Vô Lượng Thọ Kinh
Ưu Ba Đề Xá
Nguyện Sanh Kệ Giảng
Kư
Phần 1
無量壽經優婆提舍願生偈講記
Giảng
thuật: Trưởng lăo Đạo Nguyên
道源長老 講述
Bút
kư: Cư sĩ Thí Vượng Khôn
施旺坤 敬記
Thời
gian: Tháng Tư năm Dân Quốc 61 (1972)
Địa
điểm: Chí Liên Tinh Xá tại Đài Bắc
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
(dịch
theo bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội)
Hết thảy kinh Phật
và các sách xiển dương Phật pháp không ǵ chẳng nhằm
khiến cho kẻ khác hướng lành, tránh dữ, sửa
lỗi, chuyển lành, hiểu
rơ nhân quả ba đời, nhận biết Phật Tánh vốn
sẵn có, vượt khỏi biển khổ sanh tử,
sanh về Cực Lạc liên bang. Người đọc ắt
phải sanh tâm cảm ơn, tưởng là khó gặp gỡ.
Tay sạch, bàn sạch, chú trọng ḷng kính, giữ ḷng
thành, như đối trước Phật, trời,
như gặp thầy dạy, ắt sẽ lợi ích vô
biên. Nếu buông lung, chẳng kiêng dè, mặc t́nh khinh nhờn,
và cố chấp kiến giải hẹp ḥi, sanh ḷng hủy
báng xằng bậy th́ tội lỗi ngập trời, khổ
báo vô tận. Kính khuyên người đời hăy nên xa lánh tội,
cầu lợi ích, ĺa khổ, được vui!
(Trích từ quyển bốn của bộ Ấn
Quang Đại Sư Văn Sao Tam Biên - Đề từ cho
Linh Nham Tự Niệm Tụng Nghi Quy)
Dẫn
nhập
Hôm nay, tôi sẽ giảng
cho quư vị bộ Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề
Xá Nguyện Sanh Kệ, c̣n gọi là Văng Sanh Luận. Trước
khi khai giảng, trước hết hăy nói rơ nhân duyên giảng bộ luận này. Năm ngoái, Chí Liên tinh xá xây dựng
xong, đă thỉnh một bức tượng A Di Đà Phật
từ Hương Cảng về; [giảng kinh trong dịp ấy] là do Đạo Nguyên giảng kinh Kim Cang. V́ Tịnh
Độ Tông chúng ta th́ phải thờ phụng Tây
Phương Tam Thánh, năm nay, lại thỉnh tượng
Quán Thế Âm Bồ Tát và tượng Đại Thế Chí
Bồ Tát từ Hương Cảng. Thỉnh tượng Tây
Phương Tam Thánh viên măn, đều rất trang nghiêm, họ
lại muốn Đạo Nguyên giảng một bộ kinh
để kết duyên với mọi người. Tôi cảm
thấy mọi người đều rất bận rộn,
chẳng dám phát tâm giảng kinh dài, suy nghĩ mấy lượt,
năm nay tôi chọn giảng Văng Sanh Luận. Bộ luận
này rất ngắn, có thể giảng xong trong khoảng
mười ngày, hy vọng mọi người đều
có thể phát tâm nghe giảng đến khi viên măn.
Năm ngoái, tôi giảng
kinh Kim Cang thuộc về Bát Nhă Bộ, giảng lư Không của
Bát Nhă; năm nay, giảng Văng Sanh Luận thuộc về Hữu
Bộ, là kinh điển của Tịnh Độ Tông. Một
bộ giảng về Không, một bộ giảng về Hữu,
có mâu thuẫn hay chăng? Hoàn toàn chẳng mâu thuẫn! Thích
Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp, thường nói là “tám vạn bốn ngàn pháp môn”,
đại thể chia thành hai môn: Một là Không Môn, hai là Hữu
Môn. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh thuộc về Không
Tông th́ Không là Chân Không. Chân Không chẳng không, tức là Diệu
Hữu. Ngài giảng kinh thuộc về Hữu Môn, th́ Hữu
là Diệu Hữu. Diệu Hữu chẳng hữu, tức
là Chân Không. Do đó, nếu quư vị nghĩ kinh luận Tịnh
Độ Tông và kinh Kim Cang của Bát Nhă Tông có mâu thuẫn,
đó là v́ nghe Phật pháp quá ít. Quư vị phải hiểu: Thích
Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp, pháp nào cũng đều viên
dung vô ngại. Chân Không và Diệu Hữu vốn bất nhị!
Đức Phật nói kinh điển Không Tông chính là “Chân Không bất không”, “không” có nghĩa là “rỗng
rang, chẳng có vọng nhiễm”, mong sao
sau khi đă trừ sạch pháp ô nhiễm, cái Thể của
Chân Không sẽ hiện ra. “Chân
Không bất không” tức là Diệu Hữu, chính là Hữu
Môn niệm A Di Đà Phật của chúng ta. Chúng ta hiểu
rơ đạo lư này, [sẽ thấy] kinh Kim Cang không chỉ chẳng
mâu thuẫn Văng Sanh Luận mà c̣n giúp chúng ta thấu hiểu
Văng Sanh Luận.
Ai nấy đều
biết pháp môn Niệm Phật là “vạn người tu, vạn người đến”.
Một vạn người niệm Phật th́ một vạn
người có thể sanh về Tây Phương, nhưng v́
sao có rất nhiều người niệm Phật khi lâm
chung chẳng thấy thụy tướng, dường
như chẳng sanh về Tây Phương? Đấy là v́
chẳng trải qua công phu “rỗng
rang, chẳng có vọng nhiễm”. Nếu
quư vị nghe kinh Không Môn trước, các pháp hư vọng
ô nhiễm phiền năo đều trừ sạch; sau đấy,
niệm A Di Đà Phật, chỉ cần niệm một
câu bèn niệm đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Do đó, kinh điển Không Tông không chỉ chẳng
trở ngại niệm Phật, mà c̣n giúp ích cho niệm Phật.
Đấy là nói theo Lư. Tu hành dụng công, ngay lập tức
sẽ vận dụng đạo lư này. Chúng ta niệm Phật
chẳng đạt đến nhất tâm bất loạn,
chẳng đạt được công phu niệm Phật,
chính là do vừa niệm Phật, vừa dấy vọng tưởng.
Dấy vọng tưởng th́ chẳng phải là chúng ta muốn
dấy vọng tưởng, mà là vọng tưởng tùy ư
dấy lên. Chúng ta chẳng phải là phàm phu trong hiện thời,
mà từ vô thỉ kiếp đến nay, đă là phàm phu.
Tâm của phàm phu chính là cái tâm vọng tưởng; từ vô thỉ
kiếp đến nay, dấy vọng tưởng đă thành
thói quen. Quư vị chẳng muốn dấy vọng tưởng,
càng khiến cho vọng tưởng dấy lên. Sức mạnh của vọng tưởng rất lớn, chúng ta chẳng thể
làm chủ được! Nay nghe Phật pháp, muốn niệm
A Di Đà Phật, công phu niệm Phật ngắn ngủi, công
phu vọng tưởng sâu đậm. Do vậy, công phu niệm
Phật chẳng thể đối phó vọng tưởng.
Vừa niệm Phật, vừa dấy vọng tưởng,
niệm Phật chẳng đắc lực!
Làm thế nào
để công phu niệm Phật đắc lực?
Tĩnh tọa th́ cứ tĩnh tọa, chẳng dừng vọng
tưởng được. Trước hết, hăy lắng
cái tâm, đừng suy tưởng nữa, đợi cho
đến khi cái tâm đă tĩnh lặng rồi mới niệm
A Di Đà Phật. Tâm tĩnh lặng chính là đă vận dụng
đạo lư của Không Tông. Rỗng không các pháp vọng
tưởng ô nhiễm rồi mới niệm Phật tức
là vận dụng đạo lư của Hữu Môn. V́ chẳng
có vọng tưởng xen tạp vào đó, niệm một
câu bèn niệm đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Niệm hai câu, bèn niệm đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới. V́ thế, kinh
điển của Không Tông không chỉ chẳng trở ngại,
mà c̣n bổ trợ kinh điển của Hữu Môn. Hôm nay
quư vị nghe tôi nói, trở về niệm Phật thử
xem, sẽ lập tức có thể đạt được
công phu. Do vậy, giảng Văng Sanh Luận lần này chẳng
trở ngại kinh Kim Cang đă giảng trong năm ngoái.
Nay tôi bắt đầu giải thích đề mục:
1. Thích luận đề (giải thích tựa
đề của bộ luận này)
Vô Lượng Thọ Kinh
Ưu Ba Đề Xá Nguyện Sanh Kệ (thử quyển y Đông Doanh bổn,
dữ Tạng nội sảo biệt)
無量壽經優婆提舍願生偈 (此卷依東瀛本,與藏內稍別)。
(Vô Lượng Thọ Kinh
Ưu Ba Đề Xá Nguyện Sanh Kệ - bản này dựa
theo bản của Nhật Bản, hơi khác với bản
chép trong Đại Tạng Kinh)
Đại Thừa
Phật giáo Trung Hoa có tám tông phái, tám tông phái ấy đều
chiếu theo kinh điển do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói
th́ mới có thể thành lập. Tịnh Độ Tông là một
tông phái trong đó, kinh điển để căn cứ
chính là ba kinh một luận, tức Phật Thuyết Vô
Lượng Thọ Kinh, Phật Thuyết Quán Vô Lượng
Thọ Phật Kinh, Phật Thuyết A Di Đà Kinh, và Vô
Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá Nguyện Sanh Kệ.
Bộ luận
này có đề mục (tựa đề) là Vô
Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá Nguyện Sanh Kệ.
Kinh Vô Lượng Thọ là một trong ba kinh. Vô Lượng
Thọ (Amitāyus) là đức hiệu của A Di Đà Phật, tiếng
Phạn là A Di Đà Phật, dịch sang tiếng Hán là Vô
Lượng Quang (Amitābha), hoặc Vô Lượng Thọ.
Kinh Vô Lượng Thọ tức là dịch theo ư nghĩa Vô
Lượng Thọ [trong danh hiệu A Di Đà Phật].
Trong kinh A Di Đà, tức một kinh trong ba kinh Tịnh
Độ, Phật Thích Ca đă giải thích A Di Đà Phật
có ư nghĩa là vô lượng quang và vô lượng thọ.
Kinh văn của kinh Vô Lượng Thọ khá dài, thường
được gọi là Đại Bổn A Di Đà Kinh.
Kinh văn của kinh A Di Đà khá ngắn, thường gọi
là Tiểu Bổn A Di Đà Kinh.
Ưu Ba Đề
Xá (Upadeśa)[1]
dịch sang tiếng Hán là Luận. Phật giáo nói đến
Tam Tạng, tức Kinh, Luật, Luận, ở đây là Luận.
“Nguyện Sanh Kệ”: “Nguyện sanh” là nguyện
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, Kệ
là Kệ Tụng (Gāthā). Kệ Tụng chẳng khác thơ của Trung Hoa
cho lắm, nhưng không gieo vần. Thơ của Trung Hoa
chú trọng gieo vần, lại c̣n có số chữ nhất
định trong mỗi câu, hoặc là mỗi câu năm chữ,
hoặc mỗi câu bảy chữ. Kệ Tụng nhằm
tán tụng công đức của kinh Vô Lượng Thọ.
[Thiên Thân Bồ Tát] sợ chúng ta chẳng thấu hiểu,
lại soạn một bài luận để giải thích Kệ
Tụng.
Vô Lượng Thọ
Kinh Ưu Ba Đề Xá Nguyện Sanh Kệ là đề mục
được dịch dựa theo tiếng Phạn, đem
chữ Ưu Ba Đề Xá trong tiếng Phạn đặt ra
trước, đem từ ngữ đă dịch sang tiếng
Hán là Nguyện Sanh Kệ đặt ở đằng sau. Trên
thực tế, Văng Sanh Luận th́ trước là Kệ Tụng,
phần sau là phần luận. Nếu dựa theo văn tự
Trung Hoa th́ Nguyện Sanh Kệ phải đặt trước,
đặt Ưu Ba Đề Xá ra đằng sau v́ ngữ
pháp của Ấn Độ trái ngược ngữ pháp tiếng
Hán.
Người Hoa
chuộng đơn giản, đề mục của bộ
luận này quá dài, đọc lên sẽ chẳng
thuận miệng. Do vậy, cổ nhân đă dựa theo
thói quen của người Hoa, gọi bằng một danh
xưng khác là Văng Sanh Luận, lại c̣n gọi
là Tịnh Độ Luận. Văng Sanh là văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Tịnh Độ
là quốc độ thanh tịnh Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Cũng có thể gộp chung hai tên ấy
để gọi, tức là Văng Sanh Tịnh Độ Luận.
Bên cạnh tựa
đề của bộ luận hiện thời, có một
hàng chữ nhỏ: “Thử quyển
y Đông Doanh[2] bổn,
dữ Tạng nội sảo biệt”. Đấy là biện
định đôi chút về văn bản. Bản chúng ta
dùng trong hiện thời là phiên bản do Kim Lăng Khắc
Kinh Xứ[3]
ấn hành. Cư sĩ Dương Nhân Sơn sang Nhật Bản,
đă phục chế rất nhiều bản kinh điển
thất truyền [tại Trung Hoa]. Ông ta đối chiếu,
nghiên cứu, cho là văn tự trong kinh bổn của Nhật
Bản khá hay, bèn chiếu theo bản [do chính ḿnh] đă thỉnh
về để khắc ván lưu thông. Do đó, văn tự
trong bộ Văng Sanh Luận này hơi khác với phiên bản
trong Trung Hoa Đại Tạng Kinh. Tiếp đó là nói
đến người tạo luận.
2. Thích luận chủ (giải thích về
người soạn luận)
Bà Tẩu Bàn Đầu Bồ
Tát tạo.
婆藪槃頭菩薩造。
Bà Tẩu Bàn
Đầu (Vasubandhu)[4] dịch sang
tiếng Hán là Thiên Thân (天親). Ba anh em của Ngài đều xuất gia, anh cả
là Vô Trước Bồ Tát (無著, Asaṅga), vừa bắt đầu [học Phật, ngài Vô
Trước] bèn học Đại Thừa. Thiên Thân Bồ
Tát có trí huệ rất cao. Sau khi Ngài xuất gia bèn học
pháp Tiểu Thừa rất thông thạo, liền tạo luận
hoằng dương Tiểu Thừa Tông, hủy báng Đại
Thừa Tông. Ngài đă soạn hơn năm trăm bộ
luận Tiểu Thừa.
Vô Trước Bồ
Tát thấy Thiên Thân Bồ Tát tạo tội hủy
báng Đại Thừa, trong tương lai nhất định
phải đọa địa ngục, xót t́nh ruột thịt,
chẳng nỡ nh́n em trai đọa địa ngục.
Ngài lại biết Thiên Thân có đại trí huệ, chẳng
hoằng dương Đại Thừa th́ quá đáng tiếc!
Do vậy, Ngài giả vờ mượn cớ ngă bệnh,
sai người đến báo với Thiên Thân: “Anh cả bị
bệnh nặng, sắp mất, mong gặp mặt ông lần
cuối”. Thiên Thân vội vàng quay về, thấy Vô Trước
Bồ Tát rất tươi tỉnh, bèn hỏi: “Anh cả
chẳng ngă bệnh, sao lại muốn em trở về?” “Thân
thể ta chẳng có bệnh, thật ra, trong tâm bệnh rất
nặng”. “Tâm anh mắc bệnh ǵ thế?” “Anh lo sầu
trong tương lai em sẽ đọa địa ngục!”
“Em đang hoằng dương Phật pháp, lẽ nào sẽ
đọa địa ngục cho được?” “Em hoằng
dương Tiểu Thừa Phật pháp, soạn năm
trăm bộ luận đều nhằm hủy báng Đại
Thừa Phật pháp, sao chẳng đọa địa ngục
cho được?” Ngài Thiên Thân nghe nói, chẳng phục: “Phật
pháp đều do đức Phật nói, hoằng
dương pháp Tiểu Thừa làm sao có thể nói là hủy
báng cho được?” Do vậy, hai anh em bắt đầu
biện luận. Ngài Vô Trước giảng giải đạo
lư Đại Thừa, kết quả là hàng phục ngài Thiên
Thân. Trước kia, ngài Thiên Thân chẳng hiểu giáo lư
Đại Thừa, nay giác ngộ chính ḿnh đă hủy báng
pháp Đại Thừa, tạo tội đọa địa
ngục, liền hướng về Vô Trước Bồ
Tát thưa: “Em dùng cái lưỡi hủy báng Đại Thừa,
nay muốn cắt cụt lưỡi để tỏ ḷng
sám hối”. Vô Trước Bồ Tát ngay lập tức
ngăn cản: “Em cắt cả ngàn cái lưỡi cũng
chẳng sám hối nổi nghiệp do chính ḿnh đă tạo.
V́ em đă soạn năm trăm bộ luận Tiểu Thừa,
rất nhiều người chịu ảnh hưởng không
tốt. Người xem luận Tiểu Thừa, sẽ bắt
chước em hủy báng Đại Thừa. Do vậy, em
có cắt lưỡi cũng chẳng thể sám hối tội
lỗi!” “Vậy th́ em có cách nào sám hối hay không?” Vô Trước Bồ
Tát bảo: “Trong quá khứ, em đă dựa vào cái lưỡi
tạo tội hủy báng Đại Thừa, nay em đă hiểu
rơ đạo lư Đại Thừa, lại soạn luận
hoằng dương Đại Thừa. Mọi người
xem luận Đại Thừa do em soạn, sẽ sanh
khởi thiện căn Đại Thừa, chẳng phải
là sẽ tiêu tội ư?” Từ đấy trở đi, Thiên
Thân Bồ Tát lại tạo năm trăm bộ luận Đại
Thừa, tính gộp chung là đă tạo một ngàn bộ
luận. Ở Ấn Độ, Ngài được tôn
xưng là Thiên Bộ Luận Sư (vị luận sư
đă tạo một ngàn bộ luận).
Văng Sanh Luận
đang được giảng hiện thời chính là một
trong số năm trăm bộ luận Đại Thừa.
Thiên Thân Bồ Tát xem kinh Vô Lượng Thọ liền phát
nguyện, nguyện sanh Tây Phương. Do vậy, Ngài soạn
Kệ Tụng tán thán kinh Vô Lượng Thọ. Đại
Thừa Phật pháp th́ phải tự lợi, lợi lạc
người khác, nguyện cho hết thảy chúng sanh đều
sanh về Tây Phương. Do vậy. Ngài làm Kệ Tụng,
lại c̣n soạn một bài luận để giải
thích thêm, khiến cho mọi người hiểu rơ công
đức của kinh Vô Lượng Thọ, ai nấy
đều phát nguyện sanh về Tây Phương.
Nói đến
đây, chúng ta hăy nghiên cứu: V́ sao Thiên Thân Bồ Tát phải
phát nguyện sanh về Tây Phương? Đấy chính là vấn
đề căn bản trong việc học Phật pháp. Tôi
vừa mới nói Phật pháp có Tiểu Thừa và Đại
Thừa. Tiểu Thừa ví như một cỗ xe nhỏ, nó
có thể đoạn phiền năo của chính ḿnh, thoát khỏi
tam giới, liễu sanh tử, chỉ có thể chuyên chở
chính ḿnh, chẳng thể chuyên chở người khác.
Đại Thừa là một cỗ xe lớn, không chỉ
chuyên chở chính ḿnh, mà c̣n có thể chuyên chở hết thảy
chúng sanh liễu sanh tử. V́ thế, bất luận Đại
Thừa Phật pháp hay Tiểu Thừa Phật pháp, đều
lấy liễu sanh tử làm mục đích. Nếu như
quư vị hằng ngày giảng kinh, thuyết pháp, hằng
ngày viết văn chương hoằng dương Phật pháp, nhưng quư vị
chẳng biết nỗi khổ sanh tử, chẳng phát nguyện
liễu sanh tử, [vậy là] quư vị chẳng học Phật
pháp!
Các triết gia
trong thế gian có thể trở thành đại triết
gia, đều có thể nói ra những lư luận được
công nhận, khoa học gia thuộc bất cứ môn khoa học
nào đều có thể nổi danh, đều có thể
nghiên cứu t́m được
một loại đạo lư nào
đó, nhưng chỗ khác biệt giữa học vấn
cao sâu trong thế gian và Phật pháp là họ (các vị triết
gia, khoa học gia) chẳng hiểu rơ đạo lư của nỗi
khổ sanh tử. Những vị [nghiên cứu, giảng dạy,
hoặc giáo sĩ thuộc] các tôn giáo khác biết sanh tử
là khổ, nhưng chẳng biết phạm vi của nỗi
khổ sanh tử to cỡ nào? Có phương pháp ǵ để
có thể thật sự liễu sanh tử? Do vậy, cần
đến Phật pháp.
Thích Ca Mâu Ni Phật
chuyển pháp luân lần đầu tiên độ năm vị
tỳ-kheo, hoằng dương pháp Tứ Đế, tức
Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Đức Phật dạy
chúng ta, chúng sanh trong lục đạo sanh tử th́ có một
phạm vi, [bao gồm] ba ác đạo, tức địa ngục
đạo, ngạ quỷ đạo, súc sanh đạo, và
ba thiện đạo, tức nhân đạo, A Tu La, thiên
đạo. Chúng sanh gặp phải quả báo khổ, cái
nhân gây ra khổ là Tập, tức là do đă dấy lên phiền
năo, tạo rất nhiều nghiệp, cho nên
mới chiêu cảm quả khổ. Trước hết, quư
vị phải biết cái nhân của khổ là Tập th́ mới
có thể đoạn Tập. Đoạn trừ cái nhân, th́
khổ quả sẽ chẳng c̣n. Thích Ca Mâu Ni Phật là bậc
từng trải, Ngài biết Khổ, đoạn Tập, cho
nên mới chứng đắc Niết Bàn. Niết Bàn dịch
sang tiếng Hán là Tịch Diệt. Chúng ta ngưỡng mộ
Tịch Diệt, làm như thế nào th́ sẽ có thể chứng
đắc Tịch Diệt? Đức Phật
dạy chúng ta phương pháp tu hành ḥng tu Đạo,
đó là “biết Khổ đoạn
Tập, hâm mộ Diệt bèn tu Đạo”.
Chúng ta học Phật
pháp, thứ nhất là trước hết phải biết
Khổ. Nếu quư vị ngỡ đời người rất
sung sướng, quư vị chẳng học Phật pháp
được! Dẫu đă biết Phật pháp, cũng
chẳng phát tâm tu hành. Tu hành là mong liễu
sanh tử, nhất định phải biết quả báo của
loài người chúng ta là khổ quả. V́ thế đời
người được gọi là “bát khổ giao tiên” (八苦交煎, tám sự khổ chen nhau nung nấu). Có tám thứ
khổ: Sanh khổ, lăo khổ, bệnh khổ, tử khổ,
oán tắng hội khổ (khổ v́ oán ghét mà cứ phải
gặp gỡ), ái biệt ly khổ (khổ v́ yêu
thương mà bị chia ĺa), cầu bất đắc khổ
(khổ v́ cầu chẳng được), và Ngũ Ấm
xí thịnh khổ (khổ v́ Ngũ Ấm lừng lẫy).
Bốn thứ khổ sanh, lăo, bệnh tử, vừa sanh ra
bèn khổ, đă già bèn có lăo khổ, sanh bệnh
bèn có bệnh khổ, chết đi bèn có tử khổ.
Trong khoảng giữa, bèn xen tạp bốn thứ khổ:
- Khổ v́ oán
ghét mà phải gặp gỡ. Kẻ quư vị chán ghét cứ
khăng khăng tụ hội một chỗ.
- Khổ v́ yêu thương
mà bị chia ĺa. Người quư vị yêu thích luôn là sanh ly tử
biệt!
- Khổ v́ cầu
chẳng được, điều quư vị mong cầu
đều chẳng thể măn nguyện.
- Khổ v́
Ngũ Ấm lừng lẫy. Ngũ Ấm là Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, tức là nỗi khổ nơi thân và nỗi
khổ nơi tâm.
Tám thứ khổ
như trên là cương yếu. Trong ấy, phân biệt ra,
sẽ là vô lượng nỗi khổ. Kẻ chẳng có
cơm để ăn khổ nhất, chẳng có quần
áo mặc, chẳng có nhà cửa để ở rất khổ. Những thứ ấy được
gọi là ba yếu tố trong đời người.
Kẻ chẳng có áo, cơm, chỗ ở đương nhiên
là khổ, nhưng quư vị hỏi kẻ có tiền,
cơm ăn, áo mặc, nhà ở đều chẳng
thành vấn đề, họ vẫn khổ! Mỗi người
đều có nỗi khổ riêng, mỗi nhà đều có nỗi
khổ riêng. Đó gọi là: “Nhà nào cũng đều có một bản kinh khó niệm”. “Kinh khó niệm” chính
là khổ kinh; chẳng có nhà nào không khổ, [mỗi nhà hứng
chịu nỗi] khổ khác nhau mà thôi!
Đời
người đau khổ, khổ đến cuối cùng
là tử khổ. Nếu như đă chết bèn hết chuyện
th́ rất đơn giản, cùng lắm là khổ sở mấy
chục năm, khổ đến chết rồi th́ chẳng
c̣n khổ nữa! Kẻ chẳng hiểu rơ lư nhân quả
báo ứng, có tri kiến Đoạn Diệt, cứ ngỡ
người ta chết rồi là chẳng c̣n ǵ nữa. Hiểu
lư nhân quả báo ứng trong Phật pháp, sẽ biết
người chết rồi chẳng hề đoạn diệt;
v́ quá khứ quư vị đă tạo nghiệp nhân, đời
này có quả báo. Đời này lại tạo nghiệp nhân
mới. Tạo thiện nghiệp th́ đời sau gặp
thiện quả. Tạo ác nghiệp th́ đời sau bị
ác quả. Quư vị muốn khiến cho nó chẳng kết
quả, sẽ chẳng thể được, v́ đă tạo
nghiệp, nhất định có quả báo. Quư vị tưởng
chết rồi th́ sẽ đoạn diệt ư? Chẳng thể đoạn
diệt!
Hiểu đạo
lư này, đời này quư vị khổ sở vài chục
năm, khổ đến cuối cùng chết đi, vẫn
phải sanh, sanh ra vẫn là đau
khổ! Dẫu đời sau quư vị sanh làm thân người,
vẫn chịu khổ giống như hiện thời. Dẫu
quư vị tạo thiện nghiệp sanh lên cơi trời,
hưởng xong phước báo cơi trời, vẫn phải
luân hồi đọa xuống. Quư vị tạo ác nghiệp,
đọa lạc trong ba ác đạo, khổ càng thảm
hơn! Chẳng biết phải trải qua bao nhiêu kiếp
lâu dài mới có thể thoát ly ba ác đạo. Đấy
chính là sanh tử luân hồi, sanh rồi tử, tử rồi
sanh, luân hồi chẳng dứt. Học Phật pháp th́ nhất
định phải hiểu đạo lư này, quư vị mới
chịu phát tâm tu hành.
Chúng ta mong liễu
sanh tử, thoát luân hồi, phải tu hành, Thích Ca Mâu Ni Phật
nói rất nhiều phương pháp tu hành. Trong Đại
Thừa Phật giáo Trung Hoa có tám tông phái, trong đó, có một
tông phái là Tịnh Độ Tông dạy phải phát nguyện
văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, v́ chỉ
có cậy vào pháp môn Tịnh Độ th́ mới dễ tu
hành ḥng liễu sanh tử.
Ấn Độ
có một vị đại Bồ Tát tên là Long Thọ Bồ
Tát, Ngài soạn Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận (十住毗婆沙論, Daśa-bhūmika-vibhāśa-śāstra). Trong ấy,
đă nói rất rơ ràng: Bồ Tát cầu A Bệ Bạt Trí
(Avaivarti, bất thoái chuyển), có hai loại đạo. Một
thứ là Nan Hành Đạo (難行道, đạo
khó hành), thứ kia là Dị Hành Đạo (易行道, đạo
dễ hành). Nan Hành Đạo là đường lối tu
hành rất khó, tức là ở trong ngũ trược ác thế,
nhằm thời đại chẳng có Phật, phải tu hành chẳng thoái chuyển, một mực tinh tấn
th́ mới có thể đoạn phiền năo, liễu sanh tử,
thoát luân hồi, nhưng tu hành rất khó đạt
được Bất Thoái Chuyển. Long Thọ Bồ Tát nói
có năm thứ Nan Hành Đạo:
1) “Ngoại đạo tương thiện,
loạn Bồ Tát pháp” (Ngoại
đạo đem những điều lành [theo tri kiến tà
vạy của họ] làm loạn pháp của Bồ Tát): Chúng
sanh rất khó có kẻ phát tâm mong tu hành nhằm liễu sanh
tử. Chúng ta học Đại Thừa Phật pháp, muốn
tu Đại Thừa Bồ Tát đạo, nhưng quư vị
chẳng gặp thiện tri thức, mà gặp
phải ngoại đạo. Họ nói các thứ
phương pháp tu hành rất tương tự thiện
pháp của Bồ Tát, quư vị cảm thấy rất cao
minh, nhưng [những pháp ấy] đă thật sự nhiễu
loạn Bồ Tát pháp.
2) “Thanh Văn tự lợi, chướng
đại từ bi”: Quư học Đại Thừa Phật
pháp, phải có tâm đại từ bi, nguyện b́nh đẳng.
Quư vị gặp một vị thầy Tiểu Thừa, ông
ta nói: “Ngươi c̣n chưa độ được sanh
tử của chính ḿnh, làm sao có thể độ chúng sanh được chớ? Ngươi chẳng thể tự lợi, làm sao
có thể độ kẻ khác? Hăy ngay lập tức liễu
sanh tử của chính ḿnh đi đă”. Đấy chính là
hàng Thanh Văn tự lợi. Bọn phàm phu chúng ta vốn
có căn tánh ích kỷ, lại nghe vị thầy Tiểu Thừa
nói rất hữu lư, [vị ấy] bảo quư vị hăy
độ chính ḿnh trước đă, thoát tam giới, liễu
sanh tử, mặc kệ chúng sanh, khiến cho
cái tâm đại từ bi bị chướng ngại.
3) “Vô lại ác nhân, phá tha thắng
đức” (Kẻ ác vô lại phá hoại đức thù thắng
của người khác): Quư vị tu Đại Thừa Bồ
Tát đạo là công đức thù thắng, nhưng trong xă
hội, bọn vô lại ác nhân rất nhiều. Chính họ
chẳng tu hành, thấy quư vị đang làm
công đức, họ sẽ phá hoại, khiến cho quư vị
chẳng thực hiện thành công. Do thế giới Sa Bà này
có rất nhiều kẻ ác, quư vị mong tu Bồ Tát đạo sẽ chẳng thành công. Đấy
là một thứ nạn, chính là Chúng Sanh Trược.
4) “Điên đảo thiện quả,
năng hoại phạm hạnh” (Điên
đảo thiện quả, có thể làm hư hoại phạm
hạnh): “Phạm” (梵) có nghĩa là thanh tịnh. Quư vị tu hạnh môn của
Đại Thừa Bồ Tát đừng nên chấp tướng,
nhưng lũ phàm phu chúng ta kể từ vô thỉ đến
nay, quen thói chấp tướng. Do v́ quư vị tu hành chấp
tướng, hết thảy công đức Đại Thừa
đă tu đều rơi vào thiện quả nhân thiên hữu
lậu. Đời này, kiếp này tu hành, đời thứ
hai chuyển sanh thành kẻ đại phú đại quư, đời
thứ ba sẽ phải đọa lạc! Đời này,
kiếp này tu hành, đời thứ hai sanh lên trời
hưởng phước trời. Quư vị hưởng hết
phước trời, vẫn phải đọa lạc xuống
dưới. V́ thế, hữu lậu thiện quả của
trời người được gọi là “thiện quả điên đảo”.
Chúng sanh chẳng hiểu rơ đạo lư thiện quả
Đại Thừa, coi quả báo nhân thiên như quả báo
tốt lành, cầu c̣n chẳng được, chẳng biết
đấy là tu hành điên đảo. Sanh lên trời rồi
đọa xuống, kinh Phật đă nói rất nhiều,
chúng tôi chẳng nói cặn kẽ. Sanh vào nhân gian, chuyển
thành người đại phú đại quư, một mai
làm quan lớn, giàu sụ, nhưng quư vị chẳng tu. Do giàu
có khó tu đạo, lại muốn tiếp tục tu hành sẽ chẳng dễ dàng, toàn là tạo các ác nghiệp, nhất
định sẽ bị đọa lạc. V́ thế, thiện
quả trong nhân gian và trên cơi trời đều là thiện
quả điên đảo, sẽ phá hoại cái tâm thanh tịnh
của quư vị.
5) “Duy thị tự lực, vô tha lực
tŕ” (Chỉ là tự lực, chẳng có tha lực duy
tŕ): Nếu tu hành các pháp môn khác, hoàn toàn cậy vào sức của
chính ḿnh, đoạn phiền năo th́ mới có thể đắc
thiện quả. Chẳng có sức gia tŕ của Phật, Bồ
Tát, hoàn toàn cậy vào sức của chính ḿnh. Chuyện này rất
khó!
Đối với
năm thứ Nan Hành Đạo vừa nói trên đây, quư vị
hăy nh́n xem, rất nhiều kẻ hằng ngày học Phật
pháp tu hành, nhưng toàn là tu pháp ngoại đạo, hoặc
pháp Tiểu Thừa; hoặc là quư vị làm một tí
công đức, bị kẻ ác phá hoại. Tu hành chấp
tướng như thế đó, toàn là tu quả nhân thiên!
Giống như người đi đường bộ,
phải đi từng bước một, rất tốn
hơi sức. Đấy là Nan Hành Đạo.
C̣n có một thứ
Dị Hành Đạo, tức là đạo rất dễ tu
hành. Quư vị chỉ cần niệm danh hiệu A Di Đà
Phật, tu thiện căn làm duyên, sẽ có thể sanh sang Tây
Phương. Pháp môn Tịnh Độ cậy vào tín tâm, nguyện
sanh là cậy vào nguyện lực. Đă có tín tâm, đă có nguyện
lực, nương theo sức mạnh của bốn
mươi tám đại nguyện của A Di Đà Phật,
bèn có thể sanh về cơi nước thanh tịnh. V́ có sức
gia tŕ của A Di Đà Phật, sanh về Tây Phương,
bèn thuộc vào loại chúng sanh Chánh Định Tụ, sẽ
chẳng bị thoái chuyển. Giống như chúng ta đi theo
đường bộ sẽ rất chậm, quư vị ngồi
thuyền theo đường thủy, chẳng tốn sức,
đạt tới đích rất nhanh, tức là
nương vào chiếc thuyền đại nguyện của
Phật sanh về Tây Phương. Đây là pháp môn rất dễ
tu hành.
Pháp môn Tịnh
Độ tu hành dễ dàng. Thứ nhất, phải có tín
tâm. Thứ hai, phải phát nguyện. Thứ ba, nếu niệm
danh hiệu A Di Đà Phật bèn có thể
sanh về Tây Phương. Hễ sanh về Tây Phương,
sẽ chẳng thoái chuyển. Nếu muốn liễu sanh
thoát tử, chỉ có tin tưởng pháp môn Tịnh Độ,
cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Có người cho rằng đây là pháp môn để hàng ngu
phu ngu phụ tu tập, quư vị phải nên tu một loại
pháp môn đặc biệt cao siêu th́ mới có thể phù hợp
căn cơ của quư vị. Hôm nay, giảng Văng Sanh Luận
nhằm khuyên chư vị: Trí huệ thông minh của quư vị
có thể vượt trỗi Thiên Thân Bồ Tát hay không? Thiên
Thân Bồ Tát là Thiên Bộ Luận Sư mà luôn phát
nguyện văng sanh Tây Phương. Ngay cả Ngài mà c̣n tu, v́ lẽ
nào chúng ta chẳng chịu tu? Trong phần trước, tôi
đă dẫn chứng Nan Hành Đạo và Dị Hành Đạo
của Long Thọ Bồ Tát, cũng là không ǵ chẳng nhằm
khuyên bảo quư vị: Trí huệ của chúng ta có thể
theo kịp Long Thọ Bồ Tát hay không? Long Thọ Bồ
Tát đă thay chúng ta chọn lựa rất rơ ràng, pháp môn Tịnh
Độ là pháp môn tu hành dễ dàng, sanh về Tây
Phương sẽ chẳng thoái chuyển, v́ sao chúng ta chẳng
sanh về Tây Phương vậy?
3. Thích dịch sư (giải thích về
người dịch)
Nguyên Ngụy Bồ Đề
Lưu Chi dịch.
元魏菩提留支譯。
Nguyên Ngụy là
vương triều thứ nhất ở phương Bắc
vào thời Nam Bắc Triều[5]. Do hoàng
đế họ Nguyên nên [triều đại này] gọi là Nguyên Ngụy[6]. Bồ
Đề Lưu Chi (Bodhiruci)[7] là một vị
đại pháp sư Ấn Độ. Ngài đến Trung
Hoa phiên dịch bộ luận này. [Tên Ngài] dịch sang tiếng
Hán là Đạo Hy (道希); đấy là pháp danh đức hiệu của
Ngài, [ngụ ư] Ngài có thể tu Phật đạo hy hữu.
“Dịch” (譯) là phiên dịch.
Bộ luận này được pháp sư Bồ Đề
Lưu Chi phiên dịch vào thời đại Nguyên Ngụy của
Trung Hoa.
Luận có hai loại,
một loại gọi là Tông Kinh Luận (宗經論), Tông (宗) là “gốc”,
[hàm nghĩa] vốn dựa theo kinh để tạo luận.
Loại kia gọi là Thích Kinh Luận (釋經論), Thích (釋) là giải thích, [tức là] giải thích từng câu
kinh văn một. [Những trước tác do] Bồ Tát tạo
ra đều gọi là Luận. Nếu đức Phật
tại thế, [những trước tác nào] được
đức Phật ấn chứng th́ cũng có thể gọi
là Kinh. Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, chẳng có đức Phật ấn chứng,
nếu người nào cũng có thể soạn kinh, e rằng
kinh Phật sẽ rối ren, nát bét. V́ thế, sau khi đức
Phật nhập Niết Bàn, những trước tác của
hàng Bồ Tát được gọi là Luận. Nay chúng tôi
giảng Văng Sanh Luận thuộc loại Tông Kinh Luận,
v́ tác phẩm này vốn dựa theo nghĩa lư của kinh Vô
Lượng Thọ để tạo luận. Mọi
người không biết quy củ này, măi cho đến hiện
thời, vẫn c̣n có những kẻ thích sửa kinh. Kinh văn
đều là dựa trên Phạn bản của Ấn Độ
để dịch sang tiếng Hán, có những chỗ dịch
không suông sẻ cho lắm, thoạt nh́n có đôi chút trúc trắc.
Hơn nữa, một bộ kinh điển không chỉ là
có một bản dịch, mà có đến mấy bản dịch,
đối chiếu [các bản dịch] th́ không khác biệt
cho lắm, bèn sửa đổi. Hễ mở ra lệ này,
sẽ biến thành ai nấy đều có thể sửa
kinh! Quư vị chê kinh Kim Cang dịch không hay cho lắm,
bèn sửa kinh Kim Cang. Kẻ khác hiềm kinh A Di Đà dịch
không hay, bèn sửa kinh A Di Đà. Như thế là sửa nát
bét. Hậu quả là người học Phật đánh mất
niềm tin tưởng, ngưỡng mộ đối với
kinh điển, mọi người tranh luận không ngớt.
Người này nói bộ kinh này là thật, do Thích Ca Mâu Ni Phật
nói. Kẻ kia nói bộ kinh này là giả, là do kẻ nào
đó ngụy tạo. Đấy là tổn thất to lớn
cho Phật giáo. Do vậy, quư vị mong phát nguyện hoằng
dương Phật pháp, nếu nghĩ kinh văn dịch
không đủ hay, quư vị có thể soạn Tông Kinh Luận,
tức là chiếu theo ư nghĩa của kinh văn để
tạo ra một bộ luận. Nếu nghĩa lư của
kinh văn không rơ ràng, sáng tỏ, quư vị có thể tạo
Thích Kinh Luận để giải thích thêm, khiến cho mọi
người dễ dàng thấu hiểu. Như thế th́ sẽ
chẳng đến nỗi hỗn loạn!
4. Thích luận văn (giải thích chánh
văn trong bộ luận)
4.1. Tổng Thuyết Phần (phần luận định
tổng quát)
Bộ luận
này, phần trước là Kệ Tụng, sau đó là lời
luận, chia thành hai khoa lớn. Phần Kệ Tụng phía
trước gọi là Tổng Thuyết Phần, nói tổng
quát các thứ công đức của kinh Vô Lượng Thọ.
Phần luận văn trường hàng sau đó được
gọi là Giải Thích Phần, nhằm giải thích Kệ
Tụng.
Kệ Tụng
thuộc Tổng Thuyết Phần chia tổng cộng thành
ngũ niệm môn. “Niệm”
(念) là quán
niệm, quán tưởng, tức là trong tâm suy niệm. “Môn” (門) là pháp môn, hạnh môn. Đức Như Lai nói kinh, Bồ
Tát tạo luận, chẳng phải văn chương thế
gian, mà nhằm dạy chúng ta phương pháp tu hành, tức
pháp môn. Dạy chúng ta công hạnh để dụng công th́
gọi là Hạnh Môn (行門). Bộ
Văng Sanh Luận này có tổng cộng năm thứ Niệm
Môn, tức là năm thứ phương pháp tu hành. “Pháp” (法) là phương pháp, pháp tắc, Hạnh (行) là công phu. Môn (門) là thí dụ, mang ư nghĩa “thông qua
để ra vào”, tức là có thể tiến vào, mà cũng có thể
đi ra. Thông thường, chúng ta nói “tiến nhập Phật môn”, tức là nhập môn
này, chính ḿnh đạt được lợi ích; xuất
môn này, có thể khiến cho chúng sanh đạt được
lợi ích. V́ nhập môn này, có thể tự lợi, xuất
môn này, có thể lợi tha (lợi ích người khác); cho
nên gọi là Pháp Môn, là Hạnh Môn.
Đệ tử
học Phật, làm thế nào để có thể đạt
được lợi ích “tự lợi, lợi tha”? Chính
là phải Giải lẫn Hạnh đều coi trọng,
phải hiểu: Kinh do đức
Phật đă nói, luận do Bồ Tát đă tạo đều nhằm dạy chúng ta phương pháp tu
hành, chẳng phải là văn chương thế gian, mà
cũng chẳng phải là học vấn thế gian. Đệ
tử Phật chẳng thể đạt được sự
lợi ích “tự lợi, lợi tha”, có hạng người
thiên trọng Hạnh, coi nhẹ Giải, cho rằng học Phật
th́ phải tu hành, chẳng nghiên cứu rành rẽ
phương pháp tu hành. Kết quả là tu mù, luyện
đui, chính ḿnh chẳng nhập pháp môn, chẳng thể tự
lợi. Muốn giảng cho kẻ khác nghe, giảng không nổi,
tức là cũng chẳng thể lợi tha. Đấy
chính là “chẳng nhập môn”. Nhất
định là trước hết phải cầu Giải, đă
thấu hiểu rồi mới tu hành. Nếu làm như vậy
chưa xuể th́ vừa giải vừa hành, quyết chẳng
thể “không có Giải, chỉ có Hạnh!” Kết quả
là sụp hào sa hố, chính ḿnh chẳng biết đường
đến nỗi sụp hố. Đấy chính là căn bệnh
chỉ trọng Hạnh, chẳng trọng Giải!
Có hạng người
thiên trọng Giải, xem nhẹ Hạnh, biến “kinh do Phật
thuyết, luận do Bồ Tát tạo” đều trở thành học vấn thế gian để nghiên cứu.
Nghiên cứu đă hiểu rồi, chẳng tu hành. Họ
cho rằng chỉ cần thông hiểu văn tự là hiểu
Phật pháp, chẳng biết [kinh luận nhà Phật] chính
là phương pháp để tu hành, chẳng
nhằm bảo quư vị nghiên cứu học vấn. Tu hành
th́ phải đoạn phiền năo. Quư vị xem nhẹ tu
hành, cứ nghĩ kinh luận ǵ cũng đều hiểu,
nói ra chỗ nào cũng hợp đạo, liền tự
cao tự đại, bất cứ ai cũng đều bị
quư vị coi thường, luôn cảm thấy kẻ khác chẳng
có học vấn to bằng quư vị. Quư vị không chỉ
có học vấn thế gian, mà c̣n có học vấn Phật
giáo, tự nghĩ chính ḿnh rất lỗi lạc. Đấy
chính là tăng thêm phiền năo mới! Học Phật pháp vốn
v́ mong đoạn phiền năo, kết quả là phiền năo
vốn sẵn có chẳng đoạn, lại tăng thêm
phiền năo kiêu căng ngă mạn, kẻ ấy quá
đáng tiếc! V́ thiên trọng Giải mà đi sai
đường!
Quư vị chẳng
hiểu Phật thuyết kinh, Bồ Tát tạo luận là
v́ muốn cho chúng ta liễu sanh thoát tử. Văng Sanh Luận
mà nay tôi đang giảng thuộc về pháp môn Tịnh
Độ Tông, tức là muốn dạy chúng ta hăy niệm A
Di Đà Phật, cầu sanh Tây Phương. Quư vị hiểu
đạo lư này, sanh khởi tín tâm, phát khởi nguyện lực
“nhất định phải
sanh về Tây Phương”, niệm danh hiệu A Di Đà
Phật. Đấy chính là tu hành. Đợi đến lúc
quư vị lâm chung, Tây Phương Tam Thánh (A Di Đà Phật,
Quán Thế Âm Bồ Tát, và Đại Thế Chí Bồ Tát) cầm
đài hoa sen đến tiếp dẫn quư vị. Nhưng nếu
quư vị chẳng tu hành, hoàn toàn coi Phật pháp như học
vấn để nghiên cứu, tới khi quư vị lâm chung,
A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, và Đại Thế
Chí Bồ Tát chẳng đến tiếp dẫn quư vị.
Quư vị chẳng vượt khỏi phạm vi của vua
Diêm La, sẽ đến chỗ vua Diêm La, giảng cho họ
nghe một đoạn kinh, vua Diêm La nghe không hiểu, vẫn
muốn bắt quư vị! Bởi lẽ, quư vị chỉ
biết giảng, chẳng thể liễu sanh tử! Nhất
định là phải tu hành xác thực, chớ nên thiên về
Giải, vẫn chẳng được!
Kệ Tụng nói
về năm loại pháp môn tu hành:
1) Lễ Bái Môn:
Trước hết phải lễ Phật, dập đầu
lễ bái.
2) Tán Thán Môn: Tán
thán công đức của Phật.
3) Tác Nguyện
Môn: “Tác” (作) là phát nguyện. Quư vị phải phát nguyện
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới.
4) Quán Sát Môn: Quư vị
dùng trí huệ để quan sát v́ sao ta phải sanh về
Tây Phương? Quan sát công đức nơi y báo và chánh báo
của Tây Phương. Quan sát rành rẽ, tự nhiên là quư vị
sẽ phát nguyện.
5) Hồi Hướng
Môn: Tất cả công đức do quư vị đă tu đều
hồi hướng Tây Phương Cực Lạc thế
giới.
Kệ Tụng
chia thành năm thứ pháp môn này, phần kinh văn Trường
Hàng sau đó nhằm giải thích Kệ Tụng, cũng là
giải thích năm loại pháp môn này. Dưới đây, dựa
theo năm thứ pháp môn ấy để giải thích, nhằm
dạy chúng ta năm thứ phương pháp tu hành.
4.1.1. Lễ Bái Môn (禮拜門)
(Luận) Thế Tôn ngă nhất
tâm quy mạng.
(論)世尊我一心歸命,
(Luận: Thế Tôn,
con nhất tâm quy mạng).
Dựa trên
năm thứ Hạnh Môn, mà chia thành năm đoạn. “Thế Tôn, ngă nhất tâm quy mạng”
là môn thứ nhất, tức Lễ Bái Môn.
Trước hết,
nói về hai chữ Thế Tôn (Baghavan, Lokanatha). Thế Tôn chính
là từ ngữ để gọi Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật. V́ Thiên Thân Bồ Tát là đệ tử của Thích
Ca Mâu Ni Phật, Ngài tạo luận, trước hết phải
quy y Thích Ca Mâu Ni Phật. Cho nên trước hết gọi
một tiếng Thế Tôn. Như tôi lúc mới bắt
đầu giảng, v́ sao trước hết phải niệm
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ba lượt? V́ chúng ta
đều là đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật.
V́ sao chúng ta có thể biết “có Tây
Phương Cực Lạc thế giới, có A Di Đà Phật?” Đều
là do Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra. Thích Ca Mâu Ni Phật là vị
thầy căn bản, đừng nên quên bẵng vị thầy
cội gốc.
Chữ Thế (世) trong Thế Tôn bao hàm thế gian và xuất thế
gian. Hết thảy thánh nhân và phàm phu tổng cộng có
mười loại lớn, gọi là “tứ thánh lục phàm”. Thánh nhân Phật giáo chẳng
giống thánh nhân thế gian. Theo Phật giáo, thánh nhân thuộc
pháp thế gian đều thuộc về phàm phu. Phàm phu có
sáu đường: Thiên đạo, nhân đạo, A Tu La đạo,
gọi chung là ba thiện đạo; địa ngục
đạo, ngạ quỷ đạo, súc sanh đạo, được
gọi là ba ác đạo. Gọi gộp chung là “lục đạo phàm phu”
đều sanh tử, luân chuyển trong phạm vi tam giới.
Có thể vượt thoát luân hồi, liễu thoát sanh tử,
vượt ra ngoài tam giới th́ mới gọi là “thánh nhân”. Thánh nhân trong Phật
giáo bao gồm bốn loại:
1) Tiểu Thừa
có hai loại thánh nhân là Thanh Văn và Duyên Giác.
2) Đại Thừa
có hai loại thánh nhân là Bồ Tát và Phật.
“Thế Tôn” là thánh nhân cao nhất. Phật cũng
chính là Phật pháp giới cao nhất trong mười pháp
giới. Gọi Ngài là Thế Tôn, tức là đấng
được cơi đời tôn trọng, Tôn (尊) là tôn trọng. Không chỉ là trong tam giới, tức
chúng sanh thuộc lục phàm pháp giới thế gian tôn trọng
Ngài, mà tam thừa thánh nhân xuất thế gian vượt
ngoài tam giới là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát cũng
đều tôn trọng Ngài. Ngài được thế gian lẫn
xuất thế gian đều tôn kính, nên gọi là Thế
Tôn.
V́ sao đức Phật
được thế gian lẫn xuất thế gian tôn trọng?
V́ đức Phật trọn đủ ba loại đức:
1) Trí Đức:
Đức Phật trọn đủ hết thảy trí huệ.
Không chỉ vượt trỗi lục đạo phàm phu,
mà c̣n vượt trỗi tam thừa thánh nhân. Ngài có đức
tánh đại trí huệ, cho nên được thế gian
lẫn xuất thế gian đều tôn trọng.
2) Đoạn
Đức: “Đoạn” (斷) là đoạn trừ phiền năo. Phàm phu chẳng
thể vượt thoát lục đạo v́ có phiền năo
trong tam giới, tức Kiến Hoặc và Tư Hoặc. Tam
thừa thánh nhân có phiền năo ngoài tam giới, tức Trần
Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc. Đức Phật không chỉ
đoạn trừ phiền năo trong tam giới, mà phiền
năo ngoài tam giới cũng thảy đều đoạn sạch.
V́ thế, chúng sanh thuộc chín pháp giới đều tôn trọng
Ngài.
3) Ân Đức: V́
sao chúng sanh thuộc chín pháp giới tôn trọng đức
Phật? V́ đức Phật có ân đức đối với
chúng ta. Chúng ta có thể nghiên cứu kinh Phật, hiểu rơ
đạo lư; đấy là phẩm đức trí huệ của
Phật gia bị chúng ta. Tuy chúng ta c̣n chưa đoạn
phiền năo, nhưng có thể phân biệt rành rẽ những
ǵ là phiền năo? Ít tạo ác nghiệp. Đấy là đức
Phật có ân huệ đối với chúng ta. Do vậy,
chúng ta tôn trọng Ngài.
Vừa rồi là
dựa theo ba loại đức để giải thích công
đức; thật ra, đức hạnh của Phật quá
nhiều. Đối với hết thảy chúng sanh, đức
Phật hành bố thí, bố thí chia thành ba loại là Tài Thí,
Pháp Thí, và Vô Úy Thí.
1) Tài Thí: Có đệ
tử đức Phật trước khi tin Phật, cuộc
sống gian nan, khốn khổ, sau khi đă
tin Phật, cuộc sống chuyển biến tốt
hơn. Xác thực là đức Phật đă ban cho kẻ ấy
lợi ích. Đó là ân huệ Tài Thí.
2) Pháp Thí: Đức
Phật thường thuyết pháp bố thí. Trước
khi chúng ta học Phật, rất ngu si. Cho đến sau khi
đă học Phật, trí huệ mở mang, những đạo
lư trước kia chẳng hiểu nay đều đă hiểu.
Trước kia chẳng phát đạo tâm tu hành, nay phát
đạo tâm tu hành. Đấy đều là do đức
Phật gia bị chúng ta, ban ân huệ Pháp Bố Thí.
3) Vô Úy Bố Thí,
chính là cứu tai cứu nạn, nhất là trong hiện thời
lại c̣n thường gặp các thứ kiếp nạn. Kết
quả là chúng ta luôn ở trong tai nạn mà được
thái b́nh. Đấy là ân huệ Vô Úy Bố Thí do đức
Phật đă ban cho chúng ta.
Mỗi người
đạt được lợi ích khác nhau. Quư vị học
Phật rất lâu, nhất định được
hưởng ân huệ của đức Phật, cho nên tín
tâm mới có thể kiên cố. Đấy chính là ân đức
của Phật. V́ sao chúng ta phải tin Phật? Đối
với chúng ta, Phật có những điều tốt đẹp
ǵ vậy? V́ quư vị chẳng tin Phật, quư vị chẳng
biết điều tốt đẹp của Phật. Hễ
quư vị tin Phật, sẽ tự nhiên biết. Đức
Phật có ân đức đối với hết thảy
chúng sanh, quư vị đạt được ân huệ từ
Phật, sẽ thật sự biết chỗ tốt đẹp
của đức Phật đối với quư vị. Tôi
vừa mới nói, kinh của Phật, luận của Bồ
Tát, đều nhằm dạy chúng ta phương pháp tu hành,
chẳng phải là văn tự thế gian. Giảng về
danh nghĩa của chữ Thế Tôn th́ cũng nhằm dạy chúng ta phương pháp tu hành.
Thích Ca Mâu Ni Phật
nói: “Hết thảy chúng sanh
đều có Phật Tánh, đều sẽ thành Phật”.
Đấy là giáo lư đặc thù nhất của Phật
giáo, những tôn giáo khác trên thế giới chẳng có đạo
lư này. Quư vị tin bất cứ loại tôn giáo nào, nó chỉ
có thể cho quư vị làm giáo đồ, chẳng thể
cho quư vị làm giáo chủ. Trong Phật giáo th́ b́nh đẳng,
Thích Ca Mâu Ni Phật nói các vị đều có Phật Tánh,
chẳng khác Thích Ca Mâu Ni Phật; ai nấy đều có thể
thành Phật, ai nấy đều có thể xưng là Thế
Tôn. Chúng ta làm thế nào để có thể khiến cho chúng
sanh gọi chúng ta là Thế Tôn? Hăy học theo đức Phật,
đi theo con đường của đức Thế Tôn.
Nguyện thứ tám trong mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát là “thường tùy Phật học”,
tức là thường học theo Phật, sẽ tự
nhiên trở thành Thế Tôn. Nay chúng ta là phàm phu th́ phải học
như thế nào?
1) Học theo Trí
Đức của Phật: Dùng Văn, Tư, Tu để học.
Chẳng có trí huệ, quư vị cầu đắc trí huệ.
Nghe kinh nhiều bèn khai trí huệ th́ gọi là Văn Huệ.
Dùng nhiều tâm tư suy nghĩ đạo lư nhà Phật, một
khi đă rỗng rang thông suốt, từ trong tâm hiểu rơ
Phật lư, th́ gọi là Tư Huệ. Quư vị đă hiểu
rơ Phật lư, thực tiễn dụng công tu hành. Trong khi tu hành, lại khai trí huệ, th́ gọi là Tu Huệ.
Từ ba thứ trí huệ là Văn, Tư, Tu mà khơi gợi,
mở mang trí huệ Bát Nhă vốn sẵn có, trọn đủ
hết thảy trí huệ th́ [trí huệ của chính ḿnh] sẽ
giống như trí huệ của Phật.
2) Học theo
Đoạn Đức của Phật: Quư vị đoạn
hết phiền năo, đoạn hết phiền năo há dễ
dàng ư? Nhưng quư vị chẳng đoạn, sẽ vĩnh
viễn chẳng thể đoạn. Phải tùy thuộc
căn cơ! Quư vị là căn cơ đốn siêu, sẽ lập
tức đoạn trừ, nhưng người thuộc loại
căn cơ ấy hiếm lắm! Quư vị thuộc
căn cơ [tăng tấn] từ từ, sẽ đoạn
dần dần. Chẳng đoạn, quư vị sẽ
vĩnh viễn làm phàm phu. Quư vị đoạn phiền
năo, đắc Đoạn Đức, chẳng phải là
giống như đức Thế Tôn ư? Đoạn phiền
năo bằng cách nào? Tŕ giới. Tại gia có giới của
hàng đệ tử tại gia, xuất gia th́ có giới của
đệ tử xuất gia. Đức Phật có ân đức
đối với chúng ta, Ngài dạy chúng
ta phải tŕ giới. Tŕ giới chính là “pḥng phi, chỉ ác” (防非止惡, ngăn
ngừa sai quấy, dứt điều ác). Trước hết,
chẳng làm hết thảy các chuyện ác, không tăng thêm
phiền năo mới. Sau đấy, tu Định khiến
cho cái tâm an định, tâm vọng tưởng chẳng dấy
lên, dần dần hàng phục các phiền năo cũ, khơi
mở trí huệ Bát Nhă rồi sẽ đoạn trừ phiền
năo cũ. Dựa theo ba pháp Giới, Định, Huệ do
đức Phật đă dạy, trước hết là tŕ
giới, rồi tu Thiền Định, rồi khơi mở
trí huệ Bát Nhă của chính ḿnh, nhất định có thể
đoạn hết phiền năo.
3) Học theo Ân Đức
của Phật: Quư vị đă có trí huệ,
đoạn sạch phiền năo. Do đối với chúng
sanh, [quư vị] chẳng có ân đức, chẳng thể gọi
là Thế Tôn. Thế Tôn là do người khác tôn trọng quư
vị, gọi quư vị là Thế Tôn, chẳng phải là
quư vị tự xưng là Thế Tôn. Thế Tôn là đấng
có ân huệ đối với chúng sanh thế gian và xuất
thế gian trong chín pháp giới, Ngài được tôn trọng
là v́ ân đức. Quư vị phải học theo ân đức
của Phật như thế nào? Chúng sanh chẳng hiểu
rơ Phật lư, quư vị học theo Trí Đức của Phật,
giảng cho chúng sanh nghe, khiến cho họ hiểu rơ Phật
lư. Chẳng phải là họ sẽ cảm niệm ân của
quư vị ư? Học theo Đoạn Đức của Phật,
quư vị dạy chúng sanh tŕ giới như thế nào, tu Thiền
Định như thế nào? Họ đoạn trừ phiền năo, chẳng phải là sẽ cảm niệm ân của quư vị ư? Do vậy,
quư vị có trí huệ, đă đoạn phiền năo, mà chẳng
có ân đức đối với chúng sanh, vẫn chẳng
thể xưng là Thế Tôn.
V́ rất nhiều
nhân duyên, Phật giáo Trung Hoa hiện thời đang xuống
dốc. Có một duyên khiến cho [Phật
giáo Trung Hoa] suy sụp là người xuất gia đóng cửa
tu hành tại chùa miếu, tại gia cư sĩ đóng cửa
nhà ḿnh tu hành, mới khiến cho Phật giáo suy vi. Hiện
thời, tại Đài Loan có khá nhiều vị tại gia
cư sĩ. Quư vị thấy những vị lăo cư
sĩ, họ chẳng phát tâm tu hành th́ quư vị c̣n có thể
thảo luận Phật pháp với họ. Hễ họ phát
tâm tu hành, sợ gặp khách, quư vị muốn hỏi họ
về đạo lư Phật pháp, họ sợ bị phiền
nhiễu, bèn ở nhà đóng cửa tu hành trong tiểu Phật
đường tại gia. Như vậy th́ chẳng có ân
đối với chúng sanh, chẳng thể tiếp dẫn
chúng sanh. Tuy Phật giáo tốt đẹp, có liên quan ǵ với
chúng sanh? Chúng sanh chẳng đạt được điều
tốt đẹp nào từ quư vị, chẳng biết quư
vị là người tốt, ngược lại c̣n ngỡ
quư vị là kẻ xấu, là kư sinh trùng ăn bám trong
xă hội, tội danh ǵ cũng đều gán cho, muốn
đả đảo đệ tử Phật, tức là
đả đảo toàn thể Phật giáo. V́ thế, Phật
giáo v́ đóng cửa tu hành mà suy yếu!
Đại Thừa
Phật pháp phải tự lợi, lợi tha, Phật có ba
loại đức: Trí Đức, đắc hết thảy
trí huệ; Đoạn Đức, đoạn hết thảy
phiền năo. Hai loại đức này đều thuộc tự
lợi. Ân Đức là lợi tha. Quư vị chẳng thể
lợi ích hết thảy chúng sanh, lẽ đâu chúng sanh gọi
quư vị là Thế Tôn cho được? Do vậy, phải
chú trọng Ân Đức. Chúng ta học Phật, phải tự
lợi, lợi tha, tu ba loại đức ấy, tu bao nhiêu
hay bấy nhiêu. Tu viên măn sẽ thành Phật. Phật Thích Ca
được gọi là Thế Tôn, chúng ta cũng thành Thế
Tôn. Trước khi thành Thế Tôn, chúng ta phải chiếu theo
đường lối “tự lợi, lợi tha” của
Đại Thừa để thực hiện, tu ba loại
đức ấy, vừa cầu trí huệ, vừa đoạn
phiền năo, vừa lợi ích chúng sanh, ban ân huệ cho chúng
sanh, người trong xă hội sẽ đều
tôn trọng chúng ta, sẽ chẳng tṛng các tội danh lên
đầu chúng ta.
Thiên Thân Bồ
Tát tạo Văng Sanh Luận, v́ sao trước hết phải
gọi một tiếng Thế Tôn? Có hai thứ ư nghĩa:
1) Một là tôn
sư trọng đạo. Thiên Thân tôi học Phật pháp
th́ mới trở thành Bồ Tát. Phật pháp do Thích Ca Mâu Ni
Phật nói, hôm nay tôi tạo luận, chẳng thể quên bẵng
đức Bổn Sư của tôi, tôi phải
tôn trọng vị thầy của tôi, tôi trước hết
bẩm bạch với thầy: “Thưa thầy! Con hôm nay sẽ
tạo luận”.
2) Hai là thỉnh Phật
gia bị. Tôi là một Bồ Tát, c̣n chưa thành Phật,
trí huệ chẳng trọn đủ, nhất định
phải thỉnh đức Thế Tôn gia bị tôi, khiến
cho Thiên Thân tôi tạo luận hay đẹp, chẳng phạm
sai lầm, có thể lợi ích chúng sanh.
“Ngă nhất tâm quy mạng”: “Ngă” là Thiên Thân Bồ Tát tự xưng, có nghĩa
là “đệ tử”. Đệ
tử hôm nay mong nhất tâm quy mạng Tây Phương Cực Lạc
thế giới A Di Đà Phật. Nói “Thế Tôn” chẳng phải là nên quy mạng Phật
Thích Ca ư? V́ hôm nay tôi tạo luận, dựa trên kinh Vô
Lượng Thọ do Thích Ca Thế Tôn đă nói, Thích Ca Thế
Tôn dạy chúng ta quy mạng A Di Đà Phật, cho nên tôi kính
vâng theo mạng lệnh của Phật Thích Ca mà quy y. “Nhất tâm” chính là kiền
thành, cung kính, chẳng có hai niệm. Nếu lúc chúng ta quy mạng,
đảnh lễ mà dấy lên vọng
tưởng, tức là cái tâm của chính ḿnh chẳng đủ
kiền thành. Chính ḿnh phải kiền thành, chỉ có cái tâm
quy mạng, chẳng có niệm thứ hai, th́ gọi là “nhất tâm”.
“Quy mạng” (歸命) là dịch nghĩa của chữ Nam-mô trong tiếng
Phạn. Nam-mô dịch sang tiếng Hán sẽ là “quy y, quy kính, quy mạng”.
Đây là Lễ Bái Môn. Vốn là dập đầu đảnh
lễ, đáng nên dịch thành “đảnh
lễ”, v́ sao dịch thành “quy
mạng”? V́ ba nghiệp thân, khẩu, ư đều phải
kiền thành. Lễ bái thuộc thân nghiệp. Khi thân thể lễ bái, trong tâm chẳng kiền thành, chẳng
đạt được nhất tâm. Trong tâm kiền thành
đến cực điểm, dùng sanh mạng của chính
ḿnh để quy y. Đấy là cái tâm kiền thành không ǵ
hơn được nữa! Khi ấy, quyết
chẳng dấy vọng tưởng, sanh mạng tôn quư nhất
của ta cũng chẳng cần, thảy đều quy y A
Di Đà Phật. Như vậy th́ tự nhiên sẽ biến
thành nhất tâm.
Chúng ta thường
là vừa lạy Phật, vừa dấy vọng tưởng,
tức là cái tâm kiền thành chẳng đủ. Nêu một
trường hợp dễ hiểu, dễ thấy, chẳng
hạn như quư vị tin tưởng pháp môn Tịnh Độ,
ấn định công khóa hằng ngày có lễ Phật, liền
noi theo bốn mươi tám nguyện do A Di Đà Phật
đă phát mà lễ bốn mươi tám lạy. Hôm nay, khí
trời quá nóng, công khóa do chính ḿnh ước định, chẳng
lạy tâm sẽ chẳng yên. Vừa lạy, vừa
nghĩ cách trừ nhiệt! Hoặc là hôm nay quư vị
đă làm công chuyện rất mệt mỏi, ră rời,
nhưng chưa lạy bốn mươi tám nguyện, vẫn
là rất miễn cưỡng lạy. V́ có cái tâm sợ
nóng, hay mong nghỉ ngơi, bị vọng tưởng
chướng ngại, lại lễ A Di Đà Phật, càng
lạy, vọng tưởng càng nhiều. Đấy là cái
tâm kiền thành chẳng đủ! Nếu quư vị có tâm quy
mạng, sanh mạng đă sớm giao cho A Di Đà Phật,
chết cũng chẳng màng, c̣n sợ nóng nữa hay sao? Bèn
hàng phục vọng tưởng sợ nóng. Tuy làm việc mệt
mỏi, ră rời, nhưng sanh mạng đă sớm giao cho A
Di Đà Phật, dẫu chết vẫn phải lạy, tự
nhiên sẽ chẳng dấy vọng tưởng.
Lại nêu một
tấm gương trong kinh Địa Tạng. Mẹ của
cô gái Bà La Môn lúc c̣n sống chẳng tin nhân quả, gièm chê, hủy
báng Tam Bảo. Cô Bà La Môn v́ t́m hỏi mẹ sau khi chết sẽ
sanh về đâu, bèn bố thí, cúng dường chùa, tháp của
Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. V́ cô
ta chiêm lễ từ dung của đức Phật, tâm cúng
dường Phật kiền thành đến tột bậc,
ngay lập tức được cảm ứng. Cô ta nghe
trên hư không có tiếng bảo: “Ta là Giác Hoa Định Tự
Tại Vương, thấy thân tâm của con nhớ
nghĩ mẹ vượt trỗi chúng sanh thường
t́nh, cho nên ta đến bảo cho con biết chỗ mẹ con đă
sanh về”. Cô Bà La Môn nghe đức Phật nói xong, hăng
hái chẳng màng tấm thân, chỉ biết phải nên dập
đầu lễ bái. “Cử
thân tự phác” (Khắp thân tự gieo xuống)
là giống như các lạt-ma lễ bái, rạp thân người
xuống mà lễ, quăng thân thể xuống đất.
V́ gieo thân quá mạnh, “chi tiết
giai tổn” (tay chân đều bị tổn
thương), tay chân đều nứt toác, đó là “quy mạng đảnh lễ”.
Chúng ta thường xuyên lạy Phật, v́ sao đức Phật
chẳng nói ǵ với chúng ta? V́ chúng ta vừa lạy Phật,
vừa dấy vọng tưởng, chẳng thể cùng Phật
cảm ứng đạo giao.
“Nhất tâm quy mạng” giải thích theo cách thứ
nhất th́ là đem sanh mạng tôn quư nhất, duy nhất
không hai của chính ḿnh để quy y, đảnh lễ.
Theo cách giải thích thứ hai th́ “mạng” là mạng lệnh hay giáo mạng của
Phật. “Nhất tâm quy mạng”
là ta chẳng có hai niệm, quy y lời dạy bảo, giáo
mạng của đức Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật nói
pháp môn Tịnh Độ, dạy ta tin tưởng Tây
Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật,
dạy ta phát nguyện văng sanh Tây Phương, dạy ta tŕ
niệm danh hiệu A Di Đà Phật, ta chẳng có ư niệm
thứ hai, nhất tâm quy y mạng lệnh của đức
Phật, th́ gọi là “nhất
tâm quy mạng”. Cách giải thích thứ ba là “quy mạng nhất tâm”, nhất
tâm là cái tâm chẳng có vọng tưởng, chẳng có hai niệm.
Nhất tâm chính là chân tâm, tự tánh. “Quy mạng” là đem sanh mạng của chính ḿnh,
hồi quang phản chiếu quy vào chân tâm, tự tánh của
chúng ta. Quư vị có thể hiểu loại đạo lư
này, quư vị quy mạng nhất tâm sẽ có thể ngộ
Tự Tánh Di Đà.
Hai cách giải
thích trước chú trọng nơi sự tướng, cách
giải thích thứ ba chú trọng lư tánh. Quư vị chú trọng
sự tướng, không nói đến lư tánh, tức là “cầu Phật ngoài tâm”.
Quư vị nhất tâm quy y giáo mạng của đức Phật,
dùng sanh mạng kiền thành nhất, tôn quư nhất của
chính ḿnh để đảnh lễ, quy y. Đức Phật
dạy quư vị tu hành như thế nào, quư vị bèn tu hành
như thế đó. Khi ấy, quư vị là quư vị, Phật
là Phật, Phật vẫn ở ngoài tâm của quư vị.
Cách giải thích thứ ba đă quy Phật vào nhất tâm của
chính ḿnh. Nhất tâm của quư vị to lớn không ǵ ra
ngoài được, A Di Đà Phật chẳng ở ngoài
nhất tâm của quư vị, Tây Phương Cực Lạc
thế giới cũng chẳng ra ngoài nhất tâm của quư
vị. Khi đó, quư vị quy y A Di Đà Phật, tức là
quy y Tự Tánh Di Đà; quư vị cầu sanh Tịnh Độ
chính là duy tâm Tịnh Độ. Đấy chính là đạo
lư “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh
Độ”. Quư vị hiểu cách giải thích thứ ba
theo lư tánh, chớ nên chấp Lư phế Sự, v́ quư vị
có thể ngộ “Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ” th́ vẫn
là do chí tâm kiền thành, nhất tâm quy mạng giáo mạng của
đức Phật mà ra. Hai cách giải thích trước là
sự tướng. Chẳng thể rời khỏi sự
tướng! Quư vị hăy khéo kiền thành, cung kính, dập
đầu lễ bái, th́ mới có một ngày hồi
quang phản chiếu, ngộ Tự Tánh Di Đà.
4.1.2. Tán Thán Môn (讚歎門)
(Luận) Tận thập
phương Vô Ngại Quang Như Lai.
(論)盡十方無礙光如來。
(Luận: Tột
mười phương Vô Ngại Quang Như Lai).
Tám chữ “tận thập phương Vô Ngại
Quang Như Lai” là môn thứ hai, tức Tán Thán
Môn, tán thán công đức của A Di Đà Phật. “Tận thập phương Vô Ngại
Quang Như Lai” [th́ Vô Ngại Quang] là dịch nghĩa
đức hiệu của A Di Đà Phật. Kinh A Di Đà
chép: “Bỉ Phật hà cố hiệu
A Di Đà? Bỉ Phật quang minh vô lượng, chiếu
thập phương quốc, vô sở chướng ngại,
thị cố hiệu vi A Di Đà” (Cớ
sao đức Phật ấy hiệu là A Di Đà? Đức
Phật ấy quang minh vô lượng, chiếu mười
phương cơi, chẳng bị chướng ngại, cho nên
hiệu là A Di Đà). Đấy là lời giải thích cho
câu này. V́ A Di Đà Phật vô lượng quang minh, có thể
chiếu trọn khắp các quốc độ trong mười
phương, cho nên mới gọi là A Di Đà.
“Thập phương” là mười phương thế
giới, phương Đông, phương Nam, phương Tây,
phương Bắc, lại c̣n bốn góc, tức Đông
Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, lại c̣n phương
trên và phương dưới, mỗi phương đều
có vô lượng thế giới. Đại Thừa Khởi
Tín Luận nói: “Hư không vô
biên, cố thế giới vô biên. Thế giới vô biên, cố
chúng sanh vô biên” (Do hư không vô biên nên thế giới vô
biên. Do thế giới vô biên, nên chúng sanh vô biên). Đấy
là vũ trụ quan Phật giáo. Vũ trụ quan của Phật
giáo phù hợp [vũ trụ quan của] các nhà khoa học.
Hư không trong kinh Phật là hư không vô
lượng vô biên, các thế giới trong hư không là vô
lượng vô biên thế giới. Khoa học hiện thời
đă chứng minh, xác thực thế giới là vô lượng
vô biên. “Tận thập
phương Vô Ngại Quang Như Lai” tức là quang minh
của A Di Đà Phật vô lượng, chiếu trọn
khắp mười phương thế giới, chẳng bị
chướng ngại, không phải chỉ là chiếu thấu
thế giới này, c̣n thế giới kia chẳng chiếu
tới!
* Giải trừ nghi hoặc
Hỏi: Quang minh
của A Di Đà Phật chẳng bị chướng ngại.
Đă là chiếu trọn khắp mười phương
thế giới, đương nhiên là sẽ chiếu thấu
thế giới Sa Bà. Cớ sao chúng ta chẳng trông thấy?
Đáp: Chướng
ngại chẳng ở nơi Phật, mà thuộc về
phía chúng ta. Cổ nhân có nêu một thí dụ:
“Ánh mặt trời trọn khắp
thiên hạ, nhưng kẻ mù chẳng thấy, chẳng phải
là ánh mặt trời không trọn khắp”. Giống
như ánh sáng mặt trời chiếu trọn khắp địa
cầu, nhưng kẻ “sanh
manh” chẳng trông thấy. “Sanh
manh” (生盲) là người mù từ lúc lọt ḷng, chưa từng
thấy ánh sáng mặt trời, vậy th́ có thể trách móc
ánh nắng mặt trời chẳng chiếu đến kẻ
ấy hay sao? V́ mắt kẻ ấy chẳng thấy, do vậy,
chướng ngại thuộc về phía người sanh
manh, chẳng phải do nơi mặt trời! Trong kinh Phật
c̣n có một thí dụ: “Dương
quang biến chiếu, bất chiếu phúc bồn” (ánh sáng mặt trời chiếu
trọn khắp, chẳng chiếu chậu úp), [nghĩa là] cái chậu úp xuống, ánh sáng mặt trời
chẳng thể soi thấu. Đó là v́ quư vị đă úp chụp
cái chậu xuống đất, ánh sáng mặt trời mới
chẳng chiếu thấu. Trong thí dụ về kẻ sanh
manh, chính là chúng sanh chẳng có con mắt trí huệ, chẳng
trông thấy quang minh của đức Phật. Chúng ta
có tṛng mắt là nhục nhăn của phàm phu, bị nghiệp
chướng ngăn ngại, chẳng thể khải phát
trí huệ được. V́ thế, Phật có quang minh mà
quư vị chẳng trông thấy. “Chẳng
chiếu vào cái chậu úp” có nghĩa là trái nghịch giác,
xuôi theo trần lao. Quư vị chẳng thấy quang minh của
Phật, tức là quư vị đă trái nghịch giác quang của
đức Phật, thuận theo trần lao, tâm của quư vị
chẳng ứng hợp tâm Phật, cho nên chẳng trông thấy
quang minh.
Nói đến
quang minh của Phật, giống như nói chuyện thần
thoại, có chứng nghiệm. Quư vị hỏi đệ
tử Phật tu hành, chỉ cần thiết thực dụng
công tu hành, đă mở mắt trí huệ, sẽ
đều có thể thấy quang minh của Phật. Chẳng
phải là con mắt “ngũ
nhăn viên minh” của đức Phật, mà là mắt của
lũ phàm phu chúng ta, hễ quư vị khai trí huệ Phật
được nhiều hay ít, sẽ đều có thể
thấy quang minh của Phật. Tuy trí huệ chẳng khai
tí nào, nhưng quư vị nghiêm túc, thiết thực tu hành, tâm
của quư vị luôn trái nghịch trần lao, ứng hợp giác, ứng
hợp với sự giác ngộ của Phật, quư vị
sẽ trông thấy quang minh của Phật.
Đây là Thiên Thân
Bồ Tát mong nhất tâm quy mạng đảnh lễ, cho
nên mới tán thán quang minh của A Di Đà Phật chiếu
trọn khắp mười phương thế giới chẳng
bị chướng ngại, chiếu trọn khắp
mười phương thế giới chúng sanh. V́ A Di
Đà Phật có đại trí huệ, cho nên mới có thể
phóng đại quang minh cứu độ hết thảy
chúng sanh, có ân đức đối với chúng sanh. V́ thế,
chúng ta phải nên quy y Ngài.
4.1.3. Tác Nguyện Môn
(作願門)
(Luận) Nguyện sanh An
Lạc quốc.
(論)願生安樂國。
(Luận:
Nguyện sanh cơi An Lạc).
“Thế Tôn, ngă nhất tâm quy mạng” là Lễ Bái
Môn, tức môn thứ nhất. “Tận
thập phương Vô Ngại Quang Như Lai” nhằm tán
thán quang minh, trí huệ và công đức của A Di Đà Phật
là Tán Thán Môn, tức môn thứ hai. “Nguyện sanh An Lạc quốc” là môn thứ ba, tức
Tác Nguyện Môn, Tác (作) là phát
nguyện. Tôi quy mạng đảnh lễ Vô Ngại Quang Như
Lai, tôi tán thán quang minh, trí huệ và công đức của A
Di Đà Phật, tôi phát nguyện mong sanh về
cơi An Lạc. V́ sao phải sanh về cơi An Lạc? Đó là một quốc gia rất b́nh an. Chúng ta ở trong thế giới
Sa Bà, là một thế giới chẳng b́nh an, khổ năo.
Kinh Pháp Hoa nói: “Tam giới vô an,
do như hỏa trạch” (Ba cơi chẳng
yên, ví như nhà lửa). Giống như một căn nhà lớn
bị hỏa hoạn; trẻ nhỏ chẳng biết, vẫn
chơi đùa trong ấy. Quư vị gọi nó kiểu nào
đi nữa, nó vẫn chẳng muốn đi ra. Lũ chúng
sanh chúng ta ở trong thế giới Sa Bà đều là
như vậy, cứ ngỡ cơi này rất an lạc, chẳng
biết nơi đây là một thế giới rất nguy
hiểm, rất đau khổ. Nói theo địa cầu của
chúng ta, nó là Thành, Trụ, Hoại, Không. Địa cầu được
thành lập th́ gọi là Thành Kiếp. Hiện thời, [địa cầu] có thể an trụ, nên gọi là Trụ Kiếp.
Trong tương lai, nó sẽ dần dần hư hoại,
nên gọi là Hoại Kiếp. Đă hư hoại, chẳng
có ǵ nữa, th́ gọi là Không Kiếp. Trong tương lai,
sẽ hư hoại như thế nào? Có tiểu tam tai và
đại tam tai. Tiểu tam tai là:
1) Đao binh tai:
Ngươi giết ta, ta giết ngươi.
2) Cơ cẩn
tai: Mọi người chẳng có cơm ăn, chịu nỗi
khổ đói kém.
3) Dịch bệnh
tai: Mọi người đều ngă bệnh,
sanh ra các bệnh dịch.
Đại tam tai
là hỏa tai, thủy tai, và phong tai; kết quả là quả
địa cầu bị hư hoại, tới khi đó, thảy
đều mắc phải tai ương. Hiện thời tiểu
tam tai và đại tam tai có thể phát khởi bất cứ
lúc nào, bất cứ chỗ nào. Đao binh tai th́ như quư vị
thấy thế giới đại chiến lần thứ
hai (đệ nhị thế chiến) đă kết thúc, thế
giới đại chiến lần thứ ba luôn có cơ hội
để bộc phát bất cứ lúc nào. Chúng ta xem báo chí,
thấy nhân dân Việt Nam đang hứng chịu tai
ương chiến tranh, chẳng phải là rất đau
khổ ư? Đă có đao binh tai, chiến tranh đă chết
mấy chục vạn người, khắp nơi đều
đầy dẫy tử thi, nhất định sẽ phát
sanh ôn dịch. Chiến tranh th́ vật chất, của cải
đều bị phá hoại, nhất định sẽ gặp
cơ cẩn tai (tai ương đói kém). Do vậy, bất
cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào, cũng đều có
thể phát sanh tai nạn.
Ở đây, phải
chú ư: Thiên Thân Bồ Tát phát nguyện sanh về An Lạc quốc
chẳng phải là đi lánh nạn!
Ngài đến thân cận A Di Đà Phật nhằm học
bản lănh cứu độ chúng sanh. V́ thấy chúng sanh gặp
tai, gặp nạn, chính ḿnh mong cứu độ hết thảy
chúng sanh, nhưng do trí huệ và thần thông chẳng đủ, phải
sanh về Tây Phương, thân cận A Di Đà Phật, ḥng
đạt được trí huệ và thần thông, [có thể] phân thân trọn khắp các cơi nhiều như vi trần.
Không chỉ là chúng sanh trong thế giới Sa Bà phải hộ
tŕ, mà chúng sanh trong mười phương thế giới
cũng đều phải hộ tŕ. Do đó, Ngài phát ra
đại tâm nguyện, nguyện sanh vào An Lạc quốc.
Trong phần Kệ
Tụng này, “Thế Tôn, ngă nhất
tâm quy mạng” là môn thứ nhất, tức Lễ Bái Môn,
lễ bái A Di Đà Phật. “Tận
thập phương Vô Ngại Quang Như Lai” là môn thứ
hai, tức Tán Thán Môn, tán thán Tây Phương giáo chủ A Di
Đà Phật. Ở đây là dựa theo ư nghĩa Vô Lượng
Quang để tán thán quang minh của A Di Đà Phật chiếu
trọn khắp mười phương thế giới, chẳng
bị chướng ngại. “Nguyện
sanh An Lạc quốc” là môn thứ ba, tức Tác Nguyện
Môn, phát nguyện sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Trong phần Kệ Tụng này đă bao gồm ba
Niệm Môn.
(Luận) Ngă y Tu Đa La,
chân thật công đức tướng, thuyết nguyện
kệ tổng tŕ, dữ Phật giáo tương ứng.
(論)我依修多羅,真實功德相,說願偈總持,與佛教相應。
(Luận:
Con nương theo Khế Kinh, tướng công đức
chân thật, nói nguyện kệ tổng tŕ, tương ứng
lời Phật dạy).
Bốn câu này nhằm
tiếp nối phần trước, dẫn khởi phần
sau, trần thuật ư chỉ tạo luận. Trong phần
Kệ Tụng trên đây đă nói: Con đảnh lễ,
tán thán, lại phát nguyện. Nay con muốn tạo Văng Sanh
Luận th́ dựa vào kinh ǵ để tạo? “Ngă y Tu Đa La” (Con nương
theo Khế Kinh). Tu Đa La (Sūtra) là tiếng Phạn, dịch sang
tiếng Hán là Khế Kinh (契經). “Khế
giả hợp dă, thượng hợp chư Phật chi lư,
hạ hợp chúng sanh chi cơ” (“Khế” là phù hợp,
trên là hợp với lư của chư Phật, dưới
là hợp căn cơ của chúng sanh). Phía trên là khế hợp
với Lư của chư Phật, phía dưới phải ứng
hợp căn cơ của chúng sanh. Đức Phật nói
kinh đều luôn ứng hợp với Lư của chư Phật.
Lư của chư Phật chính là lư Chân Như Thật Tướng.
V́ thế, nếu chẳng ứng hợp đạo lư Chân
Như Thật Tướng, sẽ chẳng phải là kinh
điển Đại Thừa do đức Phật đă
nói.
Kinh điển
Đại Thừa dùng Thật Tướng để ấn
chứng, phù hợp lư Thật Tướng th́ chính là kinh do
đức Phật đă nói. Nếu không, chẳng phải
là kinh Tiểu Thừa, mà là kinh của ngoại đạo.
Lư Thật Tướng cao sâu, huyền diệu, nhưng
đức Phật thuyết pháp “thâm
nhập, thiển xuất” (chứng nhập sâu xa,
nhưng diễn tả nông cạn), nói sao cho chúng sanh thấu
hiểu. Nếu không, đức Phật nói kinh mà chúng sanh
nghe chẳng hiểu, sẽ chẳng thể đạt
được lợi ích. V́ thế, đức Phật nói
kinh, quư vị đừng nên sợ [kinh Phật] quá cao sâu; hễ
nghiên cứu, sẽ nhất định thấu hiểu. V́
kinh do đức Phật nói luôn khế hợp căn cơ
của chúng sanh. Đức Phật nói kinh, có khi nói trên cơi
trời, có lúc nói trong nhân gian. Kinh nói trên cơi trời phù hợp
ứng hợp với căn cơ của chúng sanh trên cơi trời.
Kinh nói trong nhân gian sẽ ứng hợp căn cơ của
chúng sanh trong nhân gian. Chẳng có bộ kinh nào mà chúng ta chẳng
thể thông hiểu. Quư vị nói “chẳng thông
hiểu” là v́ quư vị chẳng nghe, chẳng nghiên cứu!
“Tu Đa La” tức là kinh Đại Thừa do
đức Thích Ca Như Lai đă nói, ở đây là nói tới
kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ nói về
các thứ trang nghiêm nơi y báo và chánh báo của Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Y báo là sự
trang nghiêm nơi quốc độ Tây Phương Cực Lạc
thế giới; chánh báo là sự trang nghiêm của A Di Đà
Phật và chư đại Bồ Tát trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới.
“Chân thật công đức tướng”: Nói tổng
quát th́ tướng công đức trang nghiêm nơi y báo và chánh báo của Tây Phương Cực Lạc thế
giới như kinh Vô Lượng
Thọ đă nói đều
được thành tựu bởi công đức chân thật.
“Chân thật” là chẳng
hư dối, chẳng trá ngụy, là tướng công đức
chân thật. Tây Phương Cực Lạc thế giới
là do A Di Đà Phật sau khi đă xuất gia nơi Thế
Tự Tại Vương Như Lai, đă phát nguyện muốn
tạo lập một thế giới thanh tịnh trang
nghiêm. Do vậy, Ngài trải qua vô lượng A-tăng-kỳ
kiếp tu hành các thứ công đức thành tựu. Ngài luôn
dựa trên Chân Như Thật Tướng để tu hành
công đức, những công đức đă tu đều
là công đức vô lậu. V́ thế, công đức sau khi
thành tựu sẽ chẳng bị hư
hoại.
“Hữu lậu” (有漏) và “vô lậu” (無漏) là danh từ chuyên môn trong Phật giáo. “Lậu” (漏, Āśraya) là danh xưng khác của phiền năo. Chúng sanh trong
tam giới đều có phiền năo. Những công đức
dựa trên phiền năo để làm sẽ đều bị
hư hoại. V́ thế, gọi là Lậu. Giống như ở
trong căn nhà bị dột, hoặc đồ vật bị
ṛ rỉ. Nhà ở bị mưa dột th́ gọi là “lậu lạc” (漏落). Nồi nấu cơm bị rỉ nước, ṛ
rỉ đến cuối cùng chẳng c̣n nước, th́ gọi
là “lậu thất” (漏失, rỉ mất). Đối chiếu với công
đức chúng ta đă làm trong tam giới th́ chúng đều
là công đức hữu lậu, đều là hư ngụy,
chẳng chân thật, tức là công đức bị ṛ rỉ,
chảy mất.
Quư vị dựa
trên cái tâm phiền năo, gây tạo ác nghiệp, nhất định
sẽ đọa vào ba ác đạo; quư vị tạo thiện
nghiệp, quả báo vẫn chẳng thoát khỏi tam giới.
Quư vị làm công đức ít, đời sau, đời kế,
chuyển thành một người phú quư. Quư vị làm công
đức to lớn, sanh lên cơi trời hưởng phước
trời, đạt được quả báo nhân thiên. Quư vị
làm công đức là nhân, sanh lên cơi trời hưởng
phước trời là quả. Quư vị làm bao nhiêu công
đức, sẽ đáng nên hưởng bấy nhiêu quả,
có hạn độ nhất định. Kinh Địa Tạng
đă nói rơ ràng: “Xả nhất
đắc vạn báo” (Xả một,
được báo cả vạn). Quư vị bố thí một
đồng tiền, có thể hưởng thụ quả
báo một vạn đồng. Do đó, quư vị sanh lên cơi
trời, hưởng hết phước trời sẽ
đọa xuống, đó gọi là “lậu lạc”. V́ quư vị dùng cái tâm phàm phu hữu
lậu, cho nên công đức đă làm sẽ chẳng phải
là vô lượng vô biên, quư vị đạt được
quả báo cũng chẳng thể là vô
lượng vô biên. V́ thế, phước trời khiến
cho quư vị “xả một, đắc
cả vạn”, vẫn là có một hạn độ
nhất định. Ví như quư vị làm công đức
trên thế gian, đời sau, đời kế, chuyển
sanh làm một người đại phú đại quư, cuộc
sống hưởng quả báo tốt đẹp. Hưởng
hết phước báo trong nhân gian, đời thứ ba có
thể là ngay cả thân người c̣n chưa thể làm, lại
c̣n phải đọa lạc trong ba ác đạo. V́ lúc quư
vị đang hưởng phước phú quư, nếu bị
hoàn cảnh phú quư mê hoặc, ngay cả công đức hữu
lậu cũng chẳng làm, c̣n tạo các ác nghiệp, đời
thứ ba nhất định đọa lạc. Đấy
chính là “lậu lạc”. Quư vị
sanh lên cơi trời, hưởng hết phước trời,
quả báo công đức đă xong, quư vị tu công đức
trong nhân gian, hễ hưởng hết phước báo trong nhân gian th́
công đức bị mất đi, cho nên gọi là “lậu thất”.
Tu hành trong thế
giới Sa Bà, phải là sau khi đă chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn
th́ công đức đă làm mới thuộc loại vô lậu,
thuận theo Pháp Tánh, hợp Thật Tướng. Trong phần
trước, đă có nói Nan Hành Đạo và Dị Hành
Đạo, tu hành trong thế giới Sa Bà, mong chứng
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn đă khó lại càng khó hơn!
Nếu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
do được nhiễm quang minh của A Di Đà Phật,
sẽ chẳng thoái chuyển. Các thứ trang nghiêm trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới là do sau khi A Di
Đà Phật chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, tu vô
lượng A-tăng-kỳ kiếp công đức mà thành tựu.
V́ Ngài đă tu công đức vô lậu chân thật, [những
công đức ấy] sẽ không bị dột nát, rỉ mất.
“Thuyết nguyện kệ tổng tŕ” (Nói nguyện
kệ tổng tŕ): “Thuyết”
là Thiên Thân Bồ Tát thuyết, tức là Ngài viết
ra. “Nguyện kệ” là Nguyện
Sanh Kệ; Ngài đă tạo Văng Sanh An Lạc Quốc Kệ
Tụng. “Tổng” là “tổng nhiếp” (總攝, thâu tóm chung lại). “Tŕ”
là “nhậm tŕ” (任持, ǵn giữ, duy tŕ). Kinh Vô Lượng Thọ đă
nói rất nhiều tướng công đức chân thật
của y báo và chánh báo trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới, chỉ sợ chúng sanh chẳng dễ ghi nhớ.
V́ thế, đệ tử con là Thiên Thân nay dựa theo kinh Vô
Lượng Thọ, lại nói Nguyện Sanh Kệ để
thâu tóm tổng quát, giữ lấy tướng công đức
chân thật, khiến cho chúng sanh xem bài Kệ Tụng do con
viết, sẽ chẳng quên mất, dễ dàng phát nguyện
tu hành. V́ sao con phải soạn Nguyện Sanh Kệ? Chính là nhằm chọn lựa các tướng công đức trong
kinh Vô Lượng Thọ để nói tổng quát.
“Dữ Phật giáo tương ứng” (Tương
ứng với lời Phật dạy): “Phật” là nói tới Thích Ca Mâu Ni Phật. “Giáo” là những ngôn
giáo do Như Lai đă nói, tức là những lời thuyết
pháp của đức Phật. Kệ Tụng do con là Thiên
Thân đă tạo, ứng hợp với ngôn giáo do đức
Phật đă nói, chẳng trái nghịch những lời dạy
bảo của đức Phật.
Vừa mở
đầu Phần Kệ Tụng, trước hết
đă gọi “Thế Tôn”,
tôi đă nói [danh xưng ấy] có hai thứ ư nghĩa:
1) Một là tôn
sư trọng đạo. Con làm đệ tử muốn tạo
Văng Sanh Luận, dựa theo kinh Phật để tạo.
Trước hết, con phải bẩm cáo với thầy,
giống như chúng ta làm chuyện ǵ, trước hết, phải
hướng về cha mẹ thưa một tiếng.
2) Hai là cầu Phật
gia bị, tức là muốn “dữ
Phật giáo tương ứng”. Chỉ sợ trí huệ
của con chẳng đủ, cầu đức Thế Tôn
gia bị con [khiến cho] Văng Sanh Luận do con soạn sẽ
ứng hợp nghĩa lư của kinh Vô Lượng Thọ.
C̣n có một thứ
ư nghĩa nữa là cầu Phật ấn chứng, Văng Sanh
Luận do con soạn ra, thỉnh đức Thế Tôn chứng
minh [những điều con đă viết] tương ứng
với ngôn giáo do đức Phật đă nói.
“Ngă y Tu Đa La, chân thật công đức tướng,
thuyết nguyện kệ tổng tŕ, dữ Phật giáo tương
ứng”: Phần Kệ Tụng này nhằm thừa tiếp
phần kinh văn trước đó, con muốn nhất
tâm quy mạng, tán thán Vô Ngại Quang Như Lai, con nguyện
sanh trong An Lạc quốc, con muốn dựa theo kinh Vô
Lượng Thọ để tạo luận, dùng những
phần kinh văn kế tiếp để xiển
dương, phát khởi.
Trong năm Niệm
Môn, phần kế tiếp thuộc môn thứ tư, tức
Quán Sát Môn, [tức là] quan sát tướng công đức của
y báo và chánh báo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Kinh văn của
phần Quán Sát Môn rất dài, chia
thành ba đoạn lớn:
1) Quan sát sự trang nghiêm được thành tựu
bởi công đức nơi quốc độ của
đức Phật ấy.
2) Quan sát công
đức thành tựu của chính đức Phật ấy.
3) Quan sát sự
trang nghiêm do thành tựu bởi công đức của các vị
Bồ Tát trong cơi ấy.
Tôi giảng
trước về đoạn thứ nhất, tức sự
trang nghiêm được thành tựu bởi công đức
nơi quốc độ của đức Phật ấy,
tức là phần quan sát y báo trang nghiêm (sự trang nghiêm
nơi y báo). Y báo của Tây Phương Cực Lạc thế
giới bao gồm tất cả mười bảy loại
trang nghiêm; dưới đây, sẽ giải thích từng
điều một.
4.1.4. Quán sát môn (觀察門) (chia thành ba
đoạn)
4.1.4.1. Quan sát sự trang nghiêm được thành tựu
bởi công đức nơi quốc độ của
đức Phật ấy (chia thành mười
bảy tiểu đoạn)
4.1.4.1.1. Sự trang nghiêm được thành tựu
bởi công đức thanh tịnh (tổng tướng)
(Luận) Quán bỉ thế
giới tướng, thắng quá tam giới đạo.
(論)觀彼世界相,勝過三界道。
(Luận:
Quán tướng thế giới ấy, vượt trỗi
đạo tam giới).
Hai câu này là quan
sát loại thứ nhất trong mười bảy loại
trang nghiêm nơi y báo, tán thán sự trang nghiêm thanh tịnh. “Quán bỉ thế giới tướng”
tức là quan sát tổng tướng của Tây
Phương Cực Lạc thế giới được
thành tựu bởi công đức thanh tịnh. Thanh tịnh
như thế nào? “Thắng quá
tam giới đạo”, chúng ta chưa đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, hăy so sánh đôi
chút để quư vị thấu hiểu cơi ấy vượt
trỗi tam giới lục đạo của thế giới
Sa Bà.
Thế giới
Sa Bà chia thành tam giới là Dục Giới, Sắc Giới,
và Vô Sắc Giới. Lại chia cặn kẽ hơn th́ là
sáu đường, gồm ba thiện đạo, tức thiên
đạo, nhân đạo, A Tu La đạo; ba ác đạo
là địa ngục đạo, ngạ quỷ đạo,
và súc sanh đạo. Sáu đường ấy
đều thuộc vào Dục Giới, v́ chúng sanh trong lục
đạo đều có tâm dâm dục. V́ thế, gọi
chung là Dục Giới. Chư thiên trong sáu tầng trời của
Dục Giới[8] vẫn có
tâm dâm dục. Lên cao hơn là Sắc Giới, Sắc chính là
thân thể. Chúng sanh trong giới này tu công phu Thiền Định,
đă hàng phục cái tâm dâm dục. Do công phu Thiền Định
mà sanh lên trời, thường nói là Sơ Thiền, Nhị
Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền. Dựa trên công phu
sâu hay cạn mà có Tứ Thiền Thiên. Chia cặn kẽ th́
có mười tám tầng trời[9], thân thể
của chúng sanh trong Sắc Giới rất thanh tịnh. Lên
cao hơn nữa là Vô Sắc Giới. Chúng sanh trong giới
này tu Tứ Không Định, xóa sạch thân tướng, chẳng
có thân thể, bên trong chỉ có một tâm tư. Tam giới
đều ở trong thế giới Sa Bà, gọi là “tam giới đạo”.
Tam giới đạo
bao gồm lục đạo. Ba ác đạo chẳng thể
so sánh với Tây Phương Cực Lạc thế giới,
v́ ba ác đạo chẳng có bất cứ thứ trang
nghiêm ǵ, chỉ có đau khổ. A Tu La đạo cũng chẳng
thể đem ra so sánh, v́ A Tu La đạo vẫn coi như
là thuộc về tứ ác đạo. Chỉ so sánh với
nhân đạo và thiên đạo, tức là đem so sánh sự
trang nghiêm trong nhân gian và trên cơi trời th́ [cả hai cơi ấy] đều thua kém sự trang nghiêm trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới. “Thắng quá tam giới đạo” thật ra là
vượt trỗi nhân đạo và thiên đạo trong thế
giới Sa Bà.
“Tam giới đạo” là nói nhân thiên đạo có
sự trang nghiêm, có vui sướng, nhưng chẳng thể
sánh bằng Tây Phương Cực Lạc thế giới.
V́ trong tam giới, tất cả sự trang nghiêm và phước
báo hưởng thụ trong đường nhân thiên đều
là tướng điên đảo, bất tịnh:
1) Điên đảo:
Hết thảy các pháp vô thường, nhưng họ chấp
trước là thường. Hết thảy các pháp là khổ,
họ chấp trước là vui. Hết thảy các pháp vô
ngă, họ chấp trước là có một cái Ngă. Hết thảy
các pháp bất tịnh, họ chấp trước là tịnh.
Đấy đều là điên đảo.
2) Bất tịnh:
Tất cả các thứ trang nghiêm đều mang tánh chất
ô nhiễm, họ ngỡ là thanh tịnh. Đấy gọi
là tướng bất tịnh, điên đảo. Chẳng
hạn như bảy báu trong thế gian, tức vàng, bạc,
lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mă năo, chúng ta chẳng có
phước báo th́ sẽ chẳng có được. Có
phước báo th́ đạt được. Hễ chấp
trước bèn bị bảy báu xoay chuyển, khiến cho
tự tánh thanh tịnh của chúng ta bị nhuốm bẩn.
Do đó, bảy báu trong nhân gian chẳng phải là bảy
báu thanh tịnh, nó sẽ ô nhiễm con người. Bảy
báu trang nghiêm trên cơi trời, so với [bảy báu trong] nhân
gian càng tốt, càng đẹp hơn, nhưng chúng nó ô nhiễm
con người càng dữ dội hơn nữa. Quư vị
sanh lên cơi trời, bất luận ai bảo quư vị tu
hành, quư vị đều chẳng muốn tu hành. V́ thế,
bảy báu trang nghiêm trong tam giới chẳng thể sánh bằng
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Bảy báu
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới toàn là
tướng công đức thanh tịnh.
Mọi người
đều nói Phật pháp khó hiểu. Lăo pháp sư Đàm
Hư bảo: “Phật pháp rất
dễ hiểu, tu hành rất dễ dàng, chứng quả cũng
dễ dàng. Phật pháp chỉ có sáu chữ: Nh́n thấu,
buông xuống, tự tại”. Quư vị đối với
niềm vui ngũ dục trong thế gian đều nh́n thấu, chúng đều là những thứ chẳng thanh tịnh,
nhuốm bẩn con người. Đă nh́n thấu bèn buông xuống, thảy đều trừ bỏ
chúng, quư vị sẽ đạt được tự tại.
Như vậy th́ Phật pháp chẳng phải là rất dễ
thấu hiểu, rất dễ tu hành, rất dễ đạt
được lợi ích ư? “Nh́n
thấu” thuộc về phương diện đạo
lư. “Buông xuống” thuộc về
phương diện tu hành. “Tự
tại” là đạt được kết quả. Quư
vị có thể tự tại hay không, tùy thuộc quư vị
có nh́n thấu và buông xuống hay không? Kẻ chẳng hiểu Phật
pháp đương nhiên là chẳng nh́n thấu!
Chúng ta hằng ngày nghe kinh, thậm chí nghiên cứu đạo
lư Phật giáo rất nhiều năm, nơi đạo lư đều
hiểu rơ “chớ nên dấy động tâm tham bảy báu; đối
với người nhà, quyến thuộc, niềm vui
ngũ dục cũng đều chẳng nên tham”, tức
là đă thấy thấu suốt nơi đạo lư,
nhưng trên thực tế, quư vị chẳng buông xuống,
là v́ quư vị không chỉ chẳng buông xuống gia sản,
quyến thuộc, vàng, bạc, của cải, mà ngay cả
những thứ ham mê tầm thường, vẫn chẳng
thể buông xuống được!
Có một vị
lăo cư sĩ là một nhà đại tài chủ, đă học
Phật rất nhiều năm, sống rất đạm
bạc, nhưng chẳng thể buông xuống tiền tài nổi!
Khi ấy đă phát hành tiền giấy, nhưng ông ta cho rằng:
Hễ ngân hàng bị đóng cửa, tiền giấy sẽ
vô dụng. V́ thế, ông ta chẳng tin tưởng tiền giấy, cho rằng tiền đúc bằng
bạc mới là chân thật. Tiền bằng bạc trong
nhà ông ta dùng chẳng hết, số tiền c̣n thừa
đó chất chứa lại. Ông ta làm rất nhiều cái
rương nhỏ để đựng bạc. Trong pḥng
ông ta để mấy chục cái rương nhỏ. Vị lăo cư sĩ ấy
hết tuổi thọ, đáng lẽ sanh về Tây
Phương, người nhà quyến thuộc rất hiếu
thuận, đều giúp trợ niệm A Di Đà Phật.
Đến lúc đă sắp ra đi, ông ta chẳng thể
nói năng, nhưng mắt chẳng ngớt ngó những cái
rương nhỏ ấy. Con cái ông ta bỗng hiểu rơ:
“Chắc là cha chẳng thể buông xuống những cái
rương nhỏ ấy”. Con cái ngay lập tức làm những giải niêm phong, đem ấn chương của vị lăo
cư sĩ ấy đóng lên, dán các giải niêm phong lên những cái
rương nhỏ đó,
thưa với vị lăo cư sĩ: “Cha ơi! Cha phải
sanh về Tây Phương nhanh lên nhé! Trên những cái
rương này của cha đều viết là đă niêm phong vào tháng đó,
năm đó, người nào cũng đều chẳng thể
động đến được!” Vị lăo cư
sĩ ấy mới nhắm mắt, thở hắt ra một
hơi rồi qua đời. Con cái đều rất hoan hỷ,
v́ con cái đều hiểu Phật pháp, do giúp cha trợ niệm,
cha nhất định sanh về Tây Phương.
Chúng ta hăy nghiên cứu
sâu hơn một bước nữa: Vị lăo cư sĩ ấy
có sanh về Tây Phương hay không? B́nh thời, ông ta sống
rất đạm bạc. Đấy chính là thấy thấu
suốt, nhưng chẳng buông xuống tiền bạc
được! Nếu buông xuống, lúc b́nh thời [đối với số bạc]
chẳng dùng đến, phải
nên đem làm công đức bố thí hết, tới khi lâm
chung, sẽ chẳng bị vướng mắc, trở ngại,
nhất định sẽ có thể sanh về Tây
Phương. Khi lâm chung, ông ta chẳng thể nói năng, mắt
vẫn cứ nh́n đi ngó lại những cái rương ấy.
Con cái ông ta niêm phong rương, đóng ấn chương lên, ông ta mới nhắm mắt.
Có thể thấy là ông ta chẳng buông tiền bạc xuống
được, vướng mắc đầy bụng, làm
sao có thể sanh về Tây Phương cho nổi?
Đấy chính
là trong đường nhân thiên của thế giới Sa Bà,
những thứ bảy báu ấy chẳng phải là thứ
thanh tịnh, chúng nhuốm bẩn tự tánh của chúng ta, nhuốm bẩn
dữ dội! Thật ra, không chỉ là tiền bạc nhuốm
bẩn con người, mà mỗi thứ ham mê đều có
thể ô nhiễm con người, khiến cho quư vị trầm
trệ, khiến cho quư vị chẳng sanh về Tây
Phương. Chẳng hạn như quư vị học Phật
đă rất nhiều năm, điều ǵ cũng đều
thấy thấu suốt, đáng lẽ phải ăn chay
trường, cớ sao c̣n phạm giới uống rượu?
Đấy là một thứ ham mê, quư vị ngỡ chuyện
này chẳng có ǵ đáng kể, kẻ uống rượu
trong xă hội cả đống, nhưng đối với chuyện sanh về Tây Phương,
nó trở thành vấn đề. V́ quư vị có một thứ
tham đắm, c̣n có một thứ ô nhiễm. Nếu đến
khi lâm chung, hăy c̣n có ư niệm muốn uống hai chén rượu;
như vậy là đă bị một chút ham mê gây trở ngại,
chẳng sanh về Tây Phương được! Nghĩ
sâu hơn chút nữa: Quư vị chỉ cần có một thứ
ham mê, chẳng hạn như không cai thuốc lá được.
Tới khi mạng chung, sắp sanh về Tây Phương, A
Di Đà Phật đến tiếp dẫn quư vị,
cơn ghiền thuốc nổi lên, [Phật và chư thánh] có
thể đợi cho quư vị hút xong một điếu
thuốc rồi mới sanh về Tây Phương hay không?
Đấy là lời nói đùa, thật ra, đúng là một vướng
mắc! V́ thế, đừng nên tham cầu niềm vui
ngũ dục trong thế giới Sa Bà.
* Giải trừ nghi hoặc
Hỏi: Có kẻ
chẳng nương theo Phật Thích Ca và Thiên Thân Bồ Tát
làm thầy, mà noi theo sự hướng dẫn của cái
tâm vọng tưởng. Kẻ ấy thấy kinh Vô Lượng
Thọ nói các thứ trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới đều do bảy báu thành tựu. Lại
thấy kinh A Di Đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật
cũng nói như vậy, bèn cho rằng: Ở trong thế
giới Sa Bà, chúng ta dấy động tâm tham, sanh phiền
năo. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới
toàn là bảy báu, chẳng phải là đă dẫn dụ
chúng ta sanh tâm tham, sanh phiền năo càng dữ dội hơn,
làm sao có thể thành Phật cho được? V́ thế,
người ta đừng nên sanh về Tây Phương. V́ hễ
sanh về Tây Phương, [bảy báu[ sẽ làm hại họ,
dẫn khởi sanh ra tâm tham!
Đáp: Đấy chính là tự ngỡ chính ḿnh thông minh, tưởng là trí huệ của chính ḿnh cao minh
hơn Phật Thích Ca và Thiên Thân Bồ Tát! Kẻ ấy chẳng
hiểu Tây Phương Cực Lạc thế giới bảy
báu trang nghiêm được thành tựu bởi công đức thanh tịnh, sẽ
chẳng ô nhiễm con người. Bảy báu trong thế
giới Sa Bà là thứ chẳng thanh tịnh, sẽ ô nhiễm
con người, giống như vị lăo cư sĩ tôi vừa mới
nhắc đến, chẳng buông tiền bạc xuống
được. V́ thế giới Sa Bà quá ít vàng ṛng, ông ta mới
chấp trước. Hễ chấp trước, sẽ chẳng buông xuống được, sẽ càng
ngày càng tham, càng ngày càng chấp trước. Sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, toàn là bảy
báu, đại địa toàn là vàng ṛng, giống như xi-măng
(cement) trong hiện tại, ai cũng chẳng đem cement bỏ
vào rương khóa lại, v́ cement chẳng đáng giá, chẳng
phải là thứ hiếm thấy. Đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, vàng, bạc, lưu
ly, pha lê v.v… là những vật liệu để xây dựng
nhà ở, giống như gỗ, ngói ở nơi đây. Do v́
bảy báu rất nhiều, không chỉ là chẳng tăng
thêm tâm tham, mà c̣n sẽ trừ bỏ cái tâm tham nơi thế
giới Sa Bà, bởi chẳng cần phải tham. Đấy
là phương pháp vi diệu nhất để đoạn
trừ tham phiền năo.
Ba tư
lương trong pháp môn Tịnh Độ là Tín, Nguyện, Hạnh.
Thứ nhất là phải tin, thứ hai là phải phát nguyện,
thứ ba là phải tu hành. Tín là chẳng nghi. Hễ sanh nghi
hoặc, tức là chẳng tin. Nếu quư vị có nỗi nghi
hoặc ấy, hôm nay nghe tôi nói, hăy nên phá trừ nghi hoặc,
sanh khởi tín tâm. Tây Phương Cực Lạc thế giới
bảy báu trang nghiêm sẽ chẳng dẫn khởi cái tâm
tham của quư vị. Đó là diệu dụng của A Di
Đà Phật, đúng là diệu pháp để trừ khử
cái tâm tham của chúng ta.
Mười bảy
loại trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế
giới, loại thứ nhất là tổng trang nghiêm, tức
tướng thành tựu, giống như chúng ta đến
giảng đường của Chí Liên tinh xá, cảm giác thật
sự thanh tịnh.
4.1.4.1.2. Trang nghiêm lượng công đức thành tựu
(Luận) Cứu cánh như
hư không, quảng đại vô biên tế.
(論)究竟如虛空,廣大無邊際。
(Luận:
Rốt ráo như hư không, rộng lớn không ngằn mé).
Đây là loại
thứ hai, tán thán sự trang nghiêm về lượng. Tây
Phương Cực Lạc thế giới là thế giới
to cỡ nào? “Cứu cánh như
hư không, quảng đại vô biên tế” (Rốt ráo
như hư không, rộng lớn không ngằn mé). Thật sự
giống như hư không, hư không chẳng t́m thấy ngằn mé, Tây
Phương Cực Lạc thế giới cũng chẳng
t́m thấy ngằn mé. Chúng sanh trong mười phương
thế giới chỉ cần phát nguyện sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, bất luận
bao nhiêu chúng sanh đều có thể sanh về. V́ quốc
độ ấy chẳng có kích thước, không có cách nào tính
toán nó rộng bao nhiêu cây số, cơi ấy vô lượng vô
biên như hư không; chỉ
cần quư vị phát nguyện sanh về đó, cơi ấy
đều có thể dung nạp.
Tôi bế quan tại
chùa Bảo Thông thuộc Hồng Sơn, huyện Vũ Xương
(tỉnh Hồ Bắc) bên Đại Lục. Phía sau quan
pḥng có một cái sân nhỏ để thoáng
khí. Khi tôi ở ngoài sân, thường nghe thấy bên ngoài có
một người đang ca hát, chẳng biết là ai
đang ca hát? Chẳng biết hát bài ǵ? Tường vây quanh
sân chẳng cao, tôi bèn bắc ghế t́m thử, trông thấy
một vị sư phụ xuất gia. Ngôi chùa ấy có một
đám trâu phóng sanh giao cho vị ấy trông nom,
[vị ấy] được gọi là Ngưu Đầu
Sư. Ông ta dắt trâu lên núi, thả cho trâu ăn cỏ, không có chuyện ǵ bèn ca hát. Tôi gọi
ông ta: “Sư phụ ơi! Thầy đang hát bài ǵ vậy?”
“Tôi hát lung tung đó mà”. “Thầy hát lung tung, sao có thể hát
thành công đức ǵ cho được? V́ sao thầy không
niệm A Di Đà Phật, trong tương lai có thể sanh
về Tây Phương Cực Lạc thế giới liễu
sanh thoát tử, chẳng uổng phí công sức xuất gia một
phen? V́ sao cứ phải ca hát loạn cào cào?” Ông
ta biết tôi là pháp sư bế quan, bèn đáp ứng:
“Được rồi!”
Ngày hôm sau, tôi vẫn
nghe thấy ông ta ca hát, trong tâm tôi không
buông xuống được, lại bắc ghế ḍm xem, tôi nói: “Ngưu Đầu Sư, hôm
qua tôi khuyên thầy niệm Phật, đừng nên ca hát, cớ
sao thầy vẫn ca hát?” Hôm qua ông ta nói “được”, v́
tôi là pháp sư, ông ta chẳng muốn cùng tôi biện luận.
Hôm nay, tôi lại khuyên ổng, ổng nổi
cáu: “Sanh hết về Tây Phương th́ chỗ đâu mà ngồi?”
(khi ấy, thính chúng cười
ầm lên). Tôi lại khuyên ông ta: “Đấy là do thầy tự ḿnh phân biệt! Tây Phương Cực Lạc thế giới là cảnh
giới chẳng thể nghĩ bàn, đó là do vô lượng
công đức của A Di Đà Phật thành tựu, chẳng
thể giống như thầy nghĩ là không dung nạp
được! Thầy chẳng sanh về, làm sao biết [cơi
ấy] sẽ chẳng dung nạp được? Thầy
hăy thử niệm A Di Đà Phật trước xem. Thầy
sanh về Tây Phương, nhất định là có chỗ ổn
thỏa cho thầy. Thầy vẫn nên gắng niệm Phật
đi”. Dường như ông ta chẳng muốn biện luận
với tôi, bèn đáp: “Được! Được!” Ngày
thứ ba, chẳng c̣n nghe ông ta ca hát nữa. Đại khái
là ông ta vẫn chẳng chấp nhận lời tôi nói, đi
qua chỗ khác để ca hát.
Ở đây, Thiên
Thân Bồ Tát tán thán Tây Phương Cực Lạc thế
giới giống như hư không, là quốc độ
được thành tựu bởi công đức chẳng
thể nghĩ bàn của A Di Đà Phật. Nhân chẳng thể
nghĩ bàn, quả cũng chẳng thể nghĩ bàn, lũ
phàm phu chúng ta chẳng thể suy tưởng nổi. Đấy
là “rộng lớn, không ngằn
mé”. Chúng sanh trong mười phương thế giới
sanh về, cơi ấy đều có thể dung nạp!
4.1.4.1.3. Trang nghiêm tánh công đức thành tựu
(Luận) Chánh đạo
đại từ
bi, xuất thế thiện căn sanh.
(論)正道大慈悲,出世善根生。
(Luận: Chánh đạo
đại từ bi, sanh thiện
căn xuất thế).
Đây là loại
thứ ba, tán thán tánh trang nghiêm. “Tánh”
là tự tánh, đây là nói Tây Phương Cực Lạc thế
giới được thành tựu như thế nào? Tây Phương
Cực Lạc thế giới được thành tựu bởi
“chánh đạo đại từ bi, xuất thế thiện căn sanh”. Do vậy, thể tánh của Tây Phương Cực
Lạc thế giới là chủng tánh Đại Thừa.
Trước hết,
giải thích hai chữ “chánh
đạo”. Chẳng tà, chẳng lệch, th́ gọi là
Chánh Đạo. Trong phần trên, tôi đă thưa cùng quư vị,
thánh nhân và phàm phu chia thành tổng cộng mười pháp giới.
Đạo được hành bởi lục đạo
phàm phu gọi là “tà đạo”. Thánh nhân Tiểu Thừa, tức
Thanh Văn, Duyên Giác, tu đạo chẳng tà, nhưng thiên
về tự lợi, cho nên là “thiên
đạo” (偏道, đạo thiên vị, lệch lạc). Phật, Bồ
Tát là thánh nhân Đại Thừa, tu đạo trung gian, tức
là chánh đạo. Nhân là Bồ Tát, quả là Phật. “Chánh đạo” là chẳng tà
nơi lục đạo, mà cũng chẳng lệch lạc
nơi Nhị Thừa.
Đạo tu bởi lục
đạo phàm phu th́ chúng sanh trong ba ác đạo
đă tạo ác nghiệp, phải chịu khổ. Chúng sanh
trong ba thiện đạo tu hữu lậu thiện nghiệp,
đối với những thiện pháp đă tu đều
chấp tướng. Do vậy, thiện pháp do lục đạo
phàm phu tu tập đều là tà, chẳng chánh, chẳng ra
khỏi tam giới, chẳng thoát khỏi luân hồi! Hàng Nhị
Thừa vượt thoát tam giới, thoát khỏi luân hồi,
chỉ biết tự lợi, chẳng chịu tạo lợi
ích cho chúng sanh, họ chứng đắc Thiên Không Niết
Bàn, chẳng thể phát sanh công đức Diệu Hữu,
chẳng thể lợi ích chúng sanh. V́ thế, họ chẳng
tà, nhưng lệch lạc. Chánh đạo Đại Thừa
coi lợi tha là tự lợi. Khi lợi ích chúng sanh, chính
ḿnh đă đạt được lợi ích. Chẳng hạn
như hành bố thí, dùng pháp để bố thí là tốt
nhất. Quư vị phát tâm giảng kinh, thuyết pháp cho chúng
sanh nghe, nhất định là chính ḿnh trước hết
phải nghiên cứu, mục đích là tạo lợi ích cho
người khác, trên thực tế, chính ḿnh đă đạt
được lợi ích trước. Đạo lư khẩn
yếu nhất ở đây là chớ nên chấp tướng.
Hễ chấp tướng, sẽ sai lầm. Chúng ta độ
chúng sanh, phải phát tâm giảng kinh, thuyết pháp. Hễ
quư vị chấp trước, tất cả công đức
giảng kinh, hoằng pháp thanh tịnh đều biến
thành công đức hữu lậu, tức là rơi vào phía
tà của phàm phu. Nhưng quư vị bỗng dưng phát đạo
tâm, chính ḿnh mong liễu sanh thoát tử, bèn đóng cửa tu
hành, muốn xa ĺa hết thảy chúng sanh, chẳng muốn
lợi ích chúng sanh nữa, th́ lại lệch về Nhị
Thừa mất rồi! Do đó, người học Phật
rất nhiều, người đạt được lợi
ích nơi Đại Thừa rất ít, [bởi lẽ], suốt
ngày từ sáng đến tối bận bịu gây tạo lợi ích cho chúng sanh, nhưng đều là thực
hiện công đức hữu lậu của phàm phu, chẳng
phải là rơi vào tà của phàm phu lục đạo, th́
cũng là lệch về Nhị Thừa. Chẳng đi theo
chánh đạo Đại Thừa, làm sao có thể thành Phật
cho được? V́ thế, A Di Đà Phật thành tựu
Tây Phương Cực Lạc thế giới, lợi ích hết
thảy chúng sanh mà chẳng chấp tướng, Ngài đi
theo chánh đạo.
“Chánh đạo đại từ bi”: “Từ bi”
th́ Từ là có thể ban vui, Bi là có thể dẹp khổ.
Ban sự vui sướng cho chúng sanh th́ là từ tâm; dẹp
trừ nỗi khổ năo cho chúng sanh th́ là bi tâm. Cái tâm ấy
giống như cha mẹ thương con đau đáu. Con
cái chẳng vui sướng, [cha mẹ] nhất định
sẽ ban cho con sự vui sướng, sẽ cho con cái ăn
ngon. Thấy con cái ăn rất vui vẻ, cha mẹ cũng
rất hoan hỷ. Sự vui sướng của con cái là do
cha mẹ ban cho, đấy gọi là Từ Tâm. Con cái sanh bệnh,
cha mẹ ngay lập tức kiếm bác sĩ, cho con uống
thuốc, dẹp trừ nỗi đau khổ cho con. Đó
là Bi Tâm.
Nhưng cha mẹ
ban vui, dẹp khổ, chẳng thể ban cho niềm vui xuất
thế, chẳng thể dẹp nỗi khổ sanh tử
luân hồi. V́ thế, ḷng từ bi của cha mẹ chẳng
phải là là ḷng từ bi của Phật. Ḷng từ bi của
Phật th́ “ban vui” sẽ là ban cho niềm vui xuất thế gian, niềm
vui Bồ Đề, niềm vui Niết Bàn, khiến cho hết
thảy chúng sanh đều thành Phật. Dẹp khổ th́
sẽ dẹp trừ hết thảy phiền năo của
chúng sanh, khiến cho họ vượt thoát tam giới,
thoát khỏi luân hồi. Dẹp trừ nỗi khổ Phần
Đoạn sanh tử trong tam giới, dẹp trừ nỗi
khổ Biến Dịch sanh tử ngoài tam giới, đấy
mới là ḷng từ bi của Phật. Ḷng từ bi của cha mẹ chỉ là đau đáu yêu thương con cái của chính ḿnh,
chẳng thể đau đáu yêu thương con cái của
kẻ khác, chỉ có thể biểu lộ ḷng từ bi theo pháp
thế gian, chẳng biết pháp xuất thế gian. Do đó, ḷng từ
bi của cha mẹ có tâm lượng quá nhỏ, chẳng thể
gọi là đại từ bi!
Đại từ
bi là không chỉ ban cho niềm vui thế gian, dẹp trừ
nỗi khổ thế gian, mà c̣n phải ban cho niềm vui xuất
thế gian, phải dẹp trừ sanh tử ở ngoài tam
giới, lại c̣n chẳng phải là v́ quyến thuộc
của một cá nhân, mà là ban vui cho hết thảy chúng sanh,
dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh. Đấy mới
là đại từ bi.
Theo Phật lư, từ
bi sẽ do mức độ
sâu hay cạn khác nhau, mà có ba loại:
1) Chúng Sanh Duyên Từ
Bi (眾生緣慈悲): Tức
là khuếch đại cái tâm yêu thương con cái của
cha mẹ. Đối với hết thảy chúng sanh, hễ
người già th́ ta đều coi họ như cha mẹ của
chính ḿnh. Kẻ tuổi tác không sai khác chúng ta cho mấy, coi họ
là anh chị em của ta. Kẻ trẻ tuổi hơn chúng
ta, ta coi họ như con cái của chính ḿnh. Khuếch đại
cái tâm từ bi đối với người nhà quyến
thuộc của chính ḿnh, coi hết thảy chúng sanh đều
là người nhà quyến thuộc của chính ḿnh. Đấy
là Chúng Sanh Duyên Từ Bi, v́ chúng sanh đều sanh tử
luân hồi trong lục đạo. Đời này có cha mẹ,
anh em trai, chị em gái của ta trong đời này. Đời
trước cũng có cha mẹ, anh em trai, chị em gái và
con cái của ta trong đời trước;
đời trước nữa cũng thế. Sống sống,
chết chết như thế, trong cái nh́n của đức
Phật, mọi người đây kia đều đă từng
là người nhà, quyến thuộc. Quư vị suy nghĩ
như vậy, ta muốn ban vui, hăy ban vui cho hết thảy
chúng sanh. Ta muốn dẹp khổ th́ dẹp khổ cho hết
thảy chúng sanh. Đấy là Chúng Sanh Duyên Từ Bi. Đệ
tử Phật sơ phát tâm đều là phàm phu, quán tưởng
như vậy, dùng ḷng từ bi như vậy để
độ chúng sanh th́ là Chúng Sanh Duyên Từ Bi.
2) Pháp Duyên Từ
Bi (法緣慈悲): Hàng Nhị
Thừa chứng đắc Ngă Không, Bồ Tát chứng
đắc Pháp Không. Bồ Tát hiểu hết thảy các
pháp đều là Không, thoát ly hết thảy các khổ, thương
xót hết thảy chúng sanh, nương theo lư Pháp Không để
độ chúng sanh, nhưng chẳng chấp trước
tướng chúng sanh, th́ gọi là Pháp Duyên Từ Bi.
3) Vô Duyên Từ
Bi (無緣慈悲): Đức
Phật tùy ư tự nhiên có một loại từ bi, chẳng
hạn như: “Hồng chung tại
giá, hữu khấu tắc minh” (Hồng
chung treo trên giá, hễ đánh bèn kêu). Ví như ở đại
điện của chùa miếu có treo một quả hồng
chung, quư vị gơ nhẹ, nó sẽ kêu khẽ, gơ mạnh bèn kêu to. Sức gơ nhỏ th́ âm thanh nhỏ,
sức gơ mạnh th́ âm thanh to, nhưng chuông trọn chẳng
động niệm, nghĩ sẽ ban cho quư vị
tiếng nhỏ, hay ban cho tiếng lớn. Nó tự nhiên có
thể phát ra âm thanh; đó gọi là Vô Duyên. Đức Phật
là như thế đó, Ngài chẳng động niệm “ban cho
quư vị một niềm vui, dẹp một nỗi khổ
cho quư vị”, nhưng chỉ cần quư vị thân cận Phật,
tự nhiên sẽ được lợi ích “ban vui,
dẹp khổ”. Đó gọi là Vô Duyên Từ Bi.
Hàng Sơ Phát Tâm
Bồ Tát chúng ta đều là phàm phu; chúng ta mong lợi ích
chúng sanh, đó là Chúng Sanh Duyên Từ Bi, nhưng nhất
định phải quán tưởng Pháp Duyên Từ Bi và Vô Duyên
Từ Bi. Nay chúng ta chẳng chứng Pháp Không của Bồ
Tát, mà cũng chưa thành Phật, nhất định phải
hướng theo đó mà dụng công. Quư vị chẳng hiểu đạo
lư Pháp Không và Vô Duyên, chỉ dùng Chúng Sanh Duyên Từ Bi, kết
pháp duyên chẳng thanh tịnh với chúng sanh, sẽ sanh ra
ái kiến phiền năo. Như tôi vừa mới nói, “chúng ta lợi
ích chúng sanh chớ nên chấp tướng”. Đấy
gọi là “chánh đạo đại
từ bi”. Khi quư
vị từ bi với chúng sanh, ban vui, dẹp khổ, quư vị
chẳng biết đạo lư Pháp Không và Vô Duyên, hễ quư vị chấp tướng bèn dấy tâm tham ái.
Chúng sanh này có duyên với quư vị, tiếp nhận sự hóa độ của
quư vị, quư vị cảm thấy chúng sanh ấy
tốt lắm, bèn tham ái kẻ đó, dấy lên một thứ
tri kiến gọi là “ái kiến”,
tăng thêm ái kiến phiền năo. Kẻ kia chẳng nghe quư
vị giáo hóa, quư vị bèn sanh ḷng ghét bỏ, căm hận. Kết quả là chẳng đáng nên tham mà lại
tham, chẳng đáng nên sân mà lại sân. Quư vị chẳng
quán Không, nên sanh ngu si. Chúng ta vốn lợi ích chúng sanh, tức
là ban vui, dẹp khổ, kết quả là chẳng dẹp
trừ phiền năo của chính ḿnh, từ ái kiến phiền năo mà sanh ra sân, từ sân
mà sanh ra si. Tham, sân, si phát sanh, v́ độ chúng sanh mà tăng
thêm những phiền năo mới. Do vậy, phải từ
bi, nhưng đừng nên chấp tướng, hiểu đạo
lư Pháp Duyên Từ Bi th́ sẽ là Pháp Không, hiểu đạo
lư Vô Duyên Từ Bi th́ đừng nên dấy động cái
tâm duyên lự.
“Chánh đạo đại từ
bi, xuất thế thiện căn sanh”: Trong lúc tu nhân, A Di Đà Phật hành Bồ Tát đạo,
đấy là chánh đạo, lợi ích chúng sanh, nhưng chẳng
chấp tướng, chẳng lệch về phàm phu, chẳng
lệch về Nhị Thừa. Đi theo chánh đạo là
đạo Đại Thừa, tức là Pháp Duyên Từ và
Vô Duyên Từ. Tuy Từ có thể ban vui, Bi là có thể dẹp
khổ, nhưng chẳng chấp tướng; đấy
chính là thiện căn xuất thế. Nếu không, hễ chấp
tướng, công đức sẽ biến thành hữu lậu,
rơi vào pháp thế gian. Từ thiện căn xuất thế
gian, sanh ra Tây Phương Cực Lạc thế giới; do
đó, bản tánh của Tây Phương Cực Lạc thế
giới là chánh đạo đại từ bi, là tâm thiện
căn xuất thế.
4.1.4.1.4. Trang nghiêm h́nh tướng công đức
thành tựu
(Luận) Tịnh quang
minh măn túc, như kính nhật nguyệt luân.
(論)淨光明滿足,如鏡日月輪。
(Luận: Quang minh sạch
trọn đủ, như gương, vầng nhật nguyệt).
Đây là loại
thứ tư, tán thán sự trang nghiêm nơi h́nh tướng,
ư nói diện mạo bên ngoài của Tây Phương Cực Lạc
thế giới là như thế nào? “Tịnh quang minh măn túc”: Quang minh thanh tịnh sung
măn trọn đủ, đầy khắp
thế giới đều là quang minh thanh tịnh, nhưng
chúng ta chẳng thấy, [cho nên] có thể
dùng tỷ dụ
[để dễ h́nh dung hơn]. “Như kính, nhật,
nguyệt luân” (như gương, như mặt trời, mặt trăng): “Như” là giống
như. Quang minh thanh tịnh trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới giống như gương, vầng mặt
trời, vầng mặt trăng trong thế giới Sa Bà.
Thật ra, gương trong thế giới Sa Bà chẳng
thanh tịnh bằng sự thanh tịnh của Tây Phương Cực Lạc thế giới, vầng
mặt trời, mặt trăng trong thế giới Sa Bà đều
chẳng bằng quang minh thanh tịnh của Tây
Phương Cực Lạc thế giới. V́ sao biết là
chẳng sánh bằng? V́ trong phần trước, đă có một
câu tán thán chung: “Quán bỉ thế
giới tướng, thắng quá tam giới đạo”
(Quán tướng thế giới ấy, vượt trỗi
tam giới đạo). Tướng công đức thanh tịnh
của Tây Phương Cực Lạc thế giới vượt
trỗi thế giới Sa Bà. Tỷ dụ này khiến cho
chúng ta biết Tây Phương Cực Lạc thế giới
trọn đủ quang minh thanh tịnh.
4.1.4.1.5. Trang nghiêm các thứ sự công đức
thành tựu
(Luận) Bị chư
trân bảo tánh, cụ túc diệu trang nghiêm.
(論)備諸珍寶性,具足妙莊嚴。
(Luận: Đủ
tánh các trân bảo, đầy đủ diệu trang nghiêm).
Đây là loại
thứ năm, tán thán các thứ trang nghiêm nơi Sự. “Bị chư trân bảo tánh” (đầy đủ tánh chất
của các thứ trân bảo): “Bị” (備) là đầy đủ, “chư” (諸) là rất nhiều, công đức kiểu nào cũng đều có. Trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới, hết thảy các món quư báu không ǵ chẳng
trọn đủ. Chẳng hạn như trong kinh Di Đà nói
bảy báu, tức vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ,
xích châu, mă năo, chính là thuận theo những thứ mà mọi
người trong thế giới Sa Bà đều biết. Thật
ra, Tây Phương Cực Lạc thế giới có vô lượng
món trân bảo. “Cụ túc diệu
trang nghiêm” (Trang nghiêm mầu nhiệm trọn đủ): Trân bảo
là những vật phẩm trang hoàng, hết thảy các vật
trang nghiêm đều do trân bảo hợp thành. Tây
Phương Cực Lạc thế giới, bất luận
là cỏ trên mặt đất, cây bên đường, lầu
gác, ao hoa sen, thảy đều là do các món trân bảo thành tựu.
“Diệu” (妙) là chẳng thể nghĩ bàn. Tây
Phương Cực Lạc thế giới trọn đủ
các thứ trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn!
“Bị chư trân bảo tánh” (trọn đủ
tánh trân bảo): Chữ Tánh (性) rất quan trọng. Cớ sao Tây
Phương Cực Lạc thế giới có trân bảo nhiều
ngần ấy? “Tánh” là “vốn
có”. Bản tánh của Tây Phương Cực Lạc thế
giới trọn đủ trân bảo, cho nên mới có thể
có trân bảo nhiều ngần ấy. Bản tánh do A Di
Đà Phật chứng đắc, nơi phía chúng sanh chúng
ta th́ gọi là Phật Tánh, nơi hết thảy các pháp th́
gọi là Pháp Tánh. Tánh được chứng đắc
khi thành Phật th́ gọi là Niết Bàn. Tức là Ngài đă
chứng đắc diệu tánh Niết Bàn, trong ấy, tự
nhiên trọn đủ vô lượng trân bảo. Niết
Bàn (Nirvāṇa) là tiếng Phạn, dịch sang
tiếng Hán, dịch theo lối cũ (trước thời ngài Huyền
Trang) là Tịch Diệt (寂滅), dịch
theo lối mới là Viên Tịch (圓寂).
Tịch Diệt
có nghĩa là tịch tĩnh. Không chỉ là hết thảy
các pháp hữu vi là tịch tĩnh, ngay cả pháp vô vi
cũng tịch tĩnh th́ mới gọi là Niết Bàn. Chúng
sanh từ vô thỉ kiếp tới nay, một mực luân hồi
trong lục đạo, lưu chuyển sanh tử. Tịch
Diệt nghĩa là diệt trừ nỗi khổ sanh tử,
đấy là cách giải thích theo Niết Bàn chứng đắc bởi
hàng Tiểu Thừa, tức là Niết
Bàn chứng đắc bởi Tứ Quả A La Hán. Cho
đến khi quả báo của người ấy đă tận,
người ấy nhập Niết Bàn, sẽ “hôi thân mẫn trí” (灰身泯智). “Hôi
thân” (Thân hóa
thành tro) là chẳng cần thân thể nữa, dùng lửa
tam-muội thiêu thân thể thành tro. “Mẫn trí”: “Mẫn”
là “mẫn diệt” (泯滅, diệt mất), [“mẫn
trí” là] trí huệ cũng chẳng
cần, dùng Diệt Tận Định để diệt trừ nó, tức là từ đấy trở đi, chẳng
c̣n thọ thân hậu hữu (thân trong đời sau), chẳng
c̣n thọ sanh trong tam giới nữa, bèn gọi
là Tịch Diệt. Do Niết Bàn chứng đắc bởi
hàng Tiểu Thừa có nghĩa là Tịch Diệt, hết thảy
các pháp hữu vi và pháp vô vi thảy đều vắng lặng,
hết thảy sanh tử đều diệt trừ. Khi ấy,
bèn “hôi thân, mẫn trí”, trong
thế giới chẳng có chúng sanh ấy nữa. Họ chứng
đắc Thiên Không Niết Bàn, trọn đủ công đức th́ là tịch
diệt.
Đại Thừa
Niết Bàn viên tịch, Viên là viên măn, Tịch là tịch diệt.
Dịch theo lối cũ [th́ Niết Bàn] được dịch
là Tịch Diệt, chỉ có Tịch, chẳng có ư nghĩa
Viên. “Viên Tịch, đức vô
bất bị, viết Viên; chướng vô bất tận,
viết Tịch” (Viên Tịch: Không đức nào chẳng
đủ là Viên, không chướng nào chẳng tận là Tịch).
“Đức vô bất bị”:
Hết thảy công đức đều viên măn th́ gọi
là Viên. “Chướng vô
bất tận”: Hết thảy các chướng ngại chia thành hai
loại lớn, tức là Phiền
Năo Chướng và Sở Tri Chướng thảy đều
đoạn hết, th́ gọi là Tịch. Như thế bèn
chứng đắc Đại Thừa Niết Bàn. Niết
Bàn do Đại Thừa chứng đắc trọn đủ
hết thảy công đức; nói tổng quát th́ có ba đức:
1) Pháp Thân Đức:
Phật chứng đắc Niết Bàn, thành Pháp Thân Phật.
Pháp Thân Phật tức là lấy tánh của hết thảy
các pháp làm thân. Cái được Pháp Tánh thành tựu chính là Lư
Thể. Hết thảy các pháp đều có một chân lư. Hết
thảy các pháp là tướng sai biệt, nhưng chân lư chẳng
hai! Chứng đắc chân lư duy nhất, sẽ chứng
đắc bản tánh của hết thảy các pháp. Khi ấy
bèn chứng đắc Pháp Thân. Đại Thừa Niết
Bàn trọn đủ Pháp Thân Đức.
2) Bát Nhă
Đức: Bát Nhă (Prajñā) dịch sang tiếng Hán là trí huệ. Hàng Tiểu
Thừa chứng đắc trí huệ, họ nhập Niết
Bàn “mẫn diệt” bèn chẳng cần [đến trí huệ
ấy] nữa. Trong Đại Thừa Niết Bàn vốn trọn
đủ trí huệ Bát Nhă, có thể như thật liễu tri tướng của
hết thảy các pháp. Đối với lư Chân Như Thật
Tướng của các pháp tướng sai biệt đều
thấu hiểu rốt ráo viên măn, nên gọi là trí huệ
Bát Nhă.
3) Giải Thoát Đức:
Sau khi đă tự ḿnh giải ngộ chân lư, thoát khỏi hết
thảy sanh tử, th́ gọi là Giải
Thoát. Hàng Tiểu Thừa diệt trừ sanh tử,
bèn nhập Thiên Không Niết Bàn. Hàng Đại Thừa trừ
diệt sanh tử, xa ĺa hết thảy các phiền năo,
đạt được đại tự tại th́ gọi
là Giải Thoát Đức.
Pháp Thân Đức,
Bát Nhă Đức, và Giải Thoát Đức là ba thứ công
đức trọn đủ trong Đại Niết Bàn. Mỗi
loại công đức ấy đều trọn đủ
bốn đức Thường, Lạc, Ngă, Tịnh.
1) Thường
Đức: Nói theo Thể, quư vị chứng đắc bản
tánh Lư Thể của Đại Niết Bàn thường trụ
bất biến, tức là vĩnh hằng chẳng thay đổi,
chẳng c̣n sanh diệt nữa. Đấy là Thường.
Nói theo Dụng th́ tùy duyên hóa dụng, vĩnh viễn chẳng
ngưng dứt. Quư vị chứng đắc Đại Niết
Bàn thành Phật, trọn đủ lâu xa hết thảy các
công đức, có Thường Đức tùy duyên hóa độ
chẳng đoạn tuyệt.
2) Lạc Đức:
Nói theo Thể, sau khi quư vị đă thành Phật, chứng
đắc bản thể của Đại Niết Bàn là tịch
diệt, vĩnh viễn an ổn, chẳng c̣n sanh diệt nữa,
bèn có một loại Thiền lạc vĩnh viễn.
Nói theo Dụng, vị ấy giáo hóa chúng sanh, vận dụng
tự tại, việc làm thuận ḷng. Quư vị có thể ứng
cơ thuyết pháp, tùy loại giáo hóa hết thảy chúng sanh,
hành động đều vừa ḷng thỏa ư, đắc
một loại pháp lạc [như thế đó].
3) Ngă Đức:
Phàm phu chấp trước một cái Ngă. Ngă ắt cần
có một tự thể. Ngă ắt cần phải tự
ḿnh có thể làm chủ, có thể tự tại. Phàm phu chẳng
có tự thể, có ǵ để gọi
là Ngă? Bên ngoài có một thân thể, trong là một cái tâm, hợp lại th́ gọi là Ngă. Nhưng thân thể
là do Địa, Thủy, Hỏa, Phong giả hợp, chẳng
thể gọi là Ngă. Trong th́ có tâm vọng tưởng, tức
là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, bốn thứ tác dụng
hợp thành, cũng chẳng có một cái Thể
chân thật. Chính ḿnh chẳng thể làm chủ, chẳng
được tự tại, chẳng thể gọi là
Ngă. Quư vị chứng đắc bản thể Đại
Niết Bàn, là bản thể chân thật, mặc t́nh tự
tại, có phẩm đức tự tại, nên gọi là
Ngă.
4) Tịnh Đức:
Nói theo Thể, bản thể của Niết Bàn giải
thoát hết thảy cấu nhiễm, chẳng có pháp ô nhiễm;
v́ thế, bản thể là thanh tịnh. Nói theo Dụng, nó
tùy duyên giáo hóa hết thảy chúng sanh, độ chúng sanh mà
chẳng bị chúng sanh ô nhiễm. Do vậy, gọi là Tịnh
Đức.
Đấy là giải
thích theo lư luận, thuộc về thuật ngữ chuyên
môn, chẳng dễ hiểu cho lắm! Nêu một thí dụ
về chứng đắc Lư Thể của Niết Bàn là
như thế nào? Chúng tôi chỉ nói về Tịnh Đức,
giống như bản thể của vàng ṛng trong thế
gian có phẩm đức thanh tịnh, xa ĺa hết thảy
các ô nhiễm. Nói theo Dụng, nó tùy duyên mà chẳng bị
nhiễm duyên. Dùng vàng tạo thành tượng Phật th́ là
tịnh duyên, nó chẳng bị nhiễm bởi tịnh
duyên. Đem vàng chế thành ống nhổ th́ là nhiễm
duyên, vẫn chẳng bị nhiễm duyên nhuốm bẩn.
Nó chẳng bị nhiễm bởi tịnh duyên, mà cũng chẳng
bị nhiễm bởi sở duyên; do vậy, bản thể
của vàng ṛng có Tịnh Đức.
Niết Bàn có
đức thanh tịnh, chẳng bị ô nhiễm, giống
như Thích Ca Mâu Ni Phật giáng hạ nhân gian, thị hiện
tám tướng thành đạo. Ngài nhập thai trong bụng
phu nhân Ma Da, đó là chỗ nhơ bẩn nhất, nhưng Ngài
chẳng bị nhuốm bẩn. Trong tám tướng thành
đạo của Đại Thừa, có một tướng
là Trụ Thai. Ở trong bụng mẹ, Thích Ca Mâu Ni Phật
chẳng rảnh rỗi, vẫn là giống hệt như mở đạo tràng, chuyển pháp luân, độ
chúng sanh, v́ Niết Bàn do Ngài chứng đắc vốn có Tịnh Đức. Nói ra những công đức và
diệu dụng của Phật, nhằm bảo chúng ta hăy học
theo. Công đức của Phật cao ṿi vọi,
đều là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! V́
sao mà ở trong bụng mẹ vẫn chuyển pháp luân?
Trong tương lai, chúng ta thành Phật, cũng sẽ giống
như vậy, chúng ta phải học theo.
Dùng Bồ Tát làm
thí dụ, Lục Tổ đại sư sau khi được
Ngũ Tổ truyền y bát, v́ nhân duyên hoằng pháp c̣n chưa
chín muồi, Ngài ẩn thân trong đội thợ săn suốt
mười lăm năm. Thợ săn ở trên núi săn
dă thú và chim chóc, là nơi chốn tạo ác nghiệp,
nhưng Lục Tổ đại sư chẳng bị ô nhiễm.
Đấy là Ngài học theo Tịnh Đức của Phật.
Thợ săn th́ phải sát sanh, Lục Tổ ở trong
đội thợ săn, đương nhiên là bị giao
phó công việc sát sanh. Người ta bảo Ngài đi
săn cọp, sói, Ngài giả vờ chẳng biết
săn. Họ thấy Ngài vô dụng, sai Ngài trông lưới.
Bẫy chim chóc và các loài thú th́ phải dùng lưới. Chim
chóc đụng phải lưới, bị mắc lưới,
chẳng cần Ngài đến bắt. Động vật
sa vào lưới, Ngài báo cho họ biết là được
rồi. Nếu chẳng có thợ săn bên cạnh, Ngài liền
thả những con vật bị mắc lưới.
Người ta hỏi Ngài v́ sao suốt ngày chẳng có thu hoạch
ǵ? Ngài nói: “Động vật chẳng sa vào lưới, làm sao tôi bắt
nổi!” Ở trong ác nghiệp sát sanh ô nhiễm,
mà Ngài chẳng bị ô nhiễm. Ăn cơm th́ thợ
săn đều dùng thịt làm thức ăn, Ngài không
ăn thịt chúng sanh, tự ḿnh lên núi kiếm chút rau dại.
Người ta hỏi Ngài: “V́ sao không ăn thịt?” Ngài
nói: “Dạ dày của tôi chẳng tốt, ăn thịt sẽ bị
tiêu chảy”. Do đó, Ngài ăn rau bên cạnh thịt, vẫn
chẳng bị hoàn cảnh xấu hèn nhuốm bẩn.
Đấy chính là tâm gương khéo học đức Tịch
Tĩnh của Niết Bàn. Chúng ta học Phật chưa
được, trước hết hăy học theo tổ
sư, ở trong cảnh giới ô nhiễm mà chẳng bị
ô nhiễm, sẽ ứng hợp với Tịnh Đức
của Niết Bàn.
“Bị chư trân bảo tánh”: “Tánh” là tánh Niết Bàn. Thành Phật bèn chứng
đắc hai thứ quả, một là Bồ Đề quả,
hai là Niết Bàn quả. Bồ Đề quả tức là trí
huệ quả; Niết Bàn quả là lư tánh quả, thật
ra, vẫn là một quả! V́ sao thành Phật có hai quả?
Nói theo phương diện trí huệ, Ngài trọn đủ
hết thảy trí huệ, nên gọi là Bồ Đề quả.
Nói theo phương diện lư tánh, Ngài chứng đắc viên
măn Lư Thể của Niết Bàn, nên gọi là Niết Bàn quả.
“Tánh” trong “bị chư trân
bảo tánh” chính là nói tới Đại Niết Bàn của
Phật mà A Di Đà Phật đă chứng đắc, nó trọn
đủ hết thảy công đức, trọn đủ
hết thảy các thứ trân bảo trang nghiêm. Nơi Lư Thể
bèn trọn đủ hết thảy công đức, nên gọi
là “lư cụ” (理具, đầy đủ về Lư). Làm
thế nào để có thể chứng đắc Lư Thể
của Niết Bàn? Quư vị tu hành th́ gọi là Sự Tu (事修, tu nơi mặt Sự). Ai nấy đều có Phật
Tánh, tức là nói theo đạo lư, chứ trên sự thật,
chúng ta vẫn là phàm phu. Chẳng tu hành, hết thảy các
công đức sẽ chẳng thể hiện tiền. A Di Đà Phật
đối trước Thế Tự Tại Vương Phật, phát ra bốn mươi tám
đại nguyện, nương vào nguyện mà dẫn khởi
hạnh, dẫn khởi Hạnh Môn của Bồ Tát, tu hành
Lục Độ. Lục Độ triển khai rộng ra
sẽ là muôn loại Hạnh Môn, tức là vô lượng Hạnh Môn,
không điều thiện nào chẳng tu, tu trong vô lượng
A-tăng-kỳ kiếp. Lợi ích chúng sanh, kết quả là tự
lợi. Ngài tu viên măn công đức nơi sự
tướng, chứng đắc Niết Bàn, bản tánh trọn
đủ các thứ trang nghiêm.
Tịnh Độ
Tông của Phật giáo niệm A Di Đà Phật, cầu
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới; Gia Tô Giáo cầu
nguyện thượng đế, cầu sanh thiên quốc,
thoạt nghe th́ ư nghĩa chẳng sai khác cho mấy,
nhưng đạo lư khẩn yếu nhất trong ấy
khác nhau. Trong lư luận của Phật giáo, bất cứ đạo
lư nào cũng đều có nhân và quả. Nhân quả là tổng
cương (cương lănh
tổng quát) của mười hai bộ loại
trong Tam Tạng. Chẳng có nhân quả, sẽ không thể
thuyết pháp được. Nhất định phải là
nhân như thế nào th́ mới có thể đạt
được cái quả như thế ấy. Phàm phu là như
thế, mà thánh nhân cũng là như thế. V́ sao phàm phu
đọa vào ba ác đạo? V́ đă tạo cái nhân của
ác đạo. Quư vị tạo cái nhân địa ngục,
đọa vào địa ngục đạo. Tạo cái nhân
ngạ quỷ, đọa vào ngạ quỷ đạo. Tạo
cái nhân súc sanh, đọa vào súc sanh đạo. V́ sao quư vị
chuyển sanh trong ba thiện đạo? V́ quư vị đă tạo cái
nhân của ba thiện đạo. Quư vị tạo cái nhân
làm người, bèn chuyển vào nhân đạo. Quư vị tạo
cái nhân trời, sẽ chuyển vào thiên đạo. Quư vị
tạo cái nhân A Tu La, sẽ chuyển sanh trong A Tu La đạo.
Nhân như thế nào, đạt được cái quả
như thế ấy. Thánh nhân Phật giáo có bốn loại;
quư vị làm thế nào để trở thành hàng Tiểu Thừa,
tức là làm Thanh Văn, Duyên Giác? Quư vị tu cái nhân Tứ
Đế, Thập Nhị Nhân Duyên; tu
đạo Tiểu Thừa, sẽ đắc quả Tiểu
Thừa. Quư vị làm thế nào để thành Bồ Tát, thành
Phật? Quư vị tu cái nhân Đại Thừa, sẽ đắc
quả Đại Thừa. Nghiệp nhân quả báo là tổng
cương của hết thảy các pháp môn trong Phật
giáo. Đức Phật thành Phật, thuyết pháp vẫn là “có
nhân, có quả”.
Ở Ấn
Độ, có một thứ là Nhân Minh Học (因明學, Hetuvidyā), hiện thời gọi là La Tập
(logic). Thuở đó, Phật giáo đă từng mở hội biện luận với ngoại
đạo, có một quy tắc: Quư vị nói đạo lư
ǵ mà trên thế gian chẳng có, sẽ không nhắc tới.
V́ trong thế gian chẳng có, quư vị nói ra, làm sao có thể
[khiến cho] thính chúng tin tưởng nổi? Nói theo thế
gian th́ có nhân, có quả, v́ “trồng
dưa được dưa, trồng đậu được
đậu”. Ắt cần phải có nhân, có quả th́ đạo lư thế gian mới nói thông suốt
được, mới tiếp tục nói ra đạo lư xuất
thế gian. Nếu đạo lư thế gian nói không suông, chẳng
cho phép quư vị tiếp tục nói
đạo lư ấy. Thượng Đế được
nói trong Gia Tô Giáo là chánh báo, thiên quốc là y báo, y báo lẫn chánh
báo đều chẳng có nhân, chẳng có quả! Thượng
Đế từ đâu ra? Chẳng có cái nhân! Ông ta là chân thần,
quư vị chẳng được phép thắc
mắc. Y báo thiên quốc do đâu mà có? Do Thượng
Đế sáng tạo ra, chẳng cho phép quư vị thắc mắc.
Nhưng hễ biện luận th́ chẳng có pháp nào trong thế
gian là không có nhân mà sanh ra quả. Nói theo đạo lư thế gian chẳng suông, những ǵ quư vị đă nói chính là thần
thoại, chẳng có sự thật! Tịnh Độ Tông
có nhân, có quả, Tây Phương Cực Lạc thế giới
từ đâu ra? Do A Di Đà Phật trong vô lượng A-tăng-kỳ
kiếp, đă tu Lục Độ, vạn hạnh, vô
lượng công đức trang nghiêm. Chánh báo A Di Đà Phật
từ đâu mà có? Quá khứ Ngài là một vị quốc vương, xuất gia trước mặt
Thế Tự Tại Vương Như Lai, tên là tỳ-kheo
Pháp Tạng. Ngài phát ra bốn mươi tám đại nguyện
mà tu hành, nên mới thành tựu Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Chánh báo có nhân th́ mới có thể kết thành quả;
y báo cũng có nhân th́ mới có thể kết thành quả.
Lấy pháp thế
gian để sánh ví, hiện thời, [quư vị] mời tôi là Đạo
Nguyên đến giảng kinh, coi như pháp sư Đạo
Nguyên là pháp chủ. Pháp sư tôi đây
do đâu mà có? Tôi thoạt đầu xuất gia, chẳng
biết giảng kinh, thuyết pháp. Tôi theo học với
lăo pháp sư, học vài chục năm bèn học được, có nhân, có quả! Chí Liên tinh xá do đâu mà có? Giảng
đường này của Chí Liên tinh xá là do vợ chồng
Tào cư sĩ phát tâm. Nhà ông ta ở trên phố Nam Dương
đối diện trạm xe Đài Bắc. Vốn là trên lầu
bốn của nhà ông ta có mở giảng đường,
v́ chỉ có thể ngồi được ba mươi
người, không gian chẳng đủ lớn. Do vậy,
phát tâm dựng một cao ốc ở Trùng Khánh Nam Lộ,
thiết kế thành giảng đường gồm bốn
tầng lầu. V́ thế, mới có thể dung nạp
hơn một trăm người, chẳng phải là từ
trên trời rớt xuống, cũng chẳng phải là từ
dưới đất trồi lên. Đấy là nói hai chữ
Nhân Quả, có nhân th́ mới có thể chứng quả.
Lại nói đến
“Lư cụ, Sự tu”, lấy
chuyện Chí Liên tinh xá xây giảng đường để
làm tỷ dụ. Phát tâm muốn tạo giảng đường
cho pháp sư giảng kinh, dựa theo sự tướng
để nỗ lực tu. Kết quả, tạo thành một
giảng đường. Nói “lư
cụ” (lư sẵn đủ), tức là trong bản tánh của
nó đă có đầy đủ. “Lư
cụ” là trong đó ngầm ẩn công năng. Không chỉ
là bản tánh của vợ chồng Tào cư sĩ trọn
đủ giảng đường, mà mỗi cá nhân đều
có. Quư vị chẳng phát tâm, quư vị có năng tiềm ẩn,
nhưng chưa phát lộ. Do vậy chẳng tạo giảng
đường. Nếu quư vị phát tâm, cũng có thể
tạo một giảng đường. Nếu quư vị
phát tâm lớn, c̣n tạo giảng đường to hơn
giảng đường của Chí Liên tinh xá. Nếu quư vị
phát tâm giống như A Di Đà Phật, cũng có thể tạo
ra thế giới Cực Lạc. V́ mỗi người
chúng ta đều trọn đủ bản tánh Niết Bàn,
nó vốn đầy đủ vô lượng vô biên công
đức; đấy là nói theo Lư Thể. Quư vị và tôi
đều trọn đủ, nhân to cỡ nào, quả sẽ
to ngần ấy!
Đây là khuyên
chư vị phát tâm, trong bản tánh của quư vị có sẵn
đủ giảng đường, bất quá quư vị chẳng
phát tâm nơi sự tướng; cho nên chẳng tạo ra
giảng đường. Có người nói: “Tào tiên sinh có
tiền, chúng tôi chẳng có tiền”. Đấy chỉ là một
nguyên nhân. Kẻ có tiền rất nhiều, họ chẳng
tạo giảng đường, chẳng phải là hễ có tiền th́ sẽ có thể tạo giảng
đường. Quư vị phát tâm chánh đáng
th́ mới có thể tạo nên giảng đường. Lại
có người nói: “Tôi đă sớm phát tâm chánh đáng. Hễ
có tiền th́ tôi sẽ tạo giảng đường,
nhưng tôi đâu có tiền!” Điều đó cho thấy
quư vị đă phát tâm mà chẳng có sức; hễ có sức
th́ sẽ có thể măn nguyện. Quư vị phát tâm th́ Tam Bảo
sẽ gia bị quư vị, tín đồ sẽ giúp đỡ
quư vị, cũng có thể tạo giảng đường
giống như vậy.
Hiện thời,
chúng ta thấy người nghe kinh rất nhiều, giảng
đường ngồi không đủ chỗ; nhưng thành
phố Đài Bắc có hơn một trăm vạn người,
đây chỉ là một phần vạn. Những giảng
đường giống như giảng đường của
Chí Liên tinh xá có thêm mấy chục cái vẫn chẳng tính là
nhiều! Hy vọng mọi người đều phát tâm, nhất
định sẽ đều có thể măn nguyện, v́ bản
tánh của quư vị vốn sẵn có. Công đức của
thế giới Cực Lạc chúng ta đều trọn
đủ, huống hồ một giảng đường
ư? Quư vị chẳng có tiền, hăy liên lạc mọi
người để cùng nhau làm, cũng có thể măn nguyện
của quư vị. Chư vị có thể phát tâm v́ Tam Bảo
mà làm chuyện này, tôi sẽ được hưởng ké
[công đức] của quư vị,
Bây giờ quay lại
đề tài đang giảng, A Di Đà Phật phát tâm, muốn
tạo thành Tây Phương Cực Lạc thế giới,
khiến cho mỗi chúng sanh đến đó sẽ an tâm tu
đạo. Ngài phát tâm tu hành, đó là Sự tu (tu nơi mặt
Sự). Bản tánh của Ngài trọn đủ hết thảy
công đức, hết thảy trân bảo. “Bị chư trân bảo tánh, cụ túc diệu trang
nghiêm” ư nói: Tây Phương Cực Lạc thế giới
có trân bảo nhiều ngần ấy là do bản tánh Niết
Bàn đă trọn đủ.
4.1.4.1.6. Trang nghiêm diệu sắc công đức
thành tựu
(Luận) Vô cấu quang
diễm xí, minh tịnh diệu thế gian.
(論)無垢光燄熾,明淨曜世間。
(Luận:
Vô cấu quang hừng hực, sáng sạch rạng thế
gian).
Đây là loại
thứ sáu, tán thán sự trang nghiêm nơi diệu sắc.
Các thứ trân bảo hiện ra đức tướng của
chúng, đấy là diệu đức chẳng thể nghĩ
bàn. “Vô cấu quang diễm xí” (quang minh không nhơ chói rực sáng
ngời): “Vô cấu” là thanh
tịnh, “quang diễm” (光燄) là quang minh, “xí” (熾) là rất đông nhiều, rực rỡ. [Cả
câu có ư nói] quang minh thanh tịnh của các thứ trân bảo
rất nhiều, rất rực rỡ. “Minh tịnh diệu thế gian” (Sáng, sạch,
chói rạng thế gian): Chữ “thế
gian” [trong bài kệ này] là nói về Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Kinh Vô Lượng Thọ dịch
tên [quốc độ ấy] thành An Lạc Quốc. Quang
minh thanh tịnh chiếu rạng ngời cơi An Lạc.
4.1.4.1.7. Trang nghiêm xúc công đức thành tựu
(Luận) Bảo tánh công
đức thảo, nhu nhuyễn tả hữu toàn, xúc giả
sanh thắng lạc, quá Ca Chiên Lân Đà.
(論)寶性功德草,柔軟左右旋,觸者生勝樂,過迦旃鄰陀。
(Luận:
Cỏ công đức tánh báu, mềm mại, trái phải chuyển,
chạm vào vui thù thắng, hơn Ca Chiên Lân Đà).
Đây là loại
thứ bảy, tán thán sự trang nghiêm nơi Xúc (sự
đụng chạm, tiếp xúc). “Bảo tánh công đức thảo”: Trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới, các thứ trân bảo
như vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mă năo;
những thứ trân bảo ấy đều do công đức
thành tựu. Nói theo lư tánh th́ Niết
Bàn trọn đủ công đức. Nói theo sự tướng
th́ là do công đức tu hành trong vô lượng kiếp của
A Di Đà Phật thành tựu. V́ Tây Phương Cực Lạc
thế giới có cung điện, lầu, gác trang nghiêm, có
hàng cây bảy báu trang nghiêm, nhất định là có cỏ trang nghiêm.
V́ những thứ trang nghiêm ấy đều là những thứ
phàm phu ưa thích nhất. Quư vị ưa thích món trang nghiêm nào,
bèn hiện cho quư vị sự trang nghiêm ấy. Cây cối
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới do trân bảo
thành tựu, hoa sen do trân bảo thành tựu, cỏ cũng
do trân bảo thành tựu. “Nhu
nhuyễn tả hữu toàn” (Mềm
mại, xoay về bên trái và bên phải): Cỏ công đức
rất mềm mịn, xoay quanh bên trái bên phải. “Xúc giả sanh thắng lạc”
nghĩa là: Nếu tay quư vị chạm vào cỏ, hoặc
chân đạp lên cỏ, đều nẩy sanh niềm vui
mầu nhiệm.
“Quá Ca Chiên Lân Đà” (vượt trỗi
Ca Chiên Lân Đà): Ca Chiên Lân
Đà[10] là tên một
loại cỏ tại Ấn Độ. V́ Trung
Hoa chẳng có loại cỏ ấy, chẳng thể dịch
được, nên giữ nguyên âm tiếng Phạn. Có hai
cách giải thích:
1) Ca Chiên Lân
Đà là một loài cỏ mềm mịn.
Nếu quư vị chạm vào cỏ Ca Chiên Lân Đà, sẽ
hết sức thoải mái, vui sướng. Đó là niềm
vui thế gian. Cỏ công đức trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới, hễ quư vị chạm vào, sẽ
sanh ra một loại pháp lạc thù thắng, vượt trỗi
[niềm vui sướng do chạm vào cỏ Ca Chiên Lân Đà].
Ở đây là giải thích sự trang nghiêm của cỏ
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới.
2) Cỏ là do bản
tánh của chúng ta chiêu cảm. Các thứ trân bảo trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới có tánh chất
nhu nhuyễn, c̣n tánh chất của các thứ trân bảo
trong thế giới Sa Bà là cứng chắc, hoàn toàn tương
phản. V́ sao trân bảo trong thế giới Sa Bà có tánh chất
cứng chắc? Do quả báo của chúng sanh cảm vời.
Kinh Địa Tạng đă dạy rơ ràng: “Giáo hóa như thị cang cường chúng sanh, linh tâm
điều phục, xả tà quy chánh” (Giáo hóa chúng sanh
ương ngạnh như thế, khiến cho tâm họ
điều phục, bỏ tà, trở về chánh). V́ chúng
sanh trong thế giới Sa Bà có tánh chất ương ngạnh, [cho nên] cảm vời quả báo mang tánh chất cứng
chắc. Vàng ṛng rất kiên cố, kim cương c̣n cứng
hơn vàng. Bảo vật trong thế giới Sa Bà có tánh chất
cứng chắc là do bản tánh [ương ngạnh] của chúng ta chiêu cảm. Chúng sanh trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới toàn là do niệm
Phật mà sanh về đó, do chúng sanh [trong cơi
Cực Lạc] chẳng có phiền năo, cho nên
cảm vời y báo trang nghiêm đều rất nhu ḥa. Hoa
sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới do bảy
báu thành tựu. Nếu chẳng mềm mại, làm sao hoa sen
nở x̣e, cụp lại cho được? Bảo vật
trong thế giới Sa Bà có tánh chất cứng chắc. Quư
vị dùng vàng ṛng, bạc trắng làm thành hoa sen, sẽ chẳng
thù thắng. Cành cây, lá cây trong thế giới Sa Bà có thể
động, là v́ tánh chất cứng cỏi. Cây cối
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới do bảy
báu hợp thành, gió nhẹ thổi qua, phát ra âm thanh vi diệu,
c̣n có thể thuyết pháp. Nếu chúng chẳng mềm mại,
khi bị lay động, làm sao có thể phát ra các âm thanh vi
diệu tinh tinh tang tang được?
* Giải trừ nghi hoặc
Hỏi: Tánh của
chất báu trong Tây Phương Cực Lạc thế giới
đă là nhu nhuyễn th́ làm sao có thể kiến tạo cung
điện, lầu, gác?
Đáp: Đấy
là v́ nh́n theo nhà cửa trong thế giới Sa Bà, cho nên mới
nẩy sanh nghi vấn này, chẳng biết nhà cửa trong
Tây Phương Cực Lạc thế giới và nhà cửa
của thế giới Sa Bà khác nhau! Tây Phương Cực
Lạc thế giới không chỉ là dựng cung điện,
lầu, gác trên mặt đất vàng ṛng, mà trong hư không
cũng có cung điện, lầu, gác. Nếu cung điện
lầu gác có trọng lượng, làm sao nó lơ lửng trên
hư không? Do vậy biết chúng là do các thứ trân bảo
mềm mại thành tựu. Đấy là một thứ quả
báo chẳng thể nghĩ bàn.
Phần Kệ Tụng
này nói về Xúc công đức. Cỏ công đức rất
mềm mại, chỉ cần quư vị chạm vào, sẽ
sanh pháp lạc thù thắng.
Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba
Đề Xá
Nguyện Sanh Kệ Giảng Kư
Phần 1 hết
[1]
Ưu Ba Đề Xá c̣n được phiên âm là Ô Ba Đề
Xá, Ưu Ba Đề Xá, Ổ Ba Đề Xá, hoặc Ô Ba Đệ
Thước, dịch sang tiếng Hán là Luận Nghị,
Thuyết Nghĩa, Quàng Diễn, Chương Cú v.v… Đây là
một loại thể tài
(genre) trong mười hai thể tài
thường dùng trong kinh sách nhà Phật (thường
được biết với danh xưng Thập Nhị Bộ
hoặc Thập Nhị Phần Giáo). Ưu Ba Đề Xá
thường dùng để chỉ các cuộc biện định
nhằm sáng tỏ giáo nghĩa giữa các vị đệ
tử Phật và hàng Bồ Tát. Ở đây, Tổ Thiên Thân
dùng từ ngữ này
với ư nghĩa biện định nhằm sáng tỏ ư
nghĩa kinh, cho nên
trưởng lăo Đạo Nguyên chỉ nói đơn giản
là Luận.
[2]
Đông Doanh (東瀛) là danh xưng cổ
do người Hoa gọi Nhật Bản. Không rơ nguồn gốc
danh xưng này từ đâu mà có; đa số cho rằng:
Theo truyền thuyết cổ của Trung Hoa, ngoài biển
Đông có ba ḥn đảo là nơi các vị tiên ở, có
danh xưng là Doanh Châu, Bồng Lai, và Phương Trượng.
Khi bị vua chúa bắt đi t́m thuốc tiên ngoài biển
khơi, các đoàn t́m thuốc
đă tưởng quần đảo Nhật Bản là
đảo Doanh Châu trong truyền thuyết. Thuyết khác
cho rằng, Doanh (瀛) chỉ có nghĩa
đơn giản là “đảo”.
Do Nhật Bản ở phía Đông Trung Hoa nên gọi là
Đông Doanh. Một số sách cổ c̣n gọi Nhật Bản
là Đông Dương (khác với danh xưng bán đảo
Đông Dương dùng sau này để chỉ ba nước
Việt, Miên, Lào).
[3]
Kim Lăng Khắc Kinh Xứ là cơ sở ấn loát kinh
Phật do cư sĩ Dương Nhân Sơn sáng lập
trong phong trào phục hưng Phật giáo tại Trung Hoa sau
khi du học Nhật Bản trở về. Cụ
Dương Nhân Sơn sáng lập nhà xuất bản này vào
năm Đồng Trị thứ năm (1866) thuộc triều nhà
Thanh tại Nam Kinh (thuộc tỉnh Giang Tô hiện thời),
và giảng dạy Phật pháp tại đây suốt bốn
mươi năm. Cơ sở này đă ấn hành hơn
trăm vạn bộ sách, in hơn mười vạn bức
h́nh Phật. Cụ Dương c̣n lập các cơ sở Kỳ
Hoàn Tinh Xá và Phật Học Nghiên Cứu Hội tại
đây để dạy Phật pháp. Từng theo học tại
đây có các nhân sĩ Phật giáo
nổi
tiếng thời cận đại như Thái Hư Đại
Sư, Âu Dương Cánh Vô, Chương Thái Viêm, Tạ Vô
Lượng, Mai Quang Hy (cậu của cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ) v.v… Năm 1922, cư sĩ Âu Dương Cánh Vô và Lữ Trừng mở
thêm Chi Na Nội Học Viện để chuyên nghiên cứu
Pháp Tướng. Các học viên theo học có những nhân vật
nổi tiếng như Lương Khải Siêu, Vương
Ân Tường, Hùng Thập Lực, Thang Dụng Đồng,
Hoàng Sám Hoa, Điền Quang Liệt v.v… May mắn là dưới
thời Cách Mạng Văn Hóa, cơ sở này được
bảo tồn không bị phá hoại bởi Hồng Vệ
Binh. Năm 1980, dưới sự vận động của
hội trưởng hội Phật giáo Trung Quốc là Triệu Phác
Sơ, Kim Lăng Khắc Kinh Xứ được phục
hưng. Nơi này c̣n bảo tồn hoàn chỉnh các bản
khắc kinh cũng như các bản Đại Tạng
Kinh.
[4]
Ngài Bà Tẩu Bàn Đầu
(thường dịch là Thiên Thân,
hoặc Thế Thân, c̣n phiên âm là Phạt Tô Bàn Đầu, Phạt Tô Bàn Độ, hay Bà Tẩu Bàn Đà)
sống vào thế kỷ thứ tư hoặc thứ
năm. Ngài là một vị cao tăng học giả, cùng với
người anh cùng cha khác mẹ là ngài Vô Trước,
được coi là tổ sư sáng lập Du Già Hạnh
Duy Thức Học Phái. Ngài sanh ở thành Phú Lâu Sa Phú La thuộc
vương quốc Kiện Đà La (Gandhara). Thoạt đầu,
Ngài xuất gia học Phật theo tông phái Nhất Thiết
Hữu Bộ (Sarvativada). Sau đó, Ngài sang Kashmir để
chuyên tâm học giáo nghĩa của tông phái này. Khi trở về,
Ngài chuyên dạy A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma) và soạn bộ
A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (Abhidharmakośakārikā)
rất đồ sộ. Về sau, Ngài chuyển sang Đại
Thừa do sự khuyến hóa của ngài Vô Trước, và
biên soạn nhiều bộ luận về chủ đề
Duy Thức. Bộ Duy Thức Nhị Thập Luận (Vimśatikāvijñaptimātratāsiddhi)
của Ngài rất phổ biến và đóng vai tṛ trọng
yếu trong việc nghiên cứu, học tập Duy Thức. Tác phẩm chú giải bộ luận
ấy là Duy Thức Nhị Thập Luận Thích cũng nổi
tiếng không kém. Những bộ luận khác do Ngài trước
tác cũng là giáo điển trọng yếu của Duy Thức
Tông như Duy Thức Tam Thập Tụng, Nhiếp Đại
Thừa Luận Thích, Tam Tánh Luận, Biện Trung Biên Luận,
Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận v.v… Ngoài ra, Ngài c̣n
soạn những bộ luận thuộc loại Tông Kinh Luận
như Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật Kinh Luận, Thập Địa
Kinh Luận, Đại Thừa Kinh Trang Nghiêm Luận Thích,
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Ba Đề Xá v.v…
[5]
Nam Bắc Triều là một thời kỳ kéo dài từ năm
420 khi Lưu Dụ soán ngôi nhà Đông Tấn lập ra nhà
Lưu Tống cho đến năm 589, Tùy Văn Đế
(Dương Kiên) diệt nhà Trần th́ mới chấm dứt.
Trước đó, do nhà Tấn suy yếu, các sắc dân
không phải người Hán tràn vào Trung Nguyên cát cứ, lập
ra các vương triều, thôn tính lẫn nhau. Sử thường
gọi là Ngũ Hồ Loạn Hoa, hay Ngũ Hồ Thập
Lục Quốc. Nam Bắc Triều tiếp theo ngay thời
kỳ Ngũ Hồ Thập Lục Quốc. Do các vương triều
cát cứ hai bên bờ Trường Giang nên gọi là Nam Bắc
Triều.
Bắc
Triều gồm năm triều đại: Bắc Ngụy
(do Thác Bạt Khuê sáng lập, tức Nguyên Ngụy), Đông
Ngụy (do Nguyên Thiện Kiến sáng lập), Tây Ngụy
(do Nguyên Bảo Cự sáng lập), Cao Tề (do Cao
Dương sáng lập), và Bắc Châu (do Vũ Văn Giác
sáng lập).
Nam
Triều gồm năm triều đại: Lưu Tống
(do Lưu Dụ sáng lập), Nam Tề (do Tiêu Đạo
Thành sáng lập), Nam Lương (do Tiêu Diễn tức
Lương Vũ Đế sáng lập), và Nam Trần (do Trần
Bá Tiên sáng lập).
[6]
Nguyên Ngụy thường gọi là Bắc Ngụy là một
triều đại do người Tiên Ty sáng lập, tồn
tại từ năm 386 đến năm 534 ở miền
Bắc Trung Hoa, do Thác Bạt Khuê sáng lập. Lănh thổ của vương triều này
bao gồm toàn bộ miền Hoa Bắc, truyền được
mười lăm đời vua. Tiền thân của Bắc
Ngụy là nước Đại của người Tiên Ty
(bao gồm vùng Nội Mông và phía
Bắc tỉnh Sơn Tây). Nước này
bị nhà Tiền Tần thôn tính. Sau khi Phù Kiên của nhà Tiền
Tần thua trận Hợp Ph́, thủ lănh Thác Bạt Khuê của
nước Đại bèn thừa
cơ quật khởi, lập ra nước Ngụy, rồi
dần dần thống nhất Hoa Bắc, thôn tính các tiểu
quốc khác. Do chịu ảnh hưởng Hán Hóa, vào năm
Thái Ḥa thứ tám (494),
Ngụy Hiếu Văn Đế (Thác Bạt Hoằng)
đă xuống chiếu đổi họ Thác Bạt thành họ
Nguyên. Do vậy, sử Trung Hoa thường
gọi
nhà Bắc Ngụy là Nguyên Ngụy. Tiên Ty là một sắc
dân du mục, sống tại Mông Cổ và Bắc Trung Hoa. Họ
vốn phát xuất từ sắc
tộc
Đông Hồ,
và tách ra thành hai nhánh là Tiên Ty (Xianbei) và Ô Hoàn (Wuhuan) sau khi bị
người Hung Nô đánh bại vào cuối thế kỷ
thứ ba trước Công Nguyên. Cho đến nay, nguồn gốc của danh xưng
Tiên Ty vẫn c̣n đang bị tranh luận, đa phần
cho đây là danh xưng Hán hóa của chữ Sarpi.
[7]
Phật giáo sử
không chép nhiều về ngài Bồ Đề Lưu Chi, chỉ
biết là Ngài là người Bắc Ấn đến kinh
đô Lạc Dương của nhà Nguyên Ngụy vào năm
Vĩnh B́nh nguyên niên (508) đời Ngụy Tuyên Vũ Đế
(Nguyên Khác). Vua mời Sư trụ tại chùa Vĩnh Ninh dịch
kinh. Về sau, Bắc Ngụy phân liệt thành Đông Ngụy
và Tây Ngụy; vua Tây Ngụy mời Sư dời sang Nghiệp
Thành dịch kinh suốt mười hai năm. Các tác phẩm
chính của Ngài là Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật Kinh, Di Lặc Bồ
Tát Sở Vấn Kinh, Thắng Tư Duy Phạm Thiên Sở
Vấn Kinh, Thâm Mật Giải Thoát Kinh, Nhập Lăng Già
Kinh, Đại Tát Giá Ni Kiền Tử Sở Thuyết Kinh,
Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Kinh Luận, Cứu Cánh Nhất
Thừa Bảo Tánh Luận, Pháp Hoa Kinh Luận, Bảo Tích
Kinh Luận. Bộ Thập Địa Kinh Luận do ngài dịch
chung với Lặc Na Ma Đề đă khiến các học
giả Trung Hoa nồng nhiệt nghiên cứu, h́nh thành một
tông phái gọi là Địa Luận Tông. Chính Ngài đă dạy
kinh Quán Vô Lượng Thọ cho ngài Đàm Loan, tạo ảnh
hưởng sâu đậm h́nh thành Tịnh Độ Tông sau
này.
[8]
Dục Giới (Kāmadhātu)
bao gồm sáu tầng trời, nếu tính từ dưới
lên th́ là Tứ Vương Thiên (Cātummahārājika),
Đao Lợi Thiên (Trāyastriṃśa), Dạ Ma Thiên
(Yāma), Đâu Suất Thiên (Tushita), Hóa Lạc Thiên (Nirmāṇarati), và Tha Hóa Tự Tại
Thiên (Parinirmita-vaśavartin).
[9]
Sắc Giới (Rūpadhātu)
chia thành Tứ Thiền Thiên.
1.
Sơ Thiền Thiên bao gồm ba tầng trời Phạm
Chúng Thiên (Brahmapāriṣadya), Phạm Phụ
Thiên (Brahmapurohita), và Đại Phạm Thiên (Mahābrahmā).
2. Nhị Thiền Thiên
bao gồm ba tầng trời, tức Thiểu Quang Thiên
(Parīttābha), Vô Lượng Quang Thiên (Apramāṇaśubha), và Quang Âm Thiên
(Ābhāsvara)
3. Tam Thiền Thiên bao gồm
Thiểu Tịnh Thiên (Parīttaśubha), Vô Lượng Tịnh
Thiên (Apramāṇaśubha), và Biến Tịnh Thiên
(Śubhakṛtsna).
4. Tứ Thiền bao gồm
Vô Vân Thiên (Anabhraka), Phước Sanh Thiên (Puṇyaprasava), Quảng Quả Thiên
(Bṛhatphala), Vô Tưởng Thiên
(Asaññasatta), Vô Phiền Thiên (Avṛha), Vô Nhiệt Thiên
(Atapa), Thiện Kiến Thiên (Sudṛśa), Thiện Hiện Thiên
(Sudarśana), và Sắc Cứu Cánh Thiên (Akaniṣṭha). Năm tầng trời
Vô Phiền, Vô Nhiệt, Thiện Kiến, Thiện Hiện
và Sắc Cứu Cánh Thiên gộp chung thành Ngũ Tịnh
Cư Thiên.
[10]
Ca Chiên Lân Đà (Kacilindika), c̣n phiên âm là Ca Giá Địa, Ca
Giá Lân Để Ca, Ca Chiên Liên Đề Ca, Ca Chân Lân Để
Ca, Ca Chỉ Lật Na, Ca Lân Đề v.v… Theo Phật Học
Từ Điển của Đinh Phước Bảo,
đây là tên một loài chim rất đáng yêu thích, sờ vào
lông nó rất êm ái. Theo kinh Chánh Pháp Niệm Xứ quyển
30: “Ca Chiên Lân Đề, hải
trung chi điểu, xúc hữu đại lạc. Hữu Luân Vương xuất,
thử điểu tắc hiện”
(Ca Chiên Lân Đề là một loài chim trong biển, chạm
vào nó sẽ hết sức
vui sướng. Khi Chuyển Luân Thánh Vương ra đời,
loài chim này sẽ xuất hiện). Lông loài chim này rất mềm
mịn, dệt thành áo mặc rất thoải mái. Kinh Đại
Thừa Lư Thú Lục Ba La Mật Đa, quyển hai chép: “Như Ca Chiên Lân Để Ca nhu
nhuyễn diệu phục, xúc chi duyệt ư” (Như y phục tốt
đẹp dệt từ lông Ca Chiên Lân Để Ca, chạm
vào sẽ vui sướng). Sách Huệ Lâm Âm Nghĩa, quyển
mười chín cũng giảng: “Ca
Chỉ Lật Na Miên, diệc danh Ca Chân Lân Để Ca, thụy
điểu danh dă, thân hữu tế nhuyễn mao, phi thường
khinh hảo như cẩm. Tập tích dĩ vi y hoặc vi
nhứ, Chuyển Luân Thánh Vương phương ngự thử
phục dă. Hựu Văng Sanh Luận Chú dĩ Ca Chiên Lân Đà
vi Thiên Trúc đích nhu nhuyễn thảo danh, tắc hệ ngộ
giải” (Ca Chỉ Lật Na Miên, c̣n gọi là Ca Chân Lân Để
Ca là tên một loài chim tốt lành. Thân nó có lông mịn nhuyễn,
hết sức nhẹ, đẹp như gấm. Se bện
lông nó làm thành áo hoặc thành sợi, Chuyển Luân Thánh Vương
mới mặc loại y phục ấy. Văng Sanh Luận Chú
lại coi Ca Chiên Lân Đà là tên một
loài cỏ mềm mịn ở Thiên Trúc, tức là đă hiểu
sai vậy).
Ở đây, ḥa thượng Đạo Nguyên đă dựa
theo lời chú giải của ngài Đàm Loan trong bộ Văng Sanh Luận Chú, cho nên mới giảng
Ca Chiên Lân Đà là một loài cỏ, thật ra,
Ca Chiên Lân Đà không phải là một loài cỏ.