Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá
Nguyện Sanh Kệ Giảng Kư
Phần 2
無量壽經優婆提舍願生偈講記
Giảng thuật: Trưởng
lăo Đạo Nguyên
道源長老 講述
Bút kư: Cư sĩ Thí Vượng
Khôn
施旺坤敬記
Thời gian: Tháng Tư năm
Dân Quốc 61 (1972)
Địa điểm: Chí Liên
Tinh Xá tại Đài Bắc
Chuyển ngữ: Bửu Quang
Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức Phong
và Huệ Trang
(dịch theo bản in của
Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội)
4.1.4.1.8. Trang nghiêm ba thứ
công đức thành tựu
4.1.4.1.8.1.Trang nghiêm thủy
công đức thành tựu
(Luận) Bảo hoa thiên vạn
chủng, di phú tŕ lưu tuyền, vi phong động hoa diệp,
giao thác quang loạn chuyển.
(論)寶華千萬種,彌覆池流泉,微風動華葉,交錯光亂轉。
(Luận: Ngàn vạn loại
hoa báu, phủ kín ao, suối chảy, gió nhẹ lay cánh hoa,
ánh sáng xen tạp chuyển).
Đây là loại thứ tám, tán thán ba thứ
trang nghiêm: Thủy trang nghiêm, địa trang nghiêm, và hư không
trang nghiêm. Trước hết, nói về điều thứ
nhất, tức thủy trang nghiêm (sự trang nghiêm của
nước). Trong ao hoa sen của Tây Phương Cực Lạc
thế giới, có nước tám công đức. “Bảo hoa thiên vạn chủng”
(Ngàn vạn loài hoa báu):
Trong ao hoa sen có hoa sen, kinh A Di Đà chép: “Thanh sắc thanh quang, hoàng sắc hoàng quang, xích sắc
xích quang, bạch sắc bạch quang” (Màu xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng
vàng, màu đỏ ánh sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng).
Chỉ nói bốn loại hoa sen, thật ra, hoa sen trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới nhiều đến
ngàn vạn chủng loại. “Di
phú tŕ lưu tuyền” (Phủ rợp kín ao, suối chảy): “Di” (彌) là đầy kín, “phú” (覆) là che phủ. Hoa sen phủ
kín trọn khắp phía trên ao và suối. “Vi phong động hoa diệp” [nghĩa là] gió nhè
nhẹ thổi động những cánh
hoa. “Giao thác quang loạn chuyển”
[nghĩa là] mỗi hoa sen đều tỏa ra quang minh; bốn loại hoa sen bèn có bốn
loại quang minh, ngàn vạn loài hoa báu bèn có ngàn vạn loại
quang minh. Gió nhẹ thổi lay động cánh hoa, quang minh
xen lẫn vào nhau, xoay tṛn, hết sức trang nghiêm!
4.1.4.1.8.2. Trang nghiêm
địa công đức thành tựu
(Luận) Cung điện chư lâu các, quán thập
phương vô ngại, tạp thụ dị quang sắc, bảo
lan biến vi nhiễu.
(論)宮殿諸樓閣,觀十方無礙,雜樹異光色,寶欄遍圍繞。
(Luận: Cung điện, các lầu, gác, quán mười
phương vô ngại. Mỗi cây quang sắc khác, lan can báu
vây khắp).
Đây là loại thứ hai, tức tán thán địa trang nghiêm
(tán thán sự trang nghiêm trên mặt đất) [trong môn tán thán thứ tám]. “Cung điện chư lâu
các, quán thập phương vô ngại” (Cung điện, các lầu
gác; quán mười phương vô ngại): Cung, điện,
lầu, gác là sự trang nghiêm trên mặt đất, đều
do trân bảo thành tựu. Quư vị ở trong lầu, gác,
muốn thấy mười phương thế giới, giống
như xem phim ảnh trong hiện thời, nó đều có
thể hiện h́nh ảnh cho quư vị trông thấy rơ ràng,
rành rẽ, chẳng bị chướng ngại.
“Tạp thụ
dị quang sắc” (Các loại cây có ánh sáng
và màu sắc khác nhau): Đấy là sự trang nghiêm của
cây cối trên mặt đất. Cây cối do các chất
báu xen kẽ hợp thành. Thân cây là vàng ṛng, cành cây là bạc
trắng, nở hoa, kết quả bằng lưu ly. Thân
cây, cành cây, đơm hoa, kết quả, quang minh và màu sắc
đều khác nhau.
“Bảo lan biến
vi nhiễu” (Lan can báu vây quanh trọn
khắp): “Bảo lan” (寶欄) là lan can do bảy báu kết
thành. Mỗi ṭa cung điện đều do bảy báu hợp
thành, có lan can vây quanh.
4.1.4.1.8.2. Trang nghiêm
hư không công đức thành tựu
(Luận) Vô lượng bảo giao lạc, la vơng biến
hư không, chủng chủng linh phát hưởng, tuyên thổ
diệu pháp âm.
(論)無量寶交絡,羅網遍虛空,種種鈴發響,宣吐妙法音。
(Luận: Vô lượng báu
giăng xen, lưới mành khắp hư không, các thứ
linh vang tiếng, tuyên nói diệu pháp âm).
Đây là loại thứ ba, tán thán hư không
trang nghiêm [trong môn tán thán thứ
tám]. “Vô lượng bảo giao lạc”
(Vô lượng chất
báu giăng xen): Các sợi dây bằng bảy chất báu
đan xen với nhau, tạo thành lưới mành. “La vơng biến hư không” (Lưới mành trọn khắp
hư không): Hư không được trang nghiêm trọn khắp bằng các lưới mành. “Chủng chủng linh phát hưởng”
(Các thứ linh vang tiếng):
Trên lưới mành treo các thứ linh báu trang nghiêm, phát ra âm
thanh vi diệu. “Tuyên thổ diệu
pháp âm” (Tuyên nói pháp âm mầu nhiệm):
Hễ gió thổi lay động, các linh báu trên lưới
mành vang ra tiếng leng keng, tinh tang, phát ra âm thanh thuyết
pháp. Chúng sanh nghe tiếng, sẽ có thể dấy lên đạo
tâm, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Đấy là linh báu trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới, là vật vô t́nh mà có thể thuyết
pháp. Quư vị sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới, thường xuyên thấy A Di Đà Phật, Quán Thế
Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Thanh Tịnh
Đại Hải Chúng Bồ Tát thuyết pháp cho quư vị.
C̣n có các vị đại Bồ Tát cũng thuyết pháp cho
quư vị; làm sao quư vị thoái chuyển cho được?
Các vị đại Bồ Tát, các vị thượng thiện
nhân là hữu t́nh, ngay cả vô t́nh cũng có thể thuyết
pháp. Tiếng gió lùa qua các
cành cây, gió
lay linh báu vang ra tiếng, không chỗ nào chẳng nói Phật
pháp cho quư vị. V́ thế, quư vị chỉ có tiến bộ,
chẳng có nhân duyên lui sụt.
* Giải trừ nghi hoặc
Hỏi: V́ sao vô t́nh có thể thuyết pháp?
Đáp: Hữu t́nh và vô t́nh có cùng một thể
tánh. Trong hết thảy các pháp, [thể tánh ấy]
được gọi là Pháp Tánh, nơi hữu t́nh th́ gọi
là Phật Tánh. Phật là Giác. [Pháp Tánh] là giác tánh. Phật
Tánh và Pháp Tánh chẳng hai, chẳng khác, chẳng phải là
hai Lư Thể, chỉ có một Lư Thể! Chẳng hạn như
chúng ta giác ngộ thành Phật, bản thể của hết
thảy các Pháp Tánh quư vị thảy đều chứng
đắc, hết thảy các Pháp Tánh cũng thuận theo đó mà biến thành giác tánh. Nói theo
chánh báo và y báo, th́ y báo chuyển theo chánh báo. Phật giáo cho
rằng hữu t́nh và vô t́nh b́nh đẳng, nhưng có một
sai biệt: Hữu t́nh có Phật Tánh. Sau khi kẻ ấy
giác ngộ, sẽ dẫn dắt vô t́nh chuyển thành có giác
tánh. Thế giới y báo, chẳng hạn
như lầu, gác, lan can, cây cối thuộc về vô t́nh, những
thứ vô t́nh ấy đều chuyển theo chánh báo. Lấy
thế giới Sa Bà làm tỷ dụ, quư vị là chánh báo hữu
t́nh có phước báo, th́ nhà cửa quư vị đang ở
sẽ thuận theo quư vị mà biến thành rất trang
nghiêm. Quư vị là chánh báo hữu t́nh chẳng có phước
báo, nhà cửa quư vị sẽ thuận theo quư vị mà biến
thành rất luộm thuộm. Chánh báo của Tây
Phương Cực Lạc thế giới là Phật, cho
nên y báo là thế giới Cực Lạc đều thuận
theo, chuyển biến thành cảnh giới
của Phật. Chánh báo đă giác th́ y báo cũng giác theo, hữu
t́nh và vô t́nh cùng viên thành Chủng Trí. Chủng Trí là trí huệ
của Phật, hữu t́nh và vô t́nh đều viên măn Chủng
Trí của Phật.
Nếu chẳng hiểu rơ đạo lư này,
quư vị hăy xem kinh A Di Đà có nói: “Bỉ quốc thường hữu chủng chủng
kỳ diệu tạp sắc chi điểu, bạch hạc,
khổng tước, anh vũ, xá-lợi, ca-lăng-tần-già,
cộng mạng chi điểu. Thị chư chúng điểu,
trú dạ lục thời, xuất ḥa nhă âm. Kỳ âm diễn
sướng Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ
Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, như thị
đẳng pháp. Kỳ độ chúng sanh, văn thị âm dĩ,
giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”
(Cơi ấy thường
có các loại chim kỳ diệu, nhiều màu, như các thứ
chim bạch hạc, chim công, chim két, xá-lợi, ca-lăng-tần-già,
cộng mạng. Những con chim ấy ngày đêm sáu thời,
hót tiếng ḥa nhă. Âm thanh ấy diễn nói thông suốt Ngũ
Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát
Thánh Đạo Phần, các pháp như thế đó. Chúng
sanh trong cơi ấy, nghe âm thanh đó, thảy đều niệm
Phật, niệm Pháp, niệm Tăng). Những con chim kỳ
diệu nhiều màu ấy đều có thể thuyết
pháp. Đấy chính là lời giải thích do đích thân
Thích Ca Mâu Ni Phật [đă nói ra].
Hỏi: Tây Phương Cực Lạc thế
giới chẳng có ba ác đạo, chim là súc sanh. Lẽ
đâu lại có các thứ chim thuyết pháp?
Đáp: Kinh A Di Đà đă giải thích: “Kỳ Phật quốc độ,
thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thật?
Thị chư chúng điểu, giai thị A Di Đà Phật,
dục linh pháp âm tuyên lưu, biến hóa sở tác” (Cơi
nước Phật ấy c̣n chẳng có danh xưng ác đạo,
huống hồ là thật sự có. Những con chim ấy
đều do A Di Đà Phật muốn cho pháp âm được
tuyên nói, lưu thông, bèn biến hóa ra). Những con chim ấy
chẳng phải là chim do quả báo trong súc sanh đạo! Chúng
đều là do sức thần thông của A Di Đà biến
hóa ra. V́ thế, chim có thể thuyết pháp.
Hỏi: Chim coi như là hữu t́nh, v́ sao linh
báu là vô t́nh mà có thể thuyết pháp?
Đáp: Đấy cũng là do A Di Đà Phật
biến hóa ra.
Hỏi: A Di Đà Phật, chư đại
Bồ Tát thuyết pháp đủ rồi, v́ sao c̣n phải
có những vật vô t́nh như linh báu thuyết pháp?
Đáp: Người sanh đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới đều là do
niệm Phật mà sanh về. Thế nhưng các chúng sanh tuy
đă sanh trong Tây Phương, vẫn là phàm phu, mỗi
người có sự ưa thích riêng biệt. Có chúng sanh yêu thích
chim, A Di Đà Phật bèn biến ra chim để thuyết
pháp cho họ, khiến cho họ đạt được
lợi ích nơi Phật pháp. Có chúng sanh thích nghe tiếng
linh báu, âm thanh gió lùa qua cành
cây, A
Di Đà Phật bèn biến thành âm thanh vô t́nh thuyết pháp,
khiến cho kẻ ấy đạt được lợi
ích nơi Phật pháp, nhằm đạt được mục
đích độ chúng sanh!
Ở đây chứa đựng một
đạo lư khẩn yếu nhất: Trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới, A Di Đà Phật, các vị đại
Bồ Tát, và các vị thượng thiện nhân thuyết
pháp, ngay cả những thứ vô t́nh như tiếng gió, tiếng
cây [rung xào xạc], linh báu đều thuyết pháp cho quư vị.
Đấy là A Di Đà đă tạo trợ duyên để
chúng ta đạt được lợi ích nơi Phật
pháp. Quư vị có cái tâm cầu pháp, gặp trợ duyên của
A Di Đà Phật th́ mới có thể được giúp
đỡ, mới có thể nghe Phật, Bồ Tát thuyết
pháp, cho đến nghe vô t́nh thuyết pháp. Nếu quư vị
chẳng có tâm cầu pháp, dẫu hữu t́nh và vô t́nh đều
thuyết pháp cho quư vị, quư vị cũng chẳng thể
nghe!
Chẳng hạn như Chí Liên tinh xá muốn
mời pháp sư đến giảng kinh là tạo trợ
duyên cho mọi người. Trong giảng đường,
tận hết sức sắp đặt đầy đủ
các thiết bị. Sợ ánh sáng không đủ, c̣n gắn
thêm đèn điện. Khí trời quá nóng, ngoài quạt
điện ra, c̣n gắn thêm máy lạnh. Kết quả là
không chỉ người từ thành phố Đài Bắc
đến nghe kinh, mà người thuộc huyện Đài
Bắc[1] cũng
đến nghe kinh. Đấy là quư vị có tâm cầu pháp,
[Chí Liên tinh xá] vừa phát tờ thông cáo là quư vị đến
ngay. Quư vị chẳng có tâm cầu pháp, dẫu phát tờ
thông cáo, quư vị cũng sẽ chẳng đến. V́ thế,
hễ có tâm cầu pháp, sẽ có thể gặp nhân duyên thuyết pháp,
sẽ gặp gỡ pháp sư thuyết pháp cho quư vị,
khiến cho quư vị đạt được lợi ích
nơi Phật pháp.
Chỉ cần quư vị có tâm cầu pháp, ở
trong thế giới Sa Bà, quư vị cũng có thể gặp
vô t́nh thuyết pháp. Cư sĩ Tô Đông Pha đă gặp
vô t́nh thuyết pháp. Ông ta thấy sắc núi là màu thanh tịnh,
nghe âm thanh nước chảy chốn núi cao, bỗng giác ngộ,
soạn một bài kệ, [trong ấy có hai câu] như sau: “Khê thanh tận thị quảng trường thiệt,
sơn sắc vô phi thanh tịnh thân”. [Ư nói]: Âm thanh của
tiếng suối từ trên núi chảy xuống chính là
tướng lưỡi rộng dài của Phật đang
thuyết pháp; sắc núi xanh biêng biếc toàn là Pháp Thân thanh tịnh của Như
Lai. V́ ông ta có tâm cầu pháp, [cho nên] nh́n núi, nh́n nước,
bèn có thể đạt được lợi ích nơi Phật
pháp. Huyện Phước Châu của tỉnh Phước
Kiến có Cổ Sơn là một đạo tràng hữu
danh. Có một vị cư sĩ từ Nam Dương đến
Cổ Sơn du ngoạn, trèo lên núi, tại một chỗ
có nước chảy, ông ta ngồi đó nghỉ ngơi,
nghe tiếng nước chảy róc rách, bỗng dưng khai
ngộ. Nhằm báo ân con suối, ông ta bèn tạo dựng một
ngôi lầu, kỷ niệm nơi ông ta nghe tiếng nước
chảy tại đó mà khai ngộ. Đấy là vô t́nh thuyết
pháp.
4.1.4.1.9. Trang nghiêm vũ
công đức thành tựu
(Luận) Vũ hoa y trang nghiêm, vô lượng
hương phổ huân.
(論)雨華衣莊嚴,無量香普熏。
(Luận: Mưa áo hoa trang
nghiêm, vô lượng hương xông khắp).
Đây là loại thứ chín, tán thán vũ
trang nghiêm. “Vũ hoa y trang nghiêm”: “Vũ” (雨) chẳng phải là
tuôn nước mưa, mà là từ không trung rơi xuống
hoa trời, áo trời trang nghiêm. Tuôn xuống hoa trời, áo
trời để trang nghiêm Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Hoa trời đương nhiên là màu sắc
đẹp đẽ, áo trời cũng là màu sắc đẹp
đẽ. “Vô lượng
hương phổ huân”, [ư nói] c̣n có vô lượng mùi
thơm xông khắp thế giới Cực Lạc.
Kinh A Di Đà
chép “thiên vũ Mạn-đà-la
hoa” (trời tuôn mưa hoa Mạn-đà-la) chính là mưa hoa trời để
trang nghiêm. Hoa Mạn-đà-la (曼陀羅, Mandarava) là Thích Ư Hoa (適意花), [ngụ ư] “phù hợp ư thích của quư vị”.
Quư vị thích loại hoa ǵ, bèn tuôn xuống loại hoa
đó, có thể măn ư của mỗi chúng sanh. Theo kinh Vô
Lượng Thọ, không chỉ là mưa hoa trời, mà c̣n
mưa áo trời. Có hai cách giải thích chữ “thiên y”. Một cách giải
thích [“thiên y”] là y phục
để mặc. Chẳng cần thợ may giúp quư vị
may quần áo, từ trên trời
rơi xuống quần áo tự nhiên, quư vị cứ mặc
vào là được rồi. Theo cách giải thích thứ hai
[th́ “thiên y”] là một thứ
phẩm vật trang nghiêm. Kinh A Di Đà chép: “Các dĩ y kích, thịnh chúng diệu hoa” (Ai nấy
đều dùng lẵng hoa để đựng các hoa mầu
nhiệm). “Y” (衣) trong tiếng Phạn của
Ấn Độ có nghĩa là vải vóc, giống như trải
thảm để trang hoàng trong hiện thời. Đó là loại
thảm trải tốt nhất từ cơi trời phủ
lên mặt đất để trang nghiêm, màu sắc
đương nhiên là đẹp mắt. Bất luận là
mưa hoa trời hay áo trời
đều có thể vừa ư quư vị, khiến cho quư vị
trông thấy, cảm thấy rất đẹp, lại c̣n có
mùi thơm. Đấy là loại thứ chín, tức vũ trang
nghiêm. Hoa trời rơi xuống trang nghiêm, áo trời
rơi xuống trang nghiêm, rơi trên mặt đất rất
mềm mại. Người trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới đi lại, đạp lên các hoa trời,
[thảm hoa ấy] có thể lún xuống bốn tấc, giở
chân lên, nó lại phục hồi như cũ, giống
như dùng thảm lông dày trong hiện thời vậy!
* Giải trừ nghi hoặc
Hỏi: Ngày đêm sáu thời, trong hư
không tuôn xuống nhiều hoa trời và áo trời ngần ấy,
Tây Phương Cực Lạc thế giới làm sao chứa
hết cho được?
Đáp: Sự trang nghiêm trong Tây Phương
Cực Lạc thế giới là diệu trang nghiêm. “Diệu” là chẳng thể
nghĩ bàn! Hoa đă rơi xuống từ trước,
đợt hoa ấy bị gió cuốn đi, chẳng c̣n nữa.
Đợt hoa sau rơi xuống lại tươi mới.
Kinh Vô Lượng Thọ chép: “Hoa
dụng dĩ ngật, địa triếp khai liệt” (Hoa
dùng xong, đất liền nứt ra): Dùng chữ Liệt (裂, nứt)
rất thô vụng! Chẳng cần đất phải nứt
ra, nó tự nhiên chẳng c̣n nữa! Chẳng cần quư vị
phải sanh phiền năo, lo lắng hoa rơi xuống quá nhiều
khiến cho Tây Phương Cực Lạc thế giới
phải chứa đầy nghẹt!
4.1.4.1.10. Trang nghiêm quang
minh công đức thành tựu
(Luận) Phật huệ minh tịnh nhật, trừ
thế si ám minh.
(論)佛慧明淨日,除世癡闇冥。
(Luận: Phật huệ nhật
sáng sạch, trừ si tối cơi đời).
Đây là loại thứ mười, tán thán
quang minh trang nghiêm. “Phật huệ
minh tịnh nhật” (Trí huệ của đức Phật như
vầng mặt trời sáng sạch): Quang minh trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới là trí huệ
quang, giống như ánh sáng mặt trời. Đức Phật
thành Phật, là đấng phước huệ Lưỡng
Túc Tôn, nhưng phước báo và trí huệ là một, không
hai. Do vậy, trong phước báo trang nghiêm có trí huệ
trang nghiêm. Đấy là nói A Di Đà Phật có hết thảy
các quang minh trí huệ.
“Trừ thế
si ám minh” (Trừ sự tối
tăm v́ ngu si cho cơi đời): Chúng ta niệm A Di Đà Phật,
được nguyện lực của A Di Đà Phật nhiếp
tŕ, sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới, vẫn
là một phàm phu, gọi là “đới
nghiệp văng sanh”. Tuy chẳng đoạn trừ phiền
năo, nhưng quư vị vừa đến Tây Phương, gặp
quang minh trí huệ của Phật, [quang minh ấy] sẽ
có thể giúp quư vị đoạn trừ ngu si phiền năo
trong thế gian.
Tán thán quang minh trang nghiêm trong phần trước
có hai loại. Một loại là “tịnh
quang minh măn túc, như kính, nhật, nguyệt luân” (quang
minh thanh tịnh măn nguyện, như gương, vầng mặt
trời, mặt trăng), đấy là tán thán tướng
mạo của quang minh. Loại thứ hai là “vô cấu quang diễm xí, minh tịnh
diệu thế gian” (quang minh vô cấu tỏa rực,
sáng sạch chói ngời thế gian), nhằm tán thán các diệu
đức hiện ra từ tướng mạo của quang
minh. Ví như chúng ta trông thấy một bóng đèn điện
rất sáng, bèn tán thán tướng mạo của quang minh. Lại
thấy bóng đèn rất ưa nh́n, lại tán thán diệu
đức của nó. “Phật huệ
minh tịnh nhật, trừ thế si ám minh” (Trí huệ của Phật
như vầng mặt trời sáng sạch, trừ sự tối
tăm do ngu si của thế gian) là tán thán diệu dụng
của quang minh. Quang minh rất sáng, đó là tướng mạo
của nó. Quang minh rất đẹp đẽ, tức là
diệu đức. Nó có thể trừ khử sự tối
tăm do ngu si, tức là tán thán diệu dụng của Phật trí huệ
đức. Chỉ cần quư vị trông thấy quang minh của
Phật, sẽ diệt trừ toàn bộ phiền năo ngu si
của quư vị.
4.1.4.1.11. Trang nghiêm diệu
thanh công đức thành tựu
(Luận) Phạm thanh ngộ thâm viễn, vi diệu
văn thập phương.
(論)梵聲悟深遠,微妙聞十方。
(Luận: Tiếng phạm ngộ
sâu xa, vi diệu thấu mười phương).
Đây là loại thứ mười một,
tán thán sự trang nghiêm nơi âm thanh mầu nhiệm. “Phạm thanh ngộ thâm viễn”
(Tiếng Phạm [khiến
cho hành giả nghe thấy] sẽ ngộ sâu xa): Trong phần
trước đă nói các linh báu trên lưới mành phát âm
thanh diệu pháp, đó là thuyết pháp. Ở đây chẳng
phải là âm thanh thuyết pháp, mà là âm thanh trong thế giới
nơi A Di Đà Phật ngự. Tây Phương Cực Lạc
thế giới có kinh dịch là An Lạc Quốc, có kinh dịch
là thế giới An Dưỡng. Nói chung, Tây Phương Cực
Lạc thế giới là một thế giới rất
thanh tịnh. “Phạm thanh”
là âm thanh của thế giới thanh tịnh. “Ngộ thâm viễn”: Quư vị
có thể nghe thấy âm thanh của A Di Đà Phật thuyết
pháp cho quư vị nghe, vừa nghe bèn khai ngộ. Quư vị có
thể nghe danh hiệu của Tây Phương Cực Lạc
thế giới, cũng có thể khiến cho quư vị ngộ
đạo lư sâu xa.
“Vi diệu
văn thập phương”: Danh hiệu Tây Phương
Cực Lạc thế giới có thể lan truyền khắp
mười phương thế giới. V́ A Di Đà Phật
đă phát đại nguyện, nguyện cho danh hiệu thế
giới của Ngài có thể nổi tiếng khắp mười
phương. Do đó, danh hiệu chẳng thể nghĩ
bàn của Tây Phương Cực Lạc thế giới có
thể lan truyền khắp mười phương thế
giới.
4.1.4.1.12. Trang nghiêm chủ
công đức thành tựu
(Luận) Chánh Giác A Di Đà, Pháp Vương thiện
trụ tŕ.
(論)正覺阿彌陀,法王善住持。
(Luận: Chánh Giác A Di Đà,
Pháp Vương khéo trụ tŕ).
Đây là loại thứ mười hai, tán
thán chủ trang nghiêm. Tây Phương Cực Lạc thế
giới có một vị chủ nhân, “Chánh Giác A Di Đà”: “Chánh
Giác”: Chẳng lệch, chẳng tà th́ là Chánh. Chẳng
ngu, chẳng mê hoặc th́ là Giác. Lục đạo phàm phu tà chứ chẳng
chánh. Thánh nhân Nhị Thừa thiên lệch, chẳng chánh. Tây
Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật
tu hành thành Phật, vừa chẳng phải là tà như lục
đạo phàm phu, mà cũng chẳng lệch lạc như
thánh nhân Nhị Thừa, nên gọi là Chánh Giác, chẳng lệch,
chẳng tà, chẳng ngu, chẳng mê hoặc! Lục đạo
phàm phu ngu muội v́ phiền năo trong tam giới, thánh nhân Nhị
Thừa mê hoặc v́ phiền năo ngoài tam giới. Phiền
năo trong tam giới là Kiến Hoặc và Tư Hoặc. Phiền
năo ngoài tam giới là Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc. “Giác” là đă giác
ngộ Kiến
Hoặc và Tư Hoặc trong tam giới, mà đối với
Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc ở bên ngoài tam giới
vẫn giác. V́ thế, hễ giác một điều th́ sẽ
giác hết thảy, trọn đủ viên măn. Đấy là
chủ nhân của Tây Phương Cực Lạc thế giới,
tức A Di Đà Phật.
“Pháp
vương”: Ngài là quốc vương của Tây
Phương Cực Lạc thế giới, tức là đấng
pháp vương của Phật pháp. “Thiện trụ tŕ”: “Trụ”
(住) là an trụ, “tŕ” (持) là ǵn giữ. [“Thiện trụ tŕ”] là khéo có thể an trụ, ǵn
giữ thế giới Cực Lạc. Giống như một
vị quốc vương sẵn có quyền lực, Ngài có thể an trụ, ǵn giữ
thế giới ấy. Trụ tŕ của Tây Phương Cực
Lạc thế giới tương đương với
nguyên thủ của quốc gia trong hiện tại. Nguyên thủ
là người thống trị nhân dân, nhưng Tây
Phương Cực Lạc thế giới dựa trên Phật
pháp để giáo hóa nhân dân, chẳng cần dùng vũ lực
để thống trị; do vậy, gọi là Pháp
Vương.
Vị Pháp Vương ấy làm như thế nào
để có thể khéo an trụ, ǵn giữ thế giới
này? Phật giáo Trung Hoa có chế độ tùng lâm; tùng lâm (叢林) là tự viện để
đại chúng xuất gia cư trụ. Người nào
đă khởi nguồn khai sáng tùng lâm? Thường nói là “Mă Tổ kiến tùng lâm, Bách
Trượng lập Thanh Quy” (ngài Mă Tổ Đạo Nhất
sáng lập tùng lâm, ngài Bách Trượng Hoài Hải lập
Thanh Quy). Tùng lâm do ngài Mă Tổ khởi đầu sáng lập.
Sau khi tùng lâm đă kiến lập, người kiến lập
quy củ [trong tùng lâm] là học tṛ của Mă Tổ, tức
Bách Trượng đại sư. Sau khi Phật giáo Trung
Hoa kiến lập chế độ tùng lâm, trong một
đại tự viện có một người có thể
ǵn giữ đại tự viện, có thể an trụ
đại chúng, [vị ấy] được gọi là Trụ
Tŕ. Hiện thời, có người cho rằng danh xưng
Trụ Tŕ chẳng thể biểu hiện ư nghĩa “chủ nhân”, bèn đổi
thành Chủ Tịch, nhưng chẳng hay như chữ Trụ
Tŕ! Tùng lâm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới
có tên gọi là Tịnh Độ, hết thảy chúng sanh sanh
vào Tây Phương Cực Lạc thế giới, A Di Đà
Phật có thể an trụ, ǵn giữ đại chúng.
4.1.4.1.13. Trang nghiêm quyến
thuộc công đức thành tựu
(Luận) Như Lai tịnh hoa chúng, Chánh Giác hoa hóa sanh.
(論)如來淨華眾,正覺華化生。
(Luận: Tịnh hoa chúng
Như Lai, hoa Chánh Giác hóa sanh).
Đây là loại thứ mười ba, tán
thán sự trang nghiêm của quyến thuộc. Có chủ nhân
bèn có quyến thuộc. “Như
Lai tịnh hoa chúng” (Hoa chúng thanh tịnh của
Như Lai): A Di Đà Như Lai là chủ nhân, là Pháp
Vương. Ngài có đại chúng, các vị đại Bồ
Tát đều là pháp chúng thanh tịnh. V́ sao pháp chúng thanh tịnh
được gọi là Hoa? “Hoa”
biểu thị địa vị tu nhân, Phật biểu thị
quả vị. Thành Phật được gọi là “Phật quả”. Bồ Tát vừa
mới nở hoa Chánh Giác, c̣n chưa kết thành quả
Chánh Giác, nên gọi là “hoa chúng”,
tức Thanh Tịnh Pháp Thân đại Bồ Tát.
“Chánh Giác hoa hóa
sanh”: Chúng sanh sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế
giới đều là liên hoa hóa sanh. Chúng sanh trong Dục Giới
của thế giới Sa Bà có bốn phương pháp thọ
sanh: Thai Sanh, Noăn Sanh, Thấp Sanh, và Hóa Sanh. Người,
trâu, ngựa, dê là Thai Sanh. Gà, vịt… do trứng ấp nở ra, tức Noăn Sanh. Chúng sanh
trong nước như cá, tôm, cua v.v… là Thấp Sanh. Ve trên
cây mùa Hè và muỗi là Hóa Sanh. Hai giới phía trên là Sắc Giới
và Vô Sắc Giới đều là Hóa Sanh, chẳng cần phải
kết hôn, cũng chẳng cần phải thai nghén, đẻ trứng. Họ do Thiền Định
mà sanh lên đó, nên gọi là Hóa Sanh.
Toàn bộ chúng sanh trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới đều là Hóa Sanh. Chúng sanh muốn
sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhất
định phải niệm danh hiệu của A Di Đà Phật.
Tới khi quư vị lâm chung, A Di Đà Phật, Quán Âm Bồ
Tát, và Đại Thế Chí Bồ Tát sẽ đến tiếp
dẫn quư vị. Quư vị thấy A Di Đà Phật tay cầm
một cái đài hoa sen, tay phải duỗi ra, tức là muốn
tiếp dẫn chúng sanh. V́ thế, Trung Hoa tạo tượng
Tây Phương Tam Thánh đều là tượng đứng.
Các Ngài đến phương Đông tiếp dẫn chúng
sanh, biểu thị tướng mạo đại từ
đại bi tiếp dẫn chúng sanh.
“Hoa hóa sanh” là
hóa sanh trong hoa sen. Thông thường, chúng ta niệm bài kệ
Hồi Hướng: “Nguyện
sanh Tây Phương Tịnh Độ trung, cửu phẩm
liên hoa vi phụ mẫu, hoa khai kiến Phật ngộ Vô
Sanh, bất thoái Bồ Tát vi bạn lữ” (Nguyện sanh vào cơi Tây
Phương, hoa sen chín phẩm là cha mẹ ḿnh, hoa nở thấy
Phật ngộ Vô Sanh, bất thoái Bồ Tát bạn lành với ta). Chúng sanh trong thế
giới Sa Bà nhất định phải t́m được
cha mẹ th́ mới có thể đầu thai, sanh ra. Hoa sen
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chính là
cha mẹ của chúng ta. Trong đời này, quư vị đáng
nên sống đến tám mươi tuổi, chín
mươi tuổi, niệm Phật thành công, đến lúc
quả báo đă tận, Tây Phương Tam Thánh cầm hoa
sen tới tiếp dẫn quư vị. Quư vị thấy chính
ḿnh ngồi trong hoa sen, các Ngài bèn đem quư vị sang Tây
Phương. Đă tới Tây Phương, hoa sen vừa nở,
sẽ thấy A Di Đà Phật thuyết pháp cho quư vị.
Quư vị khai đại trí huệ, bèn chứng đắc Vô
Sanh Pháp Nhẫn. Vốn là phàm phu lè tè sát đất, lập
tức vượt trỗi, sanh vào địa vị Bồ
Tát, tức là chẳng bị thoái chuyển,
chẳng c̣n phải luân hồi, lưu chuyển sanh tử
trong lục đạo nữa! Đă tới Tây
Phương Cực Lạc thế giới, sẽ thường
thấy Phật, nghe pháp, toàn thể thế giới đều
là các vị thượng thiện nhân, cho đến các loài
chim, tiếng gió, tiếng cây, tiếng nước chảy,
hữu t́nh lẫn vô t́nh đều có thể thuyết pháp, [do vậy], chỉ có tiến bộ,
chẳng có nhân duyên gây lui sụt. Do đó, hễ sanh về
Tây Phương, tu tập trong một đời bèn có thể
thành Phật. Do quư vị phát đại nguyện Bồ
Đề, sanh về Tây Phương là v́ muốn học bản
lănh độ chúng sanh; quư vị chứng đắc
Vô Sanh Pháp Nhẫn, có trí huệ, thần thông, biện tài, sẽ
trở lại thế giới Sa Bà để độ chúng
sanh, gọi là “thừa nguyện
tái lai” (nương theo nguyện mà trở lại).
Trong phần trước, tán thán công đức
của nước có câu “bảo hoa thiên vạn chủng” (ngàn vạn loại hoa báu), v́
hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là
do bảy báu hợp thành, đều là hoa sen thành tựu bởi
các thứ trân bảo rất mềm mại, cho nên gọi
là “bảo hoa” (寶華, hoa báu). V́ sao ở đây gọi
là “Chánh Giác hoa”? V́ A Di Đà Phật
đă chứng đắc quả vị Phật, các hoa sen đều do thần
thông của A Di Đà Phật biến hóa ra, nên gọi là Chánh Giác Hoa.
Ở đây, vẫn phải biện định
đôi chút. “Như Lai tịnh
hoa chúng, Chánh Giác hoa hóa sanh” chẳng phải là tán thán chánh báo, mà vẫn là tán thán công đức
của y báo, v́ những vị đại Bồ Tát ấy
đều là liên hoa hóa sanh.
4.1.4.1.14. Trang nghiêm thọ
dụng công đức thành tựu
(Luận) Ái nhạo Phật pháp vị, Thiền tam-muội
vi thực.
(論)愛樂佛法味,禪三昧為食。
(Luận: Yêu thích vị Phật
pháp, Thiền tam-muội thức ăn).
Đây là loại thứ mười bốn,
tán thán sự trang nghiêm nơi thọ dụng. Chúng ta sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ thọ
dụng như thế nào? Tức là hưởng thụ
như thế nào? “Ái nhạo Phật
pháp vị” (Yêu thích mùi vị Phật
pháp): “Nhạo” (樂) là ưa thích. Chúng sanh
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, thứ
ǵ cũng đều chẳng yêu mến, chỉ ưa thích
pháp vị của Phật pháp. Đấy là sự hưởng
thụ cao cấp. “Thiền tam-muội
vi thực” (Thiền tam-muội dùng làm thức ăn): “Thiền” là Thiền lạc. “Tam-muội” dịch sang tiếng
Hán là Chánh Định. “Thiền
tam-muội” là Thiền Định. Chữ Thực (食) và chữ Vị (味) giống nhau, tức
là quư vị nếm pháp vị Thiền lạc, đấy
là một thứ hưởng thụ. Thông thường, chúng
ta niệm chú Cúng Dường: “Nhược
phạn thực thời, đương nguyện chúng sanh,
Thiền lạc vi thực, pháp hỷ sung măn” (Nếu khi ăn cơm, nguyện
cho chúng sanh, ăn món Thiền lạc, pháp hỷ tràn trề).
Các vị đại Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới chẳng cần ăn uống, các Ngài nghe Phật pháp liền sanh
khởi một loại pháp lạc. Các Ngài tĩnh tọa,
nhập Thiền Định, đắc một loại
pháp hỷ, chẳng cần ăn thứ ǵ mà vẫn chẳng
đói!
Tây Phương Cực Lạc thế giới,
ngoại trừ “ái nhạo Phật
pháp vị, Thiền tam-muội vi thực”, c̣n có các thức
ăn, nhưng chẳng cần ăn, nh́n thấy liền
no. Chúng sanh đới nghiệp văng sanh, vừa sanh vào Tây
Phương Cực Lạc thế giới, vẫn muốn
ăn thứ này, thứ nọ. Kinh Vô Lượng Thọ đă
nói rất rơ ràng: “Bỉ Phật
quốc độ, chư văng sanh giả, cụ túc như
thị thanh tịnh sắc thân, chư diệu âm thanh, thần
thông công đức. Sở xử cung điện, y phục,
ẩm thực, chúng diệu hoa hương, trang nghiêm chi cụ,
do Đệ Lục Thiên tự nhiên chi vật. Nhược
dục thực thời, thất bảo bát khí, tự nhiên tại
tiền. Kim, ngân, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách,
minh nguyệt, chân châu, như thị chư bát, tùy ư nhi chí.
Bách vị ẩm thực, tự nhiên doanh măn. Tuy hữu thử
thực, thật vô thực giả, đản kiến sắc,
văn hương, ư dĩ vi thực, tự nhiên băo túc, thân
tâm nhu nhuyễn, vô sở vị trước. Sự dĩ
hóa khứ, thời chí phục hiện” (Những người
sanh vào cơi nước Phật ấy trọn đủ sắc thân thanh tịnh,
các âm thanh mầu nhiệm, thần thông, công đức
như thế. Cung điện để ở, quần áo,
thức ăn, các thứ hoa hương mầu nhiệm, vật
trang nghiêm giống như những vật tự nhiên trong tầng
trời thứ sáu. Nếu lúc muốn ăn, chén bát bằng
bảy báu tự nhiên hiện ra trước. Vàng, bạc,
lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, minh nguyệt,
chân châu, các thứ bát như thế tùy ư hiện đến.
Thức ăn trăm vị, tự nhiên đầy ắp.
Tuy có những món ăn ấy, chẳng thật sự
ăn, chỉ thấy sắc, ngửi mùi, bèn nghĩ là
đă ăn, tự nhiên no đủ, thân tâm mềm mại,
chẳng tham đắm mùi vị. Xong chuyện, những thứ
ấy bèn biến mất, đến thời lại hiện
ra). Quư vị muốn ăn thứ ǵ ư? Tùy thời đều
có. Quư vị muốn dùng chén bát ǵ ư? Chén bát liền hiện
ra trước mặt quư vị. Nhưng chúng sanh trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới là liên hoa hóa sanh,
thân thể thanh tịnh, chẳng cần phải ăn uống
để bồi bổ. Quư vị có vọng tưởng,
muốn ăn món ǵ đó, nó liền hiện ra, mắt trông
thấy màu sắc, mũi vừa ngửi mùi hương liền
no, chẳng cần thật sự ăn uống! Đă
ăn no, những thức ăn biến hiện ấy tự
nhiên biến mất. Quư vị lại dấy vọng tưởng,
muốn ăn những thứ thức ăn khác, những
thứ ấy lại hiện ra trước mặt quư vị.
Chúng sanh trong thế giới Sa Bà do quả
báo xen tạp khổ lạc, khổ nhiều, lạc ít. Lạc
là cái nhân gây ra khổ, nỗi khổ quá nhiều, vui sướng
quá ít, chẳng có niềm vui sướng thật sự! V́
chẳng có sự vui sướng, bèn biến thành nỗi thống
khổ! Khổ theo kiểu nào? Chẳng hạn như chúng
sanh trong thế giới Sa Bà tưởng ăn uống là sự
hưởng thụ bậc nhất. Chỉ cần là chúng sanh,
đều mong ăn chi đó. Do v́ hết thảy chúng sanh
đều yêu tiếc thân mạng, ắt cần phải
ăn uống th́ sanh mạng mới có thể tiếp tục
duy tŕ. Bất quá quư vị đừng nên tham ăn. Như
thường nói: “Hạ hầu
tam thốn thành hà vật? Bất dụng tương tâm tế
giảo lượng” (Xuống khỏi cổ họng ba
tấc thành vật ǵ vậy? Đừng nên bận tâm so
đo chi ly). Quư vị hăy ngẫm xem: Quư vị ăn thứ
chi đó ngon lành, lọt vào cổ họng xuống đến
dạ dày, lại tiêu hóa nơi ruột, sẽ biến thành
đại tiện. Tới khi đó, đều biến
thành những thứ gớm tởm. V́ thế, quư vị
tham ăn, ăn càng ngon, càng cảm thấy hưởng thụ.
Thật ra, vào cổ họng, đều biến thành thứ
thối tha, đấy chẳng phải là tội lỗi ư?
Tham ăn vẫn chưa phải là tội lỗi lớn, nhưng
do quư vị tham ăn, cái tâm tham sẽ phát triển. Hễ
phát triển, sẽ chẳng chán đủ. Muốn ăn
ngon th́ phải ăn thịt chúng sanh. Có loài chúng sanh nào chẳng
sợ chết, chẳng yêu mến mạng sống? V́ muốn
bảo dưỡng sanh mạng của quư vị mà giết
chết sanh mạng của chúng nó, đấy chẳng phải
là tội lỗi to lớn ư?
Sát hại mạng của chúng sanh,
đương nhiên là chẳng hợp đạo lư;
nhưng nếu chẳng ăn thịt chúng sanh, chẳng thể
sống sót, th́ xét theo t́nh người, vẫn c̣n tạm chấp
nhận được. Bởi lẽ, quư vị chẳng
ăn thịt chúng sanh, sẽ không thể sống nổi.
Chẳng hạn như tại Mông Cổ hay Tây Tạng,
ngũ cốc, các loại lương thực chẳng sanh trưởng, phải ăn thịt
chúng sanh. Đó là t́nh huống đặc thù, c̣n như nội
địa của chúng ta th́ có gạo, bột ḿ, rau dưa,
cớ ǵ cứ phải ăn thịt chúng sanh?
* Giải trừ nghi hoặc
Hỏi: Có kẻ ngoài những thực phẩm
thông thường ra, nhất định phải ăn thịt
chúng sanh, cho là những thứ ấy cần thiết để
bổ dưỡng thân thể?
Đáp: Thời cổ, y dược chẳng
phát triển. Nếu ai sanh bệnh, ăn uống không nổi,
không dùng đôi chút thuốc bổ th́ làm sao được?
Hiện thời, y dược phát triển, thân thể thiếu
thốn loại vitamin nào, đều có thể mua được,
quư vị cần ǵ phải ăn thịt chúng sanh để
bổ dưỡng thân thể? Thật ra, quư vị ăn thịt
chúng sanh là v́ cái tâm tham ăn, v́ nghĩ thịt chúng sanh ăn
ngon miệng. Nếu chúng ta chẳng học Phật pháp, chẳng
phát tâm từ bi, tôi chẳng bàn những đạo lư này
cùng quư vị. Nếu quư vị học Phật pháp, phát tâm từ
bi, nhất định chẳng ăn thịt chúng sanh. Chúng
ta hưởng thụ những thứ ngon lành, ăn thịt
chúng sanh, chạm vào đầu lưỡi sanh ra vị ngon,
ngỡ đó là một loại hưởng thụ. Nếu
chẳng ăn thịt chúng sanh, chẳng thể duy tŕ sanh mạng
th́ c̣n có thể tha thứ được,
v́ phải ăn để cứu tánh mạng của quư vị.
Do quư vị tham ăn thịt chúng sanh, chúng sanh hứng chịu đau khổ quá lớn,
quư vị đạt được sự hưởng thụ
quá ít. Nếu quư vị có tâm từ bi thương yêu, bảo
vệ chúng sanh th́ phải nên ăn chay.
Hỏi: Có kẻ tham ăn thịt chúng sanh,
cho rằng thịt có hương
vị rất thơm, ăn vào miệng mùi vị rất
ngon?
Đáp: Thịt chúng sanh hoàn toàn chẳng phải
là thật sự thơm tho. Ăn vào miệng th́ hương vị
cũng chẳng thật sự ngon lành! Phật giáo nói theo
Lư, chẳng phải là đoán ṃ. Khi quư vị ăn mặn,
ăn cải trắng, đậu hũ, vẫn là
hương vị của cải trắng, đậu
hũ. Tới khi quư vị ăn chay trường, lại
ăn cải trắng, đậu hũ, hương vị
vẫn chẳng thay đổi. Có thể thấy đó là
chánh vị. Quư vị cảm giác đồ mặn có
hương vị rất ngon, đấy là một thứ cảm giác sai lầm do thói quen. Quư vị vừa
ăn chay, có người đút cho quư vị một miếng
đồ mặn, vừa ngửi, sẽ cảm thấy
tanh hôi, nhưng vẫn ăn được. Quư vị
ăn chay ba tháng, lại bảo quư vị ăn thịt,
ăn vào miệng, nuốt xuống chẳng nổi! Quư vị
ăn chay hơn sáu tháng, trước kia ngửi đồ
mặn, cảm thấy rất thơm, nay ngửi đồ
mặn, sẽ là vị tanh hôi, cảm thấy muốn ọe
ra, có thể thấy đó chẳng phải là hương vị
tốt đẹp. V́ thế, hiện thời quư vị
ăn mặn, ngỡ là hương vị thơm ngon, [thật
ra] là cái tâm tham dục của quư vị làm hại quư vị
dấy lên quan niệm sai lầm!
Hỏi: Có một thứ lư luận: “Tâm tốt
cần ǵ phải ăn chay?”
Đáp: Điều này không chỉ là mê
nơi Sự, mà c̣n mê nơi Lư. Kẻ chẳng phát tâm ăn
chay, tâm chẳng kiên cố. Thoạt nghe lư luận “tưởng
như là đúng, thật ra sai bét” ấy, ngỡ là đúng,
trên thực tế, đó là một thứ tà tri kiến.
Thương thiên, hại lư, không ǵ hơn chuyện muốn
đ̣i mạng của chúng sanh. Mạng của chúng sanh duy
nhất, chẳng hai; [mỗi chúng sanh] chỉ có một
cái mạng, quư vị ham muốn cái mạng tôn quư nhất của
chúng nó, ăn thịt chúng nó, cứ nói là tâm quư vị tốt
lành! Phải như thế nào th́ mới là cái tâm xấu xa vậy
nhỉ?
Hỏi: Có kẻ biết ăn chay là tốt,
cũng biết ăn mặn chẳng đúng, nhưng [cảm
thấy] ăn chay th́ quá đáng tiếc?
Đáp: Phải biết đấy là thói quen.
Nay quư vị không ăn chay
nổi
là v́ quư vị chẳng quan sát nỗi đau khổ của
chúng sanh. Nếu quư vị nghĩ chúng sanh bị giết
chóc rất đau khổ, sẽ chẳng nhẫn tâm ăn!
Dần dần, quư vị sẽ
dưỡng thành thói quen ăn chay, lại bảo quư vị
ăn mặn, quư vị sẽ nuốt chẳng nổi!
Hỏi: Tôi đă sớm muốn phát tâm
ăn chay, bất quá khó tránh khỏi chuyện thù tạc
trong xă hội. Chẳng uống chút rượu, chẳng
ăn chút thịt, làm việc trong xă hội chẳng phải
là sẽ không làm nổi ư?
Đáp: Nhất định cần phải
thù tạc th́ trước đó, quư vị có thể cho
đối phương biết quư vị ăn chay. Trong mâm
cỗ, bày một ít rau dưa, trong chén rượu của
quư vị, hăy rót trà vào. Khi thù tạc,
họ ăn thịt của họ, quư vị ăn đồ
chay của chính ḿnh, họ uống rượu của họ,
quư vị uống trà của chính ḿnh. Đấy là
phương tiện quyền xảo trong thù tạc, quư vị
đừng biến nó thành chuyện thật. Quư vị phải
nên biết: Thù tạc nhằm đôi bên đều đạt
được lợi ích. Chỉ cần họ có thể
đạt được lợi ích từ bản thân quư vị,
quư vị chẳng bồi tiếp họ uống rượu,
ăn thịt vẫn được. Do vậy, cổ nhân nói:
“Bần cư náo thị vô nhân
vấn, phú tại thâm sơn hữu
viễn thân” (Nghèo giữa chợ đông, chẳng ai hỏi,
giàu lánh núi sâu, có khách xa). Quư vị có chuyện thù tạc là v́ hiện thời
quư vị có của cải, có địa vị, mọi
người bận ḷng toan tính, mong t́m được lợi
ích từ bản thân quư vị. Nếu quư vị nghèo túng, chẳng
có địa vị, mọi người chẳng đạt
được lợi ích từ trên thân quư vị, quư vị
đứng giữa ngă tư cũng chẳng có ai hỏi
đến. Ai c̣n bồi tiếp quư vị ăn thịt, uống
rượu nữa ư? Một khi quư vị giàu có, không chỉ
là ở tại đô thị có nhiều thân thích bằng hữu,
mà ở trong núi thẳm, họ hàng xa lắc xa
lơ đều t́m đến thăm hỏi. V́ mọi
người đều mong đạt được lợi
ích từ nơi thân quư vị.
Quư vị tham ăn thịt chúng sanh, một người
sát hại sanh mạng, tội lỗi vẫn chưa kể
là lớn nhất, nhưng v́ quư vị muốn thù tạc,
thân thích bằng hữu đông đảo, mọi người
đều muốn ăn thịt chúng sanh, hôm nay quư vị mời
năm bảy bàn tiệc. Hăy xem đi, quư vị đă sát hại
bao nhiêu sanh mạng? Đấy mới là tội lỗi to lớn.
Tu hành phải đoạn phiền năo, phiền năo do ăn
uống khó đoạn nhất. V́ chẳng ăn, sẽ chẳng
thể sống sót. Trước hết, đừng nên sát hại
sanh mạng, quư vị hăy ăn chay, từ từ tu hành. Sanh
về Tây Phương Cực Lạc thế giới, ngay cả
đồ chay cũng chẳng cần ăn, mắt nh́n,
mũi ngửi, liền no nê. Lại tiến thêm bước
nữa, nghe Phật pháp, pháp hỷ làm thức ăn;
tĩnh tọa th́ Thiền duyệt làm thức ăn, ngay cả
nh́n cũng chẳng cần phải nh́n, ngửi cũng chẳng
cần phải ngửi, vẫn có thể sống y hệt.
Hỏi: “Thiền
duyệt làm thức ăn, pháp hỷ ngập tràn”, nói
như vậy quá cao, chúng tôi c̣n chưa sanh về Tây
Phương, c̣n chưa đạt đến cảnh giới
ấy! Có thể nêu ra một trường hợp nhằm
chứng tỏ cảnh giới ấy là như thế nào
hay chăng?
Đáp: Nay tôi chứng minh đôi chút. Quư vị
mong đến nghe Văng Sanh Luận, ban ngày phải đi làm;
nếu tan sở, về nhà ăn tối rồi mới tới
đây nghe kinh, sẽ chẳng kịp thời gian. Quư vị
ôm bụng đói đến nghe kinh, do có tâm ưa thích cầu
pháp mà đến. Nếu quư vị nghe nội dung lời giảng
của tôi, cảm thấy chẳng thể nào hoan hỷ nổi,
vọng tưởng dấy lên, nghĩ buổi tối c̣n
chưa ăn tối, ngồi chẳng yên, càng nghe càng
đói nẫu ruột, dẫu nghe pháp mà chẳng đạt
được pháp hỷ. Trái lại, nếu quư vị cảm
thấy tôi giảng rất hay, nghe hết sức hoan hỷ,
sẽ nghĩ thầm: “Pháp sư Đạo Nguyên giảng
hay quá, giảng đă quá”. Đạt được pháp hỷ,
chẳng đói bụng, đến khi về nhà, quên khuấy
bữa tối, v́ quư vị đă dùng pháp hỷ làm thức
ăn.
“Thiền duyệt làm thức
ăn” là chẳng hạn như
sáng sớm mỗi ngày quư vị có công khóa nhất định,
phải tĩnh tọa một giờ hoặc nửa giờ.
Tĩnh tọa xong, ăn điểm tâm rồi đi làm. Nếu
hôm nay quư vị chẳng tĩnh tọa tốt đẹp,
dấy vọng tưởng, vọng tưởng dẫn dắt
vọng tưởng, tâm chẳng tĩnh được. Thân
thể ngồi chẳng nổi, đùi đau, eo nhức,
toàn thân khó chịu, cảm thấy bụng đói, vốn dự
định tĩnh tọa nửa tiếng rồi mới
đứng dậy ăn sáng. Khi ấy, ngồi mấy phút
vẫn chẳng được, nhất định phải
đứng lên ăn ǵ đó. Đấy là quư vị chẳng
đạt được Thiền duyệt. Nếu hôm nay quư
vị tĩnh tọa bèn nhập Định, thông thường
ngồi một tiếng đồng hồ cảm thấy
thời gian rất dài. Hôm nay, cả tiếng đồng hồ
mà giống như một sát-na trôi qua, toàn thân thoải mái,
chẳng ăn sáng, cũng chẳng cảm thấy đói.
Đấy là đạt được một loại pháp
hỷ trong Thiền Định, [dùng] Thiền duyệt làm thức
ăn. Thế giới Sa Bà có pháp hỷ là trùng hợp mà gặp,
chẳng phải là công phu dài lâu. Sanh về Tây Phương
Cực Lạc thế giới, hằng ngày đều có pháp hỷ và Thiền
duyệt. Đấy là chỗ tốt đẹp do sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới.
4.1.4.1.15. Trang nghiêm vô
chư nạn công đức thành tựu
(Luận) Vĩnh ly thân tâm năo, thọ lạc thường
vô gián.
(論)永離身心惱,受樂常無間。
(Luận: Măi ĺa thân tâm khổ,
hưởng vui thường chẳng ngớt).
Đây là loại thứ mười lăm,
tán thán sự trang nghiêm không có các nạn. “Vĩnh ly thân tâm năo” (Vĩnh viễn xa ĺa nỗi khổ năo
nơi thân, nơi tâm): Chịu lạnh, chịu nóng, ngă bệnh;
đấy là phiền năo nơi thân. Bị người khác ganh tỵ, chướng ngại,
tự ḿnh sanh tham, sân, si; đấy là phiền năo trong tâm.
Sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới, những
nỗi phiền năo nơi thân thể và cái tâm đều xa ĺa, vĩnh viễn
chẳng chịu khổ, mắc nạn. “Thọ lạc thường vô gián” (Thường hưởng vui,
chẳng gián đoạn): Lạc trong thế giới Sa Bà có
gián đoạn, lạc ít, khổ nhiều. Sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, lạc dài lâu,
trong ấy chẳng có các thứ khổ nạn. Đấy
là sự thành tựu công đức
“không có các nạn”.
4.1.4.1.16. Trang nghiêm đại
nghĩa môn công đức thành tựu
(Luận) Đại Thừa thiện căn giới,
đẳng vô cơ hiềm danh. Nữ nhân cập căn
khuyết, Nhị Thừa chủng bất sanh.
(論)大乘善根界,等無譏嫌名。女人及根缺,二乘種不生。
(Luận: Cơi Đại Thừa
thiện căn, trọn không tên cơ hiềm. Nữ nhân và
căn khuyết, giống Nhị Thừa chẳng sanh).
Đây là loại thứ mười sáu, tán
thán sự trang nghiêm của pháp môn nghĩa lư Đại Thừa.
Tây Phương Cực Lạc thế giới toàn là tu pháp
môn Đại Thừa. “Đại
Thừa thiện căn giới” (Cơi thiện căn Đại Thừa): Tây
Phương Cực Lạc thế giới toàn nói đến
nghĩa lư Đại Thừa, là một thế giới theo
thiện căn Đại Thừa. “Đẳng vô cơ hiềm danh” [nghĩa là] chẳng
cần nói có sự thật phát sanh, ngay cả những danh
xưng gây nên sự chê gièm, ghét bỏ đều chẳng
nghe thấy. “Nữ nhân” là
danh xưng tỵ hiềm, Tây Phương Cực Lạc thế
giới chẳng có nữ nhân. “Cập
căn khuyết” (Và kẻ thiếu
căn): Kẻ sáu căn chẳng đầy đủ, hoặc
là mắt đui, tai điếc, hoặc thiếu một
tay, một chân, sáu căn bị tàn khuyết. Tây Phương
Cực Lạc thế giới chẳng có kẻ sáu căn
không đầy đủ. “Nhị Thừa chủng
bất sanh” (Chủng tánh Nhị Thừa chẳng sanh vào
Cực Lạc): Tây Phương Cực Lạc thế giới
chẳng có hàng Nhị Thừa. Quả vị cao nhất của
hàng Nhị Thừa là chỉ
có thể thành A La Hán, chẳng thể thành Phật quả.
Có người nghe tới đây bèn nói “nữ nhân chẳng thể sanh về Tây Phương”
ư? Chẳng phải như vậy! Nữ nhân niệm Phật
sanh về Tây Phương, sẽ biến thành nam nhân. Kẻ
sáu căn không đầy đủ, niệm Phật sanh về
Tây Phương, sẽ biến thành sáu căn trọn đủ. Hàng Nhị Thừa
hồi Tiểu hướng Đại, niệm Phật sanh
về Tây Phương, sẽ biến thành bậc Đại
Thừa. [V́ lẽ này], Tây Phương chẳng
có nữ nhân, chẳng có kẻ sáu căn không đầy
đủ và hàng Nhị Thừa. Chẳng phải là nữ
nhân, kẻ sáu căn chẳng trọn đủ và hàng Nhị
Thừa không thể sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới!
Kinh A Di Đà tán thán Tây Phương Cực Lạc
thế giới toàn là bậc Đại A La Hán, vô lượng
vô biên. Kinh Vô Lượng Thọ cũng nói Tây Phương
Cực Lạc thế giới có Thanh Văn chúng. Đấy
là các vị Thanh Văn khi ở thế giới Sa Bà, trước
đó, đă tu theo Thanh Văn Thừa, hồi Tiểu
hướng Đại, niệm Phật sanh về Tây
Phương, bèn dùng danh xưng vốn sẵn có của họ, vẫn gọi là Thanh
Văn. Các vị ấy trước đó đă chứng
đắc A La Hán, sau đấy mới lại chuyển
thành chủng tánh Đại Thừa.
4.1.4.1.17. Trang nghiêm công đức thành
tựu thỏa măn hết thảy những điều mong
cầu
(Luận) Chúng sanh sở nguyện nhạo, nhất
thiết năng măn túc. Thị cố nguyện sanh bỉ, A
Di Đà Phật quốc.
(論)眾生所願樂,一切能滿足。是故願生彼,阿彌陀佛國。
(Luận: Điều chúng sanh
mong thích, hết thảy đều thỏa măn. Do vậy, nguyện
sanh về, cơi A Di Đà Phật).
Đây là loại thứ mười bảy,
tán thán sự trang nghiêm “thỏa măn hết thảy những
điều mong cầu”. Trong thế giới Sa Bà, cầu
điều ǵ cũng đều chẳng thể măn nguyện;
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, những
điều mong cầu đều có thể măn nguyện. “Chúng sanh sở nguyện nhạo,
nhất thiết năng măn túc” (Những điều mong muốn, ưa thích
của chúng sanh, hết thảy đều có thể thỏa
măn): Quư vị ưa thích, mong muốn ǵ, hết thảy
đều có thể thỏa măn nguyện của quư vị.
“Thị cố nguyện sanh bỉ,
A Di Đà Phật quốc” (Do vậy, nguyện sanh về cơi nước
của A Di Đà Phật): Quan sát Tây Phương Cực Lạc
thế giới có các thứ trang nghiêm, cho nên tôi là Thiên Thân mới
nguyện sanh vào nước An Lạc của A Di Đà Phật.
Thiên Thân Bồ Tát dùng ba môn quan sát để
quan sát hai thứ y báo và chánh báo của Tây Phương Cực
Lạc thế giới; trước hết là quan sát sự
trang nghiêm nơi y báo của Tây Phương Cực Lạc
thế giới, tổng cộng có mười bảy loại sự tướng trang nghiêm,
trên đây đă giảng xong rồi. Nay lại quan sát chánh
báo, tức là sự trang nghiêm của Phật và Bồ Tát. Trước
hết, quan sát sự trang nghiêm của Phật gồm tám thứ.
Đầu tiên, nói về loại thứ nhất, tức
quan sát sự trang nghiêm nơi ṭa hoa sen của A Di Đà Phật.
4.1.4.2. Quan sát sự
trang nghiêm do công đức thành tựu của đức Phật
ấy (chia thành tám đoạn)
4.1.4.2.1. Sự trang nghiêm
do công đức thành tựu nơi bảo ṭa
(Luận) Vô lượng đại bảo
vương, vi diệu tịnh hoa đài.
(論)無量大寶王,微妙淨華臺。
(Luận: Vô lượng đại
bảo vương, đài hoa tịnh, vi diệu).
Đây là loại thứ nhất, tán thán công
đức của ṭa hoa sen. “Vô
lượng đại bảo vương”: Theo cách giải thích thứ nhất, “đại bảo vương” là chất báu Thích
Ca Tỳ Lăng Già (釋迦毗楞伽, Śakrābhilagna-maṇi-ratna). Chất báu
Thích Ca Tỳ Lăng Già to lớn chẳng thể nghĩ
bàn, là vua của các thứ báu. Bảo châu to lớn, chẳng
có kích thước, trang nghiêm vượt trỗi sự
tưởng tượng của phàm phu. Dẫu dùng con số
trăm ngàn vạn ức [để sánh ví], vẫn chẳng
thể tính toán được, nên gọi là “vô lượng”. Theo cách giải thích thứ hai, chẳng
phải là một đại bảo vương, mà là vô
lượng vô số
đại bảo vương để trang nghiêm một
pháp ṭa.
“Vi diệu tịnh
hoa đài” tức là đài hoa sen thanh tịnh, đều
được trang nghiêm bởi vô lượng số bảo
vương chẳng thể nghĩ bàn để
trang nghiêm. A Di
Đà Phật ngồi trên đài hoa sen, chính giữa có một
đài gương sen. Đấy là loại trang nghiêm thứ
nhất của A Di Đà Phật. Tiếp đó, tán thán sự
trang nghiêm nơi ba nghiệp thân, miệng, ư của A Di
Đà Phật.
4.1.4.2.2. Trang nghiêm thân
nghiệp công đức thành tựu
(Luận) Tướng hảo quang nhất tầm, sắc
tượng siêu quần sanh.
(論)相好光一尋,色像超群生。
(Luận: Tướng hảo
quang một tầm, h́nh sắc trỗi muôn loài).
Đây là loại [trang nghiêm] thứ hai
[nơi chánh báo của Phật]; trước hết là tán
thán công đức nơi thân nghiệp của A Di Đà Phật.
“Tướng hảo quang nhất
tầm” (Quang minh nơi tướng
hảo [trên thân Phật] chiếu xa một tầm): Tướng
hảo trên thân thể [đức Phật] có quang minh,
như Thích Ca Mâu Ni Phật là Ứng Thân Phật, có ba
mươi hai thứ tướng, tám mươi thứ hảo,
trên thân có quang minh, [thân Ngài] cao chừng một trượng.
A Di Đà Phật ở Tây Phương Cực Lạc thế
giới, hiện tướng Báo Thân Phật, thân có vô lượng
tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo, mỗi
thứ hảo có vô lượng quang minh.
Đức Phật tỏa ra quang minh, có phóng
quang và thường quang. “Phóng quang”
(放光) là quang minh tỏa ra khi Ngài thuyết
pháp độ chúng sanh. “Thường
quang” (常光) là quang minh thường chiếu
ra xa. Ở đây, [Văng Sanh Luận] nói đến thường
quang, tức là quang minh vĩnh viễn nơi thân thể của
Ngài. “Thường quang nhất
tầm”: Tại Trung Hoa, cứ sáu thước gọi là
một Tầm (尋). Ở đây, chẳng
thể giải thích như vậy. V́ Báo Thân Phật phải
dùng vô lượng để giải thích. Quư vị thấy
kinh Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật
đă miêu tả thân lượng của A Di Đà Phật
[như sau]: “Sáu mươi vạn
ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần”. Ấn Độ
có con sông Hằng, trong sông Hằng có rất nhiều hạt
cát rất mịn. Mỗi hạt cát coi như là một do-tuần.
“Do-tuần” (Yojana) dịch
sang tiếng Hán là Dịch Trạm (驛站). Dịch (驛) là ruổi ngựa. Chánh
phủ muốn truyền công văn khẩn cấp nhất,
[bèn lập ra các dịch trạm, phu đưa công văn
thúc ngựa chạy từ trạm này sang trạm khác sẽ
đổi ngựa], khoảng cách giữa mỗi trạm
chính là một do-tuần. Hiện thời, có thể nói là
khoảng cách giữa hai trạm xe lửa là một do-tuần,
mọi người sẽ dễ hiểu. Theo cách đo
lường của Ấn Độ, tiểu do-tuần là bốn
mươi dặm, trung do-tuần là sáu mươi dặm,
đại do-tuần là tám mươi dặm. [Thân lượng
của A Di Đà Phật] là sáu mươi vạn ức na-do-tha
hằng hà sa số do-tuần. Tuy có một con số,
nhưng con số ấy là vô lượng.
“Sắc tượng
siêu quần sanh”: Đây là tán thán tướng mạo
nơi thân nghiệp của đức Phật đặc
biệt trang nghiêm, không chỉ vượt trỗi lục
phàm pháp giới, mà c̣n vượi trỗi tam thừa thánh
nhân pháp giới, vượt trỗi hết thảy chúng
sanh trong chín pháp giới!
4.1.4.2.3. Trang nghiêm khẩu
nghiệp công đức thành tựu
(Luận) Như Lai vi diệu thanh, phạm hưởng
văn thập phương.
(論)如來微妙聲,梵響聞十方。
(Luận: Như Lai tiếng vi diệu, âm Phạm vọng
mười phương).
Đây là loại thứ ba, tán thán công đức
nơi khẩu nghiệp của A Di Đà Phật. “Như Lai vi diệu thanh” (Âm thanh vi diệu của Như
Lai): A Di Đà Phật thuyết pháp là pháp âm vi diệu chẳng
thể nghĩ bàn. “Phạm
hưởng”: Phạm (梵) là thanh tịnh, Hưởng
(響) là âm thanh. A Di Đà Phật
thuyết pháp là âm thanh thanh tịnh. Quư vị nghe A Di Đà
Phật thuyết pháp, có thể trừ khử hết thảy
ô nhiễm phiền năo. “Văn
thập phương” (Nghe thấu mười phương): Mười
phương thế giới chúng sanh, chỉ cần niệm
danh hiệu của A Di Đà Phật, phát nguyện sanh về
Tây Phương, đều có thể trông thấy tướng của A
Di Đà Phật, mà cũng có thể nghe A Di Đà Phật
thuyết pháp.
Có người hỏi: “Mười
phương thế giới chúng sanh đều có thể thấy,
nghe. V́ sao tôi chẳng thấy tướng của A Di Đà
Phật, chẳng nghe pháp âm của A Di Đà Phật?”
[Đáp]: Chướng ngại không ở nơi A Di Đà Phật,
mà ở chính quư vị. Nếu quư vị nhất tâm quy mạng
A Di Đà Phật, dùng sanh mạng để chí tâm kiền
thành lễ bái, chẳng có hai niệm. Quư vị lễ bái Phật
như vậy, sẽ có thể thấy thân tướng của
A Di Đà Phật. Quư vị niệm danh hiệu của Phật,
có thể niệm đến mức nhất tâm bất loạn.
Không chỉ là có thể thấy thân tướng của A Di
Đà Phật, mà c̣n có thể nghe A Di Đà Phật thuyết
pháp cho quư vị.
Thành Phật, chứng đắc bản tánh
của hết thảy các pháp, chứng đắc Pháp Tánh
Thân, gọi là Pháp Thân Phật. Bồ Tát tu hành, nơi sự
tướng th́ phải tu Lục Độ vạn hạnh,
tu nhân hạnh trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp
để trang nghiêm quả đức, tức Báo Thân Phật.
Nhân quả phải tương ứng, Báo Thân Phật và Pháp
Thân Phật chẳng thể nói là một, v́ Báo Thân Phật
từ Pháp Thân Phật hiện ra. Do đó, Báo Thân Phật chẳng
phải là Pháp Thân Phật. Nhưng cũng chẳng thể nói là hai thứ,
v́ Pháp Thân Phật không có tướng. Chúng ta thấy tướng
Ứng Thân Phật, c̣n gọi là Hóa Thân Phật, hoặc Ứng
Hóa Thân Phật. Ứng Hóa Thân Phật chia thành ba loại:
Đại Hóa Thân Phật, tiểu Hóa Thân Phật, và tùy loại
Hóa Thân Phật. Đại Hóa Thân Phật giáo hóa một tam
thiên thế giới. Một tam thiên thế giới có một
trăm ức tiểu thế giới. Mỗi tiểu thế
giới đều có tiểu Hóa Thân Phật. Đại Hóa
Thân Phật giáo hóa một tam thiên đại thiên thế giới,
[thân ấy] cao một ngàn trượng. Tiểu Hóa Thân Phật
giáo hóa một tiểu thế giới, [thân tướng giống]
như đức Phật Thích Ca thị hiện tại Ấn
Độ, cao một trượng sáu thước.
Có thể thấy Phật tướng bằng
cách nào? Quư vị nghiêm túc tu hành, thiện căn chín muồi,
quư vị đáng nên thấy tiểu Hóa Thân Phật, bèn thấy
tiểu Hóa Thân Phật; đáng nên thấy đại Hóa
Thân Phật, sẽ thấy đại Hóa Thân Phật. Phật
chẳng có thân nào là thấy, thân nào là không thấy! Tùy thuộc
công phu tu hành của quư vị như thế nào, sẽ thấy
tướng Phật bất đồng. Chúng ta chẳng
đủ thiện căn, chẳng thấy đại Hóa
Thân Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật đă nhập Niết Bàn
hơn hai ngàn năm, chúng ta mới xuất thế, tiểu
Hóa Thân Phật cũng chẳng thấy. Đức Phật
thường độ chúng sanh trên thế giới, Ngài dùng
tùy loại Hóa Thân để xuất hiện. Quư vị
đáng nên thấy nam cư sĩ mà đắc độ, Ngài sẽ hiện
thành nam cư sĩ. Quư vị đáng nên thấy nữ cư
sĩ bèn đắc độ, Ngài bèn hiện thành nữ cư
sĩ. Quư vị đáng nên đối trước tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni mà đắc độ, Ngài bèn hiện thành một
vị tỳ-kheo hoặc tỳ-kheo-ni. Quư vị thấy
trong phẩm Phổ Môn, Quán Thế Âm Bồ Tát có ba
mươi ba Ứng Thân. Theo kinh Lăng Nghiêm, Quán Thế Âm
Bồ Tát có ba mươi hai Ứng Thân, [những thân ấy]
đều gọi là “tùy loại
Hóa Thân”.
Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới,
A Di Đà Phật thành Phật đă mười kiếp. V́
sao biết ngày Mười Bảy tháng Mười Một
âm lịch là sinh nhật của A Di Đà Phật? Ngày
Mười Bảy tháng Mười Một âm lịch vốn
là sinh nhật của thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ.
V́ sao coi sinh nhật của Thiền sư Diên Thọ là sinh
nhật của đức Di Đà? V́ vào cuối thời
Ngũ Đại[2], A Di Đà
Phật ứng hóa làm Thiền sư Diên Thọ. Ngài được
Ngô Việt Vương Tiền Thục hết sức lễ
kính, tôn trọng. Ngô Việt Vương thường thiết
trai cúng Tăng. Có một hôm, Ngô Việt Vương hỏi
Thiền sư Diên Thọ: “Trong công án nhà Phật có nói, khi
trai tăng, sẽ có Phật, Bồ Tát, A La Hán đến ứng
cúng. Cớ sao chẳng
thấy có một vị nào đến ứng cúng, có phải là v́ chúng ta chẳng
đủ kiền thành nên chẳng có cảm ứng?” Thiền
sư Diên Thọ đáp: “Cao tăng đông lắm, đáng
tiếc là chẳng có ai nhận ra! Tại Hàng Châu có một
vị Trường Nhĩ ḥa thượng (ḥa thượng
có trái tai rất dài), chính là Định Quang Phật tái lai thị
hiện. Nếu bệ hạ có thể cúng dường
Ngài, ắt được đại phước báo”. Ngô
Việt Vương nói: “Nếu Trường Nhĩ ḥa
thượng là Định Quang Phật tái lai thị hiện,
ta ngay lập tức trai tăng cúng dường Ngài!” Ngày hôm
đó, Trường Nhĩ ḥa thượng cũng đến
tham dự pháp hội trai tăng, nhưng các cư sĩ thấy
Ngài lôi thôi, nhếch nhác, áo ca-sa rách rưới, bẩn thỉu,
tướng mạo chẳng trang nghiêm, nói năng khật
khà khật khùng, chẳng tôn trọng Ngài cho lắm. Trường
Nhĩ ḥa thượng cảm thấy mọi người
chẳng hoan nghênh Ngài, đang chuẩn bị rời đi.
Khi ấy, Ngô Việt Vương trông thấy Trường
Nhĩ ḥa thượng, cung kính lễ bái Ngài, nhất định
muốn mời Ngài ngồi vào vị trí bậc nhất.
Trường Nhĩ ḥa thượng hỏi: “Sao hôm nay nhà vua
đối xử lễ độ với tôi như vậy?”
“Nghe nói Ngài là Định Quang Phật hiện thân” “Làm sao bệ
hạ biết tôi là Định Quang Phật?” “Do Thiền
sư Diên Thọ bảo trẫm”. “Di Đà lắm mồm!”
Trường Nhĩ ḥa thượng nói câu ấy xong, bèn ngồi
ở ghế trên, đợi tới khi cơm nước chuẩn
bị xong xuôi, Trường Nhĩ ḥa thượng vẫn ngồi
bất động, Ngài đă tọa hóa rồi!
Ngô Việt Vương nhớ lại Trường
Nhĩ ḥa thượng đă nói: “Di
Đà lắm mồm!” “Lắm mồm” là thích nói, [câu ấy
có nghĩa là] A Di Đà Phật ưa nói. Bỗng nhiên, vua ngộ
ra: Thiền sư Diên Thọ nhất định là A Di
Đà Phật tái lai! Nếu không, làm sao Ngài biết Trường
Nhĩ ḥa thượng là Định Quang Phật? Do vậy,
vua ngay lập tức sang đạo tràng Vĩnh Minh Tự
của Thiền sư Diên Thọ, tới khi vua đến
nơi th́ Thiền sư Diên Thọ cũng tọa hóa rồi!
Trường Nhĩ ḥa thượng và Thiền
sư Diên Thọ như vừa nói trên đây, đều là
tùy loại Hóa Thân. Do vậy, chúng ta phải biết: Chẳng
thấy Phật là do thiện căn của chúng ta không
đủ. Chúng ta phải đối trước thiện
tri thức, gieo thiện căn nơi Phật pháp, giữ
ḷng cung kính, tôn trọng các vị ấy như Phật, Bồ
Tát. Mật Tông Tây Tạng so với Hiển Giáo của Trung Hoa th́ càng tôn trọng
người xuất gia. Mật Tông Tây Tạng nói đến
Tứ Y, trước hết là quy y Kim Cang Thượng
Sư, sau đó là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, v́ Kim
Cang Thượng Sư là vị sư phụ mà ta quy y trong
hiện tại. Chẳng có Kim Cang Thượng Sư giảng
Phật pháp, làm sao có thể biết đến Phật,
Pháp, Tăng Tam Bảo? Chúng ta chẳng thấy Ứng Thân Phật,
chẳng thể trách Phật, chỉ trách chúng ta chẳng
đủ thiện căn.
C̣n có một kiến thức thông thường
trong Phật giáo, mọi người cần phải biết:
Phật giáo chẳng phải là tà ma ngoại đạo, mà
là một loại chánh đạo, là giáo lư chánh thống
để giáo hóa chúng sanh. Trước tiên, giảng giải
đạo lư cho quư vị, khiến cho quư vị nẩy sanh
tín tâm, có thể khai ngộ, có thể tu hành, có thể chứng
quả, dùng từ bi để giáo hóa chúng sanh. Có thần
thông chẳng được phép nói ra! V́ có quy định như vậy,
cho nên Phật, Bồ Tát thị hiện, chẳng được
nói ra. Nay quư vị là một kẻ phàm phu, dụng công tu
hành chứng thánh quả, cũng chẳng được
phép nói với chúng sanh. Sắp đến lúc lâm chung, sắp
ra đi, như tôi vừa mới nói, Trường Nhĩ
ḥa thượng là Định Quang Phật thị hiện,
Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ là A Di Đà Phật thị
hiện, [các Ngài] nói rồi bèn ra đi, v́ đă tới lúc
hóa duyên (duyên giáo hóa) đă tận. Quư vị tu hành chứng
đắc quả vị, đến khi lâm chung, nói với
các đệ tử rồi ra đi. Đấy là chỗ
cao minh của Phật, dùng chánh đạo, chánh pháp để
giáo hóa chúng sanh.
Thân nghiệp, tướng hảo, quang minh của
A Di Đà Phật, khẩu nghiệp là phạm âm vi diệu,
nay chúng ta chẳng thấy, chẳng nghe, là do nghiệp chướng
của chúng ta ngăn trở. Quư vị hăy tinh tấn tu hành.
Pháp môn Tịnh Độ là niệm A Di Đà Phật, quư vị
có thể niệm đến mức nhất tâm bất loạn,
chứng đắc Niệm Phật tam-muội, sẽ
thường xuyên thấy Phật, thường xuyên nghe Phật
thuyết pháp, giống như chuyện ăn uống thường ngày. Khi chưa đắc
Niệm Phật tam-muội, quư vị dụng công tu hành trong một khoảng thời gian, bỗng dưng thấy Phật tướng, hoặc thấy
Phật phóng quang; nh́n lại th́ chẳng có, tức là một
lần cảm ứng. Trong lần ấy, quư vị dụng
công tu hành, dứt hết vọng tưởng, tương
thông với đức Phật, quư vị sẽ thấy Phật,
nghe đức Phật thuyết pháp cho quư vị, hoặc mộng
thấy đức Phật đang thuyết pháp, đều
là chẳng thể nghĩ bàn.
Nếu quư vị chẳng thấy đức
Phật hiện tướng, chẳng thấy Phật phóng
quang, quư vị bèn nói ḿnh trông thấy. Quư vị chẳng
nghe đức Phật thuyết pháp, bèn nói quư vị đă
nghe. Quư vị chẳng chứng đắc cảnh giới
của bậc thánh nhân, quư vị bảo chính ḿnh đă chứng
đạt. Quư vị chẳng chứng đắc quả
vị thánh nhân, mà nói là quư vị đă chứng đắc.
Chưa thấy mà nói là thấy, chưa đắc mà nói là
đă đắc, chưa chứng mà nói là đă chứng, tức
là phạm giới đại vọng ngữ, tội lỗi
rất nặng!
Thật sự trông thấy Phật tướng,
Phật quang, nghe đức Phật thuyết pháp cho quư vị,
chớ nên tùy tiện nói lung tung. Chỉ có cầu thiện
tri thức ấn chứng cho quư vị là Phật hay là ma
th́ mới có thể nói! C̣n có đồng tham đạo hữu,
tin tưởng, ngưỡng mộ lẫn nhau, sẽ ấn
chứng đạo lư. Trừ điều này ra, chẳng
cho phép nói bừa băi cùng người khác!
* Giải trừ nghi hoặc
Hỏi: V́ sao thấy Phật tướng, Phật
quang, nghe âm thanh thuyết pháp của đức Phật lại
chẳng thể nói với người khác?
Đáp: Có hai thứ nguyên nhân:
1) Thứ nhất là chỉ sợ khiến
cho kẻ khác tạo khẩu nghiệp. V́ quư vị nói quá trực tiếp, kẻ đó
chẳng phải là căn cơ [thích hợp] nghe lời quư
vị nói. Quư vị nói quư vị đă thấy Phật, kẻ đó chẳng
tin tưởng, sẽ hủy báng quư vị. Kẻ đó tạo
khẩu nghiệp là do quư vị dẫn dụ kẻ đó
gây tạo.
2) Thứ hai, quư vị tùy tiện nói, sẽ
chuốc lấy ma! Quư vị hoàn toàn chẳng đạt
được Niệm Phật tam-muội, chỉ là nhất
thời vọng tưởng ngưng lặng, thấy Phật
tướng, thấy Phật phóng quang, nh́n lại bèn chẳng
có. Đấy chẳng phải là công phu thật sự của
chính ḿnh, chỉ là công phu vận dụng tốt đẹp
trong một lần, đạt được một chút cảnh
giới. Hễ quư vị sanh ḷng hoan hỷ, sẽ chiêu cảm
ma t́m đến. Trong đạo tâm của quư vị có kẽ
hở, ma sẽ theo kẽ hở đó mà vào. Hằng ngày
quư vị kể với người khác quư vị thấy
Phật, ma biết quư vị thích thấy Phật, sẽ
khiến cho quư vị mỗi ngày đều thấy, kết
quả là ma hiện, quư vị bèn bị ma dựa!
4.1.4.2.4. Trang nghiêm tâm
nghiệp công đức thành tựu
(Luận) Đồng địa, thủy, hỏa,
phong, hư không vô phân biệt.
(論) 同地水火風,虛空無分別。
(Luận: Như đất, nước, lửa,
gió, hư không chẳng phân biệt).
Đây là loại thứ tư, tán thán sự
trang nghiêm nơi tâm nghiệp của A Di Đà Phật. Tâm A
Di Đà Phật là tâm vô phân biệt, giống như Ngũ
Đại, tức đất, nước, lửa, gió, và
hư không. Chúng ta đều biết Tứ Đại là
đất, nước, lửa, gió. Phải hiểu chữ
Đại (大) trong Tứ Đại
(四大) như thế nào? Đại
có nghĩa là “trọn khắp”, trọn khắp hết thảy
các vật chất. Hết thảy vật chất đều
từ bốn thứ này mà ra; v́ thế, gọi là Tứ
Đại, c̣n gọi là Tứ Đại Chủng. Chủng
(種) có nghĩa là “có thể sanh ra”. Chúng có thể sanh ra hết thảy
vạn vật, trong là căn thân, ngoài là thế giới. Bên
trong có năm căn thân, tức mắt, tai, mũi, lưỡi,
và thân, đều do Tứ Đại Chủng tạo ra,
được gọi là Nội Tứ Đại. Thế
giới, núi, sông, đại địa bên ngoài cũng do Tứ
Đại Chủng tạo ra, được gọi là Ngoại
Tứ Đại. Ở đây, kể thêm Không Đại,
v́ Tứ Đại Chủng thành tựu hết thảy các
vật chất. Nếu chẳng có hư không, hết thảy
các vật chất ấy sẽ chẳng thể thành tựu.
Tứ Đại Chủng và Không Đại được
gọi gộp chung là Ngũ Đại. Hết thảy các vật
chất đều do Ngũ Đại thành tựu.
Địa, thủy, hỏa, phong, và hư không
là bản thể của hết thảy các pháp, có thể tạo
ra hết thảy muôn vật, chẳng có tâm phân biệt. “Đồng địa, thủy,
hỏa, phong, hư không vô phân biệt” [ư nói] tâm A Di
Đà Phật giống như Địa, Thủy, Hỏa, Phong, và hư không, chẳng
có phân biệt. Tâm A Di Đà Phật chẳng có phân biệt,
làm sao có thể thuyết pháp độ chúng sanh? Đấy
là tùy ư tự nhiên. Tuy chẳng có phân biệt, cái tâm ấy
có tác dụng chẳng thể nghĩ bàn, giống như
Địa, Thủy, Hỏa, Phong và hư không. Ví như
đại địa có thể chuyên chở vạn vật,
bất luận thứ nặng hay vật nhẹ, đại
địa đều có thể chuyên chở. Thủy Đại
có thể chuyên chở hết thảy vạn vật, người,
động vật, gỗ, thuyền v.v… đều có thể
chuyên chở. Hỏa Đại: Chẳng có nhiệt độ
của ánh sáng mặt trời, hết thảy vạn vật
đều chẳng thể sanh tồn. Phong Đại, bất
luận ban ngày hoặc ban đêm, đều có thể thổi
qua đại địa, trưởng dưỡng hết
thảy vạn vật. Hư không, có thể bao dung hết
thảy vạn vật. Ngũ Đại mỗi thứ
đều có công năng [chuyên biệt], tâm A Di Đà Phật cũng giống
như vậy. Tuy Ngài chẳng có phân biệt, nhưng mặc
sức tự nhiên bèn có thể thuyết pháp lợi ích hết
thảy chúng sanh.
4.1.4.2.5. Trang nghiêm đại
chúng công đức thành tựu
(Luận) Thiên nhân bất động chúng, thanh tịnh
trí hải sanh.
(論) 天人不動眾,清淨智海生。
(Luận: Chúng trời người
bất động, biển thanh tịnh trí sanh).
Đây là loại thứ năm, tán thán công
đức của đại chúng. Thế giới Sa Bà chia
thành lục đạo chúng sanh, Tây Phương Cực Lạc
thế giới chỉ chia thành thiên đạo và nhân đạo,
chỉ có đại chúng trời, người. Trong thế
giới Sa Bà, hai giới trên chẳng có Sân, tức là Sắc
Giới và Vô Sắc Giới chẳng có tâm sân hận. A Tu La
thích đánh nhau với trời Đao Lợi, bèn đánh
nhau ngay trên trời Đao Lợi, chẳng đánh tới Sắc
Giới và Vô Sắc Giới Thiên. Do vậy, Tây Phương
Cực Lạc thế giới chẳng có bốn ác đạo,
chỉ có thiên đạo và nhân đạo.
Chúng sanh có ba loại là Chánh Định Tụ,
Tà Định Tụ, và Bất Định Tụ. Chúng sanh Chánh
Định Tụ trong thế giới Sa Bà tu pháp Đại
Thừa, tu đến khi viên măn Thập Tín, dự vào địa
vị Thập Trụ th́ mới chẳng c̣n bị thoái chuyển
nữa. Chúng sanh thuộc Tà Định Tụ quyết
định là tà. Họ chẳng tin tưởng niệm Phật, làm sao có thể
sanh về Tây Phương cho được? Chúng sanh thuộc
Bất Định Tụ có lúc tiến, có khi lùi. Họ nghe
thấy pháp môn Niệm Phật, nhập chánh đạo bèn tinh
tấn, nhưng ở lâu dài trong thế giới Sa Bà, có thể
lại thoái chuyển, trở thành Tà Định Tụ. Nhưng
chúng sanh Bất Định Tụ niệm Phật sanh về
Tây Phương, đới nghiệp văng sanh, sẽ đắc
Bất Thoái Chuyển. V́ thế, niệm Phật sanh về
Tây Phương, bất luận là thiên đạo hay nhân
đạo, sẽ đều là đại
chúng bất động, là thiện căn Đại Thừa
kiên cố bất động, đều trở thành chúng
sanh Chánh Định Tụ.
“Thiên nhân bất
động chúng, thanh tịnh trí hải sanh (chúng
trời người bất động, sanh từ biển
trí huệ thanh tịnh): Đấy là công đức
của A Di Đà Phật, quư vị biết niệm Phật như
thế nào? Do dựa
theo nguyện lực của A Di Đà Phật mà niệm.
Quư vị sanh về Tây Phương như thế nào? Chính
là do A Di Đà Phật tiếp dẫn quư vị ra đi. V́
sao quư vị có thể hóa sanh trong hoa sen? Cũng là do A Di
Đà Phật gia bị quư vị. V́ đều là từ biển
trí huệ thanh tịnh của A Di Đà Phật mà sanh ra
đại chúng trời, người, cho nên [những
người] được sanh ra đều là thiện
căn Đại Thừa, đều nhập Chánh Định
Tụ, chẳng thoái chuyển. Tuy văn tự ở
đây nhằm tán thán đại chúng trời, người,
nhưng thật ra là tán thán A Di Đà Phật.
4.1.4.2.6. Trang nghiêm
thượng thủ công đức thành tựu
(Luận) Như Tu Di sơn vương, thắng diệu
vô quá giả.
(論) 如須彌山王,勝妙無過者。
(Luận: Như núi chúa Tu Di, thắng
diệu không chi hơn).
Đây là loại thứ sáu, tán thán công đức
của bậc thượng thủ. “Thượng thủ” (上首) là thủ lănh. “Như Tu Di sơn vương”
(Như núi chúa Tu Di): Đại
chúng trời người đều giống như những
quả núi, nhưng trong các quả núi, có một quả núi
chúa, gọi là “Tu Di Sơn”. Tu Di Sơn (Sumeru) dịch sang tiếng
Hán là Diệu Cao Sơn (妙高山). Thượng thủ trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới là Quán Thế Âm Bồ
Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, giống như núi Diệu
Cao trong các quả núi, hết thảy đại chúng trời
người đều chẳng thể trỗi vượt
bậc thượng thủ được.
4.1.4.2.7. Trang nghiêm chủ
công đức thành tựu
(Luận) Thiên nhân trượng phu chúng, cung kính nhiễu
chiêm ngưỡng.
(論)天人丈夫眾,恭敬繞瞻仰。
(Luận: Chúng trượng phu
trời người, cung kính, vây chiêm ngưỡng).
Đây là loại thứ bảy, tán thán công
đức của bậc chủ. Tây Phương Cực Lạc
thế giới chỉ có A Di Đà Phật, sẽ chẳng
hiển lộ sự trang nghiêm của Ngài. Phải có đại
chúng trời người th́ mới có thể hiển lộ
sự trang nghiêm của Ngài. “Thiên
nhân trượng phu chúng”, [ư nói] đại chúng trời
người đều có tướng trượng phu. “Cung kính nhiễu chiêm ngưỡng”
(Cung kính đi ṿng quanh,
chiêm ngưỡng): “Cung kính”
là lễ bái, “nhiễu” (繞) là đi ṿng quanh. Hiện
thời, chúng ta niệm Phật đều phải nhiễu
Phật, đó là một thứ lễ tiết biểu lộ sự cung kính lễ bái. “Chiêm
ngưỡng”: Ôm ḷng cung kính ngưỡng vọng tướng
mạo của đức Phật. Đấy cũng là một
thứ lễ tiết, biểu lộ ḷng kính ngưỡng
sự trang nghiêm của đấng pháp chủ A Di Đà Phật.
4.1.4.2.8. Trang nghiêm công
đức thành tựu trụ tŕ chẳng uổng công thực
hiện
(Luận) Quán Phật bổn nguyện
lực, ngộ vô không quá giả, năng linh tốc măn túc, công
đức đại bảo hải.
(論)觀佛本願力,遇無空過者,能令速滿足,功德大寶海。
(Luận: Quán sức bổn nguyện Phật,
người gặp chẳng luống uổng, có thể mau
thỏa nguyện, biển công đức báu lớn).
Đây là loại thứ tám, tán thán công đức
“trụ tŕ, chẳng uổng công thực hiện”. Trong những phần trước
là quán ṭa hoa sen, quán thân nghiệp, quán khẩu nghiệp thuyết
pháp, và quán tâm nghiệp của Phật. Ở đây là quan
sát sức bổn nguyện của Phật. A Di Đà Phật
phát ra bốn mươi tám đại nguyện, nguyện nào
cũng đều nhằm độ chúng sanh. Chúng ta phải
học theo Phật phát nguyện, v́ Niệm Phật là pháp
môn Đại Thừa, chẳng phải v́ để chính
ḿnh liễu sanh tử, mà là
do ta
nhằm độ hết thảy chúng sanh liễu sanh tử
bèn sanh về Tây
Phương. Để độ hết thảy chúng sanh, quư
vị ở trong thế giới Sa Bà độ họ là
được rồi, đến Tây Phương để
làm ǵ? Trong thế giới Sa Bà, chẳng có trí huệ, biện
tài, và thần thông, bản lănh độ chúng sanh chẳng
đủ dùng! Có người nói: “Bản lănh độ
chúng sanh chẳng đủ, [vậy th́] đời sau,
đời kế tiếp tục tu là được rồi,
cần ǵ phải sanh sang Tây Phương?” V́ đời sau,
đời kế, chính ḿnh chẳng thể làm chủ
được, sẽ theo nghiệp lưu chuyển, đọa
trong ba ác đạo, thời gian chịu khổ rất dài,
chẳng biết đến kiếp nào mới có thể
thoát ra! Đời sau, đời kế, sanh làm người,
bị mê khi cách ấm, chẳng thể tiếp tục tu, sẽ
thoái chuyển. Sanh về Tây Phương, do thường
xuyên thấy Phật, nghe pháp, chỉ có tiến bộ, chẳng
bị lui sụt, sẽ chẳng bị thoái chuyển. Do vậy,
sanh về Tây Phương, đạt được bản
lănh độ chúng sanh, lại trở về thế giới
Sa Bà độ chúng sanh, gọi là “thừa nguyện tái lai”, thỏa măn Bồ Đề
nguyện. Quư vị quan sát, [sẽ thấy] A Di Đà Phật
thoạt đầu cũng là phàm phu. Ngài do phát nguyện
độ chúng sanh, nên mới thành Phật. Chúng ta học
theo Ngài, cũng phải phát nguyện độ chúng sanh, học
được bản lănh độ chúng sanh, sẽ trở
về độ chúng sanh.
Nếu quư vị có thể quan sát sức bổn
nguyện của A Di Đà Phật, cũng sẽ học theo
A Di Đà Phật phát nguyện. “Quán
Phật bổn nguyện lực, ngộ vô không quá giả”
(Quán sức bổn nguyện
Phật, kẻ đă gặp sẽ chẳng luống uổng):
Quư vị gặp pháp môn Niệm Phật, gặp danh hiệu
A Di Đà Phật, thấy Phật tướng của A Di
Đà Phật, sẽ chẳng luống uổng, cũng có
thể măn nguyện. Pháp môn Tịnh Độ thích hợp
trọn khắp ba căn, vạn người tu, vạn
người về. Quư vị là bậc thượng căn,
quư vị niệm Phật sanh về Tây Phương. Quư vị
là hàng trung căn, cũng niệm Phật sanh về Tây
Phương. Quư vị là phường hạ căn, vẫn
có thể niệm Phật sanh về Tây Phương. Chỉ
cần quư vị tương ứng với bổn nguyện
của A Di Đà Phật. A Di Đà Phật phát nguyện
độ chúng sanh, quư vị cũng phát nguyện độ
chúng sanh. Niệm Phật như thế th́ quư vị sẽ có thể sanh về Tây
Phương, tuyệt đối chẳng khiến cho quư vị
uổng công.
“Năng linh tốc
măn túc” [nghĩa là] có thể thỏa nguyện của quư
vị rất nhanh chóng. “Công
đức đại bảo hải” (Biển báu công đức lớn):
Danh hiệu của A Di Đà Phật trọn đủ vô lượng
công đức. Quư vị gặp pháp môn Tịnh Độ,
nghe danh hiệu A Di Đà Phật, quư vị bèn niệm danh
hiệu A Di Đà Phật, giống như có được
một viên Như Ư bảo châu! Quư vị có Như Ư bảo
châu, mong cầu thứ ǵ ư? Nó sẽ ban cho quư vị thứ
ấy. Như Ư bảo châu là tỷ dụ. Quư vị có thể
niệm danh hiệu A Di Đà Phật, sẽ giống
như có được Như Ư bảo châu, quư vị cầu
nguyện điều ǵ, nó đều có thể măn nguyện
của quư vị. V́ công đức của A Di Đà Phật
quá rộng, quá sâu, giống như biển cả!
Tám thứ tán thán trên đây đều nhằm
tán thán công đức của A Di Đà Phật. Dưới
đây là tán tán các vị đại Bồ Tát trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới có bốn loại
công đức.
4.1.4.3. Quan sát công đức
chánh tu hành thành tựu của các vị Bồ Tát trong cơi ấy
(chia thành bốn đoạn)
4.1.4.3.1. Trang nghiêm công
đức thành tựu “chẳng tu mà tu”
(Luận) An Lạc quốc thanh tịnh, thường
chuyển vô cấu luân, hóa Phật, Bồ Tát nhật,
như Tu Di trụ tŕ.
(論)安樂國清淨,常轉無垢輪,化佛菩薩日,如須彌住持。
(Luận: Cơi An Lạc thanh tịnh,
thường chuyển vô cấu luân, hóa Phật, Bồ Tát
nhật, như Tu Di trụ tŕ).
Đây là loại thứ nhất, tán thán công
đức “chẳng tu mà tu”. “An Lạc quốc thanh tịnh”:
Kinh A Di Đà dịch Tây Phương Cực Lạc thế
giới là thế giới Cực Lạc, kinh Vô Lượng
Thọ dịch là An Lạc quốc. Thông thường, chúng
ta niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ
Tát, và Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát; đấy
là các vị Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới. “Thường chuyển
vô cấu luân” (Thường xoay pháp luân
vô cấu): “Thường chuyển”
là thường chuyển pháp luân, [tức là] thường xuyên
thuyết pháp. “Vô cấu” có
nghĩa là “thanh tịnh”. V́
Bồ Tát chứng đắc thanh tịnh Pháp Thân, trọn
đủ viên măn tịnh đức, toàn nói các pháp thanh tịnh.
Thuyết pháp được gọi là “chuyển pháp luân”, có hai ư nghĩa:
1) Một ư nghĩa là “chuyên chở”. Giống như một cỗ xe lớn
có thể chuyên chở chúng sanh từ trên đường
sanh tử phàm phu tới chỗ kho báu Niết
Bàn, tức là có thể chuyên chở quư vị đến thế
giới Cực Lạc.
2) Ư nghĩa thứ hai là “nghiền nát”. Trên mặt đất có rác rưởi,
bánh xe có thể nghiền nát, tức là có thể nghiền nát phiền năo.
Bồ Tát thuyết pháp cho quư vị, một
loại là có thể chở quư vị sang Tây Phương, loại
thứ hai là có thể đoạn trừ phiền năo của
quư vị.
“Hóa Phật, Bồ
Tát nhật” (Vầng mặt trời
hóa Phật, Bồ Tát): Thanh Tịnh Đại Hải Chúng
của Tây Phương Cực Lạc thế giới không
chỉ chuyển pháp luân trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới, mà các Ngài có thể chuyển pháp luân trong
mười phương thế giới. Chúng sanh trong mười
phương thế giới cần thấy Phật để
đắc độ, các Ngài liền hóa hiện Phật
tướng. Đáng nên thấy Bồ Tát để đắc
độ, các Ngài liền thị hiện tướng Bồ
Tát, giống như ánh sáng mặt trời chiếu trọn
khắp. “Như Tu Di trụ
tŕ”: Tuy Bồ Tát phân thân ứng hóa trong mười
phương thế giới, nhưng thân thể các Ngài ở
Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng lay động như núi Tu Di.
* Giải trừ nghi hoặc
Hỏi: V́ sao Bồ Tát bất động
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới mà có thể
phân thân thuyết pháp trong mười phương thế giới?
Đáp: Bồ Tát là nương vào lư Pháp Không
“vô tu mà tu” để tu hành,
chẳng chấp hết thảy tướng tu hành. Sau khi
Ngài đă sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới
thành Bồ Tát, thân thể trong Tây Phương bất động,
có thể phân thân trọn khắp mười phương.
Đấy gọi là “bất
động mà phân thân”.
4.1.4.3.2. Trang nghiêm công
đức thành tựu đồng thời lợi sanh
(Luận) Vô cấu trang nghiêm quang, nhất niệm cập
nhất thời, phổ chiếu chư Phật hội, lợi
ích chư quần sanh.
(論)無垢莊嚴光,一念及一時,普照諸佛會,利益諸群生。
(Luận: Vô cấu trang nghiêm
quang, một niệm và một thời, chiếu khắp các
Phật hội, lợi ích các quần sanh).
Đây là loại thứ hai, tán thán công đức
“đồng thời lợi lạc
chúng sanh”. Tây Phương Cực Lạc thế giới A
Di Đà Phật phóng quang minh, đó là quang minh trí huệ
thanh tịnh. Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát tỏa
quang minh, cũng là quang minh trí huệ thanh tịnh. Quang minh
trí huệ thanh tịnh vô cấu, vô nhiễm th́ gọi là “vô cấu trang nghiêm quang”.
“Nhất
niệm cập nhất thời”: Bồ Tát trong một
niệm, gọi là “nhất niệm”,
trong một khoảng thời gian rất ngắn th́ gọi
là “nhất thời”, “phổ chiếu chư Phật hội”
(chiếu khắp các Phật hội). “Chư Phật hội” là pháp hội của mười
phương thế giới chư Phật. Thế giới
nào trong mười phương có Phật mở pháp hội,
các vị Bồ Tát ấy sẽ đến đó. “Lợi ích chư quần sanh”:
Bồ Tát đến lợi ích chúng sanh, giống như khi
Thích Ca Mâu Ni Phật mở pháp hội trong thế giới
Sa Bà, Quán Thế Âm Bồ Tát đến, Đại Thế
Chí cũng đến, v́ thế giới Sa Bà có kẻ thấy
Quán Thế Âm Bồ Tát bèn đắc độ, có kẻ thấy
Đại Thế Chí Bồ Tát mà đắc độ. Các
Ngài đến thế giới Sa Bà nhằm lợi ích chúng
sanh. Nhưng chúng sanh trong mười phương thế giới
đáng nên thấy Bồ Tát của Tây Phương Cực
Lạc thế giới mà đắc độ, Bồ Tát sẽ
thị hiện, chẳng có trước hay sau sai khác, đồng
thời thị hiện.
* Giải trừ nghi hoặc
Hỏi: Chúng ta niệm Phật phát nguyện
sanh về Tây Phương, tới lúc lâm chung, A Di Đà Phật,
Quán Thế Âm Bồ Tát, và Đại Thế Chí
Bồ Tát đến tiếp dẫn chúng ta. Giả sử số
người niệm Phật ít, Phật, Bồ Tát c̣n tới
tiếp dẫn kịp. Nếu chúng sanh trong mười
phương thế giới đều niệm Phật văng
sanh, ắt cần phải tiếp dẫn từng người
một, làm sao tiếp dẫn cho kịp?
Đáp: Đấy là chẳng hiểu thần
thông diệu dụng của Phật, Bồ Tát [cho nên ngờ
vực như vậy]. Thân thể các Ngài chẳng cần
dao động, mà có thể đến trọn khắp mười
phương. Lại c̣n chẳng trước, chẳng sau,
xét theo mặt thời gian, sẽ là chẳng sai khác! Báo thân
của quư vị đă tận, đáng nên sanh về Tây
Phương, đến lúc sẽ đi. Chúng sanh nào đáng
nên sanh về Tây Phương, Phật, Bồ Tát bèn đến
tiếp dẫn quư vị, giống như [trong khoảng] một
niệm, hoặc một thời, chẳng có trước
hay sau sai khác, đều có thể trọn khắp mười
phương, chẳng bị sai sót!
Cổ nhân đă sánh ví Phật, Bồ Tát của
Tây Phương Cực Lạc thế giới bất động
tại Tây Phương mà có thể phân thân trọn khắp
các cơi nước như số vi trần, tiếp dẫn lợi
lạc hết thảy chúng sanh bằng hai câu tỷ dụ
như sau: “Thiên giang hữu thủy
thiên giang nguyệt, vạn lư vô vân vạn lư thiên” (Ngàn sông in bóng ngàn trăng, vạn
dặm không mây vạn dặm trời). Mặt trăng trên
bầu trời bất động, soi bóng trong nước
sông. Trong nước của ngàn con sông, trăng đều
soi bóng, đồng thời, chẳng có trước, sau. Chỉ
cần có nước, nước nơi ngàn con sông bèn hiện
bóng, thậm chí một chậu nước nhỏ, cũng
hiện bóng trăng. Đấy là tỷ dụ sự bất
động, cũng như sánh ví sự kịp thời.
Trời xanh chiếu khắp đại
địa, chiếu khắp hết thảy chúng sanh. Quư vị
chẳng trông thấy trời xanh, chẳng thể trách trời
xanh không gặp gỡ quư vị. Đấy là do quư vị
gặp phải lúc âm u. “Trời
âm u” ví như tự tánh thanh tịnh của chúng ta, bị
phiền năo che lấp. Chẳng trông thấy trời xanh là
v́ không trung bị mây che phủ. “Vạn
lư vô vân vạn lư thiên” (Vạn dặm không mây, vạn dặm trời):
Chỉ cần quư vị có thể nhất tâm niệm Phật,
sẽ tương ứng với tâm của A Di Đà Phật.
4.1.4.3.3. Trang nghiêm b́nh
đẳng cúng dường công đức thành tựu
(Luận) Vũ thiên nhạc, hoa y, diệu
hương đẳng cúng dường, tán chư Phật
công đức, vô hữu phân biệt tâm.
(論)雨天樂華衣,妙香等供養,讚諸佛功德,無有分別心。
(Luận: Mưa nhạc trời,
áo hoa, hương mầu thảy cúng dường, khen công
đức chư Phật, chẳng có tâm phân biệt).
Đây là loại thứ ba, tán thán công đức
b́nh đẳng cúng dường. Các vị đại Bồ
Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đến
mười phương thế giới để tham dự
pháp hội của chư Phật, đến để lợi
ích chúng sanh. [Các Ngài] đến những thế giới ấy
để cúng dường chư Phật, sẽ mang theo các
vật phẩm cúng dường, giống như trời
tuôn mưa vậy.
“Vũ thiên nhạc,
hoa y” (Mưa nhạc trời,
áo hoa): “Thiên” có nghĩa là tự
nhiên. Từ trời rơi xuống, tự nhiên có âm nhạc,
hoa tươi, y phục. V́ sao có vật phẩm cúng dường
nhiều ngần ấy? Do được
thành tựu bởi công đức của A Di Đà Phật.
“Diệu hương đẳng
cúng dường” (Cúng dường những
thứ như hương mầu nhiệm v.v...):
Hương mầu nhiệm chẳng thể nghĩ bàn. Từ
trên trời rơi xuống, không chỉ là hương cúng
dường, mà c̣n có các loại thức ăn để
cúng dường. “Tán chư Phật
công đức” (Khen ngợi công đức
của chư Phật): Dâng lên vật cúng để cúng
dường chư Phật, lại c̣n tán thán công đức
của chư Phật. “Vô hữu
phân biệt tâm” (Chẳng có tâm phân biệt):
Tâm nghiệp của A Di Đà Phật lợi ích hết thảy
chúng sanh, chẳng có tâm phân biệt. Những vị Pháp Thân
đại sĩ ấy cúng dường mười
phương chư Phật, cũng chẳng khởi tâm phân
biệt, b́nh đẳng cúng dường.
4.1.4.3.4. Trang nghiêm kiến
lập Phật pháp công đức thành tựu
(Luận) Hà đẳng thế giới vô, Phật pháp
công đức bảo, ngă nguyện giai văng sanh, thị Phật
pháp như Phật.
(論)何等世界無,佛法功德寶,我願皆往生,示佛法如佛。
(Luận: Thế giới nào chẳng
có, báu Phật pháp công đức, tôi đều nguyện
văng sanh, dạy Phật pháp như Phật).
Đây là loại thứ tư, tán thán công
đức kiến lập Phật pháp. “Hà đẳng thế giới vô, Phật pháp công
đức bảo” [có
nghĩa là] thế
giới nào chẳng có Phật th́ Bồ Tát bèn nguyện sanh
về thế giới ấy để trụ tŕ trang nghiêm
Phật Pháp Tăng Tam Bảo, khiến cho Phật chủng
nơi nơi chẳng đoạn. “Ngă nguyện giai văng sanh” (Tôi đều nguyện văng sanh): “Ngă” (tôi) là nói tới các vị
đại Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Tôi sẽ sanh vào thế giới chẳng có Phật,
“thị Phật pháp như Phật”
[nghĩa là] thị hiện thuyết pháp giống như Phật
vậy.
Đối với loại công đức
này, gộp cả bốn thứ công đức của Bồ
Tát để nói, chúng ta hăy biện định một phen.
Kinh Phật nói trong hư không có vô lượng vô biên thế
giới Tịnh Độ của Phật, mười phương đều có
cơi nước thanh tịnh. Quư vị mong sanh về
phương Tây, sẽ sanh về phương Tây. Quư vị
mong sanh về phương Đông, sẽ sanh về
phương Đông. Quư vị mong sanh về phương
Nam, sẽ sanh về phương Nam. Quư vị mong sanh về
phương Bắc, sẽ sanh về phương Bắc,
đều có thể lập nguyện văng sanh quốc độ
thanh tịnh. Vậy th́ v́ sao chỉ muốn sanh về Tây
Phương?
Là v́ dựa theo nguyện lực của Phật
để so sánh, [sẽ thấy] nguyện lực của A
Di Đà Phật đặc biệt thù thắng. Chúng sanh dụng
công, tâm lực phải chuyên nhất. Trước hết,
quư vị lập nguyện văng sanh Tây Phương, sanh về
Tây Phương ḥng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, trí huệ,
biện tài, thần thông thảy đều có, mười
phương thế giới quư vị đều có thể đến.
Tới mười phương thế giới cúng dường
mười phương chư Phật, lợi ích mười
phương thế giới chúng sanh. Thế giới nào chẳng
có Phật, quư vị bèn sanh vào thế giới đó [để
chỉ dạy Phật pháp], đều có thể vừa
ḷng măn nguyện, tự do tự tại. Quư vị là chúng
sanh trong thế giới Sa Bà, Hoặc nghiệp chưa
đoạn, thế giới nào chẳng có Phật, quư vị
có muốn đến đó, cũng chẳng đến
được! Quư vị muốn cúng dường một vị
Phật trong thế giới nào đó, trọn chẳng cúng
dường được! Quư vị mong lợi ích chúng
sanh trong một thế giới nào đó, cũng chẳng lợi
ích được. V́ thế, trước hết, hăy nhất
tâm nhất ư nương cậy đại nguyện lực
của A Di Đà Phật sanh về Tây Phương. Sau khi
đă sanh về Tây Phương, quư vị có thần thông,
đối với mười phương thế giới,
quư vị thích sanh vào thế giới nào, sẽ sanh vào thế
giới đó, tự do tự tại.
Sự cúng dường của chư đại
Bồ Tát đều là học theo Phật. Nay chúng ta học
theo A Di Đà Phật, học theo các vị đại Bồ
Tát. Chúng ta dâng cúng chư Phật, bất luận đến
một tự viện nào, sẽ tùy sức tùy phần cúng
dường, nương theo tâm lực và tài lực của
quư vị để cúng dường, đừng nên dấy
ḷng phân biệt. Quư vị đừng nên suy xét Phật trong
tự viện nào có duyên với ta, ta cúng dường nhiều
hơn một tí. Phật trong tự viện nào chẳng có
duyên với ta, ta cúng dường ít một chút. Đấy
đều là cái tâm phân biệt của phàm phu. V́ phát tâm b́nh
đẳng th́ công đức sẽ b́nh đẳng. Lợi
ích chúng sanh tùy duyên, tùy phận, đừng nên dấy ḷng
phân biệt. Chúng sanh này có duyên với ta, ta bèn giảng cho
người ấy nhiều hơn đôi câu. Chúng sanh kia chẳng
có duyên với ta, ta giảng cho họ ít hơn một
đôi câu. Đấy đều là tâm phân biệt, phải b́nh
đẳng lợi ích chúng sanh.
Nói đến chỗ này th́ Quan Sát Môn trong Ngũ Niệm
Môn của phần Kệ Tụng đă giảng xong. Tiếp
đó là niệm môn thứ năm, tức Hồi Hướng
Môn. Hồi (迴) là xoay chuyển, Hướng (向) là hướng đến.
4.1.5. Hồi Hướng
Môn
(Luận) Ngă tác luận thuyết kệ, nguyện kiến
Di Đà Phật, phổ cộng chư chúng sanh, văng sanh An Lạc
quốc.
(論)我作論說偈,願見彌陀佛,普共諸眾生,往生安樂國。
(Luận: Tôi soạn luận,
nói kệ, nguyện thấy Di Đà Phật, cùng khắp
các chúng sanh, văng sanh cơi An Lạc).
“Ngă tác luận
thuyết kệ” (Tôi làm luận, nói kệ):
Tôi là Thiên Thân soạn Văng Sanh Luận, trong phần đầu,
viết bài Nguyện Sanh Kệ. Do công đức này, tôi “nguyện kiến A Di Đà Phật” (nguyện thấy
A Di Đà Phật). Tôi chẳng cầu phước báo nhân
thiên, tôi bằng ḷng đem công đức của tôi hồi
hướng Tây Phương, nguyện sanh vào Tây
Phương Cực Lạc thế giới, thân cận A Di
Đà Phật, đồng thời hồi hướng công
đức của tôi cho hết thảy chúng sanh. “Phổ cộng chư chúng sanh,
văng sanh An Lạc quốc”: Thiên Thân tôi đây chẳng phải
v́ liễu sanh tử cho cá nhân tôi, mà tôi nguyện cùng hết
thảy chúng sanh đều văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới.
(Luận) Vô Lượng Thọ Tu Đa La chương
cú, ngă dĩ kệ tụng tổng thuyết cánh.
(論)無量壽修多羅章句,我以偈頌總說竟。
(Luận: Đối với
ư nghĩa của kinh văn trong kinh Vô
Lượng Thọ, tôi dùng kệ tụng để nói
đại ư đă xong).
Tu Đa La (Sūtra) là tiếng Phạn, dịch
sang tiếng Hán là Khế Kinh, dịch đơn giản là
Kinh. Vô Lượng Thọ Tu Đa La là kinh Vô Lượng
Thọ. “Chương cú” (章句) là ư nghĩa của một
chương, một đoạn kinh Vô Lượng Thọ.
“Ngă dĩ kệ tụng tổng
thuyết cánh” [ư nói] tôi là Thiên Thân đă dùng kệ tụng
để nói tổng quát, đă nói xong rồi.
4.2. Phần giải
thích (chia làm mười
đoạn)
4.2.1. Đại ư của
bài Nguyện Sanh Kệ
(Luận) Luận viết: Thử nguyện kệ
minh hà nghĩa? Thị hiện quán bỉ An Lạc thế
giới, kiến A Di Đà Phật, nguyện sanh bỉ quốc
cố.
(論)論曰:此願偈明何義?示現觀彼安樂世界,見阿彌陀佛,願生彼國故。
(Luận: Luận rằng: “Bài Nguyện Sanh Kệ
này nêu rơ những ư nghĩa nào? Nhằm chỉ rơ: Quán thế
giới An Lạc, thấy A Di Đà Phật, nguyện sanh
về cơi ấy).
Toàn bộ Văng Sanh Luận chia làm hai khoa lớn, Kệ Tụng trong phần
đầu là phần Tổng Thuyết, đă giải thích
xong. Phần luận văn Trường Hàng kế đó là
phần Giải Thích, nhằm giải thích phần Kệ Tụng
trước đó. Dựa theo ư nghĩa của lời
văn để chia thành các tiểu đoạn. Phần luận
văn Trường Hàng chia thành mười khoa. Khoa thứ
nhất là “nguyện kệ
đại ư”
(願偈大意), nêu rơ đại ư của
bài kệ tụng Nguyện Sanh, tức là nêu ra tổng
cương lănh.
“Luận viết”
(Luận rằng), Luận
(論) là nghị luận, tức là
phần luận văn Trường Hàng. “Thử nguyện kệ minh hà nghĩa” (Bài kệ nguyện văng sanh này
nêu rơ những ư nghĩa ǵ): Quư vị viết bài kệ tụng
nguyện sanh Tây Phương có những nghĩa lư như thế
nào? Tiếp đó, bắt đầu giải thích: “Thị hiện quán bỉ An Lạc
thế giới” (Khai thị, hiển hiện,
quán thế giới An Lạc): “Thị”
(示) là khai thị, “hiện” (現) là hiển hiện. Khai thị,
hiển hiện bài Kệ Tụng trong phần trước
để cho chúng ta quan sát cặn kẽ y báo trang nghiêm trong
thế giới Cực Lạc.
“Kiến A Di
Đà Phật” (Thấy A Di Đà Phật):
Đấy là chánh báo trang nghiêm. “Kiến”
(見) có hai cách giải thích:
1) Một là dựa theo kệ tụng, thấy
tám thứ công đức của A Di Đà Phật.
2) Khi tùy văn tác quán (隨文作觀, thuận theo lời văn mà
quán tưởng), sẽ có thể thấy A Di Đà Phật.
“Nguyện sanh bỉ
quốc cố” (Do nguyện sanh vào cơi ấy):
Tôi dựa theo phần Kệ Tụng trên đây, có thể
quan sát các thứ trang nghiêm nơi y báo trong thế giới
An Lạc, quan sát chánh báo của A Di Đà Phật, cùng với
sự trang nghiêm của các vị đại Bồ Tát. Do vậy,
nguyện sanh về cơi An Lạc. Quư vị có thể tùy
văn tác quán, thấy A Di Đà Phật, hoặc là khi nằm
mộng thấy A Di Đà Phật, hoặc là lúc nhập Định
trông thấy A Di Đà Phật,
quư vị càng có thể tăng thêm tín tâm, nguyện sanh về
nước An Lạc. Soạn Nguyện Sanh Kệ nhằm
quan sát rơ ràng y báo và chánh báo của Tây Phương Cực Lạc
thế giới, quư vị sẽ phát nguyện sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới.
4.2.2. Khởi quán, sanh ḷng tin (chia làm hai đoạn)
4.2.2.1. Chỉ bày Ngũ
Niệm Lực
(Luận) Vân hà quán? Vân hà sanh tín
tâm? Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân, tu ngũ
niệm môn hạnh thành tựu, tất cánh đắc sanh An
Lạc quốc độ, kiến bỉ A Di Đà Phật.
(論)云何觀?云何生信心?若善男子善女人,修五念門行成就,畢竟得生安樂國土,見彼阿彌陀佛。
(Luận: Quán như thế nào? Sanh tín tâm như thế
nào? Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân tu hạnh
ngũ niệm môn thành tựu, rốt ráo sẽ được
sanh về cơi nước An Lạc, thấy đức A Di
Đà Phật).
Khoa thứ hai là “khởi
quán, sanh ḷng tin”. Quán (觀) là quan sát, quán tưởng,
là một loại công phu tu hành. “Vân
hà quán? Vân hà sanh tín tâm?” (Quán như thế nào? Sanh tín tâm
như thế nào?) Quư vị soạn Nguyện Sanh Kệ, bảo
chúng tôi hăy quán tưởng thế giới An Lạc ḥng thấy
A Di Đà Phật, vậy th́ hăy nên quán tưởng
như thế nào để chúng tôi có thể sanh khởi tín tâm? Tiếp
đó, bèn giải thích thêm: “Nhược
thiện nam tử, thiện nữ nhân tu ngũ niệm môn hạnh
thành tựu” (Nếu thiện nam tử,
thiện nữ nhân tu hạnh năm niệm môn thành tựu):
“Niệm” là quán niệm. Tôi soạn bài
kệ tụng này, trong ấy bao hàm năm thứ Quán Niệm
Môn. Đấy là một thứ công hạnh. Thành tựu
công hạnh ấy, “tất cánh
đắc sanh An Lạc quốc độ, kiến bỉ A
Di Đà Phật” (rốt ráo được sanh vào cơi
nước An Lạc, thấy A Di Đà Phật).
Ngũ Niệm Môn là cái nhân để sanh về
Tây Phương, sanh về Tây Phương là quả. Làm thế
nào để có thể sanh về Tây Phương An Lạc
thế giới, thấy A Di Đà Phật? Nhất định
phải tu năm loại niệm môn này; v́ thế, năm thứ
niệm môn hết sức quan trọng.
4.2.2.2. Nêu ra ngũ niệm
môn
(Luận) Hà đẳng ngũ niệm môn? Nhất giả,
lễ bái môn; nhị giả, tán thán
môn; tam giả,
tác nguyện môn; tứ giả, quan sát môn; ngũ giả, hồi
hướng môn.
(論)何等五念門?一者禮拜門,二者讚歎門,三者作願門,四者觀察門,五者迴向門。
(Luận: Những ǵ là ngũ
niệm môn? Một là lễ bái môn; hai là tán thán môn; ba là tác nguyện môn; bốn
là quan sát môn; năm là hồi hướng môn).
“Hà đẳng
ngũ niệm môn?”: Những ǵ là ngũ niệm môn?
Năm niệm môn nào vậy? “Nhất
giả, lễ bái môn; nhị giả, tán thán
môn; tam giả, tác nguyện
môn; tứ giả, quan sát môn; ngũ giả, hồi hướng
môn” (Một là lễ bái môn; hai là tán thán môn; ba là tác nguyện môn; bốn là quan sát môn; năm là hồi hướng
môn). Ở đây, nêu ra thứ năm thứ tên gọi.
Năm thứ ấy đều là công phu tu hành quán niệm,
quán niệm thành tựu, sẽ là Pháp Vương. Tu quán niệm
là tu quán tưởng. “Môn” (門) là pháp môn, tu hành một
thứ công hạnh trong Phật pháp. V́ sao gọi là Môn? Có
nghĩa là ra vào thông suốt. Giống như giảng
đường này có một cái cửa, có thể tiến
vào, có thể bước ra. Trong năm thứ niệm môn,
bốn loại đầu là “nhập
môn” (入門), tức là nhập môn An
Lạc Tịnh Độ. Quư vị làm thế nào để
có thể vào ở trong An Lạc Tịnh Độ? Một
là lễ bái môn, hai là tán thán môn, ba là tác nguyện môn, bốn
là quan sát môn, tu bốn món quán tưởng. Món cuối cùng là
hồi hướng môn, là “xuất môn”, tức là ra khỏi cửa nhằm
từ bi giáo hóa. V́ sao ta phải sanh về Tây Phương?
Ta v́ độ chúng sanh mà sanh về đó, học hiểu bản lănh xong, ta nhất định
quay lại thế giới Sa Bà để giáo hóa hết thảy
chúng sanh. Do vậy, nay trước khi ta chưa sanh về Tây
Phương, hết thảy các công đức đă làm
đều hồi hướng cho hết thảy chúng sanh. Đă
nêu ra danh tướng của Ngũ Niệm Môn; kế
đó bèn giải thích.
(Luận) Vân hà lễ bái? Thân nghiệp lễ bái A Di
Đà Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, vị sanh bỉ quốc
ư cố.
(論)云何禮拜?身業禮拜阿彌陀如來應正偏知,為生彼國意故。
(Luận: Lễ bái là như thế
nào? Thân nghiệp lễ bái A Di Đà Như Lai Ứng Chánh
Biến Tri do ư nghĩa “v́ sanh về cơi ấy”).
Thứ nhất, Lễ Bái Môn. “Vân hà lễ bái?”: Lễ bái là
như thế nào? “Thân nghiệp
lễ bái A Di Đà Như Lai Ứng Chánh Biến Tri”: Dùng
thân nghiệp của chúng ta để lễ bái A Di Đà Phật.
Câu “nhất tâm quy mạng”
trong phần trước (phần Kệ Tụng) chính là quy
mạng A Di Đà Phật. Mỗi vị Phật đều
có mười đức hiệu, biểu thị công đức
của Phật vô cùng vô tận. Mỗi món trong mười
món ấy lại sanh ra mười món, thành một trăm
món. Mỗi món trong một trăm món lại sanh ra mười
món, thành một ngàn món. Do đó, “mười”
biểu thị “Sự Sự vô tận”. Căn tánh của
người Hoa chuộng đơn giản, một người
có tối đa ba tên gọi. Ở đây, thuận theo
căn tánh của người Hoa, đại tổ sư chỉ
phiên dịch ba đức hiệu: A Di Đà Như Lai, A Di
Đà Ứng Cúng, và A Di Đà Chánh Biến
Tri.
V́ sao gọi là Như Lai (如來, Tathāgata)? Nương vào đạo
như thật để thành Chánh Giác. Một người
muốn thành Phật, phải nương theo lư Chân Như Thật
Tướng để tu hành, chứng đắc đạo
Chân Như Thật Tướng mà thành Phật; do vậy, gọi là Như Lai. Một
cách giải thích khác, “đến” giống như chư Phật,
nên gọi là Như Lai. Quá khứ chư Phật đến
hóa độ chúng sanh đều đến như vậy,
A Di Đà Phật cũng đến như vậy, Thích Ca
Mâu Ni Phật cũng đến như vậy, cho nên Thích Ca
Mâu Ni Phật được gọi là Như Lai, A Di Đà
Phật cũng gọi là Như Lai.
Ứng Cúng (應供, Arhat) [nghĩa là]
đáng nên nhận sự cúng dường. Đă thành Phật
th́ do trí huệ trọn đủ, phước báo cũng trọn
đủ, đáng nên nhận sự cúng dường của
chúng sanh. [Trong danh xưng] A La Hán có một thứ ư nghĩa
là Ứng Cúng. Ứng Cúng của Phật và [Ứng Cúng của]
A La Hán có ǵ khác biệt? A La Hán ứng cúng là được
trời người cúng dường. Ngài đă vượt
thoát ra ngoài tam giới, cao hơn lục đạo phàm phu,
đại chúng trời người đều phải nên cúng
dường Ngài. Phật không chỉ đáng được
trời người cúng dường, lại c̣n được
tam thừa thánh nhân, tức Thanh Văn, Duyên Giác, và chư
đại Bồ Tát cúng dường. Hiện thời,
cư sĩ thỉnh pháp sư thọ trai, coi người
xuất gia như thánh nhân để cúng dường, “thỉnh
vị đại đức X… đến nhà con ứng cúng”. Người xuất gia chẳng
dám đảm nhận, bèn nói: “Tôi đến nhà quư vị cản
trai (趕齋, đến thọ trai)”, chẳng
dám nói là Ứng Cúng. Đấy là kiến thức thông
thường trong Phật giáo.
Chánh Biến Tri (正偏知, Samyak-saṃbuddha): Dựa theo trí huệ
để nói, ngoại đạo là tà tri tà kiến, chẳng
phải là trí huệ chân chánh. Hàng Nhị Thừa tri kiến
tuy chẳng tà, nhưng chấp trước lư Thiên Không, chẳng
thể viên dung Diệu Hữu. Trí huệ của Phật chẳng
lệch lạc, nên gọi là chánh trí huệ, chánh tri chánh
kiến, trọn đủ hết thảy trí huệ, chẳng
có pháp nào không biết, lại c̣n là Chánh Giác. Do vậy, gọi
là Chánh Biến Tri.
Trong phần Kệ Tụng trên đây, “nhất tâm quy mạng” là Lễ
Bái Môn, lễ bái A Di Đà Như Lai để làm ǵ? “Vị sanh bỉ quốc ư cố”:
V́ sanh vào cơi An Lạc; đấy là tâm ư của Thiên Thân tôi.
(Luận) Vân hà tán thán? Khẩu nghiệp tán thán,
xưng bỉ Như Lai danh, như bỉ Như Lai quang minh
trí tướng, như bỉ danh nghĩa, dục như thật
tu hành tương ứng cố.
(論)云何讚歎?口業讚歎,稱彼如來名,如彼如來光明智相,如彼名義,欲如實修行相應故。
(Luận: Tán thán là như thế
nào? Khẩu nghiệp tán thán, xưng danh hiệu của
đức Như Lai ấy, tướng quang minh và trí huệ
của đức Như Lai ấy; đúng như danh
nghĩa của Ngài, v́ muốn như thật tu hành ḥng
tương ứng).
Thứ hai là Tán Thán Môn. “Vân hà tán thán?”: Tán thán như thế nào? “Khẩu nghiệp tán thán”:
Chúng ta tán thán công đức thành tựu của A Di Đà Phật,
bèn dùng khẩu nghiệp để tán thán. Trong phần Kệ
Tụng trên đây, “tận thập
phương Vô Ngại Quang Như Lai” chính là tán thán. “Xưng bỉ Như Lai danh” (Xưng niệm danh hiệu
đức Phật ấy): Tán thán Vô Ngại Quang Như Lai,
cũng chính là [tán thán] Vô Lượng Quang Phật, tán thán danh
hiệu của Ngài. “Như bỉ
Như Lai quang minh trí tướng” (Như quang minh, trí tướng
của đức Phật ấy): A Di Đà Phật trong tiếng
Phạn, dịch sang tiếng Hán là Vô Lượng Thọ,
c̣n dịch là Vô Lượng Quang. Ở đây là nói đến
ư nghĩa Vô Lượng Quang, tán thán quang minh của A Di
Đà Như Lai vô lượng, chiếu trọn khắp mười
phương thế giới chẳng bị chướng ngại.
Quang minh của A Di Đà Phật từ đâu mà có? Chính là
tướng trạng trí huệ của Ngài. Quang minh của
Như Lai được gọi là “trí huệ quang”. Trí huệ của Ngài thanh tịnh,
tùy ư tự nhiên có quang minh.
“Như bỉ
danh nghĩa, dục như thật tu hành tương ứng
cố” (Như danh nghĩa của
đức Phật ấy, muốn tu hành như thật ḥng
tương ứng): Tán thán “như
thật”, phù hợp khít khao với nghĩa lư được
bao hàm trong danh hiệu Như Lai. Danh hiệu Vô Lượng
Quang của A Di Đà Phật là tướng trí huệ. Tôi
tán thán tướng trí huệ của Ngài, xưng niệm danh
hiệu A Di Đà Phật; đấy là như thật tu
hành, v́ tương ứng với tướng quang minh trí huệ
của A Di Đà Phật. Nếu dựa theo Vô Lượng
Thọ để giải thích, thọ mạng của A Di
Đà Phật là vô lượng, tôi bèn tán thán Ngài có thọ mạng vô lượng.
Ngẫu Ích đại sư giải thích, danh hiệu A Di
Đà Phật có hai thứ vô lượng: Một là Vô
Lượng Thọ, hai là Vô Lượng Quang. Thật ra, hết
thảy đều vô lượng. Trí huệ của Ngài vô
lượng, biện tài vô lượng, thần thông vô
lượng. Vô lượng thọ, vô lượng quang, bao
gồm hết thảy vô lượng công đức trong ấy.
Thật Tướng vô tướng, chẳng
có tướng hư vọng, nó là Lư Thể chân thật.
Nhưng Thật Tướng chẳng phải là không có
tướng; nó chẳng rơi vào Đoạn Diệt Không.
Sau khi quư vị thật sự chứng đắc Thật
Tướng Lư Thể, hết thảy trí huệ, công đức,
thảy đều thành tựu. Tướng quang minh trí huệ
ấy đều là tướng Thật Tướng,
nhưng quư vị nhất định phải trừ sạch
tướng hư vọng th́ mới có thể chứng
đắc Thật Tướng. Chứng đắc Thật
Tướng, đắc hết thảy trí huệ, mới
có thể thấy vô lượng quang minh của Như Lai.
Đấy là dựa theo danh nghĩa Vô Lượng
Quang của A Di Đà Phật để tu hành, chứng
đắc Thật Tướng Lư Thể rồi mới chứng
đắc hết thảy trí huệ. Đă chứng đắc
hết thảy trí huệ th́ mới có vô lượng quang
minh. Thật Tướng Lư Thể vô tướng, vô bất
tướng. Quư vị tận
hết sức tu hành, nhưng chớ nên chấp tướng.
Hễ quư vị chấp tướng, sẽ rơi vào pháp hữu
lậu. Do vậy, quư vị hằng ngày niệm danh hiệu
A Di Đà Phật, lễ bái A Di Đà Phật, tán thán A Di
Đà Phật. Những điều ấy đều là tu hành, nhưng
chớ nên chấp tướng. Hễ chấp tướng,
sẽ chẳng tương ứng với Thật Tướng;
do vậy, những ǵ đă tu nhất định phải
ly tướng. Trong phần trước đă nói, Bồ
Tát tu hành là “chẳng tu mà tu”,
chẳng chấp trước tướng tu hành để
tu th́ mới có thể tương ứng với Thật
Tướng.
* Giải trừ nghi hoặc
Hỏi: Bọn phàm phu chúng ta chẳng tu hành
th́ thôi, hễ tu hành bèn chấp tướng. “Chẳng tu mà tu”, há dễ dàng ư?
Đáp: Có phương tiện để thực
hiện, dùng tín tâm để hàng phục hết thảy vọng
tưởng. Trước hết, hăy kiến lập tín tâm,
phải tin tưởng công đức của A Di Đà Phật,
phải tin tưởng A Di Đà Phật phát nguyện tiếp
dẫn chúng sanh. Ta tin tưởng, lễ bái A Di Đà Phật,
tán thán A Di Đà Phật, nhất định có thể sanh về
Tây Phương. Trước hết là có tín tâm ấy, tín
tâm tương ứng với Thật Tướng, như vậy
th́ quư vị chắc chắn sẽ sanh về Tây
Phương.
Hỏi: Pháp môn Niệm Phật nếu tu hành
nơi Thật Tướng, do người tương ứng
với Thật Tướng rất ít, [vậy th́] người
trong tương lai có thể sanh về Tây Phương
cũng rất ít?
Đáp: Niệm Phật chẳng tương
ứng với Thật Tướng là do ba loại nguyên
nhân:
1) Do tín tâm chẳng thuần, lúc c̣n, lúc mất: Tín tâm chẳng thuần tịnh, chẳng nhất tâm hướng về Tây
Phương, có lúc tin tưởng,
có lúc chẳng tin!
2) Do tín tâm bất nhất, chẳng
quyết định: Tín tâm chẳng chuyên nhất,
vừa niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây
Phương, vừa xen tạp danh lợi, nhân ngă, thị phi.
Đối với chuyện trong thế giới Sa Bà vẫn
chẳng buông xuống được. V́ thế, cái tâm “chán ĺa thế giới Sa Bà,
ưa cầu thế giới Cực Lạc” nhất
định phải trọn đủ th́ mới có thể
tương ứng với Thật Tướng.
3) Do tín tâm chẳng liên tục,
xen lẫn những ư niệm khác: Tín tâm chẳng thể liên tục. Hôm nay quư
vị tin tưởng, rất thuần tịnh, rất
chuyên nhất, nói là đối với thế giới Sa Bà,
quư vị đều buông xuống, nhưng ngày mai lại biến
đổi, tín tâm chẳng thể kiên cố. Như vậy
th́ tới khi lâm chung, sẽ chẳng tương ứng với
A Di Đà Phật.
Do vậy, người niệm Phật rất
nhiều, người sanh về Tây Phương rất ít,
[nguyên nhân là v́] tín tâm chẳng chuyên nhất, chẳng thuần
tịnh, chẳng thể liên tục.
Đệ tử Phật có hai hạng
người:
1) Hạng thứ nhất, chẳng phát tâm tu
hành. Dẫu đối với tu hành bèn tận lực tu, niệm
Phật bèn tận lực niệm, nhưng hoàn toàn chẳng
tin tưởng “niệm A Di
Đà Phật có thể liễu sanh tử, sanh về Tây
Phương”. Đấy là tuy phát đạo tâm tu hành, nhưng niệm Phật
ơ hờ, qua quít, chẳng phát nguyện
trong tương lai sẽ chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn
rồi quay lại độ chúng sanh. V́ thế, niệm Phật
chẳng đắc lực, giống như chẳng tu hành.
2) Hạng thứ hai th́ chân thật phát tâm tu
hành, nghiêm túc niệm Phật mong sanh về Tây Phương.
Lại c̣n muốn thừa nguyện tái lai, nhưng chẳng
hiểu rơ đạo lư “không chấp
tướng”, đối với những ǵ đă tu tập
đều chẳng thể ĺa tướng. Pháp môn tu hành rất
nhiều, bất luận pháp môn nào cũng
đều có thể dùng để phá chấp trước.
Phân biệt đại lược, chúng ta có hai thứ chấp
trước: Một thứ là Ngă Chấp, thứ kia là Pháp
Chấp. Nếu quư vị là bậc thượng căn, tu
tập chẳng chấp tướng, sẽ lập tức
phá trừ Ngă Chấp và Pháp Chấp. Chẳng phải là
căn cơ cao nhất, trước hết, hăy nên biết
“tu hành đừng nên chấp tướng”, cứ thong thả
mà hành th́ cũng có thể phá trừ Ngă Chấp và Pháp Chấp.
Quư vị chẳng thể đi theo con đường “chẳng
chấp tướng” th́ phiền năo chấp trước vốn
có đă chẳng bị phá trừ, do tu hành Phật pháp, lại
tăng thêm những phiền năo chấp trước mới,
làm sao có thể đạt được lợi ích chân thật
trong Phật pháp?
Ví như hàng xuất gia có giới xuất
gia, kẻ tại gia có giới tại gia. Quư vị vừa
mới thọ giới, tự cho là ḿnh ghê gớm lắm, đấy
là Ngă Chấp; ngỡ chính ḿnh tŕ giới thanh tịnh, đấy
là Pháp Chấp:
1) Một là xem thường kẻ khác. Kẻ
khác chẳng thọ giới, chính ḿnh thọ giới, ngỡ
là ḿnh cao hơn kẻ khác. Đấy là dấy ḷng ngă mạn.
2) Hai là hủy báng người khác. Cho rằng
kẻ khác không thọ giới, chẳng hiểu giới luật! Quư vị đă thọ giới,
thấy các tật xấu của người ta, trước
hết là phê b́nh vị cư sĩ này phạm giới, vị
cư sĩ kia phạm giới. Sau đó, phê b́nh vị xuất
gia này phạm giới, vị xuất gia kia phạm giới,
chỉ có quư vị không phạm giới! Hằng ngày tạo
khẩu nghiệp; đấy là tŕ giới chấp tướng.
Tu Định th́ vừa mới biết tĩnh tọa, đă
ngỡ chính ḿnh công phu cao lắm, kẻ khác đều chẳng
biết tĩnh tọa, chỉ
có quư vị biết tĩnh tọa! Phê b́nh người này
chẳng dụng công tu hành, tạo khẩu nghiệp hủy
báng người khác. Nghe kinh th́ mới vừa nghe đôi câu
danh tướng, bèn ngỡ chính ḿnh hiểu biết rất
nhiều Phật lư. Do vậy bèn phê b́nh kẻ khác đều
chẳng hiểu Phật lư, ngỡ trí huệ của chính
ḿnh đặc biệt cao. Đấy là tu hành chấp
tướng, chẳng phá phiền năo vốn có, do chấp
tướng tu hành, lại tăng thêm một số phiền
năo mới, tạo khẩu nghiệp mới! Niệm A Di Đà
Phật, tu Giới, Định, Huệ, công khóa b́nh thường
th́ mỗi ngày quư vị phải niệm ba ngàn, năm ngàn, hoặc một vạn câu Phật hiệu,
[do chấp vào số lượng câu niệm Phật, cảm
thấy ta niệm Phật rất siêng năng], thấy người
khác đều chẳng tu hành, thậm chí hủy báng người khác! Căn bệnh nẩy sanh do chấp
tướng.
Niệm Phật th́ phải tu hành nơi Thật
Tướng, v́ tương ứng với Thật Tướng
th́ sẽ tương ứng với quang minh trí tướng
của A Di Đà Phật, nhất định có thể sanh
về Tây Phương Cực Lạc thế giới.
(Luận) Vân hà tác nguyện? Tâm thường tác nguyện,
nhất tâm chuyên niệm, tất cánh văng sanh An Lạc quốc
độ, dục như thật tu hành Xa-ma-tha cố.
(論)云何作願?心常作願,一心專念,畢竟往生安樂國土,欲如實修行奢摩他故。
(Luận: Tác nguyện là như thế nào? Tâm
thường phát nguyện, nhất tâm chuyên niệm, rốt
cuộc văng sanh cơi nước An Lạc, v́ muốn như
thật tu hành Chỉ).
Thứ ba là Tác Nguyện Môn. “Vân hà tác nguyện? Tâm thường tác nguyện”
(Tác nguyện là như thế nào? Tâm thường phát nguyện).
“Tác” (作) là phát, phát nguyện
như thế nào? Ta thường phát nguyện, nguyện sanh
về Tây Phương An Lạc quốc. Hăy chú ư chữ
Thường. Hôm nay, quư vị phát nguyện, ngày mai quên khuấy,
nguyện ấy chẳng có sức mạnh! Phải thường
xuyên phát nguyện. “Nhất tâm
chuyên niệm”: Ta phát nguyện, phải nhất tâm chuyên
niệm sanh về Tây Phương, chẳng có hai niệm. Trong
phần trước, tôi đă nói, Phật pháp rất dễ
học, chỉ có sáu chữ: “Nh́n
thấu, buông xuống, tự tại”. Quư vị phát nguyện
sanh về Tây Phương, đối với danh lợi và
niềm vui ngũ dục trong thế giới Sa Bà, hăy triệt
để thấy thấu suốt, buông xuống. Quư vị
không buông xuống được, sẽ sanh vọng tưởng,
chẳng thể nhất tâm chuyên niệm Tây Phương A
Di Đà Phật. V́ thế, nếu quư vị không buông xuống
được, “nh́n
thấu” (thấy thấu suốt) trở thành một câu Khẩu
Đầu Thiền: “Ta luôn thấy thấu suốt, ta phải
phát nguyện sanh về Tây Phương”. Kết quả là
thật ra chẳng buông xuống, há “thấy thấu suốt” chẳng phải là
giống như nói suông hay chăng? V́ thế, có thể buông
xuống thế giới Sa Bà, bất luận danh vọng to
lớn cỡ nào đi nữa, ta chẳng
tham. Bất luận mối lợi to lớn cỡ nào đi nữa, ta chẳng tham.
Bất luận niềm vui ngũ dục nào đi nữa,
ta chẳng tham. Đấy là nhất tâm chuyên niệm phát
nguyện, chẳng có nguyện tâm thứ hai th́ mới gọi là “nguyện lực thật sự”.
“Tất cánh văng
sanh An Lạc quốc độ” (Rốt ráo văng sanh cơi nước An Lạc):
Quyết định phải văng sanh An Lạc quốc. Muốn
văng sanh ngay trong đời này, phải có nguyện lực kiên
cố. Cổ nhân nói: “Thử
thân bất hướng kim sanh độ, cánh hướng
hà sanh độ thử thân?” (Đời này chẳng độ
thân này, đời nào mới độ được thân
thể này?): Đời này ta chẳng độ thoát thân thể này, phải chờ tới
đời nào th́ mới có thể độ thoát sanh tử?
Do vậy, quyết định phải làm được
trong đời này. Các vị đang hiện diện đều
có thiện căn, tin tưởng pháp môn Tịnh Độ,
đời trước đă đều niệm Phật, v́
sao chẳng sanh về Tây Phương? Nguyện lực chẳng
khẩn thiết! Đời này, quư vị muốn quyết định văng sanh, nguyện lực phải khẩn
thiết, nguyện lực có thể dẫn dắt quư vị.
Nguyện lực của quư vị chẳng khẩn thiết,
sẽ khiến cho quư vị ở lại thế giới Sa
Bà. V́ thế, phát nguyện phải khẩn thiết, đời
này nhất định phải sanh về An Lạc quốc,
đừng nên đợi đến đời thứ hai.
“Dục như
thật tu hành Xa-ma-tha cố” (Muốn như thật tu hành Chỉ): Xa-ma-tha
(Śamatha) trong tiếng Phạn
dịch sang tiếng Hán là Chỉ (止). Ngưng tâm một chỗ, chẳng
khởi ác, nhất định phải ngưng dứt hết
thảy các ác pháp. Chúng ta ở trong thế giới Sa Bà, sẽ
làm các ác nghiệp, nhất định phải tu pháp môn
Xa-ma-tha, ngưng dứt các ác nghiệp, chẳng làm hết
thảy các điều ác. Trong thế giới Sa Bà có thiện
nghiệp và ác nghiệp. Ác nghiệp là giết, trộm, dâm,
dối; thiện nghiệp là chẳng giết, chẳng trộm,
chẳng dâm, chẳng dối. Nhưng nói theo Thật Tướng
Lư Thể, trong tam giới có hữu lậu thiện nghiệp
chẳng rốt ráo. V́ nếu đời này quư vị làm ác
nghiệp, sẽ đọa lạc vào ba
ác đạo. Nếu đời này quư vị làm thiện
nghiệp, đời sau chuyển sanh làm người đại
phú đại quư, hoặc sanh lên trời hưởng phước
trời, đời thứ hai tốt đẹp, đời
thứ ba vẫn phải đọa lạc. Do vậy, tôi một
lần nữa khuyên quư vị niệm Phật cầu sanh Tây
Phương. Đấy là “vô lậu
thiện nghiệp”.
Trong phần trước đă nói tín tâm của
chúng ta chẳng thuần tịnh, chẳng chuyên nhất, chẳng
thể liên tục, coi Phật pháp là điều kém quan trọng,
coi pháp thế gian mới
là khẩn yếu nhất, đặt nó vào địa vị
đầu tiên, sai lầm ở ngay chỗ này! Giảng kinh, thuyết pháp, chẳng
thể lệch về pháp xuất thế gian. Pháp xuất
thế gian là Chân Đế, vẫn phải quan tâm đến
Tục Đế, v́ chúng ta là phàm phu trong thế gian, vẫn
phải sống, phải ăn uống, mặc quần áo, ở
trong nhà. Là cư sĩ tại gia th́ phải nương theo
người nhà, quyến thuộc. Do đó, quư vị tu hành
dụng công, chẳng thể ĺa khỏi pháp thế gian. Quư
vị hiểu rơ những chuyện thuộc pháp thế gian
chính là nghiệp hữu lậu đă làm trong đời
trước, kiếp trước, [do vậy], đời
này, kiếp này ở nơi đây, bất đắc dĩ
phải hứng chịu quả báo khổ nhiều, lạc
ít. Trong nhân gian, thọ báo đă khổ năo lắm rồi, lại
đọa vào ba ác đạo, chẳng phải là càng khổ
hơn ư? Do vậy, quư vị phải phát nguyện niệm
Phật sanh Tây Phương, xếp liễu sanh tử thành
bậc nhất, xếp chuyện nhân gian vào hàng thứ hai
th́ mới là chẳng điên đảo.
Đối với hết thảy các pháp thế
gian, quư vị cứ nghĩ đến khi lâm chung, bèn có thể
thấy thấu suốt, buông xuống. Tham danh, tham lợi,
một khi quư vị một hơi không thở ra không hít vào được nữa, danh lợi
có thể đi theo quư vị hay chăng? Danh chẳng có, mà
lợi cũng chẳng có! Quư vị làm quan to, danh vọng
to cỡ nào, đến lúc một hơi chẳng hít vào được nữa, [danh vọng]
sẽ chẳng có nữa! Quư vị có bao nhiêu sản nghiệp,
bao nhiêu tiền bạc, đến khi quư vị một
hơi chẳng hít vào được nữa,
toàn bộ chẳng c̣n! Người nhà, quyến thuộc,
đến khi quư vị chẳng hít vào được nữa, ai
cũng chẳng thể cứu quư vị! V́ thế, hễ nghĩ đến lúc chết,
thứ ǵ cũng đều là giả trất, quư vị
cần ǵ cứ phải riết róng? Nhưng quả báo của
chúng ta là sống ở nơi đây, chẳng thể không
chăm sóc người nhà, quyến thuộc, đấy là
chuyện bất đắc dĩ, bất quá đừng nên coi nó là chân thật! Hễ coi nó là chân thật
th́ đă sai lầm mất rồi!
“Dục như
thật tu hành Xa-ma-tha cố” (Do muốn tu hành Chỉ đúng như thật):
Nếu như tu hành nơi Thật Tướng th́ phải
tu hành nơi Thật Tướng như thế nào? Chính là
trong Thật Tướng chẳng có hết thảy các ác
pháp. Nếu quư vị tu hành nơi Thật Tướng, phải
dứt hết thảy các điều ác th́ mới có thể
ứng hợp hạnh Xa-ma-tha.
(Luận) Vân hà quan sát? Trí huệ quan sát. Chánh niệm
quán bỉ, dục như thật tu hành Tỳ-bà-xá-na cố.
Bỉ quan sát hữu tam chủng. Hà đẳng tam chủng?
Nhất giả, quan sát bỉ Phật quốc độ
trang nghiêm công đức; nhị giả, quan sát A Di Đà Phật
trang nghiêm công đức; tam giả, quan sát bỉ chư Bồ
Tát trang nghiêm công đức.
(論)云何觀察?智慧觀察。正念觀彼,欲如實修行毗婆舍那故。彼觀察有三種。何等三種?一者觀察彼佛國土莊嚴功德,二者觀察阿彌陀佛莊嚴功德,三者觀察彼諸菩薩莊嚴功德。
(Luận: Quan sát như thế
nào? Trí huệ quan sát. Chánh niệm quán cơi kia v́ muốn
như thật tu hành Quán. Sự quan sát ấy có ba loại,
những ǵ là ba loại? Một là quan sát công đức
trang nghiêm của cơi Phật ấy, hai là quan sát công đức
trang nghiêm của A Di Đà Phật, ba là quan sát công đức
trang nghiêm của các vị Bồ Tát trong cơi ấy).
Thứ tư là Quan Sát Môn, “vân hà quan sát? Trí huệ quan sát”: Quan sát như thế
nào? Người học Phật pháp bèn dùng trí huệ để
quan sát. Có những kẻ chẳng hiểu Phật pháp chửi
chúng ta là ngu si, hằng ngày tạo khẩu nghiệp. Phật
giáo không nói theo kiểu mê tín. Quư vị muốn sanh về Tây
Phương, phải dùng trí huệ để quan sát xem
nơi ấy có đáng để đến đó hay
chăng? Chẳng thể hồ đồ sanh về Tây
Phương. Trước hết, phải dùng trí huệ
để quan sát. “Chánh niệm
quán bỉ”: Quan sát bằng trí huệ th́ chẳng thể
dùng tà niệm, phải dùng chánh niệm của chúng ta để
quan sát. “Dục như thật
tu hành Tỳ-bà-xá-na cố” (V́ muốn như thật tu hành Quán): Tỳ-bà-xá-na
(毗婆舍那, Vipassanā) trong tiếng Phạn
dịch sang tiếng Hán là Quán. Trong cặp Chỉ Quán th́ phải
tu Quán để quan sát công đức nơi y báo và chánh báo
của Tây Phương Cực Lạc thế giới.
“Bỉ quan sát hữu
tam chủng”: Quan sát y báo và chánh báo của Tây
Phương th́ có ba thứ quan sát. “Hà đẳng tam chủng? Nhất giả quan sát Tây
Phương Cực Lạc thế giới y báo trang nghiêm
công đức”. Ba thứ ǵ vậy? Thứ nhất là
quan sát công đức trang nghiêm nơi y báo và chánh báo của
Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Nhị giả, quan sát A Di Đà Phật
trang nghiêm công đức”: Thứ hai, quan sát chủ nhân của
Tây Phương Cực Lạc thế giới, [quan sát] tám
thứ công đức trang nghiêm của A Di Đà Phật. “Tam giả, quan sát bỉ chư Bồ
Tát trang nghiêm công đức”: Thứ ba, quan sát các thứ
công đức trang nghiêm của các vị đại Bồ
Tát.
(Luận) Vân hà hồi hướng? Bất xả nhất
thiết khổ năo chúng sanh, tâm thường tác nguyện hồi
hướng vi thủ, đắc thành tựu đại bi
tâm cố.
(論)云何迴向?不捨一切苦惱眾生,心常作願迴向為首,得成就大悲心故。
(Luận: Hồi hướng là như thế nào?
Chẳng bỏ hết thảy chúng sanh khổ năo, tâm
thường phát nguyện hồi
hướng làm đầu, v́ để thành tựu tâm
đại bi).
Thứ năm là Hồi Hướng Môn. “Vân hà hồi hướng?” Hồi
hướng như thế nào? “Bất
xả nhất thiết chúng sanh khổ năo” (Chẳng bỏ hết thảy
chúng sanh khổ năo): V́ sao phải tu hành ḥng liễu sanh tử?
V́ hết thảy chúng sanh chịu đựng sanh tử
luân hồi quá khổ, chết chết, sống sống, thoạt
ch́m, thoạt nổi, vĩnh viễn chẳng được
ngơi nghỉ. Đời này làm người đă khổ,
đọa vào ba ác đạo càng khổ hơn! Dẫu
đời sau, đời kế, chuyển sanh làm người, vẫn là khổ sở vô cùng vô tận. Đấy là
lại dùng trí huệ để quan sát, hết thảy chúng
sanh đều chịu khổ năo ở nơi đây, ta chẳng
thể một ḿnh liễu sanh thoát tử, ta phải sanh về Tây Phương,
nguyện độ hết thảy chúng sanh thoát khỏi biển khổ. Do vậy,
phải thường xuyên quán niệm hết thảy chúng sanh
đều là chúng sanh khổ năo. “Tâm
thường tác nguyện hồi hướng vi thủ”
(Tâm thường phát nguyện
hồi hướng làm đầu): V́ hết thảy chúng
sanh đều đang chịu khổ năo ở nơi
đây, ta phát nguyện độ chúng sanh, đem các công
đức đă tu đều hồi hướng cho hết
thảy chúng sanh.
“Đắc thành
tựu đại bi tâm cố” (V́ để thành tựu tâm đại bi):
Pháp môn Đại Thừa coi lợi tha là tự lợi. Các
công đức do ta đă tu đều mong hồi hướng cho chúng
sanh, tức là nguyện cho hết thảy chúng sanh đạt
được công đức của ta, đều sanh về
Tây Phương. Điều này giống như chính ḿnh bị
thua thiệt, thật ra lợi
tha là tự
lợi, v́ đă thành tựu cái tâm đại bi của chính
ḿnh.
Thoạt đầu, phát tâm đại bi,
trước hết, phải quan sát nỗi khổ của
chúng sanh, trông thấy chúng sanh đang
chịu khổ, cái tâm đại bi của quư vị bèn phát
khởi. Đă sanh khởi tâm đại bi, lại c̣n phải
trưởng dưỡng tâm đại bi. Tâm đại bi
giống như một cái mầm cây Bồ Đề vừa
mới nẩy sanh. Quư vị tưới
nước, mầm cây mới có thể tăng trưởng
thành cây to. Phải thường xuyên phát nguyện, ta phải
độ hết thảy chúng sanh, tâm Bồ Đề sẽ càng dưỡng
càng lớn. V́ thế, thoạt đầu tu hành, nhất
định hồi hướng tất cả công đức
cho hết thảy chúng sanh, đừng nên quên bẵng các
chúng sanh khổ năo. Từ từ làm, từ từ tu, tu viên
măn, đợi đến khi dưỡng thành công, sẽ
thành tựu tâm đại bi.
Pháp môn Đại Thừa như một cỗ
xe lớn, có thể chuyên chở hết thảy chúng sanh từ
địa vị phàm phu đến chỗ có kho báu Niết
Bàn, chở đến nơi thành Phật. Xe lớn có hai
bánh xe, một là bi luân, hai là trí luân. Muốn chuyển động
cỗ xe Đại Thừa, phải vận chuyển cả
hai bánh xe Bi và Trí cùng lúc. Nếu như có Bi mà không có Trí, hoặc có Trí mà không có Bi, sẽ chẳng xoay chuyển
xe được! Nhất định là Bi và Trí phải cùng vận dụng, cỗ xe
Đại Thừa mới có thể chuyên chở hết thảy
chúng sanh tới đích.
Như tu hành nơi Thật Tướng th́
phải dùng trí huệ để quan sát, tức là quan sát sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo của Tây
Phương Cực Lạc thế giới, phải học
theo A Di Đà Phật tu lục độ vạn hạnh, trang
nghiêm Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhưng
quư vị đừng nên chấp tướng. Quư vị phát
tâm độ các chúng sanh khổ năo, nhất định phải
dùng trí huệ chẳng chấp tướng áp dụng vào
tâm đại bi, dùng từ bi cứu độ các chúng sanh khổ
năo. Đấy mới là tâm Đại
Thừa.
Phàm phu hành tà đạo, Nhị
Thừa hành thiên đạo (偏道, đạo lệch lạc),
Phật là Chánh Giác, sở hành của Ngài là chánh đạo.
Nay chúng ta đang tu pháp Đại Thừa, tu
chánh đạo, nhưng Bi lẫn Trí đều phải coi trọng, chẳng
thể lệch về một bên. Nếu quư vị thiên về
trí huệ, hằng ngày quán Không, [do thấy] hết thảy
chúng sanh là Không, chúng sanh hứng chịu khổ năo, quư vị
chẳng động tâm, quư vị c̣n có thể độ
chúng sanh hay không? Như thế là lệch về trí huệ,
rơi vào đạo Nhị Thừa. Nếu quư vị lệch
về bi tâm, chấp tướng cứu độ chúng
sanh, trông thấy chúng sanh có khổ
năo, họ c̣n chưa khó chịu, quư vị đă khó thể
chịu đựng. Quư vị có Bi mà không có Trí, sẽ bị cảnh giới xoay chuyển,
chẳng thể cứu độ chúng sanh. Quư vị phải
phối hợp với trí huệ, tuy cứu độ chúng
sanh khổ năo, nhưng chẳng chấp tướng.
Tuy chẳng chấp tướng, vẫn cứu độ
chúng sanh như cũ. Đấy mới là chánh đạo.
Phần luận văn Trường Hàng chia
thành mười khoa, thứ nhất là đại ư của
kệ nguyện sanh. Thứ hai là khởi quán sanh ḷng tin, dạy
chúng ta hăy khởi lên sự quan sát, sanh khởi tín tâm. Hai
khoa trên đây đă giảng xong. Nay giảng vào khoa thứ
ba, tức là thể tướng của Quán Hạnh. Quan Sát Môn là tu quán hạnh, giống
như trong Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật
Kinh [đức Phật
đă dạy] quan sát Tây Phương Cực Lạc thế
giới trang nghiêm như thế nào? Tùy văn tác quán, tức
là dụng công tu hành. Quan sát chia thành ba loại, trước
hết là quan sát sự trang nghiêm nơi y báo của Tây Phương
Cực Lạc thế giới.
4.2.3. Thể tướng
của Quán Hạnh (chia thành hai phần)
4.2.3.1. Khí thể (thể
tướng của khí thế giới)
4.2.3.1.1. Thể tướng
của quốc độ
(Luận) Vân hà quan sát bỉ Phật quốc độ
trang nghiêm công đức? Bỉ Phật quốc độ
trang nghiêm công đức giả, thành tựu bất khả
tư nghị lực cố, như bỉ ma-ni như ư bảo
tánh, tương tự tương đối pháp cố.
(論)云何觀察彼佛國土莊嚴功德?彼佛國土莊嚴功德者,成就不可思議力故。如彼摩尼如意寶性,相似相對法故。
(Luận: Quan sát công đức trang nghiêm của cơi
nước Phật ấy như thế nào? Công đức
trang nghiêm nơi cơi nước Phật ấy là do thành tựu
sức chẳng thể nghĩ bàn, như tánh của chất
báu ma-ni như ư v́ pháp tương tự, tương đối).
“Vân hà quan sát bỉ
Phật quốc độ trang nghiêm công đức?” Quan
sát công đức trang nghiêm của quốc độ Tây
Phương Cực Lạc thế giới như thế
nào? “Bỉ Phật quốc
độ trang nghiêm công đức giả, thành tựu bất
khả tư nghị lực cố” (Công đức
trang nghiêm nơi cơi nước Phật ấy là do thành tựu
sức chẳng thể nghĩ bàn): Trước hết, hăy quan sát các thứ
công đức trang nghiêm nơi Tây Phương Cực Lạc
thế giới được thành tựu bởi sức chẳng
thể nghĩ bàn. “Bất khả
tư nghị”: “Tư” (思) là tâm suy nghĩ, “nghị” (議, bàn luận) là ngôn ngữ. Chẳng
phải là phàm phu chúng ta dùng tâm suy nghĩ, hay dùng ngôn ngữ
mà thảo luận được, nên gọi là “bất khả tư nghị lực” (sức chẳng thể nghĩ bàn).
Kinh Phật nói pháp thế gian và xuất thế
gian có năm thứ chẳng thể nghĩ bàn:
1) Chúng sanh số lượng bao nhiêu chẳng
thể nghĩ bàn. Trong hư không, thế giới vô lượng
vô biên, số lượng của
chúng sanh
cũng là vô lượng. Rốt
cuộc có bao nhiêu chúng sanh, tâm tư của lũ phàm phu
chúng ta chẳng tính đếm được, ngôn ngữ
cũng chẳng thể bàn nổi.
2) Nghiệp lực chẳng thể nghĩ
bàn. Quư vị tạo thiện nghiệp, nó lôi dẫn quư vị
vào thiện đạo. Quư vị tạo ác nghiệp, nó lôi dẫn
quư vị vào ác đạo.
3) Sức của rồng chẳng thể
nghĩ bàn. Rồng là chúng sanh trong súc sanh đạo, nó có
các thứ biến hóa. Sức mạnh của nó chẳng thể
nghĩ bàn.
4) Sức Thiền Định chẳng
thể nghĩ bàn. V́ đă nhập Thiền Định, sẽ
có sức mạnh đặc biệt.
5) Sức Phật pháp chẳng thể
nghĩ bàn. Phật có pháp lực, pháp lực chẳng thể
nghĩ bàn.
Hiện thời, quan sát sự trang nghiêm được thành tựu
bởi công
đức trong Tây Phương
Cực Lạc thế giới có hai loại sức mạnh
chẳng thể nghĩ bàn:
1) Một loại là nghiệp lực chẳng
thể nghĩ bàn. [Nghiệp lực trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới] chẳng phải là nghiệp hữu
lậu tức thiện nghiệp hoặc ác nghiệp trong
tam giới. Đấy là nguyện lực vô lậu chẳng
thể nghĩ bàn từ bốn mươi tám đại
nguyện của A Di Đà Phật.
2) Loại thứ hai là Phật pháp lực chẳng
thể nghĩ bàn. Đức Phật đă thành Phật, pháp
lực của Ngài chẳng thể nghĩ bàn.
“Như bỉ ma-ni
như ư bảo tánh” (Như tánh chất báu Ma-ni như ư): Ma-ni như ư bảo (Cintā-maṇi) trong tiếng Phạn dịch sang tiếng
Hán là “như ư bảo” v́ nó
có thể vừa ḷng, măn nguyện. Tây Phương Cực Lạc
thế giới được trang nghiêm bởi vô lượng trân bảo, do đâu mà có? [Để dễ
giảng giải, Thiên Thân Bồ Tát đă] dùng ma-ni như ư
bảo châu để tỷ dụ. Chư Phật quá khứ
nhập Niết Bàn, biến thân thể thành các hạt xá-lợi,
lưu lại trong thế gian để cho chúng sanh gieo
phước. Chúng sanh gieo phước đă hết, hạt
xá-lợi biến thành Như Ư Châu, bị giấu trong cung rồng
nơi biển cả. Nếu trong thế gian có Chuyển
Luân Thánh Vương là người có phước báo xuất
thế thống trị thiên hạ, ông ta có thể đạt
được như ư bảo châu, treo như ư bảo châu trên
sào cao, tùy thời cầu nguyện: “Tôi là Chuyển Luân Thánh
Vương, tôi muốn tạo lợi ích cho nhân dân trong thiên hạ, hy vọng
ngươi sẽ giống như trời mưa, ban cho tôi hết
thảy các thứ châu bảo mà tôi mong cầu”. Nếu chúng
sanh của ông ta cầu mưa, ma-ni bảo châu sẽ ngay lập
tức tuôn mưa. Nếu chúng sanh của ông ta mong mặc quần áo mới,
ma-ni bảo châu sẽ giống như trời đổ
mưa, tuôn xuống quần áo mới, khiến cho chúng sanh
đều có thể vừa ḷng, thỏa ư.
“Tương tự
tương đối pháp cố”: Các thứ trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới; “tương
tự” là phảng
phất, từa tựa như tánh chất của ma-ni bảo
châu bảo có thể xứng ḷng, như nguyện, cầu
ǵ được nấy. “Tương
đối pháp”: Tương đối th́ chẳng phải
là tuyệt đối. Dùng ma-ni bảo châu để sánh ví,
nhằm dạy chúng ta hiểu các thứ trang nghiêm của Tây
Phương Cực Lạc thế giới giống như ma-ni
bảo châu, cầu ǵ được nấy! Ma-ni bảo
châu cầu ǵ được nấy, đó là [mong cầu những]
pháp thế gian; chứ quư vị cầu Phật pháp, nó sẽ
chẳng thực hiện được. Nó có thể nuôi sống
quư vị về cuộc sống kinh tế, chẳng thể
giúp quư vị liễu sanh thoát tử, chẳng thể khiến
cho quư vị thành Phật, mà cũng chẳng thể thỏa
măn nguyện cứu độ chúng sanh của quư vị. Tây
Phương Cực Lạc thế giới như ma-ni bảo
châu, cầu ǵ được nấy, A Di Đà Phật
thành tựu công đức trang nghiêm thanh tịnh, điều
ǵ cũng đều có thể khiến cho quư vị xứng
tâm, vừa ư.
(Luận) Quan sát bỉ Phật quốc
độ trang nghiêm công đức thành tựu giả, hữu
thập thất chủng ưng tri. Hà đẳng thập thất? Nhất giả, trang
nghiêm thanh tịnh công đức thành tựu. Nhị giả,
trang nghiêm lượng công đức thành tựu. Tam giả,
trang nghiêm tánh công đức thành tựu. Tứ giả,
trang nghiêm h́nh tướng công đức thành tựu.
Ngũ giả, trang nghiêm chủng chủng sự công đức
thành tựu. Lục giả, trang nghiêm diệu sắc công
đức thành tựu. Thất giả, trang nghiêm xúc công
đức thành tựu. Bát giả, trang nghiêm tam chủng
công đức thành tựu. Cửu giả, trang nghiêm vũ
công đức thành tựu. Thập giả, trang nghiêm quang
minh công đức thành tựu. Thập nhất giả, trang
nghiêm diệu thanh công đức thành tựu. Thập nhị
giả, trang nghiêm chủ công đức thành tựu. Thập
tam giả, trang nghiêm quyến thuộc công đức thành tựu.
Thập tứ giả, trang nghiêm thọ dụng công đức
thành tựu. Thập ngũ giả, trang nghiêm vô chư nạn
công đức thành tựu. Thập lục giả, trang
nghiêm đại nghĩa môn công đức thành tựu. Thập
thất giả, trang nghiêm nhất thiết sở cầu
măn túc công đức thành tựu.
(論)觀察彼佛國土莊嚴功德成就者,有十七種應知。何等十七?一者莊嚴清淨功德成就,二者莊嚴量功德成就,三者莊嚴性功德成就,四者莊嚴形相功德成就,五者莊嚴種種事功德成就,六者莊嚴妙色功德成就,七者莊嚴觸功德成就,八者莊嚴三種功德成就,九者莊嚴雨功德成就,十者莊嚴光明功德成就,十一者莊嚴妙聲功德成就,十二者莊嚴主功德成就,十三者莊嚴眷屬功德成就,十四者莊嚴受用功德成就,十五者莊嚴無諸難功德成就,十六者莊嚴大義門功德成就,十七者莊嚴一切所求滿足功德成就。
(Luận: Quan sát trang nghiêm công đức thành tựu
nơi cơi nước Phật ấy, hăy nên biết là có
mười bảy thứ. Những ǵ là mười bảy?
Một là trang nghiêm công đức thanh tịnh thành tựu.
Hai là trang nghiêm lượng công đức thành tựu. Ba là
trang nghiêm tánh công đức thành tựu. Bốn là trang
nghiêm h́nh tướng công đức thành tựu. Năm là trang
nghiêm các thứ sự công đức thành tựu. Sáu là trang
nghiêm diệu sắc công đức thành tựu. Bảy là trang
nghiêm xúc công đức thành tựu. Tám là trang nghiêm ba thứ
công đức thành tựu. Chín là trang nghiêm mưa công đức
thành tựu. Mười là trang nghiêm quang minh công đức
thành tựu. Mười một là trang nghiêm âm thanh mầu
nhiệm công đức thành tựu. Mười hai là trang
nghiêm chủ công đức thành tựu. Mười ba là trang
nghiêm quyến thuộc công đức thành tựu. Mười
bốn là trang nghiêm thọ dụng công đức thành tựu.
Mười lăm là trang nghiêm không có các nạn công đức
thành tựu. Mười sáu là trang nghiêm đại nghĩa
môn công đức thành tựu. Mười bảy là trang
nghiêm những điều mong cầu đều được
thỏa măn công đức thành tựu).
Quan sát các thứ trang nghiêm của Tây
Phương Cực Lạc thế giới, đều là sự trang nghiêm được thành tựu bởi công đức, hăy nên biết là tổng cộng
có mười bảy thứ. Kế đó, nêu bày mười
bảy thứ trang nghiêm, dưới đây sẽ phân biệt
giải thích.
(Luận) Trang nghiêm thanh tịnh công đức thành tựu
giả. Kệ ngôn: “Quán bỉ thế giới tướng,
thắng quá tam giới đạo” cố.
(論)莊嚴清淨功德成就者。偈言:觀彼世界相,勝過三界道故。
(Luận: Trang nghiêm thanh tịnh công đức thành
tựu. Kệ viết: “Quán tướng thế giới ấy,
vượt trỗi tam giới đạo”).
“Trang nghiêm thanh tịnh
công đức thành tựu giả” (Trang nghiêm thanh tịnh công đức
thành tựu): Loại trang nghiêm thanh tịnh thứ nhất
là Tổng Tướng. Tây Phương Cực Lạc thế
giới là thế giới thanh tịnh, nói đối chiếu
th́ thế giới Sa Bà là thế giới ô nhiễm. Tiếp
đó, [lời luận] giải thích Kệ Tụng:
“Kệ ngôn: Quán bỉ thế
giới tướng, thắng quá tam giới đạo cố”
(Kệ rằng: “Quán tướng thế giới ấy, trỗi
vượt tam giới đạo”). Quan sát tướng trạng
của Tây Phương Cực Lạc thế giới, [sẽ thấy] vượt trỗi tam
giới đạo của thế giới Sa Bà. Thế giới
Sa Bà nói chung có tam giới, tức Dục Giới, Sắc Giới,
và Vô Sắc Giới. Hết thảy chúng sanh có lục đạo,
ở trong ba ác đạo đương nhiên là khổ, chẳng
thể sánh bằng thế giới Cực Lạc. A Tu La
đạo coi như thuộc về ác đạo thứ
tư, cũng chẳng thể sánh bằng thế giới Cực
Lạc. Nhân gian và cơi trời là thiện đạo, có trang
nghiêm, có thọ dụng, vẫn chẳng thể sánh bằng
thế giới Cực Lạc.
V́ sao tam giới của thế
giới Sa Bà chẳng thể sánh bằng thế giới Cực
Lạc? Tướng tam giới của thế giới
Sa Bà đều là hư ngụy, Tây Phương Cực Lạc
thế giới mới là chân thật. Nhân đạo và thiên
đạo trong thế giới Sa Bà có vui sướng,
nhưng đấy là một thứ vui sướng hư
ngụy. Lạc là Hoại Khổ, vui sướng có lúc
hư hoại. Hễ hư hoại, sẽ đau khổ,
nó chẳng phải là thường trụ. Sanh lên trời hưởng
thụ niềm vui diệu dục, vui sướng hơn
nhân gian khá nhiều, nhân gian chẳng thể nghĩ tưởng
nổi, nhưng hưởng hết phước trời lại
phải đọa lạc, v́ sự vui ấy vẫn là giả.
Do vậy, sáu tầng trời trong Dục Giới đều
là hư ngụy, chẳng thật. Hai giới trên, tức Sắc
Giới và Vô Sắc Giới do tu Tứ Thiền Bát Định
mà sanh lên đó. Tu Tứ Thiền Định, sẽ sanh vào
Sắc Giới Thiên. Tu Tứ Không Định, sanh vào Vô Sắc
Giới Thiên, Định ấy vẫn là tạm thời. Hễ
Định tán thất, vẫn phải rơi xuống
dưới. V́ thế, tam giới trong thế giới Sa Bà
đều là hư ngụy, chẳng thật.
Tây Phương Cực Lạc thế giới
thành tựu bởi công đức thanh tịnh của A Di
Đà Phật, cho nên là an lạc chân thật. Sự vui
sướng trong thế giới Sa Bà có lúc hư hoại,
cho nên thế giới Sa Bà là biển khổ. Khổ có ba thứ
khổ là Khổ Khổ (苦苦, Dukkha-dukkha), Hoại Khổ (壞苦, Viparinama-dukkha), và Hành Khổ (行苦, Sankhara-dukkha). Một phàm phu đă hứng
chịu quả báo khổ, lại c̣n chẳng có cơm
ăn, chẳng có quần áo để mặc, chẳng có
nhà cửa để ở; áo, cơm, chỗ ở
chẳng thể đầy đủ, đă khổ càng thêm khổ,
gọi là Khổ Khổ. Người đại phú đại quư trong nhân gian, có kẻ
tiền dùng chẳng hết, có kẻ c̣n làm quan lớn, loại người ấy
đang “cao cao tại
thượng” trong
nhân gian, nhưng có khi bị hư hoại, đang có tiền
biến thành bần cùng, quan to bị mất chức, chuyện
vui đă hư mất, càng khổ sở hơn! Kẻ bần
cùng rất khổ năo, nhưng kẻ đă từng giàu sụ
biến thành
bần cùng c̣n khổ dữ dội hơn người bần
cùng. Cho nên là Hoại Khổ. C̣n có một loại người,
họ cũng chẳng sướng lắm, mà cũng chẳng
rất khổ, rất đỗi b́nh thường,
nhưng b́nh thường cũng chẳng thể thường
trụ. Đó gọi là Hành Khổ. Hành (行) là đổi dời
không ngớt. Quư vị cảm thấy cuộc sống rất
b́nh thường, chẳng khổ mà cũng chẳng sướng,
nhưng sanh mạng đổi dời chẳng ngừng, tự
nhiên quư vị từ trẻ khỏe thành già cả, từ già cả cho đến chết đi,
đó là Hành Khổ.
Trong Phật giáo, có sáu món thần thông. Một
là Thiên Nhăn Thông (Dibba-cakkhu), hai là Thiên Nhĩ Thông (Dibba-sota), ba là Tha Tâm Thông (Ceto-pariya-ñāṇa), bốn là Thần Túc
Thông (Iddhi-vidhā), năm là Túc Mạng Thông
(Pubbe-nivāsanussati), sáu là Lậu Tận
Thông (Āsavakkhaya). Chư thiên có năm
loại [thần thông] đầu, chẳng có Lậu Tận
Thông. Chư thiên có Thiên Nhăn, có thể thấy chính ḿnh khi quả
báo [trong cơi trời] đă hết, đọa xuống thấp
hơn, sẽ sanh trong đường nào. Kinh Phật nói:
Có một vị trời, thấy chính ḿnh phải đọa
vào bụng một con lợn sề già, chuyển sanh làm một
con lợn con. Con lợn sề ấy khắp thân lở
loét! Nỗi đau khổ ấy
[của vị trời
ấy] c̣n
đau khổ hơn khi chẳng được sanh lên trời.
V́ thế, có người sanh lên
trời, hưởng phước trời, đă hưởng hết
phước trời, lại đọa lạc, có một
khoảng thời gian vui sướng, qua khỏi thời
gian ấy th́ lại khổ sở. V́ thế, Thích Ca Mâu Ni
Phật thừa nhận nhân thiên có vui sướng, nhưng
lạc là Hoại Khổ.
Quan sát thêm một bước nữa, niềm
vui được hưởng thụ trong cơi trời và
nhân gian đều là giả trất, chẳng
phải là chân lạc, v́ chẳng đạt được
ǵ! Ví như làm phàm phu trong nhân gian, niềm vui sướng lớn
nhất trong đời người không ǵ hơn nam nữ
kết hôn. Rất nhiều vị cư sĩ đang hiện
diện đă kết hôn, đều là người đă từng
trải. Khi quư vị chưa kết hôn, cứ ngỡ kết
hôn là sự vui sướng to bậc nhất. Cho đến khi quư vị
kết hôn, đạt được niềm vui sướng
ǵ vậy? Chẳng đạt được ǵ, toàn là giả
trất, hư ngụy, chẳng thật. Quan sát cao hơn một bước nữa,
lạc là khổ nhân (cái nhân gây ra khổ). Kết hôn có nỗi
khổ năo do kết hôn. Khổ năo lại c̣n càng ngày càng nhiều.
V́ quư vị đă kết hôn, sẽ sanh
con, con càng ngày càng nhiều,
gánh nặng càng ngày càng nặng, phiền năo càng lắm. V́
thế, lạc là khổ nhân. Đối với những niềm vui sướng
khác trong thế gian, cứ lấy chuyện này mà suy, chẳng
hạn như quư vị ngỡ phát tài sẽ vui sướng,
nhưng sau khi đă phát tài rồi, lại
khổ năo do phải sử dụng tiền tài ấy
[như thế nào để khỏi bị mất đi]. Cho
nên so với lúc bần cùng, càng khổ dữ dội
hơn!
Phàm phu trong tam giới đều là tướng
điên đảo, chẳng có Tứ Đức Thường,
Lạc, Ngă, Tịnh của Niết Bàn. Tam giới là vô
thường, loài người chúng ta chấp trước
nó là vô thường. Thường nói: “Nhân sanh bất măn bách, thường hoài thiên tuế
ưu” (Người đời thọ chẳng đầy trăm,
mà ôm ưu lự ngàn năm là thường). Người sống
đến trăm tuổi rất ít, nhưng con người
thường lo âu chuyện thuộc ngàn năm sau. Đấy
chính là ngỡ vô thường là thường. Trong tam giới
đều là khổ, họ ngỡ có một niềm vui. Vốn
chẳng có Ngă, họ chấp trước có một cái Ngă.
Trong tam giới toàn là ô nhiễm, không thanh tịnh, họ ngỡ
là thanh tịnh. Đấy đều là tướng
điên đảo. Tây Phương Cực Lạc thế giới
là do A Di Đà Phật chứng đắc Tứ Đức
“chân thường, chân lạc,
chân ngă, chân tịnh” của Niết Bàn; cho nên nó vượt
trỗi tam giới đạo.
Khổ tướng trong tam giới của thế
giới Sa Bà là luân hồi sanh tử trong lục đạo,
sanh rồi tử, tử rồi sanh. Lấy ngay nhân đạo
để nói, một người sống đến
trăm tuổi bèn chết ngắc, vẫn chưa xong, v́
quư vị lại tạo nghiệp mới, vẫn phải
tiếp tục luân chuyển. Quư vị tạo thiện nghiệp,
chuyển sanh trong ba thiện đạo; đă tạo ác
nghiệp th́ chuyển vào ba ác đạo. Quư vị chịu
khổ trong ba ác đạo xong, lại chuyển sanh vào ba
thiện đạo. Thọ khổ trong ba thiện đạo
xong, lại chuyển vào ba ác đạo, sanh sanh tử tử,
tử tử sanh sanh như thế đó. Chuyển tới,
chuyển lui, chịu khổ vô cùng!
Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́ chúng ta chọn lựa
dứt khoát. Chúng sanh trong ba thiện đạo có thể nghe
hiểu Phật pháp, phát đạo tâm tu hành, nhưng nếu
đọa vào ba ác đạo th́ làm như thế nào đây?
Dẫu sanh lên trời, [tới khi] hưởng hết
phước trời, vẫn phải đọa xuống.
V́ thế, sanh tử luân hồi, chịu khổ vĩnh viễn
chẳng hết, chẳng xong. Sanh vào Tây Phương Cực
Lạc thế giới sẽ chẳng thoái chuyển, chỉ
có tinh tấn, chẳng có lui sụt, chắc chắn sẽ
thành Phật ngay trong một đời, sẽ chẳng hứng
chịu nỗi khổ luân hồi. Do vậy, Tây
Phương Cực Lạc thế giới vượt trỗi
tam giới đạo.
Trong phần trước là nói về Quan Sát Môn.
Văng Sanh Luận dạy chúng ta phương pháp tu hành, tức
là quư vị quán tưởng Tây Phương Cực Lạc
thế giới là một thế giới an lạc, thanh tịnh;
thế giới Sa Bà là một thế giới khổ năo,
hư ngụy, điên đảo, sanh tử luân hồi.
Pháp môn Tịnh Độ là hai môn Hân và Yếm,
Hân (欣) là yêu chuộng, ưa thích, Yếm
(厭) là chán ngán, ghét bỏ. Quư vị quan sát niềm vui
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới và nỗi
khổ trong thế giới Sa Bà, so sánh giữa khổ và lạc,
[nhận biết] thế giới Cực Lạc vượt
trỗi thế giới Sa Bà, quư vị mới có thể phát
tâm hoan hỷ, mong muốn sanh về thế giới Cực
Lạc. Quư vị quan sát nỗi khổ trong thế giới
Sa Bà, phải nên chán ngán, ghét bỏ nó, giống như chúng
ta rơi vào hầm phân, phải ngay lập tức nhảy
ra, một khắc cũng chẳng thể nấn ná trong đó. Như vậy th́ mới
có thể ĺa khỏi thế giới Sa Bà. Quư vị học Phật
pháp, biết nỗi khổ sanh tử, thật sự phát Bồ
Đề tâm, bằng ḷng sanh về Tây Phương rồi
trở về độ chúng sanh. Đấy là nhập Hân
môn, ưa thích sanh vào thế giới Cực Lạc. Nhưng
đối với Yếm môn, quư vị chẳng đổ
công dốc sức, chẳng chán nhàm thế giới Sa Bà, cho
nên tới khi quư vị lâm chung, chẳng buông bên này xuống
được, sẽ chẳng sanh vào thế giới Cực
Lạc. V́ sao chẳng sanh về? V́ sức niệm Phật
là trong đời này, kiếp này mới dụng công, c̣n tập
khí trong thế giới Sa Bà là tập khí trong nhiều đời,
nhiều kiếp; sức mạnh của
tập khí ấy hết sức mạnh mẽ! Sức mạnh
để sanh về Tây Phương chẳng chống nổi
tập khí của thế giới Sa Bà, kềm hăm khiến
quư vị chẳng đi được! Do vậy, quư vị không chỉ cần
phải Hân, mà c̣n phải Yếm, phải trọn đủ
hai môn Hân và Yếm th́ mới có thể văng sanh. Phải nhất
tâm quan sát thế giới Sa Bà thật sự đáng chán
nhàm, thế giới Cực Lạc thật sự tốt
đẹp. Hằng ngày suy tưởng như vậy th́ mới
có thể phát sanh một thứ sức mạnh.
Chúng ta lại quan sát các đệ tử Phật
trong hiện thời, đă học Phật nhiều năm,
thật sự phát tâm tu hành, niệm A Di Đà Phật mong
sanh về Tây Phương. Nhưng trong hành vi thường
nhật của họ, danh chẳng buông xuống được,
lợi cũng chẳng buông xuống được, v́ mong
tranh danh đoạt lợi, bèn có nhân ngă thị phi và ganh tỵ
gây chướng ngại. Họ phát đạo tâm sanh về
Tây Phương, chỉ có Hân môn, chẳng thực hiện
công phu Yếm môn, cho nên chẳng thấy thấu suốt
chuyện trong thế giới Sa Bà, người ấy lâm
chung chẳng sanh về Tây Phương! V́ thế, quư vị
phải vui thích sanh về Tây Phương, đồng thời
c̣n phải chán ĺa thế giới Sa Bà.
(Luận) Trang nghiêm lượng công đức thành tựu
giả, kệ ngôn: “Cứu cánh như hư không, quảng
đại vô biên tế” cố.
(論)莊嚴量功德成就者。偈言:究竟如虛空,廣大無邊際故。
(Luận: Trang nghiêm lượng công đức thành
tựu là như kệ nói: “Rốt ráo như hư không, rộng
lớn, không ngằn mé”).
“Trang nghiêm lượng
công đức thành tựu giả” là loại trang nghiêm
thứ hai, Tây Phương Cực Lạc thế giới to
cỡ nào, rộng cỡ nào, dài cỡ nào? “Kệ ngôn: Cứu cánh như hư không, quảng
đại vô biên tế cố” (Kệ rằng: “Rốt ráo như hư không,
rộng lớn không ngằn mé”): Tây Phương Cực Lạc
thế giới là thế giới Diệu Hữu, Diệu Hữu
tức là Chân Không, giống như hư không; v́ thế, rộng
lớn chẳng có ngằn mé. Đấy là cảnh giới
chẳng thể nghĩ bàn. Chúng sanh trong mười
phương thế giới có bao nhiêu người niệm
Phật sanh về Tây Phương đều có thể sanh
về đó.
V́ sao A Di Đà Phật phải phát ra những nguyện này, tạo ra các
thứ trang nghiêm? V́ chúng sanh có những nỗi khổ năo ấy,
Ngài mới thực hiện những sự trang nghiêm ấy.
Hiện thời, đối với phàm phu, chỗ ở là
một vấn đề lớn. Càng tiến vào thời đại công
nghiệp, đất đai càng là “tấc đất, tấc vàng”. Quư vị vất
vả suốt cả một đời, vẫn chẳng
mua nổi một căn nhà. Giá nhà chỉ tăng vùn vụt,
chẳng hề giảm xuống. Dân cư càng ngày càng nhiều,
nhà cửa càng ngày càng hẹp, cư trụ là một nỗi
khổ năo to lớn. Chư vị cư sĩ mong lập một
Phật đường tại gia, chẳng thể vừa
ḷng măn nguyện, v́ nhà đông người, hiềm rằng
nhà cửa chật hẹp, làm sao có thể dành ra một
căn pḥng để làm Phật đường cho nổi?
Nếu xuất gia, mở đạo tràng, một ngôi chùa phải
tốn bao nhiêu kinh phí? Phải hóa duyên bao nhiêu? Xây một
ngôi đại điện vẫn chẳng đủ dùng. A
Di Đà Phật đă trông thấy cư trụ là một vấn
đề lớn, cho nên Ngài mới thành tựu Tây
Phương Cực Lạc thế giới, cung, điện,
lầu, gác đều rộng lớn, ranh giới của
quốc độ cũng rộng lớn. Rộng lớn cỡ
nào? Giống như hư không vô lượng vô biên. Quư vị
niệm Phật sanh về đó, chắc chắn sẽ chẳng
nẩy sanh vấn đề về
cư trụ.
(Luận) Trang nghiêm tánh công đức thành tựu giả,
kệ ngôn: “Chánh đạo đại từ bi, xuất thế
thiện căn sanh” cố.
(論)莊嚴性功德成就者。偈言:正道大慈悲,出世善根生故。
(Luận: Trang nghiêm tánh công
đức thành tựu là như kệ nói: “Chánh đạo
đại từ bi, sanh thiện căn xuất
thế”).
“Trang nghiêm tánh
công đức thành tựu giả” là loại trang nghiêm thứ
ba. “Kệ ngôn: Chánh đạo
đại từ bi, xuất thế thiện căn sanh cố”
(Kệ rằng: “Chánh đạo đại từ bi, sanh thiện căn xuất thế”):
“Tánh” là vốn có. Bản
tánh, bản thể của Tây Phương Cực Lạc thế
giới là ǵ? Bản thể là đại từ bi, do thiện
căn xuất thế sanh ra. V́ thế, Tây Phương Cực
Lạc thế giới mới có các thứ thanh tịnh trang
nghiêm. Tây Phương Cực Lạc thế giới
được thành tựu bởi công đức vô lậu
do A Di Đà Phật đă tu. V́ sao thế giới Sa Bà chẳng
thanh tịnh, trang nghiêm? V́ nó là một thứ nghiệp hữu
lậu. Tạo thiện nghiệp hay ác nghiệp đều
là hữu lậu. Y báo trong thế giới Sa Bà dùng bụi
đất làm bản thể; đại địa dựa
trên sự tích tụ của vi trần mà thành, cho nên thành tựu
một thế giới ô nhiễm. Chánh báo là loài người
chúng ta, lấy vô minh nghiệp làm bản thể, con người
được thành tựu bởi vô minh nghiệp. Vô minh
nghiệp là ô nhiễm, thân thể làm sao thanh tịnh cho nổi?
Do đó, thế giới Sa Bà là một thế giới khổ
năo. Tây Phương Cực Lạc thế giới là do chánh
đạo đại từ bi, do thiện căn xuất
thế sanh ra, cho nên thanh tịnh, trang nghiêm.
(Luận) Trang nghiêm h́nh tướng công đức thành
tựu giả, kệ ngôn: “Tịnh quang minh măn túc, như
kính, nhật, nguyệt luân” cố.
(論)莊嚴形相功德成就者。偈言:淨光明滿足,如鏡日月輪故。
(Luận: Trang nghiêm h́nh tướng
công đức thành tựu là như kệ nói: “Quang minh tịnh măn nguyện, như
gương, vầng nhật, nguyệt”).
“Trang nghiêm h́nh
tượng công đức thành tựu giả” là loại
trang nghiêm thứ tư. “Kệ
ngôn: Tịnh quang minh măn túc, như kính nhật nguyệt luân
cố” (Kệ rằng: “Quang minh thanh tịnh măn nguyện, như
gương, vầng mặt trời, mặt trăng”). Dùng
bản tánh của Tây Phương Cực Lạc thế giới
để tạo thành tướng mạo bên ngoài. Tướng
mạo bên ngoài là tướng quang minh thanh tịnh trọn
đủ. Quang minh thanh tịnh tràn trề trọn đủ,
giống như tấm gương thanh tịnh, hoặc
như vầng mặt trời, vầng trăng.
(Luận) Trang nghiêm chủng chủng sự công đức
thành tựu giả, kệ ngôn:
“Bị chư trân bảo tánh, cụ túc diệu trang nghiêm” cố.
(論)莊嚴種種事功德成就者。偈言:備諸珍寶性,具足妙莊嚴故。
(Luận: Trang nghiêm các thứ
sự công đức thành tựu là như kệ nói: “Đủ
tánh các trân bảo, trọn đủ diệu trang nghiêm”).
“Trang nghiêm chủng
chủng sự công đức thành tựu giả” là loại
trang nghiêm thứ năm. Nói y báo có mười bảy loại
là nêu ra số mục đại lược; thật ra, các thứ trang nghiêm
đều được gộp trong ấy. Có các thứ sự
tướng trang nghiêm, chẳng phải là nói theo Lư tánh, mà
là nói theo sự tướng. “Kệ
ngôn: Bị chư trân bảo tánh, cụ túc diệu trang
nghiêm cố” (kệ rằng: “Đủ
tánh các trân bảo, trọn đủ diệu trang nghiêm”). Sự trang nghiêm của Tây
Phương Cực Lạc thế giới là do các thứ vật
quư báu thành tựu. Các thứ vật trân quư do đâu mà có? Do
A Di Đà Phật đă chứng đắc bản tánh Niết
Bàn, tự nhiên bèn có các thứ quả báo trang nghiêm. Đă có
tánh của các thứ trân bảo, sẽ sanh ra các thứ
trân bảo, hết thảy sự trang nghiêm tự nhiên trọn
đủ, lại c̣n vi diệu chẳng thể nghĩ bàn.
(Luận) Trang nghiêm diệu sắc công đức
thành tựu giả, kệ ngôn: “Vô cấu quang diễm xí, minh
tịnh diệu thế gian” cố.
(論)莊嚴妙色功德成就者。偈言:無垢光燄熾,明淨曜世間故。
(Luận: Trang nghiêm diệu sắc
công đức thành tựu là như kệ nói: “Vô cấu
quang chói rực, sáng sạch rạng thế gian”).
“Trang nghiêm diệu
sắc công đức thành tựu giả” là loại
trang nghiêm thứ sáu. Trong phần trước là công đức h́nh tượng trang nghiêm, “tịnh quang minh măn túc” (quang minh thanh tịnh măn nguyện).
Chẳng hạn như quư vị đến giảng
đường mà xem, sẽ thấy quang minh thanh tịnh.
V́ sao quang minh thanh tịnh? V́ có các thứ trân bảo, đại
địa toàn là hoàng kim trân bảo, lầu gác cũng là
trân bảo, thứ ǵ cũng đều
là trân bảo, [quang minh thanh tịnh là do] trân bảo phóng quang.
Từ các thứ trân bảo, lại xem sắc thái của
chúng: Món trân bảo này trang nghiêm như thế nào? Món trân bảo
kia trang nghiêm như thế nào? Những thứ trân bảo ấy
thoạt nh́n đều có sắc thái kỳ diệu. “Kệ ngôn: Vô cấu quang diễm
xí”, [nghĩa là] quang minh rất rực rỡ, tỏa ra
những tia sáng rất đẹp đẽ. “Minh tịnh diệu thế gian”
(Sáng sạch rạng ngời
thế gian), tỏ lộ một loại quang minh thanh tịnh
chiếu rọi thế gian, thâu nhiếp trọn khắp hết
thảy chúng sanh.
(Luận) Trang nghiêm xúc công đức thành tựu giả,
kệ ngôn: “Bảo tánh công đức thảo, nhu nhuyễn
tả hữu toàn, xúc giả sanh thắng lạc, quá Ca Chiên
Lân Đà” cố.
(論)莊嚴觸功德成就者。偈言:寶性功德草,柔軟左右旋,觸者生勝樂,過迦旃鄰陀故。
(Luận: Trang nghiêm xúc công
đức thành tựu là như kệ nói: “Cỏ báu tánh
công đức, mềm mại, trái phải xoay, chạm vào vui
thù thắng, hơn Ca Chiên Lân Đà”).
“Trang nghiêm xúc
công đức thành tựu giả” là loại trang nghiêm
thứ bảy. “Kệ ngôn: Bảo
tánh công đức thảo” (kệ rằng: “Cỏ báu tánh công đức”). Thấy các thứ trân
bảo, nếu chạm vào, sẽ có cảm giác ǵ vậy? Bản
tánh của các thứ trân bảo trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới là
do công
đức của A Di Đà Phật thành tựu, ngay cả
cỏ công đức cũng mềm mại. “Nhu nhuyễn tả hữu toàn”
(Mềm mại, xoay sang
trái và phải): Cỏ công đức mềm mại như
thế nào? Xoay chuyển cả hai bên trái và phải. “Xúc giả sanh thắng lạc”
[nghĩa là] quư vị chỉ cần tiếp xúc trân bảo,
sẽ sanh ra một niềm vui sướng
thù thắng. “Quá Ca Chiên Lân
Đà” (vượt
trỗi [cảm giác] vui sướng khi chạm vào Ca Chiên
Lân Đà): Ca Chiên Lân Đà là tên một loại cỏ mềm
mại ở Ấn Độ. Nếu quư vị chạm vào
nó, sẽ có cảm giác rất thoải mái. Đó là niềm
vui sướng trong thế gian. Nếu quư vị tiếp
xúc trân bảo của Tây Phương Cực Lạc thế
giới, sẽ sanh ra một thứ pháp lạc. V́ thế, nó
vượt trỗi cảm giác do chạm vào cỏ Ca Chiên
Lân Đà.
Tây Phương Cực Lạc thế giới
có hàng cây bảy báu, hoa sen bảy báu, há có cỏ bảy báu
ư? Cỏ là một thứ trang nghiêm. Các thứ trân bảo
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới mềm mại
giống như cỏ Ca Chiên Lân Đà. Nếu nó chẳng mềm
mại, chúng sanh sẽ chẳng thể sanh ra niềm vui thù
thắng được. Tây Phương Cực Lạc thế
giới vàng ṛng làm đất. Nếu vàng ṛng hết sức
cứng chắc, chúng sanh đi trên mặt đất vàng
ṛng sẽ hết sức đau khổ. C̣n nữa, nếu
chúng sanh muốn tĩnh tọa, nếu chỗ ngồi là bảy
báu cứng c̣ng th́ ngồi lên đó sẽ rất khó chịu.
V́ thế, bảy báu mềm mại th́ mới có thể sanh
ra [cảm giác] hưởng thụ. Bảy báu trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới đều là do
công đức nơi tâm đại từ bi nhu nhuyễn của
A Di Đà Phật thành tựu.
Bảy báu trong thế giới Sa Bà cứng
c̣ng, v́ chúng sanh trong thế giới Sa Bà ương bướng
thành tánh. Quư vị thấy kinh Địa Tạng chép: “Các các ngục trung, hữu bách
thiên chủng nghiệp đạo chi khí, vô phi thị đồng,
thị thiết, thị thạch, thị hỏa, thử tứ
chủng vật, chúng nghiệp hạnh cảm” (Trong mỗi
ngục có trăm ngàn thứ khí cụ thuộc về nghiệp đạo,
không ǵ chẳng phải là bằng đồng, bằng sắt,
bằng đá, hay bằng lửa, bốn loại vật ấy
do các nghiệp hạnh cảm vời). Chúng sanh thuộc chủng
tánh địa ngục, những thứ trong địa ngục
đều làm bằng đồng, sắt, đá, lửa.
V́ sao là do nghiệp cảm của chúng sanh tạo thành? V́ nếu
họ chẳng làm ác dữ
dội, sẽ
chẳng đọa địa ngục. Tánh cách của hạng
người ấy đặc biệt ương bướng,
[cho nên] cảm vời quả báo [như thế ấy]. V́
sao bảy báu trong Tây Phương Cực Lạc thế giới
có tánh chất mềm mại? Do v́ cái tâm đại từ
bi, tâm nhu nhuyễn của A Di Đà Phật chiêu cảm.
(Luận) Trang nghiêm tam chủng công đức thành tựu
giả, hữu tam chủng sự, ưng tri, hà đẳng
tam chủng? Nhất giả thủy, nhị giả địa,
tam giả hư không.
(論)莊嚴三種功德成就者。有三種事,應知。何等三種?一者水,二者地,三者虛空。
(Luận: Trang nghiêm ba thứ
công đức thành tựu bèn có ba loại sự, hăy nên biết.
Những ǵ là ba thứ? Một là
nước, hai là đất, ba là hư không).
“Trang nghiêm tam chủng
công đức thành tựu giả, hữu tam chủng sự,
ưng tri” (Trang nghiêm ba thứ công
đức thành tựu. Có ba loại sự văng sanh, hăy nên biết)
chính là loại trang nghiêm thứ tám. Trong loại trang nghiêm
này bao gồm ba loại trang nghiêm. “Hà đẳng tam chủng? Nhất giả thủy, nhị
giả địa, tam giả hư không” (Những ǵ là ba loại? Một
là nước, hai là đất, ba là hư không): Trong phần
trên đă nói đến Ngũ Đại, tức đất,
nước, lửa, gió, và hư không, thành tựu
hết thảy vật chất nơi báo thân. Tây
Phương Cực Lạc thế giới là do ba thứ
nguyên tố, tức nước, đất, và hư không
trang nghiêm thành tựu, chẳng có Hỏa Đại và Phong
Đại. V́ sao Tây Phương Cực Lạc thế giới
chẳng có lửa? V́ chẳng cần dùng lửa. Loài người có quả
báo của nhân loại: Thức ăn sống sít, cần dùng lửa để nấu
chín. Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ bát hiện
ra trước mặt, chẳng cần ăn uống, vừa ngửi mùi hương liền
no. Nếu tiến hơn bước nữa, Thiền duyệt
làm thức ăn, pháp hỷ ngập tràn, chẳng cần nấu
chín thức ăn, cho nên chẳng cần tới lửa. Lửa
trong thế giới Sa Bà c̣n có tác dụng chiếu sáng, chỗ
tối tăm bèn dùng lửa để
chiếu sáng. Trọn khắp Tây Phương Cực Lạc
thế giới đều là quang minh, chẳng cần lửa
chiếu soi, cho nên Tây Phương Cực Lạc thế giới
chẳng có Hỏa Đại. Gió là thứ để giúp
trang nghiêm: Gió nhẹ lay động
hàng cây bảy báu lẫn lưới mành bảy
báu, phát ra âm thanh vi diệu. Bản thân nó chẳng phải
là vật phẩm để trang nghiêm, cho nên Tây
Phương Cực Lạc thế giới chẳng có Hỏa
Đại và Phong Đại, chỉ có Thủy Đại,
Địa Đại, và Không Đại.
(Luận) Trang nghiêm thủy công đức thành tựu
giả, kệ ngôn: “Bảo hoa thiên vạn chủng, di phú tŕ
lưu tuyền, vi phong động hoa diệp, giao thác quang
loạn chuyển” cố.
(論)莊嚴水功德成就者。偈言:寶華千萬種,彌覆池流泉,微風動華葉,交錯光亂轉故。
(Luận:
Trang nghiêm nước công đức thành tựu là như kệ
nói: “Ngàn vạn loại hoa báu, phủ rợp ao, suối chảy,
gió nhẹ lay cánh hoa, quang minh xen tạp chuyển”).
“Trang nghiêm thủy
công đức thành tựu giả”: Loại trang nghiêm thứ
nhất [trong ba thứ trang nghiêm] là thủy trang nghiêm. “Kệ rằng: Bảo hoa thiên vạn
chủng” (Kệ rằng: “Ngàn vạn
các loại hoa báu”): Trong kinh A Di Đà có bốn thứ hoa
sen xanh, vàng, đỏ, trắng; trên thực tế, hoa sen trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới nhiều đến
ngàn vạn thứ, đều do bảy báu thành tựu. “Di phú tŕ lưu tuyền”: Ngàn vạn thứ hoa sen phủ rợp kín
mặt ao sen và suối chảy. “Vi
phong động hoa diệp, giao thác quang loạn chuyển cố”,
nghĩa là gió nhè nhẹ lay động cánh hoa sen, quang minh
trên những đóa sen xoay tṛn, đan chéo vào nhau hết sức
trang nghiêm.
(Luận) Trang nghiêm địa công đức thành tựu
giả, kệ ngôn: “Cung điện, chư lâu các, quán thập
phương vô ngại. Tạp thụ dị quang sắc, bảo
lan biến vi nhiễu” cố.
(論)莊嚴地功德成就者。偈言:宮殿諸樓閣,觀十方無礙,雜樹異光色,寶欄遍圍繞故。
(Luận:
Trang nghiêm địa công đức thành tựu là như kệ
nói: “Cung, điện, các lầu gác, quán mười
phương vô ngại. Cây cối quang sắc lạ, lan can
báu vây khắp”).
“Trang nghiêm địa
công đức thành tựu giả” là loại trang nghiêm
thứ hai. “Kệ ngôn: Cung
điện chư lâu các, quán thập phương vô ngại”
(Kệ rằng: “Cung,
điện, các lầu, gác, quán mười phương vô
ngại”): Cung điện, lầu, gác trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới đều do bảy báu tạo thành.
Trong lầu gác bảy báu, có thể xem thấy mười
phương thế giới chẳng bị chướng ngại,
giống như chúng ta ở trong lầu gác xem phim ảnh, quư vị muốn thấy thế
giới nào, sẽ trông thấy thế giới ấy.
C̣n có cây cối trang nghiêm. “Tạp thụ dị quang sắc” [nghĩa là] cây
cối bằng các thứ báu khác nhau, hoặc do các thứ
báu xen lẫn hợp thành. Chẳng hạn như cây bằng
vàng ṛng, cành cây bằng bạch lưu ly, nở hoa bằng
pha lê, kết quả bằng mă năo. Xen kẽ lẫn nhau, hiện
ra quang minh và màu sắc khác nhau. “Bảo
lan biến vi nhiễu” (Lan can báu vây quanh trọn khắp): C̣n có lan
can báu, dùng trân bảo làm thành lan can. Kinh A Di Đà chép: “Thất trùng lan thuẫn, thất
trùng la vơng, thất trùng hàng thụ, giai thị tứ bảo,
châu táp vi nhiễu” (Bảy tầng lan can, bảy tầng
lưới mành, bảy tầng hàng cây, đều là bốn
báu vây quanh trọn khắp). Phía ngoài mỗi ṭa lầu gác có
bảy tầng lan can vây quanh trọn khắp. Lầu gác,
cây báu, lan can báu đều là những thứ trang nghiêm trên mặt
đất; đấy là trang nghiêm địa công đức.
(Luận) Trang nghiêm hư không công đức thành tựu
giả, kệ ngôn: “Vô lượng bảo giao lạc, la
vơng biến hư không, chủng chủng linh phát hưởng,
tuyên thổ diệu pháp âm” cố.
(論)莊嚴虛空功德成就者。偈言:無量寶交絡,羅網遍虛空,種種鈴發響,宣吐妙法音故。
(Luận: Trang nghiêm hư không
công đức thành tựu là như kệ nói: “Vô lượng
báu giăng xen, lưới mành khắp hư không, các thứ
linh vang tiếng, tuyên diễn pháp âm mầu”).
“Trang nghiêm hư
không công đức thành tựu giả”: Loại thứ
ba là trang nghiêm hư không. “Kệ
ngôn: Vô lượng bảo giao lạc, la vơng biến hư không”
(Kệ rằng: “Vô lượng báu giăng xen, lưới
mành khắp hư không”): Trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới, vô lượng bảy báu giăng xen hợp
thành lưới mành, trọn khắp hư không. “Chủng chủng linh phát hưởng,
tuyên thổ diệu pháp âm cố” (Các thứ linh phát ra tiếng
vang, tuyên nói pháp âm mầu nhiệm): Trên lưới mành treo
các thứ linh báu, phát ra âm thanh leng keng, tinh tang, đều
là vô t́nh thuyết pháp âm thanh vi diệu.
Trong Kệ Tụng phần trước có
nói: Hữu t́nh và vô t́nh trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới có thể thuyết pháp, đều là do công
đức của A Di Đà Phật thành tựu. Tây
Phương Cực Lạc thế giới không chỉ là
người có thể thuyết pháp, mà các loài chim thuộc loại hữu t́nh cũng có thể
thuyết pháp. Các loài chim do đâu mà có? Do thần thông của
A Di Đà Phật biến hóa ra. Linh báu là vật vô t́nh, cớ
sao có thể thuyết pháp? Cũng do thần thông của A
Di Đà Phật biến hóa. Chẳng có ai gơ, đánh, tự nó có thể
vang ra tiếng nhạc trời, có thể diễn nói pháp âm.
* Giải trừ nghi hoặc
Hỏi: A Di Đà Phật tự ḿnh thuyết
pháp là được rồi, v́ sao c̣n phải có các loài chim,
linh báu thuyết pháp?
Đáp: Căn cơ của chúng sanh bất đồng,
có đủ loại ưa thích riêng. Có chúng sanh thích nghe tiếng
chim hót, có chúng sanh thích nghe tiếng linh báu, có chúng sanh thích
nghe tiếng âm nhạc. A Di Đà Phật thuận ứng
căn cơ của chúng sanh, thị hiện [ứng hợp]
sự ưa chuộng của họ. Chúng sanh nghe pháp âm, tự
nhiên sẽ khai ngộ. Đấy
đều là diệu dụng ứng cơ thuyết pháp của
A Di Đà Phật.
(Luận) Trang nghiêm vũ công đức thành tựu giả,
kệ ngôn: “Vũ hoa y trang nghiêm, vô lượng hương
phổ huân” cố.
(論)莊嚴雨功德成就者。偈言:雨華衣莊嚴,無量香普熏故。
(Luận: Trang
nghiêm mưa công đức thành tựu là như kệ nói:
“Mưa áo hoa trang nghiêm, vô lượng hương xông khắp”).
“Trang nghiêm vũ
công đức thành tựu giả” là loại trang nghiêm
thứ chín. “Kệ ngôn: Vũ
hoa y trang nghiêm” (Kệ rằng: “Mưa
áo hoa trang nghiêm”). “Vũ” (雨) là từ không trung
rơi xuống. “Hoa” (華) là hoa (花)[3]. Từ không
trung, tự nhiên rơi xuống hoa trời, thiên y; không chỉ là một thứ,
đều là hoa khiến cho quư vị thỏa ḷng, vừa
ư. Quư vị thích thấy loại hoa nào, sẽ
rơi xuống loại hoa đó. “Y” (衣) là một thứ trang nghiêm bằng
vải, giống như thảm trong hiện thời. Từ
trên trời của Tây Phương Cực Lạc thế giới
rơi xuống thiên y, giống như tràng phan, lọng báu,
các thứ trang nghiêm. “Vô lượng
hương phổ huân cố” (Vô lượng mùi hương xông khắp):
Thiên hoa, thiên y màu sắc rất xinh đẹp, lại c̣n
có vô lượng mùi hương xông khắp thế giới
Cực Lạc. Hễ ngửi thấy, sẽ đều sanh tâm hoan hỷ.
(Luận) Trang nghiêm quang minh công đức thành tựu
giả, kệ ngôn: “Phật huệ minh tịnh nhật, trừ
thế si ám minh” cố.
(論)莊嚴光明功德成就者。偈言:佛慧明淨日,除世癡闇冥故。
(Luận: Trang nghiêm quang minh công đức thành tựu
là như kệ nói: “Phật huệ nhật sáng sạch, trừ
si tối thế gian”).
“Trang nghiêm quang
minh công đức thành tựu giả” là loại trang
nghiêm thứ mười. Trong phần trước có nói công
đức quang minh gồm hai loại:
1) Một loại là h́nh tướng quang minh.
Quư vị thấy thế giới Cực Lạc một mực
là quang minh.
2) Loại thứ hai là diệu sắc quang
minh. Trong mỗi thứ trân bảo đều có một loại
quang minh.
“Kệ ngôn: Phật
huệ minh tịnh nhật” (Kệ nói: “Trí huệ của
Phật như vầng mặt trời sáng sạch”); đấy
là diệu dụng của quang minh. Quang minh trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới toàn là trí huệ
quang của A Di Đà Phật, quang minh thanh tịnh giống
như mặt trời. “Trừ
thế si ám minh cố” (Trừ sự tối tăm do ngu si trong thế
gian): Trong thế giới Sa Bà, mặt trời vừa mọc
lên, hết thảy hắc ám đều bị trừ sạch. Quư vị chỉ cần trông thấy
quang minh trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới th́ sẽ có thể trừ diệt
phiền năo ngu si của quư vị.
(Luận) Trang nghiêm diệu thanh công đức thành tựu
giả, kệ ngôn: “Phạm thanh ngộ thâm viễn, vi diệu
văn thập phương” cố.
(論)莊嚴妙聲功德成就者。偈言:梵聲悟深遠,微妙聞十方故。
(Luận: Trang nghiêm diệu
thanh công đức thành tựu là như kệ nói: “Tiếng
Phạm ngộ sâu xa, vi diệu rền mười
phương”).
“Trang nghiêm diệu
thanh công đức thành tựu giả” (Trang nghiêm thành tựu công đức âm
thanh vi diệu) là loại trang nghiêm thứ mười một.
“Kệ ngôn: Phạm thanh”: “Phạm thanh”, Tây Phương
Cực Lạc thế giới thanh danh lừng lẫy, là một
thứ âm thanh thanh tịnh. “Ngộ
thâm viễn”: Quư vị nghe thanh danh của Tây Phương
Cực Lạc thế giới, có thể ngộ Thật Tướng Lư Thể.
“Vi diệu văn thập
phương cố” (Vi diệu, nghe thấu mười
phương): Mười phương thế giới đều
có thể nghe thấy thanh danh của Tây Phương Cực
Lạc thế giới; điều này vi diệu chẳng
thể nghĩ bàn.
(Luận) Trang nghiêm chủ công đức thành tựu
giả, kệ ngôn: “Chánh giác A Di Đà, pháp vương thiện
trụ tŕ” cố.
(論)莊嚴主功德成就者。偈言:正覺阿彌陀,法王善住持故。
(Luận: Trang nghiêm chủ công
đức thành tựu là như kệ nói: “Chánh giác A Di
Đà, pháp vương khéo trụ tŕ”).
“Trang nghiêm chủ
công đức thành tựu giả” là loại trang nghiêm
thứ mười hai. “Kệ
ngôn: Chánh giác A Di Đà, pháp vương thiện trụ tŕ cố”
(Kệ rằng: “Chánh giác
A Di Đà, pháp vương khéo trụ tŕ”): Tây Phương Cực
Lạc thế giới có một đấng pháp vương, chính là Chánh
Giác A Di Đà Phật, Ngài khéo có thể trụ tŕ thế giới
Cực Lạc. Đây chẳng phải là tán thán chánh báo, mà
vẫn là tán thán y báo. V́ sao Tây Phương Cực Lạc thế
giới tốt đẹp? V́ có một đấng pháp
vương tốt đẹp trụ tŕ, cho nên Tây
Phương Cực Lạc thế giới tốt đẹp.
Giống như trong hiện thời một đại tự
viện nào đó tốt đẹp, là v́ có một vị
đại ḥa thượng làm Trụ Tŕ, lănh đạo
đúng cách. Chẳng phải là tán thán chánh báo, tức [tán thán] đại ḥa
thượng, mà là tán thán đại tự viện tốt
đẹp.
(Luận) Trang nghiêm quyến thuộc công đức
thành tựu giả, kệ ngôn: “Như Lai tịnh hoa chúng, Chánh
Giác hoa hóa sanh” cố.
(論)莊嚴眷屬功德成就者。偈言:如來淨華眾,正覺華化生故。
(Luận: Trang nghiêm quyến
thuộc công đức thành tựu là như kệ nói:
“Chúng Như Lai tịnh hoa, hoa Chánh Giác hóa sanh”).
“Trang nghiêm quyến
thuộc công đức thành tựu giả” là loại
trang nghiêm thứ mười ba. “Kệ
ngôn: Như Lai tịnh hoa chúng, chánh giác hoa hóa sanh cố”
(Kệ rằng: “Hoa chúng
thanh tịnh của Như Lai, hoa Chánh Giác hóa sanh”): Hễ có pháp vương, sẽ có nhân dân. Nhân dân là quyến
thuộc của Ngài, đều là đại chúng
thanh tịnh hóa sanh từ hoa sen Chánh Giác của A Di Đà Như Lai.
Chúng ta thường niệm Thanh Tịnh Đại Hải
Chúng Bồ Tát là do ư nghĩa này. Đây là tán thán dân chúng trong
quốc gia của đấng pháp vương, đấy vẫn là tán thán Tây
Phương Cực Lạc thế giới.
Vô Lượng
Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá
Nguyện
Sanh Kệ Giảng Kư
Phần
2 hết
[1] Huyện Đài Bắc hiện
thời được gọi là Tân Bắc Thị là một
khu hành chánh to lớn, thành phố Đài
Bắc thuộc vào Tân Bắc Thị. Danh xưng Đài Bắc
Huyện được thiết lập vào năm 1945.
[2] Thời Ngũ Đại gọi
đủ là thời Ngũ Đại Thập Quốc, kéo
dài từ năm 907 cho đến năm 979, bắt đầu
kể từ khi nhà Đường diệt vong cho đến
khi nhà Tống (của Triệu Khuông Dẫn) thống nhất
Trung Hoa. Mười nước trong thời kỳ này là do
các thế lực quân phiệt địa phương (các phiên
trấn) chiếm cứ một vùng, tự xưng đế, kiến lập vương triều. Năm triều
đại chính trong giai đoạn này là Hậu
Lương (do Châu Ôn sáng lập), Hậu Đường
(do Lư Tồn Húc sáng lập), Hậu Tấn (do Thạch Kính
Đường sáng lập), Hậu Hán (do Lưu Trí Viễn sáng lập),
và Hậu Châu (do Quách Oai sáng lập). Mười nước
trong giai đoạn này là Ngô (do Dương Hành Mật sáng lập),
Nam Đường (do Lư Biện sáng lập), Ngô Việt (do
Tiền Liêu sáng lập), Mân (do Vương Thẩm Tri sáng lập),
Bắc Hán (do Lưu Mân sáng lập), Tiền Thục (do
Vương Kiến sáng lập), Hậu Thục (do Mạnh
Tri Chương sáng lập), Kinh Nam (do Cao Quư Hưng sáng lập),
Sở (do Mă Ân sáng lập), và Nam Hán (do Lưu Yểm sáng
lập). Nước Ngô Việt tồn tại lâu nhất,
đóng đô tại Tiền Đường (thuộc Hàng
Châu), địa phận bao gồm tỉnh Chiết Giang,
Đông Nam tỉnh Giang Tô, và Đông Bắc tỉnh Phước
Kiến, truyền được năm đời vua.
[3] Thời cổ, hai chữ “華” (lộng lẫy, đẹp
đẽ nhất) và “花” (bông
hoa) sử dụng như nhau.