Lược giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo

Phần 5

占察善惡業報經

隋天竺沙門菩提登譯

夢參老和尚講

(giảng lần thứ ba năm 2009)

Hán dịch: Thiên Trúc sa-môn Bồ Đề Đăng dịch vào đời Tùy

Chủ giảng: Lăo ḥa thượng Mộng Tham

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

(theo phiên bản đăng tải trên trang nhà Hoằng Thiện Phật giáo -https://www.liaotuo.com)

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

Tập 13

 

          (Kinh) Thường ưng như thị thủ kư nội tâm, tri duy vọng niệm, vô thật cảnh giới, vật linh hưu phế. Thị danh tu học Duy Tâm Thức Quán. Nhược tâm vô kư, bất tri tự tâm niệm giả, tức vị hữu tiền cảnh giới, bất danh Duy Tâm Thức Quán. Hựu thủ kư nội tâm giả, tắc tri tham tưởng, sân tưởng, cập ngu si, tà kiến tưởng, tri thiện, tri bất thiện, tri vô kư, tri tâm lao lự chủng chủng chư khổ.

          ()常應如是守記內心。知唯妄念。無實境界。勿令休廢。是名修學唯心識觀。若心無記。不知自心念者。即謂有前境界。不名唯心識觀。又守記內心者。則知貪想瞋想及愚痴邪見想。知善。知不善。知無記。知心勞慮種種諸苦。

          (Kinh: Hăy thường nên ghi nhớ nội tâm như thế, biết nó chỉ là vọng niệm, chẳng phải là cảnh giới thật sự, đừng để thôi bỏ. Đó gọi là tu học Duy Tâm Thức Quán. Nếu tâm vô kư (chẳng thiện, chẳng ác), chẳng biết tâm niệm của chính ḿnh, bèn cho là có tiền cảnh giới (cảnh giới đối trước sáu căn) th́ chẳng gọi là Duy Tâm Thức Quán. Lại nữa, nhớ kỹ nội tâm, bèn biết tham tưởng, sân tưởng, và ngu si tà kiến tưởng, biết thiện, biết bất thiện, biết vô kư, biết các thứ khổ do tâm nhọc nhằn suy nghĩ).

 

          Trong lúc chúng ta tu tập, phải nên biết cái tâm của chúng ta. Trước hết, phải biết tâm tướng: Tâm đang tư duy điều ǵ, tâm đang tưởng nhớ điều ǵ, làm thế nào để trừ bỏ tham, sân, si trong tâm? Làm thế nào để chuyển biến chúng? Đó chính là tu Duy Tâm Thức Quán. Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị phải biết cái tâm, nhận thức cái tâm của chính ḿnh. Đối với tất cả hết thảy các tướng cảnh giới bên ngoài, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư của chúng ta đối trước Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp đều là tướng cảnh giới (“tiền cảnh giới”). Các tướng cảnh giới ấy “ly tâm vô tướng”, [tức là] ĺa khỏi cái tâm của quư vị, sẽ chẳng có tướng cảnh giới. Quư vị nhận biết nó, tất cả các tướng cảnh giới đều là tâm của quư vị. Rời khỏi cái tâm th́ tướng cảnh giới bên ngoài cũng chẳng c̣n. V́ chúng ta bị xoay chuyển theo tướng cảnh giới, cái tâm hướng ra ngoài rong ruổi, nắm níu, thuận theo ư niệm mà cảm nhận, dấy lên sự hay biết, nhưng chúng ta muốn ngưng dứt cái tâm, chẳng cho nó dấy lên, chẳng thể nào được! Điều chúng ta có thể làm được là khi cái tâm của quư vị cảm nhận chẳng đúng, nhận biết niệm trước vừa dấy lên điều ác, liền ngưng dứt niệm kế tiếp, chẳng cho nó dấy lên, chẳng cho nó (ư niệm ác ấy) tiếp nối. Quư vị vừa phát giác [tâm ḿnh] dấy lên ư niệm không đúng, liền lập tức ngăn dứt, chẳng cho nó tiếp tục. V́ tâm tưởng và sự tư duy trong tâm của chúng ta trong suốt một ngày tương ứng với thiện pháp th́ ít, mà tương ứng với ác pháp thuộc vào tướng cảnh giới nơi sáu trần th́ nhiều. Do vậy, hễ quư vị nhận biết ư niệm tham, sân, si vừa dấy lên, hăy ngay lập tức cắt đứt nó.

          Đoạn kinh văn này dạy chúng ta, có thể nhận biết niệm trước khởi ác, bèn ngưng dứt, chẳng cho niệm sau dấy lên. Công lực như thế đă rất mạnh mẽ, khiến cho nó chẳng thể tiếp nối. Nay chúng ta chưa tu đến mức khởi tâm động niệm đều là thiện niệm, vẫn chưa thể làm được như thế; nhưng điều quư vị có thể làm được là chúng ta nhận biết trong tâm dấy lên ư niệm chẳng đúng, chẳng nghĩ ngợi chi nữa, ngay lập tức chế ngự, chấm dứt nó. V́ những ǵ cái tâm chúng ta suy tưởng đều là nghiệp bất thiện, do hiện thời bọn chúng sanh chúng ta chẳng tu tâm, công phu tu tập chẳng ra hồn! Hễ quư vị biết chính ḿnh khởi tâm động niệm chẳng đúng, rời ĺa Tam Bảo, rời ĺa pháp, quư vị có thể chấm dứt nó. Sức mạnh ấy chính là sức mạnh sanh ra sau khi nghe Phật pháp. Chúng tôi thường nói “nhận biết niệm trước khởi ác, có thể ngưng dứt chẳng cho niệm sau dấy lên, chính là Bồ Tát phát tâm”. Bản thân chúng ta có cảm thấy b́nh thường chúng ta tu hành là như thế hay không? Có thể ngưng dứt chẳng cho tâm niệm dấy lên hay không? Chưa thể được! Khi ác nghiệp cảm quả, tức là có sự thật; chẳng tạo thành ác nghiệp thật sự, sẽ chẳng cảm quả! Quư vị mới vừa dấy niệm, liền ngưng dứt, sẽ chẳng thể cảm quả!

 

          (Kinh) Nhược ư tọa thời, tùy tâm sở duyên, niệm niệm quán tri, duy tâm sanh diệt. Thí như thủy lưu, đăng diệm, vô tạm thời trụ. Tùng thị đương đắc Sắc Tịch tam-muội.

          ()若於坐時隨心所緣。念念觀知。唯心生滅。譬如水流燈焰。無暫時住。從是當得色寂三昧。

          (Kinh: Nếu lúc ngồi (tĩnh tọa), tùy theo cái tâm duyên [vào đâu], trong mỗi niệm đều quán biết chỉ có cái tâm sanh diệt. Ví như gịng nước, ánh lửa nơi đèn, chẳng có lúc nào tạm ngưng trụ. Từ đó, sẽ đắc Sắc Tịch tam-muội).

          Khi chúng ta tu tập tĩnh tọa, khi tu hành, tâm quư vị mong tu Định, mong ngồi xuống để định, nhưng quư vị quán chiếu cái tâm của chính ḿnh chẳng định được, bèn thuận theo các tướng cảnh giới mà cái tâm đang nghĩ tưởng, bất luận tướng cảnh giới nào, cho đến cái tâm duyên theo điều thiện cũng thế, mà duyên theo ác niệm cũng thế, [những ư niệm ấy] đều từ trong tâm dấy lên, thuộc về pháp sanh diệt. Nếu trong khi tĩnh tọa, bất luận tâm duyên vào đâu, trong mỗi niệm, đều thấy biết [các ư niệm] đó chỉ do cái tâm sanh diệt. Khi quư vị chẳng tĩnh tọa, vọng niệm tơi bời, quư vị đâu có biết! Cho đến khi quư vị mong lắng ḷng, toan dụng công, khi đó, quư vị dấy lên sự quán chiếu để quán chiếu ư niệm trong cái tâm của chính ḿnh toàn là pháp sanh diệt, giống như gịng nước [liên tục chảy], hay ánh lửa nơi ngọn đèn [liên tục cháy sáng]. Có thể trụ trong vô niệm hay chăng? Nếu có thể tạm thời khiến cho cái tâm tĩnh định, tâm tĩnh lặng chẳng sanh ư niệm, nếu có thể đạt được công phu như thế, quư vị sẽ đạt được Sắc Tịch tam-muội.

          Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta Sắc Tịch tam-muội là trong hết thảy mọi chỗ, hết thảy mọi lúc, trong khi quư vị tu hành, khi tu Quán lực, nói thông thường là khi tu nhập Định, ngay trong lúc quư vị đi, đứng, ngồi, nằm, khi đi lại, hoặc là khi chẳng nằm, chỉ ngồi, trong bốn loại hành động đi, đứng, ngồi, nằm, quư vị đều có thể tu Quán, đều có thể nhập tịch định, nhưng lúc ngồi là tốt nhất, sức quán chiếu mạnh mẽ! Khi nằm, sẽ dần dần rơi vào trạng thái ngủ thiếp đi. Khi đi lại, cái tâm dễ bị tản mạn. Ngồi xuống, chính ḿnh quán chiếu cái tâm, quán chiếu cái tâm của chính ḿnh sanh khởi như thế nào? Do ư niệm nương theo cảnh giới. Tâm vốn vô sanh, do cảnh mà có. Tâm niệm của quư vị vốn là vô sanh, do v́ cảnh giới [mà có ư niệm sanh khởi]. Cảnh giới trong tâm là do nghĩ tới cảnh giới trong quá khứ, hay nghĩ tưởng cảnh giới trong vị lai. “Tâm vốn vô sanh, do cảnh mà có”: Tâm niệm của quư vị vốn chẳng có, do quư vị nghĩ tưởng, cảnh giới bèn có. Khi đó, quư vị có thể khiến cho cái tâm tĩnh lặng, trong tâm chẳng có ư niệm ǵ, đă chẳng nghĩ ngợi quá khứ, mà cũng chẳng nghĩ tới hiện tại, lại càng chẳng mơ tưởng vị lai. Đối với một niệm bất giác, do trong mỗi niệm, niệm nào cũng đều cảm nhận đă định, [cho nên] chẳng có niệm nào là bất giác, chẳng sanh khởi cái tâm bất giác.

          Đồng thời, khi ấy bèn tư duy, khi tĩnh tọa bèn quán tưởng, quán điều ǵ vậy? Quán hết thảy các thứ có h́nh tướng đều do tâm thức biến ra. Khi đó, quán hết thảy các sắc đều chỉ là tâm, chỉ có sự sanh diệt của cái tâm. Nói theo các giáo nghĩa Đại Thừa khác, “tâm sanh th́ các pháp sanh, tâm diệt th́ các pháp diệt”. Hết thảy các pháp sanh khởi cũng thế, mà khi diệt cũng thế, toàn là tâm niệm của quư vị. Quán có nghĩa là Chiếu. Quư vị tĩnh tọa nhằm mong tu hành. Tu hành là sử dụng trí huệ của quư vị, tức là dùng tâm niệm để quán chiếu, quán chiếu sao cho hết thảy các động tác (các ư niệm vận hành trong tâm) hoàn toàn ngưng lặng, chẳng tưởng nữa. Quán chiếu khiến cho cái tâm chẳng khởi niệm, tĩnh lặng. Niệm nào cũng quán chiếu cái tâm này, [sẽ thấy cái tâm này] toàn là một niệm này dấy lên, một niệm kia diệt mất. Quán sự sanh diệt trong cái tâm của quư vị để cắt đứt nó. Dùng sự quán niệm để cắt đứt [các ư niệm khởi lên hay diệt mất], chẳng c̣n niệm nữa. Đấy chính là như Thiền Tông thường nói “đả đắc vọng tưởng tử, hứa nhữ Pháp Thân hoạt” (đánh chết vọng tưởng để Pháp Thân được sống). Ư niệm đă tĩnh, ư niệm đă tịch tĩnh, quư vị bèn ngộ “niệm vốn là tịch tĩnh”. Khi đă có thể định như vậy, thời gian định càng dài càng hay, chẳng khởi tâm động niệm nữa. Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị sẽ đạt được Sắc Tịch tam-muội; đạt được ở mức độ ban đầu, quư vị có thể tu dần dần.

 

          (Kinh) Đắc thử tam-muội dĩ, thứ ưng học tập tín Xa-ma-tha quán tâm, cập tín Tỳ-bà-xá-na quán tâm.

          ()得此三昧已。次應學習信奢摩他觀心。及信毗婆舍那觀心。

          (Kinh: Đă đắc môn tam-muội ấy rồi, kế đó, hăy nên học tập tín tâm đối với môn quán tâm bằng Xa-ma-tha và tín tâm đối với môn quán tâm bằng Tỳ-bà-xá-na).

 

          Sau khi đă đắc môn tam-muội ấy, hăy nên học tập, tin tưởng môn quán tâm bằng Xa-ma-tha. Chúng ta thường hỏi:Có tín tâm hay không?” Chẳng có tín tâm! Đây là dạy chúng ta hăy tu tập tín tâm. Khi quư vị đă có thể định, quư vị mới quán, quán cái tâm có thể dần dần lặng dứt. Đấy là khi Quán bèn có Chỉ, khi Chỉ bèn có Quán; được gọi là “Chỉ Quán song vận” (止觀雙運, vận dụng cả Chỉ lẫn Quán). Chúng ta nói “Định Huệ song tu” chính là hàm nghĩa này. Tu tập tin tưởng pháp quán tâm bằng Xa-ma-tha, đồng thời cũng tin tưởng pháp quán tâm bằng Tỳ-bà-xá-na. Điều này có nghĩa là cùng vận dụng Định và Huệ. Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy chúng ta khi tu Xa-ma-tha tức Chỉ và tu Tỳ-bà-xá-na tức Quán, tức là khi tu Chỉ Quán, th́ trong khi đó, chúng ta tu tập ǵ vậy? Tín tâm! Chúng ta thường cho rằng đối với Tam Bảo, chính ḿnh đă sanh khởi tín lực, đă có sức mạnh sanh khởi tín tâm rồi. Thật ra, tín lực vẫn chưa có, tín vẫn chưa “nhập vị” (chưa đạt đến mức, hoặc chưa dự vào địa vị tối thiểu là Sơ Tín). Tín c̣n chưa nhập vị, làm sao có thể sanh ra sức mạnh cho được? Do đó, phải tu tập.

 

          (Kinh) Tập tín Xa-ma-tha quán tâm giả, tư duy nội tâm bất khả kiến tướng, viên măn bất động, vô lai, vô khứ, bổn tánh bất sanh, bất diệt, ly phân biệt cố.

          ()習信奢摩他觀心者。思惟內心不可見相。圓滿不動。無來無去。本性不生不滅。離分別故。

          (Kinh: Tu tập tín tâm đối với môn quán tâm bằng Xa-ma-tha là tư duy nội tâm chẳng thể thấy tướng, viên măn bất động, chẳng đến, chẳng đi, bổn tánh bất sanh, bất diệt, do ĺa phân biệt).

 

          “Tập tín Xa-ma-tha quán tâm” là tư duy nội tâm chẳng thể thấy tướng, viên măn bất động, chẳng đến, chẳng đi. Cái tánh sẵn có, cái Thể sẵn có vốn bất sanh, bất diệt, do ĺa phân biệt. Đó là bước đầu để chúng ta tu tập Duy Tâm Thức Quán, liễu đạt hết thảy ngoại cảnh đều chẳng có, chỉ do tâm thức hiện, chỉ có nội tâm, chẳng có ngoại cảnh. Chúng ta quan sát tướng của nội tâm là như thế nào? Mọi người hăy quán tướng của nội tâm có h́nh dạng ǵ vậy? Trọn chẳng thể được! Chẳng thể thấy tướng, chẳng thể thấy tướng của nội tâm được. Khi quư vị tu hành, mới cảm nhận hết thảy đều là “nhân duyên sở sanh pháp, ngă thuyết tức thị Không” (pháp sanh bởi nhân duyên, ta nói chính là Không). Chúng tôi thường nói tu Không Quán chẳng dễ dàng như thế đó. Ở đây có một đoạn kinh văn rất dài, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta cách tu Không Quán. Tu Không Quán chỉ là khởi đầu, phải nên có tín lực như thế, tín tâm sẽ sanh ra sức mạnh. Đă có tín lực, quư vị suy tưởng “chẳng thấy tự tâm của chính ḿnh, chẳng thể thấy tướng của nó được”, nhưng nó là viên măn, chẳng có khiếm khuyết. Đấy là bổn tâm. Chân tâm của chúng ta và chân tâm của Phật vốn chẳng hai, chẳng khác, viên măn, bất động, cũng chẳng có tướng đến đi, cũng chẳng có tướng sanh diệt, mà cũng chẳng có tướng phân biệt. Chúng ta có tin hay không? Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy chúng ta tu hành Tín, tức là tin vào cái tâm này. Kinh thường nói có tín tâm hay không? Chẳng có đạo hữu nào trả lời “tôi chẳng có tín tâm”, chẳng hề có! Chẳng có tín tâm th́ làm sao có thể nhập Tam Bảo cho được? Có tín tâm! Trên thực tế là chưa “nhập vị”, ḷng tin của chúng ta là “mao đạo” (毛道), [tức là giống như một sợi lông], gió vừa thổi liền bay tuốt. Ḷng tin bất định, giống như sợi lông, chẳng thể chịu nổi gió thổi. Hễ bị thổi bèn bay mất! Trước hết, phải tu tập tín Định, tín Huệ, quán cái tâm của quư vị.

 

          (Kinh) Tập tín Tỳ-bà-xá-na quán tâm giả, tưởng kiến nội ngoại sắc, tùy tâm sanh, tùy tâm diệt, năi chí tập tưởng kiến Phật sắc thân, diệc phục như thị, tùy tâm sanh, tùy tâm diệt, như huyễn, như hóa, như thủy trung nguyệt, như kính trung tượng, phi tâm, bất ly tâm, phi lai, phi bất lai, phi khứ, phi bất khứ, phi sanh, phi bất sanh, phi tác, phi bất tác.

          ()習信毗婆舍那觀心者。想見內外色。隨心生。隨心滅。乃至習想見佛色身。亦復如是。隨心生。隨心滅。如幻如化。如水中月。如鏡中像。非心不離心。非來非不來。非去非不去。非生非不生。非作非不作。

          (Kinh: Tu tập tín tâm đối với môn quán tâm bằng Tỳ-bà-xá-na là tưởng thấy sắc trong ngoài, tùy theo tâm mà sanh, tùy thuộc tâm mà diệt, cho đến tu tập, tưởng thấy sắc thân của Phật cũng giống như thế, tùy theo tâm mà sanh, tùy theo tâm mà diệt, như huyễn, như hóa, như trăng trong nước, như h́nh tượng trong gương, chẳng phải tâm, chẳng ĺa tâm, chẳng tới, chẳng không tới, chẳng đi, chẳng không đi, chẳng phải sanh, chẳng phải không sanh, chẳng phải làm, chẳng phải không làm).

 

          “Tập tín Tỳ-bà-xá-na quán tâm”: Tưởng thấy nội ngoại sắc. Đối với “thấy nội ngoại sắc” th́ tướng của nội sắc là ǵ? Tướng của ngoại sắc là ǵ? Thuận theo tâm sanh, thuận theo tâm diệt. Tướng ấy chẳng thể được! Do tâm khởi, nó bèn sanh khởi. Tâm diệt, nó cũng chẳng c̣n! Vẫn phải tu tập, tưởng thấy sắc thân của Phật: Sắc thân của Phật và sắc thân của chúng sanh giống nhau, cũng là tùy thuộc vào cái tâm mà sanh khởi, thuận theo cái tâm mà tiêu mất. Tùy tâm sanh khởi, tùy tâm diệt hoại. Như chúng ta quán sắc tướng của Phật, quán ba mươi hai tướng [đại nhân] và tám mươi thứ hảo của Phật, chúng cũng là tùy sanh, tùy diệt y hệt như vậy: “Tâm sanh, tướng sanh; tâm diệt, tướng diệt”, đều là huyễn hóa! Bóng trăng trong nước thoạt nh́n th́ dường như có, chẳng vớt lấy được. Trên thực tế, nó chẳng có. H́nh tướng trong gương có hay không? H́nh tướng trong gương có phải là thật hay chăng? Ai nấy đều biết nó chẳng phải là thật. Hết thảy các pháp đều là như thế: Thuận theo cái tâm quư vị sanh mà pháp sanh. Thuận theo cái tâm quư vị diệt mà pháp diệt, đều là huyễn hóa, chẳng phải là chân thật. Cho nên giống như bóng trăng trong nước, giống h́nh tướng trong gương, soi vào gương bèn hiện tướng, chẳng phải tâm, chẳng rời tâm, chẳng đến, chẳng không đến, chẳng đi, chẳng không đi, chẳng sanh, chẳng không sanh, chẳng làm, chẳng không làm, hết thảy các pháp đều như thế. Có hay không? Chẳng có! Là không ư? Lại chẳng phải là không! Do vậy, nêu ra nhiều thí dụ như thế, nhằm nói hết thảy các pháp chỉ là tướng cảnh giới duy tâm, là cảnh giới được duyên bởi tâm, chỉ là tâm, ngoài tâm chẳng có pháp! Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Trong khi quư vị tu hết thảy các pháp, biết hết thảy các pháp đều là Không, hết thảy các pháp là Giả. Không là tu Không Quán; Giả là tu Giả Quán. Giữa Không và Giả, có cái chẳng phải Không, chẳng phải Giả, đó gọi là Trung Quán. Nói Không và Giả là nói theo Sự. Sự đều do Lư mà khởi. Chẳng có Không, chẳng có Giả, hiển thị chẳng ra ngoài Trung. Trung Quán là Lư. Do v́ Trung Quán có thể thành Giả Quán, có thể thành Không Quán. Chẳng có Trung Quán, sẽ chẳng thành Giả, mà cũng chẳng thành Không. Lư có thể thành hết thảy các Sự, Sự có thể hiển Lư.

          Chúng ta chấp trước sắc tướng bên trong; đó gọi là Nội Sắc. Đoạn này giảng về cảnh giới duy tâm: Nội Sắc chẳng có, nó do tâm hiện. Sắc pháp là Sự, nhưng nó có thể hiển Lư. Chẳng có Sự, sẽ chẳng thể hiển Lư. Quư vị chấp trước Thọ, Tưởng, Thức, đấy chính là “Sự cũng là Lư”, nhưng lại có thể thành tựu Sự. Sự có thể hiển Lư. Đó chỉ là Sắc ở bên trong, được gọi là Nội Sắc. Vậy th́ Ngoại Sắc là ǵ? Ngoại Sắc là do thấy Nội Sắc mà sanh khởi. Nội Sắc tùy tâm sanh. Sắc tướng bên trong là “tâm sanh th́ pháp sanh; tâm diệt, sắc ấy cũng diệt”. Nội Sắc tùy tâm sanh, mà cũng tùy tâm diệt. Ngoại Sắc chẳng phải như vậy. Ngoại Sắc th́ quư vị chẳng tưởng, nó vẫn tồn tại. Đấy là do chấp trước; nó chẳng quản quư vị chấp trước hay không chấp trước. Quư vị chấp trước Thọ và Sắc, hoặc quư vị chẳng chấp trước Thọ và Sắc. Thọ trong Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức có nghĩa là “lănh nạp”. Bất luận quư vị chấp trước hay không chấp trước, nó vẫn tồn tại y hệt. Đó là Ngoại Sắc. Nội Sắc thuận theo cái tâm mà sanh diệt. Ngoại Sắc th́ tâm quư vị sanh, nó cũng tồn tại; tâm diệt, nó vẫn tồn tại!         

          Nếu chúng ta mong thấy tướng sanh diệt của Ngoại Sắc, kinh nêu ra một thí dụ. Đối với sắc thân của Phật, chúng ta quán tưởng ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo của Phật. Quư vị nói tâm ta đă diệt, [lẽ ra] chẳng có Phật tướng. [Thế nhưng], tướng nơi Phật tướng vẫn nghiễm nhiên tồn tại, nó chẳng thuận theo cái tâm sanh diệt của quư vị [mà sanh hay diệt theo]. Cho đến đối với Phật, Bồ Tát, La Hán, Thanh Văn, cho tới trời, người, A Tu La, địa ngục, quỷ, súc sanh, tất cả hết thảy sắc tướng trong mười pháp giới, tất cả tướng trạng trong mười pháp giới, do ai tạo tác? Do tạo tác mà có? Hay chẳng nhờ vào tạo tác mà vẫn có? Sắc tướng của mười pháp giới như thế là có hay chẳng có? [Phán định nó] là hữu, là vô, là phi hữu, phi vô, đều chẳng đúng! Như thế nào mới là đúng? V́ hết thảy các pháp vô tánh, chẳng có tánh thể, là duyên khởi, tức là do nhân duyên mà sanh khởi. Vậy th́ chúng sẽ do nhân duyên tiêu mất ư? Pháp cũng chẳng tồn tại. Nó chẳng có nghĩa tạo tác, chẳng có thể tánh, là các pháp duyên khởi.

          Tâm sanh quán tưởng như vậy để quán hết thảy các pháp, đó gọi là Nhất Tâm Tam Quán. Tâm nội pháp, tâm ngoại pháp, cho đến đối với tất cả các pháp sanh khởi, Không Quán, Giả Quán, Trung Quán, Không Quán vẫn là tâm, Giả Quán vẫn là tâm, Trung Quán vẫn là tâm. Tâm sanh th́ các pháp sanh, nếu tâm diệt th́ các pháp diệt. Do vậy, gọi là Nhất Tâm Tam Quán. Chỉ chẳng rời tâm, mà Quán cũng chẳng rời tâm, duy tâm mà thôi! Trong đoạn này, đối với Tỳ-bà-xá-na cũng thế, cho đến khi tu Chỉ, tu Quán, Lô Xá Na tánh, Tỳ-bà-xá-na, Xa-ma-tha, cả hai đều là [cái tâm của chúng ta], Chỉ và Quán b́nh đẳng. Lại nữa, nói đến Quán th́ Quán chính là Chỉ, tức là “động chính là tĩnh, trong tĩnh có động, trong động có tĩnh. Khi Chỉ bèn có Quán, khi Quán bèn có Chỉ. Chỉ Quán cùng vận dụng. Đó là quán Không, quán hết thảy các pháp đều là Không, quán hết thảy các pháp là giả, nhưng chẳng ĺa khỏi nghĩa Trung Đạo, do Trung mà hiển hiện. Lư giải như vậy đó!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Nhược năng tập tín thử nhị quán tâm giả, tốc đắc thú hội Nhất Thừa chi đạo.

          ()善男子。若能習信此二觀心者。速得趣會一乘之道。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Nếu có thể tu tập tín tâm đối với hai thứ quán tâm ấy, sẽ mau chóng tiến nhập, lănh hội đạo Nhất Thừa).

 

          Đồng thời, Địa Tạng Bồ Tát c̣n giải thích thêm: Thiện nam tử! Nếu có thể tu tập tín tâm đối với hai thứ quán tâm ấy, sẽ mau chóng tiến nhập, lănh hội đạo Nhất Thừa. Phần kinh văn đang được giảng ở đây toàn nói về Tín. Địa Tạng Bồ Tát chỉ muốn cho chúng ta tin tưởng pháp nghĩa Đại Thừa, hoàn toàn chưa nói tới chuyện chứng nhập, hăy c̣n cách biệt rất xa. Chúng ta thường cho rằng chính ḿnh có tín tâm. Địa Tạng Vương Bồ Tát nói chúng ta chẳng có tín tâm. Ngài dạy như thế nào mới được coi là có tín tâm? Quư vị phải tu hành, phải tu hành trong thời gian dài cỡ nào? Người nói theo giáo nghĩa sẽ biết là một vạn kiếp. Nói thông thường, chúng ta quy y Tam Bảo, tín ngưỡng Phật pháp, chúng ta đă có tín tâm, nhưng tín tâm ấy chẳng có cội rễ, chẳng nhập vị. Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ, hễ có tín tâm, sẽ tinh tấn tu hành, chẳng lười nhác, luôn luôn niệm Tam Bảo, chẳng đánh mất chánh niệm, huệ tâm thường chiếu, không để cho ư niệm sai lầm [tăng trưởng]. Vừa cảm thấy niệm dấy lên, bèn uốn nắn nó, niệm nào cũng đều trụ nơi Tam Bảo. Do đó, Địa Tạng Bồ Tát giảng đi giảng lại vấn đề này để chúng ta tiến nhập. Tiến nhập ǵ vậy? Tín tâm.

          Thiện nam tử! Để có thể tu tập niềm tin đối với hai thứ quán tâm này, th́ phải tin tưởng hai thứ quán đạo và cảnh giới Nhất Thật. [Toàn bộ những điều Bồ Tát đă dạy] chỉ nhằm khiến cho chúng ta tin tưởng. Đă tin rồi th́ Ngài mới dạy chúng ta tiến nhập bằng cách nào, tu như thế nào! Phải tiến nhập hai thứ quán đạo th́ mới có thể tiến nhập đạo Nhất Thừa, mới có thể tiến nhập pháp Nhất Thừa.

 

          (Kinh) Đương tri như thị Duy Tâm Thức Quán, danh vi tối thượng trí huệ chi môn, sở vị năng linh kỳ tâm mănh lợi, trưởng tín giải lực, tật nhập Không nghĩa, đắc phát vô thượng đại Bồ Đề tâm cố.

          ()當知如是唯心識觀。名爲最上智慧之門。所謂能令其心猛利。長信解力。疾入空義得發無上大菩提心故。

          (Kinh: Hăy nên biết Duy Tâm Thức Quán như thế được gọi là môn trí huệ tối thượng, tức là do nó có thể khiến cho cái tâm nhạy bén, tăng trưởng sức tín giải, nhanh chóng nhập nghĩa Không, phát khởi tâm đại Bồ Đề vô thượng).

 

          Đây gọi là môn Quán ǵ vậy? Duy Tâm Thức Quán. Hăy nên biết Duy Tâm Thức Quán như thế, vạn pháp duy tâm, vạn pháp duy thức. Quư vị phải dùng sức quán chiếu để nhận biết vạn pháp duy thức là ǵ, vạn pháp duy tâm là ǵ. Đó là pháp môn trí huệ tối thượng. V́ học tập pháp môn trí huệ này, sẽ có thể khiến cho cái tâm của chúng ta bén nhạy. “Mạnh mẽ, nhạy bén” có nghĩa là giống như chúng ta làm chuyện ǵ rất mạnh mẽ, lanh lợi, chẳng sợ nguy nan. Đă có tín tâm ấy, quư vị tu hành trong Phật pháp th́ mới có thể mạnh mẽ, nhạy bén, mới có thể tăng trưởng sức tín giải của quư vị. V́ sao chúng ta tin chẳng sâu? Do quư vị không lư giải! Quư vị không lư giải, ḷng tin sẽ chẳng sâu. Cho tới khi quư vị hiểu , lư giải, tín lực tăng trưởng. Đạt tới ǵ vậy? Nhanh chóng nhập nghĩa Không. Đó chỉ là khúc nhạc dạo đầu của Không Quán, tức là tiền phương tiện của tu Không Quán. Chẳng có tiền phương tiện, quư vị tu Không Quán sẽ chẳng thành. Địa Tạng Bồ Tát lại bảo chúng ta: Đó là môn trí huệ, là môn trí huệ tối thượng. Ai ấy đều mong đắc trí huệ, nhưng chẳng có, vẫn chưa có cửa nẻo để vào! Quư vị c̣n chẳng có cửa để vào, tiến nhập trí huệ bằng cách nào đây? Những ǵ chúng ta đă học là Thế Trí Biện Thông, chẳng phải là trí huệ. Trí huệ là liễu sanh tử, chứng Niết Bàn. Chúng ta toàn là Thế Trí Biện Thông của thế gian. V́ đă có tín tâm, trí huệ đă tăng trưởng, chúng ta đă có sức, đối với pháp do đức Phật đă nói, quư vị có thể lư giải, đó gọi là “tín giải lực”. Chẳng tin th́ làm sao có thể tín giải cho được? Quư vị đạt được tín lực trước đă rồi mới có thể lư giải.

          Sự lư giải của chúng ta là tương tự. Đă có sức lư giải, do sức tín giải ấy th́ sẽ có thể lư giải, mới có thể tiến nhập Không. Nhập nghĩa Không th́ mới có thể phát khởi vô thượng đại Bồ Đề tâm. Mỗi vị đạo hữu chúng ta đều biết phát Bồ Đề tâm là căn bản. Nếu quư vị phê b́nh kẻ nào đó, nói kẻ đó chẳng phát Bồ Đề tâm, kẻ đó tuyệt đối chẳng chấp nhận. Nhưng quư vị phải thâm nhập, nghiên cứu một phen: Như thế nào th́ mới được coi là phát Bồ Đề tâm? Đạt được địa vị Thập Tín, đă có sức tín giải để chứng đắc nghĩa Không. Phát Bồ Đề tâm, Bồ Đề tâm chẳng phải là Hữu, mà là Không; từ trong Không sanh ra Hữu. Thật sự phát đại Bồ Đề tâm, trải qua phân tích, chúng ta lư giải: Đấy mới là phát đại Bồ Tát tâm, biết ngoài tâm chẳng có pháp. Tu Định, tu Huệ như thế được gọi là “Chỉ Quán viên đốn”; đó mới gọi là Viên Giáo, Đốn Giáo. Mọi người đều biết Trí Giả đại sư. Trí Giả đại sư sáng lập tứ giáo của tông Thiên Thai, tất cả bọn tăng nhân chúng ta đều thừa nhận trí huệ của Ngài. Tại gia đệ tử lẫn xuất gia đệ tử đều thừa nhận trí huệ của Trí Giả đại sư. Khi Ngài viên tịch, đệ tử hỏi Ngài: “Thưa sư phụ, nay thầy đă chứng đắc địa vị ǵ?” Ngài đáp: “Nếu ta chẳng xây chùa, hoằng pháp lợi ích chúng sanh, ta có thể đạt tới Sơ Trụ. V́ hoằng pháp lợi sanh, ta chỉ có thể đạt tới địa vị Ngũ Phẩm”, tức là địa vị thứ năm trong Tín Vị của Viên Giáo. Mọi người biết: Xét theo công lực tu tập Chỉ Quán viên đốn của Trí Giả đại sư, Ngài đạt tới địa vị Ngũ Phẩm trong Chỉ Quán viên đốn, tức là vẫn chưa đạt tới mức sáu căn thanh tịnh. Đạt tới địa vị sáu căn thanh tịnh th́ mới dự vào Sơ Trụ trong Viên Giáo. Nói cách khác, vẫn chưa dự vào địa vị Trụ. Bồ Tát đă dự vào địa vị Sơ Trụ, có thể thị hiện thân Phật tới cúng dường hết thảy chư Phật trong mười phương pháp giới. Thập Tín viên măn, dự vào địa vị Sơ Trụ của Viên Giáo, nhập Đệ Nhất Nghĩa Không. “Không” là chẳng chướng ngại, mười phương pháp giới chẳng chướng ngại. Vị Bồ Tát ấy sẽ vĩnh viễn chẳng đọa làm phàm phu, mà cũng chẳng đọa vào Nhị Thừa. Ư nghĩa này hoàn toàn phù hợp với nghĩa lư trong kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm nói như thế, sáu căn thanh tịnh, Đệ Nhất Nghĩa Không, Không th́ mới thanh tịnh. Chúng ta nói “thanh tịnh” th́ phải là đă chứng nhập nghĩa Không, chứng nhập nghĩa Không là đă thanh tịnh rốt ráo. Chúng ta hễ nghe nói đến Tín vị, cảm thấy Tín vị rất thấp. [Thật ra], Tín vị cũng rất cao, Tín vị trong Viên Giáo chẳng dễ dàng đâu nhé! Đối với Tín vị của Viên Giáo, khi quư vị viên măn Thập Tín, sẽ vĩnh viễn chẳng đọa làm phàm phu, mà cũng chẳng đọa vào Nhị Thừa. Khi đó, tiến nhập địa vị Sơ Trụ của Viên Giáo, đấy mới là “phát đại Bồ Đề tâm”. Địa vị Sơ Trụ trong Viên Giáo là Phát Tâm Trụ, cho nên gọi là “phát Bồ Đề tâm”.

 

          (Kinh) Nhược học tập Chân Như Thật Quán giả, tư duy tâm tánh vô sanh, vô diệt, bất trụ kiến, văn, giác, tri, vĩnh ly nhất thiết phân biệt chi tưởng.

          ()若學習真如實觀者。思惟心性。無生無滅。不住見聞覺知。永離一切分別之想。

          (Kinh: Nếu học tập Chân Như Thật Quán th́ hăy tư duy tâm tánh chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng trụ vào thấy, nghe, hay biết, vĩnh viễn ĺa khỏi hết thảy các ư tưởng phân biệt).

 

          Học tập Chân Như Thật Quán, quán hết thảy các pháp đều là Chân Như, đều là Thật Tướng; đó gọi là Chân Như Thật Quán. Tư duy tánh của hết thảy các pháp chính là tâm tánh vô sanh, vô diệt. Hết thảy các pháp đều chẳng sanh, chẳng diệt; tâm tánh vô sanh, vô diệt. Chẳng trụ vào “thấy, nghe, hay, biết”, vĩnh viễn chẳng có ư niệm phân biệt. Chẳng có ư tưởng phân biệt, đương nhiên là chẳng có sự thật [để phân biệt]. Đấy là chân thật tánh môn. Quán như thế nào? Chính là quán tánh chân thật, tư duy tưởng tâm tánh vô sanh, vô diệt, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng nhơ, chẳng sạch. Khi chúng ta đọc Tâm Kinh, [thấy chép] Quán Tự Tại Bồ Tát tu môn Quán ấy, Ngài chiếu kiến Ngũ Uẩn đều Không, chẳng có Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, chẳng có Nhăn Giới, cho đến chẳng có Ư Thức Giới, chẳng có vô minh, mà cũng chẳng có “hết vô minh”. Đó chính là tướng cảnh giới trong hiện thời, chẳng có hết thảy các ư tưởng phân biệt. Trong khi quư vị quán tưởng Chân Như thật tánh, chẳng trụ vào thấy, nghe, hay, biết.

 

          (Kinh) Tiệm tiệm năng quá Không Xứ, Thức Xứ, Vô Thiểu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ đẳng định cảnh giới tướng, đắc Tương Tự Không tam-muội.

          ()漸漸能過空處識處。無少處非想非非想處等定境界相得相似空三昧。

          (Kinh: Dần dần có thể vượt khỏi tướng cảnh giới của các môn Định như Không Xứ, Thức Xứ, Vô Thiểu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, đạt được Tương Tự Không tam-muội).

 

          Khi đó, dần dần có thể vượt khỏi tướng cảnh giới của các môn định Không Xứ, Thức Xứ, Vô Thiểu Xứ, và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, môn Định ấy cao lắm. Đạt được Tương Tự Không tam-muội, chẳng phải là Chân Không, mà là tương tự tam-muội, vẫn là Tương Tự Không tam-muội.

 

          (Kinh) Đắc Tương Tự Không tam-muội thời, Thức, Tưởng, Thọ, Hành thô phân biệt tướng bất hiện tại tiền. Tùng thử tu học, vi thiện tri thức đại từ bi giả thủ hộ, trưởng dưỡng. Thị cố, ly chư chướng ngại, cần tu bất phế, triển chuyển năng nhập Tâm Tịch tam-muội.

          ()得相似空三昧時。識想受行粗分別相不現在前。從此修學。爲善知識大慈悲者守護長養。是故離諸障礙。勤修不廢。展轉能入心寂三昧。

          (Kinh: Khi đạt được Tương Tự Không tam-muội, tướng thô phân biệt của Thức, Thọ, Tưởng, Hành chẳng hiện ra trước. Từ đó tu học, sẽ được bậc thiện tri thức đại từ bi thủ hộ, trưởng dưỡng. Do vậy, ĺa các chướng ngại, siêng tu chẳng bỏ, lần lượt có thể nhập Tâm Tịch tam-muội).

 

          Khi đắc Tương Tự Không tam-muội, thô tướng phân biệt của Thức, Tưởng, Thọ, Hành chẳng hiện tiền, đối với hết thảy các pháp chẳng dấy lên tướng phân biệt; nhưng đấy chỉ là thô phân biệt. Từ đó trở đi, bắt đầu tu học. Trong khi quư vị tu tập, có thể được thiện tri thức đại từ bi thủ hộ, trưởng dưỡng. “Thiện tri thức” là nói đến bậc đại Bồ Tát. Hết thảy các vị đại Bồ Tát có thể thủ hộ quư vị, khiến cho thiện căn của quư vị tăng trưởng, vun bồi, chẳng bị thoái đọa nữa. Khi đó, chướng ngại trong tu hành của quư vị sẽ ít hơn, có thể chẳng gián đoạn, dũng mănh, siêng ṛng tu tập. Khi đó, có thể nhập định, môn Định ǵ vậy? Môn Định ấy có tên là Tâm Tịch tam-muội. Trước đó là Sắc Tịch tam-muội, ở đây là Tâm Tịch tam-muội. Đạt được bằng cách nào? V́ quư vị quán tâm tánh, [nhận biết] “tâm tánh bất sanh, bất diệt” mà nhập tam-muội, nên gọi là Tâm Tịch tam-muội.

 

          (Kinh) Đắc thị tam-muội dĩ, tức phục năng nhập Nhất Hạnh tam-muội. Nhập thị Nhất Hạnh tam-muội dĩ, kiến Phật vô số, phát thâm quảng hạnh tâm, trụ kiên tín vị, sở vị ư Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na, nhị chủng quán đạo, quyết định tín giải, năng quyết định hướng.

          ()得是三昧已。即復能入一行三昧。入是一行三昧已。見佛無數。發深廣行心。住堅信位。所謂於奢摩他毗婆舍那二種觀道。決定信解。能決定向。

          (Kinh: Đă đắc môn tam-muội ấy, lại liền có thể nhập Nhất Hạnh tam-muội. Đă nhập môn Nhất Hạnh tam-muội ấy, sẽ thấy Phật vô số, phát khởi hạnh tâm sâu rộng, trụ nơi địa vị tín tâm kiên định, tức là đối với hai loại quán đạo Xa-ma-tha và Tỳ-bà-xá-na, bèn có tín giải quyết định, có thể quyết định hướng theo [Phật đạo]).

 

          Đă đắc môn tam-muội ấy (Tâm Tịch tam-muội), lại có thể tiến nhập Nhất Hạnh tam-muội. Do đă đắc Tâm Tịch tam-muội, cho nên có thể nhập Nhất Hạnh tam-muội. Đă nhập Nhất Hạnh tam-muội, sẽ có thể thấy vô số Phật. Mười phương chư Phật đều có thể thấy, phát tâm sâu rộng, trụ nơi địa vị tín tâm kiên định. Tin tưởng kiên định điều ǵ? Hai loại quán đạo Xa-ma-tha và Tỳ-bà-xá-na. Không chỉ tin, mà sau đó c̣n có thể giải; khi ấy, quyết định hướng theo Phật đạo. “Quyết định hướng” là quyết định hướng theo Phật đạo. Đó là địa vị ǵ vậy? Viên măn Thập Tín. Khi đó mới gọi là “có tín tâm”. Đấy là bậc tín tâm viên măn, đó là chứng đắc của bậc tín tâm viên măn. Tin ǵ vậy? Tin vào môn Nhất Hạnh tam-muội này. Nhất Hạnh tam-muội là do quán tâm của Xa-ma-tha và Chỉ của Tỳ-bà-xá-na; lúc ấy, có thể thấy vô số Phật, phát khởi hạnh tâm rộng lớn. Khi đó, bèn bắt đầu tu tập. Tin Tỳ-bà-xá-na Quán, tin Xa-ma-tha Chỉ, gọi là “Chỉ Quán song vận”. Đấy gọi là “Chỉ Quán viên đốn”. Sáu căn thanh tịnh: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư là sáu căn thanh tịnh, thuộc vào địa vị tín tâm kiên định. Khi đó, tín ngưỡng của quư vị chẳng lui sụt, giải lực cũng chẳng lui sụt, thành tựu địa vị kiên định. Địa vị ǵ vậy? Địa vị Sơ Trụ trong Viên Giáo. Khi đó, lại trụ trong Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo, phát khởi các địa vị thuộc vào tâm hạnh của bậc Trụ vị Nhất Thừa đại Bồ Tát trong Viên Giáo, sức tín giải trọn đủ.

 

          (Kinh) Tùy sở tu học thế gian chư Thiền tam-muội chi nghiệp, vô sở nhạo trước, năi chí biến tu nhất thiết thiện căn Bồ Đề phần pháp. Ư sanh tử trung, vô sở khiếp úy, bất nhạo Nhị Thừa.

          ()隨所修學世間諸禪三昧之業。無所樂着。乃至遍修一切善根菩提分法。於生死中無所怯畏。不樂二乘。

          (Kinh: Thuận theo các nghiệp Thiền tam-muội thế gian đă tu học chẳng ưa đắm. Cho đến tu trọn khắp hết thảy các pháp thiện căn Bồ Đề phần. Ở trong sanh tử, chẳng khiếp nhược, sợ hăi, chẳng ưa thích Nhị Thừa).

 

          Khi đó, người ấy đă tin tưởng, nhập Chân Như thật kiến. Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng gồm ba mươi địa vị. Tuy có ba mươi địa vị, tiến nhập Sơ Trụ và địa vị cuối cùng là Thập Hồi Hướng, dẫu có ba mươi địa vị [như vừa nói], thật ra, [địa vị nào trong Tam Hiền cũng] đều đă tiến nhập sáu căn thanh tịnh, tức sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư đều thanh tịnh.

 

          (Kinh) Dĩ y năng tập hướng nhị quán tâm, tối diệu xảo tiện, chúng trí sở y hành căn bản cố.

          ()以依能習向二觀心。最妙巧便。衆智所依行根本故。

          (Kinh: Do có thể nương vào, hướng đến tu tập hai môn quán tâm phương tiện thiện xảo mầu nhiệm nhất. Đó là căn bản nương vào để vận dụng các trí).

 

          Khi tu hai loại quán đạo ấy, trí huệ phương tiện thiện xảo của người ấy tăng trưởng. Hành tŕ pháp ấy (hai loại quán đạo), sẽ nương vào tương tự Bồ Đề tâm, [cái tâm ấy] tương tự chân tâm. Ba mươi địa vị ấy (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng) đều là tương tự Bồ Đề tâm. Ǵ mới là chân thật? Dự vào ngôi Sơ Địa, Bồ Tát sẽ thật sự chứng đắc Bồ Đề tâm. Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng đều gọi là địa vị tương tự. Tuy là Sơ Trụ, cho đến địa vị thứ mười trong Thập Hồi Hướng, tuy có tới ba mươi địa vị, nhưng xét theo Lư, th́ [các địa vị ấy] đều giống nhau. Bất quá, xét đại lược th́ có cạn hay sâu khác biệt. Khi ấy, hễ đă trụ trong tín tâm thành tựu viên măn, sẽ giống như đă thành Chánh Giác, nhưng chỉ là tương tự, chẳng phải là chân thật. Khi đạt lên Sơ Địa th́ là chân thật, chứng đắc một phần Pháp Thân. Khi dự vào ngôi Sơ Trụ th́ là tương tự chứng Pháp Thân, chẳng phải là thật sự chứng đắc.

 

          (Kinh) Phục thứ, tu học như thượng tín giải giả, nhân hữu nhị chủng. Hà đẳng vi nhị? Nhất giả, lợi căn. Nhị giả, độn căn. Kỳ lợi căn giả, tiên dĩ năng tri nhất thiết ngoại chư cảnh giới, duy tâm sở tác, hư cuống bất thật, như mộng, như huyễn đẳng, quyết định vô hữu nghi lự. Ấm cái khinh vi, tán loạn tâm thiểu. Như thị đẳng nhân, tức ưng học tập Chân Như Thật Quán. Kỳ độn căn giả, tiên vị năng tri nhất thiết ngoại chư cảnh giới, tất duy thị tâm, hư cuống, bất thật. Cố nhiễm trước t́nh hậu, cái chướng sổ khởi, tâm nan điều phục; ưng đương tiên học Duy Tâm Thức Quán.

          ()復次。修學如上信解者。人有二種。何等爲二。一者利根。二者鈍根。其利根者。先已能知一切外諸境界。唯心所作。虛誑不實。如夢如幻等。決定無有疑慮。陰蓋輕微。散亂心少。如是等人。即應學習真如實觀。其鈍根者。先未能知一切外諸境界。悉唯是心。虛誑不實。故染着情厚。蓋障數起。心難調伏。應當先學唯心識觀。

          (Kinh: Lại nữa, tu học tín giải như trên th́ có hai loại người. Những ǵ là hai? Một là lợi căn, hai là độn căn. Kẻ lợi căn trước hết đă có thể biết hết thảy các cảnh giới bên ngoài chỉ do tâm tạo, hư dối, chẳng thật, như mộng, như huyễn v.v… quyết định chẳng có ngờ lo, ấm cái nhẹ ít, tâm tán loạn ít. Những người như thế hăy nên học tập ngay Chân Như Thật Quán. Kẻ độn căn do trước đó đă không thể biết các cảnh giới bên ngoài đều chỉ là tâm, là hư dối, chẳng thật. V́ thế, đắm nhiễm t́nh chấp sâu dày, cái chướng nhiều lượt dấy lên, tâm khó điều phục. Trước hết, phải nên học Duy Tâm Thức Quán).

 

          Đại khái có hai loại người, hai loại nào vậy? Những ǵ là hai? Một là kẻ lợi căn, hai là kẻ độn căn. Cùng học một pháp, mà có lợi căn và độn căn. Lợi căn là t́nh huống ǵ? Kẻ lợi căn trước hết đă có thể biết hết thảy các cảnh giới bên ngoài đều chỉ do tâm hiện. Khi kẻ lợi căn tu pháp, biết hết thảy các pháp đều do các tâm sở (các tác dụng tâm lư của vọng tâm) biến hiện, hết thảy các pháp đều là hư vọng, chẳng thật, chẳng chân thật, đều do tâm hiển hiện. Kẻ đó có thể biết hết thảy các pháp hư vọng chẳng thật, chỉ do tâm tạo tác. Hết thảy các pháp là tướng cảnh giới ǵ vậy? Giống như chúng ta nằm mộng, hoặc các thứ biến đổi huyễn hóa trong tṛ xiếc. Khi đó, [tâm kẻ ấy] chẳng nghi hoặc, chẳng suy nghĩ. Đối với hết thảy các pháp, chúng ta đều có nghi ngờ, có suy nghĩ, [kinh thường nói là] có “nghi lự” (疑慮). Khi đọc kinh, đối với những lời dạy trong kinh đều ôm ḷng hoài nghi, [do những ngờ vực] ấy nhỏ bé, nên quư vị chẳng thể nhận biết. Hết thảy các pháp nếu rời ngoài cái tâm th́ sẽ chẳng có pháp, chỉ do tâm tạo tác, đều là hư vọng, chẳng thật, giống như quư vị nằm mộng, hư huyễn chẳng thật. Người vừa mới chứng đắc địa vị này, vừa viên măn tâm Thập Tín, sẽ chẳng có ngờ vực, đối với hết thảy các pháp đều chẳng ngờ vực.      

          Do Ấm Cái nhẹ ít, tâm tán loạn cũng ít. Ấm có năm loại, tức Ngũ Ấm, hay Ngũ Uẩn. [Cái là] Ngũ Cái (五蓋, năm thứ che đậy). Nói thông thường, Ngũ Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, những điều ấy được gọi là cảnh giới Ngũ Uẩn. Uẩn () là ǵ? Uẩn có nghĩa là “che lấp, chướng lấp”, [tức là những thứ] chướng lấp Chân Như Thật Tánh của quư vị. Các Hoặc nghiệp ấy che lấp quư vị. Do quư vị dấy lên rất nhiều phiền năo, các phiền năo ấy ngăn chướng chân tâm của quư vị. “Cái” là Ngũ Cái, tức các pháp tham dục cái, sân khuể cái, ngủ nghê, điệu (, lao chao), hối (, hối hận), và nghi. Các pháp ấy được gọi chung là “phiền năo”, Nghi và Cái là các danh xưng riêng của phiền năo mà thôi, đều là phiền năo. Quư vị đă phiền năo, khiến cho cái tâm của quư vị bị che đậy, trói buộc, chướng ngại, chân tâm chẳng thể hiển hiện được. Do chẳng hiển hiện được, cho nên tu hành sẽ chẳng thể đắc lực. Chẳng có món Cái nào, tu hành sẽ dễ đắc lực. Khi đó, tu tập, hướng đến hai thứ quán đạo, tu cái tâm của chính ḿnh, sẽ có thể tu tập, hướng đến hai thứ quán tâm xảo diệu nhất, có thể vận dụng phương tiện hay khéo. Đó là chỗ nương cậy của hết thảy trí huệ, có thể hành các hạnh căn bản. Đương nhiên là sức tín giải của người ấy đă viên măn, dự vào địa vị Sơ Trụ. Tuy chẳng thật sự minh tâm kiến tánh, [chỉ là] tương tự minh tâm kiến tánh, thuộc vào địa vị tương tự, nhưng người ấy đă thông hiểu.

          Lại nữa, người tu học tín giải như trên có hai loại, một loại là lợi căn, loại kia là độn căn. Người lợi căn biết hết thảy tất cả tướng cảnh giới bên ngoài đều do tâm tạo tác. Ĺa khỏi cái tâm, bên ngoài chẳng có pháp, [thường nói là] “ngoài tâm chẳng có pháp”. Hết thảy các pháp đều là tâm, ngoài pháp chẳng có tâm. Hết thảy các pháp đều là tâm, tâm sanh hết thảy các pháp, ngoài pháp chẳng có tâm. Ngay trong khi ấy, người lợi căn có thể hiểu rơ, lư giải, tín giải. Kẻ độn căn sẽ chẳng thể tín giải. Người lợi căn chẳng có nghi hoặc, Ngũ Cái và Ngũ Uẩn đều nhẹ, tâm người ấy thường chẳng tán loạn, tâm luôn ở trong Định. Định có thể sanh ra Huệ. Người lợi căn có thể tiến thêm bước nữa, tu hành Chân Như Thật Quán. V́ sao Sơ Trụ Bồ Tát tương tự thấy Chân Như? V́ vị ấy có thể bắt đầu tu Chân Như Thật Quán. Vị ấy chưa chứng đắc; tuy chẳng chứng đắc, nhưng vị ấy tin tưởng. Tín tâm của vị ấy chẳng giống niềm tin của chúng ta. Chánh tri của vị ấy do nương vào Thật Tế Lư Địa mà khởi lên niềm tin. Vị ấy biết hết thảy các pháp chỉ do tâm hiện. Hết thảy các pháp là tâm. Đấy là bậc lợi căn.

          Kẻ độn căn chẳng được như vậy. Đối với hết thảy cảnh giới bên ngoài, kẻ độn căn chẳng trọn đủ tín tâm như vậy, chẳng có ḷng tin ấy. V́ kẻ đó nhiễm đắm tập khí thế gian rất nặng, Ngũ Cái và Ngũ Chướng thường dấy lên, trong tâm chẳng khéo điều phục. Đại khái, [nói “kẻ độn căn”] tức là nói tới bọn đại chúng chúng ta. Nay chúng ta chẳng khéo điều phục cái tâm, thường dấy lên Cái, khởi Chướng, vậy th́ phải nên làm như thế nào? Hăy học Duy Tâm Thức Quán. Địa Tạng Bồ Tát lại dạy chúng ta một phương pháp: Tu học Duy Tâm Thức Quán. Nhưng để tín giải cảnh giới Nhất Thật, chúng ta phải tu hành tín lực và giải lực, tức là khi tu Duy Tâm Thức Quán đạt tới mức thật sự tiến nhập, th́ gọi là Danh Tự Vị (Danh Tự Tức Phật) trong Viên Giáo. Tin vào cảnh giới Nhất Thật, tu tín, tu giải, gọi là Danh Tự Vị trong Viên Giáo. V́ thế, chia thành độn căn và lợi căn. Lợi căn tu hành nhanh chóng hơn đôi chút, độn căn tu hành chậm trễ hơn một chút, phương pháp có sai khác đôi chút!

 

          (Kinh) Nhược nhân tuy học như thị tín giải, nhi thiện căn nghiệp bạc, vị năng tấn thú, chư ác phiền năo bất đắc tiệm phục, kỳ tâm nghi khiếp, úy đọa tam ác đạo, sanh bát nạn xứ, úy bất thường trị Phật, Bồ Tát đẳng, bất đắc cúng dường, thính thọ chánh pháp, úy Bồ Đề hạnh nan khả thành tựu. Hữu như thử nghi bố cập chủng chủng chướng ngại đẳng giả.

          ()若人雖學如是信解。而善根業薄。未能進趣。諸惡煩惱不得漸伏。其心疑怯。畏墮三惡道。生八難處。畏不常值佛菩薩等。不得供養聽受正法。畏菩提行難可成就。有如此疑怖及種種障礙等者。

          (Kinh: Nếu người tuy học tín giải như thế, nhưng nghiệp thiện căn mỏng mảnh, chưa thể tiến nhập, chẳng thể dần dần chế phục các phiền năo ác, cái tâm nghi ngờ, khiếp nhược, sợ đọa vào ba ác đạo, sanh vào chỗ tám nạn, sợ chẳng thường gặp gỡ các vị Phật, Bồ Tát, chẳng được cúng dường, nghe nhận chánh pháp, sợ Bồ Đề hạnh khó thể thành tựu. Có nỗi ngờ vực, sợ hăi, và các thứ chướng ngại như thế đó).

 

          Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy: Nếu có người tuy học tín giải, học tín, học giải như thế, tuy quư vị học tín giải, nhưng chẳng đủ thiện căn, ác nghiệp rất nhiều, thiện căn mỏng yếu. Khi cần tu đạo tiến cao hơn, tốc độ tiến bộ rất chậm, chẳng nhanh chóng như người lợi căn. Do vậy, phiền năo dấy lên, quư vị chẳng thể hàng phục được. Nay chúng ta chẳng thể hàng phục phiền năo dấy lên trong tâm, nhưng lại vẫn chẳng nhận biết phiền năo. Ngay cả phiền năo mà c̣n chẳng nhận biết, hàng phục nó bằng cách nào đây? Chẳng hạn như chúng ta cảm thấy không đúng, niệm trước dấy ác, đừng để cho niệm dấy lên nữa, phải đoạn dứt nó! Nếu có thể đoạn th́ là bậc lợi căn, nhận biết niệm trước khởi ác bèn ngưng dứt, không cho niệm sau dấy lên. Đấy là có thiện căn. Nhận biết niệm trước dấy ác mà cứ để cho nó tiếp nối, chẳng thể đoạn dứt, hoặc cảm thấy ư niệm trước vừa dấy lên không đúng, [ư niệm ấy] xa ĺa đạo liễu sanh tử, ta lập tức có thể ngưng dứt . Khá lắm! Chỉ sợ là bị chuyển theo nghiệp, thuận theo nó! Đối với những trường hợp giống như thế, hăy nên tu tập như thế nào? Hăy hàng phục dần dần, hàng phục nó từ từ! Nhưng kẻ ấy ôm ḷng nghi ngờ, khiếp đảm, “khiếp” () là chẳng dũng mănh. Đồng thời, sợ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, tức ba ác đạo, rất sợ hăi ba ác đạo. Giả sử đời này bị đọa lạc, đọa lạc trong tam ác đạo th́ lại phải nên làm như thế nào? Hoặc là sanh vào chỗ tám nạn, tức là sanh vào nơi chẳng có Phật pháp. Đời này quư vị chẳng gặp gỡ Phật pháp, chẳng gặp gỡ Phật pháp th́ tương lai sẽ khó khăn!

          Tám chướng ngại ǵ vậy? Sanh vào địa ngục đạo, đọa lạc địa ngục đạo th́ c̣n có thể tu hành hay không? Pháp cũng chẳng được nghe. Ngạ quỷ, súc sanh, Bắc Câu Lô Châu chẳng nghe Phật pháp. Trường Thọ Thiên, kẻ đui, điếc, câm ngọng học Phật pháp bằng cách nào đây? Chẳng học được! C̣n có một loại rất thông minh, Thế Trí Biện Thông, tự cho là thông minh, chẳng tin tưởng Phật pháp. C̣n có kẻ sanh trước Phật, hoặc sanh sau Phật. Đó gọi là “tám nạn”. Nay Thích Ca Mâu Ni Phật đă diệt độ, đă là sau thời Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, Phật Di Lặc c̣n chưa giáng sanh, tức là trước thời Phật Di Lặc trụ thế, chúng ta thuộc một trong tám nạn, tức “Phật tiền, Phật hậu”. Nhưng chúng ta lại có thể nghe Phật pháp, nay chúng ta có thể học tập kinh Địa Tạng. Đây là một pháp môn đặc thù, coi như chúng ta tránh khỏi một nửa nạn này, c̣n có Phật pháp để nghe. Trong t́nh huống như thế này, được gọi là thời Mạt Pháp, tâm chúng ta chẳng tinh thuần như vậy, rất khó hàng phục, nhập đạo, tu đạo, chướng ngại khá nhiều, rất khó khăn! Chúng ta không thể tin tưởng cảnh giới Nhất Thật, cái tâm tín giải chẳng thể dấy lên. Chúng ta cũng chẳng thể nhập địa vị Danh Tự của Viên Giáo, chẳng thể xưng là “viên nhân”. Người tin tưởng pháp Viên Giáo được gọi là “viên nhân”, viên nhân th́ không điều ǵ chẳng viên măn. Tri kiến của chúng ta đúng là chẳng viên, méo mó, lệch lạc. Chướng ngại chủ yếu nhất là ǵ? Thấy người khác đều chẳng đúng, luôn có cảm giác chính ḿnh khá lắm. Đấy là [chướng ngại] chủ yếu nhất. Chướng ngại chủ yếu nhất là chẳng trống ḷng, chẳng thể tôn trọng hết thảy các pháp, mà cũng chẳng thể tôn trọng hết thảy mọi người, chúng ta làm sao có thể sanh khởi giải ngộ viên măn cho nổi? Biết hết thảy các cảnh giới đều là tâm, ngoài tâm chẳng có pháp. Nếu có thể có sức tín ngưỡng ấy th́ sẽ tuyệt diệu lắm; đó gọi là “viên giải, viên văn” (hiểu viên măn, nghe viên măn). Nhiễm đắm t́nh chấp rất sâu như thế th́ lại phải nên làm như thế nào?

 

          (Kinh) Ưng ư nhất thiết thời, nhất thiết xứ, thường cần tụng niệm ngă chi danh tự.

          ()應於一切時一切處。常勤誦我之名字。

          (Kinh: Hăy nên trong hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi nơi, thường siêng năng tụng niệm danh hiệu của ta).

 

          Cuối cùng, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị học ǵ cũng đều chẳng thành, điều ǵ cũng chẳng có cách nào [thực hiện], vậy th́ tốt nhất là hăy nên niệm danh hiệu của ta là được. Hăy niệm “Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát” là được rồi! Trước hết là tiêu trừ tai nạn, sau đó sẽ tiến nhập. Cuối cùng, Ngài nói: Nếu người tuy học tín giải như thế, nghiệp thiện căn mỏng tanh, tức thiện nghiệp mỏng mảnh, chẳng thể tiến nhập, hướng tới cao hơn, các ác phiền năo chẳng thể tiêu mất dần dần, chẳng thể hàng phục [các phiền năo ấy], tâm hoài nghi rất nặng. Ôi chao! Phật đạo dài lâu, vừa thấy “hễ nhập vào tín tâm ấy th́ sẽ tốn thời gian tu tập dài ngần ấy, liền ngă ḷng, khiếp đảm, lại c̣n sợ hăi, sợ đọa vào ba đường ác, lại sợ đọa trong tám nạn, nói Bồ Đề đạo dài xa, chẳng thể thành tựu được! Có đủ loại kinh sợ, đủ loại chướng ngại như thế đó, đối với hạng người như thế ấy, phải làm như thế nào? Hăy nên trong hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi chỗ, thường siêng năng tụng niệm danh hiệu của ta. Chẳng có cách nào khác! Đấy là Địa Tạng Bồ Tát đưa ra một pháp môn phương tiện, tu ǵ cũng chẳng thể tiến nhập, được thôi! Quư vị hăy niệm danh hiệu của ta! Vẫn chẳng thể niệm nổi ư? Hăy nên trong hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi chỗ, thường siêng năng tụng niệm danh tự của ta, chỉ cần chẳng gián đoạn. Niệm danh hiệu của Ngài lâu ngày, Địa Tạng Vương Bồ Tát gia tŕ quư vị, sẽ khiến cho quư vị tâm chẳng tán loạn, có thể đắc định. Định được cái tâm trước đă rồi mới nói đến bước thứ hai!

 

          (Kinh) Nhược đắc nhất tâm, thiện căn tăng trưởng, kỳ ư mănh lợi, đương quán ngă Pháp Thân, cập nhất thiết chư Phật Pháp Thân, dữ kỷ tự thân, thể tánh b́nh đẳng, vô nhị, vô biệt, bất sanh, bất diệt, thường, lạc, ngă, tịnh, công đức viên măn, thị khả quy y.

          ()若得一心。善根增長。其意猛利。當觀我法身及一切諸佛法身。與己自身。體性平等。無二無別。不生不滅。常樂我淨。功德圓滿。是可歸依。

          (Kinh: Nếu đắc nhất tâm, thiện căn tăng trưởng, tâm ư mạnh mẽ, nhạy bén, hăy nên quán Pháp Thân của ta và Pháp Thân của hết thảy chư Phật, cùng với thân của chính ḿnh thể tánh b́nh đẳng, chẳng hai, chẳng khác, bất sanh, bất diệt, thường, lạc, ngă, tịnh, công đức viên măn, đáng để quy y).

 

          Khi ấy, nếu đắc nhất tâm, tâm niệm đă thuần thục, niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, cậy vào sức gia tŕ của Địa Tạng Bồ Tát, cái tâm vọng tưởng của quư vị ít đi, chánh niệm nhiều hơn, thiện căn tăng trưởng, ư niệm sẽ mạnh mẽ, nhạy bén. Ư niệm đă mạnh mẽ, nhạy bén, sẽ chẳng xưng niệm suông danh hiệu của ta, mà c̣n tấn tu thêm bước nữa, sẽ quán Pháp Thân của ta. Pháp Thân của ta là Pháp Thân của hết thảy chư Phật, mà cũng chính là Pháp Thân của chính người tu hành quư vị. Pháp Thân chẳng hai, chẳng sai khác. Mười phương chư Phật và mười phương hết thảy chúng sanh có cùng một Pháp Thân. V́ thể tánh b́nh đẳng, chẳng hai, chẳng khác, bất sanh, bất diệt, thường, lạc, ngă, tịnh, công đức viên măn, đáng để quy y. Mọi người đều hiểu điều này. Do vậy, thường siêng năng niệm danh hiệu của ta, sẽ có thể tiêu trừ hôn trầm, tán loạn cho quư vị. V́ quư vị niệm danh hiệu lâu ngày, sẽ tăng trưởng sức mạnh của ư căn, sẽ dần dần tương ứng với cảnh giới Nhất Thật, có thể tin tưởng, tiến nhập. Nhưng quư vị phải thường xuyên tưởng niệm, quán sát Địa Tạng Bồ Tát. Quán sát Địa Tạng Bồ Tát chính là quán sát hết thảy mười phương chư Phật, v́ tâm Địa Tạng Bồ Tát là thể tánh của Như Lai, chẳng hai, chẳng khác với mười phương chư Phật. Mười phương hết thảy chư Phật và tất cả hết thảy chúng sanh đều là một cái tâm, chẳng có hai tâm! Tâm là một, chỉ là mê hay ngộ. Mê và ngộ có sự khác biệt to lớn. Hết thảy chúng sanh là mê, mười phương chư Phật là ngộ, nhưng bổn tánh chẳng khác biệt. Mê vẫn là tánh này, mà ngộ vẫn là tánh này. Thể tánh ấy từ vô thỉ đến nay luôn bất sanh, mà cũng là bất sanh, bất diệt, vĩnh viễn thường trụ. Vĩnh viễn thường trụ th́ sẽ bất diệt. Chúng ta cũng trọn đủ, vĩnh viễn bất diệt. Đó là thường pháp, chẳng có đối đăi, chẳng có khổ thọ hay lạc thọ chi cả! Vĩnh viễn là lạc. Thể của chúng sanh và Thể của chư Phật là thường, lạc, ngă, tịnh. Khác biệt ở chỗ nào? Hai chữ! Một đằng là mê, một đằng là ngộ. V́ chúng ta mê, mê mất điều này; hễ ngộ th́ sẽ khôi phục!

 

          (Kinh) Hựu phục quán sát kỷ thân tâm tướng, vô thường, khổ, vô ngă, bất tịnh, như huyễn, như hóa, thị khả yếm ly.

          ()又復觀察己身心相。無常苦無我不凈。如幻如化。是可厭離。

          (Kinh: Lại c̣n quán sát tướng thân tâm của chính ḿnh là vô thường, khổ, vô ngă, bất tịnh, như huyễn, như hóa, đáng nên chán ĺa).

 

          Lại tiến thêm bước nữa, quán sát thân hoặc tâm của chính ḿnh, vốn chẳng có khổ hay lạc; nhưng chúng ta nay trở thành chúng sanh, do đă mê cái tâm nên khác nhau. Mê th́ có h́nh dáng như thế nào? Thường tưởng vô thường! Trong khổ nạn c̣n có lạc hay chăng? Đối với vô ngă, bất tịnh, vô thường, coi những thứ ấy sự thật. Chẳng coi những thứ khổ, không, vô thường, vô ngă ấy như huyễn, như hóa. Phải nên sanh tâm chán ĺa. Đă sanh tâm chán ĺa th́ sẽ sanh tâm mong cầu, cầu được thanh tịnh.

         

          (Kinh) Nhược năng tu học như thị Quán giả, tốc đắc tăng trưởng tịnh tín chi tâm, sở hữu chư chướng tiệm tiệm tổn giảm. Hà dĩ cố? Thử nhân danh vi học tập văn ngă danh giả, diệc năng học tập văn thập phương chư Phật danh giả, danh vi học chí tâm lễ bái, cúng dường ngă giả, diệc năng học chí tâm lễ bái, cúng dường thập phương chư Phật giả, danh vi học văn Đại Thừa thâm kinh giả, danh vi học chấp tŕ, thư tả, cúng dường, cung kính Đại Thừa thâm kinh giả, danh vi học thọ tŕ, độc tụng Đại Thừa thâm kinh giả, danh vi học viễn ly tà kiến, ư thâm chánh nghĩa trung bất đọa báng giả, danh vi ư cứu cánh thậm thâm Đệ Nhất Thật Nghĩa trung học tín giải giả, danh vi năng trừ chư tội chướng giả, danh vi đương đắc vô lượng công đức tụ giả. Thử nhân xả thân, chung bất đọa ác đạo, bát nạn chi xứ, hoàn văn chánh pháp, tập tín tu hành, diệc năng tùy nguyện văng sanh tha phương tịnh Phật quốc độ.

          ()若能修學如是觀者。速得增長淨信之心。所有諸障漸漸損減。何以故。此人名爲學習聞我名者。亦能學習聞十方諸佛名者。名爲學至心禮拜供養我者。亦能學至心禮拜供養十方諸佛者。名爲學聞大乘深經者。名爲學執持書寫供養恭敬大乘深經者。名爲學受持讀誦大乘深經者。名爲學遠離邪見。於深正義中不墮謗者。名爲於究竟甚深第一實義中學信解者。名爲能除諸罪障者。名爲當得無量功德聚者。此人捨身終不墮惡道八難之處。還聞正法。習信修行。亦能隨願往生他方淨佛國土。   

          (Kinh: Nếu có thể tu học phép Quán như thế, sẽ mau chóng tăng trưởng tâm tịnh tín, tất cả các chướng dần dần tổn giảm. V́ sao vậy? Người ấy được gọi là học tập nghe tên ta, mà cũng có thể học tập nghe danh hiệu của mười phương chư Phật, gọi là học chí tâm lễ bái, cúng dường ta, cũng có thể học chí tâm lễ bái, cúng dường mười phương chư Phật, gọi là học nghe kinh Đại Thừa sâu xa, gọi là học chấp tŕ, biên chép, cúng dường, cung kính kinh Đại Thừa sâu xa, gọi là học thọ tŕ, đọc tụng kinh Đại Thừa sâu xa, gọi là học xa ĺa tà kiến, đối với chánh nghĩa sâu xa chẳng đọa vào hủy báng, gọi là học tín giải nơi Đệ Nhất Thật Nghĩa rất sâu rốt ráo, gọi là có thể trừ các tội chướng, gọi là có thể đạt được vô lượng khối công đức. Người ấy xả thân, trọn chẳng đọa vào ác đạo và chỗ tám nạn, vẫn nghe chánh pháp, tu tín, tu hạnh, cũng có thể tùy nguyện văng sanh cơi Phật thanh tịnh ở phương khác).

 

          Nhưng tịnh pháp cũng sanh từ một niệm tâm, nhiễm pháp cũng sanh từ cái tâm của quư vị, đều là thể tánh hiện tiền của quư vị. Điều này cổ vũ, khích lệ chúng ta: Chúng ta và hết thảy chư Phật, Bồ Tát, và Địa Tạng Vương Bồ Tát, cho đến A Di Đà Phật mà chúng ta thường niệm, đều có cùng một Thể với A Di Đà Phật. Bản thể của Pháp Thân là như nhau, [chỉ là] mê hay ngộ bất đồng. Nếu chúng ta có thể bỏ mê, bỏ sạch mê, trở về ngộ là được rồi! Như thế th́ quư vị phải nên tu hành Chỉ Quán. [Đối với kẻ] nghiệp chướng nặng nề, chẳng thể tu tập được, Địa Tạng Bồ Tát có phương tiện đặc thù “niệm danh hiệu của Ngài” để tiêu trừ nghiệp chướng. Tăng trưởng tịnh tín rồi mới tu học Chỉ Quán. Niệm danh hiệu của Ngài như vậy, hết thảy chướng ngại sẽ dần dần tiêu diệt, tổn giảm!

          Nếu có người tu học như vậy th́ do nguyên nhân ǵ mà người ấy làm như thế? “Hà dĩ cố” (v́ sao vậy?) Người ấy được gọi là “học tập nghe danh hiệu của ta”. V́ người ấy cảm thấy học ǵ khác cũng đều học không nổi, vậy th́ cứ tu hành [tŕ danh] mà thôi. Nghe danh hiệu của ta, niệm danh hiệu của ta, đó gọi là “học tập nghe danh hiệu của ta”. Vỉ sao nghe danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát mà c̣n phải học tập? Hàm nghĩa ấy sâu lắm. Nếu lư giải Địa là tâm, Tạng là chứa đựng, cái bao hàm tâm của hết thảy bọn chúng sanh chúng ta là Địa Tạng. Địa Tạng chính là cái tâm của chúng sanh. Tâm địa bao hàm tánh công đức vô lậu, cùng một Thể, chẳng hai, chẳng khác với chư Phật, cùng một Thể, chẳng hai, chẳng khác với Địa Tạng. Cái được tâm địa của chúng ta bao hàm là Địa Tạng, Địa Tạng chính là cái tâm của chúng ta. Đó là giáo nghĩa Đại Thừa, nương theo giáo nghĩa Hoa Nghiêm đều nói như thế. Người ấy, tức người niệm danh hiệu của Ngài, được gọi là “học tập nghe danh hiệu của ta”. Tôi nghĩ mọi người hễ nghe “nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát” cũng đều có thể niệm. Hai loại quán đạo quư vị tu chẳng thành, hăy niệm “nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát”, chẳng nên niệm ư? Niệm lâu ngày, nghiệp chướng tiêu mất, lại tu hai thứ quán đạo, hễ học bèn tu thành tựu!

          Do v́ lẽ nào? Người ấy được gọi là học tập nghe danh hiệu của ta, cũng có thể học tập nghe danh hiệu của mười phương chư Phật. Học tập nghe danh hiệu của ta chính là nghe danh hiệu của mười phương chư Phật. Địa Tạng chính là mười phương chư Phật; mười phương chư Phật chính là Địa Tạng. Chúng ta tu hành kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, hiện thời, có rất nhiều kẻ phê b́nh chúng ta chẳng học giáo nghĩa Đại Thừa, mà học pháp Tiểu Thừa. Mọi người nghe nói [như thế], nhưng đă học [kinh này] liền biết, đây có phải là pháp Tiểu Thừa hay không? Kinh này có giáo nghĩa giống hệt như giáo nghĩa kinh Hoa Nghiêm, giống hệt giáo nghĩa kinh Pháp Hoa, b́nh đẳng; bất quá nói rất nông cạn. Thậm chí rất nông cạn dường như là đoán quẻ, hoặc bói toán. Đó đều là phương tiện thiện xảo của Địa Tạng Vương Bồ Tát, nhằm dẫn nhập chúng ta có thể đạt tới nhất tâm. Tuy là học nghe danh tự của ta, mà cũng là học tập danh hiệu của mười phương chư Phật, được gọi là “học chí tâm lễ bái, cúng dường ta”. Niệm danh hiệu của ta chính là học tập ǵ vậy? Học tập chí tâm. Học tập nghe danh hiệu của ta, niệm danh hiệu của ta th́ là cúng dường ta. Chẳng cần cúng dường nữa, cứ niệm “nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát” th́ là quy y Địa Tạng Vương Bồ Tát, nam-mô là quy y.

          Cũng có thể học chí tâm lễ bái, cúng dường mười phương chư Phật. Cúng dường, lễ bái ta chính là cúng dường mười phương chư Phật. “Danh vi học văn Đại Thừa thâm kinh giả”: Chỉ niệm danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát th́ là học kinh điển sâu xa của Đại Thừa. Lại c̣n gọi là “học chấp tŕ, biên chép, cúng dường, cung kính kinh Đại Thừa sâu xa”: Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy chúng ta, bảo chúng ta niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát. Quư vị cúng dường mười phương chư Phật, cũng là học nghe kinh điển Đại Thừa sâu xa, cũng là học chấp tŕ, biên chép, cúng dường, cung kính kinh điển Đại Thừa, gọi là học thọ tŕ, đọc tụng kinh điển Đại Thừa, gọi là học xa ĺa tà kiến, đối với chánh nghĩa rất sâu chẳng đọa vào hủy báng, được gọi là học tín giải nơi Đệ Nhất Thật Nghĩa rốt ráo rất sâu, gọi là có thể trừ các tội chướng, gọi là sẽ đạt được vô lượng khối công đức. Người ấy xả thân, tức là người niệm danh hiệu của ta, khi Báo Thân đă hết, trọn chẳng đọa vào ác đạo, hoặc chỗ tám nạn. Sau khi đă chết, chẳng đọa vào ba ác đạo, mà cũng chẳng đọa trong tám nạn. C̣n có thể nghe chánh pháp, tu tập tín tâm tu hành, cũng có thể tùy theo ư nguyện mà văng sanh các cơi Phật thanh tịnh ở phương khác. Do niệm danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát, thuận theo ư nguyện, quư vị sanh vào cơi Phật thanh tịnh nào cũng đều có thể. Không chỉ là Tây Phương Cực Lạc thế giới, mà vô lượng cơi Phật thanh tịnh trong mười phương, quư vị niệm thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ đưa quư vị tới đó, nhưng quư vị phải nhất tâm xưng danh, và cũng phải nhất tâm niệm.

          Khi xưng danh, hăy quán sát Pháp Thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Pháp Thân như nhau, đừng nên hư vọng chấp trước. Phải chán ĺa chấp trước! Nếu không, làm sao quư vị có thể nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát cho được? Tất cả các đạo hữu đang hiện diện hăy nên vui mừng, chẳng phải là dễ dàng được nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát đâu nhé! Quư vị có thể nghe thánh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát, tất cả các tai nạn đều tiêu mất. Quư vị có khó khăn ǵ, có nan đề ǵ, đừng tu các pháp môn khác, hăy niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát là được rồi! Đoạn kinh văn này dạy chúng ta như thế đó, do chính Địa Tạng Bồ Tát nói. Chẳng phải vị Phật nào nói, mà do chính Địa Tạng Bồ Tát nói. Nhưng niệm danh hiệu của ta cũng chẳng dễ dàng, vẫn phải khéo học, tức là khéo học danh hiệu Địa Tạng. Tụng danh hiệu Địa Tạng có thể ĺa hết thảy chướng duyên, tất cả toàn bộ chướng duyên đều tiêu mất.

 

          (Kinh) Phục thứ, nhược nhân dục sanh tha phương hiện tại tịnh quốc giả, ưng đương tùy bỉ thế giới Phật chi danh tự, chuyên ư tụng niệm, nhất tâm bất loạn. Như thượng quán sát giả, quyết định đắc sanh bỉ Phật tịnh quốc, thiện căn tăng trưởng, tốc hoạch bất thoái.

          ()次。若人慾生他方現在淨國者。應當隨彼世界佛之名字。專意誦。一心不亂。如上觀察者。決定得生彼佛淨國。善根增長。速獲不退。

          (Kinh: Lại nữa, nếu ai muốn sanh vào các cơi tịnh ở phương khác trong hiện tại, hăy nên thuận theo danh tự của đức Phật trong thế giới ấy, chuyên tâm tụng niệm, nhất tâm bất loạn. Quán sát như trên đây, chắc chắn được sanh vào cơi Phật thanh tịnh ấy, thiện căn tăng trưởng, mau chóng đạt được bất thoái).

 

          Lại nữa, “nhược nhân dục sanh tha phương hiện tại tịnh quốc giả” (nếu có người muốn sanh vào cơi thanh tịnh ở phương khác trong hiện tại): Có những người muốn sanh trong cơi Phật thanh tịnh khác ở mười phương trong hiện tại, vậy th́ quư vị hăy niệm danh hiệu của đức Phật trong thế giới ấy. Đó là nói tách ra: Nếu quư vị muốn sanh vào cơi Phật thanh tịnh ở phương khác, đức Phật trong thế giới ấy có thánh hiệu là ǵ, quư vị hăy chuyên tâm tụng niệm [danh hiệu của] đức Phật ấy, nhất tâm bất loạn, đức Phật được niệm ấy sẽ tiếp dẫn quư vị. Quán sát như trên, chắc chắn sẽ được sanh về cơi Phật thanh tịnh ấy, tăng trưởng thiện căn, mau đạt được bất thoái. Thiện căn tăng trưởng rất nhanh, chắc chắn chẳng bị thoái đọa.

          Địa Tạng Vương Bồ Tát sợ chúng ta lo lắng, sợ chúng ta chẳng tin nổi, tín tâm chẳng sanh khởi, lại một lần nữa bảo chúng ta chắc chắn bất thoái. Người cầu sanh Tịnh Độ, nếu muốn được sanh cơi thanh tịnh ở phương khác trong hiện tại, hoặc người có ước vọng muốn sanh về cơi Phật thanh tịnh ở phương khác trong hiện thời, tất cả các cơi Phật, Tây Phương Cực Lạc thế giới, Đông phương Dược Sư Lưu Ly Quang thế giới, thượng phương Bất Động thế giới, đều là các cơi Phật thanh tịnh. Hăy thuận theo danh tự của vị Phật trong thế giới ấy mà chuyên dốc tụng niệm, nhất tâm bất loạn, quán sát như trên, chắc chắn sẽ được sanh về cơi Phật thanh tịnh, tuyệt đối được sanh về cơi Phật thanh tịnh ấy, thiện căn tăng trưởng, mau chóng đắc bất thoái, quyết định tăng trưởng thiện căn, chắc chắn có thể văng sanh.

 

          (Kinh) Đương tri như thượng nhất tâm hệ niệm tư duy chư Phật b́nh đẳng Pháp Thân, nhất thiết thiện căn trung, kỳ nghiệp tối thắng. Sở vị cần tu tập giả, tiệm tiệm năng hướng Nhất Hạnh tam-muội. Nhược đáo Nhất Hạnh tam-muội giả, tắc thành quảng đại vi diệu hạnh tâm, danh đắc tương tự Vô Sanh Pháp Nhẫn.

          ()當知如上一心繫念思惟諸佛平等法身。一切善根中其業最勝。所謂勤修習者。漸漸能向一行三昧。若到一行三昧者。則成廣大微妙行心。名得相似無生法忍。

          (Kinh: Hăy nên biết nhất tâm hệ niệm tư duy Pháp Thân b́nh đẳng của chư Phật như trên, nghiệp ấy thù thắng nhất trong hết thảy các thiện căn. Đó gọi là siêng năng tu tập, dần dần có thể hướng tới Nhất Hạnh tam-muội. Nếu đạt tới Nhất Hạnh tam-muội, sẽ thành tựu hạnh tâm vi diệu rộng lớn, được gọi là đắc tương tự Vô Sanh Pháp Nhẫn).

 

          Hăy nên biết, nhất tâm dốc ḷng tư duy Pháp Thân b́nh đẳng của chư Phật như trên, th́ có một yêu cầu, tức là Địa Tạng Bồ Tát đ̣i hỏi chúng ta: Nếu quư vị muốn sanh về nơi nào, hăy niệm Pháp Thân b́nh đẳng của Phật. Pháp Thân ấy vốn b́nh đẳng, kẻ cầu sanh và sắc thân của đức Phật trong cơi Tịnh Độ mà ta mong sanh về cách biệt một trời một vực. Pháp Thân là b́nh đẳng, chẳng hai, chẳng khác. Trong hết thảy các hạnh nghiệp tu hành, trong sự tích lũy hết thảy các thiện căn, pháp môn Niệm Phật thù thắng nhất. Nếu quư vị cầu sanh về thế giới Cực Lạc, hăy niệm A Di Đà Phật. Có những kẻ muốn làm nghề y, mong chữa bệnh cho người khác. Vậy th́ quư vị hăy niệm Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Đó là thế giới Lưu Ly, cũng là cơi thanh tịnh, cũng thù thắng. Nhưng quư vị phải chuyên tâm, nhất tâm bất loạn, lại c̣n phải quan sát cơi Phật ấy, chắc chắn sẽ có thể sanh về.

          Chúng ta niệm kinh Địa Tạng, hoặc niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, nếu quư vị muốn sanh về thế giới Cực Lạc, hoặc nếu muốn sanh về thế giới của Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ đưa quư vị đi. Trong đoạn kinh văn trước đó có nói “thập phương tịnh Phật quốc độ”, quư vị muốn sanh về quốc độ nào, Địa Tạng Bồ Tát đều có thể đưa quư vị đến đó. V́ sao? Pháp Thân đồng thể. Pháp Thân của quư vị và Pháp Thân của chư Phật b́nh đẳng, nhưng do quư vị có phân biệt, quư vị ắt cần phải chuyên niệm, mong sanh về cơi Phật ấy. Phải niệm danh hiệu của đức Phật ấy, ngày đêm niệm, nhất tâm chẳng rời, nhất tâm bất loạn, niệm nào cũng mong sanh về. Đó gọi là “nhất tâm”. Hăy nên biết: Nhất tâm hệ niệm tư duy Pháp Thân b́nh đẳng của chư Phật như trên. Đó là bảo chúng ta, Địa Tạng Bồ Tát bảo ban chúng ta: Quư vị ắt phải đắc nhất tâm, chú trọng nơi nhất tâm hệ niệm. Trong mỗi niệm, quư vị lại tam tâm, nhị ư, tâm chẳng niệm, miệng th́ niệm A Di Đà Phật, nhưng tâm nghĩ tưởng thế giới Sa Bà. Một chốc này nghĩ tới Đài Trung, thoáng sau lại nghĩ tới Cao Hùng, rắc rối rồi, chẳng đi được, chỗ nào cũng chẳng đến được. Quư vị vẫn c̣n ở tại Đài Loan. Giữ sao cho nhất tâm hệ niệm, chẳng có tạp niệm, rất khó thực hiện điều này!

          Niệm Pháp Thân b́nh đẳng của chư Phật, phép quán tưởng này khá nhiều đạo hữu rất ít khi tu. Miệng niệm Di Đà Phật, nhưng chẳng quán tưởng A Di Đà Phật. Niệm đằng miệng th́ chưa được, trong tâm phải quán. Quán chẳng phải là niệm, quán là tưởng, là tư duy, trong tâm tưởng Pháp Thân b́nh đẳng. Trong khi chúng ta niệm A Di Đà Phật, rất nhiều đạo hữu chúng ta niệm A Di Đà Phật, nhưng rất ít người nghĩ ta, Phật, và A Di Đà Phật b́nh đẳng, chẳng có ư niệm ấy. [Lại c̣n suy nghĩ lầm lẫn]: “B́nh đẳng th́ c̣n sanh về đó làm ǵ? Ở đây là được rồi!” Chẳng phải là ư nghĩa đó! Niệm sắc thân của Phật và niệm Pháp Thân của Phật khác nhau, đă hiểu rơ đạo lư này hay chưa? Do vậy, Địa Tạng Bồ Tát đặc biệt nêu ra, hệ niệm Pháp Thân b́nh đẳng của chư Phật. Nghiệp tối thắng trong hết thảy các thiện căn, chỉ có pháp môn Niệm Phật thù thắng nhất. Nếu siêng năng tu tập, đó gọi là Nhất Hạnh tam-muội. Pháp môn Niệm Phật như Địa Tạng Vương Bồ Tát đă nói chính là Nhất Hạnh tam-muội. Người hành môn tam-muội này thành tựu cái tâm vi diệu rộng lớn, đó gọi là “tâm hạnh”, được gọi là tương tự Vô Sanh Pháp Nhẫn.

 

Tập 14

 

          (Kinh) Dĩ năng đắc văn ngă danh tự cố, diệc năng đắc văn thập phương Phật danh tự cố, dĩ năng chí tâm lễ bái, cúng dường ngă cố, diệc năng chí tâm lễ bái, cúng dường thập phương chư Phật cố, dĩ năng đắc văn Đại Thừa thâm kinh cố, năng chấp tŕ, thư tả, cúng dường, cung kính Đại Thừa thâm kinh cố, năng thọ tŕ, độc tụng Đại Thừa thâm kinh cố, năng ư cứu cánh thậm thâm Đệ Nhất Thật Nghĩa trung, bất sanh bố úy, viễn ly phỉ báng, đắc chánh kiến tâm, năng tín giải cố, quyết định trừ diệt chư tội chướng cố, hiện chứng vô lượng công đức tụ cố.

          ()以能得聞我名字故。亦能得聞十方佛名字故。以能至心禮拜供養我故。亦能至心禮拜供養十方諸佛故。以能得聞大乘深經故。能執持書寫供養恭敬大乘深經故。能受持讀誦大乘深經故。能於究竟甚深第一實義中。不生怖畏。遠離誹謗。得正見心。能信解故。決定除滅諸罪障故。現證無量功德聚故。

          (Kinh: Do có thể được nghe danh tự của ta mà cũng có thể được nghe danh tự của mười phương Phật. Do có thể chí tâm, lễ bái, cúng dường ta, cho nên cũng có thể chí tâm, lễ bái, cúng dường mười phương chư Phật. Do có thể được nghe kinh điển Đại Thừa sâu xa, do có thể chấp tŕ, biên chép, cúng dường, cung kính kinh điển Đại Thừa sâu xa, do có thể thọ tŕ, đọc tụng kinh điển Đại Thừa sâu xa, do có thể chẳng sanh sợ hăi đối với Đệ Nhất Thật Nghĩa rốt ráo rất sâu, bèn xa ĺa phỉ báng, đạt được cái tâm chánh kiến. Do có thể tín giải, quyết định trừ diệt các tội chướng, sẽ chứng vô lượng khối công đức trong hiện tại).

 

          Đoạn kinh văn này nhằm giải thích ư nghĩa: Chúng ta niệm danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát chính là niệm danh hiệu của mười phương chư Phật. Nếu có thể chí tâm cung kính Địa Tạng Vương Bồ Tát, đối trước tượng Địa Tạng Bồ Tát, cũng có thể cúng dường mười phương chư Phật. Do nhân duyên cúng dường ấy cũng giống như được nghe kinh điển Đại Thừa, biên chép, niệm tụng, cho đến dùng hết thảy các vật cúng để cúng dường hết thảy kinh điển Đại Thừa. Đối với tất cả hết thảy tâm, hết thảy hạnh, chỉ cần quư vị niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, chẳng khác nào đọc tụng kinh điển Đại Thừa, tương đương đọc tụng danh hiệu của mười phương chư Phật, công đức đều b́nh đẳng. Đoạn kinh văn này khiến cho chúng ta lư giải sâu sắc: Dùng thân tâm hiện tại của chúng ta để quán tưởng, đó là Hóa. Hóa nương vào Báo, Báo nương vào Pháp Thân. Pháp Thân của hết thảy chúng sanh và Pháp Thân của chư Phật, Bồ Tát b́nh đẳng. Đó gọi là Nhất Tâm Tam Quán, kinh Hoa Nghiêm nói đến Nhất Tâm Tam Quán. Đồng thời nói đến tam-muội, tức Nhất Hạnh tam-muội. Nếu lúc chúng ta đả Bát Nhă thất, hành Ban Châu tam-muội, Ban Châu tam-muội là Nhất Hạnh tam-muội. Chúng ta nghe danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, nghe danh hiệu của mười phương hết thảy chư Phật đều b́nh đẳng. Đó là “viên nghĩa”.

          Do vậy, đoạn kinh văn cuối cùng này của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo thuần túy là ư nghĩa trong Viên Giáo. Do quư vị nghe kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo bèn thấu hiểu viên nghĩa. “Hiểu” có nghĩa là tưởng pháp nào cũng đều viên. Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị có thể chí tâm quy y cho tới chí tâm lễ kính, cho đến chí tâm xưng tụng danh hiệu; đấy đều là “viên nghĩa, viên văn, viên tư, viên tu”, môn Quán Hạnh này được gọi là Nhất Hạnh tam-muội. Kinh giảng Nhất Hạnh tam-muội rất sâu; ở đây, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta một pháp gọi là “viên văn, viên tư, viên tu” để có thể đạt tới Nhất Hạnh tam-muội. Tu một pháp là [tu tập] hết thảy các pháp. Tam-muội nói theo ư nghĩa thông thường là Định, Định trọn đủ Huệ, tức là Định và Huệ tổng tŕ. Tổng tŕ Định Huệ gọi là Nhất Hạnh tam-muội. Do vậy, quư vị niệm một kinh chính là niệm hết thảy các kinh, niệm danh hiệu của một vị Bồ Tát chính là niệm danh hiệu của hết thảy chư Phật. Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Trong khi quư vị niệm danh hiệu của ta, phải quán tưởng, quán tưởng “nghe danh hiệu của ta là nghe danh hiệu của mười phương hết thảy chư Phật”. Đó là ư nghĩa “trọn khắp hết thảy”. Thành khẩn cúng dường Địa Tạng Bồ Tát tức là cúng dường mười phương hết thảy chư Phật. Đó là nói về Phật.

          Kế đó là nói về Pháp. Có thể thọ tŕ, đọc tụng kinh điển Đại Thừa sâu xa, có thể chẳng sanh sợ hăi đối với Đệ Nhất Thật Nghĩa rốt ráo quá sâu. Có các chúng sanh nghe nghĩa sâu của pháp Đại Thừa, nghe cách nói kiểu ấy, sẽ chẳng dám đảm đương. Trong kinh Pháp Hoa, Thường Bất Khinh Bồ Tát trông thấy hết thảy chúng sanh, Ngài đều đảnh lễ, thưa “quư vị là vị lai chư Phật, tôi chẳng dám khinh mạn quư vị”. Chúng sanh chẳng tiếp nhận, lấy đá phang Ngài, quở Ngài nói quàng nói xiên. Thật ra, hàm nghĩa [của lời tán thán ấy] chính là nghĩa sâu trong Viên Giáo. Lời dạy của Địa Tạng Bồ Tát ở đây cũng có ư nghĩa ấy! Quư vị nghe một pháp chính là hết thảy các pháp. Nay chúng ta nghe kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo chính là kinh điển Đại Thừa sâu xa. Nếu có thể thọ tŕ, đọc tụng kinh điển Đại Thừa sâu xa, có thể nghe Đệ Nhất Thật Nghĩa sâu xa rốt ráo mà chẳng sanh ḷng sợ hăi, nghe loại kinh nghĩa (ư nghĩa trong kinh) như thế này mà chẳng sanh cảm giác sợ hăi, cũng sanh chẳng ư tưởng kỳ đặc (đặc biệt lạ lùng), xa ĺa phỉ báng, đạt được cái tâm chánh kiến, th́ đó gọi là chánh tri, chánh kiến. Chẳng phải như vậy, sẽ chẳng phải là chánh tri chánh kiến. Như thế là biết “tâm, Phật b́nh đẳng; hết thảy các pháp đều b́nh đẳng”.

          Hiện thời, đoạn kinh văn này nói về địa vị Tín Giải, chẳng phải tu, mà cũng chẳng phải chứng, chỉ là có thể hiểu rơ, liễu giải, tin tưởng, tức là tin tưởng chính ḿnh và chư Phật chẳng hai, chẳng khác, tin tưởng hết thảy các kinh điển Đại Thừa không hai, không khác, tin tưởng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo và hết thảy các kinh điển Đại Thừa chẳng hai, chẳng khác. Nhưng có thể sanh sức tín giải như vậy, nếu chẳng phải là người có thiện căn, sẽ chẳng thể tin được! Chúng ta có thể tin tưởng, tín giải kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo th́ cái tâm của quư vị được gọi là chánh kiến, tâm chánh tri chánh kiến. Chẳng có cái tâm tín niệm chánh tri chánh kiến, sẽ chẳng tin kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, sẽ chẳng thể tin nổi!

          Đồng thời, Địa Tạng Vương Bồ Tát c̣n bảo chúng ta: Chắc chắn có thể diệt hết thảy tội chướng, tất cả tội ác chướng ngại của quư vị đều có thể tiêu mất. Hết thảy công năng ấy đều sanh từ sự tín giải của quư vị, tín tâm kiên định chẳng hoài nghi. Nghe kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, quư vị lại có thể tụng tŕ, lại có thể học tập, công đức vô lượng, “hiện thân” (thân hiện tại) có thể chứng đắc vô lượng công đức. “Hiện thân” là thân thể đang nghe pháp của quư vị trong hiện thời, có thể đạt được vô lượng khối công đức, chẳng phải là một, hai công đức, mà là vô lượng công đức, các công đức ấy cùng tụ tập. Do đó, nghe kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo mà chẳng sanh hoài nghi, chẳng có ư niệm thứ hai, tin tưởng pháp sâu xa do Địa Tạng Bồ Tát đă truyền dạy.

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Vị vô phân biệt Bồ Đề tâm, tịch tĩnh trí hiện, khởi phát phương tiện nghiệp chủng chủng nguyện hạnh cố, năng văn ngă danh giả, vị đắc quyết định tín lợi ích hạnh cố, năi chí nhất thiết sở năng giả, giai đắc bất thoái Nhất Thừa nhân cố.

          ()所以者何。謂無分別菩提心。寂靜智現。起發方便業種種願行故。能聞我名者。謂得決定信利益行故。乃至一切所能者。皆得不退一乘因故。

          (Kinh: V́ cớ sao vậy? Tức là do tâm Bồ Đề chẳng phân biệt, trí tịch tĩnh hiện, phát khởi các thứ nguyện hạnh thuộc về phương tiện nghiệp. Có thể nghe danh hiệu của ta chính là đạt được tín tâm quyết định và hạnh lợi ích, cho đến hết thảy những người có thể [nghe rồi tin tưởng], sẽ đều được bất thoái nơi cái nhân của Nhất Thừa).

 

          V́ sao Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta như thế. “Sở dĩ giả hà?” hàm ư: Do nguyên nhân ǵ mà ta nói như thế. Ta nói như thế là v́ ta đang nói Bồ Đề tâm chẳng phân biệt. Đó là ư nghĩa sâu xa của Đại Thừa Bồ Đề tâm. Chẳng có phân biệt, nương theo chân tâm, nương vào cái tâm vô phân biệt mà phát khởi Bồ Đề tâm. Đấy là Chỉ Quán song vận, trí tịch tĩnh bèn hiện ra. Tịch tĩnh là Chỉ, trí hiện là Huệ, Định và Huệ cân bằng, Chỉ Quán song tu. V́ ta nói như vậy chính là phương tiện thiện xảo, khiến cho hết thảy chúng sanh có thể phát khởi sự nghiệp phương tiện thiện xảo. Quư vị tu hành nghiệp ấy, căn cứ vào nghiệp ấy để phát tâm, ḥng sanh khởi tín giải. V́ đă có tín giải th́ mới có thể dấy lên nguyện hạnh. Nếu quư vị chẳng tin, sẽ chẳng thể lư giải, làm sao có thể phát nguyện tu hành cho được? Nương vào sức tín giải, quư vị bèn phát nguyện tu hành. Do quư vị tín giải, phát nguyện tu hành, cho nên mới có thể nghe danh hiệu của ta. Nói nông cạn, [ở đây] Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo chúng sanh thời Mạt Pháp trong thuở vị lai: “Nghe danh hiệu của ta chẳng dễ dàng!” Nếu quư vị có thể nghe danh hiệu của ta, đó là v́ quư vị đă có các thứ tín nguyện và có tu tập thiện căn trong đời trước, đă có tín tâm quyết định, cho nên đời này mới có thể nghe danh hiệu của ta. Đấy chẳng phải là tự khen. Địa Tạng Bồ Tát v́ lợi ích chúng sanh trong thời Mạt Pháp, mà nói:Các vị chớ nên v́ được nghe danh hiệu của ta mà khởi tâm khinh mạn”, chớ nên! V́ quư vị sẽ chẳng đạt được lợi ích. Chớ nên có khinh tâm và mạn tâm! Quư vị có thể nghe danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát chẳng dễ dàng đâu nhé, chẳng phải là do thiện căn trong một hai đời.

          V́ sao giải thích như thế? Do ḷng tin quyết định và hạnh lợi ích. Nghe danh hiệu của Ngài, quư vị lại sanh ra tín lực, rất khó tu được sự lợi ích do ḷng tin ấy. “Năi chí nhất thiết sở năng giả, giai đắc bất thoái Nhất Thừa nhân” (cho đến hết thảy những ai có thể [nghe rồi tin tưởng], đều đạt được cái nhân bất thoái nơi Nhất Thừa): Nghe danh hiệu của ta bèn phát khởi, tŕ danh cũng thế, lễ bái cũng thế, tu sám hối, tu Nhất Hạnh quán hạnh, đều là cái nhân của bất thoái Đại Thừa, là cái nhân của Nhất Thừa. Hàm nghĩa ở đây là “Bồ Đề tâm chẳng có phân biệt”. Chúng ta thường nói “phát Bồ Đề tâm”, phát Bồ Đề tâm th́ cũng phải có cái tâm phân biệt để phát khởi. Phát Bồ Đề tâm như thế th́ chẳng có phân biệt, tức là có thể tin tưởng cảnh giới Nhất Thật, có thể tín giải cảnh giới Nhất Thật, chẳng cần nhờ vào cái tâm phân biệt. Hễ có tâm phân biệt, sẽ chẳng thể tin tưởng, tín tâm chẳng dễ sanh khởi đâu nhé!

          Hơn nữa, đoạn kinh văn này nói đến “trí tịch tĩnh hiện”. Trí tịch tĩnh hiện th́ sẽ tin tưởng môn Xa-ma-tha Chỉ Quán mầu nhiệm. Trong phần kinh văn trước đó, Địa Tạng Bồ Tát đă nói hàm nghĩa của Chỉ Quán, nhưng quư vị hoàn toàn chẳng thể khế nhập, chẳng thể tiến nhập ngay lập tức. Nếu quư vị phát khởi các thứ nguyện lực phương tiện thiện xảo để tu hành, tin tưởng loại quán hạnh Bồ Đề này, chắc chắn sẽ đạt được lợi ích. V́ nếu là kẻ trong quá khứ chẳng có sức tín giải, mà mong được nghe danh hiệu của Địa Tạng Vương Bồ Tát, th́ sẽ chẳng thể được, chẳng nghe thấy danh hiệu của Ngài! Nghe danh hiệu cũng có các thứ sai biệt, phần kinh văn dưới đây c̣n giải thích thêm.

 

          (Kinh) Nhược tạp loạn cấu tâm, tuy phục xưng tụng ngă chi danh tự, nhi bất danh vi văn, dĩ bất năng sanh quyết định tín giải, đản hoạch thế gian thiện báo, bất đắc quảng đại thâm diệu lợi ích.

          ()若雜亂垢心。雖復稱誦我之名字。而不名爲聞。以不能生決定信解。但獲世間善報。不得廣大深妙利益。

          (Kinh: Nếu tâm tạp loạn, nhơ bẩn, tuy xưng tụng danh tự của ta mà chẳng được gọi là Nghe, do chẳng thể sanh ḷng tín giải quyết định, chỉ đạt được thiện báo trong thế gian, chẳng đạt được lợi ích rộng lớn, sâu xa mầu nhiệm).

 

          Nếu cái tâm tạp loạn, phiền cấu, dẫu nghe danh tự của ta, chẳng thể gọi là Nghe; đó là sự phân biệt. Địa Tạng Bồ Tát bảo chúng ta: Nếu quư vị dùng cái tâm tạp loạn, tán loạn, khinh mạn, dùng cái tâm cấu nhiễm, tuy hằng ngày niệm tụng danh hiệu của ta, chẳng thể gọi là Nghe. Trong đoạn này, Ngài cảnh tỉnh chúng ta: Tuy được nghe danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát chẳng dễ dàng, nhưng khi quư vị được nghe, chớ nên dùng cái tâm tạp loạn, cấu nhiễm để nghe. V́ sao? Tâm tạp loạn, cấu nhiễm, quư vị sẽ chẳng thể tin nổi, niềm tin sẽ là hời hợt, chẳng thể tin sâu đậm Địa Tạng Bồ Tát thật sự có thể cứu độ ta, thật sự có thể khiến cho ta ĺa khổ, được vui, chẳng thể sanh khởi cái tâm ấy. Quư vị chẳng thể sanh tín tâm quyết định, chẳng sanh khởi tín giải quyết định. Tuy quư vị nghe danh hiệu Địa Tạng mà cũng như chẳng nghe, giống như chẳng thấy! Vậy th́ có công đức hay không? Có chứ! Chẳng phải là công đức để tu đạo, thành đạo, mà là phước đức thế gian, [nhưng vẫn giúp cho] quư vị chắc chắn ĺa khỏi tam đồ.

          Tuy do cái tâm tạp loạn, phiền cấu nghe danh hiệu của ta mà chẳng thể đạt được ḷng tin thanh tịnh, nhưng có thể đạt được thiện báo trong thế gian. Thành đạo chẳng dễ dàng, nhưng có thể đạt được quả báo thế gian. Chỉ là chẳng thể đạt được lợi ích sâu xa, mầu nhiệm, chẳng thể thành thánh! Nếu thiện căn sâu dày, người ấy vừa nghe danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát, sẽ rởn cả lông tóc, có thể đạt được lợi ích sâu xa, to lớn, có thể dùng điều ấy để tu đạo, có thể đoạn Hoặc, có thể chứng chân lư. Do cái tâm tạp loạn, uế nhiễm, th́ cũng có thể đạt được phước báo nhân thiên, nhưng chẳng đạt được thiện nghiệp xuất thế.

 

          (Kinh) Như thị tạp loạn cấu tâm, tùy kỳ sở tu nhất thiết chư thiện, giai bất năng đắc thâm đại lợi ích.

          ()如是雜亂垢心。隨其所修一切諸善。皆不能得深大利益。

          (Kinh: Cái tâm tạp loạn, cấu nhiễm như thế mà tu hết thảy các điều thiện, sẽ đều chẳng thể đạt được lợi ích to lớn, sâu xa).

 

          Đây là dạy chúng ta: Khi niệm thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát, chớ nên khởi tâm tạp loạn, chớ nên khởi tâm cấu nhiễm. V́ dùng cái tâm cấu nhiễm, tâm tạp loạn mà mong đạt được đạo nghiệp thanh tịnh, sẽ chẳng thể đạt được, chỉ có thể đạt được lợi ích thế gian. Nếu có thể vừa nghe liền tin sâu, mở mang tri kiến viên măn, tin tưởng chính ḿnh và Địa Tạng Vương Bồ Tát chẳng hai, chẳng khác. Địa Tạng tức là chính ḿnh, chính ḿnh là Địa Tạng. Đấy là hạng người thuộc loại viên nhân, do sức tín giải và lư giải như thế, sẽ có thể đạt được lợi ích to lớn. Cùng là một niềm tin, tâm tin điều ǵ vậy? Nêu một thí dụ: Tôi ở Ngũ Đài Sơn, có một người tin Phật, mong cho công ty của chính ḿnh phát tài, bèn niệm Địa Tạng Bồ Tát. Ông ta đă phát tài, đầu tư một món tiền có lời, bèn lên núi cúng dường trai tăng. Tôi dùng ư nghĩa trong đoạn kinh văn này để giảng cho ông ta: Đó là lợi ích thế gian, ông đừng nên v́ danh lợi thế gian, mà hăy làm thiện nghiệp thanh tịnh xuất thế; đó là chân thật. Tướng thế gian sẽ biến huyễn bất cứ lúc nào, có được th́ sẽ lại có mất! Giả sử dùng cái tâm thật sự liễu sanh tử, cái tâm mong cầu thành Phật, sẽ gọi là “nghiệp phước điền thanh tịnh”, sẽ đạt được bất thoái vĩnh viễn. Phước đức thế gian có được, có mất, thiện nghiệp phước đức xuất thế gian chẳng thể mất đi. Đó gọi là lợi ích sâu xa, to tát!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Đương tri như thượng cần tâm tu học Vô Tướng Thiền giả, bất cửu năng hoạch thâm đại lợi ích, tiệm thứ tác Phật.

          ()善男子。當知如上勤心修學無相禪者。不久能獲深大利益。漸次作佛。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Hăy nên biết tâm siêng năng tu học Vô Tướng Thiền như trên, chẳng lâu sau sẽ có thể đạt được lợi ích to lớn, sâu dầy, dần dần sẽ thành Phật).

 

          Lợi ích sâu xa, to lớn là sẽ có thể đạt được thành quả ǵ? Dần dần thành Phật.

 

          (Kinh) Thâm đại lợi ích giả, sở vị đắc nhập Kiên Tín pháp vị, thành tựu Tín Nhẫn cố. Nhập Kiên Tu vị, thành tựu Thuận Nhẫn cố. Nhập Chánh Chân vị, thành tựu Vô Sanh Nhẫn cố.

          ()深大利益者。所謂得入堅信法位。成就信忍故。入堅修位。成就順忍故。入正真位。成就無生忍故。

          (Kinh: “Lợi ích to lớn sâu xa” nghĩa là được nhập pháp vị tin tưởng kiên định, do thành tựu Tín Nhẫn. Nhập địa vị tu tập kiên cố, do thành tựu Thuận Nhẫn. Nhập địa vị Chánh Chân, do thành tựu Vô Sanh Nhẫn).

 

          Trong đoạn văn trước, Địa Tạng Bồ Tát nói: Nếu có thể nghe danh hiệu của ta mà sanh tâm tín giải, chắc chắn sẽ có thể dần dần thành Phật. Đồng thời, Địa Tạng Bồ Tát lại giải đáp [ư nghĩa của] “thâm đại lợi ích” (lợi ích sâu xa, to lớn). Thâm đại lợi ích là ǵ? Được dự vào địa vị Kiên Tín, [chánh kinh gọi địa vị này] là “kiên tín pháp vị”. Đó là địa vị Kiên Tín, thành tựu Tín Nhẫn, có thể “nhẫn khả” tín tâm của chính ḿnh. “Nhẫn” () là “thừa nhận”. “Nhẫn khả” có nghĩa là tin tưởng chính ḿnh. Tín tâm của chính ḿnh có thể kiên định, chẳng nghi, tùy thuận pháp tánh, tùy thuận tâm thể của chính ḿnh, cho nên có thể thành đạo. Nhập địa vị Chánh Chân, thành tựu Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đó gọi là địa vị Kiên Tín. Nói theo sự phát tâm của quư vị, th́ địa vị Kiên Tín là tin tưởng kiên định chính ḿnh nhất định có thể thành Phật. Quư vị tin chắc chính ḿnh có thể thành Phật mà làm Phật sự. Đă có cái tín tâm ấy, lại đến cầu pháp, hoặc là tụng kinh, hoặc lễ Phật, sẽ dần dần có thể thành tựu Pháp Nhẫn, thừa nhận các pháp, bèn có thể thành Phật. Lúc đó mới có thể phát khởi niềm tin kiên định và thanh tịnh để tu hành. Chúng ta tu hành toàn là như mảy lông trước gió, ba ngày tu hành, hai ngày lao chao, chẳng tu hành chi hết, lúc tiến, lúc lùi, chẳng thể kiên định. Ắt cần phải luôn kiên định, tu hành rất khó khăn! Chẳng hạn như khi quư vị bắt đầu phát tâm, nói tôi mỗi ngày niệm một trăm câu thánh hiệu A Di Đà Phật. Chẳng nhiều cho mấy, niệm một trăm câu thôi, chưa đến mười phút, vài phút đă niệm xong. Nhưng quư vị có thể mỗi ngày tới đúng giờ đều niệm, siêng năng chẳng bỏ sót một ngày nào, chuyện này chẳng dễ dàng đâu nhé! Cái tâm nhất thời dễ phát, chứ cái tâm lâu dài sẽ khó khăn. Nói chung là sẽ có khá nhiều chướng ngại, khiến cho quư vị chẳng tu hành được.

          Các vị đạo hữu hăy ngẫm nghĩ đôi chút, từ khi quư vị bắt đầu tin Phật, “quy y Phật, quy theo Pháp, quy y Tăng”, đơn giản thế đó! Quư vị có thể mỗi ngày sáng sớm thức dậy, ư niệm đầu tiên là “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, sau đấy mới có thể làm chuyện khác. Mỗi vị đạo hữu trong tứ chúng, bất luận là xuất gia tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, hay đệ tử tại gia tin Phật, nếu trong ba trăm sáu mươi ngày, quư vị chẳng gián đoạn một ngày nào, ấn định thời gian, ấn định số lượng, một trăm câu, chẳng nhiều cho mấy, đúng không? Quư vị ngồi xuống đó niệm vài phút, số lượng chẳng lớn, nhưng quư vị có thể trong suốt một năm, siêng gắng, chẳng thiếu sót một ngày nào. Bất luận chướng ngại ǵ, cho đến trong khi bệnh khổ vẫn chẳng gián đoạn. Chẳng cần biết ít hay nhiều, mỗi ngày đều có thể kiên tŕ chẳng gián đoạn, chuyện này chẳng dễ dàng! Đó là tín tâm kiên định, chẳng nghi! Thông thường, chúng ta tu hành phát tâm, cái tâm dũng mănh dễ phát. Bữa nay, phát tâm dũng mănh rất tinh tấn, rất tu hành; ngày mai, ngày mốt sẽ dần dần chẳng làm nữa! Một tháng, hai tháng, tới tháng thứ ba chẳng làm nữa! Mỗi vị đạo hữu hăy nhớ lại xem, kiên tŕ một hạnh, lại c̣n là số lượng chẳng lớn, quư vị ngẫm xem: Mỗi ngày đều chẳng gián đoạn, bất luận chướng ngại ǵ, điều này khó lắm! Nếu có thể kiên tín như thế th́ sẽ nhập vị. Chữ Nhẫn có nghĩa là “thúc đẩy thành tựu. Nhẫn Khả, thừa nhận đều thêm vào chữ Nhẫn. Đó là dự vào địa vị Kiên Tu, do kiên tu mà thành tựu Nhẫn. Nói theo danh từ pháp số th́ là Vô Sanh Nhẫn. Bồ Tát thuộc các địa vị của Thập Tín vừa mới dự vào Tín vị th́ gọi là Tín Nhẫn, cho đến Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng th́ gọi là Thuận Nhẫn, do thuận theo pháp tánh. Đăng địa Bồ Tát (đă chứng từ Sơ Địa trở lên) được gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Tu hành như nhau, công phu đúng mức th́ là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Chưa đạt tới th́ là tùy thuận (Thuận Nhẫn). Nay chúng ta trưởng dưỡng, tu hành trưởng dưỡng, khiến cho thiện căn ngày càng kiên cố, ngày càng to tát, trưởng dưỡng nó.

 

          (Kinh) Hựu thành tựu Tín Nhẫn giả, năng tác Như Lai chủng tánh cố. Thành tựu Thuận Nhẫn giả, năng giải Như Lai hạnh cố. Thành tựu Vô Sanh Nhẫn giả, đắc Như Lai nghiệp cố.

          ()又成就信忍者。能作如來種性故。成就順忍者。能解如來行故。成就無生忍者。得如來業故。

          (Kinh: Lại thành tựu Tín Nhẫn, do có thể làm chủng tánh của Như Lai. Thành tựu Thuận Nhẫn, do có thể hiểu hạnh của Như Lai. Thành tựu Vô Sanh Nhẫn, do đạt được nghiệp của Như Lai).

 

          Chúng ta có thành tựu Tín Nhẫn hay chăng? Nếu tin, mỗi vị đạo hữu chúng ta đều nói ḿnh tin Tam Bảo, vậy th́ có đạt tới Tín vị hay không? Có lúc tin, có lúc lại chẳng tin. Thời gian tin nhiều, thời gian không tin ít; đó là có một chút đạo hạnh. Trước nay chưa hề mất ḷng tin, chẳng có niệm nào đánh mất ḷng tin; đó gọi là nhập Tín vị, [tức là] đă nhập Tín Nhẫn vị. Tín Nhẫn là tín thành tựu, dự vào địa vị Sơ Trụ trong Thập Trụ, thuộc vào chủng tánh Như Lai, nhưng chỉ là tương tự, tức tương tự dự vào chủng tánh Như Lai. Cho tới khi viên măn ba mươi tâm, tức viên măn ba mươi tâm thuộc các địa vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, dự vào Sơ Địa, sẽ chẳng phải là tương tự, mà là thật sự nhập chủng tánh Phật, quyết định có thể thành Phật. V́ sao? Tới lúc đó, sở hành mới có thể chẳng hai, chẳng khác Phật. Sở hành của Sơ Địa Bồ Tát chẳng hai, chẳng khác Phật. Mỗi địa vị đều phải đoạn vô minh, chứng Pháp Thân. Tam Hiền Bồ Tát (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng) gọi là Tương Tự, thuộc địa vị tương tự, tương tự nhập; thật ra, chưa thật sự nhập. Tín vị Bồ Tát c̣n có thể lui sụt, Trụ vị Bồ Tát chẳng lui sụt. Địa vị Thập Tín và phàm phu vẫn chưa thể coi là thánh. C̣n như chúng ta chưa tiến nhập Tín vị, vẫn chưa viên măn, tín tâm là tiến tiến, lùi lùi, chẳng sanh ḷng tin quyết định. Quyết định tín là đă tiến nhập Sơ Trụ, chẳng c̣n biến đổi nữa.

          Do vậy, nói theo giáo lư và giáo nghĩa trong kinh, dùng Thánh Giáo Lượng để suy lường chính ḿnh, quư vị mới biết chính ḿnh rốt ráo tin Phật và tu hành tới mức độ nào, chính quư vị mới tự biết. Điều đó thuộc về phương diện Hành. Tín tâm như thế th́ mới có thể vĩnh viễn bất thoái, tin tưởng chính ḿnh chẳng hai, chẳng khác với Phật, tin tưởng chính ḿnh có Phật Tánh, nhất định có thể thành Phật. Đó mới gọi là “có tín tâm”. Như các đạo hữu b́nh phàm, đă nhập Phật môn, thọ Tam Quy, Ngũ Giới, hoàn toàn chẳng nghĩ chính ḿnh có thể thành Phật, cũng không mong tưởng cao như vậy! Thật ra, quư vị vừa nhập Phật môn, vừa thọ Tam Quy, bèn xưng là Phật tử, [được coi là] đă nhập Phật môn. Phật tử th́ phải hành Phật sự. Quư vị đă thọ Tam Quy, nhưng vẫn chẳng thấy hành Phật sự, cứ tiến tiến lùi lùi. V́ sao phải tu hành vô lượng kiếp? Nguyên nhân ở ngay chỗ này, cứ tiến tiến lùi lùi. Đời này quư vị tinh tấn dũng mănh, đời sau th́ sao? Do vậy, đức Phật dạy chúng ta pháp môn phương tiện thiện xảo, dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, sanh về thế giới Cực Lạc. Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta niệm thánh hiệu Địa Tạng. Kinh này dạy chúng ta, hết thảy lấy xưng danh làm chủ yếu. Ngài dạy chúng ta niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát gia tŕ quư vị, cũng có thể [gia tŕ] măi cho tới khi thành Phật. Dần dần có thể thành Phật, chẳng phải là ngay lập tức, cho nên tín tâm của quư vị ắt phải kiên cố, bất thoái.

          Các vị đạo hữu hăy xét lại chính ḿnh một phen: “Bất luận gặp tai nạn nhiều cỡ nào, tín tâm bất thoái”. Hàm nghĩa trong ấy hết sức sâu xa. Tôi ở trong tù, đạo hữu rất đông, người xuất gia cả đống. Khi đó, có rất nhiều kẻ oán hận, oán hận ǵ vậy? Phật chẳng gia tŕ, thần hộ pháp cũng chẳng hộ tŕ họ! Chẳng phải là không hộ tŕ quư vị, mà là bản thân quư vị chẳng tiếp nhận hộ tŕ, đạo tâm lui sụt, quư vị chẳng tin tưởng. Do vậy, đă tin th́ dẫu gặp tai nạn, gặp phải ma nạn, hoàn toàn chẳng phải là “đă tin Phật th́ tai nạn đều hết sạch”, chẳng thể được! Chúng ta thường nói “chẳng thể bị ma khảo, chẳng thể thành Phật”. Đó cũng là khảo nghiệm đối với sự tu đạo của quư vị. Ma càng nhiều, chướng ngại càng nhiều. Trên con đường tu đạo của quư vị, đâu đâu cũng có chướng ngại! V́ sao? Đáng lẽ phải là chẳng có chướng ngại trong sự tu đạo chứ? Trong quá khứ, tôi đă nêu thí dụ sau đây: Trong quá khứ, một kẻ rất ác, ai cũng chẳng dám động tới hắn. Hắn thiếu tiền, [chủ nợ] cũng chẳng dám đ̣i. Nhưng kẻ đó thay đổi, muốn làm lành, người ta sẽ dám đ̣i quư vị. Khi đó, quư vị phải nên trả! Dường như khi chưa phát tâm, chưa tu đạo, chướng ngại c̣n ít một chút, c̣n khá thuận lợi. Kẻ đó vừa tin Tam Bảo, khó khăn ùa đến, nghiệp chướng đều kéo tới, bệnh tật bất ngờ, cho đến các nhân duyên chướng đạo toàn bộ kéo tới. Đó là khảo nghiệm công phu của quư vị. V́ trước kia, quư vị đă đeo chiêu bài “kẻ ác”, vẫn đang làm ác, người ta chẳng dám động tới quư vị. Nay quư vị làm việc thiện, phải nên đền trả nợ cũ. Do vậy, tứ chúng đệ tử nhất định phải nhận thức, nhận thức điều ǵ? Ma nạn! Quư vị thành đạo chẳng phải là chuyện thuận lợi; đó gọi là mài luyện coi thử tín tâm của quư vị có kiên định hay không. Càng mài giũa, càng kiên định, càng mài càng sáng, đó gọi là “kiên định”. Tín tâm chẳng kiên cố, hễ bị thử thách liền ngă ḷng, đạo tâm lui sụt. Đặc biệt là lúc gặp phải tai nạn, quốc gia gặp tai nạn, toàn bộ tập thể Phật giáo chúng ta bị tai nạn. Đó chẳng phải là nói suông, mà là thân hứng chịu, là hành động, khảo nghiệm tín tâm của chúng ta có kiên cố hay không? Có thể làm theo lời Phật dạy hay không? Đó gọi là Tín Nhẫn, tức là tín tâm kiên cố. Chẳng kiên cố, há có thể hành theo lời dạy của Như Lai hay không?

 

          (Kinh) Tiệm thứ tác Phật giả, lược thuyết hữu tứ chủng. Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, tín măn pháp cố tác Phật. Sở vị y chủng tánh địa, quyết định tín chư pháp bất sanh, bất diệt, thanh tịnh b́nh đẳng, vô khả nguyện cầu cố. Nhị giả, giải pháp măn cố tác Phật. Sở vị y giải hạnh địa, thâm giải pháp tánh, tri Như Lai nghiệp, vô tạo, vô tác, ư sanh tử, Niết Bàn, bất khởi nhị tưởng, tâm vô sở bố cố. Tam giả, chứng măn pháp cố tác Phật. Sở vị y tịnh tâm địa, dĩ đắc vô phân biệt tịch tĩnh pháp trí, cập bất tư nghị tự nhiên chi nghiệp, vô cầu tưởng cố. Tứ giả, nhất thiết công đức hạnh măn túc cố tác Phật. Sở vị y cứu cánh Bồ Tát địa, năng trừ nhất thiết chư chướng vô minh mộng tận cố.

          ()漸次作佛者。略說有四種。何等爲四。一者信滿法故作佛。所謂依種性地。決定信諸法不生不滅。清淨平等。無可願求故。二者解滿法故作佛。所謂依解行地。深解法性。知如來業。無造無作。於生死涅槃。不起二想。心無所怖故。三者證滿法故作佛。所謂依淨心地。以得無分別寂靜法智。及不思議自然之業。無求想故。四者一切功德行滿足故作佛。所謂依究竟菩薩地。能除一切諸障無明夢盡故。

          (Kinh: Dần dần thành Phật th́ nói đại lược có bốn loại. Những ǵ là bốn? Một là do tín măn pháp mà làm Phật, tức là nương vào chủng tánh địa, quyết định tin các pháp bất sanh, bất diệt, thanh tịnh b́nh đẳng, chẳng có ǵ để có thể nguyện cầu. Hai là do giải măn pháp mà làm Phật, tức là nương vào giải hạnh địa để hiểu sâu xa pháp tánh, biết nghiệp của Như Lai chẳng tạo, chẳng làm, đối với sanh tử và Niết Bàn chẳng dấy lên ư tưởng là hai thứ, tâm không sợ hăi. Ba là do chứng măn pháp mà làm Phật, tức là nương theo tịnh tâm địa, do đắc pháp trí tịch tĩnh chẳng phân biệt và các nghiệp tự nhiên chẳng nghĩ bàn, chẳng có ư tưởng mong cầu. Bốn là do hết thảy công đức hạnh trọn đủ mà làm Phật, tức là nương vào Bồ Tát địa rốt ráo, có thể trừ hết thảy các chướng và giấc mộng vô minh).

 

          Nói như thế, tín tâm đại lược có bốn loại. Những ǵ là bốn?

          1) Một là do tín măn pháp (tin vào pháp viên măn) nên làm Phật, tức là nương vào chủng tánh địa, quyết định tín giải. Tín giải điều ǵ? Bất sanh, bất diệt. Tín giải ǵ vậy? Thanh tịnh b́nh đẳng. Chư Phật và chúng sanh, cùng với một niệm tâm hiện tiền của chính ḿnh, ba thứ hợp lại, đó là “tâm, Phật, chúng sanh, cả ba đều b́nh đẳng”. Phải phát cái tâm viên măn, tâm Đại Thừa, phát khởi nghĩa Địa Thừa, không có ǵ để có thể nguyện cầu. Đó là ư nghĩa măn pháp. “Măn pháp” có nghĩa là “pháp măn” (pháp viên măn). “Pháp măn” có hàm nghĩa ǵ vậy? Chính là cảnh giới Nhất Thật viên măn, chẳng có pháp nào để phân biệt, th́ gọi “măn pháp”. Do măn pháp bèn làm Phật chính là ư nghĩa này. Do hết thảy đều tin vào măn pháp nên thành Phật, nhưng “tín măn pháp thành Phật” tức là chủng tánh của quư vị là Phật. Chủng tánh của mỗi người và chủng tánh của Phật không hai, không khác. Lại tin tưởng hết thảy các pháp là bất sanh, bất diệt. Chúng ta chẳng dễ ǵ tin được điều này! Rất khó có được tín tâm ấy. Dẫu đă tin, cũng chẳng kiên cố. Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Cái pháp chẳng phân biệt ấy gọi là cảnh giới Nhất Thật”. Quư vị tin tưởng hết thảy các pháp bất sanh, bất diệt, thanh tịnh, b́nh đẳng, chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng tăng, chẳng giảm. Đấy mới là thuộc vào Tín vị. Có thể tin tưởng hay không? Chẳng có niệm nào hoài nghi, thường luôn tin tưởng ta và Phật chẳng hai, chẳng khác, [cũng như] chẳng hai, chẳng khác các vị đại Bồ Tát.

          2) Hai là do giải măn pháp mà làm Phật. Đoạn trước là tín măn pháp làm Phật, c̣n ở đây là giải măn pháp làm Phật, tiến sâu hơn bước nữa. Giải, không chỉ là tín (tin tưởng), lại c̣n nương theo giáo nghĩa do đức Phật đă dạy để lư giải sâu đậm hơn. “Pháp” ở đây là nói tới pháp tánh: Thể tánh của các pháp rạng ngời; thể tánh của các pháp chẳng hai, chẳng khác. Hết thảy chúng sanh tu bao nhiêu kiếp thành Phật, thành Phật rồi mới biết chẳng có tạo tác, chẳng có tu hành. Thành Phật chẳng phải là không tu thành, tiêu mất tội nghiệp mà thôi. Lư giải điều này rất khó, chẳng có sự khác biệt giữa sanh tử và Niết Bàn, phải sanh khởi tín tâm như vậy. V́ sau khi đă có tín tâm như vậy, trong quá tŕnh quư vị tu luyện thành Phật, sẽ chẳng có bất cứ cảm giác sợ hăi, biết hết thảy đều là giả. Trong bổn tánh chẳng có [những thứ ấy], cho nên nói là giả.

          3) [Ba là do chứng măn pháp nên làm Phật], hết thảy chư Phật đă chứng minh cho chúng ta, chứng minh hết thảy đều là giả, chẳng có thứ ǵ là chân thật! Trừ thể tánh của tự tánh ra, hết thảy đều là hư vọng, đều là “trần ảnh” (bóng dáng của lục trần phản chiếu trong tâm thức).

          4) Bốn là do hết thảy công đức hạnh viên măn bèn thành Phật, tức là nương vào Bồ Tát địa rốt ráo, có thể trừ hết thảy các chướng, chấm dứt giấc mộng vô minh. Chúng ta đang nằm mộng, vô minh là món Hoặc căn bản nhất. Do vô minh mà dấy lên ba tế tướng. Khởi Tín Luận phân biệt [“tam tế tướng”] là nghiệp tướng, chuyển tướng, và hiện tướng, ba tế tướng ấy. Ba tế tướng đều là hiện tướng của vô minh. Có thể đoạn ba tế tướng, sẽ đắc Bát Địa Bồ Tát. Bát Địa Bồ Tát đoạn hiện tướng, Cửu Địa Bồ Tát đoạn chuyển tướng, Thập Địa Bồ Tát mới có thể đoạn nghiệp tướng. V́ thế, công phu này rất sâu. Nghiệp chướng tiêu mất, công đức hiện tiền, tất cả hết thảy các nghiệp đă tạo tác trong tu hành, tất cả các hạnh để tích lũy công đức đều thực hiện trọn đủ, bèn thành Phật. Thành Phật là Bồ Tát đạt đến rốt ráo. Nơi địa vị Bồ Tát rốt ráo sẽ trừ sạch hết thảy các chướng ngại và giấc mộng vô minh. Công đức hạnh viên măn chính là nghiệp chướng tiêu mất, khôi phục Pháp Thân vốn sẵn thanh tịnh của quư vị, đă thành Phật rồi.

          Tín thành Phật, hiện thời đối với mọi người, phải thành tựu niềm tin thứ nhất là “thành Phật”, tức là tin chính ḿnh là Phật. Để có được tín tâm như thế ấy, phải tốn một thời gian khá dài. Giả sử có người hỏi tôi: “Ngươi có phải là Phật hay không?” Chẳng dám đảm đương! V́ sao? Sợ người ta đ̣i tôi phải chứng minh trong hiện tại. [Chẳng hạn như họ nói]: “Ngươi là Phật, hăy nên bố thí cho ta đôi chút vật dụng chứ? Bố thí cánh tay trên thân thể của ngươi cho ta!” Quư vị chẳng thành Phật, v́ chẳng dám cho kẻ đó. Quư vị có chịu cho hay không? Bởi lẽ, muốn biến chúng sanh tâm thành Phật tâm, sự biến hóa ấy sẽ khá khó khăn! Khó tới mức độ nào? Bao nhiêu đại kiếp, chẳng phải là trong một thời gian ngắn. Chúng ta học kinh, chiếu theo lời Phật dạy để học kinh, đă biết, cũng tin, nhưng chẳng dám đảm đương. V́ hiện thời, hễ chúng ta đảm đương, người khác sẽ đ̣i chúng ta trả giá thật sự. Chúng ta thật sự chẳng trả giá được, cho nên chẳng dám đảm đương. Do vậy, chúng ta phải ắt cần phải rèn luyện cái tâm, rèn luyện ǵ vậy? Phải đảm đương. Sau khi đă đảm đương, các sự nghiệp và các công đức do quư vị đă làm đều có thể thành tựu. Chính ḿnh tin tưởng tự ḿnh nhất định có thể thành Phật. V́ sao? Vốn là Phật. Nếu quư vị chẳng có chủng tánh Phật, chẳng có chủng tử ấy, chẳng phải là Phật, dù quư vị làm thế nào, vẫn chẳng thể thành Phật được! Quư vị muốn biến khoai tây thành gạo, chẳng làm được, chủng tử bất đồng! Hoặc là biến cải trắng thành bột ḿ, chủng tử khác nhau, khác hẳn! [Do chúng sanh và Phật] có cùng một chủng tánh, [chúng sanh] tuyệt đối có thể thành Phật. Hết thảy chúng sanh chính là Phật, một đằng là sẵn có, một đằng là tu thành. Chư Phật là hiển hiện, tức là hiển hiện cái sẵn có (Phật Tánh). Bản thể sẵn có của hết thảy chúng sanh bị phiền năo, bị vô minh và các thứ chướng ngại ngăn trở, phải tiêu trừ chúng th́ mới có thể thành Phật. Nếu mọi người chịu dùng Phật giáo để phân biệt, nghiên cứu, Trí Giả đại sư của Thiên Thai Tông đă nêu ra giáo nghĩa Lục Tức Phật, chúng tôi chẳng nói cặn kẽ, v́ tốn quá nhiều thời gian. Chúng ta phải nên liễu giải Lục Tức Phật.

 

          (Kinh) Phục thứ, đương tri nhược tu học thế gian hữu tướng Thiền giả, hữu tam chủng. Hà đẳng vi tam? Nhất giả, vô phương tiện tín giải lực cố, tham thọ chư Thiền tam-muội công đức, nhi sanh kiêu mạn, vị Thiền sở phược, thoái cầu thế gian. Nhị giả, vô phương tiện tín giải lực cố, y Thiền phát khởi thiên yếm ly hạnh, bố khiếp sanh tử, thoái đọa Nhị Thừa. Tam giả, hữu phương tiện tín giải lực. Sở vị y chỉ Nhất Thật cảnh giới, tập cận Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na nhị chủng quán đạo cố, năng tín giải nhất thiết pháp duy tâm tưởng sanh, như mộng, như huyễn đẳng. Tuy hoạch thế gian chư Thiền công đức, nhi bất kiên trước, bất phục thoái cầu tam hữu chi quả. Hựu tín tri sanh tử tức Niết Bàn cố, diệc bất bố khiếp, thoái cầu Nhị Thừa.

          ()復次。當知。若修學世間有相禪者。有三種。何等為三。一者無方便信解力故。貪受諸三昧功德。而生憍慢。為所縛。退求世間。二者無方便信解力故。依發起偏厭離行。怖怯生死。退墮二乘。三者有方便信解力。所謂依止一實境界。習近奢摩他毗婆舍那二種觀道故。能信解一切法唯心想生。如夢如幻等。雖獲世間諸功德而不堅著。不復退求三有之果。又信知生死即涅槃故。亦不怖怯。退求二乘。

          (Kinh: Lại nữa, hăy nên biết: Nếu tu học thế gian hữu tướng Thiền th́ có ba loại. Những ǵ là ba? Một là do chẳng có sức phương tiện tín giải, tham hưởng công đức của các Thiền tam-muội, bèn sanh kiêu mạn, bị Thiền trói buộc mà lui sụt, trở thành mong cầu thế gian. Hai là do chẳng có sức phương tiện tín giải, nương theo Thiền mà phát khởi hạnh thiên về chán ĺa, khiếp sợ sanh tử, thoái đọa thành Nhị Thừa. Ba là có sức tín giải phương tiện, tức là y chỉ cảnh giới Nhất Thật, tu tập, thân cận hai thứ quán đạo Xa-ma-tha và Tỳ-bà-xá-na, có thể tin hiểu hết thảy các pháp chỉ do tâm tưởng sanh, như mộng, như huyễn v.v… Tuy đạt được công đức từ các môn Thiền thế gian, nhưng chẳng khăng khăng chấp trước, chẳng c̣n lui sụt, cầu quả trong ba cơi. Lại do tin biết sanh tử chính là Niết Bàn, nên cũng chẳng khiếp sợ, thoái đọa cầu Nhị Thừa).

 

          Lại nữa, hăy nên biết, chúng ta càng phải nên liễu giải sâu hơn bước nữa. Hăy nên biết điều ǵ? Tu học hữu tướng Thiền của thế gian, từ khởi đầu, [tức là] khởi đầu tu Thiền Định. Địa Tạng Bồ Tát lại dạy chúng ta: Tu tập Thiền Định hữu tướng của thế gian là như thế nào? Tu tập Thiền Định xuất thế gian là như thế nào? Tu hành Thiền Định rốt ráo thành Phật là như thế nào? Trước hết, nói về tu Định thế gian. Thiền là tĩnh lự, tư duy. Nói đơn giản th́ là Định. Trong Định có Huệ. Thế gian Thiền đại lược chia thành ba loại:

          1) Một loại là phương tiện tín giải lực, tức là thế gian Thiền cũng được gọi là tam-muội, từ ngữ này có nghĩa là Định. Thế gian Định là do [đạt được] công đức của tam-muội, người ấy (người tu Thiền Định thế gian) bèn sanh ḷng kiêu mạn. Vừa mới đạt được thanh tịnh đôi chút, bèn nẩy sanh ḷng kiêu mạn. Nhưng do chẳng có sức phương tiện tín giải, cho nên mới sanh ḷng kiêu ngạo. Nếu có sứcphương tiện tín giải, kẻ đó sẽ chẳng nẩy sanh kiêu ngạo. Hễ kiêu ngạo, không chỉ chẳng tu thành Thiền Định, mà c̣n bị Thiền Định trói buộc. Bị Thiền Định trói buộc, sẽ chẳng thể giải thoát được, biến thành Thiền Định thế gian. Đó là vừa mới tĩnh lặng, vừa mới thanh tịnh, chẳng phải là Định thật sự. Thiền Định thế gian có thể chia ra khá nhiều loại, [thường gọi chung là] Tứ Thiền Bát Định, Cửu Thứ Đệ Định. Chúng tôi không nói chi tiết v́ quá dài. Đó là Thiền Định thế gian.

          2) Hai là chẳng có sức phương tiện tín giải. Từ Sơ Thiền, phát khởi hạnh thiên về chán ĺa, khiếp sợ sanh tử, thoái đọa thành Nhị Thừa. Đây là nương theo Thiền mà sanh khởi cái tâm chán ĺa. Từ cái tâm chán ĺa, dấy lên hành vi thuộc pháp môn chán ĺa. Loại hành vi ấy chẳng có sức tín giải, chẳng phải là tin sâu không nghi, chẳng sanh ra sức mạnh tín giải, chỉ nương vào Thiền Định mà sanh khởi định lực. V́ hành vi chán ĺa thế gian mà sanh ra, v́ sợ hăi sanh tử, khiếp sợ sanh tử, chẳng dám cầu Đại Thừa, [chấp nhận] “vĩnh viễn ĺa sanh tử là được rồi”. Do vậy, vốn mong tu Đại Thừa Định, nhưng thoái đọa vào địa vị Nhị Thừa, [cho rằng] đạt được liễu sanh tử là xong, chưa phát Bồ Đề tâm. Nhưng đấy chẳng phải là vĩnh viễn ĺa. Chẳng thành Phật, tuyệt đối không thể vĩnh viễn rời ĺa! Tuy đă giải quyết Phần Đoạn Sanh Tử, nhưng Biến Dịch Sanh Tử vẫn tồn tại; hàng Nhị Thừa chẳng thể lư giải chuyện này. Ắt cần phải phát tâm Đại Thừa, đoạn hai loại sanh tử. Không chỉ đoạn Phần Đoạn Sanh Tử, mà c̣n phải đoạn Biến Dịch Sanh Tử. Đó là ư nghĩa do Tiểu mà mê lầm Đại vậy!

          Lại nữa, giả sử có thể nương theo cảnh giới Nhất Thật, cảnh giới Nhất Thật đă nói trong phần trước, thoạt đầu phát tâm như thế là nương theo cảnh giới Nhất Thật, môn Thiền Định để tu tập là Chỉ Quán song vận. Khi tu Chỉ, nhất định có sức mạnh trí huệ, có quán lực. Do có quán lực, biết hết thảy các pháp đều sanh từ tâm tưởng, chẳng có hết thảy các pháp. Tâm sanh th́ các pháp sanh, đều là do tưởng mà sanh khởi. Do tưởng mà sanh khởi th́ chẳng thật sự tồn tại cụ thể. Do vậy, kinh Kim Cang nói: “Hết thảy các pháp đều như mộng, như huyễn, như bọt nước, như ảnh”, v́ Thể của chúng chẳng thật, chẳng có! Chẳng có một thật thể chân thật, là hư giả, huyễn hóa. Loại Thiền Định này chỉ đạt được sự hưởng thụ nhỏ nhặt trong thế gian, tức là đă định, chẳng phiền loạn, hoặc giảm bớt phiền loạn thế gian mà thôi, chẳng thể liễu sanh tử, mà cũng chẳng thể chứng đắc Niết Bàn.

 

          (Kinh) Như thị tu học nhất thiết chư Thiền tam-muội pháp giả, đương tri hữu thập chủng thứ đệ tướng môn, cụ túc nhiếp thủ Thiền Định chi nghiệp, năng linh học giả thành tựu tương ứng, bất thác, bất mậu. Hà đẳng vi thập?

          ()如是修學一切諸禪三昧法者。當知有十種次第相門。具足攝取禪定之業。能令學者成就相應。不錯不謬。何等為十

          (Kinh: Tu học hết thảy các pháp Thiền tam-muội như thế, hăy nên biết có mười loại tướng môn theo thứ tự, gồm thâu trọn vẹn các nghiệp Thiền Định, có thể khiến cho người học thành tựu tương ứng, chẳng sai, chẳng lầm. Những ǵ là mười?)

 

          Lại nữa, Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy chúng ta, Thiền Định loại này có mười thứ tướng. Mười thứ tướng ấy đều do Thiền Định dấy lên tác dụng, Thiền Định dấy lên nghiệp dụng. Chúng sanh tu Thiền Định thế gian tương ứng với nguyện vọng của họ, Định lực do họ tu phù hợp với tướng thế gian, chẳng đạt được [lợi ích] xuất thế gian, chẳng thể liễu sanh tử được. Thiền Định liễu sanh tử cũng phải đoạn Kiến Hoặc và Tư Hoặc, Thiền Định thế gian chẳng thể đoạn Hoặc. Do vậy, Địa Tạng Bồ Tát nói chúng sanh muốn tu học hết thảy các pháp Thiền tam-muội, phải nên biết có mười loại tướng môn theo thứ tự. Tu Định có thế gian Định và xuất thế gian Định, có môn tam-muội Định đốn siêu trực nhập, hoặc tu tập vô tướng Thiền Định. Thiền Định thế gian là Thiền Định hữu tướng, nhưng trong loại Thiền Định này có mười loại tướng môn, thành tựu sự nghiệp Thiền Định, thành tựu tác dụng Thiền Định.

          Tu học hết thảy các pháp Thiền tam-muội như thế, Địa Tạng Vương Bồ Tát nói nếu tu học hết thảy Thiền Định, tu tập pháp Thiền Định, hăy nên biết, hăy nên hiểu, biết là có thứ tự phải nên hiểu rơ. Có bao nhiêu loại theo thứ tự? Mười loại. Mười loại ấy đều nhiếp thọ nghiệp dụng tu hành của Thiền Định. Quư vị nương theo loại nào tu hành, sẽ tương ứng với loại đó, chẳng sai chạy, chẳng lầm loạn. Đấy là nói chung, phải ĺa khỏi tướng thế gian để tu tập Thiền Định vô tướng, hoặc là nương vào tướng thế gian để tu tập Thiền Định hữu tướng. Hữu tướng Thiền Định và vô tướng Thiền Định đại khái được chia thành mười loại tướng môn, tức là đối với Chỉ trong “Chỉ Quán song vận”, có mười tướng môn tu tập Chỉ. “Chỉ” là Thiền Định, Thiền Định được nói đơn giản là Chỉ. Nếu quư vị chẳng dựa theo quy định của mười môn ấy để tu hành, thế gian Thiền cũng chẳng thành được, mà xuất thế gian Thiền càng chẳng thành được! Mười loại môn ấy có hàm nghĩa là ǵ, dưới đây sẽ giải thích danh tướng của mười môn tu Thiền Định ấy.

          Sơ Thiền thế gian cũng chẳng dễ thành tựu. Chúng ta thường khuyết thiếu Định lực, làm chuyện ǵ tâm cũng chẳng thể quyết định được. Do quư vị chẳng định được, sẽ phán đoán sai lầm: Điều này là đúng hay sai? Làm thế nào mới là đúng, mới có thể thành tựu? V́ quư vị chẳng định, huệ tâm, tức cái tâm trí huệ chẳng thể nẩy sanh nổi. Huệ là phân biệt liễu giải. Quư vị lấy hay bỏ, chẳng thể quyết định được, v́ chẳng có định lực. Giống như chúng ta làm một chuyện, chuyện ấy có làm được hay không? C̣n có người t́m tới quư vị tính hợp tác buôn bán, quư vị muốn làm, cũng muốn kiếm tiền, lại sợ bị lỗ lă, làm như thế nào đây? Chẳng quyết định được! Vậy th́ quư vị hăy tu đi. Tu như thế nào? Tu tĩnh lặng. Chẳng hạn như b́nh thường chúng ta làm chuyện ǵ, có người nói với quư vị, lúc đó, quư vị chẳng dám quyết định, “đợi tôi suy nghĩ một lát đă!” “Đợi cho quư vị suy nghĩ” chính là Định. Đă định sẽ sanh trí huệ. Suy nghĩ chuyện ấy từ đầu tới cuối một phen [để quư vị quyết định] nên làm hay chẳng nên làm. Có thể làm chiếm mấy phần, không thể làm chiếm mấy phần? [Suy xét thấy khả năng] có thể làm chiếm sáu phần th́ quư vị có thể làm. Không thể làm chiếm sáu phần, vậy th́ quyết định tuyệt đối chớ làm. Đây là sức phán đoán của chính ḿnh, điều này vẫn hợp lư. Trong khi chúng ta tu hành, chỉ dựa vào trí huệ của quư vị để quan sát. Khi quan sát, sẽ có phương tiện thiện xảo. Trước khi tu tập, sẽ có hai mươi lăm loại phương tiện, chúng tôi chẳng giải thích từng điều một. Đại khái, chỉ giải thích vài trường hợp, mọi người có thể tự tra cứu. Nói chung th́ có mười loại [tướng môn].

 

          (Kinh) Nhất giả, nhiếp niệm phương tiện tướng.

          ()一者摄念方便相。

          (Kinh: Một là tướng phương tiện nhiếp niệm).

 

          Tu tập Thiền Định th́ quư vị phải khéo thâu nhiếp ư niệm. Vọng tưởng tơi bời th́ có thể tu Thiền Định hay không? Nhiếp niệm th́ chẳng dễ ǵ có thể ngay lập tức thâu nhiếp ư niệm. Tưởng Đông, nghĩ Tây, hăy thống nhất ư niệm lại. Thống nhất bằng cách nào? Chẳng đơn giản như vậy! Trừ sạch cảnh giới ngũ dục “tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê”. Quư vị có “tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê” th́ c̣n có thể tu hành hay không? Quở trách ngũ dục, bỏ Ngũ Cái. “Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê là năm cội rễ của địa ngục”, hăy quở trách, vứt bỏ chúng. Điều phục năm sự, hành năm pháp. Đó là pháp môn Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật, tu Chỉ đơn giản.

 

          (Kinh) Nhị giả, dục trụ cảnh giới tướng.

          ()二者欲住境界相。

          (Kinh: Hai là tướng muốn trụ trong cảnh giới).

 

          Thế nào là “dục trụ cảnh giới tướng”? Trong là quán cái tâm của quư vị, cái tâm ấy bất động. Tâm nhất định duyên theo cảnh giới bên ngoài. Tâm nào ắt cũng duyên theo cảnh, ngưng lặng hết thảy cảnh giới, chỉ quán nhất tâm. Nói đơn giản, quư vị khiến cho tất cả suy nghĩ trong tâm đều chẳng suy tưởng nữa, tĩnh lặng nó. Tâm chẳng nắm níu (phan duyên), ngoại cảnh ǵ cũng đều chẳng nắm níu, thậm chí ngay cả niệm Phật cũng chẳng niệm. Quư vị tĩnh, mong tu Định, niệm Phật chẳng định được. Quư vị chẳng niệm, nhiếp tĩnh, tu định, chẳng có chút tạp niệm nào. Đó gọi là “trực tâm chánh niệm Chân Như. “Chân” là chân thật, chẳng dối. “Như” là như như bất động, khôi phục cái tâm vốn sẵn có của quư vị. Hễ có một niệm, sẽ đều là hư vọng. Cái tâm tĩnh lặng, ngưng dứt như thế. Mỗi tâm đều có tâm sở, tâm sở sẽ duyên theo tướng cảnh giới, hăy đều ngưng dứt chúng. Phương tiện để nhiếp niệm là như thế đó. Mong trụ trong tướng cảnh giới, khiến cho tướng cảnh giới đều tiêu mất. Khi [cái tâm] muốn trụ trong tướng cảnh giới, hăy khiến cho nó chẳng trụ trong tướng cảnh giới. Khi chúng ta tu Quán, có rất nhiều phương tiện. Tu Sổ Tức Quán đếm số, đếm số sẽ tĩnh lặng, đấy là phương tiện. Đó là dạy chúng ta trực tâm chánh niệm Chân Như. Quán pháp Chân Như là chân thật, chẳng giả, như như bất động, ngưng lặng các pháp sở duyên.

 

          (Kinh) Tam giả, sơ trụ cảnh giới phân minh liễu liễu, tri xuất, tri nhập tướng.
         
()三者初住境界分明了了知出知入相。

          (Kinh: Ba là hiểu rành rẽ phân minh cảnh giới vừa mới trụ tâm, biết tướng xuất, biết tướng nhập).

 

          Quán hơi thở, c̣n gọi là Sổ Tức Quán. Quư vị thở ra, hít vào, một hơi thở ra, một hơi hít vào; thoạt đầu là nhận biết rành rẽ, phân minh, định tâm nơi hơi thở ra vào. Đó là phương pháp để tu tập Định, là phương pháp sơ bộ để tu tập Định. Đấy chẳng phải là cảnh giới Đại Thừa, mà là phương tiện thiện xảo, tức là phương tiện thiện xảo để tu tập Định. Do sự thiện xảo ấy, cái tâm quư vị có thể an trụ, có thể khiến cho cái tâm an trụ. Đó gọi là quán hơi thở, là một phương pháp tu Định thông thường. Quư vị chú tâm nơi “xuất nhập tức”, tức là hơi thở ra vào, quán sát nó, sẽ định, các tạp niệm khác đều chẳng c̣n nữa. Chỉ có quán hơi thở ra vào, cái tâm trụ nơi hơi thở ra vào. Sau khi cái tâm đă định, lại tu Chân Như Thật Tướng Quán. Chân Như Thật Tướng Quán là bước đầu để tu Chân Không Tuyệt Tướng Quán. Trong kinh Hoa Nghiêm có nói tới Chân Không Tuyệt Tướng Quán, hết thảy các pháp đều là Không. Cái Không ấy là Giả Không, Quán là Chân Không tuyệt tướng. Đó là môn Quán thứ nhất trong Hoa Nghiêm Tam Quán, tức Chân Không Tuyệt Tướng Quán. Chân Không là chẳng có hết thảy các tướng. Đem cái tâm trụ vào đâu? Các pháp đều là Không, trụ nơi Không. Trong quá tŕnh tu hành, tâm quư vị có thể an trụ nơi Không, dần dần sẽ định. Chẳng phải là thoạt đầu chúng ta có thể ngay lập tức trụ tâm nơi Không, quư vị phải rèn luyện trước nơi hơi thở ra vào, phải hiểu rơ ràng. Nhưng khi quư vị bắt đầu thực hiện, niệm nào cũng là niệm sai, niệm nào cũng là thất niệm, lại phải kéo cái tâm trở lại. Nhất định phải quán rơ ràng hơi thở ra, hít vào, đợi cho tới khi đối với bất cứ niệm nào, hơi thở ra vào cũng đều chẳng c̣n nữa, sẽ định. Phương pháp là như thế mà thôi!

 

          (Kinh) Tứ giả, thiện trụ cảnh giới đắc kiên cố tướng.

          ()四者善住境界得堅固相。

          (Kinh: Bốn là tướng khéo trụ trong cảnh giới, đạt được kiên cố).

 

          Tu quán hơi thở ra vào, khiến cho hết thảy các tâm vọng tưởng đều chẳng c̣n. Đó là trụ trong quán hơi thở ra vào.

 

          (Kinh) Ngũ giả, sở tác tư duy phương tiện dũng mănh chuyển cầu tấn thú tướng.

          ()五者所作思惟方便勇猛轉求進趣相。

          (Kinh: Năm là tướng tạo các phương tiện tư duy dũng mănh, cầu tiến nhập cao hơn).

 

          Lại tu Chân Như Thật Tướng Quán. Hơi thở ra vào chẳng có, rỗng không. Sau đó, tiến nhập Chân Như Thật Tướng Quán rồi Chân Không Tuyệt Tướng Quán. Trong kinh Hoa Nghiêm, tu Chân Không Tuyệt Tướng Quán tức là hết thảy các pháp chẳng lập, chẳng có. Trong tâm ư niệm ǵ khác cũng đều chẳng dấy lên, chẳng tư duy. Nhưng quư vị chẳng thể tiến nhập, phải tu phương tiện. Tu cách tiến nhập ấy như thế nào? Tu pháp “an Bát Nhă”.

 

          (Kinh) Lục giả, tiệm đắc điều thuận xứng tâm hỷ lạc, trừ nghi hoặc, tín giải tự an ủy tướng.

          ()六者漸得調順稱心喜樂除疑惑信解自安慰相。

          (Kinh: Sáu là tướng dần dần được điều thuận, vừa ḷng, vui mừng, trừ nghi hoặc, tin hiểu, tự an ủi).

 

          “An Bát Nhă pháp” là phương tiện thiện xảo quán hơi thở ra vào. Từ phương tiện này mà xúc tiến tới tuyệt tướng (dứt bặt các tướng). Đă vận dụng xong phương tiện thiện xảo ấy, chẳng cần tới phương tiện ấy nữa, trong tâm đă điều thuận. Trên đây là phương tiện thiện xảo. Tướng hỷ lạc vừa ḷng, trừ nghi hoặc, tín giải, tự an ủi, đó là tu Thể Chân Chỉ Quán. Thể Chân Chỉ [trong Thể Chân Chỉ Quán] tương ứng với Định: Cái tâm của quư vị thật sự định, phát sanh sự tịnh minh (sáng suốt thanh tịnh), quư vị cảm thấy cái tâm của chính ḿnh rất thanh tịnh. Hễ thanh tịnh bèn phát sanh một loại trí huệ, trí huệ là Minh, tức chiếu soi. Khi đó, quư vị nhận biết, chiếu tỏ cái tâm của chính ḿnh, chẳng sanh một niệm, vạn pháp đều là Không. Cảnh giới ấy chẳng phải là một hai tháng bèn có thể tu được. Văn tự chỉ nói đơn giản như thế đó, khi quư vị tu tập rất khó. Trước hết, phải chế ngự cái tâm nhất xứ, chiếu hết thảy mọi nơi, đó gọi là “giác minh”. “Giác minh” tức là đối với tín giải, nghi hoặc nào cũng đều chẳng có, đều diệt trừ, đó là tướng trong sáng. Nhưng khi đạt được tướng ấy th́ gọi là “định pháp”. Định pháp ấy có thể nhiếp tŕ cái tâm của quư vị; tâm chẳng có một tí tán loạn nào, chế ngự tâm vào một chỗ. Quư vị chế ngự cái tâm vào một chỗ, đạt tới cảnh giới ấy, khi đó, quư vị sẽ mở mang trí huệ. Chuyện nào chẳng hiểu rơ, chẳng lư giải, sẽ ngay lập tức hiểu rơ. Hiểu rơ tức là trí huệ mở mang, sáng tỏ. Nếu đối với những nghĩa lư và văn tự thâm áo trong kinh điển mà chẳng thể tiến nhập ngay khi ấy, hăy lắng ḷng, buông xuống hết thảy, tĩnh đến mức thật sự phát sanh sáng suốt, bèn quay lại soi xét vấn đề. Quư vị sẽ lập tức có thể hay biết, sẽ hiểu phải lư giải vấn đề như thế nào. Khi đó gọi là “an Bát Nhă”. Đó là lợi ích do tu Định.

 

          (Kinh) Thất giả, khắc hoạch thắng tấn ư sở chuyên giả, thiểu phần tương ứng giác tri lợi ích tướng.

          ()七者克獲勝進意所專者少分相應覺知利益相。

          (Kinh: Bảy là tướng có thể đạt được ư thắng tấn do chuyên chú, có chút phần tương ứng với lợi ích do hay biết).

 

          Thoạt khởi đầu, quư vị ắt phải biết rơ ràng từng hơi thở ra, hít vào; đó là Quán. Cho đến khi hô hấp đă ngừng, v́ c̣n hô hấp th́ chưa đạt đến Định. Cho đến khi hô hấp đă ngưng dứt, đă đạt đến đôi chút Định nhất định, quư vị bèn hiểu rơ. Đấy vẫn là tướng thế gian, chưa phải là xuất thế định. Đă định rồi bèn không, đă Không bèn sanh ra sự minh tịnh. Minh tịnh là cái tâm của chính ḿnh thanh tịnh, hết sức vui mừng, hết sức sung sướng. Khi đó, sanh ra các tâm sở toàn là thiện tâm sở, sanh ra trí huệ. Đó gọi là tri kiến sáng suốt. Trong tâm chẳng có chút vướng mắc nào, hết sức vui sướng, đó gọi là giải thoát. Khi ấy, hết thảy các tướng cảnh giới trong tâm, thứ ǵ cũng đều chẳng có. Trong tâm điều ḥa, nhu nhuyễn, tịch tĩnh hiện tiền. Điều này được gọi là “có chút phần tương ứng với Định”. Đối với tướng cảnh giới ấy, dần dần tấn tu cao hơn th́ mới có thể khởi Quán.

          Tôi vừa mới nói kinh Hoa Nghiêm giảng về Chân Không Tuyệt Tướng, tướng ǵ cũng đều chẳng có. Chân Không bất không, Bất Không là ǵ? Thể. Thể là ǵ? Chân Như, tức là tướng của pháp giới. Thiền tu trong kinh Hoa Nghiêm thoạt đầu là tưởng như thế đó, nhưng đó là thế gian. Đă thành tựu rồi th́ mới có thể đạt tới xuất thế gian. Từ đó, có thể tiến nhập hết thảy các pháp Không. Điều này thuộc về Nhân Không. Đă Nhân Không rồi th́ mới có thể tiến nhập Pháp Không. Vừa mới tiến nhập Pháp Không, lại tiếp tục tấn tu, tiếp tục tấn tu cao hơn; đó là Không nghĩa xuất thế gian. Đạt được sự thắng tấn do ư chuyên chú, tức là sự hay biết có chút phần tương ứng với tướng lợi ích. Mấy câu ấy vừa mới giải thích điều này.

 

          (Kinh) Bát giả chuyển tu tăng minh sở tập kiên cố, đắc thắng công đức, đối trị thành tựu tướng.

          ()八者轉修增明所習堅固得勝功德對治成就相。

          (Kinh: Tám là tướng tu hành tăng thêm sáng suốt, tu tập kiên cố, đạt được công đức thù thắng, đối trị thành tựu).

 

          Lại tiến nhập, càng thêm tấn tu định lực ấy, tăng thêm trí huệ của quư vị. Định có thể sanh ra huệ, huệ có thể chiếu. Khi ấy, sẽ đạt được công đức. Tướng tu tập kiên cố, đạt được công đức thù thắng, có thể đối trị thành tựu. Tướng đối trị thành tựu là chẳng tham đắm, nhưng vẫn ở trong tam giới. Đấy là cảnh giới Sơ Thiền, vẫn chưa phải là Thiền Định xuất thế gian.

 

          (Kinh) Cửu giả, tùy tâm hữu sở niệm tác ngoại hiện công nghiệp như ư tương ứng bất thác, bất mậu tướng.

          ()九者隨心有所念作外現功業如意相應不錯不謬相。

          (Kinh: Chín là tướng tùy thuộc cái tâm có ư niệm [muốn làm ǵ], sẽ thực hiện thành các nghiệp công đức bên ngoài, đều tương ứng như ư, chẳng sai, chẳng lầm).

 

          Do định lực của quư vị tăng trưởng, trí huệ nơi tâm bèn tăng trưởng. Đối với định lực mà quư vị đă tu tập bèn có thể kiên cố. Bất cứ lúc nào, hễ tĩnh tọa bèn có thể sanh ra Định lực. Định th́ có sự chiếu soi sáng suốt. Khi ấy, sẽ sanh khởi công đức thù thắng có thể đối trị phiền năo. Đối trị phiền năo chẳng phải là đoạn, chỉ là đối trị, tức hàng phục nó. Khi ấy, tất cả những tác ư trong tâm quư vị đều có thể sanh ra công đức lợi ích. Khi tác ư (sanh khởi ư niệm), chẳng có ác niệm, mà cũng chẳng có hết thảy các tướng cảnh giới, ngay cả thiện cũng chẳng sanh. Thiện và ác hai đường đều tĩnh lặng, tương ứng với tư tưởng, ư niệm, và cái tâm của quư vị đều chẳng sai, chẳng lầm. Nói theo giáo nghĩa, điều này được gọi là Cửu Thứ Đệ Định, v́ quư vị từ thế gian định mới tiến nhập xuất thế gian định. Xuất thế gian định sâu lắm.

 

          (Kinh) Thập giả, nhược cánh dị tu, y tiền sở đắc nhi khởi phương tiện, thứ đệ thành tựu xuất nhập tùy tâm, siêu việt tự tại tướng.

          ()十者若更異修依前所得而起方便。次第成就出入隨心超越自在相。

          (Kinh: Mười là tướng nếu lại tu thêm các pháp khác, nương theo các điều đă đạt được trước đó để khởi phương tiện, theo thứ tự thành tựu xuất nhập tùy tâm, siêu việt tự tại).

 

          Bởi vậy, nếu muốn tu thêm các pháp khác, hăy nương theo sức mạnh đă đạt được trước đó, tức sức mạnh của Định, lại sanh khởi phương tiện, theo thứ tự thành tựu tướng xuất nhập tùy tâm, siêu việt tự tại. Loại cảnh giới này vẫn thuộc vào Tịch Định của nhân gian, thuộc về Tứ Thiền Tứ Vô Sắc Định. Dùng quan niệm này để huân tập hết thảy công phu Thiền Định và định lực trong nhân gian. Nói theo giáo nghĩa, đó chính là sức phương tiện của Thiền Định do Sơ Thiền sanh khởi. Lại tấn tu cao hơn như thế, theo thứ tự thành tựu; khi đó, cái tâm xuất nhập dấy lên ư niệm, hay ngưng dứt ư niệm, tức là khởi tâm động niệm. Lúc ấy, đối với Hữu và Vô, tức là đối với có và chẳng có, không và bất không, sẽ chẳng có ư niệm phân biệt. Tâm niệm chẳng có sự phân biệt ấy. Khi đó mới có thể tiến hơn bước nữa là quán sát cái tâm, hết thảy hơi thở ra vào, khởi niệm, dứt niệm, đều nương theo cái tâm mà tự tại. Loại tướng thứ mười chính là “thứ đệ tướng” (tướng theo thứ tự).

 

          (Kinh) Thị danh thập chủng thứ đệ tướng môn, nhiếp tu Thiền Định chi nghiệp.

          ()是名十種次第相門。攝修禪定之業。

          (Kinh: Đó gọi là mười thứ tướng môn theo thứ tự, gồm thâu sự tu tập các nghiệp Thiền Định).

 

          [Nói tới chuyện] tu nghiệp Thiền Định này và tác dụng của tu Thiền Định, dù nói theo Duy Tâm Quán, hoặc tu Chân Như Thật Tướng Quán, hoặc Thiền Định theo tướng thế gian, hay xuất thế gian Thiền Định, đều là từng bước một, từ thế gian Định đạt tới xuất thế gian Định. Đó là nói theo thứ tự, chẳng phải là Đốn Siêu. Thiền Tông chẳng nói theo thứ tự: Đốn siêu trực nhập, quán thẳng vào tâm tánh, quán duy tâm sở hiện, vạn pháp duy tâm, tâm tịnh th́ hết thảy các tướng cảnh giới hoàn toàn diệt mất. “Cảnh diệt, tâm tịnh, loại Thiền Định ấy là đại định, đó là xuất thế gian Thiền Định. Nhưng Địa Tạng Vương Bồ Tát nói với Kiên Tịnh Tín Bồ Tát như thế này: Phàm phu thoạt đầu khởi sự tu Thiền Định, từ Sơ Thiền Thiên cho đến Nhị Thiền Thiên, Tam Thiền Thiên, Tứ Thiền Thiên, đó là gần gũi, nông cạn. Khi Địa Tạng Vương nói với Kiên Tịnh Tín Bồ Tát, trong loại Thiền Định nông cạn đă hàm nhiếp Thiền Định rất sâu. Mọi người có hiểu ư nghĩa này hay không? Điều bất đồng với những cách tu Thiền Định nhân gian là ǵ vậy? Môn Thiền Định ấy chẳng rốt ráo, là môn Thiền Định phương tiện thiện xảo. V́ thế, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát bèn nẩy sanh nghi vấn.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát vấn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: “Nhữ vân hà xảo thuyết thâm pháp, năng linh chúng sanh đắc ly khiếp nhược?”

          ()爾時堅淨信菩薩摩薩問地藏菩薩摩薩言。汝云何巧說深法。能令衆生得離怯弱。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát hỏi Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “V́ sao Ngài khéo nói pháp sâu khiến cho chúng sanh ĺa khỏi khiếp sợ?”)

 

          Kiên Tịnh Tín Bồ Tát liền thưa cùng Địa Tạng Bồ Tát: Ngài nói pháp này chẳng phải là pháp sâu, phải nên nói pháp rất sâu. Câu “nhữ vân hà xảo thuyết thâm pháp, năng linh chúng sanh ly khiếp nhược?” Ư nói: Loại thế gian Thiền Định này chẳng phải là pháp sâu, vẫn mong Địa Tạng Bồ Tát sẽ khéo léo nói thêm phương tiện thiện xảo, ḥng khiến cho chúng sanh ĺa khỏi ư tưởng khiếp nhược. “Khiếp” () là chẳng dám tu, Khiếp đă hàm chứa ư nghĩa Nhược (, yếu hèn), chẳng có sức mạnh. Loại chúng sanh này là chúng sanh độn căn mong tu Đại Thừa. Tam Quán Không, Giả, Trung là từ tứ giáo [trong tông Thiên Thai] định ra, c̣n kinh Hoa Nghiêm là Chân Không Tuyệt Tướng Quán, Lư Sự Vô Ngại Quán, và Châu Biến Hàm Dung Quán. Các loại Quán ấy chính là Định, Định chính là Quán. Đoạn kinh văn này mang ư nghĩa: Phải có phương tiện thiện xảo như thế nào để khiến cho họ có thể tu quán hạnh Đại Thừa, có thể dấy lên sự giác ngộ rất sâu. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát nói: Từ trước đến đây, Ngài toàn nói về Thiền Định thế gian, đó là pháp chẳng liễu sanh tử. Mong liễu sanh tử, chứng Niết Bàn, công phu Thiền Định phương tiện thiện xảo Đại Thừa, Thiền Định thuộc cảnh giới Nhất Thật và trí huệ th́ chẳng phải là như vậy. Chẳng phải là Bồ Tát luôn lo nghĩ chúng sanh ngu độn, chẳng thể đốn nhập cảnh giới Nhất Thật, mà cũng chẳng thể lư giải, các phép Quán ấy chẳng phải là quán hạnh thuộc cảnh giới Nhất Thật ư? V́ thế, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thỉnh Địa Tạng Bồ Tát hăy nói Chân Như Thật Tướng Quán, Lư Sự Vô Ngại Quán, và Châu Biến Hàm Dung Quán thuộc cảnh giới Nhất Thừa. V́ chẳng thể tin cảnh giới Nhất Thật th́ mới phải cậy vào phương tiện thiện xảo. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát lại thỉnh Địa Tạng Vương Bồ Tát nói pháp rất sâu, đừng lo ngại chúng sanh khiếp nhược. “Khiếp nhược” có nghĩa là chẳng thể tiến nhập pháp Đại Thừa do căn tánh kém hèn. Lời này có ư nghĩa khuyến thỉnh, khuyến thỉnh Địa Tạng Bồ Tát hăy nói thâm Định, nói về trí huệ sâu xa. Địa Tạng Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo lại nói với Kiên Tịnh Tín Bồ Tát.

 

Tập 15

 

          (Kinh) Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: - Thiện nam tử! Đương tri sơ học phát ư, cầu hướng Đại Thừa, vị đắc tín tâm giả, ư vô thượng đạo thậm thâm chi pháp, hỷ sanh nghi khiếp, ngă đương dĩ xảo tiện tuyên hiển Thật Nghĩa, nhi an ủy chi, linh ly khiếp nhược. Thị cố, hiệu ngă vi Thiện An Ủy Thuyết giả. Vân hà an ủy? Sở vị độn căn tiểu tâm chúng sanh, văn vô thượng đạo, tối thắng, tối diệu, ư tuy tham nhạo, phát tâm nguyện hướng, nhi phục niệm: “Cầu vô thượng đạo giả, yếu tu tích công quảng cực, nan hành khổ hạnh, tự độ, độ tha, kiếp số trường viễn, ư sanh tử trung, cửu thọ cần khổ, phương năi đắc hoạch”. Dĩ thị chi cố, tâm sanh khiếp nhược.

          ()地藏菩薩摩訶薩言。善男子。當知初學發意。求向大乘未得信心者。於無上道甚深之法。喜生疑怯。我當以巧便宣顯實義而安慰之。令離怯弱。是故號我為善安慰說者。云何安慰。所謂鈍根小心眾生。聞無上道。最勝最妙。意雖貪樂發心愿向。而復思念。求無上道者。要須積功廣極。難行苦行。自度度他。劫數長遠。於生死中久受勤苦。方乃得獲。以是之故。心生怯弱。

          (Kinh: Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nói: - Này thiện nam tử! Hăy nên biết kẻ sơ học phát ư cầu hướng tới Đại Thừa mà chưa đạt được tín tâm, sẽ đối với pháp vô thượng đạo rất sâu, ưa sanh ḷng nghi, khiếp hăi. Ta dùng phương tiện thiện xảo để tuyên dương, hiển thị thật nghĩa ḥng an ủi họ, khiến cho họ ĺa khiếp nhược. V́ thế, họ gọi ta là Đấng Khéo Nói An Ủi. An ủi như thế nào? Tức là đối với chúng sanh độn căn, cái tâm nhỏ hẹp, nghe vô thượng đạo, thù thắng nhất, mầu nhiệm nhất, ư tuy tham ưa, phát tâm nguyện hướng về, nhưng lại suy nghĩ: “Để cầu vô thượng đạo th́ phải tích công lũy đức rộng lớn cùng cực, hành khổ hạnh khó làm, tự độ, độ người khác trong kiếp số dài lâu, chịu đựng siêng khổ dài lâu trong sanh tử th́ mới đạt được”. Do bởi lẽ ấy, tâm họ sanh khiếp nhược).

 

          Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nói: Thiện nam tử! Hăy nên biết kẻ sơ học phát ư, cầu hướng tới Đại Thừa, chưa đạt được tín tâm, đối với vô thượng đạo quá sâu, sẽ thích sanh ḷng nghi ngờ, khiếp sợ. Ta sẽ dùng phương tiện thiện xảo để tuyên nói thật nghĩa. Tuyên nói thật nghĩa ḥng an ủi, khiến họ ĺa khiếp nhược. Do vậy, ta được gọi Thiện An Ủy Thuyết Giả (đấng khéo nói an ủi). Đoạn kinh văn này ư nói: Phương tiện thiện xảo của Địa Tạng Bồ Tát có thể khiến cho chúng sanh chẳng có tín tâm sẽ sanh khởi tín tâm. Đó là nói về các chúng sanh chẳng tin pháp nghĩa Đại Thừa. Các chúng sanh b́nh phàm phát tâm thành Phật, đó là giáo nghĩa Đại Thừa. Họ chẳng dám phát cái tâm ấy, cho nên Địa Tạng Bồ Tát mới khuyên họ phát tâm thành Phật, dạy họ mong cầu, hướng về Đại Thừa. Đối với họ mà nói “liễu sanh tử, đạt được phước báo trong nhân gian”, các chúng sanh ấy dễ dàng tiếp nhận. [Bảo họ] “làm thiện sự, đắc thiện báo”, họ dễ dàng tiếp nhận. [Nếu bảo họ] “quư vị hăy tin Phật, phát tâm thành Phật”, [mà họ tiếp nhận, làm theo], chúng sanh loại này ít lắm! Có rất nhiều đạo hữu sau khi đă tin Phật, tôi nghĩ họ chẳng phát tâm thành Phật, gần giống như đoạn kinh văn này đă nói. Chúng ta phát tâm liễu sanh tử đă khá lắm rồi, mong cuộc sống trong hiện thời sẽ được an ủi, có thể giảm bớt các tai họa vô duyên vô cớ là đă măn nguyện lắm rồi. C̣n như nói “phát tâm xuất gia”, cho đến “phát tâm tin Phật, ta v́ thành Phật mới phát tâm tin Phật”, tôi nghe nói như vậy rất ít. Thật sự là như thế! Chúng sanh thời Mạt Pháp, kẻ phát tâm vâng theo liễu nghĩa Đại Thừa ít ỏi, phát tâm ĺa khổ, được vui, cho đến phát tâm ĺa sanh tử cũng ít lắm! Chứ kẻ phát tâm đạt được một ít phước báo trong nhân gian, cầu được an ủi trong đời hiện tại, loại này khá nhiều!

          Trong đoạn kinh văn này, Địa Tạng Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Giả sử có một loại chúng sanh mong cầu hướng đến Đại Thừa, nhưng tín tâm chẳng đủ, cho đến người đă phát tâm cầu Đại Thừa sẽ dễ dàng lui sụt. Đối với pháp nghĩa rất sâu này, họ hoài nghi. Họ thấy nói “hết thảy chúng sanh đều có thể thành Phật”, đối với lời dạy trong kinh th́ một là không tin, hai là tin nhưng hoài nghi. Đối với loại chúng sanh ấy, Địa Tạng Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: “Ta dùng phương tiện thiện xảo để an ủi họ, khiến cho họ phát Bồ Đề tâm”. Tôi nói trường hợp này thông tục hơn một chút: Thoạt đầu tin Phật, bèn phát tâm độ chúng sanh, đấy mới gọi là tâm Đại Thừa. Đă tin Phật, chẳng v́ cầu an lạc cho chính ḿnh, mà nguyện cho chúng sanh được hạnh phúc. Đó gọi là tâm Đại Thừa. Đó là pháp rất sâu. C̣n như đă phát tâm, tự ḿnh ngờ vực chính ḿnh có thể làm được hay không? Tôi thường nghe các đạo hữu nói: “Tôi ngay cả chính ḿnh c̣n chẳng độ được, tôi c̣n độ người khác ư?” Người nói kiểu ấy rất nhiều! Rất nhiều đạo hữu đă từng nghe thấy. Nghe thấy có người phát tâm Đại Thừa th́ như thế nào mới được coi là đă phát tâm Đại Thừa? Từ trước đến giờ, chẳng nói tới chính ḿnh, toàn là nói làm thế nào để khiến cho chúng sanh được nghe Phật pháp? Làm thế nào để khiến cho chúng sanh ĺa khổ, được vui? Các vị đạo hữu có thể nghe lẫn nhau nói như vậy. Các đạo hữu tin Phật chúng ta, chẳng v́ chính ḿnh, chỉ v́ người khác. Do vậy, nói theo giáo nghĩa trong kinh Đại Thừa, chẳng v́ cầu an lạc cho chính ḿnh, chỉ mong cho chúng sanh được hạnh phúc. Đó gọi là ư nghĩa “phát khởi rất sâu”. V́ sao chẳng thể phát cái tâm như vậy? Do khiếp nhược. Tự ḿnh suy tưởng: “Ta có thể liễu sanh tử đă là tuyệt diệu lắm rồi!” Chỉ có cái tâm cầu xuất ly cho chính ḿnh. Gặp hạng chúng sanh chẳng phát đại tâm ấy, Địa Tạng Bồ Tát khéo an ủi họ, khuyên họ phát Bồ Đề tâm, khuyên hành Bồ Tát đạo. Đó là chuyên nói với hạng chúng sanh chẳng phát đại tâm.

          “Khéo an ủi” là ǵ? Có thể khuyên chúng sanh phát đại tâm bằng cách nào? Trừ bỏ cái tâm nhỏ nhoi, khiếp nhược, trừ bỏ cái tâm chỉ v́ chính ḿnh, an ủi khiến cho họ phát tâm Đại Thừa. An ủi như thế nào? Dùng ngôn ngữ để an ủi. Địa Tạng Bồ Tát thốt ra lời lẽ an ủi. Đối với chúng sanh có cái tâm nhỏ hẹp, tức là chúng sanh chẳng phát Bồ Đề tâm, chỉ cầu chính ḿnh an lạc, bèn nói pháp môn hành Bồ Tát đạo thành Phật có công đức vi diệu thù thắng. Điều này có nghĩa là: Chẳng phải chính ḿnh có thể đoạn tham, sân, si là được rồi, mà c̣n phải khiến cho hết thảy chúng sanh đều đoạn tham, sân, si. Khiến cho họ phát tâm, không chỉ là cái tâm cầu xuất ly, mà c̣n là tâm tiến hướng Đại Thừa, khuyên hết thảy chúng sanh phát tâm thành Phật, phát nguyện “nguyện hướng đến Phật thừa, chỉ nghĩ tưởng vô thượng đạo. “Vô thượng đạo” là chuyên nói về Phật Thừa, đạt đến thành Phật rốt ráo. Nhưng thành Phật không chỉ đơn giản là một câu, phải rộng độ hết thảy chúng sanh, viên măn và thành tựu công đức lợi ích của quư vị và công đức của chúng sanh. Chuyện này chẳng thể [hoàn thành] trong một thời gian ngắn, mà là vô lượng ức kiếp, thời gian tự độ và độ người khác có thể rất dài. Nếu chỉ v́ chính ḿnh liễu sanh tử, đoạn dứt phiền năo, cho đến đoạn dứt Phần Đoạn Sanh Tử, nói theo đạo nghĩa, nói theo thời gian tu hành th́ c̣n dễ dàng, chứ khiến cho hết thảy chúng sanh đều thành Phật [chẳng dễ dàng đâu nhé]. Đó là cái nguyện của Địa Tạng Bồ Tát, nguyện cho hết thảy chúng sanh đều thành Phật. Đó chẳng phải chỉ là nguyện suông mà thôi! Đă nguyện rồi bèn có hành, hành là phát Bồ Đề tâm, khuyến hóa hết thảy chúng sanh th́ là Hành.

          Trong biển khổ sanh tử, chúng ta thường đều là liễu thoát chính ḿnh. Con người trong khổ nạn luôn mong làm thế nào để chính ḿnh xuất ly, trọn chẳng nghĩ đến làm cho chúng sanh đều xuất ly. Quên bẵng sự thống khổ của chính ḿnh, [chuyên nghĩ độ chúng sanh thoát khổ], đấy mới là người phát đại tâm. Địa Tạng Bồ Tát nói Ngài an ủi những kẻ chẳng phát đạo tâm, [tức là] những kẻ độn căn. Cái tâm của họ rất nhỏ, phân định lớn hay nhỏ như thế nào? Cái tâm nhỏ th́ sẽ là v́ chính ḿnh trước đă, sau đấy mới nói tới chuyện độ người khác. Đại tâm th́ độ người khác trước đă, chẳng có chính ḿnh, khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể tiến nhập pháp vi diệu rất sâu trong Phật đạo, phát nguyện tiến hướng thành Phật. Đồng thời c̣n mong tích lũy hết thảy công đức, phải hành khổ hạnh khó hành, chính ḿnh có thể làm được các chuyện kẻ b́nh phàm chẳng thể làm nổi. Thông thường, người hành đạo Bồ Tát, cho đến xả thân mạng để giúp đỡ người khác, chẳng so đo chuyện được mất đối với cá nhân ḿnh. Đó mới gọi là “hành Bồ Tát đạo”. Độ người khác chính là độ chính ḿnh.

          Tôi thường nghĩ như thế này: Trước khi chúng ta đốt củi, hoặc trong khi đốt củi, lửa chưa bốc lên, phải dùng một cái que nhỏ để khơi lửa. Cái que cời lửa ấy sẽ chọc cho ngọn lửa bốc cao hơn. Củi có không khí lùa vào th́ mới cháy được. Cái que cời lửa ấy ví như hành Bồ Tát đạo, độ hết sạch chúng sanh, nhưng chính ḿnh cũng bị đốt cháy, có hàm nghĩa giống như thế. Dùng điều này làm tỷ dụ, trong khi quư vị độ chúng sanh, khiến cho chúng sanh đoạn phiền năo, phiền năo của chính quư vị cũng bị đoạn dứt, có hàm nghĩa ấy. Nhưng phải trải qua một thời gian rất dài, chẳng phải là một, hai kiếp, mà là nói vô lượng kiếp, hoặc [tối thiểu là] ba đại kiếp, tức là nói tới thời gian cực dài!

          Bồ Tát chẳng sợ sanh tử. Quư vị độ chúng sanh, phải ở trong sanh tử khổ nạn để độ chúng sanh, như chúng ta phát tâm cầu sanh thế giới Cực Lạc, tới thế giới Cực Lạc là để quư vị độ người khác, hay người khác độ quư vị? Trong thế giới Cực Lạc, quư vị độ ai? Quư vị có sức mạnh ǵ để độ kẻ khác hay chăng? Nhưng do cái tâm của chúng ta khiếp nhược, bèn sanh về thế giới Cực Lạc để thành đạo rồi mới trở lại Sa Bà độ chúng sanh. Nếu sanh về thế giới Cực Lạc th́ phát đại tâm như thế nào? Chúng ta cầu sanh về thế giới Cực Lạc, giống như chúng ta đi học bản lănh để giúp đỡ người khác. Chẳng có bản lănh mà toan giúp người khác, muốn cho người khác ĺa khổ, được vui, nhưng chính ḿnh chẳng có phương pháp. Do vậy, cầu sanh về thế giới Cực Lạc để đến học tập ở bên đó, học phương pháp lợi sanh rồi quay trở lại độ người khác. Nhưng phát tâm cầu sanh thế giới Cực Lạc, chẳng phải v́ chính ḿnh, mà là v́ muốn lợi ích chúng sanh mà phát tâm cầu sanh thế giới Cực Lạc. Mọi người hăy cân nhắc một phen, hai điều này như nhau: Một là phát tâm sanh về thế giới Cực Lạc để chính ḿnh liễu sanh tử, một đằng là phát tâm tới thế giới Cực Lạc ḥng lợi ích chúng sanh. Đó gọi là “phát Bồ Đề tâm”.

          Nhưng chúng ta ở trong sanh tử, chịu khá nhiều khổ nạn trong lục đạo luân hồi, chúng ta không sợ hăi, bao kiếp dài lâu ở giữa hết thảy chúng sanh khổ nạn để độ chúng sanh khổ nạn. Quư vị mong độ chúng sanh, mà chẳng vào giữa chúng sanh, quư vị có thể độ chúng sanh hay không? Chẳng sợ sanh tử, chẳng sợ hết thảy khổ nạn, phải độ tận chúng sanh. V́ chính ḿnh mà cầu giải thoát th́ khá dễ dàng! Nếu khiến cho hết thảy chúng sanh đều giải thoát, chuyện này hết sức khó khăn. Nghĩa Đại Thừa này vừa phát khởi liền thoái đọa, chẳng dễ phát được! Chẳng hạn như ngài Xá Lợi Phất muốn phát tâm Bồ Tát độ chúng sanh. Ngài mới vừa phát Bồ Đề tâm, Đế Thích Thiên liền hóa thành người để thăm ḍ Ngài một phen, coi xem Ngài phát đại tâm là thật hay giả. Ông ta liền hóa hiện thành một cô bé nghèo nàn, khóc ở ven đường. Ngài Xá Lợi Phất hỏi cô bé: “Con khóc v́ chuyện ǵ?” Cô bé thưa: “Mẹ con bị bệnh. Thuốc th́ t́m được, nhưng chẳng có chất dẫn thuốc”. Ngài Xá Lợi Phất hỏi cô bé: “[Để có được] chất dẫn thuốc ấy, sẽ gặp khó khăn ǵ?” Cô bé đáp: “Hết sức khó!” Ngài Xá Lợi Phất hỏi: “Cần chất dẫn thuốc ǵ vậy?” Cô bé đáp: “Phải t́m mắt của người c̣n sống, mắt của người đă chết không được! Phải t́m mắt của người c̣n đang sống”. Ngài Xá Lợi Phất vừa nghe nói, [suy tưởng]:
“Ta vừa mới phát Bồ Đề tâm đă gặp chuyện này; có nên xả hay không? Không xả th́ ta đă phát Bồ Đề tâm. Xả th́ bố thí con mắt rất khó, chẳng phải là tiền tài!” Ngài vẫn kiên định thí cho cô ta, liền móc con mắt trái cho cô ta. Cô bé nói: “Ông móc sai mất rồi! Cháu cần con mắt bên phải!” Ngài Xá Lợi Phất nói: “Sao cháu không nói sớm?” Trong tâm Ngài c̣n có chút hối hận, nhưng vẫn chưa hoàn toàn lui sụt hối hận, con mắt phải cũng móc ra cho cô ta: “Dẫu sao ta có Thiên Nhăn, không sao!
Móc cho cô ta vậy!” Đứa bé ấy cầm lấy con mắt ngửi, chê bai: “Tanh hôi phát ói! Dùng làm thuốc uống sao được?” Vứt đánh phẹt xuống đất, lại c̣n giẫm nát. Ngài Xá Lợi Phất liền thoái thất đạo tâm, nói “Bồ Tát đạo khó hành”, chẳng phải là nói suông rồi thôi!  

          Như ngài Xá Lợi Phất, [xét theo] trí huệ và công đức do Ngài tu được, Kiến Tư Hoặc đều đoạn dứt, phát đại Bồ Đề tâm, mà c̣n ngă ḷng! Chúng tôi cũng thường nói: “Nếu cá nhân chúng ta cũng mong học phát Bồ Đề tâm, giúp đỡ người khác, đợi cho tới khi chính ḿnh chịu khổ nạn, sẽ nghĩ ngay cả độ chính ḿnh c̣n khó khăn, làm sao giúp đỡ người khác!” V́ sao? Trong khổ nạn bèn hoài nghi Phật, Bồ Tát chẳng linh. [Do ngờ vực] chẳng linh, trong tâm dấy lên hoài nghi. Tự cho rằng chính ḿnh chẳng có sai lầm ǵ, cớ sao phải thọ báo? Đó đều là kẻ độn căn Tiểu Thừa. Nếu là người phát đại tâm Bồ Đề, phát khởi cái tâm vô thượng đạo thù thắng nhất, đúng là rất khó. Đă phát tâm, phát nguyện, chúng ta hằng ngày đều phát nguyện. Hằng ngày chúng ta đều xướng bài tán, tức là xướng kệ tụng về Tứ Hoằng Thệ Nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Một điều cũng chẳng làm được! Phát nguyện rỗng tuếch! Hễ cảnh giới hiện tiền bèn lui sụt. Gặp phải tai nạn, sẽ chẳng do tai nạn liền giúp đỡ người khác, mà c̣n bỏ chạy nhanh hơn ai hết! Vậy th́ độ chúng sanh bằng cách nào?

          V́ thế, chúng sanh độn căn, Tiểu Thừa, mong phát tâm thù thắng, mầu nhiệm, nhưng chẳng làm được, khổ hạnh khó khăn lắm! Chúng ta thường nghe nói “chính ḿnh c̣n chẳng độ được, làm sao độ người khác?” Câu ấy rất thường nghe nói! Nhưng các đệ tử đạo hữu đang hiện diện đều hiểu Phật pháp, quư vị có thể giúp kẻ không tin trở thành tin Phật pháp, đó là chuyện chẳng dễ dàng. Chẳng phải là quư vị vừa khuyên lơn, họ sẽ tin, quư vị phải hành khá nhiều phương tiện. Gặp phải mấy phen thử thách, quư vị chẳng dám nói nữa. Đặc biệt là đối với người không tin Phật, quư vị khuyên họ tin Phật, đó vẫn là chuyện b́nh thường. Nhưng đặc biệt là trong lúc nguy nan, chính quư vị c̣n đang ở trong cảnh nguy nan, giả sử như chúng ta đang ở trong biển khổ sanh tử, chẳng mong chính ḿnh chịu khổ nạn trong biển khổ, lại thấy người khác gặp khổ nạn [bèn phát tâm cứu giúp người đó trước đă]; đấy mới thật sự là lợi ích chúng sanh. V́ thế, hạnh khổ, hạnh khó, tự độ, độ người khác, thời gian dài lâu, chẳng phải là một, hai lượt, một ngày, một kiếp, hai kiếp, chẳng phải trong thọ mạng một trăm năm của chúng ta, mà là trong vô lượng, vô lượng đời. Địa Tạng Bồ Tát đối với loại chúng sanh này, khéo an ủi, khéo nói phương tiện. Đấy là chúng tôi nói tới định nghĩa chân thật của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. [Thế mà] chúng ta cứ coi kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo giống như một bản kinh tầm thường, hoặc nghĩ nửa đầu của kinh là kinh điển Tiểu Thừa, nửa sau hoàn toàn là cảnh giới Hoa Nghiêm.

 

          (Kinh) Ngă tức vị thuyết chân thật chi nghĩa, sở vị nhất thiết chư pháp bổn tánh tự Không, tất cánh vô ngă, vô tác, vô thọ, vô tự, vô tha, vô hành, vô đáo, vô hữu phương sở, diệc vô quá khứ, hiện tại, vị lai, năi chí vị thuyết thập bát Không đẳng, vô hữu sanh tử, Niết Bàn. Nhất thiết chư pháp định thật chi tướng nhi khả đắc giả. Hựu phục vị thuyết nhất thiết chư pháp như huyễn, như hóa, như thủy trung nguyệt, như kính trung tượng, như Càn Thát Bà thành, như không cốc hưởng, như dương diễm, như bào, như lộ, như đăng, như mục ế, như mộng, như điện, như vân. Phiền năo sanh tử tánh thậm vi nhược, dị khả linh diệt. Hựu phiền năo, sanh tử tất cánh vô thể, cầu bất khả đắc, bổn lai bất sanh, thật cánh vô diệt. Tự tánh tịch tĩnh, tức thị Niết Bàn.

          ()我即爲說真實之義。所謂一切諸法本性自空。畢竟無我無作無受。無自無他。無行無到。無有方所。亦無過去現在未來。乃至爲說十八空等。無有生死涅槃。一切諸法定實之相而可得者。又復爲說。一切諸法如幻如化。如水中月。如鏡中像。如闥婆城。如空谷響。如陽焰。如泡。如露。如燈。如目。如夢。如電。如雲。煩惱生死性甚微弱。易可滅。又煩惱生死畢竟無體。求不可得。本來不生。實更無滅。自性寂靜。即是涅槃。

          (Kinh: Ta liền v́ kẻ đó nói nghĩa chân thật, tức là bổn tánh của hết thảy các pháp tự Không, rốt ráo vô ngă, vô tác, chẳng lănh thọ, chẳng tự, chẳng tha, chẳng đi, chẳng đến, chẳng có nơi chốn, cũng chẳng có quá khứ, hiện tại, vị lai, cho tới nói mười tám thứ Không v.v… Chẳng có sanh tử và Niết Bàn, [cũng như chẳng có] tướng chắc thật của hết thảy các pháp để có thể đạt được. Lại v́ họ nói hết thảy các pháp như huyễn, như hóa, như trăng trong nước, như h́nh tượng trong gương, như thành Càn Thát Bà, như tiếng vang nơi hang trống, như ánh nắng gợn, như bọt nước, như sương, như mắt quáng, như chớp, như mây. Tánh của phiền năo và sanh tử hết sức yếu nhỏ, dễ dàng bị diệt mất. Hơn nữa, phiền năo và sanh tử rốt ráo chẳng có Thể, cầu chẳng thể được, nó vốn chẳng sanh, lại thật sự chẳng diệt. Tự tánh tịch tĩnh, tức là Niết Bàn).

 

          Gặp loại chúng sanh ấy, Địa Tạng Bồ Tát dùng thiện xảo phương tiện để nói ư nghĩa chân thật với họ. Ư nghĩa chân thật chính là ư nghĩa thành Phật. Ư nghĩa chân thật là ǵ? Bổn tánh của hết thảy các pháp tự là Không; đấy là ư nghĩa chân thật. Quư vị thấy bất cứ pháp môn nào của Phật, mắt thấy, tai nghe, tâm nghĩ, sáu căn tiếp xúc, đều là ư nghĩa chân thật. Trước hết, chính quư vị cần phải lư giải điều này, v́ nó đều phát sanh từ tự tánh. Trước hết, lư giải tự tánh vốn là Không, hết thảy các pháp đều là Không. Tự ḿnh lư giải, lại c̣n tuyên giảng loại phương pháp ấy cho hết thảy chúng sanh, nói hết thảy các pháp vô ngă, vô nhân, chẳng tự, chẳng tha. “Chẳng có hết thảy các pháp, chúng là Không”. Quư vị tự ḿnh chứng đắc, sau đó nói cho người khác. Chính ḿnh chẳng chứng đắc, nhưng tin như thế. Đó là hàng Bồ Tát thuộc Tín vị. Sau đó, hướng về người khác tuyên truyền, nói hết thảy các pháp rốt ráo vô ngă, liễu đạt các pháp vô ngă. Hết thảy các kinh điển Đại Thừa đều nói như thế. Trong vô ngă, khi chính chúng ta quán tưởng: Đấy là Ngă Chấp, chẳng chấp trước Ngă Ngă Kiến; đối với hết thảy các vấn đề mà ta thấy, chẳng dùng Ngă Kiến để nh́n hết thảy các vấn đề, đạt tới mức độ “chẳng dùng Ngă Kiến để nh́n nhận hết thảy các pháp”. Quư vị có nhận biết hay không? Chẳng có chính ḿnh, mà cũng chẳng có người khác. Hết thảy các pháp đều là Không. Chẳng hành, mà cũng chẳng có tu đạo, thành đạo, cũng chẳng có nơi chốn chi hết, cũng chẳng có ǵ là quá khứ, hiện tại, vị lai. Đấy là nói “hết thảy các pháp đều là Không”. Thậm chí v́ họ nói mười tám món Không, hết thảy các pháp đều là Không, chẳng có sanh tử và Niết Bàn. Mười tám món Không sẽ được giảng trong phần sau. Sanh tử và Niết Bàn là tương đối, hết thảy các pháp đều là Không. V́ sao? Chẳng có một cái thể tướng chắc thật để có thể đạt được.

          Lại nói hết thảy các pháp như huyễn, như hóa, đều là huyễn hóa, chẳng thật. Hết thảy các pháp như trăng trong nước. Vầng trăng trong nước chẳng thật, nó là h́nh bóng, mọi người đều hiểu điều này. Hết thảy các pháp giống như h́nh tượng trong gương, tướng được chiếu soi giống hệt [như vật soi vào gương]. “Như thành Càn Thát Bà”: Các [tỷ dụ] khác đều dễ hiểu, [nhưng đối với tỷ dụ này, cần phải giải thích thêm]. Trong tám bộ quỷ thần chúng, có loại quỷ thần Càn Thát Bà (Gandharva). [Thành Càn Thát Bà] có lúc hiện ra, có lúc biến mất. Nếu quư vị ở Sơn Đông, tỉnh Sơn Đông có Lao Sơn (嶗山), cách Thanh Đảo sáu mươi dặm Tàu[1]. Chúng ta đến Lao Sơn, lúc mặt trời sắp mọc, đứng trên đỉnh Lao Sơn nh́n ra biển Đông, nh́n vào biển cả. Khi đó, trong biển ảnh tượng dường như là một thành thị. Nếu thời tiết rất quang đăng, đôi khi quư vị thấy [ảnh tượng đó] giống như trong nhân gian chúng ta. Trong đó, rất nhiều người đi, đứng, ngồi, làm chi đó, đều hoàn toàn có. Mặt trời vừa mới mọc lên, [huyễn tượng ấy] chẳng c̣n nữa. Thành Càn Thát Bà chẳng có, nó chỉ là một h́nh ảnh [hư huyễn]. [Kinh nói] “như thành Càn Thát Bà” nhằm h́nh dung “chẳng có, trống không”; nhưng có đôi khi nó hiện bóng dáng. Tại Lao Sơn, rất nhiều người trèo lên đỉnh núi Lao Sơn xem “hải thị, thần lâu” (thành phố trên biển, lâu đài của loài ṣ)[2]. Kinh Phật gọi “hải thị, thần lâu” “thành Càn Thát Bà”. Trong tám bộ quỷ thần chúng, có loài Càn Thát Bà. Đó là thành tŕ của họ, căn bản là chẳng có ṭa thành của họ, nó chỉ là bóng dáng. Lại c̣n có hang trống. Quư vị vào hang núi, gào một tiếng, âm thanh vọng lại gọi là Hưởng (, tiếng dội, tiếng vang), chẳng có h́nh mạo! Như ánh nắng gợn (陽焰, dương diệm, mirage, ảo ảnh trong sa mạc), như bọt trên mặt nước. Như sương, mặt trời vừa mọc bèn tiêu mất. Như ngọn đèn, như mắt có màng mộng, như giấc mộng, như tia chớp, như mây. Đó là các từ ngữ h́nh dung sự trống không, h́nh dung ư nghĩa rỗng không.

          Dùng những điều ấy để tỷ dụ sanh tử phiền năo của chúng ta, chúng có hay không? Rỗng tuếch! Nhưng bọn chúng sanh chúng ta chẳng thể Không được! Phiền năo xảy tới, bèn ngủ không nổi, ăn không vào, chẳng thể Không! V́ sao chẳng Không được? Họ chẳng nhận biết, chấp trước. Bọt trên mặt nước, sương sớm, tia chớp, hoa đốm trong mắt, nằm mộng khi ngủ. Nằm mộng mà có thể là chân thật ư? Nhưng phàm phu chấp trước, nếu có mộng đẹp, họ sẽ vui thú suốt ngày. Nếu gặp ác mộng, cả hai ba ngày vẫn chẳng yên bụng. Vốn chẳng có [mà cứ chấp trước], đó gọi là “vọng chấp”. Do đó, quán phiền năo, quán sanh tử như thế đó. Tánh thể của chúng ta, tức bản thể của tự tánh chẳng có phiền năo, mà cũng chẳng có sanh tử. Trong tánh thể, nó chẳng tồn tại, tức là đối với thọ mạng của mỗi người chúng ta, đức Phật dạy quư vị tu Quán, bèn nói Giả. Sau khi sanh, lăo, bệnh, tử hiện tiền, quư vị có thể quyết đoán là nó giả, sẽ giảm bớt thống khổ. Nhưng chúng ta chẳng tu được. Tuy trong sự thật, nó là giả, cái chân thật sẽ bất hoại. Ai nấy đều cho rằng thân thể của chính ḿnh là thật, nhưng nó sẽ bị hư hoại. Từ lúc được cha mẹ sanh ra, rất bé, dần dần biến thành già, già rồi diệt, diệt th́ chẳng c̣n nữa. Chúng ta nhận biết như thế đó. Nhưng cái bị tiêu diệt là h́nh tướng, chẳng phải là tâm tánh của quư vị. Đối với phiền năo sanh tử, quư vị phải biết [phiền năo sanh tử] chẳng có thật thể, là biểu hiện hư giả, c̣n thật thể th́ bất hoại. Quư vị mong cầu trường thọ, chẳng thể được, chẳng thể đạt được! Nếu quư vị đạt tới bất sanh th́ cũng chẳng có diệt. Chẳng sanh th́ thật sự cũng chẳng có diệt. Thể tánh là tịch tĩnh, chúng ta chẳng chứng đắc điều này. Tuy chẳng chứng đắc, chúng ta hiểu rơ. Hiểu rơ như thế nào? Đức Phật dạy chúng ta hiểu rơ. Đức Phật bảo sanh tử chính là Niết Bàn. Quư vị ở trong sanh tử, có thể nhận biết, có thể xả sanh tử, chứng đắc Niết Bàn. Bởi lẽ, sanh tử là giả, quư vị phải thấy nó là giả, nhận biết nó là giả, sẽ có thể hữu đạo, tức là tu đắc đạo. Đấy là hoàn toàn nói về nghĩa Không, Địa Tạng Vương Bồ Tát nói chúng ta về Không. Trước hết, “Không được quán từ những điều ấy. Hết thảy sự vật, sanh tử cũng thế, mà Niết Bàn cũng thế, hết thảy các pháp chẳng có ǵ là chân thật, chẳng có nhất định. Tướng ấy là giả tướng, v́ sao? Cái chân thật sẽ bất biến. Mỗi vị trong chúng ta đều là như thế, đều đang biến. Biến hóa măi rồi chẳng c̣n nữa, tiêu mất rồi, chết rồi. Phiền năo, sanh tử, Niết Bàn, giả danh mà thôi!

 

          (Kinh) Như thử sở thuyết năng phá nhất thiết chư kiến, tổn tự thân tâm chấp trước tưởng cố, đắc ly khiếp nhược.

            ()如此所說能破一切諸見。損自身心執着想故。得離怯弱。

          (Kinh: Nói như thế có thể [khiến cho người nghe] phá hết thảy các kiến, tổn hoại các ư tưởng chấp trước nơi thân tâm của chính ḿnh, được ĺa khiếp nhược).

 

          Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị phải thấy các Kiến của chính ḿnh, Kiến () là cách nh́n nhận vấn đề, năng kiến (能見, chủ thể nh́n, tức cái tâm của ta) nh́n vào sở kiến (所見, đối tượng, sự vật, các pháp được nh́n nhận). Năng kiến là tánh của quư vị, c̣n sở kiến là hết thảy các tướng. Năng Kiến nh́n vào Sở Kiến, đối với thân thể, đối với cái tâm, [hay nói chung là] đối với thân tâm của quư vị chỉ một thứ chấp trước mà thôi, chẳng có thật thể. Nay chúng ta có thân thể, thân thể hư hoại, sẽ tiêu mất, chẳng phải là vĩnh cửu. Khi quư vị mười tuổi, th́ thời điểm một hai tuổi đă mất đi, thời điểm quư vị chín tuổi đă mất đi, mười tuổi c̣n đó. Khi quư vị hai mươi tuổi, thời điểm mười tuổi cũng chẳng c̣n. Đó gọi là pháp sanh diệt, đấy là chấp trước của chúng ta. Phải phá trừ chấp trước ấy. Phá trừ hết thảy các kiến, chúng là vọng kiến. Mọi người đọc kinh Lăng Nghiêm sẽ biết, mười phen hiển lộ tánh Thấy. Chấp trước thân tâm nơi thân thể này, chấp trước nó là Có. Thật ra, nó chẳng có. Nhưng hiện thời chúng ta có một thân thể, khi có thân thể, có thể nhận biết thân thể ấy nhất định sẽ tiêu mất. Đó là điều khẳng định, nhất định phải đạt tới. Đạt tới ǵ vậy? Tiêu mất. V́ sao? Hư vọng. Nó chẳng phải là chân thật. Do vậy, nếu có thể ĺa khỏi quan điểm như thế, có thể thâm nhập, thứ ǵ quư vị cũng thấy thấu suốt, đều buông xuống được. Điều đó khiến cho quư vị “phá kiến”, [tức là phá trừ] các vọng kiến ấy.

 

          (Kinh) Phục hữu chúng sanh bất giải Như Lai ngôn thuyết chỉ ư cố, nhi sanh khiếp nhược. Đương tri Như Lai ngôn thuyết chỉ ư giả, sở vị Như Lai kiến bỉ Nhất Thật cảnh giới cố, cứu cánh đắc ly sanh, lăo, bệnh, tử, chúng ác chi pháp, chứng bỉ Pháp Thân thường hằng, thanh lương, bất biến đẳng, vô lượng công đức tụ. Phục năng liễu liễu kiến nhất thiết chúng sanh thân trung, giai hữu như thị chân thật, vi diệu, thanh tịnh công đức, nhi vị vô minh ám nhiễm chi sở phú chướng. Trường dạ hằng thọ sanh, lăo, bệnh, tử, vô lượng chúng khổ, Như Lai ư thử khởi đại từ bi ư, dục linh nhất thiết chúng sanh ly ư chúng khổ, đồng hoạch Pháp Thân Đệ Nhất Nghĩa Lạc, nhi bỉ Pháp Thân thị vô phân biệt ly niệm chi pháp. Duy hữu năng diệt hư vọng thức tưởng, bất khởi niệm giả, năi sở ưng đắc, đản nhất thiết chúng sanh, thường nhạo phân biệt, thủ trước chư pháp. Dĩ điên đảo vọng tưởng cố, nhi thọ sanh tử. Thị cố Như Lai vị dục linh bỉ ly ư phân biệt, chấp trước tưởng cố, thuyết nhất thiết thế gian pháp tất cánh thể Không, vô sở hữu, năi chí nhất thiết xuất thế gian pháp diệc tất cánh Thể không, vô sở hữu. Nhược quảng thuyết giả, như thập bát Không. Như thị hiển thị nhất thiết chư pháp, giai bất ly Bồ Đề thể. Bồ Đề thể giả, phi hữu, phi vô, phi phi hữu, phi phi vô, phi hữu vô câu, phi nhất, phi dị, phi phi nhất, phi phi dị, phi nhất dị câu, năi chí tất cánh vô hữu nhất tướng nhi khả đắc giả. Dĩ ly nhất thiết tướng cố, ly nhất thiết tướng giả, sở vị bất khả y ngôn thuyết thủ, dĩ Bồ Đề pháp trung vô hữu thọ ngôn thuyết giả, cập vô năng ngôn thuyết giả cố. Hựu bất khả y tâm niệm tri, dĩ Bồ Đề pháp trung, vô hữu năng thủ, khả thủ, vô tự, vô tha, ly phân biệt tướng cố. Nhược hữu phân biệt tưởng giả, tắc vi hư ngụy, bất danh tương ứng.

          ()復有衆生不解如來言說旨意故而生怯弱。當知如來言說旨意者。所謂如來見彼一實境界故。究竟得離生老病死衆惡之法。證彼法身常恆清涼不變等無量功德聚。復能了了見一切衆生身中。皆有如是真實微妙清淨功德。而爲無明闇染之所覆障。長夜恆受生老病死無量衆苦。如來於此起大慈悲意。欲令一切衆生離於衆苦。同獲法身第一義樂。而彼法身是無分別離念之法。唯有能滅虛妄識想不起念者。乃所應得。但一切衆生。常樂分別取着諸法。以顛倒妄想故而受生死。是故如來爲欲令彼離於分別執着想故。說一切世間法畢竟體空。無所有。乃至一切出世間法亦畢竟體空無所有。若廣說者。如十八空。如是顯示一切諸法。皆不離菩提體。菩提體者。非有非無。非非有非非無。非有無俱。非一非異。非非一非非異。非一異俱。乃至畢竟無有一相而可得者。以離一切相故。離一切相者。所謂不可依言說取。以菩提法中無有受言說者。及無能言說者故。又不可依心念知。以菩提法中無有能取可取。無自無他。離分別相故。若有分別想者。則爲虛僞。不名相應。

          (Kinh: Lại có chúng sanh do chẳng hiểu ư chỉ trong lời nói của Như Lai, nên sanh khiếp nhược. Hăy nên biết ư chỉ trong lời nói của Như Lai chính là Như Lai do thấy cảnh giới Nhất Thật, rốt ráo được ĺa các ác pháp sanh, lăo, bệnh, tử, chứng Pháp Thân thường hằng, trong mát, bất biến v.v… vô lượng khối công đức. Lại có thể thấy rơ ràng trong thân của hết thảy chúng sanh đều có công đức thanh tịnh, vi diệu, chân thật như thế, nhưng bị ám nhiễm vô minh che lấp, luôn ở trong đêm dài chịu đựng sanh, lăo, bệnh, tử, vô lượng các khổ. Như Lai do vậy bèn dấy ḷng đại từ bi, muốn khiến cho hết thảy chúng sanh đều ĺa các khổ, cùng đạt được Đệ Nhất Nghĩa Lạc nơi Pháp Thân, nhưng Pháp Thân là pháp vô phân biệt, ly niệm, chỉ có người nào có thể diệt cái thức tưởng hư vọng, chẳng khởi niệm th́ mới đạt được. Nhưng hết thảy chúng sanh thường chuộng phân biệt, chấp giữ các pháp. Do vọng tưởng điên đảo nên hứng chịu sanh tử. V́ thế, Như Lai v́ muốn cho họ ĺa ư tưởng phân biệt, chấp trước, nên nói hết thảy pháp thế gian rốt ráo là Thể không, chẳng sở hữu. Cho đến hết thảy các pháp xuất thế gian cũng là rốt ráo Thể Không, vô sở hữu. Nếu nói rộng th́ là như mười tám món Không. Hiển thị hết thảy các pháp như thế đều chẳng rời Bồ Đề Thể. Bồ Đề Thể chẳng có, chẳng không, chẳng phải là không có, chẳng phải là chẳng không, chẳng phải là vừa có vừa không, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải “không là một”, chẳng phải “không là khác”, chẳng phải là “vừa một vừa khác”, cho tới rốt ráo chẳng có một tướng để có thể được, do ĺa hết thảy các tướng. “Ĺa hết thảy các tướng” tức là chẳng thể nương theo ngôn thuyết để giữ lấy, do trong pháp Bồ Đề chẳng có người nhận lănh ngôn thuyết, mà cũng chẳng có người nói. Lại chẳng thể nương vào tâm niệm để biết, do trong pháp Bồ Đề chẳng có chủ thể giữ lấy và có đối tượng được giữ lấy, chẳng tự, chẳng tha, do ĺa tướng phân biệt. Nếu có ư tưởng phân biệt th́ sẽ là hư ngụy, chẳng gọi là tương ứng).

 

          Nay tâm lượng của chúng ta chẳng lớn; do chẳng lớn nên chẳng dám quán chiếu chính ḿnh như thế, không biết sự tử vong của chính ḿnh. Cho đến dẫu biết rơ, cũng chẳng dám thừa nhận! Ai nấy đều biết chuyện tử vong: Cho tới lúc tử vong, dẫu quư vị chẳng buông xuống, cũng phải buông xuống, muốn chấp trước cũng chẳng chấp trước được, nó tiêu mất. Hăy nên lư giải như thế. Chớ nên sanh ư tưởng khiếp nhược, chớ nên sanh ư tưởng dài lâu. Hăy dũng mănh quán các vấn đề ấy rốt cuộc sẽ diệt mất. Hễ diệt th́ nhất định sẽ tử vong. Do vậy, đức Phật bảo chúng ta, sanh, lăo, bệnh, tử, cho đến Ái Biệt Ly (yêu thương phải chia ĺa), Oán Tắng Hội (oán ghét mà cứ phải gặp gỡ), Ngũ Ấm Xí Thịnh (Ngũ Uẩn lừng lẫy), Cầu Bất Đắc (mong cầu mà chẳng đạt được), tám loại ấy là khổ nạn. Quư vị phải thấy thấu suốt, phải nhận thức chúng: Chúng tùy thuận lẽ Chân mà khởi. Từ trong hư vọng, hư giả, mà nhận biết một cái “bất sanh, bất diệt, chẳng đổi, chẳng khác, chân thật” trong ấy, tức là tánh của chúng ta. Những điều này gọi là đạt tới cảnh giới như đă nói trong đoạn kinh văn trước đó, nay Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta cảnh giới Nhất Thật. Pháp “cảnh giới Nhất Thật ĺa khỏi nỗi khổ sanh tử, sanh, lăo, bệnh, tử, cho đến tám khổ, chẳng có các thứ ấy. Đó là tánh thể vốn sẵn có của chúng ta. Đó là Pháp Thân thanh tịnh, chẳng hai, chẳng khác với Phật và Địa Tạng Bồ Tát. Nơi chư Phật, Bồ Tát là công đức, nơi bọn chúng sanh chúng ta là phiền năo.

          Đồng thời, quư vị quán chiếu, biết rơ chân tánh của chính ḿnh như thế. Mỗi chúng sanh đều sẵn có chân tánh, nó ở ngay trong thân thể của chúng sanh, mà cũng chẳng rời khỏi thân thể. Từ trong thân thể, quư vị t́m ṭi chân tánh, chẳng có! Cái tâm của quư vị là thức, là vọng, chẳng phải là thật, nhưng nó trọn đủ. Chân tâm trọn khắp hết thảy mọi nơi! Nếu chúng ta chẳng có tri kiến của Phật, chẳng có phần thật sự nơi Phật, chúng ta sẽ chẳng thể thành Phật! Chúng ta và Phật chẳng hai, chẳng khác, có thể thành Phật, nhưng hiện thời các phiền năo ngăn chướng quư vị.

          Đồng thời, quư vị phải thấy trong thân của hết thảy chúng sanh đều có công đức chân thật, vi diệu, thanh tịnh của Như Lai; đó là sẵn có. Như Lai do sự tu (tu hành bằng sự tướng) mà phát hiện nó, nêu rơ nó. Sự tu cùng với cái sẵn có hợp làm một, tất cả vô minh, si ám, chướng ngại đều bị gột sạch. Giả sử trên thân hoặc y phục chúng ta nhuốm bẩn, quư vị gột rửa một lần chẳng sạch, gột rửa hai lần chẳng sạch, gột rửa ba lần th́ sẽ sạch. Đó là nói về bổn tánh và tánh thể của chúng ta, chẳng phải là nhục thể (cái thân xác thịt), [bổn tánh, tánh thể] chẳng có sanh, lăo, bệnh, tử, cũng chẳng có khổ. Đương nhiên là chẳng khổ, mà cũng chẳng có lạc, chẳng có hết thảy các pháp tương đối, chẳng hai, chẳng khác với Phật.

          Trong đoạn văn chương này, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Chúng sanh đều có thể thành Phật. Chỉ cần quư vị chịu tu, chịu nương theo lời dạy của Địa Tạng Bồ Tát, tức là [hành theo] phương pháp và cảnh giới Nhất Thật như Ngài đă dạy trong các đoạn kinh văn trước đó; quư vị hăy thấu hiểu. Nếu có thể ngộ cảnh giới Nhất Thật, sẽ rời ĺa sanh, lăo, bệnh, tử. Sanh, lăo, bệnh, tử là giả tướng, chẳng chân thật. Loại công phu này bất luận quư vị có thể tu cũng thế, mà không thể tu cũng thế, b́nh thời quư vị phải suy nghĩ như vậy. Trong khi quư vị đau khổ nhất, quư vị có thể thí nghiệm tách rời các cảm giác đau khổ và nỗi khổ của cái thân đang hứng chịu đau khổ. Kinh Lăng Nghiêm dạy chúng ta, chúng ta có cảm giác, cái cảm giác ấy có thể cảm nhận, tức là cảm nhận nỗi đau khổ mà thân thể đang hứng chịu. Sự nhận biết của cái tâm cảm nhận ấy sẽ không đau, tuy nó cảm nhận được sự đau khổ đang hứng chịu. Đồng thời, tôi nghĩ như thế này: Khi tôi nằm bệnh viện, cần phải mổ, trước hết, bác sĩ chích thuốc tê cho quư vị để làm tê thần kinh. Ông ta mổ xẻ chi nữa, quư vị chẳng có cảm giác, mà cũng chẳng đau khổ. Đợi cho đến khi thuốc tê đă tan, quư vị sẽ cảm thấy đau khổ. Nếu không chích thuốc tê, chính quư vị có thể khống chế cái tâm của chính ḿnh, tách ĺa tâm và thân thể của chính ḿnh. Chuyện này cần phải có công phu trong một thời gian rất dài, chẳng phải là như tôi vừa mới nói như thế, quư vị vừa học bèn làm được ngay! Khi sức mạnh cảm giác của quư vị đạt tới mức độ rất lớn, chẳng cần chích thuốc mê nữa: Quư vị thấy xác thân và chính ḿnh chẳng có quan hệ.

          Đấy là vấn đề tâm lực, trong lịch sử, loại nhân vật này rất nhiều. Mọi người thấy Quan Vân Trường (Quan Công) nạo xương trị độc. Hoa Đà[3] khoét thịt, dùng đao nạo trên xương, người khác nghe âm thanh ấy đều run lẩy bẩy, Quan Công vẫn chơi cờ tướng, chẳng có chuyện chi hết. Điều đó cho thấy tâm lực của ông ta rất mạnh, cái tâm hàng phục cái thân của ông ta. Khi chúng ta đau khổ nhất, quư vị tách rời thân và tâm, tâm và thân trở thành hai chuyện khác nhau. Do vậy, kinh Lăng Nghiêm dạy chúng ta: “Hữu giác giác thống, vô thống thống giác” ư nói: Quư vị có cảm giác nhận biết đau đớn, nhưng cái đau ấy không ảnh hưởng cái tâm cảm nhận của quư vị. Nhưng do chúng ta chẳng có sức mạnh ấy, cho nên bác sĩ phải chích thuốc tê. Có trường hợp nào không chích thuốc tê hay không? Có một vị lăo ḥa thượng khi vào bệnh viện để mổ, chẳng đồng ư cho bác sĩ chích thuốc tê. Bác sĩ nói: “Thầy sẽ đau tới hôn mê luôn”. Sư nói: “Tôi không đau, các ông cứ mổ đi”. Chuyện này cần phải có công phu, chẳng phải là một hai ngày [mà đạt được]! Trong khi quư vị tu, tách rời tinh thần và vật chất, thân thể là vật chất, tinh thần chẳng phải là vật chất, sẽ sanh ra hiệu quả. Tôi đă từng thí nghiệm, cũng sanh ra [hiệu quả]. Quư vị thấy chuyện này ở rất nhiều vị tổ sư, người tu đạo có thể khiến cho [thân và tâm] chia ĺa.

          Quư vị phải đạt được loại nghĩa lạc này. Như Lai do đó khởi ḷng đại từ bi, muốn khiến cho hết thảy chúng sanh ĺa khỏi hết thảy khổ nạn, cùng đạt được Đệ Nhất Nghĩa Lạc nơi Pháp Thân. Đó chẳng phải là thân thể. Vừa rồi chúng tôi nói đến thân thể, chứ Pháp Thân chẳng có phân biệt, chẳng có tạp niệm. Khi một người muốn đạt tới vô phân biệt, vô tạp niệm, khi nhất tâm thuần tịnh, ư tưởng hư vọng chẳng dấy lên, có thể ngưng dứt hết thảy các niệm, đó gọi là “tương ứng với đạo”. Khi tu hành đạt tới loại cảnh giới này, tức là h́nh thái ư thức của quư vị đă tách rời cái tâm.

          Nhưng hết thảy chúng sanh thường thích phân biệt, chấp giữ các pháp. Phật chứng đắc thường, lạc, ngă, tịnh. Bọn chúng sanh chúng ta th́ phân biệt, đối với thường lạc bèn phân biệt, chấp giữ hết thảy các pháp; đó là vọng tưởng điên đảo. V́ sao họ muốn chấp trước? V́ chẳng thể buông xuống vọng tưởng; chấp trước điên đảo, quư vị bèn hứng chịu nỗi khổ sanh tử. Chư Phật Như Lai đă đoạn dứt, khi đoạn dứt, các Ngài chẳng có tướng phân biệt, tức là các Ngài đạt thường, lạc, ngă, tịnh, đă đoạn dứt các ư tưởng phân biệt, chấp trước. Chuyện này nhờ vào sức tu hành. Tôi vừa mới nói, nếu quư vị tu đúng thật trong một thời gian dài, khiến cho cái tâm và thân thể của quư vị tách ĺa, tâm chẳng bị thân thể trói buộc, quư vị sẽ dần dần có thể đạt tới loại cảnh giới này. Sự trói buộc ấy là chấp trước: Quư vị ngỡ thân thể là chính ḿnh. Giả sử quư vị ĺa khỏi thân thể, nó chẳng phải là ta. [Thân thể] chẳng phải là quư vị, dẫu đau khổ tới mức độ nào đi nữa, cũng chẳng liên can tới quư vị. Công phu này chẳng phải là một hai ngày liền có thể buông xuống, chẳng có chấp trước, chẳng cố chấp đâu nhé!

          Trong đoạn kinh văn này, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta, rốt ráo Thể không, vô sở hữu. Nói tới “rốt ráo, trong bổn thể của cái tâm chúng ta, chẳng phải là thân thể, hết thảy đều là Không. Pháp thế gian là Không, pháp xuất thế gian cũng là Không, rốt ráo là thể Không, hết thảy vô sở hữu. Nếu nói rộng th́ như trong kinh thường nói có tất cả mười tám thứ Không. Ở đây, tôi không nói cặn kẽ, chỉ nêu danh từ với mọi người. Các tướng cảnh giới hiển hiện đều là Không. Nội Không, Ngoại Không, trong lẫn ngoài đều là Không. Nhục thể (xác thân) hoàn toàn là Không, nội tâm, ngũ tạng, lục phủ đều là Không. Sắc thân bên ngoài cũng là Không. Bất Không: Bất không th́ sẽ chẳng hoại; chẳng hoại th́ sẽ không bị diệt mất. Nhục thể của quư vị rốt cuộc đều tử vong, ai nấy đều là như thế. Trong là thân tâm, ngoài là thế giới, toàn thể thế giới đều đang biến hóa. Thân tâm của quư vị là Không, h́nh tướng của thế giới bên ngoài là Không. Cái Không ấy cũng là không, cái Không ấy cũng bị trừ bỏ không c̣n. Sau đó, tiến hơn bước nữa, gọi là Đại Không. Đại Không tiến hơn bước nữa là Đệ Nhất Nghĩa Không. Đệ Nhất Nghĩa Không tiến thêm bước nữa là Vô Vi Không, Hữu Vi Không, Tất Cánh Không, Vô Thỉ Không, Tán Không, Tánh Không, Tự Tướng Không, Chư Pháp Không, Bất Khả Đắc Không[4], không có pháp, hết thảy các pháp đều chẳng có. V́ sao? Rỗng không. Có pháp, hết thảy các hữu pháp cũng đều rỗng không, hữu vi pháp, vô vi pháp toàn bộ đều không. Tổng cộng mười tám loại, hiển thị, nói rộng là mười tám món Không như thế. Ư nghĩa của mười tám món Không rất nhiều, sách vở chỉ nói [tổng quát] là Không th́ chỉ có bộ Kinh này.

          Hiển thị hết thảy các pháp như thế đều chẳng rời Bồ Đề Thể, hết thảy các pháp được kiến lập dựa trên Bồ Đề. Chúng ta phát Bồ Đề tâm, đó là toàn thể. Hết thảy các pháp đều chẳng rời hết thảy Bồ Đề. V́ sao nói là Không? Nhằm hiển thị Bồ Đề. Bồ Đề là ǵ? Giác, tức là giác trong giác ngộ. Phát Bồ Đề tâm là quư vị phát khởi cái tâm hiểu rơ, giác ngộ, th́ gọi là “phát Bồ Đề tâm”. Bồ Đề được dịch thành Giác trong giác ngộ. Giác là hiểu rơ. Bồ Đề Thể là ǵ? Nó chẳng phải . Chẳng phải là Có th́ là Không, tức là Vô. [Thế nhưng] nó chẳng phải là Không, chẳng phải là Vô. Phi hữu phi phi hữu (chẳng phải có, chẳng phải là không có): Coi nó là có hay không có đều chẳng đúng, nó là phi phi hữu! Phi vô cũng chẳng đúng, phi phi vô (chẳng phải là không phải vô). Đối với “hữu vô câu” (vừa có vừa không) cũng thêm một chữ Phi, tức “phi hữu vô câu” (chẳng phải là vừa có vừa không). Nói một chẳng thể được, tức là “phi nhất”. Nói khác cũng chẳng thể, đó là “phi dị” (chẳng khác). Đối chữ Phi này, lại thêm một chữ Phi nữa, với dụng ư trừ bỏ: Phi nhất cũng không đúng, phi dị cũng sai bét, phi phi hữu, phi phi dị. Nhất và Dị phải như thế nào th́ mới đúng? “Nhất dị câu” (vừa một vừa khác) cũng sai luôn! Cho đến Tất Cánh Vô Hữu (rốt ráo chẳng có). Điều này hiển thị hàm nghĩa Không; đó là giải thích cái Không. Chẳng có tướng để có thể đạt được, chẳng có h́nh để có thể đạt được. Cử tâm động niệm toàn bộ đều là Không. Phi! Chẳng có hết thảy các tướng, hết thảy đều chẳng phải; đấy mới là cái Thể của Bồ Đề.

          Trong phần trước, chúng tôi đă nói về cảnh giới Nhất Thật, ở đây hiển thị điều ǵ? Cảnh giới Nhất Thật. [Có thể tạm hiểu những điều vừa nói trên đây] là cảnh giới Nhất Thật, nhưng đó vẫn chưa phải là cảnh giới Nhất Thật, ắt cần phải khế hợp với cái tâm. [Bởi lẽ, những điều vừa tŕnh bày trên đây] chỉ có ngôn thuyết, ngôn thuyết chẳng thể biểu đạt. Dùng ngôn thuyết để biểu đạt sẽ chẳng có ư nghĩa thật sự. Chỉ cần có ngôn thuyết th́ sẽ chẳng có nghĩa chân thật. Bởi lẽ, tự tâm thanh tịnh, ĺa tướng ngôn thuyết, ĺa tướng tâm duyên, ĺa hết thảy các tướng. Có tướng hay không? Đó gọi là Như Lai Tạng. Như Lai Tạng chứa đựng hết thảy các pháp, hàm tàng hết thảy các pháp, kể cả hết thảy các tịnh pháp của Như Lai. Cái Thể ấy, tức bản thể của Như Lai Tạng Tánh dù nói là có hay là không, đều là hư luận. V́ sao? Chẳng phân biệt! Hễ khởi tâm động niệm, hễ có phân biệt th́ trật mất rồi! Chỉ có thể thấu hiểu bằng tâm ư, chẳng thể dùng ngôn ngữ để truyền đạt, quư vị lănh hội bằng cái tâm. Nói tới khai ngộ, th́ tâm thần lănh hội, chẳng thể dùng ngôn ngữ để biểu đạt, ngôn ngữ chẳng thể biểu đạt được! Chỉ cần có ngôn thuyết th́ đều chẳng phải là thật nghĩa, cái được biểu đạt bằng ngôn ngữ th́ chẳng phải là chân thật, chỉ là h́nh dung mà thôi. Bồ Đề là ĺa hết thảy các tướng.

          “Ĺa hết thảy các tướng” tức là chẳng chấp trước, chẳng dựa theo ngôn thuyết. Nếu dùng ngôn ngữ để giữ lấy tướng Bồ Đề ấy, sẽ chẳng thể giữ được, [v́] ngôn thuyết chẳng có ư nghĩa chân thật. Do trong pháp Bồ Đề, chẳng có tướng ngôn thuyết, chẳng có tướng người tiếp nhận, chẳng có cái có thể nói năng, mà cũng chẳng có cái được diễn tả bằng ngôn thuyết. Trong tâm chẳng có ư niệm, dựa theo ư niệm trong tâm để biết nó là giả, chẳng thật. Pháp Bồ Đề chẳng thể cái giữ lấy (năng thủ), mà cũng chẳng có cái bị giữ lấy (sở thủ), chẳng có tự, chẳng có tha. Phàm là phân biệt, đối đăi, th́ đều chẳng đúng. Nếu có ư tưởng phân biệt, đó là hư ngụy, chẳng tương ứng với tâm và Bồ Đề. Nói đơn giản, cái Thể của Bồ Đề ĺa hết thảy các tướng, ĺa hết thảy ngôn thuyết. Dùng ngôn thuyết để giữ lấy cái Thể của Bồ Đề sẽ chẳng đúng. Dùng hết thảy tướng để giữ lấy cái Thể của Bồ Đề cũng trật, do tâm niệm giác tri của quư vị chẳng đúng. Đó gọi là “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”. Khi quư vị quán th́ là quán bằng ư niệm. Khi quán, chẳng phải là khởi tâm động niệm. Lúc đă đạt tới vô tâm, vô tâm nếu giải thích theo ư nghĩa trong Thiền Tông sẽ là “tâm tâm tương khế”. Trong khi ấy, ngôn ngữ dứt bặt, trong tâm chẳng có tư tưởng ǵ, [nên gọi là] “tâm hành xứ diệt”. Do vậy, chỉ có ngôn thuyết, đều là chẳng có “thật nghĩa” (nghĩa lư chân thật). Ngôn thuyết nhằm biểu đạt, hiển thị cho quư vị, nhưng [Bồ Đề Thể] chẳng phải là ngôn thuyết. Nói tới “tâm” th́ “tâm” ở đây chẳng phải là cái tâm, mà có nghĩa là “pháp”. Giống như chúng ta nhắc đến “lửa” th́ “lửa” chẳng phải là lửa thật sự. Nếu là lửa thật sự, miệng quư vị sẽ bị đốt cháy. Nói đến “nước” cũng chẳng phải là nước, chỉ là từ ngữ mang ư nghĩa biểu đạt!

 

          (Kinh) Như thị đẳng thuyết, độn căn chúng sanh bất năng giải giả, vị vô thượng đạo Như Lai Pháp Thân, đản duy Không pháp, nhất hướng tất cánh nhi vô sở hữu, kỳ tâm khiếp nhược, úy đọa vô sở đắc trung, hoặc sanh đoạn diệt tưởng, tác tăng giảm kiến, chuyển khởi phỉ báng, tự khinh, khinh tha.

          ()如是等說。鈍根眾生不能解者。謂無上道如來法身。但唯空法。一向畢竟而無所有。其心怯弱。畏墮無所得中。或生斷滅想。作增減見。轉起誹謗。自輕輕他。

          (Kinh: Nói như thế th́ chúng sanh độn căn chẳng thể hiểu, bèn nói “vô thượng đạo Như Lai Pháp Thân chỉ là pháp Không, một mực rốt ráo chẳng có ǵ”. Tâm họ khiếp nhược, sợ đọa vào “không có ǵ để đạt được”, hoặc sanh ư tưởng đoạn diệt, dấy lên kiến giải tăng giảm, đâm ra phỉ báng, coi rẻ ḿnh lẫn người).

 

          Thuyết pháp như thế, tức là đối với học thuyết như thế, chúng sanh căn khí chậm lụt có thể hiểu hay không? Chẳng thể hiểu. Địa Tạng Vương Bồ Tát nói thuyết pháp theo kiểu đó, các chúng sanh độn căn chẳng thể lư giải, cũng chẳng thể lư giải Pháp Thân của Như Lai, bèn cho rằng: Vô thượng đạo Như Lai Pháp Thân chỉ là pháp Không. Vô thượng Pháp Thân của Như Lai là ǵ? Không! Cái Không ấy chẳng phải là Ngoan Không (cái không trơ trơ), chẳng phải là cái Không như chúng ta thấy khoảng trống trong pḥng ốc, chẳng phải là Không kiểu đó, mà là Pháp Không. Nói đơn giản, đối với Không, quư vị đừng nên chấp trước là được rồi, thứ ǵ cũng đều chẳng chấp trước. Chúng tôi thường nói “thấy thấu suốt, buông xuống”, quư vị thấy thấu suốt, buông xuống, sẽ tự tại. Hễ thấy thấu suốt và buông xuống bèn tự tại. Chúng sanh độn căn chẳng có cách nào lư giải, chẳng thể lư giải. Đấy là vô thượng đạo Như Lai Pháp Thân, tuy là Không pháp, nhưng một mực rốt ráo vô sở hữu. Muốn đạt được điều ǵ, cầu có điều ǵ đó [từ Pháp Thân] đều chẳng có.

          Như thế th́ đối với chúng sanh chẳng có tâm lực mạnh mẽ, do tâm lực chẳng mạnh mẽ bèn sanh khiếp nhược. Đă khiếp nhược, Bồ Đề tâm chẳng thể phát khởi. [Hiểu lầm Pháp Thân là rỗng không] như vậy th́ thứ ǵ cũng đều không có, ta tu ǵ đây? Há c̣n có ǵ? Đă chẳng có phiền năo, mà cũng chẳng có Niết Bàn, cũng chẳng có sanh tử, cũng chẳng có ǵ hết; đấy chẳng phải là đoạn diệt tưởng ư? Nó lại chẳng phải là đoạn diệt. Nếu khởi lên đoạn diệt tưởng, khởi lên ư tưởng tăng giảm, cả hai [ư tưởng] tăng và diệt đều chẳng thể. Dưới đây, Địa Tạng Bồ Tát c̣n tự giải thích.

 

          (Kinh) Ngă tức vị thuyết Như Lai Pháp Thân tự tánh bất không, hữu chân thật Thể, cụ túc vô lượng thanh tịnh công nghiệp, tùng vô thỉ thế lai, tự nhiên viên măn, phi tu, phi tác, năi chí nhất thiết chúng sanh thân trung diệc giai cụ túc, bất biến, bất dị, vô tăng, vô giảm.

          ()我即為說如來法身自性不空。有真實體。具足無量清淨功業。從無始世來自然圓滿。非修非作。乃至一切眾生身中亦皆具足。不變不異。無增無減

          (Kinh: Ta liền v́ họ nói tự tánh của Pháp Thân Như Lai chẳng không, nó có cái Thể chân thật, trọn đủ vô lượng hạnh nghiệp công đức thanh tịnh. Từ đời vô thỉ đến nay, [tự tánh ấy] tự nhiên viên măn, chẳng tu, chẳng tạo tác, cho đến trong thân của hết thảy chúng sanh cũng đều trọn đủ, chẳng biến đổi, chẳng khác, chẳng tăng, chẳng giảm).

 

          Nói “Pháp Thân của Như Lai bất không”, tức là tự tánh bất không. Pháp Thân của Như Lai bất không, trừ khử hết thảy tướng chấp trước. Nếu quư vị chấp Pháp Thân của Như Lai thành có, sẽ hoàn toàn là sai lầm! Nó là bất không, bất hữu! Chẳng phải Không, chẳng phải Sắc để thấy Như Lai. Chẳng phải là Không, mà cũng chẳng phải có sắc tướng. Thấy Phật như thế, bất không bèn có một cái Thể chân thật. Pháp Thân của Như Lai bất không, có một cái Thể chân thật. Cái Thể chân thật của Pháp Thân Như Lai là ǵ? Vô lượng công đức thanh tịnh. Đó là vô lượng công đức thanh tịnh nơi cái Thể của Pháp Thân Như Lai. Công đức thanh tịnh có h́nh trạng như thế nào? Từ vô thỉ đến nay, tự nhiên viên măn, chẳng phải là tu, mà cũng chẳng phải là tạo tác, đó là nói tới Pháp Thân. Trong thân của hết thảy chúng sanh đều trọn đủ, chẳng thay đổi, chẳng khác. Nơi chư Phật, Bồ Tát chẳng tăng; nơi hết thảy chúng sanh chẳng giảm. Chẳng phải là giữa Pháp Thân của chúng sanh và Pháp Thân của chư Phật c̣n có một cái h́nh tướng đổi khác bất đồng. Chẳng có! Pháp Thân không có h́nh tướng. Chúng sanh vốn trọn đủ, chư Phật đă tu thành cái sẵn đủ ấy, tức là “tu đắc”. Chúng sanh vốn sẵn mê, nhưng trọn chẳng đánh mất [Pháp Thân]. Ai nấy đều trọn đủ Pháp Thân, ai nấy đều có thể thành Phật. Nếu quư vị đánh mất, sẽ chẳng thể thành Phật. Chẳng mất, chẳng được! Có mất th́ cũng chẳng mất được; có được th́ cũng chẳng được! Chỉ có thầm khế hội, chẳng thể dùng lời lẽ để diễn tả. Dùng ngôn ngữ để biểu đạt th́ sẽ chẳng thể biểu đạt được. Lịch đại tổ sư Thiền Tông chỉ có thể lặng lẽ khế hợp, đều là ngầm khế hợp. Điều ấy được gọi là “tố Pháp Thân”. Tố Pháp Thân chẳng do tu đắc, nó là công đức vốn sẵn có, nhưng chẳng khác với Pháp Thân được hiển lộ do tu tập.

 

          (Kinh) Như thị đẳng thuyết, năng trừ khiếp nhược, thị danh an ủy.

          ()如是等說。能除怯弱。是名安慰。

          (Kinh: Nói như thế đó, có thể trừ khiếp nhược, được gọi là “an ủi”).

 

          V́ nói đến cái sẵn đó, đó gọi là “nói an ủi”. Địa Tạng Bồ Tát dùng cách nói này để diệt trừ cái tâm khiếp nhược cho chúng sanh, [ḥng khiến cho chúng sanh] biết chính ḿnh có thể thành Phật, biết chính ḿnh vốn sẵn có Phật Tánh. Phật Tánh ấy chẳng hai, chẳng khác với Phật. Chúng ta thường nói tới “linh tánh”, nhất là người xuất gia, họ hoàn toàn chẳng trải qua học tập như thế nào, nhưng họ liễu giải những điều mà kẻ b́nh phàm chẳng thể liễu giải. Chúng ta nói đến khai ngộ, sự khai ngộ ấy có đại ngộ, có tiểu ngộ, có những thứ do đă từng học, từng tu tập trong quá khứ, nên gọi là “túc tập” (宿習). Gặp gỡ nhân duyên, nó lại hiển hiện, tự nhiên hiển hiện. Có những người học mấy chục năm, có người chẳng học tập mà hiểu toàn bộ. Kẻ học mấy chục năm vẫn không bằng kẻ chẳng học tập chi hết! Phải tính thêm đời trước của người ấy. [Nếu không], sẽ chẳng hiểu [nguyên nhân]. Quư vị phải biết trong đời trước, hoặc trong vô lượng đời, người ấy đă sớm tu tập. Do vậy mà nói đến chuyện này, có trường hợp rất rơ ràng, có trường hợp chẳng rơ ràng, chẳng biểu hiện rơ ràng ra ngoài.

          Như có những người tu đạo chẳng hề học tập pháp thế gian, thế mà toàn bộ họ đều hiểu rơ. Chẳng hạn như tôi có một người bạn quen biết từ lâu tên là lăo ḥa thượng Thọ Dă[5]. Chúng tôi ở Mỹ, Ngài trở về nước, về lại Ngũ Đài Sơn, gặp một vị lăo đạo hữu, [cũng là một vị lăo ḥa thượng]. Vị lăo ḥa thượng ấy cũng đă viên tịch. Vị đạo hữu ấy nói với Sư: “Thọ Dă ơi! Hôm nào thầy tới Thượng Hải, khi nào tới đó, người nào ra sân bay đón thầy, tôi đều thấy hết”. Sư Thọ Dă nói: “Làm sao thầy thấy vậy?” Ông ta nói: “Tôi thấy bằng tâm. Khi nào máy bay của thầy đáp xuống, những đạo hữu nào ra đón thầy”. Ông ta nói hoàn toàn đúng, nhưng ông ta ở Ngũ Đài Sơn, [chẳng có mặt tại sân bay Thượng Hải]. Điều đó gọi là Thông. Vị lăo ḥa thượng ấy đă viên tịch, nói ra không sao hết! Nếu lúc thầy ấy c̣n tại thế, nói ra, sẽ có rất nhiều người t́m đến làm phiền. Thầy ấy đă chẳng c̣n tại thế. Thầy ấy biết rất nhiều sự vật, biết là Thể. Đă hiểu rơ nó th́ lại như thế nào? Đă biết th́ lại như thế nào? Chẳng có tác dụng, chẳng dấy lên tác dụng, chẳng sanh ra diệu dụng! Có thể giống như lúc bậc đại Bồ Tát sanh ra diệu dụng, diệu dụng là lợi ích chúng sanh th́ có thể sanh ra diệu dụng. Chỉ là có thể biết, trong tâm biết, nhưng chẳng thể phát sanh tác dụng, vẫn chưa tu thành, vẫn chẳng tu tốt đẹp. Nếu có thể sanh khởi tác dụng, sẽ là tu thành, có thể sanh ra diệu dụng. Diệu dụng là chuyện lợi ích chúng sanh.

 

          (Kinh) Hựu phục ngu si kiên chấp chúng sanh, văn như thị đẳng thuyết, diệc sanh khiếp nhược, dĩ thủ Như Lai Pháp Thân bổn lai măn túc, phi tu, phi tác tướng cố, khởi vô sở đắc tướng, nhi sanh khiếp nhược, hoặc kế tự nhiên, đọa tà đảo kiến.

          ()又復愚痴堅執眾生。聞如是等說。亦生怯弱。以取如來法身。本來滿足。非修非作相故。起無所得相而生怯弱。或計自然。墮邪倒見。

          (Kinh: Lại có chúng sanh ngu si, chấp trước kiên cố, nghe nói như vậy cũng sanh khiếp nhược. Do họ chấp Pháp Thân của Như Lai vốn sẵn đầy đủ viên măn, chẳng có tướng tu hay tướng tạo tác, bèn dấy lên [chấp trước đối với] tướng không có ǵ để đạt được, sanh ḷng khiếp nhược, hoặc chấp là tự nhiên, đọa vào tà kiến điên đảo).

 

          Địa Tạng Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Nếu các chúng sanh ngu si, tức là các chúng sanh chấp trước chẳng bỏ, khi tâm họ đối với vô thượng đạo, đối với Pháp Thân của Như Lai, tuy họ vốn cũng trọn đủ [vô thượng đạo, Pháp Thân], nhưng v́ họ giữ chặt sự ngu si, nên chẳng tin tưởng. Họ chẳng tin đức thân và Pháp Thân chẳng cần phải tu tập hay tạo tác mà có. Sau khi [Pháp Thân] hiển hiện th́ vẫn là vốn sẵn có, trọn chẳng do chư Phật tu thành mà tăng thêm một phần, chẳng hề có! Cũng chẳng phải do chúng sanh không tu mà bị giảm bớt. Chẳng hề có! Tu th́ cũng là b́nh đẳng, mà không tu vẫn là b́nh đẳng; một đằng hiện, một đằng chẳng hiện. Đó là ǵ? Vô sở đắc, nhưng sau khi đă đắc vẫn là vô sở đắc. Chúng ta căn bản là chẳng đắc, vốn mê muội, nay chẳng tu, [cho nên] nó (Pháp Thân) chẳng hiển hiện. Có thật sự bị mất đi hay không? Chẳng mất! Nó vĩnh viễn tồn tại, tánh trọn khắp. Đối với loại chúng sanh ấy, giả sử nói tới tướng “chẳng phải tu, chẳng phải tạo tác” nơi Pháp Thân Như Lai, họ sẽ sanh ḷng khiếp nhược đối với [đặc tánh] vô sở đắc [của Pháp Thân Như Lai], hoặc chấp đó là tự nhiên, cho rằng nó tự nhiên mà có, tự nhiên bèn đọa vào tà tri, tà kiến. Sau khi đă chứng đắc viên măn Bồ Đề, hoàn toàn chẳng có ǵ để đạt được. V́ không có ǵ để đạt được, cho nên mới có thể không pháp ǵ mà chẳng đạt được. Chẳng phải là đạt được cái này, vứt bỏ cái kia. Đạt được viên măn th́ gọi là “vô đắc”, nó mới khởi đại dụng hiện tiền. Đó là kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, từ chứng đắc cái tướng trọn đủ của Thể mà khởi đại dụng. Đại dụng là sự nghiệp lợi ích chúng sanh, trong lúc đó, tự lợi và lợi tha đều trọn vẹn.

 

          (Kinh) Ngă tức vị thuyết tu hành nhất thiết thiện pháp, tăng trưởng măn túc, sanh Như Lai sắc thân, đắc vô lượng công đức thanh tịnh quả báo.

          ()我即為說修行一切善法。增長滿足。生如來色身。得無量功德清淨果報。

          (Kinh: Ta liền v́ họ nói tu hành hết thảy các thiện pháp, tăng trưởng trọn vẹn, sanh ra sắc thân của Như Lai, đạt được quả báo vô lượng công đức thanh tịnh).

 

          Ta nói tu hành hết thảy các thiện pháp; đấy là nói toàn bộ kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Hết thảy các thiện pháp như ta đă nói trước đó, đều tăng trưởng trọn đủ, quư vị hăy trọn vẹn các thiện pháp ấy. Tăng trưởng thiện pháp th́ có hiện tướng (現相, tướng hiện ra) là ǵ? Sanh ra sắc thân của Như Lai, đấy là công đức hiện tướng, tức hiện tướng của hết thảy các thiện pháp. Quư vị thấy sắc thân tướng hảo của Phật; đó là tướng công đức. Quả báo tướng công đức thanh tịnh ấy, bọn chúng sanh chúng ta tuy sẵn đủ, nhưng chẳng tu tập. Đó gọi là “tố Pháp Thân”, chẳng có công đức và tướng hảo. Pháp Thân vốn sẵn có, nhưng vẫn chẳng thừa nhận. Như rất nhiều đạo hữu chúng ta, quư vị nói với họ “chúng ta và Phật chẳng hai, chẳng khác”, họ chẳng thừa nhận, họ nói “tôi nghiệp chướng rất nặng, tôi cùng Phật chẳng hai, chẳng khác ư?” Người ta nói đến cái quư vị sẵn có, chẳng phải là nói về cái tu tập, có hàm nghĩa như thế đó!

 

          (Kinh) Như thị đẳng thuyết, linh ly khiếp nhược, thị danh an ủy.

          ()如此等說。令離怯弱。是名安慰。

          (Kinh: Nói như thế đó, khiến cho họ ĺa khiếp nhược. Đó gọi là “an ủi”).

 

          Địa Tạng Bồ Tát nói ta khéo nói như vậy, dùng đủ mọi phương tiện thiện xảo để nói với chúng sanh, khiến cho họ tin tưởng.

 

          (Kinh) Nhi ngă sở thuyết thậm thâm chi nghĩa, chân thật tương ứng, vô hữu chư quá, dĩ ly tương vi thuyết cố. Vân hà tri ly tương vi tướng? Sở vị Như Lai Pháp Thân trung, tuy phục vô hữu ngôn thuyết cảnh giới, ly tâm tưởng niệm, phi không, phi bất không, năi chí vô nhất thiết tướng, bất khả y ngôn thuyết thị, nhi cứ Thế Đế huyễn hóa nhân duyên giả danh pháp trung, tương đăi, tương đối, tắc khả phương tiện hiển thị nhi thuyết, dĩ bỉ Pháp Thân tánh thật vô phân biệt, ly tự tướng, ly tha tướng, vô không, vô bất không, năi chí viễn ly nhất thiết chư tướng cố, thuyết bỉ pháp thể vi tất cánh không, vô sở hữu, dĩ ly tâm phân biệt, tưởng niệm tắc tận, vô nhất tướng nhi năng tự kiến, tự tri vi hữu. Thị cố, Không nghĩa quyết định chân thật, tương ứng bất mậu.

          ()而我所說甚深之義。真實相應。無有諸過。以離相違說故。雲何知離相違相。所謂如來法身中。雖復無有言說境界。離心想念。非空。非不空。乃至無一切相。不可依言說示。而據世諦幻化因緣假名法中。相待相對。則可方便顯示而說。以彼法身性。實無分別。離自相。離他相。無空。無不空。乃至遠離一切諸相故。說彼法體為畢竟空無所有。以離心分別。想念則盡。無一相而能自見。自知為有。是故空義決定真實。相應不謬。

          (Kinh: Nhưng nghĩa rất sâu do ta đă nói, chân thật tương ứng, không có các lỗi, do ĺa chẳng mâu thuẫn mà nói. V́ sao biết là nói ĺa mâu thuẫn? Chính là trong Pháp Thân của Như Lai, tuy lại chẳng có cảnh giới ngôn thuyết, ĺa tâm tưởng niệm, chẳng phải không, chẳng phải bất không, cho đến chẳng có hết thảy các tướng, chẳng thể dựa trên ngôn thuyết để diễn tả, chỉ bày, căn cứ theo các pháp giả danh thuộc nhân duyên huyễn hóa đối đăi với nhau trong Thế Đế, bèn có thể phương tiện hiển thị để nói. Do tánh của Pháp Thân thật sự chẳng phân biệt, ĺa tự tướng, ĺa tha tướng, chẳng phải là Không, chẳng phải là Bất Không, cho đến do xa ĺa hết thảy các tướng, mà nói pháp thể ấy rốt ráo không, vô sở hữu. Do ĺa tâm phân biệt, sự suy tưởng, nghĩ ngợi bèn chấm dứt, chẳng có một tướng để có thể tự thấy, hoặc tự biết là có. V́ thế, nghĩa Không quyết định là chân thật, tương ứng chẳng lầm).

         

          Nhưng nghĩa rất sâu ta đă nói là chân thật, tương ứng, chẳng có lầm lỗi, chẳng có các khuyết điểm, ĺa mâu thuẫn mà nói. Ta nói chẳng hề mâu thuẫn với tánh thể, đă ĺa mâu thuẫn. Ĺa mâu thuẫn là ǵ? Nói tới Pháp Thân của Như Lai, tuy chẳng có cảnh giới ngôn thuyết, ĺa tâm tưởng niệm, chẳng phải không, chẳng phải bất không, cho đến chẳng có hết thảy các tướng, chẳng thể dựa vào ngôn thuyết để hiển thị, dựa theo các pháp giả danh thuộc về nhân duyên huyễn hóa đối đăi lẫn nhau trong Thế Đế để nói, nói như thế đó. Nói tới cái tướng chân thật ấy, vốn chẳng có ngôn thuyết, nhưng phải nương vào ngôn thuyết để hiển thị. Không có ngôn thuyết th́ hiển thị bằng cách nào? Chúng sanh làm sao lư giải được? Do vậy, phải nhờ vào ngôn thuyết. Ngôn thuyết là giả, nhằm để nêu bày. Tôi vừa mới nói với mọi người, nói “lửa” th́ đó chẳng phải là lửa. Nếu “lửa” được nói đó là lửa thật sự, nó sẽ đốt cháy quư vị. Đó là cậy vào ngôn thuyết để hiển thị. Nếu chẳng nói “lửa” với quư vị, quư vị chẳng biết lửa là nóng, có ư nghĩa “có thể đốt cháy”. Nói “nước”, nói “lửa”, nói Không, nói Giả, tức là dùng ngôn ngữ để biểu đạt, khiến cho quư vị lănh hội ư nghĩa.

          Hết thảy các pháp, ư tưởng trong tâm, duyên niệm th́ chẳng thể duyên niệm được. V́ cái tâm của chúng ta là tâm vọng tưởng, càng niệm càng sai, càng niệm càng xa. Nói Không hay nói Bất Không với quư vị, nhằm biểu đạt mà thôi, ḥng khiến cho quư vị lănh hội ư nghĩa ở ngoài lời lẽ. Cho đến chẳng có hết thảy các tướng, chẳng thể dùng ngôn thuyết để hiển thị, dựa trên sự đối đăi trong các pháp giả danh thuộc về nhân duyên biến hóa của Thế Đế, đều là giả lập đối đăi lẫn nhau mà nói như thế. V́ sao? V́ hiển thị chân nghĩa của pháp. Chẳng nói như thế, làm sao chúng ta có thể lănh hội phần nào được? Đều là nhân duyên ḥa hợp. Hết thảy các pháp thuộc vào nhân duyên đều là giả, là không, ĺa khỏi nhân, ĺa khỏi duyên, chúng sẽ chẳng có. Do đó, trong các kinh khác, đức Phật đă dạy: “Nhân duyên sở sanh pháp, ngă thuyết tức thị Không, diệc danh Trung Đạo nghĩa” (pháp sanh bởi nhân duyên, ta nói chính là Không, cũng là nghĩa Trung Đạo). Nay chúng ta đang nói về nghĩa Trung Đạo, nhưng cũng có thể nói nghĩa Trung Đạo là giả danh. Lập ra một giả danh để biểu thị đôi chút, tức là nói “Trung Đạo chẳng phải là Trung Đạo”, nói “Không chẳng phải là Không”, phải hiểu hàm nghĩa này. V́ đấy là dựa theo Thế Đế để nói pháp thế gian. Pháp thế gian trọn đủ Lư Đế là Lư; nghĩa lư chân thật của thế gian dựa vào đấy để hiển thị những ǵ đă nói, nhưng hết thảy các pháp đều chẳng phải là chân thật, mà là huyễn hóa. Tôi vừa mới nói với đại chúng, nhắc đến “lửa”. Nếu đó là lửa thật sự th́ nó sẽ thiêu đốt quư vị. Đấy một từ ngữ để biểu thị, nói “lửa” nhằm biểu thị, hoàn toàn chẳng phải là lửa [thật sự]. Nhưng vừa nói tới “lửa”, quư vị liền nghĩ ngay tới thiêu đốt, lửa là nóng, khiến cho quư vị có thể lư giải là được rồi! Nói sanh tử, nói Niết Bàn, khiến cho quư vị có thể hiểu rơ sanh tử là huyễn hóa, Niết Bàn là bất sanh, bất tử”, mà cũng là bất sanh, bất diệt. Đó là chân thật.

          Chẳng có cách nào biểu đạt tánh của hết thảy các Pháp Thân. Nó chẳng phải là phân biệt, ngôn ngữ chẳng thể biểu đạt được! Nhưng nếu chẳng có cái để nói, làm sao có thể so sánh cho được? Do vậy, nói tới Pháp Thân nhục thân; nay chúng ta là nhục thân, thân huyễn hóa, thân hư vọng, nhưng cái thân hư vọng ấy có Pháp Thân, Pháp Thân trọn khắp hết thảy mọi nơi. Nếu dùng tánh thể của Pháp Thân để nói, thật sự là chẳng có phân biệt, chẳng có ngôn thuyết. Chẳng nói th́ chúng sanh có thể lănh hội bằng cách nào? Dựa vào ngôn thuyết để hiển thị mà thôi! Tự thể của Pháp Thân chẳng có tướng, mà cũng chẳng có tướng nào khác, lấy ǵ để hiển thị? Nói Không, bất không, chẳng có tướng Không, mà cũng chẳng có tướng Bất Không, cho đến xa ĺa hết thảy các tướng. Pháp Thân vô tướng, Pháp Thân có h́nh dạng ǵ vậy? Chẳng có! Pháp Thân vô tướng, v́ nó xa ĺa hết thảy các tướng. Suy tưởng đều chẳng đúng. Pháp Thân chẳng thể duyên niệm, quư vị cũng vốn sẵn có Pháp Thân.

          Chẳng có một tướng để tự thấy, tự biết là có. Chẳng có một tướng nào tự biết chính ḿnh đă thấy “cái này là có” hoặc “cái kia chẳng đúng”, chẳng thể được. Do vậy, nói nghĩa Không quyết định là chân thật, tương ứng chẳng sai lầm. V́ thế, thêm vào Không để hiển lộ: Nghĩa Không quyết định là chân thật, chẳng phải là hư giả, chẳng không, chẳng khác, chẳng sai lầm!

 

          (Kinh) Phục thứ, tức bỉ Không nghĩa trung, dĩ ly phân biệt, vọng tưởng, tâm niệm cố, tắc tận tất cánh vô hữu nhất tướng nhi khả Không giả. Dĩ duy hữu chân thật cố, tức vi bất không. Sở vị ly thức tưởng cố, vô hữu nhất thiết hư ngụy chi tướng, tất cánh thường hằng, bất biến, bất dị, dĩ cánh vô nhất tướng khả hoại, khả diệt, ly tăng giảm cố. Hựu bỉ vô phân biệt thật thể chi xứ, tùng vô thỉ thế lai, cụ vô lượng công đức tự nhiên chi nghiệp, thành tựu tương ứng, bất ly, bất thoát cố, thuyết vi bất không.

          ()復次。即彼空義中。以離分別妄想心念故。則盡畢竟無有一相而可空者。以唯有真實故。即為不空。所謂離識想故。無有一切虛偽之相。畢竟常恆。不變不異。以更無一相可壞可滅。離增減故。又彼無分別實體之處。從無始世來。具無量功德自然之業。成就相應。不離不脫故。說為不空。

          (Kinh: Lại nữa, từ ngay trong cái nghĩa Không ấy, do ĺa tâm niệm phân biệt, vọng tưởng, cho nên trọn hết rốt ráo chẳng có một tướng để có thể Không. Do chỉ có chân thật, nên chính là Bất Không. Tức là do ĺa thức tưởng, chẳng có hết thảy các tướng hư ngụy, rốt ráo thường hằng, chẳng biến đổi, chẳng khác. Do chẳng có một tướng để có thể hoại hay có thể diệt, v́ ĺa tăng giảm. Lại nữa, trong chỗ thật thể vô phân biệt đó, từ đời vô thỉ đến nay, trọn đủ vô lượng nghiệp công đức tự nhiên, thành tựu tương ứng. Do chẳng rời, chẳng thoát, nên nói là Bất Không).

 

          “Phục thứ”, tức [từ ngữ mở đầu] để Địa Tạng Vương Bồ Tát giải thích cao hơn một bước nữa. Trên đây, quư vị vừa mới nói Không, nay lại nói Bất Không. Nghĩa lư Không là ǵ vậy? Chính là trong cái nghĩa Không ấy, nói theo đạo lư Không, cái Không ấy ĺa khỏi phân biệt, ĺa khỏi vọng tưởng, ĺa khỏi tâm niệm. Phàm là tâm niệm vọng tưởng, phân biệt, th́ toàn bộ đều chẳng đúng, cái Không ấy chẳng đúng. Địa Tạng Bồ Tát nói: Nói chân thật rốt ráo th́ chẳng có một tướng để có thể Không, v́ chỉ có chân thật tức là Bất Không. [Nếu chấp trước] Không, sẽ đọa lạc trong đoạn diệt. [Chấp vào] Bất Không, bèn đọa lạc trong tam hữu (tam giới). Do vậy, phương diện nào cũng đều chẳng thể chấp trước! Nhưng chẳng nói Không, chẳng nói Bất Không, vậy th́ sẽ hiển lộ pháp bằng cách nào? Pháp ấy chẳng hiển lộ được. Những điều đó đều là giả ngôn thuyết, giả danh tự, ngàn vạn phần chớ nên chấp trước! Hăy rời ĺa tướng tâm duyên, rời ĺa tướng phân biệt, rời ĺa tướng ngôn thuyết. Hễ phân biệt, duyên niệm, sẽ hoàn toàn chẳng đạt được Chân Như, chẳng hề thấy, mà cũng chẳng thấy được nghĩa Không. [Chúng sanh chấp trước] “Không là đoạn diệt”, đoạt diệt th́ c̣n tu chi nữa? Bất Không là có. Nếu nói Bất Không th́ chúng sanh chấp trước: Bất Không tức là có, vậy th́ thân thể của ta cũng là chân thật, gia đ́nh của ta cũng là chân thật. Họ lại chấp trước Hữu! Vậy th́ phải trừ khử chấp trước của chúng sanh. V́ bọn chúng sanh chúng ta dựa vào cái tâm ư thức, do tám thức duyên niệm, những điều đó đều là tướng hư ngụy. [Pháp Thân] chân thật, chẳng biến đổi, chẳng khác, chẳng có một tướng để có thể hoại hay diệt, chẳng có tăng, mà cũng chẳng có giảm.

          Lại nữa, [nói tới] “chỗ thật thể vô phân biệt” tức là nói tới Pháp Thân. Trong phần trước đă nói về thật thể của Pháp Thân: Từ vô thỉ đến nay, nó tự trọn đủ, bên trong th́ đầy đủ vô lượng công đức, là tự nhiên, chẳng nhờ vào tu tập, chẳng nhờ vào tạo tác mà thành tựu, tương ứng. Nói “tương ứng” th́ có nghĩa là “phù hợp khít khao”. Ly th́ cũng chẳng ĺa thoát được. Bất ly, bất thoát, tách ĺa chẳng đúng, mà không tách ĺa cũng chẳng đúng. Đó chính là “bất tức, bất ly, bất ly, bất thoát”, Bất Không được diễn tả như thế đó.

 

          (Kinh) Như thị thật thể công đức chi tụ, nhất thiết chúng sanh tuy phục hữu chi, đản vị vô minh ế phú chướng cố, nhi bất tri kiến, bất năng khắc hoạch công đức lợi ích, dữ vô mạc dị thuyết danh vị hữu, dĩ bất tri kiến bỉ pháp thể sở hữu công đức lợi ích chi nghiệp, phi bỉ chúng sanh sở năng thọ dụng, bất danh thuộc bỉ. Duy y biến tu nhất thiết thiện pháp đối trị chư chướng, kiến bỉ Pháp Thân. Nhiên hậu năi hoạch công đức, lợi ích. Thị cố thuyết tu nhất thiết thiện pháp, sanh Như Lai sắc thân.

          ()如是實體功德之聚。一切眾生雖復有之。但為無明曀覆障故。而不知見不能克獲功德利益。與無莫異說名未有。以不知見彼法體所有功德利益之業。非彼眾生所能受用。不名屬彼。唯依遍修一切善法對治諸障。見彼法身。然后乃獲功德利益。是故說修一切善法。生如來色身。

          (Kinh: Khối công đức thật thể như thế, hết thảy chúng sanh tuy cũng có, nhưng v́ vô minh che lấp, chướng ngại, cho nên chẳng thấy biết, chẳng thể đạt được công đức, lợi ích, chẳng khác ǵ không có, cho nên nói là “chưa có”. Do chẳng thấy biết tất cả các nghiệp công đức và lợi ích của pháp thể ấy, các chúng sanh đó chẳng thể thọ dụng, [các nghiệp công đức và lợi ích ấy] chẳng gọi là thuộc về họ. Chỉ dựa vào tu trọn khắp hết thảy các thiện pháp để đối trị các chướng ḥng thấy Pháp Thân ấy. Sau đó, sẽ đạt được công đức, lợi ích. V́ thế, nói “tu hết thảy các thiện pháp, sanh ra sắc thân của Như Lai”).

 

          Khối công đức thật thể như thế, hết thảy chúng sanh tuy cũng có, nhưng bị vô minh che lấp, chướng ngại, cho nên chẳng thấy biết. Chúng sanh đều trọn đủ Pháp Thân, v́ sao Pháp Thân không thể hiển hiện? Do v́ tri kiến phát xuất từ vô minh, phiền năo, cho nên bị chướng lấp, dẫu nh́n cũng chẳng thấy, dẫu nghĩ cũng chẳng nghĩ ra. Vậy th́ phải tu, phải tiêu trừ các chướng ngại ấy. Nhưng đối với chúng ta mà nói, Pháp Thân tuy trọn đủ mà chẳng có. [Bởi lẽ], tuy Pháp Thân trọn đủ, ai nấy đều có trọn đủ Pháp Thân, nhưng ai nấy đều chẳng thể hiển hiện, như thế th́ nói là “chẳng có”. Do chẳng thấy biết pháp thể của Pháp Thân, bởi có nh́n cũng chẳng thấy, có nghĩ cũng chẳng suy nghĩ được, tư duy th́ cũng suy nghĩ chẳng ra, nhưng nó có thể tạo các nghiệp công đức và lợi ích cho hết thảy chúng sanh, có tác dụng ấy. Mỗi cá nhân chúng ta đều nương vào Pháp Thân để tu tập ḥng tăng tấn, tu tập ḥng khôi phục Pháp Thân. Nó làm căn bản cho hết thảy các thiện pháp, làm bản thể cho hết thảy các thiện pháp. Điều đó có nghĩa là chúng ta hành Bồ Tát đạo, lợi ích hết thảy chúng sanh; đó là thiện pháp lớn nhất. Khi quư vị lợi ích chúng sanh, phát Bồ Đề tâm, đó chính là ḥa hợp với pháp thể. V́ đă phát Bồ Đề tâm, sẽ có thể chứng đắc cái Thể của Pháp Thân. Phát Bồ Đề tâm là [phát khởi] giác tâm. Chúng ta chẳng thể giữ vững giác tâm ấy, phát rồi lại mê, mê rồi lại phát, tuy đă phát rồi lại mê! Giả sử bất thoái, như trong phần trước chúng tôi đă nói “được dự vào Tín vị”, từ Tín mà nhập Sơ Trụ, tức là địa vị bất thoái. Vậy th́ tín tâm của quư vị chẳng c̣n lui sụt nữa, đấy mới là chân thật.

          Điều này được nói rất rơ ràng: Chúng ta đă tự trọn đủ công đức thật thể nơi Tín, nhưng v́ bị vô minh chướng ngại mà chẳng thể đạt được, giống như bị mất đi, thật sự chẳng hề bị mất đi, mà là bị vô minh chướng ngại. Nhưng nó cũng chẳng phải là vĩnh viễn mất đi! Khi quư vị phát tâm, nó dường như lại được khôi phục, lại phát khởi ra. Quư vị chẳng phát tâm, hoàn toàn bị vô minh mê muội, tức là đối với bản thể của Pháp Thân, do chúng ta chẳng học Phật, chẳng biết bản thể của Pháp Thân. Khi chúng ta đă học Phật, học giáo nghĩa Đại Thừa, mới hiểu rơ bản thể của Pháp Thân. Cũng tức là chúng ta làm hết thảy các công đức, làm hết thảy sự nghiệp, tu hành hết thảy các thiện pháp, chúng ta sẽ có thể được thọ dụng. Hết thảy chúng sanh đều có thể đạt được. Thiện tâm của quư vị sanh khởi th́ vẫn là từ Pháp Thân sanh khởi. V́ nội tâm quư vị đă sẵn có, đă có loại căn bản này th́ mới có thể sanh ra các thiện pháp. Thiện pháp đă sanh khởi, th́ do thiện đă sanh, ác bèn tiêu diệt. Tuy chúng ta chẳng thể thọ dụng công đức của Pháp Thân, nhưng chúng ta hoàn toàn chẳng đánh mất, vẫn trọn đủ. Do vậy, phải tu trọn khắp hết thảy các thiện pháp. Thiện pháp là nói đối ứng với ác pháp, nói theo các chướng ngại nơi Pháp Thân của quư vị. Quư vị tu hết thảy các thiện pháp, khiến cho Pháp Thân của quư vị hiện ra một lần nữa, ḥng đối trị các chướng ngại ấy. Hễ chẳng có chướng ngại, chẳng có ǵ che lấp, ngăn chướng, quư vị sẽ có thể dần dần thấy Pháp Thân.

          Dự vào ngôi Sơ Trụ, chính là tương tự thấy Pháp Thân, chẳng phải là chân thật. Vị ấy (Sơ Trụ Bồ Tát) đă hiểu rơ, nhưng chẳng chứng đắc. Ắt cần phải đợi cho tới khi thật sự chứng đắc Sơ Địa, vượt khỏi địa vị Tam Hiền Bồ Tát. Chúng ta hiện thời là cái tâm hân nhạo (vui thích). Chúng ta phải phát Bồ Đề tâm, mọi người trước hết phải phát Bồ Đề tâm, phát sanh giác tâm ấy. Giác tâm ấy do đâu mà có? Vẫn là sanh từ Pháp Thân mà chính ḿnh vốn sẵn có. Do cái tâm giác ngộ ấy, dần dần tu hành, rèn giũa. Rèn giũa để tỏ lộ quang minh vốn sẵn có, [tức là] rèn giũa khiến cho quang minh vốn có của Pháp Thân thấu lộ. Do vậy, phải tu hết thảy các thiện pháp. Đồng thời, chúng ta phải tu thành Phật, độ chúng sanh, ắt cần phải có sắc thân, tức là đạt được tướng hảo. Có Phật Báo Thân, có Phật Hóa Thân. Hóa Thân là do Báo Thân mà ra. Tu hành hết thảy các thiện nghiệp là Báo Thân của Phật, v́ Báo Thân có thể ḥa hợp với Pháp Thân, sẽ là ba thân Pháp, Báo, Hóa. Nay chúng ta là Hóa Thân, tức là nghiệp chướng Hóa Thân, chẳng phải là công đức Hóa Thân; nhưng chúng ta chuyển biến nghiệp chướng Hóa Thân thành công đức Hóa Thân. Công đức Hóa Thân do từ Báo Thân mà đạt được. V́ thế, nay chúng ta phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo, khiến cho chúng ta tu thành công Báo Đức Pháp Thân.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như ngă sở thuyết thậm thâm chi nghĩa, quyết định chân thật, ly tương vi quá, đương như thị tri.

          ()善男子。如我所說甚深之義。決定真實。離相違過。當如是知。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như nghĩa rất sâu mà ta đă nói, quyết định chân thật, ĺa lỗi mâu thuẫn, hăy nên biết như thế).

 

          Ĺa hết thảy các tướng, đừng nên chấp trước. Hễ chấp trước tướng, sẽ chẳng chân thật. Phải chân thật, phải ĺa tướng, ǵn giữ như vậy th́ sẽ giác ngộ như thế đó.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát thuyết như thử đẳng thù thắng phương tiện thâm yếu pháp môn thời, hữu thập vạn ức chúng sanh phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, trụ kiên tín vị. Phục hữu cửu vạn bát thiên Bồ Tát đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nhất thiết đại chúng, các dĩ thiên diệu hương hoa cúng dường ư Phật, cập Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.

          ()爾時地藏菩薩摩訶薩說如此等殊勝方便深要法門時。有十萬億眾生發阿耨多羅三藐三菩提心。住堅信位。復有九萬八千菩薩得無生法忍。一切大眾。各以天妙香華供養於佛及地藏菩薩摩訶薩。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, khi Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nói pháp môn sâu xa, trọng yếu về phương tiện thù thắng như thế, có mười vạn ức chúng sanh phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trụ trong địa vị Kiên Tín. Lại có chín vạn tám ngàn Bồ Tát đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Hết thảy đại chúng đều dùng hương hoa mầu nhiệm của cơi trời để cúng dường đức Phật và Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát).

 

          Lúc bấy giờ, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nói pháp môn sâu xa, trọng yếu về phương tiện thù thắng như thế, có mười vạn ức chúng sanh phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mong thành Phật bèn phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trụ địa vị Kiên Tín, dự vào Sơ Trụ, Thập Tín viên măn; khi đó, tín tâm trọn đủ, dự vào địa vị Kiên Tín. Kiên tín th́ sẽ chẳng lui sụt, dự vào địa vị Sơ Trụ. Lại có chín vạn tám ngàn Bồ Tát đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, hết thảy đại chúng đều dùng hương hoa mầu nhiệm cơi trời để cúng dường Phật và Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo chư đại chúng ngôn: “Nhữ đẳng các các ưng đương thọ tŕ thử pháp môn, tùy sở trụ xứ, quảng linh lưu bố. Sở dĩ giả hà? Như thử pháp môn, thậm vi nan trị, năng đại lợi ích. Nhược nhân đắc văn bỉ Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát danh hiệu, cập tín kỳ sở thuyết giả, đương tri thị nhân tốc năng đắc ly nhất thiết sở hữu chư chướng ngại sự, tật chí vô thượng đạo”. Ư thị, đại chúng giai đồng phát ngôn: “Ngă đương thọ tŕ, lưu bố thế gian, bất cảm linh vong”. Nhĩ thời, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Như thị sở thuyết Lục Căn Tụ Tu-đa-la trung, danh hà pháp môn? Thử pháp chân yếu, ngă đương thọ tŕ, linh mạt thế trung, phổ giai đắc văn”.

          ()爾時佛告諸大眾言。汝等各各應當受持此法門。隨所住處。廣令流布。所以者何。如此法門。甚為難值。能大利益。若人得聞彼地藏菩薩摩訶薩名號。及信其所說者。當知是人速能得離一切所有諸障礙事。疾至無上道。於是大眾皆同發言。我當受持流布世間。不敢令忘。爾時堅淨信菩薩摩訶薩白佛言。世尊。如是所說六根聚修多羅中。名何法門。此法真要。我當受持。令末世中普皆得聞。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các đại chúng rằng: “Các ông ai nấy đều phải nên thọ tŕ pháp môn này, tùy theo chỗ ḿnh ở mà lưu truyền rộng răi. V́ cớ sao vậy? Pháp môn như thế rất khó gặp gỡ, có thể tạo lợi ích to lớn. Nếu người nào được nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát và tin lời Ngài dạy, hăy nên biết người ấy có thể mau chóng ĺa khỏi hết thảy tất cả các sự chướng ngại, mau chóng đạt đến vô thượng đạo”. Khi đó, đại chúng đều cùng lên tiếng: “Con sẽ thọ tŕ, lưu truyền trong thế gian, chẳng dám quên mất”. Lúc bấy giờ, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Kinh Tu-đa-la nói về Lục Căn Tụ như thế có tên là pháp môn ǵ? Pháp này thật sự trọng yếu, con sẽ thọ tŕ, khiến cho trong đời mạt đều được nghe trọn khắp”).

 

          Lúc bấy giờ, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Trong Tu-đa-la giảng về Lục Căn Tụ như thế”, tức nói về pháp môn này. Tu-đa-la (Sūtra) là Khế Kinh, do phù hợp với tâm lư của chúng sanh, phù hợp diệu pháp của chư Phật [nên gọi là Khế Kinh], danh hà pháp môn” nghĩa là kinh này có tên gọi là ǵ? Con nên thọ tŕ như thế nào, khiến cho chúng sanh trong đời Mạt Pháp đều có thể được nghe.

 

          (Kinh) Phật cáo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: “Thử pháp môn danh vi Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, diệc danh Tiêu Trừ Chư Chướng Tăng Trưởng Tịnh Tín, diệc danh Khai Thị Cầu Hướng Đại Thừa Giả Tấn Thú Phương Tiện Hiển Xuất Thậm Thâm Cứu Cánh Thật Nghĩa, diệc danh Thiện An Ủy Thuyết Linh Ly Khiếp Nhược, Tốc Nhập Kiên Tín Quyết Định Pháp Môn. Y như thị danh nghĩa, nhữ đương thọ tŕ”. Phật thuyết thử pháp môn dĩ, nhất thiết đại hội tất giai hoan hỷ, tín thọ phụng hành.

          ()佛告堅淨信菩薩。此法門名為佔察善惡業報。亦名消除諸障增長淨信。亦名開示求向大乘者進趣方便顯出甚深究竟實義。亦名善安慰說。令離怯弱。速入堅信決定法門。依如是名義。汝當受持。佛說此法門已。一切大會悉皆歡喜。信受奉行。

          (Kinh: Đức Phật bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: “Pháp môn này tên là Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, cũng tên là Tiêu Trừ Các Chướng, Tăng Trưởng Tịnh Tín. Cũng tên là Khai Thị Cho Người Mong Cầu Hướng Đến Đại Thừa Phương Tiện Để Tiến Nhập, Hiển Lộ Thật Nghĩa Rốt Ráo Rất Sâu. C̣n gọi là Pháp Môn Khéo Nói An Ủi Khiến Ĺa Khiếp Nhược, Mau Chóng Nhập Niềm Tin Quyết Định Kiên Cố. Nương theo danh nghĩa như thế, các ông hăy nên thọ tŕ”. Đức Phật nói pháp môn này xong, hết thảy đại hội đều cùng hoan hỷ, tin nhận, phụng hành).

 

          Chúng tôi đă giới thiệu đơn giản kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo xong. Trong khi giảng, trong khi tôi giải nói, mọi người sanh tịnh tín, xin đem công đức ấy hồi hướng cho hết thảy chúng sanh trong thế giới hiện tiền, khiến cho họ miễn trừ tai nạn. Nếu tôi nói có chỗ nào sai lầm, xin hướng về mọi người sám hối. Tôi nói không nhất định toàn bộ đều đúng; có chỗ nào không đúng, đều xin sám hối.

Lược giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo

Phần 5 hết

 

 

 



[1] Một dặm Tàu (Hoa Lư) bằng nửa cây số hiện thời. Tương truyền, Lư do Hiên Viên Hoàng Đế chế ra, và được vua Đại Vũ nhà Hạ chuẩn định. Từ một Lư bằng 405 mét thời nhà Hạ, trải qua các đời, Lư dài ngắn khác nhau. Đời Đường chỉ c̣n 323 mét, đến đời Thanh th́ dao động từ 537 cho đến 645 t. Từ năm 1984, trở đi, chánh quyền Hoa Lục quy định một dặm Tàu là nửa km.

[2] Thần lâu (蜃樓): Cổ nhân tin ở ngoài biển có một loài ṣ lớn (Thần, ), hơi thở của chúng sẽ tạo thành các lầu gác trên mặt biển. “Hải thị thần lâu” là từ ngữ để chỉ chung các huyễn cảnh do khúc xạ ánh sáng. Thậm chí các ảo ảnh như những vũng nước đọng trên mặt đường nhựa khi trời nắng gắt cũng được gọi là “hải thị thần lâu” hay “dương diệm”.

[3] Hoa Đà (華陀, không rơ năm sinh-208), tự là Nguyên Hóa, quê ở huyện Tiêu, nước Bái thời Đông Hán, là một thầy thuốc nổi tiếng. Ông cùng với Đổng Phụng và Trương Trọng Cảnh được hậu thế xưng tụng là Kiến An Tam Thần Y. Hoa Đà cùng với Biển Thước, Trương Trọng Cảnh và Lư Thời Trân, được xưng tụng là tứ đại danh y của cổ y học Trung Hoa. Về sau, Tào Tháo do thường bị nhức đầu, đă ép ông phải làm thầy thuốc riêng cho ḿnh. Do không thích luồn lọt quyền quư, bị ép bức làm thủ hạ của Tào Tháo, lại xa quê khá lâu, ông lấy cớ nhận được thư nhà, xin về thăm quê. Sau đó, ông cáo bệnh không trở lại. Sau nhiều lần gọi trở lại mà không được, Tào Tháo nổi giận, hạ lệnh bắt ông giam cầm trong ngục. Trong ngục, ông chép lại kiến thức về y dược của ḿnh thành bộ Thanh Nang Thư tặng cho người coi ngục để cảm ơn sự hậu đăi của người ấy, nhưng người đó sợ oai Tào Tháo đă cự tuyệt không nhận, ông bèn đốt bỏ tác phẩm ấy. Về sau, ông chết trong ngục. Đệ tử chân truyền của ông là Ngô Phổ và Phàn A. Tương truyền, Phàn A do được Hoa Đà dạy cho thuật châm cứu và phương thuốc Tất Diệp Thanh Niêm Tán, nên sống hơn trăm tuổi mà vẫn mạnh khỏe, tóc không bạc, nhưng toa thuốc ấy đă thất truyền. Tương truyền Hoa Đà tinh thông nhiều môn y thuật, dùng thuốc rất ít mà công hiệu nhanh lẹ. Ông lại không cần dùng cân mà chỉ dùng tay bốc thuốc vẫn đúng cân lượng. Căn cứ theo ghi chép, ông đă biết sử dụng dược liệu hoặc hơ lửa để sát trùng, chế ra loại rượu gọi là Ma Phí Tán để gây tê khi cần mổ xẻ. Ông c̣n dựa theo cử chỉ của cọp, gấu, nai, vượn và chim để chế ra Ngũ Cầm Hư như một bài tập dưỡng sinh.

[4] Theo từ điển Phật Quang Sơn, thứ tự của Thập Bát Không (Astādaśa Śūnyatāh) hơi khác:

1) Nội Không (Adhyātma-śūnyatā): Sáu nội xứ thuộc sáu căn đều là vô ngă, vô ngă sở, chẳng có các pháp như Nhăn, Nhĩ v.v...

2) Ngoại Không (Bahirdhā-śūnyatā): Ngoại xứ của sáu trần cũng là vô ngă, vô ngă sở, chẳng có các pháp như Sắc, Thanh v.v…

3) Nội Ngoại Không (Adhyātma-bahirdhā-śūnyatā): Sáu căn và sáu cảnh, tức mười hai xứ đều vô ngă, vô ngă sở, và cũng chẳng có các pháp ấy.

4) Không Không (Śūnyatā-śūnyatā): Chẳng chấp trước ba loại Không trên đây.

5) Đại Không (Mahā-śūnyatā): Trong mười phương thế giới, vốn không có một phương hướng nhất định, đây hay kia.

6) Đệ Nhất Nghĩa Không (Paramārtha-śūnyatā): C̣n gọi là Thắng Nghĩa Không, Chân Thật Không, tức là ĺa các ngoại pháp, sẽ chẳng có tướng Đệ Nhất Nghĩa Thật Tướng để có thể đạt được, chẳng chấp trước Thật Tướng.

7) Hữu Vi Không (Sajskrta-śūnyatā): Các pháp tập khởi do nhân duyên và tướng của các pháp nhân duyên đều chẳng thể đạt được.

8) Vô Vi Không (Asajskrta-śūnyatā): Ĺa rời sự chấp giữ đối với Niết Bàn.

9) Tất Cánh Không (Atyanta-śūnyatā): C̣n gọi là Chí Cánh Không, tức là dùng Hữu Vi Không và Vô Vi Không để phá hết thảy các pháp, rốt ráo chẳng c̣n sót thừa.

10) Vô Thỉ Không (Anavarāgra-śūnyatā): C̣n gọi là Vô Hạn Không, Vô Tế Không, Vô Tiền Hậu Không, tức là hết thảy các pháp tuy sanh khởi từ vô thỉ, nhưng xả ĺa việc chấp tướng đối với pháp ấy.

11) Tán Không (Anavakāra-śūnyatā): C̣n gọi là Tán Vô Tán Không, Bất Xả Không, Bất Xả Ly Không, tức là các pháp chỉ do ḥa hợp mà giả có, cho nên rốt cuộc sẽ là tướng biệt ly, tan diệt, vô sở hữu.

12) Tánh Không (Prakrti-śūnyatā): C̣n gọi là Bổn Tánh Không, Phật Tánh Không, tức là tự tánh Không của các pháp.

13) Tự Tướng Không (Svalaksana-śūnyatā): C̣n gọi là Tự Cộng Tướng Không, Tướng Không, tức các tướng đồng, dị, tổng, biệt của các pháp đều chẳng thể được.

14) Chư Pháp Không (Sarva-dharma-śūnyatā): C̣n gọi là Nhất Thiết Pháp Không, tức là đối với các pháp thuộc Uẩn, Xứ, Giới, tự tướng bất định, ĺa chấp giữ tướng.

15) Bất Khả Đắc Không (Anupalambha-śūnyatā): C̣n gọi Vô Sở Hữu Không, tức là trong các pháp nhân duyên, cầu Ngă và Pháp đều chẳng thể được.

16) Vô Pháp Không (Abhāva-śūnyatā): C̣n gọi là Vô Tánh Không, Phi Hữu Không, tức các pháp nếu đă hoại diệt, sẽ chẳng có tự tánh để có thể đạt được, pháp vị lai cũng như thế.

17) Hữu Pháp Không (Svabhāva-śūnyata): C̣n gọi là Tự Tánh Không hoặc Phi Hữu Tánh Không, tức các pháp chỉ do nhân duyên mà có, nên cái Có trong hiện tại chẳng phải là thật sự có.

18) Vô Pháp Hữu Pháp Không (Abhāva-svabhāva-śūnyatā): C̣n gọi là Vô Tánh Tự Tánh Không. Món Không này bao hàm hết thảy các pháp sanh diệt và vô vi trong ba đời, hết thảy đều chẳng thể được!

Đó là danh hiệu của các món Không dựa theo các kinh Đại Phẩm Bát Nhă, Phóng Quang Bát Nhă, Quan Tánh Bát Nhă, Đại Bát Nhă Kinh, và kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhă Ba La Mật Đa. Các kinh luận khác do gộp vào hay tách ra các món Không ấy mà thành ra Thập Tam Không, Thập Tứ Không, Thập Lục Không, Nhị Thập Nhất Không v.v…

[5] Lăo ḥa thượng Thọ Dă (1908-2001) là một vị cao tăng đương đại, quê ở huyện Vô Tích, tỉnh Giang Tô, họ ngoài đời là Viên. Năm 1928, Ngài y chỉ ḥa thượng Đức Tùng chùa Phổ Tế ở Thượng Hải để xuất gia. Năm sau, do giải hạnh tinh nghiêm, được đặc cách thọ Cụ Túc Giới tại chùa Bảo Hoa ở Nam Kinh. Sau đấy, Ngài đến chùa Thiên Ninh ở Thường Châu tham học, cũng như tu Thiền tại chùa Kim Sơn ở Trấn Giang. Năm 1934, Ngài được cung thỉnh làm trụ tŕ chùa Phổ Tế, rồi tiếp nhận thêm ngôi trụ tŕ chùa Bích Vân ở Sơn Tây vào năm sau. Ngài đổi chùa Phổ Tế thành thập phương tùng lâm, tham bái khắp nơi để học hỏi về Thiền. Năm 1936, Sư kết lều tranh bế quan suốt bốn năm tại chùa Quảng Tế ở Ngũ Đài Sơn, trích máu chép kinh Hoa Nghiêm. Từ năm 1949 cho đến năm 1972, Ngài chống tích trượng hoằng pháp tại Việt Nam, Cambodia, Mỹ… Tới đâu, Ngài cũng xướng suất xây chùa, đúc tượng. Riêng tại Việt Nam, Ngài từng trụ tích tại các chùa Quán Âm Bồ Đề Lan Nhă. Do được cúng đất, Ngài đă xây chùa Hoa Nghiêm. Ngài đă trích máu chép một bộ Hoa Nghiêm để thờ trong tháp báu của chùa. Sau đó, Ngài khai sơn chùa Thiên Vương Cổ Sát tại Đà Lạt (dân địa phương thường gọi là chùa Tàu, hay chùa Trầm v́ chánh điện thờ tượng Tây Phương Tam Thánh bằng trầm hương chở từ Hương Cảng sang). Dẫu bận rộn hoằng pháp, Ngài vẫn tự chép nhiều bộ kinh Hoa Nghiêm (bản 80 quyển). Năm 1969, trước chiến sự khốc liệt thuở đó, các môn nhân khẩn khoản cung thỉnh Ngài trở về Hương Cảng. Năm 1970, Sư định cư tại New Jersey, sáng lập chùa Quang Minh và Mỹ Quốc Phật Giáo Nghiên Cứu Hội, kiêm nhiệm trụ tŕ chùa Đại Thừa ở New York cho tới năm 1974. Ngài c̣n giúp trùng tu các chùa Định Huệ và Khai Nguyên ở Vô Tích, giúp xây cất các viện dưỡng lăo và nhà trẻ tại quê nhà.