Vô Lượng
Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá
Chú Giải
Giảng Nghĩa
phần
5
無量壽經優婆提舍註解講義
Ấn Độ
Thế Thân Bồ Tát tạo luận
印度世親菩薩造論
Nguyên Ngụy
Thiên Trúc Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi dịch luận
元魏天竺三藏菩提流支譯論
Nguyên Ngụy
Huyền Trung Tự sa-môn Đàm Loan chú giải
元魏玄中寺
Dân Quốc
Tịnh Luật Tự sa-môn Tánh Phạm giảng nghĩa
民國淨律寺 門性梵講義
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
2.2.1.2.3.1.3.4.3.3. Công đức
cúng dường tán thán không thừa sót
(Luận) Vũ thiên nhạc, hoa y, diệu hương
đẳng cúng dường, tán chư Phật công đức,
vô hữu phân biệt tâm.
(Chú) Phật bổn hà cố khởi thử
trang nghiêm? Kiến hữu Phật độ, Bồ Tát nhân
thiên chí thú bất quảng, bất năng biến chí thập
phương vô cùng thế giới, cúng dường chư Phật
Như Lai đại chúng, hoặc dĩ kỷ độ uế
trược, bất cảm hướng nghệ tịnh hương,
hoặc dĩ sở cư thanh tịnh, bỉ bạc uế
độ. Dĩ như thử đẳng chủng chủng
cục phận, ư chư Phật Như Lai sở, bất
năng châu biến cúng dường, phát khởi quảng đại
thiện căn.
(註)佛本何故起此莊嚴。見有佛土。菩薩人天志趣不廣。不能遍至十方無窮世界。供養諸佛如來大眾。或以己土穢濁。不敢向詣淨鄉。或以所居清淨。鄙薄穢土。以如此等種種局分。於諸佛如來所。不能周遍供養。發起廣大善根。
(Luận:
Mưa nhạc trời, áo hoa, hương mầu để
cúng dường, khen công đức chư Phật, chẳng
có tâm phân biệt.
Chú: Vốn v́
lẽ nào mà đức Phật dấy lên sự trang nghiêm này?
Do Ngài thấy có cơi Phật, Bồ Tát, người, trời
[trong cơi ấy] chí thú chẳng rộng, chẳng thể đến
trọn khắp vô cùng thế giới trong mười
phương để cúng dường chư Phật
Như Lai và đại chúng, hoặc v́ cơi nước của
ḿnh uế trược, chẳng dám hướng đến
quê hương thanh tịnh, hoặc do ở chốn thanh tịnh
mà chê bai cơi uế. Do có các thứ hạn cuộc như thế,
đối với các nơi chốn của
chư Phật Như Lai, chẳng
thể đến trọn khắp để cúng dường,
phát khởi thiện căn rộng lớn).
Đoạn
này nói về phẩm đức “cúng dường, tán thán chẳng
thừa sót” của hàng Bồ Tát trong
cơi ấy, tức là nói các Ngài đă dùng vô lượng sự
cúng dường rộng lớn, cung kính, tán thán chư Phật
trong hết thảy các thế giới chẳng thiếu sót
mảy may. Như phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện
đă nói: “Ư nhất trần trung trần số Phật,
các xử Bồ Tát chúng hội trung, vô tận pháp giới
trần diệc nhiên, thâm tín chư Phật giai sung măn, các dĩ
nhất thiết âm thanh hải, phổ xuất vô tận diệu
ngôn từ, tận ư vị lai nhất thiết kiếp,
tán Phật thậm thâm công đức hải, dĩ chư
tối thắng diệu hoa man, kỹ nhạc, đồ hương,
cập tán cái, như thị tối thắng trang nghiêm cụ,
ngă dĩ cúng dường chư Như Lai. Tối thắng
y phục, tối thắng hương, mạt hương,
thiêu hương, dữ đăng chúc, nhất nhất giai
như Diệu Cao tụ, ngă tất cúng dường chư Như
Lai. Như thị hư không giới tận… ngă cúng năi tận,
nhi hư không giới vô hữu tận cố, ngă thử cúng
dường diệc vô hữu tận, niệm niệm tương
tục, vô hữu gián đoạn. Thân ngữ ư nghiệp, vô hữu
b́ yếm” (Trong mỗi vi trần, có chư Phật nhiều như
vi trần, mỗi vị đều ở trong hội của
các vị Bồ Tát. Trong các vi trần của vô tận pháp
giới cũng giống như vậy, tin sâu chư Phật
đều đầy ắp. [Ở chỗ mỗi đức
Phật], đều
dùng biển hết thảy âm thanh, phát ra trọn khắp vô
tận ngôn từ hay đẹp, cho đến hết thảy
các kiếp trọn hết đời vị lai, tán thán biển
công đức rất sâu của Phật. Dùng các tràng hoa đẹp
thù thắng nhất, kỹ nhạc, hương bôi, và tàn lọng.
Những vật trang nghiêm thù thắng nhất như thế,
tôi dùng [các món vật ấy] để cúng dường các Như
Lai. Y phục tốt đẹp nhất, hương tốt
lành nhất, hương bột, hương đốt, và đèn
đuốc, mỗi thứ đều chất chứa như
núi Diệu Cao, tôi đều cúng dường các Như Lai, trọn
hết hư không giới như thế… sự cúng dường
của tôi mới hết. Nhưng do hư không giới chẳng
cùng tận, sự cúng dường của tôi cũng chẳng
cùng tận, niệm niệm tiếp nối, chẳng bị
gián đoạn, thân ngữ ư nghiệp chẳng có mệt chán).
V́ sao Phật Di Đà
dấy lên sự trang nghiêm này? Đều là do khi tu nhân, Ngài
thấy có cơi Phật, hàng Bồ Tát, đại chúng trời
người trong ấy chẳng có chí nguyện và sự
mong muốn (lời chú giải dùng chữ “thú” (趣) để
diễn tả ư này) rộng lớn, lại
chẳng có thần thông, trí huệ. Do vậy, chẳng thể
cúng dường, tán thán mười phương vô lượng
chư Phật và đại chúng Tăng chẳng sót, nhất
là do ôm ḷng phân biệt: Hoặc
là do [e ngại] chỗ ở của chính
ḿnh là uế độ, chẳng dám đến Tịnh
Độ của chư Phật để tu cúng dường.
Hoặc cho rằng chính ḿnh là người trong Tịnh
Độ, làm sao có thể đến cúng Phật trong uế
độ cho được? Đủ thứ phân biệt
hạn cuộc như thế, đương
nhiên là chẳng thể cúng dường trọn khắp hết
thảy chư Như Lai, mà cũng
là chẳng thể phát khởi thiện căn rộng lớn
của hạnh nguyện Phổ
Hiền. Đấy chính là chẳng khéo hành Bồ Tát đạo.
Do có lỗi lầm như thế, Phật Di Đà mới
phải trang nghiêm hàng Bồ Tát trong cơi ấy: Ai nấy đều
có công đức cúng dường tán thán chư Phật xứng
với pháp giới.
(Chú) Thị cố
nguyện ngôn, ngă thành Phật thời, nguyện ngă quốc
độ nhất thiết Bồ Tát, Thanh Văn, thiên, nhân đại
chúng, biến chí thập phương nhất thiết chư
Phật đại hội xứ sở, vũ thiên nhạc,
thiên hoa, thiên y, thiên hương, dĩ xảo diệu biện
từ, cúng dường tán thán chư Phật công đức.
Tuy thán uế độ Như Lai đại từ khiêm nhẫn,
bất kiến Phật độ hữu tạp uế tướng;
tuy thán Tịnh Độ Như Lai vô lượng trang
nghiêm, bất kiến Phật độ hữu thanh tịnh
tướng. Hà dĩ cố? Dĩ chư pháp đẳng cố,
chư Như Lai đẳng. Thị cố chư Phật
Như Lai danh vi Đẳng Giác. Nhược ư Phật
độ khởi ưu liệt tâm, giả sử cúng
dường Như Lai, phi pháp cúng dường dă. Thị cố
ngôn: “Vũ thiên nhạc, hoa y, diệu hương đẳng
cúng dường, tán chư Phật công đức, vô hữu
phân biệt tâm”.
(註)是故願言。我成佛時。願我國土。一切菩薩。聲聞。天人大眾。遍至十方一切諸佛大會處所。雨天樂。天華。天衣。天香。以巧妙辨辭。供養讚歎諸佛功德。雖歎穢土如來大慈謙忍。不見佛土有雜穢相。雖歎淨土如來無量莊嚴。不見佛土有清淨相。何以故。以諸法等故。諸如來等。是故。諸佛如來名為等覺。若於佛土起優劣心。假使供養如來。非法供養也。是故言雨天樂華衣。妙香等供養。讚諸佛功德。無有分別心。
(Chú: V́ thế,
nguyện rằng: Khi tôi thành Phật, nguyện hết thảy
Bồ Tát, Thanh Văn, đại chúng trời người trong
quốc độ của tôi sẽ đến trọn khắp
nơi chốn của hết thảy đại hội chư
Phật trong mười phương, mưa nhạc trời,
hoa trời, áo trời, hương trời, dùng ngôn từ biện
tài hay khéo để cúng dường, tán thán công đức của chư Phật. Tuy ca ngợi
đức đại từ khiêm ḥa, nhẫn nại của
Như Lai trong uế độ, chẳng thấy cơi Phật
có tướng xen tạp, ô uế; tuy tán thán vô lượng
sự trang nghiêm của Như Lai trong Tịnh Độ, nhưng
chẳng thấy cơi Phật có tướng thanh tịnh. V́
sao vậy? Do các pháp b́nh đẳng, nên các Như Lai b́nh đẳng. V́ thế, chư Phật
Như Lai được gọi là Đẳng Giác. Nếu đối
với cơi Phật mà dấy lên tâm [phân biệt] hơn kém, giả
sử cúng dường Như Lai, sẽ chẳng phải là
pháp cúng dường vậy. V́ thế nói: “Mưa nhạc trời,
áo hoa, hương nhiệm mầu cúng dường, khen công
đức chư Phật, chẳng có tâm phân biệt”).
Do những nguyên
nhân như đă nói trên đây, cho nên trong bổn nguyện của
Phật Di Đà có nguyện thứ hai mươi hai, “ngă
thành Phật thời, quốc trung Bồ Tát, cúng dường
thập phương chư Phật, khai hóa vô lượng
chúng sanh, hiện tiền tu tập Phổ Hiền chi đức”
(Khi tôi thành Phật, hàng Bồ Tát trong nước cúng dường
mười phương chư Phật, khai hóa vô lượng
chúng sanh, hiện tiền tu tập phẩm đức Phổ
Hiền), nguyện thứ hai mươi ba “quốc trung Bồ
Tát, thừa Phật oai lực, cúng dường chư Phật,
nhất thực chi khoảnh, bất năng biến chí vô
lượng chư Phật quốc giả, bất thủ Chánh
Giác” (hàng Bồ Tát trong nước nương theo oai lực
của Phật, cúng dường chư Phật, trong khoảng
một bữa ăn, chẳng thể đến trọn khắp
vô lượng các cơi Phật, tôi chẳng giữ lấy ngôi
Chánh Giác), nguyện thứ bốn mươi “tùy ư dục
kiến thập phương vô lượng Phật độ,
ứng thời như nguyện, ư bảo thụ trung,
giai tất chiếu kiến. Nhược bất nhĩ giả,
bất thủ Chánh Giác” (tùy ư muốn thấy mười
phương vô lượng cơi Phật, sẽ ngay lập tức
như nguyện, từ nơi cây báu, thảy
đều trông thấy rơ ràng. Nếu chẳng được
vậy, tôi chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác), nguyện
thứ bốn mươi hai, “giai tất đăi đắc
thanh tịnh giải thoát tam-muội, trụ thị tam-muội,
nhất phát ư khoảnh, cúng dường vô lượng bất
khả tư nghị chư Phật, nhi bất thất
định ư” (thảy đều đạt được
tam-muội thanh tịnh giải thoát, trụ trong tam-muội
ấy, trong khoảng phát ư, cúng dường vô lượng
chẳng thể nghĩ bàn chư Phật mà chẳng
đánh mất định ư). Đă phát nguyện, sau đấy
nương theo nguyện để tu các công đức,
thành tựu Phật quả, đồng thời cũng
thành tựu bốn thứ công đức trang nghiêm của
hàng Bồ Tát trong cơi An Lạc. Như phần kinh văn
trong quyển hạ của kinh Vô Lượng Thọ có nói về phẩm đức cúng dường, tán thán Phật của hàng Bồ Tát trong
nước ấy như sau: “Bỉ quốc Bồ Tát, thừa
Phật oai thần, nhất thực chi khoảnh, văng nghệ
thập phương vô lượng thế giới, cung kính
cúng dường chư Phật Thế Tôn, tùy tâm sở niệm
hoa, hương, kỹ nhạc, y, cái, tràng phan, vô số vô
lượng cúng dường chi cụ, tự nhiên hóa sanh, ứng
niệm tức chí, trân diệu thù đặc, phi thế sở
hữu, triếp dĩ phụng tán chư Phật, cập
chư Bồ Tát, Thanh Văn chi chúng, tại hư không trung,
hóa thành hoa cái, quang sắc dục thước, hương
khí phổ huân. Kỳ hoa… năi phú tam thiên đại thiên thế
giới, tùy kỳ tiền hậu, dĩ thứ hóa một.
Kỳ chư Bồ Tát thiêm nhiên hân duyệt, ư hư không
trung, cộng tấu thiên nhạc, dĩ vi diệu âm, ca thán
Phật đức, thính thọ kinh pháp, hoan hỷ vô lượng,
cúng dường Phật dĩ, vị thực chi tiền, hốt
nhiên khinh cử, hoàn kỳ bổn quốc” (Bồ Tát
trong cơi ấy nương vào oai thần của Phật, trong khoảng một bữa ăn, đi tới vô
lượng thế giới trong mười phương, cung
kính cúng dường chư Phật Thế Tôn, tùy theo ḷng nghĩ
mà hoa, hương, kỹ nhạc, áo, lọng, tràng phan, vô số
vô lượng vật cúng dường tự nhiên hóa sanh, vừa
nghĩ liền có, quư báu, đẹp đẽ, thù thắng
đặc biệt, cơi đời chẳng thể có được. [Bồ
Tát] liền lấy [những thứ ấy] để dâng rải
chư Phật và các vị Bồ Tát, Thanh Văn. Ở trong
hư không, hóa thành lọng hoa, quang minh và màu sắc rực rỡ,
mùi thơm xông khắp. Hoa ấy bèn phủ trọn
tam thiên đại thiên thế giới, theo thứ tự trước
sau mà biến mất. Các vị Bồ Tát ấy hài ḥa, vui sướng,
ở trong hư không cùng tấu nhạc trời, dùng âm thanh
vi diệu, ca ngợi công đức của Phật, nghe nhận
kinh pháp, hoan hỷ vô lượng. Đă cúng dường Phật
xong, trước bữa ăn, bỗng nhẹ nhàng cất
ḿnh lên, trở về nước ḿnh).
Như trong phẩm
Phổ Hiền Hạnh Nguyện có nói: “Nhất nhất trần
trung hữu trần số Phật, nhất nhất Phật
sở giai hữu Bồ Tát hải hội vi nhiễu, ngă đương
tất dĩ thậm thâm thắng giải hiện tiền
tri kiến, các dĩ xuất quá Biện Tài thiên nữ vi diệu
thiệt căn. Nhất nhất
thiệt căn, xuất vô tận âm thanh
hải. Nhất
nhất âm thanh, xuất nhất thiết ngôn từ hải,
xưng dương, tán thán
nhất thiết Như Lai chư công đức hải, cùng
vị lai tế, tương tục bất đoạn, tận
ư pháp giới, vô bất châu biến” (Trong mỗi
một vi trần, có chư Phật nhiều như số lượng vi trần. Nơi mỗi đức
Phật đều có Bồ Tát đông nhiều
như biển vây quanh, tôi sẽ thảy
đều dùng hiện tiền tri kiến, kiến giải
thù thắng rất sâu, đều dùng cái lưỡi vi diệu
vượt trỗi [cái lưỡi của] Biện Tài thiên nữ[1], mỗi cái lưỡi
đều phát ra vô lượng biển âm thanh. Mỗi âm
thanh phát ra hết thảy biển ngôn từ để xưng tụng,
ca ngợi biển các công đức của hết thảy
Như Lai cho đến tột
cùng đời vị lai, liên tục chẳng dứt, trọn
hết pháp giới, không đâu chẳng trọn khắp). Bồ
Tát trong nước ấy do tâm vô phân biệt, dùng ngôn từ
biện tài thiện xảo vi diệu để ca tụng,
tán thán công đức của Phật. Điều này thuộc
về Pháp Cúng Dường.
Trong các thứ cúng dường, Pháp Cúng Dường
tối thắng nhất; v́ thế gọi là phẩm đức
“cúng dường không thừa sót”.
“Tán uế độ
Như Lai đại từ khiêm nhẫn” (Tán thán ḷng đại
từ, khiêm ḥa, nhẫn
nại của Như Lai trong uế độ): Câu này là như
trong kinh Di Đà đă nói: “Bỉ chư Phật đẳng,
diệc xưng tán ngă bất khả tư nghị công đức,
nhi tác thị ngôn: - Thích Ca Mâu
Ni Phật năng vi thậm nan hy hữu chi sự, năng ư
Sa Bà quốc độ, ngũ trược ác thế… đắc
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vị chư
chúng sanh, thuyết thị nhất thiết thế gian nan tín
chi pháp” (Các vị Phật ấy cũng khen ngợi công đức
chẳng thể nghĩ bàn của ta, mà nói
như thế này: “Thích Ca Mâu Ni Phật có thể làm chuyện
hiếm có rất khó, [tức là] có thể ở trong quốc
độ Sa Bà nhằm đời ác ngũ trược… đắc
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, v́ các chúng sanh nói pháp
mà hết thảy thế gian khó tin tưởng này”). Đức
Bổn Sư thành Phật trong uế độ, lại có
thể v́ chúng sanh trong uế độ mà nói pháp môn Tịnh
Độ là pháp khó tin. Đấy chính là ḷng đại từ
đại bi chân thật. Đức Thích Ca ôm tấm ḷng “ta
không vào địa ngục th́ ai sẽ vào địa ngục”,
khiêm tốn, chẳng kể công, kiên nhẫn bất thoái, có
tinh thần gánh vác lớn lao và đại
vô úy ấy, cho nên Ngài có thể làm chuyện hiếm có, rất
khó. Do vậy,
được mười phương chư Phật
đồng thanh tán thán.
“Bất kiến Phật
độ hữu uế tướng” (Chẳng thấy
cơi Phật có tướng xen tạp, nhơ uế): V́ Phật
đă chứng đắc Căn Bản Vô Phân Biệt Trí, chẳng
nhơ, chẳng tịnh, b́nh đẳng nhất tướng,
cho nên trong tâm nhăn của chư Phật, trọn chẳng thấy
quốc độ nơi đức Bổn Sư đang ở
là ngũ trược ác thế tạp nhiễm, cấu uế.
Như trong phẩm Hiện Bảo Tháp của kinh Pháp Hoa đă
chép: Chư Phật
là phân thân của đức
Bổn Sư trong mười phương nhóm họp tại
Linh Sơn, trông thấy thế giới Sa Bà là một cơi Phật
hoàn toàn thanh tịnh. Các vị Bồ Tát trong cơi ấy (Cực
Lạc) cũng giống như vậy.
“Tuy thán Tịnh
Độ Như Lai vô lượng trang nghiêm, bất kiến
Phật độ hữu thanh tịnh tướng” (tuy ca
ngợi vô lượng sự trang nghiêm của đức Như
Lai trong Tịnh Độ, nhưng chẳng thấy cơi Phật
có tướng thanh tịnh). Hai câu này nhằm nói các vị Bồ
Tát trong cơi ấy do tâm vô phân biệt, dẫu
tán thán Tịnh Độ của chư Phật trang nghiêm
như thế nào đi nữa, vẫn có thể
liễu đạt Diệu Hữu Chân Không, đúng như Tâm
Kinh đă dạy: “Thị chư pháp Không tướng… bất
cấu, bất tịnh…” (Tướng Không
của các pháp chẳng nhơ, chẳng sạch), cũng như
kinh Duy Ma Cật đă chép: “Tuy tri chư Phật quốc,
cập dữ chúng sanh Không, nhi thường tu Tịnh Độ,
lợi ích chư quần sanh” (Tuy biết
các cơi Phật và chúng sanh là Không, nhưng thường tu Tịnh
Độ ḥng lợi ích các chúng sanh).
Mấy câu từ câu
“hà dĩ cố?” (v́ cớ sao?) trở đi là ngài Đàm
Loan đă dùng “các pháp b́nh đẳng” để giải
thích nguyên do của câu kệ “vô hữu phân biệt tâm”
(chẳng có tâm phân biệt). V́ hàng Bồ Tát trong nước
ấy đều đă chứng đắc tánh Không của
các pháp b́nh đẳng, cho nên cái tâm có
thể chẳng phân biệt. Như các gịng nước đổ
vào biển, sẽ có cùng một tướng, một vị
như nhau, chẳng c̣n có tự tướng bất đồng
mỗi gịng một vị nữa. Như trong quyển hạ
của kinh Vô Lượng Thọ có chép: “Do như Tuyết
sơn, đẳng nhất tịnh cố. Khoáng nhược
hư không, đại từ đẳng cố” (Ví như núi Tuyết
b́nh đẳng thanh tịnh giống hệt như nhau. Rộng
răi dường hư không, do đại từ b́nh đẳng).
Lại như phẩm Dược Thảo Dụ của
kinh Pháp Hoa đă ghi: “Như Lai tri thị nhất tướng,
nhất vị chi pháp, sở vị giải thoát tướng,
ly tướng, diệt tướng, cứu cánh Niết Bàn
thường tịch diệt tướng, chung quy ư Không”
(Như Lai biết là một tướng, một vị, tức
là tướng giải thoát, tướng ĺa, tướng diệt, tướng
Niết Bàn rốt ráo thường tịch diệt, rốt
cuộc quy vào Không). Cũng như trong Đại Thừa Chỉ
Quán Pháp Môn đă viết: “Tâm tánh tự thanh tịnh, chư
pháp duy nhất tâm. Thử tâm thị chúng sanh, thử tâm Bồ
Tát, Phật… Nhất tâm nhi tác nhị, nhị hoàn vô nhị
tướng, thí như đại hải thủy, cụ túc
chúng bảo tạng” (Tâm tánh tự thanh tịnh, các pháp
chỉ là một tâm. Cái tâm ấy là chúng sanh, cái tâm ấy là
Phật, Bồ Tát… Nhất tâm mà coi là hai, tuy hai mà vẫn chẳng
có hai tướng. Ví như nước biển cả, trọn
đủ các kho báu). Do các pháp b́nh đẳng là nhất tâm nhị
môn, do là Tâm Chân Như Môn, nên đều là tánh Không ĺa tướng. Do là Tâm Sanh Diệt
Môn, nên đều
là duyên khởi các tướng. Tánh Không mà duyên khởi, duyên
khởi mà tánh vẫn là Không; đấy chính là hết thảy
các pháp b́nh đẳng bất nhị. Chư Phật b́nh
đẳng chứng nhập nhất tâm nhị môn, nên gọi
là Đẳng Giác. Hàng Bồ Tát trong cơi ấy đă ngộ
nhất tâm nhị môn này, cho nên cái tâm có thể chẳng
phân biệt.
Nếu đối
với sự trang nghiêm nơi Tịnh Độ của chư
Phật mà chẳng thể quy vào Tâm Chân Như Môn, chỉ trụ
nơi tướng sai biệt thuộc về Tâm Sanh Diệt
Môn, dấy lên cái tâm phân biệt có hơn, có kém; vậy th́ dẫu
quư vị có thể cúng dường rộng lớn, vẫn
chẳng phải là pháp cúng dường, tức chẳng phải
là công đức cúng dường và tán thán chẳng c̣n thừa
sót vốn có của hàng Bồ Tát trong cơi ấy! V́ thế,
lời Kệ mới ghi là: “Vũ thiên nhạc, hoa y…. vô hữu
phân biệt tâm” (Mưa nhạc
trời, áo hoa… chẳng có tâm phân biệt).
2.2.1.2.3.1.3.4.3.4. Công đức
thị hiện Tam Bảo trọn khắp
(Luận) Hà đẳng thế giới vô, Phật
pháp công đức bảo, ngă nguyện giai văng sanh, thị Phật
pháp như Phật.
(Chú) Phật bổn hà cố khởi thử
nguyện? Kiến hữu nhuyễn tâm Bồ Tát, đản
nhạo hữu Phật quốc độ tu hành, vô từ
bi kiên lao tâm.
(註)佛本何故起此願。見有軟心菩薩。但樂有佛國土修行。無慈悲堅牢心。
(Luận:
Thế giới nào chẳng có, báu công đức Phật
pháp, tôi nguyện đều văng sanh, dạy Phật pháp như
Phật.
Chú: Vốn v́
lẽ nào mà đức Phật dấy lên nguyện này? Do Ngài
thấy có hàng nhuyễn tâm Bồ Tát chỉ thích tu hành trong quốc
độ có Phật, không có tâm từ bi cứng chắc).
“Nhuyễn tâm Bồ
Tát” chính là hàng Bồ Tát thuộc địa vị Thập
Tín. Chẳng hạn như ngài Xá Lợi Phất đă trải
qua sáu mươi kiếp hành Bồ Tát đạo, chứng
nhập Đệ Lục Tâm trong Thập Tín; về
sau, gặp phải
một Bà La Môn xin mắt, bèn thoái thất Bồ Đề tâm,
hồi Đại hướng Tiểu, chỉ thích tu hành đạo
Thanh Văn trong quốc độ có Phật, chỉ niệm
Không, Vô Tướng, Vô Tác, đối với pháp Bồ Tát như thần thông
du hư, trang nghiêm quốc độ, thành thục chúng sanh, chẳng
sanh một niệm tâm ưa thích. V́ thế nói: “Vô từ
bi kiên lao tâm” (Không có tâm
từ bi cứng chắc). Kinh Nhân Vương có nói: “Thập
Thiện Bồ Tát phát đại tâm, trường biệt tam
giới khổ luân hải” (Thập Thiện Bồ Tát phát
tâm Đại Thừa, giă biệt măi măi biển khổ
trong tam giới) cũng chính là nói về hàng nhuyễn tâm Bồ
Tát này!
(Chú) Thị cố
hưng nguyện, nguyện ngă thành Phật thời, ngă độ
Bồ Tát giai từ bi dũng mănh, kiên cố chí nguyện, năng
xả thanh tịnh độ, chí tha phương vô Phật
Pháp Tăng xứ, trụ tŕ trang nghiêm Phật Pháp Tăng Bảo,
thị như hữu Phật, sử Phật chủng xứ
xứ bất đoạn. Thị cố ngôn: “Hà đẳng
thế giới vô, Phật pháp công đức bảo, ngă
nguyện giai văng sanh, thị Phật pháp như Phật”. Quán
Bồ Tát tứ chủng trang nghiêm công đức thành tựu,
ngật chi ư thượng.
(註)是故興願。願我成佛時。我土菩薩皆慈悲勇猛。堅固志願。能捨清淨土。至他方無佛法僧處。住持莊嚴佛法僧寶。示如有佛。使佛種處處不斷。是故言。何等世界無。佛法功德寶。我願皆往生。示佛法如佛。觀菩薩四種莊嚴功德成就。訖之於上。
(Chú: V́ thế
dấy nguyện, nguyện khi tôi thành Phật, hàng Bồ
Tát trong cơi tôi đều có chí nguyện từ bi, dũng mănh,
kiên cố, có thể bỏ cơi thanh tịnh, đến những
chỗ không có Phật Pháp Tăng ở phương khác để
trụ tŕ trang nghiêm Phật Pháp Tăng Bảo, thị hiện
như là [cơi ấy] có Phật, khiến cho chủng tánh của
Phật chẳng bị ngưng dứt ở khắp mọi
nơi. V́ thế nói: “Thế giới nào chẳng có, báu công
đức Phật pháp, tôi đều nguyện văng sanh, dạy
Phật pháp như Phật”. Quán bốn thứ công đức
trang nghiêm thành tựu của hàng Bồ Tát đến đây
là xong).
Phần này là quan sát
các vị đại Bồ Tát trong cơi ấy, các Ngài có thể
trong trọn khắp những chốn không có Tam Bảo, thị
hiện Tam Bảo trụ tŕ thế gian, tạo lợi ích
cho chúng sanh, khiến cho Phật chủng có thể trong mọi
lúc, mọi nơi đều chẳng bị đoạn diệt.
“Phật chủng” là ǵ? Chính là chủng tử có thể
sanh khởi Phật quả. Nói đại
lược th́ là phát Vô Thượng Bồ Đề Tâm, đó
gọi là Phật chủng! Nói rộng th́:
1) Lục độ
vạn hạnh của
Bồ Tát hạnh chính là Phật chủng. Như quyển
thứ mười một của bộ Hoa Nghiêm Thám Huyền
Kư đă ghi: “Bồ Tát sở hành, danh vi Phật chủng”
(Những điều
thực hành của Bồ Tát th́ gọi là Phật chủng).
Đấy gọi
là duyên nhân Phật chủng.
2) Đắc Vô Sanh
Nhẫn th́ gọi là Phật chủng. Như La Thập đại
sư chú giải kinh Tịnh Danh đă viết: “Chủng
tánh của Phật chính là Vô Sanh Nhẫn, v́ đắc Vô
Sanh Nhẫn ắt sẽ tiếp nối gịng giống Phật”.
Đấy là liễu nhân[2] Phật chủng.
3) Giác tánh nơi tâm
của chúng sanh th́ gọi là Phật chủng, như trong phẩm
Phật Đạo của kinh Tịnh Danh có nói: “Lục
thập nhị kiến cập nhất thiết phiền
năo, giai thị Phật chủng” (Sáu mươi
hai kiến và hết thảy các phiền năo đều là Phật
chủng), cũng như Vĩnh Gia đại sư đă nói
trong Chứng Đạo Ca: “Thật tánh của vô minh chính
là Phật tánh, huyễn hóa không thân chính là Pháp Thân”. Đấy
chính là chánh nhân Phật chủng.
“Sử Phật chủng
xứ xứ bất đoạn” (Khiến
cho Phật chủng chẳng bị ngưng dứt ở khắp
mọi nơi): Đấy là nói theo phương diện phát
Bồ Đề tâm, tu Bồ Tát hạnh, đắc Vô Sanh
Pháp Nhẫn, mà cũng là giáo hóa chúng sanh, khiến cho họ
biết giác tánh của chính ḿnh chẳng sai khác với Phật.
Tâm này đă là Phật, bèn lập chí “tâm này làm Phật”,
sẽ có thể khiến cho Phật chủng ở khắp
mọi nơi chẳng bị đoạn dứt.
Tam Bảo là ǵ? Tam
Bảo chính là Phật, Pháp, Tăng. Ba thứ ấy đều
tôn quư, hiếm có, được thế gian quư chuộng nhất.
V́ thế gọi là Bảo (寶, của
báu). Tam Bảo có bốn loại khác nhau:
1) Nhất Thể Tam
Bảo (一體三寶), c̣n gọi
là Đồng Thể Tam Bảo (同體三寶), tức
là cái tâm tự tánh thanh tịnh mà chúng sanh và Phật có cùng một
Thể. Cái tâm ấy linh giác, đó là Phật. Tâm tánh vốn
trọn đủ hết thảy các pháp, tức là Pháp. Tâm
tánh tùy duyên ḥa hợp với các pháp th́ chính là Tăng. Nói “nhất
thể” th́ nơi Tam Bảo, mỗi một ngôi [trong Tam
Bảo] đều trọn đủ Tam Bảo. Phật xét
về Thể th́ có ư nghĩa “giác chiếu”, đó là Phật
Bảo. Có ư nghĩa khuôn phép th́ là Pháp Bảo. Chẳng chống
trái, tranh chấp th́ là Tăng Bảo. Phật do Pháp mà sanh, nên
Pháp chính là Phật Bảo. Chấp tŕ th́ gọi là Pháp, nên Pháp
chính là Pháp Bảo. Các pháp làm nhân duyên cho nhau, ḥa hợp chẳng
tranh chấp, nên chính là Tăng Bảo. Tăng th́ có Quán Trí, đó
chính là Phật Bảo. Tăng có khuôn phép, nên là Pháp Bảo.
Ḥa hợp chẳng chống trái nên là Tăng Bảo.
2) Đồng Tướng
Tam Bảo (同相三寶): Như
Như Trí khế hợp Như Như Lư, b́nh đẳng, có
cùng một tướng, đấy chính là Chân Như xuất
triền
(Chân Như thoát khỏi các trói buộc), được
gọi là Ngũ Phần Pháp Thân, đó chính là Phật Bảo.
Diệt Đế Niết Bàn là Pháp Bảo. Hoặc (phiền năo, cấu chướng)
hết, trí viên măn, Đoạn và Chứng
chẳng hai; đấy là Tăng Bảo.
3) Biệt Tướng
Tam Bảo (別相三寶), c̣n gọi
là Hóa Tướng Tam Bảo (化相三寶), hoặc
Biệt Thể Tam Bảo (別體三寶). Trong ấy
có Đại Thừa và Tiểu Thừa khác nhau. Đại
Thừa Tam Bảo th́ tam thân của Phật là Phật Bảo,
Lục Độ các Ba La Mật là Pháp Bảo, Tam Hiền
Thập Thánh Bồ Tát là Tăng Bảo. Tiểu Thừa Tam
Bảo th́ Hóa Thân cao một trượng sáu thước của
Phật là Phật Bảo, pháp Tứ Đế và Thập
Nhị Nhân Duyên là Pháp Bảo, Tứ Hướng, Tứ Quả, và Bích
Chi Phật là Tăng Bảo.
4) Trụ Tŕ Tam Bảo
(住持三寶): Sau
khi đức Phật diệt độ, những loại h́nh tượng Phật
khắc, đắp, vẽ vời tồn tại trong thế
gian chính là Phật Bảo. Tam Tạng kinh điển, giáo
chỉ Tam Thừa chính là Pháp Bảo. Tăng ni đă thọ
giới th́ là Tăng Bảo.
Trong bốn loại
ấy, Nhất Thể và Đồng Thể Tam Bảo là Lư
Thể. Có Phật xuất thế hay không, pháp vốn trọn sẵn có như thế đấy, tức là Tánh Đức vô
tu, vô chứng, như như bất biến. Đồng Tướng
Tam Bảo hễ có Phật xuất thế th́ mới có, chính
là Tu Đức nhân viên quả măn của bản thân đức
Phật. Biệt Tướng Tam Bảo là Tam Bảo thật
sự xuất hiện trong thế gian, hạn cuộc trong
lúc Phật trụ thế, chẳng thông với trước
khi Phật ra đời, hay sau khi Phật
nhập diệt. Trụ Tŕ Tam Bảo thông cả ba thời.
“Biến thị Tam Bảo” (Thị
hiện Tam Bảo trọn khắp) được nói trong
phần này chính là Biệt Tướng và Trụ Tŕ Tam Bảo,
có thể tạo lợi ích to lớn cho chúng sanh.
Hàng Bồ Tát trong nước
ấy đều từ bi, dũng mănh, chí nguyện kiên cố,
đấy là sự trang nghiêm được thành tựu bởi
công đức của các nguyện từ nguyện hai mươi
hai cho đến nguyện hai mươi sáu, và nguyện thứ
ba mươi sáu. Như kinh Vô Lượng Thọ đă nói
về ba bậc văng sanh như sau: “Thử đẳng chúng
sanh, lâm thọ chung thời, Vô Lượng Thọ Phật dữ
chư đại chúng, hiện kỳ nhân tiền, tức tùy
bỉ Phật, văng sanh kỳ quốc, tiện ư thất
bảo hoa trung, tự nhiên hóa sanh, trụ Bất Thoái Chuyển,
trí huệ dũng mănh, thần thông tự tại” (Các chúng
sanh ấy khi lâm chung, Vô Lượng Thọ Phật và các đại
chúng hiện ra trước người ấy, [người
ấy] liền theo đức Phật ấy văng sanh nước
đó, bèn ở trong hoa bảy báu, tự nhiên hóa sanh, trụ
Bất Thoái Chuyển, trí huệ dũng mănh, thần thông tự
tại). Lại như Quán Kinh nói về Thượng
Phẩm
Thượng
Sanh như
sau: “Sanh bỉ quốc dĩ, tức ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn,
kinh tu du gian, lịch sự chư Phật, biến thập
phương giới, ư chư Phật tiền, thứ đệ
thọ kư” (Đă sanh về nước ấy liền ngộ
Vô Sanh Pháp Nhẫn, trong khoảnh khắc lần lượt phụng sự chư Phật trong trọn
khắp mười phương thế giới, ở trước
chư Phật lần lượt được thọ kư).
Đối với
bốn loại công đức trang nghiêm của hàng Bồ
Tát trong cơi nước ấy như đă tŕnh bày trên
đây, th́ loại thứ nhất và loại thứ hai là
chung cho cả thế giới có Phật hay không có Phật.
Loại thứ ba nói về thế giới có Phật, c̣n phần
này nói về thế giới không có Phật, tức là chỗ
không có Phật, Pháp, Tăng. Chẳng hạn như hiện
thời trên địa cầu, khá nhiều quốc gia có Phật
giáo, tuy đức Thích Ca đă diệt độ, nhưng
hăy c̣n có Trụ Tŕ Tam Bảo trong thế gian, chúng sanh vẫn
có thể nghe pháp tu hành, thậm chí chứng
quả. Đấy chẳng gọi là “thế giới không
có Phật”. Chỉ có [nơi nào]
về căn bản là chỗ không
có Phật pháp, chúng sanh chẳng có Phật pháp để
nghe, chẳng được thân cận Tam Bảo. Đấy chính là “biên địa”,
tức một trong tám nạn. Đó gọi là “thế giới
không có Phật”, nỗi khổ ấy giống như trong địa ngục.
Hàng Bồ Tát từ
mười phương thế giới văng sanh Cực Lạc,
v́ độ chúng sanh mà sanh vào Tịnh Độ, đều sẵn ḷng đại bi,
đă phát Bồ Đề tâm, lại được “hoa nở thấy
Phật, ngộ Vô Sanh”; đương
nhiên là chẳng trái nghịch bổn nguyện độ chúng
sanh, bèn bỏ cơi thanh tịnh, sanh về chỗ không có Phật,
Pháp, Tăng để hoằng dương Phật pháp, kiến
lập Trụ Tŕ Tam Bảo. Các Ngài trụ tŕ trang nghiêm Tam
Bảo, hoàn toàn chẳng khác ǵ Tam Bảo được kiến
lập bởi mười phương chư Phật. V́ thế
nói là “thị Phật pháp như Phật” (thị hiện
Phật pháp giống như đức Phật). Do vậy có
thể biết: Phàm là đệ tử của Phật mong
báo ân Phật, th́ phải nên dũng mănh, kiên cố, đến
chỗ không có Tam Bảo để kiến lập Tam Bảo,
hoằng pháp lợi sanh. Như kinh Hoa Nghiêm đă dạy: “Túng
sử đảnh đới kinh trần kiếp, thân vi sàng
ṭa biến đại thiên, nhược bất thuyết
pháp độ chúng sanh, tất cánh vô năng báo Phật ân”
(Dẫu cho đội [chư Phật] trên đầu trải qua số kiếp nhiều như vi trần, thân
làm giường, ṭa [cho chư Phật
ngồi hay nằm] khắp tam thiên đại
thiên, nếu chẳng thuyết pháp độ chúng sanh, rốt
ráo chẳng thể báo ân Phật). Các liên hữu Tịnh Tông
ơi! Cần phải biết: Chúng ta phát nguyện văng sanh
Tịnh Độ, chính là để thấy Phật, nghe pháp,
thành tựu công đức, thần thông, trí huệ để
độ chúng sanh. Sau đấy, đến bất cứ
nơi đâu không có Tam Bảo để thực hiện công
đức làm Phật, thuyết pháp, độ Tăng, trụ
tŕ trang nghiêm Tam Bảo. Ở mọi lúc, mọi nơi, sẽ đều
thắp sáng ngời ngọn đèn Tam Bảo, giống như
ṭa tháp hải
đăng trong biển cả mênh mông, chiếu sáng rực
nhân gian, phổ độ hữu t́nh đều thành Phật.
V́ thế nói là “sử Phật chủng xứ xứ bất
đoạn” (khiến cho Phật chủng chẳng đoạn
dứt ở mọi nơi).
Bài tụng của
vị Luận Chủ về bốn thứ công đức trang
nghiêm thành tựu của hàng Bồ Tát trong quốc độ
An Lạc đă giải thích xong! Chúng ta muốn
được sanh về Tịnh Độ, hăy nên quan sát
như thế, hăy học tập các vị Bồ Tát trong cơi
ấy. Khoa thứ ba trong phần giải thích lời kệ
là “Quảng Kệ Quán Sát Hồi Hướng Môn” (kệ
tụng nói rộng về hai môn Quan Sát và Hồi Hướng),
phần Quan Sát Môn trong ấy đến đây giải thích
xong toàn bộ, dưới đây là phần Hồi Hướng
Môn.
2.2.1.2.3.2. Hồi Hướng
Môn
(Luận) Ngă tác luận thuyết kệ, nguyện
kiến Di Đà Phật, phổ cộng chư chúng sanh, văng
sanh An Lạc quốc.
(Chú) Thử tứ cú thị Luận Chủ Hồi
Hướng Môn. Hồi hướng giả, hồi kỷ công
đức phổ thí chúng sanh, cộng kiến A Di Đà
Như Lai, sanh An Lạc quốc.
(註)此四句。是論主迴向門。迴向者。迴己功德。普施眾生。共見阿彌陀如來。生安樂國。
(Luận:
Tôi soạn luận, nói kệ, nguyện thấy Phật
Di Đà, cùng khắp các chúng sanh, văng sanh cơi An Lạc.
Chú: Bốn câu
này là phần Hồi Hướng Môn của vị Luận
Chủ. “Hồi hướng” là đem công đức của
chính ḿnh thí khắp chúng sanh được cùng thấy A Di
Đà Như Lai, sanh vào cơi An Lạc).
Vị Luận
Chủ đem công đức và lợi ích của việc trước
tác bộ luận này và nói kệ Nguyện Sanh hồi hướng
cho hết thảy chúng sanh cùng được thấy Phật
Di Đà, cùng
sanh về Cực Lạc, cùng thành Phật đạo, cùng hóa
độ chúng sanh. Nay chúng ta giảng giải, lắng nghe
bộ luận này, cũng phải nên hồi hướng như
thế.
2.2.1.3. Tổng kết
Kệ Tụng
(Luận) Vô Lượng Thọ Tu Đa La chương
cú, ngă dĩ kệ tụng tổng thuyết cánh.
(論)無量壽修多羅章句。我以偈誦總說竟。
(Luận:
Đối với chương cú của kinh Vô Lượng
Thọ tôi đă dùng kệ tụng nói tổng quát xong).
Qua hai câu văn này,
vị Luận Chủ đă tổng kết, nhằm nói rơ:
Đối với tất cả nội dung, chương cú
trong kinh Vô Lượng Thọ (Tu Đa La), tôi đă gom lấy
những điều thiết yếu nhằm nói tổng quát
thành hai mươi bốn bài Kệ Tụng, đă nói viên măn rồi!
2.2.1.4. Vấn đáp
để trừ nghi hoặc (tám lượt vấn
đáp)
(Chú) Vấn viết: Thiên Thân Bồ Tát hồi
hướng chương trung, ngôn “phổ cộng chư chúng
sanh, văng sanh An Lạc quốc”, thử chỉ cộng hà đẳng
chúng sanh da? Đáp viết: Án Vương Xá thành sở thuyết
Vô Lượng Thọ kinh, Phật cáo A Nan: “Thập
phương Hằng hà sa chư Phật Như Lai giai cộng
xưng thán Vô Lượng Thọ Phật, oai thần, công
đức bất khả tư nghị. Chư hữu chúng
sanh văn kỳ danh hiệu, tín tâm hoan hỷ, năi chí nhất
niệm, chí tâm hồi hướng, nguyện sanh bỉ quốc,
tức đắc văng sanh, trụ Bất Thoái Chuyển, duy
trừ Ngũ Nghịch, phỉ
báng chánh pháp”. Án thử nhi ngôn, “nhất thiết ngoại phàm
thiên nhân, giai đắc văng sanh”.
(註)問曰。天親菩薩迴向章中。言普共諸眾生。往生安樂國。此指共何等眾生耶。答曰。案王舍城所說無量壽經。佛告阿難。十方恒河沙諸佛如來皆共稱嘆無量壽佛。威神功德。不可思議。諸有眾生聞其名號。信心歡喜乃至一念。至心迴向。願生彼國。即得往生。住不退轉。唯除五逆。誹謗正法。案此而言。一切外凡天人。皆得往生。
(Chú: Hỏi:
Trong chương Hồi Hướng, Thiên Thân Bồ Tát
đă nói “cùng khắp các chúng sanh, văng sanh cơi An Lạc”, đấy
là nói “cùng chung với loại chúng sanh nào” vậy? Đáp: Theo kinh Vô Lượng Thọ được
nói tại thành Vương Xá, đức Phật bảo ngài
A Nan: “Mười
phương Hằng hà sa chư Phật Như Lai đều
cùng xưng
dương, tán thán Vô
Lượng Thọ Phật, oai thần, công đức chẳng
thể nghĩ bàn. Chúng sanh trong các cơi nghe danh hiệu của
Ngài, cho đến một niệm, chí tâm hồi hướng,
nguyện sanh về cơi ấy, liền
được văng sanh, trụ Bất
Thoái Chuyển, chỉ trừ phường Ngũ Nghịch,
phỉ báng chánh pháp”. Dựa theo lời ấy, bèn nói “hết
thảy trời, người, ngoại đạo, phàm phu đều được
văng sanh”).
Ngài Đàm
Loan nêu ra tám lượt vấn đáp nhằm [khiến cho độc
giả] cởi gỡ ḷng nghi, sanh ḷng tin, dụng ư là khuyên
lơn, khích lệ những ai được thấy nghe, sẽ đều nương
theo pháp môn Ngũ Niệm
được nói trong bộ luận này để thành tựu
Tịnh
nghiệp, văng sanh Tịnh Độ. Lời hỏi trong lượt
thứ nhất là do [người
đọc thấy] Luận Chủ
hồi hướng cho khắp các chúng sanh văng sanh Tịnh
Độ, bèn hỏi chẳng biết những loại chúng
sanh nào sẽ có thể được văng sanh? Trước
hết, ngài Đàm Loan dẫn chứng kinh văn trong quyển
Hạ của kinh Vô Lượng Thọ “trừ kẻ Ngũ
Nghịch, phỉ báng ra, hết thảy chúng sanh nếu có Tín, Nguyện, Hạnh, sẽ đều
được văng sanh”. Đấy
chính là căn cứ [để chứng tỏ] “pháp môn Tịnh
Độ, độ trọn khắp ba căn, gồm thâu
trọn vẹn lợi căn và độn căn”, chúng
ta vẫn chẳng thể tin tưởng ư? Hăy nên biết: Danh hiệu Di Đà
chính là tự tánh thanh tịnh tâm mà chúng sanh và Phật đều
b́nh đẳng. “Danh” chính là vô lượng thọ, vô
lượng quang, vô lượng thanh tịnh b́nh đẳng
giác. Danh ấy chính là cội nguồn của chư Phật,
là căn bản của hết thảy chúng sanh. Do vậy, hết
thảy phàm phu, ngoại đạo nghe danh hiệu Di Đà,
trọn đủ ba món tư lương Tín, Nguyện, Hạnh, cho đến
tối thiểu là một niệm, đều được
văng sanh, trụ nơi Bất Thoái Chuyển. Đấy chính
là do công đức của các nguyện thứ mười
tám, nguyện thứ mười chín, nguyện
thứ hai mươi, và nguyện thứ hai mươi bảy
trong bổn nguyện của đức Di Đà thành tựu.
“Tín tâm hoan hỷ,
năi chí nhất niệm, chí tâm hồi hướng, nguyện
sanh bỉ quốc” (Tín tâm hoan
hỷ, cho đến một niệm, chí tâm hồi hướng, nguyện
sanh về cơi ấy): Bốn câu kinh văn này chính là điều
kiện tất yếu để văng sanh. Tín tâm là ǵ? Chính là
cái tâm chí thành, chuyên tín (tin tưởng chuyên ṛng), như
trong quyển Thượng của kinh Vô Lượng Thọ
có nói: “Thí như đại hải, nhất nhân đấu
lượng, kinh lịch kiếp số, thượng khả
cùng để, đắc kỳ diệu bảo. Nhân hữu
chí tâm tinh tấn, cầu đạo bất chỉ, hội
đương khắc quả, hà nguyện bất đắc”
(Ví như biển cả, một người dùng đấu
để đong. Trải
qua kiếp số, c̣n có thể [múc đến] tận đáy,
đạt được của báu mầu nhiệm trong ấy.
Người có chí tâm, tinh tấn, cầu đạo chẳng
ngơi, ắt sẽ đắc quả, có nguyện nào mà
chẳng đạt được). Quốc phụ Tôn Trung
Sơn tiên sinh cũng nói: “Có chí thường hằng chính
là cái gốc để thành công”. Lúc lâm chung, tổ sư
Liên Tŕ răn dạy: “Thật thà niệm Phật, đừng
thay đổi đề mục”. Đấy đều
là những lời khai thị hay nhất về tín tâm. Trong
Vô Lượng Thọ Kinh Giảng Nghĩa, từ trang một
trăm chín mươi lăm đến trang hai trăm lẻ
một, và từ trang hai trăm ba mươi chín đến
trang hai trăm bốn mươi lăm, từ trang ba trăm
tám mươi chín đến trang ba trăm chín mươi
hai, tôi cũng đă giải nói, xin hăy tra duyệt, th́ sẽ hiểu
rơ ràng rành mạch ư nghĩa của đoạn kinh văn này.
(Chú) Hựu như
Quán Vô Lượng Thọ Kinh, hữu cửu phẩm văng
sanh. Hạ hạ phẩm sanh giả, hoặc hữu chúng
sanh, tác bất thiện nghiệp, Ngũ Nghịch, Thập
Ác, cụ chư bất thiện, như thử ngu nhân, dĩ
ác nghiệp cố, ưng đọa ác đạo, kinh lịch
đa kiếp, thọ khổ vô cùng. Như thử ngu nhân, lâm
mạng chung thời, ngộ thiện tri thức chủng
chủng an ủy, vị thuyết diệu pháp, giáo linh niệm
Phật. Thử nhân khổ bức, bất hoàng niệm Phật,
thiện hữu cáo ngôn: “Nhữ nhược bất năng
niệm giả, ưng xưng Vô Lượng Thọ Phật”.
Như thị chí tâm linh thanh bất tuyệt, cụ túc thập
niệm, xưng Nam Mô A Di Đà Phật. Xưng Phật danh
cố, ư niệm niệm trung, trừ bát thập ức
kiếp sanh tử chi tội, mạng chung chi thời, kiến
kim liên hoa do như nhật luân, trụ kỳ nhân tiền,
như nhất niệm khoảnh, tức đắc văng sanh
Cực Lạc thế giới. Ư liên hoa trung, măn thập
nhị đại kiếp, liên hoa phương khai (đương
ư thử tiêu Ngũ Nghịch tội dă). Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí, dĩ đại bi âm thanh, vị kỳ quảng
thuyết chư pháp Thật Tướng, trừ
diệt tội pháp. Văn dĩ hoan hỷ, ứng thời
tức phát Bồ Đề chi tâm. Thị danh Hạ Phẩm
Hạ Sanh giả.
Dĩ thử kinh chứng minh, tri hạ phẩm phàm phu, đản
linh bất phỉ báng chánh pháp, tín Phật nhân duyên, giai đắc
văng sanh.
(註)又如觀無量壽經有九品往生。下下品生者。或有眾生。作不善業。五逆十惡。具諸不善。如此愚人。以惡業故。應墮惡道。經歷多劫。受苦無窮。如此愚人。臨命終時。遇善知識。種種安慰。為說妙法。教令念佛。此人苦逼。不遑念佛。善友告言。汝若不能念者。應稱無量壽佛。如是至心。令聲不絕。具足十念。稱南無阿彌陀佛。稱佛名故。於念念中。除八十億劫生死之罪。命終之時。見金蓮華。猶如日輪。住其人前。如一念頃。即得往生極樂世界。於蓮華中。滿十二大劫。蓮華方開。(當於此消五逆罪也)。觀世音。大勢至。以大悲音聲。為其廣說諸法實相。除滅罪法。聞已歡喜。應時即發菩提之心。是名下品下生者。以此經證明。知下品凡夫但令不誹謗正法。信佛因緣。皆得往生。
(Chú: Lại
như kinh Quán Vô Lượng Thọ có chín phẩm văng sanh. Người
sanh trong hạ hạ phẩm là nếu có chúng sanh, tạo
nghiệp bất thiện, Ngũ Nghịch, Thập Ác, đủ
các điều bất thiện. Kẻ
ngu như thế do v́ ác nghiệp, đáng đọa trong ác
đạo trải qua nhiều kiếp, chịu khổ vô cùng.
Kẻ ngu như thế khi lâm chung, gặp thiện tri thức
an ủi đủ cách, v́ người ấy nói diệu pháp,
dạy người ấy niệm Phật. Người ấy
bị khổ sở bức bách, chẳng rảnh để
niệm Phật, bạn lành bảo rằng: “Nếu ngươi
chẳng thể niệm, hăy nên xưng
danh Vô Lượng Thọ Phật”. Chí tâm như thế khiến
cho tiếng niệm Phật chẳng dứt, đầy đủ
mười niệm, xưng Nam Mô A Di Đà Phật. Do xưng
danh hiệu Phật, trong mỗi niệm trừ tội
trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Khi mạng chung,
thấy hoa sen vàng như vầng mặt trời ở trước
mặt người ấy, như trong khoảng một niệm, liền được
văng sanh thế giới Cực Lạc. Ở trong hoa sen trọn
mười hai đại kiếp, hoa sen mới nở
(ở trong ấy để tiêu trừ tội Ngũ Nghịch),
Quán Thế Âm, Đại Thế Chí dùng âm thanh đại bi
v́ người ấy nói rộng về Thật Tướng
của các pháp và pháp trừ diệt tội. Nghe rồi hoan
hỷ, ngay lập tức phát tâm Bồ Đề. Đó gọi
là Hạ Phẩm Hạ Sanh. Dùng
kinh ấy để chứng minh, bèn biết
hạ phẩm phàm phu chỉ cần chẳng phỉ báng chánh
pháp, do nhân duyên tin Phật, sẽ đều được văng sanh).
Ngài Đàm Loan lại
viện dẫn phần kinh văn nói về Hạ Phẩm
Hạ Sanh trong
Quán Kinh để chứng minh “hết thảy phàm phu, ngoại
đạo, cho đến kẻ Ngũ Nghịch cực ác,
chỉ cần chẳng phỉ báng chánh pháp, do nhân duyên tin Phật,
có ba tư lương Tín, Nguyện, Hạnh, đều
có thể văng sanh”. Ngũ Nghịch
là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật
chảy máu, và phá ḥa hợp Tăng. Thập Ác là “giết,
trộm, tà dâm” nơi
thân nghiệp, “nói dối,
ác khẩu, nói đôi chiều, nói thêu dệt” nơi
khẩu nghiệp, và “tham, sân, si (tà
kiến)” nơi ư nghiệp. “Cụ chư ác nghiệp” (Đủ các ác nghiệp)
là nói về các thứ chuyện ác lớn hay nhỏ khác. Kẻ
ác lúc lâm chung, may mắn gặp được thiện tri thức
tại gia hay xuất gia là người chuyên tu pháp môn Tịnh
Độ, dùng đủ mọi phương pháp an ủi người
ấy và thuyết pháp, đồng thời dạy người
ấy hăy chí thành, khẩn thiết sám hối, chuyên tâm niệm
Phật. “Bất hoàng niệm Phật” (Chẳng rảnh
rỗi để niệm Phật) là nói kẻ ác đau đớn,
kinh hoảng, tâm tư hoảng loạn, chẳng thể nào
lắng ḷng niệm Phật được! Thiện tri thức
bèn dạy kẻ ấy hăy niệm “nam-mô A Di Đà Phật”
ra tiếng. Dùng cái tâm hết sức mạnh mẽ, sắc bén, chân thành,
chuyên nhất để niệm, khiến cho mỗi câu Phật
hiệu đều từ tâm phát ra, từ miệng vang ra tiếng,
lại theo tai lọt vào. Vằng vặc phân minh, từng tiếng
liên tiếp, mười niệm chẳng dứt. Ngay trong lúc
người ấy xưng niệm danh hiệu Phật, câu
nào cũng đều trừ diệt trọng tội trong
nhiều kiếp sanh tử. Các tội như sương móc,
huệ nhật có thể tiêu trừ, vừa xưng niệm
Phật, vạn tội diệt. Tội diệt, thiện
sanh, quả báo “đáng
lẽ phải đọa tam đồ” bèn chuyển
biến thành “sanh vào Cực
Lạc”. Chỉ cần
tin tưởng, phát nguyện, niệm Phật, ai nấy đều
có thể làm được, ai ai cũng đều có thể
văng sanh.
Lợi ích do niệm
Phật như thế đúng là “đạp phá thiết hài vô mịch xứ, đắc
lai toàn bất phí công phu” (giẫm
nát hài sắt t́m chẳng thấy, đạt được
hoàn toàn chẳng tốn công). Kẻ
ác ấy lâm chung trông thấy hoa sen hiện ra trước mắt,
giống như vầng thái dương (“nhật luân”)
tṛn xoe, sáng ngời. Thần thức xả báo sẽ trong
khoảng sát-na, thuận theo viên quang liên hoa mà nhanh chóng sanh sang
Cực Lạc. Điều này thuộc về Tự Lực.
Do thần lực của bổn nguyện và công
đức nơi quả địa của A Di Đà Phật
gia tŕ, nhiếp thọ, kẻ
ác ấy chẳng bị đọa
xuống thấp hơn, lại dẫn dắt kẻ ấy
sanh về cơi An Lạc, cũng giống như chiếc thuyền
to chở đá bự an ổn, đáng tin cậy như vậy
đó! Điều này thuộc về Tha Lực.
Pháp môn Tịnh Độ chính là do lực dụng chẳng
nghĩ bàn của Tự Lực và
Tha Lực hợp
thành, khiến cho ba bậc chín phẩm đều có thể
văng sanh. C̣n như sau khi văng sanh, hoa sen nở, thấy Phật
Di Đà, nghe diệu pháp, ngộ Vô Sanh Nhẫn v.v… sẽ tùy
thuộc công hạnh tịnh nghiệp của mỗi người
sâu hay cạn, tuy có sớm hay trễ khác nhau, nhưng đều
đă hết Phần Đoạn Sanh Tử, vượt khỏi
lục đạo luân hồi, rốt ráo chẳng bị thoái
chuyển, măi cho đến khi thành Phật th́ đều nhất
loạt b́nh đẳng, chẳng hề sai khác!
(Chú) Vấn viết:
Vô Lượng Thọ Kinh ngôn, “nguyện
văng sanh giả, giai đắc văng sanh, duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ
báng chánh pháp”. Quán Vô
Lượng Thọ Kinh ngôn: “Tác Ngũ
Nghịch, Thập Ác, cụ chư bất thiện, diệc
đắc văng sanh”. Thử
nhị kinh vân hà hội? Đáp viết: Nhất kinh dĩ cụ
nhị chủng trọng tội, nhất
giả Ngũ Nghịch, nhị giả phỉ báng chánh pháp.
Dĩ thử nhị chủng tội cố, sở dĩ bất
đắc văng sanh. Nhất
kinh đản ngôn tác Thập Ác, Ngũ
Nghịch đẳng
tội, bất ngôn phỉ báng chánh pháp. Dĩ bất báng chánh
pháp cố, thị cố đắc sanh.
(註)問曰。無量壽經言。願往生者。皆得往生。唯除五逆。誹謗正法。觀無量壽經言。作五逆十惡。具諸不善。亦得往生。此二經云何會。答曰。一經以具二種重罪。一者五逆二者誹謗正法。以此二種罪故。所以不得往生。一經但言作十惡五逆等罪。不言誹謗正法。以不謗正法故。是故得生。
(Chú:
Hỏi: Kinh Vô Lượng Thọ nói, “kẻ nguyện văng
sanh sẽ đều được văng sanh, chỉ trừ
kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp”. Kinh Quán Vô
Lượng Thọ nói “kẻ tạo Ngũ Nghịch,
Thập Ác, trọn đủ các thứ
bất thiện, cũng được văng sanh”. Dung thông
hai kinh ấy như thế nào? Đáp: Một kinh th́ nói kẻ
ấy trọn đủ hai thứ trọng tội, một
là Ngũ Nghịch, hai là phỉ báng chánh pháp. Do hai thứ tội
ấy, cho nên chẳng được văng sanh. Một kinh chỉ
nói tạo các tội Thập Ác, Ngũ
Nghịch v.v… chẳng nói phỉ báng chánh pháp. Do chẳng báng bổ chánh pháp,
cho nên được văng sanh).
Đây là lượt
vấn đáp thứ hai. Liên quan đến điều được
nói trong kinh Vô Lượng Thọ “mười niệm đều
được văng sanh, chỉ trừ Ngũ Nghịch, phỉ
báng chánh pháp”, và như Quán Kinh nói “Ngũ Nghịch, Thập
Ác cũng được văng sanh”, phải hội thông câu
hỏi này như thế nào? Ngài Đàm Loan giải đáp đơn
giản, trọng yếu, không chi hay hơn được
nữa. Trong bộ Vô Lượng Thọ Kinh Giảng Nghĩa
từ trang hai trăm bốn mươi cho đến trang
hai trăm bốn mươi hai, tôi cũng đă
giải thích, [độc
giả] chẳng ngại tra duyệt, sẽ có thể giúp giải
trừ nghi hoặc. Nay tôi lại trích lục một đoạn
trong Thập Nghi Luận do Trí Giả đại sư trước
tác ḥng có thể khiến cho quư vị tin tưởng đích xác: Chỉ cần chẳng phỉ báng chánh pháp,
dẫu tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm chung có thể
mười niệm niệm Phật, nương theo nguyện
lực của Phật, cũng có thể được văng
sanh.
Mối nghi thứ
tám trong Thập Tín Luận [như sau]: “Hỏi:
Chúng sanh từ vô thỉ đến nay tạo vô lượng
nghiệp, đời này suốt cuộc đời
chẳng gặp thiện tri thức, lại tạo hết
thảy tội nghiệp, không điều ác nào chẳng tạo,
lẽ nào lâm chung mười niệm thành tựu liền
được văng sanh, vượt khỏi tam giới?
Đối với các nghiệp đă kết, làm sao nói cho suông
được? Đáp: Chúng sanh từ vô thỉ đến
nay, thiện ác nghiệp chủng nhiều, ít, mạnh, yếu,
trọn chẳng biết được, nhưng lúc lâm
chung có thể gặp
thiện tri thức, mười niệm thành tựu th́ đều
là do thiện nghiệp đời trước mạnh mẽ,
cho nên mới
được gặp gỡ thiện tri thức, mười
niệm thành tựu. Nếu là kẻ ác nghiệp nhiều, thiện
tri thức c̣n chẳng thể gặp, làm sao có thể bàn luận
chuyện mười niệm thành tựu cho được?… Ví như
sợi dây thừng to mười ṿng ôm, ngàn người đàn
ông chẳng bứt đứt được, nhưng đứa
bé trai vung gươm, trong khoảnh khắc, [dây thừng] đứt làm đôi. Lại như củi chất chứa
ngàn năm, dùng một đốm lửa bé bằng hạt đậu
để đốt, trong một thời gian ngắn sẽ
cháy sạch. Lại như có người suốt đời
tu Thập Thiện Nghiệp, đáng được sanh lên
trời. Khi lâm chung, dấy lên một niệm tà kiến quyết
định, liền đọa trong địa ngục A Tỳ.
Ác nghiệp hư vọng, do mạnh mẽ, nhạy bén, mà
c̣n có thể xóa sạch thiện nghiệp trong một đời,
khiến [cho người
lâm chung ấy] đọa ác đạo.
Huống chi khi lâm chung, tâm dũng mănh niệm Phật, thiện
nghiệp chân thật chẳng gián đoạn, lại chẳng
thể trừ sạch vô thỉ ác nghiệp, được
sanh về Tịnh Độ, chẳng có lẽ ấy!” Lại
nói: “Một niệm niệm Phật, diệt tội trong
tám mươi ức kiếp sanh tử, là v́ lúc niệm Phật
cái tâm mạnh mẽ, nhạy bén, chế phục, diệt
trừ ác nghiệp, quyết định được văng
sanh, chẳng cần phải ngờ vực!” Do vậy,
kẻ chẳng phỉ báng chánh pháp, ắt do sức thiện
nghiệp mạnh mẽ trong các đời trước, cho nên mới
có thể lâm chung chí tâm niệm Phật, mới được
bổn nguyện của Phật nhiếp thọ, văng sanh Cực
Lạc, chẳng phải là do may mắn mà đạt được
đâu nhé!
(Chú) Vấn viết:
Giả sử nhất nhân cụ Ngũ Nghịch tội,
nhi bất phỉ báng chánh pháp, kinh hứa đắc sanh. Phục
hữu nhất nhân, đản phỉ báng chánh pháp, nhi vô Ngũ
Nghịch chư tội, nguyện văng sanh giả, đắc
sanh dữ phủ? Đáp viết: Đản linh phỉ báng
chánh pháp, tuy cánh vô dư tội, tất bất đắc sanh. Hà
dĩ ngôn chi? Kinh ngôn: “Ngũ Nghịch tội nhân, đọa
A Tỳ đại địa ngục trung, cụ thọ
nhất kiếp trọng tội. Phỉ báng chánh pháp nhân đọa
A Tỳ đại địa ngục trung, thử kiếp
nhược tận, phục chuyển chí tha phương A
Tỳ đại địa ngục trung. Như thị triển
chuyển, kinh bách
thiên A Tỳ đại địa ngục, Phật bất
kư đắc xuất thời tiết. Dĩ phỉ báng chánh
pháp tội cực trọng cố. Hựu chánh pháp giả,
tức thị Phật pháp. Thử ngu si nhân kư sanh phỉ báng,
an hữu nguyện sanh Phật độ chi lư. Giả sử
đản tham bỉ độ an lạc nhi nguyện
sanh giả, diệc như cầu phi thủy chi băng, vô
yên chi hỏa, khởi hữu đắc lư?
(註)問曰。假使一人具五逆罪。而不誹謗正法。經許得生。復有一人。但誹謗正法。而無五逆諸罪。願往生者。得生以不。答曰。但令誹謗正法。雖更無餘罪。必不得生。何以言之。經言。五逆罪人。墮阿鼻大地獄中。具受一劫重罪。誹謗正法人墮阿鼻大地獄中。此劫若盡。復轉至他方阿鼻大地獄中。如是展轉。經百千阿鼻大地獄。佛不記得出時節。以誹謗正法罪極重故。又正法者。即是佛法。此愚癡人既生誹謗。安有願生佛土之理。假使但貪彼土安樂。而願生者。亦如求非水之氷。無煙之火。豈有得理。
(Chú: Hỏi:
Giả sử có một người trọn đủ tội
Ngũ Nghịch, nhưng chẳng phỉ báng chánh pháp, kinh chấp
thuận người ấy được văng sanh. Lại
có một người, chỉ phỉ báng chánh pháp, nhưng không
có các tội Ngũ Nghịch mà nguyện văng sanh, th́ có được
văng sanh hay không? Đáp: Chỉ phỉ báng chánh pháp, tuy không
có các tội khác, ắt chẳng được văng sanh. V́ sao
nói vậy? Kinh nói: “Tội
nhân Ngũ Nghịch đọa trong đại địa
ngục A Tỳ thọ trọn một kiếp trọng tội.
Kẻ phỉ báng chánh pháp đọa vào đại
địa ngục A Tỳ, nếu kiếp ấy đă hết,
sẽ lại chuyển sang ở trong đại địa
ngục A Tỳ nơi phương
khác. Lần lượt xoay vần như thế, trải
qua trăm ngàn đại địa ngục A Tỳ, Phật
chẳng thọ kư có lúc được thoát ra, v́ tội phỉ
báng chánh pháp tột bậc nặng nề!” Lại nữa,
chánh pháp chính là Phật pháp. Kẻ ngu như thế đă
sanh ḷng phỉ báng, lẽ nào có chuyện nguyện sanh về
cơi Phật cho được? Giả sử chỉ v́ tham sự yên vui trong cơi ấy mà nguyện sanh về th́ cũng như cầu
băng chẳng có nước, cầu lửa chẳng có khói,
lẽ nào mà có được?)
Đây là lượt
vấn đáp thứ ba, nêu rơ kẻ phỉ báng chánh pháp tuy không
có các tội khác, cũng quyết định chẳng sanh về
An Lạc Tịnh Độ được! V́ sao? V́ kẻ
ấy đă chẳng tin Phật pháp, chẳng tin nhân quả,
chỉ là tham sống sợ chết, hy vọng sanh về thế
giới Cực Lạc để hưởng lạc. Điều
này giống như cầu băng không có nước, hoặc
cầu lửa chẳng có khói, quyết định sẽ là
xôi hỏng bỏng không, chẳng thể đạt được!
(Chú) Vấn viết:
Hà đẳng tướng thị phỉ báng chánh pháp? Đáp
viết: Nhược ngôn vô Phật, vô Phật pháp, vô Bồ
Tát, vô Bồ Tát pháp, như thị đẳng kiến, nhược
tâm tự giải, nhược tùng tha thọ, kỳ tâm quyết
định, giai danh phỉ báng chánh pháp.
(註)問曰。何等相是誹謗正法。答曰。若言無佛。無佛法。無菩薩。無菩薩法。如是等見。若心自解。若從他受。其心決定。皆名誹謗正法。
(Chú: Hỏi:
Những tướng như thế nào th́ là phỉ báng chánh
pháp? Đáp: Nếu nói không có Phật, không có Phật pháp, không
có Bồ Tát, không có Bồ Tát pháp, những kiến giải như
vậy, nếu do tâm tự hiểu, hoặc do tiếp nhận
từ người khác rồi sanh tâm quyết định th́
đều gọi là phỉ báng chánh pháp).
Đây là lượt
vấn đáp thứ tư, chỉ rơ phỉ báng chánh pháp là
như thế nào? Giả sử quư vị tự cho rằng
“ta là người có trí huệ, kiến thức”, tự cậy
thông minh, trong tâm sanh khởi một loại tà kiến, hoặc
do được người khác truyền dạy, cho rằng
loại tà kiến ấy quyết định chẳng sai lầm.
Do thứ tà kiến ấy, phỉ báng Tam Bảo, nói “quyết
định chẳng có Phật, Bồ Tát”, phủ
định hết thảy kinh điển Phật giáo, nói Phật
pháp là mê tín gạt người! Chẳng hạn như nói “không có A
Di Đà Phật, mà cũng chẳng có Tây Phương Cực
Lạc thế giới”. Đấy gọi
là phỉ báng chánh pháp. Những chuyện giống như vậy
trong thế gian thường có! Những [kẻ chủ trương
hoặc tin theo] duy vật luận, vô thần luận, nhất
thần luận đều chẳng tin Phật pháp, nói “không
có Phật, không có Phật pháp, không có Bồ Tát, Phật giáo
là mê tín”, th́ đều là những kẻ phỉ báng chánh pháp!
(Chú) Vấn viết:
Như thị đẳng kế, đản thị kỷ
sự, ư chúng sanh hữu hà khổ năo, du ư Ngũ Nghịch
trọng tội da? Đáp viết: Nhược vô chư Phật,
Bồ Tát thuyết thế gian xuất thế gian thiện đạo,
giáo hóa chúng sanh giả, khởi tri hữu nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín da? Như thị thế gian nhất thiết thiện
pháp giai đoạn, xuất thế gian nhất thiết hiền
thánh giai diệt. Nhữ đản tri Ngũ Nghịch tội
vi trọng, nhi bất tri Ngũ Nghịch tội tùng vô chánh
pháp sanh. Thị cố, báng chánh pháp nhân kỳ tội tối
trọng.
(註)問曰。如是等計。但是己事。於眾生有何苦惱。踰於五逆重罪耶。答曰。若無諸佛菩薩說世間出世間善道。教化眾生者。豈知有仁義禮智信耶。如是世間一切善法皆斷。出世間一切賢聖皆滅。汝但知五逆罪為重。而不知五逆罪從無正法生。是故謗正法人其罪最重。
(Chú: Hỏi:
Những so đo, chấp trước như vậy chỉ
là chuyện của chính ḿnh, đối với chúng sanh có [gây
ra] khổ năo ǵ đâu mà lại nặng hơn trọng tội
Ngũ Nghịch? Đáp: Nếu không có chư Phật, Bồ
Tát nói thiện đạo thế gian và xuất thế gian,
giáo hóa chúng sanh, há [chúng sanh] biết có nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín ư? Như thế th́ hết thảy thiện pháp
thế gian đều đoạn, hết thảy hiền
thánh xuất thế gian đều diệt. Ông chỉ biết
tội Ngũ Nghịch là nặng, nhưng chẳng biết
tội Ngũ Nghịch sanh từ [sự gièm báng] “không có chánh
pháp”. Do vậy, kẻ báng Chánh Pháp tội nặng nhất).
Đây là lượt
vấn đáp thứ năm, nói rơ người báng chánh pháp,
tội ấy nặng nhất, vượt trỗi Ngũ
Nghịch. V́ người báng chánh pháp đă dấy lên tà kiến,
so đo tà vạy, phủ định “chẳng có Phật,
Bồ Tát, chẳng có Phật pháp”, liên đới th́ tất
nhiên cũng [sẽ cho rằng]
chẳng có hết thảy nhân quả thế gian lẫn xuất
thế gian, phủ định hết thảy báo ứng
thiện ác và sự thật luân hồi
của chúng sanh. “Như thị đẳng kế” (So đo như
thế ấy) đều là có thể tự
hại ḿnh, lại
c̣n có thể
hại người khác, thường
nói là “kẻ đui dẫn người mù, kéo nhau vào hố
lửa”, đối với thế đạo nhân tâm có mối
quan hệ cực lớn! Giả sử chẳng có Phật,
Bồ Tát xuất hiện trong nhân gian thuyết pháp giáo hóa
chúng sanh, người
thế gian chẳng biết phải tuân thủ khuôn phép đạo
đức “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. V́ Ngũ Giới
do đức Phật nói chính là Ngũ Thường của
Nho gia; Ngũ Giới và Ngũ Thường tương đồng.
Quân tử và thánh hiền trong thế gian, đại đa
số đều là Phật, Bồ Tát ứng hóa, dùng thân để
nêu bày khuôn mẫu. Do vậy nói: “Nếu không
có Phật, Bồ Tát, không có Phật pháp, tất nhiên cũng
chẳng có thiện sự nhân nghĩa trung hiếu trong thế
gian, cũng tức là chẳng có thiện nhân, quân tử, chẳng
có bậc hiền thánh, hào kiệt có thể khiến cho người
khác kính ngưỡng, làm khuôn mẫu cho người khác”. Đấy gọi
là “phá hư con mắt
của chúng sanh”, khiến
cho chúng sanh chẳng biết thiện là ǵ, ác là ǵ, làm xằng,
làm bậy, cho nên có những chuyện như Ngũ Nghịch,
Thập Ác v.v… Những tội lỗi ấy đều là
do phỉ báng chánh pháp dẫn sanh, tội ấy to lớn, đúng
là trời đất chẳng thể dung nổi!
(Chú) Vấn viết:
Nghiệp Đạo kinh ngôn: “Nghiệp
đạo như xứng, trọng giả tiên khiên”. Như
Quán Vô Lượng Thọ Kinh ngôn, hữu nhân tạo Ngũ
Nghịch, Thập Ác, cụ chư bất thiện, ưng đọa
ác đạo, kinh lịch đa kiếp, thọ vô lượng
khổ. Lâm mạng chung thời, ngộ thiện tri thức,
giáo xưng Nam Mô A Di Đà Phật,
như thị chí tâm linh thanh bất tuyệt, cụ túc thập
niệm, tiện đắc văng sanh An Lạc Tịnh Độ,
tức nhập Đại Thừa Chánh Định chi tụ,
tất cánh bất thoái, dữ tam đồ chư khổ vĩnh
cách. “Tiên khiên” chi nghĩa,
ư lư như hà? Hựu khoáng kiếp dĩ lai, bị tạo
chư hạnh hữu lậu chi pháp, hệ thuộc tam giới,
đản dĩ thập niệm, niệm
A Di Đà Phật, tiện xuất tam giới, “hệ
nghiệp” chi nghĩa,
phục dục vân hà?
(註)問曰。業道經言。業道如秤。重者先牽。如觀無量壽經言。有人造五逆十惡。具諸不善。應墮惡道。經歷多劫。受無量苦。臨命終時。遇善知識。教稱南無阿彌陀佛。如是至心。令聲不絕。具足十念。便得往生安樂淨土。即入大乘正定之聚。畢竟不退。與三塗諸苦永隔。先牽之義。於理如何。又曠劫已來。備造諸行。有漏之法。繫屬三界。但以十念。念阿彌陀佛。便出三界。繫業之義。復欲云何。
(Chú: Hỏi:
Kinh [Thập Thiện] Nghiệp Đạo nói: “Nghiệp đạo
như cái cân, bên nào nặng
sẽ lôi đi trước”. Như kinh Quán Vô Lượng
Thọ nói: “Có kẻ tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác, trọn
đủ các điều bất thiện, đáng đọa
vào ác đạo trải qua nhiều kiếp, chịu vô
lượng khổ. Khi lâm chung, gặp thiện tri thức,
dạy xưng niệm Nam-mô A Di Đà Phật. Chí tâm như
thế khiến cho âm thanh chẳng dứt, trọn đủ
mười niệm, liền được văng sanh An Lạc
Tịnh Độ, liền dự vào Chánh Định Tụ
của Đại Thừa, rốt cuộc bất thoái, vĩnh
viễn cách biệt các nỗi khổ trong tam đồ”. Ư
nghĩa “lôi đi trước” xét theo Lư th́ là như thế
nào? Lại nữa, từ bao kiếp lâu xa đến nay, tạo
đủ pháp hữu lậu nơi các hạnh, bị trói buộc
trong tam giới, chỉ do mười niệm niệm A Di
Đà Phật bèn thoát khỏi tam giới, c̣n nói về ư nghĩa
“trói buộc bởi
nghiệp” như
thế nào nữa ư?)
Đây là lần thứ
sáu nêu ra nghi vấn, do kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo
và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, hai kinh nói khác nhau. Đă
là “nghiệp nặng
bèn lôi đi trước” và “bị trói buộc
trong tam giới”, há lẽ
nào có thể khi lâm chung chỉ mười niệm Di Đà liền
được văng sanh Tịnh Độ ư?
(Chú) Đáp viết:
Nhữ vị Ngũ Nghịch, Thập Ác, hệ nghiệp đẳng
vi trọng, dĩ hạ hạ phẩm nhân thập niệm
vi khinh, ưng vị tội sở khiên, tiên đọa địa
ngục, hệ tại tam giới giả. Kim đương
dĩ nghĩa, giảo
lượng khinh trọng chi nghĩa, tại tâm, tại duyên,
tại quyết định, bất tại thời tiết
cửu cận, đa thiểu dă. Vân hà tại tâm? Bỉ tạo
tội nhân, tự y chỉ hư vọng điên đảo
kiến sanh. Thử
thập niệm giả, y thiện tri thức phương
tiện an ủy, văn Thật Tướng pháp sanh. Nhất
thật, nhất hư, khởi đắc tương tỷ?
Thí như thiên tuế ám thất, quang nhược tạm chí,
tức tiện minh lăng, ám khởi đắc ngôn tại thất
thiên tuế nhi bất khứ da? Thị danh tại tâm. Vân hà
tại duyên? Bỉ tạo tội nhân, tự y chỉ vọng
tưởng tâm, y phiền năo hư vọng quả báo chúng
sanh sanh. Thử thập niệm giả, y chỉ vô thượng
tín tâm, y A Di Đà Như Lai phương tiện trang nghiêm chân
thật thanh tịnh vô lượng công đức danh hiệu
sanh. Thí như hữu
nhân bị độc tiễn sở trúng, tiệt cân phá cốt,
văn Diệt Trừ dược cổ, tức tiễn xuất
độc trừ (Thủ Lăng Nghiêm kinh ngôn: “Thí như hữu
dược, danh viết Diệt Trừ. Nhược đấu
chiến thời, dụng dĩ đồ cổ, văn cổ
thanh giả, tiễn xuất độc trừ. Bồ Tát Ma
Ha Tát diệc phục như thị, trụ Thủ Lăng
Nghiêm tam-muội, văn kỳ danh giả, tam độc chi
tiễn, tự nhiên bạt xuất”), khởi khả đắc
ngôn bỉ tiễn thâm, độc lệ, văn
cổ âm thanh, bất
năng bạt tiễn khử độc da? Thị danh tại
duyên. Vân hà tại quyết định? Bỉ tạo tội
nhân, y chỉ hữu hậu tâm, hữu gián tâm sanh. Thử
thập niệm giả, y chỉ vô hậu tâm, vô gián tâm
sanh. Thị danh quyết định. Giảo lượng
tam nghĩa, thập niệm giả trọng, trọng giả
tiên khiên, năng xuất Tam Hữu, lưỡng kinh nhất
nghĩa nhĩ!
(註)答曰。汝謂五逆十惡。繫業等為重。以下下品人十念為輕。應為罪所牽。先墮地獄。繫在三界者。今當以義校量。輕重之義。在心。在緣。在決定。不在時節久近多少也。云何在心。彼造罪人。自依止虛妄顛倒見生。此十念者。依善知識方便安慰。聞實相法生。一實一虛。豈得相比。譬如千歲闇室。光若暫至。即便明朗。闇豈得言。在室千歲。而不去耶。是名在心。云何在緣。彼造罪人。自依止妄想心。依煩惱虛妄果報眾生生。此十念者。依止無上信心。依阿彌陀如來方便莊嚴。真實清淨。無量功德名號生。譬如有人。被毒箭所中。截筋破骨。聞滅除藥鼓。即箭出毒除(首楞嚴經言。譬如有藥。名曰滅除。若鬪戰時。用以塗鼓。聞鼓聲者。箭出毒除。菩薩摩訶薩亦復如是。住首楞嚴三昧。聞其名者。三毒之箭自然拔出)。豈可得言。彼箭深毒厲。聞鼓音聲。不能拔箭去毒耶。是名在緣。云何在決定。彼造罪人。依止有後心。有間心生。此十念者。依止無後心。無間心生。是名決定。校量三義。十念者重。重者先牽。能出三有。兩經一義耳。
(Chú:
Đáp: Ông cho rằng Ngũ Nghịch, Thập Ác, bị trói
buộc bởi nghiệp v.v… là nặng, coi mười niệm
của người thuộc hạ hạ phẩm là nhẹ,
đáng bị tội lôi kéo, trước hết đọa
vào địa ngục, bị trói buộc trong tam giới.
Nay tôi dùng ư nghĩa để so lường th́ ư nghĩa nặng
hay nhẹ là do tại tâm, tại duyên, tại quyết
định, chẳng do thời tiết lâu hay mau, [niệm Phật]
nhiều hay ít vậy. Thế nào là tại tâm? Kẻ tạo
tội ấy tự nương theo kiến giải hư
vọng điên đảo mà sanh, c̣n mười niệm ấy
là do nương theo phương tiện an ủi của thiện
tri thức và nghe pháp Thật Tướng mà sanh. Một đằng
thật, một đằng hư, há so sánh được ư?
Ví như nhà tối ngàn năm, nếu ánh sáng tạm chiếu
đến, bèn ngay lập tức sáng sủa, há có thể nói
là do tối tăm đă ở trong nhà ngàn năm bèn chẳng
tản đi ư? Đó gọi là tại tâm. Thế nào là
tại duyên? Kẻ tạo tội ấy tự nương
tựa cái tâm hư vọng, nương theo phiền năo, quả
báo hư vọng và chúng sanh mà sanh. C̣n mười niệm này
chính là nương cậy tín tâm vô thượng, nương
theo phương tiện trang nghiêm, và danh hiệu
vô lượng công đức thanh tịnh chân thật của
A Di Đà Như Lai mà sanh. Ví như
có người bị trúng tên độc, đứt gân, vỡ xương,
nghe tiếng cái trống thuốc Diệt Trừ, mũi tên
độc liền bị rớt ra, chất độc bị
trừ hết (kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Ví như có chất
thuốc tên là Diệt Trừ. Nếu trong lúc chiến đấu,
dùng thuốc bôi lên trống, kẻ nghe tiếng trống, mũi
tên sẽ rớt ra, chất độc bị trừ. Bồ
Tát Ma Ha Tát cũng giống như thế, trụ trong Thủ
Lăng Nghiêm tam-muội, kẻ nghe tên Ngài, mũi tên tam độc
tự nhiên rơi ra), há có thể nói là v́ mũi tên ghim sâu,
chất độc dữ dội, nghe tiếng trống mà chẳng
thể nhổ tên, trừ độc ư? Đấy gọi
là tại duyên. Thế nào là tại quyết định? Kẻ
tạo tội ấy nương cậy cái tâm hữu
hậu, tâm có gián
đoạn mà sanh. C̣n mười niệm ấy th́ nương
cậy vô hậu tâm, tâm chẳng gián đoạn mà sanh. Đó
gọi là quyết định. So lường cả ba nghĩa
th́ mười niệm là nặng, “nặng th́ sẽ lôi đi
trước, có thể thoát khỏi Tam Hữu (ba cơi, tam giới)”,
hai kinh có cùng một ư nghĩa vậy!)
Lời giải đáp
của ngài Đàm Loan đă dựa theo ba phương diện
là tâm, duyên và quyết định để giải thích hàm
nghĩa “tạo nghiệp nặng hay nhẹ” ḥng thuyết
minh mười niệm lúc lâm chung chính là trọng nghiệp,
cho nên phù hợp với nghĩa “cái nào nặng sẽ kéo đi
trước”, có thể thoát khỏi tam giới, được
sanh về Tịnh Độ.
“Tại tâm” là
kẻ ác lúc lâm chung có thể niệm Phật mười niệm,
tức là nương theo sự chỉ
bảo, hướng dẫn của bậc
thiện tri thức trong Phật môn, nghe nói danh hiệu và công
đức, bổn nguyện của A Di Đà Phật, là pháp
Thật Tướng chân thật chẳng thể nghĩ
bàn. Do vậy, sanh ḷng tin, phát nguyện niệm Phật; đấy
chính là tịnh tâm, tịnh nghiệp chân thật cực trọng.
“Tại duyên”
là chúng sanh tạo tội, đều do nhân duyên Hoặc Nghiệp
Khổ hư vọng sai khiến. Mười niệm niệm
Phật th́ nương cậy tín tâm đối với vô thượng
Phật pháp làm nhân, nương vào danh hiệu công đức
của A Di Đà Phật làm duyên, nhân duyên ḥa hợp bèn có mười niệm. Mười
niệm ấy giống như âm thanh của cái trống thuốc
Diệt Trừ, có thể dẹp trừ hết thảy trọng
tội, văng sanh Tịnh Độ.
“Tại quyết
định” là lâm chung mười niệm niệm Phật,
tức là mười niệm cuối cùng trong một đời
người, hết một báo thân ấy, chẳng có tâm niệm
nào khác nữa, nên gọi là “vô hậu tâm”. Mười
niệm ấy lại cực kỳ dũng mănh, nhạy bén,
chuyên nhất, khẩn thiết, cầu nguyện văng sanh, chẳng
có ư niệm nào khác xen tạp, v́ thế gọi là “vô gián tâm”.
Mười niệm vô hậu, vô gián như thế chính là “chí
tâm tin ưa”, c̣n gọi là “chí tâm tinh tấn”, là “trọng tâm,
trọng nghiệp”, đương
nhiên là cái nào nặng sẽ lôi đi trước, chuyển
ác báo trong tam đồ thành liên hoa hóa sanh nơi Tịnh Độ.
Nhân quả vốn là như thế! Do vậy, đức Bổn
Sư nói ra pháp môn Tịnh Độ nhằm dạy phụ
vương và hết thảy chúng sanh đều phải nên
nương theo một pháp “chí tâm niệm Phật” này, ḥng ĺa
khổ, được vui, liễu sanh thoát tử, cho đến
thành Phật, làm Tổ. Đấy chính là nhân duyên vô thượng
do đức Thế Tôn đă ban cho hết thảy chúng sanh
lợi ích chân thật vậy. Đấy là đại sự
duy nhất.
(Chú) Vấn viết:
Kỷ thời danh vi nhất niệm? Đáp viết: Bách nhất
sanh diệt, danh nhất sát-na. Lục thập sát-na danh vi nhất
niệm. Thử trung vân “niệm” giả, bất thủ thử
thời tiết dă. Đản ngôn ức niệm A Di Đà
Phật, nhược tổng tướng, nhược biệt
tướng, tùy sở quán duyên, tâm vô tha tưởng, thập
niệm tương tục, danh vi “thập niệm”. Đản
xưng danh hiệu, diệc phục như thị.
(註)問曰。幾時名為一念。答曰。百一生滅。名一剎那。六十剎那。名為一念。此中云念者。不取此時節也。但言憶念阿彌陀佛。若總相。若別相。隨所觀緣。心無他想。十念相續。名為十念。但稱名號。亦復如是。
(Chú: Hỏi:
Bao lâu th́ gọi là “một niệm”? Đáp: Một trăm
lẻ một lần sanh diệt th́ gọi là một sát-na,
sáu mươi sát-na th́ gọi là một niệm. “Niệm” được
nói ở đây chẳng theo cách hạn định thời
khắc ấy! Chỉ nói ức niệm A Di Đà Phật dù
là tổng tướng hay biệt tướng, tùy theo cái duyên
để quán, tâm chẳng tưởng chi khác, mười
niệm liên tục th́ gọi là “thập niệm”. Chỉ xưng
danh hiệu cũng giống như thế).
Đấy là lần
vấn đáp thứ bảy nhằm nói rơ như thế nào th́ gọi là “thập niệm”.
Nói đến “một niệm” th́ thời
gian cực ngắn. Kinh luận nói mỗi thứ mỗi khác.
Nói theo quyển Thượng
của kinh Nhân Vương Bát Nhă th́ chín mươi sát-na là một
niệm. Một sát-na là [thời gian] trải qua chín trăm
lần sanh diệt. Quyển ba của bộ Đại Trí
Độ Luận th́ nói: Trong khoảng khảy ngón tay một
cái bèn có sáu mươi niệm. Ngài Đàm Loan nói: Sáu mươi
sát-na gọi là một niệm. Nay một niệm được
nói trong “mười niệm niệm Phật” trọn chẳng
phải là nói theo những kiểu thời khắc ấy.
Giả sử là quán tưởng niệm Phật th́ trong tâm
ức niệm tổng tướng (toàn thân tử kim dung),
hay biệt tướng (tướng bạch hào, tướng
nhục kế v.v…) của A Di Đà Phật, chú tâm quán tưởng
rành rẽ phân minh, trong tâm chẳng có niệm nào khác. Như
thế th́ gọi là “một niệm”. Khi quán tưởng
như thế mà cảm thấy chẳng phân minh, th́ lại
tác ư trụ tâm quán tưởng sao cho rành rẽ phân minh. Mười
lượt quán tưởng Phật Di Đà liên tục chẳng
gián đoạn như thế th́ gọi là “thập niệm”.
Nếu là tŕ danh niệm Phật, chỉ xưng danh hiệu,
vậy th́ do tâm và miệng chuyên nhất, xưng danh hiệu
Di Đà, buộc tâm nơi danh hiệu Di Đà, rành rẽ
phân minh, chẳng niệm danh hiệu nào khác th́ là “một
niệm”. Mười niệm niệm Phật liên tục
chẳng gián đoạn như thế cũng gọi là “thập
niệm”.
(Chú) Vấn viết:
Tâm nhược tha duyên, nhiếp chi linh hoàn, khả tri niệm
chi đa thiểu, đản tri đa thiểu, phục phi
vô gián. Nhược ngưng tâm chú tưởng, phục y hà
khả đắc kư niệm chi đa thiểu? Đáp viết:
Kinh ngôn thập niệm giả, minh nghiệp sự thành biện
nhĩ, bất tất tu tri đầu số dă. Như ngôn huệ
cô bất thức xuân thu, y trùng khởi tri Châu Dương
chi tiết hồ? Tri giả ngôn chi nhĩ, thập niệm
nghiệp thành giả, thị diệc thông thần giả
ngôn chi nhĩ. Đản tích niệm tương tục, bất
duyên tha sự tiện băi, phục hà hạ tu tri niệm chi
đầu số dă. Nhược tất tu tri, diệc hữu
phương tiện, tất tu khẩu thọ, bất đắc
đề chi bút điểm.
(註)問曰。心若他緣。攝之令還。可知念之多少。但知多少。復非無間。若凝心注想。復依何可得記念之多少。答曰。經言十念者。明業事成辨耳。不必須知頭數也。如言蟪蛄不識春秋。伊蟲豈知朱陽之節乎。知者言之耳。十念業成者。是亦通神者言之耳。但積念相續。不緣他事便罷。復何暇須知念之頭數也。若必須知。亦有方便。必須口授。不得題之筆點。
(Chú: Hỏi:
Nếu tâm duyên theo sự khác, bèn gom tâm trở lại, sẽ
có thể biết là bao nhiêu niệm. Chỉ biết là bao nhiêu
th́ sẽ chẳng c̣n là không gián đoạn nữa! Nếu
lắng ḷng dốc ư quán tưởng th́ lại dựa vào đâu
để nhớ bao nhiêu niệm? Đáp rằng: Kinh nói “mười
niệm” là nói đến nghiệp sự đă hoàn thành (tức
là do tịnh nghiệp đă thành tựu bèn có thể văng
sanh), chẳng cần phải biết số lượng!
Như nói ve sầu chẳng biết trời Xuân hay tiết
Thu, như con trùng Y Oai há biết tiết
giao mùa giữa Hạ và Thu? Nói “biết” tức là nói “mười
niệm đă thành”, đấy cũng
là nói để khuyên người nghe hăy lănh hội đó thôi.
Chỉ tích lũy niệm liên tục, chẳng duyên theo chuyện
khác là được rồi, hơi đâu mà cần phải
biết số lượng của niệm chi nữa! Nếu
cứ ắt cần phải biết th́ cũng có phương
tiện, nhưng cần phải dạy truyền khẩu
[trực tiếp], chứ không ghi ra được).
Đây là lượt
vấn đáp thứ tám. Lời hỏi là dùng tâm để
niệm, nếu như tâm duyên theo chuyện khác th́ phải
thâu nhiếp [cái tâm] trở lại, như thế th́ sẽ
có thể biết ư niệm niệm Phật của chính ḿnh
có bao nhiêu niệm. Giả sử lắng ḷng chuyên chú, hoặc
quán tưởng, hoặc tŕ danh, vậy th́ làm sao c̣n có thể
phân tâm để biết có bao nhiêu niệm? Ngài Đàm Loan
giải đáp, đă dựa theo kinh Vô Lượng Thọ dạy
“cho đến một niệm, hoặc
mười niệm”, [tức là] chẳng
hạn định số lần niệm nhiều hay ít, chỉ
cần dựa theo tiêu chuẩn “tịnh nghiệp thành tựu
sẽ liền có thể văng sanh”, chẳng cần phải
xác định số lượng ư niệm niệm Phật.
Chẳng hạn như kinh nói: “Chí tâm tín nhạo, dục
sanh ngă quốc, năi chí thập niệm, nhược bất
sanh giả, bất thủ Chánh Giác” (Chí tâm tin ưa, muốn
sanh về nước ta, cho đến mười niệm,
nếu như chẳng sanh, ta chẳng giữ lấy ngôi Chánh
Giác). Lại nói: “Văn kỳ danh hiệu, tín tâm hoan hỷ,
năi chí nhất niệm, chí tâm hồi hướng, nguyện
sanh bỉ quốc, tức đắc văng sanh, trụ Bất
Thoái Chuyển” (Nghe danh hiệu của Ngài, chí tâm hoan hỷ,
cho đến một niệm, chí tâm hồi hướng,
nguyện sanh về cơi Ngài, liền được văng sanh,
trụ Bất Thoái Chuyển). Kinh văn đă nói rất
minh bạch, “năi chí nhất niệm, thập niệm”
(cho đến một niệm hoặc mười niệm).
“Năi chí” (乃至) tức
là chẳng xác định số lượng ư niệm niệm
Phật. Luôn luôn là nước chảy thành gịng, nói [theo kiểu]
“thành tựu Tịnh nghiệp
th́ biết sẽ được văng sanh”. Bất
luận quán tưởng hoặc tŕ danh, chỉ có thể niệm
đâu th́ chú tâm vào đó, nhớ rơ, chẳng quên, liên tục
chẳng dứt, chẳng duyên theo chuyện khác là được
rồi, cần ǵ phải biết số lượng niệm
Phật để rồi trở ngại “tịnh niệm
liên tục”.
Ngài Đàm Loan lại
nêu ra hai chuyện để làm thí dụ ḥng làm cho [độc
giả] thấu hiểu. Ví như nói: “Huệ cô bất
thức Xuân Thu”. Câu này xuất phát từ bài Tiêu Dao Du của
Trang Tử. “Huệ cô” (蟪蛄) chính là
con ve vào mùa Hè, sanh vào mùa Hạ, chết vào mùa Thu. Do thọ
mạng ngắn ngủi, nên nó chẳng
biết Xuân, Thu. Lại
ví như nói: “Y trùng khởi tri Châu Dương chi tiết”.
Y Oai (伊威) là tên
của một loài trùng, câu này trích từ kinh Thi “Y Oai tại
vọng” (con trùng Y Oai trông ngóng).
Y trùng[3] vào
lúc giao mùa giữa Hạ và Thu, sống ở chỗ đất
ẩm dưới tường vách hoặc dưới đáy
lu vại, màu trắng xám, thân h́nh tṛn dài, có nhiều cặp
chân. Y Oai Trùng tuy sống vào cuối Hạ đầu Thu, nó
trọn chẳng biết đến tiết khí Châu Dương.
Châu Dương (朱陽)[4] là từ ngữ để
h́nh dung tiết khí Hạ Thu. Ve sầu và Y trùng đích xác là
có thời tiết sanh trưởng, nhưng chúng trọn chẳng
có quan niệm thời tiết. Nói đến các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông th́ chỉ con người mới có cách nói ấy.
Dùng hai chuyện ấy để sánh ví “thập niệm niệm
Phật, thành tựu Tịnh
nghiệp” cũng giống như thế. Tuy có thời khắc để
hoàn thành, nhưng chẳng thể dùng quan niệm thời khắc
thông thường để đo lường được,
mà cũng chớ nên chấp trước số lượng niệm nhiều hay ít, càng chớ nên chấp đấy là lúc b́nh thường,
hoặc đấy là lúc lâm chung. Chỉ có thể hiểu ư,
chẳng thể truyền dạy được. V́ thế
nói: “Thị diệc thông thần (hiểu ư) giả ngôn
chi nhĩ” (Đấy
cũng là nói để lănh hội ư nghĩa đó thôi).
Ngài Đàm Loan rất
từ bi, Ngài bảo: Nếu quư vị cứ nhất định
muốn biết “như thế nào th́ mới là mười
niệm thành công”, Ngài cũng có phương tiện có thể
giúp cho quư vị nhận biết. Bất quá, phương
pháp ấy chẳng thể sử dụng văn tự để
viết ra được, ắt cần phải truyền miệng
trực tiếp. Đấy chính là như Thiền Tông Trung
Hoa nói “dĩ tâm ấn tâm”. Chẳng hạn như Lục
Tổ ấn chứng cho người khác bèn nói: “Như thị, như thị, nhữ như
thị, ngă diệc như thị” (Như
thế đấy, như thế đấy, ông là như thế
đấy, mà tôi cũng là như thế đấy). Đấy
cũng là nói: Chỉ có thể đối với người
đă thành tựu Tịnh
nghiệp mà nói, chẳng thể nói với mọi người
được!
2.2.2. Giảng giải phần
Luận Thích
2.2.2.1. Nêu chung
(Luận) Luận viết.
(Chú) “Luận
viết” dĩ
hạ, thử thị giải nghĩa phần.
(論)論曰。
(註)論曰已下。此是解義分。
(Luận:
Luận nói…
Chú: Từ chữ
“luận nói” trở đi chính là phần giải nghĩa).
Từ đây trở
đi, Luận Chủ giải thích tường tận bài
Nguyện Sanh Kệ, nên gọi là Giải Nghĩa Phần.
2.2.2.1.1. Chia thành các chương
(Chú) Thử phần
trung, nghĩa hữu thập trùng: Nhất
giả, nguyện kệ đại ư; nhị giả, khởi
quán sanh tín; tam giả, quán hạnh thể tướng; tứ
giả, tịnh nhập nguyện tâm; ngũ
giả, thiện xảo nhiếp hóa; lục giả, ly Bồ
Đề chướng; thất giả, thuận Bồ
Đề môn; bát giả, danh nghĩa nhiếp đối; cửu
giả, nguyện sự thành tựu; thập
giả, lợi hành măn túc.
(註)此分中義有十重。一者願偈大意。二者起觀生信。三者觀行體相。四者淨入願心。五者善巧攝化。六者離菩提障。七者順菩提門。八者名義攝對。九者願事成就。十者利行滿足。
(Chú: Trong phần
này, ư nghĩa được chia thành mười tầng: Một
là đại ư của bài Nguyện Sanh Kệ, hai là dấy
lên sự quán tưởng, sanh khởi ḷng tin, ba là thể tướng
của quán hạnh, bốn là thanh tịnh tiến
nhập nguyện tâm, năm là sự nhiếp hóa hay khéo, sáu
là ĺa những thứ chướng ngại Bồ Đề,
bảy là các pháp thuận tùng Bồ Đề, tám là phối
hợp tương ứng giữa danh tướng và nghĩa
lư, chín là nguyện sự thành tựu, mười là viên măn các
hạnh tạo lợi lạc).
Trong phần Giải
Nghĩa thuộc phần Trường Hàng của bộ luận
này, tổng cộng có mười tầng nghĩa
lư. Ngài Đàm Loan bèn chia thành mười khoa (chương),
khiến cho ư chính vừa được nêu ra, các ư nghĩa
chi tiết đều hiển lộ, thứ lớp phân minh.
2.2.2.1.2. Giải thích kinh
văn
(Chú) Luận giả, nghị
dă. Ngôn nghị kệ sở dĩ dă. Viết giả, từ
dă, chỉ
hạ chư cú, thị nghị thích kệ từ dă. Cố
ngôn “luận viết”.
(註)論者議也。言議偈所以也。曰者詞也。指下諸句。是議釋偈詞也。故言論曰。
(Chú: “Luận”
là bàn bạc, ư nói: Bàn định những nguyên do trong phần
Kệ. “Viết” (nói) là diễn
tả bằng ngôn từ, ư nói các câu tiếp theo phần này
chính là những lời lẽ
nhằm biện định, giải
thích ư nghĩa trong lời kệ. V́ thế bảo là “luận
nói”).
“Luận” là
nghị luận. Lời nghị luận do nương theo nghĩa
lư để phân tích các ư nghĩa được bao hàm trong Nguyện
Sanh Kệ.
2.2.2.2. Giải thích ư
nghĩa
2.2.2.2.1. Đại ư của
bài Nguyện Sanh Kệ
(Chú) Nguyện kệ đại ư giả.
(Luận) Thử nguyện kệ minh hà nghĩa?
Thị hiện quán bỉ An Lạc thế giới, kiến
A Di Đà Như Lai, nguyện sanh bỉ quốc cố.
(論)此願偈明何義。示現觀彼安樂世界。見阿彌陀如來。願生彼國故。
(Chú: Đại
ư của bài Nguyện Sanh Kệ.
Luận: Bài kệ
Nguyện Sanh này nói lên ư nghĩa ǵ? Dạy quán thế giới
An Lạc trong hiện tại, thấy A Di Đà Như Lai,
nguyện sanh về cơi ấy).
“Nguyện kệ đại
ư” là nói đến đại ư của hai mươi bốn
bài kệ tụng do vị Luận Chủ đă nói trong phần
trước. Luận Chủ tự ḿnh gạn hỏi: Nguyện
Sanh Kệ gồm hai mươi bốn bài tụng trong phần
trước nhằm để tỏ rơ tông chỉ và nghĩa
lư ǵ vậy? Ngài tự giải đáp: Đại ư là v́ khai
thị [hành nhân hăy] quán Tây Phương An Lạc thế giới
trong hiện tại, hai mươi chín món công đức
trang nghiêm [trong hai mươi bốn bài kệ ấy]
được chia thành ba loại [rành rẽ phân minh] như
đối trước mắt, khiến cho người quán
tưởng thấu hiểu rành rẽ phân minh, đích thân thấy
A Di Đà Phật, tín tâm kiên định, phát nguyện văng
sanh quốc độ An Lạc, thành tựu công đức
“tự lợi, lợi tha”, viên măn Bồ Đề ngay trong
một đời. Do có nhân duyên lợi ích như vậy,
cho nên Ngài viết Nguyện Sanh Kệ.
2.2.2.2.2. Khởi quán
sanh tín
(Chú) Khởi quán sanh tín giả, thử phần
trung, hựu
hữu nhị trùng: Nhất giả thị ngũ niệm lực,
nhị giả xuất ngũ niệm môn.
(註)起觀生信者。此分中又有二重。一者示五念力。二者出五念門。
(Chú:
“Khởi quán sanh tín”: Trong phần này, lại có hai tầng:
Một là chỉ ra ngũ niệm lực, hai là nêu ra ngũ
niệm môn).
Phần “khởi
quán sanh tín” được ngài Đàm Loan chia thành hai khoa,
tức là thành tựu tín tâm Tịnh Độ; sau đấy, phát khởi
quán hạnh. Trong phần này, lại chia thành hai đoạn,
một là nêu chung ngũ niệm môn có thể thành tựu những
lực dụng nào để khiến cho quư vị sanh ḷng
tin; hai là nêu chung danh tướng của ngũ niệm môn.
2.2.2.2.2.1. Chỉ ra ngũ
niệm lực
(Chú) Thị ngũ
niệm lực giả.
(Luận) Vân hà quán? Vân hà sanh tín tâm? Nhược
thiện nam tử, thiện nữ nhân, tu ngũ niệm môn
hạnh thành tựu, tất cánh đắc sanh An Lạc quốc
độ, kiến bỉ A Di Đà Phật.
(論)云何觀。云何生信心。若善男子。善女人修五念門行成就。畢竟得生安樂國土。見彼阿彌陀佛。
(Chú: Chỉ bày
năm niệm lực.
Luận: Quán
như thế nào? Sanh tín tâm như thế nào? Nếu thiện
nam tử, thiện nữ nhân tu ngũ niệm môn hạnh thành
tựu, rốt ráo được sanh về quốc độ
An Lạc, thấy A Di Đà Phật).
Chúng sanh trong thời
Mạt Pháp ngũ trược, tâm thô tán loạn, nhưng y
báo và chánh báo của Tịnh Độ tột bậc tinh
vi, phải tu quán như thế nào th́ mới thành tựu Tịnh
nghiệp, văng sanh Tịnh Độ? Như kinh Hoa Nghiêm
đă nói: “Tín vi đạo nguyên, công đức mẫu, trưởng
dưỡng nhất thiết chư thiện căn” (Tín
là nguồn đạo, mẹ công đức, nuôi lớn hết
thảy các thiện căn). Như Đại Trí Độ
Luận đă nói: “Biển cả Phật pháp, do tín bèn có
thể vào, do trí bèn có thể độ”. Do vậy, trước
khi tu Quán, ắt phải thành tựu tín tâm Tịnh Độ
trước đă. Chúng ta lại phải sanh khởi tín tâm
như thế nào? Luận Chủ đă khai thị rất đơn
giản: “Nam tử, nữ nhân chỉ cần ba nghiệp
thanh tịnh, phát tâm thượng cầu hạ hóa, đều
có thể gọi là thiện nam tử, thiện nữ nhân.
Loại chúng sanh có thiện căn Đại Thừa ấy
nếu có thể nương theo pháp môn ngũ niệm được
nói trong luận này để tu hành, chủ yếu là quan sát
tướng công đức chân thật của Tịnh
Độ, không chỉ là có thể sanh khởi tín tâm hoan hỷ
yêu thích, lại c̣n có thể thành tựu tín tâm Bất Thoái của
Đại Thừa, rốt ráo được sanh về quốc
độ An Lạc, thấy A Di Đà Phật, nghe pháp, thọ
kư”. Dựa theo những điều Khởi Tín Luận đă
nói, từ phát tâm tu Bồ Tát đạo, cho đến [khi chứng nhập] địa
vị Thập Tín th́ mới thành tựu tín tâm Đại Thừa.
Thế nhưng, nếu có thể tu pháp môn Ngũ Niệm, sẽ
có thể thành tựu ngay trong một đời, đấy
chính là v́ pháp môn Ngũ Niệm có lực dụng chẳng thể
nghĩ bàn.
Năm thứ pháp
môn ấy đều gọi là Niệm, có thể thấy chữ
Niệm chính là mấu chốt để thành tựu năm
pháp. V́ cái tâm vô niệm chỉ Phật mới có, chúng sanh không
ai chẳng có tâm; hễ
có tâm, ắt
có niệm. Mỗi khi niệm khởi lên, ắt rơi vào mười
pháp giới. Chẳng niệm Phật giới, chắc chắn
sẽ niệm giới khác. Niệm thiên th́ sanh thiên, niệm
Phật th́ thành Phật. Công dụng của niệm Phật
là có thể chuyển phàm tâm thành Phật tâm, từ ngay bổn
trí (chúng sanh vốn sẵn có) mà thành Phật trí. Đúng là điểm
sắt thành vàng, là linh phù diệu thuật để thoát
thai hoán cốt. Luận này nói đến Niệm th́ không phải
là chuyên dùng miệng để niệm, mà phải là trong tâm
ức niệm, tâm đặt nơi một cảnh, ức
niệm chẳng quên. Tâm tâm niệm niệm đều chẳng
ĺa nguyện sanh An Lạc quốc. Năm môn từ lễ bái
cho đến hồi hướng đều là như thế; niệm đâu
chú tâm tại đó th́ gọi là Niệm, nhớ rơ chẳng
quên là Ức. Ức niệm liên tục như thế, sẽ
có thể thành tựu pháp môn Ngũ Niệm và tín tâm Đại
Thừa, trọn chẳng có bí quyết nào khác cả!
2.2.2.2.2.2. Nêu ra ngũ
niệm môn
2.2.2.2.2.2.1. Nêu chung ngũ
niệm môn
(Luận) Hà đẳng ngũ niệm môn? Nhất
giả Lễ Bái Môn, nhị giả Tán Thán Môn, tam giả Tác
Quán Môn, tứ giả Quán Sát Môn, ngũ giả Hồi Hướng
Môn.
(Chú) Môn giả, nhập xuất nghĩa giả,
như nhân đắc môn, tắc nhập xuất vô ngại.
Tiền tứ niệm, thị nhập An Lạc Tịnh
Độ môn, hậu nhất niệm, thị xuất từ
bi giáo hóa môn.
(論)何等五念門。一者禮拜門。二者讚歎門。三者作願門。四者觀察門。五者迴向門。
(註)門者入出義也。如人得門。則入出無礙。前四念是入安樂淨土門。後一念是出慈悲教化門。
(Luận:
Ngũ niệm môn là những ǵ? Một là Lễ Bái Môn, hai
là Tán Thán Môn, ba là Tác Quán Môn, bốn là Quán Sát Môn, năm là Hồi
Hướng Môn.
Chú: “Môn” có nghĩa
là ra vào, như người có được cửa, sẽ
ra vào vô ngại. Bốn môn niệm đầu là môn để
nhập An Lạc Tịnh Độ, môn sau cùng là môn phát
khởi từ bi, giáo hóa).
Trước
hết, Luận Chủ nêu
chung năm niệm môn, tức là năm loại hạnh môn để
văng sanh An Lạc Tịnh Độ, bao hàm “tín, nguyện, niệm, hạnh”. Môn thứ nhất và môn thứ hai thuộc
về Hạnh, môn thứ ba thuộc về Nguyện, môn thứ
tư là Niệm, môn thứ năm là Tín. Lễ Bái Môn thuộc
về thân nghiệp, Tán Thán Môn thuộc về khẩu nghiệp.
Ba môn sau đều thuộc về ư nghiệp, cũng là hành
pháp để tu từ bi Định Huệ. Tác Nguyện có thể đắc
Định, Quán Sát có thể đắc Huệ, Hồi Hướng
có thể đạt được công đức đại
từ đại bi. Năm thứ hành pháp như thế có
thể khiến cho ba nghiệp của Tịnh nghiệp hành
nhân thanh tịnh, Tam Học trọn đủ, Chỉ và Quán
cùng vận dụng, phước và huệ cùng tu. Có thể
nói là đă tổng tŕ cương yếu của Bồ Tát
đạo và hành pháp Tịnh nghiệp chẳng sót. V́ thế,
có thể nhanh chóng thành tựu tư lương văng sanh, ngay
trong đời này được thấy A Di Đà Phật,
được sanh về An Lạc Tịnh Độ.
Luận
Chủ v́ thỏa nguyện “khiến cho chúng sanh cùng sanh về
An Lạc quốc” mà đặc biệt dựa theo kinh để
soạn luận, đề ra pháp tu ngũ niệm môn. Dựa
theo năm môn ấy, soạn ra Nguyện Sanh Kệ gồm
hai mươi bốn bài kệ để bao gồm chung các
nghĩa lư trọng yếu trong ấy. Hai bài kệ đầu chính là Luận Chủ trần thuật
ư nghĩa quy mạng, và soạn kệ tụng đại lược
về ba môn Lễ Bái, Tán Thán, và Tác Nguyện. Hai mươi
mốt bài kệ kế tiếp là kệ tụng chi tiết
về Quán Sát Môn. Bài kệ cuối cùng là Hồi Hướng
Môn. Lại dùng văn từ Trường Hàng để giải
thích pháp môn Ngũ Niệm ấy. Có thể biết năm niệm
môn ấy chính là tâm yếu từ đầu đến cuối
của bộ luận này, mà cũng là pháp môn bất
nhị để văng sanh Tịnh Độ. Bỏ năm môn
ấy, chắc chắn là trên chẳng thể văng sanh An Lạc, viên thành Phật
đạo; dưới là chẳng thể thâu gồm trọn
vẹn lợi căn lẫn độn căn, phổ độ
quần sanh. V́ thế, ngài Đàm Loan chú giải rằng: “Như nhân đắc
môn, tắc xuất nhập vô ngại” (Như người có được
cửa, ra vào vô ngại). Vào cửa An Lạc Tịnh Độ,
th́ trên là cầu Phật đạo, ra khỏi
cửa bèn từ bi giáo hóa; tức là “dưới hóa
độ chúng sanh”. Nương theo năm môn ấy, quyết định
có thể thượng cầu hạ hóa, đều được
tự tại vô ngại, thành tựu viên măn.
2.2.2.2.2.2.2. Giải thích
từng môn trong năm môn
2.2.2.2.2.2.2.1. Lễ Bái
Môn
(Luận) Vân hà lễ bái? Thân nghiệp lễ
bái A Di Đà Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, vị sanh bỉ
quốc ư cố.
(Chú) Chư Phật Như Lai đức hữu
vô lượng. Đức vô lượng cố, đức
hiệu diệc vô lượng. Nhược dục cụ đàm,
chỉ bút bất năng tải dă. Thị dĩ chư kinh,
hoặc cử thập danh, hoặc đằng tam hiệu,
cái tồn chí tông nhi dĩ, khởi thử tận da? Sở
ngôn tam hiệu, tức thử Như Lai Ứng Chánh Biến
Tri dă. Như Lai giả, như pháp tướng giải, như
pháp tướng thuyết. Như chư Phật an ổn đạo
lai, thử Phật diệc như thị lai, cánh bất khứ
hậu hữu trung, cố danh Như Lai. Ứng giả, Ứng
Cúng dă. Phật kết sử trừ tận, đắc nhất
thiết trí huệ, ưng thọ nhất thiết thiên địa
chúng sanh cúng dường, cố viết Ứng dă. Chánh Biến
Tri giả, tri nhất thiết chư pháp thật bất hoại
tướng, bất tăng, bất giảm. Vân hà bất
hoại? Tâm hành xứ diệt, ngôn ngữ đạo đoạn.
Chư pháp như Niết Bàn tướng bất động,
cố danh Chánh Biến Tri. Vô Ngại Quang nghĩa, như tiền
kệ trung giải. “Vị sanh bỉ quốc ư cố”, hà cố
ngôn thử? Bồ Tát chi pháp, thường dĩ trú tam thời,
dạ tam thời, lễ thập phương nhất thiết
chư Phật, bất tất hữu nguyện sanh ư. Kim ưng
thường tác nguyện sanh ư, cố lễ A Di Đà Như
Lai dă.
(論)云何禮拜。身業禮拜阿彌陀如來。應正遍知。為生彼國意故。
(註)諸佛如來德有無量。德無量故。德號亦無量。若欲具談。紙筆不能載也。是以諸經。或舉十名。或騰三號。蓋存至宗而已。豈此盡耶。所言三號。即此如來應正遍知也。如來者。如法相解。如法相說。如諸佛安穩道來。此佛亦如是來。更不去後有中。故名如來。應者。應供也。佛結使除盡。得一切智慧。應受一切天地眾生供養。故曰應也。正遍知者。知一切諸法實不壞相。不增不減。云何不壞。心行處滅。言語道斷。諸法如涅槃相不動。故名正遍知。無礙光義。如前偈中解。為生彼國意故。何故言此。菩薩之法常以晝三時。夜三時。禮十方一切諸佛。不必有願生意。今應常作願生意。故禮阿彌陀如來也。
(Luận:
Lễ bái là như thế nào? Thân nghiệp lễ bái A Di Đà
Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, v́ có ư muốn sanh về cơi
nước ấy.
Chú: Chư Phật
Như Lai có vô lượng đức. Do đức vô
lượng, nên đức hiệu cũng vô lượng.
Nếu muốn bàn luận trọn hết th́ giấy bút chẳng
thể ghi chép được. Do vậy, các kinh hoặc là nêu
ra mười tên, hoặc chỉ nêu ba hiệu. Đấy
là v́ để nêu lên những nghĩa lư tột cùng [trong các
đức hiệu] đó thôi, há có thể [nêu ra] trọn hết
[các đức hiệu của Phật] ư? Nói đến
ba hiệu th́ chính là “Như Lai Ứng Chánh Biến Tri” như trong luận này. Như
Lai là hiểu đúng pháp tướng, nói năng đúng như
pháp tướng. Như chư Phật an ổn mà đến,
vị Phật này cũng đến như thế, trọn
chẳng đi nhận lấy thân đời sau. V́ thế
gọi là Như Lai. Ứng là Ứng Cúng. Phật đă trừ
hết kết sử, đạt được hết thảy
trí huệ, đáng nhận sự cúng dường của hết
thảy chúng sanh trong trời đất, nên nói là Ứng. Chánh
Biến Tri là biết tướng thật sự chẳng
hoại, chẳng tăng, chẳng giảm của hết
thảy các pháp. Bất hoại là ǵ? Tâm hành xứ diệt,
ngôn ngữ dứt bặt. Các pháp như tướng Niết
Bàn bất động; v́ thế
gọi là Chánh Biến Tri. Ư nghĩa của Vô Ngại Quang th́
như trong phần kệ trước đó đă giải
thích. “V́ có ư muốn sanh về cơi ấy”, v́ sao nói như vậy?
Pháp của Bồ Tát thường là ngày ba thời, đêm
ba thời, lễ mười phương hết thảy chư
Phật, nhưng chưa chắc đă có ư nguyện sanh về. Nay th́
ứng với chuyện thường phát nguyện, mong văng
sanh, cho nên lễ A Di Đà Như Lai).
Danh chiêu
vời đức. Chư Phật đă có vô lượng công
đức “tự hành, hóa độ người khác”, cho nên
các Ngài cũng đáng nên có vô lượng danh hiệu. Nếu
như muốn hoàn toàn nói trọn hết chẳng c̣n thừa
sót các danh hiệu mà chư Phật vốn sẵn có, vậy
th́ dùng giấy, nghiên, bút, mực, chất đống như
núi, vẫn chẳng viết xong! Do vậy, trong Tam Tạng giáo
điển thường hoặc là có mười thứ danh
hiệu làm thông hiệu của hết thảy chư Phật.
Như kinh Pháp Hoa v.v… đă nói Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến
Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Hàm ư của mười loại
thông hiệu này trong bộ Pháp Hoa Kinh Giảng Nghĩa từ
trang một trăm năm mươi sáu cho đến một
trăm năm mươi tám, tôi đă giải thích đại
lược, xin hăy tự tra duyệt. Hoặc là chỉ nêu
ra ba thứ đức hiệu, như trong bộ luận này.
Những danh hiệu ấy không ǵ chẳng ngoài việc nêu
lên đại lược những điều tông yếu
trong chí đức chí danh của Phật mà thôi! Há có nên tưởng là Phật
chỉ có những danh hiệu ấy ư?
Luận này nói ra ba danh
hiệu của Phật, tức là “Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri”. “Như Lai”: “Như pháp tướng
giải, như pháp tướng thuyết, cố danh Như
Lai” (Thông hiểu đúng như pháp tướng, nói năng
đúng như pháp tướng, nên gọi là Như Lai). Đấy
chính là cách giảng giải [danh hiệu Như Lai] trong bộ
Đại Trí Độ Luận. Chư Phật Như Lai
đích xác là liễu giải thông đạt đúng như tướng
chân thật duyên khởi của các pháp; sau đấy, lập
bày ngôn giáo, khai thị chúng sanh. “Như chư Phật an ổn
đạo lai, cánh bất khứ hậu hữu trung, cố
danh Như Lai” (Như
chư Phật an ổn mà đến, trọn chẳng đến
nhận lấy thân đời sau, nên gọi là Như Lai): Đấy
chính là điều được nói trong Thành Thật Luận,
[chư Phật] nương theo đạo như thật (lời
chú giải dùng chữ “an ổn” để diễn tả
điều này) để thành Chánh Giác giống như nhau. Đấy
chính là như kinh Kim Cang đă nói: “Vô sở tùng lai, diệc
vô sở khứ; cố danh Như Lai” (Không từ đâu
đến, mà cũng không đi về đâu; nên gọi là Như
Lai).
“Ứng Cúng”: Chư
Phật đă hết Hoặc (phiền năo), trí viên măn, đáng
nhận lănh hết thảy chúng sanh cúng dường. Đấy
chính là cách nói trong Du Già Sư Địa Luận, tức nghĩa
lư “dĩ đắc ưng đắc” (đă đạt
được điều đáng nên đạt được,
tức “Hoặc tận, trí viên”), đáng làm phước
điền vô thượng (A La Hán cũng gọi là Ứng
Cúng, nhưng chẳng phải là vô thượng), đáng nên
được hết thảy (chúng sanh trong chín pháp giới)
cúng dường.
“Chánh Biến Tri”
là biết tướng thật sự chẳng hoại của
hết thảy các pháp (tánh Không). Đấy là Như Lư Trí của
Phật, được gọi là Chánh Tri. Biết các pháp
duyên khởi, chẳng tăng, chẳng giảm, đấy
là Như Lượng Trí của chư Phật, nên gọi là
Biến Tri. Chư Phật đều có Như Lư Trí và Như
Lượng Trí, tức là Quyền Trí và Thật Trí. Cái được
[chư Phật] chứng đắc chính là Chân Đế và
Tục Đế, nhất tâm nhị môn, duyên khởi tánh Không,
cho nên gọi là Chánh Biến Tri, c̣n gọi là Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. [Nói là “Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác”] nhằm vạch rơ chẳng
phải là sự giác ngộ của hàng Bồ Tát hăy c̣n có cái
vượt hơn, chẳng phải là sự giác ngộ thiên
lệch chẳng b́nh đẳng của hàng Nhị Thừa,
chẳng phải là tà giác bất chánh của ngoại đạo,
cũng như phàm phu mê muội chẳng giác.
Bốn câu từ “vân
hà bất hoại?” (bất hoại là như thế nào?) trở đi
tương đương với điều được
nói trong phẩm Dược Thảo Dụ của kinh Pháp
Hoa: “Như Lai tri thị nhất tướng, nhất vị
chi pháp, sở vị giải thoát tướng, ly tướng,
diệt tướng, cứu cánh Niết Bàn thường tịch
diệt tướng, chung quy ư Không” (Như Lai biết
là pháp một tướng, một vị, tức là tướng
giải thoát, tướng ĺa, tướng diệt, tướng
rốt ráo Niết Bàn thường tịch diệt, rốt
cuộc đều quy về Không). Trong Pháp Hoa Kinh Giảng
Nghĩa từ trang năm trăm bảy mươi sáu cho đến
trang năm trăm bảy mươi bảy, tôi đă thuyết
minh tường tận, [độc giả] chẳng ngại
tra duyệt, tham khảo.
“Vị sanh bỉ
quốc ư cố” (Do ư muốn sanh về cơi ấy): Đây
chính là ư thú chân thật của việc v́ sao Luận Chủ
lại gọi năm thứ hành môn là Ngũ Niệm Môn. Nói
thông thường: Lễ Bái là năm vóc gieo xuống đất,
cung kính hướng đến chân của đức Phật
mà ta đang lạy, hoặc ở dưới tượng Phật,
điều này chỉ thuộc về thân nghiệp. Pháp môn đáng
phải nên hành tŕ của mỗi vị Bồ Tát chính là ban
ngày lẫn ban đêm, trong mười hai thời, lễ bái
mười phương chư Phật. Tuy lễ Phật,
trọn chẳng có ư tưởng nguyện sanh về cơi nào.
Thế nhưng, nay tu pháp
môn Tịnh Độ bèn khác hẳn; ắt cần phải
tập trung tinh thần, khiến cho hai nghiệp thân và ư thống
nhất nơi việc “nguyện sanh về quốc độ
An Lạc của A Di Đà Phật”, kiên cố chẳng dời!
Đấy mới có thể gọi là Lễ Bái Môn trong ngũ
niệm môn. Do vậy mới có thể thành tựu Tịnh
nghiệp, được thấy Phật Di Đà, được
sanh về Tịnh Độ. Từ Lễ Bái cho đến
Hồi Hướng,
không ǵ chẳng phải là như vậy. Do vậy, Tịnh
nghiệp hành nhân phải thường xuyên lễ bái A Di
Đà Phật, hoặc Tây Phương Tam Thánh, chẳng cần phải lễ bái mười
phương chư Phật, hoặc những vị Phật,
Bồ Tát khác. Tuy chỉ có lễ bái, cũng có thể sanh về
Cực Lạc. Đấy chẳng phải là thiên chấp,
chủ yếu là “chuyên nhất chẳng tạp”. Đă
tu pháp môn Tịnh Độ, vậy th́ cần phải lập
chí, đời này ắt cần phải đạt thành mục
đích “văng sanh thế giới An Lạc”, chẳng thể
nào không như vậy! Tôi có soạn một đôi câu đối
như sau: “Nhất thiết hạnh môn quy Cực Lạc,
kim sanh đại sự thác liên tŕ” (Hết
thảy hạnh môn quy Cực Lạc, đại sự đời
này phó ao sen). Nguyện các Tịnh tông liên hữu hăy gắng
lên!
2.2.2.2.2.2.2.2. Tán Thán Môn
(Luận) Vân hà tán thán? Khẩu nghiệp tán
thán, xưng bỉ Như Lai danh, như bỉ Như Lai quang
minh trí tướng, như bỉ danh nghĩa, dục như
thật tu hành tương ứng cố.
(Chú) “Tán” giả,
tán dương dă. “Thán” giả,
ca thán dă. Tán thán phi khẩu bất tuyên, cố viết khẩu
nghiệp dă. “Xưng
bỉ Như Lai danh” giả, vị xưng Vô Ngại Quang Như Lai danh dă.
“Như
bỉ Như Lai quang
minh trí tướng” giả,
Phật quang minh thị trí huệ tướng dă. Thử quang
minh chiếu thập phương thế giới vô hữu chướng
ngại, năng trừ thập phương chúng sanh
vô minh hắc ám, phi như nhật, nguyệt, châu quang, đản
phá không huyệt trung ám dă.
(論)云何讚歎。口業讚歎。稱彼如來名。如彼如來光明智相。如彼名義。欲如實修行相應故。
(註)讚者。讚揚也。歎者。歌歎也。讚歎非口不宣。故曰口業也。稱彼如來名者。謂稱無礙光如來名也。如彼如來光明智相者。佛光明是智慧相也。此光明照十方世界無有障礙。能除十方眾生無明黑闇。非如日月珠光。但破空穴中闇也。
(Luận:
Như thế nào là “tán thán”? Khẩu
nghiệp tán thán, xưng danh đức Như Lai kia, đúng
như quang minh trí tướng của đức Như Lai ấy,
đúng như danh nghĩa của Ngài, do v́ muốn tu hành như
thật tương ứng.
Chú: “Tán” là tán dương.
“Thán” là ca ngợi. Tán thán chẳng do miệng sẽ chẳng
thể tuyên dương được, nên nói là “khẩu
nghiệp”. “Xưng
danh hiệu của đức Như Lai ấy” tức là xưng
danh hiệu của
Vô Ngại Quang Như Lai. “Như quang minh trí tướng của
đức Như Lai ấy”: Quang
minh của Phật chính là tướng trí huệ. Quang minh ấy
chiếu mười phương thế giới, chẳng
có chướng ngại, có thể trừ sự hắc ám vô
minh cho chúng sanh trong mười phương, chẳng phải
như ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, hoặc
bảo châu, chỉ trừ được sự tối tăm
trong huyệt rỗng).
Tịnh
Độ Tông dùng ngữ nghiệp phát ra tiếng xưng dương,
tán thán danh hiệu A Di Đà Phật, tức là thuộc về
Tán Thán Môn trong năm niệm môn. Thông thường th́ tán thán
có tán thán tướng hảo, công đức, thần thông, trí
huệ v.v… của Phật, đủ mọi thứ khác
nhau. Nhưng môn Tán Thán này chỉ hạn cuộc trong xưng
thán danh hiệu của Vô Ngại Quang (A Di Đà) Như Lai,
chẳng cần phải tán thán chi khác. V́ sao là như thế?
V́ danh hiệu của A Di Đà Phật chính là vô lượng,
c̣n gọi là “vạn
đức hồng danh”. Cho nên
xưng dương danh hiệu của A Di Đà Phật, sẽ
giống như tán thán vô lượng công đức, tướng
hảo, thần thông, trí huệ của A Di Đà Phật, hết
thảy đều có. Nhất là danh hiệu của A Di
Đà Phật trọn đủ mười hai thứ quang
minh như là Vô Ngại Quang, Trí Huệ Quang v.v… Những quang
minh ấy đều do trí vô lậu thanh tịnh phát ra, cho
nên ngay trong khi quư vị xưng niệm danh hiệu của Phật,
sẽ có thể khế hợp mười hai tướng quang
minh trí huệ của Phật, có thể trừ khử hết
thảy vô minh hắc ám của chúng sanh đang tŕ danh niệm
Phật, có thể tiêu trừ tam chướng các phiền
năo, có thể đạt được trí huệ thật
sự hiểu rơ. Bậc thượng căn th́ trong đời
hiện tại có thể phá vô minh, chứng Pháp Thân. Kẻ
hạ căn cũng có thể chế phục Hoặc khiến
nó chẳng dấy khởi, đới nghiệp văng sanh. Đấy
chính là tŕ danh niệm Phật có thể khiến cho [các chúng sanh thuộc] tam căn
(thượng, trung, hạ) đều đạt được
lợi ích chân thật, tức là liễu
sanh thoát tử. Như kinh A Di Đà đă nói: “Bỉ Phật
hà cố hiệu vi A Di Đà? Xá Lợi Phất, bỉ Phật
quang minh vô lượng, chiếu thập phương quốc,
vô sở chướng ngại, thị cố hiệu vi A Di
Đà” (V́ lẽ nào mà đức
Phật ấy hiệu là A Di Đà? Này Xá Lợi Phất! Đức
Phật ấy quang minh vô lượng, chiếu mười
phương cơi chẳng bị chướng ngại. V́ thế,
hiệu là A Di Đà). Như Quán Kinh nói: “Vô Lượng Thọ
Phật hữu bát vạn tứ thiên tướng. Nhất nhất
tướng trung, các hữu bát vạn tứ thiên tùy h́nh hảo.
Nhất nhất hảo trung, phục hữu bát vạn tứ
thiên quang minh. Nhất nhất quang minh, biến chiếu thập
phương thế giới niệm Phật chúng sanh, nhiếp
thủ bất xả” (Vô Lượng Thọ Phật có
tám vạn bốn ngàn tướng. Trong mỗi tướng
đều có tám vạn bốn ngàn tùy h́nh hảo. Trong mỗi
hảo, lại có tám vạn bốn ngàn quang minh. Mỗi một
quang minh chiếu các chúng sanh niệm Phật trong mười
phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ).
Lại như quyển Thượng của
kinh Vô Lượng Thọ có nói: “Kỳ hữu chúng sanh,
ngộ tư quang giả, tam cấu tiêu diệt… Nhược
tại tam đồ cực khổ chi xứ, kiến thử
quang minh, giai đắc hưu tức, vô phục khổ năo,
thọ chung chi hậu, giai mông giải thoát… Nhược hữu
chúng sanh, văn kỳ quang minh oai thần công đức, nhật
dạ xưng thuyết (tŕ danh niệm Phật), chí tâm bất
đoạn, tùy ư sở nguyện, đắc sanh kỳ quốc”
(Nếu có chúng sanh gặp quang minh ấy, tam cấu tiêu diệt…
Nếu ở trong chỗ khổ sở tột bậc nơi
tam đồ, trông thấy quang minh này, thảy đều được
ngưng nghỉ, chẳng c̣n khổ năo. Sau khi hết tuổi
thọ, đều được giải thoát… Nếu có chúng
sanh nghe công đức oai thần của quang minh ấy, ngày
đêm xưng nói (tŕ danh niệm Phật), chí tâm chẳng dứt,
sẽ tùy theo ư nguyện mà được sanh trong cơi ấy).
Trong ba kinh như đă dẫn trên đây, đều là xưng
niệm (tán thán) danh hiệu A Di Đà Phật, có đủ
ư nghĩa đặc thù. Phàm là liên hữu tŕ danh niệm Phật,
ắt cần phải liễu tri danh nghĩa
của đức Phật ấy, tác nguyện (phát nguyện)
và ức niệm đích xác như thế đó! Như thế
th́ mới
được coi là như thật tu hành Tŕ Danh Niệm
Phật, mới là Tán Thán Môn như luận này đă nói.
(Chú) “Như
bỉ danh nghĩa, dục như thật tu hành tương
ứng” giả, bỉ Vô Ngại Quang Như Lai danh hiệu, năng
phá chúng sanh nhất thiết vô minh, năng măn chúng sanh nhất
thiết chí nguyện, nhiên hữu xưng danh, ức niệm,
nhi vô minh do tại, nhi bất măn sở nguyện giả, hà
giả? Do bất như thật tu hành, dữ danh nghĩa bất
tương ứng cố dă.
(註)如彼名義。欲如實修行相應者。彼無礙光如來名號。能破眾生一切無明。能滿眾生一切志願。然有稱名憶念。而無明猶在。而不滿所願者。何者。由不如實修行。與名義不相應故也。
(Chú: “Đúng
như danh nghĩa ấy, muốn như thật tu hành tương
ứng” chính là
danh hiệu Vô Ngại Quang Như Lai có thể phá hết thảy
vô minh của chúng sanh, có thể thỏa măn hết thảy chí
nguyện của chúng sanh; nhưng có kẻ xưng danh, ức
niệm, nhưng vô minh vẫn c̣n, điều mong nguyện
chẳng được thỏa măn là v́ lẽ nào? Do chẳng
như thật tu hành, chẳng tương ứng với
danh nghĩa vậy).
Ngài Đàm Loan đă
chỉ ra giản lược sự được mất
do “như thật tu hành tương ứng” và “chẳng như
thật, chẳng tương ứng” khiến cho Tịnh
nghiệp hành nhân có cái để [chọn lựa] lấy
hay bỏ. “Như thật tu hành và tương ứng với
danh hiệu” th́ sẽ
có thể phá hết thảy vô minh, thỏa măn hết thảy
nguyện cầu. “Chẳng
như thật, chẳng
tương ứng” th́ vô minh vẫn c̣n, chẳng thể thỏa nguyện
được!
Như thế nào th́
mới là đúng với danh nghĩa ấy? Nói giản lược
th́ Phật là giác. Giác là nhất tâm nhị môn, chẳng một,
chẳng khác. Phàm phu trái nghịch Chân Như Môn (Không), ứng
hợp Sanh Diệt Môn (Hữu); đấy chính là trái nghịch
giác, xuôi theo trần lao, gọi là “phàm phu”. Phật th́
trái nghịch Sanh Diệt Môn, ứng hợp Chân Như Môn,
thường biết rơ “hết thảy
các pháp là Không”, chẳng
phân biệt, chẳng chấp trước. Đấy chính
là trái nghịch trần, xuôi theo giác, cũng chính là quang minh trí
tướng, được gọi là Phật. Nay tôi đem
phương pháp “đúng như danh nghĩa ấy, như
thật tu hành tương ứng”, chiếu theo lời văn
trong quyển Nhập Hương Quang Thất của pháp
sư Liễu Nhiên, viết thành một bài Niệm Phật Nhiếp
Yếu Tụng ḥng ném ḥn ngói để dẫn ra ngọc, kính
thỉnh [độc
giả] tham khảo. Bài tụng như sau:
Phật hiệu
như nhật phóng quang minh,
Từ bi hàm dưỡng
hảo an cư,
Viên quang chiếu diệu
vô biên tế,
Lịch lịch
minh minh độc tự tri,
Lục tự hồng
danh tương tục niệm,
Thanh thanh giá trị
thắng ma-ni.
Tương lai lâm chung Phật tiếp
dẫn,
Kính văng Tây
Phương thất bảo tŕ.
(Phật hiệu vầng
dương tỏa sáng ngời,
Từ bi nuôi nấng
trụ yên vui,
Viên quang chiếu rọi
không ngằn mé,
Vằng vặc phân
minh tự biết thôi,
Sáu chữ hồng
danh liên tục niệm,
Mỗi câu giá trị
vượt ma-ni,
Mai sau xả báo Phật
nghênh tiếp,
Ao
báu Tây Phương đến khó ǵ).
Nếu có thể xưng
tán vạn đức hồng danh của Phật Di Đà như
thế th́ mới là như thật tu hành tương ứng.
Hăy nên biết: Danh hiệu A Di Đà Phật được
thành tựu bởi nguyện thứ mười hai, tức
nguyện “quang minh chiếu trọn khắp mười phương”
trong bổn nguyện. Như quyển Thượng
của kinh Vô Lượng Thọ đă chép: “Ngă kiến
siêu thế nguyện, tất chí vô thượng đạo,
tư nguyện bất măn túc, thệ bất thành Đẳng
Giác… Thần lực
diễn đại quang, phổ chiếu vô tế độ,
tiêu trừ tam cấu minh, minh tế chúng ách nạn… Bế
tắc chư ác đạo, thông đạt thiện thú môn,
công tộ thành măn túc, oai diệu lăng thập phương,
nhật nguyệt tập trùng huy, thiên quang ẩn bất hiện” (Tôi lập
nguyện trỗi đời, ắt đạt đạo vô
thượng, nguyện này chẳng thỏa măn, thề chẳng
thành Đẳng Giác… Thần lực phóng đại quang,
chiếu khắp khôn ngằn cơi, tiêu trừ tối tam cấu,
cứu tế các ách nạn… Đóng lấp các đường
ác, thông đạt cửa đường lành, công phước
thành trọn vẹn, oai sáng ngời mười phương, nhật nguyệt
mất ánh sáng, quang minh của cơi trời, thảy ẩn mất
chẳng hiện). Sự đặc thù của danh hiệu
A Di Đà Phật chính là ở chỗ trọn đủ mười
hai loại quang minh như vô
lượng quang, vô ngại quang… Đấy là chỗ khác
biệt đối với danh hiệu của chư Phật.
Người niệm Phật th́ nhiều, kẻ văng sanh ít ỏi,
nguyên nhân là do chẳng biết “danh hiệu của Phật chính
là tướng trí huệ của Phật, giống như mặt
trời tỏa ra quang minh, chẳng có tâm phân biệt, chiếu
trọn khắp đại địa, từ bi nuôi dưỡng
muôn vật, khiến cho chúng nó được sanh trưởng, an cư
rất tốt đẹp”. Do vậy, tuy tŕ danh niệm Phật,
nhưng chẳng như thật tương ứng với danh
hiệu của A Di Đà Phật. Hạnh đă sai lệch,
tín nguyện chẳng có sức, chẳng đạt được
lợi ích văng sanh! Ví như muôn vật không có ánh nắng, há
được sanh trưởng ư? Nếu thế gian chẳng
có quang minh, sẽ là một bầu đen kịt, há có thể
an cư ư?
Cứ từ đó
mà suy, A Di Đà Phật giống như ánh sáng mặt trời,
từ bi nuôi nấng hết thảy chúng sanh, khiến cho họ ĺa khổ
được vui, chỉ hưởng các sự vui. Ngài tiếp
dẫn chúng sanh an cư nơi cơi Cực Lạc, ban cho chúng
sanh được thành tựu địa vị Bổ Xứ
ngay trong một đời. Ân ấy, đức ấy, thiên
địa, cha mẹ, há có thể sánh bằng ư? Do vậy,
Tịnh nghiệp hành nhân hăy nên dùng cái tâm “biết ân, báo ân”
để niệm Phật. Mỗi khi niệm một câu Phật
hiệu, phải quán tưởng trí huệ của Phật
giống như quang minh của mặt trời, mặt trăng,
chiếu sáng ngời cảnh giới mười
phương. Niệm nào cũng đều như vậy, tiếng
nào cũng đều như vậy, liên tục chẳng dứt,
trước mắt là một bầu quang minh chiếu sáng ngời
vô biên. Không ta, không người, không kia, không đây, âm thanh
và quang minh ḥa thành một khối, tâm và Phật ḥa thành một
khối. Lâu ngày thuần thục, tự nhiên căn, thân, thế
giới nhất thời nhanh chóng thoát ĺa, chứng nhập Đại
Quang Minh Tạng, Nhất Chân pháp giới lặng trong thường
trụ, mới biết chính ḿnh và A Di Đà Phật vốn
chẳng hai, Sa Bà và Cực Lạc cũng chẳng khác! Muốn
thấy A Di Đà Phật, liền có thể thấy, muốn
sanh về Tịnh Độ liền được văng
sanh, vui sướng chi bằng? Tự tại
chi bằng? Thẳng cho đến khi lâm chung, chỉ có quang
minh của đức Di Đà và Tây Phương thánh cảnh
hiện rành rành trước mắt, mặc sức tự
nhiên, thượng phẩm thượng sanh, mau chóng đến
liên tŕ, há có trở ngại ǵ?
Thiên Thai Tông có vị
cư sĩ là Trần Quán đă viết bài Quán Tâm Dị Kư Ca
như sau: “Tâm không tức thái không, hoát nhiên vô khả xúc. Nhất
Chân pháp giới trung, linh chiếu thường an trụ”
(Tâm không tức hư không, rỗng rang chẳng thể chạm. Trong Nhất
Chân pháp giới, linh chiếu thường an trụ). Ư cảnh
niệm Phật của chúng ta cũng phải nên như thế.
Trong cái tâm thanh tịnh “buông xuống muôn duyên, chẳng vướng
mắc mảy may”, dấy lên một
câu danh hiệu A Di Đà Phật vô lượng quang minh rành
rẽ phân minh, linh linh giác giác, chẳng tán loạn, mà cũng
chẳng hôn trầm, ngay khi ấy, một bầu quang minh chiếu
rạng ngời mười phương, chẳng có phân biệt.
Đấy là Phật danh, hay là Phật quang? Đấy chính
là quang minh của Phật, hay là quang minh của tự tâm? Chỉ
cần biết tâm như hư không, Phật niệm liên tục,
niệm nào cũng đều như thế, niệm nào cũng
đều thành phiến, chẳng cầu nhất tâm mà tự
đạt được nhất tâm. Nhị Tổ của
Tịnh Độ Tông là Thiện Đạo đại sư,
Ngũ Tổ là Thiếu Khang đại sư, đều là
những tấm gương
“đúng như quang minh trí tướng của đức
Như Lai ấy, đúng như danh nghĩa ấy mà tŕ danh niệm
Phật tương ứng”.
(Chú) Vân hà vi “bất
như thật tu hành, dữ danh nghĩa bất tương
ứng”? Vị
bất tri Như Lai thị Thật Tướng thân, thị
vị vật thân. Hựu hữu tam chủng bất
tương ứng. Nhất giả, tín tâm bất thuần,
nhược tồn, nhược vong cố. Nhị giả,
tín tâm bất nhất, vô quyết định cố. Tam giả,
tín tâm bất tương tục, dư niệm gián cố.
Thử tam cú triển chuyển tương thành. Dĩ tín
tâm bất thuần, cố vô quyết định. Vô quyết
định cố, niệm bất tương tục. Diệc
khả niệm bất tương tục, cố
bất đắc quyết định tín. Bất đắc
quyết định tín, cố tâm bất thuần. Dữ
thử tương vi, danh “như
thật tu hành tương ứng”. Thị
cố, Luận Chủ kiến ngôn “ngă nhất tâm”.
(註)云何為不如實修行。與名義不相應。謂不知如來是實相身。是為物身。又有三種不相應。一者信心不淳。若存若亡故。二者信心不一。無決定故。三者信心不相續。餘念間故。此三句展轉相成。以信心不淳。故無決定。無決定故。念不相續。亦可念不相續故。不得決定信。不得決定信故。心不淳。與此相違。名如實修行相應。是故論主建言我一心。
(Chú: Như thế
nào là chẳng như thật tu hành, chẳng tương ứng
với danh nghĩa? Chính là v́ chẳng biết Như Lai là
thân Thật Tướng, là thân v́ chúng sanh. Lại có ba thứ
chẳng tương ứng: Một là tín tâm chẳng thuần,
v́ lúc c̣n, lúc mất. Hai là tín tâm chẳng chuyên nhất, do chẳng
quyết định. Ba là tín tâm chẳng liên tục, do các niệm
khác xen vào. Ba câu ấy lần lượt thành tựu lẫn
nhau. Do tín tâm chẳng thuần, cho nên chẳng
quyết định. Do chẳng quyết định, niệm
chẳng liên tục. Cũng có thể là do niệm chẳng
liên tục, cho nên chẳng đạt được ḷng tin
quyết định. Do chẳng đạt được
ḷng tin quyết định, cho nên tâm chẳng thuần. Trái
nghịch những điều ấy th́ gọi là “như thật
tu hành tương ứng”. V́ thế, Luận Chủ mới
nói: “Con nhất tâm”).
Thế nào là “chẳng như
thật tu hành, chẳng tương ứng với danh nghĩa
của A Di Đà Phật”? Nói theo
Lư, niệm Phật mà chẳng biết A Di Đà Phật từ
vô lượng kiếp trước, vốn là Pháp Thân (Thật
Tướng Thân) thành Phật. V́ thế, tên là Vô Lượng
Quang, Vô Lượng
Thọ, chỉ biết Hóa Thân Phật từ khi Ngài thành Phật
đến nay đă trải qua mười kiếp; đức
Phật được niệm chỉ là Hóa Thân Phật (Vị
Vật Thân) do cha mẹ sanh ra, chẳng niệm Pháp Thân thanh
tịnh chân thật của Phật và Báo Thân Phật trí huệ
viên măn. Đó gọi là “chẳng
như thật, chẳng tương
ứng”. Như
trong phẩm Như Lai Thọ Lượng của kinh Pháp Hoa
có nói: “Ngă thật thành Phật dĩ lai, vô lượng vô
biên bách thiên vạn ức na-do-tha kiếp” (Ta thật sự
thành Phật cho đến nay là vô lượng vô biên trăm
ngàn vạn ức na-do-tha kiếp). Đấy là Pháp Thân (Thật
Tướng Thân) Phật. “Ngă trí lực như thị, cửu
tu nghiệp sở đắc, huệ quang chiếu vô lượng,
thọ mạng vô số kiếp” (Trí lực của ta như
thế đó là do nghiệp đă tu từ lâu mà đạt được,
huệ quang chiếu vô lượng, thọ mạng vô số
kiếp). Đấy chính là Báo Thân Phật. “Ngă thiểu
xuất gia, đắc vô thượng Bồ Đề”
(Ta xuất gia
không lâu bèn đắc Vô Thượng Bồ Đề); đấy
là Hóa Thân Phật. Như kinh A Di Đà có nói: “A Di Đà Phật
thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp” (A Di
Đà Phật thành Phật cho đến nay đă là mười
kiếp). Đấy là nói theo Hóa Thân Phật. Giả sử
niệm Phật, chỉ biết Hóa Thân của A Di Đà Phật,
vậy là chẳng niệm chân Phật; như thế th́ chẳng
phải là như thật tu hành, chẳng tương ứng
với danh nghĩa của Phật Di Đà.
Nói theo Sự, hàng Bồ
Tát tu hành Tịnh Độ Tông, nếu chẳng thể thành
tựu tín tâm đối với Đại Thừa và pháp môn
Tịnh Độ, hạng người ấy gọi là “khinh
mao Bồ Tát” (hàng Bồ Tát như chiếc lông nhẹ), theo
gió cuốn, trôi nổi thoắt đằng
Đông, thoạt đằng Tây.
Vậy là sẽ có ba thứ chẳng như thật tương
ứng:
1) Tu hành mà tín tâm chẳng
thuần hậu, kiên cố, lúc có, lúc không, hoặc c̣n, hoặc
mất.
2) Tín tâm chẳng
chuyên nhất, hoặc tin Đại Thừa, hoặc tin Tiểu
Thừa. Hoặc tin pháp môn Tịnh Độ, hoặc tin theo
những pháp môn khác, do chẳng có sự quyết định.
3) Tín tâm chẳng liên
tục, v́ khi niệm Phật bèn có những vọng tưởng
khác xen tạp.
Ba câu ấy lần
lượt thành tựu lẫn nhau. Tín tâm chẳng thuần
hậu, kiên cố, cho nên chẳng quyết định. Do
chẳng quyết định, nên chẳng liên tục. Do v́ chẳng liên tục, cho nên chẳng
có quyết định. Do không quyết định, nên chẳng
thuần hậu, kiên cố.
Nói đơn giản,
trọng yếu th́: Nếu chẳng thể nhất tâm chánh
niệm, tín tâm thanh tịnh, nương theo năm niệm
môn này mà tu hành, sẽ có ba thứ chẳng như thật,
chẳng tương ứng! Nói ngược lại, nếu
có thể nhất tâm chánh niệm, tín tâm thanh tịnh, nương
theo năm niệm môn này tu hành th́ gọi là “như thật
tu hành”, tương ứng với danh nghĩa của A
Di Đà Phật, tương ứng với pháp môn Tịnh
Độ, tương ứng với hết thảy Đại
Thừa Phật pháp. Do vậy, vừa mở đầu, Luận
Chủ bèn nói: “Thế Tôn ngă nhất tâm (nhất tâm chánh niệm,
tín tâm thanh tịnh), quy mạng tận thập phương,
Vô Ngại Quang Như Lai. Nguyện sanh An Lạc quốc, ngă
y Tu Đa La, chân thật công đức tướng, thuyết
nguyện kệ tổng tŕ, dữ Phật giáo tương ứng”
(Thế Tôn, con một ḷng (nhất tâm chánh niệm, ḷng tin thanh
tịnh), quy mạng trọn mười phương, Vô Ngại
Quang Như Lai, nguyện sanh cơi An Lạc. Con nương
theo Khế Kinh, tướng công đức chân thật, nói
nguyện kệ tổng tŕ, tương ứng lời Phật
dạy).
Nói quy nạp lại
th́ tiền đề để tu hành và thành tựu pháp môn Ngũ
Niệm chính là “có tín tâm
duy nhất chẳng hai hay không?” Ba kinh một luận của Tịnh Độ không ǵ
đều chẳng nhằm làm cho chúng ta từ Văn Tư
Huệ, phát khởi ḷng tin sâu xa đối với pháp môn Tịnh
Độ, tiến đến tŕ danh hay quán tưởng niệm
Phật, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Đấy
gọi là ba tư lương của Tịnh Độ. Do
vậy, trong luận này, trong phần Trường Hàng nhằm
giải thích ư nghĩa [của phần Kệ Tụng], vừa
mở đầu, vị Luận Chủ bèn chỉ dạy chúng
ta: Quán như thế nào? Sanh tín tâm như thế nào? Tín tâm
trọn đủ, sẽ như thật tu hành, như thật
tương ứng. Nếu chẳng có tín tâm, th́ tu Ngũ Niệm
Môn sẽ đều chẳng như thật, sẽ đều
chẳng tương ứng. Như Thập Trụ Tỳ Bà
Sa Luận đă nói: “Nghi th́ hoa chẳng nở. Người
tín tâm thanh tịnh, hoa nở liền thấy Phật”. Như
kinh Vô Lượng Thọ có nói: “Nhược hữu chúng
sanh, dĩ nghi hoặc tâm, tu chư công đức, nguyện
sanh bỉ quốc, bất liễu Phật trí, bất tư
nghị trí, bất khả xưng trí, Đại Thừa quảng
trí, vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Ư
thử chư trí, nghi hoặc bất tín, nhiên do tín tội
phước, tu chư thiện bổn, nguyện sanh kỳ
quốc. Thử chư chúng sanh, sanh bỉ cung điện, thọ
ngũ bách tuế, thường bất kiến Phật, bất
văn kinh pháp, bất kiến Bồ Tát, Thanh Văn thánh chúng. Thị
cố ư bỉ quốc độ, vị chi thai sanh. Nhược
hữu chúng sanh, minh tín Phật trí, năi chí thắng trí, tác chư
công đức, tín tâm hồi hướng, thử chư chúng
sanh, ư thất bảo hoa trung, tự nhiên hóa sanh… Thân tướng
quang minh, trí huệ, công đức như chư Bồ Tát cụ
túc thành tựu… Kỳ hữu Bồ Tát, sanh nghi hoặc giả,
vi thất đại lợi. Thị cố ưng đương
minh tín chư Phật vô thượng trí huệ” (Nếu
có chúng sanh do tâm nghi hoặc, tu các công đức, nguyện
sanh về cơi kia, nhưng chẳng hiểu rơ Phật trí, trí
chẳng thể nghĩ bàn, trí chẳng thể diễn tả,
trí Đại Thừa rộng lớn, trí tối thượng
thù thắng không ǵ sánh bằng được. Đối với
các trí ấy, nghi hoặc chẳng tin, nhưng vẫn tin tội
phước, tu các cội lành, nguyện sanh về cơi ấy.
Các chúng sanh đó sanh trong cung điện của cơi ấy, thọ
năm trăm năm, thường chẳng thấy Phật,
chẳng nghe kinh pháp, chẳng thấy các vị Bồ Tát,
Thanh Văn. V́ thế đối với quốc độ ấy,
họ được gọi là “thai sanh”. Nếu có chúng sanh,
tin hiểu rơ ràng Phật trí cho đến thắng trí, làm các
công đức, tín tâm hồi hướng, những chúng sanh
ấy sẽ tự nhiên hóa sanh trong hoa bảy báu… Thân tướng,
quang minh, trí huệ, công đức thành tựu trọn đủ
như các vị Bồ Tát... Có những Bồ Tát sanh ḷng
nghi hoặc th́ đánh mất lợi ích to lớn. V́ thế,
hăy nên tin rơ trí huệ vô thượng của chư Phật).
Như kinh Đại
Bảo Tích nói: “Nhược tha phương chúng sanh, văn
Vô Lượng Thọ Như Lai danh hiệu, năi chí năng
phát nhất niệm tịnh tín, hoan hỷ ái nhạo. Sở
hữu thiện căn, hồi hướng nguyện sanh kỳ
quốc giả, tùy nguyện văng sanh, đắc Bất Thoái
Chuyển” (Nếu chúng sanh ở phương khác nghe danh
hiệu Vô Lượng Thọ Như Lai, cho đến có thể
phát ra một niệm tịnh tín, hoan hỷ, ưa thích, tất
cả thiện căn đều hồi hướng nguyện
sanh về cơi ấy, sẽ thuận
theo ư nguyện mà văng sanh, đắc Bất Thoái Chuyển).
Lại như Thanh Lương quốc sư đời Đường,
đă trả lời câu hỏi của Thuận Tông[5] hoàng đế: “Luân
Quán[6] của các kinh liễu
nghĩa từ đầu đến cuối là như thế
nào?” Ngài đáp: “Thứ nhất, biết rơ cảnh chẳng
thể nghĩ bàn (Thật Tướng Thân, tự tánh thanh
tịnh tâm), khiến cho tin hiểu, nghĩ nhớ. Thứ
hai, thật sự phát tâm Bồ Đề, ngơ hầu dốc
chí nơi cao thượng. Thứ ba là khéo an trụ trong Chỉ
Quán, tu muôn hạnh để bổ trợ. Thứ tư là
hồi hướng Bồ Đề, nhân quả viên măn. Do bốn
mối như trên, từ phàm cho đến thánh, từ đầu
đến cuối đều rành rành”.
Do vậy có thể
biết, pháp môn Ngũ Niệm nói trong luận này, trước
hết cũng là muốn cho [hành nhân] biết rơ cảnh chẳng
nghĩ bàn, tức là A Di Đà Phật và quốc độ
An Lạc đều là cảnh chân thật chẳng thể
nghĩ bàn! Tŕ danh niệm Phật như thế, sẽ là tán
thán Thật Tướng Thân của A Di Đà Phật. Do vậy, sẽ kiến
lập tín tâm Đại Thừa và ḷng tin thanh tịnh đối
với pháp môn Tịnh Độ, phát Vô Thượng Bồ
Đề tâm. Sau đấy, dùng Tác Nguyện Môn để
tu Chỉ, dùng Quán Sát Môn để tu Quán, th́ là “khéo an trụ
nơi Chỉ Quán”. Cuối cùng, dùng Hồi Hướng
Môn để hồi hướng chúng sanh cùng chứng Vô Thượng
Bồ Đề, nhân quả viên măn. Đấy chính là tâm yếu
từ đầu đến cuối của bộ luận
này và ba kinh Tịnh Độ, là tu hành pháp môn Bất Nhị.
Muốn thấy A
Di Đà Phật, muốn sanh về Cực Lạc Tịnh Độ,
muốn được thượng cầu hạ hóa, nhân
quả viên măn, th́ đối với pháp môn Tịnh Độ,
đối với tướng quang minh trí huệ của A
Di Đà Phật, há c̣n nên nghi hoặc, chẳng sanh tín tâm ư?
V́ thế, cần phải tin sâu chẳng nghi, lấy hết
mạng làm hạn, cậy vào tín tâm chí thành chẳng ngưng
dứt để làm định nghiệp cho pháp môn Ngũ Niệm.
Dùng cái tâm hữu tướng, trọn đủ ḷng yêu thích [Cực Lạc] và chán
nhàm [Sa Bà], nương
theo tâm vô tướng, lư quán tương ứng. Bậc thượng
căn sẽ có thể thông đạt duyên khởi tánh Không,
kẻ hạ căn cần phải học làm kẻ ngu si,
thẳng thắn. Tín tự (nhớ Phật, niệm Phật,
sẽ nhất định
thấy Phật), tín tha (bổn nguyện của đức
Di Đà), tín nhân (pháp môn Ngũ Niệm), tín quả (văng sanh thành
Phật), tín Sự
(y báo và chánh báo của Cực Lạc), tín Lư (tâm làm Phật, tâm là Phật), nhất là
phải tin: Có sanh ắt có tử, mạng người vô
thường, đường luân hồi nguy hiểm, thời
gian ở trong nẻo khổ lâu dài, lời Phật chẳng
hư vọng, thật sự có Tịnh Độ, nguyện
sanh liền sanh. Hễ sanh
bèn Bất Thoái, thành Phật trong một đời, pháp vốn
duy tâm. Hoặc là dựa theo những điều đă nói
trong quyển thứ nhất của Long Thư Tịnh
Độ Văn để dấy khởi ḷng tin đối
với Tịnh Độ. Sanh ḷng tin như thế, tu năm
môn này, ắt sẽ được “vạn người tu,
vạn người đến”. Nay tôi trích lục bài thơ
Khuyến Tu Tịnh Độ của
Tỉnh Am đại sư, tức vị
Tổ thứ mười một của Tịnh Tông như
sau:
Hưu ngôn Cực
Lạc khổ nan sanh,
Tài thuyết nan sanh
thị chướng môn,
Phật lực tự
năng trừ nghiệp lực,
Tín căn đoan khả
bạt nghi căn,
Thâm đào tư trái
tàng vương phủ,
Hiện thọ quan
h́nh ngộ thánh ân.
Tảo văn tương
tùng khỏa lương khứ,
Thử sanh chung bất
phụ Từ Tôn.
(Đừng kêu Cực
Lạc khó sanh về,
“Khó sanh” vừa thốt,
chướng môn khai,
(Chướng môn
có ba thứ, một là ngờ nghiệp lực sâu nặng,
hai là ngờ phước lực mỏng ít, ba là ngờ công
tu hành cạn cợt. Có ba mối nghi ấy, sẽ chẳng
thể văng sanh)[7].
Phật lực đương
nhiên trừ nghiệp lực,
Tín căn chắc
chắn đoạn nghi căn,
Nợ riêng ôm trốn
trong vương phủ,
(“Nợ riêng” chính
là oán nghiệp, “vương phủ” chính là Cực Lạc.
Sanh về Cực Lạc bèn thoát khỏi oán nghiệp).
Đặc xá trong
khi sắp tử h́nh,
(Đích thân nhờ
Phật lực, cơi âm chẳng thể bắt giữ).
Sáng tối lương
khô luôn sắp sẵn,
Đời này trọn
chẳng phụ Từ Tôn).
Các Tịnh tông liên
hữu, hăy nên suy đi nghĩ lại lời này! Lại hăy
nên đọc quyển thứ hai của bộ Tây Quy Trực
Chỉ trong An Sĩ Toàn Thư, đấy là kim chỉ nam về
các mối nghi vấn. Quyển thứ ba [trong bộ sách ấy]
khơi gợi ḷng tin, [giải đáp các] vấn nạn, sẽ
có thể khiến cho quư vị đoạn nghi sanh tín.
(Chú) Vấn viết:
Danh vi pháp chỉ, như chỉ chỉ nguyệt. Nhược
xưng Phật danh hiệu, tiện đắc măn nguyện
giả, chỉ nguyệt chi chỉ, ưng năng phá ám. Nhược
chỉ nguyệt chi chỉ bất năng phá ám, xưng Phật
danh hiệu, diệc hà năng măn nguyện da? Đáp viết:
Chư pháp vạn sai, bất khả nhất khái! Hữu danh
tức pháp, hữu danh dị pháp. Danh tức pháp giả, chư
Phật, Bồ Tát danh hiệu, Bát Nhă Ba La Mật, cập Đà La Ni chương
cú, cấm chú âm từ đẳng thị dă. Như cấm
thũng từ vân: “Nhật xuất Đông phương, sạ
xích, sạ hoàng” đẳng cú. Giả
sử Dậu Hợi hành cấm, bất quan nhật xuất,
nhi thũng đắc sai. Diệc như hành sư đối
trận, đản nhất thiết xỉ trung, tụng “lâm
binh đấu giả, giai trần liệt tại tiền”.
Hành tụng thử cửu tự, ngũ binh chi sở bất
trúng, Băo Phác Tử vị chi yếu đạo giả dă. Hựu
khổ chuyển cân giả, dĩ mộc qua đối hỏa,
uất chi tắc
dũ. Phục hữu nhân đản hô mộc qua danh diệc
dũ, ngô thân đắc kỳ hiệu dă. Như tư cận
sự, thế gian cộng tri, huống bất khả tư
nghị cảnh giới giả hồ! Diệt Trừ dược
đồ cổ chi dụ, phục thị nhất sự.
Thử dụ dĩ chương ư tiền, cố bất
trùng dẫn. Hữu danh dị
pháp giả, như chỉ chỉ nguyệt đẳng danh
dă.
(註)問曰。名為法指。如指指月。若稱佛名號。便得滿願者。指月之指應能破闇。若指月之指不能破闇。稱佛名號。亦何能滿願耶。答曰。諸法萬差不可一概。有名即法。有名異法。名即法者。諸佛菩薩名號。般若波羅蜜。及陀羅尼章句。禁呪音辭等是也。如禁腫辭云。日出東方。乍赤乍黃等句。假使酉亥行禁。不關日出。而腫得差。亦如行師對陣。但一切齒中誦。臨兵鬪者。皆陳列在前。行誦此九字。五兵之所不中。抱朴子謂之要道者也。又苦轉筋者。以木瓜對火。熨之則愈。復有人但呼木瓜名亦愈。吾身得其效也。如斯近事世間共知。況不可思議境界者乎。滅除藥塗鼓之喻。復是一事。此喻已彰於前。故不重引。有名異法者。如指指月等名也。
(Chú: Hỏi:
Danh là để chỉ pháp, như ngón tay chỉ mặt trăng.
Nếu xưng danh hiệu Phật bèn được măn
nguyện th́ lẽ ra ngón tay chỉ mặt trăng phải
có thể trừ tối. Nếu ngón tay chỉ mặt trăng
chẳng thể trừ tối tăm th́ xưng danh hiệu
Phật cũng làm sao có thể măn nguyện cho được?
Đáp: Các pháp sai khác muôn vàn, chẳng thể nói nhất loạt
như nhau được! Có danh xưng chính là pháp, có danh xưng
khác với pháp. “Danh chính là pháp” là như danh hiệu của
chư Phật, Bồ Tát, Bát Nhă Ba La Mật, và các chương
cú Đà La Ni, các âm thanh, từ ngữ thuộc về cấm
chú v.v… Như lời chú để trị bệnh thũng là các câu như: “Mặt
trời mọc từ phương Đông, chợt đỏ,
chợt vàng…” Giả sử vào giờ Dậu hoặc giờ
Hợi mà thực hành cấm chú ấy, chẳng liên quan ǵ đến
mặt trời mọc, mà bệnh thũng vẫn khỏi.
Lại như xuất quân ra trận, chỉ dạy hết
thảy [quan quân] tụng thầm qua kẽ răng: “Lâm binh đấu
giả giai trần liệt tại tiền” (Những kẻ
ra trận chiến đấu đều xếp hàng trước
mặt)[8].
Tụng chín chữ ấy, năm thứ binh khí chẳng đâm
trúng được. Băo Phác Tử[9]
nói đó là “yếu đạo” vậy. Lại nữa, khổ
sở v́ bị trặc gân, dùng đu đủ hơ lửa
đem chườm th́ sẽ hết. Lại có người
chỉ gọi tên đu đủ th́ cũng lành. Tôi đă đích
thân cảm nhận sự công hiệu ấy. Những chuyện
gần gũi trong thế gian như vậy, thế gian đều
cùng biết, huống hồ cảnh giới chẳng thể
nghĩ bàn ư? Thí dụ về chất thuốc Diệt Trừ
đem bôi trống lại là một chuyện nữa. Thí dụ
ấy đă được nói rơ trong phần trước,
cho nên không trích dẫn lại nữa. Có danh khác với
pháp th́ là như danh xưng “ngón tay chỉ mặt trăng”).
Đoạn vấn
đáp này nhằm giải trừ mối nghi “xưng danh
hiệu Phật có thể thỏa măn hết thảy sở
nguyện”. Lời hỏi như thế này: Lấy ngón tay
chỉ mặt trăng làm thí dụ, ngón tay đă chẳng phải
là mặt trăng, danh hiệu Phật giống như ngón tay,
làm sao có công dụng thỏa nguyện cho được? Lời
đáp như sau: Đối với các pháp, có sự bất
đồng, có những danh xưng chính là pháp, có những
danh xưng khác với pháp. Xưng danh hiệu Phật th́
danh chính là pháp, cho nên có công dụng về pháp, chớ nên
sanh nghi!
Trước hết,
Ngài lấy Phật pháp để thuyết minh. Chẳng hạn
như A Di Đà Phật là tiếng Phạn, dịch thành Vô
Lượng Giác Giả, bao hàm [các ư nghĩa] vô lượng
quang minh, thọ mạng, trí huệ, thần thông, công đức
v.v… Đă là hết thảy vô lượng, cho nên có thể thỏa
măn nguyện cầu của chúng sanh. “Quán Thế Âm Bồ
Tát” là như kinh Pháp Hoa đă nói: “Quán Thế Âm Bồ Tát,
dĩ hà nhân duyên danh Quán Thế Âm? Nhược hữu vô
lượng chúng sanh, thọ chư khổ năo, văn thị
Quán Thế Âm Bồ Tát, nhất tâm xưng danh, Quán Thế
Âm Bồ Tát tức thời quán kỳ âm thanh, giai đắc
giải thoát” (Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên nào mà tên
là Quán Thế Âm? Nếu có vô lượng chúng sanh chịu các
nỗi khổ năo, nghe nói đến vị Quán Thế Âm Bồ
Tát này, bèn nhất tâm xưng danh, Quán Thế Âm Bồ Tát ngay
lập tức quán âm thanh ấy [khiến cho] họ
đều được giải thoát). Đấy là nguyên
do danh hiệu Quán Thế Âm có thể dẹp trừ hết
thảy khổ nạn cho chúng
sanh. Như Bát Nhă Ba La Mật cũng là tiếng Phạn, dịch
thành “trí huệ đáo bỉ ngạn” [trong tiếng Hán]. Thuở
đức Phật tại thế, Đế Thích và chư
thiên giao chiến với A Tu La, đức Phật dạy Đế
Thích hăy sắc truyền chư thiên cùng tụng Ma Ha Bát Nhă
Ba La Mật Đa, A Tu La ngay lập tức tan tác rút chạy.
Phật giáo truyền nhập Trung Hoa chẳng lâu, Huyền
Trang đại sư sang Ấn Độ thỉnh kinh, giữa
đường bị thiếu nước, hoặc gặp
ác thú, hoặc gặp giặc cướp, thường tụng
Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh, th́ ngay lập tức có nước,
thoát nạn. Những điều ấy đều là sự
thật đích xác [chứng tỏ
kinh điển và danh hiệu Phật] có thể
măn nguyện. Lại như Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại
Đại Bi Tâm Đà La Ni Chương Cú, gọi tắt là
chú Đại Bi, kiền thành tụng chú ấy, đích xác
là có các thứ lực dụng trị bệnh, trừ ma, tiêu
tai v.v… chẳng thể nghĩ bàn. Những chuyện linh cảm
xưa nay rất nhiều.
Lại nêu ra mấy
trường hợp trong dân gian Trung Hoa: Một là Cấm Thũng
Từ (chú trị bệnh thũng), bất luận sáng tối,
chỉ cần đối trước người bệnh
thũng, miệng tụng mấy câu “nhật xuất Đông
phương, sạ xích, sạ
hoàng” v.v… bệnh thũng bèn tiêu trừ. Hai là như xuất
quân sắp giao chiến, lúc quân trận đối địch,
mọi người trong miệng cùng tụng “lâm binh đấu
giả, giai trần
liệt tại tiền”. Tụng chín
chữ ấy, năm loại binh khí chẳng thể đâm
trúng. Theo Hán Thư ghi chép, “ngũ binh” là năm thứ
binh khí tức mâu, kích, cung, kiếm, giáo. Trong sách Băo Phác Tư
do Cát Hồng biên soạn vào đời Tấn, câu ấy được
coi là đạo trọng yếu trong cách dụng binh. Ba là
như người bị rút gân, đầu cổ chẳng
thể chuyển động, cảm thấy đau khổ,
hăy lấy trái đu
đủ dùng lửa nướng cho nóng, áp vào chỗ bị
rút gân, sẽ có thể trị lành. Hoặc có lúc chẳng t́m
được đu đủ, chỉ gọi tên đu đủ,
dùng khăn tay hơ nóng không ngừng xoa bóp chỗ bị rút
gân th́ cũng có thể trị lành. Ngài Đàm Loan lấy chính
ḿnh làm chứng, nói chính Ngài đă đạt được
hiệu quả như vậy. Những chuyện giống như
vậy mọi người Hoa đều cùng hay biết, chẳng
thể ngờ vực được! Huống chi xưng niệm
danh hiệu A Di Đà Phật chính là cảnh giới chẳng
thể nghĩ bàn, chỉ có Phật mới có thể biết
công dụng vi diệu của Ngài. Như
Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Công Đức
Kinh có nói: “Xưng niệm nhất Phật danh hiệu, tiện
năng đắc như thị công đức lợi ích.
Thử thị Phật sở hành xứ (cảnh giới)” (Xưng
niệm danh hiệu của một vị Phật bèn đạt
được công đức lợi ích như thế đó.
Đấy chính là hành xứ (tức cảnh giới) của
Phật vậy). Há có nên sanh nghi chẳng tin? Lời hỏi
của ông, dùng ngón tay chỉ mặt trăng làm thí dụ, đấy
chính là danh khác với pháp! Ngón tay và mặt trăng căn bản
là bất đồng, sẽ không có công dụng trừ tối
hoặc măn nguyện được, đó là lẽ đương
nhiên!
Vô Lượng
Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Chú Giải Giảng Nghĩa
phần
5 hết
[1]
Biện Tài Thiên Nữ (Sarasvatī), c̣n dịch là Biện Tài Thiên, hoặc
Diệu Âm Thiên Nữ, vốn là một vị nữ thần
trong Bà La Môn giáo, chuyên trông coi y dược, thơ ca, giàu có,
trí huệ, vẻ đẹp, và âm nhạc. Bà cũng là một
vị thần hộ pháp của Phật giáo. Theo kinh Kim
Quang Minh, phẩm Đại Biện Tài Thiên Thần (do ngài
Đàm Vô Sấm dịch) có chép: “Lúc bấy giờ, Biện
Tài Thiên Nữ bạch cùng đức Phật: “Thưa Thế
Tôn! Con sẽ tăng trưởng Nhạo Thuyết Biện
Tài cho người nói pháp này, khiến cho những điều
người ấy đă nói đều là khéo đạt
đại trí, có thứ lớp. Nếu đối với
câu chữ, ư nghĩa trong kinh văn mà quên mất hoặc hiểu
nhớ sai, con sẽ khiến cho vị tỳ-kheo thuyết
pháp ấy nhớ lại đúng thứ tự, tổng tŕ
chẳng quên mất…” Bà được coi là một trong
mười tám vị thần tài bảo trong Phật giáo
theo truyền thống Tây Tạng, được gọi là
Diệu Âm Phật Mẫu, và được coi là phối
ngẫu của Văn Thù Bồ Tát. Bà thường
được tạc tượng dưới h́nh thức
một thiếu nữ xinh đẹp ôm đàn tỳ bà.
[2] Liễu nhân (了因) là cái nhân gián tiếp giúp cho cái quả
thành tựu. Sách Nhân Minh Đại Sớ quyển thượng
giảng: “Nhân xét về bản thể có hai loại, một
là sanh nhân, hai là liễu nhân. Như hạt giống có thể
nẩy mầm, do có tác dụng sanh khởi nên gọi là sanh
nhân. Như đèn chiếu vật, có thể hiển hiện
cái quả, nên gọi là liễu nhân”.
[3] Y Trùng, gọi đủ là Y Oai Trùng, c̣n gọi là Triều Trùng, là tên gọi chung của
nhiều loại côn trùng có h́nh tṛn dẹp, mà người
Anh thường gọi là Sowbug, Pill bug, hay Woodlouse. Chúng sống nơi ẩm thấp,
màu xám nâu, hay xám trắng, nhiều chân,
có vỏ cứng, khi gặp nguy hiểm thường cuộn
tṛn lại (nhưng khác với loài cuốn chiếu,
millipede), v́ Y Trùng không có chân kép như loài cuốn chiếu, và cuốn chiếu có thân h́nh dài,
thon, tṛn (gần giống như rết), trong khi Y Trùng th́ dẹp
và ph́nh to.
[4] Châu Dương vốn là từ ngữ
để chỉ mặt trời, v́ mặt trời lúc mới
mọc có sắc đỏ. Về sau, từ ngữ Châu Dương được dùng để chỉ
mùa Hạ, nhưng khi nói đến “Châu Dương tiết”
th́ là lúc giao mùa giữa Hạ và Thu.
[5] Đường Thuận Tông tên thật
là Lư Tụng. Ông là vị vua có thời gian trị
v́ ngắn nhất, chỉ có 184 ngày! Lư Tụng là
con trai của Đường Đức Tông (Lư Quát), vốn là người khoan dung và nhân ái, biết
chiêu hiền đăi sĩ, nhưng chẳng may bị đột quỵ (stroke) khi
đang c̣n làm Thái Tử đến nỗi không nói được và cử động rất khó khăn. Tuy thời gian cầm quyền ngắn ngủi, ông
đă tận lực cùng các đại thần như Vương Thúc Văn,
Vi Chấp Nghị, Hàn Diệp, Liễu Tông Nguyên… mưu toan
trừ khử những gă gian thần thời Đức Tông và tiêu trừ thế lực của bọn hoạn
quan đang nhũng loạn triều chính. Thế nhưng, do Vương Thúc Văn chuyên quyền, bất ḥa
với Vi Chấp Nghị, khiến cho bọn hoạn quan thừa cơ đắc thế, suất lănh quần
thần dâng sớ ép vua phải nhường
ngôi cho thái tử Lư Thuần (tức Đường Hiến
Tông).
[6] Luân Quán (綸貫) theo ư
nghĩa gốc chính th́ là các trước
tác về luân lư, nhưng nếu xét theo ư nghĩa
thông dụng trong các bản chú sớ th́ Luân Quán chính là phần Huyền
Nghĩa
(tương đương với Ngũ Trùng Huyền Nghĩa)
nhằm giải thích biện định những ư nghĩa
tổng cương như thể tướng, lực dụng,
giáo tướng, tông chỉ v.v… của một bản kinh
hay một bộ luận.
[7] Đây là những chú thích do người biên tập bộ Tịnh Độ Thi
ghi vào và được pháp sư Tánh Phạm ghi kèm sau mỗi
câu thơ tương ứng, chúng tôi đưa vào phần
dịch nghĩa chứ không ghép sau nguyên văn của bài
thơ để độc giả dễ đọc nguyên tác hơn.
[8] Đạo gia dùng bài chú này làm chú hộ
thân (c̣n gọi là Lục Giáp Bí Chú) để đối phó
với ma quỷ khi vào vùng hoang vu. Khi họ xướng mỗi
chú đều phải có một loại
thủ ấn tương ứng. Chẳng hạn như
xướng chữ Lâm bèn kết ấn Độc Cô,
xướng chữ Binh bèn kết ấn Đại Kim Cang
Luân…
[9] Băo Phác Tử là hiệu của Cát Hồng
(283-343), sống vào đời Tấn. Ông từng ra làm quan,
làm đến chức Phục Ba Tướng Quân, tước
Quan Nội Hầu. Về sau, ông theo thứ sử Kê Hàm xuống
Quảng Châu, giữ chức Tham Quân. Sau khi Kê Hàm bị hại,
ông ẩn cư tại núi La Phù, tu đạo ở đấy.
Ông tôn Thái Thú Nam Hải là Bào Tịnh làm thầy, học tập
luyện đan, lại cưới con gái Bào Tịnh là Bào
Cô làm vợ. Ông trước tác bộ Băo Phác Tử nhằm
tŕnh bày triết thuyết của ḿnh cũng như dạy
các phép luyện đan.