| |
Tiểu sử Ðại Lão Pháp Sư
Thích Diễn Bồi
(theo
Huệ Quang Từ Ðiển)
Lão
Pháp Sư người Giang Ðô, tỉnh Giang Tô, họ Lý, hiệu Ðế Quán. Ngài sinh năm 1912.
Năm 12 tuổi xuất gia với Hòa Thượng Thường Thiên ở am Phúc Ðiền, Lâm Trạch, Cao
Bưu. Năm 18 tuổi, Sư thọ Cụ Túc Giới tại viện Phúc Thọ ở Bảo Ứng.
Lúc
đầu, Sư đến Quán Tông Giảng Tự học Thiên Thai Giáo Quán, kế đến các viện Mân
Nam, Giác Tân, Hán Tạng nghiên cứu ý chỉ hai tông Tánh, Tướng và học Trung Quán
truyền từ Tây Tạng. Sư đã từng thân cận các cao tăng đương thời như Ðế Nhàn,
Thái Hư, Từ Hàng, Ấn Thuận, cũng từng giảng dạy tại Hoa Tây Phật Học Viện, Liên
Tông Học Viện, Hạ Môn Ðại Giác Giảng Xá v.v…
Năm
1949, Pháp Sư đến Hương Cảng, hợp sức biên tập và ấn hành bộ Thái Hư Ðại Sư Toàn
Tập. Sau đó, qua Ðài Loan làm công tác trứ thuật hoằng pháp, học Nhật ngữ và các
học thuyết của các học giả Nhật Bản. Sư từng sang hoằng pháp ở Thái Lan, Việt
Nam, Cao Miên, Lào, Tân Gia Ba, Mã Lai, Phi Luật Tân và các nước vùng Bắc Mỹ.
Sư lần
lượt giữ các chức vụ Chủ Tịch Hội Phật Giáo Trung Quốc, trụ trì các chùa Thiện
Ðạo, Huyền Trang, Linh Phong Bát Nhã Ðường ở Tân Gia Ba, Diệu Pháp Tinh Xá ở
Việt Nam… và viện trưởng viện Thái Hư Phật Học, xử lý thường vụ Từ Hàng Trung
Học. Sư có trứ tác và dịch thuật rất nhiều, trong đó phần trứ tác được đăng rải
rác trong các đặc san Phật Giáo, phần dịch thuật được gom góp thành Ðế Quán Toàn
Tập…
Lược Truyện Từ Hàng Trưởng
Lão (1895-1954)
(theo
Huệ Quang Từ Ðiển)
Ðại
Lão Luật Sư Từ Hàng người huyện Kiến Ninh, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, họ Ngải,
tự Ngạn Tài, hiệu Kế Vinh.
Ngài
mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Năm 17 tuổi, xuất gia với Hòa Thượng Tự Trung, năm
sau thọ giới Cụ Túc tại chùa Năng Nhân ở Cửu Giang. Sư từng tham lễ khắp các đạo
tràng như Cửu Hoa, Thiên Thai, Phổ Ðà… Sư học Thiền tại chùa Thiên Ninh ở Thường
Châu, chùa Cao Mân ở Dương Châu, theo học với Pháp Sư Ðế Nhàn, lại học Tịnh Ðộ
với Pháp Sư Ðộ Ách. Năm 1927, Sư đến Phật Học Viện Mân Nam, gần gũi Thái Hư Ðại
Sư, được Ngài hun đúc, từ có có chí cách tân Phật Giáo. Ngoài ra, Sư còn gần gũi
Pháp Sư Viên Anh. Sư từng 2 lần nhập thất để đọc Ðại Tạng trong sáu năm. Năm
1929, Sư chủ trì chùa Nghinh Giang ở An Khánh, hết lòng với sự nghiệp hoằng
pháp, đề xướng cải cách Tăng Già, chỉnh đốn Phật Giáo.
Sư
cũng từng sáng lập hội Phật Học Trung Quốc tại thủ đô Rangoon của Miến Ðiện
(Myanmar). Năm 1940, Sư theo Ðại Sư Thái Hư thăm viếng các quốc gia Phật Giáo
vùng Ðông Nam Á, kế đó lưu lại ở Mã Lai Á, sáng lập các cơ sở như học viện Bồ Ðề
ở Tinh Châu (Tân Gia Ba), hội Phật Học Tinh Châu, hội Phật Học Di Bảo, hội Phật
Học Tân Thành, đồng thời phát hành nguyệt san Nhân Gian, ra sức đẩy mạnh việc
Phật học xã hội hóa, nhờ đó, Phật Giáo Nam Dương được hưng thịnh. Năm 1948, Sư
đến Trung Lịch ở Ðài Loan chủ trì Phật Học Viện Ðài Loan do Pháp Sư Diên Quả
sáng lập. Sau đó, Sư thành lập Di Lặc Nội Viện ở Tịch Chỉ để tiếp nhận các thanh
niên Tăng từ Hoa Lục đến. Ðồng thời khai giảng các kinh luận Ðại Thừa như Nhân
Minh, Duy Thức, Lăng Nghiêm… tận tâm tận lực trong việc giáo dục, hoằng hóa.
Sư thị
tịch vào tháng 5 năm 1954, thọ 60 tuổi, 42 tăng lạp. Di thể Sư ngồi kiết già
trong một cái chum lớn, được an trí tại viện Tĩnh Tu sau núi. Ba năm sau, mở
chum ra, nhục thân Sư vẫn không hư hoại, các nơi đều kính ngưỡng. Sau đó, đồ
chúng xây dựng Từ Hàng Ðường để kỷ niệm đức nghiệp của Sư và tôn phụng nhục
thân. Người đời sau gom góp tác phẩm của Sư thành Từ Hàng Pháp Sư Toàn Tập lưu
hành ở đời.
|