Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá
Nguyện Sanh Kệ Giảng Kư
Phần 3
無量壽經優婆提舍願生偈講記
Giảng thuật:
Trưởng lăo Đạo Nguyên
道源長老 講述
Bút kư: Cư sĩ Thí
Vượng Khôn
施旺坤 敬記
Thời gian: Tháng Tư
năm Dân Quốc 61 (1972)
Địa điểm:
Chí Liên Tinh Xá tại Đài Bắc
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức
Phong và Huệ Trang
(dịch theo bản in của
Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội)
(Luận)
Trang nghiêm thọ dụng công đức thành tựu giả,
kệ ngôn: “Ái nhạo Phật pháp vị, Thiền tam-muội
vi thực” cố.
(論)莊嚴受用功德成就者。偈言:愛樂佛法味,禪三昧為食故。
(Luận: Trang nghiêm thọ dụng công
đức thành tựu là như kệ nói: “Yêu thích vị Phật
pháp, Thiền tam-muội để ăn”).
“Trang nghiêm thọ dụng công
đức thành tựu giả” là loại trang nghiêm thứ
mười bốn, nói về sự hưởng thụ của
chúng sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới.
“Kệ ngôn: Ái nhạo Phật
pháp vị, Thiền tam-muội vi thực cố” (Kệ
rằng: “Yêu thích pháp vị của nhà Phật, dùng Thiền
tam-muội làm thức ăn”). Chúng sanh sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới yêu thích pháp vị
của Phật pháp. Họ vừa nghe Phật pháp, bụng
chẳng đói nữa, sanh ra một niềm hoan hỷ gọi là “pháp
hỷ vi thực” (dùng niềm vui Phật
pháp làm thức ăn). Tam-muội (Samādhi) trong tiếng Phạn dịch
sang tiếng Hán là Chánh Định. Thiền tam-muội là Thiền
Định. Họ tu Thiền Định bên đó, hễ nhập Định bèn đạt được
một niềm hân hoan, vui sướng, chẳng đói bụng,
giống như đă ăn một bữa cơm, gọi là
“Thiền duyệt vi thực”
(dùng niềm vui Thiền Định làm thức ăn).
Đấy là sự hưởng thụ cao nhất trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới.
Thông
thường, chúng ta niệm chú Cúng Dường: “Thiền duyệt vi thực,
pháp hỷ sung măn”. Tuy đại chúng b́nh phàm trong thế
giới Sa Bà chẳng làm được [điều này],
nhưng phải phát nguyện. Có chúng sanh hoặc là nghe một
bộ kinh, nghe hoan hỷ, chẳng thấy đói bụng.
Có chúng sanh tĩnh tọa, bỗng ngồi suốt [thời
gian cháy hết] một cây hương, sanh ra pháp hỷ, chẳng
đói bụng. Pháp hỷ cũng là một phần của
Thiền duyệt, bỗng dưng gặp được một
lần, chẳng phải là hằng ngày tĩnh tọa đều
có Thiền duyệt, công phu vẫn c̣n chưa đạt tới mức độ ấy.
Quả
báo của loài người chúng ta là chẳng ăn uống
sẽ không được, nhưng tốt nhất là đừng
nên ăn thịt chúng sanh. Nếu quư vị đă ăn chay,
hăy khuyên người khác [cũng ăn chay]. Người khác có chỗ hoài nghi, quư vị
hăy giải thích cho người ấy. Hôm nay, tôi lại giải
thích đôi chút.
* Giải trừ nghi hoặc
Hỏi:
Động vật có sanh mạng, chúng ta chớ nên ăn; thực vật cũng có sanh mạng, v́ sao có
thể ăn?
Đáp:
Lư tưởng cao nhất trong Phật giáo là “Thiền duyệt vi thực, pháp
hỷ sung măn”. Tây Phương Cực Lạc thế giới
hằng ngày dùng Thiền duyệt làm thức ăn, nhưng
ở trong thế giới Sa Bà th́ chẳng làm được.
Chẳng ăn uống sẽ không thể sống nổi,
tu hành bằng cách nào đây? Chúng ta cảm nhận nỗi
thống khổ của động vật khi chúng bị giết
chóc. Quư vị giết lợn, nó rống thật to. Quư vị
giết gà, gà cũng kêu thảm thiết rất lớn tiếng. Chúng ta nghe chúng nó kêu thảm
thiết, sao đành nhẫn tâm ăn thịt chúng nó? Khi thực
vật bị giết, chúng ta chẳng cảm nhận nỗi đau khổ của chúng. Do vậy, chẳng phải là không biết thực
vật cũng có sanh mạng, v́ bất
đắc dĩ mới ăn chúng nó!
Trong
giới luật của bậc xuất gia: “Thanh tịnh tỳ-kheo cập chư Bồ Tát, ư
kỹ lộ hành, bất đạp sanh thảo, huống
dĩ thủ bạt?” (Bậc tỳ-kheo thanh tịnh và
các vị Bồ Tát đi nơi ngơ rẽ, chẳng đạp
lên cỏ tươi, huống hồ dùng tay nhổ lên?) Không
cho phép quư vị cắt đứt một nhánh cỏ
tươi, cỏ có mầm sống. Không chỉ là chẳng
thể đoạn diệt mầm sống của nó, mà
cũng chẳng được phép đại, tiểu tiện
lên cỏ tươi. Quư vị đạp lên cỏ
tươi là phạm giới, v́ gây trở ngại cho sanh mạng
của chúng. Phật giáo nói theo đạo lư, cảnh giới
cao nhất là “hữu t́nh và vô
t́nh cùng viên thành Chủng Trí, vô t́nh có thể thuyết pháp.
Vô t́nh cũng có thể thành Phật giống hệt [như
hữu t́nh]”. Vô t́nh hoàn toàn chẳng
phải là không có sanh mạng.
Hỏi:
Chính ḿnh phát tâm muốn ăn chay, những người khác trong
gia đ́nh chẳng ăn chay, hoàn cảnh chẳng cho phép
th́ làm như thế nào?
Đáp:
Trước hết, hăy kiêng giết. Ăn ba thứ “tịnh nhục”, [tức là thịt của
những con vật mà] ta không thấy [chúng nó bị] giết, chẳng nghe nó bị
giết, chẳng v́ ta mà nó bị giết. “Chẳng thấy
giết” là khi chúng sanh bị giết, mắt quư vị
chẳng trông thấy. “Chẳng nghe nó bị giết”:
Khi chúng sanh bị giết, quư vị không nghe thấy. “V́
ta mà giết”: Chúng sanh bị giết chẳng phải là
do ta mà giết. Đó là thịt bán ngoài chợ, v́ mọi
người mà giết. Đấy là tiến bộ từ từ, tiếp cận với
Phật pháp.
Hỏi:
Khuyên kẻ khác quy y, có phải là cũng nên khuyên kẻ
đó sau khi quy y hăy ăn chay?
Đáp:
Trước hết, quư vị khuyên kẻ đó quy y là
được rồi, chẳng khuyên kẻ đó ăn
chay trường. Đấy là phương tiện quyền
xảo. V́ quư vị khuyên kẻ đó sau khi đă quy y phải
ăn chay, nếu kẻ đó tính quy y, nhưng do chẳng
thể ăn chay trường, sẽ chẳng dám quy y!
Đức Phật dạy, đối với chúng sanh phải
ứng cơ thuyết pháp, phương tiện quyền xảo.
(Luận)
Trang nghiêm vô chư nạn công đức thành tựu giả,
kệ ngôn: “Vĩnh ly thân tâm năo, thọ lạc thường
vô gián” cố.
(論)莊嚴無諸難功德成就者。偈言:永離身心惱,受樂常無間故。
(Luận: Trang nghiêm công đức thành tựu
chẳng có các nạn là như kệ nói:
“Măi ĺa thân tâm năo, hưởng vui chẳng gián đoạn”).
“Trang nghiêm vô chư nạn công
đức thành tựu giả” (Trang nghiêm công đức thành tựu không có các
nạn) là loại trang nghiêm thứ mười lăm. Trong
Tây Phương Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật
đă trang nghiêm bằng công đức “không có các nạn”. “Kệ ngôn: Vĩnh ly thân tâm năo”
(Kệ rằng: “Vĩnh viễn ĺa khỏi các khổ năo
nơi thân và tâm”). Gặp phải tai nạn, thân tâm bị
khổ năo. Thân thể hứng chịu các nỗi khổ năo
như bị đói, bị khát, bị lạnh, bị nóng,
hoặc là thân thể bị kẻ khác sát hại. Tâm chịu
những nỗi khổ năo: Lo được, lo mất, nhân
ngă thị phi, tham, sân, si phiền năo. Quư vị đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, vĩnh viễn
ĺa khỏi những nỗi khổ năo ấy. “Thọ lạc thường vô
gián cố” (V́ sẽ hưởng vui thường chẳng gián
đoạn): Trong nhân gian có sự vui sướng, nhưng
vui ít, khổ nhiều, chẳng phải là hưởng vui sướng thường hằng, lâu
dài. Bên Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng
có tai nạn, vĩnh viễn hưởng thụ pháp lạc
xuất thế gian chẳng gián đoạn; do vậy gọi
là thế giới An Lạc. Kinh A Di Đà dịch [cơi Tịnh Độ của A Di Đà
Phật] là “thế giới Cực Lạc”. Cực
Lạc là lạc tuyệt đối, chẳng phải là lạc do so sánh với khổ, [mà là] chẳng có một tí khổ nào! Trong kinh A Di
Đà, đích thân Thích Ca Mâu Ni Phật đă giải thích: “Vô
hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc” (Chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng
các niềm vui). Chẳng giống như thế giới Sa
Bà có khổ và lạc, thế giới Cực Lạc chỉ
có pháp lạc; do vậy, gọi là Cực Lạc.
Theo
như kinh Phật đă dạy, thế giới cứ trải qua mỗi tiểu kiếp, sẽ có tiểu
tam tai phát sanh: Đao binh tai, cơ cẩn tai (饑饉災, tai nạn đói kém), và ôn dịch tai. Đao
binh tai th́ sẽ có chiến tranh, cơ cẩn tai th́ chẳng
có cơm ăn, ôn dịch tai sẽ phát sanh bệnh truyền
nhiễm. Nếu đến lúc địa cầu đáng
nên hư hoại, sẽ có đại tam tai là thủy tai, hỏa
tai, và phong tai. Thế giới Sa Bà lắm tai nhiều nạn,
kinh Pháp Hoa dạy: “Tam giới
vô an, do như hỏa trạch” (Ba cơi chẳng yên, ví như nhà lửa). Trong tam
giới, chẳng có chỗ nào b́nh an, mà cũng chẳng có
thời khắc nào b́nh an; giống
như một căn nhà to đang bốc cháy, [thế
mà người] ở trong ấy, vẫn cứ tưởng
là rất vui sướng. Người có trí huệ sẽ
ngay lập tức chạy ra c̣n chẳng kịp, lẽ nào
mong ở trong nhà lửa ư?
Hiện
thời, chiến tranh tại Việt Nam rất dữ dội.
Đấy là đao binh tai hiện tiền. Hai bên đánh
nhau chết rất nhiều người, dân chúng kẹt
trong ấy rất khổ năo. Báo chí đăng tải dân chạy
nạn Việt Nam có hơn một trăm vạn người.
Bất luận người lớn, trẻ con, hay phụ nữ,
thảy đều lánh nạn, t́m đến chỗ an toàn.
Có người dân bị nạn nào mà không có gia đ́nh, không
có sự nghiệp? Hễ
có chiến
tranh là gia đ́nh lẫn sự
nghiệp đều bị phá nát. Có chúng sanh nào không yêu mạng
sống? Chết th́ chết, chạy loạn th́ cứ chạy loạn, có chúng sanh nào chẳng cần
ăn uống? Khi chạy loạn, kiếm đâu ra ba bữa
cơm mỗi ngày? Người trong thế giới này tự
ḿnh tạo ra những nỗi
khổ
năo, cứ muốn đánh nhau. Hễ chiến tranh th́ sẽ
chết rất nhiều người, chẳng có ai sản
xuất những vật liệu, nhất định sẽ
nẩy sanh nạn đói kém. Chiến tranh chết chóc rất
nhiều người, chẳng có ai thu dọn xác chết,
ôn dịch nhất định sẽ lan truyền. Do vậy,
trong hiện thời, tại Việt Nam, đao binh tai,
cơ cẩn tai, và ôn dịch tai thảy
đều có. Nạn lụt, nạn lửa, nạn băo trên
thế giới cũng chẳng ngừng.
Chúng
ta quan sát những tai nạn ấy, trông thấy chúng sanh chịu khổ năo, chính ḿnh nhanh chóng lánh nạn, sanh sang Tây
Phương ư? Tây Phương chẳng phải là chỗ
để lánh nạn! Phải phát khởi cái tâm từ bi.
Chúng sanh đang chịu khổ trong biển khổ, ta phải
nhanh chóng cứu họ, nhưng hiện thời trí huệ,
thần thông, và biện tài của ta đều không đủ,
ta phải sanh sang Tây Phương ḥng học lấy bản
lănh cứu độ chúng sanh. Trước khi sanh về Tây
Phương, phải tùy sức tùy phần hoằng
dương Phật pháp. Đấy là chánh đạo của
chúng ta. Hiện thời, có những kẻ một tí chuyện
tốt cũng chẳng làm, cứ chuyên môn niệm Phật mong
sanh về Tây Phương; chuyện
này chẳng phù hợp pháp môn Tịnh Độ! Pháp môn Tịnh
Độ là pháp môn Đại Thừa. Kinh A Di Đà đă
dạy rơ ràng: “Bất đắc
thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên,
đắc sanh bỉ quốc” (Chẳng do một ít thiện
căn, phước đức, nhân duyên mà sanh về cơi ấy).
Quư vị phải gieo nhiều thiện căn, vun bồi
nhiều phước đức, nhân duyên, chẳng phải
là tiêu cực không làm một chút chuyện tốt nào mà sẽ
có thể sanh về Tây Phương! Điều ấy chẳng phù hợp bổn
nguyện của A Di Đà Phật.
Đại
chiến thế giới lần thứ nhất, lần thứ
hai đă qua, nếu đại chiến lần thứ ba
bùng nổ, toàn thể thế giới đánh nhau, dùng loại
vũ khí tiên tiến nhất là bom hạch nhân (bom nguyên tử), nhất định sẽ
càng có nhiều người thương vong hơn! V́ sao cứ
muốn đánh nhau? V́ sao muốn phát minh vũ khí giết
người? V́ họ chẳng hiểu Phật pháp, chẳng
biết đạo lư nhân quả báo ứng. Chúng ta là đệ
tử Phật, phải nên gánh vác trách
nhiệm, hăy tận hết sức của chính ḿnh để
hoằng dương Phật pháp, cứu tế chúng sanh. Kẻ
phát minh vũ khí sát nhân, nhất định là các khoa học
gia, chẳng phải là Phật giáo đồ. Giả sử
Phật pháp truyền khắp toàn thể thế giới,
[ai nấy] đều hiểu Phật lư rồi mới
nghiên cứu khoa học, sẽ tuyệt đối chẳng
có ai phát minh bom hạch nhân. Một quả bom hạch nhân
bùng nổ sẽ giết chết ngần ấy người,
đệ tử Phật nào sẽ phát minh loại vũ khí ấy?
Phật
giáo truyền sang Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Thích
Ca Mâu Ni Phật trọn chẳng đến những quốc
gia ấy, toàn là do đệ tử đức Phật hoằng
dương trong quá khứ. Chúng ta phải phỏng theo các bậc
tiền hiền, gánh vác trách nhiệm hoằng pháp, khiến
cho Phật pháp được phổ biến hoằng
dương toàn cầu, toàn thể mọi người trên toàn cầu đều tín ngưỡng Phật
giáo, sẽ chẳng c̣n chiến tranh
hại người. V́ thế giới Sa Bà nhiều tai lắm
nạn, cho nên A Di Đà Phật đă v́ chúng ta mà thành tựu
Tây Phương Cực Lạc thế giới, nơi ấy
không có các nạn.
(Luận)
Trang nghiêm đại nghĩa môn công đức thành tựu giả,
kệ ngôn: “Đại Thừa thiện căn giới, đẳng
vô cơ hiềm danh, nữ nhân cập căn khuyết, Nhị
Thừa chủng bất sanh” cố. Tịnh Độ quả
báo, ly nhị chủng cơ hiềm quá, ưng tri. Nhất
giả Thể, nhị giả Danh. Thể hữu tam chủng,
nhất giả Nhị Thừa nhân, nhị giả nữ
nhân, tam giả chư căn bất cụ nhân. Vô thử tam
quá cố, danh “ly Thể cơ hiềm”. Danh diệc tam chủng,
phi đản vô tam thể, năi chí bất văn Nhị Thừa,
nữ nhân, chư căn bất cụ, tam chủng danh cố,
danh “ly danh cơ hiềm”. Đẳng giả, b́nh đẳng
nhất tướng cố.
(論)莊嚴大義門功德成就者。偈言:大乘善根界,等無譏嫌名,女人及根缺,二乘種不生故。淨土果報,離二種譏嫌過,應知。一者體,二者名。體有三種,一者二乘人,二者女人,三者諸根不具人,無此三過故,名離體譏嫌。名亦三種,非但無三體,乃至不聞二乘、女人、諸根不具,三種名故,名離名譏嫌。等者,平等一相故。
(Luận:
“Trang nghiêm đại nghĩa môn công đức thành tựu”
là như kệ nói: “Cơi Đại Thừa thiện căn,
b́nh đẳng, không có danh xưng chê gièm, ghét bỏ, nữ
nhân và thiếu căn, chủng tánh Nhị Thừa chẳng
sanh”. Hăy nên biết quả báo trong cơi Tịnh Độ ĺa khỏi hai lỗi
chê gièm, ghét bỏ. Một là Thể, hai là Danh. Thể có ba
loại, một là hàng Nhị Thừa, hai là nữ nhân, ba là
kẻ các căn chẳng đầy đủ. Do không có ba
lỗi ấy, nên gọi là “ĺa sự chê gièm, ghét bỏ về
mặt Thể”. Danh cũng có ba thứ, không chỉ là chẳng
có ba Thể, mà thậm chí chẳng nghe ba thứ danh xưng
là Nhị Thừa, nữ nhân và các căn chẳng đủ,
nên gọi là “ĺa sự gièm chê, ghét bỏ về mặt Danh”. “Đẳng” là b́nh đẳng nhất
tướng).
“Trang nghiêm đại nghĩa môn
công đức thành tựu giả” là loại trang nghiêm
thứ mười sáu. “Đại
nghĩa môn” là pháp môn theo nghĩa lư Đại Thừa. Tây
Phương Cực Lạc thế giới chẳng có pháp
môn Tiểu Thừa, hoàn toàn là pháp môn theo nghĩa lư Đại
Thừa, công đức ấy đă thành tựu. “Kệ ngôn: Đại Thừa
thiện căn giới, đẳng vô cơ hiềm danh”
(Kệ rằng: “Cơi thiện căn Đại Thừa, b́nh
đẳng, không có danh xưng gièm chê, đáng chán ghét”). Tây Phương
Cực Lạc thế giới hoàn toàn là thế giới thiện
căn Đại Thừa. “Đẳng”
(等) là b́nh đẳng; chúng sanh bên đó đều
là một tướng, chẳng có
sự chê gièm, chán ghét nơi sự thật, ngay cả danh
xưng gây nên sự chê gièm, chán ghét cũng chẳng nghe thấy.
Những danh xưng gây nên sự chê gièm, chán ghét là ǵ? “Nữ nhân cập căn khuyết,
Nhị Thừa chủng bất sanh cố” (Nữ nhân và căn thiếu, chủng tánh Nhị
Thừa chẳng sanh [vào Cực Lạc]). Tây Phương Cực
Lạc thế giới chẳng có nữ nhân, chẳng có người
sáu căn không đầy đủ, chẳng có kẻ Nhị
Thừa.
Tiếp
đó, giải thích cụ thể: “Tịnh Độ quả báo, ly nhị chủng cơ
hiềm quá, ưng tri” (Hăy nên biết quả báo trong Tịnh
Độ ĺa khỏi hai thứ lỗi chê gièm,
ghét bỏ): Quả báo do sanh vào Tây Phương Tịnh
Độ thế giới là xa ĺa hai thứ khuyết điểm
gây nên sự chê gièm, ghét bỏ; hăy nên biết
như thế! Hai thứ nào vậy? “Nhất giả Thể” (Một là Thể), [tức là xét theo] bản
thể, theo sự thật; trên sự thật th́ chẳng hề
có. “Nhị giả Danh” (Hai là Danh), tức là xét theo danh xưng, ngay cả
danh xưng cũng chẳng có.
“Thể hữu tam chủng, nhất
giả Nhị Thừa nhân, nhị giả nữ nhân, tam giả
chư căn bất cụ nhân” (Thể có ba loại, một
là hàng Nhị Thừa, hai là nữ nhân, ba là kẻ các căn
chẳng đầy đủ): Tây Phương Cực Lạc
thế giới chẳng có hàng Nhị Thừa, chẳng có nữ
nhân, mà cũng chẳng có người sáu căn chẳng
đầy đủ. Các căn chẳng đầy đủ
th́ gọi là “căn khuyết” (根缺). [Chẳng hạn như]
mắt mù là Nhăn Căn chẳng đủ, tai điếc là Nhĩ Căn chẳng đủ, mũi bị khuyết hăm là Tỵ Căn chẳng
đủ, lưỡi chẳng thể nói là Thiệt Căn chẳng
đủ, thân thể thiếu một
cánh tay, hay thiếu một cái chân là Thân Căn chẳng đủ, tinh thần th́ thần kinh không ổn là Ư
Căn không đủ. Tây Phương Cực Lạc thế
giới chẳng có kẻ sáu căn không đầy đủ.
“Vô thử tam quá cố, danh ly
thể cơ hiềm” (Do không
có ba lỗi ấy, nên gọi là “chẳng có sự gièm chê,
chán ghét về mặt Thể”): Thế giới Tịnh
Độ chẳng có ba lỗi lầm ấy, chẳng có những chuyện thật sự gây nên sự gièm chê, ghét bỏ.
“Danh diệc tam chủng, phi đản
vô tam thể, năi chí bất văn Nhị Thừa, nữ
nhân, chư căn bất cụ, tam chủng danh cố, danh
ly danh cơ hiềm” (Danh cũng có ba thứ, chẳng phải
chỉ là không có ba Thể, mà thậm chí chẳng nghe ba loại
danh xưng Nhị Thừa, nữ nhân, và các căn chẳng
đủ, nên gọi là “ĺa sự
chê gièm, ghét bỏ về mặt danh xưng”). Thế giới An Lạc không chỉ chẳng
thật sự có ba thứ quả báo này về mặt Thể,
mà ngay cả danh xưng của ba thứ ấy cũng đều chẳng có! “Đẳng
giả, b́nh đẳng nhất tướng cố” (“Đẳng”
là một tướng b́nh
đẳng): Thế giới Sa Bà có lục đạo, sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới chỉ có
chúng sanh thuộc về nhân đạo và thiên đạo.
Nhân đạo hay thiên đạo đều là tướng
đại trượng phu, ba mươi hai tướng,
tám mươi thứ hảo, trang nghiêm giống như Thích
Ca Mâu Ni Phật.
* Giải trừ nghi hoặc
Hỏi:
“Kệ ngôn: Nhị Thừa chủng
bất sanh” (Kệ nói: “Chủng tánh Nhị Thừa chẳng
sanh”), [tức là] kệ tụng nói Tây Phương Cực Lạc
thế giới chẳng có hàng Nhị Thừa. Bộ Văng
Sanh Luận này dựa theo kinh Vô Lượng Thọ mà soạn
ra, nhưng kinh Vô Lượng Thọ nói Tây Phương Cực
Lạc thế giới có Thanh Văn chúng, Thanh Văn là một
loại trong Nhị Thừa. Kinh A Di Đà
cũng nói: “Bỉ Phật hữu
vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử, giai A La Hán,
phi thị toán số chi sở năng tri” (Đức Phật ấy có vô lượng vô
biên đệ tử Thanh Văn, đều là bậc A La
Hán, chẳng thể dùng tính toán mà ḥng biết được).
Điều này giải thích cho suông như thế nào đây?
Đáp:
Từ xưa, các bậc đại đức có hai cách giải
thích:
1)
Cách giải thích thứ nhất: Thanh Văn trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới chỉ là danh tự,
v́ họ ở trong thế giới Sa Bà là căn tánh Nhị
Thừa, tu pháp môn Nhị Thừa. Sau đấy, hồi Tiểu
hướng Đại, tu pháp môn Niệm Phật, sanh về
Tây Phương. V́ họ là căn tánh Thanh Văn, cho nên gọi
là Thanh Văn. Thật ra, tới Tây Phương th́ đă biến
thành đệ tử Đại Thừa.
2)
Cách giải thích thứ hai: Người căn tánh Nhị Thừa hồi
Tiểu hướng Đại, sanh về Tây Phương,
hoàn toàn chẳng đoạn Kiến Hoặc và Tư Hoặc,
là đới nghiệp văng sanh. Họ là căn tánh Tiểu
Thừa, tu pháp Đại Thừa th́ nhất thời sẽ
chẳng tu nổi, A Di Đà Phật liền ứng theo
căn cơ của họ, dạy họ trước hết
hăy học pháp môn Tiểu Thừa, tu ba mươi bảy
đạo phẩm, muốn cho họ chứng A La Hán
trước đă, sau đấy mới tiến thêm bước
nữa là tu pháp Đại Thừa. Đấy là A Di Đà Phật
ứng cơ thuyết pháp, phương tiện quyền xảo.
Thanh Văn là sơ học, sau đấy, họ sẽ tự
nhiên tu pháp Đại Thừa.
Hai
cách giải thích ấy đều chẳng thể giải
quyết nỗi nghi hoặc ở đây! Văng Sanh Luận
nói Tây Phương thật sự chẳng có hàng Nhị Thừa,
mà cũng chẳng có danh xưng Nhị Thừa, nói rất rơ
ràng! Chúng ta giải trừ nỗi nghi hoặc này như thế
nào? Đức Phật thuyết pháp có Thật và Quyền. Thiên
Thân Bồ Tát tán thán sự trang nghiêm của Tây Phương
Cực Lạc, đă dựa theo [một sự thật là] Tây
Phương Cực Lạc thế giới quả thật
chẳng có hàng Nhị Thừa, mà cũng chẳng có danh
xưng Nhị Thừa. Đấy là nói theo cảnh giới
chân thật. Thích Ca Mâu Ni Phật nói kinh Vô Lượng Thọ,
nói Tây Phương Cực Lạc thế giới có rất
nhiều đại chúng Thanh Văn, là v́ kinh Vô Lượng
Thọ được nói trong thế giới Sa Bà. Đấy
là một kiểu nói theo phương tiện quyền xảo. V́
sao Thích Ca Mâu Ni Phật phải nói theo kiểu quyền xảo ấy? V́ Thích Ca Mâu Ni Phật
thuở đầu thuyết pháp độ đệ tử,
[các đệ tử] đều tu pháp môn Nhị Thừa. Họ
chấp trước pháp môn Nhị Thừa rất mạnh
mẽ, cho đến hội Pháp Hoa, hăy c̣n có một ngàn
người lui về. Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp hơn
bốn mươi năm rồi mới
nói kinh Pháp Hoa. Ngài nói đến phẩm Phương Tiện:
“Duy hữu Nhất Thừa
pháp, vô nhị diệc vô tam, trừ Phật phương tiện
thuyết, đản dĩ giả danh tự, dẫn đạo
ư chúng sanh” (Chỉ có pháp Nhất Thừa, không hai
cũng chẳng ba, trừ Phật nói phương tiện,
chỉ dùng danh tự giả, để hướng dẫn
chúng sanh). Nói rơ “chẳng có pháp Nhị Thừa,
mà cũng chẳng có pháp tam thừa, chỉ có pháp Nhất
Thừa”. Hàng Nhị Thừa vừa
nghe bèn như mù, như câm, lại có năm ngàn người
rút lui, quư vị bèn biết là hàng Nhị Thừa chấp
trước rất mạnh mẽ. Do đó, Thích Ca Mâu Ni Phật
dùng phương tiện quyền xảo để tiếp
dẫn họ, bảo: “Tốt nhất là các vị niệm
Phật sanh về Tây Phương. Cơi nước của A
Di Đà Phật thanh tịnh, hàng Thanh Văn đại A La
Hán giống như quư vị rất nhiều!” khiến cho họ
hoan hỷ nghe, có thể niệm Phật sanh về Tây
Phương. Nếu Thích Ca Mâu Ni Phật nói Tây Phương
Cực Lạc thế giới căn bản là chẳng có
hàng Thanh Văn, ai chịu phát tâm niệm Phật sanh về
Tây Phương?
Đối
với những chỗ kinh điển nói khác nhau, khiến
cho nghi hoặc nẩy sanh, chúng ta phải nghiên cứu, phải
giải trừ thông suốt nỗi nghi hoặc!
(Luận)
Trang nghiêm nhất thiết sở cầu
măn túc công đức thành tựu giả, kệ ngôn: “Chúng
sanh sở nguyện nhạo, nhất thiết năng măn
túc” cố.
(論)莊嚴一切所求滿足功德成就者。偈言:眾生所願樂,一切能滿足故。
(Luận:
Trang nghiêm công đức thành tựu hết thảy những
điều mong cầu đều được thỏa
măn là như kệ nói: “Điều chúng sanh ưa muốn, hết
thảy đều thỏa măn”).
“Trang nghiêm nhất thiết sở
cầu măn túc công đức thành tựu giả” (Sự trang nghiêm do công đức thành tựu
khiến cho hết thảy những điều mong cầu
đều được thỏa măn) là loại trang nghiêm
thứ mười bảy. “Kệ
ngôn: Chúng sanh sở nguyện nhạo, nhất thiết
năng măn túc cố” (Kệ rằng: “Điều chúng
sanh ưa muốn, hết thảy đều thỏa măn”).
Đối với những điều chúng sanh mong mỏi,
ưa thích, hết thảy đều có thể thỏa măn ước
nguyện của quư vị. Trong phần trên đă nói mười
bảy thứ trang nghiêm, thật ra, không chỉ là mười
bảy thứ! Loại cuối cùng này đă bao gồm hết
thảy trang nghiêm.
V́
sao y báo và chánh báo của A Di Đà Phật trang nghiêm? V́ chúng
sanh trong thế giới Sa Bà bị nung nấu trong tám món khổ,
[trong các nỗi khổ], có một thứ
là Cầu Bất Đắc Khổ, tức là điều
mong cầu chẳng được măn nguyện. Nói theo phía
chúng sanh, có thể nghe Phật pháp, phát Bồ Đề tâm,
đă rất ư là khó! Nhưng những điều họ
mong cầu nơi pháp thế gian mà c̣n chẳng thể măn nguyện!
Họ muốn sống sót, nhưng cầu
có cái ăn th́ chẳng có cái ăn, cầu có áo mặc mà chẳng
có áo mặc, cầu có chỗ ở th́ chẳng có chỗ ở, chẳng thể giải
quyết vấn đề sinh sống. Hằng ngày bươn chải, nhọc nhằn
v́ cuộc sống, chẳng có thời gian để nghiên cứu
Phật pháp, chẳng có thời gian để tu hành, mà
cũng chẳng có thời gian để trên là cúng dường
Tam Bảo, dưới cứu độ chúng sanh. Bồ Đề tâm mà họ đă phát trở thành nguyện
suông! V́ thế, A Di Đà Phật tạo ra Tây Phương
Cực Lạc thế giới, sanh về đó, sẽ
ăn, mặc, ở, tùy ư tự nhiên, thứ ǵ cũng
đều xứng ḷng vừa ư, hết thảy những
điều mong cầu đều có thể măn nguyện.
Trong
thế giới Sa Bà, chẳng dễ ǵ nghe được một
chút Phật pháp. Đă phát Bồ Đề tâm, phải
thường thân cận thiện tri thức th́ mới có thể
tiến, chẳng lùi. Nhà Đường là triều đại
Phật giáo hưng thịnh tại Trung Hoa, có rất nhiều
thiện tri thức và đồng tham đạo
hữu, mọi người cùng
nhau tu đạo, tự nhiên sẽ chẳng lui sụt,
nhưng hiện thời t́m đâu ra đạo hữu tốt
đẹp? Đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới, A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, và Đại
Thế Chí Bồ Tát là thiện tri thức của quư vị.
Các vị thượng thiện nhân tụ tập một
nơi, đều là đồng tham đạo hữu của
quư vị, quư vị có thể thân cận bất cứ lúc nào. V́ thế, Tây Phương
Cực Lạc thế giới chẳng có nhân duyên gây thoái
đọa, chỉ có nhân duyên giúp đỡ tiến bộ.
Cầu Bất Đắc Khổ trong Phật pháp th́ hễ sanh về Tây Phương sẽ chẳng
có.
4.2.3.1.2. Thị hiện tự
lợi và lợi tha
(Luận) Lược thuyết
bỉ A Di Đà Phật quốc độ thập thất
chủng trang nghiêm công đức thành tựu, thị hiện
Như Lai tự thân lợi ích đại công đức lực
thành tựu, lợi ích tha công đức thành tựu cố.
(論)略說彼阿彌陀佛國土十七種莊嚴功德成就。示現如來自身利益大功德力成就,利益他功德成就故。
(Luận: Nói
đại lược mười bảy thứ trang nghiêm
công đức thành tựu của cơi nước A Di Đà
Phật, v́ thị hiện sức đại công đức
thành tựu lợi ích tự thân và công đức thành tựu
lợi ích người khác).
“Lược thuyết bỉ A Di Đà Phật quốc
độ thập thất chủng trang nghiêm công đức
thành tựu” (Nói đại lược mười bảy
thứ trang nghiêm công đức thành tựu của cơi
nước A Di Đà Phật): Đây là nói giản lược
mười bảy thứ trang nghiêm nơi quốc độ
của A Di Đà Phật, nếu nói chi tiết th́ sự
trang nghiêm nơi quốc độ của A Di Đà Phật
sẽ là vô lượng.
“Thị hiện Như Lai tự
thân lợi ích đại công đức lực thành tựu,
lợi ích tha công đức thành tựu cố” (V́ thị hiện sức
đại công đức thành tựu lợi ích tự thân
và công đức thành tựu lợi ích người khác):
Tây Phương Cực Lạc thế
giới có mười bảy thứ trang nghiêm công đức
thành tựu; những thứ ấy đều là do A Di
Đà Phật có sức tự lợi và đồng thời Ngài có sức lợi
tha mà thành tựu.
A Di Đà Phật có
thể tự lợi, mà cũng có thể lợi tha là do
Ngài đối trước Thế Tự Tại
Vương Như Lai phát ra bốn mươi tám đại
nguyện, nương theo các nguyện ấy để tu
trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, thành Phật. Phật
có ba thân, một là Pháp Thân, hai là Báo Thân, ba là Hóa Thân. Pháp Thân
là cái Thể chân lư, là Thật Tướng Lư Thể. Ngài chứng
đắc Thật Tướng Lư Thể, bèn chứng đắc
Pháp Thân. Pháp Thân vô h́nh, vô tướng. Hiện ra tướng
th́ gọi là Báo Thân. Báo (報) là quả báo, báo đáp Ngài trong vô lượng
A-tăng-kỳ kiếp đă tu Lục Độ vạn hạnh,
đă tu vô lượng vô biên công đức. Ngài đă thành
Phật, [Báo Thân chính] là quả báo đáng phải nên hưởng
thụ. Hóa Thân là như đức Phật thị hiện kim
thân cao một trượng
sáu tại Ấn Độ, c̣n có thể thuận theo
căn cơ của chúng sanh mà thị hiện các loại
hóa thân.
Những thứ trang
nghiêm thanh tịnh trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới do đâu mà có? Từ vô lượng trân bảo tánh
trang nghiêm mà ra, chính là quả báo đáng nên hưởng thụ
của A Di Đà Phật. Quả báo của Phật bao gồm
chánh báo và y báo trang nghiêm. Ví như người có phước
báo trong thế gian th́ thân thể là chánh báo của người
ấy, nhà ở của người ấy là y báo, nhất định rất trang
nghiêm. Chẳng hạn như lăo pháp sư Đàm Hư tu bổ
chùa Cực Lạc ở Cáp Nhĩ Tân (Harbin), sửa chùa Bát Nhă tại
Trường Xuân, sửa chùa Lăng Nghiêm tại Doanh Khẩu,
sửa chùa Trạm Sơn ở Thanh Đảo. Ngài đến
đâu bèn tu bổ đến đó. Tu bổ ngôi chùa lớn
xong xuôi bèn giao cho người khác. Cuối cùng, Ngài sang
Hương Cảng tỵ nạn, người ta tu bổ
một ngôi tinh xá đă xây cất hoàn chỉnh giao cho Ngài. V́
Ngài có công đức và phước báo, đi đến chỗ
nào cũng sẽ đều chẳng
đến nỗi không có chùa để ở!
Báo
Thân của đức Phật có thể chia thành hai thứ:
Một là Tự Thọ Dụng Báo Thân, hai là Tha Thọ Dụng
Báo Thân. Đức Phật phát nguyện lợi ích chúng sanh
nên mới thành Phật. Do vậy, Ngài đạt được
quả báo để chính ḿnh hưởng thụ, gọi là
Tự Thọ Dụng Báo Thân. Đồng thời, đức
Phật sẽ lợi ích hết thảy chúng sanh. Do vậy,
Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng phải
là để cho chính Ngài hưởng thụ. V́ độ
chúng sanh mà Ngài thành tựu thế giới Cực Lạc.
Đấy là Tha Thọ Dụng Báo Thân. Chữ Tha (他, người khác) chỉ hết thảy
chúng sanh. Nói theo Tây Phương Cực Lạc thế giới
th́ hết thảy chúng sanh đều có thể thấy Báo
Thân Phật, đều có thể hưởng ké lợi ích
từ nơi Báo Thân Phật. Trong nhân gian, phải là
Đăng Địa Bồ Tát th́ mới có thể thấy
Báo Thân. Bồ Tát chưa đăng địa (chưa chứng
đắc Sơ Địa), [thân Phật do vị Bồ
Tát ấy trông thấy] chính là Hóa Thân. V́ thế, Tự Thọ
Dụng Báo Thân là tự lợi, Tha Thọ Dụng Báo Thân là
lợi tha.
4.2.3.1.3. Nhập Đệ Nhất
Nghĩa Đế
(Luận) Bỉ Vô Lượng Thọ
Phật quốc độ trang nghiêm, Đệ Nhất
Nghĩa Đế diệu cảnh giới tướng, thập
lục cú cập nhất cú, thứ đệ thuyết,
ưng tri.
(論)彼無量壽佛國土莊嚴,第一義諦妙境界相,十六句及一句,次第說,應知。
(Luận:
Sự trang nghiêm nơi cơi nước của Vô Lượng
Thọ Phật chính là tướng cảnh giới mầu
nhiệm của Đệ
Nhất Nghĩa Đế, bao gồm mười sáu câu và một
câu nói theo thứ tự, hăy nên biết [như
thế]).
Mười
bảy thứ trang nghiêm tổng kết lại, sẽ là
công đức thành tựu hai món lợi, tức tự lợi
và lợi tha của A Di Đà Phật. “Bỉ Vô Lượng Thọ Phật quốc độ
trang nghiêm, Đệ Nhất Nghĩa Đế diệu cảnh
giới tướng” (Sự
trang nghiêm trong quốc độ Vô Lượng Thọ Phật
là tướng cảnh giới mầu nhiệm Đệ
Nhất Nghĩa Đế). Đệ Nhất Nghĩa
Đế là lư chân thật, chẳng hư dối. Lư chân thật
chẳng hư dối có hai loại: Một loại là Chân
Đế, loại kia là Tục Đế. Nói về đạo
lư thế gian th́ là Tục Đế (俗諦), nói về đạo lư xuất thế gian
th́ gọi là Chân Đế (真諦). Đệ Nhất Nghĩa Đế là Chân
Đế. Tục Đế là dựa theo pháp thế gian
để nói th́ đạo lư ấy chẳng
sai lầm. Dựa trên pháp xuất thế gian để nói,
Tục Đế là hư huyễn, chẳng thật! Chân
Đế không phải là “hư
huyễn, chẳng thật”, mà là Đệ Nhất Nghĩa
Đế, là lư chân thật, chẳng dối.
Cảnh
giới có mười bảy thứ trang nghiêm trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới chẳng phải
là Tục Đế như trong thế giới Sa Bà; đó
là tướng diệu cảnh giới. “Diệu” (妙) là chẳng thể
nghĩ bàn. Mười bảy thứ trang nghiêm ấy vi diệu
chẳng thể nghĩ bàn, cho nên tướng diệu cảnh
giới của Tây Phương Cực Lạc thế giới
là Diệu Hữu. Diệu Hữu chẳng hữu, tức
là Chân Không, là Đệ Nhất Nghĩa Đế; nhưng Chân Không chẳng phải là hư
không, chẳng phải là Đoạn Diệt Không, nó có
mười bảy thứ trang nghiêm. V́ thế, Chân Không chẳng
không, tức là Diệu Hữu. Hết thảy các tướng
diệu cảnh giới đều do công đức của
A Di Đà Phật thành tựu. Câu này là tổng kết, nhằm
bảo chúng ta: Quư vị đừng tưởng Tây
Phương Cực Lạc thế giới có lầu gác bảy
báu, có hàng cây bảy báu, các thứ trang nghiêm, mà coi chúng
như là các thứ vật
báu trong thế
giới Sa Bà. [Thật ra, những thứ ấy] toàn là
tướng cảnh giới mầu nhiệm chẳng thể
nghĩ bàn!
“Thập lục cú cập nhất
cú, thứ đệ thuyết, ưng tri” (Hăy nên biết mười sáu câu và một câu
là nói theo thứ tự): Mười sáu câu ở phía sau và
câu đầu tiên trong phần trước, nói theo thứ tự
th́ câu thứ nhất là “quán bỉ
thế giới tướng, thắng quá tam giới đạo”
(quán tướng thế giới ấy, vượt trỗi
tam giới đạo) chính là Chân Đế, tức tổng
tướng của Tây Phương Cực Lạc thế
giới là thanh tịnh trang nghiêm. Mười sáu câu kế
đó là mười sáu thứ trang nghiêm của Tây
Phương Cực Lạc thế giới, quư vị phải
dựa theo thứ tự để quán tưởng. Phải nên biết điều này.
4.2.3.2. Thể của chúng sanh
4.2.3.2.1. Quán Phật
(Luận)
Vân hà quán Phật trang nghiêm công đức thành tựu? Quán
Phật trang nghiêm công đức thành tựu giả, hữu
bát chủng tướng, ưng tri. Hà đẳng bát chủng?
Nhất giả, trang nghiêm ṭa công đức thành tựu. Nhị
giả, trang nghiêm thân nghiệp công đức thành tựu. Tam
giả, trang nghiêm khẩu nghiệp công đức thành tựu.
Tứ giả, trang nghiêm tâm nghiệp công đức thành tựu.
Ngũ giả, trang nghiêm đại chúng công đức thành
tựu. Lục giả, trang nghiêm thượng thủ công
đức thành tựu. Thất giả, trang nghiêm chủ
công đức thành tựu. Bát giả, trang nghiêm bất
hư tác trụ tŕ công đức thành tựu.
(論)云何觀佛莊嚴功德成就?觀佛莊嚴功德成就者,有八種相,應知。何等八種?一者莊嚴座功德成就。二者莊嚴身業功德成就。三者莊嚴口業功德成就。四者莊嚴心業功德成就。五者莊嚴大眾功德成就。六者莊嚴上首功德成就。七者莊嚴主功德成就。八者莊嚴不虛作住持功德成就。
(Luận:
Quán sự trang nghiêm do công đức thành tựu của Phật
như thế nào? Quán sự trang nghiêm do công đức thành
tựu của Phật th́ có tám loại tướng, hăy nên
biết. Những ǵ là tám loại? Một là trang nghiêm ṭa
công đức thành tựu. Hai là trang nghiêm thân nghiệp công
đức thành tựu. Ba là trang nghiêm khẩu nghiệp công
đức thành tựu. Bốn là trang nghiêm tâm nghiệp công
đức thành tựu. Năm là trang nghiêm đại chúng
công đức thành tựu. Sáu là trang nghiêm thượng thủ
công đức thành tựu. Bảy là trang nghiêm chủ công
đức thành tựu. Tám là trang nghiêm công đức thành tựu
trụ tŕ, chẳng thực hiện uổng công).
“Vân hà quán Phật trang nghiêm công
đức thành tựu?” (Quán sự trang nghiêm do công đức
thành tựu của Phật như thế nào?) Quán tưởng công đức thành tựu
của A Di Đà Phật như thế nào? “Quán Phật trang nghiêm công đức thành tựu giả,
hữu bát chủng tướng, ưng tri. Hà đẳng
bát chủng?” (Quán sự trang nghiêm do công đức thành
tựu của Phật th́ có tám loại tướng, hăy nên
biết). Tám loại tướng
nào vậy?
-
“Nhất giả, trang nghiêm ṭa
công đức thành tựu”: Loại thứ nhất là
trước hết hăy quan sát sự trang nghiêm nơi ṭa hoa
sen của A Di Đà Phật.
-
“Nhị giả, trang nghiêm thân
nghiệp công đức thành tựu”: Loại thứ hai
là quan sát sự trang nghiêm nơi thân nghiệp của A Di
Đà Như Lai.
-
“Tam giả, trang nghiêm khẩu
nghiệp công đức thành tựu”: Loại thứ ba
là quan sát sự trang nghiêm nơi khẩu nghiệp của A
Di Đà Phật.
-
“Tứ giả, trang nghiêm
tâm nghiệp công đức thành tựu”: Loại thứ
tư là quan sát sự trang nghiêm nơi tâm nghiệp của A
Di Đà Phật.
-
“Ngũ giả, trang nghiêm đại
chúng công đức thành tựu” : Loại thứ năm
là quan sát sự trang nghiêm của đại chúng trong quốc
độ A Di Đà Phật.
-
“Lục giả, trang nghiêm thượng
thủ công đức thành tựu”: Loại thứ sáu là
quan sát sự trang nghiêm của vị thủ lănh trong đại
chúng.
-
“Thất giả, trang nghiêm chủ
công đức thành tựu”: Loại thứ bảy là
quan sát sự trang nghiêm của vị chủ nhân thuyết
pháp, tức A Di Đà Phật.
-
“Bát giả, trang nghiêm bất
hư tác trụ tŕ công đức thành tựu”: Loại
thứ tám là quan sát sự trang nghiêm do duy tŕ chẳng hư dối. Tây Phương Cực
Lạc thế giới là một thế giới do A Di
Đà Phật khéo duy tŕ. Chỉ cần quư vị gặp A
Di Đà Phật, hoặc là gặp quang minh của A Di
Đà Phật, quư vị sẽ có thể đạt
được lợi ích, trọn chẳng khiến cho quư vị
bị luống uổng! Trước hết là nêu ra từng
khoa, dưới đây sẽ giải thích từng khoa một.
(Luận)
Hà giả trang nghiêm ṭa công đức thành tựu? Kệ
ngôn: “Vô lượng đại bảo vương, vi diệu
tịnh hoa đài” cố.
(論)何者莊嚴座功德成就?偈言:無量大寶王,微妙淨華臺
故。
(Luận: Trang nghiêm ṭa công đức thành tựu là
ǵ? Kệ rằng: “Vô lượng đại bảo
vương, đài hoa sạch vi diệu”).
“Hà giả trang nghiêm ṭa công đức
thành tựu?” (Những ǵ
là trang nghiêm ṭa công đức thành tựu): Trang nghiêm nơi
ṭa hoa sen là ǵ? “Kệ ngôn:
Vô lượng đại bảo vương”: [Nghĩa là] phần Kệ Tụng ghi: Pháp ṭa của
A Di Đà Phật do các đại bảo vương số
nhiều đến vô lượng hợp thành. “Vi diệu tịnh hoa đài cố”
(Đài hoa sạch vi diệu):
Muốn biết cặn kẽ tướng trang nghiêm của
đài hoa sen, xin hăy xem kinh Phật Thuyết Quán Vô Lượng
Thọ Phật:
“Dục quán bỉ Phật giả,
đương khởi tưởng niệm, ư thất
bảo địa thượng, tác liên hoa tưởng, linh
kỳ liên hoa, nhất nhất diệp thượng, tác bách
bảo sắc, hữu bát vạn tứ thiên mạch, do
như thiên họa. Mạch hữu bát vạn tứ thiên
quang, liễu liễu phân minh, giai linh đắc kiến.
Hoa diệp tiểu giả, tung quảng nhị bách ngũ thập
do-tuần. Như thị liên hoa, cụ hữu bát vạn tứ
thiên diệp. Nhất nhất diệp gian, hữu bách ức
ma-ni châu vương, dĩ vi ánh sức. Nhất nhất ma-ni
châu, phóng thiên quang minh. Kỳ quang như cái, thất bảo
hợp thành, biến phú địa thượng. Thích Ca Tỳ
Lăng Già bảo dĩ vi kỳ đài. Thử liên hoa
đài, bát vạn Kim Cang Chân Thúc Ca bảo, Phạm ma-ni bảo,
diệu chân châu vơng, dĩ vi hiệu sức. Ư kỳ đài
thượng, tự nhiên nhi hữu tứ trụ bảo
tràng. Nhất nhất bảo tràng, như bách thiên vạn ức
Tu Di sơn. Tràng thượng bảo mạn, như Dạ
Ma thiên cung. Phục hữu ngũ bách ức vi diệu bảo
châu, dĩ vi ánh sức. Nhất nhất bảo châu, hữu
bát vạn tứ thiên quang. Nhất nhất quang tác bát vạn
tứ thiên dị chủng kim sắc. Nhất nhất kim sắc,
biến kỳ bảo độ, xứ
xứ biến hóa, các tác dị tướng.
Hoặc vi kim cang đài, hoặc tác chân châu vơng, hoặc
tác tạp hoa vân, ư thập phương diện, tùy ư biến
hiện, thi tác Phật sự. Thị vi Hoa Ṭa Tưởng,
danh đệ thất Quán”
(Muốn
quán đức Phật ấy, hăy nên dấy lên sự tưởng
niệm: Trên đất bảy báu, hăy tưởng hoa sen sao
cho trên mỗi cánh của hoa sen có màu của trăm thứ
báu, có tám vạn bốn ngàn đường gân giống
như nét vẽ cơi trời. Mỗi đường gân có
tám vạn bốn ngàn ánh sáng, rành rẽ, phân minh, sao cho đều
trông thấy. Cánh hoa nhỏ th́ kích thước là hai trăm
năm mươi do-tuần. Hoa sen như thế có tám vạn
bốn ngàn cánh hoa. Trong mỗi cánh hoa, có trăm ức ma-ni
châu vương để trang hoàng chói lọi. Mỗi viên ma-ni
châu tỏa ra ngàn quang minh. Quang minh ấy như cái lọng,
do bảy báu hợp thành, che trọn khắp mặt đất.
Chất báu Thích Ca Tỳ Lăng Già làm đài sen. Đài hoa
sen ấy trang hoàng bằng tám vạn chất báu Kim Cang Chân
Thúc Ca, báu Phạm ma-ni và lưới chân châu đẹp
đẽ. Ở trên đài, tự nhiên có bốn trụ
tràng báu. Mỗi tràng báu như trăm ngàn vạn ức núi Tu
Di. Trên tràng, căng màn báu như cung trời Dạ Ma. Lại
có năm trăm ức bảo châu vi diệu để trang
hoàng chói lọi. Mỗi viên bảo châu có tám vạn bốn
ngàn tia sáng. Mỗi tia sáng hóa thành tám vạn bốn ngàn thứ
kim sắc khác nhau. Mỗi kim sắc che khắp cơi báu,
nơi nơi đều biến hóa thành các tướng trạng
khác lạ. Hoặc là đài kim cang, hoặc là lưới chân
châu, hoặc là mây các thứ hoa khác nhau, trong
khắp mười phương tùy ư biến hiện, thực
hiện Phật sự. Đó là Hoa Ṭa Tưởng, gọi
là phép Quán thứ bảy).
Chẳng
có thời gian để giải thích đoạn này! Muốn
t́m hiểu t́nh h́nh cặn kẽ, xin hăy đọc Phật
Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Giảng Kư.
(Luận)
Hà giả trang nghiêm thân nghiệp công đức thành tựu? Kệ ngôn: “Tướng hảo quang nhất
tầm, sắc tượng siêu quần sanh” cố.
(論)何者莊嚴身業功德成就。偈言:相好光一尋,色像超群生故。
(Luận:
Sự trang nghiêm do công đức thành tựu nơi thân nghiệp
là ǵ? Kệ nói: “Tướng hảo, quang một tầm,
h́nh sắc trỗi muôn loài”).
“Hà giả trang nghiêm thân nghiệp
công đức thành tựu?” [ư nói] sự trang nghiêm
nơi thân nghiệp của A Di Đà Phật là ǵ? “Kệ ngôn: Tướng hảo
quang nhất tầm” (Kệ rằng: “Tướng hảo, quang minh chiếu xa một
tầm”): Báo Thân của A Di
Đà Phật, thân có vô lượng tướng, mỗi
tướng có vô lượng hảo, mỗi hảo có vô lượng quang minh. “Quang” nói ở đây chẳng
phải là vô lượng quang. “Vô
lượng quang” là tỏa ra quang minh vô lượng vô
biên, chiếu trọn khắp mười phương thế
giới. Ở đây là nói đến “thường quang” của Ngài, tức là quang minh
vĩnh viễn trên thân thể Ngài. “Một tầm” là độ dài khi duỗi thẳng
hai tay ra, cao bằng thân lượng của Ngài.
Muốn
quan sát sự trang nghiêm nơi thân lượng của A Di
Đà Phật, xin hăy xem kinh Phật Thuyết Quán Vô Lượng
Thọ Phật:
“Thứ đương cánh quán Vô
Lượng Thọ Phật thân tướng quang minh. A Nan đương
tri! Vô Lượng Thọ Phật, thân như bách thiên vạn
ức Dạ Ma thiên Diêm Phù Đàn kim sắc. Phật thân cao
lục thập vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần.
Mi gian bạch hào, hữu toàn uyển chuyển, như ngũ
Tu Di sơn. Phật nhăn như tứ đại hải thủy,
thanh bạch phân minh. Thân chư mao khổng, diễn xuất
quang minh, như Tu Di sơn. Bỉ Phật viên quang, như bách
ức tam thiên đại thiên thế giới. Ư viên quang
trung, hữu bách vạn ức na-do-tha hằng hà sa hóa Phật.
Nhất nhất hóa Phật, diệc hữu chúng đa vô số
hóa Bồ Tát, dĩ vi thị giả. Vô Lượng Thọ
Phật, hữu bát vạn tứ thiên tướng. Nhất
nhất tướng trung, các hữu bát vạn tứ thiên
tùy h́nh hảo. Nhất nhất hảo trung, phục bát vạn
tứ thiên quang minh; nhất nhất quang minh, biến chiếu
thập phương thế giới niệm Phật chúng
sanh, nhiếp thủ bất xả. Kỳ quang minh, tướng
hảo, cập dữ hóa Phật, bất khả cụ thuyết.
Đản đương ức tưởng, linh tâm nhăn kiến.
Kiến thử sự giả, tức kiến thập
phương nhất thiết chư Phật. Dĩ kiến
chư Phật cố, danh Niệm Phật tam-muội. Tác thị
quán giả, danh quán nhất thiết Phật thân. Dĩ quán
Phật thân cố, diệc kiến Phật tâm. Phật tâm giả,
đại từ bi thị. Dĩ vô duyên từ, nhiếp
chư chúng sanh. Tác thử quán giả, xả thân tha thế,
sanh chư Phật tiền, đắc Vô Sanh Nhẫn. Thị
cố trí giả, ưng đương hệ tâm, đế
quán Vô Lượng Thọ Phật. Quán Vô Lượng Thọ
Phật giả, tùng nhất tướng hảo nhập, đản
quán mi gian bạch hào, cực linh minh liễu. Kiến mi gian
bạch hào tướng giả, bát vạn tứ thiên tướng
hảo, tự nhiên đương hiện. Kiến Vô
Lượng Thọ Phật giả, tức kiến thập
phương vô lượng chư Phật. Đắc kiến
vô lượng chư Phật cố, chư Phật hiện
tiền thọ kư. Thị vi biến quán nhất thiết sắc
thân tướng, danh đệ cửu Quán”
(Kế
đến hăy lại quán thân tướng và quang minh của
Vô Lượng Thọ Phật. A Nan hăy nên biết! Thân Vô
Lượng Thọ Phật có màu như chất vàng Diêm Phù
Đàn trong trăm ngàn vạn ức cơi trời Dạ Ma.
Thân Phật cao sáu mươi vạn ức
na-do-tha hằng hà sa do-tuần. Tướng bạch hào giữa
mày cuộn tṛn theo chiều phải, [to] như năm quả núi Tu Di. Mắt Phật
như nước bốn biển, xanh trắng phân minh. Các
lỗ chân lông trên thân tỏa quang minh như núi Tu Di. Viên
quang của đức Phật ấy như trăm ức
tam thiên đại thiên thế giới. Ở trong viên quang,
có trăm vạn ức na-do-tha hằng hà sa hóa Phật. Mỗi
vị hóa Phật cũng có đông đảo vô số hóa Bồ
Tát để làm thị giả. Vô Lượng Thọ Phật
có tám vạn bốn ngàn tướng. Trong mỗi tướng
đều có tám vạn bốn ngàn tùy h́nh hảo. Trong mỗi
hảo, lại có tám vạn bốn ngàn quang minh. Mỗi
quang minh chiếu khắp mười phương thế giới,
nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật chẳng bỏ.
Quang minh, tướng hảo cùng với hóa Phật chẳng
thể nói trọn; chỉ nên nhớ tưởng
khiến cho tâm nhăn trông thấy. Thấy sự ấy chính
là thấy mười phương hết thảy chư Phật.
Do thấy chư Phật, gọi là Niệm Phật tam-muội.
Quán như thế ấy gọi là “quán thân của hết thảy
các vị Phật”. Do quán thân Phật, cũng thấy tâm Phật.
Tâm Phật là đại từ bi, dùng Vô Duyên Từ nhiếp thủ các chúng sanh. Hành phép
Quán này, xả thân sanh sang đời khác, sẽ sanh trước
chư Phật, đắc Vô Sanh Nhẫn. V́ thế, người
có trí hăy nên buộc tâm quán kỹ Vô Lượng Thọ Phật.
Để quán Vô Lượng Thọ
Phật th́ hăy từ một tướng
hảo mà nhập, chỉ quán tướng
bạch hào giữa hai mày sao cho tột bậc rơ rệt. Thấy
tướng bạch hào giữa hai mày th́ tám vạn bốn
ngàn tướng hảo sẽ tự nhiên hiện ra. Thấy
Vô Lượng Thọ Phật chính là thấy mười
phương vô lượng chư Phật. Do được
thấy vô lượng chư Phật, chư Phật hiện
tiền thọ kư. Đấy là quán trọn khắp hết
thảy tướng sắc thân, gọi là phép Quán thứ chín”).
Muốn
t́m hiểu cặn kẽ đoạn này, cũng xin hăy t́m
đọc Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật
Kinh Giảng Kư.
“Sắc tượng siêu quần
sanh cố” (H́nh sắc vượt trỗi
các loài chúng sanh): Sắc thân và tướng mạo của A
Di Đà Phật không chỉ vượt trỗi trời,
người, mà c̣n trỗi vượt các vị đại
Bồ Tát.
(Luận)
Hà giả trang nghiêm khẩu nghiệp công đức thành tựu?
Kệ ngôn: “Như Lai vi diệu thanh, phạm hưởng
văn thập phương cố”.
(論)何者莊嚴口業功德成就?偈言:如來微妙聲,梵響聞十方故。
(Luận:
Những ǵ là sự trang nghiêm do công đức thành tựu
nơi khẩu nghiệp? Kệ rằng: “Tiếng Như
Lai vi diệu, âm Phạm vọng mười phương”).
“Hà giả trang nghiêm khẩu nghiệp
công đức thành tựu?” [nghĩa là] những ǵ là sự
trang nghiêm nơi khẩu nghiệp của A Di Đà Phật?
“Kệ ngôn: Như Lai vi diệu
thanh, phạm hưởng văn thập phương cố”
(Kệ rằng: “Tiếng Như Lai vi diệu, âm Phạm vọng
mười phương”). Âm thanh thuyết pháp của
Như Lai rất vi diệu, là âm thanh thanh tịnh, có thể
nghe thấu trọn khắp mười phương thế
giới.
(Luận)
Hà giả trang nghiêm tâm nghiệp công đức thành tựu?
Kệ ngôn: “Đồng địa, thủy, hỏa, phong,
hư không vô phân biệt cố”. Vô phân biệt giả, vô
phân biệt tâm cố.
(論)何者莊嚴心業功德成就?偈言:同地水火風虛空無分別故。無分別者,無分別心故。
(Luận:
Những ǵ là sự trang nghiêm do công đức thành tựu nơi
tâm nghiệp? Kệ rằng: “Như đất, nước,
lửa, gió, hư không vô phân biệt”. Vô phân biệt là chẳng
có cái tâm phân biệt).
“Hà giả trang nghiêm tâm nghiệp
công đức thành tựu?”: Những ǵ là sự trang
nghiêm nơi tâm nghiệp của A Di Đà Phật? “Kệ ngôn: Đồng địa,
thủy, hỏa, phong, hư không vô phân biệt cố” (Kệ
rằng: “Như đất, nước, lửa, gió, hư
không vô phân biệt”). Tâm A Di Đà Phật là tâm vô phân biệt.
Ngài độ chúng sanh giống như Ngũ Đại, tức
đất, nước, lửa, gió, hư không, chẳng có phân biệt!
Kế
đó, [Thiên Thân Bồ Tát] giải thích: “Vô phân biệt giả, vô phân biệt tâm cố” (“Vô phân biệt” là không
có cái tâm phân biệt). Chẳng có phân biệt là v́ chẳng
có duyên dấy lên cái tâm phân biệt. Trong phần Kệ Tụng
trước, tôi đă nói đất, nước, lửa, gió, và hư không đều có thể lợi
ích chúng sanh. Ư nghiệp của A Di Đà Phật giống
như đất, nước, lửa, gió, và hư không, chẳng có tâm phân biệt.
A Di Đà Phật thành tựu cái tâm chẳng phân biệt bằng
cách nào? Ngài ra tay dụng công bèn tu hành đúng như Thật
Tướng, chẳng dấy ḷng phân biệt, dụng công
đến mức chứng đắc Căn Bản Trí. Trí
ấy được gọi là Vô Phân Biệt Trí. Khi đó,
Ngài thành Phật, chẳng phải là thành A La Hán, mục
đích là muốn độ chúng sanh. Ngài từ Căn Bản
Trí lại khởi Hậu Đắc Trí, có thể ứng
cơ thuyết pháp, [tức là] gặp được chúng
sanh có căn cơ như thế nào, bèn thuyết pháp như
thế ấy. Chẳng có phân biệt th́ thuyết pháp bằng
cách nào? Chính là từ Căn Bản Trí khởi diệu dụng
(Căn Bản Trí là trí huệ căn bản, là trí huệ
thành Phật. Sau khi đă đắc Căn Bản Trí bèn khởi
diệu dụng th́ gọi là Hậu Đắc Trí).
Chúng
ta học theo cách nào? Chúng ta vẫn chưa thành Phật, c̣n
chưa đắc Vô Phân Biệt Trí; trước hết, hăy học theo Bồ Tát
như thật tu hành, [dẫu] gặp gỡ, thấy hết
thảy các tướng thế gian, chớ
nên chấp tướng. Đấy là phương pháp để
thực hiện, c̣n phải chia theo thứ
tự. Trước hết, hăy đừng chấp tướng
thế gian, rồi th́ chẳng chấp tướng
xuất thế gian. Thiền Tông Trung Hoa vừa hạ thủ
bèn bảo quư vị đừng chấp trước, hết
thảy đừng nên chấp tướng th́ mới có thể
tinh tấn. Nhưng kẻ chẳng đủ căn cơ
mà không khéo học, sẽ học điên đảo. Họ
trông thấy kẻ khác tu hành liền chê trách. Quư vị thắp hương, dâng cúng, kẻ ấy sẽ bảo:
“Chấp tướng làm chi chớ? Phật c̣n cần
ngươi thắp nhang, cung phụng hả?” Nếu quư vị
lạy Phật, niệm kinh, kẻ ấy nói: “Chấp
tướng làm chi chớ? Phật ở trong tâm
ngươi, lạy ǵ chớ?” Do vậy, chỗ nào cũng
đều chẳng chấp tướng, bài bác hết sạch
Phật pháp! Kẻ đó nói ḿnh chẳng chấp trước,
kết quả là uống rượu ăn thịt vung vít, học
Phật pháp mà học thành đại tà kiến. Đấy
chẳng phải là tri kiến điên đảo ư?
Chúng
ta là phàm phu lè tè sát đất, trước hết, đừng
nên chấp tướng “tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ
nghê”. Năm thứ ấy là
năm cái rễ của địa ngục! Quư vị chấp
trước chúng bèn tạo nghiệp; hễ tạo nghiệp,
sẽ đọa địa ngục. Trước hết,
đừng nên tham tài. V́ sao phàm phu đều tham tài? Chấp
tưnớg của tài. V́ sao tham sắc? Chấp
tướng của sắc. V́ sao phải tham ăn
thịt chúng sanh? Chấp tướng ăn uống. V́ sao
phải tham danh? Chấp tướng của danh. V́ sao phải
tham ngủ? Chấp tướng của ngủ.
Trước hết, hăy thực hiện từ chỗ này: Đối
với tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ
nghê, đừng nên tham nhiều, chỉ cần tu tốt
đẹp năm thứ ấy, sẽ có thể tu hành. Trước
hết, hăy phá trừ tướng của năm thứ ác
pháp ấy, có thể thấy thấu suốt, buông xuống.
Lại tiến thêm bước nữa, hết
thảy các ác pháp đều chẳng làm. Vậy th́ thiện
pháp th́ sao? Đối với
thiện
pháp và ác pháp như nhau, đều phải buông xuống.
Quư vị đừng nên chấp trước thiện pháp
thế gian, đừng nên cầu quả báo nhân thiên. Lại
tiến hơn bước nữa, quư vị đừng nên
chấp trước thiện pháp xuất thế gian, đừng
nên cầu quả báo nhân
thiên. Lại tiến hơn bước nữa, đừng
nên chấp trước thiện pháp xuất thế gian, đừng
nên cầu quả báo của của hàng Tiểu Thừa,
những thiện pháp đă tu thảy đều hồi
hướng Phật quả Bồ Đề.
Hiện thời, chúng
ta tu Tịnh Độ Tông, đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều lành, trên là cúng Tam Bảo, dưới
cứu chúng sanh. Bất luận thiện sự lớn hay
thiện sự nhỏ đều làm, tu không chấp tướng,
những công đức đă tu đều hồi hướng
Tây Phương Cực Lạc thế giới, trang nghiêm Phật
Tịnh Độ. Nếu không, hễ chấp trước,
sẽ chẳng sanh về Tây Phương được, sẽ
rơi vào thế giới Sa Bà, biến thành công đức hữu
lậu, đạt được quả báo trời,
người. V́ thế đừng nên chấp trước tướng
ác pháp, mà tướng
thiện pháp cũng đừng nên chấp.
Sanh về Tây
Phương đă chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, lại
trở về độ chúng sanh, tự nhiên là chẳng chấp
tướng. Khi chưa sanh về Tây Phương, chúng ta là
phàm phu, chẳng chấp tướng bằng cách nào? Ví
như quư vị muốn hoằng dương Phật pháp
ḥng lợi ích chúng sanh, chớ nên chấp tướng. Hễ
quư vị chấp tướng bèn sanh phiền năo. Chớ
nên chấp tướng th́ có cần phải hoằng pháp lợi
sanh hay không? Đă phát Bồ Đề tâm, đương
nhiên là phải hoằng pháp lợi sanh, nhưng đừng
nên chấp trước. Như thế th́ sẽ tùy thuận
Căn Bản Trí của Phật. Trong tương lai thành Phật
bèn chứng
đắc Căn Bản Trí, tức là Vô Phân Biệt Trí. Kinh Kim Cang nói: “Ta hăy nên diệt độ hết
thảy chúng sanh. Đă diệt độ hết thảy chúng
sanh, nhưng chẳng có một chúng sanh thật sự diệt
độ”. Ta độ
hết thảy chúng sanh đều thành Phật; thật ra,
chẳng có một chúng sanh đắc độ, tức là
đối với hành môn chẳng khởi tâm phân biệt.
Đức
Phật chẳng khởi phân biệt, chúng ta làm như thế
nào? Kinh Kim Cang dạy chúng ta: “Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Hăy nên chẳng trụ
vào đâu mà sanh tâm). Quư vị hoằng pháp lợi sanh, tuyệt
đối đừng nên chấp trước; nhưng đừng
nên v́ chẳng chấp trước mà rơi vào đoạn
diệt, vẫn phải sanh tâm hoằng pháp lợi sanh. Như
thế th́ suốt ngày hoằng pháp lợi sanh, nhưng suốt
ngày chẳng chấp trước, trong tương lai thành
Phật, tâm quư vị chẳng phân biệt.
(Luận)
Hà giả trang nghiêm đại chúng công đức thành tựu?
Kệ ngôn: “Thiên nhân bất động chúng, thanh tịnh
trí hải sanh” cố.
(論)何者莊嚴大眾功德成就?偈言:天人不動眾,清淨智海生故。
(Luận:
Những ǵ là sự trang nghiêm nơi công đức thành tựu
của đại chúng? Kệ rằng: “Chúng trời
người bất động, biển
trí thanh tịnh sanh”).
“Hà giả trang nghiêm đại
chúng công đức thành tựu?” Những ǵ là sự
trang nghiêm của đại chúng? “Kệ ngôn: Thiên nhân bất động chúng” (Kệ
rằng: “Chúng trời người bất động”). Hết
thảy chúng sanh chia thành ba loại lớn:
1)
Một loại là Tà Định Tụ, chắc chắn là
tà, họ chẳng tin tưởng
chánh pháp.
2)
Một loại khác là Bất Định Tụ, có lúc tiến,
có lúc thoái.
3)
Một loại nữa là Chánh Định Tụ. Đă nhập
Chánh Định Tụ, tuyệt đối sẽ chẳng
lui sụt nữa.
Tây
Phương Cực Lạc thế giới chỉ có chúng
sanh trong thiên đạo và nhân đạo, thảy đều
là chúng sanh thuộc Chánh Định
Tụ, là đại chúng bất động. “Thanh tịnh trí hải sanh cố”
(Sanh từ biển trí thanh
tịnh), đại chúng trời, người đều
xuất sanh từ
biển trí huệ thanh tịnh của A Di Đà Phật. V́
thế, đại chúng trời người được
gọi là Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.
(Luận)
Hà giả trang nghiêm thượng thủ công đức thành
tựu? Kệ ngôn: “Như Tu Di sơn vương, thắng
diệu vô quá giả” cố.
(論)何者莊嚴上首功德成就?偈言:如須彌山王,勝妙無過者故。
(Luận:
Những ǵ là sự trang nghiêm nơi công đức thành tựu
của bậc thượng thủ? Kệ rằng: “Như
núi chúa Tu Di, thắng diệu không chi hơn”).
“Hà giả trang nghiêm thượng
thủ công đức thành tựu?” Những ǵ là sự
trang nghiêm của bậc thượng thủ? “Thượng thủ” (上首) là đại đệ tử. “Kệ ngôn: Như Tu Di sơn
vương” (Kệ rằng: “Như núi chúa Tu Di”). Các đại
đệ tử giống như núi, bậc thượng thủ
giống như vua của các quả núi. “Thắng diệu vô quá giả cố”
(Thù thắng, nhiệm mầu,
không ai hơn được), giống như Quán Thế Âm
Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát đều là thượng thủ.
Bậc thượng thủ thù thắng vi diệu, chẳng
có ai vượt trỗi được!
(Luận)
Hà giả trang nghiêm chủ công đức thành tựu? Kệ
ngôn: “Thiên nhân trượng phu chúng, cung kính nhiễu chiêm
ngưỡng” cố.
(論)何者莊嚴主功德成就?偈言:天人丈夫眾,恭敬繞瞻仰故。
(Luận: Những
ǵ là trang nghiêm chủ công đức thành tựu? Kệ rằng:
“Chúng trượng phu trời người, cung kính vây chiêm
ngưỡng”).
“Hà giả trang nghiêm chủ công
đức thành tựu?” Những ǵ là sự trang nghiêm của
bậc chủ nhân thuyết pháp? “Kệ
ngôn: Thiên nhân trượng phu chúng, cung kính nhiễu chiêm
ngưỡng cố” (Kệ rằng: “Chúng trời
người trượng phu, cung kính vây quanh chiêm ngưỡng”):
Đại chúng trời người đều là tướng
trượng phu, cung kính lễ bái, vây quanh chiêm ngưỡng
A Di Đà Phật. V́ thế, bậc chủ nhân thuyết
pháp là A Di Đà Phật, công đức chẳng thể
nghĩ bàn.
(Luận)
Hà giả trang nghiêm bất hư tác trụ tŕ công đức
thành tựu? Kệ ngôn: “Quán Phật bổn nguyện lực,
ngộ vô không quá giả, năng linh tốc măn túc, công đức
đại bảo hải” cố.
(論)何者莊嚴不虛作住持功德成就?偈言:觀佛本願力,遇無空過者,能令速滿足,功德大寶海故。
(Luận:
Những ǵ là sự trang nghiêm của công đức thành tựu
trụ tŕ chẳng uổng công thực hiện? Kệ rằng:
“Quán sức bổn nguyện Phật, gặp gỡ chẳng
luống uổng, có thể mau thỏa nguyện, biển
công đức báu lớn”).
“Hà giả trang nghiêm bất hư
tác trụ tŕ công đức thành tựu?” Những ǵ là sự
trang nghiêm trụ tŕ chẳng uổng công thực hiện? “Kệ ngôn: Quán Phật bổn
nguyện lực” (Kệ rằng: “Quán sức bổn
nguyện của Phật”): Quư vị quán sức bổn nguyện của A Di
Đà Phật. A Di Đà Phật phát ra bốn mươi tám đại
nguyện, nguyện nào cũng đều độ chúng
sanh. Chúng ta học theo A Di Đà Phật mà phát nguyện,
cũng phải là “nguyện nào cũng đều độ
chúng sanh”. “Ngộ vô không quá
giả” [nghĩa là] quư vị gặp gỡ A Di Đà Phật,
Phật nhất định khiến cho những điều
mong cầu của quư vị được như nguyện,
quư vị sẽ chẳng luống uổng, nhất định
đạt được lợi ích công đức. “Năng linh tốc măn túc, công
đức đại bảo hải cố” (Biển công đức báu lớn có thể khiến cho mau măn nguyện). Quư vị
học theo A Di Đà Phật phát nguyện, nguyện nào
cũng đều v́ độ chúng sanh, sẽ tương ứng
với bổn nguyện của A Di Đà Phật. A Di
Đà Phật sẽ rất nhanh chóng gia bị quư vị, những
điều cầu nguyện của quư vị sẽ có thể
được thỏa măn rất nhanh chóng. Công đức
của A Di Đà Phật giống như đại như
ư bảo, cầu ǵ được nấy, rất sâu, rất
rộng, giống như biển cả.
(Luận)
Tức kiến bỉ Phật, vị chứng tịnh tâm Bồ
Tát, tất cánh đắc chứng b́nh đẳng Pháp Thân.
Dữ tịnh tâm Bồ Tát, dữ thượng địa
chư Bồ Tát, tất cánh đồng đắc tịch
diệt b́nh đẳng cố.
(論)即見彼佛,未證淨心菩薩,畢竟得證平等法身。與淨心菩薩,與上地諸菩薩,畢竟同得寂滅平等故。
(Luận: Liền thấy đức Phật ấy,
hàng Bồ Tát chưa chứng tịnh tâm, rốt ráo sẽ
chứng b́nh đẳng Pháp Thân, rốt ráo cùng với bậc
tịnh tâm Bồ Tát và các vị Bồ Tát đă đăng
địa cùng đắc tịch diệt b́nh đẳng).
Kế đó là giải thích: “Bồ Tát chưa chứng đắc
tịnh tâm” và “tịnh tâm Bồ
Tát” có ǵ khác biệt? “Tịnh
tâm Bồ Tát” là Đại Thừa Bát Địa Bồ
Tát. Cái tâm của bọn phàm phu chúng ta bị tài, sắc,
danh vọng, ăn uống, ngủ
nghê, tham, sân, si nhiễu loạn, ô nhiễm, tâm chẳng thanh
tịnh. Đạt tới Bát Địa Bồ Tát th́ cái tâm mới có thể trừ sạch ḷng tham tài, sắc, danh vọng, ăn uống,
ngủ nghê. Hàng Bồ
Tát “chưa chứng tịnh tâm” là Đại Thừa Thất
Địa Bồ Tát. Cần
phải học Phật pháp theo từng tầng, tu theo từng
tầng. Thất Địa Bồ Tát vẫn chưa thành Phật,
trí huệ và phước báo đều chẳng đầy
đủ. Muốn độ chúng sanh mà trí huệ lẫn
phước báo chẳng đủ! Vị ấy phải nhập tam-muội, trí huệ
và phước báo gia tăng th́ mới có thể lợi ích
chúng sanh xứng tâm thỏa ư. Thất Địa Bồ Tát phải
tác ư, tức là trong tâm dấy lên ư niệm: “Ta phải nhập
tam-muội để lợi ích chúng sanh”. Chỗ sai biệt
giữa Thất Địa và Bát Địa Bồ Tát là [Thất
Địa Bồ Tát] phải tác ư nhiều. “Tác ư” (作意) là trong tâm suy nghĩ: “Ta
phải nhập Định”. Bậc đă chứng đắc
Bát Địa Bồ Tát th́ đi, đứng, ngồi, nằm
thường ở trong Định, chẳng cần phải
sanh tâm động niệm “ta phải nhập Định”
rồi mới nhập Định. Bát Địa Bồ Tát
tùy ư tự nhiên, tam-muội do quả báo mà đạt
được th́ gọi là “báo sanh tam-muội” (報生三昧), giống
như quư vị sanh lên cơi trời bèn tự nhiên có hết thảy các sự hưởng
thụ. V́ thế, Bát Địa Bồ Tát chẳng cần
sanh tâm động niệm mà tinh tấn. Thất Địa
Bồ Tát c̣n phải tác ư, do chưa đắc tịnh tâm. Bát
Địa Bồ Tát không cần tác ư, tự nhiên nhập tam-muội,
cho nên gọi là “tịnh tâm Bồ Tát”.
Lại
giảng về lời Luận, “tức
kiến bỉ Phật, vị chứng tịnh tâm Bồ
Tát, tất cánh đắc chứng b́nh đẳng Pháp Thân”
(liền thấy đức Phật ấy, hàng Bồ Tát
chưa chứng tịnh tâm rốt ráo sẽ chứng Pháp
Thân b́nh đẳng): Quư vị chưa chứng đắc Bát
Địa, chỉ cần thấy A Di Đà Phật, Ngài nhất định sẽ khiến cho quư vị
chứng Bát Địa, sẽ không khiến cho quư vị bị
luống công. Chưa chứng Bát Địa Bồ Tát th́ c̣n
có cái tâm để thực hiện việc nhập Định,
c̣n có cái tâm là đối tượng để nhập
Định, tức là có Năng, có Sở, tức là có sai biệt,
chẳng b́nh đẳng. Bát Địa Bồ Tát tùy ư tự
nhiên đắc tam-muội, chứng đắc Pháp Thân b́nh
đẳng. Do vậy, tâm Ngài b́nh đẳng.
“Dữ tịnh tâm Bồ Tát, dữ
thượng địa chư Bồ Tát” (Cùng với tịnh
tâm Bồ Tát và bậc Bồ Tát đă đăng địa):
Trước khi chứng Bát Địa th́ gọi là Phần
Chứng, từ Bát Địa Bồ Tát trở lên, c̣n có Cửu
Địa Bồ Tát, Thập Địa Bồ Tát, và Đẳng
Giác Bồ Tát, khi ấy đă b́nh đẳng chứng đắc,
giống hệt như các vị Bồ Tát khác đă chứng
từ Bát Địa trở lên. “Tất cánh đồng
đắc tịch diệt b́nh đẳng” (Rốt ráo cùng đắc tịch diệt b́nh
đẳng), “tịch diệt” (寂滅) là bất sanh bất diệt, là Pháp Thân của
chư Phật. “B́nh đẳng” là vô sai biệt. Bồ
Tát chưa chứng tịnh tâm, chỉ cần thấy A Di
Đà Phật, sẽ chứng đắc Pháp Thân b́nh đẳng
nơi Niết Bàn của chư Phật giống y hệt!
(Luận)
Lược thuyết bát cú thị hiện Như Lai tự lợi
lợi tha công đức trang nghiêm thứ đệ thành tựu,
ưng tri.
(論)略說八句示現如來自利利他功德莊嚴次第成就,應知。
(Luận:
Nói đại lược tám câu thị hiện công đức
trang nghiêm tự lợi và lợi tha của Như Lai, thành
tựu theo thứ tự, hăy nên biết [như thế]).
“Lược thuyết bát cú” (Nói đại lược tám câu): Tám câu
trước đó nhằm nói giản lược rơ ràng về
công đức của A Di Đà Phật. “Thị hiện Như Lai tự lợi lợi tha
công đức trang nghiêm” (Thị
hiện sự công đức trang nghiêm tự lợi và lợi
tha của Như Lai), nêu rơ công đức trang nghiêm tự lợi
và lợi tha của A Di Đà Phật. “Thứ đệ thành tựu, ưng tri” (Theo thứ
tự mà thành tựu, hăy nên biết [như thế]), chính là
để quán tưởng: Trước hết, phải
quán tưởng ṭa hoa sen, sau đó là quán thân nghiệp, lại
quán khẩu nghiệp, lại quán ư nghiệp. Quán tưởng
theo thứ tự, quan sát thành tựu, hăy nên biết [như
thế].
4.2.3.2.2. Quán Bồ Tát
(Luận)
Vân hà quan sát Bồ Tát trang nghiêm công đức thành tựu? Quan
sát Bồ Tát trang nghiêm công đức thành tựu giả,
quán bỉ Bồ Tát hữu tứ chủng chánh tu hành công
đức thành tựu, ưng tri. Hà giả vi tứ?
(論)云何觀察菩薩莊嚴功德成就?觀察菩薩莊嚴功德成就者,觀彼菩薩有四種正修行功德成就,應知。何者為四?
(Luận:
Quan sát công đức trang nghiêm của Bồ Tát như thế
nào? Quan sát công đức trang nghiêm của Bồ Tát là quán
các vị Bồ Tát ấy có bốn công đức thành tựu
tu hành chân chánh, hăy nên biết. Những ǵ là bốn?)
Dùng
trí huệ để quan sát sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo của Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Sự trang nghiêm
nơi y báo chính là quốc độ
Tây Phương Cực Lạc thế giới, chánh báo là đấng pháp vương A Di
Đà Phật có tám thứ công đức [trong phần trên]
đă nói rồi; nay lại quan sát hàng Bồ
Tát có bốn thứ công đức.
“Vân hà quan sát Bồ Tát trang nghiêm
công đức thành tựu?” [ư nói] quan sát sự trang
nghiêm của hàng Bồ Tát như thế nào? “Quan sát Bồ Tát trang nghiêm công
đức thành tựu giả, quán bỉ Bồ Tát hữu
tứ chủng chánh tu hành công đức thành tựu,
ưng tri” (Quan sát sự trang nghiêm do công đức thành
tựu th́ hăy quán các vị Bồ Tát ấy có bốn thứ
công đức tu hành chân chánh thành tựu, hăy nên biết).
Quan sát bốn thứ công đức thành tựu của các
vị Bồ Tát ấy, phải chú ư ba chữ “chánh tu hành” (正修行). Công đức thành tựu
là kết quả, Bồ Tát thành tựu công đức
như thế nào? Chánh tu hành. “Chánh
tu hành” là chẳng tà, chẳng thiên lệch. “Tà” (邪) là cảnh giới hữu lậu, đều
là những thiện pháp nhân thiên, kết quả của tu tập
là rơi vào tam giới. Tuy coi là chuyện tốt đẹp; thật ra, chẳng phải
là chuyện tốt đẹp! Đấy là tà chấp, giống
như ngoại đạo tu hành chẳng thể ra khỏi
tam giới, gọi là “tà ma, ngoại đạo”. Nhị
Thừa thoát khỏi tam giới, nhưng thiên lệch, chẳng thể lợi
ích chúng sanh. Bồ Tát tu hành đúng như Thật Tướng
th́ mới là sự tu hành chánh đáng. Trong phần sau, [bộ luận này] có giải thích: Đúng
như Thật Tướng Lư Thể chẳng tu mà tu, khi tu
hành chẳng chấp tướng th́ mới gọi là “chánh
tu hành”. “Hà giả vi tứ?”:
Những ǵ là bốn thứ chánh tu hành để thành tựu
công đức?
(Luận)
Nhất giả, ư nhất Phật độ, thân bất
động dao, nhi biến thập phương chủng chủng
ứng hóa, như thật tu hành, thường tác Phật sự.
Kệ ngôn: “An Lạc quốc thanh tịnh, thường chuyển
vô cấu luân, hóa Phật, Bồ Tát nhật, như Tu Di trụ
tŕ” cố, khai chư chúng sanh ứ nê hoa cố.
(論)一者於一佛土身不動搖,而遍十方種種應化,如實修行,常作佛事。偈言:安樂國清淨,常轉無垢輪,化佛菩薩日,如須彌住持故,開諸眾生淤泥華故。
(Luận: Một
là trong một cơi Phật, thân chẳng lay động, mà ứng
hóa đủ mọi thứ trọn khắp mười
phương, như thật tu hành, thường làm Phật
sự. Kệ rằng: “Cơi An Lạc thanh tịnh, thường
chuyển vô cấu luân, hóa Phật Bồ Tát nhật,
như Tu Di trụ tŕ”, nở hoa trong bùn lầy cho chúng
sanh).
Đây
là loại công đức thứ nhất của hàng Bồ
Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Nhất giả ư nhất Phật
độ” (Một là trong một cơi
Phật): Hàng Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới sẽ giáo hóa [chúng sanh] trong một thế
giới thuộc khu vực giáo hóa của một đức
Phật, [chẳng hạn] như thế giới Sa
Bà là thế giới được giáo hóa bởi Thích Ca Mâu
Ni Phật, Tây Phương Cực Lạc thế giới là
thế giới được giáo hóa bởi A Di Đà Phật.
“Thân bất động dao”
(Thân chẳng lay động):
Bồ Tát nhập Định trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới, thân thể chẳng lay động. “Nhi biến thập phương
chủng chủng ứng hóa” (Mà ứng
hóa đủ thứ trọn khắp
mười phương): Ngài có thể phân thân trọn khắp
mười phương thế giới giáo hóa chúng sanh, căn cơ của chúng sanh khác nhau, Ngài giáo hóa chúng sanh thích ứng
với căn cơ của họ.
“Như thật tu hành” chính là “chánh tu hành”, [tức là] tu hành đúng với Thật
Tướng. Thật Tướng là Chân Như Lư Thể, v́
phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng.
Chân Như Lư Thể là tướng chân thật, cho nên gọi
là Thật Tướng. Nhưng Thật Tướng là pháp
vô tướng, trong ấy có trọn
đủ hết thảy các công
đức. Đấy gọi là “Thật Tướng vô tướng, nhưng
chẳng phải là không có tướng”. “Tu hành đúng như Thật
Tướng” là khi tu hành th́ chẳng chấp
tướng, tự nhiên có thể thành tựu công đức.
Đó là tùy thuận Thật Tướng Lư Thể để
tu, chẳng chấp tướng th́ sẽ tùy thuận Thật Tướng. V́ thế,
tùy thuận Thật Tướng mà tu hành chính là “không tu mà tu”. Chẳng chấp trước
tướng tu hành, tùy ư tự nhiên có thể trọn đủ
hết thảy các công đức.
“Như thật tu hành” là Bồ
Tát tự lợi. “Thường
tác Phật sự” (Thường làm Phật sự)
là lợi tha. Bồ Tát thường đến mười
phương thế giới giáo hóa hết thảy chúng sanh.
Căn cơ của chúng sanh chẳng đồng nhất,
đương nhiên là phải dùng phương tiện quyền
xảo, tùy thuận căn cơ của chúng sanh để
giáo hóa đủ mọi cách, nhưng mục đích
đều là khiến cho hết thảy chúng sanh thành Phật.
Trong phần trước, tôi đă nhắc tới cách thực hiện công phu:
Quư vị đừng nên chấp tướng. Trước
hết là đừng chấp tướng của các ác pháp. Đầu tiên, trước
hết, hăy buông xuống những thứ tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê. Lại c̣n chẳng
chấp tướng thiện pháp thế gian. Thiện pháp
thế gian đều là pháp hữu lậu, đừng nên
chấp tướng. Lại chẳng chấp trước
đạo Nhị Thừa, đừng nên chấp trước
Thiên Không Niết Bàn của Nhị Thừa. Tiến hơn
bước nữa, hằng ngày tu pháp Đại Thừa, khi chưa đạt đến thành Phật th́ sẽ chẳng
ngưng dứt, nhưng chẳng chấp tướng. Tuân
theo thứ tự như vậy, chẳng phải là vừa
tu tập bèn nói luông tuồng là “không chấp tướng”,
nhưng chẳng tu hành, tự nhiên sẽ tạo ác nghiệp, trong tương lai nhất định
sẽ đọa địa ngục. V́ thế, đừng
nên chấp tướng. Trước hết, đừng
nên chấp tướng của các ác pháp; sau đấy, đừng chấp
tướng thiện pháp thế gian, rồi đừng chấp
pháp Nhị Thừa, rồi lại chẳng chấp pháp
Đại Thừa. Dựa
theo thứ
tự như thế mà tu hành.
Chúng
ta nghe pháp Đại Thừa, v́ sao chớ nên chấp
trước? V́ hễ chấp tướng, sẽ chẳng
tương ứng với Thật Tướng. Như thật
tu hành, sẽ tương ứng, sẽ ứng hợp Thật
Tướng Lư Thể. Nếu chúng ta mong thành Phật th́ phải
chứng đắc Thật Tướng Lư Thể. Quư vị
chứng đắc pháp Thật Tướng Lư Thể, dùng
pháp ấy làm thân th́ gọi là Pháp Thân. Chứng đắc
Pháp Thân, quư vị mới có thể thành Phật. Quư vị chẳng
tương ứng, chẳng khế hợp Pháp Thân, làm sao
có thể chứng đắc Thật Tướng Lư Thể
cho nổi? Do vậy, tu hành quyết
chớ nên chấp tướng. Nói “chẳng chấp tướng” nhưng trọn chẳng tu hành th́ vẫn là một
tên đại phàm phu, quư vị chẳng thành Phật. Quư vị
tu hành chấp tướng, tu Lục Độ vạn hạnh,
đều là công hạnh của Bồ Tát, kết quả
là hễ chấp tướng, sẽ biến thành pháp hữu
lậu, rơi vào trong tam giới. V́ thế, tu pháp môn Đại
Thừa, hăy tận hết sức tu Lục Độ vạn
hạnh, nhưng chẳng được chấp tướng.
Đấy gọi là “như thật
tu hành”.
Nếu
quư vị có thể như thật tu hành th́ là đúng. Nếu
quư vị chẳng như thật tu hành, tu hành chấp
tướng, nay tôi lấy pháp sư làm
thí dụ, hễ chấp tướng
th́:
1)
Một là không tiến bộ, cứ ngỡ
chính ḿnh có thể giảng kinh, [nhưng thật ra] chẳng thể tiến bộ! V́ [vị
pháp sư ấy] giảng kinh toàn là dựa theo kinh văn
để hiểu nghĩa, chính ḿnh th́ căn bản là chẳng
minh tâm kiến tánh, chẳng đại triệt đại
ngộ. Lư Thật Tướng là như thế nào? Trước
là ngộ, sau là chứng, đừng nên nói là “không chứng được”. [Nếu như] chính ḿnh chẳng
ngộ lư được, làm sao có thể chứng đắc
quả vị thánh nhân cho nổi? Chúng ta đều là hạng phàm phu lè tè sát đất, nương theo
đạo lư do đức Phật đă nói để giải
thích; chúng ta biết bao nhiêu th́ giảng bấy nhiêu, chính ḿnh phải chú
tâm cẩn thận, đừng nên giảng sai. Giảng sai
c̣n mắc tội lỗi ư? Quư vị ngỡ [chính ḿnh] biết
giảng, không chú tâm, chẳng
cẩn
thận, cứ cẩu thả, qua loa, vớ
lấy kinh bổn bèn giảng ngay tắp lự. Giảng sai be bét mà chính ḿnh vẫn
chẳng biết. Dẫu quư vị giảng cũng
được lắm, nhưng chẳng thể nào giảng
hay hơn nữa, v́ quư vị tưởng chính ḿnh biết
giảng, chẳng thèm nghiên cứu nữa. Do vậy, chẳng
thể tiến bộ.
2)
Hai là tăng thêm ngă mạn. Cứ tưởng người
khác chẳng biết giảng kinh, ta biết giảng kinh, [vậy
là ta] cao hơn người khác. Theo quy củ trong Phật
giáo, Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy người nghe kinh phải nên cung kính, lễ bái, cúng dường
pháp sư giảng kinh. Mọi người đều dập
đầu trước quư vị, [quư vị] bèn ngỡ
chính ḿnh ghê gớm lắm, tăng thêm phiền năo kiêu
căng, ngă mạn. Quư vị học Phật
pháp như vậy chẳng phải là điên đảo ư?
Quư vị là pháp sư giảng kinh, giảng nửa ngày, phiền
năo kiêu căng, ngă mạn đều chẳng thể hàng phục
được, làm sao có thể chứng đắc Thật
Tướng cho nổi? V́ thế, nhất định phải
là “nói năng đều ly tướng”. Giảng kinh là chuyện
ta đáng nên phải giảng, [nhưng v́] ta chẳng thể
phân thân trong mười phương thế giới th́ đă
hổ thẹn lắm rồi! Nói chung là phải tận hết
tâm lực của ta để giảng, phải dè dặt,
cẩn thận. Giảng lâu ngày, từ từ cầu tiến
bộ th́ mới có thể minh tâm kiến tánh, chứng
được thánh vị của Bồ Tát vào một ngày
nào đó.
Bồ
Tát ở Tây Phương Cực Lạc thế giới bất
động mà có thể phân thân trọn khắp mười
phương thế giới th́ đều là bậc Bồ
Tát từ Bát Địa trở lên. Bồ Tát có tất cả
năm mươi hai địa vị, thoạt đầu
là mười Tín vị, lại tiến hơn một
bước là mười Trụ vị, mười Hạnh
vị, và mười Hồi Hướng
vị. Ba mươi địa vị ấy là Hiền vị,
là hiền nhân, vẫn chưa phải là thánh nhân. Lại có các
địa vị thuộc Thập Địa, tiến nhập
địa vị của mười loại thánh
nhân, gọi là Thập Địa Bồ Tát. Thập Tín, Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, bốn mươi địa vị ấy vẫn chưa thấy Pháp Thân là
như thế nào. Tới khi thăng lên Sơ Địa, rỗng
rang phá một phần vô minh, chứng một phần Pháp
Thân, sanh ra niềm hoan hỷ to lớn, nên gọi là Hoan Hỷ Địa. Sau
đấy, phá từng phần vô minh, chứng Pháp Thân từng
phần, dụng công đạt đến Bát Địa Bồ
Tát, gọi là Vô Công Dụng vị (địa vị chẳng
c̣n phải dụng công tu hành nữa). Khi ấy, sẽ tùy ư
tự nhiên tiến bộ. Vị Bồ Tát ấy ở
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới bất
động, đi, đứng, ngồi, nằm thường
ở trong Định. Bồ Tát có bổn nguyện, có diệu
dụng thần thông, có thể phân thân trọn khắp mười
phương thế giới ḥng lợi
ích hết thảy chúng sanh.
“Kệ ngôn: An Lạc quốc
thanh tịnh” (Kệ rằng: “Cơi An Lạc
thanh tịnh”): Kinh Vô Lượng Thọ dịch Tây
Phương Cực Lạc thế giới thành “An Lạc quốc”. Tổng tướng của
An Lạc quốc là tướng thanh tịnh. V́ chánh báo
thanh tịnh, y báo quốc độ mới thanh tịnh. “Thường chuyển vô cấu
luân”: Những vị Bát Địa Bồ Tát ấy đều
nói với chúng sanh pháp thanh tịnh. Chúng ta là pháp sư phàm
phu, đều nương theo Thánh Ngôn Lượng, tức
là nương theo những đạo lư do đức Phật đă nói để giải
thích. Nhất định là c̣n chưa nghiên cứu thấu
triệt Phật lư, nếu không, cớ sao mỗi pháp sư
giảng một kiểu? V́ chúng ta là pháp sư phàm phu,
đèo theo phiền năo và tập khí, hễ chuyển pháp luân thanh tịnh bèn kèm theo nhiễm
cấu. Trong phần trước đă nói, Thất Địa
Bồ Tát phải động niệm th́ mới có thể
nhập tam-muội. Động niệm th́ c̣n có Năng (chủ thể) và Sở (khách thể), trong tâm chẳng thanh tịnh; phải là chẳng động một niệm
th́ tâm mới thanh tịnh. Chúng ta là pháp sư phàm phu, suốt
ngày từ sáng đến tối dấy lên vọng tưởng,
làm sao có thể chẳng dấy động ư niệm cho
được? Chẳng dấy động ư niệm, sẽ
chẳng thể giảng kinh nổi! Bát Địa Bồ
Tát chẳng dấy động ư niệm, tùy ư tự nhiên có
thể ứng theo căn cơ để thuyết pháp. Ngài
vừa nói ra pháp thanh tịnh, đă trừ bỏ phiền
năo vốn có của chúng sanh, [khiến cho họ] ngay lập tức đạt
được lợi ích chân thật.
“Hóa Phật, Bồ Tát nhật”
(Hóa ra vầng mặt trời
Phật và Bồ Tát): “Nhật”
là quang minh trí huệ của Bồ Tát, chiếu trọn khắp
mười phương thế giới, giống như mặt
trời. Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới đến mười phương thế giới
giáo hóa chúng sanh. Chúng sanh trong mười phương thế
giới đáng nên thấy thân Bồ Tát để đắc
độ, Ngài bèn thị hiện thân Bồ Tát để
độ kẻ ấy. Có chúng sanh đáng nên thấy thân Phật
để đắc độ, Ngài bèn thị hiện, hóa
ra thân Phật để độ kẻ ấy. “Như Tu Di sơn trụ tŕ”
(Như núi Tu Di trụ tŕ):
Tu Di (Sumeru) là núi Diệu Cao. Một tiểu
thế giới lấy núi Tu Di làm trung tâm, [Bồ Tát trong cơi Cực Lạc] có thể trụ tŕ một
tiểu thế giới. Bồ Tát trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới giáo hóa chúng sanh, giống như ánh
sáng mặt trời chiếu trọn khắp mười
phương thế giới, nhưng các Ngài ở trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới giống như
núi Tu Di, an trụ bất động.
“Khai chư chúng sanh ứ nê hoa cố”
(V́ nở hoa nơi bùn lầy
cho chúng sanh): Nhằm lợi ích chúng sanh, Bồ Tát phân thân trọn
khắp mười phương thế giới có thể
làm cho chúng sanh nở hoa trí huệ từ trong phiền năo,
giống như từ bùn lầy nở hoa sen. V́ thế, giáo hóa chúng sanh, quư vị
đừng nên sợ chúng sanh phiền năo sâu dầy. Duy Ma Cật
Sở Thuyết Kinh đă chép: “Thí
như cao nguyên lục địa, bất sanh liên hoa, ty thấp
ứ nê, năi sanh thử hoa” (Ví như nơi cao nguyên, lục
địa, chẳng sanh hoa sen; nơi
thấp thỏi, bùn lầy bèn sanh ra hoa ấy). Có nghĩa
là: Trên cao nguyên hay đầu núi, chẳng sanh ra hoa sen. Lục
địa chẳng có nước, cũng chẳng sanh hoa
sen. Ở chỗ trũng đọng bùn lầy, mới sanh
ra hoa sen thanh tịnh. Đó gọi là “Bồ Tát úy nhân, chúng sanh úy quả” (Bồ Tát sợ nhân,
chúng sanh sợ quả). Bồ Tát có trí huệ, Ngài kiêng sợ cái nhân, một tí chuyện ác trọn
chẳng dám làm; v́ làm cái nhân ác, trong
tương lai sẽ mắc quả ác. Nhân quả là định
luật thiên nhiên, chúng sanh to gan, chuyện
ǵ cũng đều dám làm; đă tạo ra cái nhân ác, trong tương
lai chắc chắn sẽ mắc ác quả. Đợi
đến khi mắc phải ác quả th́ họ mới sợ hăi! Do vậy, hoa sen sanh nơi bùn lầy,
phiền năo của chúng sanh sâu dầy, từ trong nhân địa,
họ dấy lên phiền năo, tạo ác nghiệp, mắc quả
báo, hứng chịu khổ; khi ấy, [Bồ Tát] mới lại
v́ họ thuyết pháp th́ họ mới có thể tiếp nhận.
Hễ tiếp nhận, sẽ sanh ra hoa sen nơi bùn lầy.
Có
lúc Thích Ca Mâu Ni Phật cũng lên cơi trời thuyết pháp. Trên thực tế, giáo
hóa chúng sanh trên cơi trời đạt được hiệu
quả rất ít, v́ niềm vui ngũ dục mà chư thiên
hưởng thụ được gọi là “diệu
ngũ dục”, niềm vui ngũ dục trong nhân gian chẳng
thể sánh bằng. V́ chư thiên hưởng lạc quá nhiều,
quư vị nói với họ khổ sở thế nào đi nữa,
họ chẳng thể hiểu rơ. Do đó, đức Phật
chẳng thường thuyết pháp trên cơi trời, mà
thường thuyết pháp trong nhân gian; bởi lẽ, nhân gian lạc ít, khổ nhiều,
dễ tiếp nhận Phật pháp. Trong nhân gian, đức
Phật thường thuyết pháp tại Nam Thiệm Bộ
Châu. Một tiểu thế giới có bốn đại bộ
châu, Đông châu và Tây châu c̣n có thể tiếp nhận Phật
pháp, chứ Bắc châu không tiếp nhận; v́ người ở Bắc châu quá sung sướng,
quư vị nói với họ về khổ, họ chẳng thông hiểu khổ là ǵ. Hộ Pháp Vi Đà Tôn
Thiên cảm ứng ba châu, Ngài chẳng
đến Bắc Câu Lô Châu, v́ nơi ấy chẳng có Phật
pháp, chẳng cần Ngài đến đó hộ pháp. Cao
nguyên và lục địa chẳng sanh hoa sen, trái lại,
nơi bùn lầy mới sanh ra hoa sen. Do vậy, đối
với chúng sanh khổ năo, đừng nên coi rẻ họ,
quư vị đến giảng Phật pháp cho họ, họ
mới dễ dàng tiếp nhận.
Đây
là nói tới công đức của hàng Bồ Tát trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới Bồ Tát, chúng
ta học theo như thế nào? Phải phát tâm độ
chúng sanh bần cùng, khổ năo. Nguyên nhân khiến cho Phật
giáo bị suy vi rất nhiều. Trong phần trước,
tôi đă nói [một nguyên nhân là do] mọi người
đóng cửa tu hành, khiến cho Phật pháp bị suy
đồi. C̣n có một nguyên nhân nữa, chính là ai nấy
đều lo độ kẻ phú quư, chẳng độ
người bần cùng. V́ sao chỉ độ người
phú quư? V́ Phật giáo cần có tiền; chẳng có tiền, sẽ không thể sống
nổi! Người có tiền t́m đến Phật giáo sẽ
có thể hộ tŕ, [Phật môn] mới có sức mạnh.
Do đó, [nhà chùa] đăi đằng, chèo kéo kẻ hộ
pháp có tiền. Người nghèo lo cho bản thân c̣n không xuể,
cuộc sống chật vật, há có tiền để bố
thí? V́ thế, gặp họ, [tăng sĩ bèn đối xử] rất lănh đạm.
Như vậy th́ Phật giáo biến thành kẻ chỉ xu
phụ thế lực, ham lợi
lộc: Đối với người có thế lực bèn
đăi đằng, chèo kéo; đối
với kẻ chẳng có thế lực, bèn lạnh nhạt
đối với họ, tạo thành [t́nh trạng] người
nghèo chẳng học Phật pháp để mở mang chánh tri kiến, họ tin theo
tà kiến ngoại đạo, muốn đả đảo
Phật giáo.
Vậy
th́ chúng ta độ kẻ nghèo, chẳng cần độ
phường phú quư ư? Lại sai lầm mất rồi! Chúng ta phải
phương tiện thiện xảo b́nh đẳng độ
hết thảy chúng sanh. Chúng ta độ kẻ có tài lực,
mời họ tới bố thí, Phật giáo có
sức mạnh kinh tế hùng hậu, sẽ giáo hóa người
nghèo. Kẻ nghèo chẳng có cơm ăn, chẳng có áo mặc,
mỗi ngày túi bụi từ sáng đến tối, há có thời
gian để nghe quư vị giảng kinh, thuyết pháp? Quư vị
thấy họ chẳng có cơm ăn, mua tặng họ
chút gạo. Trời lạnh, họ không có áo mặc, mua cho
họ mấy bộ quần áo. Họ ngă bệnh chẳng
có tiền đi bác sĩ, hăy cho họ đôi chút tiền
thuốc thang. Hành Tài Bố Thí trước đă, khiến cho
họ cảm thấy tín đồ
Phật
giáo tốt đẹp rồi mới hành Pháp Bố Thí, giảng
Phật pháp cho họ. Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh chép:
“Tiên dĩ dục câu khiên, hậu
linh nhập Phật trí” (Trước
hết dùng dục để lôi kéo, sau đấy khiến
cho họ nhập Phật trí). Trước hết, dùng
ngũ dục giống như cái lưỡi câu cá để
câu họ, lôi kéo họ, sau đấy mới giảng giải
Phật pháp cho họ nghe. Như vậy th́ người
nghèo mới có thể tiếp nhận Phật pháp. Nay chúng
ta phải học theo Bồ Tát, học sao cho sanh về Tây
Phương, chứng đắc Bát
Địa Bồ Tát, [sau đấy
sẽ] đến
mười phương thế giới diệt trừ phiền
năo vô minh của hết thảy chúng sanh.
(Luận)
Nhị giả bỉ ứng hóa thân, nhất thiết thời
bất tiền, bất hậu, nhất tâm, nhất niệm,
phóng đại quang minh, tất năng biến chí thập
phương thế giới, giáo hóa chúng sanh, chủng chủng
phương tiện, tu hành sở tác, diệt trừ nhất
thiết chúng sanh khổ cố. Kệ ngôn: “Vô cấu trang
nghiêm quang, nhất niệm cập nhất thời, phổ chiếu
chư Phật hội, lợi ích chư quần sanh” cố.
(論)二者彼應化身,一切時不前不後,一心一念,放大光明,悉能遍至十方世界,教化眾生,種種方便,修行所作,滅除一切眾生苦故。偈言:無垢莊嚴光,一念及一時,普照諸佛會,利益諸群生故。
(Luận:
Hai là Ứng Hóa Thân của các Ngài (các vị Bồ Tát trong Cực
Lạc) trong hết thảy thời, chẳng trước,
chẳng sau, nhất tâm, nhất niệm, tỏa quang minh lớn, thảy đều có thể tới khắp
mười phương thế giới giáo hóa chúng sanh, các
thứ phương tiện, các hành vi tu hành [đều nhằm]
diệt trừ nỗi khổ của hết thảy chúng
sanh. Kệ rằng: “Sáng trang nghiêm không nhơ, một niệm
và một thời, chiếu khắp các Phật hội, lợi
ích trọn muôn loài”).
Đây
là loại công đức thứ hai của hàng Bồ Tát
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Nhị
giả, bỉ Ứng Hóa Thân” (Hai là Ứng Hóa Thân của
các Ngài), Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới bất động, mà có thể hiện ra Ứng
Hóa Thân Phật trong mười phương thế giới.
“Nhất thiết thời, bất tiền, bất hậu”
(Trong hết thảy thời,
chẳng trước, chẳng sau), [ư nói] chẳng phải là Ứng Hóa Thân Phật
đến thế giới này trước rồi mới
đến một thế giới khác. “Nhất tâm, nhất niệm” là thời gian rất ngắn.
“Phóng đại quang minh, tất năng biến chí thập
phương thế giới” (Tỏa
quang minh lớn, thảy đều có thể tới khắp mười
phương thế giới): Bồ Tát tỏa ra quang minh, trong
một niệm, [soi] thấu trọn khắp mười
phương thế giới. “Giáo hóa chúng sanh, chủng chủng
phương tiện” [nghĩa là] giáo hóa hết thảy
chúng sanh, hành các thứ phương tiện quyền xảo.
“Tu hành sở tác” [ư nói]: Khiến cho mười
phương chúng sanh đều cùng học theo Bồ Tát mà
tu hành. “Diệt trừ nhất thiết chúng sanh khổ cố”
(V́ diệt trừ sự
khổ cho hết thảy chúng sanh): Chúng sanh có khổ năo th́
mới cần học theo Phật, học theo Bồ Tát ḥng
có thể diệt trừ khổ năo của hết thảy
chúng sanh.
[Kế
đó], giải thích kệ tụng trong phần trước:
“Kệ ngôn: Vô cấu trang nghiêm quang” (Kệ rằng: “Quang
minh trang nghiêm vô cấu”), Bồ Tát tỏa ra quang minh trí huệ
thanh tịnh. “Nhất niệm cập nhất thời”
(Một niệm và một
thời): Thời gian rất ngắn. “Phổ chiếu
chư Phật hội” (Chiếu
khắp các Phật hội): Phân thân thành vô lượng Bồ Tát, hoặc vô lượng Ứng Hóa Thân
Phật. Đấy là diệu dụng của trí huệ, là
quang minh trí huệ chiếu trọn khắp
các pháp hội của chư Phật trong mười
phương. “Lợi ích chư quần sanh cố” (Do v́ lợi ích các quần sanh): Mỗi pháp hội đều có chúng sanh, Bồ Tát
đến pháp hội lợi ích rất nhiều chúng sanh,
giống như trong pháp hội của Thích Ca Như Lai, Quán
Thế Âm Bồ Tát cũng đến dự ḥng tạo lợi
ích cho chúng ta.
[Bồ
Tát cơi Cực Lạc] trong hết thảy thời, chẳng
trước, chẳng sau, đều có thể đến
khắp mười phương thế giới, chúng ta th́
không được! Nhất tâm, nhất niệm, đều
có thể đến khắp mười phương thế
giới, chúng ta lại càng không được. Hiện thời,
chúng ta học như thế nào? Hiện thời có những
công cụ khoa học có thể giúp đỡ chúng ta. Chẳng
hạn như điện đài vô tuyến có các dụng cụ
truyền thanh, chúng ta có thể vận dụng nó để
hoằng dương Phật pháp. Quư vị ở trên đài
phát thanh vô tuyến, người chẳng động mà có
thể phân thân trọn khắp mười phương. Âm
thanh thuyết pháp của quư vị trọn khắp mọi
nơi. Chẳng hạn như toàn bộ Đài Loan, có một
vạn cái radio, chẳng phải là cái máy radio thứ nhất
nghe trước, rồi mới đến máy thứ hai
nghe, [lần lượt như
thế hết cả năm nay, măi] cho đến năm sau, cái máy thứ một vạn
mới nghe được! Sóng điện vô tuyến
là nhất niệm, nhất thời; chỉ sợ quư vị
chẳng mở máy radio. Hễ quư vị mở lên, bèn nghe thấy
âm thanh, chẳng có trước, chẳng có sau. Sóng điện
vô tuyến có loại công năng ấy.
(Luận)
Tam giả, bỉ ư nhất thiết thế giới, vô
dư chiếu chư Phật hội đại chúng, vô
dư quảng đại vô lượng cúng dường,
cung kính tán thán chư Phật Như Lai công đức. Kệ
ngôn: “Vũ thiên nhạc, hoa y, diệu hương đẳng
cúng dường, tán chư Phật công đức, vô hữu
phân biệt tâm” cố.
(論)三者彼於一切世界,無餘照諸佛會大眾,無餘廣大無量供養恭敬讚歎諸佛如來功德。偈言,雨天樂華衣,妙香等供養,讚諸佛功德,無有分別心故。
(Luận: Ba là các
Ngài trong hết thảy các thế giới, chiếu đại
chúng trong hội của chư Phật chẳng sót, vô lượng
cúng dường rộng lớn, cung kính tán thán công đức
của chư Phật Như Lai chẳng sót. Kệ rằng:
“Mưa nhạc trời, áo hoa, diệu hương để
cúng dường, tán công đức chư Phật, chẳng
có tâm phân biệt”).
Đây
là loại công đức thứ ba của hàng Bồ Tát
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, trên là
cúng chư Phật, dưới hóa độ chúng sanh “vô
dư”, tức là chẳng c̣n thừa sót. “Tam giả bỉ
ư nhất thiết thế giới, vô dư chiếu
chư Phật hội đại chúng” (Ba là trong hết
thảy thế giới, các Ngài chiếu đại chúng
trong hội của chư Phật chẳng sót). Đấy
là dưới hóa độ chúng sanh chẳng thừa sót. Ư nói:
Hàng Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới
đối với đại chúng thuộc tất cả
các thế giới của chư Phật trong mười
phương hư không, thảy đều chiếu soi. “Vô
dư quảng đại vô lượng cúng dường, cung kính tán thán chư Phật Như Lai công
đức” (Vô lượng cúng dường
rộng lớn, cung kính tán thán công đức của chư
Phật Như Lai chẳng sót); đấy là trên th́ cúng
dường chư Phật chẳng sót. Ngài đến mỗi
pháp hội, trước hết bèn cúng dường chư
Phật, dùng thân nghiệp để cung kính lễ bái, dùng khẩu
nghiệp để tán thán công đức của chư Phật
Như Lai.
“Kệ
ngôn: Vũ thiên nhạc, hoa y” (Kệ rằng:
“Mưa nhạc trời, áo hoa”): Bồ Tát có thần thông.
Ngài đến các thế giới của chư Phật, những
thứ cúng dường mang theo giống như mưa
rơi xuống. “Thiên” (天) là tự nhiên. Tự nhiên có âm nhạc cúng
dường, có hoa trời và áo trời để cúng dường.
“Diệu hương”: Có hương trời để
cúng dường. “Đẳng cúng dường”
[nghĩa là] c̣n có những vật phẩm cúng dường
khác nữa. “Tán chư Phật công đức” (Tán thán công đức của chư Phật):
Thấy Phật, tán thán công đức của Phật. “Vô
hữu phân biệt tâm cố” (V́ không có tâm phân biệt): Sau khi đă đạt
đến Bát Địa Bồ Tát bèn có
diệu dụng này, giống như A Di Đà Phật, Ngài
(Bát Địa Bồ Tát) cúng dường chư Phật,
giáo hóa chúng sanh, chẳng khởi tâm phân biệt. Ngài trên là
cúng dường chư Phật, chẳng có vị Phật
nào mà không cúng dường. Giáo hóa chúng sanh th́ chẳng có
chúng sanh nào mà không giáo hóa. Bát Địa Bồ Tát chứng
đắc Pháp Thân “không ǵ lớn mà ra ngoài được”,
cho nên Ngài phóng quang minh chiếu trọn khắp, chẳng có
thế giới nào mà không chiếu thấu. Cúng dường
chư Phật, chẳng có vị Phật nào không cúng dường.
Giáo hóa chúng sanh, cũng chẳng có chúng sanh nào không giáo hóa. Nếu
Bồ Tát có tâm phân biệt, sẽ cúng dường vị Phật
này, chẳng cúng dường vị Phật kia, giáo hóa chúng
sanh này, chẳng giáo hóa chúng sanh kia. V́ tâm Ngài chẳng có phân biệt, cho nên thuận
theo Pháp Thân tánh, trọn khắp hết thảy chỗ, cho nên
mới có thể chẳng thừa sót.
(Luận) Tứ
giả bỉ ư thập phương nhất thiết thế
giới vô Tam Bảo xứ, trụ tŕ trang nghiêm Phật Pháp
Tăng bảo công đức đại hải, biến thị
linh giải như thật tu hành. Kệ ngôn: “Hà đẳng
thế giới vô, Phật pháp công đức bảo, ngă
nguyện giai văng sanh, thị Phật pháp như Phật” cố.
(論)四者彼於十方一切世界無三寶處,住持莊嚴佛法僧寶功德大海,遍示令解如實修行。偈言:何等世界無,佛法功德寶,我願皆往生,示佛法如佛故。
(Luận:
Bốn là trong hết thảy các thế giới ở
mười phương, chỗ nào không có Tam Bảo, biển
cả công đức Phật, Pháp, Tăng bảo trụ
tŕ trang nghiêm, các Ngài sẽ dạy trọn khắp, khiến
cho họ hiểu [Phật pháp] mà như thật tu hành. Kệ
rằng: “Thế giới nào chẳng có, Phật pháp công
đức bảo, tôi đều nguyện văng sanh, dạy
Phật pháp như Phật”).
Đây là loại công
đức thứ tư của hàng Bồ Tát trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới. “Tứ giả,
bỉ ư thập phương nhất thiết thế giới
vô Tam Bảo xứ” (Bốn là các Ngài ở trong hết
thảy các thế giới ở mười phương,
chỗ nào không có Tam Bảo): Hàng Bồ Tát trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới quan sát thế giới
nào chẳng có Phật trụ thế, chẳng có Phật Bảo,
chẳng có Pháp Bảo, chẳng có Tăng Bảo, trong
thế giới ấy Phật
Pháp Tăng Tam Bảo đều chẳng có, Ngài sẽ tới
đó, thị hiện làm một vị Phật. “Trụ
tŕ trang nghiêm Phật Pháp Tăng bảo công đức đại
hải” (Trụ tŕ
trang nghiêm biển cả báu công đức Phật, Pháp, Tăng):
Đối với chỗ chẳng có Tam Bảo, Ngài bèn
đến trụ tŕ Tam Bảo, trang nghiêm công đức Phật,
Pháp, Tăng bảo, giống như biển cả, rất
sâu, rất rộng. “Biến thị linh giải như thật
tu hành” (Dạy trọn
khắp khiến cho họ hiểu [Phật pháp] mà như thật
tu hành): Khai thị khiến cho hết thảy chúng sanh đều
ngộ đạo lư mà như thật tu hành, khiến cho hết
thảy chúng sanh đều tu hành đúng với Thật
Tướng, đều trở thành Bồ Tát.
“Kệ ngôn: Hà
đẳng thế giới vô, Phật pháp công đức bảo”
(Thế giới
nào chẳng có, báu Phật pháp công đức): Mười
phương thế giới trong hư không, thế giới
nào chẳng có Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo, “ngă nguyện
giai văng sanh” (tôi đều nguyện văng sanh): Bồ Tát
nguyện sanh vào thế giới chẳng có Tam Bảo, v́
Ngài chứng đắc Bát Địa Bồ Tát, tự tại
thuận theo nguyện. Ngài muốn đến thế giới
nào bèn đến thế giới ấy. “Thị Phật
pháp như Phật cố” [ư nói] Ngài đến đó thị
hiện Phật pháp giống như Phật xuất thế,
thị hiện tám tướng thành đạo. Đấy
là quy củ xuất thế của Phật.
Giống như Phật
Thích Ca xuất thế trong Nam Thiệm Bộ Châu của thế
giới Sa Bà:
1) Tướng thứ
nhất là từ Đâu Suất Thiên giáng hạ. Bồ Tát
chưa thành Phật th́ gọi là Bổ Xứ Bồ Tát, tức
là vị Bồ Tát về sau sẽ được bổ
nhiệm thành Phật. Ngài trụ trong tầng trời thứ
tư của Dục Giới, tức Đâu Suất Thiên.
Đâu Suất Thiên chia thành Nội Viện và Ngoại Viện.
Ngài ở trong Nội Viện của Đâu Suất Thiên, do
quan sát thấy cơ duyên “thấy Phật đắc
độ” của chúng sanh đă chín muồi, nên
mới giáng hạ.
2) Tướng thứ
hai là nhập thai: Phu nhân Ma Da nằm mộng, mộng thấy
có một vị Bồ Tát cưỡi voi trắng từ trên
trời giáng hạ, đi vào
trong bụng bà ta.
3) Tướng thứ
ba là trụ thai: Bồ Tát thị hiện thành Phật, giống
như mọi người, cũng ở trong thai mười
tháng. Nhưng Bồ Tát chẳng hứng chịu nỗi khổ ở trong thai, Ngài ở trong bụng mẹ bèn chuyển
pháp luân to lớn, độ chúng sanh.
4) Tướng thứ
tư là xuất thai. [Bồ Tát] ở trong thai đủ mười tháng, có một
hôm, phu nhân Ma Da đến vườn hoa, tay vịn cành cây
Vô Ưu (無憂,
Ashoka), Phật Thích Ca từ hông phải
[của mẹ] sanh ra.
5) Tướng thứ
năm là xuất gia. Phật Thích Ca mười chín tuổi
bèn xuất gia.
6) Tướng thứ
sáu là thành đạo. Sau khi xuất gia, Phật Thích Ca bèn
tham phỏng năm năm, tu khổ hạnh sáu năm, trải
qua mười một năm, thành đạo lúc ba
mươi tuổi.
7) Tướng thứ
bảy là chuyển
pháp luân. Sau khi Phật Thích Ca thành đạo bèn thuyết
pháp độ chúng sanh.
8)
Tướng thứ tám là nhập Niết Bàn. Phật Thích
Ca thuyết pháp bốn mươi chín năm, đến tám
mươi tuổi bèn nhập diệt.
Mỗi
vị Phật xuất thế đều thị hiện
đúng theo tám tướng thành đạo.
Tôi
vừa mới nói tám tướng thành đạo theo Đại
Thừa Phật giáo, [trong ấy] có tướng trụ
thai, chẳng có tướng hàng ma. V́ trước khi đức
Phật sắp thành đạo, ma từ cơi trời giáng xuống
nhiễu loạn, đức Phật hàng phục ma rồi
mới thành đạo. Tiểu Thừa Phật giáo nói tám
tướng thành đạo, do thuận theo pháp thế gian,
cho là ở trong bụng mẹ chẳng thể làm chuyện
ǵ, cho nên chẳng có tướng trụ thai, bèn có tướng
hàng ma.
Phần
luận văn Trường Hàng chia thành mười đoạn,
đoạn thứ nhất là “nguyện kệ đại
ư” (đại ư của bài Nguyện Sanh Kệ), Thiên Thân Bồ
Tát nói: Ta mong sanh về quốc độ của A Di Đà
Phật. Đoạn thứ hai là “quán khởi sanh tín”,
tức là đối với cách tu quán tưởng, bèn dấy
lên tín tâm. Đoạn thứ ba là “quán hạnh thể tướng”,
trước hết dùng trí huệ để quan sát y báo
trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới,
rồi lại quan sát chánh báo trang nghiêm, đến đây
đă giảng xong phần “quán hạnh thể tướng”.
Đoạn thứ tư là “tịnh nhập nguyện tâm”,
những công đức trang nghiêm thanh tịnh ấy do
đâu mà có? Đều từ trong nguyện tâm của A Di
Đà Phật mà khởi.
4.2.4. Tịnh nhập nguyện
tâm
(Luận)
Hựu hướng thuyết quan sát trang nghiêm Phật độ
công đức thành tựu, trang nghiêm Phật công đức
thành tựu, trang nghiêm Bồ Tát công đức thành tựu,
thử tam chủng thành tựu nguyện tâm trang nghiêm,
ưng tri.
(論)又向說觀察莊嚴佛土功德成就、莊嚴佛功德成就、莊嚴菩薩功德成就,此三種成就願心莊嚴,應知。
(Luận:
Lại nữa, như trên đây đă nói quan sát sự trang
nghiêm do công đức thành tựu nơi cơi Phật, sự
trang nghiêm do công đức thành tựu của Phật, sự
trang nghiêm do công đức thành tựu của Bồ Tát, ba
món thành tựu ấy trang nghiêm nguyện tâm, hăy nên biết).
“Hướng
thuyết” (向說) là “đă nói trong phần trước”. Quan sát sự trang nghiêm của Tây
Phương Cực Lạc thế giới có mười bảy
loại công đức thành tựu, quan sát sự trang nghiêm
của A Di Đà Phật có tám thứ công đức thành tựu,
quan sát sự trang nghiêm của Bồ Tát có bốn loại
công đức thành tựu, hợp chung lại bèn có quốc
độ, Phật, Bồ Tát ba thứ thành tựu, đều
là nguyện tâm trang nghiêm. Do đâu mà có những sự trang
nghiêm này? Đều là do thuở đầu, A Di Đà Phật
đă phát ra bốn mươi tám đại nguyện, từ
nguyện tâm mà thành tựu những công đức trang
nghiêm ấy, hăy nên biết.
(Luận)
Lược thuyết nhập nhất pháp cú cố. Nhất
pháp cú giả, vị thanh tịnh cú. Thanh tịnh cú giả,
vị chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân cố.
(論)略說入一法句故。一法句者,謂清淨句。清淨句者,謂真實智慧無為法身故。
(Luận: Nói đại lược th́
sẽ gộp vào trong một câu pháp. Một câu pháp nghĩa
là một câu thanh tịnh. Câu thanh tịnh chính là “Pháp Thân chân thật trí huệ vô vi”).
“Lược
thuyết nhập nhất pháp cú cố” [nghĩa là] nói gộp
chung ba thứ trang nghiêm, nói giản lược th́ chỉ
có một pháp cú. “Nhất pháp cú giả, vị thanh tịnh
cú” (Một câu pháp chính là một
câu thanh tịnh): Thế giới thanh tịnh, A Di Đà Phật
thanh tịnh, Bồ Tát cũng thanh tịnh, chính là một
pháp thanh tịnh. Ba thứ trang nghiêm đều được
bao gồm [trong một câu này].
“Thanh
tịnh cú giả” (Câu thanh tịnh là…): Thanh tịnh
như thế nào? “Vị chân thật trí huệ vô vi Pháp
Thân cố” (Chính là Pháp Thân trí huệ
vô vi chân thật): A Di Đà Phật phát ra bốn
mươi tám đại nguyện, nguyện nào cũng
đều v́ độ chúng sanh. Ngài tu hành đều là như
thật tu hành, kết quả là Ngài đă nương vào
Chân Như Thật Tướng mà chứng đắc trí huệ
chân thật. Từ trí huệ chân thật, chứng đắc
Pháp Thân, gọi là Vô Vi Pháp Thân. “Vô vi” là “vô sở tác
vi”, Pháp Thân là Chân Như Lư Thể, là Lư Thể giác ngộ vốn sẵn có mà ai nấy đều có, do bị vô minh
phiền năo phủ trùm, đáng nên dùng Văn, Tư, Tu khơi mở, phát khởi th́ mới có
thể chứng đắc. Chứng đắc vô vi Pháp
Thân là phát hiện, trọn chẳng phải là quư vị tạo
ra một Pháp Thân. Do đó, trí huệ là chân thật, trí huệ
thanh tịnh; Pháp Thân là vô vi, Pháp Thân thanh tịnh. Năng chứng
trí huệ (trí huệ để chứng Pháp Thân) và sở
chứng Pháp Thân (Pháp Thân được chứng bởi trí
huệ) đều là thanh tịnh.
(Luận)
Thử thanh tịnh hữu nhị chủng, ưng tri. Hà
đẳng nhị chủng? Nhất giả khí thế gian
thanh tịnh, nhị giả chúng sanh thế gian thanh tịnh.
(論)此清淨有二種,應知。何等二種?一者器世間清淨,二者眾生世間清淨。
(Luận: Sự thanh tịnh ấy có
hai loại, hăy nên biết. Những ǵ là hai loại? Một
là khí thế gian thanh tịnh, hai là chúng sanh thế gian thanh
tịnh).
“Thử
thanh tịnh hữu nhị chủng, ưng tri” (Sự
thanh tịnh ấy có hai thứ, hăy nên biết): Trong phần
trước, đă gộp chung ba thứ trang nghiêm thành một
câu “pháp thanh tịnh”. Lại đem pháp thanh tịnh
tách ra thành hai loại, hăy nên biết. “Hà đẳng nhị
chủng? Nhất giả, khí thế gian thanh tịnh; nhị
giả, chúng sanh thế gian thanh tịnh” (Những ǵ là
hai loại? Một là khí thế gian thanh tịnh, hai là chúng
sanh thế gian thanh tịnh). Nêu ra danh mục của chúng.
(Luận)
Khí thế gian thanh tịnh giả, như hướng thuyết
thất thập chủng trang nghiêm Phật độ công
đức thành tựu, thị danh khí thế gian thanh tịnh.
(論)器世間清淨者,如向說十七種莊嚴佛土功德成就,是名器世間清淨。
(Luận:
Khí thế gian thanh tịnh là như trước đó
đă nói mười bảy thứ trang nghiêm do công đức
thành tựu của cơi Phật th́ gọi là khí thế gian
thanh tịnh).
“Khí”
(器) là đồ vật. Chẳng hạn
như tác dụng của chén trà là có thể đựng trà. Thế giới có thể dung nạp hết
thảy chúng sanh, cho nên gọi là “khí thế gian”.
“Khí thế gian” chỉ quốc độ thế giới; mười bảy thứ trang nghiêm của
Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là
thanh tịnh.
(Luận)
Chúng sanh thế gian thanh tịnh giả, như hướng
thuyết bát chủng trang nghiêm Phật công đức thành
tựu, tứ chủng trang nghiêm Bồ Tát công đức
thành tựu, thị danh chúng sanh thế gian thanh tịnh.
Như thị nhất pháp cú, nhiếp nhị chủng thanh
tịnh nghĩa, ưng tri.
(論)眾生世間清淨者,如向說八種莊嚴佛功德成就,四種莊嚴菩薩功德成就,是名眾生世間清淨。如是一法句,攝二種清淨義,應知。
(Luận:
Chúng sanh thế gian thanh tịnh là như trên đây đă
nói tám thứ trang nghiêm do công đức thành tựu của
Phật và bốn thứ trang nghiêm do công đức thành tựu
của Bồ Tát th́ gọi là “chúng sanh thế gian thanh tịnh”.
Một pháp cú như thế gồm trọn hai loại ư
nghĩa thanh tịnh, hăy nên biết [như thế]).
“Chúng
sanh thế gian thanh tịnh giả, như hướng thuyết
bát chủng trang nghiêm Phật công đức thành tựu, tứ
chủng trang nghiêm Bồ Tát công đức thành tựu, thị
danh chúng sanh thế gian thanh tịnh” (Chúng sanh thế gian
thanh tịnh là như trên đây đă nói tám thứ trang
nghiêm do công đức thành tựu của Phật và bốn
thứ trang nghiêm do công đức thành tựu của Bồ
Tát th́ gọi là “chúng sanh thế gian thanh tịnh”): Đoạn
văn này có ư nghĩa rất rơ ràng. Ở đây, có một
nghi vấn: Thông thường, [từ ngữ] “chúng sanh”
nhằm nói đến phàm phu, v́ sao [trong đoạn này] lại
gọi Phật, Bồ Tát là chúng sanh? V́ [trong các kinh luận] có chỗ chia thành ba loại
thế gian: Thế giới được gọi là Khí Thế Gian, phàm phu là Chúng Sanh Thế Gian, và Phật, Bồ Tát gọi là Chánh Giác Thế Gian. Ở đây, [Thiên
Thân Bồ Tát] đă gộp chung thành hai loại, gộp Phật,
Bồ Tát vào chúng sanh. Bồ Tát chưa thành Phật, vẫn
coi như chúng sanh [th́ được], cớ sao đối
với bậc đă thành Phật cũng gọi là chúng sanh?
Phật được gọi là “cứu cánh chúng sanh”,
tức là chúng sanh “người
hoàn mỹ”, giống như người tốt nhất
trong thế gian, chẳng có ai vượt trỗi Ngài, cho
nên gọi là “hoàn
nhân” (完人), “hoàn” (完) có nghĩa là “rốt
ráo”. Chúng sanh ấy đă thành Phật, nên gọi là “cứu
cánh chúng sanh”.
“Như
thị nhất pháp cú, nhiếp nhị chủng thanh tịnh
nghĩa, ưng tri” [nghĩa là] sự thanh tịnh
như thế hàm nhiếp hai loại thanh tịnh, tức
là khí thế gian thanh tịnh và chúng sanh thế gian thanh tịnh. Đem Phật, Bồ
Tát dung thông với chúng sanh, tức là tách thành hai thứ là y
báo và chánh báo, cho nên có thế gian là y báo thanh tịnh và Phật,
Bồ Tát là chánh báo thanh tịnh. Đoạn tiếp theo
đây sẽ nói về “thiện xảo nhiếp hóa” (善巧攝化), tức
là phương tiện quyền xảo để nhiếp
thủ, giáo hóa hết thảy chúng sanh.
4.2.5. Thiện xảo nhiếp
hóa
(Luận)
Như thị Bồ Tát Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na, quảng
lược tu hành, thành tựu nhu nhuyễn tâm. Như thật
tri quảng lược chư pháp, như thị thành tựu
xảo phương tiện hồi hướng.
(論)如是菩薩奢摩他,毗婆舍那,廣略修行,成就柔軟心。如實知廣略諸法,如是成就巧方便迴向。
(Luận:
Chỉ và Quán của Bồ Tát như thế, tu hành rộng
hay lược, thành tựu tâm nhu nhuyễn. Biết chư
pháp rộng hay lược như thật, thành tựu
phương tiện khéo để hồi hướng
như thế).
“Như
thị Bồ Tát Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na” (Chỉ và Quán của
Bồ Tát như thế): Xa-ma-tha (Śamatha) trong tiếng
Phạn, dịch sang tiếng Hán là Chỉ. Tỳ-bà-xá-na (Vipaśyanā) trong tiếng Phạn dịch sang tiếng
Hán là Quán. Trong phần trước, [Thiên Thân Bồ Tát]
đă dạy chúng ta dựa theo sự trang nghiêm nơi y báo
và chánh báo của Tây Phương Cực Lạc thế giới
để quan sát, tức là dạy chúng ta hăy do hai thứ hạnh
môn Chỉ và Quán mà tu hành. Tu hành rộng và lược. “Rộng” là mười
bảy thứ trang nghiêm nơi quốc độ, tám thứ
trang nghiêm nơi Phật, và bốn thứ trang nghiêm nơi Bồ
Tát; “lược” th́ là một câu thanh tịnh. “Quảng
lược tu hành, thành tựu nhu nhuyễn tâm” (Tu hành rộng hay lược nhằm thành tựu
cái tâm nhu nhuyễn). “Nhu nhuyễn tâm” là Phật tâm. Từ có thể ban vui, Bi có thể
dẹp khổ, tức là đối với chúng sanh phát ra thệ
nguyện, nguyện ban vui cho hết thảy chúng sanh, dẹp
khổ cho hết thảy chúng sanh. Dẫn phát tâm từ bi,
đạt được tâm nhu nhuyễn. Nhu nhuyễn
chính là đối ứng với cái tâm “ương ngạnh
đă trở thành bản tánh” của phàm phu. Do cái tâm ương
ngạnh mà nẩy sanh chướng ngại, họ trông thấy
chúng sanh chịu khổ, chẳng thèm nghĩ ngợi chi hết.
Bồ Tát thấy chúng sanh đáng xót thương, sẽ tự nhiên là trước hết phải dẹp khổ, ban vui cho
họ, cái tâm từ bi dấy lên. Làm thế nào để có
thể thành tựu tâm nhu nhuyễn? Trước hết, hăy
quan sát sự trang nghiêm thanh tịnh nơi hai thứ y báo và
chánh báo th́ mới có thể hàng phục phiền năo
ương ngạnh, sanh khởi cái tâm nhu nhuyễn. “Như thật tri quảng
lược chư pháp, như thị thành tựu xảo
phương tiện hồi hướng” (Biết như thật các pháp rộng hay
lược như thế, thành tựu phương tiện
khéo hồi hướng như thế): Quư vị đă thành tựu cái tâm nhu nhuyễn, đă có tâm từ bi, đúng như Thật Tướng
mà biết các pháp rộng hay lược, trí huệ chân thật
khải phát, sẽ có thể thành tựu phương tiện
khéo léo của Bồ Tát để hồi hướng
công đức cho chúng sanh.
(Luận)
Hà giả Bồ Tát xảo phương tiện hồi
hướng? Bồ Tát xảo phương tiện hồi
hướng giả, vị thuyết lễ bái đẳng
ngũ chủng tu hành, sở tập nhất thiết công
đức thiện căn, bất cầu tự thân trụ
tŕ chi lạc, dục bạt nhất thiết chúng sanh khổ
cố. Tác nguyện nhiếp thủ nhất thiết chúng
sanh, cộng đồng sanh bỉ An Lạc Phật quốc,
thị danh Bồ Tát xảo phương tiện hồi
hướng thành tựu.
(論)何者菩薩巧方便迴向?菩薩巧方便迴向者,謂說禮拜等五種修行,所集一切功德善根,不求自身住持之樂,欲拔一切眾生苦故。作願攝取一切眾生,共同生彼安樂佛國,是名菩薩巧方便迴向成就。
(Luận: Những ǵ là phương tiện
khéo hồi hướng của Bồ Tát? Phương tiện
khéo hồi hướng của Bồ Tát là nói tới
năm thứ tu hành như lễ bái v.v… Hết thảy công
đức thiện căn đă tu tập chẳng v́ nhằm
duy tŕ sự vui sướng cho bản thân, mà v́ muốn dẹp
khổ cho hết thảy chúng sanh. Phát nguyện nhiếp thủ
hết thảy chúng sanh cùng chung sanh về cơi Phật An Lạc.
Đó gọi thành tựu phương tiện khéo hồi
hướng của Bồ Tát).
“Hà
giả Bồ Tát xảo phương tiện hồi hướng?”:
Phương tiện khéo hồi hướng của Bồ
Tát là ǵ? “Bồ Tát xảo phương tiện hồi
hướng giả, vị thuyết lễ bái đẳng
ngũ chủng tu hành, sở tập nhất thiết công
đức thiện căn” (Phương tiện khéo hồi
hướng của Bồ Tát tức là năm thứ tu hành
như lễ bái v.v… hết thảy công đức thiện
căn đă tu tập): Phương tiện quyền xảo
hồi hướng của Bồ Tát giải thích ra, sẽ
là Lễ Bái Môn, Tán Thán Môn, Tác Nguyện Môn, Quan Sát Môn, và Hồi
Hướng Môn. Hết thảy công đức và thiện
căn do tu tập năm thứ niệm môn ấy. “Bất
cầu tự thân trụ tŕ chi lạc, dục bạt nhất
thiết chúng sanh khổ cố” (Chẳng mong duy tŕ sự vui sướng cho bản
thân, mà v́ muốn dẹp khổ cho hết thảy chúng
sanh): Công đức [tích lũy] do tu năm thứ niệm
môn chẳng v́ cầu duy tŕ sự hưởng thụ an lạc
cho chính ḿnh, mà là v́ muốn độ chúng sanh, muốn dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh. “Tác
nguyện nhiếp thủ nhất thiết chúng sanh, cộng
đồng sanh bỉ An Lạc Phật quốc” (Phát nguyện nhiếp thủ hết thảy
chúng sanh, cùng nhau sanh về cơi Phật An Lạc ấy): Phát
nguyện nhiếp thủ giáo hóa hết thảy chúng sanh,
nguyện cho hết thảy chúng sanh cùng sanh về cơi An Lạc.
“Thị danh Bồ Tát xảo phương tiện hồi
hướng thành tựu”: Đấy gọi là
phương tiện thiện xảo khéo léo của Bồ
Tát, hết thảy các hạnh môn đă tu chẳng nhằm
cầu cho chính ḿnh đạt được lợi ích, mà
đều hồi hướng cho hết thảy chúng sanh,
nguyện cho hết thảy chúng sanh cùng sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới.
Phần
luận văn chia thành mười đoạn, trên đây
đă giảng năm đoạn, tiếp theo đây, sẽ
giảng đoạn thứ sáu là “ly Bồ Đề
chướng” (離菩提障, ĺa khỏi các chướng ngại Bồ
Đề). Quư vị phải phát Bồ Đề tâm,
cầu Bồ Đề đạo, phải xa ĺa chướng
ngại Bồ Đề.
4.2.6. Ly Bồ Đề
chướng
(Luận)
Bồ Tát như thị thiện tri hồi hướng
thành tựu, tức năng viễn ly tam chủng Bồ
Đề môn tương vi pháp. Hà đẳng tam chủng?
(論)菩薩如是善知迴向成就,即能遠離三種菩提門相違法。何等三種?
(Luận:
Bồ Tát khéo biết hồi hướng thành tựu
như thế, liền có thể xa ĺa ba thứ pháp trái nghịch
Bồ Đề môn, những ǵ là ba?)
“Bồ
Tát như thị thiện tri hồi hướng thành tựu”
(Bồ Tát khéo biết hồi hướng thành tựu
như thế): “Thiện tri” (善知) là có thể thông hiểu nhất. Điều
Bồ Tát có thể thông hiểu nhất là đem công đức
do chính ḿnh đă tu hồi hướng cho hết thảy
chúng sanh, hy vọng chúng sanh cùng sanh về cơi An Lạc. “Tức
năng viễn ly tam chủng Bồ Đề môn
tương vi pháp” (Bèn có thể xa ĺa ba thứ
pháp trái nghịch Bồ Đề môn): “Tương vi”
(相違, trái nghịch) chính là chướng
ngại. Có ba loại pháp trái nghịch pháp môn Bồ Đề,
chuyện Bồ Tát có thể hiểu biết nhất chính
là hồi hướng công đức cho chúng sanh [ngơ hầu
họ sẽ đạt được] thành tựu mà có thể trừ khử ba món chướng
ngại ấy. Bồ Đề (Bodhi) trong tiếng
Phạn dịch sang tiếng Hán là Giác, hay Đạo, tức
Phật đạo. Chúng ta phát tâm th́ trước hết phải
phát Bồ Đề tâm, tức là cái tâm mong thành Phật
đạo. Ta phải phát tâm thành Phật, thành Phật chứ
không phải là thành A La Hán, nhằm độ chúng sanh liễu
sanh tử. Có người bảo Phật giáo là tiêu cực,
đấy là do chẳng hiểu đạo lư trong Đại
Thừa Phật giáo! Quư vị dụng công tu hành là v́ thành tựu
cho hết thảy chúng sanh đều thành Phật. Đấy
là một pháp môn. Do đó, quư vị phát Bồ Đề tâm
là v́ muốn khiến cho chúng sanh liễu sanh tử, thành Phật
đạo.
Ở
đây, c̣n phải chú ư: Quư vị mong độ chúng sanh liễu
sanh tử, thành Phật đạo, nhất định phải
độ chúng sanh đến cơi An Lạc. V́ chẳng độ
chúng sanh đến cơi An Lạc, họ tu hành trong thế giới
Sa Bà, do nhân duyên tiến bộ ít ỏi, nhân duyên gây lui sụt
nhiều, chúng sanh rất khó liễu sanh tử. V́ thế,
quư vị mong độ chúng sanh, khiến cho họ “liễu sanh tử, thành Phật đạo”, th́ tốt nhất là độ họ về
An Lạc quốc, v́ ở bên đó sẽ chẳng c̣n thoái đọa, lưu chuyển sanh tử
nữa! Do vậy, quư vị khuyên hết thảy chúng sanh tu
pháp môn Tịnh Độ, mọi người cùng sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, như vậy
th́ sẽ có thể độ chúng sanh.
Trong
các kinh điển Đại Thừa khác, tu Bồ Đề
hạnh môn là Lục Độ vạn hạnh, c̣n Văng Sanh Luận giải thích thành năm niệm
môn:
1)
Một là lễ bái A Di Đà Phật.
2)
Hai là tán thán A Di Đà Phật.
3)
Ba là phát nguyện sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới.
4)
Bốn là quan sát y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới; đấy là Quán
Tưởng Niệm Phật.
5)
Năm là hồi hướng. Hồi hướng hết thảy
những công đức đă tu cho hết thảy chúng sanh,
cùng sanh về cơi An Lạc.
Năm
niệm môn này là pháp môn Bồ Đề do Thiên Thân Bồ
Tát dạy chúng ta. Chúng ta nghiên cứu Văng Sanh Luận, biết
tu năm niệm môn ấy chính là pháp môn Bồ Đề,
nhưng cần phải trừ khử ba thứ chướng
ngại. “Hà đẳng tam chủng?” [nghĩa là] ba thứ
chướng ngại Bồ Đề nào vậy?
(Luận)
Nhất giả y trí huệ môn, bất cầu tự lạc,
viễn ly ngă tâm tham trước tự thân cố.
(論)一者依智慧門,不求自樂,遠離我心貪著自身故。
(Luận:
Một là nương vào trí huệ môn, chẳng cầu sự
vui sướng cho chính ḿnh, xa cái ĺa cái tâm tham đắm bản
thân của chính ḿnh vậy).
Chấp
trước có Ngă, tham đắm sự vui sướng cho
chính ḿnh, đấy là chướng ngại cho sự tu tập
Bồ Đề. Ta phát tâm niệm Phật, mong sanh về
Tây Phương, kết quả v́ sao chẳng được
sanh? V́ trong tâm chấp trước cái Ngă, đấy là Thân
Kiến. Do vậy, Thân Kiến nguy hại nhất. Coi thân
thể là bản ngă, muốn ăn ngon, muốn mặc
đẹp, ở chỗ tốt đẹp, lại c̣n phải
rất mực vui sướng, mọi thứ đều v́
thân thể của ta, như vậy th́ quư vị đă
chướng ngại Bồ Đề môn. Hằng ngày quư vị
tu Ngũ Niệm Môn, kết quả là chính quư vị chẳng
thể văng sanh Tây Phương, chẳng độ chúng
sanh được, là v́ Ngă Kiến và cái tâm tham của quư vị
quá nặng, mọi thứ đă làm đều nhằm mong
mỏi sự vui sướng cho chính ḿnh. Điều này
trái nghịch đại nguyện Bồ Đề.
Quư
vị có thể dùng trí huệ môn để quan sát, chẳng
cầu sự an vui cho chính ḿnh, chướng ngại sẽ
bị trừ khử. Những đạo lư đă nói trong
phần trước đều do dùng trí huệ quan sát mà ra.
Thế giới Sa Bà căn bản là chẳng có lạc, lạc
là Hoại Khổ! Nhân gian chúng ta có niềm vui ngũ dục,
nhưng lạc sự (chuyện
vui sướng) chẳng lâu dài, chẳng thường
hằng. Đă thế, lạc quá ít, khổ quá nhiều! Huống
chi thân người khó được, một hơi thở
ra không hít vào được nữa, sẽ đọa trong
tam ác đạo, chẳng biết sẽ thọ khổ bao nhiêu
đại kiếp mới có thể thoát ra. Giả như
quư vị có thể sanh lên trời, hưởng hết
phước trời th́ vẫn phải luân hồi xuống
dưới. V́ thế, chớ nên tham, mà hăy nên khéo phát Bồ
Đề tâm, phát nguyện niệm Phật, phát nguyện
độ chúng sanh đều cùng sanh về cơi An Lạc, ít
làm chuyện tham cầu niềm vui ngũ dục. Đấy
là dùng trí huệ để quan sát.
Nói
“lạc” là Hoại Khổ, lạc ít, khổ nhiều,
nhưng vẫn là có lạc. Trong tâm ta, căn bản là chẳng
có Ngă, ai đang hưởng thụ lạc vậy? Chúng sanh
ngỡ thân thể là Ngă, thân thể là do Tứ Đại,
tức Địa, Thủy, Hỏa, Phong giả hợp.
Địa có tánh chất cứng chắc, Thủy là tánh thấm
ướt, Hỏa là tánh nóng bức, Phong là tánh lưu động.
Từ bốn thứ nguyên tố ấy kết hợp lại
thành thân thể, chẳng hạn như xương xẩu
trên thân chúng ta thuộc về Địa Đại, huyết
dịch trên thân thuộc về Thủy Đại, hơi
nóng trên thân thuộc về Hỏa Đại, thân thể có
thể hoạt động chính là thuộc về Phong Đại.
Thân thể là do Tứ Đại Địa, Thủy, Hỏa,
Phong kết hợp thành, hễ Tứ Đại phân tán, t́m
đâu ra Ngă?
Có
tâm th́ có Ngă. Nếu chẳng có tâm, chỉ là một thân thể,
ai biết thân thể là Ngă? Do dựa trên cái tâm tri giác, bèn
coi tâm là Ngă. Tâm là bốn thứ tác dụng Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. “Thọ” (受) có nghĩa là “nhận
lănh, cất lấy”, có thể biết ta
đang chịu khổ hay hưởng vui. Tưởng (想) có nghĩa
là “giữ lấy h́nh tượng”. Chuyện đă qua rồi
mà có thể giữ lấy cảnh tượng, giống
như h́nh đă chụp rồi, c̣n có thể soi ra. “Hành”
(行) có nghĩa là “tạo
tác”, [tức là] chuyện c̣n chưa xảy ra, đă dấy
lên chủ ư tính toán, lập kế hoạch trước. Thức
(識) là biện định rành rẽ, có thể
biết hết thảy từng người, từng vật.
Ngoài bốn thứ công năng là Thọ, Tưởng, Hành,
và Thức ra, tâm chẳng có bản thể tự tánh.
Thân
thể là do Tứ Đại, tức Địa, Thủy,
Hỏa, Phong giả hợp, tâm gồm
bốn pháp, tức Thọ, Tưởng, Hành, Thức giả
hợp. Gộp chung lại th́ có tám pháp h́nh thành giả Ngă.
Phân tích tám pháp ấy ra, lẽ ra là có tám cái Ngă! Thật ra, pháp nào cũng chẳng phải
là Ngă, chẳng thấy t́m bản thể của Ngă. Do vậy,
tám pháp hợp lại thành một giả Ngă, chẳng phải
là chân Ngă. Đấy là dùng trí huệ để quan sát, quán
nó là Không, tự nhiên sẽ chẳng dấy lên tâm tham.
Chúng
ta hiểu đạo lư này, bèn quán tưởng, quán Ngă là
Không. Nếu quư vị là người có căn cơ nhạy
bén, nghe đến đây, sẽ ngay lập tức quán Không.
Đấy là tốt nhất. Nếu căn cơ chẳng
đủ mức nhạy bén, cũng phải nên quan sát ở
chỗ này. Đấy là đức Phật phát xuất từ
trí huệ mà dạy chúng ta
phương pháp quan sát. Tuy quư vị chẳng thể ngay lập
tức quán Ngă là Không, nhưng
tâm tham
có thể dần dần giảm bớt. Quư vị
biết đi theo con đường ấy để dụng
công tu hành, sẽ tự nhiên xa ĺa
sự
tham đắm bản thân; trong ba
thứ chướng ngại Bồ Đề, đă trừ bỏ
được một thứ.
(Luận)
Nhị giả, y từ bi môn, bạt nhất thiết chúng
sanh khổ, viễn ly vô an chúng sanh tâm cố.
(論)二者依慈悲門,拔一切眾生苦,遠離無安眾生心故。
(Luận:
Hai là nương theo từ bi môn, dẹp khổ cho hết
thảy chúng sanh, xa ĺa cái tâm chẳng an ổn chúng sanh).
“Nhị
giả, y từ bi môn” (Hai là
nương vào từ bi môn): Nương vào pháp môn từ bi,
Từ là có thể ban vui, Bi là có thể dẹp khổ. “Bạt
nhất thiết chúng sanh khổ” [nghĩa là] dẹp trừ
hết thảy những nỗi khổ năo của chúng sanh.
V́ [nếu như] chẳng dẹp trừ
khổ năo cho chúng sanh, quư vị ban vui, họ sẽ chẳng
thể hưởng vui sướng được. Trong phần
trước đă có nói: Trẻ nhỏ sanh bệnh, quư vị
trước hết hăy chữa bệnh cho nó. Nếu chẳng
dẹp trừ bệnh khổ cho trẻ, quư vị cho nó ăn
thứ ngon lành, cho nó mặc quần áo đẹp
đẽ, nó đều chẳng thể hưởng thụ.
V́ thế, nhất định phải dẹp khổ
trước đă rồi mới có thể ban vui. Ở
đây là dẹp khổ trước đă, sau đó mới
ban vui. Phải phát tâm dẹp khổ cho hết thảy chúng
sanh. Cái tâm của bọn phàm phu chúng ta toàn là ban sự vui
sướng cho chính ḿnh, chẳng đoái hoài kẻ khác
đau khổ. Tâm Bồ Tát khéo sao hoàn toàn tương phản,
chẳng cầu vui sướng cho chính ḿnh, thấy người
khác chịu khổ, sẽ khổ sở c̣n hơn chính ḿnh
đang chịu khổ, muốn làm cho chúng sanh đều
được an lạc. “Viễn ly vô an chúng sanh tâm
cố” (V́ xa ĺa cái tâm chẳng giúp
cho chúng sanh được an vui). Tâm Bồ Tát tạo an lạc
cho chúng sanh, chính là có thể trừ bỏ sự chướng
ngại đối với Bồ Đề môn.
(Luận)
Tam giả, y phương tiện môn, lân mẫn nhất thiết
chúng sanh tâm, viễn ly cúng dường, cung kính tự thân
tâm cố.
(論)三者依方便門,憐愍一切眾生心,遠離供養恭敬自身心故。
(Luận:
Ba là nương vào phương tiện môn, tâm thương
xót hết thảy chúng sanh, xa ĺa cái tâm cung kính, cúng dường
thân tâm của chính ḿnh).
“Tam
giả y phương tiện môn” (Ba là nương theo phương tiện môn)
chính là phương tiện quyền xảo hồi hướng
trong phần trước. “Lân mẫn nhất thiết
chúng sanh tâm” (Tâm thương xót hết
thảy chúng sanh): Ta thấy chúng sanh chịu khổ,
thương xót chúng sanh không hiểu Phật pháp, chẳng
biết liễu sanh tử, càng phải nên thương xót
chúng sanh. “Viễn ly cúng dường, cung kính tự thân
tâm cố” (Xa ĺa sự cung kính, cúng
dường thân tâm của chính ḿnh): Nếu cúng dường chính ḿnh th́ chính là cái tâm tham dục của chúng sanh.
Người khác cung kính ta, trong tâm ta rất vui sướng;
đấy chính là cái tâm cung kính tự thân của phàm phu.
Đấy là những thứ gây chướng
ngại Bồ Đề môn. Phải xa ĺa sự cúng dường
tự thân, xa ĺa chuyện cung kính tự tâm th́ mới có thể
trừ bỏ những thứ chướng ngại Bồ
Đề môn!
(Luận)
Thị danh viễn ly tam chủng Bồ Đề môn
tương vi pháp.
(論)是名遠離三種菩提門相違法。
(Luận:
Đó gọi là xa ĺa ba thứ pháp trái nghịch Bồ Đề môn).
“Thị
danh viễn ly tam chủng Bồ Đề môn tương
vi pháp” (Đó gọi là xa ĺa ba thứ
pháp trái nghịch Bồ Đề
môn): Đối với ba thứ pháp chướng ngại
ba Bồ Đề môn đều xa ĺa.
4.2.7. Thuận Bồ
Đề môn
(Luận)
Bồ Tát viễn ly như thị tam chủng Bồ Đề
môn tương vi pháp, đắc tam chủng tùy thuận Bồ
Đề môn pháp măn túc cố. Hà đẳng tam chủng?
(論)菩薩遠離如是三種菩提門相違法,得三種隨順菩提門法滿足故。何等三種?
(Luận:
Bồ Tát xa ĺa ba thứ pháp trái nghịch Bồ Đề
môn như vậy, sẽ được trọn đủ
ba thứ pháp tùy thuận Bồ Đề môn, những ǵ là
ba thứ?)
“Bồ
Tát viễn ly như thị tam chủng Bồ Đề môn
tương vi pháp, đắc tam chủng tùy thuận Bồ
Đề môn pháp măn túc cố” (Bồ Tát xa ĺa ba thứ
pháp trái nghịch Bồ Đề môn như vậy, sẽ
được trọn đủ ba thứ pháp tùy thuận
Bồ Đề môn): Trừ khử ba thứ chướng
ngại trên đây, sẽ đạt được ba loại
pháp tùy thuận. “Tùy thuận” là chẳng trái nghịch.
Hăy chú ư hai chữ “tùy thuận”. Kẻ sơ phát tâm tu
hành, phải tu hành đúng như Thật Tướng, chúng
ta chẳng biết Thật Tướng ở chỗ nào ư?
Phải tùy thuận Thật Tướng mà tu hành, đấy
là pháp môn tùy thuận. “Hà đẳng
tam chủng” (những ǵ là ba loại), ba môn tùy thuận
nào vậy?
(Luận) Nhất giả,
vô nhiễm thanh tịnh tâm, dĩ bất vị tự thân cầu
chư lạc cố.
(論)一者無染清淨心,以不為自身求諸樂故。
(Luận:
Một là tâm vô nhiễm thanh tịnh, do chẳng v́ bản
thân mà cầu các sự vui).
“Nhất
giả, vô nhiễm thanh tịnh tâm” (Một là tâm vô nhiễm thanh tịnh), tức
là đă trừ khử chướng ngại trên đây, biến
thành pháp môn thanh tịnh. “Dĩ bất vị tự thân cầu
chư lạc cố” (Do chẳng
v́ bản thân mà cầu các sự vui): Trong phần trước
đă nói quư vị v́ cầu sự vui sướng cho chính
ḿnh, đấy là chướng ngại; hăy trừ bỏ cái tâm cầu vui sướng
cho chính ḿnh. Chẳng v́ chính ḿnh mà cầu vui sướng th́
gọi là “vô nhiễm thanh tịnh tâm”. Quư vị chấp
trước Ngă, muốn cầu sự vui sướng cho
chính ḿnh, đấy là cái tâm ô nhiễm. Quư vị chẳng
chấp trước Ngă, chẳng tham cầu sự vui
sướng cho chính ḿnh th́ gọi là “tâm vô nhiễm thanh tịnh”.
(Luận)
Nhị giả, an thanh tịnh tâm, dĩ bạt nhất thiết
chúng sanh khổ cố.
(論)二者安清淨心,以拔一切眾生苦故。
(Luận:
Hai là cái tâm an thanh tịnh, do dẹp trừ nỗi khổ
cho hết thảy chúng sanh).
“Nhị
giả, an thanh tịnh tâm” (Hai là cái tâm an lạc thanh tịnh) tức là cái tâm khiến
cho chúng sanh đều đạt được an lạc.
Chúng sanh được an lạc, trong tâm ta cảm thấy
rất vui sướng. Đấy là “an thanh tịnh tâm”.
“Dĩ bạt nhất thiết chúng sanh khổ cố” (Do dẹp trừ nỗi
khổ của hết thảy chúng sanh): Ví như trẻ nhỏ
sanh bệnh, tâm cha mẹ rất khổ sở, nhất
định sẽ vội vă cho con đi khám bệnh, uống thuốc, dẹp
trừ bệnh khổ cho trẻ. Trẻ được an
vui, cha mẹ mới có thể an lạc.
(Luận)
Tam giả, lạc thanh tịnh tâm, dĩ linh nhất thiết
chúng sanh đắc đại Bồ Đề cố,
dĩ nhiếp thủ chúng sanh sanh bỉ quốc độ
cố.
(論)三者樂清淨心,以令一切眾生得大菩提故,以攝取眾生生彼國土故。
(Luận:
Ba là lạc thanh tịnh tâm, do khiến cho hết thảy chúng
sanh đắc đại Bồ Đề, do nhiếp thủ
chúng sanh sanh về cơi nước ấy).
“Tam
giả lạc thanh tịnh tâm, dĩ linh nhất thiết
chúng sanh đắc đại Bồ Đề cố”
(Ba là lạc thanh tịnh tâm, do khiến cho hết thảy
chúng sanh đắc đại Bồ Đề): Khiến
cho hết thảy chúng sanh đạt được đại
Bồ Đề, đấy là trí huệ của Phật. Nếu
ta có thể độ một chúng sanh thành Phật, ta rất
sung sướng; đấy là pháp lạc, là đại lạc.
Cái tâm tham cầu niềm vui ngũ dục cho chính ḿnh [như đă nói trong phần trước]
chính là
chướng ngại Bồ Đề. C̣n ở đây là cái tâm tùy thuận Bồ
Đề, có thể khiến cho hết thảy chúng sanh
đắc đại Bồ Đề, tâm chính ḿnh vui
sướng, đó là pháp lạc thanh tịnh.
“Dĩ
nhiếp thủ chúng sanh sanh bỉ quốc độ cố”
(Do nhiếp thủ chúng
sanh sanh về cơi nước ấy): “Nhiếp” (攝) là nhiếp
tŕ (攝持), muốn nhiếp tŕ (nắm giữ, thâu tóm) chúng sanh, tức là muốn
hướng dẫn chúng sanh, khiến cho họ phát nguyện
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. V́
nếu chẳng làm như vậy, chúng sanh sẽ chẳng
thể đắc đại Bồ Đề. Tôi vừa mới
nói, tu hành trong thế giới Sa Bà, nhân duyên gây lui sụt quá
nhiều, nhân duyên tạo tiến bộ quá ít. Làm cho chúng sanh tiến nhập Phật môn rất
khó, đă biết sanh tử th́ phải tu hành, kết quả
là chẳng thể tiến bộ, làm sao có thể đạt
được đại Bồ Đề? Do vậy, mong
độ chúng sanh đắc đại Bồ Đề
th́ trước hết phải đưa họ sang Tây
Phương Cực Lạc thế giới, nơi ấy là
chỗ bảo đảm an toàn.
V́ sao đức Phật phải nói ra pháp môn Tịnh Độ?
V́ đấy chính là pháp để độ những chúng
sanh đắc đại Bồ Đề. Phật giáo
Đại Thừa Trung Hoa có tám tông phái, Tịnh Độ
Tông chỉ là một phái trong đó. Mỗi tông phái đều
có phương pháp độ chúng sanh liễu sanh tử.
Ngoài Tịnh Độ Tông ra, bảy tông phái kia cũng có thể
độ chúng sanh liễu sanh tử, v́ sao phải tu pháp
môn Tịnh Độ, phải độ chúng sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới vậy? Phải
đặc biệt chú ư đạo lư này! Tám vạn bốn
ngàn pháp môn, môn nào cũng đều có thể nhập đạo,
đều có thể liễu sanh tử, nhưng quư vị
phải xem xét [căn cơ của chính ḿnh] có tu nổi pháp
môn ấy hay không? Quư vị độ chúng sanh, có dễ
độ hay không? Liễu sanh tử chẳng phải là tṛ
đùa trẻ nít. Quư vị độ chúng sanh liễu sanh tử,
chẳng phải là nói sao cho bùi tai, quư vị ắt cần
phải quan sát nỗi khổ sanh tử của chính ḿnh. Tâm
sanh tử chẳng khẩn thiết, quư vị sẽ chẳng
thể phát đạo tâm tu hành. Nếu quư vị chẳng
quan sát nỗi khổ của chúng sanh, sẽ chẳng thể
phát Bồ Đề tâm, độ chúng sanh liễu sanh tử.
“Liễu
sanh tử” là quư vị có thể quan sát nỗi khổ
sanh tử, sợ hăi nỗi khổ sanh tử, tâm tưởng:
“Ta một hơi thở ra không hít vào được nữa,
chẳng biết sẽ đọa lạc vào đường
nào? Đời sau, đời kế, có phải là vẫn biết
tu hành hay không? Nếu đời sau, đời kế chẳng
biết tu hành, lại chẳng biết sẽ lưu chuyển
đến chỗ nào? Kinh Phật dạy: “Thân người khó được, Phật
pháp khó nghe”. Cổ nhân nói: “Thân này chẳng độ
đời này, mai sau sẽ độ biết trong đời
nào?” Thân người khó
được, đời này ta đă đạt được.
Phật pháp khó nghe, đời này ta đă được
nghe. Ta chẳng thể độ thoát tấm thân này trong
đời này, [vậy th́] phải đợi tới đời
nào th́ mới độ được? V́ thế, nếu
quư vị sợ hăi nỗi khổ sanh tử luân hồi,
ngoài việc tu pháp môn Tịnh Độ ra, chẳng có pháp
môn nào khác an toàn bằng pháp môn này, chẳng có pháp môn nào khác
đáng tin cậy hơn pháp môn này!
Quán
chúng sanh khổ, phát Bồ Đề tâm: Nếu quư vị
chẳng quan sát chúng sanh đang hứng chịu khổ năo,
cái tâm Bồ Đề chẳng thể phát khởi
được. Giả sử quư vị đă phát khởi cái tâm Bồ Đề, muốn
độ chúng sanh liễu sanh tử, ngoài cách tu theo pháp môn
Tịnh Độ ra, có thể độ chúng sanh bằng cách nào đây? Do vậy, quư vị muốn
tự ḿnh liễu sanh tử mà ĺa khỏi pháp môn Tịnh
Độ, sẽ chẳng dễ tu, chẳng dễ chứng.
Quư vị mong độ hết thảy chúng sanh liễu sanh
tử, mà ĺa khỏi pháp môn Tịnh Độ th́ cũng chẳng
dễ độ! Đấy là lư do v́ sao Thích Ca Mâu Ni Phật
phải mở ra pháp môn Tịnh Độ. Nhất là đến
thời đại Mạt Pháp, ĺa khỏi pháp môn Tịnh
Độ, sẽ chẳng có pháp môn thứ hai có thể giúp cho chúng ta độ chúng
sanh, liễu sanh tử.
(Luận)
Thị danh tam chủng tùy thuận Bồ Đề môn pháp
măn túc, ưng tri.
(論)是名三種隨順菩提門法滿足,應知。
(Luận:
Đấy gọi là ba thứ pháp trọn đủ tùy thuận
Bồ Đề môn, hăy nên biết).
Quư
vị tùy thuận ba thứ pháp môn Bồ Đề để
tu hành, trong tương lai sẽ có thể trọn đủ, hăy nên biết [như vậy].
Trên
đây là đoạn thứ bảy, nói về “thuận Bồ
Đề môn”. Đoạn thứ tám tiếp theo đây
là “danh nghĩa nhiếp đối” (名義攝對), [tức
là] dùng những danh nghĩa đă được nói trong phần
trước để so sánh với những nghĩa lư
được bao hàm trong ấy.
4.2.8. Danh nghĩa nhiếp
đối
(Luận)
Hướng thuyết trí huệ, từ bi, phương tiện
tam chủng môn, nhiếp thủ Bát Nhă, Bát Nhă nhiếp thủ
phương tiện, ưng tri.
(論)向說智慧、慈悲、方便三種門,攝取般若,般若攝取方便,應知。
(Luận:
Ba môn trí huệ, từ bi và phương tiện như
đă nói trên đây đă gồm thâu Bát Nhă, Bát Nhă gồm thâu phương tiện, hăy
nên biết [như thế]).
“Hướng
thuyết trí huệ, từ bi, phương tiện tam chủng
môn, nhiếp thủ Bát Nhă, Bát Nhă nhiếp thủ
phương tiện, ưng tri” (Ba môn trí huệ, từ
bi và phương tiện như đă nói trên đây đă bao gồm Bát Nhă, Bát Nhă gồm thâu phương tiện, hăy nên biết):
Trí huệ, từ bi, và phương tiện như đă nói
trong phần trên, ba môn ấy gồm thâu Bát Nhă. Bát Nhă là trí huệ. Trí huệ Bát Nhă lại
gồm thâu phương tiện.
Văn tự rất thông thuận, nhưng có một vấn
đề: Bát Nhă trong phần sau [của đoạn văn
trên đây] cũng là trí huệ, [vậy th́] có ǵ khác với
trí huệ trong phần trên [của đoạn văn ấy]?
Trí huệ môn, từ bi môn, và phương tiện
môn như đă nói trong phần
trên đều
là các pháp môn tùy thuận, tức là tùy thuận Thật
Tướng Lư Thể để tu hành, chẳng trái nghịch
pháp môn Bồ Đề. Chữ Bát Nhă trong phần sau [của
đoạn văn trên đây] giữ nguyên âm tiếng Phạn, chẳng dịch thành “trí huệ”, tức
là cách nêu bày đặc biệt. Chữ Bát Nhă trong phần sau
[của đoạn văn trên đây] chính là Căn Bản
Trí do đức Phật đă chứng đắc, c̣n gọi
là Thật Trí, tức trí huệ chân thật.
Lại
nữa, chữ “phương tiện” trong phần trước
và “phương tiện” trong phần sau có ǵ khác biệt?
Chữ “phương tiện” trong phần trước
là nói tùy thuận theo pháp môn Bồ Đề. Chữ “phương
tiện” trong phần sau là chứng
đắc trí huệ Bát Nhă căn bản, khởi lên trí huệ
phương tiện quyền xảo; phương tiện là diệu dụng để
độ chúng sanh. Đấy là phương tiện sau khi
đă đắc trí huệ Bát Nhă, gọi là Quyền Trí, c̣n
gọi là Hậu Đắc Trí; tức là quư vị trước
hết phát tâm, nương theo trí huệ của Phật
để quan sát, gọi là “tùy thuận trí huệ”.
Nương vào ḷng từ bi của Phật để dấy
ḷng từ bi th́ gọi là “tùy thuận từ bi”. Nương
vào phương tiện của Phật để dấy
lên phương tiện th́ gọi là Quyền Trí,
c̣n gọi là Hậu Đắc Trí. Tức là trước hết
quư vị phát tâm, nương vào trí huệ của Phật
để quan sát, gọi là “tùy thuận trí huệ”;
nương vào ḷng từ bi của Phật để dấy
ḷng từ bi th́ gọi là “tùy thuận từ bi”. Nương
theo phương tiện của Phật để khởi phương
tiện th́ gọi là “tùy thuận phương tiện”.
Ba thứ pháp môn tùy thuận này đều tu thành công, chứng
đắc Căn Bản Trí của Phật, sẽ dấy lên
Hậu Đắc Trí có phương tiện quyền xảo.
(Luận)
Hướng thuyết viễn ly ngă tâm bất tham trước
tự thân, viễn ly vô an chúng sanh tâm, viễn ly cúng dường,
cung kính tự thân tâm. Thử tam chủng pháp viễn ly
chướng Bồ Đề tâm, ưng tri.
(論)向說遠離我心不貪著自身,遠離無安眾生心,遠離供養恭敬自身心。此三種法,遠離障菩提心,應知。
(Luận:
Trên đây đă nói “xa ĺa cái tâm chấp Ngă, chẳng tham
đắm bản thân, xa ĺa cái tâm chẳng an ổn chúng
sanh, xa ĺa cái tâm cúng dường, cung kính bản thân”, ba pháp ấy
sẽ xa ĺa những thứ ngăn chướng Bồ
Đề tâm, hăy nên biết [như thế]).
“Hướng
thuyết viễn ly ngă tâm bất tham trước tự
thân”, [ư nói] trong phần trước đă nói hăy xa ĺa Ngă
Kiến, đừng nên tham lam chấp trước sự
vui sướng của bản thân. “Viễn ly vô an chúng
sanh tâm”, [nghĩa là] phải dẹp hết thảy nỗi
khổ cho chúng sanh, xa ĺa cái tâm chẳng giúp cho chúng sanh
được an vui. “Viễn ly cúng dường cung kính
tự thân tâm”: Đừng nên cúng dường thân thể
của chính ḿnh, đừng nên cầu chính ḿnh được
cung kính. “Thử tam chủng pháp, viễn ly chướng Bồ
Đề tâm, ưng tri” [nghĩa là] hăy nên biết ba loại
pháp ấy chướng ngại Bồ Đề tâm, cần
phải xa ĺa! V́ sao phải xa ĺa ba loại pháp ấy? V́ đối
với ba pháp ấy, hễ quư vị chấp trước,
sẽ h́nh thành chướng ngại. Quư
vị chấp trước một pháp là một chướng
ngại. Quư vị chấp trước hai pháp, sẽ là hai
chướng ngại. Quư vị chấp trước ba pháp,
sẽ là ba chướng ngại. Quư vị hằng ngày nói “phải phát Bồ Đề tâm, hành Bồ
Tát đạo”, kết quả là bị
ba loại pháp ấy ngăn chướng, nhất định
phải xa ĺa chúng!
(Luận)
Hướng thuyết vô nhiễm thanh tịnh tâm, an thanh tịnh
tâm, lạc thanh tịnh tâm, thử tam chủng tâm, lược
nhất xứ thành tựu diệu lạc thắng chân tâm,
ưng tri.
(論)向說無染清淨心,安清淨心,樂清淨心。此三種心,略一處成就妙樂勝真心,應知。
(Luận:
Tâm vô nhiễm thanh tịnh, tâm an thanh tịnh, tâm lạc
thanh tịnh như vừa nói trên đây, đối với
ba thứ tâm ấy, nói đại lược th́ đều
quy vào một chỗ thành tựu chính là chân tâm thù thắng
diệu lạc, hăy nên biết [như thế]).
“Hướng
thuyết vô nhiễm thanh tịnh tâm” (Cái tâm vô nhiễm thanh tịnh như đă
nói trên đây): Trong phần trên đă nói đến cái tâm chẳng
tham cầu sự vui sướng cho bản thân, tức là sanh khởi cái tâm thanh tịnh
vô nhiễm. “An thanh tịnh tâm” là phải phát tâm dẹp
khổ cho hết thảy chúng sanh. “Lạc thanh tịnh
tâm” là có thể làm cho hết thảy chúng sanh đắc
đại Bồ Đề, đều sanh về cơi An Lạc.
“Thử
tam chủng tâm, lược nhất xứ thành tựu diệu
lạc thắng chân tâm, ưng tri” [nghĩa là] ba loại
tâm ấy, nói giản lược bèn quy nạp vào một chỗ,
chính là cái tâm tùy thuận Bồ Đề; nói gộp lại th́ sẽ là “diệu lạc
thắng chân tâm”. Thấy chúng sanh khổ sở, có thể
dẹp khổ cho chúng sanh, đưa chúng sanh về cơi Tây
Phương An Lạc, thấy chúng sanh đắc đại
Bồ Đề, chẳng phải là đạt được
niềm vui sướng thế gian, mà là pháp lạc
chẳng thể nghĩ bàn; cho nên gọi là “diệu lạc”.
“Thắng” (勝) là rất thù thắng, thù thắng như thế
nào? Sự thù thắng vượt trỗi tam giới, cho nên
là niềm vui thù thắng, chân thật, chẳng hư ngụy.
Gộp chung ba thứ tâm tùy thuận pháp môn Bồ Đề
lại, sẽ là pháp lạc thù thắng và chân thật của
Bồ Tát.
Trong
phần trên đă nói, nay có thể chứng nghiệm: Niềm
vui ngũ dục trong thế gian chẳng lâu dài, chẳng thường
hằng. Đă vậy, lạc là cái nhân gây ra khổ. V́ sao người
ta muốn uống rượu, ăn thịt? Do tham cầu
vui sướng. Quư vị uống rượu, ăn thịt,
hưởng thụ sự vui sướng ngắn ngủi,
tạm bợ. Cho tới khi quư vị ăn no, uống say,
thân thể có ǵ vui sướng? Lạc chẳng lâu dài, chẳng thường hằng. Lạc
là cái nhân gây nên khổ năo. Đối với niềm vui
ngũ dục trong thế gian, quư vị cứ như thế
mà suy đoán, [sẽ thấy nó] chẳng thù thắng, chẳng
chân thật. Nhưng niềm vui Phật pháp tức là độ
chúng sanh đắc đại Bồ Đề, chính là
[niềm vui] thù thắng, chân thật. Giả sử có một
chúng sanh chẳng tin tưởng Phật giáo, quư vị
khuyên dạy kẻ ấy tin tưởng Phật giáo, quư vị
sẽ ngay lập tức hưởng thụ một niềm
vui sướng. Sự vui sướng ấy rất thường
hằng, lâu dài, lại c̣n chẳng phải là cái nhân sanh ra sự
khổ. Nếu quư vị độ kẻ ấy, [khiến
cho kẻ ấy] hiểu những điều tốt đẹp
của Phật pháp, trong tương lai, [kẻ ấy] sẽ
chuyển pháp luân rộng lớn, sẽ giúp đỡ Phật giáo rất lớn, lại
c̣n tiếp dẫn rất nhiều chúng sanh, quư vị sẽ
càng vui sướng hơn! Giả sử quư vị độ
một người, tới khi lâm chung, [kẻ ấy] biết
trước lúc mất, biết ngày nào sẽ về Tây
Phương, lại c̣n tự ḿnh nói cho quư vị biết.
Tới khi đó, quư vị đến tiễn kẻ đó
văng sanh, thấy kẻ đó an tường niệm Phật
ra đi; sự vui sướng ấy
chẳng thể dùng bút mực để có thể h́nh dung được! Khi đó, quư vị bèn tin
tưởng niềm vui Phật pháp là thù thắng, chân thật,
mọi niềm vui ngũ dục đều chẳng sánh bằng!
Kế
đó là nói về đoạn thứ chín, tức “nguyện
sự thành tựu” (願事成就), [nghĩa là] những ǵ quư vị đă phát
nguyện và hết thảy sự tướng đă tu
đều có thể thành tựu.
4.2.9. Nguyện sự
thành tựu
(Luận)
Như thị Bồ Tát trí huệ tâm, phương tiện
tâm, vô chướng tâm, thắng chân tâm, năng sanh thanh tịnh
Phật quốc độ, ưng tri.
(論)如是菩薩智慧心、方便心、無障心、勝真心,能生清淨佛國土,應知。
(Luận: Hăy nên biết Bồ Tát
có tâm trí huệ, tâm phương tiện, tâm vô chướng,
chân tâm thù thắng, có thể sanh về cơi
nước thanh tịnh của Phật như vậy).
“Như
thị Bồ Tát trí huệ tâm, phương tiện tâm, vô
chướng tâm, thắng chân tâm” (Bồ Tát có tâm trí huệ,
tâm phương tiện, tâm vô chướng, chân tâm thù thắng
như vậy): Quư vị là hàng Bồ Tát phát những cái tâm
ấy, có thể sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới như thế nào? Quư vị có trí huệ
tâm, phương tiện tâm, vô chướng tâm, chân tâm thù thắng,
bốn cái tâm ấy đă khiến cho tâm từ bi bao gồm
tâm
phương tiện. “Năng sanh thanh tịnh Phật quốc
độ, ưng tri” (Có thể
sanh về cơi nước Phật thanh tịnh, hăy nên biết):
Quư vị có bốn loại tâm ấy, sẽ tương ứng
với bổn nguyện của A Di Đà Phật, tự
nhiên Phật sẽ đến tiếp dẫn quư vị sanh
về Tây Phương.
(Luận)
Thị danh Bồ Tát Ma Ha Tát tùy thuận ngũ chủng pháp
môn, sở tác tùy ư tự tại thành tựu. Như hướng
sở thuyết thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp,
trí nghiệp, phương tiện trí nghiệp, tùy thuận
pháp môn cố.
(論)是名菩薩摩訶薩隨順五種法門,所作隨意自在成就。如向所說身業、口業、意業、智業、方便智業,隨順法門故。
(Luận:
Đó gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát tùy thuận năm thứ
pháp môn, những ǵ đă làm đều tùy ư tự tại
thành tựu. Thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp,
trí nghiệp, phương tiện trí nghiệp như đă
nói trên đây đều tùy thuận pháp môn).
“Thị
danh Bồ Tát Ma Ha Tát tùy thuận ngũ chủng pháp môn” (Đó
gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát tùy thuận năm thứ pháp
môn): Ma Ha dịch sang tiếng Hán là Đại, [Ma Ha Tát là
Đại Bồ Tát]. Một vị đại Bồ Tát
tùy thuận năm thứ pháp môn như đă nói trên đây,
“sở tác tùy ư tự tại thành tựu” (những việc
đă làm sẽ tùy ư tự tại thành tựu). Bốn môn
trước gọi là “nhập môn” (入門), [tức là các hạnh môn
để] tiến nhập pháp môn Tịnh Độ. Môn sau
cùng gọi là “xuất môn” (出門), [tức là] phát ra ḷng từ bi độ hết
thảy chúng sanh. Tu hành tốt đẹp năm loại
pháp môn ấy, sẽ có thể thuận theo ư của quư vị,
tự tại vô ngại, sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới.
“Như
hướng sở thuyết thân nghiệp, khẩu nghiệp,
ư nghiệp, trí nghiệp, phương tiện trí nghiệp,
tùy thuận pháp môn cố” (Thân nghiệp,
khẩu nghiệp, ư nghiệp, trí nghiệp, phương tiện
trí nghiệp như đă nói trên đây đều tùy thuận
pháp môn): Năm thứ pháp môn như đă nói trên đây:
-
Thân nghiệp là Lễ Bái Môn, lễ bái A Di Đà Phật.
-
Khẩu nghiệp là Tán Thán Môn, tán thán công đức của
A Di Đà Phật.
-
Ư nghiệp là Tác Nguyện Môn, phát nguyện độ chúng
sanh cùng sanh về Tây Phương.
-
Trí nghiệp là Quan Sát Môn, quan sát y báo và chánh báo trang nghiêm của
Tây Phương Cực Lạc thế giới.
-
Phương tiện trí nghiệp là Hồi Hướng Môn.
Năm
loại nghiệp ấy đều nhằm tùy thuận pháp
môn văng sanh Tịnh Độ.
Đoạn
thứ mười kế đó chính là “lợi hành măn túc” (利行滿足), [tức là] tự lợi và lợi tha
đều có thể viên măn trọn đủ.
4.2.10. Lợi hành măn túc
(Luận)
Phục hữu ngũ chủng môn, tiệm thứ thành tựu
ngũ chủng công đức, ưng tri. Hà giả ngũ
môn? Nhất giả cận môn, nhị giả đại hội
chúng môn, tam giả trạch môn, tứ giả ốc môn,
ngũ giả viên lâm du hư địa môn. Thử ngũ chủng
môn, sơ tứ chủng môn, thành tựu nhập công đức;
đệ ngũ môn, thành tựu xuất công đức.
(論)復有五種門,漸次成就五種功德,應知。何者五門?一者近門,二者大會眾門,三者宅門,四者屋門,五者園林遊戲地門。此五種門,初四種門,成就入功德;第五門,成就出功德。
(Luận:
Lại có năm loại môn, theo thứ tự mà dần dần thành tựu năm loại
công đức, hăy nên biết. Những ǵ là năm môn? Một
là cận môn, hai là đại hội chúng môn, ba là trạch
môn, bốn là ốc môn, năm là viên lâm du hư địa môn. Trong
năm loại môn ấy, bốn môn đầu thành tựu
“nhập công đức”, môn thứ năm thành tựu “xuất
công đức”).
“Phục
hữu ngũ chủng môn, tiệm thứ thành tựu
ngũ chủng công đức, ưng tri” [nghĩa là] lại có năm thứ môn có thể tùy thuận
năm loại công đức ấy, [hành giả] đáng nên biết! “Hà
giả ngũ môn?”: Năm thứ môn nào vậy?
“Nhất giả, cận môn”: Môn gần với Bồ
Đề đạo. “Nhị giả, đại hội chúng môn”: Môn có thể dự vào
hàng ngũ các vị Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ
Tát. “Tam giả, trạch môn”: Tiến vào cửa chính
của Phật. “Tứ giả, ốc môn”: Đăng
đường nhập thất, vào trong nhà Phật. “Ngũ
giả, viên lâm du hư địa môn”: Ra khỏi cửa nhà,
vào vui chơi trong vườn rừng, đến độ
chúng sanh. “Thử ngũ chủng môn, sơ tứ chủng
môn, thành tựu nhập công đức”: Trong năm thứ
môn trên đây, bốn thứ môn đầu là “nhập Bồ
Đề môn”, tức là nhập Tịnh Độ môn. “Đệ
ngũ môn, thành tựu xuất công đức”: Môn thứ
năm là xuất Bồ Đề môn, quay lại thế giới
Sa Bà ḥng độ chúng sanh.
(Luận)
Nhập đệ nhất môn giả, dĩ lễ bái A Di
Đà Phật vị sanh bỉ quốc cố, đắc
sanh An Lạc thế giới, thị danh nhập đệ
nhất môn.
(論)入第一門者,以禮拜阿彌陀佛為生彼國故,得生安樂世界,是名入第一門。
(Luận:
Môn thứ nhất để nhập chính là dùng lễ bái A
Di Đà Phật ḥng sanh về cơi ấy,
được sanh về thế giới An Lạc th́ gọi
là “môn thứ nhất để nhập”).
“Nhập
đệ nhất môn giả”: Môn thứ nhất để
nhập là “cận môn” (近門), [tức là] gần với Bồ Đề
đạo. Gần Bồ Đề đạo bằng cách
nào? “Dĩ lễ bái A Di Đà Phật vị sanh bỉ quốc
cố, đắc sanh An Lạc thế giới, thị danh
nhập đệ nhất môn” [ư nói] quư vị mong tiến
nhập Bồ Đề môn, trước hết, hăy cung
kính lễ bái A Di Đà Phật ḥng có thể
sanh thế giới An Lạc. V́ thế, gọi là “nhập
đệ nhất môn”.
(Luận)
Nhập đệ nhị môn giả, dĩ tán thán A Di Đà
Phật, tùy thuận danh nghĩa xưng Như Lai danh, y
Như Lai quang minh trí tướng tu hành cố, đắc
nhập đại hội chúng số, thị danh nhập
đệ nhị môn.
(論)入第二門者,以讚歎阿彌陀佛,隨順名義稱如來名,依如來光明智相修行故,得入大會眾數,是名入第二門。
(Luận: Môn thứ hai để
nhập là do tán thán A Di Đà Phật, tùy thuận danh
nghĩa mà xưng tụng danh hiệu Như Lai,
nương theo quang minh trí tướng của Như Lai
để tu hành, bèn được dự vào đại chúng
trong đại hội, th́ gọi là “nhập đệ nhị
môn”).
“Nhập
đệ nhị môn giả”: Môn thứ hai để nhập
ḥng trở thành một phần tử của Thanh Tịnh
Đại Hải Chúng Bồ Tát. Làm thế nào để có
thể trở thành [một phần tử của] Thanh Tịnh
Đại Hải Chúng Bồ Tát? “Dĩ tán thán A Di Đà
Phật”: V́ tán thán công đức của A Di Đà Phật.
“Tùy thuận danh nghĩa xưng Như Lai danh” (Tùy thuận danh nghĩa mà xưng tụng
danh hiệu Như Lai): Hăy chú ư bốn chữ “xưng
Như Lai danh”, đấy chính là pháp môn Niệm Phật.
“Quan sát” được nói trong phần trước
chính là quán tưởng, quán niệm. “Xưng Như Lai
danh” ở đây chính
là niệm
danh hiệu Phật, tức Tŕ Danh Niệm Phật: “Nam-mô
A Di Đà Phật, nam-mô A Di Đà Phật”… “Xưng” (稱) là dùng miệng để
đọc ra, “niệm” (念) là dùng tâm để nghĩ tới. “Y Như
Lai quang minh trí tướng tu hành cố” (Do nương theo trí tướng quang
minh của Như Lai để tu hành): Quư vị niệm
danh hiệu Phật c̣n phải nương vào tướng
quang minh trí huệ của Như Lai để tu hành. “Đắc
nhập đại hội chúng số, thị danh nhập đệ
nhị môn” [nghĩa là] quư vị xưng danh hiệu của
Như Lai, nương theo tướng quang minh trí huệ của
Như Lai để tu hành, có thể trở thành một phần
tử của Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.
V́ thế gọi là “nhập đệ nhị môn” (môn thứ hai để nhập).
(Luận)
Nhập đệ tam môn giả, dĩ nhất tâm chuyên niệm
tác nguyện sanh bỉ, tu Xa-ma-tha tịch tĩnh tam-muội
hạnh cố, đắc nhập Liên Hoa Tạng thế giới,
thị danh nhập đệ tam môn.
(論)入第三門者,以一心專念作願生彼,修奢摩他寂靜三昧行故,得入蓮華藏世界,是名入第三門。
(Luận:
Môn thứ ba để nhập là do nhất tâm chuyên niệm,
phát nguyện sanh về cơi ấy, tu hạnh Xa-ma-tha tịch
tĩnh tam-muội, được vào trong thế giới
Liên Hoa Tạng, đó gọi là môn thứ ba để nhập).
“Nhập
đệ tam môn giả”: Môn thứ ba để nhập
chính là Tác Nguyện Môn. “Dĩ nhất tâm chuyên niệm tác
nguyện sanh bỉ” (Dùng nhất
tâm chuyên niệm, phát nguyện sanh về cơi ấy): Nhất
tâm chẳng có hai ư, tức là [một ḷng một dạ] nguyện mong sanh về Tây
Phương An Lạc thế giới. “Tu Xa-ma-tha tịch
tĩnh tam-muội hạnh cố” (Do tu hạnh Xa-ma-tha tịch tĩnh tam-muội):
Xa-ma-tha dịch sang tiếng Hán là Chỉ, tức là ngưng
dứt hết thảy các điều ác. Tam-muội dịch
là Chánh Định, tức là nhất tâm, chẳng có hai niệm,
tu pháp môn nhập Định. “Đắc nhập Liên Hoa
Tạng thế giới”: Được sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới.
“Thị danh nhập đệ tam môn”: V́ thế, gọi
là “môn thứ ba để nhập”.
(Luận)
Nhập đệ tứ môn giả, dĩ chuyên niệm quan
sát bỉ diệu trang nghiêm, tu Tỳ-bà-xá-na cố, đắc
đáo bỉ xứ, thọ dụng chủng chủng pháp vị
lạc, thị danh nhập đệ tứ môn.
(論)入第四門者,以專念觀察彼妙莊嚴,修毗婆舍那故,得到彼處,受用種種法味樂,是名入第四門。
(Luận:
Môn thứ tư để nhập là do chuyên niệm, quan
sát sự trang nghiêm mầu nhiệm trong cơi ấy, tu Quán,
đến được chỗ ấy, thọ dụng
các thứ niềm vui pháp vị, th́ gọi là “môn thứ
tư để nhập”).
“Nhập
đệ tứ môn giả, dĩ chuyên niệm quan sát bỉ
diệu trang nghiêm, tu Tỳ-bà-xá-na cố” (Môn thứ tư
để nhập là do chuyên niệm, quan sát sự trang nghiêm
mầu nhiệm trong cơi ấy mà tu
Quán): “Tỳ-bà-xá-na” dịch sang tiếng Hán là Quán. Phải
chuyên niệm quan sát sự
trang nghiêm nơi y báo và chánh báo của Tây Phương Cực Lạc
thế giới. “Đắc đáo bỉ xứ, thọ
dụng chủng chủng pháp vị lạc” (Đến được chốn ấy, thọ
dụng các thứ niềm vui pháp vị): Quư vị đă quan sát tường tận, sẽ sanh về
Tây Phương, hưởng thụ các thứ niềm vui
pháp vị. “Thị danh nhập đệ tứ môn”:
V́ thế gọi là môn thứ tư để nhập.
(Luận)
Xuất đệ ngũ môn giả, dĩ đại từ
bi, quan sát nhất thiết khổ năo chúng sanh, thị Ứng
Hóa Thân, hồi nhập sanh tử viên phiền năo lâm trung, du
hư thần thông, chí giáo hóa địa, dĩ bổn nguyện
lực hồi hướng cố, thị danh xuất đệ
ngũ môn.
(論)出第五門者,以大慈悲,觀察一切苦惱眾生,示應化身,迴入生死園煩惱林中,遊戲神通,至教化地,以本願力迴向故,是名出第五門。
(Luận:
Môn thứ năm để Xuất: Do đại từ bi,
quan sát hết thảy chúng sanh khổ năo, thị hiện Ứng
Hóa Thân, trở vào vườn sanh tử, rừng phiền
năo mà du hư thần thông, đạt tới chỗ giáo hóa,
dùng sức bổn nguyện để hồi hướng,
th́ gọi là môn thứ năm để xuất).
“Xuất
đệ ngũ môn giả” (Môn thứ
năm để xuất): Bốn môn trước được
gọi là Nhập, tiến nhập Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Lại từ Tây Phương Cực Lạc
thế giới trở ra th́ gọi là “thừa nguyện
tái lai”. V́ sao sanh về Tây Phương? Chẳng v́ chính
ḿnh cầu pháp lạc, mà v́ hết thảy chúng sanh cầu
pháp lạc. Sau khi đă đắc pháp lạc, “dĩ
đại từ bi, quan sát nhất thiết khổ năo chúng
sanh” (do ḷng đại từ bi, quan sát hết thảy
chúng sanh khổ năo): Thoạt đầu đă phát tâm đại
từ bi, nguyện ban vui cho hết thảy chúng sanh, dẹp
khổ cho hết thảy chúng sanh, th́ mới sanh về Tây
Phương. Sau khi đă sanh về Tây Phương, đạt
được pháp lạc, lại do tâm đại từ
bi mà quan sát hết thảy chúng sanh khổ năo đang chịu
khổ trong biển khổ. Do vậy, bèn từ Tây
Phương Cực Lạc thế giới, quay lại thế
giới Sa Bà. “Thị Ứng Hóa Thân”: Thị hiện
thân Ứng Hóa. Chúng sanh đáng nên do thân ǵ mà đắc
độ, [Bồ Tát] bèn ứng hóa thân ấy, giống
như phẩm Phổ Môn của Quán Thế Âm Bồ Tát. “Hồi
nhập sanh tử viên” (Trở
vào vườn sanh tử): Chúng sanh trong thế giới Sa Bà
đều đang lưu chuyển trong sanh
tử; cho nên thế giới Sa Bà được gọi là “sanh
tử viên” (vườn sanh tử). “Phiền năo lâm
trung” (Trong rừng phiền năo):
Phiền năo của chúng sanh rất nhiều, giống
như rừng cây, nên gọi là “phiền năo lâm”.
“Du
hư thần thông”: Sau khi quư vị đắc pháp lạc,
đă có thần thông, lại đi trong vườn sanh tử,
rừng phiền năo, chẳng bị phiền năo ô nhiễm.
“Chí giáo hóa địa” (Đến
chỗ giáo hóa): Quư vị đều độ hết thảy
chúng sanh ra khỏi vườn sanh tử, [thoát khỏi] rừng phiền năo.
Đạt đến chỗ Phật giáo hóa, tức là sanh
về Tây Phương. “Dĩ bổn nguyện lực hồi
hướng cố” (Do dùng
nguyện lực của chính ḿnh để hồi hướng):
V́ sao quư vị đă sanh về Tây Phương mà c̣n muốn
quay về? V́ quư vị phát nguyện “nguyện độ
chúng sanh đều sanh về Tây Phương”; do vậy, quư
vị nhất định phải nương theo sức bổn
nguyện, hồi hướng hết thảy chúng sanh đều
thành Phật. “Thị danh xuất đệ ngũ môn”:
Trở lại thế giới Sa Bà để hóa độ
hết thảy chúng sanh, cho nên gọi là “môn thứ
năm để xuất”.
(Luận)
Bồ Tát nhập tứ chủng môn, tự lợi hạnh
thành tựu, ưng tri.
(論)菩薩入四種門,自利行成就,應知。
(Luận:
Bốn loại môn Nhập
của Bồ Tát nhằm thành tựu hạnh tự lợi,
hăy nên biết).
Bốn
môn trước được gọi là “nhập môn”.
Bồ Tát nhập bốn môn ấy th́ chính ḿnh đạt
được lợi ích, tức là hạnh môn tự lợi
đă viên măn đầy đủ, hăy nên biết [như vậy].
(Luận)
Bồ Tát xuất đệ ngũ môn, hồi hướng
lợi ích tha hạnh thành tựu, ưng tri.
(論)菩薩出第五門,迴向利益他行成就,應知。
(Luận:
Môn thứ năm của Bồ Tát là Xuất nhằm thành tựu hạnh hồi hướng lợi ích
người khác, hăy nên biết).
Bồ
Tát thoạt đầu bèn phát tâm, hồi hướng hết
thảy công đức tu hành cho chúng sanh. Nay đă sanh vào Tây
Phương, lại quay về, nương vào công đức
hồi hướng mà lợi ích hết thảy chúng sanh.
Đấy là hạnh môn lợi ích người khác cũng
viên măn trọn đủ, hăy nên biết.
(Luận)
Bồ Tát như thị tu ngũ môn hạnh, tự lợi,
lợi tha, tốc đắc thành tựu A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề cố.
(論)菩薩如是修五門行,自利利他,速得成就阿耨多羅三藐三菩提故。
(Luận:
Bồ Tát tu năm hạnh môn như vậy, tự lợi,
lợi người khác, mau chóng thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).
“Bồ
Tát như thị tu ngũ môn hạnh, tự lợi lợi
tha” (Bồ Tát tu năm hạnh môn tự lợi và lợi
tha như thế): Bốn môn đầu là tự lợi, một
môn sau cùng là lợi tha. “Tốc đắc thành tựu A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cố” (Mau chóng thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác): Bồ Tát có thể thành Phật rất nhanh chóng.
Tiếng Phạn A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề dịch sang tiếng Hán là “Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác”. Đấy là quả vị Phật.
Phật chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, tức là thành Phật.
Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là ǵ? Chánh Giác là giác ngộ
chân chánh. Phàm phu coi trọng dâm dục, mê mà chẳng giác. Ngoại
đạo là kẻ cầu đạo ngoài tâm, tuy chánh
nhưng chẳng giác. Do vậy, Chánh Giác vượt trỗi
hàng phàm phu, ngoại đạo, vượt trỗi lục
đạo. Chánh Đẳng là b́nh đẳng. Hàng Nhị
Thừa là Chánh Giác, nhưng chẳng phải là Chánh Đẳng,
v́ họ chỉ có thể tự lợi, chẳng thể lợi
ích người khác. Do đó, Chánh Đẳng Chánh Giác vượt
trỗi hàng Nhị Thừa. Bồ Tát có thể tự lợi,
cũng có thể lợi tha, có thể gọi là Chánh Đẳng
Chánh Giác, nhưng chẳng thể gọi là Vô Thượng.
V́ [so theo từng địa vị], Bồ Tát lại có [mức
độ] Chánh Đẳng Chánh Giác cao hơn nữa, [chẳng
hạn như] trên Sơ Địa c̣n có Nhị Địa,
cho đến Thập Địa Bồ Tát th́ trên đó c̣n
có Đẳng Giác Bồ Tát. Trên Đẳng Giác Bồ Tát
c̣n có Phật. Đến khi thành Phật th́ chẳng c̣n có
ǵ cao hơn nữa; cho nên Phật được gọi là
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Năm
thứ hạnh môn của Bồ Tát, bốn thứ hạnh
môn thuộc về tự lợi được xếp ra
trước, hạnh môn lợi tha được xếp
đằng sau, nhưng phát nguyện chẳng giống nhau.
Bồ Tát phát nguyện nhằm lợi ích chúng sanh, v́ ban vui cho
hết thảy chúng sanh, v́ dẹp khổ cho hết thảy
chúng sanh, nương theo nguyện ấy để dụng
công tu hành. Bốn thứ lợi ích trước đó là do
cứu độ chúng sanh mà đạt được. V́
thế, đă đạt được bốn thứ lợi
ích, nhất định phải trở về thế giới
Sa Bà độ chúng sanh. Nếu không, sẽ chẳng măn Bồ
Đề nguyện!
Bồ
Tát phát nguyện là v́ muốn độ hết thảy chúng
sanh thành Phật, chẳng mong chính
ḿnh sẽ thành Phật trước! Để độ hết
thảy chúng sanh thành Phật, sao không làm cho chính ḿnh thành Phật
trước? Đây là pháp môn Đại Thừa, quư vị
sanh về Tây Phương, chẳng phải nhằm để
chính ḿnh liễu sanh tử, mà do v́ độ chúng sanh nên sanh
về Tây Phương. Sanh về Tây Phương, bốn loại
pháp môn quư vị đều thành tựu viên măn, đạt
được tự lợi, lại trở về độ
chúng sanh, lại đạt được công đức lợi
tha. V́ thế, chúng sanh thành Phật sau quư vị, bản thân
quư vị đă thành Phật trước.
Cổ
nhân có một tỷ dụ, phiền năo của chúng sanh giống
như củi nhóm ḷ, Bồ Tát đoạn phiền năo thành
Phật giống que cời lửa. Thuở xưa, đốt
củi nấu cơm, Bồ Tát dùng cái que cời lửa
để gạt lửa ḥng muốn cho củi sẽ cháy hết, chẳng biết là gạt
tới, gạt lui [bao nhiêu lượt], đốt rụi luôn cái que cời lửa của chính ḿnh. Bồ
Tát vốn chẳng nghĩ chính ḿnh sẽ thành Phật
trước, nhưng rồi lại thành Phật trước.
Lấy
chuyện giảng kinh, thuyết pháp làm tỷ dụ, ví
như chúng ta thấy đệ tử Phật giáo đều
chú trọng tu hành, chẳng chú trọng hiểu lư. Kết
quả là Phật giáo suy vi, v́ đệ tử Phật giáo
trọn chẳng hiểu rơ Phật lư. Đấy là sự
sai lầm to lớn. Thứ tự học Phật là tín, giải,
hành, chứng; giải trước, hành sau. Tu hành mà chẳng
hiểu rơ Phật lư th́ chính là tu mù luyện đui, đi
sai đường mà vẫn chẳng biết.
Quư vị phát tâm giảng kinh cho mọi người nghe, chính
ḿnh trước đó phải nghiên cứu với mục
đích là để giảng cho mọi người nghe. Kết
quả là quư vị thông hiểu Phật lư trước, lợi
ích người khác là chuyện sau đó. V́ thế, Đại
Thừa Phật pháp coi lợi tha là tự lợi.
* Giải trừ nghi hoặc
Hỏi:
Ta phát tâm nghiên cứu Phật pháp là được rồi,
cần ǵ phải phát nguyện giảng cho mọi người
nghe rồi mới nghiên cứu kinh Phật, coi lợi tha là
tự lợi ư?
Đáp:
Nếu quư vị chẳng phát nguyện giảng cho mọi
người nghe, quư vị sẽ chẳng nghiên cứu thấu
triệt Phật lư. Hiện thời, rất nhiều đệ
tử Phật thích nghiên cứu Phật lư, bảo họ giảng
cho đại chúng nghe, họ chẳng thể kiên nhẫn.
Đấy là chính là v́ lúc ban đầu đă chẳng phát
nguyện Bồ Đề. Quư vị thấy trời nóng gắt,
quư vị ngồi ở dưới [cảm thấy] nóng nực,
chẳng biết tôi giảng kinh càng nóng hơn nữa, v́
tôi giảng kinh phải xốc lên tinh thần. Nếu tôi giảng
mà chẳng xốc lên tinh thần, quư vị sẽ đều
ngủ gục hết. Tôi xốc dậy tinh thần, cho nên
tôi đổ mồ hôi nhiều hơn quư vị. V́ sao toát mồ
hôi nhiều quá mà vẫn có thể tiếp tục giảng?
Do nguyện lực duy tŕ! Bởi lẽ, thoạt đầu
muốn làm lợi cho người khác, cho nên mới nghiên cứu
Phật lư. Nghiên cứu đă thông hiểu mà chẳng giảng
cho người khác nghe, chính ḿnh sẽ chẳng được
an lạc.
V́
sao tôi phải giảng Văng Sanh Luận? Là v́ muốn cho quư vị
tăng thêm tín tâm. Đă có tín tâm, quư vị sẽ dấy lên
giải. Đă hiểu Văng Sanh Luận, lại xem ba kinh Tịnh
Độ, tức kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô
Lượng Thọ, và kinh A Di Đà. Quư vị chẳng có
năng lực, không sao cả! Trước hết, hăy xem
kinh văn một lượt, trong tương lai, gặp
người khác giảng giải, nhất định là quư
vị sẽ dễ thấu hiểu, v́ quư vị đă từng
xem kinh văn rồi! Lăo pháp sư Ấn Quang đề
xướng Tịnh Độ Ngũ Kinh, [tức là] ngoài
ba kinh trên đây, c̣n thêm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm
và Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông
Chương, hăy đều nên nghiên cứu.
Đă
có tín tâm, đă có sự thông hiểu, phải phát tâm tu hành,
phải chú trọng niệm Phật, nhưng phải phát Bồ
Đề tâm, v́ độ hết thảy chúng sanh liễu
sanh tử mà sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Hiện thời, hăy tùy phận tùy sức giáo hóa hết
thảy chúng sanh, mọi người niệm Phật cùng
sanh về Tây Phương. Sanh về Tây Phương, chứng
Vô Sanh Pháp Nhẫn, chính ḿnh đạt được công
phu Vô Sanh, rồi lại trở
vào thế giới Sa Bà để độ hết thảy
chúng sanh.
Văng Sanh Luận giảng đến
đây đă xong!
Vô
Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá
Nguyện
Sanh Kệ Giảng Kư hết