6. Phát đại thệ nguyện ( )

 Trong phẩm này, Pháp Tạng Bồ Tát tuân lời Phật dạy, đối trước đại chúng tuyên thuyết đại nguyện thù thắng do chính ḿnh đă phát. Đại thệ nguyện này diệu đức khó lường như sách B́nh Giải nhận định: Bốn mươi tám nguyện công đức thành tựu chỉ quy vào một Chánh Giác, tức là Nam Mô A Di Đà Phật. Đấy gọi là hoằng thệ bổn nguyện hải, cũng gọi là bi nguyện Nhất Thừa. Đấy chính là công đức Chánh Giác của Di Đà vậy. Công đức của Chánh Giác chẳng thể nghĩ bàn là v́ thệ nguyện chẳng thể nghĩ bàn. Do vậy, tác phẩm Hành Quyển dùng đến ba mươi sáu câu để khen ngợi thệ nguyện chẳng thể nghĩ bàn nhằm hiển dương công đức rộng lớn của Chánh Giác. Sách viết: ‘Kính giăi bày cùng hết thảy người văng sanh, biển hoằng thệ Nhất Thừa là thành tựu vô ngại vô biên tối thắng thâm diệu bất khả tư nghị chí đức (đức cùng tột sâu mầu chẳng thể nghĩ bàn thù thắng nhất). V́ sao thế? Do thệ nguyện chẳng thể nghĩ bàn nên bi nguyện to lớn như hư không. Các diệu công đức rộng lớn vô biên, ví như cỗ xe lớn... cho đến như cơn gió lớn đi khắp thế gian chẳng bị chướng ngại, vượt khỏi thành tam hữu trói buộc, cho đến khai hiển phương tiện tạng, thật đáng phụng tŕ, thật đáng cúi lạy, nhận lấy vậy”.

Về phần nguyện văn nhiều, ít, các bản dịch đều sai khác. Hai bản Hán dịch và Ngô dịch cùng ghi hai mươi bốn nguyện, c̣n ghi rơ: “Tiện kết đắc nhị thập tứ nguyện kinh” (liền kết được hai mươi bốn nguyện). Bản Tống dịch chép ba mươi sáu nguyện, hai bản Ngụy dịch và Đường dịch chép bốn mươi tám nguyện, c̣n Hậu Xuất A Di Đà Kệ có câu “thệ nhị thập tứ chương” (thệ nguyện hai mươi bốn chương). Như vậy, đa phần các kinh nói có hai mươi bốn nguyện, nhưng do chỉ có bản Ngụy dịch lưu hành rộng răi trong đời, nên người đời chỉ biết đến bốn mươi tám nguyện, ít người nghe nói tới hai mươi bốn nguyện.

Tuy hai bản Hán dịch và Ngô dịch cùng chép hai mươi bốn nguyện, nhưng nội dung các nguyện cũng chẳng giống nhau. Nguyện thứ hai trong bản Ngô dịch là: Sử mỗ tác Phật thời, linh ngă quốc trung, vô hữu phụ nhân. Nữ nhân dục lai sanh ngă quốc trung giả, tức tác nam tử. Chư vô ương số thiên nhân dân, quyên phi nhuyễn động chi loại, lai sanh ngă quốc giả, giai ư thất bảo thủy tŕ, liên hoa trung hóa sanh trưởng đại, giai tác Bồ Tát, A La Hán, đô vô ương số. Đắc thị nguyện, năi tác Phật. Bất đắc thị nguyện, chung bất tác Phật” (Khi tôi thành Phật, trong nước tôi không có phụ nữ. Nữ nhân muốn sanh về nước tôi liền biến thành nam tử. Vô ương số chư thiên, nhân dân, các loài bay lượn, ngọ nguậy, ḅ trườn sanh về nước tôi đều hóa sanh, lớn khôn trong hoa sen nơi ao nước bảy báu, đều là Bồ Tát. A La Hán và Bồ Tát đều vô ương số. Thỏa nguyện ấy mới làm Phật. Chẳng thỏa nguyện ấy, trọn chẳng làm Phật). Chỉ ḿnh bản này nói rơ đại nguyện thù thắng “hóa sanh trong hoa sen”“cơi nước không có nữ nhân”, bản Hán dịch không có. Các bản dịch khác cũng không thấy đề cập đến. Do đây, ta thấy rơ sự sai biệt giữa các bản dịch rất lớn.

Hơn nữa, hai bản Hán dịch, Ngô dịch tuy cùng nói hai mươi bốn nguyện, nhưng thực ra nội dung của chúng chẳng phải chỉ hạn cuộc trong hai mươi bốn nguyện. Cứ lấy cái nguyện thứ hai trong bản Ngô dịch vừa nêu trên đây để làm thí dụ th́ thật ra nguyện này gồm các nguyện sau:

* Nước không có nữ nhân.

* Liên hoa hóa sanh

* Loài trùng ngọ nguậy, bay lượn, ḅ trườn cũng được sanh, đều thành Bồ Tát, A La Hán.

* Bồ Tát, A La Hán đều vô ương số.

Do đó, tuy nói là hai mươi bốn nguyện nhưng thật sự chẳng phải chỉ có hai mươi bốn nguyện. Cứ theo ư câu kinh “thệ nhị thập tứ chương” (thệ nguyện hai mươi bốn chương) trong kinh Hậu Xuất A Di Đà Phật Kệ, ta suy ra: Thệ nguyện của A Di Đà Phật thật sự có đến hai mươi bốn chương, chứ chẳng phải chỉ có hai mươi bốn nguyện.

C̣n như hai bản Đường dịch và Ngụy dịch tuy nói là bốn mươi tám, nhưng thật chẳng đủ số bốn mươi tám. Ví dụ: Nguyện thứ hai mươi chín trong bản Ngụy dịch là: Thiết ngă đắc Phật, quốc trung Bồ Đề nhược thọ, độc kinh pháp, phúng, tụng, tŕ, thuyết, nhi bất đắc biện tài trí huệ giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu như tôi thành Phật, các Bồ Tát trong nước nếu đă nhận, đọc kinh pháp, phúng, tụng, tŕ, nói, mà chẳng được biện tài trí huệ, tôi chẳng lấy ngôi Chánh Giác). Nguyện thứ ba mươi là: Thiết ngă đắc Phật, quốc trung Bồ Tát trí huệ biện tài, nhược khả hạn lượng giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu như tôi thành Phật, trí huệ biện tài của Bồ Tát trong nước tôi c̣n có hạn lượng th́ chẳng lấy ngôi Chánh Giác). Rơ ràng, hai nguyện này chỉ sai khác ở chỗ nói chi tiết hay đại lược mà thôi. Nguyện thứ ba mươi chỉ bổ sung thêm chi tiết cho nguyện thứ hai mươi chín. Nguyện thứ hai mươi chín và ba mươi trong bản Đường dịch cũng giống vậy. Nói cách khác, hai bản Đường dịch và Ngụy dịch cùng thiếu các nguyện “liên hoa hóa sanh”“nước không có nữ nhân”. Rơ ràng, bốn mươi tám nguyện nói trong bản Ngụy dịch và Đường dịch cũng chưa bao gồm đầy đủ tất cả các nguyện vậy.

Xét đến hai bản Ngô dịch và Hán dịch, chúng lại bị khuyết đại nguyện căn bản bậc nhất là nguyện “mười niệm ắt văng sanh”. Như vậy, cả năm bản dịch các đời Ngụy, Đường, Tống, Ngô, Hán đều chưa phải là văn bản hoàn thiện của kinh Vô Lượng Thọ. V́ vậy, việc hội tập các bản dịch, chọn lấy những ưu điểm của các bản để soạn riêng thành một hội bản là điều không thể chần chừ được nữa.

Do đấy, cụ Hạ với đại nguyện hội tập các bản dịch đă chú ư thấy các bản cổ dịch đa phần nói đến hai mươi bốn nguyện và thuận theo quan niệm phổ biến là có bốn mươi tám nguyện, bèn chia nguyện văn thành hai mươi bốn chương, gồm bốn mươi tám đề mục. Cách phân định như vậy vừa phù hợp câu kinh “thệ nguyện hai mươi bốn chương” lại dung hợp quan niệm bốn mươi tám nguyện. Bản hội tập chọn lấy những ưu điểm của các bản dịch, những nguyện trọng yếu như “mười niệm văng sanh”, “liên hoa hóa sanh”, “nước không nữ nhân” đều được thấy ghi trong hội bản.

Cụ c̣n khéo chọn lấy những điểm tinh yếu của các nguyện, lời ít nhưng nghĩa nhiều. Chẳng hạn như trong bản Ngụy dịch nguyện thứ ba mươi tám là: Thiết ngă đắc Phật, quốc trung thiên nhân dục đắc y phục, tùy niệm tức chí. Như Phật sở tán ứng pháp diệu phục, tự nhiên tại thân. Hữu cầu tài phùng đảo nhiễm tẩy trạc giả, bất thủ Chánh Giác” (Ví như tôi thành Phật, trời, người trong nước muốn có y phục, nghĩ đến liền có, tự nhiên trên thân khoác áo tốt đẹp đúng theo pháp như Phật đă khen ngợi. Nếu c̣n phải cắt, may, đập, nhuộm, giặt giũ, chẳng lấy ngôi Chánh Giác). Nguyện thứ hai mươi bốn: Thiết ngă đắc Phật, quốc trung Bồ Tát tại chư Phật tiền, hiện kỳ đức bổn, chư sở cầu dục cúng dường chi cụ, nhược bất như ư giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi khi ở trước chư Phật hiển hiện cội đức của ḿnh, nếu những vật họ muốn có để cúng dường chẳng được như ư th́ chẳng lấy ngôi Chánh Giác). Cả hai nguyện trên của bản Ngụy dịch nói đến y phục và vật cúng như ư, nhưng chẳng nói đến cơm ăn như ư.

Nguyện hai mươi ba của bản Hán dịch (nguyện thứ hai mươi bốn trong bản Ngô dịch) là: Ngă tác Phật thời, ngă quốc chư Bồ Tát dục phạn thời, tắc thất bảo bát trung, sanh tự nhiên bách vị phạn thực tại tiền. Thực dĩ, bát giai tự nhiên khứ. Bất nhĩ giả, ngă bất tác Phật” (Lúc tôi thành Phật, các Bồ Tát trong nước tôi lúc muốn ăn th́ tự nhiên sanh ra cơm trăm vị trong bát bằng bảy báu hiện ra trước mặt. Ăn xong, bát tự nhiên biến mất. Nếu chẳng được như vậy, tôi chẳng làm Phật). Do đây, ta càng thấy rơ bản Ngụy dịch thật sự chẳng đủ bốn mươi tám nguyện.

Trong hội bản, cả ba nguyện này cùng được tổng hợp lại như sau: Ngă tác Phật thời, sanh ngă quốc giả, sở nhu ẩm thực, y phục, chủng chủng cúng cụ, tùy ư tức chí, vô bất măn nguyện” (Lúc tôi thành Phật, người sanh trong nước tôi: thức ăn, y phục, các thứ vật cúng cần dùng đều tùy ư hiện đến, không chi chẳng được măn nguyện). Hiển nhiên, hội bản văn ngắn gọn, ư nghĩa súc tích, các nguyện thù thắng của Phật Di Đà ghi trong các bản dịch đă được nêu đủ không c̣n sót. V́ vậy, hội bản này được các bậc hiền đức cận đại công nhận là bản hoàn thiện nhất th́ cũng là điều rất hợp lư vậy.

Chánh kinh:

言:唯 尊,大

Pháp Tạng bạch ngôn: - Duy nguyện Thế Tôn, đại từ thính sát.

Pháp Tạng bạch rằng: - Kính xin đức Thế Tôn đại từ nghe, xét.

Giải:

“Thính” () là tai nghe, “sát” () là trong tâm suy xét. Sách Hội Sớ giảng: “Như Lai nghe ông ta tŕnh bày, soi xét tấm ḷng son nên bảo là thính sát (nghe, xét)”. Như vậy, câu kinh trên có nghĩa là: Pháp Tạng Bồ Tát thỉnh cầu Thế Tôn rủ ḷng Từ thương xót ḿnh, nghe lời ḿnh thưa, soi xét tấm ḷng thành của ḿnh. Tiếp theo đó, Pháp Tạng tŕnh bày những đại nguyện ḿnh đă phát.

Chánh kinh:

提,成 已,所 剎,具 嚴。無 獄、餓 鬼、禽 獸、蜎 類。所 生,以 界,三 中,來 剎,受 化,悉 提,不 趣。得 願,乃 佛,不 願,不 覺。

Ngă nhược chứng đắc vô thượng Bồ Đề, thành Chánh Giác dĩ, sở cư Phật sát, cụ túc vô lượng bất khả tư nghị công đức trang nghiêm, vô hữu địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, quyên phi nhuyễn động chi loại. Sở hữu nhất thiết chúng sanh, dĩ cập Diễm Ma La giới, tam ác đạo trung, lai sanh ngă sát, thọ ngă pháp hóa, tất thành A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, bất phục cánh đọa ác thú. Đắc thị nguyện, năi tác Phật. Bất đắc thị nguyện, bất thủ vô thượng Chánh Giác .

Nếu tôi chứng được Vô Thượng Bồ Đề, thành Chánh Giác rồi th́ cơi nước tôi ở sẽ đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn, không có địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, các loài ngọ nguậy, bay lượn, ḅ trườn. Tất cả hết thảy chúng sanh cho đến những kẻ từ trong cơi Diễm Ma La, trong ba đường ác sanh sang cơi tôi, nhận pháp hóa của tôi ắt thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chẳng đọa vào đường ác nữa. Nguyện được như thế mới làm Phật. Chẳng thỏa nguyện ấy, chẳng giữ lấy vô thượng Chánh Giác.

(Nguyện thứ nhất: Cơi nước không có ác đạo. Nguyện thứ hai: Chẳng đọa đường ác)

Giải:

Bốn câu đầu bao trùm các đại nguyện: Nguyện lúc tôi thành Phật, cơi nước tôi ngự có đầy đủ vô lượng (không thể dùng số lượng nào biểu thị nổi) công đức thắng diệu, đầy đủ vô lượng thanh tịnh trang nghiêm. “Cụ túc” (đầy đủ) là viên măn, chứa đựng trọn vẹn, không khuyết, không sót, nên bảo là “cụ túc”. Những công đức trang nghiêm đầy đủ ấy đều chẳng thể nghĩ bàn: siêu t́nh ly kiến, chẳng thể suy lường, phân biệt mà biết được nổi, chẳng thể dùng ngôn ngữ, văn tự diễn tả nổi, nên bảo là “bất khả tư nghị” (chẳng thể nghĩ bàn).

Chỉ ḿnh kinh Hoa Nghiêm nói đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn: sự sự vô ngại, một tức là nhiều, nhiều tức là một, lớn nhỏ dung chứa lẫn nhau, rộng hẹp tự tại, kéo dài hay rút gọn cùng một lúc, trùng trùng vô tận, viên minh cụ đức v.v... Nói đầy đủ là mười huyền môn như trong phần Phán Giáo đă tŕnh bày sơ lược. Trong kinh này, A Di Đà Phật chính là Tỳ Lô Giá Na Như Lai, Cực Lạc Tịnh Độ nào khác Hoa Tạng thế giới. Toàn thể y báo, chánh báo cơi Cực Lạc là cảnh giới sự sự vô ngại chẳng thể nghĩ bàn, thứ nào cũng đầy đủ trọn vẹn vô tận huyền môn, nên nói: “Cụ túc vô lượng bất khả tư nghị công đức trang nghiêm” (Đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn). Do đầy đủ vô lượng công đức chẳng thể nghĩ bàn nên có thể khiến cho chúng sanh nghe tên được phước, nghe danh hiệu phát tâm, mười niệm ắt được văng sanh, mau chứng ngôi Bất Thoái.

Cũng do đầy đủ vô lượng công đức chẳng thể nghĩ bàn nên vạn vật nghiêm tịnh, vi diệu đến cùng cực, sáng láng như gương, chiếu tột cùng mười phương. Được quang minh chiếu đến liền an lạc, cấu diệt, thiện sanh; mùi hương xông khắp, chúng sanh trong mười phương thế giới ngửi thấy đều tu Phật hạnh; thấy cây Bồ Đề, chứng Vô Sanh Nhẫn. Thế giới Cực Lạc hiển hiện đẹp đẽ, mỗi hạt bụi, mỗi sợi lông đều viên minh cụ đức.

V́ vậy, bốn câu này được đặt ở đầu lời nguyện để biểu thị: Không nguyện nào trong các nguyện sẽ được tŕnh bày dưới đây lại chẳng giống như vậy. Mỗi một nguyện đều v́ chúng sanh, mỗi một nguyện đều hiển hiện bổn tâm diệu minh của Phật Di Đà, mỗi một sự tướng đều là thanh tịnh cú, đều là “chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân”.

Đoạn văn kế tiếp nói rơ: Trong nước tôi không có ba ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh (trong kinh thường lấy “cầm thú, các loài ngọ nguậy, bay lượn, ḅ trườn” để biểu thị súc sanh).

“Địa ngục” là tiếng Hán, tiếng Phạn là Na-lạc-ca (Naraka) hay Nê-lê (Nairya) v.v... Sách Đại Nhiếp Luận Âm Nghĩa nói: “Dịch ra, Nê Lê có bốn nghĩa: Chẳng thể vui sướng nổi, chẳng thể cứu vớt nổi, tối tăm, và địa ngục”. Chữ “địa ngục” dùng trong kinh này chỉ là lấy một trong bốn nghĩa trên. Tỳ Bà Sa Luận ghi: “Phía dưới châu Thiệm Bộ năm trăm du-thiện-na có địa ngục”.

“Du-thiện-na” (Yojana) là do-tuần, là cách người Thiên Trúc tính số dặm. Bản chú giải kinh Duy Ma của ngài Tăng Triệu ghi: “Thượng do-tuần là sáu mươi dặm, trung do-tuần là năm mươi dặm, hạ do-tuần là bốn mươi dặm”.

Như vậy, ta thường nói “địa ngục” là chỉ cái ngục ở dưới đất; nhưng thật ra, địa ngục chẳng phải chỉ ở dưới đất. Ở trên núi, hoặc bên bờ biển cả, hoặc trong đồng hoang, dưới cội cây, giữa không trung đều có địa ngục. Nói chung, địa ngục có ba loại:

I. Căn bản địa ngục: Tức là tám đại địa ngục và tám địa ngục lạnh. Nói có tám đại địa ngục là so với tám địa ngục lạnh mà nói, chúng cũng được gọi là tám ngục nóng. Phía dưới mặt đất Thiệm Bộ châu năm trăm do-tuần có địa ngục tên là Đẳng Hoạt. Từ đấy, lần lượt tính xuống đến địa ngục thứ tám tên là Vô Gián. Tám địa ngục ấy chồng lên nhau theo chiều dọc. Theo luận Câu Xá cũng như Đại Luận, tám địa ngục đó là:

1. Đẳng Hoạt địa ngục: Tội nhân trong ấy bị đâm, chém, xay, giă, khổ quá chết đi, chợt có cơn gió lạnh thổi qua, thịt da sanh lại, sống lại như trước (nên có tên là Đẳng Hoạt nghĩa là “sống lại giống như trước”).

2. Hắc Thằng địa ngục: Trước hết dùng những sợi dây đen đủi (hắc thằng) trói chặt ḿnh mẩy tội nhân, rồi mới cưa, chém.

3. Chúng Hợp địa ngục: Nhiều thứ h́nh cụ (dụng cụ tra tấn) độc ác cùng xô đến ép thân.

4. Hiệu Khiếu địa ngục: Bị các khổ bức bách, rú lên những tiếng đau đớn, than oán.

5. Đại Khiếu địa ngục: Bị khổ sở quá mức, vang tiếng kêu khóc ầm ĩ.

6. Viêm Nhiệt địa ngục: Lửa bốc từ trong thân cháy ra, ngọn lửa tỏa khắp, cái khổ v́ nóng bức khó ḷng chịu đựng nổi.

7. Đại Nhiệt địa ngục: Sức nóng dữ dội nhất nên gọi là Đại Nhiệt.

8. Vô Gián địa ngục: Chịu khổ không gián đoạn, không lúc nào ngớt.

 Phía ngoài tám địa ngục trên lại có tám địa ngục lạnh, kể theo thứ tự như sau:

1. Ngạch Bộ Đà, Hán dịch là Pháo (: phồng rộp lên): Thân bị rét cóng nên thân thể sưng phồng lên.

2. Ni Lạt Bộ Đà: Thân bị rét quá, ḿnh mẩy nứt nẻ, vỡ ra.

3. A La La (bị lạnh quá, răng khua lộp cộp, phát ra tiếng rên hừ hừ)

4. A Bà Bà (cũng như trên)

5. Hổ Hổ Bà (như trên)

6. Ốt Bát La (hoa sen xanh): Bị lạnh quá mức, ḿnh mẩy nứt gẫy, da vênh lên như cánh sen xanh.

7. Bát Đặc Ma (hoa sen đỏ): Thân thể găy nát [tươm máu] như hoa sen hồng.

8. Ma Ha Bát Đặc Ma (hoa sen đỏ lớn): Thân thể găy nát như hoa sen đỏ lớn.

Đấy là căn bản địa ngục, tiếp theo đây, sẽ lược thuật về cận biên địa ngục và cô độc địa ngục.

II. Mười sáu du tằng địa ngục: Trong số tám đại địa ngục nói trên, mỗi địa ngục đều có bốn cửa. Ngoài mỗi cửa lại có bốn tầng ngục phụ mang tên: Đường Ổi Tằng (tầng ngục nung vùi trong tro nóng), Thi Phẩn Tằng (tầng ngục phân dơ), Phong Nhận Tằng (tầng ngục mũi gươm, đao sắc nhọn), Liệt Hà Tằng (tầng ngục sông sôi sùng sục), tổng cộng mười sáu tầng, gọi chung là mười sáu du tằng địa ngục. Tính ra, tám đại địa ngục có tất cả một trăm hai mươi tám ngục phụ, cũng gọi là Cận Biên địa ngục.

III. Cô độc địa ngục ở giữa núi, đồng hoang, cội cây, không trung. Loại này có vô số, chịu khổ vô lượng. Khổ quả trong địa ngục là nặng nề nhất, một ngày đến tám vạn bốn ngàn lần chết đi, sống lại, trải qua vô lượng kiếp. Sách Phụ Hành Kư nói: “Tạo tội Ngũ Nghịch, Thập Ác nặng nhất th́ cảm lấy [quả địa ngục]”.

 Trong quyển tám sách Đại Thừa Nghĩa Chương, chữ “ngạ quỷ” được giảng như sau: “Do cầu nơi người khác nên gọi là ngạ quỷ. Lại thường đói khát nên gọi là Ngạ (), khủng khiếp, lắm điều sợ hăi nên gọi là Quỷ ().

Bà Sa Luận chép: “Quỷ là sợ, tức là khủng khiếp, lắm nỗi sợ hăi. Quỷ cũng có nghĩa là oai v́ có thể làm cho kẻ khác sợ cái oai của ḿnh. Lại do mong cầu nên gọi là Quỷ, tức là: Loài ngạ quỷ thường đi theo người khác, mong được thức ăn để duy tŕ tánh mạng”.

Luận c̣n viết thêm: “Có thuyết bảo do chúng đói khát dữ dội nên gọi là Quỷ. Do chúng bo bo tích cóp nên cảm cái nghiệp đói khát. Trong trăm ngàn năm chẳng được nghe đến cái tên của nước uống, huống là được thấy hay là chạm được. Có thuyết bảo do chúng bị xua đuổi nên gọi là Quỷ: Ở nơi nào cũng thường bị chư thiên xua đuổi”.

Loài ngạ quỷ có mặt khắp mọi nơi. Kẻ nào có phước đức th́ làm thần trong rừng, núi, g̣ mả, miếu thờ. Kẻ không có phước đức ở chỗ chẳng sạch, không có thức ăn, luôn bị đánh đập, ngăn sông, lấp biển, chịu khổ vô lượng. Sách Phụ Hành Kư nói: “Hạ phẩm Ngũ Nghịch Thập Ác cảm lấy [quả báo ngạ quỷ]”.

Chữ “súc sanh” tân dịch[1]“bàng sanh” ngụ ư: Các loài sanh vật có thân h́nh nằm ngang. Tân Bà Sa Luận nói: “Do thân h́nh chúng nằm ngang nên cũng đi ngang. Hoặc do đi ngang nên thân h́nh cũng nằm ngang. V́ vậy, chúng được gọi là bàng sanh”. Bàng () có nghĩa là nằm ngang. Sách Hội Sớ nói: “Loài này có mặt khắp nơi, đeo lông, đội sừng, vảy, mai, lông mao, lông vũ, bốn chân, nhiều chân, sống dưới nước, trên mặt đất, bay trên không, ăn nuốt lẫn nhau, chịu khổ vô lượng”. Sách Phụ Hành Kư bảo: “Tạo Ngũ Nghịch Thập Ác bậc trung cảm lấy quả này”.

“Diễm Ma La giới” (cơi Diễm Ma La) là thế giới của vua Diễm Ma La (Yamaraja). Diễm Ma La c̣n được phiên âm là Viêm Ma, Diễm Ma, Diêm Ma, Diêm Ma La v.v… dịch nghĩa là Phược (), nghĩa là trói buộc tội nhân. Diễm Ma La dịch nghĩa là B́nh Đẳng Vương. Vị vua này ghi chép, xử đoán quản trị cái nghiệp sanh tử, tội phước của thế gian, làm chúa địa ngục, tám ngục nóng, tám ngục lạnh và các tiểu địa ngục quyến thuộc v.v... quyết đoán thiện ác, sai sử quỷ tốt. Trong năm đường, vua truy bắt tội nhân, tra khảo, trừng phạt chẳng lúc nào ngơi. V́ vậy, kinh Tam Khải nói: Tương phó Diễm Ma vương, tùy nghiệp nhi thọ báo. Thắng nhân sanh thiện đạo, ác nghiệp đọa Nê Lê” (Giao cho vua Diễm Ma, theo nghiệp thọ báo. Nhân thù thắng th́ sanh vào đường lành, ác nghiệp đọa Nê Lê).

Diêm Ma Vương c̣n được dịch là Song Vương v́ anh và em gái cùng làm vua địa ngục. Anh coi đàn ông, em coi đàn bà, nên gọi là Song Vương. “Diêm Ma La giới” là cơi vua Diêm La cai quản. Luận Câu Xá chép: “Cơi nước vua Diễm Ma: Ở phía dưới Thiệm Bộ châu chừng năm trăm du-thiện-na (do-tuần) có vương quốc Diễm Ma. Cơi nước có kích thước cũng cỡ đó, lần lượt thay phiên nhau mà trụ. Hễ cơi này tan hoại th́ dời qua cơi khác”.

Phẩm Địa Ngục của kinh Trường A Hàm cũng nói: “Diêm Phù Đề Nam, Đại Kim Cang sơn nội, hữu Diêm La vương cung, vương sở trị xứ, tung quảng lục thiên do-tuần” (Phía Nam châu Diêm Phù Đề, trong núi Đại Kim Cang có cung vua Diêm La là chỗ vua Diêm La cai trị, ngang dọc sáu ngàn do-tuần).

“Tam ác đạo” (ba đường ác) c̣n gọi là “tam ác thú”, hay “tam đồ” là chỗ sanh về của hết thảy chúng sanh tạo nghiệp nên gọi là “ác đạo”. Ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh gọi là “tam ác đạo”. Phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa có câu: “Dĩ chư dục nhân duyên, đọa tam ác đạo” (Do nhân duyên các dục, đọa lạc tam ác đạo) nghĩa là: Nếu chúng sanh trong tâm có ư niệm tham cầu dục lạc làm nhân, ngoài vin nắm dục cảnh làm duyên, th́ do nhân duyên ấy sẽ khởi niệm tạo ác; cuối cùng sẽ đọa ác đạo.

Chương này nêu lên hai nguyện: “Nước không ác đạo”“chẳng đọa đường ác”. Ư của mấy câu đầu trong đoạn kinh như sau:

Nếu tôi chứng được Như Lai Quả Giác, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tức là đă rốt ráo thành Phật, th́ ngay khi ấy trong cơi Phật mà tôi trụ tŕ sẽ có đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn. [Kinh văn] dùng những câu trên đây để diễn tả một cách tổng quát những sự vi diệu thù thắng của thế giới Cực Lạc. V́ vậy, những câu ấy được nêu ở đầu nguyện thứ nhất; kế đó, lần lượt tŕnh bày nội dung của từng nguyện trong bốn mươi tám nguyện.

Nguyện thứ nhất là: “Vô hữu địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, quyên phi, nhuyễn động chi loại” (Chẳng có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cầm thú, các loài ngọ nguậy, bay lượn, ḅ trườn), đó là nguyện cơi nước không có ác đạo. Nguyện này thật sự thể hiện đức Di Đà do tâm đại bi thiết tha nên ngay trong hai nguyện đầu đă chỉ mong chúng sanh không khổ. Cái khổ trong ba ác đạo là nỗi khổ nặng nề nhất. Trong Mật giáo có nói: “Đại bi làm căn, Bồ Đề làm nhân, phương tiện làm cứu cánh”. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm cũng nói: Chư Phật Như Lai dĩ đại bi tâm vi thể cố” (Chư Phật Như Lai lấy tâm đại bi làm Thể), nên Phật nguyện trong nước vĩnh viễn chẳng có đường ác.

“Nguyện chẳng đọa vào đường ác” hoặc c̣n gọi là “nguyện chẳng đọa đường ác lần nữa” chính là nguyện thứ hai. Nguyện này tiếp ư nguyện thứ nhất: Cơi ta chẳng những không có ba đường ác mà thậm chí hết thảy chúng sanh từ trong ba ác đạo như từ cơi vua Diêm La (tức là trong địa ngục) sanh về cơi ta, nhận lănh sự giáo hóa của Phật th́ không chỉ vĩnh viễn chẳng bị sanh vào ác đạo lần nữa mà c̣n đều thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Sách Tịnh Độ Luận Chú ghi: “Pháp Phật chứng đắc gọi là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Sách Pháp Hoa Huyền Tán lại giảng: “A là vô, Nậu Đa La là thượng, Tam là chánh, Miệu là đẳng, Tam lại có nghĩa là Chỉ (ngưng dứt), Bồ Đề là giác, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Đại Trí Độ Luận, quyển tám mươi lăm có câu: “Chỉ ḿnh trí huệ của Phật là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”.

Chúng sanh trong ác đạo thiện căn kém cỏi, lại lắm túc nghiệp, được nhờ nguyện lực của Phật gia bị, nhiếp thọ văng sanh, sanh sang cơi kia rồi thảy đều thành Phật. Đây thật là thánh nguyện vô thượng từ bi đến cùng cực của Di Đà Như Lai: Chúng sanh từ trong đường ác mang theo nghiệp văng sanh, vốn đầy dẫy ác nghiệp, đáng lẽ đọa ác đạo, nhưng nhờ Di Đà nguyện lực gia tŕ, nên được văng sanh Cực Lạc. Chẳng đọa trong tam đồ nữa nên bảo là “bất đọa ác thú” (chẳng đọa đường ác).

V́ vậy, Đại Sĩ Long Thọ nói: “Kẻ nào nếu sanh về cơi kia th́ trọn chẳng đọa ba đường ác nữa”. Đại sư Thiện Đạo cũng dạy: “Cho đến khi thành Phật chẳng lăn lóc trong sanh tử nữa”. Đấy chính là vượt ngang khỏi sáu đường vậy.

Chương này gồm hai đại nguyện thù thắng:

a.      Một là chúng sanh trong đường ác cũng được văng sanh Cực Lạc, chẳng bị đọa vào ác thú nữa, biểu thị Di Đà bi tâm vô tận, hóa độ không sót

b.     Hai là hễ được văng sanh thảy đều thành Phật, rốt ráo Bồ Đề.

Do vậy, ta thấy được tấm ḷng của Phật Di Đà, niệm niệm đều nguyện chúng sanh thành Phật. Nguyện này đă thành tựu, đủ chứng tỏ trí huệ công đức, oai thần, lực dụng của Phật Di Đà thật chẳng thể nghĩ bàn.

Cuối đoạn kinh trên có câu: Đắc thị nguyện, năi tác Phật. Bất đắc thị nguyện, bất thủ vô thượng chánh giác” (Được thỏa nguyện này mới làm Phật, chẳng thỏa nguyện này, chẳng giữ lấy vô thượng Chánh Giác), ư nói: Nguyện này thành tựu, ta (Pháp Tạng Bồ Tát) mới thành Phật. Nếu nguyện này chẳng thành, ta trọn chẳng thành Phật, nên nói rằng: “Bất thủ vô thượng Chánh Giác” (Chẳng giữ lấy vô thượng Chánh Giác). Trong các nguyện sau, chỉ nói gọn là “bất thủ Chánh Giác” (chẳng giữ lấy Chánh Giác).

Chánh kinh:

時,十方 界,所 生,令 剎,皆 身,三 相。端 潔,悉 類。若 別,有 者,不

Ngă tác Phật thời, thập phương thế giới sở hữu chúng sanh, linh sanh ngă sát, giai cụ tử ma chân kim sắc thân, tam thập nhị chủng đại trượng phu tướng, đoan chánh tịnh khiết, tất đồng nhất loại. Nhược h́nh mạo sai biệt, hữu hảo xú giả, bất thủ Chánh Giác

Lúc tôi thành Phật, khiến cho tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới sanh trong cơi tôi đều được đầy đủ thân sắc vàng ṛng trau giồi sáng bóng, ba mươi hai tướng đại trượng phu đoan chánh, tịnh khiết, giống hệt như nhau. Nếu họ h́nh dáng sai khác có xấu đẹp th́ chẳng giữ lấy Chánh Giác.

(Nguyện thứ ba: thân đều như kim sắc, nguyện thứ tư: đủ ba mươi hai tướng, nguyện thứ năm: thân không có sai khác)

Giải:

Chương này gồm ba nguyện.

Câu thập phương thế giới sở hữu chúng sanh, linh sanh ngă sát, giai cụ tử ma chân kim sắc thân” (khiến cho tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới sanh về cơi tôi đều đầy đủ thân màu vàng ṛng trau giồi sáng bóng) là nguyện thứ ba “thân đều là kim sắc”. Sanh cơi ấy rồi, thân đều có màu như màu của vàng ṛng được trau chuốt đến mức sáng bóng.

Màu vàng ṛng là màu nơi thân Như Lai. Đại sư Thiện Đạo nói: Chư Phật muốn hiển thị tướng thường trụ bất biến nên hiện ra sắc hoàng kim”. Sư Nhật Khê bảo: “Màu đó tiêu biểu màu của Trung Đạo Thật Tướng”.

Nay trong đại nguyện này, Phật muốn khiến cho hết thảy người đă văng sanh đều có thân tướng giống hệt như thân Phật, đều có màu vàng ṛng để hiển thị: Chúng sanh và Phật bất nhị, chân thật b́nh đẳng. V́ vậy, sách Hội Sớ nhận xét: “Do đó, nguyện rằng nhân dân trong cơi tôi thuần một sắc vàng, chẳng có xấu, đẹp, ta và người đều b́nh đẳng, dứt tuyệt ư tưởng trái, thuận”. Thuyết của sách Hội Sớ thật đă tŕnh bày tỏ tường ư nghĩa của Trung Đạo Thật Tướng.

“Tam thập nhị chủng đại trượng phu tướng” (Ba mươi hai tướng đại trượng phu): Trời, người trong cơi nước ấy đều đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu là nguyện thứ tư, [nguyện này] c̣n gọi là “nguyện ba mươi hai tướng”. Ba mươi hai tướng đại trượng phu c̣n gọi là ba mươi hai tướng đại nhân, gọi tắt là ba mươi hai tướng. Ba mươi hai tướng này chẳng phải riêng ḿnh đức Phật mới có, Chuyển Luân thánh vương cũng có đủ ba mươi hai tướng. Trí Độ Luận, quyển tám mươi tám có nói Phật hiện ra tướng đại nhân này là v́ “thuận theo quan niệm của người Thiên Trúc nơi cơi Diêm Phù Đề trong thế gian, nên hiện ra ba mươi hai tướng”. Thuyết này rất tuyệt, Phật vốn ly tướng lại hiện có tướng là thuận theo tập tục thế gian vậy.

Sách Pháp Giới Thứ Đệ quyển hạ nói: “Nơi thân ứng hóa của đức Như Lai thị hiện ba mươi hai tướng này để biểu thị Pháp Thân có các đức viên măn đến cùng cực, khiến cho người khác trông thấy liền yêu kính, biết Phật có đức hạnh thù thắng đáng tôn sùng, là bậc tôn quư trong trời người, là vua của chư thánh. V́ vậy, Phật thị hiện có ba mươi hai tướng”. Theo Tam Tạng Pháp Số, quyển bốn mươi tám, ba mươi hai tướng là:

1) Bàn chân bằng phẳng, ḷng bàn chân không chỗ nào lơm xuống.

2) Tướng bánh xe ngàn căm: Dưới chân có h́nh bánh xe.

3) Ngón tay dài nhọn: Ngón tay thon dài.

4) Chân tay mềm mại.

5) Chân tay có màng lưới: Giữa các ngón chân, ngón tay có màng lưới nối liền nhau giống như chân vịt ngỗng.

6) Gót chân đầy đặn: Gót chân đầy đặn không khuyết.

7) Lưng bàn chân vun tṛn: Mu bàn chân cao đầy, tṛn trịa.

8) Bắp đùi nai chúa: Bắp đùi Phật tṛn trịa, nuột nà như bắp đùi nai chúa.

9) Tay dài quá gối: Tay dài qua khỏi đầu gối.

10) Mă âm tàng: Nam căn của Phật ẩn kín trong cơ thể như âm ngựa.

11) Thân to rộng: Chiều cao của Phật bằng với khoảng cách hai tay giang ra.

12) Lỗ chân lông có sắc xanh: Nơi mỗi lỗ chân lông mọc một sợi lông sắc xanh, nhưng các sợi lông chẳng mọc loạn xị.

13) Lông trên thân mướt đẹp: Lông trên thân mọc xoáy về phía phải, hướng lên trên, mượt mà.

14) Thân sắc vàng: Màu sắc thân Phật như màu vàng ṛng.

15) Thường quang[2] chiếu xa một trượng: Thân Phật tỏa quang minh, mỗi phía đều xa đến cả trượng.

16) Da dẻ mềm mại, mượt mà: Da dẻ mềm mịn, trơn láng.

17) Bảy chỗ bằng phẳng, đầy đặn. Bảy chỗ là hai ḷng bàn chân, hai ḷng bàn tay, hai vai và đảnh đầu. Cả bảy chỗ ấy đều bằng phẳng, đầy đặn, không khuyết hăm.

18) Hai nách đầy đặn.

19) Thân như tướng sư tử: Thân thể đầy đặn, đẹp đẽ, oai nghi đoan nghiêm như sư tử chúa.

20) Thân thể đoan trực: Thân h́nh đoan chánh, không cong vẹo.

21) Vai tṛn đầy: Hai vai tṛn trịa đầy đặn.

22) Bốn mươi cái răng: Phật có đủ cả bốn mươi cái răng.

23) Răng trắng, khít, bằng: Bốn mươi cái răng đều trắng sạch, mọc khít khao.

24) Bốn răng nanh trắng sạch: Bốn răng nanh lớn nhất nhưng thật trắng sạch.

25) Má đầy như má sư tử: Hai g̣ má tṛn đầy như tướng g̣ má sư tử.

26) Nước miếng trong họng có vị ngon ngọt nhất: Trong cổ họng Phật thường có chất nước miếng khiến cho ăn vật ǵ cũng trở thành thơm ngon nhất.

27) Lưỡi rộng dài: Lưỡi to mà dài, mềm mại, thanh mảnh, khi thè ra che cả khuôn mặt đến tận mí tóc.

28) Phạm âm vang sâu xa: Phạm () nghĩa là thanh tịnh. Âm thanh của Phật thanh tịnh nhưng nghe vang rất xa.

29) Mắt có màu cám thanh: Tṛng con mắt có màu cám thanh ( : Xanh biếc hơi pha sắc đỏ).

30) Lông mi như [lông mi của] trâu chúa: Lông mi mắt đẹp như lông mi mắt trâu chúa.

31) Giữa hai chân mày có tướng bạch hào: Giữa hai chân mày có một sợi lông trắng, uyển chuyển cuộn về bên phải, thường phóng quang minh.

32) Trên đảnh có Nhục Kế: Nhục Kế tiếng Phạn là Ô-sắt-nị (Usni), dịch là Nhục Kế. Trên đảnh Phật có thịt gồ cao lên như h́nh búi tóc, c̣n gọi là Vô Kiến Đảnh Tướng[3]

(Các kinh, luận khác nói về ba mươi tướng có đôi chút sai khác).

Sư Vọng Tây viết: “Do bởi nguyện ấy, các chúng sanh đă văng sanh đều đủ các tướng, chẳng cần tu mà tự được. Hỏi: Sau khi hoa nở hay là trước khi hoa nở được đầy đủ các tướng? Đáp: Chẳng đợi đến khi hoa nở, hễ sanh về đấy ắt liền có”.

Nguyện kế tiếp theo đó là nguyện “thân không sai biệt”. Nguyện rằng: Chúng sanh trong cơi nước tôi, dung mạo, h́nh dáng thảy đều đoan chánh, tịnh khiết giống hệt như nhau. Nếu c̣n phân ra xấu, tốt sai khác, tôi nguyện chẳng thành Phật. Nguyện này nói rơ người trong cơi Cực Lạc có cùng một h́nh dạng như nhau không hề sai khác. V́ thế, đại sư Đàm Loan nói: “Do chẳng giống nhau nên thân có quư, hèn. Do thân có quư, hèn nên thị phi sanh khởi. Thị phi đă khởi th́ ch́m đắm măi trong ba cơi. V́ vậy, Phật hưng khởi ḷng đại bi, khởi lên nguyện b́nh đẳng”. Đại sư đă chỉ rơ nguyên nhân Phật phát khởi nguyện này vậy.

Chánh kinh:

我 作 佛 時,所 有 眾 生,生 我 國 者,自 知 無 量 劫 時 , 宿 命 所 作 善 惡。皆 能 洞 視 徹 聽,知 十 方 去 來 現 在 之 事。不 得 是 願,不 取 正 覺。

Ngă tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngă quốc giả, tự tri vô lượng kiếp thời, túc mạng sở tác thiện ác, giai năng đỗng thị triệt thính, tri thập phương khứ lai hiện tại chi sự. Bất đắc thị nguyện, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh sanh về nước tôi tự biết các việc thiện ác đă làm trong túc mạng đến vô lượng kiếp, đều trông thấy rơ ràng, nghe rành rẽ, biết được các việc trong quá khứ, hiện tại, vị lai suốt mười phương. Chẳng đạt nguyện này, chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện thứ sáu: đắc Túc Mạng Thông; nguyện thứ bảy: đắc Thiên Nhăn Thông; nguyện thứ tám: đắc Thiên Nhĩ Thông)

Giải:

Chương này nói rơ chúng sanh cơi ấy viên măn nguyện thứ sáu “túc mạng thông”, nguyện thứ bảy “thiên nhăn thông” và nguyện thứ tám “thiên nhĩ thông”.

Thông là nói tắt chữ “thần thông”. Thần dị đến cùng cực, chẳng thể lường nổi công hạnh th́ gọi là “thần” (). Làm ǵ cũng chẳng bị úng tắc, tự tại vô ngại th́ là “thông” (). Có sáu thứ thần thông, thường gọi là Lục Thông, tức là: Túc Mạng Thông, Thiên Nhăn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Thần Túc Thông và Lậu Tận Thông. Trong sáu loại thần thông này, loại thứ sáu chỉ bậc thánh (từ A La Hán trở lên) mới có, năm loại trước th́ phàm phu, dị sanh (không phải loài người) cũng có thể đạt được.

Chư thiên trong tam giới do quả báo nên đều tự nhiên cảm được năm thứ thần thông đầu (thậm chí quỷ thần cũng có chút thần thông), nhưng chẳng đắc Lậu Tận Thông. Chỉ bậc thánh mới chứng nổi Lậu Tận Thông v́ phải đoạn sạch phiền năo th́ mới là Lậu Tận vậy.

Cần chú ư một điều: Chúng sanh nơi Cực Lạc chứng được những thần thông vượt xa những thứ thần thông do Thiền Định phát sanh như trong các kinh luận khác đă nói. Nêu một ví dụ: Phàm phu đạt được Túc Mạng Thông th́ không thể biết việc quá khứ lâu hơn tám vạn kiếp được. Trong kinh này lại nói biết đến vô lượng kiếp là do chúng sanh nơi Cực Lạc nhờ vào sức bổn nguyện của Phật mà đạt được thần thông Đại Thừa Bất Cộng[4] nên vượt xa phàm phu lẫn Tiểu thừa.

Sách B́nh Giải bảo: “Tiểu Thừa chỉ dựa vào bốn căn bản định để chứng đắc năm thứ thần thông đầu. Với Lậu Tận Thông, họ c̣n ở mức Tứ Thiền chưa đạt đến trung gian và ba thứ vô sắc (chữ “vô sắc” ở đây chỉ Vô Sắc Định. Chữ “ba” trong câu nói trên là lầm. Có tám thứ Định là Tứ Thiền của Sắc giới và Tứ Vô Sắc Định của Vô Sắc giới). Đại Thừa nương vào hết thảy Thiền nên đều đạt được cả sáu. Những thần thông nói trong kinh này lại khác hẳn những loại thần thông nói trên, v́ hết thảy trời người [cơi Cực Lạc] nương vào đại nguyện của Phật. V́ vậy, ta bảo: Lấy sức bổn nguyện của Phật Di Đà làm tăng thượng duyên như sách Sự Tán bảo: ‘Tam Minh tự nhiên nương Phật nguyện; chắp tay giây lát đắc thần thông’, há nào phải dựa vào sức Thiền hữu lậu?”

Như vậy, thần thông của trời, người cơi Cực Lạc chẳng do tu tập mà chứng đắc, chẳng đợi phải tu mới có, mà là tự nhiên được thành tựu. Thần thông ấy cũng chẳng giống với Ngũ Thông do quả báo mà có của chư thiên; chỉ là nương vào Tu Đức của Phật Di Đà làm nhân, nương theo Như Lai nguyện lực mà thọ hưởng quả đức an lạc tự nhiên. Do đó, cảm được quả báo vượt xa lệ thường. V́ vậy, sách Yếu Tập nhận định: “Chẳng nương vào bốn thứ Tịnh Lự (Thiền Định) để làm cái nhân tu tập thần thông, chỉ hễ sanh về đấy liền được quả báo tùy ư như vậy, há chẳng sung sướng lắm sao!”

Hơn nữa, thần thông của chư Phật, Bồ Tát và Nhị Thừa cũng có nhiều điểm sai khác. Sách B́nh Giải dựa trên Đại Thừa Nghĩa Chương nêu ra những điểm sau:

* Rộng, hẹp chẳng giống nhau: Như kinh Địa Tŕ nói Thanh Văn thông tỏ hai ngàn cơi nước, Duyên Giác thông tỏ sáu ngàn cơi nước (Kinh này bảo thấy trọn ức na-do-tha trăm ngàn cơi Phật, đủ thấy khác biệt rất lớn).

* Nhiều ít khác biệt: Trong một tâm niệm, Nhị Thừa chỉ có thể hóa hiện được một việc, chẳng thể làm nổi nhiều việc; chư Phật, Bồ Tát có thể hóa hiện ra hết thảy h́nh dạng trong khắp mười phương thế giới, cùng một lúc có thể hiện thân trong năm đường.

* Lớn nhỏ sai khác: Nhị Thừa hóa ra thân lớn chẳng vào trong được thân nhỏ, hóa thân nhỏ chẳng dung nổi thân lớn. Chư Phật, Bồ Tát hiện thân to chật cả tam thiên thế giới, lại có thể đem thân ấy nhét trong một vi trần, hóa hiện thân nhỏ như mảy trần nhưng thân ấy chứa được hết thảy. Hơn nữa, với hết thảy sắc vật, Bồ Tát có thể đem cái lớn bỏ trong cái nhỏ, dùng cái nhỏ đựng cái lớn. Nhị Thừa không thể làm nổi như thế.

* Nhanh, chậm sai khác: Nhị Thừa muốn đến được chỗ xa xôi, phải mất một thời gian mới tới v́ chẳng được Như Ư Thông. Chư Phật, Bồ Tát trong một niệm đến khắp mười phương thế giới do đă chứng đắc Như Ư Thông.

* Thật, giả sai khác: Hết thảy thứ do Nhị Thừa hóa hiện chỉ là tương tự, chẳng thể thật sự dùng được. Chư Phật Bồ Tát hóa hiện ra thứ ǵ cũng đều có công dụng thật sự.

* Việc làm sai khác: Chư Phật, Bồ Tát hóa ra vô lượng người khiến cho mỗi người đều có tâm, mỗi người làm một việc hoàn thành khác nhau. Nhị Thừa chẳng thể làm nổi như vậy.

* Hóa hiện sai khác: Chư Phật, Bồ Tát chỉ hiện một thân mà mỗi người mỗi thấy khác nhau; chỉ nói ra một tiếng mà mỗi người nghe mỗi khác; an trụ một cơi mà hiện đủ mười phương. Nhị thừa không thể làm như thế được.

* Hóa các căn có công dụng sai khác như kinh Niết Bàn nói: Chư Phật, Bồ Tát lục căn hỗ dụng” (Chư Phật Bồ Tát dùng lẫn sáu căn - dùng căn này làm chuyện khác, như trong lỗ chân lông, tức là thân căn, vang ra các bài kệ. Như vậy, Bồ Tát đă dùng thân căn thay thế cho thiệt căn nói kệ). Nhị Thừa chẳng thể làm được như vậy.

* Tự tại sai khác: Như kinh Niết Bàn nói: Chư Phật Bồ Tát phàm sở tác vi, thân tâm tự tại, bất tương tùy trục, kỳ thân hiện đại, tâm diệc bất đại. Nhược thân hiện tiểu, tâm diệc bất tiểu. Hỷ ưu đẳng nhất thiết giai nhĩ” (Chư Phật, Bồ Tát hễ làm điều ǵ thân tâm tự tại, chẳng vướng theo duyên. Dẫu thân hiện lớn, tâm chẳng lớn theo. Dẫu thân hiện nhỏ, tâm cũng chẳng nhỏ theo. Hết thảy hỷ, ưu v.v… đều như vậy - ư nói thân hiện vẻ vui mừng, tâm không vui mừng). Nhị Thừa chẳng được như thế.

Thần thông của trời, người cơi Cực Lạc như sách Hợp Tán nói: “Nay đă là sức thần thông bất cộng của Đại Thừa, lại thêm nhờ sức bổn nguyện (của Phật Di Đà), nên há lại giống với thần thông của phàm phu, Tiểu Thừa ư!”

Câu tự tri vô lượng kiếp thời, túc mạng sở tác thiện ác” (tự biết được việc thiện ác đă làm trong túc mạng đến vô lượng kiếp) chính là nguyện thứ sáu “đắc Túc Mạng Thông”. “Túc” (宿) là đời quá khứ, tục gọi là đời trước, “mạng” () là sanh mạng. Như vậy, “túc mạng” là nhiều kiếp sống trước trong quá khứ. Biết được các việc thiện ác trong nhiều kiếp sống quá khứ th́ gọi là Túc Mạng Thông.

Sách B́nh Giải giảng: “Việc đă đi vào quá khứ gọi là Túc, pháp quá khứ tiếp nối th́ gọi là Mạng. Hiểu rơ những việc ấy không vướng mắc th́ gọi là Túc Mạng Thông”.

Sách Hội Sớ cũng nói: “Biết kiếp trước của thân ḿnh từ một đời, hai đời, ba đời cho đến trăm ngàn vạn đời và các việc đă làm, cũng có thể biết kiếp trước của chúng sanh trong lục đạo và việc họ đă làm th́ gọi là Túc Mạng Thông”.

Nhị Thừa biết được nhiều lắm là đến tám vạn kiếp, Bồ Tát biết đến vô cực. Lời nguyện trong kinh này lại nói là Túc Mạng đến vô lượng kiếp th́ chính là nói đến thần thông của Đại Thừa Bồ Tát vậy.

Nguyện này gồm hai ư nghĩa:

- Một là như sư Trừng Hiến người Nhật nói: “Do chẳng biết túc mạng nên chẳng sốt sắng làm lành, chẳng sợ điều ác. Với muôn điều thiện trở nên lười biếng, tạo tác các ác cũng chỉ do không biết túc nghiệp. Vị La Hán kia nhớ nỗi khổ trong Nê Lê (địa ngục) mà toát mồ hôi lẫn máu (Xưa kia có vị La Hán nhớ đến khi xưa ở trong địa ngục, chịu các sự thống khổ thảm thiết mà kinh sợ cùng cực, mồ hôi toát ra có lẫn cả máu).

Ngài Phước Tăng thấy xương đời trước của ḿnh liền chợt khai ngộ. Lại có người chẳng biết kẻ ấy là mẹ đẻ trong đời trước nên lấy làm vợ, chẳng biết là oán gia đời trước nên nuôi như con, chẳng biết là cha đời trước nên đem nấu thành thức ăn ngon v.v... Đấy đều do mê muội túc sự (chuyện trong đời trước), ham đắm nỗi vui trong đời, nay chợt nghe bổn duyên đều sanh tâm nhàm chán vậy”.

Như vậy, người cơi Cực Lạc cần phải có Túc Mạng Trí Thông là nhằm biết được hạnh nghiệp của chúng sanh trong quá khứ để nhờ vào đó mà dẫn dụ họ, dùng đó làm phương tiện ḥng hóa độ chúng sanh.

- Hai là như ngài Tịnh Chiếu nói: “Nếu biết được túc mạng th́ chẳng tự cao. Nhớ nghĩ đến vô số công đức trong quá khứ nên chỉ nương theo thệ nguyện của Phật để được sanh về cơi kia”. Ngài Trừng Hiến cũng nói: “Văng sanh cơi kia liền trước hết biết túc mạng, thật là kính ngưỡng Phật đức sâu xa”. Như vậy, người cơi Cực Lạc do Túc Mạng Trí nên hết ḷng cảm ngưỡng ân đức của Phật vậy.

“Đỗng thị, triệt thính tri thập phương khứ, lai, hiện tại chi sự” (Thấy rơ ràng, nghe rành rẽ việc quá khứ, hiện tại, vị lai trong suốt mười phương). “Đỗng” () là sâu xa, thông suốt. “Triệt” () là thông suốt, sáng tỏ. “Thập phương” là không gian, “khứ, lai, hiện tại” là thời gian, tức là quá khứ, vị lai, hiện tại. Chữ “khứ” nhằm thừa tiếp cái nguyện “đắc túc mạng thông” ở phần trên: Biết được việc thiện ác đă làm trong quá khứ trong vô lượng kiếp suốt cả mười phương, đều “đỗng thị, triệt thính” (thấy rành rẽ, nghe rơ ràng) [các việc ấy]. Sau chữ “khứ” là nguyện thứ bảy “đắc Thiên Nhăn Thông” và nguyện thứ tám “đắc Thiên Nhĩ Thông”.

Thiên Nhăn Thông c̣n gọi là Thiên Nhăn Trí Thông hoặc Sanh Tử Trí Thông. Thiên Nhăn là con mắt cơi trời, thấy được hết thảy h́nh sắc thô to, nhỏ nhặt, xa gần và tướng trạng sanh tử của chúng sanh trong tương lai. Trong quyển năm của Trí Độ Luận có câu: “Thiên nhăn thấy được lục đạo chúng sanh và các vật trong tự địa và hạ địa (lấy người cơi trời mà nói th́ tự địa là cơi trời, các chốn Tu-la, người, súc sanh, quỷ, địa ngục là hạ địa) dù xa hay gần, các sắc dù thô hay tế, không thứ ǵ chẳng thấy rơ”.

Thiên Nhăn Thông lại như sách Hội Sớ bảo: “Thấy được các tướng: chết đây, sanh kia, khổ, vui.... của lục đạo chúng sanh và thấy hết thảy các thứ h́nh sắc chướng nội, chướng ngoại, thế gian, xuất thế gian chẳng bị chướng ngại”. Mắt thịt của phàm phu chỉ thấy được vật “chướng nội”. Ví dụ: tường vây quanh là Chướng. Phàm phu chỉ thấy được vật giữa các bức tường (chướng nội) chẳng biết được hết thảy vật ngoài tường (chướng ngoại). Thiên nhăn thấy được những vật chướng ngoại nên thông đạt vô ngại.

Thiên Nhăn của trời, người cơi Cực Lạc lại vượt xa Thiên Nhăn của Nhị Thừa và chư thiên. Đại sĩ Long Thọ nói: “Bậc tiểu Thanh Văn trong hàng Nhị Thừa nếu chẳng tác ư liền thấy được một ngàn cơi. Nếu tác ư th́ thấy hai ngàn quốc độ. Đại Thanh Văn chẳng tác ư thấy được hai ngàn, tác ư thấy được ba ngàn. Bậc tiểu Duyên Giác chẳng tác ư thấy hai ngàn, tác ư thấy ba ngàn. Bậc đại Duyên Giác dù tác ư hay không cũng đều thấy được việc trong tam thiên đại thiên thế giới. Chư Phật, Bồ Tát thấy được sự việc trong vô lượng thế giới”.

Chẳng cần biết là tác ư hay không, những điều mà trời người cơi Cực Lạc thấy được như: Chúng sanh sống chết lưu chuyển trong các thế giới và nhân duyên, hạnh nghiệp của bọn họ.... đều vượt xa Nhị Thừa. Bản Tống dịch chép lời nguyện thứ năm như sau: Nhất thiết giai đắc thanh tịnh thiên nhăn, năng kiến bách thiên câu-chi na-do-tha thế giới, thô tế sắc tướng…” (Hết thảy đều được thiên nhăn thanh tịnh, thấy được sắc tướng thô, tế... trong trăm ngàn câu-chi (trăm vạn) na-do-tha (ức) thế giới”. Hội bản ghi là thấy rơ “thập phương khứ lai hiện tại chi sự” (việc quá khứ, hiện tại, vị lai trong mười phương), ư nói: Thấy được sự việc trong vô lượng thế giới, đủ thấy thần thông của người cơi Cực Lạc chính là thần thông của chư Phật, Bồ Tát.

Với nguyện thứ bảy này, lại có hai thuyết:

- Một là như ngài Vọng Tây nói: “Do chúng sanh trong cơi nước chẳng thấy các quả khổ nên chẳng sợ cái nhân tạo khổ, cũng do chẳng thấy các quả vui nên chẳng tu cái nhân sanh vui. Ngài Pháp Tạng thương xót những bọn chúng sanh ấy nên chọn lựa cái nguyện này để nhiếp thủ chúng nó”. Sách Hội Sớ cũng bảo: “Mắt thịt mờ mịt, kém cỏi, chẳng thể thấy nổi vật bị che lấp bởi một tờ giấy. Chỉ tính cái trước mắt, chẳng thấy khổ dữ nơi địa ngục, nên chẳng dũng mănh siêng tu; chẳng thấy được cái vui thù thắng nơi Tịnh Độ nên hờ hững tâm niệm ham cầu”. Ngài Trừng Hiến lại nói: “Ôi chao thương thay! Chẳng thấy quả khổ địa ngục, ngạ quỷ, chẳng thấy cha, mẹ, sư trưởng thọ báo nên hờ hững cái tâm nhàn chán, biếng nghĩ việc báo ân”. V́ vậy, ngài Vọng Tây bảo: “Việc trọng yếu thượng cầu hạ hóa, cái đạo chán khổ báo ân chỉ cốt ở thiên nhăn soi thấy mà thôi!”.

- Hai là như sách Trích Kư khai triển:

“Các sách như Hội Sớ v.v... cho rằng Phật phát nguyện như thế là để diệt ác sanh thiện, chán khổ ham tịnh. Nếu như vậy th́ hóa ra là chẳng phải để đạt lợi ích nơi cơi chân độ (chỉ Cực Lạc). [Tôi cho rằng] nguyện này chính là để đạt lợi ích nơi cơi chân thật.

Như có Tịnh Độ, tuy thánh chúng cơi ấy có thiên nhăn thấy được hai ngàn thế giới hoặc thấy ba ngàn thế giới, nhưng chẳng thấy trọn bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số cơi Phật. Hoặc có Tịnh Độ, Bồ Tát cơi ấy tuy được thiên nhăn, nhưng chẳng trọn đủ ngũ nhăn. Do vậy, Phật đặc biệt phát ra nguyện này.

Cũng bởi thế, trong phần Nguyện Thành Tựu có nói: ‘Nhục nhăn thanh triệt, mị bất phân liễu. Thiên nhăn thông đạt, vô lượng vô hạn” (Mắt thịt trong trẻo không ǵ chẳng thấy rơ. Thiên nhăn thông đạt vô lượng vô hạn). Như vậy, hễ được một thứ thiên nhăn th́ sẽ trọn đủ ngũ nhăn. Bởi thế, thấy được cơi Phật nhiều như số vi trần, thấy rơ chúng sanh chết đây sanh kia, cứu giúp, lợi lạc chúng sanh, luôn làm Phật sự. Đó chính là lợi ích thù thắng của nguyện này vậy”.

Ư của câu trên là: Nếu cho rằng nguyên khởi của lời nguyện này chỉ là để diệt điều ác, sanh điều lành và khiến cho [người nghe] chán khổ, thích vui, th́ đó chưa phải là cái lợi ích thực tế cho người cơi Cực Lạc. Trời, người cơi Cực Lạc thấy được bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số cơi Phật, nhưng do đắc Thiên Nhăn, họ liền được đầy đủ trọn vẹn cả Ngũ Nhăn: Huệ Nhăn, Pháp Nhăn, Phật Nhăn và Nhục Nhăn sẵn có. Do đó, họ thấy được cơi nước nhiều như vi trần, thấy rơ các tướng sống chết qua lại của chúng sanh, nên có thể cứu giúp quần sanh, lợi lạc vạn vật. Đấy mới là lợi ích thù thắng của bổn nguyện.

Trong hai thuyết trên, thuyết sau rất đạt bổn nguyện của Phật Di Đà.

Câu “triệt thính thập phương khứ lai hiện tại chi sự” (nghe rơ ràng chuyện vị lai, hiện tại trong mười phương) trong kinh chính là nguyện thứ tám “đắc Thiên Nhĩ Thông”. Thiên Nhĩ Thông c̣n gọi là Thiên Nhĩ Trí Thông. Thiên Nhĩ là tai của chư thiên trong Sắc giới, nghe được tiếng nói của hết thảy chúng sanh trong lục đạo và hết thảy âm thanh xa, gần, lớn, nhỏ. Sách Hội Sớ bảo: “Thiên Nhĩ Thông là nghe được hết thảy tiếng nói, âm thanh: chướng nội, chướng ngoại, khổ, vui, lo, mừng... không úng trệ vậy”.

Nguyện này được bản Ngụy dịch ghi như sau: “Quốc trung thiên nhân bất đắc thiên nhĩ, hạ đáo văn bách thiên ức na-do-tha chư Phật sở thuyết, bất tất thọ tŕ giả, bất thủ Chánh Giác” (Trời, người trong nước chẳng được thiên nhĩ, tối thiểu là nghe lời dạy của trăm ngàn ức na-do-tha Phật mà chẳng thọ tŕ hết cả th́ chẳng lấy Chánh Giác).

Bản Đường dịch ghi: Quốc trung hữu t́nh, bất hoạch thiên nhĩ, năi chí bất văn ức na-do-tha bách thiên du-thiện-na ngoại thuyết pháp giả, bất thủ Chánh Giác” (Hữu t́nh trong nước chẳng được Thiên Nhĩ, cho đến chẳng nghe được lời thuyết pháp cách xa ức na-do-tha trăm ngàn du-thiện-na th́ chẳng lấy Chánh Giác).

Theo đó, Thiên Nhĩ Thông của trời, người cơi Cực Lạc vượt xa Nhị Thừa, chẳng những nghe được khắp tất cả âm thanh trong mười phương, mà c̣n có thể nghe được vô lượng chư Phật thuyết pháp.

Ngài Trừng Hiến bảo: “Thần thông này rất quan trọng. Nghe được tiếng các khổ nơi địa ngục, tiếng đói khát của loài ngạ quỷ liền thêm lớn bi tâm. Nghe tiếng nhạc Càn Thát Bà (Càn Thát Bà là nhạc thần của Thiên Đế, gảy đàn lưu ly, tiếng vang vọng khắp tam thiên đại thiên thế giới), tiếng thần tiên tụng kinh. Nghe rồi thường thích chốn núi non tịch tĩnh; huống hồ nghe chư Phật thuyết pháp, nghe xong đều thọ tŕ, nghe Bồ Tát bàn bạc càng thêm khát ngưỡng!”

Chánh kinh:

時,所 生,生 者,皆 通。若 剎,眾 者,不

Ngă tác Phật thời, sở hữu chúng sanh sanh ngă quốc giả, giai đắc Tha Tâm Trí Thông. Nhược bất tất tri ức na-do-tha bách thiên Phật sát, chúng sanh tâm niệm giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đắc Tha Tâm Trí Thông. Nếu chẳng biết được hết tâm niệm của chúng sanh trong ức na-do-tha trăm ngàn cơi Phật, chẳng giữ lấy Chánh Giác.

(Nguyện thứ chín: Tha Tâm Thông)

Giải:

Đây là nguyện thứ chín “đắc Tha Tâm Thông”. Tha Tâm Thông c̣n gọi là Tha Tâm Trí Thông. Tha Tâm Trí là cái trí biết được tâm niệm của người khác. Tha Tâm Trí Thông là thấy rơ hết thảy chúng sanh trong tâm đang nghĩ ǵ như gương sáng hiện rơ muôn h́nh tượng. 

Thâm ư của lời nguyện này là như ngài Trừng Hiển nói: “Thế tục c̣n coi việc hiểu ḷng người khác là quan trọng, huống hồ bậc xuất thế lợi lạc chúng sanh”.

Sách Hội Sớ lại giảng: “V́ vậy nguyện rằng: Thánh chúng trong nước tôi chẳng cần phải tu tŕ mà tự hiểu tâm người khác, thuận theo ư thích tiếp độ, giáo hóa không trở ngại”.

Bản Ngụy dịch ghi lời nguyện này như sau: “Bất đắc kiến tha tâm trí, hạ chí bách thiên ức na-do-tha chư Phật quốc trung chúng sanh tâm niệm giả, bất thủ Chánh Giác” (Chẳng  thấy được tâm trí người khác, tối thiểu là biết được tâm niệm của chúng sanh trong trăm ngàn ức na-do-tha các cơi Phật, chẳng lấy Chánh Giác).

Khi chú giải đoạn kinh này, hậu thế cũng có hai thuyết:

- Một là chữ “tối thiểu” (hạ chí) ám chỉ: Với mức độ thấp nhất, Tha Tâm Thông đă biết được cả trăm ngàn ức na-do-tha cơi Phật. Với bậc thượng, ắt biết được bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số cơi Phật trong mười phương.

- Hai là chữ “hạ” đó chỉ tâm niệm của chúng sanh, c̣n nếu bàn về bậc thượng th́ sẽ biết được tâm niệm của chư Phật, Bồ Tát. Sách B́nh Giải bảo: “Nhị Thừa chỉ hiểu được thô tâm của phàm phu và tiểu thánh, chẳng biết được tế tâm. Chư Phật Bồ Tát thấu hiểu tâm vi tế, thậm chí biết được cả Phật tâm. Bồ Tát cơi An Dưỡng cũng giống như vậy”. An Dưỡng là tên khác của Cực Lạc thế giới. Trong số các Bồ Tát văng sanh cơi Cực Lạc, đa số những vị Bồ Tát bậc thượng đă là Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, họ lại được Di Đà hoằng nguyện gia tŕ nên biết được cả Phật tâm.

Chánh kinh:

時,所 生,生 者,皆 在,波 多。於 頃,不 剎,周 者,不

Ngă tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngă quốc giả, giai đắc thần thông tự tại, Ba La Mật Đa. Ư nhất niệm khoảnh, bất năng siêu quá ức na-do-tha bách thiên Phật sát, châu biến tuần lịch cúng dường chư Phật giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều được thần thông tự tại, Ba La Mật Đa. Trong khoảng một niệm chẳng thể vượt qua ức na-do-tha trăm ngàn cơi Phật, đến khắp tất cả [các cơi ấy] cúng dường chư Phật th́ chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện thứ mười: Thần Túc Thông, nguyện mười một: Cúng dường khắp chư Phật)

Giải:

Chương này nói đến nguyện thứ mười “Thần Túc Thông” và nguyện mười một “cúng dường khắp chư Phật”. Lời kinh nói gộp hai nguyện. Trong câu châu biến tuần lịch cúng dường chư Phật” (đến khắp tất cả cúng dường chư Phật), chữ “tuần lịch” ( : đến khắp, đi qua trọn khắp) là nguyện thứ mười, “cúng dường” là nguyện thứ mười một.

“Ba La Mật Đa” (Paramita) hoặc Ba La Mật dịch là Sự Cứu Cánh, Đáo Bỉ Ngạn, Độ Vô Cực, hoặc chỉ dịch gọn là Độ. Đại hạnh của Bồ Tát có thể hoàn thành trọn vẹn hết thảy tự hạnh và sự nghiệp hóa độ người khác, nên gọi là Sự Cứu Cánh. Bồ Tát nương những đại hạnh ấy có thể từ bờ này sanh tử vượt đến được bờ kia Niết Bàn rốt ráo nên gọi là Đáo Bỉ Ngạn (Ba La là bờ kia, Mật Đa là đến, theo văn phạm phương kia (Ấn Độ) là Bỉ Ngạn Đáo, tiếng Hán là Đáo Bỉ Ngạn). Do đại hạnh ấy sẽ thấu đạt được sự sâu rộng của các pháp nên gọi là “độ vô cực”.

Sanh về cơi kia liền đầy đủ thần thông (Thần là diệu dụng chẳng thể lường nổi, Thông là dung thông tự tại) tự tại vô ngại, có thể triệt để quán triệt hết thảy tự hạnh và sự nghiệp hóa độ người khác, nên bảo là “thần thông tự tại Ba La Mật Đa”.

Câu “ư nhất niệm khoảnh…siêu quá ức na-do-tha bách thiên Phật sát” (trong khoảng một niệm... vượt qua ức na-do-tha trăm ngàn cơi Phật) diễn tả Thần Túc Thông, c̣n gọi là Thần Túc Trí Thông, Thần Cảnh Trí Thông, Thân Như Ư Thông, Thân Thông. “Na-do-tha” (Nayuta) là Ức (một vạn vạn). Thời cổ, Trung Hoa hiểu chữ Ức theo ba cách khác nhau: mười vạn, trăm vạn, ngàn vạn. V́ vậy, các vị cổ đức cũng phán định con số này không đồng nhất.

Sách Hội Sớ giảng chữ “thần túc” (cũng gọi là Như Ư Túc) như sau:

“Thần Túc có ba loại:

1. Vận thân hành: Bay trên không giống như chim bay.

2. Thắng giải thông: Với chỗ xa xôi nhất, chỉ tác ư tư duy liền tới ngay đó.

3. Ư thế thông: Với chỗ xa xôi nhất, tâm vừa nghĩ đến, thân đă ở đấy”.

Sách Đại Luận lại bảo: “Như Ư Thông có ba thứ: Năng Đáo, Chuyển Biến, Thánh Như Ư. Năng Đáo có bốn thứ:

1. Một là thân bay được đến đó như chim không trở ngại.

2. Biến xa thành gần, chẳng qua đó mà đến được nơi ấy.

3. Biến mất chỗ này hiện ra chỗ kia.

4. Trong một niệm đến ngay nơi đó.

Chuyển Biến là biến nhỏ thành lớn, biến lớn thành nhỏ, biến một thành nhiều, nhiều biến thành một. Với các vật đều chuyển biến được. Ngoại đạo biến hóa không lâu được hơn bảy ngày. Chư Phật và đệ tử chuyển biến tự tại, chẳng có gần, xa.

Thánh Như Ư là ngay trong lục trần, có thể quán vật bất tịnh chẳng đáng ưa là tịnh, quán vật khả ái thanh tịnh thành vật bất tịnh. Chỉ ḿnh đức Phật đắc pháp Như Ư Trí này”.

Câu “ư nhất niệm khoảnh” (trong khoảng một niệm) ư nói thời gian rất ngắn. Bao lâu là một Niệm? Có nhiều thuyết khác nhau, xin coi lời giải thích trong phần trước. Theo sách Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập th́ một sát-na là một niệm, cũng như theo Đại Luận: “Trong khoảng khảy ngón tay có sáu mươi sát-na”, ta thấy rằng một niệm lâu bằng một phần sáu mươi thời gian khảy ngón tay. Như vậy, một niệm cực ngắn ngủi.

Trong khoảng một sát-na cực ngắn như thế đă có thể siêu quá ức na-do-tha bách thiên Phật sát châu biến tuần lịch” (vượt qua ức na-do-tha trăm ngàn cơi Phật, đi khắp tất cả) th́ hiển nhiên, thần thông diệu dụng của người cơi Cực Lạc chẳng thể nghĩ bàn.

“Na-do-tha” là một con số, từ xưa đă có nhiều thuyết. Nhỏ nhất là như sách Huyền Ứng Âm Nghĩa bảo: “Na-do-tha là mười vạn của Trung Quốc”. Lớn hơn là: “Đời Tùy, na-do-tha là một ngàn vạn” (các thuyết khác chẳng dẫn ra). Như vậy, khó ḷng xác định na-do-tha lớn bao nhiêu, nhưng ta có thể đoan chắc “na-do-tha trăm ngàn” là một con số rất lớn đến nỗi khó thể tính biết nổi.

Trong một sát-na vượt qua được những cơi Phật nhiều đến như vậy là ngụ ư: Đến được những cơi rất xa.

Câu “châu biến tuần lịch” (đi khắp tất cả) ngụ ư: Con số cơi nước họ đến cực lớn. Câu “cúng dường chư Phật” ngụ ư: Tuy phát khởi lên rất nhiều sự, nhưng chỉ trong khoảng một niệm đều viên măn thành tựu được hết tất cả những sự việc ấy. Rơ ràng cơi nước Cực Lạc sự sự vô ngại, một tức là nhiều, nhiều tức là một, kéo dài, rút ngắn đồng thời, hạt cải dung nhập núi Tu Di, mười phương chẳng rời khỏi nơi ḿnh đang trụ. Trong một niệm cúng trọn tất cả, ba đời nào khác một niệm, đương hạ tức thị[5], thâu tóm trọn vẹn không sót. V́ vậy, ta thường nói: “Hoa Tạng nào khác Cực Lạc, Tịnh Độ chứa trọn sự huyền diệu”.

Chánh kinh:

時,所 生,生 者,遠 別,諸 靜。若 覺,證 者,不 覺。

Ngă tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngă quốc giả, viễn ly phân biệt, chư căn tịch tĩnh. Nhược bất quyết định thành Đẳng Chánh Giác, chứng đại Niết Bàn giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi xa rời phân biệt, các căn tịch tĩnh. Nếu họ chẳng quyết định thành Đẳng Chánh Giác, chứng Đại Niết Bàn, th́ chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện mười hai: Quyết định thành Chánh Giác)

Giải:

Đây là nguyện thứ mười hai: “Chắc chắn thành Chánh Giác”.

Văng sanh là quyết định thành Phật; điều này thể hiện thật rơ tâm nguyện Phật Di Đà: chỉ dùng một Phật thừa để đưa trọn vô biên chúng sanh vào Niết Bàn rốt ráo.

Câu viễn ly phân biệt, chư căn tịch tĩnh” (xa rời phân biệt, các căn tịch tĩnh) trích từ bản Tống dịch. Câu “nhược bất quyết định thành Đẳng Chánh Giác, chứng đại Niết Bàn giả, bất thủ Chánh Giác” (nếu chẳng quyết định thành Đẳng Chánh Giác, chứng đại Niết Bàn, th́ chẳng lấy Chánh Giác) trích từ bản Đường dịch. Bản Ngụy dịch ghi là: Bất trụ Định Tụ, tất diệt độ giả, bất thủ Chánh Giác” (Chẳng trụ Định Tụ, đều diệt độ th́ chẳng lấy Chánh Giác).

Khi đại sư Thiện Đạo chú giải bản Ngụy dịch, lắm chỗ Ngài dẫn bản Đường dịch để làm rơ thêm ư nghĩa. Đại sư đặt cho nguyện này bốn cái tên: Một là nguyện “ắt đạt diệt độ”, hai là nguyện “chứng đại Niết Bàn”, ba là nguyện “vô thượng Niết Bàn”, bốn là nguyện “trụ tướng chứng quả”.

Sách B́nh Giải ca tụng: “Cao tổ (chỉ ngài Thiện Đạo) đặt tên các nguyện đă hiển lộ tột cùng ư nghĩa lời nguyện vậy”. Nay hội bản không những đă trích lấy câu kinh từ bản Đường dịch, lại c̣n đặt tên nguyện này là nguyện “quyết thành Chánh Giác” th́ thật là rất phù hợp ư chỉ đại sư Thiện Đạo vậy.

Trong bốn mươi tám nguyện, đại sư Thiện Đạo gọi năm nguyện “quyết thành Chánh Giác”, “quang minh vô lượng”, “thọ mạng vô lượng”, “chư Phật khen ngợi” “mười niệm ắt được văng sanh” là chân thật nguyện. Ngài coi chúng là tâm yếu của cả bốn mươi tám nguyện. Như vậy, nguyện này là tâm tủy của Di Đà hoằng thệ.

Bổn hoài của đức Phật chỉ là cốt sao khiến cho hết thảy chúng sanh quyết định thành Phật. Để thực hiện lời nguyện này, Ngài lại có đại nguyện thù thắng “mười niệm ắt văng sanh”, chúng sanh chỉ việc nương theo con đường tắt cực viên, cực đốn, giản dị bậc nhất, niệm Phật văng sanh, sẽ quyết định thành Phật.

Chữ “phân biệt” dùng trong lời nguyện nghĩa là suy nghĩ, hiểu biết được Sự và Lư th́ gọi là “phân biệt”. Do lấy phân biệt hư vọng làm thể tánh, nên đối với pháp vô phân biệt lại lầm lạc sanh ḷng phân biệt là Ngă hay là Pháp. Bởi vậy, phân biệt hư vọng gọi là “phân biệt Hoặc”. Đoạn được cái “phân biệt Hoặc” ấy th́ gọi là Vô Phân Biệt Trí. Sách Duy Thức Thuật Kư, quyển bảy giảng: “Phân biệt là tâm tam giới hữu lậu, là tâm sở pháp[6], nó lấy phân biệt hư vọng làm tự thể”. Chữ “viễn ly phân biệt” trong lời nguyện có nghĩa là rời bỏ, đoạn trừ phân biệt vọng hoặc, hiểu rơ “Chân Như chính là vạn pháp, vạn pháp chính là Chân Như”.

“Tịch tĩnh”: Ĺa phiền năo là Tịch (), dứt khổ sở là Tĩnh (); tức là lư Niết Bàn. Sách Tư Tŕ Kư giảng: “Tịch tĩnh là lư Niết Bàn”. Quyển thượng sách Văng Sanh Yếu Tập cũng bảo: “Hết thảy các pháp vốn tịch tĩnh, chẳng có, chẳng không”.

Chư căn” là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư. Sáu căn này đồng quy về tịch tĩnh như kinh Hoa Nghiêm dạy: “Quán tịch tĩnh pháp, ly chư si ám” (Quán pháp tịch tĩnh, ĺa các si ám), chẳng sanh phân biệt, tự nhiên xa ĺa si ám, nên các căn tịch tĩnh.

Giảng rộng hơn chút nữa, đức Thế Tôn hiệu là Thích Ca Mâu Ni, Mâu Ni nghĩa là Tịch Mặc hay Tịch Tĩnh. Sách Nhân Vương Kinh Hiệp Sớ, quyển thượng giảng: “Mâu Ni là tên, Hán dịch thành Tịch Mặc do ba nghiệp đều tịch mặc (vắng lặng)”. Sách Lư Thú Thích bảo: “Mâu Ni nghĩa là Tịch Tĩnh. Thân, khẩu, ư tịch tĩnh nên gọi là Mâu Ni”. Thân, khẩu, ư tịch tĩnh chính là ư nghĩa câu “chư căn tịch tĩnh” trong kinh này. Tịch tĩnh lại chính là lư thể của Niết Bàn! Do xa ĺa phân biệt vọng hoặc, các căn tịch tĩnh nên khế nhập lư Niết Bàn.

Bởi vậy, kinh dạy tiếp: “Quyết định thành Đẳng Chánh Giác, chứng đại Niết Bàn”. “Đẳng Chánh Giác”“Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác” nói tắt. “Đại Niết Bàn” cũng là tên khác của Phật Quả, dịch nghĩa là Nhập Diệt, nói đầy đủ là “bát Niết Bàn”. “Bát” () có nghĩa là Viên, Hán dịch Niết Bàn là Tịch. Do vậy, “bát Niết Bàn” dịch là “viên tịch”. Nghĩa lư đầy ắp cả thế giới, đức lại nhiều như trần sa nên gọi là “viên”. Thể tột cùng chân tánh (bản thể cùng tột Chân Như pháp tánh), diệu tuyệt tướng lụy (đoạn tuyệt được các vướng mắc vào h́nh tướng một cách vi diệu) là “tịch”. Trong Tâm Kinh Lược Sớ, tổ Hiền Thủ giảng: “Niết Bàn, Hán dịch là Viên Tịch, nghĩa là: Không đức ǵ chẳng đủ nên bảo là Viên, không chướng ǵ chẳng hết nên gọi là Tịch”.

Đại Niết Bàn là Niết Bàn của Đại Thừa, gọi là Đại để phân biệt với Niết Bàn của Tiểu Thừa. Niết Bàn của Đại Thừa có đủ ba đức: Pháp Thân, Bát Nhă và Giải Thoát, đủ bốn nghĩa: Thường, Lạc, Ngă, Tịnh, ĺa khỏi hai thứ sanh tử phần đoạn và biến dịch, đầy đủ vô biên thân trí. Đó là Đại Thừa Niết Bàn.

Trong ba đức, Niết Bàn của Nhị Thừa chỉ có Giải Thoát; trong bốn nghĩa chỉ có Thường, Lạc, Tịnh, chỉ ĺa phần đoạn, vẫn c̣n biến dịch sanh tử. Niết Bàn của Tiểu Thừa chỉ chú trọng nát thân diệt trí.

 Chánh kinh:

時,光 量,普 方,絕 佛,勝 倍。若 生,見 明,照 身,莫 樂,慈 善,來 國。若 者,不 覺。

Ngă tác Phật thời, quang minh vô lượng, phổ chiếu thập phương, tuyệt thắng chư Phật, thắng ư nhật nguyệt chi minh thiên vạn ức bội. Nhược hữu chúng sanh, kiến ngă quang minh, chiếu xúc kỳ thân, mạc bất an lạc, từ tâm tác thiện, lai sanh ngă quốc. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, quang minh vô lượng chiếu khắp mười phương vượt hẳn chư Phật, hơn hẳn quang minh của mặt trời, mặt trăng ngàn vạn ức lần. Nếu có chúng sanh thấy quang minh của tôi chiếu chạm vào thân, không ai là chẳng an vui, từ tâm làm lành, sanh về cơi tôi. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện mười ba: Quang minh vô lượng; nguyện mười bốn: Quang minh soi đến được an vui)

Giải:

Chương này gồm hai nguyện: Từ câu “thiên vạn ức bội” (ngàn vạn ức lần) trở lên là nguyện thứ mười ba: “Quang minh vô lượng”; từ chữ “nhược hữu chúng sanh” (nếu có chúng sanh) trở đi là nguyện thứ mười bốn: “Quang minh soi đến được an lạc”.

Ngài Tịnh Ảnh bảo nguyện thứ mười ba này và nguyện thứ mười lăm “thọ mạng vô lượng” là những nguyện “nhiếp Pháp Thân”, v́ các nguyện này nhằm để thành tựu Pháp Thân.

Sách B́nh Giải cho rằng hai nguyện ấy thể hiện cái đức của chân Báo Thân, c̣n cho rằng cả hai nguyện “quang minh và thọ mạng vô lượng” “cái gốc đại bi của phương tiện Pháp Thân”.

Thọ vô lượng là theo chiều dọc cùng tột cả ba đời, do Phật thân thường trụ nên chúng sanh có chỗ để nương tựa. Quang minh vô lượng là theo chiều ngang trọn khắp cả mười phương, đức dụng trọn khắp, nhiếp hóa vô tận. V́ vậy, quang minh và thọ lượng là cái gốc của phương tiện đại bi, là thật đức của Báo Thân. Như vậy, thệ nguyện quang minh và thọ mạng vô lượng của Phật Di Đà thật ra chỉ là để khiến cho hết thảy chúng sanh đều có quang minh và thọ mạng vô lượng.

Sách Văng Sanh Luận lại bảo: “Ba thứ trang nghiêm vào trong một pháp cú. Một pháp cú chính là thanh tịnh cú, tức là chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân”. Ba thứ trang nghiêm chính là các thứ y báo, chánh báo trang nghiêm thù thắng đă được bốn mươi tám nguyện đề cập đến. “Nhập vào một pháp cú” là hoàn toàn quy về chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân.

Do vậy, sách B́nh Giải bảo: “Nếu xét về sở chứng của Phật th́ bốn mươi tám nguyện đều quy về quang thọ Pháp Thân”, nghĩa là: Y báo, chánh báo của cơi Cực Lạc chỉ từ Pháp Thân của Phật Di Đà hiện ra, cho nên bốn mươi tám nguyện hiển bày trọn vẹn Pháp Thân.

Về mặt độ sanh, sách B́nh Giải lại bảo: “Xét về mặt độ sanh th́ nguyện nào cũng v́ chúng sanh, nên nói: Bốn mươi tám nguyện nhiếp thọ chúng sanh”. Lại bảo: “Mỗi một thệ nguyện đều v́ chúng sanh vậy”. Bốn mươi tám nguyện như vậy dung chứa lẫn nhau chẳng thể nghĩ bàn.

Ư nghĩa của lời nguyện trên như sau: Lúc Pháp Tạng tôi thành Phật, nguyện cho quang minh của tôi vô lượng vô biên, “phổ chiếu thập phương” (chiếu khắp mười phương) hết thảy các cơi nước dù uế hay tịnh.

Ngài Vọng Tây giảng:

“Theo chiều ngang, do mười phương hư không vô biên nên quốc độ cũng vô biên. Do quốc độ vô biên nên chúng sanh cũng vô biên. Do chúng sanh vô biên nên đại bi cũng vô biên. Do đại bi vô biên nên quang minh cũng vô biên. Do quang minh vô biên nên nhiếp thủ, tạo lợi ích cũng vô biên. Nói tóm lại, v́ muốn làm lợi ích vô biên nên quang minh vô biên”. Theo ư Ngài Vọng Tây, ta có thể hiểu đoạn kinh này như sau: Do muốn làm lợi ích vô biên nên quang minh vô biên, đầy đủ các đức vô cùng tận vậy.

“Tuyệt thắng chư Phật, thắng ư nhật nguyệt chi minh thiên vạn ức bội” (Vượt trỗi chư Phật, hơn hẳn quang minh của mặt trời, mặt trăng ngàn vạn ức lần): Phẩm Quang Minh Biến Chiếu (quang minh chiếu khắp) trong kinh này có chép: Chư Phật quang minh sở chiếu viễn cận, bổn kỳ tiền thế cầu đạo, sở nguyện công đức đại tiểu bất đồng. Chí tác Phật thời, các tự đắc chi, tự tại sở tác, bất vi dự kế. A Di Đà Phật quang minh thiện hảo, thắng ư nhật nguyệt chi minh thiên ức vạn bội” (Quang minh của chư Phật chiếu xa hay gần là do đời trước khi cầu đạo nguyện được công đức lớn hay nhỏ sai khác. Lúc thành Phật, mỗi vị tự cảm được [quang minh] để biến hiện tự tại, chẳng tính toán trước. A Di Đà Phật quang minh tốt lành, trỗi hơn quang minh của mặt trời, mặt trăng ngàn vạn ức lần). Như vậy, A Di Đà Phật quang minh vượt xa chư Phật là do nguyện lực đời trước siêu tuyệt nên ngày nay tự nhiên được như vậy. V́ thế, trong kinh c̣n dạy: A Di Đà Phật oai thần quang minh tối tôn đệ nhất. Thập phương chư Phật sở bất năng cập” (A Di Đà Phật oai thần quang minh cao quư bậc nhất, mười phương Như Lai chẳng thể bằng được nổi).

Kinh Đại Pháp Cự Đà Ra Ni nói chư Phật có hai thứ quang minh: Thường quang và phóng quang. Thường quang th́ viên minh vô ngại, không lúc nào chẳng chiếu. Phóng quang là dùng ánh sáng để cảnh tỉnh người khác, tùy lúc mà chiếu hoặc tỏa ra, hoặc thâu vào, tùy nghi tự tại. Quang minh nói trong lời nguyện đây là thường quang.

Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ dạy: Bỉ Như Lai hằng phóng vô lượng vô biên diệu quang, biến chiếu nhất thiết thập phương Phật độ, thi tác Phật sự” (Đức Như Lai ấy luôn phóng ra vô lượng vô biên quang minh mầu nhiệm, chiếu khắp hết thảy mười phương cơi Phật thực hiện Phật sự). Đây là chứng cớ để nói quang minh được đề cập trong nguyện này là thường quang.

Nguyện thứ mười bốn thuật rơ quang minh của Phật đầy đủ diệu đức lợi ích chúng sanh. “Kiến ngă quang minh, chiếu xúc kỳ thân” (Thấy quang minh của tôi chiếu chạm đến thân): Hễ ai thấy được quang minh của Phật và được quang minh của Phật chiếu vào thân th́ mạc bất an lạc, từ tâm tác thiện, lai sanh ngă quốc” (không ai chẳng được an vui, từ tâm làm lành, sanh về cơi tôi).

Phẩm Quang Minh Biến Chiếu trong kinh này có chép: Ngộ tư quang giả, cấu diệt thiện sanh, thân ư nhu nhuyễn. Nhược tại tam đồ cực khổ chi xứ, kiến thử quang minh, giai đắc hưu tức. Mạng chung giai đắc giải thoát” (Gặp được ánh sáng này, phiền năo diệt, điều lành sanh trưởng, thân ư nhu nhuyễn. Nếu đang ở trong chốn tam đồ cực khổ mà được thấy quang minh này th́ [mọi sự khổ] đều được ngưng nghỉ, chết đi đều được giải thoát). Đấy chính là ư nghĩa của câu mạc bất an lạc, từ tâm tác thiện” (không ai chẳng an vui, từ tâm làm lành).

Sách Lễ Tán cũng viết: “Di Đà Thế Tôn vốn phát thệ nguyện sâu nặng, dùng quang minh, danh hiệu nhiếp hóa mười phương”. Lại như Quán Kinh nói: “Quang minh biến chiếu thập phương thế giới niệm Phật chúng sanh, nhiếp thủ bất xả” (Quang minh chiếu khắp chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ).

Nói “quang minh nhiếp thủ” chính là nói về nguyện này. Gặp được ánh sáng ấy đều được văng sanh nên bảo: “Lai sanh ngă quốc” (Sanh về cơi tôi). Câu này hiển thị quang minh có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn.

Do những điều trên, ta thấy rằng tuy quang minh là đức tướng nơi thân Phật, nhưng quang minh ấy thật ra là để lợi lạc chúng sanh. V́ vậy, người xưa bảo: “Bốn mươi tám nguyện đều hiển thị Pháp Thân”, lại c̣n bảo: “Mỗi một thệ nguyện đều v́ chúng sanh”.

Chánh kinh:

時,壽 量,國 數,壽 量。假 生,悉 覺,於 劫,悉 校,若 者,不 覺。

Ngă tác Phật thời, thọ mạng vô lượng. Quốc trung Thanh Văn, thiên, nhân vô số, thọ mạng diệc giai vô lượng. Giả linh tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh tất thành Duyên Giác, ư bách thiên kiếp, tất cộng kế giảo, nhược năng tri kỳ lượng số giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, thọ mạng vô lượng. Trong nước tôi, Thanh Văn, trời, người vô số, thọ mạng cũng đều vô lượng. Giả sử chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên Giác, trong trăm ngàn kiếp cùng nhau tính toán mà biết nổi số lượng ấy th́ chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện mười lăm: Thọ mạng vô lượng; nguyện mười sáu: Thanh Văn vô số)

Giải:

Chương này gồm nguyện thứ mười lăm “thọ mạng vô lượng” và nguyện mười sáu “Thanh Văn vô số”.

Trong nguyện thọ mạng vô lượng, không những thọ mạng của Phật vô lượng, mà vô số Thanh Văn, trời, người trong cơi ấy cũng đều thọ mạng vô lượng. Trong bản Ngụy dịch, nguyện này được tách ra làm hai, đủ thấy bốn mươi tám nguyện trong hội bản đây gói trọn bốn mươi tám nguyện đức của Phật Di Đà, chi tiết hơn bất cứ bản cổ dịch nào.

Trong nguyện thứ mười lăm “thọ mạng vô lượng”, trước tiên kinh bảo vị giáo chủ cơi ấy thọ mạng vô lượng. Kinh Pháp Hoa nói về thọ mạng của Sơn Hải Huệ Như Lai như sau: “Thọ mạng vô hữu lượng, dĩ mẫn chúng sanh cố” (Thọ mạng chẳng hạn lượng v́ thương xót chúng sanh). Ấy là v́ nếu đức Phật chỉ trụ thế trong một thời gian ngắn th́ sự giáo hóa cũng ngắn ngủi, chúng sanh khó thể gặp gỡ được. Giáo chủ ở lâu nơi đời th́ hóa duyên vô cùng, lợi lạc chúng sanh vô tận. V́ vậy, ngài Trừng Hiến khen ngợi: “Phật thọ vô lượng là hạnh đức giáo hóa đến tột bậc, ai lại chẳng khâm ngưỡng lời nguyện ấy hay sao?”

Hơn nữa, Di Đà là Báo Thân Phật, Cực Lạc là báo độ (cơi của Báo Thân Phật ngự), giáo chủ thọ mạng vô lượng th́ thật sự là vô lượng, chứ chẳng phải là vô lượng của hữu lượng (cụm từ “vô lượng của hữu lượng” chỉ con số Vô Lượng rất lớn được nói trong kinh Hoa Nghiêm, dẫu rất lớn nhưng vẫn tính đếm được, nên gọi là “vô lượng của hữu lượng”). Nói theo ngôn ngữ hiện đại, thọ mạng vô lượng là vô lượng tuyệt đối, chứ chẳng phải vô lượng một cách tương đối.

Tiếp đó, kinh văn bảo thọ mạng của nhân dân trong cơi ấy cũng vô lượng. Ngài Trừng Hiến khen: “Nhân dân thọ mạng vô lượng là đức tánh bậc nhất của Tịnh Độ”, rồi giải thích như sau: “Tu hành Phật đạo chỉ e sợ Tử Ma v́ sự gián đoạn giữa sống và chết chính là căn nguyên tạo duyên thoái thất. Gặp Phật, nghe pháp, gặp gỡ thánh chúng, cúng dường chư Phật, thân cận bạn lành, khoái lạc tự nhiên, chẳng có các khổ, [cơi Cực Lạc] chẳng phải chỉ có một đức tánh ấy... Nếu thọ mạng ngắn ngủi, di hận khó tính nổi, khác nào chén ngọc không đáy. Lời nguyện này thật là tối quan trọng” (Chén ngọc đúng thật là của quư, nhưng thủng đáy th́ chẳng ra cái ǵ). Ngài Vọng Tây cũng bảo: “Căn bản của các sự vui [nơi cơi Cực Lạc] chỉ thuộc nơi nguyện này”. Lại như Tịnh Độ Quần Nghi Luận bảo: “Nhân dân cơi ấy thọ cực dài lâu, dẫu cho là phàm phu vẫn c̣n thuộc biến dịch sanh tử (ư nói họ đă đoạn hết phần đoạn sanh tử, chỉ c̣n biến dịch sanh tử) nhưng cũng rốt ráo thành Phật”. Đó là v́ khi đă sanh về Cực Lạc, gặp Phật nghe pháp, trong hết thảy thời, hết thảy chỗ đều tăng thượng, chẳng có duyên thoái chuyển, thọ mạng lại vô lượng, nên chẳng luận là căn khí nào đi nữa, hễ sanh về cơi ấy sẽ quyết định thành Phật. Điều này được xưng tụng là đức tánh bậc nhất của Tịnh Độ kể cũng chẳng ngoa!

Nguyện thứ mười sáu là Thanh Văn vô số. Kinh chép: “Quốc trung Thanh Văn, thiên, nhân vô số” (Thanh Văn, trời người trong nước vô số), ngài Trừng Hiến bảo: “A Di Đà Phật có đệ tử vô lượng, đó là một trong ba thứ vô lượng”. Ba thứ vô lượng là quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng và quyến thuộc vô lượng. Lời nguyện chỉ nói đến Thanh Văn, nhưng ngụ ư kể cả Duyên Giác.

Nếu có kẻ ngờ vực: Kinh Bi Hoa dạy: “Vô hữu Thanh Văn, Bích Chi Phật thừa, sở hữu đại chúng thuần thị Bồ Tát, vô lượng vô biên” (Chẳng có Thanh Văn và Bích Chi Phật thừa. Tất cả đại chúng thuần là Bồ Tát vô lượng vô biên), sao kinh này lại bảo “Thanh Văn vô số”? Hai câu kinh này dường như mâu thuẫn nhau, nhưng nghĩa lư thật sự chẳng trái nghịch nhau. Với ba bậc văng sanh, kinh này đều bảo “phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm”. Ba bậc văng sanh đều đă phát Bồ Đề tâm th́ hạnh của họ phải thuộc Bồ Tát Thừa, nên kinh Bi Hoa bảo “thuần là Bồ Tát”. Trong cơi ấy, gọi là Thanh Văn, Duyên Giác là chỉ căn cứ trên mức độ đoạn được Hoặc Chướng mà nói: Tuy đă đoạn được Kiến Hoặc, Tư Hoặc, nhưng chưa phá nổi Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc th́ gọi là Thanh Văn, chứ đâu phải là hạng Nhị Thừa chỉ cầu tự độ. Nếu chỉ cầu tự độ, chẳng nguyện độ người khác, làm sao phát nổi Bồ Đề tâm? Chẳng phát Bồ Đề tâm, chẳng được văng sanh!

Xét ra, bản Tống dịch nói rơ ư nghĩa này nhất. Bản Tống dịch ghi: Ngă đắc Bồ Đề thành Chánh Giác dĩ, sở hữu chúng sanh linh sanh ngă sát. Tuy trụ Thanh Văn, Duyên Giác chi vị, văng bách thiên câu-chi na-do-tha bảo sát chi nội, biến tác Phật sự, tất giai linh đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Tôi đắc Bồ Đề thành Chánh Giác rồi, khiến cho tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi tuy trụ địa vị Thanh Văn, Duyên Giác, nhưng đi đến trăm ngàn câu-chi na-do-tha cơi báu làm đủ các Phật sự để khiến cho [chúng sanh trong các cơi ấy] đều đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề). Xét ra, Thanh Văn chẳng nghe tới danh hiệu Phật phương khác, chỉ cầu Tiểu Thừa Niết Bàn, chẳng cầu Phật quả, thế nhưng nhân dân cơi Cực Lạc tuy gọi là Thanh Văn mà lại đi tới vô số cơi Phật xa xôi, làm vô lượng Phật sự, độ cho vô biên chúng sanh đều thành Phật th́ đấy chính là hành vi của bậc Bồ Tát, há dám bảo họ đều là Thanh Văn thật sự hay không? Những người được gọi là Thanh Văn ấy đều đă phát đại tâm Bồ Tát, hành đại hạnh Bồ Tát, hướng đến đại quả vô thượng, họ thật đúng như kinh Bi Hoa bảo: “Thuần thị Bồ Tát” (Thuần là Bồ Tát) vậy.

Tiếp theo đó, kinh lại dạy: Giả linh tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh tất thành Duyên Giác, ư bách thiên kiếp, tất cộng kế giảo, nhược năng tri kỳ lượng số giả, bất thủ Chánh Giác” (Giả sử chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên Giác, trong trăm ngàn kiếp chung nhau tính toán; nếu họ biết được số lượng ấy th́ chẳng lấy Chánh Giác). Câu kinh này nêu tổng quát các ư nghĩa sau: Phật thọ vô lượng, nhân dân thọ mạng vô lượng, đệ tử trong nước ấy vô lượng.

“Tam thiên đại thiên thế giới” là cảnh giới hóa độ của một đức Phật. Lấy núi Tu Di làm trung tâm, gộp cả bốn đại châu, mặt trời, mặt trăng, chư thiên, ta có một thế giới. Gộp một ngàn thế giới như vậy lại, ta được một tiểu thiên thế giới. Gom một ngàn tiểu thiên thế giới lại, ta được một trung thiên thế giới. Gom một ngàn trung thiên thế giới lại, ta được một đại thiên thế giới. Do trước hết lấy một ngàn thế giới tạo thành một tiểu thiên, lại đem nhân tiểu thiên lên một ngàn lần th́ được trung thiên, cuối cùng đem trung thiên nhân lên một ngàn lần th́ được đại thiên; ba lượt đem nhân với một ngàn như thế nên đại thiên thế giới được gọi là “tam thiên đại thiên thế giới”. Thật sự chỉ là một đại thiên thế giới, chứ không phải là ba ngàn cơi đại thiên thế giới! Một tam thiên đại thiên thế giới có một ngàn ức (1.000.000.000) thế giới.

Hiện thời, các nhà thiên văn mới tạm thời phát hiện được trong vũ trụ có vô lượng thế giới. Hiện tại, ai cũng biết là mặt trời và chín đại hành tinh hợp thành một Thái Dương Hệ. Địa cầu chỉ là một ngôi sao xoay quanh mặt trời trong Thái Dương Hệ. Mặt trời chẳng những tự xoay mà nó c̣n đi ṿng quanh trung tâm của một ngân hà tinh vân (hiện thời, khoa học tạm gọi đó là một hắc đỗng (black hole) mất một thời gian ước chừng hai vạn vạn năm. Mặt trời chỉ là một hằng tinh trong dải tinh vân mang tên Ngân Hà. Dải Ngân Hà có chừng một ngàn ức hằng tinh. Trong vũ trụ có vô lượng tinh vân. Bản thân tinh vân cũng đang xoay vần, Ngân Hà cũng chỉ là một thiên thể lớn trong vũ trụ. Cứ tính rộng dần dần như thế chẳng biết đâu là cùng tận. Điều phát hiện mang tính cách sơ khởi của Thiên Văn học quả đă chứng thực điều kinh dạy: “Thế giới vô lượng”. Tam thiên đại thiên thế giới chỉ là cảnh hóa độ của một đức Phật, mà do chư Phật vô lượng nên thế giới cũng vô lượng.

Đại ư của lời nguyện là: Giả sử hết thảy chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên Giác rồi dùng sức thần thông hợp lại để tính toán cũng chẳng thể biết nổi thọ lượng của Phật Di Đà, thọ lượng của nhân dân cơi ấy và số lượng của người trong nước ấy.

Chánh kinh:

時,十 界,無 中,無 佛,若 名,說 德, 者,不 覺。

Ngă tác Phật thời, thập phương thế giới, vô lượng sát trung, vô số chư Phật, nhược bất cộng xưng thán ngă danh, thuyết ngă công đức, quốc độ chi thiện giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, vô số chư Phật trong vô lượng cơi nước trong mười phương thế giới nếu chẳng cùng khen ngợi danh hiệu của tôi, thuật sự tốt lành của cơi nước và công đức của tôi th́ chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện mười bảy: Chư Phật khen ngợi)

Giải:

Đây là nguyện thứ mười bảy: “Chư Phật xưng thán”. Xưng () là xưng dương, Thán () là tán thán. Bản Hán dịch ghi: Ngă tác Phật thời, linh ngă danh văn bát phương thượng hạ, vô số Phật quốc, chư Phật các ư đệ tử chúng trung, thán ngă công đức quốc độ chi thiện. Chư thiên nhân dân nhuyễn động chi loại, văn ngă danh tự, giai tất dũng dược, lai sanh ngă quốc” (Lúc tôi thành Phật, tiếng tăm của tôi vang khắp tám phương, trên, dưới. Trong vô số cơi nước, các đức Phật vị nào cũng ngự giữa chúng đệ tử, khen ngợi công đức và sự tốt lành của cơi nước tôi. Chư thiên, nhân dân, các loài ngọ nguậy, ḅ trườn nghe được danh hiệu tôi thảy đều hớn hở sanh về cơi tôi). Bản Ngô dịch ghi tương tự.

Ngài Vọng Tây bảo: “Trong bốn mươi tám nguyện, nguyện này rất thiết yếu”“nếu không có nguyện này, làm sao mười phương [nghe được danh hiệu Ngài]. Nay chúng ta được gặp gỡ giáo pháp văng sanh hoàn toàn là nhờ vào nguyện này, khá nên suy nghĩ kỹ”. Ư của ngài Vọng Tây là nếu không có nguyện này th́ bọn chúng ta thân đang trong cơi Sa Bà uế độ, làm sao nghe được danh hiệu của vị giáo chủ và cơi nước ấy? Dẫu cho cơi ấy, Phật ấy công đức mầu nhiệm tuyệt vời, thanh tịnh trang nghiêm, nhưng nếu ta chưa từng được nghe biết th́ c̣n biết nhờ vào đâu để phát khởi nguyện thù thắng cầu văng sanh cơi ấy? V́ vậy, ngày nay bọn chúng ta nghe được pháp môn Tịnh Độ thật là nhờ vào sức của thệ nguyện này. Do đó, trong cơi uế độ này, đức Bổn Sư Thích Ca mới xưng dương, tán thán A Di Đà Phật và công đức chẳng thể nghĩ bàn của cơi Cực Lạc cho chúng ta được nghe biết. Bởi thế, ngài Vọng Tây khen rằng: “Trong bốn mươi tám nguyện, nguyện này quan trọng nhất”.

Ngài Pháp Tạng cầu nguyện danh hiệu ḿnh vang dội mười phương chỉ là để nhiếp trọn mười phương hết thảy chúng sanh văng sanh Cực Lạc, rốt ráo thành Phật. Nếu không có lời nguyện này th́ cái nguyện “mười niệm văng sanh” cũng chỉ vô ích bởi có nghe được pháp th́ mới biết cách tŕ danh!

Sách Hội Sớ lại giảng câu “xưng thán ngă danh” (khen ngợi danh hiệu của tôi) như sau:

“Câu ‘xưng thán ngă danh’ có ba nghĩa:

1. Chư Phật xưng dương đức hiệu của đức Phật ấy.

2. Chư Phật khen ngợi người xưng danh như Tiểu Kinh (kinh A Di Đà) thật đă nói rơ chư Phật hộ niệm người xưng danh.

3. Chư Phật vừa khen ngợi lại vừa tự ḿnh xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật”.

Sách c̣n nói thêm: “Tam thế chư Phật do niệm Di Đà tam-muội mà thành Đẳng Chánh Giác”.

Ư sách Hội Sớ là: Câu “chư Phật xưng thán” có ba nghĩa: Chư Phật khen ngợi thánh hiệu của Phật A Di Đà, chư Phật khen ngợi hết thảy người tŕ niệm danh hiệu A Di Đà và bản thân chư Phật cũng xưng niệm thánh hiệu A Di Đà. Chư Phật nhờ Niệm Phật tam-muội mà trọn thành Chánh Giác.

Chánh kinh:

時,十 生,聞 號,至 樂,所 根,心 向,願 國,乃 念,若 者,不 覺。唯 逆,誹 法。

Ngă tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngă danh hiệu, chí tâm tín nhạo, sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh ngă quốc, năi chí thập niệm, nhược bất sanh giả, bất thủ Chánh Giác; duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp.

Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi chí tâm tin ưa, tất cả thiện căn tâm tâm hồi hướng nguyện sanh cơi tôi, dẫu chỉ mười niệm, nếu chẳng được sanh th́ chẳng lấy Chánh Giác. Chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp.

(Nguyện mười tám: Mười niệm ắt văng sanh)

Giải:

Đoạn kinh này nói về nguyện thứ mười tám: “Mười niệm ắt văng sanh”. Các vị cổ đức thuộc Tịnh tông Nhật Bản phán định rằng: Trong các kinh, chỉ ḿnh kinh Hoa Nghiêm là chân thật. Nhưng nếu đem Hoa Nghiêm so với kinh này th́ kinh này mới là chân. Đem các nguyện khác so sánh với nguyện này th́ nguyện này chân thật nhất, nghĩa là: Nguyện này chân thật nhất trong các nguyện chân thật.

“Chí tâm” là tâm chí thành, tâm chí cực. Sách Kim Quang Minh Văn Cú nói: “Chí tâm là tột cùng nguồn tâm, tận cùng Thật Tế của tâm nên bảo là chí tâm”. “Nguồn tâm” là nguồn gốc của bản tâm. “Thật tế” là Chân Thật Tế nói trong kinh này. “Tín nhạo” ( : tin ưa) là tin thuận pháp đă được nghe, do ưa thích nên sanh ḷng tin hoan hỷ. “Chí” () c̣n có nghĩa là chân thành, thành thật. “Tâm” () là trân trọng, thành thật. “Tín” () là chân thật, thành thật, viên măn, trung tín. “Nhạo” () là ham thích, mong muốn, yêu mến, sung sướng, vui vẻ, mừng rỡ. Như vậy, “tín tâm” là tấm ḷng chân thật, thành thực, trọn vẹn, tấm ḷng mong mỏi yêu thích, tấm ḷng hoan hỷ, mừng rỡ. Dùng cái tâm như thế để tin yêu, ham thích, nên bảo là “chí tâm tín nhạo”.

“Thiện căn” là sự lành nơi ba nghiệp thân, khẩu, ư kiên cố chẳng thể nhổ trốc gốc được. Do thiện lại có thể sanh ra diệu quả và các điều lành khác nên gọi là thiện căn. “Tâm tâm” là tấm ḷng thuần nhất, tấm ḷng tịnh niệm liên tục.

Trong chữ Hồi Hướng th́ “hồi” () là xoay chuyển, “hướng” là () hướng đến; hồi chuyển công đức ḿnh đă tu để hướng đến điều ḿnh mong mỏi th́ gọi là “hồi hướng”. Sách Hoa Nghiêm Đại Sớ Sao, quyển hai mươi ba có ghi: “Hồi là chuyển, Hướng là hướng đến. Chuyển vạn hạnh của chính ḿnh để hướng đến ba chỗ nên gọi là hồi hướng... Ba chỗ là chúng sanh, Bồ Đề và Thật Tế”.

Văng Sanh Luận Chú, quyển hạ cũng bảo: “Hồi hướng là đem công đức của chính ḿnh thí cho khắp các chúng sanh đều cùng được thấy A Di Đà Như Lai, sanh về cơi An Lạc”. Đây chính là ư nghĩa của hai chữ “hồi hướng” trong lời nguyện.

“Nguyện sanh ngă quốc” (Nguyện sanh cơi ta) chính là lời hồi hướng: Nguyện cho hết thảy chúng sanh đều văng sanh cơi nước Cực Lạc. “Mười niệm” là như kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy: “Cụ túc thập niệm, xưng Nam Mô A Di Đà Phật” (Đầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Đà Phật). Sách Tiên Chú giảng: “Mười lần xưng danh”. Ngài Vọng Tây bảo: “Trong khoảng mười niệm, chuyên xưng danh hiệu Phật th́ là mười niệm. Chữ ‘niệm’ ở đây là xưng Nam Mô A Di Đà Phật. Đọc hết sáu chữ ấy là một niệm”.

Ư nghĩa câu này được các kinh, luận giảng như nhau. “Năi chí thập niệm” (Dẫu chỉ mười niệm) ư nói: Tối thiểu chỉ xưng niệm danh hiệu mười niệm cũng được văng sanh. Đây là nói về mức độ thấp nhất nên bảo là “năi chí”, nếu có thể niệm nhiều hơn th́ càng niệm được càng nhiều càng tốt.

Nếu có kẻ cật vấn: Trong kinh chỉ nói “mười niệm”, sao lại chỉ khuyên xưng niệm danh hiệu Phật, chứ chẳng thực hành những cách niệm Phật khác? Đáp: Chữ “niệm” trong “thập niệm” chỉ cho cách niệm danh hiệu Phật bằng miệng. Điều này thật có chứng cớ, bản Tống dịch ghi: “Sở hữu chúng sanh, cầu sanh ngă sát, niệm ngô danh hiệu, phát chí thành tâm, kiên cố bất thoái. Bỉ mạng chung thời, ngă linh vô số bật sô (tỳ-kheo) hiện tiền vi nhiễu, lai nghênh bỉ nhân, kinh tu-du gian, đắc sanh ngă sát” (Tất cả chúng sanh cầu sanh trong cơi ta, niệm danh hiệu ta, phát tâm chí thành, kiên cố chẳng thoái. Người ấy lúc mạng chung, ta sai vô số bật-sô (tỳ-kheo) hiện ra trước mặt, cùng quây quần đến đón người ấy. Trong khoảnh khắc, được sanh về cơi ta). Chữ “niệm ngô danh hiệu” (niệm danh hiệu ta) trong đoạn kinh trên chỉ có thể hiểu là niệm hồng danh của Phật mà thôi.

Kinh Bát Châu cũng nói: “Nhĩ thời, A Di Đà Phật ngữ thị Bồ Tát ngôn: - Dục lai sanh ngă quốc giả, thường niệm ngă danh, mạc hữu hưu tức, như thị đắc lai sanh ngă quốc độ” (Lúc bấy giờ, A Di Đà Phật bảo Bồ Tát ấy rằng: - Muốn sanh về cơi ta, hăy nên thường niệm danh hiệu ta chẳng ngớt. [Làm] như vậy th́ được sanh về cơi ta). Trong phần Hạ Phẩm Hạ Sanh, Quán kinh cũng nói nếu có chúng sanh tạo nghiệp chẳng lành Ngũ Nghịch, Thập Ác, làm đủ các việc chẳng lành. Lúc mạng sắp chết, gặp thiện tri thức giảng cho diệu pháp, dạy cho niệm Phật (Quán Tưởng Niệm Phật). Nếu chẳng thể niệm nổi th́ hăy nên xưng danh hiệu Phật: “Như thị chí tâm, linh thanh bất tuyệt, cụ túc thập niệm, xưng Nam Mô A Di Đà Phật. Xưng ngă danh cố, ư niệm niệm trung, trừ bát thập ức kiếp sanh tử chi tội. Mạng chung chi hậu, tức đắc văng sanh” (Chí tâm như vậy chẳng để dứt tiếng, đầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Đà Phật. Do xưng Phật danh nên trong mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Sau khi mạng chung liền được văng sanh). Do những đoạn kinh trên, ta thấy rơ “mười niệm” được nói trong kinh này chính là Tŕ Danh Niệm Phật!

Với lời nguyện này, các vị cổ đức chú giải kinh cũng hiểu khác nhau. Có vị bảo: “Nguyện này thuộc về thượng phẩm, nói nguyện này tiếp độ hạ phẩm là sai”. Lại có vị bảo: “Nguyện này thuộc về ba phẩm bậc thượng, mười niệm được nói ở đây là dựa vào mười pháp để khởi niệm, chứ chẳng phải là mười niệm xưng danh”. Bảo “dựa vào mười pháp để khởi niệm” là ư nói mười niệm được dạy trong kinh Di Lặc Sở Vấn.

Kinh Di Lặc Sở Vấn chép:

“Cụ túc như thị niệm, tức đắc văng sanh An Dưỡng quốc độ. Phàm hữu thập niệm, hà đẳng vi thập?

Nhất giả, ư nhất thiết chúng sanh thường sanh từ tâm. Ư nhất thiết chúng sanh, bất hủy kỳ hạnh. Nhược hủy kỳ hạnh, chung bất văng sanh.

Nhị giả, ư nhất thiết chúng sanh, thâm khởi bi tâm, trừ tàn hại ư.

Tam giả, phát hộ pháp tâm, bất tích thân mạng. Ư nhất thiết pháp, bất sanh phỉ báng.

          Tứ giả, ư nhẫn nhục trung sanh quyết định tâm.

Ngũ giả, thân tâm thanh tịnh, bất nhiễm lợi dưỡng.

Lục giả, phát Nhất Thiết Chủng Trí tâm, vô hữu phế vong.

Thất giả, ư nhất thiết chúng sanh, khởi tôn trọng tâm, trừ ngă mạn ư, khiêm hạ ngôn thuyết.

Bát giả, ư thế đàm thoại, bất sanh muội trước.

Cửu giả, cận ư giác ư, sanh khởi chủng chủng thiện căn nhân duyên, viễn ly hội náo tán loạn chi tâm.

Thập giả, chánh niệm quán Phật, trừ khử chư căn”

(Đầy đủ những niệm như sau liền được văng sanh An Lạc quốc độ. Có mười niệm, những ǵ là mười?

Một là với hết thảy chúng sanh thường sanh từ tâm; với hết thảy chúng sanh chẳng hủy hoại hạnh của họ. Nếu hủy hạnh của họ, trọn chẳng được văng sanh.

Hai là với hết thảy chúng sanh, phát khởi bi tâm sâu xa, trừ bỏ ư tàn hại.

Ba là phát tâm hộ pháp, chẳng tiếc thân mạng. Với hết thảy pháp, chẳng sanh phỉ báng.

Bốn là sanh tâm quyết định nơi nhẫn nhục.

Năm là thân, tâm thanh tịnh, chẳng nhiễm lợi dưỡng.

Sáu là phát tâm Nhất Thiết Chủng Trí, hằng ngày thường niệm chẳng hề quên mất.

Bảy là với hết thảy chúng sanh khởi tâm tôn trọng, trừ ư ngă mạn, nói năng khiêm tốn.

Tám là chẳng lầm lẫn ham thích những lời đàm luận của thế gian.

Chín là chú trọng giác ư, sanh khởi các thứ thiện căn nhân duyên, xa ĺa tâm ồn náo, tán loạn.

Mười là chánh niệm quán Phật, trừ khử các căn (trừ khử các căn nghĩa là không để các căn trần làm nhiễm loạn thân tâm).

Sách Tông Yếu nói: “Mười niệm như vậy phàm phu không thể làm nổi, phải là từ Sơ Địa Bồ Tát trở lên mới có thể thực hiện đầy đủ mười niệm ấy”.

Các thuyết trên đều cho rằng nguyện này chuyên v́ Thượng Phẩm, thậm chí là bậc Địa Thượng Bồ Tát mới có thể thực hiện trọn vẹn nổi; như vậy th́ bậc trung, hạ phàm phu biết nhờ vào đâu để được văng sanh? Rơ ràng ư kiến của các vị trên chẳng phù hợp với chân lư Tha Lực Quả Giáo của Tịnh tông. C̣n như ngài Nghĩa Tịch dùng ngay thập niệm của Hạ Phẩm Hạ Sanh trong Quán kinh để giải thích ư nghĩa “mười niệm” trong nguyện thứ mười tám này mới thật là bậc am hiểu.

Sư Vọng Tây bảo: “Tông gia không nghĩ vậy (Tông Gia là tiếng người Nhật gọi ngài Thiện Đạo). Mười niệm đây chỉ là miệng xưng niệm, bậc thượng th́ niệm suốt cả đời, bét nhất là một niệm. Thông cả ba bậc, gồm trọn chín phẩm, không ai chẳng được văng sanh”.  Ư Ngài bảo: Mười niệm trong lời nguyện đây chỉ là miệng niệm. Bậc thượng th́ suốt cả một đời chỉ niệm Phật danh; tệ nhất th́ chỉ niệm một tiếng đều được văng sanh (Chỉ niệm một tiếng là một niệm khi lâm chung, hoặc là “hoạch đắc nhất niệm tịnh tâm, phát nhất niệm tâm, niệm ư bỉ Phật” (đạt được một niệm tịnh tâm, phát một niệm tâm niệm đức Phật ấy) cũng được văng sanh).

Trong lời nguyện này có nói “chí tâm tín nhạo” (chí tâm tin ưa), Quán kinh cũng dạy: “Như thị chí tâm, linh thanh bất tuyệt, cụ túc thập niệm” (Chí tâm như thế chẳng cho ngớt tiếng, đầy đủ mười niệm). Thế nào là “chí tâm” và thế nào là “đầy đủ mười niệm”? Đây là những điểm rất quan yếu của lời nguyện này.

La Thập đại sư giải thích những điểm trên một cách hết sức khéo léo, ảo diệu như sau:

“Ví như có người ở trong đồng hoang gặp phải ác tặc vung giáo, quơ gươm xông đến toan giết, người ấy rảo chạy, thấy ḿnh phải vượt sông. Nếu chẳng vượt sông, khó thể giữ nổi đầu cổ. Lúc bấy giờ, chỉ nghĩ cách vượt sông: - Ḿnh chạy đến bờ sông, mặc áo mà lội hay là cởi áo mà bơi? Nếu vẫn mặc áo, sợ không qua sông nổi. Nếu cởi áo ra, sợ không kịp nữa. Chỉ nghĩ như vậy, không nghĩ ǵ khác! Cái ư nghĩ vượt sông khi ấy chính là nhất niệm. Mười niệm này đây chẳng để niệm nào khác xen vào. Hành giả cũng giống như thế: Nếu niệm danh hiệu Phật hoặc niệm tướng của Phật đều niệm Phật không gián đoạn cho đến mười niệm. Chí tâm như vậy th́ gọi là mười niệm”.

Nghĩa là: Trong lúc ấy chỉ nghĩ cách làm sao vượt được sông, không c̣n nghĩ ǵ khác; niệm như thế chính là nhất niệm. Niệm Phật liên tục như vậy đến mười niệm th́ chính là “mười niệm”.

Sách Tông Yếu lại ghi: “Mười niệm nói trong kinh này có cả hai nghĩa ẩn mật và hiển liễu”. Mười niệm hiển liễu là như mười niệm được đại sư La Thập giảng trong đoạn văn vừa trích ở trên. Mười niệm ẩn mật là như các niệm: từ tâm v.v... mà kinh Di Lặc Sở Vấn đă nói.

Ngài Nghĩa Tịch bảo: “Trong mỗi một niệm, tự nhiên đầy đủ mười niệm như từ tâm v.v...” có nghĩa là: Nếu có thể đúng như Quán kinh dạy hay như lời ngài La Thập dạy mà niệm mười niệm th́ trong mỗi một niệm đó tự nhiên có đầy đủ cả mười niệm như kinh Di Lặc Sở Vấn dạy. Ấy là trong nghĩa hiển liễu tự nhiên hàm chứa nghĩa ẩn mật. Lời nhận xét của ngài Nghĩa Tịch quả thật đă phô trọn lẽ huyền vi của Tịnh tông. Người đời thường ưa thích sự huyền diệu mà chẳng biết rằng sự huyền diệu tối cực lại chỉ nằm trong cái b́nh thường, nên cổ đức bảo: “Tâm b́nh thường là đạo”. Chỉ cần b́nh b́nh thường thường, ṛng rặt chuyên tinh, miên mật niệm Phật th́ tự nhiên thầm hợp diệu đạo, niệm niệm ly niệm. Dùng cái tâm phàm phu mà nhập được Thật Tướng các pháp th́ chỉ có tŕ danh và tŕ chú là dễ nhất. V́ sao niệm Phật lại có công đức như thế? Là v́ niệm niệm đều thầm ứng hợp với Thật Tướng vậy!

“Duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp” (Chỉ trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp): Tội ác trái nghịch với Lư đến cùng cực th́ gọi là Nghịch (). Do Ngũ Nghịch sẽ cảm lấy ác nghiệp khổ quả trong Vô Gián địa ngục nên c̣n gọi là Vô Gián Nghiệp.

Kinh A Xà Thế Vấn Ngũ Nghịch chép:

“Hữu Ngũ Nghịch tội, nhược tộc tánh tử, tộc tánh nữ, vi thử ngũ bất cứu tội giả, tất nhập địa ngục bất nghi. Vân hà vi ngũ? Vị sát phụ, sát mẫu, hại A La Hán, đấu loạn Tăng chúng, khởi ác ư ư Như Lai sở” (Có năm thứ tội nghịch; nếu tộc tánh tử, hoặc tộc tánh nữ phạm năm tội chẳng cứu được này, quyết sẽ vào địa ngục, không c̣n ngờ ǵ nữa. Những ǵ là năm? Chính là: Giết cha, giết mẹ, hại A La Hán, gây rối chúng Tăng, khởi ác ư đối với Như Lai).

Sách Hoa Nghiêm Khổng Mục Chương quyển ba có đoạn viết: “Ngũ Nghịch, vị hại phụ, hại mẫu, hại A La Hán, phá Tăng, xuất Phật thân huyết. Sơ nhị bội ân dưỡng, thứ tam hoại phước điền, cố danh vi Nghịch” (Ngũ Nghịch là hại cha, hại mẹ, hại A-la-hán, phá Tăng, làm thân Phật chảy máu. Hai thứ đầu là bội ân dưỡng dục, ba thứ sau là phá hoại phước điền. V́ vậy, gọi là Nghịch).

Nói nôm na, Ngũ Nghịch là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật chảy máu, phá ḥa hợp Tăng. Phạm những tội nghịch này ắt đọa Vô Gián địa ngục trong một đại kiếp chịu khổ không ngừng ngớt.

Trong chữ “phỉ báng”, Phỉ () có nghĩa giống như Báng (); Báng là chê bai, nhục mạ. Nói việc xấu của người khác quá mức sự thật là “báng”. Phỉ báng chánh pháp tức là phỉ báng Phật pháp. Đại nguyện “mười niệm ắt được sanh” này phổ độ hết thảy, nhưng không độ được kẻ đă phạm tội Ngũ Nghịch và hủy báng chánh pháp. Quán kinh dạy: “Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm chung thập niệm, diệc đắc văng sanh” (Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm chung mười niệm cũng được văng sanh), kinh này lại loại trừ họ ra là v́ họ đă phạm trọng tội Ngũ Nghịch lại c̣n phỉ báng chánh pháp, tội càng thêm tội. Vả lại, tội phỉ báng rất nặng! Kẻ báng pháp gọi là “báng pháp xiển-đề” nên chẳng được văng sanh vậy.

Hỏi: Quán kinh bảo người phạm tội Ngũ Nghịch nhưng chẳng phỉ báng chánh pháp cũng được văng sanh. Vậy th́ kẻ chỉ phỉ báng chánh pháp nhưng chẳng phạm Ngũ Nghịch có được văng sanh hay chăng?

Văng Sanh Luận Chú đáp: Nếu chỉ phỉ báng chánh pháp, dẫu chẳng phạm các tội khác cũng nhất định chẳng được văng sanh. V́ sao bảo vậy? Kinh dạy: Tội nhân Ngũ Nghịch đọa trong A Tỳ đại địa ngục, chịu đủ hết thảy trọng tội (chỉ đến khi kiếp tận mới được ra). Người phỉ báng chánh pháp đọa trong A Tỳ đại địa ngục, nếu kiếp này tận rồi bèn bị chuyển sang A Tỳ đại địa ngục ở phương khác. Lần lượt trải qua trăm ngàn A Tỳ đại địa ngục như thế mà Phật chẳng huyền kư lúc nào sẽ thoát khỏi. Như vậy, tội phỉ báng chánh pháp nặng nề nhất”.

Sách c̣n viết thêm: “Ông chỉ biết năm tội nghịch là trọng mà chẳng biết năm tội nghịch đều là do không có chánh pháp mà sanh. V́ vậy, tội người báng chánh pháp rất nặng”.

Trong Quán Kinh Sớ, đại sư Thiện Đạo lại có cách giải thích khác biệt: Nói Ngũ Nghịch, báng pháp chẳng được văng sanh là do Phật muốn ngăn ngừa điều ác nên phương tiện nói như thế. Sách viết:

“Với nghĩa này, nên dùng Ức Chỉ Môn[7] để hiểu. Trong bốn mươi tám nguyện loại trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp là v́ hai nghiệp này gây chướng rất nặng. Chúng sanh nếu trót phạm phải liền vào thẳng A Tỳ, kinh hoàng bao kiếp, biết nhờ đâu để thoát khỏi. Đức Như Lai sợ chúng sanh tạo hai tội lỗi ấy nên mới thốt lời ngăn ngừa ‘chẳng được văng sanh’, nhưng chẳng phải là Ngài chẳng nhiếp thủ bọn họ....

Dẫu tạo tội vẫn được nhiếp thủ văng sanh, tuy được văng sanh nhưng hoa sen trong nhiều kiếp chưa nở. Lúc ở trong hoa, bọn tội nhân ấy có ba thứ chướng: Một là chẳng được thấy Phật và các thánh chúng; hai là chẳng được nghe chánh pháp; ba là chẳng được qua khắp các nơi cúng dường. Trừ những điều trên đây ra, không c̣n các nỗi khổ nào khác”.

Trong phần nói về tông chỉ của kinh, sách Hợp Tán cũng nhận định: “Nói chỉ trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp là đối với căn cơ chưa tạo nghiệp, chỉ là để ngăn ngừa mà thôi. Nếu với căn cơ đă trót tạo nghiệp, đă hồi tâm th́ Phật cũng nhiếp thủ chẳng để sót vậy”. Ư nói: Nói “trừ” nhưng thật sự là nhằm ngăn dứt điều ác để kẻ chưa tạo ác sẽ chẳng dám tạo. Kẻ đă trót tạo nếu biết hồi tâm, sám hối niệm Phật th́ vẫn nhiếp thủ như cũ chẳng để sót vậy.

Như vậy, Di Đà đại nguyện nhiếp thủ căn cơ vô tận nên Thiện Đạo đại sư bảo: “Như Lai sở dĩ xuất hiện trong đời chỉ là để nói biển bổn nguyện của Phật Di Đà”. Ư nói: Tam thế chư Phật xuất hiện trong đời chỉ để nói đại sự nhân duyên sau đây: Tuyên thuyết nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn của A Di Đà Như Lai nhằm cứu vớt chúng sanh. V́ vậy, đại sư lại bảo: “Nay được gặp gỡ di tích của Phật Thích Ca trong đời mạt pháp, pháp môn trọng yếu bổn thệ nguyện Cực Lạc của Phật Di Đà, hết thảy phàm phu thiện ác được văng sanh không ai lại chẳng nương vào đại nguyện nghiệp lực của A Di Đà Phật để làm tăng thượng môn vậy”.

Thoạt nh́n, thuyết của Văng Sanh Luận Chú tựa hồ mâu thuẫn với thuyết của Quán Kinh Sớ, nhưng thật ra cả hai thuyết dung thông lẫn nhau. Thuyết của Văng Sanh Luận Chú thật phù hợp với ư chỉ ngăn ngừa (Ức Chỉ) của Như Lai: khiến cho con người kinh sợ chẳng dám báng pháp. Trong luận lại có câu: “Kẻ ngu si trong đời này đă sanh ḷng phỉ báng th́ lẽ nào nguyện sanh cơi Phật?” V́ vậy, kinh dạy Ngũ Nghịch, báng pháp chẳng được văng sanh. Quán Kinh Sớ th́ hiển thị bi nguyện vô tận của Phật Di Đà: “Tuy Ngũ Nghịch, báng pháp, nhưng lúc lâm chung lại có thể niệm Phật th́ chính là sám hối phát tâm, người như vậy trong ức ức người khó được một, hai kẻ, nên Phật vẫn từ mẫn nhiếp thọ”.

Thiện Đạo đại sư lại bảo: “Hoằng Thệ môn nói đến cả bốn mươi tám nguyện, nhưng chỉ bảo Niệm Phật là thiết yếu. Ai niệm Phật th́ Phật niệm người ấy. Chuyên tâm tưởng Phật th́ Phật biết người ấy”. Ngài lại bảo: “Chỉ có niệm Phật là được quang minh nhiếp thọ. Ta nên biết rằng bổn nguyện là mạnh mẽ nhất”.

Thiện Đạo đại sư phán định trong bốn mươi tám nguyện, chỉ có năm nguyện chân thật. Xét trong năm nguyện ấy, chỉ có nguyện mười tám là chân thật, nên Ngài viết trong sách Sự Tán như sau: “Mỗi một lời nguyện đều dẫn về nguyện thứ mười tám”.

Sách B́nh Giải nói: “Bốn mươi tám nguyện tuy rộng, nhưng chỉ quy về nguyện mười tám”. Sách c̣n viết: “Do nơi nguyện này nên chúng sanh được sanh về cơi không có ba đường ác, sẽ chẳng đọa trong đường ác nữa, đủ tướng hảo, hiện thần thông mà được diệt độ do nhập vào biển quang minh, thọ lượng. V́ vậy, riêng nguyện này thật tối thắng vậy”.

Sách Tiên Chú cũng nhận xét: “Rơ ràng, trong bốn mươi tám nguyện, nguyện niệm Phật văng sanh này là vua của các nguyện căn bản”.

Nguyện này thể hiện phương tiện rốt ráo, Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh, công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật Di Đà. Do danh hiệu chính là thật đức nên “thanh, chữ đều là Thật Tướng” vậy.

 Chánh kinh:

  時,十 生,聞 號,發 心,修 德,奉 密,堅 退。復 向,願  國,一  我,晝      斷。臨      時,我 眾,迎 前,經 間,即 剎,作 薩。不  願,不   覺。

Ngă tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngă danh hiệu, phát Bồ Đề tâm, tu chư công đức, phụng hành lục Ba La Mật, kiên cố bất thoái. Phục dĩ thiện căn hồi hướng, nguyện sanh ngă quốc, nhất tâm niệm ngă, trú dạ bất đoạn. Lâm thọ chung thời, ngă dữ chư Bồ Tát chúng, nghênh hiện kỳ tiền, kinh tu du gian, tức sanh ngă sát, tác A Duy Việt Trí Bồ Tát. Bất đắc thị nguyện, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi liền phát Bồ Đề tâm, tu các công đức, phụng hành sáu Ba La Mật kiên cố bất thoái, lại đem các thiện căn hồi hướng nguyện sanh cơi tôi, nhất tâm niệm tôi, ngày đêm chẳng ngớt. Lúc lâm chung, tôi cùng các Bồ Tát chúng hiện đến đón trước mặt, trong khoảnh khắc liền sanh sang cơi tôi, thành bậc A Duy Việt Trí Bồ Tát. Chẳng thỏa nguyện này, chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện mười chín: Nghe tên phát tâm; nguyện hai mươi: Lâm chung tiếp dẫn)

Giải:

Chương này gồm nguyện mười chín “nghe danh phát nguyện” và nguyện hai mươi “lâm chung tiếp dẫn”. “Danh hiệu” là tên hiệu. Danh () để nêu rơ cái Thể, Hiệu () là cái tên được phô ra ngoài để thiên hạ hay biết. Danh và Hiệu đồng thể. Danh hiệu vốn được dùng để chỉ chung những tên hiệu của chư Phật, Bồ Tát, nhưng trong kinh này chữ “danh hiệu” chuyên dùng để chỉ danh hiệu vị giáo chủ cơi Cực Lạc: A Di Đà Phật.

“Phát Bồ Đề tâm”: Bồ Đề là tiếng Phạn, cựu dịch là Đạo, tân dịch là Giác. Ngài Tăng Triệu bảo: “Đạo đạt đến chỗ cùng cực gọi là Bồ Đề, Hán ngữ không có tiếng nào dịch nổi. Ấy chỉ là chân trí Chánh Giác vô tướng mà thôi!”. Bồ Đề tâm là cái tâm cầu chân đạo, tâm cầu Chánh Giác. Bồ Đề tâm c̣n có nghĩa là tâm tự giác giác tha; nói tỉ mỉ th́ như Văng Sanh Yếu Tập bảo có hai thứ Bồ Đề tâm:

1. Duyên sự Bồ Đề tâm (đây chính là Hạnh Nguyện Bồ Đề tâm trong Mật tông). Tâm này dùng Tứ Hoằng Thệ Nguyện làm Thể:

* “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” là nhân của Ứng Thân Bồ Đề.

* “Phiền năo vô số thệ nguyện đoạn” là nhân của Pháp Thân Bồ Đề.

* “Pháp môn vô tận thệ nguyện học” là nhân của Báo Thân Bồ Đề.

* “Vô thượng Bồ Đề thệ nguyện chứng” là nguyện cầu chứng đắc Phật quả Bồ Đề.

Do thành tựu trọn vẹn ba hạnh nguyện trước nên chứng được tam thân Bồ Đề viên măn rồi lại lợi ích khắp hết thảy chúng sanh.

2. Duyên lư Bồ Đề tâm (đây chính là tâm Thắng Nghĩa Bồ Đề trong Mật thừa): Hết thảy các pháp vốn không tịch nên an trụ trong Trung Đạo Thật Tướng để viên thành hạnh nguyện “thượng cầu hạ hóa”.

[Tâm Bồ Đề nói trong kinh này] là tâm Bồ Đề tối thượng tức là duyên lư Bồ Đề tâm.

Trong sách Tông Yếu, sư Nguyên Hiểu người xứ Tân La luận về Bồ Đề tâm như sau:

Một là tùy sự phát tâm, hai là thuận lư phát tâm.

1. Tùy Sự là phiền năo vô số nguyện đều đoạn cả; thiện pháp vô lượng nguyện đều tu cả; chúng sanh vô biên nguyện đều độ cả. Quyết định nguyện thành tựu ba điều này. Tâm thứ nhất làm chánh nhân cho Đoạn Đức của Như Lai, tâm kế đó là chánh nhân cho Trí Đức của Như Lai, tâm thứ ba là chánh nhân của Ân Đức. Ba đức hợp thành quả Bồ Đề vô thượng. Ba tâm này gọi chung là nhân của Vô Thượng Bồ Đề.

Nhân, quả tuy khác nhưng rất rộng lớn, b́nh đẳng không sót, không ǵ mà nó chẳng bao gồm, như kinh nói: ‘Phát tâm tất cánh nhị vô biệt, như thị nhị tâm, tiền tâm nan. Tự vị đắc độ, tiên độ tha, thị cố ngă lễ sơ phát tâm’ (Cả hai thứ phát tâm và rốt ráo không sai biệt. Trong hai tâm như thế, tâm trước là khó do chính ḿnh chưa đắc độ mà đă độ người khác trước. V́ vậy, tôi lễ bậc sơ phát tâm). Quả báo của tâm này tuy là Bồ Đề (thành Phật), nhưng hoa báo lại là Tịnh Độ (văng sanh). V́ sao như thế? Bồ Đề tâm lượng rộng lớn vô biên, dài lâu vô hạn nên cảm được y báo Tịnh Độ rộng lớn không ngằn mé, chánh báo thọ mạng dài lâu vô lượng. Ngoại trừ Bồ Đề tâm, không thứ ǵ khác có khả năng làm được như thế. V́ vậy bảo tâm này là chánh nhân cho Bồ Đề. Đấy là nói về tướng trạng của Tùy Sự Phát Tâm vậy.

2. Thuận Lư Phát Tâm là tin hiểu các pháp đều như huyễn mộng, chẳng có, chẳng không, dứt nói năng, bặt suy lường. Dùng ḷng tin hiểu đó để phát tâm rộng lớn, tuy chẳng thấy có phiền năo hay thiện pháp, nhưng chẳng bác rằng không có ǵ để tu, để đoạn. V́ vậy, tuy nguyện đoạn tất cả, tu tất cả, nhưng chẳng trái nghịch Vô Nguyện tam-muội. Tuy nguyện đều độ vô lượng hữu t́nh, nhưng chẳng có [quan niệm] người độ và kẻ được độ, nên có thể tùy thuận Không, Vô Tướng như kinh dạy: ‘Như thị diệt độ vô lượng chúng sanh, thật vô chúng sanh đắc diệt độ giả’ (Diệt độ vô lượng chúng sanh như vậy, nhưng thật không có chúng sanh nào được diệt độ) v.v... Phát tâm như thế chẳng thể nghĩ bàn. Đấy là nói về Thuận Lư Phát Tâm.

Tùy Sự Phát Tâm c̣n có thể bị thoái chuyển, kẻ bất định tánh cũng có thể phát được tâm ấy. Thuận Lư Phát Tâm th́ chẳng bị thoái chuyển, chỉ căn tánh Bồ Tát mới có thể phát nổi. Phát tâm như thế công đức vô biên. Giả sử chư Phật trong suốt kiếp nói các công đức ấy c̣n chẳng thuật đủ được”.

Trong đoạn văn trên đây của ngài Nguyên Hiểu, “tùy sự phát tâm” chính duyên sự Bồ Đề tâm, “thuận lư phát tâm” là duyên lư Bồ Đề tâm. Ở đây, tôi trích dẫn trọn đoạn văn trên v́ xét ra sách Tông Yếu giảng Bồ Đề tâm tường tận hơn.

Bài “Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn” cũng viết: “Phát Bồ Đề tâm là vua trong các điều lành”. Sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận lại bảo: “Nên biết rằng Bồ Đề tâm là nguồn cội của chư Phật, là huệ mạng của chúng sanh. Vừa mới phát tâm này đă thành Phật đạo v́ đă tương ứng với Phật trí, bất tư nghị trí, bất khả xưng trí, trí Đại Thừa rộng lớn, trí tối thượng thắng không ǵ sánh tày vậy”. Hơn nữa, ba bậc văng sanh trong kinh này đều do “phát Bồ Đề tâm, một dạ chuyên niệm”, đủ thấy phát Bồ Đề tâm thật là điều quan trọng hàng đầu.

Xét ra, v́ nguyện thứ hai mươi sáu là “nghe danh được phước” và nguyện bốn mươi bảy là “nghe danh đắc Nhẫn”, th́ nguyện thứ mười chín “nghe danh phát tâm” này phải nên được hiểu là: Do nghe danh hiệu của Phật, được Phật gia bị nên phát tâm Bồ Đề. Hiểu như vậy sẽ liền thấy rơ công đức của danh hiệu A Di Đà chẳng thể nghĩ bàn, sức hoằng thệ nguyện của đấng Nguyện Vương chẳng thể nghĩ bàn.

Tu chư công đức… trú dạ bất đoạn” (Tu các công đức... ngày đêm chẳng ngớt) là đại hạnh sẽ làm sau khi phát tâm. Câu này và câu trước đó hợp thành toàn văn của nguyện thứ mười chín: Do nghe danh hiệu Phật Di Đà nên phát tâm và tu các đại hạnh.

Trong lời nguyện, chữ “lục Ba La Mật” chỉ Lục Độ. “Độ” () là vượt qua được biển sanh tử đạt tới bờ Niết Bàn. Sáu độ là Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định và Bát Nhă. Lục Độ bao trùm vạn hạnh.

“Kiên cố bất thoái” nghĩa là các đại nguyện, đại hạnh trên quyết định chẳng lay động, vĩnh viễn chẳng lui sụt. Như phần kệ tụng đă nói: “Ngă hạnh quyết định kiên cố lực, duy Phật thánh trí năng chứng tri, túng sử thân chỉ chư khổ trung, như thị nguyện tâm vĩnh bất thoái” (Hạnh tôi sức kiên cố quyết định, chỉ Phật thánh trí chứng biết nổi, dẫu thân ở trong các chốn khổ, nguyện tâm như vậy trọn bất thoái) th́ “kiên cố” có nghĩa là bất thoái.

Trong câu “nhất tâm niệm ngă” (nhất tâm niệm tôi), chữ “nhất tâm” như phần trên đă giải thích: Nhất tâm chỉ thật thể Chân Như của vạn hữu. Nay xét trong kinh này, nhất tâm là tín tâm kiên định, chẳng bị các tâm khác năo loạn nên gọi là “nhất tâm”. Sách “Giáo Hạnh Tín Chứng Văn Loại” nói: “Tín tâm chính là nhất tâm. Nhất tâm chính là ḷng tin chân thật. V́ vậy, luận chủ khăng khăng nói nhất tâm”. Sách Thám Huyền Kư, quyển ba cũng nói: “Nhất tâm là tâm không dị niệm”. Sách Chỉ Quán, quyển bốn lại viết: “Nhất tâm là lúc tu pháp này, một dạ chuyên chí, tâm chẳng duyên theo điều ǵ khác” (tức là trong tâm chẳng nghĩ đến sự vật nào khác).

Hơn nữa, nhất tâm lại có hai thứ: Sự và Lư. Không xen lẫn niệm nào khác là Sự nhất tâm, nhập Thật Tướng là Lư nhất tâm.

Câu “nhất tâm niệm ngă” trong kinh này gồm cả Sự lẫn Lư. Người tu học Tịnh nghiệp hiện tại chỉ cần tin sâu, nguyện thiết, xưng niệm danh hiệu th́ đă là “nhất tâm niệm ngă”. Hành được như đại sư Thiện Đạo dạy: “Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu A Di Đà Phật, đi, đứng, nằm, ngồi, chẳng luận thời tiết, xa gần, niệm niệm chẳng bỏ” th́ chính là “nhất tâm niệm Phật” do v́ từ Sự nhập Lư, nhưng toàn thể của Sự lại chính là Lư vậy.

Nguyện thứ mười chín là nhân, nguyện thứ hai mươi là quả. Nếu ai phát tâm niệm Phật đúng như nguyện thứ mười chín dạy th́ khi lâm chung, Phật Di Đà cùng hàng Bồ Tát thánh chúng trong thế giới Cực Lạc sẽ hiện đến trước mặt tiếp dẫn. Trong khoảnh khắc, người ấy liền văng sanh Tịnh Độ Cực Lạc làm bậc Bồ Tát A Duy Việt Trí (bất thoái chuyển). Trên đây là nguyện thứ hai mươi, “lâm chung tiếp dẫn”. Nguyện hai mươi thể hiện sâu xa diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn của phương tiện Tha Lực trong Quả giáo. Kẻ phàm phu nghiệp chướng chất chồng lại có thể mang nghiệp đi văng sanh; đấy toàn là do nguyện này của Phật Di Đà, do sức từ bi đại lực nhiếp thọ của thánh chúng hiện diện trong lúc lâm chung.

Ngài Linh Chi (Nguyên Chiếu) đời Tống nói: “Phàm người lâm chung thức thần vô chủ, không một thứ nghiệp chủng thiện hay ác nào lại không phát hiện: hoặc khởi ác niệm, hoặc khởi tà kiến, hoặc sanh quyến luyến, hoặc phát điên rồ, chẳng phải chỉ có một thứ ác tướng... đều là điên đảo cả”. Rơ ràng là phàm phu nghiệp nặng, lúc lâm chung lắm nỗi điên đảo, lại bị Tứ Đại bức bách khổ sở, đau đớn khó tả nổi, làm sao mà chánh niệm tŕ danh được! Chẳng thể tŕ danh làm sao có thể văng sanh nổi?

V́ vậy, phàm phu văng sanh chẳng phải do tự lực mà toàn là cậy vào sức gia bị của đại nguyện của Phật Di Đà giữ cho chẳng điên đảo nên mới được văng sanh như sách Viên Trung Sao nói: “Chúng sanh cơi Sa Bà tuy có thể niệm Phật nhưng Kiến Hoặc c̣n rối bời chưa thể đoạn trừ được. Khi lâm chung chẳng bị điên đảo th́ vốn nào phải do sức ḿnh chủ tŕ nổi, mà chỉ toàn là cậy vào Di Đà đến cứu vớt thôi. Tuy không có chánh niệm mà giữ nổi chánh niệm nên tâm chẳng điên đảo, liền được văng sanh”.

Ư tưởng trên càng được diễn tả rơ hơn trong hai kinh Tiểu Bổn (bản Đường dịch) và kinh Bi Hoa. Kinh Tiểu Bổn bản Đường dịch mang tên là Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ kinh có nói: “Lâm mạng chung thời, Vô Lượng Thọ Phật, dữ kỳ Thanh Văn đệ tử, Bồ Tát chúng câu, tiền hậu vi nhiễu, lai trụ kỳ tiền, từ bi gia hựu, linh tâm bất loạn” (Lúc lâm chung, Vô Lượng Thọ Phật cùng vô lượng Thanh Văn đệ tử, Bồ Tát của Ngài trước sau vây quanh, đến đứng trước mặt, từ bi gia hựu khiến tâm chẳng loạn). Rơ ràng là phàm phu khi lâm chung tâm chẳng điên đảo và chẳng tán loạn, chánh niệm tŕ danh hoàn toàn là nhờ vào sức Phật Di Đà từ bi ban ân che chở (gia hựu) vậy.

Kinh Bi Hoa cũng chép: “Lâm chung chi thời, ngă đương dữ đại chúng vi nhiễu, hiện kỳ nhân tiền. Kỳ nhân kiến ngă, tức ư ngă tiền, đắc tâm hoan hỷ. Dĩ kiến ngă cố, ly chư ám ngại, tức tiện xả thân, lai sanh ngă giới” (Lúc lâm chung, ta cùng các đại chúng vây quanh hiện trước mặt người ấy. Người ấy thấy ta liền đối trước ta sanh ḷng hoan hỷ. Do thấy ta nên ĺa các tối tăm, chướng ngại, liền xả thân sanh về cơi ta).

Kinh c̣n chép lời nguyện sau: Sở hữu chúng sanh, nhược văn ngă thanh, phát nguyện dục sanh ngă thế giới giả, thị chư chúng sanh lâm mạng chung thời, tất linh kiến ngă, dữ chư đại chúng, tiền hậu vi nhiễu. Ngă ư nhĩ thời, nhập Vô Ế tam-muội, dĩ tam-muội lực cố, tại ư kỳ tiền, nhi vị thuyết pháp. Dĩ văn pháp cố, tầm đắc đoạn trừ nhất thiết khổ năo, tâm đại hoan hỷ, cố đắc Bảo Trí tam-muội. Dĩ tam-muội lực cố, linh tâm đắc Niệm, cập Vô Sanh Nhẫn. Mạng chung chi hậu, tất sanh ngă giới” (Tất cả chúng sanh nếu nghe danh hiệu của ta, phát nguyện muốn sanh trong thế giới ta th́ lúc mạng chung các chúng sanh ấy thảy đều thấy ta và các đại chúng vây quanh trước sau. Ngay khi ấy, ta nhập Vô Ế tam-muội. Do sức tam-muội nên ở trước mặt kẻ đó mà thuyết pháp cho kẻ đó. Do được nghe pháp, kẻ đó liền đoạn trừ hết thảy khổ năo, tâm đại hoan hỷ nên đắc Bảo Trí Tam-muội. Do sức tam-muội nên tâm đắc Niệm Nhẫn và Vô Sanh Nhẫn. Sau khi mạng chung, ắt sanh về cơi ta).

Kinh Bi Hoa đă nói rơ diệu dụng của tha lực một cách thật rành rẽ. Kinh Xưng Tán Tịnh Độ là tiểu bổn của kinh này, kinh Bi Hoa nói về nhân địa của Phật Di Đà và cơi Cực Lạc trang nghiêm. Hai kinh cùng nói rơ lúc lâm chung, Phật đến tiếp dẫn, nguyện lực nhiếp thọ văng sanh thù thắng, đủ thấy Di Đà nguyện vương diệu đức khó lường, đại ân, đại lực chẳng thể tính kể nổi.

A Duy Việt Trí (Avaivartika) c̣n được phiên là A Bệ Bạt Trí, dịch nghĩa là Bất Thoái Chuyển, là một địa vị của Bồ Tát. Theo sách Di Đà Yếu Giải: “A Bệ Bạt Trí, Hán dịch là Bất Thoái:

1. Vị Bất Thoái: Vào ḍng thánh, chẳng đọa địa vị phàm phu.

2. Hạnh Bất Thoái: Luôn độ sanh, chẳng đọa địa vị Nhị Thừa.

3. Niệm Bất Thoái: Tâm tâm lưu nhập biển Tát Bà Nhă (Nhất Thiết Trí).

Trong cơi Sa Bà này, Sơ Quả của Tạng giáo, bậc Kiến Địa của Thông giáo, bậc Sơ Trụ của Biệt giáo, bậc Tín Địa của Viên giáo gọi là Vị Bất Thoái. Bồ Tát của Thông giáo, bậc Thập Hướng của Biệt giáo, bậc Thập Tín của Viên giáo gọi là Hạnh Bất Thoái. Sơ Địa của Biệt giáo, Sơ Trụ của Viên giáo mới gọi là Niệm Bất Thoái”

Nghĩa là: Bất Thoái có ba thứ, loại cao nhất là Niệm Bất Thoái. Hành giả trong cơi này phải là bậc tu chứng Sơ Hoan Hỷ Địa trong Biệt giáo, hay bậc tu đến Sơ Phát Tâm Trụ trong Viên giáo mới phá được một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân rồi, mới có thể trong mỗi niệm chứng nhập biển Tát Bà Nhă (Sarvajña: biển Nhất Thiết Chủng Trí, tức là quả hải của Như Lai). Bỏ cả nhị biên, hoàn toàn quy về Trung Đạo th́ mới gọi là “niệm niệm lưu nhập biển Tát Bà Nhă”.

Như vậy, rất khó chứng được Niệm Bất Thoái, nhưng trong nguyện này, Phật lại nói: Mười phương chúng sanh nghe danh phát tâm, nhất tâm niệm ta, liền sanh trong cơi ta, thành bậc A Duy Việt Trí Bồ Tát. Kinh Tiểu Bổn cũng dạy: “Cực Lạc quốc độ, chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí” (Chúng sanh sanh về cơi nước Cực Lạc đều là A Bệ Bạt Trí).

Sách Yếu Giải c̣n giảng: “Nay trong Tịnh Độ, Ngũ Nghịch, Thập Ác mười niệm thành tựu, ôm nghiệp đi văng sanh thuộc về hạ hạ phẩm cũng đều được ba thứ Bất Thoái”. Người hạ hạ phẩm mà cũng chứng ba thứ Bất Thoái, trong một đời viên thành Phật quả th́ thật là không đâu được như vậy, chỉ riêng ḿnh Cực Lạc có. Siêu tuyệt, lạ lùng đặc biệt đến thế, dẫu suy nghĩ, biện luận cũng chẳng thể thấu đạt nổi, nên sách Yếu Giải bảo: “Nếu chẳng phải là do tâm tánh đạt đến cùng cực, do sự un đúc kỳ diệu của tŕ danh, do đại nguyện của Di Đà th́ làm sao mà được như vậy!”.

Trong 48 nguyện, hai nguyện này như hồng tâm của bia bắn tên, c̣n nguyện thứ mười tám lại là trung tâm của các hồng tâm vậy.

Chánh kinh:

時,十 生,聞 號,繫 國,發 心,堅 退。植 本,至 向,欲 樂,無 者。若 宿 惡,聞 字,即 過,為 善,便 戒,願 剎,命 道,即 國。若 者,不 覺。

Ngă tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngă danh hiệu, hệ niệm ngă quốc, phát Bồ Đề tâm, kiên cố bất thoái, thực chúng đức bổn, chí tâm hồi hướng, dục sanh Cực Lạc, vô bất toại giả. Nhược hữu túc ác, văn ngă danh tự, tức tự hối quá, vi đạo tác thiện, tiện tŕ kinh giới, nguyện sanh ngă sát, mạng chung bất phục cánh tam ác đạo, tức sanh ngă quốc. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, hệ niệm cơi tôi, phát Bồ Đề tâm kiên cố bất thoái, gieo các cội đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về Cực Lạc th́ không ai chẳng được toại nguyện. Nếu có nghiệp ác đời trước, nghe danh hiệu tôi liền tự hối lỗi, tu đạo làm lành, liền tŕ kinh giới, nguyện sanh cơi tôi, mạng chung chẳng đọa vào tam ác đạo nữa, liền sanh trong cơi tôi. Nếu chẳng được vậy chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện hai mươi mốt: Sám hối được văng sanh)

Giải:

Đây là nguyện thứ hai mươi mốt “sám hối được văng sanh”. Ư của đoạn văn từ câu đầu đến câu vô bất toại giả” (không ai chẳng được toại nguyện) giống ư của nguyện hai mươi trong bản Ngụy dịch (câu văn và chữ dùng trong hội bản được chọn từ bản Đường dịch lẫn Tống dịch); phần c̣n lại trích từ nguyện thứ năm của bản Ngô dịch (bản Hán dịch chép giống vậy) để kết thành nguyện này, đặt tên là nguyện “hối lỗi được văng sanh”.

Khác với nguyện thứ mười tám và nguyện hai mươi, nguyện này chú trọng kẻ tạo ác nghiệp trong đời trước tội nghiệp sâu nặng phải chịu quả báo trong tam đồ. Đời này được nghe danh hiệu liền phát tâm, chí tâm hồi hướng, vun bồi đức hạnh cầu văng sanh. Lúc lâm chung được Phật nguyện gia bị, chẳng đọa ba ác đạo, văng sanh cơi kia. Nguyện này thể hiện Từ đức thù thắng của Phật nguyện nên cổ đức bảo: “Bốn mươi tám nguyện, nguyện nào cũng v́ cứu độ chúng sanh”. Đại bi từ phụ ân đức vô cực, chúng ta học Phật lẽ nào chẳng báo?

“Hệ niệm” ( ) nghĩa là tâm niệm chuyên chú một chỗ, chẳng nghĩ đến điều ǵ khác, như Quán kinh dạy: “Ưng đương chuyên tâm, hệ niệm nhất xứ, tưởng ư Tây Phương” (Phải nên chuyên tâm, hệ niệm một chỗ tưởng nơi Tây phương).

Chữ “thực” () trong “thực chúng đức bổn” (trồng các cội đức) có nghĩa là trồng trọt. “Đức bổn” ( ) là thiện căn. Đức là thiện, Bổn là cội rễ. “Đức bổn” c̣n có nghĩa là căn bản của các đức vậy. Hiểu theo nghĩa này, danh hiệu A Di Đà Phật chính là cội đức như sách Giáo Hạnh Tín Chứng giảng: “Đức bổn là đức hiệu của Như Lai. Xưng niệm đức hiệu ấy một tiếng th́ chí đức (đức cùng tột, cao tột nhất) được thành tựu trọn vẹn, chuyển được các họa. Do [đức hiệu A Di Đà] là gốc của mười phương tam thế đức hiệu nên gọi là Đức Bổn”.

Câutúc ác” chỉ các nghiệp ác đă gây tạo trong đời trước, tức là tội ác trong đời quá khứ. “Hối” () là sửa đổi, sửa đổi quá khứ, tu tập tương lai. “Hối quá” ( ) là hướng về Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng mà sám hối tội lỗi, thề chẳng tái phạm.

Do nguyện này mang tên “hối lỗi được văng sanh” nên ta biết: Sám Hối là ch́a khóa để văng sanh v́ do sám hối sẽ diệt được hết thảy tội. “Tŕ” () là phụng tŕ.

“Mạng chung bất phục cánh tam ác đạo, tức sanh ngă quốc” (Mạng chung chẳng đọa tam ác đạo nữa, liền sanh về cơi ta) chính là yếu chỉ của lời nguyện này. Nếu đời trước trót làm ác, có nghiệp quyết định th́ sau khi mạng chung ắt phải ở cơi này hoặc trong thế giới phương khác đọa trong ba ác đạo. Do đời này hối lỗi tu đạo hành thiện, tụng kinh, tŕ giới, phát Bồ Đề tâm, chuyên niệm Cực Lạc, chí tâm hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ v.v... th́ nhờ vào công đức của lời nguyện này của Phật Di Đà để ngăn chặn túc nghiệp, được Phật tiếp dẫn chẳng đọa tam đồ, nhanh chóng sanh về Cực Lạc. V́ vậy, kinh chép: “Vô bất toại giả” (Không ai chẳng được toại nguyện). Chữ “toại” () nghĩa là ư nguyện cầu sanh Cực Lạc được thỏa măn trọn vẹn. Rơ ràng, người túc nghiệp sâu nặng đều chẳng bị đọa vào tam đồ nữa, được mang nghiệp đi văng sanh. Bi nguyện Phật Di Đà sâu thẳm, sức nhiếp độ mênh mông vượt trỗi mười phương.

Hiện thời, giới Phật giáo hải ngoại đang tranh căi về thuyết “đới nghiệp văng sanh”, nay ta cứ dựa trên kinh này th́ biết ngay thuyết đới nghiệp văng sanh thật đă căn cứ trên lời Phật nguyện. Hơn nữa, cái nghiệp được mang theo đó chính là ác nghiệp!

Chánh kinh:

時,國 女。若 人,聞 字,得 信,發 心,厭 身,願 國。命 子,來 土。十 類,生 者,皆 生。若 者,不 覺。

Ngă tác Phật thời, quốc vô phụ nữ. Nhược hữu nữ nhân, văn ngă danh tự, đắc thanh tịnh tín, phát Bồ Đề tâm, yếm hoạn nữ thân, nguyện sanh ngă quốc, mạng chung tức hóa nam tử, lai ngă sát độ. Thập phương thế giới chư chúng sanh loại, sanh ngă quốc giả, giai ư thất bảo tŕ liên hoa trung hóa sanh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, nước không có phụ nữ. Nếu có nữ nhân nghe danh hiệu tôi sanh ḷng tin thanh tịnh, phát Bồ Đề tâm, chán ngán thân nữ, nguyện sanh cơi tôi, chết đi liền hóa thành nam tử sanh về cơi tôi. Các loài chúng sanh trong mười phương thế giới sanh về cơi tôi đều hóa sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện hai mươi hai: Nước không nữ nhân; nguyện hai mươi ba: Chán thân nữ, chuyển thân nam; nguyện hai mươi bốn: Liên hoa hóa sanh)

Giải:

Chương này gồm ba nguyện: Nguyện hai mươi hai “nước không nữ nhân” (trích từ bản Ngô dịch); câu “nhược hữu nữ nhân… mạng chung tức hóa nam tử lai ngă sát độ” (nếu có nữ nhân... mạng chung sẽ hóa thành nam tử, sanh về cơi tôi) là nguyện thứ hai mươi ba “chán thân nữ, chuyển thành thân nam”, c̣n gọi là nguyện “nữ nhân văng sanh”; nguyện hai mươi bốn là “liên hoa hóa sanh” (trích từ bản Ngô dịch).

Bản Ngô dịch chép nguyện “nước không nữ nhân” như sau: “Linh ngă quốc trung, vô hữu phụ nữ” (Khiến cho trong nước ta không có phụ nữ). Trong bản Hán dịch, phần kinh văn thuật về sự thành tựu của lời thệ nguyện có ghi: “Nữ nhân văng sanh giả, tắc hóa sanh, giai tác nam tử” (Nữ nhân văng sanh th́ đều hóa sanh, biến thành nam tử). Kinh c̣n nói: Kỳ quốc trung tất chư Bồ Tát, A La Hán, vô hữu phụ nữ” (Trong nước ấy, đều là Bồ Tát, A La Hán, không có phụ nữ).

Hơn nữa, ngài Đạo Tuyên luật sư đời Đường c̣n dẫn kinh như sau: “Thập phương thế giới, hữu nữ nhân xứ, tức hữu địa ngục” (Mười phương thế giới chỗ nào có nữ nhân, chỗ đó có địa ngục). Nay Cực Lạc không có ba ác đạo, ắt hẳn chẳng có phụ nữ, thuần là người đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu. Đó là v́ giữa nam nữ dễ sanh t́nh ái, trở thành duyên thoái chuyển. V́ vậy, cơi đồng cư Cực Lạc thù thắng hơn Sa Bà nhiều.

Trong Quán Niệm Pháp Môn, Thiện Đạo đại sư giải thích về nguyện thứ hai mươi ba “nhàm chán thân nữ, chuyển thành thân nam” như sau: “Ấy là do sức bổn nguyện của Phật Di Đà nên nếu nữ nhân xưng danh hiệu Phật th́ ngay trong lúc lâm chung liền chuyển thân nữ trở thành nam tử. Di Đà dắt tay, Bồ Tát nâng thân, đặt ngồi trên hoa sen báu theo Phật văng sanh” và: “Hết thảy nữ nhân nếu chẳng nhờ sức danh hiệu của Phật Di Đà th́ trong ngàn kiếp, vạn kiếp, kiếp số như cát sông Hằng, trọn chẳng thể đổi được thân nữ”.

Ngay như Phật Thích Ca lúc c̣n tu nhân c̣n phải mất cả một đại kiếp tu hành siêng năng mới dần dà thoát khỏi thân nữ, đủ thấy nữ chuyển thành thân nam thật chẳng dễ dàng. Nay do nghe danh hiệu Phật “đắc thanh tịnh tín” (sanh ḷng tin thanh tịnh - thanh tịnh là ĺa khỏi các lầm lỗi ác hạnh, không phiền năo cấu nhiễm. Ḷng tin không cấu nhiễm gọi là “ḷng tin thanh tịnh”). Do ḷng tin thanh tịnh mà phát Bồ Đề tâm, nhàm chán thân nữ, nguyện sanh Cực Lạc, tin sâu, nguyện thiết th́ ắt khởi thắng hạnh niệm Phật, được bổn nguyện của Phật gia hộ, nên lúc lâm chung liền chuyển nữ thành nam, văng sanh Cực Lạc. Đó là nguyện “nhàm chán thân nữ, chuyển thành thân nam”.

Nguyện thứ hai mươi bốn là liên hoa hóa sanh: “Sanh ngă quốc giả, giai ư thất bảo tŕ liên hoa trung hóa sanh” (Sanh trong cơi ta đều hóa sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu). Phẩm mười bốn trong kinh đây chép: Nhược hữu chúng sanh minh tín Phật trí, năi chí thắng trí, đoạn trừ nghi hoặc, tín kỷ thiện căn, tác chư công đức, chí tâm hồi hướng, giai ư thất bảo hoa trung tự nhiên hóa sanh, già phu nhi tọa. Tu du chi khoảnh, thân tướng, quang minh, trí huệ, công đức như chư Bồ Tát, cụ túc thành tựu” (Nếu có chúng sanh tin rơ Phật trí cho đến thắng trí, đoạn trừ nghi hoặc, tin vào thiện căn của chính ḿnh, tạo các công đức, chí tâm hồi hướng th́ tự nhiên hóa sanh, ngồi xếp bằng trong hoa bằng bảy báu. Trong khoảnh khắc, được thành tựu đầy đủ thân tướng, quang minh, trí huệ, công đức như các Bồ Tát).

Kinh A Di Đà Cổ Âm Thanh Vương Đà Ra Ni cũng dạy: Tây Phương An Lạc thế giới, kim hiện hữu Phật, hiệu A Di Đà. Nhược hữu tứ chúng, năng chánh thọ tŕ bỉ Phật danh hiệu, dĩ thử công đức, lâm dục chung thời, A Di Đà Phật tức dữ đại chúng văng thử nhân sở, linh kỳ đắc kiến. Kiến dĩ, tầm sanh khánh duyệt, bội tăng công đức. Dĩ thị nhân duyên, sở sanh chi xứ, vĩnh ly bào thai uế dục chi h́nh, thuần xử diệu bảo liên hoa trung tự nhiên hóa sanh, cụ đại thần thông, quang minh hách dịch” (Tây phương An Lạc thế giới hiện đang có Phật hiệu A Di Đà. Nếu có tứ chúng có thể thọ tŕ chân chánh danh hiệu đức Phật ấy th́ do công đức đó, lúc sắp chết, A Di Đà Phật liền cùng đại chúng đến chỗ người ấy cho kẻ ấy được thấy. Thấy rồi, liền sanh ḷng mừng rỡ, vui sướng, tăng thêm công đức bội phần. Do nhân duyên ấy, với chỗ sẽ sanh về liền vĩnh viễn thoát khỏi thân uế dục bào thai, thuần tự nhiên hóa sanh trong hoa sen diệu bảo, đủ các đại thần thông, quang minh chói lọi). Hai kinh trên cùng bảo người văng sanh Cực Lạc đều tự nhiên hóa sanh trong hoa sen, thanh tịnh vô cấu, thần thông, trí huệ, phóng đại quang minh đầy đủ như Bồ Tát. Đấy là do lời nguyện này nên chứng được như thế.

Liên Tŕ đại sư viết trong Di Đà Sớ Sao rằng: “Lục đạo chúng sanh nơi thân Trung Ấm[8] tự cầu cha, mẹ. Văng sanh cơi lành th́ như trong khoảng búng ngón tay liền hóa sanh trong hoa sen. Hoa sen ấy là cung huyền diệu để thoát thân phàm, là nhà thần diệu để an huệ mạng”, nghĩa là: Hết thảy chúng sanh trong sáu nẻo, sau khi mạng chung, hiện thành thân Trung Ấm. Nơi thân Trung Ấm ấy, do túc nghiệp nhân duyên của tự thân mà đi t́m cha mẹ trong thế gian, gieo thân vào chỗ bụng mẹ đầy phân nhơ để kết thành cái thân trược nhiễm tội nghiệp; sao bằng văng sanh về cơi lành, lâm chung được Phật tiếp dẫn, trong khoảng khảy ngón tay, hóa sanh trong hoa sen, liền sanh sang cơi An Lạc. Hoa sen ấy chính là cung điện u huyền để thoát bỏ thân phàm phu, là căn nhà thần diệu để an dưỡng huệ mạng của đương nhân. Mấy lời này đă hiển lộ Phật Di Đà đại nguyện sâu xa đại nguyện, bi tâm tột bực, diệu đức khó lường.

Quyển mười lăm sách Đại Nhật Kinh Sớ có câu: “Như người đời cho hoa sen là thanh tịnh tốt lành, khiến mọi người vui sướng, nay trong bí tạng, cũng lấy diệu pháp liên hoa của Đại Bi Thai Tạng làm bí mật cát tường bậc nhất, hết thảy thân gia tŕ pháp môn ngồi trên đài hoa ấy”. Như vậy, chín phẩm sen nơi Cực Lạc thật đă hiển thị mật ư của Đại Nhật Như Lai: Toàn thể đều là bí mật cát tường tối thắng.

Chánh kinh:

時,十 生,聞 字,歡 樂,禮 命。以 心,修 行,諸 人,莫 敬。若 名,壽 後,生 家,諸 缺,常 行。若 者,不 覺。

Ngă tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngă danh tự, hoan hỷ tín nhạo, lễ bái quy mạng, dĩ thanh tịnh tâm, tu Bồ Tát hạnh, chư thiên thế nhân, mạc bất trí kính. Nhược văn ngă danh, thọ chung chi hậu, sanh tôn quư gia, chư căn vô khuyết, thường tu thù thắng phạm hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi hoan hỷ tin ưa, lễ bái, quy mạng, dùng tâm thanh tịnh tu Bồ Tát hạnh. Chư thiên, người đời ai chẳng cung kính. Nếu nghe tên tôi, sau khi hết tuổi thọ sẽ sanh nhà tôn quư, các căn chẳng khuyết, thường tu phạm hạnh thù thắng. Nếu chẳng được thế, chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện hai mươi lăm: Trời người lễ kính; nguyện hai mươi sáu: Nghe tên được phước; nguyện hai mươi bảy: Tu hạnh nguyện thù thắng)

Giải:

Chương này gồm ba nguyện từ chữ “văn ngă danh tự” (nghe danh hiệu tôi) đến mạc bất trí kính” (không ai chẳng cung kính) là nguyện hai mươi lăm “trời người lễ kính”; từ chữ “nhược văn ngă danh” (nếu nghe tên tôi) đến “chư căn vô khuyết” (các căn chẳng khuyết) là nguyện hai mươi sáu “nghe tên được phước”; phần c̣n lại là nguyện hai mươi bảy “tu hạnh nguyện thù thắng”.

Nguyện thứ mười tám “mười niệm ắt văng sanh” ở phần trước là chánh nhân văng sanh, là cốt lơi của bốn mươi tám nguyện. Hai nguyện mười chín và hai mươi triển khai nguyện mười tám. Nguyện hai mươi mốt đặc biệt chú trọng những chúng sanh có đủ túc nghiệp: Nếu biết hối lỗi phát tâm Bồ Đề, nhất tâm chuyên niệm cũng đều được văng sanh, chẳng đọa ác đạo nữa. Nguyện hai mươi ba chuyên v́ phụ nữ: Nghe danh phát ḷng tin trong sạch, phát tâm Bồ Đề cầu sanh Tịnh Độ, khi tuổi thọ hết chuyển thành thân nam, văng sanh Cực Lạc. Những nguyện trên đều là nghe danh hiệu phát tâm, được văng sanh Tịnh Độ, toàn là những sự lợi ích bậc Thượng; chương này nói về sự lợi ích bậc Hạ. Ấy là v́ chúng sanh căn khí chẳng đồng nên khi nghe danh phát tâm tin ưa khác nhau, hoặc là do đại tâm chẳng vững vàng, hoặc do tín nguyện chẳng sâu, hoặc do tŕ niệm chẳng chuyên đến nỗi chẳng thể hoàn toàn khế hợp các đại nguyện của Phật Di Đà như “mười niệm ắt văng sanh” v.v... V́ vậy, đời sau họ chưa thể thoát khỏi sanh tử, chỉ có thể đạt được phước báo trong hiện tại và vị lai, nên phước được hưởng thua kém các nguyện trước.

Chữ “tu Bồ Tát hạnh” trong nguyện hai mươi lăm chỉ Lục Độ, vạn hạnh, đây là tu rộng răi nhiều thứ điều lành. Kinh này dạy ba bậc văng sanh đều phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm. Do phát tâm là vua của các nguyện, tŕ danh là hạng nhất trong các hạnh, nên nếu khuyết những chánh nhân văng sanh đó th́ dẫu có làm các điều thiện một cách rộng lớn nhưng lại chẳng chuyên, nhiều nhưng không tinh, nên chẳng khế hợp bổn nguyện của Phật Di Đà, khó bề chứng đạo ngay trong đời này. Do đó, chỉ được trời, người cung kính mà thôi!

Sách Đại Luận giảng câu “sanh tôn quư gia” (sanh trong gia đ́nh tôn quư) trong nguyện hai mươi sáu như sau: “Sanh ḍng sát-lợi th́ có thế lực, sanh vào nhà bà-la-môn th́ có trí huệ; sanh vào nhà cư sĩ th́ giàu có lớn nên có thể làm lợi ích chúng sanh”. Sách Hội Sớ cũng bảo: “Sanh trong nhà hạ tiện bị đời khinh rẻ, chẳng thể tạo lợi ích rộng răi”. V́ vậy, “nghe danh được phước” là đời sau sanh trong nhà tôn quư. “Chư căn” là sáu căn: mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ư.

Tiếp đó là nguyện hai mươi bảy. “Phạm Hạnh”: Phạm () nghĩa là thanh tịnh. Phạm Hạnh là hạnh thanh tịnh vô dục. Chư thiên đoạn trừ dâm dục nên được gọi là Phạm Thiên. Hạnh đoạn được dâm dục như Phạm Thiên th́ gọi là Phạm Hạnh. Sách Pháp Hoa Sớ của ngài Gia Tường giảng: “Có người bảo hết thảy các giới là Phạm Hạnh, hoặc bảo chỉ thực hành giới đoạn trừ dâm dục là Phạm Hạnh. V́ vậy, kinh Đại Phẩm dạy: “Dâm dục chướng sanh Phạm Thiên, hà huống Bồ Đề!” (Dâm dục c̣n chướng ngại sanh làm Phạm Thiên, huống hồ là Bồ Đề).

Các ư kiến trên đây đều cho rằng ly dục là phạm hạnh; nhưng nếu hiểu sâu xa hơn, muôn hạnh để chứng Niết Bàn đều là Phạm Hạnh. Pháp Hoa Sớ của Ngài Gia Tường có câu: “Tướng của Phạm Hạnh, tiếng Phạn gọi là Niết Bàn, chính là căn bản pháp luân đại Niết Bàn. Thực hành pháp ấy th́ là phạm hạnh v́ đạt đến Niết Bàn vậy”.

Đại Nhật Kinh Sớ, quyển mười bảy cũng giảng: “Phạm là Niết Bàn. Phạm Hạnh nghĩa là tu đạt trọn vẹn Đại Niết Bàn, nên gọi là Phạm Hạnh”. Cả hai bộ kinh sớ trên đều cho rằng hạnh đạt đến Niết Bàn là Phạm Hạnh. Đó mới là ư nghĩa sâu xa của chữ Phạm Hạnh, chứ chẳng phải chỉ hạn cuộc trong tŕ giới hay đoạn dục mới là Phạm Hạnh. Chữ “Phạm Hạnh thù thắng” trong lời nguyện này nên hiểu có hai nghĩa như thế.

Do đoạn trừ dâm dục, lễ Phật, niệm Phật, phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm, hướng đến diệu hạnh Đại Niết Bàn căn bản pháp luân. Một phen nghe danh hiệu Phật liền được đầy đủ công đức như vậy. Điều này chứng tỏ Phật hiệu đầy đủ vạn đức.

Hơn nữa, công đức nghe danh hiệu vi diệu khó lường như kinh Tôn Thắng Đà Ra Ni dạy: Chư phi điểu, súc sanh, hàm linh chi loại, văn thử Đà Ra Ni, nhất kinh ư nhĩ, tận thử nhất thân, cánh bất phục thọ” (Các loài chim bay, súc sanh, hàm linh một phen nghe đà-ra-ni này thoảng qua tai, hết một thân ấy liền chẳng thọ lại nữa). Kinh Niết Bàn cũng nói: Thị Đại Niết Bàn diệc phục như thị, nhược hữu chúng sanh, nhất kinh ư nhĩ, khước hậu thất kiếp, bất đọa ác thú” (Đại Niết Bàn này cũng giống như thế. Nếu có chúng sanh một phen nghe được, trong bảy kiếp sau chẳng đọa đường ác). Một phen được nghe đă đạt công đức đến mức như vậy, huống hồ nghe xong lại tin nhận th́ công đức càng lớn lao hơn nữa. Một chữ “Văn” () trong kinh này chẳng chỉ có nghĩa là “nghe” xuông, mà c̣n có nghĩa là “tin nhận”. V́ vậy, người nghe danh hiệu Phật dẫu đời này chẳng được văng sanh th́ đời sau cũng sẽ thường tu phạm hạnh thù thắng.

Chánh kinh:

時,國 名。所 生,生 者,皆 心,住 聚。永 惱,心 涼,所 樂,猶 丘。若 念,貪 者,不 覺。

Ngă tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh sanh ngă quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt năo, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Định Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt năo, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân th́ chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện hai mươi tám: Nước không sự bất thiện; nguyện hai mươi chín: Trụ Chánh Định Tụ; nguyện ba mươi: Vui như Lậu Tận; nguyện ba mươi mốt: Chẳng tham chấp thân)

Giải:

Nguyện hai mươi tám đến nguyện ba mươi mốt trong chương này là những nguyện dành cho chúng sanh cơi Cực Lạc, thể hiện công đức thọ dụng của chúng sanh trong cơi Cực Lạc. Chương này gồm bốn nguyện: “Quốc trung vô bất thiện danh” (Trong nước không có danh từ bất thiện) là nguyện hai mươi tám “nước không có sự bất thiện”; từ đó đến chữ “trụ ư Định Tụ” (trụ trong Định Tụ) là nguyện hai mươi chín “trụ Chánh Định Tụ”; từ đấy đến chữ “do như Lậu Tận tỳ-kheo” (giống như Lậu Tận tỳ-kheo) là nguyện ba mươi “vui như Lậu Tận”; phần c̣n lại là nguyện ba mươi mốt “chẳng tham đắm thân”.

Nguyện hai mươi tám “nước không có danh từ bất thiện” ư nói: Cơi Cực Lạc c̣n không có danh từ bất thiện, huống là thật có sự bất thiện? Long Thọ Đại Sĩ dạy: “Cơi đức Phật ấy không có danh từ ác, cũng không có nỗi sợ ác đạo, nữ nhân; cho đến chẳng có ác tri thức và các đường ác”, nghĩa là: Cơi Cực Lạc không có các điều bất thiện. Văng Sanh Luận lại nói: “Nên biết rằng quả báo Tịnh Độ ĺa khỏi hai thứ tỵ hiềm: một là Thể, hai là Danh. Thể có ba thứ: Một là người Nhị Thừa, hai là nữ nhân, ba là người chẳng đủ các căn. Do không có ba lỗi này nên gọi là ĺa được cái Thể của tỵ hiềm. Danh cũng có ba thứ, chẳng những không có ba Thể mà c̣n chẳng nghe ba thứ danh từ Nhị Thừa, nữ nhân, các căn chẳng đủ, nên ĺa được cái danh của tỵ hiềm”. Câu “cái danh của tỵ hiềm” được dùng trong Văng Sanh Luận ám chỉ câu “chẳng có danh từ bất thiện” trong lời nguyện ở đây. Sách Sớ Sao lại bảo: “Do tai chỉ nghe vạn đức hồng danh của chư Phật, các thứ danh hiệu tốt lành của Bồ Tát, Thanh Văn và chư thiên, thượng nhân, nên các danh tự ba ác chưa từng nghe lọt qua tai”. Tai chẳng nghe tiếng ác nên bảo là “vô bất thiện danh” (chẳng có danh từ bất thiện).

Hơn nữa, kinh A Di Đà dạy: “Kỳ Phật quốc độ, thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thực! Thị chư chúng điểu giai thị A Di Đà Phật dục linh pháp âm tuyên lưu biến hóa sở tác” (Cơi nước Phật ấy c̣n không có cái tên ác đạo, huống là thật có! Các loài chim ấy đều do A Di Đà Phật v́ muốn khiến cho pháp âm được tuyên lưu nên biến hiện ra). Linh Phong đại sư đă giảng câu này rất tường tận trong sách Di Đà Yếu Giải như sau:

“Hỏi: Các loài như bạch hạc v.v... chẳng phải là tên ác đạo hay sao?

Đáp: Chúng đă chẳng phải là tội báo th́ mỗi mỗi danh tự đều diễn bày công đức của Như Lai, nghĩa là: Cứu cánh bạch hạc v.v... không danh tự nào chẳng phải là tiếng tôn xưng tánh đức, há có phải là ác danh đâu!”.

Ư Ngài nói: Trong kinh có câu “bỉ quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu tạp sắc chi điểu: Bạch hạc, khổng tước, anh vũ, ca-lăng-tần-già, cộng mạng chi điểu” (cơi ấy thường có các loài chim nhiều màu kỳ diệu như bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá-lợi, ca-lăng-tần-già, chim cộng mạng) nên mới có kẻ hoạnh họe: Cơi ấy đă có các loài chim như bạch hạc v.v... th́ những cái tên như bạch hạc v.v... ấy há chẳng phải là cái tên của ác báo hay sao?

Đáp rằng: Kinh dạy: “Nhữ vật vị thử điểu thực thị tội báo sở sanh” (Ông chớ cho rằng những loài chim ấy thật sự do tội báo sanh ra), những loài chim như bạch hạc.... đă chẳng phải do tội báo sanh ra th́ những danh từ như bạch hạc… chỉ là giả danh, cũng chẳng phải là ác danh. Các loài chim ấy đều từ tánh đức của Như Lai hóa hiện nên tên gọi của chúng biểu thị tánh đức của Như Lai. Đó chính là mỹ hiệu, chớ nên bảo là ác danh.

Lại như Quán kinh dạy: “Như Ư Châu Vương dũng xuất kim sắc vi diệu quang minh, kỳ quang hóa vi bách bảo sắc điểu” (Như Ư Châu Vương tỏa ra quang minh kim sắc vi diệu, quang minh ấy hóa ra chim có màu như trăm thứ báu) th́ y báo, chánh báo cơi Cực Lạc đều được trang nghiêm bởi Quả Giác của Như Lai. Các loài chim ấy đều do Phật Di Đà biến hóa ra. Cơi ấy mỗi sắc, mỗi hương, mỗi hạt bụi, mỗi danh từ không thứ nào chẳng là Trung Đạo, đều là toàn thể đại dụng của pháp giới chẳng thể nghĩ bàn. V́ vậy, mỗi một danh tự trong cơi nước kia đều thể hiện Tánh Đức của Như Lai.

Như Lai chứng nghiệm pháp giới đến cùng tột, soi tột cùng nguồn tâm, công đức hoàn thiện. Do một thứ đă chân thật th́ hết thảy đều chân thật, một thứ đă cứu cánh th́ hết thảy đều cứu cánh. Lại do giả danh hiển thị toàn vẹn Thật Pháp nên mỗi một danh tự trong cơi kia đều là cứu cánh. Bạch hạc là cứu cánh bạch hạc, chim Cộng Mạng là cứu cánh cộng mạng. Các loài chim ấy đều hiển thị tánh đức của Như Lai, nên tên của chúng tuy là giả danh nhưng cũng là tiếng tôn xưng tánh đức, nào phải là ác danh ư!

Nguyện hai mươi chín: “Sở hữu chúng sanh sanh ngă quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ” (Tất cả chúng sanh sanh trong cơi tôi đều đồng một tâm, trụ trong Định Tụ) là kết quả của nguyện thứ năm “không sai biệt”: Sanh trong cơi ấy, h́nh mạo không khác nhau, đều giống như nhau. H́nh mạo đă giống nhau, tâm cũng giống hệt. Tâm đă đồng nhất nên cùng trụ trong Định Tụ. Định Tụ nghĩa là Chánh Định Tụ, là một trong Tam Tụ. Tam Tụ bao gồm hết thảy chúng sanh. Tụ () có nghĩa là những ǵ giống nhau được gom lại. Chúng sanh được chia làm ba loại nên gọi là Tam Tụ. Cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa đều nói đến Tam Tụ, nhưng có nhiều thuyết:

1. Thuyết thứ nhất: Tam Tụ là:

* Chánh Định Tụ gồm những người nhất định chứng ngộ.

* Tà Định Tụ: những kẻ hoàn toàn chẳng chứng ngộ.

* Bất Định Tụ: Ở giữa hai hạng trên, hữu duyên th́ chứng ngộ, vô duyên ắt chẳng chứng ngộ.

2. Thuyết thứ hai là như sách Hội Sớ nói: “Định Tụ nói đầy đủ là Chánh Định Tụ, cũng gọi là Bất Thoái Chuyển, tức là Bồ Tát A Bệ Bạt Trí. V́ sao gọi là Chánh Định? Phàm hết thảy chúng sanh tuy căn tánh muôn phần sai khác, nhưng nếu phân loại th́ chẳng ngoài ba thứ: Ắt đọa trong sáu đường là Tà Định, nếu thăng trầm tùy duyên th́ là Bất Định, quyết định đạt đến Bồ Đề th́ gọi là Chánh Định”.

3. Thuyết thứ ba là của Khởi Tín Luận: Từ phàm phu đến hạng chưa đạt bậc Thập Tín, chẳng tin nhân quả là Tà Định. Từ Thập Trụ trở lên là Chánh Định, hạng Thập Tín là Bất Định Tánh. Thuyết này là thuyết của Đại Thừa Thật Giáo.

Phẩm hai mươi hai kinh này chép: “Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh, giai tất trụ ư Chánh Định chi tụ, quyết định chứng ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân hoặc đă sanh, hoặc sẽ sanh thảy đều trụ trong Chánh Định Tụ (Câu này trích từ bản Đường dịch), quyết định chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề). Như vậy, được sanh về cơi kia liền thuộc vào Chánh Định Tụ, ắt chứng quả Đại Niết Bàn.

Do đó, ngài Thiện Đạo nói: “Chẳng đoạn phiền năo mà đắc Niết Bàn, điều này thể hiện tánh đức tự nhiên của cơi An Lạc vậy”. Long Thọ Đại Sĩ cũng nói: “Dùng nhân duyên tin Phật nguyện sanh Tịnh Độ, khởi tâm lập đức, tu các hạnh nghiệp. Do nguyện lực của Phật nên liền văng sanh. Do Phật lực ǵn giữ nên liền nhập Đại Thừa Chánh Định Tụ. Chánh Định Tụ chính là địa vị A Bệ Bạt Trí Bất Thoái vậy”. (Ngài Thiện Đạo c̣n căn cứ vào lời nguyện này và bản Đường dịch bảo rằng nguyện này c̣n ẩn tàng mật nghĩa: Ngay trong hiện đời chứng được Bất Thoái. Kinh nói “nhược đương sanh” (hoặc sẽ sanh) là chỉ người đang cầu văng sanh cũng được nhập Chánh Định Tụ. Đây là một thuyết rất kỳ đặc, trong phẩm hai mươi hai, tôi sẽ tŕnh bày tường tận).

Câu vĩnh ly nhiệt năo, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc do như Lậu Tận tỳ-kheo” (vĩnh viễn xa ĺa nhiệt năo, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo) chính là nguyện ba mươi “vui như Lậu Tận”. “Nhiệt năo” nghĩa là bị sự rất khổ bức bách khiến thân bức rức, tâm phiền muộn, nên gọi là “nhiệt năo”. Phẩm Tín Giải của kinh Pháp Hoa bảo: “Dĩ tam khổ cố, ư sanh tử trung, thọ chư nhiệt năo” (Do v́ ba khổ nên ở trong sanh tử, chịu các nhiệt năo). Nay trong cơi Cực Lạc “vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc” (không có các khổ, chỉ hưởng các điều vui) nên vĩnh viễn xa ĺa nhiệt năo. “Thanh lương” là thanh tịnh mát mẻ, trái nghĩa với “nhiệt năo”. Quyển hai mươi hai của luận Đại Trí Độ giảng: “Người bị cơn nóng dữ làm khổ nếu được vào trong ao trong mát th́ mát dịu, thư thái, không bị nhiệt năo nữa”. Ao trong mát (thanh lương tŕ) ví cho Niết Bàn. Nay người văng sanh được vào trong ao thanh lương lớn của cơi kia, nên đều “tâm đắc thanh lương” (tâm được thanh lương).

Chữ Lậu () trong “Lậu Tận tỳ-kheo” có nghĩa là ṛ rỉ, rịn chảy. Lậu là tên khác của phiền năo. Phiền năo hiện hành khiến tâm luôn bị ṛ rỉ, lưu tán chẳng ngớt nên gọi phiền năo là Lậu. Lại do sáu cái cửa: mắt, mũi v.v… ngày đêm thường tuôn tràn phiền năo nên gọi là Lậu. Dùng thánh trí để đoạn sạch các phiền năo ấy th́ gọi là Lậu Tận. Năm thứ đầu của Lục Thông là Hữu Lậu Thông, riêng ḿnh Lậu Tận Thông là Vô Lậu Thông. Tỳ-kheo đoạn sạch phiền năo được xưng là “Lậu Tận tỳ-kheo”, tức là A La Hán.

Pháp Tạng Bồ Tát nguyện chúng sanh trong cơi Ngài hưởng vui vô cực, nhưng với những sự vui sướng ấy, tâm chẳng chấp trước, như bậc A La Hán, nên bảo là “do như Lậu Tận tỳ-kheo” (giống như tỳ-kheo lậu tận). Dùng h́nh ảnh này để ví họ hưởng thọ các sự vui, nhưng không nghĩ là vui. Ngài Nghĩa Tịch gọi nguyện này là nguyện “hưởng vui chẳng nhiễm”, ngài Cảnh Hưng gọi là nguyện “hưởng lạc không lầm lỗi”, đều cùng ngụ ư này.

Nguyện ba mươi mốt là “chẳng tham chấp thân”: Không khởi tưởng niệm tham chấp thân. Phần nhiều phàm phu tu hành hay bị mắc vào Thân Kiến. Thân Kiến là kiến chấp lớn nhất trong Kiến Hoặc. Kiến Hoặc chẳng đoạn, chẳng thể dự vào ḍng thánh; tất nhiên thường lưu chuyển trong sanh tử, không mong ngày ra. Tham chấp thân là chấp có thân ta nên tham đắm, so đo. Sách Hội Sớ giảng: “Vọng chấp tự thân, so đo yêu, ghét, thuận, nghịch, th́ gọi là tham chấp. Đấy gọi là Ngă Chấp”: Phàm phu vọng tưởng thân ḿnh chính là Ngă rồi tham chấp, so đo, ham thích, giữ ǵn, bồi bổ, thuận với ḿnh th́ sanh ḷng yêu thích, hễ trái nghịch th́ sanh giận dữ. Toàn thể các thứ phân biệt, tham đắm ấy đều là phiền năo. Sách Văng Sanh Luận bảo: “Xa ĺa ngă tâm, tham đắm thân ḿnh, xa ĺa tâm chẳng an chúng sanh, xa ĺa tâm cúng dường cung kính thân ḿnh. Cần biết rằng: Ba pháp ấy đều chướng ngại Bồ Đề tâm nên phải xa ĺa”. Ư nói: Cả ba cái tâm tham chấp tự thân, tâm làm cho chúng sanh chẳng được yên ổn, tâm cúng dường cung kính thân ḿnh đều chướng ngại tâm Bồ Đề. Kinh này lấy “phát tâm Bồ Đề, nhất hướng chuyên niệm” làm Tông; nếu tâm Bồ Đề bị chướng ngại ắt chẳng được văng sanh nên Phật nguyện rằng: Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu khởi niệm tưởng tham chấp thân ḿnh th́ chẳng lấy Chánh Giác).

Chánh kinh:

時,生 者,善 量,皆 身,堅 力。身 耀。成 慧,獲 才。善 要,說 道,語 聲。若 爾者,不 覺。

Ngă tác Phật thời, sanh ngă quốc giả, thiện căn vô lượng, giai đắc kim cang Na-la-diên thân, kiên cố chi lực. Thân đảnh giai hữu quang minh chiếu diệu, thành tựu nhất thiết trí huệ, hoạch đắc vô biên biện tài, thiện đàm chư pháp bí yếu, thuyết kinh hành đạo, ngữ như chung thanh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, [người] sanh trong nước tôi thiện căn vô lượng, đều được thân kim cang Na-la-diên, sức kiên cố, thân và đảnh đều có quang minh chiếu rực, thành tựu hết thảy trí huệ, đạt được vô biên biện tài, khéo bàn các pháp bí yếu, nói kinh, hành đạo tiếng vang như chuông. Nếu chẳng được như vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện ba mươi hai: Thân Na-la-diên; nguyện ba mươi mốt: Quang minh, trí huệ, biện tài; nguyện ba mươi bốn: Khéo bàn pháp yếu)

Giải:

Chương này gồm ba nguyện. Câu sanh ngă quốc giả, thiện căn vô lượng” (sanh trong nước tôi thiện căn vô lượng) là câu nói chung. Thiện căn là điều thiện nơi ba nghiệp thân, khẩu, ư kiên cố chẳng thể nhổ trốc được, nên gọi là Căn (). Đại sư La Thập bảo: “Thiện tâm kiên cố, sâu chẳng thể nhổ trốc đi được, nên gọi là Căn”. Lại v́ “thiện” có thể sanh ra diệu quả và sanh ra các điều thiện khác, nên gọi là Căn.

Câu giai đắc kim cang Na-la-diên thân, kiên cố chi lực” (đều có thân kim cang Na-la-diên, sức kiên cố) là nguyện ba mươi mốt “thân Na-la-diên”, ngài Cảnh Hưng gọi là “nguyện được thân kiên cố”. “Kim Cang”, tiếng Phạn là Bạt-triết-ra (Vajra) hoặc phiên âm là Phạt-triết-ra, dịch là Kim Cang. Sách Tam Tạng Pháp Số, quyển năm giảng: “Là chất cứng rắn nhất trong các loại vàng nên gọi là Kim Cang”. Sách Đại Tạng Pháp Số, quyển bốn mươi mốt lại giảng: “Tiếng Phạn là Bạt-triết-ra, Hán dịch là Kim Cang. Thứ vật báu này từ vàng sanh ra, màu như tử anh, đem nung trăm lần cũng chẳng tiêu hủy, cứng nhất, bén nhất, cắt được cả ngọc, rất hiếm trong đời, nên được coi là quư” (tức là đá kim cương, tục gọi là cô thạch, độ cứng rất cao[9]).

Kim Cang c̣n là cách gọi tắt chữ “kim cang xử”. Đại Nhật Kinh Sớ, quyển một nói: “Phạt-triết-ra chính là kim cang xử”. Kim cang xử (chày Kim Cang) nguyên là binh khí của Ấn Độ, Mật tông dùng nó để biểu thị trí cứng chắc, sắc bén. Đại Nhật Kinh Sớ, quyển một c̣n giảng thêm: “Phạt-triết-ra là kim cang trí ấn của Như Lai”. Nhân Vương Kinh Niệm Tụng Nghi Quỹ quyển một lại bảo: “Thủ tŕ kim cang xử giả, biểu khởi chánh trí, do như kim cang” (Tay cầm kim cang xử để biểu thị phát khởi chánh trí giống như kim cang).

Xử có vô lượng thứ khác nhau: vàng, bạc, đồng, sắt, đá, thủy tinh, gỗ pháp-đà-la v.v... Xử của Đế Thích làm bằng kim cang. Vị lực sĩ cầm kim cang xử được gọi là Chấp Kim Cang (Vajrapani), hay gọi gọn là Kim Cang. Sách Hạnh Tông Kư, quyển hai chép: “Kim Cang là vị lực sĩ theo hầu, do tay bưng kim cang xử nên thành tên”.

“Na-la-diên” (Narayana) dịch là Thắng Lực, hoặc Kiên Lao, có bốn nghĩa:

1. Là tên khác của Phạm Thiên Vương.

2. Là như La Thập đại sư bảo: “Lực sĩ cơi trời gọi là Na-la-diên, đoan chánh, hùng mạnh”.

3. Đại Nhật Kinh Sớ, quyển mười giảng: “Na-la-diên là một trong nhiều biệt danh của Tỳ Nữu Thiên (Vishnu), tức là biệt danh của Na-la-diên thiên. Vị trời này do Phật hóa ra”. Sách Bí Tạng Kư lại bảo: “Na-la-diên thiên có ba mặt, thân sắc xanh pha vàng, tay phải cầm bánh xe, cỡi chim Ca-lâu-la” (cỡi chim bay trên không trung).

4. Niết Bàn Kinh Sớ, quyển bảy giảng: “Na-la-diên: Hán dịch là Kim Cang” là một trong mười chín vị Chấp Kim Cang, kinh Duy Ma Cật ghi là Na La Diên Bồ Tát.

Đa phần các nhà chú giải kinh thời trước cho rằng thân và tâm chúng sanh ảnh hưởng lẫn nhau: Hễ thân có sự sướng, khổ, tâm ắt cũng vui, buồn theo; hễ tâm mừng, lo, thân cũng sẽ khỏe khoắn hay hao tổn theo. Ngài Pháp Cứu nói: “Như Lai thân lực vô biên như tâm lực vậy”. Kinh Mật Tích Lực Sĩ cũng chép: Như Lai chi thân thành câu tỏa thể[10], do như Kim Cang, khanh nhiên, kiên tuyệt, bất khả phá hoại” (Thân của Như Lai chắc chắn, mạnh mẽ như kim cang, cứng chắc vô cùng chẳng thể phá hoại được). V́ vậy, Phật nguyện chúng sanh trong nước ba nghiệp trang nghiêm, thân cứng chắc như kim cang, sức mạnh mẽ như Na-la-diên, đều cùng được thân nghiệp thù thắng vậy.

Trong Mật giáo, Chấp Kim Cang, Kim Cang Thủ, Kim Cang Tát Đỏa v.v... chỉ là những cách dịch khác nhau của cùng một tên. Nhân Vương Kinh Niệm Tụng Nghi Quỹ, quyển thượng chép: “Vị Kim Cang Thủ ấy chính là Phổ Hiền Bồ Tát. Tay cầm kim cang xử tiêu biểu phát khởi chánh trí giống như kim cang đoạn được chướng ngă pháp vi tế”. Kinh Thánh Vô Động Tôn Đại Oai Nộ Vương Bí Mật Đà Ra Ni cũng chép: “Vị Kim Cang Thủ này là Pháp Thân Đại Sĩ nên có tên là Phổ Hiền, liền từ đức Như Lai mà được cầm kim cang xử. Kim cang xử ấy do Ngũ Trí hợp thành, nên Ngài có tên là Kim Cang Thủ”.

Với lời nguyện “thân kim cang na-la-diên” trong kinh đây, nếu hiểu theo quan điểm Hiển giáo, ta có thể hiểu theo các cách giải thích ở phần trước: Thân kiên cố đại lực như thân của Na-la-diên lực sĩ hay thân của thần Na-la-diên; nếu hiểu theo Mật nghĩa th́ Kim Cang và Na-la-diên đều là Chấp Kim Cang.

Xét về ư nghĩa gốc trong Mật giáo, Kim Cang Na-la-diên là Kim Cang Tát Đỏa, tức là Phổ Hiền, là bậc Pháp Thân đại sĩ. Hơn nữa, Mật giáo gọi Kim Cang là tướng oai mănh do Phật thị hiện. V́ vậy, câu “thân kim cang Na-la-diên” có thể hiểu là được thân kim cang hoặc “kim cang thể” giống hệt như đức Phật.

Chữ “kim cang thân” chỉ thân kim cang bất hoại tức là thân Phật. Kinh Niết Bàn nói: Như Lai thân giả, thị thường trụ thân, bất khả hoại thân, kim cang chi thân” (Thân của Như Lai là thân thường trụ, thân chẳng thể hoại, là thân kim cang) và “chư Phật Thế Tôn tinh cần tu tập, hoạch Kim Cang thân” (chư Phật Thế Tôn siêng năng tu tập chứng được thân Kim Cang). Bản Tân dịch kinh Nhân Vương ghi: “Thế Tôn đạo sư Kim Cang thể, tâm hạnh tịch diệt chuyển pháp luân”. Sách Lương Phần Sớ giảng: “Kim Cang thể kiên cố trọn vẹn, Thể là thân. Thân Phật kiên cố giống như kim cang”. Nếu hiểu theo quan điểm Mật giáo th́ những kẻ được văng sanh sẽ đạt được thân kim cang bất hoại như Phật nên họ đều thọ mạng vô lượng, thân có sức kim cang kiên cố.

Câu thân đảnh giai hữu quang minh chiếu diệu, thành tựu nhất thiết trí huệ, hoạch đắc vô biên biện tài” (thân đảnh đều có quang minh chói rực, thành tựu hết thảy trí huệ, đạt được vô biên biện tài) là nguyện ba mươi mốt “quang minh trí huệ biện tài”. Đức Phật ấy thọ mạng vô lượng, trời người trong nước cũng thọ mạng vô lượng. Đức Phật ấy quang minh cũng vô lượng nên nhân dân cơi ấy thân và đảnh đều có quang minh chiếu rực. Chủ (Phật) và bạn (hết thảy hiền thánh, nhân dân trong nước) đều như một.

Thêm nữa, tự chiếu sáng gọi là Quang, chiếu sáng vật khác là Minh. Quang minh có hai công dụng: Một là trừ tối, hai là hiện pháp. Quang minh của Phật là tướng trí huệ (xem Văng Sanh Luận, quyển Hạ). Kinh Siêu Nhật Minh Tam-muội, quyển Hạ cũng dạy: Thị tri đại trí phát ngoại, năng chiếu pháp giới, danh vi quang minh” (Cho nên biết rằng: Đại trí phát ra ngoài chiếu soi pháp giới th́ gọi là quang minh). Kinh Niết Bàn cũng nói: “Quang minh danh vi trí huệ” (Quang minh là trí huệ). Đại Huệ thiền sư c̣n bảo: “Chỉ dùng ánh sáng này để tuyên thuyết diệu pháp, pháp này chính là quang minh ấy, chẳng ĺa khỏi quang minh này mà thuyết pháp ấy”.

Thân và đảnh của trời và người cơi kia đều có thường quang chính là do trí huệ thành tựu. Do được Phật lực gia hộ, bảo hựu, nên trí huệ thù thắng. Đối với những trí: Phật trí, bất khả tư nghị trí, bất khả xưng trí, Đại Thừa quảng trí, trí thù thắng tối thượng không ai bằng, không ai sánh nổi đều hiểu rơ cả, nên bảo “thành tựu nhất thiết trí huệ” (thành tựu hết thảy trí huệ) và “hoạch đắc vô biên biện tài” (đạt được vô biên biện tài). “Biện tài” là khả năng diễn thuyết pháp nghĩa một cách hay khéo. Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ “biện tài” như sau: “Nói năng biện luận rành rẽ, chữ dùng tài t́nh nên gọi là biện tài”. Ngoài ra, các trí biện tài thuyết pháp của Bồ Tát được gọi chung là Tứ Vô Ngại Trí, Tứ Vô Ngại Giải hoặc Tứ Vô Ngại Biện. Tứ Vô Ngại là:

1. Pháp Vô Ngại: Giáo pháp được giảng ra luôn gồm Danh (: tên gọi của sự vật), Cú (: Câu nói, câu văn), Văn (: lời văn). Giáo pháp Năng Thuyên gọi là pháp. Thuyên () hàm nghĩa đầy đủ, tốt lành (do vậy, giáo pháp Năng Thuyên có nghĩa là giáo pháp có thể phô diễn, tuyên thuyết trọn vẹn những điều tốt lành). Giáo pháp không bị úng trệ nên gọi là Pháp Vô Ngại.

2. Nghĩa Vô Ngại: Hiểu biết nghĩa lư của giáo pháp được giảng nhưng không vướng mắc vào đó th́ gọi là Nghĩa Vô Ngại.

3. Từ Vô Ngại: Thông đạt rành rẽ các ngôn ngữ của từng địa phương th́ gọi là Từ Vô Ngại.

4. Nhạo Thuyết Vô Ngại: Dùng ba thứ trí trên đây để giảng nói theo ư muốn của chúng sanh một cách tự tại. Nhạo Thuyết Vô Ngại c̣n gọi là Biện Vô Ngại. Thuận theo chánh lư phát ra lời nói vô ngại nên gọi là Biện Vô Ngại.

Nhân dân trong cơi ấy do thành tựu hết thảy trí huệ nên đắc Vô Ngại Biện Tài, dùng Tứ Vô Ngại Biện Tài để hoằng diễn pháp yếu.

Câu thiện đàm chư pháp bí yếu” (khéo bàn các pháp bí yếu) là nguyện ba mươi bốn“khéo bàn pháp yếu”. “Bí” () nghĩa là bí áo, tức là điểm sâu xa, huyền diệu của pháp môn. Bí cũng có nghĩa là bí mật, tức là những điểm ẩn mật của pháp môn, chẳng dễ chỉ bày cho người khác. Sách Pháp Hoa Văn Cú, quyển năm giảng chữ “bí yếu” như sau: “Điều Phật canh cánh trong tâm hơn bốn mươi năm, người khác chẳng hề biết là Bí. Đạo dẫn thẳng đến Nhất Thừa nhiếp trọn muôn đường khác gọi là Yếu (). Trong Pháp Hoa Sớ, quyển chín, ngài Gia Tường lại giảng rằng: “Do ngôn ngữ giản dị, tinh yếu nhưng chứa đựng trọn vẹn nghĩa lư nên bảo là Yếu. Trước đây vốn đă giấu kín chẳng truyền ra nên gọi là Bí”. Phẩm Pháp Sư kinh Pháp Hoa có câu: Thử kinh thị chư Phật bí yếu chi tạng, bất khả phân bố, vọng thọ dữ nhân” (Kinh này là tạng bí yếu của chư Phật, chẳng thể lưu truyền, dạy dỗ bừa băi cho người khác).

Ngoài ra, Mật tông c̣n được gọi là Bí Mật Tông v́ Mật pháp chính là tạng bí yếu của chư Phật, chẳng thể đem dạy cho người khác một cách khinh suất được. Nay các vị Bồ Tát cơi Cực Lạc “thiện đàm chư pháp bí yếu” (khéo bàn các pháp bí yếu) nghĩa là các vị khéo khai diễn hết thảy pháp bí yếu rất sâu dù Hiển hay Mật.

“Hành đạo” là kinh hành. Vừa đi kinh hành vừa tụng kinh là pháp Thường Hành tam-muội của tông Thiên Thai.

“Chung” (chuông) là một trong những loại được gọi là “kiền chùy” trong tiếng Phạn. Chuông là pháp khí để nhóm chúng, dùng tiếng chuông làm hiệu lệnh nhóm chúng. Tiếng chuông lại có công đức thù thắng như kinh Tăng Nhất A Hàm dạy: “Nhược đả chung thời, nhất thiết ác đạo chư khổ, tịnh đắc đ́nh chỉ” (Khi đánh chuông, hết thảy các nỗi khổ trong ác đạo đều được ngưng nghỉ). Sách Phật Tổ Thống Kỷ, quyển sáu cũng có chép: “Người lúc sắp chết nghe tiếng chuông, tiếng khánh th́ chánh niệm được tăng thêm”.

Câu “ngữ như chung thanh” (tiếng vang như chuông) ư nói thanh âm của người thuyết pháp như tiếng hồng chung trong trẻo, thánh thót, hùng hồn, liên tục vang xa, khua tan đêm dài, đánh thức những kẻ đang mê mệt khiến họ phát sanh thiện tâm, ngưng ngớt các khổ. Âm thanh thuyết pháp có công đức như tiếng chuông. Ngoài ra, trên thân chuông c̣n khắc những chân ngôn, những chữ chủng tử[11], kinh kệ Đại Thừa. Gióng một tiếng chuông khác nào đọc lên hết thảy kinh pháp Hiển, Mật được ghi trên thân chuông. Dùng những điều đó để sánh ví người thuyết pháp: Trong mỗi một âm thanh đều hàm chứa vô biên diệu nghĩa.

Chánh kinh:

時,所 生,生 者,究 處。除 ,為 故,被 鎧,教 情,皆 心,修 行,行 道。雖 界,永 趣。或 法,或 法,或 足,隨 習,無 滿。若 者,不 覺。

Ngă tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngă quốc giả, cứu cánh tất chí Nhất Sanh Bổ Xứ, trừ kỳ bổn nguyện, vị chúng sanh cố, bị hoằng thệ khải, giáo hóa nhất thiết hữu t́nh, giai phát tín tâm, tu Bồ Đề hạnh, hành Phổ Hiền đạo. Tuy sanh tha phương thế giới, vĩnh ly ác thú, hoặc nhạo thuyết pháp, hoặc nhạo thính pháp, hoặc hiện Thần Túc, tùy ư tu tập, vô bất viên măn. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi rốt ráo ắt đạt bậc Nhất Sanh Bổ Xứ, ngoại trừ [những người có] bổn nguyện v́ chúng sanh mà mặc giáp hoằng thệ, giáo hóa hết thảy hữu t́nh khiến cho họ đều phát tín tâm, tu Bồ Đề hạnh, hành Phổ Hiền đạo. Tuy sanh trong thế giới phương khác, nhưng vĩnh viễn thoát khỏi đường ác, hoặc thích thuyết pháp, hoặc thích nghe pháp, hoặc hiện Thần Túc, tùy ư tu tập không ǵ chẳng viên măn. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện ba mươi lăm: Nhất Sanh Bổ Xứ; nguyện ba mươi sáu: Giáo hóa tùy ư)

Giải:

Trong chương này, câu “sở hữu chúng sanh sanh ngă quốc giả, cứu cánh tất chí Nhất Sanh Bổ Xứ” (tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi rốt ráo ắt đạt bậc Nhất Sanh Bổ Xứ) là nguyện ba mươi lăm “Nhất Sanh Bổ Xứ”.

Nhất Sanh Bổ Xứ” là chỉ c̣n một đời nữa sẽ thành Phật như hiện tại Di Lặc Đại Sĩ đang ở nội viện trời Đâu Suất chỉ c̣n một đời nữa là thành Phật, tức là như kinh Pháp Hoa nói: Dư hữu nhất sanh tại, đương đắc Nhất Thiết Trí” (Chỉ c̣n một đời nữa, sẽ đắc Nhất Thiết Trí) nên gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ. Sách Hội Sớ lại bảo: “Nhất Sanh Bổ Xứ là địa vị Đẳng Giác. Do vẫn c̣n một phần vô minh (nói đủ là một phần Sanh Tướng Vô Minh) chưa phá nên bảo là Nhất Sanh. Thế lực của phẩm vô minh ấy lớn nhất. Dùng kim cang trí phá được cái tâm duy nhất c̣n lại sau cùng ấy th́ liền đạt địa vị Diệu Giác nên gọi là Bổ Xứ”.

Nếu xét theo Mật giáo th́ “nhất” là lư Nhất Thật. Trong Mật Tông, Sơ Địa Bồ Tát trước hết chứng đắc tịnh Bồ Đề tâm, rồi từ cái lư Nhất Thật ấy xuất sanh vô lượng tam-muội tổng tŕ môn, dần dần đạt đến địa vị Thập Địa (Thập Địa trong Mật giáo khác với Thập Địa trong Hiển giáo). Lại có địa vị thứ mười một là Phật địa. Do trong đời kế tiếp sẽ thành Phật nên gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ. Sách Đại Sớ, quyển sáu chép: “Tông của kinh này là nhất sanh, nghĩa là từ nhất mà sanh”. Nơi Sơ Địa, lúc đạt được tịnh Bồ Đề tâm, bèn từ nơi Nhất Thật phát sanh vô lượng vô biên tam-muội tổng tŕ môn. Trong mỗi một địa vị như thế, cũng lần lượt tăng trưởng giống như vậy cho đến khi hoàn măn địa vị thứ mười, nhưng chưa đạt đến địa vị thứ mười một. Khi ấy, từ trong cảnh giới Nhất Thật bèn phát sanh trọn vẹn hết thảy trang nghiêm, chỉ c̣n mỗi địa vị Như Lai là chưa chứng tri, phải một phen chuyển pháp tánh sanh[12] mới thành Phật, nên gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ.

Đàm Loan đại sư lại nghĩ rất có thể là Bồ Tát cơi Cực Lạc chẳng lần lượt đạt từng địa vị mà chứng ngay địa vị Nhất Sanh Bổ Xứ: “Cứ theo kinh này mà suy th́ rất có thể Bồ Tát cơi ấy chẳng từ địa vị này đạt đến địa vị kia. Thứ tự thập địa của Bồ Tát chỉ là do Thích Ca Như Lai ứng theo căn cơ cơi Diêm Phù Đề mà dạy như vậy thôi. Tịnh độ phương khác không bắt buộc phải giống vậy”. Thuyết của ngài Đàm Loan đă thể hiện sâu xa sự viên giải viên tu của Bồ Tát cơi Cực Lạc: Một địa vị chính là hết thảy địa vị vậy. Do đó, người sanh về Cực Lạc đều được Bất Thoái Chuyển, nhanh chóng vượt khỏi các địa vị, chứng trọn vẹn địa vị Bổ Xứ. Điều này thể hiện Phật Di Đà đại nguyện sâu xa, diệu đức khó lường.

Kế đó là nguyện ba mươi sáu “giáo hóa tùy ư”. Như lời nguyện ba mươi lăm đă nói: Kẻ sanh về cơi ấy, ở yên trong cơi vui sướng, đều đạt địa vị Bổ Xứ, thành Đẳng Chánh Giác, nhưng mỗi vị Bồ Tát thành Phật đều có nguyện lực. Chẳng hạn như nếu có thệ nguyện mặc giáp hoằng thệ, trở vào uế độ lợi khắp quần sanh, giáo hóa hữu t́nh th́ họ sẽ được nguyện lực của Phật Di Đà gia tŕ để tùy ư giáo hóa, không điều ǵ chẳng được viên măn. Đấy chính là ư nghĩa của nguyện ba mươi sáu.

Khải () là áo giáp, tức vật dụng được các chiến sĩ thời cổ khoác vào khi giao chiến để bảo vệ thân thể, chống lại tên, đá v.v... (áo chống đạn thời nay cũng là một loại giáp). Bồ Tát vào trong sanh tử hàng phục ma quân th́ lấy thệ nguyện sâu rộng của chính ḿnh làm giáp trụ. Do cái tâm hoằng thệ cứng rắn hơn sắt đá nên có thể dùng tâm ấy xông vào trận sanh tử.

Với những kẻ được giáo hóa, kinh nói giai phát tín tâm” (đều khiến [cho các hữu t́nh] phát tín tâm); ấy là do tín tâm là nguồn đạo, là mẹ của công đức vậy.

Bản Tiểu Bổn kinh này nói: “Vị chư chúng sanh, thuyết thị nhất thiết thế gian nan tín chi pháp” (V́ các chúng sanh nói pháp hết thảy thế gian khó thể tin nổi này). Đó là v́ pháp môn Tịnh Độ cực viên, cực đốn, siêu t́nh ly kiến nên Tịnh Độ là pháp mà hết thảy thế gian khó tin tưởng được nổi. Kinh Tiểu Bổn c̣n chép: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức, Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh” (Chúng sanh các ngươi hăy nên tin kinh Khen Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn, Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này) và: “Nhữ đẳng giai đương tín thọ ngă ngữ, cập chư Phật sở thuyết” (Các ông đều nên tin nhận lời ta và lời chư Phật nói). Do đó, bậc Đại Sĩ cơi Cực Lạc khi hoằng hóa trong thập phương đều lấy việc phát khởi ḷng tin làm đầu.

Do ba bậc văng sanh đều phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm nên câu “tu Bồ Đề hạnh” gồm hai ư nghĩa trọng yếu: Phát Bồ Đề tâm và chuyên niệm. Tu Bồ Đề đại hạnh ắt phải do phát khởi Bồ Đề đại tâm, mà trong Bồ Đề hạnh th́ nhất hướng chuyên niệm là quan trọng bậc nhất. Hết thảy Bồ Tát tu trọn muôn điều lành, nhưng các vị Bồ Tát trong Thập Địa, dù ở địa vị nào vẫn chẳng hề rời bỏ việc niệm Phật.

Hơn nữa, Phổ Hiền Bồ Tát là bậc nhất trong các vị đại hạnh Bồ Tát, nên phải giáo hóa hết thảy hữu t́nh “hành Phổ Hiền đạo”. Khuê Phong đại sư giảng chữ Phổ Hiền như sau: “Một là xét trên tự thể: Thể tánh trọn khắp là Phổ, tùy duyên thành đức là Hiền. Hai là xét trong các địa vị th́ trọn khắp tất cả không sót là Phổ, gần bằng với bậc đại thánh (Phật) là Hiền. Ba là xét về đương vị (địa vị đang chứng đắc): Đức không ǵ chẳng trọn vẹn là Phổ; điều phục, ḥa nhă, thiện thuận là Hiền”. V́ vậy, trong kinh này, các vị đại Bồ Tát cùng đến tham dự pháp hội đều tuân tu đức hạnh của Phổ Hiền Đại Sĩ. Phổ Hiền đức chính là mười đại nguyện vương dẫn dắt về Cực Lạc, là đức tự lợi lợi tha chẳng có cùng tận. Đại Sĩ cơi Cực Lạc chính ḿnh đă tu hành Phổ Hiền hạnh đức lại c̣n dạy chúng sanh cơi khác cùng thực hành Phổ Hiền đạo.

Các vị Đại Sĩ như vậy của cơi Cực Lạc mặc giáp hoằng thệ, vào trong biển sanh tử, “tuy sanh tha phương thế giới” (tuy sanh trong những thế giới ở phương khác) hoặc hiện thân trong uế độ, nhưng được nguyện lực của Phật Di Đà gia tŕ nên vĩnh ly ác thú” (vĩnh viễn thoát khỏi ác đạo). Mỗi vị tùy theo ư ḿnh thích mà thuyết pháp, hoặc nghe pháp, hoặc hiện thần thông v.v... “tùy ư tu tập” đều được viên măn. Chúng sanh được họ giáo hóa cũng đều chí tâm tin ưa, cầu sanh Tịnh Độ, phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm.

Chánh kinh:

時,生 者,所 食、衣 服、種 具,隨 即至,無 滿 願。十 佛,應 養。若 者,不 覺。

Ngă tác Phật thời, sanh ngă quốc giả, sở tu ẩm thực, y phục, chủng chủng cúng cụ, tùy ư tức chí, vô bất măn nguyện. Thập phương chư Phật, ứng niệm thọ kỳ cúng dường. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, người sanh trong nước tôi, tất cả thức ăn, y phục, các thứ vật cúng, nghĩ tới liền có, không điều ǵ chẳng được măn nguyện. Mười phương chư Phật ứng niệm nhận lấy sự cúng dường của người ấy. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện ba mươi bảy: Quần áo, thức ăn tự đến; nguyện ba mươi tám: Ứng niệm thọ cúng)

Giải:

Đoạn này nói về nguyện ba mươi bảy: “Quần áo, thức ăn tự đến”.

Chữ “ẩm thực, y phục” (thức ăn, y phục) trích trong bản Tống dịch, chủng chủng cúng cụ” (các thứ vật cúng) trích từ bản Đường dịch. Nguyện hai mươi ba trong bản Hán dịch được ghi như sau: Ngă quốc chư Bồ Tát dục phạn thời, tắc thất bảo bát trung, sanh tự nhiên bách vị phạn thực tại tiền. Thực dĩ, bát giai tự nhiên khứ” (Các vị Bồ Tát trong nước ta lúc muốn ăn th́ cơm trăm vị tự nhiên hóa sanh trong bát bằng bảy báu hiện ra trước mặt. Ăn xong, bát tự nhiên biến mất - Nguyện thứ hai mươi bốn trong bản Ngô dịch chép giống vậy). Nguyện thứ ba mươi tám trong bản Ngụy dịch lại chép như sau: “Quốc trung thiên nhân, dục đắc y phục, tùy niệm tức chí, như Phật sở tán ứng pháp diệu phục, tự nhiên tại thân. Hữu cầu tài, phùng, đảo, nhiễm, hoán trạc giả, bất thủ Chánh Giác” (Trời, người trong nước muốn được y phục, hễ nghĩ đến liền có, tự nhiên trên thân khoác áo đẹp đẽ đúng pháp như Phật khen ngợi. Nếu c̣n phải cắt, may, đập, nhuộm, giặt giũ th́ chẳng lấy Chánh Giác). Bản hội tập này chọn lấy những nghĩa trọng yếu của năm bản dịch để tổng hợp thành nguyện này, đặt tên là nguyện “quần áo, thức ăn tự đến”.

Sách Hội Sớ chú giải lời nguyện của bản Ngụy dịch như sau: “V́ sao Phật lại phát ra lời nguyện này? V́ Ngài thấy trong các cơi, con người khổ sở muôn bề v́ cái ăn cái mặc, bốn mùa chẳng được yên ổn, cả một đời nhọc nhằn tham cầu. Huống hồ cấy cây lúa xuống là vùi chết mấy ngàn sanh mạng, trong vạc đun vô lượng kén tằm, cứ thế mà ch́m đắm măi không biết đâu là bến bờ, chịu khổ vô cùng. V́ vậy, Phật nguyện rằng thánh chúng trong cơi Ngài cơm, áo, nhà cửa tùy ư hiện ra trước mặt. Áo mặc, cơm ăn đều là pháp để trợ đạo”.

“Chủng chủng cúng cụ” (Các thứ vật cúng) là hoa hương, tràng phan, lọng báu, chuỗi ngọc, đồ trải để nằm (ngọa cụ), thiên nhạc v.v… hết thảy vô lượng vô biên các thứ vật dùng để cúng dường thù thắng như vậy đều tùy ư hiện đến nhằm thỏa nguyện cúng dường như bản Ngô dịch chép: Dục đắc tự nhiên vạn chủng chi vật, tức giai tại tiền, tŕ dụng cúng dường chư Phật” (Muốn được tự nhiên có muôn vật th́ chúng đều hiện ra trước mặt để cầm đem cúng dường chư Phật) hoặc như bản Tống dịch chép: Ngă dĩ thần lực linh thử cúng cụ tự chí tha phương chư Phật diện tiền, nhất nhất cúng dường” (Ta dùng thần lực khiến các vật cúng này tự nhiên đến trước chư Phật ở phương khác, cúng dường mỗi đức Phật). V́ vậy, hội bản ghi là: “Tùy ư tức chí, vô bất măn nguyện(Nghĩ tới liền có, không ǵ chẳng được măn nguyện).

Tiếp đó là nguyện ba mươi tám: “Ứng niệm thọ cúng”. Bản Tống dịch ghi nguyện này như sau: Sở hữu Bồ Tát phát đại đạo tâm, dục dĩ chân châu, anh lạc, bảo cái, tràng phan, y phục, ngọa cụ, ẩm thực, thang dược, hương, hoa, kỹ nhạc, thừa sự cúng dường tha phương thế giới, vô lượng vô biên chư Phật Thế Tôn nhi bất năng văng. Ngă ư nhĩ thời, linh bỉ tha phương chư Phật Thế Tôn các thư thủ tư, chí ngă sát trung, thọ thị cúng dường, linh bỉ tốc đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Tất cả Bồ Tát phát đại đạo tâm muốn dùng chân châu, anh lạc, lọng báu, tràng phan, y phục, đồ trải nằm, thức ăn, thuốc men, hương hoa, âm nhạc để thừa sự, cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Thế Tôn trong thế giới phương khác mà chẳng qua được chỗ các Ngài th́ ta ngay trong khi ấy khiến cho các đức Phật Thế Tôn đó đều duỗi cánh tay đến tận cơi ta, nhận lấy sự cúng dường ấy, khiến cho các Bồ Tát ấy mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Lời nguyện trong bản Tống dịch thật đă hiển thị sâu xa thần lực của Phật. C̣n như bản Ngụy dịch ghi: Nhất phát niệm khoảnh, cúng dường vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật Thế Tôn, nhi bất thất định ư” (Trong khoảng khởi lên một niệm, cúng dường vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn chư Phật Thế Tôn mà chẳng mất định ư) là nói về tự lực. Như vậy, nhân dân cơi Cực Lạc hoặc do Phật lực gia bị hoặc do tự lực viên măn đều có thể tùy ḷng nghĩ tưởng cúng dường khắp các đức Phật.

Câu kinh: Thập phương chư Phật, ứng niệm thọ kỳ cúng dường” (Thập phương chư Phật ứng niệm nhận lấy sự cúng dường của người ấy) đă hiển thị sâu xa ư nghĩa Phật và chúng sanh bất nhị, cảm ứng đạo giao: Ư niệm cúng Phật vừa khởi lên, chư Phật đă nhận lấy rồi. Đốn tu, đốn chứng, nhân quả đồng thời.

Chánh kinh:

時,國 物,嚴 麗,形 特,窮 妙,無 量。其 生,雖 眼,有 色、光 相、名 數,及 者,不 覺。

Ngă tác Phật thời, quốc trung vạn vật, nghiêm tịnh, quang lệ, h́nh sắc thù đặc, cùng vi cực diệu, vô năng xứng lượng. Kỳ chư chúng sanh, tuy cụ thiên nhăn, hữu năng biện kỳ h́nh sắc, quang tướng, danh số, cập tổng tuyên thuyết giả, bất thủ Chánh Giác.

(Lúc tôi thành Phật, vạn vật trong nước trang nghiêm, thanh tịnh, sáng ngời, đẹp đẽ, h́nh sắc đặc biệt thù thắng, vi diệu cùng cực, chẳng thể tính kể. Các chúng sanh tuy có thiên nhăn mà có thể phân biệt được h́nh sắc, quang tướng, danh số và nói tổng quát được [những sự trang nghiêm ấy] th́ chẳng lấy Chánh Giác).

(Nguyện ba mươi chín: Trang nghiêm vô lượng)

Giải:

Từ nguyện ba mươi chín đến nguyện bốn mươi ba là những nguyện nói về công đức của cơi Phật.  Nguyện ba mươi chín là nguyện “trang nghiêm vô lượng”.

Sách Hội Sớ giảng nguyện này như sau: “Nghiêm () là trang nghiêm, tịnh () là thanh tịnh, quang () là quang minh, lệ () là hoa lệ. Nghiêm tịnh là thể không nhơ, quang lệ là h́nh tướng đặc biệt, lạ lùng. Dài, ngắn, vuông, tṛn, lớn, nhỏ v.v... là H́nh (). Xanh, đỏ, trắng đen, đậm, nhạt là Sắc (). Chẳng phải là thứ thế gian có được nên bảo là Thù Đặc ( ).

Ư của sách Hội Sớ là: Thể của vạn vật chẳng cấu nhiễm nên bảo là “nghiêm tịnh”. H́nh tướng, quang minh kỳ lạ, đẹp rực rỡ nên bảo là “quang lệ”. Những h́nh sắc ấy chẳng phải là thứ thế gian có được nên bảo là “h́nh sắc thù đặc”.

 Sách Hội Sớ giảng tiếp: “Sự như cái chấm (sự tướng nhỏ nhặt như cái chấm nhỏ) đă tương tức diệu lư[13] nên bảo là ‘cùng vi’. Tướng vô lậu, tướng Thật Tướng nên bảo là “cực diệu”. Ư nói: Hết thảy sự tướng trong Cực Lạc dẫu một điểm nhỏ nhặt như mảy lông, hạt bụi đều từ Thật Tế lư mà hiển hiện, chúng là diệu lư, diệu lư là chúng (hạt bụi, mảy lông), hoàn toàn bất nhị, nên bảo là “cùng vi”. “Cùng” () là tột bực, “vi” () là nhỏ nhiệm.

Vả lại, hết thảy h́nh tướng do tâm thanh tịnh hiện ra, do công đức vô lậu của Phật Di Đà biến hiện, nên tướng của chúng là vô lậu. Mỗi mỗi h́nh tướng đều viên minh cụ đức, mỗi thứ đều thuộc viên viên quả hải (chữ “viên viên quả hải” lấy từ sách Hiển Mật Viên Thông, có nghĩa là biển vô thượng viên măn thánh giác quả đức), Thể của chúng chính là Thật Tướng. Có tướng nhưng vô tướng, vô tướng nhưng là tướng. V́ vậy, bảo là “cực diệu”.

Sách Hội Sớ giảng tiếp rằng: “Rộng - hẹp dung nhập lẫn nhau nên bảo là chẳng thể tính kể”. Ư nói: Cực Lạc thế giới hiển thị trọn vẹn sự sự vô ngại pháp giới, một tức là nhiều, nhiều tức là một, lớn - nhỏ chứa đựng lẫn nhau, rộng vào trong hẹp, hẹp vào trong rộng, trùng trùng vô tận, vượt khỏi khả năng nhận thức của tâm tưởng, kiến giải, và khả năng diễn giải của ngôn ngữ, nên chẳng thể bàn luận nổi. Vượt khỏi khả năng suy nghĩ nên chẳng thể nghĩ nổi. Nói năng, suy nghĩ chẳng thấu suốt nổi th́ làm sao tính kể nổi? V́ vậy bảo là “vô năng xứng lượng” (chẳng thể tính kể nổi).

Hiển nhiên là chỉ có Phật với Phật mới thấu suốt trọn hết nổi Cực Lạc Tịnh Độ. Ngoại trừ ḿnh đức Phật ra, hết thảy chúng sanh: Trên th́ đến bậc Đẳng Giác, giữa th́ như hết thảy phàm, thánh, chúng sanh thuộc Tiểu Thừa hay Đại Thừa có thiên nhăn đều chẳng thể bàn định h́nh sắc, quang tướng, tên tuổi, số lượng, cũng như chẳng thể nào liệt kê một cách tổng quát được những sự trang nghiêm đó.

V́ vậy, kinh nói: “Hữu năng biện kỳ h́nh sắc, quang tướng, danh số, cập tổng tuyên thuyết giả, bất thủ Chánh Giác” (Có ai có thể phân biệt được h́nh sắc, quang tướng, danh số và nói tổng quát được th́ chẳng lấy Chánh Giác).

Chánh kinh:

時,國 樹,高 旬。道 高,四 里。諸 中,雖 者,亦 知。欲 嚴,悉 見,猶 鏡,睹 像。若 者,不 覺。

Ngă tác Phật thời, quốc trung vô lượng sắc thụ, cao hoặc bách thiên do-tuần, đạo tràng thụ cao tứ bách vạn lư. Chư Bồ Tát trung, tuy hữu thiện căn liệt giả, diệc năng liễu tri. Dục kiến chư Phật tịnh quốc trang nghiêm, tất ư bảo thụ gian kiến, do như minh kính, đổ kỳ diện tượng. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, cây trong cơi nước có vô lượng màu hoặc cao đến trăm ngàn do-tuần; cây Đạo Tràng cao bốn trăm vạn dặm. Trong các Bồ Tát, dù kẻ thiện căn kém cỏi vẫn có thể biết rơ. Muốn thấy sự trang nghiêm nơi Tịnh Độ chư Phật th́ đều thấy rơ nơi thân cây ấy như từ nơi gương sáng thấy rơ vẻ mặt. Nếu chẳng được như vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện bốn mươi: Cây vô lượng sắc; nguyện bốn mươi mốt: Nơi cây hiện cơi Phật)

Giải:

Chương này gồm hai nguyện, từ đầu đến diệc năng liễu tri” (vẫn có thể biết rơ) là nguyện bốn mươi: “Cây vô lượng sắc”; từ chữ “dục kiến” (muốn thấy) trở đi là nguyện bốn mươi mốt: “Trong cây hiện cơi Phật”.

Trong câu quốc trung vô lượng sắc thụ, cao hoặc bách thiên do-tuần” (cây trong cơi nước có vô lượng màu, hoặc cao đến trăm ngàn do-tuần), cây có vô lượng màu v́ hết thảy các cây báu trong nước do bảy báu hóa thành, màu sắc rực rỡ, quang minh chói lọi, mọc thành hàng lối thẳng thớm, thân cây ngang nhau. Các cây báu ấy mọc đầy khắp cơi nước, cây cao từ trăm do-tuần cho đến ngàn do-tuần. Một do-tuần là từ 40 dặm đến 60 dặm, trong phần trên đă giải thích rơ. Nơi đạo tràng lại có một thụ vương (cây chúa) gọi là Đạo Tràng Thụ, tức là cây Bồ Đề.

Ở Tây Vực, từ phía Tây Nam của núi Chánh Giác đi khỏi bốn mươi dặm, có một cây Tất-bát-la (Pipala), Phật từng ngồi dưới gốc cây ấy thành Chánh Giác, nên cây ấy được gọi là cây Bồ Đề. Trong bản chú giải kinh Duy Ma Cật của ngài Tăng Triệu, phần giảng về phẩm Bồ Tát Hạnh có ghi: “Phật thành đạo dưới cội cây, cây được gọi tên là Bồ Đề. Cây ấy quang minh không đâu chẳng chiếu đến, mùi hương không đâu chẳng thơm ngát, h́nh sắc vi diệu tùy theo ư thích mà thấy [sai khác]. Cây vang ra tiếng pháp theo ư thích của mỗi người. Đây là cây báo (quả báo) ứng (ứng hóa) của Như Lai vậy. Chúng sanh gặp được cây ấy, tự nhiên ngộ đạo”.

Phần nói về thành tựu sở nguyện của kinh Vô Lượng Thọ đây cũng chép: Phục do kiến bỉ thụ cố, hoạch tam chủng Nhẫn, nhất Âm Hưởng Nhẫn, nhị Nhu Thuận Nhẫn, tam giả Vô Sanh Pháp Nhẫn” (Lại do thấy được cây ấy nên tự nhiên đạt được ba thứ Nhẫn, một là Âm Hưởng Nhẫn, hai là Nhu Thuận Nhẫn, ba là Vô Sanh Pháp Nhẫn). Cây Bồ Đề ấy có thể làm cho người trông thấy nó tự nhiên ngộ đạo, chứng nhập Vô Sanh Pháp Nhẫn. Công đức của cây ấy thật vô thượng hy hữu, vi diệu khó nghĩ tưởng nổi. V́ vậy, cây ấy chính là do tâm trang nghiêm bí mật của đấng Di Đà nguyện vương hóa hiện ra.

Mật giáo phán định tâm ấy thuộc về Trụ Tâm thứ mười, là tâm được đức Như Lai chứng đắc trong địa vị thứ mười ba: Phật quả rốt ráo. Do vậy, tâm ấy có thể rốt ráo ban cho chúng sanh cái lợi chân thật. Cây ấy có những phẩm đức cao ṿi vọi nên những Bồ Tát thiện căn kém cỏi trong cơi ấy khó thể thấy biết hết nổi, nhưng do đức Di Đà rủ ḷng Từ, dùng đại nguyện gia bị, nên họ đều được thấy biết rành rẽ cả.

Nguyện thứ bốn mươi mốt là “cây hiện cơi Phật”. Nguyện “trong cây hiện cơi Phật” này giống như pháp Quán thứ tư trong Quán kinh. Xin trích dẫn lời kinh tóm tắt như sau: Thử chư bảo thụ sanh chư diệu hoa… dũng hiện chư quả, hữu đại quang minh, hóa thành tràng phan, vô lượng bảo cái. Thị bảo cái trung, ánh hiện tam thiên đại thiên thế giới nhất thiết Phật sự, thập phương Phật quốc diệc ư trung hiện” (Các cây báu ấy... sanh các đóa hoa mầu nhiệm, sanh ra các quả, có đại quang minh hóa thành tràng phan, vô lượng lọng báu. Trong các lọng báu ấy, hiện bóng hết thảy Phật sự trong tam thiên đại thiên thế giới. Mười phương cơi Phật cũng hiện trong ấy). Những cây báu được nói đến trong phép quán cây báu trong Quán kinh chính là do nguyện này thành tựu.

Trong cơi Cực Lạc cây báu vô lượng, trong quang minh của mỗi cây hóa hiện vô lượng lọng báu. Trong mỗi lọng báu hiện bóng mười phương cơi Phật sáng sạch, thanh khiết như tấm gương sáng. Nơi những cây ấy, ta thấy được mười phương cơi Phật rơ ràng trọn vẹn như đối mặt với tấm gương sáng, tự nh́n thấy rơ vẻ mặt ḿnh. Như vậy, cơi Cực Lạc hàm nhiếp hết thảy cơi Phật, tương nhập, tương tức chẳng thể nghĩ bàn.

Chánh kinh:

時,所 剎,廣 淨,光 鏡,徹 界。眾 者,生 心。若 者,不 覺。

Ngă tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, cơi Phật tôi ở rộng răi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện bốn mươi hai: Chiếu tột mười phương)

Giải:

Đây là nguyện thứ bốn mươi hai: “Chiếu tột mười phương”.

“Quảng bác” nghĩa là rộng răi vô biên, “nghiêm tịnh” là trang nghiêm thanh tịnh. “Quang oánh” nghĩa là quang minh chiếu rực rỡ. “Triệt chiếu” nghĩa là không vật ǵ nhỏ nhặt mà chẳng được chiếu rơ, không vật ǵ xa cách mấy mà chẳng thấy nổi.

“Hy hữu” là như kinh Niết Bàn nói: “Thí như thủy trung, sanh ư liên hoa, phi vi hy hữu; hỏa trung sanh giả, thị năi hy hữu” (Ví như trong nước mọc lên hoa sen th́ chẳng phải là chuyện hy hữu. Hoa mọc trong lửa mới là hy hữu).

Cơi nước Cực Lạc trang nghiêm thanh tịnh, sáng ngời thanh khiết như tấm gương chiếu tường tận mười phương, giống như Quán kinh nói măo trời của Đại Thế Chí Bồ Tát “hữu ngũ bách bảo hoa, nhất nhất bảo hoa, hữu ngũ bách bảo đài. Nhất nhất đài trung, thập phương chư Phật tịnh diệu quốc độ quảng trường chi tướng, giai ư trung hiện” (Có năm trăm hoa báu. Trong mỗi hoa báu có năm trăm đài báu. Trong mỗi một đài, tướng rộng lớn của các cơi nước tịnh diệu của mười phương chư Phật đều hiện rơ cả). Do vậy, ta biết được cơi Cực Lạc lớn nhỏ dung hợp lẫn nhau, rộng hẹp vô ngại, một mảy bụi, một sợi lông đều hiện bóng mười phương.

Văng Sanh Luận ghi: “Từ nơi cung điện và các lầu gác, xem thấy mười phương một cách vô ngại”. Đàm Loan pháp sư giảng câu ấy như sau: “Như gương sáng trong sạch, hết thảy các tướng tịnh, uế, nghiệp duyên thiện, ác của mười phương quốc độ đều hiện ra cả”.

Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: Thí như minh tịnh phát quang kim pha lê kính, dữ thập phương thế giới đẳng. Ư bỉ kính trung, kiến vô lượng sát. Nhất thiết sơn xuyên, nhất thiết chúng sanh, địa ngục, ngạ quỷ, nhược hảo, nhược xú, h́nh loại nhược can, tất ư trung hiện” (Ví như tấm gương bằng chất kim pha lê sáng sạch tỏa ánh sáng, đối với mười phương thế giới đều b́nh đẳng. Nơi gương sáng ấy thấy vô lượng cơi. Hết thảy núi, sông, hết thảy chúng sanh, địa ngục, ngạ quỷ, dù tốt hay xấu, các h́nh loại nhiều như thế ấy đều hiện trong đó).

Các kinh luận vừa dẫn trên đây đă giảng rơ ư nghĩa câu “quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới” (sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật).

Chữ “chúng sanh” chỉ nhân dân trong cơi Cực Lạc và chúng sanh trong mười phương thế giới: Hễ ai thấy được tướng chiếu tỏ cùng tột mười phương của thế giới Cực Lạc đều phát tâm Bồ Đề thù thắng vô thượng. Tâm ấy hy hữu như sen nở trong lửa, nên bảo là “sanh hy hữu tâm”. Đă sanh được tâm ấy th́ sẽ được như bản Tống dịch nói: “Bất cửu đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Chẳng bao lâu sẽ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

Chánh kinh:

時,下 際,上 空,宮 殿 觀,池 樹,國 物,皆 成。其 界。眾 者,皆 行。若 者,不

Ngă tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, tŕ lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cơi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện bốn mươi ba: Hương báu xông khắp)

Giải:

Đây là nguyện bốn mươi ba “hương báu xông khắp”.

Sách Hội Sớ bảo trong thế giới Sa Bà, “vàng bạc tuy lóng lánh nhưng chẳng có mùi hương Chiên-đàn. Trầm, xạ tuy thơm ngát nhưng không có ánh sáng của châu, ngọc”. Nay trong cơi Cực Lạc, hết thảy vạn vật nghiêm tịnh, sáng đẹp, lại c̣n có mùi thơm kỳ diệu ngào ngạt xông khắp mười phương làm đủ các Phật sự nên bảo là “kỳ diệu”.

Trong kinh Hoa Nghiêm, trưởng giả Chúc Hương bảo: A Na Bà Đạt tŕ biên xuất trầm thủy hương, danh Liên Hoa Tạng. Nhược thiêu nhất hoàn như ma tử đại, hương khí phổ huân Diêm Phù Đề giới. Chúng sanh văn giả, ly nhất thiết tội, giới phẩm thanh tịnh.

Tuyết Sơn hữu hương, danh Cụ Túc Minh Tướng. Nhược hữu chúng sanh, khứu thử hương giả, kỳ tâm quyết định ly chư nhiễm trước.

La Sát giới trung hữu hương, danh Hải Tạng, kỳ hương đản vi Luân Chuyển Vương dụng, nhược thiêu nhất hoàn, hương khí sở huân, vương cập tứ quân, giai đằng hư không, du chỉ tự tại.

Thiện Pháp Đường trung hữu hương, danh Hương Tánh Trang Nghiêm, nhược thiêu nhất hoàn, huân bỉ thiên chúng, phổ linh phát khởi niệm Phật chi tâm.

Tu Dạ Ma thiên trung hữu hương, danh Tịnh Tạng Tánh, nhược thiêu nhất hoàn, huân bỉ thiên chúng, mạc bất vân tập bỉ thiên vương sở, cung kính thính văn vương sở thuyết pháp.

Đâu Suất thiên trung hữu hương, danh Tín Độ Phạ La. Ư nhất sanh sở hệ Bồ Tát ṭa tiền, nhược thiêu nhất hoàn, hưng đại hương vân, biến phú pháp giới, phổ vũ nhất thiết chư cúng dường cụ, cúng dường nhất thiết Như Lai đạo tràng Bồ Tát chúng hội.

Diệu Biến Hóa thiên hữu hương, danh Đoạt Ư Tánh. Nhược thiêu nhất hoàn, ư thất nhật trung, phổ vũ nhất thiết bất khả tư nghị chư trang nghiêm cụ”

(Nơi bờ ao A Na Bà Đạt sanh ra một loại trầm thủy hương tên là Liên Hoa Tạng. Nếu thiêu một hoàn to bằng một hạt mè th́ mùi hương xông khắp cơi Diêm Phù Đề. Chúng sanh ngửi được ĺa hết thảy tội, giới phẩm thanh tịnh.

Núi Tuyết có loại hương tên là Cụ Túc Minh Tướng. Nếu có chúng sanh ngửi được mùi hương tâm quyết định ĺa các nhiễm trước.

Trong cơi La Sát có loại hương tên là Hải Tạng, hương ấy chỉ ḿnh Chuyển Luân Vương dùng. Nếu đốt một hoàn, mùi hương bốc lên, vua và bốn đạo binh đều bay lên hư không, du hành tự tại.

Trong Thiện Pháp Đường có loại hương tên là Hương Tánh Trang Nghiêm, nếu thiêu một hoàn, hương xông thiên chúng khiến cho tất cả bọn họ đều phát khởi tâm niệm Phật.

Trời Tu Dạ Ma có loại hương tên là Tịnh Tạng Tánh, nếu thiêu một hoàn, hương xông thiên chúng th́ không ai là chẳng vân tập đến chỗ thiên vương, cung kính nghe vua thuyết pháp.

Trời Đâu Suất có loại hương tên là Tín Độ Phạ La, nếu thiêu một hoàn trước ṭa của bậc Nhất Sanh Sở Hệ Bồ Tát, liền biến thành đám mây hương lớn che khắp pháp giới, mưa xuống khắp hết thảy các thứ vật cúng dường để cúng dường hết thảy Như Lai, đạo tràng, Bồ Tát chúng hội.

Trời Diệu Biến Hóa có loại hương tên Đoạt Ư Tánh, nếu thiêu một hoàn th́ trong ṿng bảy ngày mưa khắp hết thảy các vật trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn).

Những thứ hương thế gian vừa thuật trên đây c̣n có công dụng thù thắng đến như thế; huống là thứ hương vạn đức của pháp giới do bổn nguyện của Phật Di Đà hóa hiện.

Phẩm Hương Tích Phật của kinh Duy Ma có chép như sau: Nhĩ thời, Duy Ma Cật vấn Chúng Hương Bồ Tát: - Hương Tích Như Lai, dĩ hà thuyết pháp? Bỉ Bồ Tát viết: - Ngă độ Như Lai, vô văn tự thuyết, đản dĩ chúng hương linh chư thiên nhân đắc nhập Luật Hạnh. Bồ Tát các các tọa hương thụ hạ, văn thử diệu hương, tức hoạch nhất thiết Đức Tạng tam-muội”

(Lúc bấy giờ, ngài Duy Ma Cật hỏi Chúng Hương Bồ Tát: - Hương Tích Như Lai thuyết pháp bằng cách nào?

Bồ Tát đáp: - Như Lai trong cơi tôi chẳng dùng văn tự để nói, Ngài chỉ dùng các thứ hương khiến cho các trời, người thâm nhập Luật Hạnh. Mỗi vị Bồ Tát ngồi dưới gốc cây có mùi thơm, nghe mùi diệu hương ấy liền đạt được hết thảy Đức Tạng tam-muội).

Diệu hương cơi Cực Lạc cũng giống như vậy, có công đức vô biên, xông khắp mười phương làm đủ các việc lợi ích, khiến cho những chúng sanh ngửi được mùi hương ấy “giai tu Phật hạnh” (đều tu Phật hạnh), “trần lao cấu tập tự nhiên bất khởi” (trần lao, tập khí phiền năo tập tự nhiên chẳng khởi) (xem phẩm hai mươi của kinh này). Vạn vật trong cơi Cực Lạc đều do vô lượng hương báu hợp thành, hương ấy lại xông khắp mười phương thế giới, đều hiển thị sự sự vô ngại pháp giới.

Chánh kinh:

時,十 眾,聞 已,皆 淨、解 脫、普 昧,諸 持。住 地,至 佛。定 佛,不 意。若 者,不 覺。

Ngă tác Phật thời, thập phương Phật sát chư Bồ Tát chúng, văn ngă danh dĩ, giai tất đăi đắc thanh tịnh, giải thoát, Phổ Đẳng tam-muội, chư thâm tổng tŕ, trụ tam-ma-địa, chí ư thành Phật. Định trung thường cúng vô lượng vô biên nhất thiết chư Phật, bất thất Định ư. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các cơi Phật mười phương nghe danh hiệu tôi xong ắt đều đạt được thanh tịnh, giải thoát, Phổ Đẳng tam-muội, các tổng tŕ sâu, trụ tam-ma-địa, thậm chí thành Phật. Trong Định thường cúng vô lượng vô biên hết thảy chư Phật, chẳng mất Định ư. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện bốn mươi bốn: Phổ Đẳng tam-muội, nguyện bốn mươi lăm: Trong Định cúng Phật).

Giải:

Trong đoạn này, từ đầu đến chữ “chí ư thành Phật” (thậm chí thành Phật) là nguyện thứ bốn mươi bốn “Phổ Đẳng tam-muội”, từ chữ “Định trung” (trong Định) trở đi là nguyện bốn mươi lăm “trong Định cúng Phật”. Các nguyện kể từ nguyện bốn mươi bốn trở đi là những nguyện khiến cho các vị Bồ Tát ở ngoài thế giới Cực Lạc nghe danh hiệu Phật A Di Đà được hưởng những lợi ích thù thắng nơi pháp.

Trước hết là nguyện thứ bốn mươi bốn: Nghe danh hiệu Phật đắc các tam-muội nhẫn đến thành Phật.“Đăi” () là đạt tới. Câu “thủy hỏa tương đăi” trong phần Hệ Từ của kinh Dịch được chú giải như sau: “Thủy hỏa bất tương nhập, nhi tương đăi cập” (Nước và lửa chẳng trộn lẫn nhau, nhưng lại ảnh hưởng lẫn nhau). “Đăi” c̣n có nghĩa là đuổi theo. Theo sách Hội Sớ, người nghe Phật danh, ngay lập tức đắc các tam-muội nên bảo là giai tất đăi đắc” (ắt đều đạt được).

Bản Tống dịch ghi lời nguyện này như sau: Sở hữu thập phương nhất thiết Phật sát chư Bồ Tát chúng văn ngă danh hiệu, ứng thời chứng đắc tịch tĩnh tam-ma-địa” (Tất cả các hàng Bồ Tát trong hết thảy cơi Phật mười phương nghe danh hiệu tôi, ngay lập tức chứng đắc tịch tĩnh tam-ma-địa). Chữ “ứng thời chứng đắc” (ngay lập tức chứng đắc) trong lời nguyện trên chính là ư nghĩa của câu “giai tất đăi đắc” (ắt đều đạt được) trong bản kinh này.

“Thanh tịnh” là ư nói các tam-muội mà Bồ Tát đang trụ vào đều vô nhiễm, vô trước, nên gọi là “thanh tịnh tam-muội”. Sách Hội Sớ giảng: “Tịch tĩnh tam-ma-địa không trói buộc, không vướng mắc, nên gọi là thanh tịnh”.

“Giải thoát”: Do tam-muội mà Bồ Tát trụ đó đă ĺa hết thảy triền phược, tự tại, nên bảo là giải thoát tam-muội. Sách Hội Sớ bảo: “Chỉ, Quán vô ngại nên gọi là Giải Thoát”. Sách c̣n bảo: “Niệm Phật tam-muội trừ được hết thảy phiền năo, giải thoát sanh tử, nên phải gọi là Thanh Tịnh Giải Thoát tam-muội”.

Trong danh từ Phổ Đẳng, Phổ () là phổ biến, Đẳng () là b́nh đẳng. Kinh Bi Hoa gọi tam-muội này là Biến Chí tam-muội, kinh Phân Đà Lợi gọi là Phổ Chí tam-muội, bản Tống dịch ghi là Phổ Biến tam-ma-địa, bản Đường dịch gọi là B́nh Đẳng tam-ma-địa môn.

Sách Hội Sớ giảng như sau: “Nếu theo ư kiến các sư th́ Phổ Đẳng tam-muội chỉ là một thứ tam-muội được Bồ Tát chứng đắc. Ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Phổ nghĩa là phổ biến; Đẳng nghĩa là b́nh đẳng. Cái thấy rộng lớn, Phật Phật đều thấy, cho nên gọi cái Định họ trụ vào đó là Phổ Đẳng’. Ngài Huyền Nhất bảo: ‘Do sức của tam-muội này thấy khắp tất cả chư Phật Thế Tôn nên bảo là Phổ, hiện b́nh đẳng không ǵ chẳng đạt đến nên gọi là Đẳng’. Nếu xét theo chánh ư tuyển trạch bổn nguyện[14] th́ Phổ Đẳng tam-muội chính là Niệm Phật tam-muội.

Phổ có nghĩa là phổ biến, phàm thánh cùng chứng nhập được. Đẳng là b́nh đẳng, công đức niệm một vị Phật cũng bằng với công đức niệm hết thảy Phật. Kinh Bồ Tát Niệm Phật tam-muội bảo: ‘Thí như chúng sanh nhược y Tu Di kim sắc chi biên, kỳ thân tức dữ bỉ sơn đồng sắc. Sở dĩ nhiên giả? Sơn thế lực cố. Hựu như chư thủy, tất nhập đại hải, đồng kỳ nhất vị, sở dĩ nhiên giả? Dĩ hải lực cố. Nhược nhân đắc Niệm Phật tam-muội, diệc phục như thị’ (Ví như chúng sanh nếu ở bên núi Tu Di kim sắc th́ thân họ cũng cùng màu với núi ấy. V́ cớ sao vậy? Là do thế lực của núi vậy. Lại như các ḍng nước đă vào trong biển cả th́ có cùng một vị, v́ sao thế? Do sức của biển vậy. Người đắc niệm Phật tam-muội cũng giống như thế). Đấy là ư nghĩa Phổ Biến của chữ Phổ trong Phổ Đẳng.

Kinh Văn Thù Bát Nhă dạy: ‘Niệm nhất Phật công đức, vô lượng vô biên, diệc dữ vô lượng vô biên chư Phật vô nhị’ (Công đức niệm một đức Phật vô lượng vô biên, chẳng khác ǵ công đức niệm vô lượng chư Phật). Tán A Di Đà Phật Kệ có câu: ‘Ngă dĩ nhất tâm quy nhất Phật, nguyện biến thập phương vô ngại nhập’ (Tôi dùng nhất tâm quy một Phật, nguyện nhập khắp thập phương vô ngại). Đấy là ư nghĩa B́nh Đẳng”.

Như vậy, sách Hội Sớ hiểu Thanh Tịnh tam-muội, Giải Thoát tam-muội và Phổ Đẳng tam-muội đều là Niệm Phật tam-muội. V́ Niệm Phật tam-muội là Bảo Vương tam-muội, đầy đủ công đức của hết thảy tam-muội, nên đương nhiên nó phải mang nhiều tên gọi của các tam-muội khác nhau.

“Tam-muội” tức là Tam-ma-địa (Samadhi), dịch là Chánh Định, Chánh Thọ (đă giải thích tường tận trong phẩm thứ hai). “Tổng tŕ” là đà-ra-ni, nghĩa là giữ ǵn sự lành chẳng để mất, có khả năng ǵn giữ vô tận (chữ “tổng tŕ” đă được giảng chi tiết trong phẩm thứ hai). Tổng tŕ sâu mầu nên gọi là “thâm tổng tŕ”. Mười phương Bồ Tát do nghe danh hiệu nên đắc các tam-muội và tổng tŕ sâu mầu, an trụ trong Định, được thành Chánh Giác nên bảo là “chí ư thành Phật” (cho đến thành Phật).

Nguyện bốn mươi lăm là “trong Định cúng dường Phật”. Ư nghĩa của việc trong Định cúng dường Phật mà chẳng mất định ư, ư nghĩa tương đồng câu “trụ thâm Thiền Định, tất đổ vô lượng chư Phật” (trụ trong Thiền Định sâu, đều thấy vô lượng chư Phật) trong phẩm Đức Tuân Phổ Hiền. Đây chính là cảnh giới rất sâu của Phổ Hiền Đại Sĩ. Sách Văng Sanh Luận Chú bảo: “Bậc Bồ Tát từ Bát Địa trở lên thường trụ tam-muội. Do sức tam-muội, thân chẳng rời khỏi chỗ ḿnh mà đến khắp mười phương cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sanh”.

Sư Vọng Tây nhận định: “Xét về thường hạnh, ‘trong Định cúng Phật’ là hạnh của bậc Bồ Tát từ Sơ Địa trở lên” “bậc Bồ Tát từ Sơ Địa trở lên tuy đă có đức này, nhưng phải từ Bát Địa trở lên mới [có thể thực hành hạnh ấy] một cách vô công dụng”. Ư Ngài nói: Bậc Sơ Địa Bồ Tát tuy đă có thể “trong Định cúng Phật” nhưng vẫn c̣n phải dụng công, phải là bậc Bồ Tát từ Bát Địa trở lên mới có thể vô công dụng đạo.

Sách Hội Sớ bảo các vị tân phát ư Bồ Tát ở những phương khác do nghe danh hiệu Di Đà nhanh chóng dự vào những ngôi vị Bồ Tát trong Thập Địa, đắc các tam-muội, trụ trong Định cúng Phật. Sách viết:

 “Dẫu là hạng tân phát ư Bồ Tát mà nghe được danh hiệu liền có thể Định - Huệ tương tức (Định tức là Huệ, Huệ tức là Định, không c̣n cách ngại ǵ nữa), Chân, Tục soi chiếu lẫn nhau, nhanh chóng chứng đắc các ngôi vị Bồ Tát trong Thập Địa”. Kinh Văn Thù Bát Nhă cũng bảo: “Niệm nhất Phật công đức, vô lượng vô biên, diệc dữ vô lượng vô biên chư Phật vô nhị’ (Công đức niệm một vị Phật vô lượng vô biên, chẳng khác ǵ công đức niệm vô lượng chư Phật).

Phật pháp b́nh đẳng vô sai biệt chẳng thể nghĩ bàn, đều nương theo Nhất Như thành tối Chánh Giác, đều đầy đủ vô lượng công đức biện tài. Nhập được Nhất Hạnh tam-muội (tức là Niệm Phật tam-muội) th́ biết hết tất cả các tướng pháp giới sai biệt của hằng sa chư Phật”.

Nói “trong tam-muội biết tất cả tướng pháp giới sai biệt của chư Phật” chính là nói “trụ trong Định cúng Phật”.

Chánh kinh:

時,他 眾,聞 者,證 法,獲 尼。清 喜,得 住。修 行,具 本。應 忍,於 法,不 退 者,不

Ngă tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngă danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc b́nh đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.

Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc b́nh đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển th́ chẳng lấy Chánh Giác.

(Nguyện bốn mươi sáu: Đắc đà-ra-ni; nguyện bốn mươi bảy: Nghe danh đắc Nhẫn; nguyện bốn mươi tám: Chứng Bất Thoái ngay trong hiện đời)

Giải:

Chương này gồm cả ba nguyện: Từ chữ “đắc đà-ra-ni” trở lên là nguyện bốn mươi sáu “hoạch đà-ra-ni”, từ chữ ấy đến nhất nhị tam Nhẫn” (một, hai hay ba thứ Nhẫn) là nguyện bốn mươi bảy “nghe danh đắc Nhẫn”; phần c̣n lại là nguyện bốn mươi tám “chứng được Bất Thoái ngay trong hiện đời”.

Chữ “ly sanh” trong nguyện thứ bốn mươi sáu nghĩa là thoát khỏi sanh tử. Hành nhân trong ba thừa do đạt địa vị Kiến Đạo[15], thấy được Đế Lư (lư chân thật) nên đoạn được Kiến Hoặc và Tư Hoặc, vĩnh viễn không bị sanh trong tam giới nữa nên bảo là “chánh pháp tánh sanh”. Sách Vạn Thiện Đồng Quy Tập bảo: “Cùng lên cửa giải thoát, cùng xiển dương đạo ly sanh”. Mười phương Bồ Tát do nghe danh hiệu Di Đà nên đều chứng được pháp ly sanh ấy và đắc “đà-ra-ni”. Đà-ra-ni chính là “tổng tŕ” (xem giải thích ở phần trước). Đà-ra-ni có bốn loại:

1. Pháp đà-ra-ni: Nghe, giữ giáo pháp của Phật chẳng quên.

2. Nghĩa đà-ra-ni: Tổng tŕ nghĩa lư Phật pháp chẳng quên.

3. Chú đà-ra-ni (Chú đà-ra-ni lại có năm tên. Theo Bí Tạng Kư, năm tên ấy là: Đà-ra-ni, minh, chú, mật ngữ, chân ngôn. Đà-ra-ni là khi Phật phóng quang, trong quang minh vang ra thần chú nên gọi là Đà-ra-ni hay Minh. V́ vậy, “đà-ra-ni” và “minh” có cùng một nghĩa. Người tŕ đà-ra-ni có thể phát khởi thần thông, trừ được tai hoạn. Đà-ra-ni gần tương tự với các thứ chú thuật của Trung Hoa, nên đà-ra-ni cũng gọi là “chú”. V́ phàm phu và Nhị Thừa chẳng thể biết được nổi nên gọi là “mật ngữ”. Chân ngôn: Lời của đức Như Lai chân thật chẳng dối nên gọi là chân ngôn).

4. Nhẫn đà-ra-ni: An trụ trong Thật Tướng của pháp th́ gọi là Nhẫn. Giữ được ḷng Nhẫn nên gọi là Nhẫn Đà Ra Ni.

Đại sĩ trong mười phương nghe danh hiệu Phật đều đắc các đà-ra-ni như trên, an trụ trong Thật Tướng của các pháp nên bảo là “đắc đà-ra-ni”.

Trong lời nguyện bốn mươi bảy “nghe danh đắc Nhẫn”, chữ “thanh tịnh” có nghĩa là vốn sẵn không nhiễm trước, “hoan hỷ” là trong ḷng vui sướng, tịch diệt là vui. Nếu hiểu nông cạn, “b́nh đẳng” là thoát khỏi những ư tưởng sai biệt: cao, thấp, cạn, sâu, lớn, nhỏ, thân, sơ, trí, ngu, mê, ngộ, th́ gọi là “b́nh đẳng”.

Hiểu ở mức cao hơn, b́nh đẳng chính là Chân Như trọn khắp, vạn pháp như một, cả ba thứ tâm, Phật, chúng sanh không sai biệt. Văng Sanh Luận Chú giảng: “B́nh đẳng là thể tướng của các pháp” và: “Chúng sanh trông thấy thân có tướng tốt và quang minh của Phật Di Đà đều giải thoát được hết các thứ ràng buộc nơi thân nghiệp, vào nhà Như Lai, rốt ráo được thân nghiệp b́nh đẳng. Nghe danh hiệu chí đức của A Di Đà Như Lai, nghe âm thanh thuyết pháp th́ đều giải thoát khỏi hết các thứ ràng buộc nơi khẩu nghiệp, vào nhà Như Lai, rốt ráo được khẩu nghiệp b́nh đẳng. Nếu gặp được quang minh của A Di Đà Như Lai chiếu đến, hoặc nghe ư nghiệp b́nh đẳng của A Di Đà Như Lai th́ các chúng sanh ấy đều giải thoát khỏi hết thảy các thứ ràng buộc nơi ư nghiệp, vào nhà Như Lai, rốt ráo được ư nghiệp b́nh đẳng”. Ư nói: Nếu thấy được h́nh tướng, nghe danh, thấy quang minh, biết được tâm ư của A Di Đà Như Lai th́ đều chứng nhập nhà Như Lai. Do nghe pháp nên được nghiệp b́nh đẳng rốt ráo.

Đoạn văn trên của Văng Sanh Luận Chú hoàn toàn có cùng ư nghĩa với câu: “Văn ngă danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc b́nh đẳng trụ” (Nghe danh hiệu ta, chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc b́nh đẳng trụ) trong kinh này. Do nghe danh hiệu nên trụ trong pháp b́nh đẳng, nghĩa là trụ trong Thật Tướng của các pháp. Bản Hán dịch c̣n gọi A Di Đà Phật là Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác. Như vậy, mười phương Đại Sĩ nghe danh hiệu Phật chí tâm tin ưa, dùng tâm b́nh đẳng niệm B́nh Đẳng Giác, an trụ như thế th́ chính là “đắc b́nh đẳng trụ”.

Một câu Phật hiệu đây chính là Thật Tướng, chính là toàn thể của pháp giới, chính là thể tánh b́nh đẳng của các pháp. Chỉ cần niệm niệm tiếp nối, niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm, nên bảo là “đắc b́nh đẳng trụ”. Tâm hạnh như thế là “Bồ Tát hạnh”, lần lượt dạy dỗ cho nhau cùng quay về Cực Lạc, ban bố cho mọi chúng sanh cái lợi chân thật nên bảo là “tu Bồ Tát hạnh”.  Tu hành như vậy tự nhiên trọn vẹn hết thảy cội rễ của công đức Phật quả nên bảo là “cụ túc đức bổn” (đầy đủ cội đức). Sách Hội Sớ giảng chữ “đức bổn” (cội đức) như sau:

“Lục Độ của Bồ Tát là gốc của hết thảy công đức nên gọi là cội đức. Chọn lựa, giữ lấy quả hiệu (danh hiệu của Quả Giác, tức là danh hiệu Nam-mô A Di Đà Phật) lưu xuất lục độ vạn hạnh là nguồn gốc cho mọi đức, nên gọi là đức bổn”.

Trong câu “nhất nhị tam Nhẫn” (một, hai, hay ba thứ Nhẫn), chữ Nhẫn () có nghĩa là chịu đựng. Bản Ngụy dịch ghi như sau: “Đệ nhất, đệ nhị, đệ tam pháp nhẫn”. “Pháp nhẫn”: Pháp là lư đă chứng đắc, tâm an trụ nơi pháp là Nhẫn. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển chín giảng: “Huệ tâm an pháp th́ gọi là Nhẫn”.

Với những thứ Pháp Nhẫn vừa được nêu trên, các nhà chú giải kinh nêu nhiều thuyết sâu hoặc cạn khác nhau. Xin nêu một thí dụ:

Kinh Nhân Vương bảo có năm thứ nhẫn: Phục Nhẫn, Tín Nhẫn, Thuận Nhẫn, Vô Sanh Pháp Nhẫn và Tịch Diệt Nhẫn.

Sách Nhân Vương Tư Kư lại giảng: “Sơ Địa, Nhị Địa, Tam Địa chứng đắc vô lậu tín th́ gọi là Tín Nhẫn. Tứ Địa, Ngũ Địa, Lục Địa hướng đến vô sanh nên gọi là Thuận Nhẫn. Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa chẳng sanh các niệm nên gọi là Vô Sanh Nhẫn. Thập Địa, Diệu Giác đắc quả Bồ Đề nên gọi là Tịch Diệt Nhẫn”.

Trong các nhà chú giải kinh thời cổ, có vị cho rằng ba thứ Nhẫn được nói đến trong kinh Vô Lượng Thọ đây là Phục Nhẫn, Tín Nhẫn và Thuận Nhẫn; thậm chí có vị cho rằng ba mức thượng, trung, hạ của loại Nhẫn đầu tiên (Phục Nhẫn) chính là ba thứ Nhẫn được kinh này nhắc đến. Hiểu như vậy nghĩa là chẳng thừa nhận việc Bồ Tát nơi phương khác nghe danh hiệu Phật liền ngay lập tức chứng đắc một thứ Nhẫn, hai thứ Nhẫn, cho cho đến Vô Sanh Pháp Nhẫn.

Nếu dựa theo kinh văn, quả thật “trong ba thứ Nhẫn ấy ắt phải có Vô Sanh Pháp Nhẫn” là điều chẳng thể c̣n nghi ngờ chi nữa. Nguyện thứ ba mươi bốn trong bản Ngụy dịch được ghi như sau: Thiết ngă đắc Phật, thập phương vô lượng bất khả tư nghị chư Phật thế giới chúng sanh chi loại, văn ngă danh tự, bất đắc Bồ Tát Vô Sanh Pháp Nhẫn, chư thâm tổng tŕ giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong mười phương vô lượng chẳng thể nghĩ bàn các thế giới Phật nghe danh hiệu tôi mà chẳng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ Tát, các tổng tŕ sâu xa, th́ chẳng lấy Chánh Giác).

Bản Tống dịch cũng ghi: Văn ngă danh giả, ứng thời tức đắc Sơ Nhẫn, Nhị Nhẫn, năi chí Vô Sanh Pháp Nhẫn, thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Nghe danh hiệu tôi th́ ngay lập tức đắc Sơ Nhẫn, Nhị Nhẫn cho đến Vô Sanh Pháp Nhẫn, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Rơ ràng, pháp Nhẫn thứ ba được nói trong lời nguyện này phải là Vô Sanh Pháp Nhẫn!

Hơn nữa, những câu trong sách Luận Chú như: “Hễ thấy đức Phật ấy th́ những vị Bồ Tát chưa chứng tịnh tâm (chỉ những vị Bồ Tát từ Sơ Địa đến Thất Địa) liền rốt ráo chứng được Pháp Thân b́nh đẳng” (Sách c̣n chép: “B́nh đẳng Pháp Thân là pháp tánh sanh thân Bồ Tát từ Bát Địa trở lên”) và: “Nghe danh hiệu chí đức của A Di Đà Như Lai th́ rốt ráo được khẩu nghiệp b́nh đẳng”. Những câu như vậy đủ chứng minh nghe danh hiệu Phật liền chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.

Vô Sanh Pháp Nhẫn gọi tắt là Vô Sanh Nhẫn. Chân trí an trụ trong Thật Tướng lư thể vô sanh vô diệt nhưng chẳng động th́ gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Trí Độ Luận, quyển năm giảng: “Vô Sanh Pháp Nhẫn: Tin nhận, thông đạt Thật Tướng vô sanh vô diệt của các pháp một cách vô ngại bất thoái th́ là Vô Sanh Nhẫn”. Trong quyển bảy mươi ba của Trí Độ Luận, ngài Long Thọ lại viết: “Vô Sanh Pháp Nhẫn là ngay cả những thứ nhỏ nhiệm c̣n bất khả đắc, huống là những thứ lớn lao. Đấy là vô sanh. Đắc pháp vô sanh này th́ chẳng làm, chẳng khởi các nghiệp hạnh. Đấy là Vô Sanh Pháp Nhẫn”. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển mười hai cũng nói: “Lư lặng lẽ chẳng khởi gọi là Vô Sanh. Huệ an trụ trong lư này th́ gọi là Vô Sanh Nhẫn”. Lăng Nghiêm Kinh Trường Thủy Sớ, quyển một lại giảng: “Hiểu rơ pháp vô sanh, ấn khả quyết định th́ gọi là Vô Sanh Nhẫn”.

Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển mười hai c̣n bảo: “Như ngài Long Thọ nói, từ Sơ Địa trở lên cũng đắc Vô Sanh. Nếu căn cứ vào kinh Nhân Vương và kinh Dữ Địa th́ chỉ trong Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa mới có Vô Sanh”. Bản Tống dịch của kinh Vô Lượng Thọ chép rằng: Văn ngă danh hiệu, chứng Vô Sanh Nhẫn, thành tựu nhất thiết b́nh đẳng thiện căn, trụ vô công dụng, ly gia hạnh cố, bất cửu linh đắc A Nậu Bồ Đề” (Nghe danh hiệu của tôi, chứng Vô Sanh Nhẫn, thành tựu hết thảy thiện căn b́nh đẳng, trụ vô công dụng. Do ĺa gia hạnh nên chẳng bao lâu sẽ đắc Vô Thượng Bồ Đề). Ngài Vọng Tây chú giải câu này như sau: “[Kinh] nói là đă trụ nơi vô công dụng th́ đủ biết bậc Bồ Tát ấy đă chứng Bát Địa”. Như vậy, pháp Nhẫn thứ ba trong kinh đây chính là Vô Sanh Pháp Nhẫn như kinh Nhân Vương đă nói. Theo ngài Vọng Tây, Bồ Tát ấy đă chứng địa vị Bát Địa.

Ngài Vọng Tây c̣n nói: “Hỏi: V́ sao do thế lực của việc nghe danh hiệu lại chứng được Vô Sanh? Đáp: Là do Phật nguyện lực vậy, như Thập Trụ Luận bảo: ‘Quá khứ vô số kiếp, có biển công đức danh hiệu Phật. Mỗi vị Phật trong thập phương hiện tại thành Chánh Giác đều là từ lời phát nguyện ‘nghe danh hiệu được thành Phật’ ấy [mà được thành Phật]”.

Những luận chứng vừa dẫn trên đă tŕnh bày Tha Lực một cách khéo léo: Người nghe danh hiệu Phật được Phật nguyện gia bị nên chứng được Vô Sanh Nhẫn, quyết định sẽ thành Phật, nhưng “nghe” không có nghĩa là chỉ nghe xuông, mà c̣n phải phát khởi cái hạnh như Niết Bàn Sớ, quyển hai mươi bảo: “Nếu nghe đến hai chữ Thường Trụ th́ đời đời chẳng đọa. Có nhiều thứ nghe, nếu có thể suy nghĩ sâu xa, thực hành đúng như lời dạy th́ đời đời chẳng bị đọa”. Ư câu trên là: Nghe xong phải suy nghĩ sâu xa và tu hành đúng như lời dạy th́ đời đời mới chẳng bị đọa. Như vậy, một chữ “nghe” c̣n hàm nghĩa “tin nhận” chẳng phải là nghe lọt qua tai rồi thôi.

“Nhất nhị tam Nhẫn” (một, hai, hay ba thứ Nhẫn) được nêu trong lời nguyện này chính là ba thứ Nhẫn sẽ nói trong phẩm mười lăm “Bồ Đề đạo tràng”: Một là Âm Hưởng Nhẫn, hai là Nhu Thuận Nhẫn, ba là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Sách Quán Vô Lượng Thọ Kinh [Diệu Tông] Sao, quyển năm giảng như sau:

“1. Âm Hưởng Nhẫn là do âm thanh, tiếng vang mà ngộ giải được chân lư.

 2. Nhu Thuận Nhẫn là huệ tâm nhu nhuyễn, thuận theo chân lư.

 3. Vô Sanh Pháp Nhẫn là chứng được thật tánh của vô sanh nhưng ĺa khỏi các tướng. Đây là chỗ cao tột nhất trong việc ngộ đạo”.

Ba thứ Nhẫn này sẽ được giảng tường tận trong phẩm thứ mười lăm.

Nguyện thứ bốn tám là “ngay trong hiện tại chứng được bất thoái”. Lời nguyện như sau: Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác” (Với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay Bất Thoái Chuyển th́ chẳng lấy Chánh Giác).

Bất Thoái Chuyển nghĩa là những công đức thiện căn ḿnh tu tập ngày càng tăng tấn, chẳng hề lui sụt, mất đi. Bất Thoái Chuyển gọi tắt là Bất Thoái, gọi theo tiếng Phạn là A Bệ Bạt Trí. Hạnh nguyện Bồ Tát tuy khó phát nhưng dễ bị thoái thất. Theo kinh Nhân Vương, bậc Bồ Tát thuộc Tín vị trong Biệt giáo được gọi là Khinh Mao Bồ Tát v́ giống như vật bị gió thổi bay. Kinh Niết Bàn bản Nam[16] cũng chép: Vô lượng chúng sanh phát A Nậu Bồ Đề tâm, kiến thiểu vi duyên, ư A Nậu Bồ Đề, tức tiện động chuyển, như thủy trung nguyệt, thủy động tức động” (Vô lượng chúng sanh phát tâm Vô Thượng Bồ Đề nhưng thấy chút duyên trái nghịch liền thoái chuyển Vô Thượng Bồ Đề như ánh trăng trong nước, nước vừa xao động, ánh trăng liền động).

Kinh c̣n ví von: Ví như cá mẹ sanh nhiều cá con, nhưng khôn lớn chỉ được chút ít; như cây Am-la (cây xoài) hoa nhiều, trái ít. Chúng sanh phát tâm tuy là vô lượng, nhưng người thành tựu quá ít ỏi chẳng đáng nói đến; kinh chép: “Ngư tử, Am-la hoa, Bồ Tát sơ phát tâm, tam sự nhân trung đa, cập kỳ kết quả thiểu” (Cá con, hoa Am-la, Bồ Tát sơ phát tâm, ba thứ ấy nhân th́ nhiều nhưng đến khi kết quả lại ít).

Kinh Thập Trụ Bồ Tát Đoạn Kết cũng nói: Thời Xá Lợi Phất cáo lai hội Bồ Tát: - Ngă nẵng tích, hoặc tùng Nhất Trụ tấn chí Ngũ Trụ, hoàn phục thoái đọa tại Sơ Trụ, phục tùng Sơ Trụ chí Ngũ Lục Trụ, như thị kinh lục thập kiếp trung, cánh bất năng đáo Bất Thoái Chuyển” (Khi ấy, ngài Xá Lợi Phất bảo các Bồ Tát đến dự hội: - Tôi khi xưa từ Nhất Trụ đạt tới Ngũ Trụ rồi lại thoái chuyển xuống Sơ Trụ, rồi lại từ Sơ Trụ đạt đến Ngũ Trụ, Lục Trụ; trải qua sáu mươi kiếp như thế trọn chẳng đạt đến bậc Bất Thoái Chuyển).

Kinh Bảo Vũ cũng nói: Hữu thế giới danh Sa Bà, kỳ quốc hữu Phật danh Thích Ca Mâu Ni, nhược chư hữu t́nh văn bỉ danh, ư A Nậu Bồ Đề đắc Bất Thoái Chuyển. Do bỉ Như Lai bổn nguyện lực cố” (Có thế giới tên là Sa Bà, cơi ấy có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni. Các hữu t́nh nếu nghe danh Ngài th́ chẳng thoái chuyển Vô Thượng Bồ Đề; đó là do sức bổn nguyện của đức Như Lai ấy vậy).

Xưa kia, ngài Trừng Hiến đă từng ca ngợi lời nguyện ấy như sau: “Trong năm trăm đại nguyện của đấng Thích Tôn, nguyện này thù thắng nhất”. Rơ ràng, cả hai bậc đạo sư hai cơi cùng phát ra nguyện tối thắng này, thật là “cùng một đường dẫn đến cửa Niết Bàn” vậy.

Ấy là v́ vô lượng Bồ Tát hễ chưa đạt địa vị Bất Thoái, dẫu cực kỳ dũng mănh như cứu đầu cháy, nhưng bởi chướng duyên bời bời dồn tới nên lần lần bị thoái chuyển, đến nỗi người học đạo nhiều như lông ḅ, kẻ đắc đạo hiếm tựa vảy lân. Khi c̣n tu nhân, Phật Di Đà thương xót họ nhọc khổ nên phát vô thượng nguyện. Do oai đức của Phật nên người được nghe danh hiệu liền chứng đắc ba thứ Nhẫn, chứng được Bất Thoái Chuyển. Vốn ở địa vị thoái chuyển, nhưng nương theo nguyện lực của Phật nên chỉ tiến chẳng lùi, mau chứng được Bồ Đề. Đây thật là nỗi mừng rỡ lớn. Lời b́nh của Hội Sớ: “Nguyện lực khó nghĩ bàn, hễ được một thứ th́ sẽ được hết thảy mọi thứ v́ cùng một lúc được đầy đủ Bất Thoái và Tam Nhẫn” thật đă nêu rơ diệu dụng của phương tiện rốt ráo phát xuất từ Nhất Thừa nguyện hải của Phật Di Đà một cách sâu xa.

Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận lại nói: “Nếu ai muốn mau chóng đạt đến địa vị Bồ Tát Chuyển th́ nên dùng tâm cung kính chấp tŕ danh hiệu”.

Kinh Tiểu Bổn cũng nói: “Nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A Di Đà Phật quốc giả, thị chư nhân đẳng, giai đắc Bất Thoái Chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Nếu có người đă phát nguyện, nay phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sanh về cơi Phật A Di Đà th́ những kẻ ấy đều được bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác)


Sách Hội Sớ cũng nói: “Tam Nhẫn, Bất Thoái đều nằm trong danh hiệu. Khi xưng danh, do danh và nghĩa chẳng rời nhau nên liền tự đạt được những đức như thế”.

Rơ ràng, nếu được nghe danh hiệu, chỉ cần tín, nguyện, tŕ danh th́ ắt có thể ngay trong hiện đời chứng được Bất Thoái. Diệu đức của Di Đà Nhất Thừa nguyện hải thật khó nghĩ suy nổi, sáu chữ hồng danh là phương tiện rốt ráo. Bốn mươi tám nguyện, nguyện nào cũng nhiếp độ chúng sanh, nguyện nào cũng hiển thị lẽ chân thật. Phân ra th́ đến bốn mươi tám nguyện, hợp lại chỉ là một pháp cú. Một pháp cú là thanh tịnh cú: chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân.


 



[1] Tân dịch: Cách dịch kinh theo phong cách của ngài Huyền Trang, đối lập với Cựu Dịch là cách dịch kinh theo phong cách của pháp sư Cưu Ma La Thập. Ngài Huyền Trang chủ trương bám sát nguyên bản, không bỏ bớt chữ nào dù kinh văn rườm rà đến cách mấy. Ngài La Thập chủ trương dịch thoát ư, chỉ gạn lọc lấy ư chính.

[2] Thường quang là quang minh thường chiếu ra nơi thân Phật. Gọi là Thường Quang để phân biệt với Phóng Quang là quang minh do đức Phật phóng ra khi thọ kư hoặc sắp tuyên giảng đại pháp. Một trượng là 3.33 m.

[3] Vô kiến đảnh tướng: Chỉ tướng nhục kế trên đảnh đầu Phật. V́ đảnh đầu Phật có thịt dồn lên như h́nh búi tóc nên gọi là Nhục Kế. Từ nhục kế tỏa ra hào quang vô lượng, ngay cả những vị Thập Địa Bồ Tát chỉ thấy nổi được một phần, ngoài ra không ai thấy được tướng trạng của nhục kế nên gọi là “vô kiến đảnh tướng”. Trong kinh Bảo Tích có ghi ngài Mục Kiền Liên ỷ vào sức thần thông bay lên không trung vượt qua vô lượng thế giới để nh́n cho rơ đảnh tướng của Phật Thích Ca, nhưng Ngài vẫn không thấy được.

[4] Bất Cộng: Do chỉ Đại Thừa mới có, chứ phàm phu, tiểu thánh, nhị thừa, quỷ thần không có nên gọi là Bất Cộng (không cùng chung).

[5] Đương hạ tức thị: Thuật ngữ thường dùng trong tông Thiên Thai, “ngay chính nơi đây chính là”, diễn tả mọi pháp không ngoài tự tâm.

[6] Tâm Sở pháp chỉ những pháp do tác dụng của tâm phát khởi ra. Theo Câu Xá Luận, Tâm Sở gồm năm mươi mốt thứ như: thọ, tưởng, tư, xúc, dục, si, giải đăi, bất tín, hôn trầm, tham, sân, mạn, nghi...

[7] Ức Chỉ (抑止): Ngăn ngừa, cấm đoán.

[8] Trung Ấm Thân (Bardo): Thân trong giai đoạn chuyển tiếp từ lúc chết đi đến lúc tái sanh. Theo Mật tông, giai đoạn này chỉ kéo dài bốn mươi chín ngày sau khi chết.

[9] Theo ngu ư, kim cang ở đây không phải là đá kim cương (diamond) như tác giả suy luận v́ nhiều lẽ: Kim cương cháy được, kim cương không sanh từ vàng. Ngoài ra các đặc tính của kim cang như được miêu tả trong kinh Hoa Nghiêm cho thấy kim cang có những đặc điểm không hề thấy nơi kim cương.

[10] “Câu tỏa thể” là các đầu xương ăn khớp móc chặt vào nhau như khóa. Theo kinh Đại Bát Niết Bàn, các khớp xương nơi thân Như Lai ăn khớp với nhau như được khóa lại nên Như Lai sức mạnh vô cùng, hương tượng đại long không thể sánh bằng. Ở đây chúng tôi chỉ dịch gọn là chắc chắn, mạnh mẽ.

[11] Chủng tử (Bīja) là những chữ Phạn được coi là tâm tủy của những bài chân ngôn do chư Phật, Bồ Tát nói, hoặc được coi là ngữ mật thân của Phật, Bồ Tát, thường được quán tưởng khi hành nhân tŕ tụng chân ngôn. Gọi là chủng tử v́ “từ một chữ có thể sanh ra nhiều chữ, nhiều chữ lại có thể thâu gọn trong một chữ”. Chẳng hạn chủng tử của Đại Nhật Như Lai là A, chủng tử của A Di Đà Phật là Hrih.

[12] Chuyển pháp tánh sanh: Lần sanh cuối cùng này không phải là chết đây sanh kia, mà chỉ là ẩn nơi thiên cung, thị hiện sanh trong thai mẹ nên gọi là chuyển pháp tánh sanh.

[13] Tương tức (相 即): Là lẫn nhau, chẳng hạn, như trong câu này, “điểm sự tương tức diệu lư” là cách nói rút gọn của “chuyện nhỏ nhặt tí ti chính là diệu lư, diệu lư chính là chuyện nhỏ nhặt tí ti”. Đây chính là môn “tương dung tương tức” trong mười huyền môn của tông Hoa Nghiêm.

[14] Tuyển Trạch Bổn Nguyện: Đây là quan điểm đặc sắc của sư Pháp Nhiên, khai tổ Tịnh Độ tông Nhật Bản. Tuyển Trạch Bổn Nguyện hiểu rộng là cả bốn mươi tám nguyện, hiểu hẹp là nguyện thứ mười tám. Gọi là Tuyển Trạch Bổn Nguyện v́ A Di Đà Phật khi tu nhân đă chọn lấy những thệ nguyện thù thắng nhất của chư Phật để kết thành bốn mươi tám nguyện, và Niệm Phật Văng Sanh là tinh tủy, là cốt lơi của cả bốn mươi tám lời nguyện.

[15] Kiến Đạo (Darśana-mārga), c̣n gọi là Kiến Đế Đạo, Kiến Đế, cùng với Tu Đạo và Vô Học Đạo được gọi chung là Tam Đạo. Người chứng địa vị này dùng trí vô lậu quán Tứ Đế, thấu hiểu được lư Tứ Đế, rời địa vị phàm phu, tiến nhập ḍng Thánh. Đại Thừa và Tiểu Thừa hiểu địa vị này khác nhau. Tiểu Thừa cho rằng người những vị đă tu viên măn bảy phương tiện như Tam Hiền, Tứ Thiện Căn sẽ thuộc địa vị Kiến Đạo, c̣n Đại Thừa lại bảo địa vị Sơ Địa trong Thập Địa Bồ Tát mới là Kiến Đạo.

[16] Kinh Niết Bàn bản Nam: Kinh Đại Bát Niết Bàn do ngài Đàm Vô Sấm dịch vào năm 421 đời Bắc Lương, gồm 13 phẩm. Sau đó, kinh này được truyền xuống phương Nam Trung Hoa, các vị Huệ Nghiêm, Huệ Quang, Tạ Linh Vận… đem đối chiếu với kinh Đại Bát Nê Hoàn sáu quyển do ngài Pháp Hiển dịch vào thời Đông Tấn, tu chỉnh thành bản hai mươi lăm phẩm, gọi là kinh Niết Bàn bản Nam. C̣n bản dịch của ngài Đàm Vô Sấm gọi là kinh Niết Bàn bản Bắc. Bản kinh Đại Bát Niết Bàn lưu hành tại Việt Nam gồm bản Nam cộng với kinh Đại Bát Niết Bàn Kinh Hậu Phần do Ngài Nhă Na Bạt Đà La dịch vào đời Đường. Ngoài ra, ngài Pháp Hiển c̣n dịch một bản khác mang tựa đề là Phương Đẳng Nê Hoàn kinh, cũng gọi là Đại Bát Niết Bàn. Kinh này tương đương với bản Đại Bát Niết Bàn theo hệ thống kinh Tạng Nam Truyền của Theravada.