Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

感應篇彙編

Quyển 2

Phần 1

(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2000)

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Chánh văn) Hữu đễ.

          (正文)友悌。

          (Chánh văn: Thuận thảo với anh em).

 

          Hiếu và Đễ vốn là một, nay lại nói chuyên biệt, ḥng muốn cho mọi người sẽ tùy theo từng sự mà trọn hết [bổn phận] vậy. Anh ḥa thuận, yêu thương, đáng kính; em th́ kính thuận, nể sợ [anh], ḥa hợp. Anh em là những người có cùng khí chất với thân ta, chỉ có mấy người này [là những người thân thiết] khó có nhất trong một đời người. Nh́n từ phía cha mẹ, [anh em] vốn là một Thể. Nếu anh em có chút đối chọi, ḷng cha mẹ liền đau xót, bất an. V́ thế, thấy anh em ta thương yêu nhau, cha mẹ ta sẽ rất thoải mái, yên vui. Hơn nữa, anh em được gọi là “tay chân”, ắt phải che chở, nâng đỡ lẫn nhau. Ngứa và đau liên quan, há có chuyện tay chân tự tranh đoạt lẫn nhau ư? Hăy nên nghĩ [anh em đều do] cha mẹ sanh ra, vốn cùng một Thể, t́nh cốt nhục khó thể chia ĺa. Hễ v́ ư khí [xáo động] mà giận dữ, tranh giành, hăy tự dấy ḷng bất nhẫn. Đối những thứ tài lợi nhỏ nhặt, hăy tự xem nhẹ. Thiền sư Pháp Chiêu có bài kệ rằng:

          Đồng khí liên chi các tự vinh,

          Ta ta ngôn ngữ mạc thương t́nh,

          Nhất hồi tương kiến nhất hồi lăo,

          Năng đắc kỷ thời vi đệ huynh.

          Huynh đệ đồng cư nhẫn tiện an,

          Mạc nhân hào mạt khởi tranh đoan,

          Nhăn tiền sanh tử hựu huynh đệ,

          Lưu dữ nhi tôn tác dạng khan.

          (Tạm dịch:

          Đồng khí liền cành thảy tốt xinh,

          Đừng v́ lời nói tổn thương t́nh,

          Mỗi lần gặp gỡ, già hơn trước,

          Mấy thuở được làm nghĩa đệ huynh?

          Anh em chung ở, nhường liền ổn,

          Đừng v́ chuyện vặt dấy đua tranh,

          Con cái chúng ta là huynh đệ,

          Nêu gương cho cháu lẫn con nh́n).

          Sách Viên Thị Thế Phạm[1] có đoạn:

          - Cha anh yêu thương con em, chẳng cần đ̣i hỏi con em ắt phải hiếu thuận. Con em yêu thương cha anh, chẳng cần đ̣i hỏi cha anh ắt phải nhân từ. Ai nấy chú trọng trọn hết trách nhiệm của chính ḿnh, căn bệnh mong ngóng, trách móc sẽ tự trừ. Nghiêm cấm tỳ thiếp chẳng được ngồi lê đôi mách; đối với những lời lẽ trong chốn riêng tư của vợ hay nàng hầu, dẫu hợp ư, cũng chớ nghe theo, ắt đầu mối ly gián sẽ tự chấm dứt. Tánh t́nh của con người hoặc mềm mỏng, hoặc cứng cỏi, hoặc hành xử cẩn thận, hoặc hào phóng, buông tuồng, hoặc là an tĩnh, hoặc là bộp chộp; lúc gặp chuyện, đúng sai khác nhau, chỉ nên đối với mỗi trường hợp mà hành xử thích hợp. Đừng v́ thấy ta là đúng, mà đ̣i hỏi mọi chuyện ắt phải hợp ư ḿnh; [như vậy th́] há c̣n có tranh chấp? Dẫu cho gặp cảnh bất b́nh, chẳng nỡ bàng quan, chỉ nên b́nh tâm ḥa khí, mềm mỏng, khéo léo khuyên lơn. Như thế th́ há có chuyện chẳng ḥa thuận ư? Người thời nay đánh mất niềm vui cốt nhục, nguyên do là v́ những điều hết sức nhỏ nhặt mà dẫn đến [t́nh trạng] chẳng thể giải quyết được! Chỉ v́ sau khi đă bất ḥa, ai nấy đều tự ái cao ngất ngưởng, chẳng thể buông xuống được! Nếu trong ấy, có một người hiền ḥa, sáng suốt, cam ḷng chịu thua thiệt, có thể tự xuống nước trước để lo liệu, bàn soạn với những người khác, ắt đôi bên sẽ chịu thương thảo với nhau, dần dần ḥa hảo như lúc b́nh thường vậy.        

          Đời Minh, ông Vương Dương Minh nói: “Vua Thuấn có thể cảm hóa [em trai là] Tượng, điều then chốt chỉ là [vua Thuấn] chẳng thấy Tượng là sai!” Ngu ư cho rằng: Trong ṿng cốt nhục, chỉ nên nói theo t́nh, chớ nên nói theo lư. Hễ chấp lư sẽ tổn thương t́nh, hễ tổn thương t́nh th́ chẳng phải là đúng lư vậy! Như có kẻ hỏi Tŕnh Tử: “Tôi phụng sự anh tôi trọn hết lư, mà anh tôi chẳng vui ḷng, biết làm sao đây?” Ông Tŕnh đáp: “Chỉ nên dấy ḷng hiếu kính, trọn hết ḷng chí thành, chẳng cần biểu lộ [ồn ào tâm ư của] chính ḿnh là được rồi!” Hỏi: “Chăm sóc em trai bằng cách nào?” Đáp: “Trọn hết ḷng ḥa thuận, yêu thương mà thôi!”

          Trong bài Hiếu Đễ Ca của tiên sinh Thiệu Nghiêu Phu (Thiệu Ung)[2] đời Tống có đoạn:

          - Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Trong ṿng cốt nhục, đừng dấy lên sóng gió. Ân cha mẹ mênh mông hăy nên báo đền. Phải biết t́nh thủ túc sâu đậm nhất, phải nên ḥa thuận. Ḍng họ Trương Công Nghệ[3] [chín đời] ở chung với nhau xưa nay hiếm. [Anh em] Điền Chân[4] ở chung, con cháu đông đảo. Những người như thế xa gần đều ca ngợi. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh[5].

          Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Nói năng nhỏ nhẹ, khiêm ḥa. Nan huynh nan đệ[6] danh càng trọng. Con hiền cháu thảo cốt cho nhiều. Đội gạo vẫn có thể phụng dưỡng tuy đơn bạc. Kẻ đọc sách có ai chẳng mong đỗ đạt cao [ḥng dùng bổng lộc phụng dưỡng cha mẹ]? Trọng Do, Trần Kỷ[7] đều như thế. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.

          Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Răn dạy chị em dâu giữ hạnh hiền thục, đảm đang, phụng sự bố mẹ chồng. Hăy khéo tuân theo cách dạy con bằng ba lượt dời nhà của mẹ ông Mạnh Tử. Hăy đọc bài ca trăm chữ Nhẫn của ông Trương [Công Nghệ]. Hiếu thảo với cha mẹ, ḥa thuận với anh em, cư xử tốt đẹp với thân tộc, thông gia, lại c̣n giúp đỡ kẻ khốn khó, lỡ vận. [Noi theo] trí, nhân, đạo nghĩa của thánh hiền, giữ đạo trung ḥa (trung dung, ḥa khí) [giống như] Tăng Tử và Dương Bác thuở đương thời. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.

          Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Đừng bảo chuyện đời thường hội đủ thiên thời, địa lợi với nhân ḥa. Đáng than đời người được mấy chốc? Phồn hoa ngập mắt, quư báu chi? Một nhà an lạc giá trị nhiều. Lạ thay chuyện nhường quả[8], ôm quất[9]. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.

          Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Thời gian thấm thoát tựa thoi đưa. Chỗ vui sướng trong gia đ́nh là niềm vui nơi con cháu[10]. Khi anh em ḥa thuận, th́ chị em bạn dâu cũng ḥa thuận. Thanh danh hiếu đễ được lưu truyền măi chẳng mất. Giàu có vàng bạc đầy rương sánh được sao? Phải biết tiếng thơm lưu truyền xưa nay. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.

          Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Sáng thăm, tối viếng chớ chần chừ! Một nhà hiếu thảo, ḥa thuận rất khó có. Thời gian trăm năm dễ trôi qua nhất. Chính ḿnh phải nên sốt sắng giữ niềm vui ḥa thuận. [Cơ sở để] giữ vẹn luân thường và tôn ty là sự khiêm ḥa. Mặc áo sặc sỡ múa may, kèn sáo ḥa điệu[11]. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.

          Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Chồng đừng nên nghe lời vợ xúi giục. Đừng bực bội v́ trước mắt tiền bạc ít ỏi. Con cháu dưới gối chẳng ngại nhiều. Chỉ cần gia đ́nh ḥa thuận, nghèo cũng được. Nếu dạy [con cháu] thành kẻ bất nghĩa, giàu có để làm ǵ? Vương, Hàn[12] hiếu thảo, ḥa thuận lưu danh trong sử xanh. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.

          Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Đừng gây tổn thương ḥa khí, [v́] nhiều nỗi giận tức, tranh giành. Càng sanh ganh ghét, càng khốn khó. Ngấm ngầm tích cóp làm của riêng sẽ ngấm ngầm tiêu tán. Kẻ bất hiếu tự nhiên sanh ra đứa con ngỗ nghịch. Kẻ vô hạnh chắc chắn sanh ra con cái yêu ma! Chỉ nghe kẻ hiếu thuận, ḥa mục, danh truyền muôn đời. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.

          Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Đừng v́ chuyện nhỏ nhặt mà tổn thương ḥa khí. Đừng phiền vàng trong rương ít ỏi, phải ngấm ngầm tích lũy âm chất cho nhiều. Riêng tư, tà vạy há tốt đẹp như công bằng, chánh trực? Cứng cỏi chẳng làm ǵ được kẻ tốt lành, mềm mỏng. Sách vở xưa nay thường khen ngợi: Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.

          Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Than ôi, [gia đ́nh tan ră] v́ nghe theo những lời phân tích xúi siểm. Tài vật trong túi hiềm c̣n ít, ruộng đất ông bà ngươi vẫn muốn nhiều. Vợ chồng trước mắt tuy vui thú, sợ rằng mai sau con cháu phá tan tành![13] Làm thế nào để giữ ḷng hiếu thảo, ḥa thuận với xóm làng? Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.

          Đời Hán, ba anh em Điền Chân bàn tính phân chia tài sản [ra ở riêng]. Mọi thứ tài vật đều được chia đều. Trước nhà, có một cây tử kinh[14], họ muốn chia làm ba, [dự tính] ngày hôm sau sẽ đốn. Cây liền khô héo. Điền Chân kinh hăi, bảo các em: “Cây vốn cùng một cội, nghe sắp bị chia xẻ nên khô héo, vậy là người chẳng bằng cây!” Do vậy, buồn bă khôn ngăn, chẳng c̣n tính xẻ cây nữa. Cây nghe tiếng bèn sống lại. Anh em họ cảm kích trước chuyện này, gộp tài sản lại, sống chung với nhau, được [người đời] xưng tụng là nhà hiếu thảo. Ôi! Anh em là một trong các mối thiên luân, hợp với [các mối quan hệ] cha con và vợ chồng thành Tam Cương. V́ thế, cổ nhân thường sánh ví [anh em] như tay chân, ư nói chẳng chia ĺa vậy. Hễ ly ắt tán, hễ tán sẽ trơ trọi, do trơ trọi sẽ bị diệt mất.

          Đời Tống, anh của Tư Mă Ôn Công (Tư Mă Quang) là Bá Khang, tuổi đă tám mươi. Ông (Tư Mă Quang) phụng dưỡng anh như cha, chăm chút anh như trẻ thơ. Thường khi người anh vừa ăn được chốc lát, ắt hỏi: “Có bị đói hay không?” Lạnh một chút, ắt sẽ xoa lưng bảo: “Áo có mỏng quá hay không?”

          Châu Văn Xán tánh ḥa thuận, yêu thương anh em. Người anh thích uống rượu, sống nhờ vào ông Xán. Người anh thường do say sưa mà đánh ông Xán. Hàng xóm bất b́nh, chửi người anh. Ông Xán tức giận, nói: “Anh chưa đánh ta, sao lại ly gián cốt nhục của ta?”

          Đời Tống, Trịnh Đức Khuê và Đức Chương bẩm tánh hiếu thảo với cha mẹ, thuận thảo với anh em, sách bày cùng bàn, đêm ngủ đắp chung chăn. Đức Chương tánh hết sức chánh trực, làm mất ḷng nhiều người. Kẻ thù hăm hại ông mắc tội chết, [quan phủ hạ] án lệnh bắt về Dương Châu. Đức Khuê đau xót v́ em trai bị vu cáo, giả vờ nói: “Chúng nó muốn hại ta, chuyện đâu liên quan đến em! Để ta đến chỗ quan phủ, lời cáo gian ắt được sáng tỏ, chứ em đến cửa quan, há thoát khỏi chết ư?” [Đức Khuê bèn theo bọn sai nha] lên đường. Đức Chương đuổi kịp, anh em ôm nhau, giậm chân khóc lóc, tranh nhau đi chết. Đức Khuê ngấm ngầm t́m kế ngăn trở em trai lên đường, nửa đêm trốn đi. Đức Chương lại đuổi tới Quảng Lăng, Đức Khuê đă chết trong ngục. Đức Chương đau xót, ngất đi mấy lần, mang xương anh về an táng, dựng lều bên cạnh mộ anh suốt hai năm. Mỗi khi ông đau đớn gào khóc, chim chóc đều bay vần vũ, bỏ ăn. Con Đức Khuê thơ dại, Đức Chương nuôi nấng, chăm chút như con ruột của chính ḿnh.

          Đời Hán, Tiết Bao hiếu học, chuyên tâm giữ ǵn đức hạnh. Bị mẹ ghẻ ghét bỏ, đuổi đi, Tiết Bao hằng ngày đêm gào khóc ở bên ngoài nhà, buổi sáng lại vào nhà quét dọn. [Mẹ ghẻ] lại xua đuổi, bèn dựng lều ở nhờ trong làng. Sáng tối vấn an. Hơn một năm sau, cha mẹ cảm động, cho trở về. Cha mẹ mất, ông đau buồn thành bệnh. Các em xin ra sống riêng, Tiết Bao không thể ngăn được, đành để mặc cho các em thỏa ḷng mong muốn. Đối với tôi tớ, ông bèn chọn những người già yếu, bảo: “Những người này hầu ta lâu ngày, đă quen sai khiến rồi”. Đối với đồ đạc, ông chọn những thứ cũ nát, bảo: “[Những món này] ta quen sử dụng, cảm thấy thân và miệng thoải mái”. Đối với ruộng đất bèn chọn ruộng hoang vu, bảo: “Ta đă cày cấy từ bé, có ư quyến luyến [những thửa ruộng này]”. Các em chẳng thể tự lập, đến nỗi phá tan gia sản. Tiết Bao lại cấp dưỡng. Hán An Đế nghe danh, vời vào triều giữ chức Thị Trung[15]. Ông chẳng nhận, vua bèn thưởng một ngàn thạch gạo.

          Đời Hán, Hứa Vũ mồ côi từ bé, có hai đứa em thơ dại. Hứa Vũ ngày cày cấy, đêm học hành. Khi cày cấy, tuy hai em chưa đủ sức sử dụng cày bừa, thường bảo hai em theo bên cạnh quan sát. Khi đọc sách, hai em ngồi hai bên, đích thân dạy hai em đọc từng câu, từng đoạn, giảng giải cặn kẽ. Dùng lễ nghĩa dạy hai em, dạy dỗ đến khi em khôn lớn. Hễ em hơi chẳng vâng lời dạy, ông bèn tự quỳ trước bàn thờ trong nhà, thưa tŕnh: “Bản thân con thiếu đức, chẳng thể dạy dỗ, cha mẹ có linh, xin hăy soi sáng cho hai em”. Một mực [làm như thế] cho đến khi hai em xin tha lỗi mới đứng dậy. Trọn chẳng dùng lời hằn học, hoặc vẻ mặt giận tức dằn hắt hai em. Hứa Vũ tuổi đă lớn, chẳng cưới vợ, nếu có ai khuyên nhủ, bèn đáp: “Sợ cưới lầm người, dễ sanh ra hiềm khích”. Do vậy, xóm giềng gọi ông là Hiếu Đễ Hứa Vũ. Quan đầu quận tâu lên, ông được vua phong làm chức Nghị Lang, danh vọng rạng rỡ. Ông tháo giải đeo ấn (từ chức) trở về, lo liệu chuyện hôn nhân cho hai em trước. Sau đấy, chính ḿnh mới cưới vợ. Anh em ở chung mà ḥa thuận. Về sau, hai em cũng rất có tiếng tăm.

          Đời Tùy, Ngưu Hoằng làm Lại Bộ Thượng Thư. Em trai tên là Bật, thường say sưa, bắn giết những con ḅ kéo xe của ông Hoằng. Ông Hoằng về đến nhà, vợ ra đón, mách: “Chú nó bắn giết ḅ!” Ông Hoằng chẳng trách móc ǵ, thong thả đáp: “Đem làm thịt khô”. Ông đă ngồi yên định rồi, vợ lại nói: “Chú nó giết ḅ là chuyện bất thường to lớn”. Ông bảo: “Biết rồi! Có ǵ lạ đâu?” Vẻ mặt như không có chuyện ǵ xảy ra. Ông đọc sách chẳng lười nhác; về sau, trở thành bậc tể tướng danh tiếng. Trong cơi đời, những kẻ lâm vào cảnh t́nh nghĩa anh em sứt mẻ, chỉ là do nghe lời vợ [xúi giục]. Thấy chuyện này mà chẳng tỉnh ngộ, có khác ǵ cầm thú?

          Đời Bắc Tề[16], có người tên Phổ Minh, anh em tranh chấp tài sản, quanh năm kiện tụng, ai nấy t́m người làm chứng, thưa lên Thái Thú huyện Thanh Hà là Tô Quỳnh. Ông Tô gọi họ đến, khuyên dạy: “Trong thiên hạ, khó được làm anh em. Đất đai, vườn tược là cái dễ được nhất. Giả sử có được vườn tược, ruộng nương, mà mất đi anh em, cái tâm như thế nào vậy?” Do đó, họ ứa nước mắt, những kẻ làm chứng không ai chẳng cảm động, khóc ṛng, dập đầu [vâng theo lời dạy], nhường nhịn lẫn nhau.

          Ông Vu Thiết Tiều nói:

          - Hai đứa con nhà quan X… ở Hoài Âm đối chọi nhau từ bé, trải nhiều năm chẳng gặp nhau một lần. Về sau, người anh mắc bệnh nguy ngập, gọi em tới bên giường, nắm tay, bảo: “Ta mười chín tuổi kết hôn, thuở bé chẳng có t́nh yêu thương vợ con. Ba mươi tám tuổi cha mẹ mất, tuổi già chẳng có t́nh yêu thương của cha mẹ. Tụ hội với nhau lâu nhất chẳng ai bằng hai đứa ta và ngươi. [Thế mà] lại suốt đời chẳng hợp nhau, nay mới hối hận, nhưng đời ta đă hết rồi!” Đau đớn thay, người nghe chuyện ấy ắt sẽ động ḷng.

          Đời Hậu Hán[17], Mậu Đồng mồ côi [mẹ] từ bé, có bốn người anh em khác mẹ, cùng nhau sở hữu tài sản gia nghiệp. Cho đến khi mỗi người cưới vợ, các em đ̣i chia của sống riêng. Ông lại phải mấy lần nghe những lời lẽ tranh chấp. Mậu Đồng bèn đóng chặt cửa, tự quở: “Mậu Đồng! Ngươi tu thân, vâng giữ đức hạnh cẩn thận nhằm học theo pháp tắc của thánh nhân, ḥng khiến cho phong tục được tốt đẹp, đoan chánh, cớ sao chẳng thể giữ yên gia đ́nh vậy?” Các em và vợ nghe thấy đều dập đầu tạ tội, lại sống ḥa thuận với nhau.

          Thời Ngũ Đại, Trương Sĩ Tuyển mồ côi cha mẹ từ bé. Đến lớn, chỉ có chú c̣n sống. Chú có bảy đứa con, một hôm, chú bảo Sĩ Tuyển: “Ta sẽ chia của cho ngươi, sẽ chia [tài sản] thành hai phần, [ngươi được một phần]”. Sĩ Tuyển thưa: “Cháu không nỡ ḷng để bảy người chia nhau một phần, xin hăy chia thành tám phần [đều nhau]”. Chú kiên quyết từ chối, Sĩ Tuyển cũng kiên quyết nhường phần, chú đành chia làm tám phần. Khi Sĩ Tuyển mười bảy tuổi, gặp kỳ thi Hội bèn lên kinh đô. Những người cùng ở trọ có đến hai mươi mấy mạng. Có một thuật sĩ xem tướng, bảo: “Kẻ đỗ đạt chỉ có đứa thiếu niên này”. Những kẻ cùng trọ cười chê [thuật sĩ ăn nói hàm hồ]. Thuật sĩ bảo: “Ta chẳng hiểu ǵ về văn chương, nhưng đứa thiếu niên này mặt tràn đầy âm đức, ắt là do tích thiện mà ra”. Đến khi yết bảng, chỉ riêng ḿnh Sĩ Tuyển đỗ cao. Phàm những kẻ hèn hạ, bạc bẽo t́nh thủ túc trong hiện thời, tranh giành tài vật, tiền bạc, dẫu đối với anh em ruột mà c̣n như thế, huống hồ đối với những đứa con ḍng thứ do mẹ kế sanh ra, sẽ dễ sanh ḷng khinh rẻ, lấn hiếp, càng chèn ép quá đáng. Nếu là anh em họ, đôi bên càng xa cách, sự thân sơ càng rơ! Ai có thể như ông Trương [Công Nghệ] ư? Chẳng biết cổ nhân đă nói: “Bạc đăi anh em chính là bạc đăi cha mẹ. Bạc đăi anh em họ, chính là bạc đăi tổ tiên”. Nếu thiếu căn cội, cành lá ắt hư hoại. Đối với điều luận định đến tận nguồn cội này, mọi người hăy nên đọc đi đọc lại, suy sâu nghĩ chín!

          Đời Tống, Mao Liệt và Trần Kỳ thân thiết. Trần Kỳ có ba đứa em c̣n bé, lo sợ khi chúng nó lớn lên sẽ phải phân chia sản nghiệp, bèn trước đó đem quá nửa số ruộng gạ gẫm sang lại với giá rẻ cho Mao Liệt, tích cóp mấy ngàn xâu tiền[18]. Sau khi mẹ mất, [Trần Kỳ] chỉ dùng số ruộng hiện đang có để chia cho các em. Hơn một năm sau, hắn mang tiền đến nhà Mao Liệt xin chuộc ruộng. Mao Liệt nhận tiền, nhưng ôm ḷng chiếm đoạt, bèn lừa gạt bảo: “Hôm khác sẽ trả lại bằng khoán”. Trần Kỳ tự nhủ: “Ta thường giao hảo thân thiết với Mao Liệt, chắc là hắn chẳng có ư ǵ khác!” Vài hôm sau, [Trần Kỳ] t́m tới, Mao Liệt tránh mặt, không ra tiếp. Thưa lên huyện, quan huyện ăn hối lộ của Mao Liệt, phán: “Quan tin vào văn thư mà thôi, há có chuyện trao tiền mà không lấy bằng khoán ư?” Rốt cuộc, Trần Kỳ mắc tội vu cáo, bị phạt trượng. Về sau, nhiều lần thưa lên quan, hao tốn tài sản của chính ḿnh gần như hết sạch, chẳng có bằng chứng để đ̣i tiền chuộc lại, ruộng vẫn thuộc về tay Mao Liệt. Ba người em [của Trần Kỳ] nghe chuyện cười kh́. Trong cơi đời, những kẻ cậy ḿnh khôn lớn lấn hiếp đứa thơ dại, có kẻ nào chẳng gặp phải hạng người như Mao Liệt ư?

          Có ba anh em người dân ở huyện Cú Dung, người anh sang tạm cư tại đất Thục (Tứ Xuyên), ba năm không về. Đứa em thứ hai do thấy chị dâu xinh đẹp, sai người giả vờ đưa tin người anh đă chết. Chị dâu khóc lóc, để tang. Lâu ngày, hắn xét thấy [chị dâu] không có ư định tái giá, bèn ngầm nhận tiền của lái buôn để bán [chị dâu], lại c̣n nói gạt lái buôn rằng: “Chị dâu ḷng muốn tái giá mà hay làm ra vẻ màu mè. Nếu nói lời ngon ngọt, ắt phải tốn nhiều thời gian. Ông có thể dẫn theo nhiều người kéo tới bất ngờ. Hễ thấy người nào cài trâm màu trắng, cứ lôi tuột lên xe, chỉ nói: ‘[Có chuyện ǵ] ngày mai sẽ nói’. Hễ lên thuyền, sẽ là vợ của ông rồi!” Mưu kế đă định, đêm ấy, gă lái buôn dẫn lũ tay chân kéo tới, hai đứa em thứ hai và em út đều tránh mặt. Nhưng đứa em út tức giận v́ được chia tiền ít, trước đó, đă ngầm nói với chị dâu, vợ đứa em thứ hai chẳng biết. Do vậy, chị dâu khóc lóc, nói với vợ đứa em thứ hai: “Chồng em gả chị đi, may mắn là gặp khách giàu có, sao không nói sớm để chị trang điểm? Nay gặp dịp lễ tốt lành mà mặc đồ trắng toát th́ coi sao được! Mong em đổi cho chị chiếc mũ sẫm màu trong chốc lát [để hành lễ]”. Vợ đứa em thứ hai bèn đưa mũ cho, tự cài chiếc trâm trắng. Chị dâu liền nấp kín. Bọn khách kéo đến, thấy vợ của đứa em thứ hai bèn lôi tuột đi, thừa dịp thuận gió mà nhổ thuyền. Đứa em thứ hai trở về, mới kinh hoảng là đă mất vợ, đuổi theo, nhưng ngàn cánh buồm lẫn lộn, chẳng thể t́m được. Đến hôm sau, người anh cả tay xách nách mang trở về, vợ chồng đoàn tụ. Người làng đều đến thăm hỏi, đứa em thứ hai hổ thẹn tột bậc. Hắn nghe hai đứa con thơ khóc lóc v́ nỗi lẻ loi mà đứt từng khúc ruột! Người làng có kẻ biết chuyện, không ai chẳng ngấm ngầm cười nhạo! Phàm là những kẻ kính thuận hay khinh dối anh em, so với [chuyện lừa gạt, khinh rẻ] người khác, báo ứng họa hay phước gấp mười! Nếu [lừa dối, khinh rẻ] cha mẹ, sẽ [mắc quả báo] gấp trăm lần, há chẳng đáng sợ ư? Há chẳng đáng răn dè ư?

 

          (Chánh văn) Chánh kỷ hóa nhân.

          (正文)正己化人。

          (Chánh văn: Sửa ḿnh [cho chánh đáng] ḥng dạy người khác).

 

          “Chánh” () là đích xác, chẳng thể đổi khác. “Hóa” (, giáo hóa) là chuyện tự nhiên. Có nghĩa là bản thân đă chánh đáng, chẳng ép buộc mà người khác sẽ hành theo. Đă đổ công dốc sức giữ ḿnh chánh đáng, sẽ có nhiều loại diệu dụng giáo hóa người khác. Người có thể giữ ḿnh chánh đáng, chưa hề chẳng thể khiến cho muôn loài đều chánh đáng theo. Bởi lẽ, do người ấy đă chánh, ai nấy đều kính trọng, người ta sẽ biết chỗ đáng tôn kính [của người ấy], đấy chính là chỗ để chuyển hóa cái tâm của họ. Nếu đối với chỗ có thể chuyển hóa ấy, [ta do] ḷng chí thành khiến cho họ cảm động đôi chút, họ sẽ tự nhiên vừa được khơi gợi bèn chuyển biến. Vừa được khơi gợi, [thiện tâm, chánh tâm] sẽ tỏ lộ, không ai chẳng thuận theo. Nếu tự cho ḿnh là chánh đáng, phán xét kẻ khác là bất chánh, chỉ trích họ đôi chút, ắt họ sẽ chẳng cam ḷng tiếp nhận lời dạy, sẽ ương bướng tranh căi đến đầu đến đũa, cũng chẳng phải là đă ngược ngạo dập tắt thiện tâm của họ hay sao? Đấy chính là căn bệnh chung của những kẻ ưa chuộng điều thiện trong thời gần đây! Thường là v́ hành xử quá thô tháp, họ (người mà ta mong giáo huấn) sẽ chấp trước, chẳng chuyển! Hăy nên răn dè sâu xa! Hăy cẩn thận, chớ bỏ ruộng ḿnh đi cày ruộng người! Vương Báo sống ở Kỳ Thủy, người Hà Tây đều giỏi ca hát, Miên Câu ở Cao Đường, người xứ Tề Hữu[19] đều khéo ca xướng. Đâu có phải là do hai người ấy chỉ dạy tiết tấu cho từng người, hằng ngày dạy họ phách nhịp!

          [Tánh t́nh] thanh cao th́ đáng quư nhất là có thể bao dung, người nhân từ th́ cốt sao phải quyết đoán. Đừng v́ [kẻ khác] thí xả ân huệ nhỏ nhoi [đối với ḿnh] mà [nể nang ân nghĩa đến nỗi] tổn thương đại thể; đừng mượn danh nghĩa công chánh để xử sự theo t́nh cảm thiên vị riêng tư. Ở trong hoàn cảnh bận bịu, phải nên biết cách giữ ḿnh nhàn tản, lúc gấp rút càng nên giữ ḿnh thong dong, lúc vô sự đừng quên đề pḥng, tự kiểm điểm. Khi có việc th́ phải kiên nhẫn, chịu đựng, đừng v́ thành kiến mà chất chứa nghi ngại [đối với kẻ khác]. Đừng cố chấp kiến giải của chính ḿnh để rồi cự tuyệt những lời can gián. Có chừng mực phân minh, sẽ có thể giảm bớt việc. Chẳng quan tâm lời khen, tiếng chê, tâm sẽ có thể thanh tịnh. Do chánh trực, có thể cảm thông thần minh. Do trung tín, sẽ có thể ở nơi biên địa, kém văn minh, mà vẫn chẳng bị trở ngại. Nhân phẩm phải đến mức như thế th́ mới gọi là “chánh” được!

          Cái tâm đă chánh rồi th́ sau đấy mới có thể khiến cho bản thân ḿnh cùng muôn vật được đoan chánh. Cái tâm đă chánh, muôn vật sẽ định. Bởi lẽ, sự cảm nhiễm do thanh sắc bên ngoài chỉ là những chứng bệnh nơi cành nhánh. T́nh thức hư vọng phát khởi từ bên trong, đấy là căn bệnh nơi cội gốc. Người học đạo trước hết hăy nên đối trị nội tâm để ngăn ngừa [sự dụ dỗ, mê hoặc từ] bên ngoài. Chớ nên tham đắm ngoại cảnh khiến cho nội tâm bị tổn hại. [Như vậy th́] cái tâm đă được kiến lập chánh đáng, muôn vật chẳng hề có thứ ǵ không bị cảm hóa theo. Bởi lẽ, căn bản của nhất tâm đă mạnh mẽ, chắc thật, tự nhiên muôn vật [vốn là] những thứ cành lá sẽ tươi tốt. Do vậy, muốn hướng dẫn muôn loài th́ cái tâm phải thanh tịnh. Để khiến cho người khác chánh đáng th́ chính ḿnh phải chánh đáng trước đă.

          Vào đời Tống, thiền sư Phù Sơn Viễn đă nói: “Tâm là chủ của thân, là căn bản của muôn hạnh. Tâm chẳng diệu ngộ, vọng t́nh tự sanh. Vọng t́nh đă sanh, sẽ chẳng thấy rơ Lư, sẽ lầm loạn giữa đúng và sai. V́ thế, để đối trị cái tâm, cần phải cầu diệu ngộ. Hễ ngộ, ắt thần ḥa khí tĩnh, vẻ mặt, tư thái trang trọng, cung kính. Vọng tưởng và những t́nh thức ưu lự đều bị ḥa tan trong chân tâm. Đấy là cách để chánh tâm vậy”.

          Đời Hậu Hán, Quách Thái, tự Lâm Tông, [có lần] ngồi cùng thuyền với quan doăn đất Hà Nam là Lư Ưng[20]. Người khác trông thấy [hai vị ấy], ngỡ là được lên thuyền tiên. Triều đ́nh nhiều lượt chèo kéo [Quách Thái ra làm quan, ông] đều chẳng chiều theo. Tánh ông khéo biết nh́n người, ưa cổ vũ, khích lệ các kẻ sĩ khiến họ đạt nhiều thành tựu. [Quách Thái] trông thấy Mao Dung đụt mưa, ngồi ngay ngắn, bèn khuyên hăy đi học. [Do biết] Mạnh Mẫn làm vỡ b́nh hoa mà chẳng xót xa, Quách Thái cho là Mạnh Mẫn có tánh cách quyết đoán, cũng khuyên nên học hành. [Về sau], họ đều trở thành bậc danh nho. Ông đề bạt Thân Đồ Bàn vốn là thợ chế sơn, ông nhận biết kẻ canh cửa là Dữu Thừa [là người có tài đức, đều khuyến khích họ gắng sức lập thân]. Những kẻ khác xuất thân là đồ tể, bán rượu, hoặc lính tráng, do được Quách Thái khích lệ, tiến cử đều thành danh rất đông. Một học sinh trong quận là Tả Nguyên do phạm pháp mà bị mọi người bài xích, gặp Quách Thái, ông bèn an ủi: “Xưa kia Nhan Trác Tụ là kẻ trộm lớn tại Lương Phủ, Đoàn Can Mộc cũng là kẻ buôn ngựa nơi đất Tấn, rốt cuộc họ trở thành bậc trung hiền của nước Tề, nước Ngụy. Đừng tức giận, căm hận, hăy trách chính ḿnh mà thôi!” Nếu có kẻ dị nghị Quách Thái chẳng tuyệt giao với kẻ ác, ông đáp: “Người mà chẳng có ḷng nhân từ, lại chán ghét [kẻ ác] quá đáng, họ sẽ làm loạn”. Tả Nguyên đang muốn kéo bè kéo đảng để báo cừu, do được Quách Thái chỉ bảo bèn thôi. Giả Thục tánh t́nh âm hiểm, là mối lo cho làng nước. Quách Thái để tang mẹ, tiếp nhận phúng điếu của gă ấy. Có người trách móc, ông Quách bảo: “Trọng Ni (Khổng Tử) chẳng cự tuyệt người cùng làng. Tử Nguyên gột ḷng, hướng về điều lành; v́ thế, tôi tán dương những điểm tiến bộ của ông ta”. Giả Thục nghe nói, bèn tự sửa đổi, trở thành bậc thiện sĩ. Những người như Sử Thúc Tân, Hoàng Doăn v.v… đều có tiếng tăm hiển hách, nhưng Quách Thái biết họ chẳng chân thật, cho là họ ắt sẽ suy bại. Về sau, quả đúng như vậy. Khi mối họa do quan lại kéo bè kết đảng [tranh giành quyền lực] nổ ra, những người nổi tiếng phần nhiều bị mắc họa, chỉ riêng Quách Thái do “ẩn giấu điều ác, phô bày điều thiện” là tránh khỏi màng lưới mưu toan hăm hại trong cơi đời. Khi ông mất, hơn một ngàn người đưa tang, cùng nhau khắc đá, lập bia. Thái Ung[21] nói: “Tôi đă soạn khá nhiều những bài văn khắc trên bia mộ hoặc làm bài minh, chỉ riêng ông Quách là có đạo đức, chẳng thẹn [với những lời ca tụng trên văn bia] vậy!”

          Đời Tống, Tư Mă Ôn Công trung hậu, chánh trực, tiếng tăm vang dội cả nước. Ông sống tại Lạc Dương, [do chịu ảnh hưởng của ông], phong tục biến đổi, không ai chẳng tôn trọng, giữ vẹn danh tiết, ngượng ngùng chẳng muốn bàn tới chuyện tài vật, lợi lộc. Ai nấy đều biết giữ liêm sỉ, hễ con cháu trong nhà muốn làm chuyện ǵ, ắt đều răn nhắc: “Chớ làm chuyện bất thiện, sợ Tư Mă Đoan Minh[22] biết đến!”

          Huyện lệnh Ung Khâu là Lưu Củ dùng lễ nghĩa giáo hóa dân. Hễ có kẻ đến thưa kiện, ắt sẽ dùng vẻ mặt ḥa nhă, thiết tha răn dạy: “Có thể nhẫn nại trước cơn tức giận, chắc chắn sẽ khỏi phải đến chốn công đ́nh”, bảo họ trở về suy nghĩ kỹ hơn. Kẻ thưa kiện bị cảm động, giác ngộ, liền băi nại. Ông biến đổi phong tục to lớn, đức hạnh của dân chúng trở thành sâu dầy. Hễ [người làm quan] ngồi xử án, phán quyết, vốn phải v́ dân, thế mà có kẻ chấp nhặt pháp luật quá lố, lại chẳng hiểu rơ t́nh h́nh dân chúng, thường có chuyện cứ khăng khăng vận dụng h́nh pháp đến nỗi [kẻ t́nh nghi] bị mất mạng! Sao không khiêm hư, b́nh đẳng, khoan dung để thấu đạt t́nh lư vậy thay?

          Đời Hậu Hán[23], Trần Thật sống trong làng quê, dùng cái tâm công bằng hướng dẫn mọi người. [Trong làng], hễ có chuyện kiện cáo, liền mời ông làm người phân xử. Ông huấn dụ cặn kẽ đủ mọi lẽ, [khiến cho sau phán định], họ lui về chẳng ôm ḷng oán hận. Họ c̣n nói: “Thà bị h́nh phạt, chớ bị ông Trần nêu ra khuyết điểm”. Đă từng có kẻ trộm núp trên kèo nhà, Trần Thật ngồi dậy, cầm đuốc, gọi con em bảo: “Làm người chẳng thể không cố gắng. Kẻ bất thiện chưa chắc vốn là ác, do huân tập mà thành tánh; v́ thế, đến nông nỗi này, [trở thành] kẻ đầu trộm đuôi cướp!” Tên trộm kinh hoảng, gieo ḿnh xuống đất xin tha tội. Trần Thật thong thả khuyên nhủ, tặng hắn hai xấp lụa, bảo hăy tự sửa đổi. Sự giáo hóa của ông lan khắp huyện, chẳng c̣n có nạn trộm cắp nữa!

          Vũ Hậu (Vũ Tắc Thiên) soán ngôi nhà Đường. [Cháu của Vũ Hậu] là Vũ Thừa Tự và Vũ Tam Tư[24] lo toan để được trở thành Thái Tử. Ư Thái Hậu chưa quyết. Địch Nhân Kiệt tận trung với nhà Đường, thường thong dong nói với Thái Hậu: “Văn hoàng đế (Đường Thái Tông) dăi gió dầm mưa để định thiên hạ, truyền cho con cháu. Đại đế (Đường Cao Tông)[25] phó thác hai con[26] cho bệ hạ. Nay bỏ ḍng họ của các vị ấy đi, có nên hay không? Hơn nữa, giữa cô cháu và mẹ con, đằng nào thân thiết hơn? Bệ hạ lập con [nối ngôi], ắt ngàn đời muôn năm sau, được thờ phối hưởng trong Thái Miếu, vĩnh viễn tiếp nối chẳng cùng. Lập cháu, ắt chưa hề nghe có chuyện cháu làm thiên tử sẽ thờ kèm thêm cô trong miếu [thờ tổ tiên]!” Do vậy, ông khuyên Thái Hậu triệu Lư Lăng Vương[27] về, lại lập làm Thái Tử. [Ông đă có công] biến đổi nhà Châu thành nhà Đường[28]. Về sau, ông được cử làm B́nh Chương Sự[29], tước phong Lương quốc công.

          Thời Ngũ Đại, Pḥng Cảnh Bá làm Thái Thú huyện Thanh Hà. Mẹ là Thôi Thị thông thạo kinh điển, rất hiểu biết. Có một phụ nữ ở Bối Khâu tố cáo con ḿnh bất hiếu. Mẹ ông Pḥng nói: “Dân chưa biết lễ nghĩa, há đáng quở trách sâu nặng?” Bèn gọi người mẹ ấy đến, bảo ngồi đối diện bên bàn cùng ăn, sai đứa con đứng hầu phía dưới, xem Cảnh Bá dâng cơm cho mẹ. Suốt mười ngày như thế, đứa con ấy hối lỗi, xin về. Mẹ [ông Cảnh Bá] nói: “Tuy vẻ mặt đă lộ vẻ hổ thẹn, nhưng cái tâm chưa quyết!” Lại giữ thêm hai mươi mấy ngày nữa, đứa con ấy dập đầu đến chảy máu, mẹ hắn chảy nước mắt xin về. Sau đấy, nghe thấy đứa con ấy được khen là hiếu thảo.

          Anh em Thí Tá và Thí Hữu đều làm Tri Châu, từ quan về nhà. Do phân chia ruộng đất không công bằng, giữa cốt nhục với nhau có mối hiềm khích. Thân hữu chẳng thể ḥa giải được! Người cùng huyện là ông Nghiêm Khê Đ́nh, tên là Phượng, một niềm hiếu hữu (hiếu thảo với cha mẹ, ḥa thuận với anh em), phụng sự anh như cha, giúp đỡ, che chở, thương yêu chẳng sót chút ǵ! Ngẫu nhiên, ông Nghiêm ngồi cùng thuyền với Thí Hữu, Thí Hữu nhắc tới chuyện gia sản. Ông Nghiêm chau mày nói: “Anh tôi nhu nhược, tôi chính v́ chuyện này mà khổ năo! Giá được như anh của ông có thể tận hết sức đoạt sạch ruộng của tôi, tôi c̣n phải lo lắng chi nữa?” Nhân đấy, gạt nước mắt không ngừng. Thí Hữu động ḷng, cảm ngộ, bèn mời ông Khê Đ́nh (Nghiêm Phượng) cùng đến nhà anh ḿnh. Ông vừa lạy, vừa khóc, tự hối hận, tự trách sâu xa. Thí Tá cũng rơi nước mắt, an ủi. Mỗi người đều muốn nhường ruộng cho nhau, bèn suốt đời ḥa thuận, yêu thương nhau. Đến nay, cả hai người bọn họ đều có con cháu đông đúc. Người đời vẫn thích bàn về chuyện ấy!

          Trong ba câu chuyện trên đây, trung, hiếu, thuận thảo, sẽ cảm hóa người khác, vốn chỉ là tự giữ thân ḿnh tốt đẹp, sẽ khiến cho người khác được cảm hóa giống như vậy. Càng thấy rơ thiên tánh vốn tốt lành như thế đó!

 

          (Chánh văn) Căng cô tuất quả, kính lăo hoài ấu.

        (正文)矜孤恤寡。敬老懷幼。

          (Chánh văn: Thương xót con côi, cứu giúp quả phụ. Kính già, thương trẻ).

 

          Ông Vu Thiết Tiều nói:

          - Mẹ góa, con côi là nỗi bất hạnh trong đời người. Già cả, ấu thơ, đời người ắt phải trải qua. Thương xót, cứu giúp, kính trọng, quan tâm cũng là do lương tâm tự nhiên dấy động. Nếu chẳng phải là kẻ tột bậc hung bạo trong thiên hạ, sẽ chẳng thích bức hiếp người cô quả, khinh người già, lừa gạt trẻ thơ! Nhưng sự cai trị của Văn Vương cũng chẳng ngoài “ai thử quỳnh độc” (哀此煢獨, xót thương những người cô quạnh), chí của phu tử cũng chẳng ngoài “lăo an thiếu hoài” (老安少懷, yên già, quan tâm trẻ). V́ sao? Thiện tâm dễ sanh, thiện lượng (善量, tâm lượng tốt lành) khó trọn. Kẻ không có sức cố nhiên hăy trọn hết tấm ḷng này. Kẻ có sức hăy nên ra sức thực hiện chuyện thương xót, giúp đỡ. Thân thiết thực hiện công phu thành kính, quan hoài, chớ nên viện cớ “có tấm ḷng [là được rồi]” để qua quưt cho xong chuyện. Thơ của Bạch Thái Phó (Bạch Cư Dị) có câu: “Tuế thời xuân nhật thiểu, thế giới khổ nhân đa” (Năm tháng ngày xuân ít, thế gian kẻ khổ nhiều). Lại có câu: “Vật t́nh tiểu khả niệm, nhân ư lăo đa từ” (T́nh cảm đối với muôn vật th́ đáng hoài niệm nhất là lúc bắt đầu, đối với t́nh cảm con người th́ phải nhân từ đối với người già cả). Lời lẽ của bậc có ḷng nhân khiến cho người đọc cảm thấy rất vui sướng.

          “Cô” () là kẻ chưa thể trưởng thành, cha mẹ đă sớm qua đời, hoặc là mẹ chết, cha vừa mới tục huyền, hoặc là cha chết, mẹ lại tính đi thêm bước nữa. Tệ nhất là cả cha lẫn mẹ đều chết, c̣n bé bỏng mà đă côi cút, bất hạnh đến mức ấy, t́nh cảnh khôn kham! Dẫu kẻ qua đường c̣n sanh ḷng thương xót, huống là thân bằng quyến thuộc, họ hàng, càng khó thể ơ hờ được! “Căng” () là thương xót. Điều đáng phải nên có là tấm ḷng chí thành thương xót, nuôi nấng, dạy bảo, khiến cho kẻ không nơi nương tựa có chỗ nương tựa, không nơi gởi gắm bèn có chỗ gởi gắm cho tới khi đă trưởng thành, tự lập mới thôi! Gieo đức dầy trong nhân gian, an ủi u hồn dưới suối vàng, quả báo đạt được há nông cạn ư?

 

Phụ lục: Biện pháp tổ chức Từ Ấu Cục (viện mồ côi)

 

          Tại các quận, huyện của nhà Đại Tống, đều lập Từ Ấu Cục. Phàm con cái của những nhà nghèo muốn được nuôi dưỡng, đưa đến viện, sẽ được sắp xếp nhũ mẫu chăm sóc, nuôi nấng. Hoặc là kẻ không có con cái, đến Từ Ấu Cục xin về. Ngay trong những năm đói kém, cũng chẳng bỏ [chuyện từ thiện này], chánh sách thương xót cô nhi dưới đời Tống cặn kẽ như thế đó. Cho đến nay, phong cách nhân từ được phổ biến rộng răi, nhiều người chuộng làm lành. Những nơi như kinh đô, Dương Châu, Tô Châu v.v… đều lập Dục Anh Đường (cô nhi viện), cách thức này càng thêm chu đáo, tỉ mỉ. Gom tiền của để lập ra một nơi có căn nhà trống to lớn, bốn phía là tường cao. Trong nhà ắt có đầy đủ giường, bếp, đồ vật dùng để nấu nướng, ăn uống. Phía trước làm cửa nhỏ, có then cài. Đàn ông không được vào đó; chọn người lăo thành, nghiêm nghị trông coi. Những phụ nữ nghèo, mập mạp, mạnh khỏe, đă có con, muốn làm nhũ mẫu th́ cho họ đem theo con sống trong ấy, cấp thức ăn theo hạn lượng. Ngoài cửa đặt một cái trống lớn. Kẻ sanh con mà chẳng muốn nuôi dưỡng, đặt con trong giỏ, viết họ, và ngày sanh tháng đẻ, gắn tờ giấy ấy lên trên, chờ lúc chiều tà hoặc đêm tối không có ai, đưa tới ngoài cửa, đặt con dưới đất, đánh một tiếng trống. Người trong viện nghe tiếng trống, sẽ ra cửa nhận lấy, người cho con đă đi rồi. [Làm như vậy] v́ sợ người ấy hoặc là ôm niềm hổ thẹn; hoặc v́ sợ mắc họa mà không muốn cho kẻ khác trông thấy. Trẻ được đưa tới bèn cử người có sữa làm nhũ mẫu. Cách dùng họ của người [nhũ mẫu] ấy để gọi trẻ sợ rằng do lâu ngày sẽ quên mất [họ thật của nó], hoặc nếu có nhiều đứa trẻ [mang cùng họ], sẽ gây ra lầm lẫn. Mời một y sĩ có kinh nghiệm già dặn về bệnh tật trẻ con đến chẩn đoán, chăm sóc bệnh cho trẻ. Lập một chỗ làm nghĩa trang từ thiện. Có trẻ nào chết yểu bèn khâm liệm rồi chôn tại đó. Thuê thêm hai ba phụ nữ siêng năng. Trẻ dứt sữa, liền giao cho họ chăm sóc. Một phụ nữ có thể chăm sóc mấy đứa trẻ. V́ thế, [cách làm này] khiến cho trẻ đến sau cũng có người chăm bẫm, nuôi nấng. Nhũ mẫu nào cạn sữa, ra khỏi viện, nếu yêu mến đứa trẻ mà ḿnh đă cho bú, cho phép bà ta mang theo. Trẻ được năm, sáu tuổi, hăy xét xem phẩm chất của nó là cao hay thấp mà dạy dỗ. Ở ngoài viện mồ côi, lập một chỗ dạy vỡ ḷng, mời một vị thầy [đến dạy]. Trẻ trai sáng dạ bèn dạy cho nó học hành. Trẻ ngu độn bèn bảo nó làm những việc quét dọn trong viện, trong trường. Trẻ gái tánh t́nh đoan trang, khéo léo, nhũ mẫu sẽ dạy những việc thuộc về nội trợ, dạy nó thêu thùa, may vá. Đứa đần độn, vụng về th́ cũng sai nó làm các việc vặt. Trẻ trai mười tuổi trở lên, không được vào trong nội đường nhằm tránh mọi nỗi hiềm nghi. Hoặc là cho nó làm người thừa kế cho kẻ không có con, hoặc cho tăng sĩ, đạo nhân làm hương đồng[30], hoặc làm kẻ hầu cho những nhà khá giả. Tùy theo tài năng của nó mà quyết định đưa nó đến đâu ḥng tùy duyên nương cậy. Chẳng lấy tiền chuộc thân cho chúng, chẳng lo chúng nó sẽ không có nơi sống. Tuy hết sức kém hèn, vẫn tốt hơn là chết non! Nếu trẻ có tài năng khác người, mai sau có thể tự thành gia lập nghiệp, chẳng phải là trách nhiệm của người chủ cô nhi viện. Nếu trẻ đă lớn có thể tự kiếm sống, có thể lập gia đ́nh, bèn cưới nữ nhân trong viện, dạy nó đừng lấy con gái nhà khác, nhằm biểu thị nó chẳng quên gốc vậy. Con gái chưa đến tuổi cài trâm, không ra khỏi cửa viện mồ côi. Đă cài trâm, bèn gả cho con nhà b́nh dân ngoài phố, sính lễ chỉ cần một chút quần áo, trang sức [là được rồi]. Nếu nhiều hơn, hăy đưa vào quỹ chung của viện, chẳng được gả cho người có học[31], mà cũng chẳng được bán làm tớ gái. Bởi lẽ, xuất thân khá hèn kém, chẳng thể khảo chứng nguồn gốc [tổ tiên]. Nếu trẻ gái có nhan sắc xinh đẹp, nhà giàu muốn mua làm thiếp, hăy nên cự tuyệt, để khỏi trở ngại đạo nghĩa. Đừng cho là sẽ được nhiều tiền sính lễ để dùng làm tiền chi dụng cho cô nhi viện [rồi nhận lời gả bán]. Trong số các vị thiện tín, cử ra người trung hậu, công chánh, khôn khéo, sáng suốt, giàu kinh nghiệm ứng phó, mà người đó lại có nhiều thời gian rảnh rỗi để đứng ra trông nom chung mọi việc. Phàm những chuyện như cho trẻ trai, trẻ gái ra khỏi viện, thâu nhập tiền bạc, cùng với những việc lớn nhỏ hằng ngày, không ǵ chẳng xem xét. Lập một thùng chứa đồ hiến tặng ở cửa, để những người thích làm điều nghĩa đi qua, [muốn cho] một đồng tiền, một nắm gạo [bèn bỏ vào đó. Mỗi thứ nhận được] không ǵ chẳng đều ghi chép tường tận. Quy mô đă thành, thiện duyên dần dần rộng hơn, có thể tiến hành lâu ngày chẳng đến nỗi phế bỏ. Đấy chính là điều thiện to lớn ḥng giúp cho sự sanh thành dưỡng dục của trời đất vậy. Chỗ khó khăn chỉ là gom được tiền bạc [để lập cô nhi viện] đó thôi! Nhưng trong một quận lớn, trẻ thơ bị vứt bỏ nhiều lắm, ắt chi phí sẽ nhiều, nhưng hàng thiện tín cũng nhiều. Quận nhỏ th́ thiện tín ít, mà trẻ bị bỏ rơi cũng ít, [cho nên] chi phí cũng ít. Tâm những người chuộng điều thiện giống nhau, nếu được đôi ba người đề xướng, không chỗ nào chẳng thể thực hiện được. Chẳng lo thiên hạ không có người thừa sức, chỉ lo chẳng có kẻ có thể phát nguyện to lớn đó thôi! Do vậy, thuật bày cặn kẽ, ḥng giúp cho người thích làm lành [có cái để cân nhắc] ḥng chọn lựa!

          Đời Tống, Diệp Mộng Đắc nói:

          - Tôi ở Hứa Xương nhằm năm bị lụt to, xác người chết trôi vô số. Tôi tấu tŕnh xin mở kho Thường B́nh để chẩn tế, cứu sống hơn mười vạn người, nhưng không có cách nào cứu giúp những trẻ thơ bị ruồng bỏ! Ngẫu nhiên hỏi những người chung quanh: “Cớ sao những người không có con chẳng thu dưỡng [những đứa trẻ bị vứt bỏ ấy]?” Họ thưa: “Người muốn nuôi con th́ có, nhưng họ sợ đến năm được mùa, cũng như đến khi con khôn lớn, cha mẹ nó lại đến nhận”. Do vậy, tôi lập ra phương cách: “Phàm là những kẻ v́ gặp tai ương, hay thương tật, phải ruồng bỏ con thơ, cha mẹ sẽ không được phép nhận lại con”. Cho in mấy ngàn tờ bằng khoán để trống cấp cho trong ngoài. Phàm những kẻ nhận con nuôi, sẽ tự nói có được đứa con ấy từ chỗ nào, viết rơ trong bằng khoán, coi như chứng thư hộ tịch. Người nhận nuôi nhiều sẽ được thưởng. Lại c̣n đem gạo c̣n dư từ kho B́nh Thường, cân nhắc số lượng, để ban cho người nghèo làm vốn. Việc định xong, tính theo số bằng khoán đă lập, có đến ba ngàn tám trăm người [dùng phương thức ấy để nhận con nuôi]. Kẻ làm quan cũng nên biết chuyện này. Lại từ khi chiến tranh nổ ra cho đến nay, có những kẻ phải ẩn nấp trong rừng rậm, có nhiều kẻ v́ [bọn giặc] nghe tiếng trẻ khóc mà chẳng tránh khỏi bị hại. V́ thế, kẻ tránh giặc liền vứt bỏ trẻ thơ không đoái hoài. Có kẻ bày kế lấy viên bông g̣n bỏ vào miệng trẻ, khiến cho nó ngậm miệng mà trẻ không bị ngạt, hoặc [cục bông ấy] chứa sẵn ít bột cam thảo, khi cho trẻ ngậm th́ thấm nước để nó nút cục bông, nếm vị ấy. Trẻ trong miệng có vật ấy, sẽ chẳng phát ra tiếng. Bông g̣n mềm lại chẳng làm miệng trẻ bị thương. Do vậy, cho in phương pháp ấy thành nhiều bản để yết thị, khiến cho trẻ thơ được toàn mạng rất nhiều. Kẻ gặp những biến cố [binh đao] cũng nên biết điều này!

          Đời Tống, ông Trương Hiếu Cơ làm rể cho một người giàu có cùng quận. Người giàu có ấy sanh một đứa con không ra ǵ, bèn đuổi ra ngoài. Đến khi người giàu có ấy bị bệnh, lúc sắp chết, đă giao hết gia tài cho Hiếu Cơ. Về sau, đứa con của người giàu ấy làm kẻ ăn mày, Hiếu Cơ thương xót đứa con côi ấy; do vậy, bèn hỏi nó: “Có thể tưới vườn hay không?” Nó đáp: “Nếu có cái ăn th́ may mắn lắm thay!” Ông liền thâu nhận, sau đấy lại hỏi: “Có thể quản lư nhà kho hay không?” Thưa: “Tưới vườn là đă may quá rồi, được quản lư kho th́ càng may mắn quá!” Ông liền cho nó trông kho. Hiếu Cơ quan sát thấy cẩn thận, thật thà, chẳng c̣n thái độ cũ, bèn trả hết toàn bộ gia tài cho nó. Sau khi Hiếu Cơ đă mất, bạn ông đến chơi Tung Sơn, trên đường gặp một đoàn xe cắm đầy cờ xí, dường như là xe của bậc đại quan. Trộm nh́n người ngồi trên xe, th́ ra là Hiếu Cơ, bèn vái chào, hỏi nguyên do. Ông đáp: “Thượng Đế do thấy tôi trả lại tài sản, chẳng lấn hiếp đứa con côi, sai tôi làm chủ núi này”. Nói xong, chẳng thấy đâu nữa!

          Thời Châu, người đàn bà đạo nghĩa nước Lỗ chính là vợ một người dân nước Lỗ. Người Tề tấn công nước Lỗ, người đàn bà đạo nghĩa ấy bỏ đứa trẻ đang ẵm, để bồng lấy đứa trẻ đang dắt. Quân Tề hỏi: “Đứa bé bị bỏ là ai?” Người đàn bà đáp: “Con tôi”. Lại hỏi: “Đứa bé đang được ẵm là ai?” Người đàn bà đáp: “Con của anh tôi”. Quân lính hỏi: “V́ sao ngươi lại bỏ đứa con do ḿnh sanh ra để ẵm con của anh?” Đáp: “Con đối với mẹ là t́nh yêu thương riêng tư. Cháu đối với cô là đạo nghĩa chung. Bỏ công theo tư, bỏ mặc đứa con côi của anh, thiếp chẳng làm được!” Quân Tề nói: “Nước Lỗ có người đàn bà c̣n giữ tiết hạnh [như thế], huống hồ là vua của xứ này!” Bèn rút quân về. Vua nước Lỗ nghe chuyện, ban thưởng, gọi là Nghĩa Cô (義姑, người cô có đạo nghĩa). Ôi! Người đàn bà nước Lỗ do bảo vệ đứa con côi, do một lời mà giữ yên đất nước. Nay những kẻ được gọi là bậc tu mi nam tử lại trái nghịch đạo nghĩa, sống thừa, đối với bà này, há có thể không hổ thẹn chút nào ư?

          Đời Thục Hán[32], Trương Duệ thuở bé chơi thân với Dương Cung. Dương Cung mất, để lại đứa con côi mới được mấy tuổi. Trương Duệ đón mẹ Dương Cung về phụng dưỡng, cưới vợ cho con của Dương Cung, mua nhà cửa, ruộng đất cho nó. Mọi người kính trọng đạo nghĩa của ông. Về sau, ông làm Thái Thú Ích Châu.

          Trầm Gia Mô, người xứ Ngô Giang. Khi cha ông làm quan Hoàng Môn[33], ông sống trong làng, ưa chuộng đạo nghĩa. Cùng huyện có đứa con của người họ Cố mới mười tuổi, mồ côi mà gia nghiệp khá dư dả. Khi ấy, đang gặp mối lo trộm cướp, quan huyện triệu tập các tay thế gia vọng tộc [trong huyện] để bàn chuyện các nhà giàu có phải lo chuyện cung cấp lương hướng cho quân đội. Mọi người đều nói: “Không ai bằng đứa con nhà họ Cố”. Riêng ḿnh ông Trầm Gia Mô lo ngại nói: “Nó là đứa con côi non dại, làm sao có thể kham nổi việc này”. Mọi người nói: “Nó có nhiều tôi tớ sẽ có thể lo liệu được”. Ông bảo: “Tôi chính là v́ lo những kẻ tôi tớ có quyền thế, sẽ mượn việc quân nặng nề ấy để lừa dối, lấn hiếp ấu chủ, nhà ấy sẽ bị phá tan ngay. Nếu cứ muốn cử con nhà họ Cố đảm nhiệm việc binh, tôi xin đi thay cho nó”. Ông vui vẻ ghi tên của chính ḿnh. [Sau đó], chiến sự phát sanh suốt mấy năm, chẳng phiền đến đứa con nhà họ Cố. Cả huyện ca ngợi nghĩa khí của ông Trầm.

          “Quả” (, góa bụa) là tuổi c̣n đang trẻ trung, chồng bỗng ĺa đời, h́nh đơn bóng chiếc, mắt nh́n toàn thấy những cảnh tượng buồn tênh. Huống hồ con cái thơ dại, trăm sự chẳng có người lo liệu. Mạnh Tử gọi t́nh cảnh này là cùng nhi vô cáo” (窮而無告, cùng quẫn, không có nơi nương cậy). “Cùng” () là tột bậc. Tai họa biến đổi như thế, há chẳng phải là cùng cực cư? Muốn nói, há có ai để thổ lộ, chẳng phải là không nơi nương cậy ư? “Tuất” () là châu cấp, nâng đỡ, nuôi thân họ, thành tựu tiết hạnh cho họ. Con người sống giữa trời đất, chỉ có góa phụ là khổ sở nhất. Lúc trẻ th́ bị kẻ cường bạo hiếp đáp. Giàu th́ ḍng họ cắn nuốt. Già th́ run rẩy, ai thương xót? Nghèo th́ không có cách nào lo liệu áo cơm. Nếu bà góa không con, lập chí thủ tiết, càng là khó có. Ai có thể thương xót, giúp đỡ họ, ắt đủ cảm thông Thượng Đế trên chín tầng trời, cảm động quỷ thần trong tam giới, há nên nói là ân huệ nhỏ nhặt ư?

          Đời Minh, Đỗ Hoàn ở Kim Lăng, cha là Nhất Nguyên, chơi thân với Thường Doăn Cung. Doăn Cung chết, mẹ đă già, không nơi nương tựa, đội mưa tới nhà Đỗ Hoàn. Khi ấy, Nhất Nguyên đă chết, Đỗ Hoàn kinh ngạc hỏi nguyên cớ. Bà mẹ khóc lóc, kể nguyên nhân. Đỗ Hoàn cũng khóc, đỡ bà cụ ngồi lên, bái lạy, bảo người nhà phụng dưỡng cụ như bà nội. Bà cụ tánh nóng nảy, hễ có chuyện ǵ hơi chẳng vừa ư, bèn tức tối, trách móc. Đỗ Hoàn thuận theo, hầu hạ rất cẩn thận. Khi bà cụ bị bệnh, ông đích thân hầu hạ thuốc men. Khi lâm chung, cụ nói: “Tôi đă làm phiền ông Đỗ, nguyện con cháu ông Đỗ đều được như ông Đỗ”. Cụ mất đi, ông Đỗ mai táng, lễ nghi châu đáo tột bậc. Hằng năm đều bái tế mộ phần, người đời xưng tụng ông là bậc đạo nghĩa cao trọng.

          Châu Huy ở Nam Dương cùng huyện với Trương Kham. [Thiên hạ] thường nói: “Trương quân vi chánh, lạc bất khả chi giả dă” (Ông Trương cai trị, vui sướng khôn ngằn). Trương Kham gặp Châu Huy trong trường Thái Học, đăi nhau bằng t́nh bạn thân thiết, nắm tay dặn ḍ: “Mai sau tôi qua đời, xin cậy anh chăm sóc vợ con giùm”. Châu Huy do thấy Trương Kham là bậc tiền bối về đức hạnh lẫn học vấn, chẳng dám nhận lời. Sau đấy, chẳng c̣n gặp nhau nữa. Sau khi Trương Kham mất, Châu Huy nghe vợ con ông Kham nghèo nàn, khốn khó, bèn xẻ cơm, nhường áo. Con của Châu Huy lấy làm lạ, thắc mắc: “Cha đă chẳng phải là bạn của ông Trương, cớ sao bỗng làm như thế?” Châu Huy đáp: “Ông Kham đă từng thốt lời tri kỷ như thế, cha đă ghi tạc trong ḷng”. Về sau, Châu Huy cai quản vùng Lâm Hoài, cũng khéo cai trị, được dân chúng ca ngợi, làm quan đến chức Thượng Thư Bộc Xạ[34].

          Ôi! Nay th́ những kẻ mẹ góa con côi không nơi nương tựa, chỗ nào cũng có, há có được người giống như mấy vị trên đây thương xót, giúp đỡ, nuôi nấng vậy thay! Ở đây, xin khuyên những người có chí, hăy phỏng theo, lập hội từ thiện giúp đỡ những bà góa. Phương cách là quyên mộ bạn bè bỏ tiền ra, [lệ phí] hoặc nộp từng tháng, hoặc đóng mỗi năm. Tiền lệ phí giữ tại nhà người có sức (người dư dả), siêng năng ḍ hỏi những kẻ góa bụa lại nghèo hèn, cân nhắc để châu cấp mỗi tháng. Cố nhiên là công đức ngấm ngầm ấy sẽ không có ǵ to lớn bằng! Kẻ chẳng thể làm như thế th́ hễ thấy nghe bèn tùy sức châu cấp, giúp đỡ, cũng có ǵ chẳng phải là nhân đức ư? Chỉ sợ là kẻ có cái tâm ấy, nhưng luôn bị ngăn trở bởi hiềm nghi, gàn quải, hủy báng! Người có trí hăy nên suy nghĩ cách thức tốt đẹp để thực hiện.

          Đời Tống, ông Triệu Khang Tĩnh mồ côi [cha] từ lúc bảy tuổi. Bà mẹ dốc chí dạy dỗ ráo riết. Về sau, ông đỗ đạt, làm Học Sĩ[35]. Ông Triệu xin ấm phong cho mẹ. Tể Tướng nói: “Hễ có công to, sẽ được phong thưởng chẳng xa!” Ông thưa: “Mẹ tôi góa bụa, đă tám mươi rồi, sáng chẳng đảm bảo tối. Xin hăy ban thưởng ngay lúc này để mẹ được rạng mày nở mặt”. Tể Tướng chấp thuận. Lại có Lư Quân, mồ côi [cha] từ thuở lên ba. Có kẻ dụ dỗ mẹ ông tái giá, mẹ giận dữ quở trách: “Nghĩa vợ chồng là mối thiên luân, chết hay sống là do mạng lệnh của Thượng Đế. Ta thà chết đói, há nên tái giá hay sao?” Bèn quyết chí thủ tiết, dạy con đỗ đạt.

          Than ôi! Những người giống như thế, thần lẫn người đều khâm phục, kính trọng, ắt được báo đáp sâu dầy v́ họ tôn trọng nhân luân, há chỉ là con của họ được quư hiển ư? Chớ nên coi rẻ bà góa, cố nhiên là như thế. Nay lại dùng điều này để huấn thị, chính là v́ mong cho hết thảy các bà góa đều biết khuôn phép để tự lập, mà những kẻ là con côi cũng chớ nên tự ruồng rẫy, buông xuôi. Hăy nên nghĩ, những kẻ là cô nhi mà trở thành bậc hiền tài rất đông. Như Trương Sĩ Tốn đă nghèo lại mồ côi, rốt cuộc do gắng công dốc chí, làm tới chức Đài Phụ (Tể Tướng). Lữ Hối sang cả, nhưng mồ côi, do âm thầm tu tập mà thành bậc Trung Thừa nổi danh. Người ta mới biết ông là cháu nội của Lữ Huệ Công (Lữ Đoan). Những người khác như Lưu Chí, Âu Dương Tu, Trần Nghiêu Tá đều mồ côi từ bé, do tận lực học hành, làm tới chức B́nh Chương. Như thế th́ mới báo đáp đôi chút nỗi khổ của những bà mẹ góa giữ trọn tiết hạnh trong sạch vậy. [Cho nên] lại nêu bày lời khuyên lơn [như thế], dụng tâm hết sức thiết tha!

          “Lăo” () là người tuổi tác đă cao, là người trải đời đă lâu mà kinh nghiệm cũng lắm. “Kính” () là dốc hết ḷng thành biểu lộ ḷng yêu thương, trọn hết sức phụng dưỡng cho họ được an vui. Hoặc là mỗi niệm, mỗi chuyện đều chẳng dám lừa dối, khinh mạn, đấy cũng là Kính. Thọ đứng đầu trong ngũ phước, mà người già lại gần như cha. Chắc chắn là đời trước đă có căn khí, đời này nhất định là bậc tích đức; từng trải sự việc, đúng là bậc có thể nêu gương mẫu, [học hỏi từ họ] sẽ đạt được lợi ích chẳng ít, lẽ nào có thể khinh mạn ư? Nhưng người đời thấy họ già nua, run rẩy, nếu không chán ghét th́ sẽ lấn hiếp họ, ai chịu chú tâm kính trọng, phụng sự họ? Chẳng biết sách Luận Ngữ có nói: “Kính lăo đắc lăo”. Dương Đại Niên mới hai mươi tuổi đă đậu Trạng Nguyên, cùng với Châu Hàn và Châu Ngang làm việc trong cung. Hai ông đều đă già, họ Dương khinh rẻ, lấn lướt. Châu Hàn nói: “Anh đừng khinh tôi già, rốt cuộc sẽ đến phiên anh già đi”. Châu Ngang lắc đầu nói: “Đừng nói nữa để khỏi bị người ta làm nhục!” Họ Dương quả nhiên đang tuổi tráng niên mà chết ngóp! Tôi mong những gă thiếu niên khinh bạc đọc đến câu chuyện này, sẽ lập tức hối cải, lại giữ được tấm ḷng nhân hậu. Hễ gặp người già, hăy giữ tấm ḷng b́nh đẳng, bất luận phú quư, hay nghèo hèn, cốt sao một niềm kính yêu. Hành theo đó, ắt đầu bạc phơ, lông mày nhuốm bạc, ta cũng có phần vậy!

          Thái Tổ[36] huấn dụ Lễ Bộ rằng: “Đối với người tuổi tác phải dạy [bọn trẻ tuổi] kính trọng. Đối với chuyện phụng sự bậc trưởng thượng, phải dạy họ tuân thuận. Các đời Ngu[37], Hạ, Thương, Châu, không đời nào chẳng coi trọng bậc cao tuổi. Lễ nghĩa dưỡng lăo vốn chưa hề bị phế trừ; v́ thế, mọi người hưng khởi ḷng hiếu đễ, phong tục thuần hậu, chánh trị mới được tăng tấn, b́nh ổn. Các ngươi hăy nên truyền bảo mạng lệnh của trẫm”.

          Kinh Hoa Nghiêm chép: “Nguyện cho hết thảy chúng sanh phát tâm Bồ Đề, trọn đủ trí huệ, vĩnh viễn giữ trọn thọ mạng, chẳng bị kết thúc. Nguyện cho hết thảy chúng sanh, trọn đủ pháp tu hành ĺa già, chết. Hết thảy tai ương, độc hại chẳng hại mạng họ. Nguyện cho hết thảy chúng sanh, thành tựu trọn đủ tấm thân chẳng khổ năo v́ bệnh tật, thọ mạng tự tại, có thể tùy ư trụ thế. Nguyện cho hết thảy chúng sanh đạt được chẳng già, chẳng bệnh, thường trụ mạng căn, dũng mănh tinh tấn, nhập trí huệ của Phật”. Do điều này, ta thấy: Người già như mặt trời sắp khuất sau núi, thời gian hữu hạn, nếu chẳng cấp tốc tu hành như lửa cháy đến thân, lấy ǵ để giúp cho việc về Tây?

          Vương Bân từ bé bệnh tật rề rề, tự đoán ắt chính ḿnh chẳng thọ. Hễ thấy người già, thường kính trọng, hâm mộ. Hễ họ đi qua cửa, dẫu là người nghèo hèn, ắt đứng dậy [nhằm tỏ ḷng tôn trọng], đi đường ắt nhường lối. Về sau, Vương Bân dần dần khỏi bệnh, sức lực càng mạnh mẽ hơn, thọ đến chín mươi ba tuổi.

          Đời Tùy, có một vị tăng đă hơn trăm tuổi, hiểu sâu xa diệu nghĩa trong kinh Pháp Hoa, thường bảo đại chúng:

          - Bần tăng kính trọng người già như cha mẹ, phụng sự họ như Bồ Tát. Phàm những chuyện có thể tận sức, không ǵ chẳng dốc trọn tấm ḷng. Đời này được thông hiểu Phật pháp, hưởng thọ dài lâu, đều là do tôn kính người già mà ra. Hỡi đại chúng, chớ nên khinh miệt người già kẻo tổn phước, tổn thọ. Trong trường danh lợi, khảy ngón tay liền qua, vẫn phải nên thực hiện những công phu thuộc về bổn phận của chính ḿnh. Nếu không, sẽ là luống uổng đời người, lăng phí lần gặp gỡ này, đối với những nguyện như “nguyện ta thọ mạng lâu dài, siêng hành hết thảy các điều lành, nguyện ta phước đức hưng thịnh, rộng độ hết thảy mọi người” đều bị lỡ làng! Than ôi, kẻ thiếu niên chỉ biết cậy tài, khinh nhờn người già cả, chẳng biết tuổi thọ là cái được trời ban, người già được vua tôn kính. Dẫu có lắm tài, khó thể đạt đến địa vị ấy!

          Đời Tống, một nhà ông Ngô Nguyên Tự có tám người tuổi đă từ tám mươi, chín mươi, một trăm trở lên. Nhà vua tra hỏi nguyên nhân, [th́ ra nguyên nhân] là v́ cả mấy đời đều liên tiếp ăn ở với nhau bằng đạo nghĩa, chẳng chia rẽ. Vua biểu dương nhà ấy, ân sủng ban thưởng rất hậu. Khảo sát quy chế thiết lập trường Thượng Tường[38], [th́ thấy từ] thời Nghiêu, Thuấn đă có, tam đại (Hạ, Thương, Châu) đều tôn sùng quy chế ấy. [Chuyện này] được chép rất tường tận trong những sách như Lễ Kư v.v… Chí hướng của phu tử được thể hiện qua câu nói: “Lăo giả an chi” (Khiến cho người già được sống yên ổn). Nguyên tắc chỉ đạo luật pháp của đất nước và tâm chí của dân chúng, cả hai đằng đều đặt tại đó. Nếu nói “người già của kẻ khác liên quan ǵ đến ta”, há chẳng phải là bất kính ư?

          “Ấu” () là trẻ nhỏ thơ ngây, vô tri. “Hoài” () không chỉ là yêu thương chúng nó, mà c̣n là gởi gắm những niềm hoài vọng nơi ấy. Làm kẻ đă trưởng thành bèn yêu thương, che chở kẻ nhỏ hơn, đó là lẽ thường, là lẽ đương nhiên. Huống hồ có những đứa trẻ gặp gỡ cảnh ngộ chẳng tốt, khốn khổ đáng thương! Như là con của đời vợ trước, em cùng cha khác mẹ, con do vợ lẽ hoặc tỳ thiếp sanh ra. Nếu gặp kẻ ỷ ḿnh lớn hơn rồi cậy thế ức hiếp, đứa trẻ côi cút phải chịu cảnh thảm độc ngang trái, quá sức đáng thương! Suy rộng ra, đối với con thơ của người khác, cũng như đối với con cái của những nô tỳ, tôi tớ, càng phải thêm chú ư thương xót, chớ nên phân biệt đây kia, đến nỗi có kẻ toan tính tóm thâu gia sản của họ. Tức là kẻ làm bậc tôn trưởng, làm anh chị, ở rể tại nhà vợ, thường có những kẻ không có ḷng từ, bất nghĩa, hiếp đáp, ngược đăi con cái của bọn tôi tớ. Thậm chí dùng những thủ đoạn xảo trá, ngụy tạo khế ước, dặn ḍ những kẻ viết khế ước và làm chứng hăy làm chứng gian, đút lót cho bọn nha lại bẻ cong sự thật, khiến cho [những kẻ bị hại không có chứng từ ǵ] để kêu ca được. Lại c̣n có kẻ ngấm ngầm mưu toan tổn hại mạng người. Xưa kia, một nhà ông Lư Tri Bổn con cháu hơn trăm người, người lớn kẻ nhỏ giữ một niềm ḥa thuận với nhau. Anh em nhà Dương Thành bảo bọc những đứa con côi. Tiền bối dụng tâm như thế, đúng là đáng để noi theo!

          Đời Đường, Nguyên Đức Tú lúc nghèo, anh mất sớm, để lại đứa con côi mới đầy tháng, chị dâu lại chết nốt, cháu không có sữa để bú. Đức Tú đêm ngày buồn khóc, ẵm đứa con của người anh, đem đầu vú ḿnh cho đứa bé ngậm. Chừng mười ngày sau, vú bèn có sữa. Đứa trẻ [nhờ vậy] mà được lớn lên. Tuy là chuyện ngẫu nhiên, nhưng từ chuyện này có thể thấy, thương yêu trẻ thơ hợp với ḷng trời! Khổng Tử nói: “Thiếu giả hoài chi” (Thương yêu kẻ nhỏ tuổi hơn). Mạnh Tử nói: “Ấu ngô ấu dĩ cập nhân chi ấu” (Thương yêu con trẻ của người khác như thương yêu con trẻ của chính ḿnh). Thánh hiền đă để lại lời giáo huấn cùng tột, cớ sao những kẻ làm bậc tôn trưởng chẳng lănh hội?

          Lưu Di làm quan ở Kiền Châu, dân đói, bỏ rơi con. Lưu Di ra yết thị kiếm người nhặt về nuôi nấng th́ mỗi ngày sẽ được cấp hai thưng gạo từ kho Quảng Huệ[39]. Mỗi ngày, [người nhận nuôi phải] bồng tới cho quan phủ xem xét. Dân nghèo được lợi thêm hai thưng gạo sẽ đều nuôi nấng [những đứa trẻ ấy]. Số trẻ được cứu sống chẳng thể tính đếm được. Phàm là phương cách để cứu đói th́ trước hết là phải thâu thập, nuôi nấng những đứa trẻ thơ côi cút ḥng chúng thoát khỏi những chỗ hẻo lánh, hiểm nguy, đặt chúng nó nơi an toàn. Kẻ làm quan càng phải lưu ư làm trước chuyện này. Âm đức ấy c̣n hơn cứu sống những kẻ mạnh khỏe vậy!

          Đời Minh, Dương Trứ tánh t́nh nhân hậu, mua một con lừa để cưỡi đi chầu vua. Người hàng xóm đă già mới sanh con, do con lừa thường thích hư ầm lên, ông Dương sợ đứa trẻ bị kinh động bèn bán đi, đi bộ vào chầu vua. Về sau, ông cáo quan, tấm bia ở phần mộ [tổ tiên] bị nông dân xô ngă. Kẻ trông mộ vội chạy đến báo, ông hỏi: “Có đứa trẻ nào bị thương hay không?” Thưa: “Không ạ!” Ông mừng rỡ bảo: “May quá! Hăy bảo nhà kẻ đó khéo trông giữ con để chúng không gặp chuyện kinh sợ”. Đức hạnh sâu dầy của ông hết sức nhiều, ngay như hai chuyện [vừa kể] trên đây, người khác cũng khó làm được. Ông từ chỗ côi cút, nghèo hèn mà đạt tới địa vị quư hiển, đúng là do [phẩm đức tốt đẹp] như vậy!

 

          (Chánh văn) Côn trùng thảo mộc, do bất khả thương.

          (正文)昆蟲草木。猶不可傷。

          (Chánh văn: Côn trùng, thảo mộc chớ nên thương tổn).

 

          “Côn” () là đông đúc, ư nói hết thảy các loài trùng lớn, nhỏ. [Nói] “do bất khả thương” (chớ nên thương tổn) th́ có thể biết chuyện này có tánh chất trọng đại. Người hiện thời mặc sức tổn thương sanh mạng loài vật, chẳng biết những loài ngọ ngoạy đều có linh tánh, đều có Phật Tánh. Đạo Nho đă giáo huấn rơ ràng “phương trưởng bất chiết” (cây cối đang đâm tược nẩy nhánh th́ không bẻ); há nên nói “côn trùng là loài vật, thảo mộc vô tri” để rồi cứ tổn thương chúng ư?

          Lời tựa kinh Viên Giác đă viết: “Phàm những loài có huyết khí, ắt có tri giác. Phàm những loài có tri giác, ắt đều có cùng một Thể”. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Như Lai thường nói, các pháp được sanh ra, chỉ do tâm hiện. Hết thảy nhân quả, thế giới, vi trần, là do cái tâm mà thành Thể. Trong số đó, kể cả những thứ kết cấu vi tế nơi thảo mộc, xét đến cội nguồn, đều thể tánh”.

          Lại như ngài Đạo Sanh thuyết pháp, đá trên núi gật đầu. Há có thể nói là ngói gạch nơi tường vách chẳng có Phật Tánh ư? Lại như cây tử kinh nhà họ Điền. Lại như cây thụy liễu trong phủ Trung Thư (phủ Tể Tướng) đời Đường, vào cuối niên hiệu Kiến Trung, do Diêu Lệnh Ngôn[40] làm phản, xa giá [của hoàng đế] phải chạy về Phụng Thiên, cây bèn chết khô. Năm Hưng Nguyên nguyên niên (784), xa giá trở về [kinh đô], cây bèn tươi tốt. Như vậy th́ có nên nói “thảo mộc vô tri” hay chăng? Ư răn nhắc của đức Thái Thượng nhằm dạy con người đối với hết thảy hữu t́nh và vô t́nh đều luôn luôn dưỡng thành một bầu từ bi, một bầu ḥa ư vậy!

          Khi đức Như Lai thuyết pháp, một con cóc hoan hỷ, nhảy ra khỏi ao, dốc hết ḷng thành lắng nghe. Ngẫu nhiên bị gậy chống của người nghe pháp đâm chết. Do nghe pháp, sau khi mạng chung, nó sanh lên trời Đao Lợi, làm chúa cơi trời Đao Lợi. Từ trời Đao Lợi, lại đến chỗ đức Phật, nghe giảng diệu nghĩa. Do khai ngộ bèn chứng quả Tu Đà Hoàn. Cóc là loài vật rất bé, thế mà sau này chứng quả rất to. Xét từ chuyện này, có thể thương tổn loài côn trùng hay chăng?

          Xưa kia có một vị Tăng, chưa mở đạo nhăn, do nhận suông đồ cúng dường của cha con ông Tịnh Đức, sau khi mạng chung bèn sanh vào vườn của ông Tịnh Đức, hóa thành một cây nấm để hằng ngày làm món ăn cho nhà ấy. Người khác muốn hái, sẽ chẳng thể được. Nấm là loài vật rất nhỏ, thế mà có nhân duyên đặc biệt ấy. Xét theo chuyện này, có nên tổn thương cỏ cây hay không?

          Đời Minh, Hàn Thế Năng ở Trường Châu, nhiều đời sống nơi phần mộ nhà họ Lục, rất nghèo. Ông nội là Vĩnh Xuân, mỗi sáng thức dậy, cầm chổi quét dọn những loài ốc nhỏ đă ḅ lên bờ dọc theo hai bờ sông, đem thả giữa ḍng để chúng khỏi bị dân chài đánh bắt. Khi ấy, cụ nhịn đói quét đến mấy dặm. Năm Đinh Măo (1567) trong niên hiệu Long Khánh[41], Thế Năng đi thi Hương, tuổi đă bốn mươi. Cha ông là Tông Đạo nghĩ bố ḿnh cần cù cứu vớt sanh mạng, con ḿnh đă già mà vẫn chưa hiển đạt: “Nay ngẫu nhiên có được mười lạng, sao không mua các loài vật phóng sanh để cầu phước ư?” Sáng dậy, ông bèn mua rùa to, cá chép đỏ loại to đem thả. Đến tối, mộng thấy thần bảo: “Cha ngươi công đức to lớn, con trai ngươi sẽ đỗ đạt. Nay do ngươi mua rùa thần, cá chép thần phóng sanh, sẽ khiến cho con của ngươi được vào Hàn Lâm Viện, làm quan tới nhất phẩm”. Về sau, quả nhiên [Thế Năng] thi đậu liên tiếp, dự vào Hàn Lâm Viện, làm quan tới chức Thị Lang, từng vâng mạng đi sứ Triều Tiên, được ban tặng quan phục nhất phẩm.

          Có người đàn bà tên X… ở Hàng Châu rất hung hăn. Thấy kiến ḅ quanh nhà bếp, bèn dùng lửa đốt, chúng bị chết không thể đếm xiết. Lại thường dùng vôi rắc vào hang giun đất. Sanh được một con, mới vừa ẵm ngửa, người đàn bà ấy vừa mới ra ngoài trở về, thấy trên giường là một khối đen kịt, kinh hoảng ngó xem, th́ ra con ḿnh đă bị lũ kiến cắn xé chết ngắc. Người đàn bà do xót con cũng bị đột tử!

          Ngô Di ở châu Thái Thương, ban đêm nằm mộng thấy hai người đàn ông mặc áo xanh đến xin cứu mạng. Ngô Di tỉnh giấc bèn nói: “Đấy ắt là có vật sẽ phải chết”. Sáng dậy bèn ra cửa t́m kiếm, thấy có mấy người cầm búa và cưa tiến đến. Đấy là v́ họ mua được hai cây ngân hạnh nên đến đốn. Ngô Di vỡ lẽ, đền bồi đúng giá trị, miễn cho [hai cây ấy bị chặt].

          Tống Triết Tông ở trong cung thích bẻ cành liễu chơi. Tŕnh Di tâu: “Đầu Xuân cây mới đâm tược, chớ nên vô duyên cớ bẻ găy”. Vua vui ḷng, nghe theo. Tŕnh Di chúc mừng: “Bệ hạ hăy nên khiến cho thiên hạ đều có cái tâm ấy, đạo trọng yếu của bậc đế vương ở ngay chỗ này. Lại nghe nói Cao Tử Cao hễ thấy cây cỏ đang tăng trưởng sẽ chẳng bẻ, Châu Liêm Khê chẳng dẫy cỏ trong sân, bảo là phải giữ cho nó [tươi tốt] như việc kiếm sống của gia đ́nh ḿnh. Nói chung, các vị thánh hiền ôm ḷng nhân ái, lại c̣n có ư niệm chẳng bỏ sót những thứ vi tế vậy.

          Trần Tiến Phu nói:

          - Người có ḷng nhân sẽ quyên tặng những món tiền dư ra, không dùng tới. Người có trí sẽ có đức dầy “thí xả chẳng cần báo đáp”, khiến cho [những loài vật trong t́nh cảnh] ruột đứt, hơi tàn, được tiếp tục sống từ ngọn dao bén, khiến cho [những con vật] đang tan phách kinh hồn được hồi sanh từ trên chảo, vạc. Để thực hiện công đức ấy, có ba thứ phóng sanh không cố định, và hai thứ chẳng cần phải phóng sanh. [Lại có ba loại phóng sanh] là v́ loài vật mà phóng sanh, v́ con người mà phóng sanh, v́ chính ḿnh mà phóng sanh.

          Người đời phóng sanh, phần nhiều ấn định sẵn ngày giờ [cố định][42] để phóng sanh. V́ thế, những kẻ cầu lợi sẽ giăng bẫy, săn bắn [động vật ḥng] cung ứng, đa số là [khiến cho những con vật] bị quấy nhiễu khốn khổ đến nỗi chết ngắc! Đấy chính là sát sanh mà cứ tưởng là phóng sanh! Hễ tai nghe, mắt thấy [những con vật sắp bị sát hại] ở trên đường hoặc ngoài chợ, liền tùy tiện mua lấy đem thả. Đấy gọi là “phóng sanh không theo kỳ hạn cố định”. Người đời đào ao, lập vườn [phóng sanh]. Đă có một chỗ thường xuyên, kẻ khác sẽ ŕnh rập. [Những con vật] vừa mới thoát khỏi lưới của kẻ bắt, thoắt lại biến thành món canh của kẻ trông coi [vườn, ao phóng sanh ấy]. Đấy cũng là phóng sanh để cho chúng nó bị giết! Sông, ng̣i, rừng, ao, hăy t́m chỗ thuận tiện, thích hợp, nhờ người thiện tín trông coi, bất th́nh ĺnh đến đó [phóng sanh]. Đấy gọi là “phóng sanh không có chỗ thường xuyên”. Người đời phóng sanh bên ngoài, nhưng trong nhà cắt mổ chẳng băn khoăn! Thậm chí nói “nuôi gia súc để đăi người khác”, “chức trách [của những con vật ấy] đáng phải là cung cấp món ăn [cho loài người]”, chẳng biết [nếu như] con cháu [của họ] cũng [là những sinh vật] được nuôi dưỡng bỗng bị mổ xẻ, ăn nuốt ngang xương, [lúc ấy], tâm họ sẽ như thế nào?

          Ngạn ngữ có câu: “Kinh doanh th́ phải trả nợ, c̣n hay hơn bố thí”[43]. Lập hội phóng sanh, sao bằng kiêng giết? Cho đến thảo mộc đều là sanh linh; con đỉa, loài thiêu thân đều có Phật Tánh. Hoặc là phá chỗ tường vây khiến những loài trùng đang ngủ đông bị hủy hoại, có lúc lật tổ phá trứng, làm rơi rớt những thứ tanh tưởi khiến kiến bu lại, chứa nước tù đọng khiến lăng quăng sanh ra, hoặc do nuôi những thứ chim hay cá hiếm quư, bèn dùng những con vật khác làm đồ ăn cho chúng. Dẫu ta chẳng có cái tâm giết chóc, nhưng [do những hành động bất cẩn trên đây], sẽ khiến chúng nó lâm vào tử lộ, đều nên kiêng tránh. Hăy dự pḥng bảo vệ sẵn, khiến cho chúng đều được sống sót. Đấy gọi là “chẳng phóng sanh mà hành phóng sanh”, chẳng phải là phóng sanh những con vật cố định. Nếu là những con vật bị thương nguy ngập v́ bị cắn xé, hoặc [những loài thủy sản] mắc lưới, có thả ra, chưa chắc chúng đă sống được, hăy nên điều dưỡng, khiến cho chúng nó b́nh phục [rồi mới thả]. Nếu chúng không thể sống sót, hăy nên đem chôn.

          Lại có loài thú dữ, cá độc, ác trùng, chim hung tợn, cứu chúng sống sót, đúng là tiếp tục kéo dài các thứ độc, hăy nên cân nhắc chúng nó sống sót hay bị chết nhiều hay ít, so sánh giữa công và tội nặng hay nhẹ, để [quyết định] cho chúng nó tự sanh tự diệt dường như chẳng thấy, chẳng nghe. Đối với hai loại ấy (dẫu phóng sanh cũng không sống được và loài vật gây hại), chẳng bắt buộc phải phóng sanh. Hễ là như vậy, hăy tùy duyên, tùy sức [để phóng sanh] khi thời cơ thích hợp. Đừng cho rằng giết những con vật nhỏ sẽ chẳng sao, đừng nghĩ thả những con vật nhỏ sẽ vô ích. Đừng ngại vất vả khiến cho thiện niệm bị trở ngại, đừng so đo giá cả rồi bỏ phế thiện duyên[44]. Một con vật chẳng phải là ít, lắm sanh vật chẳng phải là nhiều! Những côn trùng bé tí bay lượn chẳng phải là nhỏ; ngựa, trâu chẳng lớn. Một đồng chẳng phải là không đủ, một vạn xâu tiền chẳng phải là có thừa! Đấy gọi là hễ có con vật [cần được cứu sống] bèn phóng sanh; đạo lư đều được bao gồm trọn hết trong ấy.

          Đối với vật đă là có [cái tâm phóng sanh] như thế, đối với người cũng nên [làm như vậy]. Hoặc là kẻ bị liên lụy đáng thương, hoặc bị oan khuất, khốn khó không ai cứu, hoặc gặp tai ách trộm, cướp, nước, lửa, hoặc bị bệnh tật nguy ngập, hoặc do buôn bán thất bại chẳng c̣n lẽ sống, hoặc thiếu thuế không thể nộp được, toan t́m cái chết. Đối với những trường hợp ấy, có thể giúp đỡ tài lực ḥng mở ra một con đường sống, giúp họ giải quyết toàn vẹn, mong sao họ sẽ thoát khỏi. Ta giúp đỡ người khác được thoát khỏi hoàn cảnh ngặt nghèo như vậy, so với việc phóng sanh loài vật càng quan trọng, thiết tha hơn! V́ thế, hăy nghĩ lúc ta gặp cảnh khốn khó, tai ách, ḷng mong mỏi được cứu giúp, tự nhiên sẽ cảm nhận nỗi đau đớn, lo sợ của họ như là của chính ḿnh, thôi thúc chính ḿnh ôm ḷng cảm ơn [người khác đă] cứu giúp, tự nhiên công đức sẽ thành tựu.

          Nếu là ta phóng sanh chính bản thân ta, sẽ càng khẩn khoản, thiết thực hơn nữa! Con người v́ ḷng tham sanh khởi mà có thể bị mất mạng. Buông xuống sát sanh, đấy chính là trường sanh. Nếu chịu dùi mài trong sáu thời, ngộ thông suốt hết thảy, thẳng thừng nhận biết cái vốn có, hoàn toàn chứng nhập Vô Sanh, cắt đứt sự ràng buộc trong cơi đời, phá sạch gông cùm trần lao, một đường thênh thang, đến đi chẳng vướng mắc, không bị câu thúc, không bị ép buộc, tiêu dao tự tại, cái tâm đă vượt thoát khỏi sự chấp trước xác thân, thật sự thoát khỏi luân hồi. [Do vậy] chẳng phải là người, chẳng phải là vật, vượt trỗi tứ sanh, chẳng có đức, chẳng có công, phước báo vĩnh viễn vượt trỗi. Do vậy, dùng một bài kệ để kết luận, kệ rằng:

          Chủng chủng sanh thành, hoạn diệc thành.

          Hữu sanh tài phóng hữu sanh danh.

          Dữ quân đả phá lao lung khứ.

          Ngộ đắc vô sanh thị phóng sanh”

          (Muôn vật sanh thành, họa cũng sanh.

          Có sanh mới có tên phóng sanh.

          Ngục tù phá vỡ, thân ĺa khỏi,

          Sẽ ngộ vô sanh tức phóng sanh).

 

          (Chánh văn) Nghi mẫn nhân chi hung, nhạo nhân chi thiện.

          (正文)宜憫人之凶。樂人之善。

          (Chánh văn: Hăy nên xót thương kẻ ác, vui v́ điều thiện của họ).

 

          Chữ Nghi (, hăy nên) đáng nên áp dụng chung các câu sau đó, măi cho đến câu “dữ nhân bất truy hối” (đă cho người khác rồi bèn không hối tiếc). “Hung” () là hung ác, mà cũng là hung họa. “Mẫn” () là uyển chuyển khuyên dạy, khiến cho họ thay đổi làm lành. “Mẫn”ng là trong khi hung hiểm, tai họa, bèn thương xót, xếp đặt an toàn, khiến cho mỗi loài đều được an vui. Không chỉ là quan tâm, thương xót mà thôi, Ông Hà Long Đồ nói:

          - Phàm những kẻ thoạt đầu làm ác, chỉ là v́ một niệm sai lầm, chưa chắc là không thể khuyên răn, ngăn cấm. Đă làm chuyện ác, mà vẫn c̣n một niệm sáng suốt, chưa chắc là không thể cứu giúp, giải trừ được!

          Cơi đời thường cự tuyệt [kẻ ác] như oán cừu, [chẳng khuyên nhủ họ sửa đổi], cũng khiến cho họ hùa nhau đâm đầu vào chỗ chết, tuy muốn ăn năn hối lỗi mà chẳng thể được, buồn thay!

          Đạo Đức Kinh có câu: “Thánh nhân thường thiện cứu nhân, cố vô khí nhân. Thường thiện cứu vật, cố vô khí vật. Cố thiện nhân giả, bất thiện nhân chi sư. Bất thiện nhân giả, thiện nhân chi tư. Bất quư kỳ sư, bất ái kỳ tư, tuy trí đại mê” (Thánh nhân thường khéo cứu người; v́ thế, không có ai là kẻ bỏ đi. Thường khéo cứu muôn vật; v́ thế, không có chúng sanh nào là thứ bỏ đi. Do vậy, thiện nhân là thầy của kẻ bất thiện. Kẻ bất thiện chính là tấm gương răn nhắc cho kẻ thiện. Chẳng quư trọng thầy, chẳng yêu mến tấm gương, dẫu là kẻ có trí mà hết sức mê muội)[45].

          Kinh Dịch chép: “Thánh nhân khúc thành vạn vật nhi bất di” (Thánh nhân khéo léo thành tựu muôn vật, chẳng bỏ sót). Lễ Kư chép: “Phong, vũ, lộ, lôi, vô phi chí giáo. Sương chi, tuyết chi, hạo thiên phi hại vật dă. Sở dĩ bồi sanh dưỡng chi nguyên. Trách chi, trị chi, thánh nhân phi khổ nhân dă” (Gió, mưa, sương, sấm, không ǵ chẳng là lời dạy bảo tột bậc [của trời đất]. Trời cao đổ sương, mưa tuyết, chẳng nhằm tổn hại muôn vật. V́ những chuyện đó là nguồn cội để vun bồi, dưỡng dục [muôn vật]. Quở trách, trị phạt, chẳng phải là thánh nhân muốn làm khổ kẻ khác). Bởi lẽ, họ muốn mở ra một con đường tự sửa đổi [cho những kẻ lầm lạc], không ǵ chẳng nhằm khiến cho kẻ khác sửa ác, theo lành, nhằm thỏa bản hoài “vạn vật có cùng một Thể” đó thôi!

          Thiện là điều người khác và ta đều cùng đạt được. Người ta thường lầm lạc phân chia đây kia. Kẻ ở trên cao[46] chỉ mong tốt lành cho riêng ḿnh. Kẻ ở dưới thấp cũng chẳng mong người khác làm lành, thậm chí thốt lời vu cáo để hủy báng, bới móc khuyết điểm, ngấm ngầm tính kế để phá hỏng chuyện tốt đẹp của người khác, chỉ ôm ấp suông cái tâm thuật bại hoại, người ta đâu có bị tổn hại ǵ! Nào có biết người khác có thiện niệm, thiện sự, ta có thể khuyến khích, tán dương, khiến cho sự việc được thành tựu viên măn, công hạnh tràn đầy, th́ điều thiện của người ta sẽ là điều thiện của chính ḿnh, sẽ là công đức vô cùng.

          Từ phàm nhập thánh là cửa ngơ của muôn điều thiện, th́ phát Bồ Đề tâm chính là bậc nhất. Bồ Đề tâm ví như hạt giống, có thể sanh ra hết thảy các thiện pháp. Cũng ví như ruộng tốt, có thể sanh trưởng pháp trắng sạch (bạch tịnh) cho chúng sanh. Cũng ví như nước sạch, có thể gột rửa hết thảy các chất nhơ phiền năo. Cũng như lửa mạnh, có thể đốt sạch hết thảy củi kiến chấp. Kinh Niết Bàn dạy: “Phật thuyết tu nhất thiện tâm, phá bách chủng ác. Như thiểu hỏa năng thiêu nhất thiết. Cố tri vạn thiện giai tùng nhất niệm hảo nhạo nhi sanh, toàn thể thiện tâm nhi hiện, viên măn Bồ Đề thường lạc diệu quả” (Đức Phật nói: “Tu một thiện tâm phá được trăm thứ ác, như một chút lửa có thể đốt trụi hết thảy. V́ thế, biết muôn điều thiện đều từ một niệm ưa thích mà sanh, toàn thể thiện tâm hiện bày, viên măn diệu quả Bồ Đề thường lạc”).

          Lôi Xu tánh rộng răi, nhân hậu, có thể bao dung. Người khác làm chuyện ngang trái đối với ông, ông lại thương xót sự ngu muội của kẻ ấy, thường dùng ḷng nhẫn nại, chẳng so đo để cảm hóa kẻ ấy. Tuy bị oan khuất to lớn, cũng chưa hề thưa kiện kẻ nào ra cửa quan. Cháu mười một đời là Tôn Phu làm Thái Tử Thái Sư.

          Vu Lệnh Nghi ban đêm bắt được kẻ trộm chính là đứa con nhà hàng xóm. Ông Nghi nói: “Ngươi do bị cái nghèo bức bách, nay ta cho mười ngàn đồng làm vốn kiếm sống, đừng làm chuyện sai quấy nữa”. Nó đă bỏ đi, ông gọi lại, bảo: “Ngươi đă nghèo mà đêm tối lại ôm tiền trở về, sợ rằng sẽ bị tuần cảnh tra gạn”. Bèn giữ lại tới sáng mới thả đi. Trọn chẳng nói với người khác [về chuyện này]. Về sau, con cháu ông Vu nối tiếp nhau đậu Tiến Sĩ. Người ta bảo đấy là được báo đền do thương xót kẻ hung tợn vậy.

          Trương Khánh làm cai ngục, luôn giữ ḷng xót thương, thận trọng. Hằng ngày đích thân quét dọn, lau chùi. Tới mùa Hạ, càng siêng năng quét dọn hơn. Ông thường răn bọn lính canh ngục: “Người ta mắc ṿng lao lư là chuyện bất đắc dĩ. Bọn ta có chức trách coi ngục, nếu chẳng biết thương xót, tội nhân biết kêu cầu vào đâu?” Thức ăn, thuốc men, đồ trải nằm [cho tội nhân], ắt đều tinh khiết. Ông thích xem kinh Pháp Hoa; mỗi khi có tù nhân bị tử h́nh, ông đều ăn chay, tụng kinh cho họ. Nếu tù nhân vô tội, ông liền cứu giúp họ thoát khỏi án tù. Từng dùng lời lẽ dịu dàng hỏi han tù nhân: “Nếu thật sự có tội, hăy nên tự thú, đừng giả vờ là kẻ lương thiện, khiến cho tội ḿnh càng thêm nặng”. Về sau, tới lúc tám mươi hai tuổi, ông không bệnh ǵ mà mất. Sáu con trai đều vinh hiển. Xét gương này, há bảo là chẳng thể dấn ḿnh vào chốn công môn ư?

          Đời Tống, Trần Nguyên là người xứ Kim Đàn. Năm Hy Ninh[47] thứ tám (1074), xác người chết v́ đói vô số; ông bèn cho đào một vạn cái hố chôn người. Mỗi hố đặt một âu cơm, một chiếc chiếu, bốn tờ tiền giấy, chôn cất thi thể chẳng thể đếm kể. Về sau, con cháu đều đỗ đạt làm quan. Phàm những thi hài không được mai táng, phơi giăi nhiều năm; v́ thế, những oán quỷ ban đêm khóc lóc tỉ tê, há có kẻ sẵn ḷng nhân từ trông thấy sẽ vùi lấp cho? Trong niên hiệu Sùng Ninh (1102-1106) đời Tống, huyện Thiều Châu chọn chỗ đất cao, rộng răi, cây cỏ cằn cỗi để lập nghĩa trang từ thiện. Phàm những cỗ quan tài kư gởi tại chùa chiền trở thành vô chủ[48], cùng các hài cốt bị dầm mưa dăi nắng đều được thu nhặt, chôn vào đó. Mỗi ngôi mộ đều ghi rơ vị trí, quê quán, lập bia mộ, lại c̣n xây một ngôi nhà để thân thuộc đến cúng quải dùng làm chỗ tế lễ và ăn uống [cỗ bàn đă cúng]. Lại c̣n yết thị công khai cho dân chúng biết. Chuyện này từng được thực hiện trong niên hiệu Hồng Vũ[49]. Nay khuyên những người có chức trách, hoặc hàng thân sĩ trong dân chúng, hăy nên tùy nghi ra sức thực hiện, lập ra một cuộc đất để thu thập mai táng những hài cốt bị bộc lộ v́ phần mộ hoặc quan tài hư hại, công ấy sẽ chẳng có ǵ to hơn được!

          Nịnh Tùng Lễ tánh ưa làm lành, thương xót kẻ không được mai táng, thường tạo quan quách để thí. Kẻ không có tiền chôn cất, ông bèn cho tiền. Ông thọ một trăm tuổi mới mất, báo mộng cho người nhà: “Thuở c̣n sống, ta tạo ra nhà cửa để thí cho người khác, nên con cháu được hưởng điều tốt lành, khoa bảng chẳng dứt!” Về sau, đúng như vậy. Ôi! Thi hài không được chôn cất là chuyện thê thảm nhất. Thí quan quách để khâm liệm, u hồn cảm kích; ḷng nhân tột bậc không ǵ to lớn hơn! Nhưng kẻ sức lực đơn bạc, khó ḷng tiếp tục [thực hiện lâu dài], chẳng bằng kết thành một hội. Một hội chia thành mấy trụ, mỗi trụ gồm mấy người. Hễ thí một cỗ quan tài, nếu hội có nhiều người, mỗi người chỉ cần bỏ ra chút tiền. Hội có ít người, mỗi người bỏ tiền cũng chẳng quá mấy trăm đồng, sẽ dễ thực hiện, một vùng sẽ chẳng có nỗi thê thảm thi hài bộc lộ. Cốt sao người chịu trách nhiệm thật tâm, siêng năng, khẩn thiết đó thôi. Nếu [người đứng ra chịu trách nhiệm ấy] là người có thể diện, sẽ càng thêm châu toàn, thỏa đáng mọi bề. Đối với chuyện cho quan tài, hăy nên dựa theo lời tŕnh báo mà kiểm xem có phải là thật hay không, chớ nên không suy nghĩ cách thức thực hiện tốt lành!

          Tŕnh Nhất Đức chỉ biết mặt chữ, hiểu nghĩa qua loa, nhưng khăng khăng mong cho kẻ khác làm lành. Phàm là những lời lẽ tốt lành, cách ngôn giáo huấn, ông đều in ra để khuyên kẻ khác. Một đêm, mộng thấy Văn Xương Đế Quân nói: “Do ngươi có thiện niệm, những chuyện khắc in đă được tâu lên thiên đ́nh. Sau này, con cháu ngươi sẽ đỗ đạt rất đông”. Than ôi! Người phát ra thiện nguyện, cơi trời nghe thấu, tiếng như sấm rền, chư Phật không vị nào chẳng hộ niệm, bậc thượng chân[50] không vị nào tâm chẳng khế hợp. Chư Phật và các bậc thượng chân đều trụ nơi giải thoát đă lâu, vẫn c̣n thích điều thiện như vậy, huống hồ người đời sống trong biển khổ mà chẳng gắng sức ưa chuộng điều lành ư?

          Đời Tống, Âu Dương Tu giữ chức Hàn Lâm, thường cầm theo mấy chục tờ bái thiếp để trống. Hễ thấy bậc sĩ đại phu hiền đức, được ca tụng là người lành, bèn hỏi chỗ ở của người ấy, viết tên người ấy vào bái thiếp để xin gặp mặt. Nếu đúng như lời đồn, sẽ ca ngợi thanh danh của người ấy.

          Đời Hậu Hán[51], Bàng Thống ca ngợi điều lành của người khác, thường là vượt quá sự thật. Có kẻ trách móc, ông đáp: “Hiện thời, người thiện th́ ít, kẻ ác th́ đông. Muốn cho phong tục hưng khởi, tăng trưởng đạo nghiệp, nếu chẳng nói lời tốt đẹp, người hành thiện sẽ càng ngày càng ít. Ca ngợi mười phần mà chỉ có năm phần là thật, vẫn là được một nửa rồi, sẽ khiến cho kẻ có chí tự cảm thấy đă được khích lệ, há cũng chẳng đáng [nên làm như vậy] ư?” Quan phu tử đă răn dạy: “Nguyện trời thường sanh người tốt. Nguyện người thường làm chuyện tốt. Nguyện miệng thường nói lời tốt đẹp”. Ông Bàng đáng được gọi là người thấu hiểu lời giáo huấn ấy, giúp cho phong tục được hưng thịnh vậy.

          Đỗ Chánh Hiến hễ nghe người khác có điều tốt lành, sẽ vui mừng như chính ḿnh đă làm. Lưu Tập Hiền hễ nghe điều thiện của kẻ khác, đều khen ngợi chẳng thôi. Hàn Trung Hiến (Hàn Kỳ) hễ nghe một điều thiện nhỏ nhặt, ắt nói: “Kỳ chẳng thể sánh bằng!” Mấy vị ấy đều tận tụy trung thành với đất nước, giữ ǵn điều lành, chỉ sợ lỡ đánh mất. V́ thế, thích khen ngợi như vậy, ấy là nhằm đề cử người hiền ngơ hầu ích nước lợi dân. Kẻ có chức trách hăy nên biết chuyện này, há chỉ ưa thích suông mà thôi!

         

          (Chánh văn) Tế nhân chi cấp, cứu nhân chi nguy.

          (正文)濟人之急。救人之危。

          (Chánh văn: Giúp người khác trong lúc cấp bách, cứu người khác trong cơn nguy hiểm).

 

          Người khác gặp t́nh cảnh cấp bách, như bệnh tật th́ thuốc men là chuyện cần kíp. Đối với tang ma th́ chuyện tẫn liệm là điều cần gấp. Đói rét th́ cơm áo là chuyện cấp bách. Thiếu thuế th́ bị truy bức là chuyện cấp bách. Các loại [t́nh thế cấp bách ấy] chẳng thể kể xiết! Ai nấy hăy đều nên tùy sức lập phương tiện cứu giúp. Khi đó, cần phải quả quyết thực hiện, đừng nghi ngại. Nếu không, sẽ bỏ lỡ phước duyên này, đáng tiếc lắm thay! “Nguy” () là ở ngay ranh giới sống chết, như thuyền lật, hoặc hỏa hoạn, nhà tan, người chết, cho đến bị giam cầm, h́nh phạt, phải ra cửa quan, bị người khác hăm hại v.v… Nguyên Đế[52] nói: “Đối với người đang bị hoạn nạn, khốn đốn, hăy khéo dùng một lời để giải cứu, trên là sẽ giúp cho cha, ông đă khuất, dưới là tạo phước ấm cho con cháu”. Lại nói: “Xô người hay đỡ người đều là cái tay b́nh thường, hăm hại hay khen ngợi người khác đều do cái miệng b́nh thường. Thà để tay nâng đỡ người, chớ mở miệng hại người”. Nếu có thể hành theo lời ấy, tương lai sẽ tự vĩnh viễn lâu dài.

          Sách Địch Cát Lục viết:

          - Kẻ thất phu[53] mà có ḷng thương yêu loài vật, ắt sẽ giúp đỡ người khác. Để cứu tánh mạng [của người hay vật mắc nạn], chẳng tốn kém mấy. Đặc biệt là kẻ cơm áo dư dật, chẳng biết đến nỗi khổ đói rét, trông thấy [hoàn cảnh nheo nhóc của kẻ khác] cũng chẳng cảm thấy ǵ, hời hợt chẳng quan tâm đến. Khi thấy họ (những kẻ túng quẫn) xanh xao cũng chẳng bận ḷng, đến khi thấy họ mắc bệnh ngă lăn bên đường, lại cho rằng bệnh t́nh đă nguy cấp, chẳng thể khỏe lại được, bèn ngồi nh́n người ấy chết. Dẫu kẻ qua đường có ḷng, vẫn chỉ là than thở suông mà thôi! Những kẻ khác sẽ ghé mắt nh́n, lần lượt bỏ đi. Chẳng biết người ấy v́ đói mà sanh bệnh, do bệnh nên chưa thể đi xin, cho nên càng đói khát dữ dội hơn. Bất quá là ba bốn thưng gạo giúp đỡ người ấy dưỡng sức, mấy ngày sau người ấy lại có thể đi xin, lại được sống sót. Hoặc thừa lúc người ấy xanh xao, sắp ngă bệnh, mà cứu chữa sớm, sẽ càng hay hơn. Chi phí ăn ở một tối của người giàu đủ để cứu giúp mười người. Chi phí thỉnh sư tăng hoặc đồng cốt [làm trai đàn] đủ để cứu trăm mạng. Đối với chi dụng ăn uống ngàn vàng [của người giàu có, chỉ cần] quyên tặng một phần mười; giảm bớt một phần mười [số tiền dành cho] quần áo, ăn uống mỗi năm, mỗi tháng, sẽ đủ cứu cả ngàn mạng, thực hiện rất dễ dàng! Nếu có được mấy người cùng lập ra hội này, để ra một căn nhà trống, xếp chiếu cỏ trong ấy để chứa người nghèo đói, bệnh tật, khiến cho họ có chỗ tránh gió, khỏi phải lo toan về cơm nước, chỗ nghỉ, họ sẽ càng dễ điều dưỡng. Đối với những lúc trời rét, [chuyện này] càng cấp bách. [Nơi ấy] cần phải do một vị thiện nhân trông coi. Bốn cửa thành đều có cơ sở ấy, ắt những người bị chết yểu sẽ ít đi. Lại mở rộng chuyện này ra khắp chốn, ắt cô hồn lưu lăng sẽ rất ít. Bởi lẽ, khi người ấy đang bị bệnh, không có người trông nom, ngó ngàng, sẽ bệnh nặng hơn một phần. Ở nơi trống trải, gió máy, bệnh nặng thêm hai phần. Do lo âu về nguy cơ túng thiếu, trắng tay, bệnh sẽ nặng thêm ba phần. Trầm trọng hơn là cảnh bụng đói, áo bẩn, lần lượt bị xua đuổi, há c̣n có hy vọng để sống sót nữa ư? Hăy thử đặt chính ḿnh vào t́nh cảnh ấy, [sẽ biết] nỗi đau khổ v́ bệnh tật là như thế nào!nên tiếc nuối chẳng quyên tặng một hạt gạo cho kho Thái Thương, chẳng làm chuyện ân huệ này! Hơn nữa, họ đều là người. Nếu bọn ta đầu thai chẳng đúng chỗ, sẽ lâm vào t́nh cảnh giống như thế đó! May mắn được no đủ, lại c̣n mong muốn hưởng thụ no ấm, dư dật, tính chuyện bền lâu cho con cháu, nhưng đối với chuyện cứu người trước mắt, chẳng bỏ một đồng! Chẳng biết nước, lửa, đạo tặc, tật bệnh, tai họa ngang trái, đều có thể khiến cho tài sản của ta phút chốc tan sạch. Chút phước phận nhỏ nhoi cũng do trời đất ban tặng, há có phải là do chắt bóp, keo kiệt, tham tiền như mạng mà có thể đạt được như vậy ư? Một mai vô thường, [những tài sản đă khổ công tích cóp ấy] chỉ trở thành những món tiền để con cháu rượu chè, gái gú, cờ bạc, phóng đăng đó thôi! Do vậy, đă n tiền tiêu phí đủ cứu cả ngàn mạng người ấy, sao không dùng để tích đức? [Chuyện tích đức do cứu người] c̣n sâu dầy hơn cầu trời che chở nữa! Lư ấy tột bậc rơ ràng, [thế mà những kẻ bị] hơi đồng hôi thối nhuốm thân, trọn chẳng suy lường chi cả!

          Đời Tống, Hứa Thúc Vi thường cầu xin đỗ đạt. Mộng thấy thần bảo: “Ngươi muốn thi đỗ, cần phải cậy nhờ âm đức”. Ông Hứa tự nghĩ nhà nghèo, không có sức, chỉ có dùng y thuật là được, bèn chuyên ṛng nghiên cứu sách thuốc, lâu ngày thông hiểu đến mức hay khéo. Chẳng cần biết người bệnh giàu hay nghèo, đều gấp gáp đến [cứu giúp họ], cứu sống rất nhiều người. Thanh danh càng thêm vang dội, thiện tâm càng tha thiết. Về sau, ông đỗ đạt. Cứu người bệnh tật, vốn là cái nhân lành, nhưng nếu y thuật khó thể tinh thông th́ làm như thế nào? Người có chí hăy kiền thành pha chế các loại cao đơn, hoàn tán để thí thuốc, in những bài thuốc hay quư có hiệu nghiệm để lưu truyền; đó cũng là một cách vậy!

          Đời Tống, Vương Tăng lên kinh đô dự thi. Trên đường, ông nghe tiếng hai mẹ con khóc lóc rất sầu thảm, hỏi ḍ hàng xóm, họ cho biết: “V́ thiếu tiền thuế, không đóng được, sắp phải bán con gái, cho nên khóc lóc”. Vương Tăng bèn đến thăm nhà ấy, họ hỏi: “Có chuyện hay không?” Ông đáp: “Bà có thể bán con gái cho tôi, khi tôi làm quan, bà vẫn có thể lui tới [thăm viếng], có thể thường gặp gỡ nhau”. Ông bèn giao đúng số tiền họ thiếu thuế, ước định ba ngày sau sẽ lấy cô ta. Quá hạn, ông không tới. Bà mẹ hỏi thăm chỗ trọ của Vương Tăng, [t́m đến nơi, mới biết] Vương Tăng để lại thư, dặn bà ta chọn chỗ xứng đáng gả con, ông ta đă bỏ đi mấy ngày rồi! Về sau, ông Vương đậu Tam Nguyên[54], được phong làm Nghi Quốc Công.

          Đời Tống, Ngô Khuê chơi thân với Vương Bành Niên. Ông Vương mất, nghèo túng, không có tiền chôn cất. Ngô Khuê sai trưởng nam lo liệu tang sự, trông nom việc lo an táng, châu cấp cho nhà họ, lại c̣n lo chuyện cưới gả cho hai cô con gái ông Vương. Về sau, ông Ngô làm quan tới chức Tể Tướng, thụy hiệu là Cung Túc.

          Đời Minh, Giải Khai nhà giàu có. Hễ thân thích, bạn bè gặp chuyện cưới hỏi, ma chay mà không đủ sức, liền giúp đỡ. Hễ có người gặp cảnh ngặt nghèo, nói với ông, ông luôn dấn ḿnh vào cảnh nước sôi, lửa bỏng để ra tay giúp đỡ. Ông thường nói: “Có ai mà chẳng muốn tích cóp cho nhiều, nhưng kẻ giàu có sẽ thành nơi kết oán, ta chỉ biết làm lành để đức cho con cháu, há cậy vào vàng, ngọc ư?” Con ông là Luân làm Thị Ngự Sử, [một người con khác tên là] Tấn làm Đại Học Sĩ.

          Vùng Tân Kiến bị đói to, có người túng quẫn tột cùng, c̣n được khoảng một thưng gạo, bèn nấu cơm, bỏ chất độc vào, toan để vợ chồng được ăn no mà chết. Bỗng lư trưởng t́m đến muốn thâu thuế đinh, thấy cơm, toan ăn. Người nghèo vội ngăn lại, bảo: “Ông không thể ăn cơm này được đâu!” Khóc lóc kể rơ nguyên nhân. Lư trưởng xót xa, bảo: “Sao lại như thế? Nhà ta tuy túng thiếu, vẫn c̣n năm đấu gạo, hăy theo ta đến lấy đem về, có thể cầm cự ít lâu”. Người nghèo mang gạo về, thấy có năm mươi lạng vàng trong ấy, suy nghĩ: “Đây chắc là tiền thuế”, vội đem trả. Lư trưởng nói: “Trọn chẳng phải là tiền thuế, trời ban cho đấy chăng? Liền chia đều ra, ai nấy đều sống thoải mái hết năm.

          Đời Tống, Tôn Giác làm tri phủ Phước Châu. Những kẻ thiếu thuế bị tống giam rất đông. Khéo sao có kẻ giàu có bỏ ra món tiền năm trăm vạn đồng để xin sửa chữa điện thờ Phật. Tôn Giác bảo: “Các ngươi thí tiền là mong được phước. Điện thờ Phật chưa hư hoại quá mức, sao bằng dùng tiền để cứu những người thiếu thuế bị tù, khiến cho mấy trăm người thoát khỏi nỗi khổ gông cùm, ngay cả Phật Tổ cũng sẽ mỉm cười, rủ ḷng Từ, sẽ được phước chẳng nhiều hơn ư?” Người giàu có bèn nộp tiền thuế, nhà tù rỗng không. Con cháu của người giàu có ấy đều hiển đạt. Tôn Giác làm quan tới chức Trụ Quốc.

          Những người vừa kể trên đây, đều cứu giúp người khác trong t́nh cảnh cấp bách do ma chay, bệnh tật, hôn nhân, thiếu thuế, ly biệt, nghèo túng, được trời báo đáp sâu xa, đều là hết sức nhanh chóng. Ôi! Người gặp cảnh nguy cấp, chỗ nào cũng đều có. Kẻ có sức gặp những chuyện ấy, hăy nên khéo cứu tế; nhưng kẻ không có sức cũng nên khéo t́m cách xếp đặt, tùy duyên trọn hết tâm lực. C̣n như gặp năm mất mùa, dân đói, càng là chuyện đứng đầu và lại c̣n là chuyện to lớn nhất trong các nỗi nguy cấp. Nếu chẳng phải là người đang giữ chức vị, hễ là kẻ có tiền tài, có thừa sức, hăy góp sức bù đắp cho sự thiếu hụt trong vận trời, ḥng cứu vớt, giúp đỡ [kẻ khốn khó], ắt kẻ bần cùng sẽ chẳng bị vùi thây trong ng̣i rănh. Trong lời chú giải cho chữ Trung trong phần trước, đă nhắc đến ư này, nhưng chưa nêu rơ trọn hết. V́ thế, nay sau khi đă luận định về chuyện cứu giúp các nỗi nguy cấp, lại đặc biệt chuyên nói về chuyện này. Chỉ mong những kẻ đang giữ quan chức, những vị có ḷng nhân, những vị ưa chuộng điều thiện đều cùng thấu hiểu cặn kẽ!

          Đời Tống, Phạm Thuần Nhân làm tri phủ Khánh Châu. Gặp năm đói, xác người chết đói đầy đường. Thuần Nhân xin dùng gạo thóc từ kho Thường B́nh để phát chẩn. [Đối với chuyện này], quan đầu quận phải tâu lên [triều đ́nh] rồi mới được phép. Thuần Nhân nói: “Người ta không ăn sẽ chết. Tâu rồi mới phát, há có thể cứu kịp ư? Các ông đừng lo, hễ bị bắt tội, ta sẽ tự chịu”. Bèn phát chẩn ngay hôm đó, những người được cứu sống chẳng thể tính đếm! Về sau, ông làm quan tới chức Học Sĩ, được phong làm Cao B́nh Công, thụy hiệu là Trung Tuyên.

          Đời Tống, Triệu Biện làm tri phủ Việt Châu. Xứ Ngô Việt bị hạn hán nặng. Ông thừa dịp dân chưa bị đói, gởi thư hỏi các huyện trực thuộc có mấy chỗ bị tai ương? Dân làng đang chờ lănh gạo [cứu đói] mấy người? Các ng̣i nước và đê điều cần phải sửa chữa có thể thuê dân chúng tu bổ mấy chỗ? Tiền trong kho và lương thực tích trữ có thể phát ra được bao nhiêu? Bao nhiêu nhà giàu có thể quyên tặng gạo? Mỗi mỗi đều ghi chép vào sổ. Lại ghi chép những người già cả, cô quạnh, bệnh tật, không thể tự kiếm ăn, [số lượng đến] hơn hai vạn một ngàn chín trăm người. Lại đối chiếu với những ghi chép trước đó, [th́ thấy] mỗi năm cấp gạo giúp kẻ nghèo chừng ba ngàn thạch mà thôi. Triệu Biện kiểm kê những khoản quyên góp của những người giàu, và những khoản thặng dư khác [ngoài tiền thuế ra], thu được hơn bốn vạn tám ngàn thạch gạo, bèn góp thêm vào đó khoản chi phí của chính ḿnh. Từ mồng Một tháng Mười, cấp cho mỗi người một thưng gạo mỗi ngày, trẻ nhỏ th́ được nửa thưng. Ông sợ mọi người [đến lănh gạo, nam nữ] xen tạp, bèn cho nam nữ [lănh gạo] khác ngày, mỗi người [mỗi lần] chỉ lănh khẩu phần hai ngày. Ông sợ họ phải lang thang [ḅn mót cái ăn], bèn ở chốn thành thị, vùng quê, lập ra năm mươi bảy chỗ phát gạo, để cho ai nấy đều nhận lănh thuận tiện. Lại c̣n thông cáo: Nếu họ ĺa khỏi chỗ ở, sẽ chẳng được cấp gạo. Ông tính toán thấy quan viên [lo việc phát chẩn] không đủ dùng, bèn chọn lấy những nha lại đă nghỉ việc đang sống trong vùng, cấp lương thực để họ đảm nhiệm [công tác phát chẩn] này, truyền cho những kẻ giàu có chẳng được [thừa dịp] mua gạo trữ vào [để đầu cơ]. Các châu đều yết bảng cấm tăng giá gạo. Triệu Biện ra lệnh thu mua gạo của những kẻ có gạo toan tăng giá. Ông tự cởi chiếc đai vàng [do hoàng đế ban tặng] để dưới sân, hạ lệnh thu mua số gạo ấy. Do vậy, người thí gạo đông đảo. Lại xuất hơn năm vạn hai ngàn thạch gạo từ kho gạo công để hạ giá gạo ḥng tạo thuận tiện cho dân chúng. Lại lập ra mười tám chỗ bán gạo để người mua gạo khỏi phải bôn ba. Lại thuê dân đi sửa thành [số lượng] đến bốn ngàn một trăm người; tính ra số lần thuê nhân công là ba vạn tám ngàn lần, tính theo số lần thuê mà trả bằng gạo trị giá gấp bội. Nếu dân cần vay tiền, bèn bảo những kẻ giàu có ứng trước, đợi đến khi lúa chín sẽ trả nợ. Quan viên sẽ đốc thúc họ trả tiền nợ. Đối với con cái của những người dân [v́ đói kém, túng thiếu mà bị] bỏ rơi, bèn lập cách thức thu nhặt về nuôi dưỡng. Mùa Xuân năm sau, do người dân bị mắc bệnh dịch, bèn lập chỗ chữa bệnh để nuôi kẻ lâm vào cảnh bệnh tật mà không có chỗ quay về. Tuyển mộ hai vị Tăng, dặn ḍ họ trông nom thuốc men và đồ ăn thức uống cho những người ấy để họ không thiếu người chăm sóc. Hễ có người chết, bèn sai người nơi đó thu nhặt, chôn cất. Theo đúng lệ, phát gạo cứu đói cho người nghèo túng cho đến hết ba tháng mới ngưng, tức là đến tháng Năm trong năm đó mới thôi. Hễ ai có chuyện ǵ cầu xin, phần nhiều hễ xét thấy thuận tiện bèn làm ngay. Triệu Biện tự ḿnh lo liệu, chẳng phiền đến thuộc hạ. Sớm tối dốc cạn tâm lực, không chuyện ǵ lớn bé chẳng đích thân lo liệu. [Trong đợt] hạn hán, tật dịch khi ấy, dân những quận khác chết mất một nửa, riêng dân trong quận của Triệu Biện cai trị là không bị tổn hại. Về sau, ông làm Tể Tướng dưới thời vua Thần Tông, là bậc danh thần đời Tống.

          Đời Tống, Phú Bật làm Xu Mật Phó Sứ. Có kẻ vu cáo ông toan cấu kết với người Khiết Đan dấy binh [làm loạn]. Tống Nhân Tông tức giận, biếm trích ông đi coi Thanh Châu. Khi ấy vùng Hà Sóc[55] lụt to, dân đói tràn vào xứ, không có ǵ ăn, sắp bị chết đói. Ông quyên mộ hơn mười vạn hộc gạo, chứa ở chỗ thích hợp để phát ra. Lại c̣n t́m kiếm những căn nhà công và tư hơn mười vạn căn, để phân chia cho họ ở khắp nơi. Thuốc men đều đầy đủ, cho phép di dân được sử dụng những nguồn lợi từ nơi núi non, ao đầm, chủ [những chỗ ấy] không được ngăn cấm. Những người chết được chôn trong một ngôi mộ to. Người theo về cư trụ đông đảo, có người nghi ngại, nói với Phú Bật: “Đấy chẳng phải là đặt ḿnh trong cảnh nguy hiểm, tai họa chẳng lường được ư?” Phú Bật nói: “Há v́ [sự an vui của] một thân ta mà đổi lấy tánh mạng của sáu bảy chục vạn người ư?” Ông càng dốc sức thực hiện. Năm sau, lúa ḿ chín rộ, ông đều tính toán [quê quán] của họ xa hay gần để cấp lương thực cho họ trở về. Ông đă cứu sống hơn năm mươi vạn người. Vua nghe chuyện, sai người đến ủy lạo, phong cho ông làm Lễ Bộ Thị Lang. Về sau, ông làm Tể Tướng, được phong làm Trịnh quốc công, thọ tám mươi tuổi, thụy hiệu là Văn Trung, được thờ phối hưởng trong Thái Miếu.

          Đời Minh, Thanh Huệ Công là Đinh Tân, là người xứ Gia Thiện. Ông thích làm lành, chẳng mỏi mệt, ông chú trọng cứu đói tha thiết nhất. Năm Đinh Hợi (1587) trong niên hiệu Vạn Lịch có nạn lụt lớn, giá gạo tăng vùn vụt. Ông mới bắt đầu sai gia nhân đổi gạo lấy vải, chiếu theo thời giá, cứ mỗi xấp vải là bốn thưng gạo. Tốn phí đến hơn một ngàn thạch gạo đă tích trữ. Ông lại tu bổ đê điều ngoài đồng để ngừa hạn hán, lụt lội, tính theo từng trượng để cấp gạo, tốn phí đến sáu trăm năm mươi thạch gạo đă tích trữ. Năm sau, càng đói dữ hơn, ông lập trạm phát cháo, mỗi ngày có mấy ngàn người đến ăn. Ông lại t́m kiếm những người già cả, yếu đuối chẳng thể đến được để cấp phát riêng. [Làm như thế] suốt chín mươi ngày mới thôi. Đến mùa Thu lại khổ v́ hạn hán, ông lại cứu tế những người dân bị đói ở gần nơi sông nước. Những kế hoạch cứu đói do ông trù tính đều có sách lược tốt đẹp, cho nên người được sống sót rất đông. Tháng Mười Một, dân chúng bị tai ương phần nhiều khổ sở v́ rét buốt. Ông lại t́m kiếm trọn khắp những người cô quạnh, đói nghèo, không nơi nương tựa, ghi chép vào sổ, cấp phiếu, đến kỳ hạn sẽ lănh. Ông phát hết những súc vải đă đổi [từ gạo] trước kia, kèm theo bông vải. Mỗi người được cấp hai tấm vải, bốn cân bông. Tính toán trước sau, ông đă phát hơn một vạn hai ngàn bốn trăm thạch gạo, ba vạn lẻ bốn mươi xấp vải, sáu vạn tám mươi cân bông. Năm Mậu Thân (1608) lại bị lũ lụt, ông lại cậy Đài Tỉnh[56] dâng sớ xin cứu chẩn, truyền hịch cho vùng Ngô Sở không được cấm mua gạo, lại c̣n phát tiền từ công khố, chuyển đến các nơi. Lại c̣n bỏ tiền riêng của ḿnh để cứu tế rộng răi. Năm Giáp Tư (1624), bị mưa dầm, ông lại mở kho cứu tế, phát hết ba ngàn thạch gạo. Tính chung là bốn lần chẩn tế. Ông lại tính toán trong huyện, những người nghèo chỉ có hai ba mẫu ruộng, ước tính họ sẽ phải nộp thuế ba ngàn lạng, ông đều đóng thay cho họ. Năm ông chín mươi tuổi, vẫn lo thăm hỏi dân nghèo, kiến thiết làng quê, thọ gần một trăm tuổi.

          Đời Tống, Trịnh Cang Trung người xứ Kim Hoa, làm Thông Phán[57] ở Ôn Châu. Gặp năm đói, ông bèn bỏ hết lương bổng để khuyên người khác bán gạo. Thái Thú nói: “Sợ rằng chẳng thể thật sự thí cho kẻ đói”. Ông đáp: “Chẳng khó! Hăy lấy một vạn đồng, trên mỗi đồng tiền ghi một chữ. Tối đến ra đường phố, hễ gặp kẻ đói bèn cho một đồng, căn dặn: “Chớ xóa chữ ghi trên đó, ngày mai [quan phủ] sẽ dựa vào đồng tiền ấy để cấp gạo. [Làm như vậy] sẽ chẳng bỏ sót một ai. Phương pháp phát gạo không có cách nào tốt bằng cách này!” Lại có người đề nghị cứu đói bằng cách dựa theo nhân khẩu để phát lương thực, nửa tháng phát một lần. Đối với họ, đă đỡ tốn công đi lại, họ ở nhà tận lực làm việc. Đối với ta, cũng đỡ tốn sức, giảm bớt những khoản chi phí, có thể cứu sống thêm mấy người nữa! Lại tránh được t́nh trạng họ tranh giành, chiếm đoạt lẫn nhau. Có người nói: “Dựa theo nhân khẩu để cấp phát lương thực, sợ sẽ có nhiều kẻ mạo danh, lạm dụng, chẳng thể được!” Ông nói: “Ta sẽ có cách thu xếp. Trước hết, hăy thí cháo dăm ba ngày. Nam nữ khác chỗ, cho phép họ mang b́nh đựng đến để lănh về ḥng nuôi nấng người già, trẻ nít. Cấp cho mỗi người một cái thẻ, đối với người trong một thôn đều ghi chép tên họ, tụ tập họ lại một chỗ, chẳng cho phép họ phân tán. Như vậy th́ sẽ có thể ước tính số người trong một thôn. Sau đấy, mới đến từng làng đích thân tra xét, phân định là trung bần hay thượng bần. Thà tính dư, đừng tính thiếu. Dựa theo cái túi do họ đem tới mà cấp cho lương thực đem về. Kẻ già cả, yếu đuối hoặc góa phụ chẳng thể vác nặng, hăy chiếu theo thời giá, chiết tính thành tiền cho họ. Cho họ nhiều hơn một chút, đừng giảm bớt. Đấy cũng là trù tính phương pháp thỏa đáng nhất, mà cũng là phương pháp thích ứng với hiện thời để người có ḷng nhân thực hiện thuận tiện”.

          Chúc Nhiễm ở Diên B́nh thường mỗi khi gặp năm đói kém liền thí cháo cứu dân đói rất đông. Hôm con trai ông ta đi thi Hương, người hàng xóm mộng thấy có người chạy đến, báo tin đỗ Trạng Nguyên, tay cầm lá cờ to, trên đó có đề bốn chữ “thí chúc chi báo” (báo ứng do thí cháo). Quả nhiên con trai ông thi đỗ liên tiếp, đỗ đầu thiên hạ.

          Xưa kia, có người luận định phương pháp chẩn tế, coi thí cháo là cách thấp nhất, nhưng khi Tịch Văn Tương cứu nạn đói lớn tại Giang Nam, đặc biệt chủ trương phát cháo, bảo: “Cấp phát tiền và gạo, ắt cần phải biên chép [danh sách], thẩm định tường tận, chánh xác, ḥng ngăn dứt những mối tệ, nhưng sanh mạng của dân đói chỉ trong sớm tối, há nên dằng dai? Thí cháo th́ những người được ban phát đều là dân nghèo, chính là cách cứu đói khi khẩn cấp”. Có thể thấy đó là cách thấp nhất, nhưng cũng có lúc phải nên dùng. Khi đụng chuyện, hăy nên xét theo t́nh h́nh và mức độ để chọn cách thích hợp, chớ nên nhất loạt câu nệ!

          Có kẻ luận định chuyện mở trạm thí cháo tuy là việc tốt đẹp, nhưng chưa hoàn toàn ổn thỏa. Một là kẻ già cả, yếu đuối, sẽ không thể đến nhận. Lại như kẻ ở xa mấy dặm, nhịn đói để xông pha gió máy, rét mướt, sẽ dễ ngă bệnh. Nếu như đến nơi phải mất mười dặm, trở về mười dặm nữa, lại phải chờ đợi chen chúc. [Do vậy làm cách này] chưa thể thí trọn khắp ngay được. Hễ ăn nhiều, bụng sẽ căng phềnh. Ăn ít th́ đói, lại c̣n bị mùi hôi thối xông sực, thường đến nỗi xảy ra chuyện ngoài ư muốn. Có kẻ ăn cháo xong bèn chết ngay, có kẻ vừa khom ḿnh bèn ộc cháo ra. Hăy nên suy xét những nỗi thảm thương như vừa mới kể!

          Do vậy ta thấy, để thật sự thực hiện tốt đẹp, nay có một phương pháp tốt đẹp hơn. Không ǵ bằng làm những gánh cháo. Mỗi gánh dùng năm sáu thưng gạo trắng nấu cháo, đựng vào thùng có nắp đậy, phía dưới có thể nhóm ít lửa để cháo không bị nguội. Phía ngoài, xếp một cái giỏ nhỏ, đựng mười cái bát, mười đôi đũa, một ít dưa muối. Gánh tới chỗ đường cái, hoặc vùng ngoại thành, hễ gặp người nghèo, bèn bảo họ ngồi thành hàng, cho họ ăn xong, xin nước rửa bát đũa để cho người ăn sau [có bát đũa sạch để dùng]. Ước chừng mỗi gánh có thể cho bốn, năm chục người ăn. Mười gánh sẽ đủ cho bốn, năm trăm người. Gánh đi khắp các hẻm ngơ, hằng ngày đều tiến hành ở các nơi, sẽ đúng là thật sự tùy thời cứu tế, lại chẳng có những khuyết điểm như khi lập trạm tụ tập người đói để phát cháo. Cách thí cháo này tiện lợi nhất, thỏa đáng nhất.

          Đời Ngụy, Thời Cử ưa bố thí. Hễ gặp năm đói kém, gạo đắt, liền xuất gạo trong kho để giảm giá gạo, chỉ bán bằng nửa giá lúc đó. Ông từng nói: “Năm mất mùa th́ bán nửa giá, năm được mùa th́ bán đúng giá. Tuy thâu vào ít hơn, chẳng gây tổn hại”. Ông thường châu cấp những thân thích và bằng hữu nghèo khó. Cả huyện phần nhiều trông cậy vào sự cứu tế của ông. Con ông là Thu Tiết làm quan đến chức Thượng Thư.

          Đời Tống, Hoàng Thừa Sự mỗi năm vào lúc thâu hoạch, bèn bỏ tiền mua gạo. Cho đến lúc giáp hạt[58] năm sau, bèn bán ra giúp dân. Giá chẳng tăng, thưng đấu chẳng đổi[59]. Về sau, ông mộng thấy Tử Phủ Chân Quân[60] nói: “Ban cho ngươi đứa con làm tới địa vị Thượng Thư. Bản thân ngươi sẽ được ghi danh vào sổ tiên”. Về sau, những điều ấy đều ứng nghiệm.

          Đời Nguyên, chân nhân Khưu Trường Xuân nói: “Bán gạo ra để làm giảm giá gạo đắt đỏ chính là phương tiện to lớn nhất, thật sự đă cứu giúp mọi người trong những năm đói kém, công đức vô lượng. Kẻ có sức, nhằm lúc thâu hoạch, hăy nên mua vào cho nhiều, hoặc là có ruộng đất, bèn gặt hái, cất giữ, gặp lúc thiếu kém, bèn bán ra đúng như giá cũ. Ḿnh chẳng bị tổn hại, mà lại hết sức có lợi cho kẻ khác, cớ sao chẳng vui vẻ làm như vậy? Cách kém hơn là dựa theo thời giá để bán với giá rẻ hơn, nhưng bán đúng giá [trước khi đói kém] th́ tốt hơn”.

          Đặng Thành Mỹ ước định cùng thân tộc lập hội Châu Lợi, với ư nghĩa gặp năm mất mùa [sẽ giúp cho] người khác chẳng bị chết đói. Phương cách là khi mùa màng bội thu, cứ mỗi mẫu sẽ bỏ ra một hoặc hai đấu gạo, đến mùa Xuân cho vay với lợi tức hai phân, đến vụ gặt mùa Thu sẽ trả. Thành Mỹ giữ ḷng công bằng, đứng ra trông coi việc ấy. Về sau, gặp lúc hạn hán, đói kém, không chỉ là cứu được thân tộc, mà c̣n cứu được những người khác. Ông thọ bảy mươi lăm tuổi. Hôm ông mất, mùi hương lạ khắp nhà, hàng xóm thấy vô số sai nha cơi âm nói oang oang là đến đón ông làm Thành Hoàng xứ nọ.

          Tào Thế Mỹ nhà nghèo, thích làm lành. Một vị Tăng dạy ông hăy thật tâm khuyên lơn, giúp đỡ người khác th́ cũng có thể tạo phước. Từ đấy trở đi, Thế Mỹ ước định cùng người khác lập ra nhiều hội từ thiện, thí cháo, thí áo, thí thuốc, thí nước gừng, phóng sanh, tiếc chữ, thí quan tài, chôn cất [những người không có ai lo liệu hậu sự], sửa chữa cầu, đường v.v… Người khác bỏ tiền, tự ḿnh ra sức. Mỗi năm đều như thế, càng lâu càng có sức. Những năm đói kém, ông càng chú ư ra sức khuyên cứu tế. Về sau, do bán dầu cho những người giàu, dần dần có được hơn năm ngàn lạng. Con cháu an hưởng phước dầy. Đối với mọi chuyện, kẻ giàu có sẽ dễ thành công, kẻ nghèo rất khó thực hiện, nhưng do gặp cảnh khó thực hiện mà có thể gắng sức làm th́ đấy chính là chỗ khiến họ dễ [đạt được thành tựu] hơn người thường. Cổ nhân có nói: “Kẻ nghèo bỏ công sức một trăm phần bằng kẻ phú quư bỏ công sức ngàn phần”. Do vậy, có thể thấy: Kẻ nghèo há nên tự buông xuôi, chẳng có chí khí mạnh mẽ, kiên quyết ư?

          Đoàn Nhập Bát tích trữ gạo đến mấy chục kho, gặp năm đói kém, toan bán ra với giá cao. Quan sai người đến hỏi mượn gạo để cứu đói, hắn đă bằng ḷng. Sáng sớm hôm sau, do thấy dân đói tụ tập chờ đợi, bèn hối hận, chẳng chịu phát gạo. Mọi người vừa mới huyên náo, hắn ta bèn cùng người nhà đóng chặt cửa, cự tuyệt mọi người. Bỗng trời nổi trận mưa to gió lớn, xô gạo đổ tung tóe ra đường sá. Dân đói tranh nhau hốt lấy, họ Đoàn bị sét đánh chết tươi!

          Trải xem báo ứng họa phước của những kẻ tàn nhẫn hay nhân từ trong các năm đói kém, sách vở đă ghi chép rất nhiều, chẳng thể thuật trọn, chẳng phải chỉ có những trường hợp trên đây. Tiên nho nói: “Đói kém là mạng trời, nhưng ḷng trời nhân ái, thương xót dân đói bội phần tha thiết. V́ thế, bậc trí do hợp ḷng trời bèn được những điều tốt lành giáng xuống. Kẻ ngu do trái nghịch ḷng trời mà bị trừng phạt. Đó là lẽ tất nhiên”. Báo ứng giáng họa lắm nỗi, càng nhanh chóng hơn phước báo. Chẳng riêng ǵ cái tội đóng chặt cửa không bán gạo ắt bị trời đánh, ngay như kẻ trữ tiền keo kiệt, trơ mắt nh́n người khác sắp chết chẳng cứu, do nhẫn tâm hại lư, sẽ bị khiển trách càng nặng nề hơn nữa! Kẻ ở sâu trong ngôi nhà tráng lệ, chẳng nghe tiếng than khóc v́ đói, chẳng thấy [người chết đói ngoi ngóp] nơi ng̣i rănh, muốn cứu mà cứ do dự, chần chừ, chẳng suy xét người chết đói đă nhiều, th́ cũng là trái nghịch ḷng trời, chẳng khỏi mắc tai ương! Nếu là kẻ làm cha mẹ của dân, lại ơ hờ chẳng quan tâm nỗi khổ của dân, chần chừ, rề rà, cũng như những kẻ nha lại nẩy sanh thói tệ, giở tṛ gian trá, khiến cho dân chúng chẳng được thật sự giúp đỡ, tội ấy càng là muôn kiếp khó siêu! Cổ nhân nói: “Cứu một mạng người, tăng thọ mười hai năm”. Huống chi kẻ có thế lực, hễ ra tay, sẽ có thể cứu trăm ngàn vạn mạng. V́ thế, kẻ đang có quyền chức, giống như đang ở trong núi báu, mặc sức ta chọn lựa, nhặt lấy, hăy cẩn thận, đừng ra về tay không!

          Điều đáng quư nhất chính là đứng ra xướng suất trước tiên, phỏng theo cổ nhân làm chuyện cứu tế to lớn. Dẫu là kẻ sức lực hữu hạn, cũng nên kết hợp với những người thật sự có thiện tâm để thực hiện chuyện khuyến mộ rộng răi, tùy duyên tiến hành, ngơ hầu chuyển [những kẻ sẽ v́ chết đói mà vùi thân nơi] ng̣i rănh thành b́nh yên. Âm công mênh mông, trời sẽ báo đáp chẳng sai xuyển. Trong thiên sách này đă nói về chuyện này đặc biệt tường tận, tấm ḷng đau đáu, ư tưởng sâu xa, căn dặn hết sức thiết tha. Lại c̣n dặn ḍ: Nếu gặp năm mất mùa, khi cần phải cứu chẩn, hăy mau chóng thâu thập, nhuận sắc các thuyết và các câu chuyện cứu đói để in ra lưu truyền, khuyên lơn, gởi tặng rộng răi các thành phố, làng quê đang bị tai ương, ngơ hầu các bậc thân sĩ, những nhà giàu có đọc kỹ. Lại c̣n dán [những tờ yết thị phương pháp cứu tế ấy] khắp các chỗ náo nhiệt, sẽ thật sự là điều đại thiện, tạo phước chẳng có ngằn mé!

 

Phụ lục: Ghi chú về hai mươi biện pháp cứu đói của ông Trần Bằng Niên tại phủ Tô Châu vào đời Thanh

 

          Năm Khang Hy 47 (1708), lụt lội, hạn hán liên tiếp xảy ra. Ông Trần xin quan đốc phủ vùng Giang Chiết hăy ban hành sách lược này. Lúc đầu, gạo giá hai mươi đồng một thưng, [do áp dụng chánh sách do ông Trần đề nghị], chưa đầy hai tháng, mỗi thưng chỉ bán tám, chín đồng. Dân chúng ca ngợi ơn tái tạo của quan cai trị. [Chánh sách ấy như sau]:

          - Một là cấm dùng gạo nếp nấu rượu.

          - Hai là cấm dùng lúa ḿ nấu rượu.

          - Ba là cấm dùng đậu nành ép dầu.

          - Bốn là cấm dùng gạo tấm trắng làm đường.

          - Năm là cấm dùng cám gạo làm sợi miến (Hạ lệnh bán những thứ ấy cho dân đói để họ làm bánh cho qua cơn đói. Nghiêm cấm năm thứ trên đây, đối với một huyện trung b́nh, mỗi ngày sẽ tiết kiệm không chỉ là mấy trăm thạch gạo. V́ thế, ngay lập tức sẽ thấy giá gạo giảm mỗi ngày).

          - Sáu là cấm phường đồ tể và nhà buôn rượu bán thức ăn đă nấu chín (giảm bớt tiền tài để tích phước; chỉ được phép bán các thức ăn làm bằng bột, hoặc sợi ḿ, đồ chay).

          - Bảy là khuyên những nhà khá giả và các con buôn giàu có hăy quyên tặng gạo cứu đói. Năm nay, ông Đổng Thiên Quyến ở huyện B́nh Hồ được ông Trần chỉ giáo, trước hết cho làm hai mươi bức hoành phi ghi “vi phú bất nhân” (làm giàu bất nhân), chất đống tại huyện đường, đích thân tới những nhà giàu khuyên họ đóng góp, chí thành khiến họ cảm động, [các biện pháp] cứng rắn lẫn mềm mỏng đều dùng. Trước hết là tới chỗ hương thôn, gặp ba nhà giàu có ương bướng [không chịu quyên góp], bèn đóng tấm hoành phi ấy lên cửa, lại c̣n báo cho họ biết: Hễ họ bán ruộng đất để chuộc tội mà nếu gián đoạn [không trả hết tiền phạt], sẽ bị phạt nặng hơn. Gia nghiệp gần như sẽ đi tong quá nửa! Từ đấy, từ vùng quê cho đến thành thị, những kẻ thích đóng góp đông đảo. Ngoài chuyện cấp gạo, cấp tiền ra, c̣n lập trạm thí cháo khắp nơi. Lại c̣n thí thuốc, chẩn tế đến mấy tháng, tới khi “ăn gạo mới”[61] bèn thôi. Số lượng quyên góp nếu dư ra, sẽ sai đem trả lại những nhà giàu có, cứu sống vô vố người.

          Đời Tống, tiên sinh Tây Sơn Chân Đức Tú nói: “Rộng ḷng giúp đỡ dân nghèo, ắt được trời đất ban phước. Đấy là nói theo lư. Nếu nói theo lẽ lợi hại, không có dân đói, sẽ chẳng có đạo tặc, ắt thôn quê, thành thị b́nh an. Đấy lại là điều lợi cho những nhà giàu”. Ông Trần Kỷ Đ́nh bảo: “Chuyện cứu đói cần phải do thân sĩ và các nhà giàu có tại các vùng, các thôn cứu giúp dân nghèo gần chỗ họ, sẽ khiến cho cả huyện chẳng có ai bị đói”. Ông Hoàng Chấn nói: “Để cứu đói chỉ có cách khuyên nhủ, [tức là] khuyên những nhà giàu có hăy tạo ân huệ cho dân nghèo. Nếu những khoản quyên tặng có dư, sẽ dùng để cấp thêm cho những kẻ thiếu thốn; đấy chính là đạo trời, là phép nước vậy. Nếu kẻ nào chỉ mong giàu có cho riêng ḿnh, chẳng nghĩ đến t́nh cảnh tai ách thê thảm v́ đói kém, dẫu có thể may mắn trốn thoát phép nước, ắt khó trốn đạo trời tru lục!” Lại nghe Châu Tử nói: “Để khuyên nhủ [kẻ giàu] chia sẻ cứu dân trong cơn cấp bách, chẳng thể không nhẫn nại đôi chút. Nếu gặp kẻ giàu có so đo quá sâu, sợ rằng rốt cuộc sẽ không thể làm được (không thể quyên tặng được), phải sử dụng cả ân lẫn uy th́ mới có ích cho việc cứu tế”. Đây chính là ông Trần đă lănh hội sâu xa đạo cứu đói của Châu Tử vậy.

          - Tám là tạo lập công việc để giúp đỡ kẻ thiếu thốn (như đắp thành, khơi sông, tu bổ cầu đường v.v… khiến cho những kẻ làm công sẽ có cái ăn).

          - Chín là nới lỏng những nghiêm cấm [trước đó về chuyện khai thác tài nguyên từ] núi, sông, như giảm nhẹ thuế vận chuyển lương thực để tiện vận chuyển theo đường thủy, cũng như chẳng nghiêm cấm những chuyện như đẵn củi v.v… để [dân nghèo] có cách sống tạm thời, chẳng đến nỗi trở thành đạo tặc.

          - Mười là đối với những phạm nhân nếu t́nh cảnh đáng thương, hoặc vụ án đáng ngờ, cho phép họ dùng gạo chuộc tội, dùng số gạo ấy để cứu đói.

          - Mười một, bất luận quan lại, quân, dân, phụ nữ, tăng, đạo, đủ mọi hạng người, hễ có thể giúp cứu đói, nếu ít th́ tặng hoằng phi, ban thưởng, nhiều th́ báo tường tận lên triều đ́nh ngơ hầu họ sẽ được thánh chỉ phong tặng.

          - Mười hai, mời mọc các bậc danh y mở pḥng thuốc cứu chữa người bệnh.

          - Mười ba, dân ở gần núi, dạy họ dùng tùng, bách để đỡ ḷng (sách Bác Vật Chí[62] chép: “Năm đói kém không có cái để ăn, có thể nghiền kỹ tùng, bách để vắt lấy nước, ḥa với nước lă để uống khỏi đói ḥng cầm cự qua ngày”. Nếu ḥa với cháo hoặc canh lỏng để uống th́ càng hay. Mỗi lần dùng năm hớp nước tùng, ba hớp nước bách ḥa chung để uống. Hoặc chỉ dùng lá tùng cũng được. Chỉ cần đừng dùng những thứ thức ăn khác, sẽ có thể khỏi đói, hết bệnh.

          - Mười bốn, hoăn hành h́nh (năm đói kém, lắm kẻ phạm pháp; v́ thế, khoan dung).

          - Mười lăm, giảm bớt lễ lạc (đối với chuyện làm lễ đội mũ (gia quan), cưới hỏi, ma chay, cúng bái, hăy giảm thiểu những lễ nghi theo phương diện h́nh thức).

          - Mười sáu, cho dân vay mượn để gieo trồng (do sợ [dân đói] bỏ mặc ruộng đất chẳng gieo trồng).

          - Mười bảy, cẩn thận pḥng ngừa đạo tặc (do sợ chúng nó sẽ làm hại dân).
          - Mười tám, hàng quan lại, thân sĩ, hễ gặp ngày mồng Một và Rằm, bèn trai giới, tắm gội, cầm hương đi bộ,
ai nấy cầu đảo tại các miếu để cầu cho dân được yên vui (năm mất mùa chính là do cộng nghiệp của nhân dân cảm vời. Cầu đảo, sám hối tội lỗi nhằm văn hồi vận mạng to lớn. Đấy cũng là một trong các biện pháp cứu đói theo Châu Lễ).

          - Mười chín, trong mỗi châu, huyện, chọn lựa người tài đức để chủ tŕ việc cứu đói (như lo liệu việc cấp gạo, thí cháo v.v…), khiến cho dân đen thật sự được hưởng ân huệ. Khi sự việc đă được lo liệu ổn thỏa, đồng loạt tâu lên [triều đ́nh danh sách] những người đă quyên tiền, tặng gạo.

          - Hai mươi, đối với các thuyền chở đậu phộng, đậu, lúa mạch… miễn thuế một tháng, lại c̣n sai phu kéo thuyền giùm, hộ tống (thuyền chở đậu, gạo từ các quận ngoài được chở tới hằng ngày th́ giá gạo mỗi ngày một giảm, đấy là tác dụng to lớn để chuyển thiếu thốn thành sung túc).

          Luận về sự cứu tế trong cơn cấp bách, trên đây đă nói tường tận. C̣n như cứu nguy, xét theo lư, đại khái giống nhau, nhưng để cho mọi người cảm thấy [cứu nguy] có mối tương quan với sự sanh tử, tôi ghép thêm mấy câu chuyện sau đây.

          Trương Bá Hộ ở Cao Bưu từ trong thuyền thấy đằng xa có người bám vào một chiếc thuyền lật úp, lúc ch́m, lúc nổi, gào thét cầu cứu. Ông Trương vội gọi thuyền chài đến cứu, họ chẳng đáp ứng. Ông bèn cho họ mười lạng bạc th́ họ chịu cứu. Cứu lên th́ ra [kẻ mắc nạn] là con trai của ông Trương.

          Đời Tống, Châu Tất Đại trong niên hiệu Thiệu Hưng trông coi Ḥa Tễ Cục[63] của Hàng Châu. Trong cục bị cháy, [theo quy chế, những người trực ban mà] để hỏa hoạn xảy ra, [sẽ bị phán] tội chết. Ông nói: “Nếu hỏa hoạn do quan gây ra, sẽ bị tội ǵ?” Nha lại nói: “Sẽ bị cách chức làm dân thường”. Ông nói: “Há nên v́ một ḿnh ta mà nỡ ḷng nh́n mười mấy người mất mạng ư?” Bèn nói dối là chính ḿnh gây ra hỏa hoạn, chịu tội, mất chức, mọi người đều được cứu sống. Về sau, ông làm Tể Tướng.

          Đời Tống, Lôi Hữu Chung đánh dẹp [bọn phản loạn] Vương Quân, muốn tàn sát dân chúng trong thành. Khi ấy, những vị nhân sĩ đất Thục (Tứ Xuyên) là Phạm Xán, Phạm Tuy [là những người] khí tiết cao thượng, có văn tài, và Văn Giám đại sư là một vị nổi danh đức hạnh, cùng kéo đến can gián. Họ dập đầu thưa: “Người đất Thục hiền lành, nhu nhược, bị ép buộc phải theo hắn, đặc biệt sợ chết. Hôm nào thành bị hạ, xin Ngài đừng tàn sát, chỉ cần trừ bỏ đám giặc hung tợn là được rồi”. Hữu Chung thấy ba vị ấy là bậc trượng phu khẳng khái, quên thân v́ mọi người, xuất phát từ ḷng chí thành, bèn dịu nét mặt, bảo: “Nếu chẳng nghe lời của bậc trưởng giả, ta đă gần như làm bậy rồi”. Một thành bèn được bảo toàn. Con cháu họ Phạm quư hiển, sư Văn Giám ngộ đạo.

          Ông Phùng X… vào hôm trời rét dữ, dậy sớm [ra đường], trên đường, thấy một người nằm trong tuyết, thân đă cứng một nửa, vội cởi áo bông của chính ḿnh đắp cho, cơng về cứu tỉnh. Ông mộng thấy thần bảo: “Ông cứu mạng người xuất phát từ ḷng chí thành, sẽ ban cho Hàn Kỳ làm con ông”. Về sau, ông sanh con bèn đặt tên là Kỳ, [Phùng Kỳ] tột bậc hiển quư.

          Lái buôn đất Huy Châu là Vương Chí Nhân tuổi đă ba mươi mà không con. Giữa đường, gặp một người đàn bà ẵm con nhảy xuống nước. Ông ngăn lại, hỏi nguyên cớ. Người đàn bà thưa: “Chồng thiếp nghèo, nuôi lợn để [lấy lăi] trả tiền địa tô. Ngày hôm qua, [chồng thiếp] đi ra ngoài làm thuê cho người khác, kẻ buôn lợn đến nhà mua lợn, không ngờ đưa toàn bạc giả. Thiếp sợ chồng về đ̣n vọt, lại cũng chẳng có cách ǵ để sống, cho nên [tính t́m] cái chết”. Chí Nhân thương xót, cho tiền đủ số. Tới khi người chồng biết chuyện, nghi vợ nói dối, lôi vợ đến chỗ ông Vương cư ngụ để chất vấn. Vương Chí Nhân đă ngủ, chồng bắt vợ gơ cửa, thưa: “Tôi là người đàn bà nhảy xuống nước, đến lạy tạ”. Ông Vương lớn tiếng nói: “Ngươi là đàn bà c̣n trẻ, ta là khách trơ trọi một ḿnh, đêm tối há nên gặp mặt? Có ǵ muốn nói, sáng mai hăy cùng chồng ngươi tới!” Người chồng mới sợ hăi thưa: “Vợ chồng tôi cùng có mặt”. Do vậy, Chí Nhân khoác áo ra gặp. Vừa mới mở cửa, tường sập, cái giường ông nằm bị nát vụn như bột. Vợ chồng họ cảm thán, hết sức cảm tạ, lui về. Về sau, ông sanh được mười một đứa con, sống rất thọ.

          Đời Đường, Bùi Độ đến chơi chùa Hương Sơn, nhặt được hai cái đai ngọc, một cái đai bằng sừng tê giác, bèn đợi chủ nhân đến t́m. Cho đến chiều tối, người ấy không tới, [ông bèn cầm về], đến sáng lại sang chùa. Một người đàn bà đến khóc lóc, nói: “Cha thiếp vô tội bị tù, ngày hôm qua [tính] nhờ đai báu để giúp cha thoát tội, bất hạnh đánh mất ở nơi đây, chẳng trốn khỏi họa vậy”. Bùi Độ xúc động, trả lại. Trước đó, có người coi tướng bảo Bùi Độ ắt sẽ chết đói. Tới lúc này gặp lại, bèn bảo: “Ông khí sắc khác hẳn, ắt có âm đức giúp đỡ người khác, tiền tŕnh [rạng rỡ] tôi chẳng thể biết được!” Về sau, ông được phong làm Tấn Quốc Công, truy tặng [tước hiệu] Thái Phó.

          Đường đời gập ghềnh, gặp những nỗi hiểm nguy khác nhau. Người có ḷng nhân cứ từ đây suy ra, sẽ biết trọn hết. Mỗi chuyện đều phải tận hết sức làm, ở đây chẳng thể ghi trọn hết được! C̣n như chuyện sống chết do bị h́nh phạt, tù ngục bức bách, càng là t́nh cảnh trầm trọng hơn các nỗi nguy khác, sẽ được giảng giải và chép trong phần chú giải câu “nhập khinh vi trọng” (ghép thêm tội nặng vào tội nhẹ) thuộc phần sau. V́ thế, chẳng luận định thêm ở đây!

 

          (Chánh văn) Kiến nhân chi đắc, như kỷ chi đắc. Kiến nhân chi thất, như kỷ chi thất.

          (正文)見人之得。如己之得。見人之失。如己之失。

          (Chánh văn: Thấy người khác đạt được giống như chính ḿnh đạt được; thấy người khác bị mất mát, giống như chính ḿnh bị mất mát).

 

          Người đời nay thấy kẻ khác được mất, chẳng thể [cảm nhận] như chính ḿnh được mất, chỉ v́ có ḷng ích kỷ, chấp trước chính ḿnh. Hễ được bèn sợ mất, lại dấy ư niệm chỉ sợ người khác sẽ đạt được, thà khiến cho người khác bị mất mát! Mới đầu vẫn chỉ là lợi ḿnh; về sau, dần dần thành trở ngại người khác, đố kỵ sự thành tựu [của người khác], vui thích trước thất bại của họ. Người khác thành hay bại, liên quan ǵ đến ta? Chỉ ôm ấp tâm thuật xấu xa, gieo cái nhân ác tự hại chính ḿnh! Chẳng biết công phu của thánh hiền vốn là phải tiêu trừ Ngă Kiến. Trong sự hiểu biết của bậc thông đạt, cũng cần phải phá vỡ những t́nh tự phàm tục. Nếu ngộ “ta và người vốn cùng một nguồn, được hay mất là do mạng trời”[64], ắt sẽ trông thấy người khác đạt được, không chỉ là chẳng đố kỵ, mà c̣n t́m mọi cách giúp đỡ. Thấy kẻ khác bị mất mát, không chỉ là chẳng mừng, mà c̣n cứu giúp nhiều cách. Đấy chính là chỗ thọ dụng chân thật của chính ḿnh.

          Đời Đường, Địch Lương Công (Địch Nhân Kiệt) làm Pháp Tào Tham Quân ở Tinh Châu, có [viên quan] họ Trịnh bị phái tới chỗ xa xôi, hẻo lánh. Mẹ ông ta vừa già vừa bệnh. Ông Địch nói: “Mẹ của ông đă như thế, há nên khiến cho ông ta phải chịu nỗi lo vạn dặm?”, bèn đến chỗ Trưởng Sử Lạn Nhân Cơ, xin đi thay. Nhân Cơ thường chẳng thuận thảo với Lư Tư Mă, do [thấy ông Địch làm như thế] bèn nói: “Ông Địch như thế ấy, há bọn ta chẳng nên tự thẹn ư?” Bèn ḥa thuận với nhau.

          Tiết Viện làm Tướng Quốc nước Yên, cái tâm chưa thể công bằng, đố kỵ khi người khác đạt được, thích thú khi thấy người khác mất mát, chẳng tiến cử người hiền, lại c̣n ganh ghét, khiến cho họ chẳng được tiến cử. Một đứa con trai [của ông ta] chết trong ngục, những đứa c̣n lại th́ tàn phế. Tử Cao là người công minh, truyền dạy [Tiết Viện] bộ Trung Giới Kinh. Tiết Viện hối hận, thề nỗ lực thực hiện, [rốt cuộc] chỉ bảo toàn được một đứa con.

          Đời Minh, Liên Tŕ đại sư bảo: “Con người đối với cảnh giới tài, sắc, danh, lợi trong thế gian, tôi dùng tỷ dụ để nói rơ. Có một đống lửa ở nơi đây, năm món vật ở bên cạnh. Một là như cỏ khô, hễ vừa chạm đến, sẽ cháy ngay. Hai là như gỗ, hễ quạt lửa vào đó sẽ cháy. Ba là như sắt, không thể cháy được, nhưng có thể bị nung chảy! Bốn là như nước, không chỉ là chẳng cháy, ngược lại c̣n có thể dập lửa; đổ vào trong nồi, niêu, c̣n có thể bốc hơi. Năm là như hư không, thiêu đốt bất cứ cách nào, Thể của nó vẫn như như, mà cũng chẳng cần diệt, hành tướng sẽ tự diệt. Để b́nh tâm, hăy nên quán như thế”.

         

          (Chánh văn) Bất chương nhân đoản, bất huyễn kỷ trường.

          (正文)不彰人短,不衒己長

          (Chánh văn: Không phơi bày khuyết điểm của người khác, không khoe khoang ưu điểm của chính ḿnh).

 

          Người ta có những nhược điểm, như nghe tên cha mẹ của họ, tai có thể nghe, nhưng miệng chớ nên nói. Nhưng miệng vốn đă chẳng nên nói, mà tai cũng chớ nên nghe, sẽ càng cao hơn. Nói chung, ai mà chẳng có nhược điểm; hễ phô bày ra, ắt sẽ chẳng tránh khỏi bị lan truyền. [Như vậy th́] tiếng tăm [của người ấy] sẽ bị giảm sút, mà họ c̣n hành xử khó khăn, lỗi ấy sẽ do ai gánh vác vậy? Nếu chẳng phải là kẻ tiểu nhân không hề kiêng nể ǵ, sẽ không làm như thế. Ta có sở trường, sẽ giống như tài sản của người buôn bán giỏi, giấu kín th́ tốt, chứ để lộ ra sẽ gặp nguy. Nếu là người có sở trường, ắt phải ẩn tài, tu thân dưỡng tánh, sửa đổi cho ngày càng tốt đẹp hơn, sau đấy mới có thể thành tựu đức hạnh. Lăo Tử nói: “Thịnh đức dung mạo nhược ngu” (Bậc đức dầy dáng vẻ như kẻ ngu). Tử Tư[65] nói: “Ám nhiên nhật chương, thánh huấn chiêu nhiên” (Đạo đức của bậc quân tử tuy ẩn giấu sâu kín mà ngày càng tỏ lộ, thánh nhân đă giáo huấn rành rành). Mọi người hăy nên tự phản tỉnh.

          Thời Châu, Sở Trang Vương cùng quần thần dự dạ yến. Đuốc bị tắt, có kẻ say kéo áo mỹ nhân. Mỹ nhân dứt đứt giải mũ của kẻ ấy, tố cáo với vua. Vua bảo: “Ta cho mọi người uống say, mà lại muốn hiển lộ ḷng trinh tiết của phụ nữ hay sao, ta chẳng làm!” Bèn dặn kẻ hầu đừng thắp đèn, truyền lệnh: “Kẻ uống rượu với quả nhân mà không dứt đứt giải mũ sẽ chẳng vui”. Quần thần đều dứt đứt giải mũ, tận t́nh vui say rồi về. Sau này, lúc vua giao tranh với nước Tấn, thấy một người tận lực chiến đấu. Đấy chính là người khi trước [đă bị mỹ nhân] dứt đứt giải mũ vậy!

          Đời Tống, Hàn Kỳ làm quan tại Trung Thư Tỉnh đă lâu. Hễ thấy có thư từ, sớ tấu công kích những lỗi xấu ẩn kín của người khác, đều tự tay phong kín, chẳng cho kẻ khác thấy. Vương Tố làm gián quan, nói: “Nhân tài khó được! Khi không bận chuyện ǵ, hăy v́ triều đ́nh yêu tiếc [nhân tài], chớ nên hạch sách những điều ẩn giấu riêng tư của kẻ khác, phơi bày khuyết điểm của họ. Tŕnh Minh Đạo làm Ngự Sử, tâu với vua: “Sai thần bù đắp lỗi lầm th́ được. Nếu muốn thần t́m ṭi, bới móc ưu khuyết điểm của những bầy tôi khác, để được tiếng là kẻ cương trực, thần chẳng thể làm được”. Từ Văn Trinh đăi khách ăn tiệc. Một vị khách lấy cái chén bằng vàng giấu vào trong mũ. Kẻ hầu t́m kiếm cái chén. Ông nói: “Đă cất rồi”. Kẻ ấy say rượu, làm rớt mũ, chén rơi xuống đất. Ông giả vờ chẳng biết, [nhặt chén] bỏ vào trong tay áo kẻ ấy. Văn Trưng Minh tánh chẳng thích nghe kể lỗi người khác. Hễ thấy có kẻ sắp nói [khuyết điểm] của kẻ khác, bèn khéo léo lái sang chuyện khác. Mấy vị ấy giữ ḷng trung hậu, [cho nên họ] hưởng lộc to lớn, là những bậc danh thần, đấy là chuyện đúng lẽ vậy!

          Điền Tễ cậy tài, cay nghiệt, thường thích b́nh phẩm, chê bai, khích bác khuyết điểm của các bậc thánh hiền thuở trước và những người nổi danh đương thời. Sau khi mạng chung, do nghiệp nhân ấy, địa phủ hạ lệnh mỗi ngày có ba con rắn và hai con rết chui ra, chui vào bảy lỗ. [Chịu phạt] tṛn một năm, bèn thọ sanh làm thân nữ. Ông ta báo mộng cho vợ như vậy. Trương Củng Thần nói: “Chớ dễ duôi bác bỏ điều thiện của kẻ khác. Chớ dễ dăi tin lời kẻ khác. Chớ dễ dăi khiến cho kẻ khác đắc ư. Chớ dễ ngươi bàn luận khuyết điểm của kẻ khác”. Đấy đều là phương cách để tự giữ ḷng trung hậu. Chuyện phơi bày khuyết điểm của người khác chính là căn bản của sự khắc bạc, gian hiểm. Huống hồ Điền Tễ là kẻ hủy báng thánh hiền, há cơi âm chịu khoan dung, chẳng tru lực ư?

          Đời Tống, Âu Dương Tu giỏi văn chương, thường là tiếp khách bèn nói nhiều về chuyện triều chánh, chẳng nhắc tới văn chương. Thái Tương giỏi việc cai trị, mỗi khi tiếp khách, bàn nhiều về văn chương, chẳng nhắc tới chánh sự. Hai ông đều khéo náu ḿnh, rốt cuộc được nổi danh, đều quư hiển tột bậc!

          Đời Đường, trong niên hiệu Vĩnh Thuần[66], Lư, Lạc, Dương, Vương[67] đều do văn chương mà danh tiếng nổi như cồn, mọi người đều nghĩ những người ấy sẽ quư hiển. Bùi Hành Kiệm gặp họ, bèn nói: “Kẻ sĩ có thành tựu cao xa th́ trước hết phải xét độ lượng của họ rồi mới xét đến tài văn chương. Hạng người như Vương Bột tuy có tài văn chương, nhưng bộp chộp, lộ vẻ nông cạn, há có phải là hạng người được hưởng tước lộc ư? Chàng Dương hơi trầm tĩnh, nếu có thể chết an lành là đă may rồi”. Về sau, quả đúng như lời ông Bùi đă nói. Tài năng chẳng bằng học thuật, khí tiết chẳng bằng đức lượng, văn chương chẳng bằng cách cư xử. Người xưa đă nói rơ ràng. V́ thế, bậc quân tử chẳng khoe khoang sở trường.

          Đời Hậu Hán, Thôi Viện có bài minh bên cạnh chỗ ngồi như sau: “Đừng kể lỗi người khác, chính ḿnh chớ cậy tài. Bố thí đừng nghĩ nhớ. Được thí chớ nên quên. Tiếng tăm chẳng đáng chuộng. Ḷng nhân làm chuẩn mực, nghĩ kỹ rồi mới làm. Bị gièm báng quản chi? Luôn giữ danh hợp thật. Ngu vụng hành chân thật, là hạnh thánh nhân hành. Uế ô chẳng vẩn đục, bề ngoài dường tăm tối, trong đầy ắp quang minh. Bề ngoài dường nhu nhược, Lăo Tử từng dạy răn, chớ nên quá kiên cường. Chí bỉ phu cứng cỏi, dần dà sẽ khó lường[68]. Nói năng luôn cẩn trọng, ăn uống vừa phải thôi. Biết đủ, lành khôn ngằn. Nếu hành xử kiên nhẫn. Lâu ngày tự thơm danh”.

          Trong thiên sách Khiêm Đức [thuộc bộ Liễu Phàm Tứ Huấn] của Viên Liễu Phàm đời Minh có đoạn:

          - Kinh Dịch chép: “Thiên đạo khuynh doanh nhi ích khiêm. Địa đạo biến doanh nhi lưu khiêm. Quỷ thần họa doanh nhi phước khiêm. Nhân đạo doanh nhi háo khiêm. Cố Khiêm chi nhất quái, lục hào giai cát” (Đạo trời khiến cho cái quá đầy đủ bị hao bớt, tăng thêm cái khiêm hư. Đạo đất khiến cho cái tṛn đầy bị biến đổi, khiến cho cái khiêm hư được thêm tươi nhuận. Quỷ thần giáng họa cho cái tṛn đầy, tăng phước cho kẻ khiêm hư. Đạo người th́ ghét cái tṛn đầy, chuộng khiêm. V́ thế, một quẻ Khiêm cả sáu hào đều tốt)[69]. Sách Thượng Thư chép: “Măn chiêu tổn, khiêm thọ ích” (Tự măn sẽ chuốc lấy tổn hại, khiêm hư sẽ được lợi ích).

          Tôi đă nhiều lượt cùng các ông đi thi, thường thấy kẻ hàn sĩ sắp hiển đạt, ắt có dáng vẻ khiêm cung đáng mến. Năm Tân Mùi, tôi lên kinh đô dự thi, mười người cùng quê ở Gia Thiện với tôi, chỉ có ông Kính Vũ Đinh Tân trẻ tuổi nhất, tột bậc khiêm hư. Tôi bảo ông Phí Cẩm Pha: “Năm nay, huynh ấy ắt thi đậu”. Ông Phí hỏi: “Huynh dựa vào đâu để thấy?” Tôi đáp: “Chỉ có người khiêm hư sẽ được phước. Huynh hăy xem trong mười người, có ai khiêm cung, thận trọng, chẳng dám giành đi trước người nào như Kính Vũ hay không? Có ai cung kính, thuận thảo, cẩn thận, khiêm nhường, biết nể nang người khác như Kính Vũ hay không? Có ai bị nhục mạ mà chẳng đáp, nghe lời gièm báng chẳng tranh căi như Kính Vũ hay không? Người có thể như thế, ắt được trời, đất, quỷ thần gia hộ, [công danh] há chẳng phát ư?” Đến khi yết bảng, quả nhiên ông Đinh thi đỗ.

          Năm Đinh Sửu, tôi ở kinh đô, ở chung với Phùng Khai Chi, thấy ông ta khiêm hư, luôn giữ dáng vẻ ôn ḥa, đại khái là đă được huân tập từ bé. Lư Tễ Nham đúng là bạn tốt. Khi đối trước những lời lẽ công kích thị phi, chỉ thấy ông giữ vẻ b́nh thản, chịu đựng, chưa hề trả treo một tiếng nào! Tôi bảo ông ta: “Phước th́ có sự khởi đầu của phước; họa có sự khởi đầu của họa. Nếu tâm thật sự khiêm cung, ắt trời sẽ giúp cho. Năm nay, anh chắc đậu”. Đúng như thế đó.

          Ông Dụ Phong Triệu Quang Viễn người huyện Quán, tỉnh Sơn Đông, đi thi Hương từ tuổi thiếu niên, đă lâu mà chẳng đậu. Cha ông ta làm Tam Doăn[70] huyện Gia Thiện. Ông theo cha đến nhiệm sở. Do hâm mộ Tiền Minh Ngô, cầm văn chương [của chính ḿnh] đến gặp, Minh Ngô sổ toẹt những bài văn ấy. Ông Triệu không chỉ chẳng giận, mà c̣n tâm phục, mau chóng sửa đổi. Năm sau bèn thi đỗ.

          Năm Nhâm Th́n, tôi lên kinh đô chầu vua, gặp ông Hạ Kiến Sở, thấy ông ta bẩm tánh nhũn nhặn, nhún nhường, khiêm tốn hơn người. Tôi trở về nói bạn bè: “Trời sẽ giúp cho người ấy. Trước khi phước phát khởi, đă phát trí huệ trước. Trí huệ đă phát th́ người hời hợt sẽ tự chắc thật, kẻ phóng túng sẽ tự thâu liễm. Kiến Sở ôn ḥa, hiền lành như thế, trời sẽ phát khởi cho ông ta vậy”. Đến khi yết bảng, quả nhiên ông ta thi đỗ.

          Trương Úy Nham ở Giang Âm, học rộng, giỏi văn chương, nổi tiếng trong giới nghệ thuật. Năm Giáp Ngọ, ông sang Nam Kinh thi Hương, ở nhờ tại một ngôi chùa. Hôm yết bảng chẳng có tên ông, bèn ầm ĩ chửi bới khảo quan, chắc là mù mắt cả rồi! Khi ấy, có một đạo nhân ở bên cạnh mỉm cười. Họ Trương bèn trút cơn giận sang đạo nhân. Đạo nhân nói: “Văn chương của tướng công ắt là chẳng hay!” Ông Trương càng giận dữ, vặc lại: “Ngươi chẳng đọc văn của ta, làm sao biết là không hay?” Đạo nhân nói: “Tôi nghe nói viết văn th́ quư ở chỗ tâm khí ḥa b́nh. Nay tôi nghe Ngài chửi bới, bất b́nh quá đáng, văn làm sao hay khéo cho được?” Ông Trương bất giác khuất phục, nhân đó bèn thỉnh giáo. Đạo nhân nói: “Để thi đậu, hoàn toàn phải cậy vào mạng. Mạng chẳng thể đậu, dẫu văn hay khéo cũng vô ích, chính ḿnh cần phải tự chuyển biến”. Ông Trương thưa: “Nếu là mạng, chuyển biến như thế nào? Đạo nhân nói: “Trời tạo mạng, người lập mạng. Hăy nỗ lực làm lành, tích lũy âm đức rộng răi, có phước ǵ chẳng thể cầu được!” Họ Trương thưa: “Tôi là gă học tṛ nghèo, có thể làm ǵ được?” Đạo nhân nói: “Thiện sự lẫn âm công đều do tâm tạo. Thường giữ tấm ḷng ấy, công đức khó lường. Nếu như một mực khiêm hư, hoàn toàn chẳng tốn tiền. Cớ sao ông chẳng phản tỉnh, lại chửi quan giám khảo ư?” Do vậy, ông Trương tự giữ thái độ nhún nhường, mỗi ngày một thêm tu tập điều lành, đức ngày càng thêm dầy.

          Năm Đinh Dậu, [ông Trương] mộng thấy đến một căn nhà to lớn, được ban cho một quyển sổ, trong ấy có nhiều hàng bỏ trống. Ông hỏi người bên cạnh, họ bảo: “Đấy là danh sách những người sẽ thi đỗ khoa này”. “V́ sao có nhiều chỗ chẳng có tên?” Đáp: “Cơi âm cứ ba năm khảo duyệt danh sách thi đậu một lần. Phải là kẻ tu tập, tích lũy âm đức, chẳng phạm lỗi th́ mới có tên. Như những chỗ khuyết danh, đều là những kẻ trước kia đáng lẽ thi đỗ, do mới có hành vi xấu xa, nên bị gạch tên đi”. Sau đó, [người ấy] chỉ vào một hàng bảo: “Ba năm qua, ngươi giữ ḿnh khá cẩn thận, có lẽ sẽ được thêm tên vào chỗ này. Hăy nên biết tự yêu thương chính ḿnh”. Năm ấy, quả nhiên ông đỗ thứ một trăm lẻ năm.

          Do vậy, ta thấy trên đầu ba thước, chắc chắn có thần minh. Hướng đến điều lành, tránh khỏi điều xui, chắc chắn là do ta. Hăy nên giữ vững tấm ḷng, khắc chế hành vi, chẳng đắc tội mảy may với trời, đất, quỷ thần. Hăy trống ḷng, nhún nhường, khiến cho trời, đất, quỷ thần lúc nào cũng thương ta th́ mới có nền tảng để hưởng phước. Những kẻ ngạo mạn ắt chẳng phải là bậc thành tựu cao xa! Dẫu họ có dịp rạng mày nở mặt, cũng chẳng thể hưởng thụ được. Những người hơi hiểu biết, ắt sẽ chẳng nỡ ḷng tự thâu hẹp tâm lượng, tự cự tuyệt phước ấy. Huống chi, do khiêm cung, sẽ có thể tiếp nhận sự giáo hóa, đạt được sự tốt lành vô cùng. Nhất là những kẻ chú trọng tu tập đức hạnh, ắt chớ nên thiếu sót chuyện này!

          Cổ nhân nói: “Kẻ có chí nơi công danh, ắt sẽ đạt được công danh. Kẻ có chí nơi phú quư, nhất định sẽ được phú quư”. Người có chí như cây có rễ, hăy lập vững chí ấy, niệm nào cũng đều khiêm hư, dẫu là chuyện rất nhỏ nhặt, luôn tạo thuận tiện cho những kẻ khác, sẽ tự nhiên cảm động trời đất. Tạo phước từ nơi ta! Nay những kẻ mong cầu thi đỗ, thoạt đầu chưa hề có chí chân thật, bất quá, nhất thời hứng chí mà thôi. Hễ hứng chí bèn cầu, hết hứng bèn thôi. Mạnh Tử nói: “Vương chi hảo nhạc thậm, Tề kỳ thứ kỷ hồ?” (Nhà vua yêu thích âm nhạc quá mức, nước Tề sẽ có thể hưng thịnh ư?)[71] Đối với công danh, tôi cũng có cách nh́n như thế!

 

          (Chánh văn) Át ác dương thiện.

          (正文)遏恶揚善

          (Chánh văn: Ngăn chặn điều ác, tuyên dương điều lành).

         

          Những điều ác của con người vốn chẳng phải do bản tánh tạo thành. Do v́ tập khí nhiễm đắm đă sâu mà [tội ác] mênh mông, không có cách cứu văn! Hoặc là biết rơ mà cố phạm, hoặc do không biết, trót làm quấy. Xét theo cái đă h́nh thành, sẽ là tạo ra tội lỗi ngập trời, thế mà cái gốc thoạt đầu, chỉ là v́ một niệm sai lạc! Nhưng trong lúc đêm thanh, ngày rạng, ai nấy đều sẵn có [bản tánh thiện lương]. Hăy nên trong lúc ư niệm vừa mới sai lầm, ác niệm vừa mới chớm, bèn rát miệng nhắc nhở, dốc cạn sức ngăn chặn, có ai vô tâm [đến nỗi] chẳng thể sửa hạnh hướng theo điều lành ư? Dẫu cho bất hạnh, tội ác đă to rành rành, ta vẫn có thể chí thành cảm hóa. “Át” () là ngăn dứt, chưa chắc là thiện tâm chẳng ồ ạt sanh khởi, phát hiện, mau chóng gội sạch ngàn điều tội khiên. Con người chẳng phải là thánh hiền, há có thể mọi chuyện đều là thiện? Nếu họ có một lời nói, một hành vi đáng để noi theo, liền khen ngợi, truyền nói, ngơ hầu người đă lành sẽ kiên định tín tâm, mài giũa [chính ḿnh] ḥng thành tựu. Kẻ chưa lành sẽ nghe biết, bèn dấy ḷng hâm mộ, há chẳng phải là thuận theo mạng trời ư?

          Vu Thiết Tiều nói: - “Át” là dùng sức để ngăn cấm; không chỉ là v́ họ mà ẩn giấu, không nói tới. “Dương” () là xưng nói tột bậc, khuyên dụ, nhắc nhở chẳng tiếc lời. Đấy chính là hành vi được thực hiện nơi mặt Sự của người thương xót kẻ ác, yêu chuộng điều lành vậy.

          Đạo giáo nói: “Át ác dương thiện” (Ngăn chặn điều ác, tuyên dương điều lành). Nhà Phật nói: “Chỉ ác hành thiện” (Ngăn dứt điều ác, làm lành). Nho giáo nói: “Ẩn ác dương thiện” (n giấu điều ác, tuyên dương điều lành). Tam giáo đều nói như vậy, như thốt ra từ cùng một miệng. Do vậy biết tâm thể của thánh nhân rỗng rang, linh thông, thấu triệt, chẳng sót lại mảy may dục vọng nào, như gương sáng soi h́nh dáng, hễ soi bèn hiện, hễ hiện bèn hóa. V́ thế, thấy điều ác bèn tự tiêu mất; thấy điều lành bèn có thể phát huy rộng răi. Ngăn dứt hay tuyên dương, không ǵ chẳng nhằm khôi phục tánh thể vốn sẵn có của chúng sanh đó thôi.

          Ngu Thuấn ở bến sông, thấy những kẻ đánh cá tranh giành hồ sâu, đầm sâu. Kẻ già yếu đánh cá ở băi cạn hoặc nơi nước chảy xiết. Ông xót xa, đau ḷng, cũng đến đánh cá. Thấy kẻ tranh giành bèn ẩn giấu lỗi của họ, chẳng bàn tới. Thấy có người nhường nhịn, ắt ca ngợi, bắt chước theo. Một năm sau, [những kẻ đánh cá] đều nhường hồ sâu, đầm sâu [cho người già yếu]. Đại Thuấn tán trợ người khác làm lành, chỉ là một chút tâm ư vui sướng, cổ vũ kẻ khác đó thôi. V́ thế, thiện lượng vô cùng. Đấy là bậc thánh nhân, [kẻ b́nh phàm] chẳng thể sánh bằng được! Nay tôi có một lời để kẻ hạ căn học theo ḥng thực hiện, sẽ có thể đạt cao hơn. Sau đấy mới có thể ngăn dứt điều ác của kẻ khác, tuyên dương điều lành của người ta; sau đó mới có thể khuyên người khác làm lành.

         

          (Chánh văn) Thôi đa thủ thiểu.

          (正文)推多取少。

          (Chánh văn: [Khi phân chia], nhường cho người khác phần nhiều, giữ cho ḿnh phần ít).

         

          Những điều được nói trong câu này rất rộng. Như anh em chia tài sản, bạn bè trao tiền tài v.v... T́nh nghĩa anh em thuộc về thiên luân, tiền tài là vật ngoài thân, càng phải nên nhường nhau. Kinh Di Giáo dạy: “Đa dục chi nhân, đa cầu lợi cố, khổ năo diệc đa. Thiểu dục chi nhân, vô cầu, vô dục, tắc vô thử hoạn. Nhược dục thoát chư khổ năo, đương quán tri túc. Tri túc chi pháp, tức thị phú lạc an ổn chi xứ. Tri túc chi nhân, tuy ngọa địa thượng, do vi an lạc. Bất tri túc giả, tuy xử thiên đường, diệc bất xứng ư” (Kẻ nhiều ham muốn, do cầu lợi nhiều, khổ năo cũng nhiều. Kẻ ít ham muốn, chẳng mong cầu, chẳng ham muốn, sẽ không có nỗi lo ấy. Nếu muốn thoát các nỗi khổ năo, hăy nên quán biết đủ. Pháp biết đủ chính là chỗ để giàu, vui, an ổn. Kẻ biết đủ dẫu nằm trên mặt đất vẫn an lạc. Kẻ chẳng biết đủ, dẫu ở trên cung trời vẫn chẳng vừa ḷng). V́ thế biết là người có thể nhường nhiều, lấy ít, tự nhiên tâm địa an b́nh, chẳng bị ngoại cảnh quấy nhiễu, thường hành tri túc.

          Vu Thiết Tiều nói:

          - Tài (tài sản, tiền của) là nguyên khí của trời đất. Nghiêu, Thuấn cai trị thiên hạ nhằm [làm cho dân chúng] tăng thêm tài vật. Đạo để b́nh trị thiên hạ chính là [biết cách] quản lư tài chánh [chánh đáng]. Người sống trong cơi đời, chẳng có tiền tài sẽ không sống được! Chẳng có ai không yêu mến tiền tài, chẳng có ngày nào không sử dụng tiền tài. Đấy là vật ắt chẳng thể thiếu được! [Đối với mỗi cá nhân], vật này ắt cũng chớ nên nhiều, nhưng đối với tánh cách sử dụng tiền tài, mỗi người có sự thiên chấp riêng. Kẻ ăn xài phung phí, vung tay ngàn vàng! Kẻ keo kiệt chẳng nhổ một sợi lông! Kẻ liêm khiết từ chối [tiền bạc dâng tặng] trong đêm tối. Kẻ tham lam ngang ngược chụp giựt giữa ban ngày ban mặt. Phàm kẻ phung phí hay liêm khiết đều sẽ nổi tiếng, nhưng cũng chớ nên quá lố. Phung phí quá lố, ắt đầu giường hết sạch tiền, chẳng thể sống tiếp! Kẻ liêm khiết quá mức, ắt sáng chiều túng thiếu, cúi ngửa đều ôm ḷng oán thán[72]. Nếu keo kiệt và tham lam, sẽ càng sai lệch xa hơn. Kẻ keo kiệt kiến thức nông cạn, hèn kém, coi những thứ nhỏ nhặt như bảo bối, giống như ong giữ mật, như đứa trẻ ôm chặt bánh, chẳng chịu chia cho kẻ khác mảy may, luôn bảo vệ những thứ ḿnh sở hữu. V́ thế, người khác chán ghét, mà trời chẳng tức giận sâu xa ư? Kẻ tham lam ngang ngược cứ muốn đạt được những thứ chính ḿnh vốn không có, chính là [do ḷng ham muốn] chẳng có giới hạn, như cá nuốt thuyền, như rắn nuốt voi. Anh em tranh đấu, bạn bè tranh chấp, thù hận, kẻ cường tặc giết người, bọn tham quan phạm pháp, lũ gian thần bán nước, đều là do một niệm tham mà ra! Thiên sách này giảng rộng, răn nhắc nỗi họa hại do tham tài, chẳng phải chỉ là đôi ba lượt. Răn nhắc mọi người đừng lấy bừa băi, chứ dạy họ thẳng thừng đừng lấy, ắt sẽ chẳng thể! V́ thế, dạy hai chữ “đa thiểu” (nhiều và ít) nhằm khiến cho họ sẽ tùy phần châm chước.

          Mong đạt được tiền tài theo lẽ chánh đáng, số lượng nhiều hay ít, vốn chẳng có một tiêu chuẩn nhất định. Kẻ nghèo th́ một lạng đă chẳng phải là ít, kẻ giàu th́ vạn lạng chẳng nhiều. Người liêm khiết đáng lẽ được trăm lạng, thế mà được mười lạng, chẳng cảm thấy là ít. Kẻ tham [đáng lẽ] được trăm mà đạt tới cả ngàn, chẳng bảo là nhiều! Chỉ nên b́nh tâm, xét theo lẽ công bằng, cân nhắc số lượng ta đáng nên được, để khỏi lấy quá lố, tức là chọn theo cách “nhận lấy phần ít”. Thế nhưng, ḷng người lo ít mong nhiều là chuyện thường t́nh; chỉ nên tùy duyên, chẳng tranh đua, chính ḿnh chẳng làm ác. Nếu khiến cho [kẻ khác] thấy [chính họ] có thể đạt được nhiều hơn, đâm ra họ sẽ nhường nhịn, há chẳng phải là trái nghịch thường t́nh ư? Ôi! Nói đến nguồn gốc của tiền tài, cội nguồn của chúng không chỉ là một. Tiền tài có thể đạt được trước mắt, chưa chắc chẳng phải thứ vốn sẵn có trong mạng của ta; nhưng những thứ đă được ngấm ngầm định sẵn trong mạng, rốt cuộc sẽ không có cách nào khảo sát, tính toán được! Vạn nhất, đó chẳng phải là thứ vốn sẵn có trong mạng của ta, [những món tiền tài ấy] sẽ như thịt nhiễm nấm mốc, rượu ngâm lông chim Trầm, há có thể dùng để no ḷng ư? V́ thế, không ǵ bằng nhường nhịn cho nhau, đấy chẳng phải là do trong mạng sẵn có mà nhường vậy. Bởi đó, có thể tránh khỏi lỗi lầm. Dẫu là trong mạng đáng nên có, mà lầm lẫn nhường [cho người khác], [món tiền tài ấy] nhất định sẽ theo đường khác trở lại. Hăy cẩn thận, chớ nên không thể nhẫn, để rồi làm chuyện càn rỡ ngay trước mắt. Chuyện này đối với người phú quư c̣n dễ, chứ đối với kẻ nghèo hèn sẽ khó khăn hơn. Biết khó mà tận lực làm, khiến cho quỷ thần soi thấu tấm ḷng chẳng dám càn rỡ mảy may ấy, ắt sẽ là tuy ở trong hoàn cảnh gian nan, nhưng chẳng đến nỗi khổ sở v́ không thể sống được. Tin cho thật, giữ cho vững, ắt sẽ giữ theo đạo lư “nhận lấy phần ít”. Đấy là chính là phương hướng để làm giàu vậy!

          Đời Tống, Từ Tích chia tài sản với chú Hai. Trước hết, mời chú Hai lấy những ǵ họ muốn. [Ông ta lấy xong], chỉ c̣n sót một rương sách, hai gian nhà tồi tàn. Từ Tích vui vẻ nhận lấy.

          Tại Từ Khê, có hai người bạn chơi thân với nhau. Ông Giáp t́m được một chỗ dạy học trả tiền lương chín lạng, ông Ất cũng t́m được chỗ dạy học, tiền lương chỉ có sáu lạng. Ông Giáp vui mừng bảo: “Hai người chúng ta trong ṿng năm sau đều chẳng phải lo lắng [v́ chuyện chi tiêu túng thiếu trong nhà]”. Ông Ất nói: “Huynh chỉ có tôn tẩu (chị dâu) ở nhà, chín lạng dư dùng. Đệ th́ trên hăy c̣n có cha mẹ, sáu lạng vẫn chẳng đủ!” Ông Giáp nói: “Đúng thế!” Bèn nhường chỗ dạy học của chính ḿnh cho ông Ất, c̣n ḿnh đến chỗ dạy học của ông Ất. [Ông Giáp] sau khi đă đến chỗ dạy học, nhặt được một quyển sách rách nát dưới gầm giường, [trong ấy] có chép mấy bài thuốc ngoại khoa. Học tṛ nói [sách ấy] do vị thầy trước đó bỏ lại. Mùa Đông, ông trở về nhà. Thấy mấy người đầy tớ dáng vẻ rất lo lắng, hốt hoảng thưa hỏi: “Ở nơi đây có [thầy lang chữa bệnh] ngoại khoa hay không?” Hỏi thăm, họ đáp: “Chủ nhân chúng tôi từ đất Mân (Phước Kiến) đến Sơn Đông làm Bố Chánh, bỗng lưng bị nổi nhọt, đau đớn gần chết. Đă ba ngày rồi!” Ông Giáp nghĩ tới phương thuốc khi trước, đúng là phù hợp chứng bệnh này. Do vậy, theo họ đến [xem bệnh]. Dựa theo phương thuốc, dùng ngải để cứu[73], quả nhiên lành bệnh. Quan Bố Chánh rất mừng rỡ, trả công một trăm lạng. Ông nói đến chuyện do nhường chỗ dạy học mà t́m được bài thuốc, quan Bố Chánh càng hết sức tán thưởng. Khéo sao, huyện lệnh Từ Khê là niên điệt[74] của ông ta, [quan Bố Chánh] bèn tận lực tiến cử. [Do đó, ông Giáp] được đề bạt, vào học trường huyện. Ôi! Anh em ruột c̣n tranh giành tài sản, huống hồ bạn bè ư? Nghĩ bạn bè chẳng có tiền nuôi cha, bèn nhường nhiều, lấy ít, ba lạng tuy ít, nghĩa c̣n [nhiều] hơn một ngàn cỗ xe. Rốt cuộc, danh lẫn lợi đều đạt được, đều là do trong một niệm có thể nhường mà ra. Những kẻ sốt sắng tranh lợi, hễ động đến [lợi ích] liền trở mặt, xem đến chuyện này, lẽ nào chẳng hổ thẹn ư?

 

          (Chánh văn) Thọ nhục bất oán.

          (正文)受辱不怨。

          (Chánh văn: Bị nhục chẳng oán).

 

          Có chuyện sỉ nhục đưa đến, hăy nên tự hỏi: Lỗi ở nơi ta ư? [Nếu đúng như vậy], đáng nên bị nhục! Lỗi nơi người khác, th́ chẳng đáng coi là nhục. [Kẻ đó] làm nhục ta, ta vẫn chẳng nhục. Không chỉ là chẳng nên oán, mà thật ra, chẳng có ǵ đáng nên oán! Những bậc đại trí đại dũng từ xưa, ắt có thể nhẫn những điều sỉ nhục nhỏ và những nỗi phẫn hận nhỏ th́ mới có thể gánh vác đại sự, thành công to lớn. Kẻ tâm lượng hạn cuộc, thiên vị, nông cạn, há biết nổi ư?

          Đời Minh, Nhan Mậu Do là người xứ B́nh Hồ, răn đệ tử rằng:

          - Phàm là kẻ chẳng thể nhẫn, chắc chắn sẽ chẳng biết nỗi khó khăn trong chữ Nhẫn. Chẳng đối chiếu, so sánh giữa hai niệm thiện và ác, sẽ trọn chẳng biết sự mầu nhiệm của chữ Nhẫn. Kẻ nào nếu chẳng thể nhẫn nhục chịu khổ, dẫu có thiện tâm, nhưng bị kích động là hỏng, vừa bị thử thách liền bị đọa. Trời trao trách nhiệm to lớn cho kẻ nào, ắt sẽ tác động đến tánh nhẫn trong tâm kẻ ấy, chính là v́ muốn cho ai nấy đều vượt được cái ải này! Nói chung, kẻ ra sức giúp đỡ người khác, chẳng ngại bị sân hận, giận dữ. Kẻ mưu tính [tạo điều lợi ích] cho người khác, chẳng nề hà bị oán hận, trách móc. Đảm nhiệm mọi chuyện th́ cũng phải nhận luôn sự oán hận, hễ khuyến hóa bèn chẳng ngại bị chê trách. Có tấm ḷng khoan dung, nhân hậu, chắc là sẽ bị cười chê, khinh miệt. Đấy là những thứ luôn đi kèm theo! Chẳng biện định rơ căn nguyên này, sẽ chẳng thể là kẻ hành thiện được!

          Đời Tống, Lư Hàng làm Tể Tướng, có gă cuồng sinh (học tṛ ngông cuồng) chặn ngựa, dâng thư, [trong thư ấy] chê trách đủ mọi khuyết điểm của ông ta. Ông Lư từ tốn, cảm tạ: “Để tôi trở về đọc kỹ”. Gă cuồng sinh tức giận, châm biếm: “Ở địa vị cao, chẳng thể cứu tế thiên hạ, lại chẳng thoái ẩn, trở ngại đường tiến thân của bậc hiền năng đă lâu rồi, ḷng há chẳng thẹn ư?” Ông ngay lập tức ở trên ngựa rất cung kính, rất lo sầu nói: “Đă nhiều phen xin về, hiềm rằng chúa thượng chưa chấp thuận, chẳng dám tự tiện [từ quan]”. Trọn chẳng có sắc mặt giận dữ.

          Đời Tống, Văn Ngạn Bác làm Thủ Tướng[75]. Quan ngự sử Đường Giới đàn hặc Văn Ngạn Bác lúc làm tri phủ Ích Châu đă cho làm những tấm gấm xinh đẹp để tặng cho bọn phi tần trong cung ḥng [lo lót, vận động] nắm quyền [tể tướng], xin vua hăy băi chức [Văn Ngạn Bác]. Vua tức giận, toan đày ông ta đi xa. Khi ấy, Ngạn Bác ở trước mặt vua, Đường Giới quở trách: “Ngạn Bác hăy nên tự phản tỉnh. Nếu có th́ chớ nên giấu giếm”. Ngạc Bác bái tạ chẳng ngớt. Vua hết sức tức giận, đày Đường Giới làm Biệt Giá ở Anh Châu, băi chức [Tể Tướng của Ngạn Bác], sai Ngạn Bác đi làm tri phủ Hứa Châu. Về sau, Ngạn Bác được phục chức Tể Tướng, tâu với vua: “Đường Giới làm Ngự Sử, nói chuyện của thần, phần nhiều là căn bệnh của bậc trung thần. Trong ấy, tuy có chuyện nghe lầm tin đồn đăi, nhưng thuở ấy [ông ta] đă bị trách phạt quá sâu”. Vua bèn triệu [Đường Giới] về trông Gián Viện (Ngự Sử Đài). Người đương thời gọi Ngạn Bác là bậc trưởng giả. Ông làm Thái Sư, B́nh Chương Quân Quốc Trọng Sự trải ba triều vua Anh Tông, Thần Tông, và Triết Tông, được cử làm người đứng đầu các vị Tể Tướng (Thủ Tướng), được phong làm Lộ quốc công. Ông làm Tể Tướng suốt năm mươi năm, tiếng tăm vang rền bốn biển, thọ chín mươi hai tuổi mới mất.

          Đời Tống, Phú Bật giáo huấn đệ tử: “Một chữ Nhẫn chính là cửa ngơ dẫn vào các điều tốt đẹp. Nếu ngoài thanh liêm và tiết kiệm, lại thêm một chữ Nhẫn, sẽ chẳng có chuyện ǵ không làm được”. Thuở bé, có kẻ chửi ông, người ta bảo: “Chửi mày đấy!” Phú Bật thưa: “Sợ là chửi người khác đấy chớ”, họ bảo: “Nó gọi tên họ mày mà chửi mà”. Phú Bật đáp: “Thiên hạ há chẳng có người trùng tên, trùng họ ư?” Kẻ chửi bới nghe nói như vậy, hết sức hổ thẹn.

          Ông Nhan Quang Trung nói: “Chữ Nhẫn khó khăn nhất. Có thể chịu đựng, ắt phẩm đức và tâm lượng to lớn. Nếu như chẳng thể nhẫn, tức là tánh khí kiêu quư đă ngập tràn!” Người xưa có thơ rằng: “Thiếu niên khố hạ an vô ngỗ, lăo phụ di biên ngạc bất b́nh. Nhân sanh nhược phi quan tuế mộ. Hoài Âm hà tất giảm Văn Thành” (Thiếu niên luồn đũng sao không bực, ông cụ bên cầu dễ tức thay. Đời người nếu chẳng xem mai hậu, Hoài Âm danh há kém Văn Thành)[76]. Nói chí lư thay! Hàn Tín chịu nhục luồn đũng quần mà thành vương gia, bọn Giáng, Khoái[77] v́ hổ thẹn mà chết. Uống đến đầy ứ, tự nhiên sẽ chẳng tăng thêm được nữa!

          Bành Củ ở Thai Châu, hiền lành, an tường, khiêm tốn, đă từng ở trọ với một người khác tại một khách điếm. Ông Bành về trước, kẻ ấy mất chiếc dù, cho rằng ông Bành cầm đi, đến nhà ông Bành giận dữ, mắng chửi. Kẻ đó thấy dáng vẻ ông Bành nhũn nhặn, bèn đ̣i đền tiền theo giá y phục. Ông Bành đúng theo số mà đền cho hắn bỏ đi. Hàng xóm có kẻ cậy mạnh, xâm chiếm đất của ông Bành, ông mặc kệ, chẳng hỏi tới. Về sau, gă hàng xóm gặp chuyện thưa kiện tại cửa quan. Ông Bành lại lo liệu châu đáo cho hắn thoát nạn. Những việc thiện khác rất nhiều. Do không có con, ông đến Tây Nhạc (Hoa Sơn) cầu con, mộng thấy thần bảo: “Do ngươi nhẫn nhục, nhân từ, nhu ḥa, nỗ lực thực hiện các thiện sự, lời thỉnh cầu đă được chấp thuận”. Ông bèn sanh ra ba đứa con. Về sau, đất Thục (Tứ Xuyên) gặp cảnh biến loạn, mười phần chết hết chín, riêng cả nhà ông Bành vô sự!

          Ông Hạ ở Giang Âm, đang đánh cờ vây với khách. Bỗng có kẻ chạy ùa tới, gào rít: “Chỉ thiếu nhà mày hai lạng tiền lời, v́ sao mày hằng ngày sai người tới bức hiếp tao?” Ông chưa kịp đáp, kẻ đó đă chửi ầm ĩ, xô bàn, phá tan cuộc cờ. Ông cười đáp: “Ông muốn xóa nợ chứ ǵ?” Liền cất bút viết giấy miễn nợ. Người ấy vội vă cảm tạ, bỏ đi. Khách ca ngợi đức dầy của ông. Ông đáp: “Nhẫn là cửa ngơ dẫn đến các điều tốt đẹp. Nói chung, đối với những chuyện ứng phó sự việc và con người trong cơi đời, đều có những chuyện ngang trái xảy đến với ta. Ví như đi trong rừng gai góc, phải đi thong thả, chậm răi mà thôi, những thứ gai góc ấy cũng chẳng đáng để tức giận vậy. Lại như thuyền rỗng đụng phải ta, hoặc như viên ngói bị gió thổi văng trúng ta, nếu tấc ḷng có thể chẳng bực tức, sẽ cởi gỡ nỗi oán. Huống chi người ấy dáng vẻ hung hăng, ăn nói thô lỗ, ắt có chỗ để trông cậy, sợ sẽ gây thành biến cố ngoài ư muốn. V́ thế, tôi khoan dung miễn nợ”. Đến tối, ông được báo là kẻ ấy đă chết trong nhà xí. Hỏi ḍ cặn kẽ nguồn cơn, bèn biết là kẻ ấy do nợ nần bức bách, không biết làm sao, bèn uống thuốc độc rồi t́m đến chỗ ông Hạ, tính lừa gạt tiền tài của ông. Do cảm tạ sự khoan dung miễn nợ của ông, cho nên hắn chẳng đành ḷng lừa gạt, làm hại. V́ thế, vội về t́m phẩn thanh (nước phân lắng trong) để giải độc, nhưng độc tánh bộc phát, chẳng kịp giải độc. Ông bái tạ trời, mọi người đều kính phục. Nếu ông chẳng phải là thường ngày tiêu trừ giận tức, hàm dưỡng sâu xa, há đến lúc ấy sẽ có thể trấn định ư? Do vậy, nhẫn nhục là yếu quyết để tu thân; kế đó, yếu quyết để giàu có cũng là phải học chấp nhận thua thiệt.

          Đời Minh, Trang Nghị Công Vương Hoằng, tên tự là Công Độ, lúc làm Khai Phủ tại Duy Dương (Dương Châu), có viên quan cấp dưới tên là Đơn X… hành vi thiếu kiềm chế, ông từng quở trách, ngăn chặn. Bỗng ông bị luận tội, [bị triều đ́nh băi chức, đuổi] về nhà, đi qua nhiệm sở của kẻ ấy. Họ Đơn chực sẵn đưa đón, tặng lương thực rất ân cần. Ông rất cảm tạ sự khoản đăi chân thành ấy, chọn nhận lấy mấy cái ṿ [đựng thức ăn], v́ nghĩ là tương ủ. Mở ra, toàn là phân nhơ! Chẳng lâu sau, sự việc [gán tội ông Vương] được sáng tỏ, ông lại được làm quan. Họ Đơn bỏ trốn, sai người nhà giả vờ phát tang. Có kẻ cừu oán truy t́m tung tích hắn, bắt được hắn, thưa lên ông Vương. Ông chỉ ôn ḥa xóa án, tha cho.

          Nếu xét theo kinh Niết Bàn, xưa kia có một người, ca ngợi đức Phật là bậc có tướng đại phước đức. Có kẻ hỏi: “Dựa vào đâu để thấy?” Đáp: “Tuổi tác và chí hướng đều đang độ trẻ trung, mạnh mẽ, nhưng chẳng bộp chộp, chẳng nóng nảy, đánh chẳng giận, chửi cũng chẳng tức, chẳng phải là tướng đại phước đức ư?” Người hiện thời hễ gặp lúc ngang trái, chỉ nói: “Những chuyện ấy thành tựu tướng phước đức cho ta, vẻ vang chi hơn? Bản thân ta có thể bị kẻ khác xâm phạm mà chẳng so đo, cũng sẽ có thể khuyến hóa khiến cho kẻ ấy giác ngộ vậy!

          Trịnh Huyên nói: “Lặng, lặng, lặng! Vô hạn thần tiên từ nay đắc. Tha, tha, tha, ngàn tai muôn họa bỗng tiêu ma! Nhẫn, nhẫn, nhẫn, trái chủ oán gia từ rày ẩn! Thôi, thôi, thôi, công danh trùm đời chẳng tự do”.

Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

Quyển 2

Phần 1 hết

 

 

         



[1] Viên Thị Thế Phạm là một bộ sách do Viên Thái soạn vào đời Tống. Sách gồm những lời khuyên về luân lư gia đ́nh như cách cư xử chánh đáng trong các mối quan hệ như cha con, anh em, vợ chồng, chị em dâu, con cháu v.v…

[2] Thiệu Ung (1011-1071), tự là Nghiêu Phu, hiệu là Khang Tiết, sống vào đời Bắc Tống. Ông nghiên cứu kinh Dịch tinh thâm, sáng lập thuật bói Mai Hoa Dịch Số lừng danh. Bộ sách Mai Hoa Dịch Số của ông được xếp vào Tứ Đại Kỳ Thư (Kinh Dịch, Mai Hoa Dịch Số của Thiệu Khang Tiết, Ma Y Tướng Thuật và Địa Lư Toàn Thư). Ông c̣n được coi là một trong những nhà sáng lập Lư Học, tuy không nổi tiếng như Châu Đôn Di, Tŕnh Hạo v.v… Mt tác phẩm lừng lẫy khác của ông là bộ Hoàng Cực Kinh Thế được coi là nền tảng cho sự tổng hợp hoàn thiện giữa tư tưởng của kinh Dịch và Đạo gia.

[3] Trương Công Nghệ sống vào thời đại Tùy - Đường tại Thọ Dương thuộc châu Hầu Vận. Ḍng họ ông ta chín đời ở chung với nhau, không tách rời. Ông viết chữ Nhẫn rất to, rất nhiều dán khắp nơi trong nhà để tự nhắc nhở chính ḿnh lẫn người khác. Một câu nói của ông đă trở thành thành ngữ là “bách nhẫn thành kim” (trăm điều nhẫn sẽ thành vàng).

[4] Điền Chân là người đời Hán, ông có hai em trai là Điền Khánh và Điền Quảng, ba người muốn chia riêng nhà để ở. Trước nhà có một cây tử kinh to rất sum xuê. Họ muốn hạ cây xuống, cưa đều ra để chia nhau, bỗng cây ấy chết khô. Họ bèn bỏ ư định tách ra sống riêng.

[5] Ông Thiệu Ung mở đầu và kết thúc mỗi đoạn bằng câu “tử dưỡng thân hề, đệ kính ca” (con cái phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh).

[6] “Nan huynh nan đệ” là một thành ngữ nhằm ca ngợi anh lẫn em đều có tài, hiền đức, khó thể phân định ai hơn, ai kém. Thuở trước, Trần Nguyên Phương (Trần Kỷ) và Trần Quư Phương (Trần Kham) đời Đông Hán đều học vấn lỗi lạc, phẩm đức xuất sắc, nên người đời bèn nói họ là “nan huynh, nan đệ”.

[7] Trọng Do chính là Tử Lộ. Khi c̣n hàn vi, nhà ông rất nghèo, ông phải đi đội gạo thuê rất xa để có tiền phụng dưỡng cha mẹ. Không có tiền mua thức ăn, ông phải hái các loại rau lê, rau hoắc để nấu canh cho cha mẹ ăn tạm. Trong tác phẩm Nhị Thập Tứ Hiếu, cụ Lư Văn Phức đă ca ngợi: “Thầy Tử Lộ cũng người nước Lỗ, thờ hai thân từng bữa canh lê, thường khi đội gạo đi về, xa xôi trăm dặm nặng nề hai vai, đỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc, gót nam du nhẹ bước tang bồng. Xe trăm cỗ, thóc muôn chung. Ngồi chồng đệm ghép, ăn chồng vạc cao. Thân phú quư ngắm vào thêm tủi. Đức cù lao chạnh tới càng đau. Nào khi đội gạo, canh rau, muốn c̣n như cũ dễ hầu được ru!” Trần Kỷ (tự là Nguyên Phương) và em là Trần Kham (tự là Quư Phương) là con trai của Trần Thực. Hai anh em đều được xưng là bậc hiền đức, hiếu thảo cao tột thuở đương thời.

[8] Khổng Dung khi c̣n bé, mỗi khi cùng các anh ăn lê, bèn chọn quả bé hơn. Người lớn hỏi nguyên do, Khổng Dung đáp: “Con c̣n bé, lẽ đương nhiên là ăn quả nhỏ”.

[9] “Ôm quất” là nói tới Lục Tích đời Hán. Lúc sáu tuổi, Lục Tích theo cha đến Cửu Giang yết kiến tướng quân Viên Thuật, Viên Thuật mời họ ăn quưt. Quưt hết sức ngọt. Lục Tích bèn lén giấu trong tay áo ba quả. Khi ra về, do khom ḿnh vái chào, quưt lăn ra đất, Viên Thuật cười to. Cha Lục Tích hết sức hổ thẹn và tức giận, quở mắng. Lục Tích thưa: “Quư ngọt quá nên con không nỡ ăn, để dành đem về biếu mẹ”.

[10] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này phải hiểu là thấy con cháu, anh em ḥa thuận, ḷng cha mẹ rất vui sướng. Đấy là niềm vui to lớn nhất đối với cha mẹ.

[11] Nguyên văn “ban y vũ băi huân tŕ tấu”, bao gồm hai điển tích về hiếu và đễ. “Ban y vũ” (斑衣舞) là nói Lăo Lai đă bảy mươi tuổi vẫn mặc áo vằn vện sặc sỡ, nhảy múa loi choi như con nít, giả vờ trượt chân ngă, khóc lè nhè khiến cha mẹ cười to. Huân () là nhạc khí bằng đất nung, có h́nh trứng, đầu nhọn có lỗ để thổi, đầu tù có nhiều lỗ nhỏ để người thổi dùng ngón tay bịt hay mở để tạo ra các nốt nhạc khác nhau. Nói chung loại kèn đất này hơi giống loại kèn ocarina của phương Tây, nhưng ocarina th́ dẹp trong khi Huân có h́nh bầu. Tŕ () là loại sáo thổi ngang, có bảy lỗ, thường làm bằng trúc. Chỗ khác biệt với sáo trúc thông thường là Tŕ thường được bịt kín một đầu. Loại nhạc khí này chỉ c̣n dùng trong lễ tế Khổng Tử. Thời cổ, hễ thổi Tŕ th́ sẽ dùng Huân thổi ḥa theo; do vậy, anh em ḥa thuận thường được ví như xếp đôi Huân và Tŕ để cùng diễn tấu (băi huân tŕ tấu, 罷塤篪奏).

[12] Vương Hàn: Vương ở đây là Vương Tường nổi danh hiếu thảo. Mẹ ngă bệnh, thèm ăn cá, trời mùa Đông không t́m ra cá, ông cởi trần nằm trên băng, cầu xin trời đất. Quả nhiên băng nứt vỡ, một đôi cá chép nhảy ra để ông bắt về nấu cho mẹ ăn. Hàn là Hàn Lăng, cha làm Thái Thú tỉnh Thiểm Tây. Ông mồ côi cha năm bốn tuổi, hết sức hiếu thảo với mẹ, thương yêu em trai. Khi trưởng thành, ông nhường toàn bộ gia sản do cha để lại cho các em, kể cả những anh em họ.

[13] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này có ư nói: Kẻ vốn đă sẵn có của cải vẫn thấy là ít, đối với gia sản do ông bà, cha mẹ để lại vẫn lăm lăm muốn chiếm hữu nhiều hơn! Giành giật được của cải, chiếm tiện nghi của kẻ khác th́ vợ chồng rất khoái trá, nghĩ ḿnh giàu có, khôn ngoan, nào ngờ về sau con cháu phá tán cho bằng hết.

[14] Tử kinh (紫荊) là một loại cây có hoa đẹp thường được trồng làm cảnh, thường được biết dưới tên Cercis Chinenis hay đơn giản là Chinese Redbud. Cây có thể mọc cao đến 15 mét, thân cây có đường kính to đến nửa thước. Hoa có màu hồng hoặc trắng sữa, kết thành chùm, cánh hoa đơn rất đẹp. Khi nở hoa vào tháng Tư, cả cây chỉ thấy sắc hoa hồng tươi như hoa đào, hầu như không thấy lá.

[15] Thị Trung (侍中) là một chức quan cố vấn thân cận của nhà vua. Đến đời Tấn, chức vụ này được gọi là Môn Hạ Tỉnh, tức tương đương với Tể Tướng sau này.

[16] Bắc Tề (550-577) là một triều đại khá ngắn ngủi trong thời Nam Bắc Triều. Sau khi nhà Tấn của Tư Mă Ư suy vong, dẫn đến t́nh trạng quân phiệt cát cứ, chia xẻ Trung Hoa thành nhiều nước, Sử thường gọi là thời Nam Bắc Triều. Triều đại Bắc Tề do Cao Dương sáng lập, nên đôi khi c̣n gọi là nhà Cao Tề, để phân biệt với nhà Nam Tề (490-502, c̣n gọi là nhà Tiêu Tề do Tiêu Đạo Thành sáng lập) trước đó. Bắc Tề diệt Đông Ngụy, đóng đô tại Nghiệp Thành. Cao Dương vốn là con của quyền thần Cao Hoan nhà Đông Ngụy. Sau khi cha chết, Cao Dương được Ngụy Tĩnh Đế (Nguyên Thiện Kiến) nhà Đông Ngụy phong làm Thừa Tướng, tước Tề quận vương. Cao Dương phế Ngụy Tĩnh Đế, đổi quốc hiệu thành Tề, nhưng chỉ làm vua được mười năm rồi chết khi mới 33 tuổi! Về sau, nhà Bắc Tề bị Châu Vũ Đế (Vũ Văn Ung) của nhà Bắc Châu tiêu diệt.

[17] Hậu Hán (947-951) là một triều đại trong mười quốc gia được thành lập thời Ngũ Đại trước khi Triệu Khuông Dẫn thống nhất giang sơn. Triều đại này do Lưu Tri Viễn sáng lập, chỉ truyền được hai đời vua, là triều đại ngắn nhất và tệ hại nhất trong lịch sử Trung Hoa. Trước sau chỉ tồn tại bốn năm; trong bốn năm ấy, đấu tranh cung đ́nh, chiến tranh liên miên. Đây cũng là triều đại cuối cùng do người thiểu số Sa Đà sáng lập tại Trung Nguyên.

[18] Nguyên văn là Mân (). Thời cổ, tiền xâu thành chuỗi, cứ một ngàn đồng th́ gọi là một Mân.

[19] Vương Báo là người nước Vệ, sống ở vùng Kỳ Thủy (nay thuộc huyện Lâm, tỉnh Hà Nam). Miên Câu là người nước Tề, sống tại Cao Đường (thuộc tỉnh Sơn Đông hiện thời). Cả hai đều giỏi âm luật, thích ca xướng.

[20] Lư Ưng là người sống vào thời Đông Hán, tánh t́nh cương trực, giao du rất thân với Quách Thái. Ông ghét bọn hoạn quan chuyên quyền, không chịu luồn cúi, xu nịnh. Người đương thời ca ngợi “thiên hạ khải mô Lư Nguyên Lễ” (Lư Nguyên Lễ là bậc khuôn mẫu cho cơi đời), Nguyên Lễ là hiệu của ông. Người được quen biết với ông đều cảm thấy vinh hạnh như cá chép vượt Vũ Môn thành rồng vậy. Tánh ông kiên quyết đến nỗi em trai của quyền thần Trương Nhượng là Trương Sóc làm huyện lệnh Dă Vương, vốn là kẻ tham tàn, vô đạo, đức lẫn hạnh đều xấu xa, bị ông hạch tội. Trương Sóc sợ oai, trốn về kinh đô, núp trong một cái cột rỗng rất to trong phủ. Ông điều tra ra, bèn kéo người đến bắt, phá cột, giết chết Trương Sóc. Khi ấy, lũ tay chân của Trương Sóc sợ hăi, chẳng dám hó hé tí nào! Cuối cùng bọn hoạn quan vu hăm, đàn hặc, khiến cho ông bị hạ ngục, chết trong tù.

[21] Thái Ung là người giỏi văn chương, học rộng, thông thạo số thuật, thiên văn, lại c̣n tinh tường nhạc luật, giỏi điêu khắc, khéo viết văn bia, nên thường được mời viết văn bia cho những người nổi tiếng thuở ấy.

[22] Đoan Minh là biệt hiệu của Tư Mă Quang.

[23] Hậu Hán ở đây là nhà Đông Hán, tức nhà Tây Hán được tái lập bởi Lưu Tú (Hán Quang Vũ Đế) sau khi dẹp tan Vương Măng, không phải là nhà Hậu Hán thời Ngũ Đại của Lưu Trí Viễn.

[24] Vũ Thừa Tự là con trai của Vũ Nguyên Sảng (anh cùng cha khác mẹ của Vũ Hậu). Khi Vũ Sĩ Hộ (cha của Vũ Tắc Thiên chết), Thừa Tự đă được tập tước Châu Quốc Công, lần lượt leo cao dần đến chức Văn Xương Tả Tướng (tả thừa tướng). Hắn ta mong được làm Thái Tử nên đă sai bọn tay chân là Vương Khánh Chi, Trương Gia Phước v.v… dâng sớ xin Vũ Hậu lập Thừa Tự làm Thái Tử. Do đại thần Lư Chiêu Đức can gián, Vũ Hậu băi chức thừa tướng của Thừa Tự. Về sau, Vũ Hậu lại lập con ruột là Lư Hiển (Đường Trung Tông) làm Thái Tử, giấc mộng làm vua của Thừa Tự tan vỡ. Hắn uất ức phát bệnh mà chết. Vũ Tam Tư là con trai của Vũ Nguyên Khánh (anh cả của Vũ Tắc Thiên), từng được phong làm Lương Vương khi Vũ Hậu xưng đế. Hắn là người tàn ác, xảo quyệt, hết sức tận tụy quét sạch những kẻ chống đối Vũ Tắc Thiên, nên Vũ Tắc Thiên rất yêu mến, tín nhiệm, từng có ư định cho hắn làm Thái Tử. Vũ Tam Tư từng dùng mọi thủ đoạn triệt hạ tông thất nhà Đường, gây nên nhiều biến loạn trong cung đ́nh khiến các đời vua Đường Trung Tông, Đường Duệ Tông bất ổn, nhiễu nhương.

[25] Đường Thái Tông (Lư Thế Dân) khi mất có thụy hiệu là Văn Vũ Đại Thánh Đại Quảng Hiếu hoàng đế, nên thường gọi tắt là Văn Đế. Ngay trong khi Đường Cao Tông (Lư Trị) c̣n sống, do quần thần bợ đỡ Vũ Tắc Thiên, đă tôn xưng Cao Tông là Thiên Hoàng Đại Đế, c̣n Vũ Tắc Thiên được xưng tụng là Thiên Hậu. V́ thế, khi nhắc tới Đường Cao Tông, quần thần thường phải gọi là Đại Đế tuy ông này hôn ám, nhu nhược, hoàn toàn bị Vũ Tắc Thiên thao túng.

[26] Vũ Hậu có sáu người con với Đường Cao Tông là Lư Hoằng, Lư Hiền, Lư Hiển, Lư Đán, công chúa An Định và công chúa Thái B́nh. Lư Hoằng nhân từ, sức khỏe yếu, hơi nhu nhược, không tán đồng những hành vi chuyên quyền, đối xử tàn tệ với hoàng tộc nhà Đường, nên bị Vũ Tắc Thiên ghét bỏ, tính phế ngôi Thái Tử. Ông chết đột ngột năm 25 tuổi, có thuyết nói là do bị Vũ Tắc Thiên hạ độc. Người con thứ là Lư Hiền rất hiền minh, chánh trực, nên bị Thái Hậu ghét bỏ v́ không theo phe bà. Lại v́ một tay đạo sĩ sủng ái của Vũ Hậu là Minh Sùng Nghiễm bị bọn cướp đánh chết, Vũ Hậu càng nghi Lư Hiền ngấm ngầm làm chuyện này, do trước đó Minh Sùng Nghiễm đă nhiều lần công khai gièm pha Lư Hiền trước mặt mọi người. Để tâng công, bọn Tiết Nguyên Siêu, Bùi Viêm, Cao Trí Châu đă âm mưu hăm hại, vu cáo Lư Hiền chiêu tập binh mă mưu mô làm loạn. Lư Hiền bị kết tội, đày đi Ba Thục, cấm không cho về kinh đô. Về sau, Vũ Hậu lại sai người đến ép ông uống thuốc độc tự tử. Do vậy, chỉ c̣n hai người con trai là Lư Hiển và Lư Đán. Do họ rất nhu nhược nên c̣n sống sót. Công chúa Thái B́nh cũng là người mưu mô thủ đoạn, tiếp tục lũng đoạn triều chánh trong một thời gian dài sau khi Vũ Hậu mất măi cho đến khi bị Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng) dùng mưu mới trừ khử được.

[27] Lư Lăng Vương là tước phong của Lư Hiển. Về sau, Lư Hiển lên làm vua, tức Đường Trung Tông.

[28] Sau khi Đường Cao Tông mất, Lư Hiển lên làm vua tức Đường Trung Tông, nhưng quyền hành thật sự nằm trong tay Thái Hậu Vũ Tắc Thiên. Bà ta sai hoạn quan Khâu Thần Tích sang Tứ Xuyên ép cựu thái tử Lư Hiền uống thuốc độc tự tử. Do Trung Tông có ư chống đối, bà liền phế Trung Tông, lập Lư Đán lên làm vua, tức Đường Duệ Tông. Ông này chỉ làm vua bù nh́n. Bà ta thâu tóm quyền hành, giết hại công thần, lưu đày hoàng tộc nhà Đường xuống vùng Lănh Nam. Gă sư phá giới là Pháp Minh lại ngụy tạo bốn quyển Đại Vân Kinh để ca ngợi Vũ Hậu là Phật Di Lặc giáng trần. Bọn bợ đỡ là Phó Du Nghệ cùng hơn chín trăm đại thần bèn thừa cơ dâng biểu xin Vũ Hậu xưng đế. Bà ta liền đổi quốc hiệu là Châu, ngạo mạn xưng tôn hiệu là Thánh Thần Hoàng Đế, giáng Duệ Tông xuống làm hoàng tự (danh xưng khác của Thái Tử), truy tôn cha ông ḿnh thành hoàng đế.

[29] B́nh Chương Sự có tên gọi đầy đủ là Đồng Trung Thư Môn Hạ B́nh Chương Sự, tương đương với chức Tể Tướng. Thời Đường Thái Tông, đă quy định trưởng quan của ba cơ quan hành chánh (Trung Thư Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh và Thượng Thư Tỉnh) là Trung Thư Lệnh, Thị Trung và Thượng Thư Bộc Xạ cùng giữ vai tṛ Tể Tướng. Cả ba vị này đều được gia phong cấp bậc Đồng Trung Thư Môn Hạ B́nh Chương Sự, đến thời Vũ Tắc Thiên đổi thành Đồng Phượng Các Loan Đài B́nh Chương Sự. Đến đời Đường Đại Tông, chức vụ này mới đổi thành Đồng B́nh Chương Sự và mới là Tể Tướng thật sự đứng đầu bá quan.

[30] “Hương đồng” (香童) là trẻ trông coi nhang đèn, làm việc vặt trong các chùa miếu, đạo quán, hoặc làm người hầu cho các vị tăng sĩ, đạo nhân.

[31] Thời xưa, người có học do có thể đỗ đạt làm quan, vợ có thể sẽ được sắc phong, hoặc mai sau con cái đỗ đạt, vinh hiển, có thể xin triều đ́nh sắc phong cho mẹ. Triều đ́nh sẽ xét nguồn gốc ḍng họ, do người nữ ấy là trẻ mồ côi không rơ xuất xứ, sẽ dấy lên nhiều nỗi dị nghị, khiến cho chồng hoặc con gặp trắc trở trên đường công danh. Hơn nữa, do con cái đỗ đạt, mẹ xuất thân hèn kém, không rơ nguồn gốc, sẽ gặp cảnh con dâu cậy ḿnh ḍng dơi cao quư, khinh rẻ mẹ chồng. Đă thế, nếu mẹ xuất thân hèn kém, con do người ấy đẻ ra sẽ không được coi là ḍng chính, bản thân người ấy không được lập thành chánh thất, dẫu được cưới gả trước, vẫn bị coi là tỳ thiếp.

[32] Thục Hán là nước Hán thời Tam Quốc, do Hán Chiêu Liệt Đế (Lưu Bị) lập ra. Do nước này thuộc đất Thục (tỉnh Tứ Xuyên), nên gọi là Thục Hán. Lănh thổ Thục Hán bao gồm Ích Châu (tức vùng bồn địa tỉnh Tứ Xuyên và Hán Trung). Vùng này từ đời Ân Thương được gọi là Ba Quận do có người Ba sinh sống đầu tiên. Ích Châu bao gồm hai mươi hai quận.

[33] Hoàng Môn là một chức quan thời cổ, gọi đầy đủ là Hoàng Môn Thị Lang. Theo ông Hoàng Bách Lâm, chức quan này trực thuộc cơ cấu Môn Hạ Tỉnh. Chỉ riêng đời Đường Trung Tông, Môn Hạ Tỉnh được gọi là Hoàng Môn Tỉnh, cho nên chức quan đứng đầu Môn Hạ Tỉnh thường gọi là Hoàng Môn Thị Lang. Môn Hạ Tỉnh là cơ quan hành chánh trung ương, chuyên trách cân nhắc nội dung các chiếu lệnh cụ thể trước khi ban hành. Về sau, mở rộng thêm quyền hạn thành cố vấn, đồng thời đặc trách can gián, góp ư. Đến đời Nguyên, chức trách can gián giao hẳn cho Ngự Sử Đài, Môn Hạ Tỉnh chuyên đặc trách các vấn đề chánh sách, rồi dần dần bị phế bỏ. Cả ba tỉnh chỉ c̣n lại Trung Thư Tỉnh thống trị toàn thể sáu bộ. Thoạt đầu, trong ba cơ cấu thuộc Tam Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh và Trung Thư Tỉnh có chức trách vạch ra kế hoạch, quyết sách, c̣n Trung Thư Tỉnh đảm nhiệm chức trách chấp hành. Đời Tùy, chức quan đứng đầu Môn Hạ Tỉnh gọi là Nạp Ngôn, đến đời Đường đổi thành Thị Trung, viên phó quan được gọi là Môn Hạ Thị Lang. Lại đặt thêm các chức Cấp Sự Trung, Tán Kỵ Thường Thị, Gián Nghị Đại Phu, Khởi Cư Lang, Thập Di v.v…

[34] Thượng Thư Bộc Xạ (尚書僕射) chính là chức quan phụ tá của Thượng Thư Lệnh (người đứng đầu cơ quan Thượng Thư Tỉnh). Thời Tam Quốc, chia thành Tả Bộc Xạ và Hữu Bộc Xạ. Về sau, mỗi khi chức Thượng Thư Lệnh bị khuyết, Bộc Xạ sẽ lâm thời hoặc trường kỳ đứng đầu Thượng Thư Tỉnh. Thời Đường Tống, Thượng Thư Bộc Xạ đóng vai tṛ Tể Tướng. Riêng dưới thời Vũ Tắc Thiên, danh xưng của chức vị này được gọi là Văn Xương Tả Tướng và Văn Xương Hữu Tướng. Đến thời Tống Thần Tông, Tả Bộc Xạ bị đổi thành Môn Hạ Thị Lang, Hữu Bộc Xạ đổi thành Trung Thư Thị Lang, giữ vai tṛ Tể Tướng thật sự. Đến đời Nguyên, cơ cấu Thượng Thư Tỉnh hoàn toàn bị bỏ, chỉ c̣n giữ lại Trung Thư Tỉnh trong ba tỉnh, chức vụ Thượng Thư Bộc Xạ bị phế trừ, Trung Thư Thừa Tướng đảm nhiệm vai tṛ của Thượng Thư Bộc Xạ. Các danh nhân từng giữ chức vụ này là Pḥng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, Lư Tĩnh, Ôn Ngạn Bác, Chử Toại Lương…

[35] Học Sĩ là chức quan được thiết lập từ đời Đường, gọi đầy đủ là Đông Cung Học Sĩ, có nhiệm vụ kèm cặp, dạy học Thái Tử. Vị này thật sự đôn đốc Thái Tử học tập, trong khi các chức quan Thái Phó, Thiếu Phó, Thái Sư, Thiếu Sư nặng về vai tṛ cố vấn, rèn luyện cách xử lư việc nước hơn là học tập từ chương. Đến thời Minh Trị Duy Tân, chức quan này bị băi bỏ và người Nhật dùng chữ này để dịch chữ Bachelor (cử nhân) trong lối giáo dục Âu Tây. Các nước khác như Triều Tiên, Trung Hoa v.v… cũng bắt chước dịch theo cách này.

[36] Theo ông Hoàng Bách Lâm, Thái Tổ ở đây chính là Minh Thái Tổ (Châu Nguyên Chương).

[37] Ngu () chính là triều đại của vua Thuấn, v́ vua Thuấn sanh trưởng tại đất Hữu Ngu (有虞), nên ông c̣n được gọi là Hữu Ngu Thị, hay Ngu Thuấn (thật ra, vua họ Cơ, tên là Trùng Hoa, Thuấn là thụy hiệu). Vua Thuấn cũng đặt quốc hiệu là Hữu Ngu.

[38] Thượng Tường (上庠) là danh xưng của trường Thái Học (Quốc Tử Giám) thời cổ.

[39] Quảng Huệ là kho gạo để làm thiện sự được thiết lập dưới thời Tống Nhân Tông. Gạo trong kho này chủ yếu dùng để trợ cấp người già yếu, trẻ thơ, kẻ nghèo túng, hoặc bệnh tật rề rề.

[40] Diêu Lệnh Ngôn là một viên tướng nhỏ dưới quyền Tiết Độ Sứ Mă Lân. Do chiến công, ông ta được phong làm Kim Ngô Đại Tướng Quân, rồi được phong làm Thái Thường Khanh, kiêm Ngự Sử Trung Thừa. Về sau, họ Diêu được cử làm Tiết Độ Sứ Kính Nguyên (thuộc tỉnh Cam Túc). Năm Kiến Trung thứ tư (783), do Tiết Độ Sứ Lư Hy Liệt làm phản, Tiết Độ Sứ Hành Doanh là Ca Thư Hàn bị vây, kinh thành lâm nguy, Đường Đức Tông sai Diêu Lệnh Ngôn đem quân cứu viện. Diêu Lệnh Ngôn dẫn năm ngàn quân về Trường An. Đang tiết Đông giá rét, binh sĩ vừa lạnh vừa đói, thế mà quan kinh triệu doăn chỉ cho ăn cơm gạo xấu. Lệnh Ngôn vào chầu vua, vua chỉ ban thưởng mỗi người hai tấm vải thô! Quân sĩ căm tức, bèn nổi dậy làm cuộc binh biến, tấn công Trường An. Đức Tông phải bỏ chạy sang Phụng Thiên. Quân phiến loạn tôn Châu Thử làm vua. Châu Thử phong cho Lệnh Ngôn làm Thị Trung. Về sau, Lư Hoài Quang đem quân cứu giá, đánh bại quân Châu Thử. Lệnh Ngôn theo Châu Thử chạy sang đất Thổ Phiên (phía Đông Tây Tạng), bị quan giữ thành Kính Nguyên là Điền Hy Giám trở mặt, đóng cửa không cho vào. Sau đó, loạn quân giết chết Lệnh Ngôn.

[41] Long Khánh là niên hiệu của Minh Mục Tông (Châu Tải Hậu) từ năm 1567 đến năm 1572.

[42] Theo ông Hoàng Bách Lâm, điều này có nghĩa là có những kẻ cứ chọn một thời hạn nhất định để phóng sanh như vào dịp Phật Đản, hay Vu Lan, ngày Rằm, mồng Một v.v…

[43] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này phải hiểu như sau: Chúng ta phải thường ít tạo nghiệp, phải tôn trọng các động vật, gắng hết sức ăn chay, phóng sanh cho nhiều, bố thí cho nhiều, bao dung người khác, rộng kết thiện duyên. Đó gọi là “kinh doanh trả nợ”.

[44] Ông Hoàng Bách Lâm giảng: Câu này phải hiểu là đừng so đo giá cả con vật mắc rẻ. Chẳng hạn do thấy dê, ḅ giá tiền đắt hơn tôm cá, rồi nghĩ rằng phóng sanh những con vật đắt tiền th́ phước đức sẽ to hơn, không chịu hành hạnh phóng sanh cứu vật đối với những con vật bé bỏng.

[45] Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của ông Hoàng Bách Lâm.

[46] Nguyên văn “cao giả” (kẻ ở nơi cao). Theo ông Hoàng Bách Lâm, từ ngữ này có nhiều ư nghĩa. Chữ “cao giả” có thể bao gồm những người có địa vị cao quư trong xă hội, hoặc những người phú quư, quyền thế, hoặc những người có phước báo to lớn. V́ ḷng ích kỷ, ai nấy chỉ mong chính ḿnh đạt được những điều tốt lành, chẳng muốn chia sẻ với người khác, mà cũng chẳng mong người khác sẽ làm điều tốt lành.

[47] Hy Ninh (1068-1077) là niên hiệu của Tống Thần Tông.

[48] Đây là một hủ tục của Trung Hoa kéo dài măi cho đến đầu thời Dân Quốc: Những người đă chết phải được đưa về an táng tại quê nhà. Do vậy, những người chưa sẵn tiền, hoặc công việc bận rộn, hoặc chưa kiếm được ngày lành tháng tốt, hoặc chưa kiếm được cuộc đất tốt, thường thuê người đổ nhiều thủy ngân vào quan tài cho xác lâu thối rữa, khâm liệm xong sẽ đem gởi tại các chùa hoặc các đạo quán, chờ khi thuận tiện sẽ đưa về quê an táng. Thời gian quàn xác như vậy có nhiều khi kéo dài đến mười mấy năm. Có nhiều khi con cháu hoặc người thân của những cỗ quan tài ấy bị tai nạn, bị chết bất th́nh ĺnh, hay lưu lạc, những cỗ quan tài ấy trở thành vô chủ.

[49] Hồng Vũ (1368-1398) là niên hiệu của Minh Thái Tổ (Châu Nguyên Chương).

[50] “Thượng chân” (上真) là danh xưng của Đạo gia để gọi bậc chân tiên.

[51] Hậu Hán ở đây là nói tới nhà Đông Hán, không phải là Hậu Hán do Lưu Tri Viễn sáng lập vào thời Nam Bắc Triều.

[52] Nguyên Đế ở đây là Huyền Thiên Thượng Đế, tức vị thần Trấn Vũ ở phương Bắc trong Đạo giáo.

[53] “Thất phu” (匹夫) có nghĩa là những kẻ b́nh phàm trong xă hội, không có chức vị, không có địa vị và thế lực.

[54] Tam Nguyên là đỗ đầu cả ba trường thi, đỗ đầu kỳ thi ơng gọi là Giải Nguyên, đỗ đầu thi Hội th́ gọi là Hội Nguyên, đỗ đầu kỳ thi Đ́nh th́ gọi Trạng Nguyên.

[55] Hà Sóc là khu vực thuộc miền trung du phía Bắc Hoàng Hà. Từ ngữ này thường dùng để chỉ một khu vực rộng lớn bao gồm cá tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc và Sơn Đông.

[56] Đài Tỉnh (臺省) là cơ quan hành chánh trung ương, thời Hán được gọi là Thượng Thư Đài, thời Tam Quốc đổi thành Trung Thư Tỉnh, là cơ quan đặc trách công bố những chiếu lệnh của hoàng đế, có đặc tánh của cơ quan hành pháp trung ương, chức trách tương ứng với Quốc Vụ Viện hiện thời.

[57] Thông Phán (通判) là chức quan được đặt ra từ thời Tống. Nhằm ngăn ngừa quyền hạn của Tri Châu quá cao, triều đ́nh đặt ra chức Thông Phán làm phụ tá cho Tri Châu, thật ra là để kiềm chế, giám sát Tri Châu. Thông Phán trông coi lương thực, tiền bạc trong một châu.

[58] “Giáp hạt” là từ ngữ chỉ khoảng thời gian giữa hai vụ mùa, khi thóc cũ đă dùng hết, lúa đang trồng chưa gặt hái được.

[59] Những con buôn bất nhân thường xử ép người tiêu dùng bằng đấu non, đấu già, tức là khi gạo đắt th́ dùng các dụng cụ đo lường như thưng đấu nhỏ hơn hoặc có đế dầy hơn để giảm thiểu số lượng gạo mỗi lần đong. Khi được mùa, lại ép giá bằng cách dùng đấu rộng hơn, khi đong bèn ém gạo cho chặt hơn để lấy được gạo nhiều mà trả tiền ít hơn.

[60] Tử Phủ Chân Quân là vị thần tiên nổi danh của Đạo giáo. Ông tên là Vương Thành, tự là Huyền Phủ, người quận Đông Hải, sống vào đời Hán. Về sau, ông được tôn làm vị đứng đầu trong Ngũ Dương Tổ Sư (Vương Huyền Phủ, Chung Ly Quyền, Lữ Động Tân, Lưu Hải Thiềm, Vương Trùng Dương) của Toàn Chân Giáo. Tương truyền ông là Đông Hoa Đế Quân hóa thân. Ông được coi là người tu đạo đắc pháp trường sanh tại núi Chung Nam. Sở dĩ ông được gọi là Tử Phủ Chân Quân v́ Nguyên Thế Tổ đă sắc phong ông là Đông Hoa Tử Phủ Thiếu Dương Đế Quân, Nguyên Thế Tông sắc phong thánh hiệu Đông Hoa Tử Phủ Phụ Nguyên Lập Cực Đại Đạo Quân.

[61] “Ăn gạo mới” tức là khi lúa đă chín, người dân có thể tự gặt hái, tự nuôi sống, không cần trợ cấp nữa.

[62] Bác Vật Chí là bộ sách gồm ba quyển do Trương Hoa soạn vào đời Tấn. Nội dung rất rộng, bao gồm nhiều kiến thức địa lư, lịch sử, nhân vật, khoa học thời cổ, cũng như chép về nhiều loại chim thú lạ lùng.

[63] Ḥa Tễ Cục (和劑局) là một cơ quan được thiết lập dưới đời Tống, trực thuộc Thái Phủ Tự, có trách nhiệm bào chế thuốc, pḥng chống dịch bệnh, giống như sở y tế của mỗi tỉnh trong hiện thời.

[64] Theo ông Hoàng Bách Lâm, nói “mạng trời” ở đây chính là nói đến sự cảm ứng do nghiệp trong đời trước, chứ không có nghĩa là do một vị thần linh nào ban phát.

[65] Tử Tư là tên tự của Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử.

[66] Vĩnh Thuần là niên hiệu của Đường Cao Tông.

[67] Đây là những người được coi là thần đồng về văn chương thuở ấy, tức là Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương, Vương Bột, và Dương Quưnh. Họ được ca tụng là Sơ Đường Tứ Kiệt. Riêng Vương Bột sáu tuổi đă biết làm văn, đến năm mười sáu, hễ nhấc bút là thi tứ ào ạt tuôn ra. Ông nổi tiếng trong lịch sử văn học với bài Đằng Vương Các Tự. Hai câu “lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng trường thiên nhất sắc” (ráng mây và con diệc lẻ loi cùng bay, nước thu và bầu trời mênh mông cùng một mầu) được coi là những câu tuyệt diệu nhất trong bài phú ấy. Ông chết đuối trên đường trở về sau khi thăm cha đang làm huyện lệnh tại Giao Chỉ. Theo truyền thuyết, mộ phần của ông vẫn c̣n tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, Việt Nam.

[68] Theo ông Hoàng Bách Lâm, câu này có nghĩa là đối với những kẻ ngu phu ngu phụ, đừng nên coi thường chí hướng của họ. Kẻ dẫu ngu hèn cách mấy, nhưng tâm chí kiên quyết, kiên nhẫn hành tŕ sẽ đạt được kết quả chẳng thể suy lường được.

[69] Thông thường, chữ Doanh () ở đây được chú giải là sự tṛn đầy quá mức, quá tràn trề, nhưng cũng có vị cho rằng: Doanh phải hiểu là kẻ kiêu căng, tự măn, phô trương tài năng quá mức.

[70] Tam Doăn (三尹) là chức quan phụ tá cho tri huyện, chuyên quản trị văn thư. Xưa kia, trong một huyện, quan tri huyện thường được gọi là Đại Doăn, phó quan gọi là Huyện Thừa, tục gọi là Nhị Doăn. Cấp thứ ba là Chủ Bạ (quản trị sổ sách), thường gọi là Tam Doăn.

[71] Theo ông Hoàng Bách Lâm, câu này phải hiểu như sau: Nếu nhà vua, tức Tề Huệ Vương, vận dụng cái tâm ham thích âm nhạc, thích vui sướng vào chính sách cai trị, làm cho mọi người đều được vui sướng, tức là ai nấy được hưởng cơm no, áo ấm, an lạc, vận mạng của nước Tề sẽ trở thành hưng vượng.

[72] Ông Hoàng Bách Lâm giảng “cúi ngửa” ở đây phải hiểu là hành xử, sinh sống. Do quá liêm khiết, cuộc sống túng quẫn, làm ǵ cũng khó khăn v́ thiếu phương tiện, nên dễ sanh ḷng oán hận.

[73] Cứu () ở đây là dùng bột ngải cứu làm thành viên để đốt hơ lên kim châm nhằm truyền sức nóng vào huyệt được châm.

[74] Niên điệt (年姪): Cháu của người thi đậu cùng khoa với ḿnh th́ gọi là “niên điệt”.

[75] Người đứng đầu các quan Tể Tướng đời Tống được gọi là Thủ Tướng. Thời Tống, có nhiều Tể Tướng. Nói chung, Tể Tướng là người đứng đầu ba cơ quan Môn Hạ Tỉnh, Trung Thư Tỉnh và Thượng Thư Tỉnh.

[76] Bài thơ này dùng hai nhân vật để nói về chữ Nhẫn. Thuở hàn vi, Hàn Tín bị đói nghèo, người gầy tong teo, thường phải ăn chực cơm của một bà nghèo làm thợ giặt (phiếu mẫu), bị mọi người khinh rẻ. Có lần gă đồ tể cầm dao dọa Hàn Tín, bắt ông phải luồn qua đũng quần của hắn. Suy nghĩ kỹ, Hàn Tín quyết định luồn dưới đũng quần hắn mặc cho thiên hạ cười chê. Câu thứ hai nói về Trương Lương, người nước Hàn, ôm ḷng diệt nhà Tần. Có một hôm, ông đến cầu Hạ B́, thấy một cụ già tiên phong đạo cốt. Cụ già làm rớt giày xuống gầm cầu, sai Trương Lương xuống nhặt. Ba lần như thế, Trương Lương đều chịu nhịn, nhặt lên. Cụ già mỉm cười, trao cho Trương Lương quyển Thái Công Binh Pháp và Tố Thư, khen: “Đứa bé con dễ dạy!” Nhờ đó, Trương Lương trở thành mưu sĩ bậc nhất của Hán Cao Tổ (Lưu Bang). Ông tiến cử Hàn Tín cầm quân đánh bại Hạng Vũ, giúp Hán Cao Tổ lập ra nhà Hán. Công thành danh toại, Trương Lương bèn từ quan, nại cớ tu tiên để khỏi vào chầu vua, không nắm giữ bất cứ quyền hành nào, nhờ đó giữ trọn tánh mạng, trong khi các công thần khác lần lượt bị Lữ Hậu xúi xiểm Hán Cao Tổ giết chết. Hàn Tín cậy công, đ̣i Hán Cao Tổ phong làm Hàn Vương. Hán Cao Tổ ưng thuận, nhưng đă đem bụng ghét bỏ Hàn Tín. Về sau, với sự đốc xúi của Lữ Hậu, Hán Cao Tổ lập kế giả vờ ra chơi Vân Mộng (nơi Hàn Tín ở), tịch thâu ấn tín, giáng xuống làm Hoài Âm Hầu, cuối cùng kết tội giết chết. Do vậy, người ta thường dùng chữ Hoài Âm để nói về Hàn Tín. Văn Thành là biệt danh của Trương Lương.

[77] Giáng là Châu Bột, theo Lưu Bang khởi nghĩa từ đất Bái, có nhiều công lao phá Sở, kiến lập nhà Hán. Về sau, ông được Hán Cao Tổ phong làm Giáng Hầu. Ông được phong làm Tể Tướng, tuy tánh t́nh thuần hậu, chất trực, nhưng kém tài quản lư, sợ địa vị cao sẽ chuốc họa, bèn lấy cớ bệnh tật để từ quan. Sau khi Trần B́nh chết, ông lại được cử làm Tể Tướng, rồi bị băi truất. Khoái là Phàn Khoái, xuất thân làm nghề mổ lợn. Về sau, theo Lưu Bang khởi nghĩa, lập nhiều công to, xả thân hộ vệ Lưu Bang trong hội yến Hồng Môn. Khi Lưu Bang lập đàn bái tướng, Phàn Khoái tự đắc, tưởng Lưu Bang sẽ phong cho ḿnh làm đại tướng. Nào ngờ, Lưu Bang tấn phong Hàn Tín. Phàn Khoái hổ thẹn, tức tối. Về sau, qua những cuộc chinh chiến, Phàn Khoái mới tâm phục tài dùng binh của Hàn Tín.