44. Thọ Bồ Đề kư( )

Trong tác phẩm Vô Lượng Thọ Kinh Khoa Chú, trưởng lăo Từ Châu pháp sư thuộc chùa Tịnh Liên ở Bắc Kinh đă cho rằng nội dung của phẩm này là “pháp sư bất thoái, được thọ kư để khuyến tín”. Ư nói: Người có thể diễn thuyết bản kinh này, tín hạnh bất thoái th́ liền được thọ kư; Phật dùng điều này để phổ khuyến các pháp sư và đại chúng.

Lời phán định của lăo pháp sư rất khế hợp với ư chỉ của kinh. Trong phẩm này, trước hết là nói đến việc thuyết pháp được lợi ích; tiếp đó nói: Do chẳng nghe nên bị thoái chuyển và khuyên nên giảng thuyết cho người khác. Cuối cùng là thọ kư Bồ Đề.

Chánh kinh:

世,乃 時,當 生,植 本,已 佛。由 故,能 門。攝 持,當 智。於 中,廣 解, 喜。廣 說,常 行。諸 子,及 女人,能 法,若 求、現 求、當 者,皆 利。汝 疑,種 本,應 習,使 滯,不 獄。

Nhược ư lai thế, năi chí chánh pháp diệt thời, đương hữu chúng sanh, thực chư thiện bổn, dĩ tằng cúng dường vô lượng chư Phật. Do bỉ Như Lai gia oai lực cố, năng đắc như thị quảng đại pháp môn, nhiếp thủ thọ tŕ, đương hoạch quảng đại Nhất Thiết Trí trí. Ư bỉ pháp trung, quảng đại thắng giải, hoạch đại hoan hỷ, quảng vị tha thuyết, thường nhạo tu hành. Chư thiện nam tử, cập thiện nữ nhân, năng ư thị pháp, nhược dĩ cầu, hiện cầu, đương cầu giả, giai hoạch thiện lợi. Nhữ đẳng ưng đương an trụ vô nghi, chủng chư thiện bổn, ưng thường tu tập, sử vô nghi trệ, bất nhập nhất thiết chủng loại trân bảo thành tựu lao ngục.

Nếu trong đời tương lai cho đến lúc chánh pháp diệt mà có chúng sanh trồng các cội lành, từng cúng dường vô lượng chư Phật, do được các đức Như Lai ấy gia hộ oai lực th́ mới được pháp môn quảng đại như vậy nhiếp thủ, thọ tŕ, sẽ đạt trí Nhất Thiết Trí quảng đại. Đối với pháp ấy mà hiểu biết lớn lao, thù thắng th́ được đại hoan hỷ, rộng v́ người khác nói, thường thích tu hành. Các thiện nam tử, thiện nữ nhân nếu có thể đối với pháp này mà đă cầu, đang cầu, sẽ cầu th́ đều được thiện lợi. Các ông nên an trụ vào vô nghi, trồng các cội lành, nên thường tu tập, khiến cho không bị nghi trệ, chẳng vào hết thảy các thứ lao ngục bằng trân bảo.

Giải:

“Chánh pháp diệt thời” (Lúc chánh pháp diệt): Một đời giáo hóa của đức Phật trải qua ba thời kỳ: Chánh Pháp, Tượng Pháp và Mạt Pháp.

Trong Pháp Hoa Nghĩa Sớ, quyển năm, ngài Gia Tường đă viết: “Phật tuy đă nhập diệt, nhưng pháp nghi chưa bị biến đổi th́ gọi là thời Chánh Pháp. Phật nhập diệt đă lâu, giáo pháp sai lạc dần th́ gọi là thời Tượng Pháp. Dần dần chuyển thành càng kém hơn nữa th́ gọi là thời Mạt Pháp”.

Chánh Pháp c̣n gọi là Chứng, Tượng pháp là Tương Tự, Mạt Pháp là Suy Vi.

Quyển ba bản sớ giải kinh Nhân Vương Hộ Quốc của ngài Thanh Long cũng có câu: “Có Giáo, có Hạnh, có người chứng quả th́ gọi là Chánh Pháp. Có Giáo, có Hạnh, không người chứng quả th́ gọi là Tượng Pháp. Chỉ có Giáo, không Hạnh, không người chứng th́ gọi là Mạt Pháp”.

Về thời gian của các thời Chánh Pháp, Tượng Pháp, Mạt Pháp, các kinh cũng nói sai khác. Đa số các vị cổ đức chấp nhận thuyết: Chánh Pháp là năm trăm năm, Tượng Pháp lâu một ngàn năm, Mạt Pháp là một vạn năm (thuyết Mạt Pháp lâu đến một vạn năm là như trong kinh Đại Bi nói). Như vậy, ta có thể ước chừng rằng Phật pháp tồn tại khoảng chín ngàn năm nữa.

Chữ “chánh pháp diệt thời” (lúc chánh pháp diệt) chỉ chung hai thời Tượng Pháp và Mạt Pháp. Hiện tại là thời Mạt Pháp, chúng sanh trong lúc này thiện căn kém xa thời trước, nhưng có kẻ trong quá khứ tu nhiều công đức, kiếp trước từng cúng Phật, niệm Phật nên bảo là “thực chư thiện bổn, dĩ tằng cúng dường vô lượng chư Phật” (trồng các căn lành, đă từng cúng dường vô lượng chư Phật).

Theo Di Đà Yếu Giải, từ bậc Đẳng Giác trở xuống đều gọi là “chúng sanh”. Như vậy là trong các chúng sanh đó, trên th́ có thể đến tận bậc Đẳng Giác đại sĩ, dưới là hàng phàm phu trong sáu đường; chúng ta thuộc về loại này. Những chúng sanh như thế do quá khứ đă từng cúng dường nhiều đức Phật, niệm Phật, tu thiện nên được oai thần của đức Như Lai ấy gia bị, cho nên đời này mới “năng đắc như thị quảng đại pháp môn” (có thể được pháp môn quảng đại như vậy). Bởi thế, chúng ta gặp được pháp môn này phải nên mừng rỡ sâu xa, chớ có coi thường, phải nên chăm chắm “nhiếp thủ, thọ tŕ” th́ mới “hoạch quảng đại Nhất Thiết Trí trí” (đạt được trí Nhất Thiết Trí rộng lớn).

“Nhiếp thủ” ( ) là như Văng Sanh Luận đă bảo: Hết thảy công đức trang nghiêm thành tựu của y báo, chánh báo cơi Cực Lạc “nói tóm lại là thuộc vào trong một pháp cú; một pháp cú tức là thanh tịnh cú. Thanh tịnh cú chính là chân thật trí huệ vô vi pháp thân”. Sách Di Đà Yếu Giải cũng nói: “Toàn thể của mỗi một sự trang nghiêm đều là lư tánh”.

Nếu có thể hiểu rơ hết thảy sự trang nghiêm thành tựu của cơi Cực Lạc đều thuộc trong một pháp cú th́ từ Sự đạt Lư, ngay nơi Sự chính là Chân, tin chắc vạn đức trang nghiêm, nhập thẳng vào một câu danh hiệu, tịnh niệm tiếp nối. Đấy chính là ư nghĩa của chữ “nhiếp thủ”. Tức là danh hiệu Di Đà chính là chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân; Pháp Thân công đức chẳng thể nghĩ bàn nên danh hiệu công đức chẳng thể nghĩ bàn.

Trong chữ “thọ tŕ” th́ “thọ” () là tin nhận, phụng hành đúng theo lời dạy; tông chỉ của kinh này là “phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm”. Tông () chính là con đường tu hành trọng yếu, y theo đó mà tu th́ mới gọi là “thọ”. Tŕ () là chấp tŕ danh hiệu và tŕ tụng kinh này.

Thập Địa Bồ Tát chẳng rời niệm Phật. Một câu Phật hiệu đây chỉ có Phật với Phật mới thấu hiểu tột cùng nổi. V́ thế, bậc Đẳng Giác đại sĩ cũng chẳng rời niệm Phật; bọn phàm phu chúng ta chỉ nên chất phác niệm.

Sách Yếu Giải viết: “Do tŕ danh nên phước đức, thiện căn đồng như Phật”. Lời nhận định này của đại sư Linh Phong đă chỉ thẳng vào ngay tâm tủy lời dạy của mười phương Như Lai; quả thật phải nên đến tột cùng đời vị lai đảnh lễ, cung kính lời dạy này. Lúc niệm Phật chính là lúc thiện căn và phước đức được bằng với Phật nên “đương hoạch quảng đại Nhất Thiết Trí trí” (sẽ đạt được trí Nhất Thiết Trí rộng lớn). Bọn phàm phu đầy dẫy phiền năo chúng ta cũng chẳng ngoại lệ!

“Trí Nhất Thiết Trí” là tên gọi khác của Phật trí. Nhất Thiết Trí có lúc chỉ Phật trí như phẩm Hóa Thành của kinh Pháp Hoa có chép: “Vị Phật Nhất Thiết Trí, đương phát đại tinh tấn” (v́ Nhất Thiết Trí của Phật mà hăy nên phát đại tinh tấn) hoặc như Trí Độ Luận nói: “V́ thế, Như Lai gọi là Nhất Thiết Trí”; nhưng có lúc Nhất Thiết Trí cũng chỉ trí của Thanh Văn, Duyên Giác như Trí Độ Luận lại chép: “Trong phẩm cuối, đức Phật nói Nhất Thiết Trí là nói đến trí của Thanh Văn, Bích Chi Phật”. Như vậy, chữ Nhất Thiết Trí trong câu trên chỉ trí của hàng Nhị Thừa. Bởi thế, chữ Nhất Thiết Trí Trí được dùng để chuyên chỉ Phật trí.

Đại Nhật Kinh Sớ, quyển một viết: “Tiếng Phạn là Tát Bà Nhă Da, tức là Nhất Thiết Trí. Nay nói Nhất Thiết Trí Trí là nói đến trí bậc nhất trong các trí” và: “Nhất Thiết Trí là biết rơ như thật th́ gọi là Nhất Thiết Trí Trí”, hoặc: “Lại nói trí ấy lấy Bồ Đề tâm làm nhân, đại bi làm căn, phương tiện làm cứu cánh. ‘Bồ Đề tâm làm nhân’ là hành giả như thật mà biết tự tâm. ‘Đại bi làm căn’ (làm gốc, làm căn bản) là hành giả phát bi nguyện, dẹp khổ, ban vui cho chúng sanh. ‘Phương tiện làm cứu cánh’ (mục đích tối hậu) là quả của Nhất Thiết Trí Trí, tức là lấy hạnh lợi tha để đặt tên vậy”.

Kinh Nhân Vương cũng dạy: “Tự tánh thanh tịnh, danh Bổn Giác tánh, tức thị chư Phật Nhất Thiết Trí trí” (Tự tánh thanh tịnh gọi là Bổn Giác Tánh, tức là trí Nhất Thiết Trí của chư Phật).

Do những đoạn kinh trên, ta thấy được rằng nay hễ ai tin nổi pháp môn Tịnh Độ vi diệu này th́ đều là do trong quá khứ đă từng cúng dường chư Phật, rộng làm các điều thiện, nhớ Phật, niệm Phật; do đấy bèn được oai lực của chư Phật gia bị nên nay mới “năng đắc như thị quảng đại pháp môn” (có thể đạt được pháp môn rộng lớn như vậy).

Pháp môn Tịnh Độ đây thâu trọn vạn pháp, độ khắp các loài nên bảo là “quảng đại”. Nếu có thể tin nhận, phụng hành pháp môn này th́ sẽ đắc trí Nhất Thiết Trí, tức là đắc Phật trí, biết rơ một cách chân thật rằng tự tâm vốn sẵn thanh tịnh.

“Ư bỉ pháp trung, quảng đại thắng giải, hoạch đại hoan hỷ, quảng vị tha thuyết, thường nhạo tu hành” (Đối với pháp ấy mà hiểu biết rộng lớn, thù thắng th́ được đại hoan hỷ, rộng v́ người khác nói, thường thích tu hành - đoạn này trích yếu từ bản Đường dịch), ư nói: Nếu ai có thể đối với diệu pháp Tịnh tông mà hiểu biết một cách rộng lớn, hiểu thấu trọn vẹn ư chỉ viên dung “tâm này làm Phật, tâm này là Phật; tâm, Phật chẳng hai, niệm Phật tức là Phật” của Tịnh tông th́ ắt sẽ hoan hỷ tin nhận, thường thích tu tập; lại đem pháp này khuyên dạy nhiều người khác.

“Quảng vị tha thuyết” (Rộng v́ người khác nói): Phần dưới cũng nói: “Vị tha diễn thuyết” (V́ người khác diễn nói) và cuối phẩm này có câu “chuyên tâm tín thọ, tŕ tụng thuyết hành” (chuyên tâm tin nhận, tŕ tụng, nói, hành); những câu như vậy đều là lời phổ khuyến hăy diễn nói, hoằng dương kinh này và pháp môn Tịnh Độ.

Phần này chính là phần Lưu Thông nên trong phẩm này, đức Phật khuyên ta hăy nên diễn nói để kinh này được lưu truyền rộng khắp. Như trong phẩm Nguyện Lực Hoằng Thâm đă nói: “Chuyển tương giáo thọ, chuyển tương độ thoát. Như thị triển chuyển, bất khả phục kế” (Lần lượt dạy bảo lẫn nhau, lần lượt độ thoát lẫn nhau. Xoay vần như thế lại chẳng thể tính toán nổi). V́ vậy, thích v́ người khác diễn giảng, khuyên dạy hết thảy chúng sanh cùng nhập biển nguyện Nhất Thừa của Phật Di Đà th́ mới là chánh hạnh biết ân, báo ân. Diệu pháp có được lưu truyền th́ mới phù hợp với bổn nguyện chư Phật. V́ thế, trong kinh Pháp Hoa, phẩm Pháp Sư có chép:

“Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, ư Pháp Hoa kinh, năi chí nhất cú, thọ tŕ, độc tụng, giải thuyết, chủng chủng cúng dường kinh quyển… Thị nhân nhất thiết thế gian sở ưng chiêm phụng, ưng dĩ Như Lai cúng dường nhi cúng dường chi. Đương tri thử nhân thị đại Bồ Tát, thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân đối với kinh Pháp Hoa dẫu chỉ thọ tŕ một câu, phúng tụng, giải nói, biên chép, cúng dường kinh quyển các thứ… th́ hết thảy thế gian phải nên chiêm ngưỡng, kính phụng người ấy, hăy nên dùng phương cách cúng dường Như Lai để cúng dường người ấy. Nên biết là người ấy là đại Bồ Tát thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

Kinh c̣n dạy: “Nhược thị thiện nam tử, thiện nữ nhân ư ngă diệt độ hậu, năng thiết vị nhất nhân thuyết Pháp Hoa kinh, năi chí nhất cú, đương tri thị nhân thị Như Lai sứ, Như Lai sở di hành Như Lai sự. Hà huống ư đại chúng trung, quảng vị nhân thuyết” (Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân sau khi ta diệt độ có thể ngầm riêng v́ một người nói kinh Pháp Hoa dẫu chỉ một câu th́ nên biết là người ấy là sứ giả của Như Lai, được Như Lai sai làm chuyện của Như Lai; huống hồ [là người có thể] ở trong đại chúng rộng v́ người khác mà nói).

Kinh c̣n chép: “Đương tri Như Lai diệt hậu, kỳ năng thư tŕ, độc tụng, cúng dường, vị tha nhân thuyết giả, Như Lai tắc vị dĩ y phú chi. Hựu vị tha phương hiện tại chư Phật chi sở hộ niệm. Thị nhân hữu đại tín lực, cập chí nguyện lực, chư thiện căn lực. Đương tri thị nhân, dữ Như Lai cộng túc, tắc vi Như Lai thủ ma kỳ đảnh” (Hăy nên biết rằng: Sau khi Như Lai diệt độ, ai có thể biên chép, đọc tụng, cúng dường, v́ người khác giảng nói th́ Như Lai liền dùng y che cho người đó. Người ấy lại được chư Phật đang hiện hữu trên đời trong các phương khác hộ niệm. Người ấy có tín lực và chí nguyện lực, các thiện căn lực to lớn. Hăy nên biết là người ấy cùng ở chung với Như Lai, được Như Lai dùng tay xoa đầu).

Do những đoạn kinh trên ta thấy được rằng diễn nói kinh Pháp Hoa công đức vô tận, nhưng kinh đây lại chính là “bí tủy của kinh Pháp Hoa” như sách Di Đà Yếu Giải đă bảo:

“Đời mai sau kinh pháp diệt hết, chỉ riêng lưu lại kinh này tồn tại trong đời một trăm năm để rộng độ hàm thức. Thuốc A Già Đà trị chung muôn bịnh, dứt tuyệt đối đăi một cách viên dung chẳng thể nghĩ bàn. Áo tạng Hoa Nghiêm, bí tủy Pháp Hoa, tâm yếu của hết thảy chư Phật, kim chỉ nam cho muôn hạnh Bồ Tát đều chẳng ra ngoài kinh này vậy”.

Bởi thế, diễn thuyết kinh này công đức vô tận, ắt cũng được chư Phật hộ niệm.

Tiếp đó, kinh nói: “Thường nhạo tu hành” (Thường thích tu hành), ư nói: Người thuyết pháp miệng và tâm phải tương ứng như một, ngôn hạnh nhất trí, tự ḿnh chẳng tu tập th́ làm sao có thể khuyên nổi người khác tu tập?

Kế đấy, kinh lại khuyên khắp tất cả mọi người hăy nên đoạn nghi sanh tín. Nếu muốn thuyết pháp lợi người th́ trước hết tự ḿnh phải đoạn sạch mối nghi. Kinh dạy: Hễ cầu pháp này “giai hoạch thiện lợi” (đều được lợi lành); v́ thế phải nên “an trụ vô nghi” (an trụ vào không nghi), thật thà tŕ niệm, chớ sanh nghi hoặc, phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm. Ấy là cội rễ của các điều thiện. Phải nên vâng giữ cương tông ấy, an trụ trong pháp như thế “ưng thường tu tập, sử vô nghi trệ” (nên thường tu tập khiến cho không bị nghi trệ). Ấy là v́ nếu nghi căn (gốc rễ ngờ vực) chưa đoạn, nó sẽ trở thành tội căn. Muốn đoạn nghi căn phải biết phương tiện. Nghi hoặc chẳng đoạn chỉ là do huệ tâm chưa sáng tỏ. Huệ tâm chưa sáng tỏ chỉ v́ tam cấu (tham, sân, si) chướng sâu.

Theo An Lạc Tập, Niệm Phật tam-muội trừ được hết thảy các chướng tham, sân, si trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Cấu (phiền năo) hết th́ sự sáng suốt sẽ phát sanh nên không bị vướng mắc v́ nghi hoặc. Như thế sẽ chẳng đọa vào cảnh giới chư thiên, Nhị Thừa, Giải Mạn Quốc, biên địa, nghi thành, “nhất thiết chủng loại trân bảo thành tựu lao ngục” (hết thảy các thứ loại lao ngục do trân bảo hợp thành). Chữ “trân bảo” ví cho các sự vui trong những cảnh giới ấy, “lao ngục” ví cho sự chưa được giải thoát rốt ráo, chẳng được tự tại.

Sách An Lạc Tập c̣n nói: “Xưng danh cũng vậy, chỉ cần chuyên chí liên tục chẳng đoạn th́ quyết định sanh về trước Phật. Nay khuyên những kẻ học Phật đời sau nếu muốn lănh hội Nhị Đế th́ chỉ cần biết: ‘Niệm niệm chẳng thể được’ chính là Trí Huệ Môn và ‘hệ niệm liên tục chẳng đoạn’ chính là Công Đức Môn. V́ thế kinh dạy: ‘Bồ Tát Ma Ha Tát hằng dĩ công đức trí huệ dĩ tu kỳ tâm’ (Bồ Tát Ma Ha Tát luôn dùng công đức trí huệ để tu tâm ḿnh). Nếu người mới học chưa thể phá nổi tướng, cứ nương theo tướng mà chuyên chí th́ không ai chẳng được văng sanh, c̣n ngờ vực ǵ”.

Lời dạy này của đại sư Đạo Xước đă xẻ toang bí tạng của chư Phật, phơi bày trực tiếp tâm tủy của Tịnh tông: Chỉ cần tin nhận, phụng hành, nương theo tướng mà chuyên chí, chắc thật, ṛng rặt mà niệm th́ dẫu chưa ly tướng vẫn quyết định sanh về Tịnh Độ. Nương theo tướng để chuyên chí là điều phàm phu có thể làm nổi, c̣n ly tướng chính là cảnh giới của Bồ Tát. Kinh Kim Cang dạy: “Ly nhất thiết chư tướng, tức danh chư Phật” (Ĺa hết thảy các tướng th́ gọi là chư Phật). Đấy chẳng phải là điều mà tâm sanh diệt của phàm phu có thể lănh hội nổi. Diệu pháp Tịnh tông thật là phương tiện bậc nhất trong các phương tiện.

Chánh kinh:

多,如 者,能 門。由 故,有 薩,退 提。若 生,於 典,書 寫、供 養、受 持、讀 誦,於 說,勸 聞,不 惱,乃 剎,及 德,於 道,終 退 轉。

A Dật Đa! Như thị đẳng loại đại oai đức giả, năng sanh Phật pháp quảng đại dị môn. Do ư thử pháp bất thính văn cố, hữu nhất ức Bồ Tát, thoái chuyển A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nhược hữu chúng sanh, ư thử kinh điển, thư tả, cúng dường, thọ tŕ, độc tụng, ư tu du khoảnh vị tha diễn thuyết, khuyến linh thính văn, bất sanh ưu năo, năi chí trú dạ tư duy bỉ sát, cập Phật công đức. Ư vô thượng đạo, chung bất thoái chuyển.

Này A Dật Đa! Các bậc đại oai đức giống như thế có thể sanh khởi những pháp môn quảng đại khác trong Phật pháp, mà do chẳng được nghe pháp này nên có một ức Bồ Tát thoái chuyển A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Đối với kinh điển này, nếu có chúng sanh biên chép, cúng dường, thọ tŕ, đọc tụng, trong khoảnh khắc v́ người khác diễn nói, khuyên người khác lắng nghe, chẳng sanh ưu năo, cho đến suốt ngày đêm tư duy cơi ấy và công đức của đức Phật th́ đối với vô thượng đạo trọn chẳng thoái chuyển.

Giải:

Thế Tôn lại nêu lên trường hợp các bậc đại oai đức Bồ Tát v́ không được nghe các pháp mà bị thoái chuyển Bồ Đề nhằm chỉ rơ tầm quan trọng của việc phải lưu truyền kinh này.

Chữ “như thị đẳng loại đại oai đức giả” (các bậc đại oai đức giống như thế) chỉ những vị đại sĩ có thể phát khởi các pháp môn quảng đại khác. Chữ “dị môn” (pháp môn khác) là do đối với chữ “thử pháp” (pháp này) ở phần dưới mà nói. “Pháp này” chính là pháp môn Tịnh Độ. “Dị môn” là tất cả những pháp môn ngoại trừ Tịnh Độ ra. Kinh dạy: “Niết Bàn vô nhị lộ, phương tiện hữu đa môn” (Niết Bàn không hai nẻo, phương tiện có nhiều môn).

Các vị Bồ Tát ấy tuy có thể đối với Phật pháp, khai hiển các phương tiện pháp môn khác pháp môn Tịnh Độ, nhưng v́ do chưa được nghe pháp này nên “hữu nhất ức Bồ Tát thoái chuyển A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (có một ức Bồ Tát thoái chuyển A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề). V́ sao vậy? V́ Niệm Phật tam-muội chính là vua của các tam-muội. Nếu chẳng được nghe biết, chẳng tu tập th́ khó ḷng tự giác rốt ráo.

Hơn nữa, pháp môn Niệm Phật thích ứng khắp cả ba căn, là đường tắt nhất trong các đường tắt. Nếu chẳng nghe biết pháp này th́ khó bề phổ độ hữu t́nh mau thoát sanh tử ḥng viên măn hạnh lợi tha. Tự thân họ lại phải ḍ dẫm trên con đường hiểm trở, khó khăn, dẫn dắt chúng sanh sa vào con đường hầm bẫy, chẳng khế hợp với phương tiện của đức Như Lai nên khó nhập được Nhất Thừa nguyện hải. V́ thế mới có một ức Bồ Tát do chẳng nghe pháp này nên bị thoái chuyển nơi vô thượng Bồ Đề!

Đức Thế Tôn muốn khiến cho hết thảy phàm thánh đều được nghe kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác này nên khuyên mọi người phải biên chép, cúng dường, đọc tụng, tin nhận, phụng hành, lại c̣n phải lưu truyền nữa. Tuy chỉ trong khoảnh khắc “vị tha diễn thuyết” (v́ người khác nói), khuyên người nên nghe kinh này khiến cho “bất sanh ưu năo” (chẳng sanh ưu năo). Thuyết pháp như thế cho đến chí tâm tinh tấn “trú dạ tư duy bỉ sát, cập Phật công đức” (ngày đêm tư duy cơi ấy và công đức của đức Phật) th́ người như thế “ư vô thượng đạo, chung bất thoái chuyển” (đối với vô thượng đạo, trọn chẳng thoái chuyển).

Chánh kinh:

終,假 使 滿 火, 過,生 土。是 佛,受 記。一 來,同 讚。是 受、持 誦、說 行。       

Bỉ nhân lâm chung, giả sử tam thiên đại thiên thế giới măn trung đại hỏa, diệc năng siêu quá, sanh bỉ quốc độ. Thị nhân dĩ tằng trị quá khứ Phật, thọ Bồ Đề kư. Nhất thiết Như Lai đồng sở xưng tán. Thị cố ưng đương chuyên tâm tín thọ, tŕ tụng, thuyết hành.

Khi người ấy lâm chung giả sử tam thiên đại thiên thế giới đầy ắp đại hỏa cũng có thể vượt qua sanh về cơi kia. Người ấy đă từng gặp gỡ các đức Phật quá khứ, được thọ kư Bồ Đề, được hết thảy Như Lai cùng khen ngợi. V́ thế, phải nên chuyên tâm tin nhận, tŕ tụng, giảng nói, tu tập.

Giải:

Chữ “bỉ nhân” (người ấy) chỉ người “ư thử kinh điển… vị tha diễn thuyết” (đối với kinh điển này… v́ người khác diễn nói).

Câu “tam thiên đại thiên thế giới măn trung đại hỏa” (tam thiên đại thiên thế giới đầy ắp đại hỏa) chỉ Kiếp Hỏa (hỏa tai trong thời Hoại Kiếp). Sau Thành Kiếp là Trụ Kiếp, sau Trụ Kiếp là Hoại Kiếp. Cuối Hoại Kiếp có tam tai Phong Tai, Hỏa Tai, Thủy Tai.

Hỏa Tai c̣n gọi là Kiếp Hỏa, kinh Nhân Vương nói: “Kiếp hỏa đỗng nhiên, đại thiên câu hoại” (Kiếp hỏa đốt cháy tan hoang, cơi đại thiên đều tan nát hết). Luận Câu Xá cũng nói: “Gió thổi ngọn lửa cháy bừng bừng, cháy đến tận cung trời; ngay cả trời Phạm thiên cũng cháy tan thành tro”.

Phật huyền kư người ấy vào lúc lâm chung, dẫu cho cả tam thiên đại thiên thế giới này đều bị Kiếp Hỏa nung đốt th́ người ấy vẫn vượt qua được để văng sanh về cơi Cực Lạc. Do sức công đức tŕ tụng, giảng nói kinh này và được sức oai thần của thập phương Như Lai gia bị nên dầu cả thế giới Kiếp Hỏa đang cháy rừng rực, trăm ngàn thứ đều tiêu tan hết, người ấy vẫn an ổn, tự tại, thong dong văng sanh như trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện [của kinh Hoa Nghiêm] đă nói:

“Duy thử nguyện vương, bất tương xả ly, ư nhất thiết thời, dẫn đạo kỳ tiền. Nhất sát-na trung, tức đắc văng sanh Cực Lạc thế giới” (Chỉ có mỗi nguyện vương này chẳng hề bỏ ĺa. Trong hết thảy thời nó thường dẫn đường đằng trước. Trong khoảng sát-na, liền được văng sanh Cực Lạc thế giới).

Phật lại thọ kư rằng: “Thị nhân dĩ tằng trị quá khứ Phật, thọ Bồ Đề kư” (Người ấy đă từng gặp gỡ các đức Phật quá khứ, được thọ kư Bồ Đề). Phật ấn chứng những người như thế đều là người trong quá khứ đă từng ở trước chư Phật được thọ kư Bồ Đề, đều sẽ thành Phật, lại c̣n được “nhất thiết Như Lai sở cộng xưng tán” (hết thảy Như Lai cùng khen ngợi).

Cuối cùng, Phật khuyên khắp đại chúng nên “chuyên tâm tín thọ, tŕ tụng, thuyết hành” (chuyên tâm tin nhận, tŕ tụng, giảng nói, tu tập). Sách Tiên Chú viết: “Chuyên tâm là tâm chuyên nhất, chẳng xen tạp các niệm khác”. “Tŕ tụng” là thọ tŕ, đọc tụng. “Thuyết hành” là đúng như kinh mà nói, tuân theo đúng lời dạy mà thực hành.