Đại Phương Đẳng Đại Tập

Hiền Hộ Kinh giảng kư

Phần 8

大方等大集賢護經講記

慈法法師

Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp

Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam

Thời gian: Từ ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

12. Phẩm thứ tám: Xưng Tán Công Đức

         

          Pháp vốn trọn đủ, chẳng cần chúng ta phải bỏ thêm công sức. Thông qua một pháp hội, chỉ là biểu hiệu một phần, hoặc ít phần nội dung thực tế, v́ muốn khiến cho các hữu duyên hữu t́nh trong hiện tiền sẽ nhờ vào cơ chế ấy mà thành thục thiện căn của chính ḿnh, có thể tu chứng, cho đến thành tựu tam-muội này.

          Đối với pháp tu tŕ Ban Châu tam-muội, muốn đắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội như thế, quả thật chẳng khó! Khó ở chỗ phát tâm, khó ở chỗ như thật liễu giải toàn thể cơ chế của pháp này, khó ở chỗ thệ nguyện quyết định thủ hộ. Trong cơi đời, vốn chẳng có hai pháp khó và dễ, hoặc có chuyện khó hay dễ, chỉ tùy thuộc vào tư lương có đầy đủ hay không, pháp duyên có đủ hay không! Các chuyện đều trọn đủ nhân duyên, khó và dễ là nói tương đối! Thật ra, chẳng có ǵ có thể chướng ngại cơ hội khiến cho chúng ta đích thân chứng tam-muội như vậy. Chúng ta có cơ hội học tập và coi trọng nó, tất nhiên cũng có cơ hội thành tựu. Hết thảy đại chúng hiện tiền đừng ngờ vực điều này. Chư Phật là đấng nói lời thành thật, đấng nói lời chân thật, chúng ta có thể như lư, như pháp học tập, nhận thức pháp tắc này, hiểu rơ sự phát tâm. Như thế th́ đối với công đức và lợi ích chân thật của tam-muội Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền như thế, sẽ thật sự không xa! “Xa” chỉ v́ dụng tâm khác nhau, do cảm nhận nghiệp tướng [khác biệt]. Nếu chúng ta thoát khỏi sự cưỡng chấp nghiệp tướng từ vô thỉ tới nay của chính ḿnh, thật sự liễu giải pháp tắc “vạn pháp duy thức”, liễu giải giáo nghĩa chân thật “tánh Không duyên khởi”. Lại nh́n pháp này, sẽ thật sự giống như vật trong ḷng bàn tay. Điều chủ yếu nhất trong tu tập Phật pháp là phát tâm, nhân duyên tối sơ ở chỗ phát tâm. Sự tiếp nối tu tập sau đó chính là sự chứng thực và xác lập của phát tâm.

          Nay đang trong thời gian An Cư, năm nay có tháng Bảy nhuận, có thể là ba tháng an cư, mà cũng có thể bốn tháng an cư. Chúng thường trụ chùa Phóng Quang nhất trí yêu cầu bốn tháng an cư. V́ sao trong ṿng một tháng của tháng Bảy nhuận chúng ta học tập pháp này? Điều chủ yếu nhất là v́ muốn cho mọi người sau khi An Cư kết thúc, sẽ có một pháp để tiếp tục [tu tập], có một pháp để thực hành. V́ một khi An Cư kết thúc, mỗi cá nhân đối với sự y chỉ và nhận thức pháp tắc sẽ có thể là muôn ngàn sai khác, nhưng sau khi chúng ta đă học tập, vừa khéo là mỗi người sẽ dựa theo nhân duyên [riêng biệt của chính ḿnh] để tu tập pháp tắc này, thâm nhập pháp tắc này, cho đến thành tựu lợi ích chân thật nơi tam-muội.

 

          (Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh, quyển đệ tứ.

          Hiền Hộ Phần, Xưng Tán Công Đức, phẩm đệ bát.

          Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát, cập Bảo Đức Ly Xa Tử, Thiện Thương Chủ trưởng giả, Già Ha Ngập Đa cư sĩ tử, Na La Đạt Đa Ma Nạp, Thủy Thiên trưởng giả, dữ ngũ bách đồ chúng đẳng, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tức dĩ ngũ bách thượng y phục, phụng phú Thế Tôn. Phục dĩ đa chủng cúng cụ, cúng dường Thế Tôn, tâm nhạo pháp cố.

          ()大方等大集賢護經卷第四。

          賢護分稱讚功德品第八。

          爾時賢護菩薩。及寶德離車子。善商主長者。伽訶岌多居士子。那羅達多摩納。水天長者與五百徒衆等。聞佛所說。皆大歡喜。即以五百上衣服。奉覆世尊。復以多種供具。供養世尊。心樂法故。

          (Kinh: Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh, quyển thứ tư.

          Hiền Hộ Phần, phẩm thứ tám: Khen ngợi công đức.

          Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát, và Bảo Đức Ly Xa Tử, trưởng giả Thiện Thương Chủ, con của cư sĩ Già Ha Ngập Đa, Na La Đạt Đa Ma Nạp, trưởng giả Thủy Thiên, và năm trăm đồ chúng v.v… nghe lời Phật dạy, đều hết sức hoan hỷ, liền dùng năm trăm y phục thượng diệu dâng lên che đức Thế Tôn. Lại dùng nhiều loại vật cúng để cúng dường đức Thế Tôn v́ tâm vui thích pháp).

 

          “Tâm nhạo pháp cố” (do tâm ưa thích pháp): Bốn chữ này đă nêu rơ năm trăm đồ chúng dùng năm trăm bộ y phục thượng diệu để dâng cúng đức Thế Tôn, ḥng biểu lộ sự vui thích đối với pháp, biểu lộ sự vui sướng, hớn hở trong nội tâm.

          “Đa chủng cúng cụ” (nhiều loại vật cúng): Không vật dụng nào chẳng phải là các vật dụng được người cúng dường hoan hỷ, tôn trọng, yêu thích. Phong tục tập quán của Ấn Độ là như thế đó. Nhằm biểu lộ tâm t́nh vui sướng, tâm t́nh tôn trọng của chính ḿnh, bèn dùng các phẩm vật mà chính ḿnh tôn trọng, yêu thích làm phương thức biểu lộ. Xá-lợi răng Phật hay xá-lợi xương Phật ở Trung Hoa thường được đưa triển lăm tại nước ngoài, nhất là đến các nước như Miến Điện, Thái Lan v.v… Các chỗ xe chở xá-lợi đi qua, người ta đều đem các thứ mà chính ḿnh nghĩ là quư trọng nhất ném lên xe. Y phục của các vị pháp sư thủ hộ xe chở xá-lợi đều bị đè nặng trĩu! Đấy là một thứ phong tục tập quán của họ. Người Hoa nếu tôn trọng thứ chi đó, có thể là tán thán mấy câu, nói mấy lời rất hoan hỷ là được rồi, “điểm đến th́ dừng”, chắc chắn chẳng đem những món đồ quư trọng rải lên đó! Chẳng có thói quen ấy, chẳng có phong tục ấy! Nhưng tại các quốc gia như Ấn Độ và Đông Nam Á, họ sẽ biểu hiện có phần cụ thể hơn!

 

          (Kinh) Các dĩ kỷ thân phụng thừa Như Lai.

          ()各以己身奉承如來。

          (Kinh: Ai nấy đều dùng thân của chính ḿnh để phụng sự Như Lai).

 

          Tức là lễ bái, tán thán, tùy thuận lời dạy của tổ sư. Như một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ-kheo thường theo đức Thế Tôn du hóa, cũng là dùng thân tâm để cúng dường đức Thế Tôn, dùng công đức quyến thuộc để trang nghiêm đức Phật.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo A Nan ngôn: - Thị Hiền Hộ Bồ Tát thường ư bỉ đẳng ngũ bách đồ chúng, nhi tác nghĩa sư.

          ()爾時世尊告阿難言。是賢護菩薩。常於彼等五百徒衆。而作義師。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài A Nan rằng: - Vị Hiền Hộ Bồ Tát này thường làm thầy dạy về nghĩa lư cho năm trăm đồ chúng ấy).

 

          “Nghĩa sư” là vị hướng dẫn phát tâm, hướng dẫn về pháp tắc, cho đến hướng dẫn về cách thành tựu và xác định pháp tu.

 

          (Kinh) Thuyết chư pháp yếu, giáo hóa ủy dụ.

          ()說諸法要。教化慰喻。

          (Kinh: Nói các pháp yếu, giáo hóa, an ủi, huấn dụ).

 

          Các vị thiện tri thức thường nói tỷ dụ, muốn cho chúng sanh hướng tới pháp, tạo thành cơ hội tăng thượng để thoát ĺa các nạn duyên đối với pháp. Có khi chúng ta tu pháp sẽ gặp đủ loại trở ngại, chẳng đủ tư lương, cho đến nẩy sanh sợ hăi, sanh tâm thoái đọa. V́ thế, hết thảy Bồ Tát và thiện tri thức đều an ủi, khuyên dụ, thành thục thiện căn cho người đó, khiến cho người đó tiến nhập Bồ Đề.

 

          (Kinh) Linh bỉ hoan hỷ. Dĩ hoan hỷ cố, bỉ bối tức đắc tùy thuận chi tâm, chân thật chi tâm, thanh tịnh chi tâm, ly dục chi tâm, trừ chư phiền năo, vô phục Cái Triền.

          ()令彼歡喜。以歡喜故。彼輩即得隨順之心。真實之心。清淨之心。離欲之心。除諸煩惱。無復蓋纏。
          (Kinh: Khiến cho họ hoan hỷ. Do hoan hỷ, nên họ liền có tâm tùy thuận, tâm chân thật, tâm thanh tịnh, tâm ly dục, trừ các phiền năo, chẳng c̣n có Cái và Triền).

 

          “Đắc” trong từ ngữ “tức đắc” chính là “có thể thành tựu”. Trong quá tŕnh chúng ta học tập giáo ngôn Ban Châu, nếu có thể thường xuyên sanh vui mừng đối với pháp này, thích cúng dường pháp tắc này, cho đến lễ bái kinh điển, tán thán người hành pháp, cúng dường người hành pháp, thủ hộ đạo tràng hành pháp, sẽ đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn nơi Phật pháp, cho tới thành tựu tín thuận, tùy thuận lợi ích của pháp tắc này!

          “Vô phục Cái Triền” (Chẳng c̣n có Cái và Triền): Hai pháp Cái và Triền là nghiệp tướng của chúng sanh. Ở đây, chúng tôi không ngại nêu ra. Phàm phu trọn đủ hai pháp Cái và Chướng (tên gọi khác của Triền). “Cái” được chia thành năm món Cái. Cổ nhân nói [danh tướng của các món Cái] không đồng nhất. Có người nói [Ngũ Cái] là tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê. Cũng có người cho rằng [Ngũ Cái] là Tham Dục Cái, Sân Khuể Cái, Điệu Cử Cái, Thụy Miên Cái (chướng ngại do ngủ nghê gây ra), Nghi Cái. “Cái” () có nghĩa là khiến cho chúng sanh chẳng thấy được vầng mặt trời trí huệ, chẳng đạt được phương tiện trí huệ, trong tâm tối tăm, phần nhiều chẳng trọn đủ thiện xảo. Ngũ Cái che lấp tâm thức, khiến cho chánh pháp mai một; do vậy, chẳng thể đạt được các thiện xảo nơi thế gian và xuất thế gian.

          “Triền” th́ có Thập Triền, phiền năo nhập tâm. Do nó khiến cho hành nhân chẳng có sức tự tại, cho nên gọi là Triền (, trói buộc). “Cái” trong phần trước là phiền năo thô nặng, c̣n Triền trong phần sau là Tùy Phiền Năo. Thập Triền phổ biến nhất nơi con người hiện thời. Mười loại Triền bao gồm: Một là vô tàm (chẳng xấu hổ), hai là vô quư (chẳng biết thẹn). Kẻ chẳng hổ, chẳng thẹn sẽ không có cách nào tiến nhập pháp tắc, phần nhiều đọa trong hạng tầm thường, tự thỏa măn, đạt được chút ít đă cho là đủ. Trong lúc đức Thế Tôn giảng kinh Pháp Hoa, có năm ngàn người rời đi. Đức Thế Tôn nói những kẻ tăng thượng mạn ấy rời đi, rất tốt! V́ sao? V́ họ chứng đắc chút ít đă cho là đủ, tự cho là đúng. Ba là ngủ nghê, bốn là hậu hối (làm rồi bèn hối hận), năm là xan (, keo kiệt), sáu là tật (, ganh ghét), bảy là điệu (, lao chao), tám là miên (, trầm mê), chín là phẫn (忿, căm phẫn), mười là phú (, giấu giếm). Mười Triền pháp do nghiệp phần của chúng sanh mà hiện. Hiện thời, nếu chúng ta chẳng sử dụng hành pháp Ban Châu mà mong đối trị Thập Triền và Ngũ Cái th́ hầu như không có cách nào, rất khó trực tiếp nhận biết chúng, hoặc điều chỉnh chúng, nhưng hành pháp Ban Châu tiêu trừ các món Cái và Triền Phược ấy rất dễ dàng!

          Đối với điều thứ ba là Thụy (, ngủ nghê) trong Thập Triền, phải nên nhắc tới đôi chút. Thông thường, chúng ta cho rằng nhắm mắt là ngủ. Ngủ gây chướng ngại cho việc sử dụng sức tự tại của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư, tức năm căn bế tắc th́ gọi là Ngủ. Có người tu pháp trong mộng[1], người ấy chẳng gọi là Ngủ. V́ sao? Người ấy đang tu pháp. Nếu chúng ta đă biết pháp tắc trong Phật pháp, mà vẫn buông lung vô độ, tham ngủ nghê, th́ về sau sẽ hối hận. Về sau hối hận ǵ vậy? Luống uổng một đêm, luống uổng một ngày, ngày này qua ngày nọ luống uổng như thế đó. Trong một đời người, ta dùng mất nửa thời gian để ngủ; thực tế là thuộc vào trạng thái chẳng thể tự chủ. Ban ngày, khi mặt trời mọc, chúng ta trông thấy tướng quang minh, toàn thể nhân loại đều được ánh sáng mặt trời soi rọi, khá có tinh thần, các thứ hành vi có thể rơ ràng hơn, tự chủ hơn. Khi mặt trời lặn, khi màn đêm buông xuống, sẽ dễ buồn ngủ, tâm trí mất đi sự tự chủ. Đó là tướng biểu hiện của cộng nghiệp.

          Trong tướng biểu hiện của cộng nghiệp, chúng ta sẽ cảm nhận, và cũng có thể trông thấy: Lúc ngủ, sức tự chủ của chúng ta bị vùi lấp bởi sự bức bách của nghiệp, bị đè nén bởi cảm nhận, bị vô minh đè nén. Do bị đè nén mà chẳng đắc lực. V́ thế, trong khi mơ ngủ, phần nhiều chẳng tự chủ. “Dạ” (ban đêm) có ư nghĩa tối tăm che phủ. Thật ra, ban ngày chúng ta có tự chủ hay chăng? Chẳng phải là thường bị tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến sai khiến ư? Nếu là như vậy, trong lúc ban ngày và trong mộng, chúng ta đều chẳng thể tự chủ, kết quả là một kẻ thường mơ màng, tăm tối!

          “Tứ hối” (Điều thứ tư là Hối): Đối với Hối (), trong Phật giáo thường nói đến sám hối, chẳng có duyên gây ra hậu hối (後悔, hối hận sau khi đă làm chuyện ǵ đó). Hậu hối phần nhiều là v́ nhân duyên “kết quả đạt được chẳng tương ứng với ḷng mong mỏi của chính ḿnh”, bèn nẩy sanh một thứ tướng phiền năo. Do vậy, gọi là Triền, cũng gọi là Tùy Phiền Năo. Người hậu hối sẽ thường nói: “Ôi trời ơi! Ta chẳng nên làm chuyện này, ta chẳng thể làm chuyện kia…” Người như thế suốt đời chẳng thành tựu chuyện ǵ! Những người có trí huệ đă sớm biết duyên khởi, quá tŕnh và kết quả, chọn lựa rơ ràng pháp tắc như thế, sẽ tuyệt đối chẳng khiến cho chính ḿnh bị che lấp mê mờ, cũng sẽ chẳng bị sự tướng che lấp, càng chẳng bị mê mờ v́ điều được, lẽ mất!

          “Ngũ xan” (Điều thứ năm là Xan): “Xan” (, keo kiệt) là chẳng nỡ bỏ các vật. Đối với tài vật, chính ḿnh c̣n chẳng thể dùng, huống hồ cho người khác ư? Hữu t́nh thời Mạt Pháp ích kỷ, keo kiệt rất nghiêm trọng!

          “Lục tật” (điều thứ sáu là ghen ghét): Chẳng muốn kẻ khác hơn ḿnh, đó là Tật (, ghen ghét). V́ thế, do cái tâm hiếu thắng, sẽ có lắm điều ghen tỵ. Người ghen tỵ cần phải hành pháp tùy hỷ cho nhiều, thường hành pháp tùy hỷ khiến cho tâm trí của chính ḿnh sáng sủa, an trụ trong lợi ích rộng lớn, coi sự thành tựu của người khác như sự thành tựu của chính ḿnh. Như thế th́ thiện duyên sẽ trọn đủ, tự thân an lạc. Trong thời đại này, cái tâm so đo, háo thắng khá nhiều. Do vậy, chính là thời đại đấu tranh kiên cố, cái tâm ghen tỵ mười phần phổ biến. Chúng ta phải nên tự khéo tư duy, tiêu trừ nó (tâm ghen tỵ) từ nghiệp tướng của chính ḿnh. Dùng tâm trí tùy hỷ và tán thán để tùy hỷ công đức và thiện duyên của người khác, tùy hỷ phước báo và thành tựu của người khác. Như thế th́ chúng ta sẽ đạt được sự an vui rộng lớn, v́ lúc quư vị tùy hỷ sự thành tựu của người khác, nếu thấy người khác thành tựu cũng giống như chính ḿnh đạt được. Như vậy th́ sẽ nẩy sanh sự vui sướng và an lạc, sẽ sống hết sức ḥa b́nh, rộng lớn, xa ĺa các khổ năo bức bách trong tâm. Có nhiều hữu t́nh muốn hơn người khác đă lâu, vĩnh viễn mong luôn ở trong trạng thái tôn quư, giỏi giang hơn người khác. Đó là tâm trí Tu La. Kết quả của tâm trí như thế là cuộc sống đấu tranh chẳng ngơi, quá khó khăn, quá khổ sở. Cuộc sống như vậy sẽ khá bức bách!

          “Thất điệu” (điều thứ bảy là lao chao): “Điệu cử” (掉舉, trạo cử) là tâm trí bộp chộp, thiện căn khá mỏng ít, là kẻ hư vọng chấp giữ “lấy, bỏ”, rất khó có tâm trí trầm tĩnh, b́nh thản. Tâm trí chẳng an, chẳng thể thủ hộ điều ǵ, chẳng được an vui trong các cảnh giới. Đó gọi là chẳng thể Chỉ, tức là tu tŕ Xa-ma-tha sẽ khó thể thành tựu. Hôn trầm và điệu cử là một cặp pháp đối ứng. Hữu t́nh trong thời Mạt Pháp nếu chưa đắc Thiền Định, phần nhiều chẳng hôn trầm th́ sẽ đọa vào điệu cử. Chẳng điệu cử, ắt sẽ rơi vào hôn trầm, chẳng thể thoát ra, chẳng có con đường thứ ba để đi! Nhưng con đường thứ ba chính là Chỉ Quán thành tựu, đạt được niềm vui tam-muội.

          “Bát miên” (Điều thứ tám là Miên): Mê ngủ có tính chất hôn trầm kéo dài, chẳng thể tự khống chế.  

          “Cửu phẫn” (Món Triền thứ chín là phẫn): V́ tâm chẳng tương ứng, chẳng thể sanh ra lợi lạc, bèn sanh sân hận. Cổ nhân nói “phẫn phẫn bất b́nh”. Tuy chẳng kịch liệt như Sân Hận, nhưng cũng là một thứ phiền năo. V́ vậy, nói Phẫn là Năo Hoạn.

          “Thập phú” (món triền phược thứ mười là Giấu Giếm): Thường che giấu khuyết điểm của chính ḿnh, mong tự bào chữa, v́ sợ mất danh dự. Danh dự đúng là hư giả, nhưng rất nhiều người v́ danh dự hư dối, chẳng tiếc sức giấu giếm. Người thời Mạt Pháp, nghiệp duyên hừng hực, tạp duyên hừng hực, thường xuyên qua lại với người khác, suốt đời siêng năng tạo lỗi, tức là cơ hội phạm phải lầm lỗi rất nhiều. Chỉ cần tỏ lộ th́ sẽ được an lạc, giống như phương tiện vứt bỏ rác rưởi, nhưng nếu che giấu khuyết điểm, sẽ giống như tiếc nuối, cất giấu rác rưởi! Có các vị Bồ Tát suốt đời siêng năng tom góp rác rưởi, thường hay tự bào chữa, luôn mong tô vẽ cho chính ḿnh có bộ dạng rất viên măn, rất thiện lương, rất nghiêm túc. Kết quả là tự thân hứng chịu tràn trề các lỗi lầm v́ chẳng như thật! V́ lỗi lầm chẳng có tự tánh, cho nên hễ sám hối bèn được an lạc!

          V́ sao phải nêu ra hai loại Triền và Cái? Chính là do chúng ta sống trong thời Mạt Pháp, trong khi tu tập, chẳng nhận biết rơ ràng, nhưng đấy lại là một nghiệp tướng đặc biệt trọng yếu. “Tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng” khá thô nặng, thông thường chúng ta có thể thấy được, nhưng các món Triền sau đó như vô tàm, vô quư, hôn trầm, điệu cử, hậu hối, keo tham, ghen tỵ, mọi người chẳng để ư. Thật ra, chúng nó đều có thể sanh khởi căn bản phiền năo giống y hệt như năm món trước (tham, sân, si, mạn, nghi). Hễ hơi nặng hơn th́ tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng là sáu món căn bản phiền năo sẽ bộc lộ. Sáu căn bản phiền năo ấy mười phần thô nặng! Nhưng người học Phật trong hiện thời, đội cái mũ “là người học Phật” th́ đông, chỉ là đeo đội để trang sức, chứ thật ra chẳng phải vậy. Nếu chẳng đối trị thích đáng “tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng” của chính ḿnh, tiêu trừ nó, chuyển hóa nó, sẽ chẳng trở thành người học Phật! Chẳng thể tiêu trừ Tùy Phiền Năo của chính ḿnh, quư vị học Phật để làm ǵ? Có ư nghĩa chi đâu? Nhưng người hiện thời khoác lấy danh xưng học Phật đông lắm, kẻ tiêu trừ phiền năo của chính ḿnh ít ỏi! Do vậy, “ĺa khổ, được vui” ít kẻ đạt được! V́ nỗi khổ phiền năo, nỗi khổ do Sở Tri Chướng, bất luận là phiền năo thô nặng, hay Tùy Phiền Năo, đều đem đến nỗi khổ cho chúng ta là chuyện rất rơ ràng, xác đáng! Chẳng hạn như chúng ta có thể trực tiếp cảm nhận nỗi khổ tham, sân, si. Nếu chúng ta thông qua học tập và tu tập Phật pháp, khéo điều chỉnh, khéo nhận thức, thoát khỏi chúng, sẽ có thể ĺa khổ, được vui, mà cũng có thể khiến cho người khác ĺa khổ, được vui, cũng chính là tự lợi và lợi tha, tự giúp ḿnh, giúp đỡ người khác.

          Nhắc nhở những điều này là v́ người học Phật trong hiện thời tự giát vàng đông lắm, tự ḿnh trang hoàng cho bản thân càng ngày càng “giống”, tức là bề ngoài càng ngày càng giống [người đang tu hành] Phật pháp, nhưng nội dung càng ngày càng đậm phiền năo! Có kẻ Sở Tri Chướng càng ngày càng nhiều, có kẻ phiền năo càng ngày càng nặng, học Phật như thế chính là đi ngược đường. V́ thế, đa văn càng lắm, chỉ ăn nói tăng thêm lưu loát, khinh mạn kẻ khác, phiền năo lừng lẫy, tạo các ác nghiệp, đời này khổ nạn, đời sau ắt hẳn sẽ bị nhiều quả báo ác, tất nhiên sẽ đọa lạc, chẳng được nghe danh tự Tam Bảo. V́ sao vậy? V́ vận dụng Phật pháp hư giả, chẳng chân thật. Như thế th́ quả thật là vô nghĩa. Các vị thiện tri thức ơi! Đối với chuyện này, chúng ta nhất định phải đích thân khéo quan sát nhé!

 

          (Kinh) Thời ngũ bách nhân, nhất tâm hiệp chưởng, cung kính đảnh lễ, thoái trụ nhất diện. Nhĩ thời, Hiền Hộ tức bạch Phật ngôn; - Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc kỷ pháp, nhi năng đắc thử Niệm Phật tam-muội dă?

          ()時五百人。一心合掌。恭敬頂禮。退住一面。爾時賢護即白佛言。世尊。菩薩摩訶薩具足幾法。而能得此唸佛三昧也。

          (Kinh: Khi đó, năm trăm người nhất tâm chắp tay, cung kính đảnh lễ, đứng lui qua một phía. Lúc bấy giờ, ngài Hiền Hộ liền bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ mấy pháp sẽ có thể đắc Niệm Phật tam-muội này?)

 

          Khắp nơi trong kinh điển đều khơi gợi mọi người liễu giải chỗ y chỉ cơ bản để tu tŕ ḥng thành tựu môn Niệm Phật tam-muội này.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Hiền Hộ ngôn: - Hiền Hộ! Nhược Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc tứ pháp, đắc thị tam-muội.

          ()爾時世尊。告賢護言。賢護。若菩薩摩訶薩。具足四法。得是三昧。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Hiền Hộ rằng: - Này Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ bốn pháp, sẽ đắc tam-muội này).

 

          “Cụ túc tứ pháp” tức là có thể tương ứng với bốn pháp.

 

          (Kinh) Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, bất trước nhất thiết ngoại đạo ngữ ngôn.

          ()何等爲四。一者不著一切外道語言。

          (Kinh: Những ǵ là bốn? Một là chẳng chấp trước các lời lẽ của ngoại đạo).

 

          “Nhất thiết ngoại đạo ngữ ngôn” (hết thảy lời lẽ của ngoại đạo) không ǵ chẳng phải là cầu pháp ngoài tâm, tâm trí hư vọng tăng giảm, tâm trí tạo tác, đáng gọi là pháp tắc hữu lậu của các tạp duyên hừng hực trong sự liên tục đối đăi nhị nguyên, là pháp tắc sanh diệt, là pháp tắc thiện ác, là các loại như thế. Chúng ta biết: Trong giáo ngôn, đức Thế Tôn đă nói lời như thật, lời chân thật, lời vô lậu, lời trí huệ, lời từ bi, lời phương tiện. Các lời lẽ như thế đều là cơ sở y chỉ của việc chứng tam-muội. V́ sao rất nhiều người niệm Phật, hoặc tŕ chân ngôn, dẫu hằng ngày niệm tám vạn câu Phật hiệu, hoặc sáu vạn câu Phật hiệu, tŕ chân ngôn mấy ngàn biến, mấy vạn biến, nhưng phiền năo vẫn hừng hực y như cũ? Điều chủ yếu nhất là do chẳng nắm chắc một điểm, chẳng nhận biết, tức là nói dối, nói thêu dệt chưa ngưng dứt. Ác tâm, hư ngụy tâm, mạn tâm chưa ngưng dứt. Tu tŕ như thế th́ chân ngôn chẳng thể thành tựu, niệm Phật chẳng thể tương ứng. Nếu chúng ta chẳng biết khéo ǵn giữ khẩu nghiệp, chân ngôn sẽ chẳng thể nào thành tựu được! Nếu chúng ta chẳng khéo thủ hộ tâm trí, sẽ không có cách ǵ thành tựu niệm Phật được! Do vậy, là người niệm Phật cũng thế, mà người tŕ chân ngôn cũng thế, hăy nói lời thành thật, lời chân thật, thủ hộ tâm địa nhất như, càng là trọng yếu! Đừng nên dùng cái tâm hư vọng, tâm hư giả tạo nhiều khẩu nghiệp. Nếu cứ như thế mà mong có thành tựu, sẽ chẳng tương ứng. Đối với chuyện này, chúng ta nhất định phải tự ḿnh chú tâm coi trọng.

 

          (Kinh) Nhị giả, bất nhạo nhất thiết chư ái dục sự.

          ()二者不樂一切諸愛慾事。

          (Kinh: Hai là chẳng ưa thích hết thảy các chuyện ái dục).

 

          Chuyện ái dục mười phần rộng khắp. Có người nói: Trong Dục Giới này, do có t́nh thức mà yêu mến lẫn nhau. T́nh yêu mến ấy do v́ lẽ ǵ mà yêu mến? Do nghiệp vô minh thôi thúc, sai khiến, chẳng thể tự khống chế được. Có kẻ say mê tiền tài, có người say mê thế lực, có kẻ say sưa danh vọng, có kẻ yêu mến oai đức. Cho đến người học Phật bèn yêu chuộng [cái danh] “ta là người học Phật”. Xét tới nhân duyên thực tế, lợi ích thực tế, [các thứ đó] có phải là tồn tại hay không? Cái được gọi là “ái dục” là v́ mê mất mà kiến lập, do thiếu khuyết mà kiến lập, tức là tâm trí chẳng đầy đủ, chẳng trọn đủ, chẳng biết cội nguồn, mà tạo thành một sự khúc xạ trong pháp đối đăi, đó là điều hữu t́nh trong Dục Giới đều cùng có. Nếu xa ĺa ái dục, các môn Thiền Định, tức Sắc Giới thiện xảo, sẽ tự nhiên hiện tiền, sanh vào Sắc Giới Thiên, hoặc là ở trong nhân gian mà hưởng thụ đủ loại vui sướng của Sắc Giới Thiên. Chúng ta có thể khéo quan sát chuyện này.

 

          (Kinh) Tam giả, thường bất viễn ly Đầu Đà công đức.

          ()三者常不遠離頭陀功德。

          (Kinh: Ba là thường chẳng xa ĺa công đức Đầu Đà).

 

          Đó gọi là “thiểu dục, tri túc” để nuôi thân, như thật thủ hộ pháp tắc tịch tĩnh, yêu thích chốn A Lan Nhă, cho đến buông bỏ các duyên trong tâm và các duyên bên ngoài. “Xả” là chẳng nắm níu, đúng như thật tiến nhập, thủ hộ tịch tĩnh.

 

          (Kinh) Tứ giả, thường yếm tam giới chư hữu sanh xứ.

          ()四者常厭三界諸有生處

          (Kinh: Bốn là thường chán các chỗ “có sanh” trong tam giới).

 

          Tam giới là Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới. Chúng ta nói người tu pháp hiện thời phần nhiều phiền năo thô nặng, cho đến đối với Tùy Phiền Năo, chẳng thể tiêu trừ, chuyển hóa tướng phiền năo, nghiệp phiền năo, và nỗi khổ phiền năo của chính ḿnh. Căn bản là chẳng thể nói đến chuyện thoát tam giới được, v́ chẳng mảy may dính líu đến xuất tam giới. Nếu chúng ta nhờ vào Phật pháp để kết duyên th́ cũng là có ư nghĩa! Nhưng nếu hiện thời gặp gỡ Phật pháp mà không trừ phiền năo nơi tự thân, cũng như phiền năo của người khác, bất luận là căn bản phiền năo, hay Tùy Phiền Năo, chúng ta đều phải nên xét kỹ Phật pháp rốt cuộc làm ǵ? Phật pháp xuất hiện trong cơi đời là v́ muốn trừ Sở Tri Chướng và Phiền Năo Chướng, thành tựu Bồ Đề cho chúng sanh. Người tu tập Phật pháp, nếu tâm sân hận sâu nặng, tâm đố kỵ sâu nặng, tâm phiền năo sâu nặng, tâm tham dục sâu nặng, chẳng thể tự kiềm chế, thậm chí khổ chẳng thể nói nổi. Khi đó, cần phải điều chỉnh, nhận thức chính ḿnh và pháp tắc đă học, để coi xem chính ḿnh có phải là người thật sự tu tập, ứng dụng, thành tựu pháp tắc hay không? Nếu chẳng như vậy, sẽ vẫn là một kẻ khoác lấy danh tiếng Phật pháp hư giả, giống như kẻ nắm giữ báu ma-ni có thể xuất sanh vạn vật mà lại đi ăn mày. Nói theo cách nói phổ biến nhất trong quá khứ th́ là “nă trước kim oản khứ yếu phạn” (cầm chén vàng đi xin ăn)!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc tứ pháp, đắc thử tam-muội.

          ()賢護。是爲菩薩摩訶薩具足四法。得此三昧。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ bốn pháp, đắc tam-muội này).

 

          Chúng ta hăy khéo quan sát, khéo tu tập, có thể tương ứng trọn đủ bốn pháp ấy, ắt chứng tam-muội sẽ chẳng phải là chuyện khó. Nếu chẳng trọn đủ [bốn pháp ấy], đối với tam-muội này, chẳng cần phải bàn tới, chẳng dính dáng, v́ vẫn c̣n cách biệt quá xa, vẫn phải nên buông bỏ rất nhiều thứ!

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân độc tụng, thọ tŕ thị tam-muội điển, hoặc thời phục năng vị tha giải thuyết, hiện tiền tức hoạch ngũ chủng công đức.

          ()復次賢護。若有善男子善女人。讀誦受持是三昧典。或時復能爲他解說。現前即獲五種功德。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân đọc tụng, thọ tŕ kinh điển tam-muội này, hoặc có khi lại có thể v́ người khác giải nói, hiện tiền sẽ đạt được năm loại công đức).

 

          Đây là hai pháp. Một là tự ḿnh đọc tụng, thọ tŕ kinh điển tam-muội này, đạt được năm thứ công đức và lợi ích. Hai là khi v́ người khác giải nói, sẽ liền đạt được năm thứ công đức trong hiện tiền. Chúng ta có thể nghiệm chứng năm loại công đức ấy và lợi ích của chúng. V́ báng pháp th́ sẽ có nỗi khổ do báng pháp, chửi bới sẽ tự có nỗi khổ do chửi bới, hành pháp sẽ tự có niềm vui do hành pháp. Đối với lạc, chúng ta có thể như thật quan sát. Đức Thế Tôn dạy: Tŕ tụng kinh điển này, cho đến v́ người khác giải nói, sẽ có năm thứ công đức. Sau khi chúng ta đă có nhân duyên tự ḿnh đọc tụng, do nhân duyên trao đổi, giải nói với người khác, sẽ có thể thấy năm thứ công đức ấy tương ứng hay không? Nếu tương ứng, tức là chư Phật nói lời thành thật. Nếu chẳng tương ứng, lẽ nào Phật chẳng nói lời thành thật ư? Hăy nên tự hỏi ngược lại chính ḿnh, xét xem chính ḿnh có phải là thật sự đọc tụng kinh điển này, v́ người khác giải nói hay không? Như thế chính là hành chân thật!

 

          (Kinh) Hà đẳng vi ngũ? Nhất giả, nhất thiết chúng độc bất năng tổn hại.

          ()何等爲五。一者一切衆毒不能損害。

          (Kinh: Những ǵ là năm? Một là hết thảy các chất độc chẳng thể tổn hại).

 

          Do công đức hành pháp hoặc tụng kinh, hết thảy các chất độc chẳng thể tổn hại. Quư vị nói: “Tôi cố ư t́m các chất độc đến thử xem sao?” Tâm trí kiểu đó chẳng tương ứng! Cũng có nghĩa là: Nếu chúng ta thật sự tu tập pháp tắc này, hết thảy các thứ độc hại do thiếu ư thức, hoặc các thứ độc hại của người khác đều chẳng thể làm hại chúng ta!

 

          (Kinh) Nhị giả, nhất thiết binh trượng bất năng phá thương.

          ()二者一切兵仗不能破傷。

          (Kinh: Hai là hết thảy các thứ vũ khí chẳng thể gây thương tổn).

 

          Chẳng bị vũ lực, hung khí gây thương tổn. Ở đây, đức Thế Tôn nói đến lợi ích và công đức trong hiện tiền. Chúng ta chớ nên sợ hăi lợi ích, mà cũng đừng nên tham cầu lợi ích; chỉ nên như thật đối diện lợi ích này!

 

          (Kinh) Tam giả, nhất thiết chư thủy bất năng phiêu một.

          ()三者一切諸水不能漂沒。

          (Kinh: Ba là hết thảy các thứ nước chẳng thể trôi ch́m được).

 

          Đương nhiên đây chẳng phải là để cho chúng ta thí nghiệm, chẳng hạn như nói: “Ta nhảy xuống nước xem sao?” Nhất định đừng nên có loại tâm lư chẳng tương ứng ấy. Đức Thế Tôn nói các pháp ấy, hoàn toàn chẳng v́ để cho chúng ta thách thức các nạn duyên ấy, mà nhằm bảo chúng ta: Giả sử nhằm lúc có nạn duyên ấy hiện tiền, công đức và lợi ích ấy sẽ hiện tiền.

 

          (Kinh) Tứ giả, nhất thiết mănh hỏa bất năng phần thiêu. Ngũ giả, ác vương, huyện quan bất năng đắc tiện.

          ()四者一切猛火不能焚燒。五者惡王縣官不能得便。

          (Kinh: Bốn là hết thảy lửa mạnh chẳng thể thiêu đốt. Năm là vua ác và quan huyện chẳng thể có dịp làm hại).

 

          Kẻ ác không ǵ chẳng v́ tâm trí chỉ quan tâm đến lợi ích hiện tiền. Ở đây, nói cách khác là chẳng bị kẻ nắm giữ quyền cao chức trọng nô dịch, sai sử.

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Do thị tam-muội từ tâm lực cố.

          ()所以者何。由是三昧慈心力故。

          (Kinh: V́ cớ sao vậy? Do sức từ tâm của tam-muội này vậy).

 

          Đọc tụng hoặc v́ người khác giải nói, sức từ tâm của tam-muội này sẽ tự nhiên tương ứng. Tuy chưa chứng tam-muội, sức ấy đă sanh khởi. Cũng có nghĩa là: Tuy đă giải nói cho người khác, tam-muội vẫn chưa tương ứng, nhưng sức tam-muội đă sanh khởi chủng tánh chín muồi trong tâm Từ, cho đến có thể nói là cơ chế hoàn thiện. Do vậy sẽ đắc lực, tức là sẽ đắc lực khi nạn duyên hiện tiền.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Nhược bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhất tâm cần cầu thị tam-muội thời, độc tụng, thọ tŕ thị tam-muội thời, tư duy tu tập thị tam-muội thời, vị tha giải thích thị tam-muội thời.

          ()賢護。若彼善男子善女人。一心勤求是三昧時。讀誦受持是三昧時。思惟修習是三昧時。爲他解釋是三昧時。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy khi nhất tâm siêng cầu tam-muội này, khi đọc tụng, thọ tŕ tam-muội này, khi tư duy, tu tập tam-muội này, khi v́ người khác giải thích tam-muội này).

 

          Đây là bốn loại chúng sanh, tức là các chúng sanh dùng bốn loại phương pháp để tiếp xúc giáo ngôn của tam-muội này: Có người là cầu tam-muội này, có người th́ đọc tụng, thọ tŕ tam-muội này, có người tu tập, tư duy tam-muội này, có người v́ kẻ khác giải nói tam-muội này. Bốn loại hữu t́nh ấy đạt được công đức và lợi ích như sau…

 

          (Kinh) Nhược hữu chúng độc, cập dĩ binh trượng, nhất thiết thủy, hỏa, ác vương, huyện quan năng thương hại giả, vô hữu thị xứ!

          ()若有衆毒及以兵仗。一切水火惡王縣官。能傷害者。無有是處。

          (Kinh: Nếu có các thứ chất độc, cùng với vũ khí, hết thảy nước, lửa, vua ác, quan huyện có thể tổn thương [người hành tŕ, đọc tụng, tư duy, tu tập, v́ người khác giải nói tam-muội này], chẳng có lẽ ấy).

 

          V́ sao đức Thế Tôn cổ vũ chúng ta như vậy? Thật ra, Ngài như thật bảo cho chúng ta biết lợi ích do tư duy tam-muội này, lợi ích do giải nói tam-muội này, lợi ích do siêng cầu tam-muội này, lợi ích do đọc tụng, thọ tŕ tam-muội này. Trong bốn loại cơ chế, lợi ích đều giống hệt như nhau!

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Giả sử thế gian Hoại Kiếp chi hỏa, thế giới diễm hách, thiên địa đỗng nhiên. Nhược bỉ thọ tŕ thử tam-muội điển, chư thiện nam tử cập thiện nữ nhân, thiết linh đọa lạc đại kiếp hỏa trung, tam-muội oai thần, bỉ hỏa tức diệt.

          ()復次賢護。假使世間壞劫之火。世界焰赫。天地洞然。若彼受持此三昧典。諸善男子及善女人。設令墮落大劫火中。三昧威神。彼火即滅。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Giả sử khi thế gian bốc lửa Hoại Kiếp, thế giới cháy sáng rực, trời đất rỗng tuếch, nếu các thiện nam tử và thiện nữ nhân thọ tŕ kinh điển tam-muội này, dù rơi vào lửa đại kiếp, do sức oai thần của tam-muội, lửa ấy bèn tắt).

 

          Trong phần trước, đức Thế Tôn đă thọ kư mười phần rơ rệt, nơi một ngàn đức Phật trong Hiền Kiếp, cho đến tột cùng đời vị lai, có năm trăm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cho đến tám vị Đại Sĩ v.v… đều thủ hộ sự thiện xảo của tam-muội này, chẳng để kinh điển bị mai một trong thế gian, độ nhiều chúng sanh, lợi ích rộng khắp nhiều hữu t́nh. Đời đời tiếp tục như thế, Ngài lại c̣n nói: Khi Di Lặc Phật Thế Tôn giáng thế, pháp này cũng được thanh tịnh tiếp nối, lưu truyền rộng khắp trong thế gian. Do vậy, sức của môn tam-muội này chẳng phải là pháp riêng biệt, hoặc phương pháp giải thoát riêng biệt của đức Thế Tôn, mà đều có thể truyền bá rộng khắp trong các nơi chốn của mười phương chư Phật, khiến cho hết thảy hữu t́nh hữu duyên đều có thể đạt được lợi ích chân thật rộng lớn. Chư vị thiện tri thức ơi! Chúng ta liên tưởng văn tự trong phần trước, sẽ có cảm nhận và quan sát rành rẽ đối với lời dạy của đức Thế Tôn.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Hựu như anh thủy năng diệt tiểu hỏa. Như thị Hiền Hộ! Giả sử tŕ kinh chư thiện nam tử, cập thiện nữ nhân, lạc bỉ hỏa trung, tam-muội lực cố, đại hỏa tùy diệt. Nhược bất diệt giả, vô hữu thị xứ.

          ()賢護。又如罌水能滅小火。如是賢護。假使持經諸善男子及善女人。落彼火中。三昧力故。大火隨滅。若不滅者。無有是處。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Lại như nước từ cái ṿ có thể diệt lửa nhỏ. Như thế đó Hiền Hộ! Giả sử các thiện nam tử và thiện nữ nhân tŕ kinh rơi vào lửa ấy, do sức của tam-muội, lửa lớn liền tắt. Nếu chẳng tắt, chẳng có lẽ ấy).

 

          Bọn phàm phu b́nh phàm chúng ta chẳng thể thấy biết kiếp hỏa. Nếu kiếp hỏa xảy ra, sanh mạng sẽ không có chỗ nào nương nhờ. Ở đây, đức Phật nói tướng đại công đức có thể diệt kiếp hỏa khi kiếp hỏa xảy ra. Đức Thế Tôn là đấng nói lời thành thật, muốn khiến cho chúng sanh thật sự nhận thức lợi ích của pháp tắc này trong Phật pháp, cho đến lợi ích của tam-muội.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Nhược bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ tŕ kinh thời, nhược bỉ ác vương, nhược ác huyện quan, nhược kiếp tặc, nhược sư tử, nhược hổ lang, nhược độc xà, nhược năng tác chướng ngại giả, vô hữu thị xứ.

          ()復次賢護。若彼善男子善女人受持經時。若彼惡王。若惡縣官。若劫賊。若師子。若虎狼。若毒蛇。若能作障礙者。無有是處。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy lúc thọ tŕ kinh mà hoặc là vua ác, hoặc quan huyện ác, hoặc giặc cướp, hoặc sư tử, hoặc cọp, sói, hoặc rắn độc giả sử có thể gây chướng ngại th́ chẳng có lẽ ấy).

 

          Không chỉ là chẳng bị kiếp hỏa tổn hoại, mà các ác duyên cũng chẳng thể thành tựu, cũng chẳng có lẽ ấy!

 

          (Kinh) Hựu thiết bỉ đẳng hành thị kinh thời, nhược bị dạ-xoa, nhược La-sát, nhược ngạ quỷ, nhược Cưu Bàn Trà, nhược Tỳ Xá Xà, năi chí nhất thiết phi nhân năng vi chướng ngại, diệc vô hữu thị xứ.

          ()又設彼等行是經時。若被夜叉。若羅剎。若餓鬼。若鳩槃茶。若毗舍闍。乃至一切非人。能爲障礙。亦無有是處。

          (Kinh: Lại giả sử những người ấy khi tu hành kinh này, nếu bị dạ-xoa, hoặc la-sát, hoặc ngạ quỷ, hoặc Cưu Bàn Trà, hoặc Tỳ Xá Xà, cho đến hết thảy phi nhân có thể gây chướng ngại th́ cũng chẳng có lẽ ấy).

 

          Trong phần trước đă nói thế gian chẳng thể xâm hại; ở đây nói quỷ thần cũng chẳng thể xâm hại.

 

          (Kinh) Hựu nhược bỉ nam tử, nữ nhân độc tụng kinh thời, chánh tư duy thời, vị tha thuyết thời, nhập tam-muội thời.

          ()又若彼男子女人讀誦經時。正思惟時。爲他說時。入三昧時。

          (Kinh: Lại nếu người nam kẻ nữ ấy khi đọc tụng kinh, khi chánh tư duy, khi v́ người khác nói, khi nhập tam-muội).

 

          Trong bốn loại cơ chế ở đây, hoặc là khi đọc tụng, khi v́ người khác giảng nói, khi tư duy, khi nhập tam-muội, lợi ích đều giống nhau. Chẳng phải là đă chứng đắc tam-muội th́ mới có lợi ích như thế. Khi đọc tụng, lợi ích cũng giống hệt. Khi tư duy, lợi ích cũng giống như hệt. Khi nói cho người khác, lợi ích giống hệt. Khi nhập tam-muội, lợi ích giống hệt. Dù là khi tu nhân, hay khi vừa mới hướng đến, hay được tiếp xúc, cho đến một niệm tùy hỷ, cũng đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn này. Như thế th́ chúng ta sẽ yêu mến pháp tắc này, tiếp xúc tam-muội này sẽ phát khởi duyên khởi rộng lớn, thanh tịnh, chân thật, tức là duyên khởi lợi ích thế gian, ta lẫn người đều được lợi.

 

          (Kinh) Hành phạm hạnh thời, nhược thất y, nhược thất bát, năi chí hữu chư chướng ngại sự giả, vô hữu thị xứ.

          ()行梵行時。若失衣若失鉢。乃至有諸障礙事者。無有是處。

          (Kinh: Khi hành phạm hạnh, nếu mất y, hoặc là mất bát, cho đến có các chuyện chướng ngại th́ chẳng có lẽ ấy).

 

          Đức Thế Tôn nói công đức và lợi ích của pháp tắc này đến chỗ cực vi tế, thậm chí những chi tiết vặt vănh trong cuộc sống, như các chuyện nhỏ nhặt như mất y, mất bát v.v… Ngài đều nhắc nhở chúng ta: “Do hành pháp này, sẽ chẳng có chướng ngại như thế”. Trước kia, khi tôi ở trong núi, thường có kẻ hỏi: “Ở trong núi có ǵ ăn? Dùng ǵ đây?” Thật ra, nếu chúng ta thật sự nương theo lời giáo huấn của Thích Ca Thế Tôn, bất luận sống ở chỗ hẻo lánh tới mấy đi nữa, chẳng cần phải lo nghĩ v́ cơm áo. Quư vị có thể thí nghiệm thử xem! Quư vị hành tŕ đúng pháp, đọc tụng đúng pháp, thâm nhập pháp tắc đúng pháp, chánh tư duy quan sát pháp tắc này, quư vị sẽ đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Trước kia, vị thầy quy y của tôi khi vừa mới tiếp xúc Phật pháp, thầy thường ở trong núi. Mỗi ngày, hai giờ sáng thầy thức dậy, trèo lên núi để tu tŕ pháp mà thầy nghĩ là đáng nên tu tŕ. Có khi tới các chỗ rất hẻo lánh, nơi chẳng có người sống để tu tập pháp tắc, thường chẳng có cơm ăn. Chẳng phải là chính thầy không có cơm ăn, mà là do Ngài thường chẳng có ư nghĩ nấu cơm. [Thế nhưng] cứ mỗi khi thầy cảm thấy đói bụng, sẽ thường có người đưa thức ăn tới. Thầy gặp rất nhiều chuyện như thế. Sau đó, tôi ở trong núi, cũng đích thân thể nghiệm như thế rất nhiều. Không chỉ là sự ăn uống và tiêu dùng của chính ḿnh, mà cho đến pháp tắc, cho đến các nhân duyên khác, đều có chư Phật, Bồ Tát, hộ pháp long thiên, thiện tri thức dùng oai thần nhiếp thọ, hộ tŕ, khiến cho hiện duyên của quư vị nhanh chóng chuyển hóa. Quư vị có tin hay không? Phải tu tập! Chẳng tu tập, sẽ chẳng được!

          Quư vị nói xem, lợi ích nhiều như thế có thật hay không? Trong quá tŕnh kinh hành Ban Châu, quư vị cứ thong thả quan sát, tu tập, chẳng v́ lợi ích mà kinh hành; nhưng quư vị phải quan sát chuyện này, phải quan sát vi tế. Chẳng quan sát các lợi ích ấy, sẽ chẳng thể liễu giải Ban Châu. Quư vị nói: “Tôi là người vừa mới phát tâm cầu tam-muội này, có lợi ích như thế hay không?” Có chứ! Quư vị nói: “Tôi vừa mới đọc tụng kinh điển này, có lợi ích như thế hay không?” Có chứ! Quư vị nói: “Tôi vừa mới giải nói cho người khác, chính tôi chẳng chứng đắc tam-muội như thế, có lợi ích như thế hay không?” Có chứ! Nếu đă chứng đắc tam-muội như thế, sẽ chẳng mảy may hoài nghi lợi ích ấy, tự nhiên sẽ có thiện xảo rộng lớn!

          Do vậy, trong bốn loại cơ chế ấy, lợi ích giống nhau, chỉ là nói theo phương diện chủ động hay bị động. Chẳng hạn như đối với người đă chứng đắc tam-muội th́ là chủ động. Lại như chúng ta hướng tới pháp tắc này, cũng là chủ động, chỉ là phẩm lượng chủ động có khác biệt. Tuy là như thế, nhưng nói theo cơ chế hành pháp chủ động th́ lợi ích giống hệt nhau. Nếu nhận thức điều này, chúng ta đối với pháp sẽ chẳng có chuyện chẳng yêu mến, chẳng truyền bá, chẳng thực tập. Chúng ta đă gặp món trân bảo này, chớ nên bỏ mất, nhất là pháp này có thể hành, có thể biết, có kinh điển để có thể nương cậy, có pháp để có thể tu tập!

 

          (Kinh) Duy trừ túc ương bất khả chuyển giả.

          ()唯除宿殃不可轉者。

          (Kinh: Chỉ trừ [trường hợp đă có] ương hoạn từ đời trước chẳng thể chuyển được).

 

          Đối với câu nói này, có những Bồ Tát chắc là nẩy sanh lo ngờ. Cớ sao nêu ra điểm này? Chúng tôi nêu ra một thí dụ. Chẳng hạn như một người mà phước đức và nhân duyên đă tới tột cùng, tức là nghiệp đă đến chỗ cùng tận, định nghiệp đă hiện, vốn nên sống tới sáu mươi tuổi. Quư vị nói: “Kinh hành Ban Châu sẽ có thể sống tới một trăm hai mươi tuổi”. Đây chắc là một cách nói chẳng tương ứng cho lắm, v́ trong nghiệp báo có định nghiệp. Như sắc thân này của chúng ta có định nghiệp “ắt phải chết”, v́ chúng ta là Phần Đoạn sanh tử. Cái ngày sanh ra đời chính là một chỉ dấu “sắc thân này ắt phải tử vong”. Đó là định nghiệp xứ. Ngoại trừ loại nghiệp duyên này, các chướng duyên khác [do công đức hành Ban Châu] đều có thể tiêu trừ. Quư vị nói: “Tôi kinh hành Ban Châu có thể sống tới vạn vạn năm hay không?” Sắc thân của quư vị không được, nhưng thiện duyên của quư vị có thể tiếp nối. Chẳng thể nói là “Ngă tiếp nối”, v́ nếu nói như thế, chẳng phải đă trở thành thường pháp hay sao? Chính là “nghiệp tiếp nối”, chẳng phải “Ngă tiếp nối!”

          Có hữu t́nh chấp trước pháp tắc “có Ngă”. Ta có thể sống khá lâu, hoặc là nói “trong vị lai, Ngă là như thế nào?” Đó đều là nói giả thiết, v́ Ngă có dấu hiệu là ǵ? Có người nói dùng Tứ Đại làm dấu hiệu, người ấy đă chết th́ cái Ngă làm sao an lập cho được? Có người coi ư thức là Ngă. Ư thức biến đổi, Ngă làm sao tồn tại cho được? Thật ra, Phật pháp quan sát rất thấu triệt, quan sát chân thật: Pháp là vô ngă, con người cũng là vô ngă. Sự vật, ư thức, cho đến hết thảy các thứ đều chẳng có tự tánh, chúng ta phải quan sát như thật. Biểu hiện của sắc thân và ư thức chỉ là biểu hiện của nhân duyên mà thôi! Do nhân duyên liên tục, bèn miễn cưỡng gọi nghiệp tướng là Ngă. Rất nhiều người nói: Trong Tạng truyền Phật giáo, có người này chuyển thế bao nhiêu đời, người kia chuyển thế bao nhiêu đời, đó chẳng phải là Ngă ư? Chẳng phải. Đó là một thệ nguyện, nghiệp tướng liên tục đó thôi! Nếu thật sự là một cái Ngă, sẽ chẳng gọi là Hoạt Phật (Phật sống). Họ cũng chẳng “hoạt” được, mà cũng chẳng có ư nghĩa! Do vậy, chúng ta từ sự tiếp nối nghiệp vô ngă, tiếp nối nhân duyên vô ngă, mà trông thấy sự tiếp tục của từng pháp tắc đó thôi!

          Bàn tới Vô Ngă, chớ nên sanh ḷng sợ hăi, phải dám quan sát, v́ trong giáo ngôn của đức Thế Tôn, pháp là vô ngă, pháp là vô thường. Ắt cần phải nhận thức điều ấy. Nếu quư vị chẳng liễu giải, cứ mong né tránh điều này, sẽ nẩy sanh rất nhiều nỗi sợ hăi, hoảng hốt, cho đến chẳng dám léo hánh các chuyện này! Như thế th́ sẽ chẳng đạt được giải thoát, trí huệ, và phương tiện rốt ráo. Đối với điều này, chúng ta nhất định phải khéo tư duy và quan sát.

          V́ thế, “duy trừ túc ương bất khả chuyển hóa” (chỉ trừ ương hoạn từ đời trước chẳng thể chuyển hóa), tức là dị duyên (cái duyên của Dị Thục Quả) nối tiếp chín muồi, tức là mạng của người ấy được chuyển tới chỗ này. Đó có phải là Túc Mạng Luận hay không? Chẳng phải! Chỉ bất quá là nhân duyên của nó chín muồi, chín muồi như thế đó. Vậy th́ chúng ta phải biến đổi điều ǵ? Trên thực tế là trừ phiền năo, trừ chướng ngại, ĺa các nỗi khổ hậu hoạn. Cũng có nghĩa là chẳng c̣n tạo tác các nỗi khổ hậu hữu. Đó là sự thiện xảo của Phật pháp trong hiện đời. Nếu quư vị mong cho nỗi khổ trước kia cũng ngưng dứt, tức là có tâm vị lai, tâm quá khứ, tâm hiện tại. Nếu cưỡng chấp an lập ba cái tâm ấy, người như thế sẽ luân hồi chẳng ngớt, v́ loại tâm đối đăi ấy tất nhiên là có nghiệp tướng luân hồi.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Nhược bỉ thọ tŕ tam-muội kinh điển, chư thiện nam tử, thiện nữ nhân bối nhược hoạn nhăn, nhược hoạn nhĩ, nhược hoạn tỵ, nhược hoạn thiệt, nhược hoạn thân, nhược hoạn tâm. Phục hữu chư dư chủng chủng hoạn nạn, năi chí mạng nạn, phạm hạnh nạn giả, diệc vô thị xứ. Phục thứ Hiền Hộ! Nhược bỉ nam tử, nữ nhân, ư thử kinh trung, đắc như thị văn, đắc như thị kiến, đắc như thị tri, như thị cụ túc dĩ, nhược bất trị Phật, nhược báng chánh pháp, phá ḥa hợp Tăng, bối Phật Bồ Đề giả, diệc vô thị xứ!

          ()復次賢護。若彼受持三昧經典。諸善男子善女人輩。若患眼。若患耳。若患鼻。若患舌。若患身。若患心。復有諸餘種種患難。乃至命難梵行難者。亦無是處。復次賢護。若彼男子女人。於此經中。得如是聞。得如是見。得如是知。如是具足已。若不值佛。若謗正法。破和合僧。背佛菩提者。亦無是處。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Nếu các vị thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ tŕ kinh điển tam-muội ấy, hoặc bị bệnh mắt, hoặc bị bệnh tai, hoặc bị bệnh mũi, hoặc bị bệnh lưỡi, hoặc bị bệnh về thân, hoặc bệnh về tâm. Lại có các thứ hoạn nạn khác, cho đến nạn về tánh mạng, chướng nạn về phạm hạnh th́ cũng chẳng có lẽ ấy. Lại này Hiền Hộ! Nếu nam tử, nữ nhân ấy ở trong kinh này được nghe như thế, được thấy như thế, được biết như thế, trọn đủ như thế, mà nếu chẳng gặp Phật, hoặc báng chánh pháp, phá ḥa hợp Tăng, trái nghịch Bồ Đề của Phật th́ cũng chẳng có lẽ ấy).

 

          Đoạn văn tự này từ các hoạn nạn nơi thân thể mà nói đến chuyện không có các hoạn nạn. Một là từ chỗ hoạn nạn thuộc về pháp duyên và chỗ hoạn nạn thuộc về thiện pháp để nói tới chuyện không có các hoạn nạn, tức là sẽ miễn trừ các loại bệnh tật nơi thân thể, [hai là] cũng sẽ tránh khỏi các thứ mạng nạn thuộc về phạm hạnh nhờ sức của tam-muội.

          “Nhược bất trị Phật, vô hữu thị xứ” (nếu chẳng gặp Phật, chẳng có lẽ ấy), nghĩa là nhất định sẽ gặp Phật. V́ lẽ nào? Tu tŕ Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập tam-muội, dù là đắc hay chẳng đắc, do đă gieo cái nhân, hễ quả đă thành, tức là tam-muội hiện tiền, mười phương chư Phật đều hiện tiền, sẽ được trông thấy, sẽ vận dụng. Chẳng hiện tiền th́ cái nhân ấy vẫn chân thật, chẳng dối; trong tương lai sẽ đạt được cái quả ấy. Nếu quư vị nói: “Tôi chẳng cầu trong tương lai, mà muốn cầu ngay trong hiện tại, có được hay không?” Muốn vậy th́ quư vị hăy đích thân chứng tam-muội, sẽ được thấy chư Phật, đích thân được nghe dạy bảo.

          “Nhược báng chánh pháp, phá ḥa hợp Tăng, bối Phật Bồ Đề giả, diệc vô hữu thị xứ” (nếu báng chánh pháp, phá ḥa hợp Tăng, trái nghịch Bồ Đề của Phật, cũng chẳng có lẽ ấy): Chúng ta thật sự nương tựa giáo điển như thế, mà nếu báng pháp, phá ḥa hợp Tăng, trái nghịch Bồ Đề, chẳng thể có lẽ ấy. Đừng nên xem thường trạng thái trong xă hội hiện thời! Hiện thời, kẻ phá hoại Tăng pháp, phá hoại pháp Bồ Đề của Phật, phỉ báng chánh pháp thường lừng lẫy trong những người học Phật, chứ ngoại đạo chẳng thể phá! Do vậy nói: “Ngoại thú chẳng thể xâm phạm, quấy nhiễu sư tử vương. Chỉ có trùng sanh trong bụng sư tử mới có thể khiến cho xương cốt, thể chất của sư tử bị tan hoại, sắc thân tan hoại”. Phật pháp cũng giống như thế đó! Tuy Phật pháp đă thể hiện tướng trạng Mạt Pháp, thân tướng sư tử rất oai hùng, dũng mănh, ngoại đạo vẫn chẳng dám xâm phạm, quấy nhiễu, nhưng Ba Tuần đă lập thệ nguyện, chúng ta cũng chớ nên quên! Tức là hắn sẽ từ trong nội bộ của Phật pháp mà bại hoại, tàn diệt Phật pháp, hủy diệt tự viện, hủy diệt đạo tràng. Có kẻ thích làm cho đạo tràng tu pháp chẳng được an lạc, chẳng được yên tĩnh. Mọi người tu tập Phật pháp chẳng có thứ tự. Đối với những kẻ phá diệt đạo tràng ấy, chúng ta hăy nên dùng lời thệ nguyện của Ba Tuần cảnh tỉnh họ, khiến cho họ bỏ ác duyên trở thành quyến thuộc của Ba Tuần. Đấy là ác duyên, nếu quư vị chẳng nhắc tới chuyện ấy, sẽ có kẻ đến tự viện để gây họa hại cho tự viện, phá hoại sự kiến thiết của quư vị.

          Chúng ta đều biết: Trong Bồ Tát giới, chỗ nào cũng đều bảo chúng ta, đối với chuyện kiến lập tháp miếu, dựng lập tượng Phật, khiến cho chúng sanh có chỗ để tu pháp, hành pháp, nghe giảng, và trao đổi Phật pháp. Nhân duyên phước đức như thế chúng ta đều phải thực hiện. Các vị tăng sĩ là người phải nên thủ hộ tự viện, thủ hộ đạo tràng, siêng năng tu tập các pháp trong đạo tràng, cho đến thành tựu các pháp. Hàng Bồ Tát và các vị Thanh Văn tuy thọ tŕ và truyền bá [các pháp môn] sai khác, nhưng bất luận xuất gia hay tại gia, đều phải bảo vệ đạo tràng, thực hiện pháp tắc, tôn trọng ḥa hợp, chẳng trái nghịch Bồ Đề. Đấy là con đường chánh đáng tất nhiên, là điều có ư nghĩa. Đối với kẻ trái nghịch, chúng ta nhất định phải cảnh tỉnh chính ḿnh và người khác: “Đừng đọa lạc thành quyến thuộc của Ba Tuần, phá hoại đạo tràng, hủy hoại Phật pháp, khiến cho việc kiến thiết đạo tràng gặp nhiều duyên trái nghịch, thậm chí chẳng thể thành tựu”. [Nếu làm các hành vi phá hoại] như thế th́ quư vị đắp y của Như Lai mà phá hoại pháp của Như Lai, ăn cơm của Như Lai mà diệt giáo pháp của Như Lai! Đó gọi đệ tử của Ba Tuần, v́ Ba Tuần đă lập thệ nguyện như thế này: Vào lúc đức Thế Tôn sắp diệt độ, hắn đă đối trước đức Thế Tôn thốt ra lời ác như sau: “Thế Tôn! Sau khi Ngài nhập diệt, ta sẽ sai quyến thuộc của ta đắp y của Ngài, ăn cơm của Ngài, ở trong chùa của Ngài, phá hoại pháp của Ngài”. Ở trong chùa miếu, chúng ta phải cảnh tỉnh chính ḿnh, cảnh tỉnh người khác như thế nào? Nếu gặp phải kẻ hoại pháp, hủy diệt ḥa hợp, khiến cho tự viện chẳng kiến thiết tương ứng, chửi bới Tăng chúng, rủa xả Phật pháp, hăy nên nhắc nhở kẻ đó đừng đọa lạc thành quyến thuộc của Ba Tuần, chớ làm quyến thuộc của Ba Tuần. Đó là chuyện có lợi, có ư nghĩa, có xuất xứ. Nếu trong quá tŕnh chúng ta thật sự hành tŕ pháp tắc tam-muội, sẽ chẳng hành tŕ các pháp tắc [phá hoại Phật pháp, phá ḥa hợp Tăng như thế]. Nếu thật sự yêu mến pháp tắc tam-muội, sẽ chẳng có cơ hội để tạo tác các nghiệp duyên ấy! Cho nên nói là “vô hữu thị xứ” (chẳng có lẽ ấy, không thể nào xảy ra được).

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Đương tri tức bỉ tŕ kinh nam tử, nữ nhân, như thượng chư sự mạc năng vi ngại, duy trừ túc ương bất năng chuyển nhĩ!

          ()賢護。當知即彼持經男子女人。如上諸事莫能爲礙。唯除宿殃不能轉耳。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Hăy nên biết các chuyện trên đây chẳng thể trở ngại, người nam, kẻ nữ tŕ kinh được, chỉ trừ ương họa trong đời trước chẳng thể chuyển mà thôi!)

 

          Có các vị Bồ Tát tuy đến tu tập pháp, nhưng tâm trí chẳng tương ứng, hoặc là trong tâm chẳng tiếp nhận. Đối với chuyện này, trong các kinh Đại Thừa, đức Thế Tôn đă thọ kư khiến cho mọi người vui mừng, được cổ vũ. Sau khi Ba Tuần đă phát ác thệ như trên, đức Thế Tôn dùng tâm trí quang minh rộng lớn, thọ kư cho Ba Tuần và con cái của hắn: “Lành thay! Ông đă phát ra ác nguyện, nhưng công đức oai thần chẳng thể nghĩ bàn của Phật pháp, quyến thuộc của ông do đắp y Như Lai, ăn cơm của Như Lai, hành pháp của Như Lai, ở trong chùa của Như Lai, bèn được thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Ở đây, chúng ta cũng có thể nhắc nhở: Chẳng hạn như có kẻ tạo nhiều duyên trái nghịch, gây nguy hại cho Tăng chúng, nguy hại đạo tràng, nguy hại ḥa hợp, nguy hại người khác học pháp tắc trong Phật pháp, lời thọ kư này của đức Thế Tôn cũng có thể nhắc nhở kẻ đó tín thuận lời đức Phật dạy như thế, thủ hộ lời dạy của đức Thế Tôn, có thể thoát ĺa sanh tử y hệt. V́ thế, đối với chỗ thiện xảo rộng lớn trong lời dạy của đức Thế Tôn, cho đến các loại hữu t́nh nếu hữu duyên với Phật pháp, ắt sẽ thành tựu.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân tŕ thị kinh giả, thường vị nhất thiết chư thiên xưng tán.

          ()復次賢護。彼善男子善女人持是經者。常爲一切諸天稱讚。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy do tŕ kinh này, thường được hết thảy chư thiên ca ngợi).

 

          Sau đó, đức Thế Tôn bảo chúng ta: Hành pháp tắc này, sẽ được hết thảy hữu t́nh trong thế gian ca ngợi, kính yêu, thủ hộ, mong gặp gỡ, quan tâm chiếu cố. Tức là Ngài đă từ đủ mọi khía cạnh để nêu ra công đức thù thắng, công đức chẳng thể nghĩ bàn, công đức viên măn rộng lớn rốt ráo của pháp tắc này. Ở đây, Ngài nói theo phương diện “xưng tán”.

 

          (Kinh) Diệc vị nhất thiết chư long xưng tán, hựu vị nhất thiết Dạ Xoa xưng tán. Hựu vị nhất thiết Càn Thát Bà đẳng chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết A Tu La đẳng chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết Ca Lâu La đẳng chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết Khẩn Na La đẳng chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết Ma Hầu La Già chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết nhân phi nhân đẳng chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết tđại thiên vương chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết Đế Lợi Thiên Vương chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết Đại Phạm Thiên Vương chi sở xưng tán. Như thị năi chí thường vị nhất thiết chư Phật Thế Tôn chi sở xưng tán dă.

          ()亦爲一切諸龍稱讚。又爲一切夜叉稱讚。又爲一切乾闥婆等之所稱讚。又爲一切阿修羅等之所稱讚。又爲一切迦樓羅等之所稱讚。又爲一切緊那羅等之所稱讚。又爲一切摩睺羅伽之所稱讚。又爲一切人非人等之所稱讚。又爲一切四大天王之所稱讚。又爲一切帝利天王之所稱讚。又爲一切大梵天王之所稱讚。如是乃至常爲一切諸佛世尊之所稱讚也。

          (Kinh: Cũng được hết thảy các rồng khen ngợi, lại được hết thảy Dạ Xoa khen ngợi. Lại được hết thảy Càn Thát Bà ca ngợi. Lại được hết thảy A Tu La ca ngợi. Lại được hết thảy Ca Lâu La ca ngợi. Lại được hết thảy Khẩn Na La ca ngợi. Lại được hết thảy Ma Hầu La Già ca ngợi. Lại được hết thảy nhân phi nhân ca ngợi. Lại được hết thảy tđại thiên vương ca ngợi. Lại được hết thảy Đế Lợi Thiên Vương ca ngợi. Lại được hết thảy Đại Phạm Thiên Vương ca ngợi. Như thế cho đến thường được hết thảy chư Phật Thế Tôn ca ngợi).

 

          Nói theo phương diện khen ngợi: [Người thọ tŕ kinh điển này] được hết thảy hữu t́nh trong thế gian, cho đến chư Phật, Bồ Tát đều khen ngợi. Đức Thế Tôn dùng thiện xảo đại oai đức như thế để khích lệ chúng ta yêu mến, đọc tụng, tu tập, truyền bá, giải nói, đích thân chứng đắc pháp tắc này.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Hựu bỉ chư thiện nam tử, thiện nữ nhân tŕ thị kinh giả, thường vị nhất thiết chư thiên ái kính. Như thị năi chí thường vị nhất thiết chư long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng chi sở ái kính. Hựu vị nhất thiết tthiên đại vương chi sở ái kính. Như thị thường vị nhất thiết Đế Lợi Thiên Vương, năi chí nhất thiết Đại Phạm Thiên Vương chi sở ái kính. Như thị thường vị nhất thiết chư Bồ Tát bối, năi chí nhất thiết chư Phật Thế Tôn chi sở ái niệm dă.

          ()復次賢護。又彼諸善男子善女人持是經者。常爲一切諸天愛敬。如是乃至常爲一切諸龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽人非人等之所愛敬。又爲一切四天大王之所愛敬。如是常爲一切帝利天王乃至一切大梵天王之所愛敬。如是常爲一切諸菩薩輩乃至一切諸佛世尊之所愛念也。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân tŕ kinh này lại thường được hết thảy chư thiên yêu kính. Như thế cho đến thường được hết thảy các rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… yêu kính. Lại được hết thảy tthiên đại vương yêu kính. Như thế thường được cho đến hết thảy Đế Lợi Thiên Vương, cho tới hết thảy Đại Phạm Thiên Vương yêu kính. Thường được hết thảy các hàng Bồ Tát cho tới hết thảy chư Phật Thế Tôn yêu mến, nghĩ nhớ như thế).

 

          Ngài dùng hai pháp tán thán và ái kính như trên để viên măn bảo chúng ta: Người cầu được truyền dạy pháp Ban Châu tam-muội, người đọc tụng, người giải nói, người đích thân chứng đắc như thế, sẽ đạt được tướng công đức rộng lớn, rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn, được hết thảy hữu t́nh trong thế gian yêu kính, cho đến được hết thảy chư Phật, Bồ Tát yêu mến, tưởng nhớ. Chuyện này quả thật chẳng thể nghĩ bàn. Nếu chư Phật, Bồ Tát yêu mến, nghĩ nhớ một ai, hoặc yêu mến, nghĩ nhớ một pháp tắc, sẽ có lợi ích như thế nào? Tâm trí của quư vị giống như một chiếc cell phone, trong ấy chứa đầy các dăy số của chư Phật, Bồ Tát. Quư vị tùy tiện nhấn số nào, cũng đều nhận được lời chúc phước trí huệ của Phật, Bồ Tát, chúc phước quư vị cát tường, khỏe mạnh, oai đức, chúc phước vô tận pháp tắc và gia tŕ. Bởi đó, quư vị sẽ nhận được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn! Nhưng có kẻ do bị La Sát thâu nhiếp, ác quỷ thâu nhiếp, chẳng hạn như kẻ nhằm lúc hành tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, bị lục đạo ác tánh thâu nhiếp, sẽ biểu lộ thành phiền năo thô nặng! Sắc thân này của chúng ta nếu chẳng được thiện hay ác thâu nhiếp, sẽ đều là tướng “không lập” (tồn tại rỗng tuếch), tức là giống như một cái bát, trong đó chẳng đựng chi hết, rỗng không. Một khi nghiệp báo của sắc thân này sắp tận, thiện thần lẫn ác thần đều buông bỏ, thân thể rỗng tuếch, người ấy sẽ chết! V́ thế, đừng nên cho rằng sắc thân này là cái Ta chi cả! Muốn đem nó giả dạng thành thứ ǵ, quư vị giả dạng chẳng đầy vài chục năm, nó sẽ mất đi. Chẳng cần biết quư vị trau chuốt nó cỡ nào, nó sẽ tan hoại. Thật sự chẳng có thứ ǵ vĩnh hằng, mà cũng chẳng có một cái Ngă bất hoại! Chúng ta phải như thật nhận thức tánh chất vô thường ấy!

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Hựu bỉ chư thiện nam tử, cập thiện nữ nhân, dĩ kinh lực cố, thường vị nhất thiết chư thiên thủ hộ.

          ()復次賢護。又彼諸善男子及善女人。以經力故。常爲一切諸天守護。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Các thiện nam tử, và thiện nữ nhân ấy, do sức của kinh, lại thường được hết thảy chư thiên thủ hộ).

 

          Trong phần trước là khen ngợi, yêu kính, ở đây nói đến chuyện thủ hộ.

 

          (Kinh) Như thị thường vị nhất thiết chư long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, cập nhân phi nhân chi sở thủ hộ. Hựu vị nhất thiết tthiên đại vương, như thị Đế Lợi Thiên Vương, năi chí Đại Phạm Thiên Vương chi sở thủ hộ. Như thị thường vị nhất thiết chư Bồ Tát bối, năi chí nhất thiết chư Phật Thế Tôn tất giai phú hộ.

          ()如是常爲一切諸龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽及人非人之所守護。又爲一切四天大王如是帝利天王乃至大梵天王之所守護。如是常爲一切諸菩薩輩乃至一切諸佛世尊。悉皆覆護。

          (Kinh: Thường được hết thảy các rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, và nhân phi nhân thủ hộ như thế. Lại được hết thảy tthiên đại vương, Đế Lợi Thiên Vương như thế, cho đến Đại Phạm Thiên Vương thủ hộ. Thường được hết thảy các vị Bồ Tát cho đến hết thảy chư Phật Thế Tôn thảy đều che chở, bảo vệ như thế).

 

          Trong phần trước nói là “thủ hộ”, v́ sao đến chỗ chư Phật, Bồ Tát bèn đổi thành “phú hộ”? Nếu c̣n nói “thủ hộ” sẽ chẳng tương ứng, khiến cho chúng sanh có tâm tăng thượng mạn; cho nên liền thay đổi một từ ngữ, nói là “phú hộ” (覆護), hàm ư chư Phật, Bồ Tát dùng đại oai đức chân thật thành tựu, chẳng chấp tướng mà che chở, bảo vệ. Trừ Phật, Bồ Tát ra, hết thảy Đại Phạm Thiên Vương, Đế Lợi Thiên (Trāyastriṃśa, Đao Lợi Thiên), tứ thiên vương, cho đến Càn Thát Bà, A Tu La, các rồng, Dạ Xoa, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… đều là đối tượng được lợi ích do niệm Phật, cho nên nói họ đến thủ hộ quư vị. V́ lẽ nào? Niệm Phật có thể ban cho họ lợi ích chân thật; cho nên nói họ sẽ đến ca ngợi, đến yêu kính, cho tới đến thủ hộ. Ở đây, chư Phật Thế Tôn như thật khen ngợi, yêu mến, nghĩ nhớ, che chở, bảo vệ, chư Bồ Tát cũng giống như thế. Đối với chuyện này, tôi cảm thấy mọi người tu tập pháp này vẫn là thuận tiện nhất. Mỗi người chúng ta thật sự tu tập pháp tắc này, lợi ích chân thật sẽ thấm vào sanh mạng của chúng ta, sẽ như thật tồn tại trong sự duy tŕ sanh mạng, sẽ thiết thực khiến cho chúng ta cảm nhận, vận dụng được!

 

          (Kinh) Thập phương thế giới vô lượng A-tăng-kỳ thế giới trung, hiện tŕ pháp giả.

          ()十方世界無量阿僧祇世界中。現持法者。

          (Kinh: Những người đang tŕ pháp trong vô lượng A-tăng-kỳ thế giới khắp mười phương thế giới).

 

          Mười phương chư Phật, Bồ Tát che chở, bảo vệ người đang tŕ pháp trong vô lượng A-tăng-kỳ thế giới trong mười phương thế giới.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Hựu bỉ chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ kinh oai lực cố.

          ()復次賢護。又彼諸善男子善女人。以經威力故。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy lại do oai lực của kinh).

 

          Chúng ta nhất định phải chú ư đôi chút. Quư vị được che chở, bảo vệ, yêu mến, tưởng nhớ, ca ngợi, đều là do đọc tụng, cầu được truyền trao, cho đến giải nói kinh điển và đích thân chứng đắc sức tam-muội, cho nên mới có lợi ích tương ứng ấy. Chúng ta nhất định đừng nên vứt bỏ cội nguồn: “Dĩ kinh oai lực cố” (do sức oai đức của kinh). Do sức của kinh, mỗi đoạn [kinh văn] đều có ngôn từ như vậy để nhắc nhở chúng ta. Nếu chẳng nương theo pháp tắc này, chẳng nương theo kinh điển này, chẳng thể thọ tŕ kinh điển này, chẳng giải nói, truyền đạt, tu tập kinh điển này, chẳng thủ hộ tam-muội này, các lợi ích ấy sẽ chẳng thể tương ứng.

          Có người v́ chính ḿnh đă tu tập pháp tắc đôi chút, đạt được đôi chút tương tự lợi ích, bèn quăng kinh điển và pháp tắc qua một bên, do tham cầu oai đức cho chính ḿnh, ngỡ chính ḿnh có oai đức, người như thế sẽ hứng chịu quả báo ác. Nêu một thí dụ đơn giản nhất để nói, chẳng hạn như chúng ta ngồi trong xe thiết giáp, súng ống b́nh thường chẳng bắn trúng ta. Khi đó, chúng ta nói: “Ối chà! Ta thật sự có oai đức, súng chẳng bắn trúng ta được!” Sau đó, từ trong xe thiết giáp xông ra ngoài, kết quả là súng vừa bắn liền thủng toang. Chúng ta chớ nên cậy vào oai đức của thiện pháp để biểu lộ nghiệp duyên hư vọng của chính ḿnh. Có người có thể mặc áo giáp chống đạn, bị người khác bắn trúng, liền nói: “Các ngươi thấy đó, ta trúng đạn mà chẳng chết!” Nhưng nếu kẻ đó cởi áo chống đạn ra, súng vừa bắn trúng sẽ chết tươi! Chúng ta đạt được các thứ phước đức, nhân duyên, đều nhờ vào sức tam-muội này, nhờ vào sức của kinh điển này, nhờ vào đọc tụng, truyền đạt, hướng đến, cho đến do thành tựu pháp tắc này mà đạt được lợi ích chân thật. Ở đây, chẳng thể nói suông, chẳng thể khoe mẽ giả dối được! Rất nhiều kẻ chẳng đạt được lợi ích trong Phật pháp là v́ đă khoe mẽ giả dối như thế, cũng như dựa vào h́nh tượng hư giả “ta học Phật” mà mong đạt được nội dung thực chất, nhưng thật sự hoàn toàn chẳng thật sự tu tập Phật pháp; cho nên lợi ích chẳng tương ứng. Rất nhiều kẻ học tập Phật pháp, nhưng chẳng tu tập pháp tắc, chỉ trộm cái danh, trộm lấy ngôn thuyết để sau đó đi khoe với người khác, có được hay chăng? Khi nói với người khác, đạt được lợi ích, nhưng v́ cái tâm hư giả, khi muốn bản thân chiếm hữu lợi ích ấy, lập tức vứt bỏ kinh điển và pháp tắc, sẽ bị thương tổn. Chúng ta có thể khéo quan sát, phải như thật nhận biết tánh chất liên tục của pháp này.

 

          (Kinh) Nhất thiết chư thiên giai dục kiến chi.

          ()一切諸天皆欲見之。

          (Kinh: Hết thảy chư thiên đều muốn trông thấy).

 

          Ở đây, lại dùng pháp “dục kiến” (muốn thấy) để bảo cho chúng ta biết công đức quang minh chân thật và công đức trang nghiêm rộng lớn của pháp tắc tam-muội này. Đó gọi là “lợi ích chân thật”, tức là lợi ích được an lập trong hết thảy thế gian, bất luận là Sắc Giới, hay Dục Giới, cho đến Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát giới, chư Phật giới, lợi ích của người hành pháp đều là trực tiếp khế hợp với sự biểu đạt này. Đó là lợi ích rộng lớn rốt ráo như thật, an trụ viên măn chân thật, là chân thật chẳng dối!

 

          (Kinh) Như thị nhất thiết chư long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, cập nhân phi nhân đẳng, giai tư dục kiến.

          ()如是一切諸龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽及人非人等。皆思欲見。

          (Kinh: Cũng như thế, hết thảy các rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, và nhân phi nhân v.v… đều nghĩ muốn trông thấy).

 

          V́ sao? Do thiện xảo hồi thí, do sức oai đức của kinh, do tạo phương tiện cho hết thảy chúng sanh, do mở kho báu lớn cho hết thảy chúng sanh, do hồi thí chân thật cho hết thảy chúng sanh, thường nói là “vị chúng khai pháp tạng, quảng thí công đức bảo” (v́ chúng mở kho pháp, rộng thí báu công đức). Người niệm Phật bất luận là thân phàm, thân thánh, thân ngu si, hay thân điên đảo, chỉ nương theo danh hiệu của Phật, có thể lợi lạc trọn khắp hữu t́nh thuộc chín pháp giới trong mười phương, khiến cho thiện nghiệp của hữu t́nh trong thiện đạo hừng hực, khiến cho hữu t́nh trong thánh đạo thành tựu viên măn, khiến cho hữu t́nh ngu si, tội ác thoát ĺa tổn thương trong chốn u minh. Đó là chân thật chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải là nói tùy tiện, chẳng phải là ngôn thuyết vô nghĩa, hoặc khoa trương vô nghĩa. Pháp tắc ấy chân thật lợi ích trọn khắp hữu t́nh thuộc chín pháp giới trong mười phương, an trụ trong công đức rộng lớn như thật nơi thế gian, cho nên là đại phước đức, oai đức thù thắng thành thục! Chúng ta chớ nên v́ được gặp gỡ mà coi rẻ, buông bỏ nó. Càng chớ nên v́ đă được gặp gỡ mà chẳng coi là thật, để rồi tham lam các pháp tắc khác. [Nếu hành xử như thế], đúng là chỗ đáng buồn, đáng đau khổ của hết thảy trời, người, v́ thế gian đă đánh mất trân bảo này. Nếu chúng ta đánh mất ma-ni trân bảo lợi ích hết thảy thế gian này th́ chư thiên, quỷ thần, cho tới chư Phật, Bồ Tát sẽ đều v́ chúng ta buồn bă than thở. Ở đây, hăy nên như thật xét kỹ pháp tắc này!

 

          (Kinh) Hựu bỉ nhất thiết tứ thiên đại vương, như thị nhất thiết Đao Lợi Thiên Vương, năi chí nhất thiết Đại Phạm Thiên Vương, giai tư dục kiến. Như thị nhất thiết chư Bồ Tát bối, năi chí nhất thiết chư Phật Thế Tôn, các dục kiến chi.

          ()又彼一切四天大王。如是一切忉利天王乃至一切大梵天王。皆思欲見。如是一切諸菩薩輩。乃至一切諸佛世尊。各欲見之。

          (Kinh: Lại nữa, hết thảy tứ thiên đại vương, hết thảy Đao Lợi Thiên Vương cho tới hết thảy Đại Phạm Thiên Vương, đều nghĩ muốn trông thấy như thế. Cũng như thế, hết thảy các vị Bồ Tát, cho đến hết thảy chư Phật Thế Tôn đều muốn trông thấy).

 

          Phân lượng ở đây rất nặng, nói hết thảy hữu t́nh trong thế gian, dù thánh, hay phàm, người trí, kẻ ngu, cùng với hết thảy chư Phật đều muốn trông thấy. V́ Ban Châu tam-muội vốn có tên là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền, hiện tiền như thế nào? Nếu chẳng muốn thấy quư vị, quư vị làm sao có thể thấy được? Do vậy, “đắc kiến” (được thấy) là do oai thần của chư Phật gia bị, do nhân duyên ấy mà sanh ra thiện xảo.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Hựu bỉ chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ kinh oai cố, nhất thiết chư thiên thường chí kỳ sở, thân kiến kỳ h́nh, linh bỉ quán đổ.

          ()復次賢護。又彼諸善男子善女人。以經威故。一切諸天。常至其所。親見其形。令彼觀睹。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy lại do oai lực của kinh mà hết thảy chư thiên thường đến chỗ người ấy, đích thân hiện h́nh dáng của họ để cho những người ấy được trông thấy).

 

          Ở đây, phân lượng càng lớn hơn nữa! Chúng ta thấy “dục kiến” (muốn thấy) cũng thế, “tán thán” cũng thế, cho đến “ái niệm” cũng thế, vẫn có cảm giác cách biệt. Ở đây, đức Thế Tôn trực tiếp bảo chúng ta: “Dĩ kinh oai cố, nhất thiết chư thiên, thường chí kỳ sở” (Do oai lực của kinh, hết thảy chư thiên thường tới chỗ người ấy). Chỗ người ấy là chỗ nào vậy? Chính là chỗ người hành pháp, người yêu mến pháp, chỗ người muốn cầu pháp này, người đọc tụng kinh điển, người giải nói cho kẻ khác, người đích thân chứng tam-muội. Chỗ của những người như thế đó!

          Khi tôn giả Hỗ Ba (Khruba Bonchum) đến đây[2], đă nhắc tôi rất nhiều lần: Chỗ này của chúng ta tụ tập rất nhiều vị trời. Tôi chẳng nghi ngờ chuyện ấy, v́ điều ấy đúng như kinh điển đă nói. Đó là chuyện rất như thật, rất chuẩn xác, rất chân thật. Tôi tin tưởng kinh giáo sâu đậm, mà cũng tin vào con mắt của các bậc trí giả. Đương nhiên mọi người sẽ nói: “V́ sao tôi chẳng trông thấy?” Vậy th́ quư vị cứ từ từ, nếu quư vị có các thiện xảo như thiên nhăn, pháp nhăn, huệ nhăn, chuyện này cũng chẳng khó. Nếu nương theo kinh điển, cũng là cảm nhận thấy rất thuận tiện, v́ ở đây mọi người đều niệm Phật, hành Ban Châu hơn một năm qua, ngày đêm chẳng gián đoạn, rất cảm động người trong thế gian. Chúng ta trong tiếng niệm Phật, trong đạo tràng, dấy khởi đủ thứ chủng tử có tánh ác hay tánh thiện, nhân duyên tốt, nhân duyên xấu, nhưng nhất định là nhân duyên chẳng thể nghĩ bàn. V́ sao vậy? Đạo nghiệp, đạo tràng sẽ chuyển hóa loại nhân duyên ấy, chẳng hạn như khi chư thiên, quỷ thần đến làm chứng cho chúng ta, sẽ trực tiếp gia tŕ chúng ta thiện xảo tăng thượng. Như vậy th́ ác duyên sẽ bị tiêu trừ.

 

          (Kinh) Như thị nhất thiết chư long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng, giai kiến kỳ h́nh, tùy nghi lợi ích. Hựu bỉ nhất thiết tứ thiên đại vương, Đế Lợi Thiên Vương, năi chí nhất thiết Đại Phạm Thiên Vương đẳng, giai thân lâm thị.

          ()如是一切諸龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽人非人等。皆見其形。隨宜利益。又彼一切四天大王。帝利天王。乃至一切大梵天王等。皆親臨視。

          (Kinh: Cũng như thế, hết thảy các rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… đều hiện thân h́nh, tùy nghi tạo lợi ích. Lại nữa, hết thảy tứ thiên đại vương, Đế Lợi Thiên Vương, cho đến hết thảy Đại Phạm Thiên Vương v.v… đều đích thân giáng lâm cho thấy).

 

          Các thiện tri thức ơi! Lời nói này có phân lượng rất nặng. Nó từng chút dẫn dắt chúng ta, sợ chúng ta sẽ kinh hoảng. Nếu ngày nào đó, quư vị thật sự trông thấy, đừng nên sợ hăi! Có người đột nhiên trông thấy thân to lớn sẽ sanh sợ hăi, v́ thân vi tế của chư thiên đều rất cao lớn, hoặc rất sáng ngời, rất trang nghiêm, rất oai đức. Lại các loài như rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, thiên long bát bộ, có nhiều loài khiến nhân loại trông thấy sẽ sợ hăi, kinh hoảng. Hàng Bồ Tát phần nhiều đều là bậc thiện căn thuần thục, hoặc có rất nhiều vị là Thập Địa, hoặc Bát Địa Bồ Tát. Do các nhân duyên như thế mà đích thân hiện trước chúng ta, gia tŕ thủ hộ đạo nghiệp của đạo tràng này, thật sự là chuyện chẳng thể nghĩ bàn. Họ cũng là bậc hồi thí lợi ích do hành pháp, lợi ích lẫn nhau. Như thế th́ chúng ta dần dần cũng có thể tập quen, sẽ chẳng hoảng sợ!

 

          (Kinh) Như thị nhất thiết chư Bồ Tát bối, năi chí nhất thiết chư Phật Thế Tôn, phi đản trú nhật, hoặc ư mộng trung, vị hiện h́nh tượng, tự xưng danh hiệu, ma đảnh ủy an, xưng dương, khuyến phát dă.

          ()如是一切諸菩薩輩。乃至一切諸佛世尊。非但晝日。或於夢中。爲現形像。自稱名號。摩頂慰安。稱揚勸發也。

          (Kinh: Cũng như thế, hết thảy các vị Bồ Tát cho đến hết thảy chư Phật Thế Tôn, không chỉ là trong ban ngày, mà hoặc là c̣n trong mộng bèn hiện h́nh tượng, tự xưng danh hiệu, xoa đầu an ủi, khen ngợi, khuyên phát tâm).

 

          Đối với đoạn văn tự này, chúng ta phải nên mười phần cẩn thận đọc tụng, liễu giải, hướng tới pháp tắc này, mong cầu pháp tắc này, đọc tụng kinh điển này, v́ người khác giải nói, đích thân chứng tam-muội, cho đến đối với người cùng được tiếp xúc, thủ hộ pháp này và kinh điển này, sẽ d́u dắt họ đúng như kinh điển đă dạy, sẽ đều đạt được sự nghĩ nhớ yêu mến, thủ hộ, che chở chẳng thể nghĩ bàn, cho đến đích thân giáng lâm, các thứ công đức như thế. Chúng ta nhất định sẽ nhận biết rơ ràng, tư duy cặn kẽ. Như thế th́ đối diện với tướng cảnh giới, trông thấy quỷ, thần, trời, Bồ Tát, Phật, sẽ chẳng kinh hăi, chẳng sanh ḷng hoảng hốt, chẳng đến nỗi mai một, đắm nhiễm bởi nhân duyên ấy, có thể trụ trong an lạc, có thể thấy Phật để hỏi pháp, trực tiếp tiến nhập, đích thân chứng tam-muội, tức Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Hựu bỉ chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, tuy vị tằng văn chư dư kinh điển, dĩ thị tam-muội oai thần lực cố, tự nhiên hữu nhân lai chí kỳ sở, năi chí mộng trung, vị kỳ tuyên thuyết, linh bỉ đắc văn, ức tŕ bất thất dă.    

          ()復次賢護。又彼諸善男子善女人。雖未曾聞諸餘經典。以是三昧威神力故。自然有人來至其所。乃至夢中。爲其宣說。令彼得聞憶持不失也。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Lại nữa, các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy tuy chưa từng nghe các kinh điển khác, do sức oai thần của tam-muội này, tự nhiên có người đến chỗ kẻ đó, thậm chí trong mộng, v́ kẻ đó tuyên nói, khiến cho kẻ đó nghe rồi sẽ ghi nhớ, vâng giữ, chẳng quên mất).

 

          Đức Thế Tôn nói Tam Tạng mười hai bộ loại, hoặc là hiển thuyết, hoặc mật thuyết, các thứ giáo ngôn, do oai thần của sức tam-muội này, đối với những người chưa nghe pháp này, chưa tu tập kinh điển này, sẽ khiến cho họ được nghe, vâng giữ chẳng quên!

          Pháp Tịnh Độ vốn ngầm hộ tŕ tam thừa, ngầm hành tŕ pháp tắc tam thừa, v́ trong lúc tu nhân, A Di Đà Phật Thế Tôn đă dùng sức thệ nguyện đại chủng tử đà-la-ni của Ngài, khiến cho hết thảy chúng sanh đạt được sức vô ngại, đạt được tự tại trong hết thảy các pháp. Chúng ta thường cho rằng pháp Niệm Phật chỉ đơn giản là tŕ danh hiệu Phật, thật ra chẳng phải vậy! V́ chủng tử thiện xảo ấy, có thể khiến cho hết thảy chúng sanh nhập tâm trí của bốn loại vô ngại lực, đạt được tự tại trong hết thảy các pháp tắc, có thể thực hành, hộ tŕ rộng lớn hết thảy các pháp, đích thân chứng hết thảy các pháp. V́ một câu Nam-mô A Di Đà Phật thật sự gồm trọn bổn nghĩa chân thật trong giáo ngôn thanh tịnh của hết thảy chư Phật, được hết thảy chư Phật như thật tuyên nói, có thể triển khai các phương diện tỉ mỉ, vi tế, tối thắng, sai biệt trong giáo ngôn của hết thảy Như Lai. Có sức chẳng thể nghĩ bàn như thế, phàm t́nh chẳng thể suy lường được! Nếu có thể thâm nhập pháp tắc này, vô lượng pháp môn sẽ được tự tại thiện xảo, nhập vào sức tự tại vô ngại. Đó là thệ nguyện do A Di Đà Phật Thế Tôn đă phát trong khi tu nhân. Trong kinh Vô Lượng Thọ và phẩm Vô Lượng Thọ Như Lai Hội của kinh Đại Bảo Tích, đức Phật cũng đối trước A Dật Đa Bồ Tát thọ kư nhiều lượt: Nếu có các chúng sanh sanh khởi tín tâm đối với pháp môn này, hành tŕ, thủ hộ, sẽ sanh khởi phương tiện oai đức rộng lớn, có sức tự tại chọn lựa đối với vô lượng pháp môn. V́ thế, trong ấy có nội hàm của cơ chế thọ kư, thệ nguyện, và huân tu.

          Trong giáo ngôn Tịnh Độ được truyền bá trên thực tế tại Trung Hoa, có nhiều vị Bồ Tát truyền bá pháp tắc “chuyên tu, chuyên niệm A Di Đà Phật”, quả thật là v́ mong lợi lạc hữu t́nh đang mê mất, hữu t́nh đang tán loạn, hữu t́nh đa nghi, hữu t́nh tự coi là hèn kém và thiện căn chẳng thành thục sẽ có thể đối với một pháp môn mà tùy thuận tự tại, tùy thuận khế nhập, đối với một pháp môn sẽ đạt được nhân duyên cổ vũ, khích lệ, giáo hóa. Nhưng có nhiều hữu t́nh hiểu lầm, hoặc có thể nói là hữu t́nh ngu si, mê muội, điên đảo, cưỡng chấp một pháp, cho nên thường nẩy sanh những giáo thuyết quá khích gây ngăn trở, thậm chí diệt pháp, báng pháp, hủy pháp. Đó là sự tuyên nói chẳng tương ứng với pháp tắc do thời đại này tạo thành. Nếu đối với hữu t́nh trong thời Mạt Pháp không có sức tu tŕ, hữu t́nh thiện căn chưa thành thục, hữu t́nh nhiều lo ngờ, hữu t́nh chẳng khéo tu tập pháp tắc, mà hướng dẫn các loại hữu t́nh ấy thâm nhập một môn, sẽ là rất thiện xảo, là sự lựa chọn có ư nghĩa. Có nhiều hữu t́nh do tâm tham, tâm tạp loạn, tâm kiêu mạn, tâm tà kiến, dẫu muốn tu pháp thành tựu mà chẳng thể thành tựu, chẳng thể thâm nhập, chẳng thể chọn lựa. V́ vậy, đức Thế Tôn cho đến các vị thiện tri thức truyền pháp trong đời sau, đều dùng đủ mọi thiện xảo để dẫn dụ, hướng dẫn chúng ta thâm nhập một môn, ngơ hầu thành tựu sự lựa chọn trong hết thảy các pháp, cho đến thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, đắc Bất Thoái Chuyển ngay trong một đời. Quả thật, chẳng có pháp cố định, mà cũng chẳng có pháp để phỉ báng các duyên khác, hoặc ngôn thuyết thật sự để gây trở ngại cho duyên khác. Những thứ như thế chỉ là phương tiện nhất thời để ngăn che, bảo vệ. Hiện thời, trong thế gian này, chúng ta thường nghe nói kiểu truyền bá Phật pháp chẳng tương ứng, tức là “dùng một pháp để diệt các pháp” như thế đó. [Kiểu nói ấy thúc giục hành nhân hăy] thực hiện giáo ngôn dựa theo các ngôn thuyết quá khích, mâu thuẫn với nội hàm thực chất rộng lớn, “nhiếp trọn khắp ba căn, lợi ích rộng khắp hết thảy hữu t́nh” của giáo ngôn Tịnh Độ[3]. Nói theo nội hàm chân thật của giáo ngôn Tịnh Độ, thật sự là “chẳng bỏ hết thảy các pháp, chứa đựng rộng khắp hết thảy các pháp, trọn đủ nội dung chân thật của hết thảy các pháp, có thể lợi ích rộng khắp hết thảy hữu t́nh trong pháp giới”. Đó là nội hàm công đức chân thật của pháp Tịnh Độ. Công đức và lợi ích của Ban Châu tam-muội cũng là như thế.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Ngă nhược thuyết bỉ chư thiện nam tử, cập thiện nữ nhân tạm tŕ tam-muội vi diệu kinh điển, sở đắc công đức, thiết kinh kiếp số, chung bất năng tận. Ngă chi trí biện, tuy phục vô cùng, diệc bất năng thuyết, hà huống bỉ bối, văn thử tam-muội, y giáo tu hành, như pháp nhi trụ dă.

          ()復次賢護。我若說彼諸善男子及善女人。暫持三昧微妙經典。所得功德。設經劫數。終不能盡。我之智辯。雖復無窮。亦不能說。何況彼輩。聞此三昧。依教修行如法而住也。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Nếu ta nói công đức đạt được do các thiện nam tử, và thiện nữ nhân ấy tạm tŕ kinh điển tam-muội vi diệu, dẫu trải qua bao kiếp số, trọn chẳng thể nói hết được. Biện tài trí huệ của ta tuy vô cùng, vẫn chẳng thể nói! Huống hồ bọn họ nghe tam-muội này, y giáo tu hành, an trụ đúng pháp).

 

          Trong nhiều kiếp, vô cùng kiếp, đức Thế Tôn tán thán chẳng thể trọn hết, huống hồ hết thảy các vị Bồ Tát, các vị Thanh Văn, các vị Duyên Giác, cho đến hết thảy hàng phàm phu mà có thể tán thán cùng tận ư? Công đức đạt được do tạm nghe, cho đến tạm tŕ kinh điển này, Phật c̣n chẳng thể tán thán trọn hết, huống hồ [công đức do] tu tŕ, thâm nhập tu tập pháp như thế ư? Đức Thế Tôn nêu ra một so sánh, một lời khuyên dạy như vậy để xưng tụng, tán thán công đức và lợi ích của pháp này, mong cho hết thảy chúng sanh hữu duyên sẽ thật sự liễu giải công đức và lợi ích chân thật của pháp này, tức là nêu ra tướng công đức to lớn cho đến lợi ích rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn của Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, nhi thuyết kệ viết.

          ()爾時世尊。爲重明此義而說偈曰。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn v́ muốn nêu rơ lại nghĩa này bèn nói kệ rằng).

 

          Trùng tuyên các công đức do thọ tŕ, cầu truyền dạy, giải nói, cho đến đích thân chứng đắc Ban Châu tam-muội.

 

          (Kinh) Nhược nhân hữu năng giải thích tư, chư Phật đại tịch thắng tam-muội. Giả linh ngă kim thuyết công đức, do bỉ Hằng hà thủ nhất sa. Nhược năng vị tha thuyết tam-muội, thủy bất năng nịch, hỏa bất thiêu. Đao, trượng, độc hại sở bất thương. Vương, tặc, ác quan bất đắc tiện. Nhược năng độc tụng tam-muội kinh, bất úy nhất thiết khủng bố sự. Như bỉ đại xà, chư đại độc, thử đẳng kinh lực năng diệt trừ. Nhược hữu thọ tŕ thị kinh điển, bất úy nhất thiết chư ác nhân. Dạ Xoa, La Sát, cập chư long, bỉ đồ chung vô đắc kỳ tiện. Nhược thường thủ hộ, cúng dường giả, tiện tại Lan Nhă vi bằng loại. Sư tử, hổ, lang, chư thú đẳng, tê ngưu, sài, báo, cập dă ngưu, nhược năng hộ tŕ thử tam-muội, bỉ hữu oai lực bất khả đương, viễn ly nhất thiết ác tâm nhân, cập chư Dạ Xoa đạm tinh khí.

          ()若人有能解釋斯。諸佛大寂勝三昧。假令我今說功德。猶彼恆河取一沙。若能爲他說三昧。水不能溺火不燒。刀杖毒害所不傷。王賊惡官不得便。若能讀誦三昧經。不畏一切恐怖事。如彼大蛇諸大毒。此等經力能滅除。若有受持是經典。不畏一切諸惡人。夜叉羅剎及諸龍。彼徒終無得其便。若常守護供養者。便在蘭若爲朋類。師子虎狼諸獸等。犀牛豺豹及野牛。若能護持此三昧。彼有威力不可當。遠離一切惡心人。及諸夜叉啖精氣。

          (Kinh: Nếu ai giải thích môn tam-muội, thù thắng đại tịch của chư Phật, nếu nay ta nói công đức ấy, như nhặt hạt cát từ sông Hằng. Nếu v́ người khác nói tam-muội, nước chẳng nhấn ch́m, lửa chẳng đốt. Đao, trượng, độc hại chẳng thương tổn. Vua, giặc, quan ác chẳng hại được! Nếu hay đọc tụng kinh tam-muội, chẳng sợ hết thảy chuyện kinh hăi. Như rắn lớn, chất độc rất mạnh, do sức kinh này diệt trừ ngay. Nếu ai thọ tŕ kinh điển này, chẳng sợ hết thảy các kẻ ác. Dạ Xoa, La Sát, và các rồng, chúng chẳng thừa cơ gây hại được. Nếu thường thủ hộ, cúng dường kinh, khác nào trụ trong A Lan Nhă. Sư tử, cọp, sói, các loài thú, tê giác, sài, báo, và trâu rừng. Nếu hay hộ tŕ tam-muội này, oai lực người ấy thật khôn sánh. Xa ĺa hết thảy kẻ tâm ác, và các Dạ Xoa nuốt tinh khí).

 

          “Viễn ly nhất thiết ác tâm nhân” (Xa ĺa hết thảy kẻ tâm ác): Thật sự là do sức tam-muội mà có thể khiến cho kẻ có tâm ác chuyển thành thiện. Đó là chân thật, chẳng dối. Trước đó, đă nhắc tới tê giác, sài[4], báo, cọp, sói, các loài thú cũng do sức tam-muội này khiến cho ác tâm mănh liệt của chúng ngưng dứt tạo tác, cho đến chuyển sang thủ hộ những người hành pháp này. Rất nhiều người hành pháp trong quá tŕnh tu hành, đă thấy các sanh mạng, các thứ tướng cảnh giới, các thứ cảm nhận, nhân loại, phi nhân loại, loài thú, loài chẳng phải thú, thiên, phi thiên, các vị hiền thánh, Bồ Tát, thảy đều trông thấy, nhưng chẳng đắm nhiễm. V́ sao? Duyên theo sức tam-muội chiếu kiến. Đối với chuyện này, cũng chớ nên sợ hăi, v́ giống như huyễn lực, như vật soi bóng trong gương, như sương, như tia chớp, như mộng huyễn, chẳng có thực chất. Nếu người hành pháp chọn lựa như thế, sẽ thẳng một đường mà đi, chẳng ngoái cổ lại, sẽ đạt được niềm vui thù thắng của pháp ích từ các lợi ích do pháp đem lại, rốt ráo an trụ trong pháp tắc như thế.

          Các vị Bồ Tát đang hiện diện ơi! Đối với pháp tắc này, có vị hành tŕ sâu hơn, có vị hành cạn hơn, có v́ hành lâu hơn, có vị vừa mới tiếp xúc, có vị thậm chí c̣n chưa tiếp xúc, có vị chỉ nghe nói, yêu mến pháp tắc như thế, công đức ấy đều chẳng thể nghĩ bàn. V́ công đức ấy trọn đủ chặng đầu, trọn đủ chặng giữa, và trọn đủ chặng cuối cùng. Phát tâm cầu được truyền dạy, đọc tụng kinh điển đều chẳng thể nghĩ bàn. Giải nói cho người khác, tuyên nói kinh điển này, đích thân chứng tam-muội, chẳng thể nghĩ bàn!

          “Cập chư Dạ Xoa đạm tinh khí” (và các Dạ Xoa nuốt tinh khí): Đấy là những quỷ thần ác theo sát chúng sanh trong thế gian. Loại quỷ ăn nuốt tinh khí này đoạt mạng con người, đoạt tâm trí của con người, đoạt sắc thân của con người, nhất là người hiện thời uống rượu, hút thuốc, ăn hành tỏi, các thứ tanh tưởi, do ngũ huân khiến cho thân thể con người tỏa ra hơi hướng xấu ác. Do vậy, các loài quỷ ăn tinh khí sẽ thường theo sát. Có nhiều hữu t́nh bị các chứng hôn trầm, lăng quên v.v… phần nhiều v́ [nguyên nhân] như thế mà phát sanh, tức là bị quỷ thần ác ŕnh rập, khiến cho tâm thần vô lực. Đó là nạn duyên có tánh chất ác do quỷ ăn tinh khí tạo thành. Khi tâm trí quư vị thanh tịnh, tạp duyên yếu ớt, nhất là do nhân duyên chẳng ăn, chẳng dùng các thứ hôi tanh v.v… liên tục đă lâu, hôn trầm sẽ nhanh chóng giảm thiểu. Vậy th́ người xuất gia, người tu pháp đă tu tập lâu ngày, v́ sao vẫn lắm hôn trầm? V́ các chủng tử trong quá khứ chẳng dễ ǵ thoát được!

          Sắc thân của chúng ta vốn chẳng bị hôn trầm, chẳng bị sức hôn trầm khống chế, [bị hôn trầm hay không] đều là do ác thần hay thiện thần bầu bạn. Mỗi người sanh ra đều có hai vị thần tụ tập, tức là hai thiên thần bầu bạn từ lúc c̣n sống cho đến khi chết đi, bầu bạn suốt cuộc đời. Nếu hai vị thần ĺa bỏ, thân thể sẽ tiêu vong. Có người đến bệnh viện, trông thấy người sống đời thực vật, thân thể c̣n sống, nhưng chẳng có ư thức hay cảm giác, tức là thân thể chỉ có tướng trạng rỗng không. Trong t́nh huống thông thường, thân thể trống rỗng sẽ chẳng dễ duy tŕ sanh mạng, nhưng có bệnh nhân dựa vào các thứ như được truyền dịch dinh dưỡng v.v… để kéo dài sanh mạng, nhưng cảm giác đă chẳng c̣n, do hai vị thiện và ác thần đă đều ĺa bỏ. Người bị ác thần sai sử, sẽ hiện tướng hung ác, cố ư làm chuyện hung ác, cho đến làm các chuyện thuộc về ác duyên và ác tướng. Nếu thiện thần thủ hộ, người ấy sẽ làm các chuyện thiện xảo, làm các thứ thiện duyên, nói những lời mềm mỏng, làm các chuyện mềm mỏng và lợi ích. Đối với điều này, trong kinh điển, đức Thế Tôn đă chỉ rơ, nhưng nếu quư vị thật sự đạt được tâm trí Bồ Đề thanh tịnh, xa ĺa tam giới, sẽ chẳng bị chuyện này quấy nhiễu, chẳng thuộc vào loại này.

          Thông thường, sau khi đă ngồi nghe giảng mười lăm phút ở đây, chủng tử của con người sẽ xuất hiện. Càng hành pháp lâu ngày, khi đạt đến mức mấp mé, sẽ càng cảm thấy có t́nh huống như thế này: Nếu được nhắc nhở th́ không sao, chẳng được nhắc nhở th́ con người sẽ rất nhanh chóng buồn ngủ. Nhất là đối với những người tu pháp đă đạt được an ổn đôi chút. Người ấy cứ ngỡ ngoại duyên đă an ổn, cho nên sẽ buông lung. Hễ buông lung, sẽ buồn ngủ liền. T́nh huống ấy xảy đến rơ rệt nhất trong khi đang tu pháp; chứ lúc b́nh thời, ở trong ngũ dục, hoặc là trong khi làm các thứ nghề nghiệp, sẽ chẳng bị hôn trầm, v́ người đang làm việc, do thân tâm an lạc, hoặc phải suy nghĩ, bàn bạc; c̣n trong khi tu pháp th́ lại bị che lấp. Sự che lấp ấy phần nhiều là v́ ác quỷ thần che lấp. Kẻ càng tự nghĩ chính ḿnh hành pháp đắc lực, có thọ dụng tốt đẹp, sẽ càng bị che lấp! Do chủng tử nổi dậy, tâm kiêu mạn sanh khởi, sẽ bị che lấp. Có khi tôi thấy trong khi đả thất, nhất là vào trong nội viện, [hành nhân] ngủ gục hết. Nếu là người sáng suốt, bèn hét to một tiếng để xua đuổi loại hữu t́nh ác ấy. Ai đă chèo kéo các hữu t́nh tánh ác ấy? Do các hữu t́nh hôn trầm chuốc vời! Họ dưỡng dục chúng nó, dùng sanh mạng của chính ḿnh để dưỡng dục. Kẻ hút thuốc, ăn hành tỏi, có khi từ xa đă khiến cho người khác cảm thấy có mùi vị khó ngửi, hoặc khiến cho người khác có cảm giác không ưa thích. Thật ra, kẻ ấy đă bị quỷ thần ác xâm phạm. Thông thường, chúng ta sẽ cho rằng nói như vậy chẳng tương ứng, nhưng trong kinh điển nhà Phật, trong giáo ngôn về sự tu tŕ, trong nghi quỹ, đều đ̣i hỏi rất nghiêm ngặt. Đối với hai thứ điệu cử và hôn trầm, đều quở trách, thống trách! Kẻ tự xưng là “tu pháp” trong hiện thời, nhất là kẻ tự đắc ư, tức là kẻ ngỡ chính ḿnh tu pháp có thành tựu, sẽ hôn trầm nhiều nhất. Chúng ta chỉ nên phê phán đôi chút, mười phần th́ tám chín phần đang hôn trầm! Trước kia, trong xă hội, tôi đă gặp một số người nói: “Ông X… tu hành rất khá, bà Y… tu hành rất thiện xảo!” Tôi nói: “Tạm thời không cần bàn luận. Cứ ngồi xuống là biết ngay!” Chẳng hạn như ngồi hai tiếng đồng hồ. Họ vừa ngồi xuống, chừng năm mười phút đă hôn trầm, hai mươi phút bèn điệu cử. [Nếu đă hôn trầm trong khi tĩnh tọa], trong các lúc khác, sẽ chẳng thể nói là như thật được! Nếu có thể thật sự ngồi thanh tịnh, thân tâm khinh an, sự khinh an từ bên trong phát ra, tịch tĩnh khinh an, đó là người thật sự tu hành Phật pháp. Nếu không, sẽ là kẻ hôn trầm, ngồi đó làm chi? Tiếp nhận mười phương cúng dường, chính ḿnh hôn trầm, cứ lăng phí từng lúc như thế. Kẻ sơ phát tâm, tinh tấn dũng mănh, phần nhiều có thể xa rời tật này. Người tu hành “lăo đạo” ngược lại, sẽ hăm nhập sâu đậm trong ấy! Từ chúng xuất gia hay chúng tại gia, đều có thể thấy chuyện này! Pháp Ban Châu nếu phát tâm dũng mănh, sẽ có thể tránh khỏi nhân duyên này. V́ trừ phi nương dựa vào một chỗ nào đó [để tạm nghỉ], chỉ cần đang đi kinh hành, hễ hôn trầm sẽ ngă chỏng gọng, hoặc quư vị dùng phương pháp tự dối gạt khi bị hôn trầm, sẽ chẳng thể được, sẽ ngay lập tức lảo đảo. V́ thế, phương pháp này mười phần chẳng thể nghĩ bàn!

 

          (Kinh) Nhược năng giải thuyết thử tam-muội, bỉ vô chư bệnh, cập chướng tai. Sở sanh báo nhăn chung bất suy, ngôn từ thanh diệu, hữu đại biện.

          ()若能解說此三昧。彼無諸病及障災。所生報眼終不衰。言詞清妙有大辯。

          (Kinh: Nếu hay giải nói tam-muội này, chẳng có các bệnh và tai chướng, Báo nhăn vốn có chẳng hề suy, ngôn từ thanh diệu, đại biện tài).

 

          “Sở sanh báo nhăn chung bất suy” (con mắt được sanh bởi quả báo chẳng hề bị kém đi): Đối với người hành Ban Châu, có người nói: “Chẳng ngủ trong một thời gian dài, sợ mắt sẽ bị hỏng”. Chẳng phải như vậy! Người thật sự hành Ban Châu, mắt chẳng bị ảnh hưởng, thường là mắt rất sáng. Nhưng người hiện thời tin sâu pháp này rất ít, ngờ vực th́ nhiều, v́ đă dùng phàm t́nh để biện định, cho nên bị ngăn trở, rất khó tùy thuận sức tam-muội, chẳng đạt được nguyện lực và sức thần thông chẳng thể nghĩ bàn của Phật gia tŕ, cho đến chẳng được phước đức bất cộng gia tŕ, chẳng thể tùy thuận [các sức gia tŕ ấy], chỉ tùy thuận nghiệp duyên của chính ḿnh, đọa trong hiện duyên của chính ḿnh, chẳng thể tự thoát được!

 

          (Kinh) Nhược nhân chứng tri thâm tịch Thiền, thân thể hùng kiện vô chúng bệnh, nhất sanh vĩnh tuyệt chư ác sắc, hậu chung bất úy địa ngục đạo.

          ()若人證知深寂禪。身體雄健無衆病。一生永絕諸惡色。後終不畏地獄道。

          (Kinh: Nếu người chứng biết Thiền sâu lắng, thân thể khỏe mạnh, chẳng bệnh tật. Suốt đời dứt bặt các ác sắc, chết đi, chẳng sợ đường địa ngục).

 

          Trong sự tu tŕ hiện tiền của chúng ta, sẽ sanh khởi sự lựa chọn vô úy. Đă là vô úy ngay trong hiện tiền, sao c̣n có thể sợ hăi địa ngục? Cho tới đối với lục đạo, đều chẳng sợ hăi. V́ sao? Người ấy đă lập tức lựa chọn dứt khoát, lựa chọn ngay trong một niệm này, chọn lựa trong một niệm kia. Niệm nào cũng lựa chọn dứt khoát, tu ngay trong lập tức, tu ngay nơi mỗi niệm, được gọi là “người thường hành đạo”, cho nên chẳng sợ hăi lục đạo. Các vị thiện tri thức ơi! Nếu chúng ta thật sự nương theo pháp để tu tŕ, nương theo pháp để hành, nương theo giáo để tu tŕ, nương theo giáo để hành, có thể hướng đến, tùy thuận tam-muội này, mong cho mỗi niệm hiện tiền đều là duyên khởi thanh tịnh, duyên khởi b́nh thản, duyên khởi viên măn, duyên khởi vô ngại, duyên khởi chân thật, duyên khởi vô úy, duyên khởi thanh tịnh, từ bi, trí huệ giống hệt như Phật. Trong mỗi duyên khởi, đều tu ngay trong mỗi niệm hiện tiền, tức là nếu có thể tiếp nối duyên khởi, chẳng tạo tác, người ấy chắc chắn sẽ tương ứng với tam-muội. Cho nên đích thân chứng tam-muội chẳng khó!

 

          (Kinh) Nhược hữu năng độc tam-muội điển, chư thiên thủ hộ cập long thần. Dạ Xoa, La Sát, dữ oán cừu, bỉ tuy ác lâm, bất kinh cụ. Nhược năng vị tha thuyết tư kinh, thiên, long, Dạ Xoa giai hoan hỷ.

          ()若有能讀三昧典。諸天守護及龍神。夜叉羅剎與怨仇。彼雖惡臨不驚懼。若能爲他說斯經。天龍夜叉皆歡喜。

          (Kinh: Nếu ai đọc kinh điển tam-muội, chư thiên, long thần đều thủ hộ, Dạ Xoa, La Sát, và oán cừu, tuy hiện tướng ác, chẳng sợ hăi. Nếu v́ người khác nói kinh này, trời, rồng, Dạ Xoa đều hoan hỷ).

 

          “Thiên long Dạ Xoa giai hoan hỷ” (trời, rồng, Dạ Xoa đều hoan hỷ): V́ khi chúng ta niệm Phật, thân tướng quang minh. Có nhiều người niệm Phật, hành pháp, sau khi đă như thật hành tŕ, sau khi kinh hành, sắc thân sẽ biến hóa. Nếu trong khi hành đạo Ban Châu, cứ t́m kiếm cơ hội để ngủ, người như thế sau khi kinh hành xong, khí sắc chẳng có ǵ! Nhưng nếu thật sự như lư, như pháp hành tŕ suốt một ngày một đêm, ấn định kỳ hạn để cầu chứng, trong một ngày một đêm yêu mến, bảo vệ, trân trọng mỗi niệm hiện tiền, tu tŕ đúng pháp trong một ngày một đêm ấy, sắc tướng của người đó sẽ rực rỡ chẳng thể nghĩ bàn, có thể chiếu pháp giới. V́ thế, sẽ như trong phần Trường Hàng trước đó đă nói: Do được chư thiên, quỷ thần, cho tới các vị Bồ Tát, chư Phật nghĩ tưởng, đích thân giáng lâm, yêu thương che chở, hộ niệm, bảo bọc, cho nên quang minh chói ngời chẳng thể nghĩ bàn! V́ sao có hữu t́nh sau khi kinh hành Ban Châu lại đâm ra chẳng tương ứng? V́ trong khi hành Ban Châu, đă nhất định ngủ thiếp đi. Quư vị chớ nên trách lỗi người ấy, mà cũng chẳng cần phải tới hỏi người ấy, cứ để cho người ấy tự ḿnh sám hối là đúng. Chẳng thể đ̣i hỏi! V́ hành pháp hoàn toàn dựa vào sự hướng về pháp của chính ḿnh, cũng như sự nhận thức phát tâm của chính ḿnh. Nếu quư vị chẳng phát tâm, chẳng thật sự niệm Phật, vậy th́ khí sắc và quang tướng của quư vị sẽ ảm đạm. Nếu quư vị dối gạt kẻ khác, hoặc nội tâm dấy lên sân tâm, mạn tâm, cho tới tâm tà kiến, tâm báng pháp, chính ḿnh sẽ mắc hại. V́ sao? Rồng, trời, quỷ thần, La Sát, cho đến oán đối sẽ đích thân kéo đến, quư vị sẽ bị lừa dối, làm nhục, đích xác là chẳng thể nghĩ bàn như thế! Nếu lúc các ác quỷ thần đó, cho đến trời, rồng, kẻ oán, người thân v.v… đều đích thân kéo đến, hăy nói kinh cho họ. Dẫu chỉ niệm Phật cũng được, hoàn toàn chẳng phải là quư vị phải tuyên giảng ǵ cho họ! Chỉ dùng Phật hiệu, tức sáu chữ chân ngôn (nam-mô A Di Đà Phật) đă trọn đủ hết thảy kinh giáo rộng lớn và Tam Tạng mười hai bộ loại, chỉ sợ quư vị chẳng tŕ niệm. Nếu quư vị dùng cái tâm chẳng ô nhiễm để niệm tụng sáu chữ chân ngôn, sẽ là pháp môn tổng tŕ lợi ích trời, người rộng khắp, chẳng hề thiếu khuyết. Rồng, trời sẽ đều hoan hỷ.

          Pháp tắc này do chính ḿnh khám nghiệm, chẳng cần người khác uốn nắn, kiểm soát chi cả! Chúng ta có thể tự quan sát chính ḿnh hành pháp có như pháp hay không, tương ứng hay không, chân thật hay không? Sự phát tâm của chúng ta và kết quả tuyệt đối tương ứng; đó là chân thật chẳng giả. V́ ở đây, đức Thế Tôn đă nói như thế, và cũng có rất nhiều người không ngừng tu tập tại đây. Ta tiếp xúc hành giả như pháp, từ sự phát nguyện cho đến hành pháp, măi cho tới khi kết thúc, cho đến ngày kế tiếp vẫn giữ vững hoặc hộ tŕ, nếu [người ấy] chẳng tùy ư ngủ mất, hoặc nói những lời tạp nhạp v.v… Người có thể ǵn giữ như thế, liên tục hành tŕ, diện mạo sẽ mỗi ngày một mới mẻ. Đó là điều chắc chắn, chẳng ngờ! Đương nhiên cũng có hành giả chẳng đúng pháp, chẳng hạn như tuy phát tâm hành Ban Châu một ngày một đêm, nhưng phần nhiều tinh thần sa sút, vọng tưởng, thậm chí lười nhác. Sau khi ra khỏi đạo tràng, nói năng tạp nhạp rất nhiều, vọng tưởng tơi bời, người khác sẽ hiểu lầm pháp tắc này, chê bai pháp tắc này. Nhưng [các lỗi lầm ấy] đích xác là do nghiệp duyên thúc đẩy tạo thành, chẳng phải là khuyết điểm của pháp tắc này. Chúng ta nhất định phải nhận rơ điều này!      

          Ngoài ra, trong hành pháp này, nếu có lúc được thấy, nghe, tiếp xúc những ǵ, nhất định chớ nên sợ hăi. V́ lẽ nào? Quư vị là người nương theo Phật, là người niệm Phật, lập một niệm, đoạn các tưởng, chẳng sợ hăi Ấm cảnh hiện tiền. Đối với cảnh quang minh, cho đến cảnh trang nghiêm, chư Phật hiện tiền, đều chớ nên sợ hăi. Chỉ nên do thấy Phật mà được nghe pháp, đừng nên làm chi khác. Như thế th́ sẽ có thể trực tiếp tiến nhập Bồ Đề, chẳng bị thoái chuyển. Trong thứ tự tu hành, hiện thời có một số người bị Ấm cảnh đánh bại. Thật ra là do họ phát tâm chẳng rơ ràng, cũng tức là vừa mới ra khỏi cửa, trông thấy quang cảnh tốt đẹp, [do đắm đuối phong cảnh], chẳng tới được chỗ muốn đến, bèn nói: “Ối trời! Chỗ định đến cũng chẳng có chi hết, chỗ này đă rất tốt rồi!” Đó là bị Ấm cảnh trói buộc, bị cảnh tướng hiện duyên trói buộc, chẳng thể vượt qua. Cảnh giới quang minh, cảnh giới trang nghiêm, cảnh giới chư Phật hiện tiền đều trọn chẳng thể được. V́ sao? Do quư vị chẳng tiến nhập pháp tắc.

          Có nhiều người bị Ấm cảnh lừa gạt. Tôi đă gặp người hành pháp bảy ngày tám đêm, thường là hễ trông thấy cảnh quang minh, tức là tướng cảnh giới hơi tốt đẹp đôi chút, liền bị hăm rất sâu vào đó. Kẻ thoát ra rất ít. Thường là người hành pháp từ ba ngày trở xuống, người thoát khỏi Ấm cảnh rất ít, nhưng người thật sự phát tâm rơ rệt, chẳng đắm nhiễm cảnh giới. Đương nhiên là cũng có người chẳng có cảnh giới, v́ sức tự chủ vẫn đủ, cho nên chẳng có cảnh giới ǵ! Nếu thật sự chẳng đắm nhiễm cảnh giới, chẳng sợ cảnh giới, sẽ chẳng hâm mộ cảnh giới, mà cũng chẳng sợ hăi cảnh giới. Hành pháp như thế là thuận tiện nhất, sẽ là chuyện nước chảy thành sông. Thấy Phật chẳng phải là cưỡng cầu! Đă phát ra cái nguyện như thế, niệm Phật mà muốn thấy chư Phật là để nghe pháp, hễ phát nguyện liền đạt được, chẳng c̣n tiếp tục dùng ư niệm để quấy nhiễu chính ḿnh, chỉ hành pháp niệm Phật là được rồi! Như thế th́ sẽ rất thuận tiện. Nếu trong mỗi niệm [đều mong mỏi] “ta muốn thấy Phật, ta muốn thấy Phật”, có được hay không? Sợ rằng [cứ mong ước như thế], sẽ trở thành gánh nặng, đâm ra bị nó trói buộc, bị tri kiến ấy trói buộc, bị tŕ hoăn trong trạng thái ấy, sẽ nẩy sanh cái nguyện chẳng tương ứng. Chúng tôi phải nên nhắc nhở đôi chút về chuyện này.

 

          (Kinh) Chư thiên trú dạ thường ca thán, nhất thiết Thế Tôn ái nhược tử, nhược nhân vị tha thường chuyển độc, nhất thiết pháp trung vô hữu nghi.

          ()諸天晝夜常歌嘆。一切世尊愛若子。若人爲他常轉讀。一切法中無有疑。

          (Kinh: Chư thiên ngày đêm thường ca ngợi, hết thảy Thế Tôn thương như con. Nếu v́ người khác thường chuyển đọc, trong hết thảy pháp đều chẳng nghi).

 

          “Nhược nhân vị tha thường chuyển độc, nhất thiết pháp trung vô hữu nghi” (nếu ai v́ người khác thường đọc tụng, trong hết thảy các pháp chẳng có ǵ nghi ngờ): Không chỉ riêng chính ḿnh hành pháp tắc này! Nếu có thể truyền đạt cho người khác, cho đến lần lượt hướng dẫn hữu t́nh học tập, tu tập, đọc tụng kinh điển như thế, th́ trong hết thảy các pháp, sẽ chẳng nghi ngờ, chẳng bị ngăn ngại, chẳng thể có tâm trí và cơ hội như thế!

          Đối với kinh điển Ban Châu Tam Muội này, sau khi chúng ta đă học, tôi thấy người vứt bỏ pháp bảo này, pháp tắc này th́ nhiều, người trân quư đă hiếm lại càng hiếm hơn. Cũng có nghĩa là người coi pháp bảo này như tṛng mắt của chính ḿnh ít lắm. Thật ra, pháp này c̣n trọng yếu hơn tṛng mắt rất nhiều! V́ mắt có thể sanh, có thể diệt, có thể tốt, có thể xấu. Trăm năm cũng kết thúc, nhưng pháp bảo này th́ sao? Cho đến hết đời vị lai, luôn tồn tại rộng răi trong thế gian, lợi ích rộng khắp vô lượng chúng sanh thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Chúng ta có yêu mến thủ hộ pháp bảo này như trân bảo hay không? Đối với chuyện này, chúng ta cần phải tự phản tỉnh, quan sát. Chính quư vị c̣n chẳng trân quư, quư tiếc pháp này, c̣n có thể tuyên nói với người khác, truyền đạt kinh điển này ư? Khi tôi được gặp kinh Ban Châu Tam Muội lần đầu tiên, mười phần rúng động! V́ khá nhiều vấn đề nghi nan trong việc hành Ban Châu đều được nhắc tới, và cũng đều giải quyết hết! Bởi thế, tôi rất kích động, mang kinh này từ miền Đông Bắc tới đây, hy vọng chúng ta sẽ có cơ hội học tập như thế. Lúc ấy, tôi học tập vẫn chưa phải là bản kinh này, mà chỉ coi nó như một tài liệu tham khảo, v́ giáo ngôn trong kinh này hết sức tỉ mỉ, thanh tịnh, toàn vẹn, giải quyết các nghi nan đối với chuyện hành tŕ Ban Châu trong hiện tiền, bất cứ vấn đề ǵ cũng đều chẳng bỏ sót! Quư vị có thể thường xuyên đọc, nhất là đối với người thường hành Ban Châu, có thể thật sự đọc th́ rất nhiều vấn đề căn bản là chẳng cần phải hỏi ai khác, chỉ cần hỏi kinh điển là có thể giải quyết.

 

          (Kinh) Bỉ chư dung sắc vô đẳng luân, khởi ư Bồ Đề hữu thoái giảm? Nhược năng chuyển giáo chư chúng sanh, tao trị ác vương, nhân dân loạn, thời niên kháng hạn, cốc giá quư, chung vô thọ tệ cập cơ hoang.

          ()彼諸容色無等倫。豈於菩提有退減。若能轉教諸衆生。遭值惡王人民亂。時年亢旱谷價貴。終無受弊及饑荒。

          (Kinh: Người ấy dung mạo đă khôn sánh, há có thoái giảm nơi Bồ Đề? Nếu hay dạy lại các chúng sanh, gặp gỡ vua ác và dân loạn, nhằm lúc hạn hán, giá gạo cao, trọn chẳng chịu khổ và đói kém).

 

          “Thời niên khang hạn, cốc giá quư. Chung vô thọ tệ cập cơ hoang” (gặp lúc hạn hán, giá gạo cao, trọn chẳng chịu khổ và đói kém): Nhằm năm đói kém, cho đến bị tai ương hạn hán, lũ lụt, giá gạo cao v.v… chúng ta đều chẳng gặp phải các nỗi nguy hại như thế. Có thể là nhân loại phải đối diện các vấn đề mà chẳng hay biết. Nếu hay biết, sẽ có thể giải quyết. Giống như hiện thời, chúng ta hành pháp Ban Châu gặp các vấn đề, nếu thật sự biết, nếu liễu giải chánh xác, cũng sẽ chẳng trở thành vấn đề. Điều chánh yếu là khi chúng ta gặp phải vấn đề mà chẳng hiểu biết vấn đề, đó là vô minh, là lúc nguy hiểm nhất.

          Hiện thời, nhân loại sanh tồn trên quả địa cầu này trong không gian, chúng ta gặp các tai nạn có thể nhận biết và không thể nhận biết. Tai nạn có thể nhận biết th́ có thể dự pḥng; tai nạn không thể nhận biết luôn ấp ủ trong ư thức sanh mạng của chúng ta tột bậc chẳng thể nghĩ bàn. Tôi chẳng mong nói bất cứ điều ǵ đem lại sự bất an cho đại chúng, nhưng sâu thẳm trong tâm linh của toàn thể nhân loại, toàn là các nhân duyên chẳng an ổn, cho đến các nhân duyên có tánh chất xấu ác cực đoan như ích kỷ, tội ác, tà kiến. Sau đó, [các nhân duyên xấu ác ấy] sẽ dẫn đến các quả báo đúng là chẳng thể nghĩ bàn!

          Tôi đă trải qua vài lần nhân duyên tai nạn khá lớn ở Trung Hoa trong thời gần đây. Chẳng hạn như đại thủy tai, động đất, bệnh SARS (severe acute respiratory syndrome, hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng) v.v... Lúc dịch SARS dữ dội nhất là ở Quảng Châu, tôi trực tiếp đến Quảng Châu. Lúc ấy, cũng là lúc Quảng Châu rối loạn nhất, mọi người sợ hăi bệnh SARS đă đến mức cùng cực. Sau khi nhân duyên ở Quảng Châu đă giảm xuống, tôi đến Bắc Kinh đúng ngay lúc t́nh h́nh dịch ở Bắc Kinh bắt đầu nghiêm trọng. Khi nhân loại đối diện nỗi kinh hoảng trước tai nạn không biết rơ, quả thật rất đáng thương. V́ sao? V́ chẳng hiểu biết! Tôi nói: Tôi dùng sanh mạng của chính ḿnh để thể nghiệm SARS đôi chút xem rốt cuộc nó là ǵ? Về sau, tôi nói: “SARS là một con rắn. Hễ trông thấy, ắt phải chết”. Lúc ấy, có rất nhiều người hỏi tôi, tôi đều nói như thế. V́ sao người ta thấy nó ắt sẽ chết? Con người phần nhiều sợ hăi nó, mà chẳng hiểu biết nó!

          Tôi cảm thấy nỗi sợ hăi là một thứ lớn nhất trong sanh mạng, sợ hăi đối với vô minh, sợ hăi đối với nghiệp báo. Như chúng ta kinh hành Ban Châu, rất dễ gặp các nhân duyên trước kia chưa từng gặp, hoặc các tướng cảnh giới trước kia chưa hề biết. Như thế th́ hữu t́nh tà kiến sẽ đắm nhiễm. Ở trong đó, bèn nói cao, nói thấp, nói sợ hăi, nói chẳng sợ hăi. Nếu là người trí, đối với họ, đó chỉ là một quang cảnh, tùy duyên trông thấy, trọn chẳng liên can. V́ thế, họ an trụ trong thanh tịnh, hồi thí giáo ngôn thanh tịnh cho người khác, khiến cho chúng sanh thẳng thừng tiến nhập Bồ Đề, thấy chư Phật thanh tịnh thí giáo. Đó là pháp tắc chẳng thể nghĩ bàn! Khi nạn SARS bùng nổ khá dữ dội tại Trung Hoa, tôi thật sự cảm nhận tâm lư mười phần sợ hăi của nhân loại ngu si đối với vô minh. Đương nhiên cũng có một số ít, một số người cực ít chẳng sợ hăi chuyện này; nhưng đại đa số th́ trong chỗ thẳm sâu của tâm lư đều sợ hăi, không thể đè nén được. Nỗi sợ hăi ấy chẳng thể diễn tả được! Thật ra, thật sự là chẳng có ǵ, chủ yếu là nỗi sợ hăi trong tâm trí, là ma nạn do vô minh đem lại. Phần lớn mọi người chẳng có duyên với thứ ấy, nhưng họ đều sợ hăi.

          So với các nghiệp duyên mà nhân loại phải đối diện mai sau, chắc là SARS yếu ớt nhất. Giống như một trận gió phất qua thế gian nhiệt năo này, bất quá trận gió ấy u ám mà thôi. Chắc là có liên quan đến bất cứ một người nào đó, hoặc đều chẳng liên quan. Nếu một người ẩn núp trong căn pḥng khỏe mạnh, điều nhu, chẳng sát sanh của chính ḿnh, chắc là cơn gió đen đúa ấy chẳng thổi qua quư vị. Nhưng nếu kẻ nào đang thuộc trong nghiệp duyên của sát nghiệp, ác nghiệp, vô minh nghiệp hừng hực mà chẳng có ǵ ngăn đón, sẽ rất khó chẳng bị thương tổn! Đối với quả báo trong tương lai, rất nhiều người đă dự đoán chuyện này. Chuyện này cũng chẳng cần phải dự đoán! Đó là nhân duyên mà nhân loại chúng ta phải đối diện, đ̣i hỏi mỗi cá nhân chúng ta, tức là những người đang sống, từng người trong thế gian hiện thời, đối với chỗ thẳm sâu trong tâm linh của chính ḿnh, cần phải khéo quan sát xem nó có khỏe mạnh hay không? Có cần điều trị hay không? Nó là từ bi, trí huệ, hay là vô minh, điên đảo? Là thương xót thế gian, yêu mến thế gian, bố thí cho thế gian, hay là xâm hại thế gian, nhiễu loạn thế gian, rối loạn thế gian? Các vị thiện tri thức ơi! Hăy tự khéo quan sát, khéo tư duy, đừng nghe lời kẻ khác. Người khác nói tốt hay xấu đều vô ích. Chẳng hạn như trên núi Kê Túc đă ba lần có băo lốc lớn, có người bèn mua cho chúng tôi một lều trại và chiếc xuồng loại thổi lên được [để sử dụng thoát hiểm]; nhưng chuyện ấy thật sự chẳng liên quan đến chúng tôi. Người khác dự báo tai nạn, vốn chẳng liên quan đến quư vị. V́ sao? Trong cộng nghiệp c̣n có biệt nghiệp. Nếu quư vị nhớ Phật, niệm Phật, có ǵ sợ hăi? Quư vị có thể dùng gạo để ngăn chặn tai nạn hay không? Quư vị có thể dùng bè cao su để ngăn chặn kiếp thủy (nước lụt trong lúc hoại kiếp) hay không? Quư vị có thể dùng lều trại để ở tại nơi không thể ở hay chăng? Đây thật sự là tâm trí đang bị tướng cảnh giới dao động rất đáng thương, nhưng trong thế gian này, nỗi sợ hăi lan truyền rất mạnh mẽ!

          Nếu chúng ta hành pháp, hộ pháp, nương theo pháp để hành, thâm nhập tu tập, đích thân chứng tướng đại công đức của Chư Phật Hiện Tiền tam-muội như thế, sẽ chẳng sợ hăi các tai nạn ấy. Quư vị chỉ có thể trừ diệt Kiếp Hỏa, diệt tai nạn, lợi ích rộng khắp các hữu t́nh đang mắc nạn, chẳng sợ hăi, làm nơi chốn an ổn cho chúng sanh đang mắc tai nạn. Đấy chẳng phải là nói suông, mà thật sự phải nên là như thế. Đó là tâm địa chân thật, tâm địa rộng lớn, tâm địa an lạc, tâm địa chọn lựa, mà cũng là tâm địa bi trí vô úy. Ở chỗ này, chúng ta hăy nên thật sự tu tập pháp tắc này. Chẳng hạn như khi người khác bị tai nạn, khi thế gian có nguy nạn, chúng ta hăy nên thật sự đứng ra, thật sự tu pháp ở nơi đó, bố thí vô úy, bố thí an lạc cho chúng sanh ở nơi đó. Chẳng phải là trốn tránh, hoặc là hời hợt nói về tai nạn!

          Chín năm trước, tôi nói chỗ chúng ta đang ở này sẽ dần dần thích hợp cho nhân loại sống. Nay chúng ta đă đạt được đôi chút thể nghiệm. Trước kia, hễ đến mùa mưa, ắt là người xuất gia ở chùa Phóng Quang không ai chẳng khoác áo bông. Hễ mưa xuống, ẩm ướt và rét buốt rất khó chịu đựng, nhưng hiện thời trên cơ bản là một lớp áo. Buổi sáng thức dậy, mặc thêm đôi chút là được rồi. Lại sau mấy năm, chỗ này đă dần dần trở thành ấm áp, vừa thích hợp cho con người sống sót. Nhưng ở rất nhiều nơi khác, cuộc sống của nhân loại phải đối diện vấn đề thích ứng với nhiệt độ rất cao! Quư vị thấy tại Ấn Độ, hay khu nhiệt đới ở Bản Nạp, rất nóng, người ta vẫn sống được. Chúng tôi nói theo trạng thái thông thường, đương nhiên là con người không ngừng dùng máy điều ḥa không khí để điều ḥa hoàn cảnh sống. Nhưng trong hoàn cảnh hiện thời của chúng ta, nếu nhân duyên của mọi người đầy đủ, xây được ao phóng sanh ở phía trước chùa, phước đức của người sống ở nơi đây sẽ khá an ổn, chúng ta chẳng cần phải điều chỉnh chi khác, mà có thể sống b́nh thường, yên ổn. Đương nhiên, chẳng phải v́ sanh tồn mà chúng ta tới chỗ này, nhưng hoàn cảnh như vậy đối với sự dụng công tu đạo khá thích hợp. Hoàn cảnh như vậy ở trong nước ngày càng ít. Rất nhiều nơi hoàn cảnh đă trở thành mười phần náo nhiệt, chẳng ai muốn bàn đến chuyện tu tŕ, chỉ cần có cơ chế bảo đảm sanh mạng là được rồi. Cũng có nghĩa là quư vị có thể tiếp nối sanh mạng, chẳng phải bực bội, chẳng cần giăy giụa, đừng bị tật bệnh, tai nạn là được rồi. Nhưng hoàn cảnh của chúng ta ở đây khá thích hợp, khá rộng răi, thong dong, mọi người có thể tụng kinh, kinh hành, cho đến học tập pháp ǵ [cũng được]. Có thể nói đó là các chuyện chẳng thể thực hiện được trong hoàn cảnh náo nhiệt, bức bách, hoặc hoàn cảnh đă mất cân bằng, [thế mà] chúng ta có thể thực hiện ở nơi đây.

          Đây là một nhắc nhở liên quan đến khu vực. Lại c̣n v́ sao mọi người kinh hành Ban Châu ở nơi đây? Tôi cảm thấy nơi này được phước đức hộ tŕ. Ở chỗ khác, chẳng phải là không thể kinh hành Ban Châu được. Nhưng nếu đi kinh hành Ban Châu tại chỗ có “đất mỏng”, đại địa sẽ bị chấn động, quỷ thần bất an, họ sẽ nhiễu loạn quư vị. Có người nói “cảnh giới ở chỗ này nhiều như vậy”. Chẳng hạn như có người sống tại Chung Nam Sơn (tỉnh Thiểm Tây), cảnh giới hết sức nhiều, sống ở chỗ X… c̣n có hữu t́nh bị quỷ thần công kênh chạy ṿng ṿng. Đó là v́ ở chỗ “đất mỏng”, là nơi quỷ thần, ác La Sát cư trụ! Nếu quư vị làm thiện pháp cho họ, niệm Phật, tụng kinh, bái sám, hồi hướng cho họ, họ sẽ hoan hỷ, thủ hộ quư vị. Nhưng nếu quư vị tạo ác nghiệp ở đó, ăn uống phóng túng, vui chơi buông lung, quư vị sẽ lănh quả báo ác tương ứng, thậm chí có thể bị tàn hại sanh mạng. Hiện thời, có nhiều kẻ sống trong tự viện, ở trong núi, do phóng dật mà đâm ra mắc hại khá nhiều, v́ chẳng biết tu hành đúng pháp, tức là do chẳng biết đúng pháp cúng dường, thủ hộ, hồi thí, cho nên mắc nhiều họa hại!

          Tự viện của chúng ta ở trong vùng núi rừng này, vẫn mong mọi người hăy quư tiếc nhân duyên hành pháp của chính ḿnh. Nếu quư vị trở về nhà, chúng tôi chẳng nói tới, nhưng nếu đă ở nơi đây, hăy quư tiếc mỗi ngày của chính ḿnh. Đó thật sự là chuyện có ư nghĩa! Chẳng phải là cưỡng ép chính ḿnh, mà là phải tôn trọng nhân duyên của chính ḿnh. Cưỡng ép chính ḿnh sẽ chẳng có ư nghĩa chi hết! Chẳng hạn như nếu quư vị mười phần chẳng muốn làm chuyện này, hăy nên trở về nhà nghỉ ngơi, an dưỡng. Nhưng nếu đă hành pháp, tự viện quả thật là một nơi chốn thích hợp, là chuyện có ư nghĩa. Chúng ta ở ngay nơi vùng địa chấn của Vân Nam mà c̣n có cơ chế hành pháp an ổn, phải nên quư trọng! [Có trường hợp, tuy] có chỗ để kinh hành Ban Châu, nhưng thật sự chẳng làm được. Chẳng hạn tại nơi có cơ chế ác duyên trong gia đ́nh khá nhiều, để kinh hành Ban Châu sẽ cần phải có sức đột phá chướng ngại khá lớn! Nhưng kinh hành Ban Châu trong các đạo tràng sẽ khá thuần tịnh, đơn giản, hoặc tại nơi nhà cửa đơn giản, yên ổn, vẫn là rất có ư nghĩa! Nếu thời gian kinh hành Ban Châu khá dài th́ ở trên lầu cũng chẳng thích hợp cho lắm. Trước kia, kinh hành Ban Châu tại chùa Bảo An, tầng hai bị rúng động, rất nhiều người đều cảm thấy giống như đang ở trên chiếc thuyền tṛng trành. Đó là vấn đề thuộc về cơ chế tải trọng. Chùa Bảo An ở trên một quả núi có tên là Thố Thạch Sơn (厝石山), là một khối đá, hễ kinh hành, cả quả núi rúng động. Nếu chúng ta ngủ tại đó th́ không bị lay động, nhưng khi chúng ta niệm Phật kinh hành chính là truyền bá đại oai đức. Sức đại oai đức được tiếp nối, nội hàm thực chất của sức oai đức đều được biểu hiện trong quá tŕnh chúng ta niệm Phật kinh hành. Nếu quư vị quan sát tỉ mỉ, tu tập như thật, như vậy th́ chúng ta sẽ khế nhập nội hàm thực chất của pháp tắc này, sẽ chẳng thoát lệch kinh điển, chẳng cách biệt quá lớn đối với pháp tắc.

 

          (Kinh) Nhược nhân giải thuyết thử tam-muội, sở hữu công đức bất tư nghị. Giả tuy ma nhiễu chư chúng sanh, bất năng động tư nhất mao phát. Ngă tiền thuyết bỉ tŕ kinh nhân, chúng hoạn khủng bố cập phiền năo, bỉ chung bất năng gia tổn hại, duy trừ văng nghiệp tiên định ương.

          ()若人解說此三昧。所有功德不思議。假雖魔嬈諸衆生。不能動斯一毛髮。我前說彼持經人。衆患恐怖及煩惱。彼終不能加損害。唯除往業先定殃。

          (Kinh: Nếu ai giải nói tam-muội này, tất cả công đức chẳng nghĩ bàn. Dẫu cho ma nhiễu loạn chúng sanh. Chẳng động mảy tóc, lông người ấy. Trước kia, ta nói người tŕ kinh, ương hoạn, sợ hăi, và phiền năo, trọn chẳng thể tổn hại người ấy. Chỉ trừ định nghiệp gây ương hoạn).

 

          “Ngă tiền thuyết bỉ tŕ kinh nhân, chúng hoạn khủng bố cập phiền năo. Bỉ chung bất năng gia tổn hại, duy trừ văng nghiệp tiên định ương” (Trước kia, ta đă nói người tŕ kinh ấy, các sự họa hoạn, kinh sợ và phiền năo trọn chẳng thể gây tổn hại cho người ấy, chỉ trừ các tai ương do định nghiệp từ trước). V́ sao nói như thế? Có nhiều hữu t́nh bạc phước ít đức, chẳng thể sám hối, chẳng thể tiến nhập một pháp tắc, phần nhiều dùng tà kiến, tâm kiêu mạn, tâm lừa dối để hành pháp. Có khi c̣n có các chướng duyên hiện tiền! Nếu chúng ta có chướng duyên hiện tiền, hăy sám hối, niệm Phật, vứt bỏ tạp duyên ác tánh của chính ḿnh, nhất tâm niệm Phật, thủ hộ pháp tắc ấy, th́ hết thảy ác duyên sẽ trọn chẳng thể gia hại. Đích xác là có hữu t́nh bạc phước, hữu t́nh ác duyên đă chín muồi, hữu t́nh có thiện duyên chẳng đầy đủ, gặp pháp này, sẽ nẩy sanh ác phiền năo và ác kiến, đâm ra mắc hại. Nỗi hại ấy là họa hại nhất thời, nhưng nói rốt ráo th́ vẫn là kết duyên thù thắng chân thật với Vô Thượng Bồ Đề.

 

          (Kinh) Nhược hữu hộ tŕ ư thử kinh, thị tắc ư ngô vi trưởng tử.

          ()若有護持於此經。是則於吾爲長子。

          (Kinh: Nếu ai hộ tŕ kinh điển này, người ấy là con cả của ta).

 

          Trong giáo ngôn Tịnh Độ, đức Thế Tôn một mực dạy: Người niệm Phật chẳng phải là Tiểu Thừa, mà là trưởng tử của ta. Nói “trưởng tử” tức là một pháp tắc tôn quư, thù thắng. “Một pháp tôn quư, thù thắng” chẳng phải do chúng ta tự xưng. Nếu chúng ta tự xưng, sẽ xuất hiện vấn đề, nhưng đức Thế Tôn có thể tuyên nói như thế. Bảo Vương tam-muội như thế dung nạp hết thảy các tam-muội, trọn đủ hết thảy các tam-muội, thành tựu hết thảy tam-muội, v́ là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập, cho nên nói trọn hết thảy các pháp. V́ trong hết thảy các pháp, Phật là chủ của hết thảy các pháp, Ngài có thể tuyên nói hết thảy các pháp. Hễ thấy hết thảy chư Phật, sẽ trọn đủ hết thảy các pháp. V́ thế, được gọi là Bảo Vương tam-muội, chân thật, không giả! Đây là nói vô úy, nói chân thật, chẳng phải v́ khuyến dụ chúng sanh mà nói giả thiết. V́ thế, từ xưa tới nay, kinh Ban Châu Tam Muội là một pháp bổn bất cộng, được các vị đại thiện tri thức trải các đời thủ hộ, tu tập, tôn sùng. Các vị thành tựu trải các đời đều thâm nhập tu tập kinh điển này, thâm nhập quan sát. Các Ngài thật sự tu tập thành tựu, thủ hộ. Bất luận Giáo Hạ, Luật Tông, Tịnh Độ Tông, cơ bản là lịch đại tổ sư của các tông, các thiện tri thức phần nhiều đều hành tŕ pháp này. Nhất là các vị thiện tri thức thuộc Luật Tông, các thiện tri thức Tịnh Độ Tông, các thiện tri thức thuộc Giáo Hạ đă hành tŕ pháp này khá trọn khắp. Cơ bản là đến cuối cùng, các Ngài ắt đều hành pháp này. Do vậy, “thị tắc ư ngô vi trưởng tử” (v́ thế, chính là con cả của ta). Đức Thích Ca Thế Tôn đă như thật tuyên nói với chúng ta như thế, v́ trong tám vạn bốn ngàn pháp, pháp này như biển cả, hết thảy các pháp đều quy về pháp này, thường nói là “Tịnh Độ vi quy” (Tịnh Độ là chỗ quay về). Đó chính là một cơ chế giáo ngôn được các vị thiện tri thức trong hết thảy các pháp môn từ xưa đến nay đă đề ra. Chẳng nói như thế tức là đă trái nghịch lợi ích chân thật của giáo ngôn Đại Thừa, ĺa khỏi cơ chế chân thật của giáo ngôn Đại Thừa. Trong quyển thứ tám mươi mốt [của kinh Hoa Nghiêm], tức phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, đức Thế Tôn đă nêu ra như thế. Các vị Pháp Thân đại sĩ như Văn Thù, Phổ Hiền, quy kết đến cuối cùng, đều phát nguyện văng sanh quốc độ Cực Lạc của A Di Đà Phật. Phát nguyện ǵ vậy? “Nguyện tôi lâm chung chẳng chướng ngại, văng sanh cơi Vô Lượng Quang của A Di Đà Phật”. V́ sao phải phát ra thệ nguyện như thế? Bậc Pháp Thân đại sĩ, Phổ Hiền đă thành Phật, cho đến vị đă sớm thành Phật là Văn Thù Sư Lợi, các bậc đại sĩ như thế đều hướng dẫn về Cực Lạc, v́ muốn cho hết thảy hành giả có trí huệ, hành giả được hưởng pháp ích rộng lớn, sẽ thành Phật ngay trong một đời.

 

          (Kinh) Ngă dĩ xưng tán ư bỉ đẳng, đương lai chi thế diệc phục nhiên.

          ()我已稱讚於彼等。當來之世亦復然。

          (Kinh: Ta đă xưng tán những người ấy, trong đời tương lai cũng giống vậy).

 

          Ở đây, đức Thế Tôn khen ngợi, tán thán người ấy, cho đến vị lai Phật cũng xưng tán. V́ sao? Chư Phật trụ thế, không vị nào chẳng tán thán giáo ngôn này, v́ muốn thấy Phật. Phật tán thán loại hữu t́nh ấy, rốt cuộc đều thành tựu Phật đạo, công đức chẳng nghĩ bàn!

 

          (Kinh) Nhược năng hộ tŕ như tư pháp, tự ưng hằng phát hoan hỷ tâm, hàm cộng tuyên thông vật phóng xả, ngă kim vị nhữ như thị thuyết.

          ()若能護持如斯法。自應恆發歡喜心。咸共宣通勿放舍。我今爲汝如是說。

          (Kinh: Nếu hay hộ tŕ pháp như thế, hăy nên luôn phát tâm hoan hỷ, đều cùng tuyên nói, đừng buông bỏ, ta nay v́ ông nói như thế).

 

          Kinh điển từ lúc bắt đầu tuyên nói măi cho đến hiện tại, đức Thế Tôn đều nói như thế, khuyên chúng ta thủ hộ, tu tập, thâm nhập pháp tắc này. Các vị thiện tri thức ơi! Hăy khéo tư duy, khéo quan sát!

 

13. Phẩm thứ chín: Nhiêu Ích

 

          (Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần, Nhiêu Ích phẩm đệ cửu.

          ()大方等大集賢護分饒益品第九。

          (Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, Hiền Hộ Phần, phẩm thứ chín: Lợi Ích Rộng Khắp).

 

          Phẩm này nêu bày Nhất Thiết Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội có trọn đủ các công đức và lợi ích, cho nên gọi là phẩm Nhiêu Ích.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: - Hiền Hộ! Ngă niệm văng tích, quá ư vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, thời hữu nhất Phật, hiệu Vô Úy Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, xuất hưng ư thế.

          ()爾時世尊。復告賢護菩薩言。賢護。我念往昔過於無量阿僧祇劫。時有一佛。號無畏王如來。應供。等正覺。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。出興於世。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: - Này Hiền Hộ! Ta nhớ xưa kia, quá vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, khi đó, có một vị Phật hiệu là Vô Úy Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn xuất hiện trong cơi đời).

 

          Đức Thế Tôn thuyết pháp, dùng chuyện này để tuyên nói nội hàm trang nghiêm tâm trí rộng lớn của hết thảy chúng sanh. Quá khứ, hiện tại, vị lai, cùng lúc lựa chọn. Nếu dựa theo báo đức sai biệt, đức Thế Tôn đă từng trong vô lượng kiếp xuất hiện nơi cơi đời để lợi ích thế gian rộng khắp. Nay khi chúng ta học Phật, hễ tâm trí dấy khởi một niệm, nếu dùng vô úy thiện xảo để chân thật thủ hộ, tức là khi tùy thuận Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội này, th́ cũng giống như Vô Úy Vương Như Lai xuất hiện trong cơi đời, trọn chẳng khác biệt! Do một niệm chọn lựa, phát tâm giống như chư Phật, trí giống như chư Phật, oai đức giống như chư Phật, tiếp nối thanh tịnh như thế, quyết định đích thân chứng đắc. Hết thảy chư Phật đều tuyên nói như thế, chẳng hề có cao thấp, không có lời nào khiến cho chúng sanh sợ hăi, khiến cho chúng sanh lựa chọn pháp chân thật. Nói theo phía Thế Tôn, báo đức là như thế. Nói theo lư tánh của pháp tắc, trong sát-na chúng sanh sanh khởi một niệm tối sơ, vô úy như thế, chọn lựa tùy thuận hành pháp Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội như thế, yêu mến thủ hộ th́ sẽ có thể lợi ích thế gian rộng khắp y hệt!

 

          (Kinh) Đương nhĩ chi thời, hữu trưởng giả tử, danh Tu Đạt Đa, dữ nhị vạn nhân, câu nghệ bỉ Phật Vô Úy Vương sở. Đáo dĩ, đảnh lễ bỉ Thế Tôn túc.

          ()當爾之時。有長者子。名須達多。與二萬人。俱詣彼佛無畏王所。到已頂禮彼世尊足。

          (Kinh: Trong thuở đó, có con ông trưởng giả, tên là Tu Đạt Đa, cùng với hai vạn người cùng đến chỗ đức Phật Vô Úy Vương ấy. Đă đến nơi bèn đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn ấy).

 

          Lễ dưới chân đức Thế Tôn. “Túc” là Lưỡng Túc Tôn. Nếu tùy thuận Thế Tôn Lưỡng Túc Tôn, tùy thuận giáo ngôn của Thế Tôn Lưỡng Túc Tôn, tùy thuận sự tu tŕ của Lưỡng Túc Tôn, tùy thuận sự hồi thí của Lưỡng Túc Tôn, sẽ đều đạt được hai con mắt phước và huệ. Lúc này, chúng ta đang học pháp, có phải thật sự là tâm và thân giống hệt nhau mà lễ kính đấng Lưỡng Túc Tôn hay không? Hữu t́nh trong hiện thời, phần nhiều lễ kính nghiệp duyên, hiện duyên của chính ḿnh, cho đến tùy thuận nghiệp tập của chính ḿnh, bất luận là túc nghiệp hay hiện nghiệp. Đó gọi là trong cái cảm nhận sai khác hoặc tương tự đối với sự huân tập đắm nhiễm, chẳng phải là oai đức của chư Phật. V́ thế, chẳng có tự ngă để vứt bỏ, chẳng thể tùy thuận giáo ngôn của Như Lai Lưỡng Túc Tôn.

 

          (Kinh) Kính lễ tất dĩ, thoái tọa nhất diện.

          ()敬禮畢已。退坐一面。

          (Kinh: Kính lễ xong xuôi, lui qua ngồi một phía).

 

          Do cơ chế giáo ngôn, khiến cho hết thảy chúng sanh vứt bỏ tự ngă, lễ kính dưới chân đức Phật, có thể thanh tịnh an lập, trọn đủ hiện duyên.

 

          (Kinh) Thời Tu Đạt Đa tức tiện thỉnh bỉ Vô Úy Vương Như Lai quảng tuyên như thị tam-muội thâm nghĩa.

          ()時須達多。即便請彼無畏王如來。廣宣如是三昧深義。

          (Kinh: Khi đó, Tu Đạt Đa liền thỉnh đức Vô Úy Vương Như Lai tuyên nói rộng khắp nghĩa sâu của tam-muội như thế).

 

          Ở đây, chúng ta thấy sự biểu hiện rơ rệt của các vị thiện tri thức xuất hiện trong cơi đời thuở quá khứ, cho đến nói về lúc Nhiên Đăng Cổ Phật (Dīpaṃkara) vừa mới phát tâm, dùng thân phận của trưởng giả tử Tu Đạt Đa để xuất hiện lễ kính dưới chân đức Thế Tôn, thưa hỏi đức Thế Tôn giáo ngôn Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội rất sâu, nhằm dẫn dắt chúng ta là bọn hữu t́nh trong đời Mạt Pháp tùy thuận cầu thỉnh như thế, giáo ngôn như thế, tu tŕ như thế.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Nhĩ thời, bỉ Vô Úy Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác tri trưởng giả tử hữu thâm tín tâm.

          ()賢護。爾時彼無畏王如來應供等正覺。知長者子有深信心。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Lúc bấy giờ, Vô Úy Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác biết trưởng giả tử có tín tâm sâu đậm).

 

          “Tri” là thấy ông ta cung kính, lễ bái, như thật tùy thuận, như thật khải thỉnh giáo pháp, cho nên yêu thích, thủ hộ. Hiện tiền chúng ta hành pháp này, hoặc một ngày, hoặc trong ba năm, năm năm, mười năm, chẳng đạt được lợi ích như đă nói, phần nhiều sanh ḷng thoái khuất, thậm chí sanh tâm phỉ báng, ngờ vực, tâm dè bỉu. V́ sao như thế? Do cái tâm thâm tín chẳng đủ! Nói đến tâm thâm tín, tức là biết pháp tánh đầy đủ và chẳng đầy đủ, có phải là vận dụng pháp hiển hiện hay không. Nếu tin sâu pháp tánh, há có đầy đủ hay chẳng đầy đủ? Nếu có tâm thâm tín, há có pháp tắc tương ứng hay chẳng tương ứng ư? Phần nhiều là cái tâm hư giả, tâm siểm khúc, tâm chú trọng lợi ích bất cần thủ đoạn, tâm chẳng tương ứng, hoặc là tâm thích lọc lừa mưu mô, hoặc cái tâm xu phụ lợi ích, chẳng thể thuận theo pháp tánh, chẳng thể tin sâu thuận theo pháp tắc, chẳng thể tùy thuận công đức do lợi ích thế gian, phần nhiều là chạy theo lợi lộc, cái tâm chỉ biết cầu lợi bất cần thủ đoạn. V́ thế, chẳng thể thâm nhập một pháp, chẳng thể thành tựu!

          Đấy là căn bệnh chung của người tu tập trong thời đại này. Hằng ngày thay đầu, mỗi giờ sửa mặt, sáng ba, tối bốn, luôn luôn chẳng tương ứng! V́ thế, thông thường chúng ta hành pháp, tốt nhất là đừng nên thay đổi đường lối, chớ nên hành tŕ khác lạ, cứ một môn thâm nhập như thế. Nếu chọn lựa một pháp nghĩa, sẽ có thể liễu đạt hết thảy pháp tắc. V́ sao? V́ pháp nào cũng đều b́nh đẳng, nhưng phải thấy chân tâm, dùng chân tâm để lựa chọn. Nếu chẳng phải như vậy, sáng ba, tối bốn, nói chung là chẳng liên quan ǵ cả, nói chung là cái tâm vô thường, cái tâm biến hóa. Đó gọi là cái tâm hư giả, chỉ chú trọng lợi ích bất cần thủ đoạn, như thế th́ sẽ là tặc tâm, sẽ là bất lợi nhất trong Phật pháp. Nói “đại lợi” tức là cái tâm chọn lựa.

 

          (Kinh) Nhạo dục thính văn như thị tam-muội, ứng thời tùy thuận nhi vị phu diễn.

          ()樂欲聽聞如是三昧。應時隨順而爲敷演。

          (Kinh: Vui thích nghe nói tam-muội như thế, sẽ ngay lập tức tùy thuận mà diễn giảng rộng khắp).

 

          “Phu diễn” (敷演) là tiếp nối rộng khắp, diễn thuyết pháp tắc này.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thời Tu Đạt Đa ư bỉ Phật sở, văn tam-muội dĩ, độc tụng, thọ tŕ, tư duy kỳ nghĩa, tức như thuyết hành. Kư tu hành dĩ, hoàn tức ư bỉ Vô Úy Vương Như Lai pháp trung, xả gia, xuất gia, thế trừ tu phát, phục ca-sa y.

          ()賢護。時須達多。於彼佛所。聞三昧已。讀誦受持。思惟其義。即如說行。既修行已。還即於彼無畏王如來法中。舍家出家。剃除鬚髮。服袈裟衣。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Khi đó, Tu Đạt Đa ở nơi đức Phật ấy, nghe tam-muội xong, đọc tụng, thọ tŕ, tư duy nghĩa lư, liền tu hành đúng như lời dạy. Đă tu hành rồi, lại c̣n ở trong pháp của Vô Úy Vương Như Lai, bỏ nhà xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa).

 

          Chúng ta thấy duyên khởi này là như thế nào? Từ kiền thành lễ kính dưới chân đức Phật, sau đó, lui qua ngồi một phía, khải vấn đức Thế Tôn dạy bảo như thế. Tức là thưa hỏi pháp tắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Hỏi xong, đức Thế Tôn thâm nhập quan sát, biết ông ta yêu mến, bèn tuyên nói cho ông ta. Ông ta nghe xong, có thể đọc tụng, thọ tŕ, tư duy nghĩa lư, đúng như lời dạy hành tŕ, c̣n ở ngay trong pháp của Vô Úy Vương Như Lai, bỏ nhà xuất gia.

          Người hành pháp trong quá khứ triệt để tùy thuận, chẳng giữ lại ǵ, nhất tâm quy mạng, cung kính, trân trọng thọ tŕ. Trong hiện thời, người xuất gia lẫn tại gia chúng ta phần nhiều có giữ lại. “Giữ lại” tức là ǵ vậy? Chính là chẳng dám xả thân, hoàn toàn phó ḿnh cho một pháp tắc, có lắm nỗi sợ hăi; nhưng các vị thiện căn thành thục chẳng hề sợ hăi ǵ, đối với pháp bèn dũng mănh, chẳng tiếc nuối sanh mạng!

 

          (Kinh) Kinh bát vạn tuế, tư duy trụ tŕ như thị tam-muội.

          ()經八萬歲。思惟住持。如是三昧。

          (Kinh: Trải qua tám vạn năm, tư duy trụ tŕ tam-muội như thế).

 

          Hiện thời, những người tu pháp chúng ta thường có những kẻ thoạt đầu rất dũng mănh t́m đến, nhưng ba ngày sau bèn nói: “Ối trời ơi! Chúng tôi vẫn chẳng thích hợp pháp này, tôi vẫn nên tu pháp khác vậy”. Nếu có thể dùng tám vạn năm để tư duy, thủ hộ pháp tắc này, chắc là vẫn có ư nghĩa. V́ sao? Có kẻ dăm ba ngày, mười ngày, tám bữa đều kiên tŕ chẳng nổi, sẽ nẩy sanh ḷng nghi ngờ đối với pháp. C̣n có người chừng một năm, nửa năm, hoặc bảy ngày, nửa tháng, chẳng biết chính ḿnh là ǵ! Tâm kiêu mạn sanh khởi, tà tâm sanh khởi, tâm tội ác cũng sanh khởi. Cái tâm tham cầu lợi dưỡng và tiếng tăm cũng sanh khởi, bèn đi giáo hóa người khác.

          Chúng ta thấy ông Tu Đạt Đa, tức Nhiên Đăng Cổ Phật thuở tu nhân, suốt tám vạn năm tư duy, tu tŕ, thủ hộ tam-muội này như thế. Chúng ta phải so sánh, đối với pháp phải phát khởi sự thủ hộ chân thật và lựa chọn thủ hộ rộng lớn trong vị lai. Nếu dăm ba ngày, một năm, nửa năm, đă nóng ḷng mong đạt được hiệu quả và lợi ích; đó chẳng phải là người tu pháp, sẽ chẳng đạt được lợi ích trong Phật pháp, chỉ đáng gọi là kẻ trộm ở trong Phật pháp, vênh vang một thời, sau đó sẽ phải hối hận. V́ sao? Quư vị chẳng chân thật tu tập, thủ hộ pháp tắc, mà là mong giành lấy lợi ích nơi pháp. Giành lấy lợi ích ǵ vậy? Chính là nhờ vào pháp để hoàn thành lợi ích riêng tư của chính ḿnh. Như thế th́ sẽ chẳng đạt được sự chân thật trong Phật pháp. Trong pháp tắc này, có nhiều hữu t́nh thuộc loại đắm nhiễm, v́ thiện căn và phước đức của hữu t́nh trong thời ác trược mỏng ít, bèn dựa vào pháp tắc để nuôi nấng tà kiến và danh lợi của chính ḿnh. Như thế th́ sẽ gặp nhiều họa hại. Họa hại ấy là họa hại ngay trong đời hiện tại, có ư nghĩa rốt ráo, chúng ta chẳng thể phủ nhận. Nhưng dù là họa hại trong đời hiện tại, cũng [các trường hợp] có thể miễn trừ, tức là những ai có thiện căn thành thục cơ chế thành thục.

 

          (Kinh) Hựu phục tại bỉ Vô Úy Vương Như Lai sở, văn nhất thiết pháp, giai tất thọ tŕ.

          ()又復在彼無畏王如來所。聞一切法。皆悉受持。

          (Kinh: Lại ở chỗ Vô Úy Vương Như Lai, nghe hết thảy pháp, thảy đều thọ tŕ).

 

          Do công đức trong tám vạn năm tư duy, trụ tŕ tam-muội này, cho nên sau đó, lại tu tập hết thảy các giáo pháp của Vô Úy Vương Như Lai. Nếu ta có thể chọn lựa thuần thục một pháp tắc, vậy th́ tất nhiên sẽ thủ hộ hết thảy các pháp. Chẳng hạn như nếu chúng ta thật sự chọn lựa lợi ích của pháp tắc Niệm Phật này, vậy th́ hành tŕ hết thảy các pháp cũng là chọn lựa, là vô úy. Đương nhiên, nếu trong các pháp tắc khác, thật sự chọn lựa lợi ích th́ cũng sẽ yêu mến, tu tập hết thảy các pháp tắc. V́ sao? Hễ chọn lựa một pháp tắc, sẽ chẳng sợ hăi, chẳng có ǵ thoái thất, chẳng có ǵ được hay mất, chẳng có ǵ tán hoại. Đó là tu tập rộng lớn, tu tập thanh tịnh, tu tập chân thật, đối với không gian rộng lớn để tạo tác các nghiệp trong tâm địa, sẽ ngay lập tức vượt qua. Trong quá khứ, bị tội ác nghiệp, điên đảo nghiệp, phiền năo nghiệp, vô minh nghiệp, đối đăi nghiệp, phan duyên nghiệp, đủ loại nghiệp lấp đầy không gian và thời gian, cùng lúc vọt ra, từ đó mà phát khởi rộng lớn đến vị lai, trong hết thảy các pháp, nẩy sanh diệu dụng thanh tịnh. Do vậy, chúng ta nói tâm trí rộng lớn đă thật sự thành thục. Đó là chỗ thiện xảo vô úy trong Phật pháp.

 

          (Kinh) Thị hậu phục kinh chư Như Lai sở, văn thuyết tư pháp.

          ()是後復經諸如來所。聞說斯法。

          (Kinh: Sau đó, lại từ chỗ các đức Như Lai, nghe nói pháp này).

 

          Không chỉ nghe nói giáo ngôn Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội từ một đức Như Lai, mà c̣n đến chỗ các đức Như Lai để nghe nói kinh pháp này.

 

          (Kinh) Diệc giai năng tŕ. Ư chư Phật sở, chủng chư thiện căn, năng quảng thành tựu bất tư nghị dĩ. Nhiên hậu xả mạng, tức đắc thượng sanh Tam Thập Tam Thiên, đồng thọ quả báo, tức bỉ kiếp trung, hoàn phục trị ngộ đệ nhị Như Lai, nhi bỉ Như Lai, tùng sát-lợi sanh, xuất gia thành đạo, danh viết Điện Đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Nhi phục ư bỉ Điện Đức Như Lai pháp trung, xuất gia tu hành, kinh bát vạn tứ thiên tuế, hoàn phục tư duy như thị tam-muội, nhi cánh trị ngộ đệ tam Như Lai. Bỉ đệ tam Phật, ư Bà La Môn gia sanh dĩ, diệc xuất gia thành đạo, hiệu viết Quang Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Phục ư bỉ Như Lai sở, xuất gia tu hành, diệc ư bát vạn tứ thiên tuế trung, thường đắc tư duy như thị tam-muội.

          ()亦皆能持。於諸佛所。種諸善根。能廣成就不思議已。然後捨命。即得上生三十三天。同受果報。即彼劫中。還復值遇第二如來。而彼如來。從剎利生。出家成道。名曰電德如來應供等正覺。而復於彼電德如來法中。出家修行。經八萬四千歲。還復思惟如是三昧。而更值遇第三如來。彼第三佛。於婆羅門家生已。亦出家成道。號曰光王如來應供等正覺。復於彼如來所。出家修行。亦於八萬四千歲中。常得思惟如是三昧。

          (Kinh: Cũng đều có thể thọ tŕ. Ở chỗ chư Phật, gieo các thiện căn, đă có thể thành tựu rộng khắp chẳng thể nghĩ bàn. Sau đó, xả mạng, liền được sanh lên Tam Thập Tam Thiên, cùng hưởng quả báo, liền ngay trong kiếp ấy, lại được gặp gỡ vị Như Lai thứ hai. Vị Như Lai ấy sanh trong chủng tánh Sát-đế-lợi, xuất gia, thành đạo, tên là Điện Đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. [Tu Đạt Đa] lại ở trong pháp của Điện Đức Như Lai xuất gia tu hành, trải qua tám vạn bốn ngàn năm, vẫn lại tư duy tam-muội như thế, lại được gặp gỡ đức Như Lai thứ ba. Vị Phật thứ ba ấy, sanh trong gia đ́nh Bà La Môn, cũng xuất gia thành đạo, hiệu là Quang Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Lại ở chỗ Như Lai ấy, xuất gia tu hành, cũng trong tám vạn bốn ngàn năm thường được tư duy tam-muội như thế).

 

          Đây là Nhiên Đăng Cổ Phật trong khi tu nhân, đă gặp giáo ngôn của chư Phật. Ở chỗ vị Phật thứ nhất, trải qua tám vạn năm. Nơi vị Phật thứ hai, trải qua tám vạn bốn ngàn năm, nơi vị Phật thứ ba lại trong tám vạn bốn ngàn năm thường tư duy tam-muội như thế. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta hăy xem chính ḿnh hành tŕ tam-muội này, thời gian yêu mến được mấy năm, hay mấy ngày? Đối với tam-muội này, tin sâu hay vẫn sợ hăi? Hay là thủ hộ rốt ráo? Tôi thường nghe có Bồ Tát t́m đến đây phát nguyện, phát nguyện xong bèn thoái đọa. Thoạt đầu v́ ở nhà chịu khổ, chịu nạn, do t́nh cảm thế tục dây dưa, nghiệp duyên chằng néo, áp lực cuộc sống trói buộc, đủ thứ trói buộc, chẳng được rồi! Tính đến tự viện để chứng tam-muội, nói: “Tôi chẳng thể nào không chứng tam-muội này!” Được ít lâu bèn nói: “Không được rồi! Tôi tu tŕ thời gian dài ngần ấy mà chẳng thể tương ứng!” Nếu so với tám vạn năm, hay tám vạn bốn ngàn năm, như thế nào th́ mới tương ứng? Đức Thế Tôn chẳng dùng số năm để ảnh hưởng chúng ta, chỉ nói chúng ta dùng tâm trí và lập ư nguyện rộng lớn rốt ráo, tin sâu và yêu mến, như thế th́ mới có thể chọn lựa, xác lập ư hướng rộng lớn. Nếu quư vị chẳng lập, phước đức mỏng ít, nông cạn đối với pháp, tín tâm nông cạn, hành pháp nông cạn, phát tâm lẫn phước đức lẫn nhân duyên đều nông cạn, pháp duyên nông cạn. Nông cạn ở chỗ nào? Một niệm hiện tiền của quư vị vừa động, đă văng tuốt qua nơi khác. Vừa mới mon men, đă dấy nghi tâm, chẳng hề có thâm tín. Nhiên Đăng Cổ Phật đă v́ chúng ta chọn lựa như thế: Ngài thường tu tập một pháp, chẳng thoái đọa, ắt được thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nếu chúng ta đối với pháp thường xuyên tán hoại, mà mong đạt được lợi ích thế tục trong pháp ấy, cho đến v́ nhân duyên tà kiến, sẽ là chẳng tương ứng.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thời bỉ trưởng giả tử Tu Đạt Đa tự thị chi hậu, quá bách dư kiếp, tức đắc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()賢護。時彼長者子須達多。自是之後。過百餘劫。即得成就阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Trưởng giả tử Tu Đạt Đa từ thuở đó về sau, trải qua hơn một trăm kiếp, liền được thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).

 

          Trăm kiếp thành Phật, thật khó! Thông thường, nói theo quy củ thông thường, sẽ là ba đại A-tăng-kỳ kiếp bèn thành tựu Phật đạo. Nhiên Đăng Cổ Phật thị hiện trong một trăm kiếp đă thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Trong khi tu nhân, Thích Ca Văn Như Lai (Thích Ca Mâu Ni Phật) do cái tâm mạnh mẽ, tán thán Phất Sa Phật suốt bảy ngày bảy đêm, chỉ nói: “Thiên thượng thiên hạ vô như Phật, thập phương thế giới diệc vô tỷ, thế gian sở hữu ngă tận kiến, nhất thiết vô hữu như Phật giả”, bèn vượt qua chín kiếp, thành Phật trước ngài Di Lặc. Đó là sự thiện xảo khích lệ được thành tựu bởi cái tâm mạnh mẽ. Trong khi hành pháp này, chúng ta có nhận biết như thế hay không?

          Có người nói: “Nếu trăm kiếp thành Phật, tôi chẳng hành pháp này. V́ niệm A Di Đà Phật, văng sanh thế giới Cực Lạc, đắc bất thoái chuyển ngay trong một đời, thành Phật ngay trong một đời, tôi vẫn nên cầu sanh về thế giới Cực Lạc”, cũng rất tốt lành! Chúng ta đối với pháp so sánh như thế, v́ sao đức Thế Tôn muốn làm cho hết thảy chúng sanh thành Phật ngay trong một đời mà thiết lập một pháp tắc chân thật, thù thắng rộng lớn như thế? Để cho chúng ta so sánh. Trong quá khứ, chư Phật đă siêng khổ tu tŕ trong bao kiếp lâu xa, muốn khiến cho chúng sanh đạt được lợi ích chân thật. V́ lẽ nào? Do lập tức thành tựu Phật đạo, do xa ĺa các khổ. V́ nếu chúng ta chẳng lập tức thành tựu Phật đạo, nhiều đời mê muội, một hai ngày c̣n mê muội, huống hồ nhiều kiếp, huống hồ chẳng thể nói cùng tận kiếp, lẽ nào chẳng mê muội ư? Suốt đời này, chúng ta có bao nhiêu thứ gây mê hoặc? Mê muội đối với pháp, mê muội đối với tín tâm, mê muội đối với tương lai, mê muội trong tu hành. Quư vị có thể thật sự như thật thọ tŕ ư? Tiến nhập như pháp ư? Chẳng cần ầm ĩ phô trương cái tâm của chính ḿnh! Quư vị hăy như thật quán sát chính ḿnh có phải là thâm tín hay không? Nếu chẳng tin sâu, dẫu ầm ĩ phô trương th́ vẫn là cái tâm sanh diệt, tâm đối đăi! Nó chẳng liên tục, v́ sao? Thật sự chẳng có sự nương tựa liên tục, v́ trong cái tâm sanh diệt mà muốn liên tục, ắt cần phải thanh tịnh phát khởi thâm tín, chẳng có con đường thứ hai! Nếu lập ra một con đường khác, sẽ là luân hồi. Các vị thiện tri thức ơi! Nhất định phải khéo quan sát, khéo tư duy.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Nhữ ưng đương tri, nhĩ thời, bỉ trưởng giả tử Tu Đạt Đa giả, khởi dị nhân hồ? Tức bỉ quá khứ Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác thị dă. Hiền Hộ! Thị cố đương tri, bỉ trưởng giả tử Tu Đạt Đa giả, dĩ hữu như thị ái nhạo pháp cố. Phục hữu như thị cầu pháp hành cố, năng tốc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề dă.

          ()賢護。汝應當知。爾時彼長者子須達多者。豈異人乎。即彼過去然燈如來應供等正覺是也。賢護是故當知。彼長者子須達多者。以有如是愛樂法故。復有如是求法行故。能速成就阿耨多羅三藐三菩提也。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Ông hăy nên biết, trưởng giả tử Tu Đạt Đa thuở ấy, há có phải ai khác? Chính là quá khứ Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác vậy. Này Hiền Hộ! V́ thế, hăy nên biết: Trưởng giả tử Tu Đạt Đa do yêu mến pháp như thế, lại do cầu pháp hành như thếcó thể mau chóng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).

 

          Chúng ta đều biết Thích Ca Văn Phật được thọ kư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề từ chỗ Nhiên Đăng Cổ Phật. Chư Phật đă thành tựu trong quá khứ phần nhiều đều là ở nơi chư Phật, đích thân được thọ kư là “sẽ đích thân chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Nếu đă đích thân được thọ kư, chắc chắn sẽ chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề, chẳng có nghi tâm, sẽ hành tŕ chẳng chần chừ. Đó là lúc oai đức và thiện xảo thành thục chẳng thể nghĩ bàn. Nếu là người chưa được thọ kư, sẽ có nhiều nỗi hoài nghi!

          Trong kinh Kim Cang, đức Thế Tôn đă nói: Nếu đối với hành pháp mà có sở đắc, th́ Nhiên Đăng Cổ Phật đă chẳng thọ kư. Nay chúng ta có phải là có sở đắc hay chăng? Đức Phật thọ kư cho chúng ta hay không? Chúng ta có yêu mến hành pháp Ban Châu, hay là có hành pháp sở cầu hay không? Nếu quư vị chẳng yêu mến pháp như thế, thích pháp như thế, mà yêu thích những thứ khác, quư vị phải cẩn thận, có thể là đă đi lệch đường mất rồi!

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Nhữ kim đương quán thị tam-muội vương, vị chư Bồ Tát, cập chúng sanh bối, nhi tác kỷ hứa đại hoằng ích sự.

        ()復次賢護。汝今當觀是三昧王。爲諸菩薩及衆生輩。而作幾許大弘益事。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Ông nay hăy nên quán tam-muội vương này, v́ các Bồ Tát và chúng sanh thực hiện chừng đó chuyện lợi ích to lớn).

 

          Ở đây, đức Phật dạy ngài Hiền Hộ quán. [Trong đoạn kinh văn này, phải hiểu] Hiền Hộ là hữu t́nh cầu pháp, ưa thích pháp, yêu mến pháp, khéo thủ hộ trong hiện tiền, chẳng phải là nói đến một vị Bồ Tát. Thượng Thủ của hết thảy các vị Bồ Tát đều là Hiền Hộ Bồ Tát, mà Thượng Thủ của hết thảy Bồ Tát đều là hữu t́nh yêu mến pháp, ưa thích pháp trong hiện tiền. Nếu quư vị yêu mến pháp, ưa thích pháp, hướng về pháp, sẽ giống như ngài Hiền Hộ, thuộc về cùng một pháp vị với ngài Hiền Hộ, là Thượng Thủ của mười sáu vị Chánh Sĩ. “Thủ” là yêu mến pháp, ưa thích pháp, hành pháp, thủ hộ sự thành tựu của pháp, truyền bá pháp, như vậy chính là người đứng đầu của hết thảy các vị Chánh Sĩ, bất luận xuất gia hay tại gia. Đây là nói chân thật theo tỷ dụ, cũng là nói tới sự thiện xảo trụ thế của Hiền Hộ Bồ Tát, cũng có phần trụ trong an lạc nơi sự tùy thuận của Hiền Hộ Bồ Tát trong đời Mạt Pháp. V́ tùy thuận tâm trí và sự thủ hộ của Hiền Hộ Bồ Tát, sẽ nhất định có thể thành tựu công đức chẳng thể nghĩ bàn này!

          Đối với “tam-muội vương”, chớ nên quá bận tâm về danh tự này. Thêm vào một chữ Vương, tức là chẳng dám khinh dễ hứa khả cho hữu t́nh. Trong phần sau, đối với sự tán thán về lai lịch, cũng nói tột bậc. Tất cả các ngôn từ đều vận dụng tới cực hạn, chẳng phải là khoa trương. Thế nào là tột bậc? Chính là tuyên nói như thật!

 

          (Kinh) Sở vị đương đắc nhất thiết chư Phật trí địa cố.

          ()所謂當得一切諸佛智地故。

          (Kinh: Được gọi là sẽ đạt được trí địa của hết thảy chư Phật).

 

          Các vị thiện tri thức ơi! Đối với pháp tắc này, nếu có thể tương ứng, quyết định sẽ chẳng thoái chuyển đối với trí địa của chư Phật! V́ trí Nhất Thiết Trí của chư Phật, nói theo phía Như Lai, sẽ là chẳng có ǵ để nói năng. Nếu xét theo danh xưng, như trong phần sau, đối với các thứ trí đều có nhắc tới, nhưng các thứ trí ấy đều yếu ớt so với trí của chư Phật, v́ danh hiệu trí huệ của chư Phật, nội dung của danh tự, nếu muốn xưng thuyết, sẽ có thể ngập tràn toàn thể trần sa, toàn thể thế giới hải, cho đến thế giới chủng tử hải. V́ sao? Mỗi trí của chư Phật đều trọn khắp chân thật, chẳng có ǵ không bao hàm trong ấy.

 

          (Kinh) Phục năng nhiếp thọ nhất thiết chư Phật đa văn hải cố.

          ()復能攝受一切諸佛多聞海故。

          (Kinh: Lại có thể nhiếp thọ biển đa văn của hết thảy chư Phật).

 

          Tam-muội vương ấy chính là trí địa của hết thảy chư Phật, cũng là biển đa văn của chư Phật. Chư Phật dùng trí trọn khắp để nghe hết thảy các pháp, hành hết thảy các pháp, trọn đủ công đức của hết thảy các pháp. Cho nên chúng ta dùng công đức chân thật của một pháp, một tam-muội để nhập biển trí của hết thảy chư Phật, nhập biển đa văn của hết thảy chư Phật.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị cố nhữ đẳng đương ưng cần cầu như thị tam-muội, thường nhạo thính văn, độc tụng thọ tŕ, tư duy tu hành. Kư văn thọ dĩ, đương phục vị tha độc tụng, thọ tŕ, giải thích nghĩa lư, linh tha cần cầu, hàm đắc văn thọ, chánh niệm tư duy, như thuyết tu hành. Sở dĩ giả hà? Hiền Hộ! Nhược năng cần cầu, độc tụng, thọ tŕ, chánh niệm tu hành, quảng tuyên lưu bố thị tam-muội giả, bất cửu đương đắc chứng chư Phật trí, chư Như Lai trí, đại tự tại trí, bất tư nghị trí, bất khả xưng trí, vô đẳng đẳng trí, Nhất Thiết Trí trí, năi chí đắc bỉ bất cộng tha trí cố. Hiền Hộ! Nhược phục hữu nhân, năng thiện tuyên thuyết, bỉ ưng chánh ngôn.

          ()賢護是故汝等。當應勤求如是三昧。常樂聽聞。讀誦受持。思惟修行。既聞受已。當復爲他讀誦受持。解釋義理。令他勤求。咸得聞受。正念思惟。如說修行。所以者何。賢護。若能勤求讀誦受持。正念修行。廣宣流佈。是三昧者。不久當得證諸佛智。諸如來智。大自在智。不思議智。不可稱智。無等等智。一切智智。乃至得彼不共他智故。賢護。若復有人。能善宣說。彼應正言。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! V́ thế, các ông hăy nên siêng cầu tam-muội như thế, thường ưa thích nghe, đọc, tụng, thọ tŕ, tư duy tu hành. Đă nghe nhận rồi, sẽ lại v́ người khác đọc, tụng, thọ tŕ, giải thích nghĩa lư, khiến cho người khác siêng cầu, đều được nghe, nhận, chánh niệm tư duy, tu hành đúng như lời dạy. V́ sao vậy? Này Hiền Hộ! Nếu có thể siêng cầu, đọc tụng, thọ tŕ, chánh niệm tu hành, tuyên nói, truyền bá rộng răi tam-muội này, chẳng lâu sau, sẽ chứng chư Phật trí, chư Như Lai trí, trí đại tự tại, trí chẳng nghĩ bàn, trí chẳng thể diễn nói, trí không sánh bằng, trí Nhất Thiết Trí, cho đến trí mà mọi người khác đều chẳng có. Này Hiền Hộ! Nếu lại có ai có thể khéo tuyên nói, người ấy hăy nên tuyên nói chánh đáng).

 

          “Chánh ngôn” ở đây là tuyên nói như thật, tuyên nói chẳng tăng giảm, chẳng tuyên nói những điều được thiết lập hư giả.

 

          (Kinh) Kim thử tam-muội tức thị nhất thiết chư Bồ Tát nhăn.

          ()今此三昧。即是一切諸菩薩眼。

          (Kinh: Nay tam-muội này chính là mắt của hết thảy các Bồ Tát).

 

          Trí huệ là mắt của Bồ Tát, tức Bát Nhă Ba La Mật.

 

          (Kinh) Chư Bồ Tát phụ.

          ()諸菩薩父。

          (Kinh: Cha của Bồ Tát).

 

          Do có thể sanh ra các Bồ Tát.

 

          (Kinh) Chư Bồ Tát mẫu.

          ()諸菩薩母。

          (Kinh: Mẹ của các Bồ Tát).

 

          Do dưỡng dục các Bồ Tát.

 

          (Kinh) Năng dữ nhất thiết chư Bồ Tát bối chư Phật trí giả. Hiền Hộ! Như thị thuyết giả, thị vi thiện thuyết thời, thiện thuyết thị tam-muội dă. Hiền Hộ! Nhược phục hữu chư nam tử, nữ nhân năng thiện thuyết thời, bỉ đương chánh ngôn.

          ()能與一切諸菩薩輩諸佛智者。賢護。如是說者。是爲善說時善說是三昧也。賢護。若復有諸男子女人。能善說時。彼當正言。

          (Kinh: Có thể ban trí của chư Phật cho các hết thảy các vị Bồ Tát. Này Hiền Hộ! Nói như thế th́ là lúc khéo nói, sẽ khéo nói tam-muội này. Này Hiền Hộ! Nếu nhằm lúc các nam tử, nữ nhân có thể khéo nói, họ hăy nên tuyên nói chánh đáng).

 

          Lần thứ hai đề cập “chánh ngôn” đối với tam-muội này. “Chánh ngôn” là nói như thật về công đức chân thật, lợi ích chân thật, và pháp tắc chân thật được chứa đựng trong tam-muội này.

 

          (Kinh) Thị tam-muội giả, tức thị Phật tánh, tức thị pháp tánh, tức thị Tăng tánh, tức thị Phật địa.

          ()是三昧者。即是佛性。即是法性。即是僧性。即是佛地。

          (Kinh: Tam-muội này chính là Phật tánh, chính là pháp tánh, chính là Tăng tánh, chính là Phật địa).

 

          Lành thay! Đối với giáo ngôn quá sâu này, đối với lời ấn khế này, chúng ta phải nên khéo tư duy, khéo quan sát, khéo thủ hộ, khéo truyền bá! Trong kinh Hiền Hộ, đức Thế Tôn đă như thật bảo chúng ta: Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội chính là Phật tánh, mà cũng là triệt để, như thật tuyên nói lợi ích và công đức chân thật của pháp tắc này, biểu đạt chẳng chiết khấu pháp này chính là Phật tánh, là Pháp tánh, là Tăng tánh, cho đến Phật địa. Nếu chứng đắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, tức là có thể thấy Phật. Thấy Phật th́ sẽ có thể nghe pháp, nghe pháp sẽ có thể hiểu rơ công đức của pháp là chân thật, chẳng có tự tánh, tức là an trụ nơi lợi ích chân thật do thấy chư Phật, đối với Vô Sanh Pháp Nhẫn bèn tùy thuận. Cho nên “tức thị Phật địa” (chính là Phật địa). Đấy là nói vô úy, chỉ có đức Thế Tôn có thể nói như thế.

 

          (Kinh) Thị đa văn hải, thị vô tận tạng Đầu Đà, thị vô tận tạng Đầu Đà công đức.

          ()是多聞海。是無盡藏頭陀。是無盡藏頭陀功德。

          (Kinh: Là biển đa văn, là vô tận tạng Đầu Đà, là vô tận tạng Đầu Đà công đức).

 

          Đầu Đà (Dhūta) là nói theo kiểu chẳng dịch nghĩa, có rất nhiều cách dịch. [Dịch Đầu Đà thành] Đẩu Tẩu (抖擻) là một cách dịch khá phổ biến. Đẩu Tẩu h́nh dung chúng ta giũ sạch tro bụi trên y phục. Hạnh Đầu Đà có thể giũ sạch nghiệp tướng trần lao của hết thảy các nghiệp thiện ác từ vô thỉ tới nay, tâm trí thanh tịnh. Trong biển vô tận cơi nước, đó là chỗ quy kết của hết thảy các thứ nỗ lực tiến lên, hoặc là chỗ quy kết của sức công đức thanh tịnh để triệt để trở về cội nguồn. Điều đó được gọi là “vô tận tạng Đầu Đà công đức”.

 

          (Kinh) Thị vô tận tạng chư Phật công đức.

          ()是無盡藏諸佛功德。

          (Kinh: Là vô tận tạng công đức của chư Phật).

 

          Hai chữ “vô tận” rất dễ lư giải. “Tạng” được tuyên nói như thế nào? Chính là công đức vốn sẵn có của hết thảy chúng sanh và hết thảy chư Phật, chẳng phải do tạo tác mà có. Nói “vô tận tạng chư Phật công đức’” là v́ muốn ngăn trở ḷng kiêu mạn b́nh phàm của hết thảy chúng sanh mà nói như thế. Trong vô tận tạng, hết thảy công đức của chư Phật và công đức của hết thảy chúng sanh vốn b́nh đẳng như nhau. V́ ngăn che cái tâm kiêu mạn của chúng sanh, v́ thật sự ban cấp lợi ích của Phật pháp, cho nên nói như thế!

         

          (Kinh) Thị vô tận tạng năng sanh thâm nhẫn.

          ()是無盡藏能生深忍。

          (Kinh: Là vô tận tạng có thể sanh ra nhẫn sâu).

 

          Vô Sanh Pháp Nhẫn là môn Nhẫn khó nhất trong hết thảy các môn Nhẫn, chẳng sanh, chẳng diệt, bất cấu, bất tịnh, chẳng đến, chẳng đi, nhất tâm chân thật như thế, phô bày sự an trụ trong công đức chân thật của Vô Sanh Pháp Nhẫn. Hết thảy hữu t́nh, cho đến hết thảy Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát ở nơi đây chẳng thể sanh khởi quyết định. Như Bồ Tát c̣n có hạnh nguyện để an lập, Thanh Văn c̣n có sự tịch diệt, Niết Bàn c̣n có thể cầu chứng, bậc trí th́ c̣n có trí huệ để thủ hộ, người từ bi th́ c̣n có từ bi phải nên thực hiện, phàm phu hữu t́nh th́ c̣n có tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến bất chánh, cho đến các Tùy Phiền Năo thường bầu bạn, cho nên đối với Vô Sanh Nhẫn chẳng thể lựa chọn.

 

          (Kinh) Thị năng sanh đại từ, năng sanh đại bi.

          ()是能生大慈。能生大悲。

          (Kinh: Có thể sanh đại từ, có thể sanh đại bi).

 

          Đồng thể đại bi, vô duyên đại từ. V́ sao nói như thế? Pháp từ bi chính là dẹp khổ, ban vui. Hết thảy các bậc thiện xảo, hết thảy những người học Phật đều nên tu tập pháp này, nương vào trí huệ làm gốc, dùng tâm trí bất động, chẳng tăng, chẳng giảm, phát khởi thiện xảo oai đức rộng lớn. Oai đức thiện xảo ấy phát khởi từ chỗ nào? Từ cái được gọi là “tâm chẳng có chuyện ǵ”, từ trong cái tâm chẳng tạo tác, từ trong cái tâm chẳng có đến, đi, đối đăi. Nếu trong tâm chúng ta có đối đăi, cho đến có cái đắm nhiễm, sẽ trọn chẳng thể đạt được đại từ và đại bi.

 

          (Kinh) Năng sanh Bồ Đề dă.   

          ()能生菩提也。

          (Kinh: Có thể sanh Bồ Đề).

         

          Trong kinh giáo, đức Thế Tôn đă tuyên nói có Thanh Văn Bồ Đề, Duyên Giác Bồ Tát, và tối thượng thừa Bồ Đề của chư Phật. Trong hết thảy các giáo ngôn về Bồ Đề, chẳng ĺa ba tâm Bồ Đề ấy. Nếu là phước báo nhân thiên, sẽ chẳng thể dùng Bồ Đề để an lập, chẳng thể dùng Bồ Đề để nói năng, v́ đó chẳng phải là pháp thủ hộ bởi lục đạo chúng sanh. Bởi lẽ, Bồ Đề phần là xuất thế thiện xảo, là tướng công đức thiện xảo lợi ích thế gian.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị vi bỉ năng thiện thuyết thời, thuyết thị tam-muội dă. Hiền Hộ! Nhược phục hữu nhân năng thiện tuyên thuyết thị tam-muội thời, bỉ ưng chánh ngôn!

          ()賢護。是爲彼能善說時說是三昧也。賢護。若復有人。能善宣說是三昧時。彼應正言。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Đó là người khi khéo nói bèn nói tam-muội này. Này Hiền Hộ! Nếu lại có người khi khéo tuyên nói tam-muội này, người ấy phải nên nói năng chánh đáng).

 

          Đối với “chánh ngôn”, đức Thế Tôn không ngừng uốn nắn chúng ta phải nên tuyên nói Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội bằng ngôn ngữ chánh giáo, chánh pháp tắc, lời lẽ chân thật, lời lẽ chẳng đùa cợt, lời lẽ như thật, lời lẽ chẳng tăng giảm như thế nào. Tức là đối với tam-muội này, bèn nói như thật. Đức Thế Tôn đích thân dạy chúng ta tuyên nói với người khác như thế nào, chẳng phải là dùng lời lẽ tăng giảm, lời lẽ do quư vị tự suy nghĩ, lư giải, hoặc là lời lẽ xuất phát từ sự chứng lượng[5]. Sự chứng lượng của quư vị ở đây chẳng dấy lên tác dụng. V́ sao? Do đức Thế Tôn đích thân dạy bảo, đúng như đức Thế Tôn đă chế giới. Hết thảy các giới pháp do đức Thế Tôn chế định, chẳng phải do các vị Bồ Tát hoặc hiền thánh nào khác có thể an lập! V́ thế, lời dạy ở đây giống như giới pháp, chẳng thể tăng giảm, do chính miệng của đức Phật tuyên thuyết.

 

          (Kinh) Thị tam-muội vương, năng phá nhất thiết chư pháp hắc ám, năng tác nhất thiết đại pháp quang minh.

          ()是三昧王。能破一切諸法黑暗。能作一切大法光明。

          (Kinh: Tam-muội vương này có thể phá sự tối tăm nơi hết thảy các pháp, có thể làm quang minh cho hết thảy các đại pháp).

 

          Trong công đức chân thật nơi đại quang minh tạng của chư Phật Như Lai, trong sự lợi ích chân thật rộng khắp của Nhất Chân pháp giới, hết thảy hữu t́nh trong chín pháp giới dù thánh hay phàm, đều là tối tăm, chỉ do mức độ sai biệt mà nói là ảm đạm, tối tăm, hay âm u như thế đó thôi. Âm u là thứ được chúng sanh trong ba ác đạo thủ hộ, tối tăm là thứ được ba thiện đạo thủ hộ, ảm đạm là các thứ Hoặc vi tế của chư Bồ Tát, tức là nhân duyên do Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc mang lại. Trong đại quang minh tạng do chư Phật đích thân chứng đắc, chẳng có ǵ hắc ám, chẳng có pháp tắc nào đối đăi.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị vi bỉ năng thiện thuyết tam-muội dă.

          ()賢護。是爲彼能善說三昧也。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Đó là người có thể khéo nói tam-muội).

 

          Ở đây, đức Thế Tôn đă khiến cho chúng ta trực tiếp thuận theo giáo ngôn của đức Thế Tôn để tuyên nói công đức của môn tam-muội này.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Nhữ nghi quán thử Bồ Tát Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội, vị chư chúng sanh, tác đại lợi ích, năi chí nhất thiết chư Bồ Tát bối, trụ ư thử độ, biến kiến thập phương nhất thiết thế giới chư Phật Thế Tôn, đáo chư Phật sở, cung kính lễ bái, thính văn chánh pháp, cúng dường chúng Tăng, diệc bất tham trước.

          ()賢護。汝宜觀此菩薩唸佛現前三昧。爲諸衆生。作大利益。乃至一切諸菩薩輩。住於此土。遍見十方一切世界諸佛世尊。到諸佛所。恭敬禮拜。聽聞正法。供養衆僧。亦不貪著。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Ông nên quán tam-muội Bồ Tát Niệm Phật Hiện Tiền này, v́ các chúng sanh tạo lợi ích to lớn, cho đến hết thảy các vị Bồ Tát ở trong cơi này, thấy trọn khắp chư Phật Thế Tôn nơi hết thảy các thế giới trong mười phương, tới chỗ chư Phật, cung kính lễ bái, lắng nghe chánh pháp, cúng dường chúng Tăng mà cũng chẳng tham đắm).

 

          Đây là nói theo thứ tự. “Trụ ư thử độ” (trụ trong cơi này) rất quan trọng. V́ tu tŕ pháp tắc này chính là chẳng ĺa cơi ḿnh, mà thấy mười phương chư Phật. Kinh văn rất rạch ṛi, rất rơ ràng bảo chúng ta: Các vị Bồ Tát nếu hành pháp này, sẽ đạt được lợi ích ấy. Lợi ích ấy được biểu lộ ở chỗ nào? Chính là “trụ ư thử độ, biến kiến thập phương nhất thiết thế giới chư Phật Thế Tôn” (trụ trong cơi này, thấy trọn khắp chư Phật Thế Tôn nơi hết thảy các thế giới trong mười phương). Trông thấy chư Phật, do chư Phật thảy đều hiện tiền, cho nên “đáo chư Phật sở” (đến chỗ chư Phật), sau đó “cung kính lễ bái”. Đấy là một pháp. “Thính văn chánh pháp” lại là một pháp nữa. “Cúng dường chúng Tăng” lại là một pháp nữa. “Diệc bất tham trước” (cũng chẳng tham đắm) là quy kết về căn bản.

          Nếu tham đắm chỗ này, sẽ gọi là kẻ tăng thượng mạn, là kẻ đắm nhiễm, tất nhiên sẽ đọa nhập “dĩ vi hữu sở đắc” (cho là có cái để đạt được). Kết quả là chỗ nào cũng đều dùng cái tâm tăng thượng mạn để tuyên nói pháp tắc “cho là có pháp để có thể đạt được” khiến cho chúng sanh mê mất. V́ thế, thông thường hành Ban Châu tam-muội hoặc hành Niệm Phật tam-muội, trông thấy chư Phật, lắng nghe giáo huấn của chư Phật, phần nhiều thủ hộ nghiêm mật tam nghiệp, nhất là khẩu nghiệp phải nên thủ hộ nghiêm mật nhất, trọn chẳng dễ dăi tuyên nói với kẻ khác. V́ sao vậy? Để khỏi tăng thượng mạn, để chẳng tham đắm, v́ chẳng có một pháp để có thể đạt được, v́ thấy Phật, nghe pháp, liễu đạt tự tánh, chẳng đắm nhiễm, v́ chẳng tăng, chẳng giảm. Do nhân duyên này, “diệc vô tham trước” (cũng chẳng tham đắm) rất quan trọng, đó là chỗ quy kết. Sự quy kết ấy chính là chỗ lợi ích chân thật, tức là nghe giáo pháp của chư Phật, [liễu giải] pháp chẳng có tự tánh. Nếu chẳng phải là như vậy, Phật pháp cũng là có đắm nhiễm!

Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh giảng kư

Phần 8 hết

 



[1] Đây là pháp tu quán tưởng và điều khiển ư thức trong mộng của Mật Tông Tây Tạng, thường được biết đến với tên gọi là Dream Yoga (Svapnadarśanta trong tiếng Sankrit, hay Milam Naljor trong tiếng Tây Tạng). Pháp tu nổi tiếng nhất gọi là Lục Pháp của Naropa do tôn giả Naropa đề xướng. Tôn giả Gamgopa đề xướng các bước căn bản như sau:

1. Nắm bắt giấc mộng: Nhận thức sinh động trong giấc mơ. Để thực hiện điều này, hành giả phải quán mọi cảm nhận trong cuộc sống hằng ngày đều như giấc mơ, để đến khi ngủ, khi nằm nghiêng bên phải, họ thật sự nhận biết chính ḿnh đang bắt đầu tiến vào mộng, đồng thời mật niệm chân ngôn, quán tưởng ư thức h́nh thành từ từng chủng tử trong tâm trí trước khi ngủ thiếp đi.

2. Huấn luyện giấc mộng: Hành giả phải tập luyện sao cho tâm trí nhận biết chính ḿnh đang nằm mộng, đối diện với mọi cảnh tượng trong mộng đều chẳng hoan hỷ hay sợ hăi.

3. Quán tưởng: Hành giả kiểm nghiệm tự tâm trong giấc mộng, luôn nhận biết chính ḿnh đang nằm mộng, trừ khử mọi ư niệm vi tế sợ hăi hay chấp trước, luôn nhận thức cái tâm vô ngại.

4. Thiền Định: Hành giả phân tích mọi tŕnh tự của giấc mộng, biết đó chỉ là sự phản chiếu của mọi ư niệm vi tế ẩn tàng trong tạng thức. Nếu tán tâm hay hôn trầm trong giai đoạn này, khi thức giấc hành giả phải lập tức quán chiếu các chủng tự (bija) của các chân ngôn tương ứng và thực hành phép quán Đại Thủ Ấn (Mahamudra) khi vừa thức dậy.

Mỗi tông phái trong Tạng truyền Phật giáo có các bước quán tưởng về giấc mộng sai khác đôi chút, nhưng chẳng rời ngoài bốn giai đoạn chánh yếu như trên. Các vị thầy có thẩm quyền về pháp tu này đều khuyến cáo: Để tu pháp này, phải được truyền thừa, hướng dẫn, và giám hộ bởi một vị đạo sư có kinh nghiệm thực chứng, không thể tự tiện học qua sách vở hay tài liệu v́ dễ đi sai đường, hay bị tẩu hỏa nhập ma. Cũng như nếu không cẩn thận, học nhằm pháp tu của đạo Bon cũng có danh xưng tương tự, sẽ rơi vào cảnh giới của thần đạo, hay quỷ đạo, chẳng phải là Kim Cang Thừa.

[2] Tôn giả Khruba Bonchum được mời đến chùa Phóng Quang ở Kê Túc vào tháng Tư năm 2006 (chú thích của người ghi lại lời giảng).

[3] Tức là các “giáo thuyết” do hiểu lệch lạc kinh nghĩa, hoặc muốn lập dị, nhằm tạo sắc thái “đặc biệt” cho đường lối của chính ḿnh ḥng lôi kéo tín đồ, chỉ gây thêm hoang mang cho người tu Tịnh Độ trong hiện thời, như đề xướng phải niệm A Mi Đà Phật th́ mới được văng sanh, niệm A Di Đà Phật là sai. Hoặc bịa chuyện bảo chư tổ Việt Nam kiêng không niệm A Mi Đà Phật v́ Mi là tên của một công nương nào đó phải, kiêng húy, tuy chẳng nêu ra được tên của vị công nương đó. Hoặc dù đă quy y, phải t́m một vị pháp sư Tịnh Tông quy y lại để được đặt pháp danh là Diệu Âm th́ mới đúng là hành giả Tịnh Độ! Hoặc phải hành tŕ theo lời dạy của Tổ Thiện Đạo (tuy cách hành tŕ ấy do họ hiểu lệch lạc lời dạy của Tổ) mới đúng là giáo nghĩa Tịnh Độ chân chánh, coi các lời dạy của chư tổ Tịnh Độ sau đó là lệch đường, hoặc quá khích đến nỗi đề xướng “chỉ cần tin và phát nguyện văng sanh là đủ, không cần tam quy, ngũ giới” v.v…

[4] Sài (, dhole, mountain wolf, whistling dog, c̣n gọi là sài cẩu, hồng lang, sài khuyển) tức là một loài chó hoang tại châu Á, thường được người Việt gọi là sói lửa, hay sói đỏ. Loài động vật ăn thịt hoạt động về đêm này rất hung bạo, thường ăn thịt các loài nai, hươu, lợn rừng, nhưng khi quá đói, chúng có thể tấn công cả trâu, ḅ, ngựa. Chúng thường sống thành bày đàn, từ năm bảy con cho đến năm mươi con.

[5] Chứng lượng ở đây phải hiểu là tŕnh độ, mức độ chứng ngộ của một cá nhân.