37. Như Bần Đắc Bảo (如
貧 得 寶: Như kẻ nghèo được của báu)
Trong phẩm trước, đức Phật nói đến
những điều ác khổ để chiết phục
chúng sanh, khuyên răn chúng sanh bỏ ác; trong phẩm này,
đức Phật nói đến những nhân quả lành
để nhiếp thọ chúng sanh, khuyên lơn họ tinh tấn
đi theo đường lành, dứt bỏ ác hạnh nhằm
“nhổ dứt cái khổ sanh tử”,
“đạt sự an vui vô vi”.
Chánh kinh:
汝 等 廣 植 德 本,勿 犯 道 禁。忍 辱 精 進,慈 心 專 一。齋 戒 清 淨,一 日 一 夜,勝 在 無 量 壽 國 為 善 百 歲。所 以 者 何?彼 佛 國 土,皆 積 德 眾 善,無 毫 髮 之 惡。於 此 修 善,十 日 十 夜,勝 於 他 方 諸 佛 國 中,為 善 千 歲。所 以 者 何?他 方 佛 國,福 德 自 然,無 造 惡 之 地。唯 此 世 間,善 少 惡 多,飲 苦 食 毒,未 嘗 寧 息。
Nhữ đẳng quảng thực đức bổn,
vật phạm đạo cấm, nhẫn nhục, tinh tấn,
từ tâm chuyên nhất, trai giới thanh tịnh, nhất nhật
nhất dạ, thắng tại Vô Lượng Thọ quốc
vi thiện bách tuế. Sở
dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc độ, giai tích
đức chúng thiện, vô hào phát chi ác. Ư thử tu thiện,
thập nhật thập dạ, thắng ư tha
phương chư Phật quốc trung, vi thiện thiên tuế.
Sở dĩ giả hà? Tha phương Phật quốc,
phước đức tự nhiên, vô tạo ác chi địa.
Duy thử thế gian, thiện thiểu ác đa, ẩm khổ
thực độc, vị thường ninh tức.
Các ông rộng
trồng cội đức, đừng phạm đạo
cấm, nhẫn nhục, tinh tấn, từ tâm, chuyên nhất,
trai giới thanh tịnh trong một ngày một đêm th́
hơn cả làm việc thiện suốt trăm năm
nơi cơi Vô Lượng Thọ Phật. V́ cớ sao vậy?
Cơi nước Phật ấy đều là do các đức,
các sự lành tích tụ, không có mảy may điều ác nào.
Ở cơi [Sa Bà] này, tu thập thiện trong mười ngày
mười đêm hơn hẳn làm việc thiện suốt
một ngàn năm nơi các cơi Phật phương khác. V́ cớ
sao vậy? Các cơi Phật phương khác phước đức
tự nhiên, không có chỗ để tạo ác. Chỉ có thế
gian này thiện ít, ác nhiều, uống khổ, ăn độc,
chưa hề yên nghỉ.
Giải:
“Quảng thực đức
bổn” (Rộng trồng cội đức): Theo Hội
Sớ, chữ “đức bổn”
có hai nghĩa:
1. Lục Độ là gốc của hết thảy
công đức nên gọi là “đức bổn”.
2. Tuyển trạch bổn nguyện của Phật Di
Đà gộp thành quả đức sáu chữ hồng danh,
đầy đủ vạn đức; đấy chính là
gốc của mọi đức nên gọi là “đức bản”.
“Thực” (植) là vun bồi,
bồi dưỡng. Ngài Vọng Tây giảng “đạo cấm” là: “V́ Phật đạo cấm
ngăn các ác nên gọi là đạo cấm”. Bởi thế,
“bất phạm đạo cấm”
chính là Giới Độ trong Lục Độ. “Nhẫn nhục” là Nhẫn
Độ. “Tinh tấn” là Tấn
Độ.
Chữ “trai giới”
được ngài Vọng Tây giảng là: “Trai giới là Bát [Quan] Trai Giới nên mới bảo
là một ngày một đêm v.v…”
“Thắng tại Vô Lượng
Thọ quốc vi thiện bách tuế” (Hơn cả
làm lành suốt trăm năm nơi cơi Vô Lượng Thọ
Phật) là như trong pháp hội Văn Thù Sư Lợi Thọ
Kư của kinh Bảo Tích có nói: “Nhược
hữu chúng sanh ư bỉ Phật độ, ức bách
thiên tuế, tu chư phạm hạnh, bất như ư
thử Sa Bà thế giới, nhất đàn chỉ khoảnh,
ư chư chúng sanh khởi từ bi tâm, sở hoạch
công đức, thượng đa ư bỉ. Hà huống
năng ư nhất nhật, nhất dạ, trụ thanh tịnh
tâm” (Nếu có chúng sanh ở
trong cơi Phật ấy tu các phạm hạnh suốt cả ức
trăm ngàn năm vẫn chẳng bằng ở trong thế
giới Sa Bà này, chỉ trong khoảng thời gian khảy
ngón tay khởi tâm từ bi đối với chúng sanh. Công
đức người ấy đạt được
c̣n nhiều hơn thế nữa. Huống hồ là trong một
ngày một đêm trụ trong tâm thanh tịnh).
Kinh Tư Ích cũng dạy:
“Nhược nhân ư tịnh quốc, tŕ giới măn nhất
kiếp, thử độ tu du gian, hành từ vi tối thắng”
(Như người ở
cơi thanh tịnh tŕ giới suốt một kiếp; người
ở cơi này thực hành ḷng Từ trong khoảnh khắc vẫn
là tối thắng).
Kinh c̣n dạy: “Ngă kiến
Hỷ Lạc quốc, cập kiến An Lạc độ,
thử trung vô khổ năo, diệc vô khổ năo danh. Ư bỉ
tác công đức, vị túc dĩ vi kỳ! Ư thử phiền
năo xứ, năng nhẫn bất khả sự, diệc
giáo tha thử pháp, kỳ phước vi tối thắng” (Ta thấy trong những cơi Hỷ
Lạc và cơi An Lạc không có khổ năo, cũng không có danh từ
khổ năo. Trong những cơi ấy mà làm các công đức
th́ chẳng đáng kể là lạ. Ở chốn phiền
năo này mà nhẫn được sự chẳng thể nhẫn,
lại c̣n dạy người khác pháp này th́ phước ấy
mới là tối thắng).
Kinh Thiện Sanh cũng nói: “Di
Lặc xuất thời, bách niên thọ giới, bất
như ngă độ nhất nhất dạ, hà dĩ cố?
Ngă thời chúng sanh cụ ngũ chỉ cố. Thiện nam
tử! Thị bát trai giới tức thị trang nghiêm vô
thượng Bồ Đề chi lộ dă” (Lúc Di Lặc Phật xuất thế,
thọ giới suốt một trăm năm cũng chẳng
bằng [thọ giới] một ngày một đêm trong cơi
ta. V́ sao vậy? Trong thời của ta, chúng sanh có đủ
cả năm thứ nhơ bẩn. Này thiện nam tử!
Bát Trai Giới này chính là con đường dẫn tới
trang nghiêm vô thượng Bồ Đề).
Tôi trích dẫn nhiều đoạn kinh như trên nhằm
chứng minh rằng trong cơi này, ngay trong khoảng “ẩm khổ, thực độc,
vị thường ninh tức” (uống khổ, ăn
độc, chưa từng yên nghỉ) này mà hành nhân lại
có thể trai giới thanh tịnh, nhẫn nhục, tinh tấn
th́ công đức của người ấy vượt xa
những người khác trong các cơi Phật phương
khác. Trong cơi này, tu hành “nhất
nhật nhất dạ, thắng tại Vô Lượng Thọ
quốc vi thiện bách tuế… thập nhật, thập dạ,
thắng ư tha phương chư Phật quốc trung,
vi thiện thiên tuế” (một ngày một đêm hơn
cả làm lành suốt trăm năm trong cơi Vô Lượng
Thọ Phật… trong mười ngày mười đêm
hơn hẳn làm việc thiện suốt ngàn năm nơi
các cơi Phật phương khác). Ngài Vọng Tây bảo “ẩm khổ, thực độc”
là “uống nước bát khổ,
lại ăn ba độc vị”. “Ninh” (寜) là yên ổn,
“tức” (息) là thôi dứt.
Trong tác phẩm Vô Lượng Thọ Kinh Sao, ngài Vọng
Tây viết:
“Hỏi: Nếu tu hành tại
uế độ là thù thắng th́ cứ tu trong cơi này, sao lại
nguyện sanh về Tịnh Độ?
Đáp: Như sách Yếu Tập
viết: ‘Kinh này chỉ nói về sự tu hành khó hay dễ,
chứ chẳng giảng về thiện căn là thù thắng
hay hèn kém. Ví như kẻ nghèo hèn thí được một
tiền tuy đáng khen là hay, nhưng chẳng bao biện
được các việc. Kẻ phú quư bỏ ra ngàn vàng tuy
chẳng đáng gọi là hay, nhưng lại có thể hoàn
tất muôn sự. Việc tu hành
trong hai cơi cũng giống như thế’. Nếu muốn mau chóng hoàn thành
các việc thành Phật, lợi sanh th́ phải chuyên cầu
Tịnh Độ, lẽ nào lưu luyến uế độ,
chẳng thể thành tựu nổi Phật đạo”.
Lại nữa, theo ngài Cảnh Hưng, ở cơi này tu
trong một ngày đêm hơn hẳn làm lành cả trăm
năm nơi Tây phương là v́ “ở đây tu khó thành”. Ư nói: Trong cơi này, tấn tu
rất khó; do khó làm nổi nên coi là quư. C̣n như ở cơi
kia th́ chóng đắc Vô Thượng Bồ Đề do “trong cơi kia, không lúc nào chẳng
tu; c̣n cơi này lúc tu thiện lại ít nên [nói như vậy] chẳng
mâu thuẫn nhau”. Xét ra,
thuyết của ngài Cảnh Hưng càng thù thắng hơn
nữa.
Chánh kinh:
吾 哀 汝 等,苦 心 誨 喻,授 與 經 法。 悉 持 思 之,悉 奉 行 之。尊 卑、男 女、眷 屬、朋 友,轉 相 教 語,自 相 約 檢。和 順 義 理,歡 樂 慈 孝。所 作 如 犯,則 自 悔 過。去 惡 就 善,朝 聞 夕 改。奉 持 經 戒,如 貧 得 寶。 改 往 修 來,洒 心 易 行。自 然 感 降,所 願 輒 得。
Ngô ai nhữ đẳng, khổ
tâm hối dụ, thọ dữ kinh pháp, tất tŕ tư
chi, tất phụng hành chi. Tôn ty, nam nữ, quyến thuộc,
bằng hữu, chuyển tương giáo ngữ. Tự
tương ước kiểm, ḥa thuận nghĩa lư, hoan
lạc, từ hiếu. Sở tác như phạm, tắc tự
hối quá, khử ác, tựu thiện, triêu văn, tịch
cải, phụng tŕ kinh giới, như bần đắc bảo.
Cải văng tu lai, sái tâm, dịch hạnh, tự nhiên cảm
giáng, sở nguyện triếp đắc.
Ta thương xót các ông, khổ tâm khuyên dụ, trao cho
kinh pháp, [các ông] đều phải nên thọ tŕ, suy nghĩ
lấy, đều phải phụng hành. Tôn ty, nam nữ, quyến thuộc, bằng hữu
lần lượt dạy bảo nhau. Tự phải ước
thúc, ǵn giữ cho nhau, ḥa thuận nghĩa lư, hoan lạc, từ
hiếu. Nếu trót phạm lỗi liền tự hối lỗi,
bỏ ác, hướng về điều lành. Sáng nghe, chiều
đổi, phụng tŕ kinh giới như kẻ nghèo
được của báu. Sửa đổi quá khứ, tu
hành tương lai, rửa ḷng, đổi hạnh; tự
nhiên cảm giáng, sở nguyện ắt thỏa.
Giải:
Thế Tôn mấy lượt khuyên lơn, chỉ mong
đại chúng phụng tŕ kinh giới nên trong đoạn
này trước hết Phật bảo: “Thọ dữ kinh pháp” (Trao cho kinh pháp), khuyên bảo
chúng sanh thọ tŕ, tư duy, phụng hành đúng pháp. Sau
đấy, Phật lại khuyên “phụng
tŕ kinh giới như bần đắc bảo” (tuân phụng kinh giới như kẻ
nghèo được của báu).
Sách Hội Sớ giảng câu “ngô ai nhữ đẳng, khổ tâm hối
dụ” (ta thương
xót các ông khổ tâm khuyến dụ) như sau: “Ngô ai’ là Như Lai đại từ,
‘nhữ đẳng’ là căn cơ được đức
Phật rủ ḷng
thương. Năm thời giáo hóa, dạy cho bán giáo, măn
giáo nên bảo là khổ tâm hối
dụ”.
Ư nói: Như Lai đại từ thương xót các
căn cơ, rát miệng xót ḷng khai thị, dạy dỗ.
Năm thời thuyết pháp nhằm thích ứng các căn
cơ. Giáo pháp có bán (bán tự giáo) hay măn (măn tự giáo)
nhưng đều là tùy duyên độ thoát nên mới bảo
là “khổ tâm hối dụ, thọ
dữ kinh pháp”.
Phật lại dạy rằng: Đối với những
kinh pháp đă được nghe như thế, đều
phải nên “tŕ tư” (thọ
tŕ, suy nghĩ), “phụng hành”,
“chuyển tương giáo ngữ” (lần lượt dạy
bảo nhau). “Phụng” (奉) là tin kính, “hành” (行) là tu hành. Đó là
tự lợi. Đối với các thân hữu liền “chuyển tương giáo ngữ”
chính là lợi tha. “Nếu chẳng
thuyết pháp độ sanh th́ chẳng thể báo nổi Phật
ân”.
Tiếp đó, Phật lại khuyên “tự tương ước
kiểm, ḥa thuận nghĩa lư, hoan lạc, từ hiếu”
(tự ước kiểm lẫn
nhau, ḥa thuận nghĩa lư, hoan lạc, từ hiếu). “Ước kiểm” (約 檢) cũng giống như ước
liễm (約斂: bó buộc, kiểm soát), tức
là “đương tự
đoan tâm, đương tự đoan thân” (nên tự đoan chánh cái tâm, nên tự
đoan chánh cái thân). “Ḥa
thuận nghĩa lư” nghĩa là lời lẽ lẫn cử
chỉ đều vừa ḥa hợp với nghĩa, vừa
thuận với lư. Ḥa hợp với nghĩa th́ cử chỉ
thích đáng. Thuận theo lư th́ tự nhiên được
đúng chừng mực.
“Hoan” (歡) là hoan hỷ;
phần lớn cuối các kinh có câu “giai đại hoan hỷ” (đều hoan hỷ lớn). “Lạc” (樂) là an lạc.
Thế gian thường bảo “thượng
từ hạ hiếu”, kinh cũng nói: “Ngă ai nhữ đẳng thậm ư phụ mẫu
niệm tử” (Ta
thương xót các ông c̣n hơn cả cha mẹ nghĩ
đến con); đấy là đại từ. Chúng
sanh trong sáu đường đều là cha mẹ ta, thệ
nguyện cứu độ th́ là đại hiếu. Do
đại bi nên khiến cho khắp tất cả
được thoát khổ. Do đại từ nên khiến
cho tất cả được hưởng vui. Ấy
chính là đại hạnh của Bồ Tát, mà cũng chính
là ư nghĩa thật sự của “hoan lạc, từ hiếu”.
Thêm nữa, muốn “chuyển
tương giáo ngữ” (lần
lượt dạy bảo lẫn nhau) th́ trước hết
phải dùng Tứ Nhiếp để lôi cuốn chúng
sanh (Tứ Nhiếp là bố thí, ái ngữ, lợi hành và
đồng sự) cho nên “hoan lạc
từ hiếu” cũng chính là Tứ Nhiếp Pháp.
Từ câu “sở tác
như phạm” (hễ trót phạm
lỗi) cho đến “sái tâm, dịch
hạnh” (rửa ḷng,
đổi hạnh) đều khuyên phụng tŕ kinh giới. Phẩm này mang
tên “như bần đắc bảo”
(như kẻ nghèo được của báu) nên câu “phụng tŕ kinh giới như bần
đắc bảo” chính là câu cốt lơi của phẩm
này. Đức Thế Tôn tâm Từ đến tột bực
nên ban lời dạy như thế. Kẻ nghèo được
của báu ắt diệt ngay các khổ, bởi đó hoan hỷ,
vô ưu. Ở đây, Phật dùng của báu để sánh
ví diệu dụng của kinh giới.
Hơn nữa, kẻ nghèo một khi có được của
báu th́ sẽ coi như tánh mạng của chính ḿnh, sẽ
toàn lực ǵn giữ, chẳng để mất đi. Ở
đây, đức Phật khuyên hành nhân được lănh
thọ kinh giới th́ phải tự khéo vâng giữ như bảo
vệ đầu, mắt. Nếu lỡ khuyết phạm
th́ phải mau sám hối, thề chẳng tái phạm!
“Khử ác, tựu thiện…
cải văng tu lai” là bỏ những ác hạnh sai trái trong quá khứ,
tu thiện nghiệp đúng đắn trong hiện tại.
“Triêu văn, tịch cải” (sáng
nghe chiều đổi) là thuận theo việc thiện, biết
lỗi liền sửa đổi. “Sái tâm” (洒 心) chính là rửa
sạch cấu nhơ trong tâm. “Dịch
hạnh”: Dịch (易) là biến dịch (thay đổi),
nghĩa là dứt ác hướng thiện, bỏ tà theo
chánh, hồi Tiểu hướng Đại, bỏ cái hư ngụy,
giữ lấy cái chân thật. Được như thế th́
“tự nhiên cảm giáng, sở
nguyện triếp đắc”, nghĩa là: tự nhiên cảm
ứng, Phật lực ngầm gia hộ, có nguyện cầu
chi đều được viên măn.
Chánh kinh:
佛 所 行 處,國 邑 丘 聚,靡 不 蒙 化。天 下 和 順,日 月 清 明。風 雨 以 時,災 厲 不 起。國 豐 民 安,兵 戈 無 用。崇 德 興 仁,務 修 禮 讓。國 無 盜 賊,無 有 怨 枉。強 不 凌 弱,各 得 其 所。
Phật sở
hành xứ, quốc ấp khâu tụ, mỵ bất mông hóa. Thiên hạ ḥa thuận, nhật nguyệt
thanh minh, phong vũ dĩ thời, tai lệ bất khởi,
quốc phong dân an, binh qua vô dụng. Sùng
đức, hưng nhân, vụ tu lễ nhượng. Quốc
vô đạo tặc, vô hữu oan uổng, cường bất
lăng nhược, các đắc kỳ
sở.
Phật đi
đến đâu th́ mọi người trong các quốc
gia, thôn ấp, phường xóm, tụ lạc, không ai chẳng
được Ngài giáo hóa. Thiên hạ ḥa thuận, mặt
trời, mặt trăng sáng tỏ, mưa gió đúng thời,
tai ương, tật dịch chẳng khởi, nước
giàu, dân yên, vũ khí [trở thành] vô dụng. Đức được
tôn sùng, ḷng nhân mạnh mẽ, chăm tu lễ nghĩa, nhân
nhượng. Nước không trộm cướp, chẳng
có oan uổng, mạnh chẳng hiếp yếu, ai nấy
đều được yên vui.
Giải:
Đoạn kinh này nói lên từ đức vô lượng của
Phật.
Câu “Phật sở hành xứ”
chỉ những chỗ Phật đă từng đi đến,
mà cũng có nghĩa là những nơi Phật pháp lưu
truyền đến.
“Quốc” (國) là quốc gia,
“ấp” (邑) là làng mạc. Chữ
“khâu” (丘) có hai nghĩa:
Sách Hội Sớ bảo là núi g̣; sách Châu Lễ bảo: “Bốn ấp là một khâu”. Như
vậy, “khâu” có nghĩa là
nơi dân chúng tụ lại sanh sống. “Tụ” (聚) có nghĩa là thôn xóm.
Ngài Vọng Tây bảo: “Làng nhỏ
gọi là Tụ”.
“Quốc ấp
khâu tụ” (Quốc gia, thôn ấp, xóm phường, tụ
lạc) bất cứ nơi nào Phật đă đặt
chân đến th́ không ai là chẳng được nhận
lănh sự giáo hóa của Phật nên bảo là “mỵ bất mông hóa” (không ai chẳng được Ngài giáo hóa). Được nhận
lănh sự giáo hóa của Phật tất nhiên sẽ cảm ứng
được những điều tốt lành. Bởi thế,
“thiên hạ ḥa thuận” cho
đến “các đắc kỳ
sở” (ai nấy đều được sống
yên). “Thiên hạ ḥa thuận”
là thế giới ḥa b́nh, mọi xứ ḥa hiếu với
nhau.
“Nhật nguyệt thanh minh,
phong vũ dĩ thời” (Mặt trời, mặt trăng
sáng tỏ, mưa gió đúng thời) là mưa ḥa gió thuận,
không có các thiên tai như hạn hán, lũ lụt, gió băo,
mưa đá…
“Tai lệ bất khởi”: Tai (災) là tai họa, “lệ” (厲) là dịch lệ
(bệnh dịch) nghĩa là chẳng những không có các tai
vạ: núi lở, động đất, biển trào, đất
ch́m… các nạn: nước, lửa, đao binh, mà cũng chẳng
hề có các thứ ôn dịch lưu hành.
“Quốc phong dân an” là quốc gia
sung túc, sản xuất dồi dào, nhân dân an lạc.
“Binh qua vô dụng”: “Binh” (兵) là đao binh,
tức là những khí giới có mũi nhọn chế bằng
kim loại; “qua” (戈) là các loại
kích có mũi tù (không nhọn). Chữ “binh qua” thường được dùng để
chỉ chiến tranh. “Binh qua vô
dụng” nghĩa là trong nước không có giặc cướp,
phản nghịch; ngoài không bị nước khác xâm lấn
nên có thể dẹp vơ dụng văn, xếp vũ khí không
dùng đến nữa.
“Sùng đức hưng nhân”: Tôn sùng đạo
đức gọi là “sùng đức”;
phát triển chánh sách nhân từ th́ gọi là “hưng nhân”.
Sách Hội Sớ giảng chữ “vụ tu lễ nhượng” (chăm tu lễ
nhượng) là: “Tôn ty có trật
tự là Lễ, nhường
nhịn người khác là Nhượng”. Nhượng (讓) c̣n nghĩa là
nhường bước, đưa cái tốt lành cho
người, chẳng giành lấy về ḿnh.
“Quốc vô đạo tặc”
là
nhân dân đều tuân theo lẽ phải, vâng giữ pháp luật
nên chẳng có trộm cướp.
“Vô hữu oan uổng” (Chẳng có oan
uổng) v́ kẻ nắm giữ chức vị th́ liêm minh
công chánh, xét kỹ từng chi tiết nên chẳng phán án lầm.
“Cường bất lăng
nhược, các đắc kỳ sở” (Mạnh chẳng
hiếp yếu, ai nấy đều được sống
yên vui): Ỷ mạnh hiếp yếu chính là nguồn cội
của mọi tai vạ trong thế gian. Nước hùng mạnh
cậy vào quân lực hiếp đáp nước nhược
tiểu, kẻ giàu cậy vào tiền của để bóc
lột người nghèo, kẻ nắm giữ quyền bính
thường dựa quyền thế để rúc rỉa
nhân dân; c̣n không th́ kẻ mạnh lại kết thành giặc
cướp bức hại người lương thiện.
Cậy đông hiếp đáp kẻ cô thế, cậy thế
khinh người, rúc rỉa máu xương người khác
để cốt ấm thân, tàn nước hại dân, không
c̣n ǵ tệ hơn thế nữa. Bởi thế, nguyện
“cường bất lăng
nhược” (mạnh chẳng
hiếp yếu), ai nấy “các
đắc kỳ sở” (ai
nấy đều được sống yên). Đây, kia
đều an, kẻ có người không chia sẻ cho nhau,
chung sống ḥa b́nh, nguyện thế giới đạt
đến đại đồng.
Phật đi đến đâu, chỗ đó đều
được hưởng những lợi ích như thế,
đủ thấy từ lực của Phật khó thể
suy nghĩ, khó bàn luận nổi!
Chánh kinh:
我 哀 汝 等,甚 於 父 母 念 子。我 於 此 世 作 佛,以 善 攻 惡,拔 生 死 之 苦。令 獲 五 德,升 無 為 之 安。吾 般 泥 洹,經 道 漸 滅。人 民 諂 偽,復 為 眾 惡。五 燒 五痛,久 後 轉 劇。汝 等 轉 相 教 誡,如 佛 經 法,無 得 犯 也。
Ngă ai nhữ
đẳng, thậm ư phụ mẫu niệm tử. Ngă ư thử thế tác Phật, dĩ
thiện công ác, bạt sanh tử chi khổ, linh hoạch
ngũ đức, thăng vô vi chi an. Ngô bát Nê Hoàn, kinh đạo
tiệm diệt, nhân dân siểm ngụy, phục vi chúng ác.
Ngũ thiêu, ngũ thống, cửu hậu
chuyển kịch. Nhữ đẳng chuyển tương
giáo giới, như Phật kinh pháp, vô đắc phạm
dă.
Ta thương
xót các ông c̣n hơn cha mẹ nghĩ đến con. Ta trong
đời này làm Phật, dùng cái thiện công kích cái ác, dẹp
tan cái khổ sanh tử, khiến cho [các ông] đạt
được năm đức, đạt niềm vui vô
vi. [Sau khi] ta bát Nê Hoàn, kinh đạo dần dần diệt
mất, nhân dân siểm ngụy lại làm các điều ác.
Năm sự đốt, năm sự khổ càng về sau
càng nặng thêm lên. Các ông phải lần lượt dạy
lẫn nhau [tu hành] đúng theo kinh pháp của Phật, trọn
chẳng được sai phạm.
Giải:
Trong đoạn này, do v́ Phật pháp sẽ dần dần
diệt mất, Ngũ Thiêu, Ngũ Thống sẽ chuyển
thành dữ dội hơn nên Phật lại răn dạy
chúng sanh hăy bỏ ác tu thiện, phụng tŕ kinh pháp.
Câu “thậm ư phụ mẫu niệm tử” (c̣n hơn cha mẹ
nghĩ đến con) được sách Hội Sớ giảng
như sau: “Cha mẹ chỉ hạn
cuộc trong một đời, c̣n Phật th́ vô lượng
kiếp. Cha mẹ chẳng b́nh đẳng, Phật
thường b́nh đẳng. Cha mẹ chán ghét đứa
con bất hiếu, Phật thương xót kẻ ác nghịch.
Cha mẹ nuôi dưỡng sắc thân, Phật trưởng
dưỡng nội tâm. V́ thế, bảo là ‘thậm ư’
(c̣n hơn)”.
Ư nói: Phật dùng ḷng đại từ b́nh đẳng
trong vô lượng kiếp nuôi dưỡng huệ mạng
của chúng ta, vượt xa khả năng của cha mẹ
nên bảo là “thậm ư phụ mẫu”.
Chữ “thử thế” (đời
này) chỉ đời ác ngũ trược. “Dĩ thiện công ác” (Dùng cái
thiện công kích cái ác): Phật thuyết pháp lành giáo hóa chúng
sanh, hàng phục những lỗi ác của họ để
tiêu trừ năm điều đau đớn, để
diệt năm sự đốt. Chữ “ác” chỉ năm sự ác.
“Ngũ đức” chính là năm
điều thiện. Làm cho chúng sanh hành năm điều
thiện, bỏ năm điều ác, quay lưng với trần
cảnh để trở về với giác ngộ, nhổ
tận gốc cội khổ sanh tử của hữu t́nh
để được sự thường lạc vô vi.
“Bát Nê Hoàn” nghĩa là “bát
Niết Bàn”, dịch nghĩa là “nhập diệt”, “viên tịch”.
Chánh pháp của Phật Thích Ca tồn tại năm trăm
năm, Tượng pháp một ngàn năm, Mạt pháp một
vạn năm. Khi cả ba thời gian này đă qua th́ gọi
“kinh pháp diệt tận”
như trong kinh Pháp Diệt Tận có nói kinh Thủ Lăng
Nghiêm diệt mất trước tiên, các kinh khác cũng dần
dần diệt mất. Vào lúc đó, “nhân dân siểm ngụy”. Siểm (諂) là xu nịnh,
cong quẹo, “ngụy” (僞) là dối trá.
Ḷng người dâm tà, giảo quyệt, dối trá nên “phục vi chúng ác” (lại làm
các điều ác). Bởi vậy, sự đau đớn,
sự thiêu đốt lại hừng hẫy nên bảo là “chuyển hậu tương kịch”
(càng về sau càng nặng thêm lên). Nghĩa là: Từ Chánh
pháp, Tượng pháp chuyển sang Mạt pháp, sự thiêu
đốt và sự đau đớn càng thêm thảm khốc,
càng lớn lao, càng dữ dội hơn. V́ thế Phật dạy
ngài Di Lặc cùng hết thảy hội chúng phải nên “chuyển tương giáo giới”
(lần lượt răn dạy nhau) tin nhận, phụng
hành kinh pháp của Phật, chẳng được sai phạm!
Chánh kinh:
彌 勒 菩 薩,合 掌 白 言:世 人 惡 苦,如 是 如 是。佛 皆 慈 哀,悉 度 脫 之。受 佛 重 誨,不 敢 違 失。
Di Lặc Bồ Tát hiệp
chưởng bạch ngôn: - Thế nhân ác khổ, như thị,
như thị. Phật giai từ ai, tất độ thoát
chi, thọ Phật trọng hối, bất cảm vi thất.
Di Lặc Bồ
Tát chắp tay bạch Phật: - Người đời ác khổ đúng là
như vậy, đúng là như vậy. Phật đều
thương xót họ, độ thoát tất cả. Con vâng
lănh lời răn dạy ân cần của Phật, chẳng
dám sai sót.
Giải:
Di Lặc đại sĩ kính cẩn nhận lănh lời
răn dạy của Phật nên chắp tay kính tạ, khen
ngợi Như Lai: Người đời ác khổ thật
sâu như thế. Đức Phật ḷng từ bi vô lượng,
đối với những kẻ hung ác cùng cực như
thế dùng ḷng đại từ b́nh đẳng “tất độ thoát chi”
(đều độ thoát). Di Lặc đại sĩ chính
là đương cơ trong hàng Bồ Tát của kinh này nên
Ngài hiểu được chỗ bí yếu của bản
kinh, liền nói: “Tất độ
thoát chi”.
Phẩm Quyết Chứng Cực Quả của kinh này
có câu: “Nhược hữu thiện
nam tử, thiện nữ nhân, nhược dĩ sanh,
nhược đương sanh, giai tất trụ ư
Chánh Định chi tụ, quyết định chứng
ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Nếu
có thiện nam tử, thiện nữ nhân hoặc là đă
sanh về, hoặc là sẽ sanh về th́ đều sẽ
trụ trong Chánh Định Tụ, quyết định chứng
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Nghĩa là: Người
hiện tại phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm
th́ tương lai sanh về Tây phương, nhưng ngay
trong lúc này đă thuộc vào Chánh Định Tụ.
Kinh A Di Đà cũng dạy: “Nhược
hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện,
đương phát nguyện, dục sanh A Di Đà Phật
quốc giả, thị chư nhân đẳng, giai đắc
bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề” (Nếu có kẻ
đă phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện
muốn sanh về cơi nước của A Di Đà Phật th́
những người ấy đều được bất
thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác) nghĩa là: Người hiện đang phát nguyện
văng sanh đều đă bất thoái chuyển nơi vô
thượng Bồ Đề. Bởi thế, ngài Di Lặc mới
thưa là “tất độ
thoát chi”.
Sách Di Đà Yếu Giải viết: “Chẳng luận là chí tâm, tán tâm, hữu tâm, vô tâm, hiểu
hay chẳng hiểu, chỉ cần danh hiệu của Phật
Di Đà, hoặc danh hiệu của sáu phương Phật
và tên kinh này một phen thoảng qua tai th́ dẫu cho ngàn vạn
kiếp sau, rốt ráo sẽ do đấy mà được
độ thoát. Giống như nghe tiếng cái trống có bôi thuốc độc
th́ xa hay gần đều chết cả. Ăn chút kim cang
quyết định chẳng tiêu vậy”. Đây cũng
chính là ư chỉ “tất độ
thoát chi”.
Sau cùng, Di Lặc đại sĩ lại bạch: “Thọ Phật trọng hối,
bất cảm vi thất” (Vâng lănh lời dạy
ân cần của Phật, chẳng dám sai sót). Ngài đă
đại diện cho hết thảy hàm linh trong hiện tại,
tương lai mà thưa lời ấy. V́ thế chúng ta ngày
nay đều phải như lời Đại Sĩ đă bạch:
“Bất cảm vi thất” (Chẳng dám sai sót).
Ông Bành Tế Thanh có nói: “Tịnh
Độ là cơi chí thiện. Cầu sanh Tịnh Độ là công phu
chí thiện. Chẳng thâm nhập pháp môn Tịnh Độ th́
chẳng thể viên măn nổi điều thiện, chẳng
thể diệt sạch điều ác”. V́ vậy, chúng ta
đều phải tuân lời Phật răn dạy, tín
nguyện tŕ danh cầu sanh Tịnh Độ.