Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

感應篇彙編

Quyển 2

Phần 2

(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2000)

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Chánh văn) Thụ sủng nhược kinh.

          (正文)受寵若驚。

          (Chánh văn: Được sủng ái mà lo sợ).

 

          Được hưởng sự sủng ái vẻ vang, dẫu là xứng đáng được hưởng, cũng nên biết t́nh thế, biết đủ. Nếu được hưởng sự sủng ái chẳng đáng nên có, hăy nên nghĩ là đáng kinh, đáng sợ. Bởi lẽ, phước chính là họa ngầm ẩn. Mặt trời chính ngọ rồi sẽ xế, trăng tṛn đầy rồi khuyết là lẽ cố nhiên! Đối với quân vương, ơn như trời đất, nếu chẳng thật dạ mong báo đền, kẻ bầy tôi há có thể tự an, há chẳng càng thêm kinh sợ ư?

          Châu Thành Vương phong Bá Cầm[1] [làm vua] ở nước Lỗ, Châu Công răn dạy:

          - Con đừng v́ có nước Lỗ mà kiêu ngạo với kẻ khác. Ta nghe nói, đức hạnh rộng lớn, hễ giữ ḷng cung kính th́ sẽ được vinh hiển. Đất đai rộng răi, giàu có, giữ đức tánh tiết kiệm th́ sẽ yên ổn. Bổng lộc và địa vị cao quư, vẻ vang, hăy giữ ḷng khiêm tốn th́ sẽ phú quư. Dân đông, quân mạnh, hăy giữ ḷng kiêng sợ th́ sẽ thường chiến thắng. Thông minh, sáng trí, hăy giữ thái độ như kẻ ngu th́ sẽ được lợi ích. Học rộng, nhớ nhiều, hăy giữ thái độ như kẻ hiểu biết nông cạn th́ [kiến thức] sẽ càng rộng thêm. Hăy giữ sáu điều ấy, đó đều là những phẩm đức khiêm cung. Đạo trời khiến cho kẻ tự măn suy sụp, khiến cho người khiêm tốn được tăng ích. Đạo đất sẽ biến đổi [nhằm giảm thiểu] cái tṛn đầy để vun đắp cho cái thấp kém hơn. Đạo người th́ ghét kẻ tự măn, ưa chuộng người khiêm tốn. Con hăy thận trọng, đừng v́ có nước Lỗ mà kiêu căng đối với kẻ khác.

          Học nhân trong hiện thời nếu thật sự có thể nghiền ngẫm lời giáo huấn ấy, ắt ḷng kiêu căng, thái độ ngạo mạn sẽ chẳng do đâu mà nẩy sanh, sẽ hưởng vinh dự, ân sủng càng nhiều hơn. Hễ được hưởng sự ân sủng, hăy luôn giữ ḷng kinh sợ vậy!

          Đời Đường, Sầm Văn Bổn[2] được phong làm Trung Thư Lệnh bèn lộ vẻ lo âu. Mẹ hỏi nguyên cớ, Văn Bổn thưa: “Chẳng có công huân, chẳng phải là bậc lăo thần, thế mà được vinh sủng quá phận, địa vị cao, chức trách nặng nề, cho nên con lo sợ”. Ông bảo những người khách đến chúc mừng: “Nay tôi nhận lời chia buồn, chứ không nhận lời chúc mừng”.

          Đời Tống, Văn Chánh Công Vương Đán tuổi già, quan chức càng cao. Tới khi đi sứ Triều Tiên, từ trong cung cấm, ngồi xe to ra khỏi cửa kinh thành. Trăm quan đưa tiễn, đua nhau khen ngợi ông được đăi ngộ vinh hiển. Ông nói: “Tôi có ích ǵ cho đất nước, chỉ cảm thấy bồn chồn, bất an!”

          Tư Mă Ôn Công (Tư Mă Quang) gởi thư cho cháu có đoạn: “Gần đây, ta hưởng ân vua, được phong làm Môn Hạ Thị Lang, cả triều đ́nh kẻ đố kỵ vô số. Ta ngu độn, thẳng tính, ở trong [hoàn cảnh] ấy, giống như chiếc lá vàng trong cơn gió dữ, chẳng mấy chốc sẽ rụng. Do vậy, kể từ khi vâng mạng tới nay, chỉ lo sợ, chẳng vui mừng. Các ngươi hăy nên biết ư này!”

          Mấy vị ấy do được sủng ái mà lo sợ, nhưng câu nói “nhận lời chia buồn” của ông Sầm đă diễn tả rơ ràng ư đó. Xưa kia, Tôn Thúc Ngao làm lệnh doăn [nước Sở], có một vị lăo nhân đến chia buồn như sau: “Do thân được hưởng sự tôn quư mà kiêu căng với kẻ khác, dân sẽ xa lánh. Ở địa vị cao mà tự tiện chuyên quyền, vua sẽ ghét. Bổng lộc trọng hậu mà chẳng biết đủ, sẽ là ở trong cảnh hoạn nạn!” Lại nói: “Địa vị càng cao, ḷng càng khiêm tốn. Quan càng to, tánh càng thêm nhũn nhặn. Bổng lộc càng trọng hậu, bèn thận trọng chẳng dám lạm dụng. Ông giữ cẩn thận ba điều ấy, sẽ đủ để cai trị nước Sở”. Ông Sầm đă lănh hội sâu xa ư chỉ này. Phương cách ứng xử của người có địa vị cao chính là tuân theo lư này.

          Đời Tống, ông Lô Đa Tốn thoạt đầu được phong làm Tham Chánh[3], ăn mặc tiêu dùng dần dần xa xỉ. Cha ông ta âu sầu bảo: “Nhà ta nhiều đời là nhà Nho thanh bạch, một khi được phú quư bèn thành ra như thế, chẳng biết sẽ đọa lạc đến đâu!” Đa Tốn chẳng quan tâm lời cha, rốt cuộc bị suy bại.

 

          (Chánh văn) Thi ân bất cầu báo, dữ nhân bất truy hối.

        (正文)施恩不求報。與人不追悔。

          (Chánh văn: Ban ân chẳng mong được báo đáp, đă cho người khác sẽ chẳng hối hận).

 

          Thi ân mà cầu báo, tức là cái tâm tham chưa quên! Đă cho người ta rồi hối tiếc, tức là cái tâm keo kiệt chưa tiêu trừ. Đă tham lại c̣n keo kiệt, bậc quân tử chẳng làm như vậy. Kinh Kim Cang dạy: “Bồ Tát ư pháp ưng vô sở trụ nhi hành bố thí” (Bồ Tát đối với pháp hăy nên chẳng trụ vào đâu mà hành bố thí). Lại nói: “Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng” (Nếu Bồ Tát chẳng trụ vào tướng mà bố thí, phước đức ấy chẳng thể nghĩ lường được). Nh́n từ điều này, người có thể dùng tài vật để giúp đỡ kẻ khác, trong bèn chẳng thấy ta là người có thể thí, ngoài chẳng thấy có kẻ nhận lănh sự bố thí, chính giữa th́ chẳng thấy có vật để thí. Đó gọi là “tam luân thể không”. Nhất tâm thanh tịnh th́ một đấu gạo tương ứng với “phước không bờ bến”, một đồng tiêu trừ tai ương ngàn kiếp. Nếu hơi có cái tâm mong cầu được báo đáp, dẫu thí vạn dật[4] vàng ṛng, rốt cuộc chẳng thể viên măn tâm lượng của nhất tâm. C̣n như hai chữ “truy hối” (追悔, sau đó lại hối hận) lại càng là chỗ then chốt to lớn trong đời người. Hối tiếc về chuyện ác th́ trong tương lai, ác niệm sẽ dần dần ngưng dứt. Đối với việc thiện mà hối tiếc, trong tương lai sẽ chẳng sanh thiện niệm. Kẻ đă bố thí rồi hối tiếc, chẳng thà đừng thí, chẳng cho sẽ hay hơn!

          Người đời muốn cho ngũ cốc trong kho năm nào cũng đều chẳng thiếu hụt, ắt phải chọn lấy hạt giống của gạo thóc, lúa mạch, dùng trâu cày bừa ruộng nương để gieo trồng. Hễ không gieo trồng, ắt [thóc gạo trong kho] sẽ cạn kiệt. Trong đạo pháp cũng giống như thế. Dùng hiếu tâm, bi tâm, và kính tâm làm hạt giống, dùng áo cơm, tiền của, thân mạng làm trâu cày, dùng cha mẹ, kẻ nghèo khó, bệnh tật, Tam Bảo làm ruộng nương. Có đệ tử Phật muốn đời đời đạt được trăm món phước trang nghiêm vô tận trong tạng thức th́ cần phải vận dụng ḷng bi, kính, hiếu, đem áo cơm, tiền của, thân mạng kính cẩn phụng dưỡng, cung cấp cha mẹ, những người nghèo khó bệnh tật và Tam Bảo; đó gọi là “gieo phước”. Chẳng gieo trồng, sẽ nghèo túng, chẳng có phước huệ, sẽ lọt vào đường hiểm sanh tử. Nói “ruộng để gieo phước” là v́ giống như ruộng để gieo mạ, cho nên gọi là “phước điền”.

          Bố thí có ba loại là Pháp Thí, Tài Thí và Tâm Thí. [Vận dụng] đủ mọi phương tiện ḥng khuyến hóa, dạy bảo người khác th́ gọi là Pháp Thí. Đó là cao nhất. Tài Thí là dùng đủ loại tiền tài để bố thí. Tâm Thí là [bản thân] nghèo cùng túng quẫn, chẳng có tiền của, nhưng tâm niệm xót xa, mong giúp đỡ [kẻ hoạn nạn] tuy chẳng có cách nào thực hiện th́ cũng gọi là Thí.

          Đời Minh, Trầm Lư tên tự là Trọng Hóa, người huyện Quy Đức, thích tiến cử bậc hiền năng, nhưng chẳng để cho kẻ khác biết. Ông có bài Cảnh Thế Ngữ (警世語, những lời cảnh tỉnh cơi đời) như sau:

          - Ôi chao! Chuyện trong cơi đời sao mà chênh lệch bất công đến nỗi như thế? Ta thường vào mỗi dịp tiệc tùng no say, đă chẳng thể gắp nổi nữa, chủ nhân vẫn dọn lên những món trân quư không ngớt, nhưng có kẻ nghèo suốt đời chẳng biết đến mùi vị nào khác, có kẻ chết đói! Ta mùa Đông khoác áo cừu, mùa Hạ mặc áo the. Lạnh nóng [thay đổi y phục] theo thời, c̣n muốn xa xỉ đến tột cùng ḥng theo kịp thời trang. Kẻ nghèo áo chẳng đủ che thân, nấp ngoài hiên, ngủ ngoài đường, gió bấc buốt xương, lạnh cóng đến nỗi răng va lộp cộp. Ta nhà cao cửa rộng, ở yên ổn hết sức thoải mái, c̣n phải [tạo dựng] ao, đài, hoa, trúc, ḥng thỏa thuê tai mắt đến mức cùng cực, chẳng tiếc ngàn vàng để sắm sửa! Thế mà kẻ nghèo gặp phải lúc khó khăn cấp bách, không thể cậy vào đâu, thậm chí có khi mất mạng, hoặc là cha con, vợ chồng phải tan đàn xẻ nghé! Con cháu trong nhà ta [tiêu xài] rộng răi có thừa, ta vẫn chú trọng tích cóp cho nhiều, ḥng tính kế lâu xa cho con cháu. Kẻ nghèo nhà cửa bé tẹo, ăn bữa sáng chẳng mong chi bữa tối. Ta của cải ngồn ngộn, mắt thấy tai nghe chẳng xuể, chẳng tránh khỏi sống phóng đăng, ngấm ngầm lôi cuốn phường trộm cướp [ngấp nghé]. Đối với kẻ nghèo đói ngẫu nhiên ḅn mót đồ vật hoặc thóc lúa ta bỏ bê, ta lại tàn nhẫn, chẳng thể cho họ, hoặc cho vay tính lăi. Họ làm thuê làm mướn vất vả để kiếm chút tiền mọn, vẫn phải tận lực giành nhau [từng công việc một]. Ta của cải chất đầy rương, sọt, [vẫn toan] xun xoe bợ đỡ kẻ quyền thế, sang cả, chỉ sợ họ chẳng tiếp nhận. Người nghèo xin một đồng ḥng kéo dài mạng sống trong sớm tối, có kẻ bèn phừng phừng nổi giận! Có kẻ thoái thác “bụng dạ [ta rất cảm thông với nỗi khổ của ngươi]”, nhưng chẳng thể cho người nghèo chút ǵ để họ cầm về. Ta có nhiều tiền bèn sống phô trương xa xỉ, dâm dật, do đó chuốc họa. Kẻ nghèo mong đợi ta thí cho đôi chút thức ăn thừa, thế mà vẫn chẳng thể được!

          Chuyện trong cơi đời sao mà chênh lệch bất công đến nỗi như thế? Tôi nay v́ kẻ nghèo giăi bày, chẳng phải là [buộc quư vị] dốc sạch tiền tài để cứu đói, ép uổng người khác làm chuyện khó. Chỉ xin hăy quyên tặng những thứ [chính ḿnh] không dùng đến để biến chúng thành hữu dụng đó thôi! Tiệc tùng nếu đă no say, sao không chia sẻ rượu thịt để thí cho kẻ đói khát sắp chết? Sao chẳng san sẻ canh thừa để thí cho kẻ suốt đời chẳng biết mùi vị ǵ khác! [Làm như vậy] chẳng phải là thuận tiện cả đôi đằng ư? Quần áo chất đống trong rương th́ có khác ǵ chẳng mặc? Hăy bỏ ra những thứ áo ngắn vải thô để thí cho kẻ không có áo che thân, họ cũng sẽ được hưởng sự ấm áp, mà những thứ quần áo đẹp đẽ của ta vẫn chẳng bị thiếu hụt. [Như vậy là do bỏ ra] những thứ ta chẳng ưa thích mà có thể giữ vẹn tánh mạng và cốt nhục của kẻ khác. Nghĩa cử ấy do được bàn nói rồi sẽ lan truyền. Đêm sâu, hăy tự phản tỉnh, sẽ tự nhận biết: Cái đáng được yêu thích trong thiên hạ, không chi tốt đẹp hơn chuyện này!

          Ta tích cóp cho lắm, suốt đời chẳng dùng hết, bèn để lại cho con cháu. Con cháu hiền năng, chúng sẽ chẳng ỷ vào đó mà vẫn đủ dùng. Đứa ngu muội tuy có mà chẳng thể dùng[5], sao bằng ta đích thân bố thí th́ c̣n hữu dụng cho kẻ lo được bữa sáng không mong chi bữa tối? Đối với những thứ ta tiêu xài hoang phí, chẳng cần phải bận tâm, nếu cho kẻ nghèo th́ [sẽ giống như] họ đă nhặt được ngoài đường, chẳng hao tổn đến những thứ ta có, ta tiếc nuối nỗi ǵ? Ta sắm sanh lễ vật thịnh soạn để bợ đỡ [kẻ quyền thế, sang cả], chắc ǵ họ đă vui ḷng? Thí thưng gạo, đấu thóc, thí chén nước cho con cá sắp chết khô trong vết lơm bánh xe, [kẻ được bố thí] sẽ hớn hở khởi tử hồi sanh. Cớ sao chẳng làm chuyện này, mà làm chuyện kia?[6] Ta do lắm tiền nhiều của bèn chuốc họa, làm đôi chút [bố thí như vừa mới nói] sẽ được phước. Ta quyên tặng những thứ ta dư thừa để bù đắp cho kẻ thiếu thốn, tuy là tạo phước cho người khác, thật ra là để giúp ta thoát họa vậy! Đấy là đường lối lợi lạc đôi bên. V́ thế nói: “Quyên tặng những thứ không dùng đến để làm chuyện hữu dụng [cho người khác]” chính là v́ lẽ này!

          Chẳng thấy [sự biến hóa trong] đạo trời hoặc mối quan hệ nhân sự ư? Thịnh suy đắp đổi, trời c̣n chẳng trái nghịch! Tiền bạc lưu thông, há cứ ở măi một chỗ? Những kẻ được gọi là giàu có xưa kia, nay c̣n được mấy? Con cháu của họ chẳng được hưởng măi. Nếu chẳng do người đời trước chuộng bố thí, [con cháu làm sao hưởng được. Nếu người đời trước chẳng làm như vậy, tức là] đă chẳng mưu tính sâu xa [cho tương lai]! Thịnh suy đắp đổi lẫn nhau là lẽ đương nhiên! Biết lẽ đương nhiên ấy, đối với thứ đáng nên tích lũy sẽ tích lũy, đối với thứ đáng nên phân tán sẽ phân tán. Thứ chính ḿnh có thể sử dụng mà cũng có thể để cho kẻ khác sử dụng, đấy là bậc thông đạt. Đă tích cóp tiền bạc chất chứa tại một nơi, lại thiết lập cách đề pḥng, cứ ngỡ sản nghiệp sẽ ngàn vạn đời chẳng bị suy xuyển, giữ cho tài sản ấy chẳng bị chuyển dời; [suy nghĩ kiểu đó] chính là kẻ ngu vậy! Tích lũy âm đức ḥng làm kế sách lâu dài, đó chính là người trí. Hành bố thí chẳng nhằm mục đích nào, đấy chính là bậc quân tử.

          Đời Tùy, Lư Sĩ Khiêm, tên tự là Tử Ước, mồ côi cha từ bé, thờ mẹ chí hiếu. Năm mười hai tuổi[7], ông được Ngụy Quảng B́nh Vương vời ra làm Tham Quân trong phủ tướng quân. Do nhà giàu có, ông Lư bỏ ra mấy ngàn thạch gạo cho người làng vay mượn. Gặp năm đói kém, ông bèn gọi các nhà thiếu nợ đến, đốt bằng khoán vay mượn, bảo họ: “Nợ đă trả xong rồi!” Đến mùa Xuân năm sau, lại bỏ ra gạo thóc để chia cho những kẻ nghèo nàn, túng thiếu, cứu sống rất nhiều người. Những người đă chết, ông đều chôn cất. Nếu có ai ca tụng âm đức của ông, ông đáp: “Âm đức như tiếng kêu ngầm trong tai, chính ḿnh tự biết, kẻ khác chẳng biết. Nay ông đă biết, c̣n nói là âm đức chi nữa?” Một hôm, ông mộng thấy có một vị thần áo tía bảo: “Thượng Đế tăng thêm âm đức cho ngươi, khiến cho con cháu ngươi hết sức hưng vượng”.

          Đời Tống, ở huyện Thái Thương có một người họ Cố làm nha lại cho quan Tri Châu. Hễ có công vụ phải đón tiếp, đưa tiễn, ắt trọ tại nhà người bán bánh họ Giang ở ngoài thành. Về sau, họ Giang bị kẻ thù vu cáo trộm cắp, [phải tù đày], ông Cố tập hợp mọi người kêu oan, nên họ Giang được thả. Ông Giang cảm ơn, có đứa con gái mười bảy tuổi bèn đưa tới nhà họ Cố xin được làm thiếp. Ông Cố bảo vợ chuẩn bị lễ vật đầy đủ, đưa [cô ta] trả về. Ông Giang lại dẫn con tới, ông Cố lại chối từ. Về sau, ông Cố lên kinh đô, được điều sang làm môn hạ lo việc cho viên Thị Lang[8] họ Hàn. Thị Lang bỗng có chuyện đi vắng, phu nhân trông thấy ông Cố, bèn gọi đến hỏi: “Ông có phải là Cố đề khống[9] ở Thái Thương hay không? Tôi là con gái người bán bánh họ Giang. Tôi vốn được gả làm thiếp cho tướng công, sau đó, được [nâng lên] làm chánh thất. Mọi điều dẫu nhỏ nhặt đều do ông ban cho, tôi sẽ kể với tướng công”. Thị Lang trở về, vợ kể cặn kẽ từ đầu đến cuối. Thị Lang nói: “Đấy là người nhân từ vậy”, rồi tâu lên vua chuyện ấy. Vua khen ngợi, phong cho ông Cố làm Chủ Sự[10] bộ Lễ.

          Đời Tống, Phạm Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm) sai con là Nghiêu Phu trở về Tô Châu lấy năm trăm hộc lúa mạch. Trên đường, gặp người quen biết cũ là Thạch Mạn Khanh kể lể có ba đám tang ma chưa lo toan được, Nghiêu Phu đem cả thuyền lúa mạch cho họ Thạch. [Nghiêu Phu] quay về, chưa kịp thưa chuyện, Văn Chánh hỏi: “Có gặp người quen biết cũ hay không?” Nghiêu Phu bèn thưa chuyện Thạch Mạn Khanh có ba đám tang chưa lo liệu được. Văn Chánh hỏi: “Sao không đem thuyền lúa mạch cho ông ta?” Thưa: “Con đă cho rồi”. Cha con ông Phạm cùng một ḷng, thích bố thí như thế. Há có như người thời nay chỉ tôn thờ phú quư, trên gấm thêm hoa, chẳng chịu châu cấp, giúp đỡ kẻ nghèo khổ, đưa than sưởi ấm trong ngày tuyết rơi ư? Dẫu là có thí, có cho đôi chút, có kẻ nào chẳng mong cầu được báo đáp, hoặc cho rồi hối tiếc hay chăng?

          Xưa kia, có một cô gái vào chùa, muốn thí xả mà chẳng có tiền, chỉ có hai đồng bèn quyên cúng. Vị chủ chùa (Trụ Tŕ) đích thân v́ cô ta sám hối. Về sau, cô ta vào cung, phú quư, mang mấy ngàn lạng vàng cúng chùa. Vị Trụ Tŕ chỉ sai đồ đệ hồi hướng cho cô. Cô lấy làm lạ, hỏi nguyên do, vị Tăng bảo: “Trước kia, vật tuy đơn bạc, nhưng tâm rất chân thành, cho nên lăo tăng đích thân bái sám. Nay tài vật hậu hĩnh, nhưng tâm chẳng thiết tha, sai học tṛ thay mặt bái sám là đủ rồi!” Hễ làm việc thiện, gieo đức, chí tâm là quư nhất. Hễ ư niệm vừa chuyển, sẽ chẳng bằng ư niệm ban đầu, huống hồ c̣n hối tiếc ư?

          Ông Vu Thiết Tiều nói:

          - Cầm thú c̣n biết báo đức, há có lẽ nào con người chẳng cảm ơn? Chẳng biết điều khó chịu nhất [đối với người nhận sự bố thí] là thái độ tự măn của người bố thí. Hễ thái độ tự măn lộ ra, sẽ khiến cho kẻ cảm kích ân đức sanh ḷng hổ thẹn. Do hổ thẹn mà sanh ḷng oán. Xưa kia có một viên nha lại từng cứu mạng kẻ khác. Kẻ ấy dần dần trở thành giàu có, c̣n viên nha lại trở thành nghèo nàn. Ngẫu nhiên viên nha lại đi qua nhà người ấy, cả nhà ra vái chào, giữ lại uống rượu hết sức cung kính. Viên nha lại uống rượu say ngà ngà, lớn tiếng bảo: “Nếu chẳng do sức của ta, th́ vợ con, con hầu, đầy tớ của ngươi và những vật đang thấy trước mắt đây, làm sao ngươi có nổi một thứ ǵ cho được? Nay ngươi giàu có mà ta nghèo đi, sao lại thế nhỉ?” Nói xong, ngủ lại nhà đó. Họ bàn bạc với nhau: “Gă này có cái tâm mong cầu được báo đáp quá lố, có báo đáp cũng không thể thỏa ư hắn được. Chẳng báo đáp, ắt họa rơi xuống thân ta, chẳng bằng giết quách đi”, liền cắt phăng đầu hắn ta. Ôi! Do cứu người mà ngược ngạo tự giết chết chính ḿnh, trong ấy đương nhiên là có xen vào cái nhân khéo ứng hợp. Sự báo ứng hung ác của họ đương nhiên là có liên quan đến số mạng của viên nha lại, hăy gác lại chớ luận, chỉ nêu ra chuyện này ḥng răn nhắc những kẻ [thi ân] cầu báo vậy!

 

          (Chánh văn) Sở vị thiện nhân.

          (正文)所謂善人。

          (Chánh văn: [Người như vậy] đáng gọi là thiện nhân).

 

          Từ chỗ này cho tới câu “thần tiên khả kư” (có thể mong thành thần tiên) là nói phước báo của thiện nhân to lớn, dồi dào, chẳng sai suyển vậy. Cốt lơi của thiện nhân được bắt nguồn từ chỗ chẳng lầm lẫn giữa đúng và sai, tức là trí và dũng đều trọn vẹn. Cuối cùng là [kiến chấp có] ta và người hai đằng đều chẳng c̣n, ắt nhân từ và khoan dung sẽ cùng được hành. Huống hồ [bậc thiện nhân] lập tâm dụng ư, [bất luận] đối với chính ḿnh hay đối với người khác, trong th́ là ngũ thường, bách hạnh[11], ngoài là thuận theo thời cơ, hành xử thích đáng, không ǵ chẳng trọn vẹn. Đấy cũng chính là chẳng khác ǵ Nghiêu, Thuấn, Châu, Khổng tái sanh! Để được gọi là bậc thiện nhân, do ḷng trời ưa điều thiện, ghét điều ác, ḷng người có thiện, chẳng có ác, nhưng con người thường sơ sót đối với những sự nhiễm đắm bởi thói quen, đến nỗi đánh mất thiện tâm ban đầu. Hăy nên có điều thiện bèn tinh tấn, có điều ác bèn hối cải, ḥng đáng gọi là thiện nhân vậy!

          Đời Tống, Văn Chánh Công Lư Phưởng đă cáo quan xin về hưu. Do tiết Thượng Nguyên, [mọi nơi] treo đèn mừng lễ, Tống Thái Tông sai sắp đặt xe cộ đón ông vào cung, cho ngồi bên cạnh giường ngự, đích thân cầm chén rượu ngự rót mời, chọn lựa những thứ quả hạt quư ban cho, phán: “Khanh là bậc thiện nhân quân tử, từng hai lần làm Tể Tướng, chưa hề ôm ḷng tổn thương người, hại vật. V́ thế, trẫm tưởng nhớ khanh”. Ông trở về, răn dạy con: “Tuy ta chẳng có công lao, thành tích to lớn, lạ lùng, kinh hăi thế tục ǵ, nhưng chưa hề ẩn giấu điều lành của người khác, chẳng quên mất người đă tiến cử, chẳng lừa dối dẫu ở một ḿnh trong pḥng kín. Tự xét đức hạnh th́ ta vâng giữ bổn phận. Ta tự cho là đă tuân thủ bốn điều ấy. Nay được thánh thượng đối trước quần thần khen ngợi ta là thiện nhân, quân tử. Phàm là bậc thiện nhân, quân tử, Khổng Tử nói c̣n chưa trông thấy, ta là hạng người nào mà dám đảm nhận [mỹ hiệu ấy]? Các con hăy nên nghĩ tới lời khen ngợi đáng quư ấy của thánh thượng mà thực hiện bốn điều cha vừa nói. Trung với vua, hiếu với cha mẹ, luôn hành xử cẩn trọng, tự lập, tự cường, ngơ hầu có thể chẳng hổ thẹn”. Con ông là Tông Ngạc tuân thủ nghiêm ngặt lời cha dạy, trở thành người nổi tiếng đương thời.

          Nói nông cạn, thiện nhân là dứt ác, làm lành. Nói cùng tột, sẽ là chứng thánh, thành tiên, thông hiểu tột cùng sự thần diệu nơi sự vật, thấu đạt lẽ tạo hóa, đều là do từ một thiện niệm mở rộng vậy.

          Đời Minh, Trâu Tử Doăn ở Giang Tây sùng tín Tam Bảo, siêng hành trăm điều thiện. Hễ là những chuyện cứu vớt người hoạn nạn, thành tựu chuyện tốt cho người khác, dẫu nước sôi, lửa bỏng, lạnh, nóng, cũng chẳng nề hà. Mọi người gọi ông là thiện nhân. Ông mắc bệnh, chết đi, tới trước Diêm Vương, trong ḷng chẳng phục. Vua sai nha lại đưa sổ bộ cho xem. Mở sổ ra, bèn nổi lên hai chữ “danh lợi” to đùng. Phàm đối với những việc thiện do Tử Doăn đă làm trong suốt một đời, hoặc ghi chữ Danh, hoặc đề chữ Lợi ở phía dưới. Tử Doăn thẹn thùng, chịu phục. Ông sống lại, nói với người khác: “Hăy v́ tôi mà bảo khắp mọi người: Làm lành hăy nên chân thành, thật thà, tấm ḷng rỗng rang”. Năm ngày sau, ông Trâu mất.

          Đường Thời nói:

          - Tôi biết rơ ông Tử Doăn là người có lẽ chẳng tránh khỏi thói háo danh. Đối với lợi, Tử Doăn là người trọng nghĩa khinh tài, sao lại có chuyện này? Ắt là trong lúc được thỉnh cầu, nhờ cậy, ư niệm ban đầu là phát nguyện làm thiện sự, cho đến khi nắm giữ tiền của trong tay, ngẫu nhiên vướng thói tệ sử dụng không đúng mục đích, hoặc là thoạt đầu th́ nói: “Ta mượn tạm”, về sau lần khân chẳng trả lại, khiến cho Tử Doăn cả đời siêng năng, vất vả, chỉ đổi lấy hai chữ ấy! Có thể thấy âm ty quen lệ ghi chép những điều tà vạy ngấm ngầm, nhỏ nhặt. Tôi hiểu ḷng ông Tử Doăn, nên v́ ông ta giải thích rơ. V́ thế, bảo khắp những người làm lành: Hăy nên làm mà không làm, không ǵ chẳng làm, tùy thuận thời cơ để lợi lạc chúng sanh, sẽ là tốt nhất. Chẳng có cái tâm mong cầu được báo đáp, cứu vớt, dẹp trừ nỗi khổ nạn cho chúng sanh, khuyên kẻ khác làm lành th́ sẽ kém hơn một bậc. Tích lũy âm công rộng răi, cầu cho chính ḿnh tránh khỏi tam đồ, lại kém hơn một bậc nữa. Nếu có mảy may ư niệm v́ danh th́ đă đi sai đường mất rồi. Nếu có mảy may ư niệm [nhờ làm lành] để kiếm lợi riêng tư, sẽ đọa địa ngục [nhanh chóng] như tên bắn vậy, chẳng đáng sợ ư? Tôi ghi những điều này để mong những người nguyện làm lành trong đời sau sẽ biện định rơ ràng mà dốc ḷng thực hiện vậy.

 

          (Chánh văn) Nhân giai kính chi, thiên đạo hựu chi, phước lộc tùy chi, chúng tà viễn chi, thần linh vệ chi.

          (正文)人皆敬之。天道佑之。福祿隨之。眾邪遠之。神靈衛之。

          (Chánh văn: Mọi người đều kính trọng, trời ban phước cho, phước lộc theo đến, các tà lánh xa, thần linh bảo vệ).

 

          Thiện th́ ai nấy đều vốn sẵn có, hễ được khơi gợi, sẽ dấy động. Dẫu là hàng ngu phu ngu phụ, nếu nghe một chuyện lành, mọi người nhất định sẽ ca ngợi. Dẫu ngươi là kẻ hung ác cùng cực, trông thấy người lành, cũng chẳng dám xâm phạm. Ấy là v́ lương tâm phát khởi, sẽ đều là chẳng thể không làm như thế được. Bàn đến chuyện “mọi người đều kính trọng” th́ ắt là do đạo đức của người ấy thật sự có điểm đáng kính, không một ai là chẳng như vậy!

          Đời Tống, Tư Mă Ôn Công được triệu về kinh đô làm quan. Ai trông thấy ông cũng đều lấy tay bưng trán[12]. Ông đi tới đâu, dân chặn đường, thưa: “Ngài đừng trở về Lạc Dương, hăy ở lại làm Tể Tướng cho thiên tử, [giúp cho] lũ dân chúng tôi được sống sót”. Lưu đại gián[13] làm quan tại triều đ́nh, thiên hạ không ai chẳng ca ngợi ḷng trung của ông. Phú Văn Trung (Phú Bật) cưỡi con lừa thọt đến cầu Thiên Tân, những người theo sau ông xem [ngày càng đông] đến nỗi chợ vắng tanh[14]. Từ Tiết Hiếu dựng lều trông mộ [mẹ suốt ba năm] tại làng Hoài Âm, trong thành hằng ngày đều có người đến tỏ ḷng tôn kính. Thiệu Khang Tiết xuất du, dân chúng không ai là chẳng vội vă tranh nhau đón tiếp. Người đă ưa thích [dường ấy], có thể biết là ḷng trời cảm cách dường nào. Nếu họ thật sự chẳng có điểm đáng kính, làm sao có thể khiến cho người khác cảm động dường ấy? Những vị ấy lúc sống sẽ làm bậc Tể Tướng hoặc thầy [của mọi người], khuất núi sẽ thành bậc thần minh vậy.

          Thiên đạo chẳng thiên vị yêu thương riêng một ai, nhưng thường thuận theo bậc thiện nhân. Chẳng nói mà ứng hợp hay khéo, chẳng chuốc vời mà tự đến. Ta thật sự dùng ḷng thành cảm thông, sẽ chẳng bao giờ không được gia hộ vậy. Chỉ nên trọn hết bổn phận làm người, ḷng thành chẳng gián đoạn. Do vậy, rốt cuộc sẽ cảm động ḷng trời. Kinh Cứu Kiếp có câu: “Nhất tâm như thử, thính mạng ư thiên” (Một dạ như thế, nghe theo mạng trời). Có thể thấy là [thiện nhân làm lành] chẳng có mảy may ư niệm mong cầu, trông ngóng!

          Đời Tống, Châu Tử nói: “Trời đất chẳng làm một điều ǵ, chỉ lấy sinh vật làm tâm, kẻ nào trong bất cứ niệm nào cũng đều có ư niệm lợi lạc, cứu giúp [người khác] th́ sẽ [có cái tâm giống hệt như] trời đất. Kẻ phù hợp ḷng trời, lẽ nào trời chẳng ban phước cho?”

          Đời Tống, Lưu An Thế dâng sớ thẳng thừng biện định những kẻ tà chánh trong đám triều thần. Ông lại luận định Chương Đôn là hạng tiểu nhân chẳng thể dùng được. Đến khi Chương Đôn nắm quyền, ông bị đày đi xa, trải qua nhiều chỗ thuộc vùng núi non, biển cả, lênh đênh nhiều nơi. Người ta cho rằng ông ắt phải chết, nhưng rốt cuộc ông chẳng sao. Tuổi đă tám mươi, ông chưa hề bị bệnh ngày nào. Trong khi ông bị biếm trích, có kẻ toan lấy ḷng Chương Đôn, xin giết ông. Tới khi gă đó rong ruổi đến chỗ ông, toan ra tay, bỗng như bị vật ǵ đánh trúng, hộc máu chết tươi!

          Đường Tử Dư từ đất Thục (Tứ Xuyên) đưa linh cữu của cha về Cát Thủy. Khi ấy, nhằm tiết Thu, nước sông hồ dâng cao, khe Cù Đường[15] nước chảy càng xiết. Trời đổ mưa, nhà thuyền kinh hoảng. Tử Dư ngửa mặt lên trời khóc lớn, mới khóc gào một tiếng, nước đă rút hơn hai mươi trượng. Thuyền đi qua, nước lại dâng lên như cũ. Trung hiếu đứng đầu các đức, cho nên đạo trời che chở dường ấy. Ở đây, nêu lên hai câu chuyện này, [nhằm chứng tỏ] con người chuyện ǵ cũng có thể cảm thông cơi trời, chuyện ǵ cũng đều được trời cao che chở, bảo vệ vậy!

          Bậc thánh hiền quân tử lời nói tốt lành, hành vi tốt lành, chiêu cảm ḥa khí, tự nhiên những điều tốt lành ứng hợp. Kinh Thi có câu: “Lạc chỉ quân tử, phước lộc thân chi” (Vui thay bậc quân tử, phước lộc do đó mà sanh) chính là nói về chuyện này vậy.

          Đời Đường, Quách Tử Nghi khôi phục hai kinh đô[16], công che lấp cả triều đ́nh nhà Đường. Ông dốc sức lo liệu cho sự an nguy của thiên hạ suốt ba mươi năm. Ông làm Trung Thư Lệnh, khảo hạch [bá quan] suốt hai mươi bốn năm. Phú, quư, trường thọ, con cháu vinh hiển, xưa nay rất hiếm người sánh bằng. Ông Quách được hưởng phước lộc trọng hậu là v́ công lao to lớn, đức hạnh cao tột, chứ chẳng phải là do may mắn mà được như thế. Người làm lành hăy nên suy nghĩ!

          Đời Minh, Trịnh Chiếu ở Phượng Dương hằng ngày chú trọng làm lợi cho người khác. Một đêm mộng tới chỗ Thiên Phủ[17], thấy thần bày sẵn ngôi vị trống chờ đợi, bảo: “Ông vốn nghèo hèn, do làm lành, nên sai hai vị thần phước lộc đi theo ông. Mai sau sẽ ngự nơi địa vị này”. Trịnh Chiếu tỉnh giấc, thiện niệm càng thêm vững chắc, thanh danh càng rạng ngời. Đi đến đâu, tiền bạc cũng rủng rỉnh. Tới chỗ nào, phước lộc cũng theo sát bên thân. Cháu con phú quư, hưng thịnh, nhận lănh chức vị cao sang, bổng lộc trọng hậu cho đến lúc mất. Về sau, quả nhiên thoát xác, chứng quả vị Tịnh Dục Chân Nhân.

          Nhan Uyên chết yểu nơi ngơ hẹp. Di Tề[18] chết đói nơi Thủ Dương. Nguyên Hiến nghèo nàn, Phạm Bàng bị hành h́nh[19], chính là những vị tu đức, nhưng kém phước lộc. Bậc thiện đức ở chỗ nào, nơi đó mặt trời, mặt trăng tranh nhau tỏa sáng, phước lộc tầm thường chẳng thể sánh bằng. Hăy nên biết đó là đạo lư của những bậc v́ nghĩa mà xả thân.

          Tà và chánh chẳng thể cùng tồn tại. Hễ chánh tới, tà chẳng thể tự dung. Ví như vầng thái dương vừa mọc, ắt băng tuyết tự tiêu tan. Lư Cát Phủ nói: “Thần thánh chuộng chánh trực. Người vâng giữ lẽ chánh trực, ắt thần sẽ phù trợ. Yêu ma chẳng thể thắng nổi bậc đức hạnh. Hễ thất đức, ắt yêu ma lẫy lừng, đó là lẽ tự nhiên”.

          Đời Minh, Cảnh Thanh đi thi Hội, đi qua huyện Thuần Hóa. Chủ nhà có một đứa con gái bị yêu quái dựa thân. Ông nghỉ đêm tại nhà ấy; đêm đó, yêu quái không tới. Cảnh Thanh đi rồi, nó lại ṃ tới. Cô gái hỏi nguyên do, [yêu quái trả lời]: “Tránh né ông tú tài họ Cảnh”. Cô ta bèn kể với cha. Cha cô ta đuổi theo Cảnh Thanh, [kể rơ đầu đuôi], Cảnh Thanh bèn viết bốn chữ “Cảnh Thanh ở đây”, bảo hăy dán lên cửa, nạn yêu quái chấm dứt. Cảnh Thanh hết sức trung liệt, cho đến nay vẫn được người ta ngưỡng mộ.

          Thứ đầy ắp trong ṿng trời đất chính là Khí (chánh khí). Nếu chánh khí chẳng thiếu khuyết, do sự chánh đại quang minh được lưu hành, yêu ma quỷ quái chẳng dám xâm nhiễu. V́ thế, bậc quân tử có cái học “dưỡng khí” (nuôi dưỡng chánh khí). Dưỡng khí cốt yếu là trị tâm. Dốc sức giữ cho cái tâm thanh tịnh, quang minh, giữ ḷng chân thành, tâm sẽ an định, ắt yêu ma quỷ quái chẳng thể xen lẫn vào được. Nếu ḷng người tối tăm, mê muội, chẳng cần hỏi tà từ đâu đến, trong tâm đă có sẵn tà quái tụ tập rồi, há có thể nào khiến cho [yêu ma quỷ quái] vừa trông thấy bèn khuất phục ư?

          Thần và người cùng một lư. Ai được mọi người kính trọng th́ thần cũng gia hộ. Đó gọi là “đạo đức đă cao trọng, quỷ thần đều khâm phục”.

          Đời Tống, Hàn Kỳ từ Thành Đức chuyển sang trấn nhậm Trung Sơn. Đi đến Sa Hà, bỗng những người đi đầu trở lại thưa: “Nước lũ sắp tràn tới”. Ông vội truyền chuẩn bị thuyền để vượt sông. Quả nhiên sóng to như núi. Thuyền sắp ch́m, những người đi theo đều hết sức kinh hoảng. Bỗng có một con rồng thần từ đầu nguồn chắn ngang ḍng nước, nước bèn lặng êm. Thuyền qua sông rồi rồng mới rời đi, nước bèn dâng tràn ồ ạt như cũ.

          Đời Minh, ông Kim ở Nghi Trưng mở tiệm cầm đồ. Đầu niên hiệu Gia Tĩnh, bọn cướp sông cướp bóc gần hết những nhà giàu có, chỉ riêng họ Kim là không sao. Quan trên ngờ ông ngầm qua lại với lũ cướp. Đến khi bắt được kẻ cướp, tra hỏi nguyên nhân, bọn cướp thưa: “Đă vài lần đến cướp, đều bị thần kim giáp xua đuổi”. Quan chưa tin, gọi những hàng xóm ông Kim đến ḍ hỏi, họ đều nói: “Ông Kim thật sự tích đức, các tiệm cầm đồ thường là trả tiền cho khách cầm đồ th́ ít, đ̣i tiền chuộc nặng nề. Chỉ riêng tiệm ông ta là cho cầm và chuộc lại công b́nh, ước định giá trị của món đồ đem cầm rất rộng răi, định kỳ hạn chuộc lại dài hơn. Lại c̣n hỏi thăm, nếu là người già, nghèo khổ, sẽ phá lệ không tính tiền lời. Lại c̣n vào mùa Đông th́ không tính tiền lời đối với áo ấm. Mùa Hè th́ không tính tiền lời đối với áo mùa Hè. Hằng năm đều làm như vậy. Trời che chở người lành, sai thần đến ủng hộ, đối với lư ấy, há có ngờ chi?” Quan bèn khen ngợi ông Kim, tâu lên triều đ́nh xin khen thưởng.

          Vu Thiết Tiều nói:

          - Trong phần đầu là nói đến họa ác. Trong phần trước đă nói “nhân giai ố chi” (mọi người đều ghét), nay nói đến phước thiện, bèn trước hết là nói “nhân giai kính chi” (mọi người đều kính). Bởi lẽ, những chuyện như ác tinh gieo tai họa, thần linh hộ vệ, có lẽ nhất thời chưa trông thấy, mà chuyện [mọi người] đều kính trọng hay đều ghét bỏ chính là những điều báo trước có thể coi như là chứng cớ vậy. Kẻ có tâm học đạo hăy thường phản tỉnh, tự suy xét: “Nếu người kính trọng ta nhiều, sẽ biết thần linh ủng hộ, bảo vệ đông đảo. Nếu kẻ ghét ta nhiều, sẽ biết ác tinh chói ngời trên đỉnh đầu! Ḷng người chính là ư trời, chẳng cần phải t́m ṭi từ chỗ chẳng thấy, chẳng nghe!

 

          (Chánh văn) Sở tác tất thành, thần tiên khả kư.

          (正文)所作必成。神仙可冀。

          (Chánh văn: Việc làm ắt thành, có thể trở thành thần tiên).

 

          Thế gian chẳng có chuyện ǵ không thành, thiên hạ đều là người có thể thực hiện. Chỉ dùng tâm chân thật để làm lành, ắt việc người đă hợp ḷng trời, ư trời há có trái nghịch ước nguyện của con người ư? Tự nhiên ngấm ngầm giúp đỡ, không ǵ chẳng thực hiện suông sẻ, không ǵ chẳng làm thành công!

          Ông Vu Ngọc Bệ nói:

          - Kinh Di Giáo[20] dạy: “Túng thử tâm giả, táng nhân thiện sự. Chế chi nhất xứ, vô sự bất thành” (Buông lung cái tâm này, sẽ làm hỏng thiện sự của con người. Chế ngự tâm vào một chỗ, không chuyện ǵ chẳng thành tựu). Lại nói: “Nhữ đẳng tỳ-kheo, đương cần tinh tấn, tắc sự vô nan giả. Thí như tiểu thủy trường lưu, tắc năng xuyên thạch. Nhược hành giả chi tâm, sổ sổ giải phế, thí như toản hỏa, vị nhiệt nhi tức. Tuy dục đắc hỏa, hỏa nan khả đắc” (Hàng tỳ-kheo các ông hăy nên siêng năng, tinh tấn, th́ mọi chuyện sẽ chẳng khó khăn. Ví như ḍng nước nhỏ mà cứ chảy măi, sẽ có thể xoi thủng đá. Nếu tâm hành giả nhiều lượt biếng nhác, bỏ lửng, sẽ giống như dùi gỗ lấy lửa, gỗ chưa nóng mà đă ngưng, tuy muốn được lửa, khó thể có được lửa).

          Kinh Xuất Diệu[21] nói: “Trí giả dĩ huệ luyện tâm, tầm cứu chư cấu. Thí như khoáng thiết, nhập hỏa bách luyện, tắc thành tinh kim. Hựu như đại hải, nhật dạ phất động, tắc sanh đại bảo. Nhân diệc như thị, trú dạ dịch tâm bất chỉ, tiện hoạch quả chứng” (Bậc trí dùng huệ để luyện tâm, t́m ṭi đến cùng tột [căn nguyên của] các phiền năo. Ví như quặng sắt, bỏ vào lửa nung trăm lần, sẽ thành thép ṛng. Lại như biển cả, đêm ngày luôn nổi sóng, sẽ sanh ra vật báu quư giá. Người cũng giống như vậy, ngày đêm rèn luyện cái tâm chẳng ngừng th́ sẽ chứng quả).

          Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: “Phù vi đạo giả, thí như nhất nhân dữ vạn nhân địch. Quải khải xuất môn, ư hoặc khiếp nhược, hoặc bán lộ nhi thoái, hoặc cách đấu nhi tử, hoặc đắc thắng nhi hoàn. Sa-môn học đạo, ưng đương kiên tŕ kỳ tâm, tinh tấn dũng nhuệ, bất úy tiền cảnh, phá diệt chúng ma, nhi đắc đạo quả” (Phàm là kẻ tu đạo, ví như một người đối địch với vạn người. Khoác áo giáp ra khỏi cửa, nếu có ḷng khiếp sợ, hoặc nửa đường quay về, hoặc dốc hết sức chiến đấu cho đến chết, hoặc đắc thắng quay về. Sa-môn học đạo, hăy nên giữ vững tấm ḷng, tinh tấn, dũng mănh, bén nhạy, chẳng sợ tiền cảnh, phá diệt các loài ma, bèn đắc đạo quả).

          Đời Nguyên, tổ sư Thiên Mục Sơn Trung Phong đă nói:

          - Tôi nhớ nhà Nho có bài thơ khuyên học như sau: “Kích thạch năi hữu hỏa, bất kích nguyên vô yên. Nhân học thỉ tri đạo, bất học phi tự nhiên” (Đập đá bèn xẹt lửa. Chẳng đập, khói chẳng sanh. Người học mới biết đạo, chẳng học chẳng tự nhiên). Đấy là nói trong đá vốn có lửa, chẳng dùng trí xảo để va quẹt, dẫn khởi, sẽ trọn chẳng thể gặp gỡ được. Người hiện thời chỉ biết trong đá có lửa, chẳng bỏ ra nửa điểm công sức trí xảo để va đập, suốt ngày chỉ trỏ ḥn đá lạnh ngắt ấy mà nói đến tác dụng của lửa. Nói cho đến nỗi “mắt rơi xuống đất” (đến chết), vẫn là một khối đá trơ trơ như trước, muốn t́m một tí tác dụng của lửa, trọn chẳng thể được! Đấy là kẻ chẳng chịu dốc hết một ḷng thực hiện công phu vậy. Lại có một hạng người nghe nói trong đá có lửa, bèn đập nát đá. Do muốn lấy được lửa, bèn đập đá nát bét thành bụi, trọn chẳng được lửa. Chẳng tự trách [chính ḿnh] không dùng trí xảo để có được lửa, lại đến nỗi chẳng tin trong đá thật sự có chân hỏa! Đấy là hạng phàm phu không tin “tự tâm thành Phật”.

          Người thời nay nếu muốn hoàn thành chuyện này, trước hết, hăy lấy tín căn làm đá, kế đó, đề khởi đơn độc một câu thoại đầu để làm cái tay quẹt đá. Lại dùng chí nguyện kiên cố chẳng thoái chuyển làm sắt. Quẹt con dao lấy lửa ấy, dùng sức chuyên ṛng, siêng năng, dũng mănh, suốt ngày vận dụng trong động tĩnh để gơ quẹt sao cho chẳng gián đoạn. Lại dùng chủng tánh Bát Nhă làm cỏ khô, bỗng dưng nương nhau thành tựu, nẩy sanh một đốm lửa nho nhỏ, chiếu thấu trời đất. Đấy gọi là “trí xảo”.

          Đời Minh, Liên Tŕ đại sư nói:

          - Bất cứ kỹ năng hay nghề nghiệp nào trong thế gian, lúc mới học sẽ khó khăn khôn ngằn, dường như là muôn phần chẳng thể thành được. Do vậy, bèn bỏ đó, chẳng học, sẽ trọn chẳng thể thành được! V́ thế, quư ở chỗ thuở đầu có cái tâm quyết định chẳng nghi. Tuy là quyết định, mà lần khân, tŕ hoăn, cũng sẽ chẳng thành. V́ thế, tiếp đó là quư ở chỗ cái tâm tinh tấn dũng mănh. Dẫu tinh tấn, nhưng được chút ít đă cho là đủ, hoặc lâu ngày bèn mệt mỏi, hoặc gặp thuận cảnh bèn mê, hoặc gặp nghịch cảnh bèn đọa, th́ cũng chẳng thành. V́ thế, kế đó, quư ở chỗ có cái tâm kiên quyết, luôn giữ vững, chẳng thoái chuyển. Như vậy th́ sẽ được gọi là bậc trượng phu thật sự hữu tâm. Giữ tấm ḷng như thế, có chuyện ǵ chẳng làm được, há chẳng nên gắng sức ư?

          Thái Thượng là tổ của Đạo gia, cho nên chuyên nói đến chuyện cầu thành tiên. Mạnh Tử nói: “Nhân giai khả dĩ vi Nghiêu Thuấn” (Ai cũng đều có thể thành Nghiêu, Thuấn). Lục Tổ của Thiền Tông Chấn Đán (Trung Hoa) đă nói: “Đản dụng thử tâm, trực liễu thành Phật” (chỉ dùng cái tâm này mà thẳng thừng thành Phật). Thánh nhân của tam giáo dẫu nói như thế nào, cũng đều là phù hợp khít khao. Do đă có thể thành tiên, vậy th́ có thể thành Phật, có thể làm Nghiêu, Thuấn, huống hồ công danh, phú quư trong cơi đời, sống lâu, con cái, lẽ nào chẳng thể cầu được ư? Cũng đều là tùy thuộc người ấy làm như thế nào đó thôi!

          Đời Hán, Chung Ly[22] nói: “Tiên cầu người c̣n hơn người cầu tiên!” Lữ Tổ nói: “Người đời thường hận chẳng được thấy ta. Tuy hằng ngày thấy ta, mà không thể làm theo lời ta, có ích ǵ đâu?” Có thể thấy người và tiên, tánh thật sự vốn là một! Chỉ v́ để t́nh cảm chi phối quá mức mà đánh mất lẽ chân. Một mai quay lại lẽ chân, t́nh thức lẫn trần lao đều hết sạch, sẽ chính là thần tiên. Huống hồ lại c̣n có thể dùng thiện hạnh để giúp sức thêm ư?

          Kinh Thai Tức[23] nói: “Thánh thai do sự điều phục hơi thở mà kết thành, chân khí do từ hơi thở đă tĩnh định như hơi thở của thai nhi. Chân khí tiến nhập thân thể th́ là sanh. Thần ĺa khỏi h́nh hài th́ là tử. Hiểu biết Thần và Khí th́ có thể trường sanh. V́ thế, phải giữ cho cái tâm hư vô, nhằm nuôi dưỡng Thần và Khí. Thần thông suốt th́ Khí sẽ thông suốt. Thần bị bế tắc th́ Khí cũng bị bế tắc. Nếu muốn trường sanh, th́ Thần và Khí phải tưới rót lẫn nhau. Tâm chẳng dấy động ư niệm, chẳng đến, chẳng đi, chẳng xuất, chẳng nhập. Siêng năng thực hành như thế, đấy chính là đường lối của chân đạo vậy”.

          Đời Tống, Lư Đoan Nguyện hỏi thiền sư Đạt Quán: “Rốt cuộc thiên đường và địa ngục là có hay không?” Sư đáp: “Chư Phật từ trong Vô mà nói Hữu, [giống như người bị mắt nhặm] mà thấy hoa đốm trên hư không. Thái Úy[24] từ trong Hữu t́m Vô, [giống như] lấy tay ṃ trăng trong nước. Nực cười thay, trước mắt thấy lao ngục mà chẳng tránh[25], ngoài tâm nghe nói có thiên đường bèn muốn sanh về! Chẳng biết vui thích hay sợ hăi đều ở trong tâm, do thiện hay ác mà trở thành cảnh. Chỉ cần Thái Úy liễu giải tự tâm, tự nhiên sẽ chẳng c̣n mê hoặc nữa!”

          Kẻ cầu tiên thời cổ, có tấm ḷng trung như Tử Pḥng (Trương Lương), có ḷng hiếu thảo như Ngô Mănh. Vương Tiến Hiền chẳng đánh mất tiết hạnh của phụ nữ, Lan Kỳ ḥa thuận với anh em, Lưu Dực chịu thua thiệt, phân chia tài sản cho kẻ khác, Triệu Tố Đài giúp đỡ người nghèo, giúp người khác lo liệu ma chay, Hứa Chân Quân thí nước phù chú [để chữa bệnh], Nghiêm Quân B́nh dùng điều thiện hướng dẫn người khác, Châu Bá Tŕ chôn cất thi hài, Lư Ngũ Lang chẳng lừa dối khi đong gạo thóc, Trần An Thế chẳng giết hại sanh mạng loài vật, Lư Hề Tử cứu vớt những loài chim đói, Dương Kính Trực hễ rảnh rang bèn tĩnh tọa, Đường Nhược Sơn tánh chẳng nóng giận. Cho đến Hoàng Vạn Hựu rất ít lỗi lầm, Cảnh Tướng rất thích phóng sanh, Lưu B́nh A vốn là một thầy thuốc, Ngô Mục vốn là một huyện lại, Lưu Nghiên vốn là kỹ nữ, Bào Tịnh vốn là một chủ quán, Hạ Sanh vốn là một gă đồ tể, Đinh Ước vốn là một gă lính quèn, Châu Đồn vốn là một gă trộm cướp, Lư Chánh Nguyên vốn là thợ săn. Những người ấy đều do tích lũy công hạnh mà được thành tiên.

          Những người cầu thành tiên hiện thời, như ông Triều Hồi làm Tịnh Cư Thiên Chủ, ông Chương Văn Khởi làm Tư Mạng Chân Quân, Vương Tố làm Thị Lang ở Ngọc Kinh[26], Lữ Hối giữ chức Tư Củ cho Thượng Đế, Hàn Kỳ làm chủ nhân tử phủ[27], Phú Bật cai quản Côn Đài[28], Vương Tẩu chưởng quản bánh xe sắt của Dực Thánh [Bảo Đức Chân Quân], Kim Tam làm Phong Bá (thần gió) của Hựu Thánh (Bắc Cực Chân Vũ Đại Đế), Trương Hiếu Cơ làm chủ Tung sơn, Đậu Vũ Quân làm Động Thiên Chân Nhân, cho đến Âu Dương Tu làm chủ động Thần Thanh, Vương An Quốc làm chủ cung Linh Chi, Lữ Trăn làm chủ Quần Ngọc, Thạch Diên Niên làm chủ thành Phù Dung, Trần Tĩnh giữ chức Tư Trực, Điền Thừa Quân cai quản Duy Dương (làm thành hoàng của Dương Châu). Những vị này cũng do tích lũy công hạnh mà được thành tiên. Theo như kinh sách Đạo gia ghi chép, Trung Nguyên Nhị Phẩm[29] ngự trong Tả Động Dương Cung, cai quản đất đai, cửu hoàng[30], sơn thần, tứ duy, bát cực[31], thống lănh liêu thuộc (quan lại) trong giới thần tiên đến chín vạn chín ngàn chín mươi chín vạn (99.099.000) người. Những người ấy đều là những bậc có công hạnh đối với cơi đời, được hóa độ, tiến nhập [tiên giới], được bổ vào những chức vị ấy.

          Lại như Hà Hy Chí do chú giải kinh Kim Cang có ích cho cơi đời, chết đi làm quan kiểm điểm lịch số cho thần Tây Nhạc. Tuy chỉ là một chức quan ở nhạc phủ, nhưng cũng là người đắc độ. Đấy chính là người do làm lành mà có hy vọng được thành thần tiên vậy. Từ xưa tới nay, đă có hơn mười vạn người thành tiên, cả nhà được thành tiên th́ hơn tám mươi nhà. V́ thế nói: “Chớ bảo thần tiên không chỗ học, xưa nay bao kẻ đă đăng tiên”. Người thời nay tu hành chẳng chân thật, bèn bảo “trong cơi đời chẳng có thần tiên”. Chuyện này giống như những kẻ ra rả “tuân theo pháp tắc của Khổng Mạnh, nhưng không thể thực hành những giáo huấn ấy, bèn bảo “cơi đời chẳng có thánh hiền”, có nên hay chăng?

          Sách Tánh Mạng Khuê Chỉ[32] chép:

          - Muốn tu trường sanh, cần phải nhận biết cái gốc của sự sanh. Muốn cầu bất tử, phải nên hiểu rơ ai là người bất tử. “Người bất tử” chính là chân tâm vốn thường trụ của chúng ta. Cái tâm ấy linh thông, chẳng tăm tối, thường biết rơ rành rành, chẳng đến, chẳng đi, bất sanh, bất diệt. Hiềm rằng người đời chẳng ngộ! Từ vô thỉ đến nay, do mê mất chân tâm, cho nên phải bị luân chuyển, oan uổng vào trong các đường. Chân tâm vốn chẳng vọng, tánh trí vốn sáng suốt, mầu nhiệm, tĩnh lặng, vốn tinh ṛng, do vọng chợt dấy lên, bỗng dưng tăm tối, đánh mất sự tinh ṛng sáng suốt vốn sẵn có, chấp trước sâu đậm nơi kiến giải. V́ thế, chuyển trí thành thức, tạo thành vọng tâm nơi thân, gọi là Thức. Tâm vốn vô tri, do thức mà có tri (hay biết). Tánh vốn vô sanh, do thức mà có sanh. Chủng tử của sanh thân nẩy mầm từ đó, nở hoa hữu lậu, kết quả sanh tử. Người thời nay lầm nhận trong tâm có một vật sáng ngời, linh thông, hoàn toàn có cùng một Thể với muôn vật, cho là nguyên thần ở ngay nơi đó, chẳng biết thứ như thế chính là thức thần sanh sanh tử tử, là chủng tử để luân hồi bao kiếp dài lâu! V́ thế nói: “Người học đạo chẳng biết lẽ chân, chỉ v́ từ trước đă cho rằng thần thức [chính là chân tâm]. Đó là cái gốc để sanh tử từ vô lượng kiếp đến nay”. Kẻ si gọi [thần thức] là thứ con người vốn sẵn có (chân tâm, bản lai diện mục).

          Vua Dị Kiến[33] hỏi tôn giả Ba La Đề: “Phật là như thế nào?” Đáp: “Kiến tánh là Phật”. Vua nói: “Thầy có kiến tánh hay chưa?” Đáp: “Ta thấy Phật Tánh”. Vua hỏi: “Tánh ở nơi đâu?” Đáp: “Tánh ở nơi tác dụng”. Hỏi: “Là tác dụng nào?” Ngài Ba La Đề liền nói kệ rằng: “Ở thai là thân, nơi đời là người. Ở mắt là thấy, ở tai là nghe, ở mũi ngửi hương. Nơi miệng đàm luận. Nơi tay nắm bắt. Ở chân đi lại. Biến hiện bao trùm trọn khắp pháp giới, hễ thâu nhiếp th́ [nằm gọn] trong một vi trần. Người biết gọi là Phật Tánh, không biết bèn gọi là tinh hồn (精魂)”.

          V́ thế, đức Thế Tôn dạy mọi người trước hết hăy đoạn căn bản của vô thỉ luân hồi, chính là v́ ư này. Cái gốc ấy đă đoạn th́ các thức chẳng có chỗ nào để nương tựa, khôi phục cái bản thể nguyên sơ chân thường của ta. Đó gọi là chân tĩnh diệu minh, rỗng rang, nhạy bén, thông triệt, rạng ngời, tồn tại duy nhất. Hễ trái nghịch nó th́ là phàm phu, thuận theo nó th́ sẽ là thánh. Mê th́ sanh tử khởi đầu, ngộ th́ luân hồi chấm dứt. Muốn dứt luân hồi, không ǵ bằng vận dụng Chỉ và Quán. Cần phải lúc nào cũng giữ lúc thất t́nh chưa phát động, niệm nào cũng giữ vẹn cái Thể chưa bị nhuốm bẩn của tám thức. Thần quang vừa lộ, lập tức thâu hồi, chớ để cho nó chiếu bừa băi trong khoảng sát-na. Bậc tiên nhân thời cổ nói: “Đại đạo dạy mọi người trước hết hăy dứt niệm, ư niệm chẳng trụ cũng uổng công”. Kinh Viên Giác dạy: “Trong hết thảy các thời, chẳng dấy vọng niệm. Đối với các vọng tâm, cũng chẳng ngưng dứt. Trụ nơi cảnh vọng tưởng, chẳng thêm vào sự hiểu biết rành rẽ. Đối với cái chẳng hiểu biết rành rẽ, chẳng biện định chân thật”.

          Khởi Tín Luận nói: “Nếu tâm rong ruổi, tán loạn, liền thâu nhiếp, khiến cho nó trụ nơi chánh niệm. Hễ niệm dấy lên bèn giác. Hễ giác, nó sẽ chẳng c̣n nữa. Diệu môn trong tu hành chỉ nằm ở chỗ này. Hăy nên biết vọng niệm dấy từ thức căn, duyên vào cảnh mà thành vọng, chẳng thật sự có cái Thể. Khi ở nơi chúng sanh th́ trí kém cỏi, thức mạnh mẽ, chỉ gọi là Thức. Lúc ở nơi địa vị Phật, trí mạnh, thức kém, nên chỉ gọi là Trí. Chỉ là thay đổi tên gọi, chẳng chuyển cái Thể. Nguồn tâm ban sơ rỗng rang, mầu nhiệm, lặng trong, do từ [tác dụng] hay biết [sẵn có trong tự tánh mà hư vọng] lập ra một cái tri kiến nữa, vọng trần bèn sanh khởi. V́ thế có vọng niệm. Nếu chẳng thấy có tri kiến, trí tánh sẽ thanh tịnh, khôi phục sự mầu nhiệm, lặng trong, ư niệm tan lẫn. Một căn đă trở lại nguồn, sáu căn đều thành giải thoát. Đă không có căn, trần, lục thức, sẽ không có chủng tử luân hồi. Nhất điểm chân tâm độc lập, không nương tựa, muôn kiếp thường tồn tại, vĩnh viễn chẳng có sanh diệt”.

          Pháp này chỉ thẳng tâm người, một điều đă giải quyết xong, trăm pháp đều thỏa đáng. Đấy chính là bí quyết mầu nhiệm để thành Phật, thành tiên vậy. Muốn cầu trường sanh, hăy nên tham cứu từ chỗ này!

 

          (Chánh văn) Dục cầu thiên tiên giả, đương lập nhất thiên tam bách thiện. Dục cầu địa tiên giả, đương lập tam bách thiện.

          (正文)欲求天仙者。當立一千三百善。欲求地仙者。當立三百善。

          (Chánh văn: Muốn cầu thành thiên tiên, hăy nên lập một ngàn ba trăm điều thiện. Muốn cầu thành địa tiên, hăy nên lập ba trăm điều thiện).

 

          Đoạn này nhằm tổng kết đoạn văn trước đó, nhằm nói “làm lành chính là đường lối để thành tiên”. “Lập” () là tích lũy. Nói một ngàn, hoặc nói ba trăm nhằm lập định số mục, kỳ hạn, quyết định ắt phải thành, chẳng sanh ḷng thoái chuyển.

          Thiên tiên và địa tiên sai khác là do tạo lập điều thiện nhiều hay ít sai khác. Trong thiên sách này đă tự nói, xin hăy dùng cách nói “đầu sào trăm thước, lại tiến thêm một bước nữa” để luận định, ngơ hầu người đă được thành tiên chẳng c̣n đọa lạc, một mực siêu thăng. Người chưa được thành tiên, chẳng cần phải cậy nhờ chi khác, mà liền đạt được. Theo như kinh Lăng Nghiêm đă dạy, tiên có mười loại:

          1) Một là do mong thân thể kiên cố, mà ăn các loại thuốc trường sanh, tức là do ăn uống [dược vật] mà được viên thành, gọi là Địa Hành Tiên.

          2) Hai là người do mong kiên cố thân thể, bèn ăn thảo mộc, tức là do ăn uống dược thảo mà được viên thành, gọi là Phi Hành Tiên.

          3) Ba là kẻ do mong kiên cố thân thể mà ăn các loại kim đan, tức là do biến hóa mà viên thành, gọi là Du Hành Tiên.

          4) Bốn là kẻ do mong kiên cố mà tập luyện các động tác, tức là do Khí và Tinh mà viên thành, gọi là Không Hành Tiên.

          5) Năm là kẻ do mong kiên cố cái tâm mà ǵn giữ các loại tân dịch[34], tức là do thấm nhuần mà viên thành, gọi là Thiên Hành Tiên.

          6) Sáu là kẻ do mong kiên cố cái tâm mà hấp thụ tinh hoa của nhật nguyệt, tức là do hấp thụ tinh túy mà viên thành, gọi là Thông Hành Tiên.

          7) Bảy là kẻ do mong kiên cố cái tâm, bèn tŕ chú thuật, tức là do pháp thuật mà được viên thành, gọi là Đạo Hành Tiên.

          8) Tám là kẻ do mong kiên cố cái tâm bèn trầm tư tĩnh niệm, tức là do suy tưởng, nghĩ nhớ mà viên thành th́ gọi là Chiếu Hành Tiên.

          9) Chín là do mong kiên cố cái tâm, mà hành phép giao cấu, tức là do cảm ứng mà viên thành, gọi là Tinh Hành Tiên.

          10) Mười là do kiên cố cái tâm mà hành các pháp biến hóa, tức là do giác ngộ mà viên thành, th́ gọi là Tuyệt Hành Tiên[35].

          Lại nói:

          - Những loại ấy đều chẳng nương vào Chánh Giác, tu tập theo những thứ vọng niệm khác, giữ tâm tưởng mong thân thể được bền vững, dạo chơi nơi núi rừng, hoặc những chỗ không ai lui tới, thọ ngàn vạn năm. Đấy cũng là luân hồi, do vọng tưởng lưu chuyển. Khi báo hết, sẽ trở lại [đầu thai] vào trong các đường.

          Chung Ly [Quyền] nói:

          - Tiên có năm loại:

          1) Một là chẳng ngộ đại đạo, chỉ mong chóng được thành tựu, tâm như tro tàn, thần thức thâu liễm vào bên trong, trong Định đă có thể xuất hồn, đến cuối cùng chỉ thành loài quỷ thanh hư, nên gọi là Quỷ Tiên.

          2) Hai là tạm ở trong loài người được nghe đại đạo, nhưng nghiệp nặng, phước nhẹ, kiên tŕ giữ măi tà niệm thiên lệch, không thay đổi, dứt bỏ ngũ muội[36], chẳng biết có lục khí[37] [để điều ḥa], tuy quên mất bảy món t́nh cảm, chẳng biết có mười giới. Tuy hành pháp thổ nạp (hít thở theo phương pháp chuyên biệt của Đạo gia) lại chê cười pháp thổ nạp là sai, mê đắm cách thái âm bổ dương[38], quở người thanh tịnh là ngu ngốc. Ngồi một ḿnh nín thở, nhịn ăn, không ăn ngũ cốc, chẳng hiểu vô vi, chỉ có thể sống lâu, an lạc mà thôi. Đó gọi là Nhân Tiên.

          3) Ba là phỏng theo lư thăng giáng trong trời đất, tuân theo đạo lư giao cảm của mặt trời và mặt trăng. Đối với thân thể, dựa theo năm tháng, mỗi ngày dựa theo thời khắc [để tu luyện tương ứng], hiểu biết cách phối ứng long hổ với Khảm Ly[39], thâu hồi Chân Nhất, tách biệt ngũ hành, định lục khí[40], tuân theo bát quái, điên đảo cửu châu[41], tam điền[42] đắp đổi, luyện thành đan dược, trường sanh bất tử th́ gọi là Địa Tiên.

          4) Bốn là kẻ đă đắc Địa Tiên bèn rèn luyện thân thể để sống măi trong cơi đời, tích lũy thành công, siêu phàm nhập thánh, qua lại tam sơn[43], gọi là Thần Tiên.

          5) Năm là đă đắc thần tiên, truyền đạo trong cơi đời, có công với đạo, có đức hạnh trong nhân gian. Công hạnh tṛn đủ, siêu thăng Động Thiên[44], nhưng lại nhập trong cảnh hư vô tự nhiên th́ gọi là Thiên Tiên.

          Đáp lời hỏi về đại đạo bèn nói:

          - Trong muôn vật, linh quư nhất là con người. Nếu có thể thấu hiểu tận cùng đạo lư trong muôn vật, thấu hiểu tột cùng tánh của chính ḿnh, cùng lư tận tánh. Cho đến đối với mạng bèn bảo toàn sanh mạng sao cho hợp với đạo, tự nhiên sẽ kiên cố bằng với trời đất, tồn tại lâu dài giống như vậy. Như vậy th́ gọi là Chánh Giác, hoặc gọi là Đại Đạo.

          “Quả” là vật ǵ vậy? Nói chung, ắt mong nhận biết, giữ lấy tự tâm, chẳng rơi vào tri giải nơi t́nh kiến. Chẳng nghe ngài Tăng Na[45] đă nói hay sao? Ngài Tăng Na nói: “Muốn hiểu tự tâm th́ chỉ cần trong cuộc sống hằng ngày, đi, đứng, ngồi, nằm, thường tự suy xét sâu xa, [khi chính ḿnh] gặp sắc hay gặp thanh, lúc c̣n chưa dấy lên sự giác quán, tâm ở chỗ nào? Là có tâm, hay không có tâm? Đă chẳng rơi vào chỗ Có hay Không, tự nhiên tâm châu riêng chiếu sáng ngời, thường soi thế gian”. Đấy chính là Chánh Giác, đấy chính là đại đạo, chẳng cách biệt chừng bằng mảy trần, trong một sát-na, đoạn trừ tướng tương tục. Do vậy, Lữ Tổ v́ không học thuật luyện kim mà siêu thoát cơi đời. Lại do nghe nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (hăy nên chẳng trụ vào đâu mà sanh tâm), trong ḷng mới rỗng rang. Về sau, do gặp thiền sư Hoàng Long, [Lữ Tổ] mới được ấn chứng.

          Tôn Chân Nhân (Tôn Tư Mạo) đă dốc trọn tâm y nơi sách thuốc, bèn được siêu thoát cơi đời. Ông lại thường đến thưa hỏi luật sư Đạo Tuyên nhà Đường. Về sau, [Tôn Chân Nhân] đến Thành Đô, lại nghe một vị tăng hành cước vô danh giảng giải phẩm Đa Bảo Tháp [trong kinh Pháp Hoa] mới chứng chân. Đấy chính là “đầu sào trăm thước, tiến thêm một bước nữa”. Nếu như tạo lập điều thiện, dẫu chẳng cầu thành tiên, cũng là tự thường hằng, há có số lượng ư?

          Đời Hán, Chung Ly Quyền truyền thuật luyện đan cho Lữ Tổ Thuần Dương, điểm sắt thành vàng có thể cứu đời. Lữ Tổ hỏi: “Rốt cuộc [sắt đă biến thành vàng ấy] có biến đổi hay không?” Ông Chung nói: “Năm trăm năm sau, nó sẽ trở lại thực chất”. Lữ Tổ suy nghĩ, thưa: “Như vậy th́ sẽ có hại cho người năm trăm năm sau, con chẳng muốn học”. Chung Ly Quyền khen ngợi: “Tu tiên th́ phải tích lũy ba ngàn hạnh, tám trăm công. Do một lời này của ngươi, ba ngàn tám trăm [công hạnh] đă tṛn đủ”.

          Lại như Vạn Thiện Đồng Quy Tập chép:

          - Vạn thiện là tư lương để Bồ Tát nhập đạo. Các hạnh chính là thềm bậc trợ đạo của chư Phật. Nếu có mắt mà chẳng có chân, há đến được chốn thanh lương? Đắc Thật mà quên Quyền, làm sao về quê hương tự tại cho được? Đấy là Chân Không và Diệu Hữu luôn cùng thành tựu lẫn nhau. Mây giăng cửa từ, sóng trào biển hạnh.

          Nh́n từ chỗ này, sẽ biết Phật và Tiên nhất quán, đều cùng chú trọng dạy con người hành thiện lập công. V́ thế, tuy khác tên với Nho mà thật sự là tương đồng. Nương theo cách tham cứu khác nhau, nhưng đều quy về một. Do v́ chia thành các phái để t́m cầu cội nguồn mà lập thành ba. Do v́ đă chia thành các môn, [chúng sanh bèn] chấp vào h́nh tướng. Nay khuyên người đời, hăy nên tham cứu sâu xa lư này, đừng sanh phân biệt, chỉ nên lập công hành thiện, th́ cầu Nho, cầu Phật, cầu tiên đều từ nơi đây, muôn phần chẳng sai sót tí nào!      

 

          (Chánh văn) Cẩu hoặc phi nghĩa nhi động, bối lư nhi hành.

          (正文)茍或非義而動。背理而行。

          (Chánh văn: Nếu có kẻ dấy ḷng phi nghĩa, làm chuyện trái nghịch đạo lư).

 

          Từ chỗ này cho tới câu “tử diệc cập chi” (cho đến cũng phải chết), nói cặn kẽ về chuyện do làm ác mà chuốc họa. Hai câu [trên đây] chính là đề cương nhằm nêu khái quát, hoàn toàn tương phản với hai câu “thị đạo tắc tấn” (hợp đạo th́ tiến). “Động” () là manh nha trong tâm, “hành” () là thể hiện thành sự. Trước hết, Thái Thượng nói hai câu này nhằm dạy con người: Hễ bắt đầu khởi tâm động niệm, thốt lời, làm việc, phải suy nghĩ, thẩm định cặn kẽ, ư nói: Phải dè dặt, chớ nên trái vượt vậy.

          Cổ nhân nói: “T́nh cảm của con người giống như nước. Quy củ, lễ pháp là đê đập. Đê đập chẳng vững vàng, ắt sẽ đến nỗi nước xoáy vỡ đê, lũ lụt. Nếu t́nh cảm của con người chẳng được chế ngự, sẽ buông lung, rối loạn, chẳng có kỷ cương. V́ thế, trừ khử t́nh chấp, dứt vọng, ngăn ác, dứt tà, chớ nên quên mất quy củ dẫu trong một hơi thở”.

          Lại nói:

          - Tuấn mă ruổi chạy mà chẳng dám chạy bừa là do có hàm thiếc chế ngự. Tiểu nhân ngang ngược, nhưng chẳng dám buông lung [làm càn] là do có h́nh pháp khống chế. Tuy ư thức buông lung, chẳng dám phan duyên, là do công năng của giác chiếu. V́ thế, học nhân mà chẳng có giác chiếu, sẽ như ngựa khỏe chẳng có hàm thiếc, tiểu nhân chẳng có h́nh pháp, dùng điều ǵ để đoạn tuyệt tham dục, đối trị vọng tưởng đây?

          Tác Tĩnh Hư hiếu học, chẳng vâng theo lời mời mọc của quan đứng đầu châu quận. Thái Thú là Âm Đạm đă từng đến chỗ ông ta, [đôi bên đàm luận] suốt ngày, quên cả về. Khi quay về, [Thái Thú] than thở: “Sự dư dật [theo như quan niệm] của người đời chẳng phải là sự phú quư trong tánh. [Sự phú quư trong thế gian chỉ là đối ứng với] mắt ưa năm sắc, tai chuộng âm thanh. Tiên sinh vứt bỏ những thứ mà mọi người thâu thập để tiếp thu những ǵ người ta chê bỏ. Tuy thân sống trong cơi trần tục, mà tâm ngự nơi nghĩa lư. Há có thể dùng vật ở bên ngoài những cảnh ngộ bên ngoài để lay động cái tâm ấy hay sao?”

          Do ông Tác đă thấy nghĩa lư chuyên ṛng, nhuần nhuyễn; v́ thế, vâng giữ, tuân theo, xuất phát tự nhiên. Người hiện thời dấy lên ư niệm, cư xử phi nghĩa nghịch lư, làm sao có thể noi theo điều này cho được?

 

          (Chánh văn) Dĩ ác vi năng.

          (正文)以惡為能。

          (Chánh văn: Coi chuyện làm ác là tài năng).

 

          Câu này chuyên nói về nhân sự (mối liên hệ giữa con người với nhau). Tánh con người vốn lành; thế mà lại coi làm ác là tài năng, tức là đă đánh mất bản thể của tánh thiện vậy. Ngu ư cho rằng, bốn chữ ấy (“dĩ ác vi năng”) chính là cội gốc khiến cho kẻ ác dù to hay nhỏ bị mắc bệnh (chuốc lấy phiền năo) trong ngàn đời vạn kiếp vậy! V́ thế, xếp điều này đứng đầu các sự ác. Con người tuy cực ngu, chẳng có kẻ nào cam ḷng làm người ác, nhưng cũng chẳng có ai không muốn là bậc tài năng. Chỉ v́ hiểu lầm chữ Năng (, tài năng), cho nên càng làm càng trật; đó là cái gốc khởi đầu vậy. Nói “người tài năng th́ hữu dụng, kẻ chẳng có khả năng th́ vô dụng. Người tài năng sẽ có kẻ khác kiêng sợ, kẻ không có tài năng sẽ bị người khác khinh rẻ, bắt nạt”, [quan niệm sai lầm ấy] kéo dài đă lâu, dù cũng tự biết đấy là ác, nhưng vẫn nghiễm nhiên làm kẻ ác, chẳng kiêng dè, lại c̣n che đậy bằng những danh xưng đẹp đẽ!

          Tham là cậy thế lấn hiếp, đàn áp, coi chuyện chiếm được nhiều tài vật của người khác là tài năng, lại gọi hoa mỹ là “trí mưu” (mưu trí). Kẻ tàn độc coi chuyện cường bạo, ngang ngược, vô lại, giảo quyệt, xảo trá hăm hại kẻ khác là tài năng, lại gọi hoa mỹ là “lạt thủ” (辣手, thủ đoạn sâu cay). Kẻ dâm đăng coi chuyện phóng túng gian dâm, giả vờ hào hoa để quyến rũ kẻ khác, dụ dỗ vợ con của kẻ khác là tài năng, lại gọi hoa mỹ là “phong lưu”. Kẻ nịnh bợ dùng chuyện đón ư, thốt lời ve vuốt để lừa gạt là tài năng, lại gọi hoa mỹ là “lanh lợi”. Kẻ sàm báng coi việc dựng chuyện, đặt điều là tài năng, lại gọi hoa mỹ khéo ăn nói”. Những chuyện giống như thế chẳng thể thuật trọn! Đua khôn tranh khéo, coi đó là chuyện hơn người, kẻ hư ngụy noi theo thói đó, chẳng ngờ chi. Kẻ khác nghe thấy [những tṛ xấu ác đó], lại quen coi đấy là những giai thoại. V́ thế, đôi khi có một, hai người chẳng có trí mưu, chẳng có thủ đoạn độc ác, chẳng phong lưu, chẳng lanh lợi, chẳng có tài ăn nói, không có ai chẳng bị [kẻ khác] cười chê là thứ bất tài trong cơi đời, là thứ đồ bỏ chẳng hợp thời vậy! Cho đến khi chuyện đă qua rồi, báo ứng xảy đến, đóng nắp quan tài rồi mới luận định [công và tội], kẻ “tài năng” như thế nhiều lắm, nay c̣n lại chi?

          Than ôi! Khuyên khắp người đời, chẳng thà tạm khuất ḿnh là phường bất tài, làm thứ đồ bỏ, để đổ công dốc sức hướng thượng đến cùng. Như thế th́ sẽ b́nh đạm, nhưng đầy ư vị, sẽ là b́nh ổn, chẳng thất bại vậy. Nếu chẳng tin điều này, xin hăy xem những vị thiện nhân trong cơi đời, có ai mà chẳng được trời chở che, chẳng được người khác kính trọng hay chăng? C̣n như những kẻ ác có đứa nào chẳng bị trời phạt, người ghét hay chăng?

          Đức Phật dạy:

          - Hết thảy kẻ ác trong thế gian chết đọa vào địa ngục. Trong địa ngục, có một vị chủ nhân, Ngưu Đầu A Bàng, tánh t́nh hung ác, chẳng có ḷng từ bi, nhẫn nại. Thấy các chúng sanh chịu đựng ác báo, chỉ lo họ không khổ, chỉ lo chẳng tàn độc. Nếu hỏi ngục tốt: “Chúng sanh chịu khổ, đáng nghĩ thương xót sâu xa, thế mà ngươi thường ôm ḷng tàn khốc, độc ác, chẳng có tâm từ mẫn?” Ngục tốt đáp rằng: “Những kẻ tội ác như thế, chịu các nỗi khổ đều là do bất hiếu với cha mẹ, hủy báng Tam Bảo, nhục mạ người thân, họ hàng, khinh mạn sư trưởng, vu cáo, hăm hại người lương thiện, giết hại chúng sanh, tạo các ác nghiệp. Hạng người như thế đến đây hứng chịu nỗi khổ. Thường là cho đến ngày họ được siêu thoát, [chúng tôi] thường luôn khuyên răn, dẫn dụ: ‘Nỗi khổ cùng cực ở nơi đây chẳng thể chịu đựng nổi! Ngươi nay được thoát ra, chớ làm ác nữa’. Nhưng những tội nhân ấy vẫn chẳng cải hối, hôm nay được thoát ra, mấy chốc đă quay lại, xoay vần luân hồi, chẳng biết thống khổ. Do v́ chuyện này, đối với tội nhân, tôi chẳng có từ tâm”.

          Do vậy biết kẻ làm ác nhất định đọa địa ngục. Như nay đă được sống trong cơi đời chừng khoảng sát-na, hăy nên tận lực thi hành nhân từ, rộng tu các điều lành, tiêu trừ tam chướng, thanh tịnh sáu căn, niệm Phật, tŕ trai, tham Thiền, học đạo, vượt thoát tam giới, xa ĺa tứ sanh, đừng buông lung theo tham, sân, si, mà hành giết, trộm, dâm. Đă tạo những ác nghiệp ấy, sẽ hứng chịu ác quả. Lời Phật chẳng dối, mọi người hăy nên tin chắc.

          Đời Đường, Ngư Tư Huyên hết sức thông minh, nhạy bén. Vũ Hậu (Vũ Tắc Thiên) muốn chế tạo một cái rương để cho kẻ khác [có thể viết giấy bỏ vào đó nhằm] tố cáo những chuyện thầm kín của kẻ khác. Không người thợ nào chế tạo được, Tư Huyên chế tạo cái rương hết sức vừa ư bà ta. Do vậy, có người bỏ vào cái rương ấy lời tố cáo Ngư Tư Huyên rằng: “Tại Dương Châu, Tư Huyên đă v́ Từ Kính Nghiệp chế tạo một loại đao luân dùng để xung trận có thể sát thương rất nhiều quan quân”. Tư Huyên liền bị Vũ Hậu giết chết.

          Đời Đường, Từ Kính Nghiệp dấy binh [với chiêu bài “khôi phục nhà Đường, lật đổ Vũ Hậu”]. Vũ Hậu lo lắng, muốn bắt bớ dữ dội để trừ khử những kẻ khác ư. Có gă Tác Nguyên Lễ ḍ đoán ư chỉ, bèn dâng thư tâu rằng: “[Nước nhà] đang gặp cảnh biến loạn khẩn cấp”. Vũ Hậu vời đến hỏi chuyện, [rất vừa ư], bèn phong cho hắn chức Du Kích Tướng Quân, kiêm chức thôi sứ[46], trông coi h́nh ngục thuộc Lạc Châu Mục Viện[47]. Hắn nuôi mấy trăm đứa vô lại. Hễ muốn hăm hại ai, bèn sai bọn chúng cùng nhau tố cáo ở mấy nơi. Lời tố cáo đều giống hệt như nhau. [Kẻ bị hại] đă bị hạ ngục, hắn bèn dùng cực h́nh uy hiếp, không ai chẳng tự buộc tội, nhận tội. Hễ hắn thẩm vấn tù nhân, ắt sẽ truy vấn ráo riết đến cùng, khiến cho mấy trăm người bị liên lụy! Về sau, do hắn ăn hối lộ, bị bắt đưa ra xử. Hắn chẳng nhận tội, nha lại nói: “Mang cái lồng sắt của ông đến đây”. Nguyên Lễ bèn nhận tội, chết trong ngục.

          Cùng một thời, lại có gă Châu Hưng, tánh t́nh tàn khốc, cùng phe đảng với bọn Tác Nguyên Lễ. Có người tố cáo Châu Hưng mưu toan phản nghịch, Thái Hậu tức giận, sai Lai Tuấn Thần tra xét. Khi ấy, Tuấn Thần và Châu Hưng cùng Châu Hưng thẩm phán. Tuấn Thuần bảo Châu Hưng: “Tù nhân phần lớn chẳng nhận tội, làm thế nào đây?” Châu Hưng nói: “Dễ mà! Lấy một cái chum to, dùng than lửa nung nóng bốn phía, bỏ tù nhân vào trong đó. Chuyện ǵ mà nó chẳng thừa nhận!” Tuấn Thần sai đốt than nung chum to, đúng như cách Châu Hưng đă nói, bảo Châu Hưng: “Tôi tuân theo mệnh lệnh của triều đ́nh thẩm vấn anh, mời anh bước vào cái chum này!” Châu Hưng kinh hoảng, nhận tội, bị đày đi Lănh Nam, bị cừu gia tranh nhau giết chết.

          Thời Tống Huy Tông, Tống Thăng vào thời đầu niên hiệu Chánh Ḥa, giữ chức Chuyển Vận Sứ[48] tại Kinh Tây, chuyên phụ trách tu sửa [các công tŕnh] thuộc phía Tây hoàng cung. Hắn đă từng bảo [cấp dưới]: “Hăy nhanh chóng hoàn thành công việc này, sẽ ngay lập tức được thưởng”. Hắn thường dùng xương trâu ḅ [đốt thành tro] ḥa với tro [để làm vữa trát tường]. [Xương trâu ḅ] chẳng đủ, bèn cho đào xương người từ các nghĩa địa thí[49], đốt thành tro để thay thế. Khi ấy, quan Vận Phán (Chuyển Vận Phán Quan) là Tôn Huống can ngăn, nhưng Tống Thăng không nghe. Tôn Huống bèn viện cớ bệnh tật, xin từ chức. Tống Thăng do có công [hoàn thành nhanh chóng công tŕnh ấy], được thăng làm Học Sĩ, được vua sắc phong làm Điện Trung Giám. Hắn bỗng bị bệnh ngặt nghèo, tự nói: “Tội ác đốt xương, sẽ bị diệt môn”. Hắn hộc máu mà chết. Không lâu sau, cả nhà hắn chết sạch. Về sau, Tôn Huống bị bệnh chết đi, tới cơi âm, thấy Tống Thăng ở trên giường sắt, cột đồng, máu đầm đ́a khắp thân. Lại tới một ngôi điện, quan cơi âm bảo: “Ông khuyên mà hắn chẳng nghe, bèn bỏ quan quay về, đúng là người có ḷng, sẽ được tăng thọ mười hai năm”. Do vậy, được sống lại, kể với người khác chuyện ấy.

          Ôi! Trong thiên hạ, điều thê thảm nhất không ǵ bằng cả họ tuyệt diệt! Tống Thăng do ư niệm tham cầu được thưởng bèn mắc nỗi khổ ấy! Cổ nhân nói: “Ác do tham dấy lên, tham là cội gốc của ác. Cách để trị ác cốt yếu là trừ tham”, đúng lắm thay! C̣n như những kẻ khác cứ nghĩ làm ác là tài năng chẳng thể nêu trọn. Hơn nữa, nỡ ḷng nào chép trọn, mọi người hăy từ những chuyện này mà phản tỉnh!

          Trung Giới Kinh[50] chép:

          - Nếu kẻ nào làm một điều ác, ư sẽ chẳng an định. Làm mười điều ác, khí lực hư nhược. Làm hai mươi điều ác, sẽ trắc trở, suy bại, hao tán. Hễ xử sự trái lẽ, làm năm mươi điều ác, sẽ trọn chẳng có người phối ngẫu. Cho đến trăm điều ác, sẽ bị tai họa nước lửa, bị dính dáng vào những tai họa ngang trái, kỳ quái, bị hành h́nh chết thảm. Làm năm trăm điều ác, con cháu tuyệt tự. Làm một ngàn điều ác, sẽ sanh ra đứa phản thần nghịch tử, khiến cả họ bị diệt tộc. Con cháu đời đời thay đổi h́nh thể, sanh làm loài cầm thú”. Phàm kẻ chất chứa điều ác ngập tràn, sẽ họa hại đến đời sau, chính ḿnh đọa vào địa ngục. Đấy vẫn là c̣n nhẹ lắm! Đối với lời giáo huấn này, mọi người hăy thời thời khắc khắc nghĩ nhớ th́ sẽ tự chẳng làm ác.

 

          (Chánh văn) Nhẫn tác tàn hại.

          (正文)忍作殘害。

          (Chánh văn: Nhẫn tâm làm chuyện tàn ác, độc hại).

 

          Câu này chuyên nói về sanh mạng của muôn vật. Đại đức là Sanh, thế mà nhẫn tâm làm chuyện tàn hại. Tàn nhẫn gây tổn thương, ác độc làm hại chính là sự ác to lớn tột bậc, xuất phát từ ḷng tàn nhẫn, mặc t́nh buông thả, chẳng có mảy may tâm trắc ẩn, thương xót. Các điều thiện vốn xuất phát từ ḷng nhân từ, các điều ác vốn do ḷng tàn nhẫn. Trừ bỏ ḷng tàn nhẫn, thuận theo ḷng Từ, công phu để thành thánh, thành hiền, thành Phật, thành tiên ở ngay nơi đó.

          Tham sống, sợ chết, yêu thương người thân, quyến luyến chốn cũ, biết đau đớn, cảm thấy khổ sở, loài vật giống hệt như con người. Nhưng con người có trí, loài vật vô trí. Người có thể nói, vật chẳng nói được. Con người có sức mạnh, loài vật sức yếu. Người hiện thời nấu một bữa ăn, không chỉ giết một con vật. Nếu dùng bồ câu, chim ngói, chim cút, chim sẻ, phải giết mười mấy mạng để được một nồi canh. Nếu dùng trai, ṣ, tôm, hến, [để nấu] một nồi canh, ắt giết hơn trăm mạng! Lại có kẻ do thích vị ngon, cầu thỏa ư, bèn t́m ṭi những món ngon vật lạ từ chốn xa xôi, hoặc chuẩn bị các loài vật để chờ nấu nướng, hoặc đem cua c̣n sống nhăn ngâm vào hèm rượu [để làm cua muối], nuôi cá để làm chả, chất than nướng sống, chọc tiết uống máu tươi, mổ bụng [con vật] lấy bào thai, lột da, bóc mai, trăm kiểu đun nấu, ngàn cách chế biến. Ăn no kềnh bụng bèn vênh váo đắc ư; hơi chậm trễ bèn cáu kỉnh, chửi bới kẻ nấu nướng. Suy nghĩ sâu xa, thống thiết, sẽ [cảm thấy] rất kinh sợ. Kinh dạy: “Nhất thiết úy đao trượng, vô bất ái thọ mạng” (Hết thảy đều sợ đao trượng, không loài nào chẳng yêu quư thọ mạng). V́ thế, Vương Khắc giết dê, dê vùng chạy đến chỗ khách sụp lạy cầu cứu[51]. Trâu Sanh xẻ thịt con nai, [khi sắp bị giết], nai quỳ sụp, khóc thất thanh[52]. Con chim kinh hăi sa ḿnh xuống bàn, cầu vua nước Ngụy cứu mạng. Con thú cùng đường chạy tuôn vào lều mong họ Khu cứu sống. Lại như quan Nội Hàn họ Trầm làm Thông Phán[53] ở Giang Ninh, giết dê trong bếp, nhiều lượt bị mất đao. Ŕnh xem, thấy dê ngậm đao giấu dưới chân tường. Dương Kiệt lúc làm Đề H́nh[54], đến chơi núi A Dục Vương. Ngủ trưa nằm mộng thấy hơn trăm người đàn bà dường như có điều muốn bẩm báo. Ông bèn ngầm xuống bếp dă chiến[55] t́m xem, mới biết những con ṣ cầu xin được sống. Hễ có sanh mạng bèn yêu luyến, có t́nh chấp như thế đó. Huống hồ khi chúng bị bắt, chẳng có chỗ nào trốn khỏi cái chết, đoái nh́n đồng loại, lưu luyến mà chẳng [làm cách nào khác] được. Kêu ai oán khi bị hành h́nh, ôm nỗi bi thương mà chết. Đă bị cắt xẻ, lại vào chảo, vạc, đủ mọi nỗi đau khổ thấu tận xương tủy. T́nh trạng trong lúc ấy, khác nào con người? Người hiện thời ngẫu nhiên bị tổn thương bởi nước sôi, lửa đao, kim đâm, ắt gào thét cầu cứu. Đầu váng, mắt nhức trong chốc lát, đă gọi bác sĩ, mua thuốc, yêu tiếc bản thân dường ấy, sao lại riêng đối với loài vật bèn chẳng sanh ḷng thương xót, mặc t́nh tàn hại, kết oán, tạo nghiệp. Than ôi! Trong các điều ác, chỉ có chuyện này là thê thảm nhất, Phật, tiên khuyên răn, đạo trời tuần hoàn. Hăy nên gấp đặt ḿnh trong hoàn cảnh ấy, sẽ ngay lập tức mạnh mẽ tỉnh ngộ. Do v́ các hạng mục [những loài vật] chớ nên giết sẽ được nói đầy đủ trong phần sau, cúi xin những bậc quân tử có ḷng nhân hăy hành theo đó!

          Ngày ta được sanh ra, chính là ngày mẹ mắc nạn. Cha mẹ c̣n sống, cố nhiên là giữ tâm trong sạch, dốc trọn ḷng kính. Cha mẹ đă khuất, càng nên ăn chay, đau xót. Há nên v́ thỏa thích bụng miệng mà giết chóc các loài ư? Do vậy, ngày sinh nhật chớ nên sát sanh!

          Người đời hễ không có con bèn đau buồn, có con bèn vui sướng. Nay để mừng sanh con, bèn khiến cho con kẻ khác phải chết. Hơn nữa, trẻ thơ mới sanh ra, chẳng cầu [cho nó] trường thọ, lại ngược ngạo tạo nghiệp ư? V́ thế, sanh con chớ nên sát sanh!

          Tang ma th́ lấy đau buồn làm điều chánh yếu. Giết chóc là tội đứng đầu, bày cỗ bàn thịnh soạn trước linh vị người đă khuất, chỉ để cho người sống no say. Xếp cỗ cúng xa xỉ trước quan tài, càng tăng thêm oán nghiệp. V́ thế, tang sự chẳng thể sát sanh!

          Cúng tế vào dịp Xuân Thu, hoặc ngày giỗ cúng quải tổ tiên, vốn là con cháu dốc cạn ḷng thành, chỉ nên phóng sanh ḥng tiêu tội trước [của tổ tiên], há nên giết hại để tạo thêm nỗi ương họa mới nữa ư? V́ thế, giỗ chạp chẳng thể sát sanh!

          Người bị bệnh tật liền sát sanh cúng thần cầu phước, chẳng biết chính ḿnh muốn cầu được sống, lại ngược ngạo giết mạng kẻ khác để mạng ta được sống! Nếu thần có linh, há đến hưởng [cỗ cúng] hay sao? V́ thế, cầu đảo chẳng thể sát sanh!

          B́nh đẳng là Phật, chánh trực là thần, trọn chẳng có chuyện do được hối lộ mà giáng phước. Người thời nay hễ cầu khẩn, bèn hứa nguyện giết chóc. Đó gọi là ác nguyện. Dẫu được thỏa ḷng, [sẽ mắc phải] quả báo hung hiểm về sau! V́ thế, hứa nguyện chớ nên sát sanh!

          Vợ chồng kết hôn nhằm nối tiếp ḍng dơi muôn đời, là cội nguồn của đời đời. Ḍng họ nương nhờ vào đấy, nay bèn dốc ḷng giết chóc, gieo cái nhân ác [khiến cừu nhân] truy t́m báo cừu. Đấy chính là tụ tập cơ duyên giết chóc trong chốn khuê môn. V́ thế, kết hôn chẳng thể sát sanh!

          Chủ khách chén anh chén chú, chẳng nghe tiếng gào ai oán trên thớt. Tiệc tùng cười nói vang nhà, nào có thấy nỗi khổ sở trong nồi? V́ thế, đối với ư nghĩa “dùng hai cái chén[56] đựng ngũ cốc, rau dưa để cúng bái” hăy nên phỏng theo. Do vậy, đăi đằng khách khứa, chớ nên sát sanh!

          Trời cao chẳng sanh kẻ nào không có lộc. Nếu có một tài, một nghề, đều có thể có của ăn, của để. Sao lại khổ sở vung đao, thọc đao vậy? Đă thế, càng giết, càng nghèo túng. V́ thế, chớ nên kiếm sống bằng cách sát sanh!

          Cắt xẻ cầm thú để béo thân ḿnh, làm sao phân định giữa người linh thông và phường xuẩn ngốc? Nấu máu thịt để lèn đầy ruột gan, điên đảo quá mức! Huống hồ mỡ béo dễ hết, oán nghiệp vẫn c̣n ư? Do vậy, để phụng dưỡng, chớ nên sát sanh!

          Giết một mạng để một mạng được sống, kẻ có ḷng nhân chẳng làm. Huống hồ đối với chuyện định đoạt sanh tử, chưa chắc đă có thể sống ư? Hại loài vật để chữa bệnh, chỉ tăng thêm oán gia sau khi đă chết. V́ thế, dùng thuốc chẳng thể sát sanh!

          Người bệnh cầu được an lành, cũng giống như loài vật ghét bị giết chóc. Người thời nay nói “sanh mạng loài vật khó thể kéo dài, theo đúng lẽ, đáng nên bị mổ xẻ, nấu nướng”, cũng giống như nói: “Kẻ bị bệnh tàn phế thảy đều đáng đem giết sạch” đó ư? V́ thế, dưỡng bệnh chẳng thể sát sanh!

          Đạo sĩ sau khi hoàn tất pháp hội cầu phước tiêu tai, dùng lễ vật hậu hĩnh để cảm tạ thần tướng. Lớn th́ dê, lợn, nhỏ th́ tam sanh[57]. Thần thánh há khăng khăng thỏa thích bụng miệng mà giáng tai họa cho kẻ tu tập, tích lũy công đức ư? V́ thế, lễ tạ thần tướng chớ nên sát sanh!

          Gần đây, thế tục vào đêm Giao Thừa, lớn th́ mổ dê, nấu lợn. Kém hơn th́ dùng gà, cá, đầu lợn. Nào có biết lúc tháng Chạp hết, đầu Xuân chính là khi trăm thần, tổ tiên cùng giáng lâm soi xét [cơi phàm]? V́ thế, đêm Giao Thừa chẳng thể sát sanh!

          Khi công danh thăng tấn[58], chính là lúc ḷng nhân ái phải nên tràn trề, sao lại nhẫn tâm khiến cho loài vật bị chết yểu, [khiến cho chúng] nẩy sanh nỗi đau u uẩn? Tàn bạo giết chết, tổn thương sinh vật, kiêu căng, xa xỉ, khiến cho phẩm đức [của chính ḿnh] suy bại? V́ thế, gặp dịp vinh hiển, chớ nên sát sanh!

          Biếu quà vốn là lễ nghi tốt lành. Do thức ăn tươi béo mà dấy động ư niệm giết chóc. Chính ḿnh đă v́ mọi người mà giết chóc, chỉ riêng ta lănh chịu oan khiên. Đối với người nhận quà, bất quá là thỏa thuê một bữa, nhưng họ chẳng cảm nhận ân đức [biếu xén món ngon vật lạ của ta]. V́ thế, để biếu tặng quà, chớ nên sát sanh!

          [Bày tiệc] tiễn biệt, há lẽ nào vô t́nh? Canh chay cũng có thể giăi bày trọn hết tấm ḷng. Cớ ǵ cứ phải xa xỉ thừa mứa một phen, để rốt cuộc chất chứa cả đống tiếng kêu gào oán hờn ư? Do vậy, tiễn biệt chớ nên sát sanh!

          Kẻ nuôi cá vàng, tính ra ắt phải dùng trứng loài trùng nhỏ, tép riu số đến cả vạn. Kẻ nuôi hạc trắng, phải dùng trăm ngàn con cá nhỏ. Người phú quư do sướng mắt vui tai [nuôi nấng những thứ chim quư, cá kiểng], đă tạo thành sát nghiệp. V́ thế, chớ nên sát sanh để nuôi động vật làm kiểng!

          Những điều vừa nói trên đây đều là nói đại lược, khái quát. Người đọc hăy nên từ đây mà suy rộng ra, ắt trong tấc ḷng sẽ có tâm lượng như trời che đất chở vậy.

          Ông Hoàng Lỗ Trực có bài tụng rằng: - Ta ăn thịt chúng sanh. Danh khác, Thể chẳng khác! Vốn cùng một chủng tánh, chỉ là khác h́nh hài. Khổ năo chúng đành chịu, ngon béo ta hưởng riêng. Đừng để Diêm Vương xử, hăy tự nghĩ xem sao?

          Hăy thử nghĩ [những con vật] hôm qua c̣n bơi lội, nhảy nhót, bay lượn, hôm nay đă đi về đâu? Dường như c̣n thấy chúng nó đang c̣n sống sờ sờ, bay lượn kêu hót, ăn uống. Nay đă hóa thân trong nồi! Lời này thật đáng khiến [cho người nghe] sanh ḷng xót xa vậy!

          Hứa Chân Quân thuở bé thích săn bắn. Gặp một con nai con, bèn bắn chết. Bên cạnh nó có một con nai to (nai mẹ) cứ liếm măi một hồi lâu mà nai con chẳng sống lại. Nó bèn lẩn quẩn bi thương rồi chết. Chân Quân mổ thịt, thấy ruột nó đứt từng khúc, bèn ném cung than thở: “Buồn thay! Ḷng yêu thương vốn sẵn tánh trời, loài vật mà cũng [yêu thương con cái] tột bậc như thế đó”. Bèn bỏ đi học đạo, giúp người lợi vật, chứng quả tiên.

          Đời Đường, Trương Dịch Chi[59] làm lồng sắt để nhốt ngỗng, vịt trong ấy. Chính giữa nhóm lửa than nung đốt. Bên cạnh lồng, đặt đồ đựng chứa nước ngũ vị. Ngỗng, vịt chạy quanh lửa, do khát bèn uống nước. Nước rồi cũng hết mà lửa cứ tăng thêm, [ngỗng, vịt] rụng lông, nát thịt. Hắn bèn lấy thịt chúng để ăn. Về sau, hắn bị Trương Giản Chi giết chết.

          Gă lái buôn xứ Thiểm Tây là Nhậm Thiên Nhất hám lợi, tàn nhẫn. Mỗi năm hắn tới vùng Thanh Khẩu thuộc Hải Châu để mổ giết, làm thịt lợn muối. Sau đó, chở thịt lợn về vùng thủy khẩu Cao Bưu, Lục An [để bán]. Ban đêm bị gió to lật thuyền, lợn bị dân chài cướp sạch. Họ Nhậm ở trên bờ kêu khổ, bỗng cột buồm chính của chiếc thuyền lật đổ nhào vào thân, ép hắn thành bánh thịt. Trong mạng có tiền tài th́ ở chỗ nào cũng có, cớ ǵ cứ làm chuyện sát sanh, hại mạng ấy? Kẻ bị báo ứng như gă lái buôn họ Nhậm rất nhiều, mọi người hăy nên tự phản tỉnh. Giả sử v́ chẳng thể mưu sanh, bèn ngược ngạo đi theo con đường sai trái, đến nỗi làm những chuyện như làm giặc phóng hỏa cướp của, hoặc làm thủy tặc v.v… chưa chắc sẽ không bị cơi trời dùng cái chết để trả báo cái tội giết chóc vậy.

          Đời Tống, Châu Phái thích nuôi bồ câu. Do [chim] bị mèo ăn thịt, Châu Phái bèn bắt mèo, chặt đứt cả bốn chân nó. Mèo kêu gào vài ngày rồi chết. Về sau, Châu Phái sanh con tay chân đều chẳng có.

          Lại nữa, Châu Ngang thích ngủ trưa. Trên kèo nhà có tổ chim yến, ba con chim non kêu rít rít chờ mớm mồi. Châu Ngang tức giận, cho chúng ăn quả tật lê[60], chim đều bị nứt bụng mà chết. Về sau, ba đứa con trai của hắn đều câm.

          Lại nữa, Trương Lâm tức tối v́ ếch kêu, bèn đổ tro nóng [giết chết nó]. Về sau, hắn bỗng bị bỏng v́ nước sôi, nứt nẻ mà chết. Gộp lại [những chuyện trên đây] để xem, [sẽ biết] con người có nên nhẫn tâm tàn hại loài vật hay chăng? Đă trót làm, có thể tránh khỏi tội báo hay chăng?

          Đời Đường, Lữ Tổ nói: “Ngươi nếu muốn sống lâu hăy nghe lời ta. Đối với mọi chuyện hăy tỉnh táo, giữ sao cho chính ḿnh có ḷng khoan dung. Ngươi muốn sống lâu, phải phóng sanh. Đấy là đạo lư tuần hoàn thật sự. Nếu kẻ khác chết, ngươi cứu họ; nếu khi ngươi chết, trời sẽ cứu ngươi. Sống lâu và cầu sanh con chẳng khác ǵ nhau. Kiêng giết, phóng sanh mà thôi!”

          Trong chương Giác Xúc[61] của Kỳ Hề Độ có đoạn viết:

          - Nhổ một sợi lông kinh động Tứ Đại, đốt ngải cứu đau khổ toàn thân. Chính là v́ mỗi Thể đều là cái Thể vốn trọn đủ các Thể[62], chúng sanh sanh ngay trong tâm ta[63]. Đă có mối liên quan huyết khí, há lẽ nào chuyện bi thảm phát sanh [nơi kẻ khác], lại chẳng hề liên quan đến ta ư? Thế mà lại dùng sự ngon béo từ [thân thể] loài khác để thỏa thích bụng miệng ta. Hăy thử nghĩ ngày hôm qua [chúng nó] bơi lội, nhảy nhót, bay lượn, nay đă về đâu? Dường như c̣n thấy chúng đang sống sờ sờ bay lượn, kêu hót, ăn uống; [thế mà] đă hóa thành thứ chứa trong nồi! Do vậy, bát trân[64] bày la liệt trước mặt, toàn là kêu gào oán nghiệp. Năm cái đỉnh[65] bày thành hàng, đều là du hồn lẩn quẩn! Tâm tự nhiên xót xa, há c̣n nuốt nổi ư? Hoặc là chùn tay lại, chẳng thể dám dính dáng đến [chuyện sát hại nữa]. Luôn luôn cảnh tỉnh, niệm nào cũng dấy khởi, vâng giữ sự tỉnh giác, sẽ là đồng thể đại bi, chẳng thấy có tướng chúng sanh [khác biệt với ta], sẽ có thể vận dụng ḷng nhân cứu giúp trọn khắp. Khắp toàn thân sẽ là tấm thân tỉnh giác.

          Trong phần Giác Tập, ông viết:

          - [Cách nói] “gà, lợn, hẹ, mận, hễ gặp bèn ăn” dường như vĩnh viễn là lời lẽ giúp chúng ta bào chữa cho chuyện “dùng cái chết [của loài vật] để nuôi sống [con người], dùng loài vật để cung cấp [thực phẩm] cho con người”. Nếu coi đó là lẽ đương nhiên, há có biết kẻ mạnh ăn thịt kẻ yếu, loài vật c̣n ghét chuyện tàn hại, thương tổn! Những loài sanh vật được bẩm thọ khí thiên địa, đă có giác tánh, há đành ḷng dâng thân cho ta cắn xé ư? Đặc biệt lớn tiếng hô hào [nhằm cảnh tỉnh mọi người, chúng ta] từ lúc c̣n ẵm ngửa, đă bén mùi vị ngon béo. Tiên thiên chưa đọa[66], bào thai đă quen vị tanh tưởi. Loài có vảy trong ao, loài le nhạn trong vườn, hằng ngày thành món ăn trong bếp. Lợn trong cũi, dê trong chuồng, tùy thời [biến thành món ăn] để chan, gắp. Do huân tập như vậy, khiến cho ta vạn kiếp ngàn lượt luân hồi. V́ thế, thói phàm ăn tháng ngày càng thịnh! Hăy thử ăn những thứ chưa bao giờ nếm tới, khi nhấc đũa sẽ tự cảm thấy do dự. Nếu gặp những món ngon quư chẳng phải là thứ thường ăn hằng ngày, bỏ vào miệng cũng lắm nỗi nghi ngờ, sợ sệt. V́ thế, xứ Ngô Việt coi thịt ếch là ngon lành, người đất Tề trông thấy sẽ rởn da gà! Người xứ U Yên[67] khoái ăn ḅ cạp, dân Việt trông thấy điếng hồn! Đấy há có phải là do sở thích ăn uống khác nhau, mà là do tập quán lâu ngày thành ra sai khác. Thật sự nghĩ [ta cùng muôn loài] có cùng một tánh, sẽ chẳng nỡ ḷng tổn thương thể tánh của [loài khác], há có thể lấy [thân thể] có sanh mạng [của loài khác] để nuôi dưỡng sanh mạng của chính ta? Hễ tháo gỡ được mắc mứu cũ, sáu căn sẽ liền thanh tịnh. Lưới dục tầng tầng, chẳng vung kiếm kim cang mà lưới tự rách. [Nếu cái tâm] có đủ mọi ư niệm giết chóc, sẽ chẳng được sanh vào cơi trường sanh! Xin hăy nghe lời luận định về thói quen, sẽ tự vỡ lẽ!

          Phần Giác Uế viết:

          - Rết thích ăn mắt rắn, khác nào thức ăn ngon lạ chất đầy trong đồ đựng. Chuột thối rữa quăng cho chim cú, khác nào bầy la liệt ba món thịt tươi! Ấy là v́ sở thích ăn uống là do nghiệp tạo ra. V́ thế, nghiệp nặng nề th́ tâm sẽ ch́m đắm trong thói ham ăn uống, mùi vị [ưa thích] há sanh khởi từ tánh? Tánh t́nh ngang ngược, sẽ rất ưa chuộng vị thối. Hăy thử nh́n loài ưng, loài cáo xé mồi, sẽ dùng tay áo che mắt, chẳng nỡ ngó. Ruồi nhặng bu theo mùi tanh, mắt thấy ḷng muốn nôn mửa. Sao lại trong tiếng nhạc dập d́u, đua nhau bày la liệt trăm ngàn món hải sản; nơi phủ đầy gấm vóc, t́m cầu rộng khắp các thứ thịt rừng sai khác? [Chúng ta ngốn ngấu những món sơn hào, hải vị ngỡ là] thơm ngon ấy ví như bọ hung ṿ [phân] thành viên. Ăn no đẫy [những thứ đó], khác nào lợn nuôi trong nhà ăn những thứ nước gạo rữa nát. Thậm chí cho đến khi đêm tàn canh lụn, răng lợi c̣n giữ vị tanh hôi! Lại c̣n cho đến khi nhạc tàn, rượu cạn, khăn áo tanh tưởi, bẩn thỉu nhức mũi. Thật sự nghĩ đến Pháp Thân thanh tịnh, há chịu đựng nổi khí vị thế gian ngũ trược? Đối với những vật có huyết khí đều cảm thấy ô uế, ắt cái tâm tham ăn tục uống sẽ ngày càng giảm dần.

          Phần Giác Nhân viết:

          - Hữu t́nh do đă gieo cái nhân, sẽ tạo thành cái quả. Lư ấy chẳng dối, [giống như] tiếng vọng nương theo âm thanh. Do vậy, cái duyên để thọ sanh, chuyển sanh há có sai chạy? Dẫu củi đă cháy hết, lửa đă truyền, củi quy hết vào lửa. Kéo căng dây cung để mũi tên được bắn đi, mũi tên [bay xa] ắt phải do [sức bật của] dây cung. Hễ bố thí, sẽ được báo ứng. Người bố thí cố nhiên hăy nên quên đi [hành vi bố thí ấy]. Cội rễ do chính ḿnh vun trồng; người vun trồng ắt sẽ hưởng quả lành. [Dẫu được đền đáp như Dương Bảo] được tặng đôi ṿng ngọc trắng[68], người thông đạt sẽ chẳng quan tâm. Đối với ḷ lửa, vạc sôi, người trí huệ thường sanh ḷng kinh sợ. Thế mà có kẻ phóng túng đối với chuyện này chẳng chán, cứ giết chóc các loài sinh vật, nấu cá, nướng rùa, há có nghĩ tới t́nh cảnh [đau khổ] trong vạc dầu sôi sùng sục. Lóc thịt, quay dê, chỉ v́ đớp một miếng chả làm khéo đó thôi! Thậm chí [v́ săn bắn mà] đuổi nhanh như gió, chạy như chớp, [khiến cho] nhiều loài chim thú yếu đuối phải kêu thét. Lật tung đầm, băi, vét cạn rừng rậm, khiến cho chim tan đàn kinh hăi bay đi, thú ĺa bầy chết trong cô quạnh! Đối với hạng người ấy, chẳng có sinh vật nào không khoái khẩu, lưỡi nếm đủ thứ. Trước hết, họ đă là cọp, sói trong loài người, đến nỗi hễ thấy có con vật ắt đều săn bắt. Dẫu tṛng mắt bị rơi xuống đất, [vẫn miệt mài săn bắt]. [Hạng người như thế ấy] tránh sao khỏi đọa làm chim ưng hoặc chó trong loài thú? Hăy nên chân thành suy nghĩ! [Đối với] muôn loài chim thú, chẳng loài nào không có t́nh cảm. Gởi thân trong ṿng trời đất, làm các loài [khác nhau], hăy nên biết đều là do báo ứng. Nguyện từ hôm nay trở đi, vĩnh viễn đoạn trừ nỗi oán xưa kia, sẽ chẳng có nỗi oán hận nào để phải đền trả, chẳng chuốc lấy cái quả lắm bệnh. [Hễ thấy] có [người nào hay loài vật] gặp nguy ắt cứu, cái nhân trường thọ sẽ tự đưa đến. Nếu niệm nào cũng tỉnh giác, sẽ chẳng phải tốn mười năm điều phục con trâu trong tâm. [Hiểu rơ] ba đời rành rành, làm sao đọa làm thân chồn hoang trong năm trăm năm cho được? Đấy chính là v́ chẳng gieo duyên lành mê mất bè báu. Nghe ta múa lưỡi, hăy nên tự quay đầu.

          Phần Giác Hủy viết:

          - Có đến th́ sẽ có đi, muôn vật thay cũ đổi mới vô thường. Bất diệt, bất sanh, ḷng từ bi trong tâm tánh của ta tự tại. V́ thế, [luôn mong] thấy các sinh vật được sống, chẳng nỡ thấy chúng nó chết. Bậc thánh nhân từ đều ôm tấm ḷng ấy. Đă tiếc nuối khi chúng bị hủy hoại, ắt sẽ vui sướng v́ chúng trưởng thành. Chúng sanh đều cùng có bẩm tánh. [Ngay như đối với] ngói, gạch vô t́nh, bậc trí huệ c̣n la thất thanh khi thấy chiếc ṿ bị rớt vỡ. Đối với những loài trùng bé bỏng có tri giác, bậc chí nhân há vui sướng tàn sát ư? Huống hồ do trứng mà nở ra chim, từ chim con đến khi nó mọc lông vũ [đầy đủ], phải do mớm mồi nhọc nhằn. Há có phải một tiếng kêu, một cái mổ, sẽ hóa thành [một con vật trưởng thành hoàn vẹn] từ hư vô ư? Do biến hóa [dần dần] thành con vật sống động, hoạt bát, há có phải là một sáng, một chiều! Thế mà, [đối với] thân thể mười năm chăm bẵm ấy, chỉ v́ để nấu nướng một bữa, bèn trăm kế săn bắt, giăng bẫy chỉ ḥng no say chốc lát. Sao chẳng nghĩ [sanh mạng] hễ đoạn, sẽ chẳng thể tiếp tục (sẽ chẳng thể sống lại được)? Lóc xẻo thân thể, mỗi miếng đều chứa đựng nỗi đau mà thác. Đă hủy hoại rồi, há có thể phục hồi? Chi thể bị đun, bị nướng, mỗi con vật đều ôm nỗi khổ qua đời! Phàm ngũ cốc để nuôi dưỡng con người, c̣n khó thể tiêu hóa một hạt, huống hồ là đối với sanh mạng của muôn vật, há nên dấy khởi mảy may ư niệm xằng bậy hủy hoại? Thật sự hăy nên nghĩ: Chúng nó chết đi, trải muôn kiếp chẳng thể sống lại. Ta ăn vào, trong khoảnh khắc, đă chẳng c̣n chi nữa! Mong cầu sống mà chẳng được, há thấy bị chết mà đành ḷng ư? Hăy vĩnh viễn làm chuyện từ bi, luôn rủ ḷng cứu vớt, thương tiếc, ắt sẽ chẳng đợi đặt đôi giầy lên đỉnh đầu mà đă cứu con mèo từ trước[69]. Cần ǵ phải đợi mở miệng, mới giữ vẹn cả ngỗng lẫn ṿ[70]. Đấy là lư chân thật, há nên thốt lời hư giả! Hăy càng nên tuyên dương, mong sao ai nấy đều cùng dấy khởi ư niệm.

 

          (Chánh văn) Âm tặc lương thiện, ám vũ quân thân.

          (正文)陰賊良善。暗侮君親。

          (Chánh văn: Lén hại người lương thiện, ngấm ngầm khinh rẻ vua và cha mẹ).

 

          “Âm tặc” (陰賊) là âm mưu làm hại, như mũi tên bắn ngầm làm kẻ khác bị thương, khó đề pḥng nhất. Hơn nữa, người khác bị ta hại, ta chẳng mang tiếng ác. Hạng người ấy c̣n đáng sợ hơn các thứ lỵ mị vơng lượng. Làm điều này đối với người khác đă là chớ nên, ngấm ngầm làm hại người lương thiện lại càng chẳng nên. Bởi lẽ, người lương thiện được dân chúng trọng vọng. Ở trong một nước, ắt được cả nước trọng vọng. Ở trong một làng, ắt được cả làng trọng vọng. Há có nên âm thầm hăm hại người ấy hay không?

          Đời Đường, Lư Lâm Phủ làm Tể Tướng, âm hiểm chẳng lường, tàn hại người lương thiện. Chuyện ác của hắn chẳng thể kể xiết. Khi hắn sắp tiêu đời, thấy một con quỷ răng như lưỡi cưa, móng tay như móc câu, khắp thân đầy lông lá, mắt như ánh chớp, giơ tay đánh Lâm Phủ. Không lâu sau, Lâm Phủ thất khiếu ứa máu mà chết. Hắn chết rồi, triều đ́nh hạ lệnh lột sạch quan tước, bửa quan tài hành h́nh xác hắn. Con cháu bị lưu đày xuống vùng Lănh Nam.

          Vào đầu niên hiệu Thuần Hy[71] đời Tống, tại Hán Châu, có một người đàn bà bị sét đánh chết, [trên xác] có chữ viết bằng châu sa rằng: “Lư Lâm Phủ làm bầy tôi bất trung, ngấm ngầm tàn hại kẻ lương thiện. Ba đời làm gái điếm, bảy đời làm trâu. Báo hết, vĩnh viễn đọa trong loài thủy tộc”. Kẻ tiểu nhân hăm hại bậc quân tử, may mắn thành công, bèn nói “đă nắm giữ sự sanh tử của họ”. Chẳng biết họ [bậc quân tử] bị chết trong tay chúng nó (phường tiểu nhân) cũng là do oán đối khiến thành như vậy, chẳng phải là do chúng nó có thể làm như thế được! Nếu bậc quân tử chẳng có oán đối, mặc cho kẻ tiểu nhân giở tṛ như thế nào đi nữa, rốt cuộc chẳng thể hại chết người ấy! Kẻ ác hại người khác ví như ngửa mặt nhổ lên trời, chẳng nhổ vào trời nổi, mà ngược ngạo rơi xuống ngay chính ḿnh. Chớ nên hủy hoại người hiền, ắt sẽ mang họa chính ḿnh bị tàn diệt cũng giống như thế.

          Nhưng hai chữ Âm Tặc chẳng bắt buộc cứ phải là kẻ làm quan! Bất cứ ai khác cũng đều có thể âm tặc, nhưng những kẻ trong nha môn là tệ nhất. Những thói như lạm dụng quyền thế để báo cừu riêng, thừa dịp tra xét để quấy nhiễu, ngấm ngầm khuấy động sóng gió, nặc danh vu cáo… Há có biết đạo trời tuần hoàn, chưa hại được người mà đă hại chính ḿnh trước. Hăy suy nghĩ đi!

          “Ám” () là chỗ người khác chẳng thấy, chẳng nghe. “Vũ” () là khinh rẻ. Câu này chuyên v́ kẻ hiếu danh và trái nghịch t́nh lư mà nói ra. Ơn vua và ơn cha mẹ như trời đất. Nếu đă ăn lộc [của vua] mà hành sự biếng nhác, do tham lợi mà làm theo lẽ riêng tư, hoặc gian xảo, dua nịnh, mặc sức lừa dối, cái tâm chẳng thể cho vua biết tức là ngấm ngầm khinh rẻ vua. Phụng dưỡng [cha mẹ] chẳng chân thành, hành xử trong cơi đời không ra ǵ, hoặc màu mè che đậy sự ngỗ nghịch, cái tâm chẳng thể cho cha mẹ biết, đấy chính là ngấm ngầm khinh rẻ cha mẹ vậy. Bất trung, bất hiếu, hại giáo, phản đạo, không ǵ tệ hơn nữa! Sống th́ sẽ gặp trời giáng họa, chết bị tra khảo trong chốn Phong Đô[72], ắt cũng chẳng thể dung thứ được!

          Đời Tống, Doăn Ḥa Tĩnh khi sắp vào cung giảng giải kinh điển, ắt tắm rửa, đoan nghiêm, chắp tay, hướng về bộ sách sẽ được giảng trong ngày hôm sau, mặc triều phục lễ lạy. Kẻ khác hỏi nguyên cớ, ông nói: “Ắt mong khiến cho những lời [tôi] nói ra sẽ khiến cho đức vua cảm ngộ, sao lại chẳng trọn hết ḷng thành kính cho được?”

          Vua Tuyên Tông nhà Minh[73] thích văn từ, thơ phú, hay bảo quần thần xướng họa. Gă học sĩ nọ tự phụ tài cao, mỗi lần vâng mạng vua làm xong bài thơ, liền nói: “Thơ hay như thế, không chỉ là hoàng đế chẳng làm được, mà có xem kiểu nào cũng không hiểu nổi!” Chẳng lâu sau, do làm thơ dùng chữ phạm vào cấm kỵ của triều đ́nh, lời lẽ có phần châm chọc, chế nhạo, phạm tội bất kính, bị lột sạch chức tước.

          Thời Tam Quốc, danh sĩ nước Ngô là Cố Đễ mỗi lần nhận thư cha, đều quỳ đọc. Đọc mỗi câu đều thưa vâng. Nếu cha bị bệnh, liền đối trước thư khóc ṛng, lời nói càng nghẹn ngào. Lại như Phạm Tuyên đời Tấn, lúc lên tám, ngẫu nhiên ngón tay bị thương, bèn khóc ṛng. Có người bảo: “Sao lại đau đớn đến mức ấy?” Phạm Tuyên khóc, thưa: “Chẳng phải v́ đau đớn, [mà do nghĩ] da tóc nơi thân được nhận lănh từ cha mẹ, chẳng dám hủy hoại, tổn thương. Con buồn là v́ lẽ này”. Hai ông về sau đều quư hiển.

          Có hai anh em nọ, cứ mỗi năm ngày bèn thay phiên nhau nuôi mẹ. Anh nghèo, em hơi giàu. Lúc anh nuôi mẹ, cháo cũng chẳng có, c̣n hai ngày chưa hết phiên, đă nói: “Mẹ qua nhà em rồi con sẽ bù sau”. Mẹ đến nói với đứa em ư của thằng anh. Đứa em bảo vợ giấu cơm đi, kiên quyết cự tuyệt. Mẹ rơi lệ trở về. Bỗng sấm chớp đùng đùng nổi lên, đánh chết tươi cả hai vợ chồng! Than ôi! Kẻ bất trung bất hiếu bị cơi âm tru lục, thóa mạ vạn năm, họa báo thê thảm như thế đó. Ấy là v́ vua và cha đứng đầu trong Ngũ Luân. V́ thế, thờ vua, thờ cha, càng chẳng thể không chú trọng lấy ḷng thành làm đầu!

 

          (Chánh văn) Mạn kỳ tiên sinh, bạn kỳ sở sự.

          (正文)慢其先生。叛其所事。

          (Chánh văn: Khinh mạn thầy dạy, phản bội người ḿnh phải phụng sự).

 

          “Tiên sinh” (thầy dạy) chính là bậc truyền trao đạo của thánh hiền, dạy dỗ học vấn, giải trừ nghi hoặc. Cha mẹ sanh ra thân ta, ắt phải nhờ thầy thành tựu học vấn cho ta. V́ thế, thầy được tôn trọng giống như vua và cha. Người hiện thời mời thầy dạy con, phần nhiều thường là biểu hiện lễ tiết theo h́nh thức, tiếc tiền, thiếu lễ. Thậm chí ăn nói chẳng nhũn nhặn, thiếu hẳn lễ độ theo lẽ thường, ôm ḷng coi thường thầy. Hạng người ấy cố nhiên chẳng khác cầm thú cho mấy! C̣n kẻ làm thầy để mở mang đầu óc cho trẻ nhỏ, có âm đức lớn nhất, há có nên v́ nhận quà cáp, lương bổng của người ta mà dung túng trẻ, chẳng [dạy dỗ] nghiêm ngặt, đến nỗi kẻ khác mắc họa chẳng thành tài ư? Thầy làm bài tập thay cho tṛ, dối gạt phụ huynh. Do tham cầu tiền bạc, bèn hối lộ mua chuộc công danh, tôi chẳng biết sự báo ứng của họ sẽ như thế nào? Khinh mạn thầy cố nhiên là chẳng nên, nhưng kẻ làm thầy lại khiến cho kẻ khác khinh mạn th́ lại càng chẳng nên vậy!

          Hán Minh Đế tôn Hoàn Vinh[74] làm thầy, dốc trọn ḷng thành kính. Vua đến phủ Thái Thường, bảo Hoàn Vinh ngồi ở phía Đông, bày gậy chống[75], nhóm họp bá quan kính lễ thầy.

          Đời Tống, Du Tạc và Dương Thời cùng theo học với Tŕnh Di. Một hôm, họ đến gặp thầy, ngẫu nhiên Tŕnh Di đang tĩnh tọa. Hai ông đứng hầu. Khi Tŕnh Di tĩnh tọa xong, ngoài cửa, tuyết đă xuống dầy chừng cả thước. Thế mà [hai ông] chẳng có dáng vẻ ủ rũ, càng cẩn thận giữ ḷng cung kính hơn. Hai ông đều truyền thừa đạo học của Liêm Lạc[76].

          Đời Tống, Bành Nhữ Lệ tôn Nghê Thiên Ẩn làm thầy, lễ tiết, phụng sự tột bậc cung kính. Về sau, vợ chồng ông Nghê đều mất, do ông bà không có con trai, ông Bành bèn đứng ra chôn cất. Lại c̣n gả con gái của họ cho tiến sĩ Tống Hoán.      Đời Tống, thầy của Nhạc Vũ Mục (Nhạc Phi) là Châu Đồng, dạy Nhạc Phi bắn cung nặng đến ba trăm cân. Châu Đồng chết. Mồng Một và ngày Rằm, Nhạc Phi ắt bày cỗ cúng tế trước mộ, quỳ lạy, khóc lóc, cầm cung tên do Châu Đồng đă tặng, bắn ba phát rồi mới quay về.

          Một nông gia sanh được một con trai, ư hết sức tha thiết lo cho con học hành, nhưng đối đăi với thầy qua quít, khinh mạn khôn sánh. Cơm chỉ là ăn với rau, trả lương ắt dùng bạc xấu. Thầy tận tâm dạy dỗ đă lâu, tṛ đọc văn của người khác th́ hiểu rơ ràng, nhưng nó tự viết văn th́ chẳng câu nào nên hồn, cũng lạ thay! Về sau, [đứa trẻ ấy] vẫn làm nghề nông.

          Một vị thầy khá nhát gan, có đứa học tṛ lanh lợi lại nghịch ngợm. Nó dán giấy làm thành đầu người khổng lồ, ban đêm đem giơ lên ở ngoài tường. Thầy kinh hoảng, tông cửa chạy, đến ở nhờ nhà bạn bè. Bệnh ba ngày mới dậy được, rốt cuộc chẳng dám đến dạy nữa. Về sau, đứa học tṛ ấy lại nấp ở ngoài tường, trông thấy đầu người khổng lồ, ngỡ là cái đầu do ḿnh đă dán, liền nh́n nó. Thấy nó liếc mắt, vểnh râu, đứa học tṛ kinh hoảng, ngă lăn ra chết.

          Đạo thờ thầy hăy nên như con em phụng sự cha anh. Đi th́ theo sau, ngồi th́ ở bên cạnh. Đi đường gặp thầy bèn đứng thẳng, chắp tay. [Khi thầy] nói năng bèn trống ḷng, lắng tai nghe. Khi thầy gặp tai họa hay có chuyện lo buồn, th́ [cảm thấy] giống như là chuyện cát hung họa phước của chính ḿnh. Thầy c̣n sống bèn giữ lễ tiết cẩn thận. Thầy đă mất, ắt tâm tang ba năm. Như thế th́ gần như đă trọn hết đạo thầy tṛ vậy.

          Ông Vương X… dạy vỡ ḷng cho trẻ, ắt trọn hết tâm lực, chẳng màng công sá. Thường nói: “Trời, đất, vua, cha mẹ, thầy, năm ngôi ấy xếp ngang nhau. Trẻ nhỏ một phen tôn ta làm thầy, ắt sự thành bại vinh nhục suốt cả một đời nó đều là trách nhiệm của ta. Nếu chẳng tận tâm kiệt lực, khiến cho con em người khác bị lỡ làng, sẽ có tội giống như gă thầy thuốc dốt giết người”. Ông lại thích kể cho trẻ nghe những câu chuyện hiếu đễ. Ông nói: “Người đi học th́ trước hết là học tâm thuật, rồi mới học văn chương, nghề khéo. Trước hết phải vun quén căn bản rồi mới thực hiện ḷng nhân. Nếu hiếu đễ thiếu sót, dẫu tài hoa lừng lẫy cơi đời, chẳng đáng coi trọng!” Về già, ông sanh ra Văn Khang Công, mọi người bảo đó là quả báo của sự khéo dạy học tṛ.

          Gần đây, đạo thầy tṛ suy bại, thật đáng đau đớn khóc ṛng, than dài sườn sượt! [Kẻ làm thầy] chẳng nghĩ [tránh sao cho khỏi dạy dỗ] lầm lạc con em của người ta, chắc chắn sẽ bị thần minh khiển trách. Xưa có một nho sĩ, tuổi đă ngoài sáu mươi, bảo vợ: “Ta tuy chẳng công danh hiển đạt. May là suốt đời gặp chỗ dạy học tốt đẹp, nên có thể thành gia lập nghiệp”. Ban đêm, ông ta mộng thấy cha ḿnh quở mắng: “Ngươi đúng ra là kẻ đỗ đạt. Chỉ v́ lúc dạy học thiếu trách nhiệm, cho nên đức Văn Xương gạt tên khỏi sổ quế, thế mà c̣n khoác lác ư?” Ôi! Xét theo đó, khiến cho con em người khác lầm lỡ cũng nguy hiểm lắm thay!

          “Sự” () ở đây là kẻ dưới phụng sự người trên, như cấp dưới phụng sự quan trên, bộ hạ, lính tráng tuân theo tướng, soái, nô bộc, tỳ thiếp vâng theo chủ nhân, đều là Sự cả. “Bạn” (, phản bội, phản loạn) chẳng phải là trái nghịch hiển nhiên, nhưng lúc người trên gặp cảnh cấp bách, [kẻ dưới] bèn chẳng phải là kẻ trông cậy được, [hoặc kẻ dưới] chẳng bận tâm đến điều lợi lẽ hại của người trên th́ gọi là Bạn vậy!

          Thời Tam Quốc, Lữ Bố theo pḥ Đinh Nguyên, [Đinh Nguyên] đối đăi [Lữ Bố] rất thân thiết, rồi v́ Đổng Trác mà [Lữ Bố] giết Đinh Nguyên. Đă theo pḥ Đổng Trác, thề làm cha con, lại v́ Vương Doăn [hứa gả Điêu Thuyền cho] mà giết Đổng Trác. Về sau, Lữ Bố bị quân Tào bắt được. Tào Tháo muốn tha cho [Lữ Bố] sống [để dùng làm thuộc hạ], Lưu Bị nói: “Minh công chẳng thấy Lữ Bố phụng sự Đinh Nguyên, Đổng Trác ư?” Tào Tháo tỉnh ngộ, bèn sai người thắt cổ Lữ Bố cho chết.

          Dương Trung ở huyện Tứ Minh là nô bộc của Đới Hiến. Họ Đới rất giàu, sai Dương Trung làm chủ một gia trang, nguồn lợi từ cá, muối, tre, gỗ rất phong phú. Đới Hiến chết, con là Bá Giản c̣n trẻ, thích lêu lổng với lũ trẻ tuổi bất lương. Được mấy năm, tiêu sạch gia sản, chỉ c̣n sót lại một trang trại ấy. Bá Giản đến nương cậy. Dương Trung ghi chép con số tài sản đưa cho xem. Bá Giản vui mừng, vẫn tiêu xài bừa băi như cũ. Dương Trung khóc lóc can ngăn, Bá Giản chẳng nghe. Một hôm, lũ bạn lêu lổng ấy lại kéo đến, xúm nhau nhậu nhẹt, cờ bạc. Dương Trung cầm đao bén tiến vào, thộp cổ thằng cầm đầu, nhiều lượt bảo: “Tao phụng sự chủ nhân hơn ba mươi năm. Thiếu gia c̣n trẻ, bị chúng mày dụ dỗ làm chuyện bất thiện, gia sản tan sạch. May là tao c̣n giữ được sản nghiệp này. Mày cứ muốn phá sạch ư? Tao chém rụng đầu mày rồi lên quan đầu thú xin được chết để báo đáp chủ nhân dưới ḷng đất”. Thằng đó nhận tội, xin hứa từ nay chẳng dám đến nữa. Dương Trung cho nó một ít tiền, đuổi đi. Dương Trung khóc lóc, tạ tội: “Lăo nô kinh động, xúc phạm thiếu gia, nguyện từ nay ngài hăy sửa đổi những hành vi trước kia. Chỉ mong nghe theo lời lăo nô tận tâm dốc sức, chẳng đầy hai, ba năm, cơ nghiệp cũ sẽ có thể khôi phục. Nếu không, lăo nô sẽ d́m ḿnh xuống biển, chẳng đành ḷng thấy thiếu gia chết đói, để nhục cho môn hộ”. Bá Giản hổ thẹn, khóc lóc, vâng theo. Mấy năm sau, quả nhiên khôi phục trọn vẹn ruộng nương, nhà cửa. Về sau, Dương Trung hưởng thượng thọ.

          Từng nghe nói ở Ngô Quận có ông Trầm Hằng Cát nuôi một con chó. Về sau, Hằng Cát bị bệnh, chó bèn chẳng ăn. Tới khi ông chết, con chó tru ầm lên suốt đêm mới thôi. Qua năm sau, đưa ma, chó bèn va đầu vào sườn mộ chết. Con chó có nghĩa thay! Những kẻ gặp chuyện liên quan đến sống chết bèn biến đổi khí tiết, thay đổi tấm ḷng, đúng là chẳng bằng con chó có nghĩa vậy!

 

          (Chánh văn) Cuống chư vô thức, báng chư đồng học.

          (正文)誑諸無識,謗諸同學。

          (Chánh văn: Lừa dối kẻ chẳng hiểu biết, gièm báng bạn học).

 

          Đối với kẻ chẳng hiểu biết, đúng là phải nên thuận theo từng sự mà chỉ bảo cho họ, dùng nghĩa lư nhắc nhở, dùng điều thiện lẽ ác khiến cho họ động tâm, khiến cho họ giác ngộ, chẳng đọa trong mê hoặc. Há có nên v́ họ dễ bị khinh rẻ mà dối gạt họ ư? Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Huyễn hoặc vô thức, nghi ngộ chúng sanh, tử hậu đương đọa nhập Vô Gián địa ngục” (Kẻ lừa bịp người không hiểu biết, khiến cho chúng sanh nghi ngờ, lầm lạc, sau khi chết sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián). Ôi! Sao người ta lại khổ sở làm chuyện như thế?

          Ông Lưu Hợp Phong nói:

          - Có ba người cùng đi, tới một khe suối. Nhằm đúng lúc nước suối dâng cao, mà thuyền ở bờ đối diện. Trong đó, có một người rất ngu, [hai người kia] bèn dụ người ấy cởi quần áo bơi qua lấy thuyền. Người ấy ngụp lặn trong nước xiết, vượt qua được bờ kia. Lại chống thuyền quay về chở hai người kia. Hai người kia lên thuyền; kẻ ngu bỗng đau bụng muốn đi tiêu, vội lên bờ. Hai người kia vẫy tay bảo: “Mặt trời đă lặn rồi, không thể chờ ngươi được”. Bèn chống thuyền đi. Chốc lát, do nước chảy xiết, thuyền xoay ngang, họ đều bị lật thuyền, chết ch́m. Người ngu ở trên bờ th́ yên ổn.

          Đời Đường, Khương Phủ mặc áo, đội mũ đạo sĩ lên kinh đô. Do không có ai biết, bèn dối gạt nói ḿnh đă mấy trăm tuổi, có thuật trường sanh độ đời. Hắn phụng sự Đường Huyền Tông, được vua ân sủng, nổi tiếng một thời. Về sau, có một sinh viên trường Thái Học là Kinh Nham đến gặp, hỏi: “Tiên sinh rốt cuộc là người thuộc triều đại nào?” Đáp: “Người đời Lương”. Hỏi: “Có làm quan hay không?” Đáp: “Từng làm Tiết Độ Sứ của Tây Lương Châu”. Kinh Nham quát mắng: “Sao mà dối trá đến thế? Trên lừa dối thiên tử, dưới bịp bợm người đời! Nhà Lương ở Giang Nam, lấy đâu ra Tây Lương Châu, [Nhà Lương] chỉ có tứ b́nh, tứ an, tứ chinh, tứ trấn tướng quân, lấy đâu ra Tiết Độ Sứ?” Khương Phủ cứng họng, hết sức hổ thẹn. Vài ngày sau [Khương Phủ] chết ngắc!

          Bạch Sầm gặp dị nhân, được truyền toa thuốc chữa bệnh lên nhọt ở lưng rất hiệu nghiệm. Có viên dịch lại[77] muốn truyền toa thuốc ấy để cứu tế rộng khắp, đưa cho Bạch Sầm mấy chục lạng vàng. Bạch Sầm đưa toa thuốc giả cho ông ta, trị bệnh không công hiệu. Về sau, Bạch Sầm bị cọp ăn thịt, bỏ lại toa thuốc thật sự trên đường, viên dịch lại đi qua nhặt được.

          Gă thầy bói họ Trương giỏi chiêm tinh, nhưng toàn là khéo đoán ư hướng của người đến xem bói, luận đoán phần nhiều không đúng. Hoặc là thường nghe theo lời dặn ngầm của kẻ khác, thốt lời điên đảo. Do khiến cho người ta bị lầm lỡ đại sự, về sau, [họ tức giận] cắt lưỡi hắn, hắn chết ngắc.

          Nguy Chỉnh có lần ra chợ mua cá. Chủ nhân ngầm điều chỉnh cân để cho Ngụy Chỉnh được lợi. Người đánh cá đi rồi, chủ nhân nói: “Ông chỉ mua năm cân, tôi đă ngầm [điều chỉnh cân] cho ông được nhiều hơn, xin hăy mời tôi uống rượu”. Nguy Chỉnh hết sức kinh hăi, đuổi theo người dân chài đền bù đúng giá trị. Lại mời chủ nhân uống rượu nói: “Ông chỉ muốn có rượu thôi, sao lại lừa gạt người nghèo để làm ǵ?” Than ôi! Người đời nay nếu tấm ḷng có thể như ông Nguy, làm sao có chuyện lừa gạt kẻ không hiểu biết cho được?

          Bạn đồng học t́nh như huynh đệ, huống hồ bạn bè là một trong các mối nhân luân, há có nên thốt lời hủy báng bừa băi, trong bụng đầy ắp gươm giáo ư? Đức Phật dạy:

          - Con người đối với bạn bè, có năm chuyện tương quan lẫn nhau. Một là nếu đôi bên gây tạo ác nghiệp, hăy nên khuyên bảo lẫn nhau ngưng dứt [ác nghiệp]. Hai là nếu đôi bên mắc bệnh khó trị, hăy nên chăm sóc, điều trị lẫn nhau. Ba là đôi bên có những điều chỉ nên nói riêng trong nhà, chớ nên nói với người ngoài. Bốn là hăy nên tôn kính, tán thán lẫn nhau, không ngừng lui tới với nhau, chớ nên ghi oán. Năm là nghèo giàu khác nhau, hăy nên giúp đỡ, đừng nên phỉ báng lẫn nhau!

          Nếu hỏi: “Sau khi chơi với bạn, biết bạn chẳng lành, muốn đoạn tuyệt, lại sợ thương tổn t́nh cảm. Chẳng nghỉ chơi th́ lại là ẩn giấu ḷng oán hận mà kết giao?” Châu Tử nói: “Đấy chẳng phải là ẩn giấu ḷng oán. Nếu trong tâm ôm nỗi hờn oán mà bề ngoài làm ra vẻ thân thiết, đó là ẩn giấu ḷng oán. Nếu bạn bè chẳng tốt, [xét theo] t́nh nghĩa đáng nên chẳng thân thiết, nhưng để lợt lạt t́nh nghĩa th́ phải nên từ từ nhạt dần. Nếu chẳng có chuyện ǵ hệ trọng, cần ǵ phải cắt phăng t́nh bạn? Hăy nên tích chứa ḷng thành, khiến họ cảm ngộ. Đó gọi là “đối đăi với người thân chẳng đánh mất t́nh thân, đối với bạn bè đă lâu chẳng đánh mất t́nh cố cựu”.

          Đời Minh, tiên sinh Dương Minh Vương Thủ Nhân nói:

          - Giao du bạn bè chánh yếu là khiêm tốn, nhún ḿnh. Khi tụ hội, cần nên trống ḷng, khiêm nhường, thân thiết, tôn kính, bao dung. Nói chung là ít uốn nắn, chỉ trích, mà là dùng sự chân thành để cảm động, khích lệ, khuyến khích cho nhiều.

          Ông Ôn Tiết Hiếu nói:

          - Chơi với bạn, chỉ quan tâm đến ưu điểm của họ, chẳng màng khuyết điểm! Gặp người tánh t́nh cứng cỏi, hăy chịu đựng sự nóng nảy của họ. Gặp người rất tài hoa, hăy chịu đựng thói quen không câu thúc của họ. Gặp người chất phác, trung hậu, hăy chịu đựng tính khí chậm chạp của họ. Gặp người khinh bạc phóng túng, hăy chịu đựng tính hời hợt, bộp chộp của họ. Không chỉ là được lợi ích vô lượng mà c̣n trọn vẹn t́nh bạn bè.

          Đời Tống, Trương Thiên Tải, hiệu là Nhất Ngạc, làm bạn với Văn Sơn[78]. Khi Văn Sơn quư hiển, Thiên Tải đă nhiều lần tránh né, không gặp gỡ. Tới khi Văn Sơn chiến bại, bị giải về Cát Châu. Thiên Tải ngầm đến gặp, nói: “Thừa Tướng! Nếu Ngài bị đưa về đất Yên (Bắc Kinh), Thiên Tải cũng đi theo”. [Sau đó, khi Văn Sơn bị giải về phương Bắc, Thiên Tải cũng] đến ở gần bên chỗ Văn Sơn bị cầm tù, suốt ba năm châu cấp Văn Sơn chẳng thiếu sót. Ngày Văn Sơn bị hành quyết, Thiên Tải ngầm giấu đầu Văn Sơn trong tráp gỗ, ḍ t́m vợ Văn Sơn là bà Âu Dương trong đám tù nhân, liền thiêu xác, thu nhặt hài cốt[79] để trong đăy, ôm tráp đi về phương Nam, giao cho gia đ́nh của Văn Sơn an táng. Trước đó một hôm, con Văn Sơn mộng thấy cha nói: “Bác của con đă về tới rồi”. Chẳng lâu sau, quả nhiên [Trương Thiên Tải] tới nơi. Người đời sau gọi “t́nh bạn sống chết” là Thiên Tải Nhất Ngạc, đúng vậy thay!

          Trầm Trọng Hóa nói:

          - Thiếu sót t́nh bạn với người đă khuất c̣n tệ hơn thiếu sót t́nh bạn với người c̣n sống. Nay kẻ làm bạn với nhau, hăy tự hỏi có thể chẳng thay đổi tấm ḷng trong cảnh sanh tử hay chăng?

          Đời Tống, Quách Chí lúc mới nổi tiếng về tài viết những bài phú, bạn học là Lư Miễn đố kỵ bèn gièm báng. Do vậy, Lư Miễn thi măi không đậu. Về sau, Quách Chí đă đỗ đạt trước, lại làm Tri Cống Cử[80], Lư Miễn mới nhờ khoa thi Minh Kinh[81] mà được có tên để dự thi [Tiến Sĩ]. Ngày ban chiếu [công bố quan chánh chủ khảo là Quách Chí], Lư Miễn hổ thẹn bỏ về. Quách Chí nghe tin, lập tức [sai người] đem Lư Miễn trở lại, do vậy [Lư Miễn] bèn thi đỗ. Có thể thấy là gièm báng chẳng tổn hại người khác, chỉ tự ḿnh chuốc lấy nỗi khắc bạc vậy!

 

          (Chánh văn) Hư vu trá ngụy, công can tông thân.

          (正文)虛誣詐偽,攻訐宗親。

          (Chánh văn: Đặt điều vu cáo hư vọng, xảo trá, dối gạt, công kích thân thuộc).

 

          Khinh mạn vô căn cứ th́ là Hư (). Xằng bậy đặt chuyện nói xấu, miệt thị là Vu (). Dùng quỷ kế gạt gẫm người khác là Trá (). Dùng những cách thức dối đời trái lẽ th́ gọi là Ngụy (). Nói tách ra th́ là bốn điều, nói gộp lại sẽ là ‘chẳng chân thành’. “Thành” là đạo của trời, suy nghĩ chân thành là đạo của người. Nay bỏ ḷng thành, noi theo hư vu trá ngụy, chẳng phải là trái nghịch đạo trời, đánh mất đạo người hay sao? Cái tâm ấy quá nhọc nhằn, chuyện ấy quá nguy hiểm[82], chính là tướng trạng bạc phước nhất trong thiên hạ! Chẳng vào tam ác đạo th́ sẽ đi về đâu?

          Đời Thanh, Tôn Đ́nh Thuyên ở Ích Đô là người chất phác, chẳng phù phiếm. V́ thế, Thanh Thế Tổ (vua Thuận Trị) từng gọi ông ta là Tôn Lăo Thật (ông Tôn thật thà). Mỗi khi chức vị Thượng Thư ở các bộ bị khuyết, vua liền bảo: “Vẫn là dùng Tôn Lăo Thật [điền vào đó]”. Do ba lần gọi Tôn Lăo Thật như thế, ông được phong làm Tể Tướng[83]. Thật thà có bao giờ khiến cho người ta bị lầm lỡ đâu nhỉ?

          Tiết Phu chuyên bịa chuyện để làm đơn thưa kiện, có thể tô vẽ chuyện vô lư thành hữu lư. Hắn dùng chuyện này để làm giàu. Về sau, hắn làm trai đàn để tạ tội. Đạo sĩ phủ phục, sau đó đứng dậy nói: “Thượng Đế đă phê vào tờ biểu [tấu tŕnh xin tha tội của ngươi như sau]: Nhà th́ phó cho hỏa ty, người th́ giao cho thủy ty”. Về sau, quả nhiên nhà hắn cháy sạch, Tiết Phu ngă xuống nước chết đuối.

          Thời Ngũ Đại, người xứ Mân[84] là Tiết Văn Kiệt có hiềm khích với Ngô Anh. Một hôm, chúa nước Mân là Vương Lân (Vương Diên Quân) sai đồng cốt nh́n xem trong cung có quỷ hay không. Trước đó, Văn Kiệt đă nói với Ngô Anh: “Chúa thượng ngờ ông quyền cao chức trọng, ông hăy nên cáo bệnh. Nếu vua sai sứ giả đến hỏi, hăy nên thưa là bị đau đầu. Tôi có thể nói giúp cho ông”. Ngô Anh vâng theo. Văn Kiệt dặn gă đồng cốt nói: “Ngô Anh sắp làm phản, bị Thượng Đế lấy đinh bằng đồng đóng vào năo”. Vua sai người đến [nhà Ngô Anh] ḍ xét, quả nhiên, Ngô Anh thưa là bị đau đầu. Vua liền giết Ngô Anh. Ngô Anh bị vu cáo, dân chúng đều nghiến răng. Khéo sao, Vương Lân phát binh chống lại nước Ngô[85], quân sĩ không chịu tiến, đ̣i cầm tù Tiết Văn Kiệt mới chịu tiến. Vương Lân bất đắc dĩ, cùm hắn lại, đưa vào trong quân. Quân sĩ xúm lại xả thịt hắn hết sạch.

          Đời Tống, Triệu Đ́nh Thần giả vờ lập thỏa ước với người Động Nhung[86], dụ họ đầu hàng triều đ́nh, [đăi họ ăn uống] no say rồi giết sạch, rêu rao họ làm phản, dối trá tâu đó là công lao [dẹp loạn] của chính ḿnh. Họ Triệu bèn được thăng thưởng hiển hách. Về sau, hắn mộng thấy những người đă bị giết nói: “Sẽ đến báo thù sự dối trá của mày”. Về sau, hắn sanh được một đứa con trai. Nó c̣n trẻ mà đă đỗ đạt, bỗng dưng cuồng nghịch, phạm pháp, [liên lụy đến] Triệu Đ́nh Thần và vợ bị đày ra vùng Lănh Nam, bị người Động Nhung giết chết.

          Đời Tống, Đinh Vị chẳng nói lời chân thật với người khác, từng bảo: “Nếu ai thật tâm sẽ chẳng làm nổi mọi việc, chỉ luôn bị kẻ khác khinh lấn”. Đinh Vị giữ ḷng trí trá như thế, khiến cho người khác chẳng thể ḍ lường được, bèn bị người đương thời xếp vào Ngũ Quỷ[87], há có phải là do cái tâm trá ngụy mà không chuyện ǵ chẳng làm đó ư?

          Cùng họ là Tông (), khác họ là Thân ()[88]. Tuy có xa, gần, thân, sơ khác nhau, thật sự đều là những người có mối quan hệ thân thiết với ta, hăy nên đối đăi bằng ḷng thân ái, trung thành. Cùng chia sẻ hoạn nạn, giúp đỡ người khốn cùng. Giấu giếm những điều xấu trong nhà cho nhau, cùng ngăn ngừa sự lấn hiếp từ bên ngoài, há nên tranh chấp lẫn nhau, so đo từng ly từng tư một, giận dữ, ghen ghét, chiếm đoạt, xét nét, công kích hay chăng? Lặt cành làm đau ḷng cây, chặt đứt rễ khiến cho mạng mạch của nó chấm dứt, hăy nên răn dè!

          Đời Xuân Thu, Yến B́nh Trọng[89] đi xe rách nát, cỡi ngựa gầy. Hoàn Tử cho rằng ông ta cố t́nh ẩn giấu sự ban thưởng của vua. Yến Tử (Yến B́nh Trọng) nói: “Kể từ khi thần được hiển quư, họ bên cha không ai chẳng ngồi xe. Họ bên mẹ không ai chẳng cơm áo no đủ. Họ bên vợ không ai đói lạnh. Học tṛ nước Tề nhờ thần mà có cái để thổi lửa nấu cơm hơn ba trăm người. Như thế là ẩn giấu sự ban thưởng của quân vương, hay là phô bày ân vua ban thưởng vậy? Trước là họ bên cha, rồi đến họ bên mẹ, sau là họ bên vợ, cuối cùng là đến những người xa lạ. Đó gọi là [giúp đỡ] từ người thân thiết cho đến người xa lạ vậy”. Có thể nói Yến Tử khéo đối xử ḥa mục với họ hàng. Người có tấm ḷng ấy, há có thói tệ công kích [thân thích] ư? V́ thế, nêu ra chuyện này nhằm khuyên nhủ những kẻ phạm lỗi công kích, mà ác báo của kẻ công kích cố nhiên cũng chẳng cần phải nêu ra nữa!

 

          (Chánh văn) Cang cường bất nhân, ngận lệ tự dụng.

          (正文)剛強不仁,很戾自用。

          (Chánh văn: Ương bướng bất nhân, độc ác, tàn nhẫn, tự cho là đúng).

 

          Khổng Tử chủ trương cương nghị là chú trọng nơi lư. Thái Thượng răn nhắc về “cang cường” (cứng cỏi, ương ngạnh) là nói đến sự dẫn khởi từ tánh khí. Các thầy thuốc gọi chứng tê bại là “bất nhân” với ư nghĩa “chẳng biết đau, ngứa”. V́ thế, kẻ ưa ương bướng, hành sự thuận theo t́nh cảm xung động khi đăi người tiếp vật, sẽ chẳng có chút thông cảm nào, thuần là ư niệm cạn tàu ráo máng, thế tục gọi [tánh khí như vậy] là “tấm ḷng sắt đá”, làm sao có thể nhân từ cho được? Nhưng kẻ ương ngạnh chẳng có kẻ nào không bị chiết phục. Nếu họ đă nếm trải mấy phen thua thiệt to lớn, sẽ dần dần hóa thành mềm mỏng. Đấy là chuyện muôn phần may mắn của kẻ ương ngạnh vậy, tôi hằng ngày đều mong mỏi.

          Đời Tống, Bao Chửng[90] làm Long Đồ Các Học Sĩ[91], có tên thụy là Hiếu Túc. Ông tánh t́nh cương trực, bất khuất. Thuộc hạ có điều bẩm cáo, ông thường phê b́nh ngay mặt [nếu nói những điều chẳng hợp lư]. Nếu lời họ thưa tŕnh đúng lư, cũng chưa hề không vui mừng, thay đổi [theo ư kiến đề xuất]. Do vậy, mọi người đều kính phục. Phàm cứng cỏi mà hợp lư, gặp chuyện bèn có thể phán đoán rơ ràng, chánh xác, đấy là dũng khí của bậc có ḷng nhân vậy.

          Đời Tống, Trương Nhữ Khánh làm Đề H́nh. Mỗi khi thẩm vấn tù phạm, bất luận phạm tội nặng hay nhẹ, đều sử dụng toàn bộ các dụng cụ hành h́nh, gọi là “đả nhất sáo” (đánh trọn một bộ). Những kẻ bị ông ra tra khảo đều gọi Trương Nhữ Khánh là “Diêm La thôi đáo” (kẻ đẩy người khác đến chỗ vua Diêm La). Về sau, hết nhiệm kỳ, Nhữ Khánh quay về, thuyền đi đến Cao Bưu, đêm nằm mộng thấy mấy trăm người toác đầu, găy chân, vây quanh đ̣i mạng. Về đến nhà, giữa ban ngày mà thấy lệ quỷ, thất khiếu tuôn máu mà chết. Phàm là kẻ ngang ngược, hung bạo, sẽ chẳng được chết yên lành, cố nhiên chẳng cần phải nói nữa! Nhưng sau khi đă chết, c̣n phải thọ báo trong tam đồ, cho đến khi nào mới được thoát khỏi? Cứ từ câu chuyện này mà suy, hết thảy những kẻ cứng rắn đến nỗi gần như hung bạo, do quen thói cường bạo mà gần như là kẻ giặc, cũng đáng nên phản tỉnh!

          Phàm là người làm việc, tham khảo ư kiến của người khác th́ là trí, tự cho ḿnh là đúng th́ ngu. Tự cho ḿnh là đúng c̣n chẳng nên, huống hồ hung hăn, tàn nhẫn. Đức Phật nói hung hăn, tàn nhẫn giống như ngựa ác, đáng gọi là khó thuần phục. Con người hung hăn, tàn nhẫn, đối với hết thảy [mọi sự, mọi việc] đều chấp chặt ư kiến của chính ḿnh, tự cho là đúng, chẳng chịu phục kẻ khác. Bạn lành, tri thức ai đến thân cận? Lời lành, lư hay, lấy ai bảo ban? Đấy là cội nguồn tạo ác, chuốc hận, không chi hơn chuyện này.

          Đời Tống, Vương An Thạch hẹp ḥi, đố kỵ, giả vờ hiền thiện, giấu ác, kéo bè kết đảng để trừ khử những kẻ khác ư, cưỡng từ đoạt lư, tự cho ḿnh [là người có phẩm đức tốt đẹp] như Cao, Quỳ, Tắc, Khế[92]. [Thật ra, hắn ta là] nhân tài khiến cho chánh sự bại hoại, là kẻ mang tấm ḷng phá hoại học thuật! Trong tác phẩm Tam Kinh Tân Nghĩa và Tự Thuyết của hắn, những chỗ hủy báng, vu vạ, miệt thị thánh nhân, phá nát đại đạo, không chỉ là một điều! Kinh Xuân Thu phân định chánh đáng danh phận [vua tôi, cha con…], đặt định tiêu chuẩn khen chê (đánh giá các nhân vật lịch sử), khiến cho bọn loạn thần, tặc tử kinh sợ. Vương An Thạch khiến cho người học chẳng nghiên cứu kinh Xuân Thu. Sử Kư và Hán Thư chép những chuyện thành, bại, an nguy, sanh tử, tồn vong, b́nh trị, loạn lạc, chính là những tấm gương soi, là khuôn phép cho cơi đời. Vương An Thạch khiến cho người học chẳng đọc Sử Kư, Hán Thư. [Đối với chuyện] Dương Hùng[93] không kết tội Vương Măng soán đoạt, phê phán kịch liệt nhà Tần, ca tụng nhà Tân, Vương An Thạch bèn viết: “Phù hợp với cách nói ‘vô khả, vô bất khả’[94] của Khổng Tử”. Đối với chuyện Phùng Đạo thờ bốn họ, tám vua[95], Vương An Thạch bèn viết: “Khéo tránh nạn để bảo toàn cái thân”, khiến cho hàng công khanh đều vâng theo lời ấy, chẳng có khí tiết, trung nghĩa. Thoạt đầu, An Thạch đối xử ḥa hảo với các bậc hiền thần. Do tranh chấp về “tân pháp” chẳng hợp ư, hắn đều bài xích, lưu đày họ. Con trai của hắn là Bàng c̣n nói: “Chặt đầu Hàn Kỳ, Phú Bật ngoài chợ, tân pháp mới thực hành được”. Như vậy th́ có thể biết Vương An Thạch là hạng người như thế nào!

          Về sau, do người công kích [tân pháp] quá đông, hắn càng thêm ngạo mạn, hung hăn, phóng túng, hoang đường, bảo: “Điềm trời biến đổi chẳng đáng sợ, lời người khác [phê phán] chẳng đáng quan tâm, pháp tắc của tổ tiên chẳng đáng tuân thủ”. Tội nặng nề, điều ác ngập tràn. Con trai duy nhất của Vương An Thạch là Bàng lưng mọc nhọt độc, chết yểu. Hắn đau thương khôn cầm, nhiều lần lấy cớ bệnh tật xin từ chức. Về sau, Tống Thần Tông chán ghét, băi chức hắn ta. Trên là không được vua sủng ái, dưới là buồn bă v́ tuyệt tự, giữa là bị người đời ghét bỏ. Những bậc hiền năng bị hắn bài xích, xua đuổi trước kia, nối tiếp nhau nắm quyền, phế sạch tân pháp của hắn. Vương An Thạch hổ thẹn, sợ hăi mà chết.

 

          (Chánh văn) Thị phi bất đáng, hướng bối quai nghi.

          (正文)是非不當,向背乖宜。

          (Chánh văn: Chẳng phân biệt đúng sai, hành xử không thích đáng).

 

          Bậc quân tử khiến cho căn cội nhân nghĩa tăng trưởng phong phú, củng cố pḥng vệ lễ nghĩa, sẽ có công năng thẩm định tốt, xấu, phân định thích đáng đúng, sai. Đối với mỗi người, đúng sai có liên quan đến điều thiện, lẽ ác của chính người đó. Đối với một làng, đúng sai sẽ có liên quan đến điều lợi, lẽ hại của làng ấy. Đối với thiên hạ, đúng sai liên quan đến sự an nguy trong thiên hạ. Há có thể chẳng thận trọng, khinh suất [hành xử] chẳng thích đáng, coi sai là đúng, coi đúng là sai ư?

          Đời Tống, Doăn Sư Lỗ giữ ḿnh, dạy người, khẳng định đúng sai chánh xác, chẳng có ǵ phải giấu giếm, chẳng làm chuyện cẩu thả, chỉ chú trọng hết sức phù hợp đạo lư. Khi lâm chung, ông viết thư từ biệt Phạm Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm). Văn Chánh bươn bả tới nơi, ông đă tắm rửa, đội măo, thắt đai, ngồi ngay ngắn qua đời. Văn Chánh Công đau đớn, khóc lóc. Ông lại mở mắt, bảo: “Đă từ biệt ông rồi, sao ông lại tới để làm ǵ? Sống chết là lẽ thường hằng, sao Hy Văn[96] chẳng hiểu vậy?” Nói xong, lại chắp tay [từ biệt], qua đời. Thuở ấy, [đạo đức, học vấn] của ông Doăn được người đương thời học theo. Nếu chẳng thấu hiểu cùng tận tinh vi th́ trong lúc tử sanh, những chuyện dấy lên quấy nhiễu ta sẽ nhiều lắm! Nói “nhập đạo vận dụng cả tri lẫn hành, nhưng tri càng quan trọng hơn” chính là nói đến lẽ này.      

          Đời Tống, Thái Kinh làm Tể Tướng trong các niên hiệu Nguyên Hựu và cuối niên hiệu Nguyên Phù[97], đă cáo buộc tể tướng Tư Mă Quang, thị thần[98] như Tô Thức v.v… quan văn như Tŕnh Di v.v… quan vơ như Vương Hiến Khả v.v… [tổng cộng] một trăm hai mươi người là gian đảng, xin hoàng đế hạ chiếu, khắc tên họ lên đá ở cửa Đoan Lễ và các châu huyện [để công bố tội trạng]. Dân chúng đều bất b́nh. Không lâu sau, bia đá bị sấm sét đánh nát. Thái Kinh cũng do có chuyện [phạm tội mà bị] lưu đày rồi chết.      

          “Hướng” () là hăy nên hướng đến, thuận theo, có nghĩa là phải thuận theo, hướng đến những cái được gọi là “hảo nhân, hảo sự”. “Bối” () là hăy nên trái nghịch, chống lại những thứ được gọi là “tà nhân, tà sự”. Hướng theo tà, trái nghịch chánh th́ gọi là “quai nghi” (乖宜, chẳng hợp lẽ, chẳng thích đáng). Sơ sót nhất thời, suốt đời thân bại danh liệt, há có thể chẳng cẩn trọng ư?

          Đời Đường, Tống Thân Tích làm tể tướng dưới triều vua Đường Văn Tông. Do thấy Trịnh Chú quá chuyên quyền, [Thân Tích] muốn trừ bỏ, bèn cậy người bạn là Vương Phan đang làm quan Kinh Triệu Lệnh (quan trông coi kinh thành, giống như đô trưởng hiện thời) ngầm theo dơi xem Trịnh Chú có làm chuyện ǵ chẳng đúng pháp tắc hay không. Vương Phan do Trịnh Chú [cất nhắc] mà được phú quư, bèn cáo giác âm mưu ấy với hắn. Trịnh Chú sợ hăi, vu cáo ngược lại Tống Thân Tích có hành vi sai trái, [ép vua] đày [Thân Tích] đi làm Tư Mă ở Khai Châu (nay là Khai Huyện, tỉnh Tứ Xuyên). Thân Tích ôm niềm phẫn hận mà chết. Về sau, Tống phu nhân mộng thấy Tống Thân Tích dẫn tới một cái hố ở ngoài thành. Trong hố có mấy người tử tù. [Thân Tích] chỉ một gă bảo vợ: “Đấy là Vương Phan, ta đă thỉnh cầu Thượng Đế [trừng phạt hắn]”. Nhân đấy, phẫn nộ quát tháo. Phu nhân kinh hăi, tỉnh giấc, thầm ghi nhớ [chuyện ấy]. Không lâu sau, Lư Huấn và Trịnh Chú mưu giết hoạn quan, xin vua sai bọn [hoạn quan] đến doanh trại Kim Ngô để xem cam lộ[99]. [Trước đó, Lư Huấn và Trịnh Chú] đă sai mấy người như Vương Phan v.v… dẫn quân đến đó [phục sẵn] để giết bọn hoạn quan. Vương Phan run lẩy bẩy chẳng dám tiến. Rốt cuộc âm mưu thất bại, hắn bị chém ngang lưng ngoài chợ. Có mấy người đều cùng bị chém, chôn ở ngoài thành.

          Đời Tống, Trung Túc Lưu Chí[100] từng luận định mười điều tai hại của phép trợ dịch[101]. Vương An Thạch trách ông Lưu là kẻ hành xử không thích đáng, giáng ông xuống trông coi Tư Nông Tự[102]. Vua xuống chiếu, ra lệnh cho ông phân tích [nguyên nhân v́ sao phản đối]. Ông thưa: “Thần hướng theo lẽ trung trực, phản đối tà nịnh. Hướng theo đạo nghĩa, phản đối [chỉ chú trọng] lợi lộc. Hướng đến đức vua, phản đối kẻ quyền thần gian trá. Mắc tội như thế, cố nhiên là thần đáng phải chịu. Nhưng phép trợ dịch rốt cuộc gây hại cho thiên hạ, xin bệ hạ đừng quên lời thần [tâu tŕnh]”. Ai nấy đều lo sợ cho ông, riêng ông chẳng đoái hoài. Về sau, ông làm Tể Tướng. Ông Lỗ nói: “Hướng theo cái đáng nên hướng theo, đừng nên hướng theo lẽ riêng tư. Chống đối những cái đáng nên chống đối. Chống đối cũng phải v́ lẽ công chánh. Thoạt đầu, đừng tính toán họa phước [cho cá nhân], mà họa phước thuận theo. Chuyện này cũng nhằm cảnh tỉnh những kẻ không làm như ông Lưu mà cam tâm làm Vương Phan vậy”.

 

          (Chánh văn) Ngược hạ thủ công, siểm thượng hy chỉ.

          (正文)虐下取功,諂上希旨。

          (Chánh văn: Ngược đăi kẻ dưới để lập công, nịnh bợ kẻ trên để đón ư [cầu lợi]).

 

          Đuốc vào ban đêm sẽ có công dụng trừ diệt tối tăm. Thuyền gặp nước, ắt có công dụng chở vật. Đại để, nước chảy thành sông ng̣i, công năng sẽ tự thành tựu; v́ thế, chẳng cần phải chiếm lấy. Nếu cố ư tranh giành [ḥng lập công], ắt kẻ làm tướng sẽ dung túng cho quân lính cướp bóc, giết chóc, kẻ làm nha lại sẽ xằng bậy tăng thêm thuế khóa, lao dịch, kẻ làm quan trông coi h́nh pháp sẽ ghép thêm nhiều tội cho người khác, sẽ đều chẳng đoái hoài, thương tiếc, mặc sức mà làm! Nhưng những hành vi như thế ấy đều là lấy máu mỡ của dân chúng để đổi lấy công danh cho một người! Có được công trạng, chẳng qua là thăng quan, họa cũng xảy tới, há chỉ là sát thân? Người tuy cực ngu, chắc chắn chẳng đến nỗi ấy! Chẳng nh́n vào những tấm gương của cổ nhân đó ư? Đời Tống, Tào Bân hạ thành tŕ [của nhà Nam Đường] ở Giang Nam, chẳng tàn sát một ai. Đời Hán, Cấp Ảm giả chiếu chỉ để mở kho [thóc cứu đói], cứu sống mấy vạn người. Đời Hán, Vu Định Quốc làm Đ́nh Úy, dân chúng chẳng bị phán xử oan uổng. Trong thuở ấy, có vị nào chẳng phải là công thần bậc nhất?

          Thời Đường Huyền Tông, chi tiêu ngày càng xa xỉ. Vua lại không muốn lấy tiền từ công khố[103] để cung ứng. Viên Ngoại Lang của bộ Hộ[104] là Vương Hồng biết ư vua, bèn đục khoét dân chúng, [tăng thêm] những món tiền bạc ngoài hạn ngạch tuế cống[105] lên đến trăm ức vạn, đều chứa trong nội khố để cung ứng cho chi dụng [của hoàng đế]. Vua tưởng hắn có tài năng làm giàu cho đất nước, bèn phong cho hắn làm Thái Phỏng Sứ[106] ở kinh đô. Không lâu sau, lại phong cho hắn làm Hộ Bộ Thị Lang kiêm Kinh Triệu Doăn, nhưng trong ngoài đều kêu ca, oán thán. Chẳng bao lâu, do bị liên lụy bởi em trai là Vương Đạc [phạm tội], hắn được ban tội chết.

          Đời Tống, Vương Thiều đề nghị khai phá vùng Hy Hà[107], giết người quá nhiều, tích lũy công trạng làm tới chức Xu Mật Sứ. Hắn lại thường cố ư giết chết người già và trẻ thơ của dân tộc Khương đă đầu hàng để lấy thủ cấp cho bọn hương thân mạo nhận công trạng ḥng nhận lănh chức tước. Lúc về già, hắn hối hận, đem chuyện nhân quả hỏi các vị trưởng lăo. Mọi người đều nói: “Do phép vua mà giết người, giống như thuyền đi đè chết ốc, trai, tất nhiên là vô tâm”. Chỉ có Điêu Cảnh Thuần bảo: “Chỉ sợ là chẳng dối gạt tự tâm được. Nếu đă chẳng màng đến tự tâm, ắt sẽ chẳng hỏi!” Vương Thiều càng sợ, sau lưng sanh ra nhọt độc, luôn miệng kêu gào: “Vô số kẻ bị chặt đầu, chặt chân đ̣i mạng”. [Ghẻ độc] ăn sâu như cái hố lan thủng ngực, hắn bèn chết. Con trai trưởng của hắn hộc máu chết tươi, con trai út do phạm tội mà bị chặt đầu, gia môn tuyệt diệt.

          Người dân huyện Chân Dương là Trương Ngũ ăn trộm trâu, những người làng như Hồ Đạt v.v… bắt được, Trương Ngũ bị Hồ Đạt đánh chết. Những tên trộm khác vu cáo Hồ Đạt cướp bóc, thưa lên huyện. Ấp lệnh (quan huyện) là Ngô Mạo muốn tranh công, hạch tội nhóm Hồ Đạt gồm mười hai người phạm tội cường đạo giết người. Do bị tra khảo khốc liệt, họ phải chấp nhận lời vu cáo ấy. Trong số đó, có hai người là Châu Khuê và Trương Vận bị bệnh chết. Đă tŕnh lên phủ, giao việc ấy cho cơ quan tư pháp. Khi ấy, Trương Văn Quy trông coi về tư pháp tại Anh Châu, xét thấy ngôn ngữ và vẻ mặt của các tù nhân [dường như] chẳng phải là kẻ thật sự phạm tội. Khi đă tra hỏi rơ t́nh h́nh, lại bắt phe đảng trộm trâu ra đối chứng. Án đă được phán định. Hồ Đạt do đuổi trộm mà giết người, bị phạt đánh trượng vào lưng. Những người khác đều bị đánh vào mông. Châu Khuê và Trương Vận [được phán] vô tội. Mưu kế của Ngô Mạo chẳng thành, hắn hộc máu chết ngắc. Về sau, Trương Văn Quy bỗng bị bệnh nặng, [thần hồn] tới một dinh thự. Trưởng quan hỏi về chuyện của Ngô Mạo, bèn thưa tŕnh đúng sự thật. Trưởng quan bảo: “Ta đă biết tường tận chuyện này, nay cậy khanh tới đây để làm chứng ḥng kết thúc vụ án, cốt ư là thẩm tra sự thật vậy”. Văn Quy trông thấy Ngô Mạo ở đằng xa, đang bị gông cùm quỳ dưới đất. Châu Khuê và Trương Vận đứng bên cạnh. Nha lại lấy ra văn thư, chỉ cho Văn Quy thấy phần cuối có ba chữ “thêm một kỷ”. Ông tỉnh lại, bèn lành bệnh. Về sau, đến lúc bảy mươi tám tuổi, lại mộng thấy thần bảo: “Trước kia ông đă được tăng thọ mười hai năm, ông lại giảm tội một người bị chém thành tội xử giảo (treo cổ), nên được thọ thêm nửa kỷ (sáu năm) nữa”. Quả nhiên, [Trương Văn Quy] tám mươi ba tuổi mới mất.

          “Siểm” () là nịnh hót, “hy” () là tán trợ. Ư cấp trên chưa quyết, c̣n có thể văn hồi, chỉ v́ có kẻ đón ư xu nịnh mà [cấp trên] trở thành kiên quyết, chẳng thể lay chuyển. Nay không chỉ là bầy tôi đối với vua, mà c̣n là thuộc cấp đón ư bợ đỡ thủ trưởng, thân sĩ đón ư bợ đỡ quan phủ, nha dịch đón ư bợ đỡ trưởng quan, nô bộc, tỳ thiếp đón ư bợ đỡ gia chủ th́ đều là [“siểm thượng hy chỉ”]. Phàm những kẻ làm cấp trên, đối với mọi chuyện đều nên tuân theo lư, hăy cẩn trọng, chớ nên tham cầu lợi lộc riêng tư, khiến cho kẻ khác có kẽ hở để luồn lách. Kẻ làm cấp dưới, há có nên mong cầu công danh chẳng đúng lư, mong mỏi sẽ may mắn hưởng tiền tài bất nghĩa! Hăy nên biết a dua, xúi giục cấp trên, uốn ḿnh luồn cúi, chỉ tổ đánh mất bản tâm, kết oán nghiệp vô cùng!

          Trong niên hiệu Tuyên Đức nhà Minh, [Minh Tuyên Tông] đă từng sai Thái Giám Vương Tam Bảo[108] xuống các nước phiên thuộc ở vùng Tây Dương t́m kiếm các thứ báu vật lạ lùng. Trong niên hiệu Thiên Thuận[109], có kẻ tâu xin hoàng đế lại sai người [xuống các nước Tây Dương]. Triều đ́nh sai Binh Bộ tra cứu các tài liệu cũ [về những chuyến sứ tŕnh ấy]. Khi ấy, Hạng Trung đang trông coi Binh Bộ, sai thuộc hạ tra cứu. Lang Trung là Lưu Đại Hạ tới kho trước, giấu sạch tài liệu. Các nha lại không t́m được ǵ, kiến nghị ấy phải xếp xó. Hạng Trung trách cứ nha lại: “Tài liệu ở trong kho, sao lại bị mất?” Lưu Công mỉm cười nói: “Trước kia, khi [Trịnh Ḥa đem quân] xuống các nước Tây Dương, tốn phí gạo tiền mấy chục vạn, quân dân bị chết không đếm xiết. Dẫu t́m được của báu, vô ích cho đất nước. Đối với chuyện tồi tệ này, bậc đại thần hăy nên thống thiết can gián. Nếu tài liệu cũ hăy c̣n, cũng nên hủy đi để trừ căn cội [gây họa] ấy, há c̣n truy hỏi có hay không nữa chăng?” Ông Hạng tạ tội, bảo: “Ta suy nghĩ nông cạn, chẳng nghĩ đến lẽ này. Một lời này của ông, âm đức động trời. Địa vị này sẽ thuộc về ông vậy”. Về sau, quả nhiên là như thế.

          Đường Thái Tông từng chỉ một cái cây, nói: “Cây này rất đẹp”. Vũ Văn Sĩ Cập[110] bèn hùa theo, ca ngợi chẳng ngớt. Vua nghiêm mặt bảo: “Ngụy Trưng khuyên ta tránh xa kẻ nịnh nọt. Ta chẳng biết đứa nịnh thần là ai, nay mới biết là ngươi”. Sĩ Cập khấu đầu, thẹn thùng, tạ lỗi.

          Đời Hậu Đường, Quách Sùng Thao đón ư của Đường Trang Tông, khuyên vua lập Lưu Hậu[111], cứ ngỡ là được ḷng bà ta. Về sau, kẻ sàm báng khiến cho nhà vua giết chết Sùng Thao chính là Lưu Hậu. Ôi! Đón ư khuyên vua nên lập hậu, cứ ngỡ là sẽ củng cố địa vị, đâm ra mắc phải thảm họa, siểm nịnh lại có ích ǵ?

 

          (Chánh văn) Thọ ân bất cảm, niệm oán bất hưu.

          (正文)受恩不感,念怨不休。

          (Chánh văn: Chịu ân [người khác mà] chẳng cảm kích, luôn ôm ḷng oán hận chẳng dứt).

 

          Đối với ân huệ cho một bữa cơm, cổ nhân ắt báo đáp. Nếu không có sức báo đáp, tâm ắt luôn ngầm cảm kích. Luôn nghĩ tưởng tới, chẳng thể quên lăng. Trí Độ Luận có chép: “Chịu ân mà chẳng cảm kích, tệ hơn súc sanh”. Nói hay lắm thay! Có những ân to lớn, một là trời đất, hai là cha mẹ, ba là quốc vương, bốn là sư trưởng, nhưng có kẻ mơ màng suốt cả đời, chẳng báo đáp bốn ân, chỉ chăm chút [mong báo đáp] những ân huệ riêng tư, nhỏ nhặt. Đấy là bỏ cội theo nhánh, chẳng phải là người báo ân vậy!

          Đời Đường, Sử Vô Úy kết bạn với Trương Tùng Chân. Vô Úy nhà nghèo, Tùng Chân thường châu cấp cơm áo, giúp tiền cho Vô Úy buôn bán. Mấy năm sau, Vô Úy giàu có, Tùng Chân bị hỏa hoạn, gia sản mất sạch. Tùng Chân đến chỗ Vô Úy, Vô Úy lại phụ bạc t́nh nghĩa khi trước. Tùng Chân chỉ đành đối trước trời cao nức nở mà thôi. Bỗng mây đen kéo đến dầy đặc, sét đánh trúng Vô Úy, hắn biến thành trâu, có chữ son viết trên bụng rằng: “Sử Vô Úy phụ ḷng, trong ṿng mười ngày sẽ chết”. Tục ngữ có câu: “Súc sanh biết báo ân, như ngựa tḥng dây cương, như chó lăn cỏ, như rắn nhả ngọc, như chim sẻ ngậm ṿng[112]. Loài vật c̣n như thế, sao con người lại bội nghịch ân đức, riêng ḿnh chẳng sợ biến thành trâu ư?”

          Đời Tống, Trương Bật chẳng màng danh lợi, hiếu học, tinh thông kinh Dịch, giúp Lư Đại Lượng thoát nạn. Đến khi Đại Lượng sang cả, gặp Trương Bật trên đường, ôm Trương Bật khóc ̣a, muốn tặng hết gia tài cho. Trương Bật cự tuyệt chẳng nhận. Đại Lượng tâu với vua: “Thần được phụng sự bệ hạ là do sức của Trương Bật. Xin hăy giao sạch quan tước của thần cho ông ta”. Vua bèn phong cho Trương Bật làm Lang Trung, giữ chức Đô Đốc Đại Châu. Trương Bật chẳng nghĩ ḿnh có ân đức, Đại Lượng khăng khăng báo ân, cả hai đằng đều được vinh hiển.

          Đối với mối oan cừu của vua, cha, mối hận cốt nhục, bậc quân tử dùng đường lối chánh trực để báo oán. C̣n như những mối thù riêng, nỗi oán nhỏ, có thể thuận theo lư để giải trừ, có thể xét theo t́nh cảm mà dung thứ, th́ oán cừu sẽ liền tiêu tan. Nếu cứ nghĩ măi không ngơi, ắt sẽ oan oan tương báo, há có lúc nào xong?

          Đời Đường, Lư Đức Dụ làm tướng, đă kết oán rất nhiều. Về sau, ông ta bị biếm trích tới Châu Nhai (vùng Đông Bắc đảo Hải Nam), thấy trên vách một ngôi chùa treo mười mấy cái hồ lô. Hỏi ḍ vị Sư, Sư bảo: “Đó là tro cốt của những người đă làm mất ḷng Thái Úy (tức Lư Đức Dụ) đang nắm quyền, đều bị hắn ta biếm trích tới xứ này, chết ở nơi đây. Lăo tăng thương xót, hỏa thiêu, thu thập hài cốt, chờ con cháu đến lấy”. Đức Dụ nghe nói, sợ hăi bỏ đi, đau ḷng mà chết.

          Đời Minh, Kim Thành làm Chủ Sự của bộ H́nh. Lúc chưa gặp thời, từng bị Ma Trương vây hăm làm nhục. Về sau, Trương phạm tội, bị giải về kinh, trông thấy Kim Thành đằng xa, bèn mỗi bước chín lạy. Kim Thành cười đón, cứu tội cho. Ma Trương yết kiến, Kim Thành giữ lễ như lệ thường. Ma Trương cảm kích khóc ̣a, gả con gái cho con trai của Kim Thành.

          Vu Thiết Tiều từng nói:

          - Kẻ khác dùng thế lực chèn ép ta, ta dùng sự độ lượng bao dung họ, ắt quét sạch tầng tầng mây dầy, dập tắt lửa báo thù hừng hực. V́ thế, bậc quân tử chẳng nghĩ đến điều ác cũ.

Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

Quyển 2 hết

 

 



[1] Bá Cầm là con trưởng của Châu Công (Cơ Đán). Để thưởng công phù tá và nhiếp chánh của Châu Công, Châu Thành Vương (Cơ Tụng, cháu Châu Công) đă phong cho Bá Cầm làm vua chư hầu đất Lỗ.

[2] Sầm Văn Bổn (595-645) là một văn học gia lừng lẫy thời Tùy - Đường, là người huyện Cức Dương, thuộc quận Nam Dương. Ông có tên tự là Cảnh Nhân. Ông nổi danh khá sớm. Đă từng làm Trung Thư Thị Lang khi Tiêu Tiển lập chánh quyền chống lại nhà Tùy ở Giang Lăng. Khi Đường Thái Tông (Lư Thế Dân) thống nhất sơn hà, đă phong cho ông làm Bí Thư Lang, sai ông và Lệnh Hồ Đức Phân biên soạn bộ sử Châu Thư (lịch sử nhà Hậu Châu thời Ngũ Đại). Về sau, ông được bổ làm Trung Thư Lệnh, ngang quyền với những bầy tôi thân tín nhất của Đường Thái Tông như Trưởng Tôn Vô Kỵ, Cao Sĩ Khiêm, Đường Kiệm, Chử Toại Lương v.v… Đường Thái Tông rất coi trọng ông. Khi đánh Cao Ly, vua đă giao cho Thái Tử Lư Trị giám quốc, nhưng quyền hành xử lư thật sự lại do ông đảm nhiệm. Người đời sau ca ngợi ông có phẩm cách như thừa tướng Tiêu Hà của nhà Hán. Do tận tâm lao lực lo liệu chánh sự, ông ngă bệnh, qua đời khi vừa được năm mươi mốt tuổi.

Trung Thư Lệnh là người đứng đầu Trung Thư Tỉnh. Thoạt đầu, Trung Thư Tỉnh chỉ có tánh chất bảo quản văn kiện, hồ sơ của hoàng đế. Do thường gặp gỡ hoàng đế, dần dần trở thành cố vấn thân cận của hoàng đế. Thời Tùy - Đường, Trung Thư Lệnh có quyền hạn như Tể Tướng.

[3] Tham Chánh là gọi tắt của chức Tham Tri Chánh Sự, tức là phó tể tướng đời Tống.

[4] Dật () là đơn vị đo lượng thời cổ. Một Dật là hai mươi lượng. Có sách lại nói một Dật là hai mươi bốn lượng.

[5] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này có nghĩa là “con cháu hiền năng th́ tự chúng biết cách mưu sinh tốt đẹp, chẳng cần phải dựa dẫm tiền bạc của cha mẹ, tổ tiên. Con cháu ngu độn th́ tuy có tiền bạc dư dật trong tay, sẽ bị kẻ khác lừa mất, hay phá tán sạch”.

[6] Ông Hoàng Bách Lâm giảng “chuyện này” là chuyện cứu giúp người nghèo đói, “chuyện kia” là chuyện dùng của cải bợ đỡ, xu nịnh người có quyền thế, địa vị cao cả.

[7] Lư Sĩ Khiêm cực kỳ thông minh, tuy mới mười hai tuổi, nhưng có nhiều mưu lược, quyết sách khiến người khác kính phục. Do vậy, Quảng B́nh Vương Ngụy Toản đă mời Lư Sĩ Khiêm làm Tham Quân, tức là chức cố vấn tham mưu tuy Lư Sĩ Khiêm vẫn c̣n là một cậu bé.

[8] Thị Lang (侍郎): Thoạt đầu, theo quy chế đời Hán, đối với các quan lại cấp dưới của quan Thượng Thư, năm đầu gọi là Lang Trung. Sang năm thứ hai mới được gọi là Thượng Thư Lang. Tṛn ba năm mới gọi là Thị Lang. Từ đời Đường trở đi, các chức phó quan của Tam Tỉnh (Trung Thư, Môn Hạ và Thượng Thư) đều gọi là Thị Lang. Nói cách khác, Thị Lang tương đương với Thứ Trưởng.

[9] Đề Khống (提控) có nghĩa là chưởng quản, quản lư. Đời Tống dùng từ ngữ này để tôn xưng những viên nha lại làm việc dưới quyền quan Tri Châu hoặc Tri Phủ.

[10] Chủ Sự (主事) là chức quan thuộc về các ty trong sáu bộ, chưởng quản văn thư, ghi chép tài liệu, sổ sách, án liệu, quyền hạn thấp hơn Viên Ngoại Lang.

[11] Ngũ Thường là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. “Bách hạnh” là thành ngữ phiếm chỉ các thứ đức hạnh, phẩm đức. Trịnh Huyền chú giải kinh Thi đă viết: “Sĩ hữu bách hạnh, khả dĩ công quá tương trừ” (kẻ sĩ có trăm hạnh, có thể dùng công trừ lỗi).

[12] Nguyên văn “dĩ thủ gia ngạch” (以手加額). Theo ông Hoàng Bách Lâm, đây là một nghi lễ thời cổ, dùng hai tay bưng trán nhằm biểu thị sự kính trọng tột bậc.

[13] Lưu đại gián: Vị này tên là Lưu An Thế, danh nhân đời Bắc Tống. “Đại gián” (大諫) là danh xưng gọi tắt của chức quan Gián Nghị Đại Phu. Ông Lưu theo học với Tư Mă Quang (Tư Mă Ôn Công), được Tư Mă Quang tiến cử vào Bí Thư Tỉnh. Lưu An Thế tánh cương trực, từng đàn hặc những nhân vật quyền thế đương thời như Chương Đôn, Thái Xác, Phạm Thuần Nhân v.v… không kiêng nể. Ông nghị luận xác đáng, công chánh, nên cả triều đ́nh đều sợ ông, lén gọi ông là “điện thượng hổ” (cọp trên điện vua).

[14] Phú Bật từng làm Tể Tướng đời Tống Thần Tông. Ông rất mực thanh liêm. Khi vào chầu vua, các quan hoặc cưỡi ngựa hoặc ngồi xe ngựa sang trọng, ông chỉ mua nổi một con lừa gầy, chân nó lại bị thọt. V́ thế, ông phải đi chầu sớm, cưỡi lừa thong thả, tập tễnh qua cầu. Dân chúng hiếu kỳ, kéo nhau đi xem, khiến cho chợ búa vắng tanh.

[15] Cù Đường là một hẻm núi đầu nguồn Trường Giang. Cù Đường cùng với Vu Giáp và Tây Lăng Giáp, tạo thành ba hẻm núi nước chảy xiết lừng danh gọi chung là Trường Giang Tam Giáp. Cù Đường (c̣n có tên là Quỳ Môn) thuộc địa phận thành phố Trùng Khánh, kéo dài từ thành Bạch Đế ở huyện Phụng Tiết cho đến làng Đại Khê thuộc huyện Vu Sơn, dài tám cây số. Cù Đường nằm kẹp giữa hai dăy núi Xích Giáp và Bạch Diêm. Trong hẻm núi này, Trường Giang có chỗ chỉ hẹp chừng 100m, chỗ rộng nhất chỉ là 150m, nên nước chảy xiết rất mạnh.

[16] Hai kinh đô thời Đường là Trường An và Lạc Dương.

[17] Thiên Phủ (天府) ở đây là tên một ngôi sao trong cḥm sao Nam Đẩu. Đây là một vị tinh quân được tôn sùng trong Đạo giáo.

[18] Di Tề là gọi tắt của Bá Di và Thúc Tề. Hai vị này là anh em ruột, sống vào đời Thương, vốn là con của vua xứ Cô Trúc (Cô Trúc là một nước chư hầu của nhà Thương). Khi cha mất, anh nhường cho em, không muốn làm vua, em cũng kiên quyết nhường cho anh nối ngôi. Cuối cùng hai người cùng nhau bỏ trốn sang lănh thổ của nhà Châu. Khi Châu Vũ Vương (Cơ Phát) phạt Trụ, họ đă chặn đường khuyên can. Sau khi Vũ Vương diệt nhà Thương, anh em Bá Di và Thúc Tề kiên quyết không ăn gạo nhà Châu, lánh vào núi Thủ Dương hái rau dại ăn qua ngày. Về sau, có người nói: “Tấc đất, ngọn rau đều là của nhà Châu, hai ông ăn rau dại th́ vẫn là ăn rau nhà Châu”. Họ bèn nhịn đói mà chết.

[19] Nguyên Hiến là người nước Lỗ, sống vào thời Xuân Thu, tên tự là Tử Tư, là một vị đệ tử hữu danh của Khổng Tử. Ông nghèo hèn nhưng vui nơi đạo. Khi Khổng Tử làm quan Tư Khấu nước Lỗ, đă cử Tử Tư làm người trông coi thái ấp của Khổng Tử. Về sau, Tử Tư ẩn cư nơi chằm cỏ nước Vệ. Ông được coi là tấm gương sáng của những bậc an bần lạc đạo.

Phạm Bàng sống vào thời Đông Hán. Ông là người thanh cao, liêm khiết, được người dân trong vùng hết sức kính phục. Ông thường đàn hặc những quan lại bậc cao, quở trách những kẻ cậy quyền không hề e dè trước quyền lực của họ. Chán ngán trước cảnh triều chánh hủ bại, ông từ quan, nhưng vẫn bị lũ gian thần hăm hại, bị tù đày, chết trong ngục.

[20] Bộ kinh này có tên gọi đầy đủ là Phật Di Giáo Kinh, c̣n gọi là Phật Thùy Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh, do ngài Cưu Ma La Thập dịch. Kinh này ghi chép những lời dạy dỗ tối hậu trước khi đức Phật nhập Niết Bàn.

[21] Kinh Xuất Diệu chính là một bản dịch khác của kinh Pháp Cú. Kinh Pháp Cú hiện thời là bản được lưu hành phổ biến nhất dựa theo kinh Dhammapada chép bằng tiếng Pali. Hai bản khác là Gāndhārī DhammapadaUdāna-varga. Kinh này có bốn bản dịch tiếng Hán:

1. Pháp Cú Kinh do nhóm tỳ-kheo Duy Kỳ Nạn dịch vào đời Đông Ngô.

2. Pháp Cú Thí Dụ Kinh do hai vị Pháp Cự và Pháp Lập dịch vào thời Tây Tấn.

3. Xuất Diệu Kinh do ngài Trúc Phật Niệm dịch vào Diêu Tần.

4. Pháp Tập Yếu Tụng kinh do ngài Thiên Tức Tai dịch vào thời Bắc Tống.

 

[22] Vị này là một trong bát tiên của Đạo giáo, họ Chung Ly tên Quyền. Do ông ta sống vào đời Hán, nên thường gọi là Hán Chung Ly, chứ họ của ông không phải là Hán. Ông được tôn là Chánh Dương Tổ Sư của phái Toàn Chân, v́ theo truyền thuyết, ông đă điểm đạo cho Lữ Động Tân (Thuần Dương Tổ Sư). Lữ Động Tân truyền đạo cho Vương Triết (Vương Trùng Dương), Vương Trùng Dương sáng lập Toàn Chân Giáo.

[23] Đây là một bộ kinh của Đạo giáo, có tên gọi đầy đủ là Cao Thượng Ngọc Hoàng Thai Tức Kinh, không rơ tác giả, thuộc vào Động Chân Bộ trong Đạo Tạng Kinh. Nội dung dạy về cách hít thở (danh xưng chuyên dụng trong Đạo Giáo là “thổ nạp”) theo các ṿng châu thiên trong thân thể.

[24] Lư Nguyên Đoan sống vào đời Tống. Ông làm Thái Tử Thiếu Bảo thời Tống Thần Tông rồi Thái Tử Thái Bảo thời Tống Triết Tông, cho nên ở đây thiền sư Đạt Quán gọi ông là Thái Úy.

Thiền sư Đạt Quán thuộc tông Lâm Tế, có hiệu đầy đủ là Đạt Quán Đàm Dĩnh. Thoạt đầu, Sư xuất gia theo ngài Đại Dương Cảnh Huyền của tông Tào Động, nhưng đắc pháp nơi tông Lâm Tế.

[25] Theo ông Hoàng Bách Lâm, câu này có nghĩa là “do tham, sân, si chẳng đoạn, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần trước mắt, dấy khởi t́nh thức bèn phan duyên, nẩy sanh tham, sân, si càng lừng lẫy, cho nên bị trói buộc trong luân hồi chẳng thoát ra được, giống như bị hăm sâu trong tù ngục”.

[26] Theo Đạo giáo, thiên cung nơi Ngọc Hoàng Thượng Đế ngự được gọi là Ngọc Kinh. Nói đúng ra, Nguyên Thỉ Thiên Tôn ngự tại Ngọc Kinh Sơn, trong đó có Ngọc Hư Cung, thuộc tầng trời Đại La, tức là ở phía trên tầng trời Tam Thanh.

[27] Tử phủ (紫府, động phủ màu tía) là nơi tiên ở.

[28] Côn Đài (崑臺): Theo Đạo giáo, trên đỉnh núi Côn Luân có năm cái đài bằng vàng, mười hai cái lầu bằng ngọc. Những nơi ấy được gọi chung là Côn Đài.

[29] Trung Nguyên Nhị Phẩm chính là Địa Quan Đại Đế. Trong Đạo giáo, có ba vị đại đế được tôn xưng là Tam Nguyên Đại Đế (Tam Quan Đại Đế) gồm Thượng Nguyên Nhất Phẩm Thiên Quan Tứ Phước Đại Đế, Trung Nguyên Nhị Phẩm Địa Quan Xá Tội Đại Đế và Hạ Nguyên Tam Phẩm Thủy Quan Giải Ách Đại Đế.

[30] Cửu Hoàng (九皇) thường được biết đến dưới các danh xưng như Cửu Hoàng Đại Đế, Cửu Hoàng Gia, Cửu Vương Gia v.v… Thông thường, Cửu Hoàng được hiểu là Bắc Đẩu Thất Tinh Quân (Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân) cộng với Tả Phù và Hữu Bật. Một thuyết khác cho rằng, Cửu Hoàng là Bắc Đẩu Thất Tinh Quân cộng thêm Tử Vi Đại Đế và Thiên Hoàng Đại Đế. Có thuyết lại giải thích Cửu Hoàng chính là Tam Hoàng Ngũ Đế cộng thêm Bàn Cổ. Có thuyết lại giải thích Cửu Hoàng là Bàn Cổ, Phục Hy, Thần Nông, Toại Nhân, Hoàng Đế, Chuyên Húc, Cao Tân, Thái Hạo và Thiếu Hạo. Có thuyết nói Cửu Hoàng là Thanh Huyền Đại Đế, Trường Sanh Đại Đế, Tử Vi Đại Đế, Thiên Hoàng Đại Đế, Nam Đẩu Tinh Quân, Bắc Đẩu Tinh Quân, Đông Đẩu Tinh Quân, Tây Đẩu Tinh Quân, và Trung Đẩu Tinh Quân.

[31] Tứ duy (四維) là bốn phương bàng, tức Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, và Tây Bắc. Bát cực (八極) là bốn phương chánh cộng thêm bốn phương bàng.

[32] Tánh Mạng Khuê Chỉ có tên gọi đầy đủ là Tánh Mạng Song Tu Vạn Thần Khuê Chỉ, tương truyền do Doăn chân nhân (tức Doăn Hỷ) biên soạn, nội dung chủ yếu là hướng dẫn cách luyện đan. Sách chủ trương luyện đan bằng cách tu dưỡng tánh và mạng, đặc biệt là tu luyện tâm tánh theo quan điểm Đạo giáo.

[33] Vua Dị Kiến là quốc vương xứ Hương Chí ở Nam Ấn Độ. Vị này là cháu của tổ Bồ Đề Đạt Ma. Tôn giả Ba La Đề là đệ tử của tổ Bồ Đề Đạt Ma tại Ấn Độ. Do vua Dị Kiến hạ chiếu cấm dân chúng tin tưởng Phật pháp, tổ Đạt Ma đă sai tôn giả Ba La Đề đến Hương Chí khuyên can. Ngài Ba La Đề thành công xoay chuyển tà tâm của vua Dị Kiến.

[34] Tân dịch (津液) là từ ngữ phiếm chỉ cách chất lỏng, hay chất tiết từ các tạng phủ, không kể máu và những thứ bài tiết ra ngoài (như nước tiểu, đờm răi), chẳng hạn như dịch vị, dịch tiết từ mật, từ tụy tạng v.v…, kể cả các dịch thể nơi màng bọc các nội tạng và nước miếng đều gọi chung là Tân Dịch.

[35] Chúng tôi dịch phần này dựa theo cách diễn giải trong Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Diệu Tâm Sớ do pháp sư Thủ Bồi biên soạn.

[36] Ngũ muội (五昧) chính là ngũ vị (chua, đắng, ngọt, cay, mặn). Đạo gia chủ trương người tu hành đối với thức ăn chớ nên dùng ngũ vị quá nặng để giữ cho cái tâm thanh tịnh.

[37] Lục khí: Sáu thứ tinh hoa cần phải hô hấp theo Đạo gia, tức Xuân thực triêu hà (mùa Xuân bèn hấp thụ khí của ráng trời lúc sáng sớm), Thu thực luân âm (mùa Thu bèn hấp thụ khí có màu vàng đỏ sau khi mặt trời đă lặn), Đông ẩm hàng giới (mùa Đông hút khí lạnh vào nửa đêm), Hạ thực chánh dương (mùa Hạ hấp thụ khí của mặt trời chánh ngọ tại phương Nam), cùng với hai khí huyền hoàng trong trời đất thành lục khí.

[38] Thái âm bổ dương c̣n gọi là Pḥng Trung Thuật, là một cách luyện đan chủ trương thông qua nam nữ giao phối để cân bằng Âm Dương. Họ cho rằng qua hành vi giao phối, kết hợp với những cách hít thở và vận khí theo các ṿng châu thiên tương ứng, sẽ nung luyện tinh khí thành tinh hoa chuyển lên bồi bổ Nê Hoàn Cung trên năo bộ.

[39] Đây là thuật ngữ trong cách luyện đan của Đạo giáo, Long () là Dương, Hổ () là Âm. Long sanh từ quẻ Ly (), Ly thuộc Hỏa. Hổ sanh từ quẻ Khảm (), Khảm thuộc Thủy. V́ thế, nói là “hổ hướng thủy biên sanh” (hổ sanh từ bên phía nước). Nếu hiểu theo ngoại đan th́ Khảm và Ly lại c̣n là các loại dược vật. Khảm Nam là hống (, thủy ngân), c̣n Ly Nữ là ch́. Nếu xét theo nội đan th́ Khảm Nam là âm tinh trong thân thể, c̣n Ly Nữ là dương khí.

[40] Lục Khí (六氣) ở đây phải hiểu theo nghĩa khác với đoạn trước. Lục Khí ở đây là âm, dương, gió, mưa, tối, sáng.

[41] Cửu châu (九州) là danh xưng của trường phái Nội Đan trong Đạo giáo chỉ chín bộ vị trong thân thể, tức thận, bàng quang, gan, mật, tim, ruột non, phổi, ruột già, và lá lách. “Điên đảo” theo Đạo Gia nghĩa là khắc phục dục vọng, khiến cho các bộ phận tương ứng sẽ được thăng hoa. Chẳng hạn như thuận theo dục vọng nam nữ (Đạo giáo thường nói là “ngũ hành thuận hành”) sẽ khiến cho thận bị tổn thương, sẽ đọa xuống sâu hơn. Đó gọi là “pháp giới hỏa khanh” (hầm lửa pháp giới), c̣n nếu khắc phục, khống chế dục vọng, bồi bổ thận tạng th́ gọi là “đại địa thất bảo”. Đó gọi là “ngũ hành đảo hành” (đi ngược chiều ngũ hành).

[42] Tam Điền (三田) là năo bộ, tim và Khí Hải. Chân khí nếu tuần hoàn lần lượt theo ba chỗ ấy th́ gọi là “tam điền phản phúc”. Khí Hải có thể hiểu là huyệt Khí Hải, hoặc Đan Điền tùy theo từng trường phái luyện đan khác nhau. Huyệt Khí Hải (氣海) nằm ngay dưới rốn một tấc rưỡi (tấc ở đây là lóng tay của người đó). Trung Y tin huyệt này là cội nguồn của Khí trong thân người, có tác dụng như một cái valve điều khiển sự thăng giáng của chân khí trong cơ thể. Có sách giải thích Tam Điền thật ra là ba bộ vị Đan Điền trong cơ thể. Thượng Đan Điền chính là điểm chính giữa hai mày, Trung Đan Điền tức là chỗ lơm ngay giữa ngực (ta thường gọi là chấn thủy”, ngay trên hoành cách mô), Hạ Đan Điền th́ phức tạp hơn, v́ cả bốn huyệt Âm Giao, Khí Hải, Thạch Môn và Quan Nguyên đều có thể gọi là Đan Điền.

[43] Tam sơn là ba ḥn đảo trên biển nơi chư tiên ở, tức Phương Trượng, Bồng Lai và Doanh Châu.

[44] Động Thiên (洞天) là danh xưng chung chỉ những ngọn núi đẹp trên mặt đất, là chỗ cư ngụ của thần tiên. Họ tin rằng trên quả địa cầu này có mười chỗ lớn (thập đại động thiên) và ba mươi sáu tiểu động thiên, bảy mươi hai chỗ phước địa.

[45] Tăng Na là một trong các vị đệ tử của Nhị Tổ Huệ Khả trong Thiền Tông.

[46] Thôi sứ (推使): Theo quy chế đời Đường, dưới các chức vụ Tiết Độ Sứ và Quan Sát Sứ, sẽ có chức thôi quan (hoặc gọi là thôi sứ), chịu trách nhiệm thẩm vấn, phán án, chưởng quản nhà tù.

[47] Lạc Châu nay là thành phố Lạc Dương thuộc tỉnh Hà Nam. Tại mỗi châu có các quan đứng đầu, quan đứng đầu được gọi chung là châu mục. Cơ cấu quan lại ở mỗi địa phương bao gồm ba cơ quan: Đứng đầu Đài Viện là quan Thị Ngự Sử, đứng đầu Điện Viện là quan Thị Trung Ngự Sử, và đứng đầu Sát Viện là Giám Sát Ngự Sử. Sát Viện trông coi về tư pháp.

[48] Chuyển Vận Sứ là chức quan giám sát việc vận chuyển lương thực, hàng hóa. Kinh Tây là các địa phương ở phía Tây kinh đô Lạc Dương. Về sau, lại lập Chư Đạo Chuyển Vận Sứ để trông coi việc vận chuyển lương thực, hàng hóa ở các tỉnh. Đến đời Đường Đại Tông, lại lập ra chức Diêm Thiết Sứ để chuyên trông coi, đánh thuế việc chuyển vận muối và sắt.

[49] Nguyên văn là “lậu trạchtức “lậu trạch viên” (漏澤園). Thời cổ, những nghĩa địa do chính quyền lập ra để chôn cất những thi hài vô chủ hoặc thi thể của những kẻ quá nghèo khổ đến nỗi người nhà không có tiền bạc để chôn cất. Những nơi ấy đều được gọi chung “lậu trạch viên”.

[50] Bộ kinh này có tên là Xích Tùng Tử Trung Giới Kinh, thuộc phần Động Chân Bộ, đánh số 78 trong Đạo Tạng (Đại Tạng Kinh của Đạo giáo).

[51] Đây là một câu chuyện trích từ sách Nhan Thị Gia Huấn, phần Quy Tâm. Theo đó, Vương Khắc làm Quận Thủ (quan đứng đầu) Vĩnh Quận. Có lần đăi tiệc, mời khách đến nhà. Dê vừa được cởi trói, bèn chạy tới quỳ trước một vị khách, lại khấu đầu hai lần. Sau đó núp dưới vạt áo của vị khách ấy. Vị khách hoàn toàn chẳng nói ǵ, cũng chẳng xin Quận Thủ tha cho con dê. Một lát sau, con dê ấy bị lôi ra giết, nấu thành món canh đăi khách. Vị khách nếm món canh ấy, vừa nuốt xuống, bỗng cảm thấy toàn thân đau đớn không chịu nổi, thét lên be be như tiếng dê rồi ngă lăn ra chết tươi!

[52] Chuyện này được chép trong quyển sáu mươi tư của bộ Pháp Uyển Châu Lâm. Trâu Văn Lập làm nghề đồ tể, kiêm đầu bếp. Ông ta vốn tính giết con nai, con nai ấy quỳ gối khóc ṛng. Tuy nghĩ là điềm chẳng lành, Trâu Văn Lập vẫn giết chết nó, xẻ thịt rồi mới biết con nai ấy đang mang thai. Sau đấy, Trâu Văn Lập rụng sạch râu lẫn lông mày, toàn thân ghẻ lở trị măi không lành. Ông ta hổ thẹn, hối trách sâu xa, bèn cầu thiền sư Đạo Độ chứng minh để ông ta phát lộ sám hối. Lại c̣n bỏ hết tài sản để mua đất, dựng một ngôi chùa thờ Phật, tức chùa Tiểu Trang Nghiêm tại làng Định Âm ở Nam Kinh. Chuyện xảy ra vào năm Thiên Giám thứ sáu đời Lương.

[53] Ông này tên là Trầm Cấu, xuất thân từ chức quan Hàn Lâm nên gọi là Trầm Nội Hàn. Thông Phán (通判) là chức quan được đặt từ đời Hán, làm phó cho quan tri châu hoặc tri phủ. Tuy danh nghĩa là phụ tá cho tri phủ, tri châu, nhưng thật ra là để chia bớt quyền hành và giám sát quan phủ. V́ thế, c̣n gọi là Giám Châu (監州). Giang Ninh chính là tên gọi khác của Nam Kinh vào đời Tống.

[54] Đề H́nh (提刑) là một chức quan đời Tống, chưởng quản nhà giam và phụ trách vấn đề tư pháp. Lại c̣n kiêm nhiệm quản trị nông nghiệp trong một phủ.

[55] Nguyên văn là Hành Trù (行廚), tức là bếp tạm thời để nấu nướng trong khi du ngoạn.

[56] Nguyên văn là Quỹ () là một dụng cụ h́nh tṛn, có chân bằng tṛn, có hai quai, giống như h́nh thức lư hương đế tṛn hiện thời. Đôi khi Quỹ có quai h́nh mặt thú ở hai bên, thường làm bằng đồng xanh dầy nặng. Thông thường, Quỹ có thêm hai chân phụ ngoài đế tṛn chính giữa, có nắp đậy. “Quỹ” chuyên dùng để đựng đồ cúng. Quỹ thường phối hợp với Đỉnh là loại đồ đựng cao, có chân nhọn, không có đế tṛn. Theo cổ lễ, số lượng quỹ và đỉnh trong một buổi cúng tế bị hạn chế nghiêm ngặt. Chỉ có thiên tử mới được dùng chín đỉnh tám quỹ trong cỗ bàn cúng tế tổ tiên. Dân chúng chỉ được dùng tối đa là ba đỉnh hai quỹ! Về sau, Quỹ chỉ được hiểu thông dụng là tô chén để đựng đồ cúng mà thôi.

[57] Tam sanh (三牲) là lợn, cá, gà.

[58] Nguyên văn “công danh phát nhẫn” (功名發軔). Vào thời cổ, khi đỗ đạt, hoặc được bổ làm quan, hoặc được thăng chức th́ gọi là “công danh phát nhẫn”.

[59] Trương Dịch Chi là người đời Đường, rất đẹp trai, giỏi ca hát, tinh thông âm nhạc. Hắn cùng với em trai là Trương Xương Chi là nam sủng của Vũ Tắc Thiên. Do khéo chiều chuộng Vũ Hậu, hắn được phong làm Khống Hạc Giám (người cai quản viện chim hạc), tước Hoàn Quốc Công. Hắn từng hống hách cậy thế, lạm dụng xa giá của Vũ Hậu, bị Địch Nhân Kiệt chặn lại, đánh cho một trận nên thân. Trương Dịch Chi về khóc lóc, tố cáo với Vũ Hậu, xin bà trừng trị Địch Nhân Kiệt. Vũ Hậu nạt: “Ta c̣n phải nể lăo ấy mấy phần, sao ngươi lại dám chọc đến lăo?” Trương Giản Chi là một vị quan hiền lương, giữ chức Giám Sát Ngự Sử thời Vũ Tắc Thiên, được phong làm Đồng B́nh Chương Sự (tương đương chức Tể Tướng). Niên hiệu Thần Long nguyên niên, do Vũ Hậu bị bệnh, ông cùng với nhóm Hoàn Ngạn Phạm thừa cơ đảo chánh, tái lập nhà Đường, đưa Đường Trung Tông lên ngôi, đồng thời giết sạch những gă sủng thần của Vũ Hậu.

[60] Tật lê (蒺藜) là một loại cây dại, thường gọi là Bindii, Tackweed, Puncturevine, hay Devil’s eyelashes. Nó thường mọc ở chỗ hoang dă, cằn cỗi, mọc thành bụi, có hoa vàng, thân có nhiều lông. Khi quả đă chín, thường nở bung thành năm hạt có gai nhọn. Gai đủ cứng để đâm thủng vỏ xe đạp.

[61] Kỳ Hề Độ viết một tác phẩm gồm năm phần là Giác Xúc, Giác Tập, Giác Uế, Giác Nhân và Giác Hủy, nhằm luận định Bổn Giác vốn có, phiền năo vốn không.

[62] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này phải hiểu cùng ư nghĩa như trong kinh Phật hay nói: “Mười phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”.

[63] Nguyên văn “chúng sanh tức ngô sanh chi sanh”, ông Hoàng Bách Lâm nói, câu này phải hiểu là chúng sanh và chúng ta là một bộ phận trong một sanh mạng toàn thể. Cái sanh mạng toàn thể ấy chính là Pháp Thân. Do vậy, “ngô sanh” (sanh mạng của ta) chính là chân tâm của ta.

[64] Bát trân (八珍) là tám món ăn quư theo quan niệm xưa, gồm gan rồng, tủy phụng, thai báo, đuôi cá chép, thịt chim cú nướng, môi tinh tinh, bàn tay gấu và ve non nướng phó-mát.

[65] Khi xưa, đồ cúng thường đựng trong đỉnh () tức là một thứ đồ đồng có ba chân cao, giống như đỉnh đốt nhang hiện thời. Đỉnh có chân để có thể đốt lửa ở dưới, giữ cho nóng lâu. Thông thường, tiệc tùng hay cỗ bàn của hàng quyền quư (từ quan đại phu trở lên) có năm món thịt khác nhau (dê, lợn, thịt thái lát, cá, thịt thú nướng hoặc quay), nên phải dùng năm cái đỉnh để chứa.

[66] Tiên thiên chưa đọa: C̣n nằm trong thai, chưa được sanh ra.

[67] Ngô Việt là vùng Giang Tây, Chiết Giang hiện thời. Nơi này là lănh thổ của nước Ngô và Việt thời Chiến Quốc. Xứ Tề là vùng Sơn Đông. U Yên là vùng Hà Bắc, Liêu Ninh.

[68] Dương Bảo tánh t́nh rất từ bi. Lúc chín tuổi, theo cha mẹ lên chơi núi Hoa Âm, trông thấy một con sẻ vàng bị diều hâu đánh văng xuống đất, kiến bu đầy, Dương Bảo xua kiến, nhặt lên ôm về, nuôi dưỡng trên xà nhà. Chim lại bị rắn tấn công, Dương Bảo bèn nuôi trong rương, cho ăn hoa vàng. Đến khi chim mọc đủ lông cánh mới thả đi. Một đêm, ông mộng thấy một đứa bé trai mặc áo vàng đến bái tạ, cho biết nó là sứ giả của Tây Vương Mẫu, do đến núi Bồng Lai đi qua đây bị mắc nạn, nhờ ông từ bi cứu sống. Nay do phải đến Nam Hải, bèn đến từ biệt ông Dương, mỏ ngậm đôi ṿng ngọc trắng biếu tặng ông Dương, chúc tụng: “Con cháu ông sẽ trắng sạch như vậy, đạt đến địa vị Tam Công, đời này sang đời kia luôn như vậy”.

[69] Đây là một công án trong nhà Thiền. Đại chúng trong hội của ngài Nam Tuyền Phổ Nguyện tranh nhau con mèo. Ngài Nam Tuyền ra câu hỏi, nếu không ai trả lời được, sẽ chém mèo. Khi ngài Triệu Châu trở về, đại chúng thúc giục Ngài hăy trả lời câu hỏi của sư Nam Tuyền. Sư nhắc lại câu hỏi, Triệu Châu bèn cởi giầy đội lên đầu, lui ra.

[70] Theo ông Hoàng Bách Lâm, “ṿ” ở đây là tỷ dụ bụng của ta. Do sát sanh, ăn thịt ngỗng, bụng của ta như ṿ chứa thịt thối. Do không sát sanh, sanh mạng của ngỗng được bảo toàn, mà bụng ta cũng chẳng trở thành cái ṿ chứa đựng xác chết!

[71] Thuần Hy là niên hiệu của Tống Hiếu Tông từ năm 1174 đến năm 1189.

[72] Phong Đô là cơi địa phủ theo Đạo giáo. Trong Phong Đô có Phong Đô Đại Đế cai quản, Thập Điện Diêm Vương dưới quyền Ngài. Phong Đô Đại Đế phù tá Đông Nhạc Đế Quân. Đông Nhạc Đế Quân chưởng quản tất cả chuyện trong cơi âm, Phong Đô Đại Đế chuyên trách địa phủ. Dưới quyền Đông Nhạc, ngoài Thập Điện Diêm Vương và Ngũ Phương Quỷ Đế (Đông Phương Quỷ Đế gồm hai vị Thần Trà và Thái Uất Lũy, Nam Phương Đỗ Tử Nhân, Tây Phương Quỷ Đế gồm hai vị Triệu Văn Ḥa và Vương Chân Nhân, Bắc Phương Quỷ Đế gồm hai vị Trương Hành và Dương Vân, Trung Ương Quỷ Đế gồm Châu Khất và Kê Khang. Như vậy là tuy nói Ngũ Đế, nhưng có đến mười một vị quỷ đế), c̣n có bảy mươi hai cơi âm ty.

[73] Minh Tuyên Tông là miếu hiệu của Châu Chiêm Cơ, hoàng đế thứ năm nhà Minh. Ông là con trai trưởng của Minh Nhân Tông (Hồng Hy hoàng đế, tên thật là Châu Cao Xí). Thời gian cai trị của ông và cha được coi là thịnh trị của nhà Minh, nên sử thường gọi là Nhân Tuyên chi trị (thời thịnh trị dưới thời Nhân Tông và Tuyên Tông). Ông có niên hiệu là Tuyên Đức. Dưới thời ông, sau khi Liễu Thăng thất bại, bị chặt cụt đầu tại trận Mă Yên, bá tước Lương Minh đại bại tử vong, Lư Khánh cùng quẫn tự vẫn, Minh Tuyên Tông phải đau đớn hạ lệnh rút quân khỏi Giao Chỉ, công nhận nền độc lập của người Việt, chấm dứt thời kỳ đô hộ Bắc Thuộc lần thứ hai, cắn răng công nhận vương triều của Lê Thái Tổ (Lê Lợi). Trong B́nh Ngô Đại Cáo, Minh Tuyên Tông đă bị cụ Nguyễn Trăi gọi nhiếc móc là “giảo đồng” (thằng nhăi ranh): Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân, tham nhất thời chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ. Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm; nhưng mạng Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần. Cụ Ngô Tất Tố đă dịch: Giữ ư kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác, tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian. Bởi thế: Thằng nhăi ranh Tuyên Đức động binh không ngừng, đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy”. Thạnh là Mộc Thạnh, Thăng là Liễu Thăng.

[74] Hoàn Vinh quê ở Long Kháng thuộc Bái Quận. Ông là hậu duệ của Tề Hoàn Công (Khương Tiểu Bạch) thời Chiến Quốc. Tổ sáu đời của Hoàn Vinh do dời sang An Huy, đă lấy chữ Hoàn trong thụy hiệu của Tề Hoàn Công làm họ. Hoàn Vinh lúc bé sống tại Trường An, học giỏi. Do nhà nghèo, ông thường phải đi làm thuê kiếm tiền. Về sau, ông được Hán Quang Vũ Đế vời vào cung, giảng sách Thượng Thư. Vua nghe giảng, rất vừa ḷng, ban cho ông chức Nghị Lang để dạy thái tử Lưu Trang (Hán Minh Đế). Kế đó, Hoàn Vinh được phong làm quan Bác Sĩ, rồi thăng lên chức Thái Tử Thiếu Phó, sau cùng giữ chức Thái Thường. Thái Thường (太常) trông coi việc nghi lễ trong tông miếu, thoạt đầu được gọi là Phụng Thường, đến đời Hán Cảnh Đế bèn đổi thành Thái Thường. Quan Thái Thường trông coi việc tế lễ xă tắc, tông miếu của hoàng gia cũng như chủ tŕ các cuộc lễ hội, tang ma của hoàng tộc. Khi vua làm chủ tế, Thái Thường sẽ là người trợ thủ kiêm bồi tế của vua, cũng như quản trị các miếu thờ, vườn lăng của hoàng gia và các hành cung của vua. Những quận huyện nào có đặt miếu thờ, lăng mộ của hoàng triều sẽ trực thuộc quyền quản trị của Thái Thường. Do địa vị là người trông coi điển lễ, làm khuôn mẫu cho cả triều đ́nh trông vào, nên trong thời Hán, chức Thái Thường thường do thầy dạy học của vua đảm nhiệm. Người được phong chức Thái Thường c̣n được tôn trọng hơn Tể Tướng. Từ thời Hán Vũ Đế, dưới Thái Thường c̣n đặt ra các quan phụ tá gọi là Thái Nhạc, Thái Tể, Thái Sử, Thái Bộc, Thái Y v.v… Đến thời Đông Hán, để làm quan Thái Thường, phải là bậc danh nho, v́ Thái Thường là chánh chủ khảo cho các khoa thi tuyển chức quan Bác Sĩ. Đến đời Minh, Thanh, vai tṛ của Thái Thường giảm bớt tính quan trọng, được gọi là Thái Thường Tự Khanh, chỉ đứng đầu các quan Thái Nhạc, Thái Sử, Thái Bộc và Thái Y.

[75] Theo nghi lễ cổ, nhằm tỏ ḷng tôn kính bậc lăo thành th́ dùng gậy chống làm lễ vật.

[76] Liêm Lạc là một trong bốn phái Lư Học trong đời Tống. Phái này do Châu Đôn Khê và Tŕnh Di làm lănh tụ. Họ đều ở tại Lạc Dương nên gọi là Liêm Lạc Phái.

[77] Dịch lại (驛吏) là chức quan nhỏ trông coi dịch trạm. Dịch trạm là trạm nghỉ chân dành cho những viên chức truyền phát công văn hỏa tốc có chỗ nghỉ ngơi, ăn uống và thay ngựa.

[78] Văn Sơn chính là hiệu của Văn Thiên Tường (1236-1283). Ông tên thật là Văn Vân Tôn, tự là Thiên Tường, sau đổi thành Tống Thụy, hiệu là Văn Sơn. Ông là người xứ Lô Lăng, Cát Châu. Ông làm Hữu Thừa Tướng dưới thời Tống Cung Đế. Sau khi nhà Nam Tống bị quân Nguyên đánh bại, ông đă bị bắt về Bắc Kinh. Nhà Nguyên thấy ông có tài năng, dụ hàng, nhưng ông bất khuất thà chết không cam tâm đầu hàng. Ông để lại bài Chánh Khí Ca được coi là một bài thiên cổ hùng văn về ḷng tinh trung báo quốc.

[79] Lúc đó, vợ của Văn Thiên Tường cũng đă bị chết trong khi đang bị tù.

[80] Tri Cống Cử (知貢舉): Theo quy chế từ thời Đường - Tống, vị đại thần được vua sai chủ tŕ khoa thi tuyển chọn Tiến Sĩ th́ gọi là Tri Cống Cử.

[81] Minh Kinh (明經) ở đây là khoa thi được đặt ra từ thời Tùy Dượng Đế. Khoa thi Minh Kinh nhằm khảo hạch sự hiểu biết của sĩ tử về kinh điển Nho gia. Đă đỗ khoa thi Minh Kinh th́ mới được ghi danh dự tuyển khoa thi Tiến Sĩ. Trong khoa thi Tiến Sĩ, chủ yếu khảo hạch về thơ phú.

[82] Ông Hoàng Bách Lâm giảng: Do tâm thái ấy mà tạo thành trần lao, phải lưu chuyển luân hồi, nên nói là ‘kỳ tâm thậm lao’ (cái tâm ấy quá nhọc nhằn).

[83] Theo quy chế đời Minh - Thanh, không có chức vụ Tể Tướng hay Thừa Tướng, nhưng do nhu cầu hành chánh, vẫn phải có người đứng đầu bá quan. Do vậy, từ các quan đại học sĩ, nhà Minh lập ra Thủ Phụ (đứng đầu các phụ tá đại thần), thời Thanh th́ gọi là Điện Các Đại Học Sĩ (vừa là bí thư riêng của nhà vua, vừa là người đứng đầu các đại học sĩ). Giữa đời Thanh, ngoài Điện Các Đại Học Sĩ, c̣n lập ra chức Quân Cơ Đại Thần trông nom việc quân, thường là do Điện Các Đại Học Sĩ kiêm nhiệm. Ở đây nói Tôn Lăo Thật “đại bái” (được phong làm Tể Tướng) tức là được bổ nhiệm làm Điện Các Đại Học Sĩ.

[84] Mân ở đây là một nước thành lập vào thời Ngũ Đại. Vào năm Cảnh Phước thứ hai (893) đời Đường Chiêu Tông, ba anh em nhà họ Vương là Vương Triều, Vương Thẩm Khuê, Vương Thẩm Tri chiếm cứ Phước Châu, rồi chiếm toàn bộ vùng Phước Kiến. Nhà Đường quá suy yếu, phải phong cho Vương Triều làm Quan Sát Sứ rồi thăng lên làm Oai Vũ Quân Tiết Độ Sứ. Vương Triều chết vào năm Càn Ninh thứ tư (898), di mạng cho Vương Thẩm Tri kế vị. Vương Thẩm Tri được phong làm Lang Da Vương. Tới khi nhà Hậu Lương soán ngôi nhà Đường, đă phong cho Vương Thẩm Tri làm Mân Vương, đóng đô tại Trường Lạc (nay là thành phố Phước Châu, tỉnh Phước Kiến). Khi Vương Thẩm Tri chết, con là Vương Diên Hàn kế vị. Sau đó, Diên Hàn bị anh em là Vương Diên Bẩm và Vương Diên Quân sát hại. Sau đấy, Vương Diên Quân giết Vương Diên Bẩm, lên làm vua, xưng đế, đặt quốc hiệu là Đại Mân, tôn Vương Thẩm Tri làm Mân Thái Tổ. Nước này bị nhà Nam Đường của Lư Biện diệt quốc dưới thời Vương Diên Chánh (Thiên Đức Đế) vào năm 945.

[85] Ngô là một nước khác vào thời Ngũ Đại, do Dương Hành Mật sáng lập, c̣n được gọi là Dương Ngô, Nam Ngô, Hoằng Nông, hoặc Hoài Nam. Nhân lúc triều đ́nh thời Đường Chiêu Tông suy yếu, Dương Hành Mật đang làm Tiết Độ Sứ tại Hoài Nam bèn chiếm cứ Dương Châu, tự xưng là Ngô Vương, đóng đô tại Quảng Lăng (tức Dương Châu). Địa bàn nước Ngô lớn gấp ba nước Mân bao gồm các tỉnh Giang Tô, An Huy, Giang Tây và một phần Hồ Bắc. Nước Ngô bị Nam Đường diệt quốc vào năm 937.

[86] Động Nhung (洞戎) là tiếng để gọi chung các dân tộc thiểu số thuộc vùng Lănh Nam, tức là các dân tộc thiểu số tại Quảng Tây, Quư Châu, Hồ Nam.

[87] Ngũ Quỷ là năm gă gian thần thời đó, tức Đinh Vị, Lâm Đặc, Trần Bành Niên, Lưu Thừa Khuê và Vương Khâm Nhược.

[88] Có thể hiểu là họ bên nội là Tông, họ bên ngoại là Thân. Thân cũng bao gồm quan hệ họ hàng do thông gia, chẳng hạn họ hàng bên vợ, hoặc bên chồng được gọi là Thân.

[89] Yến B́nh Trọng tức là Yến Anh (c̣n gọi là Yến Tử, có khi đọc là Án Anh). Ông làm quan thượng đại phu nước Tề, là con trai của Yến Nhược. Khi cha ông mất, ông được vua Tề bổ nhiệm làm Thượng Đại Phu, đứng đầu bá quan. Tương truyền, ông thân h́nh thấp bé, loắt choắt, mặt mũi xấu xí, nhưng thông minh tuyệt đỉnh. Ông giữ chức Thượng Đại Phu suốt năm mươi hai năm, trải các đời vua Linh Công, Trang Công và Cảnh Công. Ông ứng đối mẫn tiệp, khéo trị nước, khiến cho triều đ́nh Tề lẫn các nước chư hầu nể phục. Do Tề và Sở cạnh tranh thế lực với nhau, nước Sở thường t́m cách làm nhục sứ Tề. Khi Yến Anh đi sứ nước Sở, họ mở cửa ngách mời ông vào, thay v́ mở đại môn. Ông thản nhiên bảo: “Nếu ta đi sứ sang nước của chó th́ mới chui lỗ chó mà vào, chứ ta đi sứ nước Sở, chẳng lẽ phải chui lỗ chó hay sao?” Quan tiếp đăi của nước Sở cứng họng, phải mở đại môn. Khi Sở Linh Vương tiếp sứ đoàn, đă hạ nhục Yến Anh bằng câu hỏi: “Bộ nước Tề hết người hiền năng rồi hay sao mà chọn ngươi đi sứ?” Yến Anh thản nhiên đáp: “Nước Tề có hơn bảy ngàn hộ, dân trong thành chỉ cần giơ tay áo lên che là đă khuất bóng mặt trời, thân họ chảy mồ hôi nhiều như mưa, làm sao không có người cho được!” Vua Sở châm chọc: “Vậy tại sao lại chọn ngươi?” Yến Anh cười: “Nước Tề phái người đi sứ nước nào cũng đều chọn người thích hợp với nước đó. Người hiền năng sẽ được phái đi sứ những nước có bậc quân chủ hiền năng, kẻ chẳng hiền năng sẽ bị sai đi sứ những nước có vua chẳng có phẩm đức! Tôi là người tệ hại nhất nước Tề, nên mới được sai đi sứ nước Sở”.

[90] Bao Chửng (包拯, 999-1062), tự là Hy Nhân, người xứ Hợp Ph́ thuộc Lư Châu (nay thành phố Hợp Ph́ tỉnh An Huy). Ông làm quan tới chức Xu Mật Phó Sứ, Triêu Tán Đại Phu, Cấp Sự Trung, Thượng Khinh Xa Đô Úy, tước Khai Quốc Hầu, được ăn lộc một ngàn tám trăm hộ. Ngoài việc từng làm Lễ Bộ Thượng Thư, ông được biết đến nhiều nhất dưới chức vụ Long Đồ Các Trực Học Sĩ. Do tài xử án công chánh, phán án nghiêm minh, phá án chánh xác, ông được ca tụng là Bao Thanh Thiên, và dân gian có câu nói: “Gặp Diêm La Bao Lăo, hoàng thân quốc thích hoạn quan bó tay”. Thậm chí dân gian c̣n truyền tụng: Sau khi chết, ông trở thành Ngũ Điện Diêm La Vương. Dă sử c̣n tương truyền ông là Văn Khúc Tinh Quân giáng thế, phù tá Tống Nhân Tông. Ông đỗ Tiến Sĩ trong niên hiệu Thiên Thánh thứ năm (1027) đời Tống Chân Tông, được phong làm Đại Lư B́nh Sự, bổ làm tri huyện Kiến Xương, nhưng do c̣n cha mẹ già, nên không đi nhậm chức. Mười một năm sau, khi cha mẹ đều đă qua đời và tang chế đă măn, ông mới ra làm tri huyện Thiên Trường, rồi tri châu Đoan Châu. Được vua gọi về kinh làm Giám Sát Ngự Sử Lư Hành, thăng lên làm Giám Sát Ngự Sử. Ông cứng cỏi, nghiêm khắc dâng sớ đàn hặc Giang Tây Chuyển Vận Sứ Vương Quỳ, ba lần đàn hặc ngoại thích Trương Nghiêu Tá. Sau đó, ông được cử kiêm nhiệm Tri Khai Phong Phủ, tức chức quan Kinh Triệu Doăn trông coi kinh thành trong khi đang giữ chức Long Đồ Các Trực Học Sĩ. Ông thẳng tay trừng trị những kẻ quyền quư cậy thế. Dẫu là hoàng thân quốc thích mà phạm pháp, cũng bị ông trừng trị tới nơi tới chốn.

[91] Long Đồ Các nằm ở chái tây của điện Hội Khánh, trực thuộc ngự thư pḥng của hoàng đế đời Tống, được lập ra từ thời Tống Chân Tông. Long Đồ Các Trực Học Sĩ là chức quan văn thuộc về Chánh Tam Phẩm, đặc trách biên soạn, kiểm thảo các chiếu chỉ và chánh lệnh của hoàng đế, quản lư danh sách, sổ bộ liên quan đến hoàng thân quốc thích, cũng như quản lư các trước tác, sách vở, tài liệu và các văn vật trân quư của hoàng đế.

[92] Cao là Cao Đào. Ông Cao là một vị đại thần nổi danh trông coi về h́nh pháp. Quỳ là tên viên quan nổi tiếng hiền năng, trông coi về lễ nhạc (do sử không chép đầy đủ tên họ, nên không biết ông này họ là ǵ). Tắc là Hậu Tắc, người trông coi nông nghiệp. Khế là tên quan Tư Đồ, trông coi về giáo dục. Những vị này đều là bầy tôi hiền năng của vua Thuấn.

[93] Dương Hùng là người Tứ Xuyên, sống vào thời Tây Hán, hiếu học, có tài ăn nói, học rộng, có thể coi là một bậc học giả thời ấy. Ông ta viết rất nhiều sách và có nhiều bộ nổi tiếng như Thái Huyền, Phương Ngôn, Pháp Ngôn v.v… Do v́ tham đắm địa vị, ông ta không phê phán Vương Măng soán đoạt nhà Hán lập ra nhà Tân là phản nghịch, lại c̣n dùng lời lẽ biện minh cho hành động ấy. Quá đáng hơn nữa là Dương Hùng c̣n phỏng theo tác phẩm Phong Thiện Văn của Tư Mă Tương Như để phê phán Tần Thủy Hoàng, ca tụng công đức của Vương Măng.

[94] “Vô khả, vô bất khả”: Trong thiên Vi Tử sách Luận Ngữ có đoạn: “Dật dân, Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng, Di Dật, Châu Trương, Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên. Tử viết: - Bất giáng kỳ chí, bất nhục kỳ thân, Bá Di, Thúc Tề dư? Vị Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên, giáng chí nhục thân hỹ, ngôn trung luân, hành trung ngu, kỳ tư nhi dĩ hỹ. Vị Ngu Trọng, Di Dật, ẩn cư phóng ngôn, thân trung thanh, phế trung quyền. Ngă tắc dị ư thị, vô khả, vô bất khả” (Đối với những bậc ẩn sĩ như Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng, Di Dật, Châu Trương, Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên, Khổng Tử nói: “Chẳng hạ thấp chí hướng, chẳng khuất nhục thân phận của chính ḿnh, phải là Bá Di, Thúc Tề đấy ư? Nói đến Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên th́ bọn họ đă hạ thấp chí hướng, khuất nhục thân phận, chỉ là ăn nói phù hợp luân lư, hành xử phù hợp lư trí, họ chỉ làm được như vậy mà thôi. Nói đến Ngu Trọng, Di Dật th́ họ ẩn cư, ăn nói tự do, giữ thân trong sạch, từ chối quan chức, đấy cũng là hợp lư trí. Ta chẳng giống họ, không ǵ là có thể, không ǵ là chẳng thể).

[95] Phùng Đạo sống vào thời Ngũ Đại, khéo luồn lách nên làm tể tướng hoặc các chức quan cao cấp dù triều đại thay đổi. Hễ vương triều này bị xóa sổ, hắn khéo léo luồn lách, bợ đỡ để rồi lại vinh hiển, phú quư trong triều đại mới. Ở đây, Cảm Ứng Thiên ghi là “bốn họ, tám vua”, thật ra Phùng Đạo làm quan cao chức cả suốt năm triều đại, tám gia tộc, mười ba đời vua! Dân gian châm biếm gọi ông ta là Trường Lạc Lăo Nhân, hoặc Bất Đảo Ông (con lật đật). Chẳng hạn, ông ta làm tể tướng cho Lư Tự Nguyên (nhà Hậu Đường, tức Đường Minh Tông). Khi Đường Minh Tông mất, con nuôi của tân hoàng đế Lư Tùng Hậu là Lư Tùng Kha làm phản, đoạt ngôi của Lư Tùng Hậu, khiến Lư Tùng Hậu phải chạy sang nương nhờ Thạch Kính Đường. Thay v́ xuống chiếu cần vương, Phùng Đạo nhanh chóng dẫn đầu các quan ra tiếp đón, nịnh bợ tân hoàng đế. Tuy không được trọng dụng, hắn vẫn giữ các chức Tiết Độ Sứ rồi Tư Không. Khi Thạch Kính Đường diệt Lư Tùng Kha, lập ra nhà Hậu Tấn, Phùng Đạo lại nhanh chóng bợ đỡ tân vương, được phong làm Tể Tướng. Khi Da Luật Đức Quang xua quân xuống miền Nam diệt nhà Tấn, Phùng Đạo lại nhanh chóng t́m cách luồn lách, trở thành Thái Sư của nhà Liêu…

[96] Hy Văn là tên tự của Phạm Trọng Yêm. Theo cổ lễ, đối với mỗi người, ngoại trừ cha mẹ và thầy dạy, hoặc khi c̣n bé th́ mới gọi tên thật. Sau khi một thanh niên đă làm lễ gia quan, đặt tên tự, ngay cả vua cũng không gọi thẳng tên thật khi nói chuyện với người đó, mà thường gọi bằng tên tự.

[97] Nguyên Hựu (元祐) là niên hiệu của Tống Triết Tông từ năm 1086 đến năm 1094. Nguyên Phù (元符) là niên hiệu của Tống Triết Tông từ năm 1098 đến năm 1100.

[98] Thị thần (侍臣) là các quan bầy tôi thân cận, thường là cố vấn thân cận.

[99] Thời ấy, bọn hoạn quan có quyền lực rất lớn, lũng đoạn triều chánh, lấn hiếp các quan văn vơ. Đường Văn Tông (Lư Ngang) không cam ḷng bị hoạn quan khống chế, đă âm mưu với Lư Huấn và Trịnh Chú tính giết sạch những đứa thủ lănh của bọn hoạn quan. Vào ngày Hai Mươi Mốt tháng Mười Một năm Thái Ḥa thứ chín, Đường Văn Tông viện cớ đi xem trời hiện ra cam lộ ở trên cây trong hoàng cung, hạ lệnh các triều thần và hoạn quan phải cùng đi xem, sai bọn thủ lănh hoạn quan sang doanh trại Kim Ngô (quân cảnh vệ hoàng thành) sắp đặt trị an để thừa cơ dùng phục binh giết chết chúng. Trước đó, Trịnh Chú đă sai Vương Phan sắp sẵn phục binh tại doanh trại Kim Ngô, ước hẹn khi bọn thái giám vào doanh, sẽ ùa ra giết sạch không tha. Do Vương Phan nhút nhát, chần chừ, khiến cho thủ lănh bọn hoạn quan là Cừu Sĩ Lương phát giác. Họ Cừu bèn điều quân đánh nhau với quân cấm vệ, đôi bên giao chiến kịch liệt. Cuối cùng, Lư Huấn, Vương Nhai, Thư Nguyên Dư, Vương Phan đều thảm bại. Đường Văn Đế bị bọn hoạn quan biến thành bù nh́n, từng rơi lệ than thở với Trực Học Sĩ Châu Tŕ: “Trẫm bị lũ gia nô khống chế, cảnh ngộ c̣n tệ hơn Châu Noăn Vương, Hán Hiến Đế”. Do vậy, vua uất ức thành bệnh, qua đời khi mới ba mươi hai tuổi.

[100] Vị này tên thật là Lưu Chí, thụy hiệu là Trung Túc. Theo cách nói tôn trọng thời cổ, thường xen thụy hiệu vào giữa tên và họ, nên Cảm Ứng Thiên mới chép là Lưu Trung Túc Chí.

[101] Trợ Dịch là một trong các biện pháp trong chánh sách tân pháp của Vương An Thạch, cho phép những kẻ sẵn tiền có thể bỏ tiền thuê người đi lao dịch thay. Lao dịch là h́nh thức trưng công lao động tập thể trong những công tŕnh công ích lớn như đắp đê, sửa đường, sửa cầu v.v…

[102] Tư Nông Tự là cơ quan trông coi việc nông nghiệp, gần như tương đương với bộ Nông Nghiệp hiện thời.

[103] Nguyên văn “tả hữu tạng” (左右藏). Đây chính là hai cái kho, thuộc loại quốc khố. Kho ở bên trái (tả tạng) chứa tiền bạc, vải vóc, lụa là, tiền thuế. Kho bên phải (hữu tạng) chứa các thứ vàng ngọc, châu báu, đồng sắt, ngà voi, xương thú, tranh vẽ.

[104] Hộ Bộ (戶部) là một trong sáu bộ. Bộ này có trách nhiệm quản trị đất đai, hộ tịch, thuế khóa, tài chánh. Viên Ngoại Lang (員外郎) có nghĩa gốc là quan viên nằm ngoài chức chánh và phó của một cơ quan hành chánh. Đây là chức quan pḥ tá cho Thượng Thư và Thị Lang của mỗi bộ. Về sau, những nhà giàu có cũng được gọi là Viên Ngoại.

[105] Tuế cống (歲貢): Những khoản lễ vật bắt buộc phải dâng lên vua hằng năm từ các chư hầu và các thuộc quốc. Thuộc quốc không nhất thiết là các nước bị Trung Hoa xâm chiếm, mà là các nước nhỏ độc lập xung quanh phải cống nạp mỗi năm bao nhiêu đó để Trung Hoa không viện cớ xâm lăng. Việt Nam tuy độc lập từ thời Ngô Quyền, nhưng v́ để tránh bị Trung Hoa phát động chiến tranh xâm lược liên miên, đă phải tuế cống mỗi năm rất tốt kém. Họ đ̣i vàng, bạc, những sản phẩm quư hiếm như ngà voi, sừng tê giác, trầm hương, sâm, quế, nhung, cao hổ cốt, trái vải, lụa là, đồ sứ, cà cuống… Nói chung là những thứ quư hiếm, ngon lạ đều bị vua quan Trung Hoa hạch sách, đ̣i hỏi. Thậm chí dưới thời nhà Lê, vào những năm đầu, do quân Lê Lợi giết chết tướng nhà Minh, các vua Lê phải đúc tượng vàng to bằng người thật để triều cống.

[106] Thái Phỏng Sứ (采訪使) gần như tương đương với tỉnh trưởng hiện thời. Đời Đường, chia toàn bộ lănh thổ thành mười lăm đạo. Mỗi đạo tương đương với một tỉnh hiện thời, mỗi đạo đặt quan đứng đầu gọi là Thái Phỏng Xử Trí Sứ, thường gọi tắt là Thái Phỏng Sứ.

[107] Hy Hà nay là huyện Lâm Thao tỉnh Cam Túc.

[108] Thái Giám Vương Tam Bảo tức là Trịnh Ḥa. Ông này vốn tên là Mă Văn Bân, tự là Ḥa, vốn thuộc sắc dân thiểu số Sắc Mục (Semu) tại Côn Dương, tỉnh Vân Nam. Mă ở đây là họ theo lối Hán Hóa chữ Mohamed của những người theo đạo Hồi tại Trung Hoa. Do Trịnh Ḥa có tên thuở bé là Tam Bảo, nên thường được gọi là Tam Bảo Thái Giám. Do làm thái giám theo hầu Yên Vương Châu Đệ (Minh Thành Tổ) có công, Mă Văn Ḥa được thăng làm Nội Quan Thái Giám, được ban họ là Trịnh. Năm Vĩnh Lạc thứ ba, Trịnh Ḥa phụng mạng Minh Thành Tổ, cùng với bọn Vương Cảnh Hoằng đi sứ các nước Tây Dương, đem theo đội thuyền hơn hai trăm chiếc, biểu dương thanh thế, lực lượng thủy quân của đoàn thuyền ấy có tới hơn hai vạn người. Chuyến đi ấy nhằm dọa dẫm các nước trong vùng, thực hiện chánh sách “viễn giao cận công” (xa th́ ngoại giao, gần th́ tấn công) của nhà Minh, đồng thời sưu tập những thứ hiếm lạ đem về cho nhà vua. Chuyến hải tŕnh này kéo dài hai mươi tám năm, vừa củng cố thanh thế của Trung Hoa tại các nước hải ngoại, vừa nhằm tạo điều kiện cho người Hoa chiếm lănh những vùng buôn bán béo bở tại các nước có thế lực quân sự yếu hơn Trung Hoa. Do vậy, người Hoa thờ ông ta gọi là Bổn Đầu Công, thường gọi thông tục là ông Bổn. Tây Dương là chữ người thời Minh gọi các nước hoặc lănh thổ ở quanh vùng biển Nam Hải và Ấn Độ Dương như Việt Nam, Mă Lai, Thái Lan, Sumatra, Java, Sri Lanka, bán đảo Ả Rập v.v… Trước sau, Trịnh Ḥa đă “hạ Tây Dương” bảy lần, có lần đi xa tới tận eo biển Mozambique của châu Phi. Trong năm 1431 của niên hiệu Tuyên Đức thời Minh Tuyên Tông, Trịnh Ḥa đă dẫn hạm đội tuần hành Tây Dương lần cuối cùng trước khi chết vào hai năm sau đó.

[109] Thiên Thuận là niên hiệu của Minh Anh Tông từ năm 1457-1464.

[110] Vũ Văn Sĩ Cập (572-642), tự là Nhân Nhân, người xứ Trường An, Ung Châu, giữ chức Trung Thư Lệnh (Tể Tướng) dưới thời Đường Cao Tổ và Đường Thái Tông. Ông ta là con trai của đại thần Vũ Văn Thuật nhà Tùy. Sĩ Cập lấy công chúa Nam Dương là con gái của Tùy Dượng Đế. Ông ta có quan hệ rất tốt với Lư Uyên (Đường Cao Tổ). Khi anh trai của ông ta là Vũ Văn Hóa Cập và Vũ Văn Trí Cập làm chánh biến, giết Tùy Dượng Đế, đưa cháu của Dượng Đế là Dương Hạ lên làm vua, đă cử Vũ Văn Sĩ Cập làm Nội Sử Lệnh. Khi Lư Uyên phản Tùy, tự xưng là Đường Vương, đă phái người lén thông đồng với Vũ Văn Sĩ Cập. Sau khi Lư Uyên thống nhất Trung Hoa, đă phong cho Vũ Văn Sĩ Cập làm Trung Thư Lệnh. Ông ta khôn khéo, quyền biến, sống rất xa hoa, khéo lấy ḷng cấp trên.

[111] Lưu Thị là vợ lẽ của Đường Trang Tông (Lư Tồn Húc), vợ cả là Hàn phu nhân. Vua yêu thích Lưu Thị, muốn lập Lưu Thị thành hoàng hậu, nhưng c̣n e ngại triều thần dị nghị. Quách Sùng Thao đón ư nhà vua, bèn dâng biểu kiến nghị.

[112] Đây là những câu chuyện báo ân của loài vật. Phù Kiên là vua nhà Tiền Tần, bị Mộ Dung Xung (vua nước Tây Yên) tấn công, thua trận, cỡi ngựa tẩu thoát. Phù Kiên vô ư rơi khỏi ḿnh ngựa, té xuống khe suối Lạc Giản. Truy binh đuổi gần tới, Phù Kiên không cách nào thoát ra được. Con ngựa bèn ḍ dẫm, đến gần khe suối, ngậm dây cương đưa cho Phù Kiên. Phù Kiên chẳng nắm được, nó bèn khụy gối để Phù Kiên nắm lấy, kéo Phù Kiên lên. Nhờ đó, Phù Kiên tẩu thoát đến Lô Giang.

Theo quyển chín bộ Sưu Thần Kư của Đào Tiềm, Dương Sinh ở Quảng Lăng có nuôi một con chó, rất yêu mến nó. Đi đâu cũng dẫn theo. Có một hôm, Dương Sinh say rượu, đi đến một cái đầm cỏ rậm rạp, ngă xuống đám cỏ, ngủ say sưa. Nhằm tháng mùa Đông, có người đốt đồng, lửa cháy gần tới. Con chó sủa ầm ĩ đánh thức chủ, Dương Sinh vẫn ngủ mê mệt. Gần đó có một hố nước, con chó bèn nhảy xuống, nhúng ướt toàn thân, lăn ḿnh quanh Dương Sinh làm ướt cỏ. Nó chạy đi chạy lại như thế nhiều lần, thấm ướt toàn bộ cỏ quanh chỗ Dương Sinh nằm. Nhờ đó, Dương Sinh không bị thiêu chết.

Theo quyển hai mươi trong bộ Sưu Thần Kư, tại Trá Thủy thuộc Tùy Huyện, có một chỗ gọi là Đoạn Xà Khâu (g̣ chặt rắn). Tùy Hầu trông thấy một con rắn to bị thương, giữa ḿnh nó có một vết chém sâu, bèn bôi thuốc cho nó, rắn đủ sức ḅ đi. V́ thế, nơi ấy được gọi là Đoạn Xà Khâu. Một năm sau, con rắn ấy ngậm một viên minh châu to cỡ một tấc, trắng ngần, đêm tối bèn tỏa sáng, đến biếu tặng. Viên ngọc ấy được gọi là Tùy Hầu Châu, Linh Xà Châu, hoặc Minh Nguyệt Châu.

Dương Bảo nhờ cứu chim sẻ bị diều hâu đánh văng xuống đất, kiến bu đầy, bèn phủi kiến, đem về chữa thương, nuôi nấng cho đến khi mạnh khỏe bèn thả đi. Một đêm, thấy có đứa bé mặc áo vàng, đến cảm tạ, nói nó là sứ giả của Tây Vương Mẫu, chính là con chim sẻ được Dương Bảo cứu khi trước, biếu Dương Bảo mấy chiếc ṿng ngọc, chúc ông con cháu khiết bạch, làm tới Tam Công. Quả nhiên con cháu ông ba đời liên tiếp làm quan đến địa vị Tam Công.