6. Phát đại thệ nguyện (發 大 誓 願)
Trong phẩm
này, Pháp Tạng Bồ Tát tuân lời Phật dạy, đối
trước đại chúng tuyên thuyết đại nguyện
thù thắng do chính ḿnh đă phát. Đại thệ nguyện
này diệu đức khó lường như sách B́nh Giải
nhận định: “Bốn mươi tám nguyện
công đức thành tựu chỉ quy vào một Chánh Giác, tức
là Nam Mô A Di Đà Phật. Đấy gọi là hoằng thệ
bổn nguyện hải, cũng gọi là bi nguyện Nhất
Thừa. Đấy chính là công đức Chánh Giác của Di Đà vậy.
Công đức của Chánh Giác chẳng thể nghĩ bàn là
v́ thệ nguyện chẳng thể nghĩ bàn. Do vậy,
tác phẩm Hành Quyển dùng đến ba mươi sáu câu
để khen ngợi thệ nguyện chẳng thể
nghĩ bàn nhằm hiển dương công đức rộng
lớn của Chánh Giác. Sách viết: ‘Kính giăi bày cùng hết
thảy người văng sanh, biển hoằng thệ Nhất
Thừa là thành tựu vô ngại vô biên tối thắng thâm
diệu bất khả tư nghị chí đức (đức
cùng tột sâu mầu chẳng thể nghĩ bàn thù thắng
nhất). V́ sao thế? Do thệ nguyện chẳng thể
nghĩ bàn nên bi nguyện to lớn như hư không. Các diệu
công đức rộng lớn vô biên, ví như cỗ xe lớn...
cho đến như cơn gió lớn đi khắp thế gian chẳng bị
chướng ngại, vượt khỏi thành tam hữu
trói buộc, cho đến khai hiển phương tiện
tạng, thật đáng phụng tŕ, thật đáng cúi lạy,
nhận lấy vậy”.
Về phần
nguyện văn nhiều, ít, các bản dịch đều
sai khác. Hai bản Hán dịch và Ngô dịch cùng ghi hai
mươi bốn nguyện, c̣n ghi rơ: “Tiện kết đắc nhị
thập tứ nguyện kinh”
(liền kết được hai mươi
bốn nguyện). Bản Tống dịch chép ba mươi
sáu nguyện, hai bản Ngụy dịch và Đường dịch
chép bốn mươi tám nguyện, c̣n Hậu Xuất A Di
Đà Kệ có câu “thệ nhị
thập tứ chương” (thệ nguyện hai
mươi bốn chương). Như vậy, đa phần
các kinh nói có hai mươi bốn nguyện, nhưng do chỉ
có bản Ngụy dịch lưu hành rộng răi trong đời,
nên người đời chỉ biết đến bốn
mươi tám nguyện, ít người nghe nói tới hai
mươi bốn nguyện.
Tuy hai bản Hán dịch và Ngô dịch cùng chép hai mươi bốn nguyện,
nhưng nội dung các nguyện cũng chẳng giống
nhau. Nguyện thứ hai trong bản Ngô dịch là: “Sử mỗ tác Phật thời,
linh ngă quốc trung, vô hữu phụ nhân. Nữ nhân dục
lai sanh ngă quốc trung giả, tức tác nam tử. Chư
vô ương số thiên nhân dân, quyên phi nhuyễn động
chi loại, lai sanh ngă quốc giả, giai ư thất bảo
thủy tŕ, liên hoa trung hóa sanh trưởng đại, giai
tác Bồ Tát, A La Hán, đô vô ương số. Đắc
thị nguyện, năi tác Phật. Bất đắc thị
nguyện, chung bất tác Phật” (Khi tôi thành Phật, trong nước tôi không có
phụ nữ. Nữ nhân muốn sanh về nước tôi
liền biến thành nam tử. Vô ương số chư
thiên, nhân dân, các loài bay lượn, ngọ nguậy, ḅ
trườn sanh về nước tôi đều hóa sanh, lớn
khôn trong hoa sen nơi ao nước bảy báu, đều là
Bồ Tát. A La Hán và Bồ Tát đều vô ương số.
Thỏa nguyện ấy mới làm Phật. Chẳng thỏa
nguyện ấy, trọn chẳng làm Phật). Chỉ ḿnh bản này nói rơ
đại nguyện thù thắng “hóa
sanh trong hoa sen” và “cơi nước
không có nữ nhân”, bản Hán dịch không có. Các bản dịch
khác cũng không thấy đề cập đến. Do
đây, ta thấy rơ sự sai biệt giữa các bản dịch
rất lớn.
Hơn nữa, hai bản Hán dịch, Ngô dịch tuy cùng
nói hai mươi bốn nguyện,
nhưng thực ra nội dung của chúng chẳng phải
chỉ hạn cuộc trong hai mươi bốn nguyện. Cứ lấy
cái nguyện thứ hai trong bản Ngô dịch vừa nêu
trên đây để làm thí dụ th́ thật ra nguyện này
gồm các nguyện sau:
* Nước không có nữ nhân.
* Liên hoa hóa sanh
* Loài trùng ngọ nguậy, bay lượn, ḅ trườn
cũng được sanh, đều thành Bồ Tát, A La
Hán.
* Bồ Tát, A La Hán đều vô ương số.
Do đó,
tuy nói là hai mươi bốn nguyện nhưng thật sự
chẳng phải chỉ có hai mươi bốn nguyện.
Cứ theo ư câu kinh “thệ nhị
thập tứ chương” (thệ nguyện hai
mươi bốn chương) trong kinh Hậu Xuất A Di
Đà Phật Kệ, ta suy ra: Thệ
nguyện của A Di Đà Phật thật sự có đến
hai mươi bốn chương, chứ chẳng phải
chỉ có hai mươi bốn nguyện.
C̣n như
hai bản Đường dịch và Ngụy dịch tuy nói là bốn
mươi tám, nhưng thật chẳng đủ số bốn
mươi tám. Ví dụ: Nguyện thứ hai mươi chín
trong bản Ngụy dịch là: “Thiết
ngă đắc Phật, quốc trung Bồ Đề nhược
thọ, độc kinh pháp, phúng, tụng, tŕ, thuyết, nhi
bất đắc biện tài trí huệ giả, bất thủ
Chánh Giác” (Nếu như
tôi thành Phật, các Bồ Tát trong nước nếu đă
nhận, đọc kinh pháp, phúng, tụng, tŕ, nói, mà chẳng
được biện tài trí huệ, tôi chẳng lấy
ngôi Chánh Giác). Nguyện thứ ba mươi là: “Thiết ngă đắc Phật,
quốc trung Bồ Tát trí huệ biện tài, nhược khả
hạn lượng giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu như tôi thành Phật, trí huệ biện
tài của Bồ Tát trong nước tôi c̣n có hạn lượng
th́ chẳng lấy ngôi Chánh Giác). Rơ ràng, hai nguyện này chỉ
sai khác ở chỗ nói chi tiết hay đại lược
mà thôi. Nguyện thứ ba mươi chỉ bổ sung thêm
chi tiết cho nguyện thứ hai mươi chín. Nguyện
thứ hai mươi chín và ba mươi trong bản Đường
dịch cũng giống vậy. Nói cách khác, hai bản
Đường dịch và Ngụy dịch cùng thiếu các nguyện
“liên hoa hóa sanh” và “nước không có nữ nhân”.
Rơ ràng, bốn mươi tám nguyện nói trong bản Ngụy
dịch và Đường dịch cũng chưa bao gồm
đầy đủ tất cả các nguyện vậy.
Xét đến hai bản Ngô dịch và Hán dịch, chúng lại
bị khuyết đại nguyện căn bản bậc
nhất là nguyện “mười
niệm ắt văng sanh”. Như vậy, cả năm bản
dịch các đời Ngụy, Đường, Tống, Ngô,
Hán đều chưa phải là văn bản hoàn thiện
của kinh Vô Lượng Thọ. V́ vậy, việc hội
tập các bản dịch, chọn lấy những ưu
điểm của các bản để soạn riêng thành một
hội bản là điều không thể chần chừ
được nữa.
Do đấy,
cụ Hạ với đại nguyện hội tập các
bản dịch đă chú ư thấy các bản cổ dịch
đa phần nói đến hai mươi bốn nguyện
và thuận theo quan niệm phổ biến là có bốn
mươi tám nguyện, bèn chia nguyện văn thành hai
mươi bốn chương, gồm bốn mươi
tám đề mục. Cách phân định như vậy vừa
phù hợp câu kinh “thệ nguyện
hai mươi bốn chương” lại dung hợp
quan niệm bốn mươi tám nguyện. Bản hội
tập chọn lấy những ưu điểm của
các bản dịch, những nguyện trọng yếu
như “mười niệm văng
sanh”, “liên hoa hóa sanh”, “nước không nữ nhân”
đều được thấy ghi trong hội bản.
Cụ c̣n
khéo chọn lấy những điểm tinh yếu của
các nguyện, lời ít nhưng nghĩa nhiều. Chẳng hạn
như trong bản Ngụy dịch nguyện thứ ba
mươi tám là: “Thiết
ngă đắc Phật, quốc trung thiên nhân dục đắc
y phục, tùy niệm tức chí. Như Phật sở tán ứng
pháp diệu phục, tự nhiên tại thân. Hữu cầu
tài phùng đảo nhiễm tẩy trạc giả, bất
thủ Chánh Giác” (Ví như tôi thành Phật, trời, người
trong nước muốn có y phục, nghĩ đến liền
có, tự nhiên trên thân khoác áo tốt đẹp đúng theo
pháp như Phật đă khen ngợi. Nếu c̣n phải cắt,
may, đập, nhuộm, giặt giũ, chẳng lấy
ngôi Chánh Giác). Nguyện thứ
hai mươi bốn: “Thiết ngă đắc Phật,
quốc trung Bồ Tát tại chư Phật tiền, hiện
kỳ đức bổn, chư sở cầu dục cúng
dường chi cụ, nhược bất như ư giả,
bất thủ Chánh Giác” (Nếu
tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi khi ở
trước chư Phật hiển hiện cội đức
của ḿnh, nếu những vật họ muốn có để
cúng dường chẳng được như ư th́ chẳng
lấy ngôi Chánh Giác). Cả hai nguyện trên của bản
Ngụy dịch nói đến y phục và vật cúng
như ư, nhưng chẳng nói đến cơm ăn như
ư.
Nguyện hai
mươi ba của bản Hán dịch (nguyện thứ
hai mươi bốn trong bản
Ngô dịch) là: “Ngă tác Phật
thời, ngă quốc chư Bồ Tát dục phạn thời,
tắc thất bảo bát trung, sanh tự nhiên bách vị phạn
thực tại tiền. Thực dĩ, bát giai tự nhiên khứ.
Bất nhĩ giả, ngă bất tác Phật” (Lúc tôi thành Phật,
các Bồ Tát trong nước tôi lúc muốn ăn th́ tự
nhiên sanh ra cơm trăm vị trong bát bằng bảy báu hiện
ra trước mặt. Ăn xong, bát tự nhiên biến mất.
Nếu chẳng được như vậy, tôi chẳng
làm Phật). Do đây, ta càng thấy rơ bản Ngụy dịch
thật sự chẳng đủ bốn mươi tám nguyện.
Trong hội bản, cả ba nguyện này cùng được
tổng hợp lại như sau: “Ngă tác Phật thời, sanh ngă quốc giả,
sở nhu ẩm thực, y phục, chủng chủng cúng cụ,
tùy ư tức chí, vô bất măn nguyện” (Lúc tôi thành Phật,
người sanh trong nước tôi: thức ăn, y phục,
các thứ vật cúng cần dùng đều tùy ư hiện
đến, không chi chẳng được măn nguyện). Hiển nhiên, hội bản
văn ngắn gọn, ư nghĩa súc tích, các nguyện thù thắng
của Phật Di Đà ghi trong các bản dịch đă
được nêu đủ không c̣n sót. V́ vậy, hội bản
này được các bậc hiền đức cận
đại công nhận là bản hoàn thiện nhất th́
cũng là điều rất hợp lư vậy.
Chánh kinh:
法 藏 白 言:唯 願 世 尊,大 慈 聽 察。
Pháp Tạng
bạch ngôn: - Duy nguyện Thế Tôn, đại từ
thính sát.
Pháp Tạng bạch
rằng: - Kính xin đức Thế Tôn đại từ
nghe, xét.
Giải:
“Thính” (聽) là tai nghe, “sát” (察) là trong tâm suy xét. Sách Hội Sớ giảng: “Như Lai nghe ông ta tŕnh bày, soi xét
tấm ḷng son nên bảo là thính sát (nghe, xét)”. Như vậy,
câu kinh trên có nghĩa là: Pháp Tạng Bồ Tát thỉnh cầu
Thế Tôn rủ ḷng Từ thương xót ḿnh, nghe lời
ḿnh thưa, soi xét tấm ḷng thành của ḿnh. Tiếp theo
đó, Pháp Tạng tŕnh bày những đại nguyện ḿnh
đă phát.
Chánh kinh:
我 若 證 得 無 上 菩 提,成 正 覺 已,所 居 佛 剎,具 足 無 量 不 可 思 議 功 德 莊 嚴。無 有 地 獄、餓 鬼、禽 獸、蜎 飛 蠕 動 之 類。所 有 一 切 眾 生,以 及 焰 摩 羅 界,三 惡 道 中,來 生 我 剎,受 我 法 化,悉 成 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩 提,不 復 更 墮 惡 趣。得 是 願,乃 作 佛,不 得 是 願,不 取 無 上 正 覺。
Ngă nhược
chứng đắc vô thượng Bồ Đề, thành
Chánh Giác dĩ, sở cư Phật sát, cụ túc vô lượng
bất khả tư nghị công đức trang nghiêm, vô hữu
địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, quyên phi nhuyễn
động chi loại. Sở
hữu nhất thiết chúng sanh, dĩ cập Diễm Ma La
giới, tam ác đạo trung, lai sanh ngă sát, thọ ngă pháp
hóa, tất thành A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề,
bất phục cánh đọa ác thú. Đắc thị nguyện,
năi tác Phật. Bất đắc thị nguyện, bất
thủ vô thượng Chánh Giác .
Nếu tôi chứng
được Vô Thượng Bồ Đề, thành Chánh Giác rồi
th́ cơi nước tôi ở sẽ đầy đủ vô
lượng công đức trang nghiêm chẳng thể
nghĩ bàn, không có địa ngục, ngạ quỷ, cầm
thú, các loài ngọ nguậy, bay lượn, ḅ trườn.
Tất cả hết thảy chúng sanh cho đến những
kẻ từ trong cơi Diễm Ma La, trong ba đường ác
sanh sang cơi tôi, nhận pháp hóa của tôi ắt thành Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, chẳng đọa vào đường
ác nữa. Nguyện được như thế mới
làm Phật. Chẳng thỏa nguyện ấy, chẳng giữ
lấy vô thượng Chánh Giác.
(Nguyện thứ nhất:
Cơi nước không có ác đạo. Nguyện thứ hai: Chẳng
đọa đường ác)
Giải:
Bốn câu đầu bao trùm các đại nguyện:
Nguyện lúc tôi thành Phật, cơi nước tôi ngự có
đầy đủ vô lượng (không thể dùng số
lượng nào biểu thị nổi) công đức thắng
diệu, đầy đủ vô lượng thanh tịnh
trang nghiêm. “Cụ túc” (đầy
đủ) là viên măn, chứa đựng trọn vẹn,
không khuyết, không sót, nên bảo là “cụ túc”. Những công đức trang nghiêm đầy
đủ ấy đều chẳng thể nghĩ bàn: siêu
t́nh ly kiến, chẳng thể suy lường, phân biệt
mà biết được nổi, chẳng thể dùng ngôn
ngữ, văn tự diễn tả nổi, nên bảo là “bất khả tư nghị” (chẳng
thể nghĩ bàn).
Chỉ ḿnh kinh Hoa Nghiêm nói đến cảnh giới chẳng
thể nghĩ bàn: sự sự vô ngại, một tức
là nhiều, nhiều tức là một, lớn nhỏ dung chứa
lẫn nhau, rộng hẹp tự tại, kéo dài hay rút gọn
cùng một lúc, trùng trùng vô tận, viên minh cụ đức
v.v... Nói đầy đủ là mười huyền môn như
trong phần Phán Giáo đă tŕnh bày sơ lược. Trong
kinh này, A Di Đà Phật chính là Tỳ
Lô Giá Na Như Lai, Cực Lạc Tịnh Độ nào khác Hoa Tạng
thế giới. Toàn thể y báo, chánh báo cơi Cực Lạc
là cảnh giới sự sự vô ngại chẳng thể
nghĩ bàn, thứ nào cũng đầy đủ trọn
vẹn vô tận huyền môn, nên nói: “Cụ túc vô lượng bất khả tư nghị
công đức trang nghiêm” (Đầy đủ vô lượng
công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn). Do
đầy đủ vô lượng công đức chẳng
thể nghĩ bàn nên có thể khiến cho chúng sanh nghe tên
được phước, nghe danh hiệu phát tâm, mười
niệm ắt được văng sanh, mau chứng ngôi Bất
Thoái.
Cũng do đầy đủ vô lượng công đức
chẳng thể nghĩ bàn nên vạn vật nghiêm tịnh,
vi diệu đến cùng cực, sáng láng như
gương, chiếu tột cùng mười phương.
Được quang minh chiếu đến liền an lạc,
cấu diệt, thiện sanh; mùi hương xông khắp,
chúng sanh trong mười phương thế giới ngửi
thấy đều tu Phật hạnh; thấy cây Bồ Đề,
chứng Vô Sanh Nhẫn. Thế giới Cực Lạc hiển
hiện đẹp đẽ, mỗi hạt bụi, mỗi
sợi lông đều viên minh cụ đức.
V́ vậy, bốn câu này được đặt ở
đầu lời nguyện để biểu thị: Không
nguyện nào trong các nguyện sẽ được tŕnh bày
dưới đây lại chẳng giống như vậy.
Mỗi một nguyện đều v́ chúng sanh, mỗi một
nguyện đều hiển hiện bổn tâm diệu minh
của Phật Di Đà, mỗi một sự tướng
đều là thanh tịnh cú, đều là “chân thật trí
huệ vô vi Pháp Thân”.
Đoạn văn kế tiếp nói rơ: Trong nước tôi
không có ba ác đạo địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh (trong kinh thường lấy “cầm thú, các loài ngọ
nguậy, bay lượn, ḅ trườn” để biểu
thị súc sanh).
“Địa ngục” là tiếng Hán,
tiếng Phạn là Na-lạc-ca (Naraka) hay Nê-lê (Nairya) v.v...
Sách Đại Nhiếp Luận Âm Nghĩa nói: “Dịch ra, Nê Lê có bốn nghĩa: Chẳng thể
vui sướng nổi, chẳng thể cứu vớt nổi,
tối tăm, và địa ngục”. Chữ “địa ngục” dùng trong
kinh này chỉ là lấy một trong bốn nghĩa trên. Tỳ
Bà Sa Luận ghi: “Phía dưới
châu Thiệm Bộ năm trăm du-thiện-na có địa
ngục”.
“Du-thiện-na” (Yojana) là do-tuần,
là cách người Thiên Trúc tính số dặm. Bản chú giải
kinh Duy Ma của ngài Tăng Triệu ghi: “Thượng do-tuần là sáu mươi dặm, trung
do-tuần là năm mươi dặm, hạ do-tuần là bốn
mươi dặm”.
Như vậy, ta thường nói “địa ngục” là chỉ cái ngục ở
dưới đất; nhưng thật ra, địa ngục
chẳng phải chỉ ở dưới đất. Ở
trên núi, hoặc bên bờ biển cả, hoặc trong đồng
hoang, dưới cội cây, giữa không trung đều có
địa ngục. Nói chung, địa ngục có ba loại:
I. Căn bản địa ngục:
Tức là tám đại
địa ngục và tám địa ngục lạnh. Nói có
tám đại địa ngục là so với tám địa
ngục lạnh mà nói, chúng cũng được gọi là
tám ngục nóng. Phía dưới mặt đất Thiệm
Bộ châu năm trăm do-tuần có địa ngục tên
là Đẳng Hoạt. Từ đấy, lần lượt
tính xuống đến địa ngục thứ tám tên là
Vô Gián. Tám địa ngục ấy chồng lên nhau theo chiều
dọc. Theo luận Câu Xá cũng như Đại Luận, tám
địa ngục đó là:
1. Đẳng Hoạt địa ngục: Tội nhân trong ấy
bị đâm, chém, xay, giă, khổ quá chết đi, chợt
có cơn gió lạnh thổi qua, thịt da sanh lại, sống
lại như trước (nên có tên là Đẳng Hoạt
nghĩa là “sống lại giống như trước”).
2. Hắc Thằng địa ngục: Trước hết
dùng những sợi dây đen đủi (hắc thằng)
trói chặt ḿnh mẩy tội nhân, rồi mới cưa,
chém.
3. Chúng Hợp địa ngục: Nhiều thứ h́nh cụ
(dụng cụ tra tấn) độc ác cùng xô đến ép
thân.
4. Hiệu Khiếu địa ngục: Bị các khổ
bức bách, rú lên những tiếng đau đớn, than
oán.
5. Đại Khiếu địa ngục: Bị khổ sở
quá mức, vang tiếng kêu khóc ầm ĩ.
6. Viêm Nhiệt địa ngục: Lửa bốc từ
trong thân cháy ra, ngọn lửa tỏa khắp, cái khổ v́
nóng bức khó ḷng chịu đựng nổi.
7. Đại Nhiệt địa ngục: Sức nóng dữ
dội nhất nên gọi là Đại Nhiệt.
8. Vô Gián địa ngục: Chịu khổ không gián
đoạn, không lúc nào ngớt.
Phía ngoài tám địa ngục
trên lại có tám địa ngục lạnh, kể theo thứ
tự như sau:
1. Ngạch Bộ Đà, Hán dịch là Pháo (皰: phồng rộp
lên): Thân bị rét cóng nên thân thể sưng phồng lên.
2. Ni Lạt Bộ Đà: Thân bị rét quá, ḿnh mẩy nứt
nẻ, vỡ ra.
3. A La La (bị lạnh quá, răng khua lộp cộp,
phát ra tiếng rên hừ hừ)
4. A Bà Bà (cũng như trên)
5. Hổ Hổ Bà (như trên)
6. Ốt Bát La (hoa sen xanh): Bị lạnh quá mức, ḿnh
mẩy nứt gẫy, da vênh lên như cánh sen xanh.
7. Bát Đặc Ma (hoa sen đỏ): Thân thể găy nát [tươm
máu] như hoa sen hồng.
8. Ma Ha Bát Đặc Ma (hoa sen đỏ lớn): Thân thể
găy nát như hoa sen đỏ lớn.
Đấy là căn bản địa ngục, tiếp theo
đây, sẽ lược thuật về cận biên địa
ngục và cô độc địa ngục.
II. Mười
sáu du tằng địa ngục: Trong số tám đại
địa ngục nói trên, mỗi địa ngục đều
có bốn cửa. Ngoài mỗi cửa lại có bốn tầng
ngục phụ mang tên: Đường Ổi Tằng (tầng
ngục nung vùi trong tro nóng), Thi Phẩn Tằng (tầng ngục
phân dơ), Phong Nhận Tằng (tầng ngục mũi
gươm, đao sắc nhọn), Liệt Hà Tằng (tầng
ngục sông sôi sùng sục), tổng cộng mười sáu
tầng, gọi chung là mười sáu du tằng địa
ngục. Tính ra, tám đại địa ngục có tất
cả một trăm hai mươi tám ngục phụ,
cũng gọi là Cận Biên địa ngục.
III. Cô độc
địa ngục ở giữa núi, đồng hoang, cội
cây, không trung. Loại này có vô số, chịu khổ vô
lượng. Khổ quả trong địa ngục là nặng
nề nhất, một ngày đến tám vạn bốn ngàn
lần chết đi, sống lại, trải qua vô lượng
kiếp. Sách Phụ Hành Kư nói: “Tạo
tội Ngũ Nghịch, Thập Ác nặng nhất th́ cảm
lấy [quả địa ngục]”.
Trong quyển tám sách Đại Thừa Nghĩa
Chương, chữ “ngạ quỷ”
được giảng như sau: “Do cầu nơi người khác nên gọi là ngạ
quỷ. Lại thường đói khát nên gọi là Ngạ
(餓), khủng khiếp, lắm điều sợ
hăi nên gọi là Quỷ (鬼)”.
Bà Sa Luận chép: “Quỷ là
sợ, tức là khủng khiếp, lắm nỗi sợ hăi.
Quỷ cũng có nghĩa là oai v́ có thể làm cho kẻ khác
sợ cái oai của ḿnh. Lại do mong cầu nên gọi là
Quỷ, tức là: Loài ngạ quỷ thường đi
theo người khác, mong được thức ăn để
duy tŕ tánh mạng”.
Luận c̣n viết thêm: “Có
thuyết bảo do chúng đói khát dữ dội nên gọi
là Quỷ. Do chúng bo bo tích cóp nên cảm cái nghiệp đói
khát. Trong trăm ngàn năm chẳng được nghe
đến cái tên của nước uống, huống là
được thấy hay là chạm được. Có thuyết
bảo do chúng bị xua đuổi nên gọi là Quỷ: Ở
nơi nào cũng thường bị chư thiên xua đuổi”.
Loài ngạ quỷ có mặt khắp mọi nơi. Kẻ
nào có phước đức th́ làm thần trong rừng,
núi, g̣ mả, miếu thờ. Kẻ không có phước
đức ở chỗ chẳng sạch, không có thức
ăn, luôn bị đánh đập, ngăn sông, lấp biển,
chịu khổ vô lượng. Sách Phụ Hành Kư nói: “Hạ phẩm Ngũ Nghịch
Thập Ác cảm lấy [quả báo ngạ quỷ]”.
Chữ “súc sanh” tân dịch[1]
là “bàng sanh” ngụ ư: Các loài
sanh vật có thân h́nh nằm ngang. Tân Bà Sa Luận nói: “Do thân h́nh chúng nằm ngang nên
cũng đi ngang. Hoặc do đi ngang nên thân h́nh cũng nằm
ngang. V́ vậy, chúng được gọi là bàng sanh”.
Bàng (傍) có nghĩa là nằm
ngang. Sách Hội Sớ nói: “Loài
này có mặt khắp nơi, đeo lông, đội sừng,
vảy, mai, lông mao, lông vũ, bốn chân, nhiều chân, sống
dưới nước, trên mặt đất, bay trên không,
ăn nuốt lẫn nhau, chịu khổ vô lượng”.
Sách Phụ Hành Kư bảo: “Tạo
Ngũ Nghịch Thập Ác bậc trung cảm lấy quả
này”.
“Diễm Ma La giới” (cơi Diễm Ma
La) là thế giới của vua Diễm Ma La (Yamaraja). Diễm
Ma La c̣n được phiên âm là Viêm Ma, Diễm Ma, Diêm Ma,
Diêm Ma La v.v… dịch nghĩa là Phược (縛), nghĩa là
trói buộc tội nhân. Diễm Ma La dịch nghĩa là B́nh
Đẳng Vương. Vị vua này ghi chép, xử đoán quản
trị cái nghiệp sanh tử, tội phước của
thế gian, làm chúa địa ngục, tám ngục nóng, tám ngục
lạnh và các tiểu địa ngục quyến thuộc
v.v... quyết đoán thiện ác, sai sử quỷ tốt.
Trong năm đường, vua truy bắt tội nhân, tra khảo,
trừng phạt chẳng lúc nào ngơi. V́ vậy, kinh Tam Khải
nói: “Tương phó Diễm Ma
vương, tùy nghiệp nhi thọ báo. Thắng nhân sanh thiện
đạo, ác nghiệp đọa Nê Lê” (Giao cho vua Diễm Ma, theo nghiệp thọ báo.
Nhân thù thắng th́ sanh vào đường lành, ác nghiệp
đọa Nê Lê).
Diêm Ma Vương c̣n được dịch là Song
Vương v́ anh và em gái cùng làm vua địa ngục. Anh
coi đàn ông, em coi đàn bà, nên gọi là Song Vương. “Diêm Ma La giới” là cơi vua Diêm
La cai quản. Luận Câu Xá chép: “Cơi
nước vua Diễm Ma: Ở phía dưới Thiệm Bộ
châu chừng năm trăm du-thiện-na (do-tuần) có vương quốc Diễm
Ma. Cơi nước có kích thước cũng cỡ đó, lần
lượt thay phiên nhau mà trụ. Hễ cơi này tan hoại
th́ dời qua cơi khác”.
Phẩm Địa Ngục của kinh Trường A Hàm
cũng nói: “Diêm Phù Đề Nam, Đại Kim Cang
sơn nội, hữu Diêm La vương cung, vương sở
trị xứ, tung quảng lục thiên do-tuần” (Phía Nam châu Diêm Phù Đề, trong núi Đại Kim Cang
có cung vua Diêm La là chỗ vua Diêm La cai trị, ngang dọc sáu
ngàn do-tuần).
“Tam ác đạo” (ba đường
ác) c̣n gọi là “tam ác thú”, hay “tam đồ” là chỗ sanh về
của hết thảy chúng sanh tạo nghiệp nên gọi
là “ác đạo”. Ba đường địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh gọi là “tam ác đạo”. Phẩm
Phương Tiện của kinh Pháp Hoa có câu: “Dĩ chư dục nhân duyên,
đọa tam ác đạo” (Do nhân duyên các dục, đọa
lạc tam ác đạo) nghĩa là: Nếu chúng sanh trong tâm
có ư niệm tham cầu dục lạc làm nhân, ngoài vin nắm
dục cảnh làm duyên, th́ do nhân duyên ấy sẽ khởi
niệm tạo ác; cuối cùng sẽ đọa ác đạo.
Chương này nêu lên hai nguyện: “Nước không ác đạo” và “chẳng đọa đường ác”. Ư của
mấy câu đầu trong đoạn kinh như sau:
Nếu tôi chứng được Như Lai Quả
Giác, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tức
là đă rốt ráo thành Phật, th́ ngay khi ấy trong cơi Phật
mà tôi trụ tŕ sẽ có đầy đủ vô lượng
công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn. [Kinh
văn] dùng những câu trên đây để diễn tả
một cách tổng quát những sự vi diệu thù thắng
của thế giới Cực Lạc. V́ vậy, những
câu ấy được nêu ở đầu nguyện thứ
nhất; kế đó, lần lượt tŕnh bày nội
dung của từng nguyện trong bốn mươi tám nguyện.
Nguyện thứ nhất là: “Vô
hữu địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, quyên
phi, nhuyễn động chi loại” (Chẳng có địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cầm thú, các loài ngọ
nguậy, bay lượn, ḅ trườn), đó là nguyện
cơi nước không có ác đạo. Nguyện này thật sự
thể hiện đức Di Đà do tâm đại bi thiết
tha nên ngay trong hai nguyện đầu đă chỉ mong chúng
sanh không khổ. Cái khổ trong ba ác đạo là nỗi khổ
nặng nề nhất. Trong Mật giáo có nói: “Đại bi làm căn, Bồ Đề làm nhân,
phương tiện làm cứu cánh”. Phẩm Phổ Hiền
Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm cũng nói: “
“Nguyện chẳng đọa
vào đường ác” hoặc c̣n gọi là “nguyện chẳng đọa
đường ác lần nữa” chính là nguyện thứ
hai. Nguyện này tiếp ư nguyện thứ nhất: Cơi ta chẳng
những không có ba đường ác mà thậm chí hết thảy
chúng sanh từ trong ba ác đạo như từ cơi vua Diêm
La (tức là trong địa ngục) sanh về cơi ta, nhận
lănh sự giáo hóa của Phật th́ không chỉ vĩnh viễn
chẳng bị sanh vào ác đạo lần nữa mà c̣n
đều thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Sách Tịnh Độ Luận Chú ghi: “Pháp Phật chứng đắc gọi là A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Sách Pháp Hoa Huyền
Tán lại giảng: “A là vô, Nậu
Đa La là thượng, Tam là chánh, Miệu là đẳng,
Tam lại có nghĩa là Chỉ (ngưng dứt), Bồ Đề
là giác, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Đại
Trí Độ Luận, quyển tám mươi lăm có câu: “Chỉ ḿnh trí huệ của Phật
là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”.
Chúng sanh trong ác đạo thiện căn kém cỏi, lại
lắm túc nghiệp, được nhờ nguyện lực
của Phật gia bị, nhiếp thọ văng sanh, sanh sang
cơi kia rồi thảy đều thành Phật. Đây thật là
thánh nguyện vô thượng từ bi đến cùng cực
của Di Đà Như Lai: Chúng sanh từ trong đường
ác mang theo nghiệp văng sanh, vốn đầy dẫy ác nghiệp,
đáng lẽ đọa ác đạo, nhưng nhờ Di Đà
nguyện lực gia tŕ, nên được văng sanh Cực Lạc.
Chẳng đọa trong tam đồ nữa nên bảo là “bất đọa ác thú” (chẳng
đọa đường ác).
V́ vậy, Đại Sĩ Long Thọ nói: “Kẻ nào nếu sanh về cơi kia th́ trọn chẳng
đọa ba đường ác nữa”. Đại sư
Thiện Đạo cũng dạy: “Cho
đến khi thành Phật chẳng lăn lóc trong sanh tử
nữa”. Đấy chính là vượt ngang khỏi sáu
đường vậy.
Chương này gồm hai đại nguyện thù thắng:
a. Một là chúng
sanh trong đường ác cũng được văng sanh Cực
Lạc, chẳng bị đọa vào ác thú nữa, biểu
thị Di Đà bi tâm vô tận, hóa độ không sót
b. Hai là hễ
được văng sanh thảy đều thành Phật, rốt
ráo Bồ Đề.
Do vậy, ta thấy được tấm ḷng của Phật
Di Đà, niệm niệm đều nguyện chúng sanh thành Phật.
Nguyện này đă thành tựu, đủ chứng tỏ
trí huệ công đức, oai thần, lực dụng của
Phật Di Đà thật chẳng thể nghĩ bàn.
Cuối đoạn kinh trên có câu: “Đắc thị nguyện, năi tác Phật.
Bất đắc thị nguyện, bất thủ vô
thượng chánh giác” (Được thỏa nguyện này mới làm Phật,
chẳng thỏa nguyện này, chẳng giữ lấy vô
thượng Chánh Giác), ư nói: Nguyện này thành tựu, ta
(Pháp Tạng Bồ Tát) mới thành Phật. Nếu nguyện
này chẳng thành, ta trọn chẳng thành Phật, nên nói rằng:
“Bất thủ vô thượng
Chánh Giác” (Chẳng giữ
lấy vô thượng Chánh Giác). Trong các nguyện sau, chỉ
nói gọn là “bất thủ
Chánh Giác” (chẳng giữ lấy Chánh Giác).
Chánh kinh:
我 作 佛 時,十方 世 界,所 有 眾 生,令 生 我 剎,皆 具 紫 磨 真 金 色 身,三 十 二 種 大 丈 夫 相。端 正 淨 潔,悉 同 一 類。若 形 貌 差 別,有 好 醜 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật
thời, thập phương thế giới sở hữu
chúng sanh, linh sanh ngă sát, giai cụ tử ma chân kim sắc
thân, tam thập nhị chủng đại trượng phu
tướng, đoan chánh tịnh khiết, tất đồng
nhất loại. Nhược
h́nh mạo sai biệt, hữu hảo xú giả, bất thủ
Chánh Giác
Lúc tôi thành Phật,
khiến cho tất cả chúng sanh trong mười
phương thế giới sanh trong cơi tôi đều
được đầy đủ thân sắc vàng ṛng trau
giồi sáng bóng, ba mươi hai tướng đại
trượng phu đoan chánh, tịnh khiết, giống hệt
như nhau. Nếu họ h́nh dáng sai khác có xấu đẹp
th́ chẳng giữ lấy Chánh Giác.
(Nguyện thứ ba: thân
đều như kim sắc, nguyện thứ tư: đủ
ba mươi hai tướng, nguyện thứ năm: thân
không có sai khác)
Giải:
Chương này gồm ba nguyện.
Câu “thập phương thế giới
sở hữu chúng sanh, linh sanh ngă sát, giai cụ tử ma
chân kim sắc thân” (khiến cho tất cả chúng sanh trong mười
phương thế giới sanh về cơi tôi đều
đầy đủ thân màu vàng ṛng trau giồi sáng bóng) là
nguyện thứ ba “thân đều
là kim sắc”. Sanh cơi ấy rồi, thân đều có màu
như màu của vàng ṛng được trau chuốt đến
mức sáng bóng.
Màu vàng ṛng là màu nơi thân Như Lai. Đại sư Thiện
Đạo nói: “
Nay trong đại nguyện này, Phật muốn khiến
cho hết thảy người đă văng sanh đều có
thân tướng giống hệt như thân Phật, đều
có màu vàng ṛng để hiển thị: Chúng sanh và Phật bất
nhị, chân thật b́nh đẳng. V́ vậy, sách Hội Sớ
nhận xét: “Do đó, nguyện
rằng nhân dân trong cơi tôi thuần một sắc vàng, chẳng
có xấu, đẹp, ta và người đều b́nh đẳng,
dứt tuyệt ư tưởng trái, thuận”. Thuyết của
sách Hội Sớ thật đă tŕnh bày tỏ tường
ư nghĩa của Trung Đạo Thật Tướng.
“Tam thập nhị chủng
đại trượng phu tướng” (Ba mươi hai tướng đại
trượng phu): Trời, người trong cơi nước ấy
đều đủ ba mươi hai tướng đại
trượng phu là nguyện thứ tư, [nguyện này] c̣n
gọi là “nguyện ba
mươi hai tướng”. Ba mươi hai tướng
đại trượng phu c̣n gọi là ba mươi hai
tướng đại nhân, gọi tắt là ba mươi
hai tướng. Ba mươi hai tướng này chẳng phải
riêng ḿnh đức Phật mới có, Chuyển Luân thánh
vương cũng có đủ ba mươi hai tướng.
Trí Độ Luận, quyển tám mươi tám có nói Phật
hiện ra tướng đại nhân này là v́ “thuận theo quan niệm của
người Thiên Trúc nơi cơi Diêm Phù Đề trong thế
gian, nên hiện ra ba mươi hai tướng”. Thuyết
này rất tuyệt, Phật vốn ly tướng lại
hiện có tướng là thuận theo tập tục thế
gian vậy.
Sách Pháp Giới Thứ Đệ quyển hạ nói: “Nơi thân ứng hóa của đức
Như Lai thị hiện ba mươi hai tướng này
để biểu thị Pháp Thân có các đức viên măn
đến cùng cực, khiến cho người khác trông thấy
liền yêu kính, biết Phật có đức hạnh thù thắng
đáng tôn sùng, là bậc tôn quư trong trời người, là
vua của chư thánh. V́ vậy, Phật thị hiện có
ba mươi hai tướng”. Theo Tam Tạng Pháp Số,
quyển bốn mươi tám, ba mươi hai tướng
là:
1) Bàn chân bằng phẳng, ḷng bàn chân không chỗ nào lơm
xuống.
2) Tướng bánh xe ngàn căm: Dưới chân có h́nh
bánh xe.
3) Ngón tay dài nhọn: Ngón tay thon dài.
4) Chân tay mềm mại.
5) Chân tay có màng lưới: Giữa các ngón chân, ngón tay có
màng lưới nối liền nhau giống như chân vịt
ngỗng.
6) Gót chân đầy đặn: Gót chân đầy đặn
không khuyết.
7) Lưng bàn chân vun tṛn: Mu bàn chân cao đầy, tṛn trịa.
8) Bắp đùi nai chúa: Bắp đùi Phật tṛn trịa,
nuột nà như bắp đùi nai chúa.
9)
10) Mă âm tàng:
11) Thân to rộng: Chiều cao của Phật bằng với
khoảng cách hai tay giang ra.
12) Lỗ chân lông có sắc xanh: Nơi mỗi lỗ chân
lông mọc một sợi lông sắc xanh, nhưng các sợi
lông chẳng mọc loạn xị.
13) Lông trên thân mướt đẹp: Lông trên thân mọc
xoáy về phía phải, hướng lên trên, mượt mà.
14) Thân sắc vàng: Màu sắc thân Phật như màu vàng
ṛng.
15) Thường quang[2]
chiếu xa một trượng: Thân Phật tỏa quang
minh, mỗi phía đều xa đến cả trượng.
16) Da dẻ mềm mại, mượt mà: Da dẻ mềm
mịn, trơn láng.
17) Bảy chỗ bằng phẳng, đầy đặn.
Bảy chỗ là hai ḷng bàn chân, hai ḷng bàn tay, hai vai và đảnh
đầu. Cả bảy chỗ ấy đều bằng
phẳng, đầy đặn, không khuyết hăm.
18) Hai nách đầy đặn.
19) Thân như tướng sư tử: Thân thể đầy
đặn, đẹp đẽ, oai nghi đoan nghiêm
như sư tử chúa.
20) Thân thể đoan trực: Thân h́nh đoan chánh, không
cong vẹo.
21) Vai tṛn đầy: Hai vai tṛn trịa đầy đặn.
22) Bốn mươi cái răng: Phật có đủ cả
bốn mươi cái răng.
23) Răng trắng, khít, bằng: Bốn mươi cái
răng đều trắng sạch, mọc khít khao.
24) Bốn răng nanh trắng sạch: Bốn răng
nanh lớn nhất nhưng thật trắng sạch.
25) Má đầy như má sư tử: Hai g̣ má tṛn đầy
như tướng g̣ má sư tử.
26) Nước miếng trong họng có vị ngon ngọt
nhất: Trong cổ họng Phật thường có chất
nước miếng khiến cho ăn vật ǵ cũng trở
thành thơm ngon nhất.
27) Lưỡi rộng dài: Lưỡi to mà dài, mềm mại,
thanh mảnh, khi thè ra che cả khuôn mặt đến tận
mí tóc.
28) Phạm âm vang sâu xa: Phạm (梵) nghĩa là
thanh tịnh. Âm thanh của Phật thanh tịnh nhưng
nghe vang rất xa.
29) Mắt có màu cám thanh: Tṛng con mắt có màu cám thanh (紺 青: Xanh biếc hơi pha sắc
đỏ).
30) Lông mi như [lông mi của] trâu chúa: Lông mi mắt
đẹp như lông mi mắt trâu chúa.
31) Giữa hai chân mày có tướng bạch hào: Giữa
hai chân mày có một sợi lông trắng, uyển chuyển
cuộn về bên phải, thường phóng quang minh.
32) Trên đảnh có Nhục Kế: Nhục Kế tiếng
Phạn là Ô-sắt-nị (Usni), dịch là Nhục Kế.
Trên đảnh Phật có thịt gồ cao lên như h́nh
búi tóc, c̣n gọi là Vô Kiến Đảnh Tướng[3]
(Các kinh, luận khác nói về ba mươi tướng
có đôi chút sai khác).
Sư Vọng Tây viết: “Do
bởi nguyện ấy, các chúng sanh đă văng sanh đều
đủ các tướng, chẳng cần tu mà tự
được. Hỏi: Sau khi hoa nở hay là trước
khi hoa nở được đầy đủ các tướng?
Đáp: Chẳng đợi đến khi hoa nở, hễ sanh
về đấy ắt liền có”.
Nguyện kế tiếp theo đó là nguyện “thân không sai biệt”. Nguyện
rằng: Chúng sanh trong cơi nước tôi, dung mạo, h́nh dáng
thảy đều đoan chánh, tịnh khiết giống hệt
như nhau. Nếu c̣n phân ra xấu, tốt sai khác, tôi nguyện
chẳng thành Phật. Nguyện này nói rơ người trong
cơi Cực Lạc có cùng một h́nh dạng như nhau không hề
sai khác. V́ thế, đại sư Đàm Loan nói: “Do chẳng giống nhau nên thân có
quư, hèn. Do thân có quư, hèn nên thị phi sanh khởi. Thị phi
đă khởi th́ ch́m đắm măi trong ba cơi. V́ vậy, Phật
hưng khởi ḷng đại bi, khởi lên nguyện b́nh
đẳng”. Đại sư đă chỉ rơ nguyên nhân Phật
phát khởi nguyện này vậy.
Chánh kinh:
我 作 佛 時,所 有 眾 生,生
我 國 者,自 知 無 量 劫 時 , 宿
命 所 作 善 惡。皆 能 洞 視
徹 聽,知 十 方 去 來 現 在
之 事。不 得 是 願,不 取
正 覺。
Ngă tác Phật thời, sở
hữu chúng sanh, sanh ngă quốc giả, tự tri vô lượng
kiếp thời, túc mạng sở tác thiện ác, giai
năng đỗng thị triệt thính, tri thập
phương khứ lai hiện tại chi sự. Bất
đắc thị nguyện, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
tất cả chúng sanh sanh về nước tôi tự biết
các việc thiện ác đă làm trong túc mạng đến
vô lượng kiếp, đều trông thấy rơ ràng, nghe
rành rẽ, biết được các việc trong quá khứ,
hiện tại, vị lai suốt mười phương.
Chẳng đạt nguyện này, chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện thứ sáu: đắc
Túc Mạng Thông; nguyện thứ bảy: đắc Thiên
Nhăn Thông; nguyện thứ tám: đắc Thiên Nhĩ Thông)
Giải:
Chương này nói rơ chúng sanh cơi ấy viên măn nguyện
thứ sáu “túc mạng thông”,
nguyện thứ bảy “thiên
nhăn thông” và nguyện thứ tám “thiên nhĩ thông”.
Thông là nói tắt chữ “thần
thông”. Thần dị đến cùng cực, chẳng thể
lường nổi công hạnh th́ gọi là “thần” (神). Làm ǵ cũng
chẳng bị úng tắc, tự tại vô ngại th́ là “thông” (通). Có sáu thứ
thần thông, thường gọi là Lục Thông, tức là:
Túc Mạng Thông, Thiên Nhăn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Thần
Túc Thông và Lậu Tận Thông. Trong sáu loại thần thông
này, loại thứ sáu chỉ bậc thánh (từ A La Hán trở
lên) mới có, năm loại trước th́ phàm phu, dị
sanh (không phải loài người) cũng có thể đạt
được.
Cần chú ư một điều: Chúng sanh nơi Cực Lạc
chứng được những thần thông vượt
xa những thứ thần thông do Thiền Định phát sanh
như trong các kinh luận khác đă nói. Nêu một ví dụ:
Phàm phu đạt được Túc Mạng Thông th́ không thể
biết việc quá khứ lâu hơn tám vạn kiếp
được. Trong kinh này lại nói biết đến vô
lượng kiếp là do chúng sanh nơi Cực Lạc nhờ
vào sức bổn nguyện của Phật mà đạt
được thần thông Đại Thừa Bất Cộng[4]
nên vượt xa phàm phu lẫn Tiểu thừa.
Sách B́nh Giải bảo: “Tiểu
Thừa chỉ dựa vào bốn căn bản định
để chứng đắc năm thứ thần thông
đầu. Với Lậu Tận Thông, họ c̣n ở mức
Tứ Thiền chưa đạt đến trung gian và ba
thứ vô sắc (chữ “vô
sắc” ở đây chỉ Vô Sắc Định. Chữ
“ba” trong câu nói trên là lầm. Có tám thứ Định là Tứ
Thiền của Sắc giới và Tứ Vô Sắc Định
của Vô Sắc giới). Đại
Thừa nương vào hết thảy Thiền nên đều
đạt được cả sáu. Những thần thông
nói trong kinh này lại khác hẳn những loại thần
thông nói trên, v́ hết thảy trời người [cơi Cực
Lạc] nương vào đại nguyện của Phật.
V́ vậy, ta bảo: Lấy sức bổn nguyện của
Phật Di Đà làm tăng thượng
duyên như sách Sự Tán bảo: ‘Tam Minh tự nhiên
nương Phật nguyện; chắp tay giây lát đắc
thần thông’, há nào phải dựa vào sức Thiền hữu
lậu?”
Như vậy, thần thông của trời, người
cơi Cực Lạc chẳng do tu tập mà chứng đắc,
chẳng đợi phải tu mới có, mà là tự nhiên
được thành tựu. Thần thông ấy cũng chẳng
giống với Ngũ Thông do quả báo mà có của chư
thiên; chỉ là nương vào Tu Đức của Phật
Di Đà làm nhân, nương theo Như Lai nguyện lực mà thọ
hưởng quả đức an lạc tự nhiên. Do
đó, cảm được quả báo vượt xa lệ
thường. V́ vậy, sách Yếu Tập nhận định:
“Chẳng nương vào bốn
thứ Tịnh Lự (Thiền Định) để làm cái nhân tu tập thần
thông, chỉ hễ sanh về đấy liền được
quả báo tùy ư như vậy, há chẳng sung sướng lắm
sao!”
Hơn nữa, thần thông của chư Phật, Bồ
Tát và Nhị Thừa cũng có nhiều điểm sai khác.
Sách B́nh Giải dựa trên Đại Thừa Nghĩa
Chương nêu ra những điểm sau:
* Rộng, hẹp chẳng giống nhau: Như kinh
Địa Tŕ nói Thanh Văn thông tỏ hai ngàn cơi nước,
Duyên Giác thông tỏ sáu ngàn cơi nước (Kinh này bảo thấy
trọn ức na-do-tha trăm ngàn cơi Phật, đủ thấy
khác biệt rất lớn).
* Nhiều ít khác biệt: Trong một tâm niệm,
Nhị Thừa chỉ có thể hóa hiện được
một việc, chẳng thể làm nổi nhiều việc;
chư Phật, Bồ Tát có thể hóa hiện ra hết thảy
h́nh dạng trong khắp mười phương thế giới,
cùng một lúc có thể hiện thân trong năm đường.
* Lớn nhỏ sai khác: Nhị Thừa hóa ra thân lớn
chẳng vào trong được thân nhỏ, hóa thân nhỏ
chẳng dung nổi thân lớn. Chư Phật, Bồ Tát hiện
thân to chật cả tam thiên thế giới, lại có thể
đem thân ấy nhét trong một vi trần, hóa hiện thân
nhỏ như mảy trần nhưng thân ấy chứa
được hết thảy. Hơn nữa, với hết
thảy sắc vật, Bồ Tát có thể đem cái lớn
bỏ trong cái nhỏ, dùng cái nhỏ đựng cái lớn.
Nhị Thừa không thể làm nổi như thế.
* Nhanh, chậm sai khác: Nhị Thừa muốn
đến được chỗ xa xôi, phải mất một
thời gian mới tới v́ chẳng được
Như Ư Thông. Chư Phật, Bồ Tát trong một niệm
đến khắp mười phương thế giới
do đă chứng đắc Như Ư Thông.
* Thật, giả sai khác: Hết thảy thứ do
Nhị Thừa hóa hiện chỉ là tương tự, chẳng
thể thật sự dùng được. Chư Phật Bồ
Tát hóa hiện ra thứ ǵ cũng đều có công dụng
thật sự.
* Việc làm sai khác: Chư Phật, Bồ Tát hóa ra
vô lượng người khiến cho mỗi người
đều có tâm, mỗi người làm một việc hoàn
thành khác nhau. Nhị Thừa chẳng thể làm nổi
như vậy.
* Hóa hiện sai khác: Chư Phật, Bồ Tát chỉ
hiện một thân mà mỗi người mỗi thấy
khác nhau; chỉ nói ra một tiếng mà mỗi người
nghe mỗi khác; an trụ một cơi mà hiện đủ
mười phương. Nhị thừa không thể làm
như thế được.
* Hóa các căn có công dụng sai khác như kinh Niết
Bàn nói: “
* Tự tại sai khác: Như kinh Niết Bàn nói: “
Thần thông của trời, người cơi Cực Lạc
như sách Hợp Tán nói: “Nay
đă là sức thần thông bất cộng của Đại
Thừa, lại thêm nhờ sức bổn nguyện (của
Phật Di Đà), nên há lại giống
với thần thông của phàm phu, Tiểu Thừa ư!”
Câu “tự tri vô lượng kiếp
thời, túc mạng sở tác thiện ác” (tự biết được việc thiện
ác đă làm trong túc mạng đến vô lượng kiếp)
chính là nguyện thứ sáu “đắc
Túc Mạng Thông”. “Túc” (宿) là đời
quá khứ, tục gọi là đời trước, “mạng” (命) là sanh mạng.
Như vậy, “túc mạng”
là nhiều kiếp sống trước trong quá khứ. Biết
được các việc thiện ác trong nhiều kiếp
sống quá khứ th́ gọi là Túc Mạng Thông.
Sách B́nh Giải giảng: “Việc
đă đi vào quá khứ gọi là Túc, pháp quá khứ tiếp
nối th́ gọi là Mạng. Hiểu rơ những việc ấy
không vướng mắc th́ gọi là Túc Mạng Thông”.
Sách Hội Sớ cũng nói: “Biết
kiếp trước của thân ḿnh từ một đời,
hai đời, ba đời cho đến trăm ngàn vạn
đời và các việc đă làm, cũng có thể biết
kiếp trước của chúng sanh trong lục đạo
và việc họ đă làm th́ gọi là Túc Mạng Thông”.
Nhị Thừa biết được nhiều lắm
là đến tám vạn kiếp, Bồ Tát biết đến
vô cực. Lời nguyện trong kinh này lại nói là Túc Mạng
đến vô lượng kiếp th́ chính là nói đến
thần thông của Đại Thừa Bồ Tát vậy.
Nguyện này gồm hai ư nghĩa:
- Một là như sư Trừng Hiến người Nhật
nói: “Do chẳng biết túc mạng
nên chẳng sốt sắng làm lành, chẳng sợ điều
ác. Với muôn điều thiện trở nên lười biếng,
tạo tác các ác cũng chỉ do không biết túc nghiệp. Vị
La Hán kia nhớ nỗi khổ trong Nê Lê (địa ngục) mà toát mồ hôi lẫn máu (Xưa
kia có vị La Hán nhớ đến khi xưa ở trong
địa ngục, chịu các sự thống khổ thảm
thiết mà kinh sợ cùng cực, mồ hôi toát ra có lẫn
cả máu).
Ngài Phước Tăng thấy
xương đời trước của ḿnh liền chợt
khai ngộ. Lại có người chẳng biết kẻ ấy
là mẹ đẻ trong đời trước nên lấy
làm vợ, chẳng biết là oán gia đời trước
nên nuôi như con, chẳng biết là cha đời trước
nên đem nấu thành thức ăn ngon v.v... Đấy đều
do mê muội túc sự (chuyện trong đời trước),
ham đắm nỗi vui trong đời, nay chợt nghe bổn
duyên đều sanh tâm nhàm chán vậy”.
Như vậy, người cơi Cực Lạc cần phải
có Túc Mạng Trí Thông là nhằm biết được hạnh
nghiệp của chúng sanh trong quá khứ để nhờ vào
đó mà dẫn dụ họ, dùng đó làm phương tiện
ḥng hóa độ chúng sanh.
- Hai là như ngài Tịnh Chiếu nói: “Nếu biết được túc mạng th́ chẳng
tự cao. Nhớ nghĩ đến vô số công đức
trong quá khứ nên chỉ nương theo thệ nguyện của
Phật để được sanh về cơi kia”. Ngài
Trừng Hiến cũng nói: “Văng
sanh cơi kia liền trước hết biết túc mạng,
thật là kính ngưỡng Phật đức sâu xa”. Như
vậy, người cơi Cực Lạc do Túc Mạng Trí nên hết
ḷng cảm ngưỡng ân đức của Phật vậy.
“Đỗng thị, triệt
thính tri thập phương khứ, lai, hiện tại chi
sự” (Thấy rơ ràng, nghe rành rẽ việc quá khứ, hiện
tại, vị lai trong suốt mười phương). “Đỗng” (洞) là sâu xa, thông
suốt. “Triệt” (徹) là thông suốt,
sáng tỏ. “Thập
phương” là không gian, “khứ,
lai, hiện tại” là thời gian, tức là quá khứ,
vị lai, hiện tại. Chữ “khứ” nhằm thừa tiếp cái nguyện “đắc túc mạng thông” ở
phần trên: Biết được việc thiện ác
đă làm trong quá khứ trong vô lượng kiếp suốt
cả mười phương, đều “đỗng thị, triệt thính” (thấy rành rẽ,
nghe rơ ràng) [các việc ấy]. Sau chữ “khứ” là nguyện
thứ bảy “đắc Thiên
Nhăn Thông” và nguyện thứ tám “đắc Thiên Nhĩ Thông”.
Thiên Nhăn Thông c̣n gọi là Thiên Nhăn Trí Thông hoặc Sanh Tử
Trí Thông. Thiên Nhăn là con mắt cơi trời, thấy được
hết thảy h́nh sắc thô to, nhỏ nhặt, xa gần
và tướng trạng sanh tử của chúng sanh trong
tương lai. Trong quyển năm của Trí Độ Luận
có câu: “Thiên nhăn thấy
được lục đạo chúng sanh và các vật trong
tự địa và hạ địa (lấy người
cơi trời mà nói th́ tự địa là cơi trời, các chốn
Tu-la, người, súc sanh, quỷ, địa ngục là hạ
địa) dù xa hay gần, các
sắc dù thô hay tế, không thứ ǵ chẳng thấy rơ”.
Thiên Nhăn Thông lại như sách Hội Sớ bảo: “Thấy được các tướng:
chết đây, sanh kia, khổ, vui.... của lục đạo
chúng sanh và thấy hết thảy các thứ h́nh sắc
chướng nội, chướng ngoại, thế gian, xuất
thế gian chẳng bị chướng ngại”. Mắt
thịt của phàm phu chỉ thấy được vật
“chướng nội”. Ví dụ:
tường vây quanh là Chướng. Phàm phu chỉ thấy
được vật giữa các bức tường
(chướng nội) chẳng biết được hết
thảy vật ngoài tường (chướng ngoại).
Thiên nhăn thấy được những vật chướng
ngoại nên thông đạt vô ngại.
Thiên Nhăn của trời, người cơi Cực Lạc
lại vượt xa Thiên Nhăn của Nhị Thừa và
chư thiên. Đại sĩ Long Thọ nói: “Bậc tiểu Thanh Văn trong hàng Nhị Thừa nếu
chẳng tác ư liền thấy được một ngàn
cơi. Nếu tác ư th́ thấy hai ngàn quốc độ. Đại
Thanh Văn chẳng tác ư thấy được hai ngàn, tác
ư thấy được ba ngàn. Bậc tiểu Duyên Giác chẳng
tác ư thấy hai ngàn, tác ư thấy ba ngàn. Bậc đại
Duyên Giác dù tác ư hay không cũng đều thấy được
việc trong tam thiên đại thiên thế giới. Chư
Phật, Bồ Tát thấy được sự việc
trong vô lượng thế giới”.
Chẳng cần biết là tác ư hay không, những điều
mà trời người cơi Cực Lạc thấy được
như: Chúng sanh sống chết lưu chuyển trong các thế
giới và nhân duyên, hạnh nghiệp của bọn họ....
đều vượt xa Nhị Thừa. Bản Tống dịch
chép lời nguyện thứ năm như sau: “Nhất thiết giai đắc
thanh tịnh thiên nhăn, năng kiến bách thiên câu-chi na-do-tha
thế giới, thô tế sắc tướng…” (Hết thảy đều được
thiên nhăn thanh tịnh, thấy được sắc tướng
thô, tế... trong trăm ngàn câu-chi (trăm vạn) na-do-tha (ức)
thế giới”. Hội bản ghi là thấy rơ “thập phương khứ lai
hiện tại chi sự” (việc quá khứ, hiện tại,
vị lai trong mười phương), ư nói: Thấy được sự việc trong
vô lượng thế giới, đủ thấy thần
thông của người cơi Cực Lạc chính là thần
thông của chư Phật, Bồ Tát.
Với nguyện thứ bảy này, lại có hai thuyết:
- Một là như ngài Vọng Tây nói: “Do chúng sanh trong cơi nước chẳng thấy các quả
khổ nên chẳng sợ cái nhân tạo khổ, cũng do
chẳng thấy các quả vui nên chẳng tu cái nhân sanh vui.
Ngài Pháp Tạng thương xót những bọn chúng sanh ấy
nên chọn lựa cái nguyện này để nhiếp thủ
chúng nó”. Sách Hội Sớ cũng bảo: “Mắt thịt mờ mịt,
kém cỏi, chẳng thể thấy nổi vật bị
che lấp bởi một tờ giấy. Chỉ tính cái
trước mắt, chẳng thấy khổ dữ nơi
địa ngục, nên chẳng dũng mănh siêng tu; chẳng
thấy được cái vui thù thắng nơi Tịnh Độ
nên hờ hững tâm niệm ham cầu”. Ngài Trừng Hiến
lại nói: “Ôi chao thương
thay! Chẳng thấy quả khổ địa ngục, ngạ
quỷ, chẳng thấy cha, mẹ, sư trưởng thọ
báo nên hờ hững cái tâm nhàn chán, biếng nghĩ việc
báo ân”. V́ vậy, ngài Vọng Tây bảo: “Việc trọng yếu thượng cầu hạ
hóa, cái đạo chán khổ báo ân chỉ cốt ở thiên
nhăn soi thấy mà thôi!”.
- Hai là như sách Trích Kư khai triển:
“Các sách như Hội Sớ
v.v... cho rằng Phật phát nguyện như thế là để
diệt ác sanh thiện, chán khổ ham tịnh. Nếu
như vậy th́ hóa ra là chẳng phải để đạt
lợi ích nơi cơi chân độ (chỉ Cực
Lạc). [Tôi cho rằng] nguyện
này chính là để đạt lợi ích nơi cơi chân thật.
Như có Tịnh Độ, tuy
thánh chúng cơi ấy có thiên nhăn thấy được hai ngàn
thế giới hoặc thấy ba ngàn thế giới,
nhưng chẳng thấy trọn bất khả thuyết bất
khả thuyết Phật sát cực vi trần số cơi Phật.
Hoặc có Tịnh Độ, Bồ Tát cơi ấy tuy được
thiên nhăn, nhưng chẳng trọn đủ ngũ nhăn. Do vậy,
Phật đặc biệt phát ra nguyện này.
Cũng bởi thế, trong
phần Nguyện Thành Tựu có nói: ‘Nhục nhăn thanh triệt,
mị bất phân liễu. Thiên nhăn thông đạt, vô lượng
vô hạn” (Mắt thịt trong trẻo
không ǵ chẳng thấy rơ. Thiên nhăn thông đạt vô lượng
vô hạn). Như vậy,
hễ được một thứ thiên nhăn th́ sẽ trọn
đủ ngũ nhăn. Bởi thế, thấy được
cơi Phật nhiều như số vi trần, thấy rơ chúng
sanh chết đây sanh kia, cứu giúp, lợi lạc chúng
sanh, luôn làm Phật sự. Đó chính là lợi ích thù thắng của
nguyện này vậy”.
Ư của câu trên là: Nếu cho rằng nguyên khởi của
lời nguyện này chỉ là để diệt điều
ác, sanh điều lành và khiến cho [người nghe] chán
khổ, thích vui, th́ đó chưa phải là cái lợi ích thực
tế cho người cơi Cực Lạc. Trời, người
cơi Cực Lạc thấy được bất khả
thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số
cơi Phật, nhưng do đắc Thiên Nhăn, họ liền
được đầy đủ trọn vẹn cả
Ngũ Nhăn: Huệ Nhăn, Pháp Nhăn, Phật Nhăn và Nhục Nhăn sẵn
có. Do đó, họ thấy được cơi nước
nhiều như vi trần, thấy rơ các tướng sống
chết qua lại của chúng sanh, nên có thể cứu giúp
quần sanh, lợi lạc vạn vật. Đấy mới
là lợi ích thù thắng của bổn nguyện.
Trong hai thuyết trên, thuyết sau rất đạt bổn
nguyện của Phật Di Đà.
Câu “triệt thính thập
phương khứ lai hiện tại chi sự” (nghe rơ
ràng chuyện vị lai, hiện tại trong mười
phương) trong kinh chính là nguyện thứ tám “đắc Thiên Nhĩ Thông”.
Thiên Nhĩ Thông c̣n gọi là Thiên Nhĩ Trí Thông. Thiên Nhĩ
là tai của chư thiên trong Sắc giới, nghe được
tiếng nói của hết thảy chúng sanh trong lục
đạo và hết thảy âm thanh xa, gần, lớn, nhỏ.
Sách Hội Sớ bảo: “Thiên
Nhĩ Thông là nghe được hết thảy tiếng
nói, âm thanh: chướng nội, chướng ngoại, khổ,
vui, lo, mừng... không úng trệ vậy”.
Nguyện
này được bản Ngụy dịch ghi như sau: “Quốc
trung thiên nhân bất đắc thiên nhĩ, hạ đáo
văn bách thiên ức na-do-tha chư Phật sở thuyết,
bất tất thọ tŕ giả, bất thủ Chánh Giác” (Trời, người
trong nước chẳng được thiên nhĩ, tối
thiểu là nghe lời dạy của trăm ngàn ức
na-do-tha Phật mà chẳng thọ tŕ hết cả th́ chẳng
lấy Chánh Giác).
Bản
Đường dịch ghi: “Quốc
trung hữu t́nh, bất hoạch thiên nhĩ, năi chí bất
văn ức na-do-tha bách thiên du-thiện-na ngoại thuyết
pháp giả, bất thủ Chánh Giác” (Hữu t́nh trong
nước chẳng được Thiên Nhĩ, cho đến
chẳng nghe được lời thuyết pháp cách xa ức
na-do-tha trăm ngàn du-thiện-na th́ chẳng lấy Chánh
Giác).
Theo đó, Thiên Nhĩ Thông của trời, người
cơi Cực Lạc vượt xa Nhị Thừa, chẳng những
nghe được khắp tất cả âm thanh trong mười
phương, mà c̣n có thể nghe được vô lượng
chư Phật thuyết pháp.
Ngài Trừng Hiến bảo: “Thần
thông này rất quan trọng. Nghe được tiếng các
khổ nơi địa ngục, tiếng đói khát của
loài ngạ quỷ liền thêm lớn bi tâm. Nghe tiếng nhạc
Càn Thát Bà (Càn Thát Bà là nhạc thần của Thiên Đế,
gảy đàn lưu ly, tiếng vang vọng khắp tam
thiên đại thiên thế giới), tiếng thần tiên tụng kinh. Nghe rồi thường
thích chốn núi non tịch tĩnh; huống hồ nghe
chư Phật thuyết pháp, nghe xong đều thọ tŕ,
nghe Bồ Tát bàn bạc càng thêm khát ngưỡng!”
Chánh kinh:
我 作 佛 時,所 有 眾 生,生 我 國 者,皆 得 他 心 智 通。若 不 悉 知 億 那 由 他 百 千 佛 剎,眾 生 心 念 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật thời, sở
hữu chúng sanh sanh ngă quốc giả, giai đắc Tha Tâm
Trí Thông. Nhược bất tất tri ức na-do-tha bách
thiên Phật sát, chúng sanh tâm niệm giả, bất thủ
Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều
đắc Tha Tâm Trí Thông. Nếu chẳng biết được
hết tâm niệm của chúng sanh trong ức na-do-tha
trăm ngàn cơi Phật, chẳng giữ lấy Chánh Giác.
(Nguyện thứ chín: Tha Tâm
Thông)
Giải:
Đây là nguyện thứ chín “đắc
Tha Tâm Thông”. Tha Tâm Thông c̣n gọi là Tha Tâm Trí Thông. Tha Tâm
Trí là cái trí biết được tâm niệm của người
khác. Tha Tâm Trí Thông là thấy rơ hết thảy chúng sanh trong
tâm đang nghĩ ǵ như gương sáng hiện rơ muôn
h́nh tượng.
Thâm ư của lời nguyện này là như ngài Trừng
Hiển nói: “Thế tục c̣n
coi việc hiểu ḷng người khác là quan trọng, huống
hồ bậc xuất thế lợi lạc chúng sanh”.
Sách Hội Sớ lại giảng: “V́ vậy nguyện rằng: Thánh chúng trong nước
tôi chẳng cần phải tu tŕ mà tự hiểu tâm người
khác, thuận theo ư thích tiếp độ, giáo hóa không trở
ngại”.
Bản Ngụy dịch ghi lời nguyện này như
sau: “Bất đắc kiến
tha tâm trí, hạ chí bách thiên ức na-do-tha chư Phật quốc
trung chúng sanh tâm niệm giả, bất thủ Chánh Giác” (Chẳng thấy được tâm trí
người khác, tối thiểu là biết được
tâm niệm của chúng sanh trong trăm ngàn ức na-do-tha các
cơi Phật, chẳng lấy Chánh Giác).
Khi chú giải đoạn kinh này, hậu thế cũng
có hai thuyết:
- Một là chữ “tối
thiểu” (hạ chí) ám chỉ: Với mức độ
thấp nhất, Tha Tâm Thông đă biết được cả
trăm ngàn ức na-do-tha cơi Phật. Với bậc thượng,
ắt biết được bất khả thuyết bất
khả thuyết Phật sát vi trần số cơi Phật
trong mười phương.
- Hai là chữ “hạ”
đó chỉ tâm niệm của chúng sanh, c̣n nếu bàn về
bậc thượng th́ sẽ biết được tâm niệm
của chư Phật, Bồ Tát. Sách B́nh Giải bảo: “Nhị Thừa chỉ hiểu
được thô tâm của phàm phu và tiểu thánh, chẳng
biết được tế tâm. Chư Phật Bồ Tát
thấu hiểu tâm vi tế, thậm chí biết được
cả Phật tâm. Bồ Tát cơi An Dưỡng cũng giống
như vậy”. An Dưỡng là tên khác của Cực Lạc
thế giới. Trong số các Bồ Tát văng sanh cơi Cực Lạc,
đa số những vị Bồ Tát bậc thượng
đă là Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, họ lại
được Di Đà hoằng nguyện gia tŕ nên biết
được cả Phật tâm.
Chánh kinh:
我 作 佛 時,所 有 眾 生,生 我 國 者,皆 得 神 通 自 在,波 羅 密 多。於 一 念 頃,不 能 超 過 億 那 由 他 百 千 佛 剎,周 徧 巡 歷 供 養 諸 佛 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật thời, sở
hữu chúng sanh, sanh ngă quốc giả, giai đắc thần
thông tự tại, Ba La Mật Đa. Ư nhất niệm
khoảnh, bất năng siêu quá ức na-do-tha bách thiên Phật
sát, châu biến tuần lịch cúng dường chư Phật
giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều
được thần thông tự tại, Ba La Mật
Đa. Trong khoảng một niệm chẳng thể vượt
qua ức na-do-tha trăm ngàn cơi Phật, đến khắp
tất cả [các cơi ấy] cúng dường chư Phật
th́ chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện thứ mười:
Thần Túc Thông, nguyện mười một: Cúng dường
khắp chư Phật)
Giải:
Chương này nói đến nguyện thứ mười
“Thần Túc Thông” và nguyện
mười một “cúng dường
khắp chư Phật”. Lời kinh nói gộp hai nguyện.
Trong câu “châu biến
tuần lịch cúng dường chư Phật” (đến khắp tất cả cúng dường
chư Phật), chữ “tuần lịch” (巡 歷: đến khắp, đi qua trọn khắp) là nguyện
thứ mười, “cúng dường”
là nguyện thứ mười một.
“Ba La Mật Đa” (Paramita) hoặc
Ba La Mật dịch là Sự Cứu Cánh, Đáo Bỉ Ngạn,
Độ Vô Cực, hoặc chỉ dịch gọn là Độ. Đại
hạnh của Bồ Tát có thể hoàn thành trọn vẹn
hết thảy tự hạnh và sự nghiệp hóa độ
người khác, nên gọi là Sự Cứu Cánh. Bồ Tát
nương những đại hạnh ấy có thể từ
bờ này sanh tử vượt đến được
bờ kia Niết Bàn rốt ráo nên gọi là Đáo Bỉ Ngạn
(Ba La là bờ kia, Mật Đa là đến, theo văn phạm
phương kia (Ấn Độ) là Bỉ Ngạn Đáo,
tiếng Hán là Đáo Bỉ Ngạn). Do đại hạnh ấy
sẽ thấu đạt được sự sâu rộng
của các pháp nên gọi là “độ
vô cực”.
Sanh về cơi kia liền đầy đủ thần
thông (Thần là diệu dụng chẳng thể lường
nổi, Thông là dung thông tự tại) tự tại vô ngại,
có thể triệt để quán triệt hết thảy tự
hạnh và sự nghiệp hóa độ người khác,
nên bảo là “thần thông tự
tại Ba La Mật Đa”.
Câu “ư nhất
niệm khoảnh…siêu quá ức na-do-tha bách thiên Phật sát” (trong khoảng một niệm... vượt
qua ức na-do-tha trăm ngàn cơi Phật) diễn tả Thần
Túc Thông, c̣n gọi là Thần Túc Trí Thông, Thần Cảnh Trí
Thông, Thân Như Ư Thông, Thân Thông. “Na-do-tha”
(Nayuta) là Ức (một vạn vạn).
Thời cổ, Trung Hoa hiểu chữ Ức theo ba cách khác
nhau: mười vạn, trăm vạn, ngàn vạn. V́ vậy,
các vị cổ đức cũng phán định con số
này không đồng nhất.
Sách Hội Sớ giảng chữ “thần túc” (cũng gọi là Như Ư Túc) như
sau:
“Thần Túc có ba loại:
1. Vận thân hành: Bay
trên không giống như chim bay.
2. Thắng giải thông:
Với chỗ xa xôi nhất, chỉ tác ư tư duy liền tới
ngay đó.
3. Ư thế thông: Với
chỗ xa xôi nhất, tâm vừa nghĩ đến, thân
đă ở đấy”.
Sách Đại Luận lại bảo: “Như Ư Thông có ba thứ: Năng Đáo, Chuyển Biến,
Thánh Như Ư. Năng Đáo có bốn thứ:
1. Một là thân bay được
đến đó như chim không trở ngại.
2. Biến xa thành gần, chẳng
qua đó mà đến được nơi ấy.
3. Biến mất chỗ này
hiện ra chỗ kia.
4. Trong một niệm đến
ngay nơi đó.
Chuyển Biến là biến
nhỏ thành lớn, biến lớn thành nhỏ, biến một
thành nhiều, nhiều biến thành một. Với các vật
đều chuyển biến được. Ngoại đạo
biến hóa không lâu được hơn bảy ngày. Chư
Phật và đệ tử chuyển biến tự tại,
chẳng có gần, xa.
Thánh Như Ư là ngay trong lục
trần, có thể quán vật bất tịnh chẳng
đáng ưa là tịnh, quán vật khả ái thanh tịnh
thành vật bất tịnh. Chỉ ḿnh đức Phật
đắc pháp Như Ư Trí này”.
Câu “ư nhất niệm
khoảnh” (trong khoảng một niệm) ư nói thời
gian rất ngắn. Bao lâu là một Niệm? Có nhiều thuyết
khác nhau, xin coi lời giải thích trong phần trước.
Theo sách Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập th́ một sát-na là một
niệm, cũng như theo Đại Luận: “Trong khoảng khảy ngón tay có sáu mươi sát-na”,
ta thấy rằng một niệm lâu bằng một phần
sáu mươi thời gian khảy ngón tay. Như vậy, một
niệm cực ngắn ngủi.
Trong khoảng một sát-na cực ngắn như thế
đă có thể “siêu quá ức
na-do-tha bách thiên Phật sát châu biến tuần lịch” (vượt qua ức na-do-tha trăm ngàn cơi Phật,
đi khắp tất cả) th́ hiển nhiên, thần thông
diệu dụng của người cơi Cực Lạc chẳng
thể nghĩ bàn.
“Na-do-tha” là một con số,
từ xưa đă có nhiều thuyết. Nhỏ nhất là
như sách Huyền Ứng Âm Nghĩa bảo: “Na-do-tha là mười vạn của
Trung Quốc”. Lớn hơn là: “Đời Tùy, na-do-tha là một ngàn vạn” (các thuyết
khác chẳng dẫn ra). Như vậy, khó ḷng xác định
na-do-tha lớn bao nhiêu, nhưng ta có thể đoan chắc “na-do-tha trăm ngàn” là một
con số rất lớn đến nỗi khó thể tính biết
nổi.
Trong một sát-na vượt qua được những
cơi Phật nhiều đến như vậy là ngụ ư:
Đến được những cơi rất xa.
Câu “châu biến tuần lịch”
(đi khắp tất cả) ngụ ư: Con số cơi
nước họ đến cực lớn. Câu “cúng dường chư Phật”
ngụ ư: Tuy phát khởi lên rất nhiều sự, nhưng
chỉ trong khoảng một niệm đều viên măn thành
tựu được hết tất cả những sự
việc ấy. Rơ ràng cơi nước Cực Lạc sự sự
vô ngại, một tức là nhiều, nhiều tức là một,
kéo dài, rút ngắn đồng thời, hạt cải dung nhập
núi Tu Di, mười phương chẳng rời khỏi
nơi ḿnh đang trụ. Trong một niệm cúng trọn tất
cả, ba đời nào khác một niệm, đương
hạ tức thị[5],
thâu tóm trọn vẹn không sót. V́ vậy, ta thường
nói: “Hoa Tạng nào khác Cực Lạc, Tịnh Độ chứa
trọn sự huyền diệu”.
Chánh kinh:
我 作 佛 時,所 有 眾 生,生 我 國 者,遠 離 分 別,諸 根 寂 靜。若 不 決 定 成 等 正 覺,證 大 涅 槃 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật thời, sở
hữu chúng sanh, sanh ngă quốc giả, viễn ly phân biệt,
chư căn tịch tĩnh. Nhược bất quyết
định thành Đẳng Chánh Giác, chứng đại Niết
Bàn giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi xa rời phân
biệt, các căn tịch tĩnh. Nếu họ chẳng
quyết định thành Đẳng Chánh Giác, chứng Đại
Niết Bàn, th́ chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện mười hai:
Quyết định thành Chánh Giác)
Giải:
Đây là nguyện thứ mười hai: “Chắc chắn thành Chánh Giác”.
Văng sanh là quyết định thành Phật; điều
này thể hiện thật rơ tâm nguyện Phật Di Đà: chỉ
dùng một Phật thừa để đưa trọn vô
biên chúng sanh vào Niết Bàn rốt ráo.
Câu “viễn ly phân biệt, chư
căn tịch tĩnh” (xa rời phân biệt,
các căn tịch tĩnh) trích từ bản Tống dịch.
Câu “nhược bất quyết
định thành Đẳng Chánh Giác, chứng đại Niết
Bàn giả, bất thủ Chánh Giác” (nếu chẳng quyết định thành Đẳng
Chánh Giác, chứng đại Niết Bàn, th́ chẳng lấy
Chánh Giác) trích từ bản Đường dịch. Bản Ngụy
dịch ghi là: “Bất trụ
Định Tụ, tất diệt độ giả, bất
thủ Chánh Giác” (Chẳng trụ
Định Tụ, đều diệt độ th́ chẳng
lấy Chánh Giác).
Khi đại sư Thiện Đạo chú giải bản
Ngụy dịch, lắm chỗ Ngài dẫn bản Đường
dịch để làm rơ thêm ư nghĩa. Đại sư đặt
cho nguyện này bốn cái tên: Một là nguyện “ắt đạt diệt độ”,
hai là nguyện “chứng đại
Niết Bàn”, ba là nguyện “vô
thượng Niết Bàn”, bốn là nguyện “trụ tướng chứng quả”.
Sách B́nh Giải ca tụng: “Cao
tổ (chỉ ngài Thiện Đạo) đặt tên các nguyện đă hiển lộ tột
cùng ư nghĩa lời nguyện vậy”. Nay hội bản
không những đă trích lấy câu kinh từ bản Đường
dịch, lại c̣n đặt tên nguyện này là nguyện “quyết thành Chánh Giác” th́ thật
là rất phù hợp ư chỉ đại sư Thiện Đạo
vậy.
Trong bốn mươi tám nguyện, đại sư
Thiện Đạo gọi năm nguyện “quyết thành Chánh Giác”, “quang minh vô lượng”, “thọ
mạng vô lượng”, “chư Phật khen ngợi” và “mười niệm ắt
được văng sanh” là chân thật nguyện. Ngài coi
chúng là tâm yếu của cả bốn mươi tám nguyện.
Như vậy, nguyện này là tâm tủy của Di Đà hoằng
thệ.
Bổn hoài của đức Phật chỉ là cốt
sao khiến cho hết thảy chúng sanh quyết định
thành Phật. Để thực hiện lời nguyện này,
Ngài lại có đại nguyện thù thắng “mười niệm ắt văng
sanh”, chúng sanh chỉ việc nương theo con
đường tắt cực viên, cực đốn, giản
dị bậc nhất, niệm Phật văng sanh, sẽ quyết
định thành Phật.
Chữ “phân biệt” dùng
trong lời nguyện nghĩa là suy nghĩ, hiểu biết
được Sự và Lư th́ gọi là “phân biệt”. Do lấy
phân biệt hư vọng làm thể tánh, nên đối với
pháp vô phân biệt lại lầm lạc sanh ḷng phân biệt
là Ngă hay là Pháp. Bởi vậy, phân biệt hư vọng gọi
là “phân biệt Hoặc”. Đoạn
được cái “phân biệt
Hoặc” ấy th́ gọi là
Vô Phân Biệt Trí. Sách Duy Thức Thuật Kư, quyển bảy
giảng: “Phân biệt là tâm tam
giới hữu lậu, là tâm sở pháp[6],
nó lấy phân biệt hư vọng làm tự thể”. Chữ
“viễn ly phân biệt” trong
lời nguyện có nghĩa là rời bỏ, đoạn trừ
phân biệt vọng hoặc, hiểu rơ “Chân Như chính là vạn pháp, vạn pháp chính là Chân
Như”.
“Tịch tĩnh”: Ĺa phiền
năo là Tịch (寂), dứt khổ sở là Tĩnh
(静); tức là lư Niết Bàn. Sách Tư Tŕ Kư giảng:
“Tịch tĩnh là lư Niết
Bàn”. Quyển thượng sách Văng Sanh Yếu Tập
cũng bảo: “Hết thảy
các pháp vốn tịch tĩnh, chẳng có, chẳng không”.
“
Giảng rộng hơn chút nữa, đức Thế
Tôn hiệu là Thích Ca Mâu Ni, Mâu Ni nghĩa là Tịch Mặc
hay Tịch Tĩnh. Sách Nhân Vương Kinh Hiệp Sớ, quyển
thượng giảng: “Mâu Ni là
tên, Hán dịch thành Tịch Mặc do ba nghiệp đều
tịch mặc (vắng lặng)”. Sách Lư Thú Thích bảo:
“Mâu Ni nghĩa là Tịch
Tĩnh. Thân, khẩu, ư tịch tĩnh nên gọi là Mâu Ni”.
Thân, khẩu, ư tịch tĩnh chính là ư nghĩa câu “chư căn tịch tĩnh”
trong kinh này. Tịch tĩnh lại chính là lư thể của
Niết Bàn! Do xa ĺa phân biệt vọng hoặc, các căn tịch
tĩnh nên khế nhập lư Niết Bàn.
Bởi vậy, kinh dạy tiếp: “Quyết định thành Đẳng Chánh Giác, chứng
đại Niết Bàn”. “Đẳng Chánh Giác” là “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác” nói tắt. “Đại Niết
Bàn” cũng là tên khác của Phật Quả, dịch
nghĩa là Nhập Diệt, nói đầy đủ là “bát Niết Bàn”. “Bát” (般) có nghĩa là Viên, Hán dịch
Niết Bàn là Tịch. Do vậy, “bát
Niết Bàn” dịch là “viên tịch”.
Nghĩa lư đầy ắp cả thế giới, đức
lại nhiều như trần sa nên gọi là “viên”. Thể
tột cùng chân tánh (bản thể cùng tột Chân Như pháp
tánh), diệu tuyệt tướng lụy (đoạn tuyệt
được các vướng mắc vào h́nh tướng một
cách vi diệu) là “tịch”. Trong Tâm Kinh Lược Sớ, tổ
Hiền Thủ giảng: “Niết
Bàn, Hán dịch là Viên Tịch, nghĩa là: Không đức ǵ
chẳng đủ nên bảo là Viên, không chướng ǵ chẳng
hết nên gọi là Tịch”.
Đại Niết Bàn là Niết Bàn của Đại Thừa,
gọi là Đại để phân biệt với Niết Bàn của
Tiểu Thừa. Niết Bàn của Đại Thừa có đủ
ba đức: Pháp Thân, Bát Nhă và Giải Thoát, đủ bốn
nghĩa: Thường, Lạc, Ngă, Tịnh, ĺa khỏi hai
thứ sanh tử phần đoạn và biến dịch,
đầy đủ vô biên thân trí. Đó là Đại Thừa Niết
Bàn.
Trong ba đức, Niết Bàn của Nhị Thừa chỉ
có Giải Thoát; trong bốn nghĩa chỉ có Thường,
Lạc, Tịnh, chỉ ĺa phần đoạn, vẫn c̣n
biến dịch sanh tử. Niết Bàn của Tiểu Thừa
chỉ chú trọng nát thân diệt trí.
Chánh kinh:
我 作 佛 時,光 明 無 量,普 照 十 方,絕 勝 諸 佛,勝 於 日 月 之 明 千 萬 億 倍。若 有 眾 生,見 我 光 明,照 觸 其 身,莫 不 安 樂,慈 心 作 善,來 生 我 國。若 不 爾 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật
thời, quang minh vô lượng, phổ chiếu thập
phương, tuyệt thắng chư Phật, thắng
ư nhật nguyệt chi minh thiên vạn ức bội. Nhược hữu chúng sanh, kiến ngă
quang minh, chiếu xúc kỳ thân, mạc bất an lạc, từ
tâm tác thiện, lai sanh ngă quốc. Nhược bất
nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
quang minh vô lượng chiếu khắp mười
phương vượt hẳn chư Phật, hơn hẳn
quang minh của mặt trời, mặt trăng ngàn vạn ức
lần. Nếu có chúng sanh thấy quang minh của tôi chiếu
chạm vào thân, không ai là chẳng an vui, từ tâm làm lành,
sanh về cơi tôi. Nếu chẳng được vậy, chẳng
lấy Chánh Giác.
(Nguyện mười ba:
Quang minh vô lượng; nguyện mười bốn: Quang
minh soi đến được an vui)
Giải:
Chương này gồm hai nguyện: Từ câu “thiên vạn ức bội” (ngàn
vạn ức lần) trở lên là nguyện thứ mười
ba: “Quang minh vô lượng”;
từ chữ “nhược hữu
chúng sanh” (nếu có chúng sanh) trở đi là nguyện thứ
mười bốn: “Quang minh
soi đến được an lạc”.
Ngài Tịnh Ảnh bảo nguyện thứ mười
ba này và nguyện thứ mười lăm “thọ mạng vô lượng” là những nguyện
“nhiếp Pháp Thân”, v́ các nguyện
này nhằm để thành tựu Pháp Thân.
Sách B́nh Giải cho rằng hai nguyện ấy thể hiện
cái đức của chân Báo Thân, c̣n cho rằng cả hai
nguyện “quang minh và thọ mạng
vô lượng” là “cái gốc
đại bi của phương tiện Pháp Thân”.
Thọ vô lượng là theo chiều dọc cùng tột
cả ba đời, do Phật thân thường trụ nên
chúng sanh có chỗ để nương tựa. Quang minh vô
lượng là theo chiều ngang trọn khắp cả
mười phương, đức dụng trọn khắp,
nhiếp hóa vô tận. V́ vậy, quang minh và thọ lượng
là cái gốc của phương tiện đại bi, là thật
đức của Báo Thân. Như vậy, thệ nguyện
quang minh và thọ mạng vô lượng của Phật Di
Đà thật ra chỉ là để khiến cho hết thảy
chúng sanh đều có quang minh và thọ mạng vô lượng.
Sách Văng Sanh Luận lại bảo: “Ba thứ trang nghiêm vào trong một pháp cú. Một pháp
cú chính là thanh tịnh cú, tức là chân thật trí huệ vô
vi Pháp Thân”. Ba thứ trang nghiêm chính là các thứ y báo,
chánh báo trang nghiêm thù thắng đă được bốn
mươi tám nguyện đề cập đến. “Nhập vào một pháp cú” là
hoàn toàn quy về chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân.
Do vậy, sách B́nh Giải bảo: “Nếu xét về sở chứng của Phật th́ bốn
mươi tám nguyện đều quy về quang thọ
Pháp Thân”, nghĩa là: Y báo, chánh báo của cơi Cực Lạc
chỉ từ Pháp Thân của Phật Di Đà hiện ra, cho nên
bốn mươi tám nguyện hiển bày trọn vẹn
Pháp Thân.
Về mặt độ sanh, sách B́nh Giải lại bảo:
“Xét về mặt độ
sanh th́ nguyện nào cũng v́ chúng sanh, nên nói: Bốn
mươi tám nguyện nhiếp thọ chúng sanh”. Lại
bảo: “Mỗi một thệ
nguyện đều v́ chúng sanh vậy”. Bốn
mươi tám nguyện như vậy dung chứa lẫn
nhau chẳng thể nghĩ bàn.
Ư nghĩa của lời nguyện trên như sau: Lúc Pháp
Tạng tôi thành Phật, nguyện cho quang minh của tôi vô
lượng vô biên, “phổ chiếu
thập phương” (chiếu khắp mười
phương) hết thảy các cơi nước dù uế hay
tịnh.
Ngài Vọng Tây giảng:
“Theo chiều ngang, do mười
phương hư không vô biên nên quốc độ cũng
vô biên. Do quốc độ vô biên nên chúng sanh cũng vô biên.
Do chúng sanh vô biên nên đại bi cũng vô biên. Do đại
bi vô biên nên quang minh cũng vô biên. Do quang minh vô biên nên nhiếp
thủ, tạo lợi ích cũng vô biên. Nói tóm lại, v́ muốn
làm lợi ích vô biên nên quang minh vô biên”. Theo ư Ngài Vọng
Tây, ta có thể hiểu đoạn kinh này như sau: Do muốn
làm lợi ích vô biên nên quang minh vô biên, đầy đủ
các đức vô cùng tận vậy.
“Tuyệt thắng chư Phật,
thắng ư nhật nguyệt chi minh thiên vạn ức bội”
(Vượt trỗi chư Phật,
hơn hẳn quang minh của mặt trời, mặt
trăng ngàn vạn ức lần): Phẩm Quang Minh Biến
Chiếu (quang minh chiếu khắp) trong kinh này có chép: “Chư Phật quang minh sở
chiếu viễn cận, bổn kỳ tiền thế cầu
đạo, sở nguyện công đức đại tiểu
bất đồng. Chí tác Phật thời, các tự đắc
chi, tự tại sở tác, bất vi dự kế. A Di
Đà Phật quang minh thiện hảo, thắng ư nhật
nguyệt chi minh thiên ức vạn bội” (Quang minh của chư Phật chiếu xa hay gần
là do đời trước khi cầu đạo nguyện
được công đức lớn hay nhỏ sai khác. Lúc
thành Phật, mỗi vị tự cảm được
[quang minh] để biến hiện tự tại, chẳng
tính toán trước. A Di Đà Phật quang minh tốt lành, trỗi
hơn quang minh của mặt trời, mặt trăng ngàn vạn
ức lần). Như vậy, A Di Đà Phật quang minh vượt
xa chư Phật là do nguyện lực đời trước
siêu tuyệt nên ngày nay tự nhiên được như vậy.
V́ thế, trong kinh c̣n dạy: “A Di Đà
Phật oai thần quang minh tối tôn đệ nhất. Thập
phương chư Phật sở bất năng cập” (A Di Đà Phật oai thần quang minh cao quư bậc
nhất, mười phương Như Lai chẳng thể
bằng được nổi).
Kinh Đại Pháp Cự Đà Ra Ni nói chư Phật có hai thứ
quang minh: Thường quang và phóng quang. Thường quang th́
viên minh vô ngại, không lúc nào chẳng chiếu. Phóng quang là
dùng ánh sáng để cảnh tỉnh người khác, tùy
lúc mà chiếu hoặc tỏa ra, hoặc thâu vào, tùy nghi tự
tại. Quang minh nói trong lời nguyện đây là thường
quang.
Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ dạy:
“Bỉ Như Lai hằng phóng
vô lượng vô biên diệu quang, biến chiếu nhất
thiết thập phương Phật độ, thi tác Phật
sự” (Đức Như
Lai ấy luôn phóng ra vô lượng vô biên quang minh mầu nhiệm,
chiếu khắp hết thảy mười phương
cơi Phật thực hiện Phật sự). Đây là chứng cớ
để nói quang minh được đề cập trong
nguyện này là thường quang.
Nguyện thứ mười bốn thuật rơ quang minh
của Phật đầy đủ diệu đức lợi
ích chúng sanh. “Kiến ngă
quang minh, chiếu xúc kỳ thân” (Thấy quang minh của tôi chiếu chạm đến
thân): Hễ ai thấy được quang minh của Phật
và được quang minh của Phật chiếu vào thân th́
“mạc bất an lạc, từ
tâm tác thiện, lai sanh ngă quốc” (không ai chẳng
được an vui, từ tâm làm lành, sanh về cơi tôi).
Phẩm Quang Minh Biến Chiếu trong kinh này có chép: “Ngộ tư quang giả, cấu
diệt thiện sanh, thân ư nhu nhuyễn. Nhược tại
tam đồ cực khổ chi xứ, kiến thử quang
minh, giai đắc hưu tức. Mạng chung giai đắc
giải thoát” (Gặp được ánh sáng này, phiền
năo diệt, điều lành sanh trưởng, thân ư nhu nhuyễn.
Nếu đang ở trong chốn tam đồ cực khổ
mà được thấy quang minh này th́ [mọi sự khổ]
đều được ngưng nghỉ, chết đi
đều được giải thoát). Đấy chính là ư nghĩa của câu “mạc bất an lạc, từ
tâm tác thiện” (không ai chẳng
an vui, từ tâm làm lành).
Sách Lễ Tán cũng viết: “Di Đà Thế Tôn vốn phát thệ nguyện sâu nặng,
dùng quang minh, danh hiệu nhiếp hóa mười phương”.
Lại như Quán Kinh nói:
“Quang minh biến chiếu thập phương thế giới
niệm Phật chúng sanh, nhiếp thủ bất xả” (Quang minh chiếu khắp chúng
sanh niệm Phật trong mười phương thế giới,
nhiếp thủ chẳng bỏ).
Nói “quang minh nhiếp thủ”
chính là nói về nguyện này. Gặp được ánh sáng
ấy đều được văng sanh nên bảo: “Lai sanh ngă quốc” (Sanh về
cơi tôi). Câu này hiển thị quang minh có lợi ích chẳng
thể nghĩ bàn.
Do những điều trên, ta thấy rằng tuy quang
minh là đức tướng nơi thân Phật, nhưng
quang minh ấy thật ra là để lợi lạc chúng
sanh. V́ vậy, người xưa bảo: “Bốn mươi tám nguyện đều hiển thị
Pháp Thân”, lại c̣n bảo: “Mỗi
một thệ nguyện đều v́ chúng sanh”.
Chánh kinh:
我 作 佛 時,壽 命 無 量,國 中 聲 聞 天 人 無 數,壽 命 亦 皆 無 量。假 令 三 千 大 千 世 界 眾 生,悉 成 緣 覺,於 百 千 劫,悉 共 計 校,若 能 知 其 量 數 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật thời, thọ
mạng vô lượng. Quốc trung Thanh Văn, thiên, nhân vô
số, thọ mạng diệc giai vô lượng. Giả
linh tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh tất
thành Duyên Giác, ư bách thiên kiếp, tất cộng kế giảo, nhược năng tri kỳ lượng
số giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
thọ mạng vô lượng. Trong nước tôi, Thanh
Văn, trời, người vô số, thọ mạng
cũng đều vô lượng. Giả sử chúng sanh
trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành
Duyên Giác, trong trăm ngàn kiếp cùng nhau tính toán mà biết nổi
số lượng ấy th́ chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện mười
lăm: Thọ mạng vô lượng; nguyện mười
sáu: Thanh Văn vô số)
Giải:
Chương này gồm nguyện thứ mười
lăm “thọ mạng vô lượng”
và nguyện mười sáu “Thanh
Văn vô số”.
Trong nguyện thọ mạng vô lượng, không những
thọ mạng của Phật vô lượng, mà vô số
Thanh Văn, trời, người trong cơi ấy cũng
đều thọ mạng vô lượng. Trong bản Ngụy
dịch, nguyện này được tách ra làm hai, đủ
thấy bốn mươi tám nguyện trong hội bản
đây gói trọn bốn mươi tám nguyện đức
của Phật Di Đà, chi tiết hơn bất cứ bản
cổ dịch nào.
Trong nguyện thứ mười lăm “thọ mạng vô lượng”, trước tiên
kinh bảo vị giáo chủ cơi ấy thọ mạng vô
lượng. Kinh Pháp Hoa nói về thọ mạng của
Sơn Hải Huệ Như Lai như sau: “Thọ mạng vô hữu lượng, dĩ mẫn
chúng sanh cố” (Thọ mạng chẳng hạn lượng
v́ thương xót chúng sanh). Ấy là v́ nếu đức Phật
chỉ trụ thế trong một thời gian ngắn th́ sự
giáo hóa cũng ngắn ngủi, chúng sanh khó thể gặp gỡ
được. Giáo chủ ở lâu nơi đời th́
hóa duyên vô cùng, lợi lạc chúng sanh vô tận. V́ vậy,
ngài Trừng Hiến khen ngợi: “Phật thọ vô lượng là hạnh đức
giáo hóa đến tột bậc, ai lại chẳng khâm
ngưỡng lời nguyện ấy hay sao?”
Hơn nữa, Di Đà là Báo Thân Phật, Cực Lạc là
báo độ (cơi của Báo Thân Phật ngự), giáo chủ
thọ mạng vô lượng th́ thật sự là vô lượng,
chứ chẳng phải là vô lượng của hữu
lượng (cụm từ “vô lượng của hữu
lượng” chỉ con số Vô Lượng rất lớn
được nói trong kinh Hoa Nghiêm, dẫu rất lớn
nhưng vẫn tính đếm được, nên gọi là
“vô lượng của hữu lượng”). Nói theo ngôn ngữ
hiện đại, thọ mạng vô lượng là vô
lượng tuyệt đối, chứ chẳng phải
vô lượng một cách tương đối.
Tiếp đó, kinh văn bảo thọ mạng của
nhân dân trong cơi ấy cũng vô lượng. Ngài Trừng Hiến
khen: “Nhân dân thọ mạng vô
lượng là đức tánh bậc nhất của Tịnh
Độ”, rồi giải thích như sau: “Tu hành Phật đạo chỉ e sợ Tử Ma v́
sự gián đoạn giữa sống và chết chính là
căn nguyên tạo duyên thoái thất. Gặp Phật, nghe
pháp, gặp gỡ thánh chúng, cúng dường chư Phật,
thân cận bạn lành, khoái lạc tự nhiên, chẳng có
các khổ, [cơi Cực Lạc] chẳng phải chỉ có một
đức tánh ấy... Nếu thọ mạng ngắn ngủi,
di hận khó tính nổi, khác nào chén ngọc không đáy. Lời
nguyện này thật là tối quan trọng” (Chén ngọc
đúng thật là của quư, nhưng thủng đáy th́ chẳng
ra cái ǵ). Ngài Vọng Tây cũng bảo: “Căn bản của các sự vui [nơi cơi Cực
Lạc] chỉ thuộc nơi nguyện này”. Lại
như Tịnh Độ Quần Nghi Luận bảo: “Nhân dân cơi ấy thọ cực
dài lâu, dẫu cho là phàm phu vẫn c̣n thuộc biến dịch
sanh tử (ư nói họ đă đoạn hết phần
đoạn sanh tử, chỉ c̣n biến dịch sanh tử)
nhưng cũng rốt ráo thành
Phật”. Đó là v́ khi đă sanh về Cực Lạc, gặp
Phật nghe pháp, trong hết thảy thời, hết thảy
chỗ đều tăng thượng, chẳng có duyên
thoái chuyển, thọ mạng lại vô lượng, nên chẳng
luận là căn khí nào đi nữa, hễ sanh về cơi ấy
sẽ quyết định thành Phật. Điều này
được xưng tụng là đức tánh bậc nhất
của Tịnh Độ kể cũng chẳng ngoa!
Nguyện thứ mười sáu là Thanh Văn vô số.
Kinh chép: “Quốc
trung Thanh Văn, thiên, nhân vô số” (Thanh Văn, trời người trong nước
vô số), ngài Trừng Hiến bảo: “A Di Đà Phật có đệ tử vô lượng,
đó là một trong ba thứ vô lượng”. Ba thứ
vô lượng là quang minh vô lượng, thọ mạng vô
lượng và quyến thuộc vô lượng. Lời nguyện
chỉ nói đến Thanh Văn, nhưng ngụ ư kể cả
Duyên Giác.
Nếu có kẻ ngờ vực: Kinh Bi Hoa dạy: “Vô hữu Thanh Văn, Bích Chi Phật
thừa, sở hữu đại chúng thuần thị Bồ
Tát, vô lượng vô biên” (Chẳng có Thanh Văn và Bích
Chi Phật thừa. Tất cả đại chúng thuần
là Bồ Tát vô lượng vô biên), sao kinh này lại bảo “Thanh Văn vô số”? Hai câu
kinh này dường như mâu thuẫn nhau, nhưng nghĩa
lư thật sự chẳng trái nghịch nhau. Với ba bậc
văng sanh, kinh này đều bảo “phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm”.
Ba bậc văng sanh đều đă phát Bồ Đề tâm th́ hạnh
của họ phải thuộc Bồ Tát Thừa, nên kinh Bi
Hoa bảo “thuần là Bồ
Tát”. Trong cơi ấy, gọi là Thanh Văn, Duyên Giác là chỉ
căn cứ trên mức độ đoạn được
Hoặc Chướng mà nói: Tuy đă đoạn được
Kiến Hoặc, Tư Hoặc, nhưng chưa phá nổi
Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc th́ gọi là Thanh Văn,
chứ đâu phải là hạng Nhị Thừa chỉ cầu
tự độ. Nếu chỉ cầu tự độ,
chẳng nguyện độ người khác, làm sao phát nổi
Bồ Đề tâm? Chẳng phát Bồ Đề tâm, chẳng
được văng sanh!
Xét ra, bản Tống dịch nói rơ ư nghĩa này nhất.
Bản Tống dịch ghi: “Ngă đắc
Bồ Đề thành Chánh Giác dĩ, sở hữu chúng sanh
linh sanh ngă sát. Tuy trụ Thanh Văn, Duyên Giác chi vị, văng
bách thiên câu-chi na-do-tha bảo sát chi nội, biến tác Phật
sự, tất giai linh đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề” (Tôi đắc Bồ
Đề thành Chánh Giác rồi, khiến cho tất cả chúng
sanh sanh trong nước tôi tuy trụ địa vị Thanh
Văn, Duyên Giác, nhưng đi đến trăm ngàn câu-chi
na-do-tha cơi báu làm đủ các Phật sự để khiến
cho [chúng sanh trong các cơi ấy] đều đắc A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề). Xét ra, Thanh Văn
chẳng nghe tới danh hiệu Phật phương khác, chỉ
cầu Tiểu Thừa Niết Bàn, chẳng cầu Phật
quả, thế nhưng nhân dân cơi Cực Lạc tuy gọi
là Thanh Văn mà lại đi tới vô số cơi Phật xa
xôi, làm vô lượng Phật sự, độ cho vô biên
chúng sanh đều thành Phật th́ đấy chính là hành vi
của bậc Bồ Tát, há dám bảo họ đều là
Thanh Văn thật sự hay không? Những người
được gọi là Thanh Văn ấy đều
đă phát đại tâm Bồ Tát, hành đại hạnh Bồ
Tát, hướng đến đại quả vô thượng,
họ thật đúng như kinh Bi Hoa bảo: “Thuần thị Bồ Tát” (Thuần
là Bồ Tát) vậy.
Tiếp theo đó, kinh lại dạy: “Giả linh tam thiên đại thiên thế
giới chúng sanh tất thành Duyên Giác, ư bách thiên kiếp,
tất cộng kế giảo, nhược năng tri kỳ
lượng số giả, bất thủ Chánh Giác” (Giả sử chúng sanh trong tam thiên đại
thiên thế giới đều thành Duyên Giác, trong trăm
ngàn kiếp chung nhau tính toán; nếu họ biết
được số lượng ấy th́ chẳng lấy
Chánh Giác). Câu kinh này nêu tổng quát các ư nghĩa sau: Phật
thọ vô lượng, nhân dân thọ mạng vô lượng,
đệ tử trong nước ấy vô lượng.
“Tam thiên đại thiên thế
giới” là cảnh giới hóa độ của một
đức Phật. Lấy núi Tu Di làm trung tâm, gộp cả
bốn đại châu, mặt trời, mặt trăng,
chư thiên, ta có một thế giới. Gộp một ngàn
thế giới như vậy lại, ta được một
tiểu thiên thế giới. Gom một ngàn tiểu thiên thế
giới lại, ta được một trung thiên thế
giới. Gom một ngàn trung thiên thế giới lại, ta
được một đại thiên thế giới. Do
trước hết lấy một ngàn thế giới tạo
thành một tiểu thiên, lại đem nhân tiểu thiên lên
một ngàn lần th́ được trung thiên, cuối cùng
đem trung thiên nhân lên một ngàn lần th́ được
đại thiên; ba lượt đem nhân với một ngàn
như thế nên đại thiên thế giới được
gọi là “tam thiên đại
thiên thế giới”. Thật sự chỉ là một
đại thiên thế giới, chứ không phải là ba
ngàn cơi đại thiên thế giới! Một tam thiên đại
thiên thế giới có một ngàn ức (1.000.000.000) thế
giới.
Hiện thời, các nhà thiên văn mới tạm thời
phát hiện được trong vũ trụ có vô lượng
thế giới. Hiện tại, ai cũng biết là mặt
trời và chín đại hành tinh hợp thành một Thái
Dương Hệ. Địa cầu chỉ là một ngôi sao
xoay quanh mặt trời trong Thái Dương Hệ. Mặt
trời chẳng những tự xoay mà nó c̣n đi ṿng quanh
trung tâm của một ngân hà tinh vân (hiện thời, khoa học
tạm gọi đó là một hắc đỗng (black hole)
mất một thời gian ước chừng hai vạn vạn
năm. Mặt trời chỉ là một hằng tinh trong dải
tinh vân mang tên Ngân Hà. Dải Ngân Hà có chừng một ngàn ức
hằng tinh. Trong vũ trụ có vô lượng tinh vân. Bản
thân tinh vân cũng đang xoay vần, Ngân Hà cũng chỉ
là một thiên thể lớn trong vũ trụ. Cứ tính rộng
dần dần như thế chẳng biết đâu là cùng
tận. Điều phát hiện mang tính cách sơ khởi của
Thiên Văn học quả đă chứng thực điều
kinh dạy: “Thế giới vô
lượng”. Tam thiên đại thiên thế giới chỉ
là cảnh hóa độ của một đức Phật,
mà do chư Phật vô lượng nên thế giới
cũng vô lượng.
Đại ư của lời nguyện là: Giả sử hết
thảy chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới
đều thành Duyên Giác rồi dùng sức thần thông hợp
lại để tính toán cũng chẳng thể biết nổi
thọ lượng của Phật Di Đà, thọ lượng
của nhân dân cơi ấy và số lượng của người
trong nước ấy.
Chánh kinh:
我 作 佛 時,十 方 世 界,無 量 剎 中,無 數 諸 佛,若 不 共 稱 歎 我 名,說 我 功 德, 國 土 之 善 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật thời, thập
phương thế giới, vô lượng sát trung, vô số
chư Phật, nhược bất cộng xưng thán ngă
danh, thuyết ngă công đức, quốc độ chi thiện
giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
vô số chư Phật trong vô lượng cơi nước
trong mười phương thế giới nếu chẳng
cùng khen ngợi danh hiệu của tôi, thuật sự tốt
lành của cơi nước và công đức của tôi th́ chẳng
lấy Chánh Giác.
(Nguyện mười bảy:
Chư Phật khen ngợi)
Giải:
Đây là nguyện thứ mười bảy: “Chư Phật xưng thán”.
Xưng (稱) là xưng dương, Thán (歎) là tán thán. Bản
Hán dịch ghi: “Ngă tác Phật
thời, linh ngă danh văn bát phương thượng hạ,
vô số Phật quốc, chư Phật các ư đệ
tử chúng trung, thán ngă công đức quốc độ chi
thiện. Chư thiên nhân dân nhuyễn động chi loại,
văn ngă danh tự, giai tất dũng dược, lai sanh
ngă quốc” (Lúc tôi thành Phật, tiếng tăm của tôi vang khắp
tám phương, trên, dưới. Trong vô số cơi nước,
các đức Phật vị nào cũng ngự giữa chúng
đệ tử, khen ngợi công đức và sự tốt
lành của cơi nước tôi. Chư thiên, nhân dân, các loài ngọ
nguậy, ḅ trườn nghe được danh hiệu tôi
thảy đều hớn hở sanh về cơi tôi). Bản
Ngô dịch ghi tương tự.
Ngài Vọng Tây bảo: “Trong
bốn mươi tám nguyện, nguyện này rất thiết
yếu” và “nếu không có
nguyện này, làm sao mười phương [nghe được
danh hiệu Ngài]. Nay chúng ta được gặp gỡ
giáo pháp văng sanh hoàn toàn là nhờ vào nguyện này, khá nên suy
nghĩ kỹ”. Ư của ngài Vọng Tây là nếu không có
nguyện này th́ bọn chúng ta thân đang trong cơi Sa Bà uế
độ, làm sao nghe được danh hiệu của vị
giáo chủ và cơi nước ấy? Dẫu cho cơi ấy, Phật
ấy công đức mầu nhiệm tuyệt vời, thanh
tịnh trang nghiêm, nhưng nếu ta chưa từng
được nghe biết th́ c̣n biết nhờ vào đâu
để phát khởi nguyện thù thắng cầu văng sanh
cơi ấy? V́ vậy, ngày nay bọn chúng ta nghe được
pháp môn Tịnh Độ thật là nhờ vào sức của thệ
nguyện này. Do đó, trong cơi uế độ này, đức
Bổn Sư Thích Ca mới xưng dương, tán thán A Di
Đà Phật và công đức chẳng thể nghĩ bàn của
cơi Cực Lạc cho chúng ta được nghe biết. Bởi
thế, ngài Vọng Tây khen rằng: “Trong bốn mươi tám nguyện, nguyện này quan
trọng nhất”.
Ngài Pháp Tạng cầu nguyện danh hiệu ḿnh vang dội
mười phương chỉ là để nhiếp trọn
mười phương hết thảy chúng sanh văng sanh Cực
Lạc, rốt ráo thành Phật. Nếu không có lời nguyện
này th́ cái nguyện “mười
niệm văng sanh” cũng chỉ vô ích bởi có nghe
được pháp th́ mới biết cách tŕ danh!
Sách Hội Sớ lại giảng câu “xưng thán ngă danh” (khen ngợi danh hiệu của
tôi) như sau:
“Câu ‘xưng thán ngă danh’ có ba
nghĩa:
1. Chư Phật xưng
dương đức hiệu của đức Phật ấy.
2. Chư Phật khen ngợi
người xưng danh như Tiểu Kinh (kinh A Di Đà) thật đă nói rơ chư Phật
hộ niệm người xưng danh.
3. Chư Phật vừa khen
ngợi lại vừa tự ḿnh xưng niệm danh hiệu
A Di Đà Phật”.
Sách c̣n nói thêm: “Tam thế
chư Phật do niệm Di Đà tam-muội mà thành Đẳng
Chánh Giác”.
Ư sách Hội Sớ là: Câu “chư
Phật xưng thán” có ba nghĩa: Chư Phật khen ngợi
thánh hiệu của Phật A Di Đà, chư Phật khen ngợi
hết thảy người tŕ niệm danh hiệu A Di Đà và
bản thân chư Phật cũng xưng niệm thánh hiệu
A Di Đà. Chư Phật nhờ Niệm Phật tam-muội mà
trọn thành Chánh Giác.
Chánh kinh:
我 作 佛 時,十 方 眾 生,聞 我 名 號,至 心 信 樂,所 有 善 根,心 心 回 向,願 生 我 國,乃 至 十 念,若 不 生 者,不 取 正 覺。唯 除 五 逆,誹 謗 正 法。
Ngă tác Phật
thời, thập phương chúng sanh, văn ngă danh hiệu,
chí tâm tín nhạo, sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi
hướng, nguyện sanh ngă quốc, năi chí thập niệm,
nhược bất sanh giả, bất thủ Chánh Giác; duy
trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp.
Lúc tôi thành Phật,
mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi chí tâm
tin ưa, tất cả thiện căn tâm tâm hồi hướng
nguyện sanh cơi tôi, dẫu chỉ mười niệm, nếu
chẳng được sanh th́ chẳng lấy Chánh Giác. Chỉ
trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp.
(Nguyện mười tám:
Mười niệm ắt văng sanh)
Giải:
Đoạn kinh này nói về nguyện thứ mười
tám: “Mười niệm ắt
văng sanh”. Các vị cổ đức thuộc Tịnh
tông Nhật Bản phán định rằng: Trong các kinh, chỉ
ḿnh kinh Hoa Nghiêm là chân thật. Nhưng nếu đem Hoa
Nghiêm so với kinh này th́ kinh này mới là chân. Đem các nguyện
khác so sánh với nguyện này th́ nguyện này chân thật nhất,
nghĩa là: Nguyện này chân thật nhất trong các nguyện
chân thật.
“Chí tâm” là tâm chí thành,
tâm chí cực. Sách Kim Quang Minh Văn Cú nói: “Chí tâm là tột cùng nguồn tâm, tận cùng Thật Tế
của tâm nên bảo là chí tâm”. “Nguồn tâm” là nguồn gốc
của bản tâm. “Thật tế”
là Chân Thật Tế nói trong kinh này. “Tín nhạo” (信 樂: tin ưa) là tin
thuận pháp đă được nghe, do ưa thích nên sanh
ḷng tin hoan hỷ. “Chí” (至) c̣n có nghĩa
là chân thành, thành thật. “Tâm”
(心) là trân trọng,
thành thật. “Tín” (信)
là chân
thật, thành thật, viên măn, trung tín. “Nhạo” (樂) là ham thích, mong
muốn, yêu mến, sung sướng, vui vẻ, mừng rỡ.
Như vậy, “tín tâm” là tấm
ḷng chân thật, thành thực, trọn vẹn, tấm ḷng
mong mỏi yêu thích, tấm ḷng hoan hỷ, mừng rỡ.
Dùng cái tâm như thế để tin yêu, ham thích, nên bảo
là “chí tâm tín nhạo”.
“Thiện căn” là sự lành
nơi ba nghiệp thân, khẩu, ư kiên cố chẳng thể
nhổ trốc gốc được. Do thiện lại
có thể sanh ra diệu quả và các điều lành khác nên
gọi là thiện căn. “Tâm
tâm” là tấm ḷng thuần nhất, tấm ḷng tịnh niệm
liên tục.
Trong chữ Hồi Hướng th́ “hồi” (回) là xoay chuyển, “hướng” là (向) hướng
đến; hồi chuyển công đức ḿnh đă tu
để hướng đến điều ḿnh mong mỏi
th́ gọi là “hồi hướng”.
Sách Hoa Nghiêm Đại Sớ Sao, quyển hai mươi ba có
ghi: “Hồi là chuyển, Hướng
là hướng đến. Chuyển vạn hạnh của
chính ḿnh để hướng đến ba chỗ nên gọi
là hồi hướng... Ba chỗ là chúng sanh, Bồ Đề
và Thật Tế”.
Văng Sanh Luận Chú, quyển hạ cũng bảo: “Hồi hướng là đem công
đức của chính ḿnh thí cho khắp các chúng sanh đều
cùng được thấy A Di Đà Như Lai, sanh về cơi An
Lạc”. Đây chính là ư nghĩa của hai chữ “hồi hướng” trong lời
nguyện.
“Nguyện sanh ngă quốc” (Nguyện sanh
cơi ta) chính là lời hồi hướng: Nguyện cho hết
thảy chúng sanh đều văng sanh cơi nước Cực Lạc.
“Mười niệm” là
như kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy: “Cụ túc thập niệm,
xưng Nam Mô A Di Đà Phật” (Đầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A
Di Đà Phật). Sách Tiên Chú giảng: “Mười lần xưng danh”. Ngài Vọng Tây bảo:
“Trong khoảng mười niệm,
chuyên xưng danh hiệu Phật th́ là mười niệm.
Chữ ‘niệm’ ở đây là xưng Nam Mô A Di Đà Phật.
Đọc hết sáu chữ ấy là một niệm”.
Ư nghĩa câu này được các kinh, luận giảng
như nhau. “Năi chí thập niệm”
(Dẫu chỉ mười niệm) ư nói: Tối thiểu
chỉ xưng niệm danh hiệu mười niệm
cũng được văng sanh. Đây là nói về mức độ
thấp nhất nên bảo là “năi
chí”, nếu có thể niệm nhiều hơn th́ càng niệm
được càng nhiều càng tốt.
Nếu có kẻ cật vấn: Trong kinh chỉ nói “mười niệm”, sao lại
chỉ khuyên xưng niệm danh hiệu Phật, chứ chẳng
thực hành những cách niệm Phật khác? Đáp: Chữ “niệm”
trong “thập niệm” chỉ cho cách niệm danh hiệu Phật
bằng miệng. Điều này thật có chứng cớ, bản
Tống dịch ghi: “Sở hữu chúng sanh, cầu sanh ngă sát,
niệm ngô danh hiệu, phát chí thành tâm, kiên cố bất
thoái. Bỉ mạng chung thời, ngă linh vô số bật sô
(tỳ-kheo) hiện tiền vi nhiễu, lai nghênh bỉ nhân,
kinh tu-du gian, đắc sanh ngă sát” (Tất cả chúng sanh cầu sanh trong cơi ta, niệm danh
hiệu ta, phát tâm chí thành, kiên cố chẳng thoái. Người
ấy lúc mạng chung, ta sai vô số bật-sô (tỳ-kheo)
hiện ra trước mặt, cùng quây quần đến
đón người ấy. Trong khoảnh khắc, được
sanh về cơi ta). Chữ “niệm
ngô danh hiệu” (niệm danh hiệu ta) trong đoạn
kinh trên chỉ có thể hiểu là niệm hồng danh của
Phật mà thôi.
Kinh Bát Châu cũng nói: “Nhĩ
thời, A Di Đà Phật ngữ thị Bồ Tát ngôn: - Dục
lai sanh ngă quốc giả, thường niệm ngă danh, mạc
hữu hưu tức, như thị đắc lai sanh ngă quốc
độ” (Lúc bấy
giờ, A Di Đà Phật bảo Bồ Tát ấy rằng: - Muốn
sanh về cơi ta, hăy nên thường niệm danh hiệu ta
chẳng ngớt. [Làm] như vậy th́ được sanh
về cơi ta). Trong phần Hạ Phẩm Hạ Sanh, Quán kinh
cũng nói nếu có chúng sanh tạo nghiệp chẳng lành
Ngũ Nghịch, Thập Ác, làm đủ các việc chẳng
lành. Lúc mạng sắp chết, gặp thiện tri thức
giảng cho diệu pháp, dạy cho niệm Phật (Quán
Tưởng Niệm Phật). Nếu chẳng thể niệm
nổi th́ hăy nên xưng danh hiệu Phật: “Như thị chí tâm, linh thanh bất
tuyệt, cụ túc thập niệm, xưng Nam Mô A Di Đà
Phật. Xưng ngă danh cố, ư niệm niệm trung, trừ
bát thập ức kiếp sanh tử chi tội. Mạng
chung chi hậu, tức đắc văng sanh” (Chí tâm như
vậy chẳng để dứt tiếng, đầy
đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Đà Phật.
Do xưng Phật danh nên trong mỗi niệm trừ
được tội trong tám mươi ức kiếp
sanh tử. Sau khi mạng chung liền được văng
sanh). Do những đoạn kinh trên, ta thấy rơ “mười niệm” được
nói trong kinh này chính là Tŕ Danh Niệm Phật!
Với lời nguyện này, các vị cổ đức
chú giải kinh cũng hiểu khác nhau. Có vị bảo: “Nguyện này thuộc về
thượng phẩm, nói nguyện này tiếp độ hạ
phẩm là sai”. Lại có vị bảo: “Nguyện này thuộc về ba phẩm bậc thượng,
mười niệm được nói ở đây là dựa
vào mười pháp để khởi niệm, chứ chẳng
phải là mười niệm xưng danh”. Bảo “dựa vào mười pháp để
khởi niệm” là ư nói mười niệm được
dạy trong kinh Di Lặc Sở Vấn.
Kinh Di Lặc Sở Vấn chép:
“Cụ túc như thị niệm,
tức đắc văng sanh An Dưỡng quốc độ.
Phàm hữu thập niệm, hà đẳng vi thập?
Nhất giả, ư nhất
thiết chúng sanh thường sanh từ tâm. Ư nhất
thiết chúng sanh, bất hủy kỳ hạnh. Nhược
hủy kỳ hạnh, chung bất văng sanh.
Nhị giả, ư nhất
thiết chúng sanh, thâm khởi bi tâm, trừ tàn hại ư.
Tam giả, phát hộ pháp tâm,
bất tích thân mạng. Ư nhất thiết pháp, bất
sanh phỉ báng.
Tứ giả,
ư nhẫn nhục trung sanh quyết định tâm.
Ngũ giả, thân tâm thanh tịnh,
bất nhiễm lợi dưỡng.
Lục giả, phát Nhất
Thiết Chủng Trí tâm, vô hữu phế vong.
Thất giả, ư nhất
thiết chúng sanh, khởi tôn trọng tâm, trừ ngă mạn
ư, khiêm hạ ngôn thuyết.
Bát giả, ư thế
đàm thoại, bất sanh muội trước.
Cửu giả, cận ư
giác ư, sanh khởi chủng chủng thiện căn nhân
duyên, viễn ly hội náo tán loạn chi tâm.
Thập giả, chánh niệm
quán Phật, trừ khử chư căn”
(Đầy đủ những niệm như sau liền
được văng sanh An Lạc quốc độ. Có
mười niệm, những ǵ là mười?
Một là với hết thảy chúng sanh thường
sanh từ tâm; với hết thảy chúng sanh chẳng hủy
hoại hạnh của họ. Nếu hủy hạnh của
họ, trọn chẳng được văng sanh.
Hai là với hết thảy chúng sanh, phát khởi bi tâm
sâu xa, trừ bỏ ư tàn hại.
Ba là phát tâm hộ pháp, chẳng tiếc thân mạng. Với
hết thảy pháp, chẳng sanh phỉ báng.
Bốn là sanh tâm quyết định nơi nhẫn nhục.
Năm là thân, tâm thanh tịnh, chẳng nhiễm lợi
dưỡng.
Sáu là phát tâm Nhất Thiết Chủng Trí, hằng ngày
thường niệm chẳng hề quên mất.
Bảy là với hết thảy chúng sanh khởi tâm tôn
trọng, trừ ư ngă mạn, nói năng khiêm tốn.
Tám là chẳng lầm lẫn ham thích những lời
đàm luận của thế gian.
Chín là chú trọng giác ư, sanh khởi các thứ thiện
căn nhân duyên, xa ĺa tâm ồn náo, tán loạn.
Mười là chánh niệm quán Phật, trừ khử
các căn (trừ khử các căn nghĩa là không để
các căn trần làm nhiễm loạn thân tâm).
Sách Tông Yếu nói: “Mười
niệm như vậy phàm phu không thể làm nổi, phải
là từ Sơ Địa Bồ Tát trở lên mới có thể
thực hiện đầy đủ mười niệm ấy”.
Các thuyết trên đều cho rằng nguyện này
chuyên v́ Thượng Phẩm, thậm chí là bậc Địa
Thượng Bồ Tát mới có thể thực hiện trọn
vẹn nổi; như vậy th́ bậc trung, hạ phàm phu
biết nhờ vào đâu để được văng sanh?
Rơ ràng ư kiến của các vị trên chẳng phù hợp với
chân lư Tha Lực Quả Giáo của Tịnh tông. C̣n như
ngài Nghĩa Tịch dùng ngay thập niệm của Hạ
Phẩm Hạ Sanh trong Quán kinh để giải thích ư
nghĩa “mười niệm”
trong nguyện thứ mười tám này mới thật là bậc
am hiểu.
Sư Vọng Tây bảo: “Tông
gia không nghĩ vậy (Tông Gia là tiếng người Nhật
gọi ngài Thiện Đạo).
Mười niệm đây chỉ là miệng xưng niệm,
bậc thượng th́ niệm suốt cả đời,
bét nhất là một niệm. Thông cả ba bậc, gồm
trọn chín phẩm, không ai chẳng được văng
sanh”. Ư Ngài bảo: Mười
niệm trong lời nguyện đây chỉ là miệng niệm.
Bậc thượng th́ suốt cả một đời chỉ
niệm Phật danh; tệ nhất th́ chỉ niệm một
tiếng đều được văng sanh (Chỉ niệm
một tiếng là một niệm khi lâm chung, hoặc là “hoạch đắc nhất niệm
tịnh tâm, phát nhất niệm tâm, niệm ư bỉ Phật”
(đạt được một niệm tịnh tâm,
phát một niệm tâm niệm đức Phật ấy)
cũng được văng sanh).
Trong lời nguyện này có nói “chí tâm tín nhạo” (chí tâm tin ưa), Quán kinh cũng
dạy: “Như thị chí tâm,
linh thanh bất tuyệt, cụ túc thập niệm” (Chí
tâm như thế chẳng cho ngớt tiếng, đầy
đủ mười niệm). Thế nào là “chí tâm” và thế
nào là “đầy đủ mười niệm”? Đây là những
điểm rất quan yếu của lời nguyện này.
La Thập đại sư giải thích những điểm
trên một cách hết sức khéo léo, ảo diệu như
sau:
“Ví như có người ở
trong đồng hoang gặp phải ác tặc vung giáo,
quơ gươm xông đến toan giết, người ấy
rảo chạy, thấy ḿnh phải vượt sông. Nếu
chẳng vượt sông, khó thể giữ nổi đầu
cổ. Lúc bấy giờ, chỉ nghĩ cách vượt
sông: - Ḿnh chạy đến bờ sông, mặc áo mà lội
hay là cởi áo mà bơi? Nếu vẫn mặc áo, sợ
không qua sông nổi. Nếu cởi áo ra, sợ không kịp nữa.
Chỉ nghĩ như vậy, không nghĩ ǵ khác! Cái ư
nghĩ vượt sông khi ấy chính là nhất niệm.
Mười niệm này đây chẳng để niệm
nào khác xen vào. Hành giả cũng giống như thế: Nếu
niệm danh hiệu Phật hoặc niệm tướng của
Phật đều niệm Phật không gián đoạn cho
đến mười niệm. Chí tâm như vậy th́ gọi
là mười niệm”.
Nghĩa là: Trong lúc ấy chỉ nghĩ cách làm sao vượt
được sông, không c̣n nghĩ ǵ khác; niệm như thế
chính là nhất niệm. Niệm Phật liên tục như vậy
đến mười niệm th́ chính là “mười niệm”.
Sách Tông Yếu lại ghi: “Mười
niệm nói trong kinh này có cả hai nghĩa ẩn mật và
hiển liễu”. Mười niệm hiển liễu là
như mười niệm được đại sư
La Thập giảng trong đoạn văn vừa trích ở
trên. Mười niệm ẩn mật là như các niệm:
từ tâm v.v... mà kinh Di Lặc Sở Vấn đă nói.
Ngài Nghĩa Tịch bảo: “Trong
mỗi một niệm, tự nhiên đầy đủ
mười niệm như từ tâm v.v...” có nghĩa là:
Nếu có thể đúng như Quán kinh dạy hay như lời
ngài La Thập dạy mà niệm mười niệm th́ trong
mỗi một niệm đó tự nhiên có đầy đủ
cả mười niệm như kinh Di Lặc Sở Vấn
dạy. Ấy là trong nghĩa hiển liễu tự nhiên
hàm chứa nghĩa ẩn mật. Lời nhận xét của
ngài Nghĩa Tịch quả thật đă phô trọn lẽ
huyền vi của Tịnh tông. Người đời
thường ưa thích sự huyền diệu mà chẳng
biết rằng sự huyền diệu tối cực lại
chỉ nằm trong cái b́nh thường, nên cổ đức
bảo: “Tâm b́nh thường là
đạo”. Chỉ cần b́nh b́nh thường thường,
ṛng rặt chuyên tinh, miên mật niệm Phật th́ tự
nhiên thầm hợp diệu đạo, niệm niệm ly
niệm. Dùng cái tâm phàm phu mà nhập được Thật
Tướng các pháp th́ chỉ có tŕ danh và tŕ chú là dễ nhất.
V́ sao niệm Phật lại có công đức như thế?
Là v́ niệm niệm đều thầm ứng hợp với
Thật Tướng vậy!
“Duy trừ Ngũ Nghịch,
phỉ báng chánh pháp” (Chỉ trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp): Tội ác trái nghịch với
Lư đến cùng cực th́ gọi là Nghịch (逆). Do Ngũ Nghịch
sẽ cảm lấy ác nghiệp khổ quả trong Vô Gián
địa ngục nên c̣n gọi là Vô Gián Nghiệp.
Kinh A Xà Thế Vấn Ngũ Nghịch chép:
“Hữu Ngũ Nghịch tội,
nhược tộc tánh tử, tộc tánh nữ, vi thử
ngũ bất cứu tội giả, tất nhập địa
ngục bất nghi. Vân hà vi ngũ? Vị sát phụ, sát mẫu,
hại A La Hán, đấu loạn Tăng chúng, khởi ác ư
ư Như Lai sở” (Có năm thứ tội nghịch;
nếu tộc tánh tử, hoặc tộc tánh nữ phạm
năm tội chẳng cứu được này, quyết
sẽ vào địa ngục, không c̣n ngờ ǵ nữa. Những
ǵ là năm? Chính là: Giết cha, giết mẹ, hại A La
Hán, gây rối chúng Tăng, khởi ác ư đối với
Như Lai).
Sách Hoa Nghiêm Khổng Mục Chương quyển ba có
đoạn viết: “Ngũ Nghịch,
vị hại phụ, hại mẫu, hại A La Hán, phá
Tăng, xuất Phật thân huyết. Sơ nhị bội ân
dưỡng, thứ tam hoại phước điền, cố
danh vi Nghịch” (Ngũ Nghịch là hại cha, hại mẹ,
hại A-la-hán, phá Tăng, làm thân Phật chảy máu. Hai thứ
đầu là bội ân dưỡng dục, ba thứ sau là
phá hoại phước điền. V́ vậy, gọi là Nghịch).
Nói nôm na, Ngũ Nghịch là giết cha, giết mẹ,
giết A La Hán, làm thân Phật chảy máu, phá ḥa hợp
Tăng. Phạm những tội nghịch này ắt đọa
Vô Gián địa ngục trong một đại kiếp chịu
khổ không ngừng ngớt.
Trong chữ “phỉ báng”,
Phỉ (誹) có nghĩa giống như Báng (謗); Báng là chê bai,
nhục mạ. Nói việc xấu của người khác
quá mức sự thật là “báng”. Phỉ báng chánh pháp tức
là phỉ báng Phật pháp. Đại nguyện “mười niệm ắt được sanh” này
phổ độ hết thảy, nhưng không độ
được kẻ đă phạm tội Ngũ Nghịch
và hủy báng chánh pháp. Quán kinh dạy: “Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm chung thập niệm,
diệc đắc văng sanh” (Ngũ Nghịch, Thập Ác,
lâm chung mười niệm cũng được văng sanh),
kinh này lại loại trừ họ ra là v́ họ đă phạm
trọng tội Ngũ Nghịch lại c̣n phỉ báng chánh
pháp, tội càng thêm tội. Vả lại, tội phỉ
báng rất nặng! Kẻ báng pháp gọi là “báng pháp xiển-đề”
nên chẳng được văng sanh vậy.
Hỏi: Quán kinh bảo người phạm tội
Ngũ Nghịch nhưng chẳng phỉ báng chánh pháp
cũng được văng sanh. Vậy th́ kẻ chỉ phỉ
báng chánh pháp nhưng chẳng phạm Ngũ Nghịch có
được văng sanh hay chăng?
Văng Sanh Luận Chú đáp: “Nếu chỉ phỉ báng chánh
pháp, dẫu chẳng phạm các tội khác cũng nhất
định chẳng được văng sanh. V́ sao bảo
vậy? Kinh dạy: Tội nhân Ngũ Nghịch đọa
trong A Tỳ đại địa ngục, chịu đủ
hết thảy trọng tội (chỉ đến khi kiếp
tận mới được ra). Người phỉ báng
chánh pháp đọa trong A Tỳ đại địa ngục,
nếu kiếp này tận rồi bèn bị chuyển sang A Tỳ
đại địa ngục ở phương khác. Lần
lượt trải qua trăm ngàn A Tỳ đại địa
ngục như thế mà Phật chẳng huyền kư lúc nào
sẽ thoát khỏi. Như vậy, tội phỉ báng chánh
pháp nặng nề nhất”.
Sách c̣n viết thêm: “Ông chỉ
biết năm tội nghịch là trọng mà chẳng biết
năm tội nghịch đều là do không có chánh pháp mà
sanh. V́ vậy, tội người báng chánh pháp rất nặng”.
Trong Quán Kinh Sớ, đại sư Thiện Đạo lại
có cách giải thích khác biệt: Nói Ngũ Nghịch, báng pháp
chẳng được văng sanh là do Phật muốn
ngăn ngừa điều ác nên phương tiện nói
như thế. Sách viết:
“Với nghĩa này, nên dùng Ức
Chỉ Môn[7]
để hiểu. Trong bốn mươi tám nguyện loại
trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp là v́ hai
nghiệp này gây chướng rất nặng. Chúng sanh nếu
trót phạm phải liền vào thẳng A Tỳ, kinh hoàng
bao kiếp, biết nhờ đâu để thoát khỏi. Đức
Như Lai sợ chúng sanh tạo hai tội lỗi ấy nên
mới thốt lời ngăn ngừa ‘chẳng được
văng sanh’, nhưng chẳng phải là Ngài chẳng nhiếp
thủ bọn họ....
Dẫu tạo tội vẫn
được nhiếp thủ văng sanh, tuy được
văng sanh nhưng hoa sen trong nhiều kiếp chưa nở.
Lúc ở trong hoa, bọn tội nhân ấy có ba thứ
chướng: Một là chẳng được thấy Phật
và các thánh chúng; hai là chẳng
được nghe chánh pháp; ba là chẳng được
qua khắp các nơi cúng dường. Trừ những
điều trên đây ra, không c̣n các nỗi khổ nào khác”.
Trong phần nói về tông chỉ của kinh, sách Hợp
Tán cũng nhận định: “Nói
chỉ trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp là đối
với căn cơ chưa tạo nghiệp, chỉ là
để ngăn ngừa mà thôi. Nếu với căn
cơ đă trót tạo nghiệp, đă hồi tâm th́ Phật
cũng nhiếp thủ chẳng để sót vậy”. Ư
nói: Nói “trừ” nhưng thật
sự là nhằm ngăn dứt điều ác để kẻ
chưa tạo ác sẽ chẳng dám tạo. Kẻ đă
trót tạo nếu biết hồi tâm, sám hối niệm Phật
th́ vẫn nhiếp thủ như cũ chẳng để
sót vậy.
Như vậy, Di Đà đại nguyện nhiếp thủ
căn cơ vô tận nên Thiện Đạo đại sư
bảo: “Như Lai sở dĩ
xuất hiện trong đời chỉ là để nói biển
bổn nguyện của Phật Di Đà”. Ư nói: Tam thế
chư Phật xuất hiện trong đời chỉ để
nói đại sự nhân duyên sau đây: Tuyên thuyết nguyện
lực chẳng thể nghĩ bàn của A Di Đà Như Lai nhằm
cứu vớt chúng sanh. V́ vậy, đại sư lại
bảo: “Nay được gặp
gỡ di tích của Phật Thích Ca trong đời mạt
pháp, pháp môn trọng yếu bổn thệ nguyện Cực
Lạc của Phật Di Đà, hết thảy phàm phu thiện
ác được văng sanh không ai lại chẳng
nương vào đại nguyện nghiệp lực của
A Di Đà Phật để làm tăng
thượng môn vậy”.
Thoạt nh́n, thuyết của Văng Sanh Luận Chú tựa
hồ mâu thuẫn với thuyết của Quán Kinh Sớ,
nhưng thật ra cả hai thuyết dung thông lẫn nhau.
Thuyết của Văng Sanh Luận Chú thật phù hợp với
ư chỉ ngăn ngừa (Ức Chỉ) của Như Lai:
khiến cho con người kinh sợ chẳng dám báng pháp.
Trong luận lại có câu: “Kẻ
ngu si trong đời này đă sanh ḷng phỉ báng th́ lẽ
nào nguyện sanh cơi Phật?” V́ vậy, kinh dạy
Ngũ Nghịch, báng pháp chẳng được văng sanh.
Quán Kinh Sớ th́ hiển thị bi nguyện vô tận của
Phật Di Đà: “Tuy Ngũ Nghịch, báng pháp, nhưng lúc lâm chung lại
có thể niệm Phật th́ chính là sám hối phát tâm,
người như vậy trong ức ức người
khó được một, hai kẻ, nên Phật vẫn từ
mẫn nhiếp thọ”.
Thiện Đạo đại sư lại bảo: “Hoằng Thệ môn nói đến
cả bốn mươi tám nguyện, nhưng chỉ bảo
Niệm Phật là thiết yếu. Ai niệm Phật th́ Phật
niệm người ấy. Chuyên tâm tưởng Phật
th́ Phật biết người ấy”. Ngài lại bảo:
“Chỉ có niệm Phật là
được quang minh nhiếp thọ. Ta nên biết rằng
bổn nguyện là mạnh mẽ nhất”.
Thiện Đạo đại sư phán định trong bốn
mươi tám nguyện, chỉ có năm nguyện chân thật.
Xét trong năm nguyện ấy, chỉ có nguyện mười
tám là chân thật, nên Ngài viết trong sách Sự Tán như
sau: “Mỗi một lời nguyện
đều dẫn về nguyện thứ mười tám”.
Sách B́nh Giải nói: “Bốn
mươi tám nguyện tuy rộng, nhưng chỉ quy về
nguyện mười tám”. Sách c̣n viết: “Do nơi nguyện này nên chúng sanh
được sanh về cơi không có ba đường ác, sẽ
chẳng đọa trong đường ác nữa, đủ
tướng hảo, hiện thần thông mà được
diệt độ do nhập vào biển quang minh, thọ
lượng. V́ vậy, riêng nguyện này thật tối thắng
vậy”.
Sách Tiên Chú cũng nhận xét: “Rơ ràng, trong bốn mươi tám nguyện, nguyện
niệm Phật văng sanh này là vua của các nguyện căn
bản”.
Nguyện này thể hiện phương tiện rốt
ráo, Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng
danh, công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật
Di Đà. Do danh hiệu chính là thật đức nên “thanh, chữ đều là Thật
Tướng” vậy.
Chánh kinh:
我 作 佛 時,十 方 眾 生,聞 我 名 號,發 菩 提 心,修 諸 功 德,奉 行 六 波 羅 密,堅 固 不 退。復 以 善 根 迴 向,願 生 我 國,一 心 念 我,晝 夜 不 斷。臨 壽 終 時,我 與 諸 菩 薩 眾,迎 現 其 前,經 須 臾 間,即 生 我 剎,作 阿 惟 越 致 菩 薩。不 得 是 願,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật
thời, thập phương chúng sanh, văn ngă danh hiệu,
phát Bồ Đề tâm, tu chư công đức, phụng
hành lục Ba La Mật, kiên cố bất thoái. Phục dĩ thiện căn hồi
hướng, nguyện sanh ngă quốc, nhất tâm niệm
ngă, trú dạ bất đoạn. Lâm thọ chung thời,
ngă dữ chư Bồ Tát chúng, nghênh hiện kỳ tiền,
kinh tu du gian, tức sanh ngă sát, tác A Duy Việt Trí Bồ Tát.
Bất đắc thị nguyện, bất thủ Chánh
Giác.
Lúc tôi thành Phật,
mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi liền
phát Bồ Đề tâm, tu các công đức, phụng hành sáu Ba
La Mật kiên cố bất thoái, lại đem các thiện
căn hồi hướng nguyện sanh cơi tôi, nhất tâm
niệm tôi, ngày đêm chẳng ngớt. Lúc lâm chung, tôi cùng
các Bồ Tát chúng hiện đến đón trước mặt,
trong khoảnh khắc liền sanh sang cơi tôi, thành bậc A Duy Việt
Trí Bồ
Tát. Chẳng thỏa nguyện này, chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện mười chín:
Nghe tên phát tâm; nguyện hai mươi: Lâm chung tiếp dẫn)
Giải:
Chương này gồm nguyện mười chín “nghe danh phát nguyện” và nguyện
hai mươi “lâm chung tiếp
dẫn”. “Danh hiệu” là
tên hiệu. Danh (名) để nêu rơ cái Thể, Hiệu
(號) là cái tên được phô ra ngoài
để thiên hạ hay biết. Danh và Hiệu đồng
thể. Danh hiệu vốn được dùng để chỉ
chung những tên hiệu của chư Phật, Bồ Tát,
nhưng trong kinh này chữ “danh
hiệu” chuyên dùng để chỉ danh hiệu vị
giáo chủ cơi Cực Lạc: A Di Đà Phật.
“Phát Bồ Đề tâm”: Bồ Đề
là tiếng Phạn, cựu dịch là Đạo, tân dịch là
Giác. Ngài Tăng Triệu bảo: “Đạo đạt đến chỗ cùng cực gọi
là Bồ Đề, Hán ngữ không có tiếng nào dịch nổi.
Ấy chỉ là chân trí Chánh Giác vô tướng mà thôi!”. Bồ
Đề tâm là cái tâm cầu chân đạo, tâm cầu Chánh
Giác. Bồ Đề tâm c̣n có nghĩa là tâm tự giác giác tha;
nói tỉ mỉ th́ như Văng Sanh Yếu Tập bảo có
hai thứ Bồ Đề tâm:
1. Duyên sự Bồ Đề tâm
(đây chính là Hạnh Nguyện Bồ Đề tâm trong Mật
tông). Tâm này dùng Tứ Hoằng Thệ Nguyện làm Thể:
* “Chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ” là nhân của Ứng Thân Bồ Đề.
* “Phiền năo vô số thệ
nguyện đoạn” là nhân của Pháp Thân Bồ Đề.
* “Pháp môn vô tận thệ
nguyện học” là nhân của Báo Thân Bồ Đề.
* “Vô thượng Bồ Đề
thệ nguyện chứng” là nguyện cầu chứng
đắc Phật quả Bồ Đề.
Do thành tựu trọn vẹn ba hạnh nguyện
trước nên chứng được tam thân Bồ Đề
viên măn rồi lại lợi ích khắp hết thảy
chúng sanh.
2. Duyên lư Bồ Đề tâm
(đây chính là tâm Thắng Nghĩa Bồ Đề trong Mật
thừa): Hết thảy các pháp vốn không tịch nên an trụ
trong Trung Đạo Thật Tướng để viên thành hạnh
nguyện “thượng cầu hạ hóa”.
[Tâm Bồ Đề nói trong kinh này] là tâm Bồ Đề tối
thượng tức là duyên lư Bồ Đề tâm.
Trong sách Tông Yếu, sư Nguyên Hiểu người xứ
Tân La luận về Bồ Đề tâm như sau:
“Một là tùy sự phát tâm,
hai là thuận lư phát tâm.
1. Tùy Sự là phiền năo vô
số nguyện đều đoạn cả; thiện pháp
vô lượng nguyện đều tu cả; chúng sanh vô biên
nguyện đều độ cả. Quyết định
nguyện thành tựu ba điều này. Tâm thứ nhất
làm chánh nhân cho Đoạn Đức của Như Lai, tâm kế
đó là chánh nhân cho Trí Đức của Như Lai, tâm thứ
ba là chánh nhân của Ân Đức. Ba đức hợp thành quả
Bồ Đề vô thượng. Ba tâm này gọi chung là nhân của
Vô Thượng Bồ Đề.
Nhân, quả tuy khác nhưng rất
rộng lớn, b́nh đẳng không sót, không ǵ mà nó chẳng
bao gồm, như kinh nói: ‘Phát tâm tất cánh nhị vô biệt,
như thị nhị tâm, tiền tâm nan. Tự vị đắc
độ, tiên độ tha, thị cố ngă lễ sơ
phát tâm’ (Cả hai thứ phát tâm và rốt ráo không sai biệt.
Trong hai tâm như thế, tâm trước là khó do chính ḿnh
chưa đắc độ mà đă độ người
khác trước. V́ vậy, tôi lễ bậc sơ phát tâm).
Quả báo của tâm này tuy là Bồ Đề (thành Phật),
nhưng hoa báo lại là Tịnh Độ (văng sanh). V́ sao
như thế? Bồ Đề tâm lượng rộng lớn
vô biên, dài lâu vô hạn nên cảm được y báo Tịnh
Độ rộng lớn không ngằn mé, chánh báo thọ mạng
dài lâu vô lượng. Ngoại trừ Bồ Đề tâm, không
thứ ǵ khác có khả năng làm được như thế.
V́ vậy bảo tâm này là chánh nhân cho Bồ Đề. Đấy là nói về tướng
trạng của Tùy Sự Phát Tâm vậy.
2. Thuận Lư Phát Tâm là tin hiểu
các pháp đều như huyễn mộng, chẳng có, chẳng
không, dứt nói năng, bặt suy lường. Dùng ḷng tin
hiểu đó để phát tâm rộng lớn, tuy chẳng
thấy có phiền năo hay thiện pháp, nhưng chẳng bác
rằng không có ǵ để tu, để đoạn. V́ vậy,
tuy nguyện đoạn tất cả, tu tất cả,
nhưng chẳng trái nghịch Vô Nguyện tam-muội. Tuy
nguyện đều độ vô lượng hữu t́nh,
nhưng chẳng có [quan niệm] người độ và kẻ
được độ, nên có thể tùy thuận Không, Vô
Tướng như kinh dạy: ‘Như thị diệt độ
vô lượng chúng sanh, thật vô chúng sanh đắc diệt
độ giả’ (Diệt độ vô lượng chúng
sanh như vậy, nhưng thật không có chúng sanh nào
được diệt độ) v.v... Phát tâm như thế
chẳng thể nghĩ bàn. Đấy là nói về Thuận Lư
Phát Tâm.
Tùy Sự Phát Tâm c̣n có thể
bị thoái chuyển, kẻ bất định tánh cũng có thể
phát được tâm ấy. Thuận Lư Phát Tâm th́ chẳng
bị thoái chuyển, chỉ căn tánh Bồ Tát mới có
thể phát nổi. Phát tâm như thế công đức vô
biên. Giả sử chư Phật trong suốt kiếp nói
các công đức ấy c̣n chẳng thuật đủ
được”.
Trong đoạn văn trên đây của ngài Nguyên Hiểu,
“tùy sự phát tâm” chính duyên sự Bồ Đề tâm, “thuận
lư phát tâm” là duyên lư Bồ Đề tâm. Ở đây, tôi trích dẫn
trọn đoạn văn trên v́ xét ra sách Tông Yếu giảng
Bồ Đề tâm tường tận hơn.
Bài “Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn” cũng viết:
“Phát Bồ Đề tâm là vua trong
các điều lành”. Sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi
Tín Luận lại bảo: “Nên
biết rằng Bồ Đề tâm là nguồn cội của
chư Phật, là huệ mạng của chúng sanh. Vừa mới
phát tâm này đă thành Phật đạo v́ đă tương
ứng với Phật trí, bất tư nghị trí, bất
khả xưng trí, trí Đại Thừa rộng lớn, trí tối
thượng thắng không ǵ sánh tày vậy”. Hơn nữa,
ba bậc văng sanh trong kinh này đều do “phát Bồ Đề tâm, một dạ chuyên niệm”,
đủ thấy phát Bồ Đề tâm thật là điều
quan trọng hàng đầu.
Xét ra, v́ nguyện thứ hai mươi sáu là “nghe danh được phước”
và nguyện bốn mươi bảy là “nghe danh đắc Nhẫn”, th́ nguyện thứ
mười chín “nghe danh phát tâm”
này phải nên được hiểu là: Do nghe danh hiệu của Phật, được Phật
gia bị nên phát tâm Bồ Đề. Hiểu như vậy
sẽ liền thấy rơ công đức của danh hiệu
A Di Đà chẳng thể nghĩ bàn, sức hoằng thệ
nguyện của đấng Nguyện Vương chẳng
thể nghĩ bàn.
“Tu chư công đức… trú dạ
bất đoạn” (Tu các công đức...
ngày đêm chẳng ngớt) là đại hạnh sẽ làm
sau khi phát tâm. Câu này và câu trước đó hợp thành toàn
văn của nguyện thứ mười chín: Do nghe danh hiệu
Phật Di Đà nên phát tâm và tu các đại hạnh.
Trong lời nguyện, chữ “lục Ba La Mật” chỉ Lục Độ. “Độ”
(度) là vượt qua được biển sanh
tử đạt tới bờ Niết Bàn. Sáu độ là
Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền
Định và Bát Nhă. Lục Độ bao trùm vạn hạnh.
“Kiên cố bất thoái” nghĩa là các
đại nguyện, đại hạnh trên quyết định
chẳng lay động, vĩnh viễn chẳng lui sụt.
Như phần kệ tụng đă nói: “Ngă hạnh quyết định kiên cố lực, duy
Phật thánh trí năng chứng tri, túng sử thân chỉ
chư khổ trung, như thị nguyện tâm vĩnh bất
thoái” (Hạnh tôi sức kiên cố quyết định,
chỉ Phật thánh trí chứng biết nổi, dẫu thân
ở trong các chốn khổ, nguyện tâm như vậy trọn
bất thoái) th́ “kiên cố” có nghĩa là bất thoái.
Trong câu “nhất tâm niệm
ngă” (nhất tâm niệm tôi),
chữ “nhất tâm” như
phần trên đă giải thích: Nhất tâm chỉ thật
thể Chân Như của vạn hữu. Nay xét trong kinh này, nhất tâm là tín tâm kiên định,
chẳng bị các tâm khác năo loạn nên gọi là “nhất
tâm”. Sách “Giáo Hạnh Tín Chứng Văn Loại” nói: “Tín tâm chính là nhất tâm. Nhất
tâm chính là ḷng tin chân thật. V́ vậy, luận chủ
khăng khăng nói nhất tâm”. Sách Thám Huyền Kư, quyển
ba cũng nói: “Nhất tâm là tâm
không dị niệm”. Sách Chỉ Quán, quyển bốn lại
viết: “Nhất tâm là lúc tu
pháp này, một dạ chuyên chí, tâm chẳng duyên theo điều
ǵ khác” (tức là trong tâm chẳng nghĩ đến sự
vật nào khác).
Hơn nữa, nhất tâm lại có hai thứ: Sự và
Lư. Không xen lẫn niệm nào
khác là Sự nhất tâm, nhập Thật Tướng là Lư
nhất tâm.
Câu “nhất tâm niệm ngă”
trong kinh này gồm cả Sự lẫn Lư. Người tu học
Tịnh nghiệp hiện tại chỉ cần tin sâu, nguyện
thiết, xưng niệm danh hiệu th́ đă là “nhất
tâm niệm ngă”. Hành được
như đại sư Thiện Đạo dạy: “Nhất
tâm chuyên niệm danh hiệu A Di Đà Phật, đi, đứng,
nằm, ngồi, chẳng luận thời tiết, xa gần,
niệm niệm chẳng bỏ” th́ chính là “nhất tâm niệm
Phật” do v́ từ Sự nhập Lư, nhưng toàn thể
của Sự lại chính là Lư vậy.
Nguyện thứ mười chín là nhân, nguyện thứ
hai mươi là quả. Nếu ai phát tâm niệm Phật
đúng như nguyện thứ mười chín dạy th́
khi lâm chung, Phật Di Đà cùng hàng Bồ Tát thánh chúng trong thế
giới Cực Lạc sẽ hiện đến trước
mặt tiếp dẫn. Trong khoảnh khắc, người
ấy liền văng sanh Tịnh Độ Cực Lạc làm bậc
Bồ Tát A Duy Việt Trí (bất thoái chuyển). Trên đây
là nguyện thứ hai mươi, “lâm chung tiếp dẫn”.
Nguyện hai mươi thể hiện sâu xa diệu dụng
chẳng thể nghĩ bàn của phương tiện Tha Lực
trong Quả giáo. Kẻ phàm phu nghiệp chướng chất
chồng lại có thể mang nghiệp đi văng sanh; đấy
toàn là do nguyện này của Phật Di Đà, do sức từ
bi đại lực nhiếp thọ của thánh chúng hiện
diện trong lúc lâm chung.
Ngài Linh Chi (Nguyên Chiếu) đời Tống nói: “Phàm người lâm chung thức
thần vô chủ, không một thứ nghiệp chủng thiện
hay ác nào lại không phát hiện: hoặc khởi ác niệm,
hoặc khởi tà kiến, hoặc sanh quyến luyến,
hoặc phát điên rồ, chẳng phải chỉ có một
thứ ác tướng... đều là điên đảo cả”.
Rơ ràng là phàm phu nghiệp nặng, lúc lâm chung lắm nỗi
điên đảo, lại bị Tứ Đại bức
bách khổ sở, đau đớn khó tả nổi, làm
sao mà chánh niệm tŕ danh được! Chẳng thể
tŕ danh làm sao có thể văng sanh nổi?
V́ vậy, phàm phu văng sanh chẳng
phải do tự lực mà toàn là cậy vào sức gia bị
của đại nguyện của Phật Di Đà giữ cho
chẳng điên đảo nên
mới được văng sanh như sách Viên Trung Sao nói: “Chúng sanh cơi Sa Bà tuy có thể niệm
Phật nhưng Kiến Hoặc c̣n rối bời chưa
thể đoạn trừ được. Khi lâm chung chẳng
bị điên đảo th́ vốn nào phải do sức
ḿnh chủ tŕ nổi, mà chỉ toàn là cậy vào Di Đà đến cứu vớt thôi.
Tuy không có chánh niệm mà giữ nổi chánh niệm nên tâm
chẳng điên đảo, liền được văng
sanh”.
Ư tưởng trên càng được diễn tả rơ
hơn trong hai kinh Tiểu Bổn (bản Đường dịch)
và kinh Bi Hoa. Kinh Tiểu Bổn bản Đường dịch
mang tên là Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ
kinh có nói: “Lâm mạng chung thời, Vô Lượng Thọ Phật,
dữ kỳ Thanh Văn đệ tử, Bồ Tát chúng câu,
tiền hậu vi nhiễu, lai trụ kỳ tiền, từ
bi gia hựu, linh tâm bất loạn” (Lúc lâm chung, Vô Lượng
Thọ Phật cùng vô lượng Thanh Văn đệ tử,
Bồ Tát của Ngài trước sau vây quanh, đến
đứng trước mặt, từ bi gia hựu khiến
tâm chẳng loạn). Rơ ràng là phàm phu khi lâm chung tâm chẳng
điên đảo và chẳng tán loạn, chánh niệm tŕ
danh hoàn toàn là nhờ vào sức Phật Di Đà từ bi ban ân
che chở (gia hựu) vậy.
Kinh Bi Hoa cũng chép: “Lâm
chung chi thời, ngă đương dữ đại chúng vi
nhiễu, hiện kỳ nhân tiền. Kỳ nhân kiến ngă,
tức ư ngă tiền, đắc tâm hoan hỷ. Dĩ kiến
ngă cố, ly chư ám ngại, tức tiện xả thân,
lai sanh ngă giới” (Lúc lâm chung, ta
cùng các đại chúng vây quanh hiện trước mặt
người ấy. Người ấy thấy ta liền
đối trước ta sanh ḷng hoan hỷ. Do thấy ta
nên ĺa các tối tăm, chướng ngại, liền xả
thân sanh về cơi ta).
Kinh c̣n chép lời nguyện sau: “Sở hữu
chúng sanh, nhược văn ngă thanh, phát nguyện dục
sanh ngă thế giới giả, thị chư chúng sanh lâm mạng
chung thời, tất linh kiến ngă, dữ chư đại
chúng, tiền hậu vi nhiễu. Ngă ư nhĩ thời, nhập
Vô Ế tam-muội, dĩ tam-muội lực cố, tại
ư kỳ tiền, nhi vị thuyết pháp. Dĩ văn pháp
cố, tầm đắc đoạn trừ nhất thiết
khổ năo, tâm đại hoan hỷ, cố đắc Bảo
Trí tam-muội. Dĩ tam-muội lực cố, linh tâm đắc
Niệm, cập Vô Sanh Nhẫn. Mạng chung chi hậu, tất
sanh ngă giới” (Tất cả
chúng sanh nếu nghe danh hiệu của ta, phát nguyện muốn
sanh trong thế giới ta th́ lúc mạng chung các chúng sanh ấy
thảy đều thấy ta và các đại chúng vây quanh
trước sau. Ngay khi ấy, ta nhập Vô Ế tam-muội.
Do sức tam-muội nên ở trước mặt kẻ
đó mà thuyết pháp cho kẻ đó. Do được nghe
pháp, kẻ đó liền đoạn trừ hết thảy
khổ năo, tâm đại hoan hỷ nên đắc Bảo Trí
Tam-muội. Do sức tam-muội nên tâm đắc Niệm
Nhẫn và Vô Sanh Nhẫn. Sau khi mạng chung, ắt sanh về
cơi ta).
Kinh Bi Hoa đă nói rơ diệu dụng của tha lực một
cách thật rành rẽ. Kinh Xưng Tán Tịnh Độ là tiểu
bổn của kinh này, kinh Bi Hoa nói về nhân địa của
Phật Di Đà và cơi Cực Lạc trang nghiêm. Hai kinh cùng nói rơ
lúc lâm chung, Phật đến tiếp dẫn, nguyện lực
nhiếp thọ văng sanh thù thắng, đủ thấy Di Đà
nguyện vương diệu đức khó lường,
đại ân, đại lực chẳng thể tính kể
nổi.
A Duy Việt Trí (Avaivartika) c̣n được phiên là A Bệ
Bạt Trí, dịch nghĩa là Bất Thoái Chuyển, là một
địa vị của Bồ Tát. Theo sách Di Đà Yếu Giải:
“A Bệ Bạt Trí, Hán dịch
là Bất Thoái:
1. Vị Bất Thoái: Vào ḍng
thánh, chẳng đọa địa vị phàm phu.
2. Hạnh Bất Thoái: Luôn
độ sanh, chẳng đọa địa vị Nhị
Thừa.
3. Niệm Bất Thoái: Tâm
tâm lưu nhập biển Tát Bà Nhă (Nhất Thiết
Trí).
Trong cơi Sa Bà này, Sơ Quả
của Tạng giáo, bậc Kiến Địa của Thông giáo,
bậc Sơ Trụ của Biệt giáo, bậc Tín Địa
của Viên giáo gọi là Vị Bất Thoái. Bồ Tát của
Thông giáo, bậc Thập Hướng của Biệt giáo, bậc
Thập Tín của Viên giáo gọi là Hạnh Bất Thoái.
Sơ Địa của Biệt giáo, Sơ Trụ của Viên
giáo mới gọi là Niệm Bất Thoái”
Nghĩa là: Bất Thoái có ba thứ, loại cao nhất
là Niệm Bất Thoái. Hành giả trong cơi này phải là bậc
tu chứng Sơ Hoan Hỷ Địa trong Biệt giáo, hay
bậc tu đến Sơ Phát Tâm Trụ trong Viên giáo mới
phá được một phẩm vô minh, chứng một phần
Pháp Thân rồi, mới có thể trong mỗi niệm chứng
nhập biển Tát Bà Nhă (Sarvajña: biển Nhất Thiết Chủng Trí, tức
là quả hải của Như Lai). Bỏ cả nhị
biên, hoàn toàn quy về Trung Đạo th́ mới gọi là “niệm niệm lưu nhập biển
Tát Bà Nhă”.
Như vậy, rất khó chứng được Niệm
Bất Thoái, nhưng trong nguyện này, Phật lại nói:
Mười phương chúng sanh nghe danh phát tâm, nhất tâm
niệm ta, liền sanh trong cơi ta, thành bậc A Duy Việt
Trí Bồ Tát. Kinh Tiểu Bổn cũng dạy: “Cực Lạc quốc độ,
chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí” (Chúng
sanh sanh về cơi nước Cực Lạc đều là A
Bệ Bạt Trí).
Sách Yếu Giải c̣n giảng: “Nay trong Tịnh Độ, Ngũ Nghịch, Thập Ác
mười niệm thành tựu, ôm nghiệp đi văng sanh
thuộc về hạ hạ phẩm cũng đều
được ba thứ Bất Thoái”. Người hạ
hạ phẩm mà cũng chứng ba thứ Bất Thoái,
trong một đời viên thành Phật quả th́ thật
là không đâu được như vậy, chỉ riêng ḿnh
Cực Lạc có. Siêu tuyệt, lạ lùng đặc biệt
đến thế, dẫu suy nghĩ, biện luận
cũng chẳng thể thấu đạt nổi, nên sách Yếu
Giải bảo: “Nếu chẳng
phải là do tâm tánh đạt đến cùng cực, do sự
un đúc kỳ diệu của tŕ danh, do đại nguyện
của Di Đà th́ làm sao mà được như vậy!”.
Trong 48 nguyện, hai nguyện này như hồng tâm của
bia bắn tên, c̣n nguyện thứ mười tám lại là
trung tâm của các hồng tâm vậy.
Chánh kinh:
我 作 佛 時,十 方 眾 生,聞 我 名 號,繫 念 我 國,發 菩 提 心,堅 固 不 退。植 眾 德 本,至 心 迴 向,欲 生 極 樂,無 不 遂 者。若 有 宿 惡,聞 我 名 字,即 自 悔 過,為 道 作 善,便 持 經 戒,願 生 我 剎,命 終 不 復 更 三 惡 道,即 生 我 國。若 不 爾 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật
thời, thập phương chúng sanh, văn ngă danh hiệu,
hệ niệm ngă quốc, phát Bồ Đề tâm, kiên cố
bất thoái, thực chúng đức bổn, chí tâm hồi
hướng, dục sanh Cực Lạc, vô bất toại
giả. Nhược
hữu túc ác, văn ngă danh tự, tức tự hối quá,
vi đạo tác thiện, tiện tŕ kinh giới, nguyện
sanh ngă sát, mạng chung bất phục cánh tam ác đạo,
tức sanh ngă quốc. Nhược bất nhĩ giả, bất
thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, hệ
niệm cơi tôi, phát Bồ Đề tâm kiên cố bất thoái,
gieo các cội đức, chí tâm hồi hướng muốn
sanh về Cực Lạc th́ không ai chẳng được
toại nguyện. Nếu có nghiệp ác đời trước,
nghe danh hiệu tôi liền tự hối lỗi, tu đạo
làm lành, liền tŕ kinh giới, nguyện sanh cơi tôi, mạng
chung chẳng đọa vào tam ác đạo nữa, liền
sanh trong cơi tôi. Nếu chẳng được vậy chẳng
lấy Chánh Giác.
(Nguyện hai mươi mốt:
Sám hối được văng sanh)
Giải:
Đây là nguyện thứ hai mươi mốt “sám hối được văng
sanh”. Ư của đoạn văn từ câu đầu
đến câu “vô bất
toại giả” (không ai chẳng được toại nguyện)
giống ư của nguyện hai mươi trong bản Ngụy
dịch (câu văn và chữ dùng trong hội bản
được chọn từ bản Đường dịch
lẫn Tống dịch); phần c̣n lại trích từ nguyện
thứ năm của bản Ngô dịch (bản Hán dịch
chép giống vậy) để kết thành nguyện này,
đặt tên là nguyện “hối
lỗi được văng sanh”.
Khác với nguyện thứ mười tám và nguyện
hai mươi, nguyện này chú trọng kẻ tạo ác nghiệp
trong đời trước tội nghiệp sâu nặng phải
chịu quả báo trong tam đồ. Đời này được
nghe danh hiệu liền phát tâm, chí tâm hồi hướng,
vun bồi đức hạnh cầu văng sanh. Lúc lâm chung
được Phật nguyện gia bị, chẳng đọa
ba ác đạo, văng sanh cơi kia. Nguyện này thể hiện
Từ đức thù thắng của Phật nguyện nên cổ
đức bảo: “Bốn
mươi tám nguyện, nguyện nào cũng v́ cứu độ
chúng sanh”. Đại bi từ phụ ân đức vô cực,
chúng ta học Phật lẽ nào chẳng báo?
“Hệ niệm” (繫 念) nghĩa là tâm niệm chuyên chú một chỗ, chẳng
nghĩ đến điều ǵ khác, như Quán kinh dạy:
“Ưng đương chuyên tâm,
hệ niệm nhất xứ, tưởng ư Tây
Phương” (Phải nên chuyên tâm, hệ niệm một
chỗ tưởng nơi Tây phương).
Chữ “thực” (植) trong “thực
chúng đức bổn” (trồng các cội đức)
có nghĩa là trồng trọt. “Đức
bổn” (德 本) là thiện
căn. Đức là thiện, Bổn là cội rễ. “Đức bổn” c̣n có nghĩa
là căn bản của các đức vậy. Hiểu theo
nghĩa này, danh hiệu A Di Đà Phật chính là cội đức
như sách Giáo Hạnh Tín Chứng giảng: “Đức bổn là đức hiệu của Như
Lai. Xưng niệm đức hiệu ấy một tiếng
th́ chí đức (đức cùng tột, cao tột nhất)
được thành tựu trọn vẹn, chuyển
được các họa. Do [đức hiệu A Di Đà] là gốc
của mười phương tam thế đức hiệu
nên gọi là Đức Bổn”.
Câu “túc ác” chỉ các nghiệp
ác đă gây tạo trong đời trước, tức là tội
ác trong đời quá khứ. “Hối”
(悔) là sửa đổi, sửa đổi quá
khứ, tu tập tương lai. “Hối quá” (悔 過) là hướng
về Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng mà sám hối tội lỗi,
thề chẳng tái phạm.
Do nguyện này mang tên “hối
lỗi được văng sanh” nên ta biết: Sám Hối
là ch́a khóa để văng sanh v́ do sám hối sẽ diệt
được hết thảy tội. “Tŕ” (持) là phụng tŕ.
“Mạng chung bất
phục cánh tam ác đạo, tức sanh ngă quốc” (Mạng chung chẳng đọa tam ác đạo
nữa, liền sanh về cơi ta) chính là yếu chỉ của
lời nguyện này. Nếu đời trước trót làm
ác, có nghiệp quyết định th́ sau khi mạng chung ắt
phải ở cơi này hoặc trong thế giới
phương khác đọa trong ba ác đạo. Do đời
này hối lỗi tu đạo hành thiện, tụng kinh,
tŕ giới, phát Bồ Đề tâm, chuyên niệm Cực Lạc,
chí tâm hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ v.v...
th́ nhờ vào công đức của lời nguyện này của
Phật Di Đà để ngăn chặn túc nghiệp,
được Phật tiếp dẫn chẳng đọa
tam đồ, nhanh chóng sanh về Cực Lạc. V́ vậy,
kinh chép: “Vô bất
toại giả” (Không ai chẳng được toại nguyện).
Chữ “toại” (遂) nghĩa là ư
nguyện cầu sanh Cực Lạc được thỏa
măn trọn vẹn. Rơ ràng, người túc nghiệp sâu nặng
đều chẳng bị đọa vào tam đồ nữa,
được mang nghiệp đi văng sanh. Bi nguyện Phật
Di Đà sâu thẳm, sức nhiếp độ mênh mông vượt
trỗi mười phương.
Hiện thời, giới Phật giáo hải ngoại
đang tranh căi về thuyết “đới
nghiệp văng sanh”, nay ta cứ dựa trên kinh này th́ biết
ngay thuyết đới nghiệp văng sanh thật đă
căn cứ trên lời Phật nguyện. Hơn nữa,
cái nghiệp được mang theo đó chính là ác nghiệp!
Chánh kinh:
我 作 佛 時,國 無 婦 女。若 有 女 人,聞 我 名 字,得 清 淨 信,發 菩 提 心,厭 患 女 身,願 生 我 國。命 終 即 化 男 子,來 我 剎 土。十 方 世 界 諸 眾 生 類,生 我 國 者,皆 於 七 寶 池 蓮 華 中 化 生。若 不 爾 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật
thời, quốc vô phụ nữ. Nhược hữu nữ
nhân, văn ngă danh tự, đắc thanh tịnh tín, phát Bồ
Đề tâm, yếm hoạn nữ thân, nguyện sanh ngă quốc,
mạng chung tức hóa nam tử, lai ngă sát độ. Thập phương thế giới
chư chúng sanh loại, sanh ngă quốc giả, giai ư thất
bảo tŕ liên hoa trung hóa sanh. Nhược bất nhĩ giả,
bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
nước không có phụ nữ. Nếu có nữ nhân nghe
danh hiệu tôi sanh ḷng tin thanh tịnh, phát Bồ Đề tâm,
chán ngán thân nữ, nguyện sanh cơi tôi, chết đi liền
hóa thành nam tử sanh về cơi tôi. Các loài chúng sanh trong mười
phương thế giới sanh về cơi tôi đều hóa
sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu. Nếu chẳng
được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện hai mươi hai:
Nước không nữ nhân; nguyện hai mươi ba: Chán
thân nữ, chuyển thân nam; nguyện hai mươi bốn:
Liên hoa hóa sanh)
Giải:
Chương này gồm ba nguyện: Nguyện hai
mươi hai “nước không
nữ nhân” (trích từ bản Ngô dịch); câu “nhược hữu nữ nhân…
mạng chung tức hóa nam tử lai ngă sát độ” (nếu có nữ nhân... mạng chung sẽ hóa
thành nam tử, sanh về cơi tôi) là nguyện thứ hai
mươi ba “chán thân nữ,
chuyển thành thân nam”, c̣n gọi là nguyện “nữ nhân văng sanh”; nguyện
hai mươi bốn là “liên hoa
hóa sanh” (trích từ bản Ngô dịch).
Bản Ngô dịch chép nguyện “nước không nữ nhân” như sau: “Linh ngă quốc trung, vô hữu phụ
nữ” (Khiến cho trong nước ta không có phụ nữ).
Trong bản Hán dịch, phần kinh văn thuật về sự
thành tựu của lời thệ nguyện có ghi: “Nữ nhân văng sanh giả, tắc
hóa sanh, giai tác nam tử” (Nữ nhân văng
sanh th́ đều hóa sanh, biến thành nam tử). Kinh c̣n nói:
“Kỳ quốc trung tất
chư Bồ Tát, A La Hán, vô hữu phụ nữ” (Trong nước ấy, đều là Bồ
Tát, A La Hán, không có phụ nữ).
Hơn nữa, ngài Đạo Tuyên luật sư đời
Đường c̣n dẫn kinh như sau: “Thập phương thế giới, hữu nữ
nhân xứ, tức hữu địa ngục” (Mười
phương thế giới chỗ nào có nữ nhân, chỗ
đó có địa ngục).
Nay Cực Lạc không có ba ác đạo, ắt hẳn chẳng
có phụ nữ, thuần là người đủ ba
mươi hai tướng đại trượng phu. Đó là
v́ giữa nam nữ dễ sanh t́nh ái, trở thành duyên thoái
chuyển. V́ vậy, cơi đồng cư Cực Lạc thù
thắng hơn Sa Bà nhiều.
Trong Quán Niệm Pháp Môn, Thiện Đạo đại
sư giải thích về nguyện thứ hai mươi ba “nhàm chán thân nữ, chuyển thành
thân nam” như sau: “Ấy là
do sức bổn nguyện của Phật Di Đà nên nếu nữ
nhân xưng danh hiệu Phật th́ ngay trong lúc lâm chung liền
chuyển thân nữ trở thành nam tử. Di Đà dắt tay, Bồ
Tát nâng thân, đặt ngồi trên hoa sen báu theo Phật văng
sanh” và: “Hết thảy nữ
nhân nếu chẳng nhờ sức danh hiệu của Phật
Di Đà th́ trong ngàn kiếp, vạn kiếp, kiếp số
như cát sông Hằng, trọn chẳng thể đổi
được thân nữ”.
Ngay như
Phật Thích Ca lúc c̣n tu nhân c̣n phải mất cả một
đại kiếp tu hành siêng năng mới dần dà thoát
khỏi thân nữ, đủ thấy nữ chuyển thành
thân nam thật chẳng dễ dàng. Nay do nghe danh hiệu Phật
“đắc thanh tịnh tín” (sanh
ḷng tin thanh tịnh - thanh tịnh
là ĺa khỏi các lầm lỗi ác hạnh, không phiền năo
cấu nhiễm. Ḷng tin không cấu nhiễm gọi là “ḷng
tin thanh tịnh”). Do ḷng tin thanh tịnh mà phát Bồ Đề
tâm, nhàm chán thân nữ, nguyện sanh Cực Lạc, tin sâu,
nguyện thiết th́ ắt khởi thắng hạnh niệm
Phật, được bổn nguyện của Phật
gia hộ, nên lúc lâm chung liền chuyển nữ thành nam,
văng sanh Cực Lạc. Đó là nguyện “nhàm chán thân nữ, chuyển thành thân nam”.
Nguyện
thứ hai mươi bốn là liên hoa hóa sanh: “Sanh ngă quốc giả, giai
ư thất bảo tŕ liên hoa trung hóa sanh” (Sanh trong cơi ta
đều hóa sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu). Phẩm
mười bốn trong kinh đây chép: “Nhược hữu
chúng sanh minh tín Phật trí, năi chí thắng trí, đoạn trừ
nghi hoặc, tín kỷ thiện căn, tác chư công đức,
chí tâm hồi hướng, giai ư thất bảo hoa trung
tự nhiên hóa sanh, già phu nhi tọa. Tu du chi khoảnh, thân
tướng, quang minh, trí huệ, công đức như
chư Bồ Tát, cụ túc thành tựu” (Nếu có chúng sanh tin rơ Phật trí cho
đến thắng trí, đoạn trừ nghi hoặc, tin
vào thiện căn của chính ḿnh, tạo các công đức,
chí tâm hồi hướng th́ tự nhiên hóa sanh, ngồi xếp
bằng trong hoa bằng bảy báu. Trong khoảnh khắc,
được thành tựu đầy đủ thân tướng,
quang minh, trí huệ, công đức như các Bồ Tát).
Kinh A Di Đà Cổ Âm Thanh Vương Đà Ra Ni cũng dạy:
“Tây Phương An Lạc thế
giới, kim hiện hữu Phật, hiệu A Di Đà.
Nhược hữu tứ chúng, năng chánh thọ tŕ bỉ
Phật danh hiệu, dĩ thử công đức, lâm dục
chung thời, A Di Đà Phật tức dữ đại
chúng văng thử nhân sở, linh kỳ đắc kiến. Kiến
dĩ, tầm sanh khánh duyệt, bội tăng công đức.
Dĩ thị nhân duyên, sở sanh chi xứ, vĩnh ly bào thai
uế dục chi h́nh, thuần xử diệu bảo liên hoa
trung tự nhiên hóa sanh, cụ đại thần thông, quang
minh hách dịch” (Tây phương An Lạc thế giới hiện
đang có Phật hiệu A Di Đà. Nếu có tứ chúng có thể
thọ tŕ chân chánh danh hiệu đức Phật ấy th́
do công đức đó, lúc sắp chết, A Di Đà Phật liền
cùng đại chúng đến chỗ người ấy
cho kẻ ấy được thấy. Thấy rồi, liền
sanh ḷng mừng rỡ, vui sướng, tăng thêm công đức
bội phần. Do nhân duyên ấy, với chỗ sẽ sanh
về liền vĩnh viễn thoát khỏi thân uế dục
bào thai, thuần tự nhiên hóa sanh trong hoa sen diệu bảo,
đủ các đại thần thông, quang minh chói lọi).
Hai kinh trên cùng bảo người văng sanh Cực Lạc
đều tự nhiên hóa sanh trong hoa sen, thanh tịnh vô cấu,
thần thông, trí huệ, phóng đại quang minh đầy
đủ như Bồ Tát. Đấy là do lời nguyện này
nên chứng được như thế.
Liên Tŕ đại sư viết trong Di Đà Sớ Sao rằng:
“Lục đạo chúng sanh
nơi thân Trung Ấm[8]
tự cầu cha, mẹ. Văng sanh cơi lành th́ như trong khoảng
búng ngón tay liền hóa sanh trong hoa sen. Hoa sen ấy là cung huyền
diệu để thoát thân phàm, là nhà thần diệu để
an huệ mạng”, nghĩa là: Hết thảy chúng sanh
trong sáu nẻo, sau khi mạng chung, hiện thành thân Trung Ấm.
Nơi thân Trung Ấm ấy, do túc nghiệp nhân duyên của
tự thân mà đi t́m cha mẹ trong thế gian, gieo thân vào
chỗ bụng mẹ đầy phân nhơ để kết
thành cái thân trược nhiễm tội nghiệp; sao bằng
văng sanh về cơi lành, lâm chung được Phật tiếp
dẫn, trong khoảng khảy ngón tay, hóa sanh trong hoa sen, liền
sanh sang cơi An Lạc. Hoa sen ấy chính là cung điện u
huyền để thoát bỏ thân phàm phu, là căn nhà thần
diệu để an dưỡng huệ mạng của
đương nhân. Mấy lời này đă hiển lộ
Phật Di Đà đại nguyện sâu xa đại nguyện,
bi tâm tột bực, diệu đức khó lường.
Quyển mười lăm sách Đại Nhật Kinh Sớ
có câu: “Như người đời
cho hoa sen là thanh tịnh tốt lành, khiến mọi người
vui sướng, nay trong bí tạng, cũng lấy diệu
pháp liên hoa của Đại Bi Thai Tạng làm bí mật cát
tường bậc nhất, hết thảy thân gia tŕ pháp
môn ngồi trên đài hoa ấy”. Như vậy, chín phẩm
sen nơi Cực Lạc thật đă hiển thị mật
ư của Đại Nhật Như Lai: Toàn thể đều là
bí mật cát tường tối thắng.
Chánh kinh:
我 作 佛 時,十 方 眾 生,聞 我 名 字,歡 喜 信 樂,禮 拜 歸 命。以 清 淨 心,修 菩 薩 行,諸 天 世 人,莫 不 致 敬。若 聞 我 名,壽 終 之 後,生 尊 貴 家,諸 根 無 缺,常 修 殊 勝 梵 行。若 不 爾 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật
thời, thập phương chúng sanh, văn ngă danh tự,
hoan hỷ tín nhạo, lễ bái quy mạng, dĩ thanh tịnh
tâm, tu Bồ Tát hạnh, chư thiên thế nhân, mạc bất
trí kính. Nhược
văn ngă danh, thọ chung chi hậu, sanh tôn quư gia, chư
căn vô khuyết, thường tu thù thắng phạm hạnh.
Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi hoan hỷ
tin ưa, lễ bái, quy mạng, dùng tâm thanh tịnh tu Bồ
Tát hạnh. Chư thiên, người đời ai chẳng
cung kính. Nếu nghe tên tôi, sau khi hết tuổi thọ sẽ
sanh nhà tôn quư, các căn chẳng khuyết, thường tu
phạm hạnh thù thắng. Nếu chẳng được
thế, chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện hai mươi
lăm: Trời người lễ kính; nguyện hai
mươi sáu: Nghe tên được phước; nguyện
hai mươi bảy: Tu hạnh nguyện thù thắng)
Giải:
Chương này gồm ba nguyện từ chữ “văn ngă danh tự” (nghe danh
hiệu tôi) đến “mạc bất
trí kính” (không ai chẳng
cung kính) là nguyện hai mươi lăm “trời người lễ kính”; từ chữ “nhược văn ngă danh” (nếu
nghe tên tôi) đến “chư
căn vô khuyết” (các căn chẳng khuyết) là nguyện
hai mươi sáu “nghe tên
được phước”; phần c̣n lại là nguyện
hai mươi bảy “tu hạnh
nguyện thù thắng”.
Nguyện thứ mười tám “mười niệm ắt văng sanh” ở phần
trước là chánh nhân văng sanh, là cốt lơi của bốn
mươi tám nguyện. Hai nguyện mười chín và hai
mươi triển khai nguyện mười tám. Nguyện
hai mươi mốt đặc biệt chú trọng những
chúng sanh có đủ túc nghiệp: Nếu biết hối lỗi
phát tâm Bồ Đề, nhất tâm chuyên niệm cũng đều
được văng sanh, chẳng đọa ác đạo nữa.
Nguyện hai mươi ba chuyên v́ phụ nữ: Nghe danh phát
ḷng tin trong sạch, phát tâm Bồ Đề cầu sanh Tịnh
Độ, khi tuổi thọ hết chuyển thành thân nam, văng
sanh Cực Lạc. Những nguyện trên đều là nghe
danh hiệu phát tâm, được văng sanh Tịnh Độ,
toàn là những sự lợi ích bậc Thượng;
chương này nói về sự lợi ích bậc Hạ. Ấy
là v́ chúng sanh căn khí chẳng đồng nên khi nghe danh
phát tâm tin ưa khác nhau, hoặc là do đại tâm chẳng
vững vàng, hoặc do tín nguyện chẳng sâu, hoặc do
tŕ niệm chẳng chuyên đến nỗi chẳng thể
hoàn toàn khế hợp các đại nguyện của Phật
Di Đà như “mười niệm ắt văng sanh” v.v... V́ vậy,
đời sau họ chưa thể thoát khỏi sanh tử,
chỉ có thể đạt được phước báo
trong hiện tại và vị lai, nên phước được
hưởng thua kém các nguyện trước.
Chữ “tu Bồ Tát hạnh”
trong nguyện hai mươi lăm chỉ Lục Độ,
vạn hạnh, đây là tu rộng răi nhiều thứ
điều lành. Kinh này dạy ba bậc văng sanh đều
phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm. Do
phát tâm là vua của các nguyện, tŕ danh là hạng nhất
trong các hạnh, nên nếu khuyết những chánh nhân văng
sanh đó th́ dẫu có làm các điều thiện một
cách rộng lớn nhưng lại chẳng chuyên, nhiều
nhưng không tinh, nên chẳng khế hợp bổn nguyện
của Phật Di Đà, khó bề chứng đạo ngay trong
đời này. Do đó, chỉ được trời,
người cung kính mà thôi!
Sách Đại Luận giảng câu “sanh tôn quư gia” (sanh trong gia đ́nh tôn quư) trong nguyện
hai mươi sáu như sau: “Sanh
ḍng sát-lợi th́ có thế lực, sanh vào nhà bà-la-môn th́ có
trí huệ; sanh vào nhà cư sĩ th́ giàu có lớn nên có thể
làm lợi ích chúng sanh”. Sách Hội Sớ cũng bảo: “Sanh trong nhà hạ tiện bị
đời khinh rẻ, chẳng thể tạo lợi ích rộng
răi”. V́ vậy, “nghe danh
được phước” là đời sau sanh trong nhà
tôn quư. “Chư căn” là sáu
căn: mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ư.
Tiếp đó là nguyện hai mươi bảy. “Phạm Hạnh”: Phạm (梵) nghĩa là
thanh tịnh. Phạm Hạnh là hạnh thanh tịnh vô dục.
Chư thiên đoạn trừ dâm dục nên được
gọi là Phạm Thiên. Hạnh đoạn được
dâm dục như Phạm Thiên th́ gọi là Phạm Hạnh.
Sách Pháp Hoa Sớ của ngài Gia Tường giảng: “Có người bảo hết thảy
các giới là Phạm Hạnh, hoặc bảo chỉ thực
hành giới đoạn trừ dâm dục là Phạm Hạnh.
V́ vậy, kinh Đại Phẩm dạy: “Dâm dục chướng
sanh Phạm Thiên, hà huống Bồ Đề!” (Dâm dục
c̣n chướng ngại sanh làm Phạm Thiên, huống hồ
là Bồ Đề).
Các ư kiến trên đây đều cho rằng ly dục
là phạm hạnh; nhưng nếu hiểu sâu xa hơn, muôn hạnh để chứng
Niết Bàn đều là Phạm Hạnh. Pháp Hoa Sớ của
Ngài Gia Tường có câu: “Tướng
của Phạm Hạnh, tiếng Phạn gọi là Niết
Bàn, chính là căn bản pháp luân đại Niết Bàn. Thực
hành pháp ấy th́ là phạm hạnh v́ đạt đến
Niết Bàn vậy”.
Đại Nhật Kinh Sớ, quyển mười bảy
cũng giảng: “Phạm là Niết
Bàn. Phạm Hạnh nghĩa là tu đạt trọn vẹn
Đại Niết Bàn, nên gọi là Phạm Hạnh”. Cả
hai bộ kinh sớ trên đều cho rằng hạnh đạt
đến Niết Bàn là Phạm Hạnh. Đó mới là ư
nghĩa sâu xa của chữ Phạm Hạnh, chứ chẳng
phải chỉ hạn cuộc trong tŕ giới hay đoạn
dục mới là Phạm Hạnh. Chữ “Phạm Hạnh thù thắng” trong lời nguyện
này nên hiểu có hai nghĩa như thế.
Do đoạn trừ dâm dục, lễ Phật, niệm
Phật, phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm,
hướng đến diệu hạnh Đại Niết Bàn
căn bản pháp luân. Một phen nghe danh hiệu Phật liền
được đầy đủ công đức như
vậy. Điều này chứng tỏ Phật hiệu đầy
đủ vạn đức.
Hơn nữa, công đức nghe danh hiệu vi diệu
khó lường như kinh Tôn Thắng Đà Ra Ni dạy: “Chư phi điểu, súc sanh,
hàm linh chi loại, văn thử Đà Ra Ni, nhất kinh
ư nhĩ, tận thử nhất thân, cánh bất phục
thọ” (Các loài chim bay,
súc sanh, hàm linh một phen nghe đà-ra-ni này thoảng qua tai,
hết một thân ấy liền chẳng thọ lại nữa).
Kinh Niết Bàn cũng nói: “Thị
Đại Niết Bàn diệc phục như thị,
nhược hữu chúng sanh, nhất kinh ư nhĩ,
khước hậu thất kiếp, bất đọa ác
thú” (Đại Niết Bàn này
cũng giống như thế. Nếu có chúng sanh một
phen nghe được, trong bảy kiếp sau chẳng
đọa đường ác). Một phen được
nghe đă đạt công đức đến mức
như vậy, huống hồ nghe xong lại tin nhận th́
công đức càng lớn lao hơn nữa. Một chữ “Văn” (聞) trong kinh này chẳng
chỉ có nghĩa là “nghe”
xuông, mà c̣n có nghĩa là “tin nhận”.
V́ vậy, người nghe danh hiệu Phật dẫu đời
này chẳng được văng sanh th́ đời sau cũng
sẽ thường tu phạm hạnh thù thắng.
Chánh kinh:
我 作 佛 時,國 中 無 不 善 名。所 有 眾 生,生 我 國 者,皆 同 一 心,住 於 定 聚。永 離 熱 惱,心 得 清 涼,所 受 快 樂,猶 如 漏 盡 比 丘。若 起 想 念,貪 計 身 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật
thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh sanh ngă quốc giả,
giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ,
vĩnh ly nhiệt năo, tâm đắc thanh lương. Sở
thọ khoái lạc do như Lậu Tận tỳ-kheo.
Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả,
bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi làm Phật,
trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả
chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một
tâm, trụ nơi Định Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi
nhiệt năo, tâm được thanh lương, hưởng
thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu
họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân th́ chẳng
lấy Chánh Giác.
(Nguyện hai mươi tám:
Nước không sự bất thiện; nguyện hai
mươi chín: Trụ Chánh Định Tụ; nguyện ba
mươi: Vui như Lậu Tận; nguyện ba
mươi mốt: Chẳng tham chấp thân)
Giải:
Nguyện hai mươi tám đến nguyện ba
mươi mốt trong chương này là những nguyện
dành cho chúng sanh cơi Cực Lạc, thể hiện công đức
thọ dụng của chúng sanh trong cơi Cực Lạc. Chương
này gồm bốn nguyện: “Quốc trung vô bất thiện
danh” (Trong nước không có danh từ
bất thiện) là nguyện hai mươi tám “nước không có sự bất
thiện”; từ đó đến chữ “trụ ư Định Tụ”
(trụ trong Định Tụ) là nguyện hai mươi
chín “trụ Chánh Định Tụ”;
từ đấy đến chữ “do như Lậu Tận tỳ-kheo” (giống
như Lậu Tận tỳ-kheo) là nguyện ba mươi “vui như Lậu Tận”; phần
c̣n lại là nguyện ba mươi mốt “chẳng tham đắm thân”.
Nguyện hai mươi tám “nước
không có danh từ bất thiện” ư nói: Cơi Cực Lạc
c̣n không có danh từ bất thiện, huống là thật có
sự bất thiện? Long Thọ Đại Sĩ dạy: “Cơi đức Phật ấy
không có danh từ ác, cũng không có nỗi sợ ác đạo,
nữ nhân; cho đến chẳng có ác tri thức và các
đường ác”, nghĩa là: Cơi Cực Lạc không có
các điều bất thiện. Văng Sanh Luận lại nói:
“Nên biết rằng quả báo
Tịnh Độ ĺa khỏi hai thứ tỵ hiềm: một
là Thể, hai là Danh. Thể có ba thứ: Một là người
Nhị Thừa, hai là nữ nhân, ba là người chẳng
đủ các căn. Do không có ba lỗi này nên gọi là ĺa
được cái Thể của tỵ hiềm. Danh
cũng có ba thứ, chẳng những không có ba Thể mà c̣n
chẳng nghe ba thứ danh từ Nhị Thừa, nữ
nhân, các căn chẳng đủ, nên ĺa được cái
danh của tỵ hiềm”. Câu “cái danh của tỵ hiềm” được dùng
trong Văng Sanh Luận ám chỉ câu “chẳng
có danh từ bất thiện” trong lời nguyện ở
đây. Sách Sớ Sao lại bảo: “Do tai chỉ nghe vạn đức hồng danh của
chư Phật, các thứ danh hiệu tốt lành của Bồ
Tát, Thanh Văn và chư thiên, thượng nhân, nên các danh tự
ba ác chưa từng nghe lọt qua tai”. Tai chẳng nghe tiếng
ác nên bảo là “vô bất thiện
danh” (chẳng có danh từ bất thiện).
Hơn nữa, kinh A Di Đà dạy: “Kỳ Phật quốc độ, thượng vô ác
đạo chi danh, hà huống hữu thực! Thị
chư chúng điểu giai thị A Di Đà Phật dục
linh pháp âm tuyên lưu biến hóa sở tác” (Cơi nước Phật ấy
c̣n không có cái tên ác đạo, huống là thật có! Các loài
chim ấy đều do A Di Đà Phật v́ muốn khiến
cho pháp âm được tuyên lưu nên biến hiện ra).
Linh Phong đại sư đă giảng câu này rất tường
tận trong sách Di Đà Yếu Giải như sau:
“Hỏi: Các loài như bạch
hạc v.v... chẳng phải là tên ác đạo hay sao?
Đáp: Chúng đă chẳng phải
là tội báo th́ mỗi mỗi danh tự đều diễn
bày công đức của Như Lai, nghĩa là: Cứu cánh bạch
hạc v.v... không danh tự nào chẳng phải là tiếng
tôn xưng tánh đức, há có phải là ác danh đâu!”.
Ư Ngài nói: Trong kinh có câu “bỉ
quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu
tạp sắc chi điểu: Bạch hạc, khổng
tước, anh vũ, ca-lăng-tần-già, cộng mạng
chi điểu” (cơi ấy
thường có các loài chim nhiều màu kỳ diệu như
bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá-lợi,
ca-lăng-tần-già, chim cộng mạng) nên mới có kẻ
hoạnh họe: Cơi ấy đă có các loài chim như bạch
hạc v.v... th́ những cái tên như bạch hạc v.v... ấy
há chẳng phải là cái tên của ác báo hay sao?
Đáp rằng: Kinh dạy: “Nhữ
vật vị thử điểu thực thị tội báo
sở sanh” (Ông chớ cho rằng những loài chim ấy
thật sự do tội báo sanh ra), những loài chim như bạch
hạc.... đă chẳng phải do tội báo sanh ra th́ những
danh từ như bạch hạc… chỉ là giả danh,
cũng chẳng phải là ác danh. Các loài chim ấy đều
từ tánh đức của Như Lai hóa hiện nên tên gọi
của chúng biểu thị tánh đức của Như
Lai. Đó chính là mỹ hiệu, chớ nên bảo là ác danh.
Lại như Quán kinh dạy: “Như Ư Châu Vương dũng xuất kim sắc vi
diệu quang minh, kỳ quang hóa vi bách bảo sắc điểu”
(Như Ư Châu Vương tỏa ra quang minh kim sắc vi
diệu, quang minh ấy hóa ra chim có màu như trăm thứ
báu) th́ y báo, chánh báo cơi Cực Lạc đều được
trang nghiêm bởi Quả Giác của Như Lai. Các loài chim ấy
đều do Phật Di Đà biến hóa ra. Cơi ấy mỗi sắc,
mỗi hương, mỗi hạt bụi, mỗi danh từ
không thứ nào chẳng là Trung Đạo, đều là toàn thể
đại dụng của pháp giới chẳng thể
nghĩ bàn. V́ vậy, mỗi một danh tự trong cơi
nước kia đều thể hiện Tánh Đức của
Như Lai.
Như Lai chứng nghiệm pháp giới đến cùng
tột, soi tột cùng nguồn tâm, công đức hoàn thiện.
Do một thứ đă chân thật th́ hết thảy đều
chân thật, một thứ đă cứu cánh th́ hết thảy
đều cứu cánh. Lại do giả danh hiển thị
toàn vẹn Thật Pháp nên mỗi một danh tự trong cơi
kia đều là cứu cánh. Bạch hạc là cứu cánh bạch
hạc, chim Cộng Mạng là cứu cánh cộng mạng.
Các loài chim ấy đều hiển thị tánh đức
của Như Lai, nên tên của chúng tuy là giả danh
nhưng cũng là tiếng tôn xưng tánh đức, nào phải
là ác danh ư!
Nguyện hai mươi chín: “Sở
hữu chúng sanh sanh ngă quốc giả, giai đồng nhất
tâm, trụ ư Định Tụ” (Tất cả chúng
sanh sanh trong cơi tôi đều đồng một tâm, trụ
trong Định Tụ) là kết
quả của nguyện thứ năm “không sai biệt”: Sanh trong cơi ấy, h́nh mạo
không khác nhau, đều giống như nhau. H́nh mạo
đă giống nhau, tâm cũng giống hệt. Tâm đă
đồng nhất nên cùng trụ trong Định Tụ. Định
Tụ nghĩa là Chánh Định Tụ, là một trong Tam Tụ.
Tam Tụ bao gồm hết thảy chúng sanh. Tụ (聚) có nghĩa là
những ǵ giống nhau được gom lại. Chúng sanh
được chia làm ba loại nên gọi là Tam Tụ. Cả
Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa đều nói đến
Tam Tụ, nhưng có nhiều thuyết:
1. Thuyết thứ nhất: Tam Tụ là:
* Chánh Định Tụ gồm những người nhất
định chứng ngộ.
* Tà Định Tụ: những kẻ hoàn toàn chẳng
chứng ngộ.
* Bất Định Tụ: Ở giữa hai hạng
trên, hữu duyên th́ chứng ngộ, vô duyên ắt chẳng
chứng ngộ.
2. Thuyết thứ hai là như sách Hội Sớ nói: “Định Tụ nói đầy
đủ là Chánh Định Tụ, cũng gọi là Bất
Thoái Chuyển, tức là Bồ Tát A Bệ Bạt Trí. V́ sao
gọi là Chánh Định? Phàm hết thảy chúng sanh tuy
căn tánh muôn phần sai khác, nhưng nếu phân loại
th́ chẳng ngoài ba thứ: Ắt đọa trong sáu
đường là Tà Định, nếu thăng trầm
tùy duyên th́ là Bất Định, quyết định đạt
đến Bồ Đề th́ gọi là Chánh Định”.
3. Thuyết thứ ba là của Khởi Tín Luận: Từ
phàm phu đến hạng chưa đạt bậc Thập
Tín, chẳng tin nhân quả là Tà Định. Từ Thập
Trụ trở lên là Chánh Định, hạng Thập Tín là
Bất Định Tánh. Thuyết này là thuyết của Đại
Thừa Thật Giáo.
Phẩm hai mươi hai kinh này chép: “Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ
nhân, nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược
đương sanh, giai tất trụ ư Chánh Định
chi tụ, quyết định chứng ư A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Nếu có thiện
nam tử, thiện nữ nhân hoặc đă sanh, hoặc sẽ
sanh thảy đều trụ trong Chánh Định Tụ (Câu này
trích từ bản Đường dịch), quyết định
chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).
Như vậy, được sanh về cơi kia liền thuộc
vào Chánh Định Tụ, ắt chứng quả Đại Niết
Bàn.
Do đó, ngài Thiện Đạo nói: “Chẳng đoạn phiền năo mà đắc Niết
Bàn, điều này thể hiện tánh đức tự
nhiên của cơi An Lạc vậy”. Long Thọ Đại
Sĩ cũng nói: “Dùng nhân duyên
tin Phật nguyện sanh Tịnh Độ, khởi tâm lập
đức, tu các hạnh nghiệp. Do nguyện lực của
Phật nên liền văng sanh. Do Phật lực ǵn giữ nên
liền nhập Đại Thừa Chánh Định Tụ.
Chánh Định Tụ chính là địa vị A Bệ Bạt
Trí Bất Thoái vậy”. (Ngài Thiện Đạo c̣n căn cứ
vào lời nguyện này và bản Đường dịch bảo
rằng nguyện này c̣n ẩn tàng mật nghĩa: Ngay trong
hiện đời chứng được Bất Thoái.
Kinh nói “nhược
đương sanh” (hoặc sẽ sanh) là chỉ người
đang cầu văng sanh cũng được nhập Chánh
Định Tụ. Đây là một thuyết rất kỳ
đặc, trong phẩm hai mươi hai, tôi sẽ tŕnh bày
tường tận).
Câu “vĩnh ly nhiệt năo, tâm đắc
thanh lương. Sở thọ khoái lạc do như Lậu
Tận tỳ-kheo” (vĩnh
viễn xa ĺa nhiệt năo, tâm được thanh lương, hưởng thọ
khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo) chính là nguyện
ba mươi “vui như Lậu
Tận”. “Nhiệt năo” nghĩa là bị sự rất khổ bức
bách khiến thân bức rức, tâm phiền muộn, nên gọi
là “nhiệt năo”. Phẩm Tín
Giải của kinh Pháp Hoa bảo: “Dĩ tam khổ cố, ư sanh tử trung, thọ
chư nhiệt năo” (Do v́ ba khổ nên ở trong sanh tử,
chịu các nhiệt năo). Nay
trong cơi Cực Lạc “vô hữu
chúng khổ, đản thọ chư lạc” (không có các
khổ, chỉ hưởng các điều vui) nên vĩnh viễn
xa ĺa nhiệt năo. “Thanh
lương” là thanh tịnh mát mẻ, trái nghĩa với
“nhiệt năo”. Quyển hai
mươi hai của luận Đại Trí Độ giảng: “Người bị cơn nóng dữ
làm khổ nếu được vào trong ao trong mát th́ mát dịu,
thư thái, không bị nhiệt năo nữa”. Ao trong mát
(thanh lương tŕ) ví cho Niết Bàn. Nay người văng
sanh được vào trong ao thanh lương lớn của
cơi kia, nên đều “tâm đắc
thanh lương” (tâm được thanh lương).
Chữ Lậu (漏) trong “Lậu
Tận tỳ-kheo” có nghĩa là ṛ rỉ, rịn chảy.
Lậu là tên khác của phiền năo. Phiền năo hiện
hành khiến tâm luôn bị ṛ rỉ, lưu tán chẳng ngớt
nên gọi phiền năo là Lậu. Lại do sáu cái cửa: mắt,
mũi v.v… ngày đêm thường tuôn tràn phiền năo nên gọi
là Lậu. Dùng thánh trí để đoạn sạch các phiền
năo ấy th́ gọi là Lậu Tận. Năm thứ đầu
của Lục Thông là Hữu Lậu Thông, riêng ḿnh Lậu Tận
Thông là Vô Lậu Thông. Tỳ-kheo đoạn sạch phiền
năo được xưng là “Lậu Tận tỳ-kheo”, tức
là A La Hán.
Pháp Tạng Bồ Tát nguyện chúng sanh trong cơi Ngài
hưởng vui vô cực, nhưng với những sự
vui sướng ấy, tâm chẳng chấp trước,
như bậc A La Hán, nên bảo là “do như Lậu Tận tỳ-kheo” (giống như tỳ-kheo lậu
tận). Dùng h́nh ảnh này để ví họ hưởng
thọ các sự vui, nhưng không nghĩ là vui. Ngài
Nghĩa Tịch gọi nguyện này là nguyện “hưởng vui chẳng nhiễm”,
ngài Cảnh Hưng gọi là nguyện “hưởng lạc không lầm lỗi”, đều
cùng ngụ ư này.
Nguyện ba mươi mốt là “chẳng tham chấp thân”: Không khởi tưởng
niệm tham chấp thân. Phần nhiều phàm phu tu hành hay bị
mắc vào Thân Kiến. Thân Kiến là kiến chấp lớn
nhất trong Kiến Hoặc. Kiến Hoặc chẳng
đoạn, chẳng thể dự vào ḍng thánh; tất nhiên
thường lưu chuyển trong sanh tử, không mong ngày
ra. Tham chấp thân là chấp có thân ta nên tham đắm, so
đo. Sách Hội Sớ giảng: “Vọng chấp tự thân, so đo yêu, ghét, thuận,
nghịch, th́ gọi là tham chấp. Đấy gọi là Ngă Chấp”:
Phàm phu vọng tưởng thân ḿnh chính là Ngă rồi tham chấp,
so đo, ham thích, giữ ǵn, bồi bổ, thuận với
ḿnh th́ sanh ḷng yêu thích, hễ trái nghịch th́ sanh giận dữ.
Toàn thể các thứ phân biệt, tham đắm ấy
đều là phiền năo. Sách Văng Sanh Luận bảo: “Xa ĺa ngă tâm, tham đắm thân
ḿnh, xa ĺa tâm chẳng an chúng sanh, xa ĺa tâm cúng dường
cung kính thân ḿnh. Cần biết rằng: Ba pháp ấy đều
chướng ngại Bồ Đề tâm nên phải xa ĺa”.
Ư nói: Cả ba cái tâm tham chấp tự thân, tâm làm cho chúng
sanh chẳng được yên ổn, tâm cúng dường
cung kính thân ḿnh đều chướng ngại tâm Bồ Đề.
Kinh này lấy “phát tâm Bồ Đề,
nhất hướng chuyên niệm” làm Tông; nếu tâm Bồ
Đề bị chướng ngại ắt chẳng
được văng sanh nên Phật nguyện rằng: “Nhược khởi tưởng
niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu khởi niệm tưởng tham chấp
thân ḿnh th́ chẳng lấy Chánh Giác).
Chánh kinh:
我 作 佛 時,生 我 國 者,善 根 無 量,皆 得 金 剛 那 羅 延 身,堅 固 之 力。身 頂 皆 有 光 明 照 耀。成 就 一 切 智 慧,獲 得 無 邊 辯 才。善 談 諸 法 秘 要,說 經 行 道,語 如 鐘 聲。若 不 爾者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật
thời, sanh ngă quốc giả, thiện căn vô lượng,
giai đắc kim cang Na-la-diên thân, kiên cố chi lực. Thân đảnh giai hữu quang minh chiếu
diệu, thành tựu nhất thiết trí huệ, hoạch
đắc vô biên biện tài, thiện đàm chư pháp bí yếu,
thuyết kinh hành đạo, ngữ như chung thanh. Nhược
bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
[người] sanh trong nước tôi thiện căn vô
lượng, đều được thân kim cang Na-la-diên,
sức kiên cố, thân và đảnh đều có quang minh
chiếu rực, thành tựu hết thảy trí huệ,
đạt được vô biên biện tài, khéo bàn các pháp
bí yếu, nói kinh, hành đạo tiếng vang như chuông. Nếu
chẳng được như vậy, chẳng lấy
Chánh Giác.
(Nguyện ba mươi hai:
Thân Na-la-diên; nguyện ba mươi mốt: Quang minh, trí huệ,
biện tài; nguyện ba mươi bốn: Khéo bàn pháp yếu)
Giải:
Chương này gồm ba nguyện. Câu “sanh ngă quốc giả, thiện căn vô
lượng” (sanh trong nước
tôi thiện căn vô lượng) là câu nói chung. Thiện
căn là điều thiện nơi ba nghiệp thân, khẩu,
ư kiên cố chẳng thể nhổ trốc được,
nên gọi là Căn (根). Đại sư La Thập bảo:
“Thiện tâm kiên cố, sâu chẳng
thể nhổ trốc đi được, nên gọi là
Căn”. Lại v́ “thiện” có thể sanh ra diệu quả
và sanh ra các điều thiện khác, nên gọi là Căn.
Câu “giai đắc kim cang Na-la-diên
thân, kiên cố chi lực” (đều có thân kim cang Na-la-diên, sức kiên cố)
là nguyện ba mươi mốt “thân
Na-la-diên”, ngài Cảnh Hưng gọi là “nguyện được thân kiên
cố”. “Kim Cang”, tiếng Phạn là Bạt-triết-ra
(Vajra) hoặc phiên âm là Phạt-triết-ra, dịch là Kim
Cang. Sách Tam Tạng Pháp Số, quyển năm giảng: “Là chất cứng rắn nhất
trong các loại vàng nên gọi là Kim Cang”. Sách Đại Tạng
Pháp Số, quyển bốn mươi mốt lại giảng:
“Tiếng Phạn là Bạt-triết-ra,
Hán dịch là Kim Cang. Thứ vật báu này từ vàng sanh ra,
màu như tử anh, đem nung trăm lần cũng chẳng
tiêu hủy, cứng nhất, bén nhất, cắt được
cả ngọc, rất hiếm trong đời, nên
được coi là quư” (tức là đá kim cương,
tục gọi là cô thạch, độ cứng rất cao[9]).
Kim Cang c̣n là cách gọi tắt chữ “kim cang xử”. Đại
Nhật Kinh Sớ, quyển một nói: “Phạt-triết-ra chính là kim cang xử”. Kim cang xử
(chày Kim Cang) nguyên là binh khí của Ấn Độ, Mật tông
dùng nó để biểu thị trí cứng chắc, sắc
bén. Đại Nhật Kinh Sớ, quyển một c̣n giảng
thêm: “Phạt-triết-ra là kim
cang trí ấn của Như Lai”. Nhân Vương Kinh Niệm
Tụng Nghi Quỹ quyển một lại bảo: “Thủ tŕ kim cang xử giả,
biểu
khởi chánh trí, do như kim cang” (Tay cầm kim cang xử để biểu thị phát khởi
chánh trí giống như kim cang).
Xử có vô lượng thứ khác nhau: vàng, bạc,
đồng, sắt, đá, thủy tinh, gỗ pháp-đà-la v.v...
Xử của Đế Thích làm bằng kim cang. Vị lực
sĩ cầm kim cang xử được gọi là Chấp
Kim Cang (Vajrapani), hay gọi gọn là Kim Cang. Sách Hạnh Tông
Kư, quyển hai chép: “Kim Cang là vị
lực sĩ theo hầu, do tay bưng kim cang xử nên thành
tên”.
“Na-la-diên” (Narayana) dịch
là Thắng Lực, hoặc Kiên Lao, có bốn nghĩa:
1. Là tên khác của Phạm Thiên Vương.
2. Là như La Thập đại sư bảo: “Lực sĩ cơi trời gọi
là Na-la-diên, đoan chánh, hùng mạnh”.
3. Đại Nhật Kinh Sớ, quyển mười giảng:
“Na-la-diên là một trong nhiều
biệt danh của Tỳ Nữu Thiên (Vishnu), tức là biệt danh của
Na-la-diên thiên. Vị trời này do Phật hóa ra”. Sách Bí Tạng
Kư lại bảo: “Na-la-diên thiên
có ba mặt, thân sắc xanh pha vàng, tay phải cầm bánh
xe, cỡi chim Ca-lâu-la” (cỡi chim bay trên không trung).
4. Niết Bàn Kinh Sớ, quyển bảy giảng: “Na-la-diên: Hán dịch là Kim Cang”
là một trong mười chín vị Chấp Kim Cang, kinh Duy
Ma Cật ghi là Na La Diên Bồ Tát.
Đa phần các nhà chú giải kinh thời trước cho
rằng thân và tâm chúng sanh ảnh hưởng lẫn nhau: Hễ
thân có sự sướng, khổ, tâm ắt cũng vui, buồn
theo; hễ tâm mừng, lo, thân cũng sẽ khỏe khoắn
hay hao tổn theo. Ngài Pháp Cứu nói: “Như Lai thân lực vô biên như tâm lực vậy”.
Kinh Mật Tích Lực Sĩ cũng chép: “Như Lai chi thân thành câu tỏa thể[10],
do như Kim Cang, khanh nhiên, kiên tuyệt, bất khả phá hoại”
(Thân của Như Lai chắc chắn,
mạnh mẽ như kim cang, cứng chắc vô cùng chẳng
thể phá hoại được). V́ vậy, Phật nguyện chúng sanh trong nước
ba nghiệp trang nghiêm, thân cứng chắc như kim cang, sức
mạnh mẽ như Na-la-diên, đều cùng được
thân nghiệp thù thắng vậy.
Trong Mật giáo, Chấp Kim Cang, Kim Cang Thủ, Kim Cang
Tát Đỏa v.v... chỉ là những cách dịch khác nhau của
cùng một tên. Nhân Vương Kinh Niệm Tụng Nghi Quỹ,
quyển thượng chép: “Vị
Kim Cang Thủ ấy chính là Phổ Hiền Bồ Tát. Tay cầm
kim cang xử tiêu biểu phát khởi chánh trí giống
như kim cang đoạn được chướng ngă
pháp vi tế”. Kinh Thánh Vô Động Tôn Đại Oai Nộ
Vương Bí Mật Đà Ra Ni cũng chép: “Vị Kim Cang Thủ này là Pháp Thân Đại Sĩ nên có
tên là Phổ Hiền, liền từ đức Như Lai mà
được cầm kim cang xử. Kim cang xử ấy do
Ngũ Trí hợp thành, nên Ngài có tên là Kim Cang Thủ”.
Với lời nguyện “thân
kim cang na-la-diên” trong kinh đây, nếu hiểu theo quan
điểm Hiển giáo, ta có thể hiểu theo các cách giải
thích ở phần trước: Thân kiên cố đại lực
như thân của Na-la-diên lực sĩ hay thân của thần
Na-la-diên; nếu hiểu theo Mật nghĩa th́ Kim Cang và
Na-la-diên đều là Chấp Kim Cang.
Xét về ư nghĩa gốc trong Mật giáo, Kim Cang
Na-la-diên là Kim Cang Tát Đỏa, tức là Phổ Hiền, là bậc
Pháp Thân đại sĩ. Hơn nữa, Mật giáo gọi
Kim Cang là tướng oai mănh do Phật thị hiện. V́ vậy,
câu “thân kim cang Na-la-diên” có thể
hiểu là được thân kim cang hoặc “kim cang thể”
giống hệt như đức Phật.
Chữ “kim cang thân” chỉ thân kim cang bất hoại tức
là thân Phật. Kinh Niết Bàn nói: “Như Lai thân giả, thị thường
trụ thân, bất khả hoại thân, kim cang chi thân” (Thân của Như Lai là thân thường trụ,
thân chẳng thể hoại, là thân kim cang) và “chư Phật Thế Tôn tinh cần
tu tập, hoạch Kim Cang thân” (chư Phật Thế Tôn siêng năng tu tập chứng
được thân Kim Cang).
Bản Tân dịch kinh Nhân Vương ghi: “Thế Tôn
đạo sư Kim Cang thể, tâm hạnh tịch diệt
chuyển pháp luân”. Sách Lương Phần Sớ giảng: “Kim Cang thể kiên cố trọn
vẹn, Thể là thân. Thân Phật kiên cố giống
như kim cang”. Nếu hiểu theo quan điểm Mật
giáo th́ những kẻ được văng sanh sẽ đạt
được thân kim cang bất hoại như Phật nên
họ đều thọ mạng vô lượng, thân có sức
kim cang kiên cố.
Câu “thân đảnh giai hữu
quang minh chiếu diệu, thành tựu nhất thiết trí
huệ, hoạch đắc vô biên biện tài” (thân đảnh đều có quang minh chói rực,
thành tựu hết thảy trí huệ, đạt được
vô biên biện tài) là nguyện ba mươi mốt “quang minh trí huệ biện tài”.
Đức Phật ấy thọ mạng vô lượng, trời
người trong nước cũng thọ mạng vô
lượng. Đức Phật ấy quang minh cũng vô lượng
nên nhân dân cơi ấy thân và đảnh đều có quang minh
chiếu rực. Chủ (Phật) và bạn (hết thảy
hiền thánh, nhân dân trong nước) đều như một.
Thêm nữa, tự chiếu sáng gọi là Quang, chiếu
sáng vật khác là Minh. Quang minh có hai công dụng: Một là trừ
tối, hai là hiện pháp. Quang minh của Phật là tướng
trí huệ (xem Văng Sanh Luận, quyển Hạ). Kinh Siêu Nhật
Minh Tam-muội, quyển Hạ cũng dạy: “Thị tri đại trí phát
ngoại, năng chiếu pháp giới, danh vi quang minh” (Cho nên biết rằng: Đại trí phát ra ngoài chiếu
soi pháp giới th́ gọi là quang minh). Kinh Niết Bàn cũng nói: “Quang minh danh vi trí huệ” (Quang minh là trí huệ). Đại Huệ thiền sư c̣n bảo: “Chỉ dùng ánh sáng này để
tuyên thuyết diệu pháp, pháp này chính là quang minh ấy, chẳng
ĺa khỏi quang minh này mà thuyết pháp ấy”.
Thân và đảnh của trời và người cơi kia
đều có thường quang chính là do trí huệ thành tựu.
Do được Phật lực gia hộ, bảo hựu,
nên trí huệ thù thắng. Đối với những trí: Phật
trí, bất khả tư nghị trí, bất khả xưng
trí, Đại Thừa quảng trí, trí thù thắng tối
thượng không ai bằng, không ai sánh nổi đều
hiểu rơ cả, nên bảo “thành
tựu nhất thiết trí huệ” (thành tựu hết
thảy trí huệ) và “hoạch
đắc vô biên biện tài” (đạt được
vô biên biện tài). “Biện tài”
là khả năng diễn thuyết pháp nghĩa một cách
hay khéo. Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ “biện tài”
như sau: “Nói năng biện
luận rành rẽ, chữ dùng tài t́nh nên gọi là biện
tài”. Ngoài ra, các trí biện tài thuyết pháp của Bồ
Tát được gọi chung là Tứ Vô Ngại Trí, Tứ
Vô Ngại Giải hoặc Tứ Vô Ngại Biện. Tứ
Vô Ngại là:
1. Pháp Vô Ngại: Giáo pháp được giảng
ra luôn gồm Danh (名: tên gọi của sự vật),
Cú (句: Câu nói, câu văn), Văn (文: lời
văn). Giáo pháp Năng Thuyên gọi là pháp. Thuyên (詮) hàm nghĩa
đầy đủ, tốt lành (do vậy, giáo pháp Năng
Thuyên có nghĩa là giáo pháp có thể phô diễn, tuyên thuyết
trọn vẹn những điều tốt lành). Giáo pháp
không bị úng trệ nên gọi là Pháp Vô Ngại.
2. Nghĩa Vô Ngại: Hiểu biết nghĩa lư của
giáo pháp được giảng nhưng không vướng mắc
vào đó th́ gọi là Nghĩa Vô Ngại.
3. Từ Vô Ngại: Thông đạt rành rẽ các
ngôn ngữ của từng địa phương th́ gọi
là Từ Vô Ngại.
4. Nhạo Thuyết Vô Ngại: Dùng ba thứ trí
trên đây để giảng nói theo ư muốn của chúng
sanh một cách tự tại. Nhạo Thuyết Vô Ngại
c̣n gọi là Biện Vô Ngại. Thuận theo chánh lư phát ra lời
nói vô ngại nên gọi là Biện Vô Ngại.
Nhân dân trong cơi ấy do thành tựu hết thảy trí huệ
nên đắc Vô Ngại Biện Tài, dùng Tứ Vô Ngại Biện
Tài để hoằng diễn pháp yếu.
Câu “thiện đàm chư pháp bí yếu”
(khéo bàn các pháp bí yếu) là nguyện
ba mươi bốn“khéo bàn pháp
yếu”. “Bí” (秘) nghĩa là bí áo, tức là điểm
sâu xa, huyền diệu của pháp môn. Bí cũng có nghĩa
là bí mật, tức là những điểm ẩn mật của
pháp môn, chẳng dễ chỉ bày cho người khác. Sách
Pháp Hoa Văn Cú, quyển năm giảng chữ “bí yếu”
như sau: “Điều Phật canh
cánh trong tâm hơn bốn mươi năm, người
khác chẳng hề biết là Bí. Đạo dẫn thẳng
đến Nhất Thừa nhiếp trọn muôn đường
khác gọi là Yếu (要)”. Trong Pháp Hoa Sớ, quyển chín, ngài Gia Tường
lại giảng rằng: “Do
ngôn ngữ giản dị, tinh yếu nhưng chứa đựng
trọn vẹn nghĩa lư nên bảo là Yếu. Trước
đây vốn đă giấu kín chẳng truyền ra nên gọi
là Bí”. Phẩm Pháp Sư kinh Pháp Hoa có câu: “Thử kinh thị chư Phật bí yếu
chi tạng, bất khả phân bố, vọng thọ dữ
nhân” (Kinh này là tạng bí yếu của
chư Phật, chẳng thể lưu truyền, dạy dỗ
bừa băi cho người khác).
Ngoài ra, Mật tông c̣n được gọi là Bí Mật
Tông v́ Mật pháp chính là tạng bí yếu của chư Phật,
chẳng thể đem dạy cho người khác một
cách khinh suất được. Nay các vị Bồ Tát cơi Cực
Lạc “thiện đàm chư
pháp bí yếu” (khéo bàn các pháp bí yếu) nghĩa là các vị
khéo khai diễn hết thảy pháp bí yếu rất sâu dù Hiển
hay Mật.
“Hành đạo” là kinh hành. Vừa
đi kinh hành vừa tụng kinh là pháp Thường Hành
tam-muội của tông Thiên Thai.
“Chung” (chuông) là một
trong những loại được gọi là “kiền
chùy” trong tiếng Phạn. Chuông là pháp khí để nhóm
chúng, dùng tiếng chuông làm hiệu lệnh nhóm chúng. Tiếng
chuông lại có công đức thù thắng như kinh Tăng
Nhất A Hàm dạy: “Nhược
đả chung thời, nhất thiết ác đạo
chư khổ, tịnh đắc đ́nh chỉ” (Khi đánh chuông, hết thảy các nỗi khổ
trong ác đạo đều được ngưng nghỉ).
Sách Phật Tổ Thống Kỷ, quyển sáu cũng có
chép: “Người lúc sắp chết
nghe tiếng chuông, tiếng khánh th́ chánh niệm được
tăng thêm”.
Câu “ngữ như chung thanh” (tiếng vang
như chuông) ư nói thanh âm của người thuyết pháp
như tiếng hồng chung trong trẻo, thánh thót, hùng hồn,
liên tục vang xa, khua tan đêm dài, đánh thức những
kẻ đang mê mệt khiến họ phát sanh thiện tâm,
ngưng ngớt các khổ. Âm thanh thuyết pháp có công đức
như tiếng chuông. Ngoài ra, trên thân chuông c̣n khắc những
chân ngôn, những chữ chủng tử[11],
kinh kệ Đại Thừa. Gióng một tiếng chuông khác nào
đọc lên hết thảy kinh pháp Hiển, Mật
được ghi trên thân chuông. Dùng những điều
đó để sánh ví người thuyết pháp: Trong mỗi
một âm thanh đều hàm chứa vô biên diệu nghĩa.
Chánh kinh:
我 作 佛 時,所 有 眾 生,生 我 國 者,究 竟 必 至 一 生 補 處。除 其 本 願 ,為 眾 生 故,被 弘 誓 鎧,教 化 一 切 有 情,皆 發 信 心,修 菩 提 行,行 普 賢 道。雖 生 他 方 世 界,永 離 惡 趣。或 樂 說 法,或 樂 聽 法,或 現 神 足,隨 意 修 習,無 不 圓 滿。若 不 爾 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật
thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngă quốc giả, cứu
cánh tất chí Nhất Sanh Bổ Xứ, trừ kỳ bổn
nguyện, vị chúng sanh cố, bị hoằng thệ khải,
giáo hóa nhất thiết hữu t́nh, giai phát tín tâm, tu Bồ
Đề hạnh, hành Phổ Hiền đạo. Tuy sanh tha phương thế giới,
vĩnh ly ác thú, hoặc nhạo thuyết pháp, hoặc nhạo
thính pháp, hoặc hiện Thần Túc, tùy ư tu tập, vô bất
viên măn. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ
Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi rốt ráo ắt
đạt bậc Nhất Sanh Bổ Xứ, ngoại trừ
[những người có] bổn nguyện v́ chúng sanh mà mặc
giáp hoằng thệ, giáo hóa hết thảy hữu t́nh khiến
cho họ đều phát tín tâm, tu Bồ Đề hạnh, hành
Phổ Hiền đạo. Tuy sanh trong thế giới
phương khác, nhưng vĩnh viễn thoát khỏi
đường ác, hoặc thích thuyết pháp, hoặc thích
nghe pháp, hoặc hiện Thần Túc, tùy ư tu tập không ǵ chẳng
viên măn. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy
Chánh Giác.
(Nguyện ba mươi
lăm: Nhất Sanh Bổ Xứ; nguyện ba mươi
sáu: Giáo hóa tùy ư)
Giải:
Trong chương này, câu “sở hữu chúng sanh sanh ngă
quốc giả, cứu cánh tất chí Nhất Sanh Bổ Xứ”
(tất cả chúng sanh sanh trong
nước tôi rốt ráo ắt đạt bậc Nhất
Sanh Bổ Xứ) là nguyện ba mươi lăm “Nhất
Sanh Bổ Xứ”.
“Nhất Sanh Bổ Xứ”
là chỉ c̣n một đời nữa sẽ thành Phật
như hiện tại Di Lặc Đại Sĩ đang ở
nội viện trời Đâu Suất chỉ c̣n một đời
nữa là thành Phật, tức là như kinh Pháp Hoa nói: “Dư hữu nhất sanh tại,
đương đắc Nhất Thiết Trí” (Chỉ c̣n một đời nữa, sẽ
đắc Nhất Thiết Trí) nên gọi là Nhất Sanh Bổ
Xứ. Sách Hội Sớ lại bảo: “Nhất Sanh Bổ Xứ là địa vị Đẳng
Giác. Do vẫn c̣n một phần vô minh (nói đủ là một
phần Sanh Tướng Vô Minh)
chưa phá nên bảo là Nhất Sanh. Thế lực của
phẩm vô minh ấy lớn nhất. Dùng kim cang trí phá
được cái tâm duy nhất c̣n lại sau cùng ấy th́
liền đạt địa vị Diệu Giác nên gọi
là Bổ Xứ”.
Nếu xét theo Mật giáo th́ “nhất” là lư Nhất Thật.
Trong Mật Tông, Sơ Địa Bồ Tát trước hết
chứng đắc tịnh Bồ Đề tâm, rồi từ
cái lư Nhất Thật ấy xuất sanh vô lượng
tam-muội tổng tŕ môn, dần dần đạt đến
địa vị Thập Địa (Thập Địa trong Mật
giáo khác với Thập Địa trong Hiển giáo). Lại có
địa vị thứ mười một là Phật
địa. Do trong đời kế tiếp sẽ thành Phật
nên gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ. Sách Đại Sớ,
quyển sáu chép: “Tông của
kinh này là nhất sanh, nghĩa là từ nhất mà sanh”. Nơi
Sơ Địa, lúc đạt được tịnh Bồ
Đề tâm, bèn từ nơi Nhất Thật phát sanh vô lượng
vô biên tam-muội tổng tŕ môn. Trong mỗi một địa
vị như thế, cũng lần lượt tăng
trưởng giống như vậy cho đến khi hoàn
măn địa vị thứ mười, nhưng chưa
đạt đến địa vị thứ mười
một. Khi ấy, từ trong cảnh giới Nhất Thật
bèn phát sanh trọn vẹn hết thảy trang nghiêm, chỉ
c̣n mỗi địa vị Như Lai là chưa chứng
tri, phải một phen chuyển pháp tánh sanh[12]
mới thành Phật, nên gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ.
Đàm Loan đại sư lại nghĩ rất có thể
là Bồ Tát cơi Cực Lạc chẳng lần lượt
đạt từng địa vị mà chứng ngay địa
vị Nhất Sanh Bổ Xứ: “Cứ
theo kinh này mà suy th́ rất có thể Bồ Tát cơi ấy chẳng
từ địa vị này đạt đến địa
vị kia. Thứ tự thập địa của Bồ
Tát chỉ là do Thích Ca Như Lai ứng theo căn cơ cơi
Diêm Phù Đề mà dạy như vậy thôi. Tịnh độ
phương khác không bắt buộc phải giống vậy”.
Thuyết của ngài Đàm Loan đă thể hiện sâu xa sự
viên giải viên tu của Bồ Tát cơi Cực Lạc: Một
địa vị chính là hết thảy địa vị vậy.
Do đó, người sanh về Cực Lạc đều
được Bất Thoái Chuyển, nhanh chóng vượt
khỏi các địa vị, chứng trọn vẹn địa
vị Bổ Xứ. Điều này thể hiện Phật Di
Đà đại nguyện sâu xa, diệu đức khó lường.
Kế đó là nguyện ba mươi sáu “giáo hóa tùy ư”. Như lời
nguyện ba mươi lăm đă nói: Kẻ sanh về cơi
ấy, ở yên trong cơi vui sướng, đều đạt
địa vị Bổ Xứ, thành Đẳng Chánh Giác,
nhưng mỗi vị Bồ Tát thành Phật đều có
nguyện lực. Chẳng hạn như nếu có thệ
nguyện mặc giáp hoằng thệ, trở vào uế
độ lợi khắp quần sanh, giáo hóa hữu t́nh th́
họ sẽ được nguyện lực của Phật
Di Đà gia tŕ để tùy ư giáo hóa, không điều ǵ chẳng
được viên măn. Đấy chính là ư nghĩa của nguyện
ba mươi sáu.
Khải (鎧) là áo giáp, tức vật dụng
được các chiến sĩ thời cổ khoác vào khi
giao chiến để bảo vệ thân thể, chống lại
tên, đá v.v... (áo chống đạn thời nay cũng là
một loại giáp). Bồ Tát vào trong sanh tử hàng phục
ma quân th́ lấy thệ nguyện sâu rộng của chính
ḿnh làm giáp trụ. Do cái tâm hoằng thệ cứng rắn
hơn sắt đá nên có thể dùng tâm ấy xông vào trận
sanh tử.
Với những kẻ được giáo hóa, kinh nói “giai phát tín tâm” (đều khiến [cho các hữu t́nh] phát tín
tâm); ấy là do tín tâm là nguồn đạo, là mẹ của
công đức vậy.
Bản Tiểu Bổn kinh này nói: “Vị chư chúng sanh, thuyết thị nhất thiết
thế gian nan tín chi pháp” (V́ các chúng sanh nói pháp hết thảy
thế gian khó thể tin nổi này). Đó là v́ pháp môn Tịnh Độ
cực viên, cực đốn, siêu t́nh ly kiến nên Tịnh
Độ là pháp mà hết thảy thế gian khó tin tưởng
được nổi. Kinh Tiểu Bổn c̣n chép: “Nhữ đẳng chúng sanh
đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư
Nghị Công Đức, Nhất Thiết Chư Phật Sở
Hộ Niệm Kinh” (Chúng sanh các ngươi hăy nên tin kinh
Khen Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn, Được
Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này) và: “Nhữ đẳng giai
đương tín thọ ngă ngữ, cập chư Phật
sở thuyết” (Các ông đều nên tin nhận lời
ta và lời chư Phật nói). Do đó, bậc Đại
Sĩ cơi Cực Lạc khi hoằng hóa trong thập phương
đều lấy việc phát khởi ḷng tin làm đầu.
Do ba bậc văng sanh đều phát Bồ Đề tâm, một
bề chuyên niệm nên câu “tu Bồ
Đề hạnh” gồm hai ư nghĩa trọng yếu: Phát
Bồ Đề tâm và chuyên niệm. Tu Bồ Đề đại
hạnh ắt phải do phát khởi Bồ Đề đại
tâm, mà trong Bồ Đề hạnh th́ nhất hướng
chuyên niệm là quan trọng bậc nhất. Hết thảy
Bồ Tát tu trọn muôn điều lành, nhưng các vị Bồ
Tát trong Thập Địa, dù ở địa vị nào vẫn
chẳng hề rời bỏ việc niệm Phật.
Hơn nữa, Phổ Hiền Bồ Tát là bậc nhất
trong các vị đại hạnh Bồ Tát, nên phải giáo
hóa hết thảy hữu t́nh “hành
Phổ Hiền đạo”. Khuê Phong đại sư giảng
chữ Phổ Hiền như sau: “Một là xét trên tự thể: Thể tánh trọn khắp
là Phổ, tùy duyên thành đức là Hiền. Hai là xét trong
các địa vị th́ trọn khắp tất cả không
sót là Phổ, gần bằng với bậc đại thánh
(Phật) là Hiền. Ba là xét về đương vị
(địa vị đang chứng đắc): Đức
không ǵ chẳng trọn vẹn là Phổ; điều phục,
ḥa nhă, thiện thuận là Hiền”. V́ vậy, trong kinh
này, các vị đại Bồ Tát cùng đến tham dự
pháp hội đều tuân tu đức hạnh của Phổ
Hiền Đại Sĩ. Phổ Hiền đức chính là
mười đại nguyện vương dẫn dắt
về Cực Lạc, là đức tự lợi lợi
tha chẳng có cùng tận. Đại Sĩ cơi Cực Lạc
chính ḿnh đă tu hành Phổ Hiền hạnh đức lại
c̣n dạy chúng sanh cơi khác cùng thực hành Phổ Hiền
đạo.
Các vị Đại Sĩ như vậy của cơi Cực
Lạc mặc giáp hoằng thệ, vào trong biển sanh tử,
“tuy sanh tha phương thế
giới” (tuy sanh trong những thế giới ở
phương khác) hoặc hiện thân trong uế độ,
nhưng được nguyện lực của Phật Di
Đà gia tŕ nên “vĩnh ly
ác thú” (vĩnh viễn
thoát khỏi ác đạo). Mỗi
vị tùy theo ư ḿnh thích mà thuyết pháp, hoặc nghe pháp, hoặc
hiện thần thông v.v... “tùy ư
tu tập” đều được viên măn. Chúng sanh
được họ giáo hóa cũng đều chí tâm tin
ưa, cầu sanh Tịnh Độ, phát Bồ Đề tâm, một
bề chuyên niệm.
Chánh kinh:
我 作 佛 時,生 我 國 者,所 須 飲 食、衣 服、種 種 供 具,隨 意 即至,無 不 滿 願。十 方 諸 佛,應 念 受 其 供 養。若 不 爾 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật
thời, sanh ngă quốc giả, sở tu ẩm thực, y
phục, chủng chủng cúng cụ, tùy ư tức chí, vô bất
măn nguyện. Thập
phương chư Phật, ứng niệm thọ kỳ
cúng dường. Nhược bất nhĩ giả, bất
thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
người sanh trong nước tôi, tất cả thức
ăn, y phục, các thứ vật cúng, nghĩ tới liền
có, không điều ǵ chẳng được măn nguyện.
Mười phương chư Phật ứng niệm nhận
lấy sự cúng dường của người ấy. Nếu
chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện ba mươi bảy:
Quần áo, thức ăn tự đến; nguyện ba
mươi tám: Ứng niệm thọ cúng)
Giải:
Đoạn này nói về nguyện ba mươi bảy: “Quần áo, thức ăn tự
đến”.
Chữ “ẩm thực, y phục”
(thức ăn, y phục) trích trong bản Tống dịch,
“chủng chủng cúng cụ” (các thứ vật cúng) trích từ bản
Đường dịch. Nguyện hai mươi ba trong bản
Hán dịch được ghi như sau: “Ngă quốc chư Bồ Tát dục phạn
thời, tắc thất bảo bát trung, sanh tự nhiên bách
vị phạn thực tại tiền. Thực dĩ, bát
giai tự nhiên khứ” (Các vị Bồ
Tát trong nước ta lúc muốn ăn th́ cơm trăm vị
tự nhiên hóa sanh trong bát bằng bảy báu hiện ra
trước mặt. Ăn xong, bát tự nhiên biến mất
- Nguyện thứ hai mươi bốn trong bản Ngô dịch
chép giống vậy). Nguyện thứ ba mươi tám trong
bản Ngụy dịch lại chép như sau: “Quốc
trung thiên nhân, dục đắc y phục, tùy niệm tức
chí, như Phật sở tán ứng pháp diệu phục, tự
nhiên tại thân. Hữu cầu tài, phùng, đảo, nhiễm,
hoán trạc giả, bất thủ Chánh Giác” (Trời, người
trong nước muốn được y phục, hễ
nghĩ đến liền có, tự nhiên trên thân khoác áo
đẹp đẽ đúng pháp như Phật khen ngợi.
Nếu c̣n phải cắt, may, đập, nhuộm, giặt
giũ th́ chẳng lấy Chánh Giác). Bản hội tập này chọn lấy những
nghĩa trọng yếu của năm bản dịch để
tổng hợp thành nguyện này, đặt tên là nguyện
“quần áo, thức ăn tự
đến”.
Sách Hội Sớ chú giải lời nguyện của bản
Ngụy dịch như sau: “V́
sao Phật lại phát ra lời nguyện này? V́ Ngài thấy
trong các cơi, con người khổ sở muôn bề v́ cái
ăn cái mặc, bốn mùa chẳng được yên ổn,
cả một đời nhọc nhằn tham cầu. Huống
hồ cấy cây lúa xuống là vùi chết mấy ngàn sanh mạng,
trong vạc đun vô lượng kén tằm, cứ thế
mà ch́m đắm măi không biết đâu là bến bờ, chịu
khổ vô cùng. V́ vậy, Phật nguyện rằng thánh chúng
trong cơi Ngài cơm, áo, nhà cửa tùy ư hiện ra trước
mặt. Áo mặc, cơm ăn đều là pháp để
trợ đạo”.
“Chủng chủng cúng cụ”
(Các
thứ vật cúng) là hoa hương, tràng phan, lọng báu,
chuỗi ngọc, đồ trải để nằm (ngọa
cụ), thiên nhạc v.v… hết thảy vô lượng vô
biên các thứ vật dùng để cúng dường thù thắng
như vậy đều tùy ư hiện đến nhằm thỏa
nguyện cúng dường như bản Ngô dịch chép: “Dục đắc tự nhiên
vạn chủng chi vật, tức giai tại tiền, tŕ dụng
cúng dường chư Phật” (Muốn được tự
nhiên có muôn vật th́ chúng đều hiện ra trước
mặt để cầm đem cúng dường chư Phật)
hoặc như bản Tống dịch chép: “Ngă dĩ thần lực linh thử cúng cụ
tự chí tha phương chư Phật diện tiền, nhất
nhất cúng dường” (Ta dùng thần lực
khiến các vật cúng này tự nhiên đến trước
chư Phật ở phương khác, cúng dường mỗi
đức Phật). V́ vậy, hội bản ghi là: “Tùy ư tức chí, vô bất măn
nguyện” (Nghĩ tới
liền có, không ǵ chẳng được măn nguyện).
Tiếp đó là nguyện ba mươi tám: “Ứng niệm thọ cúng”. Bản
Tống dịch ghi nguyện này như sau: “Sở hữu Bồ Tát phát đại
đạo tâm, dục dĩ chân châu, anh lạc, bảo cái,
tràng phan, y phục, ngọa cụ, ẩm thực, thang
dược, hương, hoa, kỹ nhạc, thừa sự
cúng dường tha phương thế giới, vô lượng
vô biên chư Phật Thế Tôn nhi bất năng văng. Ngă
ư nhĩ thời, linh bỉ tha phương chư Phật
Thế Tôn các thư thủ tư, chí ngă sát trung, thọ thị
cúng dường, linh bỉ tốc đắc A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Tất cả Bồ Tát phát đại đạo
tâm muốn dùng chân châu, anh lạc, lọng báu, tràng phan, y phục,
đồ trải nằm, thức ăn, thuốc men,
hương hoa, âm nhạc để thừa sự, cúng
dường vô lượng vô biên chư Phật Thế Tôn
trong thế giới phương khác mà chẳng qua
được chỗ các Ngài th́ ta ngay trong khi ấy khiến
cho các đức Phật Thế Tôn đó đều duỗi
cánh tay đến tận cơi ta, nhận lấy sự cúng
dường ấy, khiến cho các Bồ Tát ấy mau chứng
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Lời nguyện
trong bản Tống dịch thật đă hiển thị
sâu xa thần lực của Phật. C̣n như bản Ngụy
dịch ghi: “Nhất
phát niệm khoảnh, cúng dường vô lượng vô số
bất khả tư nghị chư Phật Thế Tôn, nhi bất
thất định ư” (Trong khoảng khởi lên một niệm, cúng
dường vô lượng vô số chẳng thể
nghĩ bàn chư Phật Thế Tôn mà chẳng mất định
ư) là nói về tự lực. Như vậy, nhân dân cơi Cực
Lạc hoặc do Phật lực gia bị hoặc do tự
lực viên măn đều có thể tùy ḷng nghĩ tưởng
cúng dường khắp các đức Phật.
Câu kinh: “Thập
phương chư Phật, ứng niệm thọ kỳ
cúng dường” (Thập
phương chư Phật ứng niệm nhận lấy
sự cúng dường của người ấy) đă hiển thị sâu xa ư nghĩa Phật
và chúng sanh bất nhị, cảm ứng đạo giao: Ư
niệm cúng Phật vừa khởi lên, chư Phật
đă nhận lấy rồi. Đốn tu, đốn chứng,
nhân quả đồng thời.
Chánh kinh:
我 作 佛 時,國 中 萬 物,嚴 淨 光 麗,形 色 殊 特,窮 微 極 妙,無 能 稱 量。其 諸 眾 生,雖 具 天 眼,有 能 辨 其 形 色、光 相、名 數,及 總 宣 說 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật thời, quốc
trung vạn vật, nghiêm tịnh, quang lệ, h́nh sắc
thù đặc, cùng vi cực diệu, vô năng xứng
lượng. Kỳ chư chúng sanh, tuy cụ thiên nhăn, hữu
năng biện kỳ h́nh sắc, quang tướng, danh số,
cập tổng tuyên thuyết giả, bất thủ Chánh
Giác.
(Lúc tôi thành Phật, vạn vật trong nước
trang nghiêm, thanh tịnh, sáng ngời, đẹp đẽ,
h́nh sắc đặc biệt thù thắng, vi diệu cùng cực,
chẳng thể tính kể. Các chúng sanh tuy có thiên nhăn mà có thể
phân biệt được h́nh sắc, quang tướng,
danh số và nói tổng quát được [những sự
trang nghiêm ấy] th́ chẳng lấy Chánh Giác).
(Nguyện ba mươi chín:
Trang nghiêm vô lượng)
Giải:
Từ nguyện ba mươi chín đến nguyện bốn
mươi ba là những nguyện nói về công đức
của cơi Phật. Nguyện
ba mươi chín là nguyện “trang
nghiêm vô lượng”.
Sách Hội Sớ giảng nguyện này như sau: “Nghiêm (嚴) là trang nghiêm, tịnh (淨) là thanh tịnh, quang (光) là quang minh, lệ (麗) là hoa lệ. Nghiêm tịnh là thể
không nhơ, quang lệ là h́nh tướng đặc biệt,
lạ lùng. Dài, ngắn, vuông, tṛn, lớn, nhỏ v.v... là
H́nh (形). Xanh, đỏ,
trắng đen, đậm, nhạt là Sắc (色). Chẳng phải là thứ thế
gian có được nên bảo là Thù Đặc (殊 特)”.
Ư của sách Hội Sớ là: Thể của vạn vật
chẳng cấu nhiễm nên bảo là “nghiêm tịnh”. H́nh tướng, quang minh kỳ lạ,
đẹp rực rỡ nên bảo là “quang lệ”. Những h́nh sắc ấy chẳng
phải là thứ thế gian có được nên bảo là
“h́nh sắc thù đặc”.
Sách Hội Sớ giảng
tiếp: “Sự như cái chấm
(sự tướng nhỏ nhặt như cái chấm nhỏ) đă tương tức diệu
lư[13]
nên bảo là ‘cùng vi’. Tướng vô lậu, tướng Thật
Tướng nên bảo là “cực diệu”. Ư nói: Hết
thảy sự tướng trong Cực Lạc dẫu một
điểm nhỏ nhặt như mảy lông, hạt bụi
đều từ Thật Tế lư mà hiển hiện, chúng
là diệu lư, diệu lư là chúng (hạt bụi, mảy lông),
hoàn toàn bất nhị, nên bảo là “cùng vi”. “Cùng” (窮) là tột bực, “vi” (微) là nhỏ nhiệm.
Vả lại, hết thảy h́nh tướng do tâm
thanh tịnh hiện ra, do công đức vô lậu của
Phật Di Đà biến hiện, nên tướng của chúng là
vô lậu. Mỗi mỗi h́nh tướng đều viên
minh cụ đức, mỗi thứ đều thuộc
viên viên quả hải (chữ “viên
viên quả hải” lấy từ sách Hiển Mật Viên
Thông, có nghĩa là biển vô thượng viên măn thánh giác quả
đức), Thể của chúng chính là Thật Tướng.
Có tướng nhưng vô tướng, vô tướng
nhưng là tướng. V́ vậy, bảo là “cực diệu”.
Sách Hội Sớ giảng tiếp rằng: “Rộng - hẹp dung nhập lẫn
nhau nên bảo là chẳng thể tính kể”. Ư nói: Cực
Lạc thế giới hiển thị trọn vẹn sự
sự vô ngại pháp giới, một tức là nhiều, nhiều
tức là một, lớn - nhỏ chứa đựng lẫn
nhau, rộng vào trong hẹp, hẹp vào trong rộng, trùng
trùng vô tận, vượt khỏi khả năng nhận
thức của tâm tưởng, kiến giải, và khả
năng diễn giải của ngôn ngữ, nên chẳng thể
bàn luận nổi. Vượt khỏi khả năng suy
nghĩ nên chẳng thể nghĩ nổi. Nói năng, suy
nghĩ chẳng thấu suốt nổi th́ làm sao tính kể
nổi? V́ vậy bảo là “vô
năng xứng lượng” (chẳng thể tính kể
nổi).
Hiển nhiên là chỉ có Phật với Phật mới
thấu suốt trọn hết nổi Cực Lạc Tịnh
Độ. Ngoại trừ ḿnh đức Phật ra, hết thảy
chúng sanh: Trên th́ đến bậc Đẳng Giác, giữa th́
như hết thảy phàm, thánh, chúng sanh thuộc Tiểu Thừa
hay Đại Thừa có thiên nhăn đều chẳng thể bàn
định h́nh sắc, quang tướng, tên tuổi, số
lượng, cũng như chẳng thể nào liệt kê một
cách tổng quát được những sự trang nghiêm
đó.
V́ vậy, kinh nói: “Hữu
năng biện kỳ h́nh sắc, quang tướng, danh số,
cập tổng tuyên thuyết giả, bất thủ Chánh
Giác” (Có ai có thể
phân biệt được h́nh sắc, quang tướng,
danh số và nói tổng quát được th́ chẳng lấy
Chánh Giác).
Chánh kinh:
我 作 佛 時,國 中 無 量 色 樹,高 或 百 千 由 旬。道 場 樹 高,四 百 萬 里。諸 菩 薩 中,雖 有 善 根 劣 者,亦 能 了 知。欲 見 諸 佛 淨 國 莊 嚴,悉 於 寶 樹 間 見,猶 如 明 鏡,睹 其 面 像。若 不 爾 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật
thời, quốc trung vô lượng sắc thụ, cao hoặc
bách thiên do-tuần, đạo tràng thụ cao tứ bách vạn
lư. Chư Bồ Tát trung, tuy hữu
thiện căn liệt giả, diệc năng liễu tri.
Dục kiến chư Phật tịnh quốc trang nghiêm, tất
ư bảo thụ gian kiến, do như minh kính, đổ
kỳ diện tượng. Nhược bất nhĩ giả,
bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
cây trong cơi nước có vô lượng màu hoặc cao đến
trăm ngàn do-tuần; cây Đạo Tràng cao bốn trăm vạn
dặm. Trong các Bồ Tát, dù kẻ thiện căn kém cỏi
vẫn có thể biết rơ. Muốn thấy sự trang
nghiêm nơi Tịnh Độ chư Phật th́ đều thấy
rơ nơi thân cây ấy như từ nơi gương sáng
thấy rơ vẻ mặt. Nếu chẳng được
như vậy, chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện bốn
mươi: Cây vô lượng sắc; nguyện bốn
mươi mốt: Nơi cây hiện cơi Phật)
Giải:
Chương này gồm hai nguyện, từ đầu
đến “diệc
năng liễu tri” (vẫn có thể
biết rơ) là nguyện bốn mươi: “Cây vô lượng sắc”; từ chữ “dục kiến” (muốn thấy)
trở đi là nguyện bốn mươi mốt: “Trong cây hiện cơi Phật”.
Trong câu “quốc
trung vô lượng sắc thụ, cao hoặc bách thiên do-tuần”
(cây trong cơi nước có vô lượng
màu, hoặc cao đến trăm ngàn do-tuần), cây có vô
lượng màu v́ hết thảy các cây báu trong nước
do bảy báu hóa thành, màu sắc rực rỡ, quang minh chói lọi,
mọc thành hàng lối thẳng thớm, thân cây ngang nhau. Các
cây báu ấy mọc đầy khắp cơi nước, cây
cao từ trăm do-tuần cho đến ngàn do-tuần. Một
do-tuần là từ 40 dặm đến 60 dặm, trong phần
trên đă giải thích rơ. Nơi đạo tràng lại có một
thụ vương (cây chúa) gọi là Đạo Tràng Thụ, tức
là cây Bồ Đề.
Ở Tây Vực, từ phía Tây Nam của núi Chánh Giác
đi khỏi bốn mươi dặm, có một cây Tất-bát-la
(Pipala), Phật từng ngồi dưới gốc cây ấy
thành Chánh Giác, nên cây ấy được gọi là cây Bồ
Đề. Trong bản chú giải kinh Duy Ma Cật của ngài
Tăng Triệu, phần giảng về phẩm Bồ Tát
Hạnh có ghi: “Phật thành
đạo dưới cội cây, cây được gọi
tên là Bồ Đề. Cây ấy quang minh không đâu chẳng
chiếu đến, mùi hương không đâu chẳng
thơm ngát, h́nh sắc vi diệu tùy theo ư thích mà thấy
[sai khác]. Cây vang ra tiếng pháp theo ư thích của mỗi
người. Đây là cây báo (quả báo) ứng (ứng hóa) của
Như Lai vậy. Chúng sanh gặp được cây ấy,
tự nhiên ngộ đạo”.
Phần nói về thành tựu sở nguyện của
kinh Vô Lượng Thọ đây cũng chép: “ Phục do kiến
bỉ thụ cố, hoạch tam chủng
Nhẫn, nhất Âm Hưởng Nhẫn, nhị Nhu Thuận
Nhẫn, tam giả Vô Sanh Pháp Nhẫn” (Lại do thấy
được cây ấy nên tự nhiên đạt
được ba thứ Nhẫn, một là Âm Hưởng
Nhẫn, hai là Nhu Thuận Nhẫn, ba là Vô Sanh Pháp Nhẫn).
Cây Bồ Đề ấy có thể làm cho người trông thấy
nó tự nhiên ngộ đạo, chứng nhập Vô Sanh Pháp
Nhẫn. Công đức của cây ấy thật vô thượng
hy hữu, vi diệu khó nghĩ tưởng nổi. V́ vậy,
cây ấy chính là do tâm trang nghiêm bí mật của đấng
Di Đà nguyện vương hóa hiện ra.
Mật giáo phán định tâm ấy thuộc về Trụ
Tâm thứ mười, là tâm được đức
Như Lai chứng đắc trong địa vị thứ
mười ba: Phật quả rốt ráo. Do vậy, tâm ấy
có thể rốt ráo ban cho chúng sanh cái lợi chân thật.
Cây ấy có những phẩm đức cao ṿi vọi nên những
Bồ Tát thiện căn kém cỏi trong cơi ấy khó thể
thấy biết hết nổi, nhưng do đức Di Đà rủ
ḷng Từ, dùng đại nguyện gia bị, nên họ
đều được thấy biết rành rẽ cả.
Nguyện thứ bốn mươi mốt là “cây hiện cơi Phật”. Nguyện
“trong cây hiện cơi Phật” này
giống như pháp Quán thứ tư trong Quán kinh. Xin trích dẫn
lời kinh tóm tắt như sau: “Thử
chư bảo thụ sanh chư diệu hoa… dũng hiện
chư quả, hữu đại quang minh, hóa thành tràng phan,
vô lượng bảo cái. Thị bảo cái trung, ánh hiện
tam thiên đại thiên thế giới nhất thiết Phật
sự, thập phương Phật quốc diệc ư
trung hiện” (Các cây báu ấy...
sanh các đóa hoa mầu nhiệm, sanh ra các quả, có đại
quang minh hóa thành tràng phan, vô lượng lọng báu. Trong các
lọng báu ấy, hiện bóng hết thảy Phật sự
trong tam thiên đại thiên thế giới. Mười
phương cơi Phật cũng hiện trong ấy). Những cây báu được
nói đến trong phép quán cây báu trong Quán kinh chính là do nguyện
này thành tựu.
Trong cơi Cực Lạc cây báu vô lượng, trong quang
minh của mỗi cây hóa hiện vô lượng lọng báu.
Trong mỗi lọng báu hiện bóng mười phương
cơi Phật sáng sạch, thanh khiết như tấm
gương sáng. Nơi những cây ấy, ta thấy
được mười phương cơi Phật rơ ràng trọn
vẹn như đối mặt với tấm gương
sáng, tự nh́n thấy rơ vẻ mặt ḿnh. Như vậy,
cơi Cực Lạc hàm nhiếp hết thảy cơi Phật,
tương nhập, tương tức chẳng thể
nghĩ bàn.
Chánh kinh:
我 作 佛 時,所 居 佛 剎,廣 博 嚴 淨,光 瑩 如 鏡,徹 照 十 方 無 量 無 數 不 可 思 議 諸 佛 世 界。眾 生 睹 者,生 希 有 心。若 不 爾 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật thời, sở
cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như
kính, triệt chiếu thập phương vô lượng
vô số bất khả tư nghị chư Phật thế
giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược
bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
cơi Phật tôi ở rộng răi nghiêm tịnh, sáng ngời
như gương, chiếu thấu mười
phương vô lượng vô số chẳng thể
nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh
trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được
vậy, chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện bốn
mươi hai: Chiếu tột mười phương)
Giải:
Đây là nguyện thứ bốn
mươi hai: “Chiếu tột
mười phương”.
“Quảng bác” nghĩa là rộng
răi vô biên, “nghiêm tịnh” là
trang nghiêm thanh tịnh. “Quang
oánh” nghĩa là quang minh chiếu rực rỡ. “Triệt chiếu” nghĩa là
không vật ǵ nhỏ nhặt mà chẳng được chiếu
rơ, không vật ǵ xa cách mấy mà chẳng thấy nổi.
“Hy hữu” là như kinh Niết
Bàn nói: “Thí như thủy trung,
sanh ư liên hoa, phi vi hy hữu; hỏa trung sanh giả, thị
năi hy hữu” (Ví như trong nước mọc lên hoa sen
th́ chẳng phải là chuyện hy hữu. Hoa mọc trong lửa
mới là hy hữu).
Cơi nước Cực Lạc trang nghiêm thanh tịnh,
sáng ngời thanh khiết như tấm gương chiếu
tường tận mười phương, giống
như Quán kinh nói măo trời của Đại Thế Chí Bồ
Tát “hữu ngũ bách bảo hoa, nhất
nhất bảo hoa, hữu ngũ bách bảo đài. Nhất
nhất đài trung, thập phương chư Phật tịnh
diệu quốc độ quảng trường chi tướng,
giai ư trung hiện” (Có năm
trăm hoa báu. Trong mỗi hoa báu có năm trăm đài báu.
Trong mỗi một đài, tướng rộng lớn của
các cơi nước tịnh diệu của mười
phương chư Phật đều hiện rơ cả). Do vậy, ta biết
được cơi Cực Lạc lớn nhỏ dung hợp
lẫn nhau, rộng hẹp vô ngại, một mảy bụi,
một sợi lông đều hiện bóng mười
phương.
Văng Sanh Luận ghi: “Từ
nơi cung điện và các lầu gác, xem thấy mười
phương một cách vô ngại”. Đàm Loan pháp sư giảng
câu ấy như sau: “Như
gương sáng trong sạch, hết thảy các tướng
tịnh, uế, nghiệp duyên thiện, ác của mười
phương quốc độ đều hiện ra cả”.
Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: “Thí như
minh tịnh phát quang kim pha lê kính, dữ thập
phương thế giới đẳng. Ư bỉ kính
trung, kiến vô lượng sát. Nhất thiết sơn xuyên,
nhất thiết chúng sanh, địa ngục, ngạ quỷ,
nhược hảo, nhược xú, h́nh loại nhược
can, tất ư trung hiện” (Ví như tấm
gương bằng chất kim pha lê sáng sạch tỏa ánh
sáng, đối với mười phương thế giới
đều b́nh đẳng. Nơi gương sáng ấy thấy
vô lượng cơi. Hết thảy núi, sông, hết thảy
chúng sanh, địa ngục, ngạ quỷ, dù tốt hay xấu,
các h́nh loại nhiều như thế ấy đều hiện
trong đó).
Các kinh luận vừa dẫn trên đây đă giảng
rơ ư nghĩa câu “quang oánh như
kính, triệt chiếu thập phương vô lượng
vô số bất khả tư nghị chư Phật thế
giới” (sáng ngời như gương, chiếu thấu
mười phương vô lượng vô số chẳng thể
nghĩ bàn thế giới của chư Phật).
Chữ “chúng sanh” chỉ
nhân dân trong cơi Cực Lạc và chúng sanh trong mười
phương thế giới: Hễ ai thấy được
tướng chiếu tỏ cùng tột mười
phương của thế giới Cực Lạc đều
phát tâm Bồ Đề thù thắng vô thượng. Tâm ấy
hy hữu như sen nở trong lửa, nên bảo là “sanh hy hữu tâm”. Đă sanh
được tâm ấy th́ sẽ được như bản
Tống dịch nói: “Bất cửu
đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề” (Chẳng bao lâu sẽ đắc Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác).
Chánh kinh:
我 作 佛 時,下 從 地 際,上 至 虛 空,宮 殿 樓 觀,池 流 華 樹,國 土 所 有 一 切 萬 物,皆 以 無 量 寶 香 合 成。其 香 普 熏 十 方 世 界。眾 生 聞 者,皆 修 佛 行。若 不 爾 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật
thời, hạ tùng địa tế, thượng chí
hư không, cung điện, lâu quán, tŕ lưu, hoa thụ, quốc
độ sở hữu nhất thiết vạn vật,
giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập
phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu
Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất
thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
dưới từ mặt đất, trên đến hư
không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất
cả hết thảy vạn vật trong cơi nước
đều dùng vô lượng hương báu hợp thành.
Hương ấy xông khắp mười phương thế
giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh.
Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy
Chánh Giác.
(Nguyện bốn
mươi ba: Hương báu xông khắp)
Giải:
Đây là nguyện bốn mươi ba “hương báu xông khắp”.
Sách Hội Sớ bảo trong thế giới Sa Bà, “vàng bạc tuy lóng lánh nhưng chẳng
có mùi hương Chiên-đàn. Trầm, xạ tuy thơm ngát
nhưng không có ánh sáng của châu, ngọc”. Nay trong cơi Cực
Lạc, hết thảy vạn vật nghiêm tịnh, sáng
đẹp, lại c̣n có mùi thơm kỳ diệu ngào ngạt
xông khắp mười phương làm đủ các Phật
sự nên bảo là “kỳ diệu”.
Trong kinh Hoa Nghiêm, trưởng giả Chúc Hương bảo:
“A Na Bà Đạt tŕ biên xuất
trầm thủy hương, danh Liên Hoa Tạng. Nhược
thiêu nhất hoàn như ma tử đại, hương khí
phổ huân Diêm Phù Đề giới. Chúng sanh văn giả,
ly nhất thiết tội, giới phẩm thanh tịnh.
Tuyết Sơn hữu hương, danh Cụ Túc Minh
Tướng. Nhược hữu chúng sanh, khứu thử
hương giả, kỳ tâm quyết định ly chư
nhiễm trước.
La Sát giới trung hữu hương, danh Hải Tạng,
kỳ hương đản vi Luân Chuyển Vương dụng,
nhược thiêu nhất hoàn, hương khí sở huân,
vương cập tứ quân, giai đằng hư không, du
chỉ tự tại.
Thiện Pháp Đường trung hữu hương,
danh Hương Tánh Trang Nghiêm, nhược thiêu nhất hoàn,
huân bỉ thiên chúng, phổ linh phát khởi niệm Phật
chi tâm.
Tu Dạ Ma thiên trung hữu hương, danh Tịnh Tạng
Tánh, nhược thiêu nhất hoàn, huân bỉ thiên chúng, mạc
bất vân tập bỉ thiên vương sở, cung kính thính
văn vương sở thuyết pháp.
Đâu Suất thiên trung hữu hương, danh Tín
Độ Phạ La. Ư nhất sanh sở hệ Bồ
Tát ṭa tiền, nhược thiêu nhất hoàn, hưng đại
hương vân, biến phú pháp giới, phổ vũ nhất
thiết chư cúng dường cụ, cúng dường nhất
thiết Như Lai đạo tràng Bồ Tát chúng hội.
Diệu Biến Hóa thiên hữu hương, danh Đoạt
Ư Tánh. Nhược thiêu nhất hoàn, ư thất nhật
trung, phổ vũ nhất thiết bất khả tư nghị
chư trang nghiêm cụ”
(Nơi bờ ao
A Na Bà Đạt sanh ra một loại trầm thủy
hương tên là Liên Hoa Tạng. Nếu thiêu một hoàn to bằng
một hạt mè th́ mùi hương xông khắp cơi Diêm Phù Đề.
Chúng sanh ngửi được ĺa hết thảy tội,
giới phẩm thanh tịnh.
Núi Tuyết có loại hương tên là Cụ Túc Minh
Tướng. Nếu có chúng sanh ngửi được mùi
hương tâm quyết định ĺa các nhiễm trước.
Trong cơi La Sát có loại hương tên là Hải Tạng,
hương ấy chỉ ḿnh Chuyển Luân Vương dùng.
Nếu đốt một hoàn, mùi hương bốc lên, vua
và bốn đạo binh đều bay lên hư không, du hành
tự tại.
Trong Thiện Pháp Đường có loại hương tên
là Hương Tánh Trang Nghiêm, nếu thiêu một hoàn,
hương xông thiên chúng khiến cho tất cả bọn họ
đều phát khởi tâm niệm Phật.
Trời Tu Dạ Ma có loại hương tên là Tịnh
Tạng Tánh, nếu thiêu một hoàn, hương xông thiên
chúng th́ không ai là chẳng vân tập đến chỗ thiên
vương, cung kính nghe vua thuyết pháp.
Trời Đâu Suất có loại hương tên là Tín Độ
Phạ La, nếu thiêu một hoàn trước ṭa của bậc
Nhất Sanh Sở Hệ Bồ Tát, liền biến thành
đám mây hương lớn che khắp pháp giới, mưa
xuống khắp hết thảy các thứ vật cúng
dường để cúng dường hết thảy
Như Lai, đạo tràng, Bồ Tát chúng hội.
Trời Diệu Biến Hóa có loại hương tên
Đoạt Ư Tánh, nếu thiêu một hoàn th́ trong ṿng bảy
ngày mưa khắp hết thảy các vật trang nghiêm chẳng
thể nghĩ bàn).
Những thứ hương thế gian vừa
thuật trên đây c̣n có công dụng thù thắng đến
như thế; huống là thứ hương vạn đức
của pháp giới do bổn nguyện của Phật Di Đà
hóa hiện.
Phẩm Hương Tích Phật của kinh Duy
Ma có chép như sau: “Nhĩ thời, Duy Ma Cật vấn Chúng
Hương Bồ Tát: -
Hương Tích Như Lai, dĩ hà thuyết pháp? Bỉ Bồ
Tát viết: - Ngă độ Như Lai, vô văn tự thuyết,
đản dĩ chúng hương linh chư thiên nhân đắc
nhập Luật Hạnh. Bồ Tát các các tọa
hương thụ hạ, văn thử diệu
hương, tức hoạch nhất thiết Đức Tạng
tam-muội”
(Lúc bấy giờ,
ngài Duy Ma Cật hỏi Chúng Hương Bồ Tát: -
Hương Tích Như Lai thuyết pháp bằng cách nào?
Bồ Tát đáp: - Như Lai trong cơi tôi chẳng dùng
văn tự để nói, Ngài chỉ dùng các thứ
hương khiến cho các trời, người thâm nhập
Luật Hạnh. Mỗi vị Bồ Tát ngồi dưới
gốc cây có mùi thơm, nghe mùi diệu hương ấy liền
đạt được hết thảy Đức Tạng
tam-muội).
Diệu hương cơi Cực Lạc cũng giống
như vậy, có công đức vô biên, xông khắp mười
phương làm đủ các việc lợi ích, khiến
cho những chúng sanh ngửi được mùi hương ấy
“giai tu Phật hạnh” (đều
tu Phật hạnh), “trần
lao cấu tập tự nhiên bất khởi” (trần
lao, tập khí phiền năo tập tự nhiên chẳng khởi) (xem phẩm hai mươi của
kinh này). Vạn vật trong cơi Cực Lạc đều do
vô lượng hương báu hợp thành, hương ấy
lại xông khắp mười phương thế giới,
đều hiển thị sự sự vô ngại pháp giới.
Chánh kinh:
我 作 佛 時,十 方 佛 剎 諸 菩 薩 眾,聞 我 名 已,皆 悉 逮 得 清 淨、解 脫、普 等 三 昧,諸 深 總 持。住 三 摩 地,至 於 成 佛。定 中 常 供 無 量 無 邊 一 切 諸 佛,不 失 定 意。若 不 爾 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật
thời, thập phương Phật sát chư Bồ Tát
chúng, văn ngă danh dĩ, giai tất đăi đắc thanh
tịnh, giải thoát, Phổ Đẳng tam-muội,
chư thâm tổng tŕ, trụ tam-ma-địa, chí ư thành
Phật. Định
trung thường cúng vô lượng vô biên nhất thiết
chư Phật, bất thất Định ư. Nhược bất
nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
các hàng Bồ Tát trong các cơi Phật mười phương
nghe danh hiệu tôi xong ắt đều đạt
được thanh tịnh, giải thoát, Phổ Đẳng
tam-muội, các tổng tŕ sâu, trụ tam-ma-địa, thậm
chí thành Phật. Trong Định thường cúng vô lượng
vô biên hết thảy chư Phật, chẳng mất Định
ư. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy
Chánh Giác.
(Nguyện bốn
mươi bốn: Phổ Đẳng tam-muội, nguyện bốn
mươi lăm: Trong Định cúng Phật).
Giải:
Trong đoạn này, từ đầu đến chữ
“chí ư thành Phật” (thậm
chí thành Phật) là nguyện thứ bốn mươi bốn
“Phổ Đẳng tam-muội”,
từ chữ “Định
trung” (trong Định) trở đi là nguyện bốn
mươi lăm “trong Định
cúng Phật”. Các nguyện kể từ nguyện bốn
mươi bốn trở đi là những nguyện khiến
cho các vị Bồ Tát ở ngoài thế giới Cực Lạc
nghe danh hiệu Phật A Di Đà được hưởng
những lợi ích thù thắng nơi pháp.
Trước hết là nguyện thứ bốn
mươi bốn: Nghe danh hiệu Phật đắc các
tam-muội nhẫn đến thành Phật.“Đăi” (逮) là đạt tới. Câu “thủy hỏa tương đăi” trong phần Hệ
Từ của kinh Dịch được chú giải như
sau: “Thủy hỏa bất
tương nhập, nhi tương đăi cập” (Nước và lửa chẳng trộn
lẫn nhau, nhưng lại ảnh hưởng lẫn nhau). “Đăi” c̣n có nghĩa là
đuổi theo. Theo sách Hội
Sớ, người nghe Phật danh, ngay lập tức
đắc các tam-muội nên bảo là “giai tất đăi đắc” (ắt đều đạt được).
Bản Tống dịch ghi lời nguyện này như
sau: “Sở hữu thập
phương nhất thiết Phật sát chư Bồ Tát
chúng văn ngă danh hiệu, ứng thời chứng đắc
tịch tĩnh tam-ma-địa” (Tất cả các hàng Bồ Tát trong hết thảy cơi Phật
mười phương nghe danh hiệu tôi, ngay lập tức
chứng đắc tịch tĩnh tam-ma-địa). Chữ “ứng thời chứng đắc” (ngay lập tức
chứng đắc) trong lời nguyện trên chính là ư
nghĩa của câu “giai tất
đăi đắc” (ắt đều đạt
được) trong bản kinh này.
“Thanh tịnh” là ư nói các tam-muội
mà Bồ Tát đang trụ vào đều vô nhiễm, vô
trước, nên gọi là “thanh
tịnh tam-muội”. Sách Hội Sớ giảng: “Tịch tĩnh tam-ma-địa
không trói buộc, không vướng mắc, nên gọi là thanh
tịnh”.
“Giải thoát”: Do tam-muội
mà Bồ Tát trụ đó đă ĺa hết thảy triền
phược, tự tại, nên bảo là giải thoát tam-muội.
Sách Hội Sớ bảo: “Chỉ,
Quán vô ngại nên gọi là Giải Thoát”. Sách c̣n bảo: “Niệm Phật tam-muội trừ
được hết thảy phiền năo, giải thoát
sanh tử, nên phải gọi là Thanh Tịnh Giải Thoát
tam-muội”.
Trong danh từ Phổ Đẳng, Phổ (普) là phổ biến,
Đẳng (等) là b́nh đẳng. Kinh Bi Hoa gọi
tam-muội này là Biến Chí tam-muội, kinh Phân Đà Lợi gọi
là Phổ Chí tam-muội, bản Tống dịch ghi là Phổ
Biến tam-ma-địa, bản Đường dịch gọi
là B́nh Đẳng tam-ma-địa môn.
Sách Hội Sớ giảng như sau: “Nếu theo ư kiến các sư th́ Phổ Đẳng
tam-muội chỉ là một thứ tam-muội được
Bồ Tát chứng đắc. Ngài Cảnh Hưng bảo:
‘Phổ nghĩa là phổ biến; Đẳng nghĩa là b́nh
đẳng. Cái thấy rộng lớn, Phật Phật
đều thấy, cho nên gọi cái Định họ trụ
vào đó là Phổ Đẳng’. Ngài Huyền Nhất bảo:
‘Do sức của tam-muội này thấy khắp tất cả
chư Phật Thế Tôn nên bảo là Phổ, hiện b́nh
đẳng không ǵ chẳng đạt đến nên gọi
là Đẳng’. Nếu xét theo
chánh ư tuyển trạch bổn nguyện[14]
th́ Phổ Đẳng tam-muội chính là Niệm Phật tam-muội.
Phổ có nghĩa là phổ
biến, phàm thánh cùng chứng nhập được. Đẳng
là b́nh đẳng, công đức niệm một vị Phật
cũng bằng với công đức niệm hết thảy
Phật. Kinh Bồ Tát Niệm Phật tam-muội bảo: ‘Thí như
chúng sanh nhược y Tu Di kim sắc chi biên, kỳ thân tức
dữ bỉ sơn đồng sắc. Sở dĩ nhiên giả?
Sơn thế lực cố. Hựu như chư thủy,
tất nhập đại hải, đồng kỳ nhất
vị, sở dĩ nhiên giả? Dĩ hải lực cố.
Nhược nhân đắc Niệm Phật tam-muội, diệc
phục như thị’ (Ví như chúng
sanh nếu ở bên núi Tu Di kim sắc th́ thân họ cũng
cùng màu với núi ấy. V́ cớ sao vậy? Là do thế lực
của núi vậy. Lại như các ḍng nước đă
vào trong biển cả th́ có cùng một vị, v́ sao thế?
Do sức của biển vậy. Người đắc niệm
Phật tam-muội cũng giống như thế). Đấy
là ư nghĩa Phổ Biến của chữ Phổ trong Phổ
Đẳng.
Kinh Văn Thù Bát Nhă dạy:
‘Niệm nhất Phật công đức, vô lượng vô
biên, diệc dữ vô lượng vô biên chư Phật vô nhị’
(Công đức niệm một đức Phật vô lượng
vô biên, chẳng khác ǵ công đức niệm vô lượng
chư Phật). Tán A Di Đà Phật Kệ có câu: ‘Ngă dĩ nhất
tâm quy nhất Phật, nguyện biến thập
phương vô ngại nhập’ (Tôi dùng nhất tâm quy một
Phật, nguyện nhập khắp thập phương vô
ngại). Đấy là ư nghĩa B́nh Đẳng”.
Như vậy, sách Hội Sớ hiểu Thanh Tịnh
tam-muội, Giải Thoát tam-muội và Phổ Đẳng tam-muội
đều là Niệm Phật tam-muội. V́ Niệm Phật
tam-muội là Bảo Vương tam-muội, đầy
đủ công đức của hết thảy tam-muội,
nên đương nhiên nó phải mang nhiều tên gọi của
các tam-muội khác nhau.
“Tam-muội” tức là
Tam-ma-địa (Samadhi), dịch là Chánh Định, Chánh Thọ
(đă giải thích tường tận trong phẩm thứ
hai). “Tổng tŕ” là
đà-ra-ni, nghĩa là giữ ǵn sự lành chẳng để
mất, có khả năng ǵn giữ vô tận (chữ “tổng
tŕ” đă được giảng chi tiết trong phẩm
thứ hai). Tổng tŕ sâu mầu nên gọi là “thâm tổng tŕ”. Mười
phương Bồ Tát do nghe danh hiệu nên đắc các
tam-muội và tổng tŕ sâu mầu, an trụ trong Định,
được thành Chánh Giác nên bảo là “chí ư thành Phật” (cho đến thành Phật).
Nguyện bốn mươi lăm là “trong Định cúng dường Phật”. Ư
nghĩa của việc trong Định cúng dường Phật
mà chẳng mất định ư, ư nghĩa tương đồng
câu “trụ thâm Thiền Định,
tất đổ vô lượng chư Phật” (trụ trong Thiền Định
sâu, đều thấy vô lượng chư Phật) trong
phẩm Đức Tuân Phổ Hiền. Đây chính là cảnh giới
rất sâu của Phổ Hiền Đại Sĩ. Sách Văng
Sanh Luận Chú bảo: “Bậc
Bồ Tát từ Bát Địa trở lên thường trụ
tam-muội. Do sức tam-muội, thân chẳng rời khỏi
chỗ ḿnh mà đến khắp mười phương
cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sanh”.
Sư Vọng Tây nhận định: “Xét về thường hạnh, ‘trong Định cúng
Phật’ là hạnh của bậc Bồ Tát từ Sơ Địa
trở lên” và “bậc Bồ
Tát từ Sơ Địa trở lên tuy đă có đức này,
nhưng phải từ Bát Địa trở lên mới [có thể
thực hành hạnh ấy] một cách vô công dụng”. Ư
Ngài nói: Bậc Sơ Địa Bồ Tát tuy đă có thể “trong Định cúng Phật”
nhưng vẫn c̣n phải dụng công, phải là bậc Bồ
Tát từ Bát Địa trở lên mới có thể vô công dụng
đạo.
Sách Hội Sớ bảo các vị tân phát ư Bồ Tát ở
những phương khác do nghe danh hiệu Di Đà nhanh chóng dự
vào những ngôi vị Bồ Tát trong Thập Địa,
đắc các tam-muội, trụ trong Định cúng Phật.
Sách viết:
“Dẫu
là hạng tân phát ư Bồ Tát mà nghe được danh hiệu
liền có thể Định - Huệ tương tức (Định
tức là Huệ, Huệ tức là Định, không c̣n cách
ngại ǵ nữa), Chân, Tục
soi chiếu lẫn nhau, nhanh chóng chứng đắc các ngôi
vị Bồ Tát trong Thập Địa”. Kinh Văn
Thù Bát Nhă cũng bảo: “Niệm nhất Phật công đức,
vô lượng vô biên, diệc
dữ vô lượng vô biên chư Phật vô nhị’ (Công đức niệm một vị
Phật vô lượng vô biên, chẳng khác ǵ công đức
niệm vô lượng chư Phật).
Phật pháp b́nh đẳng
vô sai biệt chẳng thể nghĩ bàn, đều nương
theo Nhất Như thành tối Chánh Giác, đều đầy
đủ vô lượng công đức biện tài. Nhập
được Nhất Hạnh tam-muội (tức là Niệm
Phật tam-muội) th́ biết
hết tất cả các tướng pháp giới sai biệt
của hằng sa chư Phật”.
Nói “trong tam-muội biết
tất cả tướng pháp giới sai biệt của
chư Phật” chính là nói “trụ
trong Định cúng Phật”.
Chánh kinh:
我 作 佛 時,他 方 世 界 諸 菩 薩 眾,聞 我 名 者,證 離 生 法,獲 陀 羅 尼。清 淨 歡 喜,得 平 等 住。修 菩 薩 行,具 足 德 本。應 時 不 獲 一 二 三 忍,於 諸 佛 法,不 能 現 證 不 退 轉 者,不 取 正 覺。
Ngă tác Phật
thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát
chúng văn ngă danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch
đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc b́nh đẳng
trụ. Tu Bồ
Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất
hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật
pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển
giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật,
các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe
danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc
đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc b́nh đẳng
trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội
đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt
được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các
Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được
Bất
Thoái Chuyển th́ chẳng lấy
Chánh Giác.
(Nguyện bốn
mươi sáu: Đắc đà-ra-ni; nguyện bốn
mươi bảy: Nghe danh đắc Nhẫn; nguyện bốn
mươi tám: Chứng Bất Thoái ngay trong hiện đời)
Giải:
Chương này gồm cả ba nguyện: Từ chữ
“đắc đà-ra-ni” trở
lên là nguyện bốn mươi sáu “hoạch đà-ra-ni”, từ chữ ấy đến
“nhất nhị tam Nhẫn” (một, hai hay ba thứ Nhẫn) là nguyện bốn
mươi bảy “nghe danh đắc Nhẫn”; phần c̣n
lại là nguyện bốn mươi tám “chứng được Bất Thoái ngay trong hiện
đời”.
Chữ “ly sanh” trong nguyện
thứ bốn mươi sáu nghĩa là thoát khỏi sanh tử.
Hành nhân trong ba thừa do đạt địa vị Kiến
Đạo[15],
thấy được Đế Lư (lư chân thật) nên đoạn
được Kiến Hoặc và Tư Hoặc, vĩnh viễn
không bị sanh trong tam giới nữa nên bảo là “chánh pháp tánh sanh”. Sách Vạn
Thiện Đồng Quy Tập bảo: “Cùng lên cửa giải thoát, cùng xiển dương
đạo ly sanh”. Mười phương Bồ Tát do
nghe danh hiệu Di Đà nên đều chứng được
pháp ly sanh ấy và đắc “đà-ra-ni”.
Đà-ra-ni chính là “tổng tŕ”
(xem giải thích ở phần trước). Đà-ra-ni có bốn
loại:
1. Pháp đà-ra-ni: Nghe, giữ giáo pháp của Phật
chẳng quên.
2. Nghĩa đà-ra-ni: Tổng tŕ nghĩa lư Phật
pháp chẳng quên.
3. Chú đà-ra-ni (Chú đà-ra-ni lại có năm tên.
Theo Bí Tạng Kư, năm tên ấy là: Đà-ra-ni, minh, chú, mật
ngữ, chân ngôn. Đà-ra-ni là khi Phật phóng quang, trong quang minh
vang ra thần chú nên gọi là Đà-ra-ni hay Minh. V́ vậy,
“đà-ra-ni” và “minh” có cùng một nghĩa. Người tŕ
đà-ra-ni có thể phát khởi thần thông, trừ
được tai hoạn. Đà-ra-ni gần tương tự
với các thứ chú thuật của Trung Hoa, nên đà-ra-ni
cũng gọi là “chú”. V́ phàm phu và Nhị Thừa chẳng
thể biết được nổi nên gọi là “mật
ngữ”. Chân ngôn: Lời của đức Như Lai chân thật
chẳng dối nên gọi là chân ngôn).
4. Nhẫn đà-ra-ni: An trụ trong Thật Tướng
của pháp th́ gọi là Nhẫn. Giữ được ḷng
Nhẫn nên gọi là Nhẫn Đà Ra Ni.
Đại sĩ trong mười phương nghe danh hiệu
Phật đều đắc các đà-ra-ni như trên, an trụ
trong Thật Tướng của các pháp nên bảo là “đắc đà-ra-ni”.
Trong lời nguyện bốn mươi bảy “nghe danh đắc Nhẫn”, chữ
“thanh tịnh” có nghĩa là vốn
sẵn không nhiễm trước, “hoan hỷ” là trong ḷng vui sướng, tịch diệt
là vui. Nếu hiểu nông cạn, “b́nh đẳng” là thoát khỏi những ư tưởng
sai biệt: cao, thấp, cạn, sâu, lớn, nhỏ, thân,
sơ, trí, ngu, mê, ngộ, th́ gọi là “b́nh đẳng”.
Hiểu ở mức cao hơn, b́nh đẳng chính là
Chân Như trọn khắp, vạn pháp như một, cả
ba thứ tâm, Phật, chúng sanh không sai biệt. Văng Sanh Luận
Chú giảng: “B́nh đẳng là
thể tướng của các pháp” và: “Chúng sanh trông thấy thân có tướng tốt và
quang minh của Phật Di Đà đều giải thoát
được hết các thứ ràng buộc nơi thân nghiệp,
vào nhà Như Lai, rốt ráo được thân nghiệp b́nh
đẳng. Nghe danh hiệu chí đức của A Di Đà
Như Lai, nghe âm thanh thuyết pháp th́ đều giải
thoát khỏi hết các thứ ràng buộc nơi khẩu
nghiệp, vào nhà Như Lai, rốt ráo được khẩu
nghiệp b́nh đẳng. Nếu gặp được
quang minh của A Di Đà Như Lai chiếu đến, hoặc
nghe ư nghiệp b́nh đẳng của A Di Đà Như Lai th́ các
chúng sanh ấy đều giải thoát khỏi hết thảy
các thứ ràng buộc
nơi ư nghiệp, vào nhà Như Lai, rốt ráo được
ư nghiệp b́nh đẳng”. Ư nói: Nếu thấy
được h́nh tướng, nghe danh, thấy quang minh,
biết được tâm ư của A Di Đà Như Lai th́ đều
chứng nhập nhà Như Lai. Do nghe pháp nên được
nghiệp b́nh đẳng rốt ráo.
Đoạn văn trên của Văng Sanh Luận Chú hoàn toàn có
cùng ư nghĩa với câu: “Văn ngă
danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh
hoan hỷ, đắc b́nh đẳng trụ” (Nghe danh hiệu ta, chứng ly sanh pháp, đắc
đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc b́nh đẳng
trụ) trong kinh này. Do nghe danh hiệu nên trụ trong pháp
b́nh đẳng, nghĩa là trụ trong Thật Tướng
của các pháp. Bản Hán dịch c̣n gọi A Di Đà Phật
là Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác. Như vậy,
mười phương Đại Sĩ nghe danh hiệu Phật
chí tâm tin ưa, dùng tâm b́nh đẳng niệm B́nh Đẳng
Giác, an trụ như thế th́ chính là “đắc b́nh đẳng trụ”.
Một câu Phật hiệu đây chính là Thật Tướng,
chính là toàn thể của pháp giới, chính là thể tánh b́nh
đẳng của các pháp. Chỉ cần niệm niệm
tiếp nối, niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm,
nên bảo là “đắc b́nh
đẳng trụ”. Tâm hạnh như thế là “Bồ Tát hạnh”, lần
lượt dạy dỗ cho nhau cùng quay về Cực Lạc,
ban bố cho mọi chúng sanh cái lợi chân thật nên bảo
là “tu Bồ Tát hạnh”. Tu hành như vậy tự nhiên trọn
vẹn hết thảy cội rễ của công đức
Phật quả nên bảo là “cụ
túc đức bổn” (đầy đủ cội
đức). Sách Hội Sớ giảng chữ “đức bổn” (cội
đức) như sau:
“Lục Độ của Bồ
Tát là gốc của hết thảy công đức nên gọi
là cội đức. Chọn lựa, giữ lấy quả
hiệu (danh hiệu của Quả Giác, tức là danh
hiệu Nam-mô A Di Đà Phật)
lưu xuất lục độ vạn hạnh là nguồn
gốc cho mọi đức, nên gọi là đức bổn”.
Trong câu “nhất nhị tam
Nhẫn” (một, hai, hay ba thứ Nhẫn), chữ Nhẫn
(忍) có nghĩa là chịu đựng. Bản Ngụy
dịch ghi như sau: “Đệ nhất,
đệ nhị, đệ tam pháp nhẫn”. “Pháp nhẫn”: Pháp là lư đă chứng
đắc, tâm an trụ nơi pháp là Nhẫn. Sách Đại Thừa
Nghĩa Chương, quyển chín giảng: “Huệ tâm an pháp th́ gọi là Nhẫn”.
Với những thứ Pháp Nhẫn vừa được
nêu trên, các nhà chú giải kinh nêu nhiều thuyết sâu hoặc
cạn khác nhau. Xin nêu một thí dụ:
Kinh Nhân Vương bảo có năm thứ nhẫn: Phục
Nhẫn, Tín Nhẫn, Thuận Nhẫn, Vô Sanh Pháp Nhẫn và
Tịch Diệt Nhẫn.
Sách Nhân Vương Tư Kư lại giảng: “Sơ Địa, Nhị Địa,
Tam Địa chứng đắc vô lậu tín th́ gọi là
Tín Nhẫn. Tứ Địa, Ngũ Địa, Lục
Địa hướng đến vô sanh nên gọi là Thuận
Nhẫn. Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa
chẳng sanh các niệm nên gọi là Vô Sanh Nhẫn. Thập
Địa, Diệu Giác đắc quả Bồ Đề nên
gọi là Tịch Diệt Nhẫn”.
Trong các nhà chú giải kinh thời cổ, có vị cho rằng
ba thứ Nhẫn được nói đến trong kinh Vô
Lượng Thọ đây là Phục Nhẫn, Tín Nhẫn và
Thuận Nhẫn; thậm chí có vị cho rằng ba mức
thượng, trung, hạ của loại Nhẫn đầu
tiên (Phục Nhẫn) chính là ba thứ Nhẫn được
kinh này nhắc đến. Hiểu như vậy nghĩa là
chẳng thừa nhận việc Bồ Tát nơi
phương khác nghe danh hiệu Phật liền ngay lập
tức chứng đắc một thứ Nhẫn, hai thứ
Nhẫn, cho cho đến Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Nếu dựa theo kinh văn, quả thật “trong ba thứ Nhẫn ấy ắt
phải có Vô Sanh Pháp Nhẫn” là điều chẳng thể
c̣n nghi ngờ chi nữa. Nguyện thứ ba mươi bốn
trong bản Ngụy dịch được ghi như sau: “Thiết ngă đắc Phật,
thập phương vô lượng bất khả tư nghị
chư Phật thế giới chúng sanh chi loại, văn
ngă danh tự, bất đắc Bồ Tát Vô Sanh Pháp Nhẫn,
chư thâm tổng tŕ giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong
mười phương vô lượng chẳng thể nghĩ
bàn các thế giới Phật nghe danh hiệu tôi mà chẳng
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ Tát, các tổng
tŕ sâu xa, th́ chẳng lấy Chánh Giác).
Bản Tống dịch cũng ghi: “Văn ngă danh giả, ứng thời tức
đắc Sơ Nhẫn, Nhị Nhẫn, năi chí Vô Sanh Pháp
Nhẫn, thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề” (Nghe danh hiệu
tôi th́ ngay lập tức đắc Sơ Nhẫn, Nhị
Nhẫn cho đến Vô Sanh Pháp Nhẫn, thành tựu Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Rơ ràng, pháp Nhẫn thứ ba được nói
trong lời nguyện này phải là Vô Sanh Pháp Nhẫn!
Hơn nữa, những câu trong sách Luận Chú như: “Hễ thấy đức Phật
ấy th́ những vị Bồ Tát chưa chứng tịnh
tâm (chỉ những vị Bồ Tát từ Sơ Địa
đến Thất Địa) liền
rốt ráo chứng được Pháp Thân b́nh đẳng”
(Sách c̣n chép: “B́nh đẳng
Pháp Thân là pháp tánh sanh thân Bồ Tát từ Bát Địa trở
lên”) và: “Nghe danh hiệu chí
đức của A Di Đà Như Lai th́ rốt ráo được
khẩu nghiệp b́nh đẳng”. Những câu như vậy
đủ chứng minh nghe danh hiệu Phật liền chứng
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Vô Sanh Pháp Nhẫn gọi tắt là Vô Sanh Nhẫn. Chân
trí an trụ trong Thật Tướng lư thể vô sanh vô diệt
nhưng chẳng động th́ gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Trí Độ Luận, quyển năm giảng: “Vô Sanh Pháp Nhẫn: Tin nhận,
thông đạt Thật Tướng vô sanh vô diệt của
các pháp một cách vô ngại bất thoái th́ là Vô Sanh Nhẫn”.
Trong quyển bảy mươi ba của Trí Độ Luận,
ngài Long Thọ lại viết: “Vô
Sanh Pháp Nhẫn là ngay cả những thứ nhỏ nhiệm
c̣n bất khả đắc, huống là những thứ lớn
lao. Đấy là vô sanh. Đắc pháp vô sanh này th́ chẳng làm, chẳng
khởi các nghiệp hạnh. Đấy là Vô Sanh Pháp Nhẫn”.
Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển mười
hai cũng nói: “Lư lặng lẽ
chẳng khởi gọi là Vô Sanh. Huệ an trụ trong lư
này th́ gọi là Vô Sanh Nhẫn”. Lăng Nghiêm Kinh Trường
Thủy Sớ, quyển một lại giảng: “Hiểu rơ pháp vô sanh, ấn khả
quyết định th́ gọi là Vô Sanh Nhẫn”.
Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển mười
hai c̣n bảo: “Như ngài Long Thọ
nói, từ Sơ Địa trở lên cũng đắc Vô Sanh.
Nếu căn cứ vào kinh Nhân Vương và kinh Dữ Địa
th́ chỉ trong Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa mới
có Vô Sanh”. Bản Tống dịch của kinh Vô Lượng
Thọ chép rằng: “Văn ngă
danh hiệu, chứng Vô Sanh Nhẫn, thành tựu nhất thiết
b́nh đẳng thiện căn, trụ vô công dụng, ly gia
hạnh cố, bất cửu linh đắc A Nậu Bồ
Đề” (Nghe danh hiệu của tôi, chứng Vô Sanh Nhẫn, thành tựu
hết thảy thiện căn b́nh đẳng, trụ vô
công dụng. Do ĺa gia hạnh nên chẳng bao lâu sẽ đắc
Vô Thượng Bồ Đề). Ngài Vọng Tây chú giải
câu này như sau: “[Kinh] nói là
đă trụ nơi vô công dụng th́ đủ biết bậc
Bồ Tát ấy đă chứng Bát Địa”. Như vậy,
pháp Nhẫn thứ ba trong kinh đây chính là Vô Sanh Pháp Nhẫn
như kinh Nhân Vương đă nói. Theo ngài Vọng Tây, Bồ
Tát ấy đă chứng địa vị Bát Địa.
Ngài Vọng Tây c̣n nói: “Hỏi:
V́ sao do thế lực của việc nghe danh hiệu lại
chứng được Vô Sanh? Đáp: Là do Phật nguyện lực
vậy, như Thập Trụ Luận bảo: ‘Quá khứ
vô số kiếp, có biển công đức danh hiệu Phật.
Mỗi vị Phật trong thập phương hiện tại
thành Chánh Giác đều là từ lời phát nguyện ‘nghe
danh hiệu được thành Phật’ ấy [mà
được thành Phật]”.
Những luận chứng vừa dẫn trên đă tŕnh
bày Tha Lực một cách khéo léo: Người nghe danh hiệu
Phật được Phật nguyện gia bị nên chứng
được Vô Sanh Nhẫn, quyết định sẽ
thành Phật, nhưng “nghe” không có nghĩa là chỉ nghe
xuông, mà c̣n phải phát khởi cái hạnh như Niết Bàn
Sớ, quyển hai mươi bảo: “Nếu nghe đến hai chữ Thường Trụ
th́ đời đời chẳng đọa. Có nhiều thứ
nghe, nếu có thể suy nghĩ sâu xa, thực hành đúng
như lời dạy th́ đời đời chẳng bị
đọa”. Ư câu trên là: Nghe xong phải suy nghĩ sâu xa
và tu hành đúng như lời dạy th́ đời đời
mới chẳng bị đọa. Như vậy, một chữ
“nghe” c̣n hàm nghĩa “tin nhận” chẳng phải là nghe lọt
qua tai rồi thôi.
“Nhất nhị tam Nhẫn”
(một,
hai, hay ba thứ Nhẫn) được nêu trong lời nguyện
này chính là ba thứ Nhẫn sẽ nói trong phẩm mười
lăm “Bồ Đề đạo
tràng”: Một là Âm Hưởng Nhẫn, hai là Nhu Thuận
Nhẫn, ba là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Sách Quán Vô Lượng Thọ
Kinh [Diệu Tông] Sao, quyển năm giảng như sau:
“1. Âm Hưởng Nhẫn là
do âm thanh, tiếng vang mà ngộ giải được chân
lư.
2. Nhu Thuận Nhẫn là huệ tâm
nhu nhuyễn, thuận theo chân lư.
3. Vô Sanh Pháp Nhẫn là chứng
được thật tánh của vô sanh nhưng ĺa khỏi
các tướng. Đây là chỗ cao tột nhất trong việc
ngộ đạo”.
Ba thứ Nhẫn này sẽ được giảng
tường tận trong phẩm thứ mười lăm.
Nguyện thứ bốn tám là “ngay trong hiện tại chứng được bất
thoái”. Lời nguyện như sau: “Ư chư Phật pháp, bất năng
hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ
Chánh Giác” (Với các Phật
pháp nếu chẳng thể chứng ngay Bất Thoái Chuyển th́ chẳng lấy
Chánh Giác).
Bất Thoái Chuyển nghĩa là những công đức
thiện căn ḿnh tu tập ngày càng tăng tấn, chẳng
hề lui sụt, mất đi. Bất Thoái Chuyển gọi
tắt là Bất Thoái, gọi theo tiếng Phạn là A Bệ
Bạt Trí. Hạnh nguyện Bồ Tát tuy khó phát nhưng dễ
bị thoái thất. Theo kinh Nhân Vương, bậc Bồ
Tát thuộc Tín vị trong Biệt giáo được gọi
là Khinh Mao Bồ Tát v́ giống như vật bị gió thổi
bay. Kinh Niết Bàn bản Nam[16]
cũng chép: “Vô lượng
chúng sanh phát A Nậu Bồ Đề tâm, kiến thiểu
vi duyên, ư A Nậu Bồ Đề, tức tiện
động chuyển, như thủy trung nguyệt, thủy
động tức động” (Vô lượng chúng sanh phát tâm Vô Thượng Bồ
Đề nhưng thấy chút duyên trái nghịch liền
thoái chuyển Vô Thượng Bồ Đề như ánh
trăng trong nước, nước vừa xao động,
ánh trăng liền động).
Kinh c̣n ví von: Ví như cá mẹ sanh nhiều cá con,
nhưng khôn lớn chỉ được chút ít; như cây
Am-la (cây xoài) hoa nhiều, trái ít. Chúng sanh phát tâm tuy là vô
lượng, nhưng người thành tựu quá ít ỏi
chẳng đáng nói đến; kinh chép: “Ngư tử, Am-la hoa, Bồ Tát sơ phát tâm, tam sự
nhân trung đa, cập kỳ kết quả thiểu” (Cá con, hoa Am-la, Bồ Tát
sơ phát tâm, ba thứ ấy nhân th́ nhiều nhưng đến
khi kết quả lại ít).
Kinh Thập Trụ Bồ Tát Đoạn Kết cũng nói:
“Thời Xá Lợi Phất cáo
lai hội Bồ Tát: - Ngă nẵng tích, hoặc tùng Nhất
Trụ tấn chí Ngũ Trụ, hoàn phục thoái đọa
tại Sơ Trụ, phục tùng Sơ Trụ chí Ngũ Lục
Trụ, như thị kinh lục thập kiếp trung, cánh
bất năng đáo Bất Thoái Chuyển” (Khi ấy, ngài Xá Lợi Phất bảo các Bồ
Tát đến dự hội: - Tôi khi xưa từ Nhất
Trụ đạt tới Ngũ Trụ rồi lại thoái
chuyển xuống Sơ Trụ, rồi lại từ
Sơ Trụ đạt đến Ngũ Trụ, Lục
Trụ; trải qua sáu mươi kiếp như thế trọn
chẳng đạt đến bậc Bất Thoái Chuyển).
Kinh Bảo Vũ cũng nói: “Hữu thế
giới danh Sa Bà, kỳ quốc hữu Phật danh Thích Ca
Mâu Ni, nhược chư hữu t́nh văn bỉ danh, ư
A Nậu Bồ Đề đắc Bất Thoái Chuyển.
Do bỉ Như Lai bổn nguyện lực cố” (Có thế giới tên là Sa Bà, cơi ấy có Phật
hiệu Thích Ca Mâu Ni. Các hữu t́nh nếu nghe danh Ngài th́ chẳng
thoái chuyển Vô Thượng Bồ Đề; đó là do sức
bổn nguyện của đức Như Lai ấy vậy).
Xưa kia, ngài Trừng Hiến đă từng ca ngợi
lời nguyện ấy như sau: “Trong năm trăm đại nguyện của đấng
Thích Tôn, nguyện này thù thắng nhất”. Rơ ràng, cả
hai bậc đạo sư hai cơi cùng phát ra nguyện tối
thắng này, thật là “cùng một
đường dẫn đến cửa Niết Bàn” vậy.
Ấy là v́ vô lượng Bồ Tát hễ chưa đạt
địa vị Bất Thoái, dẫu cực kỳ dũng
mănh như cứu đầu cháy, nhưng bởi chướng
duyên bời bời dồn tới nên lần lần bị
thoái chuyển, đến nỗi người học đạo
nhiều như lông ḅ, kẻ đắc đạo hiếm
tựa vảy lân. Khi c̣n tu nhân, Phật Di Đà thương xót
họ nhọc khổ nên phát vô thượng nguyện. Do
oai đức của Phật nên người được
nghe danh hiệu liền chứng đắc ba thứ Nhẫn,
chứng được Bất Thoái Chuyển. Vốn ở
địa vị thoái chuyển, nhưng nương theo
nguyện lực của Phật nên chỉ tiến chẳng
lùi, mau chứng được Bồ Đề. Đây thật là
nỗi mừng rỡ lớn. Lời b́nh của Hội Sớ:
“Nguyện lực khó nghĩ
bàn, hễ được một thứ th́ sẽ
được hết thảy mọi thứ v́ cùng một
lúc được đầy đủ Bất Thoái và Tam Nhẫn”
thật đă nêu rơ diệu dụng của phương tiện
rốt ráo phát xuất từ Nhất Thừa nguyện hải
của Phật Di Đà một cách sâu xa.
Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận lại nói: “Nếu ai muốn mau chóng đạt
đến địa vị Bồ Tát Chuyển th́ nên dùng
tâm cung kính chấp tŕ danh hiệu”.
Kinh Tiểu Bổn cũng nói: “Nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát
nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A Di
Đà Phật quốc giả, thị chư nhân đẳng,
giai đắc Bất Thoái Chuyển ư A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Nếu có người
đă phát nguyện, nay phát nguyện, sẽ phát nguyện,
muốn sanh về cơi Phật A Di Đà th́ những kẻ ấy
đều được bất thoái chuyển nơi Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác)
Sách Hội Sớ cũng nói: “Tam
Nhẫn, Bất Thoái đều nằm trong danh hiệu. Khi
xưng danh, do danh và nghĩa chẳng rời nhau nên liền
tự đạt được những đức
như thế”.
Rơ ràng, nếu được nghe danh hiệu, chỉ cần
tín, nguyện, tŕ danh th́ ắt có thể ngay trong hiện
đời chứng được Bất Thoái. Diệu
đức của Di Đà Nhất Thừa nguyện hải thật
khó nghĩ suy nổi, sáu chữ hồng danh là phương
tiện rốt ráo. Bốn mươi tám nguyện, nguyện
nào cũng nhiếp độ chúng sanh, nguyện nào cũng
hiển thị lẽ chân thật. Phân ra th́ đến bốn
mươi tám nguyện, hợp lại chỉ là một
pháp cú. Một pháp cú là thanh tịnh cú: chân thật trí huệ
vô vi Pháp Thân.
[1] Tân dịch: Cách dịch
kinh theo phong cách của ngài Huyền Trang, đối lập
với Cựu Dịch là cách dịch kinh theo phong cách của
pháp sư Cưu Ma La Thập. Ngài Huyền Trang chủ
trương bám sát nguyên bản, không bỏ bớt chữ
nào dù kinh văn rườm rà đến cách mấy. Ngài La
Thập chủ trương dịch thoát ư, chỉ gạn lọc
lấy ư chính.
[2] Thường quang là quang minh thường
chiếu ra nơi thân Phật. Gọi là Thường Quang
để phân biệt với Phóng Quang là quang minh do đức
Phật phóng ra khi thọ kư hoặc sắp tuyên giảng
đại pháp. Một trượng là 3.33 m.
[3] Vô kiến đảnh
tướng: Chỉ tướng nhục kế trên đảnh
đầu Phật. V́ đảnh đầu Phật có thịt
dồn lên như h́nh búi tóc nên gọi là Nhục Kế. Từ
nhục kế tỏa ra hào quang vô lượng, ngay cả
những vị Thập Địa Bồ Tát chỉ thấy
nổi được một phần, ngoài ra không ai thấy
được tướng trạng của nhục kế
nên gọi là “vô kiến đảnh tướng”. Trong kinh Bảo
Tích có ghi ngài Mục Kiền Liên ỷ vào sức thần
thông bay lên không trung vượt qua vô lượng thế giới
để nh́n cho rơ đảnh tướng của Phật
Thích Ca, nhưng Ngài vẫn không thấy được.
[4] Bất Cộng: Do chỉ Đại Thừa
mới có, chứ phàm phu, tiểu thánh, nhị thừa, quỷ
thần không có nên gọi là Bất Cộng (không cùng chung).
[5] Đương hạ
tức thị: Thuật ngữ thường dùng trong tông
Thiên Thai, “ngay chính nơi đây chính là”, diễn tả mọi
pháp không ngoài tự tâm.
[6] Tâm Sở pháp chỉ
những pháp do tác dụng của tâm phát khởi ra. Theo Câu
Xá Luận, Tâm Sở gồm năm mươi mốt thứ
như: thọ, tưởng, tư, xúc, dục, si, giải
đăi, bất tín, hôn trầm, tham, sân, mạn, nghi...
[7] Ức Chỉ (抑止): Ngăn ngừa, cấm đoán.
[8] Trung Ấm Thân
(Bardo): Thân trong giai đoạn chuyển tiếp từ lúc
chết đi đến lúc tái sanh. Theo Mật tông, giai
đoạn này chỉ kéo dài bốn mươi chín ngày sau
khi chết.
[9] Theo ngu ư, kim cang ở
đây không phải là đá kim cương (diamond) như tác
giả suy luận v́ nhiều lẽ: Kim cương cháy
được, kim cương không sanh từ vàng. Ngoài ra
các đặc tính của kim cang như được miêu tả
trong kinh Hoa Nghiêm cho thấy kim cang có những đặc
điểm không hề thấy nơi kim cương.
[10] “Câu tỏa thể” là các đầu
xương ăn khớp móc chặt vào nhau như khóa. Theo
kinh Đại Bát Niết Bàn, các khớp xương nơi
thân Như Lai ăn khớp với nhau như được
khóa lại nên Như Lai sức mạnh vô cùng, hương
tượng đại long không thể sánh bằng. Ở
đây chúng tôi chỉ dịch gọn là chắc chắn, mạnh
mẽ.
[11] Chủng tử (Bīja) là những chữ Phạn được
coi là tâm tủy của những bài chân ngôn do chư Phật,
Bồ Tát nói, hoặc được coi là ngữ mật
thân của Phật, Bồ Tát, thường được
quán tưởng khi hành nhân tŕ tụng chân ngôn. Gọi là chủng
tử v́ “từ một chữ có thể sanh ra nhiều chữ,
nhiều chữ lại có thể thâu gọn trong một chữ”.
Chẳng hạn chủng tử của Đại Nhật
Như Lai là A, chủng tử của A Di Đà Phật là
Hrih.
[12] Chuyển pháp tánh
sanh: Lần sanh cuối cùng này không phải là chết
đây sanh kia, mà chỉ là ẩn nơi thiên cung, thị hiện
sanh trong thai mẹ nên gọi là chuyển pháp tánh sanh.
[13] Tương tức (相 即): Là lẫn nhau, chẳng hạn, như
trong câu này, “điểm sự tương tức diệu lư”
là cách nói rút gọn của “chuyện nhỏ nhặt tí ti chính
là diệu lư, diệu lư chính là chuyện nhỏ nhặt tí
ti”. Đây chính là môn “tương dung tương tức”
trong mười huyền môn của tông Hoa Nghiêm.
[14] Tuyển Trạch
Bổn Nguyện: Đây là quan điểm đặc sắc
của sư Pháp Nhiên, khai tổ Tịnh Độ tông Nhật
Bản. Tuyển Trạch Bổn Nguyện hiểu rộng
là cả bốn mươi tám nguyện, hiểu hẹp là
nguyện thứ mười tám. Gọi là Tuyển Trạch
Bổn Nguyện v́ A Di Đà Phật khi tu nhân đă chọn lấy
những thệ nguyện thù thắng nhất của
chư Phật để kết thành bốn mươi tám
nguyện, và Niệm Phật Văng Sanh là tinh tủy, là cốt
lơi của cả bốn mươi tám lời nguyện.
[15] Kiến Đạo (Darśana-mārga), c̣n gọi là Kiến
Đế Đạo, Kiến Đế, cùng với Tu
Đạo và Vô Học Đạo được gọi
chung là Tam Đạo. Người chứng địa vị
này dùng trí vô lậu quán Tứ Đế, thấu hiểu
được lư Tứ Đế, rời địa vị
phàm phu, tiến nhập ḍng Thánh. Đại Thừa và Tiểu
Thừa hiểu địa vị này khác nhau. Tiểu Thừa
cho rằng người những vị đă tu viên măn bảy
phương tiện như Tam Hiền, Tứ Thiện
Căn sẽ thuộc địa vị Kiến Đạo,
c̣n Đại Thừa lại bảo địa vị
Sơ Địa trong Thập Địa Bồ Tát mới
là Kiến Đạo.
[16]
Kinh Niết Bàn bản Nam: Kinh Đại
Bát Niết Bàn do ngài Đàm Vô Sấm dịch vào năm 421 đời
Bắc Lương, gồm 13 phẩm. Sau đó, kinh này
được truyền xuống phương Nam Trung Hoa,
các vị Huệ Nghiêm, Huệ Quang, Tạ Linh Vận…
đem đối chiếu với kinh Đại Bát Nê Hoàn sáu
quyển do ngài Pháp Hiển dịch vào thời Đông Tấn,
tu chỉnh thành bản hai mươi lăm phẩm, gọi
là kinh Niết Bàn bản Nam. C̣n bản dịch của ngài
Đàm Vô Sấm gọi là kinh Niết Bàn bản Bắc. Bản
kinh Đại Bát Niết Bàn lưu hành tại Việt Nam gồm
bản Nam cộng với kinh Đại Bát Niết Bàn Kinh Hậu
Phần do Ngài Nhă Na Bạt Đà La dịch vào đời Đường.
Ngoài ra, ngài Pháp Hiển c̣n dịch một bản khác mang tựa
đề là Phương Đẳng Nê Hoàn kinh, cũng gọi
là Đại Bát Niết Bàn. Kinh này tương đương
với bản Đại Bát Niết Bàn theo hệ thống kinh
Tạng Nam Truyền của Theravada.