Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa
Phần 7
觀無量壽佛經疏鈔演義
Chủ giảng:
Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Thời gian: Khởi
giảng từ ngày 01 tháng 12 năm 1990
Địa
điểm: Hoa Tạng Đồ
Thư Quán, huyện Cảnh Mỹ, Đài Loan
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang
Tập
25
Xin mở kinh bổn, trang một trăm
chín mươi tám, xem ḍng thứ tư từ dưới
đếm lên. Hăy xem kinh văn. Đây là
phép Quán thứ mười trong mười sáu phép Quán,
quán Quán Thế Âm Bồ Tát:
Phật cáo A Nan cập Vi
Đề Hy: - Kiến Vô Lượng Thọ
Phật liễu
liễu phân minh dĩ.
佛 告 阿 難 及 韋 提 希。見 無 量 壽 佛 了 了 分 明 已。
(Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: - Đă thấy
Vô Lượng Thọ Phật rành rẽ, phân minh xong).
Tổng
kết phép Quán trong phần trước; sau khi đă quán A
Di Đà Phật thành tựu.
Thứ phục ưng quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Thử
Bồ Tát thân trưởng thập bát vạn ức na-do-tha
do-tuần.
次 復 應 觀 觀 世 音 菩 薩。此 菩 薩 身 長 十 八 萬 億 那 由 他 由 旬。
(Kế đó, lại nên quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Vị
Bồ Tát này thân cao mười tám vạn ức na-do-tha
do-tuần).
Trong
chú giải có giảng về “mười
tám vạn ức”[1].
身 紫 金 色。頂 有 肉 髻。項 有 圓 光。面 各 百 千 由 旬。其 圓 光 中。有 五 百 化 佛。如 釋 迦 牟 尼。一 一 化 佛。有 五 百 化 菩 薩。無 量 諸 天。以 為 侍 者。
(Thân màu vàng tía, đỉnh
đầu có nhục kế. Cổ có viên quang, mỗi phía
xa đến trăm ngàn do-tuần. Trong viên quang ấy, có
năm trăm hóa Phật như Thích Ca Mâu Ni Phật. Mỗi
vị hóa Phật có năm trăm hóa Bồ Tát, vô lượng
chư thiên để làm thị giả).
Bồ
Tát và Phật cũng hết sức tương tự, trong
quang minh cũng có hóa Phật và hóa Bồ Tát.
Cử thân quang trung, ngũ đạo chúng sanh, nhất
thiết sắc tướng, giai ư trung hiện.
舉 身 光 中。五 道 眾 生 一 切 色 相。皆 於 中 現。
(Trong quang minh khắp thân Ngài, hết thảy sắc
tướng của chúng sanh trong năm đường[2] đều hiện
bóng trong ấy).
Không
chỉ là trong quang minh hiện tướng chư Phật,
Bồ Tát, mà cũng đồng thời hiện tướng
lục đạo chúng sanh.
Đảnh thượng Tỳ Lăng Già
ma-ni bảo dĩ vi thiên
quan. Kỳ thiên quan trung, hữu nhất lập hóa Phật,
cao nhị thập ngũ do-tuần.
頂 上 毘 楞 伽 摩 尼 寶 以 為 天 冠。其 天 冠 中。有 一 立 化 佛。高 二 十 五 由 旬。
(Trên đỉnh đầu, báu Tỳ Lăng Già ma-ni
dùng làm măo trời. Trong măo trời ấy, có một vị
hóa Phật đứng, cao hai mươi lăm do-tuần).
Đây
là nói măo của Bồ Tát, giữa măo có một tượng
Phật. Tượng Phật ấy là tượng đứng,
là tượng Phật đứng.
觀 世 音 菩 薩。面 如 閻 浮 檀 金 色。眉 間 毫 相。備 七 寶 色。流 出 八 萬 四 千 種 光 明。一 一 光 明。有 無 量 無 數 百 千 化 佛。一 一 化 佛。無 數 化 菩 薩 以 為 侍 者。變 現 自 在。滿 十 方 世 界。
(Sắc mặt Quán Thế Âm Bồ Tát như vàng Diêm
Phù Đàn, tướng bạch hào giữa hai mày trọn
đủ màu của bảy thứ báu, tỏa ra tám vạn
bốn ngàn loại quang minh. Mỗi một quang minh có vô
lượng vô số trăm ngàn hóa Phật. Mỗi vị
hóa Phật có vô số hóa Bồ Tát làm thị giả, biến
hiện tự tại, trọn khắp mười
phương thế giới).
Trong
ba mươi hai tướng của đức Phật có
tướng bạch hào, Bồ Tát cũng có tướng bạch
hào. Đă thế, tướng bạch hào cũng phóng quang
hóa Phật, biến hiện tự tại. Trong đoạn
trước đă nói: Hóa Phật nơi thân quang của Phật
biến hiện tướng của lục đạo chúng
sanh trong mười phương thế giới; ở
đây nói đến một tướng trong vô lượng
tướng hảo, tức là tướng bạch hào. Nói
thật ra, hết thảy các tướng hảo đều
phóng quang. Trong quang minh đều có hóa Phật, hóa Bồ
Tát trọn khắp mười phương thế giới.
臂 如 紅 蓮 華 色。有 八 十 億 微 妙 光 明。以 為 瓔 珞。其 瓔 珞 中。普 現 一 切 諸 莊 嚴 事。
(Cánh tay sắc như hoa sen đỏ, có tám
mươi ức quang minh vi diệu để làm anh lạc.
Trong anh lạc, hiện khắp hết thảy các sự
trang nghiêm).
Những
điều nói trên đây đều là chánh báo, đều
thuộc về thân thể, hoặc là toàn thể, hoặc
là bộ phận. Ở đây nói về y báo, y báo là vật
ngoài thân. Anh lạc và y phục đều thuộc về y
báo. Đây chính là nói về y báo và chánh báo trang nghiêm.
手 掌 作 五 百 億 雜 蓮 華 色。手 十 指 端。一 一 指 端 有 八 萬 四 千 畫。猶 如 印 文。一 一 畫 有 八 萬 四 千 色。一 一 色 有 八 萬 四 千 光。其 光 柔 軟。普 照 一 切。以 此 寶 手。接 引 眾 生。
(Bàn tay có màu như năm trăm ức hoa sen các loại.
Mười đầu ngón tay, mỗi đầu ngón tay có
tám vạn bốn ngàn đường vân giống như nét
khắc trên cái ấn. Mỗi đường vân có tám vạn
bốn ngàn màu. Mỗi một màu có tám vạn bốn ngàn ánh
sáng. Quang minh ấy mềm mại, chiếu khắp hết
thảy. Dùng tay báu này để tiếp dẫn chúng sanh).
Nay
chúng ta gọi những đường vân trong bàn tay là các vân
tay. Vân tay của Ngài hết sức vi tế, đồng thời
cũng phóng quang, quang minh cũng chiếu khắp hết thảy.
舉 足 時。足 下 有 千 輻 輪 相。自 然 化 成 有 五 百 億 光 明 臺。下 足 時。有 金 剛 摩 尼 華 布 散 一 切。莫 不 彌 滿。
(Khi giở chân, dưới bàn chân có tướng bánh
xe ngàn căm, tự nhiên hóa thành năm trăm ức đài
quang minh. Lúc đặt chân xuống, có hoa kim cang ma-ni rải
khắp hết thảy mọi nơi, không đâu chẳng
trọn khắp).
Trong
đoạn cuối này, cho biết dưới bàn chân [Bồ
Tát] có “thiên bức luân tướng”,
Luân (bánh xe) là viên măn, ngàn căm cũng biểu thị sự
viên măn. Tướng hảo nơi ngón chân, từ trong luân
tướng, “thiên bức luân
tướng” là những đường chỉ trong gan
bàn chân, cũng phóng quang giống hệt như vậy. Không
chỉ tỏa ánh sáng, lại c̣n giở chân, hạ chân, tự
nhiên biến hóa đài sen. “Kim
cang ma-ni hoa” cũng là hoa sen báu. Do đó nói giở chân, hạ
chân là tự nhiên biến hiện, chẳng phải là tác ư,
chẳng phải cố ư biến như vậy, mà là tự
nhiên biến hiện. Ngài biến hiện đương
nhiên đều có lư, đều có lư tồn tại, Lư ấy
thuộc về Tánh Đức: Chân Như bản tánh trọn
đủ vô lượng vô biên đức năng. Sau khi chứng
đắc tự tánh, các hiện tượng ấy hoàn
toàn là tự nhiên. Do đó, cổ nhân nói: “Chẳng đọc Hoa Nghiêm, không biết sự phú
quư trong nhà Phật”, cũng chẳng hiểu chỗ hay của
việc thành Phật. Thọ dụng các thứ trang nghiêm
trong pháp thế gian là do nhiều đời hoặc do đời
này tu phước mà hiện; c̣n y báo và chánh báo trang nghiêm của
chư Phật, Bồ Tát do Tánh Đức biến hiện.
Tánh Đức là tự nhiên, vĩnh viễn chẳng có suy
kiệt, chẳng giống như Tu Đức. Tu Đức
sẽ có lúc hết, Tánh Đức chẳng có hạn lượng,
vô cùng, vô tận. Do vậy có thể biết:
Phước báo trong Tánh Đức thù thắng hơn
Tu Đức quá nhiều. Cầu huệ, cầu phước
đều phải cầu từ tự tánh; đó mới
là chánh xác.
Chúng
ta lại xem đoạn kinh văn kế tiếp, [trong Sớ
Sao, khoa mục này được gọi là] “dữ Phật đồng dị” (giống và khác
với Phật). Hăy xem trang hai trăm lẻ một, ḍng thứ
ba từ dưới đếm lên.
Kỳ dư thân tướng, chúng hảo cụ túc,
như Phật vô dị.
其 餘 身 相。眾 好 具 足。如 佛 無 異。
(Những thân tướng khác, các tùy h́nh hảo trọn
đủ, giống như Phật, chẳng khác).
Những
tướng hảo khác hoàn toàn giống như A Di Đà Phật.
Duy
đảnh thượng nhục kế, cập Vô Kiến
Đảnh tướng, bất cập Thế Tôn.
唯 頂 上 肉 髻。及 無 見 頂 相。不 及 世 尊。
(Chỉ có tướng nhục
kế và tướng Vô Kiến Đảnh[3] trên đỉnh
đầu chẳng bằng đức Thế Tôn).
Bồ
Tát thị hiện là bậc Đẳng Giác Bồ Tát, c̣n có
một phần sanh tướng vô minh chưa phá. Tuy tướng
hảo giống như Phật, nhưng chú tâm quan sát, [sẽ
thấy] c̣n kém một chút, có ư nghĩa này!
Thị
vi quán Quán Thế Âm Bồ Tát chân thật sắc thân tướng,
danh đệ thập quán.
是 為 觀 觀 世 音 菩 薩 真 實 色 身 相。名 第 十 觀。
(Đó là quán tướng sắc
thân chân thật của Quán Thế Âm Bồ Tát, gọi là
phép Quán thứ mười).
Xin
xem phần kinh văn tiếp theo.
Phật cáo A Nan: - Nhược dục
quán Quán Thế Âm Bồ Tát giả, đương tác thị
quán.
佛 告 阿 難。若 欲 觀 觀 世 音 菩 薩 者。當 作 是 觀。
(Đức Phật bảo ngài
A Nan: “Nếu muốn quán Quán Thế Âm Bồ Tát, hăy nên quán
như thế”).
“Đương tác thị quán”:
Cách quán h́nh tượng như đức Phật đă dạy
trên đây.
Tác
thị quán giả, bất ngộ chư họa.
作 是 觀 者。不 遇 諸 禍。
(Quán như thế, chẳng gặp các họa).
Xa ĺa hết thảy
các tai nạn bất ngờ. Thường tưởng niệm
Quán Thế Âm Bồ Tát, thường xưng niệm Quán Thế
Âm Bồ Tát, cũng là nhớ Phật, niệm Phật.
Thường có thể ức niệm Quán Thế Âm Bồ
Tát, sẽ không gặp hết thảy các tai nạn ngoài ư muốn.
Tịnh
trừ nghiệp chướng, trừ vô số kiếp sanh
tử chi tội.
淨 除 業 障。除 無 數 劫 生 死 之 罪。
(Trừ sạch nghiệp
chướng, trừ tội trong vô số kiếp sanh tử).
Đây
là nói tới công đức diệt tội do quán tưởng.
Dưới đây là nói đến chuyện được
phước.
Như thử Bồ Tát, đản văn kỳ danh,
hoạch vô lượng phước, hà huống đế
quán.
如 此 菩 薩。但 聞 其 名。獲 無 量 福。何 況 諦 觀。
(Bồ Tát như thế, chỉ nghe tên Ngài đă
được vô lượng phước, huống hồ
là quán kỹ lưỡng).
Chúng
ta đọc kinh văn là được rồi.
若 有 欲 觀 觀 世 音 菩 薩 者。先 觀 頂 上 肉 髻。次 觀 天 冠。其 餘 眾 相。亦 次 第 觀 之。悉 令 明 了。如 觀 掌 中。作 是 觀 者。名 為 正 觀。若 他 觀 者。名 為 邪 觀。
(Nếu có ai muốn quán Quán Thế Âm Bồ
Tát th́ trước hết hăy nên quán nhục kế trên đỉnh
đầu, kế đó quán măo trời, và các tướng
khác cũng theo thứ tự mà quán sao cho thảy đều
rơ rệt như nh́n vào bàn tay. Quán như thế th́ gọi
là chánh quán. Nếu quán khác đi th́ là tà quán).
Trong
chú giải có một đoạn mà chúng ta cần xem cẩn
thận, xem từ câu thứ hai nơi ḍng thứ tư
trong trang hai trăm lẻ ba: “Hành
giả quán ư quan, kế, hào, diện, thân sắc, quang
minh, nhất nhất tu dụng tâm tác, tâm thị, nhi vi
năng quán” (Hành giả quán tưởng măo trời, nhục
kế, bạch hào, vẻ mặt, thân sắc, quang minh [của Quán Thế Âm Bồ
Tát], đối với mỗi thứ đều nên dùng “tâm
này làm Phật, tâm này là Phật” để quán tưởng).
Hành giả là người nương theo lư luận và
phương pháp này để tu hành, cách tu như thế
nào? Quư vị quán măo đội đầu, nhục kế,
tướng bạch hào, vẻ mặt, thân sắc, quang minh
của Bồ Tát giống như trong kinh đă nói, mỗi
thứ đều quán tưởng cặn kẽ. Quán tưởng
th́ phải khéo dụng tâm. Chẳng khéo dụng tâm sẽ dấy
vọng tưởng, đó chẳng phải là quán tưởng.
Quán tưởng và vọng tưởng sai khác nhỏ nhặt
như vậy, đừng nên ngỡ vọng tưởng
là quán tưởng, điều này rất trọng yếu.
Nói thật ra, rất nhiều kẻ b́nh phàm ngỡ vọng
tưởng là quán tưởng; v́ thế, tội cũng chẳng
thể diệt được, mà phước cũng chẳng
thể hiện tiền, đó là do dụng tâm sai lầm.
Như thế nào th́ mới gọi là khéo dụng tâm? Câu tiếp
theo [trong lời Sớ] rất trọng yếu, “tâm tác, tâm thị”. Trong phần
kinh văn ở đoạn trước đă dạy: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”,
phải dụng tâm như vậy. Quán A Di Đà Phật phải
dùng cái tâm ấy, mà quán Quán Thế Âm Bồ Tát cũng phải
dùng cái tâm ấy. Tâm này làm Bồ Tát, tâm này là Bồ Tát. Nói
thật ra, v́ sao có thể diệt tội, trừ chướng,
sanh phước? Điều khẩn yếu nhất là ứng
dụng lư luận, phương pháp từ việc quán Phật
hay quán Bồ Tát vào trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta
quan sát hết thảy vạn sự, vạn pháp, lẽ
đâu chẳng khai trí huệ? Trí huệ đă khai, lẽ
đâu chẳng sanh phước? Phước huệ trọn
đủ, há c̣n có tội nghiệp? Đương nhiên là
tiêu tội nghiệp, lư ở chỗ này! V́ thế, phải
biết dụng tâm th́ mới là thật sự dụng tâm,
tuyệt đối chẳng phải là dấy vọng
tưởng. Dấy vọng tưởng là lầm lẫn
quá ư to lớn!
Đoạn
này đă giảng giải ư nghĩa rất rơ ràng; v́ thế,
đối với mỗi chuyện, đều phải
dùng, ắt phải sử dụng, tức là trong mỗi
phép Quán đều cần phải dùng “tâm làm, tâm là”. “Tâm là” chính là cái có thể hiện
(năng hiện), duy tâm sở hiện, “tâm làm” là duy thức sở biến. Hết thảy
các tướng cảnh giới đều do tự tâm hiện,
do bổn thức biến. Ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài pháp
chẳng có tâm. Chư Phật, Bồ Tát thảy đều
do tự tánh biến hiện, đó gọi là “duy tâm Tịnh Độ, tự
tánh Di Đà”. Di Đà đă là tự tánh, há Quán Âm Bồ
Tát lại có bao giờ chẳng phải là tự tánh? Biết
chư Phật, Bồ Tát, Tịnh Độ do tự tánh biến
hiện, có thứ ǵ nơi cảnh giới trước mắt
chúng ta chẳng phải do tự tánh biến hiện? Quư vị
quán sát như vậy, quán lâu ngày, tự nhiên minh tâm kiến
tánh, tâm địa mới có thể thật sự đạt
đến thanh tịnh, b́nh đẳng, bất tri bất
giác tự nhiên nhập cảnh giới Phật.
Dùng
nguyên tắc này để quán tưởng, “nhi vi năng quán, thuyết tại tượng tiền,
dụng tại thử xứ” (dùng làm chủ thể
để quán, [nguyên tắc đă được nói] trong
phần quán tượng [A Di Đà Phật] trên đây
được vận dụng vào chỗ này).
Những điều đă nói trong phần quán tượng ở
phần trước là huấn luyện, tức là [những
điều được nói] trong phần quán Vô Lượng
Thọ Phật, [nguyên tắc] “tâm
này là Phật, tâm này làm Phật” đă được nói
trong đoạn kinh văn dạy về phép quán Vô Lượng
Thọ Phật, tức là được nói trong phép Quán thứ
chín, nhưng quư vị phải biết sử dụng; hiện
thời, đang nói đến phép quán Bồ Tát, quư vị
phải biết vận dụng nguyên tắc ấy để
quán tượng [Bồ Tát], sau đó mở rộng ra. “Kư vân tác Phật thị Phật”,
[có nghĩa là] nếu nói “làm Phật, là Phật”, “khởi bất năng tác Quán Âm
thị Quán Âm da?” (há chẳng thể làm Quán Âm bèn là Quán Âm
ư?), [nghĩa là] tâm này làm Quán Âm, tâm này là Quán Âm. “Thị kế, thị quan” (là
nhục kế, là măo), tâm này làm nhục kế, tâm này là nhục
kế, chẳng có ǵ không phải là như thế. “Thị kế, thị quan, giai khả
vi lệ, bất độc dĩ Phật lệ quán Bồ
Tát, diệc tu lệ ư phổ tạp tam bối, khởi
duy dĩ tiền lệ hậu, diệc hợp dĩ hậu
lệ tiền, dĩ linh hành nhân, thỉ mạt kinh văn,
câu khả tu quán cố” (là nhục kế, là măo trời,
đều có thể theo lệ ấy [để quán]. Không
chỉ riêng quán Bồ Tát là noi theo lệ quán Phật, mà
cũng nên theo lệ ấy để quán [trong các môn] Phổ
Quán, Tạp Quán, Ba Bậc Văng Sanh. Há có phải chỉ là áp
dụng nguyên tắc trong phép Quán trước vào phép Quán sau,
mà cũng phải nên áp dụng nguyên tắc trong phép Quán sau
vào phép Quán trước, khiến cho hành nhân đối với
kinh văn từ đầu đến cuối đều
có thể quán [theo cùng một nguyên tắc]). [Ư nói]: Đối
với mười sáu phép Quán, từ phép Quán thứ nhất
là Nhật Quán cho đến phép quán cuối cùng là Tŕ Danh,
đều phải vận dụng nguyên tắc này. Chúng ta
hiểu đạo lư này, phải dùng tâm thái và nguyên tắc ấy
để chấp tŕ danh hiệu, đích xác là chẳng giống
kẻ b́nh phàm niệm câu A Di Đà Phật. Kẻ b́nh phàm
niệm A Di Đà Phật miệng có, tâm không! Không có cái tâm
ǵ? Chẳng phải là cái tâm vô tưởng niệm A Di
Đà Phật. V́ tưởng niệm A Di Đà Phật là vọng
tưởng, niệm A Di Đà Phật [luôn suy tưởng]
“con rất yêu mến A Di Đà Phật, con rất mong
được thấy A Di Đà Phật”. Đó là cái tâm cảm
t́nh, là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Chân tâm là ǵ?
Tâm này là Phật, tâm này làm Phật, đó là đúng, chẳng
sai. V́ thế, đối với “miệng có, tâm không”,
trước nay chúng ta chưa hiểu rơ ư nghĩa “miệng
có, tâm không”, từ chỗ này chúng ta mới hiểu rơ ràng.
Đây
là chân tâm, cái “có thể hiện, có thể biến” đều
là chân tâm. “Tâm này làm Phật”
là chân tâm. Chẳng phải là chân tâm, sẽ chẳng hiển
lộ cảnh giới, mà cũng chẳng thể sanh ra biến
hóa. Có người nói: “Nhà Phật của các ông nói hết
thảy các pháp chỉ do tâm biến, [vậy th́] tôi cầm
vật này, ông hăy biến nó thành một món lễ vật cho
tôi xem thử! Ông có biến được hay không? Biến
chẳng được th́ tức là nói gạt người
mất rồi!” Người ấy chẳng hiểu cái có
thể biến chính là chân tâm, nay cái tâm mà chúng ta đang nói lại
chính là vọng tâm, vọng tâm chẳng thể biến, chân
tâm có thể biến. Ở đây nói “tâm này là Phật, tâm này làm Phật”, “là” và “làm” đều nói về chân tâm. Người b́nh
phàm hiểu lầm Phật pháp, chúng ta phải nên hiểu
điều này. Sau khi đă hiểu, sẽ dần dần
thong thả học tập, học sử dụng [những
điều ấy] trong cuộc sống hằng ngày, dùng
trong thấy, nghe, hay, biết, sẽ thọ dụng rất
to lớn. Hiện tiền sẽ có thể đạt
được tự tại giải thoát, xác thực là có
thể giúp cho chúng ta đoạn phiền năo, thành Phật
đạo.
Phép
Quán thứ mười một tiếp theo đây là quán
Đại Thế Chí Bồ Tát.
次 觀 大 勢 至 菩 薩。此 菩 薩 身 量 大 小。亦 如 觀 世 音。圓 光 面 各 百 二 十 五 由 旬。照 二 百 五 十 由 旬。舉 身 光 明。照 十 方 國。作 紫 金 色。有 緣 眾 生。皆 悉 得 見。但 見 此 菩 薩 一 毛 空 光。
(Kế đó, quán
Đại Thế Chí Bồ Tát. Vị Bồ Tát này thân
lượng lớn nhỏ cũng như Quán Thế Âm. Viên
quang mỗi phía rộng một trăm hai mươi lăm
do-tuần, chiếu xa hai trăm năm mươi do-tuần.
Quang minh nơi toàn thân Ngài chiếu mười phương
cơi nước, có màu vàng tía. Chúng sanh hữu duyên thảy
đều được thấy, chỉ thấy một
ánh sáng nơi lỗ chân lông của vị Bồ Tát này…).
Chữ
Không (空) ở đây có nghĩa là từ
lỗ chân lông tỏa ra ánh sáng.
即 見 十 方 無 量 諸 佛 淨 妙 光 明。是 故 號 此 菩 薩 名 無 邊 光。以 智 慧 光。普 照 一 切。令 離 三 塗。得 無 上 力。是 故 號 此 菩 薩 為 大 勢 至。
(Liền thấy quang minh trong sạch, mầu nhiệm
của mười phương vô lượng chư Phật.
Do đó, vị Bồ Tát này được gọi là Vô Biên
Quang. Dùng trí huệ quang chiếu khắp hết thảy,
khiến họ được ĺa tam đồ, đắc
vô thượng lực. Do vậy, vị Bồ Tát này có hiệu
là Đại Thế Chí).
Trong
đoạn kinh văn này, trước hết giới thiệu
Đại Thế Chí Bồ Tát và Quán Thế Âm Bồ Tát có
h́nh trạng, vóc dáng, diện mạo đều giống hệt
nhau. Ở đây cũng giới thiệu nguyên do của
danh hiệu Bồ Tát, v́ sao Ngài được gọi là
Đại Thế Chí? Ngài c̣n có một danh hiệu khác là Vô
Biên Quang, ở đây, chúng ta đều thấy: V́ Ngài có thể
khiến cho hết thảy chúng sanh hữu duyên xa ĺa tam
đồ, đắc vô thượng lực, nên gọi là
Đại Thế Chí. Danh hiệu Đại Thế Chí
được kiến lập từ chỗ này.
Chúng
ta lại xem đoạn kinh văn tiếp theo trong trang hai
trăm lẻ năm, [có khoa đề là] “dữ Quán Âm minh dị đồng” (nói rơ chỗ
giống nhau và khác nhau so với ngài Quán Âm).
此 菩 薩 天 冠。有 五 百 寶 華。一 一 寶 華。有 五 百 寶 臺。一 一 臺 中。十 方 諸 佛 淨 妙 國 土 廣 長 之 相。皆 於 中 現。頂 上 肉 髻。如 缽 頭 摩 華。
(Măo trời của vị Bồ Tát này có năm trăm
hoa báu. Mỗi một hoa báu có năm trăm bảo đài.
Trong mỗi đài, tướng các cơi nước tịnh
diệu rộng lớn của mười phương
chư Phật đều hiện trong ấy. Nhục kế
trên đỉnh đầu Ngài như hoa sen đỏ).
“Bát Đầu Ma” (Padma) là hoa
sen đỏ.
Ư
nhục kế thượng hữu nhất bảo b́nh.
於 肉 髻 上 有 一 寶 瓶。
(Trên nhục kế có một b́nh
báu).
Đây
là chỗ khác với Quán Âm Bồ Tát.
Thịnh
chư quang minh.
盛 諸 光 明。
(Chứa các quang minh).
Trong
b́nh báu ấy đựng ǵ? Chứa quang minh.
Phổ
hiện Phật sự. Dư chư thân tướng,
như Quán Thế Âm đẳng vô hữu dị.
普 現 佛 事。餘 諸 身 相。如 觀 世 音 等 無 有 異。
(Hiện khắp các Phật sự.
Những thân tướng khác giống hệt như Quán Thế
Âm, chẳng khác).
Chỗ
chẳng giống Quán Âm Bồ Tát là măo khác nhau.
此 菩 薩 行 時。十 方 世 界。一 切 震 動。當 地 動 處。有 五 百 億 寶 華。一 一 寶 華。莊 嚴 高 顯 如 極 樂 世 界。
(Lúc Bồ Tát này đi, mười phương thế
giới hết thảy chấn động. Chỗ đất
chấn động có năm trăm ức hoa báu. Mỗi một
hoa báu trang nghiêm, cao rạng như thế giới Cực Lạc).
Đây
là cảnh giới hiện ra khi Bồ Tát đi.
此 菩 薩 坐 時。七 寶 國 土。一 時 動 搖。從 下 方 金 光 佛 剎。乃 至 上 方 光 明 王 佛 剎。於 其 中 間。無 量 塵 數 分 身 無 量 壽 佛。分 身 觀 世 音 大 勢 至。皆 悉 雲 集 極 樂 國 土。畟 塞 空 中。坐 蓮 華 座。演 說 妙 法。度 苦 眾 生。
(Khi vị Bồ Tát này ngồi, cơi nước bảy
báu đồng thời rung chuyển. Từ cơi Kim Quang Phật
ở phương dưới cho đến cơi Quang Minh
Vương Phật ở phương trên, trong khoảng
đó, vô lượng phân thân của Vô Lượng Thọ
Phật, phân thân của Quán Thế Âm, Đại Thế Chí
số nhiều như vi trần đều cùng vân tập
đầy dẫy trong hư không của cơi Cực Lạc,
[tất cả các phân thân] đều ngồi trên ṭa hoa sen,
diễn nói diệu pháp, độ chúng sanh đang khổ sở).
Đoạn
này nói Bồ Tát đi và ngồi đều thực hiện
sự trang nghiêm lợi ích chúng sanh.
作 此 觀 者。名 為 觀 見 大 勢 至 菩 薩。是 為 觀 大 勢 至 色 身 相。觀 此 菩 薩 者。名 第 十 一 觀。
(Hành phép Quán này th́ gọi là quán thấy Đại Thế
Chí Bồ Tát, tức là quán tướng sắc thân của
ngài Đại Thế Chí. Quán vị Bồ Tát này th́ gọi
là phép Quán thứ mười một).
Đoạn
kinh văn này giới thiệu Đại Thế Chí Bồ
Tát trong Tây Phương Tam Thánh. Kinh nói Bồ Tát đi và ngồi,
tức là nói tới hai thứ trong bốn oai nghi. Nói hai thứ
th́ hai thứ khác cũng đều được bao gồm
trong ấy, phải biết điều này. Đi, đứng,
ngồi, nằm toàn là Phật sự, toàn là chấn động
hết thảy. Đại Thế Chí Bồ Tát đi, đứng,
ngồi, nằm, hết thảy chấn động, Quán Thế
Âm Bồ Tát có [giống như vậy] hay không?
Đương nhiên là có. Chớ nên bảo là trong phần
kinh văn nói về Quán Âm Bồ Tát chẳng hề đề
cập th́ có lẽ Quán Âm Bồ Tát [đi, đứng, nằm,
ngồi] chẳng có chuyện ấy! Đức Phật nói
kinh, hễ có những ǵ trong phần kinh văn giảng về
Quán Âm Bồ Tát [đă nói] Quán Âm Bồ Tát đă có th́ Đại
Thế Chí Bồ Tát đều có. Đă nói Đại Thế
Chí Bồ Tát có [những tướng trạng ǵ], Quán Thế
Âm Bồ Tát cũng đều có, chẳng khác ǵ nhau!
Đối
với sự chấn động, nói “hết thảy chấn
động” th́ chẳng phải là như chúng ta nói đến
nạn động đất trong hiện thời, động
đất th́ nguy hiểm quá! [Nếu hiểu kiểu
đó], hễ Bồ Tát đến bèn mang lại đại
tai nạn cho chúng ta ư? Hiểu lầm mất rồi!
Đức Phật nói “đại
địa chấn động” là nói về tâm địa,
tức tâm địa của hết thảy chúng sanh. Thấy
quang minh của đức Phật, nghe đức Phật
thuyết pháp, tâm địa chấn động, giác ngộ!
Trước kia, tâm này mê hoặc, điên đảo, nay bị
chấn động, tâm liền khai giải, tâm khai ư giải,
mang ư nghĩa này. V́ thế, chớ nên hiểu lầm ư! Hễ
hiểu lầm ư, chúng ta đều chẳng hoan nghênh Phật,
Bồ Tát đến, [v́] lúc các Ngài đến, tai nạn
quá lớn. Ở đây là nói tâm địa chấn động,
tâm khai ư giải. Do đó, “động” ở đây có nghĩa
là “tuôn trào”, tuôn trào là ǵ? Trí huệ luôn tuôn trào, giác tánh
thường tuôn trào, biểu thị ư nghĩa này. Hết
thảy chư Phật, Bồ Tát đều có thể giúp
chúng sanh phá mê khai ngộ, ĺa khổ được vui,
đấy là nói tổng quát.
Đoạn
kinh văn tiếp theo nói về công đức diệt tội
nơi hàng thứ ba trong trang hai trăm lẻ bảy.
除 無 數 劫 阿 僧 祗 生 死 之 罪。作 是 觀 者。不 處 胞 胎。常 遊 諸 佛 淨 妙 國 土。此 觀 成 已。名 為 具 足 觀 觀 世 音 大 勢 至。
(Trừ tội trong vô số kiếp A-tăng-kỳ
sanh tử. Quán phép này, chẳng ở trong bào thai, thường
dạo trong các cơi nước thanh tịnh mầu nhiệm
của chư Phật. Phép Quán này thành tựu th́ gọi là
quán trọn đủ Quán Thế Âm và Đại Thế
Chí).
Trong
chú giải, nói tổng quát th́ chỉ có trong măo của hai vị
Bồ Tát này [là khác biệt], một vị là hóa Phật, vị
kia là b́nh báu. “Nhị chủng hữu
dị, dư tướng giai đồng” (hai thứ có
khác biệt, những tướng khác đều giống
nhau). Những tướng khác hoàn toàn đều giống
nhau, chỉ có trên măo là có sai khác đôi chút. Tướng mạo
giống nhau, oai nghi cũng giống nhau, đương
nhiên công đức lợi sanh vẫn giống nhau. Do
đó, bất luận nói về điểm nào, hai vị Bồ
Tát thảy đều giống nhau.
Tiếp theo là phép
Quán thứ mười hai: “Phổ
văng sanh quán”. Trong phần này có hai đoạn. Đoạn
thứ nhất là “tác tự
thân văng tưởng” (tưởng thân ḿnh văng sanh).
Người tu Tịnh Tông tuy chẳng tu phép Quán này,
nhưng tŕ danh niệm Phật th́ tốt nhất cũng nên
thường hành phép Quán [chính ḿnh] văng sanh, rất hữu
ích đối với việc văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới trong tương lai của chúng ta.
見 此 事 時。當 起 自 心 生 於 西 方 極 樂 世 界。於 蓮 華 中。結 跏 趺 坐。作 蓮 華 合 想。作 蓮 華 開 想。蓮 華 開 時。有 五 百 色 光 來 照 身 想。眼 目 開 想。見 佛 菩 薩 滿 虛 空 中。水 鳥 樹 林。及 與 諸 佛 所 出 音 聲。皆 演 妙 法。與 十 二 部 經 合。若 出 定 之 時。憶 持 不 失。見 此 事 已。名 見 無 量 壽 佛 極 樂 世 界。是 為 普 觀 想。名 第 十 二 觀。
(Khi thấy sự ấy, hăy nên tự khởi tâm sanh
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, ngồi
xếp bằng trong hoa sen. Tưởng hoa sen khép lại,
tưởng hoa sen nở ra. Tưởng khi hoa sen nở, có
năm trăm ánh sáng có màu chiếu đến thân. Tưởng
khi mở mắt, thấy Phật, Bồ Tát đầy khắp
hư không. Âm thanh của nước, chim, rừng cây và tiếng
Phật nói đều diễn diệu pháp, phù hợp với
mười hai bộ kinh. Như khi xuất Định, nhớ
giữ chẳng quên. Đă thấy sự ấy th́ gọi
là thấy thế giới Cực Lạc của Vô Lượng
Thọ. Đó là phổ quán tưởng, được gọi
là phép Quán thứ mười hai).
Phần
sau c̣n có một đoạn, [chúng ta] hăy đọc tiếp
nơi trang hai trăm lẻ chín, hàng thứ hai.
Vô Lượng Thọ Phật
hóa thân vô số, dữ Quán Thế Âm, cập Đại Thế
Chí, đương lai chí thử hành nhân chi sở.
無 量 壽 佛 化 身 無 數。與 觀 世 音 及 大 勢 至。當 來 至 此 行 人 之 所。
(Vô Lượng Thọ Phật
hóa thân vô số, cùng với Quán Thế Âm, Đại Thế
Chí sẽ đến chỗ hành nhân ấy).
Đoạn
này nhằm dạy chúng ta hăy thường ức tưởng
chính ḿnh văng sanh. Quán tưởng chẳng dễ dàng. Hơn
nữa, hiện thời chúng ta phiền năo rất nặng,
vọng niệm quá nhiều, nên vận dụng Quán Tưởng
Niệm Phật quả thật chẳng dễ ǵ thành tựu.
V́ lẽ đó, chúng ta chuyên chọn Tŕ Danh làm phương
pháp tu hành, lấy Tŕ Danh làm chủ, và cũng có thể dùng
quán tưởng để phụ trợ, điều này rất
hữu ích. Dùng quán tưởng để phụ trợ th́
chúng ta có thể tưởng bao nhiêu bèn tưởng bấy
nhiêu, rất thuận tiện! Đặc biệt là ban
đêm trước khi ngủ, trong khi chúng ta nằm trên
giường, hăy tưởng đang văng sanh, tưởng
đức Phật đến tiếp dẫn chúng ta.
Thường quán tưởng như vậy, sẽ có lợi
ích to nhất, lúc lâm chung chẳng sợ hăi. Người
b́nh phàm, nói thật ra, hết thảy chúng sanh đều là
như vậy, có thể nói là lục đạo chúng sanh
không ai chẳng như vậy, tham sống sợ chết!
Khi thật sự sắp chết, nỗi sợ hăi hiện
hữu, thật sự có thể giữ cho tâm chẳng
điên đảo, xa ĺa hoảng sợ, cần phải có
định lực rất sâu. Khi lâm chung, người thật
sự chẳng điên đảo, chẳng sợ hăi, dẫu
chẳng phải là người niệm Phật, cũng chắc
chắn chẳng đọa trong ba ác đạo. Vào trong ba
ác đạo là như thế nào? Do hoảng loạn nên mới
vào, há có người nào đầu óc sáng suốt lại
đọa trong ba ác đạo? Chẳng thể nào! Chỉ
có trong lúc hoảng loạn th́ mới như thế, chẳng
thấy rơ ràng hết thảy cảnh giới, bèn thuận
theo nghiệp lực lôi dắt vào đó. Thần trí sáng suốt,
chẳng hề hoang mang, thấy rất rơ cảnh giới,
người ấy sẽ có thể chọn lựa, tất
nhiên sẽ chọn lựa phước báo nhân thiên. Nếu
là người niệm Phật, vào lúc khẩn yếu ấy,
chắc chắn là người ấy chọn lựa Tây
Phương Tịnh Độ. Chỉ có một niệm
tương ứng ấy, Phật liền đến
đón tiếp, [văng sanh Tây Phương với] tốc
độ vô cùng nhanh chóng. Quư vị một niệm
tương ứng, ngay lập tức Phật, Bồ Tát
đến tiếp dẫn quư vị. V́ thế, loại quán
tưởng này, tức là quán tưởng thường văng
sanh có lợi ích vô cùng to lớn.
Mấy
câu cuối trong đoạn kinh văn này nói rất hay. Trong
khi chúng ta quán tưởng, vẫn c̣n chưa mạng chung, A
Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí đều hiện tiền,
đúng là “nhập ngă tưởng
trung” (vào trong tâm tưởng của ta), cũng chính là
như kinh văn trong phần trước đă nói: “Nhập chúng sanh tâm tưởng
trung” (vào trong tâm tưởng của chúng sanh). Trong tâm
tưởng Phật, tâm liền làm Phật. Tưởng Bồ
Tát, tâm liền làm Bồ Tát. Cuối phần chú giải có
nói: “Tư năi tam quán nhất
tâm, tác thị song vận, trí linh tâm Phật, bỉ thử
văng lai, cố tri quán thể, thành bất khả tư nghị”
(Đây chính là Tam Quán Nhất Tâm, cùng vận dụng “tâm này
làm Phật” và “tâm này là Phật”, khiến cho tâm và Phật
dung nhập lẫn nhau. Do vậy, biết Thể của
Quán đúng là chẳng thể nghĩ bàn). Quư vị thường
thường có thể quán tưởng như thế, sẽ
cảm ứng đạo giao với Phật, Bồ Tát,
điều này thuộc về Sự, c̣n “tâm làm, tâm là” thuộc
về Lư. Lư và Sự tương ứng, Lư và Sự chẳng
hai, niệm Phật, ức Phật như vậy, công đức
lại chẳng thể nghĩ bàn. Do vậy có thể biết,
nếu chúng ta chẳng đọc kinh luận này, không hiểu
rơ, tuy nói pháp này là “đạo dễ hành”, nhưng chúng ta
cũng thường hiểu lầm pháp này. Đấy chính
là duyên cớ khiến cho người niệm Phật
đông đảo, người văng sanh ít ỏi. Đấy
cũng là như cổ nhân đă nói: “Sanh về Tây Phương, phẩm vị cao hay thấp
do mỗi người gặp duyên khác nhau”, đều nhằm
chứng minh cho chúng ta. Chúng ta gặp duyên rất thù thắng,
thù thắng ở chỗ nào? Hiểu rơ Lư, hiểu rơ phương
pháp, cảnh giới đều biết, biết dụng
tâm, biết dụng công, tức là duyên thù thắng, văng sanh
Tây Phương phẩm vị sẽ cao!
Phẩm
vị cao hay thấp, nói thật ra là do gặp duyên khác nhau.
Dường như Thiện Đạo đại sư nói
câu này, Ngài nói trong Tứ Thiếp Sớ, gặp duyên khác
nhau. Đích xác là đối với người niệm Phật
chúng ta mà nói, câu nói này của Thiện Đạo đại
sư đă tạo tín tâm rất lớn cho chúng ta. Bởi lẽ,
nếu chẳng nghe lời trên đây, sẽ luôn cảm thấy
chính ḿnh nghiệp chướng rất nặng, ta có thể
văng sanh hay không, tự ḿnh chẳng nắm chắc. Nếu
như văng sanh, hạ hạ phẩm là đă là rất may mắn,
rất thỏa măn, chẳng dám mơ tưởng cao
hơn! Cũng chẳng biết chính ḿnh
có thật sự nắm chắc hay không! Nghe những lời
này của tổ sư, tâm mới định, biết là
không chỉ nắm chắc văng sanh, mà c̣n nắm chắc cầu
đạt được thượng thượng phẩm
văng sanh. V́ điều này chẳng liên quan đến thiện
căn và phước đức trong đời quá khứ
cho mấy, mà liên quan rất lớn với chuyện gặp
duyên trong đời này. Lại thưa cùng chư vị rơ
ràng hơn một chút, v́ sao nói là chẳng liên quan đến
thiện căn và phước đức trong đời
quá khứ cho mấy? Quư vị đă trọn đủ thiện
căn và phước đức trong đời quá khứ.
Nếu quư vị chẳng trọn đủ thiện
căn và phước đức, chẳng phải là nhiều
thiện căn, lắm phước đức, làm sao quư vị
có thể tin tưởng cho được? Làm sao quư vị
có cơ hội gặp gỡ [pháp môn này] cho được?
[Nếu không trọn đủ], sẽ chẳng gặp pháp
môn này! Quư vị có thể gặp gỡ, sau khi gặp gỡ,
có thể tin tưởng, có thể phát nguyện, cho thấy
thiện căn và phước đức của quư vị
chẳng có vấn đề, đă trọn đủ! Vấn
đề hiện thời là vấn đề duyên. Duyên này
khiến cho phẩm vị văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới sai khác. Quư vị là thượng thượng
phẩm, hay là thượng trung phẩm, hoặc thuộc
vào ba phẩm hạ, là do vấn đề gặp duyên.
Bản
thân chúng ta phải hiểu rơ chuyện này, nhất định
phải phát nguyện làm Tăng Thượng Duyên cho hết
thảy chúng sanh. Chúng ta gặp nhân duyên hết sức thù thắng,
bản thân chúng ta có thể đạt tới phẩm vị
cao, nhưng vẫn c̣n có những người niệm Phật chẳng biết. Nếu chúng ta có
duyên gặp họ, quư vị có thể giảng giải cho
họ nghe, khiến cho họ cũng có thể tăng
cao phẩm vị, tự hành, hóa độ người
khác. Ngàn muôn phần đừng ôm ấp tâm niệm: “Ta gặp
duyên tốt đẹp, ta thượng thượng phẩm
văng sanh, cũng chớ nên nói với người khác để
phẩm vị văng sanh của những người khác
đều thấp hơn ta”. Hễ có ư niệm ấy th́ ư
niệm ấy chính là tiếc pháp, tâm keo kiệt đă nổi
lên. Keo kiệt là phiền năo lớn nhất, thuộc về
tham phiền năo. Tham, sân, si phiền năo sanh khởi, sẽ
chướng ngại quư vị văng sanh. Không chỉ phẩm
vị chẳng thể tăng cao, mà c̣n bị chướng
ngại, quư vị chưa chắc văng sanh được!
Trừ phi chẳng có duyên, hễ có duyên bèn khuyên người
khác, hễ có duyên bèn giảng giải cho người ta!
Giảng
giải cho người khác, có phải là sẽ khiến cho
sự tu hành của chính ḿnh bị lỡ làng hay chăng? Chẳng
hề lỡ làng! Quư vị giảng giải cho người
khác, nhưng chính ḿnh vẫn nhớ Phật, niệm Phật,
không nhất định phải là “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật” th́ mới là
niệm Phật. Ta khuyên người khác niệm Phật,
cũng là đang niệm Phật, tâm ta chẳng ĺa A Di
Đà Phật. Do đó, niệm Phật không nhất định
là miệng niệm. Tâm niệm, ức niệm th́ thân
cũng đang niệm, ba nghiệp thân, miệng, ư đều
đang niệm Phật. Không chỉ riêng là miệng niệm,
tự hành là niệm Phật, mà giúp đỡ người
khác cũng là niệm Phật. Một ḿnh ta niệm câu A Di
Đà Phật, mọi người đều niệm A Di
Đà Phật, mọi người niệm A Di Đà Phật
chính là ta đang niệm A Di Đà Phật, nhất định
phải hiểu đạo lư này. Trong kinh Đại Thừa
đă đôi ba lượt dạy: Một chính là hết thảy,
hết thảy chính là một, ngàn muôn phần phải thấu
hiểu ư nghĩa này. Phương pháp tu hành của chúng ta mới
có thể giống như quang minh, từng tia sáng soi tỏ
lẫn nhau th́ quang minh mới hiển thị sự rộng
lớn khôn sánh.
À!
Chúng ta tan học, nghỉ ngơi mấy phút.
Tập
26
Phần trước là một đoạn
lớn, từ phép Quán thứ nhất đến phép Quán
thứ mười hai thuộc loại Quán Tưởng
Niệm Phật. Từ phép Quán thứ mười ba
thuộc về Quán Tượng Niệm Phật,
phương pháp này khác với các phương pháp
trước. Chúng ta xem đoạn tiếp theo, [hăy xem
từ] hàng thứ ba đếm từ dưới lên trong
trang hai trăm lẻ chín.
Phật cáo A Nan cập
Vi Đề Hy: - Nhược dục chí tâm sanh Tây
Phương giả, tiên đương quán ư nhất
trượng lục tượng, tại tŕ thủy thượng.
佛 告 阿 難 及 韋 提 希。若 欲 至 心 生 西 方 者。先 當 觀 於 一 丈 六 像。在 池 水 上。
(Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: - Nếu muốn chí tâm sanh về Tây Phương,
trước hết hăy nên quán tượng cao một trượng
sáu ở trên mặt nước trong ao).
Khoa
đề của phần này là “tạp
minh Phật, Bồ Tát quán, sơ quán trượng lục
tượng” (nói về pháp quán xen lẫn Phật và Bồ
Tát, trước hết là quán tượng cao một trượng
sáu). Trong phần trước đă nói thân tướng của
Phật và Bồ Tát đều vô cùng cao lớn, thật sự
rất khó tưởng tượng; nhưng Quán Tượng
Niệm Phật cũng phải rất có phước báo
th́ mới được. Nếu chẳng có phước
báo, rất khó tu hành! Nếu phước báo rất lớn,
chính ḿnh cũng chẳng phải làm chuyện ǵ, cuộc sống
có người chăm sóc, trong nhà có Phật đường,
trong Phật đường khắc h́nh tượng Phật,
Bồ Tát cao một trượng sáu thước. Hiện
thời, tại Đại Lục, có rất nhiều
tượng Phật cao một trượng sáu thước,
rất cao, rất lớn. Tượng Phật thờ trong
nhà, mỗi ngày nh́n ngắm, quán tượng; nhưng nếu
rời khỏi Phật đường, cái nhân tu tập ấy
bị đoạn mất, nên phải thường ở
trong Phật đường quán tượng. V́ lẽ
đó, chính ḿnh chỉ đành chẳng đi làm th́ mới
có thể tu được. Do đó, điều này cho thấy
[phải có] phước báo rất lớn [th́ mới tu Quán
Tượng Niệm Phật thành công]. Hiện thời, [cách
tu này] không chỉ là rất khó đối với kẻ tại
gia, mà đối với người xuất gia cũng rất
khó! Phải buông hết thảy xuống, mỗi ngày quán
tượng trong Niệm Phật Đường, rất
khó! Đó là [nói về cách tu quán tưởng] kim thân cao một
trượng sáu.
Chúng
ta đọc lời chú giải:
“Hành giả ư tiền y chánh chư quán, tuy dĩ tinh tu,
thượng vị đắc nhập” (hành giả
nương theo các phép Quán về chánh báo và y báo như trên
đây, tuy đă tu chuyên ṛng, vẫn chưa chứng nhập).
Ư nói tuy tu Quán đúng như các phương pháp trên đây,
nhưng chẳng thể quán thành tựu. Chẳng thể
thành tựu, bèn chẳng thể đắc lực. “Kỳ cầu sanh chi tâm, di gia
đôn đốc, danh vi chí tâm” (cái tâm cầu được
văng sanh ấy càng được thêm đôn đốc, nên
gọi là chí tâm), nhưng cái tâm cầu sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới hết sức ân cần, tha thiết.
Quán chẳng thành, nhưng chúng ta rất mong mỏi
được sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới, làm như thế nào đây? Bất đắc
dĩ, đức Phật lại dạy chúng ta một
phương pháp: Chẳng thể quán Thắng Ứng Thân
thành tựu, bèn quán Liệt Ứng Thân, tức là thân trượng
sáu. “Cố linh thử nhân xả
thắng, quán liệt” (nên dạy người ấy thôi
quán Ứng Thân, mà quán Liệt Thân). Mười hai phép Quán
trên đây đều vô cùng thù thắng, nhưng quán chẳng
thành công, chúng ta bỏ đi, quán tượng Liệt Ứng
Thân. “Vị quán nhị thị
tiền, tưởng Di Đà, cố vân tiên đương
quán trượng lục dă” (trước khi quán hai vị
thị giả, bèn tưởng Di Đà, nên nói là trước
hết quán tượng cao một trượng sáu). Đây
là thân cao một trượng sáu thước, chúng ta sẽ
dễ quán hơn nhiều. “Hành
nhân dục thác bỉ độ liên tŕ, cố linh quán tượng
tại tŕ thủy thượng” (Hành nhân muốn thác sanh
trong ao sen nơi cơi ấy, nên dạy họ quán tượng
ở trên mặt nước trong ao). Tuy chúng ta thờ phụng
h́nh tượng Phật, phải tưởng tượng
Phật ấy đứng trên hoa sen báu trong ao bảy báu. Do
đó, trong quán tượng c̣n bao gồm quán tưởng,
nhưng quán tượng là chủ, dễ tu thành công hơn!
“Ưng tri thắng thân, kư tâm
tác, tâm thị, khởi kim trượng lục, phi tác thị
da? Viên nhân tác vi, giai liễu duy tâm” (Hăy nên biết thân thù
thắng đă là “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, há nay
tượng cao trượng sáu chẳng phải là “tâm này
làm Phật, tâm này là Phật” ư? Người viên đốn
làm ǵ cũng đều thấu hiểu duy tâm). Do vậy,
có thể biết, bất luận là quán Thắng Ứng
Thân hay quán Liệt Ứng Thân, đều chẳng thể bỏ
nguyên tắc “tâm này làm, tâm này là”. Đối với những
chữ tiếp đó, tôi không nói tới, v́ đă bao hàm hết
thảy vạn pháp, tâm này làm Phật, tâm này là Phật,
[tương tự, ta cũng có thể nói] tâm này làm Bồ
Tát, tâm này là Bồ Tát. “Tâm làm,
tâm là” bao quát hết thảy muôn pháp thế gian và xuất
thế gian, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới
đều chẳng ĺa khỏi nguyên tắc này. Lại xem
kinh văn.
Như
tiên sở thuyết Vô Lượng Thọ Phật thân
lượng vô biên, phi thị phàm phu tâm lực sở cập.
如 先 所 說 無 量 壽 佛 身 量 無 邊。非 是 凡 夫 心 力 所 及。
(Như trong phần trước đă nói Vô Lượng
Thọ Phật thân lượng vô biên, tâm lực phàm phu chẳng
thể quán tưởng nổi).
Đối
với những điều đă nói trong phần trước,
đức Phật biết rất rơ ràng, nhất là phàm phu
trong đời mạt chắc chắn chẳng thể quán
thành công! Đừng nói là quán thân tướng Phật, ngay
cả quán mặt trời hay quán nước, chúng ta đều
chẳng có cách nào thành tựu.
Nhiên
bỉ Như Lai túc nguyện lực cố, hữu ức
tưởng giả, tất đắc thành tựu.
然 彼 如 來 宿 願 力 故。有 憶 想 者。必 得 成 就。
(Nhưng do túc nghiệp lực của đức
Như Lai ấy, hễ có ai ức tưởng, ắt
được thành tựu).
Nói
thật ra, pháp môn Niệm Phật hoàn toàn cậy vào thần
lực Tam Bảo gia tŕ, đặc biệt là A Di Đà Phật
nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn, nhất định
gia tŕ chúng ta. Tâm nguyện của chúng ta càng thanh tịnh,
càng khẩn thiết, sức mạnh gia tŕ của Phật
lực càng rơ rệt. Các đồng tu phải hiểu,
đây là một sanh lộ, là hy vọng duy nhất của
chúng ta. Lục đạo là tử lộ, nhất định
phải buông xuống chuyện trong lục đạo. Những
chuyện ǵ trong lục đạo? Các thứ kiến giải,
các nỗi vọng tưởng, các thứ
phân biệt, chấp trước, tham, sân, si, mạn,
tất cả đều là chuyện thuộc về lục
đạo, phải vứt bỏ. Chẳng vứt bỏ,
quư vị đang tu ǵ thế? Tu lục đạo! Người
học Phật, nói thật ra, bề ngoài là đang học
Phật, nhưng thật ra là đang tu lục đạo rất
nhiều! Cớ sao rất nhiều? Trong Phật môn mà ganh tỵ,
chướng ngại, thị phi, nhân ngă, miệng niệm
Phật nhưng trong tâm vẫn muốn làm những chuyện
đó! Đấy là ǵ? Tu lục đạo luân hồi, tu
ba ác đạo trong Phật môn! Chúng ta thấy người
khác có những điều ấy, đừng quan tâm đến,
chính ḿnh quyết định chớ nên khởi ư niệm ấy!
Sáng
hôm nay có mấy đồng tu nói đến chuyện hằng
thuận chúng sanh và tùy hỷ công đức. Khóa sáng và khóa tối
mỗi ngày đều niệm mười nguyện Phổ
Hiền: “Nhất giả lễ
kính chư Phật, nhị giả xưng tán Như Lai”,
niệm hằng ngày. Thuận là ǵ? Hằng thuận chúng
sanh. Chúng sanh: Phàm những tướng do các duyên ḥa hợp
mà sanh ra th́ đều gọi là “chúng sanh”. Hết thảy mọi
người là chúng sanh, hết thảy sự vật
cũng là chúng sanh, bàn ghế cũng đều là chúng sanh.
Chẳng có ǵ không phải là chúng sanh, v́ đều do các
duyên ḥa hợp mà sanh. Tùy thuận như thế nào? Đối
với hết thảy chúng sanh, nói cách khác, đối với
hết thảy hoàn cảnh nhân sự hay hết thảy hoàn
cảnh vật chất, bất luận là người thiện,
kẻ ác, người tốt, kẻ xấu, cảnh giới
là thuận cảnh hay nghịch cảnh, chúng ta đều
chẳng khởi tâm, mà cũng chẳng động niệm,
đó là “hằng thuận”. Hễ khởi tâm động niệm
th́ c̣n thuận theo ǵ nữa? Hằng thuận tự tánh của
hết thảy chúng sanh. Lục Tổ đă nói về tự
tánh rất hay: “Vốn chẳng
có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần”,
trong “vốn chẳng có một vật”, hằng thuận tự
tánh. Hằng thuận tự tánh của hết thảy chúng
sanh, hằng thuận vật tánh. Không khởi tâm, chẳng
động niệm là thuận; khởi tâm động niệm
sẽ không thuận, phải biết điều này!
Tùy
hỷ là giúp người khác thành tựu những điều
tốt đẹp. Thấy chuyện của người ta
có lợi ích cho chúng sanh, lợi ích xă hội, chúng ta sẽ
tận tâm tận lực giúp đỡ, thành toàn người
ấy. Thành toàn như thế nào th́ là tùy hỷ? Thành toàn mà
chẳng kể công sẽ là tùy hỷ. Không cần danh, chẳng
cần lợi, chẳng cần công đức, tận tâm tận
lực giúp đỡ họ, đó gọi là tùy hỷ. Nếu
trong ấy có xen lẫn danh lợi, lại muốn tranh
giành những điều tốt đẹp, đó chẳng
phải là tùy hỷ. Tùy hỷ hoàn toàn là nghĩa vụ, trọn
hết nghĩa vụ, chẳng cầu quyền lợi,
đó mới là tùy hỷ. Do đó, cương mục tu học
của Bồ Tát thật sự được bao gồm
trong ư nghĩa của khoa mục [tùy hỷ] này. Nếu chúng
ta chẳng hiểu rơ ràng, sẽ thường là tu hành hoàn
toàn sai lầm. Chúng ta xem đoạn cuối cùng.
Đản tưởng Phật
tượng, đắc vô lượng phước. Huống
phục quán Phật cụ túc thân tướng.
但 想 佛 像。得 無 量 福。況 復 觀 佛 具 足 身 相。
(Chỉ tưởng tượng
Phật c̣n được phước vô lượng, huống
lại quán trọn đủ thân tướng của Phật).
Tượng Phật
đắp hay h́nh Phật in màu đều như nhau;
nhưng có những tượng Phật, đặc biệt
là giống như tượng chúng ta đang in hiện thời,
tượng đúc cũng thế, tượng vẽ rất
nhỏ, tượng Phật nhỏ mang theo thân rất thuận
tiện. Nhưng chúng ta đối trước tượng
Phật quán tưởng th́ phải tưởng bức
tượng Phật ấy rất lớn, giống như
người thật, cao một trượng sáu thước,
tưởng ở trước tượng Phật, chúng ta
rất nhỏ, phải tưởng theo cách như vậy.
Đừng tưởng chúng ta rất lớn, tượng
Phật nhỏ xíu, quán tưởng kiểu ấy th́ đă
sai lầm mất rồi. Do đó, tượng nhỏ một
chút chẳng sao cả, nói chung là khi tưởng, [phải
tưởng] chúng ta đối trước tượng Phật
chỉ bằng một nửa tượng Phật, chỉ
cao lớn bằng một nửa tượng Phật, Phật
to gấp bội chúng ta, phải thường quán tưởng
như thế. Lễ bái chư Phật cũng phải
tưởng theo cách giống như vậy, như vậy
th́ mới rất đúng pháp.
Lại
xem tiếp đoạn văn tiếp theo, xem ḍng in theo lối
đảnh cách trong trang hai trăm mười một.
A Di
Đà Phật thần thông như ư, ư thập
phương quốc, biến hiện tự tại, hoặc
hiện đại thân măn hư không trung, hoặc hiện
tiểu thân, trượng lục bát xích.
阿 彌 陀 佛 神 通 如 意。於 十 方 國。變 現 自 在。或 現 大 身。滿 虛 空 中。或 現 小 身。丈 六 八 尺。
(A Di Đà Phật thần thông như ư, trong các cơi
nước mười phương, biến hiện tự
tại. Hoặc hiện thân to lớn đầy ắp
hư không, hoặc hiện thân nhỏ, cao một trượng
sáu, hoặc cao tám thước).
Hiện
thân trượng sáu, hoặc hiện thân cao tám thước.
Hiện thân cao tám thước tức là hoàn toàn giống
như người b́nh thường.
Sở hiện chi h́nh, giai chân kim sắc.
Viên quang hóa Phật, cập bảo liên hoa như thượng
sở thuyết.
所 現 之 形。皆 真 金 色。圓 光 化 佛。及 寶 蓮 華。如 上 所 說。
(Thân h́nh hóa hiện đều
là sắc vàng ṛng. Trong viên quang hóa Phật và hoa sen báu như
trên đă nói).
Khoa
đề của đoạn này là “phất khử chúng nghi” (trừ khử các nỗi
nghi), trong chú giải có [giảng giải đoạn này]. V́
chúng ta thấy tượng Phật, có tượng Phật
lớn, có tượng Phật nhỏ, rốt cuộc chúng
ta quán tượng to tốt hơn, hay quán tượng nhỏ
tốt hơn? Thưa cùng quư vị lớn hay nhỏ đều
như nhau. Biết tướng thị hiện của
đức Phật là “thuận
theo tâm chúng sanh mà ứng với khả năng tiếp nhận
của họ”. Đức Phật hiện thân tướng
có thể lớn, có thể nhỏ; nhưng lớn cũng
là pháp giới, nhỏ cũng là pháp giới, chỉ cần
tâm chúng ta dùng cái tâm chí thành, cung kính để quán tưởng,
sẽ là chánh xác, lợi ích đạt được chắc
chắn là như nhau.
Lại
xem trang hai trăm mười hai, hăy xem kinh văn.
Quán
Thế Âm Bồ Tát, cập Đại Thế Chí, ư nhất
thiết xứ, thân đồng chúng sanh.
觀 世 音 菩 薩。及 大 勢 至。於 一 切 處。身 同 眾 生。
(Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại
Thế Chí trong hết thảy mọi nơi, thân giống
như chúng sanh).
Bồ
Tát v́ thị hiện thân phận là bạn học của
chúng sanh, giống như kinh Vô Lượng Thọ đă
nói: “Vị chư thứ loại,
tác bất thỉnh chi hữu” (v́ muôn loài mà làm bạn chẳng
thỉnh). Do đó, các Ngài nhất định phải hiện
thân đồng loại với chúng sanh, thân tướng giống
như chúng sanh.
Đản
quán thủ tướng.
但 觀 首 相。
(Chỉ quán tướng đầu).
[Trong
bản in, câu này được in thành] chữ Thủ (手) có thể là sai, trong phần chú giải đă nói rất
rơ ràng: Thủ là đầu, tức chữ Thủ trong
Đầu Thủ (頭首), chẳng phải
là Thủ trong Thủ Túc (手足: chân
tay). V́ nh́n vào h́nh dáng của đầu, chúng ta có thể nhận
biết vị nào là Quán Âm, vị nào là Đại Thế
Chí, có thể thấy rơ ràng.
Tri
thị Quán Thế Âm, tri thị Đại Thế Chí.
知 是 觀 世 音。知 是 大 勢 至。
(Biết là Quán Thế Âm, biết
là Đại Thế Chí).
Nh́n
vào tay sẽ chẳng nh́n ra. Tay của Đại Thế
Chí Bồ Tát và tay của Quán Âm Bồ Tát như nhau,
nhưng đầu th́ khác nhau.
Thử
nhị Bồ Tát, trợ A Di Đà Phật, phổ hóa nhất
thiết, thị vi tạp tưởng quán, danh đệ
thập tam quán.
此 二 菩 薩。助 阿 彌 陀 佛。普 化 一 切。是 為 雜 想 觀。名 第 十 三 觀。
(Hai vị Bồ Tát này giúp A Di
Đà Phật giáo hóa trọn khắp hết thảy. Đó
là tạp tưởng quán, được gọi là pháp Quán
thứ mười ba).
Phần
chú giải đă giảng rất hay: “Quán Âm quan trung lập Phật, Thế Chí kế
thượng bảo b́nh, dĩ thử vi biệt. Nhược
thủ tác thủ, bất thị dịch nhân thất ư, hoặc
thị sao lục chi ngộ” (Trong măo của đức
Quán Âm có hóa Phật đứng, trên nhục kế của
ngài Thế Chí có b́nh báu, dùng điều này để phân biệt.
Nếu Thủ (首) [mà chép] là Thủ
(手), chẳng phải là người dịch
dịch sai, mà có lẽ là do sao lục bị lầm lẫn).
Đối với kinh văn, chắc chắn chẳng thể
nói là người phiên dịch dịch sai, chẳng thể
nào, có thể là do người sao chép phạm sai lầm. Sau
khi đă sao chép sai, người đời sau chẳng dám sửa,
vẫn phải giữ nguyên trạng, chỉ có thể ghi
rơ trong phần chú giải. Đây là tôn trọng kinh điển,
chẳng thể tùy tiện sửa đổi, tuy phát hiện
sai lầm, vẫn chẳng thể sửa! Chúng tôi giới
thiệu phần Quán Tượng đến đây. Phép Quán
thứ mười ba là Quán Tượng Niệm Phật.
Dưới đây chúng ta lại xem phép Quán thứ mười
bốn. Phép Quán thứ mười bốn là ba bậc văng
sanh. [Hăy xem] từ ḍng thứ hai trong trang hai trăm mười
bảy.
Phật
cáo A Nan cập Vi Đề Hy: - Thượng phẩm
thượng sanh giả.
佛 告 阿 難 及 韋 提 希。上 品 上 生 者。
(Phật bảo A Nan và Vi Đề
Hy: - Thượng phẩm thượng sanh…)
Trước hết
nói đến cái nhân tu tập, điều này cũng rất
trọng yếu, đoạn này quan trọng lắm!
Nhược
hữu chúng sanh, nguyện sanh bỉ quốc giả, phát tam
chủng tâm, tức tiện văng sanh, hà đẳng vi tam? Nhất
giả chí thành tâm, nhị giả thâm tâm, tam giả hồi
hướng phát nguyện tâm. Cụ tam tâm giả, tất
sanh bỉ quốc.
若 有 眾 生。願 生 彼 國 者。發 三 種 心。即 便 往 生。何 等 為 三。一 者 至 誠 心。二 者 深 心。三 者 迴 向 發 願 心。具 三 心 者。必 生 彼 國。
(Nếu có chúng sanh, nguyện sanh về cơi ấy, phát
ba thứ tâm, liền được văng sanh. Những ǵ là
ba? Một là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng
phát nguyện tâm. Đủ ba tâm, ắt sanh về cơi ấy).
Trong
kinh này, đức Phật giảng về Bồ Đề
tâm. Bồ Đề tâm là ba tâm ấy. Ba tâm ấy là một
tâm, [đă là] một tâm, cớ sao nói thành ba tâm? Chí thành tâm
là Thể của tâm, hai thứ sau là chí thành tâm khởi tác dụng.
V́ thế nói là có Thể và có Dụng. Nói thật ra, nhà Phật
nói Bồ Đề tâm, Nho gia cũng phát Bồ Đề
tâm. Nho gia nói “thành ư, chánh tâm”, thành ư là chí thành tâm như chúng
ta đang nói ở đây, chánh tâm của Nho gia là do thâm tâm
và hồi hướng phát nguyện tâm hợp lại, bèn
thành chánh tâm. Chánh tâm là tác dụng của thành ư. Như vậy
là Nho gia cũng nói Thể và Dụng, chẳng hai, chẳng
khác cách nói của Phật pháp. Trong phần trước, tôi
đă từng thưa tŕnh cùng quư vị, Phật pháp truyền
đến Trung Quốc, tuy kinh luận Tiểu Thừa
đă được phiên dịch hoàn toàn như thế,
nhưng người Hoa chẳng dùng, mà dùng Nho gia và Đạo
gia để thay thế. Tư tưởng và cảnh giới
tu học của Nho gia tuyệt đối chẳng kém Tiểu
Thừa, tư tưởng và tâm lượng của họ
gần với Đại Thừa nhất. V́ thế, dùng
Nho để nhập Phật, quả thật thuận tiện
hơn so với dùng Tiểu Thừa để tiến nhập
Đại Thừa. Tôi khuyến cáo các đồng tu, chẳng
thể không đọc Tứ Thư. Gần đây, chúng tôi
có in một bộ Tứ Thư Hán Anh đối chiếu,
vừa mới biếu tặng một trăm bản. Chúng
tôi in một ngàn bộ, hai trăm bộ đóng gáy bằng
ḷ xo, chẳng phải là sách đóng b́a cứng, các trang sách
có thể tháo rời được. Sách này chuẩn bị
gởi sang ngoại quốc, chúng tôi muốn khuyên người
ngoại quốc đọc Tứ Thư. Trang sách có thể
tháo rời th́ [nếu] nhiều người [cần đọc,
không đủ sách], có thể tháo ra, đem photocopy dùng [làm
tài liệu tham chiếu] trong khi giảng giải, sẽ thuận
tiện, chẳng cần phá tung cuốn sách. Tám trăm bộ
c̣n lại được đóng b́a cứng thành tập,
c̣n hai trăm bản kia là trang sách rời.
Chúng
ta khuyên người ngoại quốc đọc Tứ
Thư, khuyên họ đọc sách Khổng Tử. Trong
tương lai, người ngoại quốc đều
đọc, c̣n người Hoa chẳng đọc. Người
ngoại quốc đến làm thầy người Hoa,
người Hoa phải học với họ, rất hổ
thẹn! Chuyện này tôi đă từng làm thử đôi chút
tại ngoại quốc. Người ngoại quốc vui
thích, vừa nghe nói, nghe điều chưa từng nghe, hết
sức hoan hỷ, thích thú tiếp nhận. Có thể thấy
là không có ai dạy họ, chẳng có ai cung cấp tài liệu
cho họ. V́ thế, nay chúng ta cung cấp tài liệu,
nghĩ phương cách giúp đỡ họ. Đó là phát Bồ
Đề tâm.
Nói
đơn giản, chí thành tâm là chân thành, chân thành là chân tâm.
Chân thành có tiêu chuẩn hay không? Trong Bút Kư Đọc Sách,
tiên sinh Tăng Quốc Phiên đă định nghĩa, chú giải
chữ Thành: “Một niệm chẳng
sanh th́ gọi là Thành”. Chú giải rất chánh xác,
tương ứng với Phật pháp. Trong tâm chẳng có một
vọng niệm th́ mới gọi là thành tâm, hễ có vọng
niệm tức là chẳng chân thành! Các vị đọc Liễu
Phàm Tứ Huấn; trong phần chú giải của Liễu
Phàm Tứ Huấn đă nói về chuyện vẽ bùa, niệm
chú cũng giống như thế. Vẽ bùa th́ v́ sao bùa sẽ
linh? Phải dùng thành tâm để vẽ. Vẽ đạo
bùa ấy mà trong tâm khởi một vọng niệm, đạo
bùa ấy chẳng linh. Do đó, người vẽ bùa, lúc
b́nh thường phải luyện tập, luyện rất
nhuần nhuyễn. Khi đă rất thuần thục, sau khi
một nét bút chấm xuống liền vẽ một mạch
hoàn thành, trong tâm chẳng khởi một vọng tưởng,
đạo bùa đó sẽ linh. Niệm chú cũng giống
như vậy, nên chú càng dài càng khó niệm. Quư vị nói chú
Lăng Nghiêm dài như vậy, [trong khi niệm] từ đầu
đến cuối dấy lên bao nhiêu vọng niệm? Chú
Lăng Nghiêm [niệm kiểu ấy] có c̣n linh hay chăng?
Chẳng linh! Chú Đại Bi rất dài, quư vị niệm
một biến, trong khi đó có vọng tưởng nào hay
không? Hễ có một vọng tưởng, chú ấy chẳng
linh. Thành bèn linh, chẳng dễ dàng! Một câu A Di Đà Phật
dễ niệm hơn, trong câu “A Di Đà Phật” ấy chẳng
có vọng tưởng, sẽ linh. Do đó, cổ nhân nói: “Niệm kinh chẳng bằng niệm
chú”. V́ sao? Kinh quá dài, trong một bộ kinh dài như vậy,
chẳng có một vọng niệm xen vào, khó lắm, quá khó!
Chẳng bằng niệm chú, chú ngắn hơn. Niệm chú
chẳng bằng niệm Phật, Phật hiệu càng ngắn
hơn, ngắn hơn chú ngữ rất nhiều, đạo
lư ở ngay chỗ này. Do đó, hễ động một vọng
niệm sẽ không linh. Đó là chân thành.
Thâm
tâm là Tự Thọ Dụng, thâm tâm là thanh tịnh tâm, b́nh
đẳng tâm, thuộc về Tự Thọ Dụng. Ham
thiện, chuộng đức, thiện đức đến
tột cùng là thanh tịnh, b́nh đẳng. Hồi hướng
phát nguyện tâm là tâm đại từ bi, lợi ích chúng
sanh. Do đó, tâm thứ ba là chân thành, là Tha Thọ Dụng,
Tha Thọ Dụng là đại từ đại bi. Bản
thân chúng ta hễ có mảy may điều thiện nào, chính
chúng ta chẳng mong hưởng thụ, hy vọng nhường
quả báo của điều thiện ấy cho hết thảy
chúng sanh hưởng thụ. Hồi hướng phát nguyện,
phát nguyện phổ độ hết thảy chúng sanh,
trong Khởi Tín Luận gọi tâm này là đại bi tâm. Ba
tâm trong Khởi Tín Luận là trực tâm, thâm tâm, và đại
bi tâm. Trực tâm là chí thành tâm, thâm tâm [th́ Quán Kinh và Khởi
Tín Luận nói] giống nhau, đại bi tâm chính là hồi
hướng phát nguyện tâm được nói ở
đây. Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới
chẳng thể không phát tâm. Không phát Bồ Đề tâm, chắc
chắn không thể văng sanh.
Phục
hữu tam chủng chúng sanh, đương đắc văng
sanh, hà đẳng vi tam? Nhất giả, từ tâm bất sát,
cụ chư giới hạnh. Nhị giả, độc tụng
Đại Thừa, Phương Đẳng kinh điển.
Tam giả, tu hành lục niệm, hồi hướng phát
nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Cụ thử công
đức, nhất nhật năi chí thất nhật, tức
đắc văng sanh.
復 有 三 種 眾 生。當 得 往 生。何 等 為 三。一 者 慈 心 不 殺。具 諸 戒 行。二 者 讀 誦 大 乘 方 等 經 典。三 者 修 行 六 念。迴 向 發 願。願 生 彼 國。具 此 功 德。一 日 乃 至 七 日。即 得 往 生。
(Lại có ba loại chúng sanh sẽ được
văng sanh. Những ǵ là ba? Một là từ tâm chẳng giết,
đủ các giới hạnh. Hai là đọc tụng kinh
điển Phương Đẳng Đại Thừa. Ba
là tu hành lục niệm[4],
hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh về cơi ấy.
Trọn đủ công đức ấy, từ một ngày
cho đến bảy ngày liền được văng sanh).
Nói
thật ra, loại thứ hai là Tam Phước được
nói trong phần trước, là chánh nhân tịnh nghiệp.
Có thể thấy đoạn kinh văn này trong Quán Kinh vô
cùng trọng yếu, nhất định phải nhớ kỹ.
Tam Phước và Bồ Đề tâm được nói ở
đây, Bồ Đề tâm thật sự chẳng dễ
dàng. Trong Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngẫu Ích đại
sư lăo nhân gia đă bảo: Người thật sự
phát nguyện cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ,
nguyện tâm ấy chính là Vô Thượng Bồ Đề
tâm. Cổ nhân chưa ai nói điều ấy, xét theo các sách
vở xưa, chúng ta thấy quả thật Ngẫu Ích
đại sư là người đầu tiên nói điều
ấy. Hăy suy nghĩ xem Ngài nói lời ấy có đúng hay
không? Thật đúng! Quư vị đối chiếu với
văn tự trong đoạn kinh này, chí thành tâm, thâm tâm, hồi
hướng phát nguyện tâm, [sẽ thấy] chẳng sai
tí nào! Thật sự muốn văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, ba tâm ấy liền trọn đủ.
Đă phát [Bồ Đề tâm] mà chính ḿnh chẳng biết,
không biết là đă phát trọn vẹn ba tâm ấy. Do
đó, lăo nhân gia nói câu này hay lắm. Bản thân chúng ta phải
chân tâm cầu sanh, chẳng phải là giả tâm, giả ư,
mà là chân tâm cầu sanh, một niệm tâm ấy bèn trọn
đủ viên măn đại Bồ Đề tâm. Kinh này
cũng nói từ một ngày cho đến bảy ngày, có
cùng một cách nói với kinh Di Đà và kinh Vô Lượng
Thọ. Do vậy có thể biết, pháp môn này là Đốn
Giáo, là đốn siêu.
Chúng
ta xem phần kinh văn kế tiếp trong trang hai trăm
hai mươi.
Sanh
bỉ quốc thời, thử nhân tinh tấn, dũng mănh cố,
A Di Đà Như Lai, dữ Quán Thế Âm, Đại Thế
Chí, vô số hóa Phật, bách thiên tỳ-kheo, Thanh Văn
đại chúng, vô lượng chư thiên, thất bảo
cung điện. Quán Thế Âm Bồ Tát chấp kim cang
đài, dữ Đại Thế Chí Bồ Tát, chí hành giả
tiền. A Di Đà Phật phóng đại quang minh, chiếu
hành giả thân, dữ chư Bồ Tát, thọ thủ nghênh
tiếp. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, dữ vô số
Bồ Tát tán thán hành giả, khuyến tấn kỳ tâm.
生 彼 國 時。此 人 精 進 勇 猛 故。阿 彌 陀 如 來。與 觀 世 音 大 勢 至。無 數 化 佛。百 千 比 丘 聲 聞 大 眾。無 量 諸 天。七 寶 宮 殿。觀 世 音 菩 薩。執 金 剛 臺。與 大 勢 至 菩 薩。至 行 者 前。阿 彌 陀 佛 放 大 光 明。照 行 者 身。與 諸 菩 薩。授 手 迎 接。觀 世 音 大 勢 至。與 無 數 菩 薩。讚 歎 行 者。勸 進 其 心。
(Khi sanh về cơi ấy, do người đó tinh tấn,
dũng mănh, A Di Đà Như Lai, và Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí, vô số hóa Phật, trăm ngàn tỳ-kheo, Thanh
Văn đại chúng, vô lượng chư thiên, cung điện
bảy báu. Quán Thế Âm Bồ Tát cầm
đài kim cang, cùng với Đại Thế Chí Bồ Tát tới
trước hành giả. A Di Đà Phật phóng đại
quang minh chiếu thân hành giả, và các Bồ Tát x̣e tay tiếp
đón. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, và vô số Bồ
Tát tán thán hành giả, khuyến tấn tâm người ấy).
Nói rơ
trạng huống văng sanh của người tu hành. V́ thế,
chỉ cần nhất tâm nhất ư niệm, chớ nên phân
biệt, đừng nên chấp trước, cũng chẳng
nghĩ đến phẩm vị cao hay thấp. V́ sao?
Tưởng những điều ấy đều là vọng
tưởng. Thậm chí nhất tâm bất loạn cũng
đừng nghĩ tới, chỉ có một câu Phật hiệu
cứ niệm miết, đó gọi là “thật thà niệm
Phật”. Quư vị chân tâm chân ư cầu sanh Tịnh Độ,
thứ ǵ cũng đều viên măn trọn đủ. Khi
văng sanh, cảnh giới rất thù thắng, A Di Đà Phật,
Quán Âm Thế Chí, và vô số Bồ Tát, Thanh Văn, chư
thiên đều đến đón tiếp quư vị. Thế
giới Tây Phương ở chỗ nào, không cần biết!
Các Ngài đến đón tiếp, ta cũng chẳng cần
phải t́m đường, mà cũng chẳng phải t́m
phương hướng, tự tại lắm! V́ thế,
kinh nói Tây Phương th́ Tây Phương rốt cuộc ở
nơi đâu? Chớ nên sanh ư niệm ấy, đến lúc
đó, Phật sẽ đến tiếp dẫn ta, chẳng
thể sai sót được! Nay tôi đi khắp nơi ở
ngoại quốc, chẳng biết phương hướng,
mà cũng chẳng biết đường. V́ sao? Đến
nơi nào cũng đều có người đến
đón tiếp, tôi cần ǵ phải nhớ đường?
Cần ǵ phải nhớ phương hướng? Chẳng
cần! Đến chỗ nào cũng đều có người
đón tiếp, nên căn bản là chẳng cần. Họ
chuẩn bị cẩn thận mọi thứ cho tôi, đối
với vé máy bay, người ta nói: “Pháp sư! Vé máy bay bao
nhiêu tiền?” Không biết, không hiểu! V́ trước nay
tôi chưa bao giờ hỏi tới, trước nay chưa
hề nh́n vào vé máy bay.
Người
niệm Phật văng sanh rất tốt, Phật, Bồ Tát
đều an bài tốt đẹp thay cho quư vị, thứ
ǵ cũng chẳng cần phải bận ḷng, chỉ cần
thật thà niệm được rồi! Thật thà niệm
là quan trọng! Bản thân chúng ta chỉ cần làm được
“thật thà niệm” là tốt rồi, những chuyện
khác Phật, Bồ Tát đều xếp đặt ổn
thỏa, chẳng phải bận tâm tí nào, quư vị thấy
có thù thắng lắm không? Quư vị làm chuyện tốt
đẹp nào, tu pháp môn nào đi nữa, đều chẳng
đạt được [sự thù thắng này]! Tu Thiền,
tu Mật, tu thành tựu, th́ A Di Đà Phật có đến
đón tiếp quư vị hay không? Có chư Phật, Bồ
Tát đông ngần ấy đến đón hay chăng? Chẳng
có! Do vậy có thể biết, pháp môn này xác thực là thù thắng
khôn sánh. Hăy xem kinh văn trong trang hai trăm hai mươi mốt.
Hành giả
kiến dĩ.
行 者 見 已。
(Hành giả thấy rồi).
Người
tu hành thấy cảnh giới ấy, Phật, Bồ Tát
đến đón tiếp.
Hoan hỷ dũng
dược, tự kiến kỳ thân, thừa kim cang
đài, tùy tùng Phật hậu, như đàn chỉ khoảnh,
văng sanh bỉ quốc.
歡 喜 踊 躍。自 見 其 身。乘 金 剛 臺。隨 從 佛 後。如 彈 指 頃。往 生 彼 國。
(Hoan hỷ, hớn hở, tự thấy thân ḿnh ngồi
trên đài kim cang, theo sau đức Phật, như trong khoảng
khảy ngón tay, văng sanh cơi kia).
Qua
phần kinh văn này, chư vị hăy xem kỹ, đừng
đọc lướt qua, [sẽ thấy rơ] văng sanh là văng
sanh trong khi c̣n sống, đây là pháp môn bất tử.
Người tu hành thấy cảnh giới này, thấy trong
khi c̣n sống sờ sờ, chẳng phải là khi đă chết.
Lúc đă chết sẽ chẳng thấy nữa, khi sống
th́ thấy. Phước báo to lớn, khi c̣n sống bèn trông
thấy, rất rơ ràng, bảo các đồng tu trợ niệm:
“Tôi đă thấy đức Phật đến tiếp dẫn
tôi, nay tôi theo Ngài ra đi”. Có thể nói với quư vị,
nói rơ ra, đó là phước báo to lớn. Phước báo
kém hơn một chút, cũng trông thấy, muốn kể với
quư vị, miệng mấp máy, nhưng chẳng thốt ra
tiếng, vẫn hiểu rành mạch, rơ ràng, trông thấy,
văng sanh. Chúng ta thấy người lâm chung miệng mấp
máy, có khi chúng ta cảm thấy họ đang niệm Phật
theo [đại chúng], nhưng thật ra người ấy
trông thấy cảnh giới này, muốn nói với chúng ta,
nhưng chẳng thốt nên lời, chẳng có âm thanh, bèn
văng sanh. Chúng ta không biết, ngỡ người ấy mấp
máy niệm Phật theo chúng ta. Thật ra, người ấy
bảo chúng ta: Phật, Bồ Tát đến đón tiếp,
người ấy trông thấy, rất hoan hỷ, theo Phật
ra đi. Khi ấy, khí lực rất suy, miệng máy động,
nhưng chẳng có âm thanh. Điều này chỉ rơ: Văng sanh
là văng sanh trong khi c̣n sống, chẳng phải là chết rồi
mới văng sanh. Do đó, pháp môn này là pháp môn bất tử,
thành Phật trong một đời. Chúng ta văng sanh chẳng
phải là đă chết rồi mới văng sanh, đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới thành Phật
trong một đời. T́m ở đâu ra pháp môn này? T́m không
thấy! Bỏ pháp môn này chẳng tu, đúng là ngu si,
đúng là cuồng vọng. Thầy Lư nói [hạng người
vứt bỏ không chịu tu pháp môn này là] “ngu si, cuồng vọng”
chẳng sai! Lại xem đoạn kế tiếp.
Sanh
bỉ quốc dĩ.
生 彼 國 已。
(Đă sanh về cơi ấy).
Đây
là nói [t́nh h́nh sau khi đă] tới Tây Phương Cực Lạc
thế giới.
Kiến
Phật sắc thân, chúng tướng cụ túc. Kiến
chư Bồ Tát, sắc tướng cụ túc, quang minh, bảo
lâm, diễn thuyết diệu pháp.
見 佛 色 身。眾 相 具 足。見 諸 菩 薩。色 相 具 足。光 明 寶 林。演 說 妙 法。
(Thấy sắc thân của Phật các tướng trọn
đủ. Thấy các Bồ Tát, sắc tướng trọn
đủ. Quang minh, rừng báu, diễn nói diệu pháp).
Hoàn
toàn giống như cảnh giới do đức Phật
đă giảng trong kinh. Trước kia là nghe đức Phật
nói, nay là đích thân trông thấy, tự ḿnh trông thấy.
T́nh và vô t́nh đều thuyết pháp, sau khi nghe Phật pháp,
bèn khai ngộ.
Văn
dĩ tức ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn.
聞 已 即 悟 無 生 法 忍。
(Nghe xong liền ngộ Vô Sanh
Pháp Nhẫn).
Vừa
nghe liền khai ngộ, liền chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Kinh
tu du gian.
經 須 臾 間。
(Trong khoảnh khắc).
“Tu du” (須臾) là thời gian cực
ngắn.
Lịch
sự chư Phật biến thập phương giới.
歷 事 諸 佛 遍 十 方 界。
(Trải qua phụng sự
chư Phật trọn khắp các cơi trong mười
phương).
Thần
thông và đạo lực của người ấy ngay lập
tức hiện tiền, có thể đến các cơi Phật
trong mười phương để lễ Phật,
đến nghe đức Phật thuyết pháp. Cũng có lẽ
chúng ta thấy chỗ này bèn hoài nghi: Cớ sao vừa mới
gặp gỡ A Di Đà Phật, liền ngay lập tức
ra đi? Chư vị phải biết: Đến khi
đó, năng lực của người ấy chẳng thể
nghĩ bàn, thân người ấy đang ở chỗ A Di
Đà Phật lễ bái, mà phân thân của người ấy
đă trọn khắp các cơi Phật trong mười
phương. Trước mỗi vị Phật, mỗi vị
Bồ Tát, người ấy đều hiện diện,
có năng lực to như vậy. Không như thế gian
này, dẫu tu giỏi giang cách mấy, chẳng có cách nào phân
thân! Người ấy có năng lực phân thân, có rời
khỏi thế giới Cực Lạc hay không? Chẳng có!
Chẳng rời khỏi thế giới Cực Lạc,
nhưng hóa thân đă trọn khắp mười
phương. Thành tựu nhanh chóng ngần ấy, nên thường
là những kẻ học Giáo chẳng tin tưởng. Pháp
khó tin! Há có lẽ nào mau chóng dường ấy? Ở
nơi đây mới vừa văng sanh, bên kia đă hóa thân trọn
khắp hết thảy các cơi Phật, quá nhanh! Thật ra,
chuyện này là thật, quyết định chẳng giả.
Ư
chư Phật tiền, thứ đệ thọ kư, hoàn chí
bổn quốc, đắc vô lượng bách thiên Đà La
Ni môn.
於 諸 佛 前。次第 授 記 。還 至 本 國 得 無 量 百 千 陀 羅 尼 門。
(Ở trước chư Phật,
lần lượt được thọ kư. Trở về
cơi ḿnh, đắc vô lượng trăm ngàn môn Đà La Ni).
Đúng
là trong một thời gian rất ngắn có thành tựu chẳng
thể nghĩ bàn như vậy, đúng là chúng ta phải
nên giác ngộ, phải nên tu học. Đoạn cuối
cùng là:
Thị
danh thượng phẩm thượng sanh giả.
是 名 上 品 上 生 者。
(Gọi là thượng phẩm
thượng sanh).
Đoạn
văn này ở trong trang hai trăm hai mươi hai. Chúng ta
xem tiếp:
Thượng
phẩm trung sanh giả.
上 品 中 生 者。
(Thượng phẩm trung sanh…)
Tu
cái nhân hơi kém hơn hạng người trước một
chút.
Bất
tất thụ tŕ, độc tụng Phương Đẳng
kinh điển, thiện giải nghĩa thú. Ư Đệ
Nhất Nghĩa, tâm bất kinh động, thâm tín nhân quả,
bất báng Đại Thừa. Dĩ thử công đức
hồi hướng, nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc.
不 必 受 持 讀 誦 方 等 經 典。善 解 義 趣。於 第 一 義 心 不 驚 動。深 信 因 果。不 謗 大 乘。以 此 功 德 迴 向。願 求 生 極 樂 國。
(Chẳng bắt buộc phải thọ tŕ, không cần[5] thọ tŕ đọc
tụng kinh điển Phương Đẳng, khéo hiểu
nghĩa thú. Đối với Đệ Nhất Nghĩa,
tâm chẳng kinh động, tin sâu nhân quả, chẳng báng
Đại Thừa. Dùng công đức này hồi hướng,
nguyện cầu sanh về cơi Cực Lạc).
Phần
trước là nói người thượng phẩm thượng
sanh có đọc tụng Đại Thừa, chỗ này
không bắt buộc đọc tụng Đại Thừa,
nhưng “tin sâu nhân quả”. Nhân quả là ǵ? Niệm Phật
là nhân, thành Phật là quả, người ấy hoàn toàn chẳng
hoài nghi điều này. Một câu Phật hiệu niệm
đến tận cùng, văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới có thể đạt đến thượng
phẩm trung sanh, địa vị này hết sức cao. Lấy
đoạn kinh văn này để xem, người đồ
đệ niệm A Di Đà Phật của pháp sư Đế
Nhàn xưa kia, điều ǵ cũng chẳng hiểu, niệm
một câu danh hiệu suốt ba năm. Lăo pháp sư dạy
ông ta: “Niệm mệt liền nghỉ ngơi, nghỉ
ngơi khỏe khoắn rồi lại niệm”. Ông ta niệm
ba năm bèn đứng văng sanh, biết trước lúc mất.
Nếu chúng ta dùng kinh này để phán đoán, người
này rất có thể là thượng phẩm trung sanh, có
địa vị văng sanh cao ngần ấy, do gặp duyên
thù thắng, duyên ǵ vậy? Lăo pháp sư dạy ông ta niệm
Phật là duyên, ông ta thật sự có thể hoàn toàn tiếp
nhận, tin sâu, chẳng ngờ, nên mới có quả báo thù
thắng ngần ấy. Ông ta vâng theo lời thầy răn
dạy một trăm phần trăm, chẳng khấu trừ
tí nào, trong ba năm thành tựu chẳng thể nghĩ bàn.
Duyên thù thắng là do nh́n từ chỗ này!
Do vậy
có thể biết, các đồng tu chúng
ta gặp duyên chẳng thể nói là không thù thắng, [mà
là] thù thắng bậc nhất. Đọc tụng Đại
Thừa, đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ đă
tốt đẹp rồi, có thể đọc tụng
năm kinh một luận càng hay hơn. Nếu ngại Năm
kinh một luận quá nhiều, quá rườm rà, th́ một
bộ kinh là được rồi, y giáo phụng hành, lư luận
và giáo huấn trong kinh thảy đều làm được,
sẽ chẳng khác ǵ A Di Đà Phật, đương
nhiên là thượng phẩm thượng sanh. Như vậy
là đáng tin cậy, chẳng cần phải đọc trọn
hết, một bộ kinh là được rồi. Một
kinh thông, hết thảy các kinh đều thông. Do đó, tôi
giới thiệu lần nữa: Kinh Vô Lượng Thọ
là kinh Hoa Nghiêm cô đọng. Kinh Hoa Nghiêm là toàn thể Tam Tạng
mười hai bộ rút gọn. Do vậy có thể biết,
đọc bộ kinh này là đọc toàn bộ Đại
Tạng Kinh, một chính là hết thảy, hết thảy
chính là một. Quư vị phải hiểu: Công đức này
thật sự chẳng thể nghĩ bàn, lời này do cổ
đại đức, các vị tổ sư đại
đức từ xưa đă nói ra, chúng ta chẳng thể
không tin tưởng. Chúng ta có thể nói: Các pháp do Thích Ca Mâu
Ni Phật đă nói trong suốt một đời Ngài,
đều chẳng ra khỏi bốn mươi tám nguyện
của A Di Đà Phật. Quư vị thấy những điều
được giảng trong một bộ kinh Vô Lượng
Thọ hoàn toàn nhằm giải thích bốn mươi tám
nguyện, chẳng có câu nào mâu thuẫn với nguyện
văn trong bốn mươi tám nguyện. Một bộ
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh trên thực
tế là để giải thích, giảng giải tỉ mỉ,
cặn kẽ kinh Vô Lượng Thọ. Một bộ
Đại Tạng Kinh, toàn bộ Đại Tạng Kinh là
kinh Hoa Nghiêm được nói cặn kẽ. Đến cuối
cùng quy nạp lại, thật vậy, quy nạp thành một
bộ kinh Vô Lượng Thọ. Kinh dạy chúng ta đọc
tụng Đại Thừa, chúng ta hiểu sự thật ấy,
niệm bộ kinh Vô Lượng Thọ chẳng có tí hoài
nghi nào, nguyên lai, [do cả bộ Đại Tạng Kinh quy
nạp thành kinh Vô Lượng Thọ nên niệm kinh Vô Lượng
Thọ th́ có nghĩa là] tất cả hết thảy các
kinh Đại Thừa ta đều đọc cả rồi.
Người
ấy tuy chẳng đọc kinh, nhưng chẳng hủy
báng Đại Thừa, chỉ thật thà niệm Phật.
Một câu Phật hiệu thành tựu công đức vô thượng, thượng phẩm
trung sanh. Chúng ta gặp duyên thù thắng như vậy, trong
một đời này chẳng thể thành tựu thượng
phẩm thượng sanh hoặc thượng phẩm trung
sanh, rất oan uổng! Chúng ta lại xem đoạn kinh
văn kế tiếp từ hàng thứ nhất trong trang hai
trăm hai mươi bốn.
Hành thử hạnh
giả.
行 此 行 者。
(Người hành theo hạnh này).
Người
nương theo pháp môn này tu hành.
Mạng
dục chung thời, A Di Đà Phật, dữ Quán Thế
Âm, Đại Thế Chí, vô lượng đại chúng quyến
thuộc vi nhiễu, tŕ tử kim đài, chí hành giả tiền,
tán ngôn: “Pháp tử! Nhữ hành Đại Thừa, giải
Đệ Nhất Nghĩa. Thị cố, ngă kim lai nghênh tiếp
nhữ”, dữ thiên hóa Phật, nhất thời thọ thủ.
命 欲 終 時。阿 彌 陀 佛。與 觀 世 音 大 勢 至。無 量 大 眾 眷 屬 圍 繞。持 紫 金 臺。至 行 者 前。讚 言 法 子。汝 行 大 乘。解 第一 義。是 故 我 今 來 迎 接 汝。與 千 化 佛。一 時 授 手。
(Lúc sắp mạng chung, A Di Đà Phật và Quán Thế
Âm, Đại Thế Chí, vô lượng đại chúng quyến
thuộc vây quanh, cầm đài vàng tía, đến trước
hành giả, khen rằng: “Pháp tử! Ngươi hành Đại
Thừa, hiểu Đệ Nhất Nghĩa. Do vậy, ta
nay đến đón ngươi”. Và một ngàn vị hóa Phật,
đồng thời x̣e tay [tiếp dẫn]).
Tây
Phương Tam Thánh và chư Phật, Bồ Tát, “ngàn vị hóa Phật”, [nói
chung là] chư Phật, Bồ Tát thảy đều đến
đón tiếp[6]. Lại xem phần
kinh văn tiếp theo.
Hành
giả tự kiến tọa tử kim đài, hợp
chưởng xoa thủ, tán thán chư Phật, như nhất
niệm khoảnh, tức sanh bỉ quốc thất bảo
tŕ trung. Thử tử kim đài, như đại bảo
hoa, kinh túc tắc khai.
行 者 自 見 坐 紫 金 臺。合 掌 叉 手。讚 歎 諸 佛。如 一 念 頃。即 生 彼 國 七 寶 池 中。此 紫 金 臺。如 大 寶 華。經 宿則 開。
(Hành giả tự thấy ngồi trên đài vàng tía,
chắp tay tán thán chư Phật, như trong khoảng một
niệm, liền sanh trong ao bảy báu nơi cơi ấy.
Đài vàng tía ấy như hoa sen báu lớn, qua một
đêm liền nở).
“Hoa khai kiến Phật ngộ Vô
Sanh”, thời gian [ngộ Vô Sanh] của người ấy
lâu hơn thượng phẩm một chút. Thượng phẩm
tới đó hoa lập tức nở ngay, ở đây là
cách một ngày, ngày hôm sau, hoa nở thấy Phật. Hoa nở
thấy Phật là hàng Bồ Tát từ Thất Địa
trở lên. Khi chưa nở là sắp thành Thất Địa
Bồ Tát, vừa nở bèn thật sự là hàng Thất
Địa Bồ Tát trở lên, có thể thấy thành tựu
thật sự quá nhanh. Phần kinh văn tiếp theo là nói
đến lợi ích của người ấy.
Hành giả thân
tác tử ma kim sắc, túc hạ diệc hữu thất bảo
liên hoa. Phật cập Bồ Tát câu thời phóng quang, chiếu
hành giả thân, mục tức khai minh.
行 者 身 作 紫 磨 金 色。足 下 亦 有 七 寶 蓮 華。佛 及 菩 薩。俱 時 放 光。照 行 者 身。目 即 開 明。
(Hành giả thân có màu như vàng tía được giồi
mài, dưới chân cũng có hoa sen bảy báu. Phật và Bồ
Tát đồng thời tỏa ánh sáng, chiếu vào thân hành giả,
mắt liền mở sáng).
“Mục” ở đây là tâm mục.
Nhân
tiền túc tập.
因 前 宿 習。
(Do sự tu tập từ đời
trước).
Do sự
học tập trong đời quá khứ.
普 聞 眾 聲。純 說 甚 深 第 一 義 諦。即 下 金 臺。禮 佛 合 掌。讚 歎 世 尊。經 於 七 日。應 時 即 於 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩 提。得 不 退 轉。
(Nghe khắp các âm thanh thuần nói Đệ Nhất
Nghĩa Đế rất sâu, liền bước xuống
đài vàng, lễ Phật, chắp tay, tán thán Thế Tôn. Qua
bảy ngày, ngay khi đó, đắc bất thoái chuyển
nơi
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam
Bồ Đề).
Bảy
ngày chứng trọn vẹn ba món Bất Thoái[7].
Ứng
thời tức năng phi hành, biến chí thập
phương, lịch sự chư Phật.
應 時 即 能 飛 行。遍 至 十 方。歷 事 諸 佛。
(Ngay khi đó, liền có thể
phi hành, đến khắp mười phương, phụng
sự chư Phật).
Chẳng
khác ǵ thượng phẩm thượng sanh. Thượng
phẩm thượng sanh là trong một đời đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới, lập tức
có năng lực này. Người thượng phẩm trung
sanh phải sau bảy ngày. Sau bảy ngày th́ đạo lực,
thần thông, trí huệ mới hoàn toàn giống như thượng
phẩm.
Ư chư Phật sở, tu chư tam-muội, kinh
nhất tiểu kiếp, đắc Vô Sanh Nhẫn, hiện
tiền thọ kư.
於 諸 佛 所。修 諸 三 昧 。經 一 小 劫。得 無 生 忍。現 前 受 記。
(Ở chỗ chư Phật, tu các tam-muội, qua một
tiểu kiếp, đắc Vô Sanh Nhẫn, được
thọ kư trong hiện tiền).
Vô Sanh Nhẫn ở
đây là chân thật Vô Sanh Pháp Nhẫn, là Thất Địa,
Bát Địa, Cửu Địa, thuộc loại Viên Giáo.
Ở đây, chúng ta thấy thượng phẩm thượng
sanh là chứng đắc ngay lập tức, thượng
phẩm trung sanh là sau một tiểu kiếp mới thật
sự chứng đắc. Nguyên nhân chỗ nào? Từ kinh
văn, chúng ta phải nên thấy rơ ràng, xác đáng, một
đằng là đọc tụng Đại Thừa, một
đằng chẳng đọc tụng Đại Thừa,
nguyên nhân ở chỗ này. Đọc tụng Đại Thừa
đă tu tập sâu dầy trong đời quá khứ, vừa
nghe Phật pháp bèn khai ngộ. Trong quá khứ chẳng hề
đọc tụng Đại Thừa th́ phải trải
qua một thời gian khá dài nghe kinh mới khai ngộ. Hy vọng
các đồng tu phải nhớ kỹ [điều này].
Chúng ta xem Lục Tổ Đàn Kinh, thiền sư Pháp Đạt
niệm kinh Pháp Hoa ba ngàn lượt, Lục Tổ đại
sư vừa giảng, Sư liền khai ngộ. Chúng ta
chưa đọc kinh Pháp Hoa ba ngàn lượt, nói cách nào
cũng chẳng thể khai ngộ, mới biết công
đức đọc tụng có lợi ích chẳng thể
nghĩ bàn. Người hiện thời sợ niệm kinh;
nhất là tôi lại c̣n bảo họ phải đọc
thuộc ḷng, càng sợ hăi hơn, kinh hoảng chẳng dám
niệm, c̣n làm sao được nữa? Từ đoạn
kinh văn này, chư vị biết đọc tụng và
không đọc tụng sai biệt to lớn cỡ nào? Quay
lại xem thế gian này, hăy xem cổ nhân, vừa nghe mấy
câu kinh liền khai ngộ, căn bản đều là do
đọc tụng. Nay chúng ta nghe kinh, nghe khai thị không thể
khai ngộ là v́ chẳng có đọc tụng. Đọc
đến đoạn này, hăy nên hiểu rơ, tôi khuyên quư vị
đọc tụng là đúng!
Thị
danh thượng phẩm trung sanh giả.
是 名 上 品 中 生 者。
(Gọi là thượng phẩm trung sanh).
Được
rồi, chúng ta học tới chỗ này!
Tập 27
Xin mở kinh bổn, trang hai trăm hai
mươi bảy, xem phần Thượng Phẩm Hạ
Sanh.
Thượng phẩm hạ sanh giả,
diệc tín nhân quả, bất báng Đại Thừa,
đản phát vô thượng đạo tâm, dĩ thử
công đức hồi hướng, nguyện cầu sanh
Cực Lạc quốc.
上 品 下 生 者。亦 信 因 果。不 謗 大 乘。但 發 無 上 道 心。以 此 功 德 迴 向。願 求 生 極 樂 國。
(Thượng phẩm hạ sanh cũng tin nhân quả,
chẳng báng Đại Thừa, chỉ phát đạo tâm
vô thượng. Đem công đức ấy hồi hướng,
nguyện cầu sanh về cơi Cực Lạc).
Kinh
văn nói rất rơ rệt: Phải phát Bồ Đề
tâm. “Vô thượng đạo
tâm” là phát Bồ Đề tâm. Chúng ta lật qua xem phần
kinh văn trong trang hai trăm hai mươi tám, từ ḍng
thứ hai đếm ngược lại.
Hành
giả mạng dục chung thời, A Di Đà Phật, cập
Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, dữ chư Bồ Tát,
tŕ kim liên hoa, hóa tác ngũ bách Phật lai nghênh thử nhân.
Ngũ bách hóa Phật nhất thời thọ thủ, tán
ngôn: “Pháp tử! Nhữ kim thanh tịnh, phát vô thượng
đạo tâm, ngă lai nghênh nhữ”.
行 者 命 欲 終 時。阿 彌 陀 佛。及 觀 世 音 大 勢 至。與 諸 菩 薩。持 金 蓮 華。化 作 五 百 佛 來 迎 此 人。五 百 化 佛 一 時 授 手。讚 言 法 子。汝 今 清 淨。發 無 上 道 心。我 來 迎 汝。
(Khi hành giả sắp mạng chung, A Di
Đà Phật, và Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, cùng
các vị Bồ Tát, cầm hoa sen vàng, hóa thành năm trăm
vị Phật đến đón người ấy. Năm
trăm vị hóa Phật đồng thời x̣e tay, khen rằng:
“Pháp tử! Nay ngươi thanh tịnh, phát vô thượng
đạo tâm, ta đến đón ngươi”).
Đoạn
này nói tới duyên. Trong phần Trung Phẩm trên đây, kinh
nói có một ngàn vị Phật, A Di Đà Phật và một
ngàn vị hóa Phật đến đón tiếp, chỗ này
số lượng Phật ít hơn một nửa, hóa thành
năm trăm vị Phật đến đón người
ấy. Nếu ở đây, chúng ta hỏi: “Có phải là A
Di Đà Phật cũng phân biệt, chấp trước
hay không? V́ sao thượng phẩm hóa Phật nhiều, hạ
phẩm hóa Phật ít hơn, có phải là Ngài cũng có phân
biệt, chấp trước?” Ắt cần phải biết:
Khi văng sanh, Phật, Bồ Tát đến đón tiếp là
thật; nhưng số lượng Phật, Bồ Tát nhiều
hay ít là do chính tâm chúng ta cảm, Phật, Bồ Tát bèn tự
nhiên ứng. Chắc chắn là A Di Đà Phật chẳng
có phân biệt, chấp trước. Thấy những vị
Phật ấy, vẫn do tự tánh Di Đà của chúng ta
biến hóa đến đón. V́ thế, hết thảy xác
thực là “duy tâm sở hiện,
duy thức sở biến”. Nói chung, chẳng ĺa khỏi sự cảm
ứng từ nơi tâm tánh của chính ḿnh! Phẩm vị
càng thấp, số người đến đón càng ít. Phẩm
vị càng cao, thấy cảnh giới càng thù thắng,
đó là lẽ tự nhiên. Đến Tây Phương Cực
Lạc thế giới, xác thực là có bốn cơi, chín phẩm
sai biệt. Trong mỗi cơi đều có ba bậc, chín phẩm,
có sự sai biệt ấy! Nhưng chúng ta đọc Đại
Kinh, thấy nói dẫu là hạ hạ phẩm văng sanh, sanh
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, thần
thông, đạo lực, các thứ thọ dụng chẳng
sai khác [so với các phẩm khác]; sau khi đă tới Tây
Phương, chẳng có sai biệt. Đó là do thần lực
của Phật Di Đà gia tŕ, nên thế giới Tây
Phương là một thế giới b́nh đẳng. “B́nh đẳng” nghĩa là
b́nh đẳng về sự thọ dụng trong cuộc sống
vật chất, chứ nội tâm đoạn phiền năo,
chứng Bồ Đề, chẳng có cách nào b́nh đẳng
được! A Di Đà Phật chẳng thể giúp
được, chính ḿnh phải đổ công, dốc sức!
Đoạn kinh
văn kế tiếp nói về sự văng sanh.
Kiến
thử sự thời, tức tự kiến thân tọa kim
liên hoa, tọa dĩ hoa hợp, tùy Thế Tôn hậu, tức
đắc văng sanh thất bảo tŕ trung.
見 此 事 時。即 自 見 身 坐 金 蓮 華。坐 已 華 合。隨 世 尊 後。即 得 往 生 七 寶 池 中。
(Khi thấy việc ấy, liền tự thấy
thân ḿnh ngồi trên hoa sen vàng, ngồi xong, hoa khép lại,
theo sau đức Thế Tôn, liền được văng
sanh trong ao bảy báu).
Đây
là hiện tượng văng sanh.
Nhất
nhật nhất dạ, liên hoa năi khai. Thất nhật chi
trung, năi đắc kiến Phật. Tuy kiến Phật
thân, ư chúng tướng hảo, tâm bất minh liễu,
ư tam thất nhật hậu, năi liễu liễu kiến,
văn chúng âm thanh, giai diễn diệu pháp, du lịch thập
phương, cúng dường chư Phật, ư chư Phật
tiền, văn thậm thâm pháp, kinh tam tiểu kiếp,
đắc bách pháp minh môn, trụ Hoan Hỷ Địa.
一 日 一 夜。蓮 華 乃 開。七 日 之 中。乃 得 見 佛。雖 見 佛 身。於 眾 相 好。心 不 明 了。於 三 七 日 後。乃 了 了 見。聞 眾 音 聲。皆 演 妙 法。遊 歷 十 方。供 養 諸 佛。於 諸 佛 前。聞 甚 深 法。經 三 小 劫。得 百 法 明 門。住 歡 喜 地。
(Qua một ngày, một đêm, hoa sen bèn nở, trong
ṿng bảy ngày bèn được thấy Phật. Tuy thấy
thân Phật, nhưng đối với các tướng hảo,
tâm chẳng hiểu rơ. Sau hai mươi mốt ngày, bèn thấy
rơ ràng. Nghe các âm thanh, đều diễn diệu pháp, dạo
khắp mười phương, cúng dường chư Phật.
Đối trước chư Phật, nghe pháp rất sâu,
qua ba tiểu kiếp, đắc bách pháp minh môn, trụ Hoan
Hỷ Địa).
Nói
về người thượng phẩm hạ sanh, sanh vào
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Sau một
ngày một đêm, hoa nở, thấy Phật. Tuy thấy Phật,
nghe pháp, trọn chẳng thể lập tức khai ngộ,
phải trải qua hai mươi mốt ngày, người ấy
mới hiểu rơ. Sau ba tiểu kiếp mới minh tâm kiến
tánh, thật sự chứng đắc quả vị Sơ
Địa. Chúng ta thấy thời gian này cũng rất
dài, phải trải qua ba tiểu kiếp; trên thực tế,
người trong thế giới Tây Phương thọ mạng
là vô lượng thọ. Từ vô lượng thọ mà
nh́n ba tiểu kiếp, sẽ giống như chúng ta trong cơi
này thọ trăm tuổi nh́n ba giờ, thậm chí c̣n
chưa đến! Chỉ sợ là chỉ được
ba mươi phút. Do thọ mạng của họ dài lâu, họ
thấy ba tiểu kiếp rất ngắn, thời gian quá
ngắn. Pháp môn này xác thực là pháp môn thành tựu trong một
đời.
Câu
cuối cùng là tổng kết, hàng thứ nhất trong trang
hai trăm ba mươi mốt.
Thị
danh thượng phẩm hạ sanh giả, thị danh
thượng bối sanh tưởng, danh đệ thập
tứ quán.
是 名 上 品 下 生 者。是 名 上 輩 生 想。名 第 十 四 觀。
(Đó gọi là thượng phẩm hạ sanh, là
phép quán tưởng văng sanh trong bậc thượng, gọi
là phép Quán thứ mười bốn).
Phép Quán thứ
mười bốn nói về ba bậc thượng. Tiếp
theo là phép Quán thứ mười lăm, nói về trung phẩm
văng sanh, có trung phẩm thượng sanh, trung phẩm trung
sanh, và trung phẩm hạ sanh.
Phật
cáo A Nan cập Vi Đề Hy: - Trung phẩm thượng
sanh giả, nhược hữu chúng sanh, thọ tŕ Ngũ
Giới, tŕ Bát Giới Trai, tu hành chư giới, bất tạo
Ngũ Nghịch, vô chúng quá hoạn. Dĩ thử thiện
căn hồi hướng, nguyện cầu
sanh ư Tây Phương Cực Lạc thế giới.
佛 告 阿 難 及 韋 提 希。中 品 上 生 者。若 有 眾 生。受 持 五 戒。持 八 戒 齋。修 行 諸 戒。不 造 五 逆。無 眾 過 患。以 此 善 根 迴 向。願 求 生 於 西 方 極 樂 世 界。
(Phật cáo A Nan và Vi Đề Hy: - Trung phẩm thượng
sanh là nếu có những chúng sanh thọ tŕ Ngũ Giới,
tŕ Bát Quan Trai Giới, tu hành các giới, chẳng tạo
Ngũ Nghịch, không phạm các lỗi lầm. Dùng thiện
căn ấy hồi hướng, nguyện cầu sanh trong
Tây Phương Cực Lạc thế giới).
Đây
là nói đến sự tu nhân. Do vậy có thể biết,
thượng phẩm thiên về đọc tụng Đại
Thừa; xét ra, trung phẩm tợ hồ là hàng Nhị Thừa,
tức người Tiểu Thừa hồi Tiểu hướng
Đại, tŕ giới, niệm Phật thuộc loại
này. Người ấy có thể thọ tŕ Ngũ Giới.
Ngũ Giới là căn bản giới trong Phật pháp, bất
luận xưa nay, tức là nói về thời gian, bất
luận tại Ấn Độ xưa kia, hay tại Trung
Hoa hiện thời, cho đến đối với những
quốc gia, dân tộc khác, đây là quan niệm đạo
đức cơ bản, đều ắt cần phải
tuân thủ. Chẳng có chuyện coi sát sanh là thiện hạnh,
chẳng có đạo lư ấy. Chẳng hề nói trộm
cắp là chuyện tốt đẹp, xưa nay trong ngoài
nước đều chẳng chấp nhận. Do đó,
giết, trộm, dâm, dối, uống rượu chẳng
phải là chuyện tốt đẹp. Trên thế giới
này, trong hiện tại tuy bán rượu, nhưng đối với loại rượu
nhẹ, cũng đưa ra cảnh cáo “rượu chẳng
phải là thứ tốt lành!” Có thể thấy năm điều
trong ngũ giới xác thực là siêu việt thời gian và
không gian, được hết thảy chúng sanh công nhận
là thiện hạnh, ắt phải tuân thủ. Những quy
phạm khác trong cuộc sống có thể nói là do thời
điểm, do con người, do địa phương
khác nhau, mà chế định như vậy. Tinh thần
cơ bản của chúng là “đừng
làm các điều ác, vâng làm các điều lành”, đoạn ác tu thiện, là
những quy định, khuôn phép nhằm kiềm chế bản
thân và xử thế. “Vô chúng quá
hoạn” nghĩa là tŕ giới rất thanh tịnh. Dùng
thiện căn ấy để hồi hướng, cầu
sanh Tây Phương. Đó là cái nhân của trung phẩm
thượng sanh.
Lâm mạng chung
thời, A Di Đà Phật, dữ chư tỳ-kheo, quyến
thuộc vi nhiễu, phóng kim sắc quang, chí kỳ nhân sở,
diễn thuyết Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă, tán
thán xuất gia, đắc ly chúng khổ. Hành giả kiến dĩ, tâm đại hoan hỷ,
tự kiến kỷ thân tọa liên hoa đài, trường
quỵ, hợp chưởng, vị Phật tác lễ. Vị
cử đầu khoảnh, tức đắc văng sanh Cực Lạc thế
giới, liên hoa tầm khai, đương hoa phu thời, văn chúng âm thanh, tán
thán Tứ Đế. Ứng thời, tức đắc A La Hán đạo, tam minh, lục
thông, cụ bát giải thoát. Thị danh trung phẩm thượng
sanh giả.
臨 命 終 時。阿 彌 陀 佛。與 諸 比 丘 眷 屬 圍 繞。放 金 色 光。至 其 人 所。演 說 苦 空 無 常 無 我。讚 歎 出 家。得 離 眾 苦。行 者 見 已。心 大 歡 喜。自 見 己 身 坐 蓮 華 臺。長 跪 合 掌。為 佛 作 禮。未 舉 頭 頃。即 得 往 生 極 樂 世 界。蓮 華 尋 開。當 華 敷 時。聞 眾 音 聲。讚 歎 四 諦。應 時 即 得 阿 羅 漢 道。三 明 六 通。具 八 解 脫。是 名 中 品 上 生 者。
(Khi lâm chung, A Di Đà Phật và các tỳ-kheo, quyến
thuộc vây quanh, phóng quang minh sắc vàng, chiếu tới
chỗ người ấy, diễn nói Khổ, Không, Vô Thường,
Vô Ngă, tán thán xuất gia được ĺa các nỗi khổ.
Hành giả thấy rồi, tâm đại hoan hỷ, tự
thấy chính ḿnh ngồi trên đài hoa sen, quỳ thẳng[8], chắp tay, làm lễ
đức Phật. Trong khoảng chưa ngẩng đầu
lên, liền được văng sanh thế giới Cực Lạc.
Hoa sen vừa nở, đang trong lúc hoa nở, nghe các âm
thanh, tán thán Tứ Đế. Ngay khi ấy, liền đắc
A La Hán đạo. Tam minh, lục thông, trọn đủ
tám món giải thoát[9],
gọi là trung phẩm thượng sanh).
Nói
rơ lợi ích văng sanh. Xét theo đoạn kinh văn này, và xem
phần sau, quả vị Tiểu Thừa hết sức rơ
rệt. Người căn tánh Tiểu Thừa tŕ giới
niệm Phật, hồi hướng cầu sanh Tây
Phương Tịnh Độ, đắc quả vị
như vậy.
Chúng
ta lại xem đoạn kế tiếp trong trang hai trăm
ba mươi bốn.
Trung
phẩm trung sanh giả, nhược hữu chúng sanh, nhược
nhất nhật nhất dạ, tŕ Bát Giới Trai, nhược
nhất nhật nhất dạ, tŕ Sa Di Giới, nhược
nhất nhật nhất dạ, tŕ Cụ Túc Giới.
中 品 中 生 者。若 有 眾 生。若 一 日 一 夜。持 八 戒 齋。若 一 日一 夜。持 沙 彌 戒。若 一 日 一 夜。持 具 足 戒。
(Trung phẩm trung sanh là nếu có các chúng sanh, trong một
ngày một đêm tŕ Bát Quan Trai Giới, hoặc một ngày
một đêm tŕ Sa Di Giới, hoặc một ngày một
đêm tŕ Cụ Túc Giới).
Cụ
Túc Giới là giới tỳ-kheo.
Oai
nghi vô khuyết, dĩ thử công đức hồi hướng,
nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc, giới
hương huân tu.
威 儀 無 缺。以 此 功 德 迴 向。願 求 生 極 樂 國。戒 香 熏 修。
(Oai nghi chẳng khuyết, dùng công đức này hồi
hướng, nguyện cầu sanh về cơi Cực Lạc,
giới hương huân tu).
Đến chỗ
này là nói về cái nhân văng sanh. Mười giới là Sa Di Giới.
Sa Di Giới và Bát Quan Trai Giới hết sức gần
gũi. Bát Quan Trai Giới là tại gia cư sĩ tu giới
xuất gia một ngày, một đêm. Thời gian của
Bát Quan Trai Giới là hai mươi bốn giờ, nếu
muốn thọ lại bèn thọ như mới, có thể
thọ mỗi ngày. Nếu chẳng có pháp sư, có thể
đối trước h́nh tượng Phật, Bồ Tát
để tự thọ giới này. [Bát Quan Trai Giới] có
tám giới điều giống Sa Di Giới, [nhưng c̣n
kèm thêm] một điều là Trai. Trai (齋) là “quá trung bất thực” (sau giữa
trưa không ăn), Trung (中) là giữa
trưa. Giữa trưa mỗi ngày [xảy ra] vào thời
điểm khác nhau, qua khỏi giữa trưa chẳng
ăn. Nếu qua khỏi giữa trưa mà ăn thứ ǵ
đó sẽ là phá trai, Bát Quan Trai Giới bị phá hỏng.
Nói thật ra, trai giới này cũng chẳng dễ tŕ cho lắm.
Buổi chiều chỉ có thể uống nước, ngay
cả những thức uống khác cũng chẳng
được dùng. V́ nói theo trai giới, trong thức uống
chẳng thể có chất trầm lắng. Nếu để
một lát, nó lắng xuống th́ không được dùng. Sữa
trầm lắng, sữa đậu nành cũng trầm lắng,
nước trái cây cũng trầm lắng. Mật chẳng
trầm lắng, mật ḥa vào nước, sẽ chẳng
trầm lắng, nên có thể dùng. Nước đường
có thể dùng. Chú trọng trai, giữa trưa ăn một
bữa, đó là Trai. Nếu sáng sớm ăn thêm một bữa
cũng là phá trai, không được! Chắc chắn là giữa
trưa ăn một bữa.
Do
đó, có rất nhiều đồng tu tŕ ngọ. Nói thật
ra, tŕ ngọ có tất yếu hay không? Chư vị phải
hiểu trai giới là h́nh thức, mục đích là đắc
tâm thanh tịnh, mục đích ở chỗ này! Tŕ trai giới
rất nghiêm, nhưng tâm chẳng thanh tịnh, trai giới
bèn là phước báo hữu lậu trong thế gian, chẳng
phải là cái nhân để văng sanh. Nếu cái nhân văng sanh mà
nói như vậy th́ Tây Phương Cực Lạc thế
giới hoàn toàn nói theo bề ngoài, chắc chắn là nói chẳng
suông, nói theo lư luận chẳng thể thông suốt
được! Nhân Giới đắc Định, nhân
Định khai Huệ. Buổi tối ăn ít chắc chắn
có lợi cho bản thân. Cổ nhân chủ trương ẩm
thực như thế này: Sáng sớm ăn ngon, buổi
trưa ăn no, buổi tối ăn ít. Buổi tối có
thể chẳng ăn, đích xác là hết sức tốt.
Người hiện thời có thói quen khác hẳn, buổi
tối đến nửa đêm c̣n phải có bữa ăn
khuya. Nhất là người ngoại quốc, bữa ăn
chánh trong ngày của người ngoại quốc là bữa
tối. Bữa chánh của người Hoa là bữa
trưa, bữa chánh của người ngoại quốc là
cơm tối. Bữa tối ăn rất nhiều, ăn
rất ngon, v́ buổi trưa quá nửa là phải đi
làm, tùy tiện ăn chút ǵ đó, đó là do thói quen ẩm
thực và sinh hoạt khác nhau. Phải hiểu ẩm thực
trong nhà Phật vẫn là nhằm giúp chúng ta tu Định,
giúp cho tâm địa thanh tịnh, mục đích ở chỗ
này. Đó là nói tới chuyện tŕ giới niệm Phật.
Như thử
hành giả, mạng dục chung thời, kiến A Di Đà
Phật, dữ chư quyến thuộc, phóng kim sắc quang,
tŕ thất bảo liên hoa, chí hành giả tiền. Hành giả
tự văn không trung hữu thanh, tán ngôn: “Thiện nam tử!
Như nhữ thiện nhân, tùy thuận tam thế chư Phật
giáo, cố ngă lai nghênh nhữ”.
如 此 行 者。命 欲 終 時。見 阿 彌 陀 佛。與 諸 眷 屬。放 金 色 光。持 七 寶 蓮 華。至 行 者 前。行 者 自 聞 空 中 有 聲。讚 言 善 男 子。如 汝 善 人。隨 順 三 世 諸 佛 教。故 我 來 迎 汝。
(Hành giả như thế lúc sắp mạng
chung, thấy A Di Đà Phật và các quyến thuộc phóng
quang minh sắc vàng, cầm hoa sen bảy báu, đến
trước hành giả. Hành giả tự nghe trong hư
không có tiếng khen ngợi rằng: “Này thiện nam tử!
Như ông là thiện nhân, tùy thuận lời dạy của
tam thế chư Phật, nên ta đến đón ông”).
Ở
đây, chúng ta lại thấy một câu kinh văn, “tùy thuận tam thế chư Phật
giáo”. Tŕ giới niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ, quá khứ, hiện tại, vị lai hết thảy
chư Phật đều giáo hóa chúng sanh như vậy,
khuyên hết thảy chúng sanh tŕ giới niệm Phật,
văng sanh thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật,
đó là lời dạy của tam thế chư Phật.
Hành giả tự kiến tọa
liên hoa thượng, liên hoa tức hợp, sanh ư Tây
Phương Cực Lạc thế giới.
行 者 自 見 坐 蓮 華 上。蓮 華 即 合。生 於 西 方 極 樂 世 界。
(Hành giả tự thấy ngồi
trên hoa sen, hoa sen liền khép lại, sanh trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới).
Đây
là văng sanh.
Tại
bảo tŕ trung, kinh ư thất nhật, liên hoa năi phu. Hoa
kư phu dĩ, khai mục, hợp chưởng, tán thán Thế
Tôn, văn pháp hoan hỷ, đắc Tu Đà Hoàn. Kinh bán kiếp
dĩ, thành A La Hán. Thị danh trung phẩm trung sanh giả.
在 寶 池 中。經 於 七 日。蓮 華 乃 敷。華 既 敷 已。開 目 合 掌。讚 歎 世 尊。聞 法 歡 喜。得 須 陀 洹。經 半 劫 已。成 阿 羅 漢。是 名 中 品 中 生 者。
(Ở trong ao báu, trải qua bảy ngày, hoa sen mới
nở. Hoa đă nở, bèn mở mắt, chắp tay, tán
thán đức Thế Tôn, nghe pháp hoan hỷ, đắc Tu
Đà Hoàn. Trải qua nửa kiếp, thành A La Hán. Đây là
trung phẩm trung sanh).
Phẩm
vị này càng thấp hơn phẩm vị trước,
t́nh h́nh tiếp dẫn cũng kém trước rất nhiều.
Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, phải
qua nửa kiếp mới có thể chứng quả A La Hán.
Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có A
La Hán, cũng chẳng có Tu Đà Hoàn, chúng ta đă đọc
thấy điều này trong kinh Vô Lượng Thọ. Kinh nói
những danh từ ấy đều là tỷ dụ quả
vị của họ bằng với Tu Đà Hoàn và A La Hán
trong các thế giới phương khác. Tu Đà Hoàn là
đoạn hết Kiến Hoặc, A La Hán là đoạn hết
Tư Hoặc. Xét theo quả vị của Đại Thừa
Bồ Tát, Tu Đà Hoàn tương đương địa
vị Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo, A La Hán tương
đương địa vị Thất Tín Bồ Tát.
Đạt đến Thất Tín, liền từ cơi Phàm
Thánh Đồng Cư vượt lên cơi Phương Tiện,
đạt đến cơi Phương Tiện Hữu
Dư.
Lại
xem đoạn kế tiếp, [xem từ] hàng cuối cùng
trong trang hai trăm ba mươi lăm.
Trung
phẩm hạ sanh giả, nhược hữu thiện nam
tử, thiện nữ nhân, hiếu dưỡng phụ mẫu,
hành thế nhân từ, thử nhân mạng dục chung thời,
ngộ thiện tri thức, vị kỳ quảng thuyết
A Di Đà Phật quốc độ lạc sự, diệc
thuyết Pháp Tạng tỳ-kheo tứ thập bát nguyện.
Văn thử sự dĩ, tầm tức mạng chung, thí
như tráng sĩ khuất thân tư khoảnh, tức sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, kinh thất nhật
dĩ, ngộ Quán Thế Âm, cập
Đại Thế Chí, văn pháp hoan hỷ, đắc Tu
Đà Hoàn, quá nhất tiểu kiếp, thành A La Hán. Thị
danh trung phẩm hạ sanh giả, thị danh trung bối
sanh tưởng, danh đệ thập ngũ quán.
中 品 下 生 者。若 有 善 男 子 善 女 人。孝 養 父 母。行 世 仁 慈。此 人 命 欲 終 時。遇 善 知 識。為 其 廣 說 阿 彌 陀 佛 國 土 樂 事。亦 說 法 藏 比 丘 四 十 八 願。聞 此 事 已。尋 即 命 終。譬 如 壯 士 屈 伸 臂 頃。即 生 西 方 極 樂 世 界。經 七 日 已。遇 觀 世 音。及 大 勢 至。聞 法 歡 喜。得 須 陀 洹。過 一 小 劫。成 阿 羅 漢。是 名 中 品 下 生 者。是 名 中 輩 生 想。名 第 十 五 觀。
(Trung phẩm hạ sanh là nếu có thiện nam tử,
thiện nữ nhân hiếu dưỡng phụ mẫu, làm
chuyện nhân từ trong cơi đời, khi người ấy
mạng chung, gặp thiện tri thức, v́ người ấy
nói rộng răi những sự vui thú trong cơi nước của
A Di Đà Phật, cũng nói bốn mươi tám nguyện
của tỳ-kheo Pháp Tạng. Nghe chuyện ấy xong, ngay
lập tức qua đời, ví như trong khoảng tráng
sĩ co duỗi cánh tay, liền sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Qua khỏi bảy ngày, gặp Quán
Thế Âm và Đại Thế Chí, nghe pháp hoan hỷ, đắc
Tu Đà Hoàn. Qua khỏi một tiểu kiếp, thành A La
Hán. Đây gọi là trung phẩm hạ sanh, là phép quán tưởng
văng sanh trong bậc trung, được gọi là phép Quán thứ
mười lăm).
Đối
với trung phẩm hạ sanh, ở đây kinh văn tỉnh
lược, trọn chẳng nói cặn kẽ. Người
văng sanh là thiện nhân theo pháp thế gian, khi lâm chung bèn nghe
thiện tri thức v́ người ấy thuyết pháp,
người ấy có thể tin tưởng. Kinh chẳng
nói Phật đến tiếp dẫn. Chúng ta hăy nghĩ xem
Phật có thể chẳng đến tiếp dẫn hay
không? Chẳng tiếp dẫn th́ làm sao người ấy
có thể đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới cho được? Đọc kinh này, nhất định
phải tham chiếu gộp lại cả ba kinh để
xem, chúng ta mới có thể thấy viên măn sự thật
này, mới có thể đoạn sạch hết thảy
nghi hoặc. Trong bốn mươi tám nguyện, quư vị
phải ghi nhớ điều này, căn cứ quan trọng
nhất của Tây Phương Tịnh Độ là bốn
mươi tám nguyện. Hết thảy chư Phật giới
thiệu Tây Phương Cực Lạc thế giới, nếu
mâu thuẫn hoặc xung đột với bốn
mươi tám nguyện, chúng ta chớ nên tin tưởng. Dẫu
là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật cũng chẳng ra ngoài
lệ ấy, nhất định phải lấy bốn
mươi tám nguyện làm căn cứ. Trong bốn
mươi tám nguyện chẳng nói: “Từ trung phẩm hạ sanh trở xuống, ta sẽ
không đến tiếp dẫn”, chẳng có câu ấy!
Khi lâm chung Phật đến tiếp dẫn chính là bổn
nguyện của A Di Đà Phật, Ngài nhất định
sẽ đến. Dẫu là hạ hạ phẩm văng sanh
trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, đức Phật
cũng đến tiếp dẫn.
Nhất
là trong hiện tại, kể như năm kia, [đối
với chuyện văng sanh của] cư sĩ Châu Quảng
Đại ở Washington DC, chúng ta thấy t́nh h́nh ấy giống
t́nh h́nh ở đây. Ông ta thấy Tây Phương Tam Thánh
đến tiếp dẫn. Ông ta chẳng nói có nhiều vị
Phật, Bồ Tát, mà nói là Tây Phương Tam Thánh từ
trên mây giáng xuống tiếp dẫn ông ta văng sanh. Khi lâm
chung, ông ta niệm Phật ba ngày ba đêm, suốt đời
chưa từng gặp gỡ Phật pháp, lúc lâm chung gặp
thiện tri thức, khuyên ông ta niệm Phật cầu sanh
Tịnh Độ. Niệm ba ngày ba đêm, cảm A Di
Đà Phật hiện tới. Người này cách chúng ta
không xa, cũng là trong ṿng một hai năm mà thôi. Có một
người văng sanh như thế, đó là quyết định
văng sanh. Chính ông ta thấy Phật, kể với mọi
người “Phật hiện đến’. Ông ta thấy Ngài từ trong mây giáng xuống,
chẳng giả, quyết định là thật.
Những
chuyện giống như vậy, chúng ta nhất định
phải đọc Đại Kinh mới hiểu trong kinh
điển có những chỗ tỉnh lược. Ở
đây tỉnh lược, nhưng trong kinh kia th́ có, giống
như trong kinh Vô Lượng Thọ [có nhiều bản dịch],
bản [dịch] này tỉnh lược, nhưng bản [dịch]
khác th́ có. Có khi bản khác tỉnh lược, mà bản này
lại có. Do Thích Ca Mâu Ni Phật nhiều lần tuyên thuyết,
nên quả thật, hội tập là chuyện tất yếu.
Hội tập giống như tất cả các bản chúng
ta đều xem. Do Thích Ca Mâu Ni Phật nhiều lần
tuyên thuyết, nên chúng ta đều nghe toàn bộ th́ ư
nghĩa mới hoàn chỉnh, mới chẳng đến nỗi
khuyết hăm! Cũng giống như vậy, gộp ba kinh lại
để xem, lại c̣n phải xem gộp chung tất cả
các bản [dịch khác nhau của cùng một kinh]. Như
kinh Di Đà, trong bản dịch của Huyền Trang đại
sư có những câu mà bản dịch của La Thập
đại sư chẳng có, đủ để bổ
sung những chỗ chưa đầy đủ trong bản
dịch của ngài La Thập. Xem như vậy th́ mới
có thể thấy hoàn toàn, khiến cho khá nhiều nghi vấn
bị đoạn sạch, điều này rất trọng
yếu!
Chương
cuối cùng là phép Quán thứ mười sáu, Hạ Phẩm
Sanh Quán. Hạ phẩm văng sanh chú trọng tŕ danh. Chúng ta hăy
xem kinh văn từ hàng cuối cùng trong trang hai trăm ba
mươi tám.
Phật cáo A Nan cập Vi Đề
Hy: - Hạ phẩm thượng sanh giả, hoặc hữu
chúng sanh, tác chúng ác nghiệp, tuy bất phỉ báng
Phương Đẳng kinh điển, như thử ngu
nhân, đa tạo ác pháp, vô hữu tàm quư, mạng dục
chung thời, ngộ thiện tri thức, vị thuyết
Đại Thừa thập nhị bộ kinh thủ đề
danh tự, dĩ văn như thị chư kinh danh cố,
trừ khước thiên kiếp cực trọng ác nghiệp.
Trí giả phục giáo hợp chưởng xoa thủ,
xưng Nam-mô A Di Đà Phật. Xưng Phật danh cố,
trừ ngũ thập ức kiếp sanh tử chi tội.
佛 告 阿 難 及 韋 提 希。下 品 上 生 者。或 有 眾 生。作 眾 惡 業。雖 不 誹 謗 方 等 經 典。如 此 愚 人。多 造 惡 法。無 有 慚 愧。命 欲 終 時。遇 善 知 識。為 說 大 乘 十 二 部 經 首 題 名 字。以 聞 如 是 諸 經 名 故。除 卻 千 劫 極 重 惡 業。智 者 復 教 合 掌 叉 手。稱 南 無 阿 彌 陀 佛。稱 佛 名 故。除 五 十 億 劫 生 死 之 罪。
(Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: - Hạ phẩm thượng sanh: Hoặc
có chúng sanh làm các nghiệp ác, tuy chẳng phỉ báng
kinh điển Phương Đẳng, nhưng kẻ ngu
như thế tạo nhiều ác pháp, chẳng hề hổ
thẹn. Lúc sắp mất, gặp thiện tri thức bảo
cho biết tên gọi, tựa đề của mười
hai thể loại kinh Đại Thừa. Do nghe tên các kinh
như thế, trừ ác nghiệp cực nặng trong ngàn
kiếp. Bậc trí lại dạy chắp tay, xưng niệm
Nam-mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật, trừ
tội trong năm mươi ức kiếp sanh tử).
Từ
đoạn này là nói về cái nhân văng sanh. Do nh́n từ sự
tu nhân, có thể nói là bậc thượng và bậc trung
văng sanh đều là tu phước, ba bậc văng sanh trong hạ
phẩm đều là chúng sanh tạo tác tội nghiệp.
Hai bậc trước đều là tu phước, là thiện
nhân quân tử, là người có đạo đức trên
thế gian, ba loại hạ này là những kẻ tạo tội
nghiệp cạn hay sâu khác nhau. Thượng phẩm th́ tội
nghiệp tương đối cạn, càng đi xuống,
tội nghiệp càng nặng hơn. Đương nhiên là
họ chẳng thể tu Quán, quán tưởng hay quán Phật
đều chẳng làm được. Thiện hữu dạy
kẻ ấy tŕ danh niệm Phật. Ở đây, chúng ta ắt
cần phải biết một sự thật, những
phương pháp quán tưởng và quán tượng, người
nghiệp chướng rất nặng chẳng thể tu,
chẳng có cách nào tu được, nhưng chấp tŕ danh hiệu có thể độ kẻ ấy.
Quư vị hăy suy nghĩ: Giữa ba phương pháp niệm
Phật ấy, tức là so giữa quán tưởng, quán tượng và tŕ danh, loại nào thù thắng?
Hăy nên biết điều này! Hết thảy các
phương pháp chẳng thể độ được,
nhưng phương pháp này có thể độ, [chứng tỏ]
phương pháp này thù thắng bậc nhất, phải biết
điều này. Do đó, trong mười sáu phép Quán có nói
đến phương pháp này, pháp thù thắng khôn sánh là tŕ
danh niệm Phật. Tŕ danh niệm Phật có thể độ
chúng sanh khổ sở cùng cực trong địa ngục,
những loại [chúng sanh] khác chẳng cần phải nói nữa!
Do đều độ được, nên mười
phương tam thế hết thảy chư Phật, Bồ
Tát, chẳng có vị nào không đề xướng tŕ danh.
Kinh Vô Lượng
Thọ đề xướng tŕ danh niệm Phật, kinh A
Di Đà cũng đề xướng tŕ danh niệm Phật.
V́ sao không đề xướng quán tưởng và quán
tượng? Quư vị đă biết: Dùng các phương
pháp ấy mà có thể văng sanh, là để độ
người nghiệp chướng tương đối
nhẹ; c̣n kẻ nghiệp chướng sâu nặng, phải
cậy vào phương pháp này, chứ hai phương pháp
trước chẳng thể độ. Phương pháp này
mới là pháp môn phương tiện thù thắng khôn sánh,
thành tựu hết thảy chúng sanh.
Giáo
pháp viên đốn chủ trương: Dẫu tội nghiệp
nặng nề nhất, sám hối đều có thể diệt
trừ; bởi lẽ, một niệm hồi tâm bèn có thể
cảm ứng đạo giao cùng Tây Phương Cực Lạc
thế giới, nhưng một người mà gặp
được thiện tri thức trong một đời
rất khó khăn. Nói thật ra là do thiện căn, phước
đức, nhân duyên trong nhiều đời đă chín muồi.
Thầy và tṛ cũng lại như thế: Một vị thầy
tốt chỉ có thể gặp, chứ không thể cầu,
chúng ta đến đâu để t́m? T́m chẳng thấy!
Thầy muốn t́m học tṛ để truyền pháp
cũng chẳng t́m được. Lăo cư sĩ Hạ
Liên Cư suốt một đời chỉ truyền
được một người là lăo cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ, truyền có một người! [Thầy] có bao giờ
chẳng mong truyền được nhiều người,
nhưng t́m không ra, đấy là cơ duyên, nên t́m không thấy.
Thuở ấy, thầy Lư ở Đài Trung, mỗi lần
tôi gặp thầy đều khuyên lăo nhân gia truyền thêm
cho mấy người. V́ chúng tôi ở ngoài giảng kinh rất
vất vả, luôn cảm thấy quá cô đơn, sư
huynh, sư đệ đông hơn một tí th́ hay hơn,
có thể giúp đỡ lẫn nhau. Tôi nói lời ấy nói
chung là mười mấy lượt, hoặc hai
mươi lượt. Mỗi lần nói xong, thầy đều
gật gù: “Đúng lắm!” Lần cuối tôi nói với thầy,
thầy bảo tôi: “Anh hăy t́m học tṛ giùm cho tôi!” Từ
đấy trở đi, tôi không nói nữa, tôi đă biết
rồi! T́m không thấy! Đến nơi đâu để
t́m? Học tṛ phải thỏa điều kiện ǵ? Phục
tùng một trăm phần trăm, tôi t́m ở đâu ra? Tôi
t́m không thấy. Trong xă hội hiện thời, t́m một học
sinh nghe lời như vậy, xác thực là t́m chẳng thấy!
Các
đồng tu theo tôi xuất gia, nói theo pháp sư Diễn Bồi
đều là đồng tham đạo hữu, chẳng thể
coi họ là đồ đệ, hoặc coi là học tṛ,
không thể! Quư vị coi những người ấy là
đồ đệ hoặc học tṛ th́ sai mất rồi,
sai lầm rất to. Đồng tham đạo hữu, là bạn
bè, lấy đâu ra học tṛ? Học tṛ là phục tùng một
trăm phần trăm, đó là học tṛ. Không thể phục
tùng, mọi người ở chung một chỗ, đối
xử hoan hỷ với nhau, là bè bạn, phải cung kính lẫn
nhau, phải khách sáo. Chúng ta đều gọi nhau là pháp
sư, [nếu là] đồ đệ thật sự sẽ
chẳng có lối xưng hô khách sáo như thế. Sư phụ
đối với tṛ giống như cha mẹ, gọi [học
tṛ] bằng tên. Do đó, đối xử khách sáo với
quư vị, liền biết trong xă hội hiện thời
khác hẳn, đôi bên ở chung với nhau là đồng
tham mà thôi!
Thầy
tṛ đạo hợp từ xưa tới nay là chuyện
khó khăn, khá khó khăn. Đạt Ma Tổ Sư là bậc
thánh nhân như thế, tới chùa Thiếu Lâm mà c̣n phải
nh́n vào vách suốt chín năm, chờ một học tṛ, truyền
pháp cho một người. Từ Đạt Ma cho đến
Ngũ Tổ, mỗi đời đều là truyền pháp
cho một người. Huệ Năng đại sư nhân
duyên tụ hội, duyên đă chín muồi, nên truyền cho bốn
mươi ba người. Trong lịch sử quá khứ của
Thiền Tông tại Trung Hoa chẳng có chuyện này, măi cho
đến hiện thời cũng chẳng có, truyền
được nhiều người như thế. Sau Lục
Tổ, [có những vị] truyền được hai ba
người, nhưng chẳng có ai thù thắng như Lục
Tổ. Thiện tri thức thật sự khó gặp, bản
thân chúng ta cầu pháp cũng thật sự chẳng dễ
dàng! Do đó, phải thật sự giác ngộ, triệt
để giác ngộ. Triệt để giác ngộ thực
hiện từ chỗ nào? Tiếng tăm, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần, quyết định chẳng
dính mắc. Hễ dính mắc, toàn bộ đều bị
hủy hoại. Xă hội hiện thời chỗ nào
cũng đầy ắp dụ dỗ, mê hoặc, quư vị
có thể chống đỡ hay không? Có thể chẳng bị
dụ dỗ, mê hoặc hay không? Khó lắm! V́ thế, có
người hỏi tôi: “Phải thỏa điều kiện
ǵ th́ mới có thể hoằng pháp lợi sanh?” Những
điều kiện khác tôi đều chẳng bàn tới,
tôi chỉ nói hai điều kiện: “Thứ nhất là nội
tâm thanh tịnh, chẳng sanh phiền năo; thứ hai là chẳng
bị ngoại cảnh dụ dỗ, mê hoặc”. Quư vị
có thể làm được hai điều ấy, chắc
là cũng có thể [hoằng pháp lợi sanh]. Chẳng làm
được hai điều ấy, hăy khéo niệm Phật,
có thể văng sanh th́ khá lắm, chẳng dễ dàng đâu
nhé! Hoàn cảnh bên ngoài có sức dụ dỗ, mê hoặc to
lớn! Đây là nói rơ chuyện sám hối tội lỗi
văng sanh. Chúng ta lại xem phần kinh văn tiếp theo.
Nhĩ
thời bỉ Phật tức khiển hóa Phật, hóa Quán
Thế Âm, hóa Đại Thế Chí, chí hành giả tiền,
tán ngôn: “Thiện nam tử! Dĩ nhữ xưng Phật
danh cố, chư tội tiêu diệt, ngă lai nghênh nhữ”.
爾 時 彼 佛 即 遣 化 佛。化 觀 世 音。化 大 勢 至。至 行 者 前。讚 言 善 男 子。以 汝 稱 佛 名 故。諸 罪 消 滅。我 來 迎 汝。
(Lúc bấy giờ,
đức Phật ấy liền sai hóa Phật, hóa Quán Thế
Âm, hóa Đại Thế Chí tới trước hành giả,
khen rằng: “Thiện nam tử! Do ông xưng danh hiệu Phật,
nên các tội tiêu diệt, ta đến đón ông”).
Quư
vị thấy Tây Phương Tam Thánh xuất hiện. Phàm
là đến nghênh đón, tất cả đều là hóa Phật.
Trong phần thượng phẩm thượng sanh, tuy kinh
chẳng nói đến hóa Phật, chúng ta nghĩ xem có phải
là Phật đích thân đến ư? Người đồng
thời văng sanh trong mười phương thế giới
quá đông, A Di Đà Phật đến đón như vậy,
làm sao cho xuể, mệt chết luôn! Do đó, tất cả
đều là hóa Phật. Bất quá hóa thành vị Phật
nào sẽ tùy thuộc tâm chúng sanh. Phật chẳng nghĩ
ta cần hóa ra h́nh dạng nào để đến tiếp
dẫn, chẳng phải vậy! Biến hóa thuận theo
tâm niệm của chúng sanh. Phật có tâm hay không? Phật chẳng
có tâm, do tâm niệm của chính chúng ta mà hóa Phật. Vị
Phật ấy lớn hay nhỏ, tướng hảo trang
nghiêm, thù thắng khác nhau, tùy thuộc cảnh giới của
chính ḿnh mà biến hóa.
Giống
như chúng ta gơ khánh, chúng ta vừa gơ, khánh liền ngân vang.
Khánh ngân vang, nhưng nó chẳng có phân biệt, chấp
trước: “Ta phải vang ra tiếng như thế nào? Ứng
như thế nào?” Chẳng có! Quư vị gơ mạnh, nó sẽ
kêu to. Quư vị gơ nhẹ, nó sẽ ngân nhẹ. Âm thanh lớn
hay nhỏ, dài hay ngắn đúng như quư vị cảm, cảm
ứng đạo giao là như vậy đó! V́ thế, dẫu
là hạ hạ phẩm văng sanh, đều là Phật đến
tiếp dẫn, Phật hóa thân tận hư không khắp
pháp giới. Đó là trạng huống thật sự trên thực
tế, chúng ta phải hiểu! Hạ phẩm thượng
sanh mà Tam Thánh đều đến tiếp dẫn, trung phẩm
hạ sanh cao hơn loại này, lẽ nào Phật chẳng
đến đón rước? V́ thế, nh́n vào phần kinh
văn trước và sau, ta biết trong phần trước
quyết định là có [Tam Thánh đến tiếp dẫn].
Tác
thị ngữ dĩ, hành giả tức kiến hóa Phật
quang minh, biến măn kỳ thất.
作 是 語 已。行 者 即 見 化 佛 光 明。遍 滿 其 室。
(Nói lời ấy xong, hành giả
liền thấy quang minh của hóa Phật trọn khắp
căn thất của chính ḿnh).
Trước
hết, thấy Phật quang.
Kiến
dĩ hoan hỷ, tức tiện mạng chung, thừa bảo
liên hoa, tùy hóa Phật hậu, sanh bảo tŕ trung, kinh thất
thất nhật, liên hoa năi phu. Đương hoa phu thời.
見 已 歡 喜。即 便 命 終。乘 寶 蓮 華。隨 化 佛 後。生 寶 池 中。經 七 七 日。蓮 華 乃 敷。當 華 敷 時。
(Đă thấy bèn hoan hỷ, liền mạng chung, ngồi
trên hoa sen báu, theo sau hóa Phật, sanh trong ao báu, trải qua bốn
mươi chín ngày, hoa sen mới nở. Ngay trong lúc hoa nở).
“Phu” (敷) là nở.
Đại Bi Quán
Thế Âm Bồ Tát, cập Đại Thế Chí Bồ Tát,
phóng đại quang minh, trụ kỳ nhân tiền, vị
thuyết thậm thâm thập nhị bộ kinh. Văn
dĩ tín giải, phát vô thượng đạo tâm, kinh thập
tiểu kiếp, cụ bách pháp minh môn, đắc nhập
Sơ Địa. Thị danh hạ phẩm thượng
sanh giả.
大 悲 觀 世 音 菩 薩。及 大 勢 至 菩 薩。放 大 光 明。住 其 人 前。為 說 甚 深 十 二 部 經。聞 已 信 解。發 無 上 道 心。經 十 小 劫。具 百 法 明 門。得 入 初 地。是 名 下 品 上 生 者。
(Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế
Chí Bồ Tát, phóng quang minh to lớn, ở trước
người ấy, v́ người ấy nói mười hai
bộ kinh rất sâu. Nghe rồi tin hiểu, phát vô thượng
đạo tâm. Trải qua mười tiểu kiếp, trọn
đủ bách pháp minh môn, được nhập Sơ
Địa. Đó gọi là hạ phẩm thượng
sanh).
Đây
là người hạ phẩm thượng sanh. Trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới, sau mười
tiểu kiếp bèn chứng đắc quả vị Sơ
Địa Bồ Tát. Sơ Địa là tăng cao tới
cơi Thật Báo Trang Nghiêm, bậc Địa Thượng Bồ
Tát sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Đối với chú giải
cho đoạn này, chúng ta hăy đọc lời chú giải
trong trang hai trăm bốn mươi. Xin xem hàng thứ hai,
từ câu thứ hai: “Viên Đốn
giáo thuyết, tội vô khinh trọng, hối giả giai diệt”
(Nói theo giáo pháp viên đốn, tội chẳng có nặng
hay nhẹ, hễ sám hối đều tiêu diệt). Sám hối
có sức mạnh vô cùng to tát. “Như
tiên dục sát chư bà-la-môn” (như có tiên nhân muốn giết
các bà-la-môn), nêu ra một câu chuyện trong kinh điển, tức
là một công án được kể trong kinh điển. “Dục” là mưu toan, ư nói tiên
nhân mưu tính giết Bà-la-môn, “địa
ngục tam niệm, tri báng Phương Đẳng, tâm sanh
cải hối, tức sanh Phật quốc” (ở trong
địa ngục [trong khoảng thời gian chừng bằng]
ba niệm, biết là đă báng bổ kinh Phương Đẳng,
sanh ḷng hối cải, liền sanh về cơi Phật). Nêu ra
một thí dụ, kẻ tạo tội nghiệp cực nặng,
nếu chẳng sám hối cầu sanh Tịnh Độ, nhất
định đọa A Tỳ địa ngục, tội
nặng như vậy, thật sự hối cải th́ vẫn
có thể văng sanh. Tiếp đó là khai thị của pháp
sư Đế Nhàn lăo nhân gia: “Thiết
vị, thử nhân pháp tuy bất báng” (trộm cho rằng
người này tuy chẳng báng pháp), ư nói người hạ
phẩm thượng sanh tuy chẳng báng pháp, “kỳ dư nhất thiết ác
nghiệp, vô bất cụ tạo” (hết thảy các ác
nghiệp khác, không ǵ chẳng tạo tác đầy đủ),
mười ác nghiệp kẻ ấy đều tạo. “Dĩ kỳ vô tàm quư cố, vô sở
bất vi dă” (do kẻ ấy chẳng hổ thẹn, nên
không điều ǵ chẳng làm). Chúng ta có thể thấy
điều này phổ biến trong xă hội hiện tiền,
thậm chí bản thân chúng ta cũng chẳng tránh khỏi
thuộc về hạng người này. Chính ḿnh ắt cần
phải giác ngộ, phải quay đầu. “Hảo tại lâm chung ngộ duyên, tự phi túc thiện
sở truy, vạn bất năng hữu thử kiêu hănh”
(khéo sao lúc lâm chung gặp duyên, nếu chẳng phải do
điều thiện từ xưa gây ra, muôn phần chẳng
thể nào có chuyện may mắn như vậy). Do đó,
nói thật ra, người ấy trong đời này có thể
gặp duyên, có thể hối cải văng sanh, vẫn là do
thiện căn phước đức nhân duyên nhiều
đời nhiều kiếp hiện hành vào lúc đó, tuyệt
đối chẳng có lẽ nào là may mắn!
“Đản văn chư kinh thủ đề danh tự,
tiện trừ thiên kiếp trọng tội, đại
pháp bất khả tư nghị” (nhưng chỉ nghe tên gọi
tựa đề của các kinh, liền trừ được
trọng tội trong ngàn kiếp, đại pháp chẳng thể
nghĩ bàn), ư nói nghe tên kinh có thể diệt tội. V́ lẽ
đó, người Nhật [theo Nhật Liên Tông] chẳng niệm
kinh, mà cũng chẳng niệm Phật hiệu, họ niệm
Nam-mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh là từ chỗ này. Tên kinh Đại
Thừa có thể diệt tội, đúng vậy, trong kinh
quả thật có cách nói như vậy. Nhưng [cách hành tŕ
của tín đồ Nhật Liên Tông] là một thứ thiên
kiến, chấp trước, họ chẳng hiểu ư
nghĩa bao hàm trong tựa đề kinh! Tôi đến
thăm Nhật Bản, hỏi rất nhiều người,
họ biết niệm, nhưng hỏi ư nghĩa là ǵ? Không
biết! Như vậy th́ rất khó! Nhất định phải
hiểu ư nghĩa. Chẳng hiểu ư nghĩa, lợi ích hết
sức ít ỏi. Chuyện này giống như trẻ nhỏ
ca hát, đứa bé ba bốn tuổi có thể hát quốc
ca Tam Dân Chủ Nghĩa[10],
nhưng Tam Dân Chủ Nghĩa là ǵ? Nó chẳng biết, chẳng
có tác dụng!
Do vậy,
niệm danh hiệu Phật cũng giống như thế.
Niệm danh hiệu Phật, Danh (tên kinh) là tổng
cương lănh của kinh. Nếu hiểu rơ danh nghĩa (ư
nghĩa bao hàm trong tên gọi một bản kinh), liền
suy ra được quá nửa ư nghĩa của cả bài
kinh. Như vậy th́ mới có thể thọ tŕ, mới có
thể đạt được lợi ích chân thật.
Đâu có lẽ nào nghe tên kinh mà chẳng hiểu ư nghĩa,
[cứ niệm suông mà vẫn đạt được lợi
ích]! Chẳng thể nào có chuyện ấy, rất khó đạt
được lợi ích chân thật. Ví như chúng ta nói
đến bộ kinh này, giới thiệu đại lược
như vậy, sẽ hữu ích rất lớn cho việc
niệm Phật của chúng ta. Nếu chúng ta chẳng đọc,
chẳng nghiên cứu, chẳng t́m ṭi, sẽ thường
là niệm danh hiệu mà tự cảm thấy chẳng
đắc lực. Tuy niệm hằng ngày, nhưng chẳng
có thọ dụng. Hiểu rơ điều này, đă hiểu
danh hiệu, sẽ khởi tác dụng, giống như trong
khi niệm, tâm dấy lên biến hóa. Khi chẳng hiểu
rơ, tuy niệm, niệm rất siêng năng, nhưng trong tâm
chẳng dấy lên biến hóa; có thể thấy là nhất
định phải biết ư nghĩa của tựa đề
kinh. Tựa đề của hết thảy các kinh, nếu
nói thực tại, ư nghĩa rơ rệt nhất, hoàn bị
nhất, không ǵ hơn được Đại Thừa Vô
Lượng Thọ Kinh. Quả thật, tựa đề
kinh ấy hết sức viên măn, Phật Thuyết Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh
Đẳng Giác Kinh. V́ thế, quả thật là phẩm vị
văng sanh cao hay thấp là do gặp duyên khác nhau. Chúng ta tan học!
Tập 28
Xin mở kinh bổn, hai trăm bốn
mươi mốt, xem đoạn thứ hai, Hạ
Phẩm Trung Sanh.
Phật cáo A Nan cập Vi Đề
Hy: Hạ phẩm trung sanh giả, hoặc hữu chúng sanh hủy
phạm Ngũ Giới, Bát Giới, cập Cụ Túc Giới.
Như thử ngu nhân thâu Tăng Kỳ vật, đạo
hiện tiền tăng vật, bất tịnh thuyết
pháp. Vô hữu tàm quư, dĩ chư ác nghiệp, nhi tự
trang nghiêm. Như thử tội nhân, dĩ ác nghiệp cố,
ưng đọa địa ngục, mạng dục chung
thời, địa ngục chúng hỏa, nhất thời
câu chí, ngộ thiện tri thức, dĩ đại từ
bi, tức vị tán thuyết A Di Đà Phật thập lực
oai đức, quảng tán bỉ Phật quang minh thần lực,
diệc tán Giới, Định, Huệ, Giải Thoát, Giải
Thoát Tri Kiến. Thử nhân văn dĩ, trừ bát thập
ức kiếp sanh tử chi tội, địa ngục mănh
hỏa, hóa vi thanh lương phong, xuy chư thiên hoa, hoa
thượng giai hữu hóa Phật, Bồ Tát, nghênh tiếp
thử nhân, như nhất niệm khoảnh, tức đắc
văng sanh thất bảo tŕ trung liên hoa chi nội.
佛 告 阿 難 及 韋 提 希。下 品 中 生 者。或 有 眾 生。毀 犯 五 戒 八 戒。及 具 足 戒。如 此 愚 人。偷 僧 祗 物。盜 現 前 僧 物。不 淨 說 法。無 有 慚 愧。以 諸 惡 業。而 自 莊 嚴。如 此 罪 人。以 惡 業 故。應 墮 地 獄。命 欲 終 時。地 獄 眾 火。一 時 俱 至。遇 善 知 識。以 大 慈 悲。即 為 讚 說 阿 彌 陀 佛 十 力 威 德。廣 讚 彼 佛 光 明 神 力。亦 讚 戒 定 慧 解 脫 解 脫 知 見。此 人 聞 已。除 八 十 億 劫 生 死 之 罪。地 獄 猛 火。化 為 清 涼 風。吹 諸 天 華。華 上 皆 有 化 佛 菩 薩。迎 接 此 人。如 一 念 頃。即 得 往 生 七 寶 池 中 蓮 華 之 內。
(Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: - Hạ phẩm
trung sanh, nếu có chúng sanh, hủy phạm Ngũ Giới,
Bát Giới, và Cụ Túc giới. Kẻ ngu như thế, trộm
vật của Tăng Kỳ, ăn trộm vật của
hiện tiền tăng, bất tịnh thuyết pháp, chẳng
hề hổ thẹn. Dùng các ác nghiệp để tự
trang nghiêm. Kẻ tội như thế, do v́ ác nghiệp,
đáng đọa địa ngục, lúc mạng sắp chấm
dứt, các ngọn lửa địa ngục cùng lúc ùa tới,
gặp thiện tri thức, do ḷng đại từ bi, liền
v́ người đó khen nói oai đức thập lực của
A Di Đà Phật, tán dương rộng răi quang minh và thần
lực của đức Phật ấy, cũng tán thán Giới,
Định, Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến.
Người ấy nghe xong, trừ tội trong tám
mươi ức kiếp sanh tử. Lửa dữ trong
địa ngục hóa thành gió trong mát, thổi các hoa trời.
Trên hoa đều có hóa Phật, Bồ Tát nghênh đón
người ấy. Như trong khoảng một niệm, liền
được văng sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu).
Trong
đoạn này, phần trước nói đến cái nhân
văng sanh, phần sau nói về trạng huống văng sanh, nói về
cái nhân văng sanh rất nhiều. Trong đoạn này, chúng ta
thấy người văng sanh khi c̣n sống đă phá giới,
hủy phạm Ngũ Giới và Cụ Túc Giới, đây
là kẻ phá giới. Trong kinh, đặc biệt nêu ra hai
chuyện, một là trộm cắp, hai là “bất tịnh thuyết pháp”. Bất tịnh thuyết
pháp là thuyết pháp như một thủ đoạn để
đạt được tiếng tăm, lợi dưỡng
trong thế gian, những kiểu như vậy đều
được gọi là bất tịnh thuyết pháp,
được gọi là “buôn bán Như Lai”[11],
nhằm mục đích tự tư tự lợi, nên quả
báo đều là địa ngục. Nếu lúc lâm chung, gặp
gỡ thiện hữu v́ kẻ ấy tán thán y báo và chánh báo
trang nghiêm thù thắng trong cơi Tây Phương, khuyên kẻ ấy
niệm Phật, người ấy một niệm hồi
tâm th́ cũng có thể văng sanh. Nhưng chư vị phải
hiểu: Trên thực tế, tuyệt đối chẳng
đơn giản như thế, nguyên nhân v́ đâu? Vẫn
là một câu như kinh Di Đà đă dạy: “Chẳng thể do chút ít thiện
căn, phước đức, nhân duyên mà được
sanh về cơi ấy!” Quư vị nói kẻ ấy suốt
đời tạo tội nghiệp, lấy đâu ra thiện
căn, phước đức, nhân duyên? Chư vị phải
hiểu: Thiện căn, phước đức, nhân duyên
đă tu trong đời quá khứ. Kẻ ấy đă tạo
tội nghiệp v́ đời này chẳng gặp thiện
duyên, chẳng gặp gỡ thiện tri thức, giao du với
bạn bè xấu xa, nên suốt một đời này tạo
tội nghiệp, chẳng phải là đời trước
kẻ ấy chẳng có thiện căn sâu dầy. Chính v́
đời trước thiện căn sâu dầy, cũng
giống như trong kinh đă nói, đời quá khứ từng
cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như
Lai, nên khi lâm chung, nhắc nhở kẻ ấy một câu,
thiện căn của kẻ ấy bèn có thể hiện tiền.
Nếu chẳng có thiện căn sâu dầy dường ấy,
khi lâm chung, quư vị khuyên kẻ ấy niệm Phật, kẻ
ấy chẳng thích nghe! Chuyện này chúng tôi cũng đă từng
thật sự trông thấy!
Lúc
tôi mới xuất gia, tại chùa Lâm Tế ở Viên
Sơn, chùa Lâm Tế có hội Niệm Phật, cho măi đến
hiện thời vẫn c̣n. Hội Niệm Phật ấy
đă tồn tại hơn ba mươi năm. Phó hội
trưởng của hội Niệm Phật là cư sĩ
Lâm Đạo Kỳ. Thuở ấy, ông ta là Tương Lư[12] của
Đài Loan Ngân Hàng, địa vị cũng rất cao, là
đại hộ pháp của chùa Lâm Tế, làm phó hội
trưởng hội Niệm Phật. Ông ta có thể
đánh pháp khí, làm duy-na[13],
gơ pháp khí rất khéo. Ông ta bị ung thư, qua đời.
Khi lâm chung, chúng tôi đến niệm Phật giúp ông ta,
nhưng ông ta chẳng nghe. Nghe Phật hiệu cảm thấy
chán ghét, chửi mắng người ta! Lâm chung nghiệp
chướng hiện tiền, chúng tôi thấy ông ta suốt
cả một đời chẳng tạo trọng tội
mà lại như thế, mới biết chuyện văng sanh nhất
định phải là thiện căn, phước đức,
nhân duyên đầy đủ, chẳng phải là chuyện
đơn giản! Trong đời quá khứ chẳng có
cơ sở sâu dầy như vậy, nói là dựa vào một
đời này bèn có thể văng sanh, chẳng thể nào có
chuyện ấy! Nếu trong một đời mà dễ
văng sanh như vậy, pháp môn này cũng chẳng cần phải
gọi là “pháp khó tin”. Xác thực là phải có cơ sở
sâu dầy, hiện tiền được Tam Bảo gia
tŕ, cho nên người ấy một niệm hồi tâm, có
thể tiêu diệt các tội, văng sanh là như vậy
đó.
Chú
giải cho đoạn này có nói: “Thử
phẩm hành nhân, hữu đạo tục nhị loại”
(Hành nhân thuộc phẩm này có hai loại là đạo và tục),
có người tu hành và có tại gia cư sĩ. Tại gia
cư sĩ th́ “tục nhân hoặc
hủy Ngũ Giới, Bát Giới” (người thế
tục hoặc hủy năm giới, tám giới), đó là
hàng tại gia, “tỳ-kheo hoặc
phạm Cụ Túc đại giới, như thử nhị
loại, giai thị bất trí ngu nhân” (tỳ-kheo hoặc
phạm Cụ Túc đại giới. Hai loại người
ngu, thiếu trí như thế). Nói đến trộm cắp,
đặc biệt Thường Trụ, “thâu thường trụ vật” là trộm cắp
những vật trong chùa chiền, tội ấy quá nặng,
chư vị phải hiểu điều này. V́ kẻ ấy
kết tội khác hẳn! Ví như chúng ta trộm cắp
đồ vật của một người, đối
tượng phạm tội của chúng ta là chỉ riêng
người ấy, đối tượng ấy dễ giải
quyết. Nếu chúng ta trộm cắp
đồ vật của cơ quan chánh phủ, chẳng hạn
như điện thoại công cộng do chánh phủ lắp
đặt, [chi phí lắp đặt lấy] từ tiền
thu thuế của dân chúng tại nơi ấy, họ
đóng thuế để lắp đặt. Nếu quư vị
trộm cắp vật ấy, sẽ kết tội với
ai? Với dân chúng nơi ấy. Phàm là ai đóng thuế,
[coi như] quư vị đều ăn trộm đồ vật
của người ấy, phiền phức to lớn! Tội
ấy quá nặng, do chẳng hiểu rơ chuyện này. Nếu
những thứ lắp đặt công cộng do quốc
gia tạo lập, quư vị ăn trộm nó, ăn trộm
một đồng tức là quư vị đă mắc tội
với dân chúng cả nước. V́ lẽ đó, kết tội
khác nhau.
“Tăng Kỳ vật” (Saṃghika) là vật
trong chùa miếu[14].
Xưa kia, chùa miếu là thập phương thường
trụ, phàm là người xuất gia đều có phần.
Không chỉ là người xuất gia trong thế giới
này có phần, mà tận hư không khắp pháp giới,
người xuất gia thuộc các cơi Phật nơi
phương khác cũng đều có phần. V́ chỉ cần
là người xuất gia, chẳng có giới hạn. Cơi Phật
chẳng có giới hạn, nên tội này vĩnh viễn chẳng
thể trang trải xong. V́ thế, kinh luận đôi ba
lượt khuyên lơn chúng ta, quyết chẳng thể lấy
trộm những
thứ trong tự viện. Hễ lấy trộm, quyết
định là tội nghiệp A Tỳ, chẳng giống
như tội trộm đồ của một, hai người,
khác hẳn! Mắc tội c̣n nặng hơn trộm đồ
của quốc gia, v́ phạm vi to lớn, số người
đông đảo, phải hiểu mối quan hệ
như vậy. Đương nhiên, hiện thời tự
viện đă biến chất rất nhiều. [Trộm cắp]
của thập phương thường trụ thật sự
th́ mới có tội nặng như thế. Nếu chẳng
phải là thập phương thường trụ, sẽ
chẳng có tội nặng như thế. Chùa miếu thập
phương thường trụ là sở hữu của hết
thảy người xuất gia thọ giới, khi họ
đến đó, đều có thể quải đơn,
đều có thể thọ dụng. Hiện thời có rất
nhiều tự miếu được gọi là “tử tôn
miếu”[15], phạm vi kết
tội của tử tôn miếu rất nhỏ, rất ít.
Chúng thường trụ trong các chùa miếu của họ nhiều
nhất là hộ pháp, hoặc tín đồ của ngôi tự
viện ấy, chẳng thể nào kết tội với
người ngoài. V́ sao? Người ngoài đến quải
đơn họ chẳng chấp thuận, như vậy
th́ chẳng phải là thập phương thường trụ.
Tại
Trung Quốc đại lục, xưa kia tùng lâm tự viện
đều là thập phương thường trụ, về
sau diễn biến thành tử tôn miếu. Trong thập
phương thường trụ, Trụ Tŕ và
Đương Gia được bầu ra, nhiệm kỳ
một năm, ngày Ba Mươi tháng Chạp bèn từ chức,
mồng Một tháng Giêng, các vị tân chấp sự sẽ
đảm nhiệm. Đó là do bầu cử mà thành, chẳng
phải là họ thích giao cho ai bèn giao cho người đó,
chẳng phải như vậy. Đương nhiên, vị
Trụ Tŕ cũ có thể đề cử, nhưng phải
được đại chúng đồng ư th́ mới
được. V́ lẽ đó, trong Phật giáo, từ
xưa tới nay, thực hành chế độ tuyển cử
dân chủ, chẳng phải là chuyên chế. Tội ấy hết
sức nặng nề. “Bất
tịnh thuyết pháp” là trọng tội, v́ phá hoại
h́nh tượng của Phật pháp, tội này trọng
đại, xấu ác tới tột cùng! Đoạn tiếp
theo là nói về lợi ích.
Kinh
ư lục kiếp, liên hoa năi phu. Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí, dĩ phạm âm thanh, an ủy bỉ nhân, vị
thuyết Đại Thừa thậm thâm kinh điển,
văn thử pháp dĩ, ứng thời tức phát vô
thượng đạo tâm. Thị danh hạ phẩm trung
sanh giả.
經 於 六 劫。蓮 華 乃 敷。觀 世 音 大 勢 至。以 梵 音 聲。安 慰 彼 人。為 說 大 乘 甚 深 經 典。聞 此 法 已。應 時 即 發 無 上 道 心。是 名 下 品 中 生 者。
(Trải qua sáu kiếp, hoa sen mới nở. Quán Thế
Âm, Đại Thế Chí dùng tiếng phạm âm an ủi kẻ
ấy, v́ người ấy nói kinh điển Đại
Thừa rất sâu. Nghe pháp ấy xong, ngay lập tức
phát khởi vô thượng đạo tâm. Đó gọi là hạ
phẩm trung sanh).
Đoạn
này nói về lợi ích. Cuối cùng, hăy xem hạ phẩm hạ
sanh. Hạ phẩm hạ sanh là kẻ tạo tội cực
nặng Ngũ Nghịch, Thập Ác.
Phật cáo A Nan cập Vi Đề
Hy: - Hạ phẩm hạ sanh giả, hoặc hữu chúng
sanh, tác bất thiện nghiệp, Ngũ Nghịch, Thập
Ác, cụ chư bất thiện. Như thử ngu nhân,
dĩ ác nghiệp cố, ưng đọa ác đạo,
kinh lịch đa kiếp, thọ khổ vô cùng. Như thử
ngu nhân, lâm mạng chung thời, ngộ thiện tri thức,
chủng chủng an ủy, vị thuyết diệu pháp,
giáo linh niệm Phật. Thị nhân khổ bức, bất
hoàng niệm Phật, thiện hữu cáo ngôn: “Nhữ
nhược bất năng niệm bỉ Phật giả,
ưng xưng Vô Lượng Thọ Phật”.
佛 告 阿 難 及 韋 提 希。下 品 下 生 者。或 有 眾 生。作 不 善 業。五 逆 十 惡。具 諸 不 善。如 此 愚 人。以 惡 業 故。應 墮 惡 道。經 歷 多 劫。受 苦 無 窮。如 此 愚 人。臨 命 終 時。遇 善 知 識。種 種 安 慰。為 說 妙 法。教 令 念 佛。彼 人 苦 逼。不 遑 念 佛。善 友 告 言。汝 若 不 能 念 彼 佛 者。應 稱 無 量 壽 佛。
(Phật bảo A Nan và Vi Đề
Hy: - Hạ phẩm hạ sanh là hoặc có chúng sanh, tạo
nghiệp chẳng lành, Ngũ Nghịch, Thập Ác, đầy
đủ các điều chẳng lành. Kẻ ngu như thế,
do ác nghiệp đáng đọa ác đạo, trải qua
nhiều kiếp, chịu khổ vô cùng. Người ngu
như thế, lúc lâm chung, gặp thiện tri thức an ủi
mọi lẽ, v́ người ấy nói pháp mầu, dạy
kẻ ấy hăy niệm Phật. Kẻ ấy bị sự
khổ bức bách, chẳng rảnh để niệm
đức Phật ấy, bạn lành bảo rằng: “Nếu
ngươi chẳng thể niệm đức Phật ấy,
hăy nên xưng niệm Vô Lượng Thọ Phật”).
“Xưng” (稱) là xưng niệm, c̣n chữ
“niệm” trong câu trước
là quán tưởng hoặc quán tượng. Quán tưởng
và quán tượng đều chẳng kịp th́ hăy nên
xưng niệm Vô Lượng Thọ Phật.
Như thị chí tâm, linh thanh bất
tuyệt, cụ túc thập niệm, xưng Nam-mô A Di Đà
Phật. Xưng Phật danh cố, ư niệm niệm
trung, trừ bát thập ức kiếp sanh tử chi tội.
Mạng chung chi thời, kiến kim liên hoa, do như nhật
luân, trụ kỳ nhân tiền, như nhất niệm khoảnh,
tức đắc văng sanh Cực Lạc thế giới.
如 是 至 心。令 聲 不 絕。具 足 十 念。稱 南 無 阿 彌 陀 佛。稱 佛 名 故。於 念 念 中。除 八 十 億 劫 生 死 之 罪。命 終 之 時。見 金 蓮 華。猶 如 日 輪。住 其 人 前。如 一 念 頃。即 得 往 生 極 樂 世 界。
(Chí tâm như thế khiến cho
âm thanh chẳng dứt, đầy đủ mười niệm
xưng Nam-mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật,
trong mỗi niệm, trừ tội trong tám mươi ức
kiếp sanh tử. Khi mạng chung, thấy hoa sen vàng giống
như vầng mặt trời, ở trước người
ấy. Như trong khoảng một niệm, liền
được văng sanh thế giới Cực Lạc).
Đoạn
kinh văn này hoàn toàn tương ứng với nguyện thứ
mười tám của A Di Đà Phật, “mười niệm ắt sanh”. Đó là lâm chung
mười niệm, mười niệm là mười câu,
chẳng phải hết một hơi là một niệm, mà
là mười câu Phật hiệu có thể diệt tội
văng sanh, lại c̣n là người tội nghiệp cực nặng.
Nhưng chư vị vẫn phải nhớ, như tôi vừa
mới chỉ ra, thiện căn, phước đức,
nhân duyên trong nhiều đời, nhiều kiếp của
người ấy đă chín muồi. Nếu không, trong khi
lâm chung, nói thật ra, kẻ tạo tội nghiệp sâu nặng
như vậy, lúc lâm chung đầu óc sáng suốt, vẫn
chẳng điên đảo, rất khó có! Người b́nh
phàm hễ bị bệnh, khi bệnh nặng, người
nhà quyến thuộc c̣n chẳng nhận ra được,
há c̣n có thể niệm Phật ư? V́ vậy, người
văng sanh, điều kiện thứ nhất là đầu óc
phải tỉnh táo, điều này hết sức khó đạt
được! V́ thế, phàm kẻ tội nghiệp hối
lỗi văng sanh như vậy, nhất định phải
trọn đủ ba điều kiện khẩn yếu:
- Thứ nhất
là tỉnh táo.
- Thứ hai là gặp
duyên, có thiện hữu khuyên nhủ.
- Điều kiện
thứ ba: Vừa nghe liền lập tức tiếp nhận,
chẳng có mảy may ngờ vực, lo âu, lập tức tiếp
nhận, làm theo. Đó là được!
Nếu trong khi ấy
có nỗi ngờ vực, suy đi xét lại, sẽ chẳng
được! Quư vị nghĩ xem, ba điều kiện
ấy khó lắm, chẳng có chuyện dễ dàng như vậy!
V́ lẽ
đó, các đồng tu chúng ta chẳng văng sanh th́ thôi, nếu
văng sanh, tuyệt đối chẳng phải là hạ phẩm
hạ sanh, xưa kia thầy Lư đă nói điều này, chẳng
thể nào! V́ sao? Chúng ta chẳng trọn
đủ điều kiện của hạ phẩm hạ
sanh. Giống như chúng ta đă tiếp xúc pháp môn này
rất lâu, b́nh thường niệm Phật, dẫu có tội
nghiệp th́ tội nghiệp chẳng nặng dường
ấy! Người thật sự niệm Phật văng sanh,
phẩm vị luôn là hạ phẩm trung sanh trở lên, thậm
chí c̣n có người là trung phẩm hạ sanh trở lên, hết
sức có thể là như vậy! Đối với hạ
phẩm văng sanh th́ người b́nh phàm như chúng ta cơ hội
văng sanh cũng chẳng quá lớn, hăy nên biết điều
này. Tiếp theo đây là nói tới lợi ích do văng sanh.
Ư
liên hoa trung, măn thập nhị đại kiếp, liên hoa
phương khai. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, dĩ
đại bi âm thanh, vị kỳ quảng thuyết chư
pháp Thật Tướng, trừ diệt tội pháp. Văn
dĩ hoan hỷ, ứng thời tức phát Bồ Đề
chi tâm.
於 蓮 華 中。滿 十 二 大 劫。蓮 華 方 開。觀 世 音 大 勢 至。以 大 悲 音 聲。為 其 廣 說 諸 法 實 相。除 滅 罪 法。聞 已 歡 喜。應 時 即 發 菩 提 之 心。
(Ở trong hoa sen măn mười hai đại kiếp,
hoa sen mới nở. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí
dùng âm thanh đại bi, v́ người ấy rộng nói Thật
Tướng của các pháp và pháp trừ diệt tội.
Nghe xong, hoan hỷ, ngay khi đó liền phát tâm Bồ Đề).
“Phát Bồ Đề tâm” là
Viên Giáo Sơ Trụ, là Pháp Thân đại sĩ, sanh trong
cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Từ hạ hạ phẩm văng
sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư sanh về cơi Thật
Báo Trang Nghiêm.
Thị
danh hạ phẩm hạ sanh giả, thị danh hạ bối
sanh tưởng, danh đệ thập lục quán.
是 名 下 品 下 生 者。是 名 下 輩 生 想。名 第 十 六 觀。
(Gọi là hạ phẩm hạ
sanh, là phép quán tưởng văng sanh bậc hạ, gọi là
phép Quán thứ mười sáu).
Trong
chú giải có mấy câu, chúng ta hăy đọc một lượt.
Xem từ ḍng thứ nhất trong phần chú giải: “Ngôn Ngũ Nghịch, Thập Ác,
cụ chư bất thiện giả” (nói Ngũ Nghịch,
Thập Ác, đủ các điều chẳng lành), người
này tạo tác ác nghiệp, chẳng thành tựu điều
thiện nào. “Tắc hủy hoại
Tam Bảo, báng Đại Thừa kinh, đoạn học
Bát Nhă, sát hại phụ mẫu đẳng, vô sở bất
vi, cố ngôn cụ dă” (tức là hủy hoại Tam Bảo,
báng kinh Đại Thừa, ngăn dứt sự học Bát
Nhă, không điều ǵ chẳng làm, nên nói là “trọn đủ”),
chính là một kẻ ngu si, tội nghiệp trong thế gian
như vậy. “Kư hữu
như thị cực trọng ác nhân, thế tất đọa
ư A Tỳ địa ngục, xuất khổ vô kỳ.
Thử giới hoại thời, chuyển kư tha phương.
Tha phương hoại thời, triển chuyển
tương kư. Tùng địa ngục xuất, phục
đọa ngạ quỷ. Ngạ quỷ tất dĩ, phục
đầu súc sanh, cố vân kinh lịch ác đạo, thọ
khổ vô cùng” (Đă có cái nhân cực nặng như thế,
đương nhiên phải đọa trong địa ngục
A Tỳ, chẳng có thuở thoát khổ. Khi cơi này đă hoại,
bèn chuyển sang gởi thân trong phương khác. Khi
phương khác đă hoại, lại lần lượt gởi
thân nơi những phương khác nữa. Từ địa
ngục thoát ra, lại đọa trong ngạ quỷ. Chịu
khổ trong đường ngạ quỷ xong, lại
đầu thai làm súc sanh, v́ thế nói là “lần lượt
trải qua các ác đạo, chịu khổ vô cùng”). Chuyện
này được nói cặn kẽ, tỉ mỉ trong kinh
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, quả báo hết
sức đáng sợ. Nhưng hiện thời có lắm kẻ,
người chẳng học Phật không cần nói tới,
chứ kẻ học Phật chẳng tin tưởng nhân
quả, chẳng sợ báo ứng, hiện thời vẫn
hành xử theo dục vọng, đúng là ngu si tới tột
cùng. Hễ có đôi chút trí huệ, sẽ chẳng dám làm.
Nay
chúng tôi khuyên dạy các đồng tu, v́ sao đặc biệt
chú trọng Liễu Phàm Tứ Huấn và Cảm Ứng
Thiên? Tôi ấn định bảy môn học cho các đồng
tu, trong ấy có hai môn này, nhằm dạy mọi người
phải biết sự thật nhân quả báo ứng sâu xa.
Không chỉ chớ nên làm chuyện xấu, chớ nên khởi
ác niệm, mà nhất định phải biết “thiện có thiện báo, ác có ác
báo”. Nhân duyên quả báo quyết định chẳng có
cách nào tránh khỏi. Cảm Ứng Thiên là tiêu chuẩn thiện
ác. Thiện là ǵ? Ác là ǵ? Chúng ta không dùng giới luật, giới
luật nói sâu xa, cảnh giới rất rộng, chẳng
thấy rơ lắm. Cảm Ứng Thiên đơn giản, rơ
rệt, vừa xem liền hiểu ngay. Thuở Ấn Quang
đại sư tại thế, Ngài cả đời cực
lực đề xướng [ấn hành Cảm Ứng
Thiên và Liễu Phàm Tứ Huấn], tổ Ấn Quang là
Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai, chúng ta có thể tin
tưởng được. V́ thế, hai loại sách này trọng
yếu hơn bất cứ sách ǵ khác! Nay chúng ta chẳng
đọc kinh Tiểu Thừa, cũng chẳng đọc
sách Khổng Tử, nên dùng hai thứ ấy để thay
thế. Dùng Liễu Phàm Tứ Huấn và Cảm Ứng
Thiên để thay thế, bù đắp cơ sở bị
thiếu hụt. Nhất định phải đọc thuộc
ḷng hai loại ấy, phải y giáo phụng hành, sửa lỗi
đổi mới, tôi đề xướng [đọc tụng
hai sách ấy] là nhằm mục đích này. Có thiện
căn, phước đức như vậy, trong
tương lai mới là tư lương để chúng ta
văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Phần
kế tiếp nói rất hay, chúng ta hăy xem tiếp: “Bất liệu ư vô lượng
kiếp tiền, trị Phật văn pháp, chủng quá thiện
căn” (Nào dè trong vô lượng kiếp trước,
đă gặp Phật, nghe pháp, gieo trồng thiện
căn). Kẻ ác nghiệp ấy lâm chung gặp thiện
tri thức khuyên bảo “mười
niệm có thể văng sanh” là do trong vô lượng kiếp
đời quá khứ đă gieo thiện căn rất sâu dầy,
chỉ là đời này mê hoặc, điên đảo, chẳng
phải là ngẫu nhiên [mà gặp gỡ thiện tri thức].
Chúng ta cũng học đ̣i theo kiểu của người
ấy, bảo đảm đọa địa ngục,
quyết định chẳng văng sanh! Học kiểu ấy
không được đâu! Chớ nên làm chuyện cầu
may, nhất định phải chú ư điều này.
“Đản hữu Văn Tư, vị tằng tu tập,
hậu vi phiền năo phú chướng, cánh bị trầm
mai, trực chí thùy chung, vị khổ bức xuất, đắc
ngộ thiện tri thức, an ủy kỳ tâm, tiên vị
thuyết pháp, khải kỳ tâm trí, hậu linh niệm Phật,
giáo dĩ văng sanh” (Chỉ có Văn Huệ và Tư Huệ, chưa từng
tu tập, về sau bị phiền năo che lấp, ngăn trở,
nên bị đắm ch́m, măi cho đến khi lâm chung, bị
các nỗi khổ bức bách mà [thiện căn] phát hiện,
gặp thiện tri thức, an ủi tâm t́nh. Trước hết
bèn nói pháp cho người ấy, khơi mở tâm trí; sau
đó, dạy người ấy niệm Phật, dạy
cho văng sanh). Đó là thiện căn trong vô lượng kiếp,
trong một sát-na cuối cùng, bị các nỗi khổ bức
bách mà xuất hiện.
Giống như
ông Trương Thiện Ḥa đời Đường, cả
đời mổ trâu, khi lâm chung thấy nhiều kẻ
đầu trâu đến đ̣i mạng. Khi ấy, ông ta lo
sợ, lớn tiếng kêu gào cứu mạng. Duyên của
ông ta tốt đẹp, khéo sao, một vị xuất gia
đi ngang cửa, nghe ông ta kêu cứu mạng, liền
bước vào hỏi han chuyện ǵ? Ông ta nói: “Rất nhiều
gă đầu trâu đến đ̣i mạng”. Vị xuất
gia ấy trong tâm hiểu ngay, vội vă đốt một nắm
hương bảo ông ta cầm lấy, niệm A Di Đà
Phật, cầu sanh về thế giới Cực Lạc.
Ông ta bèn lớn tiếng niệm, niệm chưa được
mấy tiếng, bèn nói: “Những kẻ đầu trâu chẳng
c̣n nữa”. Lại niệm mấy tiếng, bảo: “A Di
Đà Phật đă đến”. Ông ta bèn văng sanh. Chuyện
này chẳng dễ dàng, khá là khó khăn, do thiện căn
trong vô lượng kiếp đă chín muồi, chẳng phải
là chuyện may mắn!
V́
thế, chính chúng ta phải hiểu, nay chúng ta có duyên gặp
pháp môn này, gặp gỡ viên măn như vậy, thù thắng
như vậy, có thể thấy thiện căn, phước
đức quyết định chẳng ít. Nếu ít thiện
căn, ít phước đức, cả đời này chúng
ta cũng chẳng gặp! Đối với giáo lư, ít nhiều
ǵ cũng hiểu được vài phần, cũng hiểu
phương pháp, th́ nhất định phải nghiêm túc nỗ
lực tu học, quyết định chớ nên bỏ lỡ!
Một câu A Di Đà Phật có thể tiêu trừ hết thảy
tội nghiệp cực nặng. Tiêu diệt tội nghiệp
như thế nào? Chư vị phải biết: Trong niệm
niệm, tâm quư vị có A Di Đà Phật, sẽ chẳng
có tội nghiệp. H́nh tướng của tội nghiệp
là ǵ? Chính là vọng tưởng, phiền năo, ưu lự,
đó là tội tướng (h́nh tướng của tội
nghiệp). Cần phải biết h́nh dạng của tội
nghiệp. Vọng tưởng nhiều chính là tướng
của tội nghiệp, tâm địa thanh tịnh là
tướng tốt đẹp. Suốt ngày từ sáng đến
tối niệm Phật, quư vị là Phật tướng.
Ngay cả kẻ xem tướng cũng nói “tướng chuyển theo tâm”, quư vị niệm
Phật nhiều, trong tương lai, tướng mạo sẽ
dần dần biến thành tướng Phật, tướng
mạo tốt đẹp. Tướng chuyển theo tâm là
thật, tướng có thể chuyển. Tiết cuối
cùng là…
Thị danh hạ phẩm hạ
sanh giả, thị danh hạ bối sanh tưởng, danh
đệ thập lục quán.
是 名 下 品 下 生 者。是 名 下 輩 生 想。名 第 十 六 觀。
(Gọi là hạ phẩm hạ
sanh, là phép quán tưởng văng sanh bậc hạ, gọi là
phép Quán thứ mười sáu).
Đến
đây là Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy phu nhân Vi Đề
Hy phương pháp văng sanh, dạy bà cách Chánh Thọ, đến
đây đă nói xong xuôi.
Cuối
cùng là tổng kết, chúng ta xem ḍng thứ nhất trong
trang hai trăm bốn mươi tám.
Thuyết thị ngữ thời,
Vi Đề Hy dữ ngũ bách thị nữ, văn Phật
sở thuyết, ứng thời tức kiến Cực Lạc
thế giới, quảng trường chi tướng,
đắc kiến Phật thân, cập nhị Bồ Tát,
tâm sanh hoan hỷ, thán vị tằng hữu, hoát nhiên đại
ngộ, đăi Vô Sanh Nhẫn.
說 是 語 時。韋 提 希 與 五 百 侍 女。聞 佛 所 說。應 時 即 見 極 樂 世 界 廣 長 之 相。得 見 佛 身。及 二 菩 薩。心 生 歡 喜。歎 未 曾 有。豁 然 大 悟。逮 無 生 忍。
(Khi nói lời ấy, bà Vi Đề Hy và năm
trăm thị nữ, nghe lời Phật dạy, ngay khi
đó thấy tướng rộng lớn của thế giới
Cực Lạc, được thấy thân Phật và hai vị
Bồ Tát, tâm sanh hoan hỷ, tán thán là chưa hề có, hoát
nhiên đại ngộ, đắc Vô Sanh Nhẫn).
Chữ
Đăi (逮) có nghĩa là đạt đến.
Đắc Vô Sanh Nhẫn: Khi ấy, đức Phật giảng
giải cho phu nhân Vi Đề Hy, bà ta nghe giảng, liền
nương theo văn nhập quán; nghe xong bèn tu hành, khai giải.
Đó là căn tánh Đại Thừa Bồ Tát, phu nhân là
căn tánh Đại Thừa Bồ Tát, trọn đủ
Tam Huệ. Tam Huệ là Văn, Tư, Tu. Văn là tiếp
xúc, nghe Phật thuyết pháp là Văn, lắng nghe là tiếp
xúc. Vừa nghe bèn hiểu rơ, khai ngộ, đó là Tư, tức
Tư Huệ. Sau khi khai ngộ, chẳng mê, chẳng
điên đảo. Nói theo phương diện chẳng mê,
chẳng điên đảo là Tu Huệ. Nói cách khác, phiền
năo, tập khí, vọng tưởng, chấp trước
thuận theo sự nghe mà đoạn trừ. Đức Phật
giảng kinh xong xuôi, phiền năo và tập khí của bà ta
cũng đoạn hết. Ngay khi ấy liền chứng
đắc Thất Địa Bồ Tát. Từ địa
vị phàm phu, ngay lập tức chứng đến Thất
Địa Bồ Tát. Pháp môn này là đại pháp viên đốn,
chẳng trải qua thứ tự, ngay lập tức chứng
đắc cảnh giới này. Lại xem đoạn tiếp
theo.
Ngũ bách thị nữ, phát A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, nguyện sanh bỉ
quốc. Thế Tôn tất kư giai đương văng sanh.
Sanh bỉ quốc dĩ, hoạch đắc Chư Phật
Hiện Tiền tam-muội. Vô lượng chư thiên, phát
vô thượng đạo tâm.
五 百 侍 女。發 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩 提 心。願 生 彼 國。世 尊 悉 記 皆 當 往 生。生 彼 國 已。獲 得 諸 佛 現 前 三 昧。無 量 諸 天。發 無 上 道 心。
(Năm trăm thị nữ phát tâm Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện sanh về cơi ấy.
Đức Thế Tôn đều thọ kư họ sẽ văng
sanh. Đă sanh về cơi ấy, sẽ đắc Chư Phật
Hiện Tiền tam-muội. Vô lượng chư thiên phát
Vô Thượng đạo tâm).
Câu
này cho biết các thị nữ của bà ta do nghe pháp mà
đạt được lợi ích. Phu nhân chứng đắc
Vô Sanh Pháp Nhẫn, sanh vào Thất Địa. Các thị nữ
cũng chẳng đơn giản, duyên cũng hết sức
sâu, nghe đức Phật thuyết pháp, Bồ Đề
tâm phát hiện. Tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề trong phần trước đă nói là “chí thành tâm,
thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm”. Phát trọn vẹn
ba tâm chính là quả vị Sơ Trụ trong Viên Giáo. Đức
Phật giảng kinh này trong cung, thính chúng chỉ có ngần
ấy, ai nấy đều đạt được lợi
ích thù thắng khôn sánh. Phần kinh văn Chánh Tông đến
đây đă giảng xong. Cuối cùng là phần Lưu Thông
của kinh này, xin xem kinh văn nơi ḍng thứ nhất của
trang hai trăm năm mươi.
Nhĩ
thời A Nan tức tùng tọa khởi, bạch Phật
ngôn: “Thế Tôn! Đương hà danh thử kinh, thử
pháp chi yếu, đương vân hà thọ tŕ?”
爾 時 阿 難 即 從 坐 起。白 佛 言。世 尊。當 何 名 此 經。此 法 之 要。當 云 何 受 持。
(Lúc bấy giờ, ngài A Nan từ
chỗ ngồi đứng dậy, bạch đức Phật
rằng: - Bạch đức Thế Tôn! Kinh này nên đặt
tên là ǵ? Nên thọ tŕ pháp yếu này như thế nào?)
Đức Phật
dạy phu nhân Vi Đề Hy ức tŕ, [tức là] ức niệm,
thọ tŕ, thảy đều dạy xong xuôi. Tôn giả A Nan
vâng mệnh truyền tŕ Phật pháp, nên Ngài có trách nhiệm.
Ở đây, Ngài thỉnh giáo đức Thế Tôn, kinh này
nên có danh xưng là ǵ? “Hà danh thử
kinh”, phải thọ tŕ như thế nào?
Phật cáo A Nan: - Thử kinh danh
Quán Cực Lạc Quốc Độ Vô Lượng Thọ
Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ
Tát.
佛 告 阿 難。此 經 名 觀 極 樂 國 土 無 量 壽 佛。觀 世 音 菩 薩。大 勢 至 菩 薩。
(Đức Phật bảo ngài A Nan: - Kinh này có tên là
Quán Cực Lạc Quốc Độ Vô Lượng Thọ
Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ
Tát).
Đức Phật
nói ra tên kinh.
Diệc
danh Tịnh Trừ Nghiệp Chướng Sanh Chư Phật
Tiền. Nhữ đương thọ tŕ, vô linh vong thất.
亦 名 淨 除 業 障。生 諸 佛 前。汝 當 受 持。無 令 忘 失。
(Cũng có tên là Tịnh Trừ
Nghiệp Chướng Sanh Chư Phật Tiền, ông nên thọ
tŕ, chớ để quên mất).
Đức
Phật nói kinh này có hai danh xưng: Danh xưng thứ nhất
kiến lập theo phương pháp tu học, quán Tây
Phương Tam Thánh[16].
Truyền đến Trung Quốc, do vị đại
sư phiên dịch đă giản hóa đề mục, nên
tên kinh được gọi là Quán Vô Lượng Thọ
Phật Kinh. V́ nói đến Vô Lượng Thọ Phật,
đương nhiên thế giới Cực Lạc cũng được
bao gồm trong ấy, Quán Âm, Thế Chí cũng bao gồm
trong đó, nên giản hóa đề mục. Đề kinh
tuy giản hóa, nhưng ư nghĩa trọn đủ. Tựa
đề kia (danh xưng thứ hai của kinh này)
được kiến lập theo công đức lợi
ích của kinh; v́ thế, kinh này có tên là Tịnh Trừ Nghiệp
Chướng Sanh Chư Phật Tiền, “nhữ đương thọ tŕ, vô linh vong thất”
(ông hăy nên thọ tŕ, đừng để quên mất).
Lại xem phần kinh văn tiếp theo.
Hành
thử tam-muội giả, hiện thân đắc kiến
Vô Lượng Thọ Phật, cập nhị đại
sĩ.
行 此 三 昧 者。現 身 得 見 無 量 壽 佛。及 二 大 士。
(Hành tam-muội ấy, thân hiện
tại được thấy Vô Lượng Thọ Phật
và hai vị đại sĩ).
Thật
sự nương theo phương pháp này để tu hành,
thành tựu Niệm Phật tam-muội, hiện tiền nhất
định có thể thấy Tây Phương Tam Thánh.
Nhược
thiện nam tử cập thiện nữ nhân, đản
văn Phật danh, nhị Bồ Tát danh, trừ vô lượng
kiếp sanh tử chi tội, hà huống ức niệm.
若 善 男 子 及 善 女 人。但 聞 佛 名。二 菩 薩 名。除 無 量 劫 生 死 之 罪。何 況 憶 念。
(Nếu thiện nam tử và thiện
nữ nhân chỉ nghe tên Phật và tên hai vị Bồ Tát, sẽ
trừ tội trong vô lượng kiếp sanh tử, huống
hồ ức niệm).
Đây
là nói danh hiệu có công đức chẳng thể nghĩ
bàn. Bất luận quư vị hữu tâm hay vô tâm, hiểu hay
chẳng thể hiểu, trong một đời này, có duyên
có thể nghe một câu Nam-mô A Di Đà Phật, hoặc là
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát, [Nam-mô] Đại Thế Chí Bồ
Tát, “vừa thoảng qua tai,
vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo”,
công đức lợi ích thù thắng, chẳng có ǵ sánh bằng!
Huống chi là chúng ta thường xuyên ức niệm? Công
đức lợi ích ấy lại càng chẳng thể
nghĩ bàn. Lại xem phần kinh văn tiếp theo, nơi
trang hai trăm năm mươi hai.
Nhược niệm Phật giả,
đương tri thử nhân, tắc thị nhân trung Phân
Đà Lợi hoa.
若 念 佛 者。當 知 此 人。則 是 人 中 分 陀 利 華。
(Nếu là người niệm
Phật, hăy nên biết người ấy là hoa Phân Đà Lợi
trong loài người).
Phân
Đà Lợi (Puṇḍarīka)
là tiếng
Phạn, [nghĩa là] hoa sen trắng. Trong hoa sen bốn màu,
hoa sen trắng thù thắng nhất, đẹp nhất.
Đây là đức Thế Tôn tán thán người niệm
Phật.
Quán
Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, vi kỳ
thắng hữu.
觀 世 音 菩 薩。大 勢 至 菩 薩。為 其 勝 友。
(Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát là bạn thù thắng của người
ấy).
Có
những kẻ coi thường, khinh rẻ người niệm
Phật. Nói thật ra, người niệm Phật cần
ǵ kẻ khác coi trọng ḿnh? Quư vị thấy Quán Âm, Thế
Chí làm bạn tốt của quư vị. Có những kẻ rất
cung kính, lễ bái Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng chẳng
coi người niệm Phật ra ǵ. Đó là mê hoặc,
điên đảo, chẳng nhận biết rơ ràng. Những
lời này đều do đức Phật nói, tuyệt
đối chẳng phải là vọng ngữ, tuyệt
đối chẳng phải do người niệm Phật
tự khoe khoang, khoác lác, mà là do đức Phật nói. Tiếp
đó, đức Phật nói:
Đương
tọa đạo tràng, sanh chư Phật gia.
當 坐 道 場。生 諸 佛 家。
(Sẽ ngồi nơi đạo
tràng, sanh trong nhà chư Phật).
Đây
là “đắc quả siêu hạnh”,
người niệm Phật thật sự nhất định
văng sanh, văng sanh thành Phật, nên nói “tọa đạo tràng” là hóa độ chúng sanh, “sanh chư Phật gia”, thấy
một đức Phật A Di Đà là thấy hết thảy
mười phương chư Phật, quả thật là
sanh trong nhà chư Phật. Chúng ta chưa từng thấy
công đức lợi ích ấy trong các kinh luận hay pháp
môn khác.
Phật
cáo A Nan: - Nhữ hảo tŕ thị ngữ.
佛 告 阿 難。汝 好 持 是 語。
(Đức Phật bảo ngài A
Nan: - Ông hăy khéo ǵn giữ lời này).
Trong
lời dặn ḍ có lời khích lệ. Ông hăy khéo thọ tŕ “thị ngữ”. Chữ “thị ngữ” chỉ những
điều đức Phật đă nói trên đây.
Tŕ
thị ngữ giả, tức thị tŕ Vô Lượng Thọ
Phật danh.
持 是 語 者。即 是 持 無 量 壽 佛 名。
(Vâng giữ lời này chính là tŕ
danh Vô Lượng Thọ Phật).
Câu
này cũng do Thích Ca Mâu Ni Phật nói. Ư nghĩa rất rơ rệt:
Niệm kinh này là niệm Vô Lượng Thọ Phật, công
đức niệm Phật và niệm kinh như nhau. Quư vị
niệm kinh Vô Lượng Thọ, niệm kinh A Di Đà và
niệm kinh này đều là niệm A Di Đà Phật, chẳng
khác ǵ nhau! V́ lẽ đó, chúng ta niệm kinh, có người
nói: “Rốt cuộc tôi niệm kinh tốt hơn, hay là niệm
danh hiệu A Di Đà Phật hay hơn?” Đều
được cả! Niệm kinh hay niệm danh hiệu
đều được, đều là ức Phật, niệm
Phật. Tùy thuộc trạng huống tu học của
chính ḿnh! Nếu có thể nhiếp tâm, tâm địa thanh tịnh
th́ danh hiệu rất tốt. Nếu niệm danh hiệu
mà vẫn chưa thể nhiếp tâm, vọng tưởng,
tạp niệm rất nhiều, nhưng niệm kinh
tương đối dễ dàng nhiếp tâm th́ niệm
kinh xong bèn niệm danh hiệu A Di Đà Phật. Tán niệm
xưng danh, công đức cũng chẳng thể nghĩ
bàn, hy vọng trong mười hai thời có thể ǵn giữ
không gián đoạn là được rồi.
Phật
thuyết thử ngữ thời, tôn giả Mục Kiền
Liên, tôn giả A Nan, cập Vi Đề Hy đẳng,
văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ.
佛 說 此 語 時。尊 者 目 犍 連。尊 者 阿 難。及 韋 提 希 等。聞 佛 所 說。皆 大 歡 喜。
(Khi đức Phật nói lời
ấy, tôn giả Mục Kiền Liên, tôn giả A Nan, và Vi
Đề Hy v.v… nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ
to lớn).
Kinh
đến chỗ này là kết thúc, nhưng do giảng trong
vương cung, các đại chúng tại núi Kỳ Xà Quật
c̣n chưa được nghe, nên sau đó c̣n phụ chú.
Nhĩ
thời Thế Tôn, túc bộ hư không, hoàn Kỳ Xà Quật
sơn. Nhĩ thời, A Nan quảng vị đại chúng,
thuyết như thượng sự. Vô lượng chư
thiên, long, dạ-xoa, văn Phật sở thuyết, giai
đại hoan hỷ, lễ Phật nhi thoái.
爾 時 世 尊。足 步 虛 空。還 耆 闍 崛 山。爾 時 阿 難。廣 為 大 眾。說 如 上 事。無 量 諸 天 龍 夜 叉。聞 佛 所 說。皆 大 歡 喜。禮 佛 而 退。
(Khi ấy, đức Thế
Tôn bước lên hư không, trở về núi Kỳ Xà Quật.
Lúc bấy giờ, Ngài A Nan rộng v́ đại chúng nói chuyện
trên đây. Vô lượng chư thiên, long, quỷ, dạ-xoa,
nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ to lớn,
lễ Phật lui ra).
Tôn
giả A Nan sau khi theo Phật trở về Linh Sơn, liền
đem những lời tuyên thuyết trong vương cung
đối trước đại chúng nhắc lại một
lượt. Do những điều ngài A Nan đă nói giống
như lời Phật nói, nên mọi người sau khi xong
đều cảm thấy là “văn
Phật sở thuyết” (nghe lời Phật dạy), chẳng
phải là do A Nan nói, thật ra là do A Nan tuyên thuyết. A Nan
chẳng nói sai câu nào, nên giống như nghe đức Phật
nói, “giai đại hoan hỷ,
lễ Phật nhi thoái”. Đối với những câu
này, chúng tôi chẳng rườm lời v́ phần lưu
thông trong mỗi bộ kinh đều đă nói cặn kẽ.
Tới đây, chúng tôi đă giảng viên măn bộ kinh này.
Kinh
đă viên măn, hy vọng chư vị đồng tu có thể
vâng theo những điều khai thị trọng yếu
trong kinh, nhớ giữ không quên, y giáo phụng hành. Nếu
chúng ta nhận biết Phật pháp đôi chút, liền biết
trong hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian, chẳng có ǵ quư báu hơn Phật pháp. Nhất là pháp
môn Tịnh Tông trong Phật pháp, thù thắng khôn sánh bậc
nhất, cổ nhân tán thán là “một
ngày hiếm có khó gặp từ vô lượng kiếp đến
nay”. Lời ấy là thật, chẳng giả. Hiếm
có, khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay,
nay chúng ta gặp gỡ. Đă gặp, nếu chẳng thể
nắm thật chặt, lỡ làng một đời này
như thế, rất đáng tiếc! Quư vị nói xem: Lần
sau gặp được, phải trải qua vô lượng
kiếp, khá khó khăn! Quư vị phải nắm chắc, thật
sự giác ngộ, buông xuống vạn duyên. Chúng ta
được làm thân người trong đời này quá
đáng quư, chỉ cần chúng ta ăn no, mặc ấm, có
căn nhà nhỏ để đụt mưa, tránh gió là
đủ rồi, cầu văng sanh là khẩn yếu! Sanh
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới
đắc đại tự tại, nếu mong trở về
thế giới này để giúp đỡ hết thảy
chúng sanh, [sẽ là] Bồ Tát thừa nguyện tái lai, đến
đi tự do, thù thắng lắm! V́ sao c̣n muốn tạo
nghiệp luân hồi trong lục đạo? Vẫn c̣n muốn
chịu những nỗi khổ nạn ấy? Đó là ngu
si. Chẳng gặp pháp môn này, sẽ chẳng có cách nào, muốn
vượt thoát nhưng chẳng được, chẳng
có điều kiện. Hễ gặp gỡ, tất cả
điều kiện thảy đều trọn đủ,
nếu quư vị vứt bỏ, đáng tiếc quá, chẳng
có cách nào hết!
Do vậy,
hy vọng các đồng tu phải thật sự phát tâm.
Có thể phát tâm hoằng dương pháp môn này,
đương nhiên là càng khó có. Hoằng dương pháp môn
này, nói thật ra, phải xa ĺa pháp thế gian, phải bỏ
sạch sành sanh tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ
dục, lục trần trong thế gian, chẳng cần những
thứ ấy. Hoằng pháp lợi sanh th́ nếu gặp
người duyên đă chín muồi, thấy người ấy
thật sự chịu tiếp nhận, thật sự có thể
nghe hiểu, thật sự có thể y giáo tu hành, dẫu là
một người th́ ta cũng phải giảng cho người
ấy. Giảng cho người ấy, đời này
người ấy niệm Phật văng sanh thành Phật, tuyệt
diệu thay! Quyết định chớ nên nói ta phải lập
một đạo tràng rất lớn, phải có mấy
ngàn vạn người đến nghe, đó là ǵ? Đó là
phô trương, biểu diễn, làm tṛ náo nhiệt, chúng ta
chớ nên làm chuyện ấy, chẳng có ư nghĩa ǵ, hoàn
toàn là làm chuyện bề ngoài, chớ nên làm!
Thật
sự cộng tu, nói thật ra, quư ở chỗ tinh ṛng, chẳng
chuộng đông. Đông người là muốn làm chuyện
náo nhiệt, chẳng có hiệu quả. Đạo tràng này
của chúng ta thành lập đă nhiều năm như vậy,
cũng có không ít đồng tu đến t́m tôi, [cho biết]
đă t́m được giảng đường ở Hàng
Châu Nam Lộ[17],
muốn tặng đất cho tôi, tặng thứ này, tặng
thứ nọ, tôi đều chẳng cần. V́ sao? T́m
đâu ra người? Cất chùa, xây dựng xong xuôi bèn
tranh quyền đoạt lợi, [trở thành] đạo
tràng đấu tranh, quả báo trong tam đồ, chúng ta chớ
nên làm chuyện ấy. V́ thế, tôi nói với Quán Trưởng:
“Chúng ta ở chỗ nhỏ nhoi này là đủ rồi.
Thính chúng đông quá, không có chỗ ngồi! Chúng ta chẳng
cần tuyên truyền, đủ rồi, không cần mở
rộng thêm. Đạo tràng nhỏ, chi tiêu ít, chẳng cần
cầu cạnh người khác, tâm an lư đắc. Chúng ta
có thể văng sanh trong một đời này th́ hay lắm,
quyết định chẳng ở trong thế giới này
làm chuyện chơi trội. Phải thật thà, chết sạch
tấm ḷng mong ngóng, so đo, gánh vác trách nhiệm Phật
pháp”. Thật sự có thể tiếp tục hoằng pháp,
nói thật ra, chẳng cần nhiều người. Dăm
ba người là khá lắm rồi, có được mười
người hay tám người, Tịnh Độ Tông có thể
truyền khắp toàn thế giới. Vấn đề là
ai chịu buông tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ
dục, lục trần xuống? Thật sự buông xuống,
sống một cuộc đời quư vị nói là rất khổ,
tôi nói là vui nhất, tiêu chuẩn khổ và vui của chúng ta
khác nhau! Quư vị có tiền, có thế lực, bèn nói là vui;
đối với chúng tôi, tâm địa thanh tịnh, chẳng
vướng mắc, chẳng có phiền năo, chẳng có
ưu lự, đó là vui. Thân tâm thanh tịnh liền tự
tại, sung sướng, chẳng bị ràng buộc, thứ
ǵ cũng chẳng có, nhưng như thế nào vẫn có thể
sống được, chẳng có ǵ là thiếu thốn
quá lớn, lẽ nào chẳng vui sướng? Đó là do
tiêu chuẩn khổ, lạc khác nhau! V́ thế, thật sự
triệt để buông xuống, sẽ có chân lạc,
người thế gian chẳng thể tưởng tượng
được đâu!
A! Khóa học này đến
đây đă viên măn. Cảm ơn quư vị.
Quán Vô
Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa hết
Trọn
bộ
[1] Do chánh kinh thường ghi là “thử Bồ Tát thân trưởng bát thập vạn ức na-do-tha do-tuần”, nên trong chú giải, pháp sư Đế Nhàn đă viết: “Lời Sao như sau: ‘Tám mươi vạn ức phải là mười tám vạn ức. Nay nói tám mươi tức là vượt trỗi thân Phật, nên biết là sai’. Hỏi: Phật Thích Ca cao một trượng sáu, thân người đời tám thước, thân vị Phật kia (A Di Đà Phật) là sáu mươi vạn ức, Quán Âm cao mười tám vạn ức, sao lại quá thấp? Đáp: Thắng Ứng Thân trong cơi Tịnh Độ chẳng thể so sánh theo uế độ được, há chẳng thấy thân của ngài Diệu Âm trong kinh Pháp Hoa ư? Ngài Diệu Âm chỉ cao bốn vạn hai ngàn, mà thân Phật là sáu trăm tám mươi vạn, Phật cách biệt Bồ Tát nhiều chừng ấy”.
[2] Kinh nói “ngũ đạo” (năm đường) tức là không kể A Tu La, v́ trừ địa ngục ra, đường nào cũng có A Tu La, nên gộp chung A Tu La vào bốn đường nhân, thiên, quỷ, súc sanh.
[3] Vô Kiến Đảnh Tướng là tùy h́nh hảo của Nhục Kế, tất cả trời người chẳng thấy được tướng chót đỉnh của Nhục Kế, nên gọi là Vô Kiến Đảnh. Kinh Quán Phật đă nói: “Nhục Kế của đức Phật sanh ra vạn ức quang minh, mỗi quang minh lần lượt chiếu đến vô lượng thế giới ở phương trên, chư thiên, người đời, cho đến hàng Thập Địa Bồ Tát cũng chẳng thể thấy được”.
[4] Lục niệm là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên. Sớ Sao giảng: “Ba món đầu là niệm Tha, ba món sau là niệm Tự. Giới và Thí là cái nhân thuộc về Tự, sanh Thiên là quả thuộc về Tự. Giới là điều lành do ngưng dứt [những ác hạnh], Thí là hành thiện (điều lành do thực hiện những thiện nghiệp). Thiên có viễn quả và cận quả. Viễn là Đệ Nhất Nghĩa Thiên (Phật quả), [cận quả là các tầng trời trong tam giới])”.
[5] Sớ Sao giảng: “Nói ‘không cần’ là người nghĩa tŕ (tŕ theo nghĩa), không thích đọc tụng. Chỉ lấy một câu hay một bài kệ trong kinh để nghiên cứu sâu xa chỉ thú. Đối với lư chẳng thể diễn nói, suy lường, tâm chẳng kinh hăi, dao động. Tâm lại an trụ nơi Trung Đạo, chẳng bị kinh động bởi Nhị Biên, thấu hiểu, thông đạt nhân quả, nên gọi là tin sâu”.
[6] Sách Sớ Sao giảng: “Duyên trong phẩm vị này so với phẩm vị trước có chỗ khác biệt, kém xa phẩm trên. Phẩm trước th́ Tam Thánh cùng vô lượng hóa Phật, tỳ-kheo, chư thiên, và cung điện cùng đến nghênh tiếp. Trong phẩm này, [chỉ có] một ngàn vị hóa Phật đến đón. Phẩm vị trước là đài kim cang, phẩm vị này là đài tử kim. Phẩm trước, Phật quang chiếu đến thân, phẩm này chỉ là ngôn ngữ tán thán. X̣e tay chính là tiếp dẫn vậy”.
[7] Sách Sớ Sao giảng: “Đệ Nhất Nghĩa rất sâu là Thật Tướng của các pháp. Ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt, được gọi là tinh tấn sâu mầu, xưng tụng tột cùng là Đệ Nhất. Chẳng thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề chính là Đạo Chủng Bồ Đề, cũng thuộc về địa vị bất thoái nơi đạo chủng. Hiện tiền thọ kư là một trong bốn loại thọ kư… Lời Sao như sau: Nói là tinh tấn sâu mầu, là do nghe các âm thanh nói Đệ Nhất Nghĩa, có thể thành tựu Lư Thú Bất Tư Nghị Quán. V́ thế, tiến nhập nhanh chóng như gió. Bất Thoái có ba loại: Một là Vị Bất Thoái, phá Kiến Tư, vĩnh viễn chẳng đánh mất địa vị siêu phàm, thuộc về Tập Chủng Tánh. Hai là Hạnh Bất Thoái, vĩnh viễn chẳng đánh mất hạnh Bồ Tát, thuộc về Tánh Chủng Tánh và Đạo Chủng Tánh. Ba là Niệm Bất Thoái, vĩnh viễn chẳng đánh mất chánh niệm Trung Đạo, thuộc về Thánh Chủng Tánh. Người thượng phẩm trung sanh đă đắc Tánh Chủng Bồ Đề trong cơi này, đến cơi kia, sau một kiếp, mới đắc hai thứ Vô Sanh và Thánh Chủng Bất Thoái. Nay kinh nói là ‘bảy ngày’, hăy nên hiểu là đắc Đạo Chủng Bất Thoái”.
[8] Quỳ thẳng (trường quỵ) là đầu gối và bắp chân đặt sát đất, thẳng lưng, thân ḿnh tạo thành chữ L so với hai bắp chân (tức là quỳ thẳng lưng, mông không đặt trên hai gót chân như cách quỳ thông thường). Cách quỳ này thể hiện ư nghĩa tột bậc cung kính.
[9] Lục Thông là Thiên Nhăn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm, Thần Túc, Túc Mạng và Lậu Tận. Tam Minh là Thiên Nhăn Minh, Túc Mạng Minh và Lậu Tận Minh. Minh là nói thần thông đạt đến mức độ thấu triệt, rốt ráo, tức là ba thứ thần thông của hàng La Hán trở lên. Gọi là Minh nhằm nhấn mạnh thần thông thành tựu do tu chứng, do tâm thanh tịnh, chứ không phải là báo đắc (do quả báo mà có thần thông, như hàng quỷ thần). Bát Giải Thoát (Astau Vimoksāh) là do công năng của tám thứ Định mà xả trừ tham dục đối với các món sắc và vô sắc, bao gồm: Nội hữu sắc tưởng quán chư sắc giải thoát, nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát, tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ, Không Vô Biên Xứ giải thoát, Thức Xứ giải thoát, Vô Sở Hữu Xứ giải thoát, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ giải thoát, Diệt Thọ Tưởng Định Thân Tác Chứng Cụ Túc Trụ.
[10] Đây là bài quốc ca của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), lời ca do Tôn Văn và các bạn hữu viết (thật ra là do các ông Hồ Hán Dân, Đới Quư Đào, Liêu Trọng Khải, Thiều Nguyên Xung chấp bút), Tŕnh Mậu Duân phổ nhạc. Bài này cũng là đảng ca của Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Bài này được chọn làm Quốc Ca chính thức từ năm 1928. Lời ca khá ngắn: “Tam dân chủ nghĩa, ngô đảng sở tông, dĩ kiến dân quốc, dĩ tiến đại đồng, tư nhĩ đa sĩ, vị dân tiền phong, túc dạ phỉ giải, chủ nghĩa thị tùng, thỉ cần, thỉ dũng, tất tín, tất trung, nhất tâm, nhất đức, quán triệt thỉ chung” (tạm dịch: “Tam Dân chủ nghĩa, đảng ta đề cao, tạo lập dân quốc, tiến tới đại đồng, hỡi các đồng chí, v́ dân tiên phong, đêm ngày chẳng nghỉ, noi theo chủ nghĩa, siêng năng, dũng mănh, tận hết tín, trung, một ḷng, một đức, quán triệt vẹn toàn”). Tam Dân Chủ Nghĩa là chủ thuyết và cương lănh do Tôn Văn đề xướng bao gồm Dân Tộc, Dân Quyền và Dân Sinh. Chủ thuyết này được ghi thành điều thứ nhất trong hiến pháp của Trung Hoa Dân Quốc.
[11] Nguyên văn là “bại bản Như Lai” (稗販如來). “Bại bản” có nghĩa là mua rẻ bán đắt ḥng kiếm lợi.
[12] Tương Lư (襄理) là một chức vụ trong hệ thống xí nghiệp của Đài Loan, có thể hiểu gần giống như phó giám đốc, thường là trợ tá của Kinh Lư. Hệ thống quản trị ngân hàng hoặc đại xí nghiệp của Đài Loan theo quy cách sau đây, cao nhất là Đổng Sự Trưởng (Tổng Giám Đốc), rồi đến Chấp Hành Trưởng (CEO), Tổng Kinh Lư (General Manager), Phó Tổng Kinh Lư, Hiệp Lư (Director), Kinh Lư (Manager), Phó Kinh Lư hoặc Tương Lư (Assistant Manager), rồi đến Khóa Trưởng (Khoa Trưởng, leader, Tech lead). Như vậy th́ tùy theo quy mô của công ty mà Khoa Trưởng có thể là nhân viên quản lư một bộ phận, hoặc nhiều khi chỉ là tổ trưởng hoặc nhóm trưởng. Tương Lư là phó giám đốc điều hành nhiều bộ phận, hoặc chỉ đơn giản là trợ lư của giám đốc.
[13] Duy Na (維那) theo nghĩa gốc là một từ ngữ
kết hợp tiếng Hán và Phạn. Duy là Cương Duy (綱維), có nghĩa là thống lănh, duy tŕ,
giữ vững giềng mối. Chữ Na phát xuất
từ chữ Yết Ma Đà Na (Karmadana), dịch nghĩa
là Chấp Sự. Theo quy chế cổ, Duy Na là một trong
ba chức vụ được coi là trọng yếu
nhất trong một tự viện (Tam Cương). Vị
này có trách nhiệm huấn luyện, kiểm tra, răn
nhắc, thậm chí quở phạt những tăng sĩ
nào không giữ đúng oai nghi, đồng thời c̣n kiêm
nhiệm cả chức vụ giám sát các chấp sự khác.
Vị này c̣n sắp xếp việc tu hành, nghi lễ,
cũng như khóa tụng trong tự viện. Vị này
phải là người thông hiểu lễ nghi, đức
độ, oai nghi đáng làm gương
mẫu khiến cho đại chúng nể phục. Dần
dần về sau, ư nghĩa này bị mất đi, Duy Na
chỉ c̣n là người có giọng tốt, vững
nhịp, giữ vai tṛ bắt giọng, dẫn lễ trong
các khóa tụng hoặc pháp hội. Riêng đối với
người Việt, Duy Na chỉ c̣n là người giữ
chuông trong một khóa lễ!
[14] Sách Sớ Sao giảng: “Vật được ăn trộm chẳng ngoài bốn
thứ thường trụ:
1) Một là thường
trụ thường vật, ư nói nhà kho của tăng chúng,
các vật dụng, hoa quả, cây cối, vườn
rừng, người làm công, những con vật được
nuôi trong nhà chùa v.v… Do bản thể của những thứ
ấy thông khắp mười phương, nên chẳng
thể chia chác để sử dụng [riêng tư]
được.
2) Hai là thập phương
thường trụ, như các thức ăn thông
thường cúng dường cho tăng chúng, tuy bản tánh
thông khắp mười phương, chỉ hạn
cuộc nơi người đang ở đó.
3) Ba là hiện
tiền hiện tiền, tức là vật mà tăng
chúng [đang thường trụ trong ngôi chùa ấy] có
được.
4) Bốn là thập
phương hiện tiền. Nếu làm mất vật
chẳng đáng giá của tăng chúng, mà chẳng
yết-ma [phát lộ tội lỗi], sẽ đắc
tội với mười phương tăng chúng. Kẻ
đă yết-ma, chỉ đắc tội với tăng
chúng hiện tiền, thuộc về loại thứ ba là
hiện tiền.
Hai loại trộm cắp đầu được gọi là ‘trộm cắp Tăng Kỳ vật’. Hai loại trộm cắp sau, được gọi là [ăn trộm] của hiện tiền tăng vật”.
[15] Từ ngữ “tử tôn miếu” có ư nghĩa châm biếm: Chùa chỉ dành riêng cho con cháu của chính ḿnh. Tức là chỉ có đồ tử và đồ tôn của vị trụ tŕ hoặc vị thầy khai sơn là được ở đó, được hưởng quyền lợi tại đó.
[16] Phần Sao trong sách Quán Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa ghi: “Một chữ Quán là tâm quán diệu tông. Cực Lạc Tam Thánh là Thể trọn vẹn của Thật Tướng. Đây là từ Thể và Tông mà đặt tên. Trừ sạch nghiệp chướng, cho đến tột cùng là tiêu trừ tội Ngũ Nghịch. Từ ngữ Sanh Chư Phật Tiền bao gồm cả chín phẩm. Danh xưng này nói theo Dụng. Gộp cả ba nghĩa ấy để giải thích tên kinh”.
[17] Hàng Châu Nam Lộ là một con đường thuộc khu Trung Chánh của thành phố Đài Bắc.