Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá

Chú Giải Giảng Nghĩa

phần 9

無量壽經優婆提舍註解講義

Ấn Độ Thế Thân Bồ Tát tạo luận

印度世親菩薩造論

Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi dịch luận

元魏天竺三藏菩提流支譯論

Nguyên Ngụy Huyền Trung Tự sa-môn Đàm Loan chú giải

元魏玄中寺

Dân Quốc Tịnh Luật Tự sa-môn Tánh Phạm giảng nghĩa

民國淨律寺門性梵講義

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

2.2.2.2.6. Ly Bồ Đề chướng

 

          (Chú) Ly Bồ Đề chướng giả.

          ()離菩提障者。

          (Chú: Ĺa các pháp chướng ngại Bồ Đề).

 

2.2.2.2.6.1. Nêu chung ba thứ chướng

 

          (Luận) Bồ Tát như thị thiện tri hồi hướng thành tựu, tức năng viễn ly tam chủng Bồ Đề môn tương vi pháp.

          ()菩薩如是善知迴向成就。即能遠離三種菩提門相違法。

          (Luận: Bồ Tát khéo biết hồi hướng thành tựu như thế, liền có thể xa ĺa ba thứ pháp trái nghịch Bồ Đề môn).

 

          Đến đây th́ bộ luận này đă trần thuật viên măn pháp môn Ngũ Niệm. Từ đây trở đi cho đến khi toàn thể bộ luận hoàn tất, Luận Chủ đă nêu ra cương yếu trong việc tu hành pháp môn Ngũ Niệm, chủ yếu là trí huệ, phương tiện, và từ bi; ba thứ ấy thiếu một thứ, sẽ chẳng thể được! Hễ thiếu, sẽ chẳng thể thành tựu Ngũ Niệm Môn, mà cũng chẳng thể đạt được đại lợi ích “văng sanh Tịnh Độ, thành Phật”. Thật ra, trí huệ, phương tiện, và từ bi chính là cương yếu của Vô Thượng Bồ Đề tâm và hết thảy Bồ Tát hạnh mà hết thảy Bồ Tát đều phải có. Đó chính là nhân tố cơ bản và điều kiện tất yếu để thành Phật. V́ thế, kinh Đại Bát Nhă nói: “Bồ Tát hành Bồ Đề đạo, ưng tiên y chỉ tam chủng tâm: Nhất giả, Nhất Thiết Trí trí tương ứng tác ư. Nhị giả, vô sở đắc vi phương tiện. Tam giả, đại bi vi thượng thủ” (Bồ Tát hành Bồ Đề đạo, trước hết, hăy nên y chỉ ba thứ tâm: Một là khởi ư tương ứng với trí Nhất Thiết Trí, hai là dùng “chẳng có ǵ để đạt được” làm phương tiện, ba là đại bi làm thượng thủ). Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói: “Nhược hữu chúng sanh nguyện sanh bỉ quốc giả, phát tam chủng tâm, tức tiện văng sanh. Hà đẳng vi tam? Nhất giả, chí thành tâm. Nhị giả, thâm tâm. Tam giả, hồi hướng phát nguyện tâm. Cụ tam tâm giả, tất sanh bỉ quốc” (Nếu có chúng sanh nguyện sanh về cơi ấy, phát ba loại tâm liền được văng sanh. Những ǵ là ba? Một là chí thành tâm. Hai là thâm tâm. Ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Đủ ba tâm, ắt sanh cơi ấy). Ba loại tâm như Quán Kinh và kinh Đại Bát Nhă đă nói đều là nói nguyện tâm, trí tâm, và bi tâm hợp nhất thành Bồ Đề tâm, mà cũng là ba môn trí huệ, phương tiện, và từ bi nói trong luận này, có thể nói là hàm nghĩa của chúng hoàn toàn tương đồng. Tịnh Tông Bồ Tát tu tập Ngũ Niệm Môn nếu có thể như đă nói trong phần trước: Tu Chỉ Quán lược hay rộng, thành tựu Đại Thừa nhu nhuyễn tâm, bất nhị tâm, sẽ có thể đúng như Thật Tướng của các pháp, biết các pháp thế gian và xuất thế gian rộng hay lược. Đă biết Thật Tướng, sẽ có thể Không và Hữu vô ngại, Bi và Trí trọn đủ, thành tựu xảo phương tiện hồi hướng. Đă có thể thiện xảo phương tiện hồi hướng, sẽ có thể xa ĺa các pháp trái nghịch ba thứ “từ bi, trí, nguyện” thuộc đại Bồ Đề tâm Bồ Đề đạo, đạt được ba thứ tùy thuận Bồ Đề môn. Do cái này cái kia có; do cái này không, cho nên cái kia không. Đó là nhân quả tất nhiên theo định luật duyên khởi. Do vậy, cuối bộ luận này, Luận Chủ đă đặc biệt v́ Tịnh nghiệp hành nhân mà thâu tóm những điều trọng yếu để chỉ bày. Phàm là Bồ Tát muốn thành tựu Ngũ Niệm Môn, nguyện cùng hết thảy chúng sanh văng sanh An Lạc quốc, đồng thành Phật đạo, ắt cần phải biết để y giáo tu hành.

          Bồ Đề (Bodhi) là tiếng Phạn, dịch [sang tiếng Hán] là Giác hoặc Đạo. Có ba thứ Bồ Đề, tức là Thanh Văn Bồ Đề, Duyên Giác Bồ Đề, và Phật Bồ Đề. Trong luận này, từ đây trở đi, hễ nói đến Bồ Đề th́ đều là nói tới Phật Bồ Đề, tức A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttarā Samyak-saṃbodhi), dịch nghĩa là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nhằm vạch rơ: Chẳng phải là phàm phu bất giác, ngoại đạo tà giác, Nhị Thừa thiên giác (偏覺, giác ngộ lệch lạc), Bồ Tát tuy là Chánh Giác, nhưng chẳng phải là Cứu Cánh Giác (究竟覺, giác ngộ rốt ráo), chỉ có Phật mới là bậc rốt ráo đạt Chánh Đẳng Chánh Giác không ǵ cao hơn được! Luận nói “xa ĺa ba thứ pháp trái nghịch Bồ Đề môn” th́ cũng là nói xa ĺa ba pháp trái nghịch năm niệm môn, chúng có thể chướng ngại Bồ Tát thành Phật, hăy nên xa ĺa!

 

2.2.2.2.6.2. Nêu riêng từng pháp trong ba loại chướng

2.2.2.2.6.2.1. Nương theo Trí Huệ Môn

 

          (Luận) Hà đẳng tam chủng? Nhất giả, y trí huệ môn, bất cầu tự lạc, viễn ly ngă tâm tham trước tự thân cố.

          (Chú) Tri tấn thủ thoái viết Trí, tri Không, Vô Ngă viết Huệ. Y trí cố, bất cầu tự lạc. Y huệ cố, viễn ly ngă tâm tham trước tự thân.

          ()何等三種。一者依智慧門。不求自樂。遠離我心貪著自身故。

          ()知進守退曰智。知空無我曰慧。依智故。不求自樂。依慧故。遠離我心貪著自身。

          (Luận: Những ǵ là ba thứ? Một là nương vào THuệ Môn, chẳng cầu vui sướng cho riêng ḿnh, v́ xa ĺa cái tâm chấp Ngă tham đắm tự thân.

          Chú: Biết đường tiến lùi là Trí, biết Không, Vô Ngă là Huệ. Do nương vào trí, nên chẳng cầu vui sướng cho riêng ḿnh. Do nương vào huệ nên xa ĺa cái tâm chấp Ngă tham đắm tự thân).

 

          “Tri tấn thủ thoái” (biết đường tiến lùi) th́ gọi là Trí, chính là trí huệ b́nh phàm trong thế tục, tức là như nói “cùng tắc độc thiện kỳ thân, đạt tắc kiêm lợi thiên hạ” (cùng quẫn th́ giữ riêng cho thân ḿnh tốt lành, thông đạt bèn kèm thêm làm lợi cho thiên hạ). Biết hai thứ Nhân và Pháp đều là Không, chẳng có Ngă và Ngă Sở (cái của ta); đấy là trí huệ Bát Nhă xuất thế gian, chính là như thường nói “Bát Nhă sanh tắc chư pháp bất sanh thị (Bát Nhă sanh th́ các pháp chẳng sanh). Luận này nói “y trí huệ môn” (nương theo môn trí huệ) tức là nói nương theo Bát Nhă. Có Bát Nhă Không trí th́ mới có thể xa ĺa Ngă Kiến và Ngă Chấp của chúng sanh. Đă có Ngă Kiến và Ngă Chấp, sẽ nẩy sanh chướng ngại đối với Đại Thừa Bồ Đề tâm và Bồ Tát đạo; do vậy, cần phải xa ĺa. Ngă Kiến là ǵ? Chính là như trong luận này nói: “Ngă tâm tham trước tự thân(tâm ngă chấp tham đắm bản thân). Ngă Kiến c̣n gọi là Thân Kiến; đối với Thân Kiến bèn có Ngă Chấp, sanh khởi ngă tham (ái), ngă sân, ngă mạn! Duy Thức Luận nói Ngă Chấp có hai loại:

          1) Do thức thứ bảy duyên theo Kiến Phần của thức thứ tám, chấp đó là Ngă. Đấy chính là Câu Sanh Ngă Chấp (俱生我執, Ngă Chấp bẩm sinh) từ vô thỉ đến nay, khá vi tế.

          2) Do thức thứ sáu duyên theo Tứ Đại và Ngũ Uẩn, chấp đó là Ngă. Đấy chính là Ngă Chấp do phân biệt sanh ra, so ra thô hơn [Câu Sanh Ngă Chấp].

          Muốn phá Ngă Chấp th́ trí huệ thế tục chẳng thể làm được, chỉ cậy vào trí huệ Bát Nhă. Phá Nhân Ngă Chấp th́ có thể đoạn Phiền Năo Chướng, chứng lư Sanh Không. Phá Pháp Ngă Chấp, sẽ có thể đoạn Sở Tri Chướng, chứng lư Pháp Không. Sanh Không là liễu tri chúng sanh chỉ là giả tướng do các duyên ḥa hợp, chẳng có thật thể. Như liễu giải một chiếc xe hơi chỉ là giả danh để gọi rất nhiều linh kiện (parts) xe hơi gp thành, trọn chẳng có một vật ǵ là thật thể của xe hơi. Pháp Không là liễu tri pháp Tứ Đại và Ngũ Uẩn giả hợp thành chúng sanh, cũng là “duyên tụ hội bèn có”, vốn là Không. Đó gọi là Pháp Không Quán. Liễu tri Nhân lẫn Pháp đều là Không, Bát Nhă hiện tiền, sẽ thông đạt hết thảy các pháp chẳng có Ngă và Ngă Sở, tất nhiên là chẳng thể tham đắm, chẳng v́ chính ḿnh mà truy cầu bất cứ sự vui sướng nào cần thiết cho ta.

          Nay tôi nêu ra một thí dụ: Tâm tánh của chúng ta giống như hư không, vốn thanh tịnh, chẳng có Ngă Kiến và Ngă Chấp, cũng chẳng có Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng, chẳng khác chư Phật, Bồ Tát. Nhưng chúng sanh từ vô thỉ đến nay, do có Câu Sanh Vô Minh, chẳng có trí huệ Bát Nhă, bèn có Ngă Kiến và Ngă Chấp. Như hư không chẳng có mặt trời chiếu soi, cho nên tối tăm dấy lên. Hư không chẳng thể tự ḿnh trừ tối, phải nhờ vào ánh sáng mặt trời th́ mới có thể trừ tối. Tâm tánh rỗng rang cũng giống như thế, chẳng thể tự ḿnh trừ khử Ngă Kiến và Ngă Chấp, ắt phải cậy vào trí huệ Bát Nhă giác chiếu để đoạn chướng, hiển Không. Lại như mặt trời chiếu hư không, càn khôn rỗng rang hiển lộ; Bát Nhă (trí huệ) từ tâm sanh, tâm tánh hiển lộ rạng ngời. Trí huệ phá Ngă Chấp như mặt trời chiếu hư không, bèn chẳng có tối tăm, pháp vốn là như thế đó. V́ thế, cần phải nương theo Trí Huệ Môn để đoạn trừ Ngă Chấp và Pháp Chấp th́ mới có thể xa ĺa cái ngă tâm tham đắm tự thân (Thân Kiến). Do điều này có thể biết: Chúng ta niệm Phật, lạy Phật, cho đến phát nguyện, quan sát, hồi hướng, đều chẳng thể chỉ v́ cầu an vui cho chính ḿnh mà tu tập, phải v́ hết thảy chúng sanh “cùng thấy Di Đà, cùng sanh về Cực Lạc, cùng thành Phật đạo, cùng giáo hóa chúng sanh” mà làm! Có những vị tu hành đă lâu, nhưng Ngă Kiến và Ngă Chấp đặc biệt nặng nề; đấy là trái nghịch đạo, chớ nên! Có những vị Bồ Tát ôm giữ chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa “gió thổi chiều nào ngả theo chiều ấy” (chủ nghĩa thời cơ), chủ nghĩa cục bộ, thành kiến môn hộ đặc biệt mạnh mẽ. Đấy đều là giả danh Bồ Tát, cũng đều là chớ nên!

 

2.2.2.2.6.2.2. Nương theo Từ Bi Môn

         

          (Luận) Nhị giả, y từ bi môn, bạt nhất thiết chúng sanh khổ, viễn ly vô an chúng sanh tâm cố.

          (Chú) Bạt khổ viết Từ, dữ lạc viết Bi. Y Từ cố, bạt nhất thiết chúng sanh khổ. Y Bi cố, viễn ly vô an chúng sanh tâm.

          ()二者,依慈悲門。拔一切眾生苦。遠離無安眾生心故。

          ()拔苦曰慈。與樂曰悲。依慈故。拔一切眾生苦。依悲故。遠離無安眾生心。

          (Luận: Hai là nương theo Từ Bi Môn, dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh, xa ĺa cái tâm chẳng làm cho chúng sanh an vui.

          Chú: Dẹp khổ là Từ, ban vui là Bi. Do nương theo Từ, nên dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh. Do nương theo Bi, nên xa ĺa cái tâm chẳng làm cho chúng sanh an vui).

 

          Nói thông thường th́ Bi là dẹp khổ, Từ là có thể ban vui. Nương vào đồng thể đại bi, cho nên có thể dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh. Nương theo vô duyên đại từ, nên có thể xa ĺa cái tâm “chẳng làm cho chúng sanh an vui”, ban cho chúng sanh sự an lạc cần thiết. Do vậy, chúng ta niệm Phật, lạy Phật, cho đến hồi hướng, mục đích đều là phải làm sao cho chính ḿnh và hết thảy chúng sanh chỉ trong một đời này cùng thoát khỏi nhà lửa tam giới, vĩnh viễn ĺa khỏi các khổ, cùng sanh vào An Lạc Tịnh Độ, thường hưởng an lạc. Tín như thế, nguyện như thế, hành như thế, niệm như thế, lạy như thế, cho đến hồi hướng như thế. Đấy chính là nương theo Từ Bi Môn để tu pháp môn Ngũ Niệm, tất nhiên là xa ĺa cái tâm “chẳng muốn làm cho chúng sanh được an lạc”. Từ bi có ba loại như trong phần trước tôi đă có nói. Trong thế gian, ḷng từ bi của cha mẹ, sư trưởng, người nhà, quyến thuộc, cho đến [ḷng từ bi] của những bậc vua hiền, tôi sáng, nhà tôn giáo, nhà từ thiện, chỉ hạn cuộc nơi một người, một nhà, hoặc một nước, chẳng thể phổ cập hết thảy chúng sanh, chẳng v́ dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh. Đấy chẳng phải là rốt ráo, chẳng viên măn. Chỉ có ḷng từ bi giống như Phật, Bồ Tát th́ mới là “nhân giả nhân chi an trạch” (ḷng nhân là căn nhà yên vui cho con người), cũng chỉ có “nhiếp thủ, hóa độ hết thảy chúng sanh cùng sanh về An Lạc quốc” th́ mới là tâm đại từ bi “từ năng dữ nhất thiết lạc, bi năng bạt nhất thiết khổ” (từ có thể ban hết thảy vui, bi có thể dẹp hết thảy khổ).

 

2.2.2.2.6.2.3. Nương theo Phương Tiện Môn

 

          (Luận) Tam giả, y phương tiện môn, lân mẫn nhất thiết chúng sanh tâm, viễn ly cúng dường, cung kính tự thân tâm cố.

          (Chú) Chánh trực viết Phương, ngoại kỷ viết Tiện. Y chánh trực cố, sanh lân mẫn nhất thiết chúng sanh tâm. Y ngoại kỷ cố, viễn ly cúng dường, cung kính tự thân tâm.

          ()三者,依方便門。憐愍一切眾生心。遠離供養恭敬自身心故。

          ()正直曰方。外己曰便。依正直故。生憐愍一切眾生心。依外己故。遠離供養恭敬自身心。

          (Luận: Ba là nương theo Phương Tiện Môn, tâm thương xót hết thảy chúng sanh, xa ĺa tâm cúng dường, cung kính chính ḿnh.

          Chú: Chánh trực là Phương, gạt bỏ cái tôi ra ngoài là Tiện. Do nương theo chánh trực, cho nên sanh tâm thương xót hết thảy chúng sanh. Do gạt chính ḿnh ra ngoài, nên xa ĺa cái tâm cúng dường, cung kính bản thân).

 

          Chánh trực và “ngoại kỷ” th́ là Phương Tiện. Chánh trực chính là chí thành, “ngoại kỷ” (外己, gạt bỏ cái tôi ra ngoài) chính là vô ngă. Chỉ có chí thành và vô ngă th́ mới được gọi là phương tiện trong Phật pháp, mới có thể chẳng “từ bi sanh họa hại, phương tiện xuất hạ lưu” (do từ bi mà sanh ra tai họa, ương hại; do phương tiện [chẳng hay khéo] mà trở thành hạ lưu). Do vậy, trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật đă nêu ra lời khai thị của Thế Tự Tại Vương Phật dành cho Pháp Tạng Bồ Tát như sau: “Thí như đại hải, nhất nhân đấu lượng, kinh lịch kiếp số, thượng khả cùng để, đắc kỳ diệu bảo. Nhân hữu chí tâm tinh tấn (phương tiện), cầu đạo bất chỉ, hội đương khắc quả, hà nguyện bất đắc” (Ví như đối với biển cả, một người dùng đấu để đong, trải qua kiếp số, c̣n có thể [múc cạn] đến tận đáy, đạt được của báu mầu nhiệm. Người có sự chí tâm tinh tấn (phương tiện), cầu đạo chẳng ngơi, sẽ đạt được quả, có nguyện nào mà chẳng đạt được). [Lời ấy] nhằm chỉ rơ: Tu pháp môn Tịnh Độ, ắt cần phải dùng phương tiện vô ngă, chí tâm tinh tấn, th́ mới là “có nguyện ắt thành”, văng sanh Cực Lạc, thành Phật độ sanh. Người đời lập công, lập đức, lập ngôn, đều chẳng thể hoàn toàn ĺa khỏi Ngă Kiến và Ngă Chấp. Do vậy, thành công th́ riêng ḿnh hưởng lạc là chuyện tất nhiên. Bồ Tát khác hẳn, Ngài cầu sanh Cực Lạc là v́ thương xót, cứu độ hết thảy chúng sanh, [khiến cho họ] có thể “chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng các sự vui”, chẳng phải là sanh về thế giới Cực Lạc để chính ḿnh hưởng lạc, cũng chẳng phải v́ muốn được người đời cung kính, lễ bái giống như lễ bái thần thánh mà phát tâm học Phật, làm Bồ Tát. Chỗ khác biệt giữa Bồ Tát và người đời là các Ngài có tinh thần vô ngă th́ mới có thể có phương tiện chí tâm tinh tấn, chẳng trái nghịch tâm Vô Thượng Bồ Đề, hoàn thành Lục Độ vạn hạnh của Bồ Tát đạo. Trong Vô Lượng Thọ Kinh Giảng Nghĩa (từ trang một trăm chín mươi lăm đến trang hai trăm lẻ hai), tôi đă có giải thích, mọi người chẳng ngại tra duyệt, tham khảo.

 

2.2.2.2.6.3. Tổng kết

 

          (Luận) Thị danh viễn ly tam chủng Bồ Đề môn tương vi pháp.

          ()是名遠離三種菩提門相違法。

          (Luận: Đó gọi là xa ĺa ba loại pháp trái nghịch Bồ Đề môn).

 

          Có thể trọn đủ ba môn trí huệ, phương tiện, và từ bi như đă nói trên đây, sẽ chẳng trái nghịch Vô Thượng Bồ Đề tâm và Đại Thừa Bồ Tát đạo, có thể sanh vào Tịnh Độ, có thể thành Phật quả. V́ thế gọi là “ba thứ Bồ Đề môn”. Giả sử chỉ biết niệm Phật, lễ Phật, phát nguyện, quan sát, nhưng chẳng thể xa ĺa ba thứ pháp trái nghịch Bồ Đề môn, th́ không chỉ là chẳng thể thành Phật, văng sanh Tịnh Độ cũng chẳng dễ dàng! V́ sao vậy? Pháp môn Tịnh Độ là pháp Đại Thừa, văng sanh Cực Lạc là Bồ Đề đại đạo để thành Phật. Nếu chẳng xa ĺa các pháp trái nghịch tinh thần Đại Thừa và Bồ Đề đại đạo, đương nhiên là chúng sẽ chướng ngại Bồ Tát, chẳng thể đạt thành nguyện vọng văng sanh thành Phật.

 

2.2.2.2.7. Thuận Bồ Đề môn

 

          (Chú) Thuận Bồ Đề môn giả.

          ()順菩提門者。

          (Chú: Thuận Bồ Đề môn…)

 

2.2.2.2.7.1. Nêu chung ba môn

         

          (Luận) Bồ Tát viễn ly như thị tam chủng Bồ Đề môn tương vi pháp, đắc tam chủng tùy thuận Bồ Đề môn pháp măn túc cố.

          ()菩薩遠離如是三種菩提門相違法。得三種隨順菩提門法滿足故。

          (Luận: Bồ Tát xa ĺa ba loại pháp trái nghịch Bồ Đề môn như thế, sẽ đạt được trọn vẹn ba loại pháp tùy thuận Bồ Đề môn).

 

          Hai câu luận này nhằm nối tiếp phần trước để khởi đầu cho phần sau, trước hết là nêu chung ba loại pháp tùy thuận Bồ Đề môn, sau đấy mới phân biệt giải nói. Những ǵ là ba thứ? Chính là vô nhiễm thanh tịnh tâm, an thanh tịnh tâm, và lạc thanh tịnh tâm. Ba thứ đều được gọi là thanh tịnh tâm. Điều này nhằm nêu rơ: Tâm tịnh th́ mới có thể sanh về Tịnh Độ, mới được thành Phật. Phật môn vô lượng nghĩa, nhưng đều lấy cái tâm thanh tịnh làm căn bản. Do vậy, trong tác phẩm Thành Phật Chi Đạo, đạo sư Ấn Thuận (印順導師) đă viết: “Giới nhằm tịnh hóa tâm và khẩu, Định nhằm tịnh hóa t́nh dục, Huệ nhằm tịnh hóa tri kiến, Tam Học lần lượt thanh tịnh. Nước tam-muội tịnh hóa tham, gió từ bi tịnh hóa sân, lửa Bát Nhă tịnh hóa si, tánh địa vốn sẵn tịnh. Vô biên phiền năo tịnh, vô lượng tịnh hạnh tích tập, liền dùng ngay cái hạnh tịnh tâm ấy để trang nghiêm cơi Cực Lạc”. Các liên hữu Tịnh tông phải ghi khắc những lời ấy bên chỗ ngồi!

 

2.2.2.2.7.2. Nêu rơ từng môn riêng biệt trong ba môn

2.2.2.2.7.2.1. Vô nhiễm thanh tịnh tâm

 

          (Luận) Hà đẳng tam chủng? Nhất giả, vô nhiễm thanh tịnh tâm, dĩ bất vị tự thân cầu chư lạc cố.

          (Chú) Bồ Đề thị vô nhiễm thanh tịnh xứ. Nhược vị thân cầu lạc, tức vi Bồ Đề. Thị cố, vô nhiễm thanh tịnh tâm thị thuận Bồ Đề môn.

          ()何等三種。一者無染清淨心。以不為自身求諸樂故。

          ()菩提是無染清淨處。若為身求樂。即違菩提。是故無染清淨心是順菩提門。

          (Luận: Những ǵ là ba loại? Một là tâm thanh tịnh vô nhiễm, do chẳng v́ bản thân mà cầu các sự vui.

          Chú: Bồ Đề là chỗ vô nhiễm thanh tịnh. Nếu v́ bản thân mà cầu vui sướng, tức là trái nghịch Bồ Đề. Do vậy, tâm thanh tịnh vô nhiễm là thuận Bồ Đề môn).

 

          Như thế nào để đạt được ba loại pháp tùy thuận Bồ Đề môn? Do tương phản với ba loại pháp trái nghịch Bồ Đề môn đạt được. Loại thứ nhất là nương theo Trí Huệ Môn, phá Ngă Kiến và Ngă Chấp, sẽ đạt được cái gọi là vô nhiễm thanh tịnh tâm. V́ chẳng có Ngă Kiến và Ngă Chấp, cho nên hết thảy các phiền năo chẳng dấy lên, cái tâm thanh tịnh, do vậy, gọi là “vô nhiễm”. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cần phải đoạn trừ hết thảy phiền năo th́ mới có thể chứng đắc. Do vậy nói: Bồ Đề là chốn thanh tịnh vô nhiễm. Phàm những ai có thể chẳng v́ chính ḿnh mà cầu danh, cầu lợi, cầu an lạc, bèn phá Ngă Chấp, đắc vô ngă. Vô ngă tự nhiên là vô nhiễm thanh tịnh. Nhưng chỉ là Vô Ngă, chỉ đạt được bản thân thanh tịnh, th́ đấy là Nhị Thừa Bồ Đề, vẫn chẳng phải là pháp để tùy thuận Đại Thừa Bồ Đề. Ắt cần phải nương theo trí huệ Bát Nhă Nhân lẫn Pháp đều Không để đoạn Ngă Chấp và Pháp Chấp, chứng đắc Nhị Không Chân Như. Lại có thể chẳng ch́m đắm trong Không, hướng đến Tịch, hành Bồ Đề đạo, nhiếp thủ hết thảy chúng sanh cùng sanh về An Lạc quốc thành Phật. Đấy mới là vô nhiễm thanh tịnh tâm được nói trong bộ luận này, là pháp tùy thuận Đại Thừa Bồ Đề Môn. V́ Tây Phương An Lạc quốc là cơi Tịnh Độ chí cực vô nhiễm thanh tịnh, là cảnh giới Đại Niết Bàn của chư Phật. Phàm ai sanh về cơi ấy, ắt được Hoặc tận, trí viên, rốt ráo là Nhất Sanh Bổ Xứ. V́ thế, chỉ cần nguyện làm cho hết thảy chúng sanh cùng sanh An Lạc quốc th́ tức là vô nhiễm thanh tịnh tâm, tùy thuận Đại Thừa Bồ Đề Môn.

 

2.2.2.2.7.2.2. An thanh tịnh tâm

         

          (Luận) Nhị giả, an thanh tịnh tâm, dĩ bạt nhất thiết chúng sanh khổ cố.

          (Chú) Bồ Đề thị an ổn nhất thiết chúng sanh thanh tịnh xứ. Nhược bất tác tâm bạt nhất thiết chúng sanh ly sanh tử khổ, tức tiện vi Bồ Đề. Thị cố, bạt nhất thiết chúng sanh khổ, thị thuận Bồ Đề môn.

          ()二者,安清淨心。以拔一切眾生苦故。

          ()菩提是安穩一切眾生清淨處。若不作心。拔一切眾生離生死苦。即便違菩提。是故拔一切眾生苦。是順菩提門。

          (Luận: Hai là an thanh tịnh tâm v́ dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh.

          Chú: Bồ Đề là chỗ thanh tịnh để an ổn hết thảy chúng sanh. Nếu chẳng dấy ḷng giúp chúng sanh ĺa nỗi khổ sanh tử, sẽ trái nghịch Bồ Đề. V́ thế, dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh là thuận Bồ Đề môn).

 

          Loại thứ hai là nương theo Từ Bi môn, dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh, sẽ đạt được cái gọi là “an thanh tịnh tâm”. “An” ở đây chẳng phải là chính ḿnh ĺa khổ được vui, tức“thân an”, mà cũng chẳng phải là “đem cái tâm lại đây, ta sẽ an nó cho ngươi” trong Thiền Tông, được gọi là “tâm an”. “An thanh tịnh tâm” là phải phát nguyện dẹp hết thảy khổ nạn cho chúng sanh, ban an lạc cho hết thảy chúng sanh. Có tâm đại từ bi như thế th́ mới là pháp thuận theo Đại Thừa Bồ Đề Môn được nói trong luận này. Nếu chẳng phát nguyện (“tác tâm”) giúp cho hết thảy chúng sanh ĺa khỏi nỗi khổ sanh tử, sẽ là trái nghịch Đại Thừa Bồ Đề Môn!

 

 2.2.2.2.7.2.3. Lạc thanh tịnh tâm

         

          (Luận) Tam giả, lạc thanh tịnh tâm. Dĩ linh nhất thiết chúng sanh đắc đại Bồ Đề cố, dĩ nhiếp thủ chúng sanh sanh bỉ quốc độ cố.

          (Chú) Bồ Đề thị tất cánh thường lạc xứ. Nhược bất linh nhất thiết chúng sanh đắc tất cánh thường lạc, tắc vi Bồ Đề. Thử tất cánh thường lạc, y hà nhi đắc? Y Đại Thừa Môn. Đại Thừa Môn giả, vị bỉ An Lạc Phật quốc độ thị dă. Thị cố, hựu ngôn dĩ nhiếp thủ chúng sanh sanh bỉ quốc độ cố.

          ()三者樂清淨心。以令一切眾生得大菩提故。以攝取眾生生彼國土故。

          ()菩提是畢竟常樂處。若不令一切眾生得畢竟常樂。則違菩提。此畢竟常樂依何而得。依大乘門。大乘門者。謂彼安樂佛國土是也。是故又言以攝取眾生生彼國土故。

          (Luận: Ba là lạc thanh tịnh tâm, v́ khiến cho hết thảy chúng sanh đắc đại Bồ Đề, v́ nhiếp thủ chúng sanh sanh về quốc độ ấy.

          Chú: Bồ Đề là chỗ rốt ráo thường lạc. Nếu chẳng làm cho hết thảy chúng sanh đạt được chỗ rốt ráo thường lạc th́ là trái nghịch Bồ Đề. Dựa vào đâu để đạt được chỗ rốt ráo thường lạc này? Dựa vào Đại Thừa Môn. Đại Thừa Môn chính là quốc độ An Lạc vậy. V́ thế, lại nói “v́ nhiếp thủ chúng sanh sanh vào quốc độ ấy”).

 

          Loại thứ ba, nương theo Phương Tiện Môn, chẳng nhằm cầu an lạc cho chính ḿnh, chỉ nguyện chúng sanh được thành Phật, sẽ đạt được cái gọi là “lạc thanh tịnh tâm”. “Lạc” ở đây chẳng phải là như người đời quen thói cờ bạc bèn gọi là Lạc trong “đại gia lạc”, chẳng phải là niềm vui kiểu “kim triêu hữu tửu, kim triêu lạc” (hôm nay có rượu, hôm nay vui), cũng chẳng phải là niềm vui ngũ dục thông thường. “Lạc thanh tịnh tâm” là muốn cho hết thảy chúng sanh cùng đắc Đại Thừa Bồ Đề giác pháp lạc, được sanh về Tây Phương An Lạc quốc, chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng các niềm vui, chẳng biến đổi, chẳng mất đi, an trụ Đại Bát Niết Bàn, trọn đủ công đức lạc chân thật “thường, lạc, tự tại, thanh tịnh”. Đấy mới chính là pháp thuận Đại Thừa Bồ Đề Môn được nói trong bộ luận này. Nếu chẳng phát nguyện khiến cho hết thảy chúng sanh được rốt ráo thường lạc, chẳng phát nguyện làm cho hết thảy chúng sanh cùng sanh An Lạc quốc, sẽ là trái nghịch Đại Thừa Bồ Đề Môn.

 

2.2.2.2.7.3. Tổng kết

 

          (Luận) Thị danh tam chủng tùy thuận Bồ Đề Môn pháp măn túc, ưng tri.

          ()是名三種隨順菩提門法滿足。應知。

          (Luận: Đấy gọi là ba thứ pháp trọn vẹn tùy thuận Bồ Đề môn, hăy nên biết).

 

          Tổng kết ba pháp tùy thuận Đại Thừa Bồ Đề Môn để nói: Tức là dựa theo ba môn trong bộ luận này và ba tâm trong Quán Kinh để phát khởi Đại Thừa Bồ Đề tâm “bi, trí, phương tiện hợp nhất”, xa ĺa ba thứ pháp trái nghịch Bồ Đề Môn, đạt được trọn vẹn ba loại pháp tùy thuận Bồ Đề Môn, ắt có thể chứng trọn vẹn tam đức của Đại Niết Bàn. Đấy gọi là “nhất lộ Niết Bàn môn” của chư Phật; do đó, gọi là Đại Thừa Bồ Đề Môn. Nay lập biểu đồ giản yếu để thuyết minh như sau:

 

Ba môn trong luận này

Trí môn

Phương tiện

Từ bi

Ba tâm của Quán Kinh

Chí thành tâm

Thâm tâm

Hồi hướng phát nguyện tâm

Ba thứ Bồ Đề tâm hợp nhất của Bồ Tát

Tác ư tương ứng trí Nhất Thiết Trí

Vô sở đắc làm phương tiện

Từ bi làm thượng thủ

Xa ĺa ba pháp trái nghịch Bồ Đề Môn

Ngă tâm tham đắm tự thân

Tâm cung kính cúng dường bản thân

Tâm không làm cho chúng sanh được an vui

Đạt được ba pháp tùy thuận Bồ Đề Môn

Vô nhiễm thanh tịnh tâm

Lạc thanh tịnh tâm

An thanh tịnh tâm

Chứng trọn vẹn ba đức của đại Niết Bàn

Pháp Thân đức

Giải Thoát đức

Bát Nhă đức

 

2.2.2.2.8. Danh nghĩa nhiếp đối (Đối ứng danh tướng và hàm nghĩa)

 

          (Chú) Danh nghĩa nhiếp đối giả.      

          ()名義攝對者。

          (Chú: Đối ứng danh tướng và hàm nghĩa).

 

          Ngài Đàm Loan dùng câu này để phân chia khoa mục, [khoa mục này] thuộc tiểu khoa thứ tám trong phần Giải Nghĩa. Trong đây, lại chia thành ba tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất là ba loại môn được thâu nhiếp, tiểu đoạn thứ hai là ba loại pháp xa ĺa, tiểu đoạn thứ ba là thành tựu ba thứ tâm.

 

2.2.2.2.8.1. Ba loại môn được thâu nhiếp

 

          (Luận) Hướng thuyết trí huệ, từ bi, phương tiện tam chủng môn, nhiếp thủ Bát Nhă. Bát Nhă nhiếp thủ phương tiện, ưng tri.

          (Chú) Bát Nhă giả, đạt Như chi huệ danh. Phương tiện giả, thông Quyền chi trí xưng. Đạt Như tắc tâm hạnh tịch diệt. Thông quyền tắc bị tỉnh chúng cơ, Tỉnh cơ chi trí, bị ứng nhi vô tri. Tịch diệt chi huệ, diệc vô tri nhi bị tỉnh. Nhiên tắc trí huệ phương tiện, tương duyên nhi động, tương duyên nhi tĩnh. Động bất thất tĩnh, trí huệ chi công dă. Tĩnh bất phế động, phương tiện chi lực dă. Thị cố, trí huệ, từ bi, phương tiện, nhiếp thủ Bát Nhă, Bát Nhă nhiếp thủ phương tiện. “Ưng tri” giả, vị ưng tri trí huệ phương tiện, thị Bồ Tát phụ mẫu. Nhược bất y trí huệ phương tiện, Bồ Tát pháp tắc bất thành tựu. Hà dĩ cố? Nhược vô trí huệ, vi chúng sanh thời, tắc đọa điên đảo. Nhược vô phương tiện, quán pháp tánh thời, tắc chứng Thật Tế. Thị cố ưng tri.

          ()向說智慧。慈悲。方便。三種門攝取般若。般若攝取方便。應知。

          ()般若者。達如之慧名。方便者。通權之智稱。達如則心行寂滅。通權則備省眾機。省機之智。備應而無知。寂滅之慧。亦無知而備省。然則智慧方便。相緣而動。相緣而靜。動不失靜。智慧之功也。靜不廢動。方便之力也。是故智慧慈悲方便。攝取般若。般若攝取方便。應知者。謂應知智慧方便。是菩薩父母。若不依智慧方便。菩薩法則不成就。何以故。若無智慧。為眾生時。則墮顛倒。若無方便。觀法性時。則證實際。是故應知。

          (Luận: Ba loại môn trí huệ, từ bi, phương tiện vừa nói trên đây nhiếp thủ Bát Nhă. Bát Nhă nhiếp thủ phương tiện, hăy nên biết.

          Chú: Bát Nhă là danh xưng của huệ đă thấu đạt Như (Chân Như). Phương tiện là danh xưng của trí thông đạt Quyền. Thấu đạt Như th́ tâm hạnh tịch diệt. Thông đạt Quyền th́ sẽ thấu hiểu trọn khắp các căn cơ. Trí hiểu thấu các căn cơ tuy ứng hợp trọn khắp nhưng vô tri. Tịch diệt huệ cũng vô tri, nhưng thấu hiểu trọn khắp. Tuy thế, trí huệ và phương tiện duyên lẫn nhau mà động, duyên lẫn nhau mà tĩnh. Động mà chẳng mất tĩnh là công năng của trí huệ. Tĩnh mà chẳng bỏ động là sức của phương tiện. V́ thế, trí huệ, từ bi, phương tiện, nhiếp thủ Bát Nhă. Bát Nhă nhiếp thủ phương tiện. “Hăy nên biết” là nói hăy nên biết trí huệ và phương tiện là cha mẹ của Bồ Tát. Nếu chẳng nương theo trí huệ và phương tiện, Bồ Tát pháp sẽ chẳng thành tựu. V́ sao vậy? Nếu chẳng có trí huệ th́ khi v́ chúng sanh, sẽ đọa điên đảo. Nếu không có phương tiện th́ khi quán pháp tánh, sẽ chứng Thật Tế (chấp vào Diệt Độ, không khởi tâm độ sanh). Do vậy, hăy nên biết).

 

          “Bát Nhă” là trí huệ hiểu rơ Chân Như “Pháp Không và Nhân Không”, v́ thế nói là “đạt Như chi huệ danh” (là danh xưng của trí huệ thấu đạt Chân Như). Kinh Pháp Hoa gọi [trí huệ ấy] là Thật Trí, hoặc Vị Tằng Hữu Pháp (pháp chưa từng có). Khởi Tín Luận gọi nó là Tâm Chân Như Môn, kinh Hoa Nghiêm gọi nó là Vô Sư Trí, hoặc Tự Nhiên Trí. Những kinh luận khác gọi nó là Vô Phân Biệt Trí, Nhất Thiết Trí, hoặc Căn Bản Trí.

          “Phương tiện” là trí huệ thông đạt nguyên do duyên khởi của các pháp, v́ thế nói là “thông Quyền chi trí xưng” (tên gọi của cái trí thông đạt quyền biến). Kinh Pháp Hoa gọi nó là Quyền Trí, hoặc Phương Tiện Tri Kiến. Khởi Tín Luận gọi nó là Tâm Sanh Diệt Môn, Hoa Nghiêm gọi nó là Thập Huyền Môn, các kinh luận khác gọi nó là Đạo Chủng Trí, hoặc Hậu Đắc Trí.

          Nói theo phương diện “Bát Nhă thấu đạt Chân Như” th́ Lư Thể Chân Như là cái được chứng (Chân Đế), và Bát Nhă là chủ thể để chứng [Lư Thể Chân Như, cả hai] đều là tâm hành xứ diệt, ngôn ngữ dứt bặt, chỉ có chứng mới biết. Kinh Pháp Hoa nói “chỉ chỉ bất tu thuyết, ngă pháp diệu nan tư” (thôi, thôi, chẳng cần nói, pháp ta diệu khó nghĩ), tức là nói đến điều này.

          Nói theo phương diện “Phương Tiện thông đạt Quyền” th́ pháp tướng duyên khởi được quán (Tục Đế), và trí phương tiện có thể quán [Tục Đế], đều là định luật nhân quả “do cái này có mà cái kia có”. Kinh Pháp Hoa nói: “Chư pháp như thị tướng, năi chí như thị bản mạt cứu cánh đẳng” (Tướng của các pháp là như thế cho đến đầu ngọn rốt ráo[1] là như thế), không ǵ chẳng phải là biết trọn, hiểu suốt, cũng là nói đến điều này. Luận Chủ gộp chung ba môn trí huệ, phương tiện, và từ bi đă nói trên đây thành Bát Nhă và Phương Tiện, tức là Quyền Trí và Thật Trí, nhất tâm nhị môn, Chân Đế và Tục Đế. Hai trí, hai môn, hai Đế ấy nương tựa lẫn nhau, thành tựu lẫn nhau, chẳng một, chẳng khác, tức là chúng sanh và Phật có cùng một Thể, chính là Thể và Dụng của tự tánh thanh tịnh tâm. Phương Tiện chính là diệu dụng thiện xảo, cũng là “xảo phương tiện hồi hướng” được nói trong luận này, từ Bát Nhă mà có. Chẳng có Thể, sẽ không có Dụng, pháp vốn là như vậy.

          Kinh nói: “Tiên đắc Bát Nhă (Căn Bản Trí), hậu đắc phương tiện (khởi Phương Tiện Trí)” (Trước là đắc Bát Nhă, tức Căn Bản Trí, sau là đắc phương tiện, tức là dấy lên Phương Tiện Trí). Nói theo Ngũ Bồ Đề[2] của Bồ Tát đạo th́ Bát Nhă là minh tâm Bồ Đề, hiển hiện Bát Nhă tâm thể. Phương Tiện là xuất đáo Bồ Đề, là đại dụng của khởi tâm Bát Nhă. Do vậy, Du Già Sư Địa Luận nói: “Trong địa vị thông đạt (minh tâm Bồ Đề), dấy lên trí vô phân biệt. Đối với cảnh sở duyên (nhân, pháp) đều là chẳng có ǵ để đạt được. Lư Trí đă âm thầm, tâm cảnh ngầm thấu hiểu, tướng Hữu và Không có lúc chẳng hiện tiền th́ mới gọi là chứng đắc chân lư Duy Thức. Đă chứng chân thức, bèn khởi Hậu Đắc Trí (phương tiện) th́ mới chứng Tục Đế”. Kinh Mật Nghiêm cũng nói: “Phi bất kiến Chân Như nhi năng liễu chư pháp giai như huyễn hóa, tuy hữu nhi phi chân” (Chẳng phải là không thấy Chân Như mà có thể hiểu rơ các pháp đều như huyễn hóa, tuy có mà chẳng phải là thật). Đại Trí Độ Luận cũng nói: “Bát Nhă sẽ nhập Tất Cánh Không, dứt bặt các hư luận, sự ḥa quyện (phương tiện) sẽ từ Tất Cánh Không dấy lên hiện hành để trang nghiêm cơi nước, thành thục chúng sanh”. Trong bộ Trung Luận Sớ, Cát Tạng đại sư cũng nói: “Bát Nhă soi thẳng Thật Tướng của các pháp làm Thể, Thể chính là bất nhị. Phương Tiện chính là tác dụng khéo léo của Bát Nhă. Dụng có nhiều môn: 1) Có thể chiếu Không mà chẳng chứng. 2) Quán Không chính là đồng thời chiếu Hữu. 3) Can dự vào Hữu mà lại có thể chẳng vướng mắc. Như Thể của vàng là một (Bát Nhă), vàng chế thành các món vật hay khéo th́ đều gọi là Phương Tiện. Người học đạo Phương Quảng của Đại Thừa mà nếu chấp chặt tánh Không, do chẳng có phương tiện, học Đại Thừa, hiểu hết thảy các pháp bất sanh, bất diệt, rốt ráo là không, bèn chấp vào Vô Sanh, đánh mất Sanh. Đă mất Sanh th́ Vô Sanh cũng mất, hai Đế cùng bị hoại. Hăy nên dùng Trung Đạo của Nhị Đế để phát sanh chánh quán Nhị Huệ (tức Bát Nhă và Phương Tiện) để diệt trừ các kiến giải Thường Kiến và Đoạn Kiến. V́ thế có Phật, Bồ Tát”.

          Do vậy, ngài Đàm Loan giải thích: “Trí huệ phương tiện, tương duyên nhi động (Dụng), tương duyên nhi tĩnh (Thể). Động bất thất tĩnh, trí huệ chi công dă. Tĩnh bất phế động, phương tiện chi lực” (Trí huệ và phương tiện duyên lẫn nhau mà động (tức Dụng), duyên lẫn nhau mà tĩnh (đó là Thể). Động mà chẳng mất tĩnh, chính là công năng của trí huệ. Tĩnh mà chẳng bỏ động là sức của phương tiện). “Tương duyên” (Duyên lẫn nhau) chính là nhất tâm nhị môn, hai trí Quyền Thật nương tựa lẫn nhau, thành tựu lẫn nhau. “Động tĩnh”tướng của Bát Nhă và Phương Tiện, tức là nhất tâm có đủ các tướng Thể và Dụng. Tâm Chân Như Môn là Tĩnh, Tâm Sanh Diệt Môn là Động. V́ thế, luận này gom chung ba môn thành hai trí Bát Nhă và Phương Tiện, cũng là gom vào trong Thể và Dụng của nhất tâm nhị môn. Môn Từ Bi chính là Dụng của nhất tâm, thuộc vào Phương Tiện Trí. Do vô duyên từ và đồng thể bi của chư Phật, Bồ Tát sanh từ Bát Nhă, tương đồng với Phương Tiện cũng sanh từ Bát Nhă, cho nên gộp từ bi vào trong Phương Tiện vậy.

          Ngài Đàm Loan giải thích “ưng tri” (hăy nên biết) là hăy nên biết trí huệ và phương tiện chính là cha mẹ của Bồ Tát. Nếu chẳng nương cậy trí huệ và phương tiện, Bồ Tát pháp sẽ chẳng thành tựu. V́ sao? Nếu Bồ Tát chẳng có Bát Nhă, vậy th́ trong khi độ chúng sanh, sẽ có bốn thứ điên đảo của bọn phàm phu:

          1) Chấp vô thường là thường.

          2) Chấp bất tịnh là tịnh.

          3) Thế gian là khổ mà chấp là lạc.

          4) Các pháp vô ngă mà chấp là ngă.

          Hoặc sẽ đọa trong địa vị Nhị Thừa, cũng dấy lên bốn thứ điên đảo: Đối với bốn chân đức Thường, Lạc, Ngă, Tịnh của Phật quả đại Niết Bàn bèn lầm tưởng chúng cũng giống như “vô thường, khổ, không, bất tịnh” b́nh phàm của thế gian. Nếu Bồ Tát chẳng có phương tiện, tất nhiên là trong khi quán Không, sẽ chứng Diệt Độ (lời chú giải gọi Diệt Độ là Thật Tế), vậy th́ c̣n có thể hành Bồ Tát đạo, phổ độ chúng sanh thành Phật trong thời gian và không gian vô tận nữa chăng? Do đó, kinh Duy Ma Cật nói: “Trí Độ (Bát Nhă) Bồ Tát mẫu, phương tiện dĩ vi phụ, nhất thiết chúng đạo sư (Phật, Bồ Tát), vô bất do thị sanh” (Trí Độ (Bát Nhă) là mẹ của Bồ Tát, phương tiện là cha, các bậc đạo sư của hết thảy chúng sanh (tức Phật, Bồ Tát), không vị nào chẳng do điều này mà sanh). Quyển ba mươi bốn của Tứ Thập Hoa Nghiêm cũng chép: “Chư Uẩn xứ giới cập duyên khởi, tất năng quán sát bất thú tịch, thử thiện xảo nhân (hữu Phương Tiện Trí chi Bồ Tát) chi trụ xứ… Tuy quán Tứ Thánh Đế, nhi bất trụ Tiểu Thừa Tứ Quả. Tuy quán thậm thâm duyên khởi, nhi bất trụ cứu cánh Tịch Diệt. Tuy quán Ngũ Uẩn Không, nhi bất vĩnh diệt chư Uẩn. Tuy an trụ Chân Như, nhi bất đọa Thật Tế. Tuy tri nhất thiết pháp vô sanh, vô diệt, nhi bất ư Thật Tế tác chứng. Tuy quán ư Không, nhi bất khởi Không Kiến” (Đối với các Uẩn xứ giới và duyên khởi đều có thể quán sát mà chẳng trụ vào tịch diệt, đấy là trụ xứ của bậc thiện xảo (tức là vị Bồ Tát có Phương Tiện Trí)… Tuy quán Tứ Thánh Đế mà chẳng trụ trong Tứ Quả của Tiểu Thừa. Tuy quán duyên khởi rất sâu mà chẳng trụ trong Tịch Diệt rốt ráo. Tuy quán Ngũ Uẩn là Không mà chẳng vĩnh viễn diệt các Uẩn. Tuy an trụ Chân Như mà chẳng đọa trong Thật Tế. Tuy biết hết thảy các pháp bất sanh bất diệt, mà chẳng chứng Thật Tế. Tuy quán Không mà chẳng dấy lên Không Kiến). Do vậy, ngài Đàm Loan nói: “Trí huệ phương tiện thị Bồ Tát phụ mẫu” (Trí huệ và phương tiện là cha mẹ của Bồ Tát).

          Bồ Tát dùng Bát Nhă để hành phương tiện, tức là Chân Không bất không, bèn có thể trang nghiêm cơi nước, thành thục chúng sanh. Hành phương tiện mà có Bát Nhă, tức là Diệu Hữu chẳng phải là hữu, chẳng chấp trước điên đảo. Điều này được diễn tả là: Trụ nơi Lư Thể vô vi mà làm Phật sự hữu vi, phổ độ chúng sanh, nhưng chẳng có tướng hóa độ chúng sanh, trên là thành Phật đạo mà chẳng chấp tướng thành Phật. Chẳng phải là nói “không độ sanh, chẳng thành Phật”. Như thí dụ que củi nhóm ḷ trong phần trước, chúng sanh chưa thể đều thành Phật trọn hết mà bản thân Bồ Tát đă thành Phật trước.

          Các vị thượng thiện nhân ơi! Nếu quư vị duyệt đọc bộ luận này, lại liễu giải nghĩa lư trong ấy, quư vị có c̣n hiểu lầm pháp môn Tịnh Độ là chấp tướng, là tiêu cực, là Tiểu Thừa, là tự giải thoát cho riêng ḿnh nữa chăng? Quư vị có c̣n coi rẻ Tịnh Tông liên hữu là những ông già bà cả ăn chay vô tri vô thức nữa chăng? Quư vị c̣n chẳng thật sự v́ sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu, tu Ngũ Niệm Môn, cùng với các chúng sanh văng sanh Tịnh Độ, cùng thành Phật đạo, cùng giáo hóa chúng sanh hay không?

 

2.2.2.2.8.2. Ĺa ba loại pháp

         

          (Luận) Hướng thuyết viễn ly ngă tâm tham trước tự thân, viễn ly vô an chúng sanh tâm, viễn ly cúng dường, cung kính tự thân tâm. Thử tam chủng pháp, viễn ly chướng Bồ Đề tâm, ưng tri.

          (Chú) Chư pháp các hữu chướng ngại tướng, như phong năng chướng tĩnh, thổ năng chướng thủy, thấp năng chướng hỏa, ngũ hắc thập ác chướng nhân thiên, tứ điên đảo chướng Thanh Văn quả. Thử trung tam chủng bất viễn ly chướng Bồ Đề tâm. Ưng tri giả, nhược dục đắc vô chướng, đương viễn ly thử tam chủng chướng ngại dă.

          ()向說遠離我心。貪著自身。遠離無安眾生心。遠離供養恭敬自身心。此三種法遠離障菩提心。應知。

          ()諸法各有障礙相。如風能障靜。土能障水。濕能障火。五黑十惡障人天。四顛倒障聲聞果。此中三種不遠離。障菩提心。應知者。若欲得無障。當遠離此三種障礙也。

          (Luận: Như trong phần trên đă nói: Xa ĺa cái tâm chấp Ngă tham đắm bản thân, xa ĺa cái tâm chẳng làm cho chúng sanh an lạc, xa ĺa cái tâm cúng dường, cung kính tự thân. [Xa ĺa] ba loại pháp ấy [sẽ giúp cho hành nhân] xa ĺa các chướng ngại Bồ Đề tâm, hăy nên biết.

          Chú: Các pháp mỗi thứ đều có tướng chướng ngại. Như gió có thể chướng ngại tĩnh, đất có thể chướng ngại nước, ướt có thể chướng ngại lửa, năm điều đen tối (Ngũ Nghịch) và Thập Ác có thể chướng ngại nhân thiên, bốn món điên đảo chướng ngại quả Thanh Văn. Chẳng xa ĺa ba thứ pháp ấy, sẽ bị chướng ngại Bồ Đề tâm. “Hăy nên biết”: Nếu muốn chẳng có chướng ngại, hăy nên xa ĺa ba thứ chướng ngại ấy).

 

           Luận Chủ hết sức thiện xảo phương tiện, đối với ba thứ môn là trí huệ, phương tiện, và từ bi vừa mới nói, Ngài bèn gom lại thành hai trí là Bát Nhă và Phương Tiện, hai trí cũng lần lượt dung nhập vào nhau. Tiếp đấy, Ngài bèn khai thị chúng ta: Phải xa ĺa ba thứ pháp thuộc ba môn, v́ chúng sẽ chướng ngại Đại Thừa Bồ Đề tâm. Nếu muốn cho Bồ Đề tâm của chính ḿnh liên tục tăng trưởng, chẳng bị thoái thất, thẳng cho đến khi thành Phật chẳng hề bị chướng ngại, th́ hăy nên xa ĺa ba thứ pháp ấy.

          Ngài Đàm Loan lại giải thích thêm: Các pháp được sanh bởi nhân duyên đều có tướng chướng ngại. Ví như đất, nước, gió, lửa trong thiên nhiên, được thế gian gọi là Tứ Đại, do tứ đại chủng “cứng, ướt, ấm, lay động” (c̣n gọi là Thật Tứ Đại) tạo thành, chính là do Thật Tứ Đại giả ḥa hợp. Do vậy, chúng c̣n được gọi là Giả Tứ Đại, tất nhiên là chướng ngại lẫn nhau. [Chẳng hạn như] gió có thể chướng ngại sự tĩnh lặng của nước và lửa, đất có thể chướng ngại sự lưu động của nước, nước có thể chướng ngại sự thiêu đốt của lửa, lửa có thể chướng ngại sự mát mẻ của gió. Lại c̣n có nghiệp Ngũ Nghịch (hắc nghiệp), Thập Ác gây tạo trong chúng sanh giới sẽ gây chướng ngại [khiến cho chúng sanh] chẳng được sanh làm trời, người, tức là thánh hiền xuất thế gian cũng bị chướng ngại. Chướng ngại ǵ vậy? Hễ có bốn kiến giải điên đảo về Thường, Lạc, Ngă, Tịnh, chúng nó sẽ chướng ngại quư vị chẳng đắc Tứ Hướng và Tứ Quả của Thanh Văn. Như luận này nói Bồ Tát nương theo ba môn, xa ĺa ba loại pháp ngăn trở quư vị đắc Đại Thừa Bồ Đề tâm, khiến cho quư vị thoái thất Bồ Đề tâm, trở thành một Bồ Tát bại hoại. Do vậy, phàm là Bồ Tát th́ đều phải nên biết, nhất định phải xa ĺa!

          Ba loại pháp ấy đều chướng ngại Bồ Đề tâm, v́ Bồ Đề của tam thừa đều cần phải phá Ngă Chấp và Ngă Kiến, như trong kinh có nói: “Tam thừa đều do quán Không mà đắc đạo”. Nếu có ngă tâm tham đắm tự thân, chẳng trừ Ngă Kiến, Bồ Đề của tam thừa đều chẳng thành! Nếu chỉ đắc chánh kiến Ngă Không, mà thiếu từ bi và phương tiện khiến cho chúng sanh đạt được đại an lạc, th́ cũng chẳng khế hợp Đại Thừa Bồ Đề tâm! Nếu cậy vào cái danh là bậc Bồ Tát, thật ra là một kẻ ích kỷ, hết thảy đều v́ chính ḿnh, chẳng v́ chúng sanh, sẽ là kẻ giặc trong Phật pháp, mắt của hết thảy người trong cơi đời đều chẳng muốn thấy. V́ thế, cần phải xa ĺa ba thứ pháp như đă nói trong phần trước th́ mới tương ứng với Đại Thừa Bồ Đề tâm, th́ mới là danh phù hợp thật, kham làm bậc Bồ Tát, là đạo sư của trời người.

 

2.2.2.2.8.3. Thành tựu ba thứ tâm

 

          (Luận) Hướng thuyết vô nhiễm thanh tịnh tâm, an thanh tịnh tâm, lạc thanh tịnh tâm, thử tam chủng tâm, lược nhất xứ thành tựu diệu lạc thắng chân tâm, ưng tri.

          (Chú) Lạc hữu tam chủng: Nhất giả, ngoại lạc, vị ngũ thức sở sanh lạc. Nhị giả, nội lạc, vị Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, ư thức sở sanh lạc. Tam giả, pháp lạc lạc, vị trí huệ sở sanh lạc. Thử trí huệ sở sanh lạc, tùng ái Phật công đức khởi, thị viễn ly ngă tâm, viễn ly vô an chúng sanh tâm, viễn ly tự cúng dường tâm. Thị tam chủng tâm, thanh tịnh tăng tấn, lược vi “diệu lạc thắng chân tâm”, diệu ngôn kỳ hảo. Dĩ thử lạc duyên Phật sanh cố, thắng ngôn thắng xuất tam giới trung lạc, chân ngôn bất hư ngụy, bất điên đảo.

          ()向說無染清淨心。安清淨心。樂清淨心。此三種心。略一處成。就妙樂勝真心。應知。

          ()樂有三種。一者外樂。謂五識所生樂。二者內樂。謂初禪二禪。三禪。意識所生樂。三者法樂樂。謂智慧所生樂。此智慧所生樂。從愛佛功德起。是遠離我心。遠離無安眾生心。遠離自供養心。是三種心清淨增進。略為妙樂勝真心。妙言其好。以此樂緣佛生故。勝言勝出三界中樂。真言不虛偽。不顛倒。

          (Luận: Ba thứ tâm, tức vô nhiễm thanh tịnh tâm, an thanh tịnh tâm, lạc thanh tịnh tâm như đă nói trên đây, nói tóm gọn th́ là chân tâm thù thắng thành tựu diệu lạc. Hăy nên biết!

          Chú: Lạc có ba loại: Một là ngoại lạc, tức lạc sanh bởi năm thức. Hai là nội lạc, tức là lạc được sanh bởi ư thức của Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền. Ba là niềm vui do pháp lạc, tức lạc được sanh bởi trí huệ. Loại lạc được sanh bởi trí huệ ấy do từ yêu thích công đức của Phật mà có, chính là xa ĺa ngă tâm, xa ĺa cái tâm chẳng làm cho chúng sanh an vui, xa ĺa cái tâm cúng dường chính ḿnh. Ba loại tâm ấy thanh tịnh tăng tấn, nói đại lược th́ gọi là “chân tâm thù thắng diệu lạc”. “Diệu” là tốt đẹp, do món lạc này duyên theo Phật mà sanh. “Thắng” là vượt trỗi các thứ lạc trong tam giới. “Chân” là chẳng hư ngụy, chẳng điên đảo).

         

          Ngài Đàm Loan nêu ra ba thứ lạc:

          1) Loại thứ nhất là loại lạc thường được nhắc tới, tức là lạc do ngũ dục. Đó là Lạc Thọ đạt được khi ngũ căn tiếp xúc ngũ trần, sanh khởi ngũ thức. Do duyên theo ngũ trần bên ngoài (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc) mới có, nên gọi là Ngoại Lạc.

          2) Loại thứ hai là Thiền Duyệt Lạc. Do ư thức tu Thiền mà đạt được Lạc Thọ, phát xuất từ nội tâm, nên gọi là Nội Lạc. Sơ Thiền có ba tầng trời, tức Phạm Chúng (Brahma-pāriṣadya), Phạm Phụ (Brahma-purohita), và Đại Phạm Thiên (Mahā-brahmā). Ĺa ái nhiễm phiền năo của Dục Giới, có thể sanh ra hỷ lạc, [sự hỷ lạc] này được gọi là Viễn Ly Lạc. Nhị Thiền cũng có ba tầng trời, tức Thiểu Quang (Parīttābha), Vô Lượng Quang (Apramāṇābha), và Quang Âm (Ābhāsvara). Tiến hơn một bước nữa là ĺa khỏi cái tâm tán loạn có Tầm, có Tứ, hỷ tâm khinh an. Điều này được gọi là Tịch Tĩnh Lạc. Tam Thiền cũng có ba tầng trời, tức Thiểu Tịnh (Parītta-śubha), Vô Lượng Tịnh (Apramāṇa-śubha), và Biến Tịnh (Śubha-kṛtsna). Do tiến hơn bước nữa, quở trách, ĺa bỏ Hỷ Thọ của Nhị Thiền mà đạt được. Điều này gọi là Ly Hỷ Diệu Lạc.

          3) Loại thứ ba thường gọi là Pháp Hỷ Lạc, chẳng phải là Lạc Thọ sanh bởi sáu thức, là Lạc Thọ sanh bởi ba thứ trí huệ. Nghe đức Phật thuyết pháp, hoặc tư duy Phật pháp, bèn có trí huệ tín giải Phật pháp. Đă có trí huệ, tất nhiên là sùng kính đức Phật, yêu thích công đức của Phật và pháp do Phật thuyết. V́ thế, Pháp Hỷ Lạc do yêu mến công đức của Phật mà sanh khởi. Khổng Tử nói: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hỹ!” (Sáng nghe đạo, tối chết cũng được). Đấy cũng thuộc về Pháp Hỷ Lạc.

          Lời luận nói: Ĺa ba thứ Bồ Đề chướng như đă nói trên đây, sẽ thành tựu ba thứ tâm thanh tịnh. Nói tổng hợp, giản lược, gom lại một chỗ th́ chính là thành tựu “diệu lạc thắng chân tâm”, [cái tâm này] do ba thứ tâm thanh tịnh, tức vô nhiễm, an, và lạc, cùng nhau thành tựu. Do duyên theo danh hiệu, tướng hảo, và công đức của Phật mà sanh; do vậy, gọi là “diệu hảo”. Lại c̣n vượt trỗi hết thảy Lạc Thọ trong tam giới, nên gọi là “siêu thắng”. Chẳng giống với ngũ dục lạc và ba thứ thiền lạc trong tam giới, [những thứ ấy] đều là hư ngụy, điên đảo. V́ thế, gọi là “chân thật”.

          Nói chung, diệu lạc thắng chân tâm là cái tâm thanh tịnh được thành tựu do tu Ngũ Niệm Môn, và do duyên theo danh hiệu chẳng thể nghĩ bàn cũng như công đức của bổn nguyện, [nương theo] y báo và chánh báo trang nghiêm của A Di Đà Phật mà sanh. Thật sự có thể thoát khỏi tam giới, có thể liễu sanh tử, có thể sanh về Tịnh Độ, có thể thành Phật quả, có thể rốt ráo đắc thường lạc tự tại thanh tịnh của đại Niết Bàn. V́ thế gọi là “diệu lạc thắng chân tâm”. Như trong biểu đồ đơn giản mà tôi đă chỉ ra trong phần trước, tức là dùng ba môn trí huệ, phương tiện, từ bi làm điểm khởi đầu măi cho đến [khi chứng đắc] Tam Đức của đại Niết Bàn làm điểm kết thúc, từ nhân đến quả, đều có thể gọi chung là “diệu lạc thắng chân tâm”. V́ thế, lời luận nói đại lược, gộp chung [ba môn trí huệ, phương tiện và từ bi] thành một thứ thành tựu. Các vị tổ của Thiền Tông “tâm tâm tương truyền” chính là truyền cái tâm này. Có thể nói Thiền chẳng ĺa Tịnh, Tịnh chẳng ĺa Thiền. Thiền Tịnh song tu th́ chính là tu cái tâm này, mà truyền trao cũng là [truyền trao] cái tâm này. Bồ Tát tu Thiền, tu Tịnh, há có nên cho ḿnh là đúng, coi kẻ khác là sai, cùng nhà đánh lẫn nhau hay không?

 

2.2.2.2.9. Nguyện Sự thành tựu

 

          (Chú) Nguyện sự thành tựu giả.

          ()願事成就者。

          (Chú: Nguyện được thành tựu xét theo mặt Sự…)

 

2.2.2.2.9.1. Có thể sanh vào Tịnh Độ

 

          (Luận) Như thị Bồ Tát, trí huệ tâm, phương tiện tâm, vô chướng tâm, thắng chân tâm, năng sanh thanh tịnh Phật quốc độ, ưng tri.

          (Chú) Ưng tri giả, vị ưng tri thử tứ chủng thanh tịnh công đức, năng đắc sanh bỉ thanh tịnh Phật quốc độ, phi thị tha duyên nhi sanh dă.

          ()如是菩薩。智慧心。方便心。無障心。勝真心。能生清淨佛國土。應知。 

          ()應知者。謂應知。此四種清淨功德。能得生彼清淨佛國土。非是他緣而生也。

          (Luận: Bồ Tát như vậy do trí huệ tâm, phương tiện tâm, vô chướng tâm, và thắng chân tâm, bèn có thể sanh vào cơi Phật thanh tịnh, hăy nên biết.

          Chú: “Hăy nên biết” là hăy nên biết: Do bốn loại công đức thanh tịnh này mà có thể được sanh vào cơi Phật thanh tịnh, chẳng phải là do duyên khác mà sanh).

 

          Bồ Tát có thể chiếu theo bộ luận này để tu Ngũ Niệm Môn, tất nhiên là có thể thành tựu bốn thứ công đức thanh tịnh. Bốn thứ ấy đều được gọi là “tâm”, có thể thấy: Một niệm tâm nhỏ nhoi của chúng ta vốn sẵn có trọn đủ hết thảy công đức vô lậu, nhưng cần phải có nhân duyên huân tập th́ mới có thể hiển hiện. Do đó, Quán Kinh nói: “Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật” (Tâm này là Phật, tâm này làm Phật). Do đó có thể biết: Học Phật tu hành, hăy đổ công dốc sức ngay nơi một niệm tâm địa trong hiện tiền, quan sát chúng ta khởi tâm động niệm như thế nào? Kinh Viên Giác dạy: “Bất phạ niệm khởi, chỉ phạ giác tŕ” (Chẳng sợ niệm dấy, chỉ sợ giác chậm). Phật và phàm phu sai biệt ở chỗ giác và bất giác. V́ thế, kinh dạy: “Nhất niệm mê tức chúng sanh, nhất niệm giác tức thị Phật” (Một niệm mê là chúng sanh, một niệm giác chính là Phật). Lại nói: “Nhất thanh tịnh, nhất thiết thanh tịnh; nhất tự tại, nhất thiết tự tại” (Một thứ đă thanh tịnh th́ hết thảy đều thanh tịnh; một thứ đă tự tại th́ hết thảy đều tự tại). “Một” chính là nhất tâm mà chúng sanh và Phật có cùng một Thể. Nếu cái tâm được thanh tịnh, tự tại, quả báo nơi y báo và chánh báo trong mười pháp giới đều thanh tịnh, tự tại. Do vậy, đức Phật răn dạy chúng ta: Hăy cầu sự giải thoát của chư Phật từ ngay trong tâm hạnh của chúng ta. Hết thảy Bồ Tát đều nên biết những Sự Lư này.

          Đă biết Lư ấy, sẽ có thể cầu tâm, chứ không cầu nơi h́nh tích, chỗ nào cũng đều có thể quy vào nhất tâm trong hiện tiền. Chẳng hạn như chúng ta tu Ngũ Niệm Môn, thân nghiệp lễ bái A Di Đà Phật, sẽ biết tánh của đức Phật mà ta đang lễ và tánh của người lễ bái đều là không tịch, cảm ứng đạo giao chẳng nghĩ bàn. Niệm nào cũng đều tưởng văng sanh ḥng thấy Phật, lễ Phật. Lâu ngày chầy tháng, tự nhiên được thấy Phật Di Đà. Đấy chính là thành tựu thân nghiệp thanh tịnh.

          Khẩu nghiệp xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật, có thể đúng như quang minh trí tướng của A Di Đà Phật mà tán thán; vậy th́ khi quư vị chấp tŕ Phật hiệu, tâm quư vị cũng có quang minh trí tướng sanh khởi. Lâu ngày chầy tháng, tự nhiên sẽ phá vô minh. Đó chính là thành tựu khẩu nghiệp thanh tịnh.

          Ư nghiệp trọn đủ cái tâm ưa thích [Cực Lạc] và chán nhàm [Sa Bà] th́ chính là thiện xảo tu Chỉ Quán. Nhất tâm chuyên niệm, chán ĺa Sa Bà, mong rốt ráo văng sanh An Lạc quốc, có thể khiến cho vọng tâm của chúng ta ngưng dứt. Chánh niệm quan sát y báo và chánh báo trang nghiêm trong cơi Phật ấy, cầu sanh Tịnh Độ, có thể khiến cho chúng ta quán tâm rơ ràng. Đấy chính là thành tựu ư nghiệp thanh tịnh.

          Ba nghiệp đều chuyển nhiễm thành tịnh như thế, dùng công đức thanh tịnh do tu tập ba nghiệp thanh tịnh để hồi hướng tới hết thảy chúng sanh khổ năo, tâm thường phát nguyện: Nguyện cho hết thảy chúng sanh cùng thấy Phật Di Đà, cùng sanh về Cực Lạc, cùng thành Phật đạo, cùng giáo hóa chúng sanh. Đấy chính là thành tựu trí huệ, phương tiện và đại bi tâm vô ngại.

          Đă có trí huệ, phương tiện, và vô ngại tâm, tất nhiên sẽ chẳng mê mất Đại Thừa Bồ Đề tâm, có thể sanh về cơi Phật An Lạc thanh tịnh ấy, rốt ráo đạt được Phật quả đại Niết Bàn thanh tịnh, thành tựu diệu lạc thắng chân tâm! Lại nữa, trí huệ tâm quán cảnh chẳng thể nghĩ bàn. Phương tiện tâm là thật sự phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, và tâm hồi hướng cho hết thảy chúng sanh. Vô chướng tâm là Chỉ Quán thiện xảo và trợ tu vạn hạnh. Ba tâm ấy từ nhân đến quả, nhiếp chung hết thảy “cảnh, hạnh, quả” của Đại Thừa; v́ thế, gọi chung là “diệu lạc thắng chân tâm”. Do vậy, bốn thứ tâm thanh tịnh ấy chính là danh xưng chung để gọi hết thảy các công đức vô lậu được thành tựu bởi hàng Bồ Tát tu pháp môn Ngũ Niệm. Nếu có thể trọn đủ viên măn, sẽ chẳng cần các nhân duyên khác mà vẫn có thể sanh vào Tịnh Độ, nhất định thành Phật! Đấy là nhất lộ Niết Bàn môn của mười phương ba đời chư Phật! Do vậy, hết thảy Bồ Tát đều nên biết tánh chất trọng yếu của việc tu pháp môn Ngũ Niệm, ḥng có thể thành tựu bốn thứ tâm thanh tịnh.

 

2.2.2.2.9.2. Tùy ư tự tại

 

          (Luận) Thị danh Bồ Tát Ma Ha Tát tùy thuận ngũ chủng pháp môn, sở tác tùy ư tự tại thành tựu, như hướng sở thuyết thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp, trí nghiệp, phương tiện trí nghiệp, tùy thuận pháp môn cố.

          (Chú) Tùy ư tự tại giả, ngôn thử ngũ chủng công đức lực, năng sanh thanh tịnh Phật độ, xuất một tự tại dă. Thân nghiệp giả, lễ bái dă. Khẩu nghiệp giả, tán thán dă. Ư nghiệp giả, tác nguyện dă. Trí nghiệp giả, quán sát dă. Phương tiện trí nghiệp giả, hồi hướng dă. Ngôn thử chủng nghiệp ḥa hợp, tắc thị tùy thuận văng sanh Tịnh Độ pháp môn tự tại nghiệp thành tựu.

          ()是名菩薩摩訶薩。隨順五種法門。所作隨意自在成就。如向所說身業。口業。意業。智業。方便智業。隨順法門故。 

          ()隨意自在者。言此五種功德力。能生清淨佛土。出沒自在也。身業者禮拜也。口業者讚歎也。意業者作願也。智業者觀察也。方便智業者迴向也。言此五種業和合。則是隨順往生淨土法門。自在業成就。

          (Luận: Đó gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát tùy thuận năm loại pháp môn, việc làm được tùy ư tự tại thành tựu v́ thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp, trí nghiệp, phương tiện trí nghiệp như đă nói trên đây đều tùy thuận pháp môn.

          Chú: “Tùy ư tự tại” là nói năm thứ sức công đức có thể sanh trong cơi Phật thanh tịnh, xuất hiện, hay ẩn mất tự tại. Thân nghiệp là lễ bái. Khẩu nghiệp là tán thán. Ư nghiệp là phát nguyện. Trí nghiệp là quán sát. Phương tiện trí nghiệp là hồi hướng. Có nghĩa là năm thứ nghiệp ấy ḥa hợp, bèn thành tựu nghiệp tự tại tùy thuận văng sanh trong pháp môn Tịnh Độ).

 

          Đây là khoa thứ hai trong phần Nguyện Sự Thành Tựu, gọi là Tùy Ư Tự Tại. Bồ Tát muốn thành tựu nghiệp tùy ư tự tại, [nếu tuân] theo cách tu hành Nan Hành Đạo thông thường của các vị Bồ Tát th́ bậc đại Bồ Tát trong Biệt Giáo đă chứng từ Sơ Địa trở lên cần phải trải qua một đại A-tăng-kỳ kiếp mới có [khả năng tùy tự tại]. V́ thế, Luận viết là “Bồ Tát Ma Ha Tát”. Nay Luận Chủ bảo chúng ta: Tuy quư vị là Sơ Tâm Bồ Tát, chỉ cần được nghe kinh Vô Lượng Thọ và luận này, tín giải văng sanh Tịnh Độ là đạo dễ hành, tùy thuận tu pháp môn Ngũ Niệm, thành tựu sức công đức của Ngũ Niệm Môn, th́ trong đời này, sẽ đạt được thành quả “tùy ư tự tại”. Thành quả ấy chính là có thể tự tại sanh vào An Lạc Tịnh Độ, có thể tự tại thấy A Di Đà Phật, tự tại dạo chơi các cơi Phật, tu Bồ Tát hạnh, cúng dường chư Phật, hóa độ chúng sanh, cho đến mười thứ tự tại của bậc Bồ Tát từ Sơ Địa trở lên: Mạng, tâm, các vật cần dùng, nghiệp, thọ sanh, giải, nguyện, thần lực, pháp, trí v.v… hết thảy đều có. V́ sao tu Ngũ Niệm Môn thành tựu sẽ có sự tùy ư tự tại như thế? Một mặt là do bổn nguyện công đức và thần lực tự tại của A Di Đà Phật gia tŕ vị Bồ Tát tu Ngũ Niệm Môn, cho nên có thể được tự tại như thế. Tức là giống như trong hiện thời, ngồi máy bay phản lực có thể tùy ư đến chơi các quốc gia trên thế giới, hoặc xem TV phát sóng từ vệ tinh nhân tạo, sẽ đều có thể tùy ư thấy các t́nh huống hoạt động hiện thời ở các nơi trên thế giới, nghe các loại âm thanh ngôn ngữ khác nhau trên toàn thế giới. Chuyện này hoàn toàn dựa vào công dụng của phi cơ, vệ tinh, và TV, đă có thể đạt được sự tùy ư tự tại như thế. Mặt khác, hàng Bồ Tát tu Ngũ Niệm Môn, tam nghiệp của chính ḿnh có thể thanh tịnh, đúng pháp tu hành Ngũ Niệm Môn, chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, thành tựu Đại Thừa nhu nhuyễn tâm, diệu lạc thắng chân tâm. Tâm được tự tại, sẽ có tự tại trí, có thể tùy ư tự tại thực hiện. Do vậy, Luận viết: “Do thân, khẩu, ư nghiệp, trí nghiệp và phương tiện trí nghiệp như đă nói trên đây tùy thuận pháp môn Ngũ Niệm”. Điều này hoàn toàn là do tam nghiệp thanh tịnh mà thành tựu trí nghiệp tự tại và phương tiện trí nghiệp tự tại, tức là tự lợi, lợi tha, hết thảy đều có thể tùy ư tự tại.

          Như quyển hai mươi sáu của kinh Đại Bảo Tích đă chép: “Bồ Tát đắc ư tự tại trí, hữu thập ngũ chủng (tự tại): Nhất giả, tại tại xứ xứ sanh đắc tự tại trí. Nhị giả, bất đoạn tuyệt nhất thiết thiện căn đắc tự tại trí. Tam giả, ư chư thiện căn (công đức) vô yếm túc đắc tự tại trí. Tứ giả, vị hóa chúng sanh cố, sanh tam giới đắc tự tại trí. Ngũ giả, vị chư chúng sanh đoạn kết sử cố, cần tu tinh tấn đắc tự tại trí. Lục giả, vị ư tịch tĩnh nhất thiết chúng sanh chư khổ năo cố, đắc tự tại trí. Thất giả, nhiếp thủ giáo hóa chúng sanh cố, đắc tự tại trí. Bát giả, phi đoạn tự kỷ tam độc đắc danh tự tại, năng đoạn nhất thiết chúng sanh tham sân si, cố danh tự tại. Cửu giả, vị chư chúng sanh chứng diệt pháp, cố danh tự tại. Thập giả, vị chư thiện căn tăng trưởng, bất đoạn hữu lậu pháp, danh đắc tự tại. Thập nhất giả, phi chứng tam giải thoát danh tự tại; thị giải liễu tam giải thoát, cố danh tự tại. Thập nhị giả, phi tự tại tịch diệt Ngũ Ấm danh tự tại, vị xả nhất thiết chúng sanh trọng đảm (Ngũ Ấm), danh vi tự tại. Thập tam giả, phi dĩ diệt lục căn danh tự tại, tri chư chúng sanh thượng hạ căn, cố danh tự tại. Thập tứ giả, phi dĩ sanh phần tận danh đắc tự tại, bất dĩ đoạn tuyệt sanh, cố danh tự tại. Thập ngũ giả, Bồ Tát tọa đạo tràng đắc giải thoát quả, thọ dụng nhất thiết chư chúng sanh, cố danh tự tại” (Bồ Tát đắc trí tự tại, có mười lăm thứ (tự tại): Một là sanh ở bất cứ nơi đâu cũng đều đắc trí tự tại. Hai là chẳng đoạn tuyệt hết thảy thiện căn mà đắc trí tự tại. Ba là chẳng chán đủ các thiện căn (công đức) mà đắc trí tự tại. Bốn là v́ giáo hóa chúng sanh mà sanh trong tam giới, đắc trí tự tại. Năm là v́ đoạn các kết sử của chúng sanh mà siêng tu tinh tấn, đắc trí tự tại. Sáu là v́ vắng lặng các khổ năo của hết thảy chúng sanh mà đắc trí tự tại. Bảy là do nhiếp thủ giáo hóa chúng sanh mà đắc trí tự tại. Tám là chẳng v́ đoạn Tam Độc của chính ḿnh mà được gọi là tự tại, mà là v́ có thể đoạn tham, sân, si của hết thảy chúng sanh, nên được gọi là tự tại. Chín là v́ các chúng sanh mà chứng diệt pháp, nên gọi là tự tại. Mười là v́ tăng trưởng các thiện căn, chẳng đoạn pháp hữu lậu mà gọi là đắc tự tại. Mười một là chẳng do chứng ba món giải thoát mà gọi là tự tại, mà v́ hiểu rơ ba món giải thoát, nên gọi là tự tại. Mười hai là chẳng do tự tại tịch diệt Ngũ Ấm bèn gọi là tự tại, mà là v́ bỏ gánh nặng (Ngũ Ấm) cho hết thảy chúng sanh, nên gọi là tự tại. Mười ba, chẳng do diệt sáu căn bèn gọi là tự tại, mà v́ biết các căn thượng hạ của chúng sanh, nên gọi là tự tại. Mười bốn là chẳng do đă hết sanh phần mà gọi là tự tại, mà là do chẳng đoạn tuyệt sanh, nên gọi là tự tại. Mười lăm là Bồ Tát ngồi nơi đạo tràng đắc quả giải thoát, thọ dụng hết thảy chúng sanh, nên gọi là tự tại). Trong đời hiện tại chắc là có Tịnh Tông Bồ Tát do thành tựu Ngũ Niệm Môn, đạt được Đại Thừa nhu nhuyễn tâm, đạt được tự tại giống như thế, tương đồng với những vị tổ sư Thiền Tông và bậc Địa Thượng Bồ Tát. Nếu là người chưa đắc tự tại, hễ văng sanh Cực Lạc, “hoa nở thấy Phật, ngộ Vô Sanh”, nhất định là sẽ có thể đạt được! Do vậy, ngài Đàm Loan giảng giải: “Tùy ư tự tại là nói do sức công đức của pháp môn Ngũ Niệm này mà có thể sanh về Tịnh Độ, xuất hiện hay ẩn mất tự tại (tự tại văng sanh thấy Phật, tự tại trở lại độ sanh)”.

          Lễ bái thành tựu công đức nơi thân nghiệp, tán thán thành tựu công đức nơi khẩu nghiệp, phát nguyện thành tựu công đức nơi ư nghiệp, quán sát thành tựu công đức nơi trí nghiệp, hồi hướng thành tựu công đức nơi phương tiện trí nghiệp. Dùng công đức do thực hiện năm thứ nghiệp (thuộc pháp môn Ngũ Niệm) ấy, ḥa hợp thành tựu nghiệp tùy ư tự tại. Tu Ngũ Niệm Môn là nhân, đạt được tự tại là quả. Nhân quả ḥa hợp, tự lực và tha lực ḥa hợp, bèn tùy thuận tu pháp môn văng sanh Tịnh Độ, có thể đạt được thành tựu nghiệp ra vào tự tại (văng sanh Tịnh Độ là ra, trở lại cơi trược độ sanh là vào). Đấy chẳng phải là ngẫu nhiên, chẳng phải là không có nhân, mà cũng chẳng phải là do nhân duyên nào khác, càng chẳng phải là lời nói vô căn cứ! Nếu xác thực là có thể thành tựu Ngũ Niệm Môn, ắt được văng sanh An Lạc quốc. Hễ sanh về đó, sẽ bất thoái, rốt ráo là Nhất Sanh Bổ Xứ, vậy th́ sẽ tùy ư tự tại giống như Phật!

          Tôi nói một thí dụ: Cái tâm của chúng ta giống như một tấm gương sáng sạch, bị tro bụi phủ lấp, chẳng thể soi các vật. Tám vạn bốn ngàn pháp môn của Phật pháp đều nhằm dạy chúng ta phương pháp trừ bỏ tro bụi như thế nào. Một mai chất nhơ hết, ánh sáng hiện ra, sẽ có thể tự tại soi vật. Trần cấu trong tâm chúng ta chỉ cậy vào tự lực để chùi sạch th́ rất khó, nhưng nếu có thể dùng một giọt chất tẩy rửa th́ sẽ rất dễ dàng trừ khử bất cứ nhơ bẩn nào, khôi phục sự sáng sạch của cái tâm. Chất tẩy rửa chính là pháp môn Ngũ Niệm, hễ thành tựu nó (giống như sử dụng chất tẩy rửa), sẽ có thể ngay lập tức khôi phục cái tâm vốn tịnh. Tâm thanh tịnh, sẽ được tự tại. Như gương sạch sẽ có thể tự tại hiện ra các h́nh tượng, cùng một đạo lư như vậy đấy!

 

2.2.2.2.10. Lợi hành măn túc

 

          (Chú) Lợi hành măn túc giả.

          ()行滿足者。

          (Chú: Trọn vẹn hạnh tự lợi, lợi tha…)

 

2.2.2.2.10.1. Nêu chung

 

          (Luận) Phục hữu ngũ chủng môn, tiệm thứ thành tựu ngũ chủng công đức, ưng tri.

          ()復有五種門。漸次成就五種功德。應知。

          (Luận: Lại có năm thứ môn, theo thứ tự thành tựu năm loại công đức, hăy nên biết).

 

          Từ đây trở đi là ḷng từ bi của Luận Chủ, dùng những sự tướng dễ biết trong thế gian, chia thành năm môn xuất nhập. Dùng cách nói so sánh tương tự để diễn tả th́: Tu hành pháp môn Ngũ Niệm lần lượt theo thứ tự th́ Tịnh nghiệp hành nhân sẽ có thể thành tựu xuất nhập tùy ư tự tại, tức là văng sanh Tịnh Độ, trở lại Sa Bà, tất cả công đức tự lợi, lợi tha đáng nên làm của Bồ Tát, hết thảy sẽ đều viên măn. Do vậy, phần này được ngài Đàm Loan khoa phán là Lợi Hành Măn Túc, tức là tự lợi (nhập) và lợi tha (xuất) đều trọn đủ viên măn. Hai câu Luận ở đây tức là trước hết bèn nêu ra năm môn, cho nên nói: “Phục hữu ngũ chủng môn, tiệm thứ thành tựu ngũ chủng công đức” (Lại có năm loại môn theo thứ tự thành tựu năm thứ công đức). “Tiệm thứ” là trước nhập, sau xuất, là thứ tự để tuần tự tiến dần dần. Như vậy th́ có thể thành tựu năm loại công đức tự lợi, lợi tha. Bồ Tát tu Ngũ Niệm Môn hăy đều nên biết như thế.

 

2.2.2.2.10.2. Phần giải thích chánh yếu

2.2.2.2.10.2.1. Nêu chung về công đức thành tựu xuất nhập

 

          (Luận) Hà giả ngũ môn? Nhất giả, cận môn. Nhị giả, đại hội chúng môn. Tam giả, trạch môn. Tứ giả, ốc môn. Ngũ giả, viên lâm du hư địa môn. Thử ngũ chủng môn, sơ tứ chủng môn thành tựu nhập công đức. Đệ ngũ môn, thành tựu xuất công đức.

          (Chú) Thử ngũ chủng thị hiện nhập xuất thứ đệ tướng. Nhập tướng trung, sơ chí Tịnh Độ thị cận tướng. Vị nhập Đại Thừa Chánh Định Tụ, cận A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nhập Tịnh Độ dĩ, tiện nhập Như Lai đại hội chúng số. Nhập chúng số dĩ, đương chí tu hành an tâm chi trạch. Nhập trạch dĩ, đương chí tu hành sở cư ốc vũ. Tu hành thành tựu dĩ, đương chí giáo hóa địa. Giáo hóa địa, tức thị Bồ Tát tự ngu lạc địa. Thị cố xuất môn, xưng viên lâm du hư địa môn. Thử xuất nhập công đức môn, hà giả thị? Thích ngôn.

          ()何者五門。一者近門。二者大會眾門。三者宅門。四者屋門。五者園林遊戲地門。此五種門。初四種門成就入功德。第五門成就出功德。

          ()此五種示現入出次第相。入相中初至淨土是近相。謂入大乘正定聚。近阿耨多羅三藐三菩提。入淨土已。便入如來大會眾數。入眾數已。當至修行安心之宅。入宅已。當至修行所居屋。修行成就已。當至教化地。教化地即是菩薩自娛樂地。是故出門稱園林。遊戲地門。此入出功德門。何者是。釋言。

           (Luận: Những ǵ là năm môn? Một là cận môn. Hai là đại hội chúng môn. Ba là trạch môn. Bốn là ốc môn. Năm là viên lâm du hư địa môn. Trong năm loại môn này, bốn môn đầu nhằm thành tựu công đức để nhập. Môn thứ năm nhằm thành tựu công đức để xuất.

          Chú: Năm môn ấy nhằm chỉ rơ tướng xuất nhập theo thứ tự. Trong tướng để nhập th́ mới đến Tịnh Độ là cận tướng (tướng gần), tức là dự vào Chánh Định Tụ của Đại Thừa, gần với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đă vào trong Tịnh Độ, bèn dự vào đại chúng trong pháp hội của Như Lai. Đă dự vào hàng đại chúng, sẽ đến được căn nhà “an tâm tu hành”. Đă vào nhà rồi, sẽ đến pḥng ốc dành cho tu hành. Khi đă tu hành thành tựu, sẽ đạt đến địa vị giáo hóa. Địa vị giáo hóa chính là chỗ vui sướng của Bồ Tát. V́ thế, xuất môn (từ Cực Lạc trở lại giáo hóa chúng sanh) được gọi là viên lâm du hư địa môn (môn vườn rừng để vui chơi). Các môn công đức xuất nhập này (bao gồm năm môn) là như thế nào? Trong phần giải thích ở phía sau [sẽ giải thích]).

         

          Năm môn là ǵ? V́ thế, trước hết nêu ra [danh xưng của] năm loại môn. Bốn môn đầu nhằm thành tựu công đức Nhập, môn thứ năm nhằm thành tựu công đức Xuất. “Trước nhập, sau xuất” là thứ tự tất nhiên. Dùng sự tướng xuất nhập nông cạn, gần gũi của thế gian để sánh ví quá tŕnh tu pháp môn Ngũ Niệm của Bồ Tát, cũng phải nên là “trước nhập, sau xuất”. Tức là trước hết thành tựu công đức tự lợi, th́ gọi là Nhập. Sau đấy, thành tựu công đức lợi tha, th́ gọi là Xuất. Thường nói là “tự độ trước đă rồi sau đó mới độ người”. Đấy là quy củ thơm thảo muôn đời chẳng đổi. Như kinh Vô Lượng Thọ đă dạy: “Chư Phật cáo Bồ Tát, linh cận An Dưỡng Phật, văn pháp nhạo thọ hành, tật đắc thanh tịnh xứ” (Chư Phật bảo Bồ Tát, thân cận An Dưỡng Phật, nghe pháp thích vâng hành, chóng đạt chốn thanh tịnh). Đấy chính là từ môn thứ nhất cho đến môn thứ tư trong Luận này, thành tựu công đức để “nhập”.

          “Bồ Tát hưng chí nguyện, nguyện kỷ quốc vô dị. Phổ niệm độ nhất thiết, danh hiển măn thập phương” (Bồ Tát dấy chí nguyện, nguyện nước ḿnh chẳng khác. Nguyện độ trọn hết thảy, tiếng tăm rạng mười phương). Đấy chính là môn thứ năm trong luận này, thành tựu công đức Xuất. Ví như muốn xuống biển để cứu người, ắt chính ḿnh phải học cách bơi lội trước đă. Nếu không, chính ḿnh lẫn người khác đều ch́m lỉm, chẳng có mảy may ích lợi nào! Trong Trí Độ Luận, Long Thọ Bồ Tát đă nói: “Chẳng thể tự độ mà có thể độ người khác, chẳng có lẽ ấy”. Kinh Pháp Hoa có nói: “Tiên thuyết tam thừa giáo, hậu thuyết Nhất Thừa pháp” (Trước nói giáo pháp tam thừa, sau dạy pháp Nhất Thừa) đều là “trước tự độ, sau độ người” giống hệt! Trong thế giới Sa Bà này, học Phật, hành Bồ Tát đạo, ai cũng đều chẳng thể là ngoại lệ! Xét theo sự thị hiện trong một đời của Thích Ca Thế Tôn, trong tám tướng thành đạo, từ tướng thứ nhất cho đến tướng thứ sáu đều nhằm thành tựu “nhập” môn, tướng thứ bảy mới là “xuất” môn. Tướng thứ tám là “xuất nhập viên măn”, thị hiện Niết Bàn. Đấy chẳng phải là một tấm gương hay nhất cho hết thảy các vị Bồ Tát ư?

          Có những vị đại tâm Bồ Tát coi thường chuyện lễ Phật, niệm Phật, và các hạnh môn có thể thành tựu tự lợi khác, chỉ chú trọng hành pháp hóa độ chúng sanh. Điều này giống như chẳng có tiền trong trương mục ngân hàng, chi phiếu viết ra làm sao có thể thanh toán, sử dụng cho được? Do vậy, Luận Chủ tâm từ bi tha thiết, v́ khiến cho hết thảy Bồ Tát đều có thể nương theo pháp môn Ngũ Niệm này trước nhập sau xuất, do tự lợi mà lợi tha, cùng thành Phật đạo, chẳng đến nỗi mù quáng, điên đảo, nhọc nhằn uổng công, cho nên trong phần cuối bộ luận này, Ngài đă đặc biệt tha thiết chỉ bày thứ tự thực hiện dần dần năm môn thành tựu xuất nhập công đức. Đấy chính là “vạn người tu, vạn người đến (văng sanh Tịnh Độ)”, là giấy bảo đảm cho những ai nghe pháp (nghe cách tu Ngũ Niệm Môn trong luận này), không một ai chẳng thành Phật, mà cũng là tấm bia chỉ đường an toàn nhất cho Bồ Tát đạt thành Bồ Tát đạo “thượng cầu, hạ hóa, tự lợi, lợi tha”.

          Ngài Đàm Loan giải thích năm thứ môn này hết sức khế hợp nguyện ư của Luận Chủ:

          1) Chúng sanh thuộc ba bậc, chín phẩm có thể tu Ngũ Niệm Môn văng sanh Tịnh Độ, lúc mới đến [Tịnh Độ] th́ gọi là Cận Môn. “Cận” (, gần) ở đây không chỉ là thân cận Phật Di Đà và các vị thượng thiện nhân, mà c̣n là gần với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. V́ phàm là người văng sanh, đều thuộc vào Chánh Định Tụ, tức là đại Bồ Tát bất thoái chuyển, rốt ráo ắt đạt đến Nhất Sanh Bổ Xứ.

          2) Đă sanh về Tịnh Độ th́ chính là pháp quyến của Phật Di Đà, bèn thuộc vào đại chúng trong hội thuyết pháp của Phật Di Đà, nghe pháp liền vui thích phụng hành. V́ thế gọi là Đại Hội Chúng Môn.

          3) Môn thứ ba là Trạch Môn, tức là như người vào ṭa nhà hoa lệ (Cực Lạc trang nghiêm), an tâm cư trụ trong đó.

          4) Môn thứ tư là Ốc Môn, tức là như người vào trong nội đường, đạt được chỗ thanh tịnh, thân tâm nghỉ ngơi, hưởng thụ an lạc, tức là đă được nghỉ ngơi (tu hành công đức tự lợi, lợi tha, hết thảy đă thành tựu). Đó gọi là tam thân, tứ trí, ngũ nhăn, lục thông, hết thảy công đức cũng đều thành tựu.

          5) Sau đấy, chẳng trái nghịch bổn nguyện, trở về Sa Bà, dùng đủ mọi phương tiện chẳng thể nghĩ bàn để hóa độ hết thảy chúng sanh. Đấy là Xuất Môn, gọi là Giáo Hóa Địa, mà cũng là Bồ Tát dùng lợi tha để thành tựu tự lợi, gọi là chỗ để chính ḿnh vui sướng, thỏa thích. V́ thế, sánh ví là Viên Lâm Du Hư Địa Môn.

          Đấy chẳng phải là dùng năm loại môn ấy để tu hành Ngũ Niệm Môn theo thứ tự xuất nhập và thành tựu tướng công đức đă được hoàn toàn bao gồm chẳng sót ư? Bốn môn đầu thành tựu công đức Nhập, môn thứ năm thành tựu công đức Xuất. Trước nhập, sau xuất, do tự độ mà độ người khác, pháp vốn là như thế đó!

 

2.2.2.2.10.2.2. Giải thích môn nhập thứ nhất

 

          (Luận) Nhập đệ nhất môn giả, dĩ lễ bái A Di Đà Phật, vị sanh bỉ quốc cố, đắc sanh An Lạc thế giới. Thị danh Nhập đệ nhất môn.

          (Chú) Lễ Phật, nguyện sanh Phật quốc, thị sơ công đức tướng.

          ()入第一門者。以禮拜阿彌陀佛。為生彼國故。得生安樂世界。是名入第一門。

          ()禮佛願生佛國。是初功德相。

          (Luận: Môn thứ nhất của Nhập là dùng lễ bái A Di Đà Phật nhằm sanh về cơi ấy. Đó gọi là môn thứ nhất của Nhập.

          Chú: Lễ Phật, nguyện sanh vào cơi Phật, là tướng công đức đầu tiên).

 

          Dùng thân nghiệp thanh tịnh lễ kính Phật Di Đà, đấy là chỗ để thực hiện tu tập Ngũ Niệm Môn. Giả sử Tịnh nghiệp hành nhân chẳng lạy Phật, cho thấy căn bản là quư vị chẳng có tín nguyện đối với pháp môn Tịnh Độ. Tín nguyện là tiền đề của tư lương ḥng thành tựu văng sanh Tịnh Độ. V́ thế gọi là “sơ công đức tướng” (tướng công đức đầu tiên). Có những kẻ tuy lễ Phật, nhưng chẳng v́ nguyện sanh Tịnh Độ mà lạy, mà là v́ có mục đích khác: Hoặc nhằm tiêu nghiệp chướng, hoặc v́ cầu danh lợi, b́nh an cho chính ḿnh; hoặc là để thân thể khỏe mạnh mà vận động. Những hạng người ấy đều chẳng thành tựu công đức thứ nhất trong Nhập môn, chẳng được văng sanh An Lạc quốc. Do vậy, hỡi Tịnh nghiệp hành nhân! Khi quư vị lạy Phật, mỗi một lạy đều phải chí thành khẩn thiết, tín nguyện văng sanh Tịnh Độ, đích thân phụng sự Phật Di Đà, nghe pháp, thọ kư. Trong Tịnh Độ Sám có câu “nhất tâm quy mạng Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật” chính là trọn đủ tín nguyện lễ Phật vậy. Như phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có nói: “Tận pháp giới vi trần số chư Phật, ngă dĩ Phổ Hiền hạnh nguyện lực cố, thâm tâm tín giải, như đối mục tiền, tất dĩ thanh tịnh thân ngữ ư nghiệp, thường tu lễ kính. Nhất nhất Phật sở, giai hiện bất khả thuyết trần số thân, nhất nhất thân biến lễ bất khả thuyết trần số Phật… vô hữu cùng tận, niệm niệm tương tục, vô hữu gián đoạn, thân ngữ ư nghiệp vô hữu b́ yếm” (Trọn hết pháp giới chư Phật nhiều như số vi trần, tôi do sức của hạnh nguyện Phổ Hiền thâm tâm tin hiểu, như đối trước mắt, đều dùng thân ngữ ư nghiệp thanh tịnh, thường tu lễ kính. Ở nơi mỗi đức Phật, đều hiện chẳng thể nói thân nhiều như vi trần. Mỗi thân lễ trọn khắp chẳng thể nói chư Phật nhiều như số vi trần… chẳng có cùng tận, niệm niệm liên tục, chẳng gián đoạn, thân ngữ ư nghiệp chẳng có mệt chán). Nếu có thể v́ văng sanh Cực Lạc mà thường chí thành lễ Phật chẳng gián đoạn, chẳng mệt chán, do A Di Đà Phật đại diện cho hết thảy các đức Phật, [cho nên] lễ kính Phật Di Đà tức là lễ kính chư Phật. Không chỉ là có thể thành tựu tướng công đức đầu tiên là văng sanh Tịnh Độ, đạt được Cận Môn thuộc về Nhập, mà c̣n có thể thành tựu công đức của Như Lai, tức là Phật hạnh. Có thể dùng công đức của nguyện hạnh lễ bái ấy để dẫn về Cực Lạc th́ chính là Phổ Hiền Hạnh, ắt được văng sanh. Cư sĩ Vương Nhật Hưu đời Tống hằng ngày lễ A Di Đà Phật một ngàn lạy, nguyện sanh về An Lạc. Tới khi lâm chung, đứng trước tượng Phật mà văng sanh, Ngài là tấm gương tốt nhất cho chúng ta.

 

2.2.2.2.10.2.3. Giải thích môn nhập thứ hai

         

          (Luận) Nhập đệ nhị môn giả, dĩ tán thán A Di Đà Phật, tùy thuận danh nghĩa xưng Như Lai danh, y Như Lai quang minh trí tướng tu hành cố, đắc nhập đại hội chúng số. Thị danh Nhập đệ nhị môn.

          (Chú) Y Như Lai danh nghĩa tán thán, thị đệ nhị công đức tướng.

          ()入第二門者。以讚歎阿彌陀佛。隨順名義。稱如來名。依如來光明智相修行故。得入大會眾數。是名入第二門。

          ()依如來名義讚歎。是第二功德相。

          (Luận: Môn thứ hai của Nhập là dùng tán thán A Di Đà Phật, do thuận theo ư nghĩa trong danh hiệu mà xưng niệm Như Lai danh, nương theo quang minh trí tướng của Như Lai để tu hành bèn dự vào hàng đại chúng trong Phật hội. Đó gọi là môn thứ hai của Nhập.

          Chú: Nương theo danh nghĩa của Như Lai để tán thán th́ là tướng công đức thứ hai).

 

          Nói tán thán là môn Nhập thứ hai, v́ xưng danh hiệu Phật chính là tán thán hết thảy công đức của A Di Đà Phật. Tùy thuận A Di Đà Phật, tức Vô Ngại Quang Phật. Thân quang và trí quang của Ngài chiếu trọn khắp mười phương chẳng bị chướng ngại. Khi quư vị niệm danh hiệu Ngài, dùng ba nghiệp thanh tịnh quán tưởng quang minh và trí tướng của A Di Đà Phật để xưng niệm danh hiệu Phật. Danh hiệu của Phật chính là quang minh và trí tướng. Xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật chính là xưng tán A Di Đà Phật quang minh vô lượng, trí huệ vô lượng, công đức vô lượng. V́ thế, A Di Đà Phật c̣n gọi là Vô Lượng Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, cho đến Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật. Tu hành như thế, thực hiện dễ, thành công cao, có thể thành tựu môn công đức thứ hai của Nhập, được sanh về Tịnh Độ, tiến nhập đại chúng trong hội thuyết pháp của A Di Đà Phật, trở thành Bồ Đề pháp quyến của A Di Đà Phật. Đó gọi là tướng công đức thứ hai. Cũng có kẻ xưng niệm A Di Đà Phật mà chẳng được dự vào trong số đại chúng nơi hội thuyết pháp của A Di Đà Phật là v́ có tâm nghi hoặc, chẳng có trí huệ, chẳng phải là nương theo tướng trí huệ quang minh của A Di Đà Phật để xưng niệm. Do vậy, sẽ sanh vào biên địa của thế giới Cực Lạc, chẳng được thấy Phật, nghe pháp, cúng dường Bồ Tát đại chúng, phải trải qua năm trăm năm mới được dự vào trong số đại chúng thuộc hội thuyết pháp của đức Phật, đánh mất lợi ích to lớn!

          Nếu có thể vâng theo lời phẩm Hạnh Nguyện đă dạy: “Tận pháp giới vi trần trung, giai hữu vi trần số Phật, nhất nhất Phật sở giai hữu Bồ Tát hải hội vi nhiễu, ngă đương tất dĩ thậm thâm thắng giải hiện tiền tri kiến, các dĩ xuất quá Biện Tài Thiên Nữ vi diệu thiệt căn, xuất nhất thiết ngôn từ hải, xưng dương tán thán nhất thiết Như Lai chư công đức hải” (Trong mỗi vi trần của tột cùng pháp giới đều có chư Phật nhiều như số vi trần. Nơi mỗi đức Phật đều có Bồ Tát nhóm họp như biển vây quanh Phật. Tôi ắt đều dùng kiến giải thù thắng rất sâu và tri kiến hiện tiền, đều dùng cái lưỡi vi diệu vượt trỗi Biện Tài Thiên Nữ, phát ra hết thảy biển các ngôn từ để xưng tụng, tán thán các biển công đức của hết thảy Như Lai). Do thời gian và không gian vô tận, tán thán cũng chẳng cùng tận, niệm niệm liên tục, chẳng hề gián đoạn. Thân ngữ ư nghiệp chẳng có chán mệt th́ càng tốt hơn.

          Dùng nguyện hạnh này dẫn về Cực Lạc, liền được văng sanh, thành tựu công đức của Như Lai, như phẩm Hạnh Nguyện có nói: “Thị nhân lâm mạng chung thời, tối hậu sát-na, nhất thiết chư căn tất giai tán hoại, nhất thiết thân thuộc tất giai xả ly, nhất thiết oai thế tất giai thoái thất, phụ tướng, đại thần, cung thành nội ngoại, tượng mă xa thặng, trân bảo phục tạng, như thị nhất thiết, vô phục tương tùy. Duy thử nguyện vương bất tương xả ly. Ư nhất thiết thời, dẫn đạo kỳ tiền, nhất sát-na trung, tức đắc văng sanh Cực Lạc thế giới… tự kiến sanh liên hoa trung, mông Phật thọ kư, đắc thọ kư dĩ, tận ư vị lai kiếp hải, quảng năng lợi ích nhất thiết chúng sanh” (Khi người ấy sắp mạng chung, trong sát-na cuối cùng, hết thảy các căn thảy đều tan hoại, hết thảy quyến thuộc thảy đều ĺa bỏ, hết thảy oai thế thảy đều suy sụp, phụ tướng, đại thần, cung điện trong ngoài, voi, ngựa, xe cộ, kho báu trân quư, hết thảy như thế chẳng c̣n thuận theo. Chỉ có nguyện vương này chẳng hề ĺa bỏ, trong hết thảy các thời, nó dẫn đường đằng trước, trong một sát-na, liền được văng sanh thế giới Cực Lạc… tự thấy [chính ḿnh] sanh trong hoa sen, được Phật thọ kư. Đă được thọ kư, bèn trong tột cùng biển vị lai kiếp, có thể lợi ích rộng lớn hết thảy chúng sanh).  

 

2.2.2.2.10.2.4. Giải thích môn nhập thứ ba

 

          (Luận) Nhập đệ tam môn giả, dĩ nhất tâm chuyên niệm, tác nguyện sanh bỉ, tu Xa-ma-tha tịch tĩnh tam-muội hạnh cố, đắc nhập Liên Hoa Tạng thế giới. Thị danh Nhập đệ tam môn.

          (Chú) Vị tu tịch tĩnh Chỉ cố, nhất tâm nguyện sanh bỉ quốc. Thị đệ tam công đức tướng.

          ()入第三門者。以一心專念。作願生彼。修奢摩他。寂靜三昧行故。得入蓮華藏世界。是名入第三門 

          ()為修寂靜止故。一心願生彼國。是第三功德相。

          (Luận: Môn Nhập thứ ba là dùng nhất tâm chuyên niệm, phát nguyện sanh về đó, do tu hạnh tam-muội Xa-ma-tha tịch tĩnh nên được vào trong thế giới Liên Hoa Tạng. Đó gọi là môn thứ ba của Nhập. 

          Chú: V́ tu tịch tĩnh Chỉ mà nhất tâm nguyện sanh về cơi ấy. Đó là tướng công đức thứ ba).

 

           Nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật, phát nguyện văng sanh An Lạc Tịnh Độ, như thế sẽ có thể khiến cho cái tâm b́nh thường tán loạn, vọng tưởng, phân biệt của chúng ta trở về cái tâm tịch tĩnh vô phân biệt. Do đó, để hành pháp Ban Châu tam-muội cần phải kiến lập đại tín nguyện, niệm chuyên nhất, sẽ có thể đắc tam-muội. Tam-muội (Samadhi) là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Chánh Định, cũng chính là nhất tâm bất loạn. Hai môn trước đều thuộc loại tán tâm tu hành, môn thứ ba này thuộc về định tâm tu hành. Do đó, Luận viết: “Tu Xa-ma-tha (Chỉ) tịch tĩnh tam-muội hạnh”. Tán tâm th́ có gián đoạn, có tạp niệm, có vọng tưởng, có phân biệt. Định tâm th́ không gián đoạn, không có tạp niệm, không có vọng tưởng, phân biệt. Không gián đoạn, không có tạp niệm, không có vọng tưởng, th́ gọi là “nhất tâm chánh niệm”. Đấy chính là điều kiện tất yếu để văng sanh Tịnh Độ. Kinh nói “mười niệm được sanh” cũng là nói khi lâm chung thành tựu nhất tâm chánh niệm không gián đoạn, không có tạp niệm và vọng tưởng, mười niệm niệm Phật như thế đó!

          Luận viết: “Đắc nhập Liên Hoa Tạng thế giới” (Được vào trong thế giới Hoa Tạng). V́ thế giới Cực Lạc là một thế giới trong Liên Hoa Tạng thế giới hải; đă sanh vào Cực Lạc, tức là vào trong thế giới Liên Hoa Tạng. Lại nói thế giới Liên Hoa Tạng là Tha Thọ Dụng Báo Độ của chư Phật, giống như thế giới Cực Lạc là Tha Thọ Dụng Báo Độ của A Di Đà Phật. V́ thế, Hoa Tạng và Cực Lạc chẳng một, chẳng khác[3]. Nhưng nếu dựa theo đường lối khó hành (nan hành đạo) thông thường trong Bồ Tát đạo th́ muốn sanh vào thế giới Hoa Tạng sẽ rất khó khăn! Cần phải trải qua một đại A-tăng-kỳ kiếp, phá vô minh, chứng Pháp Thân th́ mới vào được. Nay tu pháp môn Ngũ Niệm, nhất tâm chuyên niệm, phát nguyện sanh về cơi Cực Lạc th́ chính là tu tam-muội hạnh, có thể đắc nhất tâm bất loạn (Chỉ), ắt sanh vào Cực Lạc, tức là đă vào trong thế giới Hoa Tạng. Đấy là một con đường nhanh, tắt, dễ dàng nhất, thuận tiện nhất, không chi hơn được, mà cũng là Hoa Tạng đại môn b́nh đẳng nhất, phổ cập nhất.

          Chúng sanh thuộc ba bậc, chín phẩm đầy đủ tín nguyện, thành tựu nhất tâm chuyên niệm, ai nấy đều có thể tiến nhập thế giới Hoa Tạng. Như Long Thọ, Thế Thân Bồ Tát, lịch đại tổ sư Tịnh Độ Tông của Trung Hoa đều là thượng phẩm thượng sanh, hễ văng sanh liền vào trong [thế giới Hoa Tạng], liền trông thấy thế giới Hoa Tạng. Những kẻ văng sanh khác thuộc trung hạ phẩm, tuy sanh trong cơi Đồng Cư hoặc Phương Tiện, nhưng ngay nơi đó chính là Thật Báo Trang Nghiêm Độ của Phật Di Đà, v́ thế giới Cực Lạc có đủ bốn cơi theo chiều ngang, cho nên ai nấy đều được tiến nhập thế giới Hoa Tạng. Cổ đức tán thán pháp môn Tịnh Độ đă có một đôi câu đối như sau: “Tứ sanh cửu hữu đồng đăng Hoa Tạng huyền môn, bát nạn tam đồ cộng nhập Di Đà nguyện hải”. Đấy là chân thật ngữ, xác thực là như thế đó! Dự vào thế giới Hoa Tạng giống như vào một ṭa nhà hoa lệ. V́ thế, môn thứ ba này được gọi là Trạch Môn.

 

2.2.2.2.10.2.5. Giải thích môn nhập thứ tư

 

          (Luận) Nhập đệ tứ môn giả, dĩ chuyên niệm quán sát bỉ diệu trang nghiêm, tu Tỳ-bà-xá-na cố, đắc đáo bỉ xứ, thọ dụng chủng chủng pháp vị lạc. Thị danh Nhập đệ tứ môn.

          (Chú) Chủng chủng pháp vị lạc giả, Tỳ-bà-xá-na trung, hữu quán Phật quốc độ thanh tịnh vị, nhiếp thọ chúng sanh Đại Thừa vị, tất cánh trụ tŕ bất hư tác vị, loại sự khởi hạnh nguyện thủ Phật độ vị, hữu như thị đẳng vô lượng trang nghiêm Phật đạo vị, cố ngôn “chủng chủng”. Thị đệ tứ công đức tướng.

          ()入第四門者。以專念觀察彼妙莊嚴。修毘婆舍那故。得到彼。處受用種種法味樂。是名入第四門。 

          ()種種法味樂者。毘婆舍那中。有觀佛國土清淨味。攝受眾生大乘味。畢竟住持不虛作味。類事起行。願取佛土味。有如是等無量莊嚴佛道味。故言種種。是第四功德相。

          (Luận: Môn Nhập thứ tư là do chuyên niệm, quan sát sự trang nghiêm ấy mà tu Tỳ-bà-xá-na, cho nên đến được cơi ấy, thọ dụng đủ mọi niềm vui pháp vị. Đó gọi là môn Nhập thứ tư.

          Chú: “Đủ mọi niềm vui pháp vị”: Trong Tỳ-bà-xá-na, có quán cơi Phật thanh tịnh vị, nhiếp thọ chúng sanh Đại Thừa vị, rốt ráo trụ tŕ chẳng uổng công thực hiện vị, thuận theo sự tương tự mà dấy lên hạnh nguyện giữ lấy cơi Phật vị, có vô lượng trang nghiêm Phật đạo vị như thế, cho nên nói là “đủ mọi thứ”. Đấy là tướng công đức thứ tư).

         

          Luận nói dùng chuyên niệm, quan sát sự trang nghiêm mầu nhiệm ấy. “Chuyên niệm” tức là tu Chỉ, “quan sát” chính là tu Quán. Đấy chính là Chỉ Quán bất nhị, là phương pháp Chỉ Quán vận dụng đồng thời Chỉ và Quán của Đại Thừa. “Sự trang nghiêm mầu nhiệm ấy” tức là y báo và chánh báo trang nghiêm của An Lạc Tịnh Độ, đều vi diệu chẳng thể nghĩ bàn. Đấy là cảnh được quán. Chuyên niệm quan sát là cái tâm năng quán (chủ thể thực hiện việc quán tưởng). Chỉ có cái tâm chuyên niệm y báo và chánh báo của đức Phật ấy có thể quán cảnh vi diệu trong cơi ấy. Tâm và cảnh khế hợp lẫn nhau, có thể thành tựu niệm Phật, quán Phật tam-muội. Môn tam-muội này chính là nhất tâm chánh niệm. Nương theo nhất tâm mà chuyên niệm, dấy lên sự quan sát, tức là do Chỉ mà khởi Quán. Quán thành tam-muội th́ gọi là Quán Phật tam-muội. Niệm Phật tam-muội là vua trong các tam-muội. Như Huệ Viễn đại sư là Tịnh Độ Tông Sơ Tổ đă viết trong bài tựa cho tác phẩm Lư Sơn Niệm Phật Tam Muội: “Danh hiệu của tam-muội rất nhiều, nhưng công đức dễ tăng tấn th́ Niệm Phật đứng đầu. V́ sao? Tôn hiệu của Như Lai tột cùng huyền diệu, tột bậc vắng lặng. Thể và thần (tâm thức) [do tu Niệm Phật tam-muội] mà cùng nhau chuyển biến, ứng hiện chẳng sót. V́ thế, dạy [hành nhân] nhập Định này, [hành nhân] sẽ ngấm ngầm quên mất tri kiến [hư vọng], tức là sử dụng ngay cái pháp để duyên vào mà thành tựu Quán. Quán đă thông tỏ th́ sự chiếu soi bên trong sẽ chói ngời lẫn nhau, muôn h́nh tượng đều sanh, chẳng phải là chuyện mắt thấy, tai nghe. Do vậy, linh tướng lặng trong, thuần nhất, trong sáng tự nhiên. Nguyên âm (danh hiệu Phật) chính là tâm, những t́nh kiến trầm trệ bị chuyển hóa thành rạng ngời, điều tột cùng nhất trong thiên hạ há có thể sánh bằng điều này được ư? Đấy là tướng công đức của môn thứ tư.

          Sơ Tổ ở Lư Sơn ba mươi năm, chưa từng xuống núi vào cơi đời, chuyên dốc chí nơi Tịnh Độ, lắng ḷng quán tưởng. V́ thế, Ngài ba lần được thấy tướng hảo và quang minh của A Di Đà Phật, nhưng chẳng kể với ai. Bảy ngày trước lúc lâm chung, Tổ xuất Định, lại thấy thân A Di Đà Phật đầy khắp hư không. Đức Phật bảo tổ Huệ Viễn: “Ta do sức bổn nguyện đến an ủi ngươi, bảy ngày sau, ngươi sẽ sanh về cơi ta”. Vào ngày mồng Sáu tháng Tám, Tổ bèn đoan tọa văng sanh. Đấy là Thượng Phẩm Thượng Sanh, là khuôn mẫu đáng cho liên hữu Tịnh Tông chúng ta học theo nhất. Ai có thể nói pháp môn Niệm Phật chẳng thể phá vô minh, chứng Pháp Thân, thấy Báo Thân viên măn của A Di Đà Phật, hễ văng sanh liền vào trong Tha Thọ Dụng Báo Độ của Phật ư? Đă vào Báo Độ, bèn được hưởng đủ mọi niềm vui pháp vị. Chẳng hạn như đă nói trong phần trước: Niềm vui pháp vị do mười bảy thứ trang nghiêm thanh tịnh nơi khí thế gian, niềm vui pháp vị do tám thứ tự tại tự lợi và lợi tha của A Di Đà Phật, và niềm vui pháp vị do bốn thứ công đức chánh tu hành của Bồ Tát, niềm vui pháp vị Đại Thừa do hết thảy chúng sanh cùng dự vào Chánh Định Tụ, niềm vui pháp vị do bốn mươi tám nguyện thành tựu “chẳng uổng công thực hiện trụ tŕ” chẳng thể nghĩ bàn, niềm vui pháp vị do “thấy người hiền, mong được bằng”, thuận theo sự khởi hạnh, phát nguyện trang nghiêm quốc độ, thành thục chúng sanh cũng giống như thế. Có vô lượng vô biên Bồ Đề giác pháp vị lạc để trang nghiêm con đường thành Phật như thế đó, đều thuộc vào môn Nhập thứ tư. Do thành tựu tướng công đức, ắt sẽ được thọ dụng niềm vui pháp vị. V́ thế, Luận nói: “Thọ dụng chủng chủng pháp vị lạc” (Thọ dụng đủ mọi niềm vui pháp vị). Đúng là nói chẳng hết được, chẳng đếm trọn được! Như một người đă vào trong ṭa nhà trang nghiêm, lộng lẫy, bèn vào trong căn pḥng thanh tịnh an ổn, hưởng thụ đủ mọi thứ vui sướng, như là: Niềm vui do ĺa khỏi nghiệp trói buộc, Bồ Đề giác pháp lạc, Niết Bàn tịch tĩnh lạc v.v… Nói chung, chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng các sự vui. V́ thế gọi là niềm vui do thọ dụng các thứ pháp vị. Do vậy, môn thứ tư được gọi là Ốc Môn, tức là đăng đường nhập thất, hưởng lạc vô cùng. Bởi thế, cơi ấy được gọi là Cực Lạc!

 

2.2.2.2.10.2.6. Môn thứ năm là Xuất

 

          (Luận) Xuất đệ ngũ môn giả, dĩ đại từ bi, quán sát nhất thiết khổ năo chúng sanh, thị Ứng Hóa Thân, hồi nhập sanh tử viên, phiền năo lâm trung, du hư thần thông, chí Giáo Hóa Địa, dĩ bổn nguyện lực hồi hướng cố. Thị danh Xuất đệ ngũ môn.

          (Chú) “Thị Ứng Hóa Thân” giả, như Pháp Hoa kinh Phổ Môn thị hiện chi loại dă. “Du hư” hữu nhị nghĩa: Nhất giả, tự tại nghĩa. Bồ Tát độ chúng sanh thí như sư tử bác lộc, sở vi bất nan, như tự du hư. Nhị giả, độ vô sở độ nghĩa. Bồ Tát quán chúng sanh, tất cánh vô sở hữu. Tuy độ vô lượng chúng sanh, nhi thật vô nhất chúng sanh đắc diệt độ giả. Thị độ chúng sanh, như tự du hư. Ngôn “bổn nguyện lực” giả, thị đại Bồ Tát ư Pháp Thân trung, thường tại tam-muội, nhi hiện chủng chủng thân, chủng chủng thần thông, chủng chủng thuyết pháp, giai dĩ bổn nguyện lực khởi. Thí như A Tu La cầm, tuy vô cổ giả, nhi âm khúc tự nhiên. Thị danh Giáo Hóa Địa đệ ngũ công đức tướng.

          ()出第五門者。以大慈悲。觀察一切苦惱眾生。示應化身。迴入生死園。煩惱林中。遊戲神通。至教化地。以本願力迴向故。是名出第五門。

          ()示應化身者。如法華經普門。示現之類也。遊戲有二義。一者自在義。菩薩度眾生。譬如獅子搏鹿。所為不難。如似遊戲。二者度無所度義。菩薩觀眾生。畢竟無所有。雖度無量眾生。而實無一眾生得滅度者。示度眾生如似遊戲。言本願力者。示大菩薩於法身中。常在三昧。而現種種身。種種神通。種種說法。皆以本願力起。譬如阿修羅琴。雖無鼓者。而音曲自然。是名教化地。第五功德相。

          (Luận: Môn thứ năm là Xuất: Dùng ḷng đại từ bi để quan sát hết thảy chúng sanh khổ năo, thị hiện Ứng Hóa Thân, trở vào vườn sanh tử, rừng phiền năo, du hư thần thông, đạt đến địa vị Giáo Hóa, dùng sức bổn nguyện để hồi hướng. Đấy gọi là môn thứ năm thuộc về Xuất.

          Chú: “Thị hiện thân Ứng Hóa” là các thứ thị hiện như trong phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa đă nói. “Du hư” có hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất là tự tại. Bồ Tát độ chúng sanh ví như sư tử bắt nai, chẳng khó khăn ǵ, dường như vui chơi. Nghĩa thứ hai là “độ mà không có ǵ được độ”. Bồ Tát quán chúng sanh rốt ráo vô sở hữu. Tuy độ vô lượng chúng sanh, nhưng thật sự chẳng có một chúng sanh được diệt độ. Chuyện độ chúng sanh ấy giống như vui chơi. Nói “sức bổn nguyện” là chỉ ra đại Bồ Tát từ Pháp Thân thường trụ trong tam-muội, mà hiện đủ mọi thân, các thứ thần thông, các thứ thuyết pháp, đều là do sức bổn nguyện dấy lên. Ví như cây đàn của A Tu La, tuy chẳng có ai khảy mà khúc nhạc tự nhiên. Đó gọi là tướng công đức thứ năm nơi địa vị Giáo Hóa). 

 

          Môn thứ năm thuộc Xuất chính là Bồ Tát tu Ngũ Niệm Môn thành tựu, bốn môn đầu là tự lợi, do hướng thượng tấn tu, nên [bốn môn ấy] là Nhập, [tức là] nhập An Lạc Tịnh Độ, viên măn công đức tự lợi. Lại từ Tịnh Độ mà xuất, thị hiện thân Ứng Hóa, trở vào Sa Bà độ chúng sanh, viên măn công đức lợi tha. Đấy là môn thứ năm trong pháp môn Ngũ Niệm; v́ thế, gọi là môn thứ năm thuộc Xuất.

          Ngài Đàm Loan đă giải thích tám câu trong phần Luận này bằng ba đoạn:

          1) Giải thích thị hiện Ứng Hóa Thân là ǵ? Chính là như trong phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn của kinh Pháp Hoa, đấy là thí dụ tốt nhất về sự thị hiện thân ứng hóa của Bồ Tát. Quán Thế Âm Bồ Tát có tiếng thơm là “đại bi”, v́ tâm từ bi của Ngài lớn nhất. Ngài thường xuyên do ḷng đại từ bi mà quan sát hết thảy chúng sanh khổ năo, tầm thanh cứu khổ. Do vậy, trong Phật môn, có bài kệ tụng ca ngợi Quán Âm Bồ Tát như sau: “Tam thập nhị ứng biến trần sát, bách thiên ức kiếp hóa Diêm Phù, thiên xứ kỳ cầu thiên xứ ứng, khổ hải thường tác độ nhân châu” (Ba mươi hai thân ứng trọn khắp các cơi nước nhiều như vi trần, trong trăm ngàn ức kiếp hóa độ Diêm Phù, ngàn chốn cầu đảo, Ngài đều ứng hiện ngàn nơi, trong biển khổ thường làm chiếc thuyền độ người). Dùng sự tích của Quán Âm Bồ Tát để thuyết minh phần Luận nói về “thị hiện ứng thân, trở vào vườn sanh tử, ở trong rừng phiền năo, du hư thần thông, đạt đến địa vị Giáo Hóa” trong môn thứ năm thuộc Xuất th́ là tuyệt hảo, không ǵ hay hơn nữa.

          2) Giải thích “du hư thần thông” có hai thứ ư nghĩa:

          a) Nghĩa thứ nhất là tự tại. Dùng chuyện sư tử bắt nai là chuyện dễ dàng để sánh ví Bồ Tát độ chúng sanh tùy tâm thực hiện, tùy ư tự tại. Việc làm chẳng khó, giống như trẻ nhỏ trong ấu trĩ viên (kindergarten) chơi đùa vậy.

          b) Nghĩa thứ hai là hóa độ mà không có người được hóa độ. Chính là Bồ Tát có trí huệ tam luân thể không, [tức là] chẳng chấp trước ta là người độ, chúng sanh là người được độ, [và có pháp để hóa độ]. V́ thế, suốt ngày độ chúng sanh, mà chẳng có ngă tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng. Như kinh Kim Cang đă nói: Bồ Tát diệt độ vô lượng chúng sanh mà thật sự chẳng có một chúng sanh nào được diệt độ! Hết thảy sự nghiệp độ sanh đều là trụ trong Lư Thể vô vi để làm Phật sự hữu vi, thường nói là “yến tọa thủy nguyệt đạo tràng, quảng tác mộng trung Phật sự” (ngồi thảnh thơi trong đạo tràng như bóng trăng trong nước, rộng làm các Phật sự trong mộng). Hết thảy như huyễn, như mộng, giống như đang du hư. Như kinh Vô Lượng Thọ có nói: “Thí như huyễn sư hiện chúng dị tượng, vi nam, vi nữ, vô sở bất biến. Bổn học minh liễu, tại ư sở vi” (Ví như nhà ảo thuật hiện ra các h́nh tượng khác lạ, hoặc nam, hoặc nữ, không ǵ chẳng biến ra. Do đă hiểu rơ học thuật của chính ḿnh, cho nên tùy ư thực hiện).

          3) Giải thích thế nào là dùng sức bổn nguyện để hồi hướng, “thị đại Bồ Tát ư Pháp Thân trung, thường tại tam-muội, nhi hiện chủng chủng thân, thuyết chủng chủng pháp đẳng, giai dĩ bổn nguyện lực khởi” (chỉ ra hàng đại Bồ Tát thường ở trong tam-muội, từ nơi Pháp Thân mà hiện đủ mọi thân, nói đủ mọi pháp v.v… đều là do sức bổn nguyện mà dấy lên). Đấy là nói Bồ Tát hễ văng sanh An Lạc Tịnh Độ, đều đă phát Đại Thừa Bồ Đề tâm, ắt đạt đến địa vị đại Bồ Tát bất thoái chuyển từ Sơ Địa trở lên, đều v́ độ chúng sanh mà sanh vào Tịnh Độ. Do đó sau bốn môn thuộc về Nhập, ắt phải có môn thứ năm là Xuất để hồi hướng. Nhưng để có thể trở vào vườn sanh tử, rừng phiền năo, ḥng độ chúng sanh ương ngạnh, khó giáo hóa, chắc chắn phải là bậc Địa Thượng Bồ Tát đă phá vô minh, chứng Pháp Thân th́ mới có thể làm được. Do đó nói “thị đại Bồ Tát ư Pháp Thân trung” (chỉ ra các vị đại Bồ Tát ấy từ trong Pháp Thân).

          Hàng Pháp Thân đại sĩ như Quán Âm, Thế Chí v.v… đă thành tựu bốn thứ công đức chánh tu hành như đă nói trên đây, đương nhiên là có thể thường ở trong tam-muội mà tùy loại hiện thân thuyết pháp. Như phẩm Phổ Môn đă nói: Đối với người đáng nên dùng thân Phật để độ được, liền hiện thân Phật để thuyết pháp cho người ấy. Hoặc là thị hiện các thân phàm phu, Nhị Thừa, Bồ Tát v.v… nói đủ mọi thứ pháp có thể khế hợp căn cơ của chúng sanh. Đấy đều là du hư thần thông của đại Bồ Tát. Ngài Đàm Loan lại nêu ra cây đàn của A Tu La để thí dụ hết thảy hành vi độ sanh của Bồ Tát đều do tâm đại bi mà phát đại Bồ Đề tâm, do Bồ Đề tâm mà phát ra bổn nguyện “thượng cầu, hạ hóa”, nương theo sức bổn nguyện ấy, chẳng cần tác ư, tùy ư tự nhiên mà hiện thân ứng hóa, du hư thần thông, đạt đến địa vị Giáo Hóa, thuyết pháp, hoặc hiện thần thông, phổ độ chúng sanh.

 

2.2.2.2.10.3. Tổng kết thành tựu của hai thứ lợi

2.2.2.2.10.3.1. Tự lợi

 

          (Luận) Bồ Tát nhập tứ chủng môn, tự lợi hạnh thành tựu, ưng tri.

          (Chú) “Thành tựu” giả, vị tự lợi măn túc dă. “Ưng tri” giả, vị ưng tri do tự lợi cố, tắc năng lợi tha, phi thị bất năng tự lợi nhi năng lợi tha dă.

          ()菩薩入四種門。自利行成就。應知。

          ()成就者。謂自利滿足也。應知者。謂應知由自利故。則能利他。非是不能自利。而能利他也。

          (Luận: Bốn loại môn Nhập của Bồ Tát thành tựu hạnh tự lợi, hăy nên biết.   Chú: “Thành tựu” ư nói: Tự lợi được trọn vẹn. “Hăy nên biết” chính là nói: Hăy nên biết do tự lợi bèn có thể lợi tha, chẳng phải là không thể tự lợi mà lại có thể lợi tha được).

 

          Đây là phần tổng kết [cho tiểu đoạn] “Bồ Tát tu năm môn có thể thành tựu viên măn công đức tự lợi và lợi tha”. Trước hết nói về tự lợi. Luận Chủ nói: Có thể nương theo luận này tu pháp môn Ngũ Niệm, từ lễ bái cho đến quan sát, sẽ dần dần nhập bốn loại môn ấy; vậy th́ hạnh tự lợi của hết thảy Bồ Tát đều có thể thành tựu. “Thành tựu” là trọn vẹn chẳng sót. V́ sao vậy? Do v́ Bồ Tát tu Ngũ Niệm Môn chính là nương cậy sức bổn nguyện của A Di Đà Phật mà tu, như đứa trẻ nít dựa dẫm cha mẹ dẫn dắt đi lại, chắc chắn chẳng đến nỗi gặp phải nguy hiểm như bị lạc đường hoặc vấp té, ắt có thể đến đích an toàn, tức là quốc độ thanh tịnh được chư Phật cùng khen ngợi. Ở đó, có các vị thượng thiện nhân cùng nhóm họp một chỗ, bất cứ lúc nào cũng đều có thể thấy Phật, nghe pháp, hằng ngày cúng dường trọn khắp mười phương chư Phật. Tu phước và tu huệ như thế, không ngừng tăng thượng, chẳng bị thoái chuyển. Lại do thọ mạng giống như Phật, đều là vô lượng thọ, cho nên có thể ngay trong một đời mà tu viên măn công đức tự lợi của Bồ Tát. Đă có thể tự lợi, ắt sẽ có thể lợi tha, chắc chắn chẳng phải là “không thể tự lợi mà có thể lợi tha”. Chúng ta hăy nên nhận biết rơ ràng điểm này. Do vậy, Ngũ Niệm Môn được gọi là đạo dễ hành của Bồ Tát, là phương tiện thù thắng để hóa độ chúng sanh của chư Phật, Bồ Tát, là con đường tắt nhất để hoàn thành công đức tự lợi và lợi tha.

 

2.2.2.2.10.3.2. Lợi tha

         

          (Luận) Bồ Tát xuất đệ ngũ môn, hồi hướng lợi ích tha hạnh thành tựu, ưng tri.

          (Chú) “Thành tựu” giả, vị dĩ hồi hướng nhân, chứng Giáo Hóa Địa quả. Nhược nhân, nhược quả, vô hữu nhất sự bất năng lợi tha. Ưng tri giả, vị ưng tri do lợi tha cố, tắc năng tự lợi, phi thị bất năng lợi tha nhi năng tự lợi dă.

          ()菩薩出第五門。迴向利益他行成就。應知。 

          ()就者謂以迴向因。證教化地果。若因若果。無有一事不能利他。應知者。謂應知由利他故。則能自利。非是不能利他。而能自利也。

          (Luận: Môn thứ năm thuộc Xuất của Bồ Tát thành tựu hạnh hồi hướng lợi ích cho người khác, hăy nên biết.

          Chú: “Thành tựu” là dùng hồi hướng làm nhân để chứng cái quả nơi địa vị Giáo Hóa. Dù nhân hay quả, không có một chuyện nào chẳng thể lợi tha. “Hăy nên biết” ư nói: Hăy nên biết do lợi tha mà có thể tự lợi, chẳng phải là “không thể lợi tha mà có thể tự lợi” được).

 

          Luận Chủ lại tổng kết về lợi tha. Bồ Tát tu Hồi Hướng Môn trong Ngũ Niệm Môn, dùng nhân hạnh hồi hướng chứng đắc Giáo Hóa Địa, tức là quả vị Thập Địa trong Biệt Giáo, hoặc là từ Thập Trụ trở lên trong Viên Giáo. Dùng nhân quả ấy để hồi hướng lợi tha, những việc đă làm đều có thể lợi ích chúng sanh, bèn được thành tựu viên măn hạnh lợi tha. “Hăy nên biết” tức là hăy nên biết: Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, đều dùng lợi tha làm điểm xuất phát, có thể thành tựu công đức, đều là có thể từ ngay lợi tha mà thành tựu tự lợi. Chắc chắn chẳng phải là “không có đại Bồ Đề tâm lợi tha mà có thể thành tựu tự lợi của Bồ Tát để thành Phật được”. Do vậy, tiêu chuẩn của Bồ Tát đạo là “độ sanh (lợi tha) thành Phật (tự lợi), thành Phật ḥng độ sanh”. Tự lợi và lợi tha là hai mặt của cùng một chuyện, hễ thành th́ sẽ thành tựu lẫn nhau, hễ mất th́ mất lẫn nhau. Phàm là Bồ Tát, ắt cần phải biết điều này!

 

2.2.2.2.10.3.3. Trọn vẹn hai điều lợi

 

          (Luận) Bồ Tát như thị tu Ngũ Niệm Môn hạnh, tự lợi, lợi tha, tốc đắc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cố.

          (Chú) Phật sở đắc pháp, danh vi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Dĩ đắc thử Bồ Đề, cố danh vi Phật. Kim ngôn “tốc đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”, thị đắc tảo tác Phật dă. A danh Vô, Nậu Đa La danh Thượng, Tam Miệu danh Chánh, Tam danh Biến, Bồ Đề danh Đạo. Thống nhi dịch chi, danh vi Vô Thượng Chánh Biến Đạo. Vô thượng giả, ngôn thử đạo cùng lư tận tánh, cánh vô quá giả. Hà dĩ ngôn chi? Dĩ chánh cố. Chánh giả, thánh trí dă. Như pháp tướng nhi tri, cố xưng vi Chánh Trí. Pháp tánh vô tướng, cố thánh trí vô tri dă. “Biến” hữu nhị chủng: Nhất giả, thánh tâm biến tri nhất thiết pháp; nhị giả, Pháp Thân biến măn pháp giới. Nhược thân, nhược tâm, vô bất biến dă. Đạo giả, vô ngại đạo dă. Kinh ngôn: “Thập phương vô ngại nhân, nhất đạo xuất sanh tử”. Nhất đạo giả, nhất vô ngại đạo dă. Vô ngại giả, vị tri sanh tử tức thị Niết Bàn. Như thị đẳng nhập Bất Nhị pháp môn vô ngại tướng dă.

          ()菩薩如是修五念門行。自利利他。速得成就阿耨多羅三藐三菩提故。

          ()佛所得法。名為阿耨多羅三藐三菩提。以得此菩提。故名為佛。今言速得阿耨多羅三藐三菩提。是得早作佛也。阿名無。耨多羅名上。三藐名正。三名遍。菩提名道。統而譯之。名為無上正遍道。無上者。言此道窮理盡性。更無過者。何以言之。以正故。正者聖智也。如法相而知。故稱為正智。法性無相。故聖智無知也。遍有二種。一者聖心遍知一切法。二者法身遍滿法界。若身若心。無不遍也。道者無礙道也。經言。十方無礙人。一道出生死。一道者一無礙道也。無礙者謂知生死即是涅槃。如是等入不二法門。無礙相也。

          (Luận: Bồ Tát tu hạnh Ngũ Niệm Môn như thế, do tự lợi, lợi tha, nên mau chóng được thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          Chú: Phật đạt được pháp gọi là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Do đắc môn Bồ Đề này, nên gọi là Phật. Nay nói “mau chóng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” tức là sớm được thành Phật. A là Vô, Nậu Đa La là Thượng, Tam Miệu là Chánh, Tam là Biến, Bồ Đề là Đạo. Dịch chung lại sẽ là Vô Thượng Chánh Biến Đạo. “Vô thượng” là nói đạo này cùng lư tận tánh, không chi hơn được. V́ sao nói như vậy? Do [đạo ấy] là chánh. “Chánh” là thánh trí. Do đúng như pháp tướng mà biết, nên gọi là Chánh Trí. Pháp tánh vô tướng, cho nên thánh trí vô tri. “Biến” (trọn khắp) có hai loại: Một là thánh tâm biết trọn khắp hết thảy các pháp; hai là Pháp Thân đầy khắp pháp giới. Dù thân hay tâm, không ǵ chẳng trọn khắp. “Đạo” là đạo vô ngại. Kinh dạy: “Bậc mười phương vô ngại, một đạo thoát sanh tử”. “Một đạo” là đạo vô ngại. “Vô ngại” là biết sanh tử chính là Niết Bàn. Nhập tướng vô ngại của pháp môn Bất Nhị như thế đó).

 

          Luận Chủ quy kết lợi ích do tu hành Ngũ Niệm Môn thành “mau chóng thành vị Phật rốt ráo phước huệ viên măn Vô Thượng Chánh Đẳng Giác”.

          Trước hết, ngài Đàm Loan dịch A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề thành Vô Thượng Chánh Biến Đạo. Bồ Đề bao gồm hai loại nghĩa lư Giác và Đạo. Ngài lại giải thích: Vô Thượng là cùng tánh tận lư, không chi hơn được nữa! Thông thường, chúng ta dùng bài kệ tán Phật có câu: “Nhất thiết vô hữu như Phật giả” (Hết thảy không có ǵ như Phật). Chắc chắn là người đời chẳng có trí huệ cùng lư tận tánh giống như Phật, huống hồ c̣n có kẻ nào vượt trỗi ư? V́ sao nói như vậy? Cùng lư tận tánh th́ gọi là Trí. Phật có chánh tri, chánh kiến, có thể biết tánh và tướng của các pháp cùng tận, đúng thật; đối với cái có bèn biết là có, đối với cái không bèn biết là không. Sự thấy biết ấy đích xác đúng như tánh tướng chân thật của các pháp, chẳng bị điên đảo th́ mới gọi là “trí”. Chúng sanh b́nh phàm luôn chấp hư vọng là thật, hoặc chấp thường, chấp đoạn, chấp có, chấp không, tức là “điên đảo vọng kiến” (kiến giải hư vọng điên đảo), chẳng thể gọi là Trí.

          “Pháp tánh vô tướng, cố thánh trí vô tri” (Do pháp tánh vô tướng, nên thánh trí vô tri). Đối với hai câu này, trong khoa Quảng Lược Tương Nhập (rộng và lược dung nhập lẫn nhau) trong phần trước, ngài Đàm Loan đă nói “Thật Tướng vô tướng, cố chân trí vô tri” (do Thật Tướng không có tướng, nên chân trí vô tri), đại ư [của câu ấy và câu “pháp tánh vô tướng, cố thánh trí vô tri”] tương đồng. “Vô tri” chẳng phải là như gỗ đá, vô tri, vô giác, mà là chẳng có phân biệt, chấp trước! Điều này có hàm ư tương đồng với câu nói của tổ sư Thiên Thai: “Thật Tướng vô tướng, vô bất tướng” (Thật Tướng chẳng có tướng, chẳng phải là không có tướng); tức là Trung Đạo Trí viên dung Nhị Đế, c̣n gọi là Thánh Trí, tức là trí huệ mà Địa Thượng Bồ Tát và chư Phật mới có. Thánh Trí c̣n gọi là Chánh Biến Tri, tức là Bổn Giác Trí của nhất tâm nhị môn, biết trọn khắp “như thị tướng” (tướng là như thế) cho đến “bổn mạt cứu cánh” (gốc ngọn rốt ráo) v.v… của hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Đấy là trí huệ thuộc về Tâm Sanh Diệt Môn, có tên là Như Lượng Trí. Lại có thể chứng đắc Pháp Thân thanh tịnh vô vi trọn khắp mười phương ba đời; đấy là trí huệ thuộc về Tâm Chân Như Môn, gọi là Như Lư Trí. Nhất tâm nhị môn thành tựu hai trí của chư Phật. V́ thế, gọi là Chánh Biến Tri.

          “Đạo” nếu dùng “thập phương vô ngại nhân, nhất đạo xuất sanh tử” (bậc mười phương vô ngại, một đạo thoát sanh tử) để nói, sẽ là vô ngại đạo mà cả ba thừa cùng có. Nếu dùng “sanh tử tức là Niết Bàn, phiền năo tức là Bồ Đề, chúng sanh tức là Phật, ma giới tức là Phật giới, hết thảy pháp đều là Phật pháp, cùng nhập tướng vô ngại của pháp môn Bất Nhị” để nói th́ đấy mới là vô ngại đạo chỉ riêng Đại Thừa Viên Giáo mới có, được gọi là Vô Thượng Đạo của Phật.

          Nay tôi dùng đạo lư “tu Ngũ Niệm Môn thành tựu công đức tự lợi, lợi tha, mau chóng được thành Phật”, nêu ra thí dụ để nói rơ, ḥng khiến cho mọi người dễ liễu giải. Ví như người thế gian ai có thể có tài cao trí lớn (công đức tự lợi), lại có thể xác thực v́ quốc dân mưu cầu phước lợi lớn nhất (công đức lợi tha), bèn có thể làm quốc vương (quốc vương tức là Phật). Quốc dân b́nh phàm mà mong làm quốc vương sẽ chẳng dễ dàng (điều này được gọi Nan Hành Đạo của Bồ Tát). Nhưng nếu sanh ra làm Thái Tử của quốc vương th́ sẽ rất dễ dàng (điều này được gọi là DHành Đạo của Bồ Tát). Tuy nói “ai nấy đều có thể làm quốc vương” (thành Phật), nhưng có khó, có dễ! Nhân dân b́nh phàm th́ rất khó, làm Thái Tử th́ rất dễ làm [quốc vương trong tương lai].

          Khi Thái Tử đầu thai, đó là môn thứ nhất để nhập, tức Cận Môn. Do vậy, Luận viết: “Nhập đệ nhất môn giả, dĩ lễ bái A Di Đà Phật, vị sanh bỉ quốc ư cố, đắc sanh An Lạc thế giới” (Môn thứ nhất của Nhập là dùng lễ bái A Di Đà Phật, ư muốn sanh về cơi ấy, được sanh vào thế giới An Lạc). Đấy là thành tựu môn thứ nhất, tức Lễ Bái Môn trong Ngũ Niệm Môn, được tiến nhập An Lạc Tịnh Độ, thân cận A Di Đà Phật.

          Trụ thai trọn đủ mười tháng, sanh ra trong hoàng cung, trở thành quyến thuộc của quốc vương, gọi quốc vương là cha, được quốc vương nuôi dưỡng khôn lớn. Đấy là môn thứ hai của Nhập, tức Đại Hội Chúng Môn. Do vậy, Luận viết: “Nhập đệ nhị môn giả, dĩ tán thán A Di Đà Phật, tùy thuận danh nghĩa xưng Như Lai danh, y Như Lai quang minh trí tướng tu hành cố, đắc nhập đại hội chúng số. Thị danh Nhập đệ nhị môn” (Môn Nhập thứ hai là dùng tán thán A Di Đà Phật, tùy thuận danh nghĩa mà xưng niệm danh hiệu của Như Lai, v́ nương theo quang minh trí tướng của Như Lai để tu hành mà được dự vào đại chúng trong hội thuyết pháp của đức Phật. Đó gọi là môn thứ hai của Nhập). Đấy chính là thành tựu môn thứ hai, tức Tán Thán Môn trong Ngũ Niệm Môn, được nghe đức Phật thuyết pháp, trưởng dưỡng Pháp Thân huệ mạng.

          Thái Tử từ tuổi thơ ấu bước vào tuổi tráng niên, tài trí trọn đủ, bèn được quốc vương quán đảnh. Tuy vẫn chưa làm quốc vương, nhưng có thể ở trong cung điện lộng lẫy giống hệt như quốc vương, tùy ư dạo chơi. Đấy là môn Nhập thứ ba, tức Trạch Môn. Do vậy, Luận viết: “Nhập đệ tam môn giả, dĩ nhất tâm chuyên niệm, tác nguyện sanh bỉ, tu Xa-ma-tha tịch tĩnh tam-muội hạnh cố, đắc nhập Liên Hoa Tạng thế giới. Thị danh Nhập đệ tam môn” (Môn Nhập thứ ba là dùng nhất tâm chuyên niệm, phát nguyện sanh về cơi ấy, do tu hạnh Xa-ma-tha tịch tĩnh tam-muội mà được vào trong thế giới Liên Hoa Tạng. Đó gọi là môn Nhập thứ ba). Đấy chính là thành tựu môn thứ ba, tức Tác Nguyện Môn trong Ngũ Niệm Môn.

          Trong thế giới Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm (tức thế giới Hoa Tạng), cùng với các vị thượng thiện nhân cùng ngộ Vô Sanh, cùng tu phước huệ, tự lợi, lợi tha. Sau đấy, chánh thức lên ngôi báu của hoàng đế, hưởng thụ trọn hết những sự vui sướng đáng có của quốc vương, cũng có thể yêu dân như con, che chở, tạo phước cho muôn dân, gió ḥa mưa thuận, quốc thái dân an. Đấy chính là môn Nhập thứ tư, tức Ốc Môn. Do vậy, Luận viết: “Dĩ chuyên niệm quán sát bỉ diệu trang nghiêm, tu Tỳ-bà-xá-na cố, đắc đáo bỉ xứ, thọ dụng chủng chủng pháp vị lạc. Thị danh Nhập đệ tứ môn” (Do chuyên niệm, quan sát sự trang nghiêm mầu nhiệm ấy, tu Tỳ-bà-xá-na, được đến nơi ấy, thọ dụng đủ mọi niềm vui pháp vị. Đó gọi là môn Nhập thứ tư). Đấy chính là thành tựu môn thứ tư, tức Quán Sát Môn trong Ngũ Niệm Môn.

          Ba thứ thân Phật, bốn thứ Tịnh Độ đều có. Hoa Tạng và Cực Lạc, mười phương thế giới, tức là một Phật quốc độ. Chính ḿnh và chư Phật, y báo và chánh báo trong mười pháp giới đều cùng là tướng tịnh tâm. Chúng sanh và Phật chẳng hai, thân và cơi nước chẳng hai, tâm và trí chẳng hai, hết thảy chẳng hai, chứng nhập cảnh giới Đại Niết Bàn thường, lạc, ngă, tịnh, thọ dụng đủ mọi pháp lạc. Đấy là bốn môn thuộc về Nhập được rốt ráo viên măn. Tất nhiên là chẳng trái bổn nguyện, thả chiếc bè Từ, do ḷng đại từ bi mà trở vào Sa Bà và mười phương thế giới rộng độ chúng sanh. Đấy chính là thành tựu môn công đức thứ năm thuộc về Xuất. V́ thế, Luận viết: “Xuất đệ ngũ môn giả, dĩ đại từ bi, quán sát nhất thiết khổ năo chúng sanh, thị ứng hóa thân, hồi nhập sanh tử viên, phiền năo lâm trung, du hư thần thông, chí giáo hóa địa, dĩ bổn nguyện lực hồi hướng cố. Thị danh đệ ngũ môn” (Môn thứ năm thuộc về Xuất là do ḷng đại từ bi, quan sát hết thảy chúng sanh khổ năo, thị hiện thân ứng hóa, trở vào vườn sanh tử, rừng phiền năo, du hư thần thông, đạt đến địa vị Giáo Hóa, dùng sức bổn nguyện để hồi hướng. Đó gọi là môn thứ năm). Đấy chính là thành tựu môn thứ năm tức Hồi Hướng Môn trong Ngũ Niệm Môn.

          Như hoàng đế Càn Long nhà Thanh xuống chơi Giang Nam, hóa trang thành đủ mọi thân phận khác nhau, biểu hiện rất nhiều chuyện du hư trong nhân gian. Phật, Bồ Tát thị hiện du hư thần thông để hóa độ chúng sanh đồng thành Phật đạo cũng giống như thế. Tổng hợp năm môn ấy, sẽ tương đương với tám tướng thành đạo của các vị đại Bồ Tát như kinh Vô Lượng Thọ đă nói. Nhập môn chính là tướng nhập thai và xuất thai. Đại hội chúng môn chính là tướng [Bồ Tát thị hiện] làm đứa trẻ, [trưởng thành] cưới vợ. Trạch môn chính là tướng xuất gia. Ốc môn là tướng thành đạo. Xuất môn là tướng chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn. Phàm là Bồ Tát văng sanh thế giới Cực Lạc, ai nấy đều có thể [thị hiện] tám tướng thành đạo. Do vậy, Luận viết: “Tốc đắc thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác” (Mau được thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

          Văng Sanh Luận Chú đến đây là hết, có thể nói là đă kết thúc toàn bộ. Ngài Đàm Loan có một đoạn vấn đáp để giải quyết nghi hoặc, nhằm tăng thêm tín tâm của mọi người đối với pháp môn Tịnh Độ, ḥng nương theo sức bổn nguyện của Phật Di Đà mà mau chóng thành Phật đó thôi, chẳng cần phải nói nhiều! Mọi người đă nghe tôi giảng giải, cũng như do các thí dụ đă nói trên đây, đối với đạo dễ hành là tu Ngũ Niệm Môn th́ có bổn nguyện của A Di Đà Phật trong khi Ngài c̣n đang tu nhân và thần lực nơi quả địa của Ngài để có thể nương cậy, chẳng cần tu phước huệ suốt ba đại A-tăng-kỳ, chỉ cần hễ sanh về cơi ấy, liền thành tựu viên măn, mau chóng được thành Phật, hăy chớ nên hoài nghi nữa! Hy vọng mọi người hăy quư tiếc thân người quư báu, hết một báo thân này, siêng tu Ngũ Niệm Môn, tự lực thành tựu Tịnh nghiệp, lại có thể nhờ Phật lực làm tăng thượng duyên, được sanh về Cực Lạc, cùng thành Phật đạo, cùng hóa độ chúng sanh. Đấy là điều tôi thơm thảo mong cầu vậy!

 

2.2.2.2.10.4. Vấn đáp giải quyết nghi hoặc

 

          (Chú) Vấn viết: Hữu hà nhân duyên, ngôn “tốc đắc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”? Đáp viết: Luận ngôn tu ngũ môn hạnh, dĩ tự lợi lợi tha thành tựu cố. Nhiên hạch cầu kỳ bổn, A Di Đà Như Lai vi tăng thượng duyên, tha lợi chi dữ lợi tha, đàm hữu tả hữu. Nhược tự Phật nhi ngôn, nghi ngôn lợi tha. Tự chúng sanh nhi ngôn, nghi ngôn tha lợi. Kim tương đàm Phật lực, thị cố dĩ lợi tha ngôn chi, đương tri thử ư dă. Phàm thị sanh bỉ Tịnh Độ, cập bỉ Bồ Tát nhân thiên sở khởi chư hạnh, giai duyên A Di Đà Như Lai bổn nguyện lực cố. Hà dĩ ngôn chi? Nhược phi Phật lực, tứ thập bát nguyện tiện thị đồ thiết. Kim đích thủ tam nguyện, dụng chứng nghĩa ư. Nguyện ngôn: “Thiết ngă đắc Phật, thập phương chúng sanh, chí tâm tín nhạo, dục sanh ngă quốc, năi chí thập niệm, nhược bất đắc sanh giả, bất thủ Chánh Giác. Duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp”. Duyên Phật nguyện lực cố, thập niệm niệm Phật, tiện đắc văng sanh. Đắc văng sanh cố, tức miễn tam giới luân chuyển chi sự. Vô luân chuyển cố, sở dĩ đắc tốc, nhất chứng dă. Nguyện ngôn: “Thiết ngă đắc Phật, quốc trung nhân thiên, bất trụ Chánh Định Tụ, tất chí diệt độ giả, bất thủ Chánh Giác”. Duyên Phật nguyện lực cố, trụ Chánh Định Tụ. Chánh Định Tụ cố, tất chí diệt độ, vô chư hồi phục chi nạn, sở dĩ đắc tốc, nhị chứng dă. Nguyện ngôn: “Thiết ngă đắc Phật, tha phương Phật độ chư Bồ Tát chúng lai sanh ngă quốc, cứu cánh tất chí Nhất Sanh Bổ Xứ, trừ kỳ bổn nguyện tự tại sở hóa, vị chúng sanh cố, bị hoằng thệ khải, tích lũy đức bổn, độ thoát nhất thiết, du chư Phật quốc, tu Bồ Tát hạnh, cúng dường thập phương chư Phật Như Lai, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh, sử lập vô thượng chánh chân chi đạo, siêu xuất thường luân chư địa chi hạnh. Hiện tiền tu tập Phổ Hiền chi đức. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác”. Duyên Phật nguyện lực cố, siêu xuất thường luân chư địa chi hạnh, hiện tiền tu tập Phổ Hiền chi đức, dĩ siêu xuất thường luân chư địa hạnh cố, sở dĩ đắc tốc, tam chứng dă. Dĩ tư nhi thôi, tha lực vi tăng thượng duyên, đắc bất nhiên hồ! Đương phục dẫn lệ, thị tự lực tha lực tướng, như nhân úy tam đồ, cố thọ tŕ cấm giới. Thọ tŕ cấm giới cố, năng tu Thiền Định. Dĩ Thiền Định cố, tu tập thần thông. Dĩ thần thông cố, năng du tứ thiên hạ. Như thị đẳng danh vi tự lực. Hựu như liệt phu, khóa lư bất thượng, tùng Chuyển Luân Vương hành, tiện thừa hư không, du tứ thiên hạ, vô sở chướng ngại. Như thị đẳng danh vi tha lực. Ngu tai! Hậu chi học giả, văn tha lực khả thừa, đương sanh tín tâm, vật tự cục phận dă!

          ()問曰。有何因緣言速得成就阿耨多羅三藐三菩提。答曰。論言。修五門行。以自利利他成就故。然覈求其本。阿彌陀如來為增上緣。他利之與利他。談有左右。若自佛而言。宜言利他。自眾生而言。宜言他利。今將談佛力。是故以利他言之。當知此意也。凡是生彼淨土。及彼菩薩人天所起諸行。皆緣阿彌陀如來本願力故。何以言之。若非佛力。四十八願便是徒設。今的取三願用證義意。願言。設我得佛。十方眾生至心信樂。欲生我國。乃至十念。若不得生者。不取正覺。唯除五逆。誹謗正法。緣佛願力故。十念念佛。便得往生。得往生故。即免三界輪轉之事。無輪轉故。所以得速。一證也。願言。設我得佛。國中人天。不住正定聚。必至滅度者。不取正覺。緣佛願力故。住正定聚。住正定聚故。必至滅度。無諸迴伏之難。所以得速。二證也。願言。設我得佛。他方佛土。諸菩薩眾。來生我國。究竟必至一生補處。除其本願。自在所化。為眾生故。被弘誓鎧。積累德本。度脫一切。遊諸佛國。修菩薩行。供養十方諸佛如來。開化恒沙無量眾生。使立無上正真之道。超出常倫諸地之行。現前修習普賢之德。若不爾者。不取正覺。緣佛願力故。超出常倫諸地之行。現前修習普賢之德。以超出常倫諸地行故。所以得速。三證也。以斯而推。他力為增上緣。得不然乎。當復引例。示自力他力相。如人畏三塗。故受持禁戒。受持禁戒故。能修禪定。以禪定故。修習神通。以神通故。能遊四天下。如是等名為自力。又如劣夫跨驢不上。從轉輪王行。便乘虛空。遊四天下無所障礙。如是等名為他力。愚哉。後之學者。聞他力可乘。當生信心。勿自局分也。

          (Chú: Hỏi: Do có nhân duyên nào mà nói là mau chóng được thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề?

          Đáp: Luận nói tu ngũ môn hạnh để thành tựu tự lợi, lợi tha. Nhưng xét đến tận gốc, A Di Đà Như Lai làm tăng thượng duyên, người khác được lợi và làm lợi người khác chính là nói theo mỗi góc nh́n hỗ tương. Nếu nói theo phía Phật, đáng nên nói là “lợi ích người khác”. Nói theo phía chúng sanh, đáng nên nói là “người khác được lợi”. Nay do bàn về Phật lực, nên nói là “lợi ích người khác”, hăy nên biết ư này. Phàm là sanh về cơi Tịnh Độ ấy, nói đến các hạnh do Bồ Tát, trời, người dấy lên th́ đều là duyên theo sức bổn nguyện của A Di Đà Như Lai. V́ sao nói như thế? Nếu chẳng phải là do Phật lực th́ bốn mươi tám nguyện sẽ uổng công lập ra. Nay tôi đại lược dùng ba nguyện để chứng minh ư nghĩa.

          Nguyện rằng: “Nếu tôi thành Phật, mười phương chúng sanh chí tâm tin ưa, muốn sanh về cơi tôi, [chỉ cần] cho đến mười niệm mà nếu chẳng được sanh, tôi chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác, chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp”. Do nương theo nguyện lực của Phật, mười niệm niệm Phật liền được văng sanh. Do được văng sanh, liền thoát khỏi chuyện luân chuyển trong tam giới. Do không luân chuyển, nên được mau chóng [thành Phật]. Đó là chứng cớ thứ nhất.

          Nguyện rằng: “Nếu tôi được làm Phật, trời người trong nước chẳng ‘trụ trong Chánh Định Tụ, ắt đạt đến diệt độ’, tôi chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác”. Do duyên theo nguyện lực của Phật mà trụ Chánh Định Tụ. Do trụ trong Chánh Định Tụ, ắt đạt đến diệt độ, chẳng c̣n có nạn trở lại [luân hồi sanh tử], cho nên được mau chóng [thành Phật]. Đó là chứng cớ thứ hai.

          Nguyện rằng: “Nếu tôi được làm Phật, các vị Bồ Tát trong các cơi Phật ở phương khác sanh vào nước tôi, rốt ráo ắt đạt đến Nhất Sanh Bổ Xứ, trừ những vị có nguyện riêng tự tại giáo hóa, v́ chúng sanh mà mặc áo giáp hoằng thệ, tích lũy cội đức, độ thoát hết thảy, dạo các cơi Phật, tu Bồ Tát hạnh, cúng dường mười phương chư Phật Như Lai, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh, khiến cho họ an lập nơi đạo vô thượng chánh chân, vượt trỗi những hạnh thuộc các địa vị thông thường, hiện tiền tu tập công đức Phổ Hiền. Nếu chẳng như vậy, tôi chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác”. Do nương theo nguyện lực của Phật, vượt trỗi những hạnh thuộc các địa vị thông thường, hiện tiền tu tập công đức Phổ Hiền. Do vượt trỗi hạnh thuộc các địa vị thông thường, cho nên được mau chóng [thành Phật]. Đấy là chứng cớ thứ ba.

          Do những điều này mà suy ra tha lực làm tăng thượng duyên, há chẳng phải là đúng như thế ư? Lại dẫn thí dụ để chỉ bày tướng tự lực và tướng tha lực: Như có người do sợ tam đồ bèn thọ tŕ giới cấm. Do thọ tŕ giới cấm, có thể tu Thiền Định. Do Thiền Định, tu tập thần thông. Do thần thông, có thể dạo chơi tứ thiên hạ. Những điều như thế gọi là tự lực! Lại như kẻ yếu ớt, trèo lên lừa không nổi, theo Chuyển Luân Vương mà đi, bèn bay lên hư không, dạo chơi tứ thiên hạ chẳng bị chướng ngại. Những điều như thế gọi là tha lực. Ngu thay! Người học đời sau, nghe tha lực có thể nương cậy, hăy nên sanh tín tâm, đừng nên tự hạn cuộc).

 

2.3. Tổng kết

 

          (Luận) Vô Lượng Thọ Tu Đa La Ưu Bà Đề Xá Nguyện Sanh Kệ lược giải nghĩa cánh.

          (Chú) Kinh thỉ xưng “như thị”, chương Tín vi năng nhập. Mạt ngôn “phụng hành”, biểu phục ưng sự dĩ. Luận sơ “quy lễ”, minh tông chỉ hữu do. Chung vân “nghĩa cánh”, thị sở thuyên lư tất. Thuật tác nhân thù, ư tư thành lệ.

          ()無量壽修多羅優婆提舍願生偈。略解義竟。

          ()經始稱如是。彰信為能入。末言奉行。表服膺事已。論初歸禮。明宗旨有由。終云義竟。示所詮理畢。述作人殊。於茲成例。

          (Luận: Vô Lượng Thọ Tu Đa La Ưu Ba Đề Xá Nguyện Sanh Kệ lược giải ư nghĩa đă xong.

          Chú: Mở đầu kinh bèn nói là “như thị”, nhằm biểu thị do tín tâm mà có thể nhập. Cuối kinh bèn nói “phụng hành”, biểu lộ chuyện vâng giữ, nhận lănh đă xong. Luận th́ thoạt đầu nói quy y, lễ kính, nhằm chỉ rơ tông chỉ có nguyên do. Cuối luận bèn nói là “nghĩa lư đă giảng xong” nhằm chỉ ra lư được tŕnh bày đă được trần thuật hoàn tất. Người trước tác hoặc trần thuật tuy khác nhau, nhưng đều theo lệ này).

 

Hồi hướng

 

          Nguyện do công đức này, tiêu trừ túc hiện nghiệp, tăng trưởng các phước huệ, viên thành thiện căn mầu. Tất cả đao binh kiếp, cùng các nạn đói kém… đều diệt trừ chẳng c̣n. Mọi người đều tu tập, lễ kính và khiêm nhượng, hết thảy người giúp đỡ, lần lượt giúp lưu thông, quyến thuộc đều an lạc, người đă khuất siêu thăng, gió mưa thường ḥa thuận, nhân dân đều khang ninh, pháp giới các hàm thức, cùng chứng Vô Thượng Đạo.

          Bản giảng nghĩa này được xuất bản, lưu thông, tất cả thiện căn công đức kính v́ tiên khảo (cha) là Hoàng công Duy Kỳ phủ quân, tiên tỷ (mẹ) Hoàng mẫu Chiêu Đễ nhụ nhân, và các vị cư sĩ Trần Phước Tùng, Tôn Canh Ngọc, Dương Thái Nguyệt, Tôn Đ́nh Ngọc, do thiện nhân này, nghiệp chướng tiêu trừ, sớm sanh về Cực Lạc, thấy Phật, nghe pháp, chóng thành Phật đạo.

          Tánh Phạm kính đề tại Văn Thù Viện thuộc Tịnh Luật Tự huyện Lộc Cốc.

          Trung Hoa Dân Quốc năm tám mươi hai (1993), tức năm Quư Dậu, bắt đầu viết từ ngày mồng Một tháng Giêng, hoàn thành bản thảo, gác bút vào ngày 16 tháng Tư trong khóa An Cư mùa Hạ.

Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Chú Giải

Giảng Nghĩa hết



[1] Trong phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa, đức Phật dạy chân tướng của các pháp có mười điều Như Thị, tức là như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bổn mạt cứu cánh.

[2] Ngũ Bồ Đề bao gồm:

1. Phát tâm Bồ Đề: Thập Tín Bồ Tát trong vô lượng kiếp sanh tử v́ Vô Thượng Bồ Đề mà phát Bồ Đề tâm.

2. Phục tâm Bồ Đề: Các vị Bồ Tát thuộc Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng điều phục cái tâm phiền năo, hành các Ba La Mật.

3. Minh tâm Bồ Đề: Hàng Bồ Tát từ Sơ Địa trở lên quán Thật Tướng của các pháp, đă minh tâm kiến tánh.

4. Xuất đáo Bồ Đề: Hàng Bồ Tát từ Bát Địa trở lên, chẳng chấp trước Bát Nhă mà có thể diệt các Hoặc, vượt thoát tam giới, hướng đến Phật quả.

5. Vô thượng Bồ Đề: Hàng Đẳng Giác Bồ Tát ngồi đạo tràng, đoạn sạch các phiền năo, đắc Vô Thượng Chánh Giác.

[3] “Chẳng một” v́ Cực Lạc là một phần của thế giới Hoa Tạng (Liên Hoa Tạng thế giới hải), “chẳng khác” v́ sanh trong Cực Lạc th́ đương nhiên sanh trong Hoa Tạng. Hoa Tạng và Cực Lạc có cùng một Thể!