, tiến nhập pháp môn rất sâu. “Cụ túc công đức tạng”: Hết thảy các tạng công đức Ngài đều trọn đủ. “Diệu trí vô đẳng luân” (trí mầu khôn sánh tầy): Trí huệ của Ngài chẳng thể nghĩ bàn, chẳng có ǵ có thể sánh bằng, nên gọi là “vô đẳng luân” (無等倫). “Huệ nhật lăng thế gian” (mặt trời trí huệ sáng ngời thế gian): Quang minh của Phật giống như “huệ nhật” (慧日, mặt trời trí huệ). Trí huệ của Phật giống như mặt trời, mặt trăng, chiếu rạng ngời thế gian. “Tiêu trừ sanh tử vân” (tiêu trừ mây sanh tử): “Vân” (mây) hàm nghĩa che lấp. Sanh tử che lấp chúng sanh giống như mây sanh tử. Nay đă tiêu trừ, tiêu trừ mây sanh tử. Sáu câu này hợp thành bài tán để tán thán Phật. Tán thán xong rồi lại đảnh lễ. “Cung kính nhiễu tam táp”: Rất cung kính nhiễu quanh đức Phật ba ṿng. “Khể thủ Vô Thượng Tôn” (đảnh lễ đấng Vô Thượng). “Khể thủ” (稽首) là lại đảnh lễ Vô Lượng Thọ Phật.

 

2.2.3.2.2.1.2.2. Thấy cơi nước bèn nguyện cầu (một bài kệ)

         

          (Kinh) Kiến bỉ nghiêm tịnh độ, vi diệu nan tư nghị, nhân phát vô lượng tâm, nguyện ngă quốc diệc nhiên.

          ()見彼嚴淨土,微妙難思議,因發無量心,願我國亦然。

          (Kinh: Thấy cơi nghiêm tịnh ấy, vi diệu, khó nghĩ bàn; bèn phát tâm vô lượng, nguyện nước ḿnh cũng thế).

 

          Các vị đại Bồ Tát trong mười phương thảy đều đến Tây Phương An Lạc quốc. Đă tới cơi An Lạc, bèn dâng hiến cúng dường, tấu âm nhạc, tán thán, đảnh lễ. Đảnh lễ xong xuôi, “kiến bỉ nghiêm tịnh độ” (trông thấy cơi trang nghiêm thanh tịnh ấy), tức là thấy cơi nước Tây Phương An Lạc là cơi nước thanh tịnh, vi diệu. “Vi diệu” đến mức độ nào? Khó nghĩ, khó bàn! Do vậy bèn phát vô lượng đại Bồ Đề tâm, “nguyện ngă quốc diệc nhiên” (nguyện nước ḿnh cũng thế). “Ngă quốc” ở đây là các thế giới do các vị Bồ Tát tự nói. Chẳng hạn như một vị Bồ Tát trong thế giới chi đó ở phương Đông, Ngài bèn phát nguyện: “Nguyện cơi nước của con [trong tương lai] cũng thanh tịnh trang nghiêm, vi diệu khó nghĩ bàn như Tây Phương Cực Lạc thế giới”. Đấy là các vị đại Bồ Tát chẳng quên căn bản. Ngài trở thành một vị Bồ Tát như thế nào? Do được đức Phật trong cơi nước của chính ḿnh giáo hóa. Đức Phật trong nước ấy giáo hóa vị Bồ Tát ấy. Đức Phật trong cơi nước của vị Bồ Tát ấy chính là Bổn Sư của Ngài. Ân đức Bổn Sư khó quên; do vậy, Ngài đă tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, trông thấy sự trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn của Tây Phương Cực Lạc thế giới, bèn nghĩ sẽ làm thế nào để khiến cho quốc độ của chính ḿnh cũng trang nghiêm giống như Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chẳng hạn như chúng ta là một người xuất gia, sau khi đă xuất gia, thọ giới, nhất định phải đi ra ngoài tham học. Trông thấy đại tùng lâm của người ta kiến trúc hết sức trang nghiêm, quy củ pháp tắc trong ấy hết sức tốt đẹp, bèn nghĩ sẽ làm cho ngôi tự miếu xuất gia của chính ḿnh cũng được trang nghiêm giống như ngôi đại tùng lâm ấy. Như vậy th́ mới có thể báo đáp ân của ngôi chùa miếu là nơi chính ḿnh đă xuất gia.

 

2.2.3.2.2.1.3. Kệ tụng về chuyện nghe pháp, tuyên bố đạo hóa (tám bài kệ)

 

          (Kinh) Ứng thời Vô Lượng Tôn, động dung phát hân tiếu, khẩu xuất vô số quang, biến chiếu thập phương quốc. Hồi quang vi nhiễu thân, tam táp tùng đảnh nhập, nhất thiết thiên nhân chúng, dũng dược giai hoan hỷ. Đại sĩ Quán Thế Âm, chỉnh phục khể thủ vấn, bạch Phật hà duyên tiếu, dụy nhiên nguyện thuyết ư. Phạm thanh do lôi chấn, bát âm sướng diệu hưởng, đương thọ Bồ Tát kư. Kim thuyết nhân đế thính. Thập phương lai Chánh Sĩ, ngô tất tri bỉ nguyện, chí cầu nghiêm tịnh độ, thọ quyết đương tác Phật, giác liễu nhất thiết pháp, do như mộng, huyễn, hưởng, măn túc chư diệu nguyện, tất thành như thị sát. Tri pháp như điện ảnh, cứu cánh Bồ Tát đạo, cụ chư công đức bổn, thọ quyết đương tác Phật, thông đạt chư pháp tánh, nhất thiết không vô ngă, chuyên cầu tịnh Phật độ, tất thành như thị sát.

          ()應時無量尊,動容發欣笑,口出無數光,徧照十方國。迴光圍遶身,三帀從頂入,一切天人眾,踊躍皆歡喜。大士觀世音,整服稽首問,白佛何緣笑,唯然願說意。梵聲猶雷震,八音暢妙響,當授菩薩記,今說仁諦聽。十方來正士,吾悉知彼願,志求嚴淨土,受決當作佛。覺了一切法,猶如夢幻響,滿足諸妙願,必成如是剎。知法如電影,究竟菩薩道,具諸功德本,受決當作佛。通達諸法性,一切空無我,專求淨佛土,必成如是剎。

          (Kinh: Ngay đó, Vô Lượng Tôn, lộ vẻ mặt vui cười, miệng phóng vô số quang, chiếu khắp mười phương cơi. Quang trở về nhiễu thân, ba ṿng từ đảnh nhập. Hết thảy chúng trời người, hớn hở, đều hoan hỷ. Đại sĩ Quán Thế Âm, chỉnh áo, đảnh lễ hỏi, bạch Phật duyên ǵ cười, kính mong Ngài nói cho. Tiếng Phạm như sấm rền, tám âm vang tiếng mầu, sẽ thọ kư Bồ Tát, ta nay nói, lắng nghe! Mười phương Chánh Sĩ đến, ta đều biết nguyện họ, chí cầu cơi nghiêm tịnh, thọ kư quyết thành Phật, thông hiểu hết thảy pháp, ví như mộng, huyễn, vang, tṛn đủ các diệu nguyện, ắt thành cơi như thế. Biết pháp như chớp, ảnh, rốt ráo đạo Bồ Tát, đủ các cội công đức, thọ kư quyết thành Phật. Thông đạt tánh các pháp, hết thảy Không, Vô Ngă, chuyên cầu tịnh cơi Phật, ắt thành cơi như thế).

 

          “Ứng thời Vô Lượng Tôn, động dung phát hân tiếu, khẩu xuất vô lượng quang, biến chiếu thập phương quốc” (ngay trong lúc đó, đức Vô Lượng Thọ Phật, lộ vẻ vui cười, miệng Ngài phóng ra vô lượng quang minh, chiếu trọn khắp các cơi nước trong mười phương): “Ứng thời” là đúng vào lúc mười phương Bồ Tát sắp phát ra nguyện ấy, “Vô Lượng Tôn” là đức Thế Tôn Vô Lượng Thọ, cũng là A Di Đà Phật, “động dung phát hân tiếu” [nghĩa là] vẻ mặt tỏ lộ nét tươi cười. “Khẩu xuất vô lượng quang” (miệng tỏa ra vô lượng quang minh): Trước khi miệng sắp thuyết pháp bèn phóng quang trước. Quang minh chiếu trọn khắp mười phương quốc độ.

          “Hồi quang vi nhiễu thân, tam táp tùng đảnh nhập, nhất thiết thiên nhân chúng, dũng dược giai hoan hỷ” (quang minh trở về xoay ṿng quanh thân Phật ba ṿng rồi nhập vào đỉnh đầu đức Phật. Hết thảy trời người hớn hở, đều hoan hỷ): “Hồi quang vi nhiễu thân” (quang minh trở lại xoay ṿng quanh thân): Quang minh ấy sau khi thâu hồi, bèn nhiễu quanh thân của chính Ngài. “Tam táp tùng đảnh nhập” (ba ṿng, theo đỉnh đầu mà vào): [Quang minh đă phóng ra bèn] nhiễu quanh thân của chính Ngài ba ṿng, lại từ đỉnh đầu, thâu hết quang minh trở vào thân. “Nhất thiết thiên nhân chúng, dũng dược giai hoan hỷ” [nghĩa là] thiên chúng và nhân chúng trông thấy Vô Lượng Thọ Phật phóng quang minh, ai nấy hớn hở, sanh ḷng hoan hỷ to lớn.

          “Đại sĩ Quán Thế Âm, chỉnh phục khể thủ vấn, bạch Phật hà duyên tiếu, dụy nhiên nguyện thuyết ư” (Đại Sĩ Quán Thế Âm chỉnh đốn y phục, đảnh lễ thưa hỏi, bạch Phật do duyên ǵ mà cười? Kính xin đức Phật hăy nói cho con biết ư nghĩa): “Đại Sĩ Quán Thế Âm” tức là Quán Thế Âm đại sĩ. Hai chữ Bồ Tát dịch sang tiếng Hán cũng được dịch là Đại Sĩ, hoặc c̣n dịch là Chánh Sĩ, hoặc c̣n dịch là Khai Sĩ. “Quán Thế Âm đại sĩ” là thủ tọa trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, Ngài là vị Bồ Tát đệ nhất. Do vậy, Ngài phải đứng ra thưa hỏi. “Chỉnh phục khể thủ vấn” [nghĩa là] Quán Thế Âm đại sĩ liền chỉnh đốn y phục của ḿnh, nhằm biểu lộ ḷng cung kính. Bồ Tát đến trước đức Phật, dập đầu làm lễ, hỏi Phật Thích Ca, “bạch Phật hà duyên tiếu” (bạch đức Phật, do duyên ǵ mà Ngài cười). Đức Thế Tôn, do nhân duyên ǵ mà Ngài hiện vẻ tươi cười. “Dụy nhiên nguyện thuyết ư”: “Dụy nhiên” là khẩu ngữ khi chuyện tṛ của người Ấn Độ. [Câu này có nghĩa là] thỉnh cầu đức Thích Ca Thế Tôn nói rơ tâm ư của Ngài, v́ sao Ngài cười?

          “Phạm thanh do lôi chấn, bát âm sướng diệu hưởng, đương thọ Bồ Tát kư, kim thuyết nhân đế thính” (tiếng Phạm như sấm rền, âm thanh của Phật có tám đặc tánh tốt lành thốt lên vang vọng vi diệu, [đức Phật nói]: Ta sẽ thọ kư cho Bồ Tát, ta nay sẽ nói, nhân giả hăy lắng nghe). Âm thanh của đức Phật trọn đủ tám loại âm thanh. Trước hết, tôi nói về tám thứ âm thanh:

          1) “Cực hảo âm”: Đây là nói tổng quát về âm thanh của đức Phật, là âm thanh tột bậc êm tai, êm tai cỡ nào? Những loại dưới đây đều là những danh xưng riêng nhằm phân biệt rành rẽ sự hay đẹp của âm thanh ấy.

          2) “Nhu nhuyễn âm”: Âm thanh của Phật hết sức mềm mỏng. V́ đức Phật chẳng có vô minh phiền năo, chẳng có khí chất cứng cỏi, hung bạo, mà hết sức mềm mỏng. Do vậy gọi là Nhu Nhuyễn Âm.

          3) “Ḥa thích âm”: Lời lẽ đức Phật nói ra, âm thanh nói năng rất nhu ḥa, thích đáng. Ḥa hoăn, thích đáng như thế nào? Tức là khi nói năng, trầm, bổng, nhanh, chậm [đều thích đáng], chẳng vội vă, chẳng rề rà. Đó là âm thanh êm đềm thích đáng nhất.

          4) “Tôn huệ âm”: Ví như một người có học vấn, vừa nghe người ấy nói năng sẽ biết người ấy có học vấn. Vừa nghe đức Phật nói năng, liền biết Ngài là người có trí huệ. Trí huệ của Ngài vượt trỗi trí huệ của hàng Bồ Tát, là trí huệ tôn quư nhất.

          5) “Bất nữ âm”: Đây là để phân biệt tách bạch “nhu nhuyễn âm”“ḥa thích âm”. “Nhu nhuyễn âm”“ḥa thích âm” có thể là âm thanh của nữ nhân. Chẳng phải vậy, [tiếng nói của] Phật không có âm thanh của nữ nhân.

          6) “Bất ngộ âm”: Đức Phật thuyết pháp là ứng cơ thuyết pháp. Ngài quán cơ trao truyền giáo pháp phù hợp, chẳng hề sai lầm!

          7) “Thanh viễn âm”: Âm thanh của đức Phật quư vị nghe ở gần sẽ chẳng phải là âm thanh quá lớn. Nghe ở chỗ xa, cũng chẳng phải là tiếng quá nhỏ. Hiện thời, các nhà y học biết trong cổ họng con người có một sợi thanh đới (vocal cord). Từ thanh đới sẽ phát ra âm thanh, nhưng “thanh viễn âm” như trong kinh Phật đă nói chẳng phải do từ thanh đới phát ra, mà thường gọi là “khí luân phát âm”, tức là âm thanh phát ra từ bụng. Thanh viễn âm chẳng cần đến thanh đới th́ có được hay không? Đương nhiên là cần có thanh đới, nhưng chỉ có thanh đới th́ sẽ chẳng đủ để vang xa. Nhất định phải là âm thanh phát ra từ bụng th́ mới có thể vang xa. Trong phần trước, tôi đă giải thích với mọi người, hiện thời là thời đại khoa học, Phật giáo có những chỗ nêu ra danh tướng và đạo lư chẳng phù hợp khoa học, đệ tử Phật phải vận dụng trí huệ để dung hội quán thông, chớ nên tôn sùng khoa học rồi đả đảo Phật giáo. Tuy trong kinh Phật chẳng nhắc đến thanh đới, nhưng chỉ có thanh đới, sẽ chẳng thể phát âm vang xa. V́ sao? Nếu là kẻ thân thể suy nhược, họ nói năng đúng là nghe không ra, họ có thanh đới đấy chứ! Nhưng chỉ có thanh đới mà khí chẳng đủ, âm thanh phát ra sẽ mười phần yếu ớt. Quư vị cứ thử nghiệm một phen sẽ biết: Âm thanh phát ra từ bụng sẽ hết sức vang dội, rơ ràng. Đấy là chẳng cần phải mê muội tin vào khoa học để dẫn chứng.

          8) “Bất kiệt âm”: Chúng ta nói quá nhiều, sẽ hết hơi! Đó là Kiệt (cạn kiệt), Chỉ có thanh đới sẽ vô dụng. “Kiệt” () là cạn sạch. Đó gọi là tiếng rè, sức cạn, nói không ra tiếng! Đức Phật suốt ngày từ sáng đến tối thuyết pháp, trước nay cổ họng chưa hề bị rát, chẳng có hiện tượng nói không ra tiếng, nên gọi là “bất kiệt âm”.

          “Phạm thanh do lôi chấn” (tiếng Phạm như sấm rền): “Phạm thanh” là lời xưng tụng chung, khen ngợi chung âm thanh của đức Phật là phạm thanh. “Phạm thanh” có nghĩa là [âm thanh] “thanh tịnh”. “Do lôi chấn” (như sấm rền): Đức Phật thuyết pháp nhằm cảnh giác chúng sanh, [câu kệ này] nhằm nêu lên ư nghĩa cảnh giác, chẳng phải là như trời nổi sấm, nổ rất lớn tiếng, khiến cho người ta bị dọa sợ nhảy dựng! Chẳng phải là như vậy, đức Phật thuyết pháp giống như “sư tử hống” (sư tử rống). “Sư tử hống” là h́nh dung đức Phật thuyết pháp, có thể dùng âm thanh hàng phục thiên ma, ngoại đạo, hoàn toàn chẳng giống như sư tử rống lớn tiếng như vậy! Phải hiểu đạo lư này! “Phạm thanh do lôi chấn”: Đức Phật thuyết pháp là âm thanh thanh tịnh, có thể cảnh giác chúng sanh, giống như trời nổi sấm vậy, mang ư nghĩa cảnh tỉnh.

          “Bát âm sướng diệu hưởng” (giọng nói có đủ tám âm (tám đặc tánh) vang vọng mầu nhiệm). Phân tích tỉ mỉ, âm thanh của đức Phật có trọn đủ tám loại âm. “Sướng diệu hưởng” (vang vọng tiếng mầu nhiệm): Từ âm thanh mới xuất phát tiếng vang, đều là vang vọng chẳng thể nghĩ bàn. Vô Lượng Thọ Phật mở miệng nói năng là nói ǵ vậy? Hai câu sau đấy đă nêu rơ: “Đương thọ Bồ Tát kư” (sẽ thọ kư cho hàng Bồ Tát). Này Quán Thế Âm đại sĩ, chẳng phải là ông đă hỏi v́ sao ta hiện vẻ tươi cười ư? Hôm nay có thể có một đại sự, hôm nay ta sẽ thọ kư mười phương chư Phật [vị lai] sẽ đều thành Phật. “Thọ kư” (授記) là danh từ chuyên môn của Phật giáo. Đấy là một đại sự trong suốt một đời tu hành của hàng Bồ Tát. Tu hành suốt hai đại A-tăng-kỳ kiếp, khi đă đạt tới Bát Địa Bồ Tát th́ mới được thọ kư thành Phật. Do c̣n có một đại A-tăng-kỳ kiếp, vị Bồ Tát ấy sẽ thành Phật. Đấy là một điển lễ long trọng nhất, bởi lẽ, vị Bồ Tát ấy dụng công tu hành, chẳng phí uổng hơi sức, có phần thành Phật. Đức Phật sẽ đối trước vị ấy, ấn chứng trong tương lai, vị ấy sẽ thành Phật trong thế giới nào đó, danh hiệu là Phật ǵ? Như kinh Kim Cang đă nói, Nhiên Đăng Phật thọ kư cho Thích Ca Mâu Ni Phật, có ư nghĩa giống nhau.

          “Kim thuyết, nhân đế thính” (nay ta sẽ nói, nhân giả hăy lắng nghe). Câu kệ tụng chỉ có năm chữ, trong phần trước, Quán Thế Âm Bồ Tát đă hỏi v́ sao ta lộ vẻ tươi cười? Ta nói cho ông biết. “Nhân” là nhân giả (仁者, bậc có ḷng nhân), đức Phật tôn xưng Quán Thế Âm Bồ Tát là “nhân giả”. Ông phải ‘đế thính” (lắng nghe). “Đế” () có nghĩa là “tường thẩm”, Tường () là cặn kẽ, Thẩm () là suy xét. Đức Phật thuyết pháp, đều bảo đệ tử hăy “đế thính”. “Đế thính” là phải nghe cho tường tận, cặn kẽ, phải thật sự nghe. Đức Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát “đế thính” cũng giống như dạy chúng ta phải đế thính. Quư vị nghe pháp, phải nghe tường tận, nghe cặn kẽ, phải chân thật lắng nghe th́ mới có thể đạt được lợi ích chân thật nơi Phật pháp.

          “Thập phương lai Chánh Sĩ, ngô tất tri bỉ nguyện, chí cầu nghiêm tịnh độ. thọ quyết đương tác Phật” (các vị Chánh Sĩ từ mười phương đến, ta đều biết nguyện của họ là dốc chí mong cầu cơi nước trang nghiêm, thanh tịnh. Ta thọ kư họ chắc chắn sẽ thành Phật). “Thập phương lai Chánh Sĩ” (các vị Chánh Sĩ đến từ mười phương): Chánh Sĩ (正士) dịch từ chữ Bồ Tát. Đại Sĩ cũng dịch từ chữ Bồ Tát. [Câu này có nghĩa] các vị đại Bồ Tát đến từ mười phương. “Ngô tất tri bỉ nguyện” (ta đều biết nguyện của họ): “Tất” () là Giai (, đều). Ta đều biết, thảy đều biết, biết “bỉ” (họ), biết mỗi vị Bồ Tát phát nguyện như thế nào. Tức là họ trông thấy quốc độ của ta trang nghiêm, họ nghĩ lại quốc độ của chính ḿnh, cũng mong trang nghiêm giống y như vậy. Ta biết đại nguyện này của họ. “Chí cầu nghiêm tịnh độ” (dốc chí mong cầu cơi nước trang nghiêm, thanh tịnh). “Chí” () “nguyện”. Chí nguyện của họ là mong cầu một quốc độ thanh tịnh trang nghiêm. “Thọ quyết đương tác Phật” (thọ kư họ quyết định sẽ thành Phật): Đă phát đại nguyện ấy, họ sẽ có tư cách thành Phật. “Thọ quyết” (受決) là thọ kư. Thọ kư họ trong tương lai, quyết định sẽ thành Phật. V́ sao họ phát đại nguyện này? Họ phát nguyện này chẳng phải để chính ḿnh hưởng thụ, mà v́ độ hết thảy chúng sanh, giống như ta là A Di Đà Phật, v́ sao phải trang nghiêm thế giới Cực Lạc? V́ độ mười phương chúng sanh đó thôi! Hiện thời, các vị Bồ Tát từ mười phương đến, họ phát nguyện muốn trở về trang nghiêm quốc độ của chính ḿnh, chẳng phải là để cho chính họ hưởng thụ, mà là v́ độ mười phương chúng sanh. Do vậy bèn có tư cách thành Phật, cho nên ta sẽ thọ kư họ thành Phật.

          Chúng ta nghe kinh điển Đại Thừa đă quen, rất dễ liễu giải đạo lư này. Nhưng chúng ta suy ngẫm, tâm nguyện của phàm phu, những chuyện phàm phu đă làm đều thua kém Bồ Tát quá xa, Bồ Tát trang nghiêm quốc độ của chính ḿnh, nguyện cho mười phương chúng sanh đều đến quốc độ chính ḿnh để tu hành thành Phật. [Đối với người] nghe kinh điển Đại Thừa đă quen, điều này chẳng đáng coi là hiếm hoi, lạ lùng chi, [thế nhưng] phải ngẫm nghĩ chúng ta nay đang là phàm phu trong thế giới Sa Bà, thật sự thua kém quá xa! Cớ sao thua kém quá xa? Anh em ruột cùng cha cùng mẹ, v́ tranh giành một căn nhà, sẽ c̣n căi cọ, c̣n muốn lôi nhau ra ṭa. Nhà của anh chẳng nhường cho em , nhà của em chẳng nhường cho anh ở. Vậy th́ hàng xóm láng giềng làm sao có thể đến ở trong nhà ta cho được? Quư vị hăy ngẫm xem, đấy chẳng phải là thua kém quá xa hay sao? Đấy là những kẻ chẳng học Phật pháp trong xă hội, coi một căn nhà c̣n nghiêm trọng hơn tam thiên đại thiên thế giới, v́ họ chẳng học Phật pháp. Chúng ta là người xuất gia, phải phát đại tâm, trong phần trước đă có nói, thượng bối văng sanh là người xuất gia. Người xuất gia phải tu công đức lớn lao. Tu công đức lớn lao th́ phải tu như thế nào? Quư vị phải mở đạo tràng độ chúng sanh, độ hết thảy chúng sanh xuất gia, chẳng phải là độ anh em của ta. Ta căn bản chẳng có anh, mà cũng chẳng có em, vậy th́ độ bằng cách nào? Có anh, có em, mà họ chẳng muốn xuất gia, ta cũng chẳng độ được! Ta muốn mở đạo tràng độ người trong mười phương, cái tâm ấy là tâm Bồ Tát. Quư vị phát cái tâm to lớn ấy, sẽ có thể tu công đức to lớn, tu như thế nào? Ta lập một đạo tràng, dựng một tự viện, người đến càng đông, tâm ta càng hoan hỷ. Phát nguyện to, có thức ăn ngon, mọi người ăn ngon hơn một chút. Tự viện rất thanh bần th́ ăn dở hơn một chút, mọi người đồng cam cộng khổ, nhưng chẳng sợ rất nhiều người, người càng nhiều, tâm ta càng hoan hỷ. Ta phát đại thệ nguyện ấy, ta muốn mở đạo tràng to, muốn thành tựu người xuất gia trong mười phương. Đó gọi là Bồ Tát. Quư vị sanh về Tây Phương cũng là thượng bối văng sanh. Tiếp đó, Vô Lượng Thọ Phật, tức A Di Đà Phật, sẽ giảng phương pháp tu hành. Chỉ phát nguyện suông sẽ chẳng được, nguyện đă phát là nguyện rỗng tuếch; c̣n phải lập hạnh môn, tức dụng công tu hành.   

          “Giác liễu nhất thiết pháp, do như mộng, huyễn, ảnh, măn túc chư diệu nguyện, tất thành như thị sát” (giác liễu hết thảy các pháp như mộng, huyễn, ảnh, viên măn các nguyện mầu nhiệm, ắt thành cơi như thế). Đây là đức Phật giảng cho Quán Thế Âm Bồ Tát, mà cũng là bảo các vị đại Bồ Tát từ mười phương đến, nay ta sẽ thọ kư quư vị thành Phật, quư vị c̣n một đại A-tăng-kỳ kiếp nữa là thành Phật. Quư vị chỉ phát đại nguyện suông th́ vẫn không được, quư vị phải lập đại hạnh, phải thật sự trang nghiêm quốc độ của chính ḿnh. Trang nghiêm như thế nào?

          Thứ nhất, quán pháp hữu vi là Không, chớ nên chấp tướng. Phải “giác liễu nhất thiết pháp”. “Nhất thiết pháp” là hết thảy các pháp hữu vi, giác liễu chúng bằng cách nào? Giác ngộ, hiểu rơ hết thảy các pháp hữu vi, “do như mộng, huyễn, hưởng” [nghĩa là] giống như nằm mộng, giống như huyễn hóa, giống như tiếng vọng. “Mộng, huyễn, hưởng”, hết thảy các pháp giống như nằm mộng, quư vị chấp trước ǵ nữa? Trong Chứng Đạo Ca của thiền sư Vĩnh Gia có câu: “Mộng trung minh minh hữu lục thú, giác hậu không không vô đại thiên” (trong mộng rành rành có sáu nẻo, giác rồi ba cơi rỗng toang hoang). Khi quư vị nằm mộng, “lục thú” (六趣, sáu đường, lục đạo) đều có. Quư vị có thể mộng lên thiên đường, có thể mộng xuống địa ngục. Quư vị có thể mộng thấy đời sau, kiếp sau làm một người đại phú, đại quư. “Lục thú” là lục đạo luân hồi, rành rành là có, thật ra là v́ đang nằm mộng! Nhưng sau khi quư vị đại giác, đại ngộ, “giác hậu không không vô đại thiên” (giác rồi ba cơi rỗng toang hoang), quư vị tỉnh giấc, thiên đường ở chỗ nào? Địa ngục ở chỗ nào? Đấy là lư luận cao nhất của Phật giáo; do đó, Phật pháp khó học ở ngay tại chỗ này. Quư vị chẳng tin tưởng thiên đường, địa ngục. Trước hết, bảo với quư vị, quư vị nhất định phải tin tưởng [thiên đường, địa ngục]. Chẳng tin, quư vị sẽ chẳng tin tưởng nhân quả. Quư vị chẳng tin vào nhân quả ba đời, sẽ chẳng làm việc thiện, toàn làm chuyện ác, khiến cho chính ḿnh đọa vào địa ngục, lẽ nào thành Phật cho nổi? Nhất định phải tin tưởng thiện có thiện báo, ác có ác báo, thật sự có thiên đường, có địa ngục. Đó là cảnh giới của phàm phu. C̣n có công phu tiến cao hơn bước nữa, quư vị phải biết phàm phu tin vào pháp hữu vi. Pháp hữu vi là pháp có tạo tác, do phàm phu tạo ra. Quư vị tạo thiên đường, bèn có thiên đường. Quư vị tạo địa ngục, bèn có địa ngục. Đợi đến khi quư vị đă giác ngộ, chuyển từ phàm phu thành một vị thánh nhân, sẽ đối với cảnh giới của phàm phu, một thứ đă không, hết thảy đều không, giống như nằm mộng, c̣n có ǵ đáng để chấp trước nữa chăng? Giống như huyễn hóa. Giống như nhà ảo thuật biến hóa thế giới, quư vị có ǵ để chấp trước nữa đây? Giống như tiếng vọng. Chúng ta ở trong hang núi, quư vị hô một tiếng, nơi ấy nhất định có tiếng vọng lại. Quư vị kêu tiếng nhỏ, tiếng vọng nhỏ. Quư vị lớn tiếng kêu, nó vọng lại tiếng lớn. Quư vị chẳng gọi, chẳng có tiếng vọng. Quư vị nói tiếng vọng là do có ai đó ở bên kia [đáp trả] hả? Chẳng có ai đâu nhé! Chẳng thể nói là không có tiếng vọng, nhưng bản thể của tiếng vọng là rỗng không. Pháp hữu vi trong thế gian đều là như mộng, như huyễn, như tiếng vọng. Trước hết, hăy quán pháp hữu vi là Không. Quán Không, đừng nên rơi vào cảnh giới Tiểu Thừa, đừng rơi vào bên Thiên Không.

          “Măn túc chư diệu nguyện” (thỏa măn trọn vẹn các nguyện mầu nhiệm): Quán pháp hữu vi là Không, vừa khéo để phát đại tâm, hành Bồ Tát đạo th́ mới có thể thỏa măn “chư diệu nguyện” (các nguyện mầu nhiệm) của quư vị. Quư vị phát đại nguyện là nguyện suông, phải dùng hạnh môn của chính ḿnh, dùng nó để thực hiện th́ mới có thể thỏa măn nguyện. Quư vị chẳng tu hạnh môn, làm sao có thể măn nguyện được? Quư vị c̣n trang nghiêm cơi nước Phật của chính ḿnh, tu hết thảy công đức to lớn để trang nghiêm quốc độ thanh tịnh. “Tất thành như thị sát” (ắt thành cơi như thế), nghĩa là chắc chắn có thể trang nghiêm quốc độ của quư vị giống như thế giới Cực Lạc của ta.

          “Tri pháp như điện, ảnh, cứu cánh Bồ Tát đạo, cụ chư công đức bổn, thọ quyết đương tác Phật” (biết các pháp như tia chớp, như h́nh bóng, rốt ráo đạo Bồ Tát, đầy đủ các cội công đức, ta thọ kư người ấy chắc chắn sẽ thành Phật). “Tri pháp như điện ảnh” (biết các pháp như tia chớp và h́nh bóng): [Điện (, tia chớp) ảnh (, h́nh bóng)] là hai tỷ dụ, chẳng phải là điện ảnh (phim ảnh) như chúng ta đang xem trong hiện thời; v́ thuở đức Phật tại thế, c̣n chưa phát minh điện ảnh! Bài kệ tụng trong phần cuối kinh Kim Cang là: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ diệc như điện” (hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương cũng như chớp). “Như mộng, huyễn, bào, ảnh”, đấy là Ảnh. “Như lộ, diệc như điện” (như sương, cũng như chớp), đấy là Điện. Hết thảy các pháp hữu vi như “điện”, tức là như khi trời âm u, đổ mưa, trong hư không có tia chớp, sáng ḷa một cái rồi chẳng thấy nữa. Đây là h́nh dung hết thảy các pháp hữu vi vô thường, rất nhanh chóng chẳng có nữa. Hết thảy các pháp hữu vi như “ảnh”, đấy là h́nh dung hết thảy các pháp hữu vi chẳng thật sự tồn tại. Quư vị thấy có thứ chi đó, nó là bóng dáng, chẳng phải là bản thể chân thật. Hết thảy các pháp hữu vi đều như bóng dáng, giống như hiện thời phát minh ra điện ảnh, đem gộp chung hai thứ lại, cũng có thể dùng làm thí dụ. Phim ảnh chẳng phải là thứ hư huyễn, chẳng thật hay sao? Quư vị thấy t́nh huống trong vở kịch buồn, vui, chia ĺa, tái hợp, diễn xuất khá lắm. Diễn đến nỗi khi hoan hỷ, quư vị ngoác miệng cười theo ầm ầm. Diễn đến chỗ bi thương, đau đớn, quư vị cũng ứa nước mắt theo. Quư vị coi nó thành một thứ thật sự, chẳng biết khi phim kết thúc, phim hết người tan, thứ ǵ cũng đều chẳng có. Hết thảy các pháp hữu vi đều là như vậy, như tia chớp vô thường, như ảnh chẳng thật sự tồn tại, giống như phim ảnh kết hợp, hư huyễn chẳng thật.

          “Cứu cánh Bồ Tát đạo” (rốt ráo Bồ Tát đạo): Quư vị biết rơ triệt để pháp hữu vi như chớp, như ảnh, quư vị mới có thể hoàn thành rốt ráo Bồ Tát đạo của chính ḿnh, tức là khi quư vị hành Bồ Tát đạo, tuyệt đối chớ nên chấp tướng. Hễ chấp tướng, Bồ Tát đạo của quư vị sẽ chẳng thể rốt ráo. “Cứu cánh” (究竟) có nghĩa là viên măn. Quư vị chẳng thể viên măn. Chẳng chấp tướng th́ sẽ tu hành, khi tu hành vẫn đừng nên chấp tướng, đấy mới có thể rốt ráo Bồ Tát đạo. “Cụ chư công đức bổn” (trọn đủ cội công đức): Hết thảy căn bản của công đức quư vị đều đầy đủ. “Thọ quyết đương tác Phật” (thọ kư [người như vậy] chắc chắn sẽ thành Phật): Quư vị được thọ kư thành Phật, trong tương lai chắc chắn sẽ làm Phật.

          “Thông đạt chư pháp tánh, nhất thiết Không, Vô Ngă, chuyên cầu tịnh Phật độ, tất thành như thị sát” (thông đạt tánh của pháp: hết thảy đều là Không, Vô Ngă, chuyên cầu cơi Phật thanh tịnh, ắt thành cơi như thế): Đây vẫn là khơi mở, hướng dẫn chư đại Bồ Tát trang nghiêm cơi Phật như thế nào? Vẫn phải quán pháp hữu vi là Không. “Thông đạt chư pháp tánh” (thông đạt tánh của các pháp): Hết thảy các pháp hữu vi thiên sai vạn biệt, chúng có bản tánh. “Bản tánh” là Không Tánh, [tức là] chẳng có bản thể, chẳng có tự tánh. Điều này được gọi là Pháp Tánh của hết thảy các pháp. V́ sao Pháp Tánh của hết thảy các pháp chẳng có bản thể? Hết thảy các pháp sanh từ nhân duyên; pháp sanh bởi nhân duyên th́ chẳng có bản thể, chẳng có tự tánh. Duyên tụ bèn sanh, duyên tán bèn diệt, chẳng t́m được bản thể của nó. Ví như pháp hội giảng kinh của chúng ta, quư vị nói xem, pháp hội giảng kinh này có pháp hay không? Có chứ! Ở nơi đây, tôi đang giảng kinh, quư vị đang nghe kinh, có giảng đường, c̣n có bàn, ghế. Đấy chẳng phải là một pháp hội giảng kinh rất trang nghiêm, rất long trọng hay sao, cớ sao chẳng có? Quư vị hăy t́m bản thể của nó, bản thể của nó là ǵ vậy? Quư vị t́m tự tánh của nó, thứ ǵ cũng chẳng t́m thấy. Nó là pháp sanh bởi các duyên. Tôi tới giảng kinh, các vị đến nghe kinh, lại c̣n chuẩn bị giảng đường, chuẩn bị bàn ghế, pháp hội này bèn thành tựu. Đó gọi là “duyên tụ bèn sanh”. Đợi đến khi tôi giảng xong, tôi đi rồi, các vị cũng đi rồi, bàn ghế đều dọn cất, rỗng tuếch! Pháp nào là bản thể tự tánh của giảng đường? Chẳng có! Bản tánh của hết thảy các pháp đều là như thế đó. “Nhất thiết Không, Vô Ngă” (hết thảy là Không, Vô Ngă): Hết thảy các pháp đều rỗng không. Đă là rỗng không, “trong” chẳng có ta, “ngoài” chẳng có cái của ta (ngă sở). Đă chẳng có ta, há có pháp sở hữu bởi ta? Đấy gọi là “hết thảy các pháp đều Không”. Quư vị đă ngộ “hết thảy các pháp đều Không” rồi lại “chuyên cầu tịnh Phật độ”, [tức là] quư vị mới có thể chuyên tâm nhất ư thanh tịnh cơi Phật của quư vị. “Tất thành như thị sát” (ắt thành cơi như thế): Vậy th́ quư vị trang nghiêm thế giới Cực Lạc sẽ nhất định hoàn thành!

          A Di Đà Phật thuyết pháp, nói ra pháp môn tu hành, là pháp môn trang nghiêm tịnh độ. Ba bài kệ tụng đă dạy chúng ta tu hành như thế nào? Đă phát nguyện th́ phải tu hành ra sao? Trước hết, ắt cần phải quán pháp hữu vi là Không. [Ắt phải thực hành] ba bài kệ tụng đều như nhau th́ mới có thể hành Bồ Tát đạo, mới có thể trang nghiêm cơi Phật. Đây hoàn toàn chẳng phải là những lời thọ kư cho các vị đại Bồ Tát, những vị ấy đều là Bát Địa Bồ Tát, c̣n cần phải nói cặn kẽ chi nữa? Đây là [những lời dạy] truyền sang thế giới Sa Bà nhằm nói cho chúng ta là hàng Sơ Phát Tâm Bồ Tát nghe. Rất khó có là các vị phát đại nguyện, mong kiến lập một đạo tràng, hễ quư vị chấp tướng, căn bản là quư vị chẳng thành công. Nói theo bản thân chúng ta, ví như ba người chúng ta đều xuất gia, đều phát đại nguyện, muốn tạo lập một tự viện vĩ đại, muốn rộng độ hết thảy mọi người xuất gia ở nơi này, chúng ta phải ấn định một quy củ đàng hoàng ḥng những người xuất gia ở đây đều đi theo thánh đạo. Thệ nguyện ấy đă phát đúng rồi, chúng ta mới bắt đầu xây dựng đạo tràng này. Đấy là tu hành, đấy là phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo. Hành Bồ Tát đạo th́ quư vị phải nhớ kỹ: Chẳng thể chấp tướng! Hễ quư vị chấp tướng, chúng ta đều là phàm phu, ư kiến sẽ xung đột. Đạo tràng c̣n chưa thành công mà đă tranh danh trước, đoạt lợi trước! Ví như một ngôi chùa to, ai sẽ làm Trụ Tŕ, ai làm Giám Viện, ai làm hộ tŕ? Ba người ấy tranh giành; đấy là tranh danh. Nếu như dựng một ngôi chùa, quy mô c̣n chưa hoàn thành, tín đồ đến dâng hương, lễ bái, sẽ cúng dường. Món tiền ấy sẽ đưa cho ai trông coi? Quư vị dùng nhiều hơn mấy đồng không được đâu nhé! Chúng ta tính toán sổ sách, ba người tranh chấp ư kiến. Đạo tràng ấy trọn chẳng thể hoàn thành. Muốn hoàn thành một “như thị sát” (cơi nước như thế), [dù là] cơi Phật hay là một ngôi chùa, hễ quư vị chấp tướng, sẽ chẳng làm tốt đẹp được. Những điều này nhằm nói cho chúng ta nghe. Ba người ấy sẽ thất bại, đúng là mười phương chư Phật đều phải thở dài! Quư vị hăy ngẫm xem, người tin tưởng Phật nhiều ngần ấy, có ai chịu phát tâm xuất gia? Rất khó có ba người phát tâm xuất gia như thế ấy, [bởi lẽ], người xuất gia rất đông, có ai muốn phát tâm mở một thập phương đạo tràng? Ba người ấy phát tâm muốn tạo dựng đạo tràng, đấy chẳng phải là ba người xuất gia thật sự khó có ư? Kết quả là do chấp tướng, chẳng mở đạo tràng thành công, mười phương chư Phật đều phải thở dài!

          Trên đây đă giảng mười lăm bài kệ, mười phương Bồ Tát tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân cận A Di Đà Phật, được thọ kư. Dưới đây c̣n có mười lăm bài kệ tụng, chia thành hai đoạn: Năm bài kệ tụng đầu là mười phương chư Phật sai các Bồ Tát đệ tử của các Ngài đến thân cận A Di Đà Phật. Tôi giảng đoạn này trước.

 

2.2.3.2.2.2. Trùng tụng chư Phật cùng tán thán

2.2.3.2.2.2.1. Trùng tụng mười phương chư Phật cùng tán thán (gồm năm bài kệ)

 

          (Kinh) Chư Phật cáo Bồ Tát, linh cận An Dưỡng Phật, văn pháp nhạo thọ hành, tật đắc thanh tịnh xứ. Chí bỉ nghiêm tịnh quốc, tiện tốc đắc thần thông, tất ư Vô Lượng Tôn, thọ kư thành Đẳng Giác. Kỳ Phật bổn nguyện lực, văn danh dục văng sanh, giai tất đáo bỉ quốc, tự trí Bất Thoái Chuyển. Bồ Tát hưng chí nguyện, nguyện kỷ quốc vô dị, phổ niệm độ nhất thiết, danh hiển măn thập phương. Phụng sự ức Như Lai, phi hóa biến chư sát, cung kính hoan hỷ khứ, hoàn đáo An Dưỡng quốc.

          ()諸佛告菩薩,令覲安養佛,聞法樂受行,疾得清淨處。至彼嚴淨國,便速得神通,必於無量尊,受記成等覺。其佛本願力,聞名欲往生,皆悉到彼國,自致不退轉。菩薩興至願,願己國無異,普念度一切,名顯滿十方。奉事億如來,飛化徧諸剎,恭敬歡喜去,還到安養國。

          (Kinh: Chư Phật bảo Bồ Tát, thân cận An Dưỡng Phật, nghe pháp, thích thọ hành, mau được chốn thanh tịnh. Đến cơi nghiêm tịnh ấy, sẽ mau đắc thần thông. Ắt được Vô Lượng Tôn, thọ kư thành Đẳng Giác. Do nguyện lực Phật ấy, nghe danh, muốn văng sanh, thảy đều đến cơi đó, tự đạt Bất Thoái Chuyển. Bồ Tát dấy chí nguyện, nguyện nước ḿnh chẳng khác, niệm độ khắp hết thảy, danh rạng trọn mười phương. Phụng sự ức Như Lai, bay, biến khắp các cơi, cung kính, hoan hỷ đi, trở về nước An Dưỡng).

 

          “Chư Phật cáo Bồ Tát, linh cận An Dưỡng Phật, văn pháp nhạo thọ hành, tật đắc thanh tịnh xứ” (chư Phật bảo Bồ Tát, dạy họ hăy thân cận vị Phật trong cơi An Dưỡng, nghe pháp, ưa thích, vâng nhận, hành tŕ, sẽ mau chóng đạt được chốn thanh tịnh). “Chư Phật cáo Bồ Tát” (chư Phật bảo Bồ Tát): “Chư Phật” là mười phương chư Phật, bảo các vị Bồ Tát trong nước ḿnh. “Linh cận An Dưỡng Phật” (hăy đến thân cận vị Phật trong cơi An Dưỡng): Nay quư vị muốn đến “thân cận”, tức là triều bái, lễ kính, thân cận đức Phật trong cơi An Dưỡng. Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng dịch là Cực Lạc, dịch thành An Lạc, và cũng dịch thành An Dưỡng. Tiếng Phạn là một chữ, nhưng dịch thành các danh từ khác nhau. “Văn pháp nhạo thọ hành, tật đắc thanh tịnh xứ” (nghe pháp ưa thích, tiếp nhận, hành tŕ, mau chóng đạt được cơi thanh tịnh): Quư vị đến triều bái A Di Đà Phật, đến lễ kính A Di Đà Phật. “Văn pháp nhạo thọ hành” (nghe pháp ưa thích, tiếp nhận, hành tŕ): Quư vị sẽ thỉnh A Di Đà Phật thuyết pháp. Đức Phật thuyết pháp, quư vị sanh ḷng hoan hỷ, ưa thích, hăy nên tiếp nhận hạnh môn của Ngài. Ngài chỉ dạy quư vị tu hành như thế nào? Quư vị phải tiếp nhận. “Nhạo” () là hoan hỷ, ưa thích tiếp nhận, quư vị bèn tu hành đúng như lời Ngài đă chỉ dạy. “Tật đắc thanh tịnh xứ” (mau đạt được chốn thanh tịnh): Quư vị sẽ đạt được chỗ thanh tịnh rất nhanh chóng, có thể trang nghiêm quốc độ thanh tịnh.

          “Chí bỉ nghiêm tịnh quốc, tiện tốc đắc thần thông, tất ư Vô Lượng Tôn, thọ kư thành Đẳng Giác” (đến cơi trang nghiêm, thanh tịnh ấy, sẽ mau chóng đắc thần thông, ắt ở chỗ đức Vô Lượng Thọ Phật, thọ kư thành Chánh Đẳng Chánh Giác). “Chí bỉ nghiêm tịnh quốc” (đến cơi nước trang nghiêm, thanh tịnh ấy): Quư vị đă tới nước An Dưỡng trang nghiêm thanh tịnh ở phương Tây. “Tiện tốc đắc thần thông” [nghĩa là] rất nhanh chóng đạt được thần thông. Đối với câu này, có một điều nghi vấn: Mười phương Bồ Tát đều có thần thông; nếu chẳng có thần thông, há lại có thể bay tới Tây Phương Cực Lạc thế giới ư? Nhưng thần thông có sâu hay cạn khác nhau. Chẳng hạn như nói thần thông của hàng Nhị Thừa chẳng sánh bằng Bồ Tát, Bồ Tát thuộc địa vị Tam Hiền chẳng sánh bằng Thập Địa, mà Sơ Địa Bồ Tát lại chẳng sánh bằng Nhị Địa. Ở đây là thần thông của Bát Địa Bồ Tát. Thần thông của Bát Địa vi diệu, thần thông của Bát Địa là vô công dụng hạnh. Ngài chẳng sanh tâm động niệm, đến khi đáng hiển hiện thần thông, Ngài sẽ tùy ư tự nhiên hiện ra. Ở đây, [câu kệ này có ư nói] sẽ rất nhanh chóng đạt được thần thông của Bát Địa Bồ Tát. “Tất ư Vô Lượng Tôn, thọ kư thành Đẳng Giác” (ắt ở nơi đấng Vô Lượng Thọ Phật, được Ngài thọ kư thành Đẳng Giác): Vô Lượng Tôn là Vô Lượng Thọ Phật Thế Tôn, là A Di Đà Phật. Quư vị nhất định ở trước A Di Đà Phật được Ngài thọ kư thành Phật. Trong tương lai, quư vị sẽ thành Đẳng Giác, trong tương lai sẽ thành Phật. Đấy là mỗi vị Phật trong mỗi nước huấn dụ các vị Bồ Tát của chính ḿnh.

          “Kỳ Phật bổn nguyện lực, văn danh dục văng sanh, giai tất đáo bỉ quốc, tự trí Bất Thoái Chuyển” (do sức bổn nguyện của đức Phật ấy, nghe danh hiệu, muốn văng sanh, thảy đều đến cơi ấy, tự đạt được Bất Thoái Chuyển): Đấy là mười phương chư Phật chỉ dạy hàng Bồ Tát trong nước ḿnh, tán thán sức bổn nguyện của A Di Đà Phật. “Kỳ Phật” là A Di Đà Phật, Ngài có sức bổn nguyện. “Văn danh dục văng sanh” [nghĩa là] nếu quư vị nghe danh hiệu A Di Đà Phật, bằng ḷng văng sanh quốc độ của Ngài, sẽ “giai tất đáo bỉ quốc” (thảy đều đến cơi đó), quư vị sẽ nhất định măn nguyện, có thể tới Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đă tới bên ấy, liền đắc Bất Thoái Chuyển. “Tự trí Bất Thoái Chuyển” (tự đạt đến Bất Thoái Chuyển): “Trí” () là đạt được, tự nhiên đạt được Bất Thoái Chuyển.

          “Bồ Tát hưng chí nguyện, nguyện kỷ quốc vô dị, phổ niệm độ nhất thiết, danh hiển măn thập phương” (Bồ Tát hưng khởi chí nguyện, nguyện cơi nước của chính ḿnh sẽ chẳng khác [Cực Lạc], niệm độ trọn khắp hết thảy, thanh danh tỏa rạng khắp mười phương): “Bồ Tát hưng chí nguyện” (Bồ Tát dấy lên chí nguyện): Chư đại Bồ Tát, tức các vị Bồ Tát trong mười phương, do vâng theo mạng lệnh của đức Phật trong cơi ḿnh, thảy đều đến Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đă đến Tây Phương Cực Lạc, vừa thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới thanh tịnh trang nghiêm quá sức tuyệt diệu, bèn dấy lên tâm nguyện chí thành: “Nguyện kỷ quốc vô dị” (nguyện cho cơi nước của chính ḿnh chẳng khác [Cực Lạc]). Nguyện cơi nước của chính ḿnh “vô dị”, tức là chẳng sai khác Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Phổ niệm độ nhất thiết, danh hiển măn thập phương” [nghĩa là] ta mong thành tựu quốc độ của chính ḿnh cũng có thể giống như Tây Phương, ta cũng có thể giống như A Di Đà Phật, nghĩ độ trọn khắp hết thảy chúng sanh, ta cũng giống như A Di Đà Phật, thanh danh tỏa rạng trọn khắp mười phương thế giới.

          “Phụng sự ức Như Lai, phi hóa biến chư sát, cung kính hoan hỷ khứ, hoàn đáo An Dưỡng quốc” (phụng sự ức Như Lai, bay đi, biến hóa đến trọn khắp các cơi, cung kính, hoan hỷ ra đi, trở về nước An Dưỡng): Những vị Bồ Tát ấy đă tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, phát đại nguyện, A Di Đà Phật đều biết. Do đă biết, đức Phật bèn thọ kư các vị Bồ Tát ấy sẽ thành Phật. Đă thọ kư thành Phật rồi, sẽ giảng khai thị cho các Ngài, dạy các Ngài tu hành đừng chấp tướng. Tu hành chẳng chấp tướng chính là công phu bậc nhất. Các vị được đến thân cận mười phương chư Phật, sẽ cúng dường mười phương chư Phật. Nếu quư vị muốn trang nghiêm thế giới Cực Lạc của chính ḿnh mà nếu chẳng có phước báo, chẳng có trí huệ, hai điều kiện ấy quá tệ, sẽ trang nghiêm chẳng được, đại nguyện đă phát sẽ là nguyện suông. Quư vị muốn trang nghiêm cơi Phật của chính ḿnh, thứ nhất là quư vị phải có phước báo, thứ hai là quư vị phải có trí huệ. Vậy th́ phước báo do đâu mà có? Quư vị cúng dường mười phương chư Phật, chuyện này vun bồi phước nhanh nhất, lớn nhất. Quư vị đến thân cận mười phương chư Phật, thỉnh các Ngài giảng pháp cho quư vị, quư vị đạt được trí huệ cao nhất, nhanh nhất. Mười phương Bồ Tát đă tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, đạt được thần thông cao nhất; do vậy, đến mười phương thế giới cúng dường chư Phật. “Phụng sự ức Như Lai”, chữ Ức này [phải hiểu] là vô lượng vô số Như Lai. “Phi hóa biến chư sát” (phi hành, biến hóa trọn khắp các cơi): Phi hành biến hóa tới các cơi của chư Phật để cúng dường chư Phật. “Cung kính hoan hỷ khứ” (cung kính, hoan hỷ ra đi): Sau khi cung kính đảnh lễ, nghe pháp, bèn hoan hỷ trở về. “Hoàn đáo An Dưỡng quốc” (trở về nước An Dưỡng): Trở lại Tây Phương Cực Lạc thế giới, vẫn thân cận A Di Đà Phật.

          Năm bài kệ này nhằm nói mười phương chư Phật chỉ dạy các vị Bồ Tát trong nước ḿnh đến thân cận A Di Đà Phật. Dưới đây c̣n có ba bài kệ tụng do Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật chỉ dạy chúng ta, do vậy càng thân thiết hơn, phải lưu tâm nghe nhé!

 

2.2.3.2.2.2.2. Phật Thích Ca tự tán thán khiến cho kẻ khác cùng đến [Cực Lạc]

2.2.3.2.2.2.2.1. Nêu bày kinh này khó được nghe, hăy hoan hỷ tu hành (gồm ba bài kệ)

 

          (Kinh) Nhược nhân vô thiện tâm, bất đắc văn thử kinh. Thanh tịnh hữu giới giả, năi hoạch văn chánh pháp. Tằng cánh kiến Thế Tôn, tắc năng tín thử sự. Khiêm kính, văn phụng hành, dũng dược, đại hoan hỷ. Kiêu, mạn, tệ, giải đăi, nan dĩ tín thử pháp, túc thế kiến chư Phật, nhạo thính như thị giáo.

          ()若人無善心,不得聞此經,清淨有戒者,乃獲聞正法。曾更見世尊,則能信此事,謙敬聞奉行,踊躍大歡喜。憍慢弊懈怠,難以信此法,宿世見諸佛,樂聽如是教。

          (Kinh: Nếu người chẳng thiện tâm, chẳng được nghe kinh này. Kẻ thanh tịnh tŕ giới, bèn được nghe chánh pháp. Đă từng thấy Thế Tôn, sẽ tin tưởng chuyện này. Khiêm kính, nghe, phụng hành, hớn hở, đại hoan hỷ. Kiêu, mạn, tệ, biếng nhác, khó tin nổi pháp này. Đời trước thấy chư Phật, thích nghe dạy như thế).

 

          “Nhược nhân vô thiện tâm, bất đắc văn thử kinh” (nếu người nào chẳng có thiện tâm, sẽ chẳng được nghe kinh này): Quư vị có thể nghe bộ kinh Vô Lượng Thọ này, chớ nên coi rẻ chính ḿnh, quư vị là người có thiện tâm. Nếu quư vị chẳng có thiện tâm, căn bản là chẳng được nghe bộ kinh Vô Lượng Thọ này. Quư vị phải tin tưởng chính ḿnh có thiện căn. “Thanh tịnh hữu giới giả, năi hoạch văn chánh pháp” (kẻ thanh tịnh, giữ giới, bèn được nghe chánh pháp): Quư vị là người tŕ giới thanh tịnh. “Giả” () là từ ngữ để chỉ người, [người thanh tịnh tŕ giới th́] mới có thể nghe được chánh pháp này. “Thiện tâm”: Thiện tâm tŕ giới thanh tịnh, đấy cũng là thiện căn. Một mặt là nói đến đời này, kiếp này, mặt khác là suy đến đời trước, kiếp trước. Quư vị trong đời này, kiếp này đă phát sanh thiện căn, [có ư niệm] “ta muốn học pháp môn Tịnh Độ” th́ quư vị mới có thể nghe kinh Vô Lượng Thọ. Cái tâm học pháp môn Tịnh Độ của quư vị trong đời này, kiếp này vẫn c̣n chưa phát khởi [mà vẫn được nghe kinh Vô Lượng Thọ, tức là] suy đến đời trước, kiếp trước, quư vị đă từng phát [cái tâm ấy]. Có thiện căn ấy th́ mới được. Đối với chuyện tŕ giới thanh tịnh cũng suy trong đời này suy từ đời trước. Nếu đời này quư vị là một người tŕ giới thanh tịnh, quư vị mới có thể nghe chánh pháp trong bộ kinh Vô Lượng Thọ này. Nếu đời này, kiếp này, tướng tŕ giới của quư vị vẫn chưa thanh tịnh, như vậy th́ đời trước nhất định đă có thiện căn tŕ giới, đời trước quư vị nhất định là một người giữ giới luật thanh tịnh. Do thiện căn ấy dấy lên hiện hành, quư vị mới có thể nghe chánh pháp này; ngàn muôn phần đừng coi rẻ chính ḿnh!

          “Tằng cánh kiến Thế Tôn, tắc năng tín thử sự, khiêm kính văn phụng hành, dũng dược đại hoan hỷ” (đă từng gặp đức Thế Tôn th́ mới có thể tin chuyện này, khiêm tốn, cung kính nghe dạy, phụng hành, hớn hở, hết sức hoan hỷ): Thích Ca Như Lai nói thêm, chúng ta có thiện căn đă từng gặp Phật. “Tằng cánh kiến Thế Tôn, tắc năng tín thử sự” (đă từng thấy Thế Tôn, sẽ có thể tin chuyện này). Đời trước, kiếp trước, không chỉ là đời trước, kiếp trước, mà thậm chí nhiều đời, nhiều kiếp trước kia, nhất định là đă thấy Phật. Vậy th́ ta đă thấy Phật, sao cho tới hiện thời, ta vẫn là phàm phu? Đấy là nỗi khổ năo luân hồi trong lục đạo. Người Hoa đều biết niệm kinh Kim Cang. Kinh Kim Cang có nói, tới thời đại Mạt Pháp, quư vị có thể nghe kinh Kim Cang mà tâm tin tưởng, chẳng nghi, phát tâm thanh tịnh. [chứng tỏ] thiện căn của người ấy sâu dầy, chẳng phải là đă gieo thiện căn nơi một vị Phật, hai vị Phật, ba, bốn, năm vị Phật, mà là đă gieo thiện căn nơi vô lượng ngàn vạn chư Phật. Phật Thích Ca cũng nói, thiện căn của chúng ta rất lớn, nhưng bản thân chúng ta chẳng dám thừa nhận, tâm cứ nghĩ: “Há ta có thiện căn to lớn ngần ấy ư? Ta từng thân cận một vị Phật, hai vị Phật, ba, bốn, năm vị Phật, thân cận vô lượng vô số chư Phật nhiều ngần ấy, cớ sao cho đến nay ta vẫn là một chúng sanh khổ năo? Đấy là nỗi khổ năo do luân hồi trong lục đạo. Nếu quư vị hiểu đạo lư này, quư vị mới có thể phát nguyện sanh về Tây Phương, mới có thể phát khởi tín tâm quyết định mong sanh về Tây Phương. Vậy là trong đời trước, kiếp trước đă từng gặp Phật, dẫu gặp Phật, mười thứ tín tâm vẫn chẳng tu viên măn, [cho nên] bèn vật vờ theo gió cuốn. Bồ Tát thuộc địa vị Thập Tín, được gọi là “mao tháo Bồ Tát” (毛躁菩薩), [nghĩa là] giống như chiếc lông vũ [chao đảo] trong không trung, c̣n nhẹ hơn không khí. Chiếc lông vũ bị gió cuốn qua Đông, qua Tây. Gió Đông thổi, nó giạt qua Tây; gió Tây thổi, nó giạt sang Đông. Tức là gặp duyên được thầy dạy dỗ, người ta giảng kinh, thuyết pháp, kẻ đó tiến bộ. Gặp phải duyên vui thú ngũ dục lạc, lại bị lôi kéo, xoay chuyển! Cái tâm của phàm phu tham cầu niềm vui ngũ dục, quả báo của niềm vui ngũ dục đưa tới nhanh chóng, lập tức họ lại đọa vào địa ngục, chẳng biết đến kiếp nào mới có thể lắc ḿnh thoát ta. V́ thế nói, thấy Phật th́ đă từng thấy, tuy tu hành chẳng thành công, nhưng thiện căn vẫn có, đời này gặp Vô Lượng Thọ Phật, mới có thể tin tưởng chuyện này, mới có thể phát khởi tín tâm.

          “Khiêm kính văn phụng hành” (khiêm tốn, cung kính, nghe rồi sẽ phụng hành): “Khiêm kính” là chẳng kiêu ngạo, chẳng ngạo mạn, có cái tâm khiêm tốn, có tâm cung kính, nghe pháp này sẽ phụng hành, phụng hành bằng cách nào? Tu công đức lớn lao, làm nhiều thiện sự. “Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc” (chẳng thể do chút thiện căn, phước đức, nhân duyên được sanh về cơi ấy), nhất tâm nhất ư niệm danh hiệu A Di Đà Phật, cầu sanh Tây Phương. Sẽ có dáng vẻ như thế này, “dũng dược, đại hoan hỷ” (hớn hở, hoan hỷ lớn), trong tâm quư vị nhất định sẽ nhất định sanh khởi cái tâm đại hoan hỷ, nay quư vị thật sự gặp gỡ diệu pháp vô thượng. Sanh tử từ vô thỉ kiếp đến nay, ngày nay có thể liễu thoát!

          “Kiêu mạn, tệ giải đăi, nan dĩ tín thử pháp, túc thế kiến chư Phật, nhạo thính như thị giáo” (kiêu căng, ngạo mạn, tệ hại, biếng nhác, sẽ khó thể tin pháp này, [do] đời trước thấy chư Phật, [đời này] mới thích nghe giáo pháp như thế): “Kiêu mạn, tệ giải đăi, nan dĩ tín thử pháp” (kiêu căng, ngạo mạn, tệ ác, biếng nhác, sẽ khó thể tin pháp này): Trong phần trước có nói “khiêm kính văn phụng hành” (khiêm tốn, cung kính, nghe dạy rồi vâng làm theo), khiêm tốn, cung kính nhằm đối trị “kiêu mạn”, tức là kiêu ngạo, ngạo mạn. Quư vị có hai thứ tâm ấy, sẽ chẳng thể dấy lên tín tâm đối với pháp này được! “Tệ” là một thứ ác tâm. Đă có kiêu, mạn, tệ ác, chắc chắn sẽ dấy ḷng “giải đăi”. Sanh tâm giải đăi th́ chắc chắn sẽ dấy ḷng buông lung. Do giải đăi, buông lung, cho nên chẳng thể tin pháp môn này. “Túc thế kiến chư Phật, nhạo thính như thị giáo” (do đời trước đă thấy chư Phật, [đời này mới] thích nghe dạy như thế): “Túc thế” là đời trước, kiếp trước, cho đến nhiều đời, nhiều kiếp trước, đều gọi là “túc thế”. Quư vị đă từng thấy chư Phật, đă ở trước chư Phật gieo thiện căn; đời này, kiếp này, quư vị mới có thể hoan hỷ, ưa thích nghe giáo pháp như vậy, nghe lời dạy về pháp môn Tịnh Độ này.

 

2.2.3.2.2.2.2.2. Tán thán trí đức thù thắng của Phật Di Đà khiến cho người khác quy hướng (gồm bốn bài kệ)

 

          (Kinh) Thanh Văn hoặc Bồ Tát, mạc năng cứu thánh tâm, thí như tùng sanh manh, dục hành khai đạo nhân. Như Lai trí huệ hải, thâm quảng vô nhai để, Nhị Thừa phi sở trắc, duy Phật độc minh liễu. Giả sử nhất thiết nhân, cụ túc giai đắc đạo, tịnh huệ tri bổn không, ức kiếp tư Phật trí. Cùng lực cực giảng thuyết, tận thọ do bất tri, Phật huệ vô biên tế, như thị trí thanh tịnh.

          ()聲聞或菩薩,莫能究聖心,譬如從生盲,欲行開導人。如來智慧海,深廣無涯底,二乘非所測,唯佛獨明了。假使一切人,具足皆得道,淨慧知本空,億劫思佛智。窮力極講說,盡壽猶不知,佛慧無邊際,如是致清淨。

          (Kinh: Thanh Văn hoặc Bồ Tát, chẳng thấu hiểu thánh tâm, ví như mù bẩm sinh, muốn dẫn đường người khác. Biển trí huệ Như Lai, sâu rộng không bờ đáy, Nhị Thừa chẳng thể lường, chỉ riêng Phật hiểu rơ. Giả sử hết thảy người, thảy đều cùng đắc đạo, tịnh huệ biết vốn không, ức kiếp suy Phật trí, cạn sức để giảng nói, đến chết vẫn chẳng hay, Phật huệ không ngằn mé, đạt thanh tịnh như thế).

 

          “Thanh Văn hoặc Bồ Tát, mạc năng cứu thánh tâm. Thí như tùng sanh manh, dục hành khai đạo nhân” (Thanh Văn hoặc Bồ Tát, đều chẳng thể thấu hiểu tột cùng thánh tâm. Ví như kẻ mù từ lúc lọt ḷng mà muốn dẫn đường cho người khác). Lại dạy bảo hàng Nhị Thừa và Sơ Phát Tâm Bồ Tát. “Thanh Văn hoặc Bồ Tát”, bất luận quư vị là Thanh Văn, hay là Sơ Phát Tâm Bồ Tát, “mạc năng cứu thánh tâm”, nghĩa là quư vị chẳng thể nghiên cứu rơ ràng tâm Phật được. V́ sao đức Phật phải nói pháp môn Tịnh Độ? Đấy là bi tâm triệt để của đức Phật. Chẳng có pháp môn Tịnh Độ, sẽ chẳng thể phổ độ chúng sanh. Những pháp môn khác đều có thể độ, nhưng các pháp ấy chỉ có thể độ chúng sanh thượng căn lợi trí, chúng sanh trung căn đều chẳng thể tu tập được! [Vậy th́] độ chúng sanh hạ căn bằng cách nào? [Đối với chuyện] phổ độ chúng sanh, chữ Phổ sẽ không thể nói sao cho suông sẻ được. Muốn có thể phổ độ chúng sanh, chẳng do pháp môn Tịnh Độ, sẽ không thể được. Đó là Phật tâm, là đại bi tâm. Quư vị là hàng Nhị Thừa hoặc Sơ Phát Tâm Bồ Tát, sẽ chẳng thể nghiên cứu rơ ràng thánh tâm của Phật. “Thí như tùng sanh manh, dục hành khai đạo nhân” (ví như kẻ mù từ lúc lọt ḷng mà muốn dẫn đường cho người khác): “Sanh manh” (生盲) là người mù [từ lúc lọt ḷng], quư vị muốn làm vị thiện tri thức hướng dẫn người khác, làm người dẫn đường cho chúng sanh, nhưng quư vị là “sanh manh”, làm sao dẫn đường cho chúng sanh được? Quư vị chẳng thấu hiểu Phật tâm, chẳng biết chỗ áo diệu của pháp môn Tịnh Độ, quư vị mong làm thiện tri thức để cứu độ chúng sanh th́ cũng giống như kẻ “sanh manh” làm đạo sư cho chúng sanh vậy!

          “Như Lai trí huệ hải, thâm quảng vô nhai để, Nhị Thừa phi sở trắc, duy Phật độc minh liễu” (biển trí huệ của Như Lai sâu rộng không có bờ hay đáy, hàng Nhị Thừa chẳng thể suy lường được, chỉ riêng có Phật là thấu hiểu). “Như Lai trí huệ hải, thâm quảng vô nhai để” (biển trí huệ của Như Lai sâu rộng không có bờ hay đáy): Muốn nghiên cứu Phật tâm th́ Phật tâm là tâm đại trí huệ. Tâm đại trí huệ ví như biển rộng, nên gọi là “trí huệ hải”, rất sâu chẳng có bờ, mà cũng chẳng có đáy. Chẳng có bờ là rộng lớn; chẳng có đáy là quá sâu. “Nhị Thừa phi sở trắc, duy Phật độc minh liễu” (hàng Nhị Thừa chẳng thể lường được, chỉ riêng Phật là hiểu rơ): Hàng Nhị Thừa chứng đắc A La Hán chẳng thể suy lường trí huệ của Phật được, chỉ có Phật mới có thể hiểu rành rẽ.  

          “Giả sử nhất thiết nhân, cụ túc giai đắc đạo, tịnh huệ tri bổn không, ức kiếp tư Phật trí” (giả sử hết thảy mọi người trọn đều đắc đạo A La Hán, do trí huệ thanh tịnh mà biết [hết thảy các pháp] vốn là Không, trong ức kiếp suy nghĩ trí huệ của Phật). “Giả sử nhất thiết nhân, cụ túc giai đắc đạo”, [hàm ư]: Đừng nói là một vị Thanh Văn hoặc một vị A La Hán chẳng thể biết trí huệ của Phật, mà giả sử hết thảy mọi người, “cụ túc” (trọn đủ), tức là ai nấy đều đắc Tứ Quả A La Hán th́ gọi là “cụ túc giai đắc đạo” (trọn đều đắc đạo). “Tịnh huệ tri bổn không” (trí huệ thanh tịnh biết [hết thảy các pháp] vốn là Không): A La Hán đạt được trí huệ thanh tịnh, Ngài chỉ biết “bổn không”, [tức là] chỉ biết Ngă Không. Ngài biết lư Không căn bản ấy; do đă biết, bèn cho là chính ḿnh có trí huệ, nhưng trí huệ ấy chỉ là trí huệ Thiên Không! “Ức kiếp tư Phật trí” (trong ức kiếp suy nghĩ Phật trí): “Ức kiếp” là một thời gian dài. Dùng một ức đại kiếp để suy tưởng trí huệ của đức Phật sâu rộng cỡ nào!

          “Cùng lực cực giảng thuyết, tận thọ do bất tri, Phật huệ vô biên tế, như thị trí thanh tịnh” (tận hết sức cực lực giảng nói, cho đến hết tuổi thọ vẫn không biết, trí huệ của Phật không có ngằn mé, do như vậy nên mới đạt đến thanh tịnh): Hết thảy mọi người đều chứng A La Hán, đều ở tại đó dốc cạn sức lực để nói, để giảng trí huệ của Phật to cỡ nào th́ sao? “Tận thọ do bất tri” (hết tuổi thọ vẫn chẳng biết): Nói cho khi tuổi thọ đă hết, báo tận, vẫn chẳng thể biết trí huệ của Phật. “Phật huệ vô biên tế, như thị trí thanh tịnh” (trí huệ của Phật chẳng có ngằn mé, do như vậy nên mới đạt được thanh tịnh). V́ trí huệ của Phật chẳng có ngằn mé, mà cũng chẳng có bờ, đáy, rộng lớn rất sâu, nên mới có thể “trí thanh tịnh” (đạt đến thanh tịnh), mới có thể đạt được cơi Phật thanh tịnh.

 

2.2.3.2.2.2.2.3. Dùng Lư để khuyên dạy (gồm ba bài kệ)

 

          (Kinh) Thọ mạng thậm nan đắc, Phật thế diệc nan trị, nhân hữu tín huệ nan, nhược văn tinh tấn cầu. Văn pháp năng bất vong, kiến kính đắc đại khánh, tắc ngă thiện thân hữu, thị cố đương phát ư. Thiết măn thế giới hỏa, tất quá yếu văn pháp, hội đương thành Phật đạo, quảng độ sanh tử lưu.

          ()壽命甚難得,佛世亦難值,人有信慧難,若聞精進求。聞法能不忘,見敬得大慶,則我善親友,是故當發意。設滿世界火,必過要聞法,會當成佛道,廣度生死流。

          (Kinh: Thọ mạng rất khó được, Phật tại thế khó gặp, khó có kẻ trí huệ, nếu nghe, tinh tấn cầu, nghe pháp chẳng quên mất, thấy, kính, đạt vui lớn, thiện thân hữu của ta. V́ thế, nên phát tâm, dẫu thế giới toàn lửa, ắt vượt qua nghe pháp, sẽ có thể thành Phật, rộng độ ḍng sanh tử).

 

          “Thọ mạng thậm nan đắc” (thọ mạng rất khó có): Đức Phật lại chỉ dạy, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đại từ đại bi, bi tâm vô lượng chỉ dạy chúng ta, chỉ sợ chúng ta nghe pháp này mà chẳng tinh tấn. Quư vị phải biết, người học Phật pháp tu hành, dụng công, có ba cửa ải khó khăn:

          1) Thứ nhất là thọ mạng khó có. V́ thọ mạng trong thế giới Sa Bà ngắn ngủi, đại bộ phận con người chẳng sống tới một trăm tuổi. Dẫu quư vị sống đến một trăm hai mươi tuổi đi nữa, trong khoảng sát-na đă qua, thọ mạng khó có!        2) Thứ hai, khó gặp Phật tại thế. Phật pháp tồn tại trên thế gian, Chánh Pháp là một ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm, Mạt Pháp một vạn năm. Đời này quư vị chẳng tu hành, chẳng cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, vừa xoay vần th́ pháp vận một vạn hai ngàn năm đă qua, quư vị có muốn học Phật pháp cũng chẳng có. “Phật thế diệc nan trị” [nghĩa là] khó gặp Phật tại thế, quư vị khó thể gặp gỡ.

          3) “Nhân hữu tín huệ nan” (khó có kẻ có tín huệ). Hiện thời, ta c̣n có thọ mạng, chưa chết, Phật pháp mới trải qua hơn hai ngàn năm, tuy đă khởi đầu thời Mạt Pháp, đức Phật tại thế ta cũng đă gặp gỡ, nhưng c̣n có cửa ải khó khăn thứ ba. Vừa có tín tâm vừa có trí huệ rất khó, v́ sao đă gặp pháp môn Tịnh Độ mà quư vị chẳng tin tưởng? V́ quư vị chẳng có trí huệ! Có trí huệ th́ quư vị mới có thể tin tưởng, đó gọi là “tín huệ rất khó”. Hiện thời, đối với cửa ải thứ ba là cửa ải cuối cùng, quư vị cũng tin tưởng, chứng tỏ quư vị có trí huệ, mới có thể nghe pháp môn Tịnh Độ này. Đă nghe pháp môn Tịnh Độ này, quư vị phải tinh tấn cầu sanh Tây Phương. Nghe mà chẳng tinh tấn tu hành th́ cũng như chẳng nghe!

          “Văn pháp năng bất vong, kiến kính đắc đại khánh, tắc ngă thiện thân hữu, thị cố đương phát ư” (nghe pháp mà có thể chẳng quên, đă gặp [pháp môn Tịnh Độ] bèn cung kính, đạt được niềm vui to lớn, th́ người ấy là bạn thân tốt lành của ta. V́ thế, hăy nên phát tâm). “Văn pháp năng bất vong” (nghe pháp mà có thể chẳng quên): Đức Phật lại chỉ dạy chúng ta, quư vị nghe pháp môn Tịnh Độ mà có thể chẳng quên mất, thường xuyên nghĩ nhớ trong tâm. “Kiến kính đắc đại khánh”: Nếu quư vị nghe pháp môn Tịnh Độ mà dấy ḷng cung kính, nhất định sẽ đạt được sự vui mừng to lớn. “Tắc ngă thiện thân hữu” (là bạn thân tốt nhất của ta): Quư vị sẽ là thân hữu tốt lành nhất của Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật đúng là đại từ đại bi! “Thị cố đương phát ư” (do vậy, hăy nên phát tâm): Vậy th́ quư vị chẳng muốn làm bằng hữu thân nhất, tốt lành nhất của Thích Ca Mâu Ni Phật ư? “Thị cố” (do vậy), do lẽ này, quư vị hăy nên ngay lập tức phát tâm, “đương phát ư” là phát tâm, phải phát tâm cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới nhé!

          “Thiết măn thế giới hỏa, tất quá yếu văn pháp, hội đương thành Phật đạo, quảng độ sanh tử lưu” (giả sử cả thế giới lửa ngập tràn, ắt phải vượt qua để nghe pháp, sẽ có thể thành tựu Phật đạo, rộng độ chúng sanh trong gịng sanh tử): Trong phần trên, câu “thị cố đương phát ư” (do vậy, hăy nên phát tâm) nhằm dạy chúng ta hăy nên phát đại nguyện. Bài kệ tụng cuối cùng này nhằm mong chúng ta hăy lập thệ. “Thiết măn thế giới hỏa, tất quá yếu văn pháp”, [nghĩa là] giả sử trọn khắp thế giới đều là lửa lớn, quư vị phải lướt qua trận lửa lớn ngập tràn thế giới ấy th́ mới có thể đến Tây Phương Cực Lạc thế giới nghe pháp, ta quyết định phải vượt qua. “Hội đương thành Phật đạo, quảng độ sanh tử lưu”, [ư nói]: Như vậy th́ quư vị mới có thể sanh về Tây Phương, mới có thể thành Phật đạo. Thành Phật đạo th́ mới có thể rộng độ chúng sanh vượt thoát gịng sanh tử.

          Đă giảng xong phần kệ tụng, nay tôi nói đến phần kinh văn Trường Hàng. Phần kinh văn Trường Hàng này nhằm quy nạp những điều đă nói trong phần trước: Tây Phương Cực Lạc thế giới thù thắng, an lạc như thế nào, thành tựu công đức như thế nào? [Những điều ấy được] quy nạp lại, chia thành tám đoạn văn. Cả tám đoạn văn này đều là tổng kết, tán thán sự an lạc thù thắng trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trong phần trước đă nói rồi, nhắc lại lần nữa để làm ǵ? Đấy chính là bi tâm khẩn thiết của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, chỉ sợ chúng ta không tin, Ngài bèn nhắc lại, hy vọng tín tâm của chúng ta sẽ kiên cố. Do tín tâm kiên cố, sẽ có thể phát nguyện văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Điều này cần tới nguyện lực khẩn thiết. Đă có tín tâm, lại có nguyện lực, sẽ nhất tâm tŕ niệm thánh hiệu A Di Đà Phật. Đấy gọi là tu hành.

          Ba chữ Tín, Nguyện, Hạnh là ba tư lương để văng sanh Tây Phương. “Tư lương” (資糧) là tỷ dụ, chúng ta ra khỏi cửa đi đường xa, nhất định phải giắt theo mấy đồng tiền, c̣n phải mang theo đồ ăn, đấy là “tư lương”. Sanh về Tây Phương th́ sao? Cũng cần phải có tư lương. Ba pháp Tín, Nguyện, Hạnh là tư lương để sanh về Tây Phương. Tín, Hạnh, Nguyện là ba tư lương của Tịnh Độ, giống như cái đỉnh có đủ ba chân, thiếu một chân sẽ không được. Đỉnh () là cái ḷ để đốt hương, phía dưới có ba cái chân, thiếu một chân sẽ không được. Nhưng điều quan trọng nhất là tín tâm và nguyện lực; có thể sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới hay không, hoàn toàn cậy vào tín tâm và nguyện lực. Đă có tín tâm, lại có nguyện lực, quư vị tu hành, tu hành là tŕ niệm thánh hiệu A Di Đà Phật, quư vị niệm nhiều hay ít, chẳng có ai không sanh về Tây Phương. V́ quư vị đă có tín tâm, lại nguyện lực, niệm nhiều hay ít đều có thể sanh Tây Phương. Bởi lẽ, trong phần trước đă nói, “mười niệm có thể văng sanh”, “một niệm cũng có thể văng sanh”. “Niệm” ở đây là tu hành. Điều quan trọng nhất là tín tâm phải kiên cố, nguyện lực phải khẩn thiết. Đấy là nói đến tín tâm và nguyện lực trước hết, [v́ chúng] khá trọng yếu; trên thực tế, đối với ba pháp, chẳng thể coi trọng hay coi nhẹ [pháp nào] được, như ba chân của cái đỉnh, khuyết một chân ở phía nào th́ sao? Nó sẽ lệch về phía đó. Quư vị chớ nên nghe kẻ nào nói tu hành niệm danh hiệu A Di Đà Phật th́ nhất định là phải [niệm] bao nhiêu đó! Mười niệm có thể văng sanh, một niệm cũng có thể văng sanh, vậy th́ [nghe nói như vậy, bèn tưởng] cứ niệm hời hợt, qua loa là được rồi. Nếu quư vị nghĩ như vậy, vẫn chẳng thể sanh về Tây Phương! V́ sao? Điều này chứng tỏ tín tâm của quư vị chẳng đủ kiên cố, nguyện lực chẳng đủ khẩn thiết. Tín tâm kiên cố, nguyện lực khẩn thiết, chắc chắn là sẽ chẳng niệm Phật qua quít, hời hợt. Kinh nói mười niệm có thể văng sanh, một niệm cũng có thể văng sanh, đấy là cường điệu tán thán đại nguyện lực của A Di Đà Phật. Trên thực tế, chúng ta có thể niệm bao nhiêu bèn tận hết sức niệm bấy nhiêu! Mỗi người một ngày niệm mấy ngàn tiếng, đấy là chuyện b́nh thường. Niệm một vạn câu, hay ba vạn câu, cũng là chuyện b́nh thường. Cổ đức có những vị mỗi ngày niệm mười vạn câu A Di Đà Phật.

          Có một vị cư sĩ hỏi tôi, [ông ta] nghe tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ, muốn niệm Vô Lượng Thọ Phật, nhưng do b́nh thường niệm A Di Đà Phật, bèn hỏi tôi có phải thay đổi hay không? Tôi nói không cần thay đổi! Tịnh Độ Tông có ba bộ kinh, niệm danh hiệu A Di Đà Phật là dựa theo kinh A Di Đà để niệm. So sánh th́ niệm A Di Đà Phật là niệm danh hiệu bằng tiếng Phạn, tốt hơn niệm danh hiệu phiên dịch là Vô Lượng Thọ. Tốt như thế nào? A Di Đà Phật dịch nghĩa thành Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang. Kinh Vô Lượng Thọ dịch [danh hiệu Phật] thành Vô Lượng Thọ Phật, đă lược mất ư nghĩa Vô Lượng Quang. Trong thực tế, phần kinh văn đă được giảng trong những phần trước có ư nghĩa Vô Lượng Quang, chẳng phải là [đức Phật] đă nói [về Vô Lượng Quang] rất nhiều đấy ư? Nhưng khi quư vị niệm Vô Lượng Thọ Phật th́ đă lược bớt Vô Lượng Quang, cho nên chẳng bằng niệm A Di Đà theo âm tiếng Phạn. A Di Đà Phật trọn đủ ư nghĩa vô lượng thọ và vô lượng quang. Vô Lượng Thọ là nói đến niên đại theo chiều dọc, mang ư nghĩa “theo chiều dọc, trọn khắp ba đời”. Vô Lượng Quang là “theo chiều ngang, trọn khắp mười phương”. Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang gộp lại là bản thể của pháp giới, bao gồm hết thảy vô lượng pháp, hết thảy vô lượng công đức đều được gộp trong bản thể của pháp giới ấy. V́ thế, quư vị niệm một câu A Di Đà Phật, sẽ có thể vượt thoát trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử, sức công đức to ngần ấy. Trong Thập Lục Quán Kinh, phần nói về HPhẩm Trung Sanh đă nói rơ ràng: Niệm một câu A Di Đà Phật sẽ giống như là bản thể của pháp giới, hết thảy vô lượng công đức đều trọn đủ trong một câu danh hiệu ấy.

 

2.2.3.3. Lại nói về chuyện nhiếp độ người căn cơ bậc hạ cùng văng sanh

2.2.3.3.1. Rộng nêu những chuyện thù thắng nhiệm mầu trong cơi Vô Lượng Thọ Phật khiến cho mọi người nguyện cầu

2.2.3.3.1.1. Rộng nêu những sự vui thù thắng trong cơi Vô Lượng Thọ

2.2.3.3.1.1.1. Nêu rơ thọ mạng dài lâu trong cơi ấy

 

          (Kinh) Phật cáo A Nan: - Bỉ quốc Bồ Tát, giai đương cứu cánh Nhất Sanh Bổ Xứ, trừ kỳ bổn nguyện vị chúng sanh cố, dĩ hoằng thệ công đức nhi tự trang nghiêm, phổ dục độ thoát nhất thiết chúng sanh.   

          ()佛告阿難:彼國菩薩,皆當究竟一生補處,除其本願為眾生故,以弘誓功德,而自莊嚴,普欲度脫一切眾生。

   (Kinh: Đức Phật bảo ngài A Nan: - Bồ Tát trong cơi ấy sẽ đều là rốt ráo Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, trừ khi do bổn nguyện chúng sanh của chính ḿnh dùng công đức của thệ nguyện rộng lớn để tự trang nghiêm, muốn độ thoát trọn khắp hết thảy chúng sanh).

 

          Đoạn văn trên đây trong phần trước cũng đă từng nói rồi, nay lại khuyến thỉnh chư vị tín tâm phải kiên cố, nguyện lực phải khẩn thiết rồi mới phát tâm niệm danh hiệu của Phật. Nay tôi sẽ giảng kinh văn, trước hết là nói về đoạn thứ nhất: “Phật cáo A Nan” (đức Phật bảo ngài A Nan), bảo ngài A Nan th́ cũng là như bảo mọi người chúng ta. “Bỉ quốc Bồ Tát giai đương cứu cánh Nhất Sanh Bổ Xứ” (hàng Bồ Tát trong nước ấy sẽ đều rốt ráo Nhất Sanh Bổ Xứ): Trong phần trước đă từng nói [chuyện này], ở đây nhắc lại, tức là câu này hết sức khẩn yếu đối với người sanh về Tây Phương. “Trừ kỳ bổn nguyện” [nghĩa là] trừ phi vị Bồ Tát sanh về Tây Phương có bổn nguyện riêng. Ví như Đạo Nguyên tôi phát nguyện sanh về Tây Phương, đó là bổn nguyện của tôi. Bổn nguyện là ǵ? Chính là sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, thấy A Di Đà Phật, nghe A Di Đà Phật thuyết pháp, cũng chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Sau khi đă chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, tôi sẽ trở lại thế giới Sa Bà để độ chúng sanh. Đấy là bổn nguyện của tôi. Mỗi vị Bồ Tát đều có bổn nguyện. Trừ phi do bổn nguyện của vị ấy, “vị chúng sanh cố, dĩ hoằng thệ công đức, nhi tự trang nghiêm, phổ dục độ thoát nhất thiết chúng sanh” (do v́ chúng sanh mà dùng công đức của thệ nguyện rộng lớn, muốn độ thoát trọn khắp hết thảy chúng sanh), vị ấy chẳng muốn ở Tây Phương Cực Lạc thế giới chờ đợi làm một vị Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát. Vị ấy đă chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn th́ cũng có thể trở về nước ḿnh để độ chúng sanh. Trừ những vị Bồ Tát có bổn nguyện riêng; nếu sống lâu ngày trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, những vị Bồ Tát ấy đều có thể đạt đến địa vị Bổ Xứ ngay trong một đời. Nhất Sanh Bổ Xứ th́ trong phần trên đă có nói rồi, chính là ngay trong một đời sẽ được bổ xứ vào địa vị Phật, giống như địa vị của Di Lặc Bồ Tát trong thế giới Sa Bà vậy, trong tương lai, vị sẽ thành Phật là Di Lặc Bồ Tát. Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc chẳng thể dùng toán số mà ḥng biết được, có thể nói là nhiều vô lượng vô biên, tức là đầy ắp trong thế giới ấy toàn là bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát.

          Các Ngài tu như thế nào cũng đều có thể đạt đến Nhất Sanh Bổ Xứ, v́ thọ mạng vô lượng. Thọ mạng của A Di Đà Phật là vô lượng, nhân dân của Ngài cũng có thọ mạng vô lượng. Do thọ mạng dài lâu, nhất định sẽ có thể tu đạt đến Nhất Sanh Bổ Xứ. Thọ mạng dài lâu, lại có thể dụng công tinh tấn, cho nên chỉ có tiến bộ, chẳng bị thoái chuyển. Đấy c̣n là một đại nhân duyên. Sanh về Tây Phương đều là Bất Thoái Chuyển, đầy khắp thế giới đều là bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, tức là như kinh A Di Đà đă nói, chư thượng thiện nhân tụ hội một chỗ. Chúng ta mới sanh về Tây Phương, chẳng phải là Nhất Sanh Bổ Xứ, v́ chúng ta là phàm phu đới nghiệp văng sanh. Đới nghiệp văng sanh, sanh về Tây Phương, làm đạo hữu của bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, đấy là một đại nhân duyên vô thượng để tu hành. Quư vị muốn lui sụt, cũng chẳng thể lui sụt. Quư vị muốn chẳng tiến bộ cũng vẫn tiến bộ v́ hàng Nhất Sanh Bổ Xứ làm đạo hữu của quư vị.

 

2.2.3.3.1.1.2. Nêu rơ quang minh thù thắng, nhiệm mầu của đại chúng bên đó

 

          (Kinh) A Nan! Bỉ Phật quốc trung chư Thanh Văn chúng, thân quang nhất tầm, Bồ Tát quang minh chiếu bách do-tuần. Hữu nhị Bồ Tát, tối tôn đệ nhất, oai thần quang minh, phổ chiếu tam thiên đại thiên thế giới.

          A Nan bạch Phật: - Bỉ nhị Bồ Tát, kỳ hiệu vân hà?

          Phật ngôn: - Nhất danh Quán Thế Âm, nhị danh Đại Thế Chí. Thử nhị Bồ Tát ư thử quốc độ, tu Bồ Tát hạnh, mạng chung chuyển hóa, sanh bỉ Phật quốc.

          ()阿難!彼佛國中諸聲聞眾,身光一尋。菩薩光明照百由旬。有二菩薩,最尊第一,威神光明,普照三千大千世界。阿難白佛:彼二菩薩,其號云何?佛言:一名觀世音,二名大勢至。此二菩薩,於此國土,修菩薩行,命終轉化, 生彼佛國。

          (Kinh: Này A Nan! Các vị Thanh Văn trong cơi Phật ấy quang minh nơi thân chiếu xa một tầm, quang minh của Bồ Tát chiếu một trăm do-tuần. Có hai vị Bồ Tát, tôn quư bậc nhất, oai thần, quang minh chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới.

          Ngài A Nan bạch Phật: - Hai vị Bồ Tát ấy danh hiệu như thế nào?

          Đức Phật nói: - Vị thứ nhất tên là Quán Thế Âm, vị thứ hai tên là Đại Thế Chí. Hai vị Bồ Tát ấy ở trong quốc độ này tu Bồ Tát hạnh, mạng chung chuyển hóa, sanh sang nước Phật ấy).

 

          Đức Phật gọi bậc đương cơ một tiếng: “A Nan! Bỉ Phật quốc trung chư Thanh Văn chúng, thân quang nhất tầm” (này A Nan! Các vị Thanh Văn trong cơi Phật ấy, quang minh nơi thân chiếu xa một tầm). Đoạn thứ hai nói đến chúng sanh trong cơi ấy, tức là chúng Thanh Văn, trên thân đều có quang minh. Quang minh nơi thân của chúng Thanh Văn chiếu xa một tầm. Một Tầm () là tám thước, chỉ chiếu xa tám thước như vậy. Quang minh của Bồ Tát lớn hơn, quang minh của Bồ Tát chiếu xa một trăm do-tuần.

          “Do-tuần” (Yojana)[3]: Tiểu do-tuần là bốn mươi dặm, “bách do-tuần”[tối thiểu] chiếu xa bốn ngàn dặm. Ở đây, lại giới thiệu hai vị đại Bồ Tát. “Hữu nhị Bồ Tát, tối tôn đệ nhất” (có hai vị Bồ Tát tôn quư bậc nhất): Tây Phương Cực Lạc thế giới có rất nhiều Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, nhưng trong đó, có hai vị thượng tọa thủ lănh, tôn quư bậc nhất. “Oai thần quang minh, phổ chiếu tam thiên đại thiên thế giới” (oai thần, quang minh chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới): Quang minh của những vị Bồ Tát khác chỉ chiếu xa một trăm do-tuần, hai vị Bồ Tát này oai đức thần thông và quang minh có thể chiếu thấu trọn khắp tam thiên đại thiên thế giới.

          “A Nan bạch Phật ngôn: - Bỉ nhị Bồ Tát, kỳ hiệu vân hà?” (ngài A Nan bạch đức Phật rằng: - Hai vị Bồ Tát ấy danh hiệu như thế nào?) Ngài A Nan hỏi, tức là tôn giả A Nan và đức Phật biểu diễn ở nơi đó, hoằng dương pháp hóa, một xướng, một họa! Ngài A Nan hỏi đức Phật giống như hỏi thay cho chúng ta, muốn chúng ta đặc biệt chú ư đức hiệu của hai vị Bồ Tát ấy. Thật ra, ngài A Nan không hỏi đức Phật, đức Phật vẫn sẽ bảo cho Ngài biết, vậy th́ v́ sao Ngài c̣n phải hỏi? V́ ngài A Nan hỏi để chúng ta đặc biệt chú ư tới đức hiệu của hai vị Bồ Tát ấy.

          “Phật ngôn: - Nhất danh Quán Thế Âm, nhị danh Đại Thế Chí” (đức Phật nói: - Vị thứ nhất tên là Quán Thế Âm, vị thứ hai là Đại Thế Chí), nói đến Tây Phương Tam Thánh, phía sau giảng đường thờ ba vị này. Chính giữa là A Di Đà Phật, vị bên trái đức Phật là Quán Thế Âm Bồ Tát, vị bên kia là Đại Thế Chí Bồ Tát. Lại xem hai câu kế tiếp càng quan trọng hơn nữa: “Thử nhị Bồ Tát, ư thử quốc độ, tu Bồ Tát hạnh, mạng chung chuyển hóa, sanh bỉ Phật quốc” (hai vị Bồ Tát ấy tu Bồ Tát hạnh trong quốc độ này, mạng chung chuyển hóa, sanh sang cơi kia). [Nói] “thử quốc”“bỉ quốc” nhằm đối chiếu. “Bỉ quốc” (cơi kia) là Tây Phương Cực Lạc thế giới; thử quốc” (cơi này) là thế giới Sa Bà của chúng ta. Hai vị đại Bồ Tát này là Bồ Tát trong thế giới Sa Bà, tu Bồ Tát hạnh là tu trong thế giới Sa Bà. Các Ngài phát nguyện sanh về Tây Phương, sau khi mạng chung bèn chuyển hóa sanh sang nước Phật ấy.

          Từ hai câu kinh văn này, chúng ta biết: V́ sao Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát đặc biệt có duyên với chúng ta? V́ các Ngài vốn là Bồ Tát trong thế giới Sa Bà, sanh sang Tây Phương, đă đắc đạo, vẫn phải trở về thế giới Sa Bà để độ chúng sanh. Do vậy, chúng ta đặc biệt có duyên với các Ngài. A Di Đà Phật có duyên với chúng ta. Ngoài ra, so sánh giữa hai vị Bồ Tát này, Quán Thế Âm Bồ Tát lại càng hữu duyên với chúng ta. Xét theo những điều được nói trong kinh này, hăy c̣n có danh hiệu của những vị Bồ Tát khác, nhưng có thể là quư vị đọc xong, chẳng thể nhớ được, càng có thể là nay vừa đọc, đă ngay lập tức chẳng nhớ nữa. Nhưng người niệm kinh nhớ danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát th́ chẳng kể, chứ người chẳng niệm kinh cũng nhớ. V́ sao vậy? Là v́ ở Trung Hoa có hai câu: “Nhân nhân A Di Đà, gia gia Quán Thế Âm” (người người A Di Đà, nhà nhà Quán Thế Âm). Hai câu ấy có nghĩa là ai nấy đều biết niệm A Di Đà Phật, mọi nhà đều thờ tượng Quán Thế Âm Bồ Tát. V́ sao chẳng thờ tượng Phật và Bồ Tát khác? Là v́ A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát đặc biệt có duyên với chúng sanh trong cơi này, do kết duyên đặc biệt nhiều!

 

2.2.3.3.1.1.3. Nêu rơ thân tướng trọn đủ của chúng sanh nơi ấy

 

          (Kinh) A Nan! Kỳ hữu chúng sanh, sanh bỉ quốc giả, giai tất cụ túc tam thập nhị tướng.

          ()阿難!其有眾生,生彼國者,皆悉具足三十二相

          (Kinh: Này A Nan! Nếu có chúng sanh sanh vào cơi ấy, thảy đều trọn đủ ba mươi hai tướng).

 

          Đoạn thứ ba lại tán thán: “A Nan! Kỳ hữu chúng sanh, sanh bỉ quốc giả, giai tất cụ túc tam thập nhị tướng” (này A Nan! Nếu có chúng sanh sanh vào cơi ấy, thảy đều trọn đủ ba mươi hai tướng). Một kẻ phàm phu lè tè sát đất sanh về Tây Phương, ngay lập tức liên hoa hóa sanh. Ngoài liên hoa hóa sanh ra, c̣n là ba mươi hai thứ tướng đại nhân. Ba mươi hai tướng là tướng hảo giống hệt như Thích Ca Mâu Ni Phật.

          Trong những phần trước, [kinh văn] đă đôi ba lượt nhắc đi nhắc lại, nhất là đối với những vị đă quen nghe kinh, quư vị có thể cảm thấy ba mươi hai tướng ấy chẳng có ǵ là hiếm hoi, lạ lùng! Hoặc có thể là quư vị cảm thấy kinh nói đến tướng của Phật, Bồ Tát chẳng có ǵ hiếm hoi, lạ lùng. Quư vị chẳng biết: Muốn sanh ra mà có được ba mươi hai tướng ấy, đúng là chẳng dễ dàng! Thích Ca Mâu Ni Phật tu hành trong thế giới Sa Bà, phải tu ba đại A-tăng-kỳ kiếp mới có thể tu thành Phật, nhưng muốn độ chúng sanh mà chẳng có tướng hảo trang nghiêm th́ sẽ không được. Ngài lại tu tướng hảo thêm một trăm [đại] kiếp nữa. Một trăm đại kiếp, thời gian dài lắm đấy! Tu ba đại A-tăng-kỳ kiếp viên măn, đă thành Phật, lại c̣n phải tu hành thêm một trăm đại kiếp nữa nhằm chuyên cầu ba mươi hai tướng, khó khăn như thế đó! Quư vị bèn hiểu: Muốn đạt được ba mươi hai tướng, chẳng dễ dàng đâu nhé! Sanh về Tây Phương, là một kẻ phàm phu lè tè sát đất, hoa sen vừa nở bèn có ba mươi hai tướng th́ chỉ trong Tây Phương Cực Lạc thế giới mới có sự diệu lạc thù thắng như thế đó!

 

2.2.3.3.1.1.4. Nêu rơ trí đức thù thắng của đại chúng trong cơi ấy

 

          (Kinh) Trí huệ thành măn, thâm nhập chư pháp, cứu sướng yếu diệu, thần thông vô ngại, chư căn minh lợi. Kỳ độn căn giả, thành tựu nhị Nhẫn. Kỳ lợi căn giả, đắc bất khả kế Vô Sanh Pháp Nhẫn.

          ()智慧成滿,深入諸法,究暢要妙,神通無礙,諸根明利。其鈍根者,成就二忍。其利根者,得不可計無生法忍。

          (Kinh: Trí huệ thành tựu viên măn, thâm nhập các pháp, thông đạt thấu suốt các pháp trọng yếu, nhiệm mầu, thần thông vô ngại, các căn sáng suốt, nhạy bén. Kẻ độn căn thành tựu hai món Nhẫn, bậc lợi căn đắc chẳng thể tính Vô Sanh Pháp Nhẫn).

 

          Nói đến đoạn thứ tư, “trí huệ thành măn” (trí huệ thành tựu viên măn): Chúng sanh sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, cầu trí huệ, đều có thể thành tựu trí huệ viên măn. “Thâm nhập chư pháp” (thâm nhập các pháp): V́ có trí huệ rất sâu, họ mới có thể thâm nhập các pháp. “Cứu sướng yếu diệu” (thông đạt rốt ráo pháp trọng yếu, mầu nhiệm): Đối với chỗ rất sâu, chỗ ảo diệu nhất của các pháp, đều thể thông suốt, liễu đạt rốt ráo. “Thần thông vô ngại”: Đă có trí huệ th́ sẽ có thần thông, do thần thông bèn có thể chẳng bị chướng ngại. Trong phần trước tôi đă nói, học Phật pháp đừng nên cầu thần thông, hăy cầu trí huệ trước đă! Phối hợp hai pháp trí huệ và thần thông để nói th́: “Trí huệ là căn bản của thần thông, thần thông là diệu dụng của trí huệ”. Quư vị chứng đắc trí huệ, sẽ tùy ư tự nhiên dấy lên thần thông. Hăy ghi nhớ hai câu giải thích này. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, trí huệ thành tựu. Hễ có trí huệ, thần thông sẽ tự nhiên vô chướng, vô ngại, thần thông dấy khởi diệu dụng mà!

          Nhưng chúng sanh sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, căn cơ khác nhau. Trước khi thành tựu trí huệ và có thần thông, căn cơ vẫn có sai biệt. “Chư căn minh lợi” (các căn sáng suốt, nhạy bén): Đă đạt đến trí huệ thành tựu, thần thông vô ngại, chúng sanh nào cũng đều là “chư căn minh lợi”, tức là sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư đều sáng suốt, nhạy bén. Điều căn bản là trí huệ và thần thông có ǵ khác biệt với khi chưa thành tựu? Kẻ độn căn chỉ có thể thành tựu hai thứ Nhẫn. Trong phần trước, [kinh văn] đă nói ba thứ Nhẫn, thứ nhất là Âm Hưởng Nhẫn, thứ hai là Nhu Thuận Nhẫn; [kẻ độn căn có thể] thành tựu [hai món Nhẫn ấy]. Bậc lợi căn có thể thành tựu ba loại Nhẫn, có thể đạt được chẳng thể tính kể Vô Sanh Pháp Nhẫn.

 

2.2.3.3.1.1.5. Nêu rơ người sanh về cơi ấy vĩnh viễn ĺa khỏi đường ác

         

          (Kinh) Hựu bỉ Bồ Tát, năi chí thành Phật, bất thọ ác thú. Thần thông tự tại, thường thức túc mạng. Trừ sanh tha phương ngũ trược ác thế, thị hiện đồng bỉ, như ngă quốc dă.

          ()又彼菩薩,乃至成佛,不受惡趣。神通自在,常識宿命。除生他方五濁惡世,示現同彼,如我國也。

          (Kinh: Lại nữa, các vị Bồ Tát ấy cho đến khi thành Phật, chẳng sanh trong đường ác. Thần thông tự tại, thường biết túc mạng. Trừ khi sanh trong đời ác ngũ trược, thị hiện giống như họ, giống như [sanh vào] nước ta vậy).

 

          Đoạn thứ năm, “hựu bỉ Bồ Tát, năi chí thành Phật, bất thọ ác thú” (lại nữa, các vị Bồ Tát ấy cho đến khi thành Phật, chẳng sanh trong đường ác): Tây Phương Cực Lạc thế giới có một thứ công đức thành tựu là chẳng có ba ác đạo. Chỉ cần quư vị sanh về Tây Phương, sẽ vĩnh viễn chẳng thọ quả báo trong đường ác. “Thần thông tự tại, thường thức túc mạng” (thần thông tự tại, thường biết túc mạng): Sáu loại thần thông đều được tự tại, trong đó có một loại là Túc Mạng Thông, tức là chuyện trong đời trước, kiếp trước, hoặc nhiều đời, nhiều kiếp trước, người ấy đều biết. V́ thế, người ấy sẽ chẳng dấy lên ác niệm, chẳng tạo ác nghiệp nữa. V́ khởi ác niệm, tạo ác nghiệp, cho nên mới có thể gặp quả báo trong ba ác đạo. Sanh về Tây Phương, người ấy đắc Túc Mạng Thông, tự quan sát chính ḿnh đời trước, kiếp trước đă từng đọa trong ba ác đạo, tự ḿnh hổ thẹn chẳng kịp, lẽ nào lại c̣n sanh ác niệm, lại c̣n tạo ác nghiệp nữa ư? Do vậy, người ấy vĩnh viễn ĺa khỏi ác đạo. Trừ khi người ấy là bậc Bồ Tát có bổn nguyện chẳng ở trong Cực Lạc, muốn thị hiện sanh trong đời ác ngũ trược ở phương khác để cứu độ chúng sanh. “Trừ sanh tha phương ngũ trược ác thế, thị hiện đồng bỉ, như ngă quốc dă” (trừ khi sanh trong đời ác ngũ trược nơi phương khác, thị hiện giống như họ, như sanh trong nước ta vậy): Đời ác ngũ trược ở những thế giới phương khác rất nhiều, thế giới Sa Bà chỉ là một cơi [trong số đó]. Ở đây, Phật Thích Ca lấy thế giới Sa Bà làm thí dụ. Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đă chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, chẳng phải là muốn trở lại độ chúng sanh ư? Nhưng v́ sao chúng ta đều chẳng trông thấy? Có ai thấy chư Phật, Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới có h́nh dạng như thế nào hay chăng? Chẳng có ai thấy cả! V́ các Ngài thị hiện giống như chúng sanh trong đời ác ngũ trược. Thế nhưng, do các Ngài là thị hiện, cho nên chẳng thọ quả báo trong đường ác.

          Từ thời Dân Quốc đến nay, có một vị pháp sư đề xướng Tịnh Độ Tông là Ấn Quang đại sư, mọi người đều cùng suy tôn Ngài là tổ sư đời thứ mười ba của Tịnh Độ Tông. Lúc Ngài tại thế, có người nói Ngài là Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai. V́ khi Ngài đả Phật Thất tại Thượng Hải, có kẻ nằm mộng, mơ thấy có người bảo kẻ đó: “Đại Thế Chí Bồ Tát đang chuyển pháp luân tại Thượng Hải, sao ngươi không ngay lập tức sang Thượng Hải thân cận Đại Thế Chí Bồ Tát?” Giấc mộng ấy không đơn giản! B́nh thường người ấy cũng chưa hề nằm mộng như vậy, mà cũng chẳng hề niệm Đại Thế Chí Bồ Tát, v́ sao lại nằm mộng như vậy? Do đó, chẳng thể nào không vội vă sang Thượng Hải t́m Đại Thế Chí Bồ Tát. Đă tới Thượng Hải, [tin tức] rúng động toàn thể Thượng Hải là Ấn Quang đại sư từ Tô Châu lên Thượng Hải, đả Phật Thất, giảng khai thị, người ấy bèn chắc chắn pháp sư Ấn Quang là Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai, nhưng Ngài thị hiện giống như chúng ta, vẫn là một vị ḥa thượng b́nh phàm!

 

2.2.3.3.1.1.6. Nêu rơ người sanh về cơi ấy có thể hưng khởi sự cúng dường

 

          (Kinh) Phật ngữ A Nan: - Bỉ quốc Bồ Tát, thừa Phật oai thần, nhất thực chi khoảnh, văng nghệ thập phương vô lượng thế giới, cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn, tùy tâm sở niệm, hoa hương, kỹ nhạc, y cái, tràng phan, vô số vô lượng cúng dường chi cụ, tự nhiên hóa sanh, ứng niệm tức chí. Trân diệu thù đặc, phi thế sở hữu, triếp dĩ phụng tán chư Phật, cập chư Bồ Tát, Thanh Văn chi chúng. Tại hư không trung, hóa thành hoa cái, quang sắc dục thước, hương khí phổ huân. Kỳ hoa châu viên tứ bách lư giả. Như thị chuyển bội, năi phú tam thiên đại thiên thế giới, tùy kỳ tiền hậu, dĩ thứ hóa một. Kỳ chư Bồ Tát, thiêm nhiên hân duyệt. Ư hư không trung, cộng tấu thiên nhạc, dĩ vi diệu âm, ca thán Phật đức, thính thọ kinh pháp, hoan hỷ vô lượng. Cúng dường Phật dĩ, vị thực chi tiền, hốt nhiên khinh cử, hoàn kỳ bổn quốc.

          ()佛語阿難:彼國菩薩,承佛威神,一食之頃,往詣十方無量世界,恭敬供養諸佛世尊。隨心所念,華香、伎樂、衣蓋、幢旛,無數無量供養之具,自然化生,應念即至。珍妙殊特,非世所有。輒以奉散諸佛,及諸菩薩聲聞之眾。在虛空中化成華蓋,光色昱爍,香氣普熏。其華周圓四百里者,如是轉倍,乃覆三千大千世界,隨其前後,以次化沒。其諸菩薩,僉然欣悅。於虛空中,共奏天樂,以微妙音,歌歎佛德,聽受經法,歡喜無量。供養佛已,未食之前,忽然輕舉,還其本國。

          (Kinh: Đức Phật bảo A Nan: - Bồ Tát trong cơi ấy nương theo oai thần của Phật, trong khoảng bữa ăn, qua đến mười phương vô lượng thế giới, cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn. Tùy theo tâm niệm, hoa, hương, kỹ nhạc, y, lọng, tràng phan, vô số, vô lượng vật cúng dường tự nhiên hóa sanh, vừa nghĩ liền có. Trân quư, đẹp đẽ, đặc biệt thù thắng, trong cơi đời chẳng hề có. Họ liền dùng [những thứ ấy] để dâng rải lên chư Phật và các vị Bồ Tát, Thanh Văn. Ở trong hư không, [những vật phẩm cúng dường ấy] hóa thành lọng hoa, quang minh và màu sắc rạng ngời, mùi thơm xông khắp. Hoa ấy tṛn trặn bốn trăm dặm. Như thế lần lượt tăng dần, cho đến che phủ khắp tam thiên đại thiên thế giới, tùy theo thứ tự trước sau mà biến mất. Các vị Bồ Tát ḥa hợp, vui sướng, ở trong hư không, cùng tấu nhạc trời, dùng âm thanh vi diệu ca ngợi, tán thán Phật đức, nghe nhận kinh pháp, hoan hỷ vô lượng. Cúng dường Phật xong, trước khi chưa ăn, bỗng nhẹ nhàng cất ḿnh lên, trở về nước ḿnh).

 

          Đoạn thứ sáu, “Phật ngữ A Nan: - Bỉ quốc Bồ Tát, thừa Phật oai thần” (đức Phật bảo ngài A Nan: - Bồ Tát trong nước ấy nương theo oai thần của đức Phật): Bồ Tát sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, vị ấy do nương vào oai đức và thần thông của A Di Đà Phật gia bị, thần thông của Ngài lại chẳng thể nghĩ bàn. “Nhất thực chi khoảnh” là thời gian ăn một bữa cơm. “Văng nghệ thập phương vô lượng thế giới, cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn” (qua đến mười phương vô lượng thế giới, cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn). Người muốn thành Phật cần phải phước huệ song tu. Trong phần trên, tôi đă nói rồi, vừa tu phước, vừa tu huệ. Hễ tu lệch lạc, sẽ nẩy sanh khuyết điểm; quư vị phải tu phước lẫn tu huệ. Muốn cầu phước th́ phải tu ở nơi đâu? Chính là cúng dường Tam Bảo. Quư vị cúng dường một vị Phật, sẽ được phước báo của một vị Phật. Nếu quư vị cúng dường vô lượng Phật, chẳng phải là sẽ có vô lượng phước báo ư? Cúng dường Phật nhiều ngần ấy, lại có được vật phẩm cúng dường nhiều ngần ấy. Do có vật phẩm cúng dường nhiều ngần ấy, cũng đạt được phước báo nhiều ngần ấy. Quư vị chẳng có phước báo nhiều ngần ấy, muốn lo liệu vật phẩm cúng dường nhiều ngần ấy, quư vị cũng lo không nổi. Do đó, hàng Bồ Tát sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới muốn vun bồi phước báo sẽ rất dễ dàng.

          V́ A Di Đà Phật gia bị quư vị, Ngài gia bị khiến cho quư vị thần thông chẳng thể nghĩ bàn: Trong thời gian một bữa ăn, có thể cúng dường mười phương vô lượng chư Phật. Cúng dường mười phương vô lượng chư Phật phải cần đến vật phẩm cúng dường. “Tùy tâm sở niệm” [nghĩa là] chỉ cần tâm quư vị vừa động niệm, vật phẩm cúng dường liền xuất hiện. “Hoa, hương, kỹ nhạc”, hoa cúng dường, hương cúng dường, âm nhạc cúng dường. “Y cái, tràng phan” (y phục, lọng, tràng phan): Cúng dường y phục. “Cái” () là lọng báu, tràng phan để cúng dường. Vô số vô lượng cúng dường chi cụ” (vô số, vô lượng vật cúng dường): Những vật phẩm cúng dường khác, quư vị chỉ cần tùy tâm động niệm, sẽ rất dễ dàng đạt được. “Tự nhiên hóa sanh, ứng niệm tức chí” (tự nhiên hóa sanh, vừa nghĩ đă xuất hiện): Trong phần trước đă từng nói, Bát Địa Bồ Tát rất dễ dàng lấy những vật dụng từ hư không. Trong phần trước có đề cập, trong tay quư vị muốn ǵ, sẽ có thể biến hóa được thứ ấy. Vừa nghĩ, [thứ ấy] bèn hóa hiện ra, vừa nghĩ bèn có. “Trân diệu thù đặc” [nghĩa là] những vật phẩm cúng dường ấy đều là vật phẩm cúng dường đặc biệt thù thắng trân quư nhất, đẹp đẽ nhất. “Phi thế sở hữu” (chẳng phải là thứ mà trong cơi đời có được): Chẳng phải là người trong nhân gian mà ḥng có được! “Triếp dĩ phụng tán chư Phật, cập chư Bồ Tát, Thanh Văn chi chúng” (liền lấy [những vật cúng dường ấy] dâng rải lên chư Phật, và đại chúng Thanh Văn, Bồ Tát): Cúng Phật và Tăng, đến mỗi thế giới cúng dường Phật, Bồ Tát và chúng Thanh Văn trong thế giới ấy. Do cúng dường Phật, Bồ Tát, và chúng Thanh Văn trong vô lượng thế giới, vậy th́ quư vị chẳng đạt được vô lượng phước báo ư?

          Những vị Bồ Tát ấy đến cúng dường, không phải chỉ là một hai vị, mà là rất nhiều vị Bồ Tát đến cúng dường nhiều ngần ấy, những thứ đem đến cúng dường lại nhiều như thế, cầm lấy những vật cúng dường ấy để cúng đến nơi đâu? Tại hư không trung hóa thành hoa cái” (ở trong hư không, hóa thành lọng hoa), cúng trong hư không. Ở trong hư không, hóa thành một cái lọng hoa. Bất luận vật phẩm cúng dường nào, ở trong hư không đều kết thành một cái lọng hoa. Không chỉ là hoa cúng dường, hương cúng dường, y cúng dường, thảy đều biến hóa thành một cái lọng hoa. “Quang sắc dục thước” [nghĩa là] quang minh và màu sắc đều rất đẹp mắt. “Dục thước” (昱爍) là quang minh to lớn, màu sắc rất rực rỡ, chói ḷa. Lại c̣n “hương khí phổ huân” (mùi thơm xông khắp). Lọng hoa ấy to cỡ nào? “Kỳ hoa châu viên tứ bách lư giả” (hoa ấy tṛn trặn bốn trăm dặm), to chừng mười do-tuần[4]. “Như thị chuyển bội” (lần lượt tăng dần lên như thế), chẳng phải chỉ là bốn trăm dặm. “Chuyển bội” (tăng dần lên) là c̣n có [những lọng hoa] to tám trăm dặm, một ngàn sáu trăm dặm, “năi phú tam thiên đại thiên thế giới” (cho đến che phủ một tam thiên đại thiên thế giới), tức là lọng hoa do những vật phẩm cúng dường kết thành, che rợp cả một tam thiên đại thiên thế giới, tức một cơi Phật.

          “Tùy kỳ tiền hậu, dĩ thứ hóa một” (theo thứ tự trước sau mà biến mất). Vật phẩm cúng dường của một vị Bồ Tát này che rợp một tam thiên đại thiên thế giới, tức một cơi Phật, vậy th́ vị Bồ Tát thứ hai sẽ cúng dường như thế nào? “Tùy kỳ tiền hậu” (theo thứ lớp trước sau), lúc vị Bồ Tát thứ hai muốn cúng dường, những vật cúng dường trước đó sẽ tự nhiên chẳng c̣n nữa. Đấy là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. “Dĩ thứ hóa một” (theo thứ tự biến mất): Ví như chúng ta nói theo cơi này, vị Bồ Tát trước đốt hương, vị Bồ Tát sau cũng muốn dâng hương, vị Bồ Tát thứ nhất cắm hoa, vị Bồ Tát thứ hai đến dâng hoa, sẽ chỉ đành nhổ hoa của người trước ra th́ mới có thể cắm cành hoa thứ hai. Trong cơi này, chúng ta chẳng được tự nhiên như vậy, nhưng trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, hàng Bồ Tát có thần thông diệu dụng, “dĩ thứ hóa một” (theo thứ tự biến mất), vật phẩm cúng dường tự nhiên chẳng c̣n nữa!

          “Kỳ chư Bồ Tát, thiêm nhiên hân duyệt” (các vị Bồ Tát ấy ḥa hợp, hân hoan, vui sướng): Có thể viên măn ư nguyện cúng dường chư Phật, trong tâm sẽ có nhiều niềm hoan hỷ. “Ư hư không trung, cộng tấu thiên nhạc” (ở trong hư không, cùng tấu nhạc trời): Lại dùng âm nhạc để cúng dường. “Thiên nhạc” là âm nhạc tự nhiên. “Dĩ vi diệu âm, ca thán Phật đức” (dùng âm thanh vi diệu, ca ngợi Phật đức): Tấu âm nhạc, lại c̣n xướng những lời ca để tán thán công đức của Phật. “Thính thọ kinh pháp” (nghe nhận kinh pháp), cúng dường xong, lại xướng lời tán thán rồi nghe Phật giảng kinh, thuyết pháp. “Hoan hỷ vô lượng”: Nghe xong hoan hỷ vô lượng. Niềm hoan hỷ trong phần trên là do thỏa măn ư nguyện cúng Phật, niềm hoan hỷ ở đây là do đạt được pháp lạc, tức niềm hoan hỷ do nghe đức Phật thuyết pháp.

          “Cúng dường Phật dĩ, vị thực chi tiền, hốt nhiên khinh cử, hoàn kỳ bổn quốc” (cúng dường Phật xong, trong khoảng chưa đến giờ ăn, bỗng nhẹ nhàng cất thân lên, trở về nước ḿnh): Sáng sớm thức dậy, cúng dường mười phương chư Phật, chẳng có vị Phật nào mà không cúng dường, [cúng dường đă xong mà] vẫn chưa đến lúc dùng cơm! “Khinh cử” (nhẹ nhàng cất thân lên), rất nhẹ nhàng quay về nước ḿnh, [tức là] trở lại Tây Phương Cực Lạc thế giới, vẫn chưa đến lúc ăn trưa.

          Đoạn kinh văn này thuyết minh hàng Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới v́ sao có thể đạt đến Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát? Không chỉ là do thọ mạng dài lâu, mà c̣n là do có năng lực tu phước và tu huệ, có thể tu nhiều như vậy. Cho nên các Ngài thành tựu mau chóng. Tây Phương Cực Lạc thế giới toàn là Nhất Sanh Bổ Xứ, các Ngài chẳng phải là bỗng dưng mà thành tựu Nhất Sanh Bổ Xứ, vẫn là do tu thành. Bất quá, các Ngài tu hành dễ dàng hơn so với chúng ta tu hành trong thế giới Sa Bà nhiều lắm. V́ các Ngài sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật gia bị các Ngài, thần thông diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn. Các Ngài có thể trong thời gian một bữa ăn, đến cúng dường chư Phật và vô lượng Thanh Văn, Bồ Tát, sử dụng những vật cúng thuận theo ḷng muốn bèn xuất hiện. Tu phước như vậy sẽ tu lớn lao. Cúng dường xong xuôi, lại tán thán, lại nghe đức Phật thuyết pháp. Nay chúng ta mong học Phật pháp, được thân cận bậc danh sư hoặc thiện tri thức. Vị danh sư hoặc thiện tri thức ấy khéo giảng Phật pháp cho quư vị, quư vị sẽ đạt được nhiều lợi ích. Trong thế giới này, một vị danh sư hoặc thiện tri thức thị hiện làm một phàm phu, nếu quư vị thân cận một vị Phật giảng giải Phật pháp cho quư vị, chẳng phải là quư vị sẽ mau chóng đạt được trí huệ ư? Một vị Phật giảng Phật pháp cho quư vị, quư vị sẽ đạt được trí huệ rất nhiều; vậy th́ vô lượng chư Phật thuyết pháp cho quư vị, chẳng phải là quư vị sẽ đắc vô lượng trí huệ ư? Do vậy bèn cầu phước vô lượng, cầu huệ cũng vô lượng. Phước huệ song tu, kết quả là phước huệ viên măn, lẽ nào chẳng thể đạt đến Nhất Sanh Bổ Xứ? Sẽ giống như đă thành Phật.

          Những lời [kinh] này đều nhằm nói cho chúng ta nghe, sau khi đă sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, lại tu phước và tu huệ sẽ dễ dàng hơn nhiều! Nay chúng ta phước huệ song tu, nay chúng ta là đệ tử Phật, mỗi người có điều thiên trọng riêng. Kẻ thích tu phước, chẳng thích tu huệ. Kẻ thích tu huệ, chẳng thích tu phước. V́ sao phải phước huệ song tu? “Phước thị huệ chi tư, huệ thị phước chi đạo” (phước giúp đỡ huệ, huệ hướng dẫn phước). Nếu nhớ rơ hai câu chú giải ấy, quư vị sẽ có thể thọ dụng suốt một đời. “Phước thị huệ chi tư” (phước giúp đỡ huệ), “tư” () có nghĩa là giúp đỡ. V́ sao phải tu phước? Phước báo giúp đỡ trí huệ. Nó có thể giúp cho quư vị tu huệ. Nói cách khác, nếu chẳng có phước báo, căn bản là chẳng cầu trí huệ được! Nếu muốn cầu trí huệ, ắt cần phải có phước báo. Phước là cái giúp đỡ cho huệ, [có kẻ nghe nói như vậy, bèn vọng tưởng] “vậy th́ chúng ta tu phước là được rồi!” Không tu huệ th́ lại lệch lạc, sai lầm mất rồi! “Huệ thị phước chi đạo” (huệ hướng dẫn phước), “đạo” () là dẫn dắt. Quư vị chỉ tu phước [không tu huệ th́] là tu sai mất rồi! Chẳng phải là ngoại đạo cũng tu phước đó sao? Họ tu cúng dường đấy thôi! Họ cúng dường thiên tôn, Thượng Đế đấy mà! Chẳng phải là họ đang cúng dường hay sao? Quư vị phải hiểu, họ chẳng có trí huệ, cầu phước mà đâm ra chuốc lấy tội lỗi. Giống như những cuộc cúng lễ lớn trong tỉnh này (Đài Loan) th́ phải mổ lợn, giết rất nhiều sanh mạng. V́ sao làm như vậy? V́ cầu phước, do chẳng có trí huệ, cho nên cầu được tội lỗi! “Huệ thị phước chi đạo” (huệ hướng dẫn phước), “đạo” là dẫn dắt, phải có trí huệ th́ mới có thể hướng dẫn cái phước của quư vị, đi theo đại đạo Niết Bàn. Do đó, chớ nên thiên lệch, phế bỏ một môn. Đấy là khuyên hàng đệ tử Phật chúng ta, mọi người đều phải chú ư. Có những người thích thắp hương, dâng hoa, thích cúng dường, chẳng thích nghe kinh, xem kinh, càng chẳng thích nghiên cứu kinh. Có những người thích nghiên cứu kinh điển, suốt ngày từ sáng đến tối nghiên cứu, bảo họ đốt hương, dâng hoa, họ không chịu. Đấy đều là lệch lạc. Phải phước huệ song tu, phải ghi nhớ “phước để giúp đỡ huệ, huệ hướng dẫn phước”. Chớ nên thiên về một bên, phế bỏ bên kia!

 

2.2.3.3.1.1.7. Nêu rơ người sanh về cơi ấy nghe pháp chẳng dứt

 

          (Kinh) Phật ngữ A Nan: - Vô Lượng Thọ Phật, vị chư Thanh Văn, Bồ Tát, thiên, nhân ban tuyên pháp thời, đô tất tập hội thất bảo giảng đường, quảng tuyên đạo giáo, diễn sướng diệu pháp, mạc bất hoan hỷ, tâm giải đắc đạo. Tức thời tứ phương tự nhiên phong khởi, xuy thất bảo thụ, xuất ngũ âm thanh. Vô lượng diệu hoa, tùy phong tứ tán, tự nhiên cúng dường, như thị bất tuyệt. Nhất thiết chư thiên, giai tê thiên thượng bách thiên hoa hương, vạn chủng kỹ nhạc, cúng dường kỳ Phật, cập chư Bồ Tát, Thanh Văn chi chúng. Phổ tán hoa hương, tấu chư âm nhạc. Tiền hậu lai văng, cánh tương khai tỵ, đương tư chi thời, hy di khoái lạc, bất khả thắng ngôn.

          ()佛語阿難:無量壽佛,為諸聲聞菩薩天人頒宣法時,都悉集會七寶講堂,廣宣道教,演暢妙法,莫不歡喜,心解得道。即時四方自然風起,吹七寶樹,出五音聲。無量妙華,隨風四散,自然供養,如是不絕。一切諸天,皆賷天上百千華香,萬種伎樂,供養其佛,及諸菩薩聲聞之眾。普散華香,奏諸音樂。前後來往,更相開避。當斯之時,熙怡快樂,不可勝言。

          (Kinh: Đức Phật bảo ngài A Nan: - Khi Vô Lượng Thọ Phật ban bố, tuyên nói pháp cho các vị Thanh Văn, Bồ Tát, trời, người, [mọi người] thảy đều nhóm họp tại giảng đường bảy báu, [đức Phật] rộng tuyên đạo giáo, diễn giảng thông suốt diệu pháp, không ai chẳng hoan hỷ, tâm giải ngộ, đắc đạo. Ngay khi đó, bốn phương tự nhiên gió trỗi lên, thổi qua các cây báu, vang ra năm âm thanh. Vô lượng diệu hoa theo gió rải rắc bốn phía, tự nhiên cúng dường như thế chẳng dứt. Hết thảy chư thiên đều cầm trăm ngàn hoa hương trên cơi trời, muôn thứ kỹ nhạc để cúng dường đức Phật ấy và các vị Bồ Tát, đại chúng Thanh Văn, rải khắp hoa, hương, tấu các âm nhạc. Trước sau qua lại, lần lượt lui ra nhường lối, ngay trong lúc ấy, khoan khoái, vui sướng chẳng thể kể xiết).

 

          “Phật ngữ A Nan: - Vô Lượng Thọ Phật, vị chư Thanh Văn, Bồ Tát, thiên, nhân ban tuyên pháp thời, đô tất tập hội thất bảo giảng đường” (đức Phật bảo ngài A Nan: - Khi Vô Lượng Thọ Phật ban bố, tuyên nói pháp cho các vị Thanh Văn, Bồ Tát, trời, người, [mọi người] thảy đều nhóm họp tại giảng đường bảy báu): [Dùng chữ] “ban” () với ư nghĩa tôn kính, tức là khi đức Phật tuyên dương Phật pháp, do tôn kính Phật nên nói là “ban tuyên”, [hàm ư] giống như Ngài ban thưởng pháp âm cho chúng ta. Mọi người đều nhóm đến giảng đường bảy báu. Tây Phương Cực Lạc thế giới có Thanh Văn, Bồ Tát, trời, người vô số, giảng đường ấy to lớn chẳng có ngằn mé. Đấy đều là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.

          “Quảng tuyên đạo giáo”: Tuyên dương rộng răi giáo pháp của Phật đạo. “Diễn sướng diệu pháp”: Diễn nói lưu loát, thông đạt diệu pháp chẳng thể nghĩ bàn. “Mạc bất hoan hỷ, tâm giải đắc đạo” (không ai chẳng hoan hỷ, tâm giải ngộ, đắc đạo): Người nghe A Di Đà Phật thuyết pháp đều đạt được pháp hỷ. V́ sao đạt được pháp hỷ? [Do] trong tâm giải ngộ. Chữ Giải () ở đây nên đọc là X́e (ㄒㄧㄝˋ, âm Hán Việt là Giải). Họ vừa nghe liền giải ngộ; hễ giải ngộ, sẽ có thể đạt được Phật đạo. Do vậy, khi đó mọi người đều đạt được pháp hỷ và pháp lạc. Nghe pháp mà đạt được pháp hỷ và pháp lạc, sẽ muốn cúng dường, giống như trong đoạn thứ sáu trên đây. Đoạn thứ sáu là nói họ tới các thế giới Phật ở phương khác, trước hết là dâng hiến cúng dường rồi mới nghe pháp. Trong thế giới Cực Lạc, nghe pháp trước rồi sau đấy mới cúng dường.

          “Tức thời tứ phương tự nhiên phong khởi, xuy thất bảo thụ, xuất ngũ âm thanh” (ngay khi đó, tự nhiên gió trỗi lên, thổi qua các cây bảy báu, vang ra tiếng ngũ âm): Những vị Thanh Văn, Bồ Tát nghe pháp ấy, muốn dâng cúng dường, trước hết dâng âm nhạc cúng dường. Trong tâm vừa dấy niệm, bên ngoài liền nổi gió. Gió trỗi lên liền thổi qua cây bảy báu, cây bảy báu phát ra âm thanh âm nhạc, tức là tấu lên năm loại âm thanh của âm nhạc: Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ. Lại dâng hoa cúng dường. “Vô lượng diệu hoa, tùy phong tứ tán, tự nhiên cúng dường, như thị bất tuyệt” (vô lượng hoa mầu nhiệm, theo gió rải bốn phía, tự nhiên cúng dường chẳng ngớt như thế): Cúng dường âm nhạc, cúng dường hoa trời, cúng dường chẳng ngưng dứt. Đấy là nói trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, đại chúng trong giảng đường, ngoài chúng Thanh Văn và Bồ Tát ra, c̣n có thiên chúng và nhân chúng. “Nhất thiết chư thiên, giai tê thiên thượng bách thiên hoa hương” (hết thảy chư thiên đều cầm trăm ngàn hoa hương trên cơi trời), tê” () là đem đến, cầm đến, trăm ngàn loại hoa hương. “Vạn chủng kỹ nhạc” là muôn thứ âm nhạc, đến “cúng dường kỳ Phật”, tức là cúng dường Vô Lượng Thọ Phật, “cập chư Bồ Tát Thanh Văn chi chúng”, và cũng cúng dường những vị Bồ Tát, Thanh Văn và Tăng chúng. “Phổ tán hoa hương, tấu chư âm nhạc” (rải khắp hoa, hương, tấu các âm nhạc): Rải hoa, rải hương, diễn tấu âm nhạc để cúng dường. “Tiền hậu lai văng, cánh tương khai tỵ” (trước sau qua lại, nhường lối cho nhau): Chư thiên đông đảo, phía trước là một nhóm chư thiên đến cúng dường, lại có một nhóm tiếp ngay theo sau. “Cánh tương khai tỵ” [nghĩa là] nhóm phía trước rời đi để cho nhóm chư thiên phía sau cúng dường. Nhóm thứ hai cúng dường xong, nhóm thứ ba tiến lên, nhóm thứ hai lại nhường lối. “Đương tư chi thời” (ngay trong lúc ấy): Trong lúc cúng dường. “Hy di khoái lạc, bất khả thắng ngôn” (hân hoan, vui sướng, chẳng thể nói xiết): “Hy di” (熙怡) là người lui tới không ngừng cúng dường, ai nấy đều cảm giác hết sức vui sướng, vui sướng cỡ nào? Chẳng thể có cách nào dùng ngôn ngữ để h́nh dung được!

 

2.2.3.3.1.1.8. Nêu rơ hàng Bồ Tát trong cơi ấy hạnh đức viên măn

2.2.3.3.1.1.8.1. Trước hết nêu ra các biệt đức

2.2.3.3.1.1.8.1.1. Tu hành ĺa lỗi

 

          (Kinh) Phật ngữ A Nan: - Sanh bỉ Phật quốc chư Bồ Tát đẳng, sở khả giảng thuyết, thường tuyên chánh pháp, tùy thuận trí huệ, vô vi, vô thất. Ư kỳ quốc độ, sở hữu vạn vật, vô ngă sở tâm, vô nhiễm trước tâm, khứ lai tấn chỉ, t́nh vô sở hệ, tùy ư tự tại, vô sở đích mạc, vô bỉ, vô ngă, vô cạnh, vô tụng. Ư chư chúng sanh, đắc đại từ bi nhiêu ích chi tâm. Nhu nhuận điều phục, vô phẫn hận tâm, ly cái thanh tịnh, vô yếm đăi tâm, đẳng tâm, thắng tâm, thâm tâm, định tâm, ái pháp, nhạo pháp, hỷ pháp chi tâm. Diệt chư phiền năo, ly ác thú tâm, cứu cánh nhất thiết Bồ Tát sở hành.

          ()佛語阿難:生彼佛國諸菩薩等,所可講說,常宣正法。隨順智慧,無違無失。於其國土所有萬物,無我所心,無染著心。去來進止,情無所係。隨意自在,無所適莫。無彼無我,無競無訟。於諸眾生,得大慈悲饒益之心。柔潤調伏,無忿恨心。離蓋清淨,無厭怠心。等心、勝心、深心、定心,愛法、樂法、喜法之心。滅諸煩惱,離惡趣心。 究竟一切菩薩所行。

          (Kinh: Đức Phật bảo ngài A Nan: - Các hàng Bồ Tát sanh về cơi Phật ấy có thể giảng nói, thường tuyên dương chánh pháp, tùy thuận trí huệ, chẳng trái nghịch, chẳng sai sót. Đối với tất cả muôn vật trong cơi nước ấy, không có tâm ngă sở, tâm chẳng nhiễm đắm. Đến, đi, cư xử, chẳng vướng mắc trong t́nh thức, tùy ư tự tại, không có ǵ yêu ghét. Không người, không ta, chẳng tranh giành, chẳng tranh tụng. Đối với các chúng sanh, mang ḷng đại từ bi, tạo lợi ích. Nhu nhuận, điều phục, không có tâm phẫn hận, ĺa khỏi những thứ kết sử, thanh tịnh, không có tâm chán ngán, lười nhác. Tâm b́nh đẳng, tâm thù thắng, thâm tâm, định tâm, yêu mến pháp, ưa thích pháp, tâm vui thích pháp, diệt các phiền năo, tâm ĺa các đường ác, rốt ráo hạnh của hết thảy các Bồ Tát).

 

          Đoạn thứ tám nói đến người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tất cả hạnh môncông đức thảy đều thành tựu viên măn. “Phật ngữ A Nan: - Sanh bỉ Phật quốc chư Bồ Tát đẳng, sở khả giảng thuyết, thường tuyên chánh pháp” (đức Phật bảo ngài A Nan: - Các vị Bồ Tát sanh trong cơi Phật ấy có thể giảng nói, thường tuyên dương chánh pháp). Trong phần trước là sau khi nghe đức Phật thuyết pháp và học theo đức Phật thuyết pháp, đă học hiểu rồi, nay th́ chính ḿnh sẽ hoằng pháp. V́ sao? Phát nguyện sanh về Tây Phương bèn học giảng kinh, thuyết pháp, muốn độ chúng sanh th́ phải thuyết pháp. Do vậy, trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, trước hết là luyện tập. Đă nghe A Di Đà Phật thuyết pháp, đă học hiểu rồi, bèn giảng kinh ngay trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Ở trước mặt chư Phật, cầu đạt được trí huệ. Lại c̣n ở ngay trước mặt A Di Đà Phật, cầu đạt được trí huệ. Giảng kinh, thuyết pháp, diễn nói “tùy thuận trí huệ”.

          “Vô vi, vô thất”, “vi” () là trái nghịch chánh pháp, “thất” () là sai lạc chánh pháp. Pháp được nói ra sẽ chẳng trái nghịch chánh pháp, mà cũng chẳng có điều sai sót, v́ sao? V́ Ngài nói thuận theo trí huệ. Giống như chúng ta nay đang học giảng kinh, thuyết pháp, cũng phải “tùy thuận trí huệ”, nói đến mức “vô vi, vô thất”. Chúng ta là hạng phàm phu lè tè sát đất, lấy đâu ra trí huệ? Dựa theo Thánh Ngôn Lượng để giải nói. “Thánh ngôn” là lời lẽ của Phật và Bồ Tát. [Thánh Ngôn Lượng] là lấy lời của bậc thánh làm tiêu chuẩn. “Lượng” () là tiêu chuẩn. Dựa theo lời Phật và Bồ Tát đă dạy trong kinh Phật để làm tiêu chuẩn th́ chúng ta giải nói sẽ có thể đạt đến mức độ “vô vi, vô thất”. Đối với những lời dạy trong kinh Phật, đôi khi xem không hiểu, hăy xem chú giải của các vị tổ sư đại đức thời cổ. Tôi thường nói với các vị pháp sư trẻ tuổi:

          - Nay quư vị trước hết hăy học bằng cách xem chú giải, chứ lăo pháp sư có thể giảng cho quư vị mấy bộ kinh? Quư vị học hiểu bằng cách xem chú giải th́ mới có thể làm pháp sư. Lăo pháp sư dạy bảo, sẽ khuyên quư vị: Để giảng một bộ kinh nào, phải xem bộ chú giải nào. Chúng ta học theo lăo pháp sư sẽ đạt được lợi ích ấy. Ví như quư vị học giảng kinh Kim Cang, chúng tôi ở Đại Lục, lăo pháp sư liền bảo chúng tôi dựa theo bộ chú giải Kim Cang Tâm Ấn Sớ[5] để giảng. Nếu không, quư vị thấy trong Vạn Tự Tục Tạng[6], chỉ riêng chú giải kinh Kim Cang đă có hơn một trăm thứ, quư vị phải xem đến khi nào th́ mới có thể học hiểu để giảng kinh Kim Cang? Mỗi bộ lại c̣n giảng giải mỗi kiểu, quư vị sẽ giảng như thế nào đây? Có bản chú giải giảng nói dính đến ngoại đạo, quư vị giảng sai th́ biết làm sao được? Lăo pháp sư đă chỉ dạy quư vị, giảng bộ kinh nào, hăy xem bộ chú giải nào, như vậy là “tùy thuận trí huệ, vô vi, vô thất” (tùy thuận trí huệ, chẳng chống trái, chẳng sai lạc). Chớ nên hời hợt, qua loa! Đấy là nói hàng Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới có trí huệ, có thể giảng kinh, lại nói đến công phu tu hành sự thành tựu nơi hạnh môn của các Ngài trong Tây Phương Cực Lạc thế giới.

          “Ư kỳ quốc độ sở hữu vạn vật, vô ngă sở tâm, vô nhiễm trước tâm” (đối với tất cả muôn vật trong cơi nước ấy, chẳng có tâm ngă sở, chẳng có tâm nhiễm đắm): Muôn vật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều trang nghiêm bằng bảy báu, các vị Bồ Tát ấy chẳng nghĩ món nào là đồ của ta. Tất cả phiền năo của chúng ta đều từ cái tâm sở hữu của ta dẫn khởi. Cái này là món ta sở hữu; đấy là tâm tham, chúng ta sẽ tham thứ này, ta sẽ tham thứ kia. Đấy là dấy ḷng tham. Hễ tham chẳng được, bèn dấy ḷng sân hận, suốt ngày từ sáng đến tối dấy động ư niệm tham, sân, si, sanh ra phiền năo, cho nên mới tạo nghiệp. Do tạo nghiệp mới chịu khổ. Hàng Bồ Tát sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có tâm tham, trông thấy cảnh giới bảy báu trang nghiêm tốt đẹp dường ấy, Ngài chẳng nghĩ thứ ǵ là sở hữu của chính ḿnh, chẳng có cái tâm sở hữu của ta. “Vô nhiễm trước tâm”(tâm chẳng đắm nhiễm): Bất luận bảy báu trang nghiêm tốt đẹp đến mấy đi nữa, bất luận đẹp mắt đến mấy đi nữa, chẳng có tí xíu tâm đắm nhiễm nào!

          Khứ lai tấn chỉ, t́nh vô sở hệ” [nghĩa là] đi, đứng, ngồi, nằm, đều có oai nghi, quyết chẳng dấy động t́nh tự tham dục, hoặc bị ràng buộc bởi bất cứ vật phẩm nào! “Tùy ư tự tại, vô sở đích mạc” (tùy ư tự tại, chẳng có ǵ yêu ghét): Chữ Thích () phải đọc là Dí (ㄉㄧˊ, âm Hán Việt là Đích), [câu này có nghĩa là] tùy ư tự tại, chẳng đối với thứ ǵ dấy ḷng yêu mến thiên vị. “Đích” là yêu mến thiên vị, Mạc () là chẳng yêu mến. Đối với chúng sanh, ta thuyết pháp, chúng sanh đến nghe, ta chẳng hề đối xử trọng hậu hay bạc bẽo đối với chúng sanh nào, thảy đều chẳng có. Chẳng có cái tâm tham dục, sẽ chẳng dấy động cái tâm phẫn hận. “Vô bỉ, vô ngă, vô cạnh, vô tụng” (không người, không ta, không cạnh tranh, không kiện cáo): Chẳng có ngươi, chẳng có ta, chẳng dấy lên tri kiến ta hay người, sẽ chẳng cạnh tranh với người khác. “Tụng” () có nghĩa là tranh tụng.

          “Ư chư chúng sanh, đắc đại từ bi nhiêu ích chi tâm” [nghĩa là] đối với hết thảy chúng sanh đều b́nh đẳng, đại từ, đại bi, có tấm ḷng từ bi, b́nh đẳng, có cái tâm tạo lợi ích, luôn luôn tạo nhiều lợi ích cho chúng sanh. “Nhu nhuận điều phục, vô phẫn hận tâm” (mềm mỏng, kiềm chế, không có tâm phẫn hận): Nếu người có cái tâm hiền dịu, biết kiềm chế, sẽ hết sức dịu dàng, sẽ chẳng dấy ḷng sân hận. “Ly cái thanh tịnh”: Đừng hiểu Cái () ở đây Bảo Cái (寶蓋, lọng báu), nó chính là năm thứ Cái như đă nói trong phần trước, tức tham dục cái, sân khuể cái, thùy miên cái, điệu hối cái, và nghi pháp cái. Đều xa ĺa năm món Cái ấy, cho nên tự tánh của các Ngài thanh tịnh. “Vô yếm đăi tâm”: Chẳng có cái tâm chán ngán, lười nhác.

          “Đẳng tâm, thắng tâm, thâm tâm, định tâm”: Vậy th́ Ngài là tâm ǵ? Tâm b́nh đẳng, tâm thắng diệu, thâm tâm, định tâm. Nói theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, “thâm tâm” là cái tâm mong trụ trong hết thảy các thiện pháp. Do thâm tâm, sẽ ưa thích làm các thiện công đức. “Định tâm” là tâm Thiền Định. “Ái pháp, nhạo pháp, hỷ pháp chi tâm”: Điều khiến cho cái tâm của quư vị hoan hỷ, ưa thích là Phật pháp. Quư vị yêu mến Phật pháp, ưa thích Phật pháp, hoan hỷ Phật pháp. “Diệt chư phiền năo, ly ác thú tâm” (tâm diệt các phiền năo, ĺa đường ác): Xa ĺa hết thảy phiền năo, diệt trừ chúng, tự nhiên do vậy mà ĺa khỏi đường ác. “Cứu cánh nhất thiết Bồ Tát sở hành, cụ túc thành tựu vô lượng công đức” (rốt ráo hết thảy những điều được hành bởi Bồ Tát, thành tựu trọn đủ vô lượng công đức): Xét theo ngữ pháp th́ phải đọc hai câu này một mạch, nhưng “cứu cánh nhất thiết Bồ Tát sở hành” (rốt ráo hết thảy những điều phải hành của hàng Bồ Tát) nhằm tổng kết những câu trên đây, c̣n “cụ túc thành tựu vô lượng công đức” (thành tựu trọn đủ vô lượng công đức) là nêu tổng quát [những điều sẽ nói] dưới đây.

 

2.2.3.3.1.1.8.1.2. Thành tựu trọn vẹn các đức

         

          (Kinh) Cụ túc thành tựu vô lượng công đức, đắc thâm Thiền Định, chư thông minh huệ, du chí Thất Giác, tu tâm Phật pháp. Nhục nhăn thanh triệt, mị bất phân liễu. Thiên nhăn thông đạt, vô lượng vô hạn. Pháp nhăn quán sát, cứu cánh chư đạo. Huệ nhăn kiến chân, năng độ bỉ ngạn. Phật nhăn cụ túc, giác liễu pháp tánh. Dĩ vô ngại trí, vị nhân diễn thuyết.

          ()具足成就無量功德。得深禪定,諸通明慧,遊志七覺,修心佛法。肉眼清徹,靡不分了。天眼通達,無量無限。法眼觀察,究竟諸道。慧眼見真,能度彼岸。佛眼具足,覺了法性。以無礙智,為人演說。

          (Kinh: Thành tựu đầy đủ vô lượng công đức, đắc Thiền Định sâu, đạt được các món thần thông, Tam Minh, trí huệ, dạo chơi trong Thất Giác để tu tâm Phật pháp. Nhục nhăn sáng tỏ, không ǵ chẳng phân biệt rành rẽ. Thiên nhăn thông đạt, vô lượng, vô hạn. Pháp nhăn quán sát rốt ráo các đạo. Huệ nhăn thấy chân thật, có thể vượt sang bờ kia. Phật nhăn trọn đủ, giác liễu pháp tánh. Dùng vô ngại trí để v́ người khác diễn nói).

 

          Hàng Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới “cụ túc thành tựu vô lượng công đức” (thành tựu đầy đủ vô lượng công đức), đều là những công đức như thế nào? Kế đó, [đức Phật] bèn “biệt minh”, tức là nói rơ từng điều riêng biệt. “Đắc thâm Thiền Định”, [nghĩa là] đạt được Thiền Định rất sâu. “Chư thông minh huệ”: “Chư thông” là sáu thứ thần thông, Minh là Tam Minh, hết thảy trí huệ đều đạt được. “Du chí Thất Giác” (dạo chơi trong Thất Giác Chi), “du” () là du hành; chí nguyện trong tâm là dạo chơi nơi cảnh giới Thất Giác. Tâm chúng ta dạo chơi trong cảnh giới tham, sân, si; c̣n tâm niệm của hàng Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, nghĩ tới, nghĩ lui đều là trong Thất Giác. Thất Giác c̣n gọi là Thất Giác Chi (Saptabodhyanga), tức là Thất Bồ Đề Phần như kinh A Di Đà đă nói:

          1) Thứ nhất là Trạch Pháp Giác (Dharma-pravicaya-bodhyanga), “Giác” () có nghĩa là “giác sát” (覺察, nhận biết, cảm nhận), giác ngộ. Nếu quư vị tu hành, hiện thời quư vị phải phân biệt, chọn lựa Phật pháp. Đầu tiên, quư vị phải phân biệt rạch ṛi chân và ngụy, “ngụy” () là ngoại đạo, là giả Phật pháp, “chân” () là Phật pháp thật sự. Quư vị học Phật, chớ nên học theo ngoại đạo. Hăy chọn lựa Phật pháp thật sự, lại c̣n phải chọn lấy pháp tương ứng căn cơ, tức là pháp môn nào sẽ phù hợp với căn cơ của chính ḿnh. Đó gọi là Trạch Pháp Giác.

          2) Thứ hai, Tinh Tấn Giác (Virya-bodhyanga). Đă chọn lựa pháp ổn thỏa rồi, phải nên dũng mănh tinh tấn.

          3) Thứ ba, Hỷ Giác (Prīti-bodhyanga): Quư vị tinh tấn th́ mới có thể đạt được pháp hỷ.

          4) Thứ tư, Khinh An Giác (Prasrabhi-bodhyanga): Thân tâm nhẹ nhàng, an định, đạt được pháp lạc thật sự.

          5) Thứ năm, Niệm Giác (Smṛti-bodhyanga). Niệm là niệm Định và Huệ b́nh đẳng, chớ nên thiên về Định hay thiên về Huệ.

          6) Thứ sáu, Định Giác (Samādhi-bodhyanga). Định ở đây chẳng phải là lệch về Định, mà là Định sao cho Định và Huệ cân bằng.

          7) Thứ bảy, Xả Giác (Upekkhā-bodhyanga): Xả trừ hết thảy các pháp thế gian, ngay cả Phật pháp cũng chẳng chấp tướng, cũng phải xả.

          Bảy món giác này được gọi là Thất Bồ Đề Phần, c̣n gọi là Thất Giác Chi. Lại xem kinh văn, “du chí Thất Giác, tu tâm Phật pháp” (dạo chơi nơi Thất Giác, tu tâm Phật pháp). “Phật pháp” ở đây nằm ngay trong cái tâm của chính ḿnh. Phải tu Phật pháp ngay trong cái tâm của chính ḿnh, cũng giống như Thất Giác Chi vừa được nhắc đến trên đây. Hễ giác cái tâm của chính ḿnh, quư vị sẽ giác ngộ.

          Tiếp đó, lại nói về Ngũ Nhăn (Pañcacakṣu) viên minh:

          1) Thứ nhất là Nhục Nhăn (Māṃsacakṣu), “nhục nhăn thanh triệt” (nhục nhăn trong sáng, thấu triệt): Nhục nhăn hết sức trong trẻo, chẳng giống nhục nhăn b́nh phàm. “Mị bất phân biệt”, “mị” () là không, [“mị bất phân biệt” là] không ǵ chẳng hiểu rơ.

          2) Thứ hai Thiên Nhăn (Divyacakṣu). “Thiên Nhăn thông đạt, vô lượng, vô hạn”.

          3) Thứ ba Pháp Nhăn (Dharmacakṣu). Xét theo mức độ sâu hay cạn để nói, loại thứ ba phải là Huệ Nhăn, loại thứ tư mới là Pháp Nhăn. “Pháp Nhăn quan sát, cứu cánh chư đạo” (Pháp Nhăn quan sát, rốt ráo các đạo). Pháp Nhăn là mắt của Bồ Tát, có thể hiểu thấu rốt ráo các đạo.

          4) Thứ tư là Huệ Nhăn (Prajñācakṣu). “Huệ Nhăn kiến chân, năng độ bỉ ngạn” (Huệ Nhăn thấy lẽ Chân, có thể vượt lên bờ kia). Huệ nhăn là mắt của Thanh Văn, có thể thấy Chân Không, có thể vượt sang bờ kia.

          5) Thứ năm là Phật Nhăn (Buddhacakṣu). “Phật Nhăn cụ túc, giác liễu pháp tánh” (Phật Nhăn trọn đủ, giác liễu pháp tánh): Giác ngộ bản tánh của hết thảy các pháp.

          Sau khi năm loại mắt ấy đă viên minh, có thể “dĩ vô ngại trí, vị nhân diễn thuyết” (dùng trí vô ngại, v́ người khác diễn nói). Quư vị đă đạt được trí huệ vô ngại, muốn lợi ích chúng sanh. Năm loại mắt viên minh trên đây là sau khi đă “thượng cầu Phật đạo”, quư vị phải “hạ hóa chúng sanh”, [nghĩa là] dưới th́ hóa độ chúng sanh như thế nào? Phải dùng trí huệ vô ngại, thường xuyên v́ người khác diễn nói Phật pháp. Ở đây có một nghi vấn, tức là đă thành Phật th́ Ngũ Nhăn mới viên minh. V́ sao hàng Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới lại trọn đủ Phật Nhăn? V́ các Ngài đều là Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, trí huệ và công đức của Phật các Ngài thảy đều viên măn. Do đó, các Ngài cũng viên măn Phật Nhăn giống hệt như vậy, chỉ đợi cho đến khi nhân duyên chín muồi, sẽ thị hiện thành Phật, chứ thực tế đă vốn là một vị Phật.

 

2.2.3.3.1.1.8.1.3. Tu hành trọn đủ

 

          (Kinh) Đẳng quán tam giới, không vô sở hữu, chí cầu Phật pháp, cụ chư biện tài, trừ diệt chúng sanh phiền năo chi hoạn. Tùng Như Lai sanh, giải pháp như như. Thiện tri Tập Diệt âm thanh phương tiện, bất hân thế ngữ, nhạo tại chánh luận. Tu chư thiện bổn, chí sùng Phật đạo. Tri nhất thiết pháp, giai tất tịch diệt. Sanh thân phiền năo, nhị dư câu tận. Văn thậm thâm pháp, tâm bất nghi cụ, thường năng tu hành kỳ đại bi giả, thâm viễn vi diệu, mị bất phú tái.

          ()等觀三界,空無所有。志求佛法,具諸辯才。除滅眾生煩惱之患。從如來生,解法如如。善知集滅音聲方便。不欣世語,樂在正論。修諸善本,志崇佛道。知一切法,皆悉寂滅。生身煩惱,二餘俱盡。聞甚深法,心不疑懼。常能修行其大悲者。深遠微妙,靡不覆載。

          (Kinh: B́nh đẳng quán tam giới là Không, chẳng có sở hữu, chí cầu Phật pháp, đầy đủ các món biện tài, trừ diệt ương hoạn phiền năo cho chúng sanh. Sanh từ Như Lai, hiểu pháp như như. Khéo biết âm thanh và phương tiện Tập, Diệt. Chẳng vui thích lời lẽ thế gian, ưa thích chánh luận. Tu các cội lành, chí hướng tôn sùng Phật đạo. Biết hết thảy các pháp thảy đều là tịch diệt, sanh thân phiền năo, nhị dư đều hết. Nghe pháp rất sâu, tâm chẳng ngờ vực, sợ hăi, thường có thể tu hành ḷng đại bi sâu xa, vi diệu, không ǵ chẳng chở che).

 

          “Đẳng quán tam giới, không vô sở hữu” (b́nh đẳng quán tam giới là Không, chẳng có sở hữu): Những vị Bồ Tát ấy đều chiếu kiến Ngă Không và Pháp Không, b́nh đẳng quán sát ba cơi, hết thảy đều là Không, nên nói là “không, vô sở hữu”. “Chí cầu Phật pháp, cụ chư biện tài, trừ diệt chúng sanh phiền năo chi hoạn” (chí cầu Phật pháp, đầy đủ các món biện tài, trừ diệt ương hoạn phiền năo cho chúng sanh): Nếu là người thường nghe Phật pháp th́ đoạn văn này rất thông suốt. Nếu là người chẳng thường nghe Phật pháp th́ dường như đoạn văn này rất mâu thuẫn! Bồ Tát đă quán sát tam giới là Không, vô sở hữu, vậy th́ chẳng có chuyện ǵ hết, Ngài cần ǵ phải lập chí nguyện cầu Phật pháp, c̣n mong đắc biện tài, c̣n phải diệt trừ các ương hoạn phiền năo cho chúng sanh chi nữa? Đấy là sự phát tâm khác biệt giữa Bồ Tát và hàng Nhị Thừa. Hàng Nhị Thừa thấy “không, vô sở hữu”, bèn tự ḿnh liễu sanh tử. Bồ Tát thấy “không, vô sở hữu”, Ngài vận dụng công phu của chính ḿnh để chiếu kiến “Ngũ Uẩn đều là Không”. Đă là Không, Vô Sở Hữu, chiếu kiến Ngă Không và Pháp Không th́ mới là Không, Vô Sở Hữu. Nhưng chúng sanh khổ năo trong tam giới chẳng có tí nào là Không, các vị Bồ Tát ấy thấy những chúng sanh đang chịu khổ trong ấy, rơ ràng [vạn pháp] là rỗng không, mà chúng sanh chẳng [giác ngộ tánh] Không được. Do vậy, [Bồ Tát] mới dấy khởi Bồ Đề tâm, phải dốc chí cầu Phật pháp, mong cầu biện tài, ḥng dẹp trừ nỗi khổ hoạn phiền năo cho chúng sanh.

          “Tùng Như Lai sanh, giải pháp như như” (sanh từ Như Lai, hiểu pháp như như): Chữ Giải này nên đọc là Xiè (ㄒㄧㄝˋ), có nghĩa là “khai ngộ”. Thấu hiểu pháp này là pháp như như. Hết thảy các pháp chẳng ngoài hai pháp Lư và Trí, tức cái Trí để quán (năng quán chi trí) và cái Lư được quán (sở quán chi lư). Cái Lư được quán chính là diệu lư Chân Như Thật Tướng, là cái Lư như như bất động. Cái trí năng quán cũng là trí huệ như như bất động. V́ thế, ghép hai chữ Như Như lại. Chữ Như trước là “như Trí”, chữ Như sau là “như Lư”, gọi gộp chung là Như Như, tức là dùng Trí Như Như để khế hợp Lư Như Như. “Khế” () là phù hợp. Ngài giải ngộ hết thảy các pháp đều là như như, bất động, V́ sao Ngài giải ngộ? Do được Vô Lượng Thọ Phật dạy. “Tùng Như Lai sanh”, [nghĩa là] sanh từ miệng của Vô Lượng Thọ Như Lai. Do vậy, Bồ Tát được gọi là Phật Tử, tức là con cái của Phật. V́ sao gọi là con cái của Phật? Các Ngài sanh từ Như Lai, sanh từ miệng của Như Lai. Đây là quy kết công lao về Như Lai.

          “Thiện tri Tập Diệt âm thanh phương tiện” (khéo biết âm thanh và phương tiện Tập, Diệt): “Thiện” () là dễ dàng liễu tri nhất, liễu tri pháp Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Nói đến Khổ bèn có Tập, nói đến Diệt bèn có Đạo. Ngài có thể khéo liễu tri pháp Khổ, Tập, Diệt, Đạo, sẽ thuyết pháp cho chúng sanh, [tức là] phát ra âm thanh Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Hướng về chúng sanh để nói ra âm thanh Khổ, Tập, Diệt, Đạo, [nhưng điều này] vẫn chẳng dễ liễu giải, cho nên cần phải có phương tiện quyền biến hay khéo. Những vị Bồ Tát này biết phương tiện quyền biến hay khéo, không chỉ là khéo nói pháp Khổ, Tập, Diệt, Đạo, mà c̣n hiểu phương tiện quyền biến hay khéo.

          “Bất hân thế ngữ, nhạo tại chánh luận” (chẳng ưa thích ngôn ngữ thế gian, ưa thích chánh luận): “Hân” () là hoan hỷ. [“Bất hân thế ngữ”] là không ưa thích ngôn ngữ thế gian, kể cả hết thảy học vấn thế gian cũng chẳng hoan hỷ, chuyên ưa thích “nhạo tại chánh luận” (ưa thích chánh luận), [chánh luận] là ngôn luận của Phật. Trong phần trước là Ngài cầu giải, phần này lại nói đến sự tu hành. “Tu chư thiện bổn, chí sùng Phật đạo” (tu các cội lành, chí nguyện tôn sùng Phật đạo): Ngài lập chí, phát nguyện tôn sùng Phật đạo, “tri nhất thiết pháp, giai tất tịch diệt” (biết hết thảy các pháp thảy đều tịch diệt). Đây là do “đẳng quán tam giới, không vô sở hữu” (b́nh đẳng quán tam giới là Không, Vô Sở Hữu) trong phần trên mà có. Ngài muốn độ hết thảy chúng sanh, biết tam giới Không, Vô SHữu”, nhưng chúng sanh chẳng biết, cho nên Bồ Tát phải đến độ chúng sanh. Tuy chính Ngài biết “tu chư thiện bổn, chí sùng Phật đạo” (tu các cội lành, chí tôn sùng Phật đạo), Ngài biết hết thảy các pháp “giai tất tịch diệt” (thảy đều tịch diệt), tức là hết thảy các pháp vốn bất sanh, bất diệt, là cảnh giới như như bất động, là cảnh giới tịch diệt.

          “Sanh thân phiền năo, nhị dư câu tận” (sanh thân phiền năo, hai thứ dư đều hết sạch): “Sanh thân” là khổ quả, “phiền năo” là khổ nhân. Hai pháp ấy đều đoạn hết, chẳng c̣n sót thừa. Hai pháp khổ nhân và khổ quả, ngay cả dư tập (tập khí sót thừa) đều đoạn sạch, nên gọi là “nhị dư câu tận” (nhị dư đều hết). “Văn thậm thâm pháp, tâm bất nghi cụ” (nghe pháp rất sâu, tâm chẳng ngờ vực, sợ hăi): “Thâm pháp” cũng là pháp Nhị Không, hoặc pháp Tam Không[7], nghe Ngă Không, nghe Pháp Không, “tâm bất nghi cụ” (tâm chẳng ngờ vực, sợ hăi), cho đến nghe Nhị Không tức Ngă Không và Pháp Không cũng Không, [đấy là] đạo lư Tam Không, tâm chẳng ngờ vực, sợ hăi. Đấy chính là như kinh Kim Cang đă nói, “bất kinh, bất bố, bất úy” (chẳng kinh hoàng, chẳng sợ hăi, chẳng hoảng sợ). “Thường năng tu hành kỳ đại bi giả” (thường có thể tu hành ḷng đại bi), phải phát tâm đại bi. “Thâm viễn vi diệu” (sâu xa vi diệu): Chính ḿnh phải học hiểu pháp yếu sâu xa vi diệu, phải phổ độ chúng sanh. “Mị bất phú tái” (không ǵ chẳng che chở): Giống như trời đất che chở chúng sanh, trời đất che chở trọn khắp hết thảy chúng sanh. Bồ Tát phát tâm đại từ bi, giống như trời đất che chở chúng sanh, không ǵ chẳng che chở.

 

2.2.3.3.1.1.8.1.4. Thành tựu đức thù thắng

 

          (Kinh) Cứu cánh Nhất Thừa, chí ư bỉ ngạn. Quyết đoạn nghi vơng, huệ do tâm xuất. Ư Phật giáo pháp, cai la vô ngoại. Trí huệ như đại hải, tam-muội như sơn vương. Huệ quang minh tịnh, siêu du nhật nguyệt. Thanh bạch chi pháp, cụ túc viên măn. Do như Tuyết Sơn, chiếu chư công đức đẳng nhất tịnh cố. Do như đại địa, tịnh uế hảo ác vô dị tâm cố. Do như tịnh thủy, tẩy trừ trần lao chư cấu nhiễm cố. Do như hỏa vương, thiêu diệt nhất thiết phiền năo tân cố. Do như đại phong, hành chư thế giới vô chướng ngại cố. Do như hư không, ư nhất thiết hữu vô sở trước cố. Do như liên hoa, ư chư thế gian vô nhiễm ô cố. Do như Đại Thừa, vận tải quần manh xuất sanh tử cố. Do như trùng vân, chấn đại pháp lôi, giác vị giác cố. Do như đại vũ, vũ cam lộ pháp nhuận chúng sanh cố. Như kim cang sơn, chúng ma ngoại đạo bất năng động cố. Như Phạm thiên vương, ư chư thiện pháp tối thượng thủ cố. Như Ni Câu Loại thụ, phổ phú nhất thiết cố. Như Ưu-đàm-bát hoa, hy hữu nan ngộ cố. Như kim xí điểu, oai phục ngoại đạo cố. Như chúng du cầm, vô sở tạng tích cố. Do như ngưu vương, vô năng thắng cố. Do như tượng vương, thiện điều phục cố. Như sư tử vương, vô sở úy cố. Khoáng nhược hư không, đại từ đẳng cố.

          ()究竟一乘,至於彼岸。決斷疑網,慧由心出。於佛教法,該羅無外。智慧如大海,三昧如山王。慧光明淨,超踰日月。清白之法,具足圓滿。猶如雪山,照諸功德等一淨故。猶如大地,淨穢好惡無異心故。猶如淨水,洗除塵勞諸垢染故。猶如火王,燒滅一切煩惱薪故。猶如大風,行諸世界無障礙故。猶如虛空,於一切有無所著故。猶如蓮華,於諸世間無染汙故。猶如大乘,運載群萌出生死故。猶如重雲,震大法雷覺未覺故。猶如大雨,雨甘露法潤眾生故。如金剛山,眾魔外道不能動故。如梵天王,於諸善法最上首故。如尼拘類樹,普覆一切故。如優曇鉢華,希有難遇故。如金翅鳥,威伏外道故。如眾遊禽,無所藏積故。猶如牛王,無能勝故。猶如象王,善調伏故。如師子王,無所畏故。曠若虛空,大慈等故。

          (Kinh: Rốt ráo Nhất Thừa, đạt đến bờ kia. Đoạn trừ lưới nghi, huệ xuất phát từ tâm. Bao trùm giáo pháp của Phật, không ǵ ra ngoài. Trí huệ như biển cả, tam-muội như núi chúa. Ánh sáng trí huệ thanh tịnh, vượt trỗi mặt trời, mặt trăng. Trọn đủ viên măn pháp trắng sạch. Giống như núi Tuyết, v́ chiếu các công đức b́nh đẳng một mực thanh tịnh. Giống như đại địa, v́ đối với tịnh, uế, xấu, tốt, chẳng có tâm sai khác. Giống như nước sạch, v́ gột trừ các trần lao cấu nhiễm. Giống như hỏa vương, v́ đốt sạch hết thảy củi phiền năo. Giống như gió to, v́ thổi qua các thế giới chẳng chướng ngại. Giống như hư không, v́ đối với hết thảy các Hữu chẳng chấp trước. Giống như hoa sen, v́ ở trong các thế gian chẳng ô nhiễm. Giống như Đại Thừa, v́ chở quần manh thoát khỏi sanh tử. Giống như mây dầy, v́ rền sấm pháp to lớn để giác ngộ kẻ chưa giác. Giống như mưa to, v́ mưa pháp cam lộ nhuần thấm chúng sanh. Như núi kim cang, v́ các ma ngoại đạo chẳng thể động. Như Phạm thiên vương, v́ là thượng thủ bậc nhất trong các thiện pháp. Như cây Ni Câu Loại v́ che phủ khắp hết thảy. Như hoa Ưu-đàm-bát v́ hiếm có khó gặp. Như chim cánh vàng v́ oai lực chế ngự ngoại đạo. Như các loài chim phiêu du, v́ không chất chứa. Giống như trâu chúa, v́ chẳng thể thắng được. Giống như voi chúa, v́ khéo điều phục. Như sư tử vương v́ không sợ hăi. Mênh mông dường hư không v́ đại từ b́nh đẳng).

 

          “Cứu cánh Nhất Thừa, chí ư bỉ ngạn” (rốt ráo Nhất Thừa, đạt đến bờ kia): Bồ Tát độ chúng sanh cũng là học theo Phật. Nếu nói theo pháp Nhất Thừa, chúng sanh chẳng dễ dàng liễu giải, cho nên trước hết nói Khổ, Tập, Diệt, Đạo, nói pháp Nhị Thừa, lại nói Quyền Giáo Đại Thừa, nói pháp Tam Thừa, mục đích rốt ráo vẫn là pháp Nhất Thừa. Đối với pháp Nhất Thừa Phật đạo, nhất định phải học pháp Nhất Thừa rốt ráo th́ mới có thể đạt tới bờ kia Niết Bàn. Do vậy, kinh Pháp Hoa có nói: “Duy hữu Nhất Thừa Pháp, vô nhị, diệc vô tam” (chỉ có pháp Nhất Thừa, không hai, cũng không ba). Pháp Nhị Thừa, pháp Tam Thừa đều là phương tiện quyền biến hay khéo, pháp Nhất Thừa mới là Phật pháp chân thật, mới có thể đạt đến bờ kia Niết Bàn.

          “Quyết đoạn nghi vơng, huệ do tâm xuất. Ư Phật giáo pháp, cai la vô ngoại” (nhất quyết đoạn trừ lưới nghi, trí huệ phát xuất từ tâm, bao trùm giáo pháp của Phật, chẳng có pháp nào lọt ra ngoài được). “Quyết đoạn nghi vơng”: “Nghi” là một trong năm thứ căn bản phiền năo, tức tham, sân, si, mạn, nghi. Đối với Phật pháp, sanh khởi đủ thứ nghi hoặc, đan xen lẫn nhau như cái lưới. Nay những vị Bồ Tát này có thể quyết định đoạn trừ những lưới nghi ấy, do vậy đại triệt đại ngộ, khai trí huệ. “Huệ do tâm xuất” đối ứng với câu “tùng Như Lai sanh”. Trong phần trước là đă ngộ Phật pháp đến mức Như Như Trí, Như Như Lư, biết diệu pháp là do đức Phật dạy, sanh từ miệng Phật. Nay lại tiến hơn một bước nữa, mới biết Phật pháp chẳng do đức Phật dạy cho chúng ta, mà là trong tâm vốn sẵn có, từ tâm của chính ḿnh lưu xuất. Do vậy, đối với chân tâm của ta, không có ǵ to lớn mà ra ngoài [chân tâm] được, nó bao trùm hết thảy Phật pháp. “Ư Phật giáo pháp, cai la vô ngoại” (bao trùm Phật pháp, không ǵ ra ngoài được), “cai la”: “Cai” () là bao gồm, “la”sưu la (蒐羅, thâu tóm), hết thảy Phật pháp đều ở trong tâm ta.

          “Trí huệ như đại hải, tam-muội như sơn vương” (trí huệ như biển cả, tam-muội như núi chúa): Bồ Tát tu Huệ th́ phải [tu tập] sao cho Định và Huệ cân bằng. Trong Thất Giác Chi đă được nhắc đến trong phần trước, có Niệm Giác Chi, tức là Định và Huệ cân bằng, chẳng thể thiên trọng Huệ, mà cũng chớ nên thiên trọng Định. Bồ Tát dụng công đến mức độ này, các Ngài biết chớ nên thiên trọng Huệ, mà cũng chớ nên thiên trọng Định. Định và Huệ phải cân bằng. Từ Định Huệ cân bằng, lại hợp thành Định và Huệ như một. Khi ấy, dụng công đến mức tột cùng, [ở đây, kinh văn] nêu một thí dụ, trí huệ giống như biển cả, rộng lớn rất sâu. “Tam-muội” là Thiền Định, tiếng Hán dịch là Chánh Định. Thiền Định như “sơn vương” (núi chúa), ṿi vọi bất động. Hai thí dụ “đại hải”“sơn vương” là tổng thí dụ; kế đó, c̣n có mười chín thí dụ riêng biệt. “Huệ quang minh tịnh, siêu du nhật nguyệt” (ánh sáng trí huệ thanh tịnh vượt trỗi mặt trời, mặt trăng): Trí huệ quang minh thanh tịnh. “Du” () là vượt trỗi, [“siêu du nhật nguyệt” là] vượt trỗi ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. “Thanh bạch chi pháp, cụ túc viên măn” (trọn đủ viên măn pháp trong sạch), tức là Phật pháp đều trọn đủ, đều viên măn. Đây vẫn là tán thán trí huệ và tam-muội. Tiếp theo là mười chín thí dụ “do như” (giống như).

          1) “Do như Tuyết Sơn, chiếu chư công đức đẳng nhất tịnh cố” (giống như núi Tuyết, v́ chiếu các công đức b́nh đẳng, một mực thanh tịnh): Chứng đắc pháp Định Huệ cân bằng, giống như Tuyết Sơn (Himalaya). Tuyết Sơn th́ khắp núi đều là tuyết, chiếu các công đức đều là một bầu thanh tịnh như nhau. Tuyết Sơn hoàn toàn là tuyết thanh tịnh.

          2) “Do như đại địa, tịnh uế, hảo ác vô dị tâm cố” (giống như đại địa, v́ đối với tịnh, uế, tốt, xấu, tâm chẳng sai khác): Tâm Bồ Tát giống như đại địa. Đối với hết thảy chúng sanh, đại địa đều có thể chuyên chở hết thảy vạn vật, nhưng nó chẳng có tâm phân biệt, bất luận là thanh tịnh, ô uế, tốt, xấu, đại địa chẳng có tâm phân biệt. Bồ Tát đối với hết thảy chúng sanh cũng giống như vậy, giống như đại địa.

          3) “Do như tịnh thủy, tẩy trừ trần lao chư cấu nhiễm cố” (giống như nước sạch v́ gột trừ trần lao, các cấu nhiễm): Bồ Tát thuyết pháp giống như nước thanh tịnh, có thể gột sạch trần lao nhơ bẩn của hết thảy chúng sanh.

          4) “Do như hỏa vương, thiêu diệt nhất thiết phiền năo tân cố” (giống như hỏa vương, v́ đốt trụi hết thảy củi phiền năo). “Hỏa vương” là từ ngữ tán thán. “Thiêu diệt nhất thiết phiền năo tân cố” (đốt rụi hết thảy củi phiền năo): Bồ Tát thuyết pháp có thể đoạn trừ phiền năo của chúng sanh. Phiền năo giống như “tân” (), “tân” là củi đốt. Trí huệ thuyết pháp của đức Phật giống như lửa, thiêu sạch tâm phiền năo của chúng sanh.

          5) “Do như đại phong, hành chư thế giới vô chướng ngại cố” (giống như gió to, v́ thổi qua các thế giới chẳng bị chướng ngại): Gió thổi trong thế giới này chẳng có chướng ngại. Bồ Tát hóa độ chúng sanh trên thế giới cũng là vô chướng, vô ngại.

          6) “Do như hư không, ư nhất thiết hữu vô sở trước cố” (giống như hư không, v́ đối với hết thảy pháp hữu vi chẳng đắm trước): Trong hết thảy các pháp hữu vi đều chẳng vướng mắc giống như hư không. Bồ Tát cũng giống như vậy, hằng ngày độ chúng sanh, kết quả là chẳng chấp trước ǵ!

          7) “Do như liên hoa, ư chư thế gian vô nhiễm ô cố” (giống như hoa sen, v́ ở trong các thế gian mà chẳng bị ô nhiễm): Bồ Tát độ chúng sanh trong thế gian, chẳng bị chúng sanh nhuốm bẩn, giống như hoa sen sanh từ bùn lầy mà chẳng nhuốm bẩn.

          8) “Do như Đại Thừa, vận tải quần manh xuất sanh tử cố”: “Do như Đại Thừa”: Giống như một cỗ xe to. “Vận tải quần manh”: Chuyên chở chúng sanh thoát khỏi sanh tử.

          9) “Do như trùng vân, chấn đại pháp lôi giác vị giác cố” (giống như tầng mây dầy, v́ rền tiếng sấm pháp to lớn để giác ngộ kẻ chưa giác): “Trùng vân” (重雲) là mây rất dầy. Có mây rất dầy th́ sẽ nổi sấm. Bồ Tát “chấn đại pháp lôi giác vị giác” (rền tiếng sấm pháp to lớn để giác ngộ kẻ chưa giác): Chữ Giác trước là Bồ Tát, chữ “vị giác” chỉ chúng sanh. Dùng tiên giác để giác hậu giác tức là “giác vị giác”.

          10) “Do như đại vũ, vũ cam lộ pháp nhuận chúng sanh cố” (giống như mưa to, v́ mưa pháp cam lộ nhuần thấm chúng sanh): Bồ Tát thuyết pháp giống như cam lộ pháp thủy, nhuần thấm hết thảy chúng sanh.

          11) “Như kim cang sơn, chúng ma ngoại đạo bất năng động cố” (như núi kim cang v́ các loài ma và ngoại đạo chẳng thể lay động): Bồ Tát hoằng pháp lợi sanh, có các loài ma và ngoại đạo muốn tới nhiễu loạn. Bồ Tát ṿi vọi bất động, giống như núi kim cang, chẳng bị các loài ma và ngoại đạo lay động.

          12) “Như Phạm thiên vương, ư chư thiện pháp tối thượng thủ cố” (như Đại Phạm thiên vương là bậc thượng thủ cao tột trong các pháp lành): Trên thế giới, Đại Phạm Thiên Vương là thiên vương lớn nhất, là bậc thượng thủ cao nhất trong các thiện pháp. Bồ Tát thuyết pháp cũng giống như thế.

          13) “Như Ni Câu Loại thụ, phổ phú nhất thiết cố” (như cây Ni Câu Loại, v́ che phủ hết thảy): Ở Trung Hoa chẳng có cây Ni Câu Loại (Nyagrodha), Ấn Độ có cây này. [Ni Câu Loại] dịch sang tiếng Hán là Tung Quảng Thụ. Tung () là cao, [Quảng là rộng]. Cây ấy cao ba trượng mới có thể trổ cành. Thân cây cao lớn khôn sánh. “Tung” là cao lớn khôn sánh. “Quảng” () là lá cây có thể to đến mức che khắp đại địa. Ví như Bồ Tát thuyết pháp che rợp hết thảy chúng sanh, giống như cây Ni Câu Loại.

          14) “Như Ưu-đàm-bát hoa, hy hữu nan ngộ cố” (như hoa Ưu-đàm-bát, v́ hiếm có khó gặp). Trong phần trước đă có nói, “Ưu-đàm-bát hoa” (Uḍumbara) c̣n gọi là hoa Linh Thụy (靈瑞), ba ngàn năm mới nở một lần, quư vị chẳng dễ ǵ gặp được! Bồ Tát thuyết pháp, phát tâm dài lâu, thường xuyên thuyết pháp, nhưng nhân duyên của quư vị chẳng đủ sẽ không gặp được. Hễ gặp gỡ, quư vị đừng bỏ lỡ cơ hội!

          15) “Như kim xí điểu, oai phục ngoại đạo cố”: Giống như kim xí điểu (Garuda)[8] có thể dùng oai lực khuất phục hết thảy ngoại đạo.

          16) “Như chúng du cầm, vô sở tàng tích cố” (như các loài chim phiêu du, v́ chẳng cất chứa): Có một loài du điểu bay tới, bay lui, chính ḿnh chẳng có tổ, chúng chẳng tích chứa ǵ. Bồ Tát du hành giáo hóa, chẳng hề cất chứa, chẳng giấu diếm một chút Phật pháp nào, có Phật pháp ǵ thảy đều dạy hết cho chúng sanh.

          17) “Do như ngưu vương, vô năng thắng cố” (giống như trâu chúa v́ không ai có thể thắng được).

          18) “Do như tượng vương, thiện điều phục cố” (giống như voi chúa v́ khéo điều phục).

          19) “Như sư tử vương, vô sở úy cố” (như sư tử chúa v́ không sợ hăi): “Do như tượng vương” (giống như voi chúa) có thể khéo điều phục. Lại giống như sư tử vương, không sợ hăi.

          Đến đây tổng cộng là mười chín tỷ dụ. “Khoáng nhược hư không, đại từ đẳng cố” (mênh mông dường hư không v́ đại từ, b́nh đẳng): “Khoáng” () là khoáng đạt (曠達, rộng răi), giống như hư không. Tâm đại từ của Bồ Tát b́nh đẳng, giống như hư không.

 

2.2.3.3.1.1.8.1.5. Hạnh tu tăng tấn

 

          (Kinh) Tồi diệt tật tâm, bất kỵ thắng cố. Chuyên nhạo cầu pháp, tâm vô yếm túc, thường dục quảng thuyết, chí vô b́ quyện. Kích pháp cổ, kiến pháp tràng, diệu huệ nhật, trừ si ám. Tu Lục Ḥa Kính, thường hành pháp thí. Chí dũng tinh tấn, tâm bất thoái nhược. Vi thế đăng minh, tối thắng phước điền. Thường vi sư đạo, đẳng vô tăng ái. Duy nhạo chánh đạo, vô dư hân thích. Bạt chư dục thích, dĩ an quần sanh, công huệ thù thắng, mạc bất tôn kính. Diệt tam cấu chướng, du chư thần thông.

          ()摧滅嫉心,不忌勝故。專樂求法,心無厭足。常欲廣說,志無疲倦。擊法鼓,建法幢,曜慧日,除癡闇。修六和敬,常行法施。志勇精進,心不退弱。為世燈明,最勝福田。常為師導,等無憎愛。唯樂正道,無餘欣戚。拔諸欲刺,以安群生。功慧殊勝,莫不尊敬。滅三垢障,遊諸神通。

          (Kinh: Dẹp tan tâm ganh ghét v́ chẳng đố kỵ người hơn ḿnh. Chuyên thích cầu pháp, tâm không chán đủ, thường muốn nói rộng răi, chí nguyện chẳng mệt mỏi. Đánh trống pháp, dựng pháp tràng, chói ngời mặt trời trí huệ, trừ si ám. Tu Lục Ḥa Kính, thường hành pháp thí. Chí nguyện dũng mănh, tinh tấn, tâm chẳng lui sụt, yếu đuối. Làm đèn soi đời, ruộng phước tối thắng. Thường làm bậc đạo sư, b́nh đẳng, không yêu ghét. Chỉ thích chánh đạo, không yêu mến, lo lắng điều chi khác. Nhổ các gai dục để an định các chúng sanh. Công đức, trí huệ thù thắng, không ai chẳng tôn kính. Diệt trừ tam cấu chướng, dạo chơi trong các thần thông).

 

          “Tồi diệt tật tâm, bất kỵ thắng cố”(dẹp tan tâm ganh ghét v́ chẳng đố kỵ người hơn ḿnh): Ở đây chẳng phải là thí dụ. Đây là trực tiếp nói về công đức của Bồ Tát. “Tồi diệt tật tâm” (dẹp tan tâm ganh ghét): Bồ Tát chẳng có tâm ganh tỵ, v́ sao Ngài dẹp tan tâm đố kỵ? Ngài chẳng ganh tỵ người vượt trỗi ḿnh. Thấy người khác vượt trỗi ḿnh, tâm Ngài sanh hoan hỷ, Ngài tùy hỷ công đức, trọn chẳng ganh tỵ người vượt trỗi Ngài. Do vậy, Ngài chẳng có tâm ganh ghét. Tôi lần nữa hướng về các vị nói về công đức của Bồ Tát nhằm dạy chúng ta tham học. Rất khó hàng phục ḷng ganh ghét v́ lũ phàm phu chúng ta có cái Ngă, có ngă tri, ngă kiến, cho nên dễ chấp trước, chỉ sợ người khác vượt trỗi ta. Trông thấy người khác giảng kinh, thuyết pháp hay hơn ta, trong tâm bèn chịu không nổi. Thấy người khác tu hành dụng công hơn ta, cũng chịu không nổi. Do như vậy mà dấy lên tâm ganh tỵ. Phải phát tâm tùy hỷ công đức. Người khác giảng kinh, thuyết pháp là công đức, ta phải tùy hỷ. Người khác tu hành dụng công là công đức, ta phải tùy hỷ. Phải thường xuyên phát tâm tùy hỷ công đức, hàng phục cái tâm ganh tỵ. Tiến thêm một bước nữa là phá dẹp nó.

          “Chuyên nhạo cầu pháp, tâm vô yếm túc, thường dục quảng thuyết, chí vô b́ quyện” (chuyên thích cầu pháp, tâm chẳng chán đủ, thường muốn rộng nói, chí chẳng chán mệt): Hai câu này là tự lợi và lợi tha nhằm kết thúc những công đức [đă được đề cập] trong phần trước, tổng kết chúng. Tâm Bồ Tát là tâm tự lợi, lợi tha, cầu tự lợi, cầu Phật pháp, chuyên tâm dốc ư ưa thích mong cầu Phật pháp. “Tâm vô yếm túc” (tâm chẳng chán, đủ) là cái tâm “chưa thành Phật sẽ không ngưng nghỉ”, chẳng có cái tâm chán ngán, [cảm thấy đă] đủ rồi. V́ Bồ Tát trên là cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, vừa cầu Phật pháp, vừa giảng cho chúng sanh nghe. “Thường dục quảng thuyết” (thường muốn nói rộng răi): Phải nói [Phật pháp] cho nhiều. “Chí vô b́ quyện” (chí chẳng mệt mỏi): Chí nguyện trong tâm chưa hề có ư tưởng mệt mỏi.

          “Kích pháp cổ, kiến pháp tràng, diệu huệ nhật, trừ si ám” (đánh trống pháp, dựng pháp tràng, sáng ngời mặt trời trí huệ, trừ si sám): Ba câu đầu là Bồ Tát thuyết pháp. “Kích pháp cổ, kiến pháp tràng, diệu huệ nhật” là phát ra ánh sáng trí huệ, sau đó là “trừ si ám”, tức là lợi ích chúng sanh, mong trừ ngu si hắc ám cho chúng sanh.

          “Tu Lục Hoà Kính, thường hành pháp thí”: Đấy phải tôn kính Lục Ḥa Tăng. Quư vị là một vị Bồ Tát, phải thuyết pháp lợi ích chúng sanh. Nếu Bồ Tát đông đảo, chẳng phải là lợi ích chúng sanh càng nhiều hơn ư? Điều này phát xuất từ “tồi diệt tật tâm” (dẹp tan tâm ganh ghét) trong phần trước, hy vọng đại chúng Tăng đều có thể giảng kinh, thuyết pháp, lợi ích chúng sanh. Đối với đại chúng Tăng, phải thể hiện sự cung kính theo Lục Ḥa. [Tăng trong] chữ Phạn là Tăng-già (Saṃgha), tiếng Hán là Ḥa Hợp Chúng. Ḥa Hợp Chúng có sáu thứ ḥa hợp, tức là thân, khẩu, ư, giới, kiến, lợi. Lục Ḥa Kính có sáu thứ:

          1) Thứ nhất, Thân Ḥa Đồng Trụ. Người xuất gia thân thể phải ḥa đồng th́ mới có thể cùng trụ trong một đạo tràng.

          2) Thứ hai, Khẩu Ḥa Vô Tránh. Ngoài giảng kinh, thuyết pháp ra, chẳng dấy lên tranh luận.

          3) Thứ ba, Ư Ḥa Đồng Duyệt. Thân và Khẩu đă ḥa, Ư [cũng phải] ḥa. Trong tâm phải hoan hỷ. Ba pháp thân, khẩu, ư đều ḥa hợp.

          4) Thứ tư, Giới Ḥa Đồng Tu, tức là đối với giới của mọi người đă thọ, dẫu là tỳ-kheo giới hay Bồ Tát giới đều như nhau.

          5) Thứ năm, Kiến Ḥa Đồng Giải: Mọi người đều tu Đại Thừa Phật pháp, kiến giải giống như nhau.

          6) Thứ sáu, Lợi Ḥa Đồng Quân: Đối với lợi dưỡng th́ mọi người đều bằng nhau.

          Đó gọi là Giới, Kiến, Lợi tam ḥa, lại c̣n có Thân, Khẩu, Ư tam ḥa, hợp thành Lục Ḥa, [đoàn thể đệ tử Phật tuân theo Lục Ḥa th́] gọi là Lục Ḥa Tăng. Câu này có ư nói: Phải tu Lục Ḥa Kính, bản thân ta phải trọn hết trách nhiệm của chính ḿnh. Ta đối với đại chúng Tăng, phải hành Lục Ḥa cung kính. Nói theo danh từ hiện thời, sẽ là “tinh thành đoàn kết” (精誠團結, đoàn kết thành một đoàn thể tinh ṛng, chí thành). Quư vị là một người hoằng pháp lợi lạc chúng sanh, nếu đại chúng ḥa hợp tăng đều đoàn kết với nhau, đều cùng hoằng dương Phật pháp, chẳng phải là chúng sanh sẽ đạt được lợi ích càng nhiều hơn ư? Do vậy, thường tu Lục Ḥa Kính, thường hành pháp bố thí.

          “Chí dũng tinh tấn, tâm bất thoái nhược” (chí nguyện dũng mănh, tinh tấn, tâm chẳng lui sụt, yếu ớt): Quư vị phải thường hành Pháp BThí, phát cái tâm khó có ấy, nhưng quư vị phải biết thế giới Sa Bà là đời ác ngũ trược, quư vị phát tâm hoằng dương Phật pháp lợi ích chúng sanh, sẽ nẩy sanh ma cảnh. Đó gọi là “đạo cao một thước, ma cao một trượng”. Quư vị gặp phải đôi chút cảnh giới chẳng vừa ḷng, ma cảnh hiện tiền, ôi chao! Ta vẫn nên tự ḿnh sống trong lều tranh tu hành đi thôi! Như vậy là quư vị đă lui sụt, yếu ḷng, phải dũng mănh tinh tấn, tâm chẳng lui sụt, yếu ớt, phải chiến thắng ma cảnh.

          “Vi thế đăng minh, tối thắng phước điền” (làm đèn soi sáng cho cơi đời, là ruộng phước tối thắng): Phải phát nguyện làm ánh sáng chiếu tan hắc ám cho chúng sanh, phải phát nguyện làm ruộng cho chúng sanh gieo phước. Chúng sanh chẳng có trí huệ, ta ban trí huệ cho họ. Chúng sanh chẳng có phước, ta vun bồi phước cho họ. Ban cho họ trí huệ th́ giống như cho họ đèn sáng. Vun bồi phước cho họ th́ giống như gieo phước điền cho họ.

          “Thường vi sư đạo, đẳng vô tăng ái” (thường làm bậc hướng dẫn, b́nh đẳng, chẳng yêu ghét): Ta phát nguyện thường làm bậc đạo sư của chúng sanh, thường v́ chúng sanh thuyết pháp, nhưng đối với chúng sanh, ta phát tâm b́nh đẳng. “Đẳng vô tăng ái” (b́nh đẳng, không yêu ghét) là chẳng có hai ư niệm yêu, ghét sai khác. Đối với những chúng sanh đáng ghét liền oán hận, đối với những chúng sanh ưa thích liền yêu mến thiên vị. Đấy đều là cái tâm phàm phu, chẳng phải là tâm Bồ Tát. Bồ Tát phải b́nh đẳng không ghét, không yêu.

          “Duy nhạo chánh đạo, vô dư hân thích” (chỉ yêu thích chánh đạo, không yêu thích hay bận tâm v́ những thứ khác), nghĩa là tâm Bồ Tát chỉ yêu thích chánh đạo của Phật, chẳng có những pháp nào khác khiến cho Bồ Tát ưa chuộng hay khiến cho Bồ Tát bận ḷng. Chỉ có một tâm là tâm cầu chánh đạo. Hai câu “duy nhạo chánh pháp, dư vô hân thích” trên đây chính là công phu tự lợi.

          Kế đó, “bạt chư dục thích, dĩ an quần sanh” (nhổ các gai dục để an định quần sanh): Hai câu này là lợi tha. Ta hoằng pháp lợi sanh là để cho chúng sanh đoạn trừ cái tâm dục ái, tham dục. [Những món ái dục ấy] giống như cây lao xiên cá đâm vào tâm chúng sanh, ta phải nhổ cây lao xiên cá ấy ra, khiến cho chúng sanh an lạc. Đó là “dĩ an quần sanh” (để an định quần sanh).

          “Công huệ thù thắng, mạc bất tôn kính” [nghĩa là] công đức và trí huệ của quư vị đều hết sức thù thắng, hết thảy chúng sanh không ai chẳng tôn kính quư vị. Quư vị hiểu đạo lư này, nhất định sẽ phát đại nguyện, sẽ thuyết pháp lợi ích chúng sanh. Hiện thời, Phật pháp chẳng hưng thịnh, người trong xă hội trông thấy bậc xuất gia chẳng dấy ḷng tôn kính. V́ sao? Chúng ta chẳng thuyết pháp cho họ nghe. Họ chẳng thấy trí huệ của quư vị. Quư vị chẳng làm công đức, họ chẳng biết quư vị có ưu điểm ǵ! Do vậy, họ chẳng cung kính quư vị. Quư vị phải làm nhiều công đức, bố thí trí huệ cho nhiều. Làm nhiều công đức, chúng sanh sẽ không ai chẳng tôn kính quư vị.

          “Diệt tam cấu chướng, du chư thần thông” (diệt trừ ba cấu chướng, dạo chơi trong các thần thông): Quư vị muốn lợi ích chúng sanh, trước hết phải đoạn sạch phiền năo. Tham, sân, si là Tam Cấu. Tam Cấu sanh ra chướng ngại. Quư vị diệt trừ Tam Cấu phiền năo, thần thông sẽ tự nhiên hiện tiền, sẽ lại “du chư thần thông” (dạo chơi trong các thần thông), tức là tự do tự tại giáo hóa chúng sanh.

 

2.2.3.3.1.1.8.1.6. Các lực trọn đủ

 

          (Kinh) Nhân lực, duyên lực, ư lực, nguyện lực, phương tiện chi lực. Thường lực, thiện lực, định lực, huệ lực, đa văn chi lực. Thí, giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền Định, trí huệ chi lực. Chánh niệm Chỉ Quán, chư thông minh lực. Như pháp điều phục chư chúng sanh lực. Như thị đẳng lực, nhất thiết cụ túc.

          ()因力、緣力、意力、願力、方便之力。常力、善力、定力、慧力,多聞之力。施戒忍辱精進禪定智慧之力。正念止觀,諸通明力。如法調伏諸眾生力。如是等力,一切具足。

          (Kinh: Nhân lực, duyên lực, ư lực, nguyện lực, phương tiện lực. Thường lực, thiện lực, định lực, huệ lực, đa văn lực. Sức thí, giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền Định, trí huệ. Sức chánh niệm Chỉ Quán, sức các món thần thông, tam minh. Sức điều phục chúng sanh đúng pháp. Các sức như thế, hết thảy đều trọn đủ).

 

          “Nhân lực, duyên lực, ư lực, nguyện lực, phương tiện chi lực”: Tiếp đó, có rất nhiều lực. V́ sao cần đến lực? V́ lực [được nói đến ở đây] chính là lực dụng (tác dụng của lực), tức là diệu dụng của Bồ Tát. Lực cũng là bản lănh của Bồ Tát, Bồ Tát độ chúng sanh th́ phải có bản lănh độ chúng sanh. Bồ Tát có năng lực độ chúng sanh hay không? Tiếp đó, [kinh văn nói đến] bản lănh và năng lực độ chúng sanh của Bồ Tát.

          “Nhân lực, duyên lực”: Hết thảy các pháp sanh từ nhân duyên, Bồ Tát cũng sanh từ nhân duyên. “Nhân lực” là thiện căn đă gieo trong đời trước, kiếp trước. Đấy chính là sức mạnh và lực dụng của cái nhân. “Duyên lực” là thiện căn đă vun bồi trong đời trước, kiếp trước, gặp cái duyên là thầy dạy dỗ, gặp thiện tri thức giảng giải Phật pháp, nhân duyên trọn đủ. “Ư lực” là sức mạnh của cái tâm, gặp thiện tri thức đang nói Phật pháp, quư vị có phát tâm học Phật hay không? Hễ phát tâm th́ là “ư lực”. Đă phát tâm, quư vị có phát đại nguyện độ chúng sanh hay không? Ta phát [đại nguyện độ chúng sanh], đấy là “nguyện lực”. Phát nguyện độ chúng sanh mà vẫn chẳng độ được, quư vị phải học phương tiện quyền biến, xảo diệu. Sức phương tiện quyền biến, xảo diệu gọi là “phương tiện chi lực”. “Thường lực”: Quư vị phát tâm hoằng pháp mà chẳng phát tâm dài lâu, sẽ chẳng được. “Thiện lực” là sức mạnh tốt lành nhất. “Định lực, huệ lực”: Có Thiền Định lực, có trí huệ lực. “Đa văn chi lực”: Đối với Phật pháp, phải đa văn. Bản lănh độ chúng sanh của quư vị chẳng đủ là v́ quư vị nghe pháp quá ít. Hễ đa văn, bản lănh sẽ to lớn. Trên đây đă nói nhiều thứ lực như vậy, đều là những năng lực phát sanh nơi phương diện cầu Giải.

          Kế đó, nói đến năng lực phát sanh nơi phương diện tu hành. “Thí, giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền Định, trí huệ chi lực”: Bồ Tát tu hành bèn tu Lục Ba La Mật, tức là tu Lục Độ: Bố Thí Độ, TGiới Độ, Nhẫn Nhục Độ, Tinh Tấn Độ, Thiền Định Độ, và THuệ Độ. Do tu hành Lục Độ mà phát sanh năng lực. “Chánh niệm Chỉ Quán”: Do chánh niệm hiện tiền, tu hạnh môn Chỉ Quán, sanh ra sức mạnh. “Chư thông minh lực”: Quư vị dụng công tu hành, đạt được Lục Thông, đắc Tam Minh, sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn. “Như pháp điều phục chư chúng sanh lực” (sức điều phục các chúng sanh đúng pháp): Quư vị thấy chúng sanh nào bèn biết phải nên dùng phương pháp ǵ để điều phục người ấy. Đấy gọi là “như pháp điều phục chư chúng sanh lực”. “Như thị đẳng lực, nhất thiết cụ túc” (những lực như thế hết thảy đều trọn đủ): Sức mạnh cầu Giải, sức mạnh cầu Hành, Giải lẫn Hành đều coi trọng, những sức mạnh ấy hết thảy đều trọn đủ.

 

2.2.3.3.1.1.8.1.7. Thông với các đức, tán thán những điều thù thắng đă được nêu bày trên đây

 

          (Kinh) Thân sắc tướng hảo, công đức biện tài, cụ túc trang nghiêm, vô dữ đẳng giả. Cung kính cúng dường vô lượng chư Phật, thường vị chư Phật sở cộng xưng thán. Cứu cánh Bồ Tát chư Ba La Mật, tu Không, Vô Tướng, Vô Nguyện tam-muội, bất sanh bất diệt chư tam-muội môn, viễn ly Thanh Văn, Duyên Giác chi địa.

          ()身色相好,功德辯才,具足莊嚴,無與等者。恭敬供養無量諸佛,常為諸佛所共稱歎。究竟菩薩諸波羅蜜,修空、無相、無願三昧,不生不滅諸三昧門,遠離聲聞緣覺之地。

          (Kinh: Sắc thân, tướng hảo, công đức biện tài, trang nghiêm trọn đủ, chẳng ai sánh bằng. Cung kính cúng dường vô lượng chư Phật, thường được chư Phật cùng khen ngợi. Rốt ráo các Ba La Mật của hàng Bồ Tát, tu Không, Vô Tướng, Vô Nguyện tam-muội, các môn tam-muội bất sanh bất diệt, xa ĺa địa vị Thanh Văn, Duyên Giác).

 

          “Thân sắc tướng hảo, công đức biện tài, cụ túc trang nghiêm” (sắc thân, tướng hảo, công đức biện tài, trang nghiêm trọn đủ): Sắc tướng nơi thân thể toàn là kim sắc. “Tướng hảo”: Có ba mươi hai thứ tướng, và tám mươi hai loại tùy h́nh hảo[9], công đức biện tài hết thảy trọn đủ trang nghiêm. “Vô dữ đẳng giả” (chẳng có ai sánh bằng): Chẳng có Bồ Tát trong cơi nước nào vượt trỗi hàng Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Cung kính cúng dường vô lượng chư Phật, thường vị chư Phật sở cộng xưng thán” (cung kính cúng dường vô lượng chư Phật, thường được chư Phật cùng khen ngợi): Trong phần trước đă nói, Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc đều cúng dường mười phương vô lượng chư Phật Thế Tôn, mười phương chư Phật cũng xưng dương, tán thán các Ngài. “Cứu cánh Bồ Tát chư Ba La Mật” (rốt ráo các Ba La Mật của hàng Bồ Tát): Trong phần trước, Bồ Tát tu Lục Độ chưa tu viên măn, lúc này, tu Lục Độ đều tới mức đạt tới bờ kia, đều viên măn. “Tu Không, Vô Tướng, Vô Nguyện tam-muội”: Trong phần trên đă nói chuyện này vài lượt, những tam-muội này được gọi là Tam Tam-muội. “Bất sanh bất diệt chư tam-muội môn”: Tu bất sanh bất diệt tam-muội, tức là tam-muội [liễu ngộ] hết thảy các pháp vốn bất sanh, vốn bất diệt. “Viễn ly Thanh Văn, Duyên Giác chi địa” (xa ĺa địa vị Thanh Văn và Duyên Giác): Bồ Tát tu hành là v́ chúng sanh mà tu hành. Thanh Văn và Duyên Giác gọi là Nhị Thừa, gọi gộp chung là Tiểu Thừa, chỉ chịu tự lợi, chẳng chịu lợi ích chúng sanh. Bồ Tát xa ĺa địa vị Thanh Văn, Duyên Giác.

 

2.2.3.3.1.1.8.2. Tổng kết lời tán thán

 

          (Kinh) A Nan! Bỉ chư Bồ Tát, thành tựu như thị vô lượng công đức, ngă đản vị nhữ lược ngôn chi nhĩ. Nhược quảng thuyết giả, bách thiên vạn kiếp bất năng cùng tận.

          ()阿難!彼諸菩薩,成就如是無量功德,我但為汝略言之耳。若廣說者,百千萬劫不能窮盡。

          (Kinh: Này A Nan! Các vị Bồ Tát ấy thành tựu vô lượng công đức như thế đó, ta chỉ nói đại lược cho các ông đó thôi. Nếu nói chi tiết, trăm ngàn vạn kiếp chẳng thể nói trọn hết).

 

          Nói đến đây, đă nói xong về công đức của hàng Bồ Tát trong Cực Lạc thế giới, [đức Phật] bèn gọi ngài A Nan một tiếng: “A Nan! Bỉ chư Bồ Tát, thành tựu như thị vô lượng công đức” (này A Nan! Các vị Bồ Tát trong cơi ấy thành tựu vô lượng công đức như thế): “Bỉ” là Tây Phương Cực Lạc thế giới. Những vị Bồ Tát ấy đă thành tựu vô lượng công đức như vậy. “Ngă đản vị nhữ lược ngôn chi nhĩ” (ta chỉ v́ ông nói đại lược đó thôi): Nay ta nói nhiều ngần ấy, vẫn là nói giản lược. “Nhược quảng thuyết giả, bách thiên vạn kiếp bất năng cùng” [nghĩa là] nếu nói chi tiết, trăm ngàn vạn kiếp cũng nói chẳng xong công đức của họ.

          Tám đoạn kinh văn trên đây đều là tán thán công đức nơi hạnh môn của hàng Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, mà cũng là các sự vui mà họ được thọ dụng trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. V́ sao gọi là Tây Phương Cực Lạc thế giới? “Vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc” (chẳng có các sự khổ, chỉ hưởng những sự vui).

          Ba đoạn lớn kinh văn tiếp theo đây sẽ nói rơ nỗi khổ phải hứng chịu trong thế giới Sa Bà. Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có các thứ khổ, so sánh đối chiếu [để chỉ rơ] thế giới Sa Bà chịu khổ rất nhiều, chịu đựng những nỗi khổ ǵ vậy? Hứng chịu nỗi khổ do tham, sân, si. V́ sao thế giới Sa Bà phải hứng chịu đau khổ? Từ khổ năo sanh ra. Phiền năo có ba thứ căn bản phiền năo: Tham phiền năo, sân hận phiền năo, ngu si phiền năo. Do vậy, trong ba đoạn kinh văn lớn tiếp theo đây, sẽ nói: Do tâm tham sanh ra khổ, từ tâm sân hận sanh ra khổ, từ tâm ngu si sanh ra khổ, dạy chúng ta đă biết th́ hăy gắng đoạn khổ. Đoạn khổ là đoạn tham, sân, si. Nói đến đây bèn thay đổi vị đương cơ, vị đương cơ [trong phần kế tiếp] của phần này là Di Lặc Bồ Tát. Đương cơ trong những phần trước đều là ngài A Nan; v́ sao thay đổi người đương cơ? V́ sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật nhập Niết Bàn, đức Đương Lai Hạ Sanh là Di Lặc Tôn Phật. Di Lặc Bồ Tát là Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, v́ bậc Bổ Xứ Bồ Tát trong thế giới Sa Bà là vị này, trong tương lai Ngài sẽ giáng sanh thành Phật. V́ thế, đức Phật nói với bậc hạ sanh trong tương lai là Di Lặc Bồ Tát. Ngài lại c̣n bảo hết thảy trời, người hăy lắng nghe, hăy khéo tôn trọng pháp do Thích Ca Như Lai đă giảng, phải cảnh giác chính ḿnh đoạn trừ tham, sân, si, thoát khỏi các nỗi khổ. Phải đoạn trừ tham, sân, si, thoát khỏi các thứ khổ như thế nào? Tu hành trong thế giới Sa Bà chẳng dễ dàng, nhất định phải tin vào Tây Phương Cực Lạc thế giới, phải phát nguyện văng sanh, phải niệm danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật th́ mới có thể đoạn tham, sân, si, thoát khỏi các nỗi khổ.

Phật Thuyết Kinh Vô Lượng Thọ Giảng Kư

Phần 4 hết

 

 

 

 



[1] “Phi thời” không chỉ là không ăn quá Ngọ, mà c̣n là ngoài bữa sáng và bữa ngọ ra, không ăn lặt vặt.

[2] Nguyên văn là “ngũ tuyến phổ” tức là cách ghi các notes nhạc trong hệ thống kư âm của nhạc phương Tây. Do nhạc phổ được ghi lại bằng cách viết các nốt nhạc trên các khuôn nhạc gồm năm đường kẻ song song nên gọi là “ngũ tuyến phổ”.

[3] Do-tuần c̣n được phiên âm là Du Xà Na, Du Thiện Na, Du Tuần, hoặc Do Diên. Nghĩa gốc của chữ này là quăng đường mà một con trâu đeo ách có thể đi được trong một ngày. Dặm ở đây là nói theo dặm Tàu. Một do-tuần tính ra là từ 12 cho đến 15 km.

[4] Nói là “mười do tuần” v́ tính theo tiểu do-tuần th́ mỗi do-tuần là bốn mươi dặm. Do vậy, bốn trăm dặm là mười do-tuần.

[5] Bộ sớ này do ngài Phổ Uyển chùa Pháp Giới ở Vân Nam biên soạn vào đời Thanh. Ngài Phổ Uyển là xứ Côn Sơn, họ Cố, tự là Lan Cốc, không rơ năm sanh và năm mất. Chỉ biết Ngài đến Vân Nam vào năm đầu đời vua Thuận Trị. Do thời cuộc biến loạn, Ngài ẩn cư tiềm tu nhiều năm. Trong niên hiệu Khang Hy, do tứ chúng quy ngưỡng, cầu thỉnh, Ngài bèn đăng đàn giảng kinh thuyết pháp tại chùa Pháp Giới và Báo Quốc ở Côn Minh. Những bộ sớ giải nổi tiếng của Ngài là Kim Cang Kinh Tâm Ấn Sớ, Lăng Nghiêm Kinh Bảo Kính Sớ v.v…

[6] Vạn Tự Tục Tạng có tên gọi đầy đủ là Đại Nhật Bản Tục Tạng Kinh. Đây là tổng tập những kinh điển, chú sớ, trước tác Phật giáo chưa được đưa vào Đại Nhật Bản Giảo Đính Tạng Kinh (Vạn Đại Tạng Kinh). Vạn Tục Tạng Kinh được biên soạn từ năm Minh Trị 38 đến năm Đại Chánh Nguyên Niên (1905-1912). Đây là một công tŕnh khá đồ sộ, thâu thập 1.756 bộ kinh sách, chia thành 150 tập, phân thành 7.144 quyển. Trong ấy có rất nhiều bản đă thất truyền ở Trung Hoa.

[7] Nhị Không là Nhân Không (Ngă Không) và Pháp Không. Tam Không là Nhân Không, Pháp Không, và Nhân Pháp Câu Không.

[8] Garuda, thường phiên âm là Ca Lâu La, hoặc dịch nghĩa là Đại Bằng Kim Xí Điểu, là một loài trong Thiên Long Bát Bộ. Ca Lâu La thân chim, đầu người, mũi ưng, thân màu xanh như ngọc bích, cánh rất to, rộng đến ba trăm do-tuần, óng ánh như vàng, bay rất nhanh, mắt rất tinh, thích ăn thịt các loài rồng. Đôi khi, Ca Lâu La được tạc có h́nh người vạm vỡ, mũi như mỏ chim ưng, có hai tay, hoặc bốn tay. Ca Lâu La giữ vai tṛ thủ hộ núi Tu Di và trời Đao Lợi, nên các chùa miếu thuộc Phật giáo Nam Truyền như tại Thái Lan, Cao Miên, Lào, Bali (Indonesia) thường tạc h́nh Ca Lâu La ở bốn góc chùa (thường gọi là Krud). Do Ca Lâu La thường được tạc tượng với vẻ mặt hung dữ, người Campuchia hay gọi tượng Ca Lâu La là tượng chằn.

[9] Kinh thường chép là “tám mươi tùy h́nh hảo”, ở đây ḥa thượng nói là “tám mươi hai”, không biết có phải là do lỗi của người ghi lại lời giảng hay không?