Cảm Ứng Thiên Vựng Biên
感應篇彙編
Quyển 2
Phần 2
(theo bản
in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm
2000)
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
(Chánh văn) Thụ sủng
nhược kinh.
(正文)受寵若驚。
(Chánh
văn: Được sủng ái mà lo sợ).
Được hưởng
sự sủng ái vẻ vang, dẫu là xứng đáng
được hưởng, cũng nên biết t́nh thế,
biết đủ. Nếu được hưởng sự
sủng ái chẳng đáng nên có, hăy nên nghĩ là đáng
kinh, đáng sợ. Bởi lẽ, phước chính là họa
ngầm ẩn. Mặt trời chính ngọ rồi sẽ xế,
trăng tṛn đầy rồi khuyết là lẽ cố nhiên! Đối với
quân vương, ơn như trời đất, nếu chẳng
thật dạ mong báo đền, kẻ bầy tôi há có thể
tự an, há chẳng càng thêm kinh sợ ư?
Châu Thành Vương phong Bá Cầm[1]
[làm vua] ở nước Lỗ, Châu Công răn dạy:
- Con đừng v́ có nước
Lỗ mà kiêu ngạo với kẻ khác. Ta nghe nói, đức
hạnh rộng lớn, hễ giữ ḷng cung kính th́ sẽ
được vinh hiển. Đất đai rộng răi,
giàu có, giữ đức tánh tiết kiệm th́ sẽ yên ổn.
Bổng lộc và địa vị cao quư, vẻ vang, hăy giữ
ḷng khiêm tốn th́ sẽ phú quư. Dân
đông, quân mạnh, hăy giữ ḷng kiêng sợ th́ sẽ
thường chiến thắng. Thông minh, sáng trí, hăy giữ
thái độ như kẻ ngu th́ sẽ được lợi
ích. Học rộng, nhớ nhiều, hăy giữ thái độ
như kẻ hiểu biết nông cạn th́ [kiến thức]
sẽ càng rộng thêm. Hăy giữ sáu điều ấy,
đó đều là những phẩm đức khiêm cung.
Đạo trời khiến cho kẻ tự măn suy sụp,
khiến cho người khiêm tốn được tăng
ích. Đạo đất sẽ biến đổi [nhằm
giảm thiểu] cái tṛn đầy để vun đắp
cho cái thấp kém hơn. Đạo người th́ ghét kẻ
tự măn, ưa chuộng người khiêm tốn. Con hăy thận
trọng, đừng v́ có nước Lỗ mà kiêu căng
đối với kẻ khác.
Học nhân trong hiện thời
nếu thật sự có thể nghiền ngẫm lời
giáo huấn ấy, ắt ḷng kiêu căng, thái độ ngạo
mạn sẽ chẳng do đâu mà nẩy sanh, sẽ
hưởng vinh dự, ân sủng càng nhiều hơn. Hễ
được hưởng sự ân sủng, hăy luôn giữ
ḷng kinh sợ vậy!
Đời Đường,
Sầm Văn Bổn[2]
được phong làm Trung Thư Lệnh bèn lộ
vẻ lo âu. Mẹ hỏi nguyên cớ, Văn Bổn
thưa: “Chẳng có công huân, chẳng phải là bậc lăo
thần, thế mà được vinh sủng quá phận,
địa vị cao, chức trách nặng nề, cho nên con
lo sợ”. Ông bảo những người khách đến
chúc mừng: “Nay tôi nhận lời chia buồn, chứ không
nhận lời chúc mừng”.
Đời Tống, Văn
Chánh Công Vương Đán tuổi già, quan chức càng cao. Tới
khi đi sứ Triều Tiên, từ trong cung cấm, ngồi
xe to ra khỏi cửa kinh thành. Trăm quan đưa tiễn,
đua nhau khen ngợi ông được đăi ngộ vinh
hiển. Ông nói: “Tôi có ích ǵ cho đất nước, chỉ
cảm thấy bồn chồn, bất an!”
Tư Mă Ôn Công (Tư Mă Quang) gởi thư cho cháu có đoạn: “Gần đây,
ta hưởng ân vua, được phong làm Môn Hạ Thị
Lang, cả triều đ́nh kẻ đố kỵ vô số.
Ta ngu độn, thẳng tính, ở trong [hoàn cảnh] ấy,
giống như chiếc lá vàng trong cơn gió dữ, chẳng
mấy chốc sẽ rụng. Do vậy, kể từ khi
vâng mạng tới nay, chỉ lo sợ, chẳng vui mừng.
Các ngươi hăy nên biết ư này!”
Mấy vị ấy do
được sủng ái mà lo sợ, nhưng câu nói “nhận lời chia buồn” của
ông Sầm đă diễn tả rơ ràng ư đó. Xưa kia, Tôn
Thúc Ngao làm lệnh doăn [nước Sở], có một
vị lăo nhân đến chia buồn như sau: “Do thân
được hưởng sự tôn quư mà kiêu căng với
kẻ khác, dân sẽ xa lánh. Ở địa vị cao mà tự
tiện chuyên quyền, vua sẽ ghét. Bổng lộc trọng
hậu mà chẳng biết đủ, sẽ là ở trong cảnh
hoạn nạn!” Lại nói: “Địa vị càng cao, ḷng
càng khiêm tốn. Quan càng to, tánh càng thêm nhũn nhặn. Bổng
lộc càng trọng hậu, bèn thận trọng chẳng
dám lạm dụng. Ông giữ cẩn thận ba điều
ấy, sẽ đủ để cai trị nước Sở”.
Ông Sầm đă lănh hội sâu xa ư chỉ này. Phương
cách ứng xử của người có địa vị
cao chính là tuân theo lư này.
Đời Tống, ông Lô
Đa Tốn thoạt đầu được phong làm
Tham Chánh[3],
ăn mặc tiêu dùng dần dần xa xỉ. Cha ông ta âu sầu
bảo: “Nhà ta nhiều đời là nhà Nho thanh bạch, một
khi được phú quư bèn thành ra như thế, chẳng
biết sẽ đọa lạc đến đâu!” Đa
Tốn chẳng quan tâm lời cha, rốt cuộc bị suy
bại.
(Chánh văn) Thi ân bất cầu
báo, dữ nhân bất truy hối.
(正文)施恩不求報。與人不追悔。
(Chánh văn: Ban ân chẳng mong
được báo đáp, đă cho người khác sẽ
chẳng hối hận).
Thi ân mà cầu báo, tức là
cái tâm tham chưa quên! Đă cho người ta rồi hối
tiếc, tức là cái tâm keo kiệt chưa tiêu trừ.
Đă tham lại c̣n keo kiệt, bậc quân tử chẳng làm
như vậy. Kinh Kim Cang dạy: “Bồ Tát ư pháp ưng vô sở trụ nhi hành bố
thí” (Bồ Tát đối với pháp hăy nên chẳng trụ
vào đâu mà hành bố thí). Lại nói: “Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố
thí, kỳ phước đức bất khả tư
lượng” (Nếu Bồ Tát chẳng trụ vào tướng mà bố
thí, phước đức ấy chẳng thể nghĩ
lường được). Nh́n từ điều này,
người có thể dùng tài vật để giúp đỡ
kẻ khác, trong bèn chẳng thấy ta là người có thể
thí, ngoài chẳng thấy có kẻ nhận lănh sự bố
thí, chính giữa th́ chẳng thấy có vật để
thí. Đó gọi là “tam luân thể
không”. Nhất tâm thanh tịnh th́ một đấu gạo
tương ứng với “phước không bờ bến”,
một đồng tiêu trừ tai ương ngàn kiếp. Nếu
hơi có cái tâm mong cầu được báo đáp, dẫu
thí vạn dật[4]
vàng ṛng, rốt cuộc chẳng thể viên măn tâm lượng
của nhất tâm. C̣n như hai chữ “truy hối” (追悔, sau đó lại hối hận) lại càng là chỗ
then chốt to lớn trong đời người. Hối
tiếc về chuyện ác th́ trong tương lai, ác niệm
sẽ dần dần ngưng dứt. Đối với việc
thiện mà hối tiếc, trong
tương lai sẽ chẳng sanh thiện niệm. Kẻ
đă bố thí rồi hối tiếc, chẳng thà đừng
thí, chẳng cho sẽ hay hơn!
Người đời muốn
cho ngũ cốc trong kho năm nào cũng đều chẳng
thiếu hụt, ắt phải chọn lấy hạt giống
của gạo thóc, lúa mạch, dùng trâu cày bừa ruộng
nương để gieo trồng. Hễ không gieo trồng,
ắt [thóc gạo trong kho] sẽ cạn kiệt. Trong đạo
pháp cũng giống như thế. Dùng hiếu tâm, bi tâm, và kính
tâm làm hạt giống, dùng áo cơm, tiền của, thân mạng
làm trâu cày, dùng cha mẹ, kẻ nghèo khó, bệnh tật, Tam
Bảo làm ruộng nương. Có đệ tử Phật
muốn đời đời đạt được
trăm món phước trang nghiêm vô tận trong tạng thức
th́ cần phải vận dụng ḷng bi, kính, hiếu,
đem áo cơm, tiền của, thân mạng kính cẩn phụng
dưỡng, cung cấp cha mẹ, những người
nghèo khó bệnh tật và Tam Bảo; đó gọi là “gieo phước”. Chẳng
gieo trồng, sẽ nghèo túng, chẳng có phước huệ,
sẽ lọt vào đường hiểm sanh tử. Nói “ruộng để gieo phước”
là v́ giống như ruộng để gieo mạ, cho nên
gọi là “phước điền”.
Bố thí có ba loại là Pháp
Thí, Tài Thí và Tâm Thí. [Vận dụng] đủ mọi phương
tiện ḥng khuyến hóa, dạy bảo người khác th́
gọi là Pháp Thí. Đó là cao nhất. Tài Thí là dùng đủ
loại tiền tài để bố thí. Tâm Thí là [bản
thân] nghèo cùng túng quẫn, chẳng có tiền của,
nhưng tâm niệm xót xa, mong giúp đỡ [kẻ hoạn
nạn] tuy chẳng có cách nào thực hiện th́ cũng gọi
là Thí.
Đời Minh, Trầm Lư tên
tự là Trọng Hóa, người huyện Quy Đức,
thích tiến cử bậc hiền năng, nhưng chẳng
để cho kẻ khác biết. Ông có bài Cảnh Thế Ngữ
(警世語, những lời cảnh tỉnh cơi đời)
như sau:
- Ôi chao! Chuyện trong cơi
đời sao mà chênh lệch bất công đến nỗi
như thế? Ta thường vào mỗi dịp tiệc
tùng no say, đă chẳng thể gắp nổi
nữa, chủ nhân vẫn dọn lên những món trân quư
không ngớt, nhưng có kẻ nghèo suốt đời chẳng
biết đến mùi vị nào khác, có kẻ
chết đói! Ta mùa Đông khoác áo cừu, mùa Hạ mặc áo the. Lạnh
nóng [thay đổi y phục] theo thời, c̣n muốn xa xỉ
đến tột cùng ḥng theo kịp thời trang. Kẻ nghèo
áo chẳng đủ che thân, nấp ngoài hiên, ngủ ngoài
đường, gió bấc buốt xương, lạnh
cóng đến nỗi răng va lộp cộp. Ta nhà cao cửa
rộng, ở yên ổn hết sức thoải mái, c̣n phải
[tạo dựng] ao, đài, hoa, trúc, ḥng thỏa thuê tai mắt
đến mức cùng cực, chẳng tiếc ngàn vàng
để sắm sửa! Thế mà kẻ nghèo gặp phải lúc khó khăn cấp
bách, không thể cậy vào đâu, thậm chí có khi mất mạng,
hoặc là cha con, vợ chồng phải tan đàn xẻ
nghé! Con cháu trong nhà ta [tiêu xài] rộng răi có thừa, ta vẫn chú trọng tích cóp cho nhiều, ḥng
tính kế lâu xa cho con cháu. Kẻ nghèo nhà cửa bé tẹo,
ăn bữa sáng chẳng mong chi bữa tối. Ta của cải
ngồn ngộn, mắt thấy tai nghe chẳng xuể, chẳng
tránh khỏi sống
phóng đăng, ngấm ngầm lôi cuốn
phường trộm cướp [ngấp nghé]. Đối với kẻ nghèo đói ngẫu nhiên
ḅn mót đồ vật hoặc thóc lúa ta bỏ bê, ta lại
tàn nhẫn, chẳng
thể cho họ, hoặc cho vay tính lăi. Họ
làm thuê làm mướn vất vả để kiếm chút
tiền mọn, vẫn phải tận lực giành nhau [từng
công việc một]. Ta của cải chất đầy
rương, sọt, [vẫn toan] xun xoe bợ đỡ kẻ
quyền thế, sang cả, chỉ sợ họ chẳng tiếp
nhận. Người nghèo xin một đồng ḥng kéo dài mạng
sống trong sớm tối, có kẻ bèn phừng phừng nổi
giận! Có kẻ thoái thác “bụng dạ [ta rất cảm
thông với nỗi khổ của ngươi]”, nhưng chẳng
thể cho người nghèo chút ǵ để họ cầm về.
Ta có nhiều tiền bèn sống phô trương xa xỉ,
dâm dật, do đó chuốc họa. Kẻ nghèo mong đợi
ta thí cho đôi chút thức ăn thừa, thế mà vẫn
chẳng thể được!
Chuyện trong cơi đời sao mà chênh lệch bất
công đến nỗi như thế? Tôi nay v́ kẻ nghèo giăi
bày, chẳng phải là [buộc quư vị] dốc sạch
tiền tài để cứu đói, ép uổng người
khác làm chuyện khó. Chỉ xin hăy quyên tặng những thứ
[chính ḿnh] không dùng đến để biến chúng thành hữu
dụng đó thôi! Tiệc tùng nếu đă no say, sao không
chia sẻ rượu thịt để thí cho kẻ
đói khát sắp chết? Sao chẳng san sẻ canh thừa
để thí cho kẻ suốt đời chẳng biết
mùi vị ǵ khác! [Làm như vậy] chẳng phải là thuận
tiện cả đôi đằng ư? Quần áo chất
đống trong rương th́ có khác ǵ chẳng mặc? Hăy
bỏ ra những thứ áo ngắn vải thô để thí
cho kẻ không có áo che thân, họ cũng sẽ được
hưởng sự ấm áp, mà những thứ quần áo
đẹp đẽ của ta vẫn chẳng bị thiếu
hụt. [Như vậy là do bỏ ra] những thứ ta chẳng
ưa thích mà có thể giữ vẹn tánh mạng và cốt
nhục của kẻ khác. Nghĩa cử ấy do
được bàn nói rồi sẽ lan truyền. Đêm sâu,
hăy tự phản tỉnh, sẽ tự nhận biết:
Cái đáng được yêu thích trong thiên hạ, không chi tốt
đẹp hơn chuyện này!
Ta tích cóp cho lắm, suốt
đời chẳng dùng hết, bèn để lại cho con
cháu. Con cháu hiền năng, chúng sẽ chẳng ỷ vào
đó mà vẫn đủ dùng. Đứa ngu muội tuy có
mà chẳng thể dùng[5],
sao bằng ta đích thân bố thí th́ c̣n hữu
dụng cho kẻ lo được bữa sáng không mong chi bữa
tối? Đối với những thứ ta tiêu xài hoang
phí, chẳng cần phải bận tâm, nếu cho kẻ
nghèo th́ [sẽ giống như] họ đă nhặt được
ngoài đường, chẳng hao tổn đến những
thứ ta có, ta tiếc nuối nỗi ǵ? Ta sắm sanh lễ
vật thịnh soạn để bợ đỡ [kẻ
quyền thế, sang cả], chắc ǵ họ đă vui ḷng?
Thí thưng gạo, đấu thóc, thí chén nước cho con
cá sắp chết khô trong vết lơm bánh
xe, [kẻ được bố thí] sẽ hớn hở khởi
tử hồi sanh. Cớ sao chẳng làm chuyện này, mà làm
chuyện kia?[6] Ta do lắm
tiền nhiều của bèn chuốc họa, làm đôi chút
[bố thí như vừa mới nói] sẽ được
phước. Ta quyên tặng những thứ ta dư thừa
để bù đắp cho kẻ thiếu thốn, tuy là tạo
phước cho người khác, thật ra là để giúp
ta thoát họa vậy! Đấy là đường lối
lợi lạc đôi bên. V́ thế nói: “Quyên tặng những thứ không dùng đến
để làm chuyện hữu dụng [cho người khác]”
chính là v́ lẽ này!
Chẳng thấy [sự biến
hóa trong] đạo trời hoặc mối quan hệ nhân sự
ư? Thịnh suy đắp đổi, trời c̣n chẳng
trái nghịch! Tiền bạc lưu thông, há cứ ở măi
một chỗ? Những kẻ được gọi là
giàu có xưa kia, nay c̣n được mấy? Con cháu của
họ chẳng được hưởng măi. Nếu
chẳng do người đời trước chuộng bố
thí, [con cháu làm sao hưởng được. Nếu
người đời trước chẳng làm như vậy,
tức là] đă chẳng mưu tính sâu xa [cho tương
lai]! Thịnh suy đắp đổi lẫn nhau là lẽ
đương nhiên! Biết lẽ đương nhiên ấy,
đối với thứ đáng nên tích lũy sẽ tích
lũy, đối với thứ đáng nên phân tán sẽ
phân tán. Thứ chính ḿnh có thể sử dụng mà cũng có
thể để cho kẻ khác sử dụng, đấy
là bậc thông đạt. Đă tích cóp tiền bạc chất
chứa tại một nơi, lại thiết lập cách
đề pḥng, cứ ngỡ sản nghiệp sẽ ngàn vạn
đời chẳng bị suy xuyển, giữ cho tài sản
ấy chẳng bị chuyển dời; [suy nghĩ kiểu
đó] chính là kẻ ngu vậy! Tích lũy âm đức ḥng
làm kế sách lâu dài, đó chính là người trí. Hành bố
thí chẳng nhằm mục đích nào, đấy chính là bậc
quân tử.
Đời
Tùy, Lư Sĩ Khiêm, tên tự là Tử Ước, mồ côi
cha từ bé, thờ mẹ chí hiếu. Năm mười
hai tuổi[7],
ông được Ngụy Quảng B́nh Vương vời
ra làm Tham Quân trong phủ tướng quân. Do nhà giàu có, ông Lư bỏ
ra mấy ngàn thạch gạo cho người làng vay mượn.
Gặp năm đói kém, ông bèn gọi các nhà thiếu nợ
đến, đốt bằng khoán vay mượn, bảo
họ: “Nợ đă trả xong rồi!” Đến
mùa Xuân năm sau, lại bỏ ra gạo thóc để chia
cho những kẻ nghèo nàn, túng thiếu, cứu sống rất
nhiều người. Những người đă chết,
ông đều chôn cất. Nếu có ai ca tụng âm đức
của ông, ông đáp: “Âm đức như tiếng kêu ngầm
trong tai, chính ḿnh tự biết, kẻ khác chẳng biết.
Nay ông đă biết, c̣n nói là âm đức chi nữa?” Một
hôm, ông mộng thấy có một vị thần áo tía bảo:
“Thượng Đế tăng thêm âm đức cho
ngươi, khiến cho con cháu ngươi hết sức hưng
vượng”.
Đời Tống, ở huyện
Thái Thương có một người họ Cố làm nha lại
cho quan Tri Châu. Hễ có công vụ phải đón tiếp,
đưa tiễn, ắt trọ tại nhà người bán
bánh họ Giang ở ngoài thành. Về sau, họ Giang bị
kẻ thù vu cáo trộm cắp, [phải tù đày], ông Cố
tập hợp mọi người kêu oan, nên họ Giang
được thả. Ông Giang cảm ơn, có đứa
con gái mười bảy tuổi bèn đưa tới nhà họ
Cố xin được làm thiếp. Ông Cố bảo vợ
chuẩn bị lễ vật đầy đủ,
đưa [cô ta] trả về. Ông Giang lại dẫn con tới,
ông Cố lại chối từ. Về sau, ông Cố lên kinh
đô, được điều sang làm môn hạ
lo việc cho viên Thị Lang[8]
họ Hàn. Thị Lang bỗng có chuyện đi vắng, phu nhân trông thấy
ông Cố, bèn gọi đến hỏi: “Ông có phải là Cố
đề khống[9]
ở Thái Thương hay không? Tôi là con gái người bán
bánh họ Giang. Tôi vốn được gả làm thiếp
cho tướng công, sau đó, được [nâng lên] làm
chánh thất. Mọi điều dẫu nhỏ nhặt
đều do ông ban cho, tôi sẽ kể với tướng
công”. Thị Lang trở về, vợ kể cặn kẽ từ
đầu đến cuối. Thị Lang nói: “Đấy
là người nhân từ vậy”, rồi tâu lên vua chuyện ấy. Vua khen ngợi, phong cho ông Cố làm Chủ Sự[10]
bộ Lễ.
Đời Tống, Phạm
Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm) sai con là Nghiêu Phu trở
về Tô Châu lấy năm trăm hộc lúa mạch. Trên
đường, gặp người quen biết cũ là Thạch Mạn Khanh kể lể có
ba đám tang ma chưa lo toan được, Nghiêu Phu đem cả thuyền lúa mạch
cho họ Thạch. [Nghiêu Phu] quay về, chưa kịp
thưa chuyện, Văn Chánh hỏi:
“Có gặp người quen biết cũ hay không?” Nghiêu Phu
bèn thưa chuyện Thạch Mạn Khanh có ba đám tang
chưa lo liệu được. Văn Chánh hỏi: “Sao
không đem thuyền lúa mạch cho ông ta?” Thưa: “Con đă
cho rồi”. Cha con ông Phạm cùng một ḷng, thích bố thí
như thế. Há có như người thời nay chỉ
tôn thờ phú quư, trên gấm thêm hoa, chẳng chịu châu cấp,
giúp đỡ kẻ nghèo khổ, đưa than sưởi
ấm trong ngày tuyết rơi ư? Dẫu là có thí, có cho
đôi chút, có kẻ nào chẳng mong cầu được
báo đáp, hoặc cho rồi hối tiếc hay chăng?
Xưa kia, có một cô gái vào
chùa, muốn thí xả mà chẳng có tiền, chỉ có hai
đồng bèn quyên cúng. Vị chủ chùa (Trụ Tŕ)
đích thân v́ cô ta sám hối. Về sau, cô ta vào cung, phú quư,
mang mấy ngàn lạng vàng cúng chùa. Vị Trụ Tŕ chỉ
sai đồ đệ hồi hướng cho cô. Cô lấy
làm lạ, hỏi nguyên do, vị Tăng bảo: “Trước
kia, vật tuy đơn bạc, nhưng tâm rất chân
thành, cho nên lăo tăng đích thân bái sám. Nay tài vật hậu
hĩnh, nhưng tâm chẳng thiết tha, sai học tṛ thay mặt
bái sám là đủ rồi!” Hễ làm việc thiện, gieo đức,
chí tâm là quư nhất. Hễ ư niệm vừa chuyển, sẽ
chẳng bằng ư niệm ban đầu, huống hồ
c̣n hối tiếc ư?
Ông Vu Thiết Tiều nói:
- Cầm thú c̣n biết báo
đức, há có lẽ nào con người chẳng cảm
ơn? Chẳng biết điều khó chịu nhất
[đối với người nhận sự bố thí] là
thái độ tự măn của người bố thí. Hễ
thái độ tự măn lộ ra, sẽ khiến cho kẻ cảm kích ân đức sanh ḷng hổ thẹn. Do hổ thẹn mà sanh ḷng oán.
Xưa kia có một viên nha lại từng cứu mạng kẻ
khác. Kẻ ấy dần dần trở thành giàu có, c̣n viên
nha lại trở thành nghèo nàn. Ngẫu nhiên viên nha lại
đi qua nhà người ấy, cả nhà ra vái chào, giữ
lại uống rượu hết sức cung kính. Viên nha lại
uống rượu say ngà ngà, lớn tiếng bảo: “Nếu
chẳng do sức của ta, th́ vợ con, con hầu, đầy
tớ của ngươi và những vật đang thấy
trước mắt đây, làm sao ngươi có nổi một
thứ ǵ cho được? Nay ngươi giàu có mà ta nghèo
đi, sao lại thế nhỉ?” Nói xong, ngủ lại nhà
đó. Họ bàn bạc với nhau: “Gă này có cái tâm mong cầu
được báo đáp quá lố, có báo đáp cũng không
thể thỏa ư hắn được. Chẳng báo
đáp, ắt họa rơi xuống thân ta, chẳng bằng
giết quách đi”, liền cắt phăng đầu
hắn ta. Ôi! Do cứu người mà ngược ngạo
tự giết chết chính ḿnh, trong ấy đương
nhiên là có xen vào cái nhân khéo ứng hợp. Sự báo ứng
hung ác của họ đương nhiên là có liên quan đến
số mạng của viên nha lại, hăy gác lại chớ
luận, chỉ nêu ra chuyện này ḥng răn nhắc những
kẻ [thi ân] cầu báo vậy!
(Chánh văn) Sở vị thiện
nhân.
(正文)所謂善人。
(Chánh văn: [Người
như vậy] đáng gọi là thiện nhân).
Từ chỗ này cho tới
câu “thần tiên khả kư”
(có thể mong thành thần tiên) là nói phước báo của
thiện nhân to lớn, dồi dào, chẳng sai suyển vậy.
Cốt lơi của thiện nhân được bắt nguồn
từ chỗ chẳng lầm lẫn giữa đúng và sai,
tức là trí và dũng đều trọn vẹn. Cuối
cùng là [kiến chấp có] ta và người hai đằng đều
chẳng c̣n, ắt nhân từ và khoan dung sẽ cùng
được hành. Huống hồ [bậc thiện nhân] lập
tâm dụng ư, [bất luận] đối với chính ḿnh
hay đối với người khác, trong th́ là ngũ
thường, bách hạnh[11],
ngoài là thuận theo thời cơ, hành xử thích đáng,
không ǵ chẳng trọn vẹn. Đấy cũng chính là chẳng
khác ǵ Nghiêu, Thuấn, Châu, Khổng tái sanh! Để
được gọi là “bậc thiện nhân”, do ḷng trời ưa điều
thiện, ghét điều ác, ḷng người có thiện, chẳng
có ác, nhưng con người thường sơ sót đối
với những sự nhiễm đắm bởi thói quen,
đến nỗi đánh mất thiện tâm ban đầu.
Hăy nên có điều thiện bèn tinh tấn, có điều
ác bèn hối cải, ḥng đáng gọi là thiện nhân vậy!
Đời Tống, Văn Chánh
Công Lư Phưởng đă cáo quan xin về hưu. Do tiết
Thượng Nguyên, [mọi nơi] treo đèn mừng lễ,
Tống Thái Tông sai sắp đặt xe cộ đón ông vào
cung, cho ngồi bên cạnh giường ngự, đích thân
cầm chén rượu ngự rót mời, chọn lựa những
thứ quả hạt quư ban cho, phán: “Khanh là bậc thiện
nhân quân tử, từng hai lần làm Tể
Tướng, chưa hề ôm ḷng tổn thương
người, hại vật. V́ thế, trẫm tưởng
nhớ khanh”. Ông trở về, răn dạy con: “Tuy ta chẳng
có công lao, thành tích to lớn, lạ lùng, kinh hăi thế tục ǵ,
nhưng chưa hề ẩn giấu điều lành của
người khác, chẳng quên mất người đă tiến cử, chẳng
lừa dối dẫu ở một ḿnh trong pḥng kín. Tự
xét đức hạnh th́ ta vâng giữ bổn phận. Ta tự
cho là đă tuân thủ bốn điều ấy. Nay
được thánh thượng đối trước quần
thần khen ngợi ta là thiện nhân, quân tử. Phàm là bậc
thiện nhân, quân tử, Khổng Tử nói c̣n chưa trông
thấy, ta là hạng người nào mà dám đảm nhận
[mỹ hiệu ấy]? Các con hăy nên nghĩ tới lời
khen ngợi đáng quư ấy của thánh thượng mà thực
hiện bốn điều cha vừa nói. Trung với vua, hiếu
với cha mẹ, luôn hành xử cẩn trọng, tự lập, tự cường,
ngơ hầu có thể chẳng hổ
thẹn”. Con ông là Tông Ngạc tuân thủ nghiêm ngặt lời
cha dạy, trở thành người nổi tiếng
đương thời.
Nói nông cạn, thiện nhân là
dứt ác, làm lành. Nói cùng tột, sẽ là chứng thánh,
thành tiên, thông hiểu tột cùng sự thần diệu
nơi sự vật, thấu đạt lẽ tạo hóa,
đều là do từ một thiện niệm mở rộng
vậy.
Đời Minh, Trâu Tử
Doăn ở Giang Tây sùng tín Tam Bảo, siêng hành trăm điều
thiện. Hễ là những chuyện cứu vớt người
hoạn nạn, thành tựu chuyện tốt cho người
khác, dẫu nước sôi, lửa bỏng, lạnh, nóng, cũng
chẳng nề hà. Mọi người gọi ông là “thiện
nhân”. Ông mắc bệnh, chết đi, tới trước
Diêm Vương, trong ḷng chẳng phục. Vua sai nha lại đưa
sổ bộ cho xem. Mở sổ ra, bèn nổi lên hai chữ
“danh lợi” to đùng. Phàm đối
với những việc thiện do Tử Doăn đă làm trong
suốt một đời, hoặc ghi chữ Danh, hoặc
đề chữ Lợi ở phía dưới. Tử Doăn thẹn
thùng, chịu phục. Ông sống lại, nói với người
khác: “Hăy v́ tôi mà bảo khắp mọi người: Làm lành
hăy nên chân thành, thật thà, tấm ḷng rỗng rang”. Năm
ngày sau, ông Trâu mất.
Đường Thời nói:
- Tôi biết rơ ông Tử Doăn
là người có lẽ chẳng tránh khỏi thói háo danh. Đối
với lợi, Tử Doăn là người trọng nghĩa
khinh tài, sao lại có chuyện này? Ắt là trong lúc được
thỉnh cầu, nhờ cậy, ư niệm ban đầu là
phát nguyện làm thiện sự, cho đến khi nắm giữ tiền của
trong tay, ngẫu nhiên vướng thói tệ sử dụng
không đúng mục đích, hoặc là thoạt đầu
th́ nói: “Ta mượn tạm”, về sau lần khân chẳng
trả lại, khiến cho Tử Doăn cả đời
siêng năng, vất vả, chỉ đổi lấy hai chữ
ấy! Có thể thấy âm ty quen lệ
ghi chép những điều tà vạy ngấm ngầm, nhỏ
nhặt. Tôi hiểu ḷng ông Tử Doăn, nên v́ ông ta giải
thích rơ. V́ thế, bảo khắp những người làm
lành: Hăy nên làm mà không làm, không ǵ chẳng làm, tùy thuận thời
cơ để lợi lạc chúng sanh, sẽ là tốt nhất.
Chẳng có cái tâm mong cầu được báo đáp, cứu
vớt, dẹp trừ nỗi khổ nạn cho chúng sanh,
khuyên kẻ khác làm lành th́ sẽ kém hơn một bậc.
Tích lũy âm công rộng răi, cầu cho chính ḿnh tránh khỏi
tam đồ, lại kém hơn một bậc nữa. Nếu
có mảy may ư niệm v́ danh th́ đă đi sai đường
mất rồi. Nếu có mảy may ư niệm [nhờ làm
lành] để kiếm lợi riêng tư, sẽ đọa
địa ngục [nhanh chóng] như tên bắn vậy, chẳng
đáng sợ ư? Tôi ghi những điều này để
mong những người nguyện làm lành trong đời
sau sẽ biện định rơ ràng mà dốc ḷng thực hiện
vậy.
(Chánh văn) Nhân giai kính chi, thiên
đạo hựu chi, phước lộc tùy chi, chúng tà viễn
chi, thần linh vệ chi.
(正文)人皆敬之。天道佑之。福祿隨之。眾邪遠之。神靈衛之。
(Chánh văn: Mọi người
đều kính trọng, trời ban phước cho, phước
lộc theo đến, các tà lánh xa, thần linh bảo vệ).
Thiện th́ ai nấy đều
vốn sẵn có, hễ được khơi gợi, sẽ
dấy động. Dẫu là hàng ngu phu ngu phụ, nếu
nghe một chuyện lành, mọi người nhất định
sẽ ca ngợi. Dẫu ngươi là kẻ hung ác cùng cực,
trông thấy người lành, cũng chẳng dám xâm phạm.
Ấy là v́ lương tâm phát khởi, sẽ đều là chẳng
thể không làm như thế được. Bàn đến
chuyện “mọi người đều kính trọng” th́ ắt
là do đạo đức của người ấy thật
sự có điểm đáng kính, không một ai là chẳng
như vậy!
Đời Tống, Tư Mă
Ôn Công được triệu về kinh đô làm quan. Ai
trông thấy ông cũng đều lấy tay bưng trán[12].
Ông đi tới đâu, dân chặn đường,
thưa: “Ngài đừng trở về Lạc Dương,
hăy ở lại làm Tể Tướng cho thiên tử, [giúp cho] lũ dân chúng tôi được sống sót”. Lưu
đại gián[13]
làm quan tại triều đ́nh, thiên hạ không ai chẳng
ca ngợi ḷng trung của ông. Phú Văn Trung (Phú Bật) cưỡi con lừa thọt
đến cầu Thiên Tân, những người theo sau ông
xem [ngày càng đông] đến nỗi chợ vắng tanh[14].
Từ Tiết Hiếu dựng lều trông mộ [mẹ suốt
ba năm] tại làng Hoài Âm, trong thành hằng ngày đều
có người đến tỏ ḷng tôn kính. Thiệu Khang Tiết
xuất du, dân chúng không ai là chẳng vội vă tranh nhau
đón tiếp. Người đă ưa thích [dường ấy],
có thể biết là ḷng trời cảm cách dường nào.
Nếu họ thật sự chẳng có điểm đáng
kính, làm sao có thể khiến cho người khác cảm
động dường ấy? Những
vị ấy lúc sống sẽ làm bậc Tể Tướng
hoặc thầy [của mọi người], khuất núi sẽ
thành bậc thần minh vậy.
Thiên đạo chẳng thiên
vị yêu thương riêng một ai, nhưng thường
thuận theo bậc thiện nhân. Chẳng nói mà ứng hợp
hay khéo, chẳng chuốc vời mà tự đến. Ta thật
sự dùng ḷng thành cảm thông, sẽ chẳng bao giờ
không được gia hộ vậy. Chỉ nên trọn hết
bổn phận làm người, ḷng thành chẳng gián đoạn.
Do vậy, rốt cuộc sẽ cảm động ḷng trời.
Kinh Cứu Kiếp có câu: “Nhất
tâm như thử, thính mạng ư thiên” (Một dạ
như thế, nghe theo mạng trời). Có thể thấy
là [thiện nhân làm lành] chẳng có mảy may ư niệm mong cầu,
trông ngóng!
Đời Tống, Châu Tử
nói: “Trời đất chẳng làm một điều ǵ,
chỉ lấy sinh vật làm tâm, kẻ nào trong bất cứ niệm nào cũng đều có ư niệm lợi lạc,
cứu giúp [người khác] th́ sẽ [có cái tâm giống hệt
như] trời đất. Kẻ phù hợp ḷng trời, lẽ
nào trời chẳng ban phước cho?”
Đời Tống, Lưu An
Thế dâng sớ thẳng thừng biện định những
kẻ tà chánh trong đám triều thần. Ông lại luận
định Chương Đôn là hạng tiểu nhân chẳng
thể dùng được. Đến khi Chương
Đôn nắm quyền, ông bị đày đi xa, trải qua nhiều chỗ thuộc vùng núi non, biển cả,
lênh đênh nhiều nơi. Người ta cho rằng ông ắt
phải chết, nhưng rốt cuộc ông chẳng sao. Tuổi
đă tám mươi, ông chưa hề bị bệnh ngày
nào. Trong khi ông bị biếm trích, có kẻ toan lấy ḷng
Chương Đôn, xin giết ông. Tới khi gă đó rong ruổi
đến chỗ ông, toan ra tay, bỗng như bị vật
ǵ đánh trúng, hộc máu chết tươi!
Đường Tử Dư
từ đất Thục (Tứ Xuyên) đưa linh cữu
của cha về Cát Thủy. Khi ấy, nhằm tiết Thu,
nước sông hồ dâng cao, khe Cù Đường[15]
nước chảy càng xiết. Trời đổ
mưa, nhà thuyền kinh hoảng. Tử Dư ngửa mặt
lên trời khóc lớn, mới khóc gào một tiếng,
nước đă rút hơn hai mươi trượng. Thuyền
đi qua, nước lại dâng lên như cũ. Trung hiếu
đứng đầu các đức, cho nên đạo trời
che chở dường ấy. Ở
đây, nêu lên hai câu chuyện này, [nhằm chứng tỏ]
con người chuyện ǵ cũng có thể cảm thông cơi trời, chuyện ǵ cũng đều
được trời cao che chở, bảo vệ vậy!
Bậc thánh hiền quân tử lời nói tốt lành, hành vi tốt lành, chiêu cảm
ḥa khí, tự nhiên những điều tốt lành ứng hợp.
Kinh Thi có câu: “Lạc chỉ
quân tử, phước lộc thân chi” (Vui thay bậc
quân tử, phước lộc do đó mà sanh) chính là nói về
chuyện này vậy.
Đời Đường,
Quách Tử Nghi khôi phục hai kinh đô[16],
công che lấp cả triều đ́nh nhà Đường.
Ông dốc sức lo liệu cho sự an nguy của thiên hạ
suốt ba mươi năm. Ông làm Trung Thư Lệnh, khảo
hạch [bá quan] suốt hai mươi bốn năm. Phú,
quư, trường thọ, con cháu vinh hiển, xưa nay rất
hiếm người sánh bằng. Ông Quách
được hưởng phước lộc trọng hậu
là v́ công lao to lớn, đức hạnh cao tột, chứ
chẳng phải là do may mắn mà được như thế.
Người làm lành hăy nên suy nghĩ!
Đời Minh, Trịnh Chiếu
ở Phượng Dương hằng ngày chú trọng làm lợi
cho người khác. Một đêm mộng tới chỗ
Thiên Phủ[17], thấy
thần bày sẵn ngôi vị trống chờ đợi, bảo:
“Ông vốn nghèo hèn, do làm lành, nên sai hai vị thần phước
lộc đi theo ông. Mai sau sẽ ngự nơi địa
vị này”. Trịnh Chiếu tỉnh giấc, thiện niệm
càng thêm vững chắc, thanh danh càng rạng ngời. Đi
đến đâu, tiền bạc cũng rủng rỉnh.
Tới chỗ nào, phước lộc cũng theo sát bên
thân. Cháu con phú quư, hưng thịnh, nhận lănh chức vị
cao sang, bổng lộc trọng hậu cho đến lúc mất.
Về sau, quả nhiên thoát xác, chứng quả vị Tịnh
Dục Chân Nhân.
Nhan Uyên chết yểu
nơi ngơ hẹp. Di Tề[18]
chết đói nơi Thủ Dương. Nguyên Hiến nghèo
nàn, Phạm Bàng bị hành h́nh[19],
chính là những vị tu đức, nhưng kém phước
lộc. Bậc thiện đức ở chỗ nào, nơi
đó mặt trời, mặt trăng tranh nhau tỏa sáng,
phước lộc tầm thường chẳng thể
sánh bằng. Hăy nên biết đó là đạo lư của những
bậc v́ nghĩa mà xả thân.
Tà và chánh chẳng thể cùng
tồn tại. Hễ chánh tới, tà chẳng thể tự
dung. Ví như vầng thái dương vừa mọc, ắt
băng tuyết tự tiêu tan. Lư Cát Phủ nói: “Thần
thánh chuộng chánh trực. Người vâng giữ lẽ
chánh trực, ắt thần sẽ phù trợ. Yêu ma chẳng
thể thắng nổi bậc đức hạnh. Hễ
thất đức, ắt yêu ma lẫy lừng, đó là lẽ
tự nhiên”.
Đời Minh, Cảnh Thanh
đi thi Hội, đi qua huyện Thuần Hóa. Chủ nhà
có một đứa con gái bị yêu quái dựa thân. Ông nghỉ
đêm tại nhà ấy; đêm đó, yêu quái không tới. Cảnh
Thanh đi rồi, nó lại ṃ tới. Cô gái hỏi nguyên do,
[yêu quái trả lời]: “Tránh né ông tú tài họ Cảnh”. Cô
ta bèn kể với cha. Cha cô ta đuổi theo Cảnh Thanh,
[kể rơ đầu đuôi], Cảnh Thanh bèn viết bốn
chữ “Cảnh Thanh ở
đây”, bảo hăy dán lên cửa, nạn yêu quái chấm dứt.
Cảnh Thanh hết sức trung liệt, cho đến nay vẫn
được người ta ngưỡng mộ.
Thứ đầy ắp
trong ṿng trời đất chính là Khí (chánh khí). Nếu chánh
khí chẳng thiếu khuyết, do sự chánh đại
quang minh được lưu hành, yêu ma quỷ quái chẳng
dám xâm nhiễu. V́ thế, bậc quân tử có cái học “dưỡng khí” (nuôi dưỡng
chánh khí). Dưỡng khí cốt yếu là trị tâm. Dốc
sức giữ cho cái tâm thanh tịnh, quang minh, giữ ḷng chân
thành, tâm sẽ an định, ắt yêu ma quỷ quái chẳng
thể xen lẫn vào được. Nếu ḷng người
tối tăm, mê muội, chẳng cần hỏi tà từ
đâu đến, trong tâm đă có sẵn tà quái tụ tập
rồi, há có thể nào khiến cho [yêu ma quỷ quái] vừa trông thấy bèn khuất phục ư?
Thần và người cùng một
lư. Ai được mọi người kính trọng th́ thần
cũng gia hộ. Đó gọi là “đạo đức đă cao trọng, quỷ thần
đều khâm phục”.
Đời Tống, Hàn Kỳ
từ Thành Đức chuyển sang trấn nhậm Trung
Sơn. Đi đến Sa Hà, bỗng những người
đi đầu trở lại thưa: “Nước lũ
sắp tràn tới”. Ông vội truyền chuẩn bị thuyền
để vượt sông. Quả nhiên sóng to như núi. Thuyền
sắp ch́m, những người đi theo đều hết
sức kinh hoảng. Bỗng có một con rồng thần từ
đầu nguồn chắn ngang ḍng nước, nước
bèn lặng êm. Thuyền qua sông rồi rồng mới rời
đi, nước bèn dâng tràn ồ ạt như cũ.
Đời Minh, ông Kim ở Nghi
Trưng mở tiệm cầm đồ. Đầu niên hiệu
Gia Tĩnh, bọn cướp sông cướp bóc gần hết
những nhà giàu có, chỉ riêng họ Kim là không sao. Quan trên
ngờ ông ngầm qua lại với lũ cướp.
Đến khi bắt được kẻ cướp, tra
hỏi nguyên nhân, bọn cướp thưa: “Đă vài lần
đến cướp, đều bị thần kim giáp xua
đuổi”. Quan chưa tin, gọi những hàng xóm ông Kim
đến ḍ hỏi, họ đều nói: “Ông Kim thật sự
tích đức, các tiệm cầm đồ thường
là trả tiền cho khách cầm đồ th́ ít, đ̣i tiền
chuộc nặng nề. Chỉ riêng tiệm ông ta là cho cầm
và chuộc lại công b́nh, ước định giá trị
của món đồ đem cầm rất rộng răi, định
kỳ hạn chuộc lại dài hơn. Lại c̣n hỏi
thăm, nếu là người già, nghèo khổ, sẽ phá lệ không tính tiền lời. Lại
c̣n vào mùa Đông th́ không tính tiền lời đối với
áo ấm. Mùa Hè th́ không tính tiền lời đối với
áo mùa Hè. Hằng năm đều làm như vậy. Trời
che chở người lành, sai thần đến ủng hộ,
đối với lư ấy, há có ngờ chi?” Quan bèn khen ngợi
ông Kim, tâu lên triều đ́nh xin khen thưởng.
Vu Thiết Tiều nói:
- Trong phần đầu là
nói đến họa ác. Trong phần trước đă nói “nhân giai ố chi” (mọi
người đều ghét), nay nói đến phước
thiện, bèn trước hết là nói “nhân giai kính chi” (mọi người đều kính).
Bởi lẽ, những chuyện như ác tinh gieo tai họa,
thần linh hộ vệ, có lẽ nhất thời chưa
trông thấy, mà chuyện [mọi người] đều kính trọng hay đều ghét bỏ
chính là những điều báo trước có thể coi
như là chứng cớ vậy. Kẻ có tâm học đạo
hăy thường phản tỉnh, tự suy xét: “Nếu
người kính trọng ta nhiều, sẽ biết thần
linh ủng hộ, bảo vệ đông đảo. Nếu
kẻ ghét ta nhiều, sẽ biết ác tinh chói ngời trên
đỉnh đầu!” Ḷng người chính là
ư trời, chẳng cần phải t́m ṭi từ chỗ chẳng
thấy, chẳng nghe!
(Chánh văn) Sở tác tất
thành, thần tiên khả kư.
(正文)所作必成。神仙可冀。
(Chánh văn: Việc làm ắt
thành, có thể trở thành thần tiên).
Thế gian chẳng có chuyện
ǵ không thành, thiên hạ đều là người có thể
thực hiện. Chỉ dùng tâm chân thật để làm lành, ắt việc người đă
hợp ḷng trời, ư trời há có trái nghịch ước
nguyện của con người ư? Tự nhiên ngấm
ngầm giúp đỡ, không ǵ chẳng thực hiện suông
sẻ, không ǵ chẳng làm thành công!
Ông Vu Ngọc Bệ nói:
- Kinh Di Giáo[20]
dạy: “Túng thử tâm giả,
táng nhân thiện sự. Chế chi nhất xứ, vô sự
bất thành” (Buông lung cái tâm
này, sẽ làm hỏng thiện sự của con người.
Chế ngự tâm vào một chỗ, không chuyện ǵ chẳng
thành tựu). Lại nói: “Nhữ
đẳng tỳ-kheo, đương cần tinh tấn, tắc
sự vô nan giả. Thí như tiểu thủy trường
lưu, tắc năng xuyên thạch. Nhược hành giả
chi tâm, sổ sổ giải phế, thí như toản hỏa,
vị nhiệt nhi tức. Tuy dục đắc hỏa, hỏa
nan khả đắc” (Hàng tỳ-kheo các ông hăy nên siêng
năng, tinh tấn, th́ mọi chuyện sẽ chẳng khó
khăn. Ví như ḍng nước nhỏ mà cứ chảy
măi, sẽ có thể xoi thủng đá. Nếu tâm hành giả
nhiều lượt biếng nhác, bỏ lửng, sẽ giống
như dùi gỗ lấy lửa, gỗ chưa nóng mà đă
ngưng, tuy muốn được lửa, khó thể có
được lửa).
Kinh Xuất Diệu[21]
nói: “Trí giả dĩ huệ luyện
tâm, tầm cứu chư cấu. Thí như khoáng thiết, nhập
hỏa bách luyện, tắc thành tinh kim. Hựu như đại
hải, nhật dạ phất động,
tắc sanh đại bảo. Nhân diệc như thị,
trú dạ dịch tâm bất chỉ, tiện hoạch quả
chứng” (Bậc trí dùng huệ để
luyện tâm, t́m ṭi đến cùng tột [căn nguyên của]
các phiền năo. Ví như quặng sắt, bỏ vào lửa
nung trăm lần, sẽ thành thép ṛng. Lại như biển
cả, đêm ngày luôn nổi sóng, sẽ sanh ra vật báu quư
giá. Người cũng giống như vậy, ngày đêm rèn
luyện cái tâm chẳng ngừng th́ sẽ chứng quả).
Kinh Tứ Thập Nhị
Chương nói: “Phù vi đạo
giả, thí như nhất nhân dữ vạn nhân địch.
Quải khải xuất môn, ư hoặc khiếp nhược,
hoặc bán lộ nhi thoái, hoặc cách đấu nhi tử,
hoặc đắc thắng nhi hoàn. Sa-môn học đạo,
ưng đương kiên tŕ kỳ tâm, tinh tấn dũng
nhuệ, bất úy tiền cảnh, phá diệt chúng ma, nhi
đắc đạo quả” (Phàm là kẻ
tu đạo, ví như một người đối địch
với vạn người. Khoác áo giáp ra khỏi cửa, nếu có ḷng khiếp sợ, hoặc nửa
đường quay về, hoặc dốc hết sức
chiến đấu cho đến chết, hoặc đắc
thắng quay về. Sa-môn học đạo, hăy nên giữ vững
tấm ḷng, tinh tấn, dũng mănh, bén nhạy, chẳng sợ
tiền cảnh, phá diệt các loài ma, bèn đắc đạo
quả).
Đời Nguyên, tổ
sư Thiên Mục Sơn Trung Phong đă nói:
- Tôi nhớ nhà Nho có bài
thơ khuyên học như sau: “Kích
thạch năi hữu hỏa, bất kích nguyên vô yên. Nhân học
thỉ tri đạo, bất học phi tự nhiên” (Đập
đá bèn xẹt lửa. Chẳng đập, khói chẳng
sanh. Người học mới biết đạo, chẳng
học chẳng tự nhiên). Đấy là nói trong đá vốn
có lửa, chẳng dùng trí xảo để va quẹt, dẫn
khởi, sẽ trọn chẳng thể gặp
gỡ được. Người hiện thời chỉ
biết trong đá có lửa, chẳng bỏ ra nửa
điểm công sức trí xảo để va đập,
suốt ngày chỉ trỏ ḥn đá lạnh ngắt ấy mà
nói đến tác dụng của lửa. Nói cho đến nỗi “mắt rơi
xuống đất” (đến chết), vẫn là một khối đá trơ trơ
như trước, muốn t́m một tí tác dụng của
lửa, trọn chẳng thể được! Đấy là kẻ chẳng chịu dốc hết một
ḷng thực hiện công phu vậy. Lại có một hạng
người nghe nói trong đá có lửa, bèn đập nát
đá. Do muốn lấy được lửa,
bèn đập đá nát bét thành bụi, trọn chẳng được
lửa. Chẳng tự trách [chính ḿnh] không dùng trí xảo
để có được lửa, lại đến nỗi
chẳng tin trong đá thật sự có chân hỏa! Đấy
là hạng phàm phu không tin “tự
tâm thành Phật”.
Người thời nay nếu muốn hoàn thành chuyện
này, trước hết, hăy lấy tín căn làm đá, kế
đó, đề khởi đơn độc một câu
thoại đầu để làm cái tay quẹt đá. Lại
dùng chí nguyện kiên cố chẳng thoái chuyển làm sắt.
Quẹt con dao lấy lửa ấy, dùng sức chuyên ṛng, siêng
năng, dũng mănh, suốt ngày vận dụng trong động
tĩnh để gơ quẹt sao cho chẳng gián đoạn.
Lại dùng chủng tánh Bát Nhă làm cỏ khô, bỗng dưng nương
nhau thành tựu, nẩy sanh một đốm lửa nho nhỏ,
chiếu thấu trời đất. Đấy gọi là “trí xảo”.
Đời Minh, Liên Tŕ đại
sư nói:
- Bất cứ kỹ
năng hay nghề nghiệp nào trong thế gian, lúc mới học
sẽ khó khăn khôn ngằn, dường như là muôn phần
chẳng thể thành được. Do vậy, bèn bỏ
đó, chẳng học, sẽ trọn chẳng thể thành
được! V́ thế, quư ở chỗ thuở đầu
có cái tâm quyết định chẳng nghi. Tuy là quyết
định, mà lần khân, tŕ hoăn, cũng sẽ chẳng thành.
V́ thế, tiếp đó là quư ở chỗ cái tâm tinh tấn
dũng mănh. Dẫu tinh tấn, nhưng được chút
ít đă cho là đủ, hoặc lâu ngày bèn mệt mỏi,
hoặc gặp thuận cảnh bèn mê, hoặc gặp nghịch
cảnh bèn đọa, th́ cũng chẳng thành. V́ thế, kế
đó, quư ở chỗ có cái tâm kiên quyết, luôn giữ vững,
chẳng thoái chuyển. Như vậy th́ sẽ được
gọi là bậc trượng phu thật sự hữu tâm.
Giữ tấm ḷng như thế, có chuyện ǵ chẳng làm
được, há chẳng nên gắng sức ư?
Thái Thượng là tổ của
Đạo gia, cho nên chuyên nói đến chuyện cầu
thành tiên. Mạnh Tử nói: “Nhân
giai khả dĩ vi Nghiêu Thuấn” (Ai cũng đều
có thể thành Nghiêu, Thuấn). Lục Tổ của Thiền
Tông Chấn Đán (Trung Hoa) đă nói: “Đản dụng thử tâm, trực liễu
thành Phật” (chỉ dùng cái tâm này mà thẳng thừng thành Phật).
Thánh nhân của tam giáo dẫu nói như thế nào, cũng đều là phù hợp khít khao. Do đă có
thể thành tiên, vậy th́ có thể thành Phật, có thể
làm Nghiêu, Thuấn, huống hồ công danh, phú quư trong cơi
đời, sống lâu, con cái, lẽ nào chẳng thể cầu
được ư? Cũng đều là tùy thuộc
người ấy làm như thế nào đó thôi!
Đời Hán, Chung Ly[22]
nói: “Tiên cầu người c̣n hơn người cầu
tiên!” Lữ Tổ nói: “Người đời thường
hận chẳng được thấy ta. Tuy hằng ngày
thấy ta, mà không thể làm theo lời ta, có ích ǵ đâu?”
Có thể thấy người và tiên, tánh thật sự vốn
là một! Chỉ v́ để t́nh cảm chi phối quá mức
mà đánh mất lẽ chân. Một mai quay lại lẽ
chân, t́nh thức lẫn trần lao đều hết sạch,
sẽ chính là thần tiên. Huống hồ lại c̣n có thể
dùng thiện hạnh để giúp sức thêm ư?
Kinh Thai Tức[23]
nói: “Thánh thai do sự điều
phục hơi thở mà kết thành, chân khí do từ hơi thở đă tĩnh định như
hơi thở của thai nhi. Chân khí tiến nhập thân thể
th́ là sanh. Thần ĺa khỏi h́nh hài th́ là tử. Hiểu
biết Thần và Khí th́ có thể trường sanh. V́ thế,
phải giữ cho cái tâm hư vô, nhằm nuôi dưỡng Thần
và Khí. Thần thông suốt th́ Khí sẽ thông suốt. Thần
bị bế tắc th́ Khí cũng bị bế tắc. Nếu
muốn trường sanh, th́ Thần và Khí phải tưới rót lẫn nhau. Tâm chẳng dấy động ư niệm,
chẳng đến, chẳng đi, chẳng xuất, chẳng
nhập. Siêng năng thực hành như thế, đấy
chính là đường lối của chân đạo vậy”.
Đời Tống, Lư Đoan
Nguyện hỏi thiền sư Đạt Quán: “Rốt cuộc
thiên đường và địa ngục là có hay không?”
Sư đáp: “Chư Phật từ trong Vô mà nói Hữu, [giống
như người bị mắt nhặm] mà thấy hoa
đốm trên hư không. Thái Úy[24]
từ trong Hữu t́m Vô, [giống như] lấy tay ṃ
trăng trong nước. Nực cười thay, trước
mắt thấy lao ngục mà chẳng tránh[25],
ngoài tâm nghe nói có thiên đường bèn muốn sanh về!
Chẳng biết vui thích hay sợ hăi đều ở trong
tâm, do thiện hay ác mà trở thành cảnh. Chỉ cần
Thái Úy liễu giải tự tâm, tự nhiên sẽ chẳng
c̣n mê hoặc nữa!”
Kẻ cầu tiên thời cổ,
có tấm ḷng trung như Tử Pḥng (Trương
Lương), có ḷng hiếu thảo như Ngô Mănh.
Vương Tiến Hiền chẳng đánh mất tiết
hạnh của phụ nữ, Lan Kỳ ḥa thuận với
anh em, Lưu Dực chịu thua thiệt, phân chia tài sản
cho kẻ khác, Triệu Tố Đài giúp đỡ người
nghèo, giúp người khác lo liệu ma chay, Hứa Chân Quân
thí nước phù chú [để chữa bệnh], Nghiêm Quân B́nh
dùng điều thiện hướng dẫn người
khác, Châu Bá Tŕ chôn cất thi hài, Lư Ngũ Lang chẳng lừa
dối khi đong gạo thóc, Trần An Thế chẳng giết
hại sanh mạng loài vật, Lư Hề Tử cứu vớt
những loài chim đói, Dương Kính Trực hễ rảnh
rang bèn tĩnh tọa, Đường Nhược Sơn
tánh chẳng nóng giận. Cho đến Hoàng Vạn Hựu
rất ít lỗi lầm, Cảnh Tướng rất thích
phóng sanh, Lưu B́nh A vốn là một thầy thuốc, Ngô Mục
vốn là một huyện lại, Lưu Nghiên vốn là kỹ
nữ, Bào Tịnh vốn là một chủ quán, Hạ Sanh vốn
là một gă đồ tể, Đinh Ước vốn là một
gă lính quèn, Châu Đồn vốn là một gă trộm cướp,
Lư Chánh Nguyên vốn là thợ săn. Những người ấy
đều do tích lũy công hạnh mà được thành
tiên.
Những người cầu
thành tiên hiện thời, như ông Triều Hồi làm Tịnh
Cư Thiên Chủ, ông Chương Văn Khởi làm Tư Mạng
Chân Quân, Vương Tố làm Thị Lang ở Ngọc Kinh[26],
Lữ Hối giữ chức Tư Củ cho Thượng
Đế, Hàn Kỳ làm chủ nhân tử phủ[27],
Phú Bật cai quản Côn Đài[28],
Vương Tẩu chưởng quản bánh xe sắt của
Dực Thánh [Bảo Đức Chân Quân], Kim Tam làm Phong Bá (thần gió) của Hựu Thánh (Bắc Cực Chân Vũ Đại Đế), Trương Hiếu
Cơ làm chủ Tung sơn, Đậu Vũ Quân làm Động
Thiên Chân Nhân, cho đến Âu Dương Tu làm chủ động
Thần Thanh, Vương An Quốc làm chủ cung Linh Chi, Lữ
Trăn làm chủ Quần Ngọc, Thạch Diên Niên làm chủ
thành Phù Dung, Trần Tĩnh giữ chức Tư Trực, Điền
Thừa Quân cai quản Duy Dương (làm thành hoàng của
Dương Châu). Những vị này cũng do tích lũy công
hạnh mà được thành tiên. Theo như kinh sách Đạo
gia ghi chép, Trung Nguyên Nhị Phẩm[29]
ngự trong Tả Động Dương Cung, cai quản
đất đai, cửu hoàng[30],
sơn thần, tứ duy, bát cực[31],
thống lănh liêu thuộc (quan lại) trong giới thần
tiên đến chín vạn chín ngàn chín
mươi chín vạn (99.099.000) người. Những người ấy
đều là những bậc có công hạnh đối với
cơi đời, được hóa độ, tiến nhập
[tiên giới], được bổ
vào những chức vị ấy.
Lại như Hà Hy Chí do chú giải
kinh Kim Cang có ích cho cơi đời, chết đi làm quan kiểm
điểm lịch số cho thần Tây Nhạc. Tuy chỉ là
một chức quan ở nhạc phủ, nhưng cũng là
người đắc độ. Đấy chính là người
do làm lành mà có hy vọng được thành thần tiên vậy.
Từ xưa tới nay, đă có hơn mười vạn
người thành tiên, cả nhà được thành tiên th́
hơn tám mươi nhà. V́ thế nói: “Chớ bảo thần tiên không chỗ học,
xưa nay bao kẻ đă đăng tiên”. Người thời
nay tu hành chẳng chân thật, bèn bảo “trong cơi đời
chẳng có thần tiên”. Chuyện này giống như những kẻ ra rả “tuân theo pháp
tắc của Khổng Mạnh”,
nhưng không thể thực hành những giáo huấn ấy,
bèn bảo “cơi đời chẳng có thánh hiền”, có nên hay
chăng?
Sách Tánh Mạng Khuê Chỉ[32]
chép:
- Muốn tu trường
sanh, cần phải nhận biết cái gốc của sự
sanh. Muốn cầu bất tử, phải nên hiểu rơ ai
là người bất tử. “Người
bất tử” chính là chân tâm vốn thường trụ
của chúng ta. Cái tâm ấy linh thông, chẳng tăm tối,
thường biết rơ rành rành, chẳng đến, chẳng
đi, bất sanh, bất diệt. Hiềm rằng người
đời chẳng ngộ! Từ vô thỉ đến nay,
do mê mất chân tâm, cho nên phải bị luân chuyển,
oan uổng vào trong các đường. Chân tâm vốn chẳng
vọng, tánh trí vốn sáng suốt, mầu nhiệm,
tĩnh lặng, vốn tinh ṛng, do vọng chợt dấy
lên, bỗng dưng tăm tối, đánh mất sự tinh
ṛng sáng suốt vốn sẵn có, chấp trước sâu
đậm nơi kiến giải. V́ thế, chuyển
trí thành thức, tạo thành vọng tâm nơi thân, gọi
là Thức. Tâm vốn vô tri, do thức mà có tri (hay biết). Tánh
vốn vô sanh, do thức mà có sanh. Chủng tử của
sanh thân nẩy mầm từ đó, nở hoa hữu lậu,
kết quả sanh tử. Người thời nay lầm nhận
trong tâm có một vật sáng ngời, linh thông, hoàn toàn có cùng
một Thể với muôn vật, cho là nguyên thần ở
ngay nơi đó, chẳng biết thứ như thế
chính là thức thần sanh sanh tử tử, là chủng tử
để luân hồi bao kiếp dài lâu! V́ thế nói: “Người học đạo
chẳng biết lẽ chân, chỉ v́ từ trước
đă cho rằng thần thức [chính là chân tâm]. Đó là cái gốc để sanh tử
từ vô lượng kiếp đến nay”. Kẻ si gọi [thần thức] là thứ con
người vốn sẵn có (chân tâm, bản lai diện mục).
Vua Dị Kiến[33]
hỏi tôn giả Ba La Đề: “Phật là như thế
nào?” Đáp: “Kiến tánh là Phật”. Vua nói: “Thầy có kiến
tánh hay chưa?” Đáp: “Ta thấy Phật Tánh”. Vua hỏi:
“Tánh ở nơi đâu?” Đáp: “Tánh ở nơi tác dụng”.
Hỏi: “Là tác dụng
nào?” Ngài Ba La Đề liền nói kệ rằng: “Ở
thai là thân, nơi đời là người. Ở mắt là
thấy, ở tai là nghe, ở mũi ngửi hương.
Nơi miệng đàm luận. Nơi tay nắm bắt. Ở
chân đi lại. Biến hiện bao trùm trọn khắp
pháp giới, hễ thâu nhiếp th́ [nằm gọn] trong một
vi trần. Người biết gọi là Phật Tánh, không
biết bèn gọi là tinh hồn (精魂)”.
V́ thế, đức Thế
Tôn dạy mọi người trước hết hăy đoạn
căn bản của vô thỉ luân hồi, chính là v́ ư này. Cái gốc ấy đă
đoạn th́ các thức chẳng có chỗ nào để
nương tựa, khôi phục cái bản thể nguyên
sơ chân thường của ta. Đó gọi là chân
tĩnh diệu minh, rỗng rang, nhạy bén, thông triệt,
rạng ngời, tồn tại duy nhất. Hễ trái nghịch
nó th́ là phàm phu, thuận theo nó th́ sẽ là thánh. Mê th́ sanh tử
khởi đầu, ngộ th́ luân hồi chấm dứt.
Muốn dứt luân hồi, không ǵ bằng vận dụng
Chỉ và Quán. Cần phải lúc nào cũng giữ lúc thất
t́nh chưa phát động, niệm nào cũng giữ vẹn cái Thể chưa bị nhuốm bẩn của tám
thức. Thần quang vừa lộ, lập tức thâu hồi,
chớ để cho nó chiếu bừa băi trong khoảng
sát-na. Bậc tiên nhân thời cổ nói: “Đại đạo dạy mọi người
trước hết hăy dứt niệm, ư niệm chẳng
trụ cũng uổng công”. Kinh Viên Giác dạy: “Trong hết thảy các thời, chẳng dấy vọng niệm. Đối
với các vọng tâm, cũng chẳng ngưng dứt. Trụ
nơi cảnh vọng tưởng, chẳng thêm vào sự
hiểu biết rành rẽ. Đối với cái chẳng
hiểu biết rành rẽ, chẳng biện định
chân thật”.
Khởi Tín Luận nói: “Nếu tâm rong ruổi, tán loạn,
liền thâu nhiếp, khiến cho nó trụ nơi chánh niệm.
Hễ niệm dấy lên bèn giác. Hễ giác, nó sẽ chẳng
c̣n nữa. Diệu môn trong tu hành chỉ nằm ở chỗ
này. Hăy nên biết vọng niệm dấy từ thức
căn, duyên vào cảnh mà thành vọng, chẳng thật sự
có cái Thể. Khi ở nơi chúng sanh th́ trí kém cỏi, thức
mạnh mẽ, chỉ gọi là Thức.
Lúc ở nơi địa vị Phật, trí mạnh, thức
kém, nên chỉ gọi là Trí. Chỉ là thay đổi tên gọi,
chẳng chuyển cái Thể. Nguồn tâm ban sơ rỗng rang, mầu nhiệm,
lặng trong, do từ [tác dụng] hay biết [sẵn có
trong tự tánh mà hư vọng] lập ra một cái tri kiến
nữa, vọng trần bèn sanh khởi. V́ thế có vọng
niệm. Nếu chẳng thấy có tri kiến, trí tánh sẽ
thanh tịnh, khôi phục sự mầu nhiệm, lặng
trong, ư niệm tan lẫn. Một căn đă trở lại
nguồn, sáu căn đều thành giải thoát. Đă không
có căn, trần, lục thức, sẽ không có chủng tử
luân hồi. Nhất điểm chân tâm độc lập,
không nương tựa, muôn kiếp thường tồn tại,
vĩnh viễn chẳng có sanh diệt”.
Pháp này chỉ thẳng tâm người, một
điều đă giải quyết xong, trăm pháp đều
thỏa đáng. Đấy chính là bí quyết mầu nhiệm
để thành Phật, thành tiên vậy. Muốn cầu
trường sanh, hăy nên tham cứu từ chỗ này!
(Chánh văn) Dục cầu thiên
tiên giả, đương lập nhất thiên tam bách thiện.
Dục cầu địa tiên giả, đương lập
tam bách thiện.
(正文)欲求天仙者。當立一千三百善。欲求地仙者。當立三百善。
(Chánh văn: Muốn cầu
thành thiên tiên, hăy nên lập một ngàn ba trăm điều
thiện. Muốn cầu thành địa tiên, hăy nên lập
ba trăm điều thiện).
Đoạn này nhằm tổng
kết đoạn văn trước đó, nhằm nói “làm lành chính là đường lối
để thành tiên”. “Lập”
(立) là tích lũy. Nói một ngàn, hoặc nói ba trăm
nhằm lập định số mục, kỳ hạn,
quyết định ắt phải thành, chẳng sanh ḷng
thoái chuyển.
Thiên tiên và địa tiên sai
khác là do tạo lập điều thiện nhiều hay ít
sai khác. Trong thiên sách này đă tự nói, xin hăy dùng cách nói “đầu sào trăm thước,
lại tiến thêm một bước nữa” để
luận định, ngơ hầu người đă được
thành tiên chẳng c̣n đọa lạc, một mực siêu
thăng. Người chưa được thành tiên, chẳng
cần phải cậy nhờ chi khác, mà liền đạt
được. Theo như kinh Lăng Nghiêm đă dạy, tiên
có mười loại:
1) Một là do mong thân thể
kiên cố, mà ăn các loại thuốc trường sanh, tức
là do ăn uống [dược vật] mà được viên
thành, gọi là Địa Hành Tiên.
2) Hai là người do mong
kiên cố thân thể, bèn ăn thảo mộc, tức là do
ăn uống dược thảo mà được viên
thành, gọi là Phi Hành Tiên.
3) Ba là kẻ do mong kiên cố
thân thể mà ăn các loại kim đan, tức là do biến
hóa mà viên thành, gọi là Du Hành Tiên.
4) Bốn là kẻ do mong kiên
cố mà tập luyện các động tác, tức là do Khí
và Tinh mà viên thành, gọi là Không Hành Tiên.
5) Năm là kẻ do mong kiên cố
cái tâm mà ǵn giữ các loại tân dịch[34],
tức là do thấm nhuần mà viên thành, gọi là Thiên Hành
Tiên.
6) Sáu là kẻ do mong kiên cố
cái tâm mà hấp thụ tinh hoa của nhật nguyệt, tức
là do hấp thụ tinh túy mà viên thành, gọi là Thông Hành Tiên.
7) Bảy là kẻ do mong kiên
cố cái tâm, bèn tŕ chú thuật, tức là do pháp thuật mà
được viên thành, gọi là Đạo Hành Tiên.
8) Tám là kẻ do mong kiên cố
cái tâm bèn trầm tư tĩnh niệm, tức là do suy
tưởng, nghĩ nhớ mà viên thành th́ gọi là Chiếu
Hành Tiên.
9) Chín là do mong kiên cố cái
tâm, mà hành phép giao cấu, tức là do cảm ứng mà viên
thành, gọi là Tinh Hành Tiên.
10) Mười là do kiên cố
cái tâm mà hành các pháp biến hóa, tức là do giác ngộ mà viên
thành, th́ gọi là Tuyệt Hành Tiên[35].
Lại nói:
- Những loại ấy
đều chẳng nương vào Chánh Giác, tu tập theo những
thứ vọng niệm khác, giữ tâm tưởng mong thân
thể được bền vững, dạo chơi
nơi núi rừng, hoặc những chỗ không ai lui tới,
thọ ngàn vạn năm. Đấy cũng là luân hồi,
do vọng tưởng lưu chuyển. Khi báo hết, sẽ
trở lại [đầu thai] vào trong các đường.
Chung Ly [Quyền] nói:
- Tiên có năm loại:
1) Một là chẳng ngộ
đại đạo, chỉ mong chóng được thành
tựu, tâm như tro tàn, thần thức thâu liễm vào bên trong,
trong Định đă có thể xuất hồn, đến
cuối cùng chỉ thành loài quỷ thanh hư, nên gọi là
Quỷ Tiên.
2) Hai là tạm ở trong loài
người được nghe đại đạo,
nhưng nghiệp nặng, phước nhẹ, kiên tŕ giữ
măi tà niệm thiên lệch, không thay đổi, dứt bỏ
ngũ muội[36],
chẳng biết có lục khí[37]
[để điều ḥa], tuy quên mất bảy món t́nh cảm,
chẳng biết có mười giới. Tuy hành pháp thổ nạp
(hít thở theo phương pháp chuyên biệt của Đạo
gia) lại chê cười pháp thổ nạp là sai, mê đắm
cách thái âm bổ dương[38],
quở người thanh tịnh là ngu ngốc. Ngồi một
ḿnh nín thở, nhịn ăn, không ăn ngũ cốc, chẳng
hiểu vô vi, chỉ có thể sống lâu, an lạc mà thôi.
Đó gọi là Nhân Tiên.
3) Ba là phỏng theo lư
thăng giáng trong trời đất, tuân theo đạo lư
giao cảm của mặt trời và mặt trăng. Đối
với thân thể, dựa theo năm tháng, mỗi ngày dựa
theo thời khắc [để tu luyện tương ứng], hiểu
biết cách phối ứng long hổ với Khảm Ly[39],
thâu hồi Chân Nhất, tách biệt ngũ hành, định
lục khí[40], tuân
theo bát quái, điên đảo cửu châu[41],
tam điền[42]
đắp đổi, luyện thành đan dược, trường
sanh bất tử th́ gọi là Địa Tiên.
4) Bốn là kẻ đă đắc
Địa Tiên bèn rèn luyện thân thể để sống
măi trong cơi đời, tích lũy thành công, siêu phàm nhập
thánh, qua lại tam sơn[43],
gọi là Thần Tiên.
5) Năm là đă đắc thần
tiên, truyền đạo trong cơi đời, có công với
đạo, có đức hạnh trong nhân gian. Công hạnh
tṛn đủ, siêu thăng Động Thiên[44],
nhưng lại nhập trong cảnh hư vô tự nhiên th́
gọi là Thiên Tiên.
Đáp lời hỏi về
đại đạo bèn nói:
- Trong muôn vật, linh quư nhất
là con người. Nếu có thể thấu hiểu tận
cùng đạo lư trong muôn vật, thấu hiểu tột
cùng tánh của chính ḿnh, cùng lư tận tánh. Cho đến
đối với mạng bèn bảo toàn sanh mạng sao cho
hợp với đạo, tự nhiên sẽ kiên cố bằng
với trời đất, tồn tại lâu dài giống
như vậy. Như vậy th́ gọi là Chánh Giác, hoặc
gọi là Đại Đạo.
“Quả”
là vật ǵ vậy? Nói chung, ắt mong nhận biết, giữ lấy tự tâm, chẳng rơi vào tri giải
nơi t́nh kiến. Chẳng nghe ngài Tăng Na[45]
đă nói hay sao? Ngài Tăng Na nói: “Muốn hiểu tự tâm th́ chỉ cần
trong cuộc sống hằng ngày, đi, đứng, ngồi,
nằm, thường tự suy xét sâu xa, [khi chính ḿnh] gặp
sắc hay gặp thanh, lúc c̣n chưa dấy lên sự giác
quán, tâm ở chỗ nào? Là có tâm, hay không có tâm? Đă chẳng
rơi vào chỗ Có hay Không, tự nhiên tâm châu riêng chiếu
sáng ngời, thường soi thế gian”.
Đấy chính là Chánh Giác, đấy chính là đại
đạo, chẳng cách biệt chừng bằng mảy trần,
trong một sát-na, đoạn trừ tướng tương tục.
Do vậy, Lữ Tổ v́ không học thuật luyện kim mà
siêu thoát cơi đời. Lại do nghe nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (hăy nên chẳng
trụ vào đâu mà sanh tâm), trong ḷng mới rỗng rang. Về
sau, do gặp thiền sư Hoàng Long, [Lữ Tổ] mới được ấn chứng.
Tôn Chân Nhân (Tôn Tư Mạo)
đă dốc trọn tâm y nơi sách thuốc, bèn được
siêu thoát cơi đời. Ông lại thường đến
thưa hỏi luật sư Đạo Tuyên nhà Đường.
Về sau, [Tôn Chân Nhân] đến Thành Đô, lại
nghe một vị tăng hành cước vô danh giảng giải
phẩm Đa Bảo Tháp [trong kinh Pháp Hoa] mới chứng
chân. Đấy chính là “đầu
sào trăm thước, tiến thêm một bước nữa”.
Nếu như tạo lập điều thiện, dẫu
chẳng cầu thành tiên, cũng là tự thường hằng,
há có số lượng ư?
Đời Hán, Chung Ly Quyền
truyền thuật luyện đan cho Lữ Tổ Thuần
Dương, điểm sắt thành vàng có thể cứu
đời. Lữ Tổ hỏi: “Rốt cuộc [sắt
đă biến thành vàng ấy] có biến đổi hay
không?” Ông Chung nói: “Năm trăm năm sau, nó sẽ trở
lại thực chất”. Lữ Tổ suy nghĩ, thưa:
“Như vậy th́ sẽ có hại cho người năm
trăm năm sau, con chẳng muốn học”. Chung Ly Quyền
khen ngợi: “Tu tiên th́ phải tích lũy ba ngàn hạnh, tám
trăm công. Do một lời này của ngươi, ba ngàn tám
trăm [công hạnh] đă tṛn đủ”.
Lại như Vạn Thiện Đồng Quy Tập chép:
- Vạn thiện là tư
lương để Bồ Tát nhập đạo. Các hạnh
chính là thềm bậc trợ đạo của chư Phật.
Nếu có mắt mà chẳng có chân, há đến được
chốn thanh lương? Đắc Thật mà quên Quyền,
làm sao về quê hương tự tại cho được?
Đấy là Chân Không và Diệu Hữu luôn cùng thành tựu
lẫn nhau. Mây giăng cửa từ, sóng trào biển hạnh.
Nh́n từ chỗ này, sẽ
biết Phật và Tiên nhất quán, đều cùng chú trọng
dạy con người hành thiện lập công. V́ thế,
tuy khác tên với Nho mà thật sự là tương đồng.
Nương theo
cách tham cứu khác nhau, nhưng
đều quy về một. Do v́ chia thành các phái để t́m cầu cội nguồn mà lập thành ba. Do v́ đă
chia thành các môn, [chúng sanh bèn] chấp vào h́nh tướng. Nay
khuyên người đời, hăy nên tham cứu sâu xa lư này,
đừng sanh phân biệt, chỉ nên lập công hành thiện,
th́ cầu Nho, cầu Phật, cầu tiên đều từ
nơi đây, muôn phần chẳng sai sót tí nào!
(Chánh văn) Cẩu hoặc phi
nghĩa nhi động, bối lư nhi hành.
(正文)茍或非義而動。背理而行。
(Chánh văn: Nếu có kẻ dấy
ḷng phi nghĩa, làm chuyện trái nghịch đạo lư).
Từ chỗ này cho tới
câu “tử diệc cập chi”
(cho đến cũng phải chết), nói cặn kẽ về
chuyện do làm ác mà chuốc họa. Hai câu
[trên đây] chính là đề cương nhằm nêu khái
quát, hoàn toàn tương phản với hai câu “thị đạo tắc tấn”
(hợp đạo th́ tiến). “Động”
(動) là manh nha trong tâm, “hành”
(行) là thể hiện thành sự. Trước hết,
Thái Thượng nói hai câu này nhằm dạy con người:
Hễ bắt đầu khởi tâm động niệm, thốt
lời, làm việc, phải suy nghĩ, thẩm
định cặn kẽ, ư nói: Phải
dè dặt, chớ nên trái vượt vậy.
Cổ nhân nói: “T́nh cảm của
con người giống như nước. Quy củ, lễ
pháp là đê đập. Đê đập chẳng vững
vàng, ắt sẽ đến nỗi nước xoáy vỡ
đê, lũ lụt. Nếu t́nh cảm của con người
chẳng được chế ngự, sẽ buông lung, rối
loạn, chẳng có kỷ cương. V́ thế, trừ khử
t́nh chấp, dứt vọng, ngăn ác, dứt tà, chớ
nên quên mất quy củ dẫu trong một hơi thở”.
Lại nói:
- Tuấn mă ruổi chạy
mà chẳng dám chạy bừa là do có hàm thiếc chế ngự.
Tiểu nhân ngang ngược, nhưng chẳng dám buông lung
[làm càn] là do có h́nh pháp khống chế. Tuy ư thức buông lung,
chẳng dám phan duyên, là do công năng của giác chiếu. V́
thế, học nhân mà chẳng có giác chiếu, sẽ như
ngựa khỏe chẳng có hàm thiếc, tiểu nhân chẳng
có h́nh pháp, dùng điều ǵ để đoạn tuyệt
tham dục, đối trị vọng tưởng đây?
Tác Tĩnh Hư hiếu học,
chẳng vâng theo lời mời mọc của quan đứng
đầu châu quận. Thái Thú là Âm Đạm đă từng
đến chỗ ông ta, [đôi bên đàm luận] suốt
ngày, quên cả về. Khi quay về, [Thái Thú] than thở: “Sự
dư dật [theo như quan niệm] của người đời chẳng phải là sự phú quư trong tánh. [Sự phú
quư trong thế gian chỉ là đối ứng với] mắt
ưa năm sắc, tai chuộng âm thanh. Tiên sinh vứt bỏ
những thứ mà mọi
người thâu thập để tiếp thu
những ǵ người ta chê bỏ. Tuy thân sống trong cơi
trần tục, mà tâm ngự nơi nghĩa lư. Há có thể
dùng vật ở bên ngoài và những
cảnh ngộ bên ngoài để lay động cái tâm ấy
hay sao?”
Do ông Tác
đă thấy nghĩa lư chuyên ṛng, nhuần nhuyễn; v́ thế,
vâng giữ, tuân theo, xuất phát tự nhiên. Người
hiện thời dấy lên ư niệm, cư xử phi nghĩa nghịch lư, làm sao
có thể noi theo điều này cho được?
(Chánh văn) Dĩ ác vi năng.
(正文)以惡為能。
(Chánh văn: Coi chuyện làm ác
là tài năng).
Câu này chuyên nói về nhân sự
(mối liên hệ giữa con người với nhau). Tánh
con người vốn lành; thế mà lại coi làm ác là tài
năng, tức là đă đánh mất bản thể của
tánh thiện vậy. Ngu ư cho rằng, bốn chữ ấy
(“dĩ ác vi năng”) chính là
cội gốc khiến cho kẻ ác dù to hay nhỏ bị mắc
bệnh (chuốc lấy phiền năo) trong ngàn đời vạn
kiếp vậy! V́ thế, xếp điều này đứng
đầu các sự ác. Con người tuy cực ngu, chẳng
có kẻ nào cam ḷng làm người ác, nhưng cũng chẳng
có ai không muốn là bậc tài năng. Chỉ v́ hiểu lầm
chữ Năng (能, tài năng), cho
nên càng làm càng trật; đó là cái gốc khởi đầu
vậy. Nói “người tài năng th́ hữu dụng, kẻ
chẳng có khả năng th́ vô dụng. Người tài
năng sẽ có kẻ khác kiêng sợ, kẻ không có tài
năng sẽ bị người khác khinh rẻ, bắt nạt”,
[quan niệm sai lầm ấy] kéo dài đă lâu, dù cũng tự
biết đấy là ác, nhưng vẫn nghiễm nhiên làm kẻ
ác, chẳng kiêng dè, lại c̣n che đậy bằng những
danh xưng đẹp đẽ!
Tham là cậy thế lấn
hiếp, đàn áp, coi chuyện chiếm được nhiều
tài vật của người khác là tài năng, lại gọi
hoa mỹ là “trí mưu”
(mưu trí). Kẻ tàn độc coi chuyện cường bạo,
ngang ngược, vô lại, giảo quyệt, xảo trá hăm hại kẻ khác là tài năng, lại gọi hoa
mỹ là “lạt thủ” (辣手, thủ đoạn sâu cay). Kẻ dâm đăng coi chuyện
phóng túng gian dâm, giả vờ hào hoa để quyến
rũ kẻ khác, dụ dỗ vợ con của kẻ khác
là tài năng, lại gọi hoa mỹ là “phong lưu”. Kẻ nịnh bợ dùng chuyện
đón ư, thốt lời ve vuốt để lừa gạt
là tài năng, lại gọi hoa mỹ là “lanh lợi”. Kẻ sàm báng coi việc dựng chuyện,
đặt điều là tài năng, lại gọi hoa mỹ
“khéo ăn nói”. Những
chuyện giống như thế chẳng thể thuật
trọn! Đua khôn tranh khéo, coi đó là chuyện hơn
người, kẻ hư ngụy noi theo thói đó, chẳng
ngờ chi. Kẻ khác nghe thấy [những tṛ xấu ác
đó], lại quen coi đấy là những giai thoại. V́
thế, đôi khi có một, hai
người chẳng có trí mưu, chẳng có thủ đoạn
độc ác, chẳng phong lưu, chẳng lanh lợi, chẳng
có tài ăn nói, không có ai chẳng bị [kẻ khác] cười
chê là thứ bất tài trong cơi đời, là thứ đồ
bỏ chẳng hợp thời vậy! Cho đến khi
chuyện đă qua rồi, báo ứng xảy đến,
đóng nắp quan tài rồi mới luận định [công và tội], kẻ “tài năng”
như thế nhiều lắm, nay c̣n lại chi?
Than ôi! Khuyên khắp người
đời, chẳng thà tạm khuất ḿnh là phường
bất tài, làm thứ đồ bỏ, để đổ
công dốc sức hướng thượng đến cùng. Như thế th́ sẽ b́nh đạm, nhưng
đầy ư vị, sẽ là b́nh ổn, chẳng thất bại
vậy. Nếu chẳng tin điều này, xin hăy xem những
vị thiện nhân trong cơi đời, có ai mà chẳng
được trời chở che, chẳng được người khác kính trọng hay chăng? C̣n như
những kẻ ác có đứa nào chẳng bị trời
phạt, người ghét hay chăng?
Đức Phật dạy:
- Hết thảy kẻ ác
trong thế gian chết đọa vào địa ngục.
Trong địa ngục, có một vị chủ nhân,
Ngưu Đầu A Bàng, tánh t́nh hung ác, chẳng có ḷng từ
bi, nhẫn nại. Thấy các chúng sanh chịu đựng
ác báo, chỉ lo họ không khổ, chỉ lo chẳng tàn
độc. Nếu hỏi ngục tốt: “Chúng sanh chịu
khổ, đáng nghĩ thương xót sâu xa, thế mà
ngươi thường ôm ḷng tàn khốc, độc ác, chẳng
có tâm từ mẫn?” Ngục tốt đáp rằng: “Những
kẻ tội ác như thế, chịu các nỗi khổ
đều là do bất hiếu với cha mẹ, hủy
báng Tam Bảo, nhục mạ người thân, họ
hàng, khinh mạn sư trưởng, vu cáo, hăm hại người
lương thiện, giết hại chúng sanh, tạo các ác
nghiệp. Hạng người như thế đến đây
hứng chịu nỗi khổ. Thường là cho đến
ngày họ được siêu thoát, [chúng tôi] thường
luôn khuyên răn, dẫn dụ: ‘Nỗi khổ cùng cực ở
nơi đây chẳng thể chịu đựng nổi! Ngươi
nay được thoát ra, chớ làm ác nữa’. Nhưng những
tội nhân ấy vẫn chẳng cải hối, hôm nay
được thoát ra, mấy chốc đă quay lại,
xoay vần luân hồi, chẳng biết thống khổ. Do
v́ chuyện này, đối với tội nhân, tôi chẳng
có từ tâm”.
Do vậy biết kẻ làm
ác nhất định đọa địa ngục.
Như nay đă được sống trong cơi đời
chừng khoảng sát-na, hăy nên tận lực thi hành nhân từ,
rộng tu các điều lành, tiêu trừ tam chướng,
thanh tịnh sáu căn, niệm Phật, tŕ trai, tham Thiền,
học đạo, vượt thoát tam giới, xa ĺa tứ
sanh, đừng buông lung theo tham, sân, si, mà hành giết, trộm,
dâm. Đă tạo những ác nghiệp ấy, sẽ hứng
chịu ác quả. Lời Phật chẳng dối, mọi
người hăy nên tin chắc.
Đời Đường,
Ngư Tư Huyên hết sức thông minh, nhạy bén. Vũ
Hậu (Vũ Tắc Thiên) muốn chế tạo một
cái rương để cho kẻ khác [có thể viết giấy
bỏ vào đó nhằm] tố cáo những chuyện thầm
kín của kẻ khác. Không người thợ nào chế tạo
được, Tư Huyên chế tạo cái rương hết
sức vừa ư bà ta. Do vậy, có người bỏ vào cái
rương ấy lời tố cáo Ngư Tư Huyên rằng:
“Tại Dương Châu, Tư Huyên
đă v́ Từ Kính Nghiệp chế tạo một loại
đao luân dùng để xung trận có thể sát
thương rất nhiều quan quân”. Tư Huyên liền bị
Vũ Hậu giết chết.
Đời Đường,
Từ Kính Nghiệp dấy binh [với chiêu bài “khôi phục
nhà Đường, lật đổ Vũ Hậu”]. Vũ
Hậu lo lắng, muốn bắt bớ dữ dội
để trừ khử những kẻ khác ư. Có gă Tác Nguyên
Lễ ḍ đoán ư chỉ, bèn dâng thư tâu rằng: “[Nước
nhà] đang gặp cảnh biến loạn khẩn cấp”.
Vũ Hậu vời đến hỏi chuyện, [rất vừa
ư], bèn phong cho hắn chức Du Kích Tướng Quân, kiêm chức
thôi sứ[46], trông
coi h́nh ngục thuộc Lạc Châu Mục Viện[47].
Hắn nuôi mấy trăm đứa vô lại. Hễ muốn
hăm hại ai, bèn sai bọn chúng cùng nhau tố cáo ở mấy
nơi. Lời tố cáo đều giống hệt như nhau.
[Kẻ bị hại] đă bị hạ ngục, hắn
bèn dùng cực h́nh uy hiếp, không ai chẳng tự buộc
tội, nhận tội. Hễ hắn thẩm vấn tù nhân,
ắt sẽ truy vấn ráo riết đến cùng, khiến
cho mấy trăm người bị liên lụy! Về sau,
do hắn ăn hối lộ, bị bắt đưa ra xử.
Hắn chẳng nhận tội, nha lại nói: “Mang cái lồng sắt của ông
đến đây”. Nguyên Lễ
bèn nhận tội, chết trong ngục.
Cùng một
thời, lại có gă Châu Hưng, tánh t́nh tàn khốc, cùng phe
đảng với bọn Tác Nguyên Lễ. Có người tố
cáo Châu Hưng mưu toan phản nghịch, Thái Hậu tức
giận, sai Lai Tuấn Thần tra xét. Khi ấy, Tuấn Thần
và Châu Hưng cùng Châu Hưng thẩm phán. Tuấn Thuần bảo
Châu Hưng: “Tù nhân phần lớn chẳng nhận tội,
làm thế nào đây?” Châu Hưng nói: “Dễ mà! Lấy một
cái chum to, dùng than lửa nung nóng bốn phía, bỏ tù nhân vào
trong đó. Chuyện ǵ mà nó chẳng thừa nhận!” Tuấn
Thần sai đốt than nung chum to, đúng như cách Châu
Hưng đă nói, bảo Châu Hưng: “Tôi tuân theo mệnh lệnh
của triều đ́nh thẩm vấn anh, mời anh bước
vào cái chum này!” Châu Hưng kinh hoảng, nhận tội, bị
đày đi Lănh Nam, bị cừu gia tranh nhau giết chết.
Thời Tống Huy Tông, Tống
Thăng vào thời đầu niên hiệu Chánh Ḥa, giữ
chức Chuyển Vận Sứ[48]
tại Kinh Tây, chuyên phụ trách tu sửa [các công tŕnh] thuộc
phía Tây hoàng cung. Hắn đă từng bảo [cấp dưới]:
“Hăy nhanh chóng hoàn thành công việc này, sẽ ngay lập tức
được thưởng”. Hắn thường dùng xương
trâu ḅ [đốt thành tro] ḥa với tro [để làm vữa
trát tường]. [Xương trâu ḅ] chẳng đủ,
bèn cho đào xương người từ các nghĩa
địa thí[49],
đốt thành tro để thay thế. Khi ấy, quan Vận
Phán (Chuyển Vận Phán Quan) là Tôn Huống can ngăn,
nhưng Tống Thăng không nghe. Tôn Huống bèn viện cớ
bệnh tật, xin từ chức. Tống Thăng do có công
[hoàn thành nhanh chóng công tŕnh ấy], được thăng
làm Học Sĩ, được vua sắc phong làm Điện
Trung Giám. Hắn bỗng bị bệnh ngặt nghèo, tự
nói: “Tội ác đốt xương, sẽ bị diệt
môn”. Hắn hộc máu mà chết. Không lâu sau, cả nhà hắn
chết sạch. Về sau, Tôn Huống bị bệnh chết
đi, tới cơi âm, thấy Tống Thăng ở trên
giường sắt, cột đồng, máu đầm
đ́a khắp thân. Lại tới một ngôi điện,
quan cơi âm bảo: “Ông khuyên mà hắn chẳng nghe, bèn bỏ
quan quay về, đúng là người có ḷng, sẽ
được tăng thọ mười hai năm”. Do vậy,
được sống lại, kể với người
khác chuyện ấy.
Ôi! Trong thiên hạ, điều
thê thảm nhất không ǵ bằng cả họ tuyệt diệt!
Tống Thăng do ư niệm tham cầu được
thưởng bèn mắc nỗi khổ ấy! Cổ nhân
nói: “Ác do tham dấy lên, tham là cội
gốc của ác. Cách để trị ác cốt yếu là
trừ tham”, đúng lắm thay! C̣n như những kẻ
khác cứ nghĩ làm ác là tài năng chẳng thể nêu trọn.
Hơn nữa, nỡ ḷng nào chép trọn, mọi người
hăy từ những chuyện này mà phản tỉnh!
Trung Giới Kinh[50]
chép:
- Nếu kẻ nào làm một
điều ác, ư sẽ chẳng an định. Làm mười
điều ác, khí lực hư nhược. Làm hai mươi
điều ác, sẽ trắc trở, suy bại, hao tán. Hễ
xử sự trái lẽ, làm năm mươi điều
ác, sẽ trọn chẳng có người phối ngẫu.
Cho đến trăm điều ác, sẽ bị tai họa
nước lửa, bị dính dáng vào những tai họa
ngang trái, kỳ quái, bị hành h́nh chết thảm. Làm
năm trăm điều ác, con cháu tuyệt tự. Làm một
ngàn điều ác, sẽ sanh ra đứa phản thần
nghịch tử, khiến cả họ bị diệt tộc.
Con cháu đời đời thay đổi h́nh thể, sanh
làm loài cầm thú”. Phàm kẻ chất chứa điều ác
ngập tràn, sẽ họa hại đến đời
sau, chính ḿnh đọa vào địa ngục. Đấy vẫn
là c̣n nhẹ lắm! Đối với lời giáo huấn
này, mọi người hăy thời thời khắc khắc
nghĩ nhớ th́ sẽ tự chẳng làm ác.
(Chánh văn) Nhẫn tác tàn hại.
(正文)忍作殘害。
(Chánh văn: Nhẫn tâm làm chuyện
tàn ác, độc hại).
Câu này chuyên nói về sanh mạng
của muôn vật. Đại đức là Sanh, thế mà
nhẫn tâm làm chuyện tàn hại. Tàn nhẫn gây tổn
thương, ác độc làm hại chính là sự ác to lớn
tột bậc, xuất phát từ ḷng tàn nhẫn, mặc
t́nh buông thả, chẳng có mảy may tâm trắc ẩn,
thương xót. Các điều thiện vốn xuất phát
từ ḷng nhân từ, các điều ác vốn do ḷng tàn nhẫn.
Trừ bỏ ḷng tàn nhẫn, thuận theo ḷng Từ,
công phu để thành thánh, thành hiền,
thành Phật, thành tiên ở ngay nơi đó.
Tham sống, sợ chết,
yêu thương người thân, quyến luyến chốn
cũ, biết đau đớn, cảm thấy khổ sở,
loài vật giống hệt như con người. Nhưng
con người có trí, loài vật vô trí. Người có thể
nói, vật chẳng nói được. Con người có sức
mạnh, loài vật sức yếu. Người hiện thời
nấu một bữa ăn, không chỉ giết một con
vật. Nếu dùng bồ câu, chim ngói, chim cút, chim sẻ, phải
giết mười mấy mạng để được
một nồi canh. Nếu dùng trai, ṣ, tôm, hến, [để
nấu] một nồi canh, ắt giết hơn trăm mạng!
Lại có kẻ do thích vị ngon, cầu thỏa ư, bèn t́m
ṭi những món ngon vật lạ từ chốn xa xôi, hoặc
chuẩn bị các loài vật để chờ nấu
nướng, hoặc đem cua c̣n sống nhăn ngâm vào hèm rượu [để làm cua muối], nuôi cá để
làm chả, chất than nướng sống, chọc tiết
uống máu tươi, mổ bụng [con vật] lấy
bào thai, lột da, bóc mai, trăm kiểu đun nấu, ngàn
cách chế biến. Ăn no kềnh bụng bèn vênh váo đắc
ư; hơi chậm trễ bèn cáu kỉnh, chửi bới kẻ
nấu nướng. Suy nghĩ sâu xa, thống thiết, sẽ
[cảm thấy] rất kinh sợ. Kinh dạy: “Nhất thiết úy đao trượng,
vô bất ái thọ mạng” (Hết thảy đều
sợ đao trượng, không loài nào chẳng yêu quư thọ
mạng). V́ thế, Vương Khắc giết dê, dê vùng chạy
đến chỗ khách sụp lạy cầu
cứu[51]. Trâu Sanh
xẻ thịt con nai, [khi sắp bị giết], nai quỳ
sụp, khóc thất thanh[52].
Con chim kinh hăi sa ḿnh xuống bàn, cầu vua nước Ngụy
cứu mạng. Con thú cùng đường chạy tuôn vào lều
mong họ Khu cứu sống. Lại như quan Nội Hàn họ
Trầm làm Thông Phán[53]
ở Giang Ninh, giết dê trong bếp, nhiều lượt
bị mất đao. Ŕnh xem, thấy dê ngậm đao giấu
dưới chân tường. Dương Kiệt lúc làm
Đề H́nh[54],
đến chơi núi A Dục Vương. Ngủ trưa nằm mộng thấy hơn trăm người
đàn bà dường như có điều muốn bẩm
báo. Ông bèn ngầm xuống bếp dă chiến[55]
t́m xem, mới biết những con ṣ cầu xin được
sống. Hễ có sanh mạng bèn yêu luyến, có t́nh chấp
như thế đó. Huống hồ khi chúng bị bắt,
chẳng có chỗ nào trốn khỏi cái chết, đoái
nh́n đồng loại, lưu luyến mà chẳng [làm cách
nào khác] được. Kêu ai oán khi bị
hành h́nh, ôm nỗi bi thương mà chết. Đă bị cắt
xẻ, lại vào chảo, vạc, đủ mọi nỗi
đau khổ thấu tận xương tủy. T́nh trạng
trong lúc ấy, khác nào con người? Người hiện
thời ngẫu nhiên bị tổn thương bởi
nước sôi, lửa đao, kim đâm, ắt gào thét cầu
cứu. Đầu váng, mắt nhức trong chốc lát,
đă gọi bác sĩ, mua thuốc, yêu tiếc bản thân
dường ấy, sao lại riêng đối với loài vật
bèn chẳng sanh ḷng thương xót, mặc t́nh tàn hại, kết
oán, tạo nghiệp. Than ôi! Trong các điều ác, chỉ
có chuyện này là thê thảm nhất, Phật, tiên khuyên
răn, đạo trời tuần hoàn. Hăy nên gấp đặt
ḿnh trong hoàn cảnh ấy, sẽ ngay lập tức mạnh
mẽ tỉnh ngộ. Do v́ các hạng mục [những loài
vật] chớ nên giết sẽ được
nói đầy đủ trong phần sau, cúi xin những bậc
quân tử có ḷng nhân hăy hành theo đó!
Ngày ta được sanh ra,
chính là ngày mẹ mắc nạn. Cha mẹ c̣n sống, cố
nhiên là giữ tâm trong sạch, dốc trọn ḷng kính. Cha mẹ
đă khuất, càng nên ăn chay, đau xót. Há nên v́ thỏa
thích bụng miệng mà giết chóc các loài ư? Do vậy,
ngày sinh nhật chớ nên sát sanh!
Người đời hễ
không có con bèn đau buồn, có con bèn vui sướng. Nay
để mừng sanh con, bèn khiến cho con kẻ khác phải
chết. Hơn nữa, trẻ thơ mới sanh ra, chẳng
cầu [cho nó] trường thọ, lại ngược ngạo
tạo nghiệp ư? V́ thế, sanh con chớ nên sát sanh!
Tang ma th́ lấy đau buồn
làm điều chánh yếu. Giết chóc là tội đứng
đầu, bày cỗ bàn thịnh soạn trước linh vị
người đă khuất, chỉ để cho người
sống no say. Xếp cỗ cúng xa xỉ trước quan
tài, càng tăng thêm oán nghiệp. V́ thế, tang sự chẳng
thể sát sanh!
Cúng tế vào dịp Xuân Thu,
hoặc ngày giỗ cúng quải tổ tiên, vốn là con cháu dốc cạn ḷng thành, chỉ nên phóng sanh
ḥng tiêu tội trước [của tổ tiên], há nên giết
hại để tạo thêm nỗi ương họa mới
nữa ư? V́ thế, giỗ chạp chẳng thể sát
sanh!
Người bị bệnh tật
liền sát sanh cúng thần cầu phước, chẳng biết
chính ḿnh muốn cầu được sống, lại
ngược ngạo giết mạng kẻ khác để mạng
ta được sống! Nếu thần có linh, há đến
hưởng [cỗ cúng] hay sao? V́ thế, cầu đảo
chẳng thể sát sanh!
B́nh đẳng là Phật,
chánh trực là thần, trọn chẳng có chuyện do
được hối lộ mà giáng phước. Người
thời nay hễ cầu khẩn, bèn hứa
nguyện giết chóc. Đó gọi là ác nguyện. Dẫu
được thỏa ḷng, [sẽ mắc phải] quả báo hung hiểm về
sau! V́ thế, hứa nguyện chớ nên sát sanh!
Vợ chồng kết hôn nhằm
nối tiếp ḍng dơi muôn đời, là cội nguồn của
đời đời. Ḍng họ nương nhờ vào
đấy, nay bèn dốc ḷng giết chóc, gieo cái nhân ác [khiến
cừu nhân] truy t́m báo cừu. Đấy chính là tụ tập
cơ duyên giết chóc trong chốn khuê môn. V́ thế, kết hôn chẳng thể sát sanh!
Chủ khách chén anh chén chú, chẳng
nghe tiếng gào ai oán trên thớt. Tiệc tùng cười
nói vang nhà, nào có thấy nỗi khổ sở trong nồi?
V́ thế, đối với ư nghĩa “dùng hai cái chén[56]
đựng ngũ cốc, rau dưa để cúng bái”
hăy nên phỏng theo. Do vậy, đăi đằng khách khứa,
chớ nên sát sanh!
Trời cao chẳng sanh kẻ
nào không có lộc. Nếu có một tài, một nghề,
đều có thể có của ăn, của để. Sao
lại khổ sở vung đao, thọc đao vậy? Đă thế, càng giết, càng nghèo túng. V́ thế, chớ nên kiếm
sống bằng cách sát sanh!
Cắt xẻ cầm thú
để béo thân ḿnh, làm sao phân định giữa người
linh thông và phường xuẩn ngốc? Nấu máu thịt
để lèn đầy ruột
gan, điên đảo quá mức! Huống
hồ mỡ béo dễ hết, oán nghiệp vẫn c̣n
ư? Do vậy, để phụng dưỡng, chớ nên
sát sanh!
Giết một mạng để
một mạng được sống, kẻ có ḷng nhân chẳng
làm. Huống hồ đối với chuyện định
đoạt sanh tử, chưa chắc đă có thể sống
ư? Hại loài vật để chữa bệnh, chỉ
tăng thêm oán gia sau khi đă chết. V́ thế, dùng thuốc
chẳng thể sát sanh!
Người bệnh cầu
được an lành, cũng giống như loài vật
ghét bị giết chóc. Người thời nay nói “sanh mạng
loài vật khó thể kéo dài, theo đúng lẽ, đáng nên bị
mổ xẻ, nấu nướng”, cũng
giống như nói: “Kẻ bị bệnh tàn phế thảy
đều đáng đem giết sạch” đó ư? V́ thế, dưỡng
bệnh chẳng thể sát sanh!
Đạo sĩ sau khi hoàn tất
pháp hội cầu phước tiêu tai, dùng lễ vật hậu
hĩnh để cảm tạ thần tướng. Lớn
th́ dê, lợn, nhỏ th́ tam sanh[57].
Thần thánh há khăng khăng thỏa thích bụng miệng
mà giáng tai họa cho kẻ tu tập, tích lũy công đức ư? V́ thế, lễ tạ thần tướng
chớ nên sát sanh!
Gần đây, thế tục
vào đêm Giao Thừa, lớn th́ mổ dê, nấu lợn.
Kém hơn th́ dùng gà, cá, đầu lợn. Nào có biết lúc tháng
Chạp hết, đầu Xuân chính là khi trăm thần, tổ
tiên cùng giáng lâm soi xét [cơi phàm]? V́ thế, đêm Giao Thừa
chẳng thể sát sanh!
Khi công danh thăng tấn[58],
chính là lúc ḷng nhân ái phải nên tràn trề, sao lại
nhẫn tâm khiến cho loài vật bị chết yểu, [khiến cho chúng] nẩy sanh nỗi đau u uẩn? Tàn bạo giết chết, tổn
thương sinh vật, kiêu
căng, xa xỉ, khiến cho phẩm đức [của
chính ḿnh] suy bại? V́ thế, gặp dịp vinh hiển,
chớ nên sát sanh!
Biếu quà vốn là lễ
nghi tốt lành. Do thức ăn tươi béo
mà dấy động ư niệm giết chóc. Chính ḿnh đă
v́ mọi người mà giết chóc, chỉ riêng ta lănh chịu
oan khiên. Đối với người nhận quà, bất
quá là thỏa thuê một bữa, nhưng họ chẳng cảm nhận
ân đức [biếu xén món
ngon vật lạ của ta].
V́ thế, để biếu tặng quà, chớ nên sát sanh!
[Bày tiệc] tiễn biệt,
há lẽ nào vô t́nh? Canh chay cũng có thể giăi bày trọn hết tấm
ḷng. Cớ ǵ cứ phải xa xỉ thừa mứa một
phen, để rốt cuộc chất chứa cả đống
tiếng kêu gào oán hờn ư? Do vậy, tiễn biệt
chớ nên sát sanh!
Kẻ nuôi cá
vàng, tính ra ắt phải dùng trứng loài trùng nhỏ, tép
riu số đến cả vạn. Kẻ nuôi hạc
trắng, phải dùng trăm ngàn con cá nhỏ. Người
phú quư do sướng mắt vui tai [mà nuôi nấng
những thứ chim quư, cá kiểng], đă tạo thành sát nghiệp. V́ thế,
chớ nên sát sanh để nuôi động vật làm kiểng!
Những điều vừa
nói trên đây đều là nói đại lược, khái
quát. Người đọc hăy nên từ đây mà suy rộng
ra, ắt trong tấc ḷng sẽ có tâm lượng như trời
che đất chở vậy.
Ông Hoàng Lỗ Trực có bài tụng
rằng: - Ta ăn thịt chúng
sanh. Danh khác, Thể chẳng khác! Vốn cùng một chủng
tánh, chỉ là khác h́nh hài. Khổ năo chúng đành chịu,
ngon béo ta hưởng riêng. Đừng để Diêm
Vương xử, hăy tự nghĩ xem sao?
Hăy thử nghĩ [những
con vật] hôm qua c̣n bơi lội, nhảy nhót, bay lượn,
hôm nay đă đi về đâu? Dường như c̣n thấy
chúng nó đang c̣n sống sờ sờ, bay lượn kêu hót,
ăn uống. Nay đă hóa thân trong nồi! Lời này thật
đáng khiến [cho người nghe] sanh ḷng xót xa vậy!
Hứa Chân Quân thuở bé
thích săn bắn. Gặp một con nai con, bèn bắn chết.
Bên cạnh nó có một con nai to (nai mẹ) cứ liếm
măi một hồi lâu mà nai con chẳng sống lại. Nó bèn
lẩn quẩn bi thương rồi chết. Chân Quân mổ
thịt, thấy ruột nó đứt từng khúc, bèn ném
cung than thở: “Buồn thay! Ḷng yêu thương vốn sẵn
tánh trời, loài vật mà cũng [yêu thương con cái] tột
bậc như thế đó”. Bèn bỏ
đi học đạo, giúp người lợi vật, chứng
quả tiên.
Đời Đường,
Trương Dịch Chi[59]
làm lồng sắt để nhốt ngỗng, vịt trong ấy.
Chính giữa nhóm lửa than nung đốt. Bên cạnh lồng, đặt
đồ đựng chứa nước ngũ vị. Ngỗng,
vịt chạy quanh lửa, do khát bèn uống nước.
Nước rồi cũng hết mà lửa cứ tăng thêm,
[ngỗng, vịt] rụng lông, nát thịt. Hắn bèn lấy
thịt chúng để ăn. Về sau, hắn
bị Trương Giản Chi giết chết.
Gă lái buôn xứ Thiểm Tây
là Nhậm Thiên Nhất hám lợi, tàn nhẫn.
Mỗi năm hắn tới vùng Thanh Khẩu thuộc Hải
Châu để mổ giết, làm thịt lợn muối. Sau
đó, chở thịt lợn về vùng thủy khẩu Cao
Bưu, Lục An [để bán]. Ban đêm bị gió to lật thuyền, lợn
bị dân chài cướp sạch. Họ Nhậm ở trên
bờ kêu khổ, bỗng cột buồm chính của chiếc
thuyền lật đổ nhào vào thân, ép hắn thành bánh thịt.
Trong mạng có tiền tài th́ ở chỗ nào cũng có, cớ
ǵ cứ làm chuyện sát sanh, hại mạng ấy? Kẻ bị báo ứng như gă lái buôn họ Nhậm
rất nhiều, mọi người hăy nên tự phản tỉnh.
Giả sử v́ chẳng thể mưu sanh, bèn ngược
ngạo đi theo con đường sai trái, đến nỗi
làm những chuyện như làm giặc
phóng hỏa cướp của, hoặc làm thủy tặc v.v… chưa chắc sẽ không bị cơi trời dùng cái chết để trả báo
cái tội giết chóc vậy.
Đời Tống, Châu Phái
thích nuôi bồ câu. Do [chim] bị mèo ăn thịt, Châu Phái
bèn bắt mèo, chặt đứt cả bốn chân nó. Mèo
kêu gào vài ngày rồi chết. Về sau, Châu Phái sanh con tay
chân đều chẳng có.
Lại nữa, Châu Ngang thích
ngủ trưa. Trên kèo nhà có tổ chim yến, ba con chim non
kêu rít rít chờ mớm mồi. Châu Ngang tức giận, cho
chúng ăn quả tật lê[60],
chim đều bị nứt bụng mà chết. Về sau,
ba đứa con trai của hắn đều câm.
Lại nữa, Trương
Lâm tức tối v́ ếch kêu, bèn đổ tro nóng [giết
chết nó]. Về sau, hắn bỗng bị bỏng v́ nước sôi, nứt nẻ mà chết.
Gộp lại [những chuyện trên đây] để xem,
[sẽ biết] con người có nên nhẫn tâm tàn hại
loài vật hay chăng? Đă trót làm, có thể tránh khỏi
tội báo hay chăng?
Đời Đường,
Lữ Tổ nói: “Ngươi nếu muốn sống lâu hăy
nghe lời ta. Đối với mọi chuyện hăy tỉnh
táo, giữ sao cho chính ḿnh có ḷng khoan dung. Ngươi muốn
sống lâu, phải phóng sanh. Đấy là đạo lư tuần
hoàn thật sự. Nếu kẻ khác chết, ngươi cứu
họ; nếu khi ngươi chết, trời sẽ cứu
ngươi. Sống lâu và cầu sanh con chẳng khác ǵ nhau.
Kiêng giết, phóng sanh mà thôi!”
Trong chương Giác Xúc[61]
của Kỳ Hề Độ có đoạn viết:
- Nhổ một sợi lông
kinh động Tứ Đại, đốt ngải cứu
đau khổ toàn thân. Chính là v́ mỗi Thể đều là
cái Thể vốn trọn đủ các Thể[62], chúng
sanh sanh ngay trong tâm ta[63].
Đă có mối liên quan huyết khí, há
lẽ nào chuyện bi thảm phát sanh [nơi kẻ khác], lại
chẳng hề liên quan đến ta ư? Thế mà lại
dùng sự ngon béo từ [thân thể] loài khác để thỏa
thích bụng miệng ta. Hăy thử nghĩ ngày hôm qua [chúng
nó] bơi lội, nhảy nhót, bay lượn, nay đă về
đâu? Dường như c̣n thấy chúng đang sống sờ
sờ bay lượn, kêu hót, ăn uống; [thế mà]
đă hóa thành thứ chứa trong nồi! Do vậy, bát trân[64]
bày la liệt trước mặt, toàn là kêu gào oán nghiệp. Năm cái đỉnh[65]
bày thành hàng, đều là du hồn lẩn quẩn! Tâm tự
nhiên xót xa, há c̣n nuốt nổi ư? Hoặc là chùn tay lại,
chẳng thể dám dính dáng đến [chuyện sát hại
nữa]. Luôn luôn cảnh tỉnh, niệm nào cũng dấy
khởi, vâng giữ sự tỉnh giác, sẽ là đồng
thể đại bi, chẳng thấy có tướng chúng
sanh [khác biệt với ta], sẽ có thể
vận dụng ḷng nhân cứu giúp trọn khắp. Khắp
toàn thân sẽ là tấm thân tỉnh giác.
Trong phần Giác Tập, ông
viết:
- [Cách nói] “gà, lợn, hẹ, mận, hễ gặp bèn ăn”
dường như vĩnh viễn là lời lẽ giúp chúng
ta bào chữa cho chuyện “dùng cái chết [của loài vật]
để nuôi sống [con người], dùng loài vật
để cung cấp [thực phẩm] cho con người”.
Nếu coi đó là lẽ đương
nhiên, há có biết kẻ mạnh ăn thịt kẻ yếu,
loài vật c̣n ghét chuyện tàn hại, thương tổn!
Những loài sanh vật được bẩm thọ khí
thiên địa, đă có giác tánh, há đành ḷng dâng thân cho ta
cắn xé ư? Đặc biệt lớn tiếng hô
hào [nhằm cảnh tỉnh mọi người, chúng ta] từ
lúc c̣n ẵm ngửa, đă bén mùi vị ngon béo. Tiên thiên
chưa đọa[66],
bào thai đă quen vị tanh tưởi. Loài có vảy trong
ao, loài le nhạn trong vườn, hằng ngày thành món ăn
trong bếp. Lợn trong cũi, dê trong chuồng, tùy thời
[biến thành món ăn] để chan, gắp. Do huân tập
như vậy, khiến cho ta vạn kiếp ngàn lượt
luân hồi. V́ thế, thói phàm ăn tháng ngày càng thịnh! Hăy
thử ăn những thứ chưa bao giờ nếm tới,
khi nhấc đũa sẽ tự cảm
thấy do dự. Nếu gặp những món ngon quư chẳng
phải là thứ thường ăn hằng ngày, bỏ vào
miệng cũng lắm nỗi nghi ngờ, sợ sệt.
V́ thế, xứ Ngô Việt coi thịt ếch là ngon lành,
người đất Tề trông thấy sẽ rởn da
gà! Người xứ U Yên[67]
khoái ăn ḅ cạp, dân Việt trông thấy điếng hồn!
Đấy há có phải là do sở
thích ăn uống khác nhau, mà là do tập quán lâu ngày thành ra
sai khác. Thật sự nghĩ [ta cùng muôn loài] có cùng một
tánh, sẽ chẳng nỡ ḷng tổn thương thể tánh của [loài khác], há có thể lấy [thân thể] có sanh mạng
[của loài khác] để nuôi dưỡng sanh mạng của
chính ta? Hễ tháo gỡ được mắc mứu
cũ, sáu căn sẽ liền thanh tịnh. Lưới dục
tầng tầng, chẳng vung kiếm kim cang mà lưới
tự rách. [Nếu cái tâm] có đủ mọi ư niệm giết
chóc, sẽ chẳng được sanh vào cơi trường
sanh! Xin hăy nghe lời luận định về thói quen, sẽ
tự vỡ lẽ!
Phần Giác Uế viết:
- Rết thích ăn mắt rắn,
khác nào thức ăn ngon lạ chất đầy trong
đồ đựng. Chuột thối rữa quăng cho
chim cú, khác nào bầy la liệt ba món thịt tươi! Ấy
là v́ sở thích ăn uống là do nghiệp tạo ra. V́ thế,
nghiệp nặng nề th́ tâm sẽ ch́m đắm trong
thói ham ăn uống, mùi vị [ưa thích] há sanh khởi từ
tánh? Tánh t́nh ngang ngược, sẽ rất ưa
chuộng vị thối. Hăy thử nh́n loài
ưng, loài cáo xé mồi, sẽ dùng tay áo che mắt, chẳng nỡ
ngó. Ruồi nhặng bu theo mùi tanh, mắt
thấy ḷng muốn nôn mửa. Sao lại trong tiếng nhạc
dập d́u, đua nhau bày la liệt trăm ngàn món hải sản;
nơi phủ đầy gấm vóc, t́m cầu rộng khắp
các thứ thịt rừng sai khác? [Chúng ta ngốn ngấu
những món sơn hào, hải vị ngỡ là]
thơm ngon ấy ví như bọ hung ṿ [phân] thành viên. Ăn
no đẫy [những thứ đó], khác nào lợn nuôi
trong nhà ăn những thứ nước gạo rữa
nát. Thậm chí cho đến khi đêm tàn canh lụn,
răng lợi c̣n giữ vị tanh hôi! Lại c̣n cho đến
khi nhạc tàn, rượu cạn, khăn áo tanh tưởi,
bẩn thỉu nhức mũi. Thật sự nghĩ đến
Pháp Thân thanh tịnh, há chịu đựng nổi khí vị
thế gian ngũ trược? Đối với những
vật có huyết khí đều cảm
thấy ô uế, ắt cái tâm tham ăn tục uống
sẽ ngày càng giảm dần.
Phần Giác Nhân viết:
- Hữu t́nh do đă gieo cái
nhân, sẽ tạo thành cái quả. Lư ấy chẳng dối, [giống như] tiếng vọng nương theo
âm thanh. Do vậy, cái duyên để thọ sanh, chuyển
sanh há có sai chạy? Dẫu củi đă cháy hết, lửa
đă truyền, củi quy hết vào lửa. Kéo căng dây
cung để mũi tên được bắn đi,
mũi tên [bay xa] ắt phải do [sức bật của] dây cung. Hễ bố thí, sẽ được báo ứng.
Người bố thí cố nhiên hăy nên quên đi [hành vi bố
thí ấy]. Cội rễ do chính ḿnh vun trồng; người
vun trồng ắt sẽ hưởng quả lành. [Dẫu được
đền đáp như Dương Bảo] được
tặng đôi ṿng ngọc trắng[68],
người thông đạt sẽ chẳng quan tâm. Đối
với ḷ lửa, vạc sôi, người trí huệ thường
sanh ḷng kinh sợ. Thế mà có kẻ phóng túng đối với
chuyện này chẳng chán, cứ giết chóc các loài sinh vật,
nấu cá, nướng rùa, há có nghĩ tới t́nh cảnh
[đau khổ] trong vạc dầu sôi sùng sục. Lóc
thịt, quay dê, chỉ v́ đớp một miếng chả
làm khéo đó thôi! Thậm chí [v́ săn bắn mà] đuổi
nhanh như gió, chạy như chớp, [khiến cho] nhiều
loài chim thú yếu đuối
phải kêu thét. Lật tung đầm,
băi, vét cạn rừng rậm, khiến cho chim tan đàn kinh hăi
bay đi, thú ĺa bầy chết trong cô quạnh! Đối với hạng người ấy,
chẳng có sinh vật nào không khoái khẩu, lưỡi nếm
đủ thứ. Trước hết, họ đă là cọp,
sói trong loài người, đến nỗi hễ thấy
có con vật ắt đều săn bắt. Dẫu tṛng mắt
bị rơi xuống đất, [vẫn miệt mài
săn bắt]. [Hạng người như thế ấy]
tránh sao khỏi đọa làm chim ưng hoặc chó trong loài
thú? Hăy nên chân thành suy nghĩ! [Đối với] muôn loài
chim thú, chẳng loài nào không có t́nh cảm. Gởi thân trong
ṿng trời đất, làm các loài [khác nhau], hăy nên biết đều là do báo
ứng. Nguyện từ hôm nay trở đi, vĩnh viễn
đoạn trừ nỗi oán xưa kia, sẽ chẳng có nỗi oán hận nào để phải đền trả, chẳng chuốc lấy cái quả
lắm bệnh. [Hễ thấy] có [người nào hay loài vật]
gặp nguy ắt cứu, cái nhân trường thọ sẽ tự đưa đến. Nếu niệm nào cũng tỉnh giác, sẽ chẳng
phải tốn mười năm điều phục con
trâu trong tâm. [Hiểu rơ] ba đời rành rành, làm sao đọa
làm thân chồn hoang trong năm trăm năm cho được?
Đấy chính là v́ chẳng gieo duyên lành mà
mê mất bè báu. Nghe ta múa lưỡi, hăy nên tự quay đầu.
Phần Giác Hủy viết:
- Có đến th́ sẽ có
đi, muôn vật thay cũ đổi mới vô thường.
Bất diệt, bất sanh, ḷng từ bi trong tâm tánh của
ta tự tại. V́ thế, [luôn mong] thấy các sinh vật
được sống, chẳng nỡ thấy chúng nó chết.
Bậc thánh nhân từ đều ôm tấm ḷng ấy.
Đă tiếc nuối khi chúng bị hủy hoại, ắt
sẽ vui sướng v́ chúng trưởng thành. Chúng sanh đều cùng có bẩm
tánh. [Ngay như đối với] ngói, gạch vô t́nh, bậc
trí huệ c̣n la thất thanh khi thấy chiếc ṿ bị rớt
vỡ. Đối với những loài trùng bé bỏng có tri
giác, bậc chí nhân há vui sướng tàn sát
ư? Huống hồ do trứng mà nở ra chim, từ chim
con đến khi nó mọc lông vũ [đầy đủ], phải
do mớm mồi nhọc nhằn. Há có phải một tiếng kêu, một
cái mổ, sẽ hóa thành [một con vật trưởng thành
hoàn vẹn] từ hư vô ư? Do biến hóa [dần dần]
mà thành con vật sống động, hoạt bát, há có
phải là một sáng, một chiều! Thế mà, [đối
với] thân thể mười năm chăm bẵm ấy,
chỉ v́ để nấu nướng một bữa, bèn
trăm kế săn bắt, giăng bẫy chỉ ḥng no say chốc lát. Sao chẳng nghĩ [sanh mạng]
hễ đoạn, sẽ chẳng thể tiếp tục
(sẽ chẳng thể sống lại được)? Lóc
xẻo thân thể, mỗi miếng đều chứa
đựng nỗi đau mà thác. Đă hủy hoại rồi,
há có thể phục hồi? Chi thể bị đun, bị
nướng, mỗi con vật đều ôm nỗi khổ
qua đời! Phàm ngũ cốc để nuôi dưỡng
con người, c̣n khó thể tiêu hóa một
hạt, huống hồ là đối với sanh mạng của
muôn vật, há nên dấy khởi mảy may ư niệm xằng
bậy hủy hoại? Thật sự hăy nên nghĩ: Chúng nó
chết đi, trải muôn kiếp chẳng thể sống
lại. Ta ăn vào, trong khoảnh khắc, đă chẳng
c̣n chi nữa! Mong cầu sống mà chẳng được,
há thấy bị chết mà đành ḷng ư? Hăy vĩnh viễn
làm chuyện từ bi, luôn rủ ḷng cứu vớt, thương
tiếc, ắt sẽ chẳng đợi đặt
đôi giầy lên đỉnh đầu
mà đă cứu con mèo từ trước[69].
Cần ǵ phải đợi mở miệng, mới giữ vẹn cả ngỗng lẫn ṿ[70].
Đấy là lư chân thật, há nên thốt
lời hư giả! Hăy càng nên tuyên dương, mong sao
ai nấy đều cùng dấy khởi ư niệm.
(Chánh văn) Âm tặc
lương thiện, ám vũ quân thân.
(正文)陰賊良善。暗侮君親。
(Chánh văn: Lén hại người
lương thiện, ngấm ngầm khinh rẻ vua và cha mẹ).
“Âm
tặc” (陰賊) là âm
mưu làm hại, như mũi tên bắn ngầm làm kẻ
khác bị thương, khó đề pḥng nhất. Hơn nữa,
người khác bị ta hại, ta chẳng mang tiếng
ác. Hạng người ấy c̣n đáng sợ hơn các thứ
lỵ mị vơng lượng. Làm điều này đối với
người khác đă là chớ nên, ngấm ngầm làm hại
người lương thiện lại càng chẳng nên. Bởi
lẽ, người lương thiện được dân
chúng trọng vọng. Ở trong một nước, ắt
được cả nước trọng vọng. Ở
trong một làng, ắt được cả làng trọng vọng.
Há có nên âm thầm hăm hại người ấy hay không?
Đời Đường,
Lư Lâm Phủ làm Tể Tướng, âm hiểm chẳng
lường, tàn hại người lương thiện.
Chuyện ác của hắn chẳng thể kể xiết.
Khi hắn sắp tiêu đời, thấy một con quỷ
răng như lưỡi cưa, móng tay như móc câu, khắp
thân đầy lông lá, mắt như ánh chớp, giơ tay
đánh Lâm Phủ. Không lâu sau, Lâm Phủ thất khiếu ứa máu mà
chết. Hắn chết rồi, triều đ́nh hạ lệnh
lột sạch quan tước, bửa quan tài hành h́nh xác hắn.
Con cháu bị lưu đày xuống vùng Lănh Nam.
Vào đầu niên hiệu Thuần
Hy[71]
đời Tống, tại Hán Châu, có một người đàn bà bị
sét đánh chết, [trên xác] có chữ viết bằng châu sa
rằng: “Lư Lâm Phủ làm bầy
tôi bất trung, ngấm ngầm tàn hại kẻ lương
thiện. Ba đời làm gái điếm, bảy đời
làm trâu. Báo hết, vĩnh viễn đọa trong loài thủy
tộc”. Kẻ tiểu nhân hăm hại bậc quân tử,
may mắn thành công, bèn nói “đă nắm giữ sự sanh tử
của họ”. Chẳng biết họ [bậc quân tử]
bị chết trong tay chúng nó (phường tiểu nhân)
cũng là do oán đối khiến thành như vậy, chẳng phải là do chúng nó có thể làm như thế
được! Nếu bậc quân tử chẳng có oán
đối, mặc cho kẻ tiểu nhân giở tṛ như
thế nào đi nữa, rốt cuộc chẳng thể hại
chết người ấy! Kẻ ác hại người khác
ví như ngửa mặt nhổ lên trời, chẳng nhổ
vào trời nổi, mà ngược ngạo rơi xuống ngay
chính ḿnh. Chớ nên hủy hoại người hiền, ắt
sẽ mang họa chính ḿnh bị tàn diệt cũng giống
như thế.
Nhưng hai chữ
Âm Tặc chẳng bắt buộc cứ phải là kẻ
làm quan! Bất cứ ai khác cũng đều có thể âm tặc,
nhưng những kẻ trong nha môn là tệ nhất. Những
thói như lạm dụng quyền thế để báo cừu
riêng, thừa dịp tra xét để quấy nhiễu, ngấm
ngầm khuấy động sóng gió, nặc danh vu cáo… Há có
biết đạo trời tuần hoàn, chưa hại
được người mà đă hại chính ḿnh trước.
Hăy suy nghĩ đi!
“Ám”
(暗) là chỗ người khác chẳng thấy, chẳng
nghe. “Vũ” (侮) là
khinh rẻ. Câu này chuyên v́ kẻ hiếu danh và trái nghịch
t́nh lư mà nói ra. Ơn vua và ơn cha mẹ như
trời đất. Nếu đă ăn lộc [của vua]
mà hành sự biếng nhác, do tham lợi mà làm theo lẽ riêng
tư, hoặc gian xảo, dua nịnh, mặc sức lừa
dối, cái tâm chẳng thể cho vua biết tức là ngấm ngầm khinh rẻ vua. Phụng dưỡng [cha mẹ] chẳng chân thành, hành xử trong cơi đời không
ra ǵ, hoặc màu mè che đậy sự ngỗ nghịch, cái
tâm chẳng thể cho cha mẹ biết, đấy chính là
ngấm ngầm khinh rẻ cha mẹ vậy. Bất trung, bất
hiếu, hại giáo, phản đạo, không ǵ tệ
hơn nữa! Sống th́ sẽ gặp trời giáng họa,
chết bị tra khảo trong chốn Phong Đô[72],
ắt cũng chẳng thể dung thứ được!
Đời Tống, Doăn Ḥa
Tĩnh khi sắp vào cung giảng giải kinh điển, ắt
tắm rửa, đoan nghiêm, chắp tay, hướng về
bộ sách sẽ được giảng trong ngày hôm sau, mặc
triều phục lễ lạy. Kẻ khác hỏi nguyên cớ,
ông nói: “Ắt mong khiến cho những lời [tôi] nói ra sẽ
khiến cho đức vua cảm ngộ, sao lại chẳng
trọn hết ḷng thành kính cho được?”
Vua Tuyên Tông nhà Minh[73]
thích văn từ, thơ phú, hay bảo quần thần
xướng họa. Gă học sĩ nọ tự phụ
tài cao, mỗi lần vâng mạng vua làm xong bài thơ, liền
nói: “Thơ hay như thế, không chỉ là hoàng đế
chẳng làm được, mà có xem kiểu nào cũng
không hiểu nổi!” Chẳng lâu sau, do làm thơ dùng chữ
phạm vào cấm kỵ của triều đ́nh, lời lẽ
có phần châm chọc, chế nhạo, phạm tội bất
kính, bị lột sạch chức tước.
Thời Tam Quốc, danh
sĩ nước Ngô là Cố Đễ mỗi lần nhận
thư cha, đều quỳ đọc. Đọc mỗi
câu đều thưa vâng. Nếu cha bị bệnh, liền
đối trước thư khóc ṛng, lời nói càng nghẹn
ngào. Lại như Phạm Tuyên đời Tấn, lúc lên tám,
ngẫu nhiên ngón tay bị thương, bèn khóc ṛng. Có người
bảo: “Sao lại đau đớn đến mức ấy?”
Phạm Tuyên khóc, thưa: “Chẳng phải v́ đau đớn,
[mà do nghĩ] da tóc nơi thân được nhận lănh từ
cha mẹ, chẳng dám hủy hoại, tổn thương.
Con buồn là v́ lẽ này”. Hai ông về sau đều quư hiển.
Có hai anh em nọ, cứ mỗi
năm ngày bèn thay phiên nhau nuôi mẹ. Anh nghèo, em hơi giàu.
Lúc anh nuôi mẹ, cháo cũng chẳng có, c̣n hai ngày chưa hết
phiên, đă nói: “Mẹ qua nhà em rồi con sẽ bù sau”. Mẹ
đến nói với đứa em ư của thằng anh.
Đứa em bảo vợ giấu cơm đi, kiên quyết
cự tuyệt. Mẹ rơi lệ trở về. Bỗng
sấm chớp đùng đùng nổi lên, đánh chết
tươi cả hai vợ chồng! Than ôi! Kẻ bất
trung bất hiếu bị cơi âm tru lục, thóa mạ vạn
năm, họa báo thê thảm như thế đó. Ấy là
v́ vua và cha đứng đầu trong Ngũ Luân. V́ thế,
thờ vua, thờ cha, càng chẳng thể không chú trọng
lấy ḷng thành làm đầu!
(Chánh văn) Mạn kỳ tiên
sinh, bạn kỳ sở sự.
(正文)慢其先生。叛其所事。
(Chánh văn: Khinh mạn thầy
dạy, phản bội người ḿnh phải phụng sự).
“Tiên
sinh” (thầy dạy) chính là bậc truyền trao đạo
của thánh hiền, dạy dỗ học vấn, giải
trừ nghi hoặc. Cha mẹ sanh ra thân ta, ắt phải nhờ
thầy thành tựu học vấn cho ta. V́ thế, thầy
được tôn trọng giống như vua và cha. Người
hiện thời mời thầy dạy con, phần nhiều
thường là biểu hiện lễ tiết theo h́nh thức,
tiếc tiền, thiếu lễ. Thậm chí ăn nói chẳng
nhũn nhặn, thiếu hẳn lễ độ theo lẽ thường, ôm ḷng coi thường thầy. Hạng người
ấy cố nhiên chẳng khác cầm thú cho mấy! C̣n kẻ
làm thầy để mở mang đầu óc cho trẻ nhỏ, có âm đức lớn nhất, há
có nên v́ nhận quà cáp, lương bổng của người
ta mà dung túng trẻ, chẳng [dạy dỗ] nghiêm ngặt,
đến nỗi kẻ khác mắc họa chẳng thành
tài ư? Thầy làm bài tập thay cho tṛ, dối gạt phụ
huynh. Do tham cầu tiền bạc, bèn hối lộ mua chuộc
công danh, tôi chẳng biết sự báo ứng của họ
sẽ như thế nào? Khinh mạn thầy cố nhiên là
chẳng nên, nhưng kẻ làm thầy lại khiến cho kẻ
khác khinh mạn th́ lại càng chẳng nên vậy!
Hán Minh Đế tôn Hoàn Vinh[74]
làm thầy, dốc trọn ḷng thành kính. Vua đến phủ
Thái Thường, bảo Hoàn Vinh ngồi ở phía Đông, bày
gậy chống[75],
nhóm họp bá quan kính lễ thầy.
Đời Tống, Du Tạc
và Dương Thời cùng theo học với Tŕnh Di. Một
hôm, họ đến gặp thầy, ngẫu nhiên Tŕnh Di
đang tĩnh tọa. Hai ông đứng hầu. Khi Tŕnh Di
tĩnh tọa xong, ngoài cửa, tuyết đă xuống dầy
chừng cả thước. Thế mà [hai ông] chẳng có
dáng vẻ ủ rũ, càng cẩn thận giữ ḷng cung
kính hơn. Hai ông đều truyền thừa đạo học
của Liêm Lạc[76].
Đời Tống, Bành Nhữ
Lệ tôn Nghê Thiên Ẩn làm thầy, lễ tiết, phụng
sự tột bậc cung kính. Về sau, vợ chồng ông
Nghê đều mất, do ông bà không có con trai, ông Bành bèn đứng
ra chôn cất. Lại c̣n gả con gái của họ cho tiến
sĩ Tống Hoán. Đời
Tống, thầy của Nhạc Vũ Mục (Nhạc Phi)
là Châu Đồng, dạy Nhạc Phi bắn cung nặng
đến ba trăm cân. Châu Đồng chết. Mồng Một
và ngày Rằm, Nhạc Phi ắt bày cỗ cúng tế trước
mộ, quỳ lạy, khóc lóc, cầm cung tên do Châu Đồng
đă tặng, bắn ba phát rồi mới quay về.
Một nông gia sanh được
một con trai, ư hết sức tha thiết lo cho con học
hành, nhưng đối đăi với thầy qua quít, khinh mạn
khôn sánh. Cơm chỉ là ăn với rau, trả
lương ắt dùng bạc xấu. Thầy tận tâm dạy dỗ
đă lâu, tṛ đọc văn của người khác th́ hiểu
rơ ràng, nhưng nó tự viết văn th́ chẳng câu nào nên hồn, cũng lạ thay! Về sau,
[đứa trẻ ấy] vẫn làm nghề nông.
Một vị thầy khá nhát
gan, có đứa học tṛ lanh lợi lại nghịch ngợm.
Nó dán giấy làm thành đầu người khổng lồ,
ban đêm đem giơ lên ở ngoài tường. Thầy kinh hoảng,
tông cửa chạy, đến ở nhờ nhà bạn bè. Bệnh
ba ngày mới dậy được, rốt cuộc chẳng
dám đến dạy nữa. Về sau, đứa học
tṛ ấy lại nấp ở ngoài tường, trông thấy
đầu người khổng lồ, ngỡ là cái đầu
do ḿnh đă dán, liền nh́n nó. Thấy nó liếc mắt, vểnh
râu, đứa học tṛ kinh hoảng, ngă lăn ra chết.
Đạo thờ thầy
hăy nên như con em phụng sự cha anh. Đi th́ theo sau, ngồi
th́ ở bên cạnh. Đi đường gặp thầy
bèn đứng thẳng, chắp tay. [Khi thầy] nói năng
bèn trống ḷng, lắng tai nghe. Khi thầy gặp tai họa
hay có chuyện lo buồn, th́ [cảm thấy] giống
như là chuyện cát hung họa phước của chính
ḿnh. Thầy c̣n sống bèn giữ lễ tiết cẩn thận.
Thầy đă mất, ắt tâm tang ba năm. Như thế
th́ gần như đă trọn hết đạo thầy
tṛ vậy.
Ông Vương X… dạy vỡ
ḷng cho trẻ, ắt trọn hết tâm lực, chẳng
màng công sá. Thường nói: “Trời, đất, vua, cha mẹ,
thầy, năm ngôi ấy xếp ngang nhau. Trẻ nhỏ một
phen tôn ta làm thầy, ắt sự thành bại vinh nhục
suốt cả một đời nó đều là trách nhiệm
của ta. Nếu chẳng tận tâm kiệt lực, khiến
cho con em người khác bị lỡ làng, sẽ có tội
giống như gă thầy thuốc dốt giết người”.
Ông lại thích kể cho trẻ nghe những câu chuyện hiếu
đễ. Ông nói: “Người đi học th́ trước
hết là học tâm thuật, rồi mới học văn
chương, nghề khéo. Trước hết phải vun
quén căn bản rồi mới thực hiện ḷng nhân. Nếu
hiếu đễ thiếu sót, dẫu tài hoa lừng lẫy
cơi đời, chẳng đáng coi trọng!” Về già, ông
sanh ra Văn Khang Công, mọi người bảo đó là quả
báo của sự khéo dạy học tṛ.
Gần đây, đạo thầy
tṛ suy bại, thật đáng đau đớn khóc ṛng, than
dài sườn sượt! [Kẻ làm thầy] chẳng
nghĩ [tránh sao cho khỏi dạy dỗ] lầm lạc con
em của người ta, chắc chắn sẽ bị thần
minh khiển trách. Xưa có một nho sĩ, tuổi đă
ngoài sáu mươi, bảo vợ: “Ta tuy chẳng có
công danh hiển đạt. May là suốt đời gặp
chỗ dạy học tốt đẹp, nên có thể thành
gia lập nghiệp”. Ban đêm, ông ta mộng thấy cha
ḿnh quở mắng: “Ngươi đúng ra là kẻ đỗ
đạt. Chỉ v́ lúc dạy học thiếu trách nhiệm,
cho nên đức Văn Xương gạt tên khỏi sổ
quế, thế mà c̣n khoác lác ư?” Ôi! Xét theo đó, khiến
cho con em người khác lầm lỡ cũng nguy hiểm lắm
thay!
“Sự”
(事) ở đây là kẻ dưới phụng sự
người trên, như cấp dưới phụng sự
quan trên, bộ hạ, lính tráng tuân theo tướng, soái, nô bộc,
tỳ thiếp vâng theo chủ nhân, đều là Sự cả.
“Bạn” (叛, phản bội, phản loạn) chẳng phải
là trái nghịch hiển nhiên, nhưng lúc người trên gặp
cảnh cấp bách, [kẻ dưới] bèn chẳng phải
là kẻ trông cậy được, [hoặc kẻ dưới]
chẳng bận tâm đến điều lợi lẽ hại
của người trên th́ gọi là Bạn vậy!
Thời Tam Quốc, Lữ Bố
theo pḥ Đinh Nguyên, [Đinh Nguyên] đối đăi [Lữ
Bố] rất thân thiết, rồi v́ Đổng Trác mà [Lữ
Bố] giết Đinh Nguyên. Đă theo pḥ Đổng Trác,
thề làm cha con, lại v́ Vương Doăn [hứa gả Điêu Thuyền
cho] mà giết Đổng Trác. Về
sau, Lữ Bố bị quân Tào bắt được. Tào
Tháo muốn tha cho [Lữ Bố] sống [để dùng làm
thuộc hạ], Lưu Bị nói: “Minh công chẳng thấy
Lữ Bố phụng sự Đinh Nguyên, Đổng Trác
ư?” Tào Tháo tỉnh ngộ, bèn sai người thắt cổ Lữ Bố cho
chết.
Dương Trung ở huyện
Tứ Minh là nô bộc của Đới Hiến. Họ
Đới rất giàu, sai Dương Trung làm chủ một
gia trang, nguồn lợi từ cá, muối, tre, gỗ rất
phong phú. Đới Hiến chết, con là Bá Giản c̣n trẻ,
thích lêu lổng với lũ trẻ tuổi bất
lương. Được mấy năm, tiêu sạch gia sản,
chỉ c̣n sót lại một trang trại ấy. Bá Giản
đến nương cậy. Dương Trung ghi chép con số
tài sản đưa cho xem. Bá Giản vui mừng, vẫn
tiêu xài bừa băi như cũ. Dương Trung khóc lóc can
ngăn, Bá Giản chẳng nghe. Một hôm, lũ bạn lêu
lổng ấy lại kéo đến, xúm nhau nhậu nhẹt,
cờ bạc. Dương Trung cầm đao bén tiến
vào, thộp cổ thằng cầm đầu, nhiều
lượt bảo: “Tao phụng sự chủ nhân hơn ba
mươi năm. Thiếu gia c̣n trẻ, bị chúng mày dụ
dỗ làm chuyện bất thiện, gia sản tan sạch.
May là tao c̣n giữ được sản nghiệp
này. Mày cứ muốn phá sạch ư? Tao chém rụng đầu
mày rồi lên quan đầu thú xin được chết
để báo đáp chủ nhân dưới ḷng đất”.
Thằng đó nhận tội, xin hứa từ nay chẳng
dám đến nữa. Dương Trung cho nó một ít tiền, đuổi
đi. Dương Trung khóc lóc, tạ tội: “Lăo nô kinh
động, xúc phạm thiếu gia, nguyện từ nay ngài hăy sửa đổi
những hành vi trước kia. Chỉ mong nghe theo lời
lăo nô tận tâm dốc sức, chẳng đầy hai, ba
năm, cơ nghiệp cũ sẽ có thể khôi phục. Nếu
không, lăo nô sẽ d́m ḿnh xuống biển, chẳng đành
ḷng thấy thiếu gia chết đói, để nhục cho môn hộ”. Bá Giản hổ thẹn, khóc lóc, vâng
theo. Mấy năm sau, quả nhiên khôi phục trọn vẹn
ruộng nương, nhà cửa. Về sau, Dương Trung
hưởng thượng thọ.
Từng nghe nói ở Ngô Quận
có ông Trầm Hằng Cát nuôi một con chó. Về sau, Hằng
Cát bị bệnh, chó bèn chẳng ăn. Tới khi ông chết,
con chó tru ầm lên suốt đêm mới thôi. Qua năm sau,
đưa ma, chó bèn va đầu vào sườn mộ chết.
Con chó có nghĩa thay! Những kẻ gặp chuyện liên
quan đến sống chết bèn biến đổi khí tiết,
thay đổi tấm ḷng, đúng là chẳng bằng con chó
có nghĩa vậy!
(Chánh văn) Cuống chư vô thức,
báng chư đồng học.
(正文)誑諸無識,謗諸同學。
(Chánh văn: Lừa dối kẻ
chẳng hiểu biết, gièm báng bạn học).
Đối với kẻ chẳng
hiểu biết, đúng là phải nên thuận
theo từng sự mà chỉ bảo cho họ, dùng nghĩa
lư nhắc nhở, dùng điều thiện lẽ ác khiến
cho họ động tâm, khiến cho họ giác ngộ, chẳng
đọa trong mê hoặc. Há có nên v́ họ dễ bị khinh rẻ mà dối gạt họ ư? Kinh Lăng Nghiêm dạy:
“Huyễn hoặc vô thức,
nghi ngộ chúng sanh, tử hậu đương đọa
nhập Vô Gián địa ngục” (Kẻ lừa
bịp người không hiểu biết, khiến cho chúng
sanh nghi ngờ, lầm lạc, sau khi chết sẽ đọa
vào địa ngục Vô Gián). Ôi! Sao người ta lại
khổ sở làm chuyện như thế?
Ông Lưu Hợp Phong nói:
- Có ba người cùng đi,
tới một khe suối. Nhằm đúng lúc nước suối
dâng cao, mà thuyền ở bờ đối diện. Trong
đó, có một người rất ngu, [hai người
kia] bèn dụ người ấy cởi quần áo bơi
qua lấy thuyền. Người ấy ngụp lặn
trong nước xiết, vượt qua được bờ
kia. Lại chống thuyền quay về chở hai người
kia. Hai người kia lên thuyền; kẻ ngu bỗng đau
bụng muốn đi tiêu, vội lên bờ.
Hai người kia vẫy tay bảo: “Mặt trời đă
lặn rồi, không thể chờ ngươi được”.
Bèn chống thuyền đi. Chốc lát, do nước chảy
xiết, thuyền xoay ngang, họ đều bị lật
thuyền, chết ch́m. Người ngu ở trên bờ th́
yên ổn.
Đời Đường,
Khương Phủ mặc áo, đội mũ đạo
sĩ lên kinh đô. Do không có ai biết, bèn dối gạt
nói ḿnh đă mấy trăm tuổi, có thuật trường sanh
độ đời. Hắn phụng sự Đường
Huyền Tông, được vua ân sủng, nổi tiếng
một thời. Về sau, có một sinh viên trường
Thái Học là Kinh Nham đến gặp, hỏi: “Tiên sinh rốt
cuộc là người thuộc triều đại
nào?” Đáp: “Người đời Lương”. Hỏi:
“Có làm quan hay không?” Đáp: “Từng làm Tiết Độ Sứ
của Tây Lương Châu”. Kinh Nham quát mắng:
“Sao mà dối trá đến thế? Trên lừa dối thiên
tử, dưới bịp bợm người đời!
Nhà Lương ở Giang Nam, lấy đâu ra Tây Lương
Châu, [Nhà Lương] chỉ có tứ b́nh, tứ an, tứ
chinh, tứ trấn tướng quân, lấy đâu ra Tiết
Độ Sứ?” Khương Phủ cứng họng, hết
sức hổ thẹn. Vài ngày sau [Khương Phủ] chết ngắc!
Bạch Sầm gặp dị
nhân, được truyền toa thuốc chữa bệnh
lên nhọt ở lưng rất hiệu nghiệm. Có viên dịch
lại[77] muốn
truyền toa thuốc ấy để cứu tế rộng
khắp, đưa cho Bạch Sầm mấy chục lạng
vàng. Bạch Sầm đưa toa thuốc giả cho ông ta,
trị bệnh không công hiệu. Về sau, Bạch Sầm
bị cọp ăn thịt, bỏ lại toa thuốc thật
sự trên đường, viên dịch lại đi qua nhặt
được.
Gă thầy bói họ
Trương giỏi chiêm tinh, nhưng toàn là khéo đoán ư hướng của người đến xem bói, luận
đoán phần nhiều không đúng. Hoặc là thường
nghe theo lời dặn ngầm của kẻ khác, thốt lời
điên đảo. Do khiến cho người ta bị lầm
lỡ đại sự, về sau, [họ
tức giận] cắt lưỡi hắn, hắn chết ngắc.
Nguy Chỉnh có lần ra chợ
mua cá. Chủ nhân ngầm điều chỉnh cân để
cho Ngụy Chỉnh được lợi. Người
đánh cá đi rồi, chủ nhân nói: “Ông chỉ mua năm
cân, tôi đă ngầm [điều chỉnh cân] cho ông
được nhiều hơn, xin hăy mời tôi uống
rượu”. Nguy Chỉnh hết sức kinh hăi, đuổi
theo người dân chài đền bù đúng giá trị. Lại
mời chủ nhân uống rượu nói: “Ông chỉ muốn
có rượu thôi, sao lại lừa gạt người
nghèo để làm ǵ?” Than ôi! Người đời nay nếu
tấm ḷng có thể như ông Nguy, làm sao có chuyện lừa
gạt kẻ không hiểu biết cho được?
Bạn đồng học
t́nh như huynh đệ, huống hồ bạn bè là một
trong các mối nhân luân, há có nên thốt lời hủy báng bừa
băi, trong bụng đầy ắp gươm giáo ư? Đức Phật dạy:
- Con người đối
với bạn bè, có năm chuyện tương quan lẫn
nhau. Một là nếu đôi bên gây tạo ác nghiệp, hăy
nên khuyên bảo lẫn nhau ngưng dứt [ác nghiệp]. Hai
là nếu đôi bên mắc bệnh khó trị, hăy nên chăm
sóc, điều trị lẫn nhau. Ba là đôi bên có những
điều chỉ nên nói riêng trong nhà, chớ nên nói với
người ngoài. Bốn là hăy nên tôn kính, tán thán lẫn nhau,
không ngừng lui tới với nhau, chớ nên ghi oán. Năm
là nghèo giàu khác nhau, hăy nên giúp đỡ, đừng nên phỉ
báng lẫn nhau!
Nếu hỏi: “Sau khi
chơi với bạn, biết bạn chẳng lành, muốn
đoạn tuyệt, lại sợ thương tổn
t́nh cảm. Chẳng nghỉ chơi th́ lại là ẩn giấu
ḷng oán hận mà kết giao?” Châu Tử nói: “Đấy chẳng
phải là ẩn giấu ḷng oán. Nếu trong tâm ôm nỗi hờn
oán mà bề ngoài làm ra vẻ thân thiết, đó là ẩn giấu
ḷng oán. Nếu bạn bè chẳng tốt, [xét theo] t́nh nghĩa đáng nên chẳng thân thiết,
nhưng để lợt
lạt t́nh nghĩa th́ phải nên từ từ nhạt dần.
Nếu chẳng có chuyện ǵ hệ trọng, cần ǵ phải
cắt phăng t́nh bạn? Hăy nên tích chứa ḷng thành, khiến
họ cảm ngộ. Đó gọi là “đối đăi với người thân chẳng
đánh mất t́nh thân, đối với bạn bè đă
lâu chẳng đánh mất t́nh cố cựu”.
Đời Minh, tiên sinh
Dương Minh Vương Thủ Nhân nói:
- Giao du bạn bè chánh yếu
là khiêm tốn, nhún ḿnh. Khi tụ hội, cần nên trống
ḷng, khiêm nhường, thân thiết, tôn kính, bao dung. Nói chung
là ít uốn nắn, chỉ trích, mà là dùng sự chân thành để cảm động, khích lệ,
khuyến khích cho nhiều.
Ông Ôn Tiết Hiếu nói:
- Chơi với bạn, chỉ
quan tâm đến ưu điểm của họ, chẳng
màng khuyết điểm! Gặp người tánh t́nh cứng
cỏi, hăy chịu đựng sự nóng nảy của họ.
Gặp người rất tài hoa, hăy chịu đựng
thói quen không câu thúc của họ. Gặp người chất
phác, trung hậu, hăy chịu đựng tính khí chậm chạp
của họ. Gặp người khinh bạc phóng túng, hăy
chịu đựng tính hời hợt, bộp chộp của
họ. Không chỉ là được lợi ích vô lượng
mà c̣n trọn vẹn t́nh bạn bè.
Đời Tống, Trương
Thiên Tải, hiệu là Nhất Ngạc,
làm bạn với Văn Sơn[78]. Khi Văn
Sơn quư hiển, Thiên Tải đă nhiều lần tránh né, không gặp gỡ. Tới khi
Văn Sơn chiến bại, bị giải về Cát Châu.
Thiên Tải ngầm đến
gặp, nói: “Thừa Tướng! Nếu Ngài bị
đưa về đất Yên (Bắc Kinh), Thiên Tải
cũng đi theo”. [Sau đó, khi Văn Sơn bị giải
về phương Bắc, Thiên Tải cũng] đến ở
gần bên chỗ Văn Sơn bị cầm tù, suốt ba
năm châu cấp Văn Sơn chẳng thiếu sót. Ngày
Văn Sơn bị hành quyết, Thiên Tải
ngầm giấu đầu Văn Sơn trong tráp gỗ, ḍ
t́m vợ Văn Sơn là bà Âu Dương trong đám tù nhân,
liền thiêu xác, thu nhặt hài cốt[79]
để trong đăy, ôm tráp đi về phương Nam,
giao cho gia đ́nh của Văn Sơn an táng. Trước đó một hôm, con Văn
Sơn mộng thấy cha nói: “Bác của con đă về tới
rồi”. Chẳng lâu sau, quả nhiên [Trương Thiên Tải]
tới nơi. Người đời sau gọi “t́nh bạn
sống chết” là Thiên Tải Nhất Ngạc, đúng vậy
thay!
Trầm Trọng Hóa nói:
- Thiếu sót t́nh bạn với
người đă khuất c̣n tệ hơn thiếu sót t́nh
bạn với người c̣n sống. Nay kẻ làm bạn
với nhau, hăy tự hỏi có thể chẳng thay đổi
tấm ḷng trong cảnh sanh tử hay chăng?
Đời Tống, Quách Chí
lúc mới nổi tiếng về tài viết những bài
phú, bạn học là Lư Miễn đố kỵ bèn gièm báng.
Do vậy, Lư Miễn thi măi không đậu. Về sau, Quách
Chí đă đỗ đạt trước, lại làm
Tri Cống Cử[80],
Lư Miễn mới nhờ khoa thi Minh Kinh[81]
mà được có tên để dự thi [Tiến Sĩ].
Ngày ban chiếu [công bố quan chánh chủ khảo là Quách Chí],
Lư Miễn hổ thẹn bỏ về. Quách Chí nghe tin, lập
tức [sai người] đem Lư Miễn trở lại, do
vậy [Lư Miễn] bèn thi đỗ. Có thể thấy là
gièm báng chẳng tổn hại người khác, chỉ tự
ḿnh chuốc lấy nỗi khắc bạc vậy!
(Chánh văn) Hư vu trá ngụy,
công can tông thân.
(正文)虛誣詐偽,攻訐宗親。
(Chánh văn: Đặt điều
vu cáo hư vọng, xảo trá, dối gạt, công kích thân
thuộc).
Khinh mạn vô căn cứ
th́ là Hư (虛). Xằng bậy đặt chuyện nói xấu, miệt
thị là Vu (誣). Dùng quỷ kế gạt gẫm người khác
là Trá (詐). Dùng những cách thức dối đời trái lẽ
th́ gọi là Ngụy (偽). Nói tách ra th́ là bốn điều, nói gộp lại
sẽ là ‘chẳng chân thành’. “Thành”
là đạo của trời, suy nghĩ chân thành là đạo
của người. Nay bỏ ḷng thành, noi theo hư vu trá ngụy,
chẳng phải là trái nghịch đạo trời,
đánh mất đạo người hay sao? Cái tâm ấy
quá nhọc nhằn, chuyện ấy quá nguy hiểm[82],
chính là tướng trạng bạc phước nhất
trong thiên hạ! Chẳng vào tam ác đạo th́ sẽ
đi về đâu?
Đời Thanh, Tôn Đ́nh Thuyên
ở Ích Đô là người chất phác, chẳng phù phiếm.
V́ thế, Thanh Thế Tổ (vua Thuận Trị) từng gọi ông ta là Tôn Lăo Thật (ông Tôn thật thà). Mỗi
khi chức vị Thượng Thư ở các bộ bị
khuyết, vua liền bảo: “Vẫn là dùng Tôn Lăo Thật [điền
vào đó]”. Do ba lần gọi Tôn Lăo Thật như thế,
ông được phong làm Tể Tướng[83].
Thật thà có bao giờ khiến cho người ta bị lầm
lỡ đâu nhỉ?
Tiết Phu chuyên bịa chuyện để làm đơn thưa kiện, có thể tô vẽ chuyện
vô lư thành hữu lư. Hắn dùng chuyện này để làm
giàu. Về sau, hắn làm trai đàn để tạ tội.
Đạo sĩ phủ phục, sau đó đứng dậy
nói: “Thượng Đế đă phê vào tờ biểu [tấu
tŕnh xin tha tội của ngươi như sau]: Nhà th́ phó
cho hỏa ty, người th́ giao cho thủy ty”. Về sau,
quả nhiên nhà hắn cháy sạch, Tiết Phu ngă xuống
nước chết đuối.
Thời Ngũ Đại,
người xứ Mân[84]
là Tiết Văn Kiệt có hiềm khích với Ngô Anh. Một
hôm, chúa nước Mân là Vương Lân (Vương Diên
Quân) sai đồng cốt nh́n xem trong cung có quỷ hay không.
Trước đó, Văn Kiệt đă nói với Ngô Anh:
“Chúa thượng ngờ ông quyền cao chức trọng,
ông hăy nên cáo bệnh. Nếu vua sai sứ giả đến
hỏi, hăy nên thưa là bị đau đầu. Tôi có thể
nói giúp cho ông”. Ngô Anh vâng theo. Văn Kiệt dặn gă đồng
cốt nói: “Ngô Anh sắp làm phản, bị Thượng
Đế lấy đinh bằng đồng đóng vào năo”.
Vua sai người đến [nhà Ngô Anh] ḍ xét, quả nhiên, Ngô Anh thưa là bị đau đầu.
Vua liền giết Ngô Anh. Ngô Anh bị vu cáo, dân chúng đều
nghiến răng. Khéo sao, Vương Lân phát binh chống lại
nước Ngô[85],
quân sĩ không chịu tiến, đ̣i cầm tù Tiết Văn
Kiệt mới chịu tiến. Vương Lân bất
đắc dĩ, cùm hắn lại, đưa vào trong quân.
Quân sĩ xúm lại xả thịt hắn hết sạch.
Đời Tống, Triệu
Đ́nh Thần giả vờ lập thỏa ước với
người Động Nhung[86],
dụ họ đầu hàng triều đ́nh, [đăi họ
ăn uống] no say rồi giết sạch, rêu rao họ
làm phản, dối trá tâu đó là công lao [dẹp loạn] của
chính ḿnh. Họ Triệu bèn được thăng thưởng
hiển hách. Về sau, hắn mộng thấy những
người đă bị giết nói: “Sẽ đến báo
thù sự dối trá của mày”. Về sau, hắn sanh
được một đứa con trai. Nó c̣n trẻ mà
đă đỗ đạt, bỗng dưng cuồng nghịch,
phạm pháp, [liên lụy đến] Triệu Đ́nh Thần
và vợ bị đày ra vùng Lănh Nam, bị người
Động Nhung giết chết.
Đời Tống, Đinh Vị
chẳng nói lời chân thật với người khác, từng
bảo: “Nếu ai thật tâm sẽ chẳng làm nổi mọi
việc, chỉ luôn bị kẻ khác khinh lấn”. Đinh Vị giữ
ḷng trí trá như thế, khiến cho người khác chẳng
thể ḍ lường được, bèn bị người
đương thời xếp vào Ngũ Quỷ[87],
há có phải là do cái tâm trá ngụy mà không chuyện ǵ chẳng
làm đó ư?
Cùng họ là Tông (宗), khác họ
là Thân (親)[88]. Tuy có xa,
gần, thân, sơ khác nhau, thật sự đều là những
người có mối quan hệ thân thiết với ta, hăy
nên đối đăi bằng ḷng thân ái, trung thành. Cùng chia sẻ
hoạn nạn, giúp đỡ người khốn cùng. Giấu
giếm những điều xấu trong nhà cho nhau, cùng
ngăn ngừa sự lấn hiếp từ bên ngoài, há nên
tranh chấp lẫn nhau, so đo từng ly từng tư một,
giận dữ, ghen ghét, chiếm đoạt, xét nét, công kích
hay chăng? Lặt cành làm đau ḷng cây, chặt đứt
rễ khiến cho mạng mạch của nó chấm dứt,
hăy nên răn dè!
Đời Xuân Thu, Yến
B́nh Trọng[89] đi
xe rách nát, cỡi ngựa gầy. Hoàn Tử cho rằng ông
ta cố t́nh ẩn giấu sự ban thưởng của
vua. Yến Tử (Yến B́nh Trọng) nói: “Kể từ khi thần được hiển quư, họ bên cha
không ai chẳng ngồi xe. Họ bên mẹ không ai chẳng
cơm áo no đủ. Họ bên vợ không ai đói lạnh.
Học tṛ nước Tề nhờ thần mà có cái để
thổi lửa nấu cơm hơn ba trăm người.
Như thế là ẩn giấu sự ban thưởng của
quân vương, hay là phô bày ân vua ban thưởng vậy?
Trước là họ bên cha, rồi đến họ bên mẹ,
sau là họ bên vợ, cuối cùng là đến những
người xa lạ. Đó gọi là [giúp đỡ] từ người
thân thiết cho đến người xa lạ vậy”. Có thể nói Yến Tử khéo đối
xử ḥa mục với họ hàng. Người có tấm
ḷng ấy, há có thói tệ công kích [thân thích] ư? V́ thế,
nêu ra chuyện này nhằm khuyên nhủ những kẻ phạm
lỗi công kích, mà ác báo của kẻ công kích cố nhiên cũng chẳng cần phải nêu ra nữa!
(Chánh văn) Cang cường bất
nhân, ngận lệ tự dụng.
(正文)剛強不仁,很戾自用。
(Chánh
văn: Ương
bướng bất nhân, độc ác, tàn nhẫn, tự
cho là đúng).
Khổng Tử chủ
trương cương nghị là chú trọng nơi lư.
Thái Thượng răn nhắc về “cang cường” (cứng cỏi, ương ngạnh)
là nói đến sự dẫn khởi từ tánh khí. Các thầy
thuốc gọi chứng tê bại là “bất nhân” với ư nghĩa “chẳng biết đau, ngứa”. V́ thế, kẻ
ưa ương bướng, hành sự thuận theo t́nh cảm
xung động khi đăi người tiếp vật, sẽ
chẳng có chút thông cảm nào, thuần là ư niệm cạn tàu ráo máng, thế tục gọi [tánh khí như vậy] là “tấm ḷng sắt đá”, làm
sao có thể nhân từ cho được? Nhưng kẻ
ương ngạnh chẳng có kẻ nào không bị chiết
phục. Nếu họ đă nếm trải mấy phen thua
thiệt to lớn, sẽ dần dần hóa thành mềm mỏng.
Đấy là chuyện muôn phần may mắn của kẻ
ương ngạnh vậy, tôi hằng ngày đều mong mỏi.
Đời Tống, Bao Chửng[90]
làm Long Đồ Các Học Sĩ[91],
có tên thụy là Hiếu Túc. Ông tánh t́nh cương trực, bất
khuất. Thuộc hạ có điều bẩm cáo, ông
thường phê b́nh ngay mặt [nếu nói những điều
chẳng hợp lư]. Nếu lời họ thưa tŕnh
đúng lư, cũng chưa hề không vui mừng, thay đổi
[theo ư kiến đề xuất]. Do vậy, mọi người
đều kính phục. Phàm cứng cỏi mà hợp lư, gặp
chuyện bèn có thể phán đoán rơ ràng, chánh xác, đấy
là dũng khí của bậc có ḷng nhân vậy.
Đời Tống,
Trương Nhữ Khánh làm Đề H́nh. Mỗi khi thẩm
vấn tù phạm, bất luận phạm tội nặng
hay nhẹ, đều sử dụng toàn bộ các dụng
cụ hành h́nh, gọi là “đả
nhất sáo” (đánh trọn
một bộ). Những kẻ bị ông ra tra khảo đều
gọi Trương Nhữ Khánh là “Diêm La thôi đáo” (kẻ đẩy người khác đến chỗ vua Diêm La). Về
sau, hết nhiệm kỳ, Nhữ Khánh quay về, thuyền
đi đến Cao Bưu, đêm nằm mộng thấy mấy
trăm người toác đầu, găy chân, vây quanh đ̣i mạng.
Về đến nhà, giữa ban ngày mà thấy lệ quỷ,
thất khiếu tuôn máu mà chết. Phàm là kẻ ngang ngược,
hung bạo, sẽ chẳng được chết yên lành,
cố nhiên chẳng cần phải nói nữa! Nhưng sau
khi đă chết, c̣n phải thọ báo trong tam đồ,
cho đến khi nào mới được thoát khỏi? Cứ
từ câu chuyện này mà suy, hết thảy những kẻ
cứng rắn đến nỗi gần như hung bạo,
do quen thói cường bạo mà gần như là kẻ giặc,
cũng đáng nên phản tỉnh!
Phàm là người làm việc,
tham khảo ư kiến của người khác th́ là trí, tự
cho ḿnh là đúng th́ ngu. Tự cho ḿnh là đúng c̣n chẳng
nên, huống hồ hung hăn, tàn nhẫn. Đức Phật
nói hung hăn, tàn nhẫn giống như ngựa ác, đáng gọi
là khó thuần phục. Con người hung hăn, tàn nhẫn,
đối với hết thảy [mọi sự, mọi việc] đều chấp chặt ư kiến của chính
ḿnh, tự cho là đúng, chẳng chịu phục kẻ
khác. Bạn lành, tri thức ai đến thân cận? Lời
lành, lư hay, lấy ai bảo ban? Đấy là cội
nguồn tạo ác, chuốc hận, không chi hơn chuyện
này.
Đời Tống, Vương
An Thạch hẹp ḥi, đố kỵ, giả vờ hiền
thiện, giấu ác, kéo bè kết đảng để trừ
khử những kẻ khác ư, cưỡng từ đoạt
lư, tự cho ḿnh [là người có phẩm đức tốt
đẹp] như Cao, Quỳ, Tắc, Khế[92].
[Thật ra, hắn ta là] nhân tài khiến cho chánh sự bại
hoại, là kẻ mang tấm ḷng phá hoại học thuật!
Trong tác phẩm Tam Kinh Tân Nghĩa và Tự Thuyết của
hắn, những chỗ hủy báng, vu vạ, miệt thị
thánh nhân, phá nát đại đạo, không chỉ là một
điều! Kinh Xuân Thu phân định chánh đáng danh phận
[vua tôi, cha con…], đặt định tiêu chuẩn khen chê
(đánh giá các nhân vật lịch sử), khiến cho bọn
loạn thần, tặc tử kinh sợ. Vương An Thạch
khiến cho người học chẳng nghiên cứu kinh
Xuân Thu. Sử Kư và Hán Thư chép những chuyện thành, bại,
an nguy, sanh tử, tồn vong, b́nh trị, loạn lạc,
chính là những tấm gương soi, là khuôn phép cho cơi
đời. Vương An Thạch khiến cho người
học chẳng đọc Sử Kư, Hán Thư. [Đối
với chuyện] Dương Hùng[93]
không kết tội Vương Măng soán đoạt, phê phán kịch
liệt nhà Tần, ca tụng nhà Tân, Vương An Thạch
bèn viết: “Phù hợp với cách nói ‘vô khả, vô bất khả’[94]
của Khổng Tử”. Đối với chuyện Phùng
Đạo thờ bốn họ, tám vua[95],
Vương An Thạch bèn viết: “Khéo tránh nạn để
bảo toàn cái thân”, khiến cho hàng công khanh đều vâng
theo lời ấy, chẳng có khí tiết, trung nghĩa. Thoạt
đầu, An Thạch đối xử ḥa hảo với
các bậc hiền thần. Do tranh chấp về “tân pháp” chẳng
hợp ư, hắn đều bài xích, lưu đày họ. Con
trai của hắn là Bàng c̣n nói: “Chặt đầu Hàn Kỳ,
Phú Bật ngoài chợ, tân pháp mới thực hành được”.
Như vậy th́ có thể biết Vương An Thạch
là hạng người như thế nào!
Về sau, do người công
kích [tân pháp] quá đông, hắn càng thêm ngạo mạn, hung
hăn, phóng túng, hoang đường, bảo: “Điềm trời
biến đổi chẳng đáng sợ, lời người
khác [phê phán] chẳng đáng quan tâm, pháp tắc của tổ
tiên chẳng đáng tuân thủ”. Tội nặng nề,
điều ác ngập tràn. Con trai duy nhất của Vương
An Thạch là Bàng lưng mọc nhọt độc, chết
yểu. Hắn đau thương khôn cầm, nhiều lần
lấy cớ bệnh tật xin từ chức. Về sau,
Tống Thần Tông chán ghét, băi chức hắn ta. Trên là
không được vua sủng ái, dưới là buồn bă
v́ tuyệt tự, giữa là bị người đời
ghét bỏ. Những bậc hiền năng bị hắn bài xích, xua đuổi trước kia, nối tiếp nhau nắm
quyền, phế sạch tân pháp của hắn. Vương
An Thạch hổ thẹn, sợ hăi mà chết.
(Chánh văn) Thị phi bất
đáng, hướng bối quai nghi.
(正文)是非不當,向背乖宜。
(Chánh văn: Chẳng phân biệt
đúng sai, hành xử không thích đáng).
Bậc quân tử khiến
cho căn cội nhân nghĩa tăng trưởng phong phú, củng
cố pḥng vệ lễ nghĩa, sẽ có công năng thẩm
định tốt, xấu, phân định thích đáng
đúng, sai. Đối với mỗi người, đúng
sai có liên quan đến điều thiện, lẽ ác của
chính người đó. Đối với một làng,
đúng sai sẽ có liên quan đến điều lợi, lẽ
hại của làng ấy. Đối với thiên hạ,
đúng sai liên quan đến sự an nguy trong thiên hạ.
Há có thể chẳng thận trọng, khinh suất [hành xử]
chẳng thích đáng, coi sai là đúng, coi đúng là sai ư?
Đời Tống, Doăn
Sư Lỗ giữ ḿnh, dạy người, khẳng định
đúng sai chánh xác, chẳng có ǵ phải giấu giếm, chẳng
làm chuyện cẩu thả, chỉ chú trọng hết sức
phù hợp đạo lư. Khi lâm chung, ông viết thư từ
biệt Phạm Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm).
Văn Chánh bươn bả tới nơi, ông đă tắm
rửa, đội măo, thắt đai, ngồi ngay ngắn
qua đời. Văn Chánh Công đau đớn, khóc lóc. Ông
lại mở mắt, bảo: “Đă từ biệt ông rồi,
sao ông lại tới để làm ǵ? Sống
chết là lẽ thường hằng, sao Hy Văn[96]
chẳng hiểu vậy?” Nói xong, lại chắp tay [từ
biệt], qua đời. Thuở ấy, [đạo đức,
học vấn] của ông Doăn được người
đương thời học theo. Nếu chẳng thấu
hiểu cùng tận tinh vi th́ trong lúc tử sanh, những chuyện dấy lên quấy nhiễu ta sẽ nhiều lắm! Nói “nhập đạo vận dụng
cả tri lẫn hành, nhưng tri càng quan trọng hơn”
chính là nói đến lẽ này.
Đời Tống, Thái Kinh làm
Tể Tướng trong các niên hiệu Nguyên Hựu và cuối
niên hiệu Nguyên Phù[97],
đă cáo buộc tể tướng Tư Mă Quang, thị thần[98]
như Tô Thức v.v… quan văn như Tŕnh Di v.v… quan vơ
như Vương Hiến Khả v.v… [tổng cộng] một
trăm hai mươi người là gian đảng, xin
hoàng đế hạ chiếu, khắc tên họ lên đá ở
cửa Đoan Lễ và các châu huyện [để công bố
tội trạng]. Dân chúng đều bất b́nh. Không lâu sau,
bia đá bị sấm sét đánh nát. Thái Kinh cũng do có
chuyện [phạm tội mà bị] lưu đày rồi chết.
“Hướng”
(向) là hăy nên hướng đến, thuận theo, có
nghĩa là phải thuận theo, hướng đến những
cái được gọi là “hảo
nhân, hảo sự”. “Bối” (背) là hăy nên trái nghịch, chống lại
những thứ được gọi là “tà nhân, tà sự”. Hướng theo tà, trái nghịch
chánh th́ gọi là “quai nghi” (乖宜, chẳng hợp lẽ, chẳng thích đáng). Sơ
sót nhất thời, suốt đời thân bại danh liệt,
há có thể chẳng cẩn trọng ư?
Đời Đường,
Tống Thân Tích làm tể tướng dưới triều
vua Đường Văn Tông. Do thấy Trịnh Chú quá
chuyên quyền, [Thân Tích] muốn trừ bỏ, bèn cậy người bạn
là Vương Phan đang làm quan Kinh Triệu Lệnh (quan
trông coi kinh thành, giống như đô trưởng hiện
thời) ngầm theo dơi xem Trịnh Chú có làm chuyện ǵ chẳng
đúng pháp tắc hay không. Vương Phan do Trịnh Chú [cất
nhắc] mà được phú quư, bèn cáo giác âm mưu ấy
với hắn. Trịnh Chú sợ hăi, vu cáo ngược lại
Tống Thân Tích có hành vi sai trái, [ép vua] đày [Thân Tích] đi
làm Tư Mă ở Khai Châu (nay là Khai Huyện, tỉnh
Tứ Xuyên). Thân Tích ôm niềm phẫn hận mà chết. Về
sau, Tống phu nhân mộng thấy Tống Thân Tích dẫn tới
một cái hố ở ngoài thành. Trong hố có mấy
người tử tù. [Thân Tích] chỉ một gă bảo vợ:
“Đấy là Vương Phan, ta đă thỉnh cầu
Thượng Đế [trừng phạt hắn]”. Nhân
đấy, phẫn nộ quát tháo. Phu nhân kinh hăi, tỉnh giấc,
thầm ghi nhớ [chuyện ấy]. Không lâu sau, Lư Huấn
và Trịnh Chú mưu giết hoạn quan, xin vua sai bọn
[hoạn quan] đến doanh trại Kim Ngô để xem cam
lộ[99]. [Trước
đó, Lư Huấn và Trịnh Chú] đă sai mấy người
như Vương Phan v.v… dẫn quân đến đó [phục
sẵn] để giết bọn hoạn quan. Vương
Phan run lẩy bẩy chẳng dám tiến. Rốt cuộc
âm mưu thất bại, hắn bị chém ngang lưng ngoài
chợ. Có mấy người đều cùng bị chém,
chôn ở ngoài thành.
Đời Tống, Trung Túc
Lưu Chí[100] từng
luận định mười điều tai hại của
phép trợ dịch[101].
Vương An Thạch trách ông Lưu là kẻ hành xử
không thích đáng, giáng ông xuống trông coi Tư Nông Tự[102].
Vua xuống chiếu, ra lệnh cho ông phân tích [nguyên nhân v́ sao
phản đối]. Ông thưa: “Thần hướng theo lẽ
trung trực, phản đối tà nịnh. Hướng
theo đạo nghĩa, phản đối [chỉ chú trọng]
lợi lộc. Hướng đến đức vua, phản
đối kẻ quyền thần gian trá. Mắc tội
như thế, cố nhiên là thần đáng phải chịu.
Nhưng phép trợ dịch rốt cuộc gây hại cho
thiên hạ, xin bệ hạ đừng quên lời thần
[tâu tŕnh]”. Ai nấy đều lo sợ cho ông, riêng ông chẳng
đoái hoài. Về sau, ông làm Tể Tướng. Ông Lỗ
nói: “Hướng theo cái đáng nên hướng theo, đừng
nên hướng theo lẽ riêng tư. Chống đối những
cái đáng nên chống đối. Chống đối
cũng phải v́ lẽ công chánh. Thoạt đầu, đừng
tính toán họa phước [cho cá nhân], mà họa phước
thuận theo. Chuyện này cũng nhằm cảnh tỉnh
những kẻ không làm như ông Lưu mà cam tâm làm
Vương Phan vậy”.
(Chánh văn) Ngược hạ
thủ công, siểm thượng hy chỉ.
(正文)虐下取功,諂上希旨。
(Chánh văn: Ngược
đăi kẻ dưới để lập công, nịnh bợ
kẻ trên để đón ư [cầu lợi]).
Đuốc vào ban đêm sẽ
có công dụng trừ diệt tối tăm. Thuyền gặp
nước, ắt có công dụng chở vật. Đại
để, nước chảy thành sông ng̣i, công năng sẽ
tự thành tựu; v́ thế, chẳng cần phải chiếm lấy.
Nếu cố ư tranh giành [ḥng lập công], ắt kẻ làm
tướng sẽ dung túng cho quân lính cướp bóc, giết
chóc, kẻ làm nha lại sẽ xằng bậy tăng thêm
thuế khóa, lao dịch, kẻ làm quan trông coi h́nh pháp sẽ
ghép thêm nhiều tội cho người khác, sẽ đều
chẳng đoái hoài, thương
tiếc, mặc sức mà làm! Nhưng những
hành vi như thế ấy đều là lấy máu mỡ của dân chúng để đổi lấy công danh
cho một người! Có được công trạng, chẳng
qua là thăng quan, họa cũng xảy tới, há chỉ
là sát thân? Người tuy cực ngu, chắc chắn chẳng
đến nỗi ấy! Chẳng nh́n vào những tấm
gương của cổ nhân đó ư? Đời Tống,
Tào Bân hạ thành tŕ [của nhà Nam Đường] ở Giang Nam, chẳng tàn sát một ai. Đời
Hán, Cấp Ảm giả chiếu chỉ để mở
kho [thóc cứu đói], cứu sống mấy vạn
người. Đời Hán, Vu Định Quốc làm
Đ́nh Úy, dân chúng chẳng bị phán xử oan uổng.
Trong thuở ấy, có vị nào chẳng phải là công thần
bậc nhất?
Thời Đường Huyền
Tông, chi tiêu ngày càng xa xỉ. Vua lại không muốn lấy
tiền từ công khố[103]
để cung ứng. Viên Ngoại Lang của bộ Hộ[104]
là Vương Hồng biết ư vua, bèn đục khoét dân
chúng, [tăng thêm] những món tiền bạc ngoài hạn ngạch
tuế cống[105]
lên đến trăm ức vạn, đều chứa
trong nội khố để cung ứng cho chi dụng [của
hoàng đế]. Vua tưởng hắn có tài năng làm giàu
cho đất nước, bèn phong cho hắn làm Thái Phỏng
Sứ[106] ở
kinh đô. Không lâu sau, lại phong cho hắn làm Hộ Bộ
Thị Lang kiêm Kinh Triệu Doăn, nhưng trong ngoài đều
kêu ca, oán thán. Chẳng bao lâu, do bị liên lụy bởi em
trai là Vương Đạc [phạm tội], hắn
được ban tội chết.
Đời Tống, Vương
Thiều đề nghị khai phá vùng Hy Hà[107],
giết người quá nhiều, tích lũy công trạng làm
tới chức Xu Mật Sứ. Hắn lại thường
cố ư giết chết người già và trẻ thơ của
dân tộc Khương đă đầu hàng để lấy
thủ cấp cho bọn hương thân mạo nhận
công trạng ḥng nhận lănh chức tước. Lúc về già, hắn
hối hận, đem chuyện nhân quả hỏi các vị
trưởng lăo. Mọi người đều nói: “Do phép
vua mà giết người, giống như thuyền đi
đè chết ốc, trai, tất nhiên là vô tâm”. Chỉ có
Điêu Cảnh Thuần bảo: “Chỉ sợ là chẳng
dối gạt tự tâm được. Nếu đă chẳng
màng đến tự tâm, ắt sẽ chẳng hỏi!”
Vương Thiều càng sợ, sau lưng sanh ra nhọt
độc, luôn miệng kêu gào: “Vô số kẻ bị chặt
đầu, chặt chân đ̣i mạng”. [Ghẻ độc]
ăn sâu như cái hố lan thủng ngực, hắn bèn chết.
Con trai trưởng của hắn hộc
máu chết tươi, con trai út do phạm tội mà bị
chặt đầu, gia môn tuyệt diệt.
Người dân huyện Chân
Dương là Trương Ngũ ăn trộm trâu, những người làng như Hồ
Đạt v.v… bắt được, Trương Ngũ bị Hồ
Đạt đánh chết. Những tên trộm khác vu cáo Hồ
Đạt cướp bóc, thưa lên huyện. Ấp lệnh
(quan huyện) là Ngô Mạo muốn tranh công, hạch tội
nhóm Hồ Đạt gồm mười hai người phạm
tội cường đạo giết người. Do bị
tra khảo khốc liệt, họ phải
chấp nhận lời vu cáo ấy. Trong số đó, có hai
người là Châu Khuê và Trương Vận bị bệnh
chết. Đă tŕnh lên phủ, giao việc ấy cho cơ
quan tư pháp. Khi ấy, Trương Văn Quy trông coi về
tư pháp tại Anh Châu, xét thấy ngôn ngữ và vẻ mặt
của các tù nhân [dường như] chẳng phải là kẻ
thật sự phạm tội. Khi đă tra hỏi rơ t́nh
h́nh, lại bắt phe đảng trộm trâu ra đối
chứng. Án đă được phán định. Hồ
Đạt do đuổi trộm mà giết người, bị
phạt đánh trượng vào lưng. Những người
khác đều bị đánh vào mông. Châu Khuê và Trương
Vận [được phán] vô tội. Mưu kế của
Ngô Mạo chẳng thành, hắn hộc máu chết ngắc.
Về sau, Trương Văn Quy bỗng bị bệnh nặng,
[thần hồn] tới một dinh thự.
Trưởng quan hỏi về chuyện của Ngô Mạo,
bèn thưa tŕnh đúng sự thật. Trưởng quan bảo:
“Ta đă biết tường tận chuyện này, nay cậy
khanh tới đây để làm chứng ḥng kết thúc vụ
án, cốt ư là thẩm tra sự thật vậy”. Văn Quy trông thấy Ngô Mạo ở đằng xa, đang
bị gông cùm quỳ dưới đất. Châu Khuê và
Trương Vận đứng bên cạnh. Nha lại lấy
ra văn thư, chỉ cho Văn Quy thấy phần cuối
có ba chữ “thêm một kỷ”.
Ông tỉnh lại, bèn lành bệnh. Về sau, đến
lúc bảy mươi tám tuổi, lại mộng thấy thần
bảo: “Trước kia ông đă được tăng thọ
mười hai năm, ông lại giảm tội một
người bị chém thành tội xử giảo (treo cổ),
nên được thọ thêm nửa kỷ (sáu năm)
nữa”. Quả nhiên, [Trương Văn Quy] tám
mươi ba tuổi mới mất.
“Siểm”
(諂) là nịnh hót, “hy” (希) là tán
trợ. Ư cấp trên chưa quyết, c̣n có thể văn hồi,
chỉ v́ có kẻ đón ư xu nịnh mà [cấp trên] trở
thành kiên quyết, chẳng thể lay chuyển. Nay không chỉ
là bầy tôi đối với vua, mà c̣n là thuộc cấp
đón ư bợ đỡ thủ trưởng, thân sĩ
đón ư bợ đỡ quan phủ, nha dịch đón ư bợ
đỡ trưởng quan, nô bộc, tỳ thiếp
đón ư bợ đỡ gia chủ th́ đều là [“siểm thượng hy chỉ”].
Phàm những kẻ làm cấp trên, đối với mọi
chuyện đều nên tuân theo lư, hăy cẩn trọng, chớ
nên tham cầu lợi lộc riêng tư, khiến cho kẻ
khác có kẽ hở để luồn lách. Kẻ làm cấp
dưới, há có nên mong cầu công danh chẳng đúng lư,
mong mỏi sẽ may mắn
hưởng tiền tài bất nghĩa! Hăy nên
biết a dua, xúi giục cấp trên, uốn ḿnh luồn cúi, chỉ tổ đánh mất bản tâm, kết oán
nghiệp vô cùng!
Trong niên hiệu Tuyên Đức
nhà Minh, [Minh Tuyên Tông] đă từng sai Thái Giám Vương Tam Bảo[108]
xuống các nước phiên thuộc ở vùng Tây
Dương t́m kiếm các thứ báu vật lạ lùng. Trong
niên hiệu Thiên Thuận[109],
có kẻ tâu xin hoàng đế lại sai người [xuống
các nước Tây Dương]. Triều đ́nh sai Binh Bộ
tra cứu các tài liệu cũ [về những chuyến sứ
tŕnh ấy]. Khi ấy, Hạng Trung đang trông coi Binh Bộ,
sai thuộc hạ tra cứu. Lang Trung là Lưu Đại Hạ
tới kho trước, giấu sạch tài liệu. Các nha lại
không t́m được ǵ, kiến nghị ấy phải xếp
xó. Hạng Trung trách cứ nha lại: “Tài liệu ở
trong kho, sao lại bị mất?” Lưu Công mỉm cười
nói: “Trước kia, khi [Trịnh Ḥa đem quân] xuống các
nước Tây Dương, tốn phí gạo tiền mấy
chục vạn, quân dân bị chết không đếm xiết.
Dẫu t́m được của báu, vô ích cho đất
nước. Đối với chuyện tồi tệ này,
bậc đại thần hăy nên thống thiết can gián. Nếu
tài liệu cũ hăy c̣n, cũng nên hủy đi để
trừ căn cội [gây họa] ấy, há c̣n truy hỏi có
hay không nữa chăng?” Ông Hạng tạ tội, bảo:
“Ta suy nghĩ nông cạn, chẳng nghĩ đến lẽ
này. Một lời này của ông, âm đức động
trời. Địa vị này sẽ thuộc về ông vậy”.
Về sau, quả nhiên là như thế.
Đường Thái Tông từng
chỉ một cái cây, nói: “Cây này rất đẹp”. Vũ
Văn Sĩ Cập[110]
bèn hùa theo, ca ngợi chẳng ngớt. Vua nghiêm mặt bảo:
“Ngụy Trưng khuyên ta tránh xa kẻ nịnh nọt. Ta chẳng
biết đứa nịnh thần là ai, nay mới biết
là ngươi”. Sĩ Cập khấu đầu, thẹn
thùng, tạ lỗi.
Đời Hậu Đường,
Quách Sùng Thao đón ư của Đường Trang Tông, khuyên
vua lập Lưu Hậu[111],
cứ ngỡ là được ḷng bà ta. Về sau, kẻ
sàm báng khiến cho nhà vua giết chết Sùng Thao chính là
Lưu Hậu. Ôi! Đón ư khuyên vua nên lập
hậu, cứ ngỡ là sẽ củng cố địa vị,
đâm ra mắc phải thảm họa, siểm nịnh lại
có ích ǵ?
(Chánh văn) Thọ ân bất cảm,
niệm oán bất hưu.
(正文)受恩不感,念怨不休。
(Chánh văn: Chịu ân [người
khác mà] chẳng cảm kích, luôn ôm ḷng oán hận chẳng dứt).
Đối với ân huệ
cho một bữa cơm, cổ nhân ắt báo đáp. Nếu
không có sức báo đáp, tâm ắt luôn ngầm cảm kích.
Luôn nghĩ tưởng tới, chẳng thể quên lăng. Trí
Độ Luận có chép: “Chịu
ân mà chẳng cảm kích, tệ hơn súc sanh”. Nói hay lắm
thay! Có những ân to lớn, một là trời đất,
hai là cha mẹ, ba là quốc vương, bốn là sư
trưởng, nhưng có kẻ mơ màng suốt cả
đời, chẳng báo đáp bốn ân, chỉ chăm chút
[mong báo đáp] những ân huệ riêng tư, nhỏ nhặt.
Đấy là bỏ cội theo nhánh, chẳng phải là
người báo ân vậy!
Đời Đường,
Sử Vô Úy kết bạn với Trương Tùng Chân. Vô Úy
nhà nghèo, Tùng Chân thường châu cấp cơm áo, giúp tiền
cho Vô Úy buôn bán. Mấy năm sau, Vô Úy giàu có, Tùng Chân bị hỏa
hoạn, gia sản mất sạch. Tùng Chân đến chỗ Vô Úy, Vô Úy lại phụ
bạc t́nh nghĩa khi trước. Tùng Chân chỉ đành
đối trước trời cao nức nở mà thôi. Bỗng
mây đen kéo đến dầy đặc, sét đánh trúng
Vô Úy, hắn biến thành trâu, có chữ son viết trên bụng
rằng: “Sử Vô Úy phụ ḷng, trong ṿng mười ngày sẽ
chết”. Tục ngữ có câu: “Súc
sanh biết báo ân, như ngựa tḥng dây cương, như
chó lăn cỏ, như rắn nhả ngọc, như chim sẻ
ngậm ṿng[112].
Loài vật c̣n như thế, sao con người lại bội
nghịch ân đức, riêng ḿnh chẳng sợ biến
thành trâu ư?”
Đời Tống,
Trương Bật chẳng màng danh lợi, hiếu học,
tinh thông kinh Dịch, giúp Lư Đại Lượng thoát nạn.
Đến khi Đại Lượng sang cả, gặp
Trương Bật trên đường, ôm Trương Bật
khóc ̣a, muốn tặng hết gia tài cho. Trương Bật
cự tuyệt chẳng nhận. Đại Lượng
tâu với vua: “Thần được phụng sự bệ
hạ là do sức của Trương Bật. Xin hăy giao sạch
quan tước của thần cho ông ta”. Vua bèn phong cho
Trương Bật làm Lang Trung, giữ chức
Đô Đốc Đại Châu. Trương Bật chẳng
nghĩ ḿnh có ân đức, Đại Lượng khăng
khăng báo ân, cả hai đằng đều được
vinh hiển.
Đối với mối oan
cừu của vua, cha, mối hận cốt nhục, bậc
quân tử dùng đường lối chánh trực để
báo oán. C̣n như những mối thù riêng, nỗi oán nhỏ,
có thể thuận theo lư để giải trừ, có thể
xét theo t́nh cảm mà dung thứ, th́ oán cừu sẽ liền
tiêu tan. Nếu cứ nghĩ măi không ngơi, ắt sẽ
oan oan tương báo, há có lúc nào xong?
Đời Đường, Lư
Đức Dụ làm tướng, đă kết oán rất
nhiều. Về sau, ông ta bị biếm trích tới Châu Nhai
(vùng Đông Bắc đảo Hải Nam), thấy trên vách một
ngôi chùa treo mười mấy cái hồ lô. Hỏi ḍ vị
Sư, Sư bảo: “Đó là tro cốt của những
người đă làm mất ḷng gă Thái Úy
(tức Lư Đức Dụ) đang nắm quyền, đều bị hắn ta biếm trích tới xứ này, chết ở
nơi đây. Lăo tăng thương xót, hỏa thiêu, thu thập
hài cốt, chờ con cháu đến lấy”. Đức Dụ
nghe nói, sợ hăi bỏ đi, đau ḷng mà chết.
Đời Minh, Kim Thành làm Chủ
Sự của bộ H́nh. Lúc chưa gặp thời, từng
bị Ma Trương vây hăm làm nhục. Về sau,
Trương phạm tội, bị giải về kinh, trông
thấy Kim Thành đằng xa, bèn mỗi bước chín lạy.
Kim Thành cười đón, cứu tội cho. Ma
Trương yết kiến, Kim
Thành giữ lễ như lệ thường. Ma Trương
cảm kích khóc ̣a, gả con gái cho con trai của Kim Thành.
Vu Thiết Tiều từng
nói:
- Kẻ khác dùng thế lực
chèn ép ta, ta dùng sự độ lượng bao dung họ, ắt quét sạch
tầng tầng mây dầy, dập tắt lửa báo thù hừng
hực. V́ thế, bậc quân tử chẳng nghĩ đến điều ác
cũ.
Cảm Ứng Thiên Vựng Biên
Quyển 2 hết
[1] Bá Cầm là con trưởng của Châu Công (Cơ
Đán). Để thưởng công phù tá và nhiếp chánh của
Châu Công, Châu Thành Vương (Cơ Tụng, cháu Châu Công) đă phong cho Bá Cầm làm vua chư hầu đất
Lỗ.
[2] Sầm
Văn Bổn (595-645) là một văn học gia lừng lẫy
thời Tùy - Đường, là người
huyện Cức Dương, thuộc quận Nam
Dương. Ông có tên tự là Cảnh Nhân. Ông nổi
danh khá sớm. Đă từng làm Trung Thư Thị Lang khi
Tiêu Tiển lập chánh quyền chống lại nhà Tùy ở
Giang Lăng. Khi Đường Thái Tông (Lư Thế Dân) thống nhất sơn hà,
đă phong cho ông làm Bí Thư Lang, sai ông và Lệnh Hồ
Đức Phân biên soạn bộ sử Châu Thư (lịch
sử nhà Hậu Châu thời Ngũ Đại). Về sau,
ông được bổ làm Trung Thư Lệnh, ngang quyền
với những bầy tôi thân tín nhất của Đường
Thái Tông như Trưởng Tôn Vô Kỵ, Cao Sĩ Khiêm,
Đường Kiệm, Chử Toại Lương v.v…
Đường Thái Tông rất coi trọng ông. Khi đánh
Cao Ly, vua đă giao cho Thái Tử Lư Trị giám quốc,
nhưng quyền hành xử lư thật sự lại do ông
đảm nhiệm. Người đời sau ca ngợi
ông có phẩm cách như thừa tướng Tiêu Hà của
nhà Hán. Do tận tâm lao lực lo liệu chánh sự, ông ngă bệnh,
qua đời khi vừa được năm mươi mốt
tuổi.
Trung
Thư Lệnh là người đứng đầu Trung
Thư Tỉnh. Thoạt đầu, Trung Thư Tỉnh chỉ
có tánh chất bảo quản văn kiện, hồ sơ của
hoàng đế. Do thường gặp gỡ hoàng đế,
dần dần trở thành cố
vấn thân cận của hoàng đế. Thời Tùy - Đường,
Trung Thư Lệnh có quyền hạn như Tể Tướng.
[3] Tham Chánh là gọi tắt của chức Tham Tri
Chánh Sự, tức là phó tể tướng đời Tống.
[4] Dật (鎰) là đơn vị
đo lượng thời cổ. Một Dật là hai
mươi lượng. Có sách lại nói một Dật là
hai mươi bốn lượng.
[5] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này có nghĩa là “con cháu hiền năng th́ tự
chúng biết cách mưu sinh tốt đẹp, chẳng cần
phải dựa dẫm tiền bạc của cha mẹ, tổ tiên. Con cháu ngu độn th́ tuy có tiền bạc dư
dật trong tay, sẽ bị kẻ khác lừa mất, hay
phá tán sạch”.
[6] Ông Hoàng Bách Lâm giảng “chuyện
này” là chuyện cứu giúp người nghèo đói, “chuyện kia” là chuyện dùng
của cải bợ đỡ, xu nịnh người có
quyền thế, địa vị cao cả.
[7] Lư Sĩ Khiêm cực kỳ thông minh, tuy mới mười
hai tuổi, nhưng có nhiều mưu lược, quyết
sách khiến người khác kính phục. Do vậy, Quảng
B́nh Vương Ngụy Toản đă mời Lư Sĩ Khiêm
làm Tham Quân, tức là chức cố vấn tham mưu tuy Lư
Sĩ Khiêm vẫn c̣n là một cậu bé.
[8] Thị Lang (侍郎): Thoạt đầu,
theo quy chế đời Hán, đối với các quan lại
cấp dưới của quan Thượng Thư, năm
đầu gọi là Lang Trung. Sang năm thứ hai mới
được gọi là Thượng Thư Lang. Tṛn ba
năm mới gọi là Thị Lang. Từ đời
Đường trở đi, các chức phó quan của Tam
Tỉnh (Trung Thư, Môn Hạ và Thượng Thư) đều
gọi là Thị Lang. Nói cách khác, Thị Lang tương
đương với Thứ Trưởng.
[9] Đề
Khống (提控) có
nghĩa là chưởng quản, quản lư. Đời Tống
dùng từ ngữ này để tôn xưng những viên nha lại
làm việc dưới quyền quan Tri Châu hoặc Tri Phủ.
[10] Chủ
Sự (主事) là
chức quan thuộc về các ty trong sáu bộ, chưởng
quản văn thư, ghi chép tài liệu, sổ sách, án liệu,
quyền hạn thấp hơn Viên Ngoại Lang.
[11] Ngũ Thường là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. “Bách hạnh” là thành ngữ phiếm
chỉ các thứ đức hạnh, phẩm đức.
Trịnh Huyền chú giải kinh Thi đă viết: “Sĩ hữu bách hạnh, khả
dĩ công quá tương trừ” (kẻ sĩ có trăm
hạnh, có thể dùng công trừ lỗi).
[12] Nguyên văn “dĩ thủ
gia ngạch” (以手加額). Theo ông Hoàng Bách Lâm, đây là một nghi lễ thời
cổ, dùng hai tay bưng trán nhằm biểu thị sự
kính trọng tột bậc.
[13] Lưu đại gián: Vị này tên là Lưu An Thế,
danh nhân đời Bắc Tống. “Đại gián” (大諫) là danh
xưng gọi tắt của chức quan Gián Nghị Đại
Phu. Ông Lưu theo học với Tư Mă Quang (Tư Mă Ôn Công),
được Tư Mă Quang tiến cử vào Bí Thư Tỉnh.
Lưu An Thế tánh cương trực, từng đàn hặc
những nhân vật quyền thế đương thời
như Chương Đôn, Thái Xác, Phạm Thuần Nhân v.v…
không kiêng nể. Ông nghị luận xác đáng, công chánh, nên
cả triều đ́nh đều sợ ông, lén gọi ông
là “điện thượng hổ”
(cọp trên điện vua).
[14] Phú Bật từng làm Tể Tướng đời
Tống Thần Tông. Ông rất mực thanh liêm. Khi vào chầu
vua, các quan hoặc cưỡi ngựa hoặc ngồi xe ngựa
sang trọng, ông chỉ mua nổi một con lừa gầy,
chân nó lại bị thọt. V́ thế, ông phải đi chầu
sớm, cưỡi lừa thong thả, tập tễnh qua
cầu. Dân chúng hiếu kỳ, kéo nhau đi xem, khiến cho chợ
búa vắng tanh.
[15] Cù
Đường là một hẻm núi đầu nguồn
Trường Giang. Cù Đường cùng với
Vu Giáp và Tây Lăng Giáp, tạo thành ba hẻm núi nước
chảy xiết lừng danh gọi chung là Trường
Giang Tam Giáp. Cù Đường (c̣n có tên là Quỳ Môn) thuộc
địa phận thành phố Trùng Khánh, kéo dài từ thành Bạch
Đế ở huyện Phụng Tiết cho đến
làng Đại Khê thuộc huyện Vu Sơn, dài tám cây số.
Cù Đường nằm kẹp giữa hai dăy núi Xích Giáp
và Bạch Diêm. Trong hẻm núi này, Trường Giang có chỗ
chỉ hẹp chừng 100m, chỗ rộng nhất chỉ
là 150m, nên nước chảy xiết rất mạnh.
[16] Hai kinh đô thời Đường là Trường
An và Lạc Dương.
[17] Thiên Phủ (天府) ở đây là tên một ngôi sao trong cḥm sao Nam
Đẩu. Đây là một vị tinh quân được
tôn sùng trong Đạo giáo.
[18] Di Tề là gọi tắt của Bá Di và Thúc Tề.
Hai vị này là anh em ruột, sống vào đời
Thương, vốn là con của vua xứ Cô Trúc (Cô Trúc là một nước chư hầu của nhà Thương). Khi cha mất,
anh nhường cho em, không muốn làm vua, em cũng kiên quyết
nhường cho anh nối ngôi. Cuối cùng hai người
cùng nhau bỏ trốn sang lănh thổ của nhà Châu. Khi Châu
Vũ Vương (Cơ Phát) phạt Trụ, họ đă chặn đường
khuyên can. Sau khi Vũ Vương diệt nhà Thương,
anh em Bá Di và Thúc Tề kiên quyết không ăn gạo nhà
Châu, lánh vào núi Thủ Dương hái rau dại ăn qua
ngày. Về sau, có người nói: “Tấc đất, ngọn
rau đều là của nhà Châu, hai ông ăn rau dại th́ vẫn
là ăn rau nhà Châu”. Họ bèn nhịn đói mà chết.
[19] Nguyên Hiến là người nước Lỗ, sống
vào thời Xuân Thu, tên tự là Tử Tư, là một vị
đệ tử hữu danh của Khổng Tử. Ông nghèo
hèn nhưng vui nơi đạo. Khi Khổng Tử làm quan
Tư Khấu nước Lỗ, đă cử Tử Tư
làm người trông coi thái ấp của Khổng Tử. Về
sau, Tử Tư ẩn cư nơi chằm cỏ nước
Vệ. Ông được coi là tấm gương sáng của
những bậc an bần lạc đạo.
Phạm Bàng sống vào thời Đông Hán. Ông là
người thanh cao, liêm khiết, được người
dân trong vùng hết sức kính phục. Ông thường
đàn hặc những quan lại bậc cao,
quở trách những kẻ cậy quyền không hề e dè
trước quyền lực của họ. Chán ngán trước
cảnh triều chánh hủ bại, ông từ quan, nhưng
vẫn bị lũ gian thần hăm hại, bị tù đày,
chết trong ngục.
[20] Bộ kinh này có tên gọi đầy đủ là Phật
Di Giáo Kinh, c̣n gọi là Phật Thùy Niết Bàn Lược
Thuyết Giáo Giới Kinh, do ngài Cưu Ma La Thập dịch.
Kinh này ghi chép những lời dạy dỗ tối hậu
trước khi đức Phật nhập Niết Bàn.
[21] Kinh Xuất Diệu chính là một bản dịch khác
của kinh Pháp Cú. Kinh Pháp Cú hiện thời là bản
được lưu hành phổ biến nhất dựa
theo kinh Dhammapada chép bằng tiếng Pali. Hai bản khác là Gāndhārī Dhammapada và Udāna-varga. Kinh này có bốn bản dịch tiếng Hán:
1. Pháp Cú Kinh do nhóm tỳ-kheo Duy Kỳ
Nạn dịch vào đời Đông Ngô.
2. Pháp Cú Thí Dụ Kinh do hai vị
Pháp Cự và Pháp Lập dịch vào thời Tây Tấn.
3. Xuất Diệu Kinh do ngài Trúc Phật
Niệm dịch vào Diêu Tần.
4. Pháp Tập Yếu Tụng kinh do
ngài Thiên Tức Tai dịch vào thời Bắc Tống.
[22] Vị này là một trong bát tiên của Đạo
giáo, họ Chung Ly tên Quyền. Do ông ta sống
vào đời Hán, nên thường gọi
là Hán Chung Ly, chứ họ của ông không phải là Hán. Ông
được tôn là Chánh Dương Tổ Sư của
phái Toàn Chân, v́ theo truyền thuyết, ông đă điểm
đạo cho Lữ Động Tân (Thuần Dương Tổ
Sư). Lữ Động Tân truyền đạo cho
Vương Triết (Vương Trùng Dương),
Vương Trùng Dương sáng lập Toàn Chân Giáo.
[23] Đây là một bộ kinh của Đạo giáo, có
tên gọi đầy đủ là Cao Thượng Ngọc
Hoàng Thai Tức Kinh, không rơ tác giả, thuộc vào Động
Chân Bộ trong Đạo Tạng Kinh. Nội dung dạy về
cách hít thở (danh xưng chuyên dụng trong Đạo Giáo
là “thổ nạp”) theo các ṿng
châu thiên trong thân thể.
[24] Lư Nguyên Đoan sống vào đời Tống. Ông
làm Thái Tử Thiếu Bảo thời Tống Thần Tông rồi
Thái Tử Thái Bảo thời Tống Triết Tông, cho nên ở
đây thiền sư Đạt Quán gọi ông là Thái Úy.
Thiền sư Đạt Quán thuộc tông Lâm Tế,
có hiệu đầy đủ là Đạt Quán Đàm
Dĩnh. Thoạt đầu, Sư xuất gia theo ngài Đại
Dương Cảnh Huyền của tông Tào Động,
nhưng đắc pháp nơi tông Lâm Tế.
[25] Theo ông Hoàng Bách Lâm, câu này có nghĩa là “do tham, sân, si
chẳng đoạn, sáu căn tiếp xúc cảnh giới
sáu trần trước mắt, dấy khởi t́nh thức bèn
phan duyên, nẩy sanh tham, sân, si càng lừng lẫy, cho nên
bị trói buộc trong luân hồi chẳng thoát ra được,
giống như bị hăm sâu trong tù ngục”.
[26] Theo Đạo giáo, thiên cung nơi Ngọc Hoàng
Thượng Đế ngự được gọi là Ngọc
Kinh. Nói đúng ra, Nguyên Thỉ Thiên Tôn ngự tại Ngọc
Kinh Sơn, trong đó có Ngọc Hư Cung, thuộc
tầng trời Đại La, tức là
ở phía trên tầng trời Tam Thanh.
[27] Tử phủ (紫府, động
phủ màu tía) là nơi tiên ở.
[28] Côn Đài (崑臺): Theo
Đạo giáo, trên đỉnh núi Côn Luân có năm cái đài
bằng vàng, mười hai cái lầu bằng ngọc. Những
nơi ấy được gọi chung là Côn Đài.
[29] Trung Nguyên Nhị Phẩm chính là Địa Quan
Đại Đế. Trong Đạo giáo, có ba vị đại
đế được tôn xưng là Tam Nguyên Đại
Đế (Tam Quan Đại Đế) gồm Thượng
Nguyên Nhất Phẩm Thiên Quan Tứ Phước Đại
Đế, Trung Nguyên Nhị Phẩm Địa Quan Xá Tội
Đại Đế và Hạ Nguyên Tam Phẩm Thủy Quan
Giải Ách Đại Đế.
[30] Cửu Hoàng (九皇) thường được biết đến
dưới các danh xưng như Cửu Hoàng Đại
Đế, Cửu Hoàng Gia, Cửu Vương Gia v.v… Thông
thường, Cửu Hoàng được hiểu là Bắc
Đẩu Thất Tinh Quân (Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn,
Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân) cộng với Tả
Phù và Hữu Bật. Một thuyết khác cho rằng, Cửu
Hoàng là Bắc Đẩu Thất Tinh Quân cộng thêm Tử
Vi Đại Đế và Thiên Hoàng Đại Đế. Có
thuyết lại giải thích Cửu Hoàng chính là Tam Hoàng
Ngũ Đế cộng thêm Bàn Cổ. Có thuyết lại
giải thích Cửu Hoàng là Bàn Cổ, Phục Hy, Thần
Nông, Toại Nhân, Hoàng Đế, Chuyên Húc, Cao Tân, Thái Hạo
và Thiếu Hạo. Có thuyết nói Cửu Hoàng là Thanh Huyền
Đại Đế, Trường Sanh Đại Đế,
Tử Vi Đại Đế, Thiên Hoàng Đại Đế,
Nam Đẩu Tinh Quân, Bắc Đẩu
Tinh Quân, Đông Đẩu Tinh Quân, Tây Đẩu Tinh Quân, và
Trung Đẩu Tinh Quân.
[31] Tứ duy (四維) là bốn phương bàng, tức Đông
Nam, Tây Nam, Đông Bắc, và Tây Bắc. Bát cực (八極) là bốn phương chánh cộng thêm bốn
phương bàng.
[32]
Tánh Mạng Khuê Chỉ có tên gọi đầy đủ
là Tánh Mạng Song Tu Vạn Thần Khuê Chỉ, tương
truyền do Doăn chân nhân (tức Doăn Hỷ) biên soạn, nội
dung chủ yếu là hướng dẫn cách luyện đan. Sách chủ trương luyện đan bằng cách tu dưỡng tánh và mạng,
đặc biệt là tu luyện tâm tánh theo quan điểm Đạo giáo.
[33] Vua Dị Kiến là quốc vương xứ
Hương Chí ở Nam Ấn Độ. Vị này là cháu của
tổ Bồ Đề Đạt Ma. Tôn giả Ba La Đề là đệ
tử của tổ Bồ Đề Đạt Ma tại Ấn
Độ. Do vua Dị Kiến
hạ chiếu cấm dân chúng tin tưởng Phật pháp,
tổ Đạt Ma đă sai tôn giả Ba La Đề đến
Hương Chí khuyên can. Ngài Ba La Đề thành công xoay chuyển
tà tâm của vua Dị Kiến.
[34] Tân dịch (津液) là từ ngữ phiếm
chỉ cách chất lỏng, hay chất tiết từ các tạng
phủ, không kể máu và những thứ bài tiết ra ngoài
(như nước tiểu, đờm răi), chẳng hạn
như dịch vị, dịch tiết từ mật, từ
tụy tạng v.v…, kể cả các dịch thể nơi
màng bọc các nội tạng và nước miếng đều
gọi chung là Tân Dịch.
[35] Chúng tôi dịch phần này dựa theo cách diễn
giải trong Đại Phật Đảnh Thủ Lăng
Nghiêm Kinh Diệu Tâm Sớ do pháp sư
Thủ Bồi biên soạn.
[36] Ngũ muội (五昧) chính là ngũ vị (chua, đắng, ngọt,
cay, mặn). Đạo gia chủ trương người
tu hành đối với thức ăn chớ
nên dùng ngũ vị quá nặng
để giữ cho cái tâm thanh tịnh.
[37] Lục khí: Sáu thứ tinh hoa cần phải hô hấp
theo Đạo gia, tức Xuân thực triêu hà (mùa Xuân bèn hấp
thụ khí của ráng trời lúc sáng sớm), Thu thực
luân âm (mùa Thu bèn hấp thụ khí có màu vàng đỏ sau khi
mặt trời đă lặn), Đông ẩm hàng giới
(mùa Đông hút khí lạnh vào nửa đêm), Hạ thực
chánh dương (mùa Hạ hấp thụ khí của mặt
trời chánh ngọ tại phương Nam), cùng với hai
khí huyền hoàng trong trời đất mà thành
lục khí.
[38] Thái âm bổ dương c̣n gọi là Pḥng Trung Thuật,
là một cách luyện đan chủ trương thông qua nam
nữ giao phối để cân bằng Âm Dương. Họ
cho rằng qua hành vi giao phối, kết hợp với những
cách hít thở và vận khí theo các ṿng châu thiên tương ứng,
sẽ nung luyện tinh khí thành tinh hoa chuyển lên bồi bổ
Nê Hoàn Cung trên năo bộ.
[39] Đây là thuật ngữ trong cách luyện đan của
Đạo giáo, Long (龍) là Dương, Hổ (虎) là Âm. Long sanh từ quẻ Ly (離), Ly thuộc Hỏa. Hổ sanh từ quẻ Khảm
(坎), Khảm thuộc Thủy. V́ thế, nói là “hổ hướng thủy biên
sanh” (hổ sanh từ bên phía nước). Nếu hiểu
theo ngoại đan th́ Khảm và Ly lại c̣n là các loại
dược vật. Khảm Nam là hống (汞, thủy
ngân), c̣n Ly Nữ là ch́. Nếu xét theo nội đan th́ Khảm
Nam là âm tinh trong thân thể, c̣n Ly Nữ là dương khí.
[40] Lục Khí (六氣) ở đây phải hiểu theo nghĩa khác với
đoạn trước. Lục Khí ở đây là âm,
dương, gió, mưa, tối, sáng.
[41] Cửu châu (九州) là danh xưng của trường phái Nội Đan
trong Đạo giáo chỉ chín bộ vị trong thân thể, tức
thận, bàng quang, gan, mật, tim, ruột non, phổi, ruột
già, và lá lách. “Điên đảo”
theo Đạo Gia nghĩa là khắc phục dục vọng,
khiến cho các bộ phận tương ứng sẽ
được thăng hoa. Chẳng hạn như thuận
theo dục vọng nam nữ (Đạo giáo thường
nói là “ngũ hành thuận hành”)
sẽ khiến cho thận bị tổn thương, sẽ
đọa xuống sâu hơn. Đó gọi là “pháp giới hỏa khanh” (hầm
lửa pháp giới), c̣n nếu khắc phục, khống chế
dục vọng, bồi bổ thận tạng th́ gọi là
“đại địa thất
bảo”. Đó gọi là “ngũ
hành đảo hành” (đi ngược chiều ngũ
hành).
[42] Tam Điền (三田) là năo bộ, tim và Khí Hải. Chân khí nếu tuần
hoàn lần lượt theo ba chỗ ấy th́ gọi là “tam điền phản phúc”.
Khí Hải có thể hiểu là huyệt Khí Hải, hoặc
Đan Điền tùy theo từng trường phái luyện đan khác nhau. Huyệt Khí Hải (氣海) nằm
ngay dưới rốn một tấc rưỡi (tấc ở
đây là lóng tay của người đó). Trung Y tin huyệt
này là cội nguồn của Khí trong thân người, có tác
dụng như một cái valve điều khiển sự thăng
giáng của chân khí trong cơ thể. Có sách giải thích Tam
Điền thật ra là ba bộ vị Đan Điền
trong cơ thể. Thượng Đan Điền chính là
điểm chính giữa hai mày, Trung Đan Điền tức
là chỗ lơm ngay giữa ngực (ta thường gọi là “chấn
thủy”, ngay trên hoành
cách mô), Hạ Đan Điền th́ phức
tạp hơn, v́ cả bốn huyệt Âm Giao, Khí Hải,
Thạch Môn và Quan Nguyên đều có thể gọi là
Đan Điền.
[43] Tam sơn là ba ḥn đảo trên biển nơi
chư tiên ở, tức Phương Trượng, Bồng
Lai và Doanh Châu.
[44] Động Thiên (洞天) là danh
xưng chung chỉ những ngọn núi đẹp trên mặt
đất, là chỗ cư ngụ của thần tiên. Họ
tin rằng trên quả
địa cầu này có
mười chỗ lớn (thập đại động
thiên) và ba mươi sáu tiểu động thiên, bảy
mươi hai chỗ phước địa.
[45] Tăng Na là một trong các vị đệ tử
của Nhị Tổ Huệ Khả trong Thiền Tông.
[46] Thôi sứ (推使): Theo quy chế đời Đường, dưới
các chức vụ Tiết Độ Sứ và Quan Sát Sứ,
sẽ có chức thôi quan (hoặc gọi là thôi sứ), chịu
trách nhiệm thẩm vấn, phán án, chưởng quản
nhà tù.
[47] Lạc Châu nay là thành phố Lạc Dương thuộc
tỉnh Hà Nam. Tại mỗi châu có các quan đứng đầu, quan đứng
đầu được gọi
chung là châu mục. Cơ cấu quan lại ở mỗi
địa phương bao gồm ba cơ quan: Đứng đầu Đài Viện là quan Thị Ngự Sử, đứng đầu Điện Viện là quan Thị Trung Ngự Sử,
và đứng đầu Sát Viện là Giám Sát Ngự Sử. Sát Viện trông
coi về tư pháp.
[48] Chuyển Vận Sứ là chức quan giám sát việc
vận chuyển lương thực, hàng hóa. Kinh Tây là các
địa phương ở phía Tây kinh đô Lạc
Dương. Về sau, lại lập Chư Đạo Chuyển
Vận Sứ để trông coi việc vận chuyển
lương thực, hàng hóa ở các tỉnh. Đến
đời Đường Đại Tông, lại lập
ra chức Diêm Thiết Sứ để chuyên trông coi,
đánh thuế việc chuyển vận muối và sắt.
[49] Nguyên văn là “lậu
trạch” tức “lậu
trạch viên” (漏澤園). Thời cổ, những nghĩa địa do
chính quyền lập ra để chôn cất những thi hài
vô chủ hoặc thi thể của
những kẻ quá nghèo khổ đến nỗi người nhà không có tiền
bạc để chôn cất.
Những nơi ấy đều được gọi chung là “lậu trạch viên”.
[50] Bộ kinh này có tên là Xích Tùng Tử Trung Giới
Kinh, thuộc phần Động Chân Bộ, đánh số
78 trong Đạo Tạng (Đại Tạng Kinh của
Đạo giáo).
[51] Đây là một câu chuyện trích từ sách Nhan Thị
Gia Huấn, phần Quy Tâm. Theo đó, Vương Khắc
làm Quận Thủ (quan đứng đầu) Vĩnh Quận.
Có lần đăi tiệc, mời khách đến nhà. Dê vừa
được cởi trói, bèn chạy tới quỳ
trước một vị khách, lại khấu đầu
hai lần. Sau đó núp dưới vạt áo của vị
khách ấy. Vị khách hoàn toàn chẳng nói ǵ, cũng chẳng
xin Quận Thủ tha cho con dê. Một lát sau, con dê ấy
bị lôi ra giết, nấu thành món canh đăi khách. Vị
khách nếm món canh ấy, vừa nuốt xuống, bỗng
cảm thấy toàn thân đau đớn không chịu nổi,
thét lên be be như tiếng dê rồi ngă lăn ra chết
tươi!
[52] Chuyện này được chép trong quyển sáu
mươi tư của bộ Pháp Uyển Châu Lâm. Trâu
Văn Lập làm nghề đồ tể, kiêm đầu bếp.
Ông ta vốn tính giết con nai, con nai ấy quỳ gối
khóc ṛng. Tuy nghĩ là điềm chẳng lành, Trâu Văn Lập
vẫn giết chết nó, xẻ thịt rồi mới biết
con nai ấy đang mang thai. Sau đấy, Trâu Văn Lập
rụng sạch râu lẫn lông mày, toàn thân ghẻ lở trị
măi không lành. Ông ta hổ thẹn, hối
trách sâu xa, bèn cầu thiền sư Đạo Độ chứng
minh để ông ta phát lộ sám hối. Lại c̣n bỏ hết
tài sản để mua đất, dựng một ngôi chùa
thờ Phật, tức chùa Tiểu Trang Nghiêm tại làng
Định Âm ở Nam Kinh. Chuyện xảy ra vào năm
Thiên Giám thứ sáu đời Lương.
[53] Ông này tên là Trầm Cấu, xuất thân từ
chức quan Hàn Lâm nên gọi là Trầm Nội Hàn. Thông Phán (通判) là chức quan được đặt
từ đời Hán, làm phó cho quan tri châu hoặc tri phủ.
Tuy danh nghĩa là phụ tá cho tri phủ, tri châu, nhưng thật
ra là để chia bớt quyền hành và giám sát quan phủ.
V́ thế, c̣n gọi là Giám Châu (監州). Giang Ninh chính là tên gọi khác của Nam
Kinh vào đời Tống.
[54] Đề H́nh (提刑) là một chức quan đời Tống,
chưởng quản nhà giam và phụ trách vấn đề
tư pháp. Lại c̣n kiêm nhiệm quản trị nông nghiệp
trong một phủ.
[55] Nguyên văn là Hành Trù (行廚), tức là bếp tạm thời để
nấu nướng trong khi du
ngoạn.
[56] Nguyên văn là Quỹ (簋) là một dụng cụ h́nh tṛn,
có chân bằng tṛn, có hai quai, giống như h́nh thức
lư hương đế tṛn hiện thời. Đôi khi
Quỹ có quai h́nh mặt thú ở hai bên, thường làm bằng
đồng xanh dầy nặng. Thông thường, Quỹ
có thêm hai chân phụ ngoài đế tṛn chính giữa, có nắp đậy.
“Quỹ” chuyên dùng để
đựng đồ cúng. Quỹ thường phối hợp
với Đỉnh là loại đồ đựng cao, có
chân nhọn, không có đế tṛn. Theo cổ lễ, số
lượng quỹ và đỉnh trong một buổi cúng tế
bị hạn chế nghiêm ngặt. Chỉ có thiên tử mới
được dùng chín đỉnh tám quỹ trong cỗ bàn
cúng tế tổ tiên. Dân chúng chỉ được dùng tối
đa là ba đỉnh hai quỹ! Về sau, Quỹ chỉ
được hiểu thông dụng là tô chén để đựng
đồ cúng mà thôi.
[57] Tam sanh (三牲) là lợn, cá, gà.
[58] Nguyên văn “công danh
phát nhẫn” (功名發軔). Vào thời cổ, khi
đỗ đạt, hoặc được bổ làm
quan, hoặc được thăng chức th́ gọi là “công danh phát nhẫn”.
[59] Trương Dịch Chi là người đời
Đường, rất đẹp trai, giỏi ca hát, tinh
thông âm nhạc. Hắn cùng với em trai là Trương
Xương Chi là nam sủng của Vũ Tắc Thiên. Do
khéo chiều chuộng Vũ Hậu, hắn được
phong làm Khống Hạc Giám (người cai quản viện
chim hạc), tước Hoàn Quốc Công. Hắn từng hống
hách cậy thế, lạm dụng xa giá của Vũ Hậu,
bị Địch Nhân Kiệt chặn lại, đánh cho một
trận nên thân. Trương Dịch Chi về khóc lóc, tố
cáo với Vũ Hậu, xin bà trừng trị Địch
Nhân Kiệt. Vũ Hậu nạt: “Ta c̣n phải nể lăo ấy
mấy phần, sao ngươi lại dám chọc
đến lăo?” Trương Giản Chi là một vị quan
hiền lương, giữ chức Giám Sát Ngự Sử thời
Vũ Tắc Thiên, được phong làm Đồng B́nh
Chương Sự (tương đương chức Tể
Tướng). Niên hiệu Thần Long nguyên niên, do Vũ Hậu
bị bệnh, ông cùng với nhóm Hoàn Ngạn Phạm thừa
cơ đảo chánh, tái lập nhà Đường,
đưa Đường Trung Tông lên ngôi, đồng thời
giết sạch những gă sủng thần của Vũ Hậu.
[60] Tật lê (蒺藜) là một loại cây dại, thường gọi là Bindii, Tackweed,
Puncturevine, hay Devil’s eyelashes. Nó thường mọc ở chỗ
hoang dă, cằn cỗi, mọc thành bụi, có hoa vàng, thân có
nhiều lông. Khi quả đă chín, thường nở bung
thành năm hạt có gai nhọn. Gai đủ cứng để
đâm thủng vỏ xe đạp.
[61] Kỳ Hề Độ viết một tác phẩm
gồm năm phần là Giác Xúc, Giác Tập, Giác Uế, Giác
Nhân và Giác Hủy, nhằm luận định “Bổn Giác vốn có, phiền năo vốn không”.
[62] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này phải hiểu cùng ư
nghĩa như trong kinh Phật hay nói: “Mười phương ba đời
Phật, cùng chung một Pháp Thân”.
[63] Nguyên văn “chúng sanh tức
ngô sanh chi sanh”, ông Hoàng Bách Lâm nói, câu này phải hiểu
là chúng sanh và chúng ta là một bộ phận trong một sanh
mạng toàn thể. Cái sanh mạng toàn thể ấy chính là
Pháp Thân. Do vậy, “ngô sanh”
(sanh mạng của ta) chính là chân tâm của ta.
[64] Bát trân (八珍) là tám món ăn quư theo quan niệm xưa, gồm
gan rồng, tủy phụng, thai báo, đuôi cá chép, thịt
chim cú nướng, môi tinh tinh, bàn tay gấu và ve non nướng
phó-mát.
[65] Khi xưa, đồ cúng thường
đựng trong đỉnh (鼎) tức là một thứ đồ đồng
có ba chân cao, giống như đỉnh đốt nhang hiện
thời. Đỉnh có chân để có thể đốt lửa
ở dưới, giữ cho nóng lâu. Thông thường, tiệc tùng hay cỗ bàn của hàng quyền
quư (từ quan đại phu trở lên) có năm món thịt
khác nhau (dê, lợn, thịt thái lát, cá, thịt thú nướng
hoặc quay), nên phải dùng năm
cái đỉnh để chứa.
[66] Tiên thiên chưa đọa: C̣n nằm trong thai,
chưa được sanh ra.
[67] Ngô Việt là vùng Giang Tây, Chiết Giang hiện thời.
Nơi này là lănh thổ của nước Ngô và Việt thời
Chiến Quốc. Xứ Tề là vùng Sơn Đông. U Yên là
vùng Hà Bắc, Liêu Ninh.
[68] Dương Bảo tánh t́nh rất từ bi. Lúc chín
tuổi, theo cha mẹ lên chơi núi Hoa Âm, trông thấy một
con sẻ vàng bị diều hâu đánh văng xuống
đất, kiến bu đầy, Dương Bảo xua kiến,
nhặt lên ôm về, nuôi dưỡng trên xà nhà. Chim lại bị
rắn tấn công, Dương Bảo bèn nuôi trong
rương, cho ăn hoa vàng. Đến khi chim mọc đủ
lông cánh mới thả đi. Một đêm, ông mộng thấy
một đứa bé trai mặc áo vàng đến bái tạ,
cho biết nó là sứ giả của Tây Vương Mẫu,
do đến núi Bồng Lai đi qua đây bị mắc nạn,
nhờ ông từ bi cứu sống. Nay do phải đến
Nam Hải, bèn đến từ biệt ông Dương, mỏ
ngậm đôi ṿng ngọc trắng biếu tặng ông
Dương, chúc tụng: “Con
cháu ông sẽ trắng sạch như vậy, đạt
đến địa vị Tam Công, đời này sang đời
kia luôn như vậy”.
[69] Đây
là một công án trong nhà Thiền. Đại chúng trong hội
của ngài Nam Tuyền Phổ Nguyện tranh nhau con mèo. Ngài
Nam Tuyền ra câu hỏi, nếu không có ai
trả lời được, sẽ chém mèo. Khi ngài Triệu
Châu trở về, đại chúng thúc giục Ngài hăy trả
lời câu hỏi của sư Nam Tuyền. Sư nhắc lại
câu hỏi, Triệu Châu bèn cởi giầy đội lên
đầu, lui ra.
[70] Theo ông Hoàng Bách Lâm, “ṿ”
ở đây là tỷ dụ bụng của ta. Do sát sanh,
ăn thịt ngỗng, bụng của ta như ṿ chứa
thịt thối. Do không sát sanh, sanh mạng của ngỗng
được bảo toàn, mà bụng ta cũng chẳng trở
thành cái ṿ chứa đựng xác chết!
[71] Thuần
Hy là niên hiệu của Tống Hiếu Tông từ năm
1174 đến năm 1189.
[72] Phong Đô là cơi địa phủ theo Đạo
giáo. Trong Phong Đô có Phong Đô Đại Đế cai quản,
Thập Điện Diêm Vương dưới quyền
Ngài. Phong Đô Đại Đế phù tá Đông Nhạc
Đế Quân. Đông Nhạc Đế Quân chưởng
quản tất cả chuyện trong cơi âm, Phong Đô Đại
Đế chuyên trách địa phủ. Dưới quyền
Đông Nhạc, ngoài Thập Điện Diêm
Vương và Ngũ Phương Quỷ Đế (Đông
Phương Quỷ Đế gồm hai vị Thần Trà
và Thái Uất Lũy, Nam Phương Đỗ Tử Nhân,
Tây Phương Quỷ Đế gồm hai vị Triệu
Văn Ḥa và Vương Chân Nhân, Bắc Phương Quỷ
Đế gồm hai vị Trương Hành và Dương
Vân, Trung Ương Quỷ Đế gồm Châu Khất và
Kê Khang. Như vậy là tuy nói Ngũ Đế, nhưng có
đến mười một vị quỷ đế), c̣n
có bảy mươi hai cơi âm ty.
[73] Minh Tuyên Tông là miếu hiệu của Châu Chiêm Cơ,
hoàng đế thứ năm nhà Minh. Ông là con trai trưởng
của Minh Nhân Tông (Hồng Hy hoàng đế, tên thật là
Châu Cao Xí). Thời gian cai trị của ông và cha được
coi là thịnh trị của nhà Minh, nên sử thường
gọi là Nhân Tuyên chi trị (thời thịnh trị dưới
thời Nhân Tông và Tuyên Tông). Ông có niên hiệu là Tuyên Đức.
Dưới thời ông, sau khi Liễu Thăng thất bại,
bị chặt cụt đầu tại trận Mă Yên, bá
tước Lương Minh đại bại tử vong, Lư
Khánh cùng quẫn tự vẫn, Minh Tuyên Tông phải đau
đớn hạ lệnh rút quân khỏi Giao Chỉ, công nhận
nền độc lập của người Việt, chấm
dứt thời kỳ đô hộ Bắc Thuộc lần
thứ hai, cắn răng công nhận vương triều
của Lê Thái Tổ (Lê Lợi). Trong B́nh Ngô Đại Cáo, Minh
Tuyên Tông đă bị cụ Nguyễn Trăi gọi nhiếc móc
là “giảo đồng” (thằng
nhăi ranh): “Chấp nhất kỷ chi kiến,
dĩ giá họa ư tha nhân, tham nhất
thời chi công, dĩ
di tiếu ư thiên
hạ. Toại linh Tuyên
Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm; nhưng mạng Thạnh Thăng chi nọa
tướng, dĩ du cứu phần”. Cụ Ngô Tất
Tố đă dịch: “Giữ ư kiến một người,
gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác, tham công
danh một lúc, để cười cho tất cả thế
gian. Bởi thế: Thằng nhăi ranh Tuyên
Đức động binh không ngừng, đồ nhút nhát Thạnh, Thăng
đem dầu chữa cháy”. Thạnh là Mộc Thạnh,
Thăng là Liễu Thăng.
[74] Hoàn Vinh quê ở Long Kháng thuộc Bái Quận. Ông là
hậu duệ của Tề Hoàn Công (Khương Tiểu Bạch)
thời Chiến Quốc. Tổ sáu đời của Hoàn
Vinh do dời sang An Huy, đă lấy chữ Hoàn trong thụy hiệu của Tề Hoàn Công làm họ.
Hoàn Vinh lúc bé sống tại Trường An, học giỏi.
Do nhà nghèo, ông thường phải đi làm thuê kiếm tiền.
Về sau, ông được Hán Quang Vũ Đế vời vào
cung, giảng sách Thượng Thư. Vua nghe giảng, rất
vừa ḷng, ban cho ông chức Nghị Lang để dạy
thái tử Lưu Trang (Hán Minh Đế). Kế đó, Hoàn
Vinh được phong làm quan Bác Sĩ, rồi thăng lên
chức Thái Tử Thiếu Phó, sau cùng giữ chức Thái
Thường. Thái Thường
(太常) trông coi việc nghi lễ trong tông
miếu, thoạt đầu được gọi là Phụng
Thường, đến đời Hán Cảnh Đế bèn
đổi thành Thái Thường. Quan Thái Thường trông
coi việc tế lễ xă tắc, tông miếu của hoàng
gia cũng như chủ tŕ các cuộc lễ hội, tang ma
của hoàng tộc. Khi vua làm chủ tế, Thái Thường
sẽ là người trợ thủ kiêm bồi tế của
vua, cũng như quản trị các miếu thờ, vườn
lăng của hoàng gia và các hành cung của vua. Những quận
huyện nào có đặt miếu thờ, lăng mộ của
hoàng triều sẽ trực thuộc quyền quản trị
của Thái Thường. Do địa vị là người
trông coi điển lễ, làm khuôn mẫu cho cả triều
đ́nh trông vào, nên trong thời Hán, chức Thái Thường
thường do thầy dạy học của vua đảm
nhiệm. Người được phong chức Thái
Thường c̣n được tôn trọng hơn Tể
Tướng. Từ thời Hán Vũ Đế, dưới
Thái Thường c̣n đặt ra các quan phụ tá gọi là
Thái Nhạc, Thái Tể, Thái Sử, Thái Bộc, Thái Y v.v…
Đến thời Đông Hán, để làm quan Thái Thường,
phải là bậc danh nho, v́ Thái Thường là chánh chủ
khảo cho các khoa thi tuyển chức quan Bác Sĩ. Đến
đời Minh, Thanh, vai tṛ của Thái Thường giảm
bớt tính quan trọng, được gọi là Thái
Thường Tự Khanh, chỉ đứng đầu các
quan Thái Nhạc, Thái Sử, Thái Bộc và Thái Y.
[75] Theo nghi lễ cổ, nhằm tỏ ḷng tôn kính bậc
lăo thành th́ dùng gậy chống làm lễ vật.
[76] Liêm Lạc là một trong bốn phái Lư Học trong
đời Tống. Phái này do Châu Đôn Khê và Tŕnh Di làm lănh tụ.
Họ đều ở tại Lạc Dương nên gọi
là Liêm Lạc Phái.
[77] Dịch lại (驛吏) là chức
quan nhỏ trông coi dịch trạm. Dịch trạm là trạm
nghỉ chân dành cho những viên chức truyền phát công văn hỏa
tốc có chỗ nghỉ ngơi, ăn uống và thay ngựa.
[78] Văn Sơn chính là hiệu của Văn Thiên
Tường (1236-1283). Ông tên thật là Văn Vân Tôn, tự là Thiên Tường, sau đổi thành
Tống Thụy, hiệu là Văn Sơn. Ông là người
xứ Lô Lăng, Cát Châu. Ông làm Hữu Thừa Tướng
dưới thời Tống Cung Đế. Sau khi nhà Nam Tống
bị quân Nguyên đánh bại, ông đă bị bắt về
Bắc Kinh. Nhà Nguyên thấy ông có tài năng, dụ hàng,
nhưng ông bất khuất thà chết không cam tâm đầu
hàng. Ông để lại bài Chánh Khí Ca được coi là
một bài thiên cổ hùng văn về ḷng tinh trung báo quốc.
[79] Lúc đó, vợ của Văn Thiên Tường
cũng đă bị chết trong khi đang bị tù.
[80] Tri Cống Cử (知貢舉): Theo quy chế từ thời
Đường - Tống, vị đại thần được
vua sai chủ tŕ khoa thi tuyển chọn Tiến Sĩ th́ gọi
là Tri Cống Cử.
[81] Minh Kinh (明經) ở đây là khoa thi được đặt ra
từ thời Tùy Dượng Đế. Khoa thi
Minh Kinh nhằm khảo hạch sự hiểu biết của sĩ tử về kinh điển Nho gia. Đă đỗ khoa thi
Minh Kinh th́ mới được ghi danh dự tuyển khoa
thi Tiến Sĩ. Trong khoa thi Tiến Sĩ, chủ yếu
khảo hạch về thơ phú.
[82] Ông Hoàng Bách Lâm giảng: Do tâm thái ấy mà tạo
thành trần lao, phải lưu chuyển luân hồi, nên nói
là ‘kỳ tâm thậm lao’ (cái
tâm ấy quá nhọc nhằn).
[83] Theo quy chế đời Minh - Thanh, không có chức
vụ Tể Tướng hay Thừa Tướng, nhưng
do nhu cầu hành chánh, vẫn phải có người đứng
đầu bá quan. Do vậy, từ các quan đại
học sĩ, nhà Minh lập ra Thủ Phụ (đứng
đầu các phụ tá đại thần), thời Thanh
th́ gọi là Điện Các Đại Học Sĩ (vừa
là bí thư riêng của nhà vua, vừa là người đứng
đầu các đại học sĩ). Giữa đời
Thanh, ngoài Điện Các Đại Học Sĩ, c̣n lập
ra chức Quân Cơ Đại Thần trông nom việc quân,
thường là do Điện Các Đại Học Sĩ
kiêm nhiệm. Ở đây nói Tôn Lăo Thật “đại bái” (được phong làm Tể
Tướng) tức là được bổ nhiệm làm
Điện Các Đại Học Sĩ.
[84] Mân ở đây là một nước thành lập
vào thời Ngũ Đại. Vào năm Cảnh Phước
thứ hai (893) đời Đường Chiêu Tông, ba anh em nhà họ Vương là Vương Triều, Vương Thẩm Khuê,
Vương Thẩm Tri chiếm cứ Phước Châu, rồi
chiếm toàn bộ vùng Phước Kiến. Nhà Đường
quá suy yếu, phải phong cho Vương Triều làm Quan
Sát Sứ rồi thăng lên làm Oai Vũ Quân Tiết Độ
Sứ. Vương Triều chết vào năm Càn Ninh thứ
tư (898), di mạng cho Vương Thẩm Tri kế vị.
Vương Thẩm Tri được phong làm Lang Da
Vương. Tới khi nhà Hậu Lương soán ngôi nhà
Đường, đă phong cho Vương Thẩm Tri làm Mân
Vương, đóng đô tại Trường Lạc (nay
là thành phố Phước Châu, tỉnh Phước Kiến).
Khi Vương Thẩm Tri chết, con là Vương Diên Hàn
kế vị. Sau đó, Diên Hàn bị anh em là Vương Diên Bẩm và
Vương Diên Quân sát hại. Sau đấy, Vương
Diên Quân giết Vương Diên Bẩm, lên làm vua, xưng
đế, đặt quốc hiệu là Đại Mân, tôn
Vương Thẩm Tri làm Mân Thái Tổ. Nước này bị
nhà Nam Đường của Lư Biện diệt quốc
dưới thời Vương Diên Chánh (Thiên Đức
Đế) vào năm 945.
[85] Ngô là một nước khác vào thời Ngũ Đại,
do Dương Hành Mật sáng lập, c̣n được gọi
là Dương Ngô, Nam Ngô, Hoằng Nông, hoặc
Hoài Nam. Nhân lúc triều đ́nh thời Đường Chiêu
Tông suy yếu, Dương Hành Mật đang làm Tiết
Độ Sứ tại Hoài Nam bèn chiếm cứ
Dương Châu, tự xưng là Ngô Vương, đóng
đô tại Quảng Lăng (tức Dương Châu).
Địa bàn nước Ngô lớn gấp ba nước
Mân bao gồm các tỉnh Giang Tô, An Huy, Giang Tây và một phần
Hồ Bắc. Nước Ngô bị Nam Đường diệt
quốc vào năm 937.
[86] Động Nhung (洞戎) là tiếng để gọi chung các dân tộc thiểu
số thuộc vùng Lănh Nam, tức
là các dân tộc thiểu số tại Quảng Tây, Quư Châu, và Hồ
Nam.
[87] Ngũ Quỷ là năm gă gian thần thời
đó, tức Đinh Vị, Lâm Đặc, Trần Bành
Niên, Lưu Thừa Khuê và Vương Khâm Nhược.
[88] Có thể hiểu là họ bên nội là Tông, họ
bên ngoại là Thân. Thân cũng bao gồm quan hệ họ
hàng do thông gia, chẳng hạn họ hàng bên vợ, hoặc
bên chồng được gọi là Thân.
[89] Yến
B́nh Trọng tức là Yến Anh (c̣n gọi là Yến Tử, có khi đọc là Án Anh). Ông làm quan thượng
đại phu nước Tề, là con trai của Yến
Nhược. Khi cha ông mất, ông được vua Tề
bổ nhiệm làm Thượng Đại Phu, đứng
đầu bá quan. Tương truyền, ông thân h́nh thấp
bé, loắt choắt, mặt mũi xấu xí, nhưng thông
minh tuyệt đỉnh. Ông giữ chức Thượng
Đại Phu suốt năm mươi hai năm, trải các
đời vua Linh Công, Trang Công và Cảnh Công. Ông ứng
đối mẫn tiệp, khéo trị nước, khiến
cho triều đ́nh Tề lẫn các nước chư hầu nể phục. Do Tề và Sở
cạnh tranh thế lực với nhau, nước Sở thường t́m cách làm nhục sứ Tề.
Khi Yến Anh đi sứ nước Sở, họ mở
cửa ngách mời ông vào, thay v́ mở đại môn. Ông thản
nhiên bảo: “Nếu ta đi sứ sang nước của
chó th́ mới chui lỗ chó mà vào, chứ ta đi sứ
nước Sở, chẳng lẽ phải chui lỗ chó hay
sao?” Quan tiếp đăi của nước Sở cứng họng,
phải mở đại môn. Khi Sở Linh Vương tiếp
sứ đoàn, đă hạ nhục Yến Anh bằng câu hỏi:
“Bộ nước Tề hết người hiền
năng rồi hay sao mà chọn ngươi đi sứ?” Yến
Anh thản nhiên đáp: “Nước Tề có hơn bảy
ngàn hộ, dân trong thành chỉ cần giơ tay áo lên che là
đă khuất bóng mặt trời, thân họ chảy mồ
hôi nhiều như mưa, làm sao không có người cho
được!” Vua Sở châm chọc: “Vậy tại sao lại
chọn ngươi?” Yến Anh cười: “Nước Tề
phái người đi sứ nước nào cũng đều
chọn người thích hợp với nước đó.
Người hiền năng sẽ được phái
đi sứ những nước có bậc quân chủ hiền
năng, kẻ chẳng hiền năng sẽ bị sai
đi sứ những nước có vua chẳng có phẩm
đức! Tôi là người tệ hại nhất nước
Tề, nên mới được sai đi sứ nước
Sở”.
[90] Bao Chửng (包拯, 999-1062),
tự là Hy Nhân, người xứ Hợp Ph́ thuộc
Lư Châu (nay là thành phố Hợp Ph́ tỉnh An Huy). Ông làm quan tới
chức Xu Mật Phó Sứ, Triêu Tán Đại Phu, Cấp Sự
Trung, Thượng Khinh Xa Đô Úy, tước Khai Quốc Hầu,
được ăn lộc một ngàn tám trăm hộ.
Ngoài việc từng làm Lễ Bộ Thượng Thư,
ông được biết đến nhiều nhất
dưới chức vụ Long Đồ Các Trực Học
Sĩ. Do tài xử án công chánh, phán án nghiêm minh, phá án chánh xác,
ông được ca tụng là Bao Thanh Thiên, và dân gian có câu
nói: “Gặp Diêm La Bao Lăo, hoàng
thân quốc thích hoạn quan bó tay”. Thậm chí dân gian c̣n
truyền tụng: Sau khi chết, ông trở
thành Ngũ Điện Diêm La Vương. Dă sử c̣n
tương truyền ông là Văn Khúc Tinh Quân giáng thế,
phù tá Tống Nhân Tông. Ông đỗ Tiến Sĩ trong niên hiệu
Thiên Thánh thứ năm (1027) đời Tống Chân Tông,
được phong làm Đại Lư B́nh Sự, bổ làm
tri huyện Kiến Xương, nhưng do c̣n cha mẹ già, nên
không đi nhậm chức. Mười một năm sau,
khi cha mẹ đều đă qua đời và tang chế
đă măn, ông mới ra làm tri huyện Thiên Trường, rồi
tri châu Đoan Châu. Được vua gọi về kinh làm
Giám Sát Ngự Sử Lư Hành, thăng lên làm Giám Sát Ngự Sử.
Ông cứng cỏi, nghiêm khắc dâng sớ đàn hặc
Giang Tây Chuyển Vận Sứ Vương Quỳ, ba lần
đàn hặc ngoại thích Trương Nghiêu Tá. Sau đó,
ông được cử kiêm nhiệm Tri Khai Phong Phủ, tức
chức quan Kinh Triệu Doăn trông coi kinh thành trong khi đang
giữ chức Long Đồ Các Trực Học Sĩ. Ông
thẳng tay trừng trị những kẻ quyền quư cậy
thế. Dẫu là hoàng thân quốc thích mà phạm pháp,
cũng bị ông trừng trị tới nơi tới chốn.
[91] Long Đồ Các nằm ở chái tây của điện
Hội Khánh, trực thuộc ngự thư pḥng của
hoàng đế đời Tống, được lập
ra từ thời Tống Chân Tông. Long Đồ Các Trực
Học Sĩ là chức quan văn thuộc về Chánh Tam Phẩm,
đặc trách biên soạn, kiểm thảo các chiếu chỉ
và chánh lệnh của hoàng đế, quản lư danh sách, sổ bộ liên quan đến hoàng thân quốc
thích, cũng như quản lư các trước tác, sách vở,
tài liệu và các văn vật trân quư của hoàng đế.
[92] Cao là Cao Đào. Ông Cao là một
vị đại thần nổi danh trông coi về h́nh pháp.
Quỳ là tên viên quan nổi tiếng hiền năng, trông
coi về lễ nhạc (do sử không chép đầy đủ
tên họ, nên không biết ông này họ là ǵ). Tắc là Hậu
Tắc, người trông coi nông nghiệp. Khế là tên quan
Tư Đồ, trông coi về giáo dục. Những vị
này đều là bầy tôi hiền năng của vua Thuấn.
[93] Dương Hùng là người Tứ Xuyên, sống
vào thời Tây Hán, hiếu học, có tài ăn nói, học rộng,
có thể coi là một bậc học giả thời ấy.
Ông ta viết rất nhiều sách và có nhiều bộ nổi
tiếng như Thái Huyền, Phương Ngôn, Pháp Ngôn v.v… Do
v́ tham đắm địa vị, ông ta không phê phán
Vương Măng soán đoạt nhà Hán lập ra nhà Tân là phản
nghịch, lại c̣n dùng lời lẽ biện minh cho hành
động ấy. Quá đáng hơn nữa là Dương
Hùng c̣n phỏng theo tác phẩm Phong Thiện Văn của
Tư Mă Tương Như để phê phán Tần Thủy
Hoàng, ca tụng công đức của Vương Măng.
[94] “Vô khả, vô bất khả”:
Trong thiên Vi Tử sách Luận Ngữ có đoạn: “Dật dân, Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng,
Di Dật, Châu Trương, Liễu Hạ Huệ, Thiếu
Liên. Tử viết: - Bất giáng kỳ chí, bất nhục
kỳ thân, Bá Di, Thúc Tề dư? Vị Liễu Hạ Huệ,
Thiếu Liên, giáng chí nhục thân hỹ, ngôn trung luân, hành
trung ngu, kỳ tư nhi dĩ hỹ. Vị Ngu Trọng, Di
Dật, ẩn cư phóng ngôn, thân trung thanh, phế trung quyền.
Ngă tắc dị ư thị, vô khả, vô bất khả” (Đối
với những bậc ẩn sĩ như Bá Di, Thúc Tề,
Ngu Trọng, Di Dật, Châu Trương, Liễu Hạ Huệ,
Thiếu Liên, Khổng Tử nói: “Chẳng hạ thấp
chí hướng, chẳng khuất nhục thân phận của
chính ḿnh, phải là Bá Di, Thúc Tề đấy ư? Nói
đến Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên th́ bọn họ
đă hạ thấp chí hướng, khuất nhục thân
phận, chỉ là ăn nói phù hợp luân lư, hành xử phù hợp
lư trí, họ chỉ làm được như vậy mà thôi.
Nói đến Ngu Trọng, Di Dật th́ họ ẩn cư,
ăn nói tự do, giữ thân trong sạch, từ chối
quan chức, đấy cũng là hợp lư trí. Ta chẳng
giống họ, không ǵ là có thể, không ǵ là chẳng thể).
[95] Phùng Đạo sống vào thời Ngũ Đại,
khéo luồn lách nên làm tể tướng hoặc các chức
quan cao cấp dù triều đại thay đổi. Hễ
vương triều này bị xóa sổ, hắn khéo léo luồn lách, bợ đỡ để rồi lại
vinh hiển, phú quư trong triều đại mới. Ở
đây, Cảm Ứng Thiên ghi là “bốn
họ, tám vua”, thật ra Phùng Đạo làm quan cao chức
cả suốt năm triều đại, tám gia tộc,
mười ba đời vua! Dân gian châm biếm gọi ông
ta là Trường Lạc Lăo Nhân, hoặc Bất Đảo
Ông (con lật đật). Chẳng hạn, ông ta làm tể
tướng cho Lư Tự Nguyên (nhà Hậu Đường,
tức Đường Minh Tông). Khi Đường Minh Tông
mất, con nuôi của tân hoàng đế Lư Tùng Hậu là Lư Tùng Kha làm phản, đoạt ngôi của
Lư Tùng Hậu, khiến Lư Tùng Hậu phải chạy sang
nương nhờ Thạch Kính Đường. Thay v́ xuống
chiếu cần vương, Phùng Đạo nhanh chóng dẫn
đầu các quan ra tiếp đón, nịnh bợ tân hoàng đế. Tuy không được trọng
dụng, hắn vẫn giữ các chức Tiết Độ
Sứ rồi Tư Không. Khi Thạch Kính Đường diệt
Lư Tùng Kha, lập ra nhà Hậu Tấn, Phùng Đạo lại
nhanh chóng bợ đỡ tân vương, được
phong làm Tể Tướng. Khi Da Luật Đức Quang xua
quân xuống miền Nam diệt nhà Tấn, Phùng Đạo
lại nhanh chóng t́m cách luồn lách, trở thành Thái Sư của nhà Liêu…
[96] Hy Văn là tên tự của Phạm Trọng Yêm.
Theo cổ lễ, đối với mỗi người, ngoại
trừ cha mẹ và thầy dạy, hoặc khi c̣n bé th́ mới
gọi tên thật. Sau khi một thanh niên đă làm lễ gia
quan, đặt tên tự, ngay cả vua cũng không gọi
thẳng tên thật khi nói chuyện với người
đó, mà thường gọi bằng tên tự.
[97] Nguyên Hựu (元祐) là niên hiệu của Tống Triết Tông từ
năm 1086 đến năm 1094. Nguyên Phù (元符) là niên hiệu của Tống Triết Tông từ
năm 1098 đến năm 1100.
[98] Thị thần (侍臣) là các quan bầy tôi thân cận, thường là cố
vấn thân cận.
[99] Thời ấy, bọn hoạn quan có quyền lực
rất lớn, lũng đoạn triều chánh, lấn hiếp
các quan văn vơ. Đường Văn Tông (Lư Ngang) không cam
ḷng bị hoạn quan khống chế, đă âm mưu với
Lư Huấn và Trịnh Chú tính giết sạch những đứa
thủ lănh của bọn hoạn quan. Vào ngày Hai Mươi Mốt tháng Mười Một năm Thái Ḥa thứ chín,
Đường Văn Tông viện cớ đi xem trời
hiện ra cam lộ ở trên cây trong hoàng cung, hạ lệnh
các triều thần và hoạn quan phải cùng đi xem, sai bọn thủ
lănh hoạn quan sang doanh trại Kim Ngô (quân cảnh
vệ hoàng thành) sắp đặt trị an để thừa cơ dùng phục binh giết chết chúng. Trước đó, Trịnh Chú
đă sai Vương Phan sắp sẵn phục binh tại
doanh trại Kim Ngô, ước hẹn khi bọn thái giám vào
doanh, sẽ ùa ra giết sạch không tha. Do Vương Phan nhút nhát, chần chừ, khiến
cho thủ lănh bọn hoạn quan là Cừu Sĩ Lương phát giác. Họ Cừu bèn điều quân
đánh nhau với quân cấm vệ, đôi bên giao chiến kịch liệt. Cuối
cùng, Lư Huấn, Vương Nhai, Thư Nguyên Dư,
Vương Phan đều thảm bại. Đường
Văn Đế bị bọn hoạn quan biến thành bù
nh́n, từng rơi lệ than thở với Trực Học
Sĩ Châu Tŕ: “Trẫm bị lũ gia nô khống chế,
cảnh ngộ c̣n tệ hơn Châu Noăn Vương, Hán Hiến
Đế”. Do vậy, vua uất ức thành bệnh, qua
đời khi mới ba mươi hai tuổi.
[100] Vị
này tên thật là Lưu Chí, thụy hiệu là Trung Túc. Theo
cách nói tôn trọng thời cổ, thường xen thụy
hiệu vào giữa tên và họ, nên Cảm Ứng Thiên mới
chép là Lưu Trung Túc Chí.
[101] Trợ Dịch là một trong các biện pháp trong chánh sách tân
pháp của Vương An Thạch, cho phép những kẻ sẵn
tiền có thể bỏ tiền thuê người đi lao dịch
thay. Lao dịch là h́nh thức trưng công lao động tập
thể trong những công tŕnh công ích lớn như đắp
đê, sửa đường, sửa cầu v.v…
[102] Tư Nông Tự là cơ quan trông coi việc nông nghiệp,
gần như tương đương với bộ Nông
Nghiệp hiện thời.
[103] Nguyên văn “tả hữu
tạng” (左右藏). Đây chính là hai cái kho, thuộc loại quốc
khố. Kho ở bên trái (tả tạng) chứa tiền bạc,
vải vóc, lụa là, tiền thuế. Kho bên phải (hữu
tạng) chứa các thứ vàng ngọc, châu báu, đồng
sắt, ngà voi, xương thú, tranh vẽ.
[104] Hộ Bộ (戶部) là một trong sáu bộ. Bộ này có trách nhiệm
quản trị đất đai, hộ tịch, thuế
khóa, tài chánh. Viên Ngoại Lang (員外郎) có nghĩa gốc là quan viên nằm ngoài chức
chánh và phó của một cơ quan hành chánh. Đây là chức
quan pḥ tá cho Thượng Thư và Thị Lang của mỗi
bộ. Về sau, những nhà giàu có cũng được
gọi là Viên Ngoại.
[105] Tuế cống (歲貢): Những
khoản lễ vật bắt buộc phải dâng lên vua hằng
năm từ các chư hầu và các thuộc quốc. Thuộc
quốc không nhất thiết là các nước bị Trung
Hoa xâm chiếm, mà là các nước nhỏ độc lập xung quanh phải cống nạp mỗi năm bao
nhiêu đó để Trung Hoa không viện cớ xâm lăng.
Việt Nam tuy độc lập từ thời Ngô Quyền,
nhưng v́ để tránh bị Trung Hoa phát động chiến
tranh xâm lược liên miên, đă phải tuế cống mỗi
năm rất tốt kém. Họ đ̣i vàng, bạc, những
sản phẩm quư hiếm như ngà voi, sừng tê giác, trầm
hương, sâm, quế, nhung, cao hổ cốt, trái vải, lụa là, đồ sứ, cà cuống…
Nói chung là những thứ quư hiếm, ngon lạ đều
bị vua quan Trung Hoa hạch sách, đ̣i hỏi. Thậm chí dưới thời nhà Lê, vào những
năm đầu, do quân Lê Lợi giết chết tướng
nhà Minh, các vua Lê phải đúc tượng vàng to bằng
người thật để triều cống.
[106] Thái Phỏng Sứ (采訪使) gần như tương đương với tỉnh
trưởng hiện thời. Đời Đường,
chia toàn bộ lănh thổ thành mười lăm đạo.
Mỗi đạo tương đương với một
tỉnh hiện thời, mỗi đạo đặt quan
đứng đầu gọi là Thái Phỏng Xử Trí Sứ,
thường gọi tắt là Thái Phỏng Sứ.
[107] Hy Hà nay là huyện Lâm Thao tỉnh Cam Túc.
[108] Thái Giám Vương Tam Bảo tức là Trịnh
Ḥa. Ông này vốn tên là Mă Văn Bân, tự là Ḥa, vốn thuộc sắc
dân thiểu số Sắc Mục (Semu) tại Côn Dương, tỉnh Vân Nam. Mă ở đây là họ theo lối Hán Hóa chữ
Mohamed của những người
theo đạo Hồi tại Trung Hoa. Do Trịnh Ḥa có tên
thuở bé là Tam Bảo, nên thường được gọi
là Tam Bảo Thái Giám. Do làm thái giám theo hầu Yên Vương
Châu Đệ (Minh Thành Tổ)
có công, Mă Văn Ḥa được
thăng làm Nội Quan Thái Giám, được ban họ là
Trịnh. Năm Vĩnh Lạc thứ ba, Trịnh Ḥa phụng
mạng Minh Thành Tổ, cùng với bọn Vương Cảnh
Hoằng đi sứ các nước Tây Dương, đem
theo đội thuyền hơn hai trăm chiếc, biểu
dương thanh thế, lực lượng thủy quân của
đoàn thuyền ấy có tới hơn hai vạn người.
Chuyến đi ấy nhằm dọa dẫm các nước
trong vùng, thực hiện chánh sách “viễn giao cận công” (xa th́ ngoại giao, gần
th́ tấn công) của nhà Minh, đồng thời sưu tập những
thứ hiếm lạ đem về cho nhà vua. Chuyến hải tŕnh này kéo dài hai mươi tám
năm, vừa củng cố thanh thế của Trung Hoa tại
các nước hải ngoại, vừa nhằm tạo
điều kiện cho người Hoa chiếm lănh những
vùng buôn bán béo bở tại các nước có thế lực quân sự yếu
hơn Trung Hoa. Do vậy,
người Hoa thờ ông ta gọi là Bổn Đầu
Công, thường gọi thông tục là ông Bổn. Tây
Dương là chữ người thời Minh gọi các
nước hoặc lănh thổ ở quanh vùng biển
Nam Hải và Ấn Độ
Dương như Việt Nam,
Mă Lai, Thái Lan, Sumatra, Java, Sri
Lanka, bán đảo Ả Rập v.v… Trước sau,
Trịnh Ḥa đă “hạ Tây
Dương” bảy lần, có lần đi xa tới tận
eo biển Mozambique của châu Phi. Trong năm 1431 của niên
hiệu Tuyên Đức thời Minh Tuyên Tông, Trịnh Ḥa
đă dẫn hạm đội tuần hành Tây Dương
lần cuối cùng trước khi chết vào hai năm sau
đó.
[109] Thiên Thuận là niên hiệu của Minh Anh Tông từ
năm 1457-1464.
[110] Vũ Văn Sĩ Cập (572-642), tự là Nhân Nhân,
người xứ Trường An, Ung Châu, giữ chức
Trung Thư Lệnh (Tể Tướng) dưới thời
Đường Cao Tổ và Đường Thái Tông. Ông ta
là con trai của đại thần Vũ Văn Thuật
nhà Tùy. Sĩ Cập lấy công chúa Nam Dương là con gái của
Tùy Dượng Đế. Ông ta có quan hệ rất tốt
với Lư Uyên (Đường Cao Tổ). Khi anh trai của
ông ta là Vũ Văn Hóa Cập và Vũ Văn Trí Cập làm
chánh biến, giết Tùy Dượng Đế, đưa
cháu của Dượng Đế là Dương Hạ lên
làm vua, đă cử Vũ Văn Sĩ Cập làm Nội Sử
Lệnh. Khi Lư Uyên phản Tùy, tự xưng là Đường
Vương, đă phái người lén thông đồng với
Vũ Văn Sĩ Cập. Sau khi Lư Uyên thống nhất
Trung Hoa, đă phong cho Vũ Văn Sĩ Cập làm Trung
Thư Lệnh. Ông ta khôn khéo, quyền biến, sống rất
xa hoa, khéo lấy ḷng cấp trên.
[111] Lưu Thị là vợ lẽ của Đường
Trang Tông (Lư Tồn Húc), vợ cả là Hàn phu nhân. Vua yêu thích
Lưu Thị, muốn lập Lưu Thị thành hoàng hậu,
nhưng c̣n e ngại triều thần dị nghị. Quách
Sùng Thao đón ư nhà vua, bèn dâng biểu kiến nghị.
[112] Đây là những câu chuyện báo ân của loài vật.
Phù Kiên là vua nhà Tiền Tần, bị Mộ Dung Xung (vua
nước Tây Yên) tấn công, thua trận, cỡi ngựa
tẩu thoát. Phù Kiên vô ư rơi khỏi ḿnh ngựa, té xuống
khe suối Lạc Giản. Truy binh đuổi gần tới,
Phù Kiên không cách nào thoát ra được. Con ngựa bèn ḍ dẫm,
đến gần khe suối, ngậm dây cương
đưa cho Phù Kiên. Phù Kiên chẳng nắm được,
nó bèn khụy gối để Phù Kiên nắm lấy, kéo Phù
Kiên lên. Nhờ đó, Phù Kiên tẩu thoát đến Lô Giang.
Theo quyển chín bộ Sưu Thần Kư của
Đào Tiềm, Dương Sinh ở Quảng Lăng có nuôi
một con chó, rất yêu mến nó. Đi đâu cũng dẫn
theo. Có một hôm, Dương Sinh say rượu, đi
đến một cái đầm cỏ rậm rạp, ngă
xuống đám cỏ, ngủ say sưa. Nhằm tháng mùa
Đông, có người đốt đồng, lửa cháy gần
tới. Con chó sủa ầm ĩ đánh thức chủ,
Dương Sinh vẫn ngủ mê mệt. Gần đó có một
hố nước, con chó bèn nhảy xuống, nhúng ướt
toàn thân, lăn ḿnh quanh Dương Sinh làm ướt cỏ.
Nó chạy đi chạy lại như thế nhiều lần,
thấm ướt toàn bộ cỏ quanh chỗ
Dương Sinh nằm. Nhờ đó, Dương Sinh không bị
thiêu chết.
Theo quyển hai mươi trong bộ Sưu Thần
Kư, tại Trá Thủy thuộc Tùy Huyện, có một chỗ
gọi là Đoạn Xà Khâu (g̣ chặt rắn). Tùy Hầu
trông thấy một con rắn to bị thương, giữa
ḿnh nó có một vết chém sâu, bèn bôi thuốc cho nó, rắn
đủ sức ḅ đi. V́ thế, nơi ấy
được gọi là Đoạn Xà Khâu. Một năm
sau, con rắn ấy ngậm một viên minh châu to cỡ một
tấc, trắng ngần, đêm tối bèn tỏa sáng, đến
biếu tặng. Viên ngọc ấy được gọi
là Tùy Hầu Châu, Linh Xà Châu, hoặc Minh Nguyệt Châu.
Dương Bảo nhờ cứu chim sẻ bị
diều hâu đánh văng xuống đất, kiến bu
đầy, bèn phủi kiến, đem về chữa thương,
nuôi nấng cho đến khi mạnh khỏe bèn thả
đi. Một đêm, thấy có đứa bé mặc áo vàng,
đến cảm tạ, nói nó là sứ giả của Tây
Vương Mẫu, chính là con chim sẻ được
Dương Bảo cứu khi trước, biếu
Dương Bảo mấy chiếc ṿng ngọc, chúc ông con cháu khiết
bạch, làm tới Tam Công. Quả nhiên con cháu ông ba đời
liên tiếp làm quan đến
địa vị Tam Công.