Ư Nghĩa chân thật của ‘Bổn Nguyện
Niệm Phật’
Ḥa Thượng Tịnh Không thuyết
giảng
Liễu Nhân sưu tập và
ghi chép, Cư sĩ Truyền Tịnh giảo chánh
Dịch theo bản in của
Tịnh Tông Học Hội Los Angeles, tháng 3, 2001
Mục Lục
1.
Ư nghĩa chân thật
của ‘Bổn Nguyện Niệm Phật’
a.
Bổn nguyện là ǵ?
b.
Chẳng phát nguyện
th́ niệm Phật không thể văng sanh.
c.
Đời mạt pháp, tà
sư nhiều như cát sông Hằng.
2.
Làm thế nào để khế nhập cảnh
giới của Phật
a.
Phàm và thánh cùng một
thể -- duy tâm sở hiện, duy thức sở biến
b.
Chuyển phàm thành thánh --
Hạ thủ công phu từ tâm niệm.
c.
Cảnh giới của
thánh nhân (Phật) -- Đối xử ḥa mục, đối
đăi b́nh đẳng
d.
Giáo dục tôn giáo,
cứu văn thế giới
3.
Uống nước nhớ nguồn, bàn về ân
đức
a.
Niệm Phật, Pháp môn
hạng nhất của nền giáo dục Phật Đà. Văn Thù, Phổ Hiền,
Thiện Tài đều tu pháp này.
b.
Chúng sanh vốn là
Phật – v́ vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước mà đọa lạc trong sáu nẻo, thập
pháp giới
c.
Chắc thật niệm
Phật, khỏi đoạn phiền năo, một
đời thành Phật.
d.
Nhiếp trọn sáu
căn, tịnh niệm tiếp nối. Năng chấp, sở chấp
đều không thể đạt được.
e.
Ban châu Tam muội.
f.
Tướng lành lúc Hàn
Quán Trưởng văng sanh
i. Thấy Phật
lần đầu
ii. Thấy Phật lần thứ hai.
g.
Uống nước
nhớ nguồn, bàn về ân đức. Ân của thầy, ân của
hộ pháp.
h.
Bậc tái lai – Lăo cư
sĩ Hạ Liên Cư hội tập kinh Vô Lượng Thọ
i.
Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Vô
Lượng Thọ đều là pháp luân viên măn.
j.
Chuyên tu Tịnh
Độ. Giải và hành cùng coi
trọng.
4. Tu hành như thế nào?
a.
Thâm giải kinh giáo – Tin sâu, nguyện thiết,
phụng hành.
b.
Nghiên [cứu kinh] giáo
tức là nhớ Phật – Văn tự và nghĩa lư
được thực hiện trong sinh hoạt.
c.
Tu hành – Thanh tịnh, B́nh
đẳng, Giác
d.
Phản tỉnh, sửa
lỗi lầm, tiêu nghiệp chướng
e.
Học Phật phải
bắt đầu từ khởi tâm động niệm
f.
Kinh cứu mạng trong
thời Mạt pháp – Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí
Nhạo Kinh.
g.
Khuyến tín, Khuyến
nguyện. Tán thán lẫn nhau.
h.
Niệm niệm v́
Phật pháp, v́ chúng sanh
5. Tịnh nghiệp Tam phước
a.
Tịnh nghiệp chánh
nhân của ba đời chư Phật.
b.
Phật pháp là hiếu
đạo và sư đạo
c.
Tam quy trong Tịnh Tông: A
Di Đà Phật, kinh Vô Lượng Thọ, Bồ Tát Quán Âm và
Thế Chí.
d.
Giữ phép tắc, làm
gương mẫu cho chúng sanh.
Học chịu thiệt tḥi, không v́ cá nhân ḿnh.
e.
Giác là Phật pháp, mê
không là Phật pháp.
f.
Tin sâu nhân quả --
Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả.
g.
Năm khoa mục
của Tịnh Tông – Tam Phước, Lục Ḥa, Tam Học,
Lục Độ, Thập Nguyện.
6. Phật học vấn đáp
a.
Chịu bị gạt có
phải là bố thí không?
b.
Vừa vẽ hoa sen
vừa niệm Phật, có thể không bịnh mà mất hay
chăng?
c.
Đến đạo tràng,
làm công quả có phải là quảng doanh chúng vụ hay không?
d.
Nên nghĩ như thế
nào về [vấn đề] tại gia, xuất gia trong
thời Mạt pháp?
e.
Trong chùa dùng trống làm
bằng da có đúng với lời dạy về từ bi
hay không?
f.
Từ nay về sau xu
thế chiều hướng xă hội biến hóa ra sao? Phật giáo đồ tại gia
nên tu hành như thế nào?
g.
Lúc trước làm ác,
lụy đến vợ, bây giờ vợ gây trở
ngại cho việc niệm Phật, làm thế nào
để tiêu [nghiệp] tội?
Làm thế nào để niệm Phật cầu sanh
Tịnh Độ?
h.
Việc
chăn gối giữa vợ chồng, có phải
người học Phật, niệm Phật chẳng
cần việc này? Phải
chăng không thể có quan hệ t́nh dục giữa nam
nữ ngoài phạm vi vợ chồng?
i.
Nếu
ḿnh niệm Phật nhưng vợ (hay chồng ḿnh)
chẳng niệm, vả lại c̣n phá hoại sự
niệm Phật, thậm chí xé rách kinh sách, trong trường
hợp như vậy phải làm thế nào?
7. Phụ lục
a.
Ba yếu quyết
của sự thọ tŕ kinh Vô Lượng Thọ.
b.
Thái độ và sự
nhận thức cần có trong sự tu học Phật pháp.
c.
Lợi ích thù thắng
của sự nhiếp thọ chúng sanh của kinh Vô
Lượng Thọ
d.
Ư nghĩa của
Phật thất và niệm Phật.
e.
Giới thiệu sơ
lược về Tam Thời Hệ Niệm.
f.
Khó gặp thầy
tốt.
g.
Nhàn đàm về
chuyện học Phật.
1. Ư
nghĩa chân thật của ‘Bổn Nguyện Niệm
Phật’
Các bạn đồng
học:
Chào các bạn,
thầy Ngộ Đạo gởi đến câu hỏi của
một vị đồng tu ở trường Đại
học Lư Công, Nam Kinh như vầy: “Gần đây có người
rao truyền ‘Bổn Nguyện Niệm Phật’ chẳng y
chiếu những lời dạy trong Tịnh Độ Tam Kinh,
chẳng cần tin, chẳng cần phát nguyện, và
cũng chẳng cần niệm Phật đều có
thể văng sanh”. Nhiều
bạn đồng học chưa hiểu sâu vào [giáo
nghĩa] Tịnh Tông nghe xong rất hoang mang’, xin pháp sư
từ bi giảng giải.
Đây đích thật
là một vấn đề rất nghiêm túc và quan trọng,
nếu giải thích lệch lạc vấn đề này th́
có thể dẫn dắt rất nhiều đồng tu
lầm đường, lạc lối, đánh mất
cơ hội niệm Phật văng sanh ngay trong đời này
của họ, những người rao truyền lời nói
này phải gánh chịu trách nhiệm nhân quả. Trong kinh nói nhất định
sẽ đọa địa ngục A Tỳ! Bốn chữ ‘Bổn nguyện
niệm Phật’ chẳng sai, nhưng họ giải thích ư
nghĩa của nó sai hoàn toàn.
Trước khi nhập diệt đức Phật
biết rất rơ t́nh huống trong xă hội hiện
tại của chúng ta, rơ ràng vô cùng.
Trong chương Thanh Tịnh Minh Hối của kinh
Lăng Nghiêm, đức Phật nói: ‘Tà
sư thuyết pháp như cát sông Hằng’. Những lời trong
kinh này là nói về đời hiện tại của chúng ta
-- đời pháp nhược ma cường, chúng sanh
nhận giả mà chẳng nhận thiệt, chịu nghe
lời gạt mà chẳng chịu nghe lời khuyên!
Các vị đồng học
Tịnh Tông chúng ta phải học theo đức Phật,
đức Phật có tâm nhẫn nại chờ đợi
những người này. Tôi
cảm thấy nhiều người trong nhóm đồng
học chúng ta có nhiệt tâm hơn đức Phật,
họ nôn nóng muốn độ hết thảy chúng sanh
đến Tây phương Cực Lạc thế
giới. Nhưng quay
đầu lại và thiệt ḷng phản tỉnh coi tự
ḿnh có thể văng sanh được hay chăng? Tự ḿnh chẳng có khả
năng được độ mà muốn độ
người khác! Trong kinh
thường nói câu: ‘không có
chuyện này!’ (vô hữu thị xứ!), mọi người thường nghe câu này, nghe
đến thuộc ḷng luôn. ‘Phật không độ người vô duyên’, chúng ta phải hiểu những người này
chẳng có duyên với Phật, chẳng có duyên nghĩa là
không tin. Không tin vào những
lời dạy trong Tịnh Độ Tam Kinh, không thể y giáo
phụng hành, mà lại nghe những lời rao truyền này,
đây tức là chẳng có duyên với Phật, trong
đời này họ nhất định chẳng thể
thành tựu.
a.
Bổn nguyện là ǵ?
Bổn nguyện rốt cuộc là ǵ?
Bổn nguyện
tức là bốn mươi tám lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông được
thành lập th́ chúng ta niệm Phật y theo ‘bổn nguyện’. Bạn hăy xem khóa tụng hằng
ngày của Tịnh Tông chúng ta, khóa sáng th́ niệm bốn
mươi tám lời nguyện, khóa tối sám trừ nghiệp
chướng. Nếu chẳng
sám trừ nghiệp chướng th́ nhất định
không thể văng sanh. Tuy pháp môn
này nói ‘đới nghiệp văng sanh’, các vị Tổ sư
đại đức xưa nay đă nói đến rất
nhiều ‘chỉ mang
theo nghiệp cũ, chứ không mang theo nghiệp mới’. Những nghiệp mà
bạn đang tạo hiện nay th́ không thể mang theo,
chữ ‘đới’ nghĩa là ‘đem theo, mang qua bên đó’;
việc sai lầm trong quá khứ không sao, hôm nay sửa cho
đúng lại. Câu ‘không kể quá khứ, chỉ luận hành vi
hiện nay’ là nguyên lư và nguyên
tắc của đới nghiệp văng sanh. Bây giờ vẫn tiếp tục
tạo nghiệp th́ chẳng thể văng sanh, nhất
định phải hiểu đạo lư này.
Bổn nguyện,
có người nói bổn nguyện là nguyện thứ
mười tám, nhưng phần đông nhiều
người không hiểu rơ nghĩa thú! Nguyện thứ mười tám
hàm nhiếp hết thảy bốn mươi bảy
nguyện kia một cách rốt ráo viên măn, thiếu một
nguyện trong bốn mươi bảy nguyện kia th́
nguyện thứ mười tám sẽ không viên măn. Vị ‘đại đức’ rao
truyền ‘bổn nguyện niệm Phật’ có hiểu
đạo lư này hay không?
Bất cứ một nguyện nào trong
bốn mươi tám nguyện đều hàm nhiếp
bốn mươi bảy nguyện kia một cách rốt
ráo viên măn, nguyện nào cũng như vậy cả. Tuy chúng tôi chưa giảng xong kinh
Hoa Nghiêm nhưng mọi người cũng đă nghe kinh
chẳng ít. Trong câu ‘một tức là nhiều, nhiều tức
là một’ (nhất tức thị đa, đa tức
thị nhất) của kinh Hoa Nghiêm th́ ‘một và nhiều là không hai’ (nhất đa
bất nhị) mà! ‘Một
tức là hết thảy, hết thảy tức là một’
(nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức
nhất), người đó có hiểu
không? Bổn nguyện niệm
Phật là ‘một tức là hết thảy’, cho nên công
đức của bổn nguyện rất thù thắng;
tuyệt đối chẳng phải nói ‘chỉ dựa vào
nguyện thứ mười tám mà thôi, bốn mươi
bảy nguyện kia không cần nữa’; nếu bốn
mươi bảy nguyện kia đều không thực
hiện được th́ nguyện thứ mười tám
cũng không làm được luôn.
Nguyện thứ mười tám là ǵ? Nguyện thứ mười tám là
tổng cương lănh của bốn mươi bảy nguyện
kia. V́ vậy lời rao
truyền này là của ma thuyết pháp chứ chẳng
phải của Phật.
Trước khi nhập diệt
đức Phật dạy chúng ta ‘Tứ y pháp’, thứ
nhất là ‘Y pháp bất y nhân’.
Pháp là ǵ? [Pháp là kinh
điển] Kinh Vô
Lượng Thọ là kinh đầu tiên của Tịnh
Tông. Đời Đông Tấn,
Huệ Viễn đại sư xây dựng đạo tràng
niệm Phật đầu tiên ở Lô Sơn – Đông Lâm
Niệm Phật Đường, những đồng tu có cùng
chung chí hướng và đạo tâm gồm có một
trăm hai mươi ba người. Lúc đó kinh điển Tịnh
Tông chỉ có kinh Vô Lượng Thọ, các kinh kia chưa
được phiên dịch.
Những người trong đạo tràng Lô Sơn
đều y theo kinh này, một trăm hai mươi ba
người này đều văng sanh một cách vững vàng, thích
đáng. Đạo tràng này vô cùng
thù thắng, trang nghiêm, chúng ta phải đi theo
đường của người xưa, kế thừa
[sự nghiệp của] người xưa.
Gần đây Ấn Quang lăo pháp sư
là người cuối đời nhà Thanh đầu
thời Dân Quốc, rất nhiều đồng tu
đều biết. Ngài là hóa
thân của Tây Phương Cực Lạc thế giới
Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai.
Chúng ta chẳng có dịp được gặp lăo
pháp sư, nhưng Văn Sao của Ngài vẫn c̣n lưu
truyền trong thế gian, [chúng ta] nên đọc tụng
kỹ càng, y giáo phụng hành.
Ngày nay con đường chúng ta đi là kế
thừa Ấn Quang đại sư. Thầy tôi là lăo cư sĩ Lư
Bỉnh
Tôi khuyên hết thảy các vị
đồng tu ở khắp nơi noi theo kinh Vô
Lượng Thọ và làm đệ tử của A Di Đà
Phật một cách gọn tắt, ổn đáng. Lăo cư sĩ Hạ Liên Cư
hội tập kinh Vô Lượng Thọ, nếu cụ
Hạ không phải là A Di Đà Phật tái lai th́ phải là Quán
Thế Âm Bồ Tát tái lai, nếu không th́ chẳng thể
hội tập bộ kinh này được hoàn hảo
như vậy. Chúng ta biết
ông Vương Long Thư hội tập lần đầu
tiên vào triều nhà Tống, ông Ngụy Mặc Thâm hội
tập lần thứ hai vào triều nhà Thanh, cả hai
đều không hoàn hảo!
Thời mạt pháp đích thực có nhu cầu
phải hội tập kinh này nên cảm được
Phật, Bồ Tát đến thị hiện. Quư vị không tin, nhưng tôi tin;
ai tin th́ được lợi ích.
Chúng ta biết được những người y
chiếu lời dạy trong bản kinh này để tu hành
và khi văng sanh có tướng lành trong những năm gần
đây rất nhiều, những người chúng ta
được nghe nói đến càng nhiều hơn. Nếu các bạn chẳng tin mà
cứ nghe theo lời [rao truyền] của người ta
th́ không c̣n cách nào để nói nữa?
Ngày nay trong thời đại dân chủ tự do,
rộng mở, ai cũng không có quyền can thiệp
người khác, thế th́ phải coi duyên phần của
chúng ta với đức Phật A Di Đà sâu hay cạn. Chúng ta đọc bản hội
tập của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư, không cần
hỏi lăo cư sĩ là người như thế nào, không
cần như vậy. Hăy coi
bản hội tập của ngài đúng như pháp hay
không? Chúng ta phải xây
dựng ḷng tin từ điểm này, chẳng phải mê
tín, chẳng phải mù quáng. Tôi
đă in năm bản dịch của kinh Vô Lượng
Thọ và bốn bản hội tập chung thành một
cuốn và đề tên sách là ‘Tịnh Độ Ngũ Kinh
Độc Bổn’; trước sau đă in hết hai, ba
vạn quyển.
b. Chẳng phát nguyện th́ niệm Phật không
thể văng sanh.
Kinh Vô Lượng Thọ dạy
rất rơ ràng, điều kiện căn bản của ba
bậc văng sanh là: ‘Phát Bồ
Đề tâm, một hướng chuyên niệm’, làm sao có chuyện chẳng phát nguyện mà có thể
văng sanh được? Không có
đạo lư này! ‘Chẳng phát
nguyện, niệm Phật’ người xưa có nói: ‘Cho dù mỗi ngày niệm mười vạn
tiếng Phật hiệu, chẳng phát nguyện th́ hét bể
cuống họng cũng uổng công mà thôi!’
Tại sao vậy? Bạn chẳng chịu văng sanh
mà!
Tâm nguyện văng sanh, buông xuống
vạn duyên tức là tâm Bồ Đề.
Trong Yếu Giải, đại sư
Ngẫu Ích đă dạy chúng ta: ‘Nếu muốn văng sanh
tăng cao phẩm vị, nhất định phải có tâm
giống như tâm Phật, nguyện giống nguyện
của Phật, hạnh giống hạnh của Phật’. Tâm chẳng giống tâm của A
Di Đà Phật, nguyện cũng chẳng giống nguyện
của A Di Đà Phật, hành vi cũng chẳng giống A Di Đà
Phật, cho dù bạn văng sanh th́ phẩm vị cũng
rất thấp; huống chi là bạn không thể nào văng
sanh được! Chúng ta
phải nhớ kỹ nghe!
Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ
Phật, phu nhân Vy Đề Hy cầu sanh Tịnh Độ,
thỉnh giáo đức Phật Thích Ca:
‘Con phải tu học như thế nào
mới có thể văng sanh Cực Lạc thế giới?’
Trước khi đức Phật
Thích Ca Mâu Ni giảng giải phương pháp tu học cho
bà, Ngài đă giảng rơ ‘Tịnh
Nghiệp Tam Phước’, giảng
rơ cho chúng ta đây là ‘Chánh nhân
Tịnh nghiệp của ba đời chư Phật’. Nói một cách khác
bất luận Phật quá khứ, Phật hiện tại,
hay Phật tương lai, hết thảy những
người tu hành thành Phật đều xây dựng trên
cơ sở, nền tảng này, nếu không có cơ sở
này th́ chẳng kể họ ráng sức tu hành ra sao đều
không thể thành tựu.
Cũng như việc xây nhà, đây là nền móng. Hai câu đầu trong cơ sở
này là: ‘Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự
sư trưởng’, người Trung Quốc thường
dùng danh từ: ‘hiếu thân tôn sư’. Mọi người ở Tây
phương Cực Lạc thế giới đều là
người con có hiếu nhất, đều là học sinh
giỏi nhất. Trong kinh Vô
Lượng Thọ xưng họ là ‘đệ tử
hạng nhất của Như Lai’!
Làm sao có chuyện ‘chẳng phát nguyện’ này? Việc này hoàn toàn sai lầm! Những người có
đầu óc sáng suốt một chút đều có thể
phân biệt và nhận ra.
Nếu ngay cả việc này cũng không thể
nhận ra sự khác biệt, sự học Phật của
chúng ta đều là vô ích, nghe giảng kinh bao nhiêu năm nay
cũng luống uổng, vô ích!
‘Tịnh Nghiệp Tam Phước’ tức là hạnh
của Phật – Hành vi của chư Phật Như Lai được
thể hiện trong sanh hoạt thường ngày. Tam Phước, Lục Ḥa, Tam
Học, Lục Độ, Thập Nguyện đều là
sự hành tŕ của chư Phật. Chúng ta đă làm được
chưa? Tôi thường khuyên
các vị đồng tu khi khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ tạo tác phải đối chiếu với
năm khoa mục này, nếu tương ứng, phù hợp
th́ hạnh của quư vị là chánh hạnh; nếu không
tương ứng th́ hạnh của quư vị là tà
hạnh, tà hạnh chẳng thể văng sanh được
đâu!
Cho nên chúng tôi biên soạn năm
đề mục của Tịnh Tông thành cuốn sách
nhỏ gọi là ‘Nguyên tắc tu hành’, đây là nguyên tắc
chúng ta nhất định phải tuân theo trong đời
sống, công việc, xử sự, đăi người,
tiếp vật hằng ngày, nhất định chẳng
thể làm trái ngược.
Nếu làm trái ngược th́ niệm Phật, phát
nguyện cũng không thể văng sanh. Tại sao vậy? Nguyện này của bạn là
nguyện giả, nguyện suông, không thực tế. Khi chúng ta phát nguyện hồi
hướng, bạn lấy ǵ để hồi
hướng? Nói suông, hồi
hướng suông th́ không được, bạn phải
dùng những ǵ thực tế để hồi
hướng. Thực tế là
ǵ? Thực tế là tu hành
chứng quả, đoạn ác tu thiện, chuyển mê thành
ngộ. Đây là công
đức tu hành chân thật của ḿnh, ḿnh phải dùng cái
này để hồi hướng.
Hôm nay bạn không phát nguyện và cũng không niệm
Phật, làm sao bạn có thể văng sanh cho được?
c. Đời mạt pháp, tà sư nhiều như cát
sông Hằng.
‘Đồng tu
Tịnh Tông nghe xong khởi lên rất nhiều nghi vấn’,
những người này vô tri, ngu muội, là những
người đáng thương!
Giống như mấy năm trước đây ông
Trần Kiến Dân ở Mỹ đă tuyên bố khắp
thế giới rằng: ‘đới nghiệp không thể
văng sanh’, làm những người niệm Phật khắp
thế giới vô cùng phân vân, thắc mắc. Đó là ma, không phải là Phật
đâu! Ngay cả những vị
như lăo cư sĩ Châu Tuyên Đức cũng lung lay ḷng
tin. Khi tôi đến
‘Pháp sư, hiện nay có người
nói: ‘đới nghiệp không thể văng sanh’, phải ‘tiêu
nghiệp mới có thể văng sanh’, vậy th́ phải làm
sao?’.
Tôi bèn nói với
ông: ‘Không văng sanh th́ thôi!’.
Ông nghe xong lời
này vô cùng hoang mang; tôi nh́n ông đờ cả người,
đứng đó nói chẳng nên lời. Tôi nói:
‘Nếu không
đới nghiệp, th́ Tây phương Cực Lạc
thế giới chỉ có đức Phật A Di Đà cô
độc một ḿnh trên đó, ông c̣n lên đó làm ǵ?’
Ông vẫn c̣n chưa hiểu, tôi
mới nói thêm:
‘Quán Thế Âm
Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát đều là Đẳng
Giác Bồ Tát, vẫn c̣n một phẩm Sanh Tướng vô
minh chưa phá trừ, như vậy có phải là đới
nghiệp hay không?’.
Nghe xong ông mới
tỉnh ngộ -- Quán Âm, Thế Chí đều đới
nghiệp, chỉ có một ḿnh A Di Đà Phật là chẳng
đới nghiệp mà thôi.
‘Nhưng trong kinh
chẳng có nói ‘đới nghiệp văng sanh’?’
Tôi trả lời:
‘Trong kinh có nói đến bốn cơi, ba bậc, chín phẩm
hay không?’
‘Có!’
‘Nếu không
đới nghiệp th́ mọi người đều b́nh
đẳng, vậy th́ đâu có ba bậc, chín phẩm
phải không?’
Đây là lời
đức Phật dạy chúng ta: ‘Noi
theo nghĩa chứ không noi theo lời nói’, tuy đức Phật chẳng có nói ‘đới
nghiệp văng sanh’, [nhưng] có nói đến ba bậc,
bốn cơi, chín phẩm, vậy th́ ư tứ của chữ
đới nghiệp đều nằm trọn trong đó
rồi. Bạn đem theo
nghiệp nhiều th́ phẩm vị của bạn
thấp; bạn đem theo nghiệp ít th́ phẩm vị
của bạn sẽ cao. Đâu có
đạo lư chẳng đới nghiệp!
Người
học Phật phải khai mở trí huệ, tại sao có
thể vừa nghe người ta nói hai ba câu th́ lung lay ḷng
tin liền, mê hoặc điên đảo như vậy? Bạn nói người như
vậy có đáng thương hay không? Niệm Phật suốt cả
đời, bảy tám chục tuổi rồi, vừa nghe
lời đồn đăi của người ta th́ lung lay
niềm tin, thiệt là đáng thương quá! V́ vậy nên đức Phật dạy
chúng ta: ‘Y pháp chứ đừng
y theo người’, ‘Y nghĩa chứ không y theo lời nói’, pháp là kinh điển;
kinh điển của Tịnh Tông là năm kinh,
một luận, phải hiểu lời dạy của Ngài.
‘Bổn nguyện niệm Phật’ có sai không?
Không sai!
Vậy th́ ‘bổn nguyện’ là ǵ?
Năm kinh, một luận là bổn
nguyện, bốn mươi tám nguyện là bổn
nguyện của đức Phật A Di Đà, rút một câu
trong đó ra th́ không được! Rút ra bất cứ một câu nào
trong đó, nếu bạn hiểu được ‘một
tức là nhiều’, một câu tức là toàn bộ năm
kinh và một luận, nếu bạn có công phu đến
mức này th́ có thể hiểu như vậy, có thể
như vậy. Nếu không có
công phu đến mức này th́ hăy ngoan ngoăn, thực thà theo
thứ tự mà bước đi từ từ, học
tập theo thứ lớp đàng hoàng, được
vậy bạn sẽ thành công.
Hễ không đúng như pháp, giải sai, lệch
lạc ư nghĩa của bổn nguyện niệm Phật
th́ đều là ma hết; ma sợ bạn thành tựu ngay
trong một đời này nên mau mau kéo bạn trở
lại, đẩy bạn vô địa ngục A Tỳ
xong th́ ma mới vui!
Được rồi, tôi giải thích vấn đề
này cho các bạn đến đây thôi.
Ngày 5 tháng 1, 2000 tại Báo Ân
Đường Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba.
2. Làm thế nào để khế
nhập cảnh giới của Phật
Các bạn đồng
học:
Chào các bạn, c̣n hai
mươi ngày nữa là bước sang năm 2000, năm
‘thiên hi’ đă đến, mọi nơi trên thế giới
đều tổ chức lễ lộc đón mừng,
chúng ta cũng sẽ tổ chức một buổi dạ
tiệc ấm cúng và mời hết thảy chín tôn giáo
ở Tân Gia Ba tham dự; không những mời họ tham
gia, chúng ta c̣n mời họ làm chủ nhân của buổi
tiệc, chúng ta chỉ đứng kế bên phụ
giúp. Mọi người
đều biết những năm gần đây tai nạn
không ngừng xảy ra trên toàn thế giới, vả
lại ngày càng nghiêm trọng, ai cũng lo lắng, không yên
tâm. Người ta cho rằng
tai nạn này không thể nào tránh khỏi, nhưng cũng có
người cho rằng tai nạn này có thể hóa giải,
thế nên có người hỏi: ‘Chúng ta phải làm thế
nào để chào đón thế kỷ thứ 21?’
a. Phàm và Thánh
cùng một thể -- duy tâm sở hiện, duy thức
sở biến
Chúng ta tổng hợp hết thảy
cách giải thích nguồn gốc đời sống trong
vũ trụ của các tôn giáo và các vị thánh hiền
xưa nay, trong nước và ngoài nước. Trong Phật pháp nói đến ‘tâm
tánh’, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới,
đây là nói hết thảy chúng sanh trong hư không pháp
giới ‘duy tâm sở hiện, duy
thức sở biến’. Lịch sử của Ấn
Độ giáo cổ kính so với Phật giáo c̣n lâu đời
hơn nhiều, Bà La Môn giáo ở Ấn Độ ít nhất
cũng có hơn tám ngàn năm lịch sử. Họ nói nguồn gốc của
vũ trụ là ‘Phạm’ là ‘Ngă’;
chữ Ngă này không phải là Tiểu Ngă mà là chữ Ngă
trong ‘Thường, Lạc, Ngă, Tịnh’ của Phật
giáo, đây là Chân Ngă. Phần
đông các tôn giáo đều nói thế giới này là do
Thượng đế sáng tạo ra, sanh mạng cũng là
do Thượng Đế tạo nên, là do Chúa tạo nên. Cũng có tôn giáo coi Thượng
Đế là Trí Huệ, Phật pháp Đại thừa gọi là
‘Pháp Thân’, đều là nói từ bản thể, sự
nhận thức này là đại thánh đại hiền. Làm sao họ biết
được?
Thông qua sự tu học ‘Giới,
Định, Huệ’ trong Phật pháp, [người ta có
thể] khai mở trí huệ từ trong các mức thiền
định thâm sâu, đây là Tam huệ của Bồ
Tát. Từ đó nhận
biết, khẳng định, hiểu rơ triệt
để chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Phạm vi của nó bao
lớn? Nhà Phật nói
‘mười pháp giới’, ‘trăm giới ngàn như’ (1),
đúng là ‘dù lớn
cũng không lọt ra ngoài, dẫu nhỏ nhặt
đến mấy cũng không có ǵ chẳng thuộc vào
đây’.
Thánh nhân thế gian, xuất thế gian chẳng ai
không hạ thủ công phu từ chỗ này. Sau đó đích thân chứng
được cảnh giới ấy, khẳng
định việc mà ngày nay người ta gọi là ‘tinh thần vượt quá kinh nghiệm’ đích thực tồn tại. Đây là những ǵ phía trên nói
đến: ‘Tâm Tánh, Phạm Ngă, Thượng Đế, Pháp
Thân, Thần’, đích thật là tồn tại vĩnh hằng;
cái này là cái năng hiện, năng sanh, năng biến (chủ thể tạo nên sự hiện,
sự sanh, sự biến). Thế giới của chúng ta có
thể chia thành hai bộ phận, một là hiện
tượng tinh thần, hai là hiện tượng vật
chất, hai thứ này là sở hiện, sở sanh, sở
biến (những thứ
được hiện, được sanh,
được biến). Sở hiện, sở sanh, sở
biến th́ vô lượng vô biên, nhưng năng sanh,
năng biến chỉ có một thứ. Từ điểm này chúng ta có
thể biết tận hư không khắp pháp giới
hết thảy chúng sanh là một thể, có cùng chung một
sanh mạng.
Chúng ta thường nghe những người lănh
đạo quốc gia nói chuyện với toàn thể dân
chúng [bắt đầu bằng]: ‘Đồng bào toàn quốc
…’. Từ sự nhận
thức của đại thánh nhân chúng ta có thể nói:
‘Đồng bào khắp hư không pháp giới’. Phạm vi này lớn hơn nhiều
và đều cùng một nguồn gốc, là một thể
có cùng chung một sanh mạng.
Chúng ta phải nhận biết điểm này, sau
đó quay lại nh́n hết thảy chúng sanh th́ sẽ
thấy một số đă nhận biết rơ ràng, một
số c̣n mê hoặc điên đảo, hoàn toàn không hiểu
chi hết. Trong Phật giáo
người đă nhận thức rơ ràng th́ gọi là
‘Phật, Bồ Tát’; người mê hoặc và không nhận
thức rơ th́ gọi là ‘phàm phu’.
Trong các tôn giáo khác th́ gọi người đă
nhận thức rơ ràng bằng ‘Thần’, ‘Tiên Tri’, ‘Thiên
sứ’; gọi kẻ không nhận thức rơ ràng là ‘phàm
phu’.
b. Chuyển phàm thành thánh -- Hạ
thủ công phu từ tâm niệm.
Các vị đại thánh hiền
dạy chúng ta nhận thức chân tướng sự
thật bằng phương pháp chuyển biến: ‘chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành
ngộ, chuyển phàm thành thánh’,
đây là tổng cương lănh của những
phương pháp này. Chúng ta
cũng đă học nhưng làm cách nào cũng chuyển
không nổi! Đă từng nghe câu ‘Trồng nhân thiện th́ được
quả thiện’ nên cũng học theo và
làm chuyện thiện; cũng đă làm chẳng ít chuyện
thiện nhưng vẫn chưa chuyển ‘nghiệp báo’
được; như vậy
là tại sao? Thiệt ra
đây cũng giống như câu chuyện ‘Ông Du Tịnh Ư
gặp Thần Táo (Ông Táo,
Thần Bếp)’ ghi ở phần
cuối của quyển Liễu Phàm Tứ Huấn, mọi
người hăy xem th́ sẽ biết.
Ông Du Tịnh Ư nghèo khổ,
thường chẳng may mắn, gặp đại
nạn, vô cùng bất hạnh; ông cũng làm việc
thiện hằng ngày, cũng là người có học và
hiểu lư. Tại sao
‘chuyển nghiệp’ không được? V́ vậy nên ông cứ oán trời
trách người – [tôi] đă làm nhiều chuyện tốt
lành như vầy nhưng không có quả báo lành! Thần Táo dạy: ‘Những
chuyện thiện mà ông đă làm hoàn toàn ở bề ngoài
không hà, chỉ có miệng thiện, thân thiện, nhưng ư
chẳng thiện, tâm chẳng thiện, cho nên ông chuyển
không nổi!’. Những lời
thần Táo giảng giải cho ông như vậy rất
đáng cho chúng ta nghiên cứu, đọc tụng, kiểm
điểm bản thân chúng ta.
Các đại đức thời
xưa dạy người tu hành phải tu từ căn
bản. Căn bản là
ǵ? Căn bản là tâm
niệm. Chỉ cần tâm
của bạn thiện, ư niệm thiện, th́ không có
nghiệp báo ǵ chẳng thể chuyển biến
được, và không có tai nạn ǵ chẳng thể hoá
giải được.
Cũng như một cây cổ thụ, tâm là rễ, ư
niệm là gốc; thân là cành, miệng là lá, nếu bạn
tu sửa trên cành lá nhưng gốc rễ của bạn
đă hư hoại th́ không thể nào cứu chữa
được. Nếu
cứu được gốc rễ [trước] th́
cứu cành lá sẽ rất dễ dàng! Chúng ta thấy rất nhiều
người bề ngoài có vẻ làm lành tích đức
nhưng nghiệp lực vẫn chuyển không nổi nên
thường oán trời trách người, và nói Phật,
Bồ Tát không linh, thần không linh, hết thảy
đều có lỗi với họ, họ hoàn toàn chẳng
khác ông Du Tịnh Ư!. Thế nên
‘chuyển’ phải chuyển từ trong tâm, phải
chuyển từ ư niệm, chuyển thành ‘thuần
thiện’.
Thiền Tông Lục Tổ Huệ Năng đại
sư dạy rất hay: ‘Nếu là
người tu đạo th́ chẳng nh́n lỗi của
thế gian’. Đây mới đúng là chuyển
biến từ tâm, từ ư niệm.
‘Chỉ nh́n thấy lỗi của ḿnh, không nh́n
thấy lỗi của người’ nên họ có thể
‘chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh’,
đạo lư là ở chỗ này.
Ngày nay miệng chúng ta thiện, thân cũng thiện
nhưng thường nh́n thấy người khác chẳng
thiện mà họ lại có quả báo tốt nên trong tâm ḿnh
không phục, bất măn!
Bạn phải biết thân của bạn thiện,
khẩu thiện nhưng gốc rễ của bạn
đă hư hết rồi, phải làm một cuộc thay
đổi hoàn toàn từ gốc rễ -- trong tâm luôn luôn
nghĩ đến chuyện tốt của mọi
người, đừng nghĩ về chuyện xấu
của người khác;
Người ta không có ǵ xấu hết, xấu là
nơi gốc rễ của chúng ta xấu. Chúng ta thấy chuyện xấu
của người khác th́ liền biết gốc rễ
của chúng ta đă hư hoại rồi; tại sao
vậy? Phật thấy
hết thảy chúng sanh đều là Phật, Bồ Tát
thấy hết thảy chúng sanh đều là Bồ Tát. Gốc rễ của họ
tốt, chẳng có bịnh tật.
c. Cảnh giới
của thánh nhân (Phật) -- Đối xử ḥa mục,
đối đăi b́nh đẳng
Chúng ta tổng kết mục đích
của sự tu học [th́ thấy mục đích này] vô
cùng hiện thực, chỉ có hai chữ ‘hoà b́nh’. Hết thảy chúng sanh trong hư
không pháp giới chẳng phân biệt chủng tộc
quốc gia, chẳng phân biệt tôn giáo tín ngưỡng,
mười phương vô lượng vô biên cơi
nước chư Phật, thế giới của chư thiên
đều có thể ‘đối xử ḥa mục,
đối đăi b́nh đẳng’.
Chúng ta thấy trong kinh Đại Phương Quảng
Hoa Nghiêm đích thực là văn hóa đa nguyên mà
người ngày nay thường đề cập, chúng ta
không thể tưởng tượng nổi số
lượng to lớn này – trong cảnh giới không thể
nghĩ bàn ấy mọi người đều đối
xử ḥa mục, đối đăi b́nh đẳng, tôn
trọng, kính mến, hợp tác và hỗ trợ lẫn
nhau, chỉ có kiến thiết mà không có phá hoại.
Chúng ta thấy Hoa Tạng thế giới, Cực
Lạc thế giới, thế giới của chư thiên,
đời sống của họ hạnh phúc mỹ măn,
thiệt là đời sống đầy đủ ‘chân
thiện mỹ huệ’! Chúng
ta ngưỡng mộ, mong mỏi hết mấy ngàn
năm, mấy vạn năm nhưng vẫn không thể
thực hiện nổi trên trái đất này; nguyên nhân là
ǵ? V́ chúng ta chẳng ‘ḥa’ --
chẳng thể đối xử ḥa đồng, không
thể đối đăi một cách b́nh đẳng với
tất cả chúng sanh. Ngày nay
chúng ta đề xướng giáo dục Phật Đà,
đề xướng giáo dục tôn giáo, mục đích
của chúng ta là mong mỏi và hy vọng hết thảy
chúng sanh, hết thảy thế gian đều có thể
‘đối xử ḥa mục, đối đăi b́nh
đẳng’. Muốn
đạt đến mục đích này th́ phải đánh
thức chánh giác của chúng sanh.
Muốn đánh thức chánh giác của chúng sanh th́
ngoài giáo dục ra chẳng có phương pháp nào khác.
d. Giáo dục tôn giáo,
cứu văn thế giới:
Cổ thánh tiên hiền ngày xưa
ở Trung Quốc coi trọng giáo dục, coi giáo dục là
việc quan trọng nhất của đời
người. Sách ‘Lễ Kư’
nói: ‘Xây dựng đất
nước, cai trị dân chúng, việc giáo dục
đứng hàng đầu’. Sau khi truyền đến Trung
Quốc, Phật pháp liền trở thành động cơ
chính hướng dẫn nền văn hóa Trung Quốc,
cả hai trở nên gắn bó,
không thể tách rời lẫn nhau. Nền giáo dục Phật Đà
được nhà vua đích thân chủ tŕ, giáo học
của Nho gia th́ giao cho quan tể tướng chấp hành;
giáo dục thánh hiền trong thế gian, xuất thế gian
cùng lúc phát triển trên mảnh đất này, đây là
điều may mắn của dân tộc Trung Quốc, có
thể sáng tạo nên nền văn minh Trung Quốc, làm cho
văn hóa Trung Quốc càng thêm phong phú.
Nhưng trong thời gian cận
đại, kể từ khoảng giữa đời nhà
Thanh trở về sau, thiệt là bất hạnh, chúng ta
đă mất đi ḷng tự tin dân tộc nên phải
chịu đựng đại nạn trong ṿng hai trăm
năm nay! Chúng ta có nhiều
kinh nghiệm đau khổ, từ những bài học kinh
nghiệm này đă thức tỉnh và nh́n thấy văn minh
khoa học kỹ thuật [có thể] đem lại ảnh
hưởng xấu cho người đời, suy đi
nghĩ lại vẫn phải nương nhờ vào giáo
dục tôn giáo mới có thể cứu văn thế
giới. Chỉ có đẩy
mạnh giáo dục tôn giáo rộng răi mới có thể
dạy cho mọi người hiểu rơ: ‘Chúng ta có cùng chung
một sanh mạng, là một thể có cùng chung một sanh
mạng’, hơn nữa sanh mạng này vĩnh hằng,
(hễ là tín đồ tôn giáo đều khẳng
định) có đời quá khứ, và đời
tương lai. Thời gian
trong đời này rất ngắn, đời tương
lai sẽ dài hơn, nhất định phải dứt làm
việc ác, chuyên làm việc thiện, chuyển mê thành
ngộ! Chúng ta phải theo
đuổi hạnh phúc vĩnh hằng, phải hối
lỗi, phải sám hối, bồi dưỡng tâm niệm
thiện, ư niệm thiện, hành vi thiện của ḿnh. Nếu chúng ta làm hết ḷng th́ dù
không thể hoàn toàn tránh khỏi thiên tai nhân họa
trước mắt, chúng ta khẳng định tai nạn
có thể giảm bớt và tŕ hoăn, phạm vi của tai
nạn có thể giảm nhẹ, có thể đem lại
hạnh phúc chân thật cho chúng sanh cư trú trên địa
cầu của ḿnh, hy vọng là mọi người sẽ
hết ḷng nỗ lực đi làm.
Ngày 21-12-1999 tại Báo Ân
Đường, Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba
3. Uống nước nhớ
nguồn, bàn về ân đức
Hôm nay chúng ta có
được nhân duyên thù thắng như vầy, mọi
người tụ họp tại đạo tràng Tịnh
Tông Học Hội Úc châu, tuy đạo tràng chẳng
lớn lắm, nhưng rất trang nghiêm, đây là nơi
đầu tiên Tịnh Tông được truyền
đến Úc châu. Chúng ta
uống nước phải nhớ nguồn, trước
tiên phải hiểu rơ sự hoằng truyền Tịnh Tông
trong những năm gần đây đă trải qua một
giai đoạn rất gian khổ.
a. Niệm
Phật, Pháp môn hạng nhất của nền giáo dục
Phật Đà. Văn Thù, Phổ
Hiền, Thiện Tài đều tu pháp này
Lúc tôi mới bắt
đầu học Phật, người giới thiệu
Phật pháp cho tôi là Phương Đông Mỹ tiên sinh, đây
là chuyện vào năm Dân Quốc bốn mươi hai
(1953). Sau đó chẳng bao lâu
tôi quen Chương Gia đại sư, ngài rất từ
bi, giảng dạy hết ḷng, cơ sở Phật học
của tôi là do ngài xây dựng cho.
Ba năm sau Chương Gia đại sư viên
tịch. Một năm sau tôi
gặp lăo cư sĩ Lư Bỉnh
Sau khi đến Đài Trung,
thầy Lư giới thiệu pháp môn Tịnh Độ cho tôi, lúc
đó tôi c̣n trẻ, cũng như phần đông những
người trẻ tuổi thường ham thích những
ǵ xa vời viễn vông, cứ nghĩ pháp môn niệm
Phật là pháp môn dành cho ông già bà cả, trong Phật pháp c̣n
rất nhiều kinh sách, có nhiều pháp môn rất hấp
dẫn, những người trẻ tuổi như tôi
rất hâm mộ, ưa thích, đặc biệt là Hoa Nghiêm,
Pháp Hoa. Nhưng thầy Lư dùng
trí huệ, phương tiện thiện xảo
hướng dẫn chúng tôi.
Tuy chẳng tiếp nhận hoàn toàn nhưng thời
gian được thầy hun đúc, rèn luyện lâu dài nên
từ từ chúng tôi cũng nhận thức được
pháp môn này, nảy sanh ḷng tin, mới biết pháp môn này
rất thù thắng. Thực
sự lúc tôi chân chánh hiểu rơ sự thù thắng của
pháp môn này là sau khi tôi giảng kinh Hoa Nghiêm được
mười bảy năm.
Từ năm Dân Quốc sáu mươi (1971) tôi bắt
đầu giảng kinh Hoa Nghiêm, trong mười bảy
năm này giảng được phân nửa Bát Thập Hoa
Nghiêm, Tứ Thập Hoa Nghiêm cũng giảng
được phân nửa, đều chưa giảng
hết. Sau này thường
thường ra nước ngoài hoằng pháp, thời gian có
lúc gián đoạn, có lúc liên tục nhưng vẫn chưa
giảng hết bộ kinh này.
Từ trong kinh Hoa Nghiêm chúng ta khẳng định pháp
môn Niệm Phật là pháp môn hạng nhất.
Năm đó tôi đột
nhiên nghĩ đến hai vị Bồ Tát trong hội kinh
Hoa Nghiêm, Văn Thù và Phổ Hiền. Bồ Tát Văn Thù đă từng
là thầy của bảy vị Phật, nghĩa là trong
số học tṛ của Ngài có bảy người đă
thành Phật. Bản thân
của Ngài có thể nói là cổ Phật tái lai ứng hóa,
Ngài đă thành Phật từ một kiếp xa xôi về
trước, bây giờ thị hiện ở thế
giới Sa Bà, làm người trợ giúp cho Phật Tỳ
Lô Giá Na, thị hiện là Đẳng Giác Bồ Tát. Tôi đặc biệt để ư
hai vị Bồ Tát này, họ tu pháp môn ǵ? Kết quả là từ kinh Hoa
Nghiêm thấy được cả hai vị đều
niệm Phật A Di Đà cầu sanh Tịnh Độ, việc
này làm cho tôi rất kinh ngạc!
Sau đó quan sát kỹ
Thiện Tài đồng tử, người thị hiện
làm học tṛ đắc ư, đệ tử của Bồ
Tát Văn Thù, Ngài học pháp môn ǵ?
Th́ ra Ngài cũng niệm A Di Đà Phật cầu sanh
Tịnh Độ nữa. Cho nên
năm mươi ba lần tham học [của Thiện Tài
đồng tử] dạy cho chúng ta biết: đối
với hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian
một người niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ phải nên tu học như thế nào. Điều này dạy cho chúng ta
một chuyện rất quan trọng, nói theo ngôn ngữ
hiện nay tức là một người đệ tử
chân chánh của Di Đà niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ phải sanh hoạt như thế nào? Nên làm việc
như thế nào? Nên tiếp xúc với mọi người
như thế nào? Đây
đều là vấn đề vô cùng thiết thực
đối với chúng ta, hơn nữa đều là những
vấn đề chẳng thể không biết, câu trả
lời nằm trọn trong kinh Hoa Nghiêm. Điều này cũng nói rơ kinh Hoa
Nghiêm là một bộ kinh mà người học Phật
chẳng thể không đọc.
Nhưng kinh Hoa Nghiêm quá dài,
nếu dùng kinh nghiệm giảng kinh của tôi mà xét,
giảng từ đầu đến cuối cũng
mất khoảng ba ngàn giờ đồng hồ. Trong xă hội hiện nay có ai
nhẫn nại như vậy, ai chịu dùng ba ngàn giờ
đồng hồ để học một bộ kinh? Và cũng có thể nói
người đời nay nghiệp chướng nặng
hơn người thời xưa, người xưa có
khả năng, có cơ duyên học bộ kinh này; hiện
nay bước vào xă hội công nghiệp, thế kỷ sau
này (thế kỷ hai mươi mốt) nhất
định sẽ c̣n khẩn trương hơn bây
giờ; bất kể là áp lực đời sống, áp
lực công việc nhất định sẽ nhiều
hơn bây giờ, nói một cách khác thời gian ngày càng
ít. Cho nên không thể không t́m
cầu bộ kinh khác. Rất
may mắn chúng ta t́m được một bộ kinh
cũng thù thắng, viên măn giống kinh Hoa Nghiêm nhưng
lại ngắn hơn nhiều, hết sức thích hợp
cho người đời nay tu học, đó tức là kinh
Vô Lượng Thọ.
Các đại đức
thời xưa nói: ‘Kinh Vô
Lượng Thọ là trung bổn Hoa Nghiêm, kinh A Di Đà là
tiểu bổn Hoa Nghiêm’. Kinh văn có dài, ngắn khác nhau,
Bát Thập Hoa Nghiêm rất dài, Kinh A Di Đà rất ngắn,
nhưng nghĩa lư và cảnh giới trong đó chẳng có
sai khác; đây là lời của cư sĩ Bành Tế Thanh
nói vào những năm đầu triều vua Càn Long. Bành Tế Thanh có một tác
phẩm rất xuất sắc là ‘Hoa Nghiêm Niệm Phật
Tam Muội Luận’, quyển này tuy không dài nhưng nội
dung vô cùng phong phú. Gần
đây lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đă giảng
quyển sách này một lần ở Bắc Kinh, có lưu lại
băng thâu âm, từ băng ghi âm chép ra thành giảng kư,
hiện nay đă được xuất bản, rất
dễ kiếm, quyển này nói rơ kinh Hoa Nghiêm rất quan
trọng trong pháp môn niệm Phật
Chúng
ta hăy xem lời răn dạy, lời nhắc nhở
của Văn Thù Bồ Tát cho Thiện Tài, hết thảy
đều là dạy về tâm lư và thái độ để
thân cận thiện tri thức.
Những lời dạy này vô cùng quư báu và hết
sức quan trọng. Vị
thứ nhất mà Thiện Tài tham phỏng là tỳ kheo
Kiết Tường Vân, vị thiện tri thức này tiêu
biểu cho Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát, bốn
mươi mốt vị Pháp thân đại sĩ trong
hội kinh Hoa Nghiêm. Tại sao
lại xưng Pháp thân đại sĩ bằng danh từ
tỳ kheo? Ư nghĩa của tỳ
kheo này chẳng giống với ư nghĩa trong các kinh khác;
tỳ kheo là người xuất gia, ngài xuất cái nhà
nào? Không phải xuất cái nhà
ruộng vườn, cái nhà vợ con thê thiếp, ngài
xuất cái nhà thập pháp giới; vượt thoát thập
pháp giới mới là thực sự xuất gia. Vượt thoát ra khỏi
thập pháp giới rồi đi đến đâu? Đến Nhất Chân pháp
giới. Hoa Tạng thế
giới là Nhất Chân pháp giới, Cực Lạc thế
giới cũng là Nhất Chân thế giới, tỳ kheo
ở đây tượng trưng cho ư nghĩa này.
Thập pháp giới là nhà, lục đạo là nhà, cái
nhà này rất phiền phức! Pháp môn trong Phật pháp rất
nhiều, kinh luận rất nhiều, tám vạn bốn
ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn.
Trên lư luận th́ bất cứ pháp môn nào cũng có
thể giúp bạn vượt thoát khỏi sáu nẻo luân
hồi, vượt thoát thập pháp giới, chứng
được Nhất Chân pháp giới, tức là thành
Phật. Lư luận chẳng
sai nhưng thực sự căn tánh chúng sanh chúng ta
chẳng giống nhau, trong kinh thường chia ra ba
loại căn tánh: thượng, trung, hạ. Thượng căn lợi trí th́
không có ǵ để nói, chẳng có vấn đề ǵ
hết. Nhưng chúng sanh có
căn tánh trung, hạ th́ chẳng dễ, rất nhiều pháp môn chúng ta chẳng có
cách ǵ học được, tuy chúng ta y theo lư luận,
phương pháp để tu nhưng cũng không thể
thành tựu. Tại sao không
thể thành tựu? V́ không
thể đoạn dứt phiền năo, không thể
đoạn dứt tập khí.
Tu học Phật pháp có thể thành tựu hay không là
ở tại chỗ này, chứ chẳng phải mỗi
ngày đọc bao nhiêu quyển kinh, tĩnh tọa bao nhiêu
giờ đồng hồ, niệm bao nhiêu vạn câu
Phật hiệu. Những
thứ này không quan trọng, quan trọng là đoạn
phiền năo, giảm bớt vọng niệm, đó gọi
là công phu!
b. Chúng sanh
vốn là Phật – v́ vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước mà đọa lạc trong sáu nẻo,
thập pháp giới
Trong kinh Hoa Nghiêm đức
Phật dạy rất rơ: ‘Hết
thảy chúng sanh vốn thành Phật’. Chúng ta vốn là
Phật, tại sao ngày nay biến thành ra như vầy? Vấn đề này chúng ta
chẳng thể không nghiên cứu, suy nghĩ, rốt
cuộc là v́ nguyên nhân ǵ? Trong kinh
Hoa Nghiêm đức Phật v́ chúng ta nói ra: ‘Hết thảy chúng sanh đều có trí
huệ đức tướng của Như Lai’. Trí huệ của
Như Lai rốt ráo, viên măn, không có ǵ chẳng biết, không
ǵ chẳng thể làm, không những biết thế giới
hiện nay, thế giới ở phương khác cũng
biết; quá khứ vô thỉ, vị lai vô chung, không có ǵ
chẳng biết, Phật dạy đây là bản năng
của chúng ta.
Tại sao bản năng
của chúng ta bị mất hết? Phật dạy: ‘Nhưng v́ vọng tưởng, chấp
trước mà không thể chứng được’. Đức Phật nói rơ
bịnh căn của chúng ta – có chấp trước, có
phân biệt, có vọng tưởng. V́ vậy toàn bộ Phật pháp
đều tập trung trên ba vấn đề này, ngàn kinh
vạn luận đều có mục đích giúp chúng ta
giải quyết vấn đề này, phá trừ những
phiền năo này. V́ chấp
trước nên bạn biến Nhất Chân pháp giới thành
sáu nẻo luân hồi. Sáu
nẻo luân hồi là do chấp trước mà ra. Chấp trước là ǵ? Phần đông chúng ta gọi là
‘thành kiến’ – cách suy nghĩ, cách làm của ḿnh -- Như vậy rắc rối
lắm, vĩnh viễn chẳng thoát ra khỏi sáu nẻo
luân hồi. [Nếu c̣n chấp
trước th́ dù] một ngày bạn niệm Phật
đến mười vạn câu cũng vẫn kẹt
trong sáu nẻo luân hồi; điều này hết sức
phiền phức!
Chuyện ǵ đều có ‘Ngă’
(Ta) th́ phiền lắm, cho nên Phật dạy chúng ta ‘Vô
Ngă’. Bạn xem câu đầu
tiên trong kinh Kim Cang dạy: ‘Không có
tướng ta, không có tướng người, không có
tướng chúng sanh, không có tướng thọ giả’. Chuyện ǵ cũng
chấp trước là Ta th́ hỏng ngay! Tu hành được giỏi cách
mấy, giới luật có nghiêm chỉnh đến đâu,
một khi ngồi xếp bằng nhập định có
thể nhập định một trăm năm, nhưng
chỉ cần bạn có ‘Ta’ th́ hỏng liền. Công phu như vậy là công phu
thiền định thế gian, vẫn không thể
vượt ra khỏi lục đạo. Cho nên việc đầu tiên trong
Phật pháp là phải ‘phá ngă chấp’. Mọi người đều
biết sau khi phá ngă chấp th́ chứng được
quả vị A La Hán, ra khỏi tam giới, lục
đạo đều không c̣n nữa. Ngoài lục đạo c̣n có
Tứ Thánh pháp giới: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát,
Phật. Tứ Thánh pháp
giới do đâu mà có? Do ‘Phân
biệt’ mà có. Tuy không c̣n
chấp trước nữa nhưng vẫn c̣n phân
biệt. Trong Tứ Thánh pháp
giới càng lên cao th́ tâm phân biệt càng giảm bớt; tuy
ít nhưng vẫn c̣n phân biệt nên ở phía ngoài c̣n thêm
một giới hạn nữa gọi là thập pháp
giới, bạn vượt thoát không nổi! Khi nào đoạn dứt hết
phân biệt, vượt ra khỏi mười pháp giới
th́ đến Nhất Chân pháp giới.
Trong kinh Đại thừa
thường nói thành Phật cần phải trải qua ba A
Tăng Kỳ kiếp; ba A Tăng Kỳ kiếp bắt
đầu tính từ ngày nào?
Chẳng phải tính từ hiện nay, hiện nay
chúng ta không đủ tư cách; là tính từ ngày hết
thảy phân biệt chấp trước đều
đoạn dứt, là tính từ ngày vượt thoát ra
khỏi thập pháp giới.
Lúc bạn c̣n chưa vượt khỏi thập pháp
giới th́ tất cả những ǵ bạn tu đều
không kể, như vậy lục đạo chẳng
cần bàn tới. Cho nên
chứng được Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát,
Phật quả trong thập pháp giới, ngay cả Phật
cũng chẳng kể;
Phật ở đây là Tạng Giáo Phật, Viên Giáo
Phật trong Tông Thiên Thai, vẫn c̣n ở trong thập pháp
giới, cũng chưa kể.
Phân biệt, chấp trước thiệt đă
đoạn dứt sạch sành sanh mới đến
Nhất Chân pháp giới, chứng Viên Giáo Sơ Trụ
Bồ Tát, Biệt Giáo Sơ Địa Bồ Tát, tính là tính
từ lúc này, phải trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp
nữa!
Ba A Tăng Kỳ kiếp để phá cái ǵ? Phá vọng tưởng. Lúc bấy giờ mới phá
vọng tưởng, một phiền năo trong ba thứ
‘vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước’. A Tăng Kỳ
kiếp thứ nhất là để phá ba mươi
phẩm -- Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng; A Tăng Kỳ
kiếp thứ nh́ phá bảy phẩm – Sơ Địa
đến Thất Địa; A
Tăng Kỳ kiếp thứ ba phá ba phẩm, càng trở
về sau càng khó, đến Pháp Vân Địa Bồ Tát th́
mới gọi là viên măn thành Phật. Chúng ta chẳng thể không biết
những thường thức căn bản này, chẳng
thể không biết chúng ta tu cái ǵ, công phu của chúng ta
ở tại đâu? Chúng ta
phải hiểu rơ những chuyện này, sau đó quan sát tám
vạn bốn ngàn pháp môn, đối với bất cứ
pháp môn nào chúng ta đều không thể giải quyết
vấn đề; đừng nói đến những
vọng tưởng, phân biệt nhỏ bé, ngay cả
tập khí nặng nhất là chấp trước, chúng ta
đều đoạn không nổi, như vậy th́ c̣n nói
chi đến thành tựu!
c. Chắc
thật niệm Phật, khỏi đoạn phiền năo,
một đời thành Phật.
Ngàn kinh vạn luận, vô
lượng pháp môn, chúng ta nh́n nó mà than vắn thở dài,
thiệt là không [có cách chi để] đạt
được lợi ích!
[Bây giờ biết
được vấn đề này] th́ chẳng thể
không cám ơn đức Phật A Di Đà đă mở ra pháp
môn ‘Đới Nghiệp Văng Sanh’ cho chúng ta, người xưa
gọi là ‘môn dư đại đạo’ (con đường tắt
để thành Phật ngoài tám
vạn bốn ngàn pháp môn). Sự ích lợi của pháp môn này
là không cần đoạn phiền năo; cũng là nói bạn
khỏi phải vượt thoát lục đạo,
thập pháp giới, nhưng ngay trong đời này bạn
có thể văng sanh về Nhất Chân pháp giới (Cực
Lạc thế giới tức là Nhất Chân pháp
giới). Điều tiện nghi
này quá to lớn v́ vậy pháp môn này được gọi
là ‘pháp khó tin’. Chẳng
phải là chúng ta khó tin, chúng ta ai cũng đă tin; [Vậy
th́] ai khó tin? Thanh Văn, Duyên
Giác, Bồ Tát, Phật trong thập pháp giới đều
chẳng tin; họ cho rằng làm sao có chuyện dễ dàng,
tiện lợi như vậy!
Một phẩm vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước cũng chưa đoạn mà có thể
vượt thoát lục đạo, vượt thoát
thập pháp giới, làm sao có chuyện này!
Đích thực trên lư luận không thể nào nói cho
hợp lư được, nhưng đây là sự
thật. Sự thật này
đương nhiên cũng có nhân duyên. Tại sao có chuyện này? Chúng ta t́m được câu
trả lời trong kinh Hoa Nghiêm, kinh Vô Lượng Thọ;
nhân duyên có hai thứ, thứ nhất là bổn nguyện oai
thần của đức Phật A Di Đà gia tŕ, thứ hai
là thiện căn, phước đức, nhân duyên của
ḿnh đă chín muồi. Kinh A Di
Đà nói: ‘Chẳng thể dùng ít
thiện căn, phước đức, nhân duyên’. Tự ḿnh đầy
đủ thiện căn, phước đức, nhân
duyên, và được bổn nguyện cùng oai thần
của đức Phật A Di Đà gia tŕ nên ngay trong
đời này chẳng cần đoạn phiền năo mà có
thể đới nghiệp văng sanh. Pháp môn này hết sức thù thắng,
kỳ diệu đặc biệt, không thể nào kiếm
ra pháp môn thứ hai nữa.
Thế nên chúng ta sanh vào thời kỳ mạt pháp mà
muốn ngay trong một đời này liễu sanh tử,
xuất tam giới th́ chỉ có con đường duy
nhất này mà thôi. Đây là
điều chúng ta cần phải nhận thức rơ ràng
rồi sau đó chúng ta mới quyết tâm, tha thiết,
chắc thật niệm Phật.
Được vậy th́ xin chúc mừng bạn, ngay trong
một đời này sẽ làm Phật, không có ǵ thù
thắng hơn việc này.
d. Nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối. Năng chấp, sở chấp
đều không thể đạt được.
Như thế nào mới
gọi là chắc thật?
Trong kinh Lăng Nghiêm, Đại Thế Chí Bồ Tát
dạy chúng ta phương pháp niệm Phật: ‘Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm
tiếp nối’ (Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm
tương kế), hết thảy chỉ
có tám chữ. Nếu làm
được tám chữ này th́ đó tức là tiêu
chuẩn của người chắc thật.
Nhiếp trọn sáu căn là
ǵ? Nói thực ra Bồ Tát Quán
Thế Âm đă dùng phương pháp này tu hành thành
tựu. Bồ Tát Quán Thế
Âm trong kinh Lăng Nghiêm, Chương Viên Thông có dạy: ‘Xoay
trở lại nghe nơi tự tánh, tánh thành đạo vô
thượng’ (Phản
văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng
đạo). Đây là tổng cương lănh tu
hành của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Phản văn tức là thâu nhiếp sáu căn. Phàm phu chúng ta khi mắt thấy
sắc, tai nghe âm thanh, tâm cứ chạy nhảy bên ngoài,
đều là phân biệt, chấp trước cảnh
giới bên ngoài, như vậy là sai lầm. Sai ở chỗ nào? Kinh Kim Cang dạy chúng ta ‘Ba tâm không thể được’; tâm là ǵ, tâm tức là ư niệm, là tư
tưởng.
Phật dạy: ‘Tâm quá khứ không thể đạt
được’ tức là lúc
trước không thể được, ‘tâm hiện nay không đạt
được’, nói hiện nay th́
hiện nay đă biến thành quá khứ; ‘tâm tương lai không đạt
được’ tức là sau này không
thể được.
Điều này nói rơ ‘cái tâm mà bạn đạt
được đó là hư vọng, chẳng phải
thiệt’; tức là cái ư
niệm mà bạn có thể chấp trước, phân
biệt đó đều là hư vọng, chẳng phải
chân thật. Bạn xem vật
này thành chính ḿnh, đó không phải là oan uổng sao! Đức Phật gọi cảnh
giới bên ngoài mà bạn tư duy là ‘pháp
do nhân duyên sanh’. Không những pháp thế gian do nhân
duyên sanh, Phật pháp xuất thế gian cũng do nhân duyên
sanh. Phàm những ǵ do nhân duyên
sanh th́ bản thể vốn là không, trọn chẳng
thể đạt được
(đương thể tức không, liễu bất khả
đắc). Nói cách khác, những ǵ bạn chấp đều không
thể được, năng chấp (chủ thể chấp), sở chấp (cái
được chấp)
đều chẳng thể được, đây là chân
tướng sự thật!
Hết thảy chúng sanh mê
hoặc điên đảo, cứ tưởng ḿnh có
‘chủ thể có thể chấp trước’, cảnh
giới bên ngoài là ‘cái được ḿnh chấp trước’,
đó gọi là khởi vọng tưởng. Lúc khởi vọng tưởng
th́ biến thành lục đạo luân hồi, biến thành
tam ác đạo, sẽ tạo nên rất nhiều thứ
nghiệp. Cho nên trong kinh
đức Phật gọi những người này là
‘những người đáng thương’, thiệt là
tội nghiệp! Đúng thiệt
chỉ là một con số không, là mộng, huyễn,
bọt, bóng – trong mộng, huyễn, bọt, bóng làm việc
sinh nhai, trong mộng, huyễn, bọt, bóng tạo
nghiệp, thọ tội; bạn nói như vậy chẳng
phải oan uổng lắm sao?
Phật dạy chúng ta: ‘Pháp c̣n phải xả, huống chi là phi pháp’. Xả tức là không
nên chấp trước.
Phật pháp cũng không được chấp
trước, huống chi là pháp thế gian? Việc này được
giảng vô cùng thấu triệt; nếu bạn chẳng
chấp trước ǵ hết th́ tâm bạn sẽ thanh
tịnh, tự tại. Đó
tức là câu ‘Tín tâm thanh
tịnh, ắt sanh thật tướng’ trong kinh. Tự tánh Bát
Nhă hiện tiền, lúc đó sẽ nhập Như Lai Địa. Tại sao chúng ta khởi vọng
tưởng? Tại sao tự
ḿnh lại gây chuyện rắc rối cho ḿnh? Hy vọng các bạn đồng
tu đặc biệt chú ư điểm này, phải
thường xuyên nhắc nhở chính ḿnh: ‘lúc khởi tâm
động niệm, hết thảy tạo tác, đừng
gây rắc rối cho ḿnh’.
Bạn có gây trở ngại
cho người khác chăng?
Nói cho quư vị biết tuyệt đối chẳng
có. Nếu bạn có năng lực
gây trở ngại cho người khác, chư Phật
cũng tôn bạn làm thầy.
Nguyên nhân là ǵ vậy?
Hết thảy chư Phật chẳng có năng
lực này! Bạn làm sao có
năng lực này? Bạn nói
có thể gây trở ngại cho người khác, đó
đều là hảo hợp, nhân duyên [trùng hợp], đâu
phải bạn có năng lực này? Đây là khởi vọng
tưởng. ‘Một miếng ăn, một hớp
nước đều đă định sẵn từ
trước’, đây là định
luật nhân quả. Bạn làm
sao có năng lực thay đổi nhân quả? Chẳng có đạo lư này. Ngay cả Phật, Bồ Tát
cũng chẳng thể thay đổi nhân quả, trong kinh
đă nói quá nhiều rồi, nêu thí dụ cũng rất
nhiều. Nếu Phật có
năng lực thay đổi nhân quả th́ chúng ta đâu
cần phải tu hành chi nữa?
Nếu Phật chẳng độ chúng ta thành Phật
th́ Ngài đâu có từ bi? Nói
thiệt ra Phật không có năng lực thay đổi nhân
quả, nhất định là ‘tự ḿnh làm, tự ḿnh
chịu’; tự bạn khởi lên vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, th́ bạn phải
đích thân đoạn trừ chấp trước, phân
biệt, vọng tưởng. ‘Mở thắt gút vẫn
phải do người buộc mở’, chuyện này
bất cứ người nào khác cũng chẳng giúp
được, đây là chân lư.
e. Ban châu Tam
muội.
Đức Phật từ bi
đối với chúng ta bằng cách giải thích rơ chân
tướng sự thật cho chúng ta biết, Ngài giúp chúng
ta chỉ có thể giúp đến mức này, những
việc sau đó phải do ḿnh tự giải quyết. V́ vậy niệm Phật phải
‘chắc thật niệm’!
Phương pháp của Kiết Tường Vân tỳ
kheo dùng trong kinh Hoa Nghiêm là phương pháp chúng ta
thường gọi : ‘Ban Châu Tam Muội’. Đây là một phương thức
tu hành rất hay, chúng ta nên tham khảo. Trong Niệm Phật Đường
hiện nay chúng ta chia thành ba khu vực: chỉ tịnh,
lạy Phật, và nhiễu Phật. Nhiễu Phật tức là Ban Châu
Tam Muội. Hành Sách đại
sư có viết cuốn ‘Tịnh Độ Tập’, phía sau có một
đoạn dạy phương pháp niệm Phật trong
Niệm Phật Đường, lúc chưa coi quyển sách này,
tôi cũng đă nghĩ đến một phương pháp
rất giống phương pháp của Ngài. Đạo tràng ngày xưa lớn,
chúng (người trụ) ở đó nhiều, cho nên chia
thành ba nhóm, mỗi nhóm có bốn vị pháp sư dẫn
đầu, một nhóm nhiễu Phật, hai nhóm kia chỉ
tịnh. Nhiễu Phật
phải niệm ra tiếng, chỉ tịnh th́ im lặng,
trong tâm niệm theo. Một
nhóm nhiễu Phật vài ṿng xong rồi trở về
chỗ cũ của ḿnh. Nhóm
thứ hai tiếp tục nhiễu Phật. Phương pháp này là dành cho chúng
sanh đời mạt pháp, nghiệp chướng quá
nặng, không có năng lực kinh hành trong thời gian dài,
để cho bạn ngồi xuống nghỉ mệt, cho
nghỉ mệt là ḷng đại từ đại bi
của Tổ sư.
Ban Châu Tam Muội thực
sự th́ trong chín mươi ngày đều nhiễu
Phật, chẳng được ngồi, chẳng
được nằm, ngày đêm chẳng gián
đoạn. Quư vị nghĩ
coi ngày nay ai có năng lực như vậy? Ai có thể làm được
đến chín mươi ngày?
Cổ đức trong chú giải cũng lo
người đời sau chẳng có thể lực,
chẳng đủ tinh thần nên giảm thành bảy
ngày. Họ nói bảy ngày, tôi
thâu ngắn lại thành một ngày.
Bạn có thể trong một ngày không ngủ, không
ngồi, không nằm suốt hai mươi bốn giờ,
chỉ nhiễu Phật, đây là phương pháp tu hành Ban
Châu Tam Muội.
Dụng công cả ngày trong
Niệm Phật đường thực sự rất
mệt, khi nào mệt th́ có thể ngồi xuống nghỉ
mệt, chỉ nghỉ một lát, cảm thấy có
thể đi trở lại th́ liền đứng dậy
nhiễu; ngồi xuống là v́ thân thể mỏi mệt chịu
không nổi, xin Phật cho phép nghỉ mệt, là
phương pháp như vậy.
Thế nên trong Niệm Phật đường dùng
nhiễu Phật làm [phương pháp] chính; lúc nhiễu
Phật phải niệm ra tiếng; chúng ta ngày nay có máy
niệm Phật rất tiện lợi, [chúng ta có thể]
niệm theo tốc độ và âm điệu của máy niệm
Phật. Pháp khí chỉ cần
một người dẫn khánh, và gơ khánh vào lúc niệm
chữ ‘Đà’ trong câu ‘A Di Đà Phật’.
Hiện nay phần đông người ta gơ hai
tiếng vào hai chữ ‘A’ và ‘Đà’, trên thực tế chỉ
cần gơ vào chữ ‘Đà’, đích thật rất tiện
lợi, như vậy mới dễ nhiếp tâm, mới
thực sự làm được ‘Nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối’. ‘Tịnh niệm’
tức là chẳng có hoài nghi, chẳng xen tạp th́ niệm
của bạn sẽ ‘tịnh’.
Tiếp nối tức là không đứt đoạn,
niệm Phật chẳng đứt đoạn, miệng
tạm ngừng không niệm ra tiếng, nhưng trong tâm
niệm Phật chẳng ngừng.
Nếu có thể huấn luyện trong một thời
gian dài, lại được Tam Bảo gia tŕ, tôi tin
tưởng thân thể bạn sẽ ngày càng khỏe, càng
cường tráng, tinh thần càng sung túc, mặt mày càng trang
nghiêm, đây là đạo lư nhất định. Hiệu quả học Phật
phải từ đây mà nh́n, mới nắm chắc sự
văng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới.
f. Tướng
lành lúc Hàn Quán Trưởng văng sanh
Gần đây hội trưởng
của chúng ta, Hàn Quán Trưởng văng sanh, tướng lành
của bà lúc văng sanh đă đem lại cho chúng ta niềm
tin rất lớn, giải thích cho chúng ta rất nhiều,
nói rơ niệm Phật văng sanh là thiệt, chẳng phải
giả. Chúng ta cũng đă tiễn
đưa rất nhiều bạn bè, thân quyến, tiễn
đưa lần cuối. Hôm
qua tôi gặp Thái cư sĩ trên máy bay, Thái cư sĩ nói kỳ
này về Đài Loan, trong ṿng ba tháng đă tiễn đưa
hết bốn người, mạng người hết
sức vô thường!
Bạn quan sát kỹ những người sắp ra
đi, trong lúc họ đang bịnh nặng nhưng
chưa mất, họ đều nói đă nh́n thấy
thần, thấy quỷ, rất giống với những
lời dạy trong kinh Địa Tạng, họ nh́n thấy
người này đến, người kia đến,
những người này đều là những thân quyến
đă qua đời; có phải thiệt là họ
đến hay không? Kinh Địa
Tạng dạy: không phải.
Đó là những oan gia chủ nợ thấy người
này sắp mất nên biến thành thân quyến để
dụ dỗ họ, dẫn dụ họ để thanh
toán, đ̣i nợ cũ, đều chẳng phải
thật. Chúng tôi đă gặp
qua rất nhiều, hầu như mỗi người lúc
lâm chung đều có hiện tượng này, rất
giống lời dạy trong kinh Địa Tạng.
Hàn Quán trưởng mang bịnh
nằm bịnh viện, chúng tôi biết yêu ma quỷ quái
trong bịnh viện rất nhiều, có ngày nào trong bịnh
viện chẳng có người chết? Mỗi ngày đều có. Rất nhiều bác sĩ, y tá
chẳng tin Phật nhưng lại tin có quỷ; tại sao
vậy? Họ đều
đă thấy, thiệt là đă nh́n thấy, không giả
chút nào! Có lúc cũng nh́n
thấy Quỷ Vô Thường -- Bạch Vô Thường và
Hắc Vô Thường xuất hiện ở cửa pḥng
người bịnh nào th́ người này chỉ sống
thêm được nhiều lắm là ba ngày. Họ thường thấy
những cảnh tượng này.
Lúc Hàn quán trưởng nằm bịnh viện, chúng
tôi lo lắng nhất là chuyện này nên khi bịnh t́nh
của bà chuyển nặng, những người xuất
gia chúng tôi đều đến pḥng thủ. Ở Đài Loan lúc bấy giờ
rất nóng, tôi dặn các vị xuất gia khi trợ
niệm trong bịnh viện luôn luôn phải đắp
y. Trên đầu giường
bịnh chúng tôi có đặt tượng đức Phật
A Di Đà và kinh điển Đại Thừa, đầy
đủ Tam Bảo! Mục
đích là để ngăn chận không cho những oan gia
chủ nợ đến gần.
Chúng tôi làm việc này rất chu đáo, bảo vệ
vô cùng cẩn mật, từ lúc sanh bịnh đến lúc
mất, bà chẳng nói là đă nh́n thấy một ai
hết, được vậy nên chúng tôi rất an tâm.
Không những trong lúc niệm Phật,
ngay lúc bịnh chuyển nặng bà cũng chẳng nh́n
thấy ai cả. Bác sĩ, y
tá trong bịnh viện nói với chúng tôi rằng khí
phần (hoàn cảnh chung quanh) trong bịnh viện
đều khác lúc b́nh thường, hết sức kiết
tường và an ḥa; chẳng giống hồi trước
mỗi khi ra vào đều cảm thấy rất kinh
sợ, đều có cảm giác bất an, kỳ
lạ. Đây đúng là oai
thần Tam Bảo gia tŕ. Chúng
tôi hiểu được đạo lư này nên pḥng vệ
hết sức nghiêm mật.
Mỗi ngày tôi đều đến bịnh viện
hai ba lần, phần lớn thời gian đều dành
để trợ niệm cho bà.
Một bữa trưa ngày nọ bà kêu con bà gọi
điện thoại cho tôi.
Vốn là mỗi buổi trưa tôi trở về thư
viện nghỉ ngơi, ngủ trưa, cỡ ba giờ
hơn trở lại thăm bà.
Hôm đó cỡ hơn mười hai giờ bà gọi
điện kêu tôi giữa bữa ăn trưa. Lúc đó t́nh h́nh rất nguy
cấp, tôi đến nói chuyện với bà, đại
khái đến ba giờ th́ dường như bà có vẻ
mê man, chúng tôi bèn niệm Phật lớn tiếng, chánh
thức bắt đầu trợ niệm, nhắc nhở
bà cầu sanh Tịnh Độ, đợi A Di Đà Phật
đến tiếp dẫn.
i. Thấy Phật lần
đầu
Đến sáu, bảy giờ
chiều, bác sĩ phụ trách đến khám xong và nói
với con bà rằng chắc bà chỉ c̣n hai giờ nữa
thôi. V́ vậy chúng tôi niệm
Phật [lớn tiếng] lên, chúng tôi niệm đến tám
giờ th́ bà tỉnh dậy, tinh thần rất tỉnh
táo, muốn uống nước và ăn chút đỉnh
thức ăn. Đến
mười hai giờ rưỡi khuya bà rất vui mừng
và la lớn tiếng: ‘A Di Đà Phật đến ḱa’ --
lần thứ nhất thấy A Di Đà Phật, cỡ
chừng ba, bốn phút rồi sau đó nói A Di Đà Phật
đă đi rồi. Tôi nói
chắc A Di Đà Phật đến thăm bà, an ủi bà, có
lẽ bà sẽ khỏe lại.
Chúng tôi tưởng bà ‘hồi quang phản chiếu’,
nhưng sau đó tinh thần bà càng khỏe thêm nên tôi nói
chuyện với bà về vấn đề phát triển
công tác hoằng pháp lợi sanh trong tương lai. Bà đề ra việc lớn
thứ nhất là việc giáo dục vô cùng quan trọng,
nhất định không thể gián đoạn; Kinh Hoa Nghiêm lần này là do bà yêu
cầu giảng, bà hy vọng có thể giảng
được viên măn.
Chúng tôi nói chuyện khoảng
hai giờ rưỡi, đến hai giờ mấy khuya
tinh thần của bà rất tốt, tôi thấy chắc yên
rồi nên mời bác sĩ đến khám cho bà thử xem
sao. Bác sĩ lắc
đầu nói:
‘Thiệt là không thể
tưởng tượng nổi!
Những người niệm Phật như quư vị
rất lạ lùng, không thể nghĩ bàn! H́nh như bà ngày càng khỏe thêm’.
Đây là lần thứ nhất
bà nh́n thấy A Di Đà Phật, tôi nói với bà:
‘Bây giờ bác niệm A Di Đà
Phật so với chúng tôi th́ thân thiết hơn nhiều,
bác đă thấy Phật, chúng tôi c̣n chưa thấy
nữa’.
Bà nói: ‘Đúng! đúng vậy!’
Hôm sau tôi đi thăm bà,
tất cả đều b́nh thường.
Ngày kế tiếp tôi nhớ
đến những ǵ bàn trong đêm trước nên
viết ra giấy, viết thành mười hai
điều. Buổi chiều
lúc tôi đi thăm bà, đọc từng điều
từng điều ra cho bà nghe, nghe xong bà rất vui vẻ.
Bà rất tỉnh táo,
đầu óc tỉnh táo cùng chúng tôi niệm Phật. Ngay lúc đó tôi liền nghĩ
đến một chuyện, áo cà sa của tôi có màu cà phê
nhưng tôi nghĩ đến phần đông người
xuất gia đều mặc áo hải thanh (áo tràng) màu vàng,
đắp cà sa màu đỏ, việc này không đúng như
pháp; hết thảy kinh luận Đại thừa và Tiểu
thừa đều ghi người xuất gia mặc áo
nhiễm sắc (nhuộm màu), không có màu vàng, màu đỏ,
chẳng có những màu này. Quán
Trưởng luôn nhấn mạnh: chúng ta phải làm đúng
như pháp, người xuất gia chúng ta phải làm
gương mẫu, người tại gia phải làm
gương mẫu, đạo tràng cũng phải làm
gương mẫu. Đây là
nguyện vọng của bà.
Thế nên tôi nghĩ những người xuất gia
ở thư viện phải may lại y phục. Tôi gọi thầy Ngộ Đạo
liên lạc với tiệm may tăng phục Bản
Kiều, kêu họ đến để đo kích
thước may áo, sau đó chúng tôi ra về.
ii. Thấy Phật
lần thứ hai.
Đại
khái sau khi tôi rời khỏi bịnh viện không lâu, đó
là trưa ngày bốn tây, bà thấy A Di Đà Phật lần
thứ hai, và c̣n thấy hoa sen, ao nước, ao sen rất
lớn. Lúc bà thấy
đức Phật A Di Đà lần thứ hai, tôi không có
mặt tại bịnh viện.
Tối hôm đó bà chủ tiệm may đến đo
kích thước, chúng tôi hy vọng y phục có thể may
nhanh nhanh, có thể là chúng tôi sẽ cần dùng gấp! Bà chủ tiệm nói: ‘Tôi biết
rồi’.
Mọi
người ở Thư Viện nghe xong đều rất
ngạc nhiên, bà làm sao biết trước rồi?
Bà
nói: ‘Hồi trưa này A Di Đà Phật thông báo cho bà biết,
nói Thư Viện có chuyện gấp, quư vị nhất
định phải may nhanh nhanh cho họ’.
Nghe
xong trong tâm chúng tôi cảm thấy rất an ủi,
chuyện của Quán Trưởng đă được A Di
Đà Phật an bài sẵn giúp bà.
Bà chủ tiệm nghe đức Phật A Di Đà dặn
những chuyện này cùng lúc với Quán trưởng
thấy Phật lần thứ nh́.
Một người th́ đang nằm trong bịnh
viện Tam Quân, một người th́ ở Bản
Kiều, thời gian cùng lúc, thiệt là không thể nghĩ
bàn!
Buổi chiều hôm
đó tôi vào bịnh viện thăm Quán Trưởng.
Tôi nói: ‘Bác đă
thấy A Di Đà Phật phải không?’
Bà nói: ‘Dạ
đúng vậy’
Tôi nói: ‘Bác có
cảm thấy được A Di Đà Phật rất từ
bi, rất thân thiết phải không?’.
Bà nói: ‘Đúng lắm,
Ngài thiệt là hết sức từ bi, vô cùng thân thiết’.
Chuyện
này không giả đâu! Bà đă
đem lại cho chúng ta niềm tin [to lớn].
Bà
chủ tiệm may tăng phục quả nhiên không sai, bà
đă chuẩn bị vật liệu ở nhà hết
rồi, nên lúc Quán trưởng văng sanh, lúc chúng tôi trợ
niệm đắp y đều có màu cà phê, đích thật
là rất đúng như pháp.
g. Uống
nước nhớ nguồn, bàn về ân đức. Ân của thầy, ân của
hộ pháp.
Con người của Quán
Trưởng, rất nhiều đồng tu trong quư vị
đă thường ở chung chỗ hoặc tiếp xúc qua
rồi, cả ngày từ sáng đến tối, cái
miệng bà cứ lép chép hoài, h́nh như chưa thấy bà
niệm Phật. Tại sao bà
lại có thể văng sanh một cách hết sức thù
thắng như vậy? Chúng ta
suy nghĩ kỹ lưỡng, bà không phải là
người thường, bà là do A Di Đà Phật phái
đến để hộ pháp đấy. Điểm đặc biệt
của Tịnh Tông là bản hội tập kinh Vô
Lượng Thọ của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư,
ngày nay đă được hoằng truyền khắp
thế giới, chúng ta uống nước phải nhớ
nguồn, truy t́m nguồn gốc này th́ đó chính là công
đức của bà đă hộ pháp, công đức này quá
lớn.
Năm xưa khi chúng tôi
giảng kinh ở Đài Bắc đă gặp nhiều
điều trắc trở, khó khăn không thể
tưởng tượng được! Đố kỵ, chướng
ngại hầu như không có lối thoát, bức bách
đến nỗi chẳng hoàn tục th́ không
được; gặp những khổ nạn to lớn
như vậy! Lúc đó bà là
một thính chúng, lúc tôi giảng kinh hai vợ chồng bà
thường đến nghe giảng, biết
được hoàn cảnh khó khăn này nên có ư muốn giúp
đỡ; họ mời tôi đến đến thăm
nhà của họ. Nhà của
họ là một căn nhà đơn độc xây theo
lối mới, trên lầu c̣n pḥng trống, con trai bà
đang học trung học, một ḿnh ở trên
lầu. Bà hỏi tôi: ‘Hoàn
cảnh như vậy thầy có thể trú nơi đây
không?’. Tôi xem xong cũng hoan
hỷ, sau đó tôi về Đài Trung kể câu chuyện này xin
phép thầy Lư, thầy Lư cho phép: ‘Được!’, từ
đó tôi bèn trú ở nhà bà, [gia đ́nh] bà hộ tŕ.
Pháp sư giảng kinh
thiệt là không dễ chút nào, có tiếng tăm vượt
trội người khác vô cùng khó khăn! Cần giảng đài, cần
người nghe để tập luyện. Bà giúp tôi kiếm chỗ,
mướn chỗ, mượn chỗ để giảng,
và mời một số bạn bè đến nghe giảng,
giúp cho tôi giảng kinh được liên tục, chẳng
gián đoạn. Bà đă
hộ tŕ suốt ba mươi năm, bà thiệt là hết
sức bền chí và nhẫn nại! Chúng ta ngày nay được thành
tựu, lúc bà bị bịnh nặng, trong kinh Địa
Tạng có dạy [chúng ta] phải nói cho bà biết cả
đời này bà đă làm được những chuyện
ǵ tốt, làm cho bà vững ḷng tin có thể văng sanh,
điểm này rất quan trọng.
Tôi nói chúng tôi giống như
một cây bồ đề, mầm cây con là do Chương
Gia đại sư vun trồng, lớn lên thành một cây
nhỏ là nhờ mười năm ở Đài Trung
[được thầy Lư dạy dỗ]; lúc đó rất
mềm yếu, người ta muốn hủy diệt th́
rất dễ. Sau đó
được sự hộ tŕ suốt ba mươi
năm của bà, ngày nay Tịnh Tông được
hoằng dương khắp trong và ngoài nước, đă
truyền khắp thế giới, cho nên nguồn gốc
của sự thành tựu này là do công đức của bà
đă hộ tŕ. Lúc ra đi, bà
thấy Phật A Di Đà hai lần; A Di Đà Phật dặn ḍ
chúng tôi may y phục, c̣n hối thúc phải may cho nhanh;
nếu bà không phải A Di Đà Phật phái đến th́ c̣n ai
phái đến nữa? Nhân
duyên này hết sức hiếm có!
Ân đức này chẳng
phải dành riêng cho chỉ một ḿnh tôi, mỗi
người niệm kinh Vô Lượng Thọ, mỗi
người hôm nay niệm A Di Đà Phật, đều
được một phần ân đức, đạo lư
là ở chỗ này. Cho nên
hoằng pháp và hộ pháp đều không dễ, cần
phải có đầy đủ trí huệ, nhẫn nại,
nghị lực, phải có thể nhẫn chịu hết
thảy những lời hủy báng. Đương nhiên cũng có
người tán thán và có người hủy báng, bạn
đều phải nhận chịu hết. Bạn không thể gặp một
chút khó khăn liền thoái tâm, sợ sệt, như vậy
th́ uổng hết công lao từ trước. Đích thực trong đời bà
đă làm được điểm này; lúc đó mặc
kệ người nào nói thêm, nói bớt, châm thọc, công
kích, bà vẫn như như chẳng động.
Chúng tôi ra nước ngoài
hoằng pháp cũng là do bà [lo giấy tờ] t́m
phương pháp dẹp tan chướng ngại. V́ lúc trước người xuất
gia muốn ra ngoại quốc phải thông qua sự
chấp thuận của ‘Hội Phật Giáo Trung Quốc’,
nếu họ chẳng cho th́ người ấy không xin
được hộ chiếu.
Tự ḿnh tôi biết rất rơ, Quán trưởng
cũng biết, Hội Phật Giáo Trung Quốc tuyệt
đối sẽ không giúp tôi làm việc này. V́ lo cho tôi ra nước ngoài
hoằng pháp nên bà gia nhập vào ‘Hội Vạn Quốc
Đạo Đức’. Những
người lănh đạo hội này lúc đó đều
là những người xuất xứ từ vùng Đông
Bắc, họ là người đồng hương
với bà, sau đó bà nhờ Hội Vạn Quốc Đạo
Đức mời tôi làm cố vấn, tôi đi theo phái đoàn
của họ đến Los Angeles dự buổi họp
những đại biểu trên toàn thế giới lần
thứ ba. Tôi được
hội Vạn Quốc này làm hộ chiếu; chuyện làm
hộ chiếu thực ra cũng là do Tam Bảo gia tŕ. Hội đoàn chúng tôi gồm có ba
mươi mấy người, lúc đi làm giấy tờ
chỉ có tôi và bà Quán trưởng xin được hộ
chiếu năm năm, những người khác đều
là ba tháng; thiệt là kỳ lạ!
Sau khi ra nước ngoài, bạn bè, học tṛ rất
nhiều, [pháp] duyên đă được kết rồi, từ
đó mới bắt đầu sự hoằng pháp quốc
tế. Đây đều là do bà
dụng tâm, t́m cách vượt qua rất nhiều khó
khăn, cho nên hộ pháp là lực lượng của cá
nhân bà.
Bà cũng thường khen
ngợi cư sĩ Lư Mộc Nguyên, ngày nay phong trào niệm
Phật ở Nam Dương được hưng
thịnh là do một ḿnh ông lèo lái.
Lần đầu tiên tôi đến Tân Gia Ba là vào
năm 1987, lúc đó tuy Tân Gia Ba có rất nhiều
đạo tràng, nhiều pháp sư, nhưng không ai
đề xướng niệm Phật, không ai tu Tịnh
Độ. Những năm gần
đây chúng tôi đem Tịnh Độ qua, đem kinh Vô
Lượng Thọ đến, Mă Lai đă thành lập
được bảy, tám Tịnh Tông Học Hội,
ở bên đó hiện nay có rất nhiều người
đọc kinh, nhiều người niệm Phật,
đôi lúc cũng nghe nói đến có người văng sanh;
đây là công đức của cá nhân ông Lư Mộc Nguyên! Tôi thường nói với mọi
người: ‘Quư vị nghĩ xem nếu không nhờ cư
sĩ Lư Mộc Nguyên, có ai thỉnh chúng tôi đến Tân Gia
Ba giảng kinh không?’ Chẳng
có ai mời hết! Trong hai
năm nay không những mời giảng kinh, lại c̣n
tổ chức lớp Bồi Huấn, huấn luyện nhân
tài [kế thừa công việc hoằng pháp]. Việc này rất quan trọng,
công đức này càng lớn, càng khó thể nghĩ bàn! Cho nên chúng ta thật sự
nhờ hộ pháp là nhờ vào một người, nếu không
có người này dẫn đường th́ không thể
thành công.
h. Bậc tái
lai – Lăo cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập kinh Vô
Lượng Thọ
Đương nhiên những
người như họ đều chẳng phải là
người thường, đều có nhân duyên rất sâu
dày với Phật pháp, đều có sứ mạng không
thể tưởng tượng được, đúng
như lời lăo cư sĩ Hạ Liên Cư đă nói lúc
c̣n tại thế. Có một
năm tôi ở Bắc Kinh nghe cư sĩ Hạ Pháp Thánh,
cháu của cụ Hạ kể lại, Hạ Pháp Thánh là
học tṛ của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, Hoàng
Niệm Tổ là học tṛ của lăo cư sĩ Hạ
Liên Cư. Ông Hạ Pháp Thánh có
một lần đến thăm tôi và nói: ‘Lúc ông nội
(lăo cư sĩ Hạ Liên Cư) gần văng sanh, ông nói
với những người ở chung quanh: ‘Tương
lai bản hội tập kinh này sẽ từ hải
ngoại truyền trở về Trung Quốc, hơn
nữa bản kinh này trong tương lai sẽ
được truyền khắp thế giới’. Họ nghe xong cảm thấy vô
lư, họ đều nghĩ rằng cụ Hạ gần
đi rồi nên có lẽ đầu óc không c̣n sáng suốt
nữa, làm sao nói ra những lời như vậy,
chuyện này không thể nào xảy ra được. Bây giờ nghĩ lại quả
nhiên không sai, kinh Vô Lượng Thọ đích thực là
từ Đài Loan, Mỹ quốc truyền đến Trung
Quốc đại lục, hiện nay đích thực
đă được truyền khắp thế giới. Thế nên những người
này đều là Phật, Bồ Tát tái lai, đều
chẳng phải người thường.
C̣n một câu chuyện khác
cũng liên quan đến lăo cư sĩ Hạ Liên Cư,
chuyện này xảy ra lúc tôi giảng đề tài ‘Nhận
thức Phật giáo’ tại Miami, Mỹ quốc. Lúc đó tôi [đang hoằng pháp
dọc theo] những vùng gần bờ biển phía đông
của Mỹ, từ NewYork, Washington DC cho đến Atlanta,
c̣n một trạm cuối cùng đến Miami. Ở mọi nơi trong chuyến
hoằng pháp này tôi đều giảng đại ư kinh
Địa Tạng. V́ tại
Tăng cư sĩ học
Phật rất tạp, học Thiền, học Mật, và
rất thích chuyện thần thông, cảm ứng; vả
lại ở địa phương này (Miami) có rất
nhiều người ‘khác thường’, ông Tăng
thường qua lại mật thiết với họ. Lúc c̣n chưa đến đây tôi
đă gởi trước cuốn kinh Vô Lượng
Thọ tới, đây là cuốn Chú Giải kinh Vô
Lượng Thọ của lăo cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ, trang đầu cuốn Chú Giải có h́nh của lăo
cư sĩ Hạ Liên Cư; ông Tăng đă đem tấm
h́nh này cho những người ngoại quốc có
[thần] ‘thông’ xem, để họ xem người này ra
sao? Kết quả là những
người này nói rất đúng.
Câu đầu tiên họ nói với Tăng cư
sĩ: ‘Thân thể của ông cụ này trong suốt, ổng
không phải là người thường, đây là Bồ
Tát tái lai’. Không phải nh́n
người, họ chỉ nh́n tấm h́nh mà có thể nói
như vậy. Cái ǵ gọi là
‘trong suốt’? Nói thực ra
chẳng có phiền năo th́ thân thể sẽ trong suốt. Khi người ta vừa nh́n thân
thể của chúng ta liền thấy một màu đen thui,
ở trong chứa đựng cả đống tham, sân,
si, mạn đấy mà!
Điều này nói rơ cụ Hạ
chẳng có phiền năo, tức là chẳng có phân biệt,
chấp trước nên thân thể của cụ trong
suốt. Họ c̣n nói ‘Ông
cụ này hiện nay đă qua đời, lúc ổng c̣n
sống th́ chẳng nổi tiếng, ổng nhất
định là người tái lai’, họ khẳng
định như vậy.
Chuyện này xảy ra lúc tôi đến
Những người
ngoại quốc này mỗi ngày đều đến,
Tăng cư sĩ nói với họ: ‘Quư vị có ḷng
lắm’. Họ nói: ‘Không
phải đâu, chúng tôi nghe cũng chẳng hiểu’. Lời phiên dịch tuy chẳng
sai, nhưng dù sao lời phiên dịch vẫn không diễn
tả hết ư nghĩa.
[Vậy th́] tại sao mỗi ngày họ đều
đến? Để được
‘tưới gội’ trong Phật quang. Họ nói: ‘Cảm giác vô cùng
sảng khoái’. Chữ Phật
quang mà họ dùng giống như danh từ ngày nay khoa
học gia gọi là ‘từ trường’, đích thật
là chẳng như ngày thường!
Trong kinh có nói tương lai pháp vận của
đức Phật kéo dài mười hai ngàn năm, sau
đó hết thảy kinh điển đều bị
diệt mất, duy chỉ có kinh Vô Lượng Thọ c̣n
được lưu lại một trăm năm. Chúng ta ngày nay có thể nh́n
thấy rơ ràng tương lai bản kinh Vô Lượng
Thọ được lưu lại thêm một trăm
năm sẽ là bản hội tập của lăo cư
sĩ Hạ Liên Cư, chúng ta có thể khẳng
định như vậy.
Bản kinh này đích thật đă được
hội tập rất khéo, hội tập từ năm
bản dịch gốc mà thành, cho nên tôi hy vọng những
đồng tu có năng lực đọc tụng,
giảng giải, bất luận là tại gia hay xuất
gia đều phát tâm học kinh này, giảng giải bộ
kinh này. Công đức vô
lượng vô biên! Làm cho
hết thảy đại chúng nhận thức và hiểu
rơ pháp môn Tịnh Độ, ngay trong một đời sẽ
được độ thoát.
i. Kinh Hoa
Nghiêm, Kinh Vô Lượng Thọ đều là pháp luân viên
măn.
Tuy đời trước có
thiện căn, có phước đức nhưng nếu
không có nhân duyên th́ vẫn không thể thành tựu như
cũ. Nhân duyên là ǵ? Nhân duyên nghĩa là giảng
giải bộ kinh này, làm cho họ nghe được, t́m
lại được thiện căn, phước
đức của họ từ vô lượng kiếp đến
nay; kết hợp ba thứ ấy được th́ có
thể thành tựu ngay trong một đời, v́ vậy nên
chúng tôi đặc biệt chú trọng bộ kinh này. Nội dung của kinh này tức
là toàn bộ kinh Hoa Nghiêm, có thể nói kinh Hoa Nghiêm là chú
giải của kinh Vô Lượng Thọ. Chúng ta không có thời gian lâu dài,
không có tinh thần, năng lực để giảng
giải và đọc tụng kinh Hoa Nghiêm th́ thọ tŕ kinh
Vô Lượng Thọ cũng tốt.
Nhưng nếu muốn
giảng kinh này cho hay, giảng được thấu
suốt, th́ nhất định phải đọc kỹ
kinh Hoa Nghiêm, v́ trong đó hầu như câu nào, chữ nào
cũng là cảnh giới Đại Phương Quảng. Thế nên nếu chẳng thâm
nhập Hoa Nghiêm th́ rất khó giảng kinh này
được. Đây cũng là
nguyên nhân Quán Trưởng thỉnh cầu giảng kinh Hoa
Nghiêm. Tôi nghĩ nếu có
học sinh tôi cũng chịu mở một lớp nhỏ
để dạy kinh Hoa Nghiêm, để có người
kế thừa sau này. Nhưng
việc này đ̣i hỏi phải có tâm nhẫn nại
rất lớn, v́ trong thời gian ngắn không thể nào
thành tựu nổi. Hơn
nữa phải buông bỏ hết thảy, dốc toàn tâm
toàn lực để tu học, đây là pháp luân viên măn trong
Phật pháp.
j.
Chuyên tu Tịnh Độ. Giải và Hành cùng coi trọng.
Chúng tôi lợi dụng
thời gian ngắn ngủi vài ngày này đến để
xem xét hoàn cảnh ở đây, bây giờ đạo tràng
đă được xây dựng khá quy mô; hết sức quư
báu, nhân duyên vô cùng thù thắng!
Chúng tôi tin tưởng Tịnh Tông ở hai nơi Úc Châu
và Tân Tây Lan này sẽ có tương lai xáng lạn. Công đức vô lượng
ấy đều là của mỗi vị đồng tu
hợp sức làm thành, và cũng là do A Di Đà Phật, chư
Phật Như Lai gia tŕ cho mọi người. Hy vọng mọi người
có ḷng tin, thâm nhập một môn, chắc thật niệm
Phật, Giải và Hành cùng coi trọng. Hành môn th́ chúng ta phải chắc
thật niệm Phật; Giải môn th́ phải nghe kinh,
chẳng thể không nghe kinh.
Không nghe kinh là người như thế nào? Hoàn toàn chẳng c̣n nghi hoặc,
kiền thành khẳng định, người như
vậy có thể khỏi nghe kinh.
Nếu c̣n hoài nghi, đối với Tây
Phương Cực Lạc
thế giới vẫn chưa rơ ràng lắm th́ bạn cần
phải nghe kinh. Nghe kinh là
để tăng trưởng ḷng tin của bạn,
tăng trưởng nguyện lực, đạo lư là
như vậy.
Hiểu rơ kinh rồi th́
bạn sẽ biết ḿnh phải tu học như thế
nào. Đặc biệt là
trước khi văng sanh, thân thể chúng ta c̣n ở tại
thế gian, vẫn chưa thể xa ĺa quần chúng, xă
hội; chúng ta làm thế nào để ứng phó với xă
hội? Làm thế nào sanh
sống hằng ngày? Những
câu trả lời đều nằm trọn trong kinh
giáo. Cho nên người
chắc thật niệm Phật khỏi nghe kinh, đây là
người như thế nào?
Đây là người chẳng c̣n làm việc ǵ hết, chẳng
giao thiệp với bất cứ ai, chuyên ở tại
Niệm Phật Đường niệm Phật, thiệt là
‘muôn duyên buông xuống hết’, hạng người này có
thể [không nghe kinh]. Nếu
bạn c̣n tiếp xúc với xă hội, bạn bắt
buộc phải hiểu kinh giáo, có hiểu được
th́ bạn mới biết làm thế nào để ứng
phó với mọi người trong xă hội, làm thế nào
dẫn dắt đại chúng đến học Phật,
tự hành hóa tha th́ công đức mới được
viên măn. V́ vậy nghe kinh và
niệm Phật đều quan trọng như nhau.
Đạo tràng chúng ta đề
xướng ‘Giải và Hành cùng coi trọng’ nên tương
lai ở phía ngoài sẽ xây thêm một giảng
đường, giảng đường dành riêng để
giảng kinh, thuộc về Giải Môn – để
khuyến tín, khuyến nguyện.
Chỗ này làm Phật Đường là đủ
rồi, v́ thực ra người chân chánh niệm Phật
chẳng nhiều lắm. Tôi
hy vọng trong tương lai mỗi tháng đều tổ
chức Phật thất một lần, số người
tham gia tốt nhất là bốn mươi tám
người. Bốn mươi
tám nguyện của Phật A Di Đà vừa đúng với
số bốn mươi tám người, nếu c̣n
nhiều người hơn số này th́ sắp cho họ
đến tháng sau; nếu nhiều hơn th́ sắp
tới tháng sau nữa; làm vậy để mọi
người đều cảm thấy trân quư [cơ
hội tham dự] Phật thất này, vô cùng khó
được -- khó có thể ghi danh được
một chỗ. Như vậy
th́ rất có ư nghĩa, rất quư.
Nếu đông người
quá th́ tâm sẽ dễ chao động; tán gẫu, nói
chuyện nhiều quá sẽ không thâu thập
được ích lợi ǵ hết, vả lại chúng tôi
sắp xếp, chuẩn bị cũng khó khăn. Nếu số người mỗi
tháng đều nhất định là bốn mươi tám
người, th́ chúng tôi chỉ sắp xếp nơi ăn
chốn ở đầy đủ cho bốn mươi
tám người mà thôi, việc tiếp đăi cũng
rất thuận tiện.
Thế nên tôi hy vọng mỗi tháng đều
đả Phật thất, bất kể là người
ở đây hay người từ nơi khác đến,
bốn mươi tám người đều phải ghi
danh trước. Nếu
người nào mỗi khóa đều tham dự th́ sẽ
đặc biệt hoan nghinh, khóa nào cũng tham dự th́
nhất định sẽ có thành tựu.
Buổi nói
chuyện tại Tịnh Tông Học Hội Úc Châu, 1997 (ngày
thứ nhất)
4. Tu hành như thế nào?
Phật
thất kỳ này c̣n chưa chính thức khai mạc
nhưng quư vị đến sớm đều vào Niệm
Phật Đường niệm Phật, như vậy rất
đúng như pháp. Mọi
người niệm vài ngày, tâm được định
th́ mới gặt hái được lợi ích chân thật
trong Phật thất, việc này rất đáng đề
xướng, hiệu quả vô cùng thù thắng. Có rất nhiều người
trong quư vị đồng tu từ xa đến, cũng có
người phụ trách lănh đạo Tịnh Tông, phát tâm
tu học như vậy thiệt là quá thù thắng, không
những đáng được chúng ta tán thán, thực
sự là được chư Phật hộ niệm, long
thiên thiện thần ủng hộ. Hiện nay khắp nơi thành
lập Tịnh Tông Học Hội ngày càng nhiều, đây
là một hiện tượng rất tốt. Chúng ta đă có tổ chức th́
phải làm thế nào để phát huy công năng của
tổ chức cho có hiệu quả, giúp đỡ
đại chúng huân tu, đây là sứ mạng cấp bách
của chúng ta.
Lúc
Tịnh Tông Học Hội vừa được thành
lập tôi đă viết một bài nguyên khởi, dùng danh
nghĩa của Hàn Quán trưởng để phát biểu,
trong bài nguyên khởi này chúng tôi đề ra ‘Ngũ kinh
Nhất luận’ là kinh điển Tịnh Tông y theo
để tu học. Đây là kinh
điển cơ bản của Tịnh Tông, không những
phải đọc tụng, trong nhiều kinh điển
đức Thế Tôn đă nhiều lần khuyên chúng ta ‘thọ tŕ, đọc tụng, diễn
thuyết cho người khác’. Chúng tôi đă lập lại câu này
mấy trăm lần, mấy ngàn lần, cho dù chúng ta không
nhớ những câu nói khác của Thế Tôn, nhưng câu này
chắc đă rất quen thuộc rồi, từ đây có
thể biết tầm quan trọng của nó. Nếu có thể thực hiện
được lời dạy trong đó, nói thực ra chúng
ta cũng thừa sức thành Phật!
a.
Thâm giải kinh giáo – Tin sâu, nguyện thiết, phụng
hành.
Nhưng muốn làm
được câu này nhất định phải chân chánh
thông suốt kinh giáo. Số
lượng hết thảy những kinh điển Thế
Tôn giảng trong suốt bốn mươi chín năm quá
nhiều, chúng ta là người b́nh thường không
thể nào học hết được. Các đại đức thời
xưa biết rơ điều này nên mới phân tông, lập
giáo tùy theo căn tánh của chúng sanh. Đời Tùy, Đường các tông phái
ở Trung Quốc đă h́nh thành, quư vị cũng biết
Phật giáo Trung Quốc có mười tông phái, tám tông
thuộc Đại thừa, hai tông Tiểu thừa, trong
mỗi tông lại chia thành nhiều chi nhánh, mỗi chi nhánh
lại chia thành phái nhỏ, thế nên môn phái khác nhau rất
nhiều.
Nếu chư vị có
thể nhận thức rơ điều này, thể hội
được, th́ mới biết Tịnh Tông thiệt là
chẳng thể nghĩ bàn, thực hiện được
‘lời vắn tắt mà
đủ trọn ư nghĩa’ (ngôn giản ư cai) -- rất ít văn tự nhưng hoàn toàn bao gồm
hết thảy lư luận, cảnh giới bên trong. Cho nên tuy kinh điển ít
nhưng muốn giảng kỹ thiệt là chẳng
dễ! Hồi trước tôi
theo học lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam, thầy Lư đă
từng nói với tôi nhiều lần, cả đời
thầy sợ giảng kinh A Di Đà nhất, đừng
thấy kinh A Di Đà rất ngắn [thiệt ra] kinh A Di Đà khó
giảng nhất! Sau này chúng
tôi học kinh rồi mới hiểu rơ điểm này. Văn tự trong kinh A Di Đà
rất cạn, nếu không nghiên cứu sâu vào [thoạt nh́n
th́ sẽ nghĩ kinh này] giống như tiểu thuyết
ngắn, giới thiệu y báo và chánh báo trang nghiêm ở
thế giới Cực Lạc.
Kể chuyện chẳng khó hiểu, nếu chư
vị coi Sớ Sao của Liên Tŕ đại sư th́
ngược lại sẽ chẳng hiểu. Yếu Giải của Ngẫu Ích
đại sư c̣n tinh tường hơn, thế mới
biết nội dung bộ kinh này hết sức phong phú, vô
cùng thù thắng.
Trong quá khứ tôi cũng
đă giảng Năm Kinh Một Luận nhiều lần,
cũng có lưu lại băng thâu âm. Giảng kư kinh Vô Lượng
Thọ đă chỉnh lư xong, hiện nay được in
thành bốn cuốn sách b́a cứng, đại khái có
chừng một triệu ba trăm ngàn chữ; như
vậy đă nói hết ư tứ chưa? Nói cho quư vị biết: không
thể nào! Thiệt giống
như nước trong biển cả, chúng ta chỉ
nếm một chút mà thôi. Ư
tứ quá phong phú, giảng không hết, bất kỳ
chữ nào, câu nào cũng hàm chứa vô lượng
nghĩa. Thế nên chẳng
thể không thâm nhập kinh điển, tự ḿnh thâm
nhập rồi th́ ḷng tin của ḿnh mới vững
chắc, nguyện của ḿnh mới khẩn thiết, công
phu niệm Phật đương nhiên sẽ đắc
lực, sự văng sanh mới nắm chắc trong tay.
Nếu thói hư tật
xấu, tập khí của ḿnh vẫn hiện lên y như
cũ, không thể khắc phục, vậy th́ chúng ta
phải hỏi tại sao thói hư tật xấu phát sanh? Nói chung là v́ công phu của bạn
chưa đủ. Tại sao
công phu chưa đủ?
Bạn hoàn toàn chưa hiểu rơ lư luận, phương
pháp. Nói một cách khác bạn
chẳng có ḷng tin. Tuy bạn
tin Tịnh Độ, ḷng tin này vẫn c̣n nửa tin nửa ngờ,
bạn chẳng có tâm nguyện khẩn thiết. Nếu bạn có ḷng tin thật
sự, tâm nguyện thiết tha th́ các thói hư tật
xấu, tập khí ǵ cũng chẳng c̣n nữa, đều
xả bỏ hết. Nếu
c̣n những thói hư tật xấu, tập khí th́ tức
là chẳng đủ tín, nguyện, chẳng thông hiểu
kinh giáo!
Từ điểm này có
thể biết ngày nay hoằng dương Tịnh Tông trên
thế giới không thể làm giống như Ấn Quang
đại sư. Lúc Ấn
Quang đại sư c̣n tại thế vào những năm
đầu Dân Quốc, trong Niệm Phật Đường
chỉ chuyên niệm Phật mà chẳng giảng kinh,
tức là ‘một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng’,
cũng giống như đả Phật thất hằng
ngày, một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày
chẳng sót ngày nào. Bạn hăy
xem thời khóa tụng niệm của chùa Linh Nham th́ sẽ
biết, mỗi ngày [niệm Phật] sáu cây hương (lấy thời gian đốt một cây
nhang làm đơn vị) , mỗi
năm có hai lần ‘Phật thất tinh tấn’. Phật thất tinh tấn kéo dài
bốn mươi chín ngày, mỗi ngày tăng lên tới chín
cây hương. Vào thời
của ngài có thể làm như vậy, ngày nay chúng ta không
thể. Nguyên nhân ở tại
chỗ nào? Hồi
trước tâm người ta thật thà, đôn hậu,
cho dù chẳng hiểu rơ, chẳng thông suốt kinh giáo,
họ chẳng có tí ǵ hoài nghi đối với những
lời giảng dạy của lăo sư phụ, lăo ḥa
thượng – lăo ḥa thượng dạy họ làm như
thế nào th́ họ làm như vậy – như thế
mới được!
Thời đại bây giờ
không thể được.
Nếu tuổi tác của quư vị lớn như tôi,
sáu bảy chục tuổi th́ có thể nhớ vào những
năm Dân Quốc bốn mươi (1951) người
ở Đài Loan hết sức dễ thương, trung
hậu, thật thà, chất phác; xă hội Đài Loan an
định, trị an tốt nhất Đông Nam Á. Người thời đó tử
tế, lúc chúng tôi mới đến Đài Loan, khi đi t́m nhà
bạn nhưng không biết đường, tùy tiện
hỏi người nào th́ họ liền ngưng làm
việc và dẫn ḿnh đi kiếm cả một
đoạn đường, đưa đến tận
nhà. Xă hội hiện nay không
được vậy nữa!
Nếu bạn hỏi đường, [họ sẽ
trả lời cộc lốc:] ‘Không biết’, chẳng thèm
đếm xỉa đến bạn. Đây là chỉ mới bốn
mươi năm mà thôi! Càng
về trước ḷng người càng đôn hậu, lúc mua
đồ không có tiền sẵn trong túi th́ có thể
thiếu chịu, chẳng cần ghi sổ, ghi tên ǵ
hết, giữa người với nhau có sự thành tín
như vậy; bây giờ đâu c̣n nữa! Hiện nay chuyện ǵ cũng
phải kư hợp đồng, c̣n phải viết ra
từng điều rơ ràng, sợ lọt vào những lỗ
hổng luật pháp. Bạn
xem đời sống gian nan, khổ sở quá chừng
phải không, đâu có thong dong tự tại như hồi
đó. Cho nên thời xưa
Niệm Phật Đường đơn giản, đơn
thuần, thiệt có thể thành tựu, có thể giúp
người ta văng sanh.
Nhân tâm trong xă hội ngày nay
rất sôi động, lo sợ chẳng yên, chẳng có
cảm giác an toàn, tâm nhảy loạn xạ, vậy th́ làm
sao tín, nguyện có thể vững chắc
được! Thế nên
phương pháp duy nhất là phải giảng rơ, giảng
kỹ kinh giáo, điểm này rất quan trọng. Ngày nay chúng tôi đề xướng
‘Giải Hành cùng coi trọng’, hy vọng mỗi Tịnh Tông
Học Hội đều lấy cuốn khóa tụng
thường ngày mà chúng tôi đă soạn, cuốn khóa
tụng ấy là do tôi soạn, nghi thức đă
được giảm bớt.
Lúc trước phần đông những khóa tụng
hằng ngày gồm có: buổi sáng tụng Chú Lăng Nghiêm,
Thập Chú, buổi tối tụng bài văn đại sám
hối, kinh Di Đà. Hiện nay
chúng tôi sửa đổi phần tụng kinh, khóa buổi
sáng chọn bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô
Lượng Thọ, khóa tối chọn phẩm ba
mươi hai đến ba mươi bảy trong kinh Vô
Lượng Thọ. Tại
sao chúng ta phải thay đổi kinh tụng niệm
hằng ngày? V́ căn tánh
của chúng sanh hiện nay khác với lúc trước. Lúc trước người ta y
theo khóa tụng thời xưa có thể đạt
được lợi ích. Ngày
nay chúng ta noi theo khóa tụng như vậy chẳng thể đạt
được lợi ích.
Mục đích chúng ta tu Tịnh Độ là tương
lai cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế
giới.
Làm sao mới được
văng sanh?
Nhất
định phải có tâm giống với tâm của
đức Phật A Di Đà, có nguyện giống với
nguyện của đức Phật A Di Đà, [kiến]
giải giống với đức Phật A Di Đà, hạnh
giống với đức Phật A Di Đà. Nếu chúng ta có thể làm
được tâm, nguyện, giải, hạnh đều
giống với đức Phật A Di Đà th́ chúng ta nhất
quyết sẽ được văng sanh -- tự tự nhiên
nhiên cảm ứng đạo giao.
V́ vậy nên giảng giải
kinh điển rất quan trọng, nghiên cứu càng quan
trọng hơn. Những
đồng tu di dân đến Úc Châu, quư vị ở trong
thời đại này có phước báo to lớn. Chúng ta thấy những
người di dân ở khắp nơi trên thế giới
đều rất gian khổ, làm việc không bao giờ
ngừng nghỉ, áp lực đời sống nặng
nề, đâu được như những người
di dân đến Úc Châu, người nào cũng nhàn hạ,
mỗi ngày đều đi đánh banh. Đánh banh vẫn tạo nghiệp
luân hồi, đánh banh không thể đánh thoát ra nổi sáu
nẻo luân hồi, đánh chẳng ra nổi tam
giới. [Thay v́ đi đánh
banh] quư vị có thể dùng thời gian này để nghiên
cứu Tịnh Độ Ngũ kinh Nhất luận, thâm
nhập nghiên cứu, được vậy th́ có thể
xây dựng được tín và nguyện của ḿnh.
Ngẫu Ích đại sư
dạy rất hay: ‘Thiệt có tín, có nguyện th́ có thể văng
sanh, phẩm vị văng sanh cao hay thấp là do công phu
niệm Phật sâu hay cạn.’
Tín Nguyện vô cùng quan
trọng! Đừng tưởng
ḿnh đă tin tưởng, ḿnh đă phát nguyện rồi,
ḿnh mỗi ngày đều khuyên người niệm
Phật, không hẳn vậy đâu!
Bạn hăy coi thử ḿnh c̣n tham, sân, si, mạn,
đố kỵ, chướng ngại không, nếu vẫn
c̣n, vả lại thường thường nổi lên
tức là bạn chẳng có tín, chẳng có nguyện. Người có tín, có nguyện
nhất định chẳng có [phiền năo, chướng
ngại]; tâm của người có tín, có nguyện giống
hệt tâm Phật, giống hệt tâm Bồ Tát th́ làm sao có
nhiều phiền năo, có nhiều chướng ngại
như vậy được!
Nghiệp chướng là
ǵ? Nghiệp chướng
tức là ‘vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước’.
Bất luận đối
với người, với sự, với vật bạn
c̣n những tâm niệm này nổi lên tức là nghiệp
chướng. Không những
nghiệp chướng này tạo chướng ngại cho
việc văng sanh của bạn, khi bạn nghiên [cứu kinh]
giáo th́ cũng gây chướng ngại cho việc tăng
trưởng trí huệ.
Đồng tu niệm Phật thường hay nói câu này:
‘Chúng ta phải tiêu nghiệp chướng’, nhưng làm
thế nào để tiêu trừ nghiệp chướng? Có phải lạy Lương Hoàng
Sám th́ sẽ tiêu nghiệp chướng hay chăng? Bạn lạy luôn cả bảy
ngày thử coi bạn c̣n tham, sân, si hay không? Nếu gặp việc không
vừa ư liền nổi giận, đó là nghiệp
chướng hiện ra, nghiệp chướng chưa tiêu
ǵ hết! Giả sử
lạy xong bảy ngày Lương Hoàng Sám mà khi gặp
chuyện chẳng vừa ư bạn vĩnh viễn chẳng
nổi giận th́ bạn đă tiêu hết nghiệp
chướng. Từ
điểm này có thể biết trên môi nói tiêu nghiệp
chướng là một việc khác, thực sự th́
nghiệp chướng chẳng có tiêu ǵ cả, không
những chẳng tiêu mà mỗi ngày c̣n tăng thêm. Như vậy th́ làm sao
được! Đây là việc
chúng ta phải đặc biệt cảnh giác, phải
nghĩ đến sanh tử luân hồi rất đáng sợ!
Trong lục đạo luân
hồi có được thân người thiệt chẳng
phải là một chuyện dễ dàng. Chúng ta hôm nay được thân người
là do thiện căn tích lũy từ nhiều đời
nhiều kiếp trước!
Ngày nay ḿnh đă gặp nhân duyên này nhưng
được thân người xong lại mất thân
người, mất thân người rồi mà muốn
kiếm trở lại chẳng phải là dễ, hết
sức khó khăn! Trong kinh
điển đức Phật dùng rất nhiều tỷ
dụ (2), Phật chẳng nói dối, chẳng nói lời
không thật, chẳng gạt người, câu nào cũng
đều chơn thật, v́ vậy chúng ta phải có tâm
cảnh giác cao độ, phải hiểu rơ sự thật
này, hiểu rơ chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
a. Nghiên
[cứu kinh] giáo tức là nhớ Phật – Khoa phán, văn
tự và nghĩa lư được thực hiện trong sinh
hoạt.
Tu hành, tu là ǵ? Tu tức là sửa đổi
những thói hư tật xấu mà thôi. Tiêu chuẩn của tu hành là noi
theo lời giáo huấn của Phật, trong kinh Phật
dạy làm ǵ th́ ḿnh phải làm theo, dạy đừng làm ǵ
th́ ḿnh nhất định chẳng làm. Tu hành là bắt đầu tu
tập từ chỗ này. V́
vậy nghiên [cứu kinh] giáo rất quan trọng, hy
vọng mỗi ngày chúng ta ít nhất phải nghiên giáo
bốn giờ đồng hồ, niệm Phật bốn
giờ; mỗi ngày tám giờ đồng hồ, không
thể làm ít hơn, nếu ít hơn th́ đời này chúng ta
cầu văng sanh sẽ không chắc chắn. Mỗi ngày công phu tám giờ
đồng hồ nhất định không thể
thiếu, đây là đạo phong và học phong (phong cách tu tập và phong cách học tập)
của đạo tràng chúng ta -- giải và hành cùng coi
trọng. Quư vị nên biết
‘nghiên giáo’ và ‘niệm Phật’ là cùng một việc,
chẳng phải là hai việc.
Đại Thế Chí Bồ Tát dạy: ‘Nhớ Phật niệm Phật, hiện
giờ tương lai, nhất định thấy
Phật’ (Ức Phật niệm Phật, hiện tiền
đương lai tất định kiến Phật). Nghiên giáo tức là
nhớ Phật; năm kinh một luận của Tịnh
Tông toàn là nói về y báo, chánh báo trang nghiêm của Tây
phương Cực Lạc thế giới. Phương pháp niệm Phật
rất nhiều, cho nên nghiên giáo chẳng ở ngoài niệm
Phật. Hy vọng là các
đồng tu có thời giờ đều đến tham
gia nghiên giáo; do pháp sư hoặc cư sĩ đại
đức phát tâm giảng kinh, giảng một đoạn
xong mọi người nghiên cứu, thảo luận.
Nghiên cứu và thảo
luận cần có một chương tŕnh, thứ tự
hẳn ḥi để tránh rối loạn, mới có thể
gặt hái được kết quả. C̣n về phương pháp, lúc
trước tôi đă viết một bài ‘Cương lănh
trọng yếu của việc nghiên cứu nội
điển’, trong đó đề ra vài nguyên tắc, quư
vị làm theo những nguyên tắc này th́ rất tốt. Trong đó có những điểm
chánh: thứ nhất văn tự phải trong sáng, găy
gọn, rơ ràng. Phân đoạn
của kinh văn phải theo thứ lớp rơ rệt,
việc này trong Phật pháp gọi là ‘khoa phán’. Phương pháp phân chia thành
từng đoạn, thứ lớp th́ ‘người
nhân thấy điều nhân, người trí thấy
điều trí’ [Từ nội tâm ảnh hưởng
đến kiến giải, quan điểm, cách xử
sự], chẳng có nhất định,
đều không giống nhau, chẳng có tiêu chuẩn. Cho nên mỗi vị đồng tu
tham gia đều có thể tŕnh bày cách nh́n của ḿnh. Người này cảm thấy nên
từ chỗ này phân đoạn, người kia cảm
thấy nên từ chỗ nọ phân đoạn, sau đó
mọi người xúm lại nghiên cứu cách nào hay nhất
th́ chúng ta dùng cách đó.
Phương pháp nghiên cứu chương pháp và
kết cấu của kinh văn đối với sự
học Quốc văn cũng có thể giúp cho ḿnh tiến
bộ thêm, đây là một môn học rất lư thú.
Sau đó đi sâu vào văn
tự, nhất định phải t́m ra những chữ
đọc trại ra âm chữ khác, chữ lạ chẳng
hiểu th́ nhất định phải tra tự
điển. Chữ Trung
Quốc có nhiều chữ ‘phá âm’, một chữ có rất
nhiều cách đọc, cách đọc khác nhau th́ ư nghĩa
cũng khác nhau; có khi cách đọc giống nhau nhưng
cùng một chữ có nhiều cách giải thích, cách nào phù
hợp đoạn kinh văn này đều phải nghiên
cứu. Đây là sự nghiên
cứu sâu vào văn tự, khi bạn nghiên cứu những
thứ này th́ bạn sẽ chẳng khởi vọng
tưởng, sẽ không nghĩ ngợi lung tung; vậy th́
Giới, Định, Huệ đều nằm trọn trong
đó.
Vấn đề văn
tự chữ nghĩa đă giải quyết xong, chúng ta
mới bàn thảo nghĩa lư trong đó; Phật nói câu này dụng ư ở
đâu? Hiểu ư tứ xong
đi thêm một tầng nữa: trong đời sống
nên làm như thế nào? Làm
thế nào để ứng dụng vào công việc hằng
ngày, xử sự, đăi người, tiếp vật,
đây mới thiệt là làm theo lời giáo huấn của
Phật, mới đạt được lợi ích chân
thật của lời dạy.
V́ vậy mọi người đều có thể tham
dự những công tác này, không chỉ dành riêng cho một cá
nhân nào và chẳng phải nghe theo một người mà
thôi, như vậy đạt được hiệu
quả rất ít, mọi người nhất định
phải tham dự.
Ở đây tuy sách vở
không đầy đủ, nhưng đối với
người sơ học như chúng ta th́ cũng khá
đủ rồi, nếu cần chúng ta sẽ mua thêm sách
ở Đài Loan, có một thư viện nho nhỏ, cung
cấp cho mọi người nghiên cứu tham khảo. Quư vị có thể tra cứu tài liệu,
ghi chép, mỗi ngày đến giờ nghiên giáo bạn có
thể phát biểu ư kiến, tâm đắc, cảm ứng
của bạn. Nếu bạn
nghĩ sai, đồng tu sẽ giúp bạn sửa lại,
nếu bạn có ư kiến hay th́ cũng có thể chia
xẻ với mọi người, đây là tự lợi,
lợi tha, như vậy gọi là ‘thảo luận nghiên
cứu giáo học’.
Ở Tân Gia Ba tôi dùng
phương pháp này để dạy học, tôi dạy
học chẳng giảng bài cho học sinh, lúc lên lớp là
học sinh lên giảng đài giảng cho tôi nghe, nếu
người này giảng chưa đúng th́ đổi
một học sinh khác lên giảng, mỗi học sinh phải
luôn luôn chuẩn bị đầy đủ. Kêu ai lên giảng? Phải rút thăm, v́ vậy
người nào cũng phải chuẩn bị. Họ học với tôi, học
rất căng thẳng. Cư
sĩ Lư Mộc Nguyên nói với tôi: ‘Họ thức đến
hai ba giờ khuya c̣n chưa ngủ’. Tôi biết chuyện này, ngày
xưa chúng tôi đi học cũng vậy; có ai chẳng
trải qua những khổ nhọc này? Nếu chẳng chịu
đựng được chút khổ nhọc th́ bạn
làm sao học cho được?
Thông thường tôi sẽ chọn từ ba
đến bốn người, nếu đều giảng
không được hoàn hảo th́ chẳng c̣n cách nào khác,
tôi phải đứng lên giảng.
Nếu họ giảng cũng khá th́ tôi chẳng
cần giảng, chỉ sửa sai chút đỉnh là
được. Dùng cách này
học sinh thiệt là rất nhọc nhằn, nhưng
họ thâu thập được lợi ích thực
sự. Nếu trong ba tháng
chỉ nghe tôi giảng th́ sau khi bước ra khỏi
giảng đường liền quên hết -- lời nói
thoảng qua tai th́ chẳng dùng được. Cho nên họ nói với tôi
những ǵ họ học được trong ba tháng c̣n phong
phú hơn những ǵ họ học trong bốn năm ở
Phật Học Viện trước đây, thiệt là
đạt được lợi ích to lớn, tuy nhọc
nhằn nhưng chẳng uổng công. Trong bốn năm trước có
ngày nào phải thức đến hai ba giờ khuya
đâu? Chẳng có. Mỗi đêm ngủ say mê, mơ
mộng lung tung, trong ba tháng này khẩn trương,
chịu khó, bởi vậy mới có thâu hoạch.
Lúc trước ở Đài Trung
thầy Lư cũng dùng phương pháp này dạy chúng
tôi. Thầy ngồi ở hàng
ghế cuối cùng, v́ lúc đó chưa có máy khuyếch âm
(amplifier), khi bạn lên
giảng đài nói chuyện phải nói đến mức
thầy nghe rơ th́ mới được, v́ vậy nên
thầy ngồi ở chỗ xa nhất. Nếu thầy nghe chẳng rơ th́
không được – âm thanh của bạn nhỏ quá,
chẳng đủ tiêu chuẩn.
Âm thanh, thái độ, cử chỉ của bạn
đều phải đủ tiêu chuẩn, đều
phải tiếp nhận phê b́nh, thế nên tu học
phải hết ḷng. Có gắng
sức, hết ḷng th́ bạn mới có ích lợi, ích
lợi ở chỗ nào?
Bạn đạt được ích lợi th́
bạn hiểu được.
Ngày hôm sau, lập lại!
Lập lại thêm lần nữa! Ngày nào cũng vậy, mỗi ngày
đều phải trao giồi, luyện tập, bạn
sẽ có hứng thú sâu đậm đối với sự
tu học Phật pháp, thời gian của bạn sẽ
không lăng phí, đời sống của bạn rất
dồi dào phong phú, bạn sẽ rất vui vẻ, đây
đúng là niềm vui pháp hỷ sung măn! Trải qua sự học tập
như vậy bạn mới có thể luyện tập
giảng kinh – lên giảng đài tập dợt lại,
tiếp nhận lời phê b́nh của người nghe,
người nghe giúp bạn sửa đổi, cải
tiến. Sau đó bạn
phải hết ḷng sửa đổi bài giảng nháp
của bạn, sửa đổi âm thanh của bạn,
thái độ biểu diễn, sau cùng lên giảng đài
chánh thức biểu diễn.
Mỗi buổi sáng nghiên giáo,
phải cần hai đến ba tiếng đồng
hồ, không thể gián đoạn.
Buổi tối giảng kinh, những người phát
tâm giảng kinh thay phiên nhau giảng. Tại sao chúng ta phải giảng
kinh vào buổi tối? Trong xă
hội hiện nay các đồng tu tại gia rất
bận rộn trong công việc làm ăn, ban ngày chẳng có
thời giờ đến nghe kinh, chỉ có buổi
tối. V́ vậy chúng ta thay
đổi niệm Phật vào buổi chiều, giảng
kinh buổi tối. Buổi
tối giảng kinh là mở rộng cho mọi
người, hoan nghinh những người ở ngoài
đến nghe giảng.
Giảng kinh cũng không được gián
đoạn, tứ chúng đệ tử đều
phải phát tâm. Buổi sáng
công phu niệm Phật, niệm một giờ rưỡi,
cũng bằng thời gian một cây hương trong
Phật thất. ‘Buổi sáng
nghiên giáo, buổi chiều niệm Phật, buổi tối
giảng kinh’. Một năm ba
trăm sáu mươi lăm ngày, mỗi ngày đều
như vậy, đây là học phong, đạo phong của
Tịnh Tông chúng ta.
Mỗi tháng chúng ta đề
xướng đả Phật thất một lần. Lúc đả Phật thất th́
có ngưng việc nghiên giáo không?
Không ngưng.
Người đả Phật thất ở Niệm
Phật Đường niệm Phật, chúng ta có pḥng học
dành riêng cho việc nghiên giáo, chỉ có những đồng
tu chủ tŕ và hộ thất trong bảy ngày này không tham gia
nghiên giáo, phải hộ tŕ đạo tràng Phật
thất. Trong khóa Phật
thất th́ buổi tối vẫn giảng kinh như
thường. Như vậy có
lợi v́ những người đến tham dự
Phật thất có rất nhiều người chẳng
ở tại địa phương này, là những
người từ chỗ khác đến, lúc b́nh
thường cơ hội nghe pháp rất ít, đến
đây vừa đúng lúc được dịp học
hỏi, chúng ta giảng một ít Phật pháp cho họ
nghe. Cho nên từ ngày
đầu đến ngày thứ năm trong Phật
thất đều giảng kinh, đêm thứ sáu làm lễ
hồi hướng, đêm thứ bảy làm lễ Tam
Thời Hệ Niệm, hai đêm này không giảng kinh, ngoài
ra ngày nào cũng giảng kinh.
Hy vọng Tịnh Tông Học Hội ở khắp
nơi đều có thể hết ḷng làm theo phương
pháp này.
b. Tu hành –
Thanh tịnh, B́nh đẳng, Giác
Tu hành cần phải chân
thành, thật thà, quan trọng nhất là ba điều trong
đề kinh của kinh Vô Lượng Thọ: ‘Thanh
tịnh - B́nh đẳng - Giác’.
Năm chữ này là Tam Bảo!
Khi bắt đầu học
Phật quư vị phải quy y Tam Bảo.
Tam Bảo là ‘Giác, Chánh,
Tịnh’.
Thanh tịnh là Tăng
Bảo, B́nh đẳng là Pháp bảo, Giác là Phật
bảo.
Trong đề kinh có
đầy đủ Tam Bảo.
Không những đầy đủ Tam Bảo mà Tam
Học cũng đầy đủ. Tam học là ‘Giới, Định, Huệ’,
Thanh tịnh là Giới, B́nh đẳng là Định, Giác là
Huệ.
Đồng tu Tịnh Tông chúng ta
tu những ǵ? Tu Giác, Chánh,
Tịnh.
A Di Đà Phật tức là Giác -
Chánh - Tịnh.
Quư vị đă đọc
kinh Vô Lượng Thọ, thấy Thế Tôn nói với A
Thế nên phải hiểu
kinh Vô Lượng Thọ của Tịnh Tông, năm kinh
một luận dạy chúng ta tu những ǵ? Tức là dạy chúng ta tu Thanh
tịnh - B́nh đẳng - Giác.
Mỗi năm tâm chúng ta có thanh tịnh hơn năm
trước không? ‘Thanh
tịnh’ nghĩa là vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, phiền năo giảm bớt, thói hư
tật xấu ít hơn rồi. Như vậy là có tiến bộ,
là công phu đắc lực rồi đó.
Nếu mỗi ngày
tụng kinh, niệm Phật nhưng thói hư tật
xấu cũng c̣n nhiều như cũ, tâm lượng
vẫn c̣n hẹp ḥi, vậy th́ chẳng có ích chi cả! Chúng ta nghĩ coi
Phật, Bồ Tát có tâm như thế nào? Phật, Bồ Tát có tâm chân thành,
thanh tịnh, từ bi, khi khởi tâm động niệm
đều nghĩ đến hết thảy chúng sanh,
chẳng nghĩ đến ḿnh; chúng ta phải học cái
tâm của Phật, tức là niệm niệm v́ chúng sanh,
tận tâm tận lực giúp Phật pháp, giúp chúng sanh,
đừng nghĩ về ḿnh; ‘ḿnh chẳng c̣n nữa th́
bạn sẽ thực sự được đại
tự tại’. Tại sao
chúng ta học Phật chẳng được thành
tựu? Tuy nghĩ đến
chúng sanh, tự ḿnh c̣n chiếm hơn phân nửa v́ vậy
nên bạn chẳng thể thành tựu, bạn chẳng
được cảm ứng.
Đến lúc nào mới quên ḿnh, dốc toàn tâm toàn lực
v́ chúng sanh? Trong kinh quư vị
thường thường niệm đến câu ‘tâm bao trùm hư không, lượng trọn
khắp các cơi nhiều như cát’ (tâm bao thái hư, lượng châu sa
giới); đó là tâm lượng
của chư Phật, Bồ Tát, chúng ta phải học
theo. Tâm bao trùm hư không,
lượng trọn khắp các cơi nhiều như cát là tâm
lượng vốn sẵn có của mỗi người
chúng ta; tại sao bây giờ tâm lượng chúng ta nhỏ
nhoi như vậy? Hai
người ở chung với nhau bất đồng ư
kiến, không thể bao dung lẫn nhau, vậy th́ bạn
c̣n có thành tựu ǵ nữa?
Thế nên học Phật việc đầu tiên là
phải mở rộng tâm lượng, phải có thể
bao dung nhẫn nhịn, khi gặp những việc không
như ư th́ cũng đừng nên trách móc người khác,
chỉ nghĩ tưởng việc của ḿnh, như
vậy mới có thể giải quyết vấn
đề, mới có thể thành tựu đức
hạnh, trí huệ của ḿnh.
c. Phản
tỉnh, sửa lỗi lầm, tiêu nghiệp chướng
Trong lịch sử Trung
Quốc mọi người đều biết vua
Thuấn. Vua Thuấn là vị
đầu tiên trong ‘Nhị Thập Tứ Hiếu’, ngài là
vị dẫn đầu của đạo hiếu. Ngài làm như thế nào? Mẹ của ngài mất sớm,
cha cưới kế mẫu. Kế
mẫu sanh một đứa con, đương nhiên
thương con ḿnh và đối xử với ngài rất
bạc bẽo, người cha lại nghe lời của
kế mẫu. Trong đời
sống hằng ngày hầu như việc ǵ cũng làm cho
cha phiền ḷng, ngài chẳng nghĩ rằng cha mẹ không
đúng, hoàn toàn quay ngược lại, nghĩ về ḿnh,
tự hỏi ḿnh đă làm ǵ sai chăng? Hoàn toàn phản tỉnh nội
tâm. Cứ như vậy
trải qua mấy năm, cha mẹ rốt cuộc cũng
bị ngài cảm hóa. Đây là
đại hiếu! Chân chánh
làm được lời dạy của Lục Tổ
Huệ Năng: ‘Nếu là
người tu đạo chân chánh, chẳng nh́n lỗi
người khác’.
Dưới
cái nh́n của vua Thuấn, người khác chẳng có
lỗi lầm ǵ hết, lỗi lầm đều là
của cá nhân ḿnh. Tại sao
mọi người đều đối xử không
tốt với ḿnh? Chẳng
trách người khác, chỉ trách ḿnh; tự ḿnh phản
tỉnh, thực sự sám hối, sửa lỗi lầm,
như thế mới cảm động cha mẹ. Sau này vua Nghiêu biết
được, vua Nghiêu biết được
người này rất phi thường, trong nhà có thể
làm cho cả nhà ḥa hợp, sau này có thể ảnh
hưởng đến làng xóm, làm cho người trong
cả xóm, cả địa phương ḥa hợp. Nếu người này làm quốc
vương th́ nhất định có thể cai trị dân
chúng cả nước, thế nên vua Nghiêu nhường ngôi
cho ngài, c̣n gả hai người con gái của ḿnh cho
ngài. Đây là thánh nhân thế gian,
là tấm gương tốt cho chúng ta.
Thế nên người tu
đạo chân chánh th́ đừng nh́n lỗi lầm
của người khác, hết thảy lỗi lầm
đều là của ḿnh. Tại sao người ta lại
trừng mắt nh́n chúng ta?
Tại sao họ mắng chửi ḿnh mà không chửi
người khác? Tự chúng ta
suy nghĩ xem ḿnh đă có lỗi với họ ở
chỗ nào? Chúng ta làm sai
chỗ nào? Việc ǵ làm cho
người ta sanh phiền năo?
Thế nên tu hành chẳng có ǵ khác ngoài việc có
thể quay đầu, phản tỉnh, sửa lỗi
lầm, đây gọi là sám hối thực sự,
được vậy mới có thể tiêu nghiệp
chướng. Nếu nói
chỗ nào cũng nh́n thấy lỗi lầm của
người khác, ḿnh chẳng có lỗi, người này
chắc chắn là chúng sanh trong ba đường ác. Phu Tử nói: ‘Người
ngu như vậy, chẳng cần trách họ!’ chẳng cần nói nữa, người này sẽ
đi vào tam đồ lục đạo mà.
Chúng ta nhất định
phải thâm nhập kinh giáo, vĩnh viễn chẳng bao
giờ tạm dừng, được vậy mới có
thể nâng cao cảnh giới của ḿnh. Các ngôi vị Bồ Tát mới có
thể nâng cao, Thập Trụ thăng lên Thập Hạnh,
rồi thăng lên Thập Hồi Hướng, lên Thập
Địa. Chúng ta niệm
Phật cũng chẳng ngoại lệ, chúng ta có thể
từ Phàm Thánh Đồng Cư độ thăng lên
Phương Tiện Hữu Dư độ, lại
thăng lên Thật Báo Trang Nghiêm độ, đây mới là
người thông minh chân chánh.
Không ngừng nâng cao cảnh giới của ḿnh,
đời này chúng ta chẳng luống uổng.
Tuy mọi người
chưa đọc kinh Hoa Nghiêm nhưng đă nghe đến
năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài
đồng tử, đó là dạy chúng ta làm thế nào
để tu Đại thừa Bồ Tát đạo. Trong pháp Bồ Tát chỉ có
một ḿnh – tự ḿnh tôi là phàm phu, là học sinh, trừ
tôi ra hết thảy đều là chư Phật, chư
Bồ Tát; thế nên Thiện Tài thành Phật ngay trong
một đời. Ngày nay chúng
ta học Phật -- chỉ có ḿnh đúng, mọi
người đều sai hết.
Có tâm niệm này, thái độ này th́ bạn làm sao
thành tựu? Mỗi ngày
tăng trưởng ngă chấp, ngă mạn. Chuyện này không thể
được, là tạo ra vô lượng vô biên tội
nghiệp, chẳng phải tiêu nghiệp chướng mà
mỗi ngày càng tăng thêm nghiệp chướng.
d. Học
Phật phải bắt đầu từ khởi tâm
động niệm
Phật, Bồ Tát là
gương mẫu, mô phạm cho chúng ta, chúng ta phải
học theo các Ngài. Khi chúng ta
khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, khi
tâm niệm vừa khởi trong tâm liền nghĩ: ‘Tôi làm
như vậy có thể làm gương mẫu cho mọi
người chăng?’ Nếu
bạn có thể hạ thủ từ chỗ này th́ sự
tu hành của bạn sẽ có tiến bộ. [Lấy thí dụ] Chúng ta đi
trên đường muốn khạc nhổ lập tức
liền nghĩ nếu tôi nhổ bừa băi th́ có thể làm
gương mẫu cho xă hội đại chúng hay không? Tâm niệm này vừa khởi lên
th́ bạn tự nhiên sẽ chẳng dám khạc
nữa. Hiện nay những
thứ giấy bao bọc bánh kẹo rất đẹp,
ăn rồi chúng ta có thể tùy tiện liệng những
miếng giấy này không?
Bạn có nghĩ đến lời đức
Phật dạy chúng ta không?
‘Diễn thuyết cho người khác’, diễn là biểu
diễn, làm gương cho người ta xem, tôi làm như
vậy có giống Phật, Bồ Tát không? Giống đệ tử của
Phật, Bồ Tát chăng? Tùy
tiện liệng bậy những thứ này th́ tôi đă có
lỗi đối với Phật, Bồ Tát. Hôm nay các bạn mặc áo thun, trên
đó có ghi ḍng chữ: ‘Đệ tử Di Đà’, những hành vi
của bạn có xứng đáng với Phật A Di Đà
chăng? A Di Đà Phật dạy
bạn làm như vậy sao?
Nghĩ vậy nên chúng ta tự nhiên sẽ thâu
liễm, sẽ không dám phạm lỗi lầm.
Nền trị an ở Tân Gia
Ba rất tốt là [nhờ] pháp trị đấy! H́nh phạt rất nặng. Chúng ta không muốn bị
người phạt, chúng ta có lương tâm, thường
thường nghĩ đến A Di Đà Phật, mỗi khi
chúng ta khởi tâm động niệm, hết thảy hành
động đều phải xứng đáng với
Phật A Di Đà, đáng là học tṛ giỏi của Phật
A Di Đà, là gương mẫu cho xă hội đại chúng,
đó gọi là tu hành. Bắt
đầu từ đâu?
Bắt đầu từ đây – y giáo phụng
hành. Trong kinh dạy chúng ta làm
như thế nào? Chúng ta có
thể nghĩ đến những thứ này, có thể
trong đời sống hằng ngày, từng ly từng tí
đều không vi phạm lời dạy của Phật,
đây tức là tự hành hóa tha, thiệt là làm
được ‘thọ tŕ,
đọc tụng, diễn thuyết cho người khác
biết’; ‘Thuyết’ là khi
người ta hỏi ḿnh, ḿnh nhiệt tâm giải thích cho
người ta biết.
Chỉ cần bạn làm được tốt,
tự tự nhiên nhiên sẽ cảm động những
người xung quanh, cảm động hàng xóm láng
giềng của bạn.
Nếu bạn làm
được lâu dài, công phu sâu dày rồi, bạn sẽ có
thể cảm hóa xă hội; những người
được bạn cảm động nhất
định sẽ thỉnh giáo bạn, đây là cơ duyên
chín muồi. Bạn phải
giải thích tường tận cho họ, khuyến khích
họ học Phật, nói với họ sự lợi ích
của việc học Phật: tâm người học
Phật thanh tịnh, thanh tịnh tức là tâm chẳng
bị ô nhiễm; tâm địa b́nh đẳng chẳng có
cao thấp, có cao thấp th́ chẳng b́nh đẳng, không
b́nh đẳng th́ đương nhiên chẳng thanh
tịnh. Đại trí đại
giác là từ thanh tịnh, b́nh đẳng sanh ra. Nếu tâm bạn chẳng thanh
tịnh, chẳng b́nh đẳng th́ sẽ sanh phiền năo,
chẳng sanh trí huệ, th́ sẽ mê hoặc điên đảo,
vậy th́ làm sao được!
Thời gian người ta
sống trên đời này hết sức ngắn ngủi,
làm đệ tử Như Lai đặc biệt là làm
đệ tử Di Đà là hết sức hy hữu, đây là
cơ hội hiếm hoi, khó gặp nhất! Đệ tử Di Đà được
hết thảy mười phương thế giới
chư Phật Như Lai đều tán thán và tôn trọng. Lúc chúng ta muốn đi tham
phỏng đạo tràng của chư Phật ở
mười phương
thế giới, chư Phật thấy chúng ta là
đệ tử Di Đà đều sẽ đặc biệt
tiếp đón. Nhưng
nếu hành động, khởi tâm động niệm
của chúng ta chẳng làm rạng danh đức Phật A
Di Đà, ngược lại ngày ngày đều bôi nhọ Ngài,
như vậy th́ không được đâu! Làm những việc trái
ngược lương tâm, luôn làm việc tham, sân, si,
mạn mà c̣n treo chiêu bài ‘Đệ tử Di Đà’, chẳng
phải chúng ta đă làm mất mặt A Di Đà Phật
rồi hay sao? Việc này làm
sao được? Hy vọng
chư vị đồng tu thường phản tỉnh.
Trong hai khóa lễ sáng tối,
khóa sáng là để chúng ta phát nguyện giống như ‘đại nguyện của
đức Phật A Di Đà’, Ngài phát bốn mươi tám
đại nguyện độ chúng sanh th́ chúng ta cũng
phát bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh. Khóa tối niệm phẩm ba
mươi hai đến phẩm ba mươi bảy,
đây là ‘giữ giới niệm Phật’. Đoạn kinh này đặc biệt
dùng để răn dạy chúng sanh đời mạt pháp,
nghiệp chướng tập khí của chúng ta quá nặng,
khi khởi tâm động niệm phạm lỗi quá
nhiều, đức Phật đă kể ra tất cả
[lỗi lầm] trong đoạn kinh này. Sau khi niệm xong chúng ta phải
phản tỉnh coi ḿnh có phạm những lỗi này không,
nếu có th́ phải mau sửa đổi! Nếu không có th́ phải tự
nhắc nhở đừng bao giờ phạm. Cho nên phẩm ba mươi hai
đến phẩm ba mươi bảy là giới phẩm,
nội dung là giải thích rơ về ngũ giới và
thập thiện, vô cùng trân quư !
e. Kinh
cứu mạng trong thời Mạt pháp – Phát Khởi Bồ
Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh.
Nhưng thói hư tật
xấu của chúng ta thực sự rất nhiều. Đây là lư do người niệm
Phật th́ nhiều nhưng người văng sanh
được rất ít, chúng ta phải t́m ra nguyên nhân
của vấn đề này.
Tại sao người niệm Phật chẳng
thể văng sanh, vẫn c̣n phải đọa ba
đường ác, nguyên nhân rốt cuộc là ở chỗ
nào? Tại sao công phu niệm
Phật của chúng ta chẳng đắc lực? Tại sao hàng phục phiền năo
tập khí của ḿnh chẳng được?
V́ những vấn đề
này nên chúng tôi mới giảng ‘kinh Phát Khởi Bồ Tát Thù
Thắng Chí Nhạo’. Tôi đă
giảng bộ kinh này ba lần, tại Mỹ, Đài Loan, và
Tân Gia Ba, giảng tại Tân Gia Ba tường tận
nhất v́ có đủ thời gian.
Bộ băng thâu âm này đă được
đồng tu chép ra giấy đợi tôi coi xong, sửa
đổi chút đỉnh rồi sẽ in thành sách. Bộ kinh này là đức Thế
Tôn đặc biệt dạy cho người hiện nay,
giảng cho chúng ta biết những lỗi lầm ǵ mà ḿnh
dễ phạm, chỉ cần chúng ta phạm một
lỗi trong đó th́ niệm Phật chẳng
được văng sanh.
Nếu lỗi nào cũng phạm th́ quá nghiêm trọng
rồi. Thế nên lúc tôi
giảng kinh đặc biệt đă nói rơ kinh này là ‘kinh
cứu mạng’ trong thời mạt pháp, chúng ta nhất
định phải hết ḷng học hỏi.
Thường thường
chúng ta phạm lỗi nhưng chẳng biết, sau khi
Phật nói ra, phân tích rơ th́ chúng ta mới biết. Tuy là giảng kinh nhưng trong
đó có rất nhiều ư nghĩa mà trên giảng đài tôi
chẳng tiện nói ra, nên tôi chỉ nói sơ sơ
những ǵ phải nói mà thôi, chẳng thể nói rơ, nói rơ th́
sẽ đụng chạm người khác, hy vọng
mọi người lắng ḷng thể hội, tự
cứu ḿnh rất quan trọng.
Nếu chúng ta có thể cứu ḿnh th́ mới có
thể giúp người khác, mới có thể hoằng
dương Phật pháp, gánh vác sự nghiệp kế
thừa Như Lai, phát triển sự nghiệp đại
pháp. Đệ tử xuất gia
phải như vậy, đệ tử tại gia cũng
chẳng ngoại lệ.
Phật pháp là sự
nghiệp to lớn của tứ chúng đồng tu, tôi
đă nói nhiều lần rồi.
Chúng ta hy vọng đạo tràng hưng vượng,
trong đạo tràng có ba loại người, thứ
nhất là những người có năng lực, có năng
khiếu, có hứng thú học giảng kinh; thứ nh́ là
người có hứng thú học dùng pháp khí, học nghi
thức, chủ tŕ Niệm Phật Đường lănh chúng tu
hành; thứ ba là số c̣n lại, hai công việc kể trên
đều chẳng làm được th́ làm công việc
nội hộ, tức là làm công việc hành chánh, làm công
việc hộ tŕ đạo tràng.
Ba loại người này hợp tác với nhau th́
đạo tràng này sẽ hưng vượng. Phật pháp mới có thể
hoằng dương khắp thế giới, làm lợi ích
cho xă hội đại chúng, vô lượng công đức
phải nhờ có ba nhóm người này hợp tác với nhau.
f. Khuyến
tín, Khuyến nguyện. Tán thán
lẫn nhau.
Đến lúc giảng kinh
buổi tối, pháp sư ở Niệm Phật
Đường phải khuyên mọi người nghe giảng
kinh, không thể nói: ‘Niệm Phật là đủ rồi, nghe
giảng có ích ǵ?’ Câu này tuy
chẳng sai nhưng là dùng để nói với người
như thế nào? Là để
nói với những người thượng căn, trí óc
lanh lợi, v́ họ đều đă thông đạt
hết rồi. Ngoài ra c̣n dùng
để nói với những người đầy
đủ thiện căn, phước đức, nhân
duyên, v́ họ chẳng có hoài nghi, công phu chẳng xen
tạp, như vậy th́ được! Chỉ có hai loại người
này được, nhưng hai hạng người này
rất hiếm có, nhiều lắm là chỉ có một, hai
người trong số một vạn người. Người thường
đều có căn tánh bậc trung, người căn tánh
bậc trung chẳng đủ tín tâm, nguyện tâm. Làm thế nào tăng thêm tín tâm và
nguyện tâm của họ?
Bằng cách nghe pháp.
Thế nên nghe giảng kinh rất quan trọng. Bạn hăy coi lúc đức
Phật Thích Ca c̣n tại thế, mỗi ngày trong suốt
bốn mươi chín năm đều giảng kinh,
thuyết pháp, đức Phật Thích Ca chẳng hề
đả Phật thất, Thiền thất. Quư vị tra hết Đại
tạng kinh cũng chẳng t́m ra!
Tại sao đức Phật
Thích Ca chẳng đề cập đến sự việc
trong ‘Hành Môn’? V́ chỉ cần
bạn có đầy đủ tín, đầy đủ
nguyện, th́ tự ḿnh sẽ hành, đâu cần
người ta dạy? Thế
nên sự cống hiến của cả đời
đức Phật là ‘Khuyến tín, khuyến nguyện’,
nếu bạn có tín, có nguyện th́ tự nhiên sẽ làm
theo. Cho nên nhất định
phải khuyên người nghe pháp th́ mới chẳng
phụ ḷng đức Phật Thích Ca đă thuyết pháp
suốt bốn mươi chín năm.
Pháp sư trong giảng
đường nhất định phải khuyên thính chúng
đến Niệm Phật Đường niệm
Phật. Tại sao
vậy? Chỉ nghe giảng
kinh, nghe xong chẳng làm, chẳng niệm Phật th́ không có
ích lợi, chẳng thể văng sanh.
Đây là phải khen ngợi lẫn nhau, cổ
đức nói: ‘Nếu
muốn Phật pháp hưng vượng th́ chỉ có cách
Tăng khen ngợi Tăng’. Người xuất gia khen
ngợi, tán thán lẫn nhau th́ Phật pháp sẽ hưng
thịnh. Không những chúng ta
khen ngợi người của tông phái ḿnh, chúng ta cũng
phải tán thán người thuộc tông phái khác, tôi đă
nói đạo lư này rất nhiều lần rồi. Chúng ta phải có tâm lượng
xinh đẹp này, phải có sự nhận thức này, vô
lượng pháp môn đều là do Phật dạy, nếu
bạn nói: ‘Pháp môn của tôi mới tốt, pháp môn kia chẳng
tốt’ th́ tôi hỏi có phải bạn đă phỉ báng
Phật chăng? Báng Phật
là tội ǵ? Là tội
đọa địa ngục A Tỳ đấy! Nếu bạn nói: tôi niệm
Phật rất tốt [th́ tại sao lại đọa
được?] Bạn
niệm được rất tốt là chuyện khác,
tội báng Phật này bạn phải gánh chịu; huống
chi bạn đă phạm một giới nặng, phạm
Bồ Tát giới -- tự tán hủy tha -- tự tán thán ḿnh
và hủy báng người khác.
Trong Du Già Bồ Tát Giới Bổn, giới tự tán
hủy tha (khen ḿnh chê
người) là giới nặng
nhất, là sẽ đọa địa ngục A Tỳ
đấy. Bao nhiêu
người tạo tội nghiệp này mà chẳng
biết! Tương lai
đọa lạc th́ quá oan uổng! Phạm Vơng kinh Giới Bổn
chẳng liệt kê tội này vào những tội nặng mà
liệt vào hạng thứ nh́ [tức
thuộc bốn mươi tám giới khinh]. Trong Du Già Sư Địa
Luận Bồ Tát Giới Bổn, tội này là tội
thứ nhất -- chẳng được tự tán hủy
tha. Thế nên chúng ta phải
tôn trọng, phải tán thán các pháp môn khác!
Năm 1977 tôi giảng kinh
ở Hương Cảng. Pháp
sư Thánh Nhất đến nghe tôi giảng suốt ba
ngày. Lúc đó tôi vốn chẳng
quen biết thầy, sau khi ra về, thầy khuyến khích
tín đồ của thầy đến nghe tôi giảng
kinh; việc này rất hiếm có!
Thầy là người học Thiền, tôi là
người niệm Phật, [thầy] chẳng có sự
phân biệt môn hộ, rất đáng được tán
thán! Thầy c̣n mời tôi
đến Thiền đường của thầy
để giảng khai thị.
Tôi đến chùa Bảo Liên trên núi Đại Dự,
lúc đó thầy c̣n trẻ tuổi, trong Thiền đường
có hơn bốn mươi mấy người tham
Thiền, mỗi ngày đều tọa hương,
thầy mời tôi đến giảng khai thị. Tôi không thể nói: ‘Học
Thiền không tốt, niệm Phật mới tốt’. Thế nên tôi đến đó tán
thán Thiền, hên là tôi cũng có chút đỉnh ‘khẩu
đầu thiền’, vẫn có thể ứng phó được. Hồi trước tôi đă
giảng ‘Lục Tổ Đàn Kinh’, ‘Vĩnh Gia Thiền Tông
Tập’, ‘Chứng Đạo Ca’, Tín Tâm Minh của Tam Tổ,
giáo nghĩa của Thiền Tông tôi đă giảng chẳng
ít cho nên cũng có chút đỉnh ‘khẩu đầu
thiền’ nói ra khuyến khích, tán thán họ. Tán thán Thánh Nhất pháp sư, tán
thán đạo tràng, tán thán đại chúng; Tăng tán thán
Tăng làm cho họ có thêm ḷng tin đối với pháp môn
này, càng tôn kính pháp sư của họ, chúng ta phải giúp
họ.
Tôi học phương pháp này
ở đâu? Là do Chương
Gia đại sư dạy cho tôi; sau này tôi cũng thấy
sự tán thán lẫn nhau trong kinh Hoa Nghiêm. Thế nên từ đó tôi và Thánh
Nhất pháp sư trở thành bạn thân. Tôi cũng là bạn cũ của
pháp sư Diễn Bồi ở Tân Gia Ba, thầy tu theo Di
Lặc Tịnh Độ, tôi tu Di Đà Tịnh Độ, chẳng
giống nhau! Tôi đến Tây
phương Cực Lạc thế giới, thầy
đến Đâu Suất Nội Viện. Lúc thầy mời tôi thuyết
giảng tôi chẳng thể nói: ‘Di Lặc Tịnh Độ
tuy gần nhưng chẳng dễ đến!’, không thể
nói như vậy. Tôi không
thể nào tán thán ḿnh, không thể hủy báng thầy. Thầy ở tại đó đă
dạy học hơn hai mươi mấy năm, rất
nhiều người đều theo thầy học Di
Lặc Tịnh Độ, chúng ta chẳng thể phá hoại
người khác. Cổ
đức có nói: ‘Thà chịu
khuấy động nước trong ngàn sông nhưng
chẳng nên động tâm của người tu
đạo’ (Ninh
động thiên giang thuỷ, bất động
đạo nhân tâm). Thế nên tôi đến đó tán
thán Di Lặc Bồ Tát, tán thán Di Lặc Tịnh Độ,
một chữ về Di Đà Tịnh Độ cũng chẳng
nhắc đến, đây là lễ phép, là việc chúng ta
phải làm.
Khi đến một
đạo tràng nào đó lại phê b́nh đạo tràng,
tự tán dương pháp môn mà ḿnh tu học, th́ đó là ngu
si! Vừa nghe bạn liền
biết người này ngay cả thường thức,
lễ tiết thông thường cũng chẳng
hiểu. Nhưng hiện nay
người như vậy rất nhiều, ngược
lại người thông suốt, hiểu rơ th́ quá ít. [Nghe tôi] tán thán Thiền Tông, trên
đường từ núi Đại Dự ra về có
đồng tu hỏi:
‘Thưa Pháp sư, Thiền
hay như vậy tại sao thầy chẳng tu
Thiền? Tại sao thầy
lại niệm Phật?’.
Tôi trả lời: ‘Căn
cơ của tôi rất thấp!
Thiền là dành cho người thượng
thượng căn, tôi là người hạ hạ căn,
chỉ niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ’.
Tôi nói như vậy là lời
nói chân thật. Chúng ta phải
học chư Phật, Bồ Tát ‘phải thường
nâng cao người khác, khiêm nhường hạ ḿnh
xuống, tuyệt đối sẽ có lợi ích – [lợi
ích] là phá trừ ngă chấp, phá trừ ngă mạn’.
‘Ngă chấp và ngă mạn’ là
những thứ làm người tu hành như chúng ta mất
mạng, là chất độc nguy hiểm nhất’, Phật dạy chúng ta dùng phương pháp này
để phá trừ -- bất luận ở đâu chúng ta
cũng phải hạ thấp ḿnh xuống, luôn luôn nghĩ
ḿnh chẳng bằng ai hết, người nào cũng
giỏi hơn ḿnh nhiều.
Đây là sự thật!
Người nào cũng có sở trường của
họ, tôi chẳng sánh bằng.
Nếu làm được như vậy th́ tâm ḿnh
sẽ yên ổn, tự nhiên sẽ hàng phục được
thói quen cống cao, ngă mạn, sẽ giúp rất nhiều
cho ‘giải, hành’ của ḿnh.
g. Niệm
niệm v́ Phật pháp, v́ chúng sanh
Hy vọng các bạn
đồng tu cùng nhau nỗ lực hết ḷng học
tập, đặc biệt là công việc nghiên cứu, thâm
nhập giáo lư, việc này hết sức quan trọng, không
thể sơ suất bỏ qua, phải tận tâm tận
lực để làm. Đặc
biệt quư vị ở đây thiệt đúng là nhân duyên
hết sức tốt đẹp, cả đời
người rất khó kiếm được, đừng
để quang âm ṃn mỏi, thời gian luống trôi. Cùng nhau nỗ lực học
tập không những có thể làm gương mẫu cho
đồng tu học Phật, cũng làm tấm
gương tốt cho xă hội đại chúng. Làm cho xă hội đại chúng
nh́n thấy người học Phật đều rất
hiền lương, giữ ǵn phép tắc, tuân giữ
luật pháp, các bạn sẽ được xă hội
đại chúng tôn trọng.
Họ tôn trọng bạn tức là tôn trọng Phật
pháp, mến mộ bạn tức là mến mộ Phật
pháp; Phật pháp tự nhiên
ở địa phương này, xă hội, quốc gia này
có thể phát triển, đây là công đức lớn lao
của các bạn.
Nếu chúng ta học Phật
mà ngôn hạnh đều chẳng đúng như pháp, xă
hội mất cảm t́nh đối với chúng ta, như
vậy chẳng phải chỉ hại cá nhân của
bạn mà thôi, bạn đă tiêu hủy hết thảy
tiền đồ của Phật pháp. Người ta vừa nghe bạn
là Phật giáo đồ -- Phật giáo đồ chẳng
giữ luật lệ, Phật giáo đồ lộn
xộn -- như vậy có được không? [Nếu vậy] bạn đă phá
hoại h́nh tướng của Phật pháp. Thế nên chúng ta học Phật
phải làm gương mẫu cho xă hội đại chúng,
nhất định phải tuân giữ luật pháp. Hiện nay việc mà người
ta rất khó giữ là ‘tham lam tiền tài’. V́ tham tài nên t́m đủ mọi
cách trốn thuế; chuyện này chẳng đúng như
pháp, việc này tuyệt đối là sai lầm. Quốc gia Úc này đang phải
trả nợ, kinh tế quốc gia rất khó khăn, chúng
ta đóng thuế là việc đương nhiên nên làm. Người học Phật
phải tu hạnh từ thiện, thường
thường từ bi cứu trợ, quốc gia này có khó
khăn mà bạn không giúp đỡ th́ chẳng nên. Trong kinh Phật dạy đệ
tử của Phật tuyệt đối chẳng trốn
thuế, nếu bạn trốn thuế th́ bạn đă vi
phạm lời giáo huấn của Phật.
Huống chi bạn học
Phật, tương lai sẽ thành Phật, pháp duyên
độ chúng sanh của bạn phải rộng, phải
thịnh. Muốn pháp duyên
hưng vượng th́ phải kết duyên; hôm nay bạn
đóng thuế là có duyên với quốc gia này, kết duyên
với quốc gia này; tại sao chúng ta chẳng làm
chuyện tốt này? Bạn có
duyên với chúng sanh, có duyên với khu vực, quốc gia
này th́ tương lai khi bạn thành Phật, làm Bồ Tát bạn
sẽ đến chỗ này dạy dỗ chúng sanh, pháp duyên
của bạn sẽ thù thắng!
Thế nên niệm niệm phải đừng nghĩ
cho ḿnh, niệm niệm phải v́ xă hội, v́ chúng sanh
tức là v́ Phật pháp.
Học Phật phải bắt đầu từ
đây, chi tiết quá nhiều nói chẳng hết, hy
vọng mọi người có thể nghe một hiểu
mười.
Ngày mai tôi sẽ nói sơ
lược với quư vị về cương lănh tu
học của Tịnh Tông: Tam phước, Lục ḥa, Tam
Học, Lục độ, Thập nguyện. V́ thời gian rất ngắn nên
chỉ có thể giới thiệu đơn giản; lúc
trước tôi có giảng kỹ về Tịnh Nghiệp
Tam Phước, chúng ta nên nghe nhiều về đề tài
này để biết rơ ḿnh phải làm những ǵ trong
đời sống hằng ngày.
Xin cám ơn quư vị.
Buổi nói
chuyện tại Tịnh Tông Học Hội Úc Châu, 1997 (ngày
thứ nh́)
5. Tịnh nghiệp Tam
phước
Thời
gian trôi đi quá nhanh, hôm nay đă là ngày họp mặt
cuối cùng trong chuyến đi Úc Châu lần này, hai ngày
trước thực sự chúng tôi nói chưa hết
lời và cũng nói chưa hết những điều
muốn căn dặn, nhắc nhở; trong khoảng
thời gian ngắn nội dung của buổi nói chuyện
chẳng nhiều, hy vọng các bạn lắng ḷng thể
hội, đi t́m cầu trong kinh giáo. Mỗi chữ mỗi câu trong kinh
Phật đều chứa đựng vô lượng
nghĩa, tùy theo tri kiến và kiến giải của chúng
sanh, lợi ích của mỗi người có sâu cạn,
rộng hẹp chẳng đồng. Nếu chúng ta thành tâm đi t́m
cầu, thể hội, phụng hành th́ mọi người
sẽ đạt được lợi ích thù thắng,
đây là sự gia tŕ của Tam Bảo cho chúng ta,
người thế tục thường nói là Phật,
Bồ Tát pḥ hộ cho chúng ta, là có ư nghĩa như
vậy. Do đây có thể biết
trong Phật pháp chẳng có mê tín; lư luận, phương
pháp dạy chúng ta tu học như thế nào.
a. Tịnh
nghiệp chánh nhân của ba đời chư Phật.
Sự tu học Tịnh Tông,
chúng tôi đặc biệt tuyển chọn những
lời khai thị trong kinh điển của Tịnh Tông
và tóm tắt thành năm khoa mục (Tam phước, Lục
Ḥa, Tam Học, Lục Độ, Thập nguyện) để
làm nguyên tắc cho sinh hoạt, việc làm, xử sự,
đăi người, tiếp vật trong suốt cuộc
đời chúng ta. Chúng ta
phải tuân theo những nguyên tắc này th́ mới xứng
đáng làm đệ tử của Thế Tôn, làm học tṛ
của đức Phật A Di Đà.
Khoa mục thứ nhất là ‘Tịnh Nghiệp Tam
Phước’ dạy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ
Phật, v́ thời gian không đủ nên tôi chẳng
thể nói rơ, trong hội trường có một bộ
băng cassette ghi bài giảng lúc trước [các bạn có
thể nghe thêm]. Tam Phước
hết sức quan trọng, trong phần cuối của
đoạn kinh này đức Thế Tôn đặc biệt
nhấn mạnh ba điều này là tịnh nghiệp chánh
nhân của ba đời chư Phật.
Tầm vóc của câu này
hết sức quan trọng, ba đời chư Phật là
Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật
tương lai; những người tu hành thành Phật
trong quá khứ, hiện tại và tương lai chẳng
biết bao nhiêu mà tính! Dĩ
nhiên họ tu hành thành Phật chẳng phải chỉ dùng
một phương pháp duy nhất v́ có vô lượng pháp
môn. Trong kinh Đại thừa
thường nói: ‘Pháp môn b́nh
đẳng, chẳng có cao thấp’, pháp môn nào cũng có thể thành Phật, nhưng
dựa trên căn tánh của chúng sanh mà nói th́ sẽ khác nhau
– có người lợi căn, có người độn
căn. Có pháp môn khế cơ,
có pháp môn chẳng khế cơ; khế cơ th́ thích
hợp cho chúng ta tu học, chẳng khế cơ nghĩa
là đối với đời sống hiện tại có
nhiều chỗ chẳng thuận tiện. Khế cơ th́ chúng ta tu học
rất thuận lợi, rất dễ dàng, nếu chẳng
khế cơ th́ chúng ta cảm thấy rất khó khăn,
hễ cảm thấy khó khăn th́ chúng ta nên bỏ và
lựa chọn pháp môn nào thích hợp với ḿnh. Việc này cũng giống như
lựa chọn khoa hệ trong trường học, khoa
hệ nào mà chúng ta rất thích và cũng có năng lực
học theo th́ dễ rồi.
Nếu lựa chọn một khoa hệ chẳng
hợp với ư thích của ḿnh th́ học theo sẽ
rất khó khăn. Cho nên vô
lượng pháp môn của Phật pháp giống như khoa
hệ trong trường học, đều để cho
ḿnh tùy ư lựa chọn.
Điều kiện của sự lựa chọn là
phải thích hợp với tŕnh độ của ḿnh, ư
thích của ḿnh, đời sống của ḿnh, chẳng gây
trở ngại cho đời sống và công ăn việc
làm của ḿnh, không những chẳng trở ngại mà c̣n
trợ giúp thêm th́ tu học theo sẽ rất dễ
dàng. Đây là những điều
kiện chúng ta cần biết rơ khi lựa chọn pháp môn.
Đức Phật dạy ba
điều trong Tam phước là tịnh nghiệp chánh
nhân của hết thảy chư Phật, nói một cách
khác bất luận bạn tu học theo khoa hệ nào th́ ba
điều này là lớp chính ḿnh phải học; trong vô
lượng pháp môn ba điều này là khóa học mọi
người nhất định phải tu học, hết
sức quan trọng. Giống
như xây một căn nhà, chẳng kể bạn xây theo
kiểu nào th́ đây là nền móng, nhất định
phải xây nền móng vững chắc, ổn định
trước th́ căn nhà này mới được hoàn
hảo, chúng ta phải đặc biệt coi trọng việc
này.
b. Phật
pháp là hiếu đạo và sư đạo
Điều thứ nhất:
‘Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư
trưởng, từ tâm chẳng sát hại sanh vật, tu
thập thiện nghiệp’.
Chúng ta nhất định phải làm cho
được điều này, nếu chúng ta thực
sự làm được th́ chúng ta học Phật, nền
móng để thành Phật đă được xây
dựng. Giả sử bạn
chẳng làm được th́ Phật pháp mà bạn nghiên
cứu sẽ trở thành những ǵ người thế
gian nói: Phật học – học Phật như nghiên cứu
một môn học, việc này đối với đời
sống, tu tŕ, thậm chí liễu sanh tử, vượt
thoát tam giới chẳng có liên quan chi hết! V́ vậy phải hết ḷng làm
cho bằng được.
Phật pháp là hiếu đạo, trong Giới kinh
của Đại thừa giảng rất rơ, từ hiếu
thuận cha mẹ mở rộng đến hiếu
thuận sư trưởng, hiếu thuận hết
thảy chúng sanh, phải có tâm lượng như
vậy. Thế nên chữ
hiếu này có thể nói đă bao gồm hết thảy toàn
bộ Phật pháp. Hiếu
dương cha mẹ, ‘hiếu’ là giác ngộ, tức là tự
tánh giác, giác ngộ xong rồi biểu hiện trong hành vi
sanh hoạt tức là ‘dưỡng’.
Mọi người
đều biết văn tự Trung Quốc là một
hệ thống kư hiệu có trí huệ cao độ, khi
chúng ta nh́n phù hiệu này th́ liền hiểu rơ, việc này
thiệt rất phi thường.
Kết cấu của văn tự Trung Quốc có sáu
nguyên tắc (lục thư), chữ hiếu là viết theo
nguyên tắc ‘hội ư’ – nh́n phù hiệu này liền có
thể hiểu được ư nghĩa trong đó. Phía trên chữ Hiếu là chữ
Lăo, phía dưới là chữ Tử (con), hai chữ này ghép
lại thành chữ Hiếu, ư nghĩa của nó rất rơ
ràng. Lăo là đời
trước, đời trước c̣n có đời
trước nữa, quá khứ vô thỉ; Tử (con) là
đời sau, đời sau c̣n có thêm đời sau
nữa, vị lai vô chung, vô thỉ vô chung là một cái toàn
thể, đây gọi là hiếu.
Người phương tây nói về ‘đại
cấu’ (sự ngăn cách giữa các thời đại),
nếu có sự ngăn cách th́ chữ hiếu này chẳng
c̣n nữa. Người Âu tây
thường hỏi tôi: ‘Người Trung Quốc quư vị,
tổ tông cả mấy ngàn năm trước chưa
hề gặp qua thế th́ tại sao vào dịp tết,
dịp lễ phải đi cúng họ?’. Đó là hiếu đạo. Bạn nghĩ thử coi: tổ
tông từ ngàn năm về trước ḿnh c̣n kỷ
niệm họ, vẫn chẳng quên họ, cha mẹ
hiện giờ làm sao có thể chẳng làm tṛn đạo
hiếu cho được?
Thầy giáo thời xưa ḿnh c̣n tôn trọng th́
đối với người thầy dạy ḿnh hiện
giờ làm sao chẳng tôn kính cho được? Sự giáo học của nhà Nho và
nhà Phật đều có căn bản từ điểm
này, đây là nền tảng.
Cho nên phải hiểu chữ hiếu này tức là Phật
pháp, đặc biệt là trong kinh điển Đại
thừa gọi là ‘chân như pháp tánh’, tận hư không,
khắp pháp giới, phù hiệu này được dùng
để tượng trưng cho cả cái chỉnh thể
này. Nếu chúng ta có sự
nhận thức như vậy th́ mới thực sự
thể hội được chữ hiếu.
Sau đó làm thế nào
để thực hiện chữ ‘hiếu’ trong đời
sống sinh hoạt của ḿnh, trên phương diện làm
người, xử sự, đó tức là
‘dưỡng’; dưỡng là
phụng dưỡng, từ nghĩa hẹp mà nói tức là
dưỡng thân của cha mẹ.
Cha mẹ sanh chúng ta, ân đức dưỡng dục
này rất lớn; khi cha mẹ lớn tuổi và về
hưu, chúng ta có nghĩa vụ săn sóc cho họ cũng
giống như lúc ḿnh c̣n nhỏ cha mẹ lo lắng,
chăm sóc cho ḿnh, chúng ta phải báo đáp, báo đền,
đây là một chuyện hết sức tự nhiên. Đây là dưỡng thân thể
của cha mẹ, [làm được việc này] có kể
là đă làm tṛn đạo hiếu chưa? Chưa tṛn. Quư vị phải biết trong loài
cầm thú con quạ cũng biết dưỡng thân
của cha mẹ; quạ con biết đút đồ ăn
cho quạ già, nó cũng biết nuôi dưỡng cha mẹ
vậy! Nếu người
chẳng biết nuôi cha mẹ ḿnh th́ cả cầm thú
cũng chẳng bằng!
Thế nên dưỡng thân của cha mẹ cũng
chưa làm tṛn đạo hiếu.
Cha mẹ hy vọng con cái như thế nào? Chúng ta có làm thỏa măn nguyện
vọng của cha mẹ chăng, việc này rất quan
trọng!
Thời xưa có sự
dạy dỗ của cổ thánh tiên hiền, cha mẹ không
kỳ vọng con cái thăng quan phát tài, chẳng giống
với quan niệm của người thời nay,
đều hy vọng con cái có thể làm thánh làm hiền, có
đạo đức, có học vấn, có cống hiến
đối với xă hội đại chúng. Thế nên lập công, lập
đức, lập ngôn là làm rạng danh cha mẹ, làm cho cha
mẹ hănh diện, mới được xă hội
đại chúng tôn kính. Chúng ta
đă làm tṛn được chưa? Có phụ ḷng cha mẹ kỳ
vọng nơi ḿnh hay không?
Sau khi học Phật th́
kỳ vọng của cha mẹ sẽ khác lúc trước,
làm thánh làm hiền vẫn chưa đủ, c̣n phải làm
ǵ ? Làm Bồ Tát, làm Phật!
Nếu bạn làm Bồ Tát th́ họ là cha mẹ
của Bồ Tát; nếu bạn thành Phật th́ họ làm
cha mẹ của Phật; làm
cha mẹ của thánh hiền và làm cha mẹ của
Phật, Bồ Tát là hai chuyện khác nhau. Nếu chúng ta làm
Phật, Bồ Tát chẳng nổi th́ chữ hiếu này
chưa đạt đến viên măn, vẫn c̣n khiếm khuyết,
phải biết chuyện này.
Người như thế nào mới làm tṛn chữ
hiếu? Thành Phật th́
chữ hiếu viên măn nhất.
Đẳng Giác Bồ Tát c̣n thua một bậc, họ c̣n
một phẩm Sanh Tướng vô minh chưa phá th́
đạo hiếu của họ cũng chưa viên măn;
từ đây có thể biết Tam Phước là cơ
sở chân thực.
Nếu bạn thực sự
đă học Phật, khi bạn khởi tâm động
niệm, ngôn ngữ tạo tác liền lập tức
phải nghĩ đến ‘hiếu dưỡng cha mẹ,
phụng sự sư trưởng’. Thầy giáo và cha mẹ kỳ
vọng chúng ta những ǵ?
Chúng ta đă làm được hay chưa? Trong kinh thường nói:
‘Phật, Bồ Tát là tấm gương tốt nhất cho
hết thảy chúng sanh trong chín pháp giới.’ Trong xă hội này chúng ta có thể
làm gương mẫu, làm người dẫn đầu
cho xă hội đại chúng hay không? Tư tưởng, lời nói, hành
động của chúng ta có ảnh hưởng ǵ
đối với xă hội đại chúng? Nếu là ảnh hưởng
xấu th́ tuyệt đối đừng làm. Nếu chẳng thâm nhập kinh
điển Đại thừa th́ bạn không biết ‘hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng’
trong đời sống phải bằt đầu từ đâu. Chúng ta nêu ra một thí dụ
đơn giản: trong nhà có nhiều anh chị em, làm con
nếu anh em chẳng ḥa hợp th́ cha mẹ phải lo
lắng, buồn rầu, như vậy tức là bất
hiếu! Con cái trưởng
thành ai cũng thành gia lập nghiệp, cưới vợ
sanh con, chị em dâu bất ḥa, cha mẹ phải bận
tâm, đó cũng là bất hiếu!
Lúc c̣n nhỏ đi học chẳng siêng năng làm cha
mẹ phải bận tâm là bất hiếu! Trong trường không nghe lời
thầy, mỗi ngày đều đánh lộn, phá phách
cũng là bất hiếu!
Thế nên chư vị
nghĩ xem, chữ hiếu này bao trùm hết thảy
Phật pháp, hết thảy pháp của Thế Tôn nói
suốt bốn mươi chín năm chỉ là để
giảng rơ chữ hiếu mà thôi.
Khi chúng ta khởi tâm động niệm, xử
sự, đăi người, tiếp vật đều
phải làm theo những lời đức Phật dạy
trong kinh điển. Phật
dạy chúng ta làm thế nào, chúng ta nhất định
phải làm cho bằng được; những ǵ Phật chẳng
cho chúng ta làm th́ chúng ta tuyệt đối không làm,
được vậy th́ bạn mới làm tṛn đạo
hiếu, mới kể là thực sự làm được
‘phụng sự sư trưởng’. Sư trưởng chẳng
dạy bạn mỗi ngày phải cung kính họ, cúng
dường họ; chẳng phải vậy, bạn
phải hết ḷng làm theo lời dạy của sư
trưởng. Thế nên
Phật pháp là hiếu đạo và sư đạo:
thầy dạy bạn phải làm sao để tṛn đạo
hiếu, cha mẹ dạy bạn phụng tŕ thầy giáo
như thế nào, sự giáo dục của hai bên hỗ
trợ lẫn nhau th́ bạn mới thành tựu, đây là
cội gốc của căn bản. Học Phật phải bắt
đầu từ đâu?
Bắt đầu từ Tịnh nghiệp Tam
phước.
Kinh Địa Tạng Bồ Tát
Bổn Nguyện dạy rơ về hiếu đạo, trong
nhà Phật kinh này thường được xưng là
‘Hiếu Kinh’. Lúc mỗi
đạo tràng mới thành lập, bộ kinh đầu
tiên tôi giảng nhất định phải là kinh Địa Tạng. Khi chúng ta có một miếng
đất th́ mới có thể phát triển, mới có
thể làm việc. Đất
đai có rồi nhưng quan trọng hơn vẫn là tâm
địa, dùng lời nói hiện nay tức là xây dựng
tâm lư, kinh Địa Tạng giúp chúng ta xây dựng tâm lư. Từ mảnh đất này liên
tưởng đến tâm địa của ḿnh, tâm
địa phải chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng,
từ bi. Cả bộ kinh
Địa Tạng thực ra là giảng bốn câu này:
‘Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư
trưởng, từ tâm chẳng sát hại, tu thập
thiện nghiệp’, các bạn
hăy coi kỹ.
Phật giáo Đại thừa
ở Trung Quốc rất có đạo lư, là trí huệ cao
độ, dùng bốn đại Bồ Tát để tiêu
biểu và tượng trưng cho sự tu học Phật
pháp. Vị thứ nhất là
Địa Tạng Bồ Tát, thứ hai là Quán Thế Âm Bồ
Tát; Quán Thế Âm Bồ Tát tượng trưng cho
đạo hiếu mở rộng ra tức là đại
từ đại bi, phát huy đạo hiếu đến
có thể hiếu thuận hết thảy chúng sanh. Nếu lúc chúng ta giao thiệp
với người khác vẫn c̣n tự tư tự
lợi, vẫn làm một số việc lợi ḿnh,
hại người, tức là chẳng hiếu, là chẳng
kính trọng thầy giáo! Như
vậy th́ chúng ta đâu có học Phật? Người học Phật
đối với ai cũng đều chân thành,
người nào gạt gẫm ḿnh, ḿnh đối với
họ vẫn phải chân thành, được vậy
mới đáng gọi là người học Phật.
Trong số những pháp sư
thế hệ trước, có một thời gian tôi có
dịp tiếp xúc và hợp tác với Đạo An lăo pháp
sư. Thầy mở lớp
Phật học Đại Chuyên và mời tôi làm tổng chủ
giảng, chúng tôi hợp tác với nhau hết ba, bốn
năm. Thầy làm cho tôi khâm
phục, thầy chẳng có tâm riêng tư, chẳng có
đố kỵ, việc này rất hiếm và quư báu! Lúc tôi giảng, có khoảng
chừng hơn bốn trăm học sinh đến nghe;
lúc lăo pháp sư giảng th́ chỉ c̣n từ ba đến
bốn mươi học sinh.
T́nh trạng này rất khó coi, thầy chẳng
phiền ḷng nhưng tôi cảm thấy rất khó
chịu. Lớp của tôi
được xếp vào buổi sáng, lớp của
thầy buổi chiều; học sinh buổi sáng học
xong, ăn xong th́ đều ra về, buổi chiều
chẳng c̣n bao nhiêu người đến lớp của
thầy. Thế nên tôi
đề nghị: ‘Chúng ta thay đổi lớp học
ngược lại xem sao, thầy dạy lớp buổi
sáng, tôi dạy lớp buổi chiều’. Sau khi thay đổi th́ lớp
buổi sáng của thầy học tṛ chẳng chịu
đến, lớp buổi chiều th́ học sinh lại
đến đầy chỗ ngồi, thiệt là chẳng
có cách nào khác! Tuy vậy nhưng
lăo pháp sư trước sau cũng chẳng phiền hà ǵ
hết, có thể làm được như vậy rất
khó, chẳng dễ đâu!
Có một hôm tôi đi thăm
thầy, lúc đó có một người từ pḥng của
thầy đi ra. Thầy
hỏi tôi: ‘Người đó [vừa bước ra],
thầy có gặp chăng?’
Tôi nói: ‘Gặp rồi,
vừa đi khỏi’
Thầy nói: ‘Hôm nay ổng
cũng đến gạt tôi’.
Ông đó rất thường gạt tiền của
thầy, hôm nay cũng lại gạt tiền.
Tôi nói: ‘Thế th́ thầy có
cho ổng hay không?’
‘Tôi đưa rồi’.
Thiệt là phi
thường! Người
đến gạt lăo pháp sư cứ nghĩ rằng lăo
pháp sư chẳng biết ḿnh bị gạt, đâu ngờ
là lăo pháp sư đă biết rơ ràng.
Biết rơ họ gạt ḿnh mà vẫn để cho
họ gạt; thiệt là phi thường! Trong những lăo pháp sư
đời trước tôi chỉ gặp được
một người như thầy, tôi rất khâm phục,
thầy chẳng hồ đồ, chẳng mê hoặc
điên đảo chi cả, đây là việc chúng ta
phải nên học tập.
Thầy đă làm một gương tốt cho chúng ta.
Điều thứ hai trong Tam
Phước:
‘Thọ tŕ Tam Quy, đầy
đủ các giới, chẳng phạm oai nghi’.
Từ đây có thể
biết điều kiện cơ bản của ‘Thọ
tŕ Tam Quy’ tức là phước thứ nhất làm xong th́
mới có tư cách tiếp nhận sự dạy dỗ
của Phật. Tại sao ngày
nay Phật pháp suy thoái như vậy? Là v́ mọi người thọ
tŕ Tam Quy nhưng điều thứ nhất [nói phía
trước] chẳng làm được nên thọ Tam Quy
đều là giả, chẳng phải thật – trên h́nh
thức thọ Tam Quy, nhưng trên thực tế th́
chẳng thọ. Hỏi
bạn thọ Tam Quy rồi, quy từ đâu? Chẳng biết. Hỏi bạn y những ǵ? Cũng chẳng biết. Thọ tŕ một cách hồ
đồ như vậy là sai lầm! Tôi đă giảng ‘Tam Quy’ kỹ
càng ở Tân Gia Ba, h́nh như năm ngoái đă giảng thêm
một lần ở tại bờ biển Hoàng kim, có
lưu lại băng thâu âm, băng thâu h́nh. Hai lần diễn giảng này
đă được chép lại thành một cuốn sách
nhỏ, đă in ở Đài Loan, chư vị muốn thọ
Tam Quy nhất định phải nghe kỹ hai lần
giảng này; sau đó chúng ta ở trước mặt
Phật, Bồ Tát làm nghi thức đơn giản
nhưng long trọng, mời Tam Bảo chứng minh cho chúng
ta; chúng ta thực sự phát nguyện quy y Tam Bảo.
c. Tam Quy trong
Tịnh Tông: A Di Đà Phật, kinh Vô Lượng Thọ,
Bồ Tát Quán Âm và Thế Chí.
Quy y Tam Bảo nghĩa là
từ hôm nay trở đi tôi phát nguyện chánh thức làm
một học tṛ của đức Phật, tôn Phật làm
thầy. Bạn phát nguyện
tôn Phật làm thầy, chúng sanh trong chín pháp giới kể
cả những thiên thần nh́n thấy bạn đều
tôn kính bạn. Bạn là
học tṛ của Phật, chẳng phải là người
thường, đặc biệt nếu bạn là học
tṛ của A Di Đà Phật th́ càng tôn quư hơn, hết
thảy chư Phật Như Lai đều đặc
biệt tiếp đăi bạn, là nể Phật A Di Đà
đấy. Nhưng bạn
phải thiệt là học tṛ của A Di Đà Phật mới
được, nếu là giả mạo th́ bạn
chẳng đáng một xu. Tuy
Phật, Bồ Tát chẳng trách bạn nhưng thần
hộ pháp sẽ khiến bạn bị rắc rối. Thần hộ pháp là cảnh sát,
là người chấp hành pháp luật, họ đối
với bạn chẳng khách sáo ǵ cả, nếu bạn
giả mạo làm đệ tử Phật th́ bạn đă
phạm pháp rồi.
Tôi đặc biệt kết
hợp sự quy y của đồng tu chúng ta với giáo
giới của Tịnh Tông.
Chúng ta quy y Phật th́ tôn A Di Đà Phật làm thầy, quy
y Pháp th́ lấy kinh Vô Lượng Thọ làm nền
tảng, đây là kinh số một của Tịnh Tông. Những lời dạy của
đức Phật trong kinh chúng ta phải hiểu rơ,
nhận thức, nhớ nằm ḷng, và phải thực
hiện những lời này trong đời sống. Chúng ta hy vọng cách dụng tâm
của ḿnh giống như đức Phật A Di Đà; chúng ta
phát nguyện cũng phải giống nguyện của
đức Phật A Di Đà, mỗi nguyện trong bốn
mươi tám lời nguyện của đức Phật A
Di Đà đều nhằm đem lại lợi ích cho chúng
sanh, đều chẳng v́ ḿnh.
Đức Phật A Di Đà dạy chúng ta phải sửa
đổi hết thảy tập khí phiền năo từ vô
lượng kiếp đến nay.
Một đoạn rất dài từ phẩm ba
mươi hai đến phẩm ba mươi bảy [trong
kinh Vô Lượng Thọ] dạy về vấn đề
này. Trong đó là những
lời giải thích hết sức cụ thể của
ngũ giới và thập thiện, chúng ta phải biết
làm thế nào y giáo phụng hành, làm theo lời dạy
của Phật; thực sự nương tựa th́
sẽ được lợi ích!
Tăng bảo th́ chúng ta
học theo Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí
Bồ Tát -- Bồ Tát Tăng.
Hai vị đại Bồ Tát này tượng trưng
cho những ǵ?
Quán Thế Âm Bồ Tát
đại từ đại bi, nói theo hiện nay th́ từ
bi nghĩa là quan tâm, thương mến, và giúp đỡ,
trong đó hoàn toàn chẳng có điều kiện ǵ hết
th́ gọi là đại.
Đối với hết thảy người, hết
thảy chúng sanh, chúng ta phải quan tâm, thương mến
họ. Khi họ gặp khó
khăn th́ phải giúp đỡ họ, đây tức là
Quán Âm. Nếu bạn thường
giữ tâm niệm này để đối người,
tiếp vật th́ bạn tức là Quán Thế Âm Bồ Tát.
Đại Thế Chí Bồ Tát
tượng trưng cho trí huệ cao độ; tuyệt
đối chẳng dùng t́nh cảm để xử sự,
đăi người, tiếp vật, dùng lư trí mà chẳng
dùng cảm t́nh tức là Đại Thế Chí Bồ Tát. Đại từ đại bi lấy
trí huệ làm cơ sở, chẳng dùng cảm t́nh. Dùng cảm t́nh th́ có thể có
nhiều rắc rối nên phải dùng lư trí để phán
đoán. Ư nghĩa của
việc quy y Tam Bảo là như vậy, đây mới
thiệt là chỗ quay về, nương tựa của
chúng ta. Cho nên Tam Bảo trong
Tịnh Tông được thể hiện qua ‘A Di Đà
Phật, kinh Vô Lượng Thọ, Quán Âm và Thế Chí
Bồ Tát’. Nếu phàm phu chúng
ta chẳng có nơi nương tựa th́ sẽ cảm
thấy trống rỗng, thiếu thốn; khi bạn
hiểu được những đạo lư và
phương pháp này th́ bạn đă kiếm được
chỗ nương tựa.
Từ mê hoặc, điên đảo, sai lầm quay
lại nương tựa vào Tam Bảo th́ bạn mới
thực sự quy y.
d. Giữ
phép tắc, làm gương mẫu cho chúng sanh. Học chịu thiệt tḥi, không
v́ cá nhân ḿnh.
‘Đầy đủ các
giới, chẳng phạm oai nghi’.
Dùng cách nói hiện nay th́ hai câu này nghĩa là ‘giữ
ǵn phép tắc’; không những
phải giữ phép tắc mà c̣n phải làm gương
mẫu cho xă hội đại chúng. Chúng ta không được làm trái
ngược lời dạy của đức Phật,
phải tuân theo. Hiến
chương, luật pháp của quốc gia, phong tục
tập quán ở địa phương chúng ta đều
phải tuân giữ; được vậy mới có
thể ḥa đồng với đại chúng, mới có
thể cảm hóa hết thảy chúng sanh. Cho nên lúc chúng ta khởi tâm
động niệm, hết thảy các hành động
phải thường suy nghĩ coi có thể làm gương
mẫu cho xă hội đại chúng hay không.
Hôm qua tôi nêu lên một thí
dụ: ngày nay tâm tham của người ta rất nặng,
bất luận làm ngành nghề nào cũng đều
kiếm đủ mọi cách để đóng thuế ít
hơn. Đây có phải là
việc chúng ta nên làm hay không?
Không phải. Chúng ta là
đệ tử Phật, phải giữ phép tắc, chúng
ta có nghĩa vụ phải đóng thuế, nếu t́m
đủ mọi cách, t́m lỗ hổng của pháp luật
để đóng thuế ít một chút th́ chúng ta chẳng
c̣n là đệ tử Phật nữa, chúng ta không tuân
giữ luật pháp. Trong
đời sống hằng ngày chúng ta có thể tùy tiện
khạc nhổ bừa băi trên đường phố hay
không? Có thể tùy tiện
xả rác hay chăng? Nếu
chúng ta làm vậy th́ có thể làm gương mẫu cho xă
hội đại chúng hay không?
Nếu bạn có những sự cảnh giác như
vậy th́ đó tức là quy y, bạn đă quay lại,
bạn đă giác ngộ -- những hành động không
tốt này sẽ ảnh hưởng đến xă hội,
chúng ta nhất quyết chẳng làm.
Chúng ta chân thành với
người, tuyệt đối chẳng lừa gạt
bất cứ người nào, khi chúng ta bị thiệt
tḥi, bị gạt gẫm cũng chẳng so đo, giống
như Đạo An lăo ḥa thượng biết rơ bị
người gạt nhưng vẫn để cho họ
gạt, và chẳng nói một lời, trong ḷng ḿnh tâm an lư
đắc. Tại sao
người đó gạt ḿnh mà chẳng gạt người
khác? Bạn hăy suy nghĩ
đạo lư này. Nếu
họ gạt ḿnh và ḿnh có năng lực cho người
đó th́ ḿnh hăy bố thí cho họ, làm một việc
thiện. Ngay trong cảnh
giới, trong hoàn cảnh này mài dũa hết tham, sân, si,
mạn, nghi. Nếu bạn
chẳng có những cảnh giới này th́ bạn tu cái ǵ? Đây tức là tu hành, đây tức
là công phu! Rơ ràng minh bạch, là
trí huệ đấy! Tu hành
phải tu ở đâu? Tu ngay
tại chỗ này. Một chút
thiệt tḥi cũng chẳng chịu làm th́ bạn tu hành cái
ǵ? Một chút thua thiệt
cũng chẳng chịu, nói thực ra là bạn có phân
biệt, chấp trước quá cứng chắc. Nếu không thể phá trừ
những thứ này th́ bất luận tu học pháp môn nào,
tu được giỏi cách mấy, nói với các bạn
biết đó đều là tu thế gian pháp, đều
vẫn kẹt trong lục đạo luân hồi.
e. Giác là
Phật pháp, mê không là Phật pháp.
Đại thừa Phật pháp
đặc biệt trong Tông Môn, thường thường
dùng câu: ‘Pháp nào là Phật pháp?’ để thẩm vấn
người sơ học. Các
bạn nghĩ thử coi, pháp nào là Phật pháp? Và hỏi ngược lại:
‘Pháp nào chẳng là Phật pháp?’
Sự khác biệt giữa Phật pháp và chẳng
phải Phật pháp ở đâu, bạn phải hiểu
rơ. Giác ngộ rồi th́
hết thảy pháp đều là Phật pháp; chưa giác
ngộ th́ hết thảy pháp đều chẳng là
Phật pháp. Khi bạn
chưa giác ngộ, vẫn c̣n mê hoặc điên đảo,
hỏi bạn thêm lần nữa: ‘pháp nào là Phật
pháp?’ Chẳng pháp nào là
Phật pháp cả. Kinh Đại
Phương Quảng Hoa Nghiêm cũng chẳng phải là
Phật pháp. Một ngày bạn
niệm mười vạn câu Phật hiệu, th́ như
lời Liên Tŕ, Ngẫu Ích đại sư nói cho dù công phu
niệm Phật của bạn có giỏi hơn nữa,
niệm đến mức ‘gió thổi chẳng
động, mưa rơi chẳng thấm’, sau đó phê
b́nh bạn: ‘hét bể cổ họng cũng uổng
công’. Tại sao vậy? Chẳng thể văng sanh, vẫn
kẹt trong lục đạo luân hồi. V́ vậy chẳng giác ngộ,
một ngày niệm mười vạn tiếng Phật
hiệu cũng chẳng là Phật pháp, quư vị phải
hiểu đạo lư này.
Phật pháp thay đổi
quan niệm, cách suy nghĩ của chúng ta. Khi khởi tâm động niệm
đều nghĩ cho ḿnh, như vậy là sai lầm, đó
chẳng là Phật pháp; khởi tâm động niệm
đều nghĩ đến hết thảy chúng sanh,
nghĩ đến sự an toàn của cả xă hội th́
hết thảy pháp đều là Phật pháp. Tôi thường nói những
việc mà bạn làm hằng ngày như uống
nước, mặc áo, ăn cơm chẳng có thứ nào không
là Phật pháp. Bạn giác
ngộ chưa? Người
giác ngộ sẽ v́ hết thảy chúng sanh, người mê
chỉ v́ cá nhân ḿnh, mê và ngộ khác nhau tại chỗ
này. Lúc khởi tâm động
niệm c̣n v́ ḿnh th́ không được. Tại sao không được? Phật nói: ‘Hết thảy
chúng sanh vốn thành Phật’.
Tại sao bây giờ bạn biến thành chúng sanh? Tại sao bây giờ bạn c̣n
trong lục đạo luân hồi?
Phật dạy chúng ta: lục đạo là do chấp
trước hiện thành; thập pháp giới là do phân
biệt hiện thành. Nói cách
khác nếu bạn có thể phá trừ chấp trước,
lục đạo sẽ chẳng c̣n nữa, bạn sẽ
vượt ra khỏi tam giới; nếu bạn phá trừ
phân biệt, bạn sẽ vượt thoát thập pháp
giới và đến Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới là Hoa
Tạng thế giới trong kinh Hoa Nghiêm, là cảnh giới
của Tỳ Lô Giá Na Phật.
(Tây phương Cực Lạc thế giới cũng
là Nhất Chân pháp giới). V́
vậy khi khởi tâm động niệm mà c̣n một cái
‘TA’ th́ ngă chấp của bạn làm sao có thể phá trừ
được?
‘Cách phá ngă chấp’ trong
Đại thừa cao minh hơn Tiểu thừa. Trong pháp Đại thừa Phật
dạy chúng ta khi khởi tâm động niệm đều
v́ chúng sanh, đừng nghĩ cho cá nhân ḿnh, lâu dần
biến thành thói quen, niệm niệm đều v́ chúng sanh,
đem ích lợi cho chúng sanh, v́ chúng sanh tạo
phước, quên mất ḿnh.
Phương pháp này đích thật là rất tốt,
chẳng nghĩ đến ḿnh, chỉ nghĩ cho
người khác. Dần
dần không hay không biết th́ ngă chấp sẽ biến
mất hết. Nói một cách
khác không hay không biết bạn bèn vượt thoát tam
giới, lục đạo.
Phương pháp này vô cùng kỳ diệu! Thêm phần bạn nhất tâm
niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ th́ làm sao
chẳng nhanh chóng được?
Thành Phật rất nhanh chóng!
Thành Phật tức là thành tựu trí huệ,
đức năng viên măn, nhất định phải hiểu
đạo lư này, nhất định phải hiểu
phương pháp. Hiểu
đạo lư rồi, biết phương pháp rồi,
vấn đề sau đó là ḿnh phải nỗ lực
thực hành. Đây đích
thật là con đường thành Phật nhanh chóng vậy!
Nếu bạn hỏi: ‘Trong
xă hội ngày nay làm theo cách này th́ chỗ nào tôi cũng
chịu thiệt tḥi, bị gạt rồi sao? Người ta ai cũng v́ ḿnh, nhưng
tôi lại v́ họ, họ lại chẳng chịu v́ tôi,
làm sao tôi phải làm việc khờ dại này!’ Nếu bạn nghĩ như
vậy th́ bạn mới thiệt là ngu si, chẳng phải
người khác ngu; nếu bạn chịu làm th́ bạn
sẽ được đại tự tại! Bạn thực sự có thể
đạt được những quả báo mà Phật nói
trong kinh. Phải tin Phật,
phải mạnh dạn làm, tôi nói những lời này
với mọi người khẳng định chắc
chắn như đinh đóng cột, chẳng có một
tơ hào hoài nghi ǵ hết.
Tại sao vậy? V́ tôi
đă làm được rồi.
Những ǵ Phật nói trong kinh, những ǵ thầy tôi
dạy cho tôi, trong ṿng mấy chục năm nay những ǵ
tôi làm bây giờ đă có kết quả, hiện nay tôi
đạt được những ǵ? Được đại tự
tại.
Tôi thường nói: ‘Trên
thế giới này tôi sung sướng nhất’.
Nếu bạn hỏi: ‘Sung
sướng ở chỗ nào?
‘Trong tâm tôi chẳng có lo
lắng, âu sầu, phiền năo, th́ làm sao chẳng sung
sướng, chẳng tự tại được? Trong tâm của các bạn có lo âu,
nhớ nhung, phiền năo th́ dù bạn có nhiều tiền, có
địa vị cao, bạn cũng chẳng tự
tại. Bạn sinh sống rất
khổ sở, tôi sinh sống rất thong dong, rất vui
sướng, rất tự tại’. Cho nên những ǵ đức
Phật nói trong kinh câu nào cũng chân thật, chẳng có câu
nào giả dối, tại sao bạn chẳng chịu
làm? Tại sao lại hoài
nghi? Chẳng chịu làm là v́
chẳng giác. Dùng một
thuật ngữ trong Phật pháp [th́ đây] là nghiệp
chướng sâu nặng!
Nghiệp chướng nặng phải tự ḿnh tiêu
trừ, người khác chẳng có cách chi tiêu trừ dùm
bạn, Phật, Bồ Tát cũng chẳng có cách ǵ
hết. Phật, Bồ Tát
chỉ có thể nói rơ những lư luận và phương
pháp này cho bạn biết, bạn phải tự ḿnh
giải quyết vấn đề của bạn.
f. Tin sâu nhân
quả -- Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả.
Từ Tam Quy nâng cao
đến phước thứ ba tức là cơ sở tu
học của Đại thừa Bồ Tát: ‘Phát Bồ Đề
tâm, đọc tụng Đại thừa, tin sâu nhân quả,
khuyến tấn hành giả’.
Bồ Tát Đại thừa
chẳng những tự độ ḿnh mà c̣n giúp đỡ
người khác, cho nên ‘khuyến tấn hành giả’
nghĩa là chủ động giúp đỡ người
khác. Tin sâu nhân quả nói ở
đây chẳng phải là nhân quả thông thường. ‘Niệm Phật là nhân, thành
Phật là quả’ đặc biệt nhấn mạnh
trên nhân quả ‘niệm Phật thành Phật’. Chúng ta có thể t́m
được rất nhiều chứng minh trong các kinh
điển Đại thừa, kinh Hoa Nghiêm là thí dụ rơ ràng
nhất cho việc niệm Phật thành Phật. Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Lăng Già
cũng chẳng ngoại lệ, quư vị hăy quán sát kỹ
càng. Hết thảy kinh
Đại thừa đều nói niệm Phật thành Phật,
đây là cơ sở học Phật của chúng ta! Chúng ta phải dụng công từ
đây, bắt đầu học từ đây.
g. Năm khoa
mục của Tịnh Tông – Tam Phước, Lục Ḥa, Tam
Học, Lục Độ, Thập Nguyện.
Hiện nay chúng ta chưa thành
Phật, chưa thành Bồ Tát, chưa văng sanh, thân thể
này vẫn c̣n trụ trên thế gian, mỗi ngày phải
tiếp xúc với đại chúng, chúng ta dùng thái độ
ǵ để đối phó với những chuyện
hiện thực trong xă hội, Phật dạy chúng ta sáu
nguyên tắc gọi là ‘Lục Ḥa Kính’. Lần này cư sĩ Lâm đem
vài bộ [liễn, ghi chép] Lục Ḥa Kính ở Đài Loan
về đây, hy vọng đem đóng khung [treo lên]
để chúng ta thường nh́n thấy và cảnh giác
ḿnh. ‘Kiến ḥa đồng
giải, Giới ḥa đồng tu’.
Nói theo hiện nay ‘kiến ḥa đồng giải’
tức là ‘xây dựng kiến thức chung’, chúng ta có chung
nhận thức, chung lư tưởng, mục tiêu th́ có
thể sinh hoạt chung với nhau, ḥa đồng khi
tiếp xúc lẫn nhau, đối xử ḥa mục với
nhau; ‘Giới ḥa đồng
tu’ nghĩa là tuân giữ luật pháp; nhà có quy tắc trong
nhà, nước có pháp luật quốc gia, đạo tràng có
quy củ của đạo tràng, mọi người
đều phải tuân theo.
‘Thân ḥa đồng trụ, khẩu ḥa vô tránh, ư ḥa
đồng duyệt, lợi ḥa đồng quân’ [thân nghiệp: cùng nhau làm việc, sanh
hoạt ḥa đồng; khẩu nghiệp: chẳng tranh
chấp; ư nghiệp: cùng chung chí hướng; tài lợi:
cùng chia xẻ tài vật đồng đều với nhau]. Phật dạy chúng ta
‘Lục ḥa kính’, chúng ta phải tuân theo sáu nguyên tắc này
khi tiếp xúc, sinh hoạt với đại chúng trong xă
hội.
Tam Phước là cơ
sở tu học của mỗi người. Lục Ḥa Kính là nguyên tắc
căn bản khi chúng ta tiếp xúc với đại chúng. Nếu chúng ta có thể làm
được th́ trên thế giới này bất luận
bạn ở quốc gia nào, địa phương nào,
bất luận trong xă hội nào, bạn sẽ chẳng
thiệt tḥi ǵ hết, đi đến đâu cũng
được mọi người tôn kính, hoan nghinh,
lợi ích này thiệt là chẳng thể nghĩ bàn! Phải dốc sức thực
hành, làm hết ḷng; từ cơ sở này không ngừng
tiến lên, nâng cao cảnh giới của ḿnh, bạn
nhất định phải tuân theo Tam Học, Lục
Độ, Thập Nguyện. Tam
Học tức là Giới, Định, Huệ. Trong đề kinh ‘Thanh Tịnh
B́nh Đẳng Giác’ của kinh Vô Lượng Thọ, Thanh
tịnh là Giới Học, B́nh đẳng là Định
Học, Giác là Huệ Học.
Tam Học đầy đủ trong đề kinh
này; Chẳng những Tam
Học đầy đủ, Tam Bảo cũng đầy
đủ, Thanh tịnh là Tăng Bảo, B́nh đẳng là
Pháp Bảo, Giác là Phật Bảo.
Từ đây có thể biết kinh Vô Lượng
Thọ thiệt là chẳng thể nghĩ bàn, hy vọng các
vị đồng tu hết ḷng nỗ lực, đời
này chúng ta sẽ chẳng luống uổng, đây là nhân
duyên khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay,
đời này gặp được th́ chúng ta phải trân
trọng, nắm chắc, nhất định sẽ thành
tựu. Lời tôi nói
đến đây đă hết.
Buổi nói
chuyện tại Tịnh Tông Học Hội Úc Châu, 1997 (ngày
thứ ba)
6.
Phật học vấn đáp
Hỏi: Sư phụ nói Đạo An pháp sư bị
người ta gạt, đă biết rơ ràng nhưng vẫn
c̣n để người ta gạt …, nếu người
đó lấy tiền này đem làm chuyện xấu như
cờ bạc, vậy th́ Đạo An pháp sư đă bố
thí và làm một việc tốt hay phải gánh trách nhiệm
nhân quả v́ đă làm một việc ác? A Di Đà Phật.
Đáp: Câu hỏi này rất hay. Không thể nghĩ rằng
người gạt tiền này sẽ làm việc ǵ tốt,
nhưng sẽ cũng không làm việc ǵ xấu, lăo pháp
sư biết rất rơ như vậy nên ngài thị
hiện ‘chiêu’ này cho chúng ta xem nhằm cho chúng ta biết: cho
dù bị gạt th́ chúng ta cũng phải để
người ta gạt. Nguyên
nhân là ǵ? Tại sao
người đó gạt ḿnh mà không gạt người
khác? Chắc có lẽ
đời trước ḿnh thiếu nợ người này. Khi bạn trả cho họ
hết rồi, nghiệp nhân này không c̣n th́ họ sẽ
không gạt bạn nữa, phải biết đạo lư
này. Nếu người đó
lấy tiền đi làm việc xấu th́ ḿnh sẽ không
đưa cho họ, nếu không phải làm chuyện
xấu, không gây trở ngại ǵ cho xă hội đại
chúng, chỉ v́ lợi ích cá nhân của họ th́ ḿnh nên
đưa cho họ, đây là nhân duyên quả báo mà! Tại sao họ dùng thủ
đoạn này? Chắc trong
đời quá khứ ḿnh cũng đă dùng cách này để
gạt họ! Bây giờ
họ dùng cách này để đ̣i lại. V́ vậy nên ‘một miếng
ăn, miếng uống ǵ cũng đều đă
định sẵn’, tự ḿnh phải hiểu rơ ràng minh
bạch. Đây là trí huệ.
Hỏi:
Vị đồng tu này nói ông chuyên
vẽ hoa sen, vừa vẽ hoa vừa niệm Phật, hy
vọng là sẽ không bị bịnh khổ lúc qua
đời, có cần làm thêm phương pháp nào nữa hay
không, hoặc có cần thay đổi thái độ tu
học hay không?
Đáp:
Vẽ hoa sen, mỗi ngày
tưởng Phật, niệm Phật, như vậy
rất tốt. Nếu hy
vọng tương lai văng sanh có thể dự biết ngày
giờ ra đi, không bị bịnh khổ th́ là một
chuyện khác hẳn. Tại
sao người ta có thể ra đi một cách tự
tại? V́ nghiệp
chướng của họ đă tiêu trừ. Nếu
nghiệp chướng của bạn chưa tiêu trừ
hết, lúc lâm chung sẽ có bịnh khổ, chúng ta
phải biết chuyện này.
Làm thế nào để tiêu
trừ hết nghiệp chướng?
Phải phá sạch ngă
chấp th́ sẽ tiêu trừ hết nghiệp
chướng. Bất cứ việc ǵ
đặc biệt là những chuyện tiếp xúc với đại
chúng, ‘không nên chấp trước thành kiến của ḿnh’,
phải biết ‘tuỳ duyên’.
Chỉ cần việc này không có chướng ngại
quá mức th́ tuỳ duyên được rồi,
đừng chấp trước vào thành kiến của
ḿnh.
Luôn
luôn nghĩ ḿnh phải tiêu trừ nghiệp
chướng. Phải quét
sạch hết thảy vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, đặc biệt là những thứ
‘thị - phi, nhân - ngă, tham, sân, si, mạn’, trong tâm chẳng
sanh lên những tâm niệm này th́ bạn sẽ có thể
tự tại văng sanh. Nếu
c̣n những thứ thị - phi, nhân - ngă, lợi - hại,
được - mất, tham, sân, si, mạn th́ rất
phiền phức, cho dù bạn tu được giỏi
cách mấy th́ đến lúc lâm chung cũng nguy hiểm
như thường, vẫn không nắm chắc [có thể
tự tại văng sanh]. Bạn
hăy xem hễ những người nào ra đi rất tự
tại, có tự tin, tâm địa thanh tịnh, họ thiệt
là mảy trần chẳng nhiễm! Đừng nói thế pháp phải
buông xả, ngay cả Phật pháp cũng phải buông
xả hết, các bạn phải biết chuyện này nghe!
Hiện
nay tôi đă lớn tuổi rồi, không c̣n mấy năm
nữa đâu, cho nên tôi quản lư đạo tràng hay
không? Quư vị muốn tôi
quản lư tôi cũng không nhận, quư vị muốn làm sao cũng
được, nếu quư vị làm được hoàn
hảo th́ tốt! Làm không
được hoàn hảo th́ quư vị phải gánh trách
nhiệm nhân quả, đối với tôi không liên can ǵ
hết! Hết thảy
thế pháp và Phật pháp đều phải buông xuống
hết, tôi chăm sóc cho quư vị, thương mến quư
vị, khuyến khích quư vị nhưng tuyệt đối
không chất chứa những thứ này trong tâm; nếu
chất chứa những chuyện này của quư vị trong
tâm th́ tôi phải chịu tổn hại trầm trọng,
quư vị phải thể hội kỹ càng việc này, trong
tâm phải thong dong tự tại, hết thảy pháp
thế gian và xuất thế gian phải làm theo kinh Kim Cang: ‘Pháp c̣n nên xả, huống chi là
phi pháp’. Chữ pháp
đầu tiên là Phật pháp.
Xả Phật pháp không có nghĩa là kêu quư vị không
làm nữa, vẫn cứ làm hằng ngày, ‘xả’ là xả
bỏ trong tâm, trong tâm chẳng có phân biệt, chấp
trước, lo âu, trong tâm nhất định phải thanh
tịnh. Phải làm việc
nhưng làm việc không gây trở ngại cho tâm thanh
tịnh, như vậy mới đúng.
Hỏi: Mỗi ngày đều
đến đạo tràng làm công quả, như vậy có
kể là ‘quảng doanh chúng vụ’ (rộng lo các
việc của đại chúng) hay không?
Đáp: Không sai, đúng là ‘quảng
doanh chúng vụ’. Nếu
bạn xem rơ ư nghĩa trong kinh điển, thâm nhập thêm
một tầng, mỗi ngày đến đạo tràng làm
công quả nhưng trong tâm dường như không có
việc này th́ đó chẳng là ‘quảng doanh chúng vụ’,
đó là tích lũy công đức, như vậy th́ sẽ
khác hoàn toàn. Nếu nghĩ
việc làm công quả ở đạo tràng thành công
việc của ḿnh, phân biệt đây là đạo tràng
của ḿnh, kia là đạo tràng của người khác,
ḿnh nhất định phải làm sao để
vượt hơn họ, như vậy th́ bạn đă
‘quảng doanh chúng vụ’ rồi.
Nếu bạn làm nhưng giống như không làm th́
bạn tích lũy công đức, đúng như câu nói: ‘sai
một ly trật đi ngàn dậm’. Thế nên
bạn phải thể hội một cách kỹ càng
những lời Phật dạy trong kinh, đừng
hiểu sai.
Chư
Phật, Bồ Tát ứng hóa trong thế gian giống
như đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng kinh
thuyết pháp ṛng ră bốn mươi chín năm, không
hề nghỉ ngơi! Ngài có
‘quảng doanh chúng vụ’ hay không?
Nếu Ngài giữ tâm niệm ‘Phật pháp cao minh
hơn hết thảy ngoại đạo, tôi phải hàng
phục ngoại đạo, tôi phải xuất chúng,
mọi người trên thế giới đều phải
làm đệ tử của tôi’, thế th́ Ngài đă
‘quảng doanh chúng vụ’. Thái
độ của người ta là ‘làm mà dường
như không làm’, không làm mà làm.
Trong kinh Kim Cang đức Phật Thích Ca nói cả
đời Ngài chẳng nói một câu nào, chẳng nói
một chữ nào, ai nói ‘Phật thuyết pháp’ tức là
báng Phật. Chẳng nói
một câu pháp nào cả, [nhưng đă] nói suốt bốn
mươi chín năm, đây gọi là ‘nói mà không nói’. ‘Nói’ là từ bi, lo lắng, thương
mến, giúp đỡ hết thảy chúng sanh; ‘không nói’
nghĩa là trong tâm đích thật chẳng khởi tâm
động niệm, chẳng có phân biệt, chấp
trước. Từ trong
nội tâm của Ngài th́ một chữ cũng chẳng nói.
Vậy th́ tại sao
[Ngài] lại giảng đạo?
Đó là v́ hết thảy chúng sanh cảm ứng
đạo giao. Nếu bạn
c̣n chưa hiểu th́ hăy lấy thí dụ cái khánh, chúng ta gơ
một cái th́ nó sẽ vang lên âm thanh, gơ mạnh một cái
th́ nó sẽ kêu lớn hơn.
Bạn sẽ hỏi: nó có vang lên âm thanh không? Nếu nói nó vang lên âm thanh th́ không
gơ nó cũng phải vang lên âm thanh chứ! Chư Phật, Bồ Tát
thuyết pháp lợi sanh giống như các bạn làm công
quả, cũng giống như cái chuông cảm ứng
đạo giao; khi nào họ cần th́ ḿnh giúp đỡ
họ, bản thân ḿnh chẳng khởi tâm động
niệm, chẳng phân biệt, chấp trước, như
vậy mới là tích lũy công đức. Nếu ḿnh làm xong bèn nghĩ là ḿnh
có công đức, vậy th́ bạn đă ‘quảng doanh
chúng vụ’, bạn đă khởi tâm động niệm
rồi. Lúc khởi tâm
động niệm trong tâm của bạn đă có
tướng tôi, tướng người, tướng chúng
sanh, tướng thọ giả, đă có tham, sân, si,
mạn; đó tức là ‘quảng doanh chúng vụ’, phải
lắng ḷng thể hội việc này.
Hỏi: Trong đời mạt pháp
người tại gia dễ thành tựu hơn
người xuất gia, nên nh́n và suy nghĩ như thế
nào đối với vấn đề tại gia và xuất
gia?
Đáp: Đích thật trong đời
mạt pháp người tại gia tu hành dễ thành tựu
hơn người xuất gia.
Tôi nghĩ quư vị cũng đă nh́n thấy sự
thật này, nguyên nhân ở chỗ nào? Ư nghĩa giống như câu
hỏi phía trước. V́
phạm vi sanh hoạt tiếp xúc của người
tại gia chẳng rộng, thân bằng quyến thuộc
cũng không nhiều, cho nên tâm của họ dễ thanh
tịnh hơn. Một khi
xuất gia rồi, xuất cái nhà nhỏ xong lại đi
vào một cái nhà lớn; có gia đ́nh nào của quư vị
thường có đông người tụ hợp lại
như vầy không? Xuất gia
rồi thường hội họp với mọi
người, bàn bạc chuyện tốt của nhà họ
Trương, chê bai chuyện của nhà họ Lư, chuyện
bận tâm quá nhiều, như vậy làm sao tâm định
được! Cho nên
người xuất gia tu hành khó hơn người tại
gia.
Đặc biệt là ngày
nay xuất gia rất phiền phức, bị những
chuyện thực tế bắt buộc, đạo tràng to
lớn th́ chi phí nhiều, làm thế nào để có
đủ tiền trang trải phí tổn sinh hoạt? Cho nên chẳng thể không t́m
đủ mọi cách để lôi kéo tín đồ, t́m
đủ phương pháp để moi tiền trong túi
của tín đồ bỏ vào túi của ḿnh, đây gọi
là ‘ḥa thượng không bày vẽ, cư sĩ chẳng
lại cúng kiếng’. Mỗi
ngày đều phải làm những chuyện này, đây là
sai lầm, đúng như lời của đức Phật
nói trong kinh: ‘quảng doanh chúng vụ’, tạo ra vô
lượng tội nghiệp, tự bản thân của
họ chẳng hiểu, bị bắt buộc phải làm
như vậy. Cho nên xuất
gia tu hành khó hơn tại gia, người tại gia sẽ
không tạo ra những tội nghiệp này. Trong đạo tràng Tịnh Tông
của chúng ta, tôi khuyên tứ chúng đồng tu, bất
kể tại gia, xuất gia tuyệt đối không
được lôi kéo tín đồ, tuyệt đối
không thể xin tín đồ một đồng xu nào
cả, [được vậy] tâm của bạn mới
thanh tịnh; đừng tổ chức pháp hội,
đừng làm những chuyện này, hăy ‘thật thà,
chắc thật niệm Phật’.
Khi đạo tràng niệm Phật hết tiền
rồi, không đủ để chi tiêu th́ phải làm
thế nào? Cứ việc
tiếp tục niệm Phật đợi văng sanh, thế
gian này không đáng cho chúng ta lưu luyến. Vậy th́ thong dong tự tại
biết bao? Rất đúng
như pháp!
Nếu Phật pháp
cần bạn ở đây hoằng dương th́ chư
Phật, Bồ Tát tự nhiên sẽ đến hộ
pháp. Cả đời tôi đều
là như vậy, đây là lời của Chương Gia
đại sư dạy tôi, tôi đạt được
lợi ích từ [lời dạy] của lăo nhân gia. Năm đó tôi mới hai
mươi mấy tuổi, theo thầy học Phật,
thầy dạy tôi: ‘Phát tâm chân
chánh v́ Phật pháp, dâng hiến cả đời cho
Phật pháp, dâng hiến cho chúng sanh, hết thảy mọi
việc của con đều có Phật, Bồ Tát lo
lắng, chăm sóc cho’. Cho
nên cả đời tôi chẳng phải bận tâm, cũng
đă xây dựng được vài đạo tràng, lấy
tiền ở đâu để xây?
Tôi cũng chẳng biết.
Tôi cũng chẳng quyên góp tiền bạc ǵ hết,
đều là tự động [có người] đem cho,
cho vừa đủ để xây dựng đạo tràng,
không dư đồng nào, thiệt là không thể nghĩ
bàn!
Giống như
đạo tràng ở Mỹ xây dựng lớn như
vậy, là do Phật, Bồ Tát xây chứ đâu phải do
tôi xây. Ở Đài Loan chúng tôi xây
mỗi đạo tràng đều là tự tự nhiên nhiên
h́nh thành, chẳng có quyên góp ǵ hết. Hội Phật Đà Giáo Dục
Cơ Kim cũng là do người ta đến t́m và
muốn tặng cho tôi, tôi cũng bán tín bán nghi, c̣n nghĩ
họ sẽ thêm điều kiện ǵ nữa, [tôi]
hỏi: ‘Có thiệt là ông tặng luôn phải không, chẳng
có ư định đ̣i lại phải không?’. Ổng nói: ‘Đúng vậy’. Tôi mới tổ chức Tài Đoàn
Pháp Nhân, kiếm luật sư làm giấy tờ,
tương lai nếu chúng tôi không dùng tài sản này nữa,
hết thảy quyền sở hữu sẽ thuộc
về quốc gia, không thuộc bất cứ cá nhân nào,
ổng sẽ không thể nào lấy lại
được. Sạch
sẽ, gọn gàng! Chúng ta làm
sao phải suy nghĩ, lo lắng về những chuyện
này hoài cho được?
V́ vậy nên
người xuất gia phải làm gương tốt, có
đức hạnh, học vấn, tu tŕ chân chánh, th́
bạn nhất định sẽ được rất
nhiều người tôn kính, mọi người sẽ cúng
dường cho bạn, vậy th́ bạn c̣n bận tâm ǵ
nữa! Nếu bạn sợ
không có người cúng dường th́ bản thân bạn có
vấn đề, có khuyết điểm, là v́ bạn làm
chẳng đúng như pháp!
Nếu làm đúng như lư, như pháp th́ Tam Bảo gia
tŕ, long thiên hộ pháp cúng dường th́ khỏi phải
cầu người ta. Nếu
phát tâm xuất gia bạn phải hiểu sứ mạng
của người xuất gia là ‘hoằng pháp độ
sanh’. Trong kinh thường
dạy: ‘Thọ tŕ, đọc
tụng, diễn thuyết cho người biết’. ‘Diễn’ là biểu diễn,
phải diễn ra một h́nh tướng cho xă hội
đại chúng thấy, làm một gương tốt. ‘Thuyết’ là khi người ta có
thắc mắc đến hỏi bạn, bạn phải
giải thích rơ ràng cho họ, đây là công việc của
người xuất gia.
Người tại gia hộ tŕ, nhất định
như vậy; hộ tŕ đều là phát xuất từ
ḷng tự nguyện của họ, là họ có khả
năng này, tuyệt đối không được miễn
cưỡng. Nếu nói
hội viên của Tịnh Tông Học Hội chúng ta mỗi
năm phải đóng mười đồng tiền
lệ phí th́ tôi cũng không tán thành; tại sao vậy? Mỗi năm bạn tạo ra áp
lực cho người ta [bắt họ đóng]
mười đồng, chuyện này không tốt. V́ vậy nên Hoa Tạng Đồ Thư
Quán chúng tôi măi cho đến bây giờ vẫn chẳng
lập ra điều lệ này, nguyên nhân chính là vậy.
Chính phủ có quy
định một điều luật nếu bạn
muốn thành lập một hội cơ kim th́ nhất
định phải có hội viên đóng góp, hội viên
nhất định phải đóng một số tiền
mỗi tháng. Chuyện này trái
ngược với Phật pháp;
bất kể người ta chịu hay không, nếu
viết [trên giấy tờ] như vậy th́ sẽ tạo
nên áp lực cho người, tôi không chịu làm những
chuyện này. Cả
đời chúng ta không nên tạo ra áp lực cho
người th́ họ sẽ không đem quả báo này cho
chúng ta -- không tạo áp lực cho chúng ta, vậy th́ chúng ta
sẽ được tự tại. Trồng nhân ǵ th́ sẽ
được quả báo đó, nhất định
phải hiểu chuyện này.
Nếu luận trên việc tu hành và chứng quả
th́ tại gia và xuất gia chẳng khác ǵ hết, hoàn toàn giống
nhau.
Hỏi: Phật pháp lấy từ bi làm
bổn hoài nên người xuất gia không mang giày da,
vậy th́ tại sao trong chùa c̣n dùng trống làm bằng da?
Đáp: Bạn không phải là
người đầu tiên hỏi câu này, người
xưa đă hỏi rồi, cũng có điển tích
nữa. Nhà Phật lấy: ‘từ
bi làm gốc, phương tiện làm cửa’, lúc năy nói
người đó ‘noi theo lư trí chứ không noi theo cảm
t́nh’. Nếu vậy th́
người xuất gia có thể mặc áo choàng bằng
lông không? Được. Có khai duyên. Người trên bảy
mươi tuổi, thể lực yếu đuối th́ có
thể, đây gọi là khai duyên.
V́ họ phải giữ ǵn thân thể và dùng thân ḿnh
để phục vụ đại chúng, đây cũng là
từ bi; da của những động vật này
được cúng dường cho pháp sư, pháp sư
lại đem cúng dường đại chúng, như
vậy những động vật này cũng có công
đức! Cùng chung một
đạo lư, tuy trống này làm bằng da ḅ, con ḅ này đă
tạo tội nghiệp đọa làm súc sanh, nó rất may
mắn, da nó được đem làm trống để
trong chùa, trống được dùng để cảnh
tỉnh đại chúng, công đức vô lượng!
Tuy
giới luật Phật pháp rất nghiêm túc, điều
luật nào cũng có khai duyên, đều không phải
chết cứng, quư vị phải biết điểm
này. Thí dụ rượu,
rượu là giới trọng, giới căn bản. Lúc tôi c̣n trẻ vừa mới
học Phật và chưa xuất gia, có một lăo ḥa
thượng trên bảy mươi tuổi rất thích
uống rượu, tôi thường đến đạo
tràng làm công quả nên ngài thường mời tôi ở
lại dùng cơm, cũng không cấm kỵ ǵ hết,
mỗi bữa cơm lăo ḥa thượng đều
uống một ly rượu, tôi thấy và rất thắc
mắc nhưng chẳng dám hỏi.
Sau này đến học với thầy Lư ở Đài
Trung, tôi bèn hỏi thầy.
Thầy Lư nói: ‘Đây là khai duyên, người lớn
tuổi thân thể không khỏe, ly rượu này giúp cho
huyết mạch trong thân thể được tuần
hoàn’. Hiểu được
đạo lư này th́ đó chẳng gọi là phá giới mà
gọi là khai duyên.
Nếu
bạn c̣n trẻ, thân thể rất khỏe mạnh mà
uống rượu th́ đó gọi là phạm giới. Hai việc này chẳng giống
nhau! Phải không? Nếu bạn bị bịnh, thân
thể không khỏe, cần những thứ này để
giúp thể lực của bạn th́ được. V́ vậy tuy giới luật trong
Phật pháp rất chặt chẽ nhưng mỗi
điều luật đều có khai duyên, đều không
phải cứng chắc, như vậy mới biết
Phật pháp rất ‘dễ thương’ -- hợp t́nh,
hợp lư, chẳng phải đặt ra rồi không
thể nào biến đổi, vô cùng uyển chuyển.
Hỏi: Chúng con là phàm phu chẳng có trí
huệ, có thể thỉnh sư phụ bàn về xu
thế, chiều hướng xă hội biến hóa từ
đây về sau. Thí dụ nói
về Đài Loan, Đại lục và hải ngoại, vân vân. Chúng con là Phật giáo đồ
tại gia phải nên làm thế nào?
Làm sao tu hành?
Đáp: Tôi nói với quư vị:
‘Chắc thật niệm Phật là tốt rồi,
đừng để ư đến chuyện thiên
hạ’. Tôi chẳng coi báo,
chẳng coi truyền h́nh, chẳng nghe radio, người ta
hỏi tôi [về chuyện ǵ th́ tôi trả lời] – thiên
hạ thái b́nh, chẳng có chuyện ǵ xảy ra hết! Bạn xem đời sống
của tôi sung sướng biết mấy! Quư vị đang sống trong
thời loạn, [ngược lại] tôi sống trong thời
thái b́nh, chúng ta đồng thời sinh sống trên quả
địa cầu này, nhưng hoàn cảnh sinh hoạt xă
hội của chúng ta chẳng giống nhau, hoàn cảnh
của tôi th́ an lành, thái b́nh, hoàn cảnh của quư vị là
loạn ly, lộn xộn.
Tại sao bạn sống trong thời loạn? Mỗi ngày đều coi báo, nghe
tin tức, đó là tự các bạn chọn lấy mà!
Hỏi: V́ con đă làm nhiều việc
ác cả nửa đời người, và làm tổn
hại đến vợ, bây giờ vợ con trách và không
chịu tha thứ, tuy con có ư niệm Phật và ăn
năn nhưng vẫn chẳng đủ để
chuộc tội, thậm chí vợ con gây trở ngại cho
việc niệm Phật, xé rách kinh sách, con phải làm
thế nào để chuộc lại lỗi lầm? Và làm thế nào để niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ?
Đáp: Bạn hiểu việc này
tức là đă giác ngộ, sau khi giác ngộ th́ phải
nhẫn chịu hoàn cảnh trước mắt, ráng làm cho
được ‘hết thảy đều tùy duyên’, giữ
ǵn cho tâm ḿnh được thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác ngộ, đây tức là chơn chánh tiêu nghiệp
chướng. Phải biết
cách tùy thuận, bà phá hoại tượng Phật mặc
kệ, xé rách kinh sách cũng mặc kệ, nhất
định đừng để ư, đừng bận tâm,
tự ḿnh chắc thật niệm Phật. Nếu bả phản đối
bạn niệm Phật th́ niệm thầm trong tâm,
đừng niệm ra tiếng, hết thảy đều
phải tùy thuận, nếu nhanh th́ trong ṿng nửa năm
sẽ có thể thấy hiệu quả; nếu chậm th́
nhiều nhất là ba năm hoàn cảnh này của bạn sẽ
biến chuyển trở lại, nhất định
sẽ được Tam Bảo gia tŕ. Nếu không nhẫn nhịn,
cả đời bạn sẽ chẳng thể nào giải
quyết vấn đề này, Phật, Bồ Tát cũng
chẳng giúp ǵ được, điều này rất quan
trọng.
Hỏi: Việc chăn gối giữa
vợ chồng, có phải người học Phật,
niệm Phật chẳng cần việc này? Phải chăng không thể có quan
hệ t́nh dục giữa nam nữ ngoài phạm vi vợ
chồng?
Đáp: Đức Phật dạy chúng ta
sự tham ái giữa nam nữ là cội gốc của sanh
tử luân hồi trong lục đạo. Kinh Lăng Nghiêm nói rất tường
tận, nếu chẳng đoạn tâm niệm này th́
nhất định sẽ chẳng thoát ra khỏi luân
hồi. Nếu bạn nghĩ
đến nỗi khổ trong lục đạo luân
hồi th́ tâm bạn sẽ đề cao cảnh giác. Bạn có muốn thoát ra khỏi
lục đạo luân hồi ngay trong đời này
không? Vấn đề
thực tế này được đặt ra: Bạn có
chịu tiếp tục trôi lăn trong lục đạo
luân hồi hay không? Hoặc là
chịu vượt thoát ngay trong đời này? Cơ hội vượt thoát này
vô cùng quư báu, hiếm có, thiệt là trong vô lượng
kiếp khó gặp được một lần,
đời này chúng ta may mắn gặp được là
một nhân duyên hết sức hiếm hoi, khó
được, nếu bạn có thể cắn chặt
răng, nhịn một chút th́ sẽ thoát luân hồi;
nhịn chịu chẳng được th́ phải
biết nỗi thống khổ này [to lớn vô cùng], đây
là tội nghiệp.
Đặc
biệt là quan hệ t́nh dục giữa nam nữ ngoài
phạm vi vợ chồng, đây là việc phá hoại luân
lư, phá hoại đạo đức xă hội, pháp luật
cũng chẳng cho phép. Trong
Phật pháp gọi là ‘tánh tội’, cộng thêm pháp luật
thế gian, tội này quá lớn, quá nặng, chẳng
đáng! V́ vậy phải suy
nghĩ kỹ càng, b́nh tĩnh cân nhắc vấn đề
này. Nếu không thể
giải quyết vấn đề này th́ bất luận
bạn tu học pháp môn nào cũng chẳng thể thành
tựu, việc này rất thực tế.
Trong
Mật Tông có ‘Pháp Song Tu’ đây là sự thật, chẳng
phải giả. Chúng ta có
thể học hay không? Nếu
chúng ta học th́ chẳng ai không đọa địa
ngục A Tỳ cả! Đây là một thường thức
chúng ta phải biết!
Thế th́ tại sao pháp sư Mật Tông học xong
chẳng đọa địa ngục? Trên thực tế họ
đọa hay chẳng đọa địa ngục chúng
ta không biết, chúng ta cũng không cần lo cho người
khác, hăy suy nghĩ tự ḿnh có công phu đến mức này
hay không?
Nói
một cách đúng đắn th́ Mật Tông chẳng
phải là pháp môn để cho phàm phu chúng ta tu học, kinh
luận nói với chúng ta đến lúc nào mới học
Mật? Đến Bát Địa
Bồ Tát. Đó là cảnh
giới ǵ? Bát Địa Bồ
Tát c̣n gọi là Bất Động Địa, nghĩa là chẳng
kể ở trong cảnh giới nào, họ có thể có
‘sự’ nhưng chẳng có ‘tâm’, tâm của họ cũng
xem như chẳng có việc đó.
Họ có thể trong những việc này nhưng
chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng
phân biệt, chẳng chấp trước, dường
như chẳng có việc ǵ xảy ra; nếu bạn có
thể làm vậy được th́ không sao cả; nếu
trong hoàn cảnh này bạn vẫn c̣n một chút xíu tham ái
th́ bạn sẽ đi tŕnh diện ở địa
ngục A Tỳ. Mọi
người nhất định phải hiểu
điểm này, phải xét xem tự ḿnh có công phu
đến mức này hay chăng, không phải nói giỡn
chơi đâu.
Khi
tôi bắt đầu học Phật, vị thầy
đầu tiên của tôi là Chương Gia đại
sư, thầy dạy tôi: ‘Mật pháp là pháp tối
thượng thừa trong Phật pháp’. Sau này tôi đọc kinh Hoa Nghiêm
mới biết đây là cảnh giới của Địa
Thượng Bồ Tát (3), là môn tu của Pháp Thân
đại sĩ, chẳng phải của người
thường! A La Hán, Bích Chi
Phật, Bồ Tát, Phật (Phật ở đây là Tạng
Giáo Phật, Thông Giáo Phật trong tông Thiên Thai) trong thập
pháp giới đều không thể học, họ vẫn
chưa đến tŕnh độ này. Tuy họ chẳng c̣n chấp
trước nhưng c̣n phân biệt; có phân biệt th́ c̣n
tạo nghiệp và đọa lạc. Thiệt có thể làm đến
chẳng phân biệt, chẳng chấp trước,
chẳng vọng tưởng th́ mới
được. Kinh Hoa Nghiêm
nói ‘lư sự vô ngại, sự
sự vô ngại’, pháp giới chẳng có chướng
ngại. Ngày nay khi có
người khen ḿnh vài câu th́ ḿnh rất vui vẻ; mắng
ḿnh vài câu th́ ḿnh rất khó chịu, thế là hỏng
rồi! Vậy th́ đây
chẳng phải là cảnh giới của ḿnh, ḿnh vẫn
c̣n chướng ngại! Khi
người ta mắng bạn vài câu, tại sao bạn
nổi giận đến vài ngày?
Chẳng phải là bạn có chướng ngại hay
sao? Nếu có chướng
ngại th́ chẳng thể học, không chướng
ngại mới học được. Thế nên chúng ta phải hiểu
đạo lư này, nhất định chẳng thể làm
sự việc này, phải biết đây chẳng phải
là cảnh giới của ḿnh mà là cảnh giới của
Đại Bồ Tát.
Hỏi: Nếu ḿnh niệm Phật
nhưng vợ (hay chồng ḿnh) chẳng niệm, vả
lại c̣n phá hoại sự niệm Phật, thậm chí xé rách kinh sách, trong
trường hợp như vậy phải làm thế nào?
Đáp: Việc này lúc năy chúng tôi đă
nói qua rồi, mặc kệ họ, đừng để ư
đến họ, tự ḿnh nhất quyết đừng
thoái chuyển, phải biết đây là nghiệp
chướng của ḿnh hiện lên, hăy chắc thật
niệm Phật, niệm đến lúc tâm địa
của ḿnh thanh tịnh, b́nh đẳng th́ nghiệp
chướng sẽ tiêu trừ hết. Bạn phải có thể cảm
hóa được họ.
7.
Phụ lục
a. Ba
yếu quyết của việc thọ tŕ kinh Vô
Lượng Thọ
i. Khéo giữ ǵn khẩu nghiệp,
chẳng chê bai lỗi của người khác;
Khéo giữ ǵn thân nghiệp,
đừng làm chuyện trái ngược với giới
luật;
Khéo
giữ ǵn ư nghiệp, thanh tịnh chẳng nhiễm.
ii. Phát bồ đề tâm, một
hướng chuyên niệm A Di Đà Phật.
iii. Quán pháp
như hoá, tam muội thường tịch.
Nhận định:
Lăo
ḥa thượng luôn luôn nhấn mạnh bí quyết tu
học Phật pháp cho được thành tựu là
phải: ‘Thâm nhập một
môn, huân tu lâu dài’. Nếu có
thể không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn, th́
chẳng ai không thành công.
Trong bài văn Khuyên Phát
Tâm Bồ Đề, Tổ thứ mười một của
Tịnh Tông, Tỉnh Am đại sư chỉ rơ ‘Trong việc tu hành cấp bách
nhất là phải lập nguyện trước tiên’. Trong chín nhân duyên có nói: ‘Phát Bồ Đề Tâm là thiện
căn, chấp tŕ danh hiệu là phước đức’
Kinh Hoa Nghiêm dạy: ‘Nguyện rộng th́ hành sâu,
hư không chẳng lớn, tâm vương mới
lớn. Kim cang chẳng
cứng, nguyện lực cứng nhất’.
Chú thích: Bồ Đề
tâm tức là tín nguyện tâm – tin những ǵ Phật nói, muôn
duyên buông xuống hết, cầu nguyện văng sanh.
b. Thái độ
và nhận thức cần có khi tu học Phật pháp
i.
Ấn
Quang đại sư dạy chúng ta: ‘Muốn được lợi ích chân thật
của Phật pháp th́ phải t́m cầu từ sự cung
kính, một phần cung kính được một phần
lợi ích, mười phần cung kính được
mười phần lợi ích’.
ii.
Học
Phật phải tin sâu nhân quả, hiểu lư của nhân
quả. Bất luận là
‘Như Lai thành chánh giác’ hoặc là ‘chúng sanh đọa ác
đạo’ đều chẳng ra ngoài nhân quả. Kinh Dịch nói: ‘Nhà tích thiện ắt có niềm vui, nhà tích
điều bất thiện ắt có việc tai
ương’. Tích thiện và
tích bất thiện là nhân; niềm vui và tai ương là
quả.
iii.
Kinh
nói: ‘Bồ Tát sợ nhân, chúng
sanh sợ quả’. Bồ
Tát sợ chiêu cảm ác quả nên ngăn ngừa,
đoạn trừ nhân ác, từ đó tội chướng
tiêu trừ, công đức viên măn măi đến khi thành
Phật. Chúng sanh thường
làm nhân ác nhưng lại muốn miễn trừ quả ác
cũng giống người chạy trốn bóng của
ḿnh dưới ánh nắng mặt trời, vất vả
khổ nhọc cách nào cũng chẳng được. Người vô trí khi làm chút ít
việc thiện xong rồi hy vọng có phước báo to
lớn; lúc gặp nghịch cảnh, có chút ǵ chẳng
như ư liền nói: ‘Tôi làm lành nhưng lại gặp
nạn, chẳng có nhân quả’, từ đó thoái tâm.
iv.
‘Tu
phước c̣n phải tu huệ, tu Tịnh Độ’, tu
phước dĩ nhiên là bắt đầu từ
‘đoạn ác tu thiện’. Làm
công quả ở đạo tràng nhất định
phải giữ ǵn tâm thanh tịnh, nhắm đến mục tiêu ‘thành tựu giới,
định, huệ của ḿnh’, đừng tham cầu
phước báo. Nhân viên [trong
đạo tràng] càng không thể có thái độ: ‘tôi cho
bạn cơ hội tu phước báo’ để
đối xử với những người đến
làm công quả. Tu huệ nên
cầu đoạn trừ phiền năo. Hoằng Nhất đại sư
khai thị: “Muốn trừ phiền năo trước tiên
phải quên ‘ngă’ (tôi)”. Tu hành
chẳng rời sinh hoạt, nhất định từ
‘quên tôi, xả tiểu ngă, đến vô tư, vô ngă’ mà làm;
như vậy mới có thể đoạn trừ phiền
năo, trừ ngă chấp, tu học giới, định,
huệ; đây là một phương pháp rất kỳ
diệu. Nếu có thể dùng
tâm ‘chân thành, thanh tịnh, từ bi’ để niệm
Phật cầu sanh Tịnh độ th́ đó là
phước huệ viên măn.
v.
Người
niệm Phật ăn chay để nuôi dưỡng tâm
từ bi và tâm tường ḥa.
Nếu chẳng thể chấm dứt ăn mặn
th́ nên ăn tam tịnh nhục (thịt
mà ḿnh chẳng thấy giết, chẳng nghe giết,
chẳng bị giết v́ ḿnh), hoặc ăn chay buổi sáng, nhất quyết
đừng sát sanh, đặc biệt là sát sanh ở
nhà. Để cho trong nhà
thường được kiết tường, nếu
thường sát sanh th́ trong nhà biến thành ḷ sát sanh, oan
hồn thường tụ tập, chẳng kiết
tường.
vi.
Phật,
Bồ Tát giúp đỡ chúng ta bằng cách nói rơ đạo
lư về nghiệp nhân quả báo, nói rơ sự lợi
hại, và phương pháp đoạn ác tu thiện cho chúng
ta biết, chỉ như vậy mà thôi. Thực sự muốn làm th́
phải do tự ḿnh làm; Phật, Bồ Tát chẳng thể
làm thay chúng ta.
vii.
Nghe
pháp và nghe kinh nhất định phải ‘thâm nhập một môn, huân tu lâu dài’, học
tập không ngừng để thể hội, giác ngộ
và nỗ lực làm được ‘giải và hành đều tương ứng’. Lâu ngày công phu sâu dày mới phát sanh
tác dụng -- mới có kết quả --, mới có thể
hàng phục thói quen tập khí và đạt được
thành tựu.
viii.
Khổng
Lăo Phu Tử dạy chúng ta: ‘Đa văn khuyết nghi,
thận hành kỳ dư’ (Nếu nghe nhiều mà c̣n có
những chỗ nghi ngờ th́ hăy thực hành cẩn
thận những điều c̣n lại, tức những
điều ḿnh không nghi), đây là thái độ nên có khi
chúng ta nghe kinh, nghiên [cứu kinh] giáo. Trong việc nghe kinh, nghiên giáo,
căn cơ của mỗi người chẳng giống
nhau, mỗi người sẽ hiểu khác nhau, tâm
đắc khác nhau, và chẳng tránh có chỗ nghi ngờ khác
nhau. Nghi ngờ là một
căn bịnh nặng, đừng v́ nghi mà đánh mất
ḷng tin, càng không thể v́ nghi mà cản trở chánh hạnh. Nên tạm thời gác chỗ nghi
hoặc qua một bên, chỉ thực hành những ǵ mà ḿnh
chẳng nghi, chuyện này rất quan trọng. Sau này gặp được ‘minh sư’
hoặc cảnh giới tu học của ḿnh đă nâng cao
th́ vấn đề nghi hoặc sẽ được
giải đáp.
ix.
Trong
câu chuyện Pháp Chiếu vào Trúc Lâm tự, Văn Thù Bồ
Tát nói với Pháp Chiếu: ‘Hôm
nay ông niệm Phật, đă đúng lúc rồi. Trong các môn tu chẳng có ǵ hơn
niệm Phật. Cúng
dường Tam Bảo, tu phước lẫn tu
huệ. Hết thảy các
pháp, Bát Nhă Ba La Mật, thậm thâm thiền định, cho
đến chư Phật đều phát sanh từ niệm
Phật. Thế mới
biết niệm Phật là vua của các pháp. Ông nên thường niệm pháp vô
thượng này, đừng bao giờ ngừng nghỉ’.
Pháp Chiếu hỏi: ‘Làm thế nào để
niệm?’. Văn Thù Bồ
Tát nói: ‘Phía tây của thế
giới đó có Phật A Di Đà, Ngài có nguyện lực
chẳng thể nghĩ bàn, ông nên niệm liên tục
đừng để gián đoạn, sau khi mạng chung,
nhất quyết sẽ văng sanh, vĩnh viễn chẳng
thoái chuyển’.
x.
‘Nhiếp
trọn sáu căn’ là bí quyết của sự niệm
Phật, lúc niệm Phật phải nhiếp nhĩ căn,
lắng nghe từng chữ từng câu rơ ràng, đừng
để mất. Phật
hiệu từ tâm khởi lên, âm thanh từ miệng phát ra,
trở vào tai, liên tục chẳng gián đoạn. Khi vừa có chút vọng niệm
liền thâu nhiếp tâm niệm Phật, nhiếp nhĩ
căn lắng nghe, chẳng để vọng niệm
tiếp tục, hết thảy tạp niệm sẽ
từ từ tiêu trừ, công phu tự nhiên sẽ
được đắc lực.
xi.
Long
Thư Tịnh Độ Văn nói:
‘Ngày hết đêm sẽ
đến, phải chuẩn bị cho đêm;
Mùa nóng hết th́ mùa lạnh
sẽ đến, phải chuẩn bị cho mùa
lạnh.
C̣n th́ sẽ phải mất,
phải chuẩn bị cho cái mất.
Làm thế nào để
chuẩn bị cho đêm? Đèn
nến, giường chiếu.
Làm thế nào để
chuẩn bị cho mùa lạnh?
Áo ấm, than củi.
Làm thế nào để
chuẩn bị cho cái chết?
Phước huệ Tịnh Độ.’
xii.
Phật
dạy: ‘Chẳng thể dùng ít
thiện căn, phước đức, nhân duyên
được sanh về cơi nước đó’. ‘Nhân duyên’ tức là nghe kinh, nghe
pháp, ‘thiện căn’ là tin tưởng Phật pháp,
‘phước đức’ là thực sự làm theo, tu hành
đúng như pháp. Đầy đủ cả ba th́ mới
đạt được toàn bộ lợi ích của
Phật pháp.
xiii.
Tâm
an lư đắc; V́ lư đắc (hiểu rơ lư) nên tâm an.
xiv.
Lăo
Tử nói: ‘Ta có mối lo lớn v́ ta có thân này; nếu ta
chẳng có thân th́ đâu có ǵ phải lo lắng’
xv.
Phàm
phu chẳng thể vượt thoát tam giới là v́ trong tâm
có cái ‘TA’. Chỗ huyền
diệu của pháp môn Đại thừa là ở chỗ
liệng bỏ chữ ‘Ta’ này đi, khi khởi tâm
động niệm ǵ cũng nghĩ đến chúng sanh,
chẳng nghĩ đến ḿnh, là dạy ḿnh chẳng
chấp trước trên cái ‘Ta’, mở rộng tâm
lượng, phóng lớn lên,
th́ tự nhiên ‘chấp Ta, tướng Ta, ngă kiến’
sẽ mất hết.
xvi.
Ấn
Quang đại sư khuyên người mới học
Phật phải đọc cuốn Liễu Phàm Tứ
Huấn, Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, An Sĩ Toàn
Thư là không ngoài mục đích t́m khuyết điểm
của ḿnh mà thôi, cũng giống như soi gương t́m
ra vết dơ của ḿnh. Lăo
ḥa thượng Tịnh Không đau ḷng mỏi miệng
giảng đi giảng lại cũng là v́ vậy.
xvii.
‘Tâm
niệm quá nhiều phiền phức thật!
Xưa nay lặng niệm khó
muôn vàn!’
(Niệm đầu thái đa
chân phiền năo.
Cổ lai nhất niệm
tối nan b́nh)
Bịnh nặng nhất của
chúng ta là tâm không định, tâm cứ tán loạn, nghĩ
ngợi lung tung, chẳng thể an định, v́ vậy
nghĩ về bịnh sẽ bị bịnh, nghĩ về
già sẽ biến thành già nua.
Mục đích của việc niệm Phật là
để đè nén, hàng phục những vọng
tưởng phiền năo này.
xviii.
Thiền
định, thiền là bên ngoài không trước tướng,
định là bên trong không động tâm. Thiền định là thủ
đoạn chứ không phải là mục đích, Bát Nhă trí
huệ mới là mục đích.
xix.
Tu
hành phải dồn sức vào tâm niệm, tu hành chẳng
phải tu để thành một người có tài ăn nói
lưu loát, lanh lẹ. Nhà Nho
nói ‘Lúc học vấn thâm sâu th́ tâm ư b́nh lặng’. (Học
vấn thâm thời ư khí b́nh)
xx.
Nghe
kinh nghe pháp nên đặt mục tiêu trên ‘một bộ kinh
điển hoàn chỉnh’ th́ mới có thể đạt
được lợi ích hoàn toàn, và cũng có thể tránh
khỏi căn bịnh ‘đoạn chương thủ
nghĩa’ (hiểu nghĩa rời rạc theo từng
phần nhỏ, ư nói: không lănh hội được ư
nghĩa toàn bộ kinh).
Thường thấy có một vài đồng tu v́ nhân
duyên chưa đầy đủ, nghe kinh nghe pháp chỉ
mới nghe một vài đoạn, không có thời gian
hoặc cơ hội nghe hết cả bộ kinh (như
kinh Vô Lượng Thọ) nhưng cũng có thể sanh tâm
hoan hỷ, được lợi ích nơi Phật
pháp. Thử nghĩ nếu có
thể phát tâm nguyện rộng lớn nghe trọn hết
một bộ kinh th́ được lợi ích nơi
Phật pháp sẽ chẳng thù thắng hơn sao!
xxi.
Hoằng
Nhất đại sư nhắc nhở người tu hành
nên chú ư ‘công và tội không thể bù đắp cho nhau’ (công
không chuộc nổi tội) th́ mới phù hợp với
đạo lư nhân quả.
Nếu không th́ [những tư tưởng sai lầm
như] ‘người đă làm việc thiện to lớn th́
dù có làm chuyện ác cũng chẳng bị báo ứng’, ‘bây
giờ làm việc ác chỉ cần sau này làm việc
thiện để bù đắp, bù trừ th́
được rồi!’, đây là những sự hiểu
lầm về nhân quả, là những thiên kiến sai
lầm. Người tu hành
đoạn ác là sau này không tái phạm trở lại, là
cắt đứt nhân ác, duyên ác.
Tu thiện tức là tu nhân thiện, duyên thiện, tích
lũy công đức, phá mê khai ngộ, chuyển phàm thành
thánh.
A Di Đà Phật.
c. Lợi ích thù thắng của
sự nhiếp thọ chúng sanh của kinh Vô Lượng
Thọ
Năm
Dân quốc bảy mươi sáu (1987) lăo ḥa thượng
Tịnh Không kỷ niệm ngày cụ Lư Bỉnh Nam văng sanh,
v́ muốn báo ân pháp nhũ của ân sư nên đặc
biệt khai giảng kinh ‘Phật Thuyết Đại Thừa
Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng
Giác’. Từ lúc giảng kinh
đến nay, đồng tu trong và ngoài nước
đều vui vẻ tán thán, đều cảm
được sự lợi ích thù thắng từ sự
nhiếp thọ chúng sanh của kinh này, càng cảm niệm
cái nh́n sáng suốt, rốt ráo của lăo ḥa thượng
đă chọn bộ kinh phương tiện nhanh chóng,
thẳng tắt, rốt ráo, viên măn này để dẫn
dắt chúng sanh, để làm kim chỉ nam cho sự tu hành,
thành tựu cho Phật quả Bồ Đề viên măn của
chúng sanh.
Lăo
ḥa thượng từ bi thương xót [chúng ta] cứ
giảng đi giảng lại đến nay đă
giảng hết chín lần, hội giảng kinh mỗi
lần càng thù thắng hơn trước, những
người đạt được lợi ích chân
thật chẳng thể tính đếm nổi. Hiện nay lăo ḥa thượng
đang giảng lần thứ mười ở Cư
Sĩ Lâm Tân Gia Ba, trong bốn sự ‘Tín, Giải, Hành,
Chứng’ đặc biệt nhấn mạnh ở ‘Hành,
Chứng’, hy vọng những người có duyên nghe
được đều ‘phát Bồ
Đề tâm chân chánh, một hướng chuyên niệm A Di Đà
Phật, cầu sanh Tịnh Độ’. Đồng thời cũng
hy vọng quư vị đồng tu trong Tịnh Tông có
thể áp dụng Phật pháp viên dung vào trong đời
sống và việc làm hằng ngày, để có thể
cải thiện hoàn cảnh xă hội, cứu văn kiếp
vận của thế giới đầy dẫy tai
nạn.
Lăo
ḥa thượng chỉ rơ bản hội tập của kinh
này là dựa trên sư thừa hẳn ḥi, là được
lăo sư Lư Bỉnh Nam ở Đài Trung đích thân truyền
thừa (thầy Lư là học tṛ của Ấn Quang
đại sư); bản hội tập kinh này đă
được lăo pháp sư Huệ Minh ấn chứng, pháp
sư Từ Châu đích thân soạn khoa phán, đă khai
giảng ở Đại lục.
Tuyên giảng hơn mười năm nay cũng
thường nghe đến nhiều người y theo kinh
này tu hành được văng sanh, họ dự biết
trước ngày giờ, hoa nở thấy Phật, họ
làm chứng cho việc văng sanh, rất nhiều đồng
tu đă chứng kiến tận mắt, số nghe
đến c̣n nhiều hơn nữa. Như vậy đủ
để thấy công đức của bản hội
tập kinh này rất thù thắng, được hết
thảy mười phương ba đời chư
Phật gia tŕ, hộ niệm.
Khả
năng chữ nghĩa của người đời nay
chẳng bằng người thời xưa, nhiều
người không hiểu văn ‘Văn Ngôn’, thậm chí
chẳng có năng lực đọc, huống chi kinh Vô
Lượng Thọ có đến năm bản dịch
gốc, thực sự rất khó đọc hết năm
bản ấy. Đồng tu trong
hội chúng ta cũng biết việc này nên rất cảm
niệm lời giáo huấn tha thiết, ân cần của
lăo ḥa thượng đă dùng tâm cung kính, kiền thành
để khuyên lơn hết thảy đồng tu,
bất luận nghe kinh, nghiên giáo, hoặc niệm Phật
tu hành đều nên bắt đầu từ bản
hội tập kinh Vô Lượng Thọ. Hiểu rơ lư mới có thể tin
sâu, tin sâu rồi mới có thể phát nguyện thiết
tha, nguyện khẩn thiết mới có thể phụng
hành, phụng hành th́ tự nhiên công phu sâu dày. Có thể tín, nguyện, hành cả
ba liên đới mật thiết như vậy, chẳng
thiếu thứ nào th́ mới có thể đạt được
lợi ích chân thật của Phật pháp.
Những
đại đức đồng tu ưa thích kinh Kim Cang
Bát Nhă, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa nếu có thể lấy kinh Vô Lượng
Thọ làm cơ sở, bắt đầu từ kinh Vô
Lượng Thọ th́ càng dễ đạt
được lợi ích rốt ráo của đại kinh.
A Di
Đà Phật
Tứ
chúng đồng tu tại Tịnh Tông Học Hội Thành
Phố Đài
d. Ư nghĩa của
Phật thất và niệm Phật.
Phật
thất là căn cứ trên đoạn: ‘Nếu có người thiện nam tử,
người thiện nữ nghe đến A Di Đà Phật,
chấp tŕ danh hiệu trong ṿng một ngày, hoặc hai ngày,
…, hoặc bảy ngày, nhất tâm bất loạn. Người này lúc lâm chung, A Di Đà
Phật và chư thánh chúng hiện ra ở trước
mặt. Lúc người này
mạng chung, tâm chẳng điên đảo ắt
được văng sanh về cơi Cực Lạc của A Di
Đà Phật’
trong Phật thuyết A Di Đà Kinh. Trong những pháp hội niệm
Phật, hy vọng dùng tâm chí thành, tâm khẩn thiết, buông
xuống hết vạn duyên, nhất tâm niệm Phật,
đạt được hiệu quả khắc kỳ
cầu chứng (cầu
chứng được nhất tâm bất loạn trong ṿng
bảy ngày, xây dựng ḷng tin và bằng chứng để
văng sanh).
Ấn
Quang đại sư dạy: ‘Nhiếp trọn sáu căn
là bí quyết niệm Phật’.
Lúc niệm Phật nhất định phải thâu
nhiếp nhĩ căn, lắng nghe từng câu, từng
chữ rơ ràng, rành mạch, đừng để luống
qua. Phật hiệu phát
khởi từ tâm, âm thanh từ miệng niệm, lọt
vào tai, liên tục chẳng dứt.
Vừa có chút vọng niệm th́ liền thâu nhiếp
tâm lại để niệm Phật, đóng cái tai lại
và lắng nghe, chẳng để cho vọng niệm
tiếp tục. Hết
thảy vọng niệm tự nhiên từ từ biến
mất, công phu tự nhiên đắc lực.
Lăo
ḥa thượng Tịnh Không thường khuyến khích
đồng tu phải dùng tâm ‘chân thành, thanh tịnh, b́nh
đẳng, chánh giác, từ bi’ để niệm Phật,
như vậy câu Phật hiệu này mới tương
ứng, mới được bổn nguyện oai thần
của đức Phật A Di Đà gia tŕ, mới là chắc
thật niệm Phật. Và
nói: ‘Chỉ cần đệ tử Di Đà thực sự
chịu buông xuống, xả trừ vọng niệm, chánh
niệm tự nhiên sẽ hiện tiền’. Cổ đức có câu: ‘Chỉ
cầu trừ vọng, đâu cần t́m chân [thật]’. Phải biết ‘mục đích
của niệm Phật vốn là công phu dùng chánh niệm
đánh đổi vọng niệm, dùng một chánh niệm
chống đỡ vô số vọng niệm’. Nếu có thể chắc thật niệm Phật th́ bất
cứ lúc nào chánh niệm cũng phân minh, thánh hiệu Di Đà
thường nằm trong tâm.
V́ lúc nào cũng có Phật hiệu nên mới
đạt đến ‘quên ta, quên ḿnh’; nhờ quên ḿnh
như vậy nên chẳng có chướng ngại. V́ lúc nào cũng có Phật hiệu
[trong tâm] th́ tự nhiên được đại tự
tại, công phu tự nhiên đắc lực.
Trong
quyển ‘Tâm Thanh Lục’ lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
cũng chỉ rơ: “Chí tâm xưng niệm thánh hiệu Di Đà
này cũng giống như ‘luyện khoáng (quặng) thành
vàng’ là loại bỏ hết thảy tạp chất đến
lúc sạch hoàn toàn, xả bỏ hết thảy vô minh
phiền năo. Nếu
được vậy tức là đă luyện thành vàng,
chẳng c̣n là quặng nữa”.
·
Chí thành niệm Phật
là tự lực và Phật lực gia tŕ, là sự kết
hợp của hai lực [lượng này].
·
Chí thành niệm Phật
là cắt cỏ mọc um tùm, bỏ chất tạp,
luyện khoáng thành vàng.
·
Chí thành niệm Phật
là buông xuống hết vạn duyên, là chứng minh cho
sự phát Bồ đề tâm, cầu nguyện văng sanh.
·
Chí thành niệm Phật
là sự khảo nghiệm coi ‘tam tư lương’ tín -
nguyện - hạnh đầy đủ hay không.
·
Chí thành niệm Phật
là thiện căn và phước đức hiện
tiền.
e.
Giới
thiệu sơ lược về Tam Thời Hệ
Niệm.
Tam Thời Hệ Niệm là
do Trung Phong quốc sư đời Tống đặt ra,
nội dung gồm có tụng kinh, tŕ danh, giảng kinh, hành
đạo, sám hối, phát nguyện, xướng tán,
bảy phương pháp hợp lại làm thành, pháp sự
này phân chia ra thành ba đoạn để cử hành.
Mục tiêu chính của Tam
Thời Hệ Niệm là khuyên dạy vong linh sanh khởi
ḷng tin chân chánh, tâm nguyện khẩn thiết, niệm
Phật cầu sanh Tây phương Tịnh độ. Người làm lễ Tam Thời
Hệ niệm thay thế vong linh cũng có thể lợi
dụng cơ hội này để tu tập Tịnh
nghiệp. Đây không những là
để khuyến đạo vong linh, đồng thời
cũng là để khuyến đạo chính ḿnh, tự
ḿnh đạt được lợi ích, vong linh cũng
được lợi ích, thiệt là cả hai cơi minh
dương đều lợi, hết sức khế cơ
cho những đồng tu tu tŕ Tịnh nghiệp.
Văng tích
sở tạo chư ác nghiệp (Những
ác nghiệp tạo từ trước
Giai do vô
thỉ tham sân si Đều
do tham sân si từ vô thỉ
Tùng thân
khẩu ư chi sở sanh Từ
thân khẩu ư sanh ra
Ngă kim
Phật tiền cầu sám hối Trước
Phật con nay cầu sám hối)
Bất tri
tham dục khởi hà nhân Chẳng
biết tham dục khởi từ nhân ǵ
Nhân vong
tự tánh Di Đà Phật V́
quên mất tự tánh Di Đà Phật
Vọng
niệm phân phi tổng thị ma. Vọng
niệm sôi nổi đều là ma.)
f.
Khó gặp
thầy tốt.
Học hành phải y theo minh
sư chứ chẳng phải danh sư. Minh sư có thể chỉ dẫn
bạn đi trên đường bằng phẳng, đi
về đường hướng sáng sủa. Minh sư là người chỉ
đường, chỉ điểm phương
hướng cho ḿnh, pḥng ngừa cho ḿnh chẳng đi
lạc đường.
Đồng tu là người khuyến khích lẫn nhau, dùi
mài, trao giồi lẫn nhau, có ‘thầy tốt bạn
tốt’ mới có thể thành tựu.
Người sơ học
chưa đủ năng lực phân biệt tà - chánh,
thị - phi; khi nghe người này rồi nói người
này tốt, đi theo họ; nghe người kia xong th́ nói
người kia tốt, bị họ chuyển dời. Cũng như trẻ em, cha mẹ
phải chăm nom kỹ càng v́ nó chẳng biết tà - chánh,
thị - phi, chẳng biết được - mất,
lợi - hại, cần phải có thầy dạy
dỗ. Đợi đến lúc
bạn có thể phân biệt tà chánh, thị phi, chẳng
bị người ta xỏ mũi dẫn đi, có năng
lực này rồi, lăo sư có thể cho bạn đi ra
ngoài tham học. Thầy
thật là đại từ đại bi! Bảo đảm dạy dỗ,
tận tâm tận lực.
Đạo
lư thầy tṛ thiệt chỉ có thể gặp mà chẳng
thể cầu, vô cùng hiếm có!
Đây là cơ duyên, tự ḿnh phải trồng thiện
căn, vun bồi thiện duyên.
Nếu thực sự chẳng gặp được
th́ cũng c̣n phương pháp, đó tức là học
người xưa. Lúc
trước thầy Lư Bỉnh
Lúc
chúng ta chẳng t́m được thiện tri thức th́ có
thể t́m người xưa, làm học tṛ tư thục
của người xưa.
Những người dùng phương pháp này
được thành tựu rất nhiều, ở Trung
Quốc người đầu tiên tôn người xưa
làm thầy là Mạnh Tử.
Mạnh Tử học theo Khổng Tử, lúc bấy
giờ Khổng Tử chẳng c̣n nhưng sách vở
của ngài c̣n lưu lại trong thế gian nên Mạnh
Tử chuyên đọc và học theo sách của Khổng
Tử, tiếp nhận lời dạy của Khổng
Tử trong sách, một ḷng một dạ học theo
Khổng Tử. Mạnh
Tử học theo vị thầy này, chuyên học một
vị thầy, học rất thành công, v́ vậy nên trong
lịch sử Trung Quốc người ta tôn Khổng
Tử làm Đại Thánh, Chí Thánh, Mạnh Tử làm Á Thánh.
Sau
này trong lịch sử Trung Quốc có rất nhiều
người dùng phương pháp này được thành
công, lừng danh nhất là Tư Mă Thiên triều Hán, ông
viết quyển lịch sử Trung Quốc đầu tiên
‘Sử Kư’. Tư Mă Thiên
học Tả Khưu Minh, ông chỉ học một
người, chuyên đọc tụng ‘Tả Truyện’,
chuyên học văn chương, tu dưỡng của
‘Tả Truyện’, ông học thành công và trở thành một
văn hào thời đó. C̣n Hàn
Dũ đời Đường, ông là một trong tám văn
hào nổi tiếng đời Đường, Tống, c̣n có
hiệu là Hàn Xương Lê, người chuyển
đổi nền văn học sau tám đời suy thoái;
thầy của Hàn Xương Lê là ai? Tức là Sử Kư. Ông học Tư Mă Thiên, chuyên
học Sử Kư, học văn chương, giáo huấn
của Sử Kư và trở thành lănh tụ của tám nhà
[văn hào] đời Đường, Tống.
Trong
nhà Phật, Ngẫu Ích đại sư triều Minh là
một Tổ sư Tịnh Tông.
Thầy của Ngài là ai?
Là Liên Tŕ đại sư.
Lúc bấy giờ Liên Tŕ đại sư đă văng
sanh rồi, sách vở của Liên Tŕ đại sư c̣n
lưu lại trong đời, Ngẫu Ích đại sư
bèn chuyên học sách vở của Liên Tŕ đại sư.
Sự
giáo học từ đời xưa của Trung Quốc
đều hy vọng đời sau vượt trội
hơn đời này, nếu chẳng thể vượt
trội th́ giáo dục [kể như] hoàn toàn thất
bại. Chẳng giống
người ngày nay có tâm đố kỵ, chướng
ngại luôn sợ người ta hơn ḿnh, khi dạy
người khác th́ luôn giữ lại một ít, chẳng chịu
tận tâm dạy học, đây gọi là keo pháp.
Chú
thích: tài liệu trong phần này được trích từ
bài giảng ‘Nhận thức Phật giáo’ của lăo ḥa
thượng Tịnh Không tại
g.
Nhàn đàm
về chuyện học Phật.
i. Tin sâu nhân quả,
trồng nhân ǵ th́ gặt quả đó. Bố thí vô uư được
khoẻ mạnh, sống lâu.
ii. Rất nhiều
người nói về nhân quả [theo một cách] rất
dễ gây ra hiểu lầm, tức là họ chỉ
nhấn mạnh nhân quả đời trước. V́ họ cho rằng hết
thảy đều do vận mạng định sẵn nên
trở thành tiêu cực, chẳng muốn làm ǵ cả, và cách
nói chẳng làm ǵ được (chỉ nghe theo trời,
theo vận mạng an bài) người nghe theo Túc Mạng
Luận, nhưng coi nhẹ nhân quả của đời
này -- những việc làm của ḿnh trong đời này là
mấu chốt quan trọng hơn.
iii. Mục
đích nói về nhân quả có hai thứ:
Thứ nhất: An tâm,
làm cho bạn định tâm, đừng v́ ngoại duyên
chẳng vừa ư mà nổi tâm bất b́nh, lúc nghịch
cảnh đến th́ đừng lo sợ, phải
mạnh dạn nhận lấy.
Thứ hai: Lập
mạng, muốn bạn phát nguyện lập chí, mạnh
dạn tạo lập hạnh phúc cho ḿnh.
iv. Những chỗ có
Bồ Tát đều làm cho hết thảy chúng sanh sanh tâm
hoan hỷ. Khi khởi tâm
động niệm, ngôn ngữ tạo tác đều
chẳng có tâm làm năo hại chúng sanh; phải kết
thiện duyên với tất cả chúng sanh, đừng
kết ác duyên.
v.
Tŕ giới: Giới
luật chẳng phải là trói buộc, là những ǵ
[bạn] chẳng làm. V́ vậy giới luật giúp cho
bạn tránh những sự dụ dỗ phi pháp, chẳng
bị cảnh giới bên ngoài chi phối, ngược
lại [nhờ giữ giới nên] được khinh an, tự
tại.
vi. Vô úy bố thí:
1. Không sát sanh: chúng sanh b́nh đẳng, tôn trọng
sanh mạng, tiếc thương sanh mạng.
2. Không năo hại chúng sanh: đừng làm cho
người ta chẳng được an ninh.
3. Cứu tế khi nguy cấp: phóng sanh, hiến máu,
cứu người, cứu động vật.
vii. Ăn ít cho khoẻ
và có tinh thần. Những
thức ăn được thêm chất hóa học và gia
công dễ sanh bịnh, thậm chí dễ sanh ung thư, nên
ít ăn những thứ này, tốt nhất là đừng
ăn.
viii. Người xưa dạy: ‘Buổi sáng ăn cho
có dinh dưỡng, buổi trưa ăn cho no (để
làm việc), buổi tối ăn ít (dễ ngủ).
ix. Bác sĩ chuyên khoa tim
danh tiếng Đổng Ngọc Kinh bàn về đạo lư
khoẻ mạnh:
a.
Ăn uống, vận
động, ngủ nghỉ, kiểm soát tâm lư cho
được quân b́nh.
b.
Bịnh lâu ngày thành
thầy thuốc hay, chỉ có thể chữa cho ḿnh, không
thể chữa cho người khác.
Thuốc phải cho đúng bịnh!
x.
Ô nhiễm mang
đến tật bịnh: sanh hoạt bị ô nhiễm,
thân thể bị ô nhiễm, hoặc tâm lư bị ô
nhiễm. Phương pháp
trị bịnh hay nhất là: tâm thanh tịnh, thân sẽ
thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh th́ tự nhiên khoẻ
mạnh.
xi. Giải mở oan
kết, gút mắt: là một công khóa quan trọng trong nhà
Phật, cần có:
a.
Tự lực:
đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức, hồi
hướng cho oan gia chủ nợ.
Chuyên tu tâm thanh
tịnh, thân tâm thanh tịnh, duyên đoạn rồi th́
quả báo chẳng sanh.
b.
Tha lực: Phật
lực gia tŕ, chí thành niệm Phật, được
nguyện lực của đức Phật A Di Đà gia tŕ.
xii. Tật bịnh của người hiện nay
phần đông là do sanh hoạt tập quán không tốt gây ra
xiii. Đạo
dưỡng sanh: dưỡng tâm trong lúc tĩnh, lúc tịnh
(như niệm Phật), dưỡng thân trong lúc
động (như lạy Phật)
xiv. Ăn chay không
được th́ đừng miễn cưỡng, không
thể v́ ḿnh muốn ăn chay mà ảnh hưởng,
tạo phiền phức cho người nhà, làm cho cả nhà
chẳng yên, thế th́ đă chẳng từ bi, lại không
khéo léo. Nếu ăn chay không được th́ nên ăn tam tịnh nhục.
xv. Việc ăn chay là do Lương
Vơ Đế đề xướng, sau khi đọc kinh
Lăng Già vua rất cảm động, phát tâm từ bi,
chẳng nhẫn ăn thịt chúng sanh. Sau đó được
người xuất gia hưởng ứng, trở thành
điểm đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc
(Nhật, Đại Hàn, nhiều nước ở Đông Nam Á
[ngoại trừ Việt Nam] đều chẳng có).
xvi. Phương pháp ngừa muỗi,
kiến, dán (chẳng dùng thuốc sát trùng).
a.
Trong bếp giữ ǵn
sạch sẽ, nấu ăn xong phải lau chùi gọn
(để ngừa dán)
b.
Dùng thùng rác có nắp
đậy (ngừa dán, kiến)
c.
Cửa sổ cần
dùng cửa lưới (ngừa ruồi, muỗi, trùng)
d.
Chân bàn của bàn ăn
dùng băng keo hai mặt dán xung quanh để ngừa
kiến, mỗi tháng thay một lần.
e.
Đốt nhang đuổi
muỗi (dùng nhang điện an toàn hơn, gây tổn
hại cho thân thể ít hơn), và phải mở hé cửa
hoặc cửa sổ, để muỗi có đường
bay ra ngoài, đừng kết oán thù với những
động vật nhỏ này.
f.
Đi ra ngoài có thể dùng
kem thoa ngừa muỗi, và tránh những nơi có nhiều
muỗi.
xvii. Từ trước
đến nay trong sách thường dạy người ta
phải ăn thịt mới có đủ dinh dưỡng,
mới khoẻ mạnh, động vật sanh ra là
để người ăn thịt! Và nói: ‘Tôn giáo là mê tín, chẳng có
thần tiên, chẳng có Bồ Tát, và cũng chẳng có
địa ngục, người chết th́ hết,
việc ǵ cũng chẳng c̣n’.
V́ [có những quan niệm sai lầm như] vậy nên
ngày càng nhiều người chẳng tin nhân quả, muốn
làm ǵ th́ làm, tham đắm trong ngũ dục, chẳng
thể tự chủ.
xviii. Khi nh́n thấy người ta
giỏi, tốt hơn ḿnh th́ chịu không nổi, đây là
đố kỵ. Đố
kỵ thuộc về [tội] ăn cắp, là tập khí
từ vô thỉ kiếp đến nay. Phải thành tâm hối cải, khi
nh́n thấy chuyện thiện phải tùy hỷ, có thể
hoan hỷ khi nh́n thấy cái tốt, cái đẹp của
người khác là thành tựu công đức cho ḿnh, tức là tùy
hỷ công đức.
xix. Nhẫn nhục là công phu giữ
ǵn công đức của ḿnh, là công phu trước khi
được định.
Người xưa thường nói: ‘[Việc] nhỏ
mà không nhẫn th́ làm loạn mưu lớn’. Thành tựu nhỏ cần
nhẫn nại ít, thành tựu lớn cần phải
nhẫn nại nhiều.
Nhưng nhẫn nhục chẳng phải đè nén,
đè nén lâu ngày sẽ tích lũy thành bịnh. Nhẫn nhục đúng cách là
vượt thoát ra khỏi phạm vi của sự tranh
chấp, dùng trí huệ hóa giải, dùng độ
lượng bao dung.
xx. Thuốc bổ tốt cách mấy
cũng thua tâm thanh tịnh, tâm vui vẻ. Ham muốn ít, biết đủ
th́ thường vui. Ham
muốn ít th́ tâm thanh tịnh, biết đủ th́
thường khoái lạc.
Tóm lại chỉ có niệm
Phật là tốt. A Di Đà
Phật!
Chú thích
(1) Trăm giới ngàn như (Bách giới thiên như): Theo tông Thiên Thai có mười giới: từ ngạ quỉ, súc sanh, địa ngục.. cho đến chư Phật. Trong mỗi giới lại có đủ mười giới (mỗi giới có đủ mầm mống mười pháp giới ở trong), nên 10 x 10 = 100 giới. Trong mỗi giới lại có mười môn như thị (mười thứ đúng như thế). Diệu lư của thật tướng từ xưa đến nay vẫn ‘như như’, chẳng hề biến đổi nên gọi là Như; y vào Thực Tướng và phải hiện ra Thế Đế nên gọi là Thị. Hai chữ Như Thị là trạng thái của Thực tướng, nó phải như như thế thế. Mười cái Như thị là như thị tướng, như thị thể, như thị tánh, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị bản mạt cứu kính (cái ǵ cũng có gốc, ngọn, từ gốc đến ngọn đều b́nh đẳng rốt ráo), (xem kinh Pháp Hoa) Mỗi một pháp giới có mười cái Như Thị, một trăm pháp giới thành ra một ngàn cái Như Thị. Tông Thiên Thai dùng chữ “bách giới thiên như” để chỉ tất cả các pháp.
(2) Trong
kinh có tỷ dụ ‘thân người khó được’
như sau: từ trên đỉnh núi cao thả một
sợi chỉ xuống, phía dưới chân núi đặt
một cây kim, thả sợi chỉ từ đỉnh núi
xuống và xỏ ngay vào cây kim ở dưới chân núi, gió
vừa thổi nhẹ th́ sợi chỉ chẳng biết
sẽ bay đến phương nào rồi! Đừng nói là chỉ có một
sợi, dù có một ngàn sợi, mười ngàn sợi, có
sợi nào may mắn xỏ được ngay vào lỗ
kim, sác xuất của việc này xảy ra vô cùng nhỏ bé,
chuyện này rất khó xảy ra, mất thân người
rồi muốn được thân người trở
lại cũng khó như vậy!
(3) Địa Thượng Bồ Tát: Các vị
Bồ Tát từ Sơ Địa trở lên.
Trong
quá tŕnh chuyển ngữ chắc không tránh khỏi thiếu
sót, xin các bậc thức giả hoan hỷ phủ chính
cho.
Xin
thành thật cám ơn.
Một nhóm Diệu Âm cư
sĩ, 9-4-2004