Cảm Ứng Thiên Vựng Biên
感應篇彙編
Quyển 2
Phần 1
(theo bản
in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm
2000)
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
(Chánh
văn) Hữu đễ.
(正文)友悌。
(Chánh
văn: Thuận thảo với anh em).
Hiếu và Đễ
vốn là một, nay lại nói chuyên biệt, ḥng muốn
cho mọi người sẽ tùy theo từng sự mà trọn
hết [bổn phận] vậy. Anh ḥa thuận, yêu
thương, đáng kính; em th́ kính thuận, nể sợ
[anh], ḥa hợp. Anh em là những người có cùng khí chất
với thân ta, chỉ có mấy người này [là những
người thân thiết] khó có nhất trong một đời
người. Nh́n từ phía cha mẹ, [anh em] vốn là một
Thể. Nếu anh em có chút đối chọi, ḷng cha mẹ
liền đau xót, bất an. V́ thế, thấy anh
em ta thương yêu nhau, cha mẹ ta sẽ rất thoải mái, yên vui. Hơn nữa,
anh em được gọi là “tay
chân”, ắt phải che chở, nâng đỡ lẫn nhau. Ngứa và đau liên quan, há có
chuyện tay chân tự tranh đoạt lẫn nhau ư? Hăy
nên nghĩ [anh em đều
do] cha mẹ sanh ra, vốn
cùng một Thể, t́nh cốt nhục khó thể chia ĺa. Hễ
v́ ư khí [xáo động] mà giận dữ, tranh giành, hăy tự
dấy ḷng bất nhẫn. Đối những thứ tài lợi
nhỏ nhặt, hăy tự xem nhẹ. Thiền sư Pháp
Chiêu có bài kệ rằng:
Đồng khí liên chi các tự vinh,
Ta
ta ngôn ngữ mạc thương t́nh,
Nhất
hồi tương kiến nhất hồi lăo,
Năng
đắc kỷ thời vi đệ huynh.
Huynh
đệ đồng cư nhẫn tiện an,
Mạc
nhân hào mạt khởi tranh đoan,
Nhăn
tiền sanh tử hựu huynh đệ,
Lưu
dữ nhi tôn tác dạng khan.
(Tạm dịch:
Đồng khí
liền cành thảy tốt xinh,
Đừng v́
lời nói tổn thương t́nh,
Mỗi lần
gặp gỡ, già hơn trước,
Mấy thuở
được làm nghĩa đệ huynh?
Anh em chung ở,
nhường liền ổn,
Đừng v́
chuyện vặt dấy đua tranh,
Con cái chúng ta là
huynh đệ,
Nêu gương
cho cháu lẫn con nh́n).
Sách Viên Thị
Thế Phạm[1] có đoạn:
- Cha anh yêu
thương con em, chẳng cần đ̣i hỏi con em ắt
phải hiếu thuận. Con em yêu thương cha anh, chẳng
cần đ̣i hỏi cha anh ắt phải nhân từ. Ai nấy
chú trọng trọn hết trách nhiệm của chính ḿnh,
căn bệnh mong ngóng, trách móc sẽ tự trừ. Nghiêm cấm
tỳ thiếp chẳng được ngồi lê đôi
mách; đối với những lời lẽ trong chốn riêng
tư của vợ hay nàng hầu, dẫu hợp ư, cũng chớ nghe
theo, ắt đầu mối ly gián sẽ tự chấm dứt.
Tánh t́nh của con người hoặc mềm mỏng, hoặc
cứng cỏi, hoặc hành xử cẩn thận, hoặc
hào phóng, buông tuồng, hoặc là an tĩnh, hoặc là bộp
chộp; lúc gặp chuyện, đúng sai khác nhau, chỉ
nên đối với mỗi trường hợp mà hành xử
thích hợp. Đừng v́ thấy ta là đúng, mà đ̣i hỏi
mọi chuyện ắt phải hợp ư ḿnh; [như vậy th́] há c̣n có
tranh chấp? Dẫu cho gặp cảnh bất b́nh, chẳng
nỡ bàng quan, chỉ nên b́nh tâm ḥa khí, mềm mỏng, khéo
léo khuyên lơn. Như thế th́ há có chuyện chẳng ḥa
thuận ư? Người thời nay đánh mất niềm
vui cốt nhục, nguyên do là v́ những điều hết
sức nhỏ nhặt mà dẫn đến [t́nh trạng]
chẳng thể giải quyết được! Chỉ v́ sau khi đă bất ḥa, ai nấy đều
tự ái cao ngất ngưởng, chẳng thể buông xuống
được! Nếu trong ấy, có một người
hiền ḥa, sáng suốt, cam ḷng chịu thua thiệt, có thể
tự xuống nước trước để lo liệu,
bàn soạn với những người khác, ắt đôi
bên sẽ chịu thương thảo với nhau, dần dần
ḥa hảo như lúc b́nh thường vậy.
Đời
Minh, ông Vương Dương Minh nói: “Vua Thuấn có thể cảm hóa [em trai là] Tượng,
điều then chốt chỉ là [vua Thuấn] chẳng thấy
Tượng là sai!” Ngu ư cho rằng: Trong ṿng cốt nhục,
chỉ nên nói theo t́nh, chớ nên nói theo lư. Hễ chấp lư sẽ
tổn thương t́nh, hễ tổn thương t́nh th́
chẳng phải là đúng lư vậy! Như có kẻ hỏi
Tŕnh Tử: “Tôi phụng sự anh tôi trọn hết lư, mà
anh tôi chẳng vui ḷng, biết làm sao đây?” Ông Tŕnh đáp:
“Chỉ nên dấy ḷng hiếu
kính, trọn hết ḷng chí thành, chẳng cần biểu lộ
[ồn ào tâm ư của] chính ḿnh là được rồi!”
Hỏi: “Chăm sóc em trai bằng cách nào?” Đáp: “Trọn hết ḷng ḥa thuận,
yêu thương mà thôi!”
Trong bài Hiếu
Đễ Ca của tiên sinh Thiệu Nghiêu Phu (Thiệu Ung)[2] đời Tống có đoạn:
- Con phụng
dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Trong ṿng cốt nhục,
đừng dấy lên sóng gió. Ân cha mẹ mênh mông hăy nên báo
đền. Phải biết t́nh thủ túc sâu đậm nhất,
phải nên ḥa thuận. Ḍng họ Trương Công Nghệ[3] [chín đời]
ở chung với nhau xưa nay hiếm. [Anh em] Điền
Chân[4] ở chung,
con cháu đông đảo. Những người như thế
xa gần đều ca ngợi. Con phụng dưỡng cha
mẹ, em kính trọng anh[5].
Con phụng
dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Nói năng nhỏ
nhẹ, khiêm ḥa. Nan huynh nan đệ[6] danh càng trọng.
Con hiền cháu thảo cốt cho nhiều. Đội gạo
vẫn có thể phụng dưỡng tuy đơn bạc.
Kẻ đọc sách có ai chẳng mong đỗ đạt
cao [ḥng dùng bổng lộc phụng dưỡng cha mẹ]?
Trọng Do, Trần Kỷ[7] đều
như thế. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng
anh.
Con phụng
dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Răn dạy chị
em dâu giữ hạnh hiền thục, đảm đang, phụng
sự bố mẹ chồng. Hăy khéo tuân theo cách dạy con bằng
ba lượt dời nhà của mẹ ông Mạnh Tử.
Hăy đọc bài ca trăm chữ Nhẫn của ông
Trương [Công Nghệ]. Hiếu thảo với cha mẹ,
ḥa thuận với anh em, cư xử tốt đẹp với
thân tộc, thông gia, lại c̣n giúp đỡ kẻ khốn
khó, lỡ vận. [Noi theo] trí, nhân, đạo nghĩa của
thánh hiền, giữ đạo trung ḥa (trung dung, ḥa khí) [giống
như] Tăng Tử và Dương Bác thuở
đương thời. Con phụng dưỡng cha mẹ,
em kính trọng anh.
Con phụng
dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Đừng bảo
chuyện đời thường hội đủ thiên thời,
địa lợi với nhân ḥa. Đáng than đời
người được mấy chốc? Phồn hoa ngập
mắt, quư báu chi? Một nhà an lạc giá trị nhiều. Lạ
thay chuyện nhường quả[8], ôm quất[9]. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính
trọng anh.
Con phụng
dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Thời gian thấm
thoát tựa thoi đưa. Chỗ vui sướng trong gia
đ́nh là niềm vui nơi con cháu[10]. Khi anh em
ḥa thuận, th́ chị em bạn dâu cũng ḥa thuận. Thanh
danh hiếu đễ được lưu truyền măi chẳng
mất. Giàu có vàng bạc đầy rương sánh
được sao? Phải biết tiếng thơm lưu
truyền xưa nay. Con phụng dưỡng cha mẹ, em
kính trọng anh.
Con phụng
dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Sáng thăm, tối
viếng chớ chần chừ! Một nhà hiếu thảo,
ḥa thuận rất khó có. Thời gian trăm năm dễ
trôi qua nhất. Chính ḿnh phải nên sốt sắng giữ
niềm vui ḥa thuận. [Cơ sở để] giữ vẹn
luân thường và tôn ty là sự khiêm ḥa. Mặc áo sặc
sỡ múa may, kèn sáo ḥa điệu[11]. Con phụng
dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.
Con phụng
dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Chồng đừng
nên nghe lời vợ xúi giục. Đừng bực bội
v́ trước mắt tiền bạc ít ỏi. Con cháu dưới gối chẳng
ngại nhiều. Chỉ cần gia đ́nh ḥa thuận,
nghèo cũng được. Nếu dạy [con cháu] thành kẻ
bất nghĩa, giàu có để làm ǵ? Vương, Hàn[12] hiếu thảo,
ḥa thuận lưu danh trong sử xanh. Con phụng dưỡng
cha mẹ, em kính trọng anh.
Con phụng
dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Đừng gây tổn
thương ḥa khí, [v́] nhiều nỗi giận tức,
tranh giành. Càng sanh ganh ghét, càng khốn khó. Ngấm ngầm
tích cóp làm của riêng sẽ ngấm ngầm tiêu tán. Kẻ
bất hiếu tự nhiên sanh ra đứa con ngỗ nghịch. Kẻ vô hạnh
chắc chắn sanh ra con cái yêu ma! Chỉ nghe kẻ hiếu
thuận, ḥa mục, danh truyền muôn đời. Con phụng
dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.
Con phụng
dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Đừng v́ chuyện
nhỏ nhặt mà tổn thương ḥa khí. Đừng phiền
vàng trong rương ít ỏi, phải ngấm ngầm tích
lũy âm chất cho nhiều. Riêng tư, tà vạy há tốt
đẹp như công bằng, chánh trực? Cứng cỏi
chẳng làm ǵ được kẻ tốt lành, mềm mỏng.
Sách vở xưa nay thường khen ngợi: Con phụng
dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.
Con phụng
dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Than ôi, [gia đ́nh
tan ră] v́ nghe theo những lời phân tích xúi siểm. Tài vật
trong túi hiềm c̣n ít, ruộng đất ông bà ngươi vẫn muốn nhiều. Vợ chồng
trước mắt tuy vui thú, sợ rằng mai sau con cháu phá tan tành![13] Làm thế
nào để giữ ḷng hiếu thảo, ḥa thuận với
xóm làng? Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng
anh.
Đời Hán,
ba anh em Điền Chân bàn tính phân chia tài sản [ra ở
riêng]. Mọi thứ tài vật đều được
chia đều. Trước nhà, có một cây tử kinh[14], họ muốn
chia làm ba, [dự tính] ngày hôm sau sẽ đốn. Cây liền
khô héo. Điền Chân kinh hăi, bảo các em: “Cây vốn
cùng một cội, nghe sắp bị chia xẻ nên khô héo, vậy là người chẳng
bằng cây!” Do vậy, buồn bă khôn ngăn, chẳng c̣n tính
xẻ cây nữa. Cây nghe tiếng bèn sống lại. Anh em họ
cảm kích trước chuyện này, gộp tài sản lại,
sống chung với nhau, được [người đời]
xưng tụng là nhà hiếu thảo. Ôi! Anh em là một
trong các mối thiên luân, hợp với [các mối quan hệ]
cha con và vợ chồng thành Tam Cương. V́ thế, cổ
nhân thường sánh ví [anh em] như tay chân, ư nói chẳng
chia ĺa vậy. Hễ ly ắt tán, hễ tán sẽ trơ trọi,
do trơ trọi sẽ bị diệt mất.
Đời Tống,
anh của Tư Mă Ôn Công (Tư Mă Quang) là Bá Khang, tuổi
đă tám mươi. Ông (Tư Mă Quang) phụng dưỡng
anh như cha, chăm chút anh như trẻ
thơ. Thường khi người anh vừa ăn
được chốc lát, ắt hỏi: “Có bị đói
hay không?” Lạnh một chút, ắt sẽ xoa lưng bảo:
“Áo có mỏng quá hay không?”
Châu Văn Xán
tánh ḥa thuận, yêu thương anh em. Người anh thích uống
rượu, sống nhờ vào ông Xán. Người anh
thường do say sưa mà đánh ông Xán. Hàng xóm bất
b́nh, chửi người anh. Ông Xán tức giận, nói: “Anh
chưa đánh ta, sao lại ly gián cốt nhục của
ta?”
Đời Tống,
Trịnh Đức Khuê và Đức Chương bẩm
tánh hiếu thảo với cha mẹ, thuận thảo với
anh em, sách bày cùng bàn, đêm ngủ đắp chung chăn. Đức
Chương tánh hết sức chánh trực, làm mất ḷng
nhiều người. Kẻ thù hăm hại ông mắc tội
chết, [quan phủ hạ] án lệnh bắt về
Dương Châu. Đức Khuê đau xót v́ em trai bị vu
cáo, giả vờ nói: “Chúng nó muốn hại ta, chuyện đâu có liên quan đến em! Để ta đến chỗ quan phủ, lời
cáo gian ắt được sáng tỏ, chứ em đến
cửa quan, há thoát khỏi
chết ư?” [Đức Khuê bèn theo bọn
sai nha] lên đường. Đức Chương đuổi
kịp, anh em ôm nhau, giậm chân khóc lóc, tranh nhau đi chết.
Đức Khuê ngấm ngầm t́m kế ngăn trở em
trai lên đường, nửa đêm trốn đi. Đức
Chương lại đuổi tới Quảng Lăng,
Đức Khuê đă chết trong ngục. Đức
Chương đau xót, ngất đi mấy lần, mang
xương anh về an táng, dựng lều bên cạnh mộ
anh suốt hai năm. Mỗi khi ông đau đớn gào
khóc, chim chóc đều bay vần vũ, bỏ ăn. Con Đức Khuê thơ dại,
Đức Chương nuôi nấng, chăm chút như con ruột
của chính ḿnh.
Đời Hán,
Tiết Bao hiếu học, chuyên tâm giữ ǵn đức hạnh.
Bị mẹ ghẻ ghét bỏ, đuổi đi, Tiết
Bao hằng ngày đêm gào khóc ở bên ngoài nhà, buổi sáng lại
vào nhà quét dọn. [Mẹ ghẻ] lại xua đuổi, bèn
dựng lều ở nhờ trong làng. Sáng tối vấn an.
Hơn một năm sau, cha mẹ cảm động, cho trở
về. Cha mẹ mất, ông đau buồn thành bệnh. Các
em xin ra sống riêng, Tiết Bao không thể ngăn
được, đành để mặc cho các em thỏa
ḷng mong muốn. Đối với tôi tớ, ông bèn chọn
những người già yếu, bảo: “Những người
này hầu ta lâu ngày, đă quen sai khiến rồi”. Đối
với đồ đạc, ông chọn những thứ
cũ nát, bảo: “[Những món này] ta quen sử dụng, cảm
thấy thân và miệng thoải mái”. Đối với ruộng
đất bèn chọn ruộng hoang vu, bảo: “Ta đă cày
cấy từ bé, có ư quyến luyến [những thửa ruộng
này]”. Các em chẳng thể tự lập, đến nỗi
phá tan gia sản. Tiết Bao lại cấp dưỡng. Hán
An Đế nghe danh, vời vào triều giữ chức Thị
Trung[15]. Ông chẳng
nhận, vua bèn thưởng một ngàn thạch gạo.
Đời Hán,
Hứa Vũ mồ côi từ bé, có hai đứa em thơ dại.
Hứa Vũ ngày cày cấy, đêm học hành. Khi cày cấy,
tuy hai em chưa đủ sức sử dụng cày bừa,
thường bảo hai em theo bên cạnh quan sát. Khi đọc
sách, hai em ngồi hai bên, đích thân dạy hai em đọc
từng câu, từng đoạn, giảng giải cặn kẽ.
Dùng lễ nghĩa dạy hai em, dạy dỗ đến
khi em khôn lớn. Hễ em hơi chẳng vâng lời dạy,
ông bèn tự quỳ trước bàn thờ trong nhà, thưa
tŕnh: “Bản thân con thiếu đức, chẳng thể dạy
dỗ, cha mẹ có linh, xin hăy soi sáng cho hai em”. Một mực
[làm như thế] cho đến khi hai em xin tha lỗi mới đứng dậy. Trọn
chẳng dùng lời hằn học, hoặc vẻ mặt
giận tức dằn hắt hai em. Hứa Vũ tuổi
đă lớn, chẳng cưới vợ, nếu có ai khuyên
nhủ, bèn đáp: “Sợ cưới lầm người,
dễ sanh ra hiềm khích”. Do vậy, xóm giềng gọi ông
là Hiếu Đễ Hứa Vũ. Quan đầu quận
tâu lên, ông được vua phong làm chức Nghị Lang,
danh vọng rạng rỡ. Ông tháo giải đeo ấn (từ chức) trở về, lo liệu
chuyện hôn nhân cho hai em trước. Sau đấy, chính
ḿnh mới cưới vợ. Anh em ở chung mà ḥa thuận.
Về sau, hai em cũng rất có tiếng tăm.
Đời Tùy,
Ngưu Hoằng làm Lại Bộ Thượng Thư. Em
trai tên là Bật, thường say sưa, bắn giết những
con ḅ kéo xe của ông Hoằng. Ông Hoằng về đến
nhà, vợ ra đón, mách: “Chú nó bắn giết ḅ!” Ông Hoằng
chẳng trách móc ǵ, thong thả đáp: “Đem làm thịt
khô”. Ông đă ngồi yên định rồi, vợ lại
nói: “Chú nó giết ḅ là chuyện bất thường to lớn”.
Ông bảo: “Biết rồi! Có ǵ lạ đâu?” Vẻ mặt
như không có chuyện ǵ xảy ra. Ông đọc sách chẳng
lười nhác; về sau, trở thành bậc tể tướng
danh tiếng. Trong cơi đời, những kẻ lâm vào cảnh
t́nh nghĩa anh em sứt mẻ, chỉ là do nghe lời vợ
[xúi giục]. Thấy chuyện này mà chẳng tỉnh ngộ,
có khác ǵ cầm thú?
Đời Bắc
Tề[16],
có người tên Phổ Minh, anh em tranh chấp tài sản,
quanh năm kiện tụng, ai nấy t́m người làm chứng,
thưa lên Thái Thú huyện Thanh Hà là Tô Quỳnh. Ông Tô gọi
họ đến, khuyên dạy: “Trong thiên hạ, khó
được làm anh em. Đất đai, vườn
tược là cái dễ được nhất. Giả sử
có được vườn tược, ruộng
nương, mà mất đi anh em, cái tâm như thế nào vậy?”
Do đó, họ ứa nước mắt, những kẻ
làm chứng không ai chẳng cảm động, khóc ṛng, dập đầu [vâng theo lời
dạy], nhường nhịn lẫn nhau.
Ông Vu Thiết
Tiều nói:
- Hai đứa
con nhà quan X… ở Hoài Âm đối chọi nhau từ bé, trải
nhiều năm chẳng gặp nhau một lần. Về
sau, người anh mắc bệnh nguy ngập, gọi em tới
bên giường, nắm tay, bảo: “Ta mười chín tuổi
kết hôn, thuở bé chẳng có t́nh yêu thương vợ
con. Ba mươi tám tuổi cha mẹ mất, tuổi già chẳng
có t́nh yêu thương của cha mẹ. Tụ hội với
nhau lâu nhất chẳng ai bằng hai đứa ta và
ngươi. [Thế mà] lại suốt đời chẳng
hợp nhau, nay mới hối hận, nhưng đời ta
đă hết rồi!” Đau đớn thay, người
nghe chuyện ấy ắt sẽ động ḷng.
Đời Hậu
Hán[17], Mậu
Đồng mồ côi [mẹ] từ bé, có bốn người
anh em khác mẹ, cùng nhau sở hữu tài sản gia nghiệp.
Cho đến khi mỗi người cưới vợ, các
em đ̣i chia của sống riêng. Ông lại phải mấy
lần nghe những lời lẽ tranh chấp. Mậu
Đồng bèn đóng chặt cửa, tự quở: “Mậu
Đồng! Ngươi tu thân, vâng giữ đức hạnh
cẩn thận nhằm học theo pháp tắc của thánh nhân, ḥng khiến cho phong tục
được tốt đẹp, đoan chánh, cớ sao chẳng
thể giữ yên gia đ́nh vậy?” Các em và vợ nghe thấy
đều dập đầu tạ tội, lại sống
ḥa thuận với nhau.
Thời Ngũ
Đại, Trương Sĩ Tuyển mồ côi cha mẹ
từ bé. Đến lớn, chỉ có chú c̣n sống. Chú có
bảy đứa con, một hôm, chú bảo Sĩ Tuyển:
“Ta sẽ chia của cho ngươi, sẽ chia [tài sản]
thành hai phần, [ngươi được một phần]”.
Sĩ Tuyển thưa: “Cháu không nỡ ḷng để bảy
người chia nhau một phần, xin hăy chia thành tám phần
[đều nhau]”. Chú kiên quyết từ chối,
Sĩ Tuyển cũng kiên quyết nhường phần, chú
đành chia làm tám phần. Khi Sĩ Tuyển mười bảy tuổi,
gặp kỳ thi Hội bèn lên kinh đô. Những người
cùng ở trọ có đến hai mươi mấy mạng.
Có một thuật sĩ xem tướng, bảo: “Kẻ
đỗ đạt chỉ có đứa thiếu niên này”.
Những kẻ cùng trọ cười chê [thuật sĩ
ăn nói hàm hồ]. Thuật sĩ bảo: “Ta chẳng hiểu
ǵ về văn chương, nhưng đứa thiếu
niên này mặt tràn đầy âm đức, ắt là do tích
thiện mà ra”. Đến khi yết bảng, chỉ riêng ḿnh
Sĩ Tuyển đỗ cao. Phàm những kẻ hèn hạ,
bạc bẽo t́nh thủ túc trong hiện thời, tranh giành tài vật, tiền bạc, dẫu
đối với anh em ruột mà c̣n như thế, huống
hồ đối với những đứa con ḍng thứ
do mẹ kế sanh ra, sẽ dễ sanh ḷng khinh rẻ, lấn
hiếp, càng chèn ép quá đáng. Nếu là anh em họ, đôi
bên càng xa cách, sự thân sơ càng rơ! Ai có thể như ông
Trương [Công Nghệ] ư? Chẳng biết cổ nhân
đă nói: “Bạc đăi anh em
chính là bạc đăi cha mẹ. Bạc đăi anh em họ,
chính là bạc đăi tổ tiên”. Nếu thiếu căn
cội, cành lá ắt hư hoại. Đối với điều
luận định đến tận nguồn cội này,
mọi người hăy nên đọc đi đọc lại,
suy sâu nghĩ chín!
Đời Tống,
Mao Liệt và Trần Kỳ thân thiết. Trần Kỳ có
ba đứa em c̣n bé, lo sợ khi chúng nó lớn lên sẽ phải
phân chia sản nghiệp, bèn trước đó đem quá nửa
số ruộng gạ gẫm sang lại với giá rẻ cho Mao Liệt, tích
cóp mấy ngàn xâu tiền[18]. Sau khi mẹ
mất, [Trần Kỳ] chỉ dùng số ruộng hiện
đang có để chia cho các em. Hơn một năm sau, hắn
mang tiền đến nhà Mao Liệt xin chuộc ruộng.
Mao Liệt nhận tiền, nhưng ôm ḷng chiếm đoạt,
bèn lừa gạt bảo: “Hôm khác sẽ trả lại bằng
khoán”. Trần Kỳ tự nhủ: “Ta thường giao hảo
thân thiết với Mao Liệt, chắc là hắn chẳng
có ư ǵ khác!” Vài hôm sau, [Trần Kỳ] t́m tới, Mao Liệt
tránh mặt, không ra tiếp. Thưa lên huyện, quan huyện
ăn hối lộ của Mao Liệt, phán: “Quan tin vào văn
thư mà thôi, há có chuyện trao tiền mà không lấy bằng
khoán ư?” Rốt cuộc, Trần Kỳ mắc tội vu
cáo, bị phạt trượng. Về sau, nhiều lần
thưa lên quan, hao tốn tài sản của chính ḿnh gần
như hết sạch, chẳng có bằng chứng để
đ̣i tiền chuộc lại, ruộng vẫn thuộc về tay Mao Liệt. Ba
người em [của Trần Kỳ] nghe chuyện cười
kh́. Trong cơi đời, những kẻ cậy ḿnh khôn lớn
lấn hiếp đứa thơ dại, có kẻ nào chẳng
gặp phải hạng người như Mao Liệt
ư?
Có ba anh em
người dân ở huyện Cú Dung, người anh sang tạm
cư tại đất Thục (Tứ Xuyên), ba năm không
về. Đứa em thứ hai do thấy chị dâu xinh
đẹp, sai người giả vờ đưa tin
người anh đă chết. Chị dâu khóc lóc, để
tang. Lâu ngày, hắn xét thấy [chị dâu] không có ư định
tái giá, bèn ngầm nhận tiền của gă lái buôn để bán [chị dâu], lại c̣n
nói gạt gă lái buôn rằng: “Chị dâu ḷng muốn tái
giá mà hay làm ra vẻ màu mè. Nếu nói lời ngon ngọt, ắt
phải tốn nhiều thời gian. Ông có thể dẫn
theo nhiều người kéo tới bất ngờ. Hễ
thấy người nào cài trâm màu trắng, cứ lôi tuột
lên xe, chỉ nói: ‘[Có chuyện ǵ] ngày mai sẽ nói’. Hễ
lên thuyền, sẽ là vợ của ông rồi!” Mưu kế
đă định, đêm ấy, gă lái buôn dẫn lũ tay
chân kéo tới, hai đứa em thứ hai và em út đều
tránh mặt. Nhưng đứa em út tức giận v́
được chia tiền ít, trước đó, đă ngầm
nói với chị dâu, vợ đứa em thứ hai chẳng
biết. Do vậy, chị dâu khóc lóc, nói với vợ đứa
em thứ hai: “Chồng em gả chị đi, may mắn là
gặp khách giàu có, sao không nói sớm để chị trang
điểm? Nay gặp dịp lễ tốt lành mà mặc
đồ trắng toát th́ coi sao được! Mong em đổi
cho chị chiếc mũ sẫm màu trong chốc lát [để
hành lễ]”. Vợ đứa em thứ hai bèn đưa mũ
cho, tự cài chiếc trâm trắng. Chị dâu liền nấp
kín. Bọn khách kéo đến, thấy vợ của đứa em thứ hai bèn lôi tuột
đi, thừa dịp thuận gió mà nhổ thuyền. Đứa
em thứ hai trở về, mới kinh hoảng là đă mất
vợ, đuổi theo, nhưng ngàn cánh buồm lẫn lộn,
chẳng thể t́m được. Đến hôm sau,
người anh cả tay xách nách mang trở về, vợ
chồng đoàn tụ. Người làng đều đến
thăm hỏi, đứa em thứ hai hổ thẹn tột
bậc. Hắn nghe hai đứa con thơ khóc lóc v́ nỗi
lẻ loi mà đứt từng khúc ruột! Người
làng có kẻ biết chuyện, không ai chẳng ngấm ngầm
cười nhạo! Phàm là những kẻ kính thuận hay
khinh dối anh em, so với [chuyện lừa gạt, khinh rẻ]
người khác, báo ứng họa hay phước gấp
mười! Nếu [lừa dối, khinh rẻ] cha mẹ,
sẽ [mắc quả báo] gấp trăm lần, há chẳng
đáng sợ ư? Há chẳng đáng răn dè ư?
(Chánh
văn) Chánh kỷ hóa nhân.
(正文)正己化人。
(Chánh
văn: Sửa ḿnh [cho chánh đáng] ḥng dạy người
khác).
“Chánh” (正) là đích xác, chẳng thể đổi khác. “Hóa” (化, giáo hóa) là chuyện tự nhiên. Có nghĩa là bản thân đă chánh đáng, chẳng ép
buộc mà người khác sẽ hành theo. Đă đổ công dốc sức giữ
ḿnh chánh đáng, sẽ
có nhiều loại diệu dụng giáo hóa người khác.
Người có thể giữ ḿnh chánh đáng, chưa hề
chẳng thể khiến cho muôn loài đều chánh đáng theo. Bởi lẽ,
do người ấy đă chánh, ai nấy đều kính trọng,
người ta sẽ biết chỗ đáng tôn kính [của
người ấy], đấy chính là chỗ để
chuyển hóa cái tâm của họ. Nếu đối với
chỗ có thể chuyển hóa ấy, [ta do] ḷng chí thành khiến cho họ cảm động
đôi chút, họ sẽ tự nhiên vừa được khơi
gợi bèn chuyển biến. Vừa được khơi gợi, [thiện
tâm, chánh tâm] sẽ tỏ lộ, không ai chẳng thuận
theo. Nếu tự cho ḿnh là chánh đáng, phán xét kẻ khác là bất chánh, chỉ trích họ
đôi chút, ắt họ sẽ chẳng cam ḷng tiếp nhận
lời dạy, sẽ ương bướng tranh căi đến
đầu đến đũa, cũng chẳng phải
là đă ngược ngạo dập tắt thiện tâm của
họ hay sao? Đấy chính là căn bệnh chung của
những kẻ ưa chuộng điều thiện trong thời
gần đây! Thường là v́ hành xử quá thô tháp, họ
(người mà ta mong giáo huấn) sẽ chấp trước,
chẳng chuyển! Hăy nên răn dè sâu xa! Hăy cẩn thận,
chớ bỏ ruộng ḿnh đi cày ruộng người! Vương
Báo sống ở Kỳ Thủy, người Hà Tây đều
giỏi ca hát, Miên Câu ở Cao Đường, người
xứ Tề Hữu[19] đều
khéo ca xướng. Đâu có phải là do hai người ấy chỉ dạy tiết tấu cho từng
người, hằng ngày dạy họ phách nhịp!
[Tánh t́nh] thanh
cao th́ đáng quư nhất là có thể bao dung, người
nhân từ th́ cốt sao phải quyết đoán. Đừng
v́ [kẻ khác] thí xả ân huệ nhỏ nhoi [đối với
ḿnh] mà [nể
nang ân nghĩa đến nỗi] tổn thương đại thể;
đừng mượn danh nghĩa công chánh để xử
sự theo t́nh cảm thiên vị riêng tư. Ở trong hoàn cảnh
bận bịu, phải nên biết cách giữ ḿnh nhàn tản, lúc gấp rút càng nên giữ
ḿnh thong dong, lúc vô sự đừng
quên đề pḥng, tự kiểm điểm. Khi có việc
th́ phải kiên nhẫn, chịu đựng, đừng v́ thành kiến mà chất chứa
nghi ngại [đối với kẻ khác]. Đừng cố
chấp kiến giải của chính ḿnh để rồi cự
tuyệt những lời can gián. Có chừng mực phân minh,
sẽ có thể giảm bớt việc. Chẳng quan tâm lời
khen, tiếng chê, tâm sẽ có thể thanh tịnh. Do chánh trực,
có thể
cảm thông thần minh.
Do trung tín, sẽ có thể ở nơi biên địa, kém
văn minh, mà vẫn chẳng bị trở ngại. Nhân phẩm
phải đến mức như thế th́ mới gọi
là “chánh” được!
Cái tâm đă
chánh rồi th́ sau đấy mới có thể khiến cho bản
thân ḿnh cùng muôn vật được đoan chánh. Cái tâm
đă chánh, muôn vật sẽ định. Bởi lẽ, sự
cảm nhiễm do thanh sắc bên ngoài chỉ là những chứng
bệnh nơi cành nhánh. T́nh thức hư vọng phát khởi
từ bên trong, đấy là căn bệnh nơi cội gốc.
Người học đạo trước hết hăy nên
đối trị nội tâm để ngăn ngừa [sự
dụ dỗ, mê hoặc từ] bên ngoài. Chớ nên tham đắm
ngoại cảnh khiến cho nội tâm bị tổn hại.
[Như vậy th́] cái tâm đă được kiến lập
chánh đáng, muôn vật chẳng hề có thứ ǵ không bị
cảm hóa theo. Bởi lẽ, căn bản của nhất
tâm đă mạnh mẽ, chắc thật, tự nhiên muôn vật
[vốn là] những thứ cành lá sẽ tươi tốt.
Do vậy, muốn hướng dẫn muôn loài th́ cái tâm phải
thanh tịnh. Để khiến cho người khác chánh
đáng th́ chính ḿnh phải chánh đáng trước đă.
Vào đời
Tống, thiền sư Phù Sơn Viễn đă nói: “Tâm là chủ
của thân, là căn bản của muôn hạnh. Tâm chẳng
diệu ngộ, vọng t́nh tự sanh. Vọng t́nh đă
sanh, sẽ chẳng thấy rơ Lư, sẽ lầm loạn giữa
đúng và sai. V́ thế, để
đối trị cái tâm, cần phải cầu diệu ngộ.
Hễ ngộ, ắt thần ḥa khí tĩnh, vẻ mặt,
tư thái trang trọng, cung kính. Vọng tưởng và những
t́nh thức ưu lự đều bị ḥa tan trong chân
tâm. Đấy là cách để chánh tâm vậy”.
Đời Hậu
Hán, Quách Thái, tự Lâm Tông, [có lần] ngồi cùng thuyền
với quan doăn đất Hà Nam là Lư Ưng[20]. Người
khác trông thấy [hai vị ấy], ngỡ là được
lên thuyền tiên. Triều đ́nh nhiều lượt chèo
kéo [Quách Thái ra làm quan, ông] đều chẳng chiều theo.
Tánh ông khéo biết nh́n người, ưa cổ vũ, khích
lệ các kẻ sĩ khiến họ đạt nhiều thành tựu. [Quách Thái]
trông thấy Mao Dung đụt mưa, ngồi ngay ngắn,
bèn khuyên hăy đi học. [Do biết] Mạnh Mẫn làm vỡ
b́nh hoa mà chẳng xót xa, Quách Thái cho là Mạnh Mẫn có tánh
cách quyết đoán, cũng khuyên nên học hành. [Về
sau], họ đều trở thành bậc danh nho. Ông đề
bạt Thân Đồ Bàn vốn là thợ chế sơn, ông
nhận biết kẻ canh cửa là Dữu Thừa [là
người có tài đức, đều khuyến khích họ
gắng sức lập thân]. Những kẻ khác xuất thân là đồ tể,
bán rượu, hoặc lính tráng, do được Quách Thái
khích lệ, tiến cử đều thành danh rất
đông. Một học sinh trong quận là Tả Nguyên do phạm
pháp mà bị mọi người bài xích, gặp Quách Thái, ông
bèn an ủi: “Xưa kia Nhan Trác Tụ là kẻ trộm lớn
tại Lương Phủ, Đoàn Can Mộc cũng là kẻ
buôn ngựa nơi đất Tấn, rốt cuộc họ
trở thành bậc trung hiền của nước Tề,
nước Ngụy. Đừng tức giận, căm hận,
hăy trách chính ḿnh mà thôi!” Nếu có kẻ dị nghị Quách
Thái chẳng tuyệt giao với kẻ ác, ông đáp: “Người
mà chẳng có ḷng nhân từ, lại chán ghét [kẻ ác] quá
đáng, họ sẽ làm loạn”. Tả Nguyên đang muốn
kéo bè kéo đảng để báo cừu, do được
Quách Thái chỉ bảo bèn thôi. Giả Thục tánh t́nh âm hiểm,
là mối lo cho làng nước. Quách Thái để tang mẹ,
tiếp nhận phúng điếu của gă ấy. Có người
trách móc, ông Quách bảo: “Trọng Ni (Khổng Tử) chẳng
cự tuyệt người cùng làng. Tử Nguyên gột ḷng, hướng về điều lành; v́ thế,
tôi tán dương những điểm tiến bộ của
ông ta”. Giả Thục nghe nói, bèn tự sửa đổi,
trở thành bậc thiện sĩ. Những người
như Sử Thúc Tân, Hoàng Doăn v.v… đều có tiếng
tăm hiển hách, nhưng Quách Thái biết họ chẳng
chân thật, cho là họ ắt sẽ suy bại. Về sau,
quả đúng như vậy. Khi mối họa do quan lại kéo bè kết
đảng [tranh giành
quyền lực] nổ
ra, những người nổi tiếng phần nhiều bị
mắc họa, chỉ riêng Quách Thái do “ẩn giấu điều ác, phô bày điều thiện”
là tránh khỏi màng lưới mưu toan hăm hại trong cơi
đời. Khi ông mất, hơn một ngàn người
đưa tang, cùng nhau khắc đá, lập bia. Thái Ung[21] nói: “Tôi
đă soạn khá nhiều những bài văn khắc trên bia
mộ hoặc làm bài minh, chỉ riêng ông Quách là có đạo
đức, chẳng thẹn [với những lời ca tụng
trên văn bia] vậy!”
Đời Tống,
Tư Mă Ôn Công trung hậu, chánh trực, tiếng tăm vang
dội cả nước. Ông sống tại Lạc
Dương, [do chịu ảnh hưởng của ông], phong
tục biến đổi, không ai chẳng tôn trọng, giữ
vẹn danh tiết, ngượng ngùng chẳng muốn bàn tới
chuyện tài vật, lợi lộc. Ai nấy đều biết
giữ liêm sỉ, hễ con cháu trong nhà muốn làm chuyện
ǵ, ắt đều răn nhắc: “Chớ làm chuyện
bất thiện, sợ Tư Mă Đoan Minh[22] biết
đến!”
Huyện lệnh
Ung Khâu là Lưu Củ dùng lễ nghĩa giáo hóa dân. Hễ
có kẻ đến thưa kiện, ắt sẽ dùng vẻ
mặt ḥa nhă, thiết tha răn dạy: “Có thể nhẫn nại trước cơn tức
giận, chắc
chắn sẽ khỏi phải đến chốn công đ́nh”, bảo họ trở về suy nghĩ kỹ
hơn. Kẻ thưa kiện bị cảm động, giác
ngộ, liền băi nại. Ông
biến đổi phong tục to lớn, đức hạnh
của dân chúng trở thành sâu dầy. Hễ [người
làm quan] ngồi xử án, phán quyết, vốn phải v́
dân, thế mà có kẻ chấp nhặt pháp luật quá lố,
lại chẳng hiểu rơ t́nh h́nh dân chúng, thường có
chuyện cứ khăng khăng vận dụng h́nh pháp đến
nỗi [kẻ t́nh nghi] bị mất mạng! Sao không khiêm hư, b́nh
đẳng, khoan dung để thấu đạt t́nh lư vậy
thay?
Đời Hậu
Hán[23], Trần Thật
sống trong làng quê, dùng cái tâm công bằng hướng dẫn
mọi người. [Trong làng], hễ có chuyện kiện
cáo, liền mời ông làm người phân xử. Ông huấn
dụ cặn
kẽ đủ mọi lẽ, [khiến cho sau phán định], họ lui về chẳng ôm ḷng oán hận.
Họ c̣n nói: “Thà bị h́nh phạt, chớ bị ông Trần
nêu ra khuyết điểm”. Đă từng có kẻ trộm
núp trên kèo nhà, Trần Thật ngồi dậy, cầm đuốc,
gọi con em bảo: “Làm người chẳng thể
không cố gắng. Kẻ bất thiện chưa chắc
vốn là ác, do huân tập mà thành tánh; v́ thế, đến nông nỗi này, [trở thành] kẻ đầu
trộm đuôi cướp!” Tên trộm kinh hoảng, gieo
ḿnh xuống đất xin tha tội. Trần Thật thong
thả khuyên nhủ, tặng hắn hai xấp lụa, bảo
hăy tự sửa đổi. Sự giáo hóa của ông lan khắp
huyện, chẳng c̣n có nạn trộm cắp nữa!
Vũ Hậu (Vũ
Tắc Thiên) soán ngôi nhà Đường. [Cháu của Vũ Hậu] là Vũ Thừa Tự và Vũ Tam Tư[24] lo toan để
được trở thành Thái Tử. Ư Thái Hậu chưa
quyết. Địch Nhân Kiệt tận trung với nhà
Đường, thường thong dong nói với Thái Hậu:
“Văn hoàng đế (Đường Thái Tông) dăi gió dầm
mưa để định thiên hạ, truyền cho con
cháu. Đại đế (Đường Cao Tông)[25] phó thác hai
con[26] cho bệ hạ.
Nay bỏ ḍng họ của các vị ấy đi, có nên hay
không? Hơn nữa, giữa cô cháu và mẹ con, đằng
nào thân thiết hơn? Bệ hạ lập con [nối ngôi],
ắt ngàn đời muôn năm sau, được thờ
phối hưởng trong Thái Miếu, vĩnh viễn tiếp
nối chẳng cùng. Lập cháu, ắt chưa hề nghe có
chuyện cháu làm thiên
tử sẽ thờ kèm thêm cô trong miếu [thờ tổ tiên]!” Do vậy,
ông khuyên Thái Hậu triệu Lư Lăng Vương[27] về, lại
lập làm Thái Tử. [Ông đă có công] biến đổi
nhà Châu thành nhà Đường[28]. Về sau,
ông được cử làm B́nh Chương Sự[29], tước
phong Lương quốc công.
Thời Ngũ
Đại, Pḥng Cảnh Bá làm Thái Thú huyện Thanh Hà. Mẹ
là Thôi Thị thông thạo kinh điển, rất hiểu
biết. Có một phụ nữ ở Bối Khâu tố cáo
con ḿnh bất hiếu. Mẹ ông Pḥng nói: “Dân chưa biết
lễ nghĩa, há đáng quở trách sâu nặng?” Bèn gọi
người mẹ ấy đến, bảo ngồi đối
diện bên bàn cùng ăn, sai đứa con đứng hầu
phía
dưới, xem Cảnh Bá dâng cơm
cho mẹ. Suốt mười ngày như thế, đứa
con ấy hối lỗi, xin về. Mẹ [ông Cảnh Bá]
nói: “Tuy vẻ mặt đă lộ vẻ hổ thẹn,
nhưng cái tâm chưa quyết!” Lại giữ thêm hai
mươi mấy ngày nữa, đứa con ấy dập
đầu đến chảy máu, mẹ hắn chảy
nước mắt xin về. Sau đấy, nghe thấy
đứa con ấy được khen là hiếu thảo.
Anh em Thí Tá và
Thí Hữu đều làm Tri Châu, từ quan về nhà. Do phân
chia ruộng đất không công bằng, giữa cốt nhục
với nhau có mối hiềm khích. Thân hữu chẳng thể ḥa giải được! Người cùng huyện là ông Nghiêm Khê Đ́nh,
tên là Phượng, một niềm hiếu hữu (hiếu
thảo với cha mẹ, ḥa thuận với anh em), phụng
sự anh như cha, giúp đỡ, che chở, thương
yêu chẳng sót chút ǵ! Ngẫu nhiên, ông Nghiêm ngồi cùng thuyền
với Thí Hữu, Thí Hữu nhắc tới chuyện gia sản.
Ông Nghiêm chau mày nói: “Anh tôi nhu nhược, tôi chính v́ chuyện
này mà khổ năo! Giá được như anh của ông có thể tận hết sức đoạt
sạch ruộng của tôi, tôi c̣n phải lo lắng chi nữa?”
Nhân đấy, gạt nước mắt không ngừng. Thí
Hữu động ḷng, cảm ngộ, bèn mời ông Khê
Đ́nh (Nghiêm Phượng) cùng đến nhà anh ḿnh. Ông vừa
lạy, vừa khóc, tự hối hận, tự trách sâu xa.
Thí Tá cũng rơi nước mắt, an ủi. Mỗi
người đều muốn nhường ruộng cho nhau,
bèn suốt đời ḥa thuận, yêu thương nhau. Đến
nay, cả hai người bọn họ đều có con
cháu đông đúc. Người đời vẫn thích bàn về
chuyện ấy!
Trong ba câu chuyện
trên đây, trung, hiếu, thuận thảo, sẽ cảm
hóa người khác, vốn chỉ là tự giữ thân ḿnh
tốt đẹp, sẽ khiến cho người khác
được cảm hóa giống như vậy. Càng thấy
rơ thiên tánh vốn tốt lành như thế đó!
(Chánh
văn) Căng cô tuất quả, kính lăo hoài ấu.
(正文)矜孤恤寡。敬老懷幼。
(Chánh văn: Thương xót
con côi, cứu giúp quả phụ. Kính già, thương trẻ).
Ông Vu Thiết
Tiều nói:
- Mẹ góa, con
côi là nỗi bất hạnh trong đời người.
Già cả, ấu thơ, đời người ắt phải
trải qua. Thương xót, cứu giúp, kính trọng, quan tâm cũng là do lương tâm tự nhiên dấy
động. Nếu chẳng phải là kẻ tột bậc
hung bạo trong thiên hạ, sẽ chẳng thích bức hiếp
người cô quả, khinh người già, lừa gạt
trẻ thơ! Nhưng sự cai trị của Văn
Vương cũng chẳng ngoài “ai
thử quỳnh độc” (哀此煢獨, xót thương những người cô quạnh),
chí của phu tử cũng chẳng ngoài “lăo an thiếu hoài” (老安少懷, yên già, quan tâm trẻ). V́ sao? Thiện tâm dễ
sanh, thiện lượng (善量, tâm lượng tốt lành) khó trọn. Kẻ
không có sức cố nhiên hăy trọn hết tấm ḷng này.
Kẻ có sức hăy nên ra sức thực hiện chuyện thương xót, giúp đỡ. Thân thiết
thực hiện công phu thành kính, quan hoài, chớ nên viện
cớ “có tấm ḷng [là được rồi]” để
qua quưt cho xong chuyện. Thơ của Bạch Thái Phó (Bạch
Cư Dị) có câu: “Tuế thời
xuân nhật thiểu, thế giới khổ nhân đa” (Năm tháng ngày xuân ít, thế gian kẻ khổ
nhiều). Lại có câu: “Vật
t́nh tiểu khả niệm, nhân ư lăo đa từ” (T́nh cảm đối với muôn vật th́
đáng hoài niệm nhất là lúc bắt đầu, đối
với t́nh cảm con người th́ phải nhân từ
đối với người già cả). Lời lẽ của
bậc có ḷng nhân khiến cho người đọc cảm
thấy rất vui sướng.
“Cô” (孤) là kẻ chưa thể trưởng thành, cha mẹ
đă sớm qua đời, hoặc là mẹ chết, cha vừa
mới tục huyền, hoặc là cha chết, mẹ lại
tính đi thêm bước nữa. Tệ nhất là cả
cha lẫn mẹ đều chết, c̣n bé bỏng mà đă
côi cút, bất hạnh đến mức ấy, t́nh cảnh
khôn kham! Dẫu kẻ qua đường c̣n sanh ḷng
thương xót, huống là thân bằng quyến thuộc, họ
hàng, càng khó thể ơ hờ được! “Căng” (矜) là thương xót. Điều đáng phải nên có là tấm ḷng chí thành thương xót,
nuôi nấng, dạy bảo, khiến cho kẻ không nơi nương
tựa có chỗ nương tựa, không nơi gởi gắm
bèn có chỗ gởi gắm cho tới khi đă trưởng
thành, tự lập mới thôi! Gieo đức dầy trong
nhân gian, an ủi u hồn dưới suối vàng, quả
báo đạt được há nông cạn ư?
Phụ lục: Biện pháp tổ chức Từ Ấu
Cục (viện mồ côi)
Tại các quận,
huyện của nhà Đại Tống, đều lập Từ
Ấu Cục. Phàm con cái của những nhà nghèo muốn
được nuôi dưỡng, đưa đến viện,
sẽ được sắp xếp nhũ mẫu chăm sóc, nuôi nấng. Hoặc là kẻ không có con cái, đến
Từ Ấu Cục xin về. Ngay trong những năm
đói kém, cũng chẳng bỏ [chuyện từ thiện
này], chánh sách thương xót cô nhi dưới đời Tống
cặn kẽ như thế đó. Cho đến nay, phong
cách nhân từ được phổ biến rộng răi,
nhiều người chuộng làm lành. Những nơi
như kinh đô, Dương Châu, Tô Châu v.v… đều lập
Dục Anh Đường (cô nhi viện), cách thức này
càng thêm chu đáo, tỉ mỉ. Gom tiền của để
lập ra một nơi có căn nhà trống to lớn, bốn
phía là tường cao. Trong nhà ắt có đầy đủ
giường, bếp, đồ vật dùng để nấu
nướng, ăn uống. Phía trước làm cửa nhỏ, có then cài.
Đàn ông không được vào đó; chọn người
lăo thành, nghiêm nghị trông coi. Những phụ nữ nghèo, mập
mạp, mạnh khỏe, đă có con, muốn làm nhũ mẫu
th́ cho họ đem theo con sống trong ấy, cấp thức ăn theo hạn lượng. Ngoài
cửa đặt một cái trống lớn. Kẻ sanh con
mà chẳng muốn nuôi dưỡng, đặt con trong giỏ, viết họ, và ngày sanh tháng đẻ, gắn
tờ giấy ấy lên trên, chờ lúc chiều tà hoặc đêm tối không có ai, đưa tới
ngoài cửa, đặt con dưới đất, đánh một
tiếng trống. Người trong viện nghe tiếng trống,
sẽ ra cửa nhận lấy, người cho con đă đi
rồi. [Làm như vậy] v́ sợ người ấy hoặc
là ôm niềm hổ thẹn; hoặc v́ sợ mắc họa
mà không muốn cho kẻ khác trông thấy. Trẻ được
đưa tới bèn cử người có sữa làm nhũ
mẫu. Cách dùng họ của người [nhũ mẫu] ấy
để gọi trẻ sợ rằng do lâu ngày sẽ quên
mất [họ thật của nó], hoặc nếu có nhiều
đứa trẻ [mang cùng họ], sẽ gây ra lầm lẫn.
Mời một y sĩ có kinh nghiệm già dặn về bệnh
tật trẻ con đến chẩn đoán, chăm sóc bệnh
cho trẻ. Lập một chỗ làm nghĩa trang từ thiện.
Có trẻ nào chết yểu bèn khâm liệm rồi chôn tại
đó. Thuê thêm hai ba phụ nữ siêng năng. Trẻ dứt
sữa, liền giao cho họ chăm sóc. Một phụ nữ
có thể chăm sóc mấy đứa trẻ. V́ thế, [cách
làm này] khiến cho trẻ đến sau cũng có người
chăm bẫm, nuôi nấng. Nhũ mẫu nào cạn sữa,
ra khỏi viện, nếu yêu mến đứa trẻ mà ḿnh
đă cho bú, cho phép bà ta mang theo. Trẻ được
năm, sáu tuổi, hăy xét xem phẩm chất của
nó là cao hay thấp mà dạy dỗ. Ở ngoài viện mồ
côi, lập một chỗ dạy vỡ ḷng, mời một
vị thầy [đến dạy]. Trẻ trai sáng dạ
bèn dạy cho nó học hành. Trẻ ngu độn bèn bảo
nó làm những việc quét dọn trong viện, trong trường.
Trẻ gái tánh t́nh đoan trang, khéo léo, nhũ mẫu sẽ
dạy những việc thuộc về nội trợ, dạy
nó thêu thùa, may vá. Đứa đần độn, vụng
về th́ cũng sai nó làm các việc vặt. Trẻ trai
mười tuổi trở lên, không được vào trong
nội đường nhằm tránh mọi nỗi hiềm
nghi. Hoặc là cho nó làm người thừa kế cho kẻ không có con, hoặc cho tăng sĩ,
đạo nhân làm hương đồng[30], hoặc
làm kẻ hầu cho những nhà khá giả. Tùy theo tài
năng của nó mà quyết định đưa nó đến
đâu ḥng tùy duyên nương cậy. Chẳng lấy tiền
chuộc thân cho chúng, chẳng lo chúng nó sẽ không có nơi
sống. Tuy hết sức kém hèn, vẫn tốt hơn là chết
non! Nếu trẻ có tài năng khác người, mai sau có thể
tự thành gia lập nghiệp, chẳng phải là trách nhiệm
của người chủ cô nhi viện. Nếu trẻ
đă lớn có thể tự kiếm sống, có thể lập
gia đ́nh, bèn cưới nữ nhân trong viện, dạy nó
đừng lấy con gái nhà khác, nhằm biểu thị nó
chẳng quên gốc vậy. Con gái chưa đến tuổi
cài trâm, không ra khỏi cửa viện mồ côi. Đă cài
trâm, bèn gả cho con nhà b́nh dân ngoài phố, sính lễ chỉ
cần một chút quần áo, trang sức [là được rồi]. Nếu nhiều
hơn, hăy đưa vào quỹ chung của viện, chẳng
được gả cho người có học[31], mà cũng
chẳng được bán làm tớ gái. Bởi lẽ, xuất
thân khá hèn kém, chẳng thể khảo chứng nguồn gốc
[tổ tiên]. Nếu trẻ gái có nhan sắc xinh đẹp,
nhà giàu muốn mua làm thiếp, hăy nên cự tuyệt, để
khỏi trở ngại đạo nghĩa. Đừng cho
là sẽ được nhiều tiền sính lễ để
dùng làm tiền chi dụng cho cô nhi viện [rồi nhận
lời gả bán]. Trong số các vị thiện tín, cử
ra người trung hậu, công chánh, khôn khéo, sáng suốt, giàu kinh nghiệm ứng phó, mà người
đó lại có nhiều thời gian rảnh rỗi để
đứng ra trông nom chung mọi việc. Phàm những chuyện
như cho trẻ trai, trẻ gái ra khỏi viện, thâu nhập
tiền bạc, cùng với những việc lớn nhỏ
hằng ngày, không ǵ chẳng xem xét. Lập một thùng chứa
đồ hiến tặng ở cửa, để những
người thích làm điều nghĩa đi qua, [muốn
cho] một đồng tiền, một nắm gạo [bèn bỏ
vào đó. Mỗi thứ nhận được] không ǵ chẳng
đều ghi chép tường tận. Quy mô đă thành, thiện
duyên dần dần rộng hơn, có thể tiến hành lâu
ngày chẳng đến nỗi phế bỏ. Đấy
chính là điều thiện to lớn ḥng giúp cho sự sanh
thành dưỡng dục của trời đất vậy.
Chỗ khó khăn chỉ là gom được tiền bạc
[để lập cô nhi viện] đó thôi! Nhưng trong một
quận lớn, trẻ thơ bị vứt bỏ nhiều
lắm, ắt chi phí sẽ nhiều, nhưng hàng thiện
tín cũng nhiều. Quận nhỏ th́ thiện tín ít, mà trẻ
bị bỏ rơi cũng ít, [cho nên] chi phí cũng ít. Tâm những
người chuộng điều thiện giống nhau, nếu
được đôi ba người đề xướng,
không chỗ nào chẳng thể thực hiện được.
Chẳng lo thiên hạ không có người thừa sức,
chỉ lo chẳng có kẻ có thể phát nguyện to lớn
đó thôi! Do vậy, thuật bày cặn kẽ, ḥng giúp cho
người thích làm lành [có cái để cân nhắc] ḥng chọn
lựa!
Đời Tống,
Diệp Mộng Đắc nói:
- Tôi ở Hứa
Xương nhằm năm bị lụt to, xác người
chết trôi vô số. Tôi tấu tŕnh xin mở kho Thường
B́nh để chẩn tế, cứu sống hơn mười
vạn người, nhưng không có cách nào cứu giúp những
trẻ thơ bị ruồng bỏ! Ngẫu nhiên hỏi những
người chung quanh: “Cớ sao những người không có
con chẳng thu dưỡng [những đứa trẻ bị
vứt bỏ ấy]?” Họ thưa: “Người muốn
nuôi con th́ có, nhưng họ sợ đến năm
được mùa, cũng như đến khi con khôn lớn,
cha mẹ nó lại đến nhận”. Do vậy, tôi lập
ra phương cách: “Phàm là những kẻ v́ gặp tai
ương, hay thương tật, phải ruồng bỏ
con thơ, cha mẹ sẽ không được phép nhận
lại con”. Cho in mấy ngàn tờ bằng khoán để
trống cấp cho trong ngoài. Phàm những kẻ nhận con
nuôi, sẽ tự nói có được đứa con ấy
từ chỗ nào, viết rơ trong bằng khoán, coi như chứng
thư hộ tịch. Người nhận nuôi nhiều sẽ
được thưởng. Lại c̣n đem gạo c̣n
dư từ kho B́nh Thường, cân nhắc số lượng,
để ban cho người nghèo làm vốn. Việc định xong,
tính theo số bằng khoán đă lập, có đến ba ngàn tám trăm người [dùng phương thức ấy để
nhận con nuôi]. Kẻ làm quan cũng nên biết chuyện này.
Lại từ khi chiến tranh nổ ra cho đến nay, có
những kẻ phải ẩn nấp trong rừng rậm,
có nhiều kẻ v́ [bọn giặc] nghe tiếng trẻ
khóc mà chẳng tránh khỏi bị hại. V́ thế, kẻ
tránh giặc liền vứt bỏ trẻ thơ không
đoái hoài. Có kẻ bày kế lấy viên bông g̣n bỏ vào miệng trẻ, khiến
cho nó ngậm miệng mà trẻ không bị ngạt, hoặc
[cục bông ấy] chứa sẵn ít bột cam thảo, khi
cho trẻ ngậm th́ thấm nước để nó nút cục
bông, nếm vị ấy. Trẻ trong miệng có vật ấy,
sẽ chẳng phát ra tiếng. Bông g̣n mềm lại chẳng
làm miệng trẻ bị thương. Do vậy, cho in
phương pháp ấy thành nhiều bản để yết
thị, khiến cho trẻ thơ được toàn mạng
rất nhiều. Kẻ gặp những biến cố [binh
đao] cũng nên biết điều này!
Đời Tống,
ông Trương Hiếu Cơ làm rể cho một người
giàu có cùng quận. Người giàu có ấy sanh một
đứa con không ra ǵ, bèn đuổi nó ra ngoài. Đến khi người giàu có ấy
bị bệnh, lúc sắp chết, đă giao hết gia tài
cho Hiếu Cơ. Về sau, đứa con của người
giàu ấy làm kẻ ăn mày, Hiếu Cơ thương xót
đứa con côi ấy; do vậy, bèn hỏi nó: “Có thể
tưới vườn hay không?” Nó đáp: “Nếu có cái
ăn th́ may mắn lắm thay!” Ông liền thâu nhận, sau
đấy lại hỏi: “Có thể quản lư nhà kho hay
không?” Thưa: “Tưới vườn là đă may quá rồi,
được quản lư kho th́ càng may mắn quá!” Ông liền
cho nó trông kho. Hiếu Cơ quan sát thấy nó cẩn thận, thật thà, chẳng c̣n
thái độ cũ, bèn trả hết toàn bộ gia tài cho
nó. Sau khi Hiếu Cơ đă mất, bạn ông đến
chơi Tung Sơn, trên đường gặp một
đoàn xe cắm đầy cờ xí, dường như là
xe của bậc đại quan. Trộm nh́n người ngồi
trên xe, th́ ra là Hiếu Cơ, bèn vái chào, hỏi nguyên do. Ông
đáp: “Thượng Đế do thấy tôi trả lại
tài sản, chẳng lấn hiếp đứa con côi, sai tôi
làm chủ núi này”. Nói xong, chẳng thấy đâu nữa!
Thời Châu,
người đàn bà đạo nghĩa nước Lỗ
chính là vợ một người dân nước Lỗ.
Người Tề tấn công nước Lỗ, người
đàn bà đạo nghĩa ấy bỏ đứa trẻ
đang ẵm, để bồng lấy đứa trẻ
đang dắt. Quân Tề hỏi: “Đứa bé bị bỏ
là ai?” Người đàn bà đáp: “Con tôi”. Lại hỏi:
“Đứa bé đang được ẵm là ai?” Người
đàn bà đáp: “Con của anh tôi”. Quân lính hỏi: “V́ sao
ngươi lại bỏ đứa con do ḿnh sanh ra để
ẵm con của anh?” Đáp: “Con đối với mẹ
là t́nh yêu thương riêng tư. Cháu đối với cô là
đạo nghĩa chung. Bỏ công theo tư, bỏ mặc
đứa con côi của anh, thiếp chẳng làm được!”
Quân Tề nói: “Nước Lỗ có người đàn bà c̣n giữ tiết hạnh [như thế], huống
hồ là vua của xứ này!” Bèn rút quân về. Vua nước
Lỗ nghe chuyện, ban thưởng, gọi là Nghĩa Cô (義姑, người cô có đạo nghĩa). Ôi!
Người đàn bà nước Lỗ do bảo vệ
đứa con côi, do một lời mà giữ yên đất
nước. Nay những kẻ được gọi là bậc
tu mi nam tử lại trái nghịch đạo nghĩa, sống
thừa, đối với bà này, há có thể không hổ thẹn
chút nào ư?
Đời Thục
Hán[32], Trương
Duệ thuở bé chơi thân với Dương Cung.
Dương Cung mất, để lại đứa con côi
mới được mấy tuổi. Trương Duệ
đón mẹ Dương Cung về phụng dưỡng,
cưới vợ cho con của Dương Cung, mua nhà cửa,
ruộng đất cho nó. Mọi người kính trọng
đạo nghĩa của ông. Về sau, ông làm Thái Thú Ích
Châu.
Trầm Gia Mô,
người xứ Ngô Giang. Khi cha ông làm quan Hoàng Môn[33], ông sống
trong làng, ưa chuộng đạo nghĩa. Cùng huyện có
đứa con của người họ Cố mới
mười tuổi, mồ côi mà gia nghiệp khá dư dả.
Khi ấy, đang gặp mối lo trộm cướp, quan
huyện triệu tập các tay thế gia vọng tộc
[trong huyện] để bàn chuyện các nhà giàu có phải lo
chuyện cung cấp lương hướng cho quân đội.
Mọi người đều nói: “Không ai bằng đứa
con nhà họ Cố”. Riêng ḿnh ông Trầm Gia Mô lo ngại nói:
“Nó là đứa con côi non dại, làm sao có thể kham nổi
việc này”. Mọi người nói: “Nó có nhiều tôi tớ
sẽ có thể lo liệu được”. Ông bảo: “Tôi
chính là v́ lo những kẻ tôi tớ có quyền thế, sẽ
mượn việc quân nặng nề ấy để lừa
dối, lấn
hiếp ấu chủ,
nhà ấy sẽ bị phá tan ngay. Nếu cứ muốn cử
con nhà họ Cố đảm nhiệm việc binh, tôi xin
đi thay cho nó”. Ông vui vẻ ghi tên của chính ḿnh. [Sau đó], chiến sự phát sanh suốt mấy năm, chẳng
phiền đến đứa con nhà họ Cố. Cả
huyện ca ngợi nghĩa khí của ông Trầm.
“Quả” (寡, góa bụa) là tuổi c̣n đang trẻ trung,
chồng bỗng ĺa đời, h́nh đơn bóng chiếc,
mắt nh́n toàn thấy những cảnh tượng buồn
tênh. Huống hồ con cái thơ dại,
trăm sự chẳng có người lo liệu. Mạnh Tử
gọi t́nh cảnh này là “cùng nhi vô cáo” (窮而無告, cùng quẫn, không có nơi nương cậy). “Cùng” (窮) là tột
bậc. Tai họa biến đổi như thế, há chẳng
phải là cùng cực cư? Muốn nói, há có ai để thổ
lộ, chẳng
phải là không nơi nương cậy ư? “Tuất” (恤) là châu cấp, nâng đỡ, nuôi thân họ,
thành tựu tiết hạnh cho họ. Con người sống
giữa trời đất, chỉ có góa phụ là khổ sở
nhất. Lúc trẻ th́ bị kẻ cường bạo hiếp
đáp. Giàu th́ ḍng họ cắn nuốt. Già th́ run rẩy, ai thương xót? Nghèo th́ không có cách nào lo liệu
áo cơm. Nếu bà góa không con, lập chí thủ tiết,
càng là khó có. Ai có thể thương xót, giúp đỡ họ,
ắt đủ cảm thông Thượng Đế trên
chín tầng trời, cảm động quỷ thần trong
tam giới, há nên nói là ân huệ nhỏ nhặt ư?
Đời
Minh, Đỗ Hoàn ở Kim Lăng, cha là Nhất Nguyên,
chơi thân với Thường Doăn Cung. Doăn Cung chết, mẹ
đă già, không nơi nương tựa, đội mưa
tới nhà Đỗ Hoàn. Khi ấy, Nhất Nguyên đă chết,
Đỗ Hoàn kinh ngạc hỏi nguyên cớ. Bà mẹ khóc
lóc, kể nguyên nhân. Đỗ Hoàn cũng khóc, đỡ bà
cụ ngồi lên, bái lạy, bảo người nhà phụng
dưỡng cụ như bà nội. Bà cụ tánh nóng nảy,
hễ có chuyện ǵ hơi chẳng vừa ư, bèn tức tối,
trách móc. Đỗ Hoàn thuận theo, hầu hạ rất cẩn
thận. Khi bà cụ bị bệnh, ông đích thân hầu hạ
thuốc men. Khi lâm chung, cụ nói: “Tôi đă làm phiền ông
Đỗ, nguyện con cháu ông Đỗ đều
được như ông Đỗ”. Cụ mất đi,
ông Đỗ mai táng, lễ nghi châu đáo tột bậc. Hằng
năm đều bái tế mộ phần, người
đời xưng tụng ông là bậc đạo nghĩa
cao trọng.
Châu Huy ở
Nam Dương cùng huyện với Trương Kham. [Thiên hạ]
thường nói: “Trương
quân vi chánh, lạc bất khả chi giả dă” (Ông
Trương cai trị, vui sướng khôn ngằn).
Trương Kham gặp Châu Huy trong trường Thái Học,
đăi nhau bằng t́nh bạn thân thiết, nắm tay dặn
ḍ: “Mai sau tôi qua đời, xin cậy anh chăm sóc vợ
con giùm”. Châu Huy do thấy Trương Kham là bậc tiền
bối về đức hạnh lẫn học vấn, chẳng
dám nhận lời. Sau đấy, chẳng c̣n gặp nhau nữa.
Sau khi Trương Kham mất, Châu Huy nghe vợ con ông Kham
nghèo nàn, khốn khó, bèn xẻ cơm, nhường áo. Con của
Châu Huy lấy làm lạ, thắc mắc: “Cha đă chẳng
phải là bạn của ông Trương, cớ sao bỗng
làm như thế?” Châu Huy đáp: “Ông Kham đă từng thốt
lời tri kỷ như thế, cha đă ghi tạc trong
ḷng”. Về sau, Châu Huy cai quản vùng Lâm Hoài, cũng khéo cai
trị, được dân chúng ca ngợi, làm quan đến
chức Thượng Thư Bộc Xạ[34].
Ôi! Nay th́ những
kẻ mẹ góa con côi không nơi nương tựa, chỗ
nào cũng có, há có được người giống
như mấy vị trên đây thương xót, giúp đỡ,
nuôi nấng vậy thay! Ở đây, xin khuyên những
người có chí, hăy phỏng theo, lập hội từ thiện
giúp đỡ những bà góa. Phương cách là quyên mộ
bạn bè bỏ tiền ra, [lệ phí] hoặc nộp từng
tháng, hoặc đóng mỗi năm. Tiền lệ phí giữ
tại nhà người có sức (người dư dả), siêng năng ḍ hỏi những kẻ góa bụa
lại nghèo hèn, cân nhắc để châu cấp mỗi
tháng. Cố nhiên là công đức ngấm ngầm ấy sẽ
không có ǵ to lớn bằng! Kẻ chẳng thể làm
như thế th́ hễ thấy nghe bèn tùy sức châu cấp,
giúp đỡ, cũng có ǵ chẳng phải là nhân đức
ư? Chỉ sợ là kẻ có cái tâm ấy, nhưng luôn bị
ngăn trở bởi hiềm nghi, gàn quải, hủy báng!
Người có trí hăy nên suy nghĩ cách thức tốt đẹp
để thực hiện.
Đời Tống,
ông Triệu Khang Tĩnh mồ côi [cha] từ lúc bảy tuổi. Bà mẹ dốc
chí dạy dỗ ráo riết. Về sau, ông đỗ đạt,
làm Học Sĩ[35]. Ông Triệu
xin ấm phong cho mẹ. Tể Tướng nói: “Hễ có
công to, sẽ
được phong thưởng chẳng xa!” Ông thưa: “Mẹ tôi góa bụa, đă
tám mươi rồi, sáng chẳng đảm bảo tối.
Xin hăy ban thưởng ngay lúc này để mẹ được
rạng mày nở mặt”. Tể Tướng chấp thuận.
Lại có Lư Quân, mồ côi [cha] từ thuở lên ba. Có kẻ
dụ dỗ mẹ ông tái giá, mẹ giận dữ quở trách: “Nghĩa vợ chồng là mối thiên
luân, chết hay sống là do mạng lệnh của Thượng
Đế. Ta thà chết đói, há nên tái giá hay sao?” Bèn quyết
chí thủ tiết, dạy con đỗ đạt.
Than ôi! Những
người giống như thế, thần lẫn người
đều khâm phục, kính trọng, ắt được
báo đáp sâu dầy v́ họ tôn trọng nhân luân, há chỉ là
con của họ được quư hiển ư? Chớ
nên coi rẻ bà góa, cố nhiên là như thế. Nay lại
dùng điều này để huấn thị, chính là v́ mong
cho hết thảy các bà góa đều biết khuôn phép để tự lập, mà những kẻ là con côi cũng chớ nên tự ruồng rẫy,
buông xuôi. Hăy nên nghĩ, những kẻ là cô nhi mà trở
thành bậc hiền tài rất đông. Như Trương
Sĩ Tốn đă nghèo lại mồ côi, rốt cuộc do
gắng công dốc chí, làm tới chức Đài Phụ (Tể
Tướng). Lữ Hối sang cả, nhưng mồ côi,
do âm thầm tu tập mà thành bậc Trung Thừa nổi danh. Người ta mới biết ông là cháu nội
của Lữ Huệ Công (Lữ Đoan). Những người
khác như Lưu Chí, Âu Dương Tu, Trần Nghiêu Tá đều
mồ côi từ bé, do tận lực học hành, làm tới
chức B́nh Chương. Như thế th́ mới báo đáp
đôi chút nỗi khổ của những bà mẹ góa
giữ trọn tiết hạnh trong sạch vậy. [Cho nên] lại nêu bày lời khuyên lơn [như thế], dụng tâm hết sức thiết tha!
“Lăo” (老) là người tuổi tác đă cao, là
người trải đời đă lâu mà kinh nghiệm
cũng lắm. “Kính” (敬) là dốc hết ḷng thành biểu lộ ḷng yêu
thương, trọn hết sức phụng dưỡng
cho họ được an vui. Hoặc là mỗi niệm, mỗi chuyện đều
chẳng dám lừa dối, khinh mạn, đấy cũng
là Kính. Thọ đứng đầu trong ngũ phước,
mà người già lại gần như cha. Chắc chắn là đời trước đă có căn
khí, đời này nhất định là bậc tích đức;
từng trải sự việc, đúng là bậc có thể
nêu gương mẫu, [học hỏi từ họ] sẽ
đạt được lợi ích chẳng ít, lẽ nào có thể khinh mạn ư? Nhưng người
đời thấy họ già nua, run rẩy, nếu không chán
ghét th́ sẽ lấn hiếp họ, ai chịu chú tâm kính trọng,
phụng sự họ? Chẳng biết sách Luận Ngữ
có nói: “Kính lăo đắc lăo”.
Dương Đại Niên mới hai mươi tuổi đă đậu Trạng Nguyên, cùng
với Châu Hàn và Châu Ngang làm việc trong cung. Hai ông đều
đă già, họ Dương khinh rẻ, lấn lướt.
Châu Hàn nói: “Anh đừng khinh tôi già, rốt cuộc sẽ
đến phiên anh già đi”. Châu Ngang lắc đầu nói:
“Đừng nói nữa để khỏi bị người
ta làm nhục!” Họ Dương quả nhiên đang tuổi
tráng niên mà chết ngóp! Tôi mong những gă thiếu niên khinh bạc
đọc đến câu chuyện này, sẽ lập tức
hối cải, lại giữ được tấm ḷng
nhân hậu. Hễ gặp người già, hăy giữ tấm
ḷng b́nh đẳng, bất luận phú quư, hay nghèo hèn, cốt
sao một niềm kính yêu. Hành theo đó, ắt đầu bạc
phơ, lông mày nhuốm bạc, ta cũng có phần vậy!
Thái Tổ[36] huấn dụ
Lễ Bộ rằng: “Đối với người tuổi
tác phải dạy [bọn trẻ tuổi] kính trọng.
Đối với chuyện phụng sự bậc trưởng
thượng, phải dạy họ tuân thuận. Các đời
Ngu[37], Hạ,
Thương, Châu, không đời nào chẳng coi trọng bậc
cao tuổi. Lễ nghĩa dưỡng lăo vốn chưa hề
bị phế trừ; v́ thế, mọi người
hưng khởi ḷng hiếu đễ, phong tục thuần
hậu, chánh trị mới được tăng tấn,
b́nh ổn. Các ngươi hăy nên truyền bảo mạng lệnh
của trẫm”.
Kinh Hoa Nghiêm
chép: “Nguyện cho hết thảy
chúng sanh phát tâm Bồ Đề, trọn đủ trí huệ,
vĩnh viễn giữ trọn thọ mạng, chẳng bị
kết thúc. Nguyện cho hết thảy chúng sanh, trọn
đủ pháp tu hành ĺa già, chết. Hết thảy tai
ương, độc hại chẳng hại mạng họ.
Nguyện cho hết thảy chúng sanh, thành tựu trọn
đủ tấm thân chẳng khổ năo v́ bệnh tật,
thọ mạng tự tại, có thể tùy ư trụ thế.
Nguyện cho hết thảy chúng sanh đạt được
chẳng già, chẳng bệnh, thường trụ mạng
căn, dũng mănh tinh tấn, nhập trí huệ của Phật”.
Do điều này, ta thấy: Người già như mặt
trời sắp khuất sau núi, thời gian hữu hạn,
nếu chẳng cấp tốc tu hành như lửa cháy
đến thân, lấy ǵ để giúp cho việc về
Tây?
Vương Bân
từ bé bệnh tật rề rề, tự đoán ắt
chính ḿnh chẳng thọ. Hễ thấy người già,
thường kính trọng, hâm mộ. Hễ họ đi qua
cửa, dẫu là người nghèo hèn, ắt đứng dậy
[nhằm tỏ ḷng tôn trọng], đi đường ắt
nhường lối. Về sau, Vương Bân dần dần
khỏi bệnh, sức lực càng mạnh mẽ hơn,
thọ đến chín mươi ba tuổi.
Đời Tùy,
có một vị tăng đă hơn trăm tuổi, hiểu
sâu xa diệu nghĩa trong kinh Pháp Hoa, thường bảo
đại chúng:
- Bần
tăng kính trọng người già như cha mẹ, phụng
sự họ như Bồ Tát. Phàm những chuyện có thể
tận sức, không ǵ chẳng dốc trọn tấm ḷng. Đời
này được thông hiểu Phật pháp, hưởng thọ
dài lâu, đều là do tôn kính người già mà ra. Hỡi
đại chúng, chớ nên khinh miệt người già kẻo
tổn phước, tổn thọ. Trong trường danh lợi,
khảy ngón tay liền qua, vẫn phải nên thực hiện
những công phu thuộc về bổn phận của chính
ḿnh. Nếu không, sẽ là luống uổng đời
người, lăng phí lần gặp gỡ này, đối với
những nguyện như “nguyện ta thọ mạng lâu
dài, siêng hành hết thảy các điều lành, nguyện ta
phước đức hưng thịnh, rộng độ
hết thảy mọi người” đều bị lỡ
làng! Than ôi, kẻ thiếu niên chỉ biết cậy tài,
khinh nhờn người già cả, chẳng biết tuổi
thọ là cái được trời ban, người già
được vua tôn kính. Dẫu có lắm tài, khó thể
đạt đến địa vị ấy!
Đời Tống, một nhà ông Ngô Nguyên Tự có tám
người tuổi đă từ tám mươi, chín
mươi, một trăm trở lên. Nhà vua tra hỏi nguyên
nhân, [th́ ra nguyên nhân] là v́ cả mấy đời đều
liên tiếp ăn ở với nhau bằng đạo
nghĩa, chẳng chia rẽ. Vua biểu dương nhà ấy,
ân sủng ban thưởng rất hậu. Khảo sát quy chế
thiết lập trường Thượng Tường[38],
[th́ thấy từ] thời Nghiêu, Thuấn đă có, tam đại
(Hạ, Thương, Châu) đều tôn sùng quy chế ấy.
[Chuyện này] được chép rất tường tận
trong những sách như Lễ Kư v.v… Chí hướng của
phu tử được thể hiện qua câu nói: “Lăo giả an chi” (Khiến
cho người già được sống yên ổn). Nguyên
tắc chỉ đạo luật pháp của đất
nước và tâm chí của dân chúng, cả hai đằng
đều đặt tại đó. Nếu nói “người
già của kẻ khác liên quan ǵ đến ta”, há chẳng
phải là bất kính ư?
“Ấu”
(幼) là trẻ nhỏ thơ ngây, vô
tri. “Hoài” (懷) không chỉ là yêu thương chúng nó, mà c̣n là gởi gắm những niềm
hoài vọng nơi ấy. Làm kẻ đă trưởng
thành bèn yêu thương, che chở kẻ nhỏ hơn,
đó là lẽ thường, là lẽ đương nhiên. Huống
hồ có những đứa trẻ gặp gỡ cảnh
ngộ chẳng tốt, khốn khổ đáng
thương! Như là con của đời vợ trước,
em cùng cha khác mẹ, con do vợ lẽ hoặc tỳ thiếp
sanh ra. Nếu gặp kẻ ỷ ḿnh lớn hơn rồi
cậy thế ức hiếp, đứa trẻ côi cút phải
chịu cảnh thảm độc ngang trái, quá sức
đáng thương! Suy rộng ra, đối với con
thơ của người khác, cũng như đối với
con cái của những nô tỳ, tôi tớ, càng phải thêm chú ư thương xót, chớ
nên phân biệt đây kia, đến nỗi có kẻ toan
tính tóm thâu gia sản của họ. Tức là kẻ làm bậc
tôn trưởng, làm anh chị, ở rể tại nhà vợ,
thường có những kẻ không có ḷng từ, bất
nghĩa, hiếp đáp, ngược đăi con cái của bọn
tôi tớ. Thậm chí dùng những thủ đoạn xảo
trá, ngụy tạo khế ước, dặn ḍ những kẻ
viết khế ước và làm chứng hăy làm chứng
gian, đút lót cho bọn nha lại bẻ cong sự thật,
khiến cho [những kẻ bị hại không có chứng từ
ǵ] để kêu ca được. Lại c̣n có kẻ ngấm
ngầm mưu toan tổn hại mạng người.
Xưa kia, một nhà ông Lư Tri Bổn con cháu hơn trăm
người, người lớn kẻ nhỏ giữ một
niềm ḥa thuận với nhau. Anh em nhà Dương Thành bảo
bọc những đứa con côi. Tiền bối dụng
tâm như thế, đúng là đáng để noi theo!
Đời
Đường, Nguyên Đức Tú lúc nghèo, anh mất sớm,
để lại đứa con côi mới đầy tháng,
chị dâu lại chết nốt, cháu không có sữa để
bú. Đức Tú đêm ngày buồn khóc, ẵm đứa con
của người anh, đem đầu vú ḿnh cho đứa
bé ngậm. Chừng mười ngày sau, vú bèn có sữa.
Đứa trẻ [nhờ vậy] mà được lớn
lên. Tuy là chuyện ngẫu nhiên, nhưng từ chuyện này
có thể thấy, thương yêu trẻ thơ hợp với
ḷng trời! Khổng Tử nói: “Thiếu
giả hoài chi” (Thương yêu kẻ nhỏ tuổi
hơn). Mạnh Tử nói: “Ấu
ngô ấu dĩ cập nhân chi ấu” (Thương yêu con trẻ của người
khác như thương yêu con trẻ của chính ḿnh). Thánh
hiền đă để lại lời giáo huấn cùng tột,
cớ sao những kẻ làm bậc tôn trưởng chẳng
lănh hội?
Lưu Di làm
quan ở Kiền Châu, dân đói, bỏ rơi con. Lưu Di
ra yết thị kiếm người nhặt về nuôi nấng
th́ mỗi ngày sẽ được cấp hai thưng gạo
từ kho Quảng Huệ[39]. Mỗi
ngày,
[người nhận nuôi phải] bồng tới cho quan phủ xem xét. Dân nghèo được lợi
thêm hai thưng gạo sẽ đều nuôi nấng [những đứa
trẻ ấy]. Số trẻ được cứu sống
chẳng thể tính đếm được. Phàm là
phương cách để cứu đói th́ trước hết
là phải thâu thập, nuôi nấng những đứa trẻ
thơ côi cút ḥng chúng
thoát khỏi những chỗ
hẻo lánh, hiểm nguy, đặt chúng nó nơi an toàn. Kẻ
làm quan càng phải
lưu ư làm trước chuyện
này. Âm đức ấy c̣n hơn cứu sống những kẻ
mạnh khỏe vậy!
Đời
Minh, Dương Trứ tánh t́nh nhân hậu, mua một con lừa
để cưỡi đi chầu vua. Người hàng xóm
đă già mới sanh con, do con lừa thường thích hư ầm lên, ông Dương sợ đứa
trẻ bị kinh động bèn bán đi, đi bộ vào
chầu vua. Về sau, ông cáo quan, tấm bia ở phần mộ
[tổ tiên] bị nông dân xô ngă. Kẻ trông mộ vội chạy
đến báo, ông hỏi: “Có đứa trẻ nào bị
thương hay không?” Thưa: “Không ạ!” Ông mừng rỡ
bảo: “May quá! Hăy bảo nhà kẻ đó khéo trông giữ
con để chúng không gặp chuyện kinh sợ”. Đức
hạnh sâu dầy của ông hết sức nhiều, ngay
như hai chuyện [vừa kể] trên đây, người khác cũng khó làm
được. Ông từ chỗ côi cút, nghèo hèn mà đạt
tới địa vị quư hiển, đúng là do [phẩm
đức tốt đẹp] như vậy!
(Chánh
văn) Côn trùng thảo mộc, do bất khả thương.
(正文)昆蟲草木。猶不可傷。
(Chánh
văn: Côn trùng, thảo mộc chớ nên thương tổn).
“Côn” (昆) là đông đúc, ư nói hết thảy các loài trùng
lớn, nhỏ. [Nói] “do bất
khả thương” (chớ nên thương tổn) th́
có thể biết chuyện này có tánh chất trọng đại.
Người hiện thời mặc sức tổn thương sanh mạng
loài vật, chẳng biết những loài ngọ ngoạy
đều có linh tánh, đều có Phật Tánh. Đạo
Nho đă giáo huấn rơ ràng “phương
trưởng bất chiết” (cây cối đang đâm
tược nẩy nhánh th́ không bẻ); há nên nói “côn trùng là loài vật, thảo mộc
vô tri” để rồi cứ tổn thương chúng ư?
Lời tựa
kinh Viên Giác đă viết: “Phàm
những loài có huyết khí, ắt có tri giác. Phàm những
loài có tri giác, ắt đều có cùng một Thể”. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Như Lai thường nói, các pháp được sanh
ra, chỉ do tâm hiện. Hết thảy nhân quả, thế
giới, vi trần, là do cái tâm mà thành Thể. Trong số
đó, kể cả những thứ kết cấu vi tế
nơi thảo mộc, xét đến cội nguồn, đều
có thể tánh”.
Lại như
ngài Đạo Sanh thuyết pháp, đá trên núi gật đầu.
Há có thể nói là ngói gạch nơi tường vách chẳng
có Phật Tánh ư? Lại như cây tử kinh nhà họ
Điền. Lại như cây thụy liễu trong phủ
Trung Thư (phủ Tể Tướng) đời
Đường, vào cuối niên hiệu Kiến Trung, do Diêu
Lệnh Ngôn[40]
làm phản, xa giá [của hoàng đế] phải chạy về
Phụng Thiên, cây bèn chết khô. Năm Hưng Nguyên nguyên niên (784), xa giá trở về
[kinh đô], cây bèn tươi tốt. Như vậy th́ có nên
nói “thảo mộc vô tri” hay
chăng? Ư răn nhắc của đức Thái Thượng
nhằm dạy con người đối với hết thảy
hữu t́nh và vô t́nh đều luôn luôn dưỡng thành một
bầu từ bi, một bầu ḥa ư vậy!
Khi đức
Như Lai thuyết pháp, một con cóc hoan hỷ, nhảy ra
khỏi ao, dốc hết ḷng thành lắng nghe. Ngẫu nhiên
bị gậy chống của người nghe pháp đâm chết.
Do nghe pháp, sau khi mạng chung, nó sanh lên trời Đao Lợi,
làm chúa cơi trời Đao Lợi. Từ trời Đao Lợi,
lại đến chỗ đức Phật, nghe giảng
diệu nghĩa. Do khai ngộ bèn chứng quả Tu Đà
Hoàn. Cóc là loài vật rất bé, thế mà sau này chứng quả
rất to. Xét từ chuyện này, có thể thương tổn
loài côn trùng hay chăng?
Xưa kia có một
vị Tăng, chưa mở đạo nhăn, do nhận suông
đồ cúng dường của cha con ông Tịnh Đức,
sau khi mạng chung bèn sanh vào vườn của ông Tịnh
Đức, hóa thành một cây nấm để hằng ngày
làm món ăn cho nhà ấy. Người khác muốn hái, sẽ
chẳng thể được. Nấm là loài vật rất
nhỏ, thế mà có nhân duyên đặc biệt ấy. Xét
theo chuyện này, có nên tổn thương cỏ cây hay không?
Đời Minh,
Hàn Thế Năng ở Trường Châu, nhiều đời
sống nơi phần mộ nhà họ Lục, rất
nghèo. Ông nội là Vĩnh Xuân, mỗi sáng thức dậy, cầm
chổi quét dọn những loài ốc nhỏ đă ḅ lên bờ
dọc theo hai bờ sông, đem thả giữa ḍng để
chúng khỏi bị dân chài đánh bắt. Khi ấy, cụ
nhịn đói quét đến mấy dặm. Năm Đinh
Măo (1567) trong niên hiệu Long Khánh[41], Thế
Năng đi thi Hương, tuổi đă bốn
mươi. Cha ông là Tông Đạo nghĩ bố ḿnh cần cù cứu vớt sanh mạng,
con ḿnh đă già mà vẫn chưa hiển đạt: “Nay ngẫu
nhiên có được mười lạng, sao không mua các loài
vật phóng sanh để cầu phước ư?” Sáng dậy,
ông bèn mua rùa to, cá chép đỏ loại to đem thả. Đến tối, mộng
thấy thần bảo: “Cha ngươi công đức to lớn,
con trai ngươi sẽ đỗ đạt.
Nay do ngươi mua rùa thần, cá chép thần phóng sanh, sẽ khiến cho con của ngươi được vào
Hàn Lâm Viện, làm quan tới nhất phẩm”. Về sau, quả
nhiên [Thế Năng] thi đậu liên tiếp, dự vào
Hàn Lâm Viện, làm quan tới chức Thị Lang, từng
vâng mạng đi sứ Triều Tiên, được ban tặng
quan phục nhất phẩm.
Có người
đàn bà tên X… ở Hàng Châu rất hung hăn. Thấy kiến
ḅ quanh nhà bếp, bèn dùng lửa đốt, chúng bị chết
không thể đếm xiết. Lại thường
dùng vôi rắc vào hang giun đất. Sanh được một
con, mới vừa ẵm ngửa, người đàn bà ấy vừa mới ra ngoài
trở về, thấy trên giường là một khối
đen kịt, kinh hoảng ngó xem, th́ ra con ḿnh đă bị
lũ kiến cắn xé chết ngắc. Người
đàn bà do xót con cũng bị đột tử!
Ngô Di ở châu
Thái Thương, ban đêm nằm mộng thấy hai
người đàn ông mặc áo xanh đến xin cứu mạng.
Ngô Di tỉnh giấc bèn nói: “Đấy ắt là có vật
sẽ phải chết”. Sáng dậy bèn ra cửa t́m kiếm,
thấy có mấy người cầm búa và cưa tiến
đến. Đấy là v́ họ mua được hai cây
ngân hạnh nên đến đốn. Ngô Di vỡ lẽ,
đền bồi đúng giá trị, miễn cho [hai cây ấy
bị chặt].
Tống Triết
Tông ở trong cung thích bẻ cành liễu chơi. Tŕnh Di tâu:
“Đầu Xuân cây mới đâm tược, chớ nên vô
duyên cớ bẻ găy”. Vua vui ḷng, nghe theo. Tŕnh Di chúc mừng:
“Bệ hạ hăy nên khiến cho thiên hạ đều có cái tâm ấy,
đạo trọng yếu của bậc đế vương
ở ngay chỗ này”. Lại nghe nói Cao Tử Cao hễ thấy cây cỏ
đang tăng trưởng sẽ chẳng bẻ, Châu Liêm
Khê chẳng dẫy cỏ trong sân, bảo là phải giữ
cho nó [tươi tốt] như việc kiếm sống của
gia đ́nh ḿnh. Nói chung, các vị thánh hiền ôm ḷng nhân ái, lại
c̣n có ư niệm chẳng bỏ sót những thứ vi tế
vậy.
Trần Tiến
Phu nói:
- Người
có ḷng nhân sẽ quyên tặng những món tiền dư ra,
không dùng tới. Người có trí sẽ có đức dầy
“thí xả chẳng cần báo
đáp”, khiến cho [những loài vật trong t́nh cảnh]
ruột đứt, hơi tàn, được tiếp tục
sống từ ngọn dao bén, khiến cho [những con vật]
đang tan phách kinh hồn được hồi sanh từ
trên chảo, vạc. Để thực hiện công đức
ấy, có ba thứ phóng sanh không cố định, và hai thứ
chẳng cần phải phóng sanh. [Lại có ba loại phóng
sanh] là v́ loài vật mà phóng sanh, v́ con người mà phóng
sanh, và v́ chính ḿnh mà phóng sanh.
Người
đời phóng sanh, phần nhiều ấn định sẵn
ngày giờ [cố định][42] để
phóng sanh. V́ thế, những kẻ cầu lợi sẽ
giăng bẫy, săn
bắn [động vật ḥng] cung
ứng, đa số là [khiến cho những con vật]
bị quấy nhiễu khốn khổ đến nỗi
chết ngắc! Đấy chính là sát sanh mà cứ tưởng
là phóng sanh! Hễ tai nghe, mắt thấy [những con vật
sắp bị sát hại] ở trên đường hoặc
ngoài chợ, liền tùy tiện mua lấy đem thả.
Đấy gọi là “phóng sanh
không theo kỳ hạn cố định”. Người
đời đào ao, lập vườn [phóng sanh]. Đă có một chỗ thường xuyên,
kẻ khác sẽ ŕnh rập. [Những con vật] vừa mới
thoát khỏi lưới của kẻ bắt, thoắt lại
biến thành món canh của kẻ trông coi [vườn, ao phóng sanh ấy]. Đấy cũng là
phóng sanh để cho chúng nó bị giết! Sông, ng̣i, rừng,
ao, hăy t́m chỗ thuận tiện, thích hợp, nhờ
người thiện tín trông coi, bất th́nh ĺnh đến
đó [phóng sanh]. Đấy gọi là “phóng sanh không có chỗ thường xuyên”. Người đời
phóng sanh bên ngoài, nhưng trong nhà cắt mổ chẳng băn khoăn! Thậm chí nói “nuôi gia súc để
đăi người khác”, “chức trách [của những con vật
ấy] đáng phải là cung cấp món ăn [cho loài người]”,
chẳng biết [nếu như] con cháu [của họ] cũng [là những sinh vật] được
nuôi dưỡng bỗng bị mổ xẻ, ăn nuốt ngang xương, [lúc ấy], tâm họ sẽ như thế
nào?
Ngạn ngữ có câu: “Kinh
doanh th́ phải trả nợ, c̣n hay hơn bố thí”[43].
Lập hội phóng sanh, sao bằng kiêng giết? Cho đến
thảo mộc đều là sanh linh; con đỉa, loài thiêu
thân đều có Phật Tánh. Hoặc là phá chỗ tường vây khiến những loài
trùng đang ngủ đông bị hủy hoại, có lúc lật tổ phá trứng, làm rơi rớt
những thứ tanh tưởi khiến kiến bu lại,
chứa nước tù đọng khiến lăng quăng
sanh ra, hoặc do nuôi những thứ chim hay cá hiếm
quư, bèn dùng những con vật khác làm đồ ăn cho
chúng. Dẫu ta chẳng có cái tâm giết chóc, nhưng [do những
hành động bất cẩn trên
đây], sẽ khiến chúng nó lâm vào tử lộ, đều
nên kiêng tránh. Hăy dự pḥng bảo vệ sẵn, khiến
cho chúng đều được sống sót. Đấy gọi
là “chẳng phóng sanh mà hành phóng
sanh”, chẳng phải là phóng sanh những con vật cố
định. Nếu là những con vật bị
thương nguy ngập v́ bị cắn xé, hoặc [những
loài thủy sản] mắc lưới, có thả ra,
chưa chắc chúng đă sống được, hăy nên
điều dưỡng, khiến cho chúng nó b́nh phục [rồi
mới thả]. Nếu chúng không thể sống sót, hăy nên
đem chôn.
Lại có loài
thú dữ, cá độc, ác trùng, chim hung tợn, cứu chúng
sống sót, đúng là tiếp tục kéo dài các thứ độc,
hăy nên cân nhắc chúng nó
sống sót hay bị chết nhiều hay ít, so sánh giữa công và tội nặng hay nhẹ,
để [quyết định] cho chúng nó tự sanh tự
diệt dường như chẳng thấy, chẳng nghe.
Đối với hai loại ấy (dẫu phóng sanh
cũng không sống được và loài vật gây hại),
chẳng bắt buộc phải phóng sanh. Hễ là như vậy, hăy tùy duyên, tùy sức [để phóng sanh]
khi thời cơ thích hợp. Đừng cho rằng giết
những con vật nhỏ sẽ chẳng sao, đừng
nghĩ thả những con vật nhỏ sẽ vô ích. Đừng
ngại vất vả khiến cho thiện niệm bị
trở ngại, đừng so đo giá cả rồi bỏ
phế thiện duyên[44]. Một con
vật chẳng phải là ít, lắm sanh vật chẳng phải
là nhiều! Những côn trùng bé tí bay lượn chẳng phải
là nhỏ; ngựa, trâu chẳng lớn. Một đồng
chẳng phải là không đủ, một vạn xâu tiền
chẳng phải là có thừa! Đấy gọi là hễ
có con vật [cần được cứu sống] bèn
phóng sanh; đạo lư đều được bao gồm trọn hết trong ấy.
Đối với
vật đă là có [cái tâm phóng sanh] như thế, đối
với người cũng nên [làm như vậy]. Hoặc là
kẻ bị liên lụy đáng thương, hoặc bị
oan khuất, khốn
khó không ai cứu, hoặc gặp
tai ách trộm, cướp, nước, lửa, hoặc bị
bệnh tật nguy ngập, hoặc do buôn bán thất bại
chẳng c̣n lẽ sống, hoặc thiếu thuế không thể
nộp được, toan t́m cái chết. Đối với
những trường hợp ấy, có thể giúp đỡ
tài lực ḥng mở ra một con đường sống,
giúp họ giải quyết toàn vẹn, mong sao họ sẽ
thoát khỏi. Ta giúp đỡ người khác được
thoát khỏi hoàn cảnh ngặt nghèo như vậy, so với
việc phóng sanh loài vật càng quan trọng, thiết tha
hơn! V́ thế, hăy nghĩ lúc ta gặp cảnh khốn
khó, tai ách, ḷng mong mỏi được cứu giúp, tự
nhiên sẽ cảm nhận nỗi đau đớn, lo sợ
của họ như là của chính ḿnh, thôi thúc chính ḿnh ôm ḷng cảm ơn [người khác đă] cứu
giúp, tự nhiên công đức sẽ thành tựu.
Nếu là ta
phóng sanh chính bản
thân ta, sẽ càng khẩn khoản,
thiết thực hơn nữa! Con người v́ ḷng tham
sanh khởi mà có thể bị mất mạng. Buông xuống
sát sanh, đấy chính là trường sanh. Nếu chịu
dùi mài trong sáu thời, ngộ thông suốt hết thảy,
thẳng thừng nhận biết cái vốn có, hoàn toàn chứng
nhập Vô Sanh, cắt đứt sự ràng buộc trong cơi đời, phá sạch gông cùm trần lao, một
đường thênh thang, đến đi chẳng vướng
mắc, không bị câu thúc, không bị ép buộc, tiêu dao tự
tại, cái tâm đă vượt thoát khỏi sự chấp
trước xác thân, thật sự thoát khỏi luân hồi.
[Do vậy] chẳng phải là người, chẳng phải
là vật, vượt trỗi tứ sanh, chẳng có đức,
chẳng có công, phước báo vĩnh viễn vượt trỗi.
Do vậy, dùng một bài kệ để kết luận, kệ
rằng:
Chủng chủng sanh thành, hoạn
diệc thành.
Hữu
sanh tài phóng hữu sanh danh.
Dữ quân đả phá
lao lung khứ.
Ngộ đắc vô sanh thị
phóng sanh”
(Muôn vật
sanh thành, họa cũng sanh.
Có sanh mới có tên phóng sanh.
Ngục tù phá vỡ,
thân ĺa khỏi,
Sẽ ngộ vô sanh tức phóng sanh).
(Chánh
văn) Nghi mẫn nhân chi hung, nhạo nhân chi thiện.
(正文)宜憫人之凶。樂人之善。
(Chánh
văn: Hăy nên xót thương kẻ ác, vui v́ điều
thiện của họ).
Chữ Nghi (宜, hăy nên) đáng nên áp dụng chung các câu sau đó, măi cho đến
câu “dữ nhân bất truy hối”
(đă cho người khác rồi bèn không hối tiếc).
“Hung” (凶) là hung ác, mà cũng là hung họa. “Mẫn” (憫) là uyển chuyển khuyên dạy, khiến
cho họ thay đổi làm lành. “Mẫn”
cũng là
trong khi hung hiểm, tai họa, bèn thương xót, xếp đặt an toàn, khiến cho mỗi
loài đều được an vui. Không chỉ là quan tâm,
thương xót mà thôi, Ông Hà Long Đồ nói:
- Phàm những
kẻ thoạt đầu làm ác, chỉ là v́ một niệm
sai lầm, chưa chắc là không thể khuyên răn,
ngăn cấm. Đă làm chuyện ác, mà vẫn c̣n một niệm
sáng suốt, chưa chắc là không thể cứu giúp, giải
trừ được!
Cơi đời
thường cự tuyệt [kẻ ác] như oán cừu,
[chẳng khuyên nhủ họ sửa đổi], cũng khiến
cho họ hùa nhau đâm đầu vào chỗ chết, tuy muốn
ăn năn hối lỗi mà chẳng thể được,
buồn thay!
Đạo Đức
Kinh có câu: “Thánh nhân thường
thiện cứu nhân, cố vô khí nhân. Thường thiện
cứu vật, cố vô khí vật. Cố thiện nhân giả,
bất thiện nhân chi sư. Bất thiện nhân giả,
thiện nhân chi tư. Bất quư kỳ sư, bất ái kỳ
tư, tuy trí đại mê” (Thánh nhân thường khéo cứu
người; v́ thế, không có ai là kẻ bỏ đi.
Thường khéo cứu muôn vật; v́ thế, không có chúng
sanh nào là thứ bỏ đi. Do vậy, thiện nhân là thầy
của kẻ bất thiện. Kẻ bất thiện chính
là tấm gương răn nhắc cho kẻ thiện. Chẳng
quư trọng thầy, chẳng yêu mến tấm
gương, dẫu là kẻ có trí mà hết sức mê muội)[45].
Kinh Dịch
chép: “Thánh nhân khúc thành vạn vật
nhi bất di” (Thánh nhân khéo léo thành tựu muôn vật, chẳng
bỏ sót). Lễ Kư chép: “Phong,
vũ, lộ, lôi, vô phi chí giáo. Sương chi, tuyết chi,
hạo thiên phi hại vật dă. Sở dĩ bồi sanh
dưỡng chi nguyên. Trách chi, trị chi, thánh nhân phi khổ
nhân dă” (Gió, mưa, sương, sấm, không ǵ chẳng
là lời dạy bảo tột bậc [của trời
đất]. Trời cao đổ sương, mưa tuyết,
chẳng nhằm tổn hại muôn vật. V́ những chuyện
đó là nguồn cội để vun bồi, dưỡng
dục [muôn vật]. Quở trách, trị phạt, chẳng
phải là thánh nhân muốn làm khổ kẻ khác). Bởi lẽ,
họ muốn mở ra một con đường tự sửa
đổi [cho những kẻ lầm lạc], không ǵ chẳng
nhằm khiến cho kẻ khác sửa ác, theo lành, nhằm thỏa
bản hoài “vạn vật có
cùng một Thể” đó thôi!
Thiện là
điều người khác và ta đều cùng đạt
được. Người ta thường lầm lạc
phân chia đây kia. Kẻ ở trên cao[46] chỉ mong
tốt lành cho riêng ḿnh. Kẻ ở dưới thấp cũng
chẳng mong người khác làm lành, thậm chí thốt lời
vu cáo để hủy báng, bới móc khuyết điểm,
ngấm ngầm tính kế để phá hỏng chuyện tốt đẹp của người
khác, chỉ
ôm ấp suông cái tâm thuật bại hoại, người ta đâu
có bị tổn hại ǵ! Nào có biết người khác có thiện niệm,
thiện sự, ta có thể khuyến khích, tán dương,
khiến cho sự việc được thành tựu viên
măn, công hạnh tràn đầy, th́ điều thiện của
người ta sẽ là điều thiện của chính
ḿnh, sẽ là công đức vô cùng.
Từ phàm nhập
thánh là cửa ngơ của muôn điều thiện, th́ phát Bồ
Đề tâm chính là bậc nhất. Bồ Đề tâm ví
như hạt giống, có thể sanh ra hết thảy các
thiện pháp. Cũng ví như ruộng tốt, có thể sanh
trưởng pháp trắng sạch (bạch tịnh) cho chúng
sanh. Cũng ví như nước sạch, có thể gột
rửa hết thảy các chất nhơ phiền năo.
Cũng như lửa mạnh, có thể đốt sạch
hết thảy củi kiến chấp. Kinh Niết Bàn dạy:
“Phật thuyết tu nhất
thiện tâm, phá bách chủng ác. Như thiểu hỏa
năng thiêu nhất thiết. Cố tri vạn thiện giai
tùng nhất niệm hảo nhạo nhi sanh, toàn thể thiện tâm nhi hiện, viên măn Bồ
Đề thường lạc diệu quả” (Đức Phật nói: “Tu một thiện
tâm phá được trăm thứ ác, như một chút lửa có thể
đốt trụi hết thảy. V́ thế, biết muôn
điều thiện đều từ một niệm
ưa thích mà sanh, toàn thể thiện tâm hiện bày, viên măn
diệu quả Bồ Đề thường lạc”).
Lôi Xu tánh rộng
răi, nhân hậu, có thể bao dung. Người khác làm chuyện
ngang trái đối với ông, ông lại thương xót sự
ngu muội của kẻ ấy, thường dùng ḷng nhẫn
nại, chẳng so đo để cảm hóa kẻ ấy.
Tuy bị oan khuất to lớn, cũng chưa hề
thưa kiện kẻ nào ra cửa quan. Cháu mười một
đời là Tôn Phu làm Thái Tử Thái Sư.
Vu Lệnh Nghi
ban đêm bắt được kẻ trộm chính là đứa
con nhà hàng xóm. Ông Nghi nói: “Ngươi do bị cái nghèo bức
bách, nay ta cho mười ngàn đồng làm vốn kiếm sống, đừng làm chuyện sai quấy
nữa”. Nó đă bỏ đi, ông gọi lại, bảo:
“Ngươi đă nghèo mà đêm tối lại ôm tiền trở về, sợ rằng sẽ bị tuần
cảnh tra gạn”. Bèn giữ lại tới sáng mới thả
đi. Trọn chẳng nói với người khác [về
chuyện này]. Về sau, con cháu ông Vu nối tiếp nhau đậu Tiến Sĩ.
Người ta bảo đấy là được báo đền
do thương xót kẻ hung tợn vậy.
Trương Khánh
làm cai ngục, luôn giữ ḷng xót thương, thận trọng.
Hằng ngày đích thân quét dọn, lau chùi. Tới mùa Hạ,
càng siêng năng quét dọn hơn. Ông thường răn bọn lính canh ngục: “Người ta mắc ṿng
lao lư là chuyện bất đắc dĩ. Bọn ta có chức
trách coi ngục, nếu chẳng biết thương xót, tội
nhân biết kêu cầu vào đâu?” Thức ăn, thuốc men,
đồ trải nằm [cho tội nhân], ắt đều
tinh khiết. Ông thích xem kinh Pháp Hoa; mỗi khi có tù nhân bị
tử h́nh, ông đều ăn chay, tụng kinh cho họ. Nếu
tù nhân vô tội, ông liền cứu giúp họ thoát khỏi
án tù. Từng dùng lời lẽ dịu dàng hỏi han tù
nhân: “Nếu thật sự có tội, hăy nên tự thú, đừng
giả vờ là kẻ lương thiện, khiến cho tội
ḿnh càng thêm nặng”. Về sau, tới lúc tám mươi hai tuổi,
ông không bệnh ǵ mà mất. Sáu con trai đều vinh hiển.
Xét gương này, há bảo là chẳng thể dấn ḿnh
vào chốn công môn ư?
Đời Tống,
Trần Nguyên là người xứ Kim Đàn. Năm Hy Ninh[47] thứ tám
(1074), xác người chết v́ đói vô số; ông
bèn cho đào một vạn cái hố chôn người. Mỗi hố đặt
một âu cơm, một chiếc chiếu, bốn tờ tiền
giấy, chôn cất thi thể chẳng thể đếm kể.
Về sau, con cháu đều đỗ đạt làm quan. Phàm những thi hài không được mai
táng, phơi giăi nhiều năm; v́ thế, những oán quỷ ban
đêm khóc lóc tỉ tê, há có kẻ sẵn ḷng nhân từ
trông thấy sẽ vùi lấp cho? Trong niên hiệu Sùng Ninh
(1102-1106) đời Tống, huyện Thiều Châu chọn
chỗ đất cao, rộng răi, cây cỏ cằn cỗi để lập nghĩa
trang từ thiện. Phàm những cỗ quan tài kư gởi tại
chùa chiền trở thành vô chủ[48], cùng các hài
cốt bị dầm mưa dăi nắng đều
được thu nhặt, chôn vào đó. Mỗi ngôi mộ
đều ghi rơ vị trí, quê quán, lập bia mộ, lại
c̣n xây một ngôi nhà để thân thuộc đến cúng
quải dùng làm chỗ tế lễ và ăn uống [cỗ
bàn đă cúng]. Lại c̣n yết thị công khai cho dân chúng biết.
Chuyện này từng được thực hiện trong
niên hiệu Hồng Vũ[49]. Nay khuyên những
người có chức trách, hoặc hàng thân sĩ trong dân chúng,
hăy nên tùy nghi ra sức
thực hiện, lập
ra một cuộc đất để thu thập mai táng những hài cốt bị bộc lộ v́
phần mộ hoặc quan tài hư hại, công ấy sẽ
chẳng có ǵ to hơn được!
Nịnh Tùng Lễ
tánh ưa làm lành, thương xót kẻ không được
mai táng, thường tạo quan quách để thí. Kẻ
không có tiền chôn cất, ông bèn cho tiền. Ông thọ một
trăm tuổi mới mất, báo mộng cho người
nhà: “Thuở c̣n sống, ta tạo ra nhà cửa để
thí cho người khác, nên con cháu được hưởng
điều tốt lành, khoa bảng chẳng dứt!” Về
sau, đúng như vậy. Ôi! Thi hài không được chôn
cất là chuyện thê thảm nhất. Thí quan quách để
khâm liệm, u hồn cảm kích; ḷng nhân tột bậc
không ǵ to lớn hơn! Nhưng kẻ sức lực
đơn bạc, khó ḷng tiếp tục [thực hiện
lâu dài], chẳng bằng kết thành một hội. Một hội chia thành mấy trụ, mỗi
trụ gồm mấy người. Hễ thí một cỗ
quan tài, nếu hội có nhiều người, mỗi
người chỉ cần bỏ ra chút tiền. Hội có ít người, mỗi người
bỏ tiền cũng
chẳng quá mấy trăm đồng, sẽ dễ thực hiện, một vùng
sẽ chẳng có nỗi thê thảm thi hài bộc lộ. Cốt
sao người chịu trách nhiệm thật tâm, siêng
năng, khẩn thiết đó thôi. Nếu [người
đứng ra chịu trách nhiệm ấy] là người
có thể diện, sẽ càng thêm châu toàn, thỏa đáng mọi
bề. Đối với chuyện
cho quan tài, hăy nên dựa theo lời tŕnh báo mà kiểm xem có
phải là thật hay không, chớ nên không suy nghĩ cách thức
thực hiện tốt lành!
Tŕnh Nhất
Đức chỉ biết mặt chữ, hiểu nghĩa qua loa, nhưng khăng khăng mong cho kẻ
khác làm lành. Phàm là những lời lẽ tốt lành, cách ngôn
giáo huấn, ông đều in ra để khuyên kẻ khác. Một
đêm, mộng thấy Văn Xương Đế Quân
nói: “Do ngươi có thiện niệm, những chuyện khắc in đă
được tâu lên thiên đ́nh. Sau này, con cháu ngươi
sẽ đỗ đạt rất đông”. Than ôi! Người
phát ra thiện nguyện, cơi trời nghe thấu, tiếng
như sấm rền, chư Phật không vị nào chẳng
hộ niệm, bậc thượng chân[50] không vị
nào tâm chẳng khế hợp. Chư Phật và các bậc
thượng chân đều trụ nơi giải thoát
đă lâu, vẫn c̣n thích điều thiện như vậy,
huống hồ người đời sống trong biển
khổ mà chẳng gắng sức ưa chuộng điều lành ư?
Đời Tống,
Âu Dương Tu giữ chức Hàn Lâm, thường cầm
theo mấy chục tờ bái thiếp để trống. Hễ
thấy bậc sĩ đại phu hiền đức, được ca tụng là người lành, bèn hỏi chỗ ở của người
ấy, viết tên người ấy vào bái thiếp để
xin gặp mặt. Nếu đúng như lời đồn,
sẽ ca ngợi thanh danh của người ấy.
Đời Hậu
Hán[51], Bàng Thống
ca ngợi điều lành của người khác, thường
là vượt quá sự thật. Có kẻ trách móc, ông
đáp: “Hiện thời, người thiện th́ ít, kẻ
ác th́ đông. Muốn cho phong tục hưng khởi,
tăng trưởng đạo nghiệp, nếu chẳng
nói lời tốt đẹp, người hành thiện sẽ
càng ngày càng ít. Ca ngợi mười phần mà chỉ có
năm phần là thật, vẫn là được một
nửa rồi, sẽ
khiến cho kẻ có chí tự
cảm thấy đă được khích lệ, há cũng
chẳng đáng [nên làm như
vậy] ư?” Quan phu tử
đă răn dạy: “Nguyện
trời thường sanh người tốt. Nguyện
người thường làm chuyện tốt. Nguyện miệng
thường nói lời tốt đẹp”. Ông Bàng
đáng được gọi là người thấu hiểu
lời giáo huấn ấy, giúp cho phong tục được
hưng thịnh vậy.
Đỗ Chánh
Hiến hễ nghe người khác có điều tốt
lành, sẽ vui mừng như chính ḿnh đă làm. Lưu Tập
Hiền hễ nghe điều thiện của kẻ khác, đều khen ngợi chẳng thôi. Hàn Trung Hiến
(Hàn Kỳ) hễ nghe một điều thiện nhỏ nhặt,
ắt nói: “Kỳ chẳng thể sánh bằng!” Mấy vị
ấy đều tận tụy trung thành với đất
nước, giữ ǵn điều lành, chỉ sợ lỡ
đánh mất. V́ thế, thích khen ngợi như vậy, ấy
là nhằm đề cử người hiền ngơ hầu
ích nước lợi dân. Kẻ có chức trách hăy nên biết
chuyện này, há chỉ ưa thích suông mà thôi!
(Chánh
văn) Tế nhân chi cấp, cứu nhân chi nguy.
(正文)濟人之急。救人之危。
(Chánh
văn: Giúp người khác trong lúc
cấp bách, cứu người khác trong cơn nguy hiểm).
Người
khác gặp t́nh cảnh cấp bách, như bệnh tật
th́ thuốc men là chuyện cần kíp. Đối với tang
ma th́ chuyện tẫn liệm là điều cần gấp.
Đói rét th́ cơm áo là chuyện cấp bách. Thiếu thuế th́ bị truy bức là chuyện cấp
bách. Các loại [t́nh thế cấp bách ấy] chẳng thể
kể xiết! Ai nấy hăy đều nên tùy sức lập phương tiện cứu giúp. Khi đó, cần phải quả quyết thực hiện, đừng
nghi ngại. Nếu không, sẽ bỏ lỡ phước duyên này, đáng
tiếc lắm thay! “Nguy” (危) là ở
ngay ranh giới sống chết, như thuyền lật, hoặc
hỏa hoạn, nhà tan, người chết, cho đến
bị giam cầm, h́nh phạt, phải ra cửa quan, bị
người khác hăm hại v.v… Nguyên Đế[52] nói: “Đối
với người đang bị hoạn nạn, khốn đốn, hăy khéo dùng một lời để giải
cứu, trên là sẽ giúp cho cha, ông đă khuất, dưới
là tạo phước ấm cho con cháu”. Lại nói: “Xô
người hay đỡ người đều là cái tay
b́nh thường, hăm hại hay khen ngợi người khác
đều do cái miệng b́nh thường. Thà để tay
nâng đỡ người, chớ mở miệng hại
người”. Nếu có thể hành theo lời ấy, tương lai sẽ tự vĩnh viễn lâu dài.
Sách Địch
Cát Lục viết:
- Kẻ thất
phu[53] mà có ḷng
thương yêu loài vật, ắt sẽ giúp đỡ
người khác. Để cứu tánh mạng [của
người hay vật mắc nạn], chẳng tốn kém
mấy. Đặc biệt là kẻ cơm áo dư dật,
chẳng biết đến nỗi khổ đói rét, trông
thấy [hoàn cảnh nheo nhóc của kẻ khác] cũng chẳng
cảm thấy ǵ, hời hợt chẳng quan tâm đến.
Khi thấy họ (những kẻ túng quẫn) xanh xao
cũng chẳng bận ḷng, đến khi thấy họ mắc
bệnh ngă lăn bên đường, lại cho rằng bệnh
t́nh đă nguy cấp, chẳng thể khỏe lại
được, bèn ngồi nh́n người ấy chết.
Dẫu kẻ qua đường có ḷng, vẫn chỉ là
than thở suông mà thôi! Những kẻ khác sẽ ghé mắt
nh́n, lần lượt bỏ đi. Chẳng biết
người ấy v́ đói mà sanh bệnh, do bệnh nên
chưa thể đi xin, cho nên càng đói khát dữ dội
hơn. Bất quá là ba bốn thưng gạo giúp đỡ
người ấy dưỡng sức, mấy ngày sau
người ấy lại có thể đi xin, lại
được sống sót. Hoặc thừa lúc người
ấy xanh xao, sắp ngă bệnh, mà cứu chữa sớm,
sẽ càng hay hơn. Chi phí ăn ở một tối của
người giàu đủ để cứu giúp mười
người. Chi phí thỉnh sư tăng hoặc đồng
cốt [làm trai đàn] đủ để cứu trăm mạng.
Đối với chi dụng ăn uống ngàn vàng [của
người giàu có, chỉ cần] quyên tặng một phần mười; giảm
bớt một phần mười [số tiền dành cho]
quần áo, ăn uống mỗi năm, mỗi tháng, sẽ
đủ cứu cả ngàn mạng, thực hiện rất
dễ dàng! Nếu có được mấy người
cùng lập ra hội này, để ra một căn nhà trống,
xếp chiếu cỏ trong ấy để chứa người
nghèo đói, bệnh tật, khiến cho họ có chỗ tránh
gió, khỏi phải lo toan về cơm nước, chỗ nghỉ, họ sẽ càng dễ điều dưỡng.
Đối với những lúc trời rét, [chuyện này]
càng cấp bách. [Nơi
ấy] cần phải do một
vị thiện nhân trông coi. Bốn cửa thành đều
có cơ sở ấy, ắt những người bị chết
yểu sẽ ít đi. Lại mở rộng chuyện này
ra khắp chốn, ắt cô hồn lưu lăng sẽ rất
ít. Bởi lẽ, khi người ấy đang bị bệnh,
không có người trông nom, ngó ngàng, sẽ bệnh nặng
hơn một phần. Ở nơi trống trải, gió máy,
bệnh nặng thêm hai phần. Do lo âu về nguy cơ túng
thiếu, trắng tay, bệnh sẽ nặng thêm ba phần. Trầm trọng
hơn là cảnh bụng đói, áo bẩn, lần lượt
bị xua đuổi, há c̣n có hy vọng để sống
sót nữa ư? Hăy thử đặt chính ḿnh vào t́nh cảnh
ấy, [sẽ biết] nỗi đau khổ v́ bệnh tật là như thế nào! Há có nên tiếc nuối chẳng quyên tặng một hạt
gạo cho kho Thái Thương, chẳng làm chuyện ân huệ này! Hơn nữa,
họ đều là người. Nếu bọn ta đầu
thai chẳng đúng chỗ, sẽ lâm vào t́nh cảnh giống
như thế đó! May mắn được no đủ,
lại c̣n mong muốn hưởng thụ no ấm, dư dật,
tính chuyện
bền lâu cho con cháu, nhưng đối với chuyện cứu
người trước mắt, chẳng bỏ một
đồng! Chẳng biết nước, lửa, đạo
tặc, tật bệnh, tai họa ngang trái, đều có thể khiến cho
tài sản của ta phút chốc tan sạch. Chút phước
phận nhỏ nhoi cũng do trời đất ban tặng,
há có phải là do chắt bóp, keo kiệt, tham tiền như
mạng mà có thể đạt được như vậy
ư? Một mai vô thường, [những tài sản đă
khổ công tích cóp ấy] chỉ trở thành những món tiền để
con cháu rượu chè,
gái gú, cờ bạc, phóng đăng đó thôi! Do vậy, đă có món tiền tiêu phí đủ cứu cả ngàn mạng người ấy, sao không dùng để tích đức? [Chuyện
tích đức do cứu người] c̣n sâu dầy hơn cầu
trời che chở nữa! Lư ấy tột bậc rơ ràng,
[thế mà những kẻ bị] hơi đồng hôi thối
nhuốm thân, trọn chẳng suy lường chi cả!
Đời Tống,
Hứa Thúc Vi thường cầu xin đỗ đạt.
Mộng thấy thần bảo: “Ngươi muốn thi
đỗ, cần phải cậy nhờ âm đức”. Ông
Hứa tự nghĩ nhà nghèo, không có sức, chỉ có dùng y
thuật là được, bèn chuyên ṛng nghiên cứu sách thuốc,
lâu ngày thông hiểu đến mức hay khéo. Chẳng cần
biết người bệnh giàu hay nghèo, đều gấp
gáp đến [cứu giúp họ], cứu sống rất
nhiều người. Thanh danh càng thêm vang dội, thiện
tâm càng tha thiết. Về sau, ông đỗ đạt. Cứu
người bệnh tật, vốn là cái nhân lành, nhưng nếu y thuật khó thể tinh thông th́ làm như
thế nào? Người có chí hăy kiền thành pha chế các
loại cao đơn, hoàn tán để thí thuốc, in những
bài thuốc hay quư có hiệu nghiệm để lưu truyền;
đó cũng là một cách vậy!
Đời Tống,
Vương Tăng lên kinh đô dự thi. Trên đường,
ông nghe tiếng hai mẹ con khóc lóc rất sầu thảm,
hỏi ḍ hàng xóm, họ cho biết: “V́ thiếu tiền thuế,
không đóng được, sắp phải bán con gái, cho nên
khóc lóc”. Vương Tăng bèn đến thăm nhà ấy,
họ hỏi: “Có chuyện ǵ hay không?” Ông đáp: “Bà có thể bán con gái cho tôi, khi
tôi làm quan, bà vẫn có thể lui tới [thăm viếng],
có thể thường gặp gỡ nhau”. Ông bèn giao đúng
số tiền họ thiếu thuế, ước định
ba ngày sau sẽ lấy cô ta. Quá hạn, ông không tới. Bà mẹ
hỏi
thăm chỗ trọ của
Vương Tăng, [t́m
đến nơi, mới biết] Vương Tăng để lại
thư, dặn bà ta chọn chỗ xứng đáng gả
con, ông ta đă bỏ đi mấy ngày rồi! Về sau, ông
Vương đậu Tam Nguyên[54], được
phong làm Nghi Quốc Công.
Đời Tống,
Ngô Khuê chơi thân với Vương Bành Niên. Ông
Vương mất, nghèo túng, không có tiền chôn cất. Ngô
Khuê sai trưởng nam lo liệu tang sự, trông nom việc
lo an táng, châu cấp cho nhà họ, lại c̣n lo chuyện
cưới gả cho hai cô con gái ông Vương. Về sau,
ông Ngô làm quan tới chức Tể Tướng, thụy hiệu là Cung Túc.
Đời Minh,
Giải Khai nhà giàu có. Hễ thân thích, bạn bè gặp chuyện
cưới hỏi, ma chay mà không đủ sức, liền
giúp đỡ. Hễ có người gặp cảnh ngặt
nghèo, nói với ông, ông luôn dấn ḿnh vào cảnh nước
sôi, lửa bỏng để ra tay giúp đỡ. Ông thường
nói: “Có ai mà chẳng muốn tích cóp cho nhiều, nhưng kẻ
giàu có sẽ thành nơi kết oán, ta chỉ biết làm lành
để đức cho con cháu, há cậy vào vàng, ngọc
ư?” Con ông là Luân làm Thị Ngự Sử, [một người
con khác tên là] Tấn làm Đại Học Sĩ.
Vùng Tân Kiến
bị đói to, có người túng quẫn tột cùng, c̣n
được khoảng một thưng gạo, bèn nấu
cơm, bỏ chất độc vào, toan để vợ
chồng được ăn no mà chết. Bỗng lư
trưởng t́m đến muốn thâu thuế đinh, thấy cơm, toan ăn.
Người nghèo vội ngăn lại, bảo: “Ông không thể
ăn cơm này được đâu!” Khóc lóc kể rơ
nguyên nhân. Lư trưởng xót xa, bảo: “Sao lại như thế?
Nhà ta tuy túng thiếu, vẫn c̣n năm đấu gạo,
hăy theo ta đến lấy đem về, có thể cầm
cự ít lâu”. Người nghèo mang gạo về, thấy có
năm mươi lạng vàng trong ấy, suy nghĩ:
“Đây chắc là tiền thuế”, vội đem trả.
Lư trưởng nói: “Trọn chẳng phải là tiền thuế,
trời ban cho đấy chăng?” Liền chia đều ra, ai nấy đều
sống thoải mái hết năm.
Đời Tống,
Tôn Giác làm tri phủ Phước Châu. Những kẻ thiếu
thuế bị tống giam rất đông. Khéo sao có kẻ
giàu có bỏ ra món tiền năm trăm vạn đồng
để xin sửa chữa điện thờ Phật.
Tôn Giác bảo: “Các ngươi thí tiền là mong được
phước. Điện thờ Phật chưa hư hoại
quá mức, sao bằng dùng tiền để cứu những
người thiếu thuế bị tù, khiến cho mấy
trăm người thoát khỏi nỗi khổ gông cùm, ngay
cả Phật Tổ cũng sẽ mỉm cười, rủ
ḷng Từ, sẽ được phước chẳng nhiều hơn ư?” Người giàu có bèn nộp tiền thuế,
nhà tù rỗng không. Con cháu của người giàu có ấy đều
hiển đạt. Tôn Giác làm quan tới chức Trụ Quốc.
Những
người vừa kể trên đây, đều cứu
giúp người khác trong t́nh cảnh cấp bách do ma chay, bệnh
tật, hôn nhân, thiếu thuế, ly biệt, nghèo túng,
được trời báo đáp sâu xa, đều là hết
sức nhanh chóng. Ôi! Người gặp cảnh nguy cấp,
chỗ nào cũng đều có. Kẻ có sức gặp những
chuyện ấy, hăy nên khéo cứu tế; nhưng kẻ
không có sức cũng nên khéo t́m cách xếp đặt, tùy
duyên trọn
hết tâm lực. C̣n như gặp
năm mất mùa, dân đói, càng là chuyện đứng đầu và lại c̣n là
chuyện to lớn nhất trong các nỗi nguy cấp. Nếu
chẳng phải là người đang giữ chức vị, hễ là kẻ có tiền tài, có thừa sức, hăy góp sức bù đắp cho sự thiếu
hụt trong vận trời, ḥng cứu vớt, giúp đỡ
[kẻ khốn khó], ắt kẻ bần cùng sẽ chẳng
bị vùi thây trong ng̣i rănh. Trong lời chú giải cho chữ
Trung trong phần trước, đă nhắc đến ư
này, nhưng chưa nêu rơ trọn hết. V́ thế, nay sau
khi đă luận định về chuyện cứu giúp các
nỗi nguy cấp, lại đặc biệt chuyên nói về
chuyện này. Chỉ mong những kẻ đang giữ quan chức, những vị có ḷng nhân, những
vị ưa chuộng điều thiện đều cùng
thấu hiểu cặn kẽ!
Đời Tống,
Phạm Thuần Nhân làm tri phủ Khánh Châu. Gặp năm
đói, xác người chết đói đầy đường.
Thuần Nhân xin dùng gạo thóc từ kho Thường B́nh
để phát chẩn. [Đối với chuyện này], quan đầu quận phải tâu lên [triều đ́nh] rồi mới được phép. Thuần
Nhân nói: “Người ta không ăn sẽ chết. Tâu rồi
mới phát, há có thể cứu kịp ư? Các ông đừng
lo, hễ bị bắt tội, ta sẽ tự chịu”.
Bèn phát chẩn ngay hôm đó, những người được
cứu sống chẳng thể tính đếm! Về sau,
ông làm quan tới chức Học Sĩ, được phong
làm Cao B́nh Công, thụy hiệu là Trung Tuyên.
Đời Tống,
Triệu Biện làm tri phủ Việt Châu. Xứ Ngô Việt
bị hạn hán nặng. Ông thừa dịp dân chưa bị
đói, gởi thư hỏi các huyện trực thuộc có
mấy chỗ bị tai ương? Dân làng đang chờ
lănh gạo [cứu đói] mấy người? Các ng̣i
nước và đê điều cần phải sửa chữa
có thể thuê dân chúng tu bổ mấy chỗ? Tiền trong kho và lương thực tích trữ có thể
phát ra được bao nhiêu? Bao nhiêu nhà giàu có thể quyên tặng
gạo? Mỗi mỗi đều ghi chép vào sổ. Lại
ghi chép những người già cả, cô quạnh, bệnh
tật, không thể tự kiếm ăn, [số lượng
đến] hơn hai vạn một ngàn chín trăm người.
Lại đối chiếu với những ghi chép trước
đó, [th́ thấy] mỗi năm cấp gạo giúp kẻ
nghèo chừng ba ngàn thạch mà thôi. Triệu Biện kiểm
kê những khoản quyên góp của những người
giàu, và những khoản thặng dư khác [ngoài tiền thuế
ra], thu được hơn bốn vạn tám ngàn thạch
gạo, bèn góp thêm vào đó khoản chi phí của chính ḿnh. Từ
mồng Một tháng Mười, cấp cho mỗi người
một thưng gạo mỗi ngày, trẻ nhỏ th́
được nửa thưng. Ông sợ mọi người
[đến lănh gạo, nam nữ] xen tạp, bèn cho nam nữ
[lănh gạo] khác ngày, mỗi người [mỗi lần] chỉ
lănh khẩu phần hai ngày. Ông sợ họ phải lang thang [ḅn mót cái
ăn], bèn ở chốn thành thị,
vùng quê, lập ra năm mươi bảy chỗ phát gạo,
để cho ai nấy đều nhận lănh thuận tiện.
Lại c̣n thông cáo: Nếu họ ĺa khỏi chỗ ở, sẽ
chẳng được cấp gạo. Ông tính toán thấy quan
viên [lo việc phát chẩn] không đủ dùng, bèn chọn lấy
những nha lại đă nghỉ việc đang sống
trong vùng, cấp lương thực để họ đảm
nhiệm [công tác phát chẩn] này, truyền cho những kẻ
giàu có chẳng được [thừa dịp] mua gạo
trữ vào [để đầu cơ]. Các châu đều yết
bảng cấm tăng giá gạo. Triệu Biện ra lệnh thu mua gạo của những
kẻ có gạo toan tăng giá. Ông tự cởi chiếc đai vàng [do hoàng đế ban tặng]
để dưới sân, hạ lệnh thu mua số gạo
ấy. Do vậy, người thí gạo đông đảo.
Lại xuất hơn năm vạn hai ngàn thạch gạo
từ kho gạo công để hạ giá gạo ḥng tạo
thuận tiện cho dân chúng. Lại lập ra mười
tám chỗ bán gạo để người mua gạo khỏi
phải bôn ba. Lại thuê dân đi sửa thành [số lượng]
đến bốn ngàn một trăm người; tính ra số
lần thuê nhân công là ba vạn tám ngàn lần, tính theo số
lần thuê mà trả bằng gạo trị giá gấp bội.
Nếu dân cần vay tiền, bèn bảo những kẻ giàu có ứng
trước, đợi đến khi lúa chín sẽ trả
nợ. Quan viên sẽ đốc thúc họ trả tiền
nợ. Đối với con cái của những người
dân [v́ đói kém, túng thiếu mà bị] bỏ rơi, bèn lập cách thức thu nhặt về nuôi dưỡng. Mùa Xuân
năm sau, do người
dân bị mắc bệnh dịch, bèn lập chỗ chữa bệnh để
nuôi kẻ lâm vào cảnh bệnh tật mà không có chỗ quay về. Tuyển mộ hai vị Tăng, dặn
ḍ họ trông nom thuốc men và đồ ăn thức uống
cho những người ấy để họ không thiếu
người chăm sóc. Hễ có người chết, bèn
sai người nơi đó thu nhặt, chôn cất. Theo
đúng lệ, phát gạo cứu đói cho người
nghèo túng cho đến hết ba tháng mới ngưng, tức
là đến tháng Năm trong năm đó mới thôi. Hễ
ai có chuyện ǵ cầu xin, phần nhiều hễ xét thấy
thuận tiện bèn làm ngay. Triệu Biện tự ḿnh lo liệu,
chẳng phiền đến thuộc hạ. Sớm tối
dốc cạn tâm lực, không chuyện ǵ lớn bé chẳng
đích thân lo liệu. [Trong đợt] hạn hán, tật dịch khi ấy, dân những
quận khác chết mất một nửa, riêng dân trong quận
của Triệu
Biện cai trị là không bị tổn hại. Về sau, ông làm Tể
Tướng dưới thời vua Thần Tông, là bậc
danh thần đời Tống.
Đời Tống,
Phú Bật làm Xu Mật Phó Sứ. Có kẻ vu cáo ông toan cấu
kết với người Khiết Đan dấy binh [làm
loạn]. Tống Nhân Tông tức giận, biếm trích ông
đi coi Thanh Châu. Khi ấy vùng Hà Sóc[55] lụt to,
dân đói tràn vào xứ, không có ǵ ăn, sắp bị chết
đói. Ông quyên mộ hơn mười vạn hộc gạo,
chứa ở chỗ thích hợp để phát ra. Lại
c̣n t́m kiếm những căn nhà công và tư hơn mười
vạn căn, để phân chia cho họ ở khắp
nơi. Thuốc men đều đầy đủ, cho phép
di dân được sử dụng những nguồn lợi
từ nơi núi non, ao đầm, chủ [những chỗ ấy]
không được ngăn cấm. Những người chết
được chôn trong một ngôi mộ to. Người
theo về cư trụ đông đảo, có người
nghi ngại, nói với Phú Bật: “Đấy chẳng phải
là đặt ḿnh trong cảnh nguy hiểm, tai họa chẳng
lường được ư?” Phú Bật nói: “Há v́ [sự
an vui của] một thân ta mà đổi lấy tánh mạng
của sáu bảy chục vạn người ư?” Ông càng
dốc sức thực hiện. Năm sau, lúa ḿ chín rộ,
ông đều tính toán [quê quán] của họ xa hay gần
để cấp lương thực cho họ trở về.
Ông đă cứu sống hơn năm mươi vạn
người. Vua nghe chuyện, sai người đến ủy
lạo, phong cho ông làm Lễ Bộ Thị Lang. Về sau,
ông làm Tể Tướng, được phong làm Trịnh
quốc công, thọ tám mươi tuổi, thụy hiệu
là Văn Trung, được thờ phối hưởng
trong Thái Miếu.
Đời Minh,
Thanh Huệ Công là Đinh Tân, là người xứ Gia Thiện.
Ông thích làm lành, chẳng mỏi mệt, ông chú trọng cứu
đói tha thiết nhất. Năm Đinh Hợi (1587) trong
niên hiệu Vạn Lịch có nạn lụt lớn, giá gạo tăng vùn vụt. Ông mới bắt
đầu sai gia nhân đổi gạo lấy vải, chiếu
theo thời giá, cứ mỗi xấp vải là bốn
thưng gạo. Tốn phí đến hơn một ngàn thạch
gạo đă tích trữ. Ông lại tu bổ đê điều
ngoài đồng để ngừa hạn hán, lụt lội,
tính theo từng trượng để cấp gạo, tốn
phí đến sáu trăm năm mươi thạch gạo đă
tích trữ. Năm sau, càng đói dữ hơn, ông lập trạm
phát cháo, mỗi ngày có mấy ngàn người đến
ăn. Ông lại t́m kiếm những người già cả,
yếu đuối chẳng thể đến được
để cấp phát riêng. [Làm như thế] suốt chín
mươi ngày mới thôi. Đến mùa Thu lại khổ
v́ hạn hán, ông lại cứu tế những người
dân bị đói ở gần nơi sông nước. Những
kế hoạch cứu đói do ông trù tính đều có sách
lược tốt đẹp, cho nên người được
sống sót rất đông. Tháng Mười Một, dân chúng
bị tai ương phần nhiều khổ sở v́ rét buốt.
Ông lại t́m kiếm trọn khắp những người
cô quạnh, đói nghèo, không nơi nương tựa, ghi
chép vào sổ, cấp phiếu, đến kỳ hạn sẽ
lănh. Ông phát hết những súc vải đă đổi [từ
gạo] trước kia, kèm theo bông vải. Mỗi người được cấp
hai tấm vải, bốn cân bông. Tính toán trước sau,
ông đă phát hơn một vạn hai ngàn bốn trăm thạch
gạo, ba vạn lẻ
bốn mươi xấp vải, sáu vạn tám mươi cân bông.
Năm Mậu Thân (1608) lại bị lũ lụt, ông lại
cậy Đài Tỉnh[56] dâng sớ
xin cứu chẩn, truyền hịch cho vùng Ngô Sở không
được cấm mua gạo, lại c̣n phát tiền từ
công khố, chuyển đến các nơi. Lại c̣n bỏ
tiền riêng của ḿnh để cứu tế rộng
răi. Năm Giáp Tư (1624), bị mưa dầm, ông lại mở
kho cứu tế, phát hết ba ngàn thạch gạo. Tính
chung là bốn lần chẩn tế. Ông lại tính toán trong
huyện, những người nghèo chỉ có hai ba mẫu
ruộng, ước tính họ sẽ phải nộp thuế
ba ngàn lạng, ông đều đóng thay cho họ. Năm
ông chín mươi tuổi, vẫn lo thăm hỏi dân nghèo,
kiến thiết làng quê, thọ gần một trăm tuổi.
Đời Tống,
Trịnh Cang Trung người xứ Kim Hoa, làm Thông Phán[57] ở Ôn Châu.
Gặp năm đói, ông bèn bỏ hết lương bổng
để khuyên người khác bán gạo. Thái Thú nói: “Sợ
rằng chẳng thể thật sự thí cho kẻ
đói”. Ông đáp: “Chẳng khó! Hăy lấy một vạn
đồng, trên mỗi đồng tiền ghi một chữ.
Tối đến ra đường phố, hễ gặp
kẻ đói bèn cho một đồng, căn dặn: “Chớ
xóa chữ ghi trên đó, ngày mai [quan phủ] sẽ dựa
vào đồng tiền ấy để cấp gạo. [Làm
như vậy] sẽ chẳng bỏ sót một ai.
Phương pháp phát gạo không có cách nào tốt bằng
cách này!” Lại có người đề nghị cứu
đói bằng cách dựa theo nhân khẩu để phát
lương thực, nửa tháng phát một lần. Đối
với họ, đă đỡ tốn công đi lại, họ
ở nhà tận lực làm việc. Đối với ta,
cũng đỡ tốn sức, giảm bớt những
khoản chi phí, có thể cứu sống thêm mấy người nữa! Lại tránh được t́nh trạng họ
tranh giành, chiếm đoạt lẫn nhau. Có người
nói: “Dựa theo nhân khẩu để cấp phát
lương thực, sợ sẽ có nhiều kẻ mạo
danh, lạm dụng, chẳng thể được!” Ông
nói: “Ta sẽ có cách thu xếp. Trước hết, hăy thí
cháo dăm ba ngày. Nam nữ khác chỗ, cho phép họ mang b́nh
đựng đến để lănh về ḥng nuôi nấng
người già, trẻ nít. Cấp cho mỗi người một
cái thẻ, đối với người trong một thôn
đều ghi chép tên họ, tụ tập họ lại một
chỗ, chẳng cho phép họ phân tán. Như vậy th́ sẽ
có thể ước tính số người trong một
thôn. Sau đấy, mới đến từng làng đích
thân tra xét, phân định là trung bần hay thượng bần.
Thà tính dư, đừng tính thiếu. Dựa theo cái túi do họ
đem tới mà cấp cho lương thực đem về.
Kẻ già cả, yếu đuối hoặc góa phụ chẳng
thể vác nặng, hăy chiếu theo thời giá, chiết tính
thành tiền cho họ. Cho họ nhiều hơn một
chút, đừng giảm bớt. Đấy cũng là trù
tính phương pháp thỏa đáng nhất, mà cũng là
phương pháp thích ứng với hiện thời để
người có ḷng nhân thực hiện thuận tiện”.
Chúc Nhiễm ở
Diên B́nh thường mỗi khi gặp năm đói kém liền
thí cháo cứu dân đói rất đông. Hôm con trai ông ta
đi thi Hương, người hàng xóm mộng thấy có
người chạy đến, báo tin đỗ Trạng
Nguyên, tay cầm lá cờ to, trên đó có đề bốn
chữ “thí chúc chi báo” (báo ứng
do thí cháo). Quả nhiên con trai ông thi đỗ liên tiếp,
đỗ đầu thiên hạ.
Xưa kia, có
người luận định phương pháp chẩn tế,
coi thí cháo là cách thấp nhất, nhưng khi Tịch Văn
Tương cứu nạn đói lớn tại Giang Nam,
đặc biệt chủ trương phát cháo, bảo: “Cấp
phát tiền và gạo, ắt cần phải biên chép [danh
sách], thẩm định tường tận, chánh xác, ḥng
ngăn dứt những mối tệ, nhưng sanh mạng
của dân đói chỉ trong sớm tối, há nên dằng
dai? Thí cháo th́ những người được ban phát
đều là dân nghèo, chính là cách cứu đói khi khẩn cấp”.
Có thể thấy đó là cách thấp nhất, nhưng
cũng có lúc phải nên dùng. Khi đụng chuyện, hăy nên
xét theo t́nh h́nh và mức độ để chọn cách
thích hợp, chớ nên nhất loạt câu nệ!
Có kẻ luận
định chuyện mở trạm thí cháo tuy là việc tốt
đẹp, nhưng chưa hoàn toàn ổn thỏa. Một
là kẻ già cả, yếu đuối, sẽ không thể
đến nhận. Lại như kẻ ở xa mấy dặm,
nhịn
đói để xông pha gió máy, rét mướt, sẽ dễ
ngă bệnh. Nếu như đến
nơi phải mất mười dặm, trở về mười
dặm nữa, lại phải chờ đợi chen chúc. [Do vậy làm cách này] chưa thể thí trọn
khắp ngay được. Hễ ăn nhiều, bụng
sẽ căng phềnh. Ăn ít th́ đói, lại c̣n bị mùi hôi
thối xông sực, thường đến nỗi xảy
ra chuyện ngoài ư muốn. Có kẻ ăn cháo xong bèn chết
ngay, có kẻ vừa khom ḿnh bèn ộc cháo ra. Hăy nên suy xét những nỗi thảm
thương như vừa mới kể!
Do vậy ta thấy,
để thật sự thực hiện tốt đẹp,
nay có một phương pháp tốt đẹp hơn. Không
ǵ bằng làm những gánh cháo. Mỗi gánh dùng năm sáu thưng
gạo trắng nấu cháo, đựng vào thùng có nắp
đậy, phía dưới có thể nhóm ít lửa để
cháo không bị nguội. Phía ngoài, xếp một cái giỏ
nhỏ, đựng mười cái bát, mười đôi
đũa, một ít dưa muối. Gánh tới chỗ
đường cái, hoặc vùng ngoại thành, hễ gặp
người nghèo, bèn bảo họ ngồi thành hàng, cho họ
ăn xong, xin nước rửa bát đũa để cho
người ăn sau [có bát đũa sạch để
dùng]. Ước chừng mỗi gánh có thể cho bốn, năm chục người ăn. Mười
gánh sẽ đủ cho bốn, năm trăm người. Gánh đi khắp các
hẻm ngơ, hằng ngày đều tiến hành ở các
nơi, sẽ đúng là thật sự tùy thời cứu tế,
lại chẳng có những khuyết điểm như khi
lập trạm tụ tập người đói để
phát cháo. Cách thí cháo này tiện lợi nhất, thỏa
đáng nhất.
Đời Ngụy, Thời Cử ưa bố thí. Hễ
gặp năm đói kém, gạo đắt, liền xuất
gạo trong kho để giảm giá gạo, chỉ bán bằng
nửa giá lúc đó. Ông từng nói: “Năm mất mùa th́ bán
nửa giá, năm được mùa th́ bán đúng giá. Tuy
thâu vào ít hơn, chẳng gây tổn hại”. Ông thường
châu cấp những thân thích và bằng hữu nghèo khó. Cả
huyện phần nhiều trông cậy vào sự cứu tế
của ông. Con ông là Thu Tiết làm quan đến chức
Thượng Thư.
Đời Tống,
Hoàng Thừa Sự mỗi năm vào lúc thâu hoạch, bèn bỏ
tiền mua gạo. Cho đến lúc giáp hạt[58] năm sau, bèn bán ra giúp dân. Giá chẳng tăng,
thưng đấu chẳng đổi[59]. Về sau,
ông mộng thấy Tử Phủ Chân Quân[60] nói: “Ban cho
ngươi đứa con làm tới địa vị
Thượng Thư. Bản thân ngươi sẽ
được ghi danh vào sổ tiên”. Về sau, những
điều ấy đều ứng nghiệm.
Đời Nguyên,
chân nhân Khưu Trường Xuân nói: “Bán gạo ra để
làm giảm giá gạo đắt đỏ chính là
phương tiện to lớn nhất, thật sự
đă cứu giúp mọi người trong những năm
đói kém, công đức vô lượng. Kẻ có sức,
nhằm lúc thâu hoạch, hăy nên mua vào cho nhiều, hoặc là
có ruộng đất, bèn gặt hái, cất giữ, gặp
lúc thiếu kém, bèn bán ra đúng như giá cũ. Ḿnh chẳng
bị tổn hại, mà lại hết sức có lợi cho
kẻ khác, cớ sao chẳng vui vẻ làm như vậy?
Cách kém hơn là dựa theo thời giá để bán với
giá rẻ hơn, nhưng bán đúng giá [trước khi
đói kém] th́ tốt hơn”.
Đặng Thành
Mỹ ước định cùng thân tộc lập hội
Châu Lợi, với ư nghĩa gặp năm mất mùa [sẽ
giúp cho] người khác chẳng bị chết đói.
Phương cách là khi mùa màng bội thu, cứ mỗi mẫu
sẽ bỏ ra một hoặc hai đấu gạo, đến
mùa Xuân cho vay với lợi tức hai phân, đến vụ
gặt mùa Thu sẽ trả. Thành Mỹ giữ ḷng công bằng,
đứng ra trông coi việc ấy. Về sau, gặp lúc hạn
hán, đói kém, không chỉ là cứu được thân tộc,
mà c̣n cứu được những người khác. Ông thọ
bảy mươi lăm tuổi. Hôm ông mất, mùi
hương lạ khắp nhà, hàng xóm thấy vô số sai
nha cơi âm nói oang oang là đến đón ông làm Thành Hoàng xứ
nọ.
Tào Thế Mỹ
nhà nghèo, thích làm lành. Một vị Tăng dạy ông hăy thật
tâm khuyên lơn, giúp đỡ người khác th́ cũng có
thể tạo phước. Từ đấy trở
đi, Thế Mỹ ước định cùng người
khác lập ra nhiều hội từ thiện, thí cháo, thí áo,
thí thuốc, thí nước gừng, phóng sanh, tiếc chữ,
thí quan tài, chôn cất [những người không có ai lo liệu
hậu sự], sửa chữa cầu, đường v.v…
Người khác bỏ tiền, tự ḿnh ra sức. Mỗi
năm đều như thế, càng lâu càng có sức. Những
năm đói kém, ông càng chú ư ra sức khuyên cứu tế. Về
sau, do bán dầu cho những người giàu, dần dần
có được hơn năm ngàn lạng. Con cháu an hưởng
phước dầy. Đối với mọi chuyện, kẻ
giàu có sẽ dễ thành công, kẻ nghèo rất khó thực hiện, nhưng
do gặp cảnh khó thực hiện mà có thể gắng sức
làm th́ đấy chính là chỗ khiến họ dễ [đạt
được thành tựu] hơn người thường.
Cổ nhân có nói: “Kẻ nghèo bỏ
công sức một trăm phần bằng kẻ phú quư bỏ
công sức ngàn phần”. Do vậy, có thể thấy: Kẻ
nghèo há nên tự buông xuôi, chẳng có chí khí mạnh mẽ,
kiên quyết ư?
Đoàn Nhập
Bát tích trữ gạo đến mấy chục kho, gặp
năm đói kém, toan bán ra với giá cao. Quan sai người
đến hỏi mượn gạo để cứu
đói, hắn đă bằng ḷng. Sáng sớm hôm sau, do thấy dân đói tụ tập chờ
đợi, bèn hối hận, chẳng chịu phát gạo.
Mọi người vừa mới huyên náo, hắn ta bèn cùng người nhà
đóng chặt cửa, cự tuyệt mọi người.
Bỗng trời nổi trận mưa to gió lớn, xô gạo
đổ tung tóe ra đường sá. Dân đói tranh nhau hốt
lấy, họ Đoàn bị sét đánh chết tươi!
Trải xem báo ứng
họa phước của những kẻ tàn nhẫn hay
nhân từ trong các năm đói kém, sách vở đă ghi chép rất
nhiều, chẳng thể thuật trọn, chẳng phải
là chỉ có những trường hợp trên
đây. Tiên nho nói: “Đói kém là
mạng trời, nhưng ḷng trời nhân ái, thương xót
dân đói bội phần tha thiết. V́ thế, bậc trí
do hợp ḷng trời bèn được những điều
tốt lành giáng xuống. Kẻ ngu do trái nghịch ḷng trời
mà bị trừng phạt. Đó là lẽ tất nhiên”.
Báo ứng giáng họa lắm nỗi, càng nhanh chóng hơn phước
báo. Chẳng riêng ǵ cái tội đóng chặt cửa không
bán gạo ắt bị trời đánh, ngay như kẻ trữ tiền keo kiệt, trơ mắt nh́n
người khác sắp chết chẳng cứu, do nhẫn
tâm hại lư, sẽ bị khiển trách càng nặng nề
hơn nữa! Kẻ ở sâu trong ngôi nhà tráng lệ, chẳng
nghe tiếng than khóc v́ đói, chẳng thấy [người
chết đói ngoi ngóp] nơi ng̣i rănh, muốn cứu mà cứ
do dự, chần chừ, chẳng suy xét người chết
đói đă nhiều, th́ cũng là trái nghịch ḷng trời,
chẳng khỏi mắc tai ương! Nếu là kẻ làm
cha mẹ của dân, lại ơ hờ chẳng quan tâm nỗi
khổ của dân, chần chừ, rề rà, cũng như
những kẻ nha lại nẩy sanh thói tệ, giở tṛ
gian trá, khiến cho dân chúng chẳng được thật
sự giúp đỡ, tội ấy càng là muôn kiếp khó
siêu! Cổ nhân nói: “Cứu một
mạng người, tăng thọ mười hai năm”.
Huống chi kẻ có thế lực, hễ ra tay, sẽ có
thể cứu trăm ngàn vạn mạng. V́ thế, kẻ
đang có quyền chức, giống như đang ở trong núi báu, mặc sức ta chọn
lựa, nhặt lấy, hăy cẩn thận, đừng ra về tay không!
Điều
đáng quư nhất chính là đứng ra xướng suất
trước tiên, phỏng theo cổ nhân làm chuyện cứu
tế to lớn. Dẫu là kẻ sức lực hữu hạn,
cũng nên kết hợp với những người thật
sự có thiện tâm để thực hiện chuyện
khuyến mộ rộng răi, tùy duyên tiến hành, ngơ hầu chuyển
[những kẻ sẽ v́ chết đói mà vùi thân nơi] ng̣i rănh thành b́nh yên. Âm công mênh mông, trời sẽ báo đáp chẳng sai xuyển.
Trong thiên sách này đă nói về chuyện này đặc biệt
tường tận, tấm ḷng đau đáu, ư tưởng
sâu xa, căn dặn hết sức thiết tha. Lại c̣n dặn
ḍ: Nếu gặp năm mất mùa, khi cần phải cứu
chẩn, hăy mau chóng thâu thập, nhuận sắc các thuyết
và các câu chuyện cứu đói để in ra lưu truyền,
khuyên lơn, gởi tặng rộng răi các thành phố, làng
quê đang bị tai ương, ngơ hầu các bậc
thân sĩ, những nhà giàu có đọc kỹ. Lại c̣n
dán [những tờ yết thị phương pháp cứu tế
ấy] khắp các chỗ náo nhiệt, sẽ thật sự
là điều đại thiện, tạo phước chẳng
có ngằn mé!
Phụ lục: Ghi chú về hai mươi biện
pháp cứu đói của ông Trần Bằng Niên tại phủ
Tô Châu vào đời Thanh
Năm Khang Hy 47
(1708), lụt lội, hạn hán liên tiếp xảy ra. Ông Trần xin quan đốc
phủ vùng Giang Chiết hăy ban hành sách lược này. Lúc
đầu, gạo giá hai mươi đồng một
thưng, [do áp dụng chánh sách do ông Trần đề nghị],
chưa đầy hai tháng, mỗi thưng chỉ bán tám,
chín đồng. Dân chúng ca ngợi ơn tái tạo của
quan cai trị. [Chánh sách ấy như sau]:
- Một là cấm
dùng gạo nếp nấu rượu.
- Hai là cấm
dùng lúa ḿ nấu rượu.
- Ba là cấm dùng
đậu nành ép dầu.
- Bốn là cấm
dùng gạo tấm trắng làm đường.
- Năm là cấm
dùng cám gạo làm sợi miến (Hạ lệnh bán những
thứ ấy cho dân đói để họ làm bánh cho qua cơn
đói. Nghiêm cấm năm thứ trên đây, đối với
một huyện trung b́nh, mỗi ngày sẽ tiết kiệm không chỉ là mấy
trăm thạch gạo. V́ thế, ngay lập tức sẽ
thấy giá gạo giảm mỗi ngày).
- Sáu là cấm
phường đồ tể và nhà buôn rượu bán thức
ăn đă nấu chín (giảm bớt tiền tài để
tích phước; chỉ được phép bán các thức
ăn làm bằng bột, hoặc sợi ḿ, đồ chay).
- Bảy là khuyên
những nhà khá giả và các con buôn giàu có hăy quyên tặng gạo cứu
đói. Năm nay, ông Đổng Thiên Quyến ở huyện
B́nh Hồ được ông Trần chỉ giáo, trước
hết cho làm hai mươi bức hoành phi ghi “vi phú bất nhân” (làm giàu bất
nhân), chất đống tại huyện đường,
đích thân tới những nhà giàu khuyên họ đóng góp,
chí thành khiến họ cảm động, [các biện pháp]
cứng rắn lẫn mềm mỏng đều dùng.
Trước hết là tới chỗ hương thôn, gặp
ba nhà giàu có ương bướng [không chịu quyên góp],
bèn đóng tấm hoành phi ấy lên cửa, lại c̣n báo cho
họ biết: Hễ họ bán ruộng đất để
chuộc tội mà nếu gián đoạn [không trả hết
tiền phạt], sẽ bị phạt nặng hơn. Gia
nghiệp gần
như sẽ đi tong quá nửa!
Từ đấy, từ vùng quê cho đến thành thị, những kẻ thích đóng góp đông đảo.
Ngoài chuyện cấp gạo, cấp tiền ra, c̣n lập
trạm thí cháo khắp nơi. Lại c̣n thí thuốc, chẩn
tế đến mấy tháng, tới khi “ăn gạo mới”[61] bèn thôi. Số
lượng quyên góp nếu dư ra, sẽ sai đem trả
lại những nhà giàu có, cứu sống vô vố người.
Đời Tống,
tiên sinh Tây Sơn Chân Đức Tú nói: “Rộng ḷng giúp đỡ dân nghèo, ắt được
trời đất ban phước. Đấy là nói theo lư.
Nếu nói theo lẽ lợi hại, không có dân đói, sẽ chẳng có đạo tặc,
ắt thôn quê, thành thị b́nh an. Đấy lại là điều
lợi cho những nhà giàu”. Ông Trần Kỷ Đ́nh bảo:
“Chuyện cứu đói cần
phải do thân sĩ và các nhà giàu có tại các vùng, các thôn cứu
giúp dân nghèo gần chỗ họ, sẽ khiến cho cả
huyện chẳng có ai bị đói”. Ông Hoàng Chấn nói:
“Để cứu đói chỉ
có cách khuyên nhủ, [tức là] khuyên những nhà giàu có hăy tạo
ân huệ cho dân nghèo. Nếu những khoản quyên tặng
có dư, sẽ dùng để cấp thêm cho những kẻ
thiếu thốn; đấy chính là đạo trời, là
phép nước vậy. Nếu kẻ nào chỉ mong giàu có
cho riêng ḿnh, chẳng nghĩ đến t́nh cảnh tai ách thê thảm v́ đói kém, dẫu có thể
may mắn trốn thoát phép nước, ắt khó trốn
đạo trời tru lục!” Lại nghe Châu Tử nói: “Để khuyên nhủ [kẻ giàu] chia sẻ cứu dân trong cơn cấp
bách, chẳng thể không nhẫn nại đôi
chút. Nếu gặp kẻ giàu có so đo quá
sâu, sợ rằng rốt cuộc sẽ không thể làm
được (không thể quyên tặng được),
phải sử dụng cả ân lẫn uy th́ mới có ích
cho việc cứu tế”. Đây chính là ông Trần đă lănh hội sâu xa đạo cứu đói của Châu Tử vậy.
- Tám là tạo
lập công việc để giúp đỡ kẻ thiếu
thốn (như đắp thành, khơi sông, tu bổ
cầu đường v.v… khiến cho những kẻ làm
công sẽ có cái ăn).
- Chín là nới
lỏng những nghiêm cấm [trước đó về chuyện
khai thác tài nguyên từ] núi, sông, như giảm nhẹ thuế
vận chuyển lương thực để tiện vận
chuyển theo đường thủy, cũng như chẳng
nghiêm cấm những chuyện như đẵn củi
v.v… để [dân nghèo] có cách sống tạm thời, chẳng
đến nỗi trở thành đạo tặc.
- Mười
là đối với những phạm nhân nếu t́nh cảnh
đáng thương, hoặc vụ án đáng ngờ, cho
phép họ dùng gạo chuộc tội, dùng số gạo ấy
để cứu đói.
- Mười một,
bất luận quan lại, quân, dân, phụ nữ, tăng,
đạo, đủ mọi hạng người, hễ
có thể giúp cứu đói, nếu ít th́ tặng hoằng
phi, ban thưởng, nhiều th́ báo tường tận lên triều đ́nh ngơ hầu họ sẽ
được thánh chỉ phong tặng.
- Mười
hai, mời mọc các bậc danh y mở pḥng thuốc cứu
chữa người bệnh.
- Mười
ba, dân ở gần núi, dạy họ dùng tùng, bách để
đỡ ḷng (sách Bác Vật Chí[62] chép: “Năm đói kém không có cái để
ăn, có thể nghiền kỹ tùng, bách để vắt lấy
nước, ḥa với nước lă để uống khỏi
đói ḥng cầm cự qua ngày”. Nếu ḥa với cháo hoặc
canh lỏng để uống th́ càng hay. Mỗi lần dùng
năm hớp nước tùng, ba hớp nước bách ḥa
chung để uống. Hoặc chỉ dùng lá tùng cũng
được. Chỉ cần đừng dùng những thứ
thức ăn khác, sẽ có thể khỏi đói, hết bệnh.
- Mười bốn,
hoăn hành h́nh (năm đói kém, lắm kẻ phạm pháp; v́
thế, khoan dung).
- Mười
lăm, giảm bớt lễ lạc (đối với chuyện
làm lễ đội mũ (gia quan), cưới hỏi, ma
chay, cúng bái, hăy giảm thiểu những lễ nghi theo
phương diện h́nh thức).
- Mười
sáu, cho dân vay mượn để gieo trồng (do sợ
[dân đói] bỏ mặc ruộng đất chẳng gieo
trồng).
- Mười bảy,
cẩn thận pḥng ngừa đạo tặc (do sợ
chúng nó sẽ làm hại dân).
- Mười tám, hàng quan
lại, thân sĩ, hễ gặp ngày mồng Một và Rằm,
bèn trai giới, tắm gội, cầm hương đi bộ,
ai nấy
cầu đảo tại
các miếu để cầu cho dân được yên vui (năm
mất mùa chính là do cộng nghiệp của nhân dân cảm
vời. Cầu đảo, sám hối tội lỗi nhằm
văn hồi vận mạng to lớn. Đấy cũng là một
trong các biện pháp cứu đói theo Châu Lễ).
- Mười
chín, trong mỗi châu, huyện, chọn lựa người tài đức để chủ tŕ việc cứu
đói (như lo liệu việc cấp gạo, thí cháo
v.v…), khiến cho dân đen thật sự được hưởng
ân huệ. Khi sự việc đă được lo liệu
ổn thỏa, đồng loạt tâu lên [triều đ́nh
danh sách] những người đă quyên tiền, tặng gạo.
- Hai
mươi, đối với các thuyền chở đậu
phộng, đậu, lúa mạch… miễn thuế một
tháng, lại c̣n sai phu kéo thuyền giùm, hộ tống (thuyền chở đậu, gạo từ
các quận ngoài được chở tới hằng ngày
th́ giá gạo mỗi ngày một giảm, đấy là tác dụng
to lớn để chuyển thiếu thốn thành sung túc).
Luận về
sự cứu tế trong cơn cấp bách, trên đây
đă nói tường tận. C̣n như cứu nguy, xét theo
lư, đại khái giống nhau, nhưng để cho mọi
người cảm thấy [cứu nguy] có mối
tương quan với sự sanh tử, tôi ghép thêm mấy
câu chuyện sau đây.
Trương Bá
Hộ ở Cao Bưu từ trong thuyền thấy đằng
xa có người bám vào một chiếc thuyền lật úp,
lúc ch́m, lúc nổi, gào thét cầu cứu. Ông Trương vội
gọi thuyền chài đến cứu, họ chẳng
đáp ứng. Ông bèn cho họ mười lạng bạc
th́ họ
chịu cứu. Cứu
lên th́ ra [kẻ
mắc nạn] là con
trai của ông Trương.
Đời Tống,
Châu Tất Đại trong niên hiệu Thiệu Hưng trông
coi Ḥa Tễ Cục[63] của Hàng
Châu. Trong cục bị cháy, [theo quy chế, những người
trực ban mà] để hỏa hoạn xảy ra, [sẽ bị
phán] tội chết. Ông nói: “Nếu hỏa hoạn do quan
gây ra, sẽ bị tội ǵ?” Nha lại nói: “Sẽ bị
cách chức làm dân thường”. Ông nói: “Há nên v́ một ḿnh
ta mà nỡ ḷng nh́n mười mấy người mất mạng
ư?” Bèn nói dối là chính ḿnh gây ra hỏa hoạn, chịu
tội, mất chức, mọi người đều
được cứu sống. Về sau, ông làm Tể
Tướng.
Đời Tống,
Lôi Hữu Chung đánh dẹp [bọn phản loạn]
Vương Quân, muốn tàn sát dân chúng trong thành. Khi ấy,
những vị nhân sĩ đất Thục (Tứ Xuyên) là
Phạm Xán, Phạm Tuy [là những người] khí tiết cao thượng, có văn tài, và Văn Giám đại
sư là một
vị nổi danh đức
hạnh, cùng kéo đến can gián. Họ dập đầu thưa: “Người đất Thục hiền
lành, nhu nhược, bị ép buộc phải theo hắn,
đặc biệt sợ chết. Hôm nào thành bị hạ,
xin Ngài đừng tàn sát, chỉ cần trừ bỏ
đám giặc hung tợn là được rồi”. Hữu Chung thấy
ba vị ấy là bậc trượng phu khẳng khái, quên
thân v́ mọi người, xuất phát từ ḷng chí thành,
bèn dịu nét mặt, bảo: “Nếu chẳng nghe lời của
bậc trưởng giả, ta đă gần như làm bậy
rồi”. Một thành bèn được bảo toàn. Con cháu họ
Phạm quư hiển, sư Văn Giám ngộ đạo.
Ông Phùng X… vào hôm trời rét dữ, dậy sớm [ra
đường], trên đường, thấy một
người nằm trong tuyết, thân đă cứng một
nửa, vội cởi áo bông của chính ḿnh đắp cho,
cơng về cứu tỉnh. Ông mộng thấy thần bảo:
“Ông cứu mạng người xuất phát từ ḷng chí thành,
sẽ ban cho Hàn Kỳ làm con ông”. Về sau, ông sanh con bèn
đặt tên là Kỳ, [Phùng Kỳ] tột bậc hiển
quư.
Lái buôn đất
Huy Châu là Vương Chí Nhân tuổi đă ba mươi mà
không con. Giữa đường, gặp một người
đàn bà ẵm con nhảy xuống nước. Ông ngăn
lại, hỏi nguyên cớ. Người đàn bà thưa:
“Chồng thiếp
nghèo, nuôi lợn để
[lấy lăi] trả tiền địa tô. Ngày hôm qua, [chồng
thiếp] đi ra ngoài làm thuê cho người khác, kẻ
buôn lợn đến nhà mua lợn, không ngờ đưa
toàn bạc giả. Thiếp sợ chồng về đ̣n vọt, lại cũng chẳng có cách ǵ để sống, cho nên [tính t́m] cái chết”. Chí Nhân thương xót, cho tiền đủ số. Tới khi
người chồng biết chuyện, nghi vợ nói dối,
lôi vợ đến chỗ ông Vương cư ngụ
để chất vấn. Vương Chí Nhân đă ngủ,
chồng bắt vợ gơ cửa, thưa: “Tôi là người
đàn bà nhảy xuống nước, đến lạy tạ”.
Ông Vương lớn tiếng nói: “Ngươi là đàn bà c̣n trẻ, ta là khách trơ trọi một
ḿnh, đêm tối
há nên gặp mặt? Có ǵ
muốn nói, sáng mai hăy cùng chồng ngươi tới!”
Người chồng mới sợ hăi thưa: “Vợ chồng
tôi cùng có mặt”. Do vậy, Chí Nhân khoác áo ra gặp. Vừa mới mở cửa,
tường sập, cái giường ông nằm bị nát vụn
như bột. Vợ chồng họ cảm thán, hết sức
cảm tạ, lui về. Về sau, ông sanh được mười
một đứa con, sống rất thọ.
Đời
Đường, Bùi Độ đến chơi chùa Hương
Sơn, nhặt được hai cái đai ngọc, một
cái đai bằng sừng tê giác, bèn đợi chủ nhân
đến t́m. Cho đến chiều tối, người ấy
không tới, [ông bèn cầm về], đến sáng lại
sang chùa. Một người đàn bà đến khóc lóc, nói:
“Cha thiếp vô tội bị tù, ngày hôm qua [tính]
nhờ đai báu để giúp cha thoát tội, bất hạnh
đánh mất ở nơi đây, chẳng trốn khỏi
họa vậy”. Bùi Độ xúc động, trả lại.
Trước đó, có người coi tướng bảo
Bùi Độ ắt sẽ chết đói. Tới lúc này gặp
lại, bèn bảo: “Ông khí sắc khác hẳn, ắt
có âm đức giúp đỡ người khác, tiền tŕnh [rạng rỡ] tôi chẳng thể biết
được!” Về sau, ông được phong làm Tấn
Quốc Công, truy tặng [tước hiệu] Thái Phó.
Đường
đời gập ghềnh, gặp những nỗi hiểm
nguy khác nhau. Người có ḷng nhân cứ từ đây suy ra, sẽ biết trọn
hết. Mỗi chuyện đều phải tận hết
sức làm, ở đây chẳng thể ghi trọn hết
được! C̣n như chuyện sống chết do bị
h́nh phạt, tù ngục bức bách, càng là t́nh cảnh trầm
trọng hơn các nỗi nguy khác, sẽ được giảng giải và chép trong phần chú giải câu “nhập khinh vi trọng” (ghép
thêm tội nặng vào tội nhẹ) thuộc phần sau. V́ thế, chẳng luận
định thêm ở đây!
(Chánh
văn) Kiến nhân chi đắc, như kỷ chi đắc.
Kiến nhân chi thất, như kỷ chi thất.
(正文)見人之得。如己之得。見人之失。如己之失。
(Chánh
văn: Thấy người khác đạt được
giống như chính ḿnh đạt được; thấy
người khác bị mất mát, giống như chính ḿnh bị mất mát).
Người
đời nay thấy kẻ khác được mất, chẳng
thể [cảm nhận] như chính ḿnh được mất,
chỉ v́ có ḷng ích kỷ, chấp trước chính ḿnh. Hễ
được bèn sợ mất, lại dấy ư niệm
chỉ sợ người khác sẽ đạt được,
thà khiến cho người khác bị mất mát! Mới
đầu vẫn chỉ là lợi ḿnh; về sau, dần dần
thành trở ngại người khác, đố kỵ sự
thành tựu [của người khác], vui thích trước
thất bại của họ. Người khác thành hay bại, liên quan ǵ đến ta? Chỉ ôm ấp tâm thuật xấu xa, gieo cái nhân ác tự hại chính
ḿnh! Chẳng biết công phu của thánh hiền vốn là phải
tiêu trừ Ngă Kiến. Trong sự hiểu biết của bậc
thông đạt, cũng cần phải phá vỡ những
t́nh tự phàm tục. Nếu ngộ “ta và người vốn cùng một nguồn,
được hay mất là do mạng trời”[64], ắt sẽ trông thấy người khác đạt
được, không chỉ là chẳng đố kỵ, mà
c̣n t́m mọi cách giúp đỡ. Thấy kẻ khác bị mất
mát, không chỉ là chẳng mừng, mà c̣n cứu giúp nhiều
cách. Đấy chính là chỗ thọ dụng chân thật của
chính ḿnh.
Đời
Đường, Địch Lương Công (Địch
Nhân Kiệt) làm Pháp Tào Tham Quân ở Tinh Châu, có [viên quan] họ
Trịnh bị phái tới chỗ xa xôi, hẻo lánh. Mẹ
ông ta vừa già vừa bệnh. Ông Địch nói: “Mẹ của
ông đă như thế, há nên khiến cho ông ta phải chịu
nỗi lo vạn dặm?”, bèn đến chỗ Trưởng
Sử Lạn Nhân Cơ, xin đi thay. Nhân Cơ thường
chẳng thuận thảo với Lư Tư Mă, do [thấy ông Địch làm như thế] bèn nói: “Ông Địch như thế ấy, há bọn
ta chẳng nên tự thẹn ư?” Bèn ḥa thuận với
nhau.
Tiết Viện
làm Tướng Quốc nước Yên, cái tâm chưa thể
công bằng, đố kỵ khi người khác đạt
được, thích thú khi thấy người khác mất
mát, chẳng tiến cử người hiền, lại c̣n
ganh ghét, khiến cho họ chẳng được tiến
cử. Một đứa con trai [của ông ta] chết trong
ngục, những đứa c̣n lại th́ tàn phế. Tử
Cao là người công minh, truyền dạy [Tiết Viện]
bộ Trung Giới Kinh. Tiết Viện hối hận, thề
nỗ lực thực hiện, [rốt cuộc] chỉ bảo
toàn được một đứa con.
Đời Minh,
Liên Tŕ đại sư bảo: “Con người đối
với cảnh giới tài, sắc, danh, lợi trong thế
gian, tôi dùng tỷ dụ để nói rơ. Có một đống
lửa ở nơi đây, năm món vật ở bên cạnh.
Một là như cỏ khô, hễ vừa chạm đến,
sẽ cháy ngay. Hai là như gỗ, hễ quạt lửa vào
đó sẽ cháy. Ba là như sắt, không thể cháy
được, nhưng có thể bị nung chảy! Bốn
là như nước, không chỉ là chẳng cháy, ngược
lại c̣n có thể dập lửa; đổ vào trong nồi,
niêu, c̣n có thể bốc hơi. Năm là như hư không,
thiêu đốt bất
cứ cách nào, Thể của nó
vẫn như như, mà cũng chẳng cần diệt, hành tướng sẽ tự diệt. Để b́nh tâm, hăy nên quán
như thế”.
(Chánh
văn) Bất chương nhân đoản, bất huyễn
kỷ trường.
(正文)不彰人短,不衒己長。
(Chánh văn: Không phơi bày
khuyết điểm của người khác, không khoe khoang
ưu điểm của chính ḿnh).
Người ta
có những nhược
điểm, như nghe tên cha mẹ
của họ, tai có thể nghe, nhưng miệng chớ nên
nói. Nhưng miệng vốn đă chẳng nên nói, mà tai
cũng chớ nên nghe, sẽ càng cao hơn. Nói chung, ai mà chẳng
có nhược điểm; hễ phô bày ra, ắt sẽ chẳng
tránh khỏi bị lan truyền. [Như vậy th́] tiếng
tăm [của người ấy] sẽ bị giảm
sút, mà họ c̣n hành xử khó khăn, lỗi ấy sẽ do ai gánh vác vậy? Nếu chẳng phải là kẻ
tiểu nhân không hề kiêng nể ǵ, sẽ không làm như
thế. Ta có sở trường, sẽ giống như tài
sản của người buôn bán giỏi, giấu kín th́ tốt,
chứ để lộ ra sẽ gặp nguy. Nếu là
người có sở trường, ắt phải ẩn
tài, tu thân dưỡng tánh, sửa đổi cho ngày càng tốt
đẹp hơn, sau đấy mới có thể thành tựu
đức hạnh. Lăo Tử nói: “Thịnh đức dung mạo nhược ngu” (Bậc đức dầy dáng vẻ như
kẻ ngu). Tử Tư[65] nói: “Ám nhiên nhật chương, thánh
huấn chiêu nhiên” (Đạo đức của bậc quân tử tuy ẩn
giấu sâu kín mà ngày càng tỏ lộ, thánh nhân đă giáo huấn
rành rành). Mọi người hăy nên tự phản tỉnh.
Thời Châu, Sở
Trang Vương cùng quần thần dự dạ yến. Đuốc bị tắt, có kẻ say kéo
áo mỹ nhân. Mỹ nhân dứt đứt giải mũ của kẻ ấy, tố cáo với vua. Vua bảo:
“Ta cho mọi người uống say, mà lại muốn hiển
lộ ḷng trinh tiết của phụ nữ hay sao, ta chẳng
làm!” Bèn dặn kẻ hầu đừng thắp đèn,
truyền lệnh: “Kẻ uống rượu với quả
nhân mà không dứt đứt giải mũ sẽ chẳng
vui”. Quần thần đều dứt đứt giải
mũ, tận t́nh vui say rồi về. Sau này, lúc vua giao tranh với nước Tấn, thấy một người tận lực
chiến đấu. Đấy chính là người khi trước
[đă bị mỹ nhân] dứt đứt giải mũ vậy!
Đời Tống,
Hàn Kỳ làm quan tại Trung Thư Tỉnh đă lâu. Hễ
thấy có thư từ, sớ tấu công kích những lỗi
xấu ẩn kín của người khác, đều tự
tay phong kín, chẳng cho kẻ khác thấy. Vương Tố
làm gián quan, nói: “Nhân tài khó được! Khi không bận chuyện ǵ, hăy v́ triều đ́nh yêu tiếc [nhân tài], chớ
nên hạch sách những điều ẩn giấu riêng
tư của kẻ khác, phơi bày khuyết điểm của
họ”. Tŕnh Minh Đạo làm Ngự Sử, tâu với
vua: “Sai thần bù đắp lỗi lầm th́ được.
Nếu muốn thần t́m ṭi, bới móc ưu khuyết
điểm của những bầy tôi khác, để
được tiếng là kẻ cương trực, thần
chẳng thể làm được”. Từ Văn Trinh
đăi khách ăn tiệc. Một vị khách lấy cái chén
bằng vàng giấu vào trong mũ. Kẻ hầu t́m kiếm
cái chén. Ông nói: “Đă cất rồi”. Kẻ ấy say rượu,
làm rớt mũ, chén rơi xuống đất. Ông giả
vờ chẳng biết, [nhặt chén] bỏ vào trong tay áo kẻ
ấy. Văn Trưng Minh tánh chẳng thích nghe kể lỗi
người khác. Hễ thấy có kẻ sắp nói [khuyết
điểm] của kẻ khác, bèn khéo léo lái sang chuyện
khác. Mấy vị ấy giữ ḷng trung hậu, [cho nên họ]
hưởng lộc to lớn, là những bậc danh thần,
đấy là chuyện đúng lẽ vậy!
Điền Tễ
cậy tài, cay nghiệt, thường thích b́nh phẩm, chê
bai, khích bác khuyết điểm của các bậc thánh hiền
thuở trước và những người nổi danh đương
thời. Sau khi mạng chung, do nghiệp nhân ấy, địa
phủ hạ lệnh mỗi ngày có ba con rắn và hai con rết
chui ra, chui vào bảy lỗ. [Chịu phạt] tṛn một
năm, bèn thọ sanh làm thân nữ. Ông ta báo mộng cho vợ
như vậy. Trương Củng Thần nói: “Chớ dễ duôi bác bỏ
điều thiện của kẻ khác. Chớ dễ dăi tin
lời kẻ khác. Chớ dễ
dăi khiến cho kẻ khác đắc ư. Chớ
dễ ngươi bàn luận khuyết điểm của
kẻ khác”. Đấy
đều là phương cách để tự giữ ḷng
trung hậu. Chuyện phơi bày khuyết điểm của
người khác chính là căn bản của sự khắc
bạc, gian hiểm. Huống hồ Điền Tễ là kẻ
hủy báng thánh hiền, há cơi âm chịu khoan dung, chẳng
tru lực ư?
Đời Tống,
Âu Dương Tu giỏi văn chương, thường
là tiếp khách bèn nói nhiều về chuyện triều
chánh, chẳng nhắc tới văn chương. Thái
Tương giỏi
việc cai trị, mỗi khi tiếp khách, bàn nhiều về văn chương, chẳng nhắc tới
chánh sự. Hai ông đều khéo náu ḿnh, rốt cuộc
được nổi danh, đều quư hiển tột bậc!
Đời
Đường, trong niên hiệu Vĩnh Thuần[66], Lư, Lạc,
Dương, Vương[67] đều
do văn
chương mà danh tiếng nổi như cồn, mọi người đều nghĩ những
người ấy sẽ quư hiển. Bùi Hành Kiệm gặp
họ, bèn nói: “Kẻ sĩ có
thành tựu cao xa th́ trước hết phải xét độ
lượng của họ rồi mới xét đến tài
văn chương. Hạng người như Vương
Bột tuy có tài văn chương, nhưng bộp chộp,
lộ vẻ nông cạn, há có phải là hạng người
được hưởng tước lộc ư? Chàng
Dương hơi trầm tĩnh, nếu có thể chết an lành là đă may rồi”. Về sau, quả đúng như lời ông
Bùi đă nói. Tài năng chẳng bằng học thuật, khí
tiết chẳng bằng đức lượng, văn
chương chẳng bằng cách cư xử. Người xưa đă nói rơ ràng. V́ thế,
bậc quân tử chẳng khoe khoang sở trường.
Đời Hậu
Hán, Thôi Viện có bài minh bên cạnh chỗ ngồi như
sau: “Đừng kể lỗi người khác, chính ḿnh chớ
cậy tài. Bố thí đừng nghĩ nhớ. Được
thí chớ nên quên. Tiếng tăm chẳng đáng chuộng.
Ḷng nhân làm chuẩn mực, nghĩ kỹ rồi
mới làm. Bị gièm báng quản chi? Luôn giữ danh hợp
thật. Ngu vụng hành chân thật, là hạnh thánh nhân hành.
Uế ô chẳng vẩn đục, bề ngoài dường
tăm tối, trong đầy ắp quang minh. Bề ngoài
dường nhu nhược, Lăo Tử từng dạy răn,
chớ nên quá kiên cường. Chí bỉ phu cứng cỏi,
dần dà sẽ khó lường[68]. Nói năng
luôn cẩn trọng, ăn uống vừa phải thôi. Biết
đủ, lành khôn ngằn. Nếu hành xử kiên nhẫn.
Lâu ngày tự thơm danh”.
Trong thiên sách Khiêm
Đức [thuộc bộ Liễu Phàm Tứ Huấn] của
Viên Liễu Phàm đời Minh có đoạn:
- Kinh Dịch
chép: “Thiên đạo khuynh doanh
nhi ích khiêm. Địa đạo biến doanh nhi lưu
khiêm. Quỷ thần họa doanh nhi phước khiêm. Nhân
đạo ố doanh nhi háo khiêm. Cố Khiêm chi nhất quái, lục
hào giai cát” (Đạo trời khiến
cho cái quá đầy đủ bị hao bớt, tăng thêm
cái khiêm hư. Đạo đất khiến cho cái tṛn đầy bị biến
đổi, khiến cho cái khiêm hư được thêm
tươi nhuận. Quỷ thần giáng họa cho cái
tṛn đầy, tăng phước cho kẻ khiêm hư.
Đạo người th́ ghét cái tṛn đầy, chuộng
khiêm. V́ thế, một quẻ Khiêm cả sáu hào đều
tốt)[69].
Sách Thượng Thư chép: “Măn
chiêu tổn, khiêm thọ ích” (Tự măn sẽ chuốc lấy tổn hại,
khiêm hư sẽ được lợi ích).
Tôi đă nhiều
lượt cùng các ông đi thi, thường thấy kẻ
hàn sĩ sắp hiển đạt, ắt có dáng vẻ
khiêm cung đáng mến. Năm Tân Mùi, tôi lên kinh đô dự
thi, mười người cùng quê ở Gia Thiện với
tôi, chỉ có ông Kính Vũ Đinh Tân trẻ tuổi nhất,
tột bậc khiêm hư. Tôi bảo ông Phí Cẩm Pha:
“Năm nay, huynh ấy ắt thi đậu”. Ông Phí hỏi:
“Huynh dựa vào đâu để thấy?” Tôi
đáp: “Chỉ có người khiêm hư sẽ được
phước. Huynh hăy xem trong mười người, có ai khiêm
cung, thận trọng, chẳng dám giành đi trước người
nào như Kính Vũ hay không? Có ai cung kính, thuận thảo, cẩn
thận, khiêm nhường, biết nể nang người khác
như Kính Vũ hay không? Có ai bị nhục mạ mà chẳng
đáp, nghe lời gièm báng mà chẳng tranh căi như Kính Vũ hay không? Người
có thể như thế, ắt được trời,
đất, quỷ thần gia hộ, [công danh] há chẳng
phát ư?” Đến khi yết bảng, quả nhiên ông
Đinh thi đỗ.
Năm Đinh
Sửu, tôi ở kinh đô, ở chung với Phùng Khai Chi, thấy
ông ta khiêm hư, luôn giữ dáng vẻ ôn ḥa, đại khái
là đă được huân tập từ bé. Lư Tễ Nham đúng
là bạn tốt. Khi đối trước những lời
lẽ công kích thị phi, chỉ thấy ông giữ vẻ
b́nh thản, chịu đựng, chưa hề trả treo
một tiếng nào! Tôi bảo ông ta: “Phước th́ có sự
khởi đầu của phước; họa có sự khởi
đầu của họa. Nếu tâm thật sự khiêm
cung, ắt trời sẽ giúp cho. Năm nay, anh chắc
đậu”. Đúng như thế đó.
Ông Dụ Phong
Triệu Quang Viễn người huyện Quán, tỉnh
Sơn Đông, đi thi Hương từ tuổi thiếu
niên, đă lâu mà chẳng đậu. Cha ông ta làm Tam Doăn[70] huyện
Gia Thiện. Ông theo cha đến nhiệm sở. Do hâm mộ
Tiền Minh Ngô, cầm văn chương [của chính ḿnh]
đến gặp, Minh Ngô sổ toẹt những bài văn
ấy. Ông Triệu không chỉ chẳng giận, mà c̣n tâm phục,
mau chóng sửa đổi. Năm sau bèn thi đỗ.
Năm Nhâm Th́n,
tôi lên kinh đô chầu vua, gặp ông Hạ Kiến Sở,
thấy ông ta bẩm
tánh nhũn nhặn,
nhún nhường, khiêm tốn hơn người. Tôi trở
về nói bạn bè: “Trời sẽ giúp cho người ấy.
Trước khi phước phát khởi, đă phát trí huệ
trước. Trí huệ đă phát th́ người hời hợt
sẽ tự chắc thật, kẻ phóng túng sẽ tự
thâu liễm. Kiến Sở ôn ḥa, hiền lành như thế,
trời sẽ phát khởi cho ông ta vậy”. Đến khi yết
bảng, quả nhiên ông ta thi đỗ.
Trương Úy
Nham ở Giang Âm, học rộng, giỏi văn
chương, nổi tiếng trong giới nghệ thuật.
Năm Giáp Ngọ, ông sang Nam Kinh thi Hương, ở nhờ tại một
ngôi chùa. Hôm yết bảng chẳng có tên ông, bèn ầm ĩ
chửi bới khảo quan, chắc là mù mắt cả rồi!
Khi ấy, có một đạo nhân ở bên cạnh mỉm
cười. Họ Trương bèn trút cơn giận sang
đạo nhân. Đạo nhân nói: “Văn chương của
tướng công ắt là chẳng hay!” Ông Trương càng giận dữ, vặc lại: “Ngươi chẳng
đọc văn của ta, làm sao biết là không hay?” Đạo
nhân nói: “Tôi nghe nói viết văn th́ quư ở chỗ tâm khí
ḥa b́nh. Nay tôi nghe Ngài chửi bới, bất b́nh quá đáng,
văn làm sao hay khéo cho được?” Ông Trương bất
giác khuất phục, nhân đó bèn thỉnh giáo. Đạo
nhân nói: “Để thi đậu, hoàn toàn phải cậy vào
mạng. Mạng chẳng thể đậu, dẫu văn
hay khéo cũng vô ích, chính ḿnh cần phải tự chuyển
biến”. Ông Trương thưa: “Nếu là mạng, chuyển
biến như thế nào?” Đạo nhân nói: “Trời tạo mạng,
người lập mạng. Hăy nỗ lực làm lành, tích
lũy âm đức rộng răi, có phước ǵ chẳng thể
cầu được!” Họ Trương thưa: “Tôi là gă
học tṛ nghèo, có thể làm ǵ được?” Đạo
nhân nói: “Thiện sự lẫn âm công đều do tâm tạo.
Thường giữ tấm ḷng ấy, công đức khó
lường. Nếu như một mực khiêm hư, hoàn
toàn chẳng tốn tiền. Cớ sao ông chẳng phản
tỉnh, lại chửi quan giám khảo ư?” Do vậy,
ông Trương tự giữ thái độ nhún nhường,
mỗi ngày một thêm tu tập điều lành, đức
ngày càng thêm dầy.
Năm Đinh
Dậu, [ông Trương] mộng thấy đến một
căn nhà to lớn, được ban cho một quyển sổ,
trong ấy có nhiều hàng bỏ trống. Ông hỏi người
bên cạnh, họ bảo: “Đấy là danh sách những người
sẽ thi đỗ khoa này”. “V́ sao có nhiều chỗ chẳng
có tên?” Đáp: “Cơi âm cứ ba năm khảo duyệt danh
sách thi đậu một lần. Phải là kẻ tu tập,
tích lũy âm đức, chẳng phạm lỗi th́ mới
có tên. Như những chỗ khuyết danh, đều là những
kẻ trước kia đáng lẽ thi đỗ, do mới có hành vi xấu xa, nên bị gạch tên
đi”. Sau đó, [người ấy] chỉ vào một hàng
bảo: “Ba năm qua, ngươi giữ ḿnh khá cẩn thận,
có lẽ sẽ được thêm tên vào chỗ này.
Hăy nên biết tự yêu thương chính ḿnh”. Năm ấy,
quả nhiên ông đỗ thứ một trăm lẻ
năm.
Do vậy, ta thấy
trên đầu ba thước, chắc chắn có thần
minh. Hướng đến điều lành, tránh khỏi
điều xui, chắc chắn là do ta. Hăy nên giữ vững
tấm ḷng, khắc chế hành vi, chẳng đắc tội
mảy may với trời, đất, quỷ thần. Hăy trống
ḷng, nhún nhường, khiến cho trời, đất, quỷ
thần lúc nào cũng thương ta th́ mới có nền tảng
để hưởng phước. Những kẻ ngạo mạn ắt chẳng phải là bậc
thành tựu cao xa! Dẫu họ có dịp rạng mày nở mặt,
cũng chẳng thể hưởng thụ được.
Những người hơi hiểu biết, ắt sẽ
chẳng nỡ ḷng tự thâu hẹp tâm lượng, tự
cự tuyệt phước ấy. Huống chi, do khiêm cung,
sẽ có thể tiếp nhận sự giáo hóa, đạt được sự tốt lành vô cùng. Nhất là những kẻ
chú trọng
tu tập đức hạnh, ắt chớ nên thiếu sót chuyện này!
Cổ nhân nói: “Kẻ có chí nơi công danh, ắt
sẽ đạt được công danh. Kẻ có chí
nơi phú quư, nhất định sẽ được phú
quư”. Người có chí như cây có rễ, hăy lập vững
chí ấy, niệm nào cũng đều khiêm hư, dẫu là chuyện rất nhỏ
nhặt, luôn tạo thuận tiện cho những kẻ
khác, sẽ tự nhiên cảm động trời đất.
Tạo phước từ nơi ta! Nay những kẻ mong
cầu thi đỗ, thoạt đầu chưa hề có chí chân thật, bất quá, nhất thời
hứng chí mà thôi. Hễ hứng chí bèn cầu, hết hứng
bèn thôi. Mạnh Tử nói: “Vương
chi hảo nhạc thậm, Tề kỳ thứ kỷ hồ?”
(Nhà vua yêu thích âm nhạc quá mức, nước Tề sẽ
có thể hưng thịnh ư?)[71] Đối
với công danh, tôi cũng có cách nh́n như thế!
(Chánh
văn) Át ác dương thiện.
(正文)遏恶揚善。
(Chánh văn:
Ngăn chặn điều ác, tuyên dương điều
lành).
Những điều
ác của con người vốn chẳng phải do bản
tánh tạo thành. Do v́ tập khí nhiễm đắm đă
sâu mà [tội ác] mênh mông, không có cách cứu văn! Hoặc là biết
rơ mà cố phạm, hoặc do không biết, trót làm quấy.
Xét theo cái đă h́nh thành, sẽ là tạo ra tội lỗi
ngập trời, thế mà cái gốc thoạt đầu,
chỉ là v́ một niệm sai lạc! Nhưng trong lúc đêm
thanh, ngày
rạng, ai nấy đều sẵn
có [bản tánh thiện lương]. Hăy nên trong lúc ư niệm vừa mới sai
lầm, ác niệm vừa mới chớm, bèn rát miệng nhắc
nhở, dốc cạn sức ngăn chặn, có ai vô tâm
[đến nỗi] chẳng thể sửa hạnh hướng theo điều lành ư? Dẫu cho bất hạnh, tội
ác đă to rành rành, ta vẫn có thể chí thành cảm hóa. “Át” (遏) là ngăn dứt, chưa chắc là thiện
tâm chẳng ồ ạt sanh khởi, phát hiện, mau chóng gội sạch ngàn điều tội khiên. Con người chẳng phải là thánh
hiền, há có thể mọi chuyện đều là thiện?
Nếu họ có một lời nói, một hành vi đáng
để noi theo, liền khen ngợi, truyền nói, ngơ hầu
người đă lành sẽ kiên định tín tâm, mài giũa
[chính ḿnh] ḥng thành tựu. Kẻ chưa lành sẽ nghe biết, bèn dấy ḷng hâm mộ,
há chẳng phải là thuận theo mạng trời ư?
Vu Thiết Tiều
nói: - “Át” là dùng sức để
ngăn cấm; không chỉ là v́ họ mà ẩn giấu, không
nói tới. “Dương” (揚) là xưng nói tột bậc, khuyên dụ,
nhắc nhở chẳng tiếc lời. Đấy chính là
hành vi được thực hiện nơi mặt Sự
của người thương xót kẻ ác, yêu chuộng điều
lành vậy.
Đạo giáo
nói: “Át ác dương thiện”
(Ngăn chặn điều ác, tuyên dương
điều lành). Nhà Phật nói: “Chỉ
ác hành thiện” (Ngăn dứt điều ác, làm lành). Nho giáo nói: “Ẩn ác dương thiện”
(Ẩn giấu điều ác, tuyên dương điều
lành). Tam giáo đều nói như vậy, như thốt ra từ
cùng một miệng. Do vậy biết tâm thể của thánh
nhân rỗng rang, linh thông, thấu triệt, chẳng sót lại
mảy may dục vọng nào, như gương sáng soi h́nh
dáng, hễ soi bèn hiện, hễ hiện bèn hóa. V́ thế,
thấy điều ác bèn tự tiêu mất; thấy điều
lành bèn có thể phát huy rộng răi. Ngăn dứt hay tuyên dương,
không ǵ chẳng nhằm khôi phục tánh thể vốn sẵn
có của chúng sanh đó thôi.
Ngu Thuấn ở
bến sông, thấy những kẻ đánh cá tranh giành hồ
sâu, đầm sâu. Kẻ già yếu đánh cá ở băi cạn
hoặc nơi nước chảy xiết. Ông xót xa, đau
ḷng, cũng đến đánh cá. Thấy kẻ tranh giành bèn
ẩn giấu lỗi của họ, chẳng bàn tới. Thấy
có người nhường nhịn, ắt ca ngợi, bắt
chước theo. Một
năm sau, [những kẻ đánh
cá] đều nhường hồ sâu, đầm sâu [cho người
già yếu]. Đại Thuấn tán trợ người khác
làm lành, chỉ là một chút tâm ư vui sướng, cổ vũ
kẻ khác đó thôi. V́ thế, thiện lượng vô cùng.
Đấy là bậc thánh nhân, [kẻ b́nh phàm] chẳng thể
sánh bằng được! Nay tôi có một lời để
kẻ hạ căn học theo ḥng thực hiện, sẽ
có thể đạt cao hơn. Sau đấy mới có thể
ngăn dứt điều ác của kẻ khác, tuyên dương
điều lành của người ta; sau đó mới có thể
khuyên người khác làm lành.
(Chánh
văn) Thôi đa thủ thiểu.
(正文)推多取少。
(Chánh
văn: [Khi phân chia], nhường cho người khác phần
nhiều, giữ cho ḿnh phần ít).
Những điều
được nói trong câu này rất rộng. Như anh em chia
tài sản, bạn bè trao tiền tài v.v... T́nh nghĩa anh em thuộc về thiên luân, tiền
tài là vật ngoài thân, càng phải nên nhường nhau. Kinh
Di Giáo dạy: “Đa dục chi
nhân, đa cầu lợi cố, khổ năo diệc đa.
Thiểu dục chi nhân, vô cầu, vô dục, tắc vô thử
hoạn. Nhược dục thoát chư khổ năo, đương
quán tri túc. Tri túc chi pháp, tức thị phú lạc an ổn
chi xứ. Tri túc chi nhân, tuy ngọa địa thượng,
do vi an lạc. Bất tri túc giả, tuy xử thiên
đường, diệc bất xứng ư” (Kẻ nhiều
ham muốn, do cầu lợi nhiều, khổ năo cũng nhiều.
Kẻ ít ham muốn, chẳng mong cầu, chẳng ham muốn,
sẽ không có nỗi lo ấy. Nếu muốn thoát các nỗi
khổ năo, hăy nên quán biết đủ. Pháp biết đủ
chính là chỗ để giàu, vui, an ổn. Kẻ biết
đủ dẫu nằm trên mặt đất vẫn an lạc.
Kẻ chẳng biết đủ, dẫu ở trên cung trời
vẫn chẳng vừa ḷng). V́ thế biết là người
có thể nhường nhiều, lấy ít, tự nhiên tâm địa
an b́nh, chẳng bị ngoại cảnh quấy nhiễu,
thường hành tri túc.
Vu Thiết Tiều
nói:
- Tài (tài sản,
tiền của) là nguyên khí của trời đất. Nghiêu,
Thuấn cai trị thiên hạ nhằm [làm cho dân chúng] tăng
thêm tài vật. Đạo để b́nh trị thiên hạ
chính là [biết cách] quản lư tài chánh [chánh đáng]. Người
sống trong cơi đời, chẳng có tiền tài sẽ không
sống được! Chẳng có ai không yêu mến tiền
tài, chẳng có ngày nào không sử dụng tiền tài. Đấy
là vật ắt chẳng thể thiếu được! [Đối
với mỗi cá nhân], vật này ắt cũng chớ nên nhiều,
nhưng đối với tánh cách sử dụng tiền tài,
mỗi người có sự thiên chấp riêng. Kẻ ăn
xài phung phí, vung tay ngàn vàng! Kẻ keo kiệt chẳng nhổ
một sợi lông! Kẻ liêm khiết từ chối [tiền
bạc dâng tặng] trong đêm tối. Kẻ tham lam ngang ngược chụp giựt giữa ban ngày ban mặt.
Phàm kẻ phung phí hay liêm khiết đều sẽ nổi
tiếng, nhưng cũng chớ nên quá lố. Phung phí quá lố,
ắt đầu giường hết sạch tiền, chẳng
thể sống tiếp! Kẻ liêm khiết quá mức, ắt
sáng chiều túng thiếu, cúi ngửa đều ôm ḷng oán thán[72]. Nếu keo
kiệt và tham lam, sẽ càng sai lệch xa hơn. Kẻ keo
kiệt kiến thức nông cạn, hèn kém, coi những thứ
nhỏ nhặt như bảo bối, giống như ong giữ
mật, như đứa trẻ ôm chặt bánh, chẳng chịu
chia cho kẻ khác mảy may, luôn bảo vệ những thứ
ḿnh sở hữu. V́ thế, người khác chán ghét, mà trời
chẳng tức giận sâu xa ư? Kẻ tham lam ngang
ngược cứ muốn đạt được những
thứ chính ḿnh vốn không có, chính là [do ḷng ham muốn] chẳng
có giới hạn, như cá nuốt thuyền, như rắn
nuốt voi. Anh em tranh đấu, bạn bè tranh chấp, thù
hận, kẻ cường tặc giết người, bọn
tham quan phạm pháp, lũ gian thần bán nước, đều
là do một niệm tham mà ra! Thiên sách này giảng rộng, răn nhắc nỗi
họa hại do tham tài, chẳng phải chỉ là đôi
ba lượt. Răn nhắc mọi người đừng
lấy bừa băi, chứ dạy họ thẳng thừng
đừng lấy, ắt sẽ chẳng thể! V́ thế,
dạy hai chữ “đa thiểu”
(nhiều và ít) nhằm khiến cho họ sẽ tùy phần
châm chước.
Mong đạt
được tiền tài theo lẽ chánh đáng, số
lượng nhiều hay ít, vốn chẳng có một tiêu
chuẩn nhất định. Kẻ nghèo th́ một lạng
đă chẳng phải là ít, kẻ giàu th́ vạn lạng chẳng
nhiều. Người liêm khiết đáng lẽ được
trăm lạng, thế
mà được mười
lạng, chẳng cảm thấy là ít. Kẻ tham [đáng lẽ]
được trăm mà đạt tới cả ngàn, chẳng
bảo
là nhiều! Chỉ nên b́nh
tâm, xét theo lẽ công bằng, cân nhắc số lượng
ta đáng nên được, để khỏi lấy quá lố, tức là chọn theo cách “nhận lấy
phần ít”. Thế nhưng, ḷng người lo ít mong nhiều
là chuyện thường t́nh; chỉ nên tùy duyên, chẳng tranh
đua, chính ḿnh chẳng
làm ác. Nếu khiến
cho [kẻ khác] thấy [chính họ] có thể đạt
được nhiều hơn, đâm ra họ sẽ
nhường nhịn, há chẳng phải là trái nghịch
thường t́nh ư? Ôi! Nói đến nguồn gốc của
tiền tài, cội nguồn của chúng không chỉ là một.
Tiền tài có thể đạt được trước
mắt, chưa chắc chẳng phải là thứ vốn sẵn có trong mạng của
ta; nhưng những thứ đă được ngấm ngầm
định sẵn trong mạng, rốt cuộc sẽ không
có cách nào khảo sát, tính toán được! Vạn nhất,
đó chẳng phải là thứ vốn sẵn có trong mạng
của ta, [những món tiền tài ấy] sẽ như thịt
nhiễm nấm mốc, rượu ngâm lông chim Trầm, há
có thể dùng để no ḷng ư? V́ thế, không ǵ bằng nhường
nhịn cho nhau, đấy chẳng phải là do trong mạng
sẵn có mà nhường vậy. Bởi đó, có thể tránh
khỏi lỗi lầm. Dẫu là trong mạng đáng nên có,
mà lầm lẫn nhường [cho người khác], [món tiền
tài ấy] nhất định sẽ theo đường khác
trở lại. Hăy cẩn thận, chớ nên không thể nhẫn,
để rồi làm chuyện càn rỡ ngay trước mắt.
Chuyện này đối với người phú quư c̣n dễ,
chứ đối với kẻ nghèo hèn sẽ khó khăn
hơn. Biết khó mà tận lực làm, khiến cho quỷ
thần soi thấu tấm ḷng chẳng dám càn rỡ mảy may ấy, ắt sẽ là tuy ở trong hoàn cảnh
gian nan, nhưng
chẳng đến nỗi khổ sở v́ không thể sống
được. Tin cho thật, giữ cho vững, ắt sẽ
giữ theo đạo lư “nhận
lấy phần ít”. Đấy là chính là phương
hướng để làm giàu vậy!
Đời Tống,
Từ Tích chia tài sản với chú Hai. Trước hết, mời chú Hai lấy những ǵ họ muốn. [Ông ta lấy xong], chỉ c̣n sót một rương
sách, hai gian nhà tồi tàn. Từ Tích vui vẻ nhận lấy.
Tại Từ
Khê, có hai người bạn chơi thân với nhau. Ông Giáp
t́m được một chỗ dạy học trả tiền
lương chín lạng, ông Ất cũng t́m được
chỗ dạy học, tiền lương chỉ có sáu lạng.
Ông Giáp vui mừng bảo: “Hai người chúng ta trong ṿng năm
sau đều chẳng phải lo lắng [v́ chuyện chi tiêu túng thiếu trong nhà]”. Ông Ất nói: “Huynh chỉ có tôn tẩu
(chị dâu) ở nhà, chín lạng dư dùng. Đệ th́ trên
hăy c̣n có cha mẹ, sáu lạng vẫn chẳng đủ!” Ông
Giáp nói: “Đúng thế!” Bèn nhường chỗ dạy học
của chính ḿnh cho ông Ất, c̣n ḿnh đến chỗ dạy
học của ông Ất. [Ông Giáp] sau khi đă đến chỗ
dạy học, nhặt được một quyển sách
rách nát dưới gầm giường, [trong ấy]
có chép mấy bài thuốc ngoại khoa. Học tṛ nói [sách ấy]
do vị thầy trước đó bỏ lại. Mùa Đông,
ông trở về nhà. Thấy mấy người đầy
tớ dáng vẻ rất lo lắng, hốt hoảng thưa
hỏi: “Ở nơi đây có [thầy lang chữa bệnh]
ngoại khoa hay không?” Hỏi thăm, họ đáp: “Chủ
nhân chúng tôi từ đất Mân (Phước Kiến) đến
Sơn Đông làm Bố Chánh, bỗng lưng bị nổi nhọt, đau đớn gần
chết. Đă ba ngày rồi!” Ông Giáp nghĩ tới phương thuốc khi trước, đúng
là phù hợp chứng bệnh này. Do vậy, theo họ đến
[xem bệnh]. Dựa theo phương thuốc, dùng ngải để
cứu[73],
quả nhiên lành bệnh. Quan Bố Chánh rất mừng rỡ, trả công một trăm lạng. Ông nói đến
chuyện do nhường chỗ dạy học mà t́m
được bài thuốc, quan Bố Chánh càng hết sức
tán thưởng. Khéo sao, huyện lệnh Từ Khê là niên điệt[74] của ông
ta, [quan Bố Chánh] bèn tận lực tiến cử. [Do đó,
ông Giáp] được đề bạt, vào học trường
huyện. Ôi! Anh em ruột c̣n tranh giành tài sản, huống hồ
bạn bè ư? Nghĩ bạn bè chẳng có tiền nuôi
cha, bèn nhường nhiều, lấy ít, ba lạng tuy ít, nghĩa
c̣n [nhiều]
hơn một ngàn cỗ
xe. Rốt cuộc, danh lẫn lợi đều đạt
được, đều là do trong một niệm có thể
nhường mà ra. Những kẻ sốt sắng tranh lợi,
hễ động đến [lợi ích] liền trở mặt, xem đến
chuyện này, lẽ nào chẳng hổ thẹn ư?
(Chánh
văn) Thọ nhục bất oán.
(正文)受辱不怨。
(Chánh
văn: Bị nhục chẳng oán).
Có chuyện sỉ
nhục đưa đến, hăy nên tự hỏi: “Lỗi ở nơi ta ư?” [Nếu đúng như vậy], đáng nên
bị nhục! Lỗi nơi người khác, th́ chẳng đáng coi là
nhục. [Kẻ đó] làm nhục
ta, ta vẫn chẳng nhục. Không chỉ là chẳng nên oán,
mà thật ra, chẳng có ǵ đáng nên oán! Những bậc đại trí đại
dũng từ xưa, ắt có thể nhẫn những điều
sỉ nhục nhỏ và những nỗi phẫn hận nhỏ
th́ mới có thể gánh vác đại sự, thành công to lớn.
Kẻ tâm lượng hạn cuộc, thiên vị, nông cạn,
há biết nổi ư?
Đời
Minh, Nhan Mậu Do là người xứ B́nh Hồ, răn
đệ tử rằng:
- Phàm là kẻ
chẳng thể nhẫn, chắc chắn sẽ chẳng biết nỗi khó khăn trong chữ
Nhẫn. Chẳng đối chiếu, so sánh giữa hai niệm
thiện và ác, sẽ trọn chẳng biết sự mầu
nhiệm của chữ Nhẫn. Kẻ nào nếu chẳng
thể nhẫn nhục chịu khổ, dẫu có thiện
tâm, nhưng bị kích động là hỏng, vừa bị
thử thách liền bị đọa. Trời trao trách nhiệm
to lớn cho kẻ nào, ắt sẽ tác động đến
tánh nhẫn trong tâm kẻ ấy, chính là v́ muốn cho ai nấy
đều vượt được cái ải này! Nói
chung, kẻ ra sức giúp đỡ người khác, chẳng
ngại bị sân hận, giận dữ. Kẻ mưu tính [tạo điều lợi
ích] cho người khác, chẳng nề hà bị oán hận,
trách móc. Đảm nhiệm mọi chuyện th́ cũng phải
nhận luôn sự oán hận, hễ khuyến hóa bèn chẳng
ngại bị chê trách. Có tấm ḷng khoan dung, nhân hậu, chắc
là sẽ bị cười chê, khinh miệt. Đấy là
những thứ luôn đi kèm theo! Chẳng biện định
rơ căn
nguyên này, sẽ chẳng thể là
kẻ hành thiện được!
Đời Tống,
Lư Hàng làm Tể Tướng, có gă cuồng sinh (học tṛ ngông cuồng) chặn ngựa, dâng thư, [trong thư ấy] chê trách đủ mọi khuyết điểm
của ông ta. Ông Lư từ tốn, cảm tạ: “Để
tôi trở
về đọc kỹ”.
Gă cuồng sinh tức giận, châm biếm: “Ở địa
vị cao, chẳng thể cứu tế thiên hạ, lại
chẳng thoái ẩn, trở ngại đường tiến
thân của bậc hiền năng đă lâu rồi, ḷng há chẳng
thẹn ư?” Ông ngay lập tức ở trên ngựa rất
cung kính, rất lo sầu nói: “Đă nhiều phen xin về,
hiềm rằng chúa thượng chưa chấp thuận,
chẳng dám tự tiện [từ quan]”. Trọn chẳng có
sắc mặt giận dữ.
Đời Tống,
Văn Ngạn Bác làm Thủ Tướng[75]. Quan ngự
sử Đường Giới đàn hặc Văn Ngạn
Bác lúc làm tri phủ Ích Châu đă cho làm những tấm gấm
xinh đẹp để tặng cho bọn phi tần trong
cung ḥng [lo lót, vận động] nắm quyền [tể
tướng], xin vua hăy băi chức [Văn Ngạn Bác]. Vua tức
giận, toan đày ông ta đi xa. Khi ấy, Ngạn Bác ở trước mặt
vua, Đường Giới quở trách: “Ngạn Bác hăy nên
tự phản tỉnh. Nếu có th́ chớ nên giấu giếm”.
Ngạc Bác bái tạ chẳng ngớt. Vua hết sức tức
giận, đày Đường Giới làm Biệt Giá ở
Anh Châu, băi chức [Tể Tướng của Ngạn Bác], sai Ngạn Bác đi làm tri phủ Hứa Châu.
Về sau, Ngạn Bác được phục chức Tể
Tướng, tâu với vua: “Đường Giới làm Ngự
Sử, nói chuyện của thần, phần nhiều là căn
bệnh của bậc trung thần. Trong ấy, tuy có chuyện
nghe lầm tin đồn đăi, nhưng thuở ấy [ông
ta] đă bị trách phạt quá sâu”. Vua bèn triệu
[Đường Giới] về trông Gián Viện (Ngự Sử Đài). Người đương thời gọi
Ngạn Bác là bậc trưởng giả. Ông làm Thái Sư, B́nh
Chương Quân Quốc Trọng Sự trải ba triều
vua Anh Tông, Thần Tông, và Triết Tông, được cử
làm người đứng đầu các vị Tể Tướng
(Thủ Tướng), được phong làm Lộ quốc
công. Ông làm Tể Tướng suốt năm mươi
năm, tiếng tăm vang rền bốn biển, thọ
chín mươi hai tuổi mới mất.
Đời Tống,
Phú Bật giáo huấn đệ tử: “Một chữ Nhẫn
chính là cửa ngơ dẫn vào các điều tốt đẹp.
Nếu ngoài thanh liêm và tiết kiệm, lại thêm một
chữ Nhẫn, sẽ chẳng có chuyện ǵ không làm
được”. Thuở bé, có kẻ chửi ông, người
ta bảo: “Chửi mày đấy!” Phú Bật thưa: “Sợ
là chửi người khác đấy chớ”, họ bảo:
“Nó gọi tên họ mày mà chửi mà”. Phú Bật đáp: “Thiên
hạ há chẳng có người trùng tên, trùng họ ư?”
Kẻ chửi bới nghe nói như vậy, hết sức hổ thẹn.
Ông Nhan Quang Trung
nói: “Chữ Nhẫn khó khăn nhất. Có thể chịu
đựng, ắt phẩm đức và tâm lượng to
lớn. Nếu như chẳng thể nhẫn, tức là tánh
khí kiêu quư đă ngập tràn!” Người xưa có thơ rằng:
“Thiếu niên khố hạ an
vô ngỗ, lăo phụ di biên ngạc bất b́nh. Nhân sanh nhược
phi quan tuế mộ. Hoài Âm hà tất giảm Văn Thành”
(Thiếu niên luồn đũng sao không bực,
ông cụ bên cầu dễ tức thay. Đời người nếu chẳng xem mai hậu,
Hoài Âm danh há kém Văn Thành)[76]. Nói chí lư
thay! Hàn Tín chịu nhục luồn đũng quần mà thành
vương gia, bọn Giáng, Khoái[77] v́ hổ thẹn
mà chết. Uống đến đầy ứ, tự nhiên
sẽ chẳng tăng thêm được nữa!
Bành Củ ở
Thai Châu, hiền lành, an tường, khiêm tốn, đă từng
ở trọ với một người khác tại một
khách điếm. Ông Bành về trước, kẻ ấy mất
chiếc dù, cho rằng ông Bành cầm đi, đến nhà ông
Bành giận dữ, mắng chửi. Kẻ đó thấy dáng
vẻ ông Bành nhũn nhặn, bèn đ̣i đền tiền theo
giá y phục. Ông Bành đúng theo số mà đền cho hắn
bỏ đi. Hàng xóm có kẻ cậy mạnh, xâm chiếm
đất của ông Bành, ông mặc kệ, chẳng hỏi
tới. Về sau, gă hàng xóm gặp chuyện thưa kiện
tại cửa quan. Ông Bành lại lo liệu châu đáo cho hắn
thoát nạn. Những việc thiện khác rất nhiều.
Do không có con, ông đến Tây Nhạc (Hoa Sơn) cầu
con, mộng thấy thần bảo: “Do ngươi nhẫn
nhục, nhân từ, nhu ḥa, nỗ lực thực hiện các
thiện sự, lời thỉnh cầu đă được
chấp thuận”. Ông bèn sanh ra ba đứa con. Về sau,
đất Thục (Tứ Xuyên) gặp cảnh biến loạn,
mười phần chết hết chín, riêng cả nhà ông Bành
vô sự!
Ông Hạ ở
Giang Âm, đang đánh cờ vây với khách. Bỗng có kẻ
chạy ùa tới, gào rít: “Chỉ thiếu nhà mày hai lạng
tiền lời, v́ sao mày hằng ngày sai người tới
bức hiếp tao?” Ông chưa kịp đáp, kẻ đó đă
chửi ầm ĩ, xô bàn, phá tan cuộc cờ. Ông cười đáp: “Ông muốn xóa nợ
chứ ǵ?” Liền cất bút viết giấy miễn nợ.
Người ấy vội vă cảm tạ, bỏ đi. Khách
ca ngợi đức dầy của ông. Ông đáp: “Nhẫn
là cửa ngơ dẫn đến các điều tốt đẹp.
Nói chung, đối với những chuyện ứng phó sự
việc và con người trong cơi đời, đều có những
chuyện ngang trái xảy đến với ta. Ví như đi
trong rừng gai góc, phải đi thong thả, chậm răi mà
thôi, những
thứ gai góc ấy cũng chẳng đáng để tức
giận vậy. Lại như thuyền rỗng đụng
phải ta, hoặc như viên ngói bị gió thổi văng
trúng ta, nếu tấc ḷng có thể chẳng bực tức, sẽ cởi gỡ nỗi oán. Huống
chi người ấy dáng vẻ hung hăng, ăn nói thô lỗ,
ắt có chỗ để trông cậy, sợ sẽ gây
thành biến cố ngoài ư muốn. V́ thế, tôi khoan dung miễn
nợ”. Đến tối, ông được báo là kẻ ấy
đă chết trong nhà xí. Hỏi ḍ cặn kẽ nguồn
cơn, bèn biết là kẻ ấy do nợ nần bức
bách, không biết làm sao, bèn uống thuốc độc rồi t́m đến chỗ
ông Hạ, tính lừa gạt tiền tài của ông. Do cảm
tạ sự khoan dung miễn nợ của ông, cho nên hắn chẳng đành ḷng lừa gạt, làm hại.
V́ thế, vội về t́m phẩn thanh (nước phân lắng
trong) để giải độc, nhưng độc tánh
bộc phát, chẳng kịp giải độc. Ông bái tạ
trời, mọi người đều kính phục. Nếu
ông chẳng phải là thường ngày tiêu trừ giận
tức, hàm dưỡng sâu xa, há đến lúc ấy sẽ có thể trấn định
ư? Do vậy, nhẫn nhục là yếu quyết để
tu thân; kế đó, yếu quyết để giàu có cũng
là “phải học chấp nhận thua thiệt”.
Đời Minh,
Trang Nghị Công Vương Hoằng, tên tự
là Công Độ, lúc làm Khai Phủ tại Duy Dương (Dương
Châu), có viên quan cấp dưới tên là Đơn X… hành vi
thiếu kiềm chế, ông từng quở trách, ngăn chặn. Bỗng ông bị
luận tội, [bị triều đ́nh băi chức, đuổi] về nhà, đi
qua nhiệm sở của kẻ ấy. Họ Đơn chực sẵn đưa
đón, tặng lương thực
rất ân cần. Ông rất cảm tạ sự khoản đăi
chân thành ấy, chọn nhận lấy mấy cái ṿ [đựng
thức ăn], v́ nghĩ là tương ủ. Mở ra, toàn
là phân nhơ! Chẳng lâu sau, sự việc [gán tội ông Vương]
được sáng tỏ, ông lại được làm
quan. Họ Đơn bỏ trốn, sai người nhà giả
vờ phát tang. Có kẻ cừu oán truy t́m tung tích hắn, bắt
được hắn, thưa lên ông Vương. Ông chỉ
ôn ḥa xóa án, tha cho.
Nếu xét theo
kinh Niết Bàn, xưa kia có một người, ca ngợi
đức Phật là bậc có tướng đại phước
đức. Có kẻ hỏi: “Dựa vào đâu để thấy?”
Đáp: “Tuổi tác và chí hướng đều đang độ
trẻ trung, mạnh mẽ, nhưng chẳng bộp chộp, chẳng nóng nảy, đánh chẳng giận, chửi cũng chẳng tức, chẳng phải
là tướng đại phước đức ư?” Người hiện
thời hễ gặp lúc ngang trái, chỉ nói: “Những chuyện
ấy thành tựu tướng phước đức cho
ta, vẻ vang chi hơn?” Bản thân ta có thể bị kẻ khác xâm phạm mà
chẳng so đo, cũng sẽ có thể khuyến hóa khiến
cho kẻ ấy giác ngộ vậy!
Trịnh Huyên nói:
“Lặng, lặng, lặng! Vô hạn thần tiên từ nay
đắc. Tha, tha, tha, ngàn tai muôn họa bỗng tiêu ma! Nhẫn,
nhẫn, nhẫn, trái chủ oán gia từ rày ẩn! Thôi, thôi,
thôi, công danh trùm đời chẳng tự do”.
Cảm Ứng Thiên Vựng Biên
Quyển 2
Phần 1 hết
[1] Viên Thị Thế Phạm là một bộ
sách do Viên Thái soạn vào đời Tống. Sách gồm những
lời khuyên về luân lư gia đ́nh như cách cư xử
chánh đáng trong các mối quan hệ như cha con, anh em, vợ
chồng, chị em dâu, con cháu v.v…
[2]
Thiệu Ung (1011-1071), tự là Nghiêu Phu, hiệu là Khang Tiết,
sống vào đời Bắc Tống. Ông nghiên cứu kinh Dịch tinh thâm, sáng lập thuật bói Mai Hoa Dịch Số lừng danh. Bộ sách Mai Hoa
Dịch Số của ông được xếp vào Tứ Đại Kỳ
Thư (Kinh Dịch, Mai Hoa Dịch Số của Thiệu
Khang Tiết, Ma Y Tướng Thuật và Địa Lư Toàn
Thư). Ông c̣n được
coi là một trong những nhà sáng lập Lư Học, tuy không nổi
tiếng như Châu Đôn Di, Tŕnh Hạo v.v… Một tác phẩm lừng lẫy khác của
ông là bộ Hoàng Cực Kinh Thế được coi là
nền tảng cho sự tổng hợp hoàn thiện giữa
tư tưởng của kinh Dịch và Đạo gia.
[3] Trương Công Nghệ sống vào thời
đại Tùy - Đường tại Thọ Dương
thuộc châu Hầu Vận. Ḍng họ ông ta chín đời ở
chung với nhau, không tách rời. Ông viết chữ Nhẫn
rất to, rất nhiều dán khắp nơi trong nhà để tự nhắc nhở chính ḿnh lẫn
người khác. Một câu nói của ông đă trở thành
thành ngữ là “bách nhẫn thành
kim” (trăm điều nhẫn sẽ thành vàng).
[4] Điền Chân là người đời
Hán, ông có hai em trai là Điền Khánh và Điền Quảng,
ba người muốn chia riêng nhà để ở. Trước
nhà có một cây tử kinh to rất sum xuê. Họ muốn hạ
cây xuống, cưa đều ra để chia nhau, bỗng cây ấy chết khô. Họ bèn bỏ
ư định tách ra sống riêng.
[5] Ông Thiệu Ung mở đầu và kết
thúc mỗi đoạn bằng câu “tử dưỡng thân hề, đệ kính ca”
(con cái phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh).
[6] “Nan huynh nan đệ” là một
thành ngữ nhằm ca ngợi anh lẫn em đều có
tài, hiền đức, khó thể phân định ai hơn,
ai kém. Thuở trước, Trần Nguyên Phương (Trần Kỷ) và Trần Quư Phương (Trần Kham) đời Đông Hán
đều có học vấn lỗi lạc,
phẩm đức xuất sắc, nên người đời
bèn nói họ là “nan huynh, nan
đệ”.
[7] Trọng Do chính là Tử Lộ. Khi c̣n hàn vi, nhà ông rất nghèo,
ông phải đi đội gạo thuê rất xa để có tiền phụng dưỡng
cha mẹ. Không có tiền mua thức ăn, ông phải hái
các loại rau lê, rau hoắc để nấu canh cho cha mẹ ăn tạm. Trong tác phẩm Nhị Thập Tứ Hiếu, cụ Lư Văn Phức
đă ca ngợi: “Thầy Tử
Lộ cũng người nước Lỗ, thờ hai
thân từng bữa canh lê, thường khi đội gạo
đi về, xa xôi trăm dặm nặng nề hai vai,
đỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc, gót nam du nhẹ
bước tang bồng. Xe trăm cỗ, thóc muôn chung. Ngồi
chồng đệm ghép, ăn chồng vạc cao. Thân phú
quư ngắm vào thêm tủi. Đức cù lao chạnh tới
càng đau. Nào khi đội gạo, canh rau, muốn c̣n
như cũ dễ hầu được ru!” Trần Kỷ
(tự
là Nguyên Phương) và em là Trần Kham (tự là Quư Phương) là con trai của Trần Thực. Hai anh em
đều được xưng là bậc hiền đức,
hiếu thảo cao tột thuở đương thời.
[8] Khổng Dung khi c̣n bé, mỗi khi cùng các anh
ăn lê, bèn chọn quả bé hơn. Người lớn hỏi nguyên do, Khổng
Dung đáp: “Con c̣n bé, lẽ đương nhiên là ăn quả
nhỏ”.
[9] “Ôm quất” là nói tới Lục Tích đời
Hán. Lúc sáu tuổi, Lục Tích theo cha đến Cửu Giang
yết kiến tướng quân Viên Thuật, Viên Thuật mời họ ăn quưt. Quưt hết sức ngọt. Lục Tích bèn
lén giấu trong tay áo ba quả. Khi ra về, do khom ḿnh vái
chào, quưt lăn ra đất, Viên Thuật cười to. Cha Lục Tích hết
sức hổ thẹn và tức giận, quở mắng. Lục Tích thưa: “Quư ngọt quá nên con không nỡ ăn, để dành đem về biếu
mẹ”.
[10] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này phải hiểu
là thấy con cháu, anh em ḥa thuận, ḷng cha mẹ rất vui
sướng. Đấy là niềm vui to lớn nhất
đối với cha mẹ.
[11] Nguyên văn “ban
y vũ băi huân tŕ tấu”, bao gồm hai điển tích về
hiếu và đễ. “Ban y
vũ” (斑衣舞) là nói Lăo Lai đă bảy mươi tuổi vẫn
mặc áo vằn vện sặc sỡ, nhảy múa loi choi
như con nít, giả vờ trượt chân ngă, khóc lè nhè khiến
cha mẹ cười to. Huân (塤) là nhạc khí bằng đất nung, có h́nh trứng,
đầu nhọn có lỗ để thổi, đầu
tù có nhiều lỗ nhỏ để người thổi
dùng ngón tay bịt hay mở để tạo ra các nốt
nhạc khác nhau. Nói chung loại kèn đất này hơi giống
loại kèn ocarina của phương Tây, nhưng ocarina th́ dẹp
trong khi Huân có h́nh bầu. Tŕ (篪) là loại sáo thổi ngang, có bảy lỗ,
thường làm bằng trúc. Chỗ khác biệt với sáo
trúc thông thường là Tŕ thường được bịt
kín một đầu. Loại nhạc khí này chỉ c̣n dùng
trong lễ tế Khổng Tử. Thời cổ, hễ thổi
Tŕ th́ sẽ dùng Huân thổi ḥa theo; do vậy, anh
em ḥa thuận thường được ví như xếp
đôi Huân và Tŕ để cùng diễn tấu (băi huân tŕ tấu,
罷塤篪奏).
[12] Vương Hàn: Vương ở đây là
Vương Tường nổi danh hiếu thảo. Mẹ
ngă bệnh, thèm ăn cá, trời mùa Đông không t́m ra cá, ông cởi trần nằm trên băng, cầu
xin trời đất. Quả nhiên băng nứt vỡ, một
đôi cá chép nhảy ra để ông bắt về nấu
cho mẹ ăn. Hàn là Hàn Lăng, cha làm Thái Thú tỉnh Thiểm
Tây. Ông mồ côi cha năm bốn tuổi, hết sức hiếu
thảo với mẹ, thương yêu em trai. Khi trưởng
thành, ông nhường toàn bộ gia sản do cha để lại
cho các em, kể cả những anh em họ.
[13] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này có ư nói: Kẻ
vốn đă sẵn có của cải vẫn thấy là ít,
đối với gia sản do ông bà, cha mẹ để lại
vẫn lăm lăm muốn chiếm hữu nhiều
hơn! Giành giật được của cải, chiếm
tiện nghi của kẻ khác th́ vợ chồng rất
khoái trá, nghĩ ḿnh giàu có, khôn ngoan, nào ngờ về sau con
cháu phá tán cho bằng hết.
[14] Tử kinh (紫荊) là một loại cây có hoa đẹp thường
được trồng làm cảnh, thường được
biết dưới tên Cercis Chinenis hay đơn giản là
Chinese Redbud. Cây có thể mọc cao đến 15 mét, thân cây
có đường kính to đến nửa thước. Hoa
có màu hồng hoặc trắng sữa, kết thành chùm, cánh
hoa đơn rất đẹp. Khi nở hoa vào tháng Tư,
cả cây chỉ thấy sắc hoa hồng tươi
như hoa đào, hầu như không thấy lá.
[15] Thị Trung (侍中) là một
chức quan cố vấn thân cận của nhà vua. Đến
đời Tấn, chức vụ này được gọi
là Môn Hạ Tỉnh, tức tương đương với
Tể Tướng sau này.
[16] Bắc
Tề (550-577) là một triều đại khá ngắn ngủi
trong thời Nam Bắc Triều. Sau khi nhà Tấn
của Tư Mă Ư suy vong, dẫn đến t́nh trạng quân phiệt cát cứ, chia xẻ Trung
Hoa thành nhiều nước, Sử thường gọi là
thời Nam Bắc Triều. Triều đại Bắc Tề do Cao Dương sáng lập,
nên đôi khi c̣n gọi là nhà Cao Tề, để phân biệt
với nhà Nam Tề (490-502, c̣n gọi là nhà Tiêu Tề do
Tiêu Đạo Thành sáng lập) trước đó. Bắc Tề
diệt Đông Ngụy, đóng đô tại Nghiệp Thành.
Cao Dương vốn là con của quyền thần Cao Hoan
nhà Đông Ngụy. Sau khi cha chết, Cao Dương
được Ngụy Tĩnh Đế (Nguyên Thiện Kiến)
nhà Đông Ngụy phong làm Thừa Tướng, tước
Tề quận vương. Cao Dương phế Ngụy
Tĩnh Đế, đổi quốc hiệu thành Tề, nhưng chỉ làm vua được mười
năm rồi chết khi mới 33 tuổi! Về sau, nhà Bắc
Tề bị Châu Vũ Đế (Vũ Văn Ung) của
nhà Bắc Châu tiêu diệt.
[17] Hậu
Hán (947-951) là một triều đại trong mười quốc
gia được thành lập thời Ngũ Đại
trước khi Triệu Khuông Dẫn thống nhất giang
sơn. Triều đại này do Lưu Tri Viễn sáng lập,
chỉ truyền được hai đời vua, là triều
đại ngắn nhất và tệ hại nhất trong lịch
sử Trung Hoa. Trước sau chỉ tồn tại bốn
năm; trong bốn năm ấy, đấu tranh cung
đ́nh, chiến tranh liên miên. Đây cũng là triều
đại cuối cùng do người thiểu số Sa
Đà sáng lập tại Trung Nguyên.
[18] Nguyên văn là Mân (緡). Thời
cổ, tiền xâu thành chuỗi, cứ một ngàn đồng
th́ gọi là một Mân.
[19] Vương Báo là người nước Vệ, sống
ở vùng Kỳ Thủy (nay thuộc huyện Lâm, tỉnh
Hà Nam). Miên Câu là người nước Tề, sống tại
Cao Đường (thuộc tỉnh Sơn Đông hiện
thời). Cả hai đều giỏi âm luật, thích ca
xướng.
[20] Lư Ưng là người sống vào thời Đông
Hán, tánh t́nh cương trực, giao du rất thân với
Quách Thái. Ông ghét bọn hoạn quan chuyên quyền, không chịu
luồn cúi, xu nịnh. Người đương thời
ca ngợi “thiên hạ khải
mô Lư Nguyên Lễ” (Lư Nguyên Lễ là bậc khuôn mẫu cho
cơi đời), Nguyên Lễ là hiệu của ông. Người
được quen biết với ông đều cảm thấy
vinh hạnh như cá chép vượt Vũ Môn thành rồng vậy.
Tánh ông kiên quyết đến nỗi em trai của quyền
thần Trương Nhượng là Trương Sóc làm huyện
lệnh Dă Vương, vốn là kẻ tham tàn, vô đạo,
đức lẫn hạnh đều xấu xa, bị ông hạch
tội. Trương Sóc sợ oai, trốn về kinh đô,
núp trong một cái cột rỗng rất to trong phủ. Ông
điều tra ra, bèn kéo người đến bắt, phá
cột, giết chết Trương Sóc. Khi ấy, lũ
tay chân của Trương Sóc sợ hăi, chẳng dám hó hé tí
nào! Cuối cùng bọn hoạn quan vu hăm, đàn hặc, khiến
cho ông bị hạ ngục, chết trong tù.
[21] Thái Ung là người giỏi văn chương, học
rộng, thông thạo số thuật, thiên văn, lại
c̣n tinh tường nhạc luật, giỏi điêu khắc,
khéo viết văn bia, nên thường được mời
viết văn bia cho những người nổi tiếng
thuở ấy.
[22] Đoan Minh là biệt hiệu của Tư Mă Quang.
[23] Hậu Hán ở đây là nhà Đông Hán, tức nhà Tây
Hán được tái lập bởi Lưu Tú (Hán Quang Vũ
Đế) sau khi dẹp tan Vương Măng, không phải là
nhà Hậu Hán thời Ngũ Đại của Lưu Trí Viễn.
[24] Vũ Thừa Tự là con trai của Vũ Nguyên Sảng
(anh cùng cha khác mẹ của Vũ Hậu). Khi Vũ Sĩ Hộ
(cha của Vũ Tắc Thiên chết), Thừa Tự đă
được tập tước Châu Quốc Công, lần
lượt leo cao dần đến chức Văn
Xương Tả Tướng (tả thừa tướng).
Hắn ta mong được làm Thái Tử nên đă sai bọn
tay chân là Vương Khánh Chi, Trương Gia Phước
v.v… dâng sớ xin Vũ Hậu lập Thừa Tự làm Thái
Tử. Do đại thần Lư Chiêu Đức can gián,
Vũ Hậu băi chức thừa tướng của Thừa
Tự. Về sau, Vũ Hậu lại lập con ruột là
Lư Hiển (Đường Trung Tông) làm Thái Tử, giấc
mộng làm vua của Thừa Tự tan vỡ. Hắn uất
ức phát bệnh mà chết. Vũ Tam Tư là con trai của
Vũ Nguyên Khánh (anh cả của Vũ Tắc Thiên), từng
được phong làm Lương Vương khi Vũ Hậu
xưng đế. Hắn là người tàn ác, xảo quyệt,
hết sức tận tụy quét sạch những kẻ chống
đối Vũ Tắc Thiên, nên Vũ Tắc Thiên rất
yêu mến, tín nhiệm, từng có ư định cho hắn
làm Thái Tử. Vũ Tam Tư từng dùng mọi thủ đoạn
triệt hạ tông thất nhà Đường, gây nên nhiều
biến loạn trong cung đ́nh khiến các đời vua
Đường Trung Tông, Đường Duệ Tông bất
ổn, nhiễu nhương.
[25] Đường Thái Tông (Lư Thế Dân) khi mất có
thụy hiệu là Văn Vũ Đại Thánh Đại
Quảng Hiếu hoàng đế, nên thường gọi tắt
là Văn Đế. Ngay trong khi Đường
Cao Tông (Lư Trị) c̣n sống, do quần thần bợ
đỡ Vũ Tắc Thiên, đă tôn xưng Cao Tông là Thiên Hoàng Đại Đế, c̣n Vũ Tắc
Thiên được xưng tụng
là Thiên Hậu. V́ thế, khi nhắc
tới Đường Cao Tông, quần thần thường
phải gọi là Đại Đế tuy ông này hôn ám, nhu
nhược, hoàn toàn bị Vũ Tắc Thiên thao túng.
[26] Vũ Hậu có sáu người con với Đường
Cao Tông là Lư Hoằng, Lư Hiền, Lư Hiển, Lư Đán, công
chúa An Định và công chúa Thái B́nh. Lư Hoằng nhân từ, sức
khỏe yếu, hơi nhu nhược, không tán đồng
những hành vi chuyên quyền, đối xử tàn tệ với
hoàng tộc nhà Đường, nên bị Vũ Tắc Thiên
ghét bỏ, tính phế ngôi Thái Tử. Ông chết đột
ngột năm 25 tuổi, có thuyết nói là do bị Vũ Tắc
Thiên hạ độc. Người con thứ là Lư Hiền
rất hiền minh, chánh trực, nên bị Thái Hậu ghét bỏ
v́ không theo phe bà. Lại v́ một tay đạo sĩ sủng
ái của Vũ Hậu là Minh Sùng Nghiễm bị bọn
cướp đánh chết, Vũ Hậu càng nghi Lư Hiền
ngấm ngầm làm chuyện này, do trước đó Minh
Sùng Nghiễm đă nhiều lần công khai gièm pha Lư Hiền
trước mặt mọi người. Để tâng công,
bọn Tiết Nguyên Siêu, Bùi Viêm, Cao Trí Châu đă âm mưu
hăm hại, vu cáo Lư Hiền chiêu tập binh mă mưu mô làm loạn.
Lư Hiền bị kết tội, đày đi Ba Thục, cấm
không cho về kinh đô. Về sau, Vũ
Hậu lại sai người đến ép ông uống thuốc
độc tự tử. Do vậy, chỉ c̣n hai người
con trai là Lư Hiển và Lư Đán. Do họ rất
nhu nhược nên c̣n sống sót. Công chúa Thái B́nh cũng là
người mưu mô thủ đoạn, tiếp tục
lũng đoạn triều chánh trong một thời gian dài
sau khi Vũ Hậu mất măi cho đến khi bị
Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng) dùng
mưu mới trừ khử được.
[27] Lư Lăng Vương là tước phong của
Lư Hiển. Về sau, Lư Hiển lên làm vua, tức Đường
Trung Tông.
[28] Sau khi Đường Cao Tông mất, Lư Hiển lên
làm vua tức Đường Trung Tông, nhưng quyền hành
thật sự nằm trong tay Thái Hậu Vũ Tắc Thiên.
Bà ta sai hoạn quan Khâu Thần Tích sang Tứ Xuyên ép cựu
thái tử Lư Hiền uống thuốc độc tự tử.
Do Trung Tông có ư chống đối, bà liền phế Trung
Tông, lập Lư Đán lên làm vua, tức Đường Duệ
Tông. Ông này chỉ làm vua bù nh́n. Bà ta thâu tóm quyền hành, giết
hại công thần, lưu đày hoàng tộc nhà Đường
xuống vùng Lănh Nam. Gă sư phá giới là Pháp Minh lại ngụy
tạo bốn quyển Đại Vân Kinh để ca ngợi
Vũ Hậu là Phật Di Lặc giáng trần. Bọn bợ
đỡ là Phó Du Nghệ cùng hơn chín trăm đại
thần bèn thừa cơ dâng biểu xin Vũ Hậu
xưng đế. Bà ta liền đổi quốc hiệu
là Châu, ngạo mạn xưng tôn hiệu là Thánh Thần
Hoàng Đế, giáng Duệ Tông xuống làm hoàng tự (danh
xưng khác của Thái Tử), truy tôn cha ông ḿnh thành hoàng
đế.
[29] B́nh Chương Sự có tên gọi đầy
đủ là Đồng Trung Thư Môn Hạ B́nh
Chương Sự, tương đương với chức
Tể Tướng. Thời Đường Thái Tông, đă
quy định trưởng quan của ba cơ quan hành chánh
(Trung Thư Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh và Thượng
Thư Tỉnh) là Trung Thư Lệnh, Thị Trung và Thượng
Thư Bộc Xạ cùng giữ vai tṛ Tể Tướng. Cả
ba vị này đều được gia phong cấp bậc
Đồng Trung Thư Môn Hạ B́nh Chương Sự,
đến thời Vũ Tắc Thiên đổi thành Đồng
Phượng Các Loan Đài B́nh Chương Sự. Đến
đời Đường Đại Tông, chức vụ
này mới đổi thành Đồng B́nh Chương Sự
và mới là Tể Tướng thật sự đứng
đầu bá quan.
[30] “Hương đồng” (香童) là
trẻ trông coi nhang đèn, làm việc vặt trong các
chùa miếu, đạo quán, hoặc làm người hầu
cho các vị tăng sĩ, đạo nhân.
[31] Thời
xưa, người có học do có thể đỗ đạt
làm quan, vợ có thể sẽ được sắc phong,
hoặc mai sau con cái đỗ đạt, vinh hiển, có thể
xin triều đ́nh sắc phong cho mẹ. Triều đ́nh sẽ
xét nguồn gốc ḍng họ, do người
nữ ấy là trẻ mồ côi không rơ xuất xứ, sẽ
dấy lên nhiều nỗi dị nghị,
khiến cho chồng hoặc con gặp trắc trở trên
đường công danh. Hơn nữa, do con cái đỗ
đạt, mẹ xuất thân hèn kém, không rơ nguồn gốc,
sẽ gặp cảnh con dâu cậy ḿnh ḍng dơi cao quư, khinh rẻ
mẹ chồng. Đă thế, nếu mẹ xuất thân hèn
kém, con do người ấy đẻ ra sẽ không
được coi là ḍng chính, bản thân người ấy
không được lập thành chánh thất, dẫu được
cưới gả trước, vẫn bị coi là tỳ
thiếp.
[32] Thục
Hán là nước Hán thời Tam Quốc, do Hán Chiêu Liệt
Đế (Lưu Bị) lập ra. Do nước này thuộc
đất Thục (tỉnh Tứ Xuyên), nên gọi là Thục
Hán. Lănh thổ Thục Hán bao gồm Ích Châu (tức vùng bồn
địa tỉnh Tứ Xuyên và Hán Trung). Vùng
này từ đời Ân Thương được gọi
là Ba Quận do có người Ba sinh sống đầu tiên.
Ích Châu bao gồm hai mươi hai quận.
[33] Hoàng Môn là một chức quan thời cổ, gọi
đầy đủ là Hoàng Môn Thị Lang. Theo ông Hoàng Bách
Lâm, chức quan này trực thuộc cơ cấu Môn Hạ
Tỉnh. Chỉ riêng đời Đường Trung Tông,
Môn Hạ Tỉnh được gọi là Hoàng Môn Tỉnh,
cho nên chức quan đứng đầu Môn Hạ Tỉnh
thường gọi là Hoàng Môn Thị Lang. Môn Hạ Tỉnh
là cơ quan hành chánh trung ương, chuyên trách cân nhắc nội
dung các chiếu lệnh cụ thể trước khi ban
hành. Về sau, mở rộng thêm quyền hạn thành cố
vấn, đồng thời đặc trách can gián, góp ư.
Đến đời Nguyên, chức trách can gián giao hẳn
cho Ngự Sử Đài, Môn Hạ Tỉnh chuyên đặc
trách các vấn đề chánh sách, rồi dần dần bị
phế bỏ. Cả ba tỉnh chỉ c̣n lại Trung
Thư Tỉnh thống trị toàn thể sáu bộ. Thoạt
đầu, trong ba cơ cấu thuộc Tam Tỉnh, Môn Hạ
Tỉnh và Trung Thư Tỉnh có chức trách vạch ra kế
hoạch, quyết sách, c̣n Trung Thư Tỉnh đảm nhiệm
chức trách chấp hành. Đời Tùy, chức quan đứng
đầu Môn Hạ Tỉnh gọi là Nạp Ngôn, đến
đời Đường đổi thành Thị Trung, viên
phó quan được gọi là Môn Hạ Thị Lang. Lại
đặt thêm các chức Cấp Sự Trung, Tán Kỵ
Thường Thị, Gián Nghị Đại Phu, Khởi
Cư Lang, Thập Di v.v…
[34] Thượng Thư Bộc Xạ (尚書僕射) chính là chức quan phụ tá của Thượng
Thư Lệnh (người đứng đầu cơ
quan Thượng Thư Tỉnh). Thời Tam Quốc, chia
thành Tả Bộc Xạ và Hữu Bộc Xạ. Về
sau, mỗi khi chức Thượng Thư Lệnh bị
khuyết, Bộc Xạ sẽ lâm thời hoặc trường
kỳ đứng đầu Thượng Thư Tỉnh.
Thời Đường Tống, Thượng Thư Bộc
Xạ đóng vai tṛ Tể Tướng. Riêng dưới thời
Vũ Tắc Thiên, danh xưng của chức vị này
được gọi là Văn Xương Tả Tướng
và Văn Xương Hữu Tướng. Đến thời
Tống Thần Tông, Tả Bộc Xạ bị đổi
thành Môn Hạ Thị Lang, Hữu Bộc Xạ đổi
thành Trung Thư Thị Lang, giữ vai tṛ Tể Tướng
thật sự. Đến đời Nguyên, cơ cấu
Thượng Thư Tỉnh hoàn toàn bị bỏ, chỉ
c̣n giữ lại Trung Thư Tỉnh trong ba tỉnh, chức
vụ Thượng Thư Bộc Xạ bị phế trừ,
Trung Thư Thừa Tướng đảm nhiệm vai tṛ của
Thượng Thư Bộc Xạ. Các danh nhân từng giữ
chức vụ này là Pḥng Huyền Linh, Đỗ Như Hối,
Lư Tĩnh, Ôn Ngạn Bác, Chử Toại Lương…
[35] Học Sĩ là chức quan được thiết lập
từ đời Đường, gọi đầy đủ
là Đông Cung Học Sĩ, có nhiệm vụ kèm cặp, dạy
học Thái Tử. Vị này thật sự đôn đốc
Thái Tử học tập, trong khi các chức quan Thái Phó, Thiếu
Phó, Thái Sư, Thiếu Sư nặng về vai tṛ cố vấn,
rèn luyện cách xử lư việc nước hơn là học
tập từ chương. Đến thời Minh Trị
Duy Tân, chức quan này bị băi bỏ và người Nhật
dùng chữ này để dịch chữ Bachelor (cử nhân)
trong lối giáo dục Âu Tây. Các nước khác như Triều
Tiên, Trung Hoa v.v… cũng bắt chước dịch theo cách
này.
[36] Theo ông Hoàng Bách Lâm, Thái Tổ ở đây chính là
Minh Thái Tổ (Châu Nguyên Chương).
[37] Ngu (虞) chính là
triều đại của vua Thuấn, v́ vua Thuấn sanh
trưởng tại đất Hữu Ngu (有虞), nên ông c̣n được gọi là Hữu
Ngu Thị, hay Ngu Thuấn (thật ra, vua họ Cơ, tên là
Trùng Hoa, Thuấn là thụy hiệu). Vua Thuấn
cũng đặt quốc hiệu là Hữu Ngu.
[38] Thượng Tường (上庠) là danh xưng của trường Thái Học (Quốc
Tử Giám) thời cổ.
[39] Quảng Huệ là kho gạo để làm thiện
sự được thiết lập dưới thời Tống Nhân Tông. Gạo trong kho này chủ yếu
dùng để trợ cấp người già yếu, trẻ
thơ, kẻ nghèo túng, hoặc bệnh tật rề rề.
[40] Diêu Lệnh
Ngôn là một viên tướng nhỏ dưới quyền
Tiết Độ Sứ Mă Lân. Do chiến
công, ông ta được phong làm Kim Ngô
Đại Tướng Quân, rồi được phong
làm Thái Thường Khanh, kiêm Ngự Sử Trung Thừa. Về
sau, họ Diêu được
cử làm Tiết Độ Sứ Kính Nguyên (thuộc tỉnh
Cam Túc). Năm Kiến Trung thứ tư (783),
do Tiết Độ Sứ Lư Hy Liệt làm phản, Tiết
Độ Sứ Hành Doanh là Ca Thư Hàn bị vây, kinh thành
lâm nguy, Đường Đức Tông
sai Diêu Lệnh Ngôn đem quân cứu viện. Diêu Lệnh
Ngôn dẫn năm ngàn quân về Trường An. Đang tiết
Đông giá rét, binh sĩ vừa lạnh vừa đói, thế mà quan kinh triệu doăn chỉ cho ăn
cơm gạo xấu. Lệnh Ngôn vào chầu vua, vua chỉ
ban thưởng mỗi người hai tấm vải thô! Quân
sĩ căm tức, bèn nổi dậy làm cuộc binh biến,
tấn công Trường An. Đức Tông phải bỏ chạy sang Phụng Thiên. Quân phiến loạn tôn Châu
Thử làm vua. Châu Thử phong cho Lệnh Ngôn làm Thị
Trung. Về sau, Lư Hoài Quang đem quân cứu giá, đánh bại
quân Châu Thử. Lệnh Ngôn theo Châu Thử chạy sang đất
Thổ Phiên (phía Đông Tây Tạng), bị quan giữ
thành Kính Nguyên là Điền Hy Giám trở mặt, đóng cửa
không cho vào. Sau đó, loạn quân giết chết
Lệnh Ngôn.
[41] Long
Khánh là niên hiệu của Minh Mục Tông (Châu Tải Hậu)
từ năm 1567 đến năm 1572.
[42] Theo ông Hoàng Bách Lâm, điều này có nghĩa là có những
kẻ cứ chọn một thời hạn nhất định
để phóng sanh như vào dịp Phật Đản, hay
Vu Lan, ngày Rằm, mồng Một v.v…
[43] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này phải hiểu
như sau: Chúng ta phải thường ít tạo nghiệp,
phải tôn trọng các động vật, gắng hết
sức ăn chay, phóng sanh cho nhiều, bố thí cho nhiều,
bao dung người khác, rộng kết thiện duyên.
Đó gọi là “kinh doanh trả
nợ”.
[44] Ông Hoàng Bách Lâm giảng: Câu này phải hiểu là
đừng so đo giá cả con vật mắc rẻ. Chẳng
hạn do thấy dê, ḅ giá tiền đắt hơn tôm cá, rồi nghĩ rằng phóng
sanh những con vật đắt tiền th́ phước
đức sẽ to hơn, không chịu hành hạnh phóng
sanh cứu vật đối với những con vật bé
bỏng.
[45] Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của
ông Hoàng Bách Lâm.
[46] Nguyên văn “cao giả”
(kẻ ở nơi cao). Theo ông Hoàng Bách Lâm, từ ngữ
này có nhiều ư nghĩa. Chữ “cao
giả” có thể bao gồm những người có
địa vị cao quư trong xă hội, hoặc những
người phú quư, quyền thế, hoặc những
người có phước báo to lớn. V́ ḷng ích kỷ, ai
nấy chỉ mong chính ḿnh đạt được những
điều tốt lành, chẳng muốn chia sẻ với
người khác, mà cũng chẳng mong người khác sẽ
làm điều tốt lành.
[47] Hy Ninh (1068-1077) là niên hiệu của Tống Thần Tông.
[48] Đây
là một hủ tục của Trung Hoa
kéo dài măi cho đến đầu thời Dân Quốc: Những người
đă chết phải
được đưa về an táng tại quê nhà. Do vậy,
những người chưa sẵn tiền, hoặc công việc
bận rộn, hoặc chưa kiếm
được ngày lành tháng tốt, hoặc chưa kiếm
được cuộc đất tốt, thường
thuê người đổ nhiều thủy ngân vào quan tài
cho xác lâu thối rữa, khâm liệm xong sẽ đem gởi tại
các chùa hoặc các đạo quán, chờ khi thuận tiện
sẽ đưa về quê an táng. Thời gian quàn xác như
vậy có nhiều khi kéo dài đến mười mấy năm.
Có nhiều khi con cháu hoặc người thân của những
cỗ quan tài ấy bị tai nạn, bị chết bất th́nh
ĺnh, hay lưu lạc, những
cỗ quan tài ấy trở thành vô chủ.
[49]
Hồng Vũ (1368-1398) là niên hiệu
của Minh Thái Tổ (Châu Nguyên Chương).
[50] “Thượng chân” (上真) là danh xưng của Đạo gia để gọi
bậc chân tiên.
[51] Hậu Hán ở đây là nói tới nhà Đông Hán, không
phải là Hậu Hán do Lưu Tri Viễn sáng lập vào thời
Nam Bắc Triều.
[52] Nguyên Đế ở đây là Huyền Thiên Thượng
Đế, tức vị thần Trấn Vũ ở
phương Bắc trong Đạo giáo.
[53] “Thất phu” (匹夫) có nghĩa là những kẻ b́nh phàm trong xă hội,
không có chức vị, không có địa vị và thế lực.
[54] Tam Nguyên là đỗ đầu cả ba trường
thi, đỗ đầu kỳ thi Hương
gọi là Giải Nguyên, đỗ đầu thi Hội
th́ gọi là Hội Nguyên, đỗ đầu kỳ thi
Đ́nh th́ gọi Trạng Nguyên.
[55] Hà Sóc là khu vực thuộc miền trung du phía Bắc
Hoàng Hà. Từ ngữ này thường dùng để chỉ
một khu vực rộng lớn bao gồm cá tỉnh
Sơn Tây, Hà Bắc và Sơn Đông.
[56] Đài Tỉnh (臺省) là
cơ quan hành chánh trung ương, thời Hán được
gọi là Thượng Thư Đài, thời Tam Quốc
đổi thành Trung Thư Tỉnh, là cơ quan đặc
trách công bố những chiếu lệnh của hoàng đế,
có đặc tánh của cơ quan hành pháp trung ương,
chức trách tương ứng với Quốc Vụ Viện
hiện thời.
[57] Thông
Phán (通判) là
chức quan được đặt ra từ thời Tống.
Nhằm ngăn ngừa quyền hạn của Tri Châu quá
cao, triều đ́nh đặt ra chức Thông
Phán làm phụ tá cho Tri Châu, thật ra là để kiềm
chế, giám sát Tri Châu. Thông Phán trông coi
lương thực, tiền bạc trong một châu.
[58] “Giáp hạt” là từ
ngữ chỉ khoảng thời gian giữa hai vụ mùa,
khi thóc cũ đă dùng hết, lúa đang trồng chưa gặt
hái được.
[59] Những con buôn bất nhân thường xử ép người tiêu dùng bằng đấu
non, đấu già, tức là khi gạo đắt th́ dùng các
dụng cụ đo lường như thưng đấu
nhỏ hơn hoặc có đế dầy hơn để
giảm thiểu số lượng gạo mỗi lần
đong. Khi được mùa, lại ép giá bằng cách dùng
đấu rộng hơn, khi đong bèn ém gạo cho chặt
hơn để lấy được gạo nhiều mà
trả tiền ít hơn.
[60] Tử
Phủ Chân Quân là vị thần tiên nổi danh của Đạo
giáo. Ông tên là Vương Thành, tự là Huyền Phủ,
người quận Đông Hải, sống vào đời
Hán. Về sau, ông được tôn làm vị
đứng đầu trong Ngũ Dương Tổ Sư
(Vương Huyền Phủ, Chung Ly Quyền, Lữ Động
Tân, Lưu Hải Thiềm, Vương Trùng Dương) của
Toàn Chân Giáo. Tương truyền ông là Đông Hoa Đế
Quân hóa thân. Ông được coi là người tu đạo
đắc pháp trường sanh tại núi Chung Nam. Sở
dĩ ông được gọi là Tử Phủ Chân Quân v́
Nguyên Thế Tổ đă sắc phong ông là Đông Hoa Tử
Phủ Thiếu Dương Đế Quân, Nguyên Thế Tông
sắc phong thánh hiệu Đông Hoa Tử
Phủ Phụ Nguyên Lập Cực Đại Đạo
Quân.
[61] “Ăn gạo mới”
tức là khi lúa đă chín, người dân có thể tự gặt
hái, tự nuôi sống, không cần trợ cấp nữa.
[62] Bác Vật Chí là bộ sách gồm ba quyển do
Trương Hoa soạn vào đời Tấn. Nội dung rất
rộng, bao gồm nhiều kiến thức địa lư,
lịch sử, nhân vật, khoa học thời cổ,
cũng như chép về nhiều loại chim thú lạ lùng.
[63] Ḥa Tễ Cục (和劑局) là một cơ quan được thiết lập
dưới đời Tống, trực thuộc Thái Phủ
Tự, có trách nhiệm bào chế thuốc, pḥng chống dịch
bệnh, giống như sở y tế của mỗi tỉnh trong hiện thời.
[64] Theo ông
Hoàng Bách Lâm, nói “mạng trời”
ở đây chính là nói đến sự cảm ứng do
nghiệp trong đời trước, chứ không có
nghĩa là do một vị thần linh nào ban phát.
[65] Tử
Tư là tên tự của Khổng Cấp, cháu nội của
Khổng Tử.
[66] Vĩnh
Thuần là niên hiệu của Đường Cao Tông.
[67] Đây
là những người được coi là thần đồng
về văn chương thuở ấy, tức là Lư
Chiếu Lân, Lạc Tân Vương, Vương Bột, và
Dương Quưnh. Họ được ca tụng là Sơ
Đường Tứ Kiệt. Riêng Vương Bột sáu
tuổi đă biết làm văn, đến năm mười
sáu, hễ nhấc bút là thi tứ ào ạt tuôn ra. Ông nổi
tiếng trong lịch sử văn học với bài Đằng
Vương Các Tự. Hai câu “lạc
hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng trường
thiên nhất sắc” (ráng mây và con diệc lẻ loi cùng
bay, nước thu và bầu trời mênh mông cùng một mầu)
được coi là những câu tuyệt diệu nhất trong
bài phú ấy. Ông chết đuối trên đường trở
về sau khi thăm cha đang làm huyện lệnh tại
Giao Chỉ. Theo truyền thuyết, mộ phần của
ông vẫn c̣n tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ
An, Việt Nam.
[68] Theo ông
Hoàng Bách Lâm, câu này có nghĩa là đối với những kẻ
ngu phu ngu phụ, đừng nên coi thường chí hướng
của họ. Kẻ dẫu ngu hèn cách mấy, nhưng tâm
chí kiên quyết, kiên nhẫn hành tŕ sẽ đạt
được kết quả chẳng thể suy lường
được.
[69] Thông
thường, chữ Doanh (盈) ở đây được
chú giải là sự tṛn đầy quá mức, quá tràn trề,
nhưng cũng có vị cho rằng: Doanh phải hiểu là
kẻ kiêu căng, tự măn, phô trương tài năng quá mức.
[70] Tam Doăn
(三尹) là chức
quan phụ tá cho tri huyện, chuyên quản trị văn
thư. Xưa kia, trong một huyện, quan tri huyện
thường được gọi là Đại Doăn, phó
quan gọi là Huyện Thừa, tục gọi là Nhị
Doăn. Cấp thứ ba là Chủ Bạ (quản trị sổ
sách), thường gọi là Tam Doăn.
[71] Theo ông
Hoàng Bách Lâm, câu này phải hiểu như sau: Nếu nhà vua,
tức Tề Huệ Vương, vận dụng cái tâm “ham
thích âm nhạc, thích vui sướng” vào chính
sách cai trị, làm cho mọi người đều
được vui sướng, tức là ai nấy
được hưởng cơm no, áo ấm, an lạc, vận
mạng của nước Tề sẽ trở thành
hưng vượng.
[72] Ông Hoàng
Bách Lâm giảng “cúi ngửa” ở đây phải hiểu là
hành xử, sinh sống. Do quá liêm khiết, cuộc sống
túng quẫn, làm ǵ cũng khó khăn v́ thiếu phương
tiện, nên dễ sanh ḷng oán hận.
[73] Cứu
(炙) ở
đây là dùng bột ngải cứu làm thành
viên để
đốt hơ lên kim châm nhằm truyền sức nóng vào
huyệt được châm.
[74] Niên
điệt (年姪): Cháu của
người thi đậu cùng khoa với ḿnh th́ gọi là “niên điệt”.
[75] Người
đứng đầu các quan Tể Tướng đời
Tống được gọi là Thủ Tướng. Thời
Tống, có nhiều Tể Tướng.
Nói chung, Tể Tướng là
người đứng đầu ba cơ quan Môn Hạ Tỉnh,
Trung Thư Tỉnh và Thượng Thư Tỉnh.
[76] Bài
thơ này dùng hai nhân vật để nói về chữ Nhẫn.
Thuở hàn vi, Hàn Tín bị đói nghèo, người gầy
tong teo, thường phải ăn chực cơm của một
bà nghèo làm thợ giặt (phiếu mẫu), bị mọi
người khinh rẻ. Có lần gă đồ tể cầm
dao dọa Hàn Tín, bắt ông phải luồn qua đũng
quần của hắn. Suy nghĩ kỹ, Hàn Tín quyết
định luồn dưới đũng quần hắn
mặc cho thiên hạ cười chê. Câu thứ hai nói về
Trương Lương, người nước Hàn, ôm ḷng
diệt nhà Tần. Có một hôm, ông đến cầu Hạ
B́, thấy một cụ già tiên phong đạo cốt. Cụ
già làm rớt giày xuống gầm cầu, sai Trương
Lương xuống nhặt. Ba lần như thế,
Trương Lương đều chịu nhịn, nhặt
lên. Cụ già mỉm cười, trao cho Trương
Lương quyển Thái Công Binh Pháp và Tố Thư, khen:
“Đứa bé con dễ dạy!” Nhờ đó, Trương
Lương trở thành mưu sĩ bậc nhất của
Hán Cao Tổ (Lưu Bang). Ông tiến cử Hàn Tín cầm
quân đánh bại Hạng Vũ, giúp Hán Cao Tổ lập ra
nhà Hán. Công thành danh toại, Trương Lương bèn từ
quan, nại cớ tu tiên để khỏi
vào chầu vua, không nắm giữ bất cứ quyền
hành nào, nhờ đó giữ trọn tánh
mạng, trong khi các công thần khác lần lượt bị
Lữ Hậu xúi xiểm Hán Cao Tổ giết chết.
Hàn Tín cậy công, đ̣i Hán Cao Tổ phong làm Hàn
Vương. Hán Cao Tổ ưng thuận, nhưng đă
đem bụng ghét bỏ Hàn Tín. Về sau, với sự
đốc xúi của Lữ Hậu, Hán Cao Tổ lập kế
giả vờ ra chơi Vân Mộng (nơi Hàn Tín ở), tịch
thâu ấn tín, giáng xuống làm
Hoài Âm Hầu, cuối cùng kết tội giết chết.
Do vậy, người ta thường dùng chữ Hoài Âm
để nói về Hàn Tín. Văn Thành là biệt danh của
Trương Lương.
[77] Giáng là
Châu Bột, theo Lưu Bang khởi nghĩa từ đất
Bái, có nhiều công lao phá Sở, kiến lập nhà Hán. Về
sau, ông được Hán Cao Tổ phong làm Giáng Hầu. Ông
được phong làm Tể Tướng, tuy tánh t́nh thuần
hậu, chất trực, nhưng kém tài quản lư, sợ
địa vị cao sẽ chuốc họa, bèn lấy cớ
bệnh tật để từ
quan. Sau khi Trần B́nh chết, ông lại được cử
làm Tể Tướng, rồi bị băi truất. Khoái là
Phàn Khoái, xuất thân làm nghề mổ lợn. Về sau,
theo Lưu Bang khởi nghĩa, lập nhiều công to, xả
thân hộ vệ Lưu Bang trong hội yến Hồng Môn.
Khi Lưu Bang lập đàn bái tướng, Phàn Khoái tự
đắc, tưởng Lưu Bang sẽ phong cho ḿnh làm
đại tướng. Nào ngờ, Lưu Bang tấn phong
Hàn Tín. Phàn Khoái hổ thẹn, tức tối. Về sau, qua
những cuộc chinh chiến, Phàn Khoái mới tâm phục
tài dùng binh của Hàn Tín.