36. Trùng trùng hối miễn (重
重 誨 勉: Bao lượt khuyên lơn)
Trong phẩm này, v́ chiết phục chúng sanh ác nghiệp
nên đức Phật lại chỉ bày, khuyên lơn.
Trước hết Ngài giảng rơ về nhân ác quả ác
để chúng sanh biết mà kiêng sợ. Cuối phẩm,
Ngài lại khuyên nên đoan chánh thân tâm, chẳng quên công phu
để khỏi phải hối hận.
Chánh kinh:
佛 告 彌 勒: 吾 語 汝 等,如
是 五 惡、五 痛、五 燒,輾
轉 相 生。敢 有 犯 此,當
歷 惡 趣。或 其 今 世,先
被 病 殃,死 生 不 得,示
眾 見 之。或 於 壽 終,入
三 惡 道。愁 痛 酷 毒,自
相 燋 然。
Phật cáo Di Lặc: - Ngô ngữ nhữ
đẳng, như thị ngũ ác, ngũ thống, ngũ
thiêu, triển chuyển tương sanh, cảm hữu phạm
thử, đương lịch ác thú, hoặc kỳ kim thế,
tiên bị bệnh ương, tử sanh bất đắc,
thị chúng kiến chi. Hoặc ư thọ chung, nhập
tam ác đạo, sầu thống khốc độc, tự
tương tiều nhiên.
Phật bảo
Di Lặc: - Ta bảo các ông: Năm sự ác, năm sự
đau, năm sự đốt như thế xoay chuyển
sanh lẫn nhau. Kẻ nào dám phạm phải những điều
ấy sẽ trải thân trong đường ác; hoặc là
trong đời này trước hết bị bệnh tật,
tai ương, sống chết chẳng được,
để làm gương cho kẻ khác. Hoặc là chết
đi, đọa trong ba đường ác. Sầu đau,
thảm năo, tàn khốc, tự nung đốt thân.
Giải:
Đoạn kinh này nói về cái họa do ngũ ác, ngũ thống,
ngũ thiêu sanh ra.
Gia Tường Sớ giảng: “Triển chuyển tương sanh (xoay chuyển
sanh lẫn nhau) là ba độc.
Chẳng trừ ác th́ ác chẳng tuyệt, khổ quả chẳng
dứt”. Sách Hội Sớ lại giảng: “Năm ác là nhân, nhọc nhằn
khổ sở là quả. Dùng quả để răn nhân.
‘Tương sanh’ là đời này bị đau khổ,
đời sau bị thiêu đốt; điều này làm cái
nhân để sanh ra điều kia vậy”.
Cả hai thuyết cùng nói đến “tương sanh” nhưng chưa giảng rơ chữ
“triển chuyển”. Các vị
Tịnh Ảnh, Cảnh Hưng và Vọng Tây giảng rơ chữ
“triển chuyển”.
Ngài Vọng Tây bảo: “Trước
hết nói rơ điều ác sanh ra nỗi đau khổ và
thiêu đốt. Tiếp đó là từ thiêu đốt sanh
ra điều ác và đau khổ”.
Ngài Tịnh Ảnh nói: “Trước
hết, nói từ ác sanh đau đớn, sanh ra thiêu đốt.
Tiếp đó, nói từ thiêu đốt sanh ra ác, sanh ra
đau”.
Ngài Cảnh Hưng cũng giảng giống như thế,
nghĩa là: Ác, đau khổ và thiêu đốt lần lượt
sanh lẫn nhau. Điều ác sanh ra nỗi đau đớn,
thiêu đốt nên phải sanh trong ác đạo. Nhưng
chúng sanh trong ác đạo ba độc quá nặng nên từ
sự thiêu đốt ấy lại sanh ra các nỗi ác khổ,
đau đớn như gà đẻ ra trứng, trứng lại
nở ra gà. Cái này, cái kia lần lượt sanh ra nhau không
lúc nào ngớt.
Bởi thế, tiếp đó kinh chép: “Cảm hữu phạm thử” (Kẻ nào dám phạm
phải những điều ấy). “Thử” (những điều ấy) chính là những
điều ác. Kẻ dám phạm vào những điều ác ắt
sẽ măi măi lăn lóc trong nẻo ác nên kinh dạy: “Đương lịch ác đạo”
(Sẽ trải thân trong đường ác). “Lịch” (歷) là trải qua,
“ác đạo” chính cái quả
do việc ác chiêu cảm. Bởi thế, kinh nêu lên tướng
trạng của quả để răn đe chúng sanh ngơ hầu
họ dứt bỏ nhân ác.
Các câu từ “hoặc kỳ
kim thế” (hoặc trong đời này) cho đến “thị chúng kiến chi” (để
làm gương cho mọi người thấy) là nói về
năm sự đau; đấy chỉ là hoa báo trong đời
hiện tại. “Bị” (被) là lănh chịu;
“bệnh” (病) là tật bệnh,
“ương” (殃) là tai họa
như thủy tai, hỏa tai, h́nh phạt v.v... Kẻ làm
ác ngay trong hiện đời th́ hoặc bị bịnh
nặng, hoặc mắc phải tai vạ, mong sống chẳng
được, cầu chết không nổi. Sầu khổ
muôn mối chẳng thoát khỏi được! Bởi thế,
Phật nói: “Tử sanh bất
đắc” (Sống chết chẳng được).
Tiếp đó, kinh nói: “Thị
chúng kiến chi” (Để làm gương cho kẻ khác
thấy) là chỉ rơ quả ác này để khiến cho tất
cả đại chúng đều được thấy rơ
mà biết rằng nhân quả chẳng dối, sanh ḷng kiêng
sợ.
Tiếp đó, kinh chép: “Hoặc
ư thọ chung, nhập tam ác đạo” (hoặc là chết đi,
vào trong ba đường ác),
đó chính là quả báo, tức là năm sự đốt vậy.
“Sầu thống” là lo buồn,
đau đớn. “Khốc
độc” (酷 毒) là nỗi
đau đớn thảm thiết nhất. Tiều
(燋) là nướng, là thui, bị tổn
thương bởi lửa. Nhiên (然)
là đốt cháy. Sách Hội Sớ giảng như
sau: “Tiều nhiên là dáng vẻ dữ
dội của ngọn lửa địa ngục. Chữ
‘tự’ nghĩa là do nghiệp của chính ḿnh chiêu cảm”. Bởi thế,
kinh chép là “tự tương tiều
nhiên”.
Chánh kinh:
共 其 怨 家,更 相 殺 傷。從 小 微 起,成 大 困 劇。
Cộng kỳ oán
gia, cánh tương sát thương, tùng tiểu vi khởi,
thành đại khốn kịch.
Cùng với oan
gia lại sát hại, tổn thương lẫn nhau. Bắt
đầu từ chút việc nhỏ nhặt trở thành sự
khốn khổ lớn lao dữ dội.
Giải:
Tịnh Ảnh Sớ cho rằng cả đoạn trên
này là để nói rơ ư nghĩa “tùng
thiêu khởi ác” (từ Ngũ Thiêu tạo thành Ngũ Ác).
Ngài Vọng Tây cho rằng
“cánh tương sát thương” (lại sát hại, tổn
thương lẫn nhau) chính
là “điều ác thiêu đốt
chúng sanh, giết hại chúng sanh”. Trong trận lửa
địa ngục, kẻ ác v́ đau đớn quá mức
nên nổi sân, đâm ra tàn sát, đả thương lẫn
nhau. Đó chính là trong khi bị thiêu đốt lại gây thêm tội
ác, kết thành oán cừu nên bảo là “oán gia”. Cứ đ̣i nợ lẫn nhau, Giáp giết
Ất, Ất lại giết Giáp nên bảo là “cánh tương sát thương”.
Từ bé xé ra to, càng lúc càng phiền toái, càng khốc liệt,
chẳng lúc nào hết nên bảo là: “Tùng tiểu vi khởi, thành đại khốn kịch”
(Từ chút việc nhỏ nhặt trở thành sự lớn
lao dữ dội). “Kịch”
(劇) là quá mức, kịch liệt, là nhiều, là
tăng thêm. Làm ác chẳng thôi nên khổ càng tăng thêm chẳng
ngừng, trở thành sự khổ sở lớn lao, khiến
cái họa càng thêm sâu nên bảo là
“thành đại khốn kịch”. Bản Ngụy dịch
chép là: “Cửu hậu đại
kịch” (Lâu ngày thành lớn lao quá mức). Tịnh Ảnh Sớ giảng:“Thân chịu lao khổ, khổ
tăng thêm chẳng ngớt nên gọi là ‘cửu hậu
đại kịch”.
Chánh kinh:
皆 由 貪 著 財 色,不 肯 施 惠。各 欲 自 快,無 復 曲 直。痴 欲 所 迫,厚 己 爭 利。富 貴 榮 華,當 時 快 意。不 能 忍 辱,不 務 修 善。威 勢 無 幾,隨 以 磨 滅。天 道 施 張 ,自 然 糺 舉,煢 煢 忪 忪,當 入 其 中。古 今 有 是,痛 哉 可 傷!
Giai do tham trước tài sắc, bất khẳng thí huệ.
Các dục tự
khoái, vô phục khúc trực. Si dục sở bách, hậu kỷ
tranh lợi, phú quư vinh hoa, đương thời khoái ư, bất
năng nhẫn nhục, bất vụ tu thiện. oai thế
vô kỷ, tùy dĩ ma diệt, thiên đạo thi trương, tự
nhiên củ cử. Quỳnh quỳnh chung chung,
đương nhập kỳ trung. Cổ kim hữu thị,
thống tai khả thương!
Đều do tham
đắm tài sắc, chẳng chịu bố thí. Ai nấy
chỉ muốn tự sướng, chẳng c̣n biết
đến cong vạy hay ngay thẳng. Bị si dục bức
bách nên hậu đăi ḿnh, tranh lợi, phú quư, vinh hoa; cốt
khoái ư ngay trong lúc ấy, chẳng thể nhẫn nhục nổi,
chẳng chăm tu thiện. Oai thế chẳng được
bao lâu đă bị ṃn diệt. Đạo trời lồng lộng,
tự nhiên tỏ rơ. Bơ vơ, bồn chồn, sẽ vào
trong đó. Xưa nay như thế, đau đớn thay,
đáng thương thay!
Giải:
Đoạn kinh này nói về cái nhân ác là ba độc rồi
lại răn dạy.
“Giai do tham trước tài sắc”
(Đều
do tham đắm tài sắc): Cầu được nhiều
chẳng chán là Tham (貪), tâm tham kiên cố là Trước (著) . Kinh Bảo Tích dạy: “Tà niệm sanh tham trước, tham trước sanh
phiền năo” (Tà niệm sanh ra tham đắm, tham đắm
sanh ra phiền năo). Trong chữ “tài
sắc” th́ Tài (財) chỉ tiền tài, của cải;
Sắc (色) là sắc t́nh, tức là t́nh ái
nam nữ. Gia Tường Sớ giảng: “Hoặc là tham tài hay tham xác thịt”. Sách c̣n viết:
“Từ câu ‘giai do tham trước’
trở đi nói đến
tội lỗi của ba ác. Tham đắm vinh hoa, tham đắm
cái vui hiện tại nên tạo ác”.
“Bất khẳng thí huệ” là chẳng chịu
đem tài vật ban bố cho người. Sách Hội Sớ
viết: “Tham dục tuy nhiều
nhưng tài sắc là lớn nhất nên kinh đặc biệt
nêu lên. Chẳng thể bố thí là tướng trạng của
ḷng keo kiệt”.
“Các dục tự khoái, vô phục
khúc trực” (Ai nấy chỉ biết tự sướng,
chẳng c̣n biết đến cong vạy hay ngay thẳng)
là chỉ cầu tự lợi để thỏa măn tấm
ḷng, chẳng cần biết đến đúng sai, cong vạy
hay chất trực.
“Si dục sở bách” (Bị si dục
bức bách): Cội gốc của cái tâm Tham dục chính là
Si nên bảo là “si dục”.
Kinh Di Giáo dạy: “Nhược
hữu trí huệ, tắc vô tham trước” (Nếu có trí huệ th́ chẳng
tham đắm). V́ thế,
trong đoạn kinh này chỉ nói đến hai cái ác Si và
Tham, c̣n Sân th́ đă được đề cập trong
đoạn kinh ở phần trên rồi.
Sách Hội Sớ giảng chữ “bách” (迫) như sau: “Ái dục bức bách, thường nghĩ tưởng
dục cảnh”. Bởi đó mà tổn hại người
khác để ḿnh được lợi, chỉ ham “phú quư vinh hoa”, chỉ cầu
khoái ư trong phút chốc, chẳng mong nhẫn nhục tu thiện,
tích lũy phước báo cho mai sau; nhưng oai thế nào
c̣n măi, phút chốc diệt mất.
“Thiên đạo thi
trương, tự nhiên củ cử” (tạm dịch:
“Đạo trời lồng lộng,
tự nhiên tỏ rơ”): Thi (施) là
giương ra, “củ” (糺) là uốn nắn cho đúng, là xem
xét, là nêu ra cái sai. Cái lư tự nhiên, cái đạo pháp nhĩ[1]
th́ gọi là “thiên đạo”.
Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Đạo
lư trong thiên hạ tự nhiên lập bày v́ thế gọi là
‘thiên đạo thi trương’. Hễ tạo ác tất
bày rơ ra nên gọi là ‘tự củ cử’. Sách Hội Sớ
nói: “Nói ‘thiên đạo’ là nói
đến nhân quả báo ứng”. Sách c̣n viết: “Sự đă phát sanh th́ theo
đúng pháp mà cắt đứt. Sự chưa phát hiện
bèn quan sát kỹ, th́ gọi là ‘củ cử’. Cử (舉) là chỉ bày”.
“Quỳnh quỳnh” (煢 煢) là lo lắng,
không nơi nương dựa. “Chung chung” (忪 忪) là tâm hoảng sợ chẳng yên, kinh
hoàng, hoảng hốt. Sách Hội Sớ giảng câu “đương nhập kỳ
trung” (sẽ vào trong ấy) như sau: “Quỳnh quỳnh là t́nh cảnh đơn độc,
một ḿnh sống, ḿnh ḿnh chết. ‘Chung chung’ là tâm động,
kinh hoàng xen lẫn không xen hở.
‘Kỳ trung’ là trong năm đường”. Tịnh Ảnh
Sớ lại giảng: “Kẻ
có tội sẽ phải đi về đó, không người
bầu bạn nên bảo là bơ vơ, bồn chồn
đi vào trong ấy”. Tiếp đó kinh nói: “Cổ kim hữu thị, thống
tai khả thương” (Xưa nay như thế, đau
đớn thay, đáng thương thay), ư nói: Do tam độc
tạo ra nhân ác th́ nhất định phải chịu lấy
ác quả đớn đau, thiêu đốt.
Trên đây Phật răn điều ác, tiếp đó,
Phật khuyên làm lành.
Chánh kinh:
汝 等 得 佛 經 語,熟 思 惟 之。各 自 端 守,終 身 不 怠。尊 聖 敬 善,仁 慈 博 愛。當 求 度 世,拔 斷 生 死 眾 惡 之 本。當 離 三 塗,憂 怖 苦 痛 之 道。若 曹 作 善,云 何 第 一?當 自 端 心,當 自 端 身。耳 目 口 鼻,皆 當 自 端。身 心 淨 潔,與 善 相 應。勿 隨 嗜 欲,不 犯 諸 惡。言 色 當 和,身 行 當 專。動 作 瞻 視,安 定 徐 為。作 事 倉 卒,敗 悔 在 後。為 之 不 諦,亡 其 功 夫。
Nhữ đẳng đắc Phật
kinh ngữ, thục tư duy chi, các tự đoan thủ,
chung thân bất đăi, tôn thánh kính thiện, nhân từ, bác
ái, đương cầu độ thế, bạt đoạn
sanh tử chúng ác chi bổn, đương ly tam đồ,
ưu bố khổ thống chi đạo. Nhược tào
tác thiện, vân hà đệ nhất? Đương tự
đoan tâm, đương tự đoan thân. Nhĩ, mục,
khẩu, tỵ, giai đương tự đoan. Thân tâm tịnh
khiết, dữ thiện tương ứng. Vật tùy thị
dục, bất phạm chư ác. Ngôn sắc
đương ḥa, thân hạnh đương chuyên, động
tác chiêm thị, an định từ vi. Tác sự
thương tốt, bại hối tại hậu. Vi chi bất
đế, vong kỳ công phu.
Các ông được
nghe lời kinh Phật th́ phải suy nghĩ chín chắn, ai
nấy tự nên giữ vững, trọn đời chẳng
lười: tôn thánh, kính thiện, nhân từ, bác ái. Hăy nên
mong cứu đời, nhổ dứt cội rễ sanh tử
và các ác th́ sẽ ĺa khỏi con đường tam đồ
lo sợ, đau khổ. Các ông làm lành như thế nào th́ sẽ
là bậc nhất? Hăy nên tự đoan chánh cái tâm, hăy nên tự
đoan chánh cái thân. Tai, mắt, miệng, mũi đều
nên tự đoan chánh. Thân, tâm tịnh khiết tương ứng
với điều thiện. Chớ thuận theo dục vọng,
chẳng phạm các sự ác. Ngôn từ, vẻ mặt nên
ḥa nhă, thân hạnh nên chuyên; cử động, ngó nh́n an
định, thong thả. Làm việc bộp chộp để
bị thua thiệt rồi hối hận về sau. Làm việc
chẳng thận trọng sẽ uổng mất công phu.
Giải:
Trong đoạn này, đức Như Lai khuyên tất cả
những người nghe kinh nên chuyên ṛng, siêng năng tu thiện.
Chữ “Phật kinh ngữ”
chỉ chung hết thảy pháp môn bỏ ác làm lành, bỏ trần
cảnh hướng đến giác ngộ. Chữ này c̣n
dùng để chỉ riêng ba kinh Tịnh Độ giảng về
Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh của
Phật Di Đà. Kinh bậc nhất trong ba kinh đó chính là kinh
này. “Thục tư duy chi” (Suy
nghĩ chín chắn) tức là nghe xong phải suy nghĩ. “Đoan thủ bất đăi” (Giữ
vững, chẳng lười) là từ tư duy khởi lên
tu hành.
“Đoan thủ” (端 守) là giữ đúng, phụng hành theo đúng lời dạy.
Ngài Cảnh Hưng lại bảo: “Đoan thủ là dẹp tà, giữ chánh”. Trọn
hết đời này giữ đúng theo lời Phật dạy,
chẳng hề biếng nhác nên bảo là “chung thân bất đăi” (trọn đời chẳng
lười).
Đối với câu “tôn thánh,
kính thiện, nhân từ, bác ái”, ngài Cảnh Hưng giảng:
“Chữ Thánh chỉ chung cả
Phật lẫn Tăng. Thiện pháp dù là pháp thế gian hay
xuất thế gian cũng đều là của báu vô thượng nên phải kính trọng. Ở
đây, Thiện là Tam Bảo. Nhân
ái, từ bi cứu giúp tất cả mọi người
nên bảo là ‘nhân từ, bác ái’, nghĩa là: Bác ái giúp đỡ
chúng sanh”.
“Đương cầu
độ thế” (Hăy nên mong độ đời) là tự
độ, độ người, tự giác, giác tha, làm cho
khắp hết thảy chúng sanh vĩnh viễn thoát khỏi
hư vọng sanh tử.
“Bạt đoạn sanh tử
chúng ác chi bổn” (Nhổ dứt cội gốc sanh tử và các
ác) là siêng tu Giới, Định, Huệ; dứt bặt tham,
sân, si. Cội rễ của sự luân hồi sáu đường
chính là tham dục. Biển khổ sanh tử chỉ nhờ
trí mới vượt nổi. Dùng gươm trí huệ chặt
đứt các phiền năo tham dục, vô minh v.v… chính là nhổ
dứt cội rễ sanh tử. Có như vậy mới
vĩnh viễn ĺa khỏi nỗi khổ tam đồ. Hễ
ác đă tận th́ sự thiêu đốt, sự đau khổ
cũng hết. V́ thế, kinh nói: “Đương ly tam đồ ưu bố khổ
thống chi đạo” (Sẽ ĺa khỏi con đường
tam đồ lo sợ, đau khổ).
Tiếp đó, Phật khuyên nên đoan chánh thân tâm cho
tương ứng với điều thiện. Đức
Thế Tôn chỉ thẳng cách làm lành bậc nhất.
“Tác thiện” có thể hiểu
thô thiển là làm việc lành, chứ xét theo Thật Đế
th́ chính là “tâm này làm Phật”.
Nếu hiểu một cách thô thiển, câu “đoan thân, nhĩ, mục, khẩu,
tỵ” (đoan chánh thân, tai, mắt, miệng, mũi)
nghĩa là thân tâm đoan chánh như là “điều phi lễ chẳng nh́n, việc phi lễ
chẳng nghe”.
Phân tích ở mức độ sâu hơn th́ “nhĩ đương tự
đoan (tai nên tự đoan chánh) chính là pháp Nhĩ
Căn Viên Thông “phản văn
tự tánh” (xoay trở lại
nghe nơi tự tánh) của Quán Âm đại sĩ. Đại
Sĩ chẳng đuổi theo thanh trần mà xoay lại
nghe nơi tự tánh; ấy chính là “đoan chánh nhĩ căn”. Cứ thế suy rộng
ra th́ chẳng rong ruổi theo sắc trần, quay trở lại
quan sát tự tánh chính là “đoan
chánh con mắt”. Cứ như thế, cả sáu căn chẳng
rong ruổi theo sáu trần, chiếu rạng nguồn tâm th́
mới gọi là “đoan chánh”,
th́ mới là bậc nhất.
Tiếp đó, câu kinh: “Thân
tâm tịnh khiết, dữ thiện tương ứng” (Thân tâm tịnh khiết
tương ứng với điều thiện) cũng có
hai nghĩa sâu và cạn. Hiểu cạn cợt th́ thân tâm ly
cấu vô nhiễm, việc làm nơi thân, lời lẽ
nơi miệng, sự suy nghĩ nơi ư đều lành cả.
Hiểu sâu hơn th́ Thỉ Giác Trí khế hợp khéo léo với
Bổn Giác Lư mới là “dữ
thiện tương ứng”. Nhưng ta phải biết
một cách đúng đắn rằng: Xét đến rốt
ráo điều thiện bậc nhất này chẳng ngoài “chẳng làm các điều ác,
vâng giữ các điều lành”.
Trong Tịnh tông, điều thiện bậc nhất
chính là pháp môn Niệm Phật của Đại Thế Chí Pháp
Vương Tử: “Đô nhiếp
lục căn, tịnh niệm tương kế” (Nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối). Một
tiếng Phật hiệu nhiếp trọn sáu căn nên sáu
căn đều đoan chánh như Linh Phong đại
sư từng bảo: “Phật
hiệu gieo vào tâm loạn, tâm loạn chẳng thể không
thành tâm Phật”. Tâm đă là Phật th́ tự nhiên sáu
căn đều là Phật. Bởi thế mới bảo
là: “Nhĩ, mục, khẩu, tỵ,
giai đương tự đoan” (Tai, mắt, miệng,
mũi thảy đều nên tự đoan chánh). Tự đoan chánh là do một
tiếng Phật hiệu khiến cho cả sáu căn đều
tự nhiên đoan chánh, tự nhiên “thân tâm tịnh khiết, dữ thiện tương ứng”.
Điều thiện ở đây chính là “tâm này là Phật”.
Cuối phẩm này, Phật lại khuyên răn nên bỏ
ḷng dục, dứt điều ác, an ḥa, chuyên tinh, thành thật.
Sách Đại Thừa Nghĩa Chương quyển bảy giảng
chữ “dục” như sau: “Nhiễm ái trần cảnh th́ gọi
là Dục”. “Trần” (塵) là năm trần:
Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc. Năm trần này có khả
năng phát khởi ḷng tham dục của con người
nên được gọi là “ngũ
dục”. Trí Độ Luận viết: “Ngũ dục c̣n gọi là ngũ tiễn (năm
mũi tên) v́ chúng phá hoại các
thiện sự”. V́ thế, đức Thế Tôn khuyên
răn chúng sanh “vật tùy thị
dục” (chớ thuận theo dục vọng).
Vả nữa, trong các món dục, dâm dục là độc
hại nhất nên Phật buộc người xuất gia
chú trọng đoạn dâm. Nếu có thể ly dục th́ “bất phạm chư ác” (chẳng
phạm các điều ác). Đây chính là lời khuyên tha thiết
“chư ác mạc tác” (đừng
làm các điều ác).
“Ngôn sắc” (言 色) chính là lời
nói và vẻ mặt. “Ḥa” (和) là ḥa nhă, an
tường. Ngôn ngữ ḥa nhă chính là Ái Ngữ trong Tứ
Nhiếp Pháp; vẻ mặt ḥa nhă chính là dùng từ quang chiếu
soi người khác.
“Thân hạnh” là những việc
do chính thân ta làm; “chuyên”
(専) là chuyên nhất, chuyên chú, chuyên ṛng tinh tấn.
“Đương chuyên” (nên
chuyên) là nên chuyên ṛng tinh tấn hành đạo. Nếu nói
theo kinh này th́ “đương
chuyên” chính là nên một bề chuyên niệm.
“Động tác” tức là hành
động; “chiêm thị” (瞻 視) là
ngó nh́n; “từ” (徐) là thong thả,
ḥa hoăn. V́ thế, câu “động
tác chiêm thị, an định từ vi” (cử động,
ngó nh́n an định, thong thả) nghĩa là nhất cử
nhất động đều phải an tường,
điềm tĩnh, thung dung, chẳng hấp tấp. “Thương
tốt” (倉 卒) là đột
ngột, vội vă, bối rối. “Đế” (諦) là suy xét, thận
trọng. Làm việc bộp chộp ắt sẽ bị thảm
bại khiến phải hối hận về sau. Chẳng
thận trọng, dè dặt trong việc làm th́ bị “vong kỳ công phu” (uổng mất
công phu)”. “Vong” (亡) là đánh mất,
phí công. Chữ “công phu” chỉ
công phu tu tŕ.
[1]
Pháp Nhĩ (法 爾) c̣n gọi là pháp nhiên, tự nhiên, thiên nhiên, tự
nhĩ, pháp nhĩ tự nhiên… Từ ngữ này chỉ mọi
hiện tượng tự nhiên, không trải qua bất kỳ
một trạng thái tạo tác nào, tức chỉ những
tướng trạng xưa nay của sự vật.