Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 7

觀無量壽佛經疏鈔演義

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Thời gian: Khởi giảng từ ngày 01 tháng 12 năm 1990

Địa điểm: Hoa Tạng Đồ Thư Quán, huyện Cảnh Mỹ, Đài Loan

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang

 

Tập 25

 

Xin mở kinh bổn, trang một trăm chín mươi tám, xem ḍng thứ tư từ dưới đếm lên. Hăy xem kinh văn. Đây là phép Quán thứ mười trong mười sáu phép Quán, quán Quán Thế Âm Bồ Tát:

 

      Phật cáo A Nan cập Vi Đề Hy: - Kiến Vô Lượng Thọ Phật liễu liễu phân minh dĩ.

希。見 已。

(Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: - Đă thấy Vô Lượng Thọ Phật rành rẽ, phân minh xong).

 

      Tổng kết phép Quán trong phần trước; sau khi đă quán A Di Đà Phật thành tựu.

 

      Thứ phục ưng quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Thử Bồ Tát thân trưởng thập bát vạn ức na-do-tha do-tuần.

薩。此 旬。

(Kế đó, lại nên quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Vị Bồ Tát này thân cao mười tám vạn ức na-do-tha do-tuần).

 

      Trong chú giải có giảng về “mười tám vạn ức”[1].

      Thân tử kim sắc, đảnh hữu nhục kế, hạng hữu viên quang, diện các bách thiên do-tuần. Kỳ viên quang trung, hữu ngũ bách hóa Phật, như Thích Ca Mâu Ni, nhất nhất hóa Phật, hữu ngũ bách hóa Bồ Tát, vô lượng chư thiên, dĩ vi thị giả.

色。頂 髻。項 光。面 旬。其 中。有 佛。如 尼。一 佛。有 薩。無 天。以 者。

(Thân màu vàng tía, đỉnh đầu có nhục kế. Cổ có viên quang, mỗi phía xa đến trăm ngàn do-tuần. Trong viên quang ấy, có năm trăm hóa Phật như Thích Ca Mâu Ni Phật. Mỗi vị hóa Phật có năm trăm hóa Bồ Tát, vô lượng chư thiên để làm thị giả).

 

      Bồ Tát và Phật cũng hết sức tương tự, trong quang minh cũng có hóa Phật và hóa Bồ Tát.

 

      Cử thân quang trung, ngũ đạo chúng sanh, nhất thiết sắc tướng, giai ư trung hiện.

中。五 相。皆 現。

(Trong quang minh khắp thân Ngài, hết thảy sắc tướng của chúng sanh trong năm đường[2] đều hiện bóng trong ấy).

 

      Không chỉ là trong quang minh hiện tướng chư Phật, Bồ Tát, mà cũng đồng thời hiện tướng lục đạo chúng sanh.

 

Đảnh thượng Tỳ Lăng Già ma-ni bảo dĩ vi thiên quan. Kỳ thiên quan trung, hữu nhất lập hóa Phật, cao nhị thập ngũ do-tuần.

冠。其 中。有 佛。高 旬。

(Trên đỉnh đầu, báu Tỳ Lăng Già ma-ni dùng làm măo trời. Trong măo trời ấy, có một vị hóa Phật đứng, cao hai mươi lăm do-tuần).

 

      Đây là nói măo của Bồ Tát, giữa măo có một tượng Phật. Tượng Phật ấy là tượng đứng, là tượng Phật đứng.

 

      Quán Thế Âm Bồ Tát, diện như Diêm Phù Đàn kim sắc, mi gian hào tướng, bị thất bảo sắc, lưu xuất bát vạn tứ thiên chủng quang minh. Nhất nhất quang minh, hữu vô lượng vô số bách thiên hóa Phật. Nhất nhất hóa Phật, vô số hóa Bồ Tát dĩ vi thị giả, biến hiện tự tại, măn thập phương thế giới.

薩。面 色。眉 相。備 色。流 明。一 明。有 佛。一 佛。無 者。變 在。滿 界。

(Sắc mặt Quán Thế Âm Bồ Tát như vàng Diêm Phù Đàn, tướng bạch hào giữa hai mày trọn đủ màu của bảy thứ báu, tỏa ra tám vạn bốn ngàn loại quang minh. Mỗi một quang minh có vô lượng vô số trăm ngàn hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật có vô số hóa Bồ Tát làm thị giả, biến hiện tự tại, trọn khắp mười phương thế giới).

 

      Trong ba mươi hai tướng của đức Phật có tướng bạch hào, Bồ Tát cũng có tướng bạch hào. Đă thế, tướng bạch hào cũng phóng quang hóa Phật, biến hiện tự tại. Trong đoạn trước đă nói: Hóa Phật nơi thân quang của Phật biến hiện tướng của lục đạo chúng sanh trong mười phương thế giới; ở đây nói đến một tướng trong vô lượng tướng hảo, tức là tướng bạch hào. Nói thật ra, hết thảy các tướng hảo đều phóng quang. Trong quang minh đều có hóa Phật, hóa Bồ Tát trọn khắp mười phương thế giới.

 

      Tư như hồng liên hoa sắc, hữu bát thập ức vi diệu quang minh, dĩ vi anh lạc, kỳ anh lạc trung, phổ hiện nhất thiết chư trang nghiêm sự.

色。有 明。以 珞。其 中。普 事。

(Cánh tay sắc như hoa sen đỏ, có tám mươi ức quang minh vi diệu để làm anh lạc. Trong anh lạc, hiện khắp hết thảy các sự trang nghiêm).

 

      Những điều nói trên đây đều là chánh báo, đều thuộc về thân thể, hoặc là toàn thể, hoặc là bộ phận. Ở đây nói về y báo, y báo là vật ngoài thân. Anh lạc và y phục đều thuộc về y báo. Đây chính là nói về y báo và chánh báo trang nghiêm.

 

      Thủ chưởng tác ngũ bách ức tạp liên hoa sắc, thủ thập chỉ đoan, nhất nhất chỉ đoan hữu bát vạn tứ thiên hoạch, do như ấn văn. Nhất nhất hoạch hữu bát vạn tứ thiên sắc. Nhất nhất sắc hữu bát vạn tứ thiên quang. Kỳ quang nhu nhuyễn, phổ chiếu nhất thiết. Dĩ thử bảo thủ, tiếp dẫn chúng sanh.

色。手 端。一 畫。猶 文。一 色。一 光。其 軟。普 切。以 手。接 生。

(Bàn tay có màu như năm trăm ức hoa sen các loại. Mười đầu ngón tay, mỗi đầu ngón tay có tám vạn bốn ngàn đường vân giống như nét khắc trên cái ấn. Mỗi đường vân có tám vạn bốn ngàn màu. Mỗi một màu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng. Quang minh ấy mềm mại, chiếu khắp hết thảy. Dùng tay báu này để tiếp dẫn chúng sanh).

 

      Nay chúng ta gọi những đường vân trong bàn tay là các vân tay. Vân tay của Ngài hết sức vi tế, đồng thời cũng phóng quang, quang minh cũng chiếu khắp hết thảy.

 

      Cử túc thời, túc hạ hữu thiên bức luân tướng, tự nhiên hóa thành hữu ngũ bách ức quang minh đài. Hạ túc thời, hữu kim cang ma-ni hoa bố tán nhất thiết, mạc bất di măn.

時。足 相。自 臺。下 時。有 切。莫 滿。

 (Khi giở chân, dưới bàn chân có tướng bánh xe ngàn căm, tự nhiên hóa thành năm trăm ức đài quang minh. Lúc đặt chân xuống, có hoa kim cang ma-ni rải khắp hết thảy mọi nơi, không đâu chẳng trọn khắp).

 

      Trong đoạn cuối này, cho biết dưới bàn chân [Bồ Tát] có “thiên bức luân tướng”, Luân (bánh xe) là viên măn, ngàn căm cũng biểu thị sự viên măn. Tướng hảo nơi ngón chân, từ trong luân tướng, “thiên bức luân tướng” là những đường chỉ trong gan bàn chân, cũng phóng quang giống hệt như vậy. Không chỉ tỏa ánh sáng, lại c̣n giở chân, hạ chân, tự nhiên biến hóa đài sen. “Kim cang ma-ni hoa” cũng là hoa sen báu. Do đó nói giở chân, hạ chân là tự nhiên biến hiện, chẳng phải là tác ư, chẳng phải cố ư biến như vậy, mà là tự nhiên biến hiện. Ngài biến hiện đương nhiên đều có lư, đều có lư tồn tại, Lư ấy thuộc về Tánh Đức: Chân Như bản tánh trọn đủ vô lượng vô biên đức năng. Sau khi chứng đắc tự tánh, các hiện tượng ấy hoàn toàn là tự nhiên. Do đó, cổ nhân nói: “Chẳng đọc Hoa Nghiêm, không biết sự phú quư trong nhà Phật”, cũng chẳng hiểu chỗ hay của việc thành Phật. Thọ dụng các thứ trang nghiêm trong pháp thế gian là do nhiều đời hoặc do đời này tu phước mà hiện; c̣n y báo và chánh báo trang nghiêm của chư Phật, Bồ Tát do Tánh Đức biến hiện. Tánh Đức là tự nhiên, vĩnh viễn chẳng có suy kiệt, chẳng giống như Tu Đức. Tu Đức sẽ có lúc hết, Tánh Đức chẳng có hạn lượng, vô cùng, vô tận. Do vậy có thể biết: Phước báo trong Tánh Đức thù thắng hơn Tu Đức quá nhiều. Cầu huệ, cầu phước đều phải cầu từ tự tánh; đó mới là chánh xác.

      Chúng ta lại xem đoạn kinh văn kế tiếp, [trong Sớ Sao, khoa mục này được gọi là] “dữ Phật đồng dị” (giống và khác với Phật). Hăy xem trang hai trăm lẻ một, ḍng thứ ba từ dưới đếm lên.

 

      Kỳ dư thân tướng, chúng hảo cụ túc, như Phật vô dị.

相。眾 足。如 異。

(Những thân tướng khác, các tùy h́nh hảo trọn đủ, giống như Phật, chẳng khác).

 

      Những tướng hảo khác hoàn toàn giống như A Di Đà Phật.

 

      Duy đảnh thượng nhục kế, cập Vô Kiến Đảnh tướng, bất cập Thế Tôn.

      髻。及 相。不 尊。

      (Chỉ có tướng nhục kế và tướng Vô Kiến Đảnh[3] trên đỉnh đầu chẳng bằng đức Thế Tôn).

 

      Bồ Tát thị hiện là bậc Đẳng Giác Bồ Tát, c̣n có một phần sanh tướng vô minh chưa phá. Tuy tướng hảo giống như Phật, nhưng chú tâm quan sát, [sẽ thấy] c̣n kém một chút, có ư nghĩa này!

 

      Thị vi quán Quán Thế Âm Bồ Tát chân thật sắc thân tướng, danh đệ thập quán.

      相。名 觀。

      (Đó là quán tướng sắc thân chân thật của Quán Thế Âm Bồ Tát, gọi là phép Quán thứ mười).

 

      Xin xem phần kinh văn tiếp theo.

 

       Phật cáo A Nan: - Nhược dục quán Quán Thế Âm Bồ Tát giả, đương tác thị quán.

      難。若 者。當 觀。

      (Đức Phật bảo ngài A Nan: “Nếu muốn quán Quán Thế Âm Bồ Tát, hăy nên quán như thế”).

 

      “Đương tác thị quán”: Cách quán h́nh tượng như đức Phật đă dạy trên đây.

 

      Tác thị quán giả, bất ngộ chư họa.

      者。不 禍。

(Quán như thế, chẳng gặp các họa).

 

 Xa ĺa hết thảy các tai nạn bất ngờ. Thường tưởng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, thường xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, cũng là nhớ Phật, niệm Phật. Thường có thể ức niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ không gặp hết thảy các tai nạn ngoài ư muốn.

 

      Tịnh trừ nghiệp chướng, trừ vô số kiếp sanh tử chi tội.

      障。除 罪。

      (Trừ sạch nghiệp chướng, trừ tội trong vô số kiếp sanh tử).

 

      Đây là nói tới công đức diệt tội do quán tưởng. Dưới đây là nói đến chuyện được phước.

 

      Như thử Bồ Tát, đản văn kỳ danh, hoạch vô lượng phước, hà huống đế quán.

薩。但 名。獲 福。何 觀。

(Bồ Tát như thế, chỉ nghe tên Ngài đă được vô lượng phước, huống hồ là quán kỹ lưỡng).

 

      Chúng ta đọc kinh văn là được rồi.

 

      Nhược hữu dục quán Quán Thế Âm Bồ Tát giả, tiên quán đảnh thượng nhục kế; thứ quán thiên quan. Kỳ dư chúng tướng, diệc thứ đệ quán chi, tất linh minh liễu, như quán chưởng trung. Tác thị quán giả, danh vi chánh quán. Nhược tha quán giả, danh vi tà quán.

者。先 髻。次 冠。其 相。亦 之。悉 了。如 中。作 者。名 觀。若 者。名 觀。

(Nếu có ai muốn quán Quán Thế Âm Bồ Tát th́ trước hết hăy nên quán nhục kế trên đỉnh đầu, kế đó quán măo trời, và các tướng khác cũng theo thứ tự mà quán sao cho thảy đều rơ rệt như nh́n vào bàn tay. Quán như thế th́ gọi là chánh quán. Nếu quán khác đi th́ là tà quán).

 

      Trong chú giải có một đoạn mà chúng ta cần xem cẩn thận, xem từ câu thứ hai nơi ḍng thứ tư trong trang hai trăm lẻ ba: “Hành giả quán ư quan, kế, hào, diện, thân sắc, quang minh, nhất nhất tu dụng tâm tác, tâm thị, nhi vi năng quán” (Hành giả quán tưởng măo trời, nhục kế, bạch hào, vẻ mặt, thân sắc, quang minh [của Quán Thế Âm Bồ Tát], đối với mỗi thứ đều nên dùng “tâm này làm Phật, tâm này là Phật” để quán tưởng). Hành giả là người nương theo lư luận và phương pháp này để tu hành, cách tu như thế nào? Quư vị quán măo đội đầu, nhục kế, tướng bạch hào, vẻ mặt, thân sắc, quang minh của Bồ Tát giống như trong kinh đă nói, mỗi thứ đều quán tưởng cặn kẽ. Quán tưởng th́ phải khéo dụng tâm. Chẳng khéo dụng tâm sẽ dấy vọng tưởng, đó chẳng phải là quán tưởng. Quán tưởng và vọng tưởng sai khác nhỏ nhặt như vậy, đừng nên ngỡ vọng tưởng là quán tưởng, điều này rất trọng yếu. Nói thật ra, rất nhiều kẻ b́nh phàm ngỡ vọng tưởng là quán tưởng; v́ thế, tội cũng chẳng thể diệt được, mà phước cũng chẳng thể hiện tiền, đó là do dụng tâm sai lầm. Như thế nào th́ mới gọi là khéo dụng tâm? Câu tiếp theo [trong lời Sớ] rất trọng yếu, “tâm tác, tâm thị”. Trong phần kinh văn ở đoạn trước đă dạy: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, phải dụng tâm như vậy. Quán A Di Đà Phật phải dùng cái tâm ấy, mà quán Quán Thế Âm Bồ Tát cũng phải dùng cái tâm ấy. Tâm này làm Bồ Tát, tâm này là Bồ Tát. Nói thật ra, v́ sao có thể diệt tội, trừ chướng, sanh phước? Điều khẩn yếu nhất là ứng dụng lư luận, phương pháp từ việc quán Phật hay quán Bồ Tát vào trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta quan sát hết thảy vạn sự, vạn pháp, lẽ đâu chẳng khai trí huệ? Trí huệ đă khai, lẽ đâu chẳng sanh phước? Phước huệ trọn đủ, há c̣n có tội nghiệp? Đương nhiên là tiêu tội nghiệp, lư ở chỗ này! V́ thế, phải biết dụng tâm th́ mới là thật sự dụng tâm, tuyệt đối chẳng phải là dấy vọng tưởng. Dấy vọng tưởng là lầm lẫn quá ư to lớn!

      Đoạn này đă giảng giải ư nghĩa rất rơ ràng; v́ thế, đối với mỗi chuyện, đều phải dùng, ắt phải sử dụng, tức là trong mỗi phép Quán đều cần phải dùng “tâm làm, tâm là”. “Tâm là” chính là cái có thể hiện (năng hiện), duy tâm sở hiện, “tâm làm” là duy thức sở biến. Hết thảy các tướng cảnh giới đều do tự tâm hiện, do bổn thức biến. Ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm. Chư Phật, Bồ Tát thảy đều do tự tánh biến hiện, đó gọi là “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”. Di Đà đă là tự tánh, há Quán Âm Bồ Tát lại có bao giờ chẳng phải là tự tánh? Biết chư Phật, Bồ Tát, Tịnh Độ do tự tánh biến hiện, có thứ ǵ nơi cảnh giới trước mắt chúng ta chẳng phải do tự tánh biến hiện? Quư vị quán sát như vậy, quán lâu ngày, tự nhiên minh tâm kiến tánh, tâm địa mới có thể thật sự đạt đến thanh tịnh, b́nh đẳng, bất tri bất giác tự nhiên nhập cảnh giới Phật.

      Dùng nguyên tắc này để quán tưởng, “nhi vi năng quán, thuyết tại tượng tiền, dụng tại thử xứ” (dùng làm chủ thể để quán, [nguyên tắc đă được nói] trong phần quán tượng [A Di Đà Phật] trên đây được vận dụng vào chỗ này).
Những điều đă nói trong phần quán tượng ở phần trước là huấn luyện, tức là [những điều được nói] trong phần quán Vô Lượng Thọ Phật, [nguyên tắc] “tâm này là Phật, tâm này làm Phật” đă được nói trong đoạn kinh văn dạy về phép quán Vô Lượng Thọ Phật, tức là được nói trong phép Quán thứ chín, nhưng quư vị phải biết sử dụng; hiện thời, đang nói đến phép quán Bồ Tát, quư vị phải biết vận dụng nguyên tắc ấy để quán tượng [Bồ Tát], sau đó mở rộng ra. “Kư vân tác Phật thị Phật”, [có nghĩa là] nếu nói “làm Phật, là Phật”, “khởi bất năng tác Quán Âm thị Quán Âm da?” (há chẳng thể làm Quán Âm bèn là Quán Âm ư?), [nghĩa là] tâm này làm Quán Âm, tâm này là Quán Âm. “Thị kế, thị quan” (là nhục kế, là măo), tâm này làm nhục kế, tâm này là nhục kế, chẳng có ǵ không phải là như thế. “Thị kế, thị quan, giai khả vi lệ, bất độc dĩ Phật lệ quán Bồ Tát, diệc tu lệ ư phổ tạp tam bối, khởi duy dĩ tiền lệ hậu, diệc hợp dĩ hậu lệ tiền, dĩ linh hành nhân, thỉ mạt kinh văn, câu khả tu quán cố” (là nhục kế, là măo trời, đều có thể theo lệ ấy [để quán]. Không chỉ riêng quán Bồ Tát là noi theo lệ quán Phật, mà cũng nên theo lệ ấy để quán [trong các môn] Phổ Quán, Tạp Quán, Ba Bậc Văng Sanh. Há có phải chỉ là áp dụng nguyên tắc trong phép Quán trước vào phép Quán sau, mà cũng phải nên áp dụng nguyên tắc trong phép Quán sau vào phép Quán trước, khiến cho hành nhân đối với kinh văn từ đầu đến cuối đều có thể quán [theo cùng một nguyên tắc]). [Ư nói]: Đối với mười sáu phép Quán, từ phép Quán thứ nhất là Nhật Quán cho đến phép quán cuối cùng là Tŕ Danh, đều phải vận dụng nguyên tắc này. Chúng ta hiểu đạo lư này, phải dùng tâm thái và nguyên tắc ấy để chấp tŕ danh hiệu, đích xác là chẳng giống kẻ b́nh phàm niệm câu A Di Đà Phật. Kẻ b́nh phàm niệm A Di Đà Phật miệng có, tâm không! Không có cái tâm ǵ? Chẳng phải là cái tâm vô tưởng niệm A Di Đà Phật. V́ tưởng niệm A Di Đà Phật là vọng tưởng, niệm A Di Đà Phật [luôn suy tưởng] “con rất yêu mến A Di Đà Phật, con rất mong được thấy A Di Đà Phật”. Đó là cái tâm cảm t́nh, là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Chân tâm là ǵ? Tâm này là Phật, tâm này làm Phật, đó là đúng, chẳng sai. V́ thế, đối với “miệng có, tâm không”, trước nay chúng ta chưa hiểu rơ ư nghĩa “miệng có, tâm không”, từ chỗ này chúng ta mới hiểu rơ ràng.

      Đây là chân tâm, cái “có thể hiện, có thể biến” đều là chân tâm. “Tâm này làm Phật” là chân tâm. Chẳng phải là chân tâm, sẽ chẳng hiển lộ cảnh giới, mà cũng chẳng thể sanh ra biến hóa. Có người nói: “Nhà Phật của các ông nói hết thảy các pháp chỉ do tâm biến, [vậy th́] tôi cầm vật này, ông hăy biến nó thành một món lễ vật cho tôi xem thử! Ông có biến được hay không? Biến chẳng được th́ tức là nói gạt người mất rồi!” Người ấy chẳng hiểu cái có thể biến chính là chân tâm, nay cái tâm mà chúng ta đang nói lại chính là vọng tâm, vọng tâm chẳng thể biến, chân tâm có thể biến. Ở đây nói “tâm này là Phật, tâm này làm Phật”, “là”“làm” đều nói về chân tâm. Người b́nh phàm hiểu lầm Phật pháp, chúng ta phải nên hiểu điều này. Sau khi đă hiểu, sẽ dần dần thong thả học tập, học sử dụng [những điều ấy] trong cuộc sống hằng ngày, dùng trong thấy, nghe, hay, biết, sẽ thọ dụng rất to lớn. Hiện tiền sẽ có thể đạt được tự tại giải thoát, xác thực là có thể giúp cho chúng ta đoạn phiền năo, thành Phật đạo.

      Phép Quán thứ mười một tiếp theo đây là quán Đại Thế Chí Bồ Tát.

 

      Thứ quán Đại Thế Chí Bồ Tát. Thử Bồ Tát thân lượng đại tiểu, diệc như Quán Thế Âm, viên quang diện các bách nhị thập ngũ do-tuần, chiếu nhị bách ngũ thập do-tuần, cử thân quang minh, chiếu thập phương quốc, tác tử kim sắc. Hữu duyên chúng sanh, giai tất đắc kiến, đản kiến thử Bồ Tát nhất mao không quang.

      薩。此 小。亦 音。圓 旬。照 旬。舉 明。照 國。作 色。有 生。皆 見。但 光。

 (Kế đó, quán Đại Thế Chí Bồ Tát. Vị Bồ Tát này thân lượng lớn nhỏ cũng như Quán Thế Âm. Viên quang mỗi phía rộng một trăm hai mươi lăm do-tuần, chiếu xa hai trăm năm mươi do-tuần. Quang minh nơi toàn thân Ngài chiếu mười phương cơi nước, có màu vàng tía. Chúng sanh hữu duyên thảy đều được thấy, chỉ thấy một ánh sáng nơi lỗ chân lông của vị Bồ Tát này…).

 

      Chữ Không () ở đây có nghĩa là từ lỗ chân lông tỏa ra ánh sáng.

 

      Tức kiến thập phương vô lượng chư Phật tịnh diệu quang minh. Thị cố hiệu thử Bồ Tát danh Vô Biên Quang, dĩ trí huệ quang, phổ chiếu nhất thiết, linh ly tam đồ, đắc vô thượng lực. Thị cố hiệu thử Bồ Tát vi Đại Thế Chí.

明。是 光。以 光。普 切。令 塗。得 力。是 至。

 (Liền thấy quang minh trong sạch, mầu nhiệm của mười phương vô lượng chư Phật. Do đó, vị Bồ Tát này được gọi là Vô Biên Quang. Dùng trí huệ quang chiếu khắp hết thảy, khiến họ được ĺa tam đồ, đắc vô thượng lực. Do vậy, vị Bồ Tát này có hiệu là Đại Thế Chí).

 

      Trong đoạn kinh văn này, trước hết giới thiệu Đại Thế Chí Bồ Tát và Quán Thế Âm Bồ Tát có h́nh trạng, vóc dáng, diện mạo đều giống hệt nhau. Ở đây cũng giới thiệu nguyên do của danh hiệu Bồ Tát, v́ sao Ngài được gọi là Đại Thế Chí? Ngài c̣n có một danh hiệu khác là Vô Biên Quang, ở đây, chúng ta đều thấy: V́ Ngài có thể khiến cho hết thảy chúng sanh hữu duyên xa ĺa tam đồ, đắc vô thượng lực, nên gọi là Đại Thế Chí. Danh hiệu Đại Thế Chí được kiến lập từ chỗ này.

      Chúng ta lại xem đoạn kinh văn tiếp theo trong trang hai trăm lẻ năm, [có khoa đề là] “dữ Quán Âm minh dị đồng” (nói rơ chỗ giống nhau và khác nhau so với ngài Quán Âm).

 

Thử Bồ Tát thiên quan hữu ngũ bách bảo hoa, nhất nhất bảo hoa, hữu ngũ bách bảo đài. Nhất nhất đài trung, thập phương chư Phật tịnh diệu quốc độ quảng trường chi tướng, giai ư trung hiện, đảnh thượng nhục kế như Bát Đầu Ma hoa.

冠。有 華。一 華。有 臺。一 中。十 相。皆 現。頂 髻。如 華。

(Măo trời của vị Bồ Tát này có năm trăm hoa báu. Mỗi một hoa báu có năm trăm bảo đài. Trong mỗi đài, tướng các cơi nước tịnh diệu rộng lớn của mười phương chư Phật đều hiện trong ấy. Nhục kế trên đỉnh đầu Ngài như hoa sen đỏ).

 

      “Bát Đầu Ma” (Padma) là hoa sen đỏ.

 

      Ư nhục kế thượng hữu nhất bảo b́nh.

      瓶。

      (Trên nhục kế có một b́nh báu).

      Đây là chỗ khác với Quán Âm Bồ Tát.

 

      Thịnh chư quang minh.

      明。

      (Chứa các quang minh).

 

      Trong b́nh báu ấy đựng ǵ? Chứa quang minh.

 

      Phổ hiện Phật sự. Dư chư thân tướng, như Quán Thế Âm đẳng vô hữu dị.

      事。餘 相。如 異。

      (Hiện khắp các Phật sự. Những thân tướng khác giống hệt như Quán Thế Âm, chẳng khác).

 

      Chỗ chẳng giống Quán Âm Bồ Tát là măo khác nhau.

 

      Thử Bồ Tát hành thời, thập phương thế giới nhất thiết chấn động. Đương địa động xứ, hữu ngũ bách ức bảo hoa, nhất nhất bảo hoa, trang nghiêm cao hiển như Cực Lạc thế giới

時。十 界。一 動。當 處。有 華。一 華。莊 界。

(Lúc Bồ Tát này đi, mười phương thế giới hết thảy chấn động. Chỗ đất chấn động có năm trăm ức hoa báu. Mỗi một hoa báu trang nghiêm, cao rạng như thế giới Cực Lạc).

 

      Đây là cảnh giới hiện ra khi Bồ Tát đi.

 

      Thử Bồ Tát tọa thời, thất bảo quốc độ nhất thời động dao, tùng hạ phương Kim Quang Phật sát, năi chí thượng phương Quang Minh Vương Phật sát. Ư kỳ trung gian, vô lượng trần số phân thân Vô Lượng Thọ Phật, phân thân Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, giai tất vân tập Cực Lạc quốc độ, tắc tái không trung, tọa liên hoa ṭa, diễn thuyết diệu pháp, độ khổ chúng sanh.

時。七 土。一 搖。從 剎。乃 剎。於 間。無 佛。分 至。皆 土。畟 中。坐 座。演 法。度 生。

(Khi vị Bồ Tát này ngồi, cơi nước bảy báu đồng thời rung chuyển. Từ cơi Kim Quang Phật ở phương dưới cho đến cơi Quang Minh Vương Phật ở phương trên, trong khoảng đó, vô lượng phân thân của Vô Lượng Thọ Phật, phân thân của Quán Thế Âm, Đại Thế Chí số nhiều như vi trần đều cùng vân tập đầy dẫy trong hư không của cơi Cực Lạc, [tất cả các phân thân] đều ngồi trên ṭa hoa sen, diễn nói diệu pháp, độ chúng sanh đang khổ sở).

 

      Đoạn này nói Bồ Tát đi và ngồi đều thực hiện sự trang nghiêm lợi ích chúng sanh.

 

      Tác thử quán giả, danh vi quán kiến Đại Thế Chí Bồ Tát, thị vi quán Đại Thế Chí sắc thân tướng. Quán thử Bồ Tát giả, danh đệ thập nhất quán.

      者。名 薩。是 相。觀 者。名 觀。

(Hành phép Quán này th́ gọi là quán thấy Đại Thế Chí Bồ Tát, tức là quán tướng sắc thân của ngài Đại Thế Chí. Quán vị Bồ Tát này th́ gọi là phép Quán thứ mười một).

 

      Đoạn kinh văn này giới thiệu Đại Thế Chí Bồ Tát trong Tây Phương Tam Thánh. Kinh nói Bồ Tát đi và ngồi, tức là nói tới hai thứ trong bốn oai nghi. Nói hai thứ th́ hai thứ khác cũng đều được bao gồm trong ấy, phải biết điều này. Đi, đứng, ngồi, nằm toàn là Phật sự, toàn là chấn động hết thảy. Đại Thế Chí Bồ Tát đi, đứng, ngồi, nằm, hết thảy chấn động, Quán Thế Âm Bồ Tát có [giống như vậy] hay không? Đương nhiên là có. Chớ nên bảo là trong phần kinh văn nói về Quán Âm Bồ Tát chẳng hề đề cập th́ có lẽ Quán Âm Bồ Tát [đi, đứng, nằm, ngồi] chẳng có chuyện ấy! Đức Phật nói kinh, hễ có những ǵ trong phần kinh văn giảng về Quán Âm Bồ Tát [đă nói] Quán Âm Bồ Tát đă có th́ Đại Thế Chí Bồ Tát đều có. Đă nói Đại Thế Chí Bồ Tát có [những tướng trạng ǵ], Quán Thế Âm Bồ Tát cũng đều có, chẳng khác ǵ nhau!

      Đối với sự chấn động, nói “hết thảy chấn động” th́ chẳng phải là như chúng ta nói đến nạn động đất trong hiện thời, động đất th́ nguy hiểm quá! [Nếu hiểu kiểu đó], hễ Bồ Tát đến bèn mang lại đại tai nạn cho chúng ta ư? Hiểu lầm mất rồi! Đức Phật nói “đại địa chấn động” là nói về tâm địa, tức tâm địa của hết thảy chúng sanh. Thấy quang minh của đức Phật, nghe đức Phật thuyết pháp, tâm địa chấn động, giác ngộ! Trước kia, tâm này mê hoặc, điên đảo, nay bị chấn động, tâm liền khai giải, tâm khai ư giải, mang ư nghĩa này. V́ thế, chớ nên hiểu lầm ư! Hễ hiểu lầm ư, chúng ta đều chẳng hoan nghênh Phật, Bồ Tát đến, [v́] lúc các Ngài đến, tai nạn quá lớn. Ở đây là nói tâm địa chấn động, tâm khai ư giải. Do đó, “động” ở đây có nghĩa là “tuôn trào”, tuôn trào là ǵ? Trí huệ luôn tuôn trào, giác tánh thường tuôn trào, biểu thị ư nghĩa này. Hết thảy chư Phật, Bồ Tát đều có thể giúp chúng sanh phá mê khai ngộ, ĺa khổ được vui, đấy là nói tổng quát.

      Đoạn kinh văn tiếp theo nói về công đức diệt tội nơi hàng thứ ba trong trang hai trăm lẻ bảy.

 

      Trừ vô số kiếp A-tăng-kỳ sanh tử chi tội. Tác thị quán giả, bất xử bào thai, thường du chư Phật tịnh diệu quốc độ. Thử quán thành dĩ, danh vi cụ túc quán Quán Thế Âm, Đại Thế Chí.

罪。作 者。不 胎。常 土。此 已。名 至。

(Trừ tội trong vô số kiếp A-tăng-kỳ sanh tử. Quán phép này, chẳng ở trong bào thai, thường dạo trong các cơi nước thanh tịnh mầu nhiệm của chư Phật. Phép Quán này thành tựu th́ gọi là quán trọn đủ Quán Thế Âm và Đại Thế Chí).

 

      Trong chú giải, nói tổng quát th́ chỉ có trong măo của hai vị Bồ Tát này [là khác biệt], một vị là hóa Phật, vị kia là b́nh báu. “Nhị chủng hữu dị, dư tướng giai đồng” (hai thứ có khác biệt, những tướng khác đều giống nhau). Những tướng khác hoàn toàn đều giống nhau, chỉ có trên măo là có sai khác đôi chút. Tướng mạo giống nhau, oai nghi cũng giống nhau, đương nhiên công đức lợi sanh vẫn giống nhau. Do đó, bất luận nói về điểm nào, hai vị Bồ Tát thảy đều giống nhau.

Tiếp theo là phép Quán thứ mười hai: “Phổ văng sanh quán”. Trong phần này có hai đoạn. Đoạn thứ nhất là “tác tự thân văng tưởng” (tưởng thân ḿnh văng sanh). Người tu Tịnh Tông tuy chẳng tu phép Quán này, nhưng tŕ danh niệm Phật th́ tốt nhất cũng nên thường hành phép Quán [chính ḿnh] văng sanh, rất hữu ích đối với việc văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới trong tương lai của chúng ta.

 

      Kiến thử sự thời, đương khởi tự tâm sanh ư Tây Phương Cực Lạc thế giới, ư liên hoa trung, kết già phu tọa. Tác liên hoa hợp tưởng, tác liên hoa khai tưởng. Liên hoa khai thời, hữu ngũ bách sắc quang lai chiếu thân tưởng. Nhăn mục khai tưởng, kiến Phật, Bồ Tát măn hư không trung. Thủy, điểu, thụ lâm, cập dữ chư Phật sở xuất âm thanh, giai diễn diệu pháp, dữ thập nhị bộ kinh hợp. Nhược xuất Định chi thời, ức tŕ bất thất. Kiến thử sự dĩ, danh kiến Vô Lượng Thọ Phật Cực Lạc thế giới. Thị vi phổ quán tưởng, danh đệ thập nhị quán.

時。當 西 界。於 中。結 坐。作 想。作 想。蓮 時。有 想。眼 想。見 滿 中。水 林。及 聲。皆 法。與 合。若 時。憶 失。見 已。名 界。是 想。名 觀。

(Khi thấy sự ấy, hăy nên tự khởi tâm sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, ngồi xếp bằng trong hoa sen. Tưởng hoa sen khép lại, tưởng hoa sen nở ra. Tưởng khi hoa sen nở, có năm trăm ánh sáng có màu chiếu đến thân. Tưởng khi mở mắt, thấy Phật, Bồ Tát đầy khắp hư không. Âm thanh của nước, chim, rừng cây và tiếng Phật nói đều diễn diệu pháp, phù hợp với mười hai bộ kinh. Như khi xuất Định, nhớ giữ chẳng quên. Đă thấy sự ấy th́ gọi là thấy thế giới Cực Lạc của Vô Lượng Thọ. Đó là phổ quán tưởng, được gọi là phép Quán thứ mười hai).

 

      Phần sau c̣n có một đoạn, [chúng ta] hăy đọc tiếp nơi trang hai trăm lẻ chín, hàng thứ hai.

 

       Vô Lượng Thọ Phật hóa thân vô số, dữ Quán Thế Âm, cập Đại Thế Chí, đương lai chí thử hành nhân chi sở.

      數。與 至。當 所。

      (Vô Lượng Thọ Phật hóa thân vô số, cùng với Quán Thế Âm, Đại Thế Chí sẽ đến chỗ hành nhân ấy).

 

      Đoạn này nhằm dạy chúng ta hăy thường ức tưởng chính ḿnh văng sanh. Quán tưởng chẳng dễ dàng. Hơn nữa, hiện thời chúng ta phiền năo rất nặng, vọng niệm quá nhiều, nên vận dụng Quán Tưởng Niệm Phật quả thật chẳng dễ ǵ thành tựu. V́ lẽ đó, chúng ta chuyên chọn Tŕ Danh làm phương pháp tu hành, lấy Tŕ Danh làm chủ, và cũng có thể dùng quán tưởng để phụ trợ, điều này rất hữu ích. Dùng quán tưởng để phụ trợ th́ chúng ta có thể tưởng bao nhiêu bèn tưởng bấy nhiêu, rất thuận tiện! Đặc biệt là ban đêm trước khi ngủ, trong khi chúng ta nằm trên giường, hăy tưởng đang văng sanh, tưởng đức Phật đến tiếp dẫn chúng ta. Thường quán tưởng như vậy, sẽ có lợi ích to nhất, lúc lâm chung chẳng sợ hăi. Người b́nh phàm, nói thật ra, hết thảy chúng sanh đều là như vậy, có thể nói là lục đạo chúng sanh không ai chẳng như vậy, tham sống sợ chết! Khi thật sự sắp chết, nỗi sợ hăi hiện hữu, thật sự có thể giữ cho tâm chẳng điên đảo, xa ĺa hoảng sợ, cần phải có định lực rất sâu. Khi lâm chung, người thật sự chẳng điên đảo, chẳng sợ hăi, dẫu chẳng phải là người niệm Phật, cũng chắc chắn chẳng đọa trong ba ác đạo. Vào trong ba ác đạo là như thế nào? Do hoảng loạn nên mới vào, há có người nào đầu óc sáng suốt lại đọa trong ba ác đạo? Chẳng thể nào! Chỉ có trong lúc hoảng loạn th́ mới như thế, chẳng thấy rơ ràng hết thảy cảnh giới, bèn thuận theo nghiệp lực lôi dắt vào đó. Thần trí sáng suốt, chẳng hề hoang mang, thấy rất rơ cảnh giới, người ấy sẽ có thể chọn lựa, tất nhiên sẽ chọn lựa phước báo nhân thiên. Nếu là người niệm Phật, vào lúc khẩn yếu ấy, chắc chắn là người ấy chọn lựa Tây Phương Tịnh Độ. Chỉ có một niệm tương ứng ấy, Phật liền đến đón tiếp, [văng sanh Tây Phương với] tốc độ vô cùng nhanh chóng. Quư vị một niệm tương ứng, ngay lập tức Phật, Bồ Tát đến tiếp dẫn quư vị. V́ thế, loại quán tưởng này, tức là quán tưởng thường văng sanh có lợi ích vô cùng to lớn.

      Mấy câu cuối trong đoạn kinh văn này nói rất hay. Trong khi chúng ta quán tưởng, vẫn c̣n chưa mạng chung, A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí đều hiện tiền, đúng là “nhập ngă tưởng trung” (vào trong tâm tưởng của ta), cũng chính là như kinh văn trong phần trước đă nói: “Nhập chúng sanh tâm tưởng trung” (vào trong tâm tưởng của chúng sanh). Trong tâm tưởng Phật, tâm liền làm Phật. Tưởng Bồ Tát, tâm liền làm Bồ Tát. Cuối phần chú giải có nói: “Tư năi tam quán nhất tâm, tác thị song vận, trí linh tâm Phật, bỉ thử văng lai, cố tri quán thể, thành bất khả tư nghị” (Đây chính là Tam Quán Nhất Tâm, cùng vận dụng “tâm này làm Phật” và “tâm này là Phật”, khiến cho tâm và Phật dung nhập lẫn nhau. Do vậy, biết Thể của Quán đúng là chẳng thể nghĩ bàn). Quư vị thường thường có thể quán tưởng như thế, sẽ cảm ứng đạo giao với Phật, Bồ Tát, điều này thuộc về Sự, c̣n “tâm làm, tâm là” thuộc về Lư. Lư và Sự tương ứng, Lư và Sự chẳng hai, niệm Phật, ức Phật như vậy, công đức lại chẳng thể nghĩ bàn. Do vậy có thể biết, nếu chúng ta chẳng đọc kinh luận này, không hiểu rơ, tuy nói pháp này là “đạo dễ hành”, nhưng chúng ta cũng thường hiểu lầm pháp này. Đấy chính là duyên cớ khiến cho người niệm Phật đông đảo, người văng sanh ít ỏi. Đấy cũng là như cổ nhân đă nói: “Sanh về Tây Phương, phẩm vị cao hay thấp do mỗi người gặp duyên khác nhau”, đều nhằm chứng minh cho chúng ta. Chúng ta gặp duyên rất thù thắng, thù thắng ở chỗ nào? Hiểu rơ Lư, hiểu rơ phương pháp, cảnh giới đều biết, biết dụng tâm, biết dụng công, tức là duyên thù thắng, văng sanh Tây Phương phẩm vị sẽ cao!

      Phẩm vị cao hay thấp, nói thật ra là do gặp duyên khác nhau. Dường như Thiện Đạo đại sư nói câu này, Ngài nói trong Tứ Thiếp Sớ, gặp duyên khác nhau. Đích xác là đối với người niệm Phật chúng ta mà nói, câu nói này của Thiện Đạo đại sư đă tạo tín tâm rất lớn cho chúng ta. Bởi lẽ, nếu chẳng nghe lời trên đây, sẽ luôn cảm thấy chính ḿnh nghiệp chướng rất nặng, ta có thể văng sanh hay không, tự ḿnh chẳng nắm chắc. Nếu như văng sanh, hạ hạ phẩm là đă là rất may mắn, rất thỏa măn, chẳng dám mơ tưởng cao hơn! Cũng chẳng biết chính ḿnh có thật sự nắm chắc hay không! Nghe những lời này của tổ sư, tâm mới định, biết là không chỉ nắm chắc văng sanh, mà c̣n nắm chắc cầu đạt được thượng thượng phẩm văng sanh. V́ điều này chẳng liên quan đến thiện căn và phước đức trong đời quá khứ cho mấy, mà liên quan rất lớn với chuyện gặp duyên trong đời này. Lại thưa cùng chư vị rơ ràng hơn một chút, v́ sao nói là chẳng liên quan đến thiện căn và phước đức trong đời quá khứ cho mấy? Quư vị đă trọn đủ thiện căn và phước đức trong đời quá khứ. Nếu quư vị chẳng trọn đủ thiện căn và phước đức, chẳng phải là nhiều thiện căn, lắm phước đức, làm sao quư vị có thể tin tưởng cho được? Làm sao quư vị có cơ hội gặp gỡ [pháp môn này] cho được? [Nếu không trọn đủ], sẽ chẳng gặp pháp môn này! Quư vị có thể gặp gỡ, sau khi gặp gỡ, có thể tin tưởng, có thể phát nguyện, cho thấy thiện căn và phước đức của quư vị chẳng có vấn đề, đă trọn đủ! Vấn đề hiện thời là vấn đề duyên. Duyên này khiến cho phẩm vị văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sai khác. Quư vị là thượng thượng phẩm, hay là thượng trung phẩm, hoặc thuộc vào ba phẩm hạ, là do vấn đề gặp duyên.

      Bản thân chúng ta phải hiểu rơ chuyện này, nhất định phải phát nguyện làm Tăng Thượng Duyên cho hết thảy chúng sanh. Chúng ta gặp nhân duyên hết sức thù thắng, bản thân chúng ta có thể đạt tới phẩm vị cao, nhưng vẫn c̣n có những người niệm Phật chẳng biết. Nếu chúng ta có duyên gặp họ, quư vị có thể giảng giải cho họ nghe, khiến cho họ cũng có thể tăng cao phẩm vị, tự hành, hóa độ người khác. Ngàn muôn phần đừng ôm ấp tâm niệm: “Ta gặp duyên tốt đẹp, ta thượng thượng phẩm văng sanh, cũng chớ nên nói với người khác để phẩm vị văng sanh của những người khác đều thấp hơn ta”. Hễ có ư niệm ấy th́ ư niệm ấy chính là tiếc pháp, tâm keo kiệt đă nổi lên. Keo kiệt là phiền năo lớn nhất, thuộc về tham phiền năo. Tham, sân, si phiền năo sanh khởi, sẽ chướng ngại quư vị văng sanh. Không chỉ phẩm vị chẳng thể tăng cao, mà c̣n bị chướng ngại, quư vị chưa chắc văng sanh được! Trừ phi chẳng có duyên, hễ có duyên bèn khuyên người khác, hễ có duyên bèn giảng giải cho người ta!

      Giảng giải cho người khác, có phải là sẽ khiến cho sự tu hành của chính ḿnh bị lỡ làng hay chăng? Chẳng hề lỡ làng! Quư vị giảng giải cho người khác, nhưng chính ḿnh vẫn nhớ Phật, niệm Phật, không nhất định phải là “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật” th́ mới là niệm Phật. Ta khuyên người khác niệm Phật, cũng là đang niệm Phật, tâm ta chẳng ĺa A Di Đà Phật. Do đó, niệm Phật không nhất định là miệng niệm. Tâm niệm, ức niệm th́ thân cũng đang niệm, ba nghiệp thân, miệng, ư đều đang niệm Phật. Không chỉ riêng là miệng niệm, tự hành là niệm Phật, mà giúp đỡ người khác cũng là niệm Phật. Một ḿnh ta niệm câu A Di Đà Phật, mọi người đều niệm A Di Đà Phật, mọi người niệm A Di Đà Phật chính là ta đang niệm A Di Đà Phật, nhất định phải hiểu đạo lư này. Trong kinh Đại Thừa đă đôi ba lượt dạy: Một chính là hết thảy, hết thảy chính là một, ngàn muôn phần phải thấu hiểu ư nghĩa này. Phương pháp tu hành của chúng ta mới có thể giống như quang minh, từng tia sáng soi tỏ lẫn nhau th́ quang minh mới hiển thị sự rộng lớn khôn sánh.

      À! Chúng ta tan học, nghỉ ngơi mấy phút.

 

Tập 26

 

Phần trước là một đoạn lớn, từ phép Quán thứ nhất đến phép Quán thứ mười hai thuộc loại Quán Tưởng Niệm Phật. Từ phép Quán thứ mười ba thuộc về Quán Tượng Niệm Phật, phương pháp này khác với các phương pháp trước. Chúng ta xem đoạn tiếp theo, [hăy xem từ] hàng thứ ba đếm từ dưới lên trong trang hai trăm lẻ chín.

 

Phật cáo A Nan cập Vi Đề Hy: - Nhược dục chí tâm sanh Tây Phương giả, tiên đương quán ư nhất trượng lục tượng, tại tŕ thủy thượng.

希。若 西 者。先 像。在 上。

(Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: - Nếu muốn chí tâm sanh về Tây Phương, trước hết hăy nên quán tượng cao một trượng sáu ở trên mặt nước trong ao).

 

      Khoa đề của phần này là “tạp minh Phật, Bồ Tát quán, sơ quán trượng lục tượng” (nói về pháp quán xen lẫn Phật và Bồ Tát, trước hết là quán tượng cao một trượng sáu). Trong phần trước đă nói thân tướng của Phật và Bồ Tát đều vô cùng cao lớn, thật sự rất khó tưởng tượng; nhưng Quán Tượng Niệm Phật cũng phải rất có phước báo th́ mới được. Nếu chẳng có phước báo, rất khó tu hành! Nếu phước báo rất lớn, chính ḿnh cũng chẳng phải làm chuyện ǵ, cuộc sống có người chăm sóc, trong nhà có Phật đường, trong Phật đường khắc h́nh tượng Phật, Bồ Tát cao một trượng sáu thước. Hiện thời, tại Đại Lục, có rất nhiều tượng Phật cao một trượng sáu thước, rất cao, rất lớn. Tượng Phật thờ trong nhà, mỗi ngày nh́n ngắm, quán tượng; nhưng nếu rời khỏi Phật đường, cái nhân tu tập ấy bị đoạn mất, nên phải thường ở trong Phật đường quán tượng. V́ lẽ đó, chính ḿnh chỉ đành chẳng đi làm th́ mới có thể tu được. Do đó, điều này cho thấy [phải có] phước báo rất lớn [th́ mới tu Quán Tượng Niệm Phật thành công]. Hiện thời, [cách tu này] không chỉ là rất khó đối với kẻ tại gia, mà đối với người xuất gia cũng rất khó! Phải buông hết thảy xuống, mỗi ngày quán tượng trong Niệm Phật Đường, rất khó! Đó là [nói về cách tu quán tưởng] kim thân cao một trượng sáu.

      Chúng ta đọc lời chú giải: “Hành giả ư tiền y chánh chư quán, tuy dĩ tinh tu, thượng vị đắc nhập” (hành giả nương theo các phép Quán về chánh báo và y báo như trên đây, tuy đă tu chuyên ṛng, vẫn chưa chứng nhập). Ư nói tuy tu Quán đúng như các phương pháp trên đây, nhưng chẳng thể quán thành tựu. Chẳng thể thành tựu, bèn chẳng thể đắc lực. “Kỳ cầu sanh chi tâm, di gia đôn đốc, danh vi chí tâm” (cái tâm cầu được văng sanh ấy càng được thêm đôn đốc, nên gọi là chí tâm), nhưng cái tâm cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới hết sức ân cần, tha thiết. Quán chẳng thành, nhưng chúng ta rất mong mỏi được sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, làm như thế nào đây? Bất đắc dĩ, đức Phật lại dạy chúng ta một phương pháp: Chẳng thể quán Thắng Ứng Thân thành tựu, bèn quán Liệt Ứng Thân, tức là thân trượng sáu. “Cố linh thử nhân xả thắng, quán liệt” (nên dạy người ấy thôi quán Ứng Thân, mà quán Liệt Thân). Mười hai phép Quán trên đây đều vô cùng thù thắng, nhưng quán chẳng thành công, chúng ta bỏ đi, quán tượng Liệt Ứng Thân. “Vị quán nhị thị tiền, tưởng Di Đà, cố vân tiên đương quán trượng lục dă” (trước khi quán hai vị thị giả, bèn tưởng Di Đà, nên nói là trước hết quán tượng cao một trượng sáu). Đây là thân cao một trượng sáu thước, chúng ta sẽ dễ quán hơn nhiều. “Hành nhân dục thác bỉ độ liên tŕ, cố linh quán tượng tại tŕ thủy thượng” (Hành nhân muốn thác sanh trong ao sen nơi cơi ấy, nên dạy họ quán tượng ở trên mặt nước trong ao). Tuy chúng ta thờ phụng h́nh tượng Phật, phải tưởng tượng Phật ấy đứng trên hoa sen báu trong ao bảy báu. Do đó, trong quán tượng c̣n bao gồm quán tưởng, nhưng quán tượng là chủ, dễ tu thành công hơn! “Ưng tri thắng thân, kư tâm tác, tâm thị, khởi kim trượng lục, phi tác thị da? Viên nhân tác vi, giai liễu duy tâm” (Hăy nên biết thân thù thắng đă là “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, há nay tượng cao trượng sáu chẳng phải là “tâm này làm Phật, tâm này là Phật” ư? Người viên đốn làm ǵ cũng đều thấu hiểu duy tâm). Do vậy, có thể biết, bất luận là quán Thắng Ứng Thân hay quán Liệt Ứng Thân, đều chẳng thể bỏ nguyên tắc “tâm này làm, tâm này là”. Đối với những chữ tiếp đó, tôi không nói tới, v́ đă bao hàm hết thảy vạn pháp, tâm này làm Phật, tâm này là Phật, [tương tự, ta cũng có thể nói] tâm này làm Bồ Tát, tâm này là Bồ Tát. “Tâm làm, tâm là” bao quát hết thảy muôn pháp thế gian và xuất thế gian, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều chẳng ĺa khỏi nguyên tắc này. Lại xem kinh văn.

 

      Như tiên sở thuyết Vô Lượng Thọ Phật thân lượng vô biên, phi thị phàm phu tâm lực sở cập.

邊。非 及。

(Như trong phần trước đă nói Vô Lượng Thọ Phật thân lượng vô biên, tâm lực phàm phu chẳng thể quán tưởng nổi).

 

      Đối với những điều đă nói trong phần trước, đức Phật biết rất rơ ràng, nhất là phàm phu trong đời mạt chắc chắn chẳng thể quán thành công! Đừng nói là quán thân tướng Phật, ngay cả quán mặt trời hay quán nước, chúng ta đều chẳng có cách nào thành tựu.

 

      Nhiên bỉ Như Lai túc nguyện lực cố, hữu ức tưởng giả, tất đắc thành tựu.

宿 故。有 者。必 就。

(Nhưng do túc nghiệp lực của đức Như Lai ấy, hễ có ai ức tưởng, ắt được thành tựu).

 

      Nói thật ra, pháp môn Niệm Phật hoàn toàn cậy vào thần lực Tam Bảo gia tŕ, đặc biệt là A Di Đà Phật nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn, nhất định gia tŕ chúng ta. Tâm nguyện của chúng ta càng thanh tịnh, càng khẩn thiết, sức mạnh gia tŕ của Phật lực càng rơ rệt. Các đồng tu phải hiểu, đây là một sanh lộ, là hy vọng duy nhất của chúng ta. Lục đạo là tử lộ, nhất định phải buông xuống chuyện trong lục đạo. Những chuyện ǵ trong lục đạo? Các thứ kiến giải, các nỗi vọng tưởng, các thứ phân biệt, chấp trước, tham, sân, si, mạn, tất cả đều là chuyện thuộc về lục đạo, phải vứt bỏ. Chẳng vứt bỏ, quư vị đang tu ǵ thế? Tu lục đạo! Người học Phật, nói thật ra, bề ngoài là đang học Phật, nhưng thật ra là đang tu lục đạo rất nhiều! Cớ sao rất nhiều? Trong Phật môn mà ganh tỵ, chướng ngại, thị phi, nhân ngă, miệng niệm Phật nhưng trong tâm vẫn muốn làm những chuyện đó! Đấy là ǵ? Tu lục đạo luân hồi, tu ba ác đạo trong Phật môn! Chúng ta thấy người khác có những điều ấy, đừng quan tâm đến, chính ḿnh quyết định chớ nên khởi ư niệm ấy!

      Sáng hôm nay có mấy đồng tu nói đến chuyện hằng thuận chúng sanh và tùy hỷ công đức. Khóa sáng và khóa tối mỗi ngày đều niệm mười nguyện Phổ Hiền: “Nhất giả lễ kính chư Phật, nhị giả xưng tán Như Lai”, niệm hằng ngày. Thuận là ǵ? Hằng thuận chúng sanh. Chúng sanh: Phàm những tướng do các duyên ḥa hợp mà sanh ra th́ đều gọi là “chúng sanh”. Hết thảy mọi người là chúng sanh, hết thảy sự vật cũng là chúng sanh, bàn ghế cũng đều là chúng sanh. Chẳng có ǵ không phải là chúng sanh, v́ đều do các duyên ḥa hợp mà sanh. Tùy thuận như thế nào? Đối với hết thảy chúng sanh, nói cách khác, đối với hết thảy hoàn cảnh nhân sự hay hết thảy hoàn cảnh vật chất, bất luận là người thiện, kẻ ác, người tốt, kẻ xấu, cảnh giới là thuận cảnh hay nghịch cảnh, chúng ta đều chẳng khởi tâm, mà cũng chẳng động niệm, đó là “hằng thuận”. Hễ khởi tâm động niệm th́ c̣n thuận theo ǵ nữa? Hằng thuận tự tánh của hết thảy chúng sanh. Lục Tổ đă nói về tự tánh rất hay: “Vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần”, trong “vốn chẳng có một vật”, hằng thuận tự tánh. Hằng thuận tự tánh của hết thảy chúng sanh, hằng thuận vật tánh. Không khởi tâm, chẳng động niệm là thuận; khởi tâm động niệm sẽ không thuận, phải biết điều này!

      Tùy hỷ là giúp người khác thành tựu những điều tốt đẹp. Thấy chuyện của người ta có lợi ích cho chúng sanh, lợi ích xă hội, chúng ta sẽ tận tâm tận lực giúp đỡ, thành toàn người ấy. Thành toàn như thế nào th́ là tùy hỷ? Thành toàn mà chẳng kể công sẽ là tùy hỷ. Không cần danh, chẳng cần lợi, chẳng cần công đức, tận tâm tận lực giúp đỡ họ, đó gọi là tùy hỷ. Nếu trong ấy có xen lẫn danh lợi, lại muốn tranh giành những điều tốt đẹp, đó chẳng phải là tùy hỷ. Tùy hỷ hoàn toàn là nghĩa vụ, trọn hết nghĩa vụ, chẳng cầu quyền lợi, đó mới là tùy hỷ. Do đó, cương mục tu học của Bồ Tát thật sự được bao gồm trong ư nghĩa của khoa mục [tùy hỷ] này. Nếu chúng ta chẳng hiểu rơ ràng, sẽ thường là tu hành hoàn toàn sai lầm. Chúng ta xem đoạn cuối cùng.

 

       Đản tưởng Phật tượng, đắc vô lượng phước. Huống phục quán Phật cụ túc thân tướng.

      像。得 福。況 相。

      (Chỉ tưởng tượng Phật c̣n được phước vô lượng, huống lại quán trọn đủ thân tướng của Phật).

 

Tượng Phật đắp hay h́nh Phật in màu đều như nhau; nhưng có những tượng Phật, đặc biệt là giống như tượng chúng ta đang in hiện thời, tượng đúc cũng thế, tượng vẽ rất nhỏ, tượng Phật nhỏ mang theo thân rất thuận tiện. Nhưng chúng ta đối trước tượng Phật quán tưởng th́ phải tưởng bức tượng Phật ấy rất lớn, giống như người thật, cao một trượng sáu thước, tưởng ở trước tượng Phật, chúng ta rất nhỏ, phải tưởng theo cách như vậy. Đừng tưởng chúng ta rất lớn, tượng Phật nhỏ xíu, quán tưởng kiểu ấy th́ đă sai lầm mất rồi. Do đó, tượng nhỏ một chút chẳng sao cả, nói chung là khi tưởng, [phải tưởng] chúng ta đối trước tượng Phật chỉ bằng một nửa tượng Phật, chỉ cao lớn bằng một nửa tượng Phật, Phật to gấp bội chúng ta, phải thường quán tưởng như thế. Lễ bái chư Phật cũng phải tưởng theo cách giống như vậy, như vậy th́ mới rất đúng pháp.

      Lại xem tiếp đoạn văn tiếp theo, xem ḍng in theo lối đảnh cách trong trang hai trăm mười một.

 

      A Di Đà Phật thần thông như ư, ư thập phương quốc, biến hiện tự tại, hoặc hiện đại thân măn hư không trung, hoặc hiện tiểu thân, trượng lục bát xích.

意。於 國。變 在。或 身。滿 中。或 身。丈 尺。  

(A Di Đà Phật thần thông như ư, trong các cơi nước mười phương, biến hiện tự tại. Hoặc hiện thân to lớn đầy ắp hư không, hoặc hiện thân nhỏ, cao một trượng sáu, hoặc cao tám thước).

 

      Hiện thân trượng sáu, hoặc hiện thân cao tám thước. Hiện thân cao tám thước tức là hoàn toàn giống như người b́nh thường.

 

       Sở hiện chi h́nh, giai chân kim sắc. Viên quang hóa Phật, cập bảo liên hoa như thượng sở thuyết.

      形。皆 色。圓 佛。及 華。如 說。

      (Thân h́nh hóa hiện đều là sắc vàng ṛng. Trong viên quang hóa Phật và hoa sen báu như trên đă nói).

 

      Khoa đề của đoạn này là “phất khử chúng nghi” (trừ khử các nỗi nghi), trong chú giải có [giảng giải đoạn này]. V́ chúng ta thấy tượng Phật, có tượng Phật lớn, có tượng Phật nhỏ, rốt cuộc chúng ta quán tượng to tốt hơn, hay quán tượng nhỏ tốt hơn? Thưa cùng quư vị lớn hay nhỏ đều như nhau. Biết tướng thị hiện của đức Phật là “thuận theo tâm chúng sanh mà ứng với khả năng tiếp nhận của họ”. Đức Phật hiện thân tướng có thể lớn, có thể nhỏ; nhưng lớn cũng là pháp giới, nhỏ cũng là pháp giới, chỉ cần tâm chúng ta dùng cái tâm chí thành, cung kính để quán tưởng, sẽ là chánh xác, lợi ích đạt được chắc chắn là như nhau.

      Lại xem trang hai trăm mười hai, hăy xem kinh văn.

 

      Quán Thế Âm Bồ Tát, cập Đại Thế Chí, ư nhất thiết xứ, thân đồng chúng sanh.

      薩。及 至。於 處。身 生。

      (Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí trong hết thảy mọi nơi, thân giống như chúng sanh).

 

      Bồ Tát v́ thị hiện thân phận là bạn học của chúng sanh, giống như kinh Vô Lượng Thọ đă nói: “Vị chư thứ loại, tác bất thỉnh chi hữu” (v́ muôn loài mà làm bạn chẳng thỉnh). Do đó, các Ngài nhất định phải hiện thân đồng loại với chúng sanh, thân tướng giống như chúng sanh.

 

      Đản quán thủ tướng.

      相。

(Chỉ quán tướng đầu).

 

      [Trong bản in, câu này được in thành] chữ Thủ () có thể là sai, trong phần chú giải đă nói rất rơ ràng: Thủ là đầu, tức chữ Thủ trong Đầu Thủ (頭首), chẳng phải là Thủ trong Thủ Túc (手足: chân tay). V́ nh́n vào h́nh dáng của đầu, chúng ta có thể nhận biết vị nào là Quán Âm, vị nào là Đại Thế Chí, có thể thấy rơ ràng.

 

      Tri thị Quán Thế Âm, tri thị Đại Thế Chí.

      音。知 至。

      (Biết là Quán Thế Âm, biết là Đại Thế Chí).

 

      Nh́n vào tay sẽ chẳng nh́n ra. Tay của Đại Thế Chí Bồ Tát và tay của Quán Âm Bồ Tát như nhau, nhưng đầu th́ khác nhau.

 

      Thử nhị Bồ Tát, trợ A Di Đà Phật, phổ hóa nhất thiết, thị vi tạp tưởng quán, danh đệ thập tam quán.

      薩。助 佛。普 切。是 觀。名 觀。

      (Hai vị Bồ Tát này giúp A Di Đà Phật giáo hóa trọn khắp hết thảy. Đó là tạp tưởng quán, được gọi là pháp Quán thứ mười ba).

 

      Phần chú giải đă giảng rất hay: “Quán Âm quan trung lập Phật, Thế Chí kế thượng bảo b́nh, dĩ thử vi biệt. Nhược thủ tác thủ, bất thị dịch nhân thất ư, hoặc thị sao lục chi ngộ” (Trong măo của đức Quán Âm có hóa Phật đứng, trên nhục kế của ngài Thế Chí có b́nh báu, dùng điều này để phân biệt. Nếu Thủ () [mà chép] là Thủ (), chẳng phải là người dịch dịch sai, mà có lẽ là do sao lục bị lầm lẫn). Đối với kinh văn, chắc chắn chẳng thể nói là người phiên dịch dịch sai, chẳng thể nào, có thể là do người sao chép phạm sai lầm. Sau khi đă sao chép sai, người đời sau chẳng dám sửa, vẫn phải giữ nguyên trạng, chỉ có thể ghi rơ trong phần chú giải. Đây là tôn trọng kinh điển, chẳng thể tùy tiện sửa đổi, tuy phát hiện sai lầm, vẫn chẳng thể sửa! Chúng tôi giới thiệu phần Quán Tượng đến đây. Phép Quán thứ mười ba là Quán Tượng Niệm Phật. Dưới đây chúng ta lại xem phép Quán thứ mười bốn. Phép Quán thứ mười bốn là ba bậc văng sanh. [Hăy xem] từ ḍng thứ hai trong trang hai trăm mười bảy.

 

      Phật cáo A Nan cập Vi Đề Hy: - Thượng phẩm thượng sanh giả.

      希。上 者。

      (Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: - Thượng phẩm thượng sanh…)

           

Trước hết nói đến cái nhân tu tập, điều này cũng rất trọng yếu, đoạn này quan trọng lắm!

 

      Nhược hữu chúng sanh, nguyện sanh bỉ quốc giả, phát tam chủng tâm, tức tiện văng sanh, hà đẳng vi tam? Nhất giả chí thành tâm, nhị giả thâm tâm, tam giả hồi hướng phát nguyện tâm. Cụ tam tâm giả, tất sanh bỉ quốc.

生。願 者。發 心。即 便 生。何 三。一 心。二 心。三 心。具 者。必 國。

(Nếu có chúng sanh, nguyện sanh về cơi ấy, phát ba thứ tâm, liền được văng sanh. Những ǵ là ba? Một là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Đủ ba tâm, ắt sanh về cơi ấy).

 

      Trong kinh này, đức Phật giảng về Bồ Đề tâm. Bồ Đề tâm là ba tâm ấy. Ba tâm ấy là một tâm, [đă là] một tâm, cớ sao nói thành ba tâm? Chí thành tâm là Thể của tâm, hai thứ sau là chí thành tâm khởi tác dụng. V́ thế nói là có Thể và có Dụng. Nói thật ra, nhà Phật nói Bồ Đề tâm, Nho gia cũng phát Bồ Đề tâm. Nho gia nói “thành ư, chánh tâm”, thành ư là chí thành tâm như chúng ta đang nói ở đây, chánh tâm của Nho gia là do thâm tâm và hồi hướng phát nguyện tâm hợp lại, bèn thành chánh tâm. Chánh tâm là tác dụng của thành ư. Như vậy là Nho gia cũng nói Thể và Dụng, chẳng hai, chẳng khác cách nói của Phật pháp. Trong phần trước, tôi đă từng thưa tŕnh cùng quư vị, Phật pháp truyền đến Trung Quốc, tuy kinh luận Tiểu Thừa đă được phiên dịch hoàn toàn như thế, nhưng người Hoa chẳng dùng, mà dùng Nho gia và Đạo gia để thay thế. Tư tưởng và cảnh giới tu học của Nho gia tuyệt đối chẳng kém Tiểu Thừa, tư tưởng và tâm lượng của họ gần với Đại Thừa nhất. V́ thế, dùng Nho để nhập Phật, quả thật thuận tiện hơn so với dùng Tiểu Thừa để tiến nhập Đại Thừa. Tôi khuyến cáo các đồng tu, chẳng thể không đọc Tứ Thư. Gần đây, chúng tôi có in một bộ Tứ Thư Hán Anh đối chiếu, vừa mới biếu tặng một trăm bản. Chúng tôi in một ngàn bộ, hai trăm bộ đóng gáy bằng ḷ xo, chẳng phải là sách đóng b́a cứng, các trang sách có thể tháo rời được. Sách này chuẩn bị gởi sang ngoại quốc, chúng tôi muốn khuyên người ngoại quốc đọc Tứ Thư. Trang sách có thể tháo rời th́ [nếu] nhiều người [cần đọc, không đủ sách], có thể tháo ra, đem photocopy dùng [làm tài liệu tham chiếu] trong khi giảng giải, sẽ thuận tiện, chẳng cần phá tung cuốn sách. Tám trăm bộ c̣n lại được đóng b́a cứng thành tập, c̣n hai trăm bản kia là trang sách rời.

      Chúng ta khuyên người ngoại quốc đọc Tứ Thư, khuyên họ đọc sách Khổng Tử. Trong tương lai, người ngoại quốc đều đọc, c̣n người Hoa chẳng đọc. Người ngoại quốc đến làm thầy người Hoa, người Hoa phải học với họ, rất hổ thẹn! Chuyện này tôi đă từng làm thử đôi chút tại ngoại quốc. Người ngoại quốc vui thích, vừa nghe nói, nghe điều chưa từng nghe, hết sức hoan hỷ, thích thú tiếp nhận. Có thể thấy là không có ai dạy họ, chẳng có ai cung cấp tài liệu cho họ. V́ thế, nay chúng ta cung cấp tài liệu, nghĩ phương cách giúp đỡ họ. Đó là phát Bồ Đề tâm.

      Nói đơn giản, chí thành tâm là chân thành, chân thành là chân tâm. Chân thành có tiêu chuẩn hay không? Trong Bút Kư Đọc Sách, tiên sinh Tăng Quốc Phiên đă định nghĩa, chú giải chữ Thành: “Một niệm chẳng sanh th́ gọi là Thành”. Chú giải rất chánh xác, tương ứng với Phật pháp. Trong tâm chẳng có một vọng niệm th́ mới gọi là thành tâm, hễ có vọng niệm tức là chẳng chân thành! Các vị đọc Liễu Phàm Tứ Huấn; trong phần chú giải của Liễu Phàm Tứ Huấn đă nói về chuyện vẽ bùa, niệm chú cũng giống như thế. Vẽ bùa th́ v́ sao bùa sẽ linh? Phải dùng thành tâm để vẽ. Vẽ đạo bùa ấy mà trong tâm khởi một vọng niệm, đạo bùa ấy chẳng linh. Do đó, người vẽ bùa, lúc b́nh thường phải luyện tập, luyện rất nhuần nhuyễn. Khi đă rất thuần thục, sau khi một nét bút chấm xuống liền vẽ một mạch hoàn thành, trong tâm chẳng khởi một vọng tưởng, đạo bùa đó sẽ linh. Niệm chú cũng giống như vậy, nên chú càng dài càng khó niệm. Quư vị nói chú Lăng Nghiêm dài như vậy, [trong khi niệm] từ đầu đến cuối dấy lên bao nhiêu vọng niệm? Chú Lăng Nghiêm [niệm kiểu ấy] có c̣n linh hay chăng? Chẳng linh! Chú Đại Bi rất dài, quư vị niệm một biến, trong khi đó có vọng tưởng nào hay không? Hễ có một vọng tưởng, chú ấy chẳng linh. Thành bèn linh, chẳng dễ dàng! Một câu A Di Đà Phật dễ niệm hơn, trong câu “A Di Đà Phật” ấy chẳng có vọng tưởng, sẽ linh. Do đó, cổ nhân nói: “Niệm kinh chẳng bằng niệm chú”. V́ sao? Kinh quá dài, trong một bộ kinh dài như vậy, chẳng có một vọng niệm xen vào, khó lắm, quá khó! Chẳng bằng niệm chú, chú ngắn hơn. Niệm chú chẳng bằng niệm Phật, Phật hiệu càng ngắn hơn, ngắn hơn chú ngữ rất nhiều, đạo lư ở ngay chỗ này. Do đó, hễ động một vọng niệm sẽ không linh. Đó là chân thành.

      Thâm tâm là Tự Thọ Dụng, thâm tâm là thanh tịnh tâm, b́nh đẳng tâm, thuộc về Tự Thọ Dụng. Ham thiện, chuộng đức, thiện đức đến tột cùng là thanh tịnh, b́nh đẳng. Hồi hướng phát nguyện tâm là tâm đại từ bi, lợi ích chúng sanh. Do đó, tâm thứ ba là chân thành, là Tha Thọ Dụng, Tha Thọ Dụng là đại từ đại bi. Bản thân chúng ta hễ có mảy may điều thiện nào, chính chúng ta chẳng mong hưởng thụ, hy vọng nhường quả báo của điều thiện ấy cho hết thảy chúng sanh hưởng thụ. Hồi hướng phát nguyện, phát nguyện phổ độ hết thảy chúng sanh, trong Khởi Tín Luận gọi tâm này là đại bi tâm. Ba tâm trong Khởi Tín Luận là trực tâm, thâm tâm, và đại bi tâm. Trực tâm là chí thành tâm, thâm tâm [th́ Quán Kinh và Khởi Tín Luận nói] giống nhau, đại bi tâm chính là hồi hướng phát nguyện tâm được nói ở đây. Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng thể không phát tâm. Không phát Bồ Đề tâm, chắc chắn không thể văng sanh.

 

      Phục hữu tam chủng chúng sanh, đương đắc văng sanh, hà đẳng vi tam? Nhất giả, từ tâm bất sát, cụ chư giới hạnh. Nhị giả, độc tụng Đại Thừa, Phương Đẳng kinh điển. Tam giả, tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Cụ thử công đức, nhất nhật năi chí thất nhật, tức đắc văng sanh.

      生。當 生。何 三。一 殺。具 行。二 典。三 念。迴 願。願 國。具 德。一 日。即 生。

(Lại có ba loại chúng sanh sẽ được văng sanh. Những ǵ là ba? Một là từ tâm chẳng giết, đủ các giới hạnh. Hai là đọc tụng kinh điển Phương Đẳng Đại Thừa. Ba là tu hành lục niệm[4], hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh về cơi ấy. Trọn đủ công đức ấy, từ một ngày cho đến bảy ngày liền được văng sanh).

 

      Nói thật ra, loại thứ hai là Tam Phước được nói trong phần trước, là chánh nhân tịnh nghiệp. Có thể thấy đoạn kinh văn này trong Quán Kinh vô cùng trọng yếu, nhất định phải nhớ kỹ. Tam Phước và Bồ Đề tâm được nói ở đây, Bồ Đề tâm thật sự chẳng dễ dàng. Trong Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư lăo nhân gia đă bảo: Người thật sự phát nguyện cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, nguyện tâm ấy chính là Vô Thượng Bồ Đề tâm. Cổ nhân chưa ai nói điều ấy, xét theo các sách vở xưa, chúng ta thấy quả thật Ngẫu Ích đại sư là người đầu tiên nói điều ấy. Hăy suy nghĩ xem Ngài nói lời ấy có đúng hay không? Thật đúng! Quư vị đối chiếu với văn tự trong đoạn kinh này, chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm, [sẽ thấy] chẳng sai tí nào! Thật sự muốn văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, ba tâm ấy liền trọn đủ. Đă phát [Bồ Đề tâm] mà chính ḿnh chẳng biết, không biết là đă phát trọn vẹn ba tâm ấy. Do đó, lăo nhân gia nói câu này hay lắm. Bản thân chúng ta phải chân tâm cầu sanh, chẳng phải là giả tâm, giả ư, mà là chân tâm cầu sanh, một niệm tâm ấy bèn trọn đủ viên măn đại Bồ Đề tâm. Kinh này cũng nói từ một ngày cho đến bảy ngày, có cùng một cách nói với kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ. Do vậy có thể biết, pháp môn này là Đốn Giáo, là đốn siêu.

      Chúng ta xem phần kinh văn kế tiếp trong trang hai trăm hai mươi.

 

      Sanh bỉ quốc thời, thử nhân tinh tấn, dũng mănh cố, A Di Đà Như Lai, dữ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số hóa Phật, bách thiên tỳ-kheo, Thanh Văn đại chúng, vô lượng chư thiên, thất bảo cung điện. Quán Thế Âm Bồ Tát chấp kim cang đài, dữ Đại Thế Chí Bồ Tát, chí hành giả tiền. A Di Đà Phật phóng đại quang minh, chiếu hành giả thân, dữ chư Bồ Tát, thọ thủ nghênh tiếp. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, dữ vô số Bồ Tát tán thán hành giả, khuyến tấn kỳ tâm.

時。此 故。阿 來。與 至。無 佛。百 眾。無 天。七 殿。觀 薩。執 臺。與 薩。至 前。阿 明。照 身。與 薩。授 接。觀 至。與 薩。讚 者。勸 心。

 (Khi sanh về cơi ấy, do người đó tinh tấn, dũng mănh, A Di Đà Như Lai, và Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số hóa Phật, trăm ngàn tỳ-kheo, Thanh Văn đại chúng, vô lượng chư thiên, cung điện bảy báu. Quán Thế Âm Bồ Tát cầm đài kim cang, cùng với Đại Thế Chí Bồ Tát tới trước hành giả. A Di Đà Phật phóng đại quang minh chiếu thân hành giả, và các Bồ Tát x̣e tay tiếp đón. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, và vô số Bồ Tát tán thán hành giả, khuyến tấn tâm người ấy).

 

      Nói rơ trạng huống văng sanh của người tu hành. V́ thế, chỉ cần nhất tâm nhất ư niệm, chớ nên phân biệt, đừng nên chấp trước, cũng chẳng nghĩ đến phẩm vị cao hay thấp. V́ sao? Tưởng những điều ấy đều là vọng tưởng. Thậm chí nhất tâm bất loạn cũng đừng nghĩ tới, chỉ có một câu Phật hiệu cứ niệm miết, đó gọi là “thật thà niệm Phật”. Quư vị chân tâm chân ư cầu sanh Tịnh Độ, thứ ǵ cũng đều viên măn trọn đủ. Khi văng sanh, cảnh giới rất thù thắng, A Di Đà Phật, Quán Âm Thế Chí, và vô số Bồ Tát, Thanh Văn, chư thiên đều đến đón tiếp quư vị. Thế giới Tây Phương ở chỗ nào, không cần biết! Các Ngài đến đón tiếp, ta cũng chẳng cần phải t́m đường, mà cũng chẳng phải t́m phương hướng, tự tại lắm! V́ thế, kinh nói Tây Phương th́ Tây Phương rốt cuộc ở nơi đâu? Chớ nên sanh ư niệm ấy, đến lúc đó, Phật sẽ đến tiếp dẫn ta, chẳng thể sai sót được! Nay tôi đi khắp nơi ở ngoại quốc, chẳng biết phương hướng, mà cũng chẳng biết đường. V́ sao? Đến nơi nào cũng đều có người đến đón tiếp, tôi cần ǵ phải nhớ đường? Cần ǵ phải nhớ phương hướng? Chẳng cần! Đến chỗ nào cũng đều có người đón tiếp, nên căn bản là chẳng cần. Họ chuẩn bị cẩn thận mọi thứ cho tôi, đối với vé máy bay, người ta nói: “Pháp sư! Vé máy bay bao nhiêu tiền?” Không biết, không hiểu! V́ trước nay tôi chưa bao giờ hỏi tới, trước nay chưa hề nh́n vào vé máy bay.

      Người niệm Phật văng sanh rất tốt, Phật, Bồ Tát đều an bài tốt đẹp thay cho quư vị, thứ ǵ cũng chẳng cần phải bận ḷng, chỉ cần thật thà niệm được rồi! Thật thà niệm là quan trọng! Bản thân chúng ta chỉ cần làm được “thật thà niệm” là tốt rồi, những chuyện khác Phật, Bồ Tát đều xếp đặt ổn thỏa, chẳng phải bận tâm tí nào, quư vị thấy có thù thắng lắm không? Quư vị làm chuyện tốt đẹp nào, tu pháp môn nào đi nữa, đều chẳng đạt được [sự thù thắng này]! Tu Thiền, tu Mật, tu thành tựu, th́ A Di Đà Phật có đến đón tiếp quư vị hay không? Có chư Phật, Bồ Tát đông ngần ấy đến đón hay chăng? Chẳng có! Do vậy có thể biết, pháp môn này xác thực là thù thắng khôn sánh. Hăy xem kinh văn trong trang hai trăm hai mươi mốt.

 

      Hành giả kiến dĩ.

      已。

      (Hành giả thấy rồi).

 

      Người tu hành thấy cảnh giới ấy, Phật, Bồ Tát đến đón tiếp.

 

Hoan hỷ dũng dược, tự kiến kỳ thân, thừa kim cang đài, tùy tùng Phật hậu, như đàn chỉ khoảnh, văng sanh bỉ quốc.

躍。自 身。乘 臺。隨 後。如 頃。往 國。

(Hoan hỷ, hớn hở, tự thấy thân ḿnh ngồi trên đài kim cang, theo sau đức Phật, như trong khoảng khảy ngón tay, văng sanh cơi kia).

 

      Qua phần kinh văn này, chư vị hăy xem kỹ, đừng đọc lướt qua, [sẽ thấy rơ] văng sanh là văng sanh trong khi c̣n sống, đây là pháp môn bất tử. Người tu hành thấy cảnh giới này, thấy trong khi c̣n sống sờ sờ, chẳng phải là khi đă chết. Lúc đă chết sẽ chẳng thấy nữa, khi sống th́ thấy. Phước báo to lớn, khi c̣n sống bèn trông thấy, rất rơ ràng, bảo các đồng tu trợ niệm: “Tôi đă thấy đức Phật đến tiếp dẫn tôi, nay tôi theo Ngài ra đi”. Có thể nói với quư vị, nói rơ ra, đó là phước báo to lớn. Phước báo kém hơn một chút, cũng trông thấy, muốn kể với quư vị, miệng mấp máy, nhưng chẳng thốt ra tiếng, vẫn hiểu rành mạch, rơ ràng, trông thấy, văng sanh. Chúng ta thấy người lâm chung miệng mấp máy, có khi chúng ta cảm thấy họ đang niệm Phật theo [đại chúng], nhưng thật ra người ấy trông thấy cảnh giới này, muốn nói với chúng ta, nhưng chẳng thốt nên lời, chẳng có âm thanh, bèn văng sanh. Chúng ta không biết, ngỡ người ấy mấp máy niệm Phật theo chúng ta. Thật ra, người ấy bảo chúng ta: Phật, Bồ Tát đến đón tiếp, người ấy trông thấy, rất hoan hỷ, theo Phật ra đi. Khi ấy, khí lực rất suy, miệng máy động, nhưng chẳng có âm thanh. Điều này chỉ rơ: Văng sanh là văng sanh trong khi c̣n sống, chẳng phải là chết rồi mới văng sanh. Do đó, pháp môn này là pháp môn bất tử, thành Phật trong một đời. Chúng ta văng sanh chẳng phải là đă chết rồi mới văng sanh, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thành Phật trong một đời. T́m ở đâu ra pháp môn này? T́m không thấy! Bỏ pháp môn này chẳng tu, đúng là ngu si, đúng là cuồng vọng. Thầy Lư nói [hạng người vứt bỏ không chịu tu pháp môn này là] “ngu si, cuồng vọng” chẳng sai! Lại xem đoạn kế tiếp.

 

      Sanh bỉ quốc dĩ.

      已。

(Đă sanh về cơi ấy).

 

      Đây là nói [t́nh h́nh sau khi đă] tới Tây Phương Cực Lạc thế giới.

 

      Kiến Phật sắc thân, chúng tướng cụ túc. Kiến chư Bồ Tát, sắc tướng cụ túc, quang minh, bảo lâm, diễn thuyết diệu pháp.

      身。眾 足。見 薩。色 足。光 林。演 法。

(Thấy sắc thân của Phật các tướng trọn đủ. Thấy các Bồ Tát, sắc tướng trọn đủ. Quang minh, rừng báu, diễn nói diệu pháp).

 

      Hoàn toàn giống như cảnh giới do đức Phật đă giảng trong kinh. Trước kia là nghe đức Phật nói, nay là đích thân trông thấy, tự ḿnh trông thấy. T́nh và vô t́nh đều thuyết pháp, sau khi nghe Phật pháp, bèn khai ngộ.

 

      Văn dĩ tức ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn.

      忍。

      (Nghe xong liền ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn).

 

      Vừa nghe liền khai ngộ, liền chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn.

 

      Kinh tu du gian.

      間。

      (Trong khoảnh khắc).

 

      “Tu du” (須臾) là thời gian cực ngắn.

 

      Lịch sự chư Phật biến thập phương giới.

      界。

      (Trải qua phụng sự chư Phật trọn khắp các cơi trong mười phương).

 

      Thần thông và đạo lực của người ấy ngay lập tức hiện tiền, có thể đến các cơi Phật trong mười phương để lễ Phật, đến nghe đức Phật thuyết pháp. Cũng có lẽ chúng ta thấy chỗ này bèn hoài nghi: Cớ sao vừa mới gặp gỡ A Di Đà Phật, liền ngay lập tức ra đi? Chư vị phải biết: Đến khi đó, năng lực của người ấy chẳng thể nghĩ bàn, thân người ấy đang ở chỗ A Di Đà Phật lễ bái, mà phân thân của người ấy đă trọn khắp các cơi Phật trong mười phương. Trước mỗi vị Phật, mỗi vị Bồ Tát, người ấy đều hiện diện, có năng lực to như vậy. Không như thế gian này, dẫu tu giỏi giang cách mấy, chẳng có cách nào phân thân! Người ấy có năng lực phân thân, có rời khỏi thế giới Cực Lạc hay không? Chẳng có! Chẳng rời khỏi thế giới Cực Lạc, nhưng hóa thân đă trọn khắp mười phương. Thành tựu nhanh chóng ngần ấy, nên thường là những kẻ học Giáo chẳng tin tưởng. Pháp khó tin! Há có lẽ nào mau chóng dường ấy? Ở nơi đây mới vừa văng sanh, bên kia đă hóa thân trọn khắp hết thảy các cơi Phật, quá nhanh! Thật ra, chuyện này là thật, quyết định chẳng giả.

 

      Ư chư Phật tiền, thứ đệ thọ kư, hoàn chí bổn quốc, đắc vô lượng bách thiên Đà La Ni môn.

     前。次第 。還 門。

      (Ở trước chư Phật, lần lượt được thọ kư. Trở về cơi ḿnh, đắc vô lượng trăm ngàn môn Đà La Ni).

 

      Đúng là trong một thời gian rất ngắn có thành tựu chẳng thể nghĩ bàn như vậy, đúng là chúng ta phải nên giác ngộ, phải nên tu học. Đoạn cuối cùng là:

 

      Thị danh thượng phẩm thượng sanh giả.

      者。

      (Gọi là thượng phẩm thượng sanh).

 

      Đoạn văn này ở trong trang hai trăm hai mươi hai. Chúng ta xem tiếp:

 

      Thượng phẩm trung sanh giả.

      者。

      (Thượng phẩm trung sanh…)

 

      Tu cái nhân hơi kém hơn hạng người trước một chút.

 

      Bất tất thụ tŕ, độc tụng Phương Đẳng kinh điển, thiện giải nghĩa thú. Ư Đệ Nhất Nghĩa, tâm bất kinh động, thâm tín nhân quả, bất báng Đại Thừa. Dĩ thử công đức hồi hướng, nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc.

典。善 趣。於 動。深 果。不 乘。以 向。願 國。

(Chẳng bắt buộc phải thọ tŕ, không cần[5] thọ tŕ đọc tụng kinh điển Phương Đẳng, khéo hiểu nghĩa thú. Đối với Đệ Nhất Nghĩa, tâm chẳng kinh động, tin sâu nhân quả, chẳng báng Đại Thừa. Dùng công đức này hồi hướng, nguyện cầu sanh về cơi Cực Lạc).

 

      Phần trước là nói người thượng phẩm thượng sanh có đọc tụng Đại Thừa, chỗ này không bắt buộc đọc tụng Đại Thừa, nhưng “tin sâu nhân quả”. Nhân quả là ǵ? Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả, người ấy hoàn toàn chẳng hoài nghi điều này. Một câu Phật hiệu niệm đến tận cùng, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới có thể đạt đến thượng phẩm trung sanh, địa vị này hết sức cao. Lấy đoạn kinh văn này để xem, người đồ đệ niệm A Di Đà Phật của pháp sư Đế Nhàn xưa kia, điều ǵ cũng chẳng hiểu, niệm một câu danh hiệu suốt ba năm. Lăo pháp sư dạy ông ta: “Niệm mệt liền nghỉ ngơi, nghỉ ngơi khỏe khoắn rồi lại niệm”. Ông ta niệm ba năm bèn đứng văng sanh, biết trước lúc mất. Nếu chúng ta dùng kinh này để phán đoán, người này rất có thể là thượng phẩm trung sanh, có địa vị văng sanh cao ngần ấy, do gặp duyên thù thắng, duyên ǵ vậy? Lăo pháp sư dạy ông ta niệm Phật là duyên, ông ta thật sự có thể hoàn toàn tiếp nhận, tin sâu, chẳng ngờ, nên mới có quả báo thù thắng ngần ấy. Ông ta vâng theo lời thầy răn dạy một trăm phần trăm, chẳng khấu trừ tí nào, trong ba năm thành tựu chẳng thể nghĩ bàn. Duyên thù thắng là do nh́n từ chỗ này!

      Do vậy có thể biết, các đồng tu chúng ta gặp duyên chẳng thể nói là không thù thắng, [mà là] thù thắng bậc nhất. Đọc tụng Đại Thừa, đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ đă tốt đẹp rồi, có thể đọc tụng năm kinh một luận càng hay hơn. Nếu ngại Năm kinh một luận quá nhiều, quá rườm rà, th́ một bộ kinh là được rồi, y giáo phụng hành, lư luận và giáo huấn trong kinh thảy đều làm được, sẽ chẳng khác ǵ A Di Đà Phật, đương nhiên là thượng phẩm thượng sanh. Như vậy là đáng tin cậy, chẳng cần phải đọc trọn hết, một bộ kinh là được rồi. Một kinh thông, hết thảy các kinh đều thông. Do đó, tôi giới thiệu lần nữa: Kinh Vô Lượng Thọ là kinh Hoa Nghiêm cô đọng. Kinh Hoa Nghiêm là toàn thể Tam Tạng mười hai bộ rút gọn. Do vậy có thể biết, đọc bộ kinh này là đọc toàn bộ Đại Tạng Kinh, một chính là hết thảy, hết thảy chính là một. Quư vị phải hiểu: Công đức này thật sự chẳng thể nghĩ bàn, lời này do cổ đại đức, các vị tổ sư đại đức từ xưa đă nói ra, chúng ta chẳng thể không tin tưởng. Chúng ta có thể nói: Các pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong suốt một đời Ngài, đều chẳng ra khỏi bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật. Quư vị thấy những điều được giảng trong một bộ kinh Vô Lượng Thọ hoàn toàn nhằm giải thích bốn mươi tám nguyện, chẳng có câu nào mâu thuẫn với nguyện văn trong bốn mươi tám nguyện. Một bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh trên thực tế là để giải thích, giảng giải tỉ mỉ, cặn kẽ kinh Vô Lượng Thọ. Một bộ Đại Tạng Kinh, toàn bộ Đại Tạng Kinh là kinh Hoa Nghiêm được nói cặn kẽ. Đến cuối cùng quy nạp lại, thật vậy, quy nạp thành một bộ kinh Vô Lượng Thọ. Kinh dạy chúng ta đọc tụng Đại Thừa, chúng ta hiểu sự thật ấy, niệm bộ kinh Vô Lượng Thọ chẳng có tí hoài nghi nào, nguyên lai, [do cả bộ Đại Tạng Kinh quy nạp thành kinh Vô Lượng Thọ nên niệm kinh Vô Lượng Thọ th́ có nghĩa là] tất cả hết thảy các kinh Đại Thừa ta đều đọc cả rồi.

      Người ấy tuy chẳng đọc kinh, nhưng chẳng hủy báng Đại Thừa, chỉ thật thà niệm Phật. Một câu Phật hiệu thành tựu công đức vô thượng, thượng phẩm trung sanh. Chúng ta gặp duyên thù thắng như vậy, trong một đời này chẳng thể thành tựu thượng phẩm thượng sanh hoặc thượng phẩm trung sanh, rất oan uổng! Chúng ta lại xem đoạn kinh văn kế tiếp từ hàng thứ nhất trong trang hai trăm hai mươi bốn.

 

Hành thử hạnh giả.

者。

(Người hành theo hạnh này).

 

      Người nương theo pháp môn này tu hành.

 

      Mạng dục chung thời, A Di Đà Phật, dữ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô lượng đại chúng quyến thuộc vi nhiễu, tŕ tử kim đài, chí hành giả tiền, tán ngôn: “Pháp tử! Nhữ hành Đại Thừa, giải Đệ Nhất Nghĩa. Thị cố, ngă kim lai nghênh tiếp nhữ”, dữ thiên hóa Phật, nhất thời thọ thủ.

時。阿 佛。與 至。無 繞。持 臺。至 前。讚 子。汝 乘。解 第一 義。是 汝。與 佛。一 手。

 (Lúc sắp mạng chung, A Di Đà Phật và Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô lượng đại chúng quyến thuộc vây quanh, cầm đài vàng tía, đến trước hành giả, khen rằng: “Pháp tử! Ngươi hành Đại Thừa, hiểu Đệ Nhất Nghĩa. Do vậy, ta nay đến đón ngươi”. Và một ngàn vị hóa Phật, đồng thời x̣e tay [tiếp dẫn]).

 

      Tây Phương Tam Thánh và chư Phật, Bồ Tát, “ngàn vị hóa Phật”, [nói chung là] chư Phật, Bồ Tát thảy đều đến đón tiếp[6]. Lại xem phần kinh văn tiếp theo.

 

      Hành giả tự kiến tọa tử kim đài, hợp chưởng xoa thủ, tán thán chư Phật, như nhất niệm khoảnh, tức sanh bỉ quốc thất bảo tŕ trung. Thử tử kim đài, như đại bảo hoa, kinh túc tắc khai.

臺。合 手。讚 佛。如 頃。即 中。此 臺。如 華。經 宿則 開。

(Hành giả tự thấy ngồi trên đài vàng tía, chắp tay tán thán chư Phật, như trong khoảng một niệm, liền sanh trong ao bảy báu nơi cơi ấy. Đài vàng tía ấy như hoa sen báu lớn, qua một đêm liền nở).

 

      “Hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh”, thời gian [ngộ Vô Sanh] của người ấy lâu hơn thượng phẩm một chút. Thượng phẩm tới đó hoa lập tức nở ngay, ở đây là cách một ngày, ngày hôm sau, hoa nở thấy Phật. Hoa nở thấy Phật là hàng Bồ Tát từ Thất Địa trở lên. Khi chưa nở là sắp thành Thất Địa Bồ Tát, vừa nở bèn thật sự là hàng Thất Địa Bồ Tát trở lên, có thể thấy thành tựu thật sự quá nhanh. Phần kinh văn tiếp theo là nói đến lợi ích của người ấy.

 

Hành giả thân tác tử ma kim sắc, túc hạ diệc hữu thất bảo liên hoa. Phật cập Bồ Tát câu thời phóng quang, chiếu hành giả thân, mục tức khai minh.

色。足 華。佛 薩。俱 光。照 身。目 明。

(Hành giả thân có màu như vàng tía được giồi mài, dưới chân cũng có hoa sen bảy báu. Phật và Bồ Tát đồng thời tỏa ánh sáng, chiếu vào thân hành giả, mắt liền mở sáng).

 

      “Mục” ở đây là tâm mục.

 

      Nhân tiền túc tập.

      宿 習。

      (Do sự tu tập từ đời trước).

     

      Do sự học tập trong đời quá khứ.

 

      Phổ văn chúng thanh, thuần thuyết thậm thâm Đệ Nhất Nghĩa Đế, tức hạ kim đài, lễ Phật hợp chưởng, tán thán Thế Tôn, kinh ư thất nhật, ứng thời tức ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đắc bất thoái chuyển.

聲。純 諦。即 臺。禮 掌。讚 尊。經 日。應 提。得 退 轉。

(Nghe khắp các âm thanh thuần nói Đệ Nhất Nghĩa Đế rất sâu, liền bước xuống đài vàng, lễ Phật, chắp tay, tán thán Thế Tôn. Qua bảy ngày, ngay khi đó, đắc bất thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).

 

      Bảy ngày chứng trọn vẹn ba món Bất Thoái[7].

 

      Ứng thời tức năng phi hành, biến chí thập phương, lịch sự chư Phật.

      行。遍 方。歷 佛。

      (Ngay khi đó, liền có thể phi hành, đến khắp mười phương, phụng sự chư Phật).

 

      Chẳng khác ǵ thượng phẩm thượng sanh. Thượng phẩm thượng sanh là trong một đời đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, lập tức có năng lực này. Người thượng phẩm trung sanh phải sau bảy ngày. Sau bảy ngày th́ đạo lực, thần thông, trí huệ mới hoàn toàn giống như thượng phẩm.

 

      Ư chư Phật sở, tu chư tam-muội, kinh nhất tiểu kiếp, đắc Vô Sanh Nhẫn, hiện tiền thọ kư.

所。修 。經 劫。得 忍。現 記。

(Ở chỗ chư Phật, tu các tam-muội, qua một tiểu kiếp, đắc Vô Sanh Nhẫn, được thọ kư trong hiện tiền).

 

Vô Sanh Nhẫn ở đây là chân thật Vô Sanh Pháp Nhẫn, là Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa, thuộc loại Viên Giáo. Ở đây, chúng ta thấy thượng phẩm thượng sanh là chứng đắc ngay lập tức, thượng phẩm trung sanh là sau một tiểu kiếp mới thật sự chứng đắc. Nguyên nhân chỗ nào? Từ kinh văn, chúng ta phải nên thấy rơ ràng, xác đáng, một đằng là đọc tụng Đại Thừa, một đằng chẳng đọc tụng Đại Thừa, nguyên nhân ở chỗ này. Đọc tụng Đại Thừa đă tu tập sâu dầy trong đời quá khứ, vừa nghe Phật pháp bèn khai ngộ. Trong quá khứ chẳng hề đọc tụng Đại Thừa th́ phải trải qua một thời gian khá dài nghe kinh mới khai ngộ. Hy vọng các đồng tu phải nhớ kỹ [điều này]. Chúng ta xem Lục Tổ Đàn Kinh, thiền sư Pháp Đạt niệm kinh Pháp Hoa ba ngàn lượt, Lục Tổ đại sư vừa giảng, Sư liền khai ngộ. Chúng ta chưa đọc kinh Pháp Hoa ba ngàn lượt, nói cách nào cũng chẳng thể khai ngộ, mới biết công đức đọc tụng có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Người hiện thời sợ niệm kinh; nhất là tôi lại c̣n bảo họ phải đọc thuộc ḷng, càng sợ hăi hơn, kinh hoảng chẳng dám niệm, c̣n làm sao được nữa? Từ đoạn kinh văn này, chư vị biết đọc tụng và không đọc tụng sai biệt to lớn cỡ nào? Quay lại xem thế gian này, hăy xem cổ nhân, vừa nghe mấy câu kinh liền khai ngộ, căn bản đều là do đọc tụng. Nay chúng ta nghe kinh, nghe khai thị không thể khai ngộ là v́ chẳng có đọc tụng. Đọc đến đoạn này, hăy nên hiểu rơ, tôi khuyên quư vị đọc tụng là đúng!

 

      Thị danh thượng phẩm trung sanh giả.

      者。

(Gọi là thượng phẩm trung sanh).

 

      Được rồi, chúng ta học tới chỗ này!

 

Tập 27

 

Xin mở kinh bổn, trang hai trăm hai mươi bảy, xem phần Thượng Phẩm Hạ Sanh.

 

Thượng phẩm hạ sanh giả, diệc tín nhân quả, bất báng Đại Thừa, đản phát vô thượng đạo tâm, dĩ thử công đức hồi hướng, nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc.

者。亦 果。不 乘。但 心。以 向。願 國。

 (Thượng phẩm hạ sanh cũng tin nhân quả, chẳng báng Đại Thừa, chỉ phát đạo tâm vô thượng. Đem công đức ấy hồi hướng, nguyện cầu sanh về cơi Cực Lạc).

 

      Kinh văn nói rất rơ rệt: Phải phát Bồ Đề tâm. “Vô thượng đạo tâm” là phát Bồ Đề tâm. Chúng ta lật qua xem phần kinh văn trong trang hai trăm hai mươi tám, từ ḍng thứ hai đếm ngược lại.

 

      Hành giả mạng dục chung thời, A Di Đà Phật, cập Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, dữ chư Bồ Tát, tŕ kim liên hoa, hóa tác ngũ bách Phật lai nghênh thử nhân. Ngũ bách hóa Phật nhất thời thọ thủ, tán ngôn: “Pháp tử! Nhữ kim thanh tịnh, phát vô thượng đạo tâm, ngă lai nghênh nhữ”.

時。阿 佛。及 至。與 薩。持 華。化 人。五 手。讚 子。汝 淨。發 心。我 汝。

(Khi hành giả sắp mạng chung, A Di Đà Phật, và Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, cùng các vị Bồ Tát, cầm hoa sen vàng, hóa thành năm trăm vị Phật đến đón người ấy. Năm trăm vị hóa Phật đồng thời x̣e tay, khen rằng: “Pháp tử! Nay ngươi thanh tịnh, phát vô thượng đạo tâm, ta đến đón ngươi”).

 

Đoạn này nói tới duyên. Trong phần Trung Phẩm trên đây, kinh nói có một ngàn vị Phật, A Di Đà Phật và một ngàn vị hóa Phật đến đón tiếp, chỗ này số lượng Phật ít hơn một nửa, hóa thành năm trăm vị Phật đến đón người ấy. Nếu ở đây, chúng ta hỏi: “Có phải là A Di Đà Phật cũng phân biệt, chấp trước hay không? V́ sao thượng phẩm hóa Phật nhiều, hạ phẩm hóa Phật ít hơn, có phải là Ngài cũng có phân biệt, chấp trước?” Ắt cần phải biết: Khi văng sanh, Phật, Bồ Tát đến đón tiếp là thật; nhưng số lượng Phật, Bồ Tát nhiều hay ít là do chính tâm chúng ta cảm, Phật, Bồ Tát bèn tự nhiên ứng. Chắc chắn là A Di Đà Phật chẳng có phân biệt, chấp trước. Thấy những vị Phật ấy, vẫn do tự tánh Di Đà của chúng ta biến hóa đến đón. V́ thế, hết thảy xác thực là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Nói chung, chẳng ĺa khỏi sự cảm ứng từ nơi tâm tánh của chính ḿnh! Phẩm vị càng thấp, số người đến đón càng ít. Phẩm vị càng cao, thấy cảnh giới càng thù thắng, đó là lẽ tự nhiên. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, xác thực là có bốn cơi, chín phẩm sai biệt. Trong mỗi cơi đều có ba bậc, chín phẩm, có sự sai biệt ấy! Nhưng chúng ta đọc Đại Kinh, thấy nói dẫu là hạ hạ phẩm văng sanh, sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, thần thông, đạo lực, các thứ thọ dụng chẳng sai khác [so với các phẩm khác]; sau khi đă tới Tây Phương, chẳng có sai biệt. Đó là do thần lực của Phật Di Đà gia tŕ, nên thế giới Tây Phương là một thế giới b́nh đẳng. “B́nh đẳng” nghĩa là b́nh đẳng về sự thọ dụng trong cuộc sống vật chất, chứ nội tâm đoạn phiền năo, chứng Bồ Đề, chẳng có cách nào b́nh đẳng được! A Di Đà Phật chẳng thể giúp được, chính ḿnh phải đổ công, dốc sức!

Đoạn kinh văn kế tiếp nói về sự văng sanh.

 

      Kiến thử sự thời, tức tự kiến thân tọa kim liên hoa, tọa dĩ hoa hợp, tùy Thế Tôn hậu, tức đắc văng sanh thất bảo tŕ trung.

時。即 華。坐 合。隨 後。即 中。

(Khi thấy việc ấy, liền tự thấy thân ḿnh ngồi trên hoa sen vàng, ngồi xong, hoa khép lại, theo sau đức Thế Tôn, liền được văng sanh trong ao bảy báu).

 

      Đây là hiện tượng văng sanh.

 

      Nhất nhật nhất dạ, liên hoa năi khai. Thất nhật chi trung, năi đắc kiến Phật. Tuy kiến Phật thân, ư chúng tướng hảo, tâm bất minh liễu, ư tam thất nhật hậu, năi liễu liễu kiến, văn chúng âm thanh, giai diễn diệu pháp, du lịch thập phương, cúng dường chư Phật, ư chư Phật tiền, văn thậm thâm pháp, kinh tam tiểu kiếp, đắc bách pháp minh môn, trụ Hoan Hỷ Địa.

夜。蓮 開。七 中。乃 佛。雖 身。於 好。心 了。於 後。乃 見。聞 聲。皆 法。遊 方。供 佛。於 前。聞 法。經 劫。得 門。住 地。

(Qua một ngày, một đêm, hoa sen bèn nở, trong ṿng bảy ngày bèn được thấy Phật. Tuy thấy thân Phật, nhưng đối với các tướng hảo, tâm chẳng hiểu rơ. Sau hai mươi mốt ngày, bèn thấy rơ ràng. Nghe các âm thanh, đều diễn diệu pháp, dạo khắp mười phương, cúng dường chư Phật. Đối trước chư Phật, nghe pháp rất sâu, qua ba tiểu kiếp, đắc bách pháp minh môn, trụ Hoan Hỷ Địa).

 

      Nói về người thượng phẩm hạ sanh, sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới. Sau một ngày một đêm, hoa nở, thấy Phật. Tuy thấy Phật, nghe pháp, trọn chẳng thể lập tức khai ngộ, phải trải qua hai mươi mốt ngày, người ấy mới hiểu rơ. Sau ba tiểu kiếp mới minh tâm kiến tánh, thật sự chứng đắc quả vị Sơ Địa. Chúng ta thấy thời gian này cũng rất dài, phải trải qua ba tiểu kiếp; trên thực tế, người trong thế giới Tây Phương thọ mạng là vô lượng thọ. Từ vô lượng thọ mà nh́n ba tiểu kiếp, sẽ giống như chúng ta trong cơi này thọ trăm tuổi nh́n ba giờ, thậm chí c̣n chưa đến! Chỉ sợ là chỉ được ba mươi phút. Do thọ mạng của họ dài lâu, họ thấy ba tiểu kiếp rất ngắn, thời gian quá ngắn. Pháp môn này xác thực là pháp môn thành tựu trong một đời.

      Câu cuối cùng là tổng kết, hàng thứ nhất trong trang hai trăm ba mươi mốt.

 

      Thị danh thượng phẩm hạ sanh giả, thị danh thượng bối sanh tưởng, danh đệ thập tứ quán.

者。是 想。名 觀。

(Đó gọi là thượng phẩm hạ sanh, là phép quán tưởng văng sanh trong bậc thượng, gọi là phép Quán thứ mười bốn).

 

Phép Quán thứ mười bốn nói về ba bậc thượng. Tiếp theo là phép Quán thứ mười lăm, nói về trung phẩm văng sanh, có trung phẩm thượng sanh, trung phẩm trung sanh, và trung phẩm hạ sanh.

 

      Phật cáo A Nan cập Vi Đề Hy: - Trung phẩm thượng sanh giả, nhược hữu chúng sanh, thọ tŕ Ngũ Giới, tŕ Bát Giới Trai, tu hành chư giới, bất tạo Ngũ Nghịch, vô chúng quá hoạn. Dĩ thử thiện căn hồi hướng, nguyện cầu sanh ư Tây Phương Cực Lạc thế giới.

希。中 者。若 生。受 戒。持 齋。修 戒。不 逆。無 患。以 向。願 西 界。

(Phật cáo A Nan và Vi Đề Hy: - Trung phẩm thượng sanh là nếu có những chúng sanh thọ tŕ Ngũ Giới, tŕ Bát Quan Trai Giới, tu hành các giới, chẳng tạo Ngũ Nghịch, không phạm các lỗi lầm. Dùng thiện căn ấy hồi hướng, nguyện cầu sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới).

 

      Đây là nói đến sự tu nhân. Do vậy có thể biết, thượng phẩm thiên về đọc tụng Đại Thừa; xét ra, trung phẩm tợ hồ là hàng Nhị Thừa, tức người Tiểu Thừa hồi Tiểu hướng Đại, tŕ giới, niệm Phật thuộc loại này. Người ấy có thể thọ tŕ Ngũ Giới. Ngũ Giới là căn bản giới trong Phật pháp, bất luận xưa nay, tức là nói về thời gian, bất luận tại Ấn Độ xưa kia, hay tại Trung Hoa hiện thời, cho đến đối với những quốc gia, dân tộc khác, đây là quan niệm đạo đức cơ bản, đều ắt cần phải tuân thủ. Chẳng có chuyện coi sát sanh là thiện hạnh, chẳng có đạo lư ấy. Chẳng hề nói trộm cắp là chuyện tốt đẹp, xưa nay trong ngoài nước đều chẳng chấp nhận. Do đó, giết, trộm, dâm, dối, uống rượu chẳng phải là chuyện tốt đẹp. Trên thế giới này, trong hiện tại tuy bán rượu, nhưng đối với loại rượu nhẹ, cũng đưa ra cảnh cáo “rượu chẳng phải là thứ tốt lành!” Có thể thấy năm điều trong ngũ giới xác thực là siêu việt thời gian và không gian, được hết thảy chúng sanh công nhận là thiện hạnh, ắt phải tuân thủ. Những quy phạm khác trong cuộc sống có thể nói là do thời điểm, do con người, do địa phương khác nhau, mà chế định như vậy. Tinh thần cơ bản của chúng là “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”, đoạn ác tu thiện, là những quy định, khuôn phép nhằm kiềm chế bản thân và xử thế. “Vô chúng quá hoạn” nghĩa là tŕ giới rất thanh tịnh. Dùng thiện căn ấy để hồi hướng, cầu sanh Tây Phương. Đó là cái nhân của trung phẩm thượng sanh.

 

Lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật, dữ chư tỳ-kheo, quyến thuộc vi nhiễu, phóng kim sắc quang, chí kỳ nhân sở, diễn thuyết Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă, tán thán xuất gia, đắc ly chúng khổ. Hành giả kiến dĩ, tâm đại hoan hỷ, tự kiến kỷ thân tọa liên hoa đài, trường quỵ, hợp chưởng, vị Phật tác lễ. Vị cử đầu khoảnh, tức đắc văng sanh Cực Lạc thế giới, liên hoa tầm khai, đương hoa phu thời, văn chúng âm thanh, tán thán Tứ Đế. Ứng thời, tức đắc A La Hán đạo, tam minh, lục thông, cụ bát giải thoát. Thị danh trung phẩm thượng sanh giả.

時。阿 佛。與 繞。放 光。至 所。演 我。讚 家。得 苦。行 已。心 喜。自 臺。長 掌。為 禮。未 頃。即 界。蓮 開。當 時。聞 聲。讚 諦。應 通。具 脫。是 者。

(Khi lâm chung, A Di Đà Phật và các tỳ-kheo, quyến thuộc vây quanh, phóng quang minh sắc vàng, chiếu tới chỗ người ấy, diễn nói Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă, tán thán xuất gia được ĺa các nỗi khổ. Hành giả thấy rồi, tâm đại hoan hỷ, tự thấy chính ḿnh ngồi trên đài hoa sen, quỳ thẳng[8], chắp tay, làm lễ đức Phật. Trong khoảng chưa ngẩng đầu lên, liền được văng sanh thế giới Cực Lạc. Hoa sen vừa nở, đang trong lúc hoa nở, nghe các âm thanh, tán thán Tứ Đế. Ngay khi ấy, liền đắc A La Hán đạo. Tam minh, lục thông, trọn đủ tám món giải thoát[9], gọi là trung phẩm thượng sanh).

 

      Nói rơ lợi ích văng sanh. Xét theo đoạn kinh văn này, và xem phần sau, quả vị Tiểu Thừa hết sức rơ rệt. Người căn tánh Tiểu Thừa tŕ giới niệm Phật, hồi hướng cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, đắc quả vị như vậy.

      Chúng ta lại xem đoạn kế tiếp trong trang hai trăm ba mươi bốn.

 

      Trung phẩm trung sanh giả, nhược hữu chúng sanh, nhược nhất nhật nhất dạ, tŕ Bát Giới Trai, nhược nhất nhật nhất dạ, tŕ Sa Di Giới, nhược nhất nhật nhất dạ, tŕ Cụ Túc Giới.

者。若 生。若 夜。持 齋。若 日一 夜。持 戒。若 夜。持 戒。

(Trung phẩm trung sanh là nếu có các chúng sanh, trong một ngày một đêm tŕ Bát Quan Trai Giới, hoặc một ngày một đêm tŕ Sa Di Giới, hoặc một ngày một đêm tŕ Cụ Túc Giới).

 

      Cụ Túc Giới là giới tỳ-kheo.

 

      Oai nghi vô khuyết, dĩ thử công đức hồi hướng, nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc, giới hương huân tu.

      缺。以 向。願 國。戒 修。

      (Oai nghi chẳng khuyết, dùng công đức này hồi hướng, nguyện cầu sanh về cơi Cực Lạc, giới hương huân tu).

 

       Đến chỗ này là nói về cái nhân văng sanh. Mười giới là Sa Di Giới. Sa Di Giới và Bát Quan Trai Giới hết sức gần gũi. Bát Quan Trai Giới là tại gia cư sĩ tu giới xuất gia một ngày, một đêm. Thời gian của Bát Quan Trai Giới là hai mươi bốn giờ, nếu muốn thọ lại bèn thọ như mới, có thể thọ mỗi ngày. Nếu chẳng có pháp sư, có thể đối trước h́nh tượng Phật, Bồ Tát để tự thọ giới này. [Bát Quan Trai Giới] có tám giới điều giống Sa Di Giới, [nhưng c̣n kèm thêm] một điều là Trai. Trai () là “quá trung bất thực” (sau giữa trưa không ăn), Trung () là giữa trưa. Giữa trưa mỗi ngày [xảy ra] vào thời điểm khác nhau, qua khỏi giữa trưa chẳng ăn. Nếu qua khỏi giữa trưa mà ăn thứ ǵ đó sẽ là phá trai, Bát Quan Trai Giới bị phá hỏng. Nói thật ra, trai giới này cũng chẳng dễ tŕ cho lắm. Buổi chiều chỉ có thể uống nước, ngay cả những thức uống khác cũng chẳng được dùng. V́ nói theo trai giới, trong thức uống chẳng thể có chất trầm lắng. Nếu để một lát, nó lắng xuống th́ không được dùng. Sữa trầm lắng, sữa đậu nành cũng trầm lắng, nước trái cây cũng trầm lắng. Mật chẳng trầm lắng, mật ḥa vào nước, sẽ chẳng trầm lắng, nên có thể dùng. Nước đường có thể dùng. Chú trọng trai, giữa trưa ăn một bữa, đó là Trai. Nếu sáng sớm ăn thêm một bữa cũng là phá trai, không được! Chắc chắn là giữa trưa ăn một bữa.

      Do đó, có rất nhiều đồng tu tŕ ngọ. Nói thật ra, tŕ ngọ có tất yếu hay không? Chư vị phải hiểu trai giới là h́nh thức, mục đích là đắc tâm thanh tịnh, mục đích ở chỗ này! Tŕ trai giới rất nghiêm, nhưng tâm chẳng thanh tịnh, trai giới bèn là phước báo hữu lậu trong thế gian, chẳng phải là cái nhân để văng sanh. Nếu cái nhân văng sanh mà nói như vậy th́ Tây Phương Cực Lạc thế giới hoàn toàn nói theo bề ngoài, chắc chắn là nói chẳng suông, nói theo lư luận chẳng thể thông suốt được! Nhân Giới đắc Định, nhân Định khai Huệ. Buổi tối ăn ít chắc chắn có lợi cho bản thân. Cổ nhân chủ trương ẩm thực như thế này: Sáng sớm ăn ngon, buổi trưa ăn no, buổi tối ăn ít. Buổi tối có thể chẳng ăn, đích xác là hết sức tốt. Người hiện thời có thói quen khác hẳn, buổi tối đến nửa đêm c̣n phải có bữa ăn khuya. Nhất là người ngoại quốc, bữa ăn chánh trong ngày của người ngoại quốc là bữa tối. Bữa chánh của người Hoa là bữa trưa, bữa chánh của người ngoại quốc là cơm tối. Bữa tối ăn rất nhiều, ăn rất ngon, v́ buổi trưa quá nửa là phải đi làm, tùy tiện ăn chút ǵ đó, đó là do thói quen ẩm thực và sinh hoạt khác nhau. Phải hiểu ẩm thực trong nhà Phật vẫn là nhằm giúp chúng ta tu Định, giúp cho tâm địa thanh tịnh, mục đích ở chỗ này. Đó là nói tới chuyện tŕ giới niệm Phật.

 

Như thử hành giả, mạng dục chung thời, kiến A Di Đà Phật, dữ chư quyến thuộc, phóng kim sắc quang, tŕ thất bảo liên hoa, chí hành giả tiền. Hành giả tự văn không trung hữu thanh, tán ngôn: “Thiện nam tử! Như nhữ thiện nhân, tùy thuận tam thế chư Phật giáo, cố ngă lai nghênh nhữ”.

者。命 時。見 佛。與 屬。放 光。持 華。至 前。行 聲。讚 子。如 人。隨 教。故 汝。

(Hành giả như thế lúc sắp mạng chung, thấy A Di Đà Phật và các quyến thuộc phóng quang minh sắc vàng, cầm hoa sen bảy báu, đến trước hành giả. Hành giả tự nghe trong hư không có tiếng khen ngợi rằng: “Này thiện nam tử! Như ông là thiện nhân, tùy thuận lời dạy của tam thế chư Phật, nên ta đến đón ông”).

 

      Ở đây, chúng ta lại thấy một câu kinh văn, “tùy thuận tam thế chư Phật giáo”. Tŕ giới niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, quá khứ, hiện tại, vị lai hết thảy chư Phật đều giáo hóa chúng sanh như vậy, khuyên hết thảy chúng sanh tŕ giới niệm Phật, văng sanh thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật, đó là lời dạy của tam thế chư Phật.

 

       Hành giả tự kiến tọa liên hoa thượng, liên hoa tức hợp, sanh ư Tây Phương Cực Lạc thế giới.

      上。蓮 合。生 西 界。

      (Hành giả tự thấy ngồi trên hoa sen, hoa sen liền khép lại, sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới).

 

      Đây là văng sanh.

 

      Tại bảo tŕ trung, kinh ư thất nhật, liên hoa năi phu. Hoa kư phu dĩ, khai mục, hợp chưởng, tán thán Thế Tôn, văn pháp hoan hỷ, đắc Tu Đà Hoàn. Kinh bán kiếp dĩ, thành A La Hán. Thị danh trung phẩm trung sanh giả.

中。經 日。蓮 敷。華 已。開 掌。讚 尊。聞 喜。得 洹。經 已。成 漢。是 者。

(Ở trong ao báu, trải qua bảy ngày, hoa sen mới nở. Hoa đă nở, bèn mở mắt, chắp tay, tán thán đức Thế Tôn, nghe pháp hoan hỷ, đắc Tu Đà Hoàn. Trải qua nửa kiếp, thành A La Hán. Đây là trung phẩm trung sanh).

 

      Phẩm vị này càng thấp hơn phẩm vị trước, t́nh h́nh tiếp dẫn cũng kém trước rất nhiều. Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, phải qua nửa kiếp mới có thể chứng quả A La Hán. Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có A La Hán, cũng chẳng có Tu Đà Hoàn, chúng ta đă đọc thấy điều này trong kinh Vô Lượng Thọ. Kinh nói những danh từ ấy đều là tỷ dụ quả vị của họ bằng với Tu Đà Hoàn và A La Hán trong các thế giới phương khác. Tu Đà Hoàn là đoạn hết Kiến Hoặc, A La Hán là đoạn hết Tư Hoặc. Xét theo quả vị của Đại Thừa Bồ Tát, Tu Đà Hoàn tương đương địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo, A La Hán tương đương địa vị Thất Tín Bồ Tát. Đạt đến Thất Tín, liền từ cơi Phàm Thánh Đồng Cư vượt lên cơi Phương Tiện, đạt đến cơi Phương Tiện Hữu Dư.

      Lại xem đoạn kế tiếp, [xem từ] hàng cuối cùng trong trang hai trăm ba mươi lăm.

 

      Trung phẩm hạ sanh giả, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, hiếu dưỡng phụ mẫu, hành thế nhân từ, thử nhân mạng dục chung thời, ngộ thiện tri thức, vị kỳ quảng thuyết A Di Đà Phật quốc độ lạc sự, diệc thuyết Pháp Tạng tỳ-kheo tứ thập bát nguyện. Văn thử sự dĩ, tầm tức mạng chung, thí như tráng sĩ khuất thân tư khoảnh, tức sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, kinh thất nhật dĩ, ngộ Quán Thế Âm, cập Đại Thế Chí, văn pháp hoan hỷ, đắc Tu Đà Hoàn, quá nhất tiểu kiếp, thành A La Hán. Thị danh trung phẩm hạ sanh giả, thị danh trung bối sanh tưởng, danh đệ thập ngũ quán.

者。若 人。孝 母。行 慈。此 時。遇 識。為 事。亦 願。聞 已。尋 終。譬 頃。即 西 界。經 已。遇 音。及 至。聞 喜。得 洹。過 劫。成 漢。是 者。是 想。名 觀。

 (Trung phẩm hạ sanh là nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân hiếu dưỡng phụ mẫu, làm chuyện nhân từ trong cơi đời, khi người ấy mạng chung, gặp thiện tri thức, v́ người ấy nói rộng răi những sự vui thú trong cơi nước của A Di Đà Phật, cũng nói bốn mươi tám nguyện của tỳ-kheo Pháp Tạng. Nghe chuyện ấy xong, ngay lập tức qua đời, ví như trong khoảng tráng sĩ co duỗi cánh tay, liền sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Qua khỏi bảy ngày, gặp Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, nghe pháp hoan hỷ, đắc Tu Đà Hoàn. Qua khỏi một tiểu kiếp, thành A La Hán. Đây gọi là trung phẩm hạ sanh, là phép quán tưởng văng sanh trong bậc trung, được gọi là phép Quán thứ mười lăm).

 

      Đối với trung phẩm hạ sanh, ở đây kinh văn tỉnh lược, trọn chẳng nói cặn kẽ. Người văng sanh là thiện nhân theo pháp thế gian, khi lâm chung bèn nghe thiện tri thức v́ người ấy thuyết pháp, người ấy có thể tin tưởng. Kinh chẳng nói Phật đến tiếp dẫn. Chúng ta hăy nghĩ xem Phật có thể chẳng đến tiếp dẫn hay không? Chẳng tiếp dẫn th́ làm sao người ấy có thể đến Tây Phương Cực Lạc thế giới cho được? Đọc kinh này, nhất định phải tham chiếu gộp lại cả ba kinh để xem, chúng ta mới có thể thấy viên măn sự thật này, mới có thể đoạn sạch hết thảy nghi hoặc. Trong bốn mươi tám nguyện, quư vị phải ghi nhớ điều này, căn cứ quan trọng nhất của Tây Phương Tịnh Độ là bốn mươi tám nguyện. Hết thảy chư Phật giới thiệu Tây Phương Cực Lạc thế giới, nếu mâu thuẫn hoặc xung đột với bốn mươi tám nguyện, chúng ta chớ nên tin tưởng. Dẫu là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật cũng chẳng ra ngoài lệ ấy, nhất định phải lấy bốn mươi tám nguyện làm căn cứ. Trong bốn mươi tám nguyện chẳng nói: “Từ trung phẩm hạ sanh trở xuống, ta sẽ không đến tiếp dẫn”, chẳng có câu ấy! Khi lâm chung Phật đến tiếp dẫn chính là bổn nguyện của A Di Đà Phật, Ngài nhất định sẽ đến. Dẫu là hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, đức Phật cũng đến tiếp dẫn.

      Nhất là trong hiện tại, kể như năm kia, [đối với chuyện văng sanh của] cư sĩ Châu Quảng Đại ở Washington DC, chúng ta thấy t́nh h́nh ấy giống t́nh h́nh ở đây. Ông ta thấy Tây Phương Tam Thánh đến tiếp dẫn. Ông ta chẳng nói có nhiều vị Phật, Bồ Tát, mà nói là Tây Phương Tam Thánh từ trên mây giáng xuống tiếp dẫn ông ta văng sanh. Khi lâm chung, ông ta niệm Phật ba ngày ba đêm, suốt đời chưa từng gặp gỡ Phật pháp, lúc lâm chung gặp thiện tri thức, khuyên ông ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Niệm ba ngày ba đêm, cảm A Di Đà Phật hiện tới. Người này cách chúng ta không xa, cũng là trong ṿng một hai năm mà thôi. Có một người văng sanh như thế, đó là quyết định văng sanh. Chính ông ta thấy Phật, kể với mọi người “Phật hiện đến’. Ông ta thấy Ngài từ trong mây giáng xuống, chẳng giả, quyết định là thật.

      Những chuyện giống như vậy, chúng ta nhất định phải đọc Đại Kinh mới hiểu trong kinh điển có những chỗ tỉnh lược. Ở đây tỉnh lược, nhưng trong kinh kia th́ có, giống như trong kinh Vô Lượng Thọ [có nhiều bản dịch], bản [dịch] này tỉnh lược, nhưng bản [dịch] khác th́ có. Có khi bản khác tỉnh lược, mà bản này lại có. Do Thích Ca Mâu Ni Phật nhiều lần tuyên thuyết, nên quả thật, hội tập là chuyện tất yếu. Hội tập giống như tất cả các bản chúng ta đều xem. Do Thích Ca Mâu Ni Phật nhiều lần tuyên thuyết, nên chúng ta đều nghe toàn bộ th́ ư nghĩa mới hoàn chỉnh, mới chẳng đến nỗi khuyết hăm! Cũng giống như vậy, gộp ba kinh lại để xem, lại c̣n phải xem gộp chung tất cả các bản [dịch khác nhau của cùng một kinh]. Như kinh Di Đà, trong bản dịch của Huyền Trang đại sư có những câu mà bản dịch của La Thập đại sư chẳng có, đủ để bổ sung những chỗ chưa đầy đủ trong bản dịch của ngài La Thập. Xem như vậy th́ mới có thể thấy hoàn toàn, khiến cho khá nhiều nghi vấn bị đoạn sạch, điều này rất trọng yếu!

      Chương cuối cùng là phép Quán thứ mười sáu, Hạ Phẩm Sanh Quán. Hạ phẩm văng sanh chú trọng tŕ danh. Chúng ta hăy xem kinh văn từ hàng cuối cùng trong trang hai trăm ba mươi tám.

 

       Phật cáo A Nan cập Vi Đề Hy: - Hạ phẩm thượng sanh giả, hoặc hữu chúng sanh, tác chúng ác nghiệp, tuy bất phỉ báng Phương Đẳng kinh điển, như thử ngu nhân, đa tạo ác pháp, vô hữu tàm quư, mạng dục chung thời, ngộ thiện tri thức, vị thuyết Đại Thừa thập nhị bộ kinh thủ đề danh tự, dĩ văn như thị chư kinh danh cố, trừ khước thiên kiếp cực trọng ác nghiệp. Trí giả phục giáo hợp chưởng xoa thủ, xưng Nam-mô A Di Đà Phật. Xưng Phật danh cố, trừ ngũ thập ức kiếp sanh tử chi tội.

      。下 者。或 生。作 業。雖 典。如 人。多 法。無 愧。命 時。遇 識。為 字。以 故。除 業。智 手。稱 佛。稱 故。除 罪。

(Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: - Hạ phẩm thượng sanh: Hoặc có chúng sanh làm các nghiệp ác, tuy chẳng phỉ báng kinh điển Phương Đẳng, nhưng kẻ ngu như thế tạo nhiều ác pháp, chẳng hề hổ thẹn. Lúc sắp mất, gặp thiện tri thức bảo cho biết tên gọi, tựa đề của mười hai thể loại kinh Đại Thừa. Do nghe tên các kinh như thế, trừ ác nghiệp cực nặng trong ngàn kiếp. Bậc trí lại dạy chắp tay, xưng niệm Nam-mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật, trừ tội trong năm mươi ức kiếp sanh tử).

 

      Từ đoạn này là nói về cái nhân văng sanh. Do nh́n từ sự tu nhân, có thể nói là bậc thượng và bậc trung văng sanh đều là tu phước, ba bậc văng sanh trong hạ phẩm đều là chúng sanh tạo tác tội nghiệp. Hai bậc trước đều là tu phước, là thiện nhân quân tử, là người có đạo đức trên thế gian, ba loại hạ này là những kẻ tạo tội nghiệp cạn hay sâu khác nhau. Thượng phẩm th́ tội nghiệp tương đối cạn, càng đi xuống, tội nghiệp càng nặng hơn. Đương nhiên là họ chẳng thể tu Quán, quán tưởng hay quán Phật đều chẳng làm được. Thiện hữu dạy kẻ ấy tŕ danh niệm Phật. Ở đây, chúng ta ắt cần phải biết một sự thật, những phương pháp quán tưởng và quán tượng, người nghiệp chướng rất nặng chẳng thể tu, chẳng có cách nào tu được, nhưng chấp tŕ danh hiệu có thể độ kẻ ấy. Quư vị hăy suy nghĩ: Giữa ba phương pháp niệm Phật ấy, tức là so giữa quán tưởng, quán tượng và tŕ danh, loại nào thù thắng? Hăy nên biết điều này! Hết thảy các phương pháp chẳng thể độ được, nhưng phương pháp này có thể độ, [chứng tỏ] phương pháp này thù thắng bậc nhất, phải biết điều này. Do đó, trong mười sáu phép Quán có nói đến phương pháp này, pháp thù thắng khôn sánh là tŕ danh niệm Phật. Tŕ danh niệm Phật có thể độ chúng sanh khổ sở cùng cực trong địa ngục, những loại [chúng sanh] khác chẳng cần phải nói nữa! Do đều độ được, nên mười phương tam thế hết thảy chư Phật, Bồ Tát, chẳng có vị nào không đề xướng tŕ danh.

Kinh Vô Lượng Thọ đề xướng tŕ danh niệm Phật, kinh A Di Đà cũng đề xướng tŕ danh niệm Phật. V́ sao không đề xướng quán tưởng và quán tượng? Quư vị đă biết: Dùng các phương pháp ấy mà có thể văng sanh, là để độ người nghiệp chướng tương đối nhẹ; c̣n kẻ nghiệp chướng sâu nặng, phải cậy vào phương pháp này, chứ hai phương pháp trước chẳng thể độ. Phương pháp này mới là pháp môn phương tiện thù thắng khôn sánh, thành tựu hết thảy chúng sanh.

      Giáo pháp viên đốn chủ trương: Dẫu tội nghiệp nặng nề nhất, sám hối đều có thể diệt trừ; bởi lẽ, một niệm hồi tâm bèn có thể cảm ứng đạo giao cùng Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhưng một người mà gặp được thiện tri thức trong một đời rất khó khăn. Nói thật ra là do thiện căn, phước đức, nhân duyên trong nhiều đời đă chín muồi. Thầy và tṛ cũng lại như thế: Một vị thầy tốt chỉ có thể gặp, chứ không thể cầu, chúng ta đến đâu để t́m? T́m chẳng thấy! Thầy muốn t́m học tṛ để truyền pháp cũng chẳng t́m được. Lăo cư sĩ Hạ Liên Cư suốt một đời chỉ truyền được một người là lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, truyền có một người! [Thầy] có bao giờ chẳng mong truyền được nhiều người, nhưng t́m không ra, đấy là cơ duyên, nên t́m không thấy. Thuở ấy, thầy Lư ở Đài Trung, mỗi lần tôi gặp thầy đều khuyên lăo nhân gia truyền thêm cho mấy người. V́ chúng tôi ở ngoài giảng kinh rất vất vả, luôn cảm thấy quá cô đơn, sư huynh, sư đệ đông hơn một tí th́ hay hơn, có thể giúp đỡ lẫn nhau. Tôi nói lời ấy nói chung là mười mấy lượt, hoặc hai mươi lượt. Mỗi lần nói xong, thầy đều gật gù: “Đúng lắm!” Lần cuối tôi nói với thầy, thầy bảo tôi: “Anh hăy t́m học tṛ giùm cho tôi!” Từ đấy trở đi, tôi không nói nữa, tôi đă biết rồi! T́m không thấy! Đến nơi đâu để t́m? Học tṛ phải thỏa điều kiện ǵ? Phục tùng một trăm phần trăm, tôi t́m ở đâu ra? Tôi t́m không thấy. Trong xă hội hiện thời, t́m một học sinh nghe lời như vậy, xác thực là t́m chẳng thấy!

      Các đồng tu theo tôi xuất gia, nói theo pháp sư Diễn Bồi đều là đồng tham đạo hữu, chẳng thể coi họ là đồ đệ, hoặc coi là học tṛ, không thể! Quư vị coi những người ấy là đồ đệ hoặc học tṛ th́ sai mất rồi, sai lầm rất to. Đồng tham đạo hữu, là bạn bè, lấy đâu ra học tṛ? Học tṛ là phục tùng một trăm phần trăm, đó là học tṛ. Không thể phục tùng, mọi người ở chung một chỗ, đối xử hoan hỷ với nhau, là bè bạn, phải cung kính lẫn nhau, phải khách sáo. Chúng ta đều gọi nhau là pháp sư, [nếu là] đồ đệ thật sự sẽ chẳng có lối xưng hô khách sáo như thế. Sư phụ đối với tṛ giống như cha mẹ, gọi [học tṛ] bằng tên. Do đó, đối xử khách sáo với quư vị, liền biết trong xă hội hiện thời khác hẳn, đôi bên ở chung với nhau là đồng tham mà thôi!

      Thầy tṛ đạo hợp từ xưa tới nay là chuyện khó khăn, khá khó khăn. Đạt Ma Tổ Sư là bậc thánh nhân như thế, tới chùa Thiếu Lâm mà c̣n phải nh́n vào vách suốt chín năm, chờ một học tṛ, truyền pháp cho một người. Từ Đạt Ma cho đến Ngũ Tổ, mỗi đời đều là truyền pháp cho một người. Huệ Năng đại sư nhân duyên tụ hội, duyên đă chín muồi, nên truyền cho bốn mươi ba người. Trong lịch sử quá khứ của Thiền Tông tại Trung Hoa chẳng có chuyện này, măi cho đến hiện thời cũng chẳng có, truyền được nhiều người như thế. Sau Lục Tổ, [có những vị] truyền được hai ba người, nhưng chẳng có ai thù thắng như Lục Tổ. Thiện tri thức thật sự khó gặp, bản thân chúng ta cầu pháp cũng thật sự chẳng dễ dàng! Do đó, phải thật sự giác ngộ, triệt để giác ngộ. Triệt để giác ngộ thực hiện từ chỗ nào? Tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, quyết định chẳng dính mắc. Hễ dính mắc, toàn bộ đều bị hủy hoại. Xă hội hiện thời chỗ nào cũng đầy ắp dụ dỗ, mê hoặc, quư vị có thể chống đỡ hay không? Có thể chẳng bị dụ dỗ, mê hoặc hay không? Khó lắm! V́ thế, có người hỏi tôi: “Phải thỏa điều kiện ǵ th́ mới có thể hoằng pháp lợi sanh?” Những điều kiện khác tôi đều chẳng bàn tới, tôi chỉ nói hai điều kiện: “Thứ nhất là nội tâm thanh tịnh, chẳng sanh phiền năo; thứ hai là chẳng bị ngoại cảnh dụ dỗ, mê hoặc”. Quư vị có thể làm được hai điều ấy, chắc là cũng có thể [hoằng pháp lợi sanh]. Chẳng làm được hai điều ấy, hăy khéo niệm Phật, có thể văng sanh th́ khá lắm, chẳng dễ dàng đâu nhé! Hoàn cảnh bên ngoài có sức dụ dỗ, mê hoặc to lớn! Đây là nói rơ chuyện sám hối tội lỗi văng sanh. Chúng ta lại xem phần kinh văn tiếp theo.

 

      Nhĩ thời bỉ Phật tức khiển hóa Phật, hóa Quán Thế Âm, hóa Đại Thế Chí, chí hành giả tiền, tán ngôn: “Thiện nam tử! Dĩ nhữ xưng Phật danh cố, chư tội tiêu diệt, ngă lai nghênh nhữ”.

佛。化 音。化 至。至 前。讚 子。以 故。諸 滅。我 汝。

 (Lúc bấy giờ, đức Phật ấy liền sai hóa Phật, hóa Quán Thế Âm, hóa Đại Thế Chí tới trước hành giả, khen rằng: “Thiện nam tử! Do ông xưng danh hiệu Phật, nên các tội tiêu diệt, ta đến đón ông”).

 

      Quư vị thấy Tây Phương Tam Thánh xuất hiện. Phàm là đến nghênh đón, tất cả đều là hóa Phật. Trong phần thượng phẩm thượng sanh, tuy kinh chẳng nói đến hóa Phật, chúng ta nghĩ xem có phải là Phật đích thân đến ư? Người đồng thời văng sanh trong mười phương thế giới quá đông, A Di Đà Phật đến đón như vậy, làm sao cho xuể, mệt chết luôn! Do đó, tất cả đều là hóa Phật. Bất quá hóa thành vị Phật nào sẽ tùy thuộc tâm chúng sanh. Phật chẳng nghĩ ta cần hóa ra h́nh dạng nào để đến tiếp dẫn, chẳng phải vậy! Biến hóa thuận theo tâm niệm của chúng sanh. Phật có tâm hay không? Phật chẳng có tâm, do tâm niệm của chính chúng ta mà hóa Phật. Vị Phật ấy lớn hay nhỏ, tướng hảo trang nghiêm, thù thắng khác nhau, tùy thuộc cảnh giới của chính ḿnh mà biến hóa.

      Giống như chúng ta gơ khánh, chúng ta vừa gơ, khánh liền ngân vang. Khánh ngân vang, nhưng nó chẳng có phân biệt, chấp trước: “Ta phải vang ra tiếng như thế nào? Ứng như thế nào?” Chẳng có! Quư vị gơ mạnh, nó sẽ kêu to. Quư vị gơ nhẹ, nó sẽ ngân nhẹ. Âm thanh lớn hay nhỏ, dài hay ngắn đúng như quư vị cảm, cảm ứng đạo giao là như vậy đó! V́ thế, dẫu là hạ hạ phẩm văng sanh, đều là Phật đến tiếp dẫn, Phật hóa thân tận hư không khắp pháp giới. Đó là trạng huống thật sự trên thực tế, chúng ta phải hiểu! Hạ phẩm thượng sanh mà Tam Thánh đều đến tiếp dẫn, trung phẩm hạ sanh cao hơn loại này, lẽ nào Phật chẳng đến đón rước? V́ thế, nh́n vào phần kinh văn trước và sau, ta biết trong phần trước quyết định là có [Tam Thánh đến tiếp dẫn].

 

      Tác thị ngữ dĩ, hành giả tức kiến hóa Phật quang minh, biến măn kỳ thất.

      已。行 明。遍 滿 室。

      (Nói lời ấy xong, hành giả liền thấy quang minh của hóa Phật trọn khắp căn thất của chính ḿnh).

 

      Trước hết, thấy Phật quang.

 

      Kiến dĩ hoan hỷ, tức tiện mạng chung, thừa bảo liên hoa, tùy hóa Phật hậu, sanh bảo tŕ trung, kinh thất thất nhật, liên hoa năi phu. Đương hoa phu thời.

喜。即 便 終。乘 華。隨 後。生 中。經 日。蓮 敷。當 時。

(Đă thấy bèn hoan hỷ, liền mạng chung, ngồi trên hoa sen báu, theo sau hóa Phật, sanh trong ao báu, trải qua bốn mươi chín ngày, hoa sen mới nở. Ngay trong lúc hoa nở).

 

      “Phu” () là nở.

 

Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, cập Đại Thế Chí Bồ Tát, phóng đại quang minh, trụ kỳ nhân tiền, vị thuyết thậm thâm thập nhị bộ kinh. Văn dĩ tín giải, phát vô thượng đạo tâm, kinh thập tiểu kiếp, cụ bách pháp minh môn, đắc nhập Sơ Địa. Thị danh hạ phẩm thượng sanh giả.

薩。及 薩。放 明。住 前。為 經。聞 解。發 心。經 劫。具 門。得 地。是 者。

(Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, phóng quang minh to lớn, ở trước người ấy, v́ người ấy nói mười hai bộ kinh rất sâu. Nghe rồi tin hiểu, phát vô thượng đạo tâm. Trải qua mười tiểu kiếp, trọn đủ bách pháp minh môn, được nhập Sơ Địa. Đó gọi là hạ phẩm thượng sanh).

 

      Đây là người hạ phẩm thượng sanh. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, sau mười tiểu kiếp bèn chứng đắc quả vị Sơ Địa Bồ Tát. Sơ Địa là tăng cao tới cơi Thật Báo Trang Nghiêm, bậc Địa Thượng Bồ Tát sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Đối với chú giải cho đoạn này, chúng ta hăy đọc lời chú giải trong trang hai trăm bốn mươi. Xin xem hàng thứ hai, từ câu thứ hai: “Viên Đốn giáo thuyết, tội vô khinh trọng, hối giả giai diệt” (Nói theo giáo pháp viên đốn, tội chẳng có nặng hay nhẹ, hễ sám hối đều tiêu diệt). Sám hối có sức mạnh vô cùng to tát. “Như tiên dục sát chư bà-la-môn” (như có tiên nhân muốn giết các bà-la-môn), nêu ra một câu chuyện trong kinh điển, tức là một công án được kể trong kinh điển. “Dục” là mưu toan, ư nói tiên nhân mưu tính giết Bà-la-môn, “địa ngục tam niệm, tri báng Phương Đẳng, tâm sanh cải hối, tức sanh Phật quốc” (ở trong địa ngục [trong khoảng thời gian chừng bằng] ba niệm, biết là đă báng bổ kinh Phương Đẳng, sanh ḷng hối cải, liền sanh về cơi Phật). Nêu ra một thí dụ, kẻ tạo tội nghiệp cực nặng, nếu chẳng sám hối cầu sanh Tịnh Độ, nhất định đọa A Tỳ địa ngục, tội nặng như vậy, thật sự hối cải th́ vẫn có thể văng sanh. Tiếp đó là khai thị của pháp sư Đế Nhàn lăo nhân gia: “Thiết vị, thử nhân pháp tuy bất báng” (trộm cho rằng người này tuy chẳng báng pháp), ư nói người hạ phẩm thượng sanh tuy chẳng báng pháp, “kỳ dư nhất thiết ác nghiệp, vô bất cụ tạo” (hết thảy các ác nghiệp khác, không ǵ chẳng tạo tác đầy đủ), mười ác nghiệp kẻ ấy đều tạo. “Dĩ kỳ vô tàm quư cố, vô sở bất vi dă” (do kẻ ấy chẳng hổ thẹn, nên không điều ǵ chẳng làm). Chúng ta có thể thấy điều này phổ biến trong xă hội hiện tiền, thậm chí bản thân chúng ta cũng chẳng tránh khỏi thuộc về hạng người này. Chính ḿnh ắt cần phải giác ngộ, phải quay đầu. “Hảo tại lâm chung ngộ duyên, tự phi túc thiện sở truy, vạn bất năng hữu thử kiêu hănh” (khéo sao lúc lâm chung gặp duyên, nếu chẳng phải do điều thiện từ xưa gây ra, muôn phần chẳng thể nào có chuyện may mắn như vậy). Do đó, nói thật ra, người ấy trong đời này có thể gặp duyên, có thể hối cải văng sanh, vẫn là do thiện căn phước đức nhân duyên nhiều đời nhiều kiếp hiện hành vào lúc đó, tuyệt đối chẳng có lẽ nào là may mắn!

Đản văn chư kinh thủ đề danh tự, tiện trừ thiên kiếp trọng tội, đại pháp bất khả tư nghị” (nhưng chỉ nghe tên gọi tựa đề của các kinh, liền trừ được trọng tội trong ngàn kiếp, đại pháp chẳng thể nghĩ bàn), ư nói nghe tên kinh có thể diệt tội. V́ lẽ đó, người Nhật [theo Nhật Liên Tông] chẳng niệm kinh, mà cũng chẳng niệm Phật hiệu, họ niệm Nam-mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh là từ chỗ này. Tên kinh Đại Thừa có thể diệt tội, đúng vậy, trong kinh quả thật có cách nói như vậy. Nhưng [cách hành tŕ của tín đồ Nhật Liên Tông] là một thứ thiên kiến, chấp trước, họ chẳng hiểu ư nghĩa bao hàm trong tựa đề kinh! Tôi đến thăm Nhật Bản, hỏi rất nhiều người, họ biết niệm, nhưng hỏi ư nghĩa là ǵ? Không biết! Như vậy th́ rất khó! Nhất định phải hiểu ư nghĩa. Chẳng hiểu ư nghĩa, lợi ích hết sức ít ỏi. Chuyện này giống như trẻ nhỏ ca hát, đứa bé ba bốn tuổi có thể hát quốc ca Tam Dân Chủ Nghĩa[10], nhưng Tam Dân Chủ Nghĩa là ǵ? Nó chẳng biết, chẳng có tác dụng!

      Do vậy, niệm danh hiệu Phật cũng giống như thế. Niệm danh hiệu Phật, Danh (tên kinh) là tổng cương lănh của kinh. Nếu hiểu rơ danh nghĩa (ư nghĩa bao hàm trong tên gọi một bản kinh), liền suy ra được quá nửa ư nghĩa của cả bài kinh. Như vậy th́ mới có thể thọ tŕ, mới có thể đạt được lợi ích chân thật. Đâu có lẽ nào nghe tên kinh mà chẳng hiểu ư nghĩa, [cứ niệm suông mà vẫn đạt được lợi ích]! Chẳng thể nào có chuyện ấy, rất khó đạt được lợi ích chân thật. Ví như chúng ta nói đến bộ kinh này, giới thiệu đại lược như vậy, sẽ hữu ích rất lớn cho việc niệm Phật của chúng ta. Nếu chúng ta chẳng đọc, chẳng nghiên cứu, chẳng t́m ṭi, sẽ thường là niệm danh hiệu mà tự cảm thấy chẳng đắc lực. Tuy niệm hằng ngày, nhưng chẳng có thọ dụng. Hiểu rơ điều này, đă hiểu danh hiệu, sẽ khởi tác dụng, giống như trong khi niệm, tâm dấy lên biến hóa. Khi chẳng hiểu rơ, tuy niệm, niệm rất siêng năng, nhưng trong tâm chẳng dấy lên biến hóa; có thể thấy là nhất định phải biết ư nghĩa của tựa đề kinh. Tựa đề của hết thảy các kinh, nếu nói thực tại, ư nghĩa rơ rệt nhất, hoàn bị nhất, không ǵ hơn được Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh. Quả thật, tựa đề kinh ấy hết sức viên măn, Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh. V́ thế, quả thật là phẩm vị văng sanh cao hay thấp là do gặp duyên khác nhau. Chúng ta tan học!

 

Tập 28

 

Xin mở kinh bổn, hai trăm bốn mươi mốt, xem đoạn thứ hai, Hạ Phẩm Trung Sanh.

 

      Phật cáo A Nan cập Vi Đề Hy: Hạ phẩm trung sanh giả, hoặc hữu chúng sanh hủy phạm Ngũ Giới, Bát Giới, cập Cụ Túc Giới. Như thử ngu nhân thâu Tăng Kỳ vật, đạo hiện tiền tăng vật, bất tịnh thuyết pháp. Vô hữu tàm quư, dĩ chư ác nghiệp, nhi tự trang nghiêm. Như thử tội nhân, dĩ ác nghiệp cố, ưng đọa địa ngục, mạng dục chung thời, địa ngục chúng hỏa, nhất thời câu chí, ngộ thiện tri thức, dĩ đại từ bi, tức vị tán thuyết A Di Đà Phật thập lực oai đức, quảng tán bỉ Phật quang minh thần lực, diệc tán Giới, Định, Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến. Thử nhân văn dĩ, trừ bát thập ức kiếp sanh tử chi tội, địa ngục mănh hỏa, hóa vi thanh lương phong, xuy chư thiên hoa, hoa thượng giai hữu hóa Phật, Bồ Tát, nghênh tiếp thử nhân, như nhất niệm khoảnh, tức đắc văng sanh thất bảo tŕ trung liên hoa chi nội.

希。下 者。或 生。毀 戒。及 戒。如 人。偷 物。盜 物。不 法。無 愧。以 業。而 嚴。如 人。以 故。應 獄。命 時。地 火。一 至。遇 識。以 悲。即 德。廣 力。亦 見。此 已。除 罪。地 火。化 風。吹 華。華 薩。迎 人。如 頃。即 內。

(Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: - Hạ phẩm trung sanh, nếu có chúng sanh, hủy phạm Ngũ Giới, Bát Giới, và Cụ Túc giới. Kẻ ngu như thế, trộm vật của Tăng Kỳ, ăn trộm vật của hiện tiền tăng, bất tịnh thuyết pháp, chẳng hề hổ thẹn. Dùng các ác nghiệp để tự trang nghiêm. Kẻ tội như thế, do v́ ác nghiệp, đáng đọa địa ngục, lúc mạng sắp chấm dứt, các ngọn lửa địa ngục cùng lúc ùa tới, gặp thiện tri thức, do ḷng đại từ bi, liền v́ người đó khen nói oai đức thập lực của A Di Đà Phật, tán dương rộng răi quang minh và thần lực của đức Phật ấy, cũng tán thán Giới, Định, Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến. Người ấy nghe xong, trừ tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Lửa dữ trong địa ngục hóa thành gió trong mát, thổi các hoa trời. Trên hoa đều có hóa Phật, Bồ Tát nghênh đón người ấy. Như trong khoảng một niệm, liền được văng sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu).

 

      Trong đoạn này, phần trước nói đến cái nhân văng sanh, phần sau nói về trạng huống văng sanh, nói về cái nhân văng sanh rất nhiều. Trong đoạn này, chúng ta thấy người văng sanh khi c̣n sống đă phá giới, hủy phạm Ngũ Giới và Cụ Túc Giới, đây là kẻ phá giới. Trong kinh, đặc biệt nêu ra hai chuyện, một là trộm cắp, hai là “bất tịnh thuyết pháp”. Bất tịnh thuyết pháp là thuyết pháp như một thủ đoạn để đạt được tiếng tăm, lợi dưỡng trong thế gian, những kiểu như vậy đều được gọi là bất tịnh thuyết pháp, được gọi là “buôn bán Như Lai”[11], nhằm mục đích tự tư tự lợi, nên quả báo đều là địa ngục. Nếu lúc lâm chung, gặp gỡ thiện hữu v́ kẻ ấy tán thán y báo và chánh báo trang nghiêm thù thắng trong cơi Tây Phương, khuyên kẻ ấy niệm Phật, người ấy một niệm hồi tâm th́ cũng có thể văng sanh. Nhưng chư vị phải hiểu: Trên thực tế, tuyệt đối chẳng đơn giản như thế, nguyên nhân v́ đâu? Vẫn là một câu như kinh Di Đà đă dạy: “Chẳng thể do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cơi ấy!” Quư vị nói kẻ ấy suốt đời tạo tội nghiệp, lấy đâu ra thiện căn, phước đức, nhân duyên? Chư vị phải hiểu: Thiện căn, phước đức, nhân duyên đă tu trong đời quá khứ. Kẻ ấy đă tạo tội nghiệp v́ đời này chẳng gặp thiện duyên, chẳng gặp gỡ thiện tri thức, giao du với bạn bè xấu xa, nên suốt một đời này tạo tội nghiệp, chẳng phải là đời trước kẻ ấy chẳng có thiện căn sâu dầy. Chính v́ đời trước thiện căn sâu dầy, cũng giống như trong kinh đă nói, đời quá khứ từng cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như Lai, nên khi lâm chung, nhắc nhở kẻ ấy một câu, thiện căn của kẻ ấy bèn có thể hiện tiền. Nếu chẳng có thiện căn sâu dầy dường ấy, khi lâm chung, quư vị khuyên kẻ ấy niệm Phật, kẻ ấy chẳng thích nghe! Chuyện này chúng tôi cũng đă từng thật sự trông thấy!

      Lúc tôi mới xuất gia, tại chùa Lâm Tế ở Viên Sơn, chùa Lâm Tế có hội Niệm Phật, cho măi đến hiện thời vẫn c̣n. Hội Niệm Phật ấy đă tồn tại hơn ba mươi năm. Phó hội trưởng của hội Niệm Phật là cư sĩ Lâm Đạo Kỳ. Thuở ấy, ông ta là Tương Lư[12] của Đài Loan Ngân Hàng, địa vị cũng rất cao, là đại hộ pháp của chùa Lâm Tế, làm phó hội trưởng hội Niệm Phật. Ông ta có thể đánh pháp khí, làm duy-na[13], gơ pháp khí rất khéo. Ông ta bị ung thư, qua đời. Khi lâm chung, chúng tôi đến niệm Phật giúp ông ta, nhưng ông ta chẳng nghe. Nghe Phật hiệu cảm thấy chán ghét, chửi mắng người ta! Lâm chung nghiệp chướng hiện tiền, chúng tôi thấy ông ta suốt cả một đời chẳng tạo trọng tội mà lại như thế, mới biết chuyện văng sanh nhất định phải là thiện căn, phước đức, nhân duyên đầy đủ, chẳng phải là chuyện đơn giản! Trong đời quá khứ chẳng có cơ sở sâu dầy như vậy, nói là dựa vào một đời này bèn có thể văng sanh, chẳng thể nào có chuyện ấy! Nếu trong một đời mà dễ văng sanh như vậy, pháp môn này cũng chẳng cần phải gọi là “pháp khó tin”. Xác thực là phải có cơ sở sâu dầy, hiện tiền được Tam Bảo gia tŕ, cho nên người ấy một niệm hồi tâm, có thể tiêu diệt các tội, văng sanh là như vậy đó.

      Chú giải cho đoạn này có nói: “Thử phẩm hành nhân, hữu đạo tục nhị loại” (Hành nhân thuộc phẩm này có hai loại là đạo và tục), có người tu hành và có tại gia cư sĩ. Tại gia cư sĩ th́ “tục nhân hoặc hủy Ngũ Giới, Bát Giới” (người thế tục hoặc hủy năm giới, tám giới), đó là hàng tại gia, “tỳ-kheo hoặc phạm Cụ Túc đại giới, như thử nhị loại, giai thị bất trí ngu nhân” (tỳ-kheo hoặc phạm Cụ Túc đại giới. Hai loại người ngu, thiếu trí như thế). Nói đến trộm cắp, đặc biệt Thường Trụ, “thâu thường trụ vật” là trộm cắp những vật trong chùa chiền, tội ấy quá nặng, chư vị phải hiểu điều này. V́ kẻ ấy kết tội khác hẳn! Ví như chúng ta trộm cắp đồ vật của một người, đối tượng phạm tội của chúng ta là chỉ riêng người ấy, đối tượng ấy dễ giải quyết. Nếu chúng ta trộm cắp đồ vật của cơ quan chánh phủ, chẳng hạn như điện thoại công cộng do chánh phủ lắp đặt, [chi phí lắp đặt lấy] từ tiền thu thuế của dân chúng tại nơi ấy, họ đóng thuế để lắp đặt. Nếu quư vị trộm cắp vật ấy, sẽ kết tội với ai? Với dân chúng nơi ấy. Phàm là ai đóng thuế, [coi như] quư vị đều ăn trộm đồ vật của người ấy, phiền phức to lớn! Tội ấy quá nặng, do chẳng hiểu rơ chuyện này. Nếu những thứ lắp đặt công cộng do quốc gia tạo lập, quư vị ăn trộm nó, ăn trộm một đồng tức là quư vị đă mắc tội với dân chúng cả nước. V́ lẽ đó, kết tội khác nhau.

      “Tăng Kỳ vật” (Saṃghika) là vật trong chùa miếu[14]. Xưa kia, chùa miếu là thập phương thường trụ, phàm là người xuất gia đều có phần. Không chỉ là người xuất gia trong thế giới này có phần, mà tận hư không khắp pháp giới, người xuất gia thuộc các cơi Phật nơi phương khác cũng đều có phần. V́ chỉ cần là người xuất gia, chẳng có giới hạn. Cơi Phật chẳng có giới hạn, nên tội này vĩnh viễn chẳng thể trang trải xong. V́ thế, kinh luận đôi ba lượt khuyên lơn chúng ta, quyết chẳng thể lấy trộm những thứ trong tự viện. Hễ lấy trộm, quyết định là tội nghiệp A Tỳ, chẳng giống như tội trộm đồ của một, hai người, khác hẳn! Mắc tội c̣n nặng hơn trộm đồ của quốc gia, v́ phạm vi to lớn, số người đông đảo, phải hiểu mối quan hệ như vậy. Đương nhiên, hiện thời tự viện đă biến chất rất nhiều. [Trộm cắp] của thập phương thường trụ thật sự th́ mới có tội nặng như thế. Nếu chẳng phải là thập phương thường trụ, sẽ chẳng có tội nặng như thế. Chùa miếu thập phương thường trụ là sở hữu của hết thảy người xuất gia thọ giới, khi họ đến đó, đều có thể quải đơn, đều có thể thọ dụng. Hiện thời có rất nhiều tự miếu được gọi là “tử tôn miếu”[15], phạm vi kết tội của tử tôn miếu rất nhỏ, rất ít. Chúng thường trụ trong các chùa miếu của họ nhiều nhất là hộ pháp, hoặc tín đồ của ngôi tự viện ấy, chẳng thể nào kết tội với người ngoài. V́ sao? Người ngoài đến quải đơn họ chẳng chấp thuận, như vậy th́ chẳng phải là thập phương thường trụ.

      Tại Trung Quốc đại lục, xưa kia tùng lâm tự viện đều là thập phương thường trụ, về sau diễn biến thành tử tôn miếu. Trong thập phương thường trụ, Trụ Tŕ và Đương Gia được bầu ra, nhiệm kỳ một năm, ngày Ba Mươi tháng Chạp bèn từ chức, mồng Một tháng Giêng, các vị tân chấp sự sẽ đảm nhiệm. Đó là do bầu cử mà thành, chẳng phải là họ thích giao cho ai bèn giao cho người đó, chẳng phải như vậy. Đương nhiên, vị Trụ Tŕ cũ có thể đề cử, nhưng phải được đại chúng đồng ư th́ mới được. V́ lẽ đó, trong Phật giáo, từ xưa tới nay, thực hành chế độ tuyển cử dân chủ, chẳng phải là chuyên chế. Tội ấy hết sức nặng nề. “Bất tịnh thuyết pháp” là trọng tội, v́ phá hoại h́nh tượng của Phật pháp, tội này trọng đại, xấu ác tới tột cùng! Đoạn tiếp theo là nói về lợi ích.

 

      Kinh ư lục kiếp, liên hoa năi phu. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, dĩ phạm âm thanh, an ủy bỉ nhân, vị thuyết Đại Thừa thậm thâm kinh điển, văn thử pháp dĩ, ứng thời tức phát vô thượng đạo tâm. Thị danh hạ phẩm trung sanh giả.

      劫。蓮 敷。觀 至。以 聲。安 人。為 典。聞 已。應 心。是 者。

(Trải qua sáu kiếp, hoa sen mới nở. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí dùng tiếng phạm âm an ủi kẻ ấy, v́ người ấy nói kinh điển Đại Thừa rất sâu. Nghe pháp ấy xong, ngay lập tức phát khởi vô thượng đạo tâm. Đó gọi là hạ phẩm trung sanh).

 

      Đoạn này nói về lợi ích. Cuối cùng, hăy xem hạ phẩm hạ sanh. Hạ phẩm hạ sanh là kẻ tạo tội cực nặng Ngũ Nghịch, Thập Ác.

 

       Phật cáo A Nan cập Vi Đề Hy: - Hạ phẩm hạ sanh giả, hoặc hữu chúng sanh, tác bất thiện nghiệp, Ngũ Nghịch, Thập Ác, cụ chư bất thiện. Như thử ngu nhân, dĩ ác nghiệp cố, ưng đọa ác đạo, kinh lịch đa kiếp, thọ khổ vô cùng. Như thử ngu nhân, lâm mạng chung thời, ngộ thiện tri thức, chủng chủng an ủy, vị thuyết diệu pháp, giáo linh niệm Phật. Thị nhân khổ bức, bất hoàng niệm Phật, thiện hữu cáo ngôn: “Nhữ nhược bất năng niệm bỉ Phật giả, ưng xưng Vô Lượng Thọ Phật”.

      希。下 者。或 生。作 業。五 惡。具 善。如 人。以 故。應 道。經 劫。受 窮。如 人。臨 時。遇 識。種 慰。為 法。教 佛。彼 逼。不 佛。善 言。汝 者。應 佛。

      (Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: - Hạ phẩm hạ sanh là hoặc có chúng sanh, tạo nghiệp chẳng lành, Ngũ Nghịch, Thập Ác, đầy đủ các điều chẳng lành. Kẻ ngu như thế, do ác nghiệp đáng đọa ác đạo, trải qua nhiều kiếp, chịu khổ vô cùng. Người ngu như thế, lúc lâm chung, gặp thiện tri thức an ủi mọi lẽ, v́ người ấy nói pháp mầu, dạy kẻ ấy hăy niệm Phật. Kẻ ấy bị sự khổ bức bách, chẳng rảnh để niệm đức Phật ấy, bạn lành bảo rằng: “Nếu ngươi chẳng thể niệm đức Phật ấy, hăy nên xưng niệm Vô Lượng Thọ Phật”).

     

Xưng” () là xưng niệm, c̣n chữ “niệm” trong câu trước là quán tưởng hoặc quán tượng. Quán tưởng và quán tượng đều chẳng kịp th́ hăy nên xưng niệm Vô Lượng Thọ Phật.

 

       Như thị chí tâm, linh thanh bất tuyệt, cụ túc thập niệm, xưng Nam-mô A Di Đà Phật. Xưng Phật danh cố, ư niệm niệm trung, trừ bát thập ức kiếp sanh tử chi tội. Mạng chung chi thời, kiến kim liên hoa, do như nhật luân, trụ kỳ nhân tiền, như nhất niệm khoảnh, tức đắc văng sanh Cực Lạc thế giới.

      心。令 絕。具 念。稱 佛。稱 故。於 中。除 罪。命 時。見 華。猶 輪。住 前。如 頃。即 界。

      (Chí tâm như thế khiến cho âm thanh chẳng dứt, đầy đủ mười niệm xưng Nam-mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật, trong mỗi niệm, trừ tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Khi mạng chung, thấy hoa sen vàng giống như vầng mặt trời, ở trước người ấy. Như trong khoảng một niệm, liền được văng sanh thế giới Cực Lạc).

 

      Đoạn kinh văn này hoàn toàn tương ứng với nguyện thứ mười tám của A Di Đà Phật, “mười niệm ắt sanh”. Đó là lâm chung mười niệm, mười niệm là mười câu, chẳng phải hết một hơi là một niệm, mà là mười câu Phật hiệu có thể diệt tội văng sanh, lại c̣n là người tội nghiệp cực nặng. Nhưng chư vị vẫn phải nhớ, như tôi vừa mới chỉ ra, thiện căn, phước đức, nhân duyên trong nhiều đời, nhiều kiếp của người ấy đă chín muồi. Nếu không, trong khi lâm chung, nói thật ra, kẻ tạo tội nghiệp sâu nặng như vậy, lúc lâm chung đầu óc sáng suốt, vẫn chẳng điên đảo, rất khó có! Người b́nh phàm hễ bị bệnh, khi bệnh nặng, người nhà quyến thuộc c̣n chẳng nhận ra được, há c̣n có thể niệm Phật ư? V́ vậy, người văng sanh, điều kiện thứ nhất là đầu óc phải tỉnh táo, điều này hết sức khó đạt được! V́ thế, phàm kẻ tội nghiệp hối lỗi văng sanh như vậy, nhất định phải trọn đủ ba điều kiện khẩn yếu:  

- Thứ nhất là tỉnh táo.

- Thứ hai là gặp duyên, có thiện hữu khuyên nhủ.

- Điều kiện thứ ba: Vừa nghe liền lập tức tiếp nhận, chẳng có mảy may ngờ vực, lo âu, lập tức tiếp nhận, làm theo. Đó là được!

 Nếu trong khi ấy có nỗi ngờ vực, suy đi xét lại, sẽ chẳng được! Quư vị nghĩ xem, ba điều kiện ấy khó lắm, chẳng có chuyện dễ dàng như vậy!

      V́ lẽ đó, các đồng tu chúng ta chẳng văng sanh th́ thôi, nếu văng sanh, tuyệt đối chẳng phải là hạ phẩm hạ sanh, xưa kia thầy Lư đă nói điều này, chẳng thể nào! V́ sao? Chúng ta chẳng trọn đủ điều kiện của hạ phẩm hạ sanh. Giống như chúng ta đă tiếp xúc pháp môn này rất lâu, b́nh thường niệm Phật, dẫu có tội nghiệp th́ tội nghiệp chẳng nặng dường ấy! Người thật sự niệm Phật văng sanh, phẩm vị luôn là hạ phẩm trung sanh trở lên, thậm chí c̣n có người là trung phẩm hạ sanh trở lên, hết sức có thể là như vậy! Đối với hạ phẩm văng sanh th́ người b́nh phàm như chúng ta cơ hội văng sanh cũng chẳng quá lớn, hăy nên biết điều này. Tiếp theo đây là nói tới lợi ích do văng sanh.

 

      Ư liên hoa trung, măn thập nhị đại kiếp, liên hoa phương khai. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, dĩ đại bi âm thanh, vị kỳ quảng thuyết chư pháp Thật Tướng, trừ diệt tội pháp. Văn dĩ hoan hỷ, ứng thời tức phát Bồ Đề chi tâm.

      中。滿 劫。蓮 開。觀 至。以 聲。為 相。除 法。聞 喜。應 心。

(Ở trong hoa sen măn mười hai đại kiếp, hoa sen mới nở. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí dùng âm thanh đại bi, v́ người ấy rộng nói Thật Tướng của các pháp và pháp trừ diệt tội. Nghe xong, hoan hỷ, ngay khi đó liền phát tâm Bồ Đề).

 

      “Phát Bồ Đề tâm” là Viên Giáo Sơ Trụ, là Pháp Thân đại sĩ, sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Từ hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư sanh về cơi Thật Báo Trang Nghiêm.

 

      Thị danh hạ phẩm hạ sanh giả, thị danh hạ bối sanh tưởng, danh đệ thập lục quán.

      者。是 想。名 觀。

      (Gọi là hạ phẩm hạ sanh, là phép quán tưởng văng sanh bậc hạ, gọi là phép Quán thứ mười sáu).

 

      Trong chú giải có mấy câu, chúng ta hăy đọc một lượt. Xem từ ḍng thứ nhất trong phần chú giải: “Ngôn Ngũ Nghịch, Thập Ác, cụ chư bất thiện giả” (nói Ngũ Nghịch, Thập Ác, đủ các điều chẳng lành), người này tạo tác ác nghiệp, chẳng thành tựu điều thiện nào. “Tắc hủy hoại Tam Bảo, báng Đại Thừa kinh, đoạn học Bát Nhă, sát hại phụ mẫu đẳng, vô sở bất vi, cố ngôn cụ dă” (tức là hủy hoại Tam Bảo, báng kinh Đại Thừa, ngăn dứt sự học Bát Nhă, không điều ǵ chẳng làm, nên nói là “trọn đủ”), chính là một kẻ ngu si, tội nghiệp trong thế gian như vậy. “Kư hữu như thị cực trọng ác nhân, thế tất đọa ư A Tỳ địa ngục, xuất khổ vô kỳ. Thử giới hoại thời, chuyển kư tha phương. Tha phương hoại thời, triển chuyển tương kư. Tùng địa ngục xuất, phục đọa ngạ quỷ. Ngạ quỷ tất dĩ, phục đầu súc sanh, cố vân kinh lịch ác đạo, thọ khổ vô cùng” (Đă có cái nhân cực nặng như thế, đương nhiên phải đọa trong địa ngục A Tỳ, chẳng có thuở thoát khổ. Khi cơi này đă hoại, bèn chuyển sang gởi thân trong phương khác. Khi phương khác đă hoại, lại lần lượt gởi thân nơi những phương khác nữa. Từ địa ngục thoát ra, lại đọa trong ngạ quỷ. Chịu khổ trong đường ngạ quỷ xong, lại đầu thai làm súc sanh, v́ thế nói là “lần lượt trải qua các ác đạo, chịu khổ vô cùng”). Chuyện này được nói cặn kẽ, tỉ mỉ trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, quả báo hết sức đáng sợ. Nhưng hiện thời có lắm kẻ, người chẳng học Phật không cần nói tới, chứ kẻ học Phật chẳng tin tưởng nhân quả, chẳng sợ báo ứng, hiện thời vẫn hành xử theo dục vọng, đúng là ngu si tới tột cùng. Hễ có đôi chút trí huệ, sẽ chẳng dám làm.

      Nay chúng tôi khuyên dạy các đồng tu, v́ sao đặc biệt chú trọng Liễu Phàm Tứ Huấn và Cảm Ứng Thiên? Tôi ấn định bảy môn học cho các đồng tu, trong ấy có hai môn này, nhằm dạy mọi người phải biết sự thật nhân quả báo ứng sâu xa. Không chỉ chớ nên làm chuyện xấu, chớ nên khởi ác niệm, mà nhất định phải biết “thiện có thiện báo, ác có ác báo”. Nhân duyên quả báo quyết định chẳng có cách nào tránh khỏi. Cảm Ứng Thiên là tiêu chuẩn thiện ác. Thiện là ǵ? Ác là ǵ? Chúng ta không dùng giới luật, giới luật nói sâu xa, cảnh giới rất rộng, chẳng thấy rơ lắm. Cảm Ứng Thiên đơn giản, rơ rệt, vừa xem liền hiểu ngay. Thuở Ấn Quang đại sư tại thế, Ngài cả đời cực lực đề xướng [ấn hành Cảm Ứng Thiên và Liễu Phàm Tứ Huấn], tổ Ấn Quang là Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai, chúng ta có thể tin tưởng được. V́ thế, hai loại sách này trọng yếu hơn bất cứ sách ǵ khác! Nay chúng ta chẳng đọc kinh Tiểu Thừa, cũng chẳng đọc sách Khổng Tử, nên dùng hai thứ ấy để thay thế. Dùng Liễu Phàm Tứ Huấn và Cảm Ứng Thiên để thay thế, bù đắp cơ sở bị thiếu hụt. Nhất định phải đọc thuộc ḷng hai loại ấy, phải y giáo phụng hành, sửa lỗi đổi mới, tôi đề xướng [đọc tụng hai sách ấy] là nhằm mục đích này. Có thiện căn, phước đức như vậy, trong tương lai mới là tư lương để chúng ta văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.

      Phần kế tiếp nói rất hay, chúng ta hăy xem tiếp: “Bất liệu ư vô lượng kiếp tiền, trị Phật văn pháp, chủng quá thiện căn” (Nào dè trong vô lượng kiếp trước, đă gặp Phật, nghe pháp, gieo trồng thiện căn). Kẻ ác nghiệp ấy lâm chung gặp thiện tri thức khuyên bảo “mười niệm có thể văng sanh” là do trong vô lượng kiếp đời quá khứ đă gieo thiện căn rất sâu dầy, chỉ là đời này mê hoặc, điên đảo, chẳng phải là ngẫu nhiên [mà gặp gỡ thiện tri thức]. Chúng ta cũng học đ̣i theo kiểu của người ấy, bảo đảm đọa địa ngục, quyết định chẳng văng sanh! Học kiểu ấy không được đâu! Chớ nên làm chuyện cầu may, nhất định phải chú ư điều này.

Đản hữu Văn Tư, vị tằng tu tập, hậu vi phiền năo phú chướng, cánh bị trầm mai, trực chí thùy chung, vị khổ bức xuất, đắc ngộ thiện tri thức, an ủy kỳ tâm, tiên vị thuyết pháp, khải kỳ tâm trí, hậu linh niệm Phật, giáo dĩ văng sanh” (Chỉ có Văn Huệ và Tư Huệ, chưa từng tu tập, về sau bị phiền năo che lấp, ngăn trở, nên bị đắm ch́m, măi cho đến khi lâm chung, bị các nỗi khổ bức bách mà [thiện căn] phát hiện, gặp thiện tri thức, an ủi tâm t́nh. Trước hết bèn nói pháp cho người ấy, khơi mở tâm trí; sau đó, dạy người ấy niệm Phật, dạy cho văng sanh). Đó là thiện căn trong vô lượng kiếp, trong một sát-na cuối cùng, bị các nỗi khổ bức bách mà xuất hiện.

Giống như ông Trương Thiện Ḥa đời Đường, cả đời mổ trâu, khi lâm chung thấy nhiều kẻ đầu trâu đến đ̣i mạng. Khi ấy, ông ta lo sợ, lớn tiếng kêu gào cứu mạng. Duyên của ông ta tốt đẹp, khéo sao, một vị xuất gia đi ngang cửa, nghe ông ta kêu cứu mạng, liền bước vào hỏi han chuyện ǵ? Ông ta nói: “Rất nhiều gă đầu trâu đến đ̣i mạng”. Vị xuất gia ấy trong tâm hiểu ngay, vội vă đốt một nắm hương bảo ông ta cầm lấy, niệm A Di Đà Phật, cầu sanh về thế giới Cực Lạc. Ông ta bèn lớn tiếng niệm, niệm chưa được mấy tiếng, bèn nói: “Những kẻ đầu trâu chẳng c̣n nữa”. Lại niệm mấy tiếng, bảo: “A Di Đà Phật đă đến”. Ông ta bèn văng sanh. Chuyện này chẳng dễ dàng, khá là khó khăn, do thiện căn trong vô lượng kiếp đă chín muồi, chẳng phải là chuyện may mắn!

      V́ thế, chính chúng ta phải hiểu, nay chúng ta có duyên gặp pháp môn này, gặp gỡ viên măn như vậy, thù thắng như vậy, có thể thấy thiện căn, phước đức quyết định chẳng ít. Nếu ít thiện căn, ít phước đức, cả đời này chúng ta cũng chẳng gặp! Đối với giáo lư, ít nhiều ǵ cũng hiểu được vài phần, cũng hiểu phương pháp, th́ nhất định phải nghiêm túc nỗ lực tu học, quyết định chớ nên bỏ lỡ! Một câu A Di Đà Phật có thể tiêu trừ hết thảy tội nghiệp cực nặng. Tiêu diệt tội nghiệp như thế nào? Chư vị phải biết: Trong niệm niệm, tâm quư vị có A Di Đà Phật, sẽ chẳng có tội nghiệp. H́nh tướng của tội nghiệp là ǵ? Chính là vọng tưởng, phiền năo, ưu lự, đó là tội tướng (h́nh tướng của tội nghiệp). Cần phải biết h́nh dạng của tội nghiệp. Vọng tưởng nhiều chính là tướng của tội nghiệp, tâm địa thanh tịnh là tướng tốt đẹp. Suốt ngày từ sáng đến tối niệm Phật, quư vị là Phật tướng. Ngay cả kẻ xem tướng cũng nói “tướng chuyển theo tâm”, quư vị niệm Phật nhiều, trong tương lai, tướng mạo sẽ dần dần biến thành tướng Phật, tướng mạo tốt đẹp. Tướng chuyển theo tâm là thật, tướng có thể chuyển. Tiết cuối cùng là…

 

       Thị danh hạ phẩm hạ sanh giả, thị danh hạ bối sanh tưởng, danh đệ thập lục quán.

      者。是 想。名 觀。

      (Gọi là hạ phẩm hạ sanh, là phép quán tưởng văng sanh bậc hạ, gọi là phép Quán thứ mười sáu).

 

      Đến đây là Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy phu nhân Vi Đề Hy phương pháp văng sanh, dạy bà cách Chánh Thọ, đến đây đă nói xong xuôi.

      Cuối cùng là tổng kết, chúng ta xem ḍng thứ nhất trong trang hai trăm bốn mươi tám.

 

       Thuyết thị ngữ thời, Vi Đề Hy dữ ngũ bách thị nữ, văn Phật sở thuyết, ứng thời tức kiến Cực Lạc thế giới, quảng trường chi tướng, đắc kiến Phật thân, cập nhị Bồ Tát, tâm sanh hoan hỷ, thán vị tằng hữu, hoát nhiên đại ngộ, đăi Vô Sanh Nhẫn.

時。韋 女。聞 說。應 相。得 身。及 薩。心 喜。歎 有。豁 悟。逮 忍。

(Khi nói lời ấy, bà Vi Đề Hy và năm trăm thị nữ, nghe lời Phật dạy, ngay khi đó thấy tướng rộng lớn của thế giới Cực Lạc, được thấy thân Phật và hai vị Bồ Tát, tâm sanh hoan hỷ, tán thán là chưa hề có, hoát nhiên đại ngộ, đắc Vô Sanh Nhẫn).

 

      Chữ Đăi () có nghĩa là đạt đến. Đắc Vô Sanh Nhẫn: Khi ấy, đức Phật giảng giải cho phu nhân Vi Đề Hy, bà ta nghe giảng, liền nương theo văn nhập quán; nghe xong bèn tu hành, khai giải. Đó là căn tánh Đại Thừa Bồ Tát, phu nhân là căn tánh Đại Thừa Bồ Tát, trọn đủ Tam Huệ. Tam Huệ là Văn, Tư, Tu. Văn là tiếp xúc, nghe Phật thuyết pháp là Văn, lắng nghe là tiếp xúc. Vừa nghe bèn hiểu rơ, khai ngộ, đó là Tư, tức Tư Huệ. Sau khi khai ngộ, chẳng mê, chẳng điên đảo. Nói theo phương diện chẳng mê, chẳng điên đảo là Tu Huệ. Nói cách khác, phiền năo, tập khí, vọng tưởng, chấp trước thuận theo sự nghe mà đoạn trừ. Đức Phật giảng kinh xong xuôi, phiền năo và tập khí của bà ta cũng đoạn hết. Ngay khi ấy liền chứng đắc Thất Địa Bồ Tát. Từ địa vị phàm phu, ngay lập tức chứng đến Thất Địa Bồ Tát. Pháp môn này là đại pháp viên đốn, chẳng trải qua thứ tự, ngay lập tức chứng đắc cảnh giới này. Lại xem đoạn tiếp theo.

 

       Ngũ bách thị nữ, phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, nguyện sanh bỉ quốc. Thế Tôn tất kư giai đương văng sanh. Sanh bỉ quốc dĩ, hoạch đắc Chư Phật Hiện Tiền tam-muội. Vô lượng chư thiên, phát vô thượng đạo tâm.

      女。發 心。願 國。世 生。生 已。獲 昧。無 天。發 心。

      (Năm trăm thị nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện sanh về cơi ấy. Đức Thế Tôn đều thọ kư họ sẽ văng sanh. Đă sanh về cơi ấy, sẽ đắc Chư Phật Hiện Tiền tam-muội. Vô lượng chư thiên phát Vô Thượng đạo tâm).

 

      Câu này cho biết các thị nữ của bà ta do nghe pháp mà đạt được lợi ích. Phu nhân chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, sanh vào Thất Địa. Các thị nữ cũng chẳng đơn giản, duyên cũng hết sức sâu, nghe đức Phật thuyết pháp, Bồ Đề tâm phát hiện. Tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề trong phần trước đă nói là “chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm”. Phát trọn vẹn ba tâm chính là quả vị Sơ Trụ trong Viên Giáo. Đức Phật giảng kinh này trong cung, thính chúng chỉ có ngần ấy, ai nấy đều đạt được lợi ích thù thắng khôn sánh. Phần kinh văn Chánh Tông đến đây đă giảng xong. Cuối cùng là phần Lưu Thông của kinh này, xin xem kinh văn nơi ḍng thứ nhất của trang hai trăm năm mươi.

 

      Nhĩ thời A Nan tức tùng tọa khởi, bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Đương hà danh thử kinh, thử pháp chi yếu, đương vân hà thọ tŕ?”

      起。白 言。世 尊。當 經。此 要。當 持。

      (Lúc bấy giờ, ngài A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch đức Phật rằng: - Bạch đức Thế Tôn! Kinh này nên đặt tên là ǵ? Nên thọ tŕ pháp yếu này như thế nào?)

     

Đức Phật dạy phu nhân Vi Đề Hy ức tŕ, [tức là] ức niệm, thọ tŕ, thảy đều dạy xong xuôi. Tôn giả A Nan vâng mệnh truyền tŕ Phật pháp, nên Ngài có trách nhiệm. Ở đây, Ngài thỉnh giáo đức Thế Tôn, kinh này nên có danh xưng là ǵ? “Hà danh thử kinh”, phải thọ tŕ như thế nào?

 

       Phật cáo A Nan: - Thử kinh danh Quán Cực Lạc Quốc Độ Vô Lượng Thọ Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát.

      難。此 佛。觀 薩。大 薩。   

(Đức Phật bảo ngài A Nan: - Kinh này có tên là Quán Cực Lạc Quốc Độ Vô Lượng Thọ Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát).

     

Đức Phật nói ra tên kinh.

 

      Diệc danh Tịnh Trừ Nghiệp Chướng Sanh Chư Phật Tiền. Nhữ đương thọ tŕ, vô linh vong thất.

      障。生 前。汝 持。無 失。

      (Cũng có tên là Tịnh Trừ Nghiệp Chướng Sanh Chư Phật Tiền, ông nên thọ tŕ, chớ để quên mất).

 

      Đức Phật nói kinh này có hai danh xưng: Danh xưng thứ nhất kiến lập theo phương pháp tu học, quán Tây Phương Tam Thánh[16]. Truyền đến Trung Quốc, do vị đại sư phiên dịch đă giản hóa đề mục, nên tên kinh được gọi là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh. V́ nói đến Vô Lượng Thọ Phật, đương nhiên thế giới Cực Lạc cũng được bao gồm trong ấy, Quán Âm, Thế Chí cũng bao gồm trong đó, nên giản hóa đề mục. Đề kinh tuy giản hóa, nhưng ư nghĩa trọn đủ. Tựa đề kia (danh xưng thứ hai của kinh này) được kiến lập theo công đức lợi ích của kinh; v́ thế, kinh này có tên là Tịnh Trừ Nghiệp Chướng Sanh Chư Phật Tiền, “nhữ đương thọ tŕ, vô linh vong thất” (ông hăy nên thọ tŕ, đừng để quên mất). Lại xem phần kinh văn tiếp theo.

 

      Hành thử tam-muội giả, hiện thân đắc kiến Vô Lượng Thọ Phật, cập nhị đại sĩ.

      者。現 佛。及 士。

      (Hành tam-muội ấy, thân hiện tại được thấy Vô Lượng Thọ Phật và hai vị đại sĩ).

 

      Thật sự nương theo phương pháp này để tu hành, thành tựu Niệm Phật tam-muội, hiện tiền nhất định có thể thấy Tây Phương Tam Thánh.

 

      Nhược thiện nam tử cập thiện nữ nhân, đản văn Phật danh, nhị Bồ Tát danh, trừ vô lượng kiếp sanh tử chi tội, hà huống ức niệm.

      人。但 名。二 名。除 罪。何 念。

      (Nếu thiện nam tử và thiện nữ nhân chỉ nghe tên Phật và tên hai vị Bồ Tát, sẽ trừ tội trong vô lượng kiếp sanh tử, huống hồ ức niệm).

 

      Đây là nói danh hiệu có công đức chẳng thể nghĩ bàn. Bất luận quư vị hữu tâm hay vô tâm, hiểu hay chẳng thể hiểu, trong một đời này, có duyên có thể nghe một câu Nam-mô A Di Đà Phật, hoặc là Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát, [Nam-mô] Đại Thế Chí Bồ Tát, “vừa thoảng qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo”, công đức lợi ích thù thắng, chẳng có ǵ sánh bằng! Huống chi là chúng ta thường xuyên ức niệm? Công đức lợi ích ấy lại càng chẳng thể nghĩ bàn. Lại xem phần kinh văn tiếp theo, nơi trang hai trăm năm mươi hai.

 

       Nhược niệm Phật giả, đương tri thử nhân, tắc thị nhân trung Phân Đà Lợi hoa.

      者。當 人。則 華。

      (Nếu là người niệm Phật, hăy nên biết người ấy là hoa Phân Đà Lợi trong loài người).

 

      Phân Đà Lợi (Puṇḍarīka) là tiếng Phạn, [nghĩa là] hoa sen trắng. Trong hoa sen bốn màu, hoa sen trắng thù thắng nhất, đẹp nhất. Đây là đức Thế Tôn tán thán người niệm Phật.

 

      Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, vi kỳ thắng hữu.

      薩。大 薩。為 友。

      (Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát là bạn thù thắng của người ấy).

 

      Có những kẻ coi thường, khinh rẻ người niệm Phật. Nói thật ra, người niệm Phật cần ǵ kẻ khác coi trọng ḿnh? Quư vị thấy Quán Âm, Thế Chí làm bạn tốt của quư vị. Có những kẻ rất cung kính, lễ bái Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng chẳng coi người niệm Phật ra ǵ. Đó là mê hoặc, điên đảo, chẳng nhận biết rơ ràng. Những lời này đều do đức Phật nói, tuyệt đối chẳng phải là vọng ngữ, tuyệt đối chẳng phải do người niệm Phật tự khoe khoang, khoác lác, mà là do đức Phật nói. Tiếp đó, đức Phật nói:

 

      Đương tọa đạo tràng, sanh chư Phật gia.

      場。生 家。

      (Sẽ ngồi nơi đạo tràng, sanh trong nhà chư Phật).

 

      Đây là “đắc quả siêu hạnh”, người niệm Phật thật sự nhất định văng sanh, văng sanh thành Phật, nên nói “tọa đạo tràng” là hóa độ chúng sanh, “sanh chư Phật gia”, thấy một đức Phật A Di Đà là thấy hết thảy mười phương chư Phật, quả thật là sanh trong nhà chư Phật. Chúng ta chưa từng thấy công đức lợi ích ấy trong các kinh luận hay pháp môn khác.

 

      Phật cáo A Nan: - Nhữ hảo tŕ thị ngữ.

      難。汝 語。

      (Đức Phật bảo ngài A Nan: - Ông hăy khéo ǵn giữ lời này).

 

      Trong lời dặn ḍ có lời khích lệ. Ông hăy khéo thọ tŕ “thị ngữ”. Chữ “thị ngữ” chỉ những điều đức Phật đă nói trên đây.

 

      Tŕ thị ngữ giả, tức thị tŕ Vô Lượng Thọ Phật danh.

      者。即 名。

      (Vâng giữ lời này chính là tŕ danh Vô Lượng Thọ Phật).

 

      Câu này cũng do Thích Ca Mâu Ni Phật nói. Ư nghĩa rất rơ rệt: Niệm kinh này là niệm Vô Lượng Thọ Phật, công đức niệm Phật và niệm kinh như nhau. Quư vị niệm kinh Vô Lượng Thọ, niệm kinh A Di Đà và niệm kinh này đều là niệm A Di Đà Phật, chẳng khác ǵ nhau! V́ lẽ đó, chúng ta niệm kinh, có người nói: “Rốt cuộc tôi niệm kinh tốt hơn, hay là niệm danh hiệu A Di Đà Phật hay hơn?” Đều được cả! Niệm kinh hay niệm danh hiệu đều được, đều là ức Phật, niệm Phật. Tùy thuộc trạng huống tu học của chính ḿnh! Nếu có thể nhiếp tâm, tâm địa thanh tịnh th́ danh hiệu rất tốt. Nếu niệm danh hiệu mà vẫn chưa thể nhiếp tâm, vọng tưởng, tạp niệm rất nhiều, nhưng niệm kinh tương đối dễ dàng nhiếp tâm th́ niệm kinh xong bèn niệm danh hiệu A Di Đà Phật. Tán niệm xưng danh, công đức cũng chẳng thể nghĩ bàn, hy vọng trong mười hai thời có thể ǵn giữ không gián đoạn là được rồi.

 

      Phật thuyết thử ngữ thời, tôn giả Mục Kiền Liên, tôn giả A Nan, cập Vi Đề Hy đẳng, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ.

      時。尊 連。尊 難。及 等。聞 說。皆 喜。

      (Khi đức Phật nói lời ấy, tôn giả Mục Kiền Liên, tôn giả A Nan, và Vi Đề Hy v.v… nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ to lớn).

 

      Kinh đến chỗ này là kết thúc, nhưng do giảng trong vương cung, các đại chúng tại núi Kỳ Xà Quật c̣n chưa được nghe, nên sau đó c̣n phụ chú.

 

      Nhĩ thời Thế Tôn, túc bộ hư không, hoàn Kỳ Xà Quật sơn. Nhĩ thời, A Nan quảng vị đại chúng, thuyết như thượng sự. Vô lượng chư thiên, long, dạ-xoa, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, lễ Phật nhi thoái.

      尊。足 空。還 山。爾 難。廣 眾。說 事。無 叉。聞 說。皆 喜。禮 退。

      (Khi ấy, đức Thế Tôn bước lên hư không, trở về núi Kỳ Xà Quật. Lúc bấy giờ, Ngài A Nan rộng v́ đại chúng nói chuyện trên đây. Vô lượng chư thiên, long, quỷ, dạ-xoa, nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ to lớn, lễ Phật lui ra).

 

      Tôn giả A Nan sau khi theo Phật trở về Linh Sơn, liền đem những lời tuyên thuyết trong vương cung đối trước đại chúng nhắc lại một lượt. Do những điều ngài A Nan đă nói giống như lời Phật nói, nên mọi người sau khi xong đều cảm thấy là “văn Phật sở thuyết” (nghe lời Phật dạy), chẳng phải là do A Nan nói, thật ra là do A Nan tuyên thuyết. A Nan chẳng nói sai câu nào, nên giống như nghe đức Phật nói, “giai đại hoan hỷ, lễ Phật nhi thoái”. Đối với những câu này, chúng tôi chẳng rườm lời v́ phần lưu thông trong mỗi bộ kinh đều đă nói cặn kẽ. Tới đây, chúng tôi đă giảng viên măn bộ kinh này.

      Kinh đă viên măn, hy vọng chư vị đồng tu có thể vâng theo những điều khai thị trọng yếu trong kinh, nhớ giữ không quên, y giáo phụng hành. Nếu chúng ta nhận biết Phật pháp đôi chút, liền biết trong hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng có ǵ quư báu hơn Phật pháp. Nhất là pháp môn Tịnh Tông trong Phật pháp, thù thắng khôn sánh bậc nhất, cổ nhân tán thán là “một ngày hiếm có khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay”. Lời ấy là thật, chẳng giả. Hiếm có, khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay, nay chúng ta gặp gỡ. Đă gặp, nếu chẳng thể nắm thật chặt, lỡ làng một đời này như thế, rất đáng tiếc! Quư vị nói xem: Lần sau gặp được, phải trải qua vô lượng kiếp, khá khó khăn! Quư vị phải nắm chắc, thật sự giác ngộ, buông xuống vạn duyên. Chúng ta được làm thân người trong đời này quá đáng quư, chỉ cần chúng ta ăn no, mặc ấm, có căn nhà nhỏ để đụt mưa, tránh gió là đủ rồi, cầu văng sanh là khẩn yếu! Sanh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới đắc đại tự tại, nếu mong trở về thế giới này để giúp đỡ hết thảy chúng sanh, [sẽ là] Bồ Tát thừa nguyện tái lai, đến đi tự do, thù thắng lắm! V́ sao c̣n muốn tạo nghiệp luân hồi trong lục đạo? Vẫn c̣n muốn chịu những nỗi khổ nạn ấy? Đó là ngu si. Chẳng gặp pháp môn này, sẽ chẳng có cách nào, muốn vượt thoát nhưng chẳng được, chẳng có điều kiện. Hễ gặp gỡ, tất cả điều kiện thảy đều trọn đủ, nếu quư vị vứt bỏ, đáng tiếc quá, chẳng có cách nào hết!

      Do vậy, hy vọng các đồng tu phải thật sự phát tâm. Có thể phát tâm hoằng dương pháp môn này, đương nhiên là càng khó có. Hoằng dương pháp môn này, nói thật ra, phải xa ĺa pháp thế gian, phải bỏ sạch sành sanh tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần trong thế gian, chẳng cần những thứ ấy. Hoằng pháp lợi sanh th́ nếu gặp người duyên đă chín muồi, thấy người ấy thật sự chịu tiếp nhận, thật sự có thể nghe hiểu, thật sự có thể y giáo tu hành, dẫu là một người th́ ta cũng phải giảng cho người ấy. Giảng cho người ấy, đời này người ấy niệm Phật văng sanh thành Phật, tuyệt diệu thay! Quyết định chớ nên nói ta phải lập một đạo tràng rất lớn, phải có mấy ngàn vạn người đến nghe, đó là ǵ? Đó là phô trương, biểu diễn, làm tṛ náo nhiệt, chúng ta chớ nên làm chuyện ấy, chẳng có ư nghĩa ǵ, hoàn toàn là làm chuyện bề ngoài, chớ nên làm!

      Thật sự cộng tu, nói thật ra, quư ở chỗ tinh ṛng, chẳng chuộng đông. Đông người là muốn làm chuyện náo nhiệt, chẳng có hiệu quả. Đạo tràng này của chúng ta thành lập đă nhiều năm như vậy, cũng có không ít đồng tu đến t́m tôi, [cho biết] đă t́m được giảng đường ở Hàng Châu Nam Lộ[17], muốn tặng đất cho tôi, tặng thứ này, tặng thứ nọ, tôi đều chẳng cần. V́ sao? T́m đâu ra người? Cất chùa, xây dựng xong xuôi bèn tranh quyền đoạt lợi, [trở thành] đạo tràng đấu tranh, quả báo trong tam đồ, chúng ta chớ nên làm chuyện ấy. V́ thế, tôi nói với Quán Trưởng: “Chúng ta ở chỗ nhỏ nhoi này là đủ rồi. Thính chúng đông quá, không có chỗ ngồi! Chúng ta chẳng cần tuyên truyền, đủ rồi, không cần mở rộng thêm. Đạo tràng nhỏ, chi tiêu ít, chẳng cần cầu cạnh người khác, tâm an lư đắc. Chúng ta có thể văng sanh trong một đời này th́ hay lắm, quyết định chẳng ở trong thế giới này làm chuyện chơi trội. Phải thật thà, chết sạch tấm ḷng mong ngóng, so đo, gánh vác trách nhiệm Phật pháp”. Thật sự có thể tiếp tục hoằng pháp, nói thật ra, chẳng cần nhiều người. Dăm ba người là khá lắm rồi, có được mười người hay tám người, Tịnh Độ Tông có thể truyền khắp toàn thế giới. Vấn đề là ai chịu buông tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần xuống? Thật sự buông xuống, sống một cuộc đời quư vị nói là rất khổ, tôi nói là vui nhất, tiêu chuẩn khổ và vui của chúng ta khác nhau! Quư vị có tiền, có thế lực, bèn nói là vui; đối với chúng tôi, tâm địa thanh tịnh, chẳng vướng mắc, chẳng có phiền năo, chẳng có ưu lự, đó là vui. Thân tâm thanh tịnh liền tự tại, sung sướng, chẳng bị ràng buộc, thứ ǵ cũng chẳng có, nhưng như thế nào vẫn có thể sống được, chẳng có ǵ là thiếu thốn quá lớn, lẽ nào chẳng vui sướng? Đó là do tiêu chuẩn khổ, lạc khác nhau! V́ thế, thật sự triệt để buông xuống, sẽ có chân lạc, người thế gian chẳng thể tưởng tượng được đâu!

A! Khóa học này đến đây đă viên măn. Cảm ơn quư vị.

Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa hết

Trọn bộ

 



[1] Do chánh kinh thường ghi là “thử Bồ Tát thân trưởng bát thập vạn ức na-do-tha do-tuần”, nên trong chú giải, pháp sư Đế Nhàn đă viết: “Lời Sao như sau: ‘Tám mươi vạn ức phải là mười tám vạn ức. Nay nói tám mươi tức là vượt trỗi thân Phật, nên biết là sai’. Hỏi: Phật Thích Ca cao một trượng sáu, thân người đời tám thước, thân vị Phật kia (A Di Đà Phật) là sáu mươi vạn ức, Quán Âm cao mười tám vạn ức, sao lại quá thấp? Đáp: Thắng Ứng Thân trong cơi Tịnh Độ chẳng thể so sánh theo uế độ được, há chẳng thấy thân của ngài Diệu Âm trong kinh Pháp Hoa ư? Ngài Diệu Âm chỉ cao bốn vạn hai ngàn, mà thân Phật là sáu trăm tám mươi vạn, Phật cách biệt Bồ Tát nhiều chừng ấy”.

[2] Kinh nói “ngũ đạo” (năm đường) tức là không kể A Tu La, v́ trừ địa ngục ra, đường nào cũng có A Tu La, nên gộp chung A Tu La vào bốn đường nhân, thiên, quỷ, súc sanh.

[3] Vô Kiến Đảnh Tướng là tùy h́nh hảo của Nhục Kế, tất cả trời người chẳng thấy được tướng chót đỉnh của Nhục Kế, nên gọi là Vô Kiến Đảnh. Kinh Quán Phật đă nói: “Nhục Kế của đức Phật sanh ra vạn ức quang minh, mỗi quang minh lần lượt chiếu đến vô lượng thế giới ở phương trên, chư thiên, người đời, cho đến hàng Thập Địa Bồ Tát cũng chẳng thể thấy được”.

[4] Lục niệm là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên. Sớ Sao giảng: “Ba món đầu là niệm Tha, ba món sau là niệm Tự. Giới và Thí là cái nhân thuộc về Tự, sanh Thiên là quả thuộc về Tự. Giới là điều lành do ngưng dứt [những ác hạnh], Thí là hành thiện (điều lành do thực hiện những thiện nghiệp). Thiên có viễn quả và cận quả. Viễn là Đệ Nhất Nghĩa Thiên (Phật quả), [cận quả là các tầng trời trong tam giới])”.

[5] Sớ Sao giảng: “Nói ‘không cần’ là người nghĩa tŕ (tŕ theo nghĩa), không thích đọc tụng. Chỉ lấy một câu hay một bài kệ trong kinh để nghiên cứu sâu xa chỉ thú. Đối với lư chẳng thể diễn nói, suy lường, tâm chẳng kinh hăi, dao động. Tâm lại an trụ nơi Trung Đạo, chẳng bị kinh động bởi Nhị Biên, thấu hiểu, thông đạt nhân quả, nên gọi là tin sâu”.

[6] Sách Sớ Sao giảng: “Duyên trong phẩm vị này so với phẩm vị trước có chỗ khác biệt, kém xa phẩm trên. Phẩm trước th́ Tam Thánh cùng vô lượng hóa Phật, tỳ-kheo, chư thiên, và cung điện cùng đến nghênh tiếp. Trong phẩm này, [chỉ có] một ngàn vị hóa Phật đến đón. Phẩm vị trước là đài kim cang, phẩm vị này là đài tử kim. Phẩm trước, Phật quang chiếu đến thân, phẩm này chỉ là ngôn ngữ tán thán. X̣e tay chính là tiếp dẫn vậy”.

[7] Sách Sớ Sao giảng: “Đệ Nhất Nghĩa rất sâu là Thật Tướng của các pháp. Ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt, được gọi là tinh tấn sâu mầu, xưng tụng tột cùng là Đệ Nhất. Chẳng thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề chính là Đạo Chủng Bồ Đề, cũng thuộc về địa vị bất thoái nơi đạo chủng. Hiện tiền thọ kư là một trong bốn loại thọ kư… Lời Sao như sau: Nói là tinh tấn sâu mầu, là do nghe các âm thanh nói Đệ Nhất Nghĩa, có thể thành tựu Lư Thú Bất Tư Nghị Quán. V́ thế, tiến nhập nhanh chóng như gió. Bất Thoái có ba loại: Một là Vị Bất Thoái, phá Kiến Tư, vĩnh viễn chẳng đánh mất địa vị siêu phàm, thuộc về Tập Chủng Tánh. Hai là Hạnh Bất Thoái, vĩnh viễn chẳng đánh mất hạnh Bồ Tát, thuộc về Tánh Chủng Tánh và Đạo Chủng Tánh. Ba là Niệm Bất Thoái, vĩnh viễn chẳng đánh mất chánh niệm Trung Đạo, thuộc về Thánh Chủng Tánh. Người thượng phẩm trung sanh đă đắc Tánh Chủng Bồ Đề trong cơi này, đến cơi kia, sau một kiếp, mới đắc hai thứ Vô Sanh và Thánh Chủng Bất Thoái. Nay kinh nói là ‘bảy ngày’, hăy nên hiểu là đắc Đạo Chủng Bất Thoái”.

[8] Quỳ thẳng (trường quỵ) là đầu gối và bắp chân đặt sát đất, thẳng lưng, thân ḿnh tạo thành chữ L so với hai bắp chân (tức là quỳ thẳng lưng, mông không đặt trên hai gót chân như cách quỳ thông thường). Cách quỳ này thể hiện ư nghĩa tột bậc cung kính.

[9] Lục Thông là Thiên Nhăn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm, Thần Túc, Túc Mạng và Lậu Tận. Tam Minh là Thiên Nhăn Minh, Túc Mạng Minh và Lậu Tận Minh. Minh là nói thần thông đạt đến mức độ thấu triệt, rốt ráo, tức là ba thứ thần thông của hàng La Hán trở lên. Gọi là Minh nhằm nhấn mạnh thần thông thành tựu do tu chứng, do tâm thanh tịnh, chứ không phải là báo đắc (do quả báo mà có thần thông, như hàng quỷ thần). Bát Giải Thoát (Astau Vimoksāh) là do công năng của tám thứ Định mà xả trừ tham dục đối với các món sắc và vô sắc, bao gồm: Nội hữu sắc tưởng quán chư sắc giải thoát, nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát, tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ, Không Vô Biên Xứ giải thoát, Thức Xứ giải thoát, Vô Sở Hữu Xứ giải thoát, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ giải thoát, Diệt Thọ Tưởng Định Thân Tác Chứng Cụ Túc Trụ.

[10] Đây là bài quốc ca của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), lời ca do Tôn Văn và các bạn hữu viết (thật ra là do các ông Hồ Hán Dân, Đới Quư Đào, Liêu Trọng Khải, Thiều Nguyên Xung chấp bút), Tŕnh Mậu Duân phổ nhạc. Bài này cũng là đảng ca của Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Bài này được chọn làm Quốc Ca chính thức từ năm 1928. Lời ca khá ngắn: “Tam dân chủ nghĩa, ngô đảng sở tông, dĩ kiến dân quốc, dĩ tiến đại đồng, tư nhĩ đa sĩ, vị dân tiền phong, túc dạ phỉ giải, chủ nghĩa thị tùng, thỉ cần, thỉ dũng, tất tín, tất trung, nhất tâm, nhất đức, quán triệt thỉ chung” (tạm dịch: “Tam Dân chủ nghĩa, đảng ta đề cao, tạo lập dân quốc, tiến tới đại đồng, hỡi các đồng chí, v́ dân tiên phong, đêm ngày chẳng nghỉ, noi theo chủ nghĩa, siêng năng, dũng mănh, tận hết tín, trung, một ḷng, một đức, quán triệt vẹn toàn”). Tam Dân Chủ Nghĩa là chủ thuyết và cương lănh do Tôn Văn đề xướng bao gồm Dân Tộc, Dân Quyền và Dân Sinh. Chủ thuyết này được ghi thành điều thứ nhất trong hiến pháp của Trung Hoa Dân Quốc.

[11] Nguyên văn là “bại bản Như Lai” (稗販如來). “Bại bản” có nghĩa là mua rẻ bán đắt ḥng kiếm lợi.

[12] Tương Lư (襄理) là một chức vụ trong hệ thống xí nghiệp của Đài Loan, có thể hiểu gần giống như phó giám đốc, thường là trợ tá của Kinh Lư. Hệ thống quản trị ngân hàng hoặc đại xí nghiệp của Đài Loan theo quy cách sau đây, cao nhất là Đổng Sự Trưởng (Tổng Giám Đốc), rồi đến Chấp Hành Trưởng (CEO), Tổng Kinh Lư (General Manager), Phó Tổng Kinh Lư, Hiệp Lư (Director), Kinh Lư (Manager), Phó Kinh Lư hoặc Tương Lư (Assistant Manager), rồi đến Khóa Trưởng (Khoa Trưởng, leader, Tech lead). Như vậy th́ tùy theo quy mô của công ty mà Khoa Trưởng có thể là nhân viên quản lư một bộ phận, hoặc nhiều khi chỉ là tổ trưởng hoặc nhóm trưởng. Tương Lư là phó giám đốc điều hành nhiều bộ phận, hoặc chỉ đơn giản là trợ lư của giám đốc.

[13] Duy Na (維那) theo nghĩa gốc là một từ ngữ kết hợp tiếng Hán và Phạn. Duy là Cương Duy (), có nghĩa là thống lănh, duy tŕ, giữ vững giềng mối. Chữ Na phát xuất từ chữ Yết Ma Đà Na (Karmadana), dịch nghĩa là Chấp Sự. Theo quy chế cổ, Duy Na là một trong ba chức vụ được coi là trọng yếu nhất trong một tự viện (Tam Cương). Vị này có trách nhiệm huấn luyện, kiểm tra, răn nhắc, thậm chí quở phạt những tăng sĩ nào không giữ đúng oai nghi, đồng thời c̣n kiêm nhiệm cả chức vụ giám sát các chấp sự khác. Vị này c̣n sắp xếp việc tu hành, nghi lễ, cũng như khóa tụng trong tự viện. Vị này phải là người thông hiểu lễ nghi, đức độ, oai nghi đáng làm gương mẫu khiến cho đại chúng nể phục. Dần dần về sau, ư nghĩa này bị mất đi, Duy Na chỉ c̣n là người có giọng tốt, vững nhịp, giữ vai tṛ bắt giọng, dẫn lễ trong các khóa tụng hoặc pháp hội. Riêng đối với người Việt, Duy Na chỉ c̣n là người giữ chuông trong một khóa lễ!

[14] Sách Sớ Sao giảng: “Vật được ăn trộm chẳng ngoài bốn thứ thường trụ:

1) Một là thường trụ thường vật, ư nói nhà kho của tăng chúng, các vật dụng, hoa quả, cây cối, vườn rừng, người làm công, những con vật được nuôi trong nhà chùa v.v… Do bản thể của những thứ ấy thông khắp mười phương, nên chẳng thể chia chác để sử dụng [riêng tư] được.

2) Hai là thập phương thường trụ, như các thức ăn thông thường cúng dường cho tăng chúng, tuy bản tánh thông khắp mười phương, chỉ hạn cuộc nơi người đang ở đó.

3) Ba là hiện tiền hiện tiền, tức là vật mà tăng chúng [đang thường trụ trong ngôi chùa ấy] có được.

4) Bốn là thập phương hiện tiền. Nếu làm mất vật chẳng đáng giá của tăng chúng, mà chẳng yết-ma [phát lộ tội lỗi], sẽ đắc tội với mười phương tăng chúng. Kẻ đă yết-ma, chỉ đắc tội với tăng chúng hiện tiền, thuộc về loại thứ ba là hiện tiền.

Hai loại trộm cắp đầu được gọi là ‘trộm cắp Tăng Kỳ vật’. Hai loại trộm cắp sau, được gọi là [ăn trộm] của hiện tiền tăng vật”.

[15] Từ ngữ “tử tôn miếu” có ư nghĩa châm biếm: Chùa chỉ dành riêng cho con cháu của chính ḿnh. Tức là chỉ có đồ tử và đồ tôn của vị trụ tŕ hoặc vị thầy khai sơn là được ở đó, được hưởng quyền lợi tại đó.

[16] Phần Sao trong sách Quán Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa ghi: “Một chữ Quán là tâm quán diệu tông. Cực Lạc Tam Thánh là Thể trọn vẹn của Thật Tướng. Đây là từ Thể và Tông mà đặt tên. Trừ sạch nghiệp chướng, cho đến tột cùng là tiêu trừ tội Ngũ Nghịch. Từ ngữ Sanh Chư Phật Tiền bao gồm cả chín phẩm. Danh xưng này nói theo Dụng. Gộp cả ba nghĩa ấy để giải thích tên kinh”.

[17] Hàng Châu Nam Lộ là một con đường thuộc khu Trung Chánh của thành phố Đài Bắc.