LỄ PHẬT VÀ
Y HỌC
(lược trích)
Bửu Quang tự đệ tử
Download tác phẩm
dưới dạng Microsof Doc
LỜI NÓI ĐẦU
Từ
trước đến nay, chúng tôi vẫn nghĩ lễ Phật
chỉ là một hành động bày tỏ ḷng cung kính cũng
như để sám hối nghiệp chướng, điều
phục tâm ngă mạn của chính ḿnh mà thôi, chứ chẳng
hề biết lễ Phật c̣n là một phương pháp
tập luyện thân thể tuyệt diệu.
Trong một lần được
tiếp chuyện cô Cát Tường, cô có nhắc đến
tác phẩm Lễ Phật Dữ Y Học (Lễ Phật và
Y Học) của pháp sư Đạo Chứng do Tịnh Tông Học
Hội ấn hành và tha thiết yêu cầu chúng tôi chuyển
ngữ sang tiếng Việt. Trước khi đọc tập
sách này, chúng tôi thường lễ Phật theo thói quen, lễ
một cách máy móc, lễ cho đủ số. Lễ xong ai nấy
thường thở ph́ pḥ, mồ hôi nhễ nhại, chứ
chưa bao giờ được hưởng pháp vị vi
diệu trong khi lễ Phật cả.
Thử thực hành theo cách lễ
Phật do Pháp Sư từ bi chỉ dạy, dù chưa nắm
hoàn toàn được yếu quyết lễ Phật, chúng
tôi đă nhận thấy việc lễ Phật trở nên
nhẹ nhàng, thoải mái hơn. Cứ mỗi lần quỳ
xuống, cúi thân rạp lạy, lại quán tưởng Đức
Phật đoan nghiêm vi diệu, nghiễm nhiên đứng
trên hai bàn tay sen của ḿnh, ḷng chúng tôi lại thấy lâng
lâng khôn tả. Trước đây, mỗi lần lạy Phật
sám hối, lễ xong 108 lễ là mệt nhoài; nay lễ
đủ 108 lễ chỉ thấy hơi mệt, tâm t́nh cũng
thoải mái, ư cũng chuyên chú hơn. Chúng tôi tin chắc rằng
nếu tập luyện lâu ngày theo đúng cách Pháp Sư dạy,
chắc chắn việc lễ Phật sẽ trở thành một
niềm pháp hỷ sung măn vô biên đúng như các đệ
tử của Pháp Sư đă trần thuật.
Do tập sách khá dày, đă thế
2/3 cuốn sách lại luận giải nhiều về
cơ sở sinh lư/vật lư của phương pháp này, nếu
dịch đủ cả, bản dịch sẽ trở nên
quá dài, trở thành một cuốn sách giáo khoa về sinh vật
học, khiến điểm cốt yếu của tập
sách này là cách lễ Phật đúng quy cách bị mờ nhạt
đi. V́ thế, chúng tôi chỉ chọn dịch phần
khái luận, phương pháp lễ Phật và một hai luận
điểm Pháp Sư dùng để chứng minh tính cách khoa
học và hợp lư của phương pháp lễ Phật
này. Tưởng cũng nên nói thêm, trước khi xuất
gia, Pháp Sư Đạo Chứng từng là một vị nữ
bác sĩ, khuê danh là Quách Huệ Trân. Sau khi bị ác chứng
ung thư, nhờ chí tâm tin tưởng vào Tam Bảo và lễ
sám, bác sĩ Quách đă vượt qua được những
di chứng ngặt nghèo của căn bệnh. Với ḷng
tin nhiệt thành vào Tam Bảo, nhất là pháp môn Tịnh Độ,
bà đă xuất gia và trở thành một vị pháp sư hữu
danh của Phật giáo Trung Hoa. Khi nghiên cứu cách lạy
Phật này, Ngài đă chú tâm diễn giải và hoàn thiện
nó trên cơ sở y học và vật lư học. V́ thế,
có thể nói không sợ phóng đại rằng cách lạy
Phật này rất hợp lư và rất khoa học.
Ngưỡng
mong những vị đồng tu có duyên đọc đến
tác phẩm này sẽ t́m được niềm vui pháp hỷ
sung măn trong việc lễ Phật, cũng như càng lễ
sám, tu niệm, càng thấy thân tâm khang kiện hơn.
.
I. Lễ Phật là một hành động rèn luyện tự giác, là sự hưởng thụ tối cao.
Có
người cứ nghe nói đến việc “lễ Phật”
bèn bài xích là hành động mê tín, chứ thật ra đối
với ư nghĩa của chữ Phật và đạo lư “lễ
bái” hoàn toàn chẳng hiểu ǵ nên mới ngộ nhận
như thế. Lễ Phật nào phải là sùng bái, van vái thần
minh bên ngoài một cách mù quáng, mà chính là một hành vi hợp
lư, đúng đắn, có tiềm năng thâm nhập, khai
phát tự tánh nội tại. Lễ bái chẳng những
giúp cho thân, tâm khang kiện, mà c̣n có thể giúp ta huấn luyện
năng lực giác chiếu cao cấp. Nếu bàn đến
tác dụng “khiến tâm vui vẻ, sảng khoái, an định”
th́ lễ bái cũng là cách hưởng thụ pháp lạc
cao quư. Nếu đă có thể tin tưởng vào lời giải
thích căn bản trên th́ không ai lại chẳng tán thành,
đề cao hoạt động thân, tâm, tinh thần ưu
tú này.
Có nhiều
phương thức biểu đạt sự lễ kính
sai khác. Do mỗi quốc gia có một nền văn hóa sai
khác nên phương thức biểu đạt lễ kính cũng
phải sai khác. Chẳng hạn như: Nước th́ chắp
tay, nước th́ khom ḿnh, có nước cúi đầu
để biểu đạt ư lễ kính. Tại Tây Tạng,
thường dùng phương thức “đại lễ
bái” để lễ Phật. Thậm chí ngay nơi lúc trời
Đông tuyết đọng, họ vẫn kiền thành rạp
lạy toàn thân, nằm mọp xuống đất, hai tay
hướng thẳng về trước, ép sát xuống
đất.
Tại Ấn Độ, có chín
phương thức biểu đạt sự lễ kính, gọi
là “Thiên Trúc cửu nghi”:
1. Mở lời thưa hỏi.
2. Cúi đầu biểu thị
sự cung kính.
3. Giơ tay lên cao vái chào.
4. Chắp tay đặt ngang ngực.
5. Co gối (Ấn Độ coi
phía phải tượng trưng cho chánh đạo, v́ thế
trong kinh thường thấy nói “trật
áo vai hữu, gối phải chấm đất, gối
trái dựng thẳng lên” để biểu thị sự
lễ kính).
6. Quỳ thẳng (hai gối
cùng đặt sát đất, mũi bàn chân chạm đất).
7. Bàn tay và gối cùng chạm
đất.
8. Ngũ luân cùng gập lại
(ngũ luân c̣n gọi là ngũ thể) tức là đầu,
hai gối, hai tay thảy đều cong lại
9. Ngũ thể đầu
địa (năm vóc gieo xuống đất) là cách lễ
kính cao nhất, c̣n gọi là “đảnh lễ”, “đầu
diện lễ”, “tiếp túc lễ”; hàm ư: dùng phần cao nhất
trong thân ta là đầu mặt chạm đất để
kính lễ, ôm lấy chân người nhận lễ. Cách này
c̣n gọi là “ngũ luân đầu địa” v́ đầu,
hai tay, hai gối đều chạm đất.
Chín cách lễ bái trên liệt kê
theo thứ tự từ khinh đến trọng (chép theo
sách Đại Đường Tây Vực Kư).
II. Có nhiều cách lễ ngũ thể đầu địa khác nhau, nhưng mỗi cách đều có ư nghĩa sâu xa
Trong các đạo
tràng, chùa miếu của ta, phần nhiều dùng cách “ngũ
thể đầu địa” để lễ Phật. Tuy
cùng gọi là “ngũ thể đầu địa”,
nhưng có nhiều cách thực hiện khác nhau:
1) Trước
phải sau trái: Tại Ấn Độ, dùng phía phải
tượng trưng cho Chánh Đạo nên quỳ gối phải
trước, theo thứ tự: tay phải rồi tay trái chạm
đất, biểu ư: tôn trọng chánh pháp, nguyện cho
chúng sanh đắc Giác Chánh Đạo.
* Cách lạy: Đứng ngay thẳng,
chắp tay ngang trán (cánh tay hơi chạm theo mép áo). Trước
hết là gối phải rồi đến gối trái, hai
khủy tay lần lượt theo thứ tự chạm
đất, rồi x̣e hai tay ra, ḷng bàn tay ngửa lên. Quán
tưởng như đang chạm vào chân đối
phương, dùng trán dập xuống đất một lạy
(theo Phật Quang Đại Từ Điển, điều 6.582).
2) Phải
trái cùng lúc: Hai tay đối xứng đồng thời
chạm đất, hai gối cũng đồng thời
chạm đất. Cách lạy này dùng tả, hữu tượng
trưng cho Chỉ - Quán, Định - Huệ, Quyền - Thật,
Từ - Bi nên dùng trái phải cùng lúc, biểu thị các ư nghĩa:
“Định Huệ Đẳng Tŕ” (cùng b́nh đẳng ǵn giữ
Định lẫn Huệ), “Từ Bi Song Vận” (cùng vận dụng
Từ và Bi), “Chỉ Quán Song Vận”...
Do hai cách lạy này, cách nào cũng
có đạo lư, ư nghĩa sâu xa, chúng ta đều phải
b́nh đẳng học tập, thâm nhập thể hội.
III. Tinh thần, thái độ đúng đắn trong việc học tập cách lễ Phật.
Do những điều
vừa nói trên, ta biết lễ Phật có nhiều cách khác
nhau, trong mỗi đạo tràng lại quen dùng những cách
thức lễ Phật khác nhau. Mỗi cách thức đều
có điểm đặc sắc, ư nghĩa và ưu điểm
khác nhau. Đến mỗi nơi, chúng ta phải đặc biệt
lưu tâm. Đến trong đạo tràng nào để tham gia
đoàn thể cộng tu, chúng ta đều phải tôn trọng
sự chỉ dạy của người lănh đạo, và
cũng phải tôn trọng phương tiện và cách sắp
đặt trật tự đoàn thể của họ, cần
phải làm đúng theo nghi thức được
sử dụng bởi đạo tràng ấy. Bởi lẽ,
tôn trọng người khác cũng là biểu hiện sự
lễ kính chư Phật, là thực tiễn để ḥa
thuận với chúng sanh. Chúng ta phải bắt chước
như hang núi trống rỗng ḥng hấp thâu những
điều sở trường của người khác th́
mới có thể tự ḿnh cải tiến không ngừng, sửa
ḿnh ngay thẳng. Như vậy mới là tu hành, mới là lễ Phật, mới là tinh thần học Phật khiêm
kính, mới là thái độ đúng đắn. Những
phương pháp lễ Phật chúng tôi giới thiệu ở
đây chỉ là nhằm kính tŕnh mọi người tham khảo
mà thôi.
IV. Đừng khơi những tâm thái sai trái khiến chính ḿnh bị chướng ngại
Ngàn vạn phần chúng ta
chớ v́ người khác dùng cách thức lễ bái khác với
cách ḿnh đă học trước đây hoặc khác với
tư thế ḿnh quen dùng mà nảy sinh tâm lư kháng cự, chẳng
chấp nhận, tự sanh ḷng phiền năo (chẳng những
chỉ đối với việc lễ Phật như vậy
mà đối với những điều khác cũng đều
nên như vậy), hoặc lăng phí tinh thần vào những hoài nghi, không cách nào thâm nhập,
lănh hội những điểm hay của họ. Chớ v́
một động tác nào ta không học được mà
ngă ḷng, chán nản. Hoặc v́ gân cốt thiếu vận
động, trở thành cứng cỏi chẳng thể thực
hiện ngay được động tác ấy bèn chán nản.
Thậm chí phê b́nh mù quáng, sanh tâm khinh mạn th́ là hoàn toàn chẳng
phù hợp với nội dung của tinh thần lễ Phật,
mà cũng là trái nghịch với mục đích của việc
lễ Phật là khai phát Phật tánh, mỹ đức
nơi tự tâm.
V. Điều phục thân tâm, khiêm kính, nhu nhuyễn
Học tập lễ Phật th́ điều đầu
tiên là phải hàng phục thái độ kiêu căng, lười
nhác, ngạo mạn của chính ḿnh, điều ḥa, làm dịu
đi sự ngoan cố, bướng bỉnh, khẩn
trương nơi thân tâm ḿnh. Hễ tâm đă khoan ḥa, rỗng
rang, từ bi, dịu dàng th́ thân cũng tự nhiên thong dong,
đoan chánh, linh hoạt, khí huyết cũng thông suốt. Nếu
như tâm căng thẳng, cố chấp
vào một thói quen nào đó, thân sẽ tự nhiên trở nên
cứng c̣ng, mất đi tánh linh hoạt, dẻo dai, biến
thành lăo hóa, các công năng của thân bị thoái hóa, bệnh
tật phát sanh.
VI. Lễ Phật là một cách vận động để khôi phục thân tâm khang kiện
Phật là bậc giác ngộ.
Ngài cũng là bậc Đại Y Vương về thân và tâm. Lễ
Phật là h́nh thức vận động phù hợp với
những nguyên lư của y học, khiến cho nội tâm giao
cảm với bậc Đại Y Vương, khiến cho công
năng chữa bệnh tự nhiên được phát khởi,
có tác dụng tăng cường khả năng miễn dịch,
đề pḥng bệnh tật, tự ḿnh điều tiết,
khiến cho thân, tâm và cả thế giới cùng điều
ḥa. V́ thế, lễ Phật tiêu trừ được
nguyên nhân gây bệnh, chữa lành tật bệnh.
* Lời Phụ:
Lễ Phật nên mặc y phục
tề chỉnh, sạch sẽ.
Nếu là người xuất
gia phải nên đắp y (y trơn tức là mạn y hoặc
ca-sa). Nếu là cư sĩ tại gia th́ phải nên mặc
lễ sám y (tức là mạn y), hoặc mặc y phục thống
nhất theo quy định của từng đoàn thể. Cố
gắng tránh mặc y phục không tề chỉnh, đừng
đội mũ, mặc quần áo quá ngắn hở
lưng, hở đùi. Trong tập sách này, do phương tiện
giúp cho người mới học hiểu rơ những điểm
trọng yếu của từng động tác, nên [các
người mẫu] không mặc quần áo rộng răi. V́ thế,
khi chụp h́nh, người lễ Phật không mặc áo
tràng (hải thanh) hay đắp y (mạn y hay quải y), chỉ
ăn mặc rất sơ sài như thế. Xin mọi
người lúc tự tu, phải nên tận tâm lễ kính.
Thập phần cung kính ắt thập phần lợi ích.
VII. Do lễ Phật là tu tập về mặt Sự mà khế nhập Lư sâu
Cách lễ Phật chúng tôi
giới thiệu ở đây về cơ bản là tuân theo
cách thức do ân sư là Pháp Sư thượng Sám hạ
Vân truyền dạy tại Đại Chuyên Học Sinh Trai Giới
Học Hội, phối hợp những lời thuyết
minh thô thiển theo nguyên tắc giải phẫu sinh vật.
Chỉ mong mọi người lúc mới học cách lễ
Phật, trước hết, trong từng động tác sẽ
được lợi ích thân tâm mềm mại, dần dà sẽ
nhập Lư sâu. V́ thế, bước đầu là phù hợp
với những nguyên tắc của giải phẫu học,
sinh lư học, vật lư học (ḥng tránh khỏi những
chướng ngại nơi thân nghiệp, nội tâm an
định). Cao hơn là từ việc lễ Phật trên
mặt sự tướng, sẽ khế nhập lư Thật
Tướng.
Xin quư vị chớ v́ cách thức
ḿnh lễ Phật không đúng, trái nghịch với những
nguyên tắc sinh lư học, động tác gấp rút, mất
sức khiến ḿnh bị mệt mỏi, đau đớn
mà ngă ḷng (Có người lại do đó quy tội cho việc
lễ Phật. Đi đâu cũng bảo lễ Phật có những
điều chẳng thoải mái như thế đó, tựa
hồ mười phương chư Phật xử tệ
với họ. Đấy chẳng những là chẳng hiểu
rơ lư, mà thậm chí c̣n gây tạo khẩu nghiệp, khiến
người khác lầm tưởng lễ Phật là chẳng
thoải mái, rất khổ sở. Kỳ thật, chỉ
v́ người ấy lầm lạc mà thôi!)
VIII. Lễ Phật tiêu trừ nghiệp chướng, chớ lầm tưởng là khổ nhục kế
Lễ Phật là để
tiêu trừ nghiệp chướng, tiêu trừ trần lao cũng
như tiêu trừ những chướng ngại đă tích lũy
từ những tư thế chẳng đúng trong các hành vi
thường nhật, kéo duỗi các chỗ căng thẳng,
co rút, tiêu trừ những ứ trệ, đả thông những
chỗ bế tắc, rèn giũa thân tâm không chướng ngại,
chứ chẳng phải là khổ nhục kế.
Có kẻ cho rằng càng lễ
Phật đến nỗi kiệt sức, thống khổ,
càng quỳ đến nát cả đầu gối, mọp
đầu đến rách trán, th́ càng được Phật,
Bồ Tát thương xót. Sau đấy v́ quá mệt mỏi,
kiệt sức, không cách chi giữ măi như thế
được, tâm bèn lui sụt, hối hận. Do chẳng
nhẫn được sự cực khổ quá mức (cũng
là do chưa xả được nỗi khổ nơi da
thịt) bèn viện cả đống lư do: “V́ tôi lễ Phật
chẳng được khoẻ khoắn như thế, bác
sĩ bảo tôi đừng nên lễ Phật”. Đấy cũng
là hạng thiếu tín tâm, chưa hiểu rơ lư rốt ráo. Thật
ra, chẳng phải v́ lễ Phật mà không khỏe khoắn,
mà chính là v́ chẳng hiểu cách lễ Phật và nhiều vọng
tưởng nên mới không khỏe khoắn!
Kẻ mạt học này lúc mới
học cũng hiểu lầm như thế, chẳng nắm
được yếu lănh, lễ Phật đến mệt
nhoài nhọc khổ, cho rằng lễ Phật rất mệt
mỏi, sau rồi mới biết là chính ḿnh lầm lạc.
IX. Nguyên nhân gây nên sự mệt nhọc trong khi lễ Phật
Lúc ban đầu tập
tành lễ Phật, thấy nhọc nhằn, đau khổ
là v́:
- Phương pháp chẳng thích
đáng, tư thế mâu thuẫn với những nguyên tắc
kiện khang của sinh lư học: chẳng khéo giữ trọng
tâm theo vật lư học, chẳng khéo dùng lực tự
nhiên, tự dùng sức một cách nhầm lẫn, lăng phí sức.
- Các khớp, khủy, gân, thịt
của ḿnh vốn đă sẵn có những phế vật ứ
trệ hoặc đă tiêu ṃn v́ tuổi tác (khác nào khe nước
vốn sẵn có bùn lầy lắng đọng), lại c̣n
thiếu vận động nhiều năm (giống
như khe nước chẳng hề nạo vét). Trong t́nh huống
như thế, toan vét sạch một lúc th́ đương
nhiên những bùn lầy ch́m đắm, ứ đọng sẽ
nổi lên khiến cho nước trong khe ngầu đục
quá mức. Chỉ cần liên tục đổ nước
trong vào, tự nhiên bùn lầy sẽ trôi đi, khôi phục
sự trong sạch. Quư vị nên hiểu rơ: Lúc nạo vét sạch,
chất bẩn thỉu, tạp nhạp nổi lên chính là những
bùn lầy sẵn có, chứ nào phải đâu do nạo vét
sạch mà có. Nếu bảo là do nạo vét mới có bẩn
thỉu, tạp nhạp th́ chính là chẳng quan sát, suy nghĩ
rơ ràng vậy.
Cùng một lư ấy, nếu
phương pháp lễ Phật đă chính xác mà cảm thấy
có bộ phận nào đặc biệt co rút hoặc đau
đớn th́ đấy chính là những “bùn lầy” ứ
đọng nhiều năm hiển hiện, cho thấy chỗ
ấy vốn bị ứ trệ hoặc ṃn mỏi v́ tuổi
già, chứ nào phải là Phật hại chúng ta, cũng chẳng
phải do lễ Phật mới bị đau đớn.
Nói cách khác, lúc quét dọn thấy bẩn thỉu, lộn xộn,
đấy chính là dấu hiệu báo trước cho sự thanh
tịnh, quư vị càng nên tin tưởng dọn dẹp. Xin
quư vị hăy quan sát, suy nghĩ chính xác, sự lư phân minh, chớ
thấy ḿnh có chút bịnh vặt liền quy tội cho việc
lễ Phật.
Người hằng ngày thiếu
vận động, bảo đi một đoạn ngắn
đă thấy đau chân, bảo khiêng vật nặng liền
kêu đau hông, nhức lưng; đương nhiên khi lễ
Phật cũng phải bị đau nhức, mỏi nhọc.
Kỳ thật chỉ v́ các chi thể thiếu được
huấn luyện, hoạt động, chẳng tuần hoàn
tốt, cho nên sự chuyển hóa năng lượng và thải
trừ các chất cặn bă đều yếu kém. Do vậy,
phải khéo luyện tập, nếu không lương tri,
lương năng sẵn có sẽ bị mất đi. Tuổi
trẻ không tập luyện, đến già sẽ phải
chịu khổ không thể nói. Đă nhận thức được
[giá trị của] sự tập luyện th́ mới có thể
đột phá [những khó khăn].
X. Dốc ḷng vào một chỗ th́ không việc ǵ chẳng hoàn thành, đừng phí tinh thần thẩn thơ, giận hờn
Trong nhà Phật, có rất nhiều
người có thể mỗi ngày lễ Phật cả ba
ngàn lạy, lặng lẽ dụng công (mặt chẳng
đổi sắc, thung dung tự tại), đủ thấy
họ là những người lễ lạy có phương
pháp, có rèn luyện. Quư vị phải khéo tự trân trọng
bản năng Phật tánh, dụng tâm khai ư, đừng
lăng phí thời gian, tinh lực quư báu để than khổ
và oán hờn. Thậm chí suốt ngày bôn ba t́m người
khác giăi bày nỗi khổ, chẳng dụng tâm tự giải
ngộ! Nếu có thể đem hết tâm lực than khổ,
bất măn đó chuyên chú nơi việc khai phát tự tâm th́
những phiền muộn đó sẽ bị trừ sạch!
Phật nói: “Dốc ḷng vào một
chỗ, không sự ǵ chẳng hoàn thành”. Trên đời
không có việc ǵ khó, chỉ sợ người thiếu
ḷng!
XI. Những điểm mấu chốt khiến việc học lễ Phật trở thành khó khăn hay dễ dàng
Quan sát những người
tập luyện lễ Phật, chúng tôi nhận thấy:
·
Những
đứa trẻ ngây thơ, thoải mái, không có tâm thành kiến
sẽ học rất nhanh. Có thể nói là chỉ vẽ cách
lạy cho chúng từ một đến ba lần, đại
đa số bọn trẻ đều làm được
ngay. Đủ thấy đây là một loại động tác
đơn giản, dễ học. Quư vị đừng cho
cách lễ Phật này là rắc rối, khó khăn, sanh tâm
chán nản. Cũng từ sự kiện trên, ta thấy lúc
tâm không vướng mắc, thong dong, mềm dịu sẽ
có khả năng học tập rất tốt, giác tánh sẽ
phát khởi công dụng tốt nhất, trí huệ dễ
khai phát nhất.
·
Đối với
người trưởng thành, những người
chưa từng học qua cách lễ Phật (tâm không có sẵn
thành kiến) sẽ học rất nhanh v́ chẳng bị
thói quen từ quá khứ gây trở ngại, nắm được
yếu lănh rất nhanh, đạt được lợi
ích thân tâm nhu nhuyễn.
·
Những
người khó tập nhất là những người cá
tánh khẩn trương, bướng bỉnh, hay những
người cố chấp vào tập quán quá khứ. Là v́ họ
chỉ mơ hồ thuận theo động tác đă quen,
chẳng đặt chút ư niệm giác tánh. V́ thế, lúc lễ
Phật mơ màng trên dưới, tâm chẳng chuyên chú (thân
cứ theo thói quen đứng lên, sụp xuống, tâm mơ
tưởng chuyện khác). Bởi vậy, chẳng biết
ḿnh đang làm ǵ. Đứng lệch chẳng biết là đứng
lệch. Chắp tay chẳng biết là năm ngón so le, tán loạn.
Mỗi một động tác đều là vọng tưởng,
làm qua quít mơ hồ, chẳng hề dụng tâm minh bạch
rơ ràng để tự quán chiếu. Đấy là buông thả
theo thói quen của tự thân, cô phụ giác tánh của ḿnh.
Lễ Phật một lạy vốn là việc có thể hiểu
rơ trong vài giờ, nhưng nếu học tập như thế
th́ mười năm cũng học chẳng xong. Thậm
chí học hơn cả mười năm, ngay cả động
tác chắp tay cũng so le, tán loạn. Ngay trong lúc khiêm cung
cúi đầu cũng vẫn hồ đồ ngửa đầu,
thẳng cổ. Ngay trong khoảnh khắc ấy chẳng dụng
tâm th́ cái tật nhỏ cố hữu ấy dù mười
năm vẫn chẳng thay đổi được.
Bởi thế, việc tu tập
chẳng nh́n vào thời gian mà chú trọng tại một niệm
tâm ngay trong lúc ấy có chuyên chú, có thong dong, có cung kính hay
không.
Có người cho rằng:
“Lễ Phật chỉ là để biểu hiện sự
lễ kính, cốt sao trong tâm cung kính là được, việc
ǵ phải giảng phương pháp lễ Phật? Phiền
phức quá!”
Có người nói: “Phật và
chúng sanh bản thể là không. Đều cùng là tánh Không, cần
ǵ phải chấp trước sự tướng lễ Phật?
Cần ǵ phải giảng giải, nghiên cứu
phương pháp lễ Phật cơ chứ?”
Đối với câu hỏi thứ
nhất, chúng ta phải hiểu rơ rằng học Phật
tu tŕ th́ phải “sự lư viên dung”, chẳng thể chấp
trước vào Lư, phế bỏ tu hành về mặt Sự,
cũng chẳng thể chấp vào sự tướng
nhưng chẳng hiểu rơ đạo lư (Ngẫu Ích đại
sư nói: “Chấp lư phế sự
th́ lư cũng chẳng viên dung” và “toàn sự tức lư, toàn lư tức sự”).
Trong tâm có ư niệm cung kính th́
ḷng thành bên trong biểu hiện ra ngoài. Hoàn toàn chẳng thể
nói tôi đối với anh có ư cung kính là tốt rồi. Anh
đến nhà tôi, tôi chẳng thèm lư đến, ḍm ngó ǵ
đến, thản nhiên coi truyền h́nh, anh hỏi tôi cũng
chẳng đáp. Có thức ăn ngon, tôi ăn một ḿnh,
dành vỏ trái cây, thức ăn hư, cơm xấu cho anh.
Tin chắc là nếu có ai đối xử với anh
như thế, nhất định anh chẳng thể nào
nghĩ trong tâm họ có ư kính trọng anh được! V́
thế ḷng kính trọng phải có thái độ và lời
nói tương xứng, và cũng cần phải có
phương cách để biểu lộ.
Nếu như ta bụng đói,
trong ḷng muốn ăn, ắt sẽ có hành động, biểu
hiện mong được ăn no. Đă có ư muốn ăn mà
vẫn c̣n suy xét cách ăn, thực đơn, thậm chí
phân tích mức dinh dưỡng, hiệu năng của thức
ăn. Thậm chí c̣n nghiên cứu các phép tắc ứng xử
nơi bàn ăn, huống hồ trong ḷng có ư kính trọng mà
chẳng cần phải nghiên cứu phương pháp kính lễ
ư? Ngày ngày hễ muốn ăn liền dùng ăn uống
để giải quyết, chẳng hiềm phiền phức,
cớ sao đối với tâm ư kính cung kính lại ngại
phiền toái?
Đối với câu hỏi thứ
hai: Điểm áo diệu trong đạo lư nhà Phật là “Có,
Không chẳng hai” (nếu chấp vào không th́ phế Sự
tu, đó cũng là thiên chấp). Bản thể của hết
thảy sâm la vạn tượng là Không, nhưng huyễn
hiện giả tướng Có. V́ thế chẳng thể một
bề chấp trước vạn tượng là có, chẳng
biết bản thể của chúng là không. Cũng chẳng
thể một bề chấp bản thể của chúng là
Không, phủ nhận sự hiện hữu của vạn
tượng. Bản thể của hết thảy sâm la vạn
tượng thực chất là Không, nhưng chúng sanh huyễn
thấy h́nh bóng của vạn tượng. Chẳng những
thế, sự hiển hiện và biến hóa của giả
tướng vẫn tồn tại theo định luật
nhân quả (Nếu chấp trước vào Không, bác bỏ
nhân quả, th́ thành Ác Thú Không. Nếu chưa thể đối
với lửa đốt, dao cắt vẫn an nhiên th́ vẫn
là chấp Có, sao lại bỏ Sự Tu?)
Thân chúng ta đây tuy
“đương thể tức không” (ngay cái thân này chính là
không), nhưng kẻ phàm phu chưa chứng ngộ vẫn
chấp trước có thân thể, có tác dụng, có công
năng. Nếu chúng ta cử động chẳng thích
đáng, chẳng phù hợp với nguyên tắc vận
động th́ cứ theo lư nhân quả, sẽ phát sanh các thứ
tật bệnh chẳng thoải mái (nguyên tắc vật lư
và sinh lư chẳng thể ra ngoài quy luật nhân quả). Bệnh
tật đương nhiên là không, nhưng vấn đề
là kẻ phàm phu chưa tu chứng được tánh Không ắt
nhiên sẽ chấp trước vào chuyện đau bệnh.
Thân thể giả hợp này giống
như pháp khí, lẽ dĩ nhiên chẳng nên tham chấp nó
quá mức, nhưng cũng chẳng nên ngược đăi
nó một cách phi lư. Phật là bậc dùng Giả để
tu Chân (vận dụng thân thể giả huyễn để
tu hành, khế nhập Chân Lư). Đă sử dụng giả
tướng th́ đương nhiên cũng chẳng thể
ĺa bỏ các nguyên tắc nhân quả của giả tướng
được. V́ thế phải khéo vận dụng sao cho
phù hợp với những nguyên tắc vật lư, sinh lư th́
mới có thể phát huy lương năng, lương tri,
khai phát được tiềm năng Phật tánh.
Do nhân lạy Phật bất
đồng nên quả cũng sai khác. Phàm phu một mực
chấp giả là chân, hệt như nằm mộng cứ
chấp mộng là thật, có khi nào trong mộng lại biết
đấy là mộng? Giả sử thân thể giả huyễn
có bệnh khổ th́ bèn thấy bệnh khổ là thật,
chưa thể thấy bệnh đó là giả, chẳng hiện
hữu! V́ thế nếu chúng ta sử dụng cái thân giả
huyễn này chẳng đúng với nguyên tắc sinh lư, vật
lư th́ đương nhiên sẽ bị chướng ngại,
khổ sở, bực bội vậy!
Miệng tuy nói lư Không, lúc bị
đau bệnh, trọn chẳng thấy không nên bèn phiền
bực. Chẳng bằng như lúc vận động,
trước hết hiểu rơ phép tắc, khéo vận dụng
để chẳng bị chướng ngại bức bách
phải chịu khổ quả, cũng như sẽ chẳng
bị mệt nhọc, khó chịu khi lạy Phật, để
rồi lại ngờ Phật tổ không thiêng, chẳng ban
ân cho ḿnh!
Nói một cách nghiêm túc, [lễ lạy]
một cách hồ đồ, mê muội, trên dưới tán
loạn th́ chẳng thể gọi là lễ Phật
được! Bởi lẽ, Phật là Giác Giả, dùng sự
giác ngộ để cảnh tỉnh tâm, soi xét, quán chiếu
tường tận, giác ngộ th́ mới là tương ứng
với đạo. Theo Địa Tŕ Bồ Tát Giới, Bồ
Tát hằng ngày phải tu công đức lễ Phật, nếu
không tu như thế là phạm giới. Chỉ hàng Bồ
Tát từ Sơ Quả trở lên mới là ngoại lệ
(khai duyên). Nếu bảo chẳng cần đến sự
tướng lễ Phật th́ kẻ nói đó có đă chứng
Sơ Quả hay chưa? Nếu đă chẳng chấp
tướng th́ lạy Phật nào có ngại ǵ?
A. Lễ Phật là cách thực hiện “điều tốt lành bậc nhất” một cách chặt chẽ nhất
1. Điều tốt lành bậc nhất: Hăy tự đoan chánh tâm, hăy tự đoan chánh thân
Kinh Vô Lượng Thọ dạy: “Thế nào là điều lành bậc
nhất? Hăy nên đoan chánh tâm, hăy nên đoan chánh thân”. Lễ
Phật là cách thực hiện “điều tốt lành bậc
nhất” một cách chặt chẽ. Bởi lẽ, việc
lễ Phật rèn luyện sức quán chiếu, rèn luyện
đoan chánh mà thung dung, điều phục các căn, thân
tâm nhu nhuyễn. Vận động đúng quy tắc sẽ
vun bồi sức an định, sức giác chiếu và tinh
thần lễ kính. Dùng công phu ấy vận dụng vào mỗi
một hoàn cảnh sinh hoạt thường nhật th́
trong mỗi một động tác chẳng c̣n phân biệt
giữa lễ Phật và sinh hoạt. Nếu c̣n phân biệt
giữa sinh hoạt và lễ Phật là đă đánh mất
ư nghĩa của việc lễ Phật.
Hoàn chỉnh những sinh hoạt thường
nhật chính là vận dụng tinh thần của việc lễ
Phật: biến tán loạn thành chuyên chú, biến căng thẳng
thành nhẹ nhàng, thung dung; biến cứng cỏi thành mềm
mại, biến chấp trước thành rỗng rang, sáng
suốt; biến mờ mịt thành giác chiếu, biến hồ
đồ thành sáng suốt.
2. V́ sao cần phải đoan chánh, thung dung?
Cứ quan sát hoạt động nuốt
chất lỏng của thực quản, ta sẽ thấy
rơ:
1) Thực quản phải thẳng và
thông suốt th́ mới có thể nuốt chất lỏng dễ
dàng. Nếu thực quản cong quẹo, việc nuốt chất
lỏng cũng bị trở ngại. Cùng lư đó, nếu
thân thể đoan chánh th́ huyết quản mới thông suốt.
Nếu thân thể bị g̣ ép trong tư thế nghiêng lệch
một thời gian dài th́ huyết quản cũng như thực
quản liên tục bị vặn cong, sự tuần hoàn của
máu chẳng thông suốt.
2) Nếu dùng tay đè mạnh lên thực
quản đă ở vị trí thẳng th́ vẫn khó nuốt
chất lỏng. V́ thế cần giữ ngay ngắn
nhưng phải thoải mái.
Nếu gân cốt chúng ta liên tục ở
trong trạng thái căng cứng, co rút th́ những mạch
máu trong gân gốt bị trở ngại, khác nào thực quản
bị đè chặt chẳng được thông suốt. Ấy
chính là gân cốt của chính ḿnh tạo áp lực trên chính
huyết quản của ta. Áp lực ấy do tâm trạng
căng thẳng gây nên. Do vậy, tâm có thư thái th́ khí huyết
mới thông suốt, chẳng đến nỗi tự ḿnh
áp chế chính ḿnh. Tâm có thư thái th́ sức giác chiếu mới
phát huy được, mới sáng suốt chuyên chú
được.
3. Giữ cho thân ngay thẳng chính là cơ sở để tu Quán
Bài kệ lễ Phật như sau:
Năng lễ,
sở lễ tính không tịch,
Cảm ứng
đạo giao nan tư nghị,
Ngă thử
đạo tràng như đế châu,
Thập
phương Như Lai ảnh hiện trung,
Ngă thân ảnh
hiện Như Lai tiền,
Đầu diện
tiếp túc quy mạng lễ.
Có kẻ vặn: Đă là Không Quán th́ cần
ǵ phải luận đến nguyên tắc “đoan thân” (giữ
cho thân ngay ngắn) nữa cơ chứ?
Đáp: Tu hành phải có tŕnh tự. Nền tảng
đă bất ổn lại xây lầu cao th́ sẽ chẳng
vững. Xin hăy xem các trước tác của chư cổ
đức. Như trong cuốn Quán Vô Lượng Phật
Kinh Sớ của đại sư Thiện Đạo, trước
khi bắt đầu giảng dạy pháp quán tưởng,
Ngài cũng dạy công phu chuẩn bị để an định
thân tâm làm cơ sở. Ngay trước đoạn dạy:
“Lại quán tứ đại
nơi thân trong ngoài đều không, trọn không có một vật”,
có đoạn văn như sau: “Dạy
ngồi xếp bằng ngay ngắn, giữ thân ngay ngắn,
ngậm miệng, răng đừng cắn chặt, lưỡi
chống lên ṿm họng để cho hơi thở giữa
yết hầu và mũi được thông suốt”.
Đó chính là đoạn văn dạy về
cách chuẩn bị trước khi tu Quán (tiền
phương tiện), là lời dạy cực trọng yếu.
Kẻ sơ học đừng vội ham cao, chuộng xa,
coi thường công phu “giữ cho thân ngay ngắn...” Cây
không rễ dễ bị khô, xin kẻ sơ học hăy dụng
tâm chú ư.
* Công đức thù thắng của
việc lễ Phật:
Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt dạy:
“Lễ
tháp miếu Phật, được mười thứ công
đức:
Một là
được thân đẹp đẽ, giọng hay.
Hai là nói ra
điều ǵ người khác đều tin phục.
Ba là ở
giữa đám đông không sợ hăi.
Bốn là
thiên nhân yêu mến, bảo vệ.
Năm là
oai thế đầy đủ.
Sáu là những
chúng sanh có oai thế thảy đều đến thân cận,
gần gũi.
Bảy là
thường được thân cận chư Phật, Bồ
Tát.
Tám là đủ
đại phước báo.
Chín là mạng
chung sanh thiên.
Mười
là mau chứng Niết Bàn”.
4. Lễ Phật tiêu trừ nghiệp chướng, khai phát tiềm năng
Nói đại lược, Nghiệp
là hành vi, Chướng là chướng ngại. Do các hành vi
trong quá khứ tích lũy phát sanh các thứ chướng ngại,
bất luận là chướng ngại nơi thân hay nơi
tâm. Các hành vi trong quá khứ vừa nói đó bao gồm các ư
tưởng trong tâm (ư niệm), lời nói và các tư thế,
hành động nơi thân thể.
Có người cho rằng phải gây sự
ác lớn th́ mới là tạo ác nghiệp, mới có nghiệp
chướng. Kỳ thật, chỉ cần trong tâm động
niệm là đă có nghiệp (thiện niệm có thiện
nghiệp, ác niệm có ác nghiệp. Niệm Phật là tịnh
nghiệp). Thân có những động tác, tư thế
đều là “nghiệp”. Bất cứ động tác,
tư thế tạo thành những chướng ngại cho
thân th́ gọi là “nghiệp chướng” nơi “thân nghiệp”.
Rất nhiều sự đau khổ, bệnh tật có liên
quan đến những tư thế thường ngày, tức
là có quan hệ với thân nghiệp. Thân nghiệp lại chịu
sự chỉ huy của tâm. Hễ tâm bị vướng mắc,
giằng kéo th́ thân cũng hiện vẻ khẩn
trương, bất giác tự gây nên chướng ngại
cho chính ḿnh (nghiệp chướng).
V́ sao nói niệm Phật, lễ Phật
có thể tiêu trừ nghiệp chướng? Là v́ trong khi lễ
Phật, tâm phải điều chỉnh, hướng đến
cung kính và từ bi thanh tịnh, miệng niệm Phật
nên không nói chuyện tạp nào khác, trở thành “ngôn ngữ
thanh tịnh”, động tác nơi thân trở thành nhu nhuyễn,
khiêm ḥa, cung kính. V́ thế tiêu trừ được những
tư thế xấu thường ngày gây những chèn ép, chướng
ngại trên thân. Cả ba phương diện thân, ngữ,
ư đều thanh tịnh, cung kính, nên tiêu trừ được
những chướng ngại do những hành vi bất hợp
lư trong quá khứ gây nên (đó là “tiêu nghiệp chướng”)
và cũng thuận tiện cho việc tập luyện
“đạt an định trong khi động”.
...Chúng ta hăy yên lặng quan sát tư thế
của chính ḿnh hoặc quan sát tư thế của người
khác để tự cảnh tỉnh chính ḿnh (nhưng cần
chú ư: mục tiêu là quay lại quan sát chính ḿnh, sửa đổi
chính ḿnh, chứ chẳng phải để phê b́nh, chỉ
trích). Hễ tâm có vướng mắc th́ bất giác gân thịt
trên thân cũng tự nhiên co rút, căng cứng.
Do chẳng hề tự quán chiếu ḿnh
nên rất khó phát hiện để tự sửa đổi,
khiến cho những chướng ngại rất dễ trừ
bỏ cũng khó có cơ hội trừ bỏ. Lúc lễ Phật
là lúc tự soi xét ḿnh, điều phục thân tâm, hết sức
điều tiết thân tâm khiến thân tâm tự tại, rất
thong dong, chẳng c̣n bị khẩn trương, chướng
ngại rất oan uổng nữa!
5. Lễ Phật là điều phục thân tâm, tiêu trừ nghiệp chướng (vô trụ sanh tâm)
Khởi tâm lễ Phật, Phật
liền biết ngay, phóng quang gia bị.
Lễ Phật:
a) Tâm buông bỏ vạn duyên, nhất tâm
chánh niệm niệm Phật (linh minh giác chiếu).
b) Thân thả lỏng các cơ, nhất
tâm (linh hoạt, thong dong, mềm mại).
Trong khi lễ Phật, thân tâm đều
thong dong mà cung kính, chuyên chú, cử động nhẹ nhàng,
sáng suốt, thoải mái. Tuy là trong động mà vẫn an
định quán chiếu. Tuy là động mà nhu nhuyễn,
không cứng cỏi, co rút, lực phân bố đều, phù
hợp tinh thần “vô trụ sanh tâm” trong kinh Kim Cang.
Chẳng hạn như: khi gối chấm
đất, tay liền lập tức duỗi nhẹ ra (chẳng
chống mạnh xuống, phí sức!). Khi ngồi quỳ
xuống, hai gối và toàn thân lại lập tức hoàn toàn
buông lỏng (vô trụ), tùy thời luyện tập, buông bỏ
tâm khẩn trương chấp trước. Rèn luyện
sao cho có thể đề khởi, có thể buông bỏ khiến
thân lẫn tâm đều thông suốt, không chướng ngại.
Trong động lại có thể tùy thời
vận dụng tác dụng chiếu soi rành rẽ của tâm
(sanh tâm). Lại c̣n tùy thời buông lỏng chẳng giữ
cứng (vô trụ). Dù thong dong nhưng chẳng ngừng
tinh tấn (vô trụ sanh tâm). Tâm như bánh xe, xoay vần vận
chuyển, trục là nhất niệm, nhưng lại “không
tâm” chẳng vướng mắc. Bánh xe tiến về
trước, chuyển động, nhưng trung tâm của
bánh xe không lay động.
1. Lễ Phật Tâm Đắc (Pháp sư Diệu Âm trần thuật)
Kẻ mạt học này lấy việc
lễ Phật làm nhật khóa đă nhiều năm. Khi ấy
tôi chẳng biết tư thế lễ Phật phải phù
hợp với kết cấu tự nhiên của thân thể
và nguyên tắc sinh học. Mỗi khi lễ Phật xong
thường cảm thấy rất mệt mỏi, cổ
tay nhức mỏi, xây xẩm, sắc mặt trắng bệch,
cảm thấy rất khổ sở. Sau này, do cơ duyên ngẫu
nhiên hạnh ngộ sư phụ Đạo Chứng,
được Ngài từ bi dạy dỗ, khai thị, mới
biết rằng do tư thế sai lầm nên mới đến
nỗi ấy. V́ thế, tôi liền phát tâm theo Ngài học
cách lễ Phật.
Học cách lễ Phật vốn là việc
rất đơn giản, rất dễ dàng, những đứa
trẻ hồn nhiên học rất nhanh, nhưng kẻ mạt
học phải mất trọn cả năm mới sửa
đúng được những tư thế căn bản
nhất, mới tạm luyện thuần thục. Do v́ chút
thói tật vặt vănh tập khí gây chướng ngại, lại
thêm năng lực học tập yếu kém, nên học vừa
chậm lại vừa tốn sức. Nói ra hết sức
xấu hổ, học theo cách lễ lạy mới tôi bèn
phát hiện những động tác tối cơ bản
trước đây như chắp tay, đứng thẳng,
thậm chí cách thức nhắc thân lên, tôi đều làm trật
cả. Đứng th́ ngả nghiêng, vẹo vọ. Chắp tay
th́ các ngón so le không đều, lễ kính th́ lụp chụp,
quều quào, khom ḿnh th́ xương sống cứng như
vách sắt. Lại c̣n lúc lễ th́ trọng tâm thường
rơi vào đầu mũi chân, chứ chẳng đặt
tại gót chân; x̣e tay như đang quơ mái chèo. Thậm
chí chẳng biết thở ra khi lạy xuống, hít vào khi
đúng lên. V́ thế, thường chỉ lạy được
hơi trước, chẳng tiếp được hơi
sau, ph́ pḥ, hào hển!
Hồi tưởng lại lúc mới bắt
đầu học cách lễ Phật, toàn thân cứng c̣ng chẳng
linh hoạt, gân cốt căng thẳng chẳng thư giăn.
Lễ Phật Như Lai xong như trâu già kéo xe nặng, mới
dùng sức một chút, khắp thân mồ hôi đă đổ
tháo như mưa. Mới lễ mấy lạy, y phục
đă ướt sũng.
Trong lúc học cách lễ Phật, thường
thường chẳng nắm vững bí quyết: chẳng
biết rằng trọng tâm phải đặt tại gót
chân th́ mới hợp với trọng tâm tự nhiên của
vật lư học. Thoạt đầu, tôi chẳng biết
dùng sức ở huyệt Đan Điền để gập thân,
thót bụng, và cúi đầu để nh́n vào khoảng giữa
hai chân một cách tự nhiên. Chẳng biết ngửa
đầu, cúi đầu đều phải dùng lực tự
nhiên để mềm mại cúi xuống, chỉ cậy
vào sức. Kết quả là cong vẹo nhiều hơn ngay
ngắn, càng lạy vội vàng càng thêm mệt!
Lúc mới học, lễ một lạy,
đối với mỗi động tác đều phải
chăm chú xem từ đầu đến chân có chính xác hay
không. Nếu sai th́ sẽ thấy cúi đầu nhưng
đầu chẳng gục xuống (lại vội vàng ngẩng
đầu, sau gáy càng cứng đờ). Cong lưng
nhưng xương sống chẳng gập lại (bụng
chẳng thót vào), thậm chí quên cả hô hấp. Do
phương pháp sai lầm nên hông đau, lưng mỏi,
choáng váng rất khó chịu, trọn chẳng có một mảy
pháp hỷ nào!
Tuy lúc đầu thường làm sai nên bị
khổ sở oan uổng, nhưng tôi vẫn cứ dốc
ḷng tin, luyện tập liên tục không ngừng, lập chí
không học thuần thục không được. Vậy mà
phải mất một hai năm mới học xong, mới
đạt được thân tâm thư thái, gân cốt mềm
mại, mỗi một lạy đều tự nhiên, thong
dong, mềm mại, tràn trề pháp hỷ!
Do tập quán từ nhiều năm
trước tạo thành những động tác quán tính, cứ
hễ một phen vọng tưởng, tâm chẳng chuyên chú
vào ngay trong mỗi sát na th́ những động tác quán tính sẽ
xuất hiện. V́ thế, phải dùng tánh cảnh giác cao
độ để quán chiếu.
So với những người mới học
th́ việc sửa đổi cho chính xác những động
tác, tư thế không chính xác đă quen thói càng khó hơn nữa.
Trong khi ấy, hành nhân lại c̣n thử thách bởi một
vài trục trặc, tức là những phản ứng mang
tính tạm thời [do những tư thế sai lạc quá
lâu gây ra]. Nếu chẳng có đại nguyện lực
thúc đẩy, tin chắc rằng hành nhân sẽ thoái tâm, chẳng
nghĩ đến việc lễ bái nữa. Ấy là v́ toàn
thân đă có những tổn thương cũ, hoặc có
những tật bịnh vặt vănh đă lâu, nay trong lúc lễ
Phật, khác nào vét sạch ống cống, nhất thời
sẽ có phản ứng đau đớn. Cũng may là tôi
chẳng ngă ḷng, tín tâm càng cao, thêm dũng khí tiếp tục
lễ bái. Kết quả là do bị phản ứng, [sức
khỏe] lại được cải thiện lớn lao.
Chẳng hạn như lúc nhỏ bị thương ở
đầu, xương cổ bị trục trặc nên
thường hay bị chóng mặt. Trong lúc lễ Phật,
chẳng hề hay biết là sức khỏe ḿnh đă khá
hơn, đầu không c̣n bị choáng váng nữa.
Xương cổ cũng khôi phục b́nh thường. Cũng
như chẳng biết sao bắp chân phải đột
nhiên phát sanh chứng thũng, sưng phù, nóng hực, vừa
đau, vừa nhức, nhưng cứ liên tục lễ bái
th́ chứng này cũng biến mất không thấy tăm
hơi.
Từ nhỏ, kẻ mạt học này
nơi Đan Điền vô lực, nói nhiều liền phát suyễn,
xướng tụng kinh kệ liền bị tức ngực,
hơi ngắn, khó đọc liên tục, cũng chẳng
thể đang nằm ngửa ngồi nhổm dậy
được. Sau này, do v́ lễ Phật, trong bụng tự
nhiên hóa ra hữu lực, hiện tại đang nằm ngửa
có thể ngồi nhổm dậy được, khi tụng
niệm cũng có thể xướng hơi dài chẳng bị
phát suyễn, học được cách hít thở sâu. Lúc
trước khí sắc chẳng tươi, mặt thường
trắng bệch, ḷng bàn tay vàng khè, ai gặp tôi cũng bảo:
“Pháp sư phải uống thuốc bổ đi!” Nhưng
hiện tại thể chất thay đổi, khí sắc rất
tươi, chẳng c̣n ai giục tôi uống thuốc bổ
nữa.
Do lễ Phật mà thân thể có những
điều cải thiện như vậy, tâm cũng chuyên
chú, an định, chẳng c̣n phải nhọc ḷng v́ những
chứng bệnh lặt vặt, khiến cho kẻ mạt
học càng thêm tin tưởng vào phương pháp lễ Phật
phù hợp với tự nhiên và nguyên lư y học; đối
với việc lễ Phật càng thêm ưa thích, vui sướng
sâu sắc. Một ngày chẳng lễ Phật là một ngày
chẳng khoan khoái vậy.
Có kẻ bảo lễ Phật th́ muốn
thế nào cứ lễ thế ấy, việc ǵ phải
suy xét là đúng hay không đúng phương pháp, là chính xác
hay không chính xác! Cần phải biết rằng: “Tư thế
có thể dẫn đến sự khang kiện mà cũng có
thể tạo thành tật bệnh!”, điểm quan yếu
là có đúng phương pháp hay không! Nhà Phật dạy chúng
ta bốn oai nghi: “Đi như gió, đứng như tùng, ngồi
như chuông úp, nằm như cung” là do đạo lư ấy.
Đấy là v́ mỗi tư thế, động tác của
chúng ta đều ảnh hưởng sâu xa đến sự
khang kiện của thân tâm cũng như ảnh hưởng
vô cùng lớn lao đến việc tu hành thành tựu của
chúng ta. Thân tâm có khang kiện th́ tu hành mới không bị
chướng ngại. Chẳng riêng ǵ việc lễ Phật,
nếu các tư thế động tác trong sinh hoạt
thường ngày không đúng đắn th́ xương sống
sẽ bị cong vẹo, chèn ép huyết quản, thần
kinh, nội tạng, tạo thành đủ thứ bệnh
tật, ưu năo, thống khổ. V́ vậy, đă có tâm lễ
Phật th́ tốt nhất là dùng phương pháp hữu ích
cho cả thân lẫn tâm th́ mới là hành vi sáng suốt.
Sau cùng, chỉ mong những ai hữu tâm
học lễ Phật sẽ đều được
chư Phật hộ niệm, đạt được
pháp bảo như vậy. Thực hành theo đó, phước
huệ cùng tăng, lại phát Bồ Đề tâm, hoan hỷ
niệm Phật, cùng sanh Cực Lạc quốc.
2. Điều chủ yếu là luyện được cách lễ Phật vừa thong dong vừa tự nhiên (tiến sĩ Tạ Thanh Giai, phó giáo sư đại học Đài Loan kính thuật)
Pháp sư thượng Đạo hạ
Chứng hỏi tôi có muốn viết một bài tŕnh bày
điều ḿnh tâm đắc trong việc lễ Phật
để các liên hữu được xem hay không. Do v́ lễ
Phật được hưởng niềm hoan hỷ và sảng
khoái thù thắng, nên tôi bèn sung sướng xin viết, chẳng
nệ ḿnh ngu vụng, dùng tấm ḷng thô thiển, quê mùa, viết
ra một bài tŕnh lên quư vị để khích lệ lẫn
nhau.
1)
Rất nhiều
người niệm Phật lấy việc lễ Phật
làm nhật khóa
Nhớ lại mười năm trước
lúc mới học Phật, gặp được một
nhóm người niệm Phật, đại đa số lấy
việc lễ Phật làm nhật khóa, hoặc lạy 24 lạy,
hoặc lạy 48 lạy, 60 lạy, hoặc 108 lạy, hoặc
200, hoặc 300, hoặc 500, hoặc 600. Tôi chẳng biết
cách lễ Phật, cứ tự ḿnh lễ theo cách lễ vụng
về bên ngoài, học cách đảnh lễ của họ.
Thoạt đầu lễ bốn mươi tám lạy, sau
tăng dần đến 108 lạy. Rồi lấy 108 lạy
làm định khóa, hành tŕ liên tục mấy năm. Sau gặp
nhân duyên tiếp xúc cách đại lễ bái của Mật
giáo. Lúc mới học cũng rất khó, nhưng một khi
đă nắm được yếu quyết bèn như cá gặp
nước. Cứ mỗi lần toàn thân nằm rạp xuống
đất th́ chẳng khác nào được tiếp xúc với
đức A Di Đà Phật, không hề vướng mắc.
V́ thế, bèn đổi sang cách đại lễ bái.
2)
Sau khi giải
phẫu, việc lễ Phật bị ảnh hưởng
lớn
Sau khi tôi bị ung thư vú, phải cắt
bỏ vú phải, bác sĩ bèn khuyên: “Từ đây không
được dùng tay phải để khâu vá, cũng
như chẳng thể đo huyết áp trên tay phải”. Thoạt
nghe như vậy, chẳng biết đấy là điều
nghiêm trọng. Từ đấy về sau, nách phải
thường bị sưng đau, vai phải cứng,
đau; thậm chí đau buốt cả xương bả
vai phải. Có lúc cảm giác như tay phải rời khớp
rụng luôn xuống đất, khó chịu đựng nổi.
Điều này ảnh hưởng lớn đến việc lễ
Phật.
Lúc lễ xuống, phải dùng cánh tay
để nâng đỡ trọng lượng toàn thân. Lễ
rồi đứng dậy, lại phải dùng tay vận sức
đỡ thân lên. Do tay phải, vai phải chịu lực
quá nhiều khó chịu đựng nổi, lạy một
vài lạy là không thể nào lạy nổi nữa. Nhất
là cách đại lễ bái, lúc lạy xuống, phải dùng
hai tay chống đỡ trọng lượng toàn thân để
nằm mọp xuống. Hai tay chịu lực rất lớn,
không những không thể lễ nhiều mà c̣n cảm thấy
khó chịu. Tuy rất ưa thích cách đại lễ bái,
nhưng dù ưa cũng chẳng thể cưỡng cầu,
nhật khóa phải trở về cách lễ Phật b́nh
thường. Sở dĩ tôi chẳng buông bỏ việc lễ
Phật là v́ không lễ không chịu được. Cứ
nghĩ xem: dù là lễ Phật rất mệt nhọc
nhưng so ra vẫn hơn không lễ Phật. V́ thế, vẫn
cứ lễ Phật như cũ.
3) Sức tiêu trừ nghiệp chướng
của việc bái sám rất lớn, nhưng do cách lạy
không thích đáng nên rất khó khăn, khổ sở.
Sau khi mắc bệnh, tôi nhận rơ ḿnh
nghiệp chướng sâu nặng, nhưng hết thảy
nghiệp chướng lại do sám hối mà được
trừ diệt. V́ thế, tôi bèn bắt đầu lễ
sám. Bản sám văn tôi dùng là Bảo Vương Tam Muội
Sám, trứ tác cuối cùng vào tuổi già của lăo cư sĩ
Hạ Liên Cư. Bản này chẳng những khai thị
tường tận về đạo lư sám hối: “Phải
sanh khởi tâm hổ thẹn, chẳng tái phạm nữa”,
mà c̣n dung nhập những nghĩa lư trọng yếu của
kinh Vô Lượng Thọ. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
đă nhận định về sám văn này như sau: “Lấy nhân hạnh của ngài
Pháp Tạng làm khuôn mẫu cho chính ḿnh, lấy quả chứng
của đức Di Đà làm chỗ ḿnh quy y... Dung hàm Lư sám
trong Sự sám, ai ai cũng thực hành được!”
Bởi thế, tôi dùng bản sám này làm định khóa, mỗi
tháng lạy một lần.
Trong nửa trước bản sám th́ quỳ
tụng sám văn hoặc lễ bái khoảng chừng một
giờ. Trong nửa sau, cứ xưng một danh hiệu Phật
lại lễ một lạy, lạy liên tục gần 300
lễ. Đây là một thử thách lớn đối với
tôi sau khi được giải phẫu. Trước mỗi
lượt lễ Phật, tôi lại phải tự khích lệ
một lần, phát đại nguyện một lần
để tự cổ vũ dũng khí lẫn tinh thần
rồi mới bái sám. Lễ xong tưởng chừng
như ḿnh vừa hoàn thành cả một việc lớn lao.
Nhưng dù lễ ít hay nhiều đều chẳng thoải
mái cả. Mỗi khi lễ sám xong, các liên hữu gặp tôi
đều hỏi: “Ủa! Sao mặt bà sưng lên vậy?”
Khủy tay do dùng sức để chống xuống nên
đau rần, chân cũng nhức buốt. Lại do dùng sức
quá độ nên nách phải cũng như cánh tay phải
đều rất đau đớn, lại c̣n sưng
đau nữa.
C̣n may là không đau đến nỗi
không thể nào chịu đựng nổi. Tôi cứ nghĩ
đến sám hối tiêu trừ nghiệp chướng, chẳng
những chỉ là nghiệp chướng của chính ḿnh,
mà c̣n v́ nghiệp chướng của hết thảy chúng
sanh, thậm chí trọng tội báng Phật, báng pháp, thay
chúng sanh lễ sám, nên mới có thể lễ sám như vậy
mấy năm.
4) Rất vui khi nghe có phương pháp lễ
Phật cả ba trăm lạy nhưng chẳng mệt, chẳng
thở dốc, rất hâm mộ nhưng vẫn vô duyên
chưa được học
Kỳ nghỉ Hè năm trước, nghe
băng giảng của pháp sư thượng Đạo hạ
Chứng. Trong băng, Ngài có nói đến việc mỗi lần
lễ Phật là lạy cả 300 lạy, chẳng những
đă không mệt nhọc, không thở dốc, mà c̣n giống
như chỉ lạy một lạy mà thôi. Tôi nghĩ: thật
là chẳng thể nghĩ bàn, nếu được như
vậy th́ quá tuyệt. V́ vậy, nghe đi nghe lại
băng giảng mấy lần, chiếu theo lời Ngài dạy
trong băng, tự ḿnh bắt chước tập lạy
theo. Dù đă biến cải động tác lạy, nhưng
chưa lănh ngộ được nhiều, nên vẫn
chưa thể hoàn toàn lănh hội, chẳng thể hiểu
rơ phương pháp lễ Phật pháp sư đă dạy.
5) Do Phật lực gia bị có
được cuốn Bái Phật Giảng Nghĩa khác nào
được của cải cực quư, bắt đầu
tự học
Suốt cả năm đó, trong tâm tôi
luôn nguyện cầu, mong mỏi. Cuối cùng tôi t́m
được một phần cuốn Bái Phật Giảng
Nghĩa gồm bốn trang giấy, có phần giải thích
động tác và những h́nh vẽ đơn giản, rất
dễ hiểu, khác nào có được của cải cực
quư. Sau khi đă đọc kỹ càng, tôi bèn bắt đầu
tập lạy theo cách sách dạy. Quả nhiên, so với
cách lễ Phật khi trước, ít tốn sức hơn
nhiều. Điều cải thiện đầu tiên quan trọng
nhất là hai khủy tay không c̣n bị đau nhức nữa,
chân cũng không nhức mỏi. Tuy nhiên, bây giờ nh́n lại
lúc ấy c̣n có quá nhiều động tác và cách thức dùng
lực chưa đúng, chẳng thể buông lỏng một
cách tự nhiên, thế mà đă có sự cải thiện rất
lớn. Sách Giảng Nghĩa dạy lễ Phật là để
thâu tóm sáu căn, là định trong động, đừng
lầm là chỉ lễ Phật xuông. Đây lại c̣n là một
hành pháp quán chiếu tự tâm, chỉ có điều chưa
biết thực hiện những điều đó như
thế nào.
6) Lễ Phật tốn sức là do
chưa thể buông lỏng
Lúc bắt đầu lễ Phật, tôi hiểu rằng
động tác gây mất sức nhất chính là do ḿnh không
thực hiện tốt được những động
tác sẽ nói sau đây. Chủ yếu là v́ quá vội vàng,
căng thẳng, tâm có điều mong mỏi, chẳng thể
buông lỏng thân, động tác không đúng tiêu chuẩn khiến
ḿnh lễ Phật bị mất sức. Hễ buông lỏng
được th́ tự nhiên sẽ lễ bái dễ dàng.
a. Khom ḿnh
Từ ngực, ức, eo, bụng trên cho
đến đầu gối đều đẩy về
sau tạo thành một h́nh ṿng cung tự nhiên. Lúc ban đầu,
xương sống cứng c̣ng, rất khó làm đúng cách.
Nhưng cứ mỗi ngày lễ Phật lại cải thiện
được một chút. Ngày chầy tháng đọng,
động tác ngày càng nhẹ nhàng, thong dong hơn, tư thế
ngày càng đúng tiêu chuẩn hơn, đến lúc nào đó
động tác trở thành hoàn mỹ. Trèo được
lên núi cao cả chín nhẫn là do gắng công chẳng bỏ.
Ngay bản thân tôi phải mất nửa năm mới thực
hiện được động tác này một cách tự
nhiên, nhẹ nhàng. Những liên hữu trẻ tuổi có thể
thực hiện được động tác này rất
nhanh. Trong các vị đồng học thuộc Đài Đại
Thần Hy Xă, có rất nhiều vị cũng làm được
động tác này rất nhanh, chẳng như tôi phải mất
cả nửa năm mới làm được.
Kỳ thật, hễ buông lỏng được th́
làm được động tác này càng nhanh. Tôi càng cố
ư dùng sức gập thân để tạo thành h́nh cung có
độ cong thật đẹp th́ kết quả
đương nhiên là chẳng tự nhiên. Khi đă buông lỏng,
chẳng dùng sức th́ trái lại, cong ḿnh rất tự
nhiên.
b. Gập
gối
Nói chung, đây là động tác đại
đa số mọi người có làm sai nhiều nhất.
Điểm quan trọng nhất là khi gập gối hạ thân
xuống, trọng tâm phải rơi vào điểm chính giữa
hai gót chân, cũng là hoàn toàn dùng hai gót chân chịu lực rồi
mới đặt hai tay chạm đất, bắp chân phải
giữ thẳng.
Lúc mới học, rất khó thực hiện.
Phải giữ cho bắp chân khỏi nghiêng xéo, dùng bàn chân
chịu lực, mông chẳng được hạ xuống
thấp quá, hoặc nửa chừng ngẩng đầu
lên, cổ cứng, cũng chẳng nên đưa hai tay
đang chắp vào nhau ra xa quá khoảng diện tích do hai mũi
chân tạo ra, khiến cho trọng tâm bất ổn. Cũng
có trường hợp trọng tâm bị đẩy lùi ra
sau quá khiến cho người lễ bị bật ngửa
ra sau. Thử nhiều lần, thất bại nhiều phen,
thậm chí có lúc tôi cho rằng động tác này là sai, trái với
nguyên lư lực học, căn bản là không thể nào làm
được!
Kỳ thật, tâm niệm chính là chướng ngại
nặng nề nhất, nó có khả năng tàn phá nhất. Học
Phật không thành phần nhiều là do ư niệm chết
người “tự cho ḿnh là đúng” này. May mắn là tôi tin
tưởng mạnh mẽ vào Pháp Sư, thả lỏng
thân, luyện tập nhiều lượt, tuy trước mắt
chẳng thể bảo là làm đúng tiêu chuẩn, nhưng
khả dĩ thực hiện động tác này một cách
nhẹ nhàng. Đúng là bắp chân để thẳng, dùng gót
chân chịu lực th́ chẳng phải tốn sức dùng
đùi và gối, nên lễ lâu cũng không nhức đầu
gối.
c. Quỳ
hai gối xuống, quỳ xong, hai mũi bàn tay và hai đầu
gối đặt thẳng hàng trên mặt đất
Khom ḿnh xong, hai tay duỗi ra trước
chạm đất, hơi dùng sức chống xuống, hai
gối quỳ xuống. Quỳ xong, hai mũi bàn tay và hai gối
đặt thẳng hàng trên mặt đất. Trước
đây, cách lễ của tôi là hai tay đặt cách xa gối
từ mười lăm đến hai mươi
centimeters, quỳ xuống th́ hai đầu gối nằm
sau hai tay, dùng hai tay để chống đỡ một phần
trọng lượng của thân thể. V́ thế, sức
nặng đè lên hai cổ tay không phải là ít.
Lúc mới học cách lễ của Pháp Sư, hai gối
và hai tay đặt nằm trên cùng một đường
thẳng sau khi quỳ xuống thấy thật chẳng thuận
tiện, cứ nghĩ: “Hay là sách Giảng Nghĩa dạy
sai?” Xem kỹ mươi lần, hết ngờ vực nữa,
bèn kiên tŕ lạy theo đúng cách sách Giảng Nghĩa đă
dạy, ước chừng khoảng một tháng đă có
thể làm được động tác này một cách tự
nhiên. Tôi mới hiểu ra là động tác này giảm thiểu
sức nặng đè lên hai cổ tay. Nhờ đó, dù lễ
Phật lâu cũng không c̣n bị đau cổ tay nữa.
d. Quỳ
tọa
Quỳ
xuống rồi nên “quỳ tọa”, tức là hai mông phải
ngồi trên mé trong hai gót chân. Lúc mới học, khớp cổ
chân c̣n cứng, chẳng thể làm được dễ
dàng, ngồi nửa chừng khớp chân đau nhức,
nhưng ngồi lâu không thấy nữa. Theo kinh nghiệm của
tôi th́ chừng khoảng hai ba ngày sẽ ngồi được
dễ dàng.
e. Hít sâu vào
Lúc năm vóc gieo xuống
đất, lật ngửa tay như đón chân Phật. Tiếp
đó, hít sâu vào để đứng lên. Lúc tôi mới học,
chẳng thể hít sâu nhiều, nhưng động tác này
không khó, chỉ cần được dạy một lần
là ai cũng làm đúng cả, không cần phải tập
luyện nhiều mới làm được. Chỉ cần
nhớ là phải hít sâu vào.
7) Mỗi ngày lễ ba trăm
lạy, trèo núi bốn giờ không mệt nhọc
Từ tháng Mười
năm ngoái trở đi, mỗi ngày tôi lễ ba trăm lạy.
Nhân v́ mỗi ngày thời gian có hạn, tôi tăng thêm thời
gian lễ Phật cũng như bỏ bớt thời gian
tập thể dục. Trước đây, tôi thường
mỗi ngày đi bộ đến công viên Đại An khoảng
bốn mươi đến bốn mươi lăm phút
suốt cả một năm. Sau đổi qua chạy nhanh
phối hợp với vỗ tay suốt một giờ. Tập
như thế cũng khoảng đâu nửa năm. Sau v́ lễ
Phật nhiều, bèn bỏ luôn cả tập thể dục.
Đương nhiên, có lúc cũng lo không biết có ảnh
hưởng ǵ đến thể lực hay không. Nhưng v́
lễ Phật rất vui sướng nên cũng không bận
tâm chi nhiều.
Tôi không leo núi đă lâu, nên tháng trước
dành ra một ngày Chủ Nhật theo bác sĩ Lư Phong trèo núi
để trắc nghiệm thể lực chính ḿnh. Kết
quả thật đáng cao hứng. Tôi theo vợ chồng
bác sĩ Lư đi bộ theo đường núi suốt bốn
tiếng đồng hồ mà chẳng thấy mệt nhọc
ǵ hết. Đi đường vẫn theo kịp tốc
độ của vợ chồng họ, mà họ là kiện
tướng trèo núi mỗi ngày cơ đấy! Đủ thấy
rơ lễ Phật có công năng duy tŕ sức khoẻ rất
tốt.
8) Xương sống tự nhiên điều
chỉnh ngay ngắn khiến bác sĩ chỉnh xương
thập phần kinh ngạc!
Năm ngoái, con gái út tôi từ Nữu
Ước trở về, vừa xuống phi cơ đă bảo
nó bị vấp té v́ băng đóng trơn trợt, phải
đi chỉnh cột sống. Tôi dẫn con đến một
vị y sư nắn xương giàu kinh nghiệm để
chữa chạy. Ông này cũng là một Phật tử kiền
thành, chúng tôi thân thiết nhau gần cả mười
năm. Đưa con đi trị bệnh cũng là nhân tiện
để ḿnh chỉnh thẳng cột sống luôn.
Nào ngờ, ông vừa chỉnh đă kinh
ngạc bảo: “Giáo sư Tạ, bà khác quá đi. Bà thật
là khác quá chừng. Xương sống bà cũng như dây
chằng hai bên đều không giống như trước.
Đă mười tháng bà không đến đây. Trong quá khứ,
nhất định phải cần nắn chỉnh một
hai ngày th́ xương sống mới thẳng thắn, nay
chỉ nắn một cái đă ngay ngắn rồi”. Ông ta
truy ráo riết tôi đă tập cách nào? Tôi cao hứng quá nên
cười lớn đáp: “Tôi lễ Phật đó mà!”
9) Huyết áp, mạch nhảy cũng tự
cải thiện lúc nào không biết
Sau khi giải phẫu suốt cả
sáu năm đến nay, huyết áp luôn ở mức 90/60 mà
mạch đập cũng dưới 60 lần một
phút. Tận lực tập tành đủ thứ, tịnh tọa,
uống thuốc Tàu, chẳng thấy đỡ chút nào. Hai
ba hôm trước, sau khi đă theo đúng phương pháp lễ
Phật của Pháp Sư thượng Đạo hạ Chứng
mỗi ngày lễ Phật 300 lạy được chừng
nửa năm, tôi tùy hứng ghé qua pḥng mạch nhỏ gần
nhà nhờ bác sĩ khám tai. Khám xong, thấy trên bàn có máy
đo huyết áp, tôi nhờ bác sĩ đo huyết áp giùm.
Kết quả thật bất ngờ: huyết áp nhiều
năm chỉ là 90/60 nay là 110/70. Về nhà, tâm trạng bồi
hồi liền tự ḿnh đếm mạch đập, từ
nhiều năm mạch chỉ 60 nay đă tăng lên 70. Lễ
Phật có công hiệu thật chẳng thể nghĩ
bàn.
10) Vừa lễ, vừa xướng, vừa
nghe câu niệm, vừa tưởng đến A Di Đà Phật
để luyện nhất tâm niệm Phật cũng
như khiến cho Đan Điền hữu lực, không sợ lạnh
nữa
Sau khi động tác lễ Phật
đă thuần thục rồi th́ sẽ theo lời Pháp
Sư dạy, xướng thêm Phật hiệu. Cứ mỗi
phen lạy xuống, lúc thở ra bèn xướng một câu
lục tự hồng danh, lúc đứng lên hít vào th́ không
xướng. Lúc đầu xướng cũng chẳng nhịp
nhàng, lạy chưa hết nửa chừng đă không c̣n
hơi để xướng nữa. Tôi cứ tưởng
rằng dùng liền hai hơi để niệm cũng chẳng
trái lời Pháp Sư dạy, bèn gân cổ xướng ráng
xướng liền một hơi. Mỗi phen xướng
xong một câu là đều ḅ lăn ra trước đức
A Di Đà, thở ph́ pḥ ba bốn hơi mới thở lại
b́nh thường được. Có lần xướng
đă hết hơi, nhưng vẫn gắng cật lực
xướng, kết quả là ngực phải đau buốt
suốt cả một ngày. Từ đấy, chẳng dám ép
ḿnh làm quá sức, mà bèn tự điều chỉnh hai điều
như sau:
- Trước lúc lạy xuống, hít vào một
hơi sâu, hít cho thật đầy phổi rồi mới
xướng lạy.
- Lúc đă lạy xuống rồi, nếu
hơi chẳng đủ bèn hít sâu thêm một hơi nữa
để xướng.
Lạy như vậy suốt hai tháng, hóa
ra chẳng cần phải lưu ư hít sâu vào mà cũng vẫn
có thể tự nhiên xướng trọn câu trong một
hơi. Phối hợp lễ Phật với hô hấp thành
thục rất mau. Tôi cứ bảo mùa Đông năm nay trời
không lạnh, sau mới phát hiện: đây có thể là hiệu
quả của việc lễ Phật. Mùa Đông năm trước,
tôi mặc áo ấm c̣n dày hơn cả thầy tôi. Năm
nay th́ chỉ cần mặc một cái áo ấm lót ḿnh che
kín ngực, trong khi thầy tôi phải mặc áo dày cộp.
Ngoài ra, khi tham gia tụng niệm khóa lễ
sáng chiều tại chùa miếu hoặc dự một ngày
niệm Phật, thấy thanh âm xướng tụng của
chính ḿnh vang rơ, hữu lực hơn trước kia rất
nhiều. Kỳ thật, đấy là kết quả của
việc lễ Phật, chuyên tâm xướng niệm, chuyên
tâm lắng nghe, chuyên tâm lễ bái, chuyên tâm tưởng nhớ
Phật A Di Đà, rèn luyện nhất tâm niệm Phật,
tăng trưởng định lực. Nhất tâm sẽ
tạo thành một người niệm Phật già giặn,
chắc thật. Đấy chính là nguyên nhân thật sự khiến
tôi say mê lễ Phật.
11) Khó khăn biến thành hoan hỷ, càng
lễ càng nhẹ nhàng, thong dong, những đau đớn
không uống thuốc tự hết
Đích thân tôi kinh nghiệm: Lễ Phật
theo phương pháp của Pháp Sư thượng Đạo hạ
Chứng đích xác là rất ít tốn sức, vừa có thể
nhiếp tâm vừa nhẹ nhàng, thong dong. Một ngày lễ
ba trăm lạy không những chẳng c̣n là một công khóa
khó nhọc, lại c̣n biến thành một khóa lễ rất
hoan hỷ. Có lúc khênh vác vật nặng, tay phải lẫn
vai phải đă mỏi đừ rồi, hoặc có lúc tự
ḿnh đă dạy cả sáu giờ, rất mệt mỏi,
nhưng khóa lễ chiều phải lạy một trăm
năm mươi lạy, tôi cứ kiên tŕ lạy đủ.
Cứ mỗi lần như thế, tôi đều kinh ngạc
nhận thấy sau khi lạy từ 20 đến 30 lạy
rồi th́ tay phải, vai phải hết c̣n đau mỏi,
trong người cũng không c̣n thấy mệt mỏi ǵ nữa!
12) Kiên tŕ lễ Phật, tăng trưởng
định lực nhất tâm hướng Phật, trở
thành một người thực sự già dặn, chắc
thật niệm Phật
Phương pháp lạy Phật này
chẳng giống với những phương pháp lạy
quen thuộc của mọi người. V́ thế, phải
có tín tâm mới kiên tŕ tập luyện được. Chính
bản thân tôi đă từng kinh nghiệm như thế: Ở
nhà tôi đă lạy Phật rất nhuần nhuyễn rồi,
nhưng đến khi so sánh với các liên hữu mới
phát hiện ḿnh c̣n rất nhiều động tác chưa
đúng tiêu chuẩn, lại cần phải điều chỉnh,
rồi lại nhận thấy cách lễ mới vẫn
chưa hoàn toàn, thật là nản chí, nhưng vẫn cứ
kiên tŕ tập luyện.
Tôi nghiệm thấy một điều:
Phật pháp là vô tận tạng, dù đă tiến bộ vẫn
cần phải tiến bộ hơn nữa, chẳng
được tự măn, vĩnh viễn phải luôn có cái
tâm thong dong, rộng mở như suối nguồn. Việc
lễ Phật cũng thế, phải có đầy đủ
tín tâm sâu xa, một khi tín lực đă viên măn sẽ biến
trọn thành Phật lực, công đức sẵn có
nơi tự tâm sẽ phát hiện cuồn cuộn chẳng
ngừng. Tôi chỉ là một kẻ sơ học, vô h́nh
trung được lợi lạc rất nhiều trên
phương diện thân thể lẫn tu hành Định - Huệ.
V́ thế, tôi rất vui mừng viết lại điều
ḿnh tâm đắc kính tŕnh đại chúng.
Sau cùng, tôi rất cảm kích Phật, Bồ
Tát đă ban cho tôi nhân duyên rất hay như thế này, học
tập được phương pháp lễ Phật này.
Tôi cũng chỉ cầu mong: tự ḿnh có thể lạy Phật,
ngó nh́n cảnh trăng thanh gió mát chốn cố
hương Tây Phương, tưởng niệm khuôn mặt
từ ái thân thiết của Phật A Di Đà đang dơi mắt
đau đáu ngóng trông đứa con lưu lạc chốn
Sa Bà sẽ quay về cố hương, nên bèn sanh khởi
tín nguyện chân thật, tăng trưởng định lực
nhất tâm hồi hương, trở thành một người
thật sự già giặn, chắc thật niệm Phật.
Cũng mong tất cả những ai đang niệm Phật
trong thế gian, đang đi trên con đường trở
về quê cha Tây Phương đều đạt nhân duyên thù
thắng. A Di Đà Phật!
PHẦN THỨ HAI: PHƯƠNG PHÁP LỄ PHẬT VÀ QUÁN TƯỞNG
Lễ Phật để khai phát Giác Tánh,
chứ không phải là sùng bái mù quáng, cũng chẳng phải
là một cử chỉ được làm theo thói quen. Lễ
Phật là để bồi dưỡng năng lực “hồi
quang phản chiếu”, khiến cho giác tánh được
phát khởi trước khi quán tánh (thói quen) phát hiện, chứ
không phải là một động tác tầm thường.
V́ thế, phải luôn luôn quán chiếu từng động
tác trong từng ư niệm.
Do đó, khi lễ Phật, xin
chú ư là đừng nhắm mắt, từ đầu đến
cuối là ngưng đọng ánh mắt để quán chiếu
chính ḿnh (đó gọi là Quán Tự Tại). Thị lực
tập trung vào chính giữa, làm ǵ cũng tưởng
như có đức Phật ngự trên đảnh đầu
đang nh́n ḿnh, chẳng thể hồ đồ bất
giác. Phải thâu tóm sáu căn, đừng để chúng tán
loạn.
II. Đứng như cây tùng, ngay ngắn nhưng thong dong
Hai chân đứng theo thế “tiền
bát, hậu nhị” (hai mũi chân cách nhau 8 phân, hai gót chân
cách nhau 2 phân). Đầu ngay thẳng (đứng như tùng),
dùng gót chân chịu lực, hít thở sâu, toàn thân buông lỏng.
Kiểm xem các ngón chân có hoàn toàn buông lỏng hay không. Đầu
như quả chuông treo, rỗng rang, đoan chánh, tai nằm
lọt giữa hai vai.
Gáy chạm vào cổ áo, xương cổ
thẳng góc với xương ngực. Tưởng như
từ điểm giữa hai chân qua cột sống, lên
đến giữa đỉnh đầu dường
như nằm trên cùng một đường thẳng.
Thả lỏng các khớp nơi hàm
dưới, đừng nghiến chặt răng. Lưỡi,
ṿm họng, yết hầu đều thư giăn. Đầu
lưỡi đặt ngay nơi ṿm họng sau hàm răng
trên. Cuống lưỡi co lên trên như thể đang ngậm
một búng không khí (giữ như vậy th́ dễ dàng nuốt
nước miếng ứa ra trong họng, khí quản lẫn
yết hầu đều thông thoáng).
Cơ thể thư giăn th́ khí mạch
thông, đầu nhẹ nhơm, dễ giữ ǵn chánh niệm,
chẳng hôn trầm, chẳng tán loạn.
Hai tay chắp ngang ngực (vai và cánh
tay phải thư giăn). Hai gốc ngón cái phải nằm
ngang huyệt Đản Trung (huyệt Đản Trung là trung điểm
của đường thẳng nối liền hai đầu
vú). Hai tay đừng áp lên ngực, nên đặt cách xa ngực
chừng một phân. Kiểm xem các ngón tay có áp sát vào nhau cùng
hướng thẳng ngay ngắn lên trên hay không (nếu tâm
tán loạn th́ ngón út sẽ tự tách xa các ngón khác).
Tay chắp ngay ngắn nhưng phải rất
thư giăn, đừng gồng cứng, hai tay dường
như dựa vào nhau ngơi nghỉ. Hít thở sâu, vai thả
lỏng, đừng áp sát tay vào nách. Giữ tư thế
đoan chánh nhưng thư giăn, hít thở sâu, sung măn. Thâu nhiếp
ánh mắt, chú mục nơi chính giữa hai tay (trung tuyến).
Ở mức cao hơn th́ quán sát hơi thở ra vào nơi
mũi.
Mềm mại cúi đầu xuống
lễ kính. Đầu giống như nhánh lúa chín ươm ngả
xuống cho đến khi cằm chạm vào ngực. Cổ
hoàn toàn buông lỏng đừng dùng sức (thoạt đầu
nếu không làm được như vậy là do gân cổ
đă cứng lâu ngày. Cứ buông lỏng th́ lâu ngày sẽ
như khi ngủ gật, đầu tự nhiên gục xuống
dễ dàng, chẳng cần phải tốn sức, tự
nhiên sẽ buông lỏng được gân cổ).
Vẫn thâu nhiếp ánh mắt, phản
quán chính ḿnh. Lễ Phật là tu tập “tịnh trong động”,
dù trong khi lễ lạy, cảnh vật trước mắt
thay đổi, thủy chung vẫn lưu ánh mắt nơi
chính giữa.
|
|
Cúi đầu |
Cúi đầu
& khom ḿnh |
|
|
Thả lỏng hai vai |
|
Chú ư: Động tác này không phải là gập lưng
ngả về trước khiến trọng tâm rơi vào
đầu ngón chân, mà là khom ḿnh hướng tâm (vẫn giữ
trọng tâm nơi gót chân), hai gót chân vẫn đứng yên.
Giống như khi đang nằm ngửa, muốn ngồi
dậy phải dùng sức của bụng eo, đùi, gối;
khi cúi ḿnh phải đẩy xương sống ra sau. Có thể
thót bụng lại chừng một phân, nhưng hai tay phải
giữ mềm mại, bất động.
Vẫn cúi đầu, khom ḿnh, hai tay
vẫn chắp lại buông thẳng xuống, hướng
đúng ngay nơi trung điểm của hai gót chân. Hai tay
chắp sát vào nhau. Hướng theo đường thẳng
tưởng tượng đi từ ngực xuống
đến điểm chính giữa hai gót chân, mượn
trọng lực để hạ hai vai xuống. Tư thế
này tiêu trừ sự căng thẳng thường nhật
của hai vai. Đầu hai bàn tay buông xuống hướng
đúng vào ngay điểm giữa hai gót chân là chuẩn mực
để kiểm nghiệm xem ḿnh có làm đúng động
tác hay không.
* Động tác 7 và 8 là hai động
tác liên tục. Tay chạm đất là động tác chuyển
tiếp trong nháy mắt. Dù động tác này thực hiện
rất nhanh (chừng 3 giây), nhưng việc giữ nguyên trọng
tâm, độ mở của hai mũi bàn chân, cũng như
sức nơi Đan Điền là những điều rất trọng
yếu. V́ thế không thể lướt qua sơ sài
được mà phải quan sát tách bạch.
VII. Cong gối – cong thân hạ ḿnh xuống
Đầu vẫn cúi, khom ḿnh, buông hai
tay xuống dưới, bắp chân vẫn giữ thẳng,
gập gối lại cho đến khi hai tay chạm đất
(tựa hồ sau lưng ḿnh có cái ghế, nhưng bắp
chân đặt sát chân ghế, hướng ra sau ngồi xuống
ghế). Trong khi thực hiện động tác này, ánh mắt
chuyên chú tại trung điểm của hai gót chân; rồi nhẹ
nhàng tách hai tay ra, đặt hai bên bắp chân, xoay ḷng bàn tay
hướng ra sau để dễ áp lên mặt đất.
Chú ư: Trong
khi làm động tác này, đừng để bắp chân
ngả về trước.
Khi đầu ngón tay vừa chạm
đất, nhấc gót chân lên khỏi mặt đất, chạm
gối xuống đất, quỳ xuống. Khi vừa quỳ xuống liền
duỗi bàn chân và các ngón chân ra phía sau. Lúc quỳ xuống,
đầu các ngón tay áp đất sao cho ngang với đầu
gối. Hai đầu gối cách nhau chừng 5 phân (đừng
tách đầu gối ra xa nhau quá kẻo lúc nằm rạp
xuống, xương sống bị vơng xuống quá mức).
Khi đầu gối đă chạm đất, hai tay liền
buông lỏng (chẳng phí sức để chống đỡ
thân), từ đầu đến cuối giữ trọng
tâm ở nguyên một chỗ.
Ngồi xuống, hai ḷng bàn chân
hướng lên trên tạo thành chữ V. Hai ngón cái khẽ
chạm nhau, đừng để chúng đè lên nhau. Ngồi
lên mặt trong của hai bàn chân. Qùy một cách yên định
sao cho trọng lượng cơ thể đè lên hai gót
chân.
|
|
Quỳ tọa |
Duỗi tay
đón Phật |
Ngồi vững vàng, trọng tâm
đặt tại phía sau giữa gót chân, thả lỏng
thân. Vẫn cúi đầu, hai tay mềm mại hướng
ra chính giữa phía trước, duỗi thẳng (đầu
các ngón tay chạm hờ mặt đất). Tuy cánh tay duỗi
thẳng, nhưng vẫn thư thả, chẳng gồng cứng,
chỉ dùng lực giữ hai vai tách ra mà thôi. Lúc này bụng
dưới hướng gần sát mặt đất, phần
thân trên vẫn thư giăn (lực đặt tại Đan Điền).
Ngồi vững vàng, vẫn trong tư thế
quỳ, dùng đầu ngón tay giữa làm điểm tựa
chống xuống đất, hai khủy tay hướng ra
ngoài, đặt hướng về trước sao cho nằm
ngang với hai lỗ tai. Giăn hai vai ra, phía sau vai vẫn giữ
bằng thẳng, đừng để chúng bị giật
cục, tách hai nách ra (tăng dung lượng hoạt động
của phổi). Ngón tay, ḷng bàn tay đều áp sát đất.
Trong khi tách hai khủy tay ra, phần thân
trên đồng thời hạ xuống. Nằm mọp xuống
rồi th́ Ấn Đường (phần giữa hai chân mày)
hướng xuống dưới, áp lên đất (bất
tất phải hướng ra trước, hướng xuống
dưới là được, khiến cho xương sống
gồ lên phía trên). Làm như vậy giúp cho ta hô hấp triệt
để. Đảnh đầu, lưng và điểm chính giữa
hai gót chân phải nằm trên cùng một đường thẳng.
|
|
|
Ngũ thể
đầu địa |
Lật ngửa bàn tay đón Phật |
|
XII. Lật ngửa bàn tay đón Phật
Trước hết, nhè nhẹ lật
nghiêng bàn tay lên (lấy ngón út làm điểm tựa), rồi
từ từ chuyển ḷng bàn tay ngửa lên trên, như
đóa sen nở, như dốc ḷng cúng Phật. Lúc lật
tay lên, lật sao cho ḷng bàn tay nằm thẳng, hướng
thẳng lên phía trên (đừng nghiêng ngả). Đừng
căng cứng bàn tay, lật xong liền thả lỏng
bàn tay ngay lập tức khiến cho các ngón tay mềm mại,
nhẹ nhàng như những cánh sen.
Dùng bàn tay sen ấy tiếp lấy chân Phật,
hai bàn tay đặt cách đầu khoảng một nắm
tay, hai ngón giữa cách nhau chừng 4 cm. Các ngón tay tuy thả
lỏng nhưng vẫn giữ cho chỉnh tề, nhu nhuyễn.
XIII. Ḥa nhập cùng tâm Phật, chúng sanh và Phật cảm ứng nhau
Lúc ngửa tay đón Phật, quán
tưởng Đức Phật đang đứng trên bàn tay
sen của ḿnh tiếp nhận sự lễ kính. Ngay khi ấy,
tâm ḿnh và tâm Phật ḥa nhập, mỉm cười. Tưởng
Phật phóng quang chiếu ta, Phật quang chiếu thẳng
vào đỉnh đầu, sung măn toàn thân tâm (lúc ấy, toàn
thân buông lỏng, mỉm cười, tự nhiên hô hấp
thật sâu).
Sau khi tiếp Phật xong, trước
hết, lật bàn tay lại (dùng ngón út làm điểm tựa),
úp ḷng bàn tay xuống dưới, áp thẳng trên mặt
đất. Dựa vào sức hít vào để nhấc đầu
lên, khôi phục lại tư thế quỳ tọa (hít vào tự
nhiên, đừng cưỡng sức). Hai tay vẫn úp sát
đất, đặt ngang với đầu gối.
|
|
|
Khôi phục
tư thế quỳ tọa |
Quỳ,
dựng ḷng bàn chân đứng lên |
|
|
|
|
Khôi phục
tư thế đứng |
|
|
XV. Quỳ, dựng ḷng bàn chân đứng lên
Dùng đầu gối làm điểm
tựa (hai tay đặt bên gối chỉ phụ giúp hờ
mà thôi). Nhấc mông lên để hai chân linh hoạt đổi
thành dạng chữ V ngược (khi quỳ ngồi xuống,
hai chân chụm đầu ngón cái lại, bè gót ra thành h́nh chữ
V. Khi chuẩn bị đứng lên, hai gót chân chụm lại,
hai đầu bàn chân chơe ra tạo thành chữ V ngược).
* Cách chuyển chân:
Hai ngón chân cái hướng ra ngoài, điểm
xuống đất (hai ngón chân cái cách nhau 8cm). Hai gót chân chụm
lại, nhưng vẫn cách nhau chừng 2cm (mục đích
là để khi đứng lên, vị trí của chân giống
như thế đứng trước khi quỳ xuống -
tiền bát hậu nhị).
Dựa vào sức hơi thở
(đừng cố ư thở quá sức, cứ hít thở tự
nhiên), giống như con rối gỗ bị dây kéo lên, ta cũng
như được Phật kéo theo đường thẳng
chính giữa thân đứng lên, rất nhẹ nhàng, linh hoạt,
trong khoảnh khắc đă khôi phục lại tư thế
đứng (đứng lên hoàn toàn chẳng tốn sức
cơ lưng, cũng chẳng cần dùng đến hai tay
chơi xuống đất nhấc thân lên). Từ đầu
đến cuối, luôn giữ đầu ở vị trí
cao nhất (mông không được cao hơn đầu). Cần
phải dụng tâm thể hội điểm trọng yếu
này: dùng sức nhấc đầu lên, chẳng bận tâm
đến các bộ vị khác của thân thể.
Chú ư: Trong khi đứng lên, đừng nhấc
mông trước rồi mới nhấc đầu sau. Nếu
làm vậy sẽ rất tốn sức khiến hông nhức,
lưng đau.
PHẦN THỨ BA: PHÂN TÍCH Ư NGHĨA PHẬT PHÁP & NGUYÊN LƯ Y HỌC CỦA MỘT SỐ ĐỘNG TÁC
Hỏi: Cổ
đức bảo lễ Phật như “thụ đảo
sơn băng” (cây đổ, núi lở). Thế sao sách này lại
bảo lễ Phật phải phù hợp với những
nguyên lư, nguyên tắc?
Đáp: Cổ
đức dùng câu trên để diễn tả ư “nhất
tâm tin tưởng” giống như cây đổ, núi lở
hoàn toàn đều do sức hút của trái đất dẫn
khởi, hoàn toàn nhờ mặt đất nâng đỡ,
không hề hoài nghi, cách ngại, cưỡng chấp; chứ
không phải là bảo đột ngột đổ ầm
xuống đất. Dĩ nhiên, cây đổ, núi lở tự
nhiên đều tuân theo nguyên tắc trọng tâm của vật
lư. Đấy chính là ư nghĩa “hợp lư” vậy.
Nhà Phật thường dùng những
động tác, điệu bộ không lời để diễn
tả những đạo lư cực thâm áo. V́ thế, tuy là
những cử chỉ thường thấy, cũng chớ
nên xem thường lướt qua. Chắp tay cũng thế.
Từ cổ, người Ấn Độ quan niệm tay phải
là “tay thần thánh”, tay trái là “tay bất tịnh”. V́ thế,
trong mỗi sinh hoạt thường nhật, họ có thói
quen phân biệt khi sử dụng hai tay. Chẳng hạn
như: cầm thức ăn th́ chuyên dùng tay phải,
nhưng để tẩy rửa thứ ǵ ô uế th́ chỉ
dùng tay trái.
Nếu chắp hai tay lại, đấy
là biểu thị sự hợp nhất của hai
phương diện thần thánh và bất tịnh (tượng
trưng cho sự dung hợp các phương diện đối
lập, khôi phục diện mục chân thật nhất thể),
mà cũng là biểu thị cho đạo lư chân tướng
của vũ trụ (Thật Tướng vô nhị, mà cũng
là vô bất nhị). Bát Nhă Tâm Kinh nói “bất cấu bất
tịnh” là cũng thể hiện ư này. V́ thế, chắp
tay để biểu thị bản lai diện mục tối
chân thật của nhân loại.
Khi lễ Phật, hoặc lúc b́nh thường
gặp nhau liền chắp tay, tượng trưng cho việc
“lấy diện mục chân thành để gặp gỡ
nhau”, tiêu trừ các thứ ngăn cách, vướng mắc,
đối lập trong nội tâm. Tâm người này,
người kia dung thông, hệt như một. Chắp tay cũng
nhắc nhở phản bổn hoàn nguyên, ngộ nhập
chân lư, khôi phục bổn lai diện mục, khế nhập
Thật Tướng của vũ trụ.
Ta c̣n có thể hiểu là hai tay
tương ứng biểu trưng Lư và Trí, Định và Huệ.
V́ thế, chắp tay lại biểu thị Lư Trí nhất
như, ǵn giữ Định Huệ cân bằng. Mười
ngón tay tương ứng với ngũ đại (địa,
thủy, hỏa, phong, không) hoặc tương ứng với
“thập Ba La Mật”.
Lại có thuyết cho rằng: Mười
ngón tay tiêu biểu mười pháp giới. Đầu ngón tay
tán loạn tiêu biểu tâm chạy tán loạn trong mười
pháp giới. Chắp tay lại chính là thâu nhiếp loạn
tâm, chuyên chú nhất tâm hướng Phật (hướng về
nhất chân pháp giới). Nhất tâm hướng Phật
th́ liền đó tâm quang chiếu trọn mười
phương, mà cũng là cảnh tỉnh tu hành phải khế
hợp Lư Sự tương ứng (ngay khi đó, xoay Sự
hướng về Lư).
Chắp tay c̣n biểu thị sự cung
kính. Sự cung kính ấy chẳng thuộc về tánh sai biệt,
mà phát xuất từ cội nguồn Phật tánh. Cung có nghĩa
là cùng một tâm chung. Cùng chung một Phật tâm chính là thể
hội được đạo lư “đây kia đều vốn
sẵn Phật tánh b́nh đẳng”; do đó, cung kính b́nh
đẳng. Đấy chính là đă thể hội được
sự cung kính tự nhiên “bản lai nhất thể trước
khi những quan niệm đối lập được
h́nh thành”.
Theo Đại Nhật Kinh Sớ, có mười
hai cách chắp tay; chúng chính là cơ sở của các ấn
khế. Cùng với sáu loại “quyền ấn” (ấn tạo
thành bằng cách nắm tay), chắp tay (hiệp chưởng
ấn) được gọi chung là “ấn mẫu”. Mười
hai cách chắp tay này, mỗi cách đều hàm chứa ư nghĩa
sâu xa
|
1. Kiên thật
tâm hiệp chưởng: dựng
đứng hai bàn tay lên, hai bàn tay áp chặt vào nhau không
để hở |
|
2) Hư
tâm hiệp chưởng:
C̣n gọi là “không tâm hiệp chưởng”. Giống
như kiên thật tâm hiệp chưởng, nhưng hai
lưng bàn tay hơi khum lên tạo thành khoảng hở giữa
hai bàn tay. |
|
3) Vị
phu liên hoa hiệp chưởng (chắp tay như đóa sen chưa nở): C̣n gọi
là “vị khai liên hoa hiệp chưởng” hay “Như Lai
khai liên hiệp chưởng”. Gần giống với
hư tâm hiệp chưởng nhưng khoảng trống
tạo thành bởi hai bàn tay ép vào nhau rộng hơn, trông
giống như búp sen chưa nở. |
|
4) Sơ
cát liên hiệp chưởng
(chắp tay như đóa sen vừa tách): chắp tay sao cho
ngón út, ngón cái của hai bàn tay đâu nhau, các ngón c̣n lại
để hơi xa nhau, trông giống như búp sen vừa
hé nở. |
|
5) Hiển
lộ hiệp chưởng:
Đặt hai bàn tay sao cho hai ngón út kề sát nhau, ḷng bàn tay ngửa
lên trên, không úp vào nhau (tức là lật ngửa bàn tay
hướng lên trên, ép sát cạnh bàn tay ở phía ngón út vào
nhau; các ngón khít nhau). |
|
6) Tŕ thủy
hiệp chưởng (chắp
tay như đang vốc nước): hai bàn tay ngửa
lên, các đầu ngón tay hơi co lại, chạm vào nhau,
chỉ trừ hai ngón cái đặt bên hông hai ngón trỏ,
như thể đang vốc nước. |
|
7) Quy mạng
hiệp chưởng: c̣n gọi
là “kim cang hiệp chưởng”. Mười đầu
ngón tay đan xen kẽ nhau, năm ngón tay của bàn tay phải
đặt phía trên năm ngón tay bàn tay trái. |
|
8) Phản
xoa hiệp chướng
(chắp tay đan ngược ngón): Đâu hai lưng bàn tay
vào nhau, mười đầu ngón tay xen kẽ giống
như trên. |
|
9) Phản
bối hỗ tương trước hiệp chưởng (chắp tay áp ngược lưng
nhau): Ngửa bàn tay phải lên đặt nằm ngang trên
lưng bàn tay trái, lưng hai bàn tay áp vào nhau. Đầu các ngón
của hai tay ngược chiều nhau. |
|
10)
Hoành chù chỉ hiệp chưởng (chắp tay các ngón chống ngang nhau): Gần
giống cách “tŕ thủy hiệp chưởng”, ngửa
hai bàn tay lên, chỉ có hai ngón giữa giống vào nhau, các
ngón khác hơi tách ra. |
|
11) Phúc
thủ hướng hạ hiệp chưởng (úp tay hướng xuống dưới
chắp tay): hai bàn tay đặt ngang, úp hai ḷng bàn tay
hướng xuống, nhưng chỉ có các ngón cái, ngón giữa
chạm đầu nhau. |
|
12) Phúc
thủ hiệp chưởng:
Giống như trên, nhưng chỉ có hai ngón cái đặt
sát hông nhau. Mười đầu ngón tay đều hướng
ra ngoài. |
So ra, trong các đạo tràng, thường dùng nhất
là cách kiên thật tâm hiệp chưởng và quy mạng hiệp
chưởng (kim cang hiệp chưởng). V́ thế, ở
dưới đây sẽ nói rơ hai cách chắp tay ấy.
1) Kiên thật
tâm hiệp chưởng:
- Thả lỏng hai vai, nhưng vẫn
giữ vai ngay ngắn, tuy đoan chánh nhưng vẫn
thư giăn, đừng gồng cứng.
- Hai bàn tay áp chặt vào nhau, như thể
dựa vào nhau nghỉ ngơi.
- Chắp hai tay ngang ngực, giữ phía
dưới nách thông thoáng th́ khí huyết mới chảy
thông suốt. Gốc hai ngón cái nằm ngang huyệt Đản
Trung, đừng áp hai bàn tay lên ngực.
- Mắt nh́n vào khoảng giữa hai bàn
tay, kiểm xem ḿnh có thư giăn, đoan chánh hay không. Người
thường ngày hay tán loạn th́ lúc chắp tay cũng rất
khó làm cho đúng. Lúc tâm loạn, năm ngón tay sẽ tách nhau
ra mà ngón út cũng khó áp sát vào các ngón khác. Cứ hễ chẳng
nhất tâm chuyên chú th́ ngón út liền tách ra.
2) Kim Cang
hiệp chưởng (quy mạng
hiệp chưởng)
Cách chắp tay này trong kinh thường
diễn tả bằng từ ngữ “xoa thủ hiệp
chưởng”.
Phương pháp: Lấy bàn tay phải làm chính, các đầu
ngón tay đan nhau ở ngay đốt thứ nhất.
Ư nghĩa:
Bàn tay phải là Phật Giới, bàn tay trái là Chúng Sanh Giới,
biểu thị: chúng sanh quy mạng nơi chư Phật.
Chắp tay lại tiêu biểu “năng, sở bất nhị”,
“chúng sanh và Phật như một”. Hành giả Mật giáo
dùng các ấn này để biểu thị ḷng cung kính đối
với Bổn Tôn, tín tâm kiên cố.
II. V́ sao không được chắp tay đè lên ngực?
V́ làm vậy không những thể hiện
h́nh tướng lười nhác, tán loạn, mà c̣n có hại
về mặt sinh lư.
Hành giả làm như vậy có thể v́
không biết nơi ngực có một tuyến, là cơ quan
trọng yếu của hệ thống sản xuất ra chất
dịch “lâm ba”. Trong hệ thống miễn dịch nơi
thân chúng ta, trọng yếu nhất là các “lâm ba cầu T” (T
cells). Chúng có trách nhiệm trừ khử những ngoại
vật xâm nhập cơ thể, cũng như tiêu hóa những
tế bào phân chia bất thường (chẳng hạn
như các tế bào ung thư). Tuyến ngực nói trên tiết
ra “hung tuyến tố” giúp cho các tế bào T phân chia, phát triển
tốt đẹp. Nếu áp lực tinh thần quá lớn,
mạch nơi ngực liền bị co rút, kém tác dụng.
Nếu đè tay lên ngực cũng khiến cho ngực phải
chịu sức ép, khí huyết chẳng thông.
III. V́ sao chẳng nên nghiến chặt răng?
3.1. Về
phương diện tu tâm trong Phật pháp:
a. Trong tác phẩm
Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ của Thiện Đạo
Đại Sư, trước khi dạy về cách quán tưởng,
có một đoạn rất trọng yếu giảng về
“tiền phương tiện” (cách chuẩn bị trước
khi quán tưởng). Đây chính là tŕnh tự chẳng thể
thiếu trong việc tu quán, người học đừng
ham cao chuộng xa mà lướt qua.
Sách chép: “Giữ thân ngay thẳng, ngậm
miệng, nhưng răng đừng đè sát nhau, lưỡi
chống lên ṿng họng để luồng khí giữa yết
hầu và mũi thông suốt”.
Đoạn văn trên viết
ngay trước câu “lại quán
tứ đại trên thân, trong ngoài đều không, trọn
không có một vật”. Đủ thấy trước khi
quán Không hay thực hành mười sáu phép quán, vẫn phải
“giữ thân ngay thẳng, ngậm miệng, răng đừng
nghiến sát, lưỡi chống lên ṿm họng” (là v́ nếu
luồng khí giữa yết hầu và mũi không thông suốt
th́ năo sẽ bị thiếu dưỡng khí, những công
năng thông thường c̣n gặp chướng ngại,
huống hồ là công năng quán tưởng cao thâm?)
Nho gia cũng nói: “Quân tử vụ bổn, bổn lập nhi đạo
sanh” (người quân tử chú trọng cái gốc, gốc
đă lập th́ đạo sẽ sanh). Nếu kẻ sơ
học chẳng thiết thực, chắc thật tận lực
thực hành những điều cơ sở căn bản,
gốc cội chưa vững chắc th́ rất khó ḷng khai
hoa kết quả được.
b. Tâm có vọng tưởng, chấp
trước, khẩn trương, vướng mắc th́ sẽ
có những biểu hiện tự nhiên nơi thân nhưng
ḿnh chẳng biết: răng nghiến chặt, lưỡi
cứng dính chặt vào họng, hơi thở nơi mũi
lẫn yết hầu cũng chẳng thông suốt, cổ
cũng căng cứng. Như vậy, chẳng nghiến
răng chính là để cảnh tỉnh ḿnh buông bỏ vọng
tưởng, chấp trước. Lúc tâm t́nh khích động
th́ chuyện nghiến răng, nghiến lợi rất dễ
thấy; nhưng lúc b́nh thường, ḷng có điều lo
nghĩ, chẳng dễ nhận thấy ḿnh đang nghiến
răng, nghiến lợi mà cũng thường chẳng
hay! Chỉ cần trong tâm có điều vướng vất,
gân mặt sẽ lập tức căng cứng nên tự
nhiên ḿnh nghiến chặt răng. Không nghiến chặt
răng chính là buông lỏng những sợi gân nhỏ trên mặt,
mà cũng là buông bỏ những điều bận ḷng trong
tâm.
3.2. Lợi
ích về phương diện sinh lư
a) Khiến
cho ống dẫn nước bọt được thông suốt,
nước bọt tiết ra đầy đủ
Nước bọt là một chất dịch
tiết rất quan trọng trong cơ thể, chẳng những
nó giúp ích cho việc hấp thụ thức ăn, tiêu hóa,
phân giải thức ăn, mà c̣n có những chất đề
kháng, tăng cường sức kháng bệnh của cơ
thể.
Chúng ta có ba loại tuyến nước
bọt lớn:
- Tuyến dưới tai: Ở phía
trước tai, tuyến này đổ ra khoảng giữa
cằm và g̣ má (ngay nơi răng hàm thứ hai)
- Tuyến dưới cằm: Nằm ở
xương hàm dưới, đổ ra khoảng dưới
lưỡi (chỗ lưỡi nối vào sàn miệng).
- Tuyến dưới lưỡi (nằm
ở phía đầu lưỡi, nằm dưới niêm mạc
của xoang miệng). Có một ống dẫn khá lớn
(tuyến nước miếng dưới cằm thường
đổ ra theo đường này) và khoảng mười
ống dẫn nhỏ, mỗi ống đều có lỗ
thoát nằm ngay dưới lưỡi và trong khoang miệng.
Ngoại trừ ba loại tuyến
nước bọt lớn trên, chúng ta c̣n nhiều tuyến
nước bọt nhỏ, phân bố trong ṿm miệng phía
trong má, môi trên, môi dưới, ṿm họng cũng như trên
đầu lưỡi.
Khi chúng ta nghiến răng, các ống dẫn
và lỗ thoát của chúng đều bị đóng lại,
nên miệng bị thiếu nước bọt, chẳng những
miệng khô, lưỡi ráo, mà c̣n bị thiếu cả các
diếu tố (enzyme) tiêu hóa, thành ra bị khó tiêu. Đồng
thời c̣n bị thiếu cả kháng thể, sức miễn
dịch giảm thấp. V́ lẽ đó, cần phải nên
thư giăn, đừng nghiến chặt răng, chỉ ngậm
chặt hai môi mà thôi.
Mọi người thường hay t́m
mua những thức uống bên ngoài, chẳng biết thức
uống tốt nhất, chính là nước miếng của
chính ḿnh. Nước miếng chính là nguồn cung ứng bất
tuyệt suốt 24 giờ, trọn bảy ngày. Nhưng
đa số chúng ta lại cắn răng, nghiến lợi
khiến cho lỗ thoát của các tuyến bị bít chặt,
lại c̣n than thở là miệng bị khô, thật là oan uổng
quá (người hay than khô miệng, ráo lưỡi chắc
chắn là người tâm thường lo âu, đăm
chiêu, cứ cắn răng, nghiến lợi nhưng không
hay, hoặc là kẻ tinh thần bị căng thẳng làm ảnh
hưởng đến thần kinh, khiến nước bọt
bớt tiết ra).
Xin hăy thí nghiệm: Trong lúc thư thái,
đừng nghiến chặt răng, thả lỏng cơ
cổ, đầu lưỡi áp nhẹ lên ṿm họng trên,
giữ cho có một khoảng trống giữa phía trên mặt
lưỡi, gốc lưỡi và ṿm họng trên như thể
đang ngậm hột mận, hoặc ngậm một búng
không khí th́ tự nhiên nước miếng tuôn ra ào ào (v́ lỗ
thoát của các tuyến nước miếng được
thông thoáng). Làm vậy th́ niệm Phật, lễ Phật chẳng
bị khô miệng, lúc tâm tịnh th́ nước miếng cực
ngon ngọt, hơn hẳn các thứ thức uống trong
thế gian.
b) Không
nghiến răng th́ tâm dễ an định, ninh tịnh, khả
năng tư duy được nâng cao
Khi quan sát vỏ năo, người ta
thấy chỉ cần nghiến răng th́ liền xuất
hiện ḍng điện gây nhiễu “năo điện kế”
(máy đo ḍng điện ở vỏ năo). Đủ thấy
khi gân cơ căng thẳng do nghiến răng sẽ tạo
thành sóng điện, khuấy rối sự an định
trong tâm. Phải thả lỏng th́ tâm mới có thể an
định.
Qua nghiên cứu, ta thấy rơ khi nghiến
răng th́ khả năng tư duy, phân tích, quán tưởng
ở mức độ cao của năo cũng bị trở
ngại. V́ thế, nghiến răng thật bất lợi
đối với việc tư duy Phật pháp.
c) Nâng cao
thính lực
Khi nghiến chặt răng, các gân
cơ bị căng thẳng (thân nghiệp) khiến cho những
huyết quản lớn nhỏ quanh tai cũng bị chèn
ép. Bởi thế, công năng của tai cũng như thính
lực tất nhiên đều bị giảm thấp
(đó chính là nghiệp biến thành chướng). Rất
nhiều người than nghe giảng Phật pháp hoặc
nghe thầy giảng bài, nghe nhưng không hiểu, hoặc
nghe xong quên ngay phần lớn là do hay nghiến chặt
răng. Chỉ cần biết thư giăn th́ chẳng đến
nỗi do thân nghiệp tạo thành chướng ngại vậy.
IV. V́ sao phải nên đứng theo kiểu “tiền bát hậu nhị” [1]
4.1. Luận
về phương diện sinh lư và vật lư:
4.1.1. Nhà
Phật chẳng hề yêu cầu người học làm những
chuyện vô lư.
Lúc đứng, 2 gót chân cách nhau 2 phân là
điều hợp lư. Quan sát cấu trúc xương nơi
thân người, ta thấy: thân ta có khung xương sống.
Phần cuối, xương sống cong ra phía sau. V́ thế,
trọng lượng của thân dồn nặng xuống
chính giữa phía sau của phần chính giữa thân (nơi
xương cùng). Khi đứng, cần phải chia đều
trọng lượng ấy cho hai gót chịu đựng.
Gót chân cách nhau 2 phân là v́:
- Khoảng cách này xấp xỉ độ
rộng của xương sống, rất phù hợp để
hai chân chịu đều sức nặng của thân thể
dồn xuống.
- Khoảng cách này rất thích hợp
để giữ cho hai xương ống chân đứng
thẳng th́ gân thịt mới thư giăn được.
- Khoảng cách này phù hợp với góc
độ của khớp xương hông, khớp gối,
khớp xương đùi, khiến chúng chẳng bị chịu
lực quá đáng đến nỗi bị hư ṃn, thoái
hóa.
Hăy tự thí nghiệm để chính ḿnh
quan sát lấy:
- Nếu gót chân cách nhau khá xa th́ hai
xương chân bị xéo đi, gân thịt nơi chân bị
căng không đều, góc độ chịu lực nơi
các khớp không thích nghi, không đều, rất dễ bị
đau mỏi.
- Nếu chụm sát hai gót chân lại th́
xương chân cũng chẳng được thẳng,
gân cốt cũng bị căng thẳng.
4.1.2. Hai
ngón chân cái cách nhau 8 phân (nói 8
phân là ước chừng ngang với bề rộng của
vai)
Chỗ rộng nhất trên thân là
vai. Giữ hai chân cách nhau vừa đúng chiều rộng của
vai th́ chân đă chịu lực tốt mà diện tích mặt
chân đế cũng lớn, khiến cho trọng tâm rất
ổn.
Nếu chân không cách nhau đủ 8 phân
th́ mặt chân đế quá hẹp so với mông, trọng
tâm bất ổn. Nếu lớn hơn 8 phân th́ cơ
đùi bị kéo quá căng, nên cũng không đáp ứng
được yêu cầu về mặt vật lư.
4.2. Xét
trên phương diện điều tâm trong nhà Phật
“Quân tử vụ bổn, bổn lập
nhi đạo sanh”.
V. V́ sao lúc đứng thẳng lại cần phải dùng gót chân chịu lực?
Như đă nói, cách đứng như vậy
chẳng những vừa chỉnh tề, vừa đẹp
mắt, khiến người khác thấy trang nghiêm, mà c̣n là
phù hợp với những nguyên tắc giải phẫu sinh
lư nữa.
5.1. Xét về
mặt Phật pháp
Nhà Phật giảng: “Tánh không duyên khởi”,
các pháp từ duyên sanh. Thể là chân không, nhưng Tướng
là diệu hữu. Đă có thân thể giả tướng, th́
trong giả tướng ấy đương nhiên có đạo
lư nhân quả; nhưng sự biến hóa của giả
tướng vẫn tuân theo nguyên tắc nhân quả. Bởi
vậy, những động tác sinh hoạt thường
ngày cũng phải tuân thủ theo điều kiện nhân
quả.
Hăy thử suy nghĩ kỹ, trong 32 tướng
hảo của Phật, có tướng “gót chân rộng bằng”
(gót chân viên măn, chẳng lộ xương) và “ḷng bàn chân bằng
phẳng”. Những tướng hảo ấy đă tiết
lộ ư nghĩa sâu thẳm “gót chân chịu lực”.
Tổ sư nhà Thiền, khi khảo nghiệm
đệ tử đă dụng công đắc lực hay
chưa, đắc pháp hay chưa, thường hỏi: “Gót
chân chấm đất rồi chưa?” Điểm này phải
nghĩ hiểu cho kỹ vậy. Có người cho rằng
cần phải dùng cả bàn chân lẫn các ngón chân chịu
lực th́ mới đứng vững được. Kỳ
thật, thời cổ phụ nữ bị ép bó chân, chỉ
c̣n chừa mỗi gót chân chạm đất mà họ vẫn
có thể đi vững, đứng vững được.
5.2. Xét
về mặt giải phẫu sinh lư
Từ xương bắp chân trở
lên cả phân trên đều liên tục ở ngay trên gót chân
(xương bàn chân chỉ nhằm tăng gia diện tích mặt
chân đế). Tự nhiên là trọng tâm của thân thể
rơi vào chính giữa hai gót chân. V́ thế, ta dùng gót chân
để chịu lực, cũng như khi trọng tâm của
vật đă ổn th́ vật sẽ tự nhiên ổn
định, chẳng cần tốn sức. Lúc trọng
lượng đặt tại gót chân, mỗi ngón chân đều
được thư giăn, gân thịt nơi chân cũng
không cần phải hao tổn năng lượng để
giữ vững tư thế cân bằng; cơ lưng cũng
không phải phải gồng cứng. Như thế, sẽ
bất tất phải lăng phí khí lực, bất tất phải
gánh chịu nỗi nhọc nhằn, đau đớn không
cần thiết.
Mỗi người có thể tự kiểm
nghiệm, so sánh. Khi đứng, tự dùng tay sờ nắn
xương hông th́ sẽ thấy rằng: Nếu dùng mũi
bàn chân làm điểm tựa th́ xương nơi thắt
lưng sẽ thúc vào bụng, các cơ quanh hông sẽ gồ
lên. Như vậy sẽ dễ bị đau lưng, mà cũng
khó thể hô hấp sâu.
Nếu dùng gót chân để chịu lực
th́ xương nơi thắt lưng khá thẳng, không c̣n
thúc vào bụng. Hông, lưng, bàn chân, ngón chân, cơ chân đều
thả lỏng, dễ hít thở sâu.
禮佛與醫學
越語譯本
寶光寺弟子如和節譯
Sách biếu không bán.
For free distribution. Not for sale