12. Quang minh biến chiếu (光 明
徧 照: Quang minh
chiếu khắp)
Phẩm trước là phẩm Quốc Giới
Nghiêm Tịnh đă tường thuật sự trang nghiêm của
y báo; phẩm thứ mười hai này và phẩm mười
ba tiếp theo đây sẽ nói về chánh báo trang nghiêm. Quang
minh chiếu khắp nghĩa là thân trọn khắp mười
phương; thọ mạng vô lượng là cùng khắp cả
ba đời.
Phẩm này tán dương quang minh của Phật Di Đà:
Trước hết, tán dương quang minh của Phật
Di Đà thù thắng độc nhất, rồi nêu rơ nguyên nhân tại
sao quang minh thù thắng. Tiếp đó, nêu lên mười hai
danh hiệu quang minh thù thắng. Cuối cùng là tŕnh bày diệu
dụng thù thắng của quang minh.
Chánh kinh:
佛 告 阿 難:阿 彌 陀 佛 威 神 光 明,最 尊 第 一。十方 諸 佛,所 不 能 及。徧 照 東 方 恆 沙 佛 剎,南 西 北方,四 維 上 下,亦 復 如 是。若 化 頂 上 圓 光,或 一 二三 四 由 旬,或 百 千 萬 億 由 旬。諸 佛 光 明,或 照 一 二 佛 剎,或 照 百 千 佛 剎。惟 阿 彌 陀 佛,光 明 普 照 無 量 無 邊 無 數 佛 剎。諸 佛 光 明 所 照 遠 近,本 其 前 世 求 道,所 願 功 德 大 小 不 同。至 作 佛 時,各 自 得 之。自 在 所 作,不 為 預 計。阿 彌 陀 佛,光 明 善 好,勝 於 日 月 之 明 千 億 萬 倍。光 中 極 尊,佛 中 之 王。
Phật cáo A
Phật bảo
A
- Oai thần
quang minh của A Di Đà Phật tối tôn đệ nhất,
thập phương chư Phật chẳng thể sánh bằng,
chiếu khắp Hằng sa cơi Phật trong phương
Đông. Trong các phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc, trên,
dưới cũng giống như thế.
Viên quang từ
trên đảnh Ngài hóa ra th́ hoặc là [chiếu xa] một,
hai, ba, bốn do-tuần, hoặc là trăm ngàn vạn ức
do-tuần. Quang minh của chư Phật hoặc chiếu
thấu một, hai cơi Phật, hoặc chiếu trăm ngàn
cơi Phật. Chỉ riêng quang minh của A Di Đà Phật chiếu
trọn vô lượng vô biên vô số cơi Phật.
Quang minh của
chư Phật chiếu xa hay gần vốn là do trong đời
trước khi cầu đạo đă nguyện được
công đức lớn hay nhỏ sai khác. Đến khi thành Phật,
mỗi vị tự đạt được, tự tại
thành tựu chẳng thể tính trước. Quang minh của
A Di Đà Phật tốt lành, vượt trội ánh sáng của
mặt trời, mặt trăng ngàn ức vạn lần,
là tôn quư nhất trong các quang minh, là vua trong các đức Phật.
Giải:
Phẩm này nói về sự thành tựu của nguyện
mười ba “quang minh vô lượng”
và nguyện mười bốn “được
quang minh chiếu thấu liền được an lạc”.
Nguyện mười ba là “quang
minh vô lượng”, “vượt trỗi chư Phật”.
Do nguyện này được thành tựu nên “A Di Đà Phật oai thần
quang minh tối tôn đệ nhất. Thập phương
chư Phật sở bất năng cập” (Oai thần,
quang minh của A Di Đà Phật tối tôn đệ nhất.
Mười phương chư Phật chẳng thể sánh
bằng).
Phật Quả b́nh đẳng sao quang minh lại sai
khác? Sư Vọng Tây đáp: “Thường
đồng, thường biệt: Diệu đức của
chư Phật xét về nội chứng tuy tương
đồng, nhưng do bổn nguyện sai khác nên quang minh
có hơn, kém”.
Đấy chính là ư nghĩa của câu “bổn kỳ tiền thế cầu đạo sở
nguyện công đức đại tiểu bất đồng”
(vốn là do đời trước lúc cầu đạo
đă nguyện được công đức có lớn hay
nhỏ sai khác).
“Hằng sa” là cát con sông Hằng
(Gange) ở Ấn Độ. “Tứ
duy” (bốn góc) là bốn phương ở giữa các
phương Đông,
“Do-tuần” (Yojana) là
đơn vị đo khoảng cách của Ấn Độ,
là số dặm hành quân trong một ngày của bậc đế
vương thời cổ. Do-tuần là bốn mươi
dặm hay ba mươi dặm. Bản chú giải kinh Duy Ma
của ngài Tăng Triệu ghi: “Do-tuần
là tên gọi một số dặm của Thiên Trúc. Thượng
do-tuần là sáu mươi dặm, trung do-tuần là năm
mươi dặm, hạ do-tuần là bốn mươi dặm”.
Sở dĩ có sự sai khác như vậy là v́ từ cổ
đến nay giữa hai nước Ấn Độ và Trung
Hoa, việc hoán chuyển đơn vị đo lường
thường thay đổi luôn. Hơn nữa, số dặm
hành quân trong một ngày chẳng phải là một hằng số,
nên chẳng thể lấy nhất định một con số
nào.
Các câu từ “nhất
do-tuần” đến “bách
thiên Phật sát” (trăm
ngàn cơi Phật) là dùng các cách so sánh để diễn tả
quang minh của Phật chiếu xa hay gần. Câu “duy A Di Đà Phật quang minh phổ
chiếu vô lượng vô biên vô số Phật sát” (chỉ
riêng A Di Đà Phật quang minh chiếu trọn vô lượng
vô biên vô số cơi Phật) diễn tả sự thù thắng
độc đáo của quang minh của A Di Đà Phật nhằm
chứng minh quang minh của Phật tôn quư bậc nhất,
vượt trỗi mười phương. Đấy chính là
nội dung thứ nhất của phẩm này.
Tiếp đó, kinh tŕnh bày nguyên nhân tại sao quang minh của
Phật Di Đà lại đặc biệt thù thắng nhất.
Phẩm trước đă nói: “Thanh
tịnh trang nghiêm siêu du thập phương” (Thanh tịnh
trang nghiêm vượt trỗi mười phương), phẩm
này lại bảo: “Thập
phương chư Phật, sở bất năng cập” (Mười
phương chư Phật chẳng thể sánh bằng). Tiếp
đó lại bảo: “Quang trung
cực tôn, Phật trung chi vương” (Tôn quư nhất
trong các quang minh, vua trong các đức Phật). Trong pháp b́nh
đẳng mà lại có những sự sai biệt như vậy
là v́ trong đời trước khi cầu đạo [các vị
Phật] đă có những bổn nguyện sai khác.
Đại nguyện thứ mười ba của Phật
Di Đà là: “Ngă tác Phật thời,
quang minh vô lượng, phổ chiếu thập
phương, tuyệt thắng chư Phật, thắng
ư nhật nguyệt chi minh thiên vạn ức bội” (Lúc
tôi thành Phật, quang minh vô lượng chiếu khắp
mười phương vượt xa chư Phật,
hơn cả quang minh của mặt trời, mặt
trăng ngàn vạn ức lần). Bởi vậy nên “chí tác Phật thời, các tự
đắc chi, tự tại sở tác, bất vi dự kế”
(đến khi thành Phật, mỗi vị tự đạt
được, tự tại thành tựu, chẳng thể
tính trước), nghĩa là: Đến khi thành Phật, mỗi
vị đều đúng như bổn nguyện mà hiện
quang minh. Đấy đều là việc tự nhiên thành tựu,
chứ chẳng thể do ḿnh muốn hoạch định
hoặc an bài được!
V́ nhân quả hệt như nhau nên “thắng ư nhật nguyệt chi minh, thiên ức vạn
bội, quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (quang minh trội hơn
ánh sáng của mặt trời, mặt trăng ngàn vạn ức
lần, là tôn quư nhất trong các quang minh, là vua trong các đức
Phật).
Chánh kinh:
是 故 無 量 壽 佛,亦 號 無 量 光 佛,亦 號 無 邊 光 佛、無 礙 光 佛、無 等 光 佛,亦 號 智 慧 光、常 照 光、清 淨 光、歡 喜 光、解 脫 光、安 隱 光、超 日 月 光、不 思 議 光。
Thị cố Vô Lượng Thọ Phật,
diệc hiệu Vô Lượng Quang Phật, diệc hiệu
Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Đẳng Quang
Phật, diệc hiệu Trí Huệ Quang, Thường Chiếu
Quang, Thanh Tịnh Quang, Hoan Hỷ Quang, Giải Thoát Quang, An Ổn
Quang, Siêu Nhật Nguyệt Quang, Bất Tư Nghị Quang.
Do đó, Vô
Lượng Thọ Phật cũng có hiệu là Vô Lượng
Quang Phật, cũng gọi là Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại
Quang Phật, Vô Đẳng Quang Phật, cũng hiệu là Trí Huệ
Quang, Thường Chiếu Quang, Thanh Tịnh Quang, Hoan Hỷ
Quang, Giải Thoát Quang, An Ổn Quang, Siêu Nhật Nguyệt
Quang, Bất Tư Nghị Quang.
Giải:
Đoạn này tŕnh bày điểm chính thứ ba của phẩm
này: Mười hai danh hiệu quang minh thù thắng. Mười
hai thứ quang minh ấy được gọi là Thập
Nhị Quang Phật, đều là những danh hiệu khác
của Vô Lượng Thọ Phật, cũng chính là Quả
Giác của ngài Pháp Tạng khi đă thành Phật.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy: “Đại Thế Chí, dữ kỳ đồng luân
ngũ thập nhị Bồ Tát, tức tùng ṭa khởi,
đảnh lễ Phật túc, nhi bạch Phật ngôn:
- Ngă ức văng tích hằng hà sa kiếp,
hữu Phật xuất thế, danh Vô Lượng Quang. Thập
nhị Như Lai tương kế nhất kiếp, kỳ
tối hậu Phật, danh vi Siêu Nhật Quang Phật, bỉ
Phật giáo ngă Niệm Phật tam-muội”
(Đại
Thế Chí Pháp Vương Tử cùng năm mươi hai vị
Bồ Tát đồng hàng với Ngài liền từ ṭa đứng
dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch
Phật rằng:
- Con nhớ trong hằng hà sa kiếp
xưa kia có Phật xuất thế tên là Vô Lượng
Quang. Mười hai vị Như Lai liên tục xuất hiện
trong một kiếp. Vị Phật sau rốt tên là Siêu Nhật
Nguyệt Quang Phật, đức Phật ấy dạy con
Niệm Phật tam-muội).
Mười hai vị Quang Phật trong kinh này chính là
mười hai đức Như Lai trong hằng hà sa kiếp
quá khứ. Kinh Cửu Phẩm Văng Sanh A Di Đà Tam Ma Địa Tập
Đà Ra Ni trong Mật bộ cũng chép: “Thị nội ṭa thập nhị mạn-đà-la
Đại Viên Kính Trí tượng, kỳ danh vi Nhất Thiết
Tam Đạt Vô Lượng Quang Phật... Trí Lực Tam
Minh Siêu Nhật Quang Phật” (H́nh tượng báu của Đại Viên Kính Trí trong
mười hai mạn-đà-la ở nội ṭa có tên là Nhất
Thiết Tam Đạt Vô Lượng Quang Phật… Trí Lực
Tam Minh Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật); câu ấy rất
phù hợp với kinh này.
Bản Đường dịch lại ghi mười
lăm danh hiệu quang minh, bản Tống dịch ghi
mười ba thứ quang minh, chẳng qua là do tách ra hay gộp
lại nên thành sai khác đó thôi!
Trong Tán A Di Đà Phật Kệ, Đàm Loan đại sư
đă viết về “Vô Lượng Quang Phật” như
sau: “Trí huệ quang minh bất khả lượng; cố
Phật hựu hiệu Vô Lượng Quang. Hữu lượng
chư tướng mông Phật hiểu, thị cố khể
thủ Chân Thật Minh” (Trí huệ quang minh chẳng thể
lường; nên Phật lại có hiệu là Vô Lượng
Quang. Các tướng hữu lượng nhờ quang minh chiếu
nên được hiểu; v́ vậy đảnh lễ
đấng Chân Thật Minh). Lời tán tụng này của
đại sư đă khế hợp thánh tâm một cách sâu
xa, Ngài đă trực chỉ quang minh chính là trí huệ, quang
minh và trí huệ bất nhị. Câu “thị cố khể thủ Chân Thật Minh”
nghĩa là: Do quang minh này chính là trí huệ nên phải dập
đầu kính lễ. Do cả bản kinh Đại Bổn
đây chỉ là một chân thật: Chân Thật Tế, Chân
Thật Huệ, Chân Thật Lợi nên kệ mới nói là
“Chân Thật Minh”. Rơ ràng, trong cơi Cực Lạc, y báo, chánh
báo, nhân quả đều thuần là chân thật.
Đại Huệ thiền sư đời Tống
cũng bảo: “Chỉ dùng
quang minh này để tuyên diệu pháp, pháp ấy chính là
quang minh này, chẳng rời quang minh này để thuyết
pháp ấy”. “Pháp ấy” là chân thật pháp, tức là Chân
Thật Tế. Chẳng ĺa quang minh này để thuyết
pháp ấy là v́ trí huệ và quang minh chẳng hai.
Quang minh này là Chân Thật Huệ nên chỉ dùng quang minh
này để tuyên diệu pháp, để ban bố cái lợi
chân thật. Đó cũng chính là diệu dụng của quang
minh. Bởi đó, kệ tán viết: “Các tướng hữu lượng nhờ quang minh
chiếu nên được hiểu”. Do chân thật minh của
trí huệ quang minh này nên có thể hiểu rơ hết thảy
các tướng trong các cơi, cũng như khai ngộ hết
thảy chúng sanh trong các cơi nên mới bảo: “Các tướng hữu lượng
nhờ quang minh chiếu nên được hiểu”. Hết
thảy chúng sanh nhờ vào lực dụng của quang minh
này nên hiểu rơ Chân Thật Huệ.
Sách Luận Chú viết: “Nếu
gặp được quang minh của A Di Đà Phật chiếu
đến th́ sẽ giải thoát các sự ràng buộc
nơi ư nghiệp, vào nhà Như Lai, rốt ráo đắc ư
nghiệp b́nh đẳng”. Đấy chính là ư nghĩa của
câu “nhờ quang minh chiếu nên
được hiểu”.
“Vô Biên Quang Phật”: Tán A Di Đà Phật
Kệ viết: “Giải thoát
quang luân vô hạn tế, cố Phật hựu hiệu Vô
Biên Quang, mông quang xúc giả ly hữu vô, thị cố khể
thủ B́nh Đẳng Giác” (Vầng
ánh sáng giải thoát không ngằn mé, nên Phật lại có hiệu
là Vô Biên Quang; kẻ được quang chiếu soi bèn ĺa hữu,
vô. V́ vậy, kính lễ đấng B́nh Đẳng Giác). Lời
tán dương này của Đàm Loan đại sư thật
thù thắng vượt xa lời tán của các vị khác.
Ngài Nghĩa Tịch giảng chữ “vô biên” là “không ngằn
mé”; Ngài Tịnh Ảnh giảng là “rộng lớn”.
Những cách giải thích như vậy chẳng
được viên măn kỳ diệu như cách giải
thích của ngài Đàm Loan: Dùng ngay chữ Giải Thoát Quang
để giải thích chữ Vô Biên Quang. Giải Thoát là một
trong ba đức của Niết Bàn. Ngài c̣n thêm vào đó chữ
Luân. Luân (輪) hàm nghĩa đầy đủ,
viên măn, diễn tả Giải Thoát Đức viên măn, đầy
đủ. “Vô hạn tế” (không ngằn mé) nghĩa là
không c̣n thuộc trong hết thảy hạn lượng,
ranh giới. “Ly hữu vô” là
ĺa khỏi hai khái niệm Có và Không. Do ĺa hết thảy những
quy ước, thung dung Trung Đạo, ĺa cả nhị biên lẫn
Trung Đạo, giải thoát rốt ráo. Đấy là ư nghĩa của
chữ “Vô Biên” cũng
như chính là ư nghĩa của câu “ư nghiệp b́nh đẳng rốt ráo” trong sách Luận
Chú.
Câu kệ sau cùng gọi ngay Phật là B́nh Đẳng Giác
(B́nh Đẳng Giác cũng chính là một thánh hiệu của
Phật Di Đà) chỉ ngay vào Đệ Nhất Nghĩa Đế,
b́nh đẳng rốt ráo, vạn pháp hệt như nhau. Lời
tán dương này của ngài Đàm Loan quả đă phơi bày
rành rành ư nghĩa sâu xa của Phật hiệu Vô Biên Quang. Đấy
mới đúng là tán Phật.
“Vô Ngại Quang Phật”: Ngài Cảnh
Hưng, ngài Nghĩa Tịch đều bảo “vô ngại” nghĩa là “quang minh không chướng ngại”;
ngài Tịnh Ảnh bảo “vô
ngại” là “tự tại”.
Ngài Đàm Loan khen danh hiệu này như sau: “Quang vân vô ngại như hư không, cố Phật hựu
hiệu Vô Ngại Quang. Nhất thiết hữu ngại
mông quang trạch, thị cố đảnh lễ
Chữ “Vô Đẳng Quang Phật”
trích từ bản Đường dịch và Tống dịch,
bản Ngụy dịch ghi là Vô Đối Quang Phật; ngài Tịnh
Ảnh bảo: “Phật quang
không ǵ đương cự nổi nên gọi là Vô Đối”.
Ngài Cảnh Hưng bảo: “Bồ
Tát chẳng thể bằng [Phật] nên gọi là Vô Đối”.
Ngài Đàm Loan khen ngợi danh hiệu này như sau: “Thanh tịnh quang minh vô hữu
đối, cố Phật hựu hiệu Vô Đối
Quang” (Thanh tịnh quang
minh không ai đương cự được, v́ thế
Phật hiệu là Vô Đối Quang).
Vô Đối đồng nghĩa với Vô Đẳng (không ǵ
bằng được); không có ǵ sánh bằng nổi chính
là dứt bặt đối đăi. Câu kinh Thủ Lăng
Nghiêm: “Ngă chân Văn Thù, vô thị
Văn Thù” (Ta thật là Văn
Thù, nhưng không có ǵ là Văn Thù) đă thể hiện
ư nghĩa không ǵ so sánh, không ǵ bằng được, dứt
tuyệt đối đăi: Nếu ta là Văn Thù th́ hóa ra có
đến hai Văn Thù. Như vậy là có đối
đăi, so sánh. Do đó, ư nghĩa của danh hiệu Vô Đẳng
Quang Phật rất sâu xa vậy.
Ngài Tịnh Ảnh giảng danh hiệu “Trí Huệ Quang” như sau: “Khéo chiếu các pháp nên gọi là Trí Huệ Quang”.
Ngài Cảnh Hưng lại bảo: “Quang minh từ tâm thiện căn chẳng si của
Phật phát khởi, trừ được vô minh phẩm
tâm của chúng sanh nên chính là Trí Huệ”. Ngài Đàm Loan lại
tán rằng: “Phật quang
năng phá vô minh ám, cố Phật hựu hiệu Trí Huệ
Quang” (Phật quang phá tan tối
tăm vô minh nên Phật lại hiệu là Trí Huệ Quang).
Cả hai ư sau (tức là ư của ngài Cảnh Hưng và ngài
Đàm Loan) cùng cho rằng do phá trừ vô minh nên gọi là Trí Huệ
Quang, trừ sạch tâm vô minh nhơ bẩn của chúng ta,
ban cho chúng ta cái lợi chân thật nên Phật Di Đà
được xưng tụng là tôn quư nhất trong các quang
minh, vua trong chư Phật.
Chữ “Thường Chiếu
Quang” lấy từ bản Tống dịch. Thường
Tịch Quang tịch mà thường chiếu nên gọi là
Thường Chiếu Quang; bản Ngụy dịch ghi là Vô
Đoạn Quang. Ngài Tịnh Ảnh bảo: “Thường chiếu chẳng dứt nên gọi là Bất
Đoạn Quang”, ngài Cảnh Hưng giảng: “Thường quang của Phật
luôn chiếu soi làm lợi ích nên chẳng đoạn”.
Ngài Đàm Loan tán rằng: “Quang minh
nhất thiết thời phổ chiếu, cố Phật hựu
hiệu Bất Đoạn Quang” (Trong hết thảy thời quang minh chiếu trọn
khắp, nên Phật lại hiệu là Bất Đoạn Quang).
Trong hết thảy thời thường chiếu trọn
khắp chính là ư nghĩa của chữ “Thường Chiếu”.
Ngài Tịnh Ảnh giảng “Thanh
Tịnh Quang” là: “Ĺa nhơ
nên bảo là tịnh”, ngài Cảnh Hưng bảo: “Từ thiện căn chẳng
tham của Phật phát hiện và cũng trừ được
hết thảy tâm tham nhơ của
chúng sanh nên là Thanh Tịnh”. Ngài Đàm Loan tán rằng: “Đạo quang minh lăng sắc
siêu tuyệt, cố Phật hựu hiệu Thanh Tịnh
Quang. Nhất mông quang chiếu tội cấu trừ, giai
đắc giải thoát cố đảnh lễ” (Đạo quang rạng ngời sắc
siêu tuyệt nên Phật lại hiệu là Thanh Tịnh Quang.
Một phen được quang minh chiếu đến th́ tội
cấu tiêu trừ, đều được giải thoát.
V́ thế, [con] đảnh lễ). Như vậy, quang
minh này rạng ngời, ly cấu; lại c̣n tiêu trừ tham
trược và tội cấu của chúng sanh nên đặt
tên là Thanh Tịnh Quang.
Sách Văng Sanh Luận cũng bảo: “Cần biết rằng: Nói gọn lại, ba thứ
thành tựu nguyện tâm trang nghiêm này cùng nhập vào một
pháp cú. Một pháp cú là thanh tịnh cú. Thanh tịnh cú là chân
thật trí huệ vô vi Pháp Thân”. Do vậy, Thể của một
danh hiệu thanh tịnh chính là chân thật Pháp Thân, gồm
trọn ba thứ trang nghiêm là cơi nước, Phật, Bồ
Tát. V́ vậy, trong bản Hán dịch, danh hiệu của A
Di Đà Phật được ghi là Vô Lượng Thanh Tịnh
Phật. Phật Di Đà lại có mật hiệu là Thanh Tịnh
Kim Cang. Theo đó mà suy, hai chữ Thanh Tịnh mang ư nghĩa
rất sâu sắc.
Với danh hiệu Hoan Hỷ Quang, ngài Tịnh Ảnh bảo:
“Có thể làm cho người
được thấy trong ḷng vui thích th́ gọi là Hỷ”,
ngài Cảnh Hưng giảng: “Từ
thiện căn vô sân của Phật sanh ra, trừ
được tâm nóng giận ganh ghét của chúng sanh nên
hoan hỷ”. Ngài Đàm Loan tán rằng: “Từ quang gia bị thí an lạc, cố Phật hựu
hiệu Hoan Hỷ Quang” (Do
từ quang gia bị ban cho sự an lạc, nên Phật lại
hiệu Hoan Hỷ Quang).
“An lạc” là như kinh Pháp Hoa dạy: “Thân ư thái nhiên, khoái đắc an lạc” (Thân ư thoải mái, sung sướng
hưởng an vui). Phật quang khiến cho chúng sanh an
vui, mừng rỡ nên hiệu là Hoan Hỷ Quang.
Danh hiệu “Giải Thoát
Quang” trích từ bản Tống dịch, bản Ngụy
dịch không ghi danh hiệu này nên các bậc cổ đức
chưa hề chú giải. Trong bản Ngụy dịch lại
ghi hai danh hiệu là Viêm Vương Quang và Vô Xưng Quang nên
ngài Đàm Loan tán rằng: “Phật
quang chiếu diệu tối đệ nhất, cố Phật
hựu hiệu Quang Viêm Vương, tam đồ hắc ám
mông quang khải, thị cố đảnh lễ Đại
Ứng Cúng” (Phật quang
chiếu rực cao tột bậc nhất nên Phật lại
hiệu là Quang Viêm Vương. Tam đồ tăm tối
được quang minh khai mở. V́ vậy đảnh lễ
đấng Đại Ứng Cúng) và: “Thần quang ly tướng bất khả danh, cố
Phật hựu hiệu Vô Xứng Quang. Nhân quang thành Phật
quang hách nhiên, chư Phật sở thán cố đảnh lễ”
(Thần quang ĺa tướng
chẳng thể gọi tên được; v́ vậy, Phật
lại hiệu là Vô Xưng Quang. Do quang minh thành Phật nên
quang minh càng chói lọi, bởi chư Phật khen ngợi
nên con đảnh lễ). Rơ ràng cả hai bài kệ
trên cùng khen ngợi phẩm đức Giải Thoát.
“Thần quang ly tướng” và “nhân quang thành Phật” (do quang minh thành Phật) diễn
tả Tự Giác Đức của Giải Thoát Quang. “Phật quang tối đệ nhất”
(Phật quang tột bậc
nhất) và “tam đồ
mông quang
(tam đồ được
quang minh chiếu) diễn tả Giác Tha Đức của
Giải Thoát Quang. Đem cả hai bài kệ ấy để
suy xét th́ rơ ràng là cả hai cùng diễn tả đức
tánh lợi ích của Giải Thoát Quang. Ly tướng thành
Phật, phóng quang phổ độ chính là diệu đức
và lợi ích của Giải Thoát Quang. Do đây ta cũng thấy
rằng các bản dịch cổ [dịch danh hiệu] có
sai khác th́ chẳng qua là do diễn rộng hay thâu hẹp mà
thôi.
Danh hiệu “An Ổn Quang” trích
từ bản Tống dịch. An Ổn nghĩa là thân tâm
yên ổn. Do ngũ trược, tám khổ chẳng thể
quấy nhiễu nổi nên bảo là An (安); núi sụp, đất lở cũng chẳng thể
lay động nổi nên gọi là Ổn (隱). Tông Kính Lục lại viết: “An ổn khoái lạc th́ tịch
tĩnh diệu thường”, mà “tịch tĩnh diệu thường” chính là
Thường Tịch Quang. Rơ ràng, sanh và diệt đă bị
diệt hết rồi th́ tịch diệt là vui; đó là ư
nghĩa chữ An. Ba đời hệt như nhau, chẳng
quá khứ, không vị lai; đấy là ư nghĩa của chữ
Ổn. Tịch tịnh thường diệu, quang minh mầu
nhiệm của Phật Di Đà chiếu trọn khắp, khiến
cho tất cả chúng sanh an ổn, khoái lạc, thoát khỏi
các sanh diệt nên gọi là An Ổn Quang.
Về danh hiệu “Siêu Nhật
Nguyệt Quang”, ngài Tịnh Ảnh giảng: “Vượt khỏi tướng
thế gian nên gọi là Siêu Nhật
Nguyệt”; ngài Cảnh Hưng giảng: “Ngày đêm luôn chiếu chẳng giống với ánh
sáng của mặt trời, mặt trăng trong cơi Sa Bà nên gọi
là Siêu Nhật Nguyệt”.
Ngài Đàm Loan tán rằng: “Quang minh
chiếu diệu quá nhật nguyệt, cố Phật hiệu
Siêu Nhật Nguyệt Quang” (Quang
minh chiếu ngời vượt hẳn mặt trời, mặt
trăng. V́ thế Phật hiệu là Siêu Nhật Nguyệt
Quang).
Kinh Siêu Nhật Minh Tam Muội lại dạy:
“Nhật chi quang minh chiếu
hiện tại sự. Nhân vật nhuyễn động,
bách cốc dược mộc, chư thiên, long thần, giai
nhân nhật thành, phổ đắc mậu hoạt. Nhật
bất năng chiếu nhị Thiết Vy gian, diệc bất
năng chiếu nhân tâm bổn linh khai đạt. Đản
chiếu hữu h́nh, bất chiếu vô h́nh. Siêu Nhật Nguyệt
tam-muội, sở dĩ thắng giả hà? Thù chiếu thập
phương, vô biên vô tế. Tam giới ngũ đạo,
mị bất triệt sướng. Hà huống Di Đà
quang minh, cố danh Siêu Nhật Nguyệt Quang” (Quang minh của mặt trời soi tỏ mọi sự.
Loài người, muôn vật, côn trùng, dược thảo
trong các hang hốc, chư thiên, long thần đều nhờ
mặt trời mà tồn tại, cùng được
tươi tốt, nảy nở. Nhưng mặt trời
chẳng thể chiếu tới khoảng giữa hai núi Thiết
Vy, cũng chẳng thể soi rọi cho cơi ḷng con người
được khai ngộ, chỉ chiếu hữu h́nh, chẳng
chiếu nổi vô h́nh. V́ sao Siêu Nhật Minh tam-muội thù
thắng? V́ tam-muội chiếu cả mười
phương không bến, không bờ; tam giới, ngũ
đạo không đâu là chẳng chiếu thấu suốt.
[Tam-muội đă như thế] huống hồ là quang minh
của Phật Di Đà. V́ vậy Ngài hiệu là Siêu Nhật
Nguyệt Quang).
Đoạn kinh trên đây đă giải thích danh hiệu
Siêu Nhật Nguyệt Quang một cách khéo léo vượt xa
những cách giải thích trước đó. Ánh sáng mặt
trời chỉ có thể chiếu rọi hết thảy những
thứ hữu h́nh, sanh trưởng thiên địa vạn
vật, nhưng chẳng chiếu nổi thứ vô h́nh, chẳng
thể chiếu qua núi Thiết Vy (v́ vậy, chẳng soi
được khoảng giữa hai núi Thiết Vy), chẳng
thể khai minh cơi ḷng con người. Siêu Nhật Nguyệt
tam-muội thù thắng hơn thế, nhưng quang minh của
Phật Di Đà lại c̣n vượt xa tam-muội này. Do vậy,
Phật hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang.
Danh hiệu “Bất Tư
Nghị Quang” thấy ghi trong hai bản Đường dịch
và Tống dịch, bản Ngụy dịch tách thành hai danh
hiệu “Nan Tư Quang” và “Vô Xưng Quang”. Nhưng Nan
Tư chính là chẳng nghĩ nổi, Vô Xưng là chẳng
thể diễn tả nổi. Ngài Tịnh Ảnh bảo: “Vượt ngoài mức tâm tưởng
của thế gian nên bảo là
Ngài Đàm Loan lại tán rằng: “Quang minh ấy ngoại trừ Phật ra, không ai có thể
suy lường nổi nên Phật lại hiệu là
Kinh Cổ Âm Thanh Vương Đà Ra Ni cũng nói: “Nhĩ thời, thập
phương Hằng sa chư Phật, giai cộng tán bỉ
An Lạc thế giới,sở hữu Phật pháp bất
khả tư nghị, thần thông hiện đại, chủng
chủng phương tiện bất khả tư nghị.
Nhược năng hữu tín như thị chi sự, đương
tri thị nhân bất khả tư nghị. Sở đắc
nghiệp báo diệc bất khả tư nghị” (Lúc bấy giờ, mười
phương hằng sa chư Phật đều cùng khen ngợi
thế giới An Lạc ấy: Tất cả Phật pháp
chẳng thể nghĩ bàn, thần thông biến hiện,
các thứ phương tiện chẳng thể nghĩ bàn.
Nếu có ai tin được sự như vậy th́ nên biết
kẻ đó là chẳng thể nghĩ bàn, đạt
được nghiệp báo cũng chẳng thể nghĩ
bàn).
Trong sách A Di Đà Sớ Sao, Liên Tŕ đại sư c̣n giảng
về “bất khả tư nghị”
như sau:
“Bất khả tư nghị
chia ra thành bốn thứ:
1. Một là công đức
thí pháp rộng lớn như là vô lượng thọ, vô
lượng quang, tam bảo đạo phẩm v.v…
2. Hai là công đức thần
thông biến hóa trọn khắp như là: nước, chim,
cây
cối đều tuyên diệu
pháp, tự nhiên thọ hưởng cơm áo, đồ
dùng; chúng sanh đều đầy đủ tướng hảo,
thần thông biến hóa v.v…
3. Ba là công đức tin nhận
căn lành đời trước như là: tin nhận
được pháp khó tin, đời trước đă tu
vô lượng căn lành v.v…
4. Bốn là công đức
quả báo không chi hơn được như là liền
được văng sanh, liền được dự vào
trong số những vị thượng thiện nhân, trụ
ngay vào địa vị Bất Thoái Chuyển, rốt ráo
thành Phật v.v…
Những việc như vậy
đều vượt xa thường t́nh nên bảo là bất
khả tư nghị như kinh Kim Cang Bát Nhă dạy: ‘Thị
kinh bất khả tư nghị, quả báo diệc bất
khả tư nghị” (Kinh này
nghĩa lư chẳng thể nghĩ bàn, quả báo cũng chẳng
thể nghĩ bàn).
Hơn nữa, theo kinh Tiểu Bổn, y báo, chánh báo, nhân
quả đều chẳng thể nghĩ bàn. Sách Sớ Sao
viết: “Về y báo th́ Đồng
Cư chính là Thường Tịch Quang; về chánh báo th́ Ứng
Thân chính là Pháp Thân; nhân th́ bảy ngày thành tựu; quả th́
một phen văng sanh sẽ Bất Thoái. Đấy cũng là những
việc vượt xa khỏi thường t́nh nên cũng đều là chẳng
thể nghĩ bàn cả”.
Sách Di Đà Yếu Giải cũng bảo: “Nói đại lược, bất khả tư nghị
có đến năm nghĩa:
1. Vượt ngang khỏi
tam giới chẳng chờ phải đoạn Hoặc.
2. Đă sanh về Tây
phương th́ thấy đủ cả bốn cơi, chẳng
cần phải tiến từng
bậc một.
3. Chỉ tŕ danh hiệu, chẳng
cần đến các phương tiện Thiền Quán.
4. Lấy bảy ngày làm hạn,
chẳng cần phải nhiều kiếp, nhiều đời,
lâu ngày chầy tháng.
5. Tŕ danh hiệu một vị
Phật liền được chư Phật hộ niệm,
chẳng cần tŕ danh của hết thảy các đức
Phật khác.
Đấy đều là do đại
nguyện hạnh của đấng Đạo Sư tạo
thành nên bảo là cái lợi công đức chẳng thể
nghĩ bàn của A Di Đà Phật”.
Sách Yếu Giải c̣n viết: “Hành nhân tín, nguyện, tŕ danh, hoàn toàn lấy công
đức của Phật biến thành công đức của
chính ḿnh” đúng là lời “hồng
tâm của cái hồng tâm”[2].
Cận đại, Ấn Quang đại sư đă tán
dương sách Yếu Giải như sau:
“Lư Sự đều đạt
đến mức cùng cực, là bản chú giải bậc
nhất kể từ khi đức Phật giảng kinh này
đến nay, khéo léo, chính xác đến mức tuyệt diệu!
Ví dù cổ Phật xuất hiện lần nữa trong thế
gian để chú giải lại kinh này th́ cũng chẳng
thể hay hơn được nổi”. Thật đúng
lắm thay!
Trong bất tư nghị quang chứa đựng công
đức chẳng thể nghĩ bàn của A Di Đà Phật
nên Phật hiệu là Bất Tư Nghị Quang.
Chánh kinh:
如 是 光 明,普 照 十 方 一 切 世 界。其 有 眾 生,遇 斯 光 者,垢 滅 善 生,身 意 柔 軟。若 在 三 途 極 苦 之 處,見 此 光 明,皆 得 休 息,命 終 皆 得 解 脫。若 有 眾 生 聞 其 光 明 威 神 功 德,日 夜 稱 說,至 心 不 斷,隨 意 所 願,得 生 其 國。
Như thị quang minh, phổ chiếu thập
phương nhất thiết thế giới. Kỳ hữu
chúng sanh, ngộ tư quang giả, cấu diệt, thiện
sanh, thân ư nhu nhuyễn. Nhược tại tam đồ cực
khổ chi xứ, kiến thử quang minh, giai đắc
hưu tức, mạng chung giai đắc giải thoát.
Nhược hữu chúng sanh văn kỳ quang minh oai thần,
công đức, nhật dạ xưng thuyết, chí tâm bất
đoạn, tùy ư sở nguyện, đắc sanh kỳ quốc.
Quang minh như
vậy chiếu khắp hết thảy thế giới
trong mười phương. Có chúng sanh nào gặp được quang minh này th́
cấu diệt, thiện sanh, thân ư nhu nhuyễn. Nếu kẻ
đang ở trong chốn tam đồ cực khổ mà thấy
được quang minh này th́ đều được
ngưng nghỉ [nỗi khổ], khi mạng chung đều được giải thoát. Nếu
chúng sanh nào nghe công đức oai thần của quang minh ấy
mà ngày đêm kể, nói, chí tâm chẳng ngớt th́ thuận
theo ḷng mong sẽ được sanh về cơi ấy.
Giải:
Đoạn này tŕnh bày chủ đề thứ tư của phẩm này: Diệu
dụng thù thắng của quang minh Phật Di Đà. Đây chính là
kết quả của nguyện mười bốn “quang minh chiếu đến
được an lạc”.
Câu “kỳ hữu chúng sanh
ngộ tư quang giả” (có chúng sanh nào gặp
được quang minh này) ngụ
ư: Tuy Phật quang chiếu khắp mười phương
vô biên vô ngại, nhưng do chúng sanh căn tánh bất đồng,
căn kém, duyên hèn khác nào chậu úp xuống, dẫu ánh sáng
mặt trời chiếu khắp vẫn không cách chi soi được ḷng chậu, như
người úp chậu lên đầu chẳng thấy
được ánh sáng; v́ thế mới có kẻ gặp
được hay chẳng gặp được quang minh
của Phật. Nếu là người có cơ duyên “ngộ tư quang giả” (gặp được quang minh) này ắt sẽ
đạt được những lợi ích lớn lao
như sau:
1. “Cấu diệt”: Bản
Ngụy dịch ghi là “tam cấu
tiêu diệt”, tam cấu chính là ba độc tham, sân, si.
2. “Thiện sanh” như
Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận bảo: “Thiện căn là chẳng tham, chẳng sân, chẳng
si. Hết thảy pháp lành đều sanh từ ba pháp ấy”.
Trí Độ Luận, quyển ba mươi cũng chép: “Hết thảy thiện pháp
đều từ ba thiện pháp mà sanh và tăng trưởng”.
Như vậy, “cấu diệt” th́ “thiện sanh”. Bản
Ngụy dịch chép là “thiện
tâm sanh yên” (thiện tâm
phát sanh). Thiện tâm là dùng hai pháp Tàm và Quư[3]
và ba căn vô tham, vô sân, vô si để làm tự tánh cho
điều lành. Dùng những điều ấy để
cùng tương ứng khởi lên hết thảy tâm và Tâm Sở
th́ gọi là “thiện tâm”.
Xét theo bổn nguyện Di Đà, thiện tâm chính là tín tâm chân thật
trong Tịnh tông.
“Thân ư” chính là ba nghiệp
thân, khẩu, ư. “Nhu nhuyễn”
nghĩa là tâm nhu ḥa, thuận theo đạo như kinh Pháp
Hoa nói: “Chúng sanh kư tín phục,
chất trực ư nhu nhuyễn” (Chúng sanh đă tin phục, ư chất trực nhu nhuyễn).
Ấy là v́ chúng sanh cơi này ương ngạnh khó giáo
hóa nên một khi “thân ư nhu nhuyễn”
th́ mới dễ điều phục, giáo hóa.
Chữ “đồ” (途) trong “tam đồ” nghĩa là con
đường. Tam đồ là hỏa đồ, huyết
đồ và đao đồ. Tiểu địa ngục gồm
cả ngục nóng lẫn lạnh, đại địa ngục
chỉ thuần là ngục nóng; chỉ nói đến ngục
nóng nên gọi địa ngục là “hỏa đồ”. Súc sanh thường ăn nuốt
lẫn nhau nên gọi là “huyết
đồ”. Ngạ quỷ thường bị xua đuổi
nên gọi là “đao đồ”.
Chúng sanh trong đường ác, ở những chốn cực
khổ được Phật quang chiếu đến th́
nỗi khổ ấy được ngừng dứt nên
được nghỉ yên. V́ vậy, kinh bảo “giai đắc hưu tức” (đều
được ngưng nghỉ). Đấy là v́ Phật đă
nguyện: “Kiến ngă quang minh,
chiếu xúc kỳ thân, mạc bất an lạc, từ tâm
tác thiện, lai sanh ngă quốc” (Thấy quang minh của
tôi chiếu soi đến thân th́ không ai chẳng được
an lạc, từ tâm làm lành, sanh trong nước tôi). Nay Phật
nói quang minh có lợi ích thù thắng như thế để
hiển thị sự thành tựu của lời nguyện ấy.
Câu “mạng chung giai đắc
giải thoát” (khi mạng chung đều được
giải thoát) diễn tả ư “từ
tâm tác thiện, văng sang Cực Lạc”. Ta thấy: Chúng
sanh cực khổ trong tam đồ nếu thấy
được quang minh của Phật liền được
dứt khổ, khi mạng chung sẽ văng sanh. Bởi thế,
nguyện lực và sức oai quang nhiếp thọ của
Phật Di Đà đều chẳng thể nghĩ bàn. Quán kinh
cũng chép: “Vô Lượng Thọ Phật hữu bát vạn
tứ thiên tùy h́nh hảo, nhất nhất hảo trung, phục
hữu bát vạn tứ thiên quang minh, nhất nhất quang
minh biến chiếu thập phương thế giới niệm
Phật chúng sanh, nhiếp thủ bất xả” (Vô
Lượng Thọ Phật có tám vạn bốn ngàn tướng,
mỗi một tướng có tám vạn bốn ngàn tùy h́nh hảo.
Trong mỗi một tùy h́nh hảo lại có tám vạn bốn
ngàn quang minh; mỗi một quang minh chiếu chúng sanh niệm
Phật trong khắp mười phương thế giới,
nhiếp thủ chẳng bỏ). Sách Bát Châu Tán cũng ghi: “Bất vị dư duyên quang phổ
chiếu, duy mịch niệm Phật văng sanh nhân” (Chẳng v́ các duyên khác mà chiếu
khắp, chỉ v́ kiếm người niệm Phật văng
sanh). Do vậy, người niệm Phật chân thật
chính là người hữu duyên gặp được quang
minh này. Trong bản sớ giải của ngài Vọng Tây có
đoạn:
“Hỏi: Hành giả trong nhân
gian họa may c̣n thấy được quang minh, chớ
chúng sanh trong tam đồ làm sao thấy nổi?
Đáp: Kinh Tâm Địa Quán có dạy:
‘Dĩ kỳ nam nữ truy tu phước, hữu đại
kim quang chiếu địa ngục, quang trung diễn thuyết
vi diệu pháp, khai ngộ phụ mẫu linh phát ư” (Do kẻ nam người nữ kia tu phước hồi
hướng [cho cha mẹ đă khuất] nên có ánh sáng lớn
màu vàng ṛng chiếu thấu tới địa ngục. Trong
quang minh diễn thuyết pháp vi diệu, khai ngộ cha mẹ khiến họ phát
ư). Con hiếu làm lành hồi hướng
cho cha mẹ c̣n được như vậy, huống là
quang minh lớn lao của Phật
Di Đà mà lại luống uổng ư!”.
“Nhược hữu chúng sanh
văn… nhật dạ xưng thuyết, chí tâm bất đoạn” (Nếu chúng sanh nghe nói… ngày
đêm nói kể, chí tâm chẳng ngớt): Kẻ nghe nói
đức tánh của quang minh của đức Phật
bèn ngày đêm kể nói th́ cũng đều “tùy ư sở nguyện, đắc
sanh kỳ quốc” (thuận theo ḷng mong sẽ được
sanh về cơi ấy). Bản Ngô dịch ghi: “Thiện nam tử, thiện nữ
nhân, văn A Di Đà Phật thanh, xưng dự quang minh.
Triêu mộ thường xưng dự kỳ quang minh hảo,
chí tâm bất đoạn tuyệt, tại tâm sở nguyện,
văng sanh A Di Đà Phật quốc” (Thiện nam tử,
thiện nữ nhân nghe tiếng A Di Đà Phật, khen ngợi
quang minh. Sáng tối thường khen ngợi quang minh ấy
tốt đẹp, chí tâm chẳng đoạn tuyệt,
trong tâm mong mỏi văng sanh cơi A Di Đà Phật).
Câu “văn kỳ quang minh
oai thần công đức” (nghe công đức oai thần
của quang minh ấy) trong hội bản tương
đương câu “văn A Di
Đà Phật thanh” (nghe tiếng A Di Đà Phật) trong bản
Ngô dịch. Câu “nhật dạ
xưng thuyết, chí tâm bất đoạn” (ngày đêm
nói kể chí tâm chẳng ngớt) tương
đương câu “triêu mộ
thường xưng dự kỳ quang minh hảo” (sáng tối
thường khen ngợi quang minh ấy tốt đẹp)
của bản Ngô dịch. Câu “tùy
ư sở nguyện, đắc sanh kỳ quốc” (thuận
theo ḷng mong sẽ được văng sanh cơi ấy)
tương đương câu “tại
tâm sở nguyện, văng sanh A Di Đà Phật quốc” (trong
ḷng mong mỏi văng sanh cơi Phật A Di Đà) của bản Ngô dịch.
Sách Hội Sớ nói: “Ngày
đêm xưng nói quang minh của Phật Di Đà chí tâm chẳng
ngớt chính là cái nhân văng sanh… Nhưng chí tâm tin ưa
xưng niệm danh hiệu đức Phật ấy th́ mới
chính là nghĩa thật sự của ngày đêm nói kể”.
Ư sách nói: Tuy “nhật dạ
xưng thuyết, chí tâm bất đoạn” đúng là cái
nhân để văng sanh Tịnh Độ, nhưng tín nguyện
tŕ danh mới chính là ư nghĩa thật sự của “nhật dạ xưng thuyết”.
Vả lại, tín nguyện tŕ danh chính là chánh nhân văng sanh nên
ai nấy đều được văng sanh cả.
[1] Viên quang: Do quang minh tỏa ra bao trọn
quanh đầu (đảnh quang) hoặc thân ḿnh (thân quang)
nên gọi là Viên Quang (ánh sáng bao trọn).
[2] Ư nói: Lời cốt
yếu nhất trong những lời cốt yếu. “Hồng
tâm của hồng tâm” chính là điểm chính giữa của
cái gọi là hồng tâm trong tấm bia để bắn
tên.
[3]
Tàm và Quư là hai pháp thuộc
về Tâm Sở. Theo Câu Xá Luận quyển bốn, có hai
cách giải thích Tàm và Quư.
1.
Cách hiểu phổ biến nhất: Tự xấu hổ về
tội lỗi do ḿnh đă tạo là Tàm (慚), thẹn với người
v́ ḿnh đă tạo tội lỗi là Quư (愧).
2. Tàm là tôn kính các công đức
và những người có công đức, tâm kinh sợ tội
lỗi là Quư.