Cảm Ứng Thiên Vựng Biên
感應篇彙編
Quyển 1
Phần 1
(theo bản
in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm
2000)
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh:
Đức Phong và Huệ Trang
Lời
tựa đề xướng in Cảm Ứng Thiên Vựng
Biên
Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, nói đơn giản, chính là bài văn dùng Lư và Sự nhân quả cảm ứng để khuyên mọi người làm lành, bỏ ác. Chẳng biết tác giả là ai! Có
người nói là Cát Hồng[1],
người học chưa chắc đă tin theo thuyết ấy. C̣n
như nói [tác giả là] Thái Thượng [Lăo Quân][2],
là giáo huấn xứng theo ḷng trời lập ra, thuyết ấy càng mơ hồ,
chẳng thể nào tra cứu được! Kể từ
đời Triệu Tống[3]
đến nay, bài văn này được lưu truyền rất thịnh,
được ghi chép trong Đạo Tạng[4].
Ngoài những sách dạy về bùa chú, luyện đơn,
hành công, tu luyện ra, đây là một tác phẩm giúp giữ yên cơi đời bậc nhất của Đạo Giáo. Toàn
bộ bài văn này chỉ hơn một ngàn chữ, nhưng
Lư lẫn Sự đều chu đáo. Trong ấy đă kể
ra hơn hai trăm chuyện lầm lỗi mà thế gian
thường phạm để cảnh tỉnh mọi
người, [bao gồm những
điều] to lớn hay nhỏ
nhặt, chẳng sót một điều nào, chẳng ngại
phiền phức, do thương xót kẻ đôi khi v́ chẳng
thận trọng mà trót phạm, sẽ chuốc
lấy họa tai! Ư tưởng thanh thoát, ngôn từ ḥa nhă,
nhưng khí thế chánh nghĩa tràn trề, lẫm liệt,
dường như có quỷ thần xét soi, khiến cho
người đọc hoảng sợ, xót xa, áy
náy, hổ thẹn chẳng yên! Từ đấy, tự vấn
ḷng ḿnh, mạnh mẽ tỉnh ngộ, lại c̣n lập tức
hiểu họa phước là do chính ḿnh tạo, cũng như
thấu đạt ư nghĩa sống động trong trời
đất, sẽ có hy vọng thành thánh, thành hiền. Do bài văn này
chỉ bảo rành rành, dẫu ngu hay hiền, [hễ đọc
đến] đều được lợi lạc. Khuyên
dụ đủ mọi lẽ, dẫu kẻ học kém vẫn
dễ thấu đạt lẽ cao xa, mà cũng toàn là những
điều học vấn thiết thực, gần gũi.
Do v́ như vậy, nó có hiệu quả khuyến
thiện rành rành, có công năng giữ yên cơi đời sâu
xa. Đạo trưởng dưỡng sự tăng tấn,
học vấn nhằm giáo hóa dân, giữ yên mỹ tục,
đều được chứa đựng hết trong
tác phẩm này. Dẫu nói đây là trước tác của Cát Hồng cũng được, dẫu bảo là
lời dạy của trời cao truyền lại,
cũng đều chẳng có ǵ là không được!
Trải
các đời, đă có nhiều người chú giải. Có
vị giảng giải văn từ, có vị trích dẫn
những lời lẽ xiển dương nghĩa lư, có vị
dùng những câu chuyện để làm chứng. Cho đến
đời Thanh, những người có chí bèn hội tập,
chỉnh lư, nhuận sắc, khiến cho ngữ ư tường
tận, nghĩa lư thấu triệt, dẫn chứng rộng
răi, đặt tên là Vựng Biên. Do vậy, những lời
nghị luận liên quan đến tâm tánh và đức nghiệp
trong sách Nho, kinh Phật, những mẫu chuyện liên quan
đến nhân duyên quả báo trong chánh sử, dă sử [đều
được thâu thập] hết sức phong phú, tinh hoa nối
tiếp khôn cùng. [Bộ sách này] có khoảng hai mươi vạn
chữ, văn chương trong sáng, lưu loát dễ đọc,
Sự lẫn Lư cùng dung hội. Nói chung là lấy ḷng nhân từ
trắc ẩn làm Thể, lấy chuyện yên đời lợi
người làm Dụng. Một niềm khẩn thiết rạng
ngời trên giấy, mỗi phen đọc đến, chẳng
khi nào không cảm thấy chánh khí tốt lành tràn trề nẩy
sanh. Đúng là một bộ đại kỳ thư trong
thiên hạ vậy!
Nếu
bảo: “Thiện ác là nghĩa lư của Nho gia, nhân quả
là pháp giáo trong Phật môn, cảm ứng là sự chỉ dạy
của đạo nhân, cớ sao lại khiên cưỡng kết
hợp ba thứ ấy? Hơn nữa, để khuyến thiện, cần ǵ phải dùng nhân quả, cảm ứng? Từ
xưa, giáo huấn ‘thành tựu phẩm đức, trọn
hết cái tâm để biết tánh’ của bậc thạc Nho đă đủ
để nói rồi, chưa hề dùng nhân quả và cảm
ứng v́ sợ rúng động ḷng người. Dùng cảm ứng
và nhân quả để khuyến thiện, có nghĩa là
đánh động đến họa, phước, lợi,
hại. Do v́ họa, phước, lợi, hại mà làm lành,
điều thiện ấy sẽ chẳng phải là chân
thiện!” Tôi cho rằng, phẩm cách của con người
có nhiều loại, giáo hóa cũng có nhiều cách. Từ
tánh cách như Nghiêu, Thuấn trở xuống, trăm vị
quân tử thuở đầu lập chí, chưa vị nào
có thể thuần thiện, vô dục! Khi động tâm,
ḷng canh cánh nhân quả, kiêng dè họa phước, há chẳng
phải là đă giúp đỡ to lớn cho sự kiêng sợ,
nỗ lực [giữ vẹn phẩm đức] suốt từ
sáng đến tối đó ư? Hơn nữa, nhân quả báo ứng,
họa phước đưa tới, có cảm bèn ứng,
vốn là chuyện thật
t́nh trong trời đất, tạo
hóa. Cậy vào đó, sẽ chẳng hề thêm nhiều,
dẫu gạt bỏ đi,
cũng chẳng ít bớt. Bậc quân tử tăng tấn
đức hạnh, có so đo [lợi, hại, họa,
phước để làm lành] hay không, lạnh nóng tự biết.
Thoạt đầu, dựa vào đó th́ nặng nề, cuối
cùng bỏ đi th́ nhẹ nhàng[5];
cũng chẳng trở ngại công phu tâm tánh có thể ngày
càng thêm tinh thuần, danh vọng, tài lộc, địa vị,
trường thọ chẳng cầu mà tự đạt!
V́ thế, người khéo tu đức, tuy dốc chí
nơi tâm tánh, vốn chẳng cầu công quả mà tự
có công quả, cớ ǵ cứ phải vất vả gạt
bỏ [nhân quả, cảm ứng] để tự coi ḿnh
là cao siêu?
Huống
hồ dân chúng khắp cơi nước, do ôm ḷng lợi hại
mà làm, người tránh được lỗi lầm sẽ
nhờ đó càng đông. Tâm tánh khó thể thành lập, nhưng nhân quả lại dễ hiểu. Chẳng nói đến
họa phước v́ sợ ḷng người kinh hăi, làm sao
có thể khuyên răn rộng răi [mọi người]
tránh né tội lệ cho được? V́ thế, người
khéo nói nhân quả, tuy lời lẽ phải dựa vào họa phước, rốt cuộc vẫn là chú trọng
nơi tâm tánh, nhưng ít nhắc tới tâm tánh đó thôi! Sao
lại cứ phải ra rả nêu lên những điều như thế
để bắt chẹt người khác ư?
Nếu
có thể dốc ư nơi tâm tánh mà bàn nhân quả, khiến
cho nhân dân v́ sợ quả báo mà chẳng dám làm ác ḥng gieo
nhân, dần dà, họ sẽ an trụ nơi tâm tánh, thích làm
lành, ḥng thành tựu đức hạnh. Đấy chính là
phương tiện môn trong Phật pháp, chuyển thành công năng bổ trợ sự giáo hóa của Nho
gia. Thiện ác và nhân quả, dùng cảm ứng để kết
hợp chặt chẽ, một Thể thành tựu lẫn
nhau. Đấy chính là phương tiện chân thật, mà
cũng là sự giáo hóa chân thật.
Nếu
nói rộng ra, sẽ là do “tận
hết cái tâm để biết tánh” của Nho gia mà tâm
tánh ấy ắt sẽ là đức hợp thiên địa. Phật môn liễu
nhân chứng quả, ắt nhân quả ấy sẽ bao trùm
trọn khắp pháp giới. Đối với đạo
th́ cảm thấu suốt, ứng cùng cực, ắt sẽ do sự cảm ứng ấy mà thấu triệt u
minh[6].
Thiên địa, pháp giới, u minh, đều trọn đủ
vô lượng đức, vô lượng nghĩa. Nói tâm
tánh, nói nhân quả, nói cảm ứng, xét theo phương
cách giáo huấn, chẳng thể nói là không khác; nhưng xét
theo thật lư, ắt có chỗ tương đồng!
Không chỉ là ư tưởng dạy dân, hướng dẫn
thế tục tương đồng, mà kể
cả sự thành tựu cũng tương thông, chẳng
thể nói là sai khác!
Có
kẻ bảo: “Tôi thường
cảm thấy thuyết nhân quả huyền hoặc, sâu thẳm,
lạ lùng, hư huyễn, chuyện cảm ứng hết
sức dính dáng ‘quái lực, loạn thần’[7],
nay đang thuở khoa học phát triển rực rỡ,
phàm những chuyện không có căn cứ để khảo
sát, hăy nên xem như mê tín mà phá trừ. Cớ sao tin sâu chẳng
nghi? Há chẳng phải là tự dối ḿnh, lừa người
đấy ư?” Tôi nói: Đấy chính là lời lẽ của
kẻ chẳng hiểu rơ khoa học vậy. Khoa học là
thái độ hễ tin th́ truyền bá ḷng tin, hễ nghi th́
truyền bá ḷng nghi, chẳng vượt phận, chẳng tràn
lan. Bọn chúng ta cố nhiên chẳng thể dối gạt
chuyện huyễn vọng thành chuyện thật sự có,
mà bọn họ cũng chẳng thể nói “những ǵ chẳng
thể chỉ rơ, ắt sẽ là hư vô” được!
Ngán thay, kể từ phong trào Ngũ Tứ[8]
đến nay, hễ nói đến khoa học, [thiên hạ]
thường nghĩ những ǵ có thể chứng nghiệm
bằng vật lư là chân thật duy nhất. Ngoài những thứ
ấy ra, nhất loạt coi là mê tín. Chẳng biết lư có
nhiều đường, mà sự chẳng dễ nêu rơ, cứ
lỗ măng diệt trừ, bác bỏ, sổ toẹt hết
thảy, tự cho ḿnh là đúng, coi kẻ khác sai bét. Đấy
chính là sự mê tín lớn nhất. Bản chất và biểu
hiện của nhân quả cảm ứng đúng là mờ ảo,
xa vời, khó hiểu, lời lẽ [phê phán] trong cơi đời
chẳng tránh khỏi xuyên tạc, thêm thắt. Thế
nhưng Lư rạng ngời, Sự rành rành cũng có chẳng
ít, sao lại nhất loạt bác bỏ là không có? Đối
với những chuyện cần phải thể nghiệm sâu
xa, khó thể tra cứu, suy lường, cái trí thông tục hiếm
có khi lănh hội được, càng phải nên kính sợ,
để lại đó chớ bàn luận, sao lại khổ
công bộp chộp gièm báng? Nếu có kẻ vờ vịt
bày chuyện nhân quả ḥng dối gạt kẻ ngu, lừa
bịp thế tục, ai nấy đều phải nên bài
xích, đả phá; chứ đối với những bậc
khéo dẫn chuyện báo ứng để khuyên đời, lợi
lạc cơi tục, đại cơ đại quyền lập
ra những lời dạy bảo chánh đáng, lợi ích cơi
đời rất nhiều, cớ ǵ cứ khăng vội
vă gạt bỏ? V́ thế, ắt phải là bậc hiếu
học, suy nghĩ sâu xa, khiêm tốn, biết kiềm chế,
hiểu rơ tường tận, khéo vận dụng trí thức,
chẳng mặc t́nh khuấy loạn th́ mới thật sự
là bậc thông thạo trong giới khoa học vậy!
Lại
có người đọc tác phẩm này, thấy nêu ra các
chuyện chứng thực toàn là chuyện cũ người
xưa, bèn cho là chẳng phù hợp thời thế khít khao,
coi những chuyện sách đă kể như chó rơm. Nghe
xong lờ đi là được rồi, sao cứ phải
khăng khăng ôm ḷng chê bai là viễn vông, vớ vẩn?
Tôi cho rằng, sự việc trong thiên hạ có Lư, có Sự.
Đời có thể đổi khác, nhưng tánh con người
chẳng khác, sự có thể biến đổi, nhưng ḷng người chẳng cần biến đổi! Tánh chẳng
khác, tâm bất biến, vậy th́ Lư ấy luôn tồn tại.
Các nhà Duy Thức từ Sự mà t́m ra Lư, dùng Lư để ứng
Sự, vậy th́ người xưa chuyện cũ có thể
dùng để giúp cho thời nay thường chuyển pháp
luân. Đối với tác phẩm này, nếu có người
có thể nêu bày những sự việc khác, phù hợp khít
khao hiện thời để thay thế, cố nhiên là chuyện
tốt đẹp. Nhưng nếu chưa có, th́ bản
xưa cũng đủ để ứng dụng rồi,
tùy thuộc độc giả tự lựa chọn như
thế nào!
Nhằm
đang lúc thời thế suy vi, đạo học tuyệt
diệt, đang buổi ḷng người suy đồi, vùi
lấp, có những bậc lo cho đời, mạnh mẽ
phát chí khuông pḥ mỹ tục, đề xướng in bộ
Vựng Biên này, sai tôi viết lời tựa, bảo là có thể
giúp lưu truyền rộng răi ḥng phụ trợ giáo hóa cơi
đời! Than ôi! Sự giáo hóa cơi đời hưng thịnh
vốn do mạng trời, tôi c̣n chẳng đủ thời
gian để phản tỉnh, há dám rườm lời tán
trợ, tuyên truyền! Nhưng thấy người ấy
ḷng thành, bèn lược thuật những điều tâm
đắc của chính ḿnh khi đọc Vựng Biên tŕnh
lên, nguyện những người có ḷng nhân trong thiên hạ gắng
sức, cũng như đề nghị đại chúng
đọc kinh hăy nên đọc đi đọc lại bộ
sách này. Chẳng đầy năm ngày hoặc một tuần,
sẽ có thể ghi nhớ nằm ḷng, ắt sẽ
được thọ dụng suốt đời chẳng
hết. Người có thể hiểu văn nghĩa, hăy
để bộ sách này bên cạnh chỗ thường ngồi,
luôn luôn giở xem, ắt sẽ được lợi ích
tăng tấn nơi sự tu tập và đức hạnh
chẳng thể lường được!
Ngày
Rằm tháng Sáu, Trung Hoa Dân Quốc năm 87 (1998), Vương
Tài Quư kính đề
Lời
tựa tái bản
Thiên
sách này dùng hai chữ Cảm Ứng để đặt
tên. Cảm chính là nhân, Ứng chính là quả. Bốn câu mở
đầu [của thiên sách này] là: “Họa phước vô môn, duy nhân tự triệu. Thiện
ác chi báo, như ảnh tùy h́nh” (Họa
phước chẳng có cửa, do con người tự chuốc
lấy. Thiện báo, ác báo như bóng theo h́nh), xiển
dương lư nhân quả, báo ứng “làm lành được phước, tạo ác mắc họa” hết
sức đơn giản, rơ ràng. Nếu ai có thể hiểu
lư nhân quả, biết làm ác nhất định mắc họa
hại, ắt dẫu bị ép làm chuyện ác, trong tâm ắt
kiêng sợ, chẳng dám làm theo! Biết làm lành nhất định
được phước lộc, ắt tâm cũng mong cầu,
tuy bị ngăn trở làm lành, cũng chẳng chịu
thôi! Pháp sư Ấn Quang từng bảo: “Nhân quả là phương tiện to lớn để
thánh nhân thế gian và xuất thế gian b́nh trị thiên hạ,
độ thoát chúng sanh. Trong
thế gian hiện thời, nếu chẳng đề xướng
sự lư nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi, mà muốn
cho thiên hạ thái b́nh, nhân dân an lạc, dẫu Phật, Tổ,
thánh hiền cùng xuất hiện, cũng chẳng làm sao
được!”
Cảm
Ứng Thiên tuy trích từ Đạo Tạng, nhưng lời chú giải phần nhiều trích từ sách
Nho, kinh Phật. Đọc một quyển sách mà t́m
được nghĩa lư tinh hoa trong tam giáo. Đó là một
điều vui sướng.
Vựng
Biên là tác phẩm hội tập các bản chú giải xưa nay, tra cứu cặn
kẽ để chọn lựa, đă tinh vi lại càng
thêm tinh vi, biên tập thành sách. Do vậy, đọc bộ
sách Vựng Biên, tức là đă đọc trọn hết
các bản chú giải Cảm Ứng Thiên vậy. Đấy
là hai điều vui sướng.
Tài
nghệ của người biên tập xuất sắc cao
trỗi, chẳng ai sánh bằng. Độc giả có
được người hướng dẫn tốt lành
này, tâm lượng do vậy rộng mở, phước
duyên do đấy được vun bồi rộng răi.
Đó là ba điều vui sướng.
Những
câu danh ngôn chí lư của Nho giáo, công phu chánh tâm thành ư, yếu
quyết tu thân tề gia đă được bộ sách này
thu thập quá nửa. Từ tác phẩm này, cũng có thể
thấy đại lược phần nào Văn Tự Bát
Nhă của Phật môn. Yếu nghĩa nhiếp tâm của
Đạo gia cũng được thu vén vào bộ sách này.
Đó là bốn điều vui sướng.
V́
thế, Vựng Biên không chỉ đứng đầu trong
các bản chú giải Cảm Ứng Thiên, mà thật sự
là vua của hết thảy các thiện thư vậy. Hễ
ai được gặp gỡ, chính là người có phước.
Có thể đọc một mạch từ đầu đến
cuối, lắng tâm tĩnh khí, nghiền ngẫm nhiều
phen, lănh hội trong tâm, vận dụng vào cách cư xử,
sẽ là người đại phước. Nếu lại
c̣n thấu đạt lẽ tinh túy, [sẽ nhận biết
bí quyết] thành thánh, thành hiền, làm Phật, làm Tổ
đều trọn hết trong ấy. Người sống
trong cơi đời, chẳng thể không đọc bộ
sách vua của các sách này, trầm luân bao kiếp dài lâu, không
cách nào tự thoát, há chẳng phải là chuyện đại bất hạnh ư?
Cảm
Ứng Thiên được chú giải minh bạch như thế,
tường tận như thế, thấu triệt như
thế, khẩn thiết như thế, khác nào mạng lệnh
ở sát ngay bên tai, khác nào lớn tiếng ḥ hét ư? Tấm
ḷng bi mẫn lệ tuôn theo từng
câu nói. Hữu duyên đọc đến
sách này, hăy nên tự quay đầu, há c̣n ngờ chi? Hai
trăm chín mươi ba điều thiện ác được
chép trong thiên sách này, lớn nhỏ đều đủ cả,
nguyện khắp đại chúng siêng tŕ thiên sách này. Hăy nên
luôn luôn thầm nhớ trong ḷng, từng chữ đều
áp dụng nơi thân, những chuyện trái lẽ, dần
dần ít đi. Ngày nào cũng như thế, năm nào
cũng như vậy, tự nhiên mọi hành vi đều
là thiện, tiếp xúc nơi đâu cũng là thiện, sẽ
tự trừ khổ được vui, có phước,
không họa, có cát, chẳng hung vậy!
Tháng
Năm năm 1959, Lâm Hiệp Am ở Phật Sơn do tái bản
bèn kính cẩn đề tựa.
Lời
tựa tái bản Cảm Ứng Vựng Biên
Tấm
ḷng của trời đất là tấm ḷng chí thiện. Con
người do khí thiên địa hóa sanh, tánh vốn đều
lành, nhưng để khơi gợi, dẫn dụ, cổ
vũ, vun bồi niềm tin, ắt đều nhờ vào
sách Cảm Ứng. Nay nói những điều lành với
người đời, khiến họ chẳng dám làm
điều sai trái, riêng ḿnh sách Cảm Ứng [có tác dụng
ấy]. Thường là những kẻ coi thường, đọc
lướt qua, thậm chí nhăn mày chẳng vui, xét ra, ư họ
cứ ngỡ “thuyết cảm ứng dùng để dạy
kẻ ác, ta chẳng có điều ác ǵ, đọc để
làm chi?” Riêng tôi cho rằng, không phải đă là người
lành th́ chẳng thể đọc thiện thư. V́ lẽ
nào vậy? Do thiện sẽ cảm thiện, như keo bỏ
vào sơn, như tô ḥa với lạc, có cùng căn khí, có cùng
loại, sẽ cảm lẫn nhau, tự nhiên [sẽ thấy
những lời dạy trong sách] ư vị nồng nàn, mỗi
ngày một có công hiệu. Tôi tin là như thế. Chẳng
phải hễ là người lành th́ không nên đọc thiện
thư, làm thiện sự, lập thiện luận! Hay là
như tôi c̣n nói, Nho và Đạo nói “cảm ứng” giống
như Thích giáo nói nhân quả. Cảm chính là nhân, Ứng
chính là quả. V́ thế, dùng thiện để cảm, sẽ
được phước quả. Dùng bất thiện
để cảm, sẽ mắc khổ quả. Dùng Lục
Độ vạn hạnh Vô Thượng Bồ Đề
để cảm, sẽ đắc Phật quả. Dùng
siêng tu Tịnh Độ niệm Phật cầu văng sanh
để cảm, sẽ đắc quả nơi đài
sen trong cơi Cực Lạc. Chẳng có cảm nào không phải
là nhân, chẳng có ứng nào không phải là quả. Cảm ứng
đă rơ ràng, nhân quả càng thêm tỏ lộ. Các pháp thế
gian và xuất thế gian, chẳng có pháp nào không thể dùng
sách này để làm bậc thang [tấn nhập]. Chỉ
mong nhà nào cũng có bộ sách này, tin nhận, phụng hành.
Thiện niệm ngày càng chan chứa, tâm địa ngày càng
thanh tịnh. Dùng đó để hồi hướng Tịnh
Độ, cầu sanh Cực Lạc. Tiến lên là cầu
Phật quả, sẽ chẳng khó khăn. Khắc in lại
bộ sách này há chẳng phải là một điều hết
sức vui sướng ư? Do vậy viết lời tựa.
Niên
hiệu Quang Tự đời Thanh, tháng Ba năm Bính Thân
(1896), Đại Liên cư sĩ Trương Bính Viêm rửa
tay kính đề
Lời
thưa tŕnh khuyên đọc Cảm Ứng Thiên Vựng Biên
Tuy
Cảm Ứng Thiên phát xuất từ Đạo Tạng,
nhưng lời chú giải phần nhiều trích dẫn từ
sách Nho, kinh Phật. Đọc một quyển sách mà nắm
được nghĩa lư tinh hoa của tam giáo. Đấy
là điều vui sướng thứ nhất. Vựng Biên
là tác phẩm biên tập các bản chú giải xưa nay, tra
cứu cặn kẽ để chọn lựa, đă tinh
vi lại càng thêm tinh vi, biên tập thành sách. Do vậy, đọc
bộ sách Vựng Biên, tức là đă đọc trọn hết
các bản chú giải Cảm Ứng Thiên vậy. Đấy
là hai điều vui sướng. Tài nghệ của người
biên tập xuất sắc cao trỗi, chẳng ai sánh bằng.
Độc giả có được người hướng
dẫn tốt lành này, tâm lượng do vậy rộng mở,
phước duyên do đấy được vun bồi rộng
răi. Đó là ba điều vui sướng. Những câu danh
ngôn chí lư của Nho giáo, công phu chánh tâm thành ư, yếu quyết
tu thân tề gia đă được bộ sách này thu thập
quá nửa. Từ tác phẩm này cũng có thể thấy đại
lược phần nào Văn Tự Bát Nhă của Phật
môn. Yếu nghĩa nhiếp tâm của Đạo gia
cũng được thu vén trong bộ sách này. Đó là bốn
điều vui sướng.
V́
thế, Vựng Biên không chỉ đứng đầu trong
các bản chú giải Cảm Ứng Thiên, mà thật sự
là vua của hết thảy các thiện thư vậy. Hễ
ai được gặp gỡ, chính là người có
phước. Có thể đọc một mạch từ
đầu đến cuối, lắng tâm tĩnh khí, nghiền
ngẫm nhiều phen, lănh hội trong tâm, vận dụng vào
cách cư xử, sẽ là người đại phước.
Nếu lại c̣n thấu đạt lẽ tinh túy, [sẽ
nhận biết bí quyết] “thành thánh, thành hiền, làm Phật,
làm Tổ” đều ở trong ấy. Người sống
trong cơi đời, chẳng thể không đọc bộ sách
vua của các sách này, trầm luân bao kiếp dài lâu, không cách
nào tự thoát, há chẳng phải là chuyện đại bất hạnh ư?
Cảm
Ứng Thiên được chú giải minh bạch như thế,
tường tận như thế, thấu triệt như
thế, khẩn thiết như thế, khác nào mạng lệnh
ở sát ngay bên tai, khác nào lớn tiếng ḥ hét. Tấm ḷng
bi mẫn lệ tuôn theo từng
câu nói. Hữu duyên đọc đến
sách này, hăy nên tự quay đầu, há c̣n ngờ chi? Những
người gặp ác báo được chép trong Vựng
Biên, cứ ùa đến chỗ chết như loài c̣, đến
chết vẫn chẳng ngộ, đều là do cả
đời chưa từng đọc Cảm Ứng Thiên. Cảm
Ứng Thiên lợi ích nhân sinh, há chẳng phải là đường
tắt duy nhất để chuyển họa thành phước,
hoặc cũng có thể coi là pháp môn bất nhị để siêu phàm nhập thánh đấy ư?
Thái Thượng Cảm Ứng
Thiên (nguyên văn)
Thái Thượng viết: - Họa
phước vô môn, duy nhân tự triệu. Thiện ác chi báo,
như ảnh tùy h́nh. Thị dĩ, thiên địa hữu
tư quá chi thần. Y nhân sở phạm khinh trọng,
dĩ đoạt nhân toán. Toán giảm tắc bần hao,
đa phùng ưu hoạn, nhân giai ố chi, h́nh họa tùy
chi, cát khánh tỵ chi, ác tinh tai chi. Toán tận tắc tử,
hựu hữu Tam Thai, Bắc
Đẩu thần quân, tại nhân đầu thượng,
lục nhân tội ác, đoạt kỳ kỷ toán. Hựu
hữu Tam Thi thần, tại nhân thân trung, mỗi đáo
Canh Thân nhật, triếp thượng nghệ thiên tào, ngôn
nhân tội quá. Nguyệt hối chi nhật, Táo thần diệc
nhiên. Phàm nhân hữu quá, đại tắc đoạt kỷ,
tiểu tắc đoạt toán. Kỳ quá đại tiểu,
hữu sổ bách sự, dục cầu trường sanh giả,
tiên tu tỵ chi.
Thị đạo tắc tấn,
phi đạo tắc thoái. Bất lư tà kính, bất khi ám thất.
Tích đức lũy công, từ tâm ư vật, trung hiếu
hữu đễ, chánh kỷ hóa nhân, căng cô tuất quả,
kính lăo hoài ấu. Côn trùng thảo mộc, do bất khả
thương. Nghi mẫn nhân chi hung, nhạo nhân chi thiện.
Tế nhân chi cấp, cứu nhân chi nguy. Kiến nhân chi
đắc, như kỷ chi đắc. Kiến nhân chi thất,
như kỷ chi thất. Bất chương nhân đoản,
bất huyễn kỷ trường. Át ác dương thiện,
thôi đa thủ thiểu. Thọ nhục bất oán, thọ
sủng nhược kinh. Thi ân bất cầu báo. Dữ nhân
bất truy hối, sở vị thiện nhân, nhân giai kính
chi, thiên đạo hựu chi, phước lộc tùy
chi, chúng tà viễn chi, thần linh vệ chi, sở tác tất
thành, thần tiên khả kư. Dục cầu thiên tiên giả,
đương lập nhất thiên tam bách thiện. Dục
cầu địa tiên giả, đương lập tam
bách thiện.
Cẩu
hoặc phi nghĩa nhi động, bối lư nhi hành, dĩ
ác vi năng, nhẫn tác tàn hại, âm tặc lương thiện,
ám vũ quân thân, mạn kỳ tiên sinh, bạn kỳ sở
sự, cuống chư vô thức, báng chư đồng học,
hư vu trá ngụy, công kiết tông thân, cang cường bất
nhân, ngận lệ tự dụng, thị phi bất
đang, hướng bối quai nghi, ngược hạ thủ
công, siểm thượng hy chỉ, thọ ân bất cảm,
niệm oán bất hưu, khinh miệt thiên dân, nhiễu loạn
quốc chánh, thưởng cập phi nghĩa, h́nh cập vô
cô, sát nhân thủ tài, khuynh nhân thủ vị, tru hàng lục
phục, biếm chánh bài hiền, lăng cô bức quả,
khí pháp thọ lộ. Dĩ trực vi khúc, dĩ khúc vi trực.
Nhập khinh vi trọng, kiến sát gia nộ. Tri quá bất
cải, tri thiện bất vi, tự tội dẫn tha, ung
tắc phương thuật, sán báng thánh hiền, xâm
lăng đạo đức. Xạ phi trục tẩu,
phát trập kinh thê, điền huyệt phúc sào,
thương thai phá noăn. Nguyện nhân hữu thất, hủy
nhân thành công. Nguy nhân tự an, giảm nhân tự ích. Dĩ
ác dịch hảo, dĩ tư phế công. Thiết nhân chi
năng, tế nhân chi thiện. H́nh nhân chi xú, kiết nhân chi
tư, hao nhân hóa tài, ly nhân cốt nhục, xâm nhân sở ái,
trợ nhân vi phi. Sính chí tác oai, nhục nhân cầu thắng.
Bại nhân miêu giá, phá nhân hôn nhân. Cẩu phú nhi kiêu, cẩu
miễn vô sỉ. Nhận ân thôi quá, giá họa mại ác, cô
măi hư dự, bao trữ hiểm tâm. Tọa nhân sở
trường, hộ kỷ sở đoản, thừa oai
bách hiếp, túng bạo sát thương. Vô cố tiễn
tài, phi lễ phanh tể, tán khí ngũ cốc, lao nhiễu
chúng sanh. Phá nhân chi gia, thủ kỳ tài bảo, quyết thủy
phóng hỏa, dĩ hại dân cư. Vặn loạn quy mô,
dĩ bại nhân công. Tổn nhân khí vật, dĩ cùng nhân dụng.
Kiến tha vinh quư, nguyện tha lưu biếm. Kiến tha
phú hữu, nguyện tha phá tán. Kiến tha sắc mỹ, khởi
tâm tư chi. Phụ tha hóa tài, nguyện tha thân tử. Can cầu
bất toại, tiện sanh chú hận. Kiến tha thất
tiện, tiện thuyết tha quá. Kiến tha thể tướng
bất cụ nhi tiếu chi. Kiến tha tài năng khả xưng
nhi ức chi. Mai cổ yếm nhân, dụng dược sát
thụ. Khuể nộ sư phó, chỉ xúc phụ huynh. Cưỡng
thủ cưỡng cầu, hiếu xâm hiếu đoạt,
lỗ lược trí phú, xảo trá cầu thiên, thưởng
phạt bất b́nh, dật lạc quá tiết. Hà ngược
kỳ hạ, khủng hách ư tha. Oán thiên vưu nhân, ha
phong mạ vũ. Đấu hợp tranh tụng. Vọng
trục bằng đảng. Dụng thê thiếp ngữ, vi
phụ mẫu huấn. Đắc tân vong cố. Khẩu thị
tâm phi. Tham mạo ư tài, khi vơng kỳ thượng. Tạo
tác ác ngữ, sàm hủy b́nh nhân. Hủy nhân xưng trực,
mạ thần xưng chánh, khí thuận hiệu nghịch. Bối
thân hướng sơ. Chỉ thiên địa dĩ chứng
bỉ hoài, dẫn thần minh nhi giám ổi sự. Thí dữ
hậu hối, giả tá bất hoàn, phận ngoại doanh
cầu, lực thượng thi thiết. Dâm dục quá
độ, tâm độc mạo từ. Uế thực ủy
nhân. Tả đạo hoặc chúng. Đoản xích hiệp
độ, khinh xứng tiểu thăng. Dĩ ngụy tạp
chân, thải thủ gian lợi. Áp lương vi tiện, mạn
mộ ngu nhân, tham lam vô yếm. Chú trớ cầu trực.
Thị tửu bột loạn. Cốt nhục phẫn tranh.
Nam bất trung lương, nữ bất nhu thuận. Bất
ḥa kỳ thất, bất kính kỳ phu. Mỗi hiếu
căng khoa, thường hành đố kỵ. Vô hạnh
ư thê tử, thất lễ ư cữu cô, khinh mạn
tiên linh. Vi nghịch thượng mạng, tác vi vô ích, hoài hiệp
ngoại tâm. Tự chú chú tha, thiên tăng thiên ái. Việt tỉnh
việt táo, khiêu thực khiêu nhân. Tổn tử đọa
thai, hành đa ẩn tịch. Hối lạp ca vũ, sóc
đán hiệu nộ. Đối Bắc thế thóa cập
nịch. Đối táo ngâm vịnh cập khốc. Hựu
dĩ táo hỏa thiêu hương, uế sài tác thực. Dạ
khởi lơa lộ, bát tiết hành h́nh. Thóa lưu tinh, chỉ
hồng nghê, triếp chỉ tam quang. Cửu thị nhật
nguyệt. Xuân nguyệt liệu liệp. Đối Bắc
ác mạ, vô cố sát quy đả xà.
Như thị đẳng tội,
Tư Mạng tùy kỳ khinh trọng, đoạt kỳ kỷ
toán. Toán tận tắc tử, tử hữu dư trái, năi
ương cập tử tôn. Hựu chư hoạnh thủ
nhân tài giả, năi kế kỳ thê tử gia khẩu dĩ
đương chi, tiệm chí tử táng. Nhược bất
tử táng, tắc hữu thủy hỏa đạo tặc,
di vong khí vật, tật bệnh, khẩu thiệt chư sự,
dĩ đáng vọng thủ chi trực. Hựu
uổng sát nhân giả, thị dịch đao binh nhi
tương sát dă. Thủ phi nghĩa chi tài giả, thí
như lậu bô cứu cơ, trấm tửu chỉ khát,
phi bất tạm băo, tử diệc cập chi.
Phù tâm khởi ư thiện,
thiện tuy vị vi, nhi cát thần dĩ tùy chi. Hoặc tâm
khởi ác, ác tuy vị vi, nhi hung thần dĩ tùy chi. Kỳ
hữu tằng hành ác sự, hậu tự cải hối,
chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, cửu cửu
tất hoạch cát khánh. Sở vị chuyển họa vi
phước dă. Cố cát nhân ngữ thiện, thị thiện,
hành thiện, nhất nhật hữu tam thiện, tam niên
thiên tất giáng chi phước. Hung nhân ngữ ác, thị
ác, hành ác, nhất nhật hữu tam ác, tam niên thiên tất
giáng chi họa, hồ bất miễn nhi hành chi?
太上感應篇
太上曰。禍福無門。惟人自召。善惡之報。如影隨形。是以天地有司過之神。依人所犯輕重。以奪人算。算減則貧耗。多逢憂患。人皆惡之。刑禍隨之。吉慶避之。惡星災之。算盡則死。又有三台北斗神君。在人頭上。錄人罪惡。奪其紀算。又有三尸神。在人身中。每到庚申日。輒上詣天曹。言人罪過。月晦之日。灶神亦然。凡人有過。大則奪紀。小則奪算。其過大小。有數百事。欲求長生者。先須避之。
是道則進。非道則退。不履邪徑。不欺暗室。積德累功。慈心於物。忠孝友悌。正己化人。矜孤恤寡。敬老懷幼。昆蟲草木。猶不可傷。宜憫人之凶。樂人之善。濟人之急。救人之危。見人之得。如己之得。見人之失。如己之失。不彰人短。不炫己長。遏惡揚善。推多取少。受辱不怨。受寵若驚。施恩不求報。與人不追悔。所謂善人。人皆敬之。天道佑之。福祿隨之。眾邪遠之。神靈衛之。所作必成。神仙可冀。欲求天仙者。當立一千三百善。欲求地仙者。當立三百善。
苟或非義而動。背理而行。以惡為能。忍作殘害。陰賊良善。暗侮君親。慢其先生。叛其所事。誑諸無識。謗諸同學。虛誣詐偽。攻訐宗親。剛強不仁。狠戾自用。是非不當。向背乖宜。虐下取功。諂上希旨。受恩不感。念怨不休。輕蔑天民。擾亂國政。賞及非義。刑及無辜。殺人取財。傾人取位。誅降戮服。貶正排賢。凌孤逼寡。棄法受賂。以直為曲。以曲為直。入輕為重。見殺加怒。知過不改。知善不為。自罪引他。壅塞方術。訕謗聖賢。侵凌道德。射飛逐走。發蟄驚棲。填穴覆巢。傷胎破卵。願人有失。毀人成功。危人自安。減人自益。以惡易好。以私廢公。竊人之能。蔽人之善。形人之醜。訐人之私。耗人貨財。離人骨肉。侵人所愛。助人為非。逞志作威。辱人求勝。敗人苗稼。破人婚姻。苟富而驕。苟免無恥。認恩推過。嫁禍賣惡。沽買虛譽。包貯險心。挫人所長。護己所短。乘威迫脅。縱暴殺傷。無故剪裁。非禮烹宰。散棄五縠。勞擾眾生。破人之家。取其財寶。決水放火。以害民居。紊亂規模。以敗人功。損人器物。以窮人用。見他榮貴。願他流貶。見他富有。願他破散。見他色美。起心私之。負他貨財。願他身死。干求不遂。便生咒恨。見他失便。便說他過。見他體相不具而笑之。見他才能可稱而抑之。埋蠱厭人。用藥殺樹。恚怒師傅。抵觸父兄。強取強求。好侵好奪。擄掠致富。巧詐求遷。賞罰不平。逸樂過節。苛虐其下。恐嚇於他。怨天尤人。呵風罵雨。鬥合爭訟。妄逐朋黨。用妻妾語。違父母訓。得新忘故。口是心非。貪冒於財。欺罔其上。造作惡語。讒毀平人。毀人稱直。罵神稱正。棄順效逆。背親向疏。指天地以證鄙懷。引神明而鑒猥事。施與後悔。假借不還。分外營求。力上施設。淫慾過度。心毒貌慈。穢食餧人。左道惑眾。短尺狹度。輕秤小升。以偽雜真。採取姦利。壓良為賤。謾驀愚人。貪婪無厭。咒詛求直。嗜酒悖亂。骨肉忿爭。男不忠良。女不柔順。不和其室。不敬其夫。每好矜誇。常行妒忌。無行於妻子。失禮於舅姑。輕慢先靈。違逆上命。作為無益。懷挾外心。自咒咒他。偏憎偏愛。越井越灶。跳食跳人。損子墮胎。行多隱僻。晦臘歌舞。朔旦號怒。對北涕唾及溺。對灶吟詠及哭。又以灶火燒香。穢柴作食。夜起裸露。八節行刑。唾流星。指虹霓。輒指三光。久視日月。春月燎獵。對北惡罵。無故殺龜打蛇。如是等罪。司命隨其輕重。奪其紀算。算盡則死。死有餘責。乃殃及子孫。又諸橫取人財者。乃計其妻子家口以當之。漸至死喪。若不死喪。則有水火盜賊。遺亡器物。疾病口舌諸事。以當妄取之值。又枉殺人者。是易刀兵而相殺也。取非義之財者。譬如漏脯救饑。鴆酒止渴。非不暫飽。死亦及之。 夫心起於善。善雖未為。而吉神已隨之。或心起於惡。惡雖未為。而凶神已隨之。其有曾行惡事。後自改悔。諸惡莫作。眾善奉行。久久必獲吉慶。所謂轉禍為福也。 故吉人語善。視善。行善。一日有三善。三年天必降之福。凶人語惡。視惡。行惡。一日有三惡。三年天必降之禍。胡不勉而行之。
(Tạm
dịch[9]:
Thái Thượng nói: - Họa và phước chẳng có cửa
nẻo [nhất định], chỉ do con người tự
chuốc lấy. Thiện báo, ác báo như bóng theo h́nh. V́ thế,
trong trời đất có các vị thần trông coi tội
lỗi [của người đời]. Căn cứ con người
đă phạm [tội lỗi]
nặng hay nhẹ mà giảm bớt
tuổi thọ của họ. Giảm thọ th́ thường
bị nghèo túng, hao tổn, gặp nhiều nỗi ưu
tư, hoạn nạn, ai nấy đều ghét bỏ. H́nh
phạt, tai họa theo đến, chẳng
gặp những sự tốt lành, mừng vui. Sao ác gieo tai
họa. Tuổi thọ đă hết phải chết. Lại
có Tam Thai, Bắc Đẩu thần quân ở trên đầu
con người, ghi chép tội ác của họ để
tước bớt tuổi thọ. Lại có thần Tam Thi
ở trong thân người, mỗi khi đến ngày Canh
Thân, liền lên chốn thiên tào, tâu tội lỗi của
con người. Vào ngày cuối tháng, Táo thần cũng vậy.
Hễ ai có lỗi, nặng th́ giảm thọ mười
hai năm, nhỏ th́ giảm thọ một trăm ngày. Tội
lỗi lớn nhỏ của con người, có đến
mấy trăm chuyện. Kẻ mong sống lâu, trước
hết hăy nên tránh né.
Hợp
đạo th́ tiến, trái đạo th́ lui. Chẳng theo
đường tà, chẳng dối lừa dẫu ở trong
pḥng tối. Tích lũy công đức, từ tâm đối
với muôn loài, trung, hiếu, thuận thảo với anh
em. Sửa ḿnh, dạy người. Thương xót con côi, cứu
giúp quả phụ. Kính già, thương trẻ. Côn trùng, thảo
mộc chớ nên thương tổn. Hăy nên xót
thương kẻ ác, vui v́ điều thiện của họ,
giúp người trong cơn nguy cấp. Thấy người
khác đạt được, [cảm thấy] như chính
ḿnh đạt được. Thấy người khác mất
mát, [cảm thấy] như chính ḿnh bị mất mát. Chẳng
phô bày sự kém cỏi của kẻ khác, chẳng khoe khoang
cái hay của chính ḿnh. Ngăn chặn điều ác, tuyên
dương điều lành. [Khi phân chia], nhường cho
người khác phần nhiều, giữ cho ḿnh phần ít.
Bị nhục chẳng oán, được sủng ái phải
sợ. Thi ân chẳng cầu báo, đă cho người khác
th́ đừng nghĩ lại rồi hối tiếc.
Người được coi là thiện nhân ai cũng
đều kính trọng, đạo trời giúp đỡ họ,
phước lộc thuận theo, các thứ tà quái tránh xa, do
họ được thần linh hộ vệ, việc làm
ắt thành, có thể mong thành thần tiên. Muốn cầu
thành thiên tiên, hăy nên làm một ngàn ba trăm điều lành.
Muốn thành địa tiên, hăy nên làm ba trăm điều
thiện.
Nếu
có kẻ làm những điều phi nghĩa, trái nghịch
đạo lư [như sau]: Coi thủ đoạn độc
ác là tài năng, nhẫn tâm làm chuyện tàn ác, độc hại,
ngầm hại người lương thiện, ngầm
khinh vua và cha mẹ, khinh rẻ thầy dạy, phản bội
người ḿnh phải phụng sự, lừa kẻ không
hiểu biết, gièm báng bạn học, dối trá, hư ngụy,
công kích thân thuộc, ương bướng bất nhân, sử
dụng những thủ đoạn độc ác, tàn nhẫn.
Chẳng phân biệt đúng sai, hành xử không thích đáng[10],
ngược đăi kẻ dưới để lập
công, nịnh bợ kẻ trên để đón ư [cầu lợi].
Chịu ơn [người khác] mà chẳng cảm kích, luôn
ôm ḷng oán hận chẳng
dứt, khinh miệt dân chúng, nhiễu loạn nền chánh
trị trong nước, khen thưởng kẻ phi nghĩa, trừng phạt
người vô tội, giết người cướp của,
lật đổ người khác để chiếm đoạt
địa vị, giết
hại kẻ đă đầu hàng, giáng chức người
ngay, gạt bỏ người hiền, lăng nhục con
côi, bức hại bà góa, coi thường pháp luật mà tiếp
nhận hối lộ. Coi thẳng là cong, lấy cong làm thẳng.
[Kẻ đáng phán] tội nhẹ bèn phạt nặng
hơn. Thấy [người khác mắc tội] đă bị
giết chết mà vẫn c̣n giận dữ. Biết lỗi
chẳng sửa, biết điều thiện mà chẳng
làm. Tự ḿnh có tội, khiến cho kẻ khác liên lụy. Cản
trở tài năng của kẻ khác. Chê bai, báng bổ thánh
hiền. Xâm phạm, lăng nhục bậc đạo
đức. Săn bắn chim thú, phá tổ côn trùng, kinh
động nơi chim đậu, lấp hang, lật tổ,
phá thai, hại trứng. Mong cho người khác phạm sai
lầm, hủy hoại sự thành công của người
khác. Làm người khác lâm nguy để chính ḿnh an ổn. Giảm
trừ lợi ích của người khác để chính
ḿnh được lợi. Dùng thứ xấu thay cho đồ
tốt [trong khi giao dịch]. V́ ḷng riêng tư mà phế trừ
lẽ công. Trộm cắp tài năng của kẻ khác. Che
lấp điều lành của người khác. Phô bày những
điều xấu của người khác. Rêu rao chuyện
riêng tư của người ta. Làm cho kẻ khác hao tổn
tài vật. Chia ĺa cốt nhục của kẻ khác. Xâm phạm
những thứ yêu thích của người khác. Giúp kẻ
khác làm quấy. Phô trương oai thế cho thỏa chí. Làm
nhục người khác để giành phần thắng. Hủy
hoại mùa màng của người ta, phá hoại hôn nhân của
kẻ khác. Vừa mới
giàu có đă kiêu căng, tùy tiện trốn thoát không biết hổ thẹn. Mạo nhận ân huệ,
chối bay tội lỗi. Giá họa, ác ư. Mua bán danh hăo, ôm
ḷng sâu hiểm, ém tài người khác, giấu diếm sự
kém cỏi của chính ḿnh. Cậy oai bức hiếp, phóng
túng hung bạo, giết hại, tổn thương [kẻ
khác]. Vô cớ cắt xén, không có lễ lạc mà giết hại
gia súc. Phung phí ngũ cốc. Khiến cho chúng sanh vất vả,
ưu phiền. Phá hoại nhà người khác, chiếm
đoạt của cải. Phá hoại đê điều,
đốt nhà làm hại dân cư. Làm loạn phép tắc
để khiến cho công sức của người khác bị
thất bại. Phá hoại vật dụng của người
khác khiến họ chẳng sử dụng được.
Thấy người khác vinh hiển, sang cả, mong họ
bị lưu đày, biếm trích. Thấy người khác
giàu có, mong họ tàn mạt. Thấy vợ con người
ta xinh đẹp, nẩy ḷng dan díu. Thiếu nợ người
khác tiền bạc, của cải, bèn mong họ
chết đi. Mong cầu chẳng được toại
ư, sanh ḷng oán hận, chửi rủa. Thấy người
khác sa chân lỡ bước, bèn rêu rao lỗi lầm của
họ. Thấy người khác h́nh hài chẳng vẹn toàn
bèn chê cười. Thấy người khác có tài năng
đáng ca ngợi bèn chèn ép. Chôn bùa ếm đối hại
người. Dùng thuốc giết chết cây cối. Oán giận
thầy dạy của chính ḿnh. Xung đột với cha
anh. Đoạt ngang, cướp cạn, thích xâm lấn, chiếm
đoạt. Cướp bóc để trở nên giàu có. Xảo
trá cầu thăng quan lên chức. Thưởng phạt chẳng
công bằng. Hưởng lạc quá độ. Hà khắc,
ngược đăi cấp dưới. Đe dọa người
khác. Oán trời hờn người. Chửi gió, mắng
mưa. Tranh chấp kiện tụng. Kéo bè kết đảng
làm quấy. Nghe lời thê thiếp, trái nghịch lời cha
mẹ dạy răn. Có mới nới cũ. Tâm khẩu chẳng
nhất trí. Tham lam, xằng bậy
đoạt tiền của, lừa dối bề
trên. Nói lời ác độc, gièm chê, hủy báng người
lành. Hủy báng kẻ khác, tự khoe bản thân chánh trực.
Nhục mạ thần linh, tự xưng ḿnh là chánh
đáng. Bỏ thuận theo nghịch. Phản bội
người thân thuộc, chạy theo người ngoài. Chỉ
trời đất thề thốt làm chứng cho ḷng dạ
xấu xa. Viện dẫn thần minh ḥng chứng giám chuyện
tồi tệ. Cho rồi lại hối. Vay mượn
không trả. Cầu mong quá phận. Dốc hết sức bày vẽ, tạo tác. Dâm dục quá mức. Ḷng dạ thâm độc, ra
vẻ hiền lành. Cho người khác ăn thực phẩm
dơ. Bàng môn tả đạo dối đời. Thước
non, thước thiếu, cân nhẹ, thưng non. Đồ
giả xen lẫn hàng thật. Dùng thủ đoạn để
kiếm lợi gian trá. Chèn ép người lành khiến họ
mạt rệp. Dối gạt kẻ ngu. Tham lam không chán. Thề
thốt để người khác tin ḿnh chánh trực. Ham
nhậu nhẹt, quậy phá. Ruột thịt giận dữ,
tranh chấp. Trai không trung lương. Gái chẳng nhu thuận.
Bất ḥa với vợ. Chẳng kính trọng chồng. Thường
thích khoác lác, kiêu căng. Thường hay ganh tỵ. Đối
xử với vợ con không ra ǵ. Chẳng lễ
phép đối với bố mẹ chồng. Khinh rẻ tổ
tiên. Vi phạm mạng lệnh của bề trên. Làm chuyện
vô ích. Ngầm đổi ḷng thay dạ. Rủa ḿnh, rủa
người. Yêu ghét thiên vị. Nhảy qua giếng và bếp
ḷ. Nhảy qua thức ăn, nhảy qua người khác. Tổn
hại con cái, phá thai. Làm nhiều chuyện ám muội. Ca múa
vào cuối tháng, ngày lạp. Gào hét, giận dữ vào ngày
đầu tháng hoặc sáng sớm. Quay về hướng
Bắc hỉ mũi, khạc nhổ, tiểu tiện.
Đối trước bếp ḷ ca hát, khóc lóc. Lại c̣n
dùng lửa từ bếp ḷ để châm hương. Nấu
thức ăn bằng củi dơ. Ban đêm thức dậy,
thân thể lơa lồ. Hành h́nh nhằm tám ngày Tiết. Hướng
về sao băng khạc nhổ, chỉ trỏ cầu vồng,
bộp chộp chỉ trỏ tam quang, nh́n mặt trời,
mặt trăng thật lâu. Mùa Xuân đốt rừng để
săn bắn. Hướng về phương Bắc chửi
rủa độc địa. Vô duyên vô cớ, đánh giết
rắn rùa.
Đối
với các tội như thế, thần Tư Mạng tùy
theo tội nặng hay nhẹ mà bớt tuổi thọ của
người gây tội. Tuổi thọ đă hết, sẽ phải chết. Đă chết mà c̣n chưa hết
nợ th́ con cháu phải gánh tai ương. Lại c̣n những
kẻ cướp ngang tài vật của người khác
th́ vợ con, cả gia đ́nh của hắn phải hứng
chịu dần dần cho đến chết. Nếu không
chết chóc, sẽ bị những chuyện như tai họa
nước, lửa, trộm cướp, mất mát vật
dụng, bệnh tật, khẩu thiệt để trả
cái giá cướp càn. Lại c̣n những kẻ giết oan
người khác, sẽ đổi lại bị giết
trong chiến tranh. Kẻ chiếm giữ tài sản phi
nghĩa, ví như dùng thịt nhiễm độc[11]
để cứu đói, dùng rượu ngâm lông chim Trấm
để khỏi khát, không chỉ là chẳng tạm no mà
c̣n phải chết. Hễ dấy thiện niệm, tuy
chưa làm lành, cát thần đă đi theo. Tâm móng niệm
ác, tuy chưa làm ác, hung thần đă theo. Nếu kẻ
đă từng làm ác, về sau sửa đổi, hối hận,
chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, lâu
ngày chầy tháng, ắt được cát khánh, đó gọi
là “chuyển họa thành phước” vậy. Do vậy, người
cát tường nói lời lành, xem điều lành, làm điều
lành, mỗi ngày có ba điều lành th́ ba năm trời ắt ban
phước cho. C̣n kẻ ác nói lời ác, xem điều ác,
làm điều ác, mỗi ngày có ba điều ác, ba năm trời
ắt sẽ giáng họa. Sao không cố gắng thi hành vậy
thay?)
Thái Thượng Cảm Ứng Thiên
Chú Giảng Chứng Án Vựng Biên[12],
Quyển một
Thái
Thượng là danh xưng chí tôn, v́ xứng theo ḷng trời
mà lập ra giáo huấn, nhằm dạy con người chớ
nên sơ suất, xem thường. Cảm là như gieo trồng, Ứng như hoa quả. Dùng hai chữ ấy
để đặt tên cho bài văn này, ngụ ư: Hễ có
cảm, ắt sẽ có ứng, mà cũng là hễ cảm
bèn ứng, nêu tỏ lẽ nhân quả báo ứng trong đạo
trời vậy. Tục ngữ có câu: “Trồng dưa được dưa, gieo đậu
được đậu. Lưới trời lồng lộng,
tuy thưa chẳng lọt”. Đấy chính là nói đến
sự cảm ứng. Cả thiên sách này lấy bốn câu đầu tiên làm đề cương, bao gồm toàn bộ ư
nghĩa trong thiên sách.
Tiếp
đó, toàn là những câu nhằm tận lực giảng rơ
bốn câu ấy. Từ câu “thị
dĩ thiên địa hữu tư quá chi thần” (v́ thế,
trời đất có những vị thần trông coi tội
lỗi) cho tới “tiên tu tỵ
chi” (hăy nên tránh né trước), chính là phần luận
định chung về sự giám sát nghiêm ngặt của thần
minh, phạt tội nghiêm khắc, nhằm trước hết
khơi gợi cái tâm kính sợ của mọi người.
Từ câu “thị đạo tắc
tấn” (hợp đạo th́ tiến) cho tới “đương lập tam bách thiện”
(hăy nên làm ba trăm điều thiện) nhằm nói tới chuyện do làm lành mà cảm vời phước báo. Từ câu
“cẩu hoặc phi nghĩa nhi
động” (nếu làm chuyện phi nghĩa) cho tới “ương cập tử tôn”
(tai ương lan tới con cháu) là nói tới quả báo do
chuyện làm ác cảm vời. Sau đấy, lại dùng hai
chuyện cướp đoạt ngang xương và giết
chóc oan uổng để đặc biệt nhắc lại,
nhằm nói tới chuyện làm ác cùng cực! Từ câu “phù tâm khởi ư thiện”
(hễ tâm dấy thiện niệm) cho đến “hung thần dĩ tùy chi” (hung
thần đă theo) nhằm [nhấn
mạnh ư]: Suy đến tận
gốc, lúc ư niệm vừa mới dấy lên, thần minh ngay lập tức soi thấu.
Đối với nền tảng phước và mầm
mống họa, hăy nên thận trọng, kiêng dè, biện
định từ thuở ban đầu! Từ câu “kỳ hữu tằng hành ác sự”
(có kẻ từng làm chuyện ác) cho tới “chuyển họa vi phước” (chuyển họa
thành phước) nhằm dạy [mọi người]
đừng v́ lầm lỗi trước kia mà buông xuôi! Nếu
có thể sửa lỗi, chuyển lành, ắt sẽ chuyển
họa thành phước. Đúng là hết sức dễ
dàng! Đấy chính là ư chỉ chánh yếu trong lời khai
thị của Thái Thượng vậy. Đó gọi là “họa hay phước, không ǵ chẳng
do chính ḿnh cầu” ứng hợp với ư “duy nhân tự triệu” (chỉ
do con người tự chuốc lấy) trong phần
trước.
Phần
tổng kết cuối cùng nêu ra ba chuyện để hành,
đấy chính là khuôn phép trừ khử phiền năo để
phụng hành, tích lũy [công đức]. Câu kết thúc nhằm
cổ vũ [người đọc] hăy thực hành. Một
chữ Miễn (勉, gắng sức) chính là bí quyết trọng yếu
để sửa lỗi, chuyển thành tốt lành, mang ư
nghĩa dặn ḍ sâu thẳm, thiết tha tột bậc vậy!
Thế
đạo chẳng bằng thuở trước, ḷng
người ly tán, bạc bẽo, lễ giáo chẳng thể
khuyến hóa, h́nh phạt chẳng thể cấm đoán. Chỉ
có hai chữ Cảm Ứng là có thể đánh động
lương tâm để [mọi người] thuận theo điều thiện, trừ khử
điều ác. Con người dẫu chẳng sợ phép
vua, chưa có kẻ nào chẳng sợ quỷ thần!
Đối với phép vua, có thể dùng thế lực hoặc
mánh khóe để trốn thoát, đối với quỷ
thần th́ chắc chắn chẳng thể dùng phú quư, nấp kín để tránh né được! V́ thế, có người
viết lời tựa cho thiên sách này đă nói: “Người lành nghe thấy th́
càng được khuyên lơn [ḥng mạnh mẽ thực hiện hơn],
chẳng cần chờ được tưởng thưởng.
Kẻ ác trông thấy, sẽ tự
cảm thấy bất an c̣n hơn bị h́nh phạt giáng
xuống”. Có thể thấy thiên sách này không
chỉ giúp sức cho kinh điển của thánh hiền,
mà c̣n bổ trợ sự giáo hóa của nhà vua nữa kia!
Có
người bảo thiên sách này xuất phát từ Đạo
Tạng, nghi ngờ nó trái nghịch đạo Nho. Nói chung,
kẻ ấy chưa từng nghiên cứu tinh tường sách Nho!
Kinh Dịch dạy: “Tích thiện
chi gia, tất hữu dư khánh. Tích bất thiện chi gia,
tất hữu dư ương” (Nhà tích lũy điều
thiện ắt điều
lành có thừa. Nhà chứa
điều bất thiện, ắt tai ương có thừa).
[Kinh Dịch dùng chữ] Tích (積) cho thấy thiện ác không chỉ là một chuyện.
Chữ “dư” (餘) cho thấy quả báo không chỉ là một
đường. Lời chú giải kinh Dịch nói tóm gọn,
bao quát, sách này nói rơ từng điều. Lại như kinh
Thư có chép: “Tác thiện giáng
chi bách tường. Tác bất thiện giáng chi bách
ương” (Làm lành th́ trăm điều tốt lành giáng xuống.
Làm điều bất thiện th́ trăm điều tai
ương giáng xuống). Kinh Thi ngâm vịnh sự xét soi của
Thượng Đế, Lễ Kư chép sự được
mất của con người. Kinh Xuân Thu th́ chép sự việc
trong phần trước, ghi sự báo ứng trong phần
sau. Những điều được sáu kinh ghi chép toàn là
những lời lẽ tinh ṛng về cảm ứng, há có ǵ
là chẳng ứng với lư này ư?
Thiên
sách này lại ghi chép điều thiện, chuyện ác tỉ
mỉ, cặn kẽ. Ngay như chuyện ca khóc, khạc nhổ,
đều liên quan đến sự giám sát của trời. Do đọc những lời lẽ ấy,
người ta bèn nghi là mơ hồ, vớ vẩn, chẳng thể tra cứu đến
nơi đến chốn, [nghi như vậy tức là] chẳng biết thánh hiều cố nhiên coi trọng đạo “thận trọng nơi những điều
nhỏ nhặt”. Kinh Thư chép: “Tế
hành bất căng, đại đức chi lũy” (Chẳng
cẩn thận nơi những hành vi nhỏ nhặt, sẽ
khiến cho đức lớn bị tổn giảm). Kinh Dịch
nói: “Tiểu nhân dĩ tiểu
thiện vi vô ích nhi bất vi dă, dĩ tiểu ác vi vô thương
nhi bất khử dă. Cố ác tích nhi bất khả
yểm, tội đại nhi bất khả giải” (Tiểu nhân coi điều lành nhỏ là vô ích nên chẳng
làm, cứ nghĩ điều ác nhỏ chẳng tổn hại
ǵ nên chẳng bỏ. Do vậy, điều ác chất chứa chẳng
thể che giấu được, tội to lớn chẳng
thể giải trừ được). Cả bộ sách Lễ
Kư, đối với nhất cử nhất động của
con người đều có khuôn phép, chừng mực. Cổ
nhân dạy mọi người cẩn thận trong từng hành vi nhỏ
nhặt, phần nhiều là như thế đó!
Đời
Minh, tiến sĩ Vương Chí Kiên ở Côn Sơn đọc
rộng răi các sách, lại c̣n thông thạo nội điển
(kinh Phật), thường bảo con em: - Cảm Ứng Thiên nói đến hai
trăm chín mươi ba chuyện. Trong một thiên sách, cạn, sâu,
tinh, thô, trước sau bổ trợ[13] cho
nhau. Như đối với giới sát th́ nói “côn trùng thảo
mộc, do bất khả thương” (côn, trùng, cỏ cây,
chớ nên tổn thương), rất chi ly. Nói “phi lễ
phanh tể” (chẳng phải là lễ lạc
mà giết mổ) tức là chẳng cấm ăn thịt.
Nói “vô cố tiễn tài” (vô cớ mà cắt xén) tức là chẳng
cấm ăn mặc chải chuốt. Lại
nói “xuân nguyệt liệu liệp” (trong tháng mùa Xuân
đốt rừng để săn bắn), nói “vô cố
sát quy đả xà” (vô duyên cớ giết rùa đánh rắn)
dường như là càng thêm khoan dung vậy. Ấy là v́ một
đằng là nói với người học đạo, một
đằng là nói với những kẻ thông tục. Kẻ
học đạo được nghe lời này bèn t́m cầu
chỗ tinh túy, sẽ có thể siêu phàm nhập thánh, mà kẻ
b́nh phàm quen thói tạo nghiệp cũng có thể nhờ
đó mà bỏ những điều quá đáng, chẳng
đến nỗi buông lung không ngăn dè. Cần phải đọc
thiên sách này như thế th́ mới biết là nó chẳng
nói trùng lặp vậy.
Người
tŕ thiên sách này cần phải trong tâm luôn luôn thầm niệm,
đối với từng chữ đều xét lại tự thân, [chính ḿnh] có chuyện ấy hay là không, [nếu
có, sẽ gắng sức] dần dần bỏ bớt. Hằng
ngày như thế, hằng năm như vậy, tự nhiên
mọi hành động đều là thiện, tiếp xúc chỗ
nào cũng là thiện. Trong quyển đầu tiên của
các bản in khác có chép nghi thức tŕ tụng, và các thánh hiệu,
dụng ư chỉ nhằm dạy người ta nhiếp tâm làm lành, học
theo chuyện ông Triệu Duyệt Đạo[14]
[hằng ngày] thắp hương thưa với trời những chuyện
đă làm [trong mỗi ngày] đó thôi. Nếu chẳng thật t́nh
phụng hành, chỉ tụng niệm suông ḥng cầu phước,
tức là đă sai lầm quá xa rồi!
Thiên
sách này chuyên nhằm khuyên con người chuyên dụng tâm để tu sửa những điều sai trái mà nói. Nho giáo có lư “huệ cát, nghịch hung” (惠吉逆凶, thuận theo điều nhân từ, sẽ
có điều tốt lành đưa tới; ngả
theo điều trái lẽ nghịch đạo, sẽ
có chuyện hung hiểm đưa tới). Có được
tác phẩm này (Cảm Ứng Thiên) càng cảm thấy
tường tận, rơ ràng gấp bội! Thích giáo (đạo
Phật) có thuyết nhân quả luân hồi. Đọc thiên
sách này, sẽ có thể thấy đại khái [giáo thuyết
ấy]. Quán thông tam giáo, dù hành những chuyện khác nhau, mà
đạt thành tựu như nhau, đúng là bậc thềm
để siêu phàm nhập thánh, thật sự là con
đường để chuyển họa thành phước.
Khuyên trọn khắp những người cùng hàng, hăy tin,
nhận, phụng hành. Những chuyện linh nghiệm sẽ
được tŕnh bày như dưới đây.
Đời
Nam Tống, huyện lệnh huyện Nga Mi là Vương
Tương, vào năm Thiệu Hưng 31 (1161) đă phát tâm
thề hành mấy chục chuyện trong thiên sách này. Một
ngày nọ, do bệnh mà ngất lịm, con cái vây quanh khóc
lóc. Vương Tương cảm thấy thân thể như đang ở trên không trung, nghe tiếng
khóc nhỏ rí như tiếng ong, tiếng ruồi. Trong chốc
lát, có vị thần nói: “Vương Tương vừa mới
toan dốc sức thực hiện Cảm Ứng Thiên, hăy
nên mau thả về”. Về sau, ông thọ đến một
trăm lẻ hai tuổi!
Đời
Nam Tống, Châu Tŕ ở phủ Toại Ninh hằng ngày tụng
thiên sách này. Lại thích giảng nói cho người khác. Giữa
Xuân năm Thiệu Hưng 21 (1151), chết bất ngờ, trải qua một ngày mới sống lại, bảo vợ: - Ta tới
âm ty, thấy hai bên đều là những người bị
chết đói trong làng. Trên điện, có một vị
quan gọi ta, dặn ḍ: “Ngươi vốn có tên trong sổ
những kẻ đói kém. Do kiền thành phụng hành Cảm
Ứng Thiên, giảng nói cho người khác. Kẻ nghe xong,
hồi tâm làm lành rất nhiều. Nay sửa cho người
được hưởng lộc thọ. Nếu vẫn kiên
cố tu tŕ, có thể chứng đại đạo, chẳng
trở lại chỗ này nữa”. Tôi đi ra, gặp một
viên nha lại, [ông ta] căn dặn: “Ngươi sống lại,
càng nên lưu truyền rộng răi thiên sách này. Nếu một
vùng thọ tŕ, ắt một vùng sẽ thoát nạn. Thiên hạ
thọ tŕ, ắt thiên hạ ấm no, thịnh trị.
Người truyền dạy, kẻ thọ tŕ, công nghiệp
đều chẳng cạn! Không chỉ là thoát khỏi các tai ách nước,
lửa, binh đao, giặc cướp, bệnh
tật, mà cầu con nối dơi, cầu thọ, cầu lộc,
cầu tiên đều như đă nói trong kinh này”.
Đời Minh, Dương
Thủ Nghiệp ở Hà Gian[15], hằng ngày tụng thiên
sách này. Tuổi đă sáu mươi mà chẳng có con. Năm
Vạn Lịch thứ sáu (1578), bị bệnh chết,
đột nhiên sống lại, bảo người nhà: “Ta
tới cơi âm, thấy một vị quan cầm sổ bộ
điểm danh, bảo ta vốn không có con, do luôn tụng Cảm
Ứng Thiên sẽ được
tăng lộc và thọ, ban cho một con”. Năm sau, quả
nhiên sanh một trai, [đứa con ấy] phụng
dưỡng cha mẹ, chôn cất chu đáo, lại c̣n
đỗ đạt.
Đời
Tống, Lư Xương Linh người Tây Thục, làm Thái
Thú ở Quang Châu[16],
xử lại các vụ án bắt giam oan uổng, hết sức
có tiếng tăm. Ông chú giải tường tận Thái
Thượng Cảm Ứng Thiên, khiến cho người
đọc do sự mà t́m được Lư, góp phần tuyên
dương, giáo hóa. Những ư nghĩa chánh yếu trong kinh
này được tỏ lộ rạng rỡ trong cơi đời.
Ông làm quan đến chức Ngự Sử Trung Thừa,
phước lẫn thọ đều cao.
Đời
Tống, Trịnh Thanh Chi ở Việt Quốc đă từng
dâng thiên sách này lên Tống Lư Tông. Sau khi lên ngôi, nhà vua ban tiền
để ông khắc ván in ra. Vua đích thân viết hai câu “đừng làm các điều ác,
vâng làm các điều lành” ở đầu thiên sách. Từ
đó, người phụng hành càng đông. Thanh Chi đă từng
hứa soạn bài tán [ca ngợi sách Cảm Ứng Thiên], nhưng
chưa làm, do vậy bị bệnh mắt có mộng thịt.
Ông gắng hết sức chống chọi cơn bệnh để
soạn bài tán, mắt liền khỏi. Về sau, được
giữ chức quan trọng cơ mật, làm Đồng
Tri Xu Mật Viện Sự[17].
Vương
Trúc ở Thai Châu, có con trai tên là Tịnh, bốn tuổi bị
bệnh chết. Họ Vương đau buồn khôn xiết,
phát tâm khắc in thiên sách này, mong cầu đứa con trai đă
mất sẽ quay lại làm con lần nữa. Vợ quả
nhiên có thai. Do tới Hoàng Nham dâng hương, chợt giống
như cùng với Tịnh ngồi cùng kiệu về nhà. Vợ
sanh con ra, đặt tên là Sư Hồi, diện mạo giống
như trước chẳng khác. Cốt nhục lại
được vẹn toàn.
Dương Sâm ở huyện
Hoàng Nham thấy người khác khắc in thiên sách này, tự
nghĩ ḿnh chẳng có sức, bèn tùy duyên, góp tiền khắc
ván trang thứ mười bảy. Mộng thấy thần
bảo: “Sẽ đậu giống như ông đă khắc”.
Quả nhiên, đỗ Tiến Sĩ hạng mười bảy.
Trầm
Cầu ở Nam Trực do vợ là Hạng
thị có thai lắm bệnh, bèn phát tâm khắc [Cảm Ứng
Thiên] thành một quyển sách nhỏ để người
khác thuận tiện tŕ tụng. Hôm thợ khắc mang bản
in đến nhà, vợ sanh được một trai, mẹ
và con đều khỏe mạnh.
Uông
Tĩnh Hư ở Hàng Châu có ư định khắc ván [Cảm
Ứng Thiên] để thí rộng răi. Do quan chức nhỏ
nhoi [chẳng có nhiều tiền bạc], nên chưa tṛn nguyện.
Con ông ta là Nguyên bèn nối chí cha, bỏ tài sản ra để
khắc ván thành công, dùng nhiều cách khuyến mộ các thiện
sĩ đóng góp, in thí một vạn bộ. Ông Nguyên mộng
thấy cha bảo: “Con đă khéo thành tựu chí nguyện của
cha, khuyến thiện, bố thí trọn khắp. Cha đă sanh lên trời, mẹ con cũng thọ. Mọi
người và con đều được ghi tên vào sổ
lành”.
Vương
Tốn ở Giản Châu bị bệnh đă lâu, [bỗng
thấy ḿnh] đến âm phủ. Thấy một nha môn, biển
đề bằng chữ vàng, ghi
Đông Nhạc Phủ. Bên trái ṭa điện có một tấm
bia chạm chữ bằng vàng, [nội dung] chính là bài Cảm
Ứng Thiên. Vương Tốn đọc một lượt,
hoan hỷ, cung kính. Liền nghe thần nói: “Vương Tốn
vừa thấy chân kinh, liền sanh ḷng kính mộ như vậy.
Nếu từ rày trở đi có thể phụng hành, kiêm
tŕ giới sát, sẽ tự nhiên bệnh lành, thân an, chẳng
cần ở chỗ này”. Bèn được hoàn hồn, bệnh
nặng nhanh chóng b́nh phục. Do vậy,
phụng hành chẳng lười nhác. Ấy là kẻ không
biết chữ tụng kinh sẽ trỗi hơn người
biết chữ, do không có tạp tưởng. Đọc
kinh thuộc ḷng sẽ thù thắng hơn nh́n vào kinh bổn
để đọc, do có thể nhiếp tâm. Nghĩa lư chỉ
ở tại chữ Kính. Vương Tốn có thể làm chứng
vậy.
Tần Tam ở Từ Khê, nhà nghèo,
làm lụng vất vả nuôi mẹ. Bị trúng phong lâu ngày thành tàn phế. Gặp một đạo sĩ bảo:
“Ngươi hăy theo ta, ta sẽ trị cho ngươi”. Bèn kéo chân Tần Tam duỗi ra, bệnh khỏi ngay. Tần Tam thưa với mẹ
xin theo [đạo sĩ]. Đạo sĩ bảo Tần
Tam nhắm mắt, cầm tay kéo theo, cưỡi gió mà
đi. Tới một ngọn núi trên biển, người
trên núi chê: “Gă này chẳng có tiên cốt, sao lại đến đây ?” Đạo sĩ bảo: “Nhà hắn
thờ phụng Cảm Ứng Thiên mấy đời,
thường v́ con cháu khuyên giảng, thiện căn chẳng
dứt. Do vậy, ta thâu nhận”. Tần Tam đau đáu
nhớ mẹ, lại được [đạo sĩ] đem
trở về th́ đă qua mười ba ngày rồi!
Trương
đạo nhân ở Thiên Bành tụng Cảm Ứng Thiên. Đi hóa
duyên sống qua ngày, nhưng chỉ có thể tụng thuộc ḷng một nửa. Bỗng bị bệnh, thấy ḿnh
tới cơi âm. Một vị quan hỏi: “Ngươi tụng
Cảm Ứng Thiên, sao không gắng tụng thuộc trọn hết cả thiên, mà chỉ tụng thuộc một nửa? Hăy nên trở lại nhân gian, chịu
đựng khổ sở một trăm ngày”. Lúc đi ra, gặp
một nha lại răn dạy: “Do ngươi chẳng tụng
thuộc cả thiên nên tới chỗ này. Nay hăy nên tự hối,
và khuyên lơn rộng khắp người
đời. Không chỉ là khỏi tội, mà công hạnh c̣n
tăng thêm”. Đạo nhân tỉnh lại, khuyên khắp một
vùng, quả nhiên mọi người kính tin. Nơi ấy
nhiều năm được mùa, đạo nhân cũng
được lành bệnh. Về sau đắc đạo!
Uông
Nguyên ở Tiền Đường, nhà nghèo, không con, chỉ
có mẹ già c̣n sống. Hằng ngày tụng thiên sách này,
quyên tiền khắc in để cầu mẹ sống thọ
và có con nối ḍng. Vừa mới khắc quyển đầu,
vợ đă có thai. Về sau, sanh con trai. Mẹ sống rất
thọ. Uông Nguyên thường nói: “Ta do một niệm chân
thành, cầu mẹ sống thọ, mẹ bèn thọ. Cầu
con nối ḍng, bèn có con nối ḍng”. Lư cảm ứng đă sáng
vằng vặc vậy!
Hứa
Đ́nh Du ở Hàng Châu, cả nhà kiền thành phụng tŕ
thiên sách này. Lại c̣n viết thành một bức tranh chữ,
treo trong nhà. Một tối, có kẻ giặc dữ vào
cướp, dường như là bị xua đuổi phải
bỏ chạy. Về sau, ông Hứa biết chuyện này,
càng thêm phụng hành chuyên dốc.
Trần
Bích Tùng ở Vũ Lâm thường giúp người, lợi
vật, lại c̣n khắc in thiên sách này rất đẹp đẽ,
lưu thông khắp chốn. Về sau, gặp trận
mưa kéo dài cả tháng, ông Trần đi xa chưa về.
Vợ ông ban đêm chưa ngủ, chợt nghe đập cửa
ầm ầm. Khi ấy, bọn giặc hung bạo vào làng
cướp bóc liên tiếp; nhà nào nhà nấy đề pḥng
nghiêm ngặt. Vợ ông Trần [nghe tiếng đập cửa
dữ dội] bèn kinh hoảng, cho là bọn cướp kéo
tới, vội gọi người nhà cùng trốn đi. Mới
ra khỏi nhà, bức tường cao bỗng sụp đổ,
đồ vật trong nhà vỡ tan như bột, nhưng cả
nhà không hề hấn ǵ!
Đời
Minh, Châu Nhữ Đăng ở Hải Môn theo học
dưới trướng của tiên sinh Long Khê đă lâu,
nhưng chẳng đạt được ǵ. Về sau,
hành theo thiên sách này, soạn thành tác phẩm biên tập những
điểm trọng yếu để khuyên đời,
người theo về đường lành đông đảo.
Do công đức ấy, một hôm [ông Châu] tâm địa mở
mang, thông sáng, hiểu rơ thánh đạo, trở thành bậc
đại Nho cuối đời Minh. Than ôi! Nay Nho học
thánh, Thích học Phật, Đạo học tiên, có kẻ học
suốt một đời chẳng ngộ, dở dang nửa
chừng. Đó là v́ căn khí kém cỏi, lại chẳng có
công đức bằng ai. Trương Tử Dương nói:
“Nếu không tích tập tu hành
âm đức, hễ động tới, bèn có các thứ ma
gây chướng duyên”. Người có chí nơi đạo,
há chẳng nên tỉnh ngộ mạnh mẽ ư?
Đời
Minh, Vu Ngọc Bệ ở huyện Tiền Đường
có vợ là Lương thị, bệnh rề rề đă
ba năm. Một tối, mộng thấy Pháp Vân đại
sĩ giáng xuống, đứng trên đám mây, quang minh chói
ḷa, quỷ mị đều trốn sạch. Ngày hôm sau,
đến lễ bái Vân Thê đại sư[18],
Lương thị thấy từ nhan nghiễm nhiên như
trong giấc mộng, bất giác hoan hỷ, bệnh ngặt
đă lâu nhanh chóng khỏi hẳn. Đại sư dạy:
“Bệnh sanh từ nghiệp,
nghiệp từ tâm sanh. Gắng hết sức làm công đức,
sẽ có thể tăng thọ”. Sư bèn đem Cảm Ứng
Thiên trao cho Ngọc Bệ bảo: “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều
lành chính là ư chỉ chánh yếu
trong thiên sách này. Nói nông cạn là ngăn chặn điều
ác, tuyên dương điều thiện. Chỉ cần tận
lực nói với những người dân lành vâng giữ bổn
phận trong một thôn có ba nhà[19]. Nói
tột cùng, đoạn hết sạch những điều
ham muốn nhỏ nhặt, muôn điều thiện sẽ
tṛn đầy, là trời trong trời, là thánh của các
thánh. Đức Thế Tôn cũng giống như vậy.
Ông hăy nên lưu truyền rộng răi để thực hiện
pháp thí to tát”. Ngọc Bệ cảm ngộ, tin nhận,
soạn bộ [Cảm Ứng Thiên] Tiêu Nguyên tám quyển
để khuyên đời.
Phương
Thời Khả ở Hưu Ninh thuở nhỏ lắm bệnh,
gặp một dị nhân bảo: “Tướng mạo của
ngươi nghèo hèn, lại không có con, chẳng thọ. Hăy
nên gieo nhiều thiện căn”. Do vậy, họ
Phương phát nguyện khắc in thiên sách này để
thí tặng, khuyên lơn. Về sau, bệnh nhanh chóng khỏi
hẳn, gia đ́nh dần dần khá lên, sanh được
ba trai đều vinh hiển, tuổi già mới mất.
Đời
Minh, Mạo Khởi Tông nhằm năm Bính Ngọ (1606) trong
niên hiệu Vạn Lịch, vào trường học hành. Hễ
hơi rảnh rỗi, bèn kiền thành đọc thiên sách
này. Ông đỗ khoa thi Hương năm Mậu Ngọ
(1618). Lúc thi khoa ấy, do bị bệnh nặng, lúc vào
trường thi, tứ chi bải hoải, mắt chẳng
nh́n thấy quyển thi, chẳng biết đặt bút viết
chỗ nào. Ra khỏi trường thi, đối với
bài văn đă làm, chẳng nhớ một chữ. Tới
khi thi đỗ, thấy quyển bài thi từng chữ
đều ngay ngắn, chân phương, mới biết là
trong trường thi dường như có thần giúp đỡ.
Năm Kỷ Mùi (1619), ông thi trượt, lại phát nguyện chú giải Cảm Ứng Thiên rộng thêm, dẫn
chứng rộng răi những điều khảo cứu, không điều
nào chẳng tường tận. Soạn xong sách bèn đậu
Tiến Sĩ, làm quan tới chức Bố Chánh[20].
Tháng
Chạp năm Giáp Thân (1644) niên hiệu Thuận Trị nhà
Thanh, Xương Môn ở Tô Châu bị hỏa hoạn lớn.
Trước đó ba ngày, có người cầm sào đo
đất. Mọi người hỏi thăm, người
ấy trả lời bí hiểm. Tới khi hỏa hoạn,
mới thấy những chỗ bị cháy vừa đúng những
chỗ người ấy đă đo, mới biết
người ấy là thần. Trong khi hỏa hoạn, tại
ngơ Chuyên Chư của Xương Môn có nhà ông Trần Tùng
Hiên, vốn có khách từ Tân An đến trọ tại
đó, cách ngọn lửa chừng gang tấc. Người
trong thành đều thấy có vị thần đứng
trên nóc nhà ấy chữa cháy. Khi lửa tàn, nhà chung quanh
đều cháy sạch, chỉ riêng căn nhà ấy c̣n
nguyên. Ngày hôm sau, mới biết người khách từ Tân
An đă khắc in và giữ bản in Cảm Ứng Thiên.
Lỗ
Tử Tấn là chư sanh[21]
ở Cối Kê, kiền thành phụng hành thiên sách này, lại
c̣n chú thích tường tận. Do nhà nghèo bèn bán ruộng
để khắc in lưu thông. Con trai ông Lỗ là Đức
Thăng làm quan tới chức Hàn Lâm Viện Kiểm Thảo[22].
Sự
linh nghiệm cảm ứng đă được ghi chép
xưa nay chẳng thể thuật trọn. Nay nêu đại
lược các trường hợp như trên đây đều
đích xác là [do người ghi chép] đích thân thấy nghe,
đă đáng tin lại c̣n rơ rệt, ḥng chứng thực lư
cảm ứng quyết định. Chỉ mong những
người có được sách này, [đọc những
câu chuyện ấy], chớ nên bài bác. Trong khi ngồi ngay ngắn,
thanh tịnh, hăy gạt bỏ những xáo động bộp chộp,
giữ tấm ḷng cung kính rỗng rang để tiếp nhận,
đọc cẩn thận, tường tận, nghiền ngẫm
sâu xa, gắng sức thực hiện. Cái duyên tốt lành
không chi lớn bằng, hăy cẩn thận đừng
đánh mất. Khôn ngăn thắp
hương dập đầu cầu khẩn!
Sách
Địch Cát Lục có chép: - Một là mong hăy dấy lên
ḷng tin. Phàm thuận theo điều thiện, sẽ có tốt
lành đưa tới. Phàm trái nghịch điều thiện,
sẽ có hung hiểm xảy tới. Thánh nhân đă thốt
lời đoan quyết, nhưng cơi đời gần như
coi lẽ thuận nghịch ấy là mơ hồ, cứ mông muội chẳng tin! Họ
cho rằng làm lành chưa chắc
đă được báo đáp, làm ác chưa chắc đă
bị tai ương, cắt đứt phước
duyên của chính ḿnh, diệt thiện căn của kẻ
khác. Cái tâm ấy thật sự là tâm ǵ vậy?
Người thấy điều này, hăy nên tự dấy lên
tín tâm to lớn. Một niệm tín sẽ là một niệm
thiện căn. Niệm nào cũng đều tin, tức là
niệm nào cũng là niệm thiện căn.
Một điều mong mỏi
nữa là hăy siêng tu. Phàm làm lành, chẳng thể do hai
ba [thiện] niệm mà đạt được quả
báo [tốt lành. Ví như] dùng một chén nước để dập tắt lửa của một xe củi [cháy], rồi bảo “chẳng cần làm lành”, lười nhác
sống ơ hờ qua ngày, há
chẳng c̣n tệ hơn kẻ bất nhân ư? Hăy nên sốt
sắng tu tŕ, dũng mănh chẳng biếng nhác. Thường
như trời đất giáng lâm trên đỉnh đầu ta, quỷ thần răn dạy ta, th́ mới chẳng cô phụ cái thân này. Nếu
không, hờ hững, qua quưt, ngày lại qua ngày, tuổi thọ
được mấy? Cứ đợi ta thong dong tích
lũy, sợ rằng vô thường bỗng ập tới,
than thở c̣n kịp hay chăng?
Một
điều nữa là coi trọng dưỡng tâm. Quản Tử
nói: “Hỷ khí nghênh nhân, thân
ư huynh đệ. Nộ khí nghênh nhân, thảm ư binh
qua” (Dùng sự hoan hỷ đối xử với
người khác, họ sẽ thân thiết như anh em. Dùng
sự cáu giận đối đăi người khác, sẽ
thê thảm như chiến tranh). Nam Hoa [Kinh][23]
cũng nói: “Binh mạc thảm
ư nhẫn, nhi Mạc Gia vi hạ” (Chẳng
có ǵ thảm khốc bằng sự tàn nhẫn của kẻ
cầm binh khí, dẫu thanh gươm Mạc Gia cũng chẳng
bằng). Do vậy mới nói, do ảnh hưởng của
chí khí, dẫu chưa cứu giúp chúng sanh, mà họ đă
được hưởng sự hài ḥa, hạnh phúc. V́ thế,
[sự cảm ứng] nhanh chóng như dùi gơ vào trống [liền
phát ra tiếng]. Xưa vua Đại Vũ và ông Hậu
Tắc phù tá vua Nghiêu, vua Thuấn định thiên hạ.
Dân bị lênh đênh v́ nạn lụt mới sống yên,
dân đói mới được no ấm. V́ thế, [các vị
ấy] có công đức mênh mông, thật sự giúp dân vậy.
Ni Sơn (Khổng Tử)[24]
áo vải, chưa thi thố được kế sách nào,
nói suông, há có thực hiện được ǵ? Riêng [ấp ủ]
một ḷng yên già, thương trẻ, siêng gắng, khẩn
thiết đến chết, rốt cuộc so lường
công đức với những kẻ ngoảnh mặt về
phía Nam[25], Ngài được
tôn thờ là vị thầy của muôn đời. Như vậy
là tâm có trọn đủ muôn pháp, con người chỉ
nên hàm dưỡng cội nguồn sẵn có[26]
sao cho tràn đầy ḥa ái, hoạt bát, chẳng đánh
động những thói bộp chộp. Gặp cha mẹ
bèn có thể hiếu, gặp muôn vật bèn có thể nhân. Gặp
điều lành bèn có thể thực hiện vẹn toàn. Gặp
nhục nhă bèn có thể nhẫn. Hữu t́nh, vô t́nh, hữu
sự, vô sự, luôn là một bầu ư niệm ḥa hợp
ngập tràn cơi hư không. Phước đức ấy c̣n
có thể nghĩ bàn hay sao? Làm lành chính là nhiệm
vụ cấp bách bậc nhất vậy!
Một
điều nữa là quư ở chỗ kiên tŕ vĩnh hằng.
Điều thiện nhỏ th́ quả báo gần. Điều
thiện lớn th́ quả báo xa. Quả báo gần th́
phước nhẹ, quả báo xa th́ phước dầy.
Như do thể chất của liễu bồ[27],
sáng trồng, tối đă tăng trưởng. Tùng, bách chẳng
phải vậy, [lúc chưa tăng trưởng] bị cỏ
dại phủ lấp, bị trâu, dê làm hại, nhưng sau
đó, sẽ có thể dùng đến ngàn vạn năm!
Đời này, chẳng phải là không có kẻ tin vào điều
thiện, nhưng người kiên tŕ vĩnh hằng chẳng
nhiều! Bởi có kẻ trong khi hành theo một vài chuyện
[được nói trong Cảm Ứng Thiên], lỡ gặp phải
thử thách, gieo neo, bèn lầm lạc bảo “đạo trời
khó biết”, nhanh chóng bỏ sạch những ǵ đă tu
trước đó. Đấy đều là lầm lạc
do cái tâm mong cầu “sẽ nhanh chóng đạt được” mà ra. V́ thế, tích đức mà nhún nhường,
đấy là nền tảng của phước. Gặp cảnh
hiểm mà bền chí, đấy là thực hành đức. Cổ
nhân nói: “Chăm chú vun bồi
đức, gắng trừ sạch ác”. Thường thấy
những nhà nẩy sanh những chuyện tốt lành là do
đă nhiều đời hành tŕ tích tập, hoặc do đă
nhiều năm tận lực làm lành. Những kẻ gặp
điều tốt lành có thừa, chẳng phải là do một
sáng, một chiều! Nếu có một chút thiện quả,
liền mong phước dầy, cội nguồn đă kém tệ,
mong chi có lắm chuyện mừng vui dồn lại! Ông Châu
Thiên Lân[28] nói: “Có tâm cảm,
sẽ cảm chẳng linh. Có tâm mong ứng, sẽ chẳng
ứng nổi”. Hăy nên
thuận theo tự nhiên, chớ nên lầm lạc sanh tâm so
đo. V́ thế, kiên tŕ vĩnh hằng là một điều rất then chốt trong việc tích đức!
Một
điều nữa là coi trọng lưu truyền. Chỗ
nào có kinh sách, đấy chính là thiện duyên. Giấu kín chẳng
truyền, ắt bị trời giáng tai ương. Theo Công
Quá Cách, truyền thiện thư cho một người, sẽ
được mười điều thiện. Truyền
cho mười người, sẽ là trăm điều thiện.
Truyền cho bậc đại quư nhân, đại hào kiệt,
người có thế lực lớn, sẽ là ngàn điều
thiện. In lại để lưu truyền, phát hành rộng
răi không ngằn mé, sẽ là một vạn điều thiện.
Luôn luôn xưng nói, luôn luôn nhắc
nhở, dẫu là kẻ nông dân, nữ nhân
trong chốn khuê pḥng, mục đồng, trẻ nhỏ chốn
làng quê, không kẻ nào chẳng biến đổi, sẽ là thiện duyên vô biên, mà phước duyên
cũng vô biên. Xưa kia, Tôn Chân Nhân[29]
in Thiên Kim Phương [để phổ biến rộng khắp],
sách in xong, Ngài thành tiên. Ông Châu Tŕ giảng Cảm Ứng
Thiên cho người khác, thoát khỏi sổ ghi tên chết
đói. Đức hạnh do công bố điều thiện,
há có số lượng ư?
Một
điều nữa là nguyện bổ sung, phát huy. Những
chuyện báo ứng thiện ác xưa nay, há có ngằn hạn?
Ngẫu nhiên chép lại [một hai chuyện], há có thể
nào [coi như] đă hoàn thiện ư? Những người
cùng ôm ấp ư niệm ấy, hoặc chọn lựa từ
những điều đă ghi chép
trong sách vở, hoặc dựa theo sự thấy nghe của
chính ḿnh, chẳng ngại chép thêm vào sách này, vận dụng
đại học vấn, gọt giũa những nghĩa
lư tinh vi, trau chuốt những lời ngay thẳng, khiến
cho người đọc khoái mắt sướng ḷng. Một
câu tán dương là một câu hộ tŕ thiện căn. Một
niệm [muốn làm lành, kiêng làm ác được] dấy
động, cũng là một niệm tiêu trừ tội
nghiệp. Phát huy càng rộng, lư tột cùng càng rơ, giúp trời
xiển dương giáo hóa, công lao ấy sâu dầy thay!
(Chánh văn) Thái Thượng
viết: - Họa phước vô môn, duy nhân tự triệu.
(正文)太上曰。禍福無門。惟人自召。
(Chánh văn: Thái Thượng nói: - Họa phước
chẳng có cửa nẻo [nhất định], do con
người tự chuốc lấy).
Đoạn
này hợp với đoạn sau thành cương lănh của
cả thiên sách này, đấy chính là ư chỉ chánh yếu trong
lời dạy này. Luận theo cái tâm của thánh hiền, chẳng
ngoài [dạy cho con người] do cầu phước tránh
họa, sau đó sẽ làm lành, chẳng làm ác. Luận theo
lư của tạo hóa, do tích thiện hay tích ác mà sẽ là vui
sướng có thừa hay tai ương có thừa. Do vậy,
chẳng hề sai lầm!
Nhỏ
th́ gọi là “cát, hung”, lớn
th́ gọi là “họa, phước”.
“Vô môn” là chẳng có cửa nẻo nhất định. “Tự triệu”: Tự
làm, tự chịu. Ư nói trời đất chẳng có ḷng
riêng tư, do muôn vật [có tâm tư, hành vi] như thế nào mà ứng theo như thế ấy để giáng họa hay ban phước, vốn chẳng có cửa
nẻo nhất định. Nghe theo sự cảm vời [của
đương sự] mà báo ứng, chỉ là do ḷng người
tự chuốc lấy đó thôi! Nhưng khi con người
chưa dấy lên một niệm, cái tâm trong lặng giống
như hư không, chẳng có thiện ác ǵ! Chỉ v́ một
niệm mới động, nếu hướng
theo chuyện tốt sẽ là lành, nếu hướng theo chuyện xấu sẽ là ác. Trước hết, bất quá là dấy lên một
niệm, làm một chuyện; về sau, trải qua năm
tháng tích lũy, bèn có người lành, kẻ
ác sai khác. Nhưng mắc họa hay
được phước, đều được quyết
định khi ư niệm dấy lên. V́ thế, Thái Thượng
vừa mở miệng bèn bảo là “vô môn” (không có cửa nẻo, ư nói không có sự chủ
định sẵn), bảo là “tự
triệu” (tự chiêu cảm lấy). Phải dè dặt
lúc con người khởi niệm, hăy cắn chặt răng, chú tâm cảnh giác. “Giác”
là nội quán, chiếu soi thấu triệt rỗng rang. Ḷng
người thiện hay ác, không có ǵ chẳng
do ư niệm vi tế nẩy sanh [dẫn dến điều
thiện lẽ ác ấy]. Một niệm quán chiếu nội
tâm, sẽ biết nên hướng theo ngả nào[30].
Kinh Dịch nói: “Cơ, động
chi vi” (Cơ[31]
là sự dấy động vi tế), [từ sự quán chiếu
nội tâm, nhận biết ư niệm vi tế dấy lên là
thiện hay ác] sẽ thấy trước cát hay hung [trong
tương lai]. Do điều này mà có thể thấy thấu
suốt, tự làm chủ, tự nhiên sạch dục, lư thuần,
làm ǵ cũng tương ứng với chuyện tốt
lành. Nếu có mảy may sai khác, sẽ cách biệt vời vợi như
trời với đất!
Đời
Tống, thiền sư Linh Nguyên bảo Y Xuyên (Tŕnh Di): “Họa có thể sanh ra phước.
Phước có thể sanh ra họa”. Họa có thể sanh
ra phước, tức là khi gặp cảnh nguy hiểm, bèn thiết tha
nghĩ đến sự an ổn, t́m cầu sâu xa đạo
lư, càng nên kính sợ, cẩn trọng. Phước có thể
sanh ra họa là khi hưởng yên vui, bèn buông lung, có ư niệm
xa xỉ, mặc t́nh kiêu căng, lười nhác, càng thêm coi
thường, khinh rẻ, ngạo mạn.
Đông
Nhạc Đại Đế huấn dụ: “Làm việc lành như cỏ trong
vườn xuân, chẳng thấy nó tăng trưởng,
nhưng hằng ngày nó đều mọc dầy hơn. Làm
ác như đá mài dao, chẳng thấy bị hao tổn,
nhưng hằng ngày đá đều bị ṃn đi”. Họa
phước ngấm ngầm chuyển dời, nhưng kẻ
mê chẳng cảm thấy.
Đời
Đường, Lục Tổ Huệ Năng bảo: “Hết thảy các phước điền, chẳng ĺa một tấc
vuông”[32]. Kinh dạy: “Cát, hung, họa,
phước đều do tâm tạo”. Lại nói: “Tội phước hai vầng,
khổ lạc hai quả, đều do ba nghiệp tạo
ra, do một tâm cảm”. Nếu
có một niệm tâm sân khuể, tà dâm, chính là nghiệp địa
ngục. Keo kiệt, tham lam, chẳng thí, chính là nghiệp ngạ
quỷ. Ngu si tối tăm che lấp chính là nghiệp súc
sanh. Ngă mạn, kiêu căng chính là nghiệp Tu La. Giữ vững
Ngũ Giới chính là nghiệp làm người. Tu ṛng Thập
Thiện chính là nghiệp cơi trời. Chứng ngộ Nhân
Không chính là nghiệp Thanh Văn. Biết tánh của duyên là
ĺa, chính là nghiệp Duyên Giác. Tu trọn Lục Độ chính
là nghiệp Bồ Tát. Chân từ, b́nh đẳng, chính là
nghiệp thành Phật. Tâm tịnh sẽ là đài
hương, cây báu, hóa sanh cơi tịnh. Tâm nhơ ắt đồi,
g̣, hầm, hố, gởi thân nơi uế độ. Chẳng
phải là trời giáng xuống, há có phải do đất
sanh ra, chỉ là do một niệm ban đầu mà ra. Ĺa khỏi
nguồn tâm, chẳng có cái Thể nào khác!
Cơ
duyên cảm ứng nhỏ nhiệm thay! Nẻo thiện ác
nguy hiểm thay! Cái khó ǵn giữ nhất chính là ḷng người.
Tiếp xúc sự vật, cái tâm vừa động, bèn ch́m
đắm trong vực sâu hay bay lên trời thẳm [chỉ
v́ dấy động ác niệm hay thiện niệm]. Ư niệm
chuyển dời, sẽ là ngưng đọng thành băng, hay lửa
hừng đốt sạch. V́ thế, cổ nhân ngày siêng
năng ba lượt phản tỉnh, đêm kiêng sợ có
bốn điều biết[33].
Do vậy, gà gáy bèn thức dậy, sốt sắng làm lành,
chẳng bỏ khắc nào không giữ ǵn, thực hiện,
khiến cho cái tâm như gương luôn sáng ngời.
Gương tâm đă sáng, chính ḿnh sẽ làm chủ
được điều thiện, lẽ ác, mà họa
phước cũng có thể làm chủ được. Do
vậy, mạng trời vốn ở nơi ta. V́ thế,
luận định lẽ “họa phước do tự
ḿnh chuốc lấy, quyền thao túng [họa phước]
vốn ở nơi tâm”, lại chép thêm những câu cách ngôn
của bậc tiên nho ḥng tuyên dương lời dạy của
Thái Thượng.
Có
kẻ hỏi: “Gà gáy thức dậy, c̣n chưa tiếp xúc sự vật,
làm lành như thế nào?” Tŕnh
Tử bảo: “Chỉ cần cốt yếu giữ ḷng
kính, sẽ là làm lành”.
Đời
Tống, Trương Tử[34]
nói: “Khởi đầu của việc chánh tâm, hăy nên coi cái
tâm ḿnh như một vị thầy nghiêm khắc, đối
với những hành động đều biết kiêng sợ,
dè dặt. Như thế th́ trong ṿng một
hai năm, sẽ giữ được vững vàng, tự
nhiên cái tâm là chánh”.
Châu
Tử[35] nói: “La
tiên sinh dạy học, trong lúc tĩnh tọa, bèn xem xét lúc mừng, giận, buồn, vui chưa nổi
lên, sẽ có khí tượng[36]
như thế nào? Đấy chính là thuật trọng yếu
để dưỡng cái tâm vậy!”
Lại
nói: “Cái tâm cần phải giữ sao cho chỉ ngưng lặng một chỗ, chớ nên xen tạp
sự việc bên ngoài, nhưng vẫn cần phải siêng
năng tu dưỡng, ǵn giữ. Hễ gặp chuyện,
đừng tạm thời buông lỏng tinh thần. Tập
luyện lâu ngày, sẽ tự thành. Nếu siêng gắng ǵn
giữ, kiềm chế ư niệm, thật sự dụng
công khẩn thiết, dẫu chỉ nửa tháng là đă có
thể thấy sự hiệu nghiệm vậy!”
Lại
nói: “Công phu hàm dưỡng “bổn nguyên” (cội
nguồn vốn có) dễ bị gián đoạn nhất; nhưng
vừa cảm thấy gián đoạn, bèn tiếp tục
ngay. Chỉ cần thường tự cảnh tỉnh, cứ
tích lũy từng phân, từng tấc một, lâu ngày sẽ
tự nhiên trở thành liên tục, trở thành một khối”.
Lại
nói: “Trong khi tĩnh lặng, ư niệm riêng tư (vọng niệm)
nẩy sanh tơi bời. Đấy là căn bệnh chung của người
học. Có thể tự phản tỉnh,
quan sát đến chỗ này, rất khó đạt
được. Hăy nên lấy ḷng tôn kính làm chủ để quan sát sâu xa khi ư niệm riêng tư mới vừa
chớm nẩy, [ḥng nhận biết] phần lớn là chuyện ǵ, đối với chỗ nặng
nhất bèn thống thiết khắc chế.
Lâu dần thuần thục, sẽ tự thấy hiệu
quả. Chớ nên [mới thực hiện mà] đă mong
thành công trong một sáng, một chiều, mà cũng chẳng
bị rối loạn bởi lắm thuyết”[37].
Lại
nói: “Giữ chánh niệm th́ các vọng tự nhiên lui mất,
vâng phục”.
Lại
nói: “Khổng Tử dạy: ‘Hành
xử luôn cung kính, làm việc luôn cung kính,
trung hậu đối với người khác’. Đấy là cách giữ vững chánh niệm”. Nếu
nói năng mà cảm thấy không đúng, sẽ không nói. Làm
việc mà cảm thấy chẳng đúng, sẽ không làm.
Đó cũng là cách giữ ǵn chánh niệm.
Lại
nói: - Đối chuyện học vấn, cần phải tự
cảnh tỉnh. Ḥa thượng Thụy Nham hằng ngày
đều tự hỏi: “Chủ nhân ông có tỉnh giác hay
không?” Tự đáp: “Tỉnh giác”. Người học hăy
nên bắt chước.
Môn
nhân là Châu Ngạn Văn hỏi: “Gần đây con cảm thấy
đi, ngồi, nói năng, im lặng đều chẳng thể
lừa dối chính ḿnh!” Châu Tử đáp: “Đấy là chỗ
đắc lực, tâm linh đă hợp nhất với cái
thân, chỉ nên luôn giữ cái tâm ngầm nhận biết”.
Đời
Tống, Trần Liệt khổ sở v́ không có trí nhớ.
Ngẫu nhiên đọc sách Mạnh Tử thấy có câu: “Học vấn chi đạo vô
tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ” (Đạo
học vấn chẳng có ǵ khác, chỉ mong sao thâu hồi
cái tâm buông lung mà thôi). Bỗng ngộ ra, nói: “Ta chưa hề
thâu hồi cái tâm, làm sao có thể ghi nhớ cho được”,
bèn đóng cửa tĩnh tọa, chẳng đọc sách
hơn một trăm ngày để thâu hồi cái tâm buông
lung. Sau đấy đọc sách, vừa đọc bèn ghi
nhớ chẳng sót!
Nếu
hỏi dáng vẻ cung kính là như thế nào, Tạ Thượng
Thái[38]
nói: “Có thể thấy từ dáng vẻ đoan nghiêm, trầm
mặc như đang suy nghĩ”. Hỏi: “[Như vậy
th́] làm như thế nào để khỏi phải gắng
sức quá mức ḥng giữ ǵn [dáng vẻ ấy]?”
Đáp: “Cố ư gắng sức quá mức để giữ
th́ sai mất rồi! Hăy nên đừng quên bẵng, mà
cũng đừng cố ư ǵn giữ”.
Cao
Cảnh Dật nói: “Mỗi lúc chiều tà, bèn lặng lẽ
kiểm điểm những chuyện đă làm trong suốt
một ngày. Nếu chẳng thiết thực rèn luyện
thân tâm, tức là đă uổng phí một ngày. Phải nên cẩn
trọng tiếc nuối thời gian”[39].
Lại nói: “V́ thế, kẻ tiếc nuối thời gian, chẳng để cho tư
tưởng tà vạy, vọng niệm chiếm cứ tâm địa
dẫu trong chớp mắt, ngơ hầu ngày qua tháng lại, [tâm địa] luôn huân tập sáng ngời bởi quang minh”. Lại nói: “Phương pháp để chứng
nhập sự thành kính của các vị tiên nho
chính là chỉnh tề, nghiêm túc, là thường cảnh tỉnh,
là thâu liễm, chẳng vương vấn bất cứ sự
vật ǵ”. Nay cái tâm của bọn chúng ta nhộn nhạo,
nháo nhào, muôn ngàn sự vật đều chất chứa
đầy ắp trong ấy, há chỉ là một vật? Nếu
muốn tránh khỏi t́nh trạng này, cần phải thường
xuyên tỉnh giác. Để tỉnh giác th́ phải
chỉnh tề, nghiêm túc. Ba pháp ấy lại có thứ tự.
Do
không ham muốn nên tĩnh. Hễ làm chủ được
cái tâm th́ ḷng sẽ rỗng rang. Đấy chính là
cương yếu trong đạo học vấn về cái
tâm vậy.
Đời
Tống, em trai của tiên sinh Tŕnh Minh Đạo (Tŕnh Hạo)
là Tŕnh Y Xuyên (tức Tŕnh Di) qua sông, thuyền sắp lật,
mọi người đều kinh hoàng, sợ hăi. Chỉ
ḿnh tiên sinh vẫn ngồi nghiêm chỉnh như thường.
Được hỏi, tiên sinh liền đáp: “Đấy là do trong ḷng giữ sự
thành kính”.
Vị
lăo tăng ở chùa Chân Không nói: - Vọng
tưởng của phàm nhân chẳng đồng nhất. Hoặc
là nhớ tới vinh, nhục, ân huệ, cừu thù, buồn, vui,
chia ĺa, tụ hợp, và đủ loại chuyện vớ
vẩn mấy chục năm trước. Đó là vọng
tưởng về quá khứ. Nếu chuyện xảy tới
trước mắt, chỉ nên thuận theo cảnh duyên mà ứng
phó, [thế mà] lại sợ đầu, sợ đuôi, do dự
chẳng quyết! Đấy là vọng tưởng trong hiện
tại. Hoặc mong ngày sau phú quư, vinh hoa, con cháu phát đạt,
cùng với hết thảy những chuyện chẳng thể
không thành, chẳng thể không đạt được.
Đấy là vọng tưởng về tương lai. Thứ
ba là vọng tưởng hoặc sanh, hoặc diệt, gọi
là “huyễn tâm”. Thấy thấu suốt những thứ ấy
là vọng, hễ dấy niệm bèn đoạn dứt ngay
th́ gọi là “giác tâm”. V́ thế nói là ‘chẳng sợ niệm dấy lên, chỉ sợ nhận
biết chậm’. Cái tâm ấy giống như thái hư,
phiền năo c̣n có chỗ nào để đặt chân được nữa ư?
Trên
đây đều là những câu lời luận định
tinh vi, xuất thần nhập hóa. Người có chí hăy nên
suy nghĩ sâu xa, gắng sức thực hiện, mong sao đạt tới mức thuần thục, trở thành tự nhiên mới
thôi. Xưa kia, vào đời Tống, ông Triệu Khang Tĩnh[40]
để hai cái b́nh chứa đậu. Hễ dấy một
thiện niệm, bèn bỏ vào đó một hạt đậu
trắng. Hễ khởi một ác niệm, sẽ bỏ một
hạt đậu đen. Thoạt đầu, đậu
đen rất nhiều; kế đó, dần dần ít
đi. Lâu ngày, hai ư niệm thiện và ác đều mất,
b́nh đựng đậu cũng bỏ
đi, chẳng dùng tới nữa, v́ đă tiêu tan sạch sẽ
cả rồi. Hơn nữa, Âm Chất Văn có câu: “Nếu con người có thể
giữ tấm ḷng như ta, ắt trời sẽ ban phước
cho các ngươi”. Ấy là v́ có cái tâm như thế nào
là do chính ta [quyết định], chỉ mong sao khắc chế
ḷng riêng tư, khôi phục chân tánh để thờ trời[41],
để mặc cho trời báo đền. Do hễ có cùng
khí chất, thể loại giống nhau, sẽ cuốn hút
lẫn nhau, tự nhiên là chẳng sai xẩy. Do vậy biết:
Đạo để “trừ họa,
vời phước” cốt yếu ở chỗ giữ ǵn cái tâm như thế nào. Ư chỉ là
như vậy đó!
Đời
Tống, Vệ Trọng Đạt thoạt đầu làm
quán chức[42], bị
bắt tới âm phủ. [Các quan chức trong cơi âm] tra xét sổ
sách thiện và ác, thấy sổ ghi chép điều ác chật
sân, sổ ghi điều thiện chỉ có một quyển
nhỏ. Minh quan (冥官, viên quan trong cơi âm) biến sắc, sai đem cân,
đâm ra quyển sổ nhỏ nặng hơn các quyển
sổ ác. Quan vui mừng bảo: “Ông có thể thoát rồi!”
Trọng Đạt hỏi: “Tôi chưa đầy bốn
mươi tuổi, sao lại có lắm điều ác
như vậy?” Quan bảo: “Chỉ một niệm bất
chánh, quỷ thần không ǵ chẳng biết. Hễ biết
bèn ghi chép, chẳng đợi phải làm”. Hỏi: “Trong quyển
sổ nhỏ ghi chép điều ǵ?” Quan bảo: “Triều
đ́nh đă từng xướng suất công tŕnh đ̣i hỏi
một lượng lớn dân phu nhằm sửa chữa ba
chiếc cầu bằng đá trong núi. Ông tận lực can
gián; điều ấy đă được ghi chép lại”.
Hỏi: “Can gián nhưng chưa được nghe theo, làm
sao thiện lực có thể truyền đến tận
đây?” Quan đáp: “Ư niệm của ông rất chân thành, lời
lẽ có thể giáo huấn cơi đời. Giả sử
[triều đ́nh] có thể nghe theo, công đức há có hạn
lượng? Nhờ vào đó mà cứu độ cơi đời
há khó khăn chi? Hiềm rằng ác niệm quá nhiều, thiện
lực bị giảm mất nửa, chẳng thể mong
làm Tể Tướng được!” Về sau, quả
nhiên ông chỉ làm quan tới chức Lại Bộ Thượng
Thư. Than ôi! Điều ác của
Trọng Đạt chỉ là ư niệm suông, thế mà c̣n gây tổn hại cho phước
báo làm Tể Tướng trong hiện đời. Điều thiện của Trọng Đạt
chỉ có nói suông, thế mà đă áp đảo những
quyển sổ ghi điều ác chứa đầy cả sân, huống hồ kẻ thật sự làm
thiện, tạo ác? Có thể thấy một niệm khởi
lên chính là cửa nẻo dẫn đến họa hay
phước vậy!
Đời
Tống, Liêu Đức Minh là đệ tử của Châu Hối
Am. Thuở nhỏ, từng nằm mộng thấy [chính
ḿnh] cầm danh thiếp đến yết kiến một
ngôi miếu. Người giữ cửa hỏi danh thiếp,
ông Liêu rút thiếp từ trong tay áo ra, thấy ghi là Tuyên Giáo
Lang Liêu mỗ, bèn tỉnh giấc. Về sau, ông Liêu thi
đỗ, quả nhiên được bổ làm Tuyên Giáo
Lang trông coi xứ Mân (Phước Kiến). Đức Minh
nghĩ tới giấc mộng trước, sợ rằng
chỉ làm quan tới chức vụ đó, chẳng muốn
đi, bèn thỉnh ư Hối Am. Ông (Châu Hối Am) chỉ các
vật trên bàn nói: “Con người chẳng giống các vật
dụng, như bút chỉ có thể dùng để viết,
gươm chẳng thể làm đàn. V́ thế, [các vật
dụng] h́nh thành hay hủy hoại lâu hay mau, có thời hạn
nhất định. Con người chẳng phải vậy.
V́ thế, có kẻ sáng là Đạo Chích mà tối là vua Thuấn.
Cát, hung, họa, phước cũng thuận theo đó mà biến
đổi, khó thể nói nhất định được.
Nay ông đi làm quan, hăy nên mở rộng Tánh Đức, nỗ
lực làm chuyện tốt, đừng bị vướng
mắc bởi giấc mộng khi trước”. Đức
Minh vâng lời, về sau, quả nhiên làm quan tới chức
Chánh Lang[43].
Nhà
Tất Sưởng giàu có, chuyên dùng mưu trí để gạt
người, tàn nhẫn, khắc bạc lập nghiệp.
Sanh được hai con trai. Có người muốn bán gia
sản cho ông ta, ông ta bề ngoài cự tuyệt: “Ta chẳng
muốn”. Sau đó lại sai người ngấm ngầm dụ
dỗ. Tới khi người ấy t́m đến, lại
bảo: “Ta thật sự không muốn [mua]”, người
ấy không biết làm sao, phải giảm giá cho xong việc.
Tới khi viết khế ước, lại nói: “Ta không sẵn
tiền, hẹn ngày nào đó đến lấy”. Đến
ngày giao tiền, lại dùng bạc xấu hoặc dùng gạo,
ngũ cốc để bù vào, trọn chẳng
trả đúng như số tiền đă ước hẹn.
Suốt đời thường làm những chuyện
như thế. Về sau, đứa con cả do hại mạng
người khác phải đi tù, phá sản mà chết.
Đứa con thứ do dâm đăng, cờ bạc, phải
lưu lạc, ăn mày nơi khác. Tất Sưởng rốt
cuộc tuyệt tự!
Đời
Minh, Viên Liễu Phàm viết Lập Mạng Thiên[44]
có đoạn viết:
-
Ta mồ côi cha từ bé, mẹ bảo: “Hăy thôi theo cử
nghiệp để học làm thầy thuốc, vừa có
thể nuôi sống, mà c̣n có thể giúp người khác. Học
lấy một nghề thành danh chính là tâm nguyện xưa
kia của cha ngươi vậy!” Về sau, tại chùa Từ
Vân, ta gặp một cụ già, râu dài, dáng vẻ hùng vĩ,
phiêu dật như tiên. Ta kính lễ cụ. Cụ bảo ta:
“Anh là người thuộc giới sĩ tử,
sang năm có thể vào học trường huyện, sao
không đọc sách?” Ta thưa nguyên do. Cụ bảo: “Ta họ
Khổng, là người Vân Nam, thông thạo Hoàng Cực
Chánh Truyền của Thiệu Tử[45].
Theo số vận, đáng nên truyền cho ngươi”. Ta dẫn
cụ về nhà, thưa với mẹ. Thử đoán mạng,
những chuyện dẫu rất nhỏ nhặt cũng
đều ứng nghiệm. Ta bèn dấy lên ư niệm
đi học.
Cụ
Khổng đoán mạng cho ta, bảo khóa thi đồng
sanh ở huyện[46]
sẽ đỗ hạng thứ mười bốn. Thi trên
phủ sẽ đỗ thứ bảy mươi mốt.
Khi thi đề học, sẽ đậu thứ chín.
Năm sau, đi thi, thứ hạng ở ba chỗ đều
phù hợp. Cụ lại đoán mạng hên xui suốt
đời cho ta, nói năm nào sẽ thi đỗ hạng
thứ mấy. Năm nào đi thi để được
bổ làm lẫm sanh, năm nào sẽ đỗ Cống
Sanh[47].
Sau khi đỗ Cống Sanh mấy năm, sẽ được
chọn làm đại doăn[48]
ở Tứ Xuyên, giữ chức ba năm rưỡi, hăy
nên cáo quan xin về. Vào giờ Sửu, ngày Mười Bốn
tháng Tám vào lúc tṛn năm mươi ba tuổi, sẽ hết tuổi
thọ. Tiếc là không có con. Ta ghi chép cẩn thận xong, từ
đó về sau, hễ gặp dịp thi cử, thứ tự
đỗ đạt trước sau đều chẳng
khác những điều cụ Khổng đă đoán định.
Chỉ riêng lần cụ đoán ta được ăn gạo
lẫm sanh là chín mươi mốt thạch năm đấu,
th́ khi sắp đỗ Cống Sanh, đă được
hưởng gạo hơn bảy mươi thạch. Đồ
tông sư[49] liền
phê chuẩn cho ta đậu Cống Sanh, ta bèn trộm ngờ
[cụ Khổng đă đoán sai]. Kết quả là bị
quan thự ấn là ông Dương bác đi, cho đến năm
Đinh Măo mới chấp thuận cho ta dự vào hàng Cống
Sanh. Tính toán số gạo trước và sau đó, đúng
là chín mươi mốt thạch năm đấu. Do vậy,
ta càng tin tưởng tiến thoái đều có số mạng,
sẽ đến sớm hay trễ đều có thời! [V́
thế], điềm nhiên chẳng mong cầu. Đỗ Cống
Sanh xong, lên Bắc Kinh, ở lại kinh đô một
năm, suốt ngày tĩnh tọa, chẳng đọc
văn chương. Sau đó, trở về, sang chơi Nam
Kinh, chẳng vào trường Quốc Tử Giám.
Trước
hết, đến thăm thiền sư Vân Cốc trong núi
Thê Hà. Ngồi đối diện với Sư trong cùng một
tĩnh thất, suốt ba ngày ba đêm, chẳng chợp mắt.
Vân Cốc hỏi: “Sở dĩ phàm nhân chẳng thể
thành thánh, chỉ v́ bị vọng niệm trói buộc. Ông
ngồi suốt ba ngày, chẳng thấy dấy lên một vọng
niệm”. Ta thưa: “Con đă được Khổng tiên
sinh tính mạng sẵn. Vinh, nhục, chết, sống đều
có số mạng định sẵn. Dẫu có muốn vọng
tưởng, cũng chẳng thể vọng tưởng
được!” Ngài Vân Cốc cười bảo: “Ta ngỡ
ông là bậc hào kiệt, [nào ngờ] chỉ là phàm phu”. Hỏi
nguyên do, Sư dạy:
-
Con người chưa thể không có tâm, rốt cuộc
bị lẽ Âm Dương trói buộc, làm sao không có số
mạng cho được? Nhưng chỉ phàm nhân có số
mạng, chứ đối với bậc cực thiện,
cố nhiên là số mạng chẳng thể ràng buộc nhất
định được. Kẻ cực ác số mạng
cũng chẳng thể ràng buộc nhất định
được. Suốt hai mươi năm qua, ông đă bị
ông ta tính sẵn, chưa hề cựa quậy mảy may! Há chẳng phải là phàm phu ư?
Ta
hỏi:
-
Vậy th́ có thể trốn thoát số
mạng ư?
Sư
dạy:
-
Mạng do ta tự tạo, phước do chính ḿnh cầu!
Những điều được nhắc nhở trong
kinh Thi, kinh Thư, đích xác là những giáo huấn minh bạch.
Trong giáo điển của ta, có nói: “Cầu công danh được công danh. Cầu phú quư được
phú quư. Cầu con cái được con cái. Cầu trường
thọ được trường thọ”. Nói dối chính
là điều bị Phật Thích Ca cấm ngặt, chư Phật,
Bồ Tát há nói dối gạt người ư?
Ta
lại hỏi thêm:
-
Mạnh Tử nói: “ Cầu tắc
đắc chi, cầu tại ngă giả dă” (Hễ cầu
bèn được, cầu ở nơi ta). Đạo đức,
nhân nghĩa có thể tận lực cầu, chứ công
danh, phú quư cầu bằng cách nào?
Sư
Vân Cốc bảo:
-
Lời Mạnh Tử chẳng sai, ông tự hiểu lầm!
Ông không thấy Lục Tổ nói: “Nhất thiết phước điền, bất ly
phương thốn” (Hết thảy phước điền,
chẳng rời tấc ḷng) ư? Hăy t́m từ nơi tâm,
không ǵ chẳng cảm thông! Cầu từ nơi ta, chẳng
phải chỉ là đạt được đạo
đức, nhân nghĩa, mà c̣n đạt được công
danh, phú quư. Trong lẫn ngoài đều đạt được.
Đấy chính là do mong cầu, đạt
được bèn có ích! Nếu
chẳng phản tỉnh nơi nội tâm, chỉ hướng
ra ngoài rong ruổi cầu t́m, ắt là có phương pháp để cầu, nhưng phải do số mạng th́ mới đạt
được. Trong lẫn ngoài đều bị tổn hại.
V́ thế vô ích.
Sư hỏi: “Ông Khổng tiên
đoán số mạng suốt đời của ông như
thế nào?” Ta thưa sự thật. Ngài Vân Cốc nói: “Ông
hăy tự xét chính ḿnh có đáng nên đỗ đạt hay
không? Có nên sanh con hay không?”
Ta
suy xét hồi lâu bèn thưa:
-
Chẳng nên! Những người đỗ đạt
đều thuộc loại có phước tướng. Con
bạc phước, lại chẳng thể tích lũy công hạnh
để tạo nền phước sâu dầy. Lại c̣n
chẳng thể chịu đựng những nỗi phiền
toái quá mức, chẳng thể bao dung người khác. Có
lúc nghĩ ḿnh tài trí hơn người, nghĩ ǵ làm nấy
[chẳng suy tính cẩn thận], ăn nói bộp chộp.
Phàm những điều như vậy đều là tướng
bạc phước, há có nên đỗ đạt ư?
Đất bẩn sanh nhiều vật, nước trong
thường là không có cá. Con ưa sạch sẽ. Ḥa khí có
thể sanh trưởng muôn vật, con hay giận. Ái chính
là cái gốc để sanh ra các sanh vật. Tàn nhẫn là
căn cội khiến chẳng thể sanh nở[50].
Con hết sức quư tiếc danh tiết, thường chẳng
thể bỏ ḿnh cứu người. Lại c̣n nói nhiều
hao khí, thích uống rượu khiến tinh bị hao tổn.
Thích ngồi suốt đêm, chẳng bảo dưỡng
nguyên thần, đấy đều là những lư do đáng
nên không con. Những điều lỗi ác khác hăy c̣n nhiều
lắm, chẳng thể tính trọn.
Ngài
Vân Cốc bảo:
-
Há chỉ là đỗ đạt ư? Kẻ hưởng
tài sản ngàn vàng trong thế gian, chắc chắn là nhân vật
đáng giá ngàn vàng. Kẻ hưởng tài sản trăm lạng
vàng, chắc chắn là nhân vật đáng giá trăm lạng
vàng. Kẻ phải chết đói, chắc chắn là nhân vật
đáng bị chết đói. Trời bất quá do tài
năng của mỗi người mà dốc sức giúp cho
thành tựu, chưa từng có mảy may ư niệm ban
phước, giáng họa! Ngay như chuyện sanh con, kẻ
có đức trăm đời, chắc chắn là sẽ
có con cháu trăm đời. Có đức mười đời,
chắc chắn sẽ có con cháu mười đời. Kẻ
có đức hai ba đời, chắc chắn sẽ có con
cháu hai ba đời. Kẻ tuyệt tự vô hậu, đức
mỏng tột bậc. Ông nay đă biết lỗi, hăy nên tận
tâm sửa đổi tướng chẳng đỗ đạt,
tướng chẳng sanh con. Phải hết sức chú trọng
tích đức, phải chú trọng mở rộng tâm lượng,
phải chú trọng ḥa ái, phải chú trọng tiếc quư
tinh thần. Những điều trước kia ví như
hôm qua đă chết, từ rày trở đi mọi điều
đều ví như mới sanh từ hôm nay. Đấy là
cái thân nghĩa lư được tái sanh vậy.
Phàm
cái thân xương thịt th́ vẫn có số mạng, chứ
cái thân nghĩa lư há chẳng thể cảm ḷng trời
ư? Thái Giáp[51]
nói: “Trời tạo nghiệt,
c̣n có thể chống lại. Chính ḿnh tạo oan nghiệt,
sẽ chẳng thể trốn tránh”. Kinh Thi nói: “Vĩnh ngôn phối mạng, tự
cầu đa phước” (Vĩnh
viễn hành xử phù hợp mạng trời, sẽ
được nhiều phước). Như Khổng tiên
sinh đoán mạng ông chẳng đỗ đạt, chẳng
sanh con; đấy chính là tai ương do trời gieo vậy, vẫn
có thể chống lại được. Ông nay hăy nỗ lực
làm các thiện sự, tích nhiều âm đức. Đấy là phước
do chính ḿnh tạo ra, há chẳng thể thọ hưởng ư? Kinh Dịch là [giáo huấn] để bậc quân tử mưu tính [các biện
pháp sửa ḿnh] ḥng hưởng điều cát, tránh né
điều hung. Nếu nói “mạng trời thường hằng
[chẳng thể biến đổi]”, làm sao có thể
hướng đến điều cát, làm sao có thể tránh
né điều hung cho được? Do vậy, vừa mở
đầu quyển sách ấy, nghĩa thứ nhất là ‘nhà tích thiện, ắt điều tốt lành có thừa.
Nhà tích bất thiện, ắt tai
ương có thừa’! Ông có
tin hay chăng?
Ta tin lời ấy, lạy Sư,
nghe theo lời dạy. Do vậy, bèn đem tội trước
kia, đối trước Phật tận t́nh bày
tỏ, viết sớ dâng lên, trước hết là cầu
đỗ đạt, thề làm ba ngàn điều lành nhằm
báo đức của trời đất, tổ tông. Ngài Vân
Cốc đem sách Công Quá Cách dạy ta, bảo hằng ngày
hăy ghi chép những việc đă làm. Thiện th́ ghi số,
ác bèn trừ bớt. Sư lại c̣n dạy tŕ chú Chuẩn
Đề để cầu ắt được hiệu
nghiệm. Sư bảo ta:
-
Những nhà bùa chú có nói: “Chẳng
biết vẽ bùa sẽ bị quỷ thần cười
nhạo”. Điều bí truyền trong ấy chỉ là “chẳng
động niệm”. Hễ cầm bút vẽ bùa, trước
hết, hăy buông xuống muôn duyên. Từ đấy, chẳng
dấy động ư niệm, chấm bút xuống, gọi
là hỗn độn vừa mở nền tảng. Do vậy,
vẽ xong ngay trong một nét bút, chẳng hề suy nghĩ.
Đạo bùa ấy sẽ linh. Hễ cầu trời lập
mạng, đều phải từ chỗ vô tư vô lự
để cảm thông. Mạnh Tử luận về học
vấn “lập mạng”
đă nói: “Yểu và thọ chẳng
hai!” Nếu nói chi ly hơn, dư dật và thiếu thốn
không hai, sau đấy mới có thể lập cái mạng
nghèo hay giàu. Cùng quẫn hay hanh thông chẳng hai, sau đấy
mới có thể lập mạng sang hay hèn. Yểu và thọ
chẳng hai, sau đấy mới có thể lập mạng
sanh hay tử! Người sống trong thế gian, chỉ có sống
chết là quan trọng. Nói yểu hay thọ, tức là hết
thảy các sự thuận nghịch đều được
bao gồm trong ấy. C̣n chuyện tu thân th́ hăy chờ
đó, chính là chuyện tích đức để cầu trời
vậy[52]. Nói
“tu” tức là thân có lỗi, có ác, hăy đối trị, trừ khử. Nói “đợi” tức là chẳng có mảy may mong
ngóng, chẳng có mảy may đón chờ, [những ư niệm
ấy] đều nên chặt đứt. Đạt đến
địa vị ấy, thẳng thừng tạo ra cảnh
tiên thiên[53]. Đó
là học vấn thật sự. Ông chưa thể
vô tâm, chỉ nên tŕ chú Chuẩn Đề, chẳng tính
đếm, chớ để gián đoạn. Tŕ đến
mức thuần thục, sẽ là tŕ mà không tŕ, không tŕ mà
tŕ. Cho tới khi chẳng động niệm, sẽ linh
nghiệm.
Thoạt
đầu, ta có hiệu là Học Hải, nay đổi hiệu
thành Liễu Phàm. Ấy là v́ đă ngộ thuyết lập
mạng, chẳng muốn rơi vào khuôn sáo cũ của
phàm phu nữa. Từ đấy trở đi, suốt ngày dè dặt, bèn cảm thấy khác hẳn khi trước.
Trước kia là ơ hờ, tùy tiện, nay tự có cảnh
tượng dè dặt, thận trọng. Dẫu ở trong
nhà tối, buồng kín, thường sợ mắc tội
với trời, đất, quỷ thần. Gặp kẻ
ghét ta, chê gièm ta, có thể điềm nhiên chịu đựng.
Đến năm sau, Lễ Bộ mở khoa thi. Khổng tiên
sinh đoán ta sẽ đậu hạng ba, bỗng ta đậu
hạng nhất. Lời tiên đoán ấy chẳng ứng nghiệm.
Cho tới khoa thi mùa Thu, bèn đậu [Cử Nhân]. Nhưng
làm việc nghĩa vẫn chưa thuần, kiểm điểm
bản thân [th́ thấy] hăy c̣n nhiều sai lầm, hoặc thấy điều
thiện mà chẳng dũng mănh [thực hiện], hoặc cứu
người khác mà tâm thường tự nghi. Hoặc thân gắng
sức làm lành, mà nói năng có lầm lỗi. Hoặc lúc tỉnh
th́ hành tŕ, sau khi đă say bèn buông lung. Do có lỗi mà công bị
giảm, hằng ngày thường phí uổng. Phát nguyện
từ năm Kỷ Tỵ cho đến năm Kỷ Măo,
trải hơn mười năm, ba ngàn thiện hạnh mới
hoàn tất, bèn khởi nguyện cầu con, cũng hứa
làm ba ngàn việc thiện. Năm Tân Tỵ, sanh con trai tên là
Thiên Khải.
Ta
làm mỗi chuyện đều ghi lại. Mẹ
ngươi[54] chẳng
biết viết, mỗi lần làm một chuyện [tốt
lành], bèn dùng bút lông ngỗng, khoanh một chấm son trên nhật
lịch. Hoặc là bố thí người nghèo, hoặc phóng
sanh. Mỗi ngày có đến mười mấy cái khoanh
tṛn. Tới tháng Tám năm Quư Mùi, con số ba ngàn đă măn, tức
là chín tháng mười ba ngày. Lại bắt đầu nguyện
đỗ Tiến Sĩ, hứa làm một vạn điều thiện sự. Năm Bính Tuất thi đỗ,
được bổ làm tri huyện Bảo Tŕ. Ta để
một quyển sách toàn giấy trắng, đặt tên là
Trị Tâm Biên. Sáng thức dậy ra công đường,
gia nhân đem sách giao cho các nha lại, đặt ở trên
bàn. Những việc thiện ác đă làm ắt đều
ghi chép tường tận trong ấy. Đến đêm, kê
bàn trong sân, bắt chước Triệu Duyệt Đạo
dâng hương thưa tŕnh với Thượng Đế.
Mẹ ngươi thấy những việc đă làm chẳng
nhiều, nhăn nhó bảo: “Trước kia ông ở nhà, có
thể giúp ông làm lành. V́ thế, hoàn tất con số ba ngàn.
Nay hứa làm một vạn, trong nha môn vô sự th́ mới
có thể làm, đến chừng nào mới viên măn đây?” Ban
đêm, chợt mộng thấy một vị thần, ta
thưa nguyên cớ khiến cho thiện sự khó thể
hoàn tất. Thần bảo: “Chỉ do một chuyện giảm
thuế, vạn hạnh sẽ đều hoàn tất”. Ấy
là v́ ruộng ở Bảo Tŕ, mỗi mẫu phải
đóng thuế hai cắc ba ly bảy
hào. Ta quyết định giảm xuống một cắc bốn ly sáu hào.
Tuy
làm việc này, tâm vẫn nghi hoặc. Vừa khéo có thiền
sư Huyễn Dư từ Ngũ Đài tới, ta kể lại
giấc mộng ấy, cũng như hỏi chuyện này
có đáng tin hay chăng? Sư dạy: “Cái tâm ấy chân thật,
thiết tha, tức là làm một chuyện có thể coi
như một vạn điều thiện. Huống hồ
giảm thuế cả huyện, vạn dân được
hưởng phước ư?” Ta bèn quyên tặng tiền
lương, cậy sư đem về núi Ngũ Đài cúng
trai tăng một vạn người để hồi
hướng. Cụ Khổng tiên đoán ta lúc năm
mươi ba tuổi sẽ gặp hạn, ta chưa từng
mong sống thọ, nhưng suốt năm ấy chẳng
sao cả! Nay đă sáu mươi chín tuổi rồi.
Kinh
Thư nói: “Thiên nan kham, mạng mị thường” (Mạng trời khó tin chắc, vận mạng chẳng
thường hằng). Lại nói: “Duy mạng bất ư thường” (Chỉ
có mạng là chẳng thường hằng), đều chẳng
phải là những lời dối trá! Do vậy, ta bèn biết:
Nếu nói đến họa phước, không ǵ chẳng
phải là do tự ḿnh cầu. Thánh hiền dạy như
thế đó. Nếu bảo “họa
phước chỉ do trời định” th́ chính là luận
điệu của thế tục! Chẳng biết mạng
của ngươi sẽ như thế nào. Dẫu ngươi
đang lúc vinh hiển, hăy thường nghĩ chính ḿnh chẳng
đắc chí. Dẫu đang gặp lúc thuận lợi,
hăy nghĩ đang gặp cảnh khó khăn. Dẫu trước
mắt no đủ, hăy thường nghĩ là nghèo túng. Dẫu
được người ta yêu kính, thường nghĩ
là kinh sợ. Dẫu gia thế sang cả, thường nghĩ
là thấp hèn. Dẫu học vấn khá giỏi, thường
nghĩ chính ḿnh tri kiến hẹp kém. Xa là mong làm rạng rỡ
đức hạnh của tổ tiên, gần là mong che lấp
tội khiên của cha mẹ. Trên là mong báo ân đất
nước. Dưới là nghĩ tạo phước cho gia
đ́nh. Ngoài là nghĩ giúp đỡ người khác trong cơn túng ngặt. Trong th́ nghĩ giảm bớt những thói tà vạy
của chính ḿnh. Hằng ngày biết ḿnh sai quấy, hằng
ngày sửa lỗi. Ngày nào chẳng biết lỗi quấy,
tức là ngày ấy tự cho ḿnh là đúng. Ngày nào không có lỗi
để sửa, tức là ngày ấy chẳng thể tiến
bộ. Kẻ thông minh, tài năng trong thiên hạ chẳng ít,
do v́ chẳng gắng tu đức, mà tài năng chẳng thể
thêm rộng! Chỉ v́ hai chữ “chần
chừ” mà lỡ làng cả đời. Thuyết lập mạng
do thiền sư Vân Cốc truyền dạy chính là lư tinh
thuần tột bậc, sâu xa tột bậc, chân chánh tột
bậc. Hăy nghiền ngẫm kỹ càng, gắng sức thực
hiện, đừng ruồng rẫy chính ḿnh!
(Chánh văn) Thiện ác chi
báo, như ảnh tùy h́nh.
(正文)善惡之報。如影隨形。
(Chánh văn: Thiện báo, ác báo, như bóng theo h́nh).
“Thiện ác” là nói đến ḷng
người. “Báo” là nói tới
thiên lư. H́nh ngay, bóng sẽ ngay. H́nh lệch, bóng sẽ lệch.
Nói chung là chẳng sai sẩy mảy may! Nhân lành, quả sẽ
vui. Nhân ác, quả sẽ khổ. Thánh nhân dạy rất
tường tận, hiềm rằng
kẻ ngu chẳng tin. Do vậy bèn trái nghịch điều
lành, hướng theo điều ác. Đó là v́ thấy người
trong đời này, người lành có kẻ gặp cảnh
gieo neo, kẻ ác lại sống thọ, chết an lành, các thứ
hứng chịu trong đời này đủ mọi thứ
khác nhau, bèn bảo: “Có điều thiện lẽ ác chẳng có báo ứng! Dường như nhân quả chẳng đáng
để tin tưởng vậy!” Nào có biết người
trong cơi đời có vô số lần trăm năm, trời
hăy c̣n những bản án chưa kết thúc! Kẻ thuần
thiện, thuần ác hiếm hoi, căn cơ có thể là
thiện hay ác [tùy theo sự giáo huấn] là dễ [thành tựu]
viên măn nhất[55].
Niệm có chuyển dời, [để luận định
về] báo, hăy nên châm chước, [bởi lẽ, tùy theo cái
nhân chín muồi như thế nào mà] hoặc [báo ứng] ở
nơi thân ḿnh, hoặc nơi con cháu, hoặc trong đời
này, hoặc trong thân sau. Lớn, nhỏ, chậm, nhanh, biến
hóa, đổi dời, chẳng sai chạy mảy may! Tục
ngữ có câu: “Thiện ác rốt
rồi đều có báo, chỉ là sớm muộn khác nhau
thôi”. Đừng luận định [báo ứng] dựa
theo [những chuyện xảy ra] trước mắt, hăy nên
xem xét rốt ráo. Há có bao giờ [báo ứng] chẳng như
bóng theo h́nh ư?
Theo
cách nói [nhân quả] thông khắp ba đời trong kinh Phật,
chúng sanh tạo nghiệp, sẽ có ba loại báo:
1) Một
là hiện báo, hứng chịu trong đời này.
2) Hai
là sanh báo, hứng chịu trong đời thứ hai.
3) Ba
là hậu báo, hứng chịu trong đời thứ ba và mười,
trăm, ngàn, vạn đời [sau nữa].
V́
vậy, trong cơi đời, kẻ làm lành mắc họa là
do sự ác trong đời trước đă chín muồi. Kẻ
làm ác được phước là do điều thiện trong
đời trước chín muồi.
Trong phước có họa,
trong họa có phước, chẳng phải là thuần thiện,
thuần ác! Thoạt đầu là phước, cuối cùng
là họa, chính là v́ thiện
tâm lui sụt. Thoạt đầu là họa, cuối cùng là phước,
là do ác tâm mà hối cải.
Khổ và lạc chẳng dời đổi, chính là hiển
trực báo (顯直報, báo ứng rơ rệt, trực
tiếp). Tai ương và cát tường cùng xuất hiện,
tức là ẩn xảo báo (隱巧報, báo ứng ẩn kín, khéo
léo)[56],
cũng có trường hợp do có đức ẩn giấu,
hay lầm lỗi ẩn giấu [mà có báo ứng. Những sự
báo ứng ấy chẳng phải là do] thiện hay ác trong
hiện tiền như mọi người thấy biết.
Loan Yểm có báo ứng tàn bạo là do Loan Thư, cái chết
của Loan Doanh chính là quả báo của Loan Yểm[57].
[Chỉ nh́n vào những sự kiện trước mắt,
sẽ ngỡ là báo ứng] điên đảo, những
trường hợp như vậy cũng nhiều! Nhưng
Bạch Khởi[58]
hăm hại binh lính đă quy hàng, Lư Lâm Phủ[59],
Tần Cối tàn độc dân đen, chẳng phải là
[báo ứng] có thể xong hết trong một đời.
Nói
chung, đời trước hay đời này, cùng trong một
đời sẽ bị người tru diệt, quỷ thần
tru diệt, đau đớn như nhau, nhưng cơi đời
chẳng hề nghĩ ngợi! Tuy vậy, báo ứng có bao
giờ sai sót vậy thay! Thế mà vẫn có kẻ hỏi:
“Bậc vương giả[60]
phô bày điều thiện, ghét điều ác, há nên lải
nhải vấn đề này, [nếu thiện ác báo ứng
là có thật], sao trời không lập tức thực hiện
[sự báo ứng]
khiến cho con người cảnh
tỉnh, kinh sợ, mà cứ thong thả như thế?”
Đấy là v́ [kẻ ấy] nào có biết, nếu vương
pháp[61]
có sơ sót, đạo trời ắt chẳng lơ là, sai
lầm! Hơn nữa, bậc vương giả chẳng
nỡ ḷng, ắt sẽ xót thương bảo toàn. Ḷng trời
nhân từ tột bậc, thường dung thứ kẻ biết
hối hận v́ trót gây họa. Cổ nhân xưng tụng: “Ông trời có ḷng nhẫn
nại cao nhất, con người cũng nên có ḷng kiên nhẫn!”
Ví như mắc nợ, mai sau phải trả nợ, nhưng có kỳ hạn năm tháng sai khác. Một
đời, hai đời, cho đến ba, bốn, năm đời
cũng là con số to lớn trong thời hạn phải
đền trả của trời đất. Hễ báo ứng
chậm, ắt sẽ phải trả tiền lăi gấp bội!
Hơn nữa, con người thấy như vậy là xa xôi,
chứ trời thấy [chỉ là chuyện xảy ra] trong
sáng tối! Do vậy, nói: “Tạo
tác thiện thiện, ác ác, báo ứng như bóng theo h́nh,
đừng nói là tạo ác chẳng báo! Chờ cho đến
khi điều ác tràn ngập [rồi sẽ báo ứng]. Chớ
bảo tu điều thiện chẳng ứng, chờ cho
đến khi thiện quả viên thành”.
Lại
nói: “Giả sử trăm ngàn kiếp,
nghiệp đă làm chẳng mất, khi nhân duyên hội ngộ,
quả báo vẫn tự chịu”. Do vậy biết sự
khổ lạc trong tam giới, thăng trầm trong lục
đạo, đều ngộ là do tự tâm chiêu cảm. Khó
trốn thoát lưới trời, dẫu lầm lạc sanh
ḷng mong trốn tránh, sẽ như giữa đường
gặp mưa, nh́n bốn phía đều ướt nhẹp,
mờ mịt chẳng có chỗ ẩn náu! Nhưng người
đời chẳng ngộ, cứ bỏ mặc đó chẳng
xét. Do báo lâu xa, cho nên chẳng thấy kịp, c̣n như những
điều có thể thấy chính là những cảnh thuận
nghịch thông thường, nhưng đều
bị coi thường, chẳng nhận biết. C̣n đối
với những chuyện “thuận
theo đạo nghĩa dẫn tới điều tốt
lành, trái nghịch đạo nghĩa dẫn tới sự hung hiểm” to lớn đáng
tin, lại viện dẫn những chuyện dường
như chẳng hoàn toàn ứng nghiệm trong lẽ báo ứng
để tự huyễn hoặc, tự nghi ngờ, ch́m
đắm, do dự, chẳng tỉnh ra. Nếu như từng
trải đă lâu, bỗng sanh giác ngộ, nhưng người
đă già, thói quen đă
tập thành [khó thể sửa
đổi], thế mà đang độ tuổi trẻ
trung, hào khí hừng hực, lại chẳng tin tưởng.
Đấy chính là lư do khiến cho cơi đời này lắm
kẻ lạc nẻo, buồn thay!
Đời
Thanh, Hoàng Vĩnh Tước ở Sùng Minh được
thầy bói đoan quyết ông ta chẳng có con, chỉ thọ
sáu mươi tuổi. Về sau, có một chiếc thuyền ở Nam
Dương gặp gió sắp bị lật, họ Hoàng vội bỏ ra mười lạng bạc thuê thuyền đánh
cá ra cứu. Mười ba mạng đều sống sót. Gặp
lại thầy bói, ông ta kinh hăi bảo: “Mặt ông toàn là nét
âm chất, ắt có đức dầy. Không chỉ là sẽ
có con, mà c̣n đỗ Trạng Nguyên, và cũng được
thượng thọ”. Về sau quả nhiên sanh con trai,
đặt tên là Chấn Phượng. Đỗ đầu
khoa thi Hội năm Kỷ Mùi (1679) đời Khang Hy, thọ
chín mươi mấy tuổi, chết an lành. Đạo trời
đáng tin cậy dường ấy, sao con người chẳng
bỏ ác làm lành vậy?
Đồ
Phan Kỳ ở Tú Thủy, làm nhiều chuyện bất nghĩa,
xúi người khác kiện cáo để đoạt tài vật
của họ, gian dâm vợ con kẻ khác. Gặp chuyện
chẳng vừa ư nhỏ nhặt, bèn oán hận chửi bới
trời, thần. Bỗng chết đi, qua một đêm bèn
tỉnh lại, gọi vợ kêu mọi người đến,
bảo: “Diêm Vương bảo người chết chịu
báo, kẻ sống chẳng biết. Kẻ thọ báo chịu
khổ, kẻ tạo tác vẫn đắc chí, thật đáng
buồn đau! Nay Phan Kỳ tội ác cùng cực, mượn
nó để chỉ bảo muôn người”. Thế rồi
vung dao tự cắt đứt dương
vật nói “đây là quả báo dâm tà”. Tự khoét mắt, bảo:
“Đây là báo ứng v́ đă giận dữ nh́n tiên, Phật,
cha mẹ và chúng sanh”. Tự chặt tay nói: “Đây là quả
báo v́ đă mổ xẻ sanh linh”. Mổ bụng lôi tim ra nói:
“Đây là quả báo v́ âm hiểm, tàn nhẫn hăm hại”. Cắt
lưỡi nói: “Đây là quả báo của lừa dối,
nguyền rủa, chửi bới quàng xiên”. Xa gần trông thấy,
truyền tụng, ai cũng kinh sợ. Phan Kỳ quằn quại sáu ngày, thân thể không c̣n miếng
da nào lành lặn mà chết. Tự làm, tự chịu, nhanh
chóng ngần ấy. Miếu Đông Nhạc có một cặp
câu đối: “Dương thế
gian hùng, nhẫn tâm hại lư giai do kỷ. Âm ty báo ứng, cổ
văng kim lai phóng quá thùy” (Lúc sống gian hùng, nhẫn tâm trái
lư do ḿnh tạo, cơi âm báo ứng, xưa qua nay lại sót ai đâu?)
Cớ sao con người đă biết rơ mà vẫn cố
phạm, tạo khổ vô cùng? Xin hăy mạnh mẽ cảnh
tỉnh, sám hối, ai nấy sớm quay đầu. Theo gió
lướt sóng cầm chắc lái, bên bờ vực thẳm
gấp g̣ cương, ắt sẽ đều cùng thoát khỏi
cửa ải tai họa, cùng bước lên đường
phước.
Đời
Tống, Tào Bân trung thành thờ vua, giữ phận khiêm cung,
chẳng tranh giành tài vật, chẳng ban ơn riêng tư
cho ai. Ông giúp đỡ kẻ thiếu thốn, hoặc lâm vào
đường cùng, châu cấp kẻ góa bụa, mừng
hay giận chẳng để lộ. Phú quư mà chẳng kiêu căng. Dẫn quân chinh phạt, chưa hề giết chóc
bừa băi. Khi đánh chiếm Thành Đô[62],
bắt được phụ nữ, đều đem họ nhốt
kín trong một ngôi nhà, khoét lỗ để đưa đồ
ăn vào. Lại căn dặn người chung quanh: “Dành
để dâng lên trên, hăy nên bảo vệ nghiêm ngặt”.
Xong việc, t́m kiếm người thân để trả họ
về. Kẻ nào không có thân thích, bèn sắm sửa đầy
đủ lễ vật để gả đi. Khi ông Tào đánh
hạ thành Kim Lăng, trước đó bèn thắp hương
thề với mọi người: “Chẳng giết bậy
một ai!” Trước sau toàn thể những người
được sống sót chẳng thể tính rơ số. Những
chuyện khác như bỏ oán riêng mà gỡ tội cho Triệu
Xương Ngôn, nói gièm bản thân để cứu Vương
Toàn Bân, hoăn chuyện xử phạt viên nha lại mới
cưới dâu[63],
chẳng kinh động những loài tiểu trùng ngủ Đông,
đều là những chuyện đức dầy. Con ông ta
là Vĩ, Tông, Xán, đều lần lượt lănh tiết
việt, [một người con khác tên là] Kỷ được
phong tước vương. Sanh con gái là Quang Hiến Thái Hậu.
Con cháu hưng thịnh khôn sánh.
Lại
như Tào Hàn hạ thành Giang Châu, giận dữ v́ [dân chúng]
trong thành chống cự lâu ngày, bèn giết sạch. Tào Hàn
chết đi, chưa đầy ba mươi năm, con cháu
có đứa đi ăn mày! Tuy hai vị tướng thành
công như nhau, nhưng do dụng tâm khác biệt, cũng v́ đó
mà trời báo đền sai khác. Để mong hậu duệ
hưng thịnh, trước hết phải khởi đầu
bằng giữ cho cái tâm chánh đáng. Tư Mă Ôn Công[64]
nói: “Chứa vàng để lại
cho con cháu, chưa chắc con cháu đă có thể giữ
được. Chứa sách để lại cho con cháu,
chưa chắc con cháu đă đọc được. Chẳng
bằng tích âm đức trong chốn âm thầm, con cháu ắt
có thể hưởng báo”.
Ông
Phan Tùng Tiên nói: - Tôi có một người bạn tên là Nguyễn
Kiến Điền, thấy đồ tể mổ một con lợn, trên da nó có ba chữ “Tần Bạch Khởi” (Bạch
Khởi đời Tần). Đấy là hắn trầm luân
trong ngạ quỷ, địa ngục, ngẫu nhiên làm lợn
ở một nơi để tỏ rơ nghiệp báo. Hơn
một ngàn năm qua, ngoại trừ thọ sanh bị giết
mổ, ắt phải chịu đựng không dứt nỗi
khổ nơi núi đao, rừng kiếm. Chẳng biết
đến năm nào, mới có thể kết thúc vụ án Trường B́nh[65].
Lại có một con trâu cày bị sét đánh chết. Một
nho sĩ đi qua nói: “Bất
hướng nhân gian trừ ác nghiệt. Thiên tùng điền
nội đả canh ngưu” (Nhân gian ác
nghiệt chẳng trừ, trên đồng, sét đánh trâu cày
chết tươi). Nói xong, sét lại đánh tung con trâu, da
trâu bị nứt ra, hiện chữ: “Đây là Lư Lâm Phủ đời Đường, ba
đời làm gái điếm, bảy đời làm trâu,
đến nay là hết”. Suy ra, đấy chính là phải
chịu báo trong đời hiện tại, tính đại
lược đă hơn ba trăm năm. Ngoài ra, c̣n phải
chịu h́nh phạt nghiêm ngặt khổ sở tột cùng
trong chốn âm phủ chẳng sót ngày nào! Mong được
tạm ngưng thọ khổ [trong địa ngục] để
làm gái điếm hoặc trâu cày, vẫn là quá sức tuyệt
diệu! Ác nghiệp khó trốn khỏi lưới trời!
Cố nhiên là như thế đó.
(Chánh
văn) Thị dĩ thiên địa hữu tư quá chi thần,
y nhân sở phạm khinh trọng, dĩ đoạt nhân
toán.
(正文)是以天地有司過之神。依人所犯輕重。以奪人算。
(Chánh văn: Do vậy, trời đất có thần
trông coi tội lỗi của con người, tùy thuộc
con người phạm tội nặng hay nhẹ mà giảm
thọ của họ).
Câu
này cho tới “toán tận tắc
tử” (tuổi thọ đă hết sẽ chết) là một
đoạn. Ư nói trong đời mỗi người, ngày đêm
mỗi thời khắc, trên, dưới, bốn phía đều
có quỷ thần giám sát. Trời th́ có Tam Quan, Ngũ Đế,
trăm thần, các vị có chức trách[66].
Đất có ngũ nhạc, tứ độc, thành hoàng, lư
xă[67].
Lại có Cử Ư Ty, chuyên chủ quản những ư niệm
thiện ác dấy lên của con người. Những vị
ấy đều là “tư quá
chi thần” (thần trong coi tội lỗi). “Phạm” (犯) là
chính ḿnh tự chuốc lấy. “Đoạt”
(奪) là trừ bớt. “Toán” (算) là một trăm ngày.
Ḷng
trời nhân ái, muốn cho con người dẫu ở một
ḿnh[68]
vẫn làm lành, bỏ ác, cho nên có những
vị thần trông coi tội lỗi, ḍ xét những lỗi
con người đă phạm, cân nhắc nặng nhẹ
để trừ bớt tuổi thọ. V́ thế, nói: “Nhân gian tư ngữ, thiên văn
nhược lôi. Ám thất
khuy tâm, thần mục như điện” (Những
lời nói riêng tư trong nhân gian, trời nghe vang như sấm.
Chuyện do thiếu cẩn trọng mà làm trong pḥng kín, mắt
thần như chớp). Trong kinh Thi và kinh Thư cũng nói:
“Thượng Đế lâm nhữ,
nhật giám tại tiền” (Thượng Đế giáng
xuống nơi ngươi, hằng ngày soi xét trước
mặt), “thập mục, thập
thủ, thần chi thính chi” (mười mắt, mười
tay, thần luôn nghe thấy), tức là khi ta ở chỗ chỉ riêng ta biết, chính là lúc luôn có đông đảo quỷ thần rành
rành xếp hàng nghiêm ngặt giám sát. Đấy chính là lư “trời người hợp nhất”
vậy!
Kinh
Hoa Nghiêm nói: “Mỗi người
sanh ra đều có hai vị trời đi theo, một vị
tên là Đồng Sanh, vị thứ hai là Đồng Danh. Trời
thường thấy người, người chẳng thấy
trời”. Đấy chính thiện ác nhị bộ đồng
tử. Hằng ngày con người trong mười hai thời,
đối với những chỗ dấy ư, thốt lời,
cất bước, gặp vật, ứng duyên, hăy thường
nghĩ tới hai vị trời ấy, chớ để
cho ác niệm tiếp tục. Lỡ có dấy lên một ác
niệm, hăy gấp rút phấn chấn tinh thần xoay chuyển
nó lại, khắc phục những tập khí thói xấu của
chính ḿnh, cần phải thực hiện từ chỗ khó
thể khắc chế, măi cho đến khi thấu đáo
tột cùng chỗ ư niệm dấy lên, diệt mất, vậy
th́ vô biên nghiệp chướng sẽ ngay lập tức thanh
tịnh, lặng trong như thái hư! Như thế th́ cái
quyền giảm thọ thuộc về ta, quỷ thần
chẳng thể thao túng được, c̣n có chuyện những
vị thần trông coi tội lỗi trừ tuổi thọ
để nói nữa ư?
Đời
Minh, Vương Dụng Dư ở Nghi Châu, làm người
trung hậu, ổn trọng, đơn giản, trầm lặng.
Chuyên thờ phụng Văn Xương kính cẩn nhất,
kết Văn Xương Xă[69]
trong làng. Ngày Nguyên Đán mỗi năm, thay phiên nhau lập đàn
cúng tế tại hành cung của Văn Xương Đế
Quân trên đỉnh núi Vân Trung. Trong Văn Xương Xă, có ông
Du Lân, được khen ngợi là hiếu thảo, cẩn
trọng. Xa gần đều cắp tráp theo về. Lại
có ông Úc Tùng Châu phong thái cao cả, khí độ rộng răi,
nghị luận hùng hồn, nhấc bút liền viết ra
ngàn chữ. Người trong làng tôn sùng, kính phục hai ông ấy.
Ngày Nguyên Đán năm Tân Dậu (1441) trong niên hiệu Chánh
Thống, Dụng Dư đến miếu trước, ngủ
lại một đêm, mộng thấy Đế Quân thăng
điện. Các vị thành hoàng trong thiên hạ nhóm lại tâu
tŕnh danh sách những người sẽ đỗ trong
khoa thi Hương. Một vị thần mặc triều
phục màu đỏ ôm một đống danh sách to để
dâng lên cho Đế Quân kư duyệt. Dụng Dư hỏi vị
thần ôm danh sách: “Trong danh sách đỗ đạt của
tỉnh này, có tên Vương Dụng Dư, Du Lân, Úc Tùng Châu
hay không?” Đáp: “Không”.
Chốc
lát, các vị thần Thành Hoàng lui ra, vị thần mặc
triều phục màu đỏ ôm danh sách vào điện, quỳ
trước án, tŕnh lên. Đế Quân nhất nhất phê
duyệt. Dưới mỗi tên [trong danh sách] Ngài đều
kư duyệt, cũng có lúc do dự chẳng hạ bút. Một lúc thật lâu sau, vị thần mặc triều
phục màu đỏ phát danh sách, tuyên chỉ dụ: “Giao
cho thành hoàng các tỉnh, mau tra cứu âm đức của mọi
nhà, xem [nhà nào] có con nhân đức, trung hậu, hăy báo danh để thay vào những tên không
được phê duyệt trong danh sách”. Dụng Dư ẩn
ḿnh dưới cột, chợt nghe trong điện truyền
ra tiếng hô “Vương Dụng Dư vào điện diện
kiến”. Dụng Dư phủ phục dưới thềm,
được gọi đến trước án. Đế
Quân bảo:
-
Chuyện công danh là chuyện được ghi chép bí mật
của thiên tào, chẳng thể dễ dăi tiết lộ. Do
ngươi chí thành, mười mấy năm như một
ngày. V́ thế, vời ngươi tới đây để
phân tích [cho ngươi biết rơ]. Ông nội ngươi hết
sức chất phác, cẩn trọng, tay làm hàm nhai, chưa từng
thiếu nợ ai. Đă ghi tên ngươi đậu khoa
thi Hương trong danh sách trước (thượng bảng), ḥng tỏ
rơ sự báo ứng cho ḍng dơi trung hậu. Do ngươi
thường gặp thần, Phật, bèn cúi đầu, nhưng
thầm cầu được công danh như ư và cầu cho vợ
là Dương Thị được lành bệnh, sống với
nhau đến già. Mẹ góa của ngươi vẫn c̣n sống,
thế mà trọn chẳng có một câu cầu nguyện cho
mẹ. Do vậy, giáng ngươi đỗ chậm hai khoa,
đỗ thứ năm mươi ba trong hạ bảng.
Ngươi hăy nên sửa đổi, đừng làm mất
ḷng trời nữa!” Dụng Dư khấu đầu tạ
tội. Đế Quân lại bảo: “Châu Cát là người
cùng Văn Xương Xă, sẽ đậu Giải Nguyên của
tỉnh này”. Khi ấy, trong Văn Xương Xă chỉ có
Châu Cát là người nhũn nhặn nhất, văn chương
lại chẳng hay hơn ai. Nghe xong, [Dụng Dư] khôn ngăn
ngạc nhiên; do vậy, thưa hỏi lư do v́ sao ông ta đỗ
Giải Nguyên. Đế Quân bảo:
-
Cha và ông của Châu Cát
đều là người có học, chưa hề viết
một chữ nào thưa kiện, cũng chẳng gian dâm phụ
nữ nào, suốt cả ba đời [đều là như
vậy], chưa hề phô bày sự kém cỏi của kẻ
khác, chưa hề bộc lộ một điều ác của
kẻ khác. Hơn nữa, ông cố của Châu Cát c̣n vẽ Bách Nhẫn Đồ để khuyên kẻ
khác, người được cảm hóa đông lắm.
V́ thế, cha con, ông cháu đều có nền tảng phước
giản dị, an tĩnh hơn sáu mươi năm, âm
đức cao nhất, nhưng mọi người đều
không biết. Thượng Đế ban thưởng cho hưng
thịnh cả ba đời. Nay Châu Cát đỗ Giải
Nguyên, chính là khởi đầu của phước trạch
đặc biệt vậy.
Dụng
Dư lại dập đầu, thưa: “Con chưa rơ
người cùng Văn Xương Xă là Du Lân và Úc Tùng Châu có
đỗ đạt hay không?” Đế Quân kiểm lại
danh sách sĩ tử của Thái Nguyên, lộ vẻ không vui nói:
-
Du Lân đáng lẽ thi đậu, nhưng v́
thờ mẹ [bề ngoài hiếu thảo] mà trong bụng
ngầm phỉ báng, lại c̣n luận định người
khác cay nghiệt, chẳng biết thông cảm, lại c̣n xằng
bậy tự coi ḿnh là bậc quân tử! V́ thế, đánh
hỏng khoa này, khiến cho hắn suốt đời lêu bêu trong
phường Tú Tài mà thôi!
Dụng
Dư thưa hỏi: - Trong bụng phỉ báng là sao ạ?
Đế
Quân dạy: - Đối với ngôn ngữ, hành vi của
cha mẹ, trong ḷng hắn đều coi chẳng ra ǵ, chỉ miễn
cưỡng giấu diếm thanh sắc, vờ vịt thuận
theo, ngày càng ĺa khỏi chân tánh, ngày càng trở thành hư ngụy,
xem cha mẹ như kẻ qua đường. Hạnh hư
giả, trộm danh, khiến thần giận nhất. V́ thế,
trừng phạt hắn. C̣n như Úc Tùng Châu, bẩm sanh có
tài lạ, [lẽ ra] hai mươi sáu tuổi đỗ Tiến Sĩ,
ba mươi mấy tuổi lẽ ra được thăng
quan thành Trung Thừa[70].
Bốn mươi lăm tuổi được bổ làm Đại
Tư Không, kiêm lănh các ấn Tư
Nông, Tư Khấu[71].
Năm mươi bốn tuổi, lănh chức Thiếu Bảo[72]
về hưu. Tới sáu mươi chín tuổi bèn qua đời
an lành. Chỉ v́ kể từ mười bảy tuổi,
khi được dự vào hàng chư sanh, cậy tài khinh
người, châm biếm, bỡn cợt, lời lẽ phần
nhiều là ngọt ngào giả dối, nhưng chuyên môn đá đểu. Minh ty đă chép lỗi ăn
nói khinh bạc của hắn đến hơn hai ngàn bốn
trăm bảy mươi điều. Thượng Đế
tức giận, ghi tên hắn vào sổ những kẻ có điều
ác ngấm ngầm, trừ sạch tất cả [công danh].
Nếu chẳng biết hối lỗi, khi đă vượt hơn ba ngàn điều, sẽ đoạt mất tuổi
thọ, ghi tên con cháu hắn vào sổ ăn mày. Tổn thương
sự ḥa khí của trời đất, phạm điều
cấm kỵ của thần minh, không ǵ quá đáng hơn chuyện này! Do vậy, tội này giống như sát sanh, tà dâm
v.v… Các ngươi hăy thận trọng.
Một
hồi lâu sau, Ngài lại dạy rằng:
-
Dâm, giết, ăn nói sai lầm, dẫu bằng sợi tơ,
hạt thóc đều có báo ứng, chẳng cần phải
nói nữa. Nhưng đối với hai nghiệp dâm và sát,
kẻ biết tự thương thân th́ c̣n biết ngăn
ngừa, tránh phạm, c̣n như ngoài miệng châm biếm,
chê cười, mặc t́nh bươi móc, biếm nhẽ,
ngấm ngầm ôm ḷng tàn sát, hăm hại, do đă quen thói, chẳng nhận biết được!
Xét tới ngôn từ, dáng vẻ, bụng dạ, toàn là khinh
bạc, quỷ thần ắt ghi chép, sự hung ác sẽ đưa
tới. Vốn sẵn phận phước đức sâu dầy,
nhanh chóng đổi thành thân xác bần cùng! Đáng tiếc,
đáng sợ thay! Ngươi hăy nên khuyên rộng khắp người
đời, nh́n vào gương ấy mà răn dè, chẳng
phiền ta khi kư duyệt danh sách thi đậu, quá tốn công
do dự.
Dụng
Dư lại lạy, lui ra. Nghe tiếng chuông sớm bèn tỉnh
giấc, gà đă gáy canh ba, bèn lạy tạ, vung bút ghi lại. Cho đến khoa thi mùa Thu, lúc yết
bảng, quả nhiên Chu Cát đỗ đầu cả tỉnh.
Dụng Dư do vậy công bố lời dạy ấy
trong cơi đời.
Đời
Tống, An thiền sư chùa Quang Hiếu, trong Định
thấy hai vị Tăng tṛ chuyện. Thoạt đầu có thiên thần
ủng hộ. Nghe một hồi lâu sau, họ bỏ đi.
Trong chốc lát, có ác quỷ thóa mạ, xóa sạch dấu chân của
họ. Bởi lẽ, hai vị Tăng ấy thoạt
đầu bàn luận Phật pháp, kế đó, kể lể
con cà con kê. Cuối cùng, bàn luận lợi dưỡng.
Đàm luận thế sự, c̣n bị quỷ thần cáu
giận, quở trách. Huống hồ, người thời
nay thân, khẩu, ư nghiệp không chỉ là như vậy. Chẳng
bị thần giận, quỷ trách th́ sẽ lại như
thế nào đây? Cũng đáng sợ thay!
Cảm Ứng Thiên Vựng Biên
Quyển 1
Phần 1 hết
[1] Cát Hồng (283-343) tự là Trĩ Xuyên, hiệu Băo
Phác Tử, thường được gọi là Cát Tiên Ông, là người xứ Đơn Dương, Câu Dung
(nay thuộc tỉnh Giang Tô). Ông xuất
thân từ ḍng dơi thư hương, thuở
bé học Nho, lập chí chấn hưng Nho giáo. Đời
Tây Tấn loạn lạc, ông lánh đời, học theo
Đạo Giáo, chú tâm luyện đan, cầu t́m thuật trường
sinh. Trước tác nổi tiếng nhất của ông là bộ
sách Băo Phác Tử bao gồm những quan niệm luân lư đạo
đức của ông cũng như các nguyên lư luyện
đan.
[2] Thái Thượng Lăo Quân, c̣n gọi là Thái Thượng
Hỗn Nguyên Lăo Quân, Phạm H́nh Thần Bảo Huyền
Chân Giáng Sanh Đạo Đức Thiên Tôn, hoặc Thái Thanh
Đạo Đức Thiên Tôn là một trong ba vị Tam
Thanh (Thái Thanh, Thượng
Thanh và Ngọc Thanh) của
Đạo giáo. Lăo Tử được coi là thân giáng trần
của Thái Thượng Lăo Quân. Lăo Tử được
coi là thỉ tổ của Đạo giáo, các tổ sư
Đạo Giáo thường tự xưng
là đă được học đạo trực
tiếp hay gián tiếp từ Thái Thượng Lăo Quân.
[3] Tức là nhà Tống (960-1279) do Triệu Khuông Dẫn
sáng lập. Gọi là Triệu Tống để phân biệt
với nhà Lưu Tống (420-479) do Lưu Dũ sáng lập
vào thời Nam Bắc Triều, cũng như những nhà Tống
vụn vặt, ngắn ngủi trong lịch sử Trung Hoa
như Từ Tống (do Từ Thọ Huy sáng lập cuối
đời Nguyên), nhà Hàn Tống (do Hàn Lâm Nhi sáng lập, về
sau bị Châu Nguyên Chương diệt) v.v…
[4] Có thể coi Đạo Tạng là Đại Tạng
Kinh của Đạo Giáo, tức
toàn tập các bộ kinh điển và trước
tác được chấp nhận
là chánh thống của Đạo
Giáo. Đạo Tạng bao gồm Chánh Thống Đạo
Tạng được ấn hành vào năm Chánh Thống thứ
mười (1455) đời Minh Anh Tông và Vạn Lịch Tục
Đạo Tạng được ấn hành vào năm Vạn
Lịch thứ 15 (1587). Đạo Tạng được
chia thành các phần như Tam Động, Tứ Phụ, Thập
Nhị Loại, bao gồm 1.400 tác phẩm. Đạo Tạng được manh nha từ
thời Nam Bắc Triều khi Lục Tu Tĩnh viết Tam
Động Kinh Thư Mục Lục, và được coi
như hoàn thiện vào giữa đời Minh.
[5] Ư nói, thoạt đầu phải dựa vào cảm
ứng họa phước và nhân quả để gắng
sức hành thiện, trau dồi phẩm đức, sẽ
thấy khó khăn. Đến khi đă thuần thục, sẽ
chẳng thấy phải tốn công sức, dẫu chẳng
chú tâm dè dặt kiêng sợ, phẩm đức vẫn tự
nhiên đạt được, tự nhiên vẫn loại
trừ những lầm lỗi mà chẳng tốn công nhọc
sức.
[6] U minh (幽明): U minh là một khái niệm xuất phát từ kinh
Dịch, phiếm chỉ các hiện tượng đối
lập như sáng và tối, hữu h́nh vô h́nh, trí huệ và
ngu si v.v…
[7] Quái lực, loạn thần: Đây là một câu nói
xuất phát từ Luận Ngữ: “Tử bất ngữ quái, lực, loạn, thần”
(Khổng Tử chẳng nói đến chuyện quái dị,
dũng lực, phản loạn, quỷ thần). Dần dần
từ ngữ “quái lực loạn
thần” được dùng theo nghĩa hẹp để
chỉ sự huyền hoặc, hoang đường, ma
quái, kỳ quặc.
[8] Phong trào Ngũ Tứ là một phong trào đấu
tranh sau Đệ Nhất Thế Chiến do các thành phần
trí thức và sinh viên đề xướng tại Trung Hoa
nhằm đạp đổ tất cả các phương cách giáo dục cổ truyền, đ̣i hỏi hiện
đại hóa. Do cuộc biểu t́nh lớn nhất nổ
ra nhằm ngày Bốn tháng Năm năm 1919 bao gồm phần lớn sinh viên của mười ba trường đại
học tại Bắc Kinh, nên gọi là phong trào Ngũ Tứ (Ngũ Tứ vận động). Nguyên do dấy
lên phong trào này là sau khi Đệ
Nhất Thế Chiến kết thúc, trong hiệp ước
Versailles, các nước thắng trận đă chuyển
giao tô giới Sơn Đông từ Đức sang chính quyền
Nhật Bản, không thèm hỏi ư chính
quyền Dân Quốc. Sinh viên, học sinh dưới sự
sách động của một số trí thức như Lư
Đại Chiêu, Trần Độc Tú… đă biểu t́nh phản
đối chính quyền, đ̣i cách chức ba viên chức
thân Nhật là Tào Nhữ Lâm, Lục Tông Dư, và Chương
Tông Tường. Chính quyền Dân Quốc trước sức
ép của phong trào đă cự tuyệt kư ḥa ướcVersailles,
cách chức ba người ấy. Những
người lănh đạo phong trào đă quy kết sự
yếu hèn của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc là do nền giáo dục cổ truyền cũng
như do các tư tưởng triết học, nhân văn, tôn giáo truyền thống gây ra. Do vậy, họ đề
xướng gạt bỏ Tam Giáo, cấm ngặt sinh viên
đọc các trước tác của bách gia, chư tử,
kinh Phật, kinh Đạo giáo, loại bỏ Văn Ngôn…
[9] Chúng tôi tạm dịch phần này dựa theo cách diễn
giải trong các sách Cảm Ứng Thiên Trực Giảng, Cảm
Ứng Thiên Vựng Biên Bạch Thoại Tiết Bổn,
cũng như dựa theo lời giảng của ḥa thượng
Tịnh Không, pháp sư Định Hoằng và ông Hoàng Bách Lâm.
[10] Nguyên văn “bối
hướng quai nghi”, hiểu theo nghĩa đen là “những điều trái nghịch và hướng theo đều chẳng
đúng lẽ”. Sách Cảm Ứng Thiên Vựng Biên Bạch Thoại
Tiết Bổn giảng: “Đối
với kẻ ác, đáng nên xa ĺa, mà lại ngược ngạo
hướng ḷng theo họ. Đối với người
lành phải nên thân cận, lại ngược ngạo chống
trái. Làm như vậy, đúng là rất trái lẽ vậy”. Chúng
tôi chỉ dịch gọn là
“hành xử không thích đáng”.
[11] Nguyên văn “lậu bô”
(漏脯)
nghĩa là thịt khô để nơi dột nát, sẽ
sanh ra nấm mốc rất độc.
[12] Danh xưng này có nghĩa là “hội tập toàn bộ những chú thích, giảng
giải, và những câu chuyện để chứng thực
thiên sách Thái Thượng Cảm Ứng”.
[13] Theo pháp sư Định Hoằng, câu này có nghĩa
là “tùy theo kiến giải của
người đọc mà thấy thiên sách này là nông cạn
hay sâu xa, tinh tế hay thô lược. Đọc đến
những phần sau, đối chiếu với những nhận
định này sẽ thấy rơ ràng. V́ thế nói là tiền
hậu hỗ kiến”.
[14] Triệu Duyệt Đạo, tên thật là Triệu
Biện, Duyệt Đạo là tên tự. Ông là người
huyện Củ, tỉnh Chiết Giang, là một nhà văn học
lỗi lạc đời Tống, làm quan Ngự Sử
đời Tống Nhân Tông. Ông nổi tiếng là người
minh bạch, có thói quen mỗi đêm thắp hương tâu
tŕnh với Thượng Đế những chuyện
đă làm trong suốt một ngày, với ư nghĩa: Không làm
chuyện ǵ xấu để đến nỗi không dám
thưa với trời đất.
[15] Hà Gian (河間) là một quận thuộc thành phố Thương
Châu, tỉnh Hà Bắc.
[16] Tây Thục chính là Tứ Xuyên. Quang Châu là một huyện
thuộc tỉnh Hà Nam, không phải là Quảng Châu.
[17] Xu Mật Viện (樞密院) là danh xưng để gọi cơ quan quản
trị quân sự (tương đương với bộ
Quốc Pḥng hiện thời) dưới các triều đại Đường, Ngũ Đại, Tống, Liêu và
Nguyên của Trung Hoa. Vị quan đứng đầu Xu Mật
Viện gọi là Xu Mật Sứ (thường gọi
thông tục là Thái Úy). Dưới Xu Mật Sứ là Tri Xu Mật
Viện Sự, Đồng Tri Xu Mật Viện Sự, Xu Mật
Phó Sứ, Thiêm Thư Xu Mật Viện Sự… Nếu nói
theo cách tổ chức hiện thời, có thể nói Đồng
Tri Xu Mật Viện Sự thuộc về Quân Ủy trung
ương.
[18] Vân Thê đại
sư chính là ngài Liên Tŕ Châu Hoằng, tác giả bộ A Di
Đà Kinh Sớ Sao.
[19] Ở đây đại sư nói tỷ dụ: Một
thôn có ba nhà tức là thôn ấy hết sức nhỏ, chỉ
có ba gia đ́nh. Dù một thôn ít người như thế
mà tận lực làm lành, công đức vẫn là vô lượng.
[20] Bố Chánh là gọi tắt của chức quan Thừa
Tuyên Bố Chánh Sứ Ty Bố Chánh Sứ, c̣n gọi là
Phương Bá, Phiên Đài, hay Phiên Ty, tương
đương với tỉnh trưởng hiện thời.
[21] “Chư sanh”
là tiếng gọi chung những người đă đỗ
Tú Tài. Những người đă đỗ Tú Tài được
gọi là Sanh Viên, lại chia thành nhiều cấp như
Tăng Sanh (những người được lấy
đỗ thêm ngoài hạn ngạch, không được
hưởng thóc gạo), Phụ Sanh (những người
được lấy đỗ thêm ngoài danh sách Tăng
Sanh), Lẫm Sanh (những người thuộc danh ngạch
chính thức, được trợ cấp gạo), Hướng
Sanh (những người có danh Tú Tài do bỏ tiền ra
đóng góp).
[22] Hàn Lâm Viện Kiểm Thảo là chức quan chấp
chưởng Quốc Sử Quán.
[23] Nam Hoa Kinh tức là sách Trang Tử. Do Trang Tử ẩn
cư tại núi Nam Hoa, đến đời Đường
Huyền Tôn, nhà vua đă phong tặng cho ông hiệu là Nam Hoa Chân Nhân, cho
nên Đạo giáo
gọi bộ sách Trang Tử là Nam Hoa Kinh.
[24] Do Khổng Thúc Lương Ngột (cha của
Khổng Tử) đă cao tuổi vẫn chưa có con nối dơi (v́
con trai đầu của Thúc
Lương Ngột là Mạnh B́ bị
tàn tật), bèn lấy bà Nhan Trưng Tại để mong
kiếm được con trai nối ḍng. Hai vợ chồng
cầu con tại núi Ni, đẻ ra Khổng Tử, bèn đặt
tên là Khâu, và Khổng Tử có tên tự là Trọng Ni.
[25] Thời cổ, vua ngồi ở phương Bắc,
ngoảnh mặt về phía Nam.
[26] Cội nguồn sẵn có (bổn nguyên) chính là tâm
địa.
[27] Liễu bồ thật ra là hai loại cây, tức
là liễu và thủy dương. Liễu (柳, Willow) là loại cây thân mộc, cao, lá hẹp dài, có
hoa màu vàng nở vào mùa Xuân, có rất nhiều loại
như thùy liễu (liễu rủ), dương liễu, hà
liễu… Bồ (蒲, Reedmace, Broadleaf cattail, Bullrush,
Nailrod), c̣n gọi là Xương Bồ,
là một loại cỏ mềm chỉ cao tối đa hai
mét, thấp hơn liễu, thường mọc quanh bờ
ao, gốc vùi trong bùn, nở hoa vào mùa Hạ. Lá Bồ dài và nhọn, người Hoa thường dùng lá nó
để dệt đệm, bện thành quạt.
[28] Châu Thiên Lân (朱天麟, ?-1652), tên tự là Du Sơ, biệt hiệu là Chấn
Thanh, là bậc danh Nho cuối đời Minh sống vào thời
Sùng Trinh. Ông là người thông duệ, không xu nịnh, thanh
cao, c̣n để lại những tác phẩm nổi tiếng
như Đạo Thống Lục, Trị Thống Lục,
Dịch Đỉnh Tam Nhiên, Thiên Văn Hoàn Độ Biện,
Lục Thao Toản Thuật v.v…
[29] Tôn Chân
Nhân chính là Tôn Tư Mạo (541-682), một
cao nhân đắc đạo thời Đường, tinh
thông Tam Giáo, giỏi y thuật. Tôn Tư Mạo
quê ở Kinh Triệu, Hoa Nguyên (nay thuộc huyện Diệu,
tỉnh Thiểm Tây). Thuở bé, bảy tuổi đi học,
ông Tôn đă làm thầy giáo kinh ngạc v́ mỗi ngày có thể
thuộc hơn một ngàn chữ. Do vậy, nguyên lăo Độc
Cô Tín của nhà Bắc Châu đă gọi ông là Thánh Đồng.
Ông tinh thông học thuyết của chư tử, sở
trường về Lăo Trang, Âm Dương, số thuật,
lại c̣n yêu thích kinh Phật. Do thuở nhỏ lắm bệnh,
lại thấy dân chúng khổ sở v́ bệnh tật mà
không có tiền chữa trị, ông lập chí học y. Do tài
y thuật, ông từng được các vua Châu Tuyên Đế,
Châu Tĩnh Đế, Tùy Văn Đế, Đường
Thái Tông, Đường Cao Tông phong chức quan cao để
giữ bên ḿnh, nhưng ông đều khéo léo từ chối.
V́ t́nh thế ép buộc, ông phải làm Ngự Y cho
Đường Thái Tông một thời gian. Lúc sắp mất,
ông dặn con cháu: “Vùi lấp sơ sài cho xong, không chôn theo
đồ tùy táng, đừng sát sanh cúng bái”. Người
đương thời tôn ông là Tôn Dược Vương.
Hiện thời tại núi Dược Vương ở quê
nhà, vẫn c̣n miếu thờ ông, gọi là Dược
Vương Miếu. Đạo giáo xưng tụng ông là
Thiên Y Diệu Ứng Chân Quân. Bộ Thiên Kim Phương
(tên gọi đầy đủ là Cấp
Bị Thiên Kim Yếu Phương) gồm ba
mươi quyển, chứa đựng những
bài thuốc hữu hiệu nhất. Ngoài những
toa thuốc, sách c̣n chứa đựng lư luận Trung Y,
cách dùng thuốc, châm cứu, cách trị liệu bằng
ăn uống thích hợp.
[30] Ư nói do
quán chiếu, sẽ biết niệm ấy là thiện hay
ác, có nên tiếp tục dấy khởi hay không, hay là sẽ
trừ diệt, thay thế nó bằng một thiện niệm.
[31] Ở
đây, lời chú giải dẫn cách định nghĩa chữ
Cơ (幾) trong kinh Dịch để giải
thích câu trước “nhân tâm thiện
ác, mạc giai hữu cơ” (ḷng người thiện hay ác, không ǵ là chẳng do ư
niệm vi tế nẩy sanh [dẫn dến điều thiện
lẽ ác ấy]).
[32] Nguyên văn “phương
thốn” (方寸) là thuật ngữ chỉ cái tâm.
[33] Đây là hai điển cố về sự luôn phản
tỉnh của cổ nhân: Tăng Sâm là đệ tử của
Khổng Tử thường nói: “Ngô nhật tam tỉnh thân, vị
nhân mưu chi bất trung hồ? Dữ bằng hữu giao
nhi bất tín hồ? Truyền bất tập hồ?” (Tôi hằng ngày luôn tự xét ḿnh ba điều, v́
người khác lo toan có tận hết trách nhiệm hay
không? Chơi với bạn bè có giữ chữ tín hay không?
Đối với những điều được truyền
dạy có thực hành hay không?) “Bốn
điều biết” là nói tới Dương Chấn
đời Đông Hán. Ông Dương làm quan đến chức
Thái Thú. Một đêm có người mang ngàn lạng vàng
đến hối lộ, ông kiên quyết cự tuyệt.
Người ấy nằn ń: “Đêm sâu có ai biết đâu
mà Ngài lo?” Dương Chấn đáp: “Sao có thể nói là
không ai biết? Tôi biết, ông biết, trời biết,
đất biết”.
[34] Trương Tử ở đây chính là Trương
Tải (tự là Tử Hậu, hiệu là Hoành
Cừ Chân Nhân), một trong những người sáng lập
Lư học đời Tống. Ông này là chú họ của Tŕnh
Di và Tŕnh Hạo.
[35] Châu Tử ở đây là Châu Hy, tự là Nguyên Hối,
hiệu là Hối Am, người xứ Vưu Khê, tỉnh
Phước Kiến, là học tṛ đời thứ tư
của Tŕnh Di và là học tṛ của Châu Đôn Di, là một
trong những người hoàn thiện Lư học và khai sáng Tống
Nho. La tiên sinh ở đây chính là La Tùng Ngạn, một bậc
đại Nho thuở ấy, từng giảng kinh Dịch cho
Dương Thời (đệ tử đích truyền của
Tŕnh Di và Tŕnh Hạo).
[36] Có thể hiểu chữ “khí tượng”
(氣象) ở đây như cảnh
giới, trạng thái.
[37] Nguyên văn “nhi đa vị
thuyết dĩ loạn chi dă”, pháp sư Định Hoằng
giảng câu này như sau: “Đấy
chính là tuy học mà hoàn toàn chẳng thực hiện. Nghe rất
nhiều, học rất nhiều, nhưng chẳng chuyên tịnh,
đâm ra công phu của chính ḿnh chẳng đắc lực.
V́ thế, hễ học tập, tu đạo, hăy chú trọng
thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”.
[38] Tạ Thượng Thái là một vị học giả
đời Tống, tên thật là Tạ Lương Tá, là một
trong bốn vị đại đệ tử của Tŕnh
Di. Ông Tạ đỗ Tiến Sĩ dưới thời Tống
Thần Tông. Do ông là người
xứ Thọ Xuân, phủ Thượng Thái, nên thường
được gọi là Thượng Thái Tiên Sinh.
[39] Nguyên văn “lưu
quang khả cụ”, ư nói thời gian do trôi đi không ngừng
như ḍng nước chảy, nên gọi là “lưu quang”, phải biết sợ thời gian
đă trôi đi mất, chẳng trở lại. Do vậy,
chúng tôi dịch đại lược là “cẩn trọng, tiếc nuối thời gian”.
[40] Ông này tên thật là Triệu Khái, là một người
rất có đạo đức, học rộng, làm quan tới
chức Thái Tử Thiếu Sư (thầy dạy cho Thái Tử),
thụy hiệu là Khang Tĩnh.
[41] “Thờ trời” không có
nghĩa là cúng tế, vái lạy, cầu đảo, mà là sống
theo thiên đạo, tức là giữ đạo đức,
giữ thiện tâm, tuân theo đức hiếu sinh của
trời đất v.v…
[42] Quán chức (館職): Vào thời Đường - Tống, có nhiều
cơ quan được gọi là quán như Sử Quán, Tập
Hiền Quán, Chiêu Văn Quán v.v… Các quan chức làm việc
trong các cơ quan ấy được gọi chung là “quán chức”.
[43] Chánh Lang là chức quan thấp hơn Thị Lang.
Đứng đầu một bộ là Thượng
Thư, viên phó của Thượng Thư gọi là Thị
Lang. Dưới Thị Lang là Chánh Lang. Có thể tạm hiểu
Chánh Lang như cục trưởng hoặc ty trưởng
trong hiện thời.
[44] Đây
là thiên sách thứ nhất trong bộ Gia Huấn
của ông ta, thường được biết
dưới tên gọi Liễu Phàm Tứ Huấn.
[45] Hoàng Cực
Chánh Truyền tức là phương pháp bói dựa theo sách Hoàng
Cực Kinh Thế của Thiệu Khang Tiết, thường
gọi là Mai Hoa Dịch Số. Thiệu Khang Tiết, tên thật
là Thiệu Ung (1011-1071), tự là Nghiêu Phu, hiệu Khang Tiết,
người đời Bắc Tống. Ông vận dụng
dịch số để bói theo ngày tháng, theo nét chữ, theo
âm thanh, từ đó lập ra các
quẻ Bát Quái để đoán số.
[46] “Đồng
sanh” (童生) là những
sĩ tử chưa đỗ Tú Tài, nhưng đỗ kỳ
thi tại địa phương để được
dự vào danh sách cho đi thi Hương. Khoa thi tuyển
đồng sanh gồm ba cấp, huyện khảo (thi ở
huyện), phủ khảo và viện khảo (c̣n gọi là
Đề Học Khảo)
[47] Cống
Sanh (貢生) là người đă đậu Tú Tài.
Xưa kia, khoa thi này c̣n gọi là Minh Kinh (明經).
Đến đời Minh - Thanh,
người đỗ khoa thi này được gọi là
Sanh Viên (生员), có thể vào học trường Quốc
Tử Giám ở kinh đô. Cống Sanh khác với Cống
Sĩ (貢士). Cống
Sĩ là người đă đậu kỳ thi Hội. Kỳ
thi này nếu nói chi tiết sẽ có nhiều bậc:
1. Tuế Cống
ba năm mở một
lần hoặc hai hay ba năm, tuyển
theo quy chế từ huyện, phủ lên tỉnh để
lựa người vào học Quốc Tử Giám. Sĩ tử
thi đậu sẽ được trợ cấp gạo,
gọi là Lẫm Sanh.
2. Bạt Cống
sáu năm mở một lần để tuyển thêm sinh
viên cho Quốc Tử Giám. Đến đời Càn Long là
mười hai năm; lại c̣n lập
ra Phó Cống để tuyển thêm người thi đỗ.
3. Ân Cống:
Khoa thi đặc biệt do nhà vua khai ân khi mới
lên ngôi hay vào những dịp khánh điển trọng thể (như sanh Hoàng Thái Tử, lễ thượng thọ
của Thái Hậu v.v…)
4. Ưu Cống:
Ba năm mở một lần, do ty học chánh các tỉnh
tuyển sinh, lấy số lượng người đậu
rất hạn chế.
5. Lệ Cống
là con em của những nhà có tiền quyên tặng, hoặc
con quan, được đặc cách làm cống sanh. Loại này lại c̣n chia thành Phụ Cống,
Tăng Cống, Lẫm Cống v.v…
[48] Thời
Minh - Thanh, Đại Doăn là chức
quan đứng đầu công việc hành chánh trong một
huyện, chỉ cao hơn nha lại một chút, trực
thuộc quyền sai phái của tri huyện.
[49] Đồ
tông sư là vị quan trông coi học chánh họ Đồ.
[50] Nguyên
văn “ái vi sanh sanh chi bổn,
nhẫn vi bất dục chi căn”. Chúng tôi dịch câu
này theo lời giải thích của pháp sư Định Hoằng.
[51] Thái Giáp (tên thật là Tử Chí) là cháu nội của vua
Thành Thang, làm vị vua thứ tư của nhà
Thương Thang. Khi Thái Giáp tham hưởng dục lạc,
bỏ bê triều chánh, đối xử hà khác
với nhân dân. Y Doăn là cố mạng đại thần, giữ quyền Tể Tướng, đă đày
vua sang Đồng cung, gần lăng mộ
vua Thành Thang để sám hối, tự nhiếp
chánh. Ba năm sau, Thái Giáp hối cải, Y Doăn lại
đón về, giao quyền lại. Thái Giáp đă nói câu này
khi tự xét lỗi ḿnh. “Nghiệt”
(孽) ở đây là tai ương. “Trời tạo nghiệt”
nghĩa là trời giáng tai ương.
[52] Ḥa thượng Tịnh Không giảng câu này có
nghĩa là “chuyện tu thân th́
phải chờ khi vận mạng của ta đă biến
đổi, sửa đổi. Để sửa đổi
mạng vận chẳng phải là chuyện ngày một,
ngày hai mà ḥng đạt được. Phải có thời
gian tích lũy, phải dũng mănh, tinh tấn. Điều
này liên quan đến chính ḿnh siêng, lười, mê, ngộ.
Vẫn là phải dũng mănh tinh tấn chờ đủ
thời gian, nhất định sẽ đạt
được hiệu quả”.
[53] Theo ḥa thượng Tịnh Không, “cảnh tiên thiên” được nói ở đây
chính là như Phật pháp thường nói “phản bổn hoàn nguyên, tự tánh lưu lộ”.
Nói “tiên thiên” là sánh ví như
vũ trụ nguyên thủy, chưa tách rời thành âm
dương, là thái cực nguyên thủy trong quan niệm của
kinh Dịch. Nói “cảnh tiên thiên” tức là chân tánh vĩnh hằng
thanh tịnh, tịch chiếu, chẳng bị biến
đổi, chẳng bị chấp trước hư vọng
che lấp.
[54] Ông Viên Liễu Phàm viết sách này nhằm răn dạy
con, nên dùng chữ “mẹ
ngươi” (nhữ mẫu) ở đây. Vợ ông Viên
không biết chữ, nên không thể ghi chép. Hai vợ chồng
đều tận lực hành thiện.
[55] Nguyên văn “khả thiện,
khả ác chi cơ tối viên măn”. Chúng tôi dịch câu này theo
sự diễn giải của pháp sư Định Hoằng.
[56] Theo pháp sư Định Hoằng, ngấm ngầm
làm ác, nghĩ ác, không ai nhận biết, nên gọi là Ẩn.
Do khéo léo giấu diếm nên không ai biết kẻ đó bề
ngoài tốt đẹp, bên trong thối tha, bại hoại,
cho nên gọi là Xảo.
[57] Câu này hơi khó hiểu nên chúng tôi mạn phép giải
thích rườm rà như sau: Ḍng họ Loan của nước
Tấn thời Xuân Thu là ḍng dơi vơ tướng, lập nhiều
chiến công. Đến đời Loan Thư, do công lao hiển
hách, trở thành quyền thần lấn át nhà vua, Loan Thư bèn cùng với Tuân Yển và Tam Khích (Khích Chí, Khích Xu,
Khích Kỳ) thao túng chánh quyền nước Tần. Do vậy,
Chỉ Huy Sứ Tư Đồng lập mưu, giết
chết Tam Khích, bắt giam Loan Thư và Tuân Yển. Tấn
Lệ Công nghĩ công lao chinh chiến nhiều năm của
Loan Thư nên tha chết. Lấy oán trả ân, chờ dịp vua
xuất du, Loan Thư hợp binh với Tuân Yểm chiếm
đóng kinh thành, giết chết bọn Tư Đồng,
bắt giam Tấn Lệ Công (Cơ Thọ Mạn) rồi giết chết nhà vua trong ngục, lập vua mới. Con Loan
Thư là Loan Yểm c̣n tàn bạo, hiếu sát hơn cha,
chinh chiến liên miên. Đến khi con Loan Yểm là Loan Doanh lên thay cha, bố
vợ của Loan Yểm là Phạm Huyên Tư vốn đă
thù ghét ḍng họ Loan, bèn mưu tính với con gái (mẹ ruột Loan Doanh) vu cáo Loan
Doanh mưu phản, khiến Loan Doanh phải đào vong.
Loan Doanh chạy sang cầu cứu vua Tề, đem binh về
đánh nước Tấn, thua trận, bị bắt giết.
Thừa cơ, bọn Phạm Huyên Tử và Sĩ Ưởng
tru diệt toàn bộ gia tộc họ Loan. Họ Loan bị
xóa sổ ở nước Tấn. Cả câu có ư nói: Do sự
tàn bạo của Loan Thư mà sanh con cũng tàn bạo hiếu
sát như Loan Yểm. Loan Thư và Loan Yểm tuy tàn bạo
vẫn chết an lành, đến đời Loan Doanh, quả
báo chín muồi, vợ Loan Yểm tàn nhẫn âm mưu giết
con, hại chết toàn thể gia tộc nhà chồng. Đấy mới là quả báo thật sự cho
Loan Thư và Loan Yểm, phí bao tâm cơ thao túng chính quyền,
rốt cuộc tàn gia diệt tộc!
[58] Bạch
Khởi là danh tướng của nước Tần thời
Chiến Quốc. Do giết nhiều người quá nên sử
gọi ông ta là “nhân
đồ” (tên đồ tể giết người). Bạch
Khởi giỏi dùng binh. Năm 293 trước Công Nguyên,
trong trận Y Khuyết, Bạch Khởi đă đánh tan
liên quân Hàn và Ngụy, hạ lệnh chém chết hàng quân
đến hai mươi bốn vạn người. Trong
trận Yên Thành, ông đă dẫn nước sông Yên Thủy
chảy vào Yên Thành, d́m chết
mấy mươi vạn quân nước Sở. Trong trận
Hoa Dương, Bạch Khởi đánh
bại liên quân Triệu và Ngụy, giết chết mười ba vạn quân địch. Trong
trận H́nh Thành, ông ta hạ lệnh chém giết đến
năm vạn thủ cấp. Tàn nhẫn nhất là trong trận chiến Trường
B́nh, sau khi đánh tan đoàn quân nước
Triệu do Triệu Quát cầm đầu, bắt
được bốn mươi vạn binh, Bạch Khởi sợ hàng quân sẽ thừa
cơ nổi dậy, bèn sai mổ trâu
nấu cỗ, ban rượu, bảo quân Triệu ăn uống
no say. Sau đấy,
ngầm truyền quân Tần quấn vải trắng trên
đầu để nhận nhau, cứ gặp ai không có vải
trắng là chặt đầu. Bốn mươi vạn
hàng quân chỉ c̣n hai trăm bốn mươi người
sống sót, bị đuổi về kinh đô nước
Triệu.
[59] Lư Lâm Phủ
là thừa tướng đời Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng), miệng
ngọt ngào, ḷng dạ rắn rết, hăm hại trung thần.
Theo ghi chép, mỗi lần bàn về cánh sự,
ông ta nói năng như kẻ ngốc, người say,
nhưng thích nói không ngừng. Hắn khéo nịnh nọt, bợ
đỡ nên rất được hoàng đế tín nhiệm.
Do
vậy, hắn đă gây nên biến loạn An Lộc
Sơn.
[60] Theo pháp sư Định Hoằng, chữ “vương giả” ở
đây phải hiểu là bậc thánh vương, thánh quân.
[61] “Vương pháp” ở
đây không có nghĩa là “pháp luật của vua” như trong
cách hiểu thông thường, mà là pháp tắc cai trị bằng
ḷng nhân từ, chủ yếu dùng các biện pháp cảm hóa
dân chúng khiến cho họ sống đạo đức, an ổn. Có thể
hiểu “vương pháp” là cách cai trị của các vị
thánh quân như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, khác
với “bá nghiệp” là dùng những thủ đoạn chính
trị hà khắc, các mánh khóe để làm suy yếu
các quốc gia lân cận ngơ hầu
chính ḿnh hùng mạnh, thống trị kẻ khác.
[62] Thành Đô là tỉnh lỵ tỉnh Tứ Xuyên, đây
chính là kinh đô của nước Cổ Thục thời
Chiến Quốc, và cũng là kinh đô của nhà Thục
Hán khi Lưu Bị làm vua xứ Quan Trung. Vào thời Ngũ
Đại, nơi này trở thành kinh đô của nhà Tiền
Thục (c̣n gọi là Vương Thục, do Tây Xuyên Tiết
Độ Sứ Vương Kiến sáng lập, tồn tại
mười tám năm) và Hậu Thục (934-965, c̣n gọi
là Mạnh Thục, do Mạnh Ḥa Tường sáng lập).
[63] Triệu Xương Ngôn có lần dâng sớ đàn
hặc lên Tống Thái Tổ, kết án Tào Bân không chú trọng
giữ kỷ cương trong quân đội, dung túng thuộc
hạ, đ̣i triều đ́nh
phán tội chết cho Tào Bân. Tuy
nhà vua không nghe theo, nhưng Triệu Xương Ngôn đă trở thành cừu nhân của Tào Bân. Đến khi
Xương Ngôn bị kẻ khác vu cáo, muốn xin diện
kiến hoàng đế để kêu oan, hoàng đế từ
chối không gặp, Tào Bân đă van xin nhà vua cho
Xương Ngôn có cơ hội gặp mặt thưa rơ chuyện.
Nhờ đó, Xương Ngôn thoát tội chết.
Vương Toàn Bân là một vị tướng khác,
có tài cầm quân, nhưng tính t́nh tàn nhẫn, dung túng thuộc
hạ thả sức cướp bóc, hăm hiếp, giết
chóc mỗi khi chiến thắng địch quân. V́ thế,
quân địch thà chết, không chịu hàng. Sau khi b́nh định
xong trận phản loạn ở Tứ Xuyên, triều
đ́nh bàn định ban thưởng cho Tào Bân, trị tội
Vương Toàn Bân v́ những hành vi của ông ta khiến
cho địch quân nhất quyết liều chết khiến cho cuộc
phản loạn cứ dây dưa kéo dài. Tào Bân tâu: “Tướng
sĩ chinh Tây đều bị tội, sao thần riêng
được thưởng ư?” Ông kiên quyết từ
chối nhận thưởng, triều đ́nh bèn thôi không
truy cứu tội của Vương Toàn Bân.
Khi Tào Bân làm quan ở Từ Châu, có một nha lại
phạm tội, phải chịu h́nh phạt đánh trượng.
Ông đă quyết định hoăn lại, chờ hôm sau mới
hành h́nh. Người khác hỏi nguyên cớ, ông bảo: “Nó
mới làm đám cưới cho con trai, ngay hôm rước
dâu mà bố chồng bị đ̣n, người
ta sẽ nghĩ là điềm bất tường”.
[64] Tư Mă Ôn Công chính là Tư Mă Quang (1019-1086), tự Quân
Thật, hiệu Vu Tẩu, người huyện Vận
Thành, tỉnh Sơn Tây. Ông làm quan từ thời Tống
Nhân Tông, kịch liệt chống những cải cách mang
tính cách cấp tiến đầy phiêu lưu của
Vương An Thạch. Ông giữ nhiều chức vụ
thời Tống Nhân Tông, Tống Anh Tông, Tống Thần
Tông và được các hoàng đế hết sức coi trọng
v́ ḷng trung thành và sự tận tụy. Ông làm thừa tướng
đời Tống Triết Tông khi đă quá cao tuổi. Công
tŕnh lớn nhất và giá trị nhất của ông là bộ
sử Tư Trị Thông Giám. Khi ông mất, đă được
truy tặng chức Thái Sư Ôn Quốc Công, thụy hiệu
là Văn Chánh, bia mộ được đề tặng
Tinh Trung Túy Đức.
[65] Trong trận chiến Trường B́nh, Bạch Khởi
đă giết chết bốn mươi vạn quân ra hàng.
[66] Tam Quan (gọi
đủ là Tam Quan Đại Đế, hoặc Tam Nguyên Đại
Đế), tức là Thiên Quan (Thượng Nguyên Nhất Phẩm
Cửu Khí Tứ Phước Thiên Quang Diệu Linh Nguyên
Dương Đại Đế Tử Vi Đế Quân),
Địa Quan (Trung Nguyên Nhị Phẩm Thất Khí Xá Tội
Địa Quan Động Linh Thanh Hư Đại Đại
Đế Thanh Linh Đế Quân) và Thủy Quan (Hạ
Nguyên Tam Phẩm Ngũ Khí Thủy Quan Kim Linh Động Âm
Đại Đế Dương Cốc Đế Quân). Ba
vị này trông coi trời, đất và biển cả. Ngày
vía của ba vị này tương ứng với
ba ngày rằm lớn, tức Rằm tháng Giêng, Rằm tháng Bảy
và Rằm tháng Mười. Từ danh hiệu của các vị
này mà người ta hay gọi là Lễ Thượng Nguyên
(đọc trại thành Thượng Nguơn). Đạo
giáo lại nói ba vị này do Tam Thanh hóa ra, chẳng hạn Thái Thanh Đạo Đức
Thiên Tôn (Lăo Tử) hóa thành Thủy Quan.
Ngũ Đế chính là
Ngũ Phương Thượng Đế, tức là
năm vị thiên thần cai quản năm phương, chia thành Thượng Thiên
Ngũ Đế (Đông Phương Thanh Đế Thái Hạo,
Nam Phương Xích Đế Viêm Đế, Tây
Phương Bạch Đế Thiếu Hạo, Bắc
Phương Huyền Đế Chuyên Húc, và Trung Ương
Hoàng Đế Hiên Viên). Hậu Thiên Ngũ Đế chính là
hóa thân của các vị này trên thế gian, gồm có Phục Hy, Viêm
Đế (Thần Nông), Hoàng Đế, Thiếu Hạo và
Chuyên Húc.
[67] Ngũ Nhạc (五嶽) là Đông Nhạc Thái
Sơn, Nam Nhạc Hành Sơn, Tây Nhạc Hoa Sơn, Bắc
Nhạc Hằng Sơn và Trung Nhạc Tung Sơn. Theo Đạo
Giáo, các vị thần núi này đều được gọi
là Đại Đế, cai quản các vị thành hoàng trong
thiên hạ. Riêng Đông Nhạc Đại Đế cai quản
sanh tử.
Tứ Độc (四瀆) là Trường Giang (sông
Dương Tử), Hoàng Hà, Hoài Hà và Tế Thủy, bốn
vị thủy thần. Đời Đường,
Hoài Hà
được gọi là Đông Độc, Trường Giang là Nam
Độc, Hoàng Hà là Tây Độc, Tế Thủy là Bắc
Độc.
Lư Xă (里社) chính là thần thổ
địa.
[68] Nguyên văn “ngô tâm độc tri chi địa” (nơi chỉ có một ḿnh tâm ta biết),
tức là ở chỗ chỉ có một ḿnh ta, không ai biết
ta đang làm ǵ.
[69] Văn Xương Xă là tổ chức của những người cùng tu theo Văn Xương
Âm Chất Văn.
[70] Trung Thừa
có thể là Điện Trung Thừa tức Điện
Trung Tỉnh Thừa chăm lo việc hậu cần cho triều
đ́nh, tức là sắp xếp những tạp vụ cho
các buổi thiết triều, hoặc lễ lạc. Hoặc
là Ngự Sử Trung Thừa, là vị quan thuộc hạ của
Ngự Sử Đại Phu. Do đời Minh đổi Ngự
Sử Đài thành Đô Sát Viện, phế bỏ chức
quan này, lập ra Đô Ngự Sử đứng đầu
Đô Sát Viện. Do vậy, Trung Thừa chính là Phó Đô Ngự
Sử.
[71] Đại
Tư Không là quan coi về công tác thủy lợi, kiến tạo.
Đây chính là cách gọi khác của chức vị Công Bộ
Thượng Thư. Tư Khấu chuyên quản trị các
h́nh phạt, giám sát, soạn thảo luật lệ. Đây
là tên gọi khác của H́nh Bộ Thượng Thư đời
Minh. Tư Nông quản lư nông nghiệp, về sau mở rộng
thành quản trị thuế khóa, tài chánh, quốc khố,
kinh tế. Đây là tên gọi khác của Hộ Bộ
Thượng Thư đời Minh - Thanh. Nếu như Úc Tùng Châu không phạm lỗi, sẽ trở
thành một nhân vật đầy quyền thế v́ đồng
thời chưởng quản cả ba bộ.
[72] Theo quy chế đời Minh và Thanh, Tam Thái và Tam Thiếu
đều là các quan cố vấn của Thái Tử. Thái
Sư dạy văn, Thái Phó dạy vơ, Thái Bảo lo việc
bảo vệ an toàn. Thiếu Sư, Thiếu Phó, Thiếu Bảo
đều là các chức vị phó của Tam Thái.