36. Trùng trùng hối miễn ( : Bao lượt khuyên lơn)

 Trong phẩm này, v́ chiết phục chúng sanh ác nghiệp nên đức Phật lại chỉ bày, khuyên lơn. Trước hết Ngài giảng rơ về nhân ác quả ác để chúng sanh biết mà kiêng sợ. Cuối phẩm, Ngài lại khuyên nên đoan chánh thân tâm, chẳng quên công phu để khỏi phải hối hận.

Chánh kinh:

佛 告 彌 勒: 吾 語 汝 等,如 是 五 惡、五 痛、五 燒,輾 轉 相 生。敢 有 犯 此,當 歷 惡 趣。或 其 今 世,先 被 病 殃,死 生 不 得,示 眾 見 之。或 於 壽 終,入 三 惡 道。愁 痛 酷 毒,自 相 燋 然。

Phật cáo Di Lặc: - Ngô ngữ nhữ đẳng, như thị ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu, triển chuyển tương sanh, cảm hữu phạm thử, đương lịch ác thú, hoặc kỳ kim thế, tiên bị bệnh ương, tử sanh bất đắc, thị chúng kiến chi. Hoặc ư thọ chung, nhập tam ác đạo, sầu thống khốc độc, tự tương tiều nhiên.

Phật bảo Di Lặc: - Ta bảo các ông: Năm sự ác, năm sự đau, năm sự đốt như thế xoay chuyển sanh lẫn nhau. Kẻ nào dám phạm phải những điều ấy sẽ trải thân trong đường ác; hoặc là trong đời này trước hết bị bệnh tật, tai ương, sống chết chẳng được, để làm gương cho kẻ khác. Hoặc là chết đi, đọa trong ba đường ác. Sầu đau, thảm năo, tàn khốc, tự nung đốt thân.

Giải:

Đoạn kinh này nói về cái họa do ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu sanh ra.

Gia Tường Sớ giảng: “Triển chuyển tương sanh (xoay chuyển sanh lẫn nhau) là ba độc. Chẳng trừ ác th́ ác chẳng tuyệt, khổ quả chẳng dứt”. Sách Hội Sớ lại giảng: “Năm ác là nhân, nhọc nhằn khổ sở là quả. Dùng quả để răn nhân. ‘Tương sanh’ là đời này bị đau khổ, đời sau bị thiêu đốt; điều này làm cái nhân để sanh ra điều kia vậy”.

Cả hai thuyết cùng nói đến “tương sanh” nhưng chưa giảng rơ chữ “triển chuyển”. Các vị Tịnh Ảnh, Cảnh Hưng và Vọng Tây giảng rơ chữ “triển chuyển”.

Ngài Vọng Tây bảo: “Trước hết nói rơ điều ác sanh ra nỗi đau khổ và thiêu đốt. Tiếp đó là từ thiêu đốt sanh ra điều ác và đau khổ”.

Ngài Tịnh Ảnh nói: “Trước hết, nói từ ác sanh đau đớn, sanh ra thiêu đốt. Tiếp đó, nói từ thiêu đốt sanh ra ác, sanh ra đau”.

Ngài Cảnh Hưng cũng giảng giống như thế, nghĩa là: Ác, đau khổ và thiêu đốt lần lượt sanh lẫn nhau. Điều ác sanh ra nỗi đau đớn, thiêu đốt nên phải sanh trong ác đạo. Nhưng chúng sanh trong ác đạo ba độc quá nặng nên từ sự thiêu đốt ấy lại sanh ra các nỗi ác khổ, đau đớn như gà đẻ ra trứng, trứng lại nở ra gà. Cái này, cái kia lần lượt sanh ra nhau không lúc nào ngớt.

Bởi thế, tiếp đó kinh chép: “Cảm hữu phạm thử” (Kẻ nào dám phạm phải những điều ấy). “Thử” (những điều ấy) chính là những điều ác. Kẻ dám phạm vào những điều ác ắt sẽ măi măi lăn lóc trong nẻo ác nên kinh dạy: “Đương lịch ác đạo” (Sẽ trải thân trong đường ác). “Lịch” () là trải qua, “ác đạo” chính cái quả do việc ác chiêu cảm. Bởi thế, kinh nêu lên tướng trạng của quả để răn đe chúng sanh ngơ hầu họ dứt bỏ nhân ác.

Các câu từ “hoặc kỳ kim thế” (hoặc trong đời này) cho đến “thị chúng kiến chi” (để làm gương cho mọi người thấy) là nói về năm sự đau; đấy chỉ là hoa báo trong đời hiện tại. “Bị” () là lănh chịu; “bệnh” () là tật bệnh, “ương” () là tai họa như thủy tai, hỏa tai, h́nh phạt v.v... Kẻ làm ác ngay trong hiện đời th́ hoặc bị bịnh nặng, hoặc mắc phải tai vạ, mong sống chẳng được, cầu chết không nổi. Sầu khổ muôn mối chẳng thoát khỏi được! Bởi thế, Phật nói: “Tử sanh bất đắc” (Sống chết chẳng được).

Tiếp đó, kinh nói: “Thị chúng kiến chi” (Để làm gương cho kẻ khác thấy) là chỉ rơ quả ác này để khiến cho tất cả đại chúng đều được thấy rơ mà biết rằng nhân quả chẳng dối, sanh ḷng kiêng sợ.

Tiếp đó, kinh chép: “Hoặc ư thọ chung, nhập tam ác đạo” (hoặc là chết đi, vào trong ba đường ác), đó chính là quả báo, tức là năm sự đốt vậy. “Sầu thống” là lo buồn, đau đớn. “Khốc độc” ( ) là nỗi đau đớn thảm thiết nhất. Tiều () là nướng, là thui, bị tổn thương bởi lửa. Nhiên () là đốt cháy.ch Hội Sớ giảng như sau: “Tiều nhiên là dáng vẻ dữ dội của ngọn lửa địa ngục. Chữ ‘tự’ nghĩa là do nghiệp của chính ḿnh chiêu cảm”. Bởi thế, kinh chép là “tự tương tiều nhiên”.

Chánh kinh:

家,更 傷。從 起,成 劇。

Cộng kỳ oán gia, cánh tương sát thương, tùng tiểu vi khởi, thành đại khốn kịch.

Cùng với oan gia lại sát hại, tổn thương lẫn nhau. Bắt đầu từ chút việc nhỏ nhặt trở thành sự khốn khổ lớn lao dữ dội.

Giải:

Tịnh Ảnh Sớ cho rằng cả đoạn trên này là để nói rơ ư nghĩa “tùng thiêu khởi ác” (từ Ngũ Thiêu tạo thành Ngũ Ác).

Ngài Vọng Tây cho rằng “cánh tương sát thương” (lại sát hại, tổn thương lẫn nhau) chính là “điều ác thiêu đốt chúng sanh, giết hại chúng sanh”. Trong trận lửa địa ngục, kẻ ác v́ đau đớn quá mức nên nổi sân, đâm ra tàn sát, đả thương lẫn nhau. Đó chính là trong khi bị thiêu đốt lại gây thêm tội ác, kết thành oán cừu nên bảo là “oán gia”. Cứ đ̣i nợ lẫn nhau, Giáp giết Ất, Ất lại giết Giáp nên bảo là “cánh tương sát thương”.

Từ bé xé ra to, càng lúc càng phiền toái, càng khốc liệt, chẳng lúc nào hết nên bảo là: “Tùng tiểu vi khởi, thành đại khốn kịch” (Từ chút việc nhỏ nhặt trở thành sự lớn lao dữ dội). “Kịch” () là quá mức, kịch liệt, là nhiều, là tăng thêm. Làm ác chẳng thôi nên khổ càng tăng thêm chẳng ngừng, trở thành sự khổ sở lớn lao, khiến cái họa càng thêm sâu nên bảo là “thành đại khốn kịch”. Bản Ngụy dịch chép là: “Cửu hậu đại kịch” (Lâu ngày thành lớn lao quá mức). Tịnh Ảnh Sớ giảng:“Thân chịu lao khổ, khổ tăng thêm chẳng ngớt nên gọi là ‘cửu hậu đại kịch”.

Chánh kinh:

色,不 惠。各 快,無 直。痴 迫,厚 利。富 華,當 意。不 辱,不 善。威 幾,隨 滅。天 ,自 舉,煢 忪,當 中。古 是,痛 傷!

Giai do tham trước tài sắc, bất khẳng thí huệ. Các dục tự khoái, vô phục khúc trực. Si dục sở bách, hậu kỷ tranh lợi, phú quư vinh hoa, đương thời khoái ư, bất năng nhẫn nhục, bất vụ tu thiện. oai thế vô kỷ, tùy dĩ ma diệt, thiên đạo thi trương, tự nhiên củ cử. Quỳnh quỳnh chung chung, đương nhập kỳ trung. Cổ kim hữu thị, thống tai khả thương!

Đều do tham đắm tài sắc, chẳng chịu bố thí. Ai nấy chỉ muốn tự sướng, chẳng c̣n biết đến cong vạy hay ngay thẳng. Bị si dục bức bách nên hậu đăi ḿnh, tranh lợi, phú quư, vinh hoa; cốt khoái ư ngay trong lúc ấy, chẳng thể nhẫn nhục nổi, chẳng chăm tu thiện. Oai thế chẳng được bao lâu đă bị ṃn diệt. Đạo trời lồng lộng, tự nhiên tỏ rơ. Bơ vơ, bồn chồn, sẽ vào trong đó. Xưa nay như thế, đau đớn thay, đáng thương thay!

Giải:

Đoạn kinh này nói về cái nhân ác là ba độc rồi lại răn dạy.

“Giai do tham trước tài sắc” (Đều do tham đắm tài sắc): Cầu được nhiều chẳng chán là Tham (), tâm tham kiên cố là Trước () . Kinh Bảo Tích dạy: “Tà niệm sanh tham trước, tham trước sanh phiền năo” (Tà niệm sanh ra tham đắm, tham đắm sanh ra phiền năo). Trong chữ “tài sắc” th́ Tài () chỉ tiền tài, của cải; Sắc () là sắc t́nh, tức là t́nh ái nam nữ. Gia Tường Sớ giảng: “Hoặc là tham tài hay tham xác thịt”. Sách c̣n viết: “Từ câu ‘giai do tham trước’ trở đi nói đến tội lỗi của ba ác. Tham đắm vinh hoa, tham đắm cái vui hiện tại nên tạo ác”.

“Bất khẳng thí huệ” là chẳng chịu đem tài vật ban bố cho người. Sách Hội Sớ viết: “Tham dục tuy nhiều nhưng tài sắc là lớn nhất nên kinh đặc biệt nêu lên. Chẳng thể bố thí là tướng trạng của ḷng keo kiệt”.

“Các dục tự khoái, vô phục khúc trực” (Ai nấy chỉ biết tự sướng, chẳng c̣n biết đến cong vạy hay ngay thẳng) là chỉ cầu tự lợi để thỏa măn tấm ḷng, chẳng cần biết đến đúng sai, cong vạy hay chất trực.

“Si dục sở bách” (Bị si dục bức bách): Cội gốc của cái tâm Tham dục chính là Si nên bảo là “si dục”. Kinh Di Giáo dạy: “Nhược hữu trí huệ, tắc vô tham trước” (Nếu có trí huệ th́ chẳng tham đắm). V́ thế, trong đoạn kinh này chỉ nói đến hai cái ác Si và Tham, c̣n Sân th́ đă được đề cập trong đoạn kinh ở phần trên rồi.

Sách Hội Sớ giảng chữ “bách” () như sau: “Ái dục bức bách, thường nghĩ tưởng dục cảnh”. Bởi đó mà tổn hại người khác để ḿnh được lợi, chỉ ham “phú quư vinh hoa”, chỉ cầu khoái ư trong phút chốc, chẳng mong nhẫn nhục tu thiện, tích lũy phước báo cho mai sau; nhưng oai thế nào c̣n măi, phút chốc diệt mất.

“Thiên đạo thi trương, tự nhiên củ cử” (tạm dịch: “Đạo trời lồng lộng, tự nhiên tỏ rơ”): Thi () là giương ra, “củ” () là uốn nắn cho đúng, là xem xét, là nêu ra cái sai. Cái lư tự nhiên, cái đạo pháp nhĩ[1] th́ gọi là “thiên đạo”. Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Đạo lư trong thiên hạ tự nhiên lập bày v́ thế gọi là ‘thiên đạo thi trương’. Hễ tạo ác tất bày rơ ra nên gọi là ‘tự củ cử’. Sách Hội Sớ nói: “Nói ‘thiên đạo’ là nói đến nhân quả báo ứng”. Sách c̣n viết: “Sự đă phát sanh th́ theo đúng pháp mà cắt đứt. Sự chưa phát hiện bèn quan sát kỹ, th́ gọi là ‘củ cử’. Cử () là chỉ bày”.

“Quỳnh quỳnh” ( ) là lo lắng, không nơi nương dựa. “Chung chung” ( ) là tâm hoảng sợ chẳng yên, kinh hoàng, hoảng hốt. Sách Hội Sớ giảng câu “đương nhập kỳ trung” (sẽ vào trong ấy) như sau: “Quỳnh quỳnh là t́nh cảnh đơn độc, một ḿnh sống, ḿnh ḿnh chết. ‘Chung chung’ là tâm động, kinh hoàng xen lẫn không xen hở. ‘Kỳ trung’ là trong năm đường”. Tịnh Ảnh Sớ lại giảng: “Kẻ có tội sẽ phải đi về đó, không người bầu bạn nên bảo là bơ vơ, bồn chồn đi vào trong ấy”. Tiếp đó kinh nói: “Cổ kim hữu thị, thống tai khả thương” (Xưa nay như thế, đau đớn thay, đáng thương thay), ư nói: Do tam độc tạo ra nhân ác th́ nhất định phải chịu lấy ác quả đớn đau, thiêu đốt.

Trên đây Phật răn điều ác, tiếp đó, Phật khuyên làm lành.

Chánh kinh:

語,熟 之。各 守,終 怠。尊 善,仁 愛。當 世,拔 本。當 塗,憂 道。若 善,云 一?當 心,當 身。耳 鼻,皆 端。身 潔,與 應。勿 欲,不 惡。言 和,身 專。動 視,安 為。作 卒,敗 後。為 諦,亡 夫。

Nhữ đẳng đắc Phật kinh ngữ, thục tư duy chi, các tự đoan thủ, chung thân bất đăi, tôn thánh kính thiện, nhân từ, bác ái, đương cầu độ thế, bạt đoạn sanh tử chúng ác chi bổn, đương ly tam đồ, ưu bố khổ thống chi đạo. Nhược tào tác thiện, vân hà đệ nhất? Đương tự đoan tâm, đương tự đoan thân. Nhĩ, mục, khẩu, tỵ, giai đương tự đoan. Thân tâm tịnh khiết, dữ thiện tương ứng. Vật tùy thị dục, bất phạm chư ác. Ngôn sắc đương ḥa, thân hạnh đương chuyên, động tác chiêm thị, an định từ vi. Tác sự thương tốt, bại hối tại hậu. Vi chi bất đế, vong kỳ công phu.

Các ông được nghe lời kinh Phật th́ phải suy nghĩ chín chắn, ai nấy tự nên giữ vững, trọn đời chẳng lười: tôn thánh, kính thiện, nhân từ, bác ái. Hăy nên mong cứu đời, nhổ dứt cội rễ sanh tử và các ác th́ sẽ ĺa khỏi con đường tam đồ lo sợ, đau khổ. Các ông làm lành như thế nào th́ sẽ là bậc nhất? Hăy nên tự đoan chánh cái tâm, hăy nên tự đoan chánh cái thân. Tai, mắt, miệng, mũi đều nên tự đoan chánh. Thân, tâm tịnh khiết tương ứng với điều thiện. Chớ thuận theo dục vọng, chẳng phạm các sự ác. Ngôn từ, vẻ mặt nên ḥa nhă, thân hạnh nên chuyên; cử động, ngó nh́n an định, thong thả. Làm việc bộp chộp để bị thua thiệt rồi hối hận về sau. Làm việc chẳng thận trọng sẽ uổng mất công phu.

Giải:

Trong đoạn này, đức Như Lai khuyên tất cả những người nghe kinh nên chuyên ṛng, siêng năng tu thiện.

Chữ “Phật kinh ngữ” chỉ chung hết thảy pháp môn bỏ ác làm lành, bỏ trần cảnh hướng đến giác ngộ. Chữ này c̣n dùng để chỉ riêng ba kinh Tịnh Độ giảng về Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh của Phật Di Đà. Kinh bậc nhất trong ba kinh đó chính là kinh này. “Thục tư duy chi” (Suy nghĩ chín chắn) tức là nghe xong phải suy nghĩ. “Đoan thủ bất đăi” (Giữ vững, chẳng lười) là từ tư duy khởi lên tu hành.

“Đoan thủ” ( ) là giữ đúng, phụng hành theo đúng lời dạy. Ngài Cảnh Hưng lại bảo: “Đoan thủ là dẹp tà, giữ chánh”. Trọn hết đời này giữ đúng theo lời Phật dạy, chẳng hề biếng nhác nên bảo là “chung thân bất đăi” (trọn đời chẳng lười).

Đối với câu “tôn thánh, kính thiện, nhân từ, bác ái”, ngài Cảnh Hưng giảng: “Chữ Thánh chỉ chung cả Phật lẫn Tăng. Thiện pháp dù là pháp thế gian hay xuất thế gian cũng đều là của báu vô thượng nên phải kính trọng. Ở đây, Thiện là Tam Bảo. Nhân ái, từ bi cứu giúp tất cả mọi người nên bảo là ‘nhân từ, bác ái’, nghĩa là: Bác ái giúp đỡ chúng sanh”.

“Đương cầu độ thế” (Hăy nên mong độ đời) là tự độ, độ người, tự giác, giác tha, làm cho khắp hết thảy chúng sanh vĩnh viễn thoát khỏi hư vọng sanh tử.

“Bạt đoạn sanh tử chúng ác chi bổn” (Nhổ dứt cội gốc sanh tử và các ác) là siêng tu Giới, Định, Huệ; dứt bặt tham, sân, si. Cội rễ của sự luân hồi sáu đường chính là tham dục. Biển khổ sanh tử chỉ nhờ trí mới vượt nổi. Dùng gươm trí huệ chặt đứt các phiền năo tham dục, vô minh v.v… chính là nhổ dứt cội rễ sanh tử. Có như vậy mới vĩnh viễn ĺa khỏi nỗi khổ tam đồ. Hễ ác đă tận th́ sự thiêu đốt, sự đau khổ cũng hết. V́ thế, kinh nói: “Đương ly tam đồ ưu bố khổ thống chi đạo” (Sẽ ĺa khỏi con đường tam đồ lo sợ, đau khổ).

Tiếp đó, Phật khuyên nên đoan chánh thân tâm cho tương ứng với điều thiện. Đức Thế Tôn chỉ thẳng cách làm lành bậc nhất.

“Tác thiện” có thể hiểu thô thiển là làm việc lành, chứ xét theo Thật Đế th́ chính là “tâm này làm Phật”.

Nếu hiểu một cách thô thiển, câu “đoan thân, nhĩ, mục, khẩu, tỵ” (đoan chánh thân, tai, mắt, miệng, mũi) nghĩa là thân tâm đoan chánh như là “điều phi lễ chẳng nh́n, việc phi lễ chẳng nghe”.

Phân tích ở mức độ sâu hơn th́ “nhĩ đương tự đoan (tai nên tự đoan chánh) chính là pháp Nhĩ Căn Viên Thông “phản văn tự tánh” (xoay trở lại nghe nơi tự tánh) của Quán Âm đại sĩ. Đại Sĩ chẳng đuổi theo thanh trần mà xoay lại nghe nơi tự tánh; ấy chính là “đoan chánh nhĩ căn”. Cứ thế suy rộng ra th́ chẳng rong ruổi theo sắc trần, quay trở lại quan sát tự tánh chính là “đoan chánh con mắt”. Cứ như thế, cả sáu căn chẳng rong ruổi theo sáu trần, chiếu rạng nguồn tâm th́ mới gọi là “đoan chánh”, th́ mới là bậc nhất.

Tiếp đó, câu kinh: “Thân tâm tịnh khiết, dữ thiện tương ứng” (Thân tâm tịnh khiết tương ứng với điều thiện) cũng có hai nghĩa sâu và cạn. Hiểu cạn cợt th́ thân tâm ly cấu vô nhiễm, việc làm nơi thân, lời lẽ nơi miệng, sự suy nghĩ nơi ư đều lành cả. Hiểu sâu hơn th́ Thỉ Giác Trí khế hợp khéo léo với Bổn Giác Lư mới là “dữ thiện tương ứng”. Nhưng ta phải biết một cách đúng đắn rằng: Xét đến rốt ráo điều thiện bậc nhất này chẳng ngoài “chẳng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành”.

Trong Tịnh tông, điều thiện bậc nhất chính là pháp môn Niệm Phật của Đại Thế Chí Pháp Vương Tử: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế” (Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối). Một tiếng Phật hiệu nhiếp trọn sáu căn nên sáu căn đều đoan chánh như Linh Phong đại sư từng bảo: “Phật hiệu gieo vào tâm loạn, tâm loạn chẳng thể không thành tâm Phật”. Tâm đă là Phật th́ tự nhiên sáu căn đều là Phật. Bởi thế mới bảo là: “Nhĩ, mục, khẩu, tỵ, giai đương tự đoan” (Tai, mắt, miệng, mũi thảy đều nên tự đoan chánh). Tự đoan chánh là do một tiếng Phật hiệu khiến cho cả sáu căn đều tự nhiên đoan chánh, tự nhiên “thân tâm tịnh khiết, dữ thiện tương ứng”. Điều thiện ở đây chính là “tâm này là Phật”.

Cuối phẩm này, Phật lại khuyên răn nên bỏ ḷng dục, dứt điều ác, an ḥa, chuyên tinh, thành thật. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương quyển bảy giảng chữ “dục” như sau: “Nhiễm ái trần cảnh th́ gọi là Dục”. “Trần” () là năm trần: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc. Năm trần này có khả năng phát khởi ḷng tham dục của con người nên được gọi là “ngũ dục”. Trí Độ Luận viết: “Ngũ dục c̣n gọi là ngũ tiễn (năm mũi tên) v́ chúng phá hoại các thiện sự”. V́ thế, đức Thế Tôn khuyên răn chúng sanh “vật tùy thị dục” (chớ thuận theo dục vọng).

Vả nữa, trong các món dục, dâm dục là độc hại nhất nên Phật buộc người xuất gia chú trọng đoạn dâm. Nếu có thể ly dục th́ “bất phạm chư ác” (chẳng phạm các điều ác). Đây chính là lời khuyên tha thiết “chư ác mạc tác” (đừng làm các điều ác).

“Ngôn sắc” ( ) chính là lời nói và vẻ mặt. “Ḥa” () là ḥa nhă, an tường. Ngôn ngữ ḥa nhă chính là Ái Ngữ trong Tứ Nhiếp Pháp; vẻ mặt ḥa nhă chính là dùng từ quang chiếu soi người khác.

“Thân hạnh” là những việc do chính thân ta làm; “chuyên () là chuyên nhất, chuyên chú, chuyên ṛng tinh tấn. “Đương chuyên” (nên chuyên) là nên chuyên ṛng tinh tấn hành đạo. Nếu nói theo kinh này th́ “đương chuyên” chính là nên một bề chuyên niệm.

“Động tác” tức là hành động; “chiêm thị” ( ) là ngó nh́n; “từ” () là thong thả, ḥa hoăn. V́ thế, câu “động tác chiêm thị, an định từ vi” (cử động, ngó nh́n an định, thong thả) nghĩa là nhất cử nhất động đều phải an tường, điềm tĩnh, thung dung, chẳng hấp tấp. “Thương tốt” ( ) là đột ngột, vội vă, bối rối. “Đế” () là suy xét, thận trọng. Làm việc bộp chộp ắt sẽ bị thảm bại khiến phải hối hận về sau. Chẳng thận trọng, dè dặt trong việc làm th́ bị “vong kỳ công phu” (uổng mất công phu)”. “Vong” () là đánh mất, phí công. Chữ “công phu” chỉ công phu tu tŕ.

 



[1] Pháp Nhĩ (法 爾) c̣n gọi là pháp nhiên, tự nhiên, thiên nhiên, tự nhĩ, pháp nhĩ tự nhiên… Từ ngữ này chỉ mọi hiện tượng tự nhiên, không trải qua bất kỳ một trạng thái tạo tác nào, tức chỉ những tướng trạng xưa nay của sự vật.