Cảm Ứng Thiên Vựng
Biên
感應篇彙編
Quyển 3
Phần 1
(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục
Cơ Kim Hội năm 2000)
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
(Chánh văn) Khinh miệt
thiên dân, nhiễu loạn quốc chánh.
(正文)輕蔑天民。擾亂國政。
(Chánh
văn: Khinh miệt dân chúng, nhiễu
loạn nền chánh trị trong nước).
Mạng lệnh
của Thượng Đế lấy ḷng dân làm chủ. Phàm
những người dân đen đều là con đỏ của
Thượng Đế. V́ thế gọi là “thiên dân” (天民, dân của trời). Trời yêu dân tột bậc; lập
ra vua, lập ra Tể Tướng, lập ra các quan chức,
không ǵ chẳng v́ dân chúng! Sanh ra bậc hào kiệt, sanh ra thánh
hiền, thành tiên, thành Phật, thành thần minh, cũng
không ǵ chẳng v́ dân vậy! Xếp đặt ngũ hành,
tăng trưởng muôn vật, đặt định núi,
sông, ấn định kiếp vận, mở mang [thời
thế] b́nh trị hay loạn lạc, xét đoán báo ứng,
cũng không ǵ chẳng v́ dân vậy! Do đó, sách Châu Lễ
chép: “Hễ có người dâng
lên vua [bản ghi chép về] số lượng
dân chúng, vua ắt lạy rồi tiếp nhận”[1]. Trọng Ni (Khổng Tử) [đang ngồi trên xe]
bèn khom ḿnh phủ phục xuống tấm ván chắn ngang
trước xe [để tỏ ḷng kính trọng] người
cầm bản đồ lănh thổ. Như vậy th́ há có
nên khinh miệt dân chúng hay chăng?
Vua Nghiêu nói: - Ta
quan tâm thiên hạ, dốc ḷng lo nghĩ cho dân nghèo, đau
xót v́ nỗi hiểm nguy của muôn họ, lo lắng v́ những
điều bất thuận lợi của mọi người,
thi hành điều nhân mà đạo nghĩa được
thành lập, truyền rộng đạo đức, cảm
hóa [dân chúng] rộng răi. V́ thế, chẳng tưởng
thưởng mà dân siêng năng [vâng giữ đạo
nghĩa, đức hạnh]; chẳng trừng phạt mà
dân yên ổn.
Đường
Thái Tông nói: - Dân là cội gốc của đất nước.
Đức là cội rễ của thân[2]. Đức
dầy th́ mọi người sẽ mến mộ. Dân yên, ắt
nước vững. V́ thế, kẻ đứng đầu
nhân dân mà có đạo đức nhân hậu, dân sẽ
nương về như cha mẹ, lẽ tự nhiên là sẽ có lănh thổ,
có tài sản vậy.
Xét từ những
lời này, [ta thấy] các bậc thánh vương xưa nay c̣n chẳng
nỡ ḷng khinh miệt dân chúng như thế ấy, huống
hồ những kẻ thay vua cai trị dân mà chẳng thấu
hiểu ư này ư?
Đời Tống,
Trịnh Thanh Thần tánh hà khắc, làm huyện lệnh ở
Ḥe Lư, ngược đăi dân chúng. Đến khi hắn rời
nhiệm sở, dân chúng chặn
đường thóa mạ. Thanh Thần dâng sớ về
triều, hạch tội dân chúng thuộc vùng hắn cai quản
đă dám khinh lờn, nhục mạ trưởng quan. Tống
Chân Tông nói: “Cai trị cốt yếu là được ḷng người.
Ḷng dân đă như thế, có thể biết ngươi
cai trị theo kiểu nào rồi! Ngươi c̣n dám oán hận dân chúng, để rồi
[dám ôm ḷng] khinh nhờn triều đ́nh mà tấu tŕnh
ư?” Hắn bèn bị hạch tội, bị biếm
trích.
Đời Minh,
ông Đào Đại Lâm nói: - Bọn ta đă được
dự vào hàng quan lại, dẫu niệm nào cũng luôn
nghĩ giúp người, lợi vật, nhưng đối
với tội nghiệp trong cả một đời, vẫn
chẳng thể chuộc một phần vạn được!
Ta trước kia được vua sai phái [đi công cán],
bèn rời kinh thành, từ kinh thành đến đất
Nghi, đất Việt, rồi từ đất Việt
trở về kinh đô. Phàm mấy ngàn dặm, đường
thủy, đường bộ, ngồi thuyền, ngồi
xe, sử dụng phu phen khiêng vác, chuyên chở, lôi, dắt
[ngựa, lừa], chẳng biết là bao nhiêu người.
Nghĩ tới dân chúng xanh xao, bụng rỗng, quần áo tả tơi, toàn là con cái của người ta. Đang trong lúc
nóng hừng hực, mồ hôi tuôn đầm đ́a như mưa,
thở hồng hộc như sấm động. Gặp
cơn rét buốt, họ bươn bả trên đường
băng, xông pha mưa tuyết; do vậy, trượt ngă,
mất mạng trên đường, chẳng thể kể
xiết! Những tội lỗi ấy đều do ta tạo.
Nếu cái thuyết báo ứng chẳng phải là bịa
đặt, há chẳng đáng kinh sợ ư?
Năm Đại
Lịch[3] thứ hai
(767) đời Đường, mùa Thu bị mưa dầm, mùa màng tổn hoại.
Huyện lệnh Vị Nam là Lưu Tảo tŕnh báo thóc lúa
trong huyện chẳng bị hư hao. Quan trên nghi ngờ,
sai người đến xem, [phát hiện] hơn ba ngàn khoảnh
ruộng bị hư hoại. Quan trên than: “Huyện lệnh
là quan cai quản dân chúng, dẫu không bị tổn thất,
vẫn nên nói là bị tổn thất. Thế mà hắn bất
nhân như thế đó”, bèn phạt hắn tội lưu
đày!
Đời Tùy, vào
thời đầu niên hiệu Nghĩa Ninh[4], vùng Du Lâm bị
đói to. Quận Thừa là Vương Tài chẳng lo cứu
đói. Quách Tử Ḥa hiệu triệu dân đói, bắt
Vương Tài, hạch mấy tội, chém chết
Vương Tài rồi khởi loạn. Tuy đấy là hành
vi của lũ đạo tặc, rốt cuộc [chúng] cũng bị [triều đ́nh] giết chết,
nhưng chuyện này cũng đủ để răn dè
những kẻ chẳng dốc sức cứu tế dân
chúng vậy.
Nước nhà cần
phải bồi dưỡng phước khí ḥa b́nh, chớ
nên mặc sức biến cải [chánh sách]. Nếu có những
đề nghị cải cách, phải mười phần [suy
xét] tường tận, thận trọng. Nếu chỉ v́
ư kiến riêng tư của một kẻ mà thay đổi,
cứ bộp chộp, bàn bạc qua quít rồi thi hành một
phen, ắt [dân chúng] sẽ có một phen bị nhiễu hại.
Huống hồ các pháp tắc là do tổ tông đă định,
những người có chức trách phụng hành đă lâu,
dân cũng quen lệ tuân hành, cớ ǵ bày vẽ sửa
đổi, gây nên nhiễu loạn vậy thay?
Đời Tống,
Lư Hàng làm Tể Tướng. Mă Lượng nói: “Người
ta nghĩ ông là cái hồ lô không có miệng”[5]. Lư Hàng
đáp: “Ta đối với việc cai trị chẳng có tài cán sở trường ǵ, nhưng trong ngoài hễ có ai
tŕnh bày điều lợi, lẽ hại, phàm là những kiến
nghị thay đổi xuất phát từ t́nh tự xung
động [nhất thời], hết thảy đều
bác bỏ, ngơ hầu có lợi cho nước nhà. Nay những
pháp chế của quốc gia đă hết sức chi ly, nếu
cứ nghe theo những kiến nghị ấy, thực hành
từng điều một, ắt sẽ gây tổn hại
rất nhiều [cho đất nước và nhân dân]. Những
gă gian ngụy may mắn được bổ dụng, có
chịu suy nghĩ: [Do họ đề xướng những tṛ canh tân, cải cách ấy] mà dân chúng bị nhiễu loạn hay chăng?”
Lư Lâm Phủ ra sức đề xướng cách sử dụng quân Khoắc Kỵ[6]. Triều
đ́nh bàn luận rất nhiều phen, Lâm Phủ vẫn dốc sức duy tŕ, cho nên quân đội đời Đường
rời ră, chán nản. Vương An Thạch sáng chế, thực
hiện tân pháp, phiền nhiễu dân chúng, nguyên
khí của nhà Tống từ đấy bị suy vi. Những
trường hợp ấy đều là do [những “sáng kiến”]
nhiễu loạn mà gây nên tai hại vậy!
(Chánh văn) Thưởng
cập phi nghĩa, h́nh cập vô cô.
(正文)賞及非義。刑及無辜。
(Chánh
văn: Khen thưởng kẻ phi
nghĩa, trừng phạt người vô tội).
Cách tưởng
thưởng đúng lẽ vốn nhằm để đề
cao phẩm đức, báo đáp công huân. Đấy là điển
lễ to lớn của triều đ́nh, nhằm khích lệ,
khuyến dụ ḷng người vậy. Không đáng thưởng
mà cứ thưởng th́ gọi là “phi nghĩa”. Trái nghịch là Phi (非).
Lơi lỏng pháp lệnh, kỷ cương, tăng
trưởng điều ác, a dua lẽ riêng tư, nâng đỡ
kẻ gian tà, gạt bỏ kẻ chánh trực, sẽ khiến
cho ḷng trời tức giận nhất. Do vậy, kẻ
trông coi việc tưởng thưởng thăng chức,
há có nên chẳng thận trọng ư?
Đời Châu, có
thị thần[7] theo hầu
Tấn Văn Công thuở c̣n lưu vong[8], hỏi Tấn
Văn Công: “Chúa thượng định ra ba bậc thưởng
công, chẳng thưởng cho thần. Dám xin hỏi thần
mắc tội ǵ?” Tấn Văn Công nói: “Kẻ hướng
dẫn ta hành xử đúng nhân nghĩa, khuyên ta dùng đức
để ban ân, kẻ ấy được thưởng
theo bậc thượng. Kẻ giúp ta thực hiện chánh
sách, thành lập nước nhà, hạng người ấy
được thưởng theo bậc trung. Gian khổ
nơi tên đạn, dốc sức hăn mă[9], kẻ ấy
được thưởng bậc thứ. Nếu [là kẻ]
dốc sức phụng sự ta, mà chẳng bù đắp
cho những chỗ ta thiếu sót, sau khi đă ban thưởng
ba hạng người ấy rồi sẽ ban thưởng
hạng người như ông”. Người nước Tấn
vui vẻ. Về sau, [Tấn Văn Công] làm bá chủ chư
hầu. Có thể nói Tấn Văn Công đă có thể ban
thưởng phù hợp đạo nghĩa. Hễ là như
thế, th́ [ban thưởng] một chức quan, một
tước vị, một sợi tơ, một hạt gạo,
há có vướng thói tệ sơ sót chút nào ư? Tự
nhiên là những gă bại hoại chánh sự, dùng các mối
quan hệ để lo lót, sẽ không thể do đâu mà chen chân được! Những người
đang giữ chức vụ sẽ đều khuyên bảo
nhau dũng mănh, ra sức lập công vậy!
H́nh phạt để
trừng trị kẻ ác, thánh nhân bất đắc dĩ phải
lập ra, vốn chẳng phải là chuyện cát tường,
tốt đẹp! Xử phạt đúng tội trạng
mà c̣n buồn thương, chẳng vui. V́ thế, cổ
nhân thận trọng trong việc xử phạt, [trước
khi dụng h́nh luôn] thẩm tra tường tận, biện
định rành rẽ. Nếu lạm dụng h́nh pháp đối
với kẻ vô tội, không chỉ là đánh mất công
năng xét xử nghiêm minh, thích đáng, mà c̣n trái nghịch ư
hiếu sanh của Thượng Đế. Huống hồ
kẻ giết người phải bị phạt tội
chết, pháp luật đă có điều khoản quy định
rơ ràng. Nay hành h́nh kẻ vô tội, không chỉ là giết chết
một người, nhưng kẻ hứng chịu báo ứng
chỉ có một thân ta! Cách thức đền mạng chẳng
biết sẽ là như thế nào! Ôi! Tội nghiệp
như thế đó, dẫu là kẻ chuyên hành xử công bằng,
liêm khiết, thật khó tránh gặp lúc ngờ vực,
lưỡng lự. [Nếu như] cứ khăng khăng
chấp chặt ư kiến [của riêng ḿnh], chẳng trống
ḷng suy xét tường tận, sẽ đến nỗi có kẻ
nuốt hận chốn dạ đài, oan oan chẳng xả!
Huống chi kẻ lơ là, chẳng chú tâm ư? Đáng sợ
thay!
Đời Minh, Lữ
Khôn tên tự là Thúc Giản, đă biên soạn H́nh Giới
Bát Chương, [trong ấy đă viết]:
- Một là
năm loại người chẳng đánh, tức chẳng
đánh người già, chẳng đánh trẻ nhỏ, chẳng
đánh bệnh nhân, kẻ nghèo túng cơm áo chẳng đủ
th́ không đánh. Người khác đánh, chứ ta không đánh.
- Hai là
năm hạng người đừng tùy tiện đánh:
Tông thất[10]
đừng không xét kỹ mà đánh. Hai là người thuộc
giới quan chức, đừng tùy tiện đánh. Ba là
sanh viên[11]
đừng tùy tiện đánh. [Bốn là] những người
được cấp trên sai khiến đừng tùy tiện
đánh. [Năm là] phụ nữ đừng tùy tiện đánh.
- Ba là có
năm t́nh huống đừng nên đánh ngay: Người
đang gặp lúc gấp rút đừng đánh, người
đang giận dữ đừng đánh, người
đang say đừng nên đánh, người đi
đường xa đừng nên đánh, người chạy
đến c̣n đang thở hào hển, đừng
đánh.
- Bốn
là có năm trường hợp hăy khoan đánh: Ta giận
hăy khoan đánh, ta say hăy khoan đánh, ta bệnh hăy khoan đánh,
ta thấy [có chỗ nào trong hồ sơ điều tra] chẳng
đúng th́ hăy khoan đánh, ta chẳng thể phân xử, hăy
khoan đánh.
- Năm
là có ba trường hợp đừng đánh lần nữa:
Đă bị phạt kẹp ngón tay th́ đừng đánh nữa.
Đă bị h́nh phạt kềm kẹp th́ đừng
đánh nữa. Đă bị gông cùm th́ đừng đánh.
- Sáu là có
ba trường hợp bèn thương xót không đánh: Lúc trời
rét buốt hoặc khi nóng bức dữ dội, bèn
thương xót chẳng đánh. Vào những dịp lễ
lạc bèn thương xót không đánh. Đối với những
kẻ mới gặp chuyện thương tâm, sẽ
thương xót không đánh.
- Bảy
là có ba trường hợp đáng nên đánh mà không đánh:
Kẻ trưởng thượng, tôn quư đáng bị
đánh, nhưng bị kẻ kém vai vế hơn hoặc kẻ c̣n thơ ấu kiện tụng th́ không đánh. Dân
chúng đáng bị đánh đ̣n, nhưng kiện tụng với
kẻ thuộc về nha môn th́ sẽ chẳng đánh. Nhân
viên tạp dịch, kẻ làm cho các cửa tiệm đáng
bị đánh, nhưng v́ sửa chữa cửa tiệm, hoặc
mua bán vật dụng để tự dùng [mà phát sanh tranh chấp
với người khác] th́ chẳng đánh.
- Tám là có
ba trường hợp cấm đánh: Cấm đánh bằng
gậy nặng, cấm đánh kẻ dưới quyền,
cấm thuộc hạ đánh người khác trái phép.
Mă Bỉnh làm huyện
lệnh huyện Gia Ngư. Có lũ cướp trộm
đốt phá [quan phủ], cướp đoạt công quỹ
rồi chạy mất. Kẻ cầm đầu [bọn cướp] lắm râu. Bỗng có tin báo tại trấn Đoàn
Phong có chiếc thuyền chở từ mười đến
hai mươi người, tung tích đáng ngờ. Trong số
đó, có một gă râu dài, nhưng thật ra [gă ấy] chẳng
phải [là kẻ trộm]. Rốt cuộc, họ Mă bắt
họ về, tŕnh báo quan trên “đă bắt được
kẻ cướp”. Họ bị chết trong ngục. Họ
Mă [nhờ báo công láo khoét mà] được phong làm Ngự Sử.
Về sau, kẻ trộm thật sự bị bắt tại một huyện khác. Do quan huyện ấy thấy họ Mă
là đồng liêu, nên không truy cứu. [Sau đấy], họ
Mă được thăng làm Đô Ngự Sử, [lên
đường phó nhậm], thuyền đậu tại trấn
Đoàn Phong, ban đêm gặp cướp, cả nhà chết
sạch!
Ông Diêm làm tuần
phủ Nam Kinh. Có kẻ vu cáo người dân ở Trấn
Giang là Châu Chí Liêm cầm đầu lũ trộm cướp.
Chí Liêm là kẻ giàu có, sợ bị tra khảo, bèn hối lộ
kẻ quyền quư, [cậy nói với ông Diêm] nương
tay. Ông Diêm càng ngờ, rốt cuộc do phạt trượng
mà giết chết Chí Liêm. Về sau, ông Diêm rốt cuộc bị Chí Liêm [hóa thành lệ quỷ] đ̣i mạng
mà chết. Do ngờ vực chuyện ông ta (Chí Liêm) hối
lộ mà giết chết, tợ hồ vẫn đúng lẽ
công chánh, nhưng v́ giết chẳng đúng tội, [oan hồn]
vẫn có thể biến thành lệ quỷ [đ̣i mạng
ông Diêm]. Há có nên tự cậy chính ḿnh vô tư để rồi
quyết đoán xằng bậy ư?
Lư Quy Chánh làm hiến
chức[12]
đă lâu. Từng có một hôm ra ngoài, tới cầu Tam Tỉnh, trông
thấy mười mấy người đầu tóc
rũ rượi, kêu gào oan uổng, dần dần ép sát ông
ta. Họ Lư sợ hăi, vội vàng quay về, răn con cái:
“Các con mai sau khi phải chọn lựa ngành nào để
làm quan[13],
đừng làm quan h́nh tào. Bởi lẽ, ta thanh liêm, cẩn
thận, dè dặt, kiêng sợ, luôn noi theo luật định;
mà c̣n đến nỗi khiến cho kẻ khác bị oan uổng
như thế. Nay hối hận sao kịp!”
Không lâu sau, ông chết. Xem chuyện này th́ kẻ chẳng
thanh bạch, chẳng cẩn thận, chẳng kiêng sợ, sẽ
thành như thế nào đây?
(Chánh văn) Sát nhân thủ
tài, khuynh nhân thủ vị.
(正文)殺人取財。傾人取位。
(Chánh
văn: Giết người cướp
của, lật đổ người khác để chiếm
đoạt địa vị).
Giết người
đoạt của, chưa chắc đă toàn là kẻ cường
đạo. Như quan lại tham lam đoạt của, khiến
cho kẻ khác chết trong h́nh ngục. Kẻ giàu có ham tiền,
bức bách kẻ khác trong cơn khốn đốn. Kẻ
tàn nhẫn ham cầu tiền tài, hại kẻ khác lâm vào nơi
hiểm nạn. Thầy thuốc bất tài v́ tiền bạc
mà đẩy người khác vào cảnh nguy cấp, đều
là do tiền tài mà ra! Chuyện ấy giống như giết
người vậy, nhưng chẳng có kẻ nào không bị
lệ quỷ đ̣i mạng rồi cũng tử vong. Thế
mà tiền tài đoạt được, rốt cuộc
cũng chẳng có lúc nào không bị mất sạch! Những
tấm gương quan lại tham lam đă được trích
lục khá nhiều trong những phần trước, ở
đây, chỉ kể đại lược.
Lưu Thược
Thi làm nghề cho vay nặng lăi. Có những kẻ vay nợ
nhiều năm hắn chẳng hỏi tới. Bỗng có một
hôm, hắn xách bằng khoán vay nợ đến tính toán, món
nợ đă tăng rất nhiều lần [so với món nợ
ban đầu]. Đối với món nợ c̣n thiếu, hắn
liền tính lăi theo từng năm, thường là chẳng
có kỳ hạn, đến nỗi [người vay nợ]
mất sạch gia sản. Kẻ mắc nợ thường
bị ép uổng đến nỗi phải chết. Về
sau, Thược Thi chết. Nhà hàng xóm có một con nghé sanh
ra, trên bụng có ghi tên họ của Thược Thi. Hằng ngày nó bị người thiếu nợ
đánh đập, sai khiến, thân thể [con nghé] không có
chỗ da nào lành lặn! Những kẻ cho vay lời trong
nhân gian, nếu có thể giữ tấm ḷng khoan dung,
cũng tùy lúc, tùy chỗ tạo thuận tiện cho người
khác. Hiềm rằng có kẻ biết [lẽ ấy] nhưng
chẳng chịu làm, là v́ cớ sao vậy?
Người lái
thuyền trên sông Dương Tử là Cung Soạn, nương
theo trận gió lớn, d́m chết một thương gia
giàu có, chiếm đoạt tài sản của người ấy,
trở thành người giàu có. Hắn sống tại Duy
Dương, sanh được một trai. Con đă lớn
bèn coi cha như kẻ thù. Cung Soạn tức tối, phẫn
nộ, cầu tiên giáng cơ [chỉ dạy]. Tiên phán rằng:
Canh Tư bát nguyệt Tây phong ác,
Dương Tử giang trung
ba lăng tác.
Nhị thập niên tiền
nhất niệm sai,
Quư quân thí bả tâm đầu
mạc.
(Tạm dịch:
Canh Tư,
tháng Tám, gió Tây giật
Trường
Giang sóng cuộn đă làm ǵ?
Hai mươi
năm trước một niệm quấy,
Thử xét ḷng
ngươi chẳng thẹn ư?)
Cung Soạn hết
sức kinh hăi, bỏ nhà đi, chẳng được chết
yên lành. Ôi! Mưu chiếm đoạt tài sản mà chẳng
thể tự dùng, rốt cuộc vẫn do oán gia sở hữu.
Cái giành được là suốt hai mươi năm bận
ḷng lo lắng và chẳng thể chết an lành. Đă thế,
c̣n chưa tính nợ trong cơi âm ty, nỗi khổ ấy biết
làm sao được?
Một gă công sai
xuất hành từ sớm, đến vùng đồng hoang
gai góc. Có kẻ mang theo một món tiền, thấy gă công sai
đi tới, ngờ hắn có dị tâm, bèn trốn trong
đám cây rậm. Gă công sai cũng mờ mịt, chẳng
biết là ǵ, vừa mới nghe tiếng bước chân,
đến gần chẳng thấy ai, sợ là hổ, báo,
bèn lấy ngọn thương đâm khắp lùm cây. Đâm
trúng bèn lôi ra th́ người ấy đă chết, mới biết
là lầm lẫn. Đă không biết làm sao, bèn lấy tiền
trong bọc người ấy, vứt xác kẻ ấy vào
rừng gai, không ai hay biết. Nhờ đó, nhà gă công sai
giàu lên. Vợ hắn sanh được một gái. Một hôm, gă công sai ở
cửa chính, bỗng thấy người bị đâm ṃ tới,
liền đóng chặt cửa, ḍm lén. Rốt cuộc,
người đó vào nhà người thợ da đối
diện, người [thợ da] ấy bèn sanh được
một trai. Gă công sai biết nhân duyên, đăi đằng
người thợ ấy nồng hậu, yêu thương
con trai người ấy, gả con gái cho. Người thợ
da mừng rỡ, bảo con hăy phụng sự gă công sai
như cha. Về sau, gă công sai uống rượu nằm ngủ,
trời nắng gắt, hắn đổ mồ hôi đầm
đ́a. Đứa con trai người thợ da đứng
hầu bên cạnh, nhẹ nhàng dùng lưỡi dao gạt mồ
hôi. Trong cơn say, gă công sai không biết là vật ǵ, bèn lấy
tay đập, đao cắm phập vào bụng, chưa chết
ngay, bèn gọi người nhà, kể rơ nguyên cớ. Đứa
con gái xuất giá, đem hết tài sản trong nhà trả lại
cho người ấy (đứa con người thợ
da).
Tôn giả Mục
Liên sáng sớm ra khỏi thành, thấy một ngạ quỷ
khóc lóc, thưa rằng: “Thân này của con giống như một
khối thịt, chẳng có tay, chân, mắt, tai, miệng, mũi,
v.v… bị các loài chim và loài trùng thường xuyên cắn, nuốt.
Do tội ǵ mà nên nỗi?” Ngài Mục Liên bảo: “Đời
trước, ngươi làm thầy lang, chẳng tinh thông y
thuật, cắt thuốc xằng bậy, khiến cho bệnh
nhân chẳng thể sống nổi. V́ thế, thành ra nông nỗi này”.
Đời Tống,
ông Phạm Văn Chánh (Phạm Trọng Yêm) chẳng làm Tể
Tướng, bèn nguyện làm danh y, v́ sẽ cứu
được nhiều người. Những gă thầy
thuốc dốt trong thời gần đây, chẳng biết
ư này, chỉ biết coi trọng tiền bạc, phần
nhiều phạm vào bảy điều sát hại:
1) Như chứng
bệnh vốn có hoăn và cấp, nay họ dùng thuốc dành
cho bệnh hoăn đăi để chữa
chứng bệnh cấp tốc, dùng thuốc
dành cho chứng bệnh cấp tốc để chữa bệnh
hoăn đăi. Đấy là điều giết hại thứ
nhất.
2) Coi bệnh vặt
là bệnh ngặt, coi bệnh nhẹ là bệnh nặng. V́
thế, dùng thuốc độc khiến cho bệnh nhân chịu
đau khổ, mà chỉ thu được công hiệu chậm
chạp. Đó là điều giết hại thứ hai.
3) Thấy bệnh
nhân có giàu, nghèo. Đối với kẻ giàu bèn dụng tâm,
xem nhẹ kẻ nghèo. Đấy là điều giết hại
thứ ba.
4) Lười nhác,
ham chơi, ham ngủ, né tránh lạnh, nóng [chẳng chịu
đi thăm bệnh], đánh cờ, nhậu nhẹt, cờ
bạc. Đấy là điều giết hại thứ
tư.
5) Ra toa, chẩn
mạch chẳng tinh tường, đoán ṃ bệnh tật
để thử thuốc. Các thầy thuốc gặp nhau
bèn gièm báng lẫn nhau. Đấy là điều giết chóc
thứ năm.
6) Thấy người
bệnh mà chẳng chữa trị, [người ta] đến
mời chẳng đi, khiến cho bệnh t́nh [của bệnh nhân] nặng hơn. Đó là điều giết chóc thứ
sáu.
7) Chẳng tinh
thông dược vị, chẳng bào chế đúng cách, hoặc
tăng, hoặc giảm, đến nỗi lầm lạc
gây tổn thương [cho bệnh nhân]. Đấy
là điều giết chóc thứ bảy.
Có bảy điều
ấy, sẽ giết người c̣n hơn cầm dao bén
[đâm người]! Dao bén đâm lút cán mà nếu chẳng
phạm đến chỗ yếu hại, [người bị
hại] c̣n có thể sống sót. Thế
nhưng một viên thuốc lọt vào miệng, ngũ tạng
đều bị nứt toạc. Vậy mà vẫn tự phụ
bảo: “Ta là bậc danh y”. C̣n như kẻ uống thuốc,
càng chớ nên ẩn giấu gốc bệnh. Nếu giấu
diếm chẳng nói, cũng như do thấy thuốc men đắt
đỏ bèn bỏ chẳng dùng, thậm chí dùng bạc xấu
v́ tiếc tiền trả công thầy thuốc, ắt
cũng là tự t́m đường chết đó thôi, c̣n
oán trách thầy thuốc nỗi ǵ!
Một quan, một
chức đều có mạng trời. Kẻ thuộc hạ
cấp thấp, do tu thiện mà có thể hiển đạt
tót vời. Kẻ b́nh dân làm lành, có thể hưởng quan lộc.
Nếu âm hiểm, khuynh đảo lẫn nhau, hăm hại
người khác để chiếm đoạt địa vị,
th́ kẻ khuynh đảo vẫn bị kẻ khác khuynh
đảo, kẻ chiếm đoạt của người khác rốt cuộc lại bị kẻ
khác tước đoạt. Báo ứng mau chóng, có thể trông
thấy trong một thời gian ngắn!
Đời Tống,
Di Đức Siêu thấy quan Xu Mật Tào Bân công huân, danh vọng
long trọng. Do vậy, hắn bèn vu
cáo ông Tào âm mưu phản nghịch. V́ thế, Tào Bân bị
băi chức, c̣n Đức Siêu được phong làm Xu Mật
Sứ. Chẳng lâu sau, do Triệu Phổ tận lực biện
định, xóa nỗi oan [cho ông Tào]. Vua hiểu ra, bèn
đày Đức Siêu đi xa, đăi ngộ Tào Bân như
cũ. Xem chuyện này, [sẽ thấy] “khuynh đảo người khác thật ra là khuynh
đảo chính ḿnh”, chẳng càng đáng tin ư?
Nhưng hăm hại kiểu này vẫn c̣n nhỏ nhoi!
C̣n như Lư Lâm Phủ
đời Đường ở ngôi Tể Tướng, phản
phúc, khuynh đảo, hăm hại để củng cố
địa vị của chính ḿnh. Thuở ấy, những
vị tướng soái ngoài biên cương đều là bậc
danh thần. Những người có công lao rạng rỡ sẽ
được vời về triều làm Tể Tướng.
Lâm Phủ muốn chặn đường họ, bèn tâu rằng:
“Các quan văn khiếp sợ tên đạn, xin hăy dùng
người Hồ[14] để
thay thế, họ sẽ có thể dốc trọn sức
đến chết”. Do vậy, dẫn đến cuộc
biến loạn của An Lộc Sơn. Đấy là v́ ư niệm lo lắng cho tước vị mà làm hại người
trong toàn thể thiên hạ vậy. Rốt cuộc, do mắc tội
tư thông với kẻ phản nghịch, hắn bị
[triều đ́nh xử phạt] bửa quan tài, chém xác. Vốn
hắn chẳng phạm tội ấy, nhưng v́ khuynh loát
bậc hiền tài để củng cố địa vị,
trọng dụng An Lộc Sơn, cho nên [Lư Lâm Phủ] rốt
cuộc bị kết tội phản nghịch! Há chẳng
phải là hoàng thiên đă âm thầm ấn định bản
án đấy hay chăng? Than ôi! Kẻ làm bầy tôi ăn lộc
vua, phụng sự như thế nào mà đến nỗi ấy?
Người xưa nói: “Khuất
thân phụng sự vua, hăy nên coi tấm thân ấy chẳng
phải là của chính ḿnh nữa. V́ thế, niệm nào
cũng nghĩ đến vua, đến đất nước, há c̣n
nặng ḷng v́ gia đ́nh của chính ḿnh ư? Há c̣n lo lắng
[chính ḿnh] bất trung nữa ư!” Lời ấy có thể coi như là dược thạch[15] cho hạng
người trên đây!
(Chánh văn) Tru hàng lục
phục, biếm chánh bài hiền.
(正文)誅降戮服。貶正排賢。
(Chánh
văn: Giết hại kẻ đă đầu hàng, lưu
đày người ngay, gạt bỏ người hiền).
Binh đao hung ác,
chiến tranh nguy hiểm, thánh nhân bất đắc dĩ phải
dùng. V́ thế, người xưa do giết địch quá
nhiều, bèn đau buồn, thương xót. Khi đă chiến
thắng, bèn mai táng [địch nhân] theo đúng lễ. Đối
với những kẻ đă đầu hàng, quy thuận, sẽ
càng xót thương, phủ dụ. Nếu họ đă
đầu hàng mà lại c̣n tàn sát, nhẫn tâm tạo nghiệp,
họa lớn chẳng ǵ bằng!
Đời Minh,
ông Nhan Mậu Do nói: - [Nếu nói] “người có ḷng nhân từ
không nắm giữ binh quyền”, tức là kẻ làm tướng
ắt sẽ tàn sát ư? Thưa, chẳng phải vậy.
Người làm tướng do cứu dân mà ngăn dứt sự
tàn bạo, dẹp loạn, giữ yên đất nước,
ắt [dân chúng sẽ] có hy vọng sống c̣n trong ấy.
Do vậy, v́ sự sanh tồn [của toàn dân] mà giết [kẻ
phản loạn] th́ không ai có công hơn người làm
tướng được! V́ sao? Giết một kẻ
để cứu vạn người; so với chuyện
làm lành lúc b́nh thường, cố nhiên là có sai khác! Nếu
v́ giết chóc mà giết chóc[16], ắt tội
cũng không ai hơn kẻ làm tướng được!
Cớ sao? Hễ thất bại th́ phần nhiều là giết
chính ḿnh, hễ thắng lợi th́ sẽ giết nhiều
quân địch. Quân luật chẳng nghiêm, ắt [quân lính]
sẽ giết nhiều người vô tội, toàn là trách
nhiệm của chủ tướng vậy. Do đó, sai
tướng [cầm quân chinh phạt], chẳng thể không
thận trọng, mà vị tướng sai phái thuộc hạ
lại càng chớ nên không thận trọng.
Cổ nhân nói: “Ba đời làm tướng là
điều kiêng tránh của Đạo gia”. Nhưng dùng
giết chóc để ngăn dứt giết chóc cũng là
chuyện [do t́nh thế] bắt buộc phải như vậy.
V́ thế, tùy thuộc cách sử dụng như thế nào
đó thôi!
1) Thứ nhất
là sợ vô sự mà sanh sự, dùng xương khô của
trăm vạn người để đổi lấy cái
ấn phong hầu!
2) Thứ hai là sợ
dùng hung bạo này thay cho sự hung bạo khác, lạm sát
dân chúng, v́ tranh công mà chặt đầu kẻ khác.
3) Thứ ba là sợ
đôi bên giao chiến kịch liệt, ra sức tàn sát, phe
ta lẫn phe địch đều phải hứng chịu.
Kẻ chỉ huy có thể nói: “Do lệnh ta mà giết
người để phô trương oai thế”. Lại
có thể nói: “Giết người là chuyện của kẻ khác, cho phép thuộc hạ lạm sát, cướp bóc
để phô trương thanh thế. V́ đó, ta có thể
coi đấy là chiến công của chính ḿnh”. Bởi lẽ, đạo làm tướng th́ trước hết là phải
nghiêm cấm quân đội giết hại, chế ngự
binh lính nghiêm ngặt, ắt binh sĩ sẽ chẳng gây hại,
mà c̣n là có công. Do vậy, [nói] “dùng
sống c̣n để hướng dẫn giết chóc”
(v́ mục đích bảo vệ sanh mạng của người
dân mà giết địch hoặc kẻ phản loạn) là
như thế đó.
Đời Hán, Lư
Quảng tay dài như vượn, có tài thiện xạ. Dân
Hung Nô kiêng sợ, đặt biệt hiệu cho ông ta là Phi Tướng
Quân (tướng quân bay). Nhưng ông ta vận số trắc
trở, chẳng được phong tước hầu,
đă từng nói với Vương Sóc là một tay tướng
số chuyên xem khí sắc: “Quảng kể từ lúc búi tóc (hai mươi tuổi), giao chiến với Hung Nô, chưa hề chẳng
giành đi trước. Hễ quân Hán đánh Hung Nô, Quảng
chưa hề không ṭng chinh. Nhưng những kẻ thuộc
lớp sau đều được phong hầu, riêng ḿnh
Quảng chẳng thể! V́ lẽ nào?” Vương Sóc hỏi:
“Tướng quân có chút ǵ ân hận hay không?” Lư Quảng
đáp: “Đă có tám trăm người Hồ đầu
hàng, Quảng đều giết sạch, khá là hối hận”.
Vương Sóc nói: “Họa không ǵ lớn bằng giết kẻ
đă đầu hàng. Đấy là lư do khiến cho Ngài chẳng
được phong hầu vậy!” Về sau, Lư Quảng
cũng v́ đánh trận thất bại bèn tự sát. Cháu nội
là Lư Lăng lại v́ chuyện đầu hàng quân giặc
mà cả họ bị tru di.
Đời Nguyên,
khi [quân Mông Cổ] vừa mới chiếm được
vùng Giang Lăng[17], Liêm Hy Hiến[18] trông coi[19] vùng Kinh Nam,
hạ lệnh: “Phàm kẻ nào bắt được tù binh
mà dám tàn sát, sẽ bị luận tội giống như cố
ư giết hại dân thường”. Trong quân đội, những tù binh do bệnh tật
mà được [chủ nhân] thải ra, cho phép người
khác nhận về nuôi. [Khi người tù ấy đă] lành
bệnh, chủ cũ chẳng được giành lại.
Nếu có kẻ nào gán vợ bán con, sẽ bị phạt tội
nặng, mà c̣n chẳng nhận được món tiền gạ
bán ấy. Ấy là v́ Liêm Hy Hiến chẳng thích tàn sát, cho
nên có thể làm như thế. Ông mất, thụy hiệu
là Văn Chánh. Một người em trai của ông có sáu
đứa con trai đều quư hiển.
Đày
đi xa th́ gọi là Biếm (貶); hăm hại khiến cho kẻ khác bị mất
địa vị th́ gọi là Bài (排). Bậc chánh nhân hiền sĩ là rường cột
của nước nhà, đáng nên trọng dụng, ngơ hầu
triều đ́nh có người, trong ngoài biết sợ. Nếu đố kỵ v́ người
ấy khác biệt [ư kiến, chí hướng] với ḿnh, bèn dùng nhiều
phương cách khiến cho người ấy bị
đuổi, bị đày đi xa, trở ngại người hiền, khiến
cho nước nhà suy vi, chẳng có tội ác nào lớn hơn
thế!
Đời có Bá
Nhạc[20],
sau đấy mới có thiên lư mă (ngựa
ngàn dặm). Thiên lư mă luôn có, nhưng Bá Nhạc chẳng thường luôn có. Gặp gỡ nhân tài, cũng giống
như vậy đó. Nếu kẻ đang nắm giữ
địa vị đều như Bá Nhạc, ắt là bậc
có khí lượng đạo đức, sẽ có thể
làm Tể Tướng. Người hiểu biết đại
thể sẽ có thể làm gián
quan. Kẻ thông hiểu pháp tắc, sách lược, sẽ
có thể giao cho binh quyền. Kẻ có thể trấn thủ,
vỗ yên, sẽ có thể trao giữ chức vụ một
phương. Kẻ có khí phách, sẽ có thể làm quan giám
sát. Kẻ liêm khiết đối với tiền tài, có thể
làm quản lư tiền bạc, thóc gạo. Kẻ biết yêu
dân, sẽ đều có thể làm Thái Thú hoặc huyện lệnh.
Như thế th́ các chức vụ lớn nhỏ sẽ
đều có người [xứng đáng đảm nhận],
ngoài đồng nội chẳng bỏ sót nhân tài, mà trăm
việc đều được thực hiện tốt đẹp vậy!
Đời Minh,
Nhan Mậu Do nói: - Phàm là kẻ mưu toan để biếm
trích, hăm hại người khác mất chức và kẻ có
thể rộng dung người hiền, vốn chẳng
khác biệt cho mấy, [sở dĩ có khác biệt] chỉ
v́ ngă kiến gây lụy. Có trường hợp nghe danh tiếng,
khá là yêu mến, hâm mộ, cho đến khi gặp mặt, cư xử, sẽ
có một, hai chuyện chẳng thể nhẫn nại
được. Chất chứa càng lâu, sẽ trở thành
oán cừu, hiềm khích. V́ thế, rộng dung người
hiền ở xa sẽ dễ dàng, rộng dung người
hiền gần kề sẽ khó khăn. Dung thứ kẻ
hèn kém dễ dàng, dung thứ người sang cả khó
khăn. Dung thứ tạm thời sẽ dễ dàng, dung thứ
lâu dài sẽ khó khăn. V́ sao? Tánh khí va chạm nhau, tài
năng xung đột, danh vọng lấn át nhau, oai thế
chèn ép nhau. Nhưng người hiền ấy cũng chẳng
thể hoàn toàn b́nh tâm tĩnh khí, vô ngă được. Sau khi giao du lâu ngày, sẽ thật sự thấy kẻ hiền ấy có
chỗ chẳng đúng, [bèn nghĩ ngợi]: “Xưa kia hâm mộ
đức hạnh của kẻ ấy, chính là v́ đă nhận
biết sai lầm rồi sanh ḷng kính trọng!” Ngày nay ghét kẻ hiền, vẫn cảm thấy là
tâm ta đă lắng ḷng [cân nhắc kỹ càng rồi]. Hễ
[kẻ nào] nói “thật sự
chẳng thể dung thứ”, thật ra là do kẻ
đó chẳng thể tiêu trừ [cái tâm đố kỵ ấy].
V́ thế, có khi bậc quân tử gặp gỡ, rốt cuộc
trở thành oán cừu, chống trái. Thói tệ khởi nguồn
chính từ chỗ này. Thường ngày, cần phải chế
ngự những thói xấu của chính ḿnh, nhẫn nhục,
vô danh, vô tướng, thật sự có thể xả thân v́
nước, đối với hết thảy chê, khen, yêu,
ghét, chẳng bận ḷng mảy may, th́ mới có thể tạo
phước cho con cháu và lê dân vậy!
Đời Tống,
Tạ Bí hiểu biết người khác nhất, chẳng
dễ dăi nhận lời ai [để tiến cử kẻ
khác]. Suốt đời, ông chỉ tiến cử không quá
vài người. Mỗi lần gởi thư tiến cử,
ông ắt thắp hương, bái vọng cửa khuyết,
lễ bái rồi tâu: “Lăo thần lại v́ bệ hạ cầu
được một người”. Văn Chánh (Phạm Trọng
Yêm) và Vương Đán đều do ông ta tiến cử.
Ngày ông sắp mất bèn tắm gội, đốt
hương, ngồi ngay ngắn, qua đời, đầu
chẳng nghiêng vẹo tí nào! Đấy chẳng phải là
đă “thi giải”[21] ư?
Vào thời Xuân
Thu nhà Châu, Yến Tử tâu với Tề Cảnh Công:
“Nước có ba điều bất tường, nhưng chẳng
dính đáng đến chuyện thần kỳ, quái dị! Hễ
có người hiền mà không biết; đó là một
điều bất tường. Đă biết mà chẳng
dùng, đấy là hai điều bất tường. Dùng mà
không tín nhiệm là ba điều bất tường. Nói ‘bất tường’ chính là
như thế đó”[22]. Vậy th́
có nên biếm trích người chánh trực, có nên băi chức
người hiền hay chăng?
Đời Đường,
Lô Kỷ ghét Nhan Chân Khanh, muốn trục xuất ông ta. Khi ấy,
Lư Hy Liệt làm phản, Lô Kỷ bèn tâu vua: “Thần mong có bậc
trọng thần tánh t́nh nho nhă, sẽ v́ hắn ta (Lư Hy Liệt)
phân tích lẽ họa phước, ắt sẽ có thể
chẳng nhọc sức xuất quân mà hắn chịu phục.
Xét ra, Chân Khanh là bậc cựu thần đă ba triều
vua, trung trực, cương quyết, danh tiếng vang rền
cả nước, mọi người tin phục, đúng
là người đáng sai đi vậy”. Vua cũng nghĩ
là đúng, xuống chiếu sai Chân Khanh đến khuyên nhủ
Hy Liệt. Về sau, Hy Liệt muốn giữ Chân Khanh ở
lại làm Tể Tướng, Nhan Chân
Khanh bèn chết (tự sát). Cuộc biến loạn Phụng
Thiên[23] thật sự
là do Lô Kỷ gây ra. Lư Hoài Quang tấu tŕnh, [hạch tội]
Lô Kỷ tàn hại bậc trung lương, gian nịnh gây
hại cho đất nước. Hắn bị đày ra
Tân Châu rồi chết ở đó.
Nhan Mậu Do nói:
- Phường tiểu nhân đố kỵ, chỉ v́ sợ
người khác sẽ công kích ḿnh, lấn lướt ḿnh, chẳng
biết mưu mẹo trí trá chẳng chống nổi tạo
hóa. Khi số mạng đă suy bại, dùng hết mọi
mánh khóe, chẳng thể làm ǵ được nữa! Những
gă như Lô Kỷ chẳng phải là không biết [lẽ ấy],
chỉ v́ không biết làm thế nào được nữa!
Thoạt đầu chỉ là một niệm [mong cầu] củng
cố ân sủng [của nhà vua]. Chuyện đă đến
nước ấy, lâm vào t́nh thế cưỡi cọp, chẳng
thể xuống được! Vẫn là hăy nên
thận trọng ngay từ lúc đầu!
(Chánh văn) Lăng cô bức
quả.
(正文)凌孤逼寡。
(Chánh
văn: Lấn hiếp con côi, bức hại bà góa).
Đối với
ư này, trong phần chú giải cho câu “căng cô tuất quả” (thương xót con côi,
châu cấp bà góa) trong phần trước đă có nhắc
đến. Đức Thái Thượng đă khuyên
thương xót, giúp đỡ trong phần trước, lại
c̣n răn đe về chuyện lăng nhục, bức bách
trong phần sau. Dặn đi, dặn lại, dụng ư
đúng là tha thiết tột bậc. Bởi lẽ, mẹ
góa, con côi là nỗi bất hạnh trong đời người,
[họ là những
người] được
trời đất coi trọng. Há có nên rắp tâm v́ họ
không có nơi nương tựa, mà thừa cơ lường
gạt, hăm hại. Hoặc là xâm chiếm, tước
đoạt tài sản, hoặc dùng quỷ kế, cấu kết
với bọn sai dịch, cậy thế khủng bố, dọa
nạt, khiến cho mẹ góa con côi lưu lạc, chẳng
thể nào kêu cứu, kiện cáo. Hăy khoan luận quỷ thần
luôn ḍ xét, báo ứng chẳng khoan dung; hăy nghĩ “trẻ mồ
côi cũng là con kẻ khác, bà góa cũng là vợ người
khác”, xin hăy coi họ như con ta, vợ ta để xét lại.
Củng Cố ở
Phương Thành làm hàng xóm của một người nhà
giàu họ Châu. Bỗng nhà họ Châu trai gái đều chết
sạch, chỉ c̣n sót lại một bà già và đứa cháu
bé bỏng. Củng Cố bèn mở tiệc rượu, dụ
dỗ: “Cháu của cụ trơ trọi, yếu đuối,
giữ lấy gia sản để tự sanh nhai, chẳng
phải là kế sách vẹn toàn. Sao bằng bán hết cho
tôi, tôi sẽ nuôi già, chăm trẻ”. Bà cụ mừng rỡ,
lập bằng khoán, giá bán chưa đến một nửa
[giá trị thật sự]. Củng Cố vừa nắm
được bằng khoán, bèn [trở mặt], bức
bách họ dọn nhà. Củng Cố mộng thấy một
người quở trách: “Mày mưu toan chiếm đoạt
cơ nghiệp của ta, xua đuổi vợ và cháu ta, ta
đă tố cáo lên Thượng Đế. Sang năm, cả nhà mày chết sạch”. Năm sau,
quân giặc kéo tới. Quả nhiên, cả nhà họ Củng
đều chết hết. Bà cháu [nhà họ Châu] do ĺa khỏi
sản nghiệp, nên tránh khỏi tai nạn. Họ trở
về, lấy lại tài sản, sản nghiệp trở về
nguyên chủ. Họa giáng xuống cả nhà, những kẻ
lấn hiếp mẹ góa con côi hăy nh́n vào gương này th́
cũng có thể phản tỉnh, sửa đổi. C̣n
như anh em, người cùng họ lấn hiếp, bức
bách nhau, diệt tuyệt mối thiên luân, sự báo ứng
thê thảm càng to lớn hơn nữa, chẳng đành ḷng
nhắc tới!
(Chánh văn) Khí pháp thọ
lộ.
(正文)棄法受賂。
(Chánh
văn: Coi thường pháp luật, tiếp nhận hối
lộ).
Từ chỗ này
cho tới câu “kiến sát
gia nộ” (thấy [người khác mắc tội]
đă bị giết chết mà vẫn c̣n giận dữ),
đều là nói về chuyện thẩm vấn, xử phạt.
Phàm là nha dịch, thư lại, cũng đều
được gộp vào trong ấy, chẳng phải là chỉ
nói riêng về những vị h́nh quan[24]. Đức
Thái Thượng nói đến chuyện đúng, sai, nặng,
nhẹ, trước hết, nhắc đến chuyện
coi thường luật pháp, nhận hối lộ. Bởi
lẽ, đúng, sai, nặng, nhẹ đều có pháp tắc
nhất định, nhưng [kẻ xét án] chỉ mong sao
được tiền. V́ thế, bèn nghe theo lời xin của
kẻ đă hối lộ ḿnh mà hành xử điên đảo.
Nếu chẳng biết đến pháp luật, mặc t́nh
phán đoán lẽ sống chết [của
người bị tố tụng theo ư riêng], th́ dân chúng sẽ
chẳng thể làm ǵ được! Cớ sao chẳng
nghĩ đến chuyện trời giận, người
oán, ắt sẽ vướng phải tai nạn lạ lùng vậy thay?
Đời Minh,
ông Nhan Mậu Do nói: - Kẻ làm quan, gia sản vốn từ
thi, thư, lễ, nhạc mà có, há chẳng biết sự liêm khiết đáng nên tôn sùng
ư? Chỉ v́ đă quen thấy chuyện mưu cầu
quan tước, trả nợ, biếu xén để
được thăng thưởng, đề bạt, [bèn
nghĩ] “chẳng làm như vậy sẽ không được!”
Thoạt đầu là mới nhúng chàm, nhưng tích tập lâu ngày tiêm nhiễm, tánh t́nh đă lậm thói tanh hôi.
Hơn nữa, ḷng người có bao giờ chê chán! Đă
được trăm lạng, ắt mơ ngàn lạng.
Đă có được ngàn lạng, ắt mong vạn lạng.
Thậm chí kẻ quyền thế lừng lẫy, vàng lụa
chất đầy tận nóc. Đă chất chứa đến
nỗi [bỏ mặc cho nó] cũ nát, mà vẫn [cảm thấy]
chưa đủ. Kẻ bàng quan [trông thấy t́nh cảnh ấy]
chẳng ai không nực cười, nhưng kẻ trong cuộc
vẫn không hay biết. Ấy là v́ thật sự mắc bệnh
mê tiền vậy! Phần lớn [những kẻ say mê tích
lũy tiền của như vậy] đều là v́ tính kế
lâu dài cho con cháu, chẳng biết bao nhiêu con em của những
kẻ si mê làm giàu [đă gây họa] diệt môn, bao nhiêu kẻ
thanh bạch, nghèo túng, đạm bạc mà lại khá lên. Huống
chi, phước lộc có vận số, cứ thâu đoạt
của cải bất nghĩa cho lắm, để lại
món nợ oan nghiệt cho con cháu đền trả! Chẳng
thể nói là phước được!
C̣n như lập
miếu thờ phụng [tổ tiên], giúp đỡ ḍng họ,
cứu giúp họ hàng nghèo túng, cố nhiên là chuyện tốt
đẹp. Nhưng nếu có cái tâm mong cho sự việc được
hoàn thành trọn vẹn mau chóng, ắt sẽ phải thâu nhập
trái lẽ quá đáng, làm sao có thể “tích đức,
ngưng tụ cát tường, làm quan lâu ngày sẽ tự
nhiên giàu có” dài lâu cho được? Phàm kẻ làm quan mà mê
rượu, chuộng dâm, ưa giết chóc, đều bắt
nguồn từ sự tham mê tiền tài. Căn bệnh mê tiền
là do buông lung ư niệm đă thành thói quen. Khi thói quen đă
h́nh thành, ruột gan sẽ thay đổi, sẽ liều chết
theo đuổi, chẳng màng [tiền bạc có được
do sự tham ô ấy] sẽ là hữu dụng hay vô dụng! Có
kẻ khi mới chập chững bước vào quan trường,
vẫn c̣n có thể kiềm chế, nhưng đến khi đă
già đời, bèn hoàn toàn đảo ngược. Chỉ v́
dần dần đă coi quan trường là nhà, coi tiền tài
là tánh mạng, nhưng đông hơn cả vẫn là những
kẻ vừa chen chân vào chốn vinh hoa, phú quư, bèn cầm ngay chiếc
cuốc, cái ky, cái mai [để sẵn sàng đục
khoét].
Hễ nhận hối
lộ, ắt sẽ tàn khốc. Những kẻ đó cho rằng:
“Chẳng đánh, ắt trong tâm quần chúng sẽ chẳng
kinh hăi, sẽ chẳng có kẻ đút lót”. Nhận hối
lộ, ắt sẽ ngang ngược. Kẻ đó cho rằng:
“Chẳng điên đảo lẽ đúng sai, ắt lư lẽ
sẽ thắng quyền thế, người dân do có chỗ
nương cậy, sẽ chẳng sợ [oai thế của
quan]”. [Những kẻ] ăn hối lộ, ắt sẽ
xun xoe những kẻ thân tín, quen biết [của cấp
trên] để nắm bắt ư chỉ [của bề trên].
Họ cho rằng, nếu chẳng tụ tập thành bầy
hổ đói, ắt oai lệnh sẽ chẳng được
coi trọng. Không bẻ cong [sự thật], bao che, thiên vị kẻ khác, ắt khi phạm lầm lỗi, sẽ chẳng
có kẻ [thân tín] để trông cậy. Như thế th́
khi phán quyết án lệ, ruột gan đă ngầm chứa
điều khuất lấp. Do một điều tham mà
sanh ra trăm nỗi khốc liệt! Một gă quan hung ác,
lại sanh ra trăm gă nanh vuốt! Ôi! Há lẽ nào dân chẳng
v́ nghèo túng mà làm trộm cướp ư?
Điều khó thể
chịu đựng nhất chính là kẻ cướp bóc,
cưỡng đoạt đă bị tống giam mà vẫn có
thể dùng tiền [hối lộ] để chuộc ra. Kẻ
nhận hối lộ đă làm trái pháp luật, lại
ngược ngạo ra oai [ḥng lấp liếm lỗi ấy].
Đối với những tội trộm cắp hàng hóa tại
tiệm buôn là những tội vặt vănh, bèn sử dụng
những h́nh phạt tột cùng tàn độc thấu
xương! C̣n như kẻ quan tước càng to, cai quản
dân chúng càng đông, một người ăn hối lộ,
ắt ngàn người bẻ cong pháp luật. Mười
người đùa bỡn với pháp luật, ắt vạn
người làm tượng đất [để
chôn theo]! Như tám trăm thạch hồ tiêu của Nguyên Tải[25], tám
mươi ṿ đường sương (糖霜) của Giả Tự Đạo[26]. Cố
nhiên là khiến cho thiên hạ loạn lạc; nhưng những
ǵ bọn chúng nó đă chất chứa, há có c̣n hay chăng?
Phàm là bậc
trưởng quan, há nên nghĩ “ta cốt sao giữ ḿnh trong
sạch” là được rồi! Hăy nên nghiêm cấm thuộc
hạ và những quan lại dưới quyền tham ô. V́
sao? Trưởng quan tai mắt hữu hạn, mọi chuyện
toàn là do những nha lại trong công môn lo liệu. Nếu như
[trưởng quan] luôn đối chiếu, luôn tra xét tường
tận mọi vụ án, mọi h́nh phạt, xét xem trong ấy
có những vụ nào mà người nghèo bị mắc lụy,
oan uổng gánh tội, hoặc kẻ ngu bị lừa gạt,
kẻ yếu thế bị kẻ khác khống chế, gào
trời vỗ đất, không cách nào tố cáo được! Chỉ
có người trong công môn, dưới là tiếp nhận nỗi
đau của người dân, trên là thông hiểu những mối
quan hệ trong chốn quan trường. Khi [người
dân đang lúc] gian khổ, trơ trọi, nguy ngập, mà
nâng đỡ một phần, sẽ hơn tạo
phương tiện cho người khác mười phần!
Khoan dung một phần, sẽ hơn tạo phương
tiện cho người khác mười phần! Nếu có
thể cứu giúp kẻ bần cùng, giải trừ oan ức,
dạy kẻ ngu, nâng đỡ kẻ yếu thế, chẳng
thừa dịp họ gặp nguy mà gạt gẫm, chẳng
v́ ăn của hối lộ mà đánh đập [phạm
nhân hoặc nghi can] tàn khốc, chẳng cần hiểu biết
cặn kẽ t́nh tiết mà đă cố ư oan uổng họ,
chẳng điên đảo văn từ (chơi chữ,
gài bẫy để kết tội), rối loạn pháp luật, ắt trong một ngày, có thể làm được
mười mấy việc thiện. Tích lũy ba năm, sẽ
có mấy vạn điều thiện. Người ta
đang cơn khốn khó, ai mà chẳng biết cảm kích?
Thần minh [ở cách đỉnh đầu] ba thước,
có vị nào chẳng phù hộ? Tự nhiên hằng ngày chuyện
cát khánh (tốt lành) sẽ xảy tới, con cháu hưng thịnh.
Nếu chẳng như vậy, tài sản tom góp bằng sự
oán độc, dẫu đạt được cũng chẳng
phải là phước!
Lại có kẻ
nghèo túng chẳng có tiền tài để [quan trên, nha lại] có thể lừa gạt được; v́ thế, bèn
dùng h́nh phạt tàn
khốc [để hành hạ
họ, làm như thế] chỉ tổn âm chất, chất
chứa oán hận để làm ǵ? Bất luận xưa
kia hay trong hiện thời, bậc hào kiệt ẩn thân
trong chốn nha môn cũng luôn cúng tế cô hồn, làm trai
đàn, thâu nhặt chôn cất đầu lâu, hoặc
cũng có kẻ thương xót người già cả cô quạnh,
nghèo khó, bèn kêu gọi quyên góp châu cấp, nuôi nấng. [Những
người như vậy] toàn là người tốt tâm
lành, có ai chẳng phải là con hiếu, cha nhân từ? Chỉ
sợ những kẻ coi tiền tài quá nặng, chắc là
cơi âm sẽ quở phạt chẳng nhẹ! Sao bằng châm
chước tài lực [của chính ḿnh] có thể [giúp đỡ
những kẻ nghèo khổ] hay không, ḷng luôn nghĩ tạo
thuận tiện [cho người khác], dẹp bớt oai thế
hùng hổ, đừng buông lung tàn độc? Trong mạng
mà có th́ đến thời rốt cuộc sẽ có, mai sau ắt hưởng
phước lâu dài! Trong ấy (trong số các quan lại,
nha dịch), có những vị thiện tín, diệu nhân, hăy nên dùng ư này để khuyên bảo
các đồng liêu, công đức càng là vô lượng.
Phàm là những kẻ
làm sai dịch trong chốn cửa công, quen thói bẻ cong pháp
luật[27],
quen tật đánh đập [tội nhân], giống như
những kẻ làm nghề đồ tể. Tích tập lâu ngày, ư niệm giết chóc ngày càng thêm lừng, ư niệm
cứu sống ngày càng ít ỏi. V́ thế, có kẻ lúc mới
vào nha môn, vẫn c̣n có ḷng [trắc ẩn], lâu năm bèn biến
thành gă giặc giảo hoạt, quên sạch tánh [hiền
lương, nhân từ] thuở trước. Lại có kẻ
chính ḿnh c̣n là người tốt, nhưng do bị mọi
người công kích, rốt cuộc đọa trong ác đạo.
V́ thế, đối với tâm thuật [của chính ḿnh],
chẳng thể không cẩn thận. Những kẻ táng tận
lương tâm quá mức, cáo mượn oai hùm, tự cho
ḿnh là bậc hào kiệt, làm những chuyện gian trá trái
pháp, tranh nhau khoe khoang ta là kẻ đảm lược,
mưu trí, chẳng biết là đang tạo ác, tạo nghiệp,
con cháu sẽ phải hứng chịu, đời sau phải
đền trả, cũng ích chi đâu? Khoan hăy nói đến
những điều xa xôi ấy, hăy nh́n vào những ǵ ta [có thể] thấy nghe trước mắt. Kẻ hại
người đă nhiều, lừa gạt quá mức, bị
dân trong huyện cùng nh́n bằng nửa mắt[28], có kẻ
nào chẳng mắc vào lưới pháp luật? Trong số
đó, có kẻ ăn chay, tụng kinh để chuộc tội
trước. Cố nhiên cũng là do lương tâm chớm
nẩy, có thể giải trừ một, hai phần, nhưng nếu ỷ vào đó, bảo là
“có thể chuộc lỗi ác” rồi cứ mặc sức
làm bậy chẳng màng th́ sai mất rồi! Tiền của
do bất nghĩa mà có, bố thí vô ích! Hơn nữa, sám hối
tội lỗi mà vẫn tạo tội, tội càng nặng
thêm. Chẳng thà làm phương tiện này, khoan dung đối
với kẻ bần cùng, cứu vớt người oan khổ.
Mọi người biết kẻ như vậy là bậc
trưởng giả trung hậu, ắt sẽ nương
cậy nhiều, mà tài vật đạt được
cũng khá. Gần th́ là có pháp luật của nước
nhà, xa th́ là cơi âm trách phạt, hăy nghĩ kỹ nhé!
Đời Minh,
ông Cảnh Cửu Trù giữ chức Lưỡng Hoài Diêm Vận
Ty[29], nổi tiếng
liêm khiết. Có lần ông ngồi bên bờ nước, một
đứa bé trai thưa: “Nước thanh khiết chẳng
bằng sự thanh liêm của sứ quân”. Đầu niên hiệu
Thiên Thuận[30], vua muốn
đề cử quan viên liêm khiết để tuyên cáo cùng
thiên hạ, bèn xuống chiếu phong ông làm Đô Ngự Sử.
Về sau, ông làm Thượng Thư. Con ông là Dụ, tuân thủ
lời cha giáo huấn, suốt đời vâng giữ sự
thanh tu, cũng làm quan đến chức Thái Tử Thái Bảo,
Lại Bộ Thượng Thư.
Phàn Quang làm Quận
Tá tại Giao Chỉ, đang làm việc tại nha môn, bỗng
gió giật, sấm đánh dữ dội. Phàn Quang, con trai hắn
và con chó đều bị sét đánh
chết. Vợ hắn trong lúc sấm sét thấy một
đạo sĩ nắm lấy thân bà ta, đặt
sang chỗ khác, bèn được thoát nạn. Mọi
người hỏi duyên cớ, bà vợ đáp: “Từng có
hai người thưa kiện nhau, cùng bị tống giam.
Kẻ đuối lư bèn hối lộ Phàn Quang, Phàn Quang liền
thả kẻ ấy. Người đúng lư lại
bị tra khảo dữ dội nhằm ép người ấy
nhận tội oan uổng. Những thức ăn [do người
nhà] gởi cho người ấy, Phàn Quang đều tước
đoạt, đem cho con trai và chó ăn. Người tù ấy
v́ đói sắp chết, nghe nói ông ta ở trong ngục bèn
xơa tóc tố cáo lên cơi trời. Chẳng đầy mấy
bữa bèn xảy ra chuyện này”.
Hầu Giám làm huyện
lệnh ở Giang Hạ, làm bạn với một vị
Tăng, mỗi khi rảnh rỗi ắt đến thăm. Hễ đến
thăm, vị Tăng ắt đă bày tiệc sẵn. Ngẫu
nhiên có một hôm đến thăm, Sư đăi đằng
thiếu sót. Hầu Giám hỏi nguyên cớ, vị Tăng
đáp: “Mỗi lần ông đến, thần Thổ Địa
ắt báo trước. Lần này chẳng báo; do vậy,
sơ sót trong tiếp đăi”. Hầu Giám kinh ngạc, bảo
vị Tăng hăy hỏi Thổ Địa nguyên do chẳng
báo. Đêm ấy, vị Tăng mộng thấy [thần Thổ
Địa] nói: “Hầu Giám vốn đáng lẽ làm đến Tể Tướng, nhưng gần
đây, hắn đă nhận sáu mươi lượng bạc
[đút lót] của họ Hồ để xét xử oan uổng
một chuyện. Thiên tào đă tước bỏ chức vị Tể Tướng của hắn, chỉ
được làm đến chức Giám Ty[31], chẳng
thuộc quyền thống nhiếp của tôi nữa, cho
nên chẳng báo”. Ôi! Dùng sáu mươi lượng tiền hối
lộ để đổi lấy địa vị Tể
Tướng, là có trí hay ngu si vậy? Hơn nữa, thần
minh không vị nào chẳng tận lực khuyên dạy con
người “nhận của đút lót sẽ bị giảm
phước”, nhưng kẻ chẳng tự biết đông lắm!
Lại như
thôi quan (推官, vị
quan trông coi về h́nh pháp) là Ngụy Chiêu từng nhận của
đút lót bốn trăm lạng, cố ư gỡ tội cho
kẻ nọ, khiến người đă bị hại chết
phải ngậm oan chẳng giăi bày được. Thượng
Đế tước bỏ bổng lộc, ngạch trật,
và tuổi thọ của hắn; năm
sau, Ngụy Chiêu chết ngắc. Người thời nay
thường bảo “gỡ tội
đỡ hơn buộc tội” để bào chữa.
Theo đúng pháp, chẳng thể dung túng [kẻ có tội], chẳng
thể oan uổng người vô tội!
Hạ Xán Nhiên ở
Tú Thủy, làm nha lại trông coi h́nh sự[32], liêm khiết,
chẳng tham. Xét án công bằng, khoan dung, xét theo t́nh cảm lẫn
pháp luật đều thích đáng. Đối với những
tội nhân đáng thương, ông thường rộng
dung, khoan hồng. Gặp lúc hai tỉnh Sơn Đông và Hà
Nam bị mất mùa, ông Hạ lại viết sớ, khuyên
Diêu Tư Nhân [đang làm Công Bộ Thượng Thư thuở
ấy] hăy xin vua phát chẩn, cứu sống ngàn vạn
người. Về sau, ông Hạ đỗ Tiến Sĩ
lúc bốn mươi tuổi, làm quan đến chức Lại
Bộ Thượng Thư.
Ông Trần Tài từng
nằm mộng thấy thần bảo: “Tử túy khôi[33]
dă, thả liên đệ, quan chí Tuần Phủ” (con trai của ngươi sẽ đỗ đầu khoa Tân Dậu, đỗ
đạt liên tiếp, làm quan tới chức Tuần Phủ).
Ông tỉnh giấc bèn kể với người khác. Có
người nói: “Túy là Tân Dậu”. Đến năm Tân Dậu,
quả nhiên con ông thi đậu, nhưng thi Hội chẳng
đỗ. Ông hoài nghi giấc mộng chẳng ứng nghiệm.
Lại mộng thấy thần bảo: “Số trời là cố
định, có sự chuyển dời là do con người.
Như thiên tử sủng ái một đại thần, ban
cho tước lộc trọng hậu. Nếu đại
thần chẳng tận lực trung thành, há có thể nào chẳng
bị đoạt mất chức tước, bổng lộc ư? Hoặc là cậy được vua sủng
ái mà chuyên phóng túng dụng h́nh, giết chóc, ắt họa sẽ xảy đến
thân! Số trời và phép nước giống nhau. Sau khi con trai của ngươi đỗ kỳ thi Hương, ngươi đă
làm năm chuyện [sai trái], nhận tiền hối lộ của kẻ khác, tổn
đức nhiều lắm! Há có nên oán trời tước
đoạt phước của ngươi ư? Từ nay
hăy nên tu đức, may ra c̣n giữ được tuổi thọ. Nếu không, sẽ đoạt mất tuổi thọ
của ngươi!” Ông Trần khóc, lạy, tỉnh giấc,
hối lỗi, hướng lành, [rốt
cuộc con trai ông ta] chỉ làm tới chức Huấn Đạo[34] là hết mức!
Phàm là người
đă đỗ Cử Nhân, hăy nên tu thân như ngọc,
chuyên chú làm những việc gieo bồi đức hạnh,
ắt sẽ đỗ đạt và thăng chức đều
dễ dàng. Hiềm rằng, kẻ đă bước chân vào
chốn quyền thế, lợi lộc, chỉ mong thỏa
ḷng khoái ư, chẳng biết dẫu tài văn chương
cao sâu mà chẳng gặp thời, công danh vẫn bị trở
ngại! Thậm chí c̣n bị giảm thọ, chết yểu,
đều thuộc hạng người này. Xin những ai
có chí, hăy liền phản tỉnh tu thân. C̣n như bậc
hương thân là những người được dân
chúng ngưỡng vọng, họ đă từ quan về nghỉ,
hễ làm lành sẽ có thể khiến cả quận huyện
bị cảm hóa, hưng khởi phong tục tốt đẹp
cho cả châu lư[35], vun bồi
cho thế hệ sau gấp trăm lần những kẻ
đang làm quan. V́ thế, kẻ có thể thân cận người
hiền, tuyên dương điều thiện, chủ tŕ
phong tục, những người ấy là bậc thượng.
Người giữ cho bản thân chánh đáng ḥng hướng
dẫn mọi người noi gương, tự giữ sự
điềm tĩnh, sẽ kém hơn một bậc. Kém
hơn nữa là hạng lo tậu ruộng mua nhà. Kém hơn
nữa là hạng người lường gạt con côi,
đối xử hung bạo với bà góa. Kém hơn nữa
là hạng người mưu cầu tài lợi, nói đến
chuyện ǵ cũng ṿi tiền, khiến cho phong hóa biến
đổi [ngày càng tệ hơn], chẳng dám nhắc tới
nữa!
Vương Tảo
làm nha lại thuộc về h́nh pháp, mỗi ngày đều
cầm tiền về. Bà vợ ngờ chồng ăn hối
lộ trong khi thẩm tra, bèn sai đứa tớ gái đem
mười cái móng gị lợn đem biếu. Đến khi
chồng về, bèn nói: “Tôi sai người biếu ông mười
ba cái”. Vương Tảo giận đứa tớ gái lấy
trộm, bèn tra khảo nghiêm ngặt, đứa tớ gái bị
ép uổng phải nhận tội. Bà vợ bèn nói: “Ông hằng ngày cầm tiền về, tôi ngờ ông giở mánh khóe gán ghép kết tội, cho nên dùng chuyện đứa tớ gái để
thử ông. Hễ bị tra tấn th́ [nghi can] có chuyện
ǵ mà chẳng thừa nhận! Xin ông từ nay đừng
đem một đồng nào về nữa! Nhận vật bất
nghĩa, sau khi chết, ắt phải chuốc
lấy tội vạ”. Vương Tảo run sợ, tỉnh
ngộ, mồ hôi ướt đẫm lưng, đề thơ rằng:
Già khảo truy lai chỉ vị câm (kim),
Chuyển tăng oán nghiệp
kỷ hà thâm.
Tùng kim bất nguyện cố
đao bút,
Phóng hạ quy lai du trúc lâm.
(Khảo tra rốt
cuộc v́ tiền,
Tăng sâu bao nỗi
oan khiên dường nào,
Từ nay nguyện
bỏ bút đao[36],
Quay về rừng
trúc tiêu dao tháng ngày).
Ông liền chia hết
của cải, bỏ nhà học đạo. Về sau, chứng
đạo thành Bảo Ḥa Chân Nhân.
Trương Nhất
Tác làm sai dịch cho một vị h́nh quan ở kinh đô, [luôn] mưu mô để được lănh trát đi bắt người. Hắn thường
cầm theo một cái xích sắt rất lớn. Hễ nhận
được tiền thỏa ư, mới thả
cho đi. Hễ có chút ǵ chẳng vừa ư, nếu chẳng
lén tra khảo, th́ sẽ bịa chuyện bẩm báo quan trên:
“Kẻ này tung tích quỷ dị, bí hiểm, hăy nên giam chặt”.
Lại c̣n trên là cấu kết với bọn thư lại[37], dưới
là cấu kết với bọn cấm binh[38], vu cáo, bịa
đặt, đe dọa, dối trá, không chuyện ǵ chẳng
làm. Ba năm hắn giàu sụ, ai nấy đều sợ.
Cái danh hiệu Nhất Tác (一索, một sợi dây xiềng) do đó mà có. Hắn bị
Khổng Tuần Án[39] bắt giữ,
xử tử, tịch thâu tài sản giao cho quân đội,
vợ và con gái bị giao cho giáo phường[40]. Nay những
kẻ làm quan lại, sai dịch trong các nha môn đang mài
răng hút máu [dân chúng] như Trương Nhất Tác rất
đông. [Do vậy, đối với] kẻ chưa gia nhập
[giới quan lại, sai dịch], xin khuyên hăy dốc sức
cày bừa, buôn bán. Đối với kẻ đă gia nhập,
xin khuyên hăy sửa ác theo lành. Đối với thân thích, bằng
hữu, cũng đều nên khuyên họ lưu ư.
Trương Ḥa
Tư làm ngục quan (quan trông coi nhà tù, thẩm tra phá án), tham ăn hối lộ, tàn khốc. Mỗi khi hắn
thẩm vấn, ắt dùng đủ mọi cách tra khảo,
gông, cùm, xiềng, xích, [hành hạ tội nhân] khốn khổ,
đau đớn tột bậc. Tù nhân trông thấy, ai mà chẳng
vỡ mật. [Do vậy, hắn có biệt hiệu] là Sanh
La Sát (La Sát sống). Hắn sanh ra con trai, con gái, đều
đeo gông thịt, cùm thịt, rơi xuống đất
chết tươi. Về sau, Ḥa Tư cũng do phạm tội
mà bị tru lục.
Lại có một
gă lính canh ngục, tham lam, đối xử bạo ngược
với tù nhân. Tù nhân chịu khổ chẳng thấu! Gă canh
ngục ấy ắt phải nhận được tiền
mới bớt hành hạ. Về sau, hắn sanh con, [đứa
con] cũng đeo cái gông bằng thịt, chẳng đầy
mấy năm, chết ngắc. Gă canh ngục ấy
cũng bị phạt trượng mà chết.
Trong những nỗi
khổ của đời người, lao ngục là khổ
sở nhất. Trong ấy, nỗi khổ v́ bẩn thỉu,
hỗn tạp, dịch bệnh, kiết lỵ nặng nề
nhất vào những tháng nóng. Tại kinh đô, mỗi
năm các quan vâng chỉ tiến hành nhiệt thẩm[41], nhưng chưa
có người thật sự thực hiện đúng. Nếu
là bậc quân tử có ḷng nhân, xin hăy nhất
quyết ấn định
theo lệ, đối với những
án chưa được giảm khinh, hăy giải quyết
trọn vẹn một phen. Đối với những tù
nhân phạm trọng tội đang bị xiềng xích, hăy
chú trọng sai những nha lại thích đáng đến
quét dọn nhà tù, rửa sạch gông cùm, ngơ hầu ḷng nhân
hiếu sanh của thánh chúa được lan rộng. Trong
tháng nóng, chẳng được lạm dụng [quyền
hạn để] lấy khẩu cung, chẳng được
tùy tiện câu lưu [nghi can], chớ nên không thường xuyên
xem xét sổ bộ của nhà tù, tra xét số lượng
tù nhân. Nghiêm cấm bọn nha lại, sai dịch không
được lạm quyền gán tội cho người khác,
phải chú trọng sao cho hầm lửa trước mắt
hóa thành thế giới thanh lương. Chuyện này chỉ
cốt sao kẻ đang nắm giữ quyền hành, do ư niệm
dấy động mà thốt lời, nhấc bút, chỉ trong chốc lát
[sẽ có thể giải quyết những tệ nạn tồn
đọng] đó thôi!
Than ôi! Những
chuyện vừa nói trên đây, tệ nạn [đối xử]
tàn khốc đối với dân chúng của
bọn nha lại, sai dịch, không đâu chẳng có! Kẻ
cai trị dân đang ngủ say mộng yên trong chốn nha
môn cũng nên suy lường chuyện này! Lành thay, ông Châu Thắng
đă nói: “Bọn thư lại tham lam, ta chẳng giao án từ
cho họ. Bọn sai dịch tham lam, ta chẳng xằng bậy
giao cho họ bắt bớ. Kẻ canh ngục tham lam, ta chẳng
dễ dăi giao cho họ giam giữ tù nhân”.
(Chánh văn) Dĩ trực
vi khúc, dĩ khúc vi trực.
(正文)以直為曲。以曲為直。
(Chánh
văn: Coi đúng là sai, coi sai là đúng).
Hai bên kiện tụng
lên quan, đúng hay sai chưa định, phán quyết sống hay chết
do một lời của ta, há nên khinh suất? Nay đúng sai
điên đảo, nếu chẳng phải là do được
kẻ khác hối lộ, ắt là v́ xử sự theo t́nh cảm
riêng tư. Nếu không, sẽ là v́ ơ hờ, lỗ măng!
Hễ vướng vào thói ấy, há có đáng làm quan cai trị
dân nữa chăng?
Người họ
Trương nọ làm quan ở đất Thục, xử
sự tàn khốc ḥng thỏa ḷng tham. Hễ xử án cho
dân, chẳng quản đúng sai, kẻ
có thể đút lót, ắt hắn sẽ từ
vô lư biến thành hữu lư. Kẻ chẳng thể hối lộ,
dẫu đúng cũng thành sai! Dân chúng đều nghiến
răng [căm hận]! Về sau, hắn bị băi quan, về
quê, bị thưa kiện về tội hại mạng
người. Con hắn chẳng ra ǵ, tài sản trong nhà mất
sạch. Hắn mắc bệnh ngặt nghèo mà chết.
Lưu An Dân là một
huyện lại, giữ ḷng công bằng, được mọi
người kính trọng. Hễ dân có chuyện kiện cáo,
sẽ chẳng đến huyện ngay, mà ắt sẽ t́m
đến ông trước để ông phán quyết
đúng sai, vạch ra có nên thưa kiện hay không rồi mới
làm theo. Ông ắt sẽ đảm nhận, tiếp nhận
vụ án chẳng nề hà. Hễ đúng lư liền nói là
đúng lư, đi thưa được. Hễ sai, sẽ
phê rằng: “Chuyện này sai rồi! Có kiện cũng thua!”
Do vậy, chuyện thưa kiện trong cả huyện giảm
thiểu rất nhiều. Về sau, hai đứa con trai của
ông đều đỗ đạt, cho đến nay vẫn
là vọng tộc.
Triệu Thời
làm Giáo Thọ tại châu Vô Vi. Ông mộng thấy một tù
nhân nói: “Tôi bất hạnh bị Tổ Tường làm hại”.
Triệu Thời nói: “Tổ Tường thông hiểu pháp luật,
lại liêm khiết, cẩn trọng, làm sao oan uổng ông
cho được?” Tù nhân nói: “Tôi chết tuy chẳng do ư
ông Tổ, nhưng v́ ông ta hoài nghi, cho nên đến
nỗi chẳng thể phân biệt đúng sai, rốt cuộc
luận định tội chết [cho tôi]. Nỗi oán hận
chẳng bắt nguồn từ Tổ Tường th́ là ai
đây? Tôi đă tố cáo dưới
âm ty, Tổ Tường chẳng c̣n được bao lâu nữa
đâu!” Hơn một tháng, quả nhiên [Tổ Tường]
chết. Gần đây, chuyện thưa kiện vu khống
người khác rất phổ biến, dẫu chẳng thể
dùng đức cảm hóa, nhưng nếu luật lệ “kẻ vu cáo sẽ bị phạt
tội nặng thêm ba cấp” được thực hiện
nghiêm ngặt, ắt kiện tụng sẽ giảm bớt.
Dẫu có kiện cáo, cũng sẽ chẳng đến nỗi
phán quyết sai lầm quá nhiều! Sợ nhất là kẻ
thuộc hạ đứng về phía nguyên cáo, tùy tiện sửa
đổi nội dung thẩm vấn, ḥng dấy động
thói kiện cáo, bọn họ chỉ sợ các vụ án sẽ
được giải quyết dễ dàng!
(Chánh văn) Nhập khinh
vi trọng.
(正文)入輕為重。
(Chánh
văn: [Kẻ đáng phán] tội nhẹ mà phán định
nặng hơn).
Kinh Thư chép: “Tội nghi duy khinh” (Khi có
nghi ngờ, th́ nên kết tội nhẹ). Lại nói: “Ninh thất xuất, vô thất
nhập” (Thà tha tội sai, đừng kết tội sai). Vậy
th́ cố ư ghép tội nhẹ thành tội nặng, tâm ư thận
trọng trong h́nh pháp của thánh nhân há c̣n hay chăng?
Mạng người quan trọng bằng trời, [đấy là chuyện] hàng quan lại đáng nên lưu ư nhất. Trong cơi
đời, vu cáo là chuyện thảm khốc cùng cực. Kẻ
dưới dùng chuyện này để chơi đểu
[người bề trên], cho đến kẻ nô bộc lấn
hiếp chủ nhân, tá điền ngoan cố quịt nợ
chủ ruộng, thê thiếp khống chế chồng,
[không kẻ nào chẳng dùng thủ đoạn này]. Hễ
chẳng cẩn thận, làng nước, họ hàng sẽ
thừa dịp nhúng tay, bọn tấn thân[42] do vậy sẽ
mài răng, xâu xé gia sản, làm nhục phụ nữ, giam
trói thi thể dẫu xác chết đă rữa nát[43], xúm nhau
đánh đập tàn nhẫn để đ̣i hối lộ.
Do đó, [những đối tượng dễ bị vu
hăm nhất là][44] con v́ kích
động mà giết chết mẹ, vợ v́ quá giận
mà giết chồng. [Có kẻ] ỷ ḿnh có nhiều con trai
để nương cậy, bèn giết trẻ nhỏ
để làm bằng cớ vu cáo người khác, nhắm
đến những nhà giàu có như miếng mồi thơm
béo. Kẻ có học hoặc bậc thân sĩ tằng tịu
với bọn nô tỳ, [đúng là bọn] ăn mày trong
phường áo mũ[45], ngấm ngầm
lập mưu tính kế, công khai giở tṛ, sáng giận, chiều
vui[46]. Cho nên mới
có chuyện ngược đăi thi thể, đốt
xương, đạp cửa, phá nhà, kẻ nghèo cùng [chỉ
đành] oán hận, khoanh tay đứng nh́n[47], hàng thân
thích giàu có [cũng bị liên lụy] gặp phải tai
ương, mắc tội. Đủ mọi lẽ chẳng
dễ thuật trọn!
Bậc trưởng
quan trong cơi đời cứ riêng cho rằng hễ kiểm
nghiệm thi thể và hiện trường vụ án, sẽ
đủ để luận định kết án, ḥng
được ca ngợi là [phá án] mau chóng. Nào có biết bọn
“cá rỉa thịt nát, ḱnh ngư nuốt chửng, hổ
xơi tái” đă đến mức cùng cực như thế
ấy! Chẳng ngăn dứt thói tệ ấy, không chỉ
là xô đẩy người khác tự sát, mà c̣n khiến cho
cha, con, anh, em [do ôm ḷng] cầu lợi từ cái chết [của người
thân, dẫn đến những hành vi bạo ngược]
như phơi thây, hủy diệt luật pháp! Xét theo những
t́nh tiết ấy, có khác ǵ chính tay đâm chết [nạn nhân, những kẻ gây tạo những hành vi bạo ngược
ấy] thật sự đáng bị
lăng tŕ xử tử! Nay đă khó thể nhất loạt
gạt đi chẳng quan tâm tới, chỉ cần nghiêm ngặt
phạt tội vu cáo nặng thêm ba bậc. Chẳng luận
đến những trường hợp bị oan uổng
tột bậc hay bị áp bức cùng cực, phàm là do thuốc
mà chết, chẳng thể kết luận là chết v́ dùng
thuốc, đối với kẻ treo cổ, hay tự
gieo ḿnh xuống nước, chẳng thể kết luận
người ấy chết v́ tự treo cổ hay tự trầm[48]. Phải thẩm
vấn theo đúng luật, cốt sao trừng trị một
người, sẽ khiến cho trăm người kiêng dè,
yết bảng thông cáo: Người này bị thân nhân bức
tử để mong ngụy tạo chứng cứ ḥng vu
cáo [người khác để kiếm lợi]. Đă khám
phá sự t́nh, sẽ càng phải nên xử
phạt nghiêm trọng. Có kẻ thừa dịp rối ren
để lường gạt, mạo nhận, ḥng ḱm kẹp, đánh đập người khác, [đối với những trường
hợp như vậy], phải
nghiêm ngặt chiếu theo pháp lệnh [để thẩm
tra] th́ sự t́nh mới được sáng tỏ. Đă thấu
hiểu sự t́nh, sau đấy mới có thể luận
định đúng, sai, xét tội nặng, nhẹ, [làm
như vậy th́ tội nhân hoặc nghi can] sẽ sống
chẳng đau khổ, chết sẽ chẳng ôm hận,
thân thích chẳng ôm ḷng kiếm lợi từ
cái chết [của người nhà], phong tục sẽ chẳng
có thói ác điên đảo thị phi, cướp đoạt
tài vật. Âm đức ấy há có hạn lượng
ư?
Người thời
nay hễ có chuyện liên quan đến án mạng, [quan lại,
nha dịch điều tra vụ án] chẳng cần biết
t́nh tiết là nặng
hay nhẹ, [chẳng chú trọng] xem xét sự việc là thật hay giả, [đă đánh
đập] bằng roi cật tre chưa đủ, [lại c̣n]
chuyển sang kẹp ngón tay, lại chuyển sang dùng côn kép[49], thậm
chí c̣n có trường
hợp đánh hơn trăm gậy! Dưới
sự thống khổ ấy, muốn cho tội nhân khai ǵ
mà chẳng được! Sau đấy, liền kết
án thành tội tử h́nh. Lúc đó mới cho tội nhân
được thong thả chốc lát. Những người
có ḷng nhân trong cơi đời có thể động ḷng thương
xót đối với chuyện này hay chăng?
Ông Châu Nhật Thăng
nói: - Cái thói ngụy tạo những vụ án liên quan đến
nhân mạng để vu cáo [người khác ḥng kiếm lợi]
hết sức sâu đậm ở phương Nam. Lúc tôi làm
huyện lệnh ở Ô Tŕnh, đă đau đáu trừng
phạt [để ngăn dứt] thói tệ này. Ngoài ra c̣n
ban hành mẫu đơn thưa tŕnh án mạng, [trong đó]
viết thẳng thừng ngày, giờ, lời khai, chẳng
cho phép sử dụng những từ ngữ thêm thắt,
điêu ngoa. Về sau, tờ cáo trạng được in thành hai mặt,
lại chia thành bên trái và bên phải. Tờ đơn ghi những
chỗ thương tích nơi tử thi do người
đâm đơn tố cáo tự điền vào đó, [khi
nha môn nghe] tiếng trống báo án, sẽ cho phép người
ấy vào nạp đơn. Chẳng câu nệ thời khắc,
[hễ nghe báo án], tôi tức khắc đích thân tới chỗ
có thi thể, chiếu theo lời cung khai [trong đơn báo
án] để thẩm vấn, chiếu theo h́nh vẽ [những
chỗ thương tích do người đâm đơn vẽ
ra] để kiểm nghiệm sơ qua, trọn
chẳng giao phó thuộc hạ [khám nghiệm] mà cậy
ngỗ tác[50]
[kiểm nghiệm thi thể]. Nếu quả thật là do
thương tích [mà chết], bèn
theo đúng luật định tội. Nếu là vu cáo, dối
gạt, sẽ quở phạt nghiêm ngặt. C̣n như những
trường hợp tự thắt cổ, gieo ḿnh xuống
nước, sảy chân ngă chết v.v… bèn
chiếu theo t́nh huống của mỗi trường hợp mà phân định, sẽ phê công văn cho chôn ngay
để dứt trừ nỗi khổ v́ có kẻ mưu
toan cướp đoạt, dối trá, cố t́nh kéo dài. Dẫu
gặp lúc nắng gắt hay rét buốt, góc núi xa xôi, hay
nơi đọng nước, cũng chẳng ngần ngại,
chậm trễ chút nào! V́ thế, trong ṿng hai năm, trọn
chẳng có chuyện dùng án mạng để cáo giác kẻ
khác. Ôi! Chuyện mạng người liên quan đến
sanh tử, há chẳng nên cẩn thận ư?
Lư Nhược Thủy
làm Tư Lư[51]
ở Hoài Nam. Khi ấy, có năm tên giặc cướp, do
sự t́nh bại lộ bị tống giam. Chúng lại khai
đă từng kết bè đảng với một nhà
sư. Khi năm gă ấy bị hành h́nh, vị Sư mới
xuất hiện thưa: “Tôi thật sự chưa từng
trộm cướp”. Đối với chuyện này, Lư
Nhược Thủy có thể bỏ qua, nhưng ông ta chấp
chặt lời bọn cướp là thật, bèn thảm
sát nhà sư. Hơn một tháng sau, gă lính canh ngục tên là Lư Năng vô cớ
kêu ầm lên: “Ḥa thượng ơi! Tôi chẳng liên can
đến chuyện này, chỉ v́ quan Tư Lư sai khiến
tôi mà thôi!” Nói xong, chết ngắc. Hôm sau, viên Thôi Tư[52] là Lưu
Nguyên cũng chết. Hôm sau nữa, Nhược Thủy chết
bất ngờ. Cả một nha môn chết gần hết!
Đời Tống,
ông Triệu Thanh Hiến[53] làm Tiết
Độ Thôi Quan[54] ở huyện
Vũ An. Dân chúng có kẻ ngụy tạo ấn tín [của
quan chức], bọn nha lại đều nói: “Đáng tội
chết!” Chỉ riêng ông là nói: “Tạo ấn trước
khi có lệnh đại xá, sau khi đại xá mới dùng.
Trước khi đại xá chẳng dùng, sau khi đại
xá chẳng tạo. Xét theo pháp luật, đều
chẳng đáng chết”. Ông bèn coi đó là tội t́nh nghi,
tha cho. Cho đến khi ông làm tri phủ Thành Đô, có gă Lư
Hiếu Trung tụ tập hơn hai trăm người, tạo
riêng phù điệp[55] để
độ người khác làm tăng. Có kẻ cáo giác hắn
âm mưu phản nghịch, bọn họ đều bị
bắt giam. Ông không nghe lời bọn pháp lại (法吏, nha lại trông coi về h́nh pháp) đề nghị [phán án tử h́nh toàn thể bọn
họ], chỉ xử Hiếu Trung về tội lén tạo
phù điệp, những kẻ khác đều được
miễn tội chết. Chuyện bị đồn thổi
ầm ĩ đến kinh thành, đồn ông tha cho lũ
phản nghịch. Triều đ́nh tái xét hồ sơ vụ
án, rốt cuộc [cũng phán quyết] chẳng khác ông. Về
sau, ông được phong làm Thái Tử Thiếu Bảo rồi
hồi hưu. Con ông là Hoàn và Ngột đều quư hiển.
Mạo Khởi Tông nói: “[Bọn nha lại cố ư kết tội]
chẳng luận theo chuyện trước khi đại
xá, mà dùng chuyện sau khi đại xá, chính là gán tội nhẹ
thành tội nặng”. Ân Văn Trang đă nói hay lắm thay:
“Vua đă xuống chiếu tha cho người có tội, thế
mà [bọn nha lại] vẫn phán quyết theo
lệ cũ. Vua xuống chiếu xóa tội thiếu thuế,
mà [bọn nha dịch] vẫn thúc giục thuế má cấp
bách. Ân đức [của hoàng đế] bị ngăn lấp,
dân chúng không cách nào được hưởng ân trạch
nhân từ. Đấy chính là điều khiến cho những
vị chánh nhân quân tử đau ḷng, nghiến răng vậy”.
Đời Hậu
Hán, Quách Hoằng học tập tinh thông bộ luật của
Tiểu Đỗ[56]. Thái Thú Khấu
Tuân cử Quách Hoằng giữ chức Quyết Tào Duyện[57]. Ông xử
án suốt ba mươi năm, vận dụng pháp luật
công bằng, khoan dung. Dân chúng chẳng hề oán thán. Họ
sánh ví ông giống như ông Vu ở Đông Hải[58]. Ông mất
lúc chín mươi lăm tuổi. Con ông là Cung, nối nghiệp
cha từ trẻ, về sau được phong làm Đ́nh Úy[59]. Gia tộc Quách Cung nhiều đời
nắm giữ pháp luật, chú
trọng khoan dung, công bằng. Khi ông
làm quan phán xử, hễ phán án phần nhiều là
thương xót, khoan dung. Ông lại thấy trong pháp luật
đương thời có những điều khoản quá
nặng, có thể giảm nhẹ, bèn tấu tŕnh bốn
mươi mốt điều luật [đáng nên sửa đổi], đều được [vua chấp thuận,
cho phép] thi hành, trở thành pháp lệnh. Những đề
nghị sửa đổi về luật lệ do Quách Cung
tấu tŕnh đă cứu sống nhiều người. Mấy
đời sau đều nối nghiệp theo ngành tư
pháp, quư hiển, hưng thịnh khôn sánh.
Bài Tỉnh H́nh
Châm (省刑箴, châm ngôn
về giảm thiểu tra tấn) viết: - Đừng mặc
sức ra oai, ḥng thỏa thích ḷng riêng, chớ vận dụng
phép nước thỏa ḷng ta mừng, giận. Chớ thuận theo t́nh riêng mà vặn vẹo luật
pháp, coi sanh mạng dân chúng hệt như lũ ruồi bọ.
Đừng v́ kẻ phạm nhân giận dữ trừng mắt
nh́n, cứng cổ không chịu phục, nói năng chậm chạp, hoặc lắp bắp, bèn cố ư gài bẫy, trí
trá gán tội họ. Đầu ngọn trượng giáng xuống,
người sống biến thành ma. Dưới ng̣i bút phán
quan, phạm nhân đành chết ngóp. Bứt sợi tóc biết
đau, cắn ngón tay biết xót. Một ngày bị đánh
đấm, ba mùa nghỉ cuốc cày. Một chồng bị tống ngục,
nhà tám mạng đói rách. Động vật hay thực vật,
thảy đều là sanh mạng, huyết nhục thảy
rền trời. V́ thế, Vu Đông Hải, tiếng nhân ức
vạn năm!
Bài Tỉnh Phạt
Châm (省罰箴, châm ngôn
khuyên giảm thiểu h́nh phạt): - Đừng dùng tiền
bán con gán vợ của dân để nuôi béo vợ con ta!
Đừng phạt dân tan nhà phá sản để tăng
thêm ruộng nương, nhà cửa cho ta. Đừng cướp
đoạt tài vật khiến dân oán thán, gào khóc v́ đói lạnh,
dập đầu than trời để cung ứng cho tiệc
tùng ca múa, cười cợt. Để chuộc tội,
dân phải tốn món tiền bằng khoản thuế cho
trăm mẫu ruộng. Để nạp một tờ
đơn, phải húp cháo mười ngày! Một hạt gạo
đổi bằng máu của nông phu, bao nỗi gió
sương chua xót, khổ sở. Một đoạn the là
nước mắt của người phụ nữ dệt cửi, biết bao đêm quên ăn, bỏ
ngủ! Kể từ ngày quan phủ tích chứa máu mỡ của
dân, chính là lúc bắt đầu nỗi oán ghét của dân
nghèo. Chẳng giấu diếm thần minh nổi đâu,
đạo trời sẽ báo đền nhanh chóng! Do vậy,
Dương Bạch Khởi[60], muôn năm
tiếng thơm truyền.
(Chánh văn) Kiến sát gia
nộ.
(正文)見殺加怒。
(Chánh
văn: Thấy [người khác mắc tội] đă bị
giết chết mà vẫn c̣n giận dữ).
Tăng Tử
nói: “Như đắc kỳ
t́nh, tắc ai căng nhi vật hỷ” (Nếu
thấu hiểu sự t́nh, ắt sẽ buồn bă, xót
thương, chẳng vui). Đấy là nói đối với
kẻ có tội, khi kẻ ấy bị hành h́nh, vẫn nên
tha thứ cho những chuyện kẻ ấy đă trót phạm,
chớ nên tùy tiện tăng thêm h́nh phạt. Huống hồ kẻ đă chết, sẽ chẳng thể sống lại.
Tuy tội lỗi do kẻ ấy tự chuốc lấy,
nhưng mục kích [kẻ ấy bị
hành h́nh], tâm sẽ đau đớn; do vậy, bưng mặt gạt lệ c̣n không xuể, tăng thêm ḷng giận dữ để làm ǵ? [Kẻ giận dữ]
tấm ḷng tàn nhẫn cùng cực! C̣n như đối với
lục súc[61],
chim, cá bị người khác giết mổ, hăy càng
thêm thương xót chúng chẳng có tội t́nh ǵ, bèn t́m
phương tiện cứu giúp, che chở. Nếu trông thấy
mà càng thêm tức giận, ắt là kẻ tàn ác, bạo
ngược, ham giết chóc mà thôi.
Đời Tống,
Lô Đa Tốn[62] bị
đày đi Châu Nhai. Gián Nghị Đại Phu Lư Phù vào gặp
Triệu Phổ thưa: “Châu Nhai tuy ở ngoài biển,
nhưng thủy thổ không ác hiểm cho lắm, những
kẻ bị lưu đày tới đó, phần nhiều vẫn
sống sót. Xuân Châu tuy ở trong đất liền, kẻ
đến đó ắt phải chết. Mong Ngài hăy sửa
lại lệnh trước, bề ngoài là ra vẻ khoan
dung, nhưng thật ra là đẩy hắn vào tử
địa”. Triệu Phổ gật đầu. Hơn một
tháng sau, [Lư Phù] do phạm tội, bị biếm trích tới
Xuân Châu. Hắn mới tới nơi bèn chết.
Dương Đạo
Sanh làm Tham Quân[63] cho Thiệu
Lăng Vương (Tiêu Luân), có người anh tên là Hải Trân làm thứ sử tại
Trá Châu. Ông xin nghỉ phép về thăm anh. Khi chia tay,
[người nhà] mở tiệc tiễn hành. Ông thấy một
người bị trói ở gốc cây, khóc lóc, van xin
Đạo Sanh: “Thứ sử Trá Châu muốn giết tôi,
xin Ngài hăy giải cứu”. Đạo Sanh hỏi:
“Ngươi phạm tội ǵ?” Thưa: “Xúi giục người
khác bỏ trốn, làm loạn”. Đạo Sanh giận dữ, quát:
“Chuyện ấy đáng căm phẫn nhất”. Liền lấy
đao giắt nơi thắt lưng khoét tṛng mắt
người ấy, nuốt chửng. Trong chốc lát, anh
ông ta tới, dặn thuộc hạ xử trảm [phạm
nhân ấy]. Đạo Sanh bèn cảm thấy con
ngươi [của gă tử tội đó] mắc nghẹn
[ở cổ họng], chẳng nuốt xuống được,
dần dần nó ph́nh lên, gây tắc nghẽn. Trên đường
đi, ông ta không ăn uống ǵ được bèn chết ngắc.
Thời Xuân Thu, Cao
Tử Cao[64]
là người nước Vệ, [khi phải] chặt chân
tù nhân, lúc sắp hành h́nh, bèn buồn bă. Về sau, gặp nạn
Khoái Hội[65], Tử Cao phải chạy trốn. Lúc đó,
người bị chặt chân đang canh giữ cửa
thành, bảo: “Ở chỗ kia có chỗ [tường thành]
bị khuyết”. Tử Cao nói: “Quân tử chẳng trèo
tường”. Người đó lại nói: “Ở
chỗ kia có lỗ hổng”. Ông đáp: “Quân tử chẳng
chui qua lỗ hổng”. Lại nói: “Ở chỗ kia có một
gian nhà”. Tử Cao bèn nấp vào đó, những kẻ đuổi
theo [chẳng t́m thấy bèn] bỏ đi. Tử Cao nói: “Ta
đích thân chặt chân ngươi, ngươi lại ba lần
giúp ta bỏ trốn là v́ lẽ nào?” Người bị chặt
chân đáp: “Bị chặt chân cố nhiên là v́ tội của
tôi. Nhưng khi Ngài sắp hành h́nh bèn ủ dột, chẳng phải là Ngài có ḷng cảm thông cho tôi hay
sao? Ngài trời sanh là bậc quân tử, cố nhiên sẽ
hành động như thế. V́ vậy, tôi cứu Ngài”.
Trương Khánh
là một nha lại coi ngục, luôn vâng giữ ḷng
thương xót, thận trọng. Đối với các
đồ dùng trong nhà tù đều rửa sạch. Tháng
nóng, ông càng siêng năng quét dọn. Thường răn dạy
mọi người: “Người ta phạm pháp, há chẳng
phải là chuyện bất đắc dĩ ư? Thức
ăn, đồ trải đắp, ắt giữ cho sạch
sẽ”. Ông luôn thờ Phật, mỗi khi có tù nhân bị tử
h́nh, ắt sẽ v́ kẻ ấy ăn chay, kiền thành tụng
kinh, niệm Phật, nguyện cho người ấy
được thoát khổ siêu sanh. Ngoài ra, ông c̣n có rất
nhiều âm công, thọ tám mươi ba tuổi, không bệnh
mà mất. Con cháu đều thành quan lại quư hiển!
Đời Minh, Lưu
Tích Nguyên từng mộng thấy một người bái lạy,
thưa: “Tôi là Tào Hàn làm tướng đời Tống.
Xưa kia, làm một gă nha lại nho nhỏ đời
Đường; do nghe pháp sư giảng kinh bèn cảm ngộ, cúng
dường trai tăng một bữa. Từ đó, cảm
được báo ứng, đời đời luôn làm
quan, dần dần tích tập nhân lành. Tới đời Tống,
làm Phó Tướng, do tàn sát dân chúng trong thành, giết hại
bừa băi, đời đời làm lợn để đền
tội giết chóc. Năm trước, có
người tá điền đă đem tôi nạp cho Ngài
để bù vào số địa tô bị thiếu, mong Ngài
thương xót cho tôi được sống. Nay lại phải
đền bồi quả báo ở nơi đây, đặc
biệt đến cầu cứu nơi Ngài”. Ông Lưu hỏi:
“Dùng cách ǵ để có thể cứu được?”
Thưa: “Mỗi khi bị mổ xẻ, sẽ đau khổ
không chịu đựng nổi. Chỉ có nghe tiếng niệm
Phật th́ mới giải trừ nỗi khổ ấy.
Mong Ngài trong lúc thấy tôi bị giết mổ, hoặc
trong lúc chặt xẻ, nấu nướng, hăy phát ḷng đại
bi, chỉ niệm A Di Đà Phật, hoặc tŕ chú Đại
Bi, hay chú Chuẩn Đề, không chỉ là giải trừ
nỗi khổ cho tôi, mà tôi c̣n
được lợi ích siêu thoát”. Nói xong, buồn bă từ
tạ ra đi.
Lại nữa,
Tŕnh Lân bị chết bất th́nh ĺnh. Do cơi âm bắt lầm,
nên lại được thả về. Diêm Vương bảo:
“Ngươi trở về dương gian, hăy nỗ lực
làm lành. Thấy kẻ khác sát sanh, chỉ niệm nam-mô A Di
Đà Phật, và Quán Thế Âm Bồ Tát, những
con vật ấy đă được thọ sanh, mà
ngươi cũng được phước”. Bèn biết
là niệm Phật có thể siêu độ người chết, hiện
đời có thể tăng phước thọ; sau này, ắt
sanh về Tây Phương. Có kẻ nói: “Chỉ niệm danh
hiệu Phật, cớ sao ta lẫn người đều
được lợi?” Đáp: “Chúng sanh mê muội bản tánh,
chẳng có thuở giác ngộ, vừa nghe danh hiệu Phật,
như đang mê chợt tỉnh. Huống hồ kẻ kia
v́ ḷng tàn nhẫn mà sát sanh, mà ta do từ bi bèn niệm Phật,
tức là con đường để ‘xả ác
theo thiện’ ở ngay tại đấy. V́ thế,
thấy giết chóc bèn niệm Phật, công đức vô
lượng”.
Đời Minh,
Hám Sơn đại sư nói: “Tôi trong lúc thường nhật,
hễ nghe thấy tiếng giết chóc, bất giác đau
ḷng liền niệm Phật và chú Văng Sanh, tự nhủ là
trọn hết tấm ḷng này mà thôi!”
Nay xem những
chuyện ấy, bèn biết là những kẻ chịu khổ
đó, [do nghe tiếng niệm Phật hay tŕ chú], sẽ thật
sự được lợi lạc. Từ đó mà suy, hễ
thấy giết chóc, hoặc nghe tiếng giết chóc, hoặc
thấy những con vật bị mổ, xẻ, chém, chặt,
đun, nấu, ở bất cứ lúc nào, ở bất cứ
nơi đâu, đều phát ra cái tâm này, mắt trông thấy
bèn dấy ḷng từ bi, ngay lập tức nghĩ tưởng dẹp khổ. Nếu hết thảy người
đời có thể phát khởi từ tâm tam-muội
như thế, sẽ toàn là chuyện độ sanh của
Bồ Tát, công đức ấy há có thể nghĩ bàn
được ư?
H́nh ngục là
đại sự của đất nước, liên quan
đến sự sống chết của dân chúng. V́ thế,
đức Thái Thượng ban lời giáo huấn, trước
hết là nghiêm cấm hối lộ. C̣n như chuyện
[cân nhắc] đúng, sai, nặng, nhẹ, Ngài lại càng chú
trọng nhắc nhở những kẻ đang giữ quyền
tra vấn, hành h́nh, v́ đang nắm quyền lực, sẽ dễ tạo phương tiện. Nhưng
mỗi người thấy nghe hữu hạn, kẻ làm
nha dịch, thư lại có thể trừ khử thói quen xấu
ác, nhờ vào chức vị để hành thiện, cứu
người trong cơn hoạn nạn, sẽ tạo công đức vô lượng vô biên. Phàm thiện
ác phân chia đôi đường, chỉ trong một niệm.
Nương theo gió để xoay cánh buồm, càng dễ ra sức.
Kẻ khác nói “đừng vào chốn công môn”, ta nói “công môn dễ tu hành”. Cổ
nhân dạy như thế, há lừa dối ta ư? C̣n
như giết người, giết vật, người
khác giết, ta giết, đều là giết hại! Dẫu
chẳng thể trông thấy con vật bèn cứu sống, chẳng lẽ
dốc ḷng kiền thành niệm Phật cũng sẽ tốn
phí tài lực [đến nỗi]
chẳng thể làm ư? Hăy suy
nghĩ nhé!
(Chánh văn) Kiến quá bất
cải, tri thiện bất vi.
(正文)知過不改。知善不為。
(Chánh
văn: Thấy lỗi mà chẳng sửa, biết điều
lành mà chẳng làm).
Văn Thù Bồ
Tát bạch Phật: - Tuổi thiếu niên tạo nên oan nghiệt,
về già tu hành, có được thành Phật hay không?
Đức Phật dạy: “Biển khổ vô biên, quay đầu
là bờ!”
Thiền sư Viên
Ngộ nói: “Ai mà chẳng có lỗi? Có lỗi mà có thể sửa,
không ǵ tốt đẹp bằng!” Chỉ có bậc
quân tử là có thể sửa lỗi, hướng lành, cho
nên đức mỗi ngày một mới. Kẻ tiểu nhân
giấu ác, che lỗi; v́ thế, điều ác đầy
dẫy. Tiểu nhân có điều ác th́ cũng
giấu diếm. V́ thế, đức Thái Thượng ra rả
răn dạy. Ông Hà Long Đồ nói:
- Có lỗi
nơi miệng, có lỗi nơi thân, có lỗi nơi tâm. Kẻ
khéo sửa đổi điều ác, chỉ nên linh mẫn, tỉnh táo, tận lực trừ khử
thói chấp trước, keo kiệt, nghiên cứu, xem xét
đến tận chỗ vi tế để
trừ khử, sửa đổi [tập khí xấu ác] đến cùng. Tu sửa
chuyên ṛng chẳng ngơi, ắt sẽ chuyển
tà vạy thành chân thành. Thánh học (Nho học), Phật học,
huyền học (Đạo học), hễ nói đến
chỗ uyên áo, vi tế, đều chẳng dễ ǵ diễn
tả được, nhưng đối với cách thực
hiện căn bản nhất
th́ xuyên suốt khắp cả ba
giáo chỉ là sửa lỗi đó thôi!
Đời Tống,
Tư Mă Ôn Công lúc năm tuổi, lột vỏ quả hồ
đào chẳng được. Đứa tớ gái [đem quả hồ đào] ngâm qua nước nóng bèn lột được. Chị
ông ta từ bên ngoài bước vào hỏi han, ông nói: “Tự
em lột được”. Cha liền quở: “Thằng nhóc
này sao lại nói láo?” Ông kinh sợ, hối hận, suốt
đời chẳng dám nói dối.
Đời Tống,
ông Tiết Hiếu Từ Tích[66], lúc mới
đến gặp tiên sinh An Định[67], đầu
cổ hơi ngoẹo, An Định lớn tiếng
răn: “Đầu phải thẳng”. Ông liền tỉnh ngộ,
thưa: “Đầu mà c̣n phải thẳng, há đâu tâm chẳng
thẳng?” Từ ấy, cái tâm chưa hề cong vạy chút
nào. Nếu có kẻ hỏi về yếu quyết để
lập thân xử sự, ông ắt viết hai chữ Chánh
Trực to đùng trao cho!
Đời Tống,
Tăng Tử Cố[68] chơi thân
với Vương Kinh Công[69]. Tống Thần
Tông hỏi Tử Cố về văn tài, phẩm hạnh,
bản lănh của Vương An Thạch [như thế
nào]? Tử Cố tâu: “Văn tài, phẩm hạnh, tài
năng của An Thạch chẳng kém Dương Hùng [đời
Hán], nhưng do keo kiệt nên chẳng bằng”. Vua nói: “An Thạch
coi rẻ phú quư, sao lại nói hắn keo kiệt?” Tử Cố
thưa: “Thần nói là ‘keo kiệt’ là v́ An Thạch tài
năng có thừa, nhưng ít chịu sửa lỗi”. Tống Thần Tông gật đầu. An Thạch có đủ
tài năng làm Tể Tướng, rốt cuộc do không chịu
sửa lỗi, đến nỗi gây họa cho tông miếu,
xă tắc, bị muôn đời thóa mạ, huống hồ
người đời nay ương bướng, bất
tài, hằng ngày luôn sái quấy, mà chẳng biết sửa
đổi ư?
Do gom từ cái nhỏ
mà thành cái lớn, do tích tập từ một mà thành ức.
V́ thế, quư ở chỗ tích lũy. Hễ biết bèn làm,
hễ làm bèn dốc sức. Lăo Tử nói: “Cái đài chín tầng khởi đầu từ dồn
chứa đất. Đi ngàn dặm, bắt đầu từ
một bước”. Người nếu mỗi ngày sửa
một lỗi, ắt sẽ tiêu một tội nghiệp. Mỗi
ngày làm một việc thiện, ắt sẽ tăng trưởng
một nền phước.
Tử Hư Nguyên
Quân[70] nói: - Đạo
từ an tĩnh mà sanh, đức sanh từ khiêm tốn,
nhường nhịn, phước sanh từ thanh liêm, tiết
kiệm, mạng sanh từ ḥa thuận, thông suốt. Họa
hoạn sanh từ lắm ham muốn, lỗi sanh từ sự
khinh mạn. Hăy kiềm giữ mắt, đừng
thấy kẻ khác sai trái. Kiềm
giữ miệng, đừng bàn khuyết điểm của kẻ
khác. Kiềm giữ tâm, đừng mặc sức tham,
sân. Kiềm giữ thân, đừng theo bạn ác! Tánh mạng
như ngọn đuốc trước gió, luôn nghĩ đến
thân đời sau. Thân thể tạm gởi trong ṿng trời
đất, đừng ở trong nghiệp lại tạo
thêm nghiệp. V́ thế, thiện và ác đều ở trong
cái tâm của chính ḿnh, sáng ngời chẳng có mảy
may tăm tối! Dẫu người có thể mưu mẹo
xảo trá, trời càng khéo báo ứng hơn!
Do vậy, thấy
rằng: Nếu ai trong một ngày mà được nghe một lời
lành, thấy một hạnh lành, làm một việc lành, ngày
ấy mới chẳng luống uổng! Nếu kẻ nào
biết điều thiện mà chẳng làm, không biết ruột
gan người ấy như thế nào? Tự
cam ḷng ruồng rẫy chính ḿnh, phung phí tháng ngày, tự dứt
tuyệt [sự che chở của] cơi trời, cũng là kẻ
ngu muội lắm thay!
Trong bài Phổ
Thuyết của thiền sư Thiên Như Duy Tắc đời
Nguyên có đoạn như sau:
- Cổ nhân dạy:
“Ta thấy người khác chết,
ḷng ta nóng như lửa. Chẳng phải nóng ai khác, hăy xem
đến phiên ta”. Những lời giống như vậy,
có ai mà chẳng biết! Biết th́ dĩ nhiên là biết, chỉ
là không chịu tu hành. Nói quư vị “không chịu
tu hành”, cũng là oan uổng cho quư vị lắm! Các vị
đại đức trong hiện tiền, phần nhiều
là hạ thủ công
phu đến cùng, chỉ là chưa
đạt đến chỗ ngàn phần trọn vẹn,
trăm phần thỏa đáng, lỗi ở chỗ nào? Lỗi
ở chỗ không dũng mănh, không tinh tấn, không kiên cố,
không lâu dài. Tạm thời phát quyết tâm, chẳng bao lâu lại lui sụt. V́ thế nói: “Phật
pháp vô đa tử, trường viễn nan đắc nhân”
(Phật pháp ít có kẻ khai ngộ, người có chí dài lâu
khó có lắm). Học đạo mà [giữ măi cái tâm giống]
như thuở đầu, sẽ thành Phật có thừa! Từ
đầu đến cuối bất biến, thật sự là đại trượng
phu, nay có được mấy người? Từ đầu đến cuối bất biến,
thường là mười người th́ có năm người biến đổi,
toàn là đạo tâm lui sụt. Xét
đoán nhân duyên khiến cho đạo tâm
lui sụt, cũng là v́ ai nấy đều có những
điều phiền lụy riêng mà thành ra như vậy. Những
điều phiền lụy riêng là ǵ? Có ba loại phiền
lụy. Thứ nhất là bất luận tăng, tục,
nam, nữ, ai nấy đều bị thân và miệng
liên lụy. Kế đến là kẻ có quyến thuộc,
sẽ bị quyến thuộc phiền lụy. Kẻ có gia
sản, sẽ bị gia sản phiền lụy. Ba thứ
phiền lụy ấy đă liên lụy chết người
trong thiên hạ. Trọn hết người trong thiên hạ
do gặp phải ba thứ phiền lụy ấy mà bận
bịu suốt một đời, ầm ĩ suốt một
đời, khổ sở suốt một đời, bợ
đỡ suốt một đời, luống uổng suốt
một đời. Huống hồ lại v́ ba thứ phiền
lụy ấy, dấy lên vô lượng tham, sân, si, tạo ra
vô lượng ác nghiệp lớn nhỏ. Do nghiệp báo ấy,
đọa lạc trong biển khổ tam đồ bát nạn,
sanh tử luân hồi, chịu vô lượng khổ năo, chẳng
được giải thoát. Tuy gặp phải vô lượng
khổ năo, chỉ là từ đầu đến cuối
chẳng tỉnh. Kẻ chẳng tỉnh ấy là v́ có những
điều chẳng ngộ!
Chẳng ngộ
những ǵ vậy? Chẳng ngộ thân thể, quyến thuộc,
gia sản đều chẳng phải của quư vị! Nếu
nay nói với quư vị “thân thể chẳng phải là của
quư vị”, quư vị c̣n chưa tin! Sơn tăng tận t́nh v́ các vị nói huỵch toẹt từ đầu. Thuở ban sơ, quư vị c̣n ở trong bụng
mẹ, lúc đầu thai chỉ là một thần thức
trơ trọi, chưa hề có thân thể. Thân thể ấy do xích bạch của cha mẹ ḥa hợp, kết
thành một khối thịt trơ trơ, vốn chẳng
có tri giác, chẳng biết đau, chẳng biết ngứa,
chẳng biết lạnh, chẳng biết nóng, chẳng biết
đói, chẳng biết no, chẳng biết khổ, chẳng
biết sướng. Do thần thức của quư vị chấp
vào một khối thịt trơ trơ ấy, từ đấy
trở đi, biết đau, ngứa, biết lạnh, nóng, biết
đói, no, biết khổ, sướng. Cho đến khi ra khỏi thai mẹ, một mực thừa nhận, gọi đó là
thân ta. Nếu bảo “thân chẳng phải là của ta”, chắc
chắn [quư vị] sẽ không chịu tin. Do vậy, Phật, Tổ xót
thương, lại rát miệng bảo ban quư vị: “Đấy
chẳng phải là thân của quư vị. Đấy là cái
đăy da thối do tinh huyết kết thành, chẳng do quư
vị cai quản, chẳng do quư vị xếp đặt.
Cho đến lăo, bệnh, tử, đều
chẳng do quư vị quyết đoán!”
V́ sao biết là
như vậy? Lại như thuở ban đầu, sau khi quư
vị đă đầu thai, ở trong thai mẹ, cứ bảy
ngày bèn biến đổi một lần. Lần lượt
sanh trưởng, tức là ngũ tạng, lục phủ,
bách hài (trăm lóng xương), chín lỗ,
tứ chi, sáu căn, gân, xương, da, thịt, dần dần
thành h́nh, cho đến khi được đẻ ra,
đều là gió nóng thổi đến, do nghiệp lực
sai khiến. Quư vị bất tri bất giác, chưa hề
có điều ǵ do quư vị sắp đặt. Sau khi đă
được sanh ra, trưởng dưỡng tới ba, bốn mươi tuổi bèn tóc bạc, răng
lung lay, mặt vàng, bắp thịt teo tóp,
dần dần biến đổi, dần dần già đi.
Tướng già hiện hữu, từ đấy sanh bệnh.
Bệnh đă đến, cái chết sẽ đến. Sự biến hoại như thế đó, mỗi mỗi
đều chẳng do quư vị! Quư vị vốn chẳng mong
như thế, hiềm rằng quản nó chẳng
được! Xét ra, quư vị từ thuở sanh ra cho đến
chết, đối với cái đăy da thối này, đă
trút vào bao nhiêu ân ái t́nh nghĩa, đủ mọi thứ
chăm chút nó, đủ mọi cách bảo vệ, trân quư,
đủ mọi cách điều trị, an bài, [thế mà]
nó vong ân phụ nghĩa. Như thế đă là đáng bị
người khác ghét, huống hồ c̣n có chỗ khiến
cho người ta càng ghét hơn!
Ví như trong
tháng mùa Hè nóng bức, có một chàng trai tráng kiện, bỗng
vào lúc hoàng hôn bị bệnh nguy cấp, chết ngóp. Chết
đến lúc canh hai nửa đêm, [người khác] sẽ
cảm thấy thối bẩn không ai chịu nổi, chẳng thể đến gần được.
Vội vă dùng quan tài đựng lấy, đậy chặt
nắp ḥm, đợi chưa đến lúc chuông khua báo
sáng, đă vội vă khiêng đi thiêu. Dẫu là quyến thuộc
thân ái nhất, cũng chẳng chịu ngăn giữ lại.
Cứ nh́n vào đó, buổi tối hôm qua, vẫn c̣n là một
người đàn ông khỏe mạnh, sáng nay thức dậy,
đă là một vốc tro cốt! Biết thần thức
của người ấy sẽ lại đến nơi đâu? Biến đổi cấp tốc như thế,
hoàn toàn chẳng do quư vị! Đă là thân thể của quư
vị, lẽ ra phải do quư vị cai quản. Đă chẳng
do quư vị cai quản, sao lại lầm lạc ngỡ nó
là tấm thân của quư vị? Uổng công bị nó phiền lụy, lui
sụt đạo tâm. Quyến thuộc của quư vị
cũng thế, đây kia đều là những cái đăy da
thối tha. Đây kia chẳng tự do, chẳng quản lẫn
nhau được! Vô thường ập đến,
đôi bên chẳng thể thay thế cho nhau. Trước mắt
là suốt cả một đời, đôi bên bị những
mối ân t́nh quấn trói, gọi nhau là quyến thuộc. Sau
khi đă nhắm mắt, đôi bên chẳng biết nhau! Cớ
sao lầm lạc ngỡ họ là quyến thuộc, bị
họ phiền lụy, lui sụt đạo tâm? Gia sản của quư vị cũng thế. Lúc mắt
sáng, chân mạnh bèn so sánh, tính toán, lo toan, keo kiệt, canh giữ,
cứ ngỡ là trăm ngàn vạn năm luôn hưởng
thụ nó. Ai biết một hơi chẳng hít vào được,
một xu cũng chẳng thể mang theo! Cớ sao lầm
lạc ngỡ nó là gia sản của quư vị, bị nó phiền
lụy, lui sụt đạo tâm?
Nay mọi người
ơi! Đă nghe lời này, hăy nên hồi quang soi thấu, thống
thiết tự tỉnh ngộ. Đối với ba thứ
phiền lụy ấy, đừng nên lầm nhận,
đừng lưu luyến, đừng tham đắm, hăy xuôi
theo phần phước [do nghiệp báo] đă định
phân, tùy thuận cho qua ngày. Hăy nên xoay chuyển ư niệm,
hướng về sự sanh tử, để phấn chấn,
dũng mănh, tinh tấn, kiên cố, lâu dài, thấu hiểu
rành rẽ, ắt bậc thượng tọa sẽ tự
thẹn bất tài, đă trót lảm nhảm, huyên thiên, thốt
ra khá nhiều lời nông cạn, thô lậu, dung tục, hủ bại,
chuốc lấy tiếng cười của bậc thông hiểu.
Tuy vậy, nếu là bậc thông hiểu, sẽ chẳng thấy
đáng cười, một khúc nhạc đồng quê, buồn
vui ai nấy tự nghe!
Đời Đường,
Tô Thành tánh ương ngạnh, hèn kém, suốt đời chẳng
làm một điều thiện nào! Hễ thấy trong sách vở
có chép một lời tốt lành, hay một hạnh cao đẹp,
ắt cho là nói tô vẽ. Thấy kẻ khác siêng tu thiện
sự, ắt cười nhạo là phường gian tà. Tới
tuổi tráng niên, thân thể dần dần rút nhỏ, dùng
hai tay chống lê thân trên đất để đi, ăn
ngủ cùng với chó. Được một năm, hắn
bèn chết.
Đời nhà
Châu, Tề Hoàn Công đi qua mộ của họ Quách, hỏi
người già rằng: “V́ sao họ Quách bị diệt
vong?” Họ đáp: “Ưa điều thiện, ghét điều
ác!” Tề Hoàn Công hỏi: “Ưa điều thiện, ghét
điều ác, v́ sao lại diệt vong?” Họ đáp:
“Ưa điều thiện mà chẳng thể làm, ghét điều
ác mà chẳng thể trừ”. Do vậy, có thể thấy là
người thời nay tự mê muội
thần thức, chẳng tỉnh ngộ bản tánh. Muôn
duyên cùng nhau quấy nhiễu, thù tạc tám mặt (chỉ lo thù tạc về mọi
phương diện). Một
niệm vừa đi, một niệm khác liền đến.
Một ngày một đêm, có tám ức bốn ngàn niệm,
như gió thổi trên hư không, chẳng có nơi
nương tựa. Như đá đè cỏ, vừa dứt
lại sanh. Há có ngày nào chuyên tâm làm lành? V́ thế, dẫu biết
là chuyện đáng nên làm, nhưng v́ bị ḷng ham muốn vật
chất xoay chuyển, dẫu suốt ngày đàm kinh thuyết
pháp, vẫn thường là “tốt
lá, thối gốc”, rốt cuộc đổ nhào mà thôi,
há chẳng đáng tiếc nuối sâu xa ư?
(Chánh văn) Tự tội
dẫn tha, ung tắc
phương thuật.
(正文)自罪引他。壅塞方術。
(Chánh
văn: Tự ḿnh có tội, khiến cho kẻ khác liên lụy.
Cản trở nghề nghiệp của kẻ khác).
Tội do ta phạm,
tới khi đổ bể, bèn lôi kéo, khiến cho kẻ khác
bị liên lụy. Ngạn ngữ nói là “kéo kẻ khác xuống nước”. Ư kẻ đó
chẳng phải chỉ là mong lấp liếm sai sót, mà c̣n
là nhằm trả thù! Nào có biết rốt cuộc sẽ trọn chẳng thể che đậy lỗi của ḿnh được, rốt cuộc chẳng thể vu vạ
cho kẻ khác! Chỉ là tạo thêm oan nghiệt trong những
nỗi oan nghiệt mà thôi! Dẫu trốn khỏi phép vua,
khó tránh bị trời diệt!
Triệu Nghiệp
từng xem Giả Dịch giết trâu. Giả Dịch chết,
[bị Diêm Vương xử tội giết chóc, hắn
đổ lỗi, xin Diêm Vương bắt] Triệu Nghiệp
phải chia bớt tội lỗi. [Hồn của] Triệu
Nghiệp bị bắt tới cơi âm, gần như chẳng
thể biện định. Bỗng thấy một cái
gương, đường kính to hơn cả trượng,
treo trên không trung. Cơi âm thấy Giả Dịch vung đao,
Triệu Nghiệp núp sau cửa nh́n, có ư bất nhẫn.
[Khi ấy], Giả Dịch mới chịu phục, Triệu
Nghiệp mới được tha về. Xét theo lời
đức Phật dạy: “Hết
thảy thế gian, sanh tử nối tiếp, khi sắp mạng
chung, trước khi xả noăn xúc[71], thiện ác trong cả
đời đều cùng một lúc hiện
ra”. Đại khái, cảnh giới
hiện ra trong lúc lâm chung, chính là cảnh giới nơi tâm
địa trong thường nhật của chúng ta. Viên tội
châu của ngài Địa Tạng chính là tâm châu của chúng
ta. Nghiệp kính của Diêm Vương chính là tâm kính của
ta. Nếu nay làm một chuyện bất thiện, có bao giờ
chẳng in dấu trong tâm ta, há có thể lôi kéo người
khác [liên lụy] ư?
Phương Thuật
(方術) là như nghề thuốc, bói toán, chiêm tinh, xem
tướng, và mỗi kỹ năng, mỗi tài nghệ đều là [Phương Thuật]. Người bản
lănh nông cạn th́ nhờ vào đó để nuôi thân, kẻ
cao sâu th́ có thể giúp đời. Nếu ngăn trở,
khiến cho họ chẳng hành nghề th́ cũng là tâm
lượng của ta chẳng rộng răi, mà bốn
phương sẽ có lắm kẻ đói, rét, thất nghiệp!
C̣n như lũ tà sư, thầy thuốc dốt nát, làm tổn
thương chánh giáo, hay khiến cho kẻ khác mất
mạng, cũng như những lũ phương sĩ[72] đốt
ḷ luyện đan, đều chẳng thể viện cớ
này [để tự tung, tự tác], những hạng
người ấy đáng nên bị ngăn cấm. Mà trong
mọi nhà dân chúng hăy đều nên xét giữ nghiêm ngặt môn hộ, phàm
là đối với bọn tam cô, lục bà[73] [đều
nên] răn nhắc [người nhà] trọn chẳng giao du.
Nếu có lui tới, cũng nên xét đoán [phẩm hạnh]
của kẻ đó. Đấy mới là phương cách
để giữ nghiêm căn bản, dứt tuyệt những
mầm họa vậy.
Lúc ông Trạch
Càn Hữu[74]
tại thế, do phù phép[75] mà nổi
tiếng. Ông từng nghĩ cả huyện Vân An có đến mười
lăm chỗ sông ng̣i có đá ngầm băi cạn, bèn triệu
tập các vị thần nơi các băi cạn giữa sông
(thần sông) để san bằng. Ứng theo lời triệu
thỉnh, có mười bốn chỗ [đă san bằng].
Chỉ riêng có một băi cạn do một nữ thần
[cai quản, cô ta đội] mũ cao, mặc áo rộng tay, cảm khái thưa rằng: “Xét ư ông chẳng qua là muốn
cho thuyền bè [buôn bán] qua lại thuận tiện. Nhưng
ông chẳng biết những người kinh doanh bằng
thuyền bè, thường ngày kiếm lợi rất nhiều,
dẫu có tốn kém đôi chút, chẳng đáng gây tổn hại
cho họ. Những dân nghèo ven sông, cả ba, bốn
trăm nhà, không có ruộng để cày cấy, không có dâu
để nuôi tằm, hoàn toàn cậy vào chuyện kéo thuyền, vác thuyền [qua băi cạn] để
kiếm sống. Nay nếu san bằng hết những băi cạn hiểm
trở, đối với thuyền bè, cố
nhiên hết sức thuận tiện, nhưng cơm áo của
những người dân nghèo ấy th́ sao? Ư của đức
Thái Thượng ắt chẳng phải là như vậy!
Tôi rất sợ khi khác, ông sẽ bị mắc tội, mà
tôi cũng chẳng khỏi bị liên lụy, xin hăy cân nhắc
thêm!” Thiên sư thở dài nói: “Điều bà lo lắng tôi
chẳng nghĩ tới!” Do vậy, mười bốn vị
thần đă vâng mạng [san bằng băi cạn] đều hồi phục chỗ băi cạn như
cũ. Nh́n vào chuyện này, chẳng phải là riêng
phương thuật chớ nên ngăn trở. Hễ là những
người vắt sức kiếm chút cháo [để sống
qua ngày], càng phải nên t́m cách khiến cho họ được
thuận lợi. Đừng vắt kiệt sức họ,
đừng khiến cho kỹ năng của họ bị
phôi pha. Chỗ nào cũng đều chừa lại đất
sống, khiến cho họ chẳng bị vây hăm trong cảnh
đói rét. Đấy là cái tâm của người có ḷng nhân
vậy.
(Chánh văn) San báng thánh
hiền.
(正文)訕謗聖賢。
(Chánh
văn: Chê bai, báng bổ thánh hiền).
San (訕) là hư lộng, khinh miệt. Báng (謗) là phủ nhận, báng bổ. “San báng” th́ có hai loại người:
1) Một
là v́ ngu si, khiến cho họ mê mờ, chẳng hiểu sức
ảnh hưởng của thánh nhân. Hạng người ấy
đáng gọi ở trong ṿ nh́n trời rồi đâm ra oán
ghét [trời cao hẹp ḥi].
2) Hai
là hạng có tài ăn nói khuấy động sóng gió. Hạng
người này đáng gọi là “ṃ
trăng trong nước”.
“Thánh hiền” là nói đến tam giáo Nho, Thích, Đạo. Nho dùng
Chánh để lập giáo, Thích dùng Đại để lập
giáo, Đạo dùng Tôn để lập giáo. Nh́n theo
phương diện “hiếu
sanh, ghét giết chóc”, th́ là cùng một ḷng nhân. “Coi người khác như chính
ḿnh” là cùng một niềm công bằng. “Khắc chế ḷng phẫn nộ, dứt trừ ham
muốn, ngăn lỗi, ngừa sai” là cùng
một sự luyện tập, tu
dưỡng vậy. [Giáo pháp] như sấm rền [thức
tỉnh] kẻ u mê, [chân lư sáng tỏ như] nhật nguyệt
chiếu sáng lũ mù, có cùng một công năng giáo hóa vậy.
Luận định theo những sự tướng thô thiển,
th́ lư trong thiên hạ chẳng qua là hai đường thiện
và ác. Dụng ư của tam giáo không ǵ chẳng nhằm dạy
mọi người sửa ác, theo lành! Luận định
theo pháp môn tâm địa, ắt chẳng khỏi quy về
một. V́ thế, trong tác phẩm Nguyên Đạo Biện[76], Tống
Hiếu Tông đă nói: “Dùng Phật trị
tâm, dùng Đạo trị thân, dùng Nho trị thế”, đúng
là đă hiểu biết cái tâm vậy. Thân cũng vậy,
mà cơi đời cũng vậy, chẳng thể có một
thứ nào không điều phục. Vậy th́ tam giáo, há có
giáo nào mà có thể chẳng lập ư? Những nho sĩ
trong hiện thời, hoặc là dùng Nho để bài bác Phật,
hoặc là dùng Phật giáo để chèn ép Nho. Tăng
sĩ, đạo nhân ngày nay hoặc là v́ Phật mà diệt
Đạo, hoặc v́ Đạo mà phê phán Phật giáo. Nói
chung là v́ ngă kiến năng sở, lầm lạc phân chia
đại đạo, nào có biết tam giáo vốn chẳng
có đồng hay dị. Chỉ lo kẻ lầm lạc nẩy
sanh ư kiến ức đoán, dùng ư riêng để suy lường,
dùng cái tâm hời hợt để biện định
cưỡng từ đoạt lư. Bậc thượng trí nếu
thật sự có thể b́nh tâm dung hội, tham cứu thẳng
thừng vào cội nguồn, ắt sẽ biết Phật
là “minh tâm kiến tánh, trừ mê, cầu ngộ”; Đạo là giữ cho tâm thanh tịnh,
giảm thiểu ham muốn, tích lũy công hạnh; Nho thấu
hiểu nguồn tâm, trừ khử vật dục, chánh tâm,
thành ư. Nhiều phương diện nhiếp hóa, chẳng
có ǵ trái nghịch! Nói chung, đều nhằm tiếp dẫn
con người nhập đạo mà thôi, có danh tướng
ǵ để có thể chấp chặt nữa ư? V́ thế biết chánh
pháp của tam giáo đều cùng là nhăn mục
muôn đời cho các sanh linh. Kẻ khinh miệt, gièm báng chẳng
phải là tự tạo cái nhân bị rút lưỡi hay
chăng? C̣n như kinh điển, sách vở, giấy có chữ
viết, chính là những thứ kư thác tinh thần của
thánh hiền, kẻ giẫm đạp sẽ có cùng một
tội với kẻ khinh miệt, gièm báng.
Từng thấy
Trung Hoa có tam giáo. Do thiên, địa, nhân gọi là Tam Tài, “vua tôi,
cha con, vợ chồng” là Tam Cương, những thứ
ấy chẳng thể có một khắc nào không có. Ấy là kể từ khi
Phục Hy vạch ra các quẻ [của Bát Quái], Nho giáo
đă được khởi đầu. Tại Trung Hoa, Nho có thể khiến cho cương thường
được chánh đáng, các mối quan hệ chánh
đáng của con người được tỏ rơ, lễ,
nhạc, h́nh pháp, cai trị, bốn món ấy đều
được phổ biến rộng khắp, chẳng
trái nghịch, rốt cuộc cho tới muôn vật trong trời
đất đều đâu vào đấy. Đạo Nho
đă có công giúp đỡ cơi đời to lớn. V́ thế,
Tần Thủy Hoàng muốn trừ bỏ đạo Nho, mà
rốt cuộc chẳng thể trừ bỏ Nho được.
Chẳng thể trừ khử, há có nên gièm chê, báng bổ
hay chăng? Có kẻ v́ thấy học vấn cong vạy của
Công Tôn Hoằng nhằm a dua cơi đời, Chúc Khâm Minh khiến
cho ngũ kinh lè tè quét đất, Dương Tử Vân ngộ được
lẽ huyền diệu của Thái Huyền, mà lại xiểm
nịnh phụng sự Tân Măng, Hứa Kính Tông đă biết
đạo nghĩa trung thành với vua, mà lại thất
thân phụng sự Ngụy Vũ[77], những kẻ
đó đều xuất phát từ Nho, bọn họ thật
sự là tội nhân trong làng Nho. Há có nên v́ những kẻ ấy
là phường không ra ǵ, bèn gièm chê, báng bổ những bậc thánh hiền lập giáo ư?
Kể từ khi
Lăo Tử vào cửa ải, Đạo đă được
khởi đầu. Đạo tại Trung Hoa [có thể khiến
cho người học] tự ǵn giữ sự thanh hư,
đạm bạc danh lợi, khiêm nhượng để
tu tŕ, gột sạch những tập khí rối ren, chằng
chéo, cốt sao đạt đến tĩnh lặng, vô vi,
khôi phục thiên chân. Do vậy, Đạo có công tột bậc đối với sự giáo hóa trong cơi đời. V́ vậy, Lương Vũ Đế
tận lực muốn diệt trừ Đạo, mà Đạo
chẳng thể trừ. Đă chẳng thể trừ, há có
nên gièm báng hay chăng? Hoặc là do chỉ thấy gă đạo
sĩ chuột nhắt dùng Tư Dạ Thuật (子夜術) lừa
gạt Tô Đông Pha[78], hoặc
Lâm Linh Tố dùng chuyện Thần Tiêu để mê hoặc
Tống Huy Tông[79] [nhằm giải
thích câu thơ] “thiên thượng
thần tiên trịnh hóa cơ”
[do nhà vua đă nằm mộng thấy], bất quá là nói lớn
lối để dối đời, [hắn nói] “địa hạ thần tiên hà
đắc nhất” (dưới đất, thần tiên
há được ai), rốt cuộc là bịa đặt
để trộm danh. Những gă ấy đều xuất
phát từ Đạo, mà thật ra là bọn tội nhân
trong Đạo. Há có nên v́ bọn chúng thuộc vào tà thuật,
bèn gièm chê, báng bổ những bậc thánh hiền hưng khởi
giáo pháp ư?
Cho tới thời
Hán Minh Đế, trong mộng cảm ứng người vàng, Phật giáo bèn
hưng khởi [tại Trung Hoa]. Có thể nói là Phật giáo
ở Trung Hoa đă khiến cho [dân chúng] vứt bỏ những
thứ hoa mỹ để hướng về chân thật,
bỏ hư ngụy, giữ lấy chân thật, do nỗ lực hành tŕ mà đạt tới an trụ,
từ thuở đầu là tự lợi, [sau khi tu tập
đă lâu], đến cuối cùng là lợi tha. Rốt cuộc
là đạt tới
mức từ bi “coi muôn
loài [và bản thân ta] như một, oán thân b́nh đẳng”. Đấy
là chỗ nương tựa cao tột của dân chúng vậy.
V́ thế, Ngụy Vũ Đế[80] cực lực
toan diệt Phật, nhưng Phật
chẳng thể diệt! Chẳng thể diệt, há có nên
gièm chê, báng bổ ư? Hoặc là do chỉ thấy chú thuật
của Hồ tăng chẳng thể ảnh hưởng
đến Phó Dịch (Phó Dịch[81] báng Phật,
xằng bậy bịa chuyện; người
đời sau chẳng thông đạt, tưởng là kinh
sách thật sự, đáng thương xót thay), tượng
Phật bằng đá hiện quang chẳng thể khiến
cho ông Tŕnh Di động ḷng[82], răng
Phật là vật linh thiêng, mà bị sừng linh
dương phá nát[83]. Răng Phật
là thần vật mà bị hư hoại dưới búa của
Triệu Phượng. Lại c̣n bọn Bạch Liên, Vô Vi[84] tung hoành, [các tín đồ] tin theo, quy phục
những lời lẽ hư vọng, dối trá của họ La (La Thanh)[85]. Một
kẻ xướng suất, bao người hùa theo. [Những
thứ đó] đều xuất phát từ Phật giáo, mà [bọn chúng] thật sự là bọn tội nhân trong nhà Phật.
Há có nên v́ bọn chúng thuộc hạng tà ma, ngoại đạo,
bèn gièm chê, hủy báng bậc thánh hiền truyền giáo
ư?
Đời Minh, Lư
Trác Ngô thích phủ nhận,
hủy báng thánh hiền, thường
chế ra lời hai người [đối đáp]. Một
người nói: “Trời chẳng sanh Trọng Ni (Khổng
Tử), muôn đời như đêm dài”. Người kia
đáp: “Vậy th́ kể từ thời Hy Hoàng[86] trở
đi, toàn bộ [mọi người] đều phải đốt
đuốc mà đi à?” Kế đến [châm biếm] Mạnh
Tử, đối với Tŕnh, Châu, hắn gièm chê, báng bổ
càng dữ dội hơn! Về sau, hắn phạm tội,
chết trong ngục.
Văn Xương
Đế Quân nói: “Kẻ sĩ
được ghi danh vào sổ bộ của ta đều
là do kính trọng văn tự mà ra”. Đời Tống,
cha của Vương Nghi Công (Vương Tăng) hễ
trông thấy [giấy tờ] có chữ viết bị vứt
bỏ, ắt nhặt lấy, dùng nước thơm rửa
sạch rồi đốt. Một tối, ông mộng thấy
đức Tuyên Thánh (Khổng Tử)[87] vỗ
lưng ông ta bảo:
“Ngươi kính trọng giáo pháp của ta, tiếc là ngươi đă già, ta sẽ sai Tăng Sâm sanh trong
nhà ngươi”. Lúc tuổi già, ông Vương bèn sanh con; do
vậy, đặt tên là Tăng. [Vương Tăng] là một
vị Tể Tướng hữu danh. Lại như
Dương Bách Hạnh ở Lô Châu do ngồi trên kinh văn mà cả nhà bị cùi. Tiên Ư Khôn ở
Xương Quận do tàn hại sách Mạnh Tử mà cả
nhà diệt vong. Dương Toàn Thiện do chôn giấy có chữ
[bị người khác vứt bỏ] mà năm đời
đều đỗ đạt. Lư Tử Tài do chôn giấy
có viết chữ mà được làm quan vinh hiển. Báo ứng
chói ngời trước tai mắt mọi người, há
có nên chẳng kính trọng, quư tiếc [giáo huấn, sách
thánh hiền, giấy chữ] ư? Thơ rằng:
Thế gian tự chỉ Tạng Kinh đồng,
Kiến giả tu
tương phó hỏa trung,
Hoặc tống trường
lưu, mai tịnh thổ,
Tứ quân phước thọ
vĩnh vô cùng.
(Giấy chữ trong
đời hệt Phật kinh,
Nếu như trông
thấy đốt cho nhanh,
Hoặc bỏ xuống
sông, chôn đất sạch,
Th́ ngươi
phước thọ măi khôn ngằn).
Lại nói:
Kính tích tự chỉ phó thủy hỏa,
Nhân nhân tri đạo thiện
nhân quả,
Giáp hài dạng bạc ná gia
vô.
Hoán tương bạch chỉ
phương vi thỏa.
(Kính tiếc giấy
chữ, nhặt thiêu đốt,
Hoặc bỏ
trong sông ở chỗ sâu.
Ai nấy đều
biết nhân quả lành,
Lột sổ lót giày ai chẳng phạm?
Đổi thành vải
trắng, ắt yên lành).
Cao Chi Thụ chẳng
tin tiên, Phật, phỉ báng hết mức. Hắn từng
dùng kinh Pháp Hoa để dán vách. Có người tặng hắn
một pho tượng Phật bằng ngọc. Chi Thụ
nói: “Khối ngọc này có thể làm thành đồ vật”.
Do vậy bèn cưa tượng, làm thành mười cái nhẫn.
Về sau, do hắn gièm chê, phỉ báng việc triều
chánh, vua xuống chiếu sai H́nh Bộ tra vấn. Hắn bị
xử chém ngang lưng ở giữa chợ.
Đời Minh,
Thích Kế Quang chuyên tŕ kinh Kim Cang. Bỗng mộng thấy
một người lính đă chết, xin ông tụng giùm một
quyển để giúp phước cho kẻ ấy trong cơi
âm. Buổi sáng, ông thức dậy, tụng xong, lại thấy
người ấy báo mộng: “Đội ân đức to
lớn của ông, nhưng chỉ được nửa
quyển v́ trong ấy xen tạp hai chữ Chẳng Dùng”.
Ông ngẫm nghĩ nguyên cớ, th́ ra là đứa tớ gái
mang trà, bánh lên [trong khi ông đang tụng kinh]. Ông phẩy
tay từ chối, miệng tuy chưa
nói, trong tâm đă sẵn có hai chữ “chẳng dùng”. Sáng hôm
sau, ông đóng cửa tụng kinh, lại mộng thấy
người lính cảm tạ: “Đă được siêu
độ rồi!” Một niệm xen tạp mà c̣n không
được, huống hồ hư lộng, khinh miệt
ư?
Triệu Cư Dịch
tŕ kinh Ngọc Hoàng, chưa kiêng rượu thịt, bỗng
chết đi. Vua cơi âm hỏi: “Thường ngày nhà
ngươi làm điều ǵ tốt lành?” Thưa: “Tŕ kinh Ngọc
Hoàng từ nhỏ”. Vua đứng dậy, chắp tay nói:
“Công đức như thế thật là bậc nhất, sẽ
được tăng tuổi thọ thêm một kỷ
(mười hai năm)”. Lại nói: “Trọng tội sát
sanh, sao lại nấu nướng lợn, dê?” Do vậy, vua bèn sai ngục tốt lấy đinh dài đóng vào
đầu Cư Dịch. Cư Dịch thầm niệm bảo
hiệu của Ngọc Đế, kim quang trùm khắp thân, [quỷ
sứ] chẳng thể đóng đinh được.
Đă tỉnh lại, ông bèn bỏ nhà nhập đạo. Về
sau, thành tiên.
Lại nghe nói
Cánh Lăng Vương (Tiêu Tử Lương) bệnh
t́nh nguy kịch, do ông ta tin tưởng, ngưỡng mộ
kinh Lăng Nghiêm, mà Kim Tư thần (thần có cánh tay bằng
vàng) rưới thuốc [liền lành bệnh].
Lô Cảnh Dụ
bị nhốt vào ngục, do chuyên tụng Tâm Kinh mà tự
thoát gông cùm. Do sớm chiều nương theo kinh Kim Cang mà
người phu đào quặng thoát khỏi tai ương
khi sụp hầm. Do tâm niệm kinh Pháp Hoa chẳng ngớt
mà người thiếp nhà họ Tô thoát khỏi tai ách sóng bủa
trên sông[88].
Ấy là v́ kẻ tin tưởng, ngưỡng mộ thánh
hiền, chẳng có ai không được thánh hiền báo
đáp!
(Chánh văn) Xâm lăng
đạo đức.
(正文)侵凌道德。
(Chánh
văn: Xâm phạm, lăng nhục bậc đạo
đức).
Bậc đạo
đức trong thế gian như Nho sĩ đọc sách hiểu
lư, tăng nhân hay đạo sĩ khắc khổ tu hành, lời
nói là pháp tắc, hạnh là khuôn mẫu, vượt trỗi
những kẻ cùng hàng, do chánh khí trong thiên địa hun
đúc, kính yêu c̣n chẳng xuể, há nên xâm phạm, lăng
nhục ư?
Thiền sư Quốc
Thanh[89] thuyết
pháp, có gă giữ chức Phân Thủ Đạo[90] trọn chẳng
tin Phật, trói Sư, đánh hai mươi trượng.
Đến đêm, gă đó mộng thấy người vợ
đă mất, vừa khóc vừa giận dữ nói: “Sao ông
dám làm nhục thiền sư? Vua cơi âm phạt tôi hai
mươi roi sắt, lại c̣n tước bỏ chức
quan của ông!”
Thuần Vu Sùng
Đức lúc hai mươi tuổi vào trường huyện,
tánh t́nh tà vạy, ngang ngược. Hễ bậc nho sĩ
nào có đạo đức, Sùng Đức ắt sẽ mặc t́nh hiếp đáp, vu vạ. Một đêm, hắn bỗng
nhiên mộng thấy một vị thần nói: “Mày trăm kế
xâm phạm, lăng nhục bậc đạo đức. V́
thế, tao đến đoạt trí huệ của mày!” Nói
xong, cầm đao chém xuống. Sùng Đức ngă lăn ra
hôn mê rồi tỉnh lại. Rốt cuộc sau đấy,
hắn như kẻ ngu đần, được mấy
năm bèn chết ngóp.
Đời Hán,
khi Trương Lương c̣n trẻ, sang chơi Hạ Bi.
Trên cầu có một cụ già, làm rơi dép xuống gầm
cầu, bảo Trương Lương: “Này nhóc! Mày xuống
lấy dép cho ông”. Trương Lương nghĩ cụ già
cả, ráng nhịn, xuống nhặt lên. Ông lăo lại
giơ chân bảo: “Nhóc t́! Mang dép cho ta”. Trương
Lương bèn quỳ xuống đi dép cho cụ. Cụ
già bảo: “Nhóc con dễ dạy!” Lấy ra một quyển
sách, bảo: “Đọc rồi sẽ có thể làm thầy
vua chúa” rồi bỏ đi không quay lại. Xem sách ấy,
th́ ra là Thái Công Binh Pháp. Do vậy, Trương Lương học
tập, giúp Hán Cao Tổ lấy thiên hạ, được
phong là Lưu Hầu. Xem chuyện này, ắt biết là bậc
nhân tài thành tựu đạo đức trong thiên hạ
đông lắm. Những kẻ xâm phạm, lăng nhục ví
như ngược gió tung bụi, toan dùng tay ngăn trời,
phần nhiều là kẻ chẳng biết lượng sức
vậy.
(Chánh
văn) Xạ phi trục tẩu, phát trập kinh thê, điền
huyệt phúc sào, thương thai phá noăn.
(正文)射飛逐走。發蟄驚棲。填穴覆巢。傷胎破卵。
(Chánh
văn: Săn bắn chim thú, phá tổ côn trùng, kinh động
nơi chim đậu, lấp hang, lật tổ, phá thai, hại
trứng).
“Xạ” (射, bắn)
không chỉ là dùng cung, tên. Phàm là súng ngắn, súng trường,
nơ máy[91], ná, gậy
dính[92], bẫy rập,
lưới chăng, đều thuộc trong phạm vi này.
Hoặc bán để lấy tiền bạc, hoặc v́ tham
ăn tục uống, v́ ư niệm giết chóc mà xếp
đặt [các thứ dụng cụ săn bắt, bẫy
rập] khắp nơi. Loài chim bay bị mất mạng, có
con bị găy cổ, khiến cho cả bầy kinh hoảng.
Có con vật bị đâm thủng ức, chảy cả tủy
ra, khổ sở đến mức nào? Người có ḷng nhân
hăy nên phát ḷng Từ gấp bội. Kẻ ăn chúng, sao nỡ kết
thành mối oán cừu ắt bị đền trả chỉ
nhằm thêm vào cỗ bàn thịnh soạn [một vài món] mà
ta có thể giảm bớt? Kẻ sống bằng nghề
ấy, sao lại khổ sở tạo nên oán nghiệt vô
cùng để đầy túi tiền
hữu hạn của ta?
Người họ
Đổng nọ thích giăng lưới bắt chim. Hễ
bắt được, bèn dùng tre xuyên qua năo chim, dùng rơm
để thui sạch lông đem bán. Hắn giết chóc
không biết bao nhiêu mà kể! Tuổi già, hắn mắc bệnh lạ, khắp ḿnh sanh lớp da thô tháp,
nổi vảy sần sùi như vỏ cây. Hễ bị ngứa
bèn đốt rơm [dí vào chỗ ngứa] để nướng. Lại c̣n bị nhức đầu, thường
bảo kẻ khác lấy tre đập [vào đầu cho
đỡ đau]. Rốt cuộc, hắn do chứng
bệnh ấy mà chết.
Lại có gă
Lưu Đông Nhi chuyên dùng nỏ và tên, tổn thương
các sanh mạng rất nhiều. Một hôm, gă tựa cửa
bắn chim sẻ. Ngẫu nhiên tai bị ngứa, bèn dùng
đầu mũi tên để găi chỗ ngứa. Bỗng
gió thổi cánh cửa đập vào tay, mũi tên đâm xuyên qua lỗ
tai, tuôn máu như trút nước mà chết. Ôi chao! Nỏ tự
bắn ḿnh, rơm tự đốt thân, mỗi mỗi
đều đúng như những ǵ đă làm, sao mà báo ứng
được thể hiện xảo diệu làm vậy?
Đời
Đường, Vi Cao nuôi một con anh vũ (két, vẹt).
Mỗi lần nghe niệm Phật, nó bèn thôi lăng
xăng, ngoan ngoăn. Bảo nó niệm Phật, nó bèn lớn tiếng
niệm “nam-mô A Di Đà Phật”.
Một hôm, nó đứng yên qua đời, chẳng ngă lăn
quay. Đem thiêu, thu được mười hạt xá-lợi.
Vi Cao bèn lập tháp để chôn cất.
Lại nữa,
trong niên hiệu Nguyên Hựu[93] đời
Tống, có vị Tăng nuôi một con cù dục (鴝鵒, con sáo
mỏ ngà). Nó thường niệm Phật theo vị
Tăng. Một hôm, nó cúi đầu, xếp cánh, đứng
qua đời. Vị tăng chủ nhân của nó
thương xót, đem chôn, bỗng từ chỗ chôn mọc
lên một đóa hoa sen xanh, thơm ngát lạ thường.
Đào lên xem, [hóa ra] hoa mọc từ cái lưỡi của
con sáo mỏ ngà. Cả quận kéo đến xem. Viên quan
Thái Thú viết kệ rằng:
Thiên sản linh cầm bát bát nhi,
Giải tùy tăng khẩu niệm
A Di.
Phi cầm thượng chứng
Vô Sanh Nhẫn.
Ngă bối vi nhân khởi bất
như!
(Trời sanh con
sáo tánh khôn lanh,
Biết niệm
Di Đà theo tiếng tăng,
Loài chim c̣n chứng
Vô Sanh Nhẫn,
Lũ ta làm
người sánh nổi chăng?)
Gộp lại những chuyện ấy để
xem, [sẽ thấy] loài vật lớn bé trong thiên hạ
đều là những chúng sanh có linh tánh, đức Phật
từ bi, b́nh đẳng phương tiện che chở, mà
sao con người tàn sát như thế đó, v́ lẽ nào
vậy?
Đời Minh,
ông Nhan Mậu Do nói: - Người thời nay ai nấy
đều nói: “Tạo hóa sanh ra muôn vật để nuôi
con người, theo đúng lẽ, hăy nên săn bắt
để ăn”. Chẳng biết con người cũng
là một sinh vật trong ṿng trời đất, có
thể tu chân, hiếu sanh, th́ mới là thông linh hơn các
loài vật. Nếu không, có khác ǵ những loài động vật
[tăm tối]? Hơn nữa, người chưa theo lẽ chánh
để tu tập, sẽ khó tránh khỏi luân hồi trong
các nẻo. Những chúng sanh nay mang thân dị loại, có thể
là đời trước làm thân người. Kẻ nay
đang làm người, đời trước có thể là
dị loại. Tham sân, tham giết, mượn tay kẻ
khác [giết chóc] để ăn. Nẻo đường sanh tử,
đáng kinh sợ nhất! Vừa vào cơi âm, những kẻ
săn đuổi trong hiện thời, lẽ đâu chẳng
bị săn đuổi? Hăy suy nghĩ nhé!
Có kẻ bảo:
“Nếu ai nấy đều chẳng giết, ắt cầm
thú đầy ắp thế gian, c̣n như các loài sài lang, hổ,
báo sẽ lại ăn thịt con người, há chẳng
phải là nuôi dưỡng những con vật để hại
người ư?” Đáp rằng: Đức Phật dạy:
“Nếu là người có từ
tâm, có công đức, hết thảy binh đao, nước,
lửa chẳng thể tổn thương, hết thảy
ác thú, độc trùng chẳng thể làm hại”. Xưa
kia có gă vua ác xua voi hung dữ toan hại Phật, nhưng
đức Phật khởi từ tâm thương xót, lũ voi thấy năm ngón tay của đức Phật
hóa thành sư tử rống to. Do vậy, các con voi đều
phủ phục xuống đất, quy hàng. V́ lẽ này,
kinh Niết Bàn tột bậc tán thán công đức của
người có từ tâm. Ấy là v́ ḷng Từ tột
bậc có thể cảm hóa kẻ tàn bạo nhất trong thiên
hạ.
Xưa kia, vào thời
Hán Quang Vũ Đế, tại quận Hoằng Nông[94] có nhiều
hổ. Thái Thú ra lệnh cho dân chúng đặt bẫy rập,
dùng cung nỏ để trị. Nạn hổ càng dữ dội
hơn! Đến khi Lưu Côn làm Thái Thú, bèn nói: “Do chánh sách
tàn bạo mà ra!” Ông truyền dân chúng lấp các hầm bẫy, phá bỏ cung nỏ, chỉ chú trọng cai trị
bằng ḷng nhân từ, giải quyết những nỗi
đau khổ của dân. Hổ bèn cùng nhau vượt sông bỏ
đi. Lưu Côn chưa hề đích thân chứng đại
đạo, chỉ v́ một niệm có ḷng nhân mà có thể
nhanh chóng dẹp hết loài hổ tàn bạo, huống hồ
người học theo ḷng từ bi của đức Phật
ư?
Lại như bậc
thánh tăng khuất phục hổ, hàng phục rồng, chói
ngời tai mắt người đời, chẳng phải
là chuyện bịa đặt vậy. Nếu ai nấy
đều có thể học Phật, học theo thánh
tăng, dẫu hổ, báo… đầy dẫy thế gian,
chúng nó vẫn chẳng thể gây hại, lo chi cầm thú sẽ
hại người vậy thay? Bởi lẽ, kẻ tàn bạo
đều hóa thành từ bi hết rồi, những loài vật
độc hại cũng đều hóa thành lân, phượng.
Do vậy biết con vật tuy là hung mănh, tàn độc nhất,
cũng đều có chỗ có thể cảm hóa, chỉ sợ
con người chẳng thể từ bi đó thôi.
Họ Tŕnh ở
Đức Hưng nhiều đời sống bằng nghề
săn bắn, giết hại sanh mạng chẳng thể
kể xiết. Một ngày, vào chợ, hắn mua mấy cái
mặt nạ quỷ, cho mỗi đứa cháu nội
đeo một cái. Bỗng trong chốc lát mấy chục
con chó săn do hắn
nuôi trông thấy [lũ cháu đeo mặt nạ] bèn tranh nhau cắn xé, đuổi cách nào chúng cũng
chẳng chịu lùi. Mấy đứa cháu đều chết!
Một người
vào núi bắt vượn con đem về, vượn mẹ
đuổi theo đến tận nhà. Kẻ ấy trói
vượn con trên cây để chơi. Vượn mẹ
dập đầu tha thiết cầu xin, chỉ là miệng
chẳng thể nói được. Rốt cuộc kẻ
đó chẳng thả, đập chết vượn con,
vượn mẹ ngồi chồm hổm, đau đớn
chết đi. Nhà ấy trong ṿng nửa năm, bệnh dịch
dấy lên, cả nhà chết sạch!
Dù thông minh hay ngu
xuẩn, đều cùng có giác tánh, người hay thú đều
có cha con, há có nên dấy lên nhân duyên sát hại? [Quả báo]
trong đời sau chẳng sai chạy, có khi cũng thấy
ngay trong t́nh h́nh hiện tại, ở ngay trước mắt,
đáng sợ thay! Hơn nữa, dân
chúng các ngươi chẳng có gia đ́nh ư? Chẳng có
cha, mẹ, vợ, con ư? Giả
như ra lệnh cho những kẻ làm quan dùng chánh sách tàn bạo
để phá nhà của ngươi, dùng h́nh cụ
độc dữ để tàn phá thân thể ngươi, khiến cho các ngươi chồng chẳng c̣n vợ, cha chẳng c̣n
con nữa, có kẻ nào chẳng ngửa mặt
lên trời gào khóc, oán hận sâu đậm chẳng thể
cởi gỡ ư?
Loài trùng kéo kén, ngủ
đông, hễ đào xới, ắt chúng sẽ bị tổn
thương. V́ thế, đức Thái Thượng viết
lời răn dạy người đời, mà chư Phật
càng thêm yêu tiếc chúng. Con người chớ nên không lănh hội
ư này để rồi cứ đào xới bừa băi vậy!
Đời Tống, Tào Bân
hễ trời rét buốt bèn chẳng sửa chữa tường,
nhà. Có kẻ hỏi nguyên do, ông bảo: “Sợ tổn
thương những loài trùng đang ngủ Đông”. [Ḍng họ]
ông Tào đời đời được phong
vương chính là v́ đă gieo cái nhân
không chịu làm tổn thương những loài trùng
đang ngủ Đông. Nay th́ có kẻ vô cớ đốt
đồng hoang nhằm thỏa thích thói vui đùa trong chốc
lát, tổn thương muôn loại sanh linh. Sao không dùng chuyện
ông Tào để thưa tŕnh, răn nhắc họ? Nếu
gặp phải, hăy nên dập tắt ngay. C̣n như dân quê,
trẻ nít, do v́ họ vô tri, càng phải nên khéo léo chỉ bảo.
Nếu có kẻ nào đổ tro nóng, hoặc nước
nóng xuống đất, và kẻ do cúng bái tổ tiên bèn
đốt giấy tiền vàng mă, hăy đều
nên lưu tâm trong lúc ấy để giữ vẹn mạng
sống [cho các loài trùng nhỏ], ḷng nhân sẽ to lớn
không ǵ bằng!
Chim đă đậu,
như người đă ngủ, bỗng dưng bị kinh
động, há chẳng phải là cả nhà nhiễu loạn
ư? Đức Thái Thượng răn nhắc có cùng một
ư với [lời dạy] “dặc
bất xạ túc” (chẳng bắn chim đă đậu)
của Khổng Tử. Tiên kinh chép: “Hễ ai tùy thời tạo phương tiện cứu
loài vật, ắt sẽ được quả báo phước
đức, trường thọ”.
Lư Hề Tử
là một bà cụ ở trong núi, mỗi khi tuyết đổ dầy,
chim không có chỗ trú, thường cho chúng núp trong nhà, lấy
gạo cho chúng ăn, lại c̣n chẳng dám kinh động
chúng. Thượng Đế bảo bà cụ có ḷng nhân, cụ
thọ tới năm trăm tuổi.
Người họ
Dương nọ, sống bằng nghề bắt chim. Một
hôm, có một con chim khách tránh rét đậu trên cây, bèn cầm
gậy dính trèo lên cây [toan bắt nó]. Cành cây bị găy, hắn
ngă xuống, đầu đâm vào cành trúc, máu chảy ồ ạt
mà chết.
“Huyệt” (穴) là chỗ tụ
tập sinh sống của hết thảy các loài hàm linh.
Nh́n theo phía con người, nơi đó cố nhiên chỉ
là một cái hang mà thôi, nhưng đối với chúng,
đó là chỗ cư trú an ổn, chẳng khác ǵ [nhà cửa
đối với] con người. Há có nên
san lấp, cắt đứt đường sống,
đoạn tuyệt đường ra, lại c̣n vùi lấp
tông tộc của chúng, tàn nhẫn đến cỡ nào?
Xưa kia có một
vị tỳ-kheo đắc lục thần thông, ở chung
với một chú bé sa-di. Từ trong Định, Sư thấy
bảy ngày nữa chú sa-di sẽ chết. Do vậy, Sư tạo phương tiện, bảo chú trở về [thăm nhà]. Tám ngày sau, chú sa-di quay lại.
Vị tỳ-kheo lấy làm lạ, nhập Định
để xem, biết là chú sa-di trên đường trở
về, thấy một tổ kiến sắp bị nước
xoáy vào, bèn vội cởi ca-sa hốt đất ngăn
nước, không cho nước xoáy vào ổ
kiến. V́ nhân duyên ấy, [chú sa-di] được tăng
thọ mười hai năm. Do vậy, chú sa-di tinh tấn, chứng
đắc Tứ Quả.
Ở Hàng Châu có một
người đàn bà nọ thích sát sanh, rất ghét kiến.
Hễ chúng làm bẩn, làm hư thức ăn, liền đốt
lửa giết chúng. T́m thấy ổ kiến, nếu chẳng
lấp phá, ắt sẽ dùng nước sôi dội vào, giết
kiến khôn xiết! Về sau, bà ta sanh được một
đứa con, mới c̣n ẵm ngửa. Nó bị lũ kiến
cắn xé, khắp ḿnh phù nề, lở loét mà chết. Châu
Cơ nói: “Phụ nữ thường
coi con cái như tánh mạng, hăy khuyên họ kiêng
giết. Hăy nên nói cho họ biết câu chuyện này, ắt họ sẽ tự biết sợ”. V́ thế, trong lời thề Giới Sát (đừng
giết chóc) của ông Châu Cơ có hai câu: “Nếu lại vung dao, sẽ giống như giết
con cái của ta vậy”. [Hai câu nói ấy] một là tự răn dè ḿnh, hai
là răn dè vợ vậy!
“Sào” (巢) là chỗ hết
thảy chim chóc lớn nhỏ nương náu, bú mớm,
sanh nở, nhờ vào đó mà tránh gió, mưa, sương,
tuyết, hoặc dùng để ẩn náu tránh bẫy rập,
ná bắn, tên bay. Nếu kẻ nào bất nhân phá đổ
tổ chim, có khác ǵ phá cửa, đốt
nhà? Há chẳng đến nỗi dồn chúng vào chỗ chết
ư? Trong bài Bảo Tự Chương (保嗣章, chương sách dạy về cách bảo vệ
con cháu), đức Thái Thượng đă bảo: “Con cháu của phàm nhân suy vong, tuyệt diệt, đều là
do những kẻ trong đời trước đă lật
tổ, hủy trứng, đốt núi, tát cạn chuôm,
đầm, phá thai, giết con, phạm vào quy định gồm
một ngàn sáu trăm hai mươi điều vậy”.
Xét theo lời ấy, những kẻ không có con nối dơi,
hăy càng nên dũng mănh tỉnh ngộ!
Đức Phật
dạy: “Nếu thấy hết
thảy người trong cơi đời trèo lên cây lấy trứng,
xuống nước bắt cá, hăy nên thầm niệm danh hiệu
Bảo Thắng Như Lai mấy chục câu, chúng nó sẽ
được thoát chết. Đấy cũng là
phương cách để cứu sống vậy”. Có
người nói: “Nhân từ với người rồi mới
yêu thương loài vật, nay sao lại chỉ dạy yêu
thương loài vật?” Thưa: Nhân từ với người
dễ dàng, yêu thương loài vật khó lắm! Tàn nhẫn
hại loài vật, ắt sẽ tàn nhẫn hại người.
Chẳng nỡ ḷng hại vật, ắt đối với
loài người cũng sẽ biết [từ bi]. V́ thế,
kinh Hoa Nghiêm dạy: “Ta c̣n chẳng
nỡ ḷng làm khổ một con kiến”, huống chi đối
với con người? Vua Thành Thang[95] mở rộng
tấm ḷng “[do thương xót loài vật] mà mở lưới”
đến tận con người; v́ thế, ḷng nhân bao trùm
thiên hạ. Vua Tề (Tề Tuyên Vương) chẳng nỡ
ḷng [hạ lệnh giết] một con trâu đang sợ
hăi, run rẩy[96], [ḷng nhân từ]
đầy ắp đủ để bảo vệ bốn
biển. Nếu Bạch Khởi[97] có ḷng yêu
thương muôn vật, ắt bốn mươi vạn
người ở Trường B́nh sẽ chẳng bị
hăm hại! V́ thế, kẻ yêu thương loài vật, sẽ
yêu thương con người, có cùng một ḷng nhân. Đức
Như Lai khi tu nhân, thương xót một con bồ câu [bị
chim ưng săn đuổi, bèn tự cắt thịt ḿnh
thí cho chim ưng]. Mở rộng đến tột cùng, ḷng
từ bi tràn ngập mười phương, dạt dào
trong muôn kiếp. Ai có thể nói là kẻ yêu thương
loài vật, chẳng thể yêu thương con người
ư? Nhưng tâm luôn nghĩ cứu khổ, sẽ chính là
đức Quán Âm xuất hiện. Niệm nào cũng
nghĩ hành Từ, tức là Phật Di Lặc hạ sanh vậy!
Đời Tống,
Tô Thức tên tự là Tử Chiêm, do dựng nhà ở
Đông Pha[98],
bèn lấy hiệu là “cư
sĩ Tô Đông Pha”. Trước cửa pḥng sách, có tre,
bách, các loại hoa mọc um tùm khắp sân, các
loài chim làm tổ trên đó. Do vậy, ông cấm con cái, tôi tớ
không được săn bắt. Trong ṿng mấy năm,
chim đều làm tổ ở những cành thấp, hễ
cúi xuống có thể trông thấy trứng của chúng.
Xưa kia, nghe nói các loài chim hễ làm tổ ắt gần
người để tránh rắn, chuột, cú, diều;
người thời nay ăn thịt chim non, phá tổ của
chúng, há chẳng phải là bất nhân hơn các loài rắn,
diều hâu ư?
Một đứa
trẻ nhà họ Tiết ở Kế Châu trèo lên cây, thăm
ḍ tổ chim thước để bắt chim non. Trước
đó, đă có con rắn to ăn chim non nằm sẵn trong
tổ. Đứa trẻ vừa trông thấy rắn bèn kinh hăi, há hốc miệng. Rắn ḅ vào trong miệng
đứa trẻ, nó ngă rơi xuống nước. Cứu
lên, rắn đă cắn tim nó, đứa trẻ và rắn
đều chết.
Lại vào đời
Tống, có gă họ Châu thích phá tổ, rất ghét ong. Hễ
thấy tổ ong, dẫu ở chỗ cao, ắt bắc
thang để phá nát. Về sau, hắn sanh hai đứa
con, hậu môn đều bị
bít chặt, chúng đều chết ngay, rốt
cuộc tuyệt tự. Thiền sư Từ Thọ nói: “Người đời do sát sanh
nhiều nên mới có đao binh kiếp. Do ngươi thiếu
mạng bèn giết thân ngươi, do ngươi thiếu
tiền bèn đốt nhà ngươi, ly tán vợ con ngươi.
Từng phá sào huyệt của chúng, sẽ bị ảnh
hưởng gần giống như vậy! Hăy rửa tai
nghe lời đức Phật dạy”.
Ông Nghiêm Thiệu
Đ́nh nói: - Thánh nhân răn kiêng giết, tâm hết sức
thiết tha. Kỳ lân là một con thú, do nó không giẫm
đạp cỏ tươi, không ăn các con trùng c̣n sống,
nên được coi là điềm lành, được xếp
đứng đầu Tứ Linh[99]. Bậc
vương giả có ḷng nhân đức, ắt kỳ lân sẽ
tới.
Lại nói: - Chỗ nào có kẻ mổ bụng lấy thai, giết
trẻ nhỏ, ngay cả nơi lân cận chỗ ấy, kỳ
lân cũng chẳng tới. Tát cạn đầm để
bắt cá, ắt giao long chẳng ở nơi vực sâu ấy.
Lật tổ, phá trứng, ắt phượng hoàng chẳng
bay đến huyện ấy. V́ thế, những điều
đó cho thấy phường hiếu sát chẳng
sánh bằng cầm thú! Như thế mà nói là “thánh nhân chẳng kiêng giết” ư? Từng thấy phường vô lại hôm nay
trộm cắp, ngày mai bị trói, vẫn cứ trộm cắp
chẳng ngơi, [ắt là v́ kẻ ấy] nghĩ là “do trộm
cắp, sẽ ngay lập tức có được tiền
bạc, của báu; c̣n bị trói là chuyện của ngày mai, cứ mặc
kệ, rảnh đâu mà lo tới! Ăn uống sẽ ngay
lập tức sướng bụng miệng,
c̣n tội lỗi ở tận đâu đâu ngoài h́nh hài
trong kiếp sống này!” Chẳng
trách những lời khuyên “đừng
giết” dẫu nói tường tận cách mấy, vẫn
chẳng thể cứu văn nổi chuyện tàn sát! Chỉ mong những
ai trong lúc cầm đao đuổi bắt, hăy tạm thử
hồi tâm quan sát, xét xem những chúng sanh ấy trốn chạy,
tung bay tán loạn, chạy vào chỗ tối, chui vào kẽ
nứt, chẳng có thang
để trèo lên trời, không
có lỗ nào để rúc xuống
đất, giống như lũ chúng ta kinh sợ phép vua, hễ
nghe có lệnh truy bắt, bay hồn bạt vía,
có khác ǵ chăng? Hăy xem những chúng sanh ấy như cùng một
loài [với chúng ta] mà thương xót, ăn ở cùng với
nhau. Như cắt cổ một con gà, cả bầy gà ré
lên kinh hăi. Mổ một con lợn, cả đàn lợn bỏ
ăn. Giống như chúng ta bị bắt lên quan, cả
nhà bàng hoàng, hoặc trong lúc sanh ly tử biệt (lúc bị
hành h́nh), cả họ khóc rống. Thường ngày yêu
thương, quyến luyến, khó thể chia cắt, khó
ḷng bỏ ĺa, có ǵ khác chăng? Xem những chúng sanh ấy,
bị trói, bị chém, quằn quại, gào thét bi
thương, chỉ mong được tha, máu me đầm
đ́a, mạng đă dứt rồi, tiếng gào vẫn c̣n
bi phẫn. Có lúc c̣n co giật, giống như chúng ta bệnh
tật không biết làm sao được, gào thần, niệm
Phật mong được bảo vệ. Thần thức
ĺa khỏi, mắt trợn trừng, môi mấp máy, quơ tay nắm níu mong sao được sống,
có khác ǵ chăng? Suy xét kỹ càng, chẳng cần phải
luận định quả báo ngàn đời vạn kiếp,
mà ngay trong một niệm hiện tại, há c̣n dám nhẫn
tâm giết hại, thương tổn nữa chăng?
Bạch Quy Niên có
được một bộ sách lạ, [học tập
theo sách ấy] có thể hiểu ngôn ngữ của loài chim
trong chín phương trời và tiếng nói của loài thú
trong chín phương đất. Một ngày, họ Bạch
ngồi cùng Thái Thú Lộ Châu, nhằm lúc có người xua
bầy dê đi qua sân. Trong ấy có một con dê, dẫu bị
đánh đập, vẫn không chịu đi, c̣n kêu lên bi thương.
Thái Thú hỏi: “Dê nói ǵ vậy?” Họ Bạch thưa: “Dê
nói trong bụng có dê con, chờ sanh xong, sẽ cam tâm chịu
chết”. Thái Thú bèn giữ dê lại, chẳng giết. Quả
nhiên nó sanh ra hai con dê con.
Văn Lập sống
bằng nghề giết mổ, nấu nướng, đă
từng giết một con nai. Con nai quỳ khóc, ông ta cho là
điềm bất tường. Con nai ấy có thai, sắp
sanh nở, chạy vào bếp, ai oán [tỏ ư] cầu xin. [Nó
vẫn bị] giết mổ [như những con vật
khác]. Về sau, Văn Lập bị chứng bệnh lạ,
tóc rụng, da nứt, dấy ḷng hối hận sâu xa, vét sạch
nhà cửa, mua đất, dựng chùa Tiểu Trang Nghiêm, bèn lành
bệnh. Ông ta liền suốt đời tu hành. Cái tội
mổ thai, giết chết con vật c̣n non lớn tột
bậc, nhưng vẫn có cách sửa đổi. Xin hăy nh́n
vào câu chuyện này.
Đức Phật
dạy: “Nếu kẻ nào bạo
ác chẳng tin tội phước, bắt chim non, ăn trứng,
khiến cho các loài chim chóc đều bị mất con, khiến
cho chúng nó kêu gào đau đớn đứt
ruột, tṛng mắt chảy máu, sẽ mắc phải báo ứng
cô độc, không có con”.
Dương Tự
mộng thấy thần nói: “Hơn mười ngày nữa,
ngươi sẽ chết. Nếu có thể cứu sống
ức vạn sanh mạng th́ sẽ có thể thoát chết”.
Dương Tự thưa: “Kỳ hạn cấp bách, chẳng
làm kịp!” Vị thần dạy: “Đức Phật bảo,
nếu cá con hoặc trứng cá không bị thả vào nước
muối, ba năm c̣n có thể sống sót”. Dương Tự
tỉnh mộng, hằng ngày mua cá con hoặc trứng cá
đem thả. Lại c̣n viết lời thần dạy bằng
chữ to dán ở các ngả đường để
người khác biết mà kiêng dè. Hễ thấy người
khác giết cá, bèn đem trứng cá thả trong sông. Vài hôm sau,
lại mộng thấy thần nói: “Con số ức vạn
đă măn, có thể kéo dài tuổi thọ”.
Ghi thêm cách thả cá con của
ông Thí Ngu Sơn:
Hễ cá đă chết,
bèn nhẹ nhàng gỡ lấy trứng, đừng làm tổn
hoại, đừng bỏ vào nước muối, dùng
rơm rạ phủ lên trên, chờ vết bọt nước
hơi khô, hăy đem vùi trong chỗ bùn cát nơi mé nước để khỏi bị cá khác nuốt
mất, chúng sẽ được sống sót toàn bộ, nhưng
chỗ chôn trứng chẳng thể rời khỏi nước.
Một cách khác là trộn với bùn khô, để cho ánh mặt
trời chiếu hơi ấm bèn đem cất, từ cuối
Đông cho đến ba tháng mùa Xuân, cất cho tới sau
ngày Rằm tháng Tư bèn thả xuống băi sông chỗ có
nước cỏ, không khi nào chẳng sống toàn bộ.
Những tháng khác th́ có thể tùy lúc mà thả, hết sức
thuận tiện!
Châu Dự đă
có lần nấu lươn, thấy có con lươn uốn
cong ḿnh lên trên, đầu và đuôi th́ ở trong nồi
canh, ấy là v́ trong bụng nó có con. Do đó, ông ta kiêng giết.
Đường
Văn Tông thích ăn uống. [Kẻ hầu] chuẩn bị
ngự thiện[100], có món trứng
luộc. [Trong lúc đang luộc], bỗng nghe trong cái đỉnh
có tiếng ŕ rầm cùng nhau hô Quán Thế Âm Bồ Tát, hết sức thê lương, thảm thiết. Viên giám tể[101] nghe tiếng,
[tâu lên vua], vua sai kiểm nghiệm th́ đúng là như vậy.
Vua than: “Ta chẳng biết thần lực trong đạo
Phật có thể làm như thế!” Do vậy, nhà vua sắc
truyền: “Từ nay, đừng dùng trứng gà nữa!”
Phàm “cứu khổ, cứu nạn” chính là
bổn hạnh của Quán Thế Âm. Trong nồi mà c̣n có tiếng
cùng nhau hô [thánh hiệu của Ngài], kẻ làm người
mà lại chẳng cung kính niệm ư?
Đời
Lương có kẻ dùng ḷng trắng trứng ḥa vào
nước để gội tóc, muốn cho tóc bóng mượt
dễ coi. Kẻ ấy phá trứng rất nhiều. Khi sắp
chết, trong tóc chỉ nghe tiếng mấy ngàn con gà kêu
chiêm chiếp!
Hồ Gia Đống
nói: - Loài vật bay hay chạy giống như con người
hành động. Loài vật ngủ Đông giống
như con người nằm ngủ. Sào huyệt của
loài vật giống như nhà cửa của loài người.
Thai, trứng của loài vật giống như con người
thai nghén, sanh nở. Há có nên tàn hại
đủ mọi cách, dứt bặt ḷng Từ của
trời, đất, tạo hóa, trái nghịch ḷng nhân “muôn vật có cùng một Thể” vậy thay? Nhưng tám t́nh huống ấy, khắp
nơi đều có, chẳng thể nhất loạt mong
sao hoàn toàn chẳng có cho được! Chỉ khuyên khắp
người đời, hễ có tiền, bèn lấy
phóng sanh làm chuyện chánh yếu. Không có tiền th́ ngoài chuyện
chính ḿnh kiêng giết, c̣n phải khéo léo khuyên
thân thích, xóm giềng, bạn bè, khiến cho họ chẳng
c̣n gây tạo nỗi oan nghiệt ấy nữa! Hăy làm theo
cách này, ngơ hầu sẽ có rất ít [hành vi] sai lầm!
Trong bài văn
Phóng Sanh của Liên Tŕ đại sư đời Minh có
đoạn:
- Từng nghe, thế
gian coi trọng sanh mạng nhất. Điều thê thảm
nhất trong thiên hạ là giết hại, tổn
thương. Do vậy, [động vật] hễ sắp
bị bắt giữ, ắt rảo chạy; rận,
rệp c̣n biết tránh né cái chết. Trời sắp
mưa, sẽ di tản, dế, kiến c̣n tham sống. Huống
chi lưới giăng trong núi, chài quăng nơi vực, [kẻ
săn bắt] lắm cách che giấu ḥng bắt lấy, móc câu cong, mũi tên thẳng, trăm kế vây bủa, khiến cho loài vật vỡ mật,
tan hồn, mẹ con ly tán. Hoặc giam cầm
trong lồng, trong cạm, giống như ở trong tù. Hoặc bị đao chặt, giống như bị
lâm vào cảnh chém giết. Nai thương con, liếm vết
thương mà ruột non đứt rời từng khúc[102]. Con vượn
sợ chết, nh́n thấy bóng cây cung từ xa mà tuôn hai hàng
nước mắt[103]. Cậy ta
mạnh, hiếp đáp kẻ yếu, sợ rằng chẳng
đúng lư! Ăn thịt kẻ khác để bồi bổ
thân ḿnh, sao lại nỡ ḷng? Do vậy, trời cao rủ
ḷng thương xót, cổ thánh bủa ḷng nhân, Thành Thang tháo
lưới giăng bẫy, Tử Sản[104] đề
xướng nuôi cá. Thánh thay, trưởng giả Lưu Thủy[105], dùng túi
đựng nước suối giúp đỡ bọn cá
đang bị khô hạn. Từ bi thay đức Thích Ca,
lănh nguy vong [giùm chim bồ câu] bèn tự cắt thịt[106]. Thiên Thai
Trí Giả đào ao phóng sanh. Đại Thụ tiên nhân[107] bảo vệ
những con chim đậu trên thân. Chuộc những loài có
vảy mà đắc độ, ḷng yêu thương của
Thọ thiền sư (ngài Vĩnh Minh Diên Thọ) c̣n đó.
Do cứu rồng con mà được truyền
phương thuốc, phong thái từ bi của Tôn chân nhân[108] chẳng mất.
Cứu sống kiến, sa-di đổi đoản mạng
thành trường thọ, thư sinh đổi hạng kém
thành đỗ bậc thượng[109]. Do thả
rùa, Mao Bảo[110] gặp
nguy mà thoát nạn, Khổng Du[111] chức
kém mà được phong hầu. Khuất Sư thả cá
chép tại Nguyên Thôn[112], tăng thọ
mười hai năm. Tùy Hầu giúp rắn ở ngoài đồng
nước Tề, được báo đáp viên châu ngàn vàng.
Cứu con ruồi suưt chết đuối, người thợ
làm rượu được miễn án tử h́nh[113]. Thả
con ba ba sắp bị nấu, đứa tớ gái nấu bếp
bệnh ngặt được lành[114]. Chuộc
mạng con vật sắp bị giết từ nhà đồ
tể, Trương Đề H́nh hồn siêu thăng thiên
giới[115].
Đổi mạng thừa nơi ghe câu cá, Lư Cảnh Văn
giải độc bằng đan sa[116]. Tôn Lương
Tự giải trừ mối nguy do bị chằng buộc
[trong bẫy rập], cho nên được loài chim t́m giùm
đất an táng tốt đẹp[117]. Huyện
lệnh họ Phan lập lệnh cấm giăng lưới
bắt cá trên sông hồ, lúc bị đổi đi trấn
nhậm nơi khác, thủy tộc khóc gào đau xót[118]. Cụ
Đạo Tín cứu con vật sắp bị giết bởi
ngu dân để cúng tế, điềm lành ứng hiện,
trời tuôn mưa ngọt[119]. Ngài Tào Khê
(Huệ Năng) giữ lưới thợ săn, đạo
thống vượt trỗi Thần Châu (Trung Hoa). Chim sẻ
được giải cứu, bèn ngậm ṿng đến
báo ân. Cáo có thể vào giếng truyền trao đạo thuật[120]. Cho đến
trường hợp thân tàn được sống, bám trên
vách trắng để nghe kinh; cầu được sống
ở nơi hoạn nạn, hiện thân hoàng y báo mộng[121]. Hễ thí
đều có báo ứng, chẳng phải là chuyện không
có bằng chứng, [những chuyện ấy được]
chép trong sách vở, rạng ngời tai mắt. Xin nguyện
khắp mọi người, hễ thấy những con vật,
hăy phát tâm từ bi, bỏ ra tiền tài chẳng kiên cố[122], để
làm chuyện thuận lợi, hoặc là tạo ân giúp đỡ
nhiều mạng, tích lũy âm công to tát. Nếu ban ơn cho
một con trùng, có lẽ nào cũng chẳng phải là một
việc thiện ư? Nếu tháng ngày tích lũy tăng dần,
thực hiện rộng răi, phước sẽ cao ṿi vọi,
ḷng Từ đầy ắp nhân gian, tiếng thông thấu
cơi trời, dẹp sạch làu oán chướng, nhiều
phước đức sẽ tụ tập trong kiếp
này, vun bồi, chất chứa thiện căn, những
điều may mắn lan sang đời khác! Nếu lại
c̣n giúp [những con vật mắc nạn ấy] xưng niệm
Phật hiệu và tụng kinh văn, v́ chúng hồi hướng
Tây Phương, khiến cho chúng
được vĩnh viễn ĺa khỏi ác đạo.
Ôm tấm ḷng càng to, gieo bồi đức càng sâu. Đạo
nghiệp nhờ đó mà chóng thành, sẽ sanh về phẩm
vị thù thắng nơi đài sen!
(Chánh văn) Nguyện
nhân hữu thất, hủy nhân thành công.
(正文)願人有失。毀人成功。
(Chánh
văn: Mong cho người khác phạm sai lầm, hủy
hoại sự thành công của người khác).
Người khác
phạm sai lầm hay thất bại, đó là điều bất
hạnh. Chẳng xót thương mà c̣n ngược ngạo
mong cho họ [gặp phải]; đấy
chính là vui sướng khi người khác mắc họa! Những
kẻ đă coi tai họa là chuyện đáng vui thích, há tai
họa không theo sát họ ư? Như vậy là sự thất
bại chẳng giáng xuống người khác, mà đâm ra
rơi vào chính ḿnh! Người dẫu chí ngu,
cũng sẽ chẳng làm như thế!
Lư Sĩ Hành vâng lệnh
đi sứ Cao Ly, Du Anh làm phó, những tiền bạc, vải
vóc thu được, [Sĩ Hành] đều giao cho Du
Anh. Du Anh sợ [tiền bạc, vải vóc của chính ḿnh
do] vượt biển sẽ bị ướt, đem hết
những đồ vật của Sĩ Hành để
dưới đáy thuyền, đem đồ vật của
chính ḿnh phủ lên trên. Chẳng ngờ gặp gió to, thủy
thủ xin quăng bớt những vật chở theo. Trong
lúc bối rối, họ tiện tay nắm được
vật ǵ bèn quăng vật đó. Đến khi gió lặng,
kiểm điểm những vật đă ném đi th́ toàn
là đồ của Du Anh! Những đồ vật của
Sĩ Hành đều ở đáy thuyền, chẳng mất
một vật nào! Có ư niệm riêng tư giống
như vậy, kẻ nào chẳng có? Đều là do chẳng
thể b́nh đẳng vậy! Kinh Niết Bàn dạy: “Các người tu hành hăy nên lấy
sáu pháp trí lực b́nh đẳng để thâu nhiếp, chế ngự tự
tâm, ắt phải sao cho trong lúc vận dụng bèn b́nh đẳng
đối với hết thảy”. Thiệu Khang Tiết có thơ rằng:
Mỗi nhật thanh thần nhất chú hương,
Tạ thiên, tạ địa,
tạ quân vương,
Đản cầu xứ xứ
điền ḥa thục,
Duy nguyện nhân nhân thọ mạng
trường.
Quốc hữu hiền thần
an xă tắc,
Gia vô nghịch tử năo gia
nương,
Tứ phương ninh
tĩnh can qua tức,
Ngă nhược bần thời
dă bất phương.
(Mỗi sáng ta
đều thắp nén hương,
Tạ trời, tạ
đất, tạ quân vương,
Chỉ mong khắp
chốn mùa màng tốt,
Chỉ nguyện
người người thảy mạng trường.
Nước có hiền
thần yên xă tắc,
Nhà không nghịch tử, mẹ cha vui,
Bốn
phương yên ổn, không chinh chiến,
Ta dẫu
nghèo hèn, quản ngại chi)
Do vậy biết
tâm của tam giáo đều b́nh đẳng. Lũ chúng ta phải
nên có tâm lượng ấy, khắc chế tư dục, đối trị cái tâm. Chớ v́ niệm
nào cũng nghĩ đến lẽ riêng tư mà tạo ác tầng
tầng!
“Hủy” (毀) có hai nghĩa,
một là hủy hoại, hai là hủy trấm (毀譖, vu vạ, miệt thị, phỉ báng). Kẻ muốn
lập công, bất luận lớn, bé, ai nấy
đều dốc sức mong đạt thành công, nhưng
ta ắt ngăn trở, hủy hoại, tâm thuật
đúng là như rắn, rết!
Đời Tống,
ông Chân Tây Sơn[123] nói: “Nếu
ai nghe một điều thiện của kẻ khác, hăy nên
khen ngợi, phụ họa. Nghe các điều ác, ắt dốc
sức che giấu, khiến cho kẻ ấy thành công, [có
như vậy th́ mới] chẳng đến nỗi sai sót
về mặt đức hạnh”. Cổ
nhân có tấm ḷng như thế, huống ǵ đối với
người đă thành công mà c̣n hủy báng ư?
Đời Minh,
Tăng Tiễn là Tổng Đốc Tam Biên[124] muốn
chiếm lại vùng Hà Sáo. Nghiêm Tung[125] đố
kỵ sự thành công của ông, ngược ngạo gièm siểm
Tăng Tiễn và Hạ Ngôn tự tiện gây hấn
nơi vùng biên cảnh, khiến cho họ
đều bị giết tại chợ Tây
[thành Bắc Kinh]. Về sau, Nghiêm Tung chết, con trai hắn là Thế Phiên bị chặt đầu.
Đời Tống,
Tuyên Kỳ Anh tánh hiểm độc. Hàng xóm xây nhà sắp
xong, họ Tuyên đố kỵ, đến đêm bèn qua chặt
chân cột. Bỗng kèo nhà rơi xuống, đè chết hắn.
Than ôi! Hủy người khác là tự hủy đó thôi!
Người thời nay đối với mỗi chuyện,
mỗi vật, hoặc là cho đến giao dịch, vay
mượn v.v… thường nói cho sướng mồm, hủy
hoại sự thành công của người khác, là cái tâm
như thế nào vậy? Ta biết những kẻ như thế ấy chỉ tự hủy chính ḿnh
mà thôi! Phàm là những người lương dân, hăy nên
răn nhắc lẫn nhau!
(Chánh văn) Nguy nhân tự
an, giảm nhân tự ích.
(正文)危人自安。減人自益。
(Chánh
văn: Khiến cho người khác lâm nguy để
chính ḿnh an ổn. Giảm trừ lợi ích của người
khác để chính ḿnh được lợi).
Ngàn kinh vạn
điển chỉ luận định một chữ Tâm. Nay
cùng kẻ khác ở trong cảnh họa hoạn, rốt cuộc
muốn cho kẻ khác đương đầu nguy hiểm,
c̣n ta được yên thân ư? Trước hết là đă chôn vùi bản tâm vậy!
Ông Vu Thiết Tiều
nói: - “Bỏ nguy, t́m an” là lẽ thường t́nh, nhưng
trời ghét thói ấy, v́ sao? Chẳng phải là ghét kẻ tự [t́m
cách] an thân, mà là ghét kẻ khiến
cho người khác gặp nguy hiểm. Đối với
những t́nh cảnh phải trải qua trong đời
người, có ai mà chẳng biết phán đoán là an hay
nguy? Nếu chỉ biết an ổn cho riêng ḿnh, chẳng
đoái hoài kẻ khác gặp nguy hiểm, ư niệm giết
chóc đă ẩn sẵn trong ấy, sẽ có thể là không
ǵ chẳng làm! Nếu mưu kế ấy (mưu kế
đùn đẩy người khác hứng chịu hiểm
nguy) thực hiện được, ắt kẻ quỷ
quyệt sẽ đều gối cao [yên giấc không áy
náy], mà kẻ thật thà sẽ chẳng có đường
nào sống sót được, há có phải là tấm ḷng của
trời đất hay chăng? Huống hồ, lẽ
an nguy như chiếc ṿng luôn xoay chuyển, rốt cuộc
chẳng để cho kẻ ôm ḷng riêng tư mà ḥng hiểu
biết xuyên suốt được. V́ thế, có khi chỗ
hướng đến [ḥng tránh hiểm nguy] lại đâm
ra là nơi hiểm địa, c̣n chỗ mong né tránh đâm
ra lại là chỗ bằng phẳng. Nếu b́nh tâm nơi [sự lợi hại giữa] ta và người, đến
bất cứ nơi đâu mà chẳng phải là [vững
vàng như đi] trên tảng đá ư?
Đời Tống,
Lư Tự [được phái về] trông coi Vĩnh An quân[126]. Khi ấy,
bọn cướp to lớn mới dấy lên, hắn sợ
mắc họa, bèn quỷ quyệt tiến cử người
bạn là Phạm H́nh thay thế. Do vậy, Phạm H́nh cai
quản Vĩnh An, Lư Tự được rời khỏi chức ấy.
Về sau, cả nhà Phạm H́nh bị bọn cướp làm
hại. Không lâu sau, Lư Tự được điều về
trông coi Lâm An, trên đường gặp cướp,
cũng chết cả nhà. Than ôi! Thấy người khác gặp
nguy, bậc quân tử c̣n nghĩ cách cứu giúp, há nên nhẫn
tâm để người khác gặp nguy hiểm ḥng ta
được an ổn ư? Đấy là hành vi của
phường khắc bạc, tiểu nhân, mắc họa to
nhất!
Trong thiên hạ,
chỉ tạo lợi ích cho người khác th́ chính ḿnh mới
có thể đạt
được lợi ích. Nếu
chẳng có ích cho người khác, chỉ kiếm lợi ích
cho riêng ḿnh, c̣n chẳng phải là lợi ích thật sự,
huống hồ kẻ giảm tổn người khác!
Đó gọi là “chỉ cốt
sao ta giàu có, chẳng màng kẻ khác nghèo nàn”.
Ông Vu Thiết Tiều
nói: - Người thời nay đối với những
chuyện tiền bạc, vải vóc, ruộng nương,
nhà cửa v.v… thường làm như thế, há có biết đấy
chính là đă riêng vay nợ mà chẳng viết bằng khoán.
Tiền lời sẽ ngày càng tăng, sẽ có ngày đến
hạn kỳ [phải trả nợ], có ǵ đáng gọi
là lợi ích hay chăng?
Đầu niên hiệu
Sùng Trinh đời Minh, có hai người là Giáp và Ất
chơi thân với nhau. Gặp khoa thi vơ, do mỗi nơi chỉ
có thể tiến cử một Vơ Cử Nhân, Giáp bèn nhờ
cậy huyện lệnh, Ất
trông cậy quan Tư Lư. [Theo quy định, khi được
tuyển, ứng viên] phải biếu xén tạ ơn mỗi
chỗ năm mươi lạng. Giáp suy đoán: “Danh vọng của huyện lệnh khá nhẹ, ắt
việc chẳng thành; quan Tư Lư danh vọng cao trọng,
chuyện ắt thành”. Do vậy, hắn muốn bóc rỉa Ất
để làm lợi cho ḿnh, lập kế bảo Ất: “Hai
người bọn ta đồng tâm, đáng nên đồng
cam cộng khổ. Nếu [quan trên]
chỉ tuyển lấy một người trong hai đứa
ḿnh, chớ luận ta hay ngươi [được tuyển],
đều phải chia
đôi phần lễ biếu tạ [quan của người
không được tuyển]”. Ất
đồng ư. Tới khi yết bảng, người nhờ
cậy quan Tư Lư không được tuyển, c̣n người
cậy quan huyện được chọn. Do món tiền dành
để biếu xén đều ở chỗ Ất, Giáp chẳng
thể nuốt lời, chỉ đành uất nghẹn mà
thôi! Giáp muốn lợi ḿnh, đâm ra làm lợi cho Ất[127]. Từ chỗ
này suy ra, phàm quan lại muốn bóc lột dân, nhà giàu bóc lột
lợi tức [từ người nghèo], cứ mong căng đẫy túi ḿnh, chẳng có kẻ nào
đâm ra không bị tổn hại!
(Chánh văn) Dĩ ác dịch
hảo, dĩ tư phế công.
(正文)以惡易好。以私廢公。
(Chánh
văn: Dùng thứ xấu thay cho đồ tốt [trong
khi giao dịch]. V́ ḷng riêng tư mà phế trừ lẽ
công).
“Lấy thứ xấu thay cho đồ tốt”:
Như dùng sắt thay cho vàng, dùng đá thay cho ngọc, lấy
vải thay cho lượt là v.v… Chuyện ấy chẳng đáng cho người
thông đạt nh́n vào cười x̣a một tiếng,
nhưng cái tâm ấy đă gần với [cái tâm] trộm cắp
vậy. Tứ Tổ nói: “Cảnh
duyên không tốt xấu, tốt xấu từ tâm khởi”.
Nếu cái tâm chẳng cưỡng chia danh tự (tức là
tâm có phân biệt), vọng t́nh khởi từ chỗ nào?
Pháp sư Nguyên Hiểu từ Đông Hải (Đại Hàn) đến đất Đường (Trung Hoa) t́m
thầy [xin học đạo], ban đêm ngủ nơi mộ hoang. Do khát, muốn
uống nước. Sư trông thấy cạnh chỗ ngồi
có một ḍng nước trong, vốc uống, thấy [vị
nước] rất ngọt. Tới sáng, nh́n lại th́ ra là
nước chảy từ tử thi vừa chết! Khi ấy,
Sư ghê tởm ói ra, bèn hoát nhiên đại ngộ, nói: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy
thức, tốt hay xấu là do ḿnh, liên quan ǵ đến
nước!”
Đời Tống,
ông Tô Đông Pha cất giữ, nâng niu một viên ngọc
đẹp. Có gă Chương Tŕ[128] đ̣i xem,
ngầm lấy đá Yên Sơn tráo vào. Đông Pha chẳng
biết, khi bị điều tới Hoàng Châu, mở ra xem,
mới biết là Chương Tŕ đă đánh tráo, chỉ
đành cười khan. Không lâu sau, Chương Tŕ bị
lưu đày chết ở Thai Châu, chẳng biết mỹ
ngọc lại về tay ai?
“Tư” (私) là nói theo tâm
t́nh, Công là nói theo Lư. Do sự mừng, giận, ân, oán trong ư
riêng mà phế trừ lẽ đúng sai theo công đạo.
Trên là chẳng thể phân biệt trung, nịnh, ắt triều
đ́nh mắc họa chia bè kết đảng. Dưới
là tà chánh chẳng thẩm định, ắt trong ṿng bạn
bè, làng nước, sẽ có mối trở ngại kéo bè kết
cánh công kích những kẻ khác ư ta! Nặng hơn nữa là
do yêu ghét chẳng thích đáng, ắt người cùng một
nhà như cha với con, cốt nhục chí thân cũng trở
thành một lũ oán hận nhau! Thói tệ trong ṿng t́nh cảm
giữa con người với nhau, không ǵ quá đáng hơn
chuyện này! Bất luận hiền, ngu, sang, hèn, ai ấy
đều mắc phải căn bệnh này, chỉ là nghiêm
trọng hay không mà thôi! Người biết thói tệ này,
hăy suy xét lư để tiêu trừ tánh thiên chấp, lắng
ḷng để hóa giải thành kiến trong tâm. Đó là
người có đại học vấn, có đại bản
lănh vậy.
Đời Tống,
Triệu Biện và Phạm Trấn do bàn luận sự việc
[trong triều chánh] mà có hiềm khích. Tới khi Vương
An Thạch làm Tể Tướng, oán hận Phạm Trấn
[trong quá khứ] đă tâu tŕnh những lời lẽ công
kích hắn, thừa dịp vua hỏi [ư kiến
của hắn] về Phạm Trấn, bèn tâu: “Triệu Biện biết
rơ người này!” Vua hỏi Triệu Biện, Triệu Biện
thưa: “Phạm Trấn là bậc trung thần!” Vua hỏi:
“V́ sao biết là trung?” Triệu Biện tâu: “Khi Nhân Tông bị
bệnh, Phạm Trấn là người đầu tiên xin
sách lập Hoàng Thái Tử để yên định xă tắc,
đă dâng sớ mười chín lượt đợi mạng lệnh trong suốt một trăm ngày, râu tóc đều bạc
phơ. Chẳng phải là trung thần th́ là ǵ?” Khi đă
lui ra, Vương An Thạch trách: “Chẳng phải là ông với
hắn có hiềm khích hay sao?” Triệu Biện đáp: “Há
dám v́ hiềm khích riêng mà phế trừ công đạo!”
Huyện lệnh
Lạc Dương là Khổng Dực đốt lửa
trước sân, hễ có thư từ nào nhờ cậy
đều vứt vào lửa, nói: “Quan huyện gần dân nhất.
Trên con đường làm quan có khá nhiều kẻ nhờ vả,
cứ làm theo, ắt dân sẽ bị hại. Chẳng làm
theo, không tránh khỏi chuốc lấy oán cừu. Chỉ có cách là thư gởi tới không mở,
ném ngay vào lửa. Ắt là nơi ta chẳng biết là chuyện
như thế nào? Mà nơi họ cũng chẳng thấy
ta ngỗ nghịch. Đúng hay sai là do dân, phán xử công bằng đúng pháp! Sao đến nỗi v́ riêng tư mà phế trừ
[công đạo] ư?” Về sau, một đứa con của
ông, mười chín tuổi đă đỗ Tiến
Sĩ.
Ngưỡng Tư
Trung tinh thông thuật Địa Lư. Có lần v́ [một vị
quan chức] hiển đạt mà chọn được
cuộc đất rất tốt, ông vừa
mới điểm huyệt[129], bỗng
trời đổ mưa rào, bèn xuống núi. Ban đêm, ông Ngưỡng nằm mộng, thấy thần bảo: “Đừng
cho hắn cuộc đất này. Hắn làm khảo quan (quan giám khảo trong trường thi), đă ăn của đút để chấm đậu
ba sĩ tử, sẽ mắc họa nơi cơi âm. Ông cho hắn
cuộc đất này, sợ rằng trái nghịch ư trời”.
Ông Ngưỡng tỉnh giấc, bèn mượn cớ
quay về. Chẳng lâu sau, do tranh chấp cuộc đất
tốt, gă quan chức ấy bị dính vào kiện tụng,
chưa chôn [tổ phụ vào
cuộc đất tốt nào cả] mà nhà cửa đă nghèo nàn, suy sụp!
(Chánh văn) Thiết nhân
chi năng, tế nhân chi thiện.
(正文)竊人之能。蔽人之善。
(Chánh
văn: Trộm cắp tài năng của kẻ khác. Che lấp
điều lành của người khác).
“Thiết” (竊, trộm cắp) có nghĩa là chẳng phải là
chính ḿnh có, mà lấy [làm của riêng ḿnh]. Như trộm
văn của kẻ khác, coi như chính ḿnh soạn ra, trộm
mưu của người ta, coi như do chính ḿnh hoạch
định, cướp công của kẻ khác, coi như
chính ḿnh hoàn thành, trộm cắp những lời dạy bảo
của thầy coi như kiến thức của chính ḿnh,
đều là những chuyện lừa ḿnh dối người,
ắt sẽ bị quở phạt.
Đời Châu, Lương
Sơn bị lở, vua Tấn (Tấn Cảnh Công) cho vời
đại phu Bá Tông. Trên đường [vào gặp vua
nước Tấn], Bá Tông gặp một người phu đẩy
xe, hỏi: “Ngươi có nghe tin ǵ hay không?” Thưa:
“Lương Sơn bị lở, khiến cho nước
sông bị nghẽn không chảy được, [nhà vua] cho vời đại phu Bá Tông [vào cung thương
lượng]”. Bá Tông hỏi: “Nên làm như thế nào?”
Thưa: “Vua hăy dẫn quần thần [đến chỗ
núi lở] mà khóc lóc, coi như là đă tế bái, nước
sông sẽ chảy xuôi được”. Bá Tông đem lời
ấy tâu với vua, [vua thật sự làm theo], nước sông chảy trở lại. Vua Tấn hỏi
Bá Tông: “V́ sao ngươi biết?” Bá Tông thưa: “Thần tự
biết”. Khổng Tử nghe chuyện, bảo: “Bá Tông sẽ
không có người nối dơi v́ đă cướp công của
người khác”. Về sau, Bá Tông quả nhiên mắc hại,
mất hẳn chức khanh [đại phu]. Hễ ăn trộm
một lời của kẻ khác, c̣n bị quở phạt
như thế, như vậy th́ cũng có thể biết [tội
ác] lớn hơn [sẽ có quả báo như
thế nào!]
“Tế”
(蔽) là che, khiến cho chẳng tỏ lộ.
Kinh Phật dạy: “Một chữ
Thiện có thể thành tựu hết thảy các hạnh
nguyện của người thế gian mạnh nhất”.
V́ thế, đối với người có một lời
nói, một hành vi tốt lành,
hăy nên biểu dương, chỉ sợ [ngôn hạnh tốt
đẹp ấy] chẳng được tỏa rạng.
[Làm như thế], không chỉ là tạo thành tiếng
thơm cho người ấy, mà c̣n có thể khơi gợi
thiện niệm của người khác. Những người
lan truyền lời khuyên ấy, sẽ dấy khởi thật
nhiều [người khác làm theo], đấy cũng là chuyện
đáng vui mừng. Hiềm rằng [điều thiện ấy]
bị che lấp! Kẻ che lấp ắt trong tâm chẳng
có mảy may yêu thích điều thiện, lại c̣n mang ư niệm
ganh ghét. V́ thế, chẳng muốn hiển lộ điều
tốt lành của người khác, kẻo điều ác của
chính ḿnh bị phô bày. Đấy chính là kẻ bất tường
trong thiên hạ vậy!
Đời Tấn,
Trần Thọ soạn bộ Tam Quốc Chí, bảo
Đinh Lương Châu rằng: “Nếu ông cho tôi vay một
ngàn hộc gạo, tôi sẽ viết tiểu sử đẹp
đẽ về cha của ông”. Lương Châu chẳng
đáp ứng lời xin của ông ta, Trần
Thọ bèn chẳng viết về cha của Lương Châu.
Bộ sử hoàn thành, mọi người đều chê
trách Trần Thọ [có ḷng riêng tư]. Về sau, Trần Thọ
mắc hại.
Có hai người
học tṛ ở Giang Âm tu chỉnh
huyện chí. Bỗng thấy [trong bản huyện chí
cũ] có ghi chuyện hai tiết phụ (người đàn
bà trinh tiết), [cho là] tầm thường, chẳng lạ
lùng ǵ, bèn gạt bỏ. Đạo sĩ ở miếu
Thành Hoàng ban đêm nghe tiếng hai người đàn bà khóc
lóc, tố cáo: “Bọn thiếp suốt đời khắc
khổ giữ tiết hạnh, chết rồi được
chép tiểu sử trong huyện chí. Nay vô cớ bị
người ta gạt bỏ”. Thần bảo: “Hai gă học
tṛ ấy lẽ ra sẽ đỗ Hoàng Giáp[130], do đă
che lấp sự tiết nghĩa của người khác, sẽ
bị tước bỏ lộc ấy”. Hai người
đàn bà khóc lóc bái tạ, ra đi. Hai người học
tṛ nghe chuyện, bài xích là [đạo sĩ] nói dối.
Năm sau, quả nhiên do kết quả thi cử quá kém, bị
cắt bỏ trợ cấp [dành cho] Lẫm Sanh, đều cùng
phẫn uất mà chết.
(Chánh văn) H́nh nhân chi xú,
kiết nhân chi tư.
(正文)形人之醜。訐人之私。
(Chánh văn: Phô bày những
điều xấu của người khác. Rêu rao chuyện
riêng tư của người ta).
Đối với
hạnh xấu của kẻ khác, đáng gọi là “nói ra sẽ khiến cho người
ta bị nhục nhă, chớ nên để người khác
nghe thấy”, ngươi
lại phô bày, bộc lộ, ắt ḷng đôn hậu bị
tổn thương, âm chất cũng bị tổn hại
theo. Bàn Sơn Ngữ Lục[131] có đoạn ghi: “Người tu hành kỵ nhất
là nói chuyện đúng, sai, tốt, xấu của kẻ
khác. Thậm chí đối với hết thảy sự
đời, nếu chẳng liên can đến chính ḿnh, miệng chớ nên nói, tâm đừng nên
nghĩ. Chỉ cần miệng nói, tâm nghĩ, tức là chính ḿnh đă bị mê muội. Nếu chuyên luyện
tâm, sẽ luôn xét lỗi ḿnh, há có công sức để quản
chuyện trong nhà kẻ khác? Nát
xương, tan thân, chỉ cốt sao tâm đừng động.
Thâu liễm tự tâm, thời thời khắc khắc tham
cứu, lănh hội chỗ rốt ráo nhất nơi bổn
mạng nguyên thần của chính ḿnh. V́ thế, xét theo
đó, con người hăy nên gấp rút đối trị
chính ḿnh, niệm nào cũng sợ thân tâm của chính ḿnh phạm
lỗi, c̣n rảnh đâu để quản chuyện
người khác ư?”
Trong đêm tân hôn
của Lưu Trọng Phụ, có gă trộm vào nhà. Ông hoảng
hốt, trông ra, [thấy gă trộm] chính là kẻ ông nhận
biết, bèn nói: “Ngươi nghèo hả?” Lấy hai món trang
sức cho nó. Lại hứa: “Ta trọn chẳng nói,
ngươi đừng tái phạm”, bèn thả cho nó đi.
Về sau, bà vợ hỏi tên tuổi của gă đó, ông bảo:
“Ta đă hứa không nói, sao cứ hỏi miết?” Ông mất
rồi, có một người trước kia là phường
vô lại, về sau là người làm lành, mặc tang phục[132], khóc lóc hết
sức bi thương. Người nhà nghi kẻ ấy là
gă trộm khi trước. Cháu ông là Toại, làm quan đến
Thượng Thư, thụy hiệu là Trang Tương.
Có thầy xem
tướng nói Tịch Khuông sẽ chết vào năm nọ,
Tịch Khuông rất lo âu. Ngẫu nhiên gặp người
bàn chuyện trong buồng the, đối với người
ấy, Tịch Khuông biểu lộ vẻ tức giận, khiến
cho người tán chuyện có ḷng hổ thẹn mà ngưng
nói. Chuyện ấy bèn được ẩn đi. Tới
năm ấy (năm tiên đoán sẽ bị chết), Tịch
Khuông vẫn không sao. Về sau, ông làm quan
tới chức Đài Phụ[133]. Cổ
nhân nói: “Trong khi tụ tập
tṛ chuyện, ắt có đạn bắn trúng kẻ khác,
riêng ta ngồi ngay ngắn, im lặng để tiêu trừ”.
Đấy chính là lời dạy đừng nói [chuyện xấu
của kẻ khác] vậy. Như ông Tịch có thể coi là
gương mẫu!
Nhiếp Tùng Nghi
thích cḥng ghẹo. Hễ kẻ khác có hành vi ǵ xấu, ắt
rêu rao bằng thơ phú, ca dao, khiến cho chuyện
được lan truyền rất rộng, khó thể giấu
diếm. Thậm chí phá hoại hôn nhân của người
khác, khiến kẻ trong khuê môn bị mang nhục, chia cắt
quyến thuộc của kẻ khác. Về sau, hắn mắc
tội, phải bị đày, chết ở Đăng
Châu. Than ôi! Cái tội rêu rao điều xấu, những
chuyện khác c̣n có thể dung thứ, chứ chuyện trong
khuê môn, liên lụy càng trọng đại. Gièm chê, cười
cợt, đồn đại, sủa hùa theo bóng, ta đă tạo
thành cái nhân [đọa trong địa ngục] Rút Lưỡi.
Nhất là họ lại ôm nỗi sỉ nhục mà thác, cốt
nhục chia ĺa, con cháu lănh vết nhơ, liên lụy chẳng
bé! Oan nghiệt to tát, khó thể siêu được!
Trịnh Tuyên tánh
trầm mặc, ít nói. Ông từng nói: “Trong chốn đông
người chen chúc, chớ nên lớn tiếng mặc t́nh nghị
luận. Không chỉ là chuốc lấy sự ghen ghét, mà c̣n
có thể tổn thương người khác. Há chẳng
có người trót đă làm chuyện xấu trong ấy hay
chăng? Bàn luận đến họ, họ chẳng nói,
nhưng trong tâm bực bội. Như đối với
quan bèn nói phải thanh bạch, ắt kẻ chẳng thanh bạch
sẽ giận. Đối với bạn mà nói thẳng, ắt
kẻ chẳng thẳng thắn sẽ ghét. Họ cho là ta cố
ư làm như vậy. Chỉ nên ít nói, vẻ mặt ḥa nhă, hễ
hỏi bèn đáp, như thế th́ được”. Lời
ấy đă đạt được đạo ứng xử
sâu xa. V́ thế, chép thêm lời này.
Chỉ trích, công
kích người khác th́ gọi là Kiết (訐). Tư (私) là chuyện ám
muội, chẳng quang minh chánh đại. Con người
chẳng phải là thánh hiền, ai mà chẳng có chuyện
kín đáo, riêng tư [chẳng thể nói ra]. Ta vốn không
nên soi mói, t́m ṭi. Nếu ḍm ngó chuyện trong chốn riêng
tư, rêu rao rộng khắp, khiến cho kẻ ấy không
có chỗ dung thân, th́ là hiểm độc nhất, người
người oán trách, gieo họa chẳng nhỏ, hăy nên kiêng
dè!
Tô Tụng [làm
quan] ở Hàng Châu. Có kẻ mách lẻo chuyện riêng tư,
ông không nghe. Về sau, kẻ ấy làm ngôn quan (gián quan, quan viên chuyên trách
việc đàn hặc, can gián)
do ôm hận mà [đối trước thượng cấp]
bêu xấu ông. Có người khuyên ông hăy viết thư tŕnh
lên cấp trên chuyện [mách lẻo] trước kia của
gă ấy, ông nói: “Công kích chuyện riêng tư của kẻ khác,
há ta nên làm ư?” Hư Tĩnh Chân Nhân[134] nói: “Hễ
giấu lỗi, che sai, chính ḿnh chớ nên có; nhưng
đối với người khác, chẳng thể không làm
như thế. Ấy là v́ che giấu lỗi của chính
ḿnh th́ điều thiện chẳng đạt được; che
giấu cho người khác th́ là chuyện đức dầy”.
Vào thời Vũ
Tắc Thiên nhà Đường, cấm ngặt giết mổ.
Quan Thập Di[135]
Trương Đức sanh con trai, lén giết dê, tụ họp
đồng liêu [nhậu nhẹt]. Đỗ Túc giấu [một
miếng thịt, cầm đi] tố cáo. Hôm sau, Vũ Hậu
(Vũ Tắc
Thiên) hỏi Trương Đức:
“Nghe nói khanh sanh con trai rất vui?” Trương Đức
bái tạ. Vũ Hậu: “Từ đâu mà có thịt vậy?” Trương Đức khấu
đầu nhận tội. Vũ Hậu nói: “Trẫm cấm
giết mổ, [lệnh cấm ấy] chẳng áp dụng
cho các trường hợp cát (cưới hỏi, ăn mừng),
hung (ma chay). Từ nay có mời khách th́ cũng cần phải chọn người!” Đưa tờ biểu
tố cáo của Đỗ Túc cho [Trương Đức]
xem. Đỗ Túc hết sức hổ thẹn, cả triều
đ́nh muốn nhổ vào mặt hắn! Về sau, Đỗ
Túc dần dần bị suy bại.
Vào đời
Lương, ông nội của Đáo Khái là Đáo Ngạn
Chi từng gánh phân để nuôi thân. Đến khi Đáo
Khái làm Lại Bộ Thượng Thư, gă Hà Kính Dung có chuyện
nhờ cậy, chẳng được đáp ứng, bèn
nói với người khác: “Cho đến đời Khái
Thượng Thư vẫn c̣n sót lại mùi thối, nay bèn
học đ̣i làm bậc quư nhân”. Đáo Khái nghe nói, hết sức
căm hận. Em trai của Đáo Khái là Đáo Hiệp,
một hôm, hỏi Lưu Hiếu Xước: “Tôi rất muốn
mua đất của hàng xóm bên phía Đông, nhưng người
chủ làm khó dễ, làm sao đây?” Hiếu Xước nói:
“Chỉ cần để mấy xe phân bên cạnh nhà hắn để làm khổ hắn, hắn sẽ dọn
đi”. Hiệp tức giận, rốt cuộc dùng kế
để hại [Hiếu Xước]. Than ôi! Do một lời
nói mà tổn thương ḥa khí trong trời đất, do một
chuyện mà ươm thành mối họa chung thân. V́ thế,
chúng ta sống trong cơi đời, chớ nên nói lời kích
động, châm biếm khiến cho kẻ khác oán sâu tận
cốt tủy. Ngạn ngữ có câu: “Đánh người đừng đánh đầu gối;
nói với người khác, đừng nói sự thật”,
có lư lắm!
(Chánh văn) Hao nhân hóa
tài.
(正文)耗人貨財。
(Chánh văn: Làm cho kẻ
khác hao tổn tài vật).
Đấy là nói
đến hạng người gian ác, tiểu nhân mê hoặc
kẻ ngu si, dụ dỗ họ làm những chuyện
chơi gái, cờ bạc, đấu đá, thưa kiện,
luyện đan v.v… để ḿnh kiếm lợi từ đó.
Hạng con em không nên thân bị hạng người này làm
cho ngu muội, chẳng đoái tưởng cha ông sáng lập
cơ nghiệp gian nan. Một mai đến lúc phá sạch
[gia sản], nhà tan, thân chết, truy cứu nguyên do th́ là lỗi
của ai? Những kẻ ấy có tránh khỏi ác báo [v́ dụ
dỗ người khác hao tổn tài vật] hay chăng?
Văn Kỳ là
người đất Thục, cậy vào thuật luyện
đan, những người quyền quư đều bị
hắn lường gạt. Một thương gia giàu có tên là Lư Thập
Ngũ bị mê hoặc bởi thuật luyện đan của
Văn Kỳ, ba năm sau, tan nhà
nát cửa, thắt cổ chết. Văn Kỳ lại
đến Kiếm Châu, thuê một căn nhà để luyện
thuốc. Ngẫu nhiên bị hỏa hoạn, cháy lan một
vùng. Văn Kỳ chạy vào núi trốn, bị thú dữ đuổi
ra, hắn bị bắt giải lên quan. Quan theo đúng luật
xử trảm!
Vào đời
Minh, Từ Tŕ giàu có, tàn bạo, muốn chiếm nhà của
Từ Bát, bè sai người dụ con ông ta ăn chơi phóng đăng, mắc nợ rất nhiều, quả nhiên chiếm
được căn nhà ấy. Về sau, hai con và năm
cháu của Từ Tŕ đều nhiễm bệnh. Đồng
cốt nói là do âm hồn Từ Bát quậy phá. Từ Tŕ kinh
sợ, làm trai đàn, đến miếu Thành Hoàng cầu giải
cứu. Một người ăn mày đón hắn,
thưa: “Ông chẳng phải là Từ Tŕ chứ? Đêm qua,
tôi ngủ tại chỗ vắng của miếu. Có người
hướng về thần gọi tên ông, [tố cáo] ông
đă hại kẻ ấy. Thần cũng hết sức
giận dữ”. Từ Tŕ kinh hoảng, trở về rồi
chết. Con cháu chẳng có ai sống sót.
Thanh lâu [là nơi
chốn] để đền trả nghiệp nhân thiếu
nợ. Bọn gái đẹp thật sự là biển oan
nghiệt phá nhà! Người thời nay đều biết
[đạo lư ấy], vừa chung chạ với thể chất
nhơ bẩn ấy, ghẻ độc phát ra, ngũ quan
đổi chỗ, gây hại tới ba đời. Do vậy,
cớ sao người hiểu biết mà lại đem thân
ḿnh ra thử, chẳng tránh né?
Có người họ
Tiền ở Vô Tích, kết bè lập đảng gồm
mười mấy người, dụ dỗ con em nhà giàu.
Chúng sử dụng dược đổ (藥骰, xúc xắc (hạt xí ngầu) rỗng ruột, bên trong đổ thủy ngân lỏng
để kẻ cờ gian bạc lận có thể khống
chế muốn đổ ra mấy điểm tùy ư) để
gieo súc sắc, hễ đánh bạc với ai đều thắng.
Về sau, bọn chúng so tài đánh bạc với một
thiếu niên, thắng tới mấy chục vạn. Bỗng
những con xúc xắc văng ra khỏi bồn, họ Tiền ngă
lăn đùng ra đất, miệng và mũi đều
tuôn máu mà chết. Khi ấy, có một đạo sĩ thỉnh
thần tướng, Quan Thánh giáng đàn, chỉ dạy:
“Ta đă trừ kẻ hung ác nơi đó, lại c̣n
quăng ba con xúc xắc lên xà nhà hắn”. Đạo sĩ liền hỏi thăm, t́m tới nhà ấy, kịp lúc thấy mọi
người c̣n đang xúm xít kinh ngạc, bèn bảo họ
bắc thang lên xem [trên xà nhà, quả nhiên] t́m được [ba con xúc xắc ấy].
Do vậy, đạo sĩ bèn kể tường tận lời
Quan Thánh chỉ dạy. Lũ ác hết hồn! [Sau đó],
chúng nối tiếp nhau mắc bệnh dịch mà chết!
Lại có gă
Đinh Thực được
thầy tướng số từng
đoán sẽ đỗ đầu thiên hạ. Về sau, y gặp
lại ông thầy tướng ấy, ông ta kinh hăi nói: “Ông
đă làm chuyện ǵ vậy, [tước lộc] đă mất
sạch cả rồi!” Đinh Thực suy nghĩ, [nhận biết chính
ḿnh] đă từng giở tṛ bạc bịp,
thắng được sáu trăm vạn. Do vậy, bèn thật
t́nh kể lại. Thầy tướng số nói: “Là v́ lẽ
ấy!” Họ Đinh hết sức hối hận, cấp
tốc trả lại món tiền đă thắng để
chuộc tội. Về sau, hắn đỗ
gần chót bảng. Hiện thời, khắp nơi đều
có kẻ phạm tội này; nhưng hương thân, sĩ
tử đều say sưa chuyện này, thật đáng thống
hận! Tục ngữ có câu: “Làm
tú tài như gái trinh phải sợ người. Làm tiến
sĩ như nàng dâu, phải nuôi nấng người khác. Ở
trong rừng (đă nghỉ hưu), giống
như mẹ chồng phải dạy người khác”. Bọn họ đă chẳng thể dưỡng
người, dạy người th́ thôi, lại c̣n muốn
làm hại con em kẻ khác, cái tâm như thế nào vậy?
Đời Minh,
ông Mạo Khởi Tông là người huyện Như Cao, tỉnh
Giang Tô, từng soạn lời cảnh tỉnh người
đời như sau:
- Tôi thường
thấy con cháu nhà quyền quư và giàu có là hạng chẳng ra ǵ, dâm đăng, phóng túng, phí phạm. Hoặc là thân
chưa chết, mà tài sản đă ngầm bán cho nhà khác. Hoặc
xác thịt chưa lạnh mà kẻ khác đă chia vụn nhà
ấy. Người đời trước tiện tặn
tích cóp, kẻ đời sau vung văi như bùn, cát. Nhưng những
kẻ không ra ǵ ấy quá nửa lại là người thông
minh, là do v́ lẽ nào? Ấy là v́ thuở ấy, [người
đời trước] đă ra oai, cậy vào mưu mẹo,
áp bức, gài bẫy người khác vào chốn lao lung để hao tán tài sản của họ vô số, để tom góp thành của cải cho nhà
ḿnh giàu có. Thoạt đầu là tổn hại người
khác, về sau là bị người khác phá tán. Tục ngữ
có câu: “Có được bất
minh, mất đi vừa khéo” chính là nói về chuyện
này! Nh́n từ chuyện này, bèn biết người hiện
thời bị kẻ khác
hao tán [tài sản] chính là kẻ đă hao tán [tài sản của] người khác thuở trước! Tức là kẻ hao tán [tài sản] của người
khác trong hiện thời, có kẻ nào chẳng chớp mắt
sẽ bị kẻ khác hao tán!
Phụ lục mười câu răn dè cờ bạc:
1) Tâm thuật bại
hoại. Vừa vào ṣng bạc, sẽ là nơi tranh đoạt
lợi lộc. Tính toán trăm kế, luôn là một tấm
ḷng tham. Đôi bên đều dùng thủ đoạn triệt
hạ nhau, chuyển sanh ác niệm chẳng có cùng tận. Tuy
là kẻ chí thân mà cờ bạc với nhau, ắt đều
ngầm giở tṛ đen tối. Dẫu là bạn tốt
mà trên cùng một chiếu bạc, cũng nghiễm nhiên coi
nhau như cừu địch, chỉ cốt sao chính ḿnh thắng
bạc, mặc kệ người khác phá sản. Há chẳng
phải là tâm thuật hết sức bại hoại ư?
2) Chôn vùi phẩm
hạnh. Phàm là người th́ tốt, xấu, cao, thấp, ai nấy vốn
tự khác nhau. Ở trong ṣng bạc, chỉ cần biết
tiền nhiều hay ít, há quản ai sang, ai hèn? Ngồi hỗn
độn, chẳng tuân theo luân lư, thứ bậc, kẻ
tôi tớ cũng biến thành bầu bạn, chẳng phân
tôn ty. Nô bộc nghiễm nhiên là anh em, mặc sức cười
đùa, xưng hô luông tuồng, há có thể thống ǵ, thành
ra phẩm hạnh ǵ?
3) Tổn
thương tánh mạng. Kẻ thắng tùy hứng t́m
đến, chẳng phân biệt ngày đêm. Kẻ thua liều
mạng quay lại, chẳng màng đói, lạnh. Từ
đó trở đi, tinh thần hao tổn, mệt mỏi, ắt
đến nỗi tổn hại thân thể, táng mạng. Lỡ
mắc nợ khó trả, không mặt mũi nào nh́n nhau, muối
mặt, ngậm hờn. V́ thế, dẫn đến lắm
chứng bệnh quấn thân, hết cách, cùng đường,
đành liều chết cho xong nợ. Đường dẫn đến Uổng Tử Thành là do noi theo ṣng bài mà trở về
vậy! Há chẳng đáng thương ư?
4) Điếm nhục
tổ tông. Tặng tiền bạc cho người khác, c̣n bị
chê cười là lăng tử ngớ ngẩn. Phá sạch gia sản,
than thở đứa con ngu si làm bậy! Chẳng thể
khiến cho tổ tiên rạng mày nở mặt, lại
ngược ngạo điếm nhục ḍng họ, suy bại
gia đ́nh. Xóm giềng đều đổ lỗi cho tổ
tông, ắt cha ông đă chết mà c̣n ngậm oán!
5) Đánh mất
sự dạy dỗ trong gia đ́nh. Chuyện cờ bạc
dụ dỗ dễ dàng nhất. Trong ṿng gia đ́nh, thấy
nghe tột bậc thân thiết. Thông thường [cha anh]
giáo huấn con em đều bảo phải học theo
gương tốt. Nhưng trộm thấy tại ṣng bài,
cha anh c̣n bảo [con em] hăy theo quy cách của chính ḿnh. Cha con cờ bạc, anh em cờ bạc, tôi tớ
cờ bạc, đùa bỡn với pháp tắc như thế
th́ thành ra gia pháp kiểu nào đây? Ban ngày đánh bạc,
đêm thâu đánh bạc. Đánh bạc trong pḥng kín, phong
khí bài bạc ươm thành dâm phong, gia giáo bại hoại quá đỗi, đáng nguội lạnh cơi ḷng!
6) Phá tan gia sản.
Thoạt đầu để biểu lộ hào khí, ắt
vung tiền như đất. Rốt cuộc do t́nh thế
cấp bách, ắt bỏ cả sản nghiệp [vào tṛ
đen đỏ]. Cha ông suốt đời vất vả mới
tạo dựng môn hộ, con cháu tiêu xài huy hoắc trong phút
chốc, khiến cho danh tiếng gia đ́nh bại hoại.
Cầm cố hết sạch xiêm áo, chỉ c̣n trơ lại
cái thân. Thân thích, bạn bè ai tiếc? Ruộng nương,
nhà cửa bán sạch, mà c̣n mắc nợ, c̣n góc trời nào
để lui về? Nghĩ đến t́nh cảnh ấy,
há chẳng đáng thương ư?
7) Nẩy sanh tai
biến. Suốt ngày cờ bạc, thâu đêm đỏ
đen, cửa rả chẳng đóng, đạo tặc thường
hay thừa cơ trà trộn. Đèn, đuốc chẳng tắt,
pḥng ốc do vậy dễ bị cháy. Thậm chí lôi cuốn
phường lăng tử thừa dịp tính kế, bọn
trộm cướp thường t́m dịp giở tṛ gian.
Khi tắt đèn có kẻ gơ cửa, sẽ chẳng phân biệt
chủ, khách. Dứt đứt giải mũ, cởi áo lót
ḿnh [trao tặng nhau], nam nữ buông tuồng, mầm họa
ẩn sẵn, sao người ta
chẳng lo?
8) Cốt nhục
chia ĺa. Sĩ, nông, công, thương, ai nấy siêng năng
chức nghiệp. Cha, mẹ, vợ, con, vui vẻ với
nhau, đấy là niềm vui thiên luân, mà cũng là lẽ
thường trong t́nh người. Từ khi vào ṣng bài, [gia
đ́nh] biến thành bể khổ. Cầm cố, gán nợ
bằng thoa, xuyến, vợ nín thinh nuốt hận. Bán tháo
ruộng nương, nhà cửa, cha mẹ ṃn mắt,
nhăn mày trông ngóng. Chỉ một kẻ tỏ ra hào sảng,
chẳng màng cả nhà oán than! Lắng ḷng tự vấn, làm
sao yên được?
9) Trái phạm
phép nước. Cấm đoán cờ bạc, lệ mới
rất nghiêm. Nhẹ th́ phạt một trăm trượng,
cùm hai tháng, thương tổn tận da thịt.
Nặng th́ bị đày ba năm, lưu đày xa quê nhà ba
ngàn dặm! Hạng thân sĩ th́ theo thường lệ sẽ
bị băi truất, c̣n mặt mũi nào! Đối với
kẻ lại dịch th́ xử tội gấp bội. Phải
nghĩ tới gia đ́nh ḿnh, chứ để
chuyện đă lỡ rồi mới hối, sao bằng
kiêng dè trước?
10) Sẽ bị
trời quở trách. Xem khắp những kẻ mở ṣng,
thường gặp nhiều tai họa ngang trái. Những kẻ
thắng tiền, thường [rốt cục] đến
nỗi nghèo đói lạ
lùng. Nói chung là do cắn
xé huyết nhục của người khác ḥng
no đẫy ruột gan ta, thâu tóm sự oán sầu của
họ để ta được vui cười. V́ thế,
quỷ thần ôm ḷng giận, sẽ báo thù chẳng chịu
khoan nhượng tí nào! Đạo trời báo đáp, sẽ
cùng nhau chết sạch.
Nh́ chung, ṣng bạc
rốt cuộc có ích chi đâu? Mười điều
như trên, ngôn từ, dụng ư tột bậc thiết tha.
Muôn phần mong mỏi người đời, hăy lắng
ḷng suy nghĩ, sẽ dũng mănh đại ngộ. Một
đao chặt phăng, thề chẳng c̣n tay nhúng chàm nữa!
Có thể xoay người nhảy khỏi ổ sài lang, may
mắn chi hơn! Ôi! Cờ bạc hại người c̣n
quá nước, lửa, giặc cướp, nhưng người
ta cứ măi chấp mê chẳng ngộ, liều chết theo
đuổi, đáng thương quá đỗi! Xót thay,
đau thay! Do vậy, tôi đau đớn khóc ṛng thưa thốt,
những ai trông thấy những lời này mà chẳng quay
đầu, há chẳng phải là phường hạ ngu
ư?
Cảm Ứng Thiên Vựng Biên
Quyển 3
Phần 1 hết
[1] Điều này được
chép trong thiên Tiểu Tư Khấu, phần Thu Quan của
sách Châu Lễ. Châu Lễ là bộ sách chép về hệ thống
quan chức đời Châu, cũng như cách tổ chức
triều đ́nh và các chánh sách cai trị thuở ấy. Sách
này thường được coi là bản hiến pháp
đầu tiên của Trung Hoa. Đời Hán, sách này
được gọi là Châu Quan, hoặc Châu Quan Kinh. Đến
cuối thời Tây Hán, Lưu Hâm chỉnh lư, và dùng lại
danh xưng cũ là Châu Lễ. Theo sách ấy, quan chức
đời Châu được chia thành sáu loại là Thiên,
Địa, Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chẳng hạn như
Thiên Quan là chức quan coi về việc hành chánh, Địa
Quan coi về nông nghiệp, quản lư đất đai,
Xuân Quan coi về lễ nghi, tôn giáo và văn hóa, Hạ Quan
coi về việc binh bị, quân đội, giao thông, quản
trị chư hầu, Thu Quan trông nom h́nh phạt, lao ngục,
Đông Quan quản trị việc kiến thiết, đê
điều, thủy lợi v.v…
[2] Ông Hoàng Bách Lâm chú giải: Câu này
phải hiểu là “đức
hạnh chính là căn bản để làm người”.
[3] Đại Lịch là niên hiệu
được sử dụng từ năm 766 đến
năm 779 trong đời Đường Đại Tông (Lư
Dự), tức vị vua thứ mười một của
nhà Đường.
[4] Nghĩa Ninh là niên hiệu chỉ
tồn tại bảy tháng từ tháng Mười Một
năm 617 cho đến tháng Năm năm 618 dưới thời
Tùy Cung Đế (Dương Hựu). Ông này là con thứ ba
của Dương Chiêu (con trưởng của Tùy Dượng
Đế), chỉ là vua bù nh́n do Lư Uyên (Đường Cao
Tổ) đưa lên ngôi, ḥng khỏa lấp cuộc chánh biến
lật đổ nhà Tùy do Lư Uyên chủ xướng. Ông làm
vua được vài tháng, bèn xuống chiếu “nhường ngôi” cho Lư Uyên.
[5] Đây là một thành ngữ, nguyên văn là “vô khẩu bào” (無口匏). “Bào”
(匏) là cái hồ lô, hồ lô phải
có miệng th́ mới có thể đựng rượu hay
các chất lỏng. Hồ Lô không khoét miệng, sẽ chỉ
có h́nh dáng, chẳng dùng được ǵ. Do vậy, từ
ngữ này có ư nghĩa chê trách những kẻ bất tài vô dụng,
chỉ nói suông, không làm được ǵ!
[6] Khoắc Kỵ (彍騎) là danh xưng của quân túc vệ
(quân thủ hộ hoàng thành). Kể từ thời
Đường Huyền Tông, do quân túc vệ thường
đào ngũ với số lượng lớn, Tể
Tướng Trương Thuyết bèn đề nghị lấy
quân từ kinh sư và các châu Bồ, Đồng, Kỹ, Hoa, bắt thanh niên đến độ
tuổi quân dịch sung vào quân túc vệ, gọi là quân Khoắc
Kỵ với thời hạn làm túc vệ hai tháng mỗi
năm. Khoắc (彍) có nghĩa là “kéo
căng cung tên”. Do vậy, Khoắc Kỵ tức là kỵ binh bắn tên. Do
mang tánh chất tạm bợ, ô hợp, quân Khoắc Kỵ
thiếu hẳn sức chiến đấu, thiếu kỷ
luật; đồng thời, do phải liên tục chuyển
quân từ các châu quận về nên chi phí rất tốn kém. Do vậy, triều thần nhiều
lần đề nghị băi bỏ, nhưng Lư Lâm Phủ
kiên quyết áp dụng chánh sách này.
[7] Nguyên văn là “tiện thần” (賤臣), c̣n gọi là “thị thần” tức những
bầy tôi thân cận của nhà vua.
[8] Nguyên văn là “tùng vong” (從亡), tức là những người
theo hầu một vị vua lưu vong. Tấn Văn Công
(Cơ Trùng Nhĩ) là con thứ hai của Tấn Hiến
Công (Cơ Quỷ Chư), là em trai của thái tử Thân
Sanh. Do Tấn Hiến Công sủng nịch thứ phi Ly
Cơ, bèn tính phế thái tử Thân Sanh, để
đưa con trai của Ly Cơ là Hề Tề làm Thái Tử.
Do triều thần can gián dữ dội, vua phải bỏ
ư định này. Ly Cơ lập mưu hại chết thái
tử Thân Sanh, hai người con trai khác của Tấn Hiến
Công là công tử Trùng Nhĩ và công tử Di Ngô phải lén trốn
về đất phong nhằm bảo đảm tánh mạng.
Tấn Hiến Công thấy họ bỏ đi không từ
biệt, rất tức giận, cộng thêm sự xúc xiểm
của Ly Cơ, bèn sai quân chinh phạt khiến cho hai công tử
phải lưu vong. Về sau, Tấn Hiến Công chết,
Lư Khắc giết chết Hề Tề, đón Di Ngô về
làm vua, tức Tấn Huệ Công. Công tử Trùng Nhĩ phải
lưu vong sang các nước Tề, Tào, Tống, Trịnh,
Sở, Tần. Về sau, nhờ vợ là Hoài Doanh (con gái
vua Tần) vận động vua cha giúp sức, công tử
Trùng Nhĩ mới trở về Tấn, giành ngôi từ tay
Di Ngô, trở thành Tấn Văn Công.
[9] “Hăn
mă” (汗馬) nghĩa là “ngựa
toát mồ hôi”. Từ ngữ này h́nh dung những người
tận tụy dốc sức lập chiến công.
[10]
“Tông thất” (宗室)
là những kẻ có mối quan hệ họ hàng với nhà
vua.
[11]
“Sanh viên” là những người
đă được vào học trường huyện hay
trường Quốc Tử Giám, tức là những người
là Lẫm Sanh, Phụ Sanh v.v… đều được gọi chung là Sanh Viên.
[12] “Hiến
chức” (憲職) là cách gọi khác của quan chức
Đô Ngự Sử.
[13] Nguyên văn là “phệ sĩ” (筮仕). Đây là một tục
lệ thời cổ. Trước khi sắp ra làm quan,
thường tự bói, hay nhờ người khác bói để
chọn làm quan trong ngành nào th́ sẽ thành công, thăng
tiến.
[14]
Người Hồ, c̣n gọi là Hồ Tộc,
là từ ngữ phiếm chỉ những dân tộc du mục
sống ở phía Đông và Bắc Trung Hoa. Vào thời Hán,
chữ Hồ thường dùng để chỉ các bộ
tộc Hung Nô. Về sau, chữ Hồ được sử
dụng hẹp hơn để chỉ những người
có nguồn gốc từ Trung Á, sống tại thảo
nguyên, như Ngạn Tông Độc đời Đường
đă định nghĩa: “Từ
Thông Lănh trở về phía Tây là Phạm chủng, ở bên
trái của Thiết Môn th́ gọi là Hồ”. Từ đời
Đường, nói chung các sắc dân du mục hoặc Tây
Vực thường gọi chung là Hồ. Nói chung, người
Hồ bao gồm nhiều sắc dân như Đông Hồ (sống
tại Nội Mông), Nhục Chi (nổi tiếng với
đế quốc Quư Sương), Ngô Hoàn, Tiên Ty, Hung Nô,
Khương, Đê, Yết, Đinh Linh, Cao Xa, Sớ Lặc,
Nhu Nhiên, Đột Quyết, Hồi Hột, Thổ Phiên,
Khiết Đan, Khố Mạc Hề, Thất Vi, Thát
Đát, Đảng Hạng, Mạt Hạt, Nữ Chân. Trong
đó, năm dân tộc là Tiên Ty, Hung Nô, Khương, Yết,
Đê đă vào Trung Hoa, thành lập các triều đại
mà sử thường gọi là Ngũ Hồ Loạn Hoa (chẳng
hạn triều đại Diêu Tần do Diêu Trành vốn là người
Khương sáng lập). Người Khiết Đan và Nữ
Chân đă lập nên hai triều đại lớn trong lịch
sử Trung Hoa là nhà Liêu và nhà Thanh.
[15] Dược thạch (藥石): Theo chế định của
đức Phật, tỳ-kheo chỉ ăn một bữa Ngọ.
Khi Phật giáo truyền sang Trung Hoa, do khí hậu lạnh lẽo,
cũng như do thức ăn trong tự viện
đơn bạc, để đỡ đói, chư Tổ
cho phép chư Tăng ăn nhẹ vào bữa tối cho khỏi
đói, nên gọi bữa tối là Dược Thạch với
ư nghĩa dùng như một vị thuốc để chữa
căn bệnh đói.
[16] Ông Hoàng Bách Lâm giảng: Nếu v́
công danh, lợi lộc riêng tư mà tàn sát, do thích giết
người mà tàn sát, th́ gọi là “dĩ sát dụng sát”.
[17] Giang Lăng là vùng đất ở
phía Đông huyện Chi Giang tỉnh Hồ Bắc, nằm ở
phía Tây huyện Tiềm Giang và phía Nam huyện Kinh Môn.
[18] Liêm Hy Hiến (1231-1280) là một
vị đại thần thời Nguyên, tự là Thiện
Phủ, hiệu Dă Vân, vốn là con trai của Liêm Phóng Sứ
Bố Lỗ Hải Tà, thuộc bộ tộc Úy Ngột
Nhi (Uighur). Trong xu thế Hán hóa đời Nguyên, ông đổi
họ thành Liêm. Ông từng được phong làm Kinh Triệu
Tuyên Phủ Sứ. Trong khi đang theo pḥ Hốt Tất Liệt
(Kublai) tấn công Ngạc Châu của nhà Tống, bỗng
nghe tin Nguyên Hiến Tông (Mông Kha) chết, ông đă khuyên Hốt
Tất Liệt đem quân về Bắc, giành quyền thống
trị Trung Hoa. Khi quân Nguyên hạ thành Giang Lăng, ông
được phong làm B́nh Chương Kinh Nam Hành Tỉnh,
An Phủ Kinh Châu Giang Lăng. Khi mất, ông được
phong là Ngụy Quốc Công, tước Hằng Dương Vương.
Liêm Hy Hiến đặc biệt coi trọng giáo dục, nhất
là giáo dục Nho gia, thường khuyên Hốt Tất Liệt
chú trọng đào tạo, nâng đỡ nhân tài, vỗ yên
dân chúng, tái thiết cơ sở kinh tế, vận dụng
nhân nghĩa để cai trị. Hốt Tất Liệt
thường gọi ông là Liêm Mạnh Tử.
[19] Nguyên văn là “tỉnh Kinh Nam” (省荊南). Tỉnh (省) là gọi
tắt của chức vụ B́nh Chương Hành Tỉnh (平章行省), tức cơ cấu quản trị
cao cấp nhất trong một châu huyện thời ấy.
Liêm Hy Hiến đứng đầu cơ quan B́nh
Chương Hành Tỉnh của vùng Kinh Nam thuở ấy
nên nói là “tỉnh Kinh Nam”.
[20] Bá Nhạc là người sống
vào thời Xuân Thu, dưới thời đại Tần Mục
Công. Ông tên thật là Tôn Dương, giỏi xem tướng
ngựa, hễ nh́n ngựa
liền biết ngay con nào là tuấn mă có thể chạy
nhanh và dai sức.
[21] “Thi
giải” (尸解) là thành ngữ của Đạo
giáo, chỉ người đă đắc đạo thành
tiên, ĺa bỏ xác phàm.
[22] Theo sách Yến Tử Xuân Thu, Tề
Cảnh Công đi săn trên núi. Trông thấy trên núi có cọp.
Xuống núi, thấy có ao chuôm, trong ao có rắn. Vua trở về, vời Yến Tử
đến hỏi ư, cho rằng đó là những điềm
bất tường. Yến Tử nhân đó bèn giảng cho
vua biết: Bất tường thật sự là như thế
nào?
[23]
Sử thường gọi cuộc biến loạn này là “Nhị Đế Tứ
Vương chi chiến” (cuộc chiến giữa hai
đế và bốn vương). Vào thời Đường Đức
Tông, các quan Tiết Độ Sứ thế lực rất
mạnh, hầu như chỉ nghe theo lệnh triều
đ́nh trên danh nghĩa. Đường Đức Tông cực
lực mưu tính dẹp bỏ Tiết Độ Sứ tại
các phiên trấn. Lúc bấy giờ, Tiết Độ Sứ
Thành Đức là Lư Bảo Thần chết, con trai là Lư Duy
Nhạc xin nối vị cha. Đường Đức
Tông cự tuyệt. Lư Duy Nhạc bèn liên kết với Truy Thanh Tiết
Độ Sứ Lư Chánh Kỷ, Sơn Nam Đông Đạo
Tiết Độ Sứ Lương Sùng Nghĩa, Ngụy
Bác Tiết Độ Sứ Điền Duyệt, cũng như một
số Tiết Độ Sứ khác khởi binh phản
Đường. Khi Lư Chánh Kỷ chết, con trai là Lư Nạp
xin nối ngôi cha, dĩ nhiên Đường Đức Tông
từ chối. Các phản
tướng tấn công ráo riết, lại
thêm Lư Hy Liệt và Châu Thử làm phản. Điền Duyệt
xưng là Ngụy Vương, Lư Nạp là Tề
Vương, Vương Vũ Tuấn là Triệu
Vương, Châu Thao là Kư Vương, Châu Thư là Tề
Đế, Lư Hy Liệt xưng là Sở Đế. Họ tấn
công các nơi trọng yếu, Đường Đức
Tông gọi Diêu Lệnh Ngôn về bảo vệ kinh đô. Do bị các quan trọng
thần như Lô Kỷ gièm báng, quân Diêu Lệnh Ngôn khổ
cực mà không
được tưởng thưởng xứng đáng, họ
tức giận quay
giáo tấn công kinh
đô. Vua phải bỏ Trường An, chạy về Phụng
Thiên lánh nạn. Châu Thử trọng dụng Diêu Lệnh
Ngôn, dùng quân của họ Diêu thừa cơ đánh tới
Phụng Thiên. May nhờ có viện binh của Lư Hoài Quang chống
chọi, vua Đường mới kịp từ Phụng
Thiên chạy về Lương Châu lánh nạn. Măi cho đến
Hưng Nguyên nguyên niên, dưới sự lănh đạo của
tướng Lư Thịnh, quân Đường mới chiếm
lại được Trường An, dẹp tan quân phản
loạn.
[24] H́nh quan (刑官): Quan viên trông coi về tư pháp.
[25] Nguyên Tải là một đại
thần dưới đời Đường Đại
Tông. Ông ta từng làm Hành Quân Tư Mă, được phong
làm Trung Thư Thị Lang. Ông ta cũng là kẻ chuyên quyền,
thích ăn hối lộ, hăm hại bậc trung
lương, xa xỉ, hoang phí, làm rất nhiều chuyện
ác. Thuở ấy, hồ tiêu (black pepper) là một thứ
gia vị quư hiếm phải nhập từ Tây Vực, hoặc
lấy từ các nước phương Nam như Mă Lai,
Nam Dương. Thế mà ông ta tích trữ đến tám trăm thạch hồ
tiêu!
[26] Giả Tự Đạo là
người xứ Thai Châu, sống vào đời Tống.
Thuở trẻ là một gă lông bông, thích cờ bạc,
chơi bời, chẳng ra ǵ. Do chị hắn được
tuyển làm quư phi của Tống Lư Tông, hắn bèn nhờ
chị vận động giành được một chức
quan trong triều đ́nh. Nhờ lắm mánh khóe, thủ
đoạn, hắn ngoi lên tới chức Tham Tri Chánh Sự.
Khi quân Nguyên đánh Ngạc Châu, vua sai hắn dẫn binh cứu
viện. Văn dốt, vũ dát, hắn bị tướng
soái quân Nguyên bắt được, phải xưng thần,
hứa cống nạp, đút lót để được
thả ra. Trở về, hắn tâu dối là đă đại
thắng. Về sau, do khéo bợ đỡ, đón ư, hắn
c̣n làm tới chức Hữu Thừa Tướng, khuynh loát
triều chánh, gạt bỏ những kẻ chống đối,
trừ khử những bậc trung lương. Giả Tự
Đạo sống rất xa xỉ, ăn hối lộ
không biết chán. “Đường
sương” chính là đường cát trắng. Thuở
đó, tại Trung Hoa chưa có mía. Đường mía phải
nhập, hay bắt
các nước phương Nam như Việt Nam, Mă Lai, Nam
Dương, Xiêm La… cống nạp. Đường thô
đă rất đắt, thế mà hắn nghiễm nhiên chiếm
riêng tám mươi ṿ đường cát trắng tinh luyện!
[27] Nguyên văn “quán hăn văn vơng” (慣捍文網). Ông Hoàng Bách Lâm giảng: “Hăn là xúc phạm, vi phạm.
Văn Vơng là pháp vơng, tức pháp luật”.
[28] Nguyên văn “vi ấp dân cộng trắc mục giả” (kẻ
bị dân trong huyện cùng liếc xéo). “Trắc mục” (側目) là nh́n bằng khóe mắt, hoặc
liếc xéo, không thèm nh́n thẳng, biểu thị phẫn nộ,
căm ghét.
[29] Hiểu thông thường, Lưỡng
Hoài (兩淮) là vùng bắc sông Trường Giang thuộc tỉnh
Giang Tô, thuộc hai miền Nam và Bắc của lưu vực
sông Hoài. Ở đây, Lưỡng Hoài có thể hiểu là
hai lộ Hoài Đông và Hoài Tây đời Tống. Nhà Tống
chia Trung Hoa thành nhiều lộ, mỗi lộ tương
đương với một tỉnh
trong hiện thời. Chức Diêm Vận Sứ có tên gọi
đầy đủ là Đô Chuyển Diêm Vận Sứ Ty
Diêm Vận Sứ (都轉鹽運使司鹽運使), đôi khi chỉ gọi là Diêm Vận
Ty, được đặt ra từ đời Nguyên, chỉ
áp dụng vào những tỉnh sản xuất muối
như Lưỡng Hoài, Lưỡng Chiết, Phước
Kiến v.v... Do muối là một nguồn lợi rất lớn,
nên triều đ́nh đặc biệt lập ra một
cơ quan trông coi việc vận chuyển, đánh thuế,
cũng như trừng trị những kẻ buôn lậu muối.
Đến đời Thanh, cả nước Trung Hoa có bảy
Diêm Vận Sứ tại các tỉnh Trực Lệ, Sơn
Đông, Lưỡng Hoài, Lưỡng Chiết, Quảng
Đông, Tứ Xuyên và Phụng Thiên.
[30] Thiên Thuận là niên hiệu của
Minh Anh Tông (Châu Kỳ Trấn) từ năm 1457 đến
năm 1464. Minh Anh Tông sử dụng hai niên hiệu là Chánh
Thống (1436-1449) và Thiên Thuận (1457-1464). Sở dĩ có sự
gián đoạn là v́ năm 1449, bộ tộc Ngơa Lạt
(Oirats) xâm lăng Trung Hoa, Vương Chấn khuyên vua thân
chinh. Khi quân Minh kéo đến Thổ Mộc Bảo, đă
bị thái sư Dă Tiên của quân Ngơa Lạt đánh tan tác,
Minh Anh Tông bị cầm tù. Trước t́nh thế nguy ngập
đó, hoàng thái hậu Tôn Thị đă lập em trai của
Minh Anh Tông là Châu Kỳ Ngọc làm giám quốc. Không lâu sau, Kỳ
Ngọc xưng đế, tức Minh Cảnh Tông. Minh Anh
Tông bị cầm tù măi cho đến năm 1450, do Hồng
Lô Tự Khanh Dương Thiện bán sạch gia sản, chạy
vạy, lo lót, thuyết phục Dă Tiên cho phép đón Minh Anh
Tông về Yên Kinh. Về lại Yên Kinh, nhà vua lại bị
Minh Cảnh Tông dùng quân cẩm y vệ giam lỏng ở Nam
Cung. Vua sống hết sức đói khổ, thường
xuyên thiếu ăn. Măi cho đến năm Cảnh Thái thứ
tám (1457), Minh Cảnh Tông bị bệnh nặng, không thể
thiết triều, Phó Đô Ngự Sử Từ Hữu
Trinh, Vũ Thành Hầu Thạch Thuần v.v… thừa cơ
dẫn quân tấn công Nam Cung mới cứu được
Minh Anh Tông ra, đưa lên ngôi như cũ. Do vậy, vua
đổi niên hiệu thành Thiên Thuận.
[31] Giám Ty (監司) là chức quan trông coi việc
giám sát ở châu huyện. Thời Tống, các chức vụ
Chuyển Vận Sứ, Chuyển Vận Phó Sứ, Chuyển
Vận Phán Quan và Đề Điểm H́nh Ngục đều
gọi chung là Giám Ty.
[32]
Nguyên văn là “h́nh mạc” (刑幕),
đây là từ ngữ gọi chung những người làm
nha lại giúp đỡ vị h́nh quan xét xử, điều
tra, thẩm vấn, lập án từ, bảo quản công
văn v.v…
[33] Túy Khôi (醉魁): Khôi (魁) là người đỗ đầu
trong một cuộc thi. Chữ Túy nếu tách
ra sẽ là do hai chữ Tốt (卒) và Dậu (酉) ghép lại. Chữ Tốt trông
giống như chữ Tân (辛), nên mới có người
đoán Túy Khôi có nghĩa là con trai ông Trần
Tài sẽ đỗ đầu trong khoa thi năm Tân Dậu.
[34] Huấn Đạo (訓導) là chức quan phụ tá
lo quản trị các sinh viên (học sinh đă vào học tại
các phủ, châu, huyện). Chẳng hạn, vị
quan trông coi về giáo dục của một phủ sẽ được
gọi là Giáo Thụ (教授), có bốn người
phụ tá gọi là Huấn Đạo. Viên quan trông coi việc
giáo dục tại một châu gọi là Học Chánh (學正), có ba viên Huấn Đạo
phụ tá. Tại cấp huyện th́ có một người
trông coi việc giáo dục gọi là Giáo Dụ (教諭), có hai viên Huấn Đạo
làm phụ tá.
[35] Thời cổ, nơi nào có hai ngàn năm trăm hộ
trở lên th́ được gọi là một Châu (州), nơi có hai trăm
năm mươi hộ được gọi là một Lư
(里). Về sau, châu lư được hiểu theo
nghĩa rộng là những người đồng
hương.
[36] Do nha lại bên h́nh pháp viết án
từ định tội người khác như dao chặt
xuống không khoan nhượng, nên gọi là “đao bút” (刀筆).
[37] Thư lại (書吏) là những kẻ giữ sổ
sách biên soạn văn từ, hồ sơ, và các bản án trong công môn. Từ ngữ này c̣n
dùng để chỉ các quan chức trong giới hành chánh.
[38] Cấm binh (禁兵) c̣n gọi là Cấm Quân, hoặc
Cấm Vệ Quân, tức quân bảo vệ hoàng đế
và hoàng cung. Ở đây, chỉ nên hiểu theo nghĩa hẹp
là bọn lính canh ngục.
[39] Tuần Án (巡按) chính là chức Tuần Án Ngự
Sử được thiết lập từ đời
Minh, tức là vị Ngự Sử thường đi tuần
tra các nơi, có quyền hạn rất lớn. Vị này phụ
trách khảo hạch các quan viên và bọn nha lại, chủ
tŕ xét xử những vụ án lớn, tái thẩm những
vụ nghi án. Từ Tri Phủ trở xuống đều
phải nghe theo lệnh vị này.
[40] Giáo phường (教坊) là cơ quan quản lư âm nhạc,
chuyên trách quản lư những thể loại âm nhạc ngoài
Nhă Nhạc (nhạc tấu trong các dịp lễ trong cung
đ́nh như khi tế lễ hoặc thiết triều),
cũng như các h́nh thức nghệ thuật diễn
xướng, kể cả những tṛ biểu diễn khác, gọi chung là Bách
Hư. Nói riêng đào hát, kép hát, vũ công đều trực thuộc
sự cai quản của giáo phường. Những người
làm nghề giải
trí này có địa
vị rất thấp kém trong xă hội thuở trước.
[41] Nhiệt thẩm (熱審, xét xử vào tháng nóng) là quy định
từ đời Minh. Theo đó, từ sau ngày mồng
Mười tiết Tiểu Măn cho đến ngày mồng Một
trước tiết Lập Thu, do khí trời quá oi bức,
các quan tuần án hoặc giám sát, sẽ xét lại những
hồ sơ vụ án để quyết định mà giảm
nhẹ án phạt cho những kẻ bị phạt tội
lưu đày, phạt trượng v.v… Chuyện này
được gọi là Nhiệt Thẩm.
[42] “Tấn
thân” (縉紳) có nghĩa là “cắm cái hốt vào đai lưng”.
Hốt (笏) là một vật dụng thường
có h́nh dạng dài và hẹp, làm bằng ngọc, bằng ngà,
hoặc chỉ đơn giản bằng gỗ. Khi vào tâu
tŕnh nhà vua, họ thường viết những điều cần tâu trên đó để khỏi
quên. Khi tâu vua, hai tay cầm hốt, giơ lên trước mặt
nhằm tỏ ḷng cung kính. Về sau, vua cũng cầm hốt
khi mặt triều phục ngồi trên ngai khi các quan triều
bái. Trong trang phục của các quan, đai lưng thường
có chỗ phồng lên ở ngang eo, để các quan cắm
hốt vào đó khi quỳ lạy vua, hoặc nhằm rảnh tay khi đi đường.
Do vậy, “tấn thân” là từ
ngữ phiếm chỉ các quan chức lớn.
[43] Nguyên văn “phược thi quán trấp” (縛屍灌汁). Theo ông Hoàng Bách Lâm, “phược thi” (trói xác
người chết), có nghĩa là người đă chết
không được phép chôn cất, cứ quàn tại
đó. “Quán trấp” (rỉ ra chất lỏng) là một
thành ngữ của vùng Kinh Tương, có nghĩa là thi thể
bắt đầu rữa nát, tuôn máu chảy mủ. Thành ngữ
này có nghĩa là v́ người nhà không hối lộ, bọn
quan lại, chức dịch, cường hào không cho phép chôn
cất người đă chết, cứ bắt giữ lại
đó để làm tang chứng.
[44] Chúng tôi thêm vào câu này theo cách giải
thích của ông Hoàng Bách Lâm.
[45] Đây là một cách nói khác của
từ ngữ “y quan cầm thú”
(lũ cầm thú mặc áo, đội mũ), nhằm thóa mạ
những kẻ bề ngoài ra vẻ học thức, đạo
đức, tuân theo lễ nghĩa thánh hiền, nhưng hành
vi xấu xa, tồi bại.
[46] Ư nói thái độ thay đổi
bất thường, tráo trở, chỉ cốt sao đạt
được mục đích.
[47] Theo ông Hoàng Bách Lâm, câu này phải
hiểu là kẻ nghèo túng, chẳng biết làm sao, đành bó
tay, cam ḷng oán hận, trơ mắt nh́n kẻ khác hung
hăng, lấn hiếp.
[48] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này có
nghĩa là phải t́m cho ra nguyên nhân, động cơ dẫn
đến vụ án, chứ không phải chỉ quan sát trên
hiện tượng rồi kết luận vụ án. Chẳng
hạn, người bị trúng độc chết v́ thuốc
th́ không thể kết luận đơn giản nguyên nhân
là chết v́ trúng độc, mà phải t́m ra hung thủ, ai
là người đă dùng thuốc độc mưu sát nhằm
mục đích ǵ, v́ sao lại dùng độc, cách hạ
độc như thế nào, ai sẽ có lợi khi người ấy chết
v.v… Tương tự như vậy, đối với những
người tự tử chết, phải t́m cho ra nguyên
nhân nào đă ép họ phải chọn phương cách tự
tử, hoặc họ có thật sự tự tử hay
không, hay là bị người nhà giết chết rồi dàn
cảnh như tự tử?
[49] Những thứ này toàn là h́nh cụ,
tức dụng cụ để tra tấn thời cổ.
Trúc bản (竹板, tạm dịch là roi cật tre) là dùng những miếng cật
tre già bó thành roi, dùng để đập vào đùi, hoặc
mông tội nhân khiến cho họ bị nát thịt. H́nh phạt đầu tiên trong ngũ h́nh (năm h́nh phạt)
thời cổ là Xuy H́nh (笞刑), tức là dùng trúc bản để
đánh. Kẹp ngón tay (拶指, tạt chỉ) là một thứ h́nh cụ bằng
gỗ gồm năm miếng gỗ dài bảy tấc, rộng
năm phân, dùng dây buộc lại thành h́nh ống. Khi hành
h́nh, sẽ đút ngón tay của tội nhân vào đó, rồi
xiết chặt dây, khiến cho tội nhân đau đớn
thét lên. H́nh phạt này dành cho phụ nữ. Giáp côn (夾棍, tạm dịch là côn kép) là côn
được chế bằng hai thanh gỗ to, cứng
ghép lại. Phạm nhân bị đánh côn kép thường sẽ bị què quặt
suốt đời.
[50] Ngỗ tác (仵作) hoặc c̣n gọi là “lại ngỗ”
(吏仵) là nhân viên chuyên mổ xẻ, kiểm nghiệm thi
thể trong các cơ quan h́nh pháp thuở trước, tức
là nhân viên pháp y trong hiện thời.
[51] Tư Lư (司理) là chức quan thuộc về
h́nh pháp, chưởng quản nhà tù, tố tụng, khám nghiệm,
điều tra.
[52] Thôi Tư (推司) là chức quan đặc trách
điều tra phá án, phụ tá của huyện lệnh.
[53] Vị này tên thật là Triệu
Biện, có hiệu là Duyệt Đạo, Thanh Hiến là thụy
hiệu, biệt hiệu là Tri Phi Tử. Ông nổi tiếng
với chuyện hằng ngày thắp hương tấu
tŕnh thiên đ́nh những chuyện đă làm trong một
ngày. Ông thường nói: “Chuyện
đă làm trong một ngày không ǵ chẳng thể tấu tŕnh
thượng đế”. Ông đỗ Tiến Sĩ dưới thời Tống Nhân Tông, giữ chức
Điện Trung Thị Ngự Sử, đàn hặc bọn
tham quan không e ngại, nên người đương thời
gọi ông là Thiết Diện Ngự Sử (vị Ngự
Sử mặt sắt). Về sau, dưới thời Tống
Thần Tông, do chống đối tân pháp của
Vương An Thạch, ông bị đổi làm tri phủ
Hàng Châu.
[54] Đây là quy chế đă có từ
đời Đường, dưới quyền các chức
quan Tiết Độ Sứ, có các chức quan Quan Sát Sứ,
Đoàn Luyện Xứ, Pḥng Ngự Sứ, Thái Phỏng Xử
Trí Sứ. Dưới những chức quan này, lại đặt
một chức Thôi Quan để làm quan ṭa, chưởng quản
hồ sơ vụ
án, và những sự
việc liên quan đến tố tụng và nhà tù. Chức vụ
này thường được gọi là Tiết Độ
Thôi Quan.
[55] Phù điệp (符牒) c̣n gọi là giới điệp
hoặc độ điệp là giấy chứng nhận
chánh quyền xác minh một tăng sĩ đă đậu
khảo hạch về kinh giáo, và có tư cách xứng
đáng làm tăng sĩ.
[56] Tiểu Đỗ là Đỗ
Diên Niên. Cha ông ta là Đỗ Châu là một tay quan lại
khét tiếng tàn ác đời Đông Hán, nhưng Đỗ
Diên Niên lại là người nhân từ, thông hiểu t́nh lư.
Đỗ Diên Niên phù tá tể tướng Hoắc Quang. Hoắc
Quang áp dụng pháp luật quá khắt khe, Đỗ Diên Niên
thường dùng lời lẽ mềm lỏng khuyên lơn.
Tiểu Đỗ Luật chính là bộ luật nhà Hán do
Đỗ Diên Niên tu chỉnh.
[57] Quyết Tào Duyện (決曹掾) là chức vụ xử án, thẩm
phán trong một châu huyện thời Hán.
[58] Đông Hải chính là Đàm Huyện
thời Hán, tức vùng đất thuộc huyện Phí tỉnh
Sơn Đông ngày nay. Ông Vu chính là cha của Vu Định
Quốc, một nhà luật học lừng danh đời
Hán. Cha Vu Định Quốc làm phán quan rất công minh, chánh
trực. Do vậy, những phạm nhân bị ông phán tội
đều phục, không oán thán chút nào.
[59] Theo quy chế đời Hán,
Đ́nh Úy (廷尉) là chức quan cao nhất chưởng quản
tư pháp cả nước, tương đương bộ
trưởng Tư Pháp hiện thời. Đến đời
Hán Cảnh Đế, chức vụ này được đổi thành Đại Lư, về sau lại
gọi là Đ́nh Úy, măi cho đến thời Bắc Tề
mới đổi thành Đại Lư Tự Khanh. Các quan phụ
tá được chia thành ba cấp là Đ́nh Úy Giám, Đ́nh
Úy B́nh và Đ́nh Úy Sứ.
[60]Dương Bạch Khởi chính là Dương Chấn, ông có tên tự là Bạch Khởi. Dương Chấn sống vào thời Đông Hán,
thông hiểu kinh điển Nho gia, đặc biệt là
sách Âu Dương Thượng Thư, cho nên được
người đương thời xưng tụng là Quan
Tây Phu Tử. Ông làm quan đến chức Thái Thú Đông
Lai. Vương Mật là huyện lệnh Xương Ấp
cảm kích ông đă đề cử, đến đêm, bèn mang mười cân vàng tới
biếu tạ. Dương Chấn kiên quyết cự tuyệt,
Vương Chấn năn nỉ: “Đêm sâu có ai biết
đâu mà!” Dương Chấn quát to: “Trời biết, đất biết, ta biết, ông
biết, sao lại nói là không ai biết”.
[61] “Lục
súc” (六畜) là sáu loài gia súc, tức ngựa, trâu hay ḅ, dê, gà, chó,
lợn.
[62] Lô Đa Tốn là người xứ
Hoài Châu, tỉnh Hà Nam, là cháu đời thứ mười
bốn của thứ sử Lô Thượng Chi. Ông ta đỗ Tiến Sĩ dưới
thời Hậu Châu, về sau theo nhà Tống. Khi làm Hàn Lâm Học
Sĩ, ông đă cùng Lưu Hàn biên soạn bộ Khai Bảo
Bổn Thảo. Ông được phong làm Trung Thư Thị
Lang B́nh Chương Sự, rồi làm Binh Bộ Thượng
Thư. Do bất ḥa với Triệu Phổ (vị này là khai quốc công thần
của nhà Tống, nổi tiếng với câu nói: “Thần dùng nửa bộ Luận
Ngữ mà đă đủ sức để pḥ tá bệ hạ
lên ngôi cửu ngũ”), Lô Đa Tốn bèn bịa chuyện tố cáo Triệu Phổ đă tung tin Tống
Thái Tổ không hề muốn truyền ngôi cho Tống Thái
Tông. Do vậy, Tống Thái Tông ghét bỏ Triệu Phổ.
Khi Triệu Phổ được phục chức Tể
Tướng, đă kiếm cớ hạch tội, khiến
cho Lô Đa Tốn bị mất sạch quan tước, cả nhà phải bị
đày đi Châu Nhai (nay thuộc đảo Hải Nam). Lại
quy định:
Dẫu triều
đ́nh đại xá, cũng không đến phiên Lô Đa Tốn
được hưởng ân xá. Về sau, Lô Đa Tốn
bị bệnh chết tại Châu Nhai.
[63] Tham
Quân (參軍) gọi đầy
đủ là Tham Mưu Quân Vụ, tức chức quan phụ
tá, làm cố vấn tham mưu cho các tướng quân hoặc
những quan chức cầm quyền quân sự.
[64] Cao Tử Cao là người nước
Vệ, tên thật là Cao Sài, tên tự là Tử Cao. Lúc trẻ,
từng sống tại nước Lỗ, theo học với
Khổng Tử. Về sau, ông trở về nước Vệ,
làm người canh ngục. Nguyệt (刖, chặt chân) là một h́nh phạt thời cổ,
tù nhân phạm tội sẽ bị chặt đứt cả bàn chân hay các ngón chân tùy theo tội trạng.
[65] Khoái Hội (蒯聵, sách Cảm Ứng
Thiên khắc sai thành Khoái Quư, 蒯瞆) là vua nước Vệ, là con trai
của Vệ Linh Công (Cơ Nguyên). Khi c̣n là Thái Tử, Khoái Hội tính giết phi tần của Vệ
Linh Công là Nam Tử. Âm mưu bất thành, Khoái Hội phải trốn sang nước Tấn.
Khi Vệ Linh Công đă chết, con trai Khoái Hội là Cơ Triếp lên làm vua, tức Vệ Xuất
Công. Nước Tấn muốn đưa Khoái Hội về làm vua, nhưng dân nước
Vệ không chịu. Về sau, Khoái Hội nhờ chị là Khổng Cơ
giúp sức, trở về nước Vệ, đánh đuổi
Vệ Xuất Công phải chạy sang nước Lỗ.
Khoái Hội lên làm vua, tức Vệ Trang Công, lại bội ước với
nước Tấn, nên nước Tấn vây đánh nước
Vệ. Bị nhân dân nước Vệ chống đối,
Khoái Hội đành phải chạy sang Nhung
Châu lánh nạn. Sử gọi sự kiện này là “Khoái Hội chi nạn”.
[66] Ông này tên là Từ Tích, là người
xứ Sơn Dương, Sở Châu (nay thuộc thành phố
Hoài An, tỉnh Giang Tô), đỗ Tiến Sĩ dưới đời Tống Anh Tông, làm Giáo Thụ tại Sở Châu. Khi mất, ông được
vua đặt thụy hiệu là Tiết Hiếu Xử
Sĩ. Do vậy, sách Cảm Ứng Thiên mới ghi tên ông là
Từ Tiết Hiếu Tích (tức là lồng thụy hiệu
vào giữa tên thật) nhằm tỏ ư kính trọng.
[67] Tiên sinh An Định là Hồ Viện.
Ông này là một học gi và là nhà giáo dục lừng danh thời Bắc Tống.
Lầu tàng thư ở Như Cao và Hồ Châu là nơi ông dạy
học, thường được gọi là An Định
Thư Viện. Về sau, ông được mời giữ
chức Quốc Tử Giám Trực Giảng và chủ tŕ
trường Thái Học. Do sự giáo hóa của ông, học
thuật tại Giang Tô, Hồ Châu, Tô Châu đều nổi
danh nhất Trung Hoa thuở đó. Triều đ́nh nhà Tống
đă phái người đến khảo sát, đúc kết
kinh nghiệm, biên soạn thành bộ sách Học Chánh Điều
Ước.
[68] Tăng Tử Cố chính là
Tăng Củng, vị này có tên tự là Tử Cố. Ông là người xứ
Lâm Xuyên, xuất thân từ gia đ́nh thư hương, ông
nội và cha đều là những người học giỏi.
Ông nội làm Hộ Bộ Thị Lang, cha làm Thái Thường
Bác Sĩ. Tăng Củng mới mười hai tuổi
đă có thể viết văn lưu loát, thốt ra những câu khiến người khác kinh hăi
và thán phục. Âu Dương Tu hết sức ưa thích
ông. Tăng Củng được xếp vào Bát
Đại Văn Gia thời Đường - Tống.
[69] Vương Kinh Công chính là
Vương An Thạch, là một tay chánh trị gia đă
đề xướng khá nhiều tân pháp táo bạo, khiến
cho sĩ phu thời ấy chống đối dữ dội.
Ông cũng là người nổi tiếng hẹp ḥi và độc
đoán, chẳng dung thứ những kẻ có ư kiến khác
ḿnh. Để chuyển hướng sự công kích của
sĩ phu và đại chúng, ông chủ trương xua một
vạn quân sang đánh nhà Lư của Đại Việt, với
mục đích muốn biến Đại Việt thành thuộc
địa Giao Châu như thuở trước. Chiến cuộc
dằng dai gần cả năm, tốn kém rất lớn,
rất nhiều tướng lănh tài ba tử trận, vẫn
không dứt điểm được Đại Việt.
Dưới sự
chỉ huy tài t́nh của Lư Thường Kiệt, quân Tống
không cách nào vượt qua sông Như Nguyệt. Lư Thường Kiệt lại khôn khéo áp
dụng chiến tranh du kích, công phá hậu tuyến của
quân Tống, lại dùng các biện pháp chiến tranh tâm lư
khiến cho sĩ khí quân Tống giảm sút nghiêm trọng. Cuối
cùng, nhà Tống phải chấp nhận
lời cầu ḥa của Đại Việt, rút về
nước. Uy tín của Vương An Thạch mất sạch!
Do Vương An Thạch lúc c̣n được vua sủng
ái, đă được phong là Kinh Quốc Công, cho nên ở
đây sách Cảm Ứng Thiên Vựng Biên gọi ông ta là Vương Kinh Công.
[70] Tử Hư Nguyên Quân là một vị
thần trong Đạo giáo. Bà c̣n được gọi là Nam Nhạc Phu
Nhân, Thượng Chân Tư Mạng Nam Nhạc Phu Nhân, hoặc
Ngụy Phu Nhân, tên thật là Ngụy Hoa Tồn, là đạo
sĩ sống vào đời Tấn, quê ở Nhiệm Thành.
Bà là con gái của Tư Đồ Ngụy Thư, từ nhỏ
đă thích tu tiên, thông hiểu kinh sách Đạo giáo, kiêm tinh thông Nho học, đặc
biệt ưa thích tư tưởng Lăo Trang. Bà thích ăn
các thứ dược vật như Hồ Ma Tán, Phục
Linh Tán v.v… để mong thành tiên. Bà mong sống đời
độc thân, nhưng khi hai mươi bốn tuổi bị
cha mẹ ép gả cho ông Lưu Văn, sanh được hai con là Phác và
Hà. Khi hai con đă lớn, bà tĩnh cư riêng biệt, chuyên tâm tu đạo.
Tương truyền bà được Thanh Hư Chân Nhân dạy
đạo. Sau khi Lưu Văn mất, do tỵ nạn, bà
dẫn hai con xuống Giang Nam. Khi các con đă ra làm quan, bà uống
thuốc tiên, bay lên trời, thành tiên.
[71]
Noăn xúc (煖觸): Noăn là hơi ấm, Xúc là sự
nhận biết, cảm xúc. Noăn (煖) chính là độ ấm của
cơ thể, ở đây dùng để chỉ Tứ
Đại, v́ Noăn tương ứng với Hỏa Đại.
Xúc (觸) là
nói chung sáu thức. “Xả noăn
xúc” tức là khi Tứ Đại chia ĺa, tiền lục
thức chẳng c̣n hiện hành.
[72] Phương sĩ (方士), c̣n gọi là thuật sĩ (術士) là những kẻ tự xưng là tu luyện thuốc
tiên, thường đốt ḷ nấu kim đan, tiên
đan, tự khoe là biết những bài thuốc trường
sanh bất tử, uống vào phàm thân sẽ đổi thành thánh thai,
đăng tiên v.v… Hoặc những gă đạo sĩ
chuyên đề xướng những thuật tu tiên quái
đản, như dùng bùa chú để sai khiến âm binh hăm hại
người khác,
dùng pḥng trung thuật, nam nữ thái âm bổ dương
ḥng kéo dài tuổi thọ v.v…
[73] Tam cô (三姑) là ni cô, đạo cô và quái cô (卦姑, bà thầy bói). Lục bà (六婆) gồm nha bà (牙婆, tức là những người đàn bà
chuyên môi giới mua đi bán lại), mưu bà (媒婆, bà mối), sư bà (師婆, hoặc vu bà (巫婆), những người đàn bà để
ma quỷ nhập xác, thường gọi là “cốt”, hoặc “xác”, hoặc làm nghề thầy mo, lên đồng),
kiền bà (虔婆, những phụ nữ làm nghề bất
chánh như chủ chứa, c̣n gọi là bảo mẫu - 鴇母), dược bà (藥婆, những bà lang vườn, chuyên cắt,
giác, lể), và ẩn bà (穩婆, mụ đỡ).
[74] Trạch Càn Hữu quê ở Vân An, Tứ Xuyên, là
một đạo sĩ nổi tiếng đời
Đường. Tương truyền ông
đích thân được thần tiên từ núi Hoàng Hạc chỉ
dạy nên phù chú rất linh, có bản lănh chế ngự hổ, báo,
giao long. Dân gian xưng tụng ông là Thông
Linh đại sư.
[75]
Nguyên văn là “khảo triệu”
(考召). Đạo gia do
dùng phù chú để khảo quỷ triệu thần (tra hỏi
quỷ, triệu thỉnh thần), nên phù chú được gọi
bằng từ ngữ “khảo
triệu”.
[76]
Nguyên Đạo Biện (原道辨) là một bài viết
của Tống Hiếu Tông (Triệu Thận) vào năm Thuần
Hy thứ tám (1181) để bác bỏ những luận
điệu đả phá Phật giáo trong bài Nguyên Đạo
Luận của Hàn Dũ. Tác phẩm này về sau được
gọi là Tam Giáo Luận.
[77]
Công Tôn Hoằng sống vào đời Tây Hán, làm thừa
tướng dưới thời Hán Vũ Đế. Do ông
ta đă vay mượn tư tưởng của pháp gia (học
thuyết dùng h́nh luật nghiêm khắc để dân chúng sợ
hăi mà tuân phục) để chủ trương tập
trung quyền hành vào tay hoàng đế, chú trọng đạt
đến mục đích, bất cần thủ đoạn,
nên đă bị
các nhà Nho sau này coi là kẻ đă giải thích cong vạy
tư tưởng của Nho gia.
Chúc
Khâm Minh giữ chức Quốc Tử Giám Tế Tửu
(tương đương với chức Hiệu Trưởng) đời
Đường Trung Tông. Ông là người thông hiểu
Ngũ Kinh, nhưng tánh ưa
xu
nịnh. Có lần hoàng đế đăi tiệc đại
thần, nhằm bợ đỡ vua, ông khoe là mới chế
ra khúc múa Bát Phong Vũ, xin vua cho phép biểu diễn. Tiếc
là ông vừa mập ụt ịt, vừa xấu trai, vừa di chuyển lạch
bạch, vừa lắc lư đầu, trợn tṛn hai mắt,
lúng liếng liếc qua liếc lại làm duyên không giống
ai, khiến cả triều đ́nh cười lăn cười
ḅ. Lại Bộ Thị Lang Lô Tạng Dụng cảm thán: “Ngũ Kinh đă bị đem
quét đất mất rồi”, ngụ ư chê trách Chúc Khâm
Minh chẳng biết giữ dáng vẻ tôn nghiêm tối thiểu
của một người thầy.
Dương
Tử Vân chính là học giả Dương Hùng (53-18 trước
Công Nguyên), tên tự là Tử Vân.
Ông là một học giả, văn gia và là
nhà ngôn ngữ học trứ danh đời Hán. Ông đă
đề xướng Thái Huyền là căn nguyên của vạn
sự vạn vật trong vũ trụ, chủ
trương con người vốn thiện ác lẫn lộn.
Trở thành thiện hay ác là do tu tập như thế nào mà
thôi! Do khi Vương Măng cướp ngôi nhà Hán, lập ra
nhà Tân, đă trọng dụng ông, phong cho ông làm Trung Tán Đại
Phu, Dương Hùng bèn viết
một bài văn dài ca tụng
Vương Măng.
Bài văn này thường được người
đương thời gọi
châm biếm là Kịch Tần Mỹ Tân v́ ông phê phán dữ dội Tần
Thủy Hoàng nhằm tô chuốt
những ưu điểm của nhà Tân.
Hứa
Kính Tông làm Trung Thư Xá Nhân dưới đời
Đường Thái Tông. Khi vua mất, Đường Cao
Tông (Lư Trị, con trai Đường Thái
Tông) u mê, bị Vũ Tắc Thiên lung lạc,
giao hết quyền chánh cho bà ta. Sau khi Cao Tông mất, Vũ
Hậu cướp ngôi của Đường Trung Tông, lập ra nhà Đại
Châu. Thay v́ tận tụy phục hồi nhà Đường như các vị trung thần khác,
Hứa Kính Tông lại ra sức tận trung với Vũ Tắc
Thiên. Do v́ đánh mất khí tiết trung nghĩa, nên sách Cảm
Ứng Thiên chê ông là “thất
thân”. Lại
do Vũ Tắc Thiên tiếm ngôi, nên sách gọi bà ta là Ngụy Vũ (“ngụy” ở đây là hư
ngụy, dối trá).
[78]
Tô Đông Pha lúc làm tri huyện Dương Châu, có lần nằm mộng
thấy lên núi, bỗng có một con hổ nhảy xổ
đến toan cắn. Đột nhiên có một gă đạo
sĩ mặc áo tía, đội mũ vàng, dùng tay áo che cho Tô
Đông Pha, quát lớn khiến con hổ bỏ chạy. Hôm
sau, gă đạo sĩ t́m đến nha môn, vênh váo hỏi:
“Đêm qua Ngài có sợ hay không?” Tô Đông Pha quát: “Thằng
đạo sĩ chuột nhắt kia! Mày dám vác mặt đến
đây ư? Có muốn bị đánh trượng găy
xương sống hay không? Ta chẳng biết mày giở tṛ Tư Dạ
Thuật hay sao?”
Gă đạo sĩ kinh hồn, lủi mất. Tư Dạ Thuật
là một loại pháp thuật để đi vào trong giấc
mộng của người khác ḥng giở tṛ.
[79]
Lâm Linh Tố là đạo sĩ thời Bắc Tống,
người xứ Ôn Châu, tỉnh Chiết Giang, tên thật
Linh Ngạc. Do Tống Huy Tông mê thích thuật trường
sanh của đạo sĩ, Lâm Linh Tố bèn thừa cơ
mê hoặc, nói: “Cơi trời có chín tầng, tầng cao nhất
là Thần Tiêu. Bệ hạ là con trưởng của
Thượng Đế, tước hiệu là Thần Tiêu
Ngọc Thanh Vương, pháp hiệu là Trường Sanh
Đại Đế Quân”, c̣n hắn chính là Thần Tiêu Phủ
Tiên Khanh giáng hạ để phù tá Tống Huy Tông. Để
lấy ḷng bọn quyền thần, hắn nói các gă gian thần
như Thái Kinh, Vương Phủ, Thịnh Chương,
Vương Cách, Trịnh Cư Trung, cũng như một số
thái giám có quyền uy thời đó đều là thần
tiên giáng hạ để pḥ tá nhà vua, ngay cả sủng phi
của Tống Huy Tông là Lưu Thị cũng là Cửu Hoa
Ngọc Chân An Phi giáng thế! Tống Huy Tông mê muội tin
theo, ban cho hắn ngự hiệu Thông Chân Đạt Linh
Tiên Sinh, xây cung Thượng Thanh Bảo Lục cho hắn ở.
Linh Tố bèn thừa cơ khuyên vua phế Phật. Vua bèn
xuống chiếu bắt dân gọi Phật là Đại
Giác Kim Tiên, các vị Bồ Tát gọi là Tiên Nhân, tăng
sĩ bị đổi thành “đức
sĩ”, chùa Phật không
được dùng chữ Tự mà phải gọi là Cung,
các tự viện gọi là Quán, các tăng sĩ bị xua
đuổi, bị coi như hạng người hèn hạ
trong xă hội!
[80]
Ngụy Vũ Đế chính là Ngụy Thái Vũ Đế
(Thác Bạt Đào) nhà Bắc Ngụy, khác với Ngụy
Vũ Đế (Tào Tháo). Thác Bạt Đào thuộc tộc
người Tiên Ty, là vua thứ ba của nhà Bắc Ngụy.
Ngụy Thái Vũ Đế say đắm Đạo giáo,
nghe theo lời xúi giục của Thôi Hạo (Thôi Hạo vu
cáo Phật tử đă ủng hộ loạn quân Cái Ngô) và
đạo sĩ Khấu Sĩ Khiêm, nên nhà vua kiên quyết
tiêu diệt Phật giáo. Đây là họa diệt pháp đầu
tiên trong tai họa Tam Vũ Diệt Phật (Bắc Ngụy
Vũ Đế, Bắc Châu Vũ Đế và Đường
Vũ Tông) của Phật giáo Trung Hoa. Vua xuống chiếu
cấm ngặt vương hầu và dân chúng cúng dường
sa-môn, triệt hạ tự viện, tịch thâu tài sản
của nhà chùa, sát hại các vị cao tăng Huyền Cao và
Huệ Sùng. Thôi Hạo lại thôi thúc nhà vua tàn sát tăng
sĩ tại Trường An rồi ban lệnh diệt Phật,
đuổi Tăng khắp toàn quốc, khiến cho các
tăng sĩ phải trốn lánh hay hoàn tục.
[81]
Phó Dịch sống qua ba triều đại Châu, Tùy,
Đường, tinh thông thiên văn và lịch pháp. Trước
khi làm quan, ông ta là đạo sĩ. Ông ta làm Thái Sử Lệnh
dưới thời Đường Cao Tông, dâng sớ nói: “Phật giáo có hại
cho chế độ phong kiến, giúp dân trốn lính, chẳng
thờ phụng cha mẹ, sư săi toàn là bọn du thủ
du thực trốn việc quan, ăn bám, phải nên phế
trừ chùa chiền, bắt hết thảy tăng ni hoàn tục”.
Ông ta liên tiếp dâng
mười một tờ sớ đề nghị phế
Phật.
[82]
Tŕnh Di làm chủ bạ ở Ngạc Châu. Có người
khuyên ông ta
hăy nên đến xem tượng Phật bằng đá phóng
quang. Ông lấy cớ bận bịu công việc để
thoái thác, bảo người ấy hăy mang tượng
đến cho ông ta xem. Rồi khi có người kể chuyện
linh dị, ông đều bác bỏ: “Ta cũng có chuyện lạ
lắm, ăn vào bèn no!”
[83]
Trong niên hiệu Trinh Quán đời Đường, có một
vị Tăng người Ấn Độ tự xưng có
răng Phật, tuyên bố không ǵ có thể phá hoại
được. Phó Dịch bèn bảo con: “Đó không phải
là răng Phật mà là đá kim cang. Kim cang cứng nhất,
chỉ có sừng linh dương mới phá vỡ
được”. Do vậy, con trai Phó Dịch bèn đến
xin thử. Sừng linh dương vừa đụng vào, “răng
Phật” vỡ nát.
[84]
Vô Vi Giáo là chi phái của Bạch Liên Giáo, c̣n gọi là La Tổ
Giáo.
[85]
La Thanh (1442-1527), tự là Mộng Hồng,
hiệu Tư Phù, người huyện Tức Mặc, tỉnh
Sơn Đông. Hắn xuất thân là quân nhân, chuyên vận tải
lương thực cho quân đội. Sau khi xuất
ngũ, hắn trở về quê nghiên cứu Phật giáo, thật
ra là vay mượn cách tu tiên, luyện đan, pha trộn vào
một ít tư tưởng Phật giáo (theo kiểu diễn
giải xằng bậy), thừa kế phần lớn giáo
nghĩa của tà giáo Bạch Liên. Hắn tự xưng thừa
kế các giáo nghĩa Thiền Tông, Tịnh Độ, giáo
nghĩa của các phái Chánh Nhất và Toàn Chân trong Đạo
giáo. Đến năm bốn mươi mốt tuổi, hắn
tự xưng là đă chứng ngộ Phật pháp, đắc
pháp chánh truyền, và đưa ra tà thuyết: “Sau thời Lục
Tổ, thiền pháp bị thất truyền, Thiền pháp chánh
truyền được duy tŕ bởi hàng tại gia cư
sĩ”, chủ trương niệm Phật, lạy Phật
là pháp hữu vi, cách tu của hắn mới là pháp vô vi chân
chánh, sáng lập ra “tôn giáo” mới, gọi là La Giáo, thực
chất chỉ là vận dụng những giáo thuyết của
Bạch Liên, và tự xưng rất khoa trương là Vô
Tướng Chân Nhân, Hóa Thiện Tổ Sư, Yết Không Cổ
Phật.
[86]
Hy Hoàng chính là Phục Hy Thị. Phục Hy được
tôn xưng là thỉ tổ của nền văn minh Hoa Hạ.
Cổ thư ghi tên ông gọi theo nhiều lối khác nhau:
Bào Hy, Mật Hy, Bao Hy, hay Hy
Hoàng. Sử Kư nói ông là con của Hoa Tư, cha của Thiếu
Điển, là ông nội của Viêm Hoàng. Theo truyền thuyết,
ông dạy dân đan lưới bắt cá, săn bắn,
nuôi dưỡng gia súc, chế ra Bát Quái, chế ra văn tự
và đàn cổ cầm. Ông c̣n được xếp vào Tam
Hoàng. Thần thoại nói ông thân có vảy, c̣n em gái của
ông là Nữ Oa có thân rắn. Truyền thuyết khác lại
nói họ là vợ chồng. Có thuyết nói Phục Hy chính
là Bàn Cổ. Theo
các nhà khảo cứu, sau khi Hoàng Đế thay thế Viêm
Đế, đánh bại Si Vưu, do thấy tổ tiên của
các bộ lạc Viêm Đế và Si Vưu là Phục Hy rất
được kính ngưỡng, bộ tộc của Hoàng
Đế bèn vay mượn truyền thuyết về Phục
Hy, sáng tạo ra nhân vật Bàn Cổ, dần dần dẫn
đến truyền thuyết Bàn Cổ mở mang trời
đất.
[87]
Dưới thời Hán B́nh Đế, nhà vua đă dâng thụy
hiệu cho Khổng Tử là Bao Thành Tuyên Ni Công. Do vậy,
các đời sau thường gọi Khổng Tử là
Tuyên Thánh.
[88]
Theo Pháp Hoa Kinh Tŕ Nghiệm Kư quyển thượng, trong
niên hiệu Vũ Đức đời Đường, có
một viên Đô Thủy Sứ họ Tô. Vị này chuyên trông coi công tác vận chuyển
trên sông ng̣i, tu bổ cầu bến, nạo vét sông rạch,
đắp sửa đê điều… Về sau, ông ta làm Thứ
Sử tại Ba Châu (Tứ Xuyên), đi qua sông Gia Lăng,
sóng to rất lớn, thuyền bị lật, mọi
người đều bị chết đuối. Chỉ
có một người thiếp do thường đọc
kinh Pháp Hoa. Khi rớt xuống nước, cô bèn đội
rương đựng kinh lên đầu, nguyện có chết
th́ sẽ chết cùng kinh. Lạ
thay, thuyền không ch́m mà lừ đừ trôi tới, cô bèn
trèo lên thuyền, từ từ bị dạt vào bờ. Lên tới
bờ, cô kiểm lại, ngạc nhiên khi thấy kinh không hề
bị ướt chút nào.
[89]
Thiền sư Quốc Thanh là ngài Phổ Minh Quốc Thanh, sống
vào đời Nam Triều, quê ở huyện Thiệu
Hưng, tỉnh Chiết Giang, là cao tăng của tông Thiên
Thai. Năm Thái Kiến thứ năm (582) đời Trần,
Sư vào núi Thiên Thai, gặp Trí Giả đại sư giảng
kinh, ngộ được tâm yếu, bèn tôn ngài Trí Giả
làm thầy, tu tập các phép tam-muội Bát Nhă và
Phương Đẳng, kiêm tŕ tụng kinh Pháp Hoa.
[90]
Phân Thủ Đạo (分守道) là một chức phụ
tá của quan Bố Chánh. Do chức vị này có nhiệm vụ
quản trị, phân phối, tích trữ lương thực,
quản trị ruộng nương, cũng như coi sóc việc
truyền phát công văn giữa cách dịch trạm, nên gọi
là Phân Thủ.
[91]
Nguyên văn Dược Nỗ (藥弩) là một loại
cung bắn tên tự động.
[92]
Gậy dính (粘竿, niêm can)
là một thứ dụng cụ để bắt chim,
thường làm thành h́nh sào dài, một đầu có gắn
chất keo dính.
[93]
Nguyên Hựu là niên hiệu của Tống
Triết Tông (Triệu Hú) từ năm 1086 đến
năm 1094. Tống Triết Tông sử dụng ba niên hiệu
là Nguyên Hựu, Thiệu Thánh và Nguyên Phù.
[94]
Bản in của Phật Đà Giáo Dục
Cơ Kim Hội ghi là Hồng Nông, nhưng các bản khác
đều ghi là Hoằng Nông. Ông Hoàng Bách Lâm nói rơ Hoằng
Nông là tên một huyện vào thời Hán, nay thuộc phần
phía Bắc của thành phố Linh Bảo, tỉnh Hà Nam.
[95]
Thành Thang, c̣n gọi là Thiên Ất, Đại Ất, Cao Tổ
Ất, hoặc Thành Đường. Vua họ Tử, tên là
Lư, là lănh tụ của bộ tộc Thương. Vua trọng
dụng Y Doăn và Trọng Hủy, đóng đô tại đất
Hào, tích cực biến Thương thành một quốc gia
hùng mạnh. Khi vua Kiệt nhà Hạ tàn ác, hôn ám, bóc lột
dân chúng tàn bạo, vua Thành Thang đă hiệu triệu
chư hầu đứng lên lật đổ nhà Hạ, lập
ra nhà Thương. Theo Lă Thị Xuân Thu, vua thấy có kẻ
giăng lưới bốn phía ước nguyện: “Những
con vật từ trên trời rơi xuống, từ dưới
đất chui lên, từ bốn phương đến,
đều mắc vào lưới ta”. Vua than: “Ôi! Bắt sạch hết, nếu
chẳng phải là Kiệt th́ có ai làm như thế ư?” Bèn
bảo người ấy chỉ căng lưới một
phía, để cho các con vật c̣n có chỗ
thoát thân.
[96]
Thuở xưa, khi
đúc chuông xong, người ta tin phải giết một
con trâu lấy máu nó bôi vào chuông th́ tiếng
chuông mới vang xa, chuông không bị rè. Tục lệ này gọi
là Hấn Chung (釁鐘). Theo sách
Mạnh Tử, vua Tề thấy
con trâu run lẩy bẩy khi sắp bị “hấn
chung”, bèn hạ lệnh
thả nó đi.
[97] Bạch Khởi là một danh tướng của
nước Tần, vốn tên là Công Tôn Khởi. Ông ta là vị
tướng giỏi, gần như đánh đâu thắng
đấy, đă tham dự hơn bảy mươi trận
chiến. Tánh Bạch Khởi tàn nhẫn, thích tàn sát, nên bị
người đương thời gọi là Nhân Đồ
(gă đồ tể giết người).
Trong trận Trường B́nh, Bạch Khởi dùng kế
khích cho liên quân Triệu và Hàn dưới sự lănh đạo
của Triệu Quát khinh địch mà đánh tan quân Triệu. Số
quân Triệu bị bắt lên tới bốn mươi vạn
người. Sợ có biến, Bạch Khởi cho quân Triệu
ăn uống no say, quân
Tần sẽ thừa cơ xông vào, hễ thấy người
nào không có vải trắng buộc trên đầu như
đă ngầm ấn định
trước, cứ giết thẳng cánh. Bốn
mươi vạn hàng quân nước Triệu bị giết
sạch trong một đêm.
[98]
Đông Pha nay thuộc huyện Hoàng Cương, tỉnh Hồ
Bắc.
[99]
Chúng ta thường nói Long, Lân, Quy, Phụng là Tứ Linh,
đó là nói cho thuận miệng, chứ theo sách Lễ Kư,
thiên Lễ Vận chép: “Hà vị
tứ linh? Lân, Phụng, Quy, Long,
vị chi tứ linh” (Tứ linh là ǵ?
Lân, phụng, rùa, rồng là tứ linh) th́ rồng được xếp vào hạng chót trong tứ
linh.
[100]
Ngự thiện
(禦膳): Bữa ăn, món ăn cho nhà vua.
[101]
Giám tể (監宰)
là vị quan trông coi việc nấu nướng thức
ăn cho nhà vua.
[102]
Theo Giới Sát Phóng Sanh Văn Đồ Thuyết, Hứa
Tôn là người đời Tấn, tên tự là Kính Chi,
thích săn bắn. Có một hôm ông ra đồng, bắn chết
một con nai bé. Nai mẹ hết sức đau khổ, chạy
đến liếm măi vết thương, nhưng nai con
đă chết. Nai mẹ bi thương, lẩn quẩn, hết
liếm lại kêu năo nuột. Hồi sau, nó ngă lăn ra chết.
Hứa Tôn kinh ngạc, mổ ra xem thấy ruột non của
nai mẹ đứt từng khúc. Ông bèn cảm thán, bẻ vụn
cung tên, thề không bao giờ săn bắn, rồi bỏ
đi tu. Về sau Hứa Tôn được Ngô Mănh truyền
dạy Tam Thanh Pháp Yếu, bèn tu
thành
tiên, tức là Hứa Chân Quân trong Đạo giáo.
[103]
Thời Xuân Thu Chiến Quốc,
có một tay thiện xạ tên là Dưỡng Do Cơ. Có lần,
ông ta theo hầu Sở Vương đi săn, thấy
trên cây có một con vượn già. Dưỡng Do Cơ rút
cung tên ra toan ngắm bắn, con vượn biết sẽ không tránh khỏi cái chết,
nó run lẩy bẩy, khóc ṛng.
[104]
Tử Sản là tên tự của Công Tôn Kiều, sống
vào thời Xuân Thu. Ông c̣n được gọi là Tử Mỹ,
làm quan chánh khanh của nước Trịnh, nổi tiếng
là người thông minh, cai trị nhân từ, có tài chỉnh
đốn kỷ cương, chú trọng giáo dục, phát
triển kinh tế, khiến nước Trịnh trở
thành hùng mạnh dưới thời Trịnh Giản Công.
Ông thường được người khác biếu tặng
cá tươi, nhưng chẳng nỡ ăn, sai người
hầu đem thả vào ao đào trong vườn. Ông thấy
cá bơi lội thung thăng trong đó, bèn cảm thán “đắc kỳ sở tai”
(cá được yên thân).
[105]
Theo kinh Kim Quang Minh, quyển bốn, phẩm Trưởng
Giả Tử Lưu Thủy,
th́ trưởng giả Lưu Thủy có hai con là Thủy
Không và Thủy Tạng. Ba cha con đi chơi trong lănh địa
của ḿnh, bỗng thấy trong một vùng đầm
trũng có một cái ao nước đă cạn khô gần
hết, những con cá đang ngoi ngóp trong ấy sắp bị
chết khô,
hay sẽ làm mồi cho chim,
thú. Trưởng giả bẻ cây che cho chúng đỡ nóng,
lại sai con về triều mượn
đức vua
hai mươi thớt voi để chở nước suối đến cứu
cá. Lại c̣n thả đồ ăn cho chúng được
no đủ. Lại niệm Phật hiệu cho chúng nghe.
Đêm ấy, mười ngàn con cá ấy đồng thời
mạng chung, sanh lên trời Đao Lợi. Họ đến
nhà trưởng giả chiếu hào quang sáng rực, đảnh lễ
trưởng giả Lưu Thủy. Trưởng giả
Lưu Thủy chính là tiền thân của Thích Ca Mâu Ni Phật.
[106]
Khi Phật Thích Ca c̣n tu nhân, hành Bồ Tát đạo, trông thấy
một con chim ưng
đuổi bắt bồ câu. Con bồ câu chạy đến
núp dưới vạt áo của Ngài. Chim ưng bảo Bồ
Tát hăy trả lại con bồ câu v́ nó đang đói. Bồ
Tát bèn cắt thịt của chính ḿnh cho chim ưng ăn,
lóc thịt từ bắp tay. Chim ưng cứ đ̣i ăn
măi, Bồ Tát lóc thịt lộ cả xương, mà chim
ưng vẫn cứ kêu đói. Nó hỏi Bồ Tát có hối
hận hay không? Bồ Tát nói: “Ta hoàn toàn chẳng hối hận. Nếu lời này chẳng
dối, thịt ta sẽ mọc lại như cũ”. Quả
nhiên thịt trên thân Bồ Tát mọc lại như cũ.
Chim ưng bèn hiện lại nguyên h́nh là Đế Thích Thiên, đảnh lễ,
tán thán ḷng từ bi của Bồ Tát.
[107]
Trong quá khứ,
có một vị tiên nhân tu Thiền Định rất sâu. Tới khi Ngài xuất
Định, chim đă làm tổ trên đầu. Do vậy,
Ngài vẫn ngồi yên v́ sợ kinh động chim.
[108]
Tôn chân nhân chính là Tôn Tư Mạo. Ông là một vị thầy
thuốc nổi danh, Đạo giáo tin là ông đă thành tiên.
Tương truyền khi chưa thành tiên, ông thấy một
đứa trẻ trong thôn bắt một con rắn,
đánh đập để chơi giỡn. Động
ḷng thương xót, ông bỏ tiền ra chuộc, dùng thuốc
trị thương tích cho nó rồi thả vào rừng. Một
tháng sau, trong khi đang tĩnh tọa, ông thấy một
thiếu niên mặc áo xanh mời đến thủy tinh
cung. Tại đó, ông thấy long vương ra nghênh tiếp,
cảm tạ đă cứu con trai. Sau khi bày tiệc đăi
đằng ba ngày, vua đem kỳ trân dị bảo biếu
tặng khi chia tay. Tôn chân nhân từ chối, chỉ xin một
bài thuốc. Long vương bèn tặng Ngọc Cấp Tam
Thập Lục Phương (ba mươi sáu bài thuốc
trong tráp ngọc). Từ đó, Tôn Chân Nhân y thuật lừng
lẫy trong cơi đời.
[109]
Đời Tống, Tống Giao và Tống Kỳ là hai anh
em. Khi họ c̣n đang học trong trường Thái Học,
có một vị cao tăng xem tướng, bảo Tống
Kỳ sẽ đỗ Trạng Nguyên khoa này, c̣n Tống
Giao tuy cũng đỗ, nhưng thứ hạng rất thấp.
Tống Giao ra đồng chơi, thấy có tổ kiến
bị gió mưa đánh vỡ, kiến chết đuối
vô số; ông
động ḷng thương, bắc cầu trúc cho kiến
ḅ lên chỗ ráo. Đến lúc thi cử, khi chưa yết
bảng, họ gặp lại vị cao tăng. Vị cao
tăng kinh ngạc bảo Tống Giao: “Lạ quá, tướng
mạo của ông thay đổi! Nhất định là có
âm đức đă cứu mấy trăm vạn sanh mạng”.
Nói qua nói lại, mới biết là do đă cứu đàn kiến.
Vị Tăng bảo: “Tống Kỳ vẫn là Trạng
Nguyên, nhưng do âm đức ấy, Tống Giao nhất
định chẳng thua em trai ḿnh”. Hỏi nữa, vị
Tăng không trả lời. Kết quả là khi duyệt kết
quả thi, Chương Hiến Thái Hậu thấy Tống
Giao và Tống Kỳ là anh em, Tống Kỳ được
chấm đậu Trạng Nguyên, liền bảo: “Em chẳng
thể ở trên anh được”. V́ thế, do Tống
Giao đỗ hạng mười, triều đ́nh chiều
theo lời Thái Hậu đổi Tống Kỳ thành đậu
hạng thứ mười một.
[110]
Theo Tấn Thư quyển sáu mươi mốt, Mao Bảo
là người sống vào đời Tây Tấn. Ông đă
mua lại một con rùa trắng sắp bị giết rồi
nuôi lớn. Sau đó, thả đi. Trong cuộc chiến ở
Châu Thành, quân ông bị chiến bại, Mao Bảo bị vây
ép, phải nhảy xuống sông, trước sau ǵ cũng
chết. Ông bỗng cảm thấy thân ḿnh nằm trên một
tảng đá, từ từ trôi ra xa, tránh được loạn
tiễn, thoát nạn. Khi
đến bờ, nh́n lại, th́ ra tảng đá ấy là
lưng con rùa trắng ông đă cứu mạng xưa kia.
[111]
Khổng Du làm quan chức vị rất nhỏ. Có lần
ông đi qua Dư Bất Đ́nh, thấy một con rùa
đen bị người khác bắt, động ḷng
thương xót, bèn mua
lại, đem thả xuống sông. Rùa đen nhiều lần
nhô đầu nh́n Khổng Du biểu lộ ư cảm tạ,
rồi mới lặn xuống. Về sau, Khổng Du
được phong làm Đ́nh Hầu của Dư Bất
Đ́nh. Ấn quan thuở ấy có khắc đầu rùa. Ấn
đúc ra, viên quan trông coi việc đúc ấn lấy làm lạ
v́ sao đầu rùa trên ấn lại nghểnh cổ nh́n lại.
Ông ta cho là ấn đúc sai, bèn phá hủy, đúc lại. Cả
hai lần đều là như vậy, khuôn đúc đă
đổi thành như vậy. Viên quan đúc ấn bèn kể
lại cho Khổng Du nghe. Khổng Du bỗng nhớ lại
chuyện cũ, mới nghĩ chức quan này nhất định
là quả báo tốt lành của chuyện thả rùa khi
trước.
[112]
Vào đời Tống, có một thôn xóm gọi là thôn Nguyên
Sanh, chuyên sống bằng nghề bắt cá. Trong xóm, có một
người tên là Khuất Sư, mua một cái ao cá, thả
đăng đó, tát ao bắt cá. Ông ta thấy có một cặp
cá chép lớn, tung ḿnh nhảy qua tấm đăng, đă
thoát ra, rồi lại nhảy vào, rồi lại nhảy
ra. Đă thoát ra rồi lại nhảy vào, rất nhiều
lần như thế. Ông ta ṃ đến gần xem, th́ ra trong đó có
đến mấy trăm con cá chép mới nở. Cặp cá
chép quẫy ḿnh tung đó để có kẽ hở cho cá con
thoát ra. Chúng va ḿnh vào đó nhiều lần đến nỗi
ḿnh mẩy đẫm máu. Khuất Sư hết sức cảm
khái, bèn tháo tấm đăng,
thả hết cá con. Vài năm sau, Khuất Sư bị bệnh
nặng, hồn đến cơi âm. Diêm vương phán: “Do âm
đức cứu cá, tăng thọ một kỷ (mười
hai năm)”.
[113]
Có một người thợ làm rượu thấy một
con ruồi sa vào ṿ rượu, sắp chết đuối,
bèn vớt nó ra, để nơi khô ráo. Lại rải một
ít tro, để làm khô bọt nước trên ḿnh nó. Ông ta cứu
rất nhiều con ruồi như vậy. Về sau, người
ấy bị kẻ khác vu cáo trộm cướp, oan t́nh chẳng
thể biện giải. Khi viên quan thẩm vấn cất
bút viết án từ phán tội tử h́nh, bỗng ruồi
đậu kín ng̣i bút, đuổi không được. Bỏ
bút xuống th́ thôi, chứ cầm bút lên, ruồi lại bu
vào, chẳng có cách nào viết bản án. Phán quan cho là ắt
có oan t́nh, bèn xin thượng quan cho phép tái thẩm, mới
biết người ấy bị vu cáo, bèn xóa án.
[114]
Có một bà chủ sai đứa tớ gái chuyên nấu
nướng trong bếp làm thịt một con ba ba để
nấu canh bổ huyết. Nhận biết chính ḿnh đă
ra tay giết hại quá
nhiều, cô tớ gái cảm thấy áy náy, bèn lén thả con ba
ba đi, cam chịu chủ nhân nổi cáu, đánh đập
tàn nhẫn. Về sau, vùng ấy bị bệnh dịch nặng,
cô tớ ấy bị nhiễm
bệnh, sốt cao, sắp chết. Chủ
nhân sợ cô ta chết trong nhà, sai gia nhân vứt cô ta ra cạnh
ao nước ngoài nhà. Cô ta nằm thoi thóp tại đó,
đến nửa đêm, có một con ba ba từ dưới
ao ḅ lên, ḿnh mẩy lấm lem bùn đất, ḅ chung quanh,
trát bùn khắp thân cô ta. Cơn sốt bèn hạ. Sáng hôm sau, bệnh dịch
khỏi hẳn.
[115]
Có một người họ Trương giữ chức
Đề H́nh, đi ngang qua nhà một gă đồ tể,
bèn dùng tiền mua lại con vật sắp bị giết,
đem thả. Khi lâm chung, ông ta bảo người nhà: “Ta
do phóng sanh, tích đức sâu dầy, nay thiên cung đến
nghênh tiếp, ta sẽ sanh lên trời”.
[116]
Lư Cảnh Văn tánh rất từ bi, trông thấy ghe bắt
cá bắt được rất nhiều cá, bèn vét hết
tiền mua lại đem phóng sanh. Do ḷng từ bi ấy, hễ ông gặp cảnh
hiểm nạn như bệnh ngặt, hoặc tai nạn bất kỳ
đều được thoát khỏi. Đan sa là oxide thủy
ngân, thường được dùng làm thuốc với tên
gọi là Châu Sa.
[117]
Nguyên văn là “bốc táng” (卜葬),
tức là xem Phong Thủy Địa Lư để t́m huyệt
an táng tốt. Tôn Lương Tự nhà nghèo, thường cứu
vớt loài chim bị mắc bẫy. Về sau, ông ta chết,
do con cháu quá nghèo, không có tiền mai táng, đem vùi tạm
ngoài đồng. Bỗng có mấy ngàn con chim bay tới, mỏ
ngậm bùn đất, phủ lên thân Lương Tự, chẳng
đầy một ngày, đă trở thành một nấm mộ
to.
[118]
Phan Hoa làm huyện lệnh huyện Chư Ky (thuộc tỉnh
Chiết Giang), là một Phật tử thuần thành. Khi trấn
nhậm huyện ấy, ông ra lệnh cả huyện không
được đánh bắt cá trên sông, hồ. Khi ông sắp
rời nhiệm sở, trong sông, hồ cả huyện bỗng
phát ra âm thanh than khóc ầm ĩ một hồi lâu, giống
như tiếng con cái bị mất cha mẹ vậy.
[119]
Đạo Tín ở đây chính là đệ tứ tổ của
Thiền Tông Trung Hoa. Trong thời Ngài, có lần nơi Ngài ở
bị hạn hán rất nặng, đói kém dữ dội.
Dân chúng hoảng sợ, bàn nhau mua các con vật tính đem giết
để tế thần cầu mưa. Tổ bảo họ
phải làm phước, đừng tạo nghiệp, khuyên
họ hăy tha cho các con vật ấy, Ngài sẽ đích thân
đứng ra cầu mưa. Tổ bèn triệu tập
tăng chúng lập hương án đơn sơ, thanh khiết,
tụng kinh Lăng Già và Bát Nhă. Quả nhiên một tuần
sau, mưa tuôn như trút.
[120]
Theo Phóng Sanh Văn Đồ Thuyết, xưa kia có một
gă đạo sĩ tâm thuật bất chánh, không lo tu hành, chỉ
lo trí trá, dối gạt kiếm lợi. Hắn nghe nói
ăn củ hoàng tinh sẽ có thể trường thọ, bèn bỏ thật
nhiều hoàng tinh xuống một cái giếng cạn, lừa
gạt dụ dỗ để đẩy một người
xuống đó, rồi dùng nắp đá đậy kín giếng.
Người ấy biết là bị lừa, hết sức
hoảng hốt, không biết làm sao. Bỗng có một con
cáo xuất hiện, nói nó là hồ tiên, do từng được
người ấy cứu mạng trước kia, nay để báo ân,
nó sẽ truyền tiên thuật phi thăng. Người ấy
nghe theo, tu tập. Sau bốn tuần, quả nhiên người
ấy phi thăng, bay thoát
khỏi giếng. Gă đạo sĩ mừng quá, mang hoàng
tinh vào giếng, dặn người nhà đậy lại
thật chặt. Nửa tháng sau, mở ra coi, họ thấy
xác gă teo đét v́ chết đói!
[121]
Xưa kia có một vị Tăng thấy có người bắt
mấy con rết, dùng tre căng uốn thân chúng cong ṿng lại
như đồ trang sức. Vị xuất gia bèn xin mua hết,
đem phóng sanh. Chúng đă chết gần hết, chỉ
c̣n một con sống sót. Về sau, vị xuất gia ấy đang
tĩnh tọa cùng với một vị sư khác ở
chùa, trên vách vôi trắng,
bỗng có con rết ḅ ra. Sư dùng khối gỗ gơ vào
tường đuổi nó đi, nhưng nó vẫn không
đi. Cuối cùng, Sư nhớ ra hỏi: “Có phải
ngươi là con rết đă được thả, muốn
đến cảm tạ đó chăng? Nếu phải, hăy
nghe ta thuyết pháp: Lắng nghe! Hết thảy hữu t́nh
chỉ do tâm tạo. Nếu tâm tàn ác, sẽ thành hổ lang.
Nếu tâm độc địa, sẽ thành độc
trùng. Ngươi trừ hết độc, sẽ thoát thân
này”. Con rết nghe xong, gục gặc đầu, ḅ đi.
Vào
năm Vạn Lịch thứ chín đời Minh Thần
Tông, tại Hàng Châu có một người
họ Vu. Một hôm, người hàng xóm của người
họ Vu bị cướp. Họ Vu có một đứa
con gái đă gả chồng. Cô ta nghe tin bèn vội về
thăm nhà, tiện tay xách theo mười con lươn để làm lễ vật. Họ
Vu đem chúng thả
hết vào trong lu nước sau nhà, rồi quên khuấy. Có
một hôm, bà Vu mộng thấy mười người mặc
áo vàng, đội mũ chóp nhọn, quỳ gối, buồn bă, thống thiết
van xin cứu mạng. Tỉnh giấc, bà đi coi bói, thầy
bói nói: “Ắt là trong nhà bà có sanh mạng nào xin được
phóng sanh”. Trở về, bà t́m khắp trong nhà, chỉ thấy
trong lu có đúng mười con lươn bụng vàng, chắc
là bọn người mặc áo vàng xin cứu mạng trong
mộng, bèn đem chúng thả
hết trong sông.
[122]
Trong bản chú giải của Phóng Sanh Văn, có giải
thích: Nói tiền tài không kiên cố là v́ nó sẽ bị
nước nhấn ch́m, hoặc lửa đốt rụi,
bị cướp bóc hay mất mát v́ chiến tranh, bị
trộm cướp tước đoạt, bị con cháu
không ra ǵ phung phí tan nát, bị quan lại, vua chúa tịch
thu.
[123] Chân Tây Sơn tên thật
là Chân Đức Tú (1178-1235), tự là Cảnh Nguyên, hiệu
Tây Sơn, thụy hiệu Văn Trung, là người xứ
Phổ Thành, tỉnh Phước Kiến. Ông là một vị
quan nổi danh thời Nam Tống, thuộc trường
phái Lư Học của Châu Hy. Ông thông minh, học rộng, sách
đọc qua một lượt đă ghi nhớ, nắm
được điều cốt yếu. Ông từng
được bổ làm Thái Học Bác Sĩ, chuyên giảng
sách cho vua nghe. Về sau, do mâu thuẫn với Sử Di Niên,
bị hắn gièm siểm, đổi đi làm An Phủ Sứ
Hồ Nam kiêm tri phủ Đàm Châu. Đến thời Tống
Lư Tông, ông được triệu về kinh giữ chức
Trung Thư Xá Nhân rồi thăng làm Lễ Bộ Thị
Lang. Không chịu nổi sự chuyên quyền của Sử
Di Viễn, ông lại từ quan. Sau khi Sử Di Niên thất
thế, ông lại được vời ra làm quan, lần
lượt làm Hộ Bộ Thượng Thư, Hàn Lâm Học
Sĩ Tri Cáo Chế, Tham Tri Chánh Sự. Khi ông trông coi Tuyền
Châu, vùng này bị hạn hán lớn, nghe lời khuyên của
thuộc hạ, ông đến cầu mưa tại miếu
thờ Thanh Thủy Tổ Sư, quả nhiên mưa to. Do miếu
thờ của vị thần ấy đă có biển đề
chữ Chân Nhân, ông cho hạ xuống, sửa thành Chân Chân
Nhân (vị Chân Nhân thật sự) nhằm cảm tạ thần
ân. Ngoài những tác phẩm Tây Sơn Giáp Ất Cảo, Đại
Học Diễn Nghĩa, Tây Sơn Tiên Sinh Chân Văn Trung Công
Văn Tập, rất nhiều tác phẩm thi từ của
ông được người đương thời đánh
giá rất cao.
[124]
Tam Biên (三邊)
là
ba tỉnh thuộc vùng biên cương của Trung Hoa, tức
là Thiểm Tây, Cam Túc và Ninh Hạ.
[125]
Nghiêm Tung là một gă gian thần cùng hung cực ác thời
Minh Thế Tông (Gia Tĩnh) nhà Minh. Minh Thế Tông mê man Đạo
giáo, chuyên lo tu tiên để cầu trường sanh, không
màng đến chánh sự. Việc triều chánh phó mặc cho bọn quyền thần lo
liệu. Lúc bấy giờ, Lễ Bộ Thượng
Thư Hạ Ngôn được vua tin cậy, Nghiêm Tung bèn
ve văn nịnh bợ Hạ Ngôn. Có lần Nghiêm Tung (lúc đó
đang làm Lại Bộ Tả Thị Lang) mở tiệc mời
Hạ Ngôn. Hạ Ngôn từ chối không đến, thế
là Nghiêm Tung chạy đến trước
cửa nhà Hạ Ngôn, thắt chặt vạt áo, quỳ
mọp trước cửa khẩn khoản thỉnh cầu. Hạ
Ngôn không tiện từ chối, phải
đến dự. Từ đó, Hạ Ngôn coi Nghiêm Tung
như tri kỷ, hết sức nâng đỡ Nghiêm Tung. Do hắn
khéo ve văn, đón ư vua, dần dần vua rất mực tin
dùng Nghiêm Tung. Do Hạ Ngôn tánh t́nh tự cao, nhà vua dần dần
không ưa Hạ Ngôn. Nghiêm Tung được thăng làm
Thái Tử Thái Phó, thừa cơ
nhiều lượt sàm tấu khiến
vua nghi kỵ, băi chức Hạ Ngôn. Về sau, vua lại gọi
Hạ Ngôn ra làm quan. Nghiêm Tung vẫn ngấm ngầm t́m cách
làm hại. Năm 1554, quân Thát Đát chiếm vùng Hà Sáo, Tổng
Đốc tỉnh Thiểm Tây là Tăng Tiễn
phát binh chiếm lại Hà Sáo, dâng sớ xin tái thiết vùng
này, tái lập trị an, phát triển thủy lợi. Những
biện pháp ấy được Hạ Ngôn tán thành. Nghiêm
Tung lập tức cấu kết với biên tướng Cừu
Loan vu cáo Tăng Tiễn thất bại mà báo công giả, vu
cáo Hạ Ngôn lợi dụng quyền chức kiếm lợi.
Tăng Tiễn bị giết, Hạ Ngôn bị tù rồi bị xử tử.
Nghiêm Tung độc quyền thao túng triều chánh, trở
thành Nội Các Thủ Phụ (Tể Tướng), cùng với
con trai là Nghiêm Thế Phiên khuynh đảo nhà Minh suốt
hai mươi hai năm. Về sau, có một tay đạo
sĩ trứ danh là Lam Đạo Hành giỏi cầu cơ,
vua rất tin cậy. Một hôm, đang lúc cầu cơ,
Lam Đạo Hành nói:
“Ngày nay có gian thần phụng sự”, nhằm đúng lúc
Nghiêm Tung vừa đi
qua. Vua âm thầm lập kế tước đoạt vây
cánh của hắn, xử tử Nghiêm Thế Phiên, tịch
biên gia sản của cha con họ Nghiêm, và đuổi Nghiêm
Tung về quê. Trắng tay, không ai chứa chấp, Nghiêm Tung
phải ẩn náu nơi g̣ mả, lượm lặt đồ
cúng thừa để sống qua ngày. Hai năm sau, hắn bị bệnh
chết, không ai ngó ngàng. Khi
chết, hắn không có quan tài để chôn!
[126]
Quân (軍) là một đơn vị
hành chánh đời Tống. Nhà Tống chia cả nước
thành mười tám lộ. Mỗi lộ lại chia thành
châu, phủ, quân và giám.
[127]
V́ Giáp nghĩ ḿnh sẽ không được
tuyển mà vẫn phải biếu quan huyện năm
mươi lượng, hắn muốn bắt Ất phải
bù một nửa, nên nói là “chia đều”. Nào ngờ Giáp
được tuyển, cho nên ngoài số tiền biếu
quan huyện năm mươi lượng, hắn phải
bù thêm cho Ất hai mươi lăm lượng để
biếu quan Tư Lư.
[128]
Chương Tŕ là con trai thứ hai của Chương
Đôn. Chương Đôn là một nhân vật từng nắm
quyền Tể Tướng thời Tô Đông Pha. Ông ta học
rộng, giỏi văn chương, tận lực chủ
trương cải cách, nhưng không hợp ư Vương
An Thạch. Do đối nghịch với Tư Mă Quang, ông
tranh căi với Tuyên Nhân Thái Hậu không nể nang, nên bị
đày đi làm tri phủ Nhữ Châu. Dưới thời Tống
Triết Tông, ông lại được vua trọng dụng,
trở thành Tể Tướng, cực lực triệt hạ
những người chống đối. Tô Đông Pha bị
đày đi Hoàng Châu là do lệnh của Chương
Đôn.
[129]
“Điểm huyệt” ở đây
là một thuật ngữ trong Địa Lư. Sau khi xác định một cuộc đất
có thể có huyệt mộ tốt, người xem
Phong Thủy sẽ xét
xem long mạch
vượng hay suy
như thế nào bằng cách cắm kim và ghim những cành cây
tươi xuống đó
để
phân định phương vị. Đến hôm sau, sẽ
xem xét mức độ tươi héo của những nhánh cây để
đoán định khí của long mạch.
[130]
Hoàng Giáp là đỗ Tiến Sĩ Cập Đệ.
[131]
Bàn Sơn Ngữ Lục là tác phẩm do môn nhân của đạo
sĩ Vương Chí Cần thuộc Toàn Chân Giáo biên soạn
dựa trên những lời dạy của thầy. Những
lời dạy của ông Vương chủ yếu nói về
cách luyện đan, luyện tâm tu tánh theo Đạo giáo, dựa
trên tư tưởng trong
bộ Thanh Tịnh Kinh của Đạo giáo và Tâm Tánh Luận
của Thiền Tông.
[132]
Nguyên văn là “thôi điệt”
(衰絰). “Thôi” là tấm vải bằng sợi gai hoặc vải
sô, dài sáu tấc, rộng
bốn tấc, đính nơi ngực áo tang. V́ thế, cái
áo tang ấy gọi là Thôi Y. Điệt là cái khăn dùng sợi
gai hoặc cỏ vấn thành rế đội lên đầu.
Thông thường, kiểu tang phục này dành cho con trai hoặc
cháu nội của người đă mất.
[133]
Đài Phụ là chức vị thuộc bậc Tam Công.
[134]
Hư Tĩnh Chân Nhân tên thật là
Trương Kế Tiên (1092-1127), tự là Gia Văn, hiệu
là Tiêu Nhiên Tử, là một đạo sĩ lừng danh thời
Bắc Tống, giữ chức vị Thiên Sư đời
thứ ba mươi của hệ phái Chánh Nhất (con cháu
trực hệ của Trương Đạo Lăng). Ông
được Tống Huy Tông ban tặng ngự hiệu
Hư Tĩnh tiên sinh, nên Đạo Giáo thường gọi
ông là Hư Tĩnh Chân Nhân. Ông mất lúc ba mươi sáu tuổi,
Đạo giáo coi ông đă đăng tiên. V́ thế, đến
đời Nguyên, ông được vua sắc phong tước
hiệu Hư Tĩnh Huyền Thông Hoằng Ngộ Chân Quân.
Sinh tiền, tuy được nhà Tống hết sức trọng
vọng, được ban ấn ngọc khắc Dương
B́nh Trị Đô Công Ấn, có quyền thống lănh đạo
sĩ toàn quốc, Tông Huy Tông bốn lượt thỉnh ông
vào cung làm pháp hội và giảng đạo, nhưng hễ xong
việc là ông xin về núi ẩn dật tu hành, không xu phụ,
a dua lấy ḷng bọn quyền thần,