Vô Lượng
Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá
Chú Giải
Giảng Nghĩa
phần
9
無量壽經優婆提舍註解講義
Ấn Độ
Thế Thân Bồ Tát tạo luận
印度世親菩薩造論
Nguyên Ngụy
Thiên Trúc Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi dịch luận
元魏天竺三藏菩提流支譯論
Nguyên Ngụy
Huyền Trung Tự sa-môn Đàm Loan chú giải
元魏玄中寺
Dân Quốc
Tịnh Luật Tự sa-môn Tánh Phạm giảng nghĩa
民國淨律寺 門性梵講義
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
2.2.2.2.6.
Ly Bồ Đề chướng
(Chú) Ly Bồ Đề chướng
giả.
(註)離菩提障者。
(Chú:
Ĺa các pháp chướng ngại Bồ Đề).
2.2.2.2.6.1.
Nêu chung ba thứ chướng
(Luận) Bồ Tát như thị
thiện tri hồi hướng thành tựu, tức năng
viễn ly tam chủng Bồ Đề môn tương vi pháp.
(Luận: Bồ Tát khéo
biết hồi hướng thành tựu như thế, liền
có thể xa ĺa ba thứ pháp trái nghịch Bồ Đề môn).
Đến đây th́ bộ
luận này đă trần thuật viên măn pháp môn Ngũ Niệm.
Từ đây trở đi cho đến khi toàn thể bộ
luận hoàn tất, Luận Chủ đă nêu ra cương
yếu trong việc tu hành pháp môn Ngũ Niệm, chủ
yếu là trí huệ, phương tiện, và từ bi; ba thứ ấy
thiếu một thứ, sẽ chẳng
thể được! Hễ thiếu, sẽ chẳng thể
thành tựu Ngũ Niệm Môn, mà cũng chẳng thể đạt
được đại lợi ích “văng sanh Tịnh
Độ, thành Phật”. Thật ra, trí huệ, phương
tiện, và từ bi chính là cương yếu của Vô Thượng
Bồ Đề tâm và hết thảy Bồ Tát hạnh mà hết
thảy Bồ Tát đều phải có. Đó chính là nhân tố
cơ bản và điều kiện tất yếu để
thành Phật. V́ thế, kinh Đại Bát Nhă nói: “Bồ
Tát hành Bồ Đề đạo, ưng tiên y chỉ tam
chủng tâm: Nhất giả, Nhất Thiết Trí trí tương
ứng tác ư. Nhị giả, vô sở đắc vi phương
tiện. Tam giả, đại bi vi thượng thủ”
(Bồ Tát hành Bồ Đề đạo, trước hết,
hăy nên y chỉ ba thứ tâm: Một là khởi ư tương
ứng với trí Nhất Thiết Trí, hai là dùng “chẳng
có ǵ để đạt được” làm
phương tiện, ba là đại bi làm thượng thủ).
Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói: “Nhược hữu
chúng sanh nguyện sanh bỉ quốc giả, phát tam chủng
tâm, tức tiện văng sanh. Hà đẳng vi tam? Nhất giả,
chí thành tâm. Nhị giả, thâm tâm. Tam giả, hồi hướng
phát nguyện tâm. Cụ tam tâm giả, tất sanh bỉ quốc”
(Nếu có chúng sanh nguyện sanh về cơi ấy, phát ba loại
tâm liền được văng sanh. Những ǵ là ba? Một
là chí thành tâm. Hai là thâm tâm. Ba là hồi hướng phát nguyện
tâm. Đủ ba tâm, ắt sanh cơi ấy). Ba loại tâm như
Quán Kinh và kinh Đại Bát Nhă đă nói đều
là nói nguyện tâm, trí tâm, và bi tâm hợp nhất thành Bồ
Đề tâm, mà cũng là ba môn trí huệ, phương tiện,
và từ bi nói trong luận này, có thể nói là hàm nghĩa của
chúng hoàn toàn tương đồng. Tịnh Tông Bồ Tát tu
tập Ngũ Niệm Môn nếu có thể như đă nói
trong phần trước: Tu Chỉ Quán lược hay rộng,
thành tựu Đại Thừa nhu nhuyễn tâm, bất nhị
tâm, sẽ có thể đúng như Thật Tướng của
các pháp, biết các pháp thế gian và xuất thế gian rộng
hay lược. Đă biết Thật Tướng, sẽ có
thể Không và Hữu vô ngại, Bi và Trí trọn đủ,
thành tựu xảo phương tiện hồi hướng.
Đă có thể thiện xảo phương tiện hồi
hướng, sẽ có thể xa ĺa các pháp trái nghịch ba thứ
“từ bi, trí, nguyện” thuộc đại
Bồ Đề tâm và Bồ Đề
đạo, đạt được ba thứ tùy thuận
Bồ Đề môn. Do cái này có mà cái kia có; do cái này
không, cho nên cái kia
không. Đó là nhân quả tất nhiên theo định luật
duyên khởi. Do vậy, cuối bộ luận này, Luận
Chủ đă đặc biệt v́ Tịnh nghiệp hành nhân
mà thâu tóm
những điều trọng yếu để chỉ bày. Phàm
là Bồ Tát muốn thành tựu Ngũ Niệm Môn, nguyện
cùng hết thảy chúng sanh văng sanh An Lạc quốc, đồng
thành Phật đạo, ắt cần phải biết để
y giáo tu hành.
Bồ Đề (Bodhi) là tiếng
Phạn, dịch [sang tiếng Hán] là Giác hoặc Đạo.
Có ba thứ Bồ Đề, tức là Thanh Văn Bồ
Đề, Duyên Giác Bồ Đề, và Phật Bồ Đề.
Trong luận này, từ đây trở đi, hễ nói đến
Bồ Đề th́ đều là nói tới Phật Bồ
Đề, tức A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttarā Samyak-saṃbodhi), dịch
nghĩa là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nhằm
vạch rơ: Chẳng phải là phàm phu bất giác, ngoại
đạo tà giác, Nhị Thừa thiên giác (偏覺, giác ngộ
lệch lạc), Bồ Tát tuy là Chánh Giác, nhưng chẳng
phải là Cứu Cánh Giác (究竟覺, giác ngộ
rốt ráo), chỉ có Phật mới là bậc rốt ráo đạt Chánh Đẳng
Chánh Giác không ǵ cao hơn được! Luận nói “xa ĺa
ba thứ pháp trái nghịch Bồ Đề môn” th́ cũng
là nói xa ĺa ba pháp trái nghịch năm niệm môn, chúng có thể
chướng ngại Bồ Tát thành Phật, hăy nên xa ĺa!
2.2.2.2.6.2.
Nêu riêng từng pháp trong ba loại chướng
2.2.2.2.6.2.1.
Nương theo Trí Huệ Môn
(Luận) Hà đẳng tam chủng?
Nhất giả, y trí huệ môn, bất cầu tự lạc,
viễn ly ngă tâm tham trước tự thân cố.
(Chú) Tri tấn thủ thoái viết
Trí, tri Không, Vô Ngă viết Huệ. Y trí cố, bất cầu
tự lạc. Y huệ cố, viễn ly ngă tâm tham trước
tự thân.
(論)何等三種。一者依智慧門。不求自樂。遠離我心貪著自身故。
(註)知進守退曰智。知空無我曰慧。依智故。不求自樂。依慧故。遠離我心貪著自身。
(Luận:
Những ǵ là ba thứ? Một là nương vào Trí Huệ Môn, chẳng cầu
vui sướng cho riêng ḿnh, v́ xa ĺa cái tâm chấp Ngă tham đắm
tự thân.
Chú: Biết đường
tiến lùi là Trí, biết Không, Vô Ngă là Huệ. Do nương
vào trí, nên chẳng
cầu vui sướng cho riêng ḿnh. Do nương vào huệ
nên xa ĺa cái tâm chấp Ngă tham đắm tự thân).
“Tri tấn
thủ thoái” (biết đường
tiến lùi) th́ gọi là Trí, chính là trí huệ b́nh phàm trong thế tục, tức là như
nói “cùng tắc độc thiện kỳ thân, đạt
tắc kiêm lợi thiên hạ” (cùng quẫn th́ giữ riêng
cho thân ḿnh tốt lành, thông đạt bèn kèm thêm làm lợi
cho thiên hạ). Biết hai thứ Nhân và Pháp đều là Không,
chẳng có Ngă và Ngă Sở (cái của ta); đấy là trí huệ
Bát Nhă xuất thế gian, chính là như thường nói “Bát
Nhă sanh tắc chư pháp bất sanh thị” (Bát Nhă
sanh th́ các pháp chẳng sanh). Luận này nói “y trí huệ môn”
(nương theo môn trí huệ) tức
là nói nương theo Bát Nhă.
Có Bát Nhă Không trí th́ mới có thể xa ĺa Ngă Kiến và Ngă Chấp
của chúng sanh. Đă có Ngă Kiến và
Ngă Chấp, sẽ nẩy sanh chướng ngại đối
với Đại Thừa Bồ Đề tâm và Bồ Tát
đạo; do vậy, cần phải xa ĺa. Ngă Kiến là ǵ?
Chính là như trong luận này nói: “Ngă tâm tham trước tự
thân” (tâm ngă chấp
tham đắm bản thân). Ngă Kiến
c̣n gọi là Thân Kiến; đối với Thân Kiến bèn
có Ngă Chấp, sanh khởi ngă tham (ái), ngă sân, ngă mạn! Duy
Thức Luận nói Ngă Chấp có hai loại:
1) Do thức thứ bảy
duyên theo Kiến Phần của thức thứ tám, chấp
đó là Ngă. Đấy chính là Câu Sanh Ngă Chấp (俱生我執, Ngă Chấp
bẩm sinh) từ vô thỉ
đến nay, khá vi tế.
2) Do thức thứ sáu duyên theo
Tứ Đại và Ngũ Uẩn, chấp đó là Ngă. Đấy
chính là Ngă Chấp do phân biệt sanh ra, so ra thô hơn [Câu
Sanh Ngă Chấp].
Muốn phá Ngă Chấp th́ trí
huệ thế tục chẳng thể làm được, chỉ
cậy vào trí huệ Bát Nhă. Phá Nhân Ngă Chấp th́ có thể đoạn
Phiền Năo Chướng, chứng lư Sanh Không. Phá Pháp Ngă Chấp,
sẽ có thể đoạn Sở Tri Chướng, chứng
lư Pháp Không. Sanh Không là liễu tri “chúng sanh chỉ
là giả tướng do các duyên ḥa hợp, chẳng có thật
thể”. Như
liễu giải một chiếc xe hơi chỉ là giả
danh để gọi rất nhiều linh kiện (parts) xe hơi
ghép thành,
trọn chẳng có một vật ǵ là thật
thể của xe hơi. Pháp Không là liễu tri pháp Tứ Đại
và Ngũ Uẩn giả hợp thành chúng sanh, cũng là “duyên
tụ hội bèn có”, vốn là Không. Đó gọi là Pháp
Không Quán. Liễu tri Nhân lẫn Pháp đều là Không, Bát Nhă
hiện tiền, sẽ thông đạt hết thảy các
pháp chẳng có Ngă và Ngă Sở, tất nhiên là chẳng thể
tham đắm, chẳng v́ chính ḿnh mà truy cầu bất cứ
sự vui sướng nào cần thiết cho ta.
Nay tôi nêu ra một thí dụ:
Tâm tánh của chúng ta giống như hư không, vốn thanh tịnh,
chẳng có Ngă Kiến và Ngă Chấp, cũng chẳng có Phiền
Năo Chướng và Sở Tri Chướng, chẳng khác chư
Phật, Bồ Tát. Nhưng chúng sanh từ vô thỉ đến
nay, do có Câu Sanh Vô Minh, chẳng có trí huệ Bát Nhă, bèn có Ngă
Kiến và Ngă Chấp. Như hư không chẳng có mặt
trời chiếu soi, cho nên tối
tăm dấy lên. Hư không chẳng thể tự ḿnh trừ
tối, phải nhờ vào ánh sáng mặt trời th́ mới
có thể trừ tối. Tâm tánh rỗng rang cũng giống
như thế, chẳng thể tự ḿnh trừ khử Ngă
Kiến và Ngă Chấp, ắt phải cậy vào trí huệ Bát
Nhă giác chiếu để đoạn chướng, hiển
Không. Lại như mặt trời chiếu
hư không, càn khôn rỗng rang hiển lộ; Bát Nhă (trí
huệ) từ tâm sanh, tâm tánh hiển lộ rạng ngời.
Trí huệ phá Ngă Chấp như mặt trời chiếu hư
không, bèn chẳng có tối tăm, pháp vốn là như thế
đó. V́ thế, cần phải nương theo Trí Huệ Môn để đoạn
trừ Ngă Chấp và Pháp Chấp th́ mới có thể xa ĺa cái
ngă tâm tham đắm tự thân (Thân Kiến). Do điều
này có thể biết: Chúng ta niệm Phật, lạy Phật,
cho đến phát nguyện, quan sát, hồi hướng,
đều chẳng thể chỉ v́ cầu an vui cho chính ḿnh
mà tu tập, phải v́ hết thảy chúng sanh “cùng thấy
Di Đà, cùng sanh về Cực Lạc, cùng thành Phật
đạo, cùng giáo hóa chúng sanh” mà làm! Có những vị tu
hành đă lâu, nhưng
Ngă Kiến và Ngă Chấp đặc biệt nặng nề;
đấy là trái nghịch đạo, chớ nên! Có những
vị Bồ Tát ôm giữ chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa
“gió thổi chiều nào ngả theo chiều ấy” (chủ
nghĩa thời cơ), chủ nghĩa cục bộ, thành
kiến môn hộ đặc biệt mạnh mẽ. Đấy
đều là giả danh Bồ Tát, cũng đều là chớ
nên!
2.2.2.2.6.2.2.
Nương theo Từ Bi Môn
(Luận) Nhị giả, y từ
bi môn, bạt nhất thiết chúng sanh khổ, viễn ly vô
an chúng sanh tâm cố.
(Chú) Bạt khổ viết Từ,
dữ lạc viết Bi. Y Từ cố, bạt nhất thiết
chúng sanh khổ. Y Bi cố, viễn ly vô an chúng sanh tâm.
(註)拔苦曰慈。與樂曰悲。依慈故。拔一切眾生苦。依悲故。遠離無安眾生心。
(Luận:
Hai là nương theo Từ Bi Môn, dẹp khổ cho hết
thảy chúng sanh, xa ĺa cái tâm chẳng làm cho chúng sanh an vui.
Chú: Dẹp khổ là Từ,
ban vui là Bi. Do nương theo Từ, nên dẹp
khổ cho hết thảy chúng sanh. Do nương theo Bi, nên xa ĺa
cái tâm chẳng làm cho chúng sanh an vui).
Nói thông
thường th́ “Bi là dẹp
khổ, Từ là có thể ban vui”. Nương
vào đồng thể đại bi, cho nên có thể
dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh. Nương theo vô
duyên đại từ, nên có thể xa ĺa cái tâm “chẳng làm
cho chúng sanh an vui”, ban cho chúng sanh sự an lạc cần thiết. Do vậy,
chúng ta niệm Phật, lạy Phật, cho đến hồi
hướng, mục đích đều là phải làm sao cho chính
ḿnh và hết thảy chúng sanh chỉ trong một đời
này cùng thoát khỏi nhà lửa tam giới, vĩnh
viễn ĺa khỏi các khổ, cùng sanh vào An Lạc Tịnh
Độ, thường hưởng an lạc. Tín như thế,
nguyện như thế, hành như thế, niệm như
thế, lạy như thế, cho đến hồi hướng
như thế. Đấy chính là nương theo Từ Bi Môn
để tu pháp môn Ngũ Niệm, tất
nhiên là xa ĺa cái tâm “chẳng muốn làm cho chúng sanh được an lạc”. Từ
bi có ba loại như trong phần
trước tôi đă có nói. Trong thế gian, ḷng từ bi của
cha mẹ, sư trưởng, người nhà, quyến thuộc,
cho đến [ḷng
từ bi] của những bậc vua hiền, tôi sáng, nhà tôn giáo, nhà từ thiện, chỉ hạn
cuộc nơi một người, một nhà, hoặc một
nước, chẳng thể phổ cập hết thảy
chúng sanh, chẳng v́ dẹp khổ cho hết thảy chúng
sanh. Đấy chẳng phải là rốt ráo, chẳng viên
măn. Chỉ có ḷng từ bi giống như Phật, Bồ
Tát th́ mới là “nhân giả nhân chi an trạch” (ḷng nhân
là căn nhà yên vui cho con người), cũng chỉ có “nhiếp
thủ, hóa độ hết thảy chúng sanh cùng sanh về
An Lạc quốc” th́ mới là tâm đại từ bi “từ
năng dữ nhất thiết lạc, bi năng bạt nhất
thiết khổ” (từ có thể ban hết thảy vui,
bi có thể dẹp hết thảy khổ).
2.2.2.2.6.2.3.
Nương theo Phương Tiện Môn
(Luận) Tam giả, y phương
tiện môn, lân mẫn nhất thiết chúng sanh tâm, viễn
ly cúng dường, cung kính tự thân tâm cố.
(Chú) Chánh trực viết Phương,
ngoại kỷ viết Tiện. Y chánh trực cố, sanh lân
mẫn nhất thiết chúng sanh tâm. Y ngoại kỷ cố,
viễn ly cúng
dường, cung kính tự thân tâm.
(論)三者,依方便門。憐愍一切眾生心。遠離供養恭敬自身心故。
(註)正直曰方。外己曰便。依正直故。生憐愍一切眾生心。依外己故。遠離供養恭敬自身心。
(Luận:
Ba là nương theo Phương Tiện Môn, tâm thương
xót hết thảy chúng sanh, xa ĺa tâm cúng dường, cung
kính chính ḿnh.
Chú: Chánh trực là Phương,
gạt bỏ cái tôi ra ngoài là Tiện. Do nương theo chánh
trực, cho nên sanh
tâm thương xót hết thảy chúng sanh. Do gạt chính
ḿnh ra ngoài, nên xa ĺa cái
tâm cúng dường, cung kính bản thân).
Chánh trực
và “ngoại kỷ” th́ là Phương Tiện. Chánh trực
chính là chí thành, “ngoại kỷ” (外己, gạt
bỏ cái tôi ra ngoài) chính là vô ngă. Chỉ có chí thành và vô ngă th́
mới được gọi là phương tiện
trong Phật pháp, mới có thể chẳng “từ bi sanh
họa hại, phương tiện xuất hạ lưu” (do
từ bi mà sanh ra tai họa, ương hại; do phương
tiện [chẳng hay khéo] mà trở
thành hạ lưu). Do vậy, trong kinh Vô Lượng Thọ,
đức Phật đă nêu ra lời khai thị của Thế
Tự Tại Vương Phật dành cho Pháp Tạng Bồ
Tát như sau: “Thí như đại hải, nhất nhân đấu
lượng, kinh lịch kiếp số, thượng khả
cùng để, đắc kỳ diệu bảo. Nhân hữu
chí tâm tinh tấn (phương tiện), cầu đạo
bất chỉ, hội đương khắc quả, hà nguyện
bất đắc” (Ví như đối với biển
cả, một người dùng đấu để đong,
trải qua kiếp số, c̣n có thể [múc cạn] đến
tận đáy, đạt được của báu mầu
nhiệm. Người có sự chí tâm tinh tấn (phương
tiện), cầu đạo chẳng ngơi, sẽ đạt
được quả, có nguyện nào mà chẳng đạt
được). [Lời ấy] nhằm chỉ rơ: Tu pháp
môn Tịnh Độ, ắt cần phải dùng phương
tiện vô ngă, chí tâm tinh tấn, th́ mới là “có
nguyện ắt thành”, văng sanh Cực Lạc, thành Phật
độ sanh. Người đời lập công, lập đức,
lập ngôn, đều chẳng thể hoàn toàn ĺa khỏi
Ngă Kiến và Ngă Chấp. Do vậy, thành công th́ riêng ḿnh hưởng
lạc là chuyện tất nhiên. Bồ Tát khác hẳn, Ngài cầu
sanh Cực Lạc là v́ thương xót, cứu độ hết
thảy chúng sanh, [khiến cho họ]
có thể “chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng
các sự vui”, chẳng phải là sanh về thế giới
Cực Lạc để chính ḿnh hưởng lạc, cũng
chẳng phải v́ muốn được “người
đời cung kính, lễ bái giống như lễ bái thần
thánh” mà phát tâm học Phật, làm Bồ Tát. Chỗ khác biệt
giữa Bồ Tát và người đời là các Ngài có tinh
thần vô ngă th́ mới có thể có phương tiện chí
tâm tinh tấn, chẳng trái nghịch tâm Vô Thượng Bồ
Đề, hoàn thành Lục Độ
vạn hạnh của Bồ Tát đạo. Trong Vô Lượng
Thọ Kinh Giảng Nghĩa (từ trang một trăm chín
mươi lăm đến trang hai trăm lẻ hai), tôi đă
có giải thích, mọi người chẳng ngại tra duyệt,
tham khảo.
2.2.2.2.6.3.
Tổng kết
(Luận) Thị danh viễn
ly tam chủng Bồ Đề môn tương vi pháp.
(論)是名遠離三種菩提門相違法。
(Luận:
Đó gọi là xa ĺa ba loại pháp trái nghịch Bồ
Đề môn).
Có thể trọn đủ
ba môn trí huệ, phương tiện, và từ bi như đă
nói trên đây, sẽ chẳng trái nghịch Vô Thượng Bồ
Đề tâm và Đại Thừa Bồ Tát đạo, có
thể sanh vào Tịnh Độ, có thể thành Phật quả.
V́ thế gọi là “ba thứ Bồ Đề môn”. Giả
sử chỉ biết niệm Phật, lễ Phật, phát
nguyện, quan sát, nhưng chẳng thể xa ĺa ba thứ pháp
trái nghịch Bồ Đề môn, th́ không chỉ
là chẳng thể thành Phật, mà văng sanh
Tịnh Độ cũng chẳng dễ dàng! V́ sao vậy?
Pháp môn Tịnh Độ là pháp Đại Thừa, văng sanh
Cực Lạc là Bồ Đề đại đạo để
thành Phật. Nếu chẳng xa ĺa các pháp trái nghịch tinh
thần Đại Thừa và Bồ Đề đại đạo,
đương nhiên là chúng sẽ chướng ngại Bồ
Tát, chẳng thể
đạt thành nguyện vọng văng sanh thành Phật.
2.2.2.2.7.
Thuận Bồ Đề môn
(Chú) Thuận Bồ Đề
môn giả.
(註)順菩提門者。
(Chú:
Thuận Bồ Đề môn…)
2.2.2.2.7.1.
Nêu chung ba môn
(Luận) Bồ Tát viễn
ly như thị tam chủng Bồ Đề môn tương
vi pháp, đắc tam chủng tùy thuận Bồ Đề môn
pháp măn túc cố.
(論)菩薩遠離如是三種菩提門相違法。得三種隨順菩提門法滿足故。
(Luận:
Bồ Tát xa ĺa ba loại pháp trái nghịch Bồ Đề
môn như thế, sẽ đạt được trọn
vẹn ba loại pháp tùy thuận Bồ Đề môn).
Hai câu
luận này nhằm nối tiếp phần trước để
khởi đầu cho phần sau, trước hết là nêu
chung ba loại pháp tùy thuận Bồ Đề môn, sau đấy
mới phân biệt giải nói. Những ǵ là ba thứ? Chính
là vô nhiễm thanh tịnh tâm, an thanh tịnh tâm, và lạc thanh
tịnh tâm. Ba thứ đều được gọi là “thanh tịnh tâm”. Điều
này nhằm nêu rơ: Tâm tịnh th́ mới có thể sanh về Tịnh
Độ, mới được thành Phật. Phật môn vô
lượng nghĩa, nhưng đều lấy cái tâm thanh
tịnh làm căn bản. Do vậy, trong tác phẩm Thành Phật
Chi Đạo, đạo sư Ấn
Thuận (印順導師) đă
viết: “Giới nhằm tịnh hóa tâm và khẩu, Định
nhằm tịnh hóa t́nh dục, Huệ nhằm tịnh hóa
tri kiến, Tam Học lần lượt thanh tịnh. Nước
tam-muội tịnh hóa tham, gió từ bi tịnh hóa sân, lửa
Bát Nhă tịnh hóa si, tánh địa vốn sẵn tịnh.
Vô biên phiền năo tịnh, vô lượng tịnh hạnh tích
tập, liền dùng ngay cái hạnh tịnh tâm ấy để
trang nghiêm cơi Cực Lạc”. Các liên hữu Tịnh tông
phải ghi khắc những lời ấy bên chỗ ngồi!
2.2.2.2.7.2.
Nêu rơ từng môn riêng biệt trong ba môn
2.2.2.2.7.2.1.
Vô nhiễm thanh tịnh tâm
(Luận) Hà đẳng tam chủng?
Nhất giả, vô nhiễm thanh tịnh tâm, dĩ bất vị
tự thân cầu chư lạc cố.
(Chú) Bồ Đề thị
vô nhiễm thanh tịnh xứ. Nhược vị thân cầu
lạc, tức vi Bồ Đề. Thị cố, vô nhiễm
thanh tịnh tâm thị thuận Bồ Đề môn.
(註)菩提是無染清淨處。若為身求樂。即違菩提。是故無染清淨心是順菩提門。
(Luận:
Những ǵ là ba loại? Một là tâm thanh tịnh vô nhiễm,
do chẳng v́ bản thân mà cầu các sự vui.
Chú: Bồ Đề là
chỗ vô nhiễm thanh tịnh. Nếu v́ bản thân mà cầu
vui sướng, tức là trái nghịch Bồ Đề. Do
vậy, tâm thanh tịnh vô nhiễm là thuận Bồ Đề
môn).
Như
thế nào để đạt được ba loại
pháp tùy thuận Bồ Đề môn? Do tương phản
với ba loại pháp trái nghịch Bồ Đề môn mà đạt
được. Loại thứ nhất là nương theo
Trí Huệ Môn, phá Ngă Kiến và Ngă Chấp, sẽ đạt
được cái gọi là “vô nhiễm
thanh tịnh tâm”. V́ chẳng
có Ngă Kiến và Ngă Chấp, cho nên hết
thảy các phiền năo chẳng dấy lên, cái tâm thanh tịnh,
do vậy,
gọi là “vô nhiễm”. Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác cần phải đoạn trừ hết thảy phiền
năo th́ mới có thể chứng đắc. Do vậy nói: Bồ
Đề là chốn thanh tịnh vô nhiễm. Phàm những
ai có thể chẳng v́ chính ḿnh mà cầu danh, cầu lợi,
cầu an lạc, bèn phá Ngă Chấp, đắc vô ngă. Vô ngă tự
nhiên là vô nhiễm thanh tịnh. Nhưng chỉ là Vô Ngă, chỉ
đạt được bản thân thanh tịnh, th́ đấy
là Nhị Thừa Bồ Đề, vẫn chẳng phải
là pháp để tùy thuận Đại Thừa Bồ Đề.
Ắt cần phải nương theo trí huệ Bát Nhă “Nhân lẫn Pháp đều Không” để đoạn Ngă Chấp và Pháp Chấp, chứng
đắc Nhị Không Chân Như. Lại có thể chẳng
ch́m đắm trong Không, hướng đến Tịch,
hành Bồ Đề đạo, nhiếp thủ hết thảy
chúng sanh cùng sanh về
An Lạc quốc thành Phật. Đấy mới là “vô nhiễm thanh
tịnh tâm” được nói trong bộ luận này, là pháp tùy thuận
Đại Thừa Bồ Đề Môn. V́ Tây Phương An
Lạc quốc là cơi Tịnh Độ chí cực vô nhiễm
thanh tịnh, là cảnh giới Đại Niết Bàn của
chư Phật. Phàm ai sanh về cơi ấy, ắt được
Hoặc tận, trí viên, rốt ráo là Nhất Sanh Bổ Xứ.
V́ thế, chỉ cần nguyện “làm cho hết
thảy chúng sanh cùng sanh An Lạc quốc” th́ tức
là vô nhiễm thanh tịnh tâm, tùy thuận Đại Thừa
Bồ Đề Môn.
2.2.2.2.7.2.2.
An thanh tịnh tâm
(Luận) Nhị giả, an
thanh tịnh tâm, dĩ bạt nhất thiết chúng sanh khổ
cố.
(Chú) Bồ Đề thị
an ổn nhất thiết chúng sanh thanh tịnh xứ. Nhược
bất tác tâm bạt nhất thiết chúng sanh ly sanh tử khổ,
tức tiện vi Bồ Đề. Thị cố, bạt
nhất thiết chúng sanh khổ, thị thuận Bồ
Đề môn.
(論)二者,安清淨心。以拔一切眾生苦故。
(註)菩提是安穩一切眾生清淨處。若不作心。拔一切眾生離生死苦。即便違菩提。是故拔一切眾生苦。是順菩提門。
(Luận: Hai là an thanh tịnh
tâm v́ dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh.
Chú: Bồ Đề là
chỗ thanh tịnh để an ổn hết thảy chúng
sanh. Nếu chẳng dấy ḷng giúp chúng sanh ĺa nỗi khổ
sanh tử, sẽ trái nghịch Bồ Đề. V́ thế,
dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh là thuận Bồ
Đề môn).
Loại thứ hai là nương
theo Từ Bi môn, dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh, sẽ
đạt được cái gọi là “an thanh tịnh tâm”.
“An” ở đây chẳng phải là chính ḿnh ĺa khổ được
vui, tức là “thân
an”, mà cũng chẳng phải là “đem cái tâm lại đây,
ta sẽ an nó cho ngươi” trong Thiền Tông, được
gọi là “tâm an”. “An thanh tịnh tâm” là phải phát
nguyện dẹp hết thảy khổ nạn cho chúng sanh,
ban an lạc cho hết thảy chúng sanh. Có tâm đại từ
bi như thế th́ mới là pháp thuận theo Đại Thừa
Bồ Đề Môn được nói trong luận này. Nếu
chẳng phát nguyện (“tác tâm”) giúp cho hết thảy chúng
sanh ĺa khỏi nỗi khổ sanh tử, sẽ là trái nghịch
Đại Thừa Bồ Đề Môn!
2.2.2.2.7.2.3. Lạc thanh tịnh
tâm
(Luận) Tam giả, lạc thanh
tịnh tâm. Dĩ linh nhất thiết chúng sanh đắc đại
Bồ Đề cố, dĩ nhiếp thủ chúng sanh sanh
bỉ quốc độ cố.
(Chú) Bồ Đề thị
tất cánh thường lạc xứ. Nhược bất
linh nhất thiết chúng sanh đắc tất cánh thường
lạc, tắc vi Bồ Đề. Thử tất cánh thường
lạc, y hà nhi đắc? Y Đại Thừa Môn. Đại
Thừa Môn giả, vị bỉ An Lạc Phật quốc độ
thị dă. Thị cố, hựu ngôn dĩ nhiếp thủ chúng
sanh sanh bỉ quốc độ cố.
(論)三者樂清淨心。以令一切眾生得大菩提故。以攝取眾生生彼國土故。
(註)菩提是畢竟常樂處。若不令一切眾生得畢竟常樂。則違菩提。此畢竟常樂依何而得。依大乘門。大乘門者。謂彼安樂佛國土是也。是故又言以攝取眾生生彼國土故。
(Luận:
Ba là lạc thanh tịnh tâm, v́ khiến cho hết thảy
chúng sanh đắc đại Bồ Đề, v́ nhiếp
thủ chúng sanh sanh về quốc độ ấy.
Chú: Bồ Đề là
chỗ rốt ráo thường lạc. Nếu chẳng làm
cho hết thảy chúng sanh đạt được chỗ
rốt ráo thường lạc th́ là trái nghịch Bồ
Đề. Dựa vào đâu để đạt được
chỗ rốt ráo thường lạc này? Dựa vào Đại
Thừa Môn. Đại Thừa Môn chính là quốc độ
An Lạc vậy. V́ thế, lại nói “v́ nhiếp thủ chúng
sanh sanh vào quốc độ ấy”).
Loại
thứ ba, nương
theo Phương Tiện Môn, chẳng nhằm cầu an lạc
cho chính ḿnh, chỉ nguyện chúng sanh được thành Phật,
sẽ đạt được cái gọi là “lạc thanh
tịnh tâm”. “Lạc” ở đây chẳng phải
là như người đời quen thói cờ bạc bèn gọi
là Lạc trong “đại gia lạc”, chẳng phải
là niềm vui kiểu “kim triêu hữu tửu, kim triêu lạc”
(hôm nay có rượu, hôm nay vui), cũng chẳng phải là
niềm vui ngũ dục thông thường. “Lạc thanh
tịnh tâm” là muốn cho hết thảy chúng sanh cùng đắc
Đại Thừa Bồ Đề giác pháp lạc, được
sanh về Tây Phương An Lạc quốc, chẳng có các
nỗi khổ, chỉ hưởng các niềm vui, chẳng
biến đổi, chẳng mất đi, an trụ Đại
Bát Niết Bàn, trọn đủ công đức lạc chân
thật “thường, lạc, tự tại, thanh tịnh”.
Đấy mới chính là pháp thuận Đại Thừa Bồ
Đề Môn được nói trong bộ luận này. Nếu
chẳng phát nguyện khiến cho hết thảy chúng sanh
được rốt ráo thường lạc, chẳng phát
nguyện làm cho hết thảy chúng sanh cùng sanh An Lạc quốc,
sẽ là trái nghịch Đại Thừa Bồ Đề Môn.
2.2.2.2.7.3.
Tổng kết
(Luận) Thị danh tam chủng
tùy thuận Bồ Đề Môn pháp măn túc, ưng tri.
(論)是名三種隨順菩提門法滿足。應知。
(Luận:
Đấy gọi là ba thứ pháp trọn vẹn tùy thuận
Bồ Đề môn, hăy nên biết).
Tổng
kết ba pháp tùy thuận Đại Thừa Bồ Đề
Môn để nói: Tức là dựa theo ba môn trong bộ luận
này và ba tâm trong Quán Kinh để phát khởi Đại Thừa
Bồ Đề tâm “bi, trí, phương tiện hợp nhất”,
xa ĺa ba thứ pháp trái nghịch Bồ Đề Môn, đạt
được trọn vẹn ba loại pháp tùy thuận Bồ
Đề Môn, ắt có thể chứng trọn vẹn tam đức
của Đại Niết Bàn. Đấy gọi là “nhất
lộ Niết Bàn môn” của chư Phật; do đó, gọi
là Đại Thừa Bồ Đề Môn. Nay lập biểu
đồ giản yếu để thuyết
minh như sau:
Ba môn
trong luận này |
Trí môn |
Phương
tiện |
Từ bi |
Ba tâm
của Quán Kinh |
Chí thành tâm |
Thâm tâm |
Hồi hướng
phát nguyện tâm |
Ba thứ
Bồ Đề tâm hợp nhất của Bồ Tát |
Tác ư tương
ứng trí Nhất Thiết Trí |
Vô sở đắc
làm phương tiện |
Từ bi làm
thượng thủ |
Xa ĺa
ba pháp trái nghịch Bồ Đề Môn |
Ngă tâm tham đắm
tự thân |
Tâm cung kính cúng
dường bản thân |
Tâm không làm
cho chúng sanh được an vui |
Đạt được ba pháp tùy thuận Bồ
Đề Môn |
Vô nhiễm thanh
tịnh tâm |
Lạc thanh
tịnh tâm |
An thanh tịnh
tâm |
Chứng
trọn vẹn ba đức của đại Niết
Bàn |
Pháp Thân đức |
Giải Thoát
đức |
Bát Nhă đức |
2.2.2.2.8.
Danh nghĩa nhiếp đối (Đối
ứng danh tướng và hàm nghĩa)
(Chú) Danh nghĩa nhiếp đối
giả.
(註)名義攝對者。
(Chú:
Đối ứng danh tướng và hàm nghĩa).
Ngài Đàm
Loan dùng câu này để phân chia khoa mục, [khoa mục này] thuộc
tiểu khoa thứ tám trong phần Giải Nghĩa. Trong đây,
lại chia thành ba tiểu đoạn. Tiểu đoạn
thứ nhất là ba loại môn được thâu nhiếp,
tiểu đoạn thứ hai là ba loại pháp xa ĺa, tiểu
đoạn thứ ba là thành tựu ba thứ tâm.
2.2.2.2.8.1.
Ba loại môn được thâu nhiếp
(Luận) Hướng thuyết
trí huệ, từ bi, phương tiện tam chủng môn,
nhiếp thủ Bát Nhă. Bát Nhă nhiếp thủ phương
tiện, ưng tri.
(Chú) Bát Nhă giả, đạt
Như chi huệ danh. Phương tiện giả, thông Quyền
chi trí xưng. Đạt Như tắc tâm hạnh tịch
diệt. Thông quyền tắc bị tỉnh chúng cơ, Tỉnh
cơ chi trí, bị ứng nhi vô tri. Tịch diệt chi huệ,
diệc vô tri nhi bị tỉnh. Nhiên tắc trí huệ phương
tiện, tương duyên nhi động, tương duyên nhi
tĩnh. Động bất thất tĩnh, trí huệ chi công
dă. Tĩnh bất phế động, phương tiện chi
lực dă. Thị cố, trí huệ, từ bi, phương
tiện, nhiếp thủ Bát Nhă, Bát Nhă nhiếp thủ phương
tiện. “Ưng tri” giả, vị ưng tri trí huệ
phương tiện, thị Bồ Tát phụ mẫu. Nhược
bất y trí huệ phương tiện, Bồ Tát pháp tắc
bất thành tựu. Hà dĩ cố? Nhược vô trí huệ,
vi chúng sanh thời, tắc đọa điên đảo. Nhược
vô phương tiện, quán pháp tánh thời, tắc chứng
Thật Tế. Thị cố ưng tri.
(論)向說智慧。慈悲。方便。三種門攝取般若。般若攝取方便。應知。
(註)般若者。達如之慧名。方便者。通權之智稱。達如則心行寂滅。通權則備省眾機。省機之智。備應而無知。寂滅之慧。亦無知而備省。然則智慧方便。相緣而動。相緣而靜。動不失靜。智慧之功也。靜不廢動。方便之力也。是故智慧慈悲方便。攝取般若。般若攝取方便。應知者。謂應知智慧方便。是菩薩父母。若不依智慧方便。菩薩法則不成就。何以故。若無智慧。為眾生時。則墮顛倒。若無方便。觀法性時。則證實際。是故應知。
(Luận:
Ba loại môn trí huệ, từ bi, phương tiện vừa
nói trên đây nhiếp thủ Bát Nhă. Bát Nhă nhiếp thủ phương
tiện, hăy nên biết.
Chú: Bát Nhă là danh xưng
của huệ đă thấu đạt Như (Chân Như). Phương
tiện là danh xưng của trí thông đạt Quyền. Thấu
đạt Như th́ tâm hạnh tịch diệt. Thông đạt
Quyền th́ sẽ thấu hiểu trọn khắp các căn
cơ. Trí hiểu thấu các căn cơ tuy ứng hợp
trọn khắp nhưng vô tri. Tịch diệt huệ cũng
vô tri, nhưng thấu hiểu trọn khắp. Tuy thế, trí huệ
và phương tiện duyên lẫn nhau mà động, duyên lẫn
nhau mà tĩnh. Động mà chẳng mất tĩnh là công năng
của trí huệ. Tĩnh mà chẳng bỏ động là sức
của phương tiện. V́ thế, trí huệ, từ
bi, phương tiện, nhiếp thủ Bát Nhă. Bát Nhă nhiếp
thủ phương tiện. “Hăy nên biết” là nói hăy nên biết
trí huệ và phương tiện là cha mẹ của Bồ
Tát. Nếu chẳng nương theo trí huệ và phương
tiện, Bồ Tát pháp sẽ chẳng thành tựu. V́ sao vậy?
Nếu chẳng có trí huệ th́ khi v́ chúng sanh, sẽ đọa điên đảo. Nếu không có phương
tiện th́ khi quán pháp tánh, sẽ chứng Thật Tế (chấp
vào Diệt Độ, không khởi tâm độ sanh). Do vậy,
hăy nên biết).
“Bát Nhă” là trí huệ
hiểu rơ Chân Như “Pháp Không và Nhân Không”, v́ thế nói
là “đạt Như chi huệ danh” (là danh xưng của
trí huệ thấu đạt Chân Như). Kinh Pháp Hoa gọi
[trí huệ ấy] là Thật Trí, hoặc Vị Tằng Hữu
Pháp (pháp chưa từng có). Khởi Tín Luận gọi nó là
Tâm Chân Như Môn, kinh Hoa Nghiêm gọi nó là Vô Sư Trí, hoặc Tự
Nhiên Trí. Những kinh luận khác gọi nó là Vô Phân Biệt Trí,
Nhất Thiết Trí, hoặc Căn Bản Trí.
“Phương tiện” là trí
huệ thông đạt nguyên do duyên khởi của các pháp, v́
thế nói là “thông Quyền chi trí xưng” (tên gọi của cái
trí thông đạt quyền biến). Kinh
Pháp Hoa gọi nó là Quyền Trí, hoặc Phương Tiện
Tri Kiến. Khởi Tín Luận gọi nó là Tâm Sanh Diệt Môn,
Hoa Nghiêm gọi nó là Thập Huyền Môn, các kinh luận khác
gọi nó là Đạo Chủng Trí, hoặc Hậu Đắc
Trí.
Nói theo phương diện “Bát
Nhă thấu đạt Chân Như” th́ Lư Thể Chân Như
là cái được chứng (Chân Đế), và Bát Nhă là chủ
thể để chứng [Lư Thể Chân Như, cả hai] đều
là “tâm hành xứ
diệt, ngôn ngữ dứt bặt”, chỉ
có chứng mới biết. Kinh Pháp Hoa nói “chỉ chỉ
bất tu thuyết, ngă pháp diệu nan tư” (thôi, thôi, chẳng
cần nói, pháp ta diệu khó nghĩ), tức là nói đến
điều này.
Nói theo phương diện “Phương
Tiện thông đạt Quyền” th́ pháp tướng duyên
khởi được quán (Tục Đế), và trí phương
tiện có thể quán [Tục Đế], đều là định
luật nhân quả “do cái này có mà cái kia có”. Kinh Pháp Hoa nói:
“Chư pháp như thị tướng, năi chí như thị
bản mạt cứu cánh đẳng” (Tướng của
các pháp là như thế cho đến đầu ngọn rốt
ráo[1] là như thế), không
ǵ chẳng phải là “biết
trọn, hiểu suốt”, cũng là nói
đến điều này. Luận Chủ gộp chung ba môn
trí huệ, phương tiện, và từ bi đă nói trên đây
thành Bát Nhă và Phương Tiện, tức là Quyền Trí và
Thật Trí, nhất tâm nhị môn, Chân Đế và Tục Đế.
Hai trí, hai môn, hai Đế ấy nương tựa lẫn
nhau, thành tựu lẫn nhau, chẳng một, chẳng khác,
tức là chúng sanh và Phật có cùng một Thể, chính là Thể
và Dụng của tự tánh thanh tịnh tâm. Phương Tiện
chính là diệu dụng thiện xảo, cũng là “xảo
phương tiện hồi hướng” được
nói trong luận này, từ Bát Nhă mà có. Chẳng có Thể, sẽ không
có Dụng, pháp vốn là như vậy.
Kinh nói: “Tiên đắc Bát
Nhă (Căn Bản Trí), hậu đắc phương tiện
(khởi Phương Tiện Trí)” (Trước
là đắc Bát Nhă, tức Căn Bản Trí, sau là đắc
phương tiện, tức là dấy lên Phương Tiện
Trí). Nói theo Ngũ Bồ Đề[2] của Bồ Tát
đạo th́ Bát Nhă là minh tâm Bồ Đề, hiển hiện
Bát Nhă tâm thể. Phương Tiện là xuất đáo Bồ
Đề, là đại dụng của khởi tâm Bát Nhă. Do
vậy, Du Già Sư Địa Luận nói: “Trong địa
vị thông đạt (minh tâm Bồ Đề), dấy lên
trí vô phân biệt. Đối với cảnh sở duyên (nhân,
pháp) đều là chẳng có ǵ để đạt được.
Lư Trí đă âm thầm, tâm cảnh ngầm thấu hiểu, tướng
Hữu và Không có lúc chẳng hiện tiền th́ mới gọi
là chứng đắc chân lư Duy Thức. Đă chứng chân
thức, bèn khởi
Hậu Đắc Trí (phương tiện) th́ mới chứng
Tục Đế”. Kinh Mật
Nghiêm cũng nói: “Phi bất kiến Chân Như nhi năng
liễu chư pháp giai như huyễn hóa, tuy hữu nhi phi
chân” (Chẳng phải là không thấy Chân Như mà có thể
hiểu rơ các pháp đều như huyễn hóa, tuy có mà chẳng
phải là thật). Đại Trí Độ Luận cũng
nói: “Bát Nhă sẽ nhập Tất Cánh Không, dứt bặt
các hư luận, sự ḥa quyện
(phương tiện) sẽ từ Tất Cánh Không dấy lên hiện hành để trang nghiêm cơi nước, thành thục chúng
sanh”. Trong bộ Trung Luận Sớ, Cát Tạng đại
sư cũng nói: “Bát Nhă soi thẳng Thật Tướng
của các pháp làm Thể, Thể chính là bất nhị. Phương
Tiện chính là tác dụng khéo léo của Bát Nhă. Dụng có nhiều
môn: 1) Có thể chiếu Không mà chẳng chứng. 2) Quán Không chính
là đồng thời chiếu Hữu. 3) Can dự vào
Hữu mà lại có thể chẳng vướng mắc. Như
Thể của vàng là một (Bát Nhă), vàng chế thành các món vật
hay khéo th́ đều gọi là Phương Tiện. Người
học đạo Phương Quảng của Đại
Thừa mà nếu chấp chặt tánh Không, do chẳng có phương
tiện, học Đại Thừa, hiểu ‘hết thảy
các pháp bất sanh, bất diệt, rốt ráo là không’, bèn chấp vào
Vô Sanh, đánh mất Sanh. Đă mất Sanh th́ Vô Sanh cũng
mất, hai Đế cùng bị hoại. Hăy nên dùng Trung Đạo
của Nhị Đế để phát sanh chánh quán Nhị
Huệ (tức Bát Nhă và Phương Tiện) để diệt
trừ các kiến giải Thường Kiến và Đoạn
Kiến. V́ thế có Phật, Bồ Tát”.
Do vậy, ngài Đàm Loan giải
thích: “Trí huệ phương tiện, tương duyên nhi
động (Dụng), tương duyên nhi tĩnh (Thể). Động
bất thất tĩnh, trí huệ chi công dă. Tĩnh bất phế
động, phương tiện chi lực” (Trí huệ
và phương tiện duyên lẫn nhau mà động (tức
Dụng), duyên lẫn nhau mà tĩnh (đó là Thể). Động
mà chẳng mất tĩnh, chính là công năng của trí huệ.
Tĩnh mà chẳng bỏ động là sức của phương
tiện). “Tương duyên” (Duyên lẫn
nhau) chính là nhất tâm nhị môn, hai trí Quyền và Thật nương tựa lẫn nhau, thành tựu lẫn
nhau. “Động tĩnh” là tướng của
Bát Nhă và Phương Tiện, tức là nhất tâm có đủ
các tướng Thể và Dụng. Tâm Chân Như Môn là Tĩnh,
Tâm Sanh Diệt Môn là Động. V́ thế, luận này gom chung
ba môn thành hai trí Bát Nhă và Phương Tiện, cũng là gom vào
trong Thể và Dụng của nhất tâm nhị môn. Môn Từ
Bi chính là Dụng của nhất tâm, thuộc vào Phương
Tiện Trí. Do vô duyên từ và đồng thể bi của chư
Phật, Bồ Tát sanh từ Bát Nhă, tương đồng
với Phương Tiện cũng sanh từ Bát Nhă, cho nên gộp
từ bi vào trong Phương Tiện vậy.
Ngài Đàm Loan giải thích “ưng
tri” (hăy nên biết) là hăy nên biết trí huệ và phương
tiện chính là cha mẹ của Bồ Tát. Nếu chẳng
nương cậy trí huệ và phương tiện, Bồ
Tát pháp sẽ chẳng thành tựu. V́ sao? Nếu Bồ Tát
chẳng có Bát Nhă, vậy th́ trong khi độ
chúng sanh, sẽ có bốn thứ điên đảo của bọn phàm phu:
1) Chấp vô thường là
thường.
2) Chấp bất tịnh là
tịnh.
3) Thế gian là khổ mà chấp
là lạc.
4) Các pháp vô ngă mà chấp là ngă.
Hoặc sẽ đọa
trong địa vị Nhị Thừa, cũng dấy lên bốn
thứ điên đảo: Đối với bốn chân đức
Thường, Lạc, Ngă, Tịnh của Phật quả đại
Niết Bàn bèn lầm tưởng chúng cũng giống như
“vô thường, khổ, không, bất tịnh” b́nh phàm của
thế gian. Nếu Bồ Tát chẳng có phương tiện,
tất nhiên là trong khi quán Không, sẽ chứng Diệt Độ
(lời chú giải gọi Diệt Độ là Thật Tế),
vậy th́ c̣n có thể hành Bồ Tát đạo, phổ độ
chúng sanh thành Phật trong thời gian và không gian vô tận nữa
chăng? Do đó, kinh Duy Ma Cật nói: “Trí Độ (Bát
Nhă) Bồ Tát mẫu, phương tiện dĩ vi phụ,
nhất thiết chúng đạo sư (Phật, Bồ Tát),
vô bất do thị sanh” (Trí Độ (Bát Nhă) là mẹ của
Bồ Tát, phương tiện là cha, các bậc đạo
sư của hết thảy chúng sanh (tức Phật, Bồ
Tát), không vị
nào chẳng do điều này mà sanh). Quyển ba mươi
bốn của Tứ Thập Hoa Nghiêm cũng chép: “Chư
Uẩn xứ giới cập duyên khởi, tất năng quán
sát bất thú tịch, thử thiện xảo nhân (hữu Phương
Tiện Trí chi Bồ Tát) chi trụ xứ… Tuy quán Tứ Thánh
Đế, nhi bất trụ Tiểu Thừa Tứ Quả.
Tuy quán thậm thâm duyên khởi, nhi bất trụ cứu cánh
Tịch Diệt. Tuy quán Ngũ Uẩn Không, nhi bất vĩnh
diệt chư Uẩn. Tuy an trụ Chân Như, nhi bất đọa
Thật Tế. Tuy tri nhất thiết pháp vô sanh, vô diệt,
nhi bất ư Thật Tế tác chứng. Tuy quán ư Không,
nhi bất khởi Không Kiến” (Đối
với các Uẩn xứ giới và duyên khởi đều
có thể quán sát mà chẳng trụ vào tịch diệt, đấy
là trụ xứ của bậc thiện xảo (tức là vị
Bồ Tát có Phương Tiện Trí)… Tuy quán Tứ Thánh Đế
mà chẳng trụ trong Tứ Quả của Tiểu Thừa.
Tuy quán duyên khởi rất sâu mà chẳng trụ trong Tịch
Diệt rốt ráo. Tuy quán Ngũ Uẩn là Không mà chẳng vĩnh
viễn diệt các Uẩn. Tuy an trụ Chân Như mà chẳng
đọa trong Thật Tế. Tuy biết hết thảy các
pháp bất sanh bất diệt, mà chẳng chứng Thật
Tế. Tuy quán Không mà chẳng dấy lên Không Kiến). Do vậy,
ngài Đàm Loan nói: “Trí huệ phương tiện thị
Bồ Tát phụ mẫu” (Trí huệ và phương tiện
là cha mẹ của Bồ Tát).
Bồ Tát dùng Bát Nhă để
hành phương tiện, tức là Chân Không bất không, bèn có
thể trang nghiêm cơi nước, thành thục chúng sanh. Hành phương
tiện mà có Bát Nhă, tức là Diệu Hữu chẳng phải
là hữu, chẳng chấp trước điên đảo.
Điều này được diễn tả là: Trụ nơi
Lư Thể vô vi mà làm Phật sự hữu vi, phổ độ
chúng sanh, nhưng chẳng có tướng hóa độ chúng
sanh, trên là thành Phật đạo mà chẳng chấp tướng
thành Phật. Chẳng phải là nói “không độ sanh,
chẳng thành Phật”. Như thí dụ que củi nhóm ḷ
trong phần trước, chúng sanh chưa thể đều
thành Phật trọn
hết mà bản thân Bồ Tát đă thành Phật trước.
Các vị thượng thiện
nhân ơi! Nếu quư vị duyệt đọc bộ luận
này, lại liễu giải nghĩa lư trong ấy, quư vị
có c̣n hiểu lầm pháp môn Tịnh Độ là chấp tướng,
là tiêu cực, là Tiểu Thừa, là tự giải thoát cho
riêng ḿnh nữa chăng? Quư vị có c̣n coi rẻ Tịnh Tông liên hữu
là những ông già bà cả ăn chay vô tri vô thức nữa
chăng? Quư vị c̣n chẳng thật sự v́ sanh tử,
phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu, tu Ngũ Niệm
Môn, cùng với các chúng sanh văng sanh Tịnh Độ, cùng thành
Phật đạo, cùng giáo hóa chúng sanh hay không?
2.2.2.2.8.2.
Ĺa ba loại pháp
(Luận) Hướng thuyết
viễn ly ngă tâm tham trước
tự thân, viễn ly vô an chúng sanh tâm, viễn ly cúng dường,
cung kính tự thân tâm. Thử tam chủng pháp, viễn ly chướng
Bồ Đề tâm, ưng tri.
(Chú) Chư pháp các hữu chướng
ngại tướng, như phong năng chướng tĩnh,
thổ năng chướng thủy, thấp năng chướng
hỏa, ngũ hắc thập ác chướng nhân thiên, tứ
điên đảo chướng Thanh Văn quả. Thử
trung tam chủng bất viễn ly chướng Bồ Đề
tâm. Ưng tri giả, nhược dục đắc vô chướng,
đương viễn ly thử tam chủng chướng
ngại dă.
(論)向說遠離我心。貪著自身。遠離無安眾生心。遠離供養恭敬自身心。此三種法遠離障菩提心。應知。
(註)諸法各有障礙相。如風能障靜。土能障水。濕能障火。五黑十惡障人天。四顛倒障聲聞果。此中三種不遠離。障菩提心。應知者。若欲得無障。當遠離此三種障礙也。
(Luận:
Như trong phần trên đă nói: Xa ĺa cái tâm chấp Ngă tham đắm
bản thân, xa ĺa cái tâm chẳng làm cho chúng sanh an lạc, xa
ĺa cái tâm cúng dường, cung kính tự thân. [Xa ĺa] ba loại
pháp ấy [sẽ giúp cho hành nhân] xa ĺa các chướng ngại
Bồ Đề tâm, hăy nên biết.
Chú: Các pháp mỗi thứ
đều có tướng chướng ngại. Như gió có
thể chướng ngại tĩnh, đất có thể chướng
ngại nước, ướt có thể chướng ngại
lửa, năm điều đen tối (Ngũ Nghịch)
và Thập Ác có thể chướng ngại nhân thiên, bốn
món điên đảo chướng ngại quả Thanh
Văn. Chẳng xa ĺa ba thứ pháp ấy, sẽ bị chướng
ngại Bồ Đề tâm. “Hăy nên biết”: Nếu muốn
chẳng có chướng ngại, hăy nên xa ĺa ba thứ chướng
ngại ấy).
Luận Chủ
hết sức thiện xảo phương tiện, đối
với ba thứ môn là trí huệ, phương tiện, và từ
bi vừa mới nói, Ngài bèn gom lại
thành hai trí là Bát Nhă và Phương Tiện, hai trí cũng lần
lượt dung nhập vào nhau. Tiếp đấy, Ngài bèn
khai thị chúng ta: Phải xa ĺa ba thứ pháp thuộc ba môn, v́ chúng
sẽ chướng ngại Đại Thừa Bồ Đề
tâm. Nếu muốn cho Bồ Đề tâm của chính ḿnh
liên tục tăng trưởng, chẳng bị thoái thất,
thẳng cho đến khi thành Phật chẳng hề bị
chướng ngại, th́ hăy nên xa ĺa ba thứ pháp ấy.
Ngài Đàm Loan lại giải
thích thêm: Các pháp được sanh bởi nhân duyên đều
có tướng chướng ngại. Ví như đất, nước,
gió, lửa trong thiên nhiên, được thế gian gọi
là Tứ Đại, do tứ đại chủng “cứng,
ướt, ấm, lay động” (c̣n gọi là Thật Tứ
Đại) tạo thành, chính là do Thật Tứ Đại
giả ḥa hợp. Do vậy, chúng c̣n được gọi
là Giả Tứ Đại, tất nhiên là chướng ngại
lẫn nhau. [Chẳng hạn như] gió có thể chướng
ngại sự tĩnh lặng của nước và lửa,
đất có thể chướng ngại sự lưu động
của nước, nước có thể chướng ngại
sự thiêu đốt của lửa, lửa có thể chướng
ngại sự mát mẻ của gió. Lại c̣n có nghiệp Ngũ
Nghịch (hắc nghiệp), Thập Ác gây tạo trong chúng
sanh giới sẽ gây chướng ngại [khiến cho chúng
sanh] chẳng được sanh làm trời, người, tức
là thánh hiền xuất thế gian cũng bị chướng
ngại. Chướng ngại ǵ vậy? Hễ có bốn
kiến giải điên đảo về Thường, Lạc,
Ngă, Tịnh, chúng
nó sẽ chướng ngại quư vị chẳng
đắc Tứ Hướng và Tứ Quả của Thanh Văn.
Như luận này nói Bồ Tát nương theo ba môn, xa ĺa ba
loại pháp ngăn
trở quư vị đắc Đại Thừa Bồ Đề
tâm, khiến cho quư vị thoái thất Bồ Đề tâm, trở
thành một Bồ Tát bại hoại. Do vậy, phàm là Bồ
Tát th́ đều
phải nên biết, nhất định phải xa ĺa!
Ba loại pháp ấy đều
chướng ngại Bồ Đề tâm, v́ Bồ Đề
của tam thừa đều cần phải phá Ngă Chấp
và Ngă Kiến, như trong kinh có nói: “Tam thừa đều
do quán Không mà đắc đạo”. Nếu có ngă tâm
tham đắm tự thân, chẳng trừ Ngă Kiến, Bồ
Đề của tam thừa đều chẳng thành! Nếu
chỉ đắc chánh kiến Ngă Không, mà thiếu từ bi
và phương tiện khiến cho chúng sanh đạt được
đại an lạc, th́ cũng chẳng khế hợp Đại
Thừa Bồ Đề tâm! Nếu cậy vào cái danh là bậc
Bồ Tát, thật ra là một kẻ ích kỷ,
hết thảy đều v́ chính ḿnh, chẳng v́ chúng sanh, sẽ
là kẻ giặc trong Phật pháp, mắt của hết thảy
người trong cơi đời đều chẳng muốn
thấy. V́ thế, cần phải xa ĺa ba thứ pháp như
đă nói trong phần trước th́ mới tương ứng
với Đại Thừa Bồ Đề tâm, th́ mới là
danh phù hợp thật, kham làm bậc Bồ Tát, là đạo sư của trời người.
2.2.2.2.8.3.
Thành tựu ba thứ tâm
(Luận) Hướng thuyết
vô nhiễm thanh tịnh tâm, an thanh tịnh tâm, lạc thanh tịnh
tâm, thử tam chủng tâm, lược nhất xứ thành tựu
diệu lạc thắng chân tâm, ưng tri.
(Chú) Lạc hữu tam chủng:
Nhất giả, ngoại lạc, vị
ngũ thức sở sanh lạc. Nhị giả, nội lạc, vị
Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, ư thức sở
sanh lạc. Tam giả, pháp lạc lạc, vị trí huệ
sở sanh lạc. Thử trí huệ sở sanh lạc, tùng ái
Phật công đức khởi, thị viễn ly ngă tâm, viễn
ly vô an chúng sanh tâm, viễn ly tự cúng dường tâm. Thị
tam chủng tâm, thanh tịnh tăng tấn, lược vi “diệu
lạc thắng chân tâm”, “diệu” ngôn kỳ
hảo. Dĩ thử lạc duyên Phật sanh cố, “thắng” ngôn thắng
xuất tam giới trung lạc, “chân” ngôn bất
hư ngụy, bất điên đảo.
(論)向說無染清淨心。安清淨心。樂清淨心。此三種心。略一處成。就妙樂勝真心。應知。
(註)樂有三種。一者外樂。謂五識所生樂。二者內樂。謂初禪二禪。三禪。意識所生樂。三者法樂樂。謂智慧所生樂。此智慧所生樂。從愛佛功德起。是遠離我心。遠離無安眾生心。遠離自供養心。是三種心清淨增進。略為妙樂勝真心。妙言其好。以此樂緣佛生故。勝言勝出三界中樂。真言不虛偽。不顛倒。
(Luận:
Ba thứ
tâm, tức vô nhiễm thanh tịnh
tâm, an thanh tịnh tâm, và lạc
thanh tịnh tâm như đă nói trên đây, nói tóm gọn
th́ là chân tâm thù thắng thành tựu diệu lạc. Hăy nên
biết!
Chú: Lạc có ba loại:
Một là ngoại lạc, tức lạc sanh bởi năm
thức. Hai là nội lạc, tức
là lạc được sanh bởi ư thức của Sơ
Thiền, Nhị Thiền, và Tam Thiền.
Ba là niềm vui do pháp lạc, tức lạc được
sanh bởi trí huệ. Loại lạc được sanh bởi
trí huệ ấy do từ yêu thích công đức của Phật
mà có, chính là xa ĺa ngă tâm, xa ĺa cái tâm chẳng làm cho chúng sanh an
vui, xa ĺa cái tâm cúng dường chính ḿnh. Ba loại tâm ấy
thanh tịnh tăng tấn, nói đại lược th́ gọi
là “chân tâm thù thắng diệu lạc”.
“Diệu” là tốt đẹp, do món lạc này duyên theo Phật
mà sanh. “Thắng” là vượt trỗi các thứ lạc
trong tam giới. “Chân” là chẳng hư ngụy, chẳng điên
đảo).
Ngài Đàm Loan nêu ra ba thứ
lạc:
1) Loại thứ nhất là loại
lạc thường được nhắc tới, tức
là lạc do ngũ dục. Đó là Lạc Thọ đạt được khi
ngũ căn tiếp xúc ngũ trần, sanh khởi ngũ
thức. Do duyên theo ngũ trần bên ngoài (Sắc, Thanh, Hương,
Vị, Xúc) mới có, nên gọi là Ngoại Lạc.
2) Loại thứ hai là Thiền
Duyệt Lạc. Do ư thức tu Thiền mà đạt được
Lạc Thọ, phát xuất từ nội tâm, nên gọi là Nội
Lạc. Sơ Thiền có ba tầng trời, tức Phạm
Chúng (Brahma-pāriṣadya), Phạm
Phụ (Brahma-purohita), và Đại
Phạm Thiên (Mahā-brahmā). Ĺa ái
nhiễm phiền năo của Dục Giới, có thể sanh
ra hỷ lạc, [sự hỷ lạc] này được gọi
là Viễn Ly Lạc. Nhị Thiền cũng có ba tầng trời,
tức Thiểu Quang (Parīttābha), Vô Lượng
Quang (Apramāṇābha), và Quang Âm (Ābhāsvara). Tiến hơn
một bước nữa là ĺa khỏi cái tâm tán loạn có
Tầm, có Tứ, hỷ tâm khinh an. Điều này được
gọi là Tịch Tĩnh Lạc. Tam Thiền cũng có ba tầng
trời, tức Thiểu Tịnh (Parītta-śubha), Vô Lượng
Tịnh (Apramāṇa-śubha), và Biến
Tịnh (Śubha-kṛtsna). Do tiến
hơn bước nữa, quở trách, ĺa bỏ Hỷ Thọ
của Nhị Thiền mà đạt được. Điều
này gọi là Ly Hỷ Diệu Lạc.
3) Loại thứ ba thường
gọi là Pháp Hỷ Lạc, chẳng phải là Lạc Thọ
sanh bởi sáu thức, mà là Lạc Thọ sanh bởi
ba thứ trí huệ. Nghe đức Phật thuyết pháp,
hoặc tư duy Phật pháp, bèn có trí huệ tín giải Phật
pháp. Đă có trí huệ, tất nhiên là sùng kính đức Phật,
yêu thích công đức của Phật và pháp do Phật thuyết.
V́ thế, Pháp Hỷ Lạc do yêu mến công đức của
Phật mà sanh khởi. Khổng Tử nói: “Triêu văn đạo,
tịch tử khả hỹ!” (Sáng nghe đạo, tối
chết cũng được). Đấy cũng thuộc
về Pháp Hỷ Lạc.
Lời luận nói: Ĺa ba thứ
Bồ Đề chướng như đă nói trên đây, sẽ thành tựu ba thứ tâm thanh tịnh. Nói tổng
hợp, giản lược, gom lại một chỗ th́ chính
là thành tựu “diệu lạc thắng chân tâm”, [cái tâm
này] do ba thứ tâm thanh tịnh, tức vô nhiễm,
an, và lạc, cùng
nhau thành tựu. Do duyên theo danh hiệu, tướng hảo,
và công đức của Phật mà sanh; do vậy, gọi
là “diệu hảo”. Lại c̣n vượt trỗi hết
thảy Lạc Thọ trong tam giới, nên gọi là “siêu
thắng”. Chẳng giống với ngũ dục lạc
và ba thứ thiền lạc trong tam giới, [những thứ
ấy] đều là hư ngụy, điên đảo. V́ thế,
gọi là “chân thật”.
Nói chung, diệu lạc thắng
chân tâm là cái tâm thanh tịnh được thành
tựu do tu Ngũ Niệm Môn, và do duyên
theo danh hiệu chẳng thể nghĩ bàn cũng như công
đức của bổn nguyện, [nương theo] y báo và
chánh báo trang nghiêm của A Di Đà Phật mà sanh. Thật sự
có thể thoát khỏi tam giới, có thể liễu sanh tử,
có thể
sanh về Tịnh Độ, có thể thành
Phật quả, có thể rốt ráo đắc thường
lạc tự tại thanh tịnh của đại Niết
Bàn. V́ thế gọi là “diệu lạc thắng chân tâm”.
Như trong biểu đồ đơn giản mà tôi đă
chỉ ra trong phần trước, tức là dùng ba môn trí huệ,
phương tiện, từ bi làm điểm khởi đầu
măi cho đến [khi chứng
đắc] Tam Đức
của đại Niết Bàn làm điểm kết thúc, từ
nhân đến quả, đều có thể gọi chung là “diệu
lạc thắng chân tâm”. V́ thế, lời luận
nói đại lược, gộp
chung [ba môn trí huệ, phương tiện và từ bi] thành một
thứ thành tựu. Các vị tổ của Thiền Tông “tâm
tâm tương truyền” chính là truyền cái tâm này. Có thể
nói “Thiền
chẳng ĺa Tịnh, Tịnh chẳng ĺa Thiền”. Thiền
Tịnh song tu th́ chính là tu cái tâm này, mà truyền trao cũng
là [truyền trao] cái tâm này. Bồ Tát tu Thiền, tu Tịnh,
há có nên cho ḿnh là đúng, coi kẻ khác là sai, cùng nhà mà đánh lẫn nhau hay không?
2.2.2.2.9.
Nguyện Sự thành tựu
(Chú) Nguyện sự thành tựu
giả.
(Chú:
Nguyện được thành tựu xét theo mặt Sự…)
2.2.2.2.9.1.
Có thể sanh vào Tịnh Độ
(Luận) Như thị Bồ
Tát, trí huệ tâm, phương tiện tâm, vô chướng tâm,
thắng chân tâm, năng sanh thanh tịnh Phật quốc
độ, ưng tri.
(Chú) Ưng tri giả, vị
ưng tri thử tứ chủng thanh tịnh công đức,
năng đắc sanh bỉ thanh tịnh Phật quốc
độ, phi thị tha duyên nhi sanh dă.
(論)如是菩薩。智慧心。方便心。無障心。勝真心。能生清淨佛國土。應知。
(註)應知者。謂應知。此四種清淨功德。能得生彼清淨佛國土。非是他緣而生也。
(Luận: Bồ
Tát như vậy do trí huệ tâm, phương tiện tâm, vô
chướng tâm, và thắng chân tâm, bèn có
thể sanh vào cơi Phật thanh tịnh, hăy nên biết.
Chú: “Hăy nên biết” là hăy
nên biết: Do bốn loại công đức thanh tịnh này
mà có thể được sanh vào cơi Phật thanh tịnh,
chẳng phải là do duyên khác mà sanh).
Bồ Tát có thể chiếu
theo bộ luận này để tu Ngũ
Niệm Môn, tất nhiên là có thể thành tựu bốn thứ
công đức thanh tịnh. Bốn thứ ấy đều
được gọi là “tâm”, có thể thấy: Một
niệm tâm nhỏ nhoi của chúng ta vốn sẵn có trọn đủ hết
thảy công đức vô lậu, nhưng cần phải có
nhân duyên huân tập th́ mới có thể hiển hiện. Do đó,
Quán Kinh nói: “Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật”
(Tâm này là Phật,
tâm này làm Phật). Do đó có thể biết: Học Phật
tu hành, hăy đổ công dốc sức ngay nơi một niệm
tâm địa
trong hiện tiền, quan sát chúng ta khởi tâm động
niệm như thế nào? Kinh Viên Giác dạy: “Bất phạ
niệm khởi, chỉ phạ giác tŕ” (Chẳng sợ
niệm dấy, chỉ sợ giác chậm). Phật và phàm
phu sai biệt ở chỗ giác và bất giác. V́ thế, kinh
dạy: “Nhất niệm mê tức chúng sanh, nhất niệm
giác tức thị Phật” (Một
niệm mê là chúng sanh, một niệm giác chính là Phật). Lại
nói: “Nhất thanh tịnh, nhất thiết thanh tịnh;
nhất tự tại, nhất thiết tự tại” (Một thứ
đă thanh tịnh th́ hết thảy đều thanh tịnh;
một thứ đă tự tại th́ hết thảy đều
tự tại). “Một” chính là nhất tâm mà chúng sanh và
Phật có cùng một Thể. Nếu cái tâm được thanh
tịnh, tự tại, quả báo nơi y báo và chánh báo trong
mười pháp giới đều thanh tịnh, tự tại.
Do vậy, đức Phật
răn dạy chúng ta: Hăy cầu sự giải thoát của chư
Phật từ ngay trong tâm hạnh của chúng ta. Hết thảy
Bồ Tát đều nên biết những Sự Lư này.
Đă biết Lư ấy, sẽ
có thể cầu tâm, chứ không cầu nơi h́nh tích, chỗ nào cũng đều
có thể quy vào nhất tâm trong hiện tiền. Chẳng hạn
như chúng ta tu Ngũ Niệm Môn, thân nghiệp lễ bái A
Di Đà Phật, sẽ biết tánh của đức Phật
mà ta đang lễ và tánh của người lễ bái đều
là không tịch, cảm ứng đạo giao chẳng nghĩ
bàn. Niệm nào cũng đều tưởng văng sanh ḥng thấy
Phật, lễ Phật. Lâu ngày chầy tháng, tự nhiên
được thấy Phật Di Đà. Đấy chính là thành
tựu thân nghiệp thanh tịnh.
Khẩu nghiệp xưng niệm
danh hiệu A Di Đà Phật, có thể đúng như quang
minh trí tướng của A Di Đà Phật mà tán thán; vậy
th́ khi quư vị chấp tŕ Phật hiệu, tâm quư vị cũng
có quang minh trí tướng sanh khởi. Lâu ngày chầy tháng, tự
nhiên sẽ phá vô minh. Đó chính là thành tựu khẩu nghiệp
thanh tịnh.
Ư nghiệp trọn đủ
cái tâm ưa thích [Cực Lạc] và chán nhàm [Sa Bà] th́ chính là
thiện xảo tu Chỉ Quán. Nhất tâm chuyên niệm, chán ĺa Sa Bà, mong
rốt ráo văng sanh An Lạc quốc, có thể khiến cho vọng
tâm của chúng ta ngưng dứt. Chánh niệm quan sát y báo và
chánh báo trang nghiêm trong cơi Phật ấy, cầu sanh Tịnh
Độ, có thể khiến cho chúng ta quán tâm rơ ràng. Đấy
chính là thành tựu ư nghiệp thanh tịnh.
Ba nghiệp đều chuyển
nhiễm thành tịnh như thế, dùng công đức thanh
tịnh do tu tập ba nghiệp thanh tịnh để hồi
hướng tới
hết thảy chúng sanh khổ năo, tâm thường phát
nguyện: “Nguyện
cho hết thảy chúng sanh cùng thấy Phật Di Đà, cùng
sanh về Cực Lạc, cùng thành Phật đạo, cùng giáo
hóa chúng sanh”. Đấy
chính là thành tựu trí huệ, phương tiện và đại
bi tâm vô ngại.
Đă có trí huệ, phương
tiện, và vô ngại tâm, tất nhiên sẽ chẳng mê mất
Đại Thừa Bồ Đề tâm, có thể sanh về
cơi Phật An Lạc thanh tịnh ấy, rốt ráo đạt
được Phật quả đại Niết Bàn thanh tịnh,
thành tựu diệu lạc thắng chân tâm! Lại nữa,
trí huệ tâm quán cảnh chẳng thể nghĩ bàn. Phương
tiện tâm là thật sự phát Vô Thượng Bồ Đề
tâm, và tâm hồi hướng cho hết thảy chúng sanh. Vô
chướng tâm là Chỉ Quán thiện xảo và trợ tu vạn
hạnh. Ba tâm ấy từ nhân đến quả, nhiếp
chung hết thảy “cảnh, hạnh, quả” của
Đại Thừa; v́ thế, gọi chung là “diệu lạc
thắng chân tâm”. Do vậy, bốn thứ tâm thanh tịnh
ấy chính là danh xưng chung để gọi hết thảy
các công
đức vô lậu được thành tựu bởi
hàng Bồ Tát tu pháp môn Ngũ Niệm. Nếu có thể trọn đủ viên măn, sẽ chẳng
cần các nhân duyên khác mà vẫn có thể
sanh vào Tịnh Độ, nhất định thành Phật!
Đấy là nhất lộ Niết Bàn môn của mười
phương ba đời chư Phật! Do vậy, hết
thảy Bồ Tát đều nên biết tánh chất trọng
yếu của việc tu pháp môn Ngũ Niệm, ḥng có thể thành tựu bốn thứ tâm thanh tịnh.
2.2.2.2.9.2.
Tùy ư tự tại
(Luận) Thị danh Bồ
Tát Ma Ha Tát tùy thuận ngũ chủng pháp môn, sở tác tùy ư
tự tại thành tựu, như hướng sở thuyết
thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp, trí nghiệp, phương
tiện trí nghiệp, tùy thuận pháp môn cố.
(Chú) Tùy ư tự tại giả,
ngôn thử ngũ chủng công đức lực, năng
sanh thanh tịnh Phật độ, xuất một tự tại
dă. Thân nghiệp giả, lễ bái dă. Khẩu nghiệp giả,
tán thán dă. Ư nghiệp giả, tác nguyện dă. Trí nghiệp giả,
quán sát dă. Phương tiện trí nghiệp giả, hồi hướng
dă. Ngôn thử chủng nghiệp ḥa hợp, tắc thị
tùy thuận văng sanh Tịnh Độ pháp môn tự tại
nghiệp thành tựu.
(論)是名菩薩摩訶薩。隨順五種法門。所作隨意自在成就。如向所說身業。口業。意業。智業。方便智業。隨順法門故。
(註)隨意自在者。言此五種功德力。能生清淨佛土。出沒自在也。身業者禮拜也。口業者讚歎也。意業者作願也。智業者觀察也。方便智業者迴向也。言此五種業和合。則是隨順往生淨土法門。自在業成就。
(Luận:
Đó gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát tùy thuận năm loại
pháp môn, việc làm được tùy ư tự tại thành tựu
v́ thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp, trí nghiệp,
phương tiện trí nghiệp như đă nói trên đây
đều tùy thuận pháp môn.
Chú: “Tùy ư tự tại”
là nói năm thứ sức công đức có thể sanh trong cơi Phật
thanh tịnh, xuất hiện, hay ẩn mất tự tại.
Thân nghiệp là lễ bái. Khẩu nghiệp là tán thán. Ư nghiệp
là phát nguyện. Trí nghiệp là quán sát. Phương tiện
trí nghiệp là hồi hướng. Có nghĩa là năm thứ
nghiệp ấy ḥa hợp, bèn thành
tựu nghiệp tự tại tùy thuận văng sanh trong pháp
môn Tịnh Độ).
Đây là
khoa thứ hai trong phần Nguyện Sự Thành Tựu, gọi
là Tùy Ư Tự Tại. Bồ Tát muốn thành tựu nghiệp
tùy ư tự tại, [nếu tuân] theo cách
tu hành Nan Hành Đạo
thông thường của các vị Bồ Tát th́ bậc đại
Bồ Tát trong Biệt Giáo đă chứng từ
Sơ Địa trở lên cần phải trải qua
một đại A-tăng-kỳ kiếp mới có [khả
năng tùy tự tại]. V́ thế, Luận viết là “Bồ
Tát Ma Ha Tát”. Nay Luận Chủ bảo chúng ta: Tuy quư vị
là Sơ Tâm Bồ Tát, chỉ cần được nghe kinh
Vô Lượng Thọ và luận này, tín giải “văng sanh Tịnh
Độ là đạo dễ hành”, tùy thuận
tu pháp môn Ngũ Niệm, thành tựu sức công đức của
Ngũ Niệm Môn, th́ trong đời
này, sẽ
đạt được thành quả “tùy ư tự tại”.
Thành quả ấy chính là có thể tự tại sanh vào An Lạc
Tịnh Độ, có thể tự tại thấy A Di
Đà Phật, tự tại dạo chơi các cơi Phật,
tu Bồ Tát hạnh, cúng dường chư Phật, hóa độ
chúng sanh, cho đến mười thứ tự tại của
bậc Bồ Tát từ Sơ Địa trở lên: Mạng,
tâm, các vật cần dùng, nghiệp, thọ sanh, giải,
nguyện, thần lực, pháp, trí v.v… hết thảy đều
có. V́ sao tu Ngũ Niệm Môn thành tựu sẽ có sự tùy ư
tự tại như thế? Một mặt là do bổn nguyện
công đức và thần lực tự tại của A Di
Đà Phật gia tŕ vị Bồ Tát tu Ngũ Niệm Môn, cho nên có
thể được tự tại như thế. Tức
là giống như trong hiện thời, ngồi
máy bay phản lực có thể tùy ư đến chơi các quốc
gia trên thế giới, hoặc xem TV phát sóng từ vệ
tinh nhân tạo, sẽ đều có thể tùy ư thấy các t́nh huống
hoạt động hiện thời
ở các nơi trên thế giới, nghe các loại âm thanh ngôn
ngữ khác nhau trên toàn thế giới. Chuyện này hoàn toàn
dựa vào công dụng của phi cơ, vệ tinh, và TV, mà đă có thể
đạt được sự tùy ư tự tại như
thế. Mặt khác, hàng Bồ Tát tu Ngũ Niệm Môn, tam nghiệp của
chính ḿnh có thể thanh tịnh, đúng pháp tu hành Ngũ Niệm
Môn, chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, thành tựu Đại Thừa
nhu nhuyễn tâm, diệu lạc thắng chân tâm. Tâm được
tự tại, sẽ có tự tại trí, có thể tùy ư tự
tại thực hiện. Do vậy, Luận viết: “Do thân,
khẩu, ư nghiệp, trí nghiệp và phương tiện trí
nghiệp như đă nói trên đây mà tùy thuận
pháp môn Ngũ Niệm”. Điều
này hoàn toàn là do tam nghiệp thanh tịnh mà thành tựu trí
nghiệp tự tại và phương tiện trí nghiệp
tự tại, tức là tự lợi, lợi tha, hết
thảy đều có thể tùy ư tự tại.
Như quyển hai mươi
sáu của kinh Đại Bảo Tích đă chép: “Bồ Tát
đắc ư tự tại trí, hữu thập ngũ chủng
(tự tại): Nhất giả, tại tại xứ xứ
sanh đắc tự tại trí. Nhị giả, bất đoạn
tuyệt nhất thiết thiện căn đắc tự
tại trí. Tam giả, ư chư thiện căn (công đức)
vô yếm túc đắc tự tại trí. Tứ giả, vị
hóa chúng sanh cố, sanh tam giới đắc tự tại
trí. Ngũ giả, vị chư chúng sanh đoạn kết
sử cố, cần tu tinh tấn đắc tự tại
trí. Lục giả, vị ư tịch tĩnh nhất thiết
chúng sanh chư khổ năo cố, đắc tự tại
trí. Thất giả, nhiếp thủ giáo hóa chúng sanh cố, đắc
tự tại trí. Bát giả, phi đoạn tự kỷ
tam độc đắc danh tự tại, năng đoạn
nhất thiết chúng sanh tham sân si, cố danh tự tại.
Cửu giả, vị chư chúng sanh chứng diệt pháp,
cố danh tự tại. Thập giả, vị chư thiện
căn tăng trưởng, bất đoạn hữu lậu
pháp, danh đắc tự tại. Thập nhất giả, phi
chứng tam giải thoát danh tự tại; thị giải liễu
tam giải thoát, cố danh tự tại. Thập nhị giả,
phi tự tại tịch diệt Ngũ Ấm danh tự tại,
vị xả nhất thiết chúng sanh trọng đảm (Ngũ
Ấm), danh vi tự tại. Thập tam giả, phi dĩ diệt
lục căn danh tự tại, tri chư chúng sanh thượng
hạ căn, cố danh tự tại. Thập tứ giả,
phi dĩ sanh phần tận danh đắc tự tại, bất
dĩ đoạn tuyệt sanh, cố danh tự tại. Thập
ngũ giả, Bồ Tát tọa đạo tràng đắc giải
thoát quả, thọ dụng nhất thiết chư chúng
sanh, cố danh tự tại” (Bồ Tát đắc trí tự
tại, có mười lăm thứ (tự tại): Một
là sanh ở bất cứ nơi đâu cũng
đều đắc trí tự tại. Hai là chẳng đoạn
tuyệt hết thảy thiện căn mà đắc trí tự
tại. Ba là chẳng chán đủ các thiện căn (công đức)
mà đắc trí tự tại. Bốn là v́ giáo hóa chúng sanh mà
sanh trong tam giới, đắc trí tự tại. Năm là v́
đoạn các kết sử của chúng sanh mà siêng tu tinh tấn,
đắc trí tự tại. Sáu là v́ vắng lặng các khổ
năo của hết thảy chúng sanh mà đắc trí tự tại.
Bảy là do nhiếp thủ giáo hóa chúng sanh mà đắc trí
tự tại. Tám là chẳng v́ đoạn Tam Độc của
chính ḿnh mà được gọi là tự tại, mà là v́ có
thể đoạn tham, sân, si của hết thảy chúng
sanh, nên được gọi là tự tại. Chín là v́ các
chúng sanh mà chứng diệt pháp, nên gọi là tự
tại. Mười là v́ tăng trưởng các thiện căn,
chẳng đoạn pháp hữu lậu mà gọi là đắc
tự tại. Mười một là chẳng do chứng ba
món giải thoát mà gọi là tự tại, mà v́ hiểu rơ ba
món giải thoát, nên gọi
là tự tại. Mười hai là chẳng do tự tại
tịch diệt Ngũ Ấm bèn gọi là tự tại, mà
là v́ bỏ gánh nặng (Ngũ Ấm) cho hết thảy chúng
sanh, nên gọi là tự tại. Mười ba, chẳng do diệt
sáu căn bèn gọi là tự tại, mà v́ biết các căn
thượng hạ của chúng sanh, nên gọi là tự tại.
Mười bốn là chẳng do đă hết sanh phần mà
gọi là tự tại, mà là do chẳng đoạn tuyệt
sanh, nên gọi là tự tại. Mười lăm là Bồ
Tát ngồi nơi đạo tràng đắc quả giải
thoát, thọ dụng hết thảy chúng sanh, nên gọi là tự
tại). Trong đời hiện tại chắc là có Tịnh
Tông Bồ Tát do thành tựu Ngũ Niệm Môn, đạt được
Đại Thừa nhu nhuyễn tâm, đạt được
tự tại giống như thế, tương đồng
với những vị tổ sư Thiền Tông và bậc Địa
Thượng Bồ Tát. Nếu là người chưa đắc
tự tại, hễ văng sanh Cực Lạc, “hoa nở thấy
Phật, ngộ Vô Sanh”, nhất định là sẽ có
thể đạt được! Do vậy, ngài Đàm Loan
giảng giải: “Tùy ư tự tại là nói do sức
công đức của pháp môn Ngũ Niệm này mà có thể
sanh về Tịnh Độ, xuất hiện hay ẩn mất
tự tại (tự tại văng sanh thấy Phật, tự
tại trở lại độ sanh)”.
Lễ bái thành tựu công
đức nơi thân nghiệp, tán thán thành tựu công đức
nơi khẩu nghiệp, phát nguyện thành tựu công đức
nơi ư nghiệp, quán sát thành tựu công đức nơi trí
nghiệp, hồi hướng thành tựu công đức nơi
phương tiện trí nghiệp. Dùng công đức do thực
hiện năm thứ nghiệp (thuộc pháp môn Ngũ Niệm)
ấy, ḥa hợp thành tựu nghiệp tùy ư tự tại.
Tu Ngũ Niệm Môn là nhân, đạt được tự
tại là quả. Nhân quả ḥa hợp, tự lực và tha
lực ḥa hợp, bèn tùy thuận tu pháp môn văng sanh Tịnh
Độ, có thể đạt được thành tựu
nghiệp ra vào tự tại (văng sanh Tịnh Độ là “ra”, trở
lại cơi trược độ sanh là “vào”). Đấy
chẳng phải là ngẫu nhiên, chẳng phải là không có nhân,
mà cũng chẳng phải là do nhân duyên nào khác, càng chẳng
phải là lời nói vô căn cứ! Nếu xác thực là có
thể thành tựu Ngũ Niệm Môn, ắt được
văng sanh An Lạc quốc. Hễ sanh về đó, sẽ bất
thoái, rốt ráo là Nhất Sanh Bổ Xứ, vậy th́ sẽ
tùy ư tự tại giống như Phật!
Tôi nói một thí dụ: Cái tâm
của chúng ta giống như một tấm gương sáng
sạch, bị tro bụi phủ lấp,
chẳng thể soi các vật. Tám vạn bốn
ngàn pháp môn của
Phật pháp đều nhằm dạy chúng ta phương
pháp trừ bỏ tro bụi như thế nào. Một mai chất
nhơ hết, ánh sáng hiện ra, sẽ có thể tự tại
soi vật. Trần cấu trong tâm chúng ta chỉ cậy vào
tự lực để chùi sạch th́ rất khó, nhưng
nếu có thể dùng một giọt chất tẩy rửa
th́ sẽ rất dễ dàng trừ khử bất cứ nhơ
bẩn nào, khôi phục sự sáng sạch của cái tâm. Chất
tẩy rửa chính là pháp môn Ngũ Niệm, hễ thành tựu
nó (giống như sử dụng chất tẩy rửa), sẽ có thể ngay lập tức khôi phục cái tâm
vốn tịnh. Tâm thanh tịnh, sẽ được tự
tại. Như gương sạch sẽ có thể tự tại
hiện ra các h́nh tượng, cùng một đạo lư như
vậy đấy!
2.2.2.2.10.
Lợi hành măn túc
(Chú) Lợi hành măn túc giả.
(Chú:
Trọn vẹn hạnh tự lợi, lợi tha…)
2.2.2.2.10.1.
Nêu chung
(Luận) Phục hữu ngũ
chủng môn, tiệm thứ thành tựu ngũ chủng công
đức, ưng tri.
(論)復有五種門。漸次成就五種功德。應知。
(Luận:
Lại có năm thứ môn, theo thứ tự thành tựu
năm loại công đức, hăy nên biết).
Từ đây
trở đi là ḷng từ bi của Luận Chủ, dùng những
sự tướng dễ biết trong thế
gian, chia thành năm môn xuất nhập. Dùng cách nói so sánh tương
tự để diễn tả th́: Tu hành pháp môn Ngũ Niệm lần
lượt theo thứ tự th́ Tịnh nghiệp hành nhân sẽ
có thể thành tựu xuất nhập tùy ư
tự tại, tức là văng sanh Tịnh Độ, trở
lại Sa Bà, tất cả công đức tự lợi, lợi
tha đáng nên làm của Bồ
Tát, hết
thảy sẽ đều viên măn. Do vậy, phần này được
ngài Đàm Loan khoa phán là Lợi Hành Măn Túc, tức là tự lợi
(nhập) và lợi tha (xuất) đều trọn đủ
viên măn. Hai câu Luận ở đây tức là trước
hết bèn nêu ra năm
môn, cho nên nói: “Phục hữu ngũ chủng môn, tiệm
thứ thành tựu ngũ chủng công đức” (Lại
có năm loại môn theo thứ
tự thành tựu năm thứ công đức). “Tiệm thứ”
là trước nhập, sau xuất, là thứ tự để
tuần tự tiến dần dần. Như vậy th́ có
thể thành tựu năm loại công đức “tự lợi,
lợi tha”. Bồ Tát tu Ngũ
Niệm Môn hăy đều nên biết như thế.
2.2.2.2.10.2.
Phần giải thích chánh yếu
2.2.2.2.10.2.1.
Nêu chung về công đức thành tựu xuất nhập
(Luận) Hà giả ngũ
môn? Nhất giả, cận môn. Nhị giả, đại hội
chúng môn. Tam giả, trạch môn. Tứ giả, ốc môn. Ngũ
giả, viên lâm du hư địa môn. Thử ngũ chủng môn,
sơ tứ chủng môn thành tựu nhập công đức.
Đệ ngũ môn, thành tựu xuất công đức.
(Chú) Thử
ngũ chủng thị hiện nhập xuất thứ đệ
tướng. Nhập tướng trung, sơ chí Tịnh
Độ thị cận tướng. Vị nhập Đại
Thừa Chánh Định Tụ, cận A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề. Nhập Tịnh Độ dĩ,
tiện nhập Như Lai đại hội chúng số. Nhập
chúng số dĩ, đương chí tu hành an tâm chi trạch.
Nhập trạch dĩ, đương chí tu hành sở cư
ốc vũ. Tu hành thành tựu dĩ, đương chí giáo
hóa địa. Giáo hóa địa, tức thị Bồ Tát tự
ngu lạc địa. Thị cố xuất môn, xưng viên
lâm du hư địa
môn. Thử
xuất nhập công đức môn, hà giả thị? Thích ngôn.
(論)何者五門。一者近門。二者大會眾門。三者宅門。四者屋門。五者園林遊戲地門。此五種門。初四種門成就入功德。第五門成就出功德。
(註)此五種示現入出次第相。入相中初至淨土是近相。謂入大乘正定聚。近阿耨多羅三藐三菩提。入淨土已。便入如來大會眾數。入眾數已。當至修行安心之宅。入宅已。當至修行所居屋宇。修行成就已。當至教化地。教化地即是菩薩自娛樂地。是故出門稱園林。遊戲地門。此入出功德門。何者是。釋言。
(Luận: Những ǵ là năm
môn? Một là cận môn. Hai là đại hội chúng môn. Ba là
trạch môn. Bốn là ốc môn. Năm là viên lâm du hư địa
môn. Trong năm loại môn này, bốn môn đầu nhằm
thành tựu công đức để nhập. Môn thứ năm
nhằm thành tựu công đức để xuất.
Chú: Năm môn ấy nhằm
chỉ rơ tướng xuất nhập theo thứ tự. Trong
tướng để nhập th́ mới đến Tịnh
Độ là cận tướng (tướng gần), tức
là dự vào Chánh Định Tụ của Đại Thừa,
gần với Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Đă vào trong Tịnh Độ, bèn dự
vào đại chúng trong pháp hội của Như Lai. Đă dự
vào hàng đại chúng, sẽ đến được căn
nhà “an tâm tu hành”. Đă vào nhà rồi, sẽ đến pḥng ốc
dành cho tu hành. Khi đă tu hành thành tựu, sẽ đạt đến
địa vị giáo hóa. Địa vị giáo hóa chính là chỗ
vui sướng của Bồ Tát. V́ thế, xuất môn (từ
Cực Lạc trở lại giáo hóa chúng sanh) được
gọi là viên lâm du hư địa môn (môn vườn rừng để
vui chơi). Các môn công đức xuất nhập này (bao gồm
năm môn) là như thế nào? Trong phần giải thích ở
phía sau [sẽ giải thích]).
Năm môn là ǵ? V́ thế, trước
hết nêu ra [danh xưng của] năm loại môn. Bốn
môn đầu nhằm thành tựu công đức Nhập, môn
thứ năm nhằm thành tựu công đức Xuất. “Trước
nhập, sau xuất” là thứ tự tất nhiên. Dùng sự
tướng xuất nhập nông cạn, gần gũi của
thế gian để sánh ví quá tŕnh tu pháp môn Ngũ Niệm của
Bồ Tát, cũng phải nên là “trước nhập, sau
xuất”. Tức là trước hết thành tựu công đức
tự lợi, th́ gọi
là Nhập. Sau đấy, thành tựu công đức lợi
tha, th́ gọi
là Xuất. Thường nói là “tự độ trước
đă rồi sau đó mới độ người”.
Đấy là quy củ thơm thảo muôn đời chẳng
đổi. Như kinh Vô Lượng Thọ đă dạy: “Chư
Phật cáo Bồ Tát, linh cận An Dưỡng Phật, văn
pháp nhạo thọ hành, tật đắc thanh tịnh xứ”
(Chư Phật bảo Bồ Tát, thân cận An Dưỡng
Phật, nghe pháp thích vâng hành, chóng đạt chốn thanh tịnh).
Đấy chính là từ môn thứ nhất cho đến môn
thứ tư trong Luận này, thành tựu công đức
để “nhập”.
“Bồ Tát hưng chí nguyện,
nguyện kỷ quốc vô dị. Phổ
niệm độ nhất thiết, danh hiển
măn thập phương” (Bồ Tát dấy
chí nguyện, nguyện nước ḿnh chẳng khác. Nguyện
độ trọn hết thảy, tiếng tăm rạng mười
phương). Đấy chính là môn thứ năm trong luận
này, thành tựu công đức Xuất. Ví như muốn xuống
biển để cứu người, ắt chính ḿnh phải
học cách bơi lội trước đă. Nếu không, chính
ḿnh lẫn người khác đều ch́m lỉm, chẳng
có mảy may ích lợi nào! Trong Trí Độ Luận, Long Thọ
Bồ Tát đă nói: “Chẳng thể tự độ mà có
thể độ người khác, chẳng có lẽ ấy”.
Kinh Pháp Hoa có nói: “Tiên thuyết tam thừa giáo, hậu thuyết
Nhất Thừa pháp” (Trước
nói giáo pháp tam thừa, sau dạy pháp Nhất Thừa) đều
là “trước tự độ, sau độ người”
giống hệt! Trong thế giới Sa Bà này, học
Phật, hành Bồ Tát đạo, ai cũng đều chẳng
thể là ngoại lệ! Xét theo sự thị hiện trong
một đời của Thích Ca Thế Tôn, trong tám tướng
thành đạo, từ tướng thứ nhất cho đến
tướng thứ sáu đều nhằm thành tựu “nhập”
môn, tướng thứ bảy mới là “xuất” môn.
Tướng thứ tám là “xuất nhập viên măn”, thị
hiện Niết Bàn. Đấy chẳng phải là một tấm
gương hay nhất cho hết thảy các vị Bồ
Tát ư?
Có những vị đại
tâm Bồ Tát coi thường chuyện lễ Phật, niệm
Phật, và các hạnh môn có thể thành tựu tự lợi
khác, chỉ chú trọng hành pháp hóa độ chúng sanh. Điều
này giống như chẳng có tiền trong trương mục
ngân hàng, chi phiếu viết ra làm sao có thể thanh toán, sử
dụng cho được? Do vậy, Luận Chủ tâm từ
bi tha thiết, v́ khiến cho hết thảy Bồ Tát đều
có thể nương theo pháp môn Ngũ Niệm này trước
nhập sau xuất, do tự lợi mà lợi tha, cùng thành Phật
đạo, chẳng đến nỗi mù quáng, điên đảo,
nhọc nhằn uổng công, cho nên trong phần
cuối bộ luận này, Ngài đă đặc
biệt tha thiết chỉ bày thứ tự thực hiện
dần dần năm môn thành tựu xuất nhập công
đức. Đấy chính là “vạn người tu, vạn
người đến (văng sanh Tịnh Độ)”, là giấy bảo
đảm cho những ai nghe pháp (nghe cách tu Ngũ Niệm
Môn trong luận này), không một ai chẳng thành Phật, mà
cũng là tấm bia chỉ đường an toàn nhất
cho Bồ Tát đạt thành Bồ Tát đạo “thượng
cầu, hạ hóa, tự lợi, lợi tha”.
Ngài Đàm Loan giải thích năm
thứ môn này hết sức khế hợp nguyện ư của
Luận Chủ:
1) Chúng sanh thuộc ba bậc,
chín phẩm có thể tu Ngũ Niệm Môn văng sanh Tịnh
Độ, lúc mới đến [Tịnh Độ] th́ gọi
là Cận Môn. “Cận” (近, gần) ở đây
không chỉ là thân cận Phật Di Đà và các vị thượng
thiện nhân, mà c̣n là gần với Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. V́ phàm là
người văng sanh, đều
thuộc vào Chánh Định Tụ, tức là đại Bồ
Tát bất thoái chuyển, rốt ráo ắt đạt đến
Nhất Sanh Bổ Xứ.
2) Đă sanh về Tịnh
Độ th́ chính là pháp quyến của Phật Di Đà, bèn
thuộc vào đại chúng trong hội thuyết pháp của
Phật Di Đà, nghe pháp liền vui thích phụng hành. V́ thế
gọi là Đại Hội Chúng Môn.
3) Môn thứ ba là Trạch Môn,
tức là như người vào ṭa nhà hoa lệ (Cực Lạc
trang nghiêm), an tâm cư trụ trong đó.
4) Môn thứ tư là Ốc Môn,
tức là như người vào trong nội đường, đạt
được chỗ thanh tịnh, thân tâm nghỉ ngơi,
hưởng thụ an lạc, tức là đă được
nghỉ ngơi (tu hành công đức tự lợi, lợi
tha, hết thảy đă thành tựu). Đó gọi là tam thân,
tứ trí, ngũ nhăn, lục thông, hết thảy công đức
cũng đều thành tựu.
5) Sau đấy, chẳng trái
nghịch bổn nguyện, trở về Sa Bà, dùng đủ
mọi phương tiện chẳng thể nghĩ bàn để
hóa độ hết thảy chúng sanh. Đấy là Xuất
Môn, gọi là Giáo Hóa Địa, mà cũng là Bồ Tát dùng lợi
tha để thành tựu tự lợi, gọi là chỗ để chính ḿnh vui sướng, thỏa thích. V́ thế,
sánh ví là Viên Lâm Du Hư Địa Môn.
Đấy chẳng phải là
dùng năm loại môn ấy để tu hành Ngũ Niệm
Môn theo thứ tự xuất nhập và thành tựu tướng
công đức đă được hoàn toàn bao gồm chẳng
sót ư? Bốn môn đầu thành tựu công đức Nhập,
môn thứ năm thành tựu công đức Xuất. Trước
nhập, sau xuất, do tự độ mà độ người
khác, pháp vốn là như thế đó!
2.2.2.2.10.2.2.
Giải thích môn nhập thứ nhất
(Luận) Nhập đệ
nhất môn giả, dĩ lễ bái A Di Đà Phật, vị
sanh bỉ quốc cố, đắc sanh An Lạc thế
giới. Thị danh Nhập
đệ nhất môn.
(Chú) Lễ Phật, nguyện
sanh Phật quốc, thị sơ công đức tướng.
(論)入第一門者。以禮拜阿彌陀佛。為生彼國故。得生安樂世界。是名入第一門。
(Luận:
Môn thứ nhất của Nhập là dùng lễ bái A Di Đà
Phật nhằm sanh về cơi ấy. Đó gọi là môn thứ
nhất của Nhập.
Chú: Lễ Phật, nguyện
sanh vào cơi Phật, là tướng công đức đầu
tiên).
Dùng thân
nghiệp thanh tịnh lễ kính Phật Di Đà, đấy
là chỗ để thực hiện tu tập Ngũ Niệm
Môn. Giả sử Tịnh nghiệp hành nhân chẳng lạy
Phật, cho thấy căn bản là quư vị chẳng có tín
nguyện đối với pháp môn Tịnh Độ. Tín
nguyện là tiền đề của tư lương ḥng
thành tựu văng sanh Tịnh Độ. V́ thế gọi là “sơ
công đức tướng” (tướng công đức
đầu tiên). Có những kẻ tuy lễ Phật, nhưng
chẳng v́ nguyện sanh Tịnh Độ mà lạy, mà là v́ có mục
đích khác: Hoặc
nhằm tiêu nghiệp chướng, hoặc v́ cầu danh lợi,
b́nh an cho chính ḿnh; hoặc
là để thân thể khỏe mạnh mà vận động.
Những hạng người ấy đều chẳng thành
tựu công đức thứ nhất trong Nhập môn, chẳng
được văng sanh An Lạc quốc. Do vậy, hỡi
Tịnh nghiệp hành nhân! Khi quư vị lạy Phật, mỗi
một lạy đều phải chí thành khẩn thiết,
tín nguyện văng sanh Tịnh Độ, đích thân phụng
sự Phật Di Đà, nghe pháp, thọ kư. Trong Tịnh
Độ Sám có câu “nhất tâm quy mạng Cực Lạc
thế giới A Di Đà Phật” chính là trọn đủ
tín nguyện lễ Phật vậy. Như phẩm Phổ Hiền
Hạnh Nguyện có nói: “Tận pháp giới vi trần số
chư Phật, ngă dĩ Phổ Hiền hạnh nguyện lực
cố, thâm tâm tín giải, như đối mục tiền,
tất dĩ thanh tịnh thân ngữ ư nghiệp, thường
tu lễ kính. Nhất nhất Phật sở, giai hiện bất
khả thuyết trần số thân, nhất nhất thân biến
lễ bất khả thuyết trần số Phật… vô hữu
cùng tận, niệm niệm tương tục, vô hữu gián
đoạn, thân ngữ ư nghiệp vô hữu b́ yếm”
(Trọn hết pháp giới chư Phật nhiều như
số vi trần, tôi do sức của hạnh nguyện Phổ
Hiền thâm tâm tin hiểu, như đối trước mắt,
đều dùng thân ngữ ư nghiệp thanh tịnh, thường
tu lễ kính. Ở nơi mỗi đức Phật, đều
hiện chẳng thể nói thân nhiều như vi trần. Mỗi
thân lễ trọn khắp chẳng thể nói chư Phật
nhiều như số vi trần… chẳng có cùng tận, niệm
niệm liên tục, chẳng gián đoạn, thân ngữ ư
nghiệp chẳng có mệt chán). Nếu có thể
v́ văng sanh Cực Lạc mà thường chí thành lễ Phật
chẳng gián đoạn, chẳng mệt chán, do A Di Đà Phật
đại diện cho hết thảy các đức Phật,
[cho nên] lễ kính Phật Di Đà tức là lễ kính chư
Phật. Không chỉ là có thể thành tựu tướng công
đức đầu tiên là văng sanh
Tịnh Độ, đạt được Cận Môn thuộc về Nhập, mà c̣n có
thể thành tựu công đức của Như Lai, tức
là Phật hạnh. Có thể dùng công đức của nguyện
hạnh lễ bái ấy để dẫn về Cực Lạc th́ chính là Phổ
Hiền Hạnh, ắt được văng sanh. Cư sĩ
Vương Nhật Hưu đời Tống hằng ngày lễ
A Di Đà Phật một ngàn lạy, nguyện sanh về An
Lạc. Tới khi lâm chung, đứng trước tượng
Phật mà văng sanh, Ngài là tấm gương tốt nhất
cho chúng ta.
2.2.2.2.10.2.3.
Giải thích môn nhập thứ hai
(Luận) Nhập đệ
nhị môn giả, dĩ
tán thán A Di Đà Phật, tùy thuận danh nghĩa xưng Như
Lai danh, y Như Lai quang minh trí tướng tu hành cố, đắc
nhập đại hội chúng số. Thị danh Nhập
đệ nhị môn.
(Chú) Y Như Lai danh nghĩa tán
thán, thị đệ nhị công đức tướng.
(論)入第二門者。以讚歎阿彌陀佛。隨順名義。稱如來名。依如來光明智相修行故。得入大會眾數。是名入第二門。
(Luận:
Môn thứ hai của Nhập là dùng tán thán A Di Đà Phật,
do thuận theo ư nghĩa trong danh hiệu mà xưng niệm Như
Lai danh, nương theo quang minh trí tướng của Như
Lai để tu hành bèn dự vào hàng
đại chúng trong Phật hội. Đó
gọi là môn thứ hai của Nhập.
Chú: Nương theo danh
nghĩa của Như Lai để tán thán th́ là tướng
công đức thứ hai).
Nói tán
thán là môn Nhập thứ hai, v́ xưng danh hiệu Phật chính
là tán thán hết thảy công đức của A Di Đà Phật.
Tùy thuận A Di Đà Phật, tức Vô Ngại Quang Phật.
Thân
quang và trí quang của Ngài chiếu trọn
khắp mười phương chẳng bị chướng
ngại. Khi quư vị niệm danh hiệu Ngài, dùng ba nghiệp
thanh tịnh quán tưởng quang minh và trí tướng của
A Di Đà Phật để xưng niệm danh hiệu Phật.
Danh hiệu của Phật chính là quang minh và trí tướng.
Xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật chính là xưng
tán A Di Đà Phật quang minh vô lượng, trí huệ vô lượng,
và công đức
vô lượng. V́ thế, A Di Đà Phật c̣n gọi là Vô
Lượng Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, cho đến
Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật. Tu hành như thế, thực
hiện dễ, thành công cao, có thể thành tựu môn công đức
thứ hai của Nhập, được sanh về Tịnh
Độ, tiến nhập đại chúng trong hội thuyết
pháp của A Di Đà Phật, trở thành Bồ Đề pháp
quyến của A Di Đà Phật. Đó gọi là tướng
công đức thứ hai. Cũng có kẻ xưng niệm A
Di Đà Phật mà chẳng được dự vào trong số
đại chúng nơi hội thuyết pháp của A Di
Đà Phật là v́ có tâm nghi hoặc, chẳng có trí huệ,
chẳng phải là nương theo tướng
trí huệ quang minh của A Di Đà Phật để xưng niệm.
Do vậy, sẽ sanh vào biên địa của thế giới
Cực Lạc, chẳng được thấy Phật,
nghe pháp, cúng dường Bồ Tát đại chúng, phải
trải qua năm trăm năm mới được dự
vào trong số đại chúng thuộc hội thuyết pháp
của đức Phật, đánh mất lợi ích to lớn!
Nếu có thể vâng theo lời
phẩm Hạnh Nguyện đă dạy: “Tận pháp giới
vi trần trung, giai hữu vi trần số Phật, nhất
nhất Phật sở giai hữu Bồ Tát hải hội
vi nhiễu, ngă đương tất dĩ thậm thâm thắng
giải hiện tiền tri kiến, các dĩ xuất quá Biện
Tài Thiên Nữ vi diệu thiệt căn, xuất nhất
thiết ngôn từ hải, xưng dương tán thán nhất
thiết Như Lai chư công đức hải” (Trong mỗi
vi trần của tột cùng pháp giới đều có chư
Phật nhiều như số vi trần. Nơi mỗi đức
Phật đều có Bồ Tát nhóm họp như biển vây
quanh Phật. Tôi ắt đều dùng kiến giải thù thắng
rất sâu và tri kiến hiện tiền, đều dùng cái
lưỡi vi diệu vượt trỗi Biện Tài Thiên Nữ,
phát ra hết thảy biển các ngôn từ để xưng
tụng, tán thán các biển
công đức của hết thảy Như Lai). Do thời
gian và không gian vô tận, tán thán cũng chẳng cùng tận,
niệm niệm liên tục, chẳng hề gián đoạn.
Thân ngữ ư nghiệp chẳng có chán mệt th́ càng tốt
hơn.
Dùng nguyện hạnh này dẫn
về Cực Lạc, liền được
văng sanh, thành tựu công đức của Như Lai, như
phẩm Hạnh Nguyện có nói: “Thị nhân lâm mạng
chung thời, tối hậu sát-na, nhất thiết chư căn
tất giai tán hoại, nhất thiết thân thuộc tất
giai xả ly, nhất thiết oai thế tất giai thoái thất,
phụ tướng, đại thần, cung thành nội ngoại,
tượng mă xa thặng, trân bảo phục tạng, như
thị nhất thiết, vô phục tương tùy. Duy thử
nguyện vương bất tương xả ly. Ư nhất
thiết thời, dẫn đạo kỳ tiền, nhất
sát-na trung, tức đắc văng sanh Cực Lạc thế
giới… tự kiến sanh liên hoa trung, mông Phật thọ
kư, đắc thọ kư dĩ, tận ư vị lai kiếp
hải, quảng năng lợi ích nhất thiết chúng sanh”
(Khi người ấy sắp mạng chung, trong sát-na cuối
cùng, hết thảy các căn thảy đều tan hoại,
hết thảy quyến thuộc thảy đều ĺa bỏ,
hết thảy oai thế thảy đều suy sụp, phụ
tướng, đại thần, cung điện trong ngoài,
voi, ngựa, xe cộ, kho báu trân quư, hết thảy như
thế chẳng c̣n thuận theo. Chỉ có nguyện vương
này chẳng hề ĺa bỏ, trong hết thảy các thời,
nó dẫn đường đằng trước, trong một
sát-na, liền được văng sanh thế giới Cực
Lạc… tự thấy [chính ḿnh] sanh trong
hoa sen, được Phật thọ kư. Đă được
thọ kư, bèn trong tột cùng biển vị lai kiếp, có
thể lợi ích rộng lớn hết thảy chúng sanh).
2.2.2.2.10.2.4.
Giải thích môn nhập thứ ba
(Luận) Nhập đệ
tam môn giả, dĩ nhất tâm chuyên niệm, tác nguyện sanh
bỉ, tu Xa-ma-tha tịch tĩnh tam-muội hạnh cố,
đắc nhập Liên Hoa Tạng thế giới. Thị
danh Nhập
đệ tam môn.
(Chú) Vị tu tịch tĩnh
Chỉ cố, nhất tâm nguyện sanh bỉ quốc. Thị
đệ tam công đức tướng.
(論)入第三門者。以一心專念。作願生彼。修奢摩他。寂靜三昧行故。得入蓮華藏世界。是名入第三門。
(Luận: Môn Nhập
thứ ba là dùng nhất tâm chuyên niệm, phát nguyện sanh về
đó, do tu hạnh tam-muội Xa-ma-tha tịch tĩnh nên được
vào trong thế giới Liên Hoa Tạng. Đó gọi là môn thứ
ba của Nhập.
Chú: V́
tu tịch tĩnh Chỉ mà nhất tâm nguyện sanh về
cơi ấy. Đó là tướng công đức thứ ba).
Nhất tâm chuyên
niệm A Di Đà Phật, phát nguyện văng sanh An Lạc Tịnh
Độ, như thế sẽ có thể khiến cho cái tâm
b́nh thường tán loạn, vọng tưởng, phân biệt
của chúng ta trở về cái tâm tịch tĩnh vô phân biệt.
Do đó, để hành pháp Ban Châu tam-muội cần phải kiến lập
đại tín nguyện, niệm chuyên nhất, sẽ có thể
đắc tam-muội. Tam-muội (Samadhi) là tiếng Phạn,
dịch nghĩa là Chánh Định, cũng chính là nhất
tâm bất loạn. Hai môn trước đều thuộc
loại tán tâm tu hành, môn thứ ba này thuộc về định
tâm tu hành. Do đó, Luận viết: “Tu Xa-ma-tha (Chỉ) tịch
tĩnh tam-muội hạnh”. Tán tâm th́ có gián đoạn,
có tạp niệm, có vọng tưởng, có phân biệt. Định
tâm th́ không gián đoạn, không có tạp niệm, không có vọng
tưởng, phân biệt. Không gián đoạn, không có tạp
niệm, không có vọng tưởng, th́ gọi là “nhất
tâm chánh niệm”. Đấy chính là điều kiện tất
yếu để văng sanh Tịnh Độ. Kinh nói “mười
niệm được sanh” cũng là nói khi lâm chung thành
tựu nhất tâm chánh niệm không gián đoạn, không có tạp
niệm và vọng tưởng, mười niệm niệm
Phật như thế đó!
Luận viết: “Đắc
nhập Liên Hoa Tạng thế giới” (Được vào
trong thế giới Hoa Tạng). V́ thế giới Cực Lạc
là một thế giới trong Liên Hoa Tạng thế giới
hải; đă sanh vào Cực Lạc, tức là vào trong thế
giới Liên Hoa Tạng. Lại nói thế giới Liên Hoa Tạng
là Tha Thọ Dụng Báo Độ của chư Phật, giống như thế giới Cực Lạc là Tha Thọ Dụng Báo
Độ của A Di Đà Phật. V́ thế, Hoa Tạng và
Cực Lạc chẳng một,
chẳng khác[3]. Nhưng nếu dựa
theo đường lối khó hành (nan hành đạo) thông
thường trong Bồ Tát đạo th́ muốn sanh vào thế
giới Hoa Tạng sẽ rất
khó khăn! Cần phải trải qua một đại A-tăng-kỳ
kiếp, phá vô minh, chứng Pháp Thân th́ mới vào được.
Nay tu pháp môn Ngũ Niệm, nhất tâm chuyên niệm, phát
nguyện sanh về cơi Cực Lạc th́ chính
là tu tam-muội hạnh, có thể đắc nhất tâm bất
loạn (Chỉ), ắt sanh vào Cực Lạc, tức là đă
vào trong thế giới Hoa Tạng. Đấy là một con đường
nhanh, tắt, dễ
dàng nhất, thuận tiện nhất, không
chi hơn được, mà cũng là Hoa Tạng đại
môn b́nh đẳng nhất, phổ cập nhất.
Chúng sanh thuộc ba bậc,
chín phẩm đầy đủ tín nguyện, thành tựu
nhất tâm chuyên niệm, ai nấy đều có thể tiến
nhập thế giới Hoa Tạng. Như Long Thọ, Thế
Thân Bồ Tát, lịch đại tổ sư Tịnh Độ
Tông của Trung Hoa đều là thượng phẩm thượng
sanh, hễ văng sanh liền vào trong [thế giới
Hoa Tạng], liền trông thấy thế giới Hoa Tạng. Những kẻ văng sanh khác thuộc trung hạ
phẩm, tuy sanh trong cơi Đồng Cư hoặc Phương
Tiện, nhưng ngay nơi đó chính là Thật Báo Trang Nghiêm
Độ của Phật Di Đà, v́ thế giới Cực
Lạc có đủ bốn cơi theo chiều ngang, cho nên ai nấy
đều được tiến nhập thế giới Hoa
Tạng. Cổ đức tán thán pháp môn Tịnh Độ đă có một
đôi câu đối như sau: “Tứ sanh cửu hữu
đồng đăng Hoa Tạng huyền môn, bát nạn
tam đồ cộng nhập Di Đà nguyện hải”.
Đấy là chân thật ngữ, xác thực là như thế đó! Dự vào thế giới Hoa Tạng giống như vào một
ṭa nhà hoa lệ. V́ thế, môn thứ ba này được gọi
là Trạch Môn.
2.2.2.2.10.2.5.
Giải thích môn nhập thứ tư
(Luận) Nhập đệ
tứ môn giả, dĩ chuyên niệm quán sát bỉ diệu
trang nghiêm, tu Tỳ-bà-xá-na cố, đắc đáo bỉ xứ,
thọ dụng chủng chủng pháp vị lạc. Thị
danh Nhập đệ tứ môn.
(Chú) Chủng chủng pháp vị
lạc giả, Tỳ-bà-xá-na trung, hữu quán Phật quốc
độ thanh tịnh vị, nhiếp thọ chúng sanh Đại
Thừa vị, tất cánh trụ tŕ bất hư tác vị,
loại sự khởi hạnh nguyện thủ Phật
độ vị, hữu như thị đẳng vô lượng
trang nghiêm Phật đạo vị, cố ngôn “chủng chủng”.
Thị đệ tứ công đức tướng.
(論)入第四門者。以專念觀察彼妙莊嚴。修毘婆舍那故。得到彼。處受用種種法味樂。是名入第四門。
(註)種種法味樂者。毘婆舍那中。有觀佛國土清淨味。攝受眾生大乘味。畢竟住持不虛作味。類事起行。願取佛土味。有如是等無量莊嚴佛道味。故言種種。是第四功德相。
(Luận:
Môn Nhập thứ tư là do chuyên niệm, quan sát sự trang
nghiêm ấy mà tu Tỳ-bà-xá-na, cho nên đến
được cơi ấy, thọ dụng đủ mọi
niềm vui pháp vị. Đó gọi là môn Nhập thứ
tư.
Chú: “Đủ mọi
niềm vui pháp vị”: Trong Tỳ-bà-xá-na, có quán cơi Phật thanh
tịnh vị, nhiếp thọ chúng sanh Đại Thừa
vị, rốt ráo trụ tŕ chẳng uổng công thực hiện
vị, thuận theo sự tương tự mà dấy lên hạnh
nguyện giữ lấy cơi Phật vị, có vô lượng
trang nghiêm Phật đạo vị như thế, cho nên nói
là “đủ mọi thứ”. Đấy là tướng công
đức thứ tư).
Luận nói dùng chuyên niệm,
quan sát sự trang nghiêm mầu nhiệm ấy. “Chuyên niệm”
tức là tu Chỉ, “quan sát” chính là tu Quán. Đấy
chính là Chỉ Quán bất nhị, là phương pháp Chỉ
Quán vận dụng đồng thời Chỉ và Quán của
Đại Thừa. “Sự trang nghiêm mầu nhiệm ấy”
tức là y báo và chánh báo trang nghiêm của An Lạc Tịnh
Độ, đều vi diệu chẳng thể nghĩ
bàn. Đấy là cảnh được quán. Chuyên niệm
quan sát là cái tâm năng quán (chủ thể thực hiện
việc quán tưởng). Chỉ có cái tâm chuyên niệm y báo
và chánh báo của đức Phật ấy là có thể quán
cảnh vi diệu trong cơi ấy. Tâm và cảnh khế hợp
lẫn nhau, có thể thành tựu niệm
Phật, quán Phật tam-muội. Môn tam-muội này chính là nhất
tâm chánh niệm. Nương theo nhất tâm mà chuyên niệm,
dấy lên sự
quan sát, tức là do Chỉ mà khởi Quán. Quán thành tam-muội
th́ gọi là Quán Phật tam-muội. Niệm Phật tam-muội
là vua trong các tam-muội. Như Huệ Viễn đại
sư là Tịnh Độ Tông Sơ Tổ đă viết trong
bài tựa cho tác phẩm Lư Sơn Niệm Phật Tam Muội:
“Danh hiệu của tam-muội rất nhiều, nhưng công
đức dễ tăng tấn th́ Niệm Phật đứng
đầu. V́ sao? Tôn hiệu của Như Lai tột cùng
huyền diệu, tột bậc vắng lặng. Thể và
thần (tâm thức) [do tu Niệm Phật tam-muội] mà cùng nhau chuyển
biến, ứng hiện chẳng sót. V́ thế, dạy [hành
nhân] nhập Định này, [hành nhân] sẽ ngấm
ngầm quên mất tri kiến [hư vọng], tức là sử
dụng ngay cái pháp để duyên vào mà thành tựu Quán. Quán đă
thông tỏ th́ sự chiếu soi bên trong sẽ chói ngời lẫn nhau, muôn h́nh
tượng đều sanh, chẳng phải là chuyện mắt
thấy, tai nghe. Do vậy, linh tướng lặng trong, thuần
nhất, trong sáng tự nhiên. Nguyên âm (danh hiệu Phật)
chính là tâm, những t́nh kiến trầm trệ bị chuyển
hóa thành rạng ngời, điều tột cùng nhất
trong thiên hạ há có thể sánh bằng
điều này được ư?” Đấy
là tướng công đức của môn thứ tư.
Sơ Tổ ở Lư Sơn
ba mươi năm, chưa từng xuống núi vào cơi đời,
chuyên dốc chí nơi Tịnh Độ, lắng ḷng quán tưởng.
V́ thế, Ngài ba lần được thấy tướng
hảo và quang minh của A Di Đà Phật, nhưng chẳng
kể với ai. Bảy ngày trước lúc lâm chung, Tổ
xuất Định, lại thấy thân A Di Đà Phật đầy
khắp hư không. Đức Phật bảo tổ Huệ
Viễn: “Ta do sức bổn nguyện đến an ủi
ngươi, bảy ngày sau, ngươi sẽ sanh về cơi ta”. Vào ngày
mồng Sáu tháng Tám, Tổ bèn đoan tọa văng sanh. Đấy
là Thượng Phẩm Thượng Sanh, là khuôn mẫu đáng
cho liên hữu Tịnh Tông chúng ta học theo nhất. Ai có thể
nói pháp môn Niệm Phật chẳng thể phá vô minh, chứng
Pháp Thân, thấy Báo Thân viên măn của A Di Đà Phật, hễ
văng sanh liền vào trong Tha Thọ Dụng Báo Độ của
Phật ư? Đă vào Báo Độ, bèn được hưởng
đủ mọi niềm vui pháp vị. Chẳng hạn như
đă nói trong phần trước: Niềm vui pháp vị do
mười bảy thứ trang nghiêm thanh tịnh nơi khí thế
gian, niềm vui pháp vị do tám thứ tự tại tự
lợi và lợi tha của A Di Đà Phật, và niềm vui
pháp vị do bốn thứ công đức chánh tu hành của
Bồ Tát, niềm vui pháp vị Đại Thừa do hết
thảy chúng sanh cùng dự vào Chánh Định Tụ, niềm
vui pháp vị do bốn mươi tám nguyện thành tựu “chẳng
uổng công thực hiện trụ tŕ” chẳng thể
nghĩ bàn, niềm vui pháp vị do “thấy người hiền,
mong được bằng”, thuận theo sự mà khởi
hạnh, phát nguyện trang nghiêm quốc độ, thành thục
chúng sanh cũng giống như
thế. Có vô lượng vô biên Bồ Đề giác pháp vị
lạc
để trang nghiêm con đường thành Phật như
thế đó, đều thuộc vào môn Nhập
thứ tư. Do thành tựu tướng công đức,
ắt sẽ được thọ dụng niềm vui pháp
vị. V́ thế, Luận nói: “Thọ dụng chủng chủng
pháp vị lạc” (Thọ dụng
đủ mọi niềm vui pháp vị). Đúng
là nói chẳng hết được, chẳng đếm trọn
được! Như một người đă vào trong ṭa
nhà trang nghiêm, lộng lẫy, bèn vào
trong căn pḥng thanh tịnh an ổn, hưởng thụ đủ
mọi thứ vui sướng, như là: Niềm vui do ĺa khỏi
nghiệp trói buộc, Bồ Đề giác pháp lạc, Niết
Bàn tịch tĩnh lạc v.v… Nói
chung, chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng các sự
vui. V́ thế gọi là “niềm vui do thọ
dụng các thứ pháp vị”. Do vậy, môn
thứ tư được gọi là Ốc Môn, tức là đăng
đường nhập thất, hưởng lạc vô cùng.
Bởi thế, cơi ấy được gọi là Cực Lạc!
2.2.2.2.10.2.6.
Môn thứ năm là Xuất
(Luận) Xuất đệ
ngũ môn giả, dĩ đại từ bi, quán sát nhất
thiết khổ năo chúng sanh, thị Ứng Hóa Thân, hồi
nhập sanh tử viên, phiền năo lâm trung, du hư thần thông,
chí Giáo Hóa Địa,
dĩ bổn nguyện lực hồi hướng cố.
Thị danh Xuất đệ ngũ môn.
(Chú) “Thị Ứng Hóa Thân” giả,
như Pháp Hoa kinh Phổ Môn thị hiện chi loại dă. “Du
hư” hữu nhị nghĩa: Nhất giả, tự tại
nghĩa. Bồ Tát độ chúng sanh thí như sư tử
bác lộc, sở vi bất nan, như tự du hư. Nhị giả,
độ vô sở độ nghĩa. Bồ Tát quán chúng
sanh, tất cánh vô sở hữu. Tuy độ vô lượng
chúng sanh, nhi thật vô nhất chúng sanh đắc diệt độ
giả. Thị độ chúng sanh, như tự du hư. Ngôn “bổn
nguyện lực” giả, thị đại Bồ Tát ư
Pháp Thân trung, thường tại tam-muội, nhi hiện chủng
chủng thân, chủng chủng thần thông, chủng chủng
thuyết pháp, giai dĩ bổn nguyện lực khởi. Thí
như A Tu La cầm, tuy vô cổ giả, nhi âm khúc tự
nhiên. Thị danh Giáo Hóa Địa đệ ngũ công
đức tướng.
(論)出第五門者。以大慈悲。觀察一切苦惱眾生。示應化身。迴入生死園。煩惱林中。遊戲神通。至教化地。以本願力迴向故。是名出第五門。
(註)示應化身者。如法華經普門。示現之類也。遊戲有二義。一者自在義。菩薩度眾生。譬如獅子搏鹿。所為不難。如似遊戲。二者度無所度義。菩薩觀眾生。畢竟無所有。雖度無量眾生。而實無一眾生得滅度者。示度眾生如似遊戲。言本願力者。示大菩薩於法身中。常在三昧。而現種種身。種種神通。種種說法。皆以本願力起。譬如阿修羅琴。雖無鼓者。而音曲自然。是名教化地。第五功德相。
(Luận:
Môn thứ năm là Xuất: Dùng ḷng đại từ bi để quan sát hết
thảy chúng sanh khổ năo, thị hiện Ứng Hóa Thân,
trở vào vườn sanh tử, rừng phiền năo, du hư
thần thông, đạt đến địa vị Giáo Hóa,
dùng sức bổn nguyện để hồi hướng.
Đấy gọi là môn thứ năm thuộc về Xuất.
Chú: “Thị
hiện thân Ứng Hóa” là các thứ thị hiện như
trong phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa đă nói. “Du hư” có
hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất là tự tại. Bồ
Tát độ chúng sanh ví như sư tử bắt nai, chẳng
khó khăn ǵ, dường như vui chơi. Nghĩa thứ
hai là “độ mà không có ǵ được độ”. Bồ
Tát quán chúng sanh rốt ráo vô sở hữu. Tuy độ vô
lượng chúng sanh, nhưng thật sự chẳng có một
chúng sanh được diệt độ. Chuyện độ
chúng sanh ấy giống như vui chơi. Nói “sức bổn
nguyện” là chỉ ra đại Bồ Tát từ Pháp Thân
thường trụ trong tam-muội, mà hiện đủ mọi
thân, các thứ thần thông, các thứ thuyết pháp, đều
là do sức bổn nguyện dấy lên. Ví như cây đàn
của A Tu La, tuy chẳng có ai khảy mà khúc nhạc tự
nhiên. Đó gọi là tướng công đức thứ năm
nơi địa vị Giáo Hóa).
Môn thứ
năm thuộc Xuất chính là Bồ Tát tu Ngũ Niệm
Môn thành tựu, bốn môn đầu là tự lợi, do hướng
thượng tấn tu, nên [bốn
môn ấy] là Nhập, [tức là] nhập
An Lạc Tịnh Độ, viên măn công đức tự lợi.
Lại từ Tịnh Độ mà xuất, thị hiện thân Ứng
Hóa, trở vào Sa Bà độ chúng sanh, viên măn công đức
lợi tha. Đấy là môn thứ năm trong pháp môn Ngũ
Niệm; v́ thế, gọi
là môn thứ năm thuộc Xuất.
Ngài Đàm Loan đă giải thích
tám câu trong phần Luận này bằng ba đoạn:
1) Giải thích thị hiện
Ứng Hóa Thân là ǵ? Chính là như trong phẩm Quán Thế Âm Bồ
Tát Phổ Môn của kinh Pháp Hoa, đấy là thí dụ tốt
nhất về sự thị hiện thân ứng hóa của Bồ
Tát. Quán Thế Âm Bồ Tát có tiếng thơm là “đại
bi”, v́ tâm từ bi của Ngài lớn nhất. Ngài thường
xuyên do ḷng đại từ bi mà quan sát hết thảy chúng
sanh khổ năo, tầm thanh cứu khổ. Do vậy, trong Phật
môn, có bài kệ tụng ca ngợi Quán Âm Bồ Tát như
sau: “Tam thập nhị ứng biến trần sát, bách thiên
ức kiếp hóa Diêm Phù, thiên xứ kỳ cầu thiên xứ
ứng, khổ hải thường tác độ nhân châu”
(Ba mươi hai thân ứng trọn khắp các cơi nước
nhiều như vi trần, trong trăm ngàn ức kiếp hóa
độ Diêm Phù, ngàn chốn cầu đảo, Ngài đều
ứng hiện ngàn nơi, trong biển khổ thường
làm chiếc thuyền độ người). Dùng sự tích
của Quán Âm Bồ Tát để thuyết minh phần Luận
nói về “thị hiện ứng thân, trở vào vườn
sanh tử, ở trong rừng phiền năo, du hư thần thông,
đạt đến địa vị Giáo Hóa” trong môn thứ
năm thuộc Xuất th́ là tuyệt
hảo, không ǵ hay hơn nữa.
2) Giải thích “du hư thần
thông” có hai thứ ư nghĩa:
a) Nghĩa thứ nhất là
tự tại. Dùng chuyện sư tử bắt nai là chuyện dễ
dàng để sánh ví Bồ Tát độ chúng sanh tùy tâm thực
hiện, tùy ư tự tại. Việc làm chẳng khó, giống
như trẻ nhỏ trong ấu trĩ viên (kindergarten) chơi
đùa vậy.
b) Nghĩa thứ hai là hóa độ
mà không có người được hóa độ. Chính là Bồ
Tát có trí huệ tam luân thể không, [tức là] chẳng
chấp trước ta là người độ, chúng sanh là
người được độ, [và có pháp để hóa
độ]. V́ thế, suốt ngày độ chúng sanh, mà chẳng
có “ngă tướng,
nhân tướng, chúng sanh tướng”. Như
kinh Kim Cang đă nói: “Bồ Tát diệt
độ vô lượng chúng sanh mà thật sự chẳng
có một chúng sanh nào được diệt độ!” Hết
thảy sự nghiệp độ sanh đều là trụ
trong Lư Thể vô vi để làm Phật sự hữu vi, thường
nói là “yến tọa thủy nguyệt đạo tràng, quảng
tác mộng trung Phật sự” (ngồi thảnh thơi
trong đạo tràng như bóng trăng trong nước, rộng
làm các Phật sự trong mộng). Hết thảy như
huyễn, như mộng, giống như đang
du hư. Như kinh Vô Lượng Thọ có nói: “Thí như huyễn
sư hiện chúng dị tượng, vi nam, vi nữ, vô sở
bất biến. Bổn học minh liễu, tại ư sở
vi” (Ví như nhà ảo thuật hiện ra các h́nh tượng
khác lạ, hoặc nam, hoặc nữ, không ǵ chẳng biến
ra. Do đă hiểu rơ học thuật
của chính ḿnh, cho nên tùy ư thực hiện).
3) Giải thích thế nào là dùng
sức bổn nguyện để hồi hướng, “thị
đại Bồ Tát ư Pháp Thân trung, thường tại tam-muội,
nhi hiện chủng chủng thân, thuyết chủng chủng
pháp đẳng, giai dĩ bổn nguyện lực khởi”
(chỉ ra hàng đại Bồ Tát thường ở trong tam-muội, từ nơi Pháp Thân mà hiện đủ mọi thân, nói đủ
mọi pháp v.v… đều là do sức bổn nguyện mà dấy
lên). Đấy là nói Bồ Tát hễ văng sanh An Lạc Tịnh
Độ, đều đă phát Đại Thừa Bồ Đề tâm, ắt
đạt đến địa vị đại Bồ
Tát bất thoái chuyển từ Sơ Địa trở lên,
đều v́ độ chúng sanh mà sanh vào Tịnh Độ.
Do đó sau bốn môn thuộc về Nhập, ắt phải
có môn thứ năm là Xuất để hồi hướng.
Nhưng để có thể trở vào vườn sanh tử,
rừng phiền năo, ḥng độ chúng sanh ương ngạnh, khó giáo hóa,
chắc chắn phải là bậc Địa Thượng Bồ
Tát đă phá vô minh, chứng Pháp Thân th́ mới có thể làm được.
Do đó nói “thị đại Bồ Tát ư Pháp Thân trung”
(chỉ ra các vị
đại Bồ Tát ấy từ trong Pháp
Thân).
Hàng Pháp Thân đại sĩ như
Quán Âm, Thế Chí v.v… đă thành tựu bốn thứ công
đức chánh tu hành như đă nói trên đây, đương
nhiên là có thể thường ở trong
tam-muội mà tùy loại hiện thân thuyết pháp. Như
phẩm Phổ Môn đă nói: Đối với người
đáng nên dùng thân Phật để độ được,
liền hiện thân Phật để thuyết pháp cho người
ấy. Hoặc là thị hiện các thân phàm phu, Nhị Thừa,
Bồ Tát v.v… nói đủ mọi thứ pháp có thể khế
hợp căn cơ của chúng sanh. Đấy đều là
du hư thần thông của đại Bồ Tát. Ngài Đàm Loan
lại nêu ra cây đàn của A Tu La để thí dụ hết
thảy hành vi độ sanh của Bồ Tát đều do tâm
đại bi mà phát đại Bồ Đề tâm, do Bồ
Đề tâm mà phát ra bổn nguyện “thượng cầu,
hạ hóa”, nương theo sức bổn nguyện ấy, chẳng
cần tác ư, tùy ư tự nhiên mà hiện thân ứng hóa, du hư
thần thông, đạt đến địa vị Giáo Hóa,
thuyết pháp, hoặc hiện thần thông, phổ độ
chúng sanh.
2.2.2.2.10.3.
Tổng kết thành tựu của hai thứ lợi
2.2.2.2.10.3.1.
Tự lợi
(Luận) Bồ Tát nhập tứ
chủng môn, tự lợi hạnh thành tựu, ưng tri.
(Chú) “Thành tựu” giả, vị
tự lợi măn túc dă. “Ưng tri” giả, vị ưng tri
do tự lợi cố, tắc năng lợi tha, phi thị
bất năng tự lợi nhi năng lợi tha dă.
(論)菩薩入四種門。自利行成就。應知。
(註)成就者。謂自利滿足也。應知者。謂應知由自利故。則能利他。非是不能自利。而能利他也。
(Luận:
Bốn loại môn Nhập của Bồ Tát thành tựu hạnh
tự lợi, hăy nên biết. Chú:
“Thành tựu” ư nói: Tự lợi được trọn vẹn.
“Hăy nên biết” chính là nói:
Hăy nên biết do tự lợi bèn có thể lợi tha, chẳng
phải là không thể
tự lợi mà lại có thể lợi tha được).
Đây
là phần tổng kết [cho tiểu đoạn] “Bồ
Tát tu năm môn có thể thành tựu viên măn công đức tự
lợi và lợi tha”. Trước hết nói về tự
lợi. Luận Chủ nói: Có thể nương theo luận
này tu pháp môn Ngũ Niệm, từ lễ bái cho đến quan
sát, sẽ dần dần nhập bốn loại môn ấy;
vậy th́ hạnh tự lợi của
hết thảy Bồ Tát đều có thể thành tựu. “Thành
tựu” là trọn vẹn chẳng sót. V́ sao vậy? Do v́
Bồ Tát tu Ngũ Niệm Môn chính là nương cậy sức
bổn nguyện của A Di Đà Phật mà tu, như đứa
trẻ nít dựa dẫm cha mẹ
dẫn dắt đi
lại, chắc chắn chẳng
đến nỗi gặp phải nguy hiểm như bị lạc đường hoặc vấp té, ắt
có thể đến đích an toàn, tức là quốc độ
thanh tịnh được chư Phật cùng khen ngợi.
Ở đó, có các vị thượng thiện nhân cùng nhóm họp
một chỗ, bất cứ lúc nào cũng
đều có thể thấy Phật, nghe pháp, hằng
ngày cúng dường
trọn khắp mười phương chư Phật.
Tu phước và tu huệ như thế, không ngừng tăng
thượng, chẳng bị thoái chuyển. Lại do thọ
mạng giống như Phật, đều là vô lượng
thọ, cho nên có thể ngay trong một đời mà tu viên
măn công đức tự lợi của Bồ Tát. Đă có
thể tự lợi, ắt sẽ có thể lợi tha, chắc
chắn chẳng phải là “không thể tự lợi mà
có thể lợi tha”. Chúng ta hăy nên nhận biết rơ ràng
điểm này. Do vậy,
Ngũ Niệm Môn được gọi là đạo dễ
hành của Bồ Tát, là phương tiện thù thắng để
hóa độ chúng sanh của chư Phật, Bồ Tát, là con
đường tắt nhất để hoàn thành công đức
tự lợi và lợi tha.
2.2.2.2.10.3.2.
Lợi tha
(Luận) Bồ Tát xuất đệ
ngũ môn, hồi hướng lợi ích tha hạnh thành tựu,
ưng tri.
(Chú) “Thành tựu” giả, vị
dĩ hồi hướng nhân, chứng Giáo Hóa Địa
quả. Nhược nhân, nhược quả, vô hữu nhất
sự bất năng lợi tha. Ưng tri giả, vị ưng
tri do lợi tha cố, tắc năng tự lợi, phi thị
bất năng lợi tha nhi năng tự lợi dă.
(論)菩薩出第五門。迴向利益他行成就。應知。
(註)成就者謂以迴向因。證教化地果。若因若果。無有一事不能利他。應知者。謂應知由利他故。則能自利。非是不能利他。而能自利也。
(Luận: Môn thứ
năm thuộc Xuất của Bồ Tát thành tựu hạnh
hồi hướng lợi ích cho người khác, hăy nên biết.
Chú: “Thành tựu” là dùng hồi
hướng làm nhân để chứng cái quả nơi địa
vị Giáo Hóa. Dù nhân hay quả, không có một chuyện nào
chẳng thể lợi tha. “Hăy nên biết” ư nói: Hăy nên biết
do lợi tha mà có thể tự lợi, chẳng phải là “không
thể lợi tha mà có thể tự lợi” được).
Luận Chủ lại tổng
kết về lợi tha. Bồ Tát tu Hồi Hướng Môn
trong Ngũ Niệm Môn, dùng nhân hạnh hồi hướng chứng
đắc Giáo Hóa Địa, tức là quả vị Thập
Địa trong Biệt Giáo, hoặc là từ Thập Trụ
trở lên trong Viên Giáo. Dùng nhân quả ấy để hồi
hướng lợi tha, những việc đă làm đều
có thể lợi ích chúng sanh, bèn được thành tựu
viên măn hạnh lợi tha. “Hăy nên biết” tức là hăy
nên biết: Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, đều dùng lợi
tha làm điểm xuất phát, có thể thành tựu công
đức, đều là có thể từ ngay lợi tha mà thành
tựu tự lợi. Chắc chắn chẳng phải là “không
có đại Bồ Đề tâm lợi tha mà có thể thành
tựu tự lợi của Bồ Tát để thành Phật
được”. Do vậy, tiêu chuẩn của Bồ
Tát đạo là “độ sanh (lợi tha) thành Phật (tự
lợi), thành Phật ḥng độ sanh”. Tự lợi và
lợi tha là hai mặt của cùng một chuyện, hễ thành th́ sẽ
thành tựu lẫn nhau, hễ mất th́ mất lẫn nhau.
Phàm là Bồ Tát, ắt cần phải biết điều
này!
2.2.2.2.10.3.3.
Trọn vẹn hai điều lợi
(Luận) Bồ Tát như thị
tu Ngũ Niệm Môn hạnh, tự lợi, lợi tha, tốc
đắc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề cố.
(Chú) Phật sở đắc
pháp, danh vi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Dĩ đắc
thử Bồ Đề, cố danh vi Phật. Kim ngôn “tốc
đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”,
thị đắc tảo tác Phật dă. A danh Vô, Nậu Đa
La danh Thượng, Tam Miệu danh Chánh, Tam danh Biến, Bồ
Đề danh Đạo. Thống nhi dịch chi, danh vi Vô
Thượng Chánh Biến Đạo. Vô thượng giả,
ngôn thử đạo cùng lư tận tánh, cánh vô quá giả. Hà
dĩ ngôn chi? Dĩ chánh cố. Chánh giả, thánh trí dă. Như
pháp tướng nhi tri, cố xưng vi Chánh Trí. Pháp tánh vô tướng,
cố thánh trí vô tri dă. “Biến” hữu nhị chủng: Nhất
giả, thánh tâm biến tri nhất thiết pháp; nhị giả,
Pháp Thân biến măn pháp giới. Nhược thân, nhược
tâm, vô bất biến dă. Đạo giả, vô ngại đạo
dă. Kinh ngôn: “Thập phương vô ngại nhân, nhất đạo
xuất sanh tử”. Nhất đạo giả, nhất vô
ngại đạo dă. Vô ngại giả, vị tri sanh tử
tức thị Niết Bàn. Như thị đẳng nhập
Bất Nhị pháp môn vô ngại tướng dă.
(論)菩薩如是修五念門行。自利利他。速得成就阿耨多羅三藐三菩提故。
(註)佛所得法。名為阿耨多羅三藐三菩提。以得此菩提。故名為佛。今言速得阿耨多羅三藐三菩提。是得早作佛也。阿名無。耨多羅名上。三藐名正。三名遍。菩提名道。統而譯之。名為無上正遍道。無上者。言此道窮理盡性。更無過者。何以言之。以正故。正者聖智也。如法相而知。故稱為正智。法性無相。故聖智無知也。遍有二種。一者聖心遍知一切法。二者法身遍滿法界。若身若心。無不遍也。道者無礙道也。經言。十方無礙人。一道出生死。一道者一無礙道也。無礙者謂知生死即是涅槃。如是等入不二法門。無礙相也。
(Luận: Bồ Tát tu
hạnh Ngũ Niệm Môn như thế, do tự lợi, lợi
tha, nên mau chóng được thành tựu A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Chú: Phật đạt được
pháp gọi là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Do đắc môn Bồ Đề này, nên gọi
là Phật. Nay nói “mau chóng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề” tức là sớm được thành Phật.
A là Vô, Nậu Đa La là Thượng, Tam Miệu là Chánh,
Tam là Biến, Bồ Đề là Đạo. Dịch chung lại
sẽ là Vô Thượng Chánh Biến Đạo. “Vô thượng”
là nói đạo này cùng lư tận tánh, không chi hơn được.
V́ sao nói như vậy? Do [đạo ấy] là chánh. “Chánh” là
thánh trí. Do đúng như pháp tướng mà biết, nên gọi
là Chánh Trí. Pháp tánh vô tướng, cho nên thánh trí vô tri. “Biến”
(trọn khắp) có hai loại: Một là thánh tâm biết trọn
khắp hết thảy các pháp; hai là Pháp Thân đầy khắp
pháp giới. Dù thân hay tâm, không ǵ chẳng trọn khắp. “Đạo”
là đạo vô ngại. Kinh dạy: “Bậc mười phương
vô ngại, một đạo thoát sanh tử”. “Một đạo” là đạo vô ngại. “Vô ngại” là biết
sanh tử chính là Niết Bàn. Nhập tướng
vô ngại của pháp môn Bất Nhị như thế đó).
Luận Chủ
quy kết lợi ích do tu hành Ngũ Niệm Môn thành “mau
chóng thành vị Phật rốt ráo phước huệ viên
măn Vô Thượng Chánh
Đẳng Giác”.
Trước hết, ngài
Đàm Loan dịch A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề thành Vô Thượng
Chánh Biến Đạo. Bồ Đề bao gồm hai loại
nghĩa lư Giác và Đạo. Ngài lại giải thích: Vô
Thượng là cùng tánh tận lư, không chi hơn được
nữa! Thông thường, chúng ta dùng bài kệ tán Phật
có câu: “Nhất thiết vô hữu như Phật giả”
(Hết thảy không có ǵ như Phật). Chắc chắn
là người đời chẳng có trí huệ cùng lư tận
tánh giống như Phật, huống hồ c̣n có kẻ nào
vượt trỗi ư? V́ sao nói như vậy? Cùng lư tận
tánh th́ gọi là Trí. Phật có chánh tri, chánh kiến, có thể
biết tánh và tướng của các pháp cùng tận, đúng thật; đối với cái
có bèn biết là có, đối với cái không bèn biết là
không. Sự thấy biết ấy đích xác đúng như
tánh và tướng chân thật của các pháp, chẳng bị
điên đảo th́ mới gọi là “trí”. Chúng sanh
b́nh phàm luôn chấp hư vọng là thật, hoặc chấp
thường, chấp đoạn, chấp có, chấp không,
tức là “điên đảo vọng kiến” (kiến
giải hư vọng điên đảo), chẳng thể
gọi là Trí.
“Pháp tánh vô tướng, cố
thánh trí vô tri” (Do pháp tánh vô
tướng, nên thánh trí vô tri). Đối với hai câu này,
trong khoa Quảng Lược Tương Nhập (rộng
và lược dung nhập lẫn nhau) trong phần trước,
ngài Đàm Loan đă nói “Thật Tướng vô tướng,
cố chân trí vô tri” (do Thật Tướng không có tướng,
nên chân trí vô tri), đại ư [của câu ấy và câu “pháp
tánh vô tướng, cố thánh trí vô tri”] tương
đồng. “Vô tri” chẳng phải là như gỗ
đá, vô tri, vô giác, mà là chẳng có
phân biệt, chấp trước! Điều này có hàm ư tương đồng
với câu nói của tổ sư Thiên Thai: “Thật
Tướng vô tướng, vô bất tướng” (Thật
Tướng chẳng có tướng, chẳng phải là
không có tướng); tức là Trung Đạo Trí viên dung Nhị
Đế, c̣n gọi là Thánh Trí, tức là trí huệ mà Địa
Thượng Bồ Tát và chư Phật mới có. Thánh Trí c̣n
gọi là Chánh Biến Tri, tức là Bổn Giác Trí của nhất
tâm nhị môn, biết trọn khắp “như thị tướng” (tướng là như thế)
cho đến “bổn mạt cứu cánh” (gốc ngọn
rốt ráo) v.v… của hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Đấy
là trí huệ thuộc về Tâm Sanh Diệt Môn, có tên là
Như Lượng Trí. Lại có thể chứng đắc
Pháp Thân thanh tịnh vô vi trọn khắp mười
phương ba đời; đấy là trí huệ thuộc
về Tâm Chân Như Môn, gọi là Như Lư Trí. Nhất tâm nhị
môn thành tựu hai trí của chư Phật. V́ thế, gọi là Chánh Biến
Tri.
“Đạo” nếu dùng
“thập phương vô ngại nhân, nhất đạo
xuất sanh tử” (bậc mười phương vô ngại,
một đạo thoát sanh tử) để nói, sẽ là vô ngại
đạo mà cả ba thừa cùng có. Nếu dùng “sanh tử
tức là Niết Bàn, phiền năo tức là Bồ Đề,
chúng sanh tức là Phật, ma giới tức là Phật giới,
hết thảy pháp đều là Phật pháp, cùng nhập
tướng vô ngại của pháp môn Bất Nhị”
để nói th́ đấy mới là vô ngại đạo
chỉ riêng Đại Thừa Viên Giáo mới có, được
gọi là Vô Thượng Đạo của Phật.
Nay tôi dùng đạo lư “tu Ngũ
Niệm Môn thành tựu công đức tự lợi, lợi
tha, mau chóng được thành Phật”, nêu ra thí dụ
để nói rơ, ḥng khiến cho mọi người dễ
liễu giải. Ví như người thế gian ai có thể
có tài cao trí lớn (công đức tự lợi), lại có
thể xác thực v́ quốc dân mưu cầu phước
lợi lớn nhất (công đức lợi tha), bèn có thể
làm quốc vương (quốc vương tức là Phật).
Quốc dân b́nh phàm mà mong làm quốc vương sẽ chẳng
dễ dàng (điều này được gọi Nan Hành Đạo của Bồ Tát). Nhưng nếu sanh ra
làm Thái Tử của
quốc vương th́ sẽ rất dễ dàng (điều
này được gọi là Dị Hành Đạo của Bồ Tát). Tuy nói “ai nấy đều
có thể làm quốc vương” (thành Phật), nhưng có
khó, có dễ! Nhân dân b́nh phàm th́ rất khó, làm Thái Tử th́ rất
dễ làm [quốc vương trong tương lai].
Khi Thái Tử đầu thai,
đó là môn thứ nhất để nhập, tức Cận
Môn. Do vậy, Luận viết: “Nhập đệ nhất
môn giả, dĩ lễ bái A Di Đà Phật, vị sanh bỉ
quốc ư cố, đắc sanh An Lạc thế giới”
(Môn thứ nhất của Nhập là dùng lễ bái A Di
Đà Phật, v́ ư muốn sanh về cơi ấy,
được sanh vào thế giới An Lạc). Đấy
là thành tựu môn thứ nhất, tức Lễ
Bái Môn trong Ngũ Niệm Môn, được tiến nhập
An Lạc Tịnh Độ, thân cận A Di Đà Phật.
Trụ thai trọn đủ
mười tháng, sanh ra trong hoàng cung, trở thành quyến thuộc
của quốc vương, gọi quốc vương là
cha, được quốc vương nuôi dưỡng khôn
lớn. Đấy là môn thứ hai của Nhập, tức
Đại Hội Chúng Môn. Do vậy, Luận viết: “Nhập
đệ nhị môn giả, dĩ tán thán A Di Đà Phật,
tùy thuận danh nghĩa xưng Như Lai danh, y Như Lai
quang minh trí tướng tu hành cố, đắc nhập đại
hội chúng số. Thị danh Nhập đệ
nhị môn” (Môn Nhập thứ hai là dùng tán thán
A Di Đà Phật, tùy thuận danh nghĩa mà xưng niệm
danh hiệu của Như Lai, v́
nương theo quang minh trí tướng của Như Lai
để tu hành mà được dự vào đại chúng trong hội thuyết pháp của đức Phật.
Đó gọi là môn thứ hai của Nhập). Đấy
chính là thành tựu môn thứ hai, tức Tán Thán
Môn trong Ngũ Niệm Môn, được nghe đức Phật
thuyết pháp, trưởng dưỡng Pháp Thân huệ mạng.
Thái Tử từ tuổi
thơ ấu bước vào tuổi tráng niên, tài trí trọn
đủ, bèn được quốc vương quán đảnh.
Tuy vẫn chưa làm quốc
vương, nhưng có thể ở trong cung điện lộng
lẫy giống hệt như quốc vương, tùy ư dạo
chơi. Đấy là môn Nhập thứ ba, tức
Trạch Môn. Do vậy, Luận viết: “Nhập đệ tam môn giả, dĩ nhất tâm
chuyên niệm, tác nguyện sanh bỉ, tu Xa-ma-tha tịch
tĩnh tam-muội hạnh cố, đắc nhập Liên
Hoa Tạng thế giới. Thị danh Nhập đệ tam môn” (Môn Nhập thứ ba là dùng nhất tâm chuyên niệm,
phát nguyện sanh về cơi ấy, do tu hạnh Xa-ma-tha tịch
tĩnh tam-muội mà được vào trong thế giới
Liên Hoa Tạng. Đó gọi là môn Nhập thứ ba). Đấy
chính là thành tựu môn thứ ba, tức Tác Nguyện Môn trong
Ngũ Niệm Môn.
Trong thế giới Cực Lạc
thanh tịnh trang nghiêm (tức thế giới Hoa Tạng),
cùng với các vị thượng thiện nhân cùng ngộ Vô
Sanh, cùng tu phước huệ, tự lợi, lợi tha.
Sau đấy, chánh thức lên ngôi báu của hoàng đế,
hưởng thụ trọn hết những sự vui
sướng đáng có của quốc vương, cũng
có thể yêu dân như con, che chở, tạo phước
cho muôn dân, gió ḥa mưa thuận, quốc thái dân an. Đấy
chính là môn Nhập thứ tư, tức Ốc
Môn. Do vậy, Luận viết: “Dĩ chuyên niệm
quán sát bỉ diệu trang nghiêm, tu Tỳ-bà-xá-na cố,
đắc đáo bỉ xứ, thọ dụng chủng chủng
pháp vị lạc. Thị danh Nhập đệ tứ môn”
(Do chuyên niệm, quan sát sự trang nghiêm mầu nhiệm ấy,
tu Tỳ-bà-xá-na, được đến nơi ấy, thọ
dụng đủ mọi niềm vui pháp vị. Đó gọi
là môn Nhập thứ tư). Đấy chính là thành tựu
môn thứ tư, tức Quán Sát Môn trong Ngũ Niệm Môn.
Ba thứ thân Phật, bốn
thứ Tịnh Độ đều có. Hoa Tạng và Cực
Lạc, mười phương thế giới, tức là
một Phật quốc độ. Chính ḿnh và chư Phật, y báo
và chánh báo trong mười pháp giới đều cùng là
tướng tịnh tâm. Chúng sanh và Phật chẳng hai, thân
và cơi nước chẳng hai, tâm và trí chẳng hai, hết thảy chẳng hai, chứng nhập
cảnh giới Đại Niết Bàn thường, lạc, ngă, tịnh, thọ dụng
đủ mọi pháp lạc. Đấy là bốn môn thuộc
về Nhập được rốt ráo viên măn. Tất nhiên
là chẳng trái bổn nguyện, thả chiếc bè Từ,
do ḷng đại từ bi mà trở vào Sa Bà và mười
phương thế giới rộng độ chúng sanh.
Đấy chính là thành tựu môn công đức thứ
năm thuộc về Xuất. V́ thế, Luận viết: “Xuất đệ ngũ môn giả,
dĩ đại từ bi, quán sát nhất thiết khổ
năo chúng sanh, thị ứng hóa thân, hồi nhập sanh tử
viên, phiền năo lâm
trung, du hư thần thông, chí giáo hóa địa, dĩ bổn
nguyện lực hồi hướng cố. Thị danh đệ
ngũ môn” (Môn thứ năm thuộc về Xuất là do ḷng
đại từ bi, quan sát hết thảy chúng sanh khổ
năo, thị hiện thân ứng hóa, trở vào vườn
sanh tử, rừng phiền năo, du hư thần thông, đạt
đến địa vị Giáo Hóa, dùng sức bổn nguyện
để hồi hướng. Đó gọi là môn thứ năm).
Đấy chính là thành tựu môn thứ năm tức Hồi
Hướng Môn trong Ngũ Niệm Môn.
Như hoàng đế Càn Long nhà Thanh
xuống chơi Giang Nam, hóa trang thành đủ mọi thân
phận khác nhau, biểu hiện rất nhiều chuyện du
hư trong nhân gian. Phật, Bồ Tát thị hiện du hư thần
thông để hóa độ chúng sanh đồng thành Phật
đạo cũng giống như thế. Tổng hợp
năm môn ấy, sẽ tương đương với
tám tướng thành đạo của các vị đại
Bồ Tát như kinh Vô Lượng Thọ đă nói. Nhập
môn chính là tướng nhập thai và xuất thai. Đại
hội chúng môn chính là tướng [Bồ Tát thị hiện]
làm đứa trẻ, [trưởng thành] cưới vợ.
Trạch môn chính là tướng xuất gia. Ốc môn là
tướng thành đạo. Xuất môn là tướng chuyển
pháp luân, nhập Niết Bàn. Phàm là Bồ Tát văng sanh thế
giới Cực Lạc, ai nấy đều có thể [thị
hiện] tám tướng thành đạo. Do vậy, Luận viết:
“Tốc đắc thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác” (Mau được thành
tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).
Văng Sanh Luận Chú đến
đây là hết, có thể nói là đă kết thúc toàn bộ.
Ngài Đàm Loan có một đoạn vấn đáp để
giải quyết nghi hoặc, nhằm tăng thêm tín tâm của
mọi người đối với pháp môn Tịnh Độ,
ḥng nương theo sức bổn nguyện của Phật
Di Đà mà mau chóng thành Phật đó thôi, chẳng cần phải
nói nhiều! Mọi người đă nghe tôi giảng giải,
cũng như do các thí dụ đă nói trên đây, đối
với đạo dễ hành là tu Ngũ Niệm Môn th́ có bổn
nguyện của A Di Đà Phật trong khi Ngài c̣n đang tu
nhân và thần lực nơi quả địa của Ngài
để có thể nương cậy, chẳng cần tu
phước huệ suốt ba đại A-tăng-kỳ,
chỉ cần hễ sanh về
cơi ấy, liền thành tựu viên măn, mau chóng được
thành Phật, hăy chớ nên hoài nghi nữa! Hy vọng mọi
người hăy quư tiếc thân người quư báu, hết một
báo thân này, siêng tu Ngũ Niệm Môn, tự lực thành tựu
Tịnh nghiệp, lại có thể nhờ Phật lực làm
tăng thượng duyên, được sanh về Cực
Lạc, cùng thành Phật đạo, cùng hóa độ chúng
sanh. Đấy là điều tôi thơm thảo mong cầu
vậy!
2.2.2.2.10.4.
Vấn đáp giải quyết nghi hoặc
(Chú) Vấn viết: Hữu
hà nhân duyên, ngôn “tốc đắc thành tựu A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề”? Đáp viết: Luận
ngôn tu ngũ môn hạnh, dĩ tự lợi lợi tha thành
tựu cố. Nhiên hạch cầu kỳ bổn, A Di Đà
Như Lai vi tăng thượng duyên, tha lợi chi dữ lợi
tha, đàm hữu tả hữu. Nhược tự Phật
nhi ngôn, nghi ngôn lợi tha. Tự chúng sanh nhi ngôn, nghi ngôn tha
lợi. Kim tương đàm Phật lực, thị cố
dĩ lợi tha ngôn chi, đương tri thử ư dă. Phàm
thị sanh bỉ Tịnh Độ, cập bỉ Bồ
Tát nhân thiên sở khởi chư hạnh, giai duyên A Di Đà
Như Lai bổn nguyện lực cố. Hà dĩ ngôn chi? Nhược
phi Phật lực, tứ thập bát nguyện tiện thị
đồ thiết. Kim đích thủ tam nguyện, dụng
chứng nghĩa ư. Nguyện ngôn: “Thiết ngă đắc Phật,
thập phương chúng sanh, chí tâm tín nhạo, dục sanh
ngă quốc, năi chí thập niệm, nhược bất đắc
sanh giả, bất thủ Chánh Giác. Duy trừ Ngũ Nghịch,
phỉ báng chánh pháp”. Duyên Phật nguyện lực cố,
thập niệm niệm Phật, tiện đắc văng
sanh. Đắc văng sanh cố, tức miễn tam giới luân
chuyển chi sự. Vô luân chuyển cố, sở dĩ đắc
tốc, nhất chứng dă. Nguyện ngôn: “Thiết ngă đắc
Phật, quốc trung nhân thiên, bất trụ Chánh Định
Tụ, tất chí diệt độ giả, bất thủ
Chánh Giác”. Duyên Phật nguyện lực cố, trụ Chánh Định
Tụ. Chánh Định Tụ cố, tất chí diệt độ,
vô chư hồi phục chi nạn, sở dĩ đắc
tốc, nhị chứng dă. Nguyện ngôn: “Thiết ngă đắc
Phật, tha phương Phật độ chư Bồ Tát
chúng lai sanh ngă quốc, cứu cánh tất chí Nhất Sanh Bổ
Xứ, trừ kỳ bổn nguyện tự tại sở
hóa, vị chúng sanh cố, bị hoằng thệ khải, tích
lũy đức bổn, độ thoát nhất thiết,
du chư Phật quốc, tu Bồ Tát hạnh, cúng dường
thập phương chư Phật Như Lai, khai hóa hằng
sa vô lượng chúng sanh, sử lập vô thượng chánh
chân chi đạo, siêu xuất thường luân chư địa
chi hạnh. Hiện tiền tu tập Phổ Hiền chi đức.
Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác”.
Duyên Phật nguyện lực cố, siêu xuất thường
luân chư địa chi hạnh, hiện tiền tu tập
Phổ Hiền chi đức, dĩ siêu xuất thường
luân chư địa hạnh cố, sở dĩ đắc
tốc, tam chứng dă. Dĩ tư nhi thôi, tha lực
vi tăng thượng duyên, đắc bất nhiên hồ! Đương
phục dẫn lệ, thị tự lực tha lực tướng,
như nhân úy tam đồ, cố thọ tŕ cấm giới.
Thọ tŕ cấm giới cố, năng tu Thiền Định.
Dĩ Thiền Định cố, tu tập thần thông. Dĩ
thần thông cố, năng du tứ thiên hạ. Như thị
đẳng danh vi tự lực. Hựu như liệt phu, khóa
lư bất thượng, tùng Chuyển Luân Vương hành,
tiện thừa hư không, du tứ thiên hạ, vô sở chướng
ngại. Như thị đẳng danh vi tha lực. Ngu tai! Hậu
chi học giả, văn tha lực khả thừa, đương
sanh tín tâm, vật tự cục phận dă!
(註)問曰。有何因緣言速得成就阿耨多羅三藐三菩提。答曰。論言。修五門行。以自利利他成就故。然覈求其本。阿彌陀如來為增上緣。他利之與利他。談有左右。若自佛而言。宜言利他。自眾生而言。宜言他利。今將談佛力。是故以利他言之。當知此意也。凡是生彼淨土。及彼菩薩人天所起諸行。皆緣阿彌陀如來本願力故。何以言之。若非佛力。四十八願便是徒設。今的取三願用證義意。願言。設我得佛。十方眾生至心信樂。欲生我國。乃至十念。若不得生者。不取正覺。唯除五逆。誹謗正法。緣佛願力故。十念念佛。便得往生。得往生故。即免三界輪轉之事。無輪轉故。所以得速。一證也。願言。設我得佛。國中人天。不住正定聚。必至滅度者。不取正覺。緣佛願力故。住正定聚。住正定聚故。必至滅度。無諸迴伏之難。所以得速。二證也。願言。設我得佛。他方佛土。諸菩薩眾。來生我國。究竟必至一生補處。除其本願。自在所化。為眾生故。被弘誓鎧。積累德本。度脫一切。遊諸佛國。修菩薩行。供養十方諸佛如來。開化恒沙無量眾生。使立無上正真之道。超出常倫諸地之行。現前修習普賢之德。若不爾者。不取正覺。緣佛願力故。超出常倫諸地之行。現前修習普賢之德。以超出常倫諸地行故。所以得速。三證也。以斯而推。他力為增上緣。得不然乎。當復引例。示自力他力相。如人畏三塗。故受持禁戒。受持禁戒故。能修禪定。以禪定故。修習神通。以神通故。能遊四天下。如是等名為自力。又如劣夫跨驢不上。從轉輪王行。便乘虛空。遊四天下無所障礙。如是等名為他力。愚哉。後之學者。聞他力可乘。當生信心。勿自局分也。
(Chú:
Hỏi: Do có nhân duyên nào mà nói là “mau chóng được
thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”?
Đáp: Luận nói tu ngũ môn
hạnh để thành tựu tự lợi, lợi tha. Nhưng
xét đến tận gốc, A Di Đà Như Lai làm tăng
thượng duyên, người khác được lợi và
làm lợi người khác chính là nói theo mỗi góc nh́n hỗ
tương. Nếu nói theo phía Phật, đáng nên nói là “lợi
ích người khác”. Nói theo phía chúng sanh, đáng nên nói là “người
khác được lợi”. Nay do bàn về Phật lực,
nên nói là “lợi ích người khác”, hăy nên biết ư này. Phàm
là sanh về cơi Tịnh Độ ấy, nói đến các
hạnh do Bồ Tát, trời, người dấy lên th́ đều
là duyên theo sức bổn nguyện của A Di Đà Như
Lai. V́ sao nói như thế? Nếu chẳng phải là do Phật
lực th́ bốn mươi tám nguyện sẽ uổng công
lập ra. Nay tôi đại lược dùng ba nguyện để
chứng minh ư nghĩa.
Nguyện rằng: “Nếu tôi
thành Phật, mười phương chúng sanh chí tâm tin ưa,
muốn sanh về cơi tôi, [chỉ cần] cho đến mười
niệm mà nếu chẳng được sanh, tôi chẳng
giữ lấy ngôi Chánh Giác, chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch,
phỉ báng chánh pháp”. Do nương theo nguyện lực của
Phật, mười niệm niệm Phật liền được
văng sanh. Do được văng sanh, liền thoát khỏi chuyện
luân chuyển trong tam giới. Do không luân chuyển, nên được
mau chóng [thành Phật]. Đó là chứng cớ thứ nhất.
Nguyện rằng: “Nếu tôi
được làm Phật, trời người trong nước
chẳng ‘trụ trong Chánh Định Tụ, ắt đạt
đến diệt độ’, tôi chẳng giữ lấy
ngôi Chánh Giác”. Do duyên theo nguyện lực của Phật mà trụ
Chánh Định Tụ. Do trụ trong Chánh Định Tụ, ắt đạt đến diệt
độ, chẳng c̣n có nạn trở lại [luân hồi
sanh tử], cho nên được mau chóng [thành Phật]. Đó
là chứng cớ thứ hai.
Nguyện rằng: “Nếu tôi
được làm Phật, các vị Bồ Tát trong các cơi Phật
ở phương khác sanh vào nước tôi, rốt ráo ắt
đạt đến Nhất Sanh Bổ Xứ, trừ những
vị có nguyện riêng tự tại giáo hóa, v́ chúng sanh mà mặc
áo giáp hoằng thệ, tích lũy cội đức, độ
thoát hết thảy, dạo các cơi Phật, tu Bồ Tát hạnh,
cúng dường mười phương chư Phật Như
Lai, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh, khiến cho họ
an lập nơi đạo vô thượng chánh chân, vượt
trỗi những hạnh thuộc các địa vị thông
thường, hiện tiền tu tập công đức Phổ
Hiền. Nếu chẳng như vậy, tôi chẳng giữ
lấy ngôi Chánh Giác”. Do nương theo nguyện lực của
Phật, vượt trỗi những hạnh thuộc các địa
vị thông thường, hiện tiền tu tập công đức
Phổ Hiền. Do vượt trỗi hạnh thuộc các địa
vị thông thường, cho nên được mau chóng [thành
Phật]. Đấy là chứng cớ thứ ba.
Do những điều này mà
suy ra tha lực làm tăng thượng duyên, há chẳng phải
là đúng như thế ư? Lại dẫn thí dụ để
chỉ bày tướng tự lực và tướng tha lực: Như
có người do sợ tam đồ bèn thọ tŕ giới
cấm. Do thọ tŕ giới cấm, có thể tu Thiền Định.
Do Thiền Định, tu tập thần thông. Do thần thông,
có thể dạo chơi tứ thiên hạ. Những điều
như thế gọi là tự lực! Lại như kẻ
yếu ớt, trèo lên lừa không nổi, theo Chuyển Luân Vương
mà đi, bèn bay lên hư không, dạo chơi tứ thiên hạ
chẳng bị chướng ngại. Những điều như
thế gọi là tha lực. Ngu thay! Người học đời
sau, nghe tha lực có thể nương cậy, hăy nên sanh tín
tâm, đừng nên tự hạn cuộc).
2.3. Tổng
kết
(Luận) Vô Lượng
Thọ Tu Đa La Ưu Bà Đề Xá Nguyện
Sanh Kệ lược giải nghĩa cánh.
(Chú) Kinh thỉ xưng
“như thị”, chương Tín vi năng nhập. Mạt
ngôn “phụng hành”, biểu phục ưng sự dĩ. Luận
sơ “quy lễ”, minh tông chỉ hữu do. Chung vân “nghĩa
cánh”, thị sở thuyên lư tất. Thuật tác nhân
thù, ư tư thành lệ.
(論)無量壽修多羅優婆提舍願生偈。略解義竟。
(註)經始稱如是。彰信為能入。末言奉行。表服膺事已。論初歸禮。明宗旨有由。終云義竟。示所詮理畢。述作人殊。於茲成例。
(Luận: Vô Lượng
Thọ Tu Đa La Ưu Ba Đề Xá Nguyện Sanh Kệ
lược giải ư nghĩa đă xong.
Chú: Mở đầu
kinh bèn nói là “như thị”, nhằm biểu thị do tín
tâm mà có thể nhập. Cuối kinh bèn nói “phụng hành”, biểu
lộ chuyện vâng giữ, nhận lănh đă xong. Luận
th́ thoạt đầu nói “quy y, lễ kính”, nhằm chỉ
rơ tông chỉ có nguyên do. Cuối luận bèn nói là “nghĩa lư
đă giảng xong” nhằm chỉ ra lư được tŕnh
bày đă được trần thuật hoàn tất. Người trước
tác hoặc trần thuật tuy khác nhau, nhưng đều
theo lệ này).
Hồi
hướng
Nguyện do công đức này,
tiêu trừ túc hiện nghiệp, tăng trưởng các phước
huệ, viên thành thiện căn mầu. Tất cả đao
binh kiếp, cùng các nạn đói kém… đều diệt trừ
chẳng c̣n. Mọi người đều tu tập, lễ
kính và khiêm nhượng, hết thảy người giúp đỡ,
lần lượt giúp lưu thông, quyến thuộc đều
an lạc, người đă khuất siêu thăng, gió mưa
thường ḥa thuận, nhân dân đều khang ninh, pháp giới
các hàm thức, cùng chứng Vô Thượng Đạo.
Bản giảng nghĩa này được
xuất bản, lưu thông, tất cả thiện căn công
đức kính v́ tiên khảo (cha) là Hoàng công Duy Kỳ phủ
quân, tiên tỷ (mẹ) là Hoàng mẫu Chiêu Đễ nhụ nhân, và các vị cư
sĩ Trần Phước Tùng, Tôn Canh Ngọc, Dương
Thái Nguyệt, Tôn Đ́nh Ngọc, do thiện nhân này, nghiệp
chướng tiêu trừ, sớm sanh về Cực Lạc,
thấy Phật, nghe pháp, chóng thành Phật đạo.
Tánh Phạm kính đề tại
Văn Thù Viện thuộc Tịnh Luật Tự huyện
Lộc Cốc.
Trung Hoa Dân Quốc năm tám
mươi hai (1993), tức năm Quư Dậu, bắt đầu
viết từ ngày mồng Một tháng Giêng, hoàn thành bản
thảo, gác bút vào ngày 16 tháng Tư trong khóa An Cư mùa Hạ.
Vô Lượng
Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Chú Giải
Giảng
Nghĩa hết
[1] Trong phẩm Phương Tiện của
kinh Pháp Hoa, đức Phật dạy chân tướng của
các pháp có mười điều Như Thị, tức là
như thị tướng, như thị tánh, như thị
thể, như thị lực, như thị tác, như thị
nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị
báo, như thị bổn mạt cứu cánh.
[2] Ngũ Bồ
Đề bao gồm:
1. Phát tâm Bồ
Đề: Thập Tín Bồ Tát trong vô lượng kiếp
sanh tử v́ Vô Thượng Bồ Đề mà phát Bồ
Đề tâm.
2. Phục tâm Bồ
Đề: Các vị Bồ Tát thuộc Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng điều phục
cái tâm phiền năo, hành các Ba La Mật.
3. Minh tâm Bồ
Đề: Hàng Bồ Tát từ Sơ Địa trở lên
quán Thật Tướng của các pháp, đă minh tâm kiến
tánh.
4. Xuất
đáo Bồ Đề: Hàng Bồ Tát từ Bát Địa
trở lên, chẳng chấp trước Bát Nhă mà có thể
diệt các Hoặc, vượt thoát tam giới, hướng
đến Phật quả.
5. Vô thượng
Bồ Đề: Hàng Đẳng Giác Bồ Tát ngồi
đạo tràng, đoạn sạch các phiền năo, đắc
Vô Thượng Chánh Giác.
[3]
“Chẳng một” v́ Cực Lạc là một phần của
thế giới Hoa Tạng (Liên Hoa Tạng thế giới hải),
“chẳng khác” v́ sanh trong Cực Lạc th́ đương
nhiên sanh trong Hoa Tạng. Hoa Tạng và Cực Lạc có cùng
một Thể!