Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thai Tông Hội Nghĩa

Phần 19

 

Phụ lục 2: Pháp Hoa Kinh Tŕ Nghiệm Kỷ (法華經持驗紀)

* Lời tựa của sách Pháp Hoa Kinh Tŕ Nghiệm Kỷ[1]

 

          Pháp Hoa là vua trong các kinh, đức Thế Tôn dùng tướng lưỡi rộng dài, diễn giảng cái nhân thù thắng “niêm hoa” (, giơ cành sen lên cho đại chúng thấy), dung hội lẽ bí yếu của các pháp, khai Quyền hiển Thật, tam thừa và nhất thừa đều viên, trước sau bảy quyển, hơn sáu vạn chữ. Mênh mông, bát ngát, đúng là quang cảnh to lớn! Tuy vậy, trong hội Linh Sơn thuở ấy, mỗi thời trong năm thời đều nói một pháp, Hoa Nghiêm là một, A Hàm là hai, Phương Đẳng là ba, Bát Nhă là bốn, vẫn chưa thỏa thích bổn hoài! Cuối cùng, Ngài lại nói kinh này, hóa hiện vô lượng vô biên Pháp Thân, diễn nói vô lượng vô biên pháp khẩu, nhắc đi nhắc lại, triền miên, chẳng ngại rườm lời! Ở đây, đức Thế Tôn lại nói nhiều đến thế ư?

          Xưa kia, đức Phật sắp nhập Niết Bàn, ngài Văn Thù lại thỉnh đức Phật chuyển pháp luân. Đức Phật quở rằng: “Ta trụ thế bốn mươi chín năm, chưa hề nói một chữ. Ông thỉnh ta lại chuyển pháp luân, ta đă từng chuyển pháp luân ư?” Phàm một lời chẳng thốt ra được, chín năm ngồi nh́n vào vách. Đă từng nh́n vào vách chín năm, tức là một lời vậy, cũng chính là “cần ǵ phải nói nữa?” Có thể khéo ngộ hơn sáu vạn chữ này, sẽ có thể phá sáu vạn chữ thành một lời, lại c̣n có thể phá một lời để trở thành chẳng nói! Sao chẳng thể mở rộng “vô ngôn” thành hơn sáu vạn chữ? Sao chẳng thể hóa sáu vạn chữ thành trăm ngàn vạn ức chữ? Tri kiến đă khai, viên tông nhanh chóng thấu triệt. Diệu pháp như vậy, há nhiều ư? Chẳng nhiều! Nay lấy thế giới nhiều như vi trần, nhọc nhằn trong nhà lửa, may mắn sau khi được bạch quang[2] chiếu khắp, bèn được vâng nhận kinh này, quả thật là cầu bến trong nẻo sanh tử, là thang thềm cho Tịnh Độ môn!

          Kinh nói gấp gáp dùng thọ kư để phó chúc. Pháp được lưu truyền, bèn có năm môn, tối thượng là thọ tŕ. Kế đó là giải nói, đọc tụng, biên chép, và cúng dường. Như đối với một câu hay một kệ, dốc chí quy y, dẫu là kẻ trong thôn làng, hay người màn rủ trướng buông, hoặc kẻ tù rạc, bệnh tật triền miên, cho tới loài có huyết khí mang vảy, khoác lông có hiểu biết, hễ có ḷng kiền thành tinh thuần, đều cùng được thấm đẫm mưa Từ, huống hồ người chấn hưng gia phong đại giác, tuyên bày giáo nghĩa sâu thẳm của đức Thích Ca, được gọi là bậc đạo sư long tượng, là thành tŕ của pháp giới ư?

          Như hoa sen là loại hoa vốn nẩy sanh từ bùn mà chẳng nhiễm. Nhà lửa trong vi trần ngũ trược, nào khác bùn lầy? Cầu riêng được vượt thoát chẳng nhiễm trong ấy, mà nếu chẳng nghe diệu pháp, sẽ không do đâu giải thoát được! V́ thế, hiện tiền dùng đó để đặt tên kinh. Chắc là đức Thế Tôn muốn dẫn dắt nước Chấn Đán bèn trồng trọn khắp một đóa sen xanh. Do hoa mà t́m thấy cuống, do cuống mà t́m thấy rễ. Giếng ngọc, ao thu, so với ao hoa nước tám đức, là một, hay là hai, xin hăy nh́n từ ṭa báu giữa ba đời. Nếu lập tức hiện ngàn tầng, c̣n chỗ nào đ riêng t́m hoa Ưu Bát? Chẳng ĺa sắc hương, nêu tỏ nhân quả; há lừa dối ta ư? Há dối gạt ta ư?

          Tôi đă sưu tập những chuyện linh nghiệm do tŕ kinh Kim Cang xong, nghĩ kinh này càng là biển thẳm trong âm giáo[3], hoằng dương và lưu thông càng cấp bách. Chuyện cảm ứng linh dị, nhiều đời biên tập dẫy đầy, bèn chọn lấy các sự ứng nghiệm của các vị cổ đức danh hiền trong nhiều triều đại đủ để làm chứng cớ khơi gợi tín tâm. Tôi phỏng theo điều lệ biên tập [Kim Cang Tŕ Nghiệm Kư] trước đó để tổng hợp theo thứ tự, ngơ hầu người thấy nghe xong, sẽ tinh tấn tu tŕ, cùng chứng tam-muội. Từ nói ba thừa, hội quy nhất thừa, rốt cuộc đạt đến ư chỉ kín nhiệm “một cũng chẳng thể nói được”! Ngài Tào Khê (Lục Tổ Huệ Năng) có bài kệ rằng: “Tâm mê Pháp Hoa chuyển. Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa”. Liễu giải một đại sự nhân duyên khiến Phật xuất hiện trong thế gian” của kinh này, thật sự giác ngộ một hội Linh Sơn nghiễm nhiên ngàn đời, th́ văn tự của tôi lại trở thành thừa thăi rồi chăng?

          Tịnh nghiệp đệ tử Châu Khắc Phục ở Dương Tiện trai giới, tắm gội soạn

 

* Dẫn khởi nhằm khuyên lưu thông bộ Pháp Hoa Tŕ Nghiệm

 

          Đối với chỗ có kinh điển, lưu thông liền thuộc thiện duyên, phước báo vô lượng. V́ thế nói rằng: “Có thể truyền pháp Đại Thừa cho một người sẽ là mười điều thiện. Truyền cho mười người sẽ là một trăm điều thiện. Truyền cho bậc đại quư hoặc đại hào kiệt, người có sức lực to lớn, sẽ là một ngàn điều thiện. In lại để lưu truyền rộng răi, sẽ là một vạn điều thiện”. Huống hồ pháp môn Tịnh Độ vượt thoát sanh tử luân hồi, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển cho đến khi thành Phật mới thôi! Khuyên một người tu Tịnh Độ, chính là thành tựu một chúng sanh thành Phật, Phàm người thành Phật, ắt độ vô lượng chúng sanh. Các chúng sanh được độ ấy đều do ta khởi đầu, phước báo ấy đúng là chẳng thể cùng tận! V́ thế, muốn khuyên hết thảy người thấy nghe hăy mở rộng cái tâm, lấy tâm Phật làm tâm của chính ḿnh, khiến cho ai nấy đều biết, để đều được sanh hết về Tịnh Độ. Ông Vương Long Thư đă nói: “Hăy tự nên tin chắc chẳng hư dối”.

          C̣n như hai kinh Hoa Nghiêm và Pháp Hoa càng là tối thượng thừa trong các diệu pháp do đức Phật đă nói. Quán Âm Đại Sĩ phổ độ thế gian, không cơi nào chẳng hiện. Sự tích cảm thông của các bậc hiền nhân trong quá khứ rành rẽ, rạng ngời, mỗi mỗi đều tóm gọn, thu thập, ḥng khuyên tấn tu, đúng là chuông, khánh cho tương lai, là phương tiện môn tiếp dẫn tối thượng nơi đường cùng. Mùa Thu năm Mậu Tuất, tôi sưu tập các chuyện linh nghiệm do tŕ kinh Kim Cang, đă có bài tiểu dẫn lưu thông. Kính cẩn khẩn cầu những vị có cùng một nghiệp với tôi, nay tôi khắc in các chuyện về sự linh ứng do tŕ tụng Tịnh Độ, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Quán Âm, [những chuyện ấy] vốn sưu tầm từ các ghi chép trong sách vở, ḥng nêu chứng cớ khơi gợi tín tâm xưa nay, khá tận lực vận dụng tâm lực và công sức nhỏ nhoi, với dụng ư [khiến cho người có duyên đọc đến, sẽ] noi theo [các tấm gương] bất hủ. Nhưng bản khắc ván vụng về ở chốn này, chưa thể lưu truyền rộng răi nơi tỉnh khác; người đă cùng sanh về cơi Phật trang nghiêm, há có nên thiếu khuyết pháp sự lưu thông thù thắng?

          Lại thưa cùng bậc thiện tín trong hiện thời, hễ được thấy các bản in này, hăy chẳng tiếc sức khắc in bố thí rộng răi, hoặc dùng nguyên bản, hoặc sửa chữa thêm. Nếu như có chuyện liên quan tới sự linh ứng do tŕ nghiệm do chính quư vị đă được thấy nghe mà sách này thiếu sót, càng mong sẽ ghi nối tiếp vào phần sau. Một câu tán dương chính là một câu hộ tŕ thiện căn. Một niệm cổ động chính là một niệm trừ khử tội nghiệp. Dùng đó để nối tiếp huệ mạng của Phật ḥng tự lợi, lợi tha. Đó chính là các vị thần hộ pháp đă hộ tŕ pháp bảo, tự hộ tŕ người hoằng pháp, vâng đội của báu, chắc chắn chẳng sai! Hiền nhân thuở trước đă họa tranh to lớn để [thí tặng] khuyên người niệm Phật; sau đó, do người khác niệm Phật phần nhiều sanh về Tịnh Độ, công đức bèn quy vào người thí tranh cũng được sanh về Tịnh Độ. Công đức pháp thí chẳng thể nghĩ bàn như thế đó. Nguyện các vị đồng nhân cùng gắng sức!

Đồng thiện đạo nhân Châu Khắc Phục kính cẩn khẩn thiết [thưa tŕnh].

         

2.1. Lịch triều Pháp Hoa Tŕ Nghiệm Kỷ, quyển thượng

         

          Đồng thiện đạo nhân Châu Khắc Phục thâu thập, biên soạn

          Nam Châu Thạch giảo đối

          Tiềm Xác cư sĩ Trần Tế Sanh kiểm nghiệm

 

* Thích Đàm Ma La Sát ở quận Đôn Hoàng đời Tấn

 

          Tiếng Hán dịch [tên đại sư] là Pháp Hộ. Ngài vốn họ Chi, tám tuổi xuất gia. Hằng ngày, Sư tụng kinh một vạn chữ, dốc chí hoằng dương đại đạo. Ngài đi khắp các nước ở Tây Vực, mang kinh Phật bằng tiếng Phạn đến Hoa Hạ, dịch các bộ Hiền Kiếp, Chánh Pháp Hoa. Cuối đời Tấn Vũ Đế[4], Ngài ẩn cư trong chốn núi sâu. Trong núi có khe suối trong lành, luôn dùng nước ấy để tắm gội, rửa ráy. Về sau, do bị uế trược mà suối bỗng khô cạn, Sư bồi hồi than rằng: “Con người thiếu đức khiến cho suối trong cạn gịng đó chăng?” Nói vừa xong, suối tuôn nước tràn khe. Ḷng u thành của Sư cảm vời như thế đó. Thuở đó, [mọi người] gọi Sư là Đôn Hoàng Bồ Tát.

 

* Thích Cưu Ma La Thập đời Tấn

 

          [Tên Sư] dịch sang tiếng Hán là Đồng Thọ. Sư là người Thiên Trúc, bảy tuổi xuất gia, hằng ngày tụng một ngàn bài kệ. Lúc mười hai tuổi, Sư tới nước Sa Lặc[5]. Ngoài lúc thuyết pháp, Sư chuyên dốc sức nơi Phương Đẳng. Do vậy, thanh danh vang khắp vùng Thông Tả[6]. Vua Quy Tư đón Sư về nước, xin Sư khai diễn chỗ uyên áo trong kinh Phương Đẳng. Sư v́ họ biện định “các pháp đều là không, vô ngă”, phân biệt “Ấm, Giới giả danh chẳng thật”. Người nghe không ai chẳng cảm ngộ. Thời Phù Tần[7], quan Thái Sử tâu có ngôi sao hiện rơ nơi phần dă của ngoại quốc, sẽ có bậc đại trí vào phù tá Trung Hoa. Vua liền sai sứ sang thỉnh. Sau này, tới tháng Chạp năm Hoằng Thỉ thứ ba (401), [Diêu Hưng, vua nhà Hậu Tần] đón Sư tới Trường An, trụ tại vườn Tiêu Dao. Sư dịch kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ư nghĩa đều viên thông, tâm đại chúng đều khiếp phục. Sư lại tiếp tục dịch các kinh như Tiểu Phẩm [Bát Nhă], Kim Cang Bát Nhă v.v… và các bộ luận hơn ba trăm quyển. Sư yêu thích Đại Thừa, ôm chí hướng giảng diễn rộng lớn. Lúc lâm chung, Sư bảo đại chúng: “Nguyện các kinh do tôi tuyên dịch sẽ được đời sau cùng hoằng truyền, lưu thông. Nay đối trước đại chúng, thốt ra lời thề thành thật. Nếu các kinh luận do tôi truyền dịch chẳng sai lầm, sẽ khiến cho sau khi hỏa táng, lưỡi chẳng cháy nát”. Năm Nghĩa Hy thứ năm (409) đời Tấn, Sư tịch tại Trường An. [Đồ đệ] tuân theo pháp ngoại quốc mà xà-duy (trà tỳ, hỏa thiêu). Củi tắt, thân h́nh Sư tiêu thất, chỉ có lưỡi chẳng cháy thành tro!

 

* Vị tỳ-kheo Ma Ha La xứ Thiên Trúc đời Tấn

 

          Sư đọc Ma Ha Diễn (Đại Thừa), đức hạnh lẫy lừng. Quốc vương chánh tín, thường trải tóc phủ bùn để Sư bước qua. Có người tâu vua: “Người này chẳng đọc tụng kinh nhiều, sao [bệ hạ] lại cúng dường to lớn?” Vua bảo: “Ta từng vào nửa đêm, muốn gặp vị tỳ-kheo này, liền đến chỗ Ngài. Thấy Sư ở trong một cái hang đọc kinh Pháp Hoa. Có người quang minh kim sắc, cưỡi voi chúa trắng, chắp tay cúng dường. Ta vừa mới tới gần, liền chẳng thấy [người ấy đâu nữa]. Do vậy, ta hỏi tỳ-kheo: ‘V́ trẫm đến mà người kim sắc diệt mất ư?’ Sư nói: ‘Đó chính là Biến Cát Bồ Tát’. Ngài Biến Cát tự nói: ‘Nếu có người nào tụng kinh Pháp Hoa, ta sẽ cưỡi voi trắng đến dạy bảo’. Tôi đọc kinh này, ngài Biến Cát tự đến. Biến Cát chính là Phổ Hiền Bồ Tát trong kinh. Ta nghe như thế xong, lễ dưới chân Ngài, lui ra. V́ thế, ta nay siêng năng cúng dường”.

 

* Thích Bạt Trừng ở Trường An vào đời Tấn

 

          Sư xuất gia lúc hai mươi tuổi, căn khí vụng về, chậm chạp. Sư thề tụng Pháp Hoa, mỗi ngày ghi nhớ một hàng, hoặc nửa bài kệ. Siêng khổ như thế, tới lúc tám mươi tuổi mới thông suốt một bộ. Một hôm, Sư bỗng thấy một vị thần mặc áo đỏ, cầm sớ đến nói: “Thiên đế phụng nghênh đón đại đức”. Sư đáp: “Ta suốt đời tụng tŕ, chuyên cầu Cực Lạc. Đao Lợi tuy thắng diệu, chẳng phải là điều ta mong mỏi!” Thần bèn rời đi. Lại một tối, Sư mộng thấy ṭa tháp lớn bằng bảy báu. Sư ở trên tầng thứ năm; nh́n ra xa, thấy bệ thành bằng bảy báu, chẳng có ngằn mé. Có hai vị thần kim cang cầm xử đứng, mấy chục người mặc áo xanh, tay cầm phất trần trắng, phẩy bậc thang nói: “Đây là thành báu chốn Tây Phương, đến đón ngài Bạt Trừng”. Sư tỉnh mộng, liền sai đem y bát [bán đi lấy tiền để] trai tăng đại chúng. Sư hỏi: “Các vị có thấy một ngàn vị Phật hay không?” Đại chúng nói: “Không thấy”. Lại hỏi: “Có ngửi thấy mùi hương lạ hay không?” Đại chúng nói: “Đều ngửi thấy”. Nói xong, Sư hướng về phương Tây, lặng lẽ qua đời.

 

* Thích Huệ Viễn đời Tấn

 

          Sư họ Giả, người Nhạn Môn. Sư nghe sa-môn Thích Đạo An giảng kinh Bát Nhă, lập tức khai ngộ, bèn theo thầy tu học. Sư suy nghĩ, phúng tụng, tŕ niệm tinh tường. Năm Thái Nguyên thứ sáu (381), Sư tới Lư Sơn, trụ tại tinh xá Long Tuyền. Sư muốn dựng Lan Nhă, nhưng c̣n thiếu vật liệu, cảm sơn thần hiện ra trong mộng. Một tối, dông tố to lớn. Đến sáng th́ gỗ đă chất như rừng. Thứ Sử Hoàn Y kinh ngạc trước sự thần dị ấy, bèn v́ Sư dựng chùa Đông Lâm, đặt tên đại điện là Thần Vận. Sư từng nói: “Tam-muội trong các giáo, có rất nhiều danh tự, nhưng công cao, dễ tiến, niệm Phật đứng đầu”. Sư bèn cùng Huệ Vĩnh, Huệ Tŕ v.v... kết xă niệm Phật. Người thuở ấy gọi họ là Thập Bát Hiền. Sư lại suất lănh đại chúng gồm một trăm hai mươi ba người cùng tu Tịnh nghiệp. [Sư chế ra] đồng hồ sen để Thiền tụng sáu thời chẳng sót. Có pháp sư Huệ Nghĩa bộc trực, trẻ tuổi cậy tài, từng tới núi, gặp Sư đang giảng kinh Pháp Hoa, toan đến bắt bẻ, bỗng hổ thẹn, toát mồ hôi, lùi ra nói: “Vị này lời lẽ, dung mạo thật đáng kính phục”. Chư Tăng ở Tây Thổ đều ca ngợi “đất Hán có bậc khai sĩ Đại Thừa”, thường hướng về phương Đông kính lễ.

          Ba mươi mấy năm, Sư quyết chí nơi Tây Phương, ba lượt thấy thánh tượng, nhưng im lặng chẳng nói. Tối ngày Ba Mươi tháng Bảy năm Nghĩa Hy 12 (416), tại khám thất ở phía Đông đài Bát Nhă, Sư mới vừa từ Định khởi, thấy A Di Đà Phật, thân đầy khắp hư không. Trong viên quang, có vô lượng hóa Phật, Quán Âm và Thế Chí đứng hầu hai bên. Lại thấy nước chảy và quang minh, chia thành mười bốn nhánh, chảy ṿng quanh cao thấp, diễn nói diệu pháp. Phật dạy: “Ta do bổn nguyện lực đến an ủi ông. Bảy ngày sau, ông sẽ sanh về nước ta”. Sư lại thấy Phật Đà Da Xá, Huệ Tŕ, Huệ Vĩnh, Lưu Di Dân ở cạnh đức Phật, tiến lên trước, ṿng tay thưa: “Sư lập chí trước hết, sao lại đến trễ vậy?” Sư biết đă tới lúc, bảo môn nhân rằng: “Lúc ta mới ở nơi đây, đă ba lượt thấy thánh tượng, nay lại được thấy, ắt sẽ sanh về Tịnh Độ”. Tới kỳ hạn, Sư ngồi ngay ngắn, nhập trong tịch tĩnh. Lúc đó là ngày Sáu tháng Tám. Sư có trước tác Lư Sơn Tập gồm mười quyển.

 

* Thích Huệ Tŕ đời Tấn

 

          Sư là em cùng mẹ với tổ Huệ Viễn. Lúc mười tám tuổi, Sư học khắp các kinh với ngài Đạo An, thông hiểu Tam Tạng, tinh thông nhất là kinh Pháp Hoa. Thái Thú Dự Chương là Phạm Ninh từng thỉnh Sư giảng kinh Pháp Hoa A Tỳ Đàm Luận. Bốn phương tụ tập như mây. Năm Long An thứ ba (399), Sư từ biệt anh để vào đất Thục. Ngài Huệ Viễn giữ lại. Sư nói: “Đă muốn cắt bỏ ái dục thành đạo, đúng là nên mong cầu Tây Phương”. Sư tới Thành Đô, trụ tại chùa Long Uyên, hoằng dương Phật pháp rộng lớn. Người dự vào giảng đường của Sư nói là “đăng Long Môn”.

          Tới tháng Tư năm Chánh Ḥa thứ ba (1113) đời Tống, [quan lại ở] Gia Châu tấu tŕnh gió đánh gẫy cây to, có vị Tăng đang nhập Định [trong thân cây ấy]. Vua sắc truyền đưa Sư về kinh đô. Tháng Tám, đưa Sư vào viện dịch kinh trong cung cấm. Gơ khánh vàng, vị Tăng xuất định, nói: “Tôi là Huệ Tŕ em của Huệ Viễn ở Đông Lâm. Do sang Tây đến Nga Mi, do vậy bèn nhập Định ở nơi ấy”. Hỏi Sư muốn về đâu. Đáp: “Trần Lưu” rồi lại nhập Định. Tống Huy Tông sai người vẽ tượng Sư để ban hành, c̣n viết bài tán rằng: “Thất bách niên tiền lăo cổ trùy, định trung tiêu tức hứa thùy tri, tranh như chích lư Tây quy khứ, sanh tử đồ lao mộc tác b́” (búa cổ đă bảy trăm năm trước, trong Định tin tức há ai hay, khác nào dép lẻ[8] về Tây Vực, nhọc nhằn sanh tử, gỗ như da).

 

* Thích Tăng Duệ đời Tấn

 

          Sư là người Kư Châu, tham học khắp các nơi, đến trọn các cơi nước ở Thiên Trúc. Trở về Quan Trung, Sư theo ngài La Thập học kinh nghĩa. Ngài La Thập dịch kinh Pháp Hoa. Đối với câu thiên kiến nhân, nhân kiến thiên” (người thấy trời, trời thấy người) trong bản dịch [kinh Chánh Pháp Hoa] của ngài Trúc Pháp Hộ, ngài La Thập nói: “Câu này quá mộc mạc”. Sư thưa: “Chẳng phải là ‘nhân thiên giao tiếp, lưỡng đắc tương kiến’ (trời người giao tiếp, đôi bên trông thấy nhau) ư?” Ngài La Thập hoan hỷ, bèn dùng câu văn ấy. Về sau, Sư vào Lư Sơn, nương theo Viễn công (tổ Huệ Viễn) tu Tịnh nghiệp. Sau đó, dời sang kinh sư, trụ tại Ô Y Tự, giảng nói Pháp Hoa. Người nghe đều suy tôn khâm phục. Năm Nguyên Gia 16 (439), Sư hướng về Tây, chắp tay, qua đời. Mọi người thấy trước giường có một đóa sen vàng trong khoảnh khắc ẩn mất. Khói hương năm màu từ trong thất tuôn ra.

 

* Thích Pháp Sùng tại Diệm Đông đời Tấn

 

          Sư họ Trúc, nhập đạo từ nhỏ, được xưng tụng là bậc giới hạnh, có tiết tháo. Sư dốc chí nơi kinh luận, giỏi nhất là Pháp Hoa. Sư từng sang Lộc Sơn ở Tương Châu. Sơn tinh hóa làm người cơi trời đến xin thọ giới với Sư. Do vậy, sơn tinh xả núi đang cư trụ để dựng chùa. Sư ở đó ít lâu, biến chỗ ấy thành chốn thịnh vượng. Sau đó, Sư trở về núi Cát Hiện, kết lều tranh, uống nước suối, vui với thiền huệ. Sư có soạn Pháp Hoa Nghĩa Sớ gồm bốn quyển.

 

* Thích Đạo Dung tại quận Bành Thành đời Tấn

 

          Sư theo ngài La Thập vào vườn Tiêu Dao, tham dự dịch trường để dịch bản mới tường tận của kinh Pháp Hoa. Sư mở ṭa giảng kinh, ngài La Thập tự đến nghe, than là rất tuyệt diệu. Sư và ngài Đàm Ảnh đều soạn Pháp Hoa Văn Sớ, cùng được lưu truyền trong cơi đời. Ngài Đàm Ảnh khéo giảng Chánh Pháp Hoa và Quang Tán Bát Nhă. Mỗi vị xiển dương, người nghe đến cả ngàn. Sư cũng giúp ngài La Thập dịch kinh, được đại sư hết sức quư trọng.

 

* Thích Đàm Dực đời Tấn

 

          Sư là người Dư Hàng. Trước kia, sa-môn Pháp Chí thường tụng Pháp Hoa, có con chim trĩ thường bay liệng nơi góc ṭa, ra vẻ như đang lắng nghe. Bảy năm sau, chim trĩ chết, ngài Pháp Chí đem chôn nó. Ban đêm, Sư mộng thấy một bé trai đến bái tạ: “Do nghe kinh mà con thoát khỏi loài chim. Nay con sanh làm con của nhà họ Vương ở trước núi”. Nhà họ Vương một hôm thiết trai. Sư vừa đặt chân đến cửa, đứa bé nói: “Ḥa thượng của ta đến rồi!” Pháp Chí vỗ về nói: “Đây là bé trĩ của ta”. Cởi áo ra xem, dưới nách quả nhiên có ba cọng lông chim trĩ. Do vậy, đặt tên là Dực (, cánh). Đàm Dực bảy tuổi xuất gia, mười sáu tuổi xuống tóc. Thoạt đầu, Sư vào Lư Sơn, nương cậy Viễn công. Tiếp đó, vào Quan Trung, theo học với ngài La Thập. Năm Nghĩa Hy 13 (417), trở về Cối Kê ở phương Đông. Sư vào núi Tần Vọng, kết am tranh, gọi đó là Pháp Hoa Tinh Xá, chuyên tụng Pháp Hoa.

          Mười hai năm sau, có một cô gái mặc áo màu, xách cái lồng, trong đó đựng một con lợn trắng và hai củ tỏi. Cô ta tới trước mặt Sư nói: “Thiếp vào núi hái rau Vi[9], trời đă tối rồi, sài lang tung hoành, trở về sẽ chẳng c̣n nẻo sống! Dám xin ở nhờ Sư một đêm”. Sư tận lực khước từ, cô gái buồn khóc không ngừng! Sư bèn cho cô ta nằm trên giường cỏ. Nửa đêm, cô ta kêu đau bụng, xin Sư xoa bụng. Sư lấy vải bọc tích trượng, từ xa ấn lên bụng cô. Hôm sau, áo màu của cô gái biến thành mây lành, lợn biến thành voi trắng, tỏi hóa thành hai đóa sen, cô ta thăng lên không, bảo Sư rằng: “Ta là Phổ Hiền Bồ Tát. Do không lâu nữa, ông sẽ quy thuộc đại chúng của ta, nên ta đặc biệt đến thử. Xem cái tâm của ông đúng là trăng trong nước, chẳng thể bị nhiễm ô!” Ngài nói xong, trời đổ mưa hoa, đất đều chấn động. Thái Thú Mạnh Kư Phương sáng dậy xem xét công việc, bỗng thấy mây lành ở phương Nam, ánh sáng chiếu tận vào sân, biết là đức Phổ Hiền thị hiện ứng hóa, bèn tâu chuyện ấy lên triều đ́nh. Vua sắc truyền kiến tạo chùa Pháp Hoa, tức là Thiên Y Tự hiện thời. Sư đă hóa, đại chúng dùng nhựa cây sơn bó thân Ngài, giữ trong núi!

 

* Thích Pháp Khoáng chùa Ngơa Quan ở kinh đô đời Tấn

 

          Sư họ ngoài đời là Cao, ngụ cư tại Ngô Hưng; phong cách, tiết tháo cao vời. Sư từng v́ thầy ḿnh lễ sám, tới ngày thứ bảy, cảm vời quang minh năm màu chiếu vào pḥng, bệnh thầy liền lành. Về sau, Sư ở trong hang đá nơi núi Tiềm Thanh, mỗi ngày giảng ư chỉ “hội tam thừa về nhất thừa” trong kinh Pháp Hoa, dạy kinh Vô Lượng Thọ là cái nhân của Tịnh Độ. Sư thường ngâm vịnh hai bộ [kinh ấy]. Tạ An là thái thú Ngô Hưng, luôn hướng về Sư bày tỏ ḷng tôn kính. Giản Văn Đế[10] vời Sư đến hỏi về những sinh hoạt thường nhật. Khi đó, có sao chổi xuất hiện, vua đem chuyện đó cầu sư. Sư dốc hết ḷng thành sám hối để giải trừ tai nạn. Chẳng mấy chốc, sao chổi diệt mất. Trong niên hiệu Hưng Ninh[11], Sư sang phương Đông đến Nhă Da, trụ tại chùa Xương Nguyên để cứu vớt những kẻ bệnh khổ, không ǵ chẳng thỏa ḷng mong đợi. Người ta thường thấy nơi Sư đi ngồi có mấy chục vị quỷ thần hộ vệ trước sau!

 

* Thích Pháp Tự tại núi Thạch Thất ở Tây Thục vào đời Tấn

 

          Sư là người Cao Xương, đức hạnh thanh cao, cẩn trọng, ăn chay, tu Thiền. Về sau, vào đất Thục, sống trong khu mộ của Lưu sư, tu hạnh Đầu Đà trong sơn cốc. Cọp, rắn trông thấy Sư chẳng gây thương tổn. Sư tụng ba kinh Pháp Hoa, Duy Ma, và Kim Quang Minh, từng ở trong nhà đá, vừa tu Thiền, vừa tụng niệm. Trong lúc giữa Hạ, Sư bỗng nằm bên hông phải qua đời. Bảy ngày [thi thể] chẳng hoại, người làng bèn dựng tháp. Một đêm, tháp tỏa ánh sáng chiếu tỏ mấy dặm!

 

* Thích Pháp Nghĩa đời Tấn

 

          Sư họ Trúc, nhập đạo từ thuở để chỏm, nghiên học tinh tường kinh Pháp Hoa. Về sau, ra kinh đô, mở ṭa giảng pháp rộng răi. Trong niên hiệu Hưng Ninh, Sư trở về Giang Tả[12], ẩn dật tại tinh xá Bảo Sơn ở Cối Kê. Năm Hàm An thứ hai (372), Sư bỗng mắc bệnh, nhưng tụng kinh chẳng ngừng. Sư thường niệm Quán Âm, đêm mộng thấy một đạo nhân lôi ruột và bao tử Sư ra, gột rửa chất bẩn rồi lại nhét vào bụng. Sư thức giấc, bệnh đă khỏi hẳn!

 

* Hoa sen mọc từ ḥm sành

 

          Năm Kiến Hưng thứ hai (314) đời Tấn, cách huyện Trường Sa hơn một trăm dặm về phía Tây, từ trên đất bằng nẩy sanh hai gốc hoa sen xanh. Đạo tục tranh nhau đến xem. Do vậy, đào đất xuống một trượng hai thước, t́m được một cỗ quan tài bằng sành. Sen trổ từ chỗ quan tài bị hư hoại. Mở ra xem, thân rễ hoa sen mọc từ chỗ ṿm miệng của đầu lâu. Phụ lăo nói: “Xưa kia có vị tăng chẳng biết tên họ. Sư tụng kinh Pháp Hoa hơn một vạn bộ. Chẳng bệnh tật mà qua đời. Dùng sành làm quan tài, chính là cỗ quan tài này đấy”. Mọi người dựng chùa tại đó, đặt tên là Ngơa Quan (, quan tài bằng sành).

 

* Lưu Tŕnh Chi đời Tấn

 

          Ông có tên tự là Trọng Tư, người Bành Thành. Thoạt đầu, ông ra làm quan, làm Tham Quân[13] tại phủ. Sau đó, vào Lư Sơn, do dốc ḷng theo Phật, nên từ quan. Triều đ́nh bàn định, ban hiệu cho ông là Di Dân. Ông cùng với Viễn công, Lôi Thứ Tông, Châu Tục Chi, Tông Bỉnh, Trương Thuyên v.v… kết liên xă cùng tu Tịnh Độ. Ông khắc lời thề trên đá, lại soạn thơ niệm Phật tam-muội để tỏ ư chuyên niệm và tọa Thiền. Mới tu tập được nửa năm, ông liền ở trong Định, thấy Phật quang chiếu đất đều thành kim sắc. Ông sống trong núi mười lăm năm, trong khi đang niệm Phật, thấy A Di Đà Phật, quang minh từ tướng ngọc hào chiếu soi, an ủi, xoa đỉnh đầu. Một hôm, ông niệm Phật, lại thấy vào ao bảy báu, hoa sen xanh trắng. Nước ấy trong lặng. Một người cổ có viên quang, lồng ngực có chữ Vạn, chỉ nước ao bảo: “Nước tám công đức, ông hăy nên uống”. Tŕnh Chi uống nước, thơm ngọt phi thường. Tới khi tỉnh giấc, vẫn thấy mùi hương lạ tỏa ra từ lỗ chân lông. Ông than: “Đây là duyên Tịnh Độ của ta đă tới”.

          Ông lại thỉnh tăng, chuyển đọc kinh Pháp Hoa vài trăm lượt. Chư Tăng ở Lư Sơn đều nhóm tới, Tŕnh Chi đối trước tượng, dâng hương, lại lạy, chúc rằng: “Con do di giáo của đức Thích Ca nên biết có từ phụ Di Đà. Hương này trước hết cúng dường Thích Ca Mâu Ni Như Lai, kế đến cúng A Di Đà Phật. Kế đó, cúng dường kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Sở dĩ được sanh về Tịnh Độ, đều do tŕ kinh này. Nguyện cho hết thảy hữu t́nh, đều sanh về Tịnh Độ”. Ông hướng mặt về Tây, chắp tay, qua đời. Khi đó là năm Nghĩa Hy thứ sáu (410), mùi hương lạ ngào ngạt, suốt bảy ngày mới tan. Viễn công soạn bia ghi đức hạnh của ông.

 

* Sa-môn Cầu Na Bạt Ma (Guṇavarman) nước Kế Tân đời Tống

 

          Tên Sư dịch sang tiếng Hán là Công Đức Khải. Sư thọ giới lúc hai mươi tuổi, tụng kinh Pháp Hoa và các kinh, hơn trăm vạn câu. Nguyên Gia nguyên niên (424), Sư theo thuyền buôn thuận gió tới Quảng Châu. Tống Văn Đế (Lưu Nghĩa Long) nghe tin, sắc châu quận phát tiền. Sư theo đường bộ, tới trụ tại núi Hổ Thị, lập riêng một Thiền thất ở ngoài chùa trên núi. Núi trước đó vốn có nhiều hổ gây tai ương. Từ đó trở đi, [người] đến đi không sao cả. Hoặc có lúc gặp hổ, Sư lấy trượng ấn đầu nó mà đi. Sư từng có lúc tọa Thiền trong biệt thất, khi sa-di đến, thấy một con sư tử trắng đứng dựa vào cột. Khắp quanh thất trổ hoa sen xanh, màu sắc, ánh sáng chói mắt. Sa-di kinh ngạc hô lên, bỗng chẳng thấy ǵ nữa. Tháng Giêng năm Nguyên Gia thứ tám (232), Sư tới Kiến Khang (Nam Kinh), vua sắc trụ tŕ chùa Kỳ Hoàn. Sư khai giảng Pháp Hoa, biện tài mầu nhiệm lưu loát, người nghe đều sanh giải ngộ. Mùa Hạ năm ấy, Sư ở chùa Định Lâm, khi đó có người tin tưởng hái hoa xếp quanh ṭa giảng, chỉ có chỗ Sư ngồi là sắc hoa càng tươi thắm, mọi người đều nói đó là dấu hiệu cho thấy Sư đă chứng thánh.

 

* Thích Đạo Sanh đời Tống

 

          Sư là người Cự Lộc. Từ bé, theo ngài Trúc Pháp Thải xuất gia. Thoạt đầu, Sư vào Lư Sơn, ở yên trong núi bảy năm. Khi đó, Sư tụng kinh Pháp Hoa, từng cho rằng trong lẽ trọng yếu để nhập đạo, huệ giải là gốc. Do vậy, Sư dùi mài nơi các kinh, chẳng ngại mệt khổ. Sư vào Quan Trung, theo học với ngài La Thập, biện tài vấn đáp cao vời, cơi đời đều gọi Ngài là “thần ngộ”. Về sau, Sư vào núi Hổ Khâu giảng kinh. Tới đoạn “Xiển Đề đều có Phật tánh”, các tảng đá đều gật đầu. Sư lại ở Bán Đường, tụng kinh Pháp Hoa. Có một bé trai theo Sư xuất gia, cũng tụng Pháp Hoa. Hiềm rằng bé trai mạng chung; do vậy, chôn nó trong rừng. Một tối, [nơi mộ nó] nghe tiếng tụng kinh, người làng lấy làm lạ. Đào lên xem, thấy lưỡi nó trổ hoa sen xanh. Do vậy, dựng tháp, sau xây thành chùa (tức là chùa Bán Đường hiện thời).

          Cao Khải Vi vịnh thơ rằng: “Hoàng thổ đản mai cốt, khởi năng mai tánh linh. Tích văn túc thảo gian, tằng phún liên hoa thanh. Thân quy trường dạ đài, khẩu tụng Tây Phương kinh. Tầm tích thù yểu yểu. Văn thanh mỗi lănh lănh. Hàn đăng chiếu không tháp. Thời hữu sơn tăng thính, ưng sử lân trng văn, trầm mê tận giai tỉnh” (Đất vàng chỉ vùi xương, há chôn nổi tánh linh? Xưa nghe trong đám cỏ, từng trổ hoa sen xanh. Thân về cơi đêm thẳm, miệng tụng kinh Tây Phương. T́m dấu ôi buồn thảm, nghe tiếng mỗi lạnh lùng. Đèn lạnh soi tháp trống, sơn tăng vừa lắng nghe, khiến cho các mộ gần, trầm mê đều tỉnh ngộ).

 

* Thích Pháp Trang đời Tống

 

          Sư là người Hoài Nam; thuở trẻ, làm đệ tử của Viễn công, nổi danh khổ hạnh. Tuổi già, Sư sang Quan Trung, theo học với Duệ Công (ngài Tăng Duệ). Đầu niên hiệu Nguyên Gia, Sư trụ tại chùa Đạo Tràng. Bẩm tánh đơn giản, Sư mỗi ngày chỉ ăn một bữa Ngọ, tụng kinh Niết Bàn và Pháp Hoa, cảm thiên thần đến nghe. Vào cuối đêm, mỗi khi Sư phúng tụng, những người ở gần đó thường nghe trước thất của Sư có tiếng binh khí [của thiên nhân] bảo vệ.

 

* Thích Huệ Khánh đời Tống

 

          Sư họ Trúc, người Quảng Lăng, trụ tại chùa Lư Sơn, học thông tỏ kinh luật, là bậc thanh khiết, có giới hạnh. Sư tụng các kinh như Pháp Hoa, Tư Ích v.v… Mỗi đêm Sư phúng tụng, đều nghe trong bóng tối có tiếng khảy ngón tay, tán thán. Trong niên hiệu Nguyên Gia, Sư vượt sông gặp gió mạnh, thuyền sắp ch́m, Sư chỉ tụng kinh không ngớt, cảm thấy thuyền ở trong sóng dữ, đón băo vượt gịng, như có người kéo đi vậy. Chốc lát bỗng đến được bờ!

 

* Thích Đạo Quynh ở chùa Nam Giản tại kinh đô thời Tống

 

          Sư là người Phù Phong. V́ thầy bệnh, Sư cùng bạn học ba người, vào Hoắc Sơn ở Hà Nam để hái nhũ thạch. Vào trong hang mấy dặm, ba người chết ch́m, đèn đuốc lại tắt ngóm. Đạo Quynh thầm tụng kinh Pháp Hoa, cậy vào ḷng thành xin được cứu tế. Sư lại nghĩ tới đức Quán Âm, trong khoảnh khắc, có ánh sáng như đom đóm. Sư noi theo, bèn ra khỏi hang. Về sau, Sư cử hành Phổ Hiền Trai, có hai vị tăng đến lễ Phật, ra khỏi cửa bay lên không đi mất. Mọi người đều kinh dị.

 

* Thích Đàm Đế đời Tống

 

          Sư họ Khang, tổ tiên là người nước Khang Cư[14]. Cuối đời Hán, chuyển vào Trung Hoa. Sau dời đến Ngô Hưng. Cha Sư tên là Đan, làm Biệt Giá[15] ở Kư Châu. Mẹ Sư họ Hoàng, đêm nằm ngủ, mộng thấy một vị Tăng gọi bà Hoàng là mẹ, gởi một chiếc phất trần và hai cái chặn sách[16] bằng sắt chạm trổ. Tới khi bà thức, thấy cả hai món đồ đều c̣n đó. Do vậy, bèn có thai Sư. Khi năm tuổi, mẹ lấy các vật như phất trần v.v… cho xem, Sư nói: “Do Tần vương biếu tặng”. Mẹ hỏi: “Con đặt ở chỗ nào?” Đáp: “Quên mất rồi!” Sư mười tuổi xuất gia, chẳng theo thầy học mà tự giải ngộ. Đối với ư chỉ uyên áo của kinh Pháp Hoa, Sư biện giải như sông treo. Sư từng theo cha đến Phàn Đặng, gặp một vị Tăng đến từ Quan Trung là Lược đạo nhân. Sư bỗng gọi tên vị ấy. Lược đạo nhân nói: “V́ sao bé trai lại gọi tên của bậc tôn túc?” Ngài Đạo Đế đáp: “Xưa kia ḥa thượng chính là sa-di của Đế. [Ḥa thượng] v́ chúng tăng hái rau, bị lợn rừng làm bị thương. Nay bỗng gặp ông, ta bất giác kêu lên”. Thoạt đầu, Lược đạo nhân chẳng nhớ, bèn ḍ hỏi, Sư kể đầu đuôi, c̣n đem chặn sách và phất trần cho xem. Lược đạo nhân hiểu ra, khóc nói: “Ngài chính là tiên sư Hoằng Giác pháp sư. Tiên sư từng giảng kinh Pháp Hoa cho Diêu Trành, bần đạo làm đô giảng[17]. Diêu Trành tặng thầy hai món đồ”. Ông ta nhớ lại ngày sư Hoằng Giác nhập diệt, chính là ngày gởi gắm hai vật ấy. Lại nhớ đến chuyện hái rau, càng thêm bi ngưỡng. Đến già, Sư vào chùa Vũ Khâu ở đất Ngô, giảng Pháp Hoa, Đại Phẩm, Duy Ma, mỗi kinh mười lăm lượt. Về sau, Sư trở về Ngô Hưng, nhàn cư, uống nước suối suốt hai mươi mấy năm. Cuối niên hiệu Nguyên Gia, Sư thị tịch trong núi.

 

* Thích Đàm Thúy đời Tống

 

          Sư trụ tại chùa Bạch Mă ở Hà Âm, ăn rau, áo vải, tụng kinh Chánh Pháp Hoa mỗi ngày một lượt. Sư từng có lần trong đêm nghe có người gơ cửa, thưa: “Thỉnh Sư giảng kinh chín mươi ngày”. Sư từ chối, [người ấy] cứ cố kèo nài, Sư bèn chấp thuận. Sư vẫn đang ngủ, bỗng thấy thân ḿnh đă ở trong đền Bạch Mă, cũng có một đệ tử cùng ở đó. Từ đấy, mỗi ngày Sư ngầm tới, chẳng có ai biết. Về sau, tăng sĩ trong chùa đi qua đền ấy, thấy có hai cái ṭa cao. Sư ở phía Bắc, đệ tử ở phía Nam, dường như có tiếng giảng nói. Lại nghe mùi hương lạ. Do vậy, cùng nhau lan truyền chuyện thần dị. Sư giảng kinh tới Hạ mới xong.

 

* Thích Phổ Minh đời Tống

 

          Sư họ Trương, người Lâm Truy, xuất gia từ bé, bẩm tánh thanh thuần, lấy sám tụng làm hạnh nghiệp. Khi Sư tụng kinh Pháp Hoa, bèn có ṭa riêng, áo riêng, chưa từng uế tạp. Mỗi khi tụng tới phẩm Khuyến Phát, liền thấy đức Phổ Hiền cưỡi voi sáu ngà đứng trước mặt.

 

* Thích Bảo Thông đời Tống

 

          Sư phạm hạnh tinh tu, tụng phẩm Đà La Ni của kinh Pháp Hoa đă lâu ngày. Lâu sau bèn có sự linh dị. Thuở đó, tại thôn Dương Kiều, có vợ người họ Triệu bị quỷ mị dựa, thỉnh Sư tụng phẩm Đà La Ni. [Sư đến nơi], có thần hiện h́nh, gọi quỷ ấy đến quở trách. Vợ ông Triệu lành bệnh. Về sau, bệnh lại tái phát. Sư qua đó, thấy con quỷ đă bị quở trách lần trước. Sư nói: “Lần trước ta đă răn dạy, nay sao ngươi lại đến nữa? Ta sẽ tụng chú, khiến cho đầu ngươi vỡ thành bảy miếng như cành cây A Lê!” Quỷ khấu đầu, ai oán van xin, bỏ đi. Bệnh [của vợ ông Triệu] liền lành!

 

* Thích Tăng Đăng đời Tống

 

          Sư trụ tại chùa Đại Lâm ở Lư Sơn, tụng thông suốt kinh Pháp Hoa, ngày đêm chẳng dứt. Một hôm, bỗng thấy trên hư không có một ṭa điện bằng bạc, dần dần hạ xuống trong pḥng, chợt biến thành điện vàng. Sư vào điện, ngồi, đứng, kinh hành. Suốt ba năm như thế. Xa gần tuân theo sự giáo hóa của Sư. Sư v́ người khác thuyết giới, miệng tỏa quang minh. Một hôm, Sư ra ngoài, trở về, bảo đệ tử: “Nay ta sẽ lên điện vàng, chẳng trở ra nữa!” Sư lập tức thản nhiên thoát hóa. Mùi hương lạ quanh quẩn cả tháng!

 

* Thích Pháp Huệ đời Tống

 

          Sư vốn họ Hạ Hầu, giữ chí siêng khổ, luật hạnh nghiêm cẩn, trong sạch. Cuối niên hiệu Đại Minh[18], Sư sang Đông thăm Vũ Huyệt, ẩn cư tại núi Thiên Trụ, tụng kinh Pháp Hoa, mỗi ngày trọn một bộ, chí vượt cơi trần. Sư ở đó hơn ba mươi năm, vương hầu, kẻ phú quư, chỉ đến bái lạy ở cửa rồi quay về. Chỉ riêng ông Châu Ngung ở Nhữ Nam, do tín lẫn giải đều sâu, đặc biệt được Sư tiếp xúc. Chỗ Sư tụng kinh luôn có mây màu bao phủ trên không trung.

 

* Thích Huệ Lượng đời Tống

 

          Từ bé, Sư đă có danh tiếng tốt đẹp. Sư lập chùa tại Lâm Truy, giảng Pháp Hoa, Đại Phẩm, Tiểu Phẩm [Bát Nhă]. Người theo học vân tập từ ngàn dặm. Về sau, Sư vượt sông, trụ tại chùa Hà Viên. Nhan Diên Chi, Trương Tự luyến mộ đức lưu luyến, thường than rằng: “Lời lẽ thanh diệu, [pháp đạo] sắp dứt mà lại được phục hưng”. Sư trước tác bộ Huyền Thông Luận được lưu hành trong cơi đời.

 

* Thích Huệ Quả ở Dương Châu đời Tống

 

          Sư từ bé đă ăn chay, giữ vững khí tiết. Trong niên hiệu Thái Thỉ[19], Sư sang kinh đô, trụ tại chùa Ngơa Quan, tụng kinh Pháp Hoa và Thập Địa. Sư từng ở trong nhà xí gặp một con quỷ kính lễ, thưa: “Xưa kia tôi làm duy-na của chúng tăng, có chuyện nhỏ nhặt không đúng pháp, bị đọa làm quỷ trong nhà xí. Pháp sư từ bi hăy rủ ḷng cứu bạt. Tôi có ba ngàn đồng chôn dưới gốc cây ấy. Xin Sư dùng đó để làm phước”. Sư bảo đại chúng đào tiền lên, v́ ông ta tạo một bộ kinh Pháp Hoa. Sau đó, mộng thấy quỷ nói: “Do từ lực đă được thác sanh”, hết sức cảm tạ rời đi!

 

* Thích Huệ Ích ở kinh đô đời Tống

 

          Sư người Quảng Lăng. Trong niên hiệu Hiếu Kiến[20], Sư trụ tại chùa Trúc Lâm, tụng kinh Pháp Hoa, khổ hạnh chuyên ṛng. Sư thề thiêu thân, phỏng theo chuyện của Dược Vương Bồ Tát. Vua sai sứ khuyên lơn, nhưng Sư không nghe. Năm Đại Minh thứ bảy (463), nhằm ngày Phật Đản, Sư đến cung khuyết từ biệt nhà vua, dặn ḍ [vua gắng hộ tŕ] Phật pháp. Sư đặt vạc dầu ở Chung Sơn, dùng vải bông quấn thân, tay tự cầm đuốc đốt lửa, tụng phẩm Dược Vương. Lửa cháy tới mắt th́ tiếng tụng kinh mới dứt. Khi đó, [mọi người] nghe tiếng kèn, sáo, mùi hương ngào ngạt. Ban đêm, vua mộng thấy Sư căn dặn hộ pháp. Hôm sau, vua mở đại hội, sắc truyền lập chùa Dược Vương tại chỗ Sư thiêu thân.

 

* Thích Tăng Du đời Tống

 

          Sư quê ở Dư Hàng. Thoạt đầu, Sư trụ tại rặng phía Nam của Lư Sơn, dựng tinh xá Chiêu Đề, thường tŕ Pháp Hoa. Tháng Sáu năm Hiếu Kiến thứ hai (455), Sư bảo đại chúng: “Kết lụy trong tam đồ là do t́nh kiến và thân xác. T́nh kiến cũng sắp tận, thân h́nh cũng nên bỏ đi. Đường lối của Dược Vương, há có xa ǵ!” Sư cáo biệt đại chúng, vào cái khám trong đống củi, ngồi ngay ngắn, tụng phẩm Dược Vương đốt thân rồi lấy đuốc nhóm lửa. Đại chúng thấy khí màu tía vọt lên không. Mười ngày sau, chỗ Sư đốt thân sanh hai cây ngô đồng, người hiểu biết bảo đó là Sa La song thụ hiện ra.

 

* Ni Huệ Ngọc đời Tống

 

          Ni người Trường An, trụ tại chùa Mục Ngưu ở Giang Lăng, tụng các kinh như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm v.v… mười ngày đă thông suốt. Trong niên hiệu Nguyên Gia[21], Sư thắp hương, lễ Phật, thề rằng: “Nếu ḷng thành cảm ứng, sau khi xả thân, được thấy cơi Phật, th́ trong ṿng bảy ngày, nguyện thấy Phật quang”. Tới đêm thứ năm, trong rừng cây ở phía Đông chùa, bỗng hiện tướng quang minh, h́nh sắc rạng rỡ. Đại chúng đều than hy hữu.

 

* Ni Đạo Thọ đời Tống

 

          Trong niên hiệu Nguyên Gia đời Tống, ni Đạo Thọ tụng kinh Pháp Hoa trọn ba ngàn bộ. Thường thấy trên không trung có quang minh, lọng báu rủ xuống che đỉnh đầu.

 

* Phí Thị vợ ông La Dư ở Thục Đô đời Tống

 

          Bà tụng Pháp Hoa từ thuở trẻ, siêng năng tới mức chẳng mỏi mệt. Về sau, bà bị đau tim, chết ngất. Trong khi chờ khâm liệm, bà bỗng mộng thấy Phật đưa tay xoa tim, ngay khi đó bà liền lành bệnh. Mọi người trong nhà đều thấy kim quang, cũng nghe mùi hương.

 

* Ni Trí Thông chùa Giản Tĩnh đời Tống

 

          Bà xả giới (hoàn tục), lấy ông Lương Quần Phủ, sanh một trai được bảy tuổi. Nhà nghèo không có quần áo. Lúc bà làm ni, có lụa trắng chép kinh Pháp Hoa, liền gột tẩy để làm quần áo cho con. Bỗng toàn thân bà sanh ghẻ lở, trùng trắng cùng khắp. Bà kêu gào mười ngày rồi chết, nghe trên không trung có tiếng nói: “Hoại kinh làm áo, mắc hoa báo này. Quả báo là trong địa ngục”. Đó cũng là chuyện trong niên hiệu Nguyên Gia.

 

* Vương Huyền Mô đời Tống

 

          Ông là người huyện Kỳ ở Thái Nguyên. Trong niên hiệu Nguyên Gia, ông dẫn quân chinh phạt miền Bắc, thất trận, Tiêu Bân[22] muốn giết chết. Thẩm Khánh Chi can rằng: “Phật Ly (tên thuở bé của Ngụy Thế Tổ[23]) oai chấn thiên hạ, há Huyền Mô có khả năng chống nổi ư? Hơn nữa, giết chiến tướng chỉ khiến cho chính ḿnh yếu thêm!” Tiêu Bân bèn thôi. Thoạt đầu, Huyền Mô thấy sắp bị giết, mộng thấy có người bảo: “Có thể tụng phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa và Quán Âm thần chú một ngàn lần, sẽ có thể thoát khỏi”. Ông thức dậy, tụng niệm chẳng lơi lỏng. Bỗng nghe tin báo đă ngưng hành h́nh. Về sau, ông làm quan tới chức Khai Phủ[24].

 

* Vương Huệ Xưng đời Tống

 

          Năm Nguyên Gia thứ tư (427) đời Tống, người xứ Sơ Đô là Tôn Ngạn Tăng gia đ́nh nhiều đời thờ Phật, có người thiếp tên là Vương Huệ Xưng thường tụng kinh Pháp Hoa. Cô bỗng thấy bến sông có quang minh. Đào lên, t́m được một bức tượng Phật bằng vàng, phía trước có khắc rằng: “Năm Canh Tư thuộc niên hiệu Kiến Vũ thứ sáu (340), đạo nhân thuộc quan tự là Pháp Tân tạo”; Pháp Tân chính là tiền thân của người thiếp ấy.


* Thích Huệ Tấn đời Tề

 

          Trong niên hiệu Vĩnh Minh[25] đời Tề, tại chùa Cao a ở Dương Châu, có sư Thích Huệ Tấn là người xứ Ngô Hưng. Sư thuở trẻ hùng dũng, thích hành hiệp. Lúc bốn mươi tuổi, bỗng ngộ vô thường. Do vậy, Sư xuất gia, áo vải, ăn rau, thề tụng Pháp Hoa, dụng tâm siêng khổ. Sư vừa cầm quyển kinh liền bị bệnh, bèn phát nguyện tạo một trăm bộ Pháp Hoa để sám hối tội chướng đời trước. Nguyện tạo kinh đă măn, Sư cũng lành bệnh. Sau đó, Sư nguyện hồi hướng hạnh nghiệp tụng niệm để được sanh về Tịnh Độ, nghe trên không trung có tiếng nói: “Nguyện của ông đă trọn, nhất định được văng sanh”. Lúc Sư ngoài tám mươi tuổi, không bệnh tật mà mất.

 

* Thích Hoằng Minh đời Tề

 

          Sư là người Cối Kê, vững chí siêng khổ, có khí tiết. Trong niên hiệu Vĩnh Minh, Sư trụ tại chùa Vân Môn ở Sơn Âm, tụng kinh Pháp Hoa, tu tập Thiền Định, sáu thời chẳng lười nhác. Mỗi sáng, b́nh đựng nước tự đầy, quả thật là do đồng tử cơi trời hầu hạ. Mỗi khi Sư tọa Thiền, hổ từng nằm phủ phục trong thất, thấy Sư hoàn toàn chẳng động đậy, hồi lâu mới bỏ đi.

 

* Thích Pháp Quỹ đời Tề

 

          Sư họ Nguyễn, người xứ Ư Tiềm thuộc Ngô Hưng, xuất gia tại Kỳ Viên Tự. Sư bản tánh chất phác, chẳng màng thế sự, tụng Pháp Hoa lâu ngày. Mỗi khi được cúng dường trong dịp trai hội, Sư gom góp lại để tạo tượng Phật bằng gỗ chiên đàn. Tượng tạc xong, Sư tự lập đại hội. Gia đ́nh Sư vốn kiều cư tại kinh đô. Ngày hôm ấy, Sư trở về nhà, lại tới chùa Định Lâm, trở về chùa Kỳ Viên. Về sau, xét cả ba chốn, đều thấy Sư đến thọ trai giữa trưa, thật sự là cùng lúc đến cả ba chỗ. Ngay trong chiều hôm ấy, Sư trở về pḥng, đóng cửa qua đời. Thi thể rất thơm tho, mềm mại, gập hai ngón tay, mọi người đều ngộ Sư đă đắc quả. V́ thế, dựng tháp tại chùa Kỳ Viên. Khi đó là năm Vĩnh Minh thứ bảy (489) nhà Tề.

 

* Thích Huệ Dự đời Tề

 

          Sư là người Hoàng Long, sang kinh sư, trụ tại chùa Linh Căn, tụng kinh Pháp Hoa ḥng làm cầu bến để cứu khổ. Trong pḥng ngủ của Sư, từng thấy ba người gơ cửa, áo mũ tươi sạch, cầm nắm lọng hoa. Ngài Huệ Dự hỏi v́ lẽ nào? Họ đáp: “Pháp sư sắp tịch, cho nên chúng tôi đến đón”. Ngài Huệ Dự nói: “Có chút việc chưa xong, có thể đợi một năm hay không?” Họ đáp: “Được chứ!” Tới kỳ hẹn năm sau, Sư không bệnh mà mất. Đó là năm Vĩnh Minh thứ bảy (489) đời Tề, Xuân Thu của Sư là năm mươi bảy tuổi.

 

* Thích Siêu Biện đời Tề

 

          Sư họ Trương, người Đôn Hoàng. Từ thuở bé đă thần ngộ, trầm tĩnh. Sư lấy tụng kinh Pháp Hoa làm thường khóa. Do nghe nói tại kinh đô, Phật pháp chấn hưng mạnh mẽ, Sư từ Ba Sở tới Kiến Nghiệp, trụ tại chùa Định Lâm. Sư nhàn cư, tĩnh tọa nh́n vào vách, suốt hơn ba mươi năm, tụng kinh Pháp Hoa. Hằng ngày, Sư hạn định tụng một lần, tâm mẫn tiệp, miệng đọc lưu loát luôn thừa sức. Sư thị tịch năm Vĩnh Minh thứ mười (492), luật sư Tăng Hựu tạo bia, Lưu Hiệp Đông Quản soạn văn. Chẳng lâu sau, nơi chỗ chôn Sư, nẩy sanh một cành hoa sen xanh.

 

* Thích Huệ Cơ đời Tề

 

          Sư họ Lữ, là người xứ Tiền Đường thuộc đất Ngô. Mười lăm tuổi, Sư xuất gia tại chùa Kỳ Hoàn. Sư miệt mài hành tŕ siêng khổ, chuyên ṛng, giỏi Tiểu Phẩm Bát Nhă và Pháp Hoa. Sư trở về, trụ tại chùa Pháp Hoa ở Sơn Âm, giảng tuyên kinh giáo. Người học lũ lượt kéo tới, Sư bèn lập tinh xá Bảo Lâm ở Hội Ấp. Sư mộng thấy đức Phổ Hiền phóng quang tiếp dẫn; do vậy, tạo tượng Phổ Hiền và voi trắng sáu ngà. Cánh Lăng Vương (Tiêu Tử Lương) từng thưa hỏi Sư yếu chỉ kinh Pháp Hoa, Sư bèn trước tác Pháp Hoa Nghĩa Sớ ba quyển. Năm Kiến Vũ thứ ba (496)[26], Sư thị hiện mắc bệnh. Đệ tử mộng thấy mấy vị Phạm tăng ngồi xếp bằng, nói từ nước Đại Thừa đến đón ḥa thượng Huệ Cơ. Sư lặng lẽ qua đời!

 

* Thích Tăng Hầu đời Tề

 

          Sư họ Cung, người Tây Lương Châu, xuất gia từ nhỏ, liền biết khổ hạnh. Sư sang kinh đô, tụng kinh Pháp Hoa và Kim Quang Minh, cứ hai ngày là xong một bộ. Hơn sáu mươi năm, Thiền tụng chẳng hề bỏ phế. Sư đắp thất ở sau núi làm chỗ để tu Thiền. Nơi Sư ở thường có mùi hương lạ, cỏ cây lạ, chẳng biết từ đâu tới. Ai đến cửa, đều nghiêm túc, im lặng. Người thời ấy nói là do Sư có vị thần hộ giới ngầm hộ tŕ. Năm Vĩnh Nguyên thứ hai (500), Sư mắc bệnh nhẹ, chẳng ăn, đ̣i nước súc miệng, chắp tay, ngồi xếp bằng qua đời. Xuân thu tám mươi chín tuổi.

 

* Cánh Lăng Văn Tuyên Vương Tiêu Tử Lương đời Tề

 

          Ông có tên tự là Vân Anh[27], chú trọng đạo nghĩa, chuộng phong cách đạo đức của cổ nhân, xem rộng khắp các kinh sách, được cơi đời xưng tụng là “bút hải”. Ông cùng với thái tử Văn Huệ (Tiêu Trưởng Mậu) đều tinh thông Phật lư, thường triệu vời các danh tăng giảng các kinh điển, tôn trọng pháp rất mực, Giang Tả chẳng có ai bằng! Có lúc ông đích thân v́ chúng tăng sắp đặt cơm nước. Ông tụng kinh Pháp Hoa, ngầm cảm phạm âm thanh nhă… Trước tác có Tịnh Trụ Tử hai mươi quyển được lưu hành trong cơi đời. Tịnh Trụ, tiếng Phạn là Bố Tát (Uposatttha), có nghĩa là thân, khẩu, ư thanh tịnh, theo đúng giới mà trụ.

 

* Lưu Cầu đời Tề

 

          Ông tên tự là Linh Dự, người quận Nam Dương, tin ṛng đạo Phật. Áo vải thô lễ Phật, ăn chay trường tụng niệm, sáu thời chẳng khuyết. Đầu niên hiệu Kiến Nguyên (479), vua xuống chiếu sai ông làm Thông Trực Tán Kỵ Thị Lang[28], ông chẳng vâng chiếu. Ông chuyên chú nơi hai kinh Pháp Hoa và Hoa Nghiêm, tự giảng Phật nghĩa. Năm Kiến Vũ thứ hai (495), ông được vời làm Quốc Tử Bác Sĩ[29], dời chỗ ở sang Tây Sa Châu ở Giang Lăng. Trong ban ngày mùa Đông năm ấy, bỗng có mây trắng quẩn quanh nơi cửa nhà, lại có mùi hương lạ, và tiếng chuông, tiếng tụng kinh. Ông ngồi ngay ngắn qua đời.

 

* Thích Huệ Ước đời Lương

 

          Sư họ Lâu, người xứ Thương Ô thuộc Đông Dương. Lúc bé, Sư tụ cát làm tháp, chất đá làm ṭa. Khi mười bảy tuổi bèn xuống tóc xuất gia. Huyện lệnh đất Diệm là Châu Ngung hết sức cung kính, tạo chùa Thảo Đường ở Chung Sơn, thỉnh Sư đến đó ở. Thái Tể Trữ Uyên, Thái Úy Vương Kiệm thỉnh Sư giảng các kinh Pháp Hoa, Thắng Man v.v… để hoằng dương pháp giáo rộng lớn. Ông Trữ Uyên mắc bệnh, đang ngủ ban ngày, bỗng thấy một vị Phạm tăng nói: “Bồ Tát sẽ tới, vị đạo nhân sẽ đến chính là vị ấy”. Chốc lát, Sư đến thăm, Trữ Uyên ngay lập tức được lành bệnh. Sư chuộng Thiền tụng, cảm mùi hương lạ đầy thất, mănh thú đi quanh thềm bậc. Sư từng vào khe suối Xích Tùng ở núi Kim Hoa. Khi đó, có thần quang, yêu quái dứt bặt. Trong niên hiệu Thiên Giám[30], vua thọ Bồ Tát Giới từ Sư. C̣n như vương hầu, phu nhân quyền quư, đạo tục, [xin thọ giới với Sư] tính ra khoảng bốn vạn tám ngàn người. Thường khi thọ giới, có một con chim sẻ nhảy theo từng bậc. Truyền giới xong, nó mới bay đi. Lại có hai con công, đi thong thả tới giới đàn, duỗi cổ nghe pháp. Đại Đồng nguyên niên (535), Sư ngồi qua đời. Sư được dựng tháp ở bên trái mộ ngài Chí Công.

 

* Thích Pháp Vân đời Lương

 

          Sư họ Châu, ở Dương Tiện, xuất gia khi bảy tuổi. Sư cao vời khôn sánh. Sư tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nghiên cứu, suy nghĩ tinh tường, cặn kẽ. Lúc ba mươi tuổi, Sư khai giảng Pháp Hoa và Tịnh Danh tại chùa Diệu Âm, biện tài như gió cuốn, người học chen chúc. Sư c̣n từng giảng kinh Pháp Hoa tại chùa Quang Trạch, bỗng cảm hoa trời đầy hư không, rơi xuống như tuyết bay. Thuở đó, Chí Công đạo vượt xa mọi vị tăng, thường đến chỗ sư Pháp Vân, liền nghỉ lại hai đêm, gọi Sư là pháp sư Đại Lâm. Ngài từng nói: “Ta muốn hiểu sư tử hống”. Sư liền thăng ṭa phân tích, ngài Chí Công khảy ngón tay, bảo: “Lành thay! Vi diệu quá, oai nghi giống như Viên Ngang[31]”. Có người từng cúng dường Tăng, phát nguyện mong được huệ giải như Sư. Ban đêm, người ấy bỗng thấy một vị Tăng bảo: “Trong thời Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật, pháp sư đă từng giảng kinh này, ông làm sao sánh bằng được!”

 

* Pháp sư Vân Quang đời Lương

 

          Chưa rơ họ tên [thế tục] của Sư. Năm Phổ Thông thứ hai (521), vua (Lương Vũ Đế) xuống chiếu vời Sư giảng kinh Pháp Hoa trong nội điện, trời mưa hoa báu. Trong niên hiệu Thiên Giám (502-519), do đại hạn, vua hỏi Chí Công [cách nào cầu mưa]. Chí Công nói: “Vân Quang có thể tuôn mưa”. Do vậy, vua thỉnh Sư giảng Pháp Hoa. Tới câu “kỳ trạch phổ hiệp” (thấm nhuần trọn khắp), trời liền mưa dầm, cao thấp đều được nhuần thấm trọn đủ.

 

* Thích Đạo Lâm đời Lương

 

          Sư người Sơn Âm, có giới hạnh, giỏi Pháp Hoa và Niết Bàn. Trương Tự ở nước Ngô tôn kính phụng sự. Trong niên hiệu Thiên Giám, Sư sống tại chùa Tuyền Lâm thuộc huyện Phú Dương. Trong chùa có quỷ quái. Sư đến nơi, quỷ liền tiêu diệt. Đệ tử Huệ Thiều bị nhà sụp đè, đầu lơm vào ngực. Sư v́ ông ta tụng kinh Pháp Hoa cầu đảo. Ông Thiều ban đêm mộng thấy hai vị đạo nhân người Hồ lôi đầu ông ra, tới sáng bèn b́nh phục. Mọi người đều khâm phục sự cảm ứng thần diệu ấy!

 

* Thích Pháp Lẫm đời Lương

 

          Sư họ Nghiêm, người Chi Giang, xuất gia tại Ngọc Tuyền sơn tự. Sư thường tụng Pháp Hoa, khất thực, mỗi ngày ăn một bữa, chẳng nằm, thường ngồi. Sư quảy tích trượng viễn du, ngọn Lư Sơn, đỉnh Ngũ Đài, Hành lănh, La Phù, không chỗ xa xôi nào Sư chẳng tới. Sư trụ tại gộp đá hẻo lánh, nhất chí Thiền Định. Sư từng qua Đại Nhạc, sang Dư Châu, huyện lệnh xét giấy phép du hành, Sư chỉ vào tráp đựng kinh Pháp Hoa mang theo. Quan huyện tức giận, giam lại. Sư bảy ngày không ăn, âm thanh tụng kinh chẳng dứt. Huyện lệnh cảm ác mộng, liền đảnh lễ, hối lỗi. Về sau, Sư trở về ẩn cư, dùng Thiền tụng làm nghiệp. Khi mất, mùi hương lạ tràn ngập, mười ngày mới hết.

 

* Thích Pháp Nhẫn đời Lương

 

          Sư người Giang Lăng; thoạt đầu xuất gia tại chùa Thiên Hoàng, tụng tŕ Pháp Hoa, mỗi ngày hai lượt. Do đại chúng tụ tập lắm huyên náo, Sư đến ở dưới Phúc Thuyền Nham ở phương Tây, tự tĩnh lặng hành Đầu Đà. Ba mươi mấy năm, ăn vỏ cây, mặc áo gai, hoặc ca-sa rách mà thôi! Sự tự sống trong chốn rừng thẳm, chẳng cầu kẻ ngoại hộ. Bảy ngày ăn một bữa, ngồi xếp bằng quán tâm. Về sau, Sư nằm bên hông phải trong hang phía Bắc mà qua đời!

 

* Thích Tăng Thiên ở Kinh Châu đời Lương

 

          Sư người đất Ngô. Thuở bé, đă thông minh, cao cả, khiến quan Thị Trung Vương Tích phải than lạ. Sư thường tụng kinh Pháp Hoa, số tṛn sáu ngàn bộ. Một hôm, Sư ngủ mộng thấy Phổ Hiền đại sĩ, hương quang chói ḷa, đích thân xoa đầu Sư. Sư kiêng không nói ra. Tới khi sắp thị tịch, mới kể với những người cùng chí hướng. Đối với các kinh như Pháp Hoa, Đại Phẩm, Niết Bàn v.v… mỗi thứ đều giảng mười lần, đều soạn sớ để lưu truyền.

 

* Ni Đạo Tích xứ Ngô Hưng đời Lương

 

          Ni sư hiệu Tổng Tŕ, đắc pháp với Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Sư ẩn cư trên đỉnh Biện Lănh, ngày đêm tụng kinh Pháp Hoa trọn một vạn bộ, chẳng ra khỏi núi suốt hai mươi năm. Về sau, Sư quy tịch, được dựng tháp chôn toàn thân tại chỗ Sư kết lều tranh. Đại Đồng nguyên niên (535), trong tháp bỗng có một đóa sen xanh. Đạo tục lấy làm lạ, mở tháp ra xem th́ thấy hoa sanh từ cái lưỡi của Sư. Châu quận tŕnh tấu, vua sắc truyền dựng chùa Pháp Hoa.

 

* Ni Pháp Tuyên ở Diệm Xuyên đời Lương

 

          Thoạt đầu, Sư tụng kinh Pháp Hoa, nằm ngồi đều thấy trướng lọng che phía trên. Cha mẹ liền cho Sư xuất gia tại chùa Tề Minh. Từ đó, chẳng thấy trướng lọng nữa! Từ đấy trở đi, Sư đọc rộng các kinh luận, tham cứu sâu xa lư uyên áo. Vương Nguyên Giản ở Hành Dương làm thái thú tại quận ấy, thỉnh Sư làm thầy cho mẹ ḿnh tại Việt Thành.

 

* Trưng sĩ[32] Dữu Tiển[33] đời Lương

 

          Ông có tên tự là Ngạn Bảo, người Tân Dă. Thông kinh sử từ bé, tánh hiền lành, giản dị, đặc biệt ưa thích chốn lâm tuyền. Ông ở nơi rộng mười mẫu, núi và ao chiếm một nửa. Thuở trẻ, ông chơi thân với Lương Vũ Đế. Tới lúc đế khởi binh, hạ chiếu phong cho ông làm Kư Thất ở phủ B́nh Tây. Trong niên hiệu Phổ Thông, lại phong làm Hoàng Môn Thị Lang, ông đều từ chối. Lúc tuổi già, ông lập đạo tràng trong nhà, ở trong núi, ăn chay, sáu thời lễ sám, tụng kinh Pháp Hoa. Mỗi ngày tụng một bộ. Bỗng trong đêm, ông thấy một đạo nhân, tự xưng là Nguyện Công, dung mạo, cử chỉ rất lạ, gọi ông Tiển là Thượng Hạnh tiên sinh, trao cho hương rồi đi. Năm Trung Đại Thông thứ tư (532), ban ngày ông nằm ngủ, bỗng giật ḿnh tỉnh giấc nói: “Nguyện Công lại đến, chẳng thể ở lâu”. Nói xong bèn qua đời. Cả nhà đều nghe trên hư không xướng: “Thượng Hạnh tiên sinh đă sanh về Di Đà tịnh vực”. Lương Vũ Đế kính phục, xuống chiếu ban cho ông thụy hiệu là Trinh Tiết tiên sinh.

 

* Chân Huyền Thành đời Lương

         

          Ông là người Trung Sơn, thông đạt rộng răi kinh sử, được Lương Giản Văn Đế (Tiêu Cương) nhận biết, phong làm Lục Sự Tham Quân. Ông theo Tiêu Sát[34] trấn thủ Tương Dương, do binh lực tại Giang Lăng hùng mạnh, ông ngầm gửi thư kết thân. Có kẻ tố cáo với Tiêu Sát, Tiêu Sát tin sâu Phật pháp, thề nguyện chẳng giết người tụng kinh Pháp Hoa. Huyền Thành chuyên tụng Pháp Hoa, do vậy được miễn tội. Tiêu Sát về sau gặp mặt, thường nói: “Ông Chân khéo đạt được sức của kinh Pháp Hoa”.

 

* Hoa Thủ ni đời Lương

         

          Năm Phổ Thông thứ hai (521) đời Lương, tại Cao Bưu có Hoa Thủ ni, chí tiết trong sạch, tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa ngày đêm chẳng sót. Về sau, cứ tụng một quyển, trên móng tay phải của Sư sanh ra một cái hoa, h́nh dạng như tơ lụa. Năm ngón tay đều có. Tụng đến quyển thứ sáu, thứ bảy, trên tay đều sanh hai hoa. Vũ Đế triệu kiến, hết sức kính trọng. Người đương thời gọi ni sư là Hoa Thủ ni.

 

* Tôn giả Nam Nhạc Huệ Tư đời Trần

 

          Sư con nhà họ Lư ở Vũ Tân, tŕ giới từ bé, đảnh lễ Pháp Hoa đến nỗi quên ngủ nghỉ. Do mưa dầm ẩm thấp, Sư bị phù thũng, gắng chịu đựng hướng về kinh, liền được khỏi hẳn. Sư mộng thấy đức Phổ Hiền cưỡi voi chúa trắng đích thân xoa đầu. Trên đỉnh đầu Sư ngầm nổi lên nhục kế. Lúc mười lăm tuổi, Sư xuất gia, thọ Cụ Túc Giới, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, chuyên tụng Pháp Hoa, tính ra phải một ngàn lượt, cảm vời b́nh đựng nước chẳng cạn. Đồng tử cơi trời hầu hạ.

          Khi đó thiền sư Huệ Văn do duyệt Đại Luận, đọc tới phẩm Tứ Đế, thấy bài kệ “nhân duyên sở sanh pháp, ngă thuyết tức thị Không, diệc sanh vi giả danh, diệc danh Trung Đạo nghĩa” (pháp sanh bởi nhân duyên, ta nói chính là không, cũng gọi là giả danh, cũng gọi nghĩa Trung Đạo). Ngài Huệ Văn bừng tỉnh đại ngộ, liền vọng bái, tôn ngài Long Thọ làm thầy. Ngài nương theo luận, lập ra pháp Quán. Sư (ngài Huệ Tư) liền đến xin thọ pháp, ngày đêm nhiếp tâm, hông chẳng chạm chiếu, ngồi Thiền suốt ba mươi ngày, đắc Túc Mạng Thông, dũng mănh gấp bội. Bỗng Thiền chướng dấy lên, tứ chi ră rời, thân chẳng thuận theo tâm. Sư liền tự nghĩ: “Bệnh do nghiệp sanh, nghiệp do tâm khởi. Nguồn tâm chẳng khởi, ngoại cảnh làm ǵ được? Bệnh nghiệp và tâm, đều như bóng mây”. Sư quán như thế, điên đảo tưởng diệt, khinh an như cũ. Nhưng [hành tŕ tinh tấn] suốt năm mà chẳng đạt được ǵ, Sư ôm ḷng hổ thẹn sâu xa, thả lỏng thân, dựa vào vách tường, bỗng dưng đại ngộ Pháp Hoa tam-muội. Từ đó, đối với các kinh chưa được nghe, đều chẳng nghi ngờ, tự thông hiểu.

          Kế đó, Sư sang núi Đại Tô ở Quang Châu (), giảng kinh Đại Bát Nhă, từng được cúng thí. Sư bèn ở chùa Tề Quang, [dùng tiền cúng thí ấy] tạo hai bộ kinh Đại Phẩm Bát Nhă và Pháp Hoa đều chép bằng chữ vàng. Lại tự soạn một bài nguyện văn, nguyện vào thời Phật Di Lặc, thân và kinh ấy sẽ cùng lúc xuất hiện, rộng hóa độ hết thảy. Năm Quang Đại thứ hai (568), Sư vào ở trong Nam Nhạc. Một hôm, Sư lên ngọn Chúc Dung, thần núi xin thọ giới. Sư bèn v́ ông ta nói pháp yếu. Sư chỉ gộp đá nói: “Trong một đời, ta đă từng tọa Thiền ở đây, bị giặc chặt đầu”. [Môn nhân] liền t́m được một bộ xương khô (nay là Nhất Sanh Nham tại chùa Phước Nghiêm). Sư đến góc Tây Nam, chỉ tảng đá lớn nói: “Đời thứ hai, ta cũng từng sống ở đây”, liền nhặt lấy đầu lâu dựng tháp, để báo ơn tu tập đời trước (nay là tháp Nhị Sanh). Sư lại tới chỗ ẩn khuất, bảo: “Đây là chỗ chùa cổ, đời thứ ba ta từng sống nhờ ở đây”. Khai quật th́ quả nhiên có các vật dụng của Tăng và nền móng hăy c̣n, Sư liền đắp đài v́ đại chúng thuyết pháp (nay là Tam Sanh Tạng).

          Đại chúng sợ không có nước, Sư lấy tích trượng gơ vào đá, do đó, hổ bỏ chạy, suối trào ra. Từ đó, hóa đạo càng thịnh, vua Trần đặc biệt lễ kính. Người thời đó gọi Ngài là Tư đại thiền sư. Tháng Sáu năm Đại Kiến thứ chín (577), Sư xướng Phật hiệu, chắp tay, qua đời. Mùi hương lạ đầy thất. Sư từng dạy đại chúng: “Nguồn đạo chẳng xa, biển tánh chẳng xa, chỉ hướng về chính ḿnh mà cầu, đừng t́m nơi nào khác. Hễ t́m sẽ chẳng được! Dẫu có đạt được, cũng chẳng thật!”

 

* Thích Huyền Quang đời Trần

 

          Sư là người nước Tân La, chuyên tu phạm hạnh. Sư vượt biển thẳm, cầu thiền pháp nơi Trung Thổ. Do vậy, Sư đến Hành Sơn, tham yết Huệ Tư đại thiền sư. Tổ dạy Tứ An Lạc Hạnh, Sư bỗng chứng Pháp Hoa tam-muội. Quay trở lại Giang Nam, ngồi thuyền ra biển khơi. Bỗng thấy mây màu, [nghe tiếng] nhă nhạc, [trông thấy] cờ tiết rực rỡ kéo tới. Trên hư không, truyền tới tiếng hô: “Thiên đế vời sư Huyền Quang nói pháp môn đă đích thân chứng đắc tại cung rồng”. Sư chắp tay thoái thác. Thấy người áo xanh dẫn đường, liền vào cung thành, chẳng giống như phủ thự trong nhân gian. Chung quanh chẳng có ai không phải là loài có mai, có vảy, xen lẫn với quỷ thần. Đă lên đài cao, Sư đàm luận diệu pháp suốt bảy ngày. Sau đó, vua khom ḿnh đưa tiễn, Sư lại lên thuyền. Người chèo thuyền nói mới trải qua nửa ngày. Tổ Nam Nhạc dựng ảnh đường, trong ấy có vẽ h́nh tượng Sư. Tổ đường chùa Quốc Thanh ở Thiên Thai cũng thế.

 

* Từ Hiếu Khắc đời Trần

 

          Ông là người xứ Diệm thuộc Đông Hải. Từ nhỏ đă đàm luận huyền lư, đến lớn thông thạo ngũ kinh. Đầu niên hiện Thái Thanh[35] đời Lương, ông bắt đầu làm quan, giữ chức Thái Học Bác Sĩ[36]. Tánh t́nh chí hiếu, cha mất bèn đau buồn khôn ngằn, thờ mẹ trọn hết đạo hiếu. Trong niên hiệu Thiên Gia (560-566), ông được phong làm huyện lệnh đất Diệm. Không lâu sau, ông lại từ chức. Trong niên hiệu Thái Kiến[37], ông được vời ra làm Bí Thư Thừa, nhưng không ra làm quan. Ông ăn chay trường, giữ Bồ Tát giới. Ngày đêm giảng tụng kinh Pháp Hoa. Năm Thái Kiến thứ sáu (574), được phong chức Tế Tửu của Quốc Tử Giám. Lúc lâm chung, ông ngồi ngay ngắn, niệm Phật, trong nhà có mùi hương dị thường, xóm giềng đều kinh ngạc.

 

* Thích Tăng Chiếu đời Bắc Ngụy

 

          Sư trụ tại chùa Đan Lănh ở Thái Sơn, thường dạo chơi sơn thủy, thích chỗ thâm u, hiểm trở. Phổ Thái nguyên niên (531), Sư tới Huỳnh Sơn, thấy chỗ thác nước tuôn xuống có huyệt động, đi sâu vào trong năm sáu dặm th́ ra khỏi hang. Sư đi về phía Đông Bắc, thấy có con suối chảy giữa các tảng đá. Nước suối trong suốt, cỏ thuốc mọc chen chúc. Phía Bắc khe suối có ba gian nhà ngói, h́nh dáng hết sức cổ xưa, thô lậu. Trước sân, lúa thóc mọc lung tung. Phía Đông căn nhà mấy cái giá đặt đầy kinh sách nhà Phật. Gian giữa có cái cối xay phủ đầy bụi. Trong phía Tây căn nhà, có một vị sa-môn đang ngồi ngay ngắn nghiễm nhiên, bụi lấp đến gối. Nh́n bốn phía chỉ có rừng rậm, khe suối, chẳng c̣n ai khác ở. Trong chốc lát, Sư gặp một vị thần tăng, tuổi khoảng sáu mươi, lông mày dài cả trượng, vắt lên vành tai. Gặp nhau hoan hỷ như đă quen biết từ trước. Vị ấy hỏi Sư từ đâu đến rồi tự nói: “Bọn tôi gồm ba người đồng học, từ đấy lánh đời. Một người ra ngoài chưa về, một người khô tọa, tợ hồ nhập Diệt Tận Định. Nay đang ở trong căn nhà phía Tây, ông có thấy hay chăng?” Sư thưa: “Đă thấy!”

          Do vậy, vị ấy hái lúa, đem giă nấu cháo, lại vào rừng hái lê, táo cho ăn. Hỏi Sư: “Thường ngày, thầy tụng kinh ǵ?” Sư nói: “Tụng Pháp Hoa”. Vị tăng gật đầu, nói: “Nghiệp tinh tấn quá tốt! Gian nhà phía Đông chất chừng đó kinh toàn là do tôi tự tụng. Thầy có muốn nghe hay không?” Sư chắp tay, thưa vâng. Vị tăng liền tụng kinh suốt đêm, thanh vận trong trẻo, rơ ràng. Sư buồn ngủ, vị Tăng bảo; “Thầy cứ ngủ đi, đây là hằng nghiệp của tôi”. Tới sáng, vị Tăng lại nấu ăn. Sư cảm tạ, từ biệt, vị Tăng cũng chẳng giữ lại, chỉ nói: “Đồng học của tôi đă đi rồi, nếu thầy gặp gỡ sẽ khai ngộ to lớn, tiếc là chẳng gặp!” Sư trân trọng từ biệt. Sư t́m đường trở về, kết bạn cùng trở lại, chẳng biết thác nước và huyệt động ở chỗ nào!

 

* Thích Chí Trạm đời Bắc Ngụy

 

          Sư người Tề Châu, trụ tại chùa Hàm Thảo trong hang thẳm ở phía Bắc Thái Sơn. Sư ít bày ra việc, ít nói, người lẫn chim đều chẳng khiến cho Sư loạn tâm được. Sư đọc tụng Pháp Hoa, người khác chẳng lường được hạnh nghiệp trong sạch của Sư. Khi Sư sắp mất, thần tăng Chí Công bảo Lương Vũ Đế: “Vị thánh tăng đắc quả Tu Đà Hoàn ở chùa Hàm Thảo nơi phương Bắc hôm nay diệt độ”. Quả nhiên trong ngày hôm ấy, Sư không bệnh mà tịch. Hai tay đều duỗi một ngón ra. Có vị Phạm tăng nói: “Đó là [dấu hiệu cho biết Sư đă đắc] Sơ Quả!” Môn nhân vẫn chôn Sư trong núi ấy. Sau đó, đào lên xem, chỉ có cái lưỡi chẳng hoại, bèn dựng tháp để khơi gợi tín tâm.

 

* Lô Cảnh Dụ đời Bắc Ngụy

 

          Đầu thời Tiết Mẫn Đế (Nguyên Cung) [nhà Bắc Ngụy], ông làm Quốc Tử Bác Sĩ. Do mắc lụy, bị giam trong ngục tại Tấn Dương[38]. Ông chí tâm tụng phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa; hễ có sức th́ cũng tụng toàn bộ kinh ấy. Không lâu sau, gông xiềng tự rớt. Kẻ coi ngục tâu lên triều đ́nh, ông được xá tội!

 

* Thích Pháp Thượng núi Lâm Lự đời Bắc Tề

 

          Sư họ Lưu, người Triều Ca. Mười hai tuổi vào Thiền gia, được gọi là “thánh sa-di”. Sư tụng Pháp Hoa và Duy Ma mới được hai mươi ngày th́ cả hai bộ đều thông suốt. Sư bắt đầu giảng kinh Pháp Hoa, đối đáp các nghi vấn, cật vấn, không ai chẳng thán phục. Tề Văn Tuyên Đế (Cao Dương) xuống chiếu phong Sư làm Đại Thống Sư, trải tóc lót đất cho Sư đạp lên. Người thời đó nói: “Tăng chúng bốn biển ngưỡng vọng pháp nơi đạo tràng”. Tới đời Tề Vũ Thành Đế (Cao Trạm), người ở Đông Sơn thuộc Tinh Châu đào đất, thấy một vật giống như hai cái môi, trong đó có lưỡi màu đỏ tươi hồng. [Quan lại địa phương] tâu chuyện ấy lên, vua hỏi các đạo nhân, không ai biết. Sư tâu: “Đấy là quả báo lục căn bất hoại của người tŕ Pháp Hoa. Tụng trọn một ngàn biến sẽ có sự chứng nghiệm ấy”. Vua bèn sắc truyền đưa về chỗ thanh tịnh để cúng dường, nhóm họp những người tŕ kinh Pháp Hoa vây quanh tụng kinh, xin hiện thụy ứng (sự ứng hiện tốt lành). Vừa mới thốt lên tiếng [tụng niệm], cái miệng và lưỡi ấy cùng lúc mấp máy, người trông thấy không ai chẳng rởn da gà. Vua xuống chiếu đựng trong hộp đá, cất trong hang núi.

 

* Thích Huệ Mạng đời Bắc Châu

 

          Sư họ Quách, người xứ Tấn Dương, Thái Nguyên, tài hoa xuất sắc. Tuổi mười lăm, Sư tụng kinh Pháp Hoa, trong hai mươi ngày, thấu triệt cả bộ. Sư liền xuất gia, chuyên hành các sám pháp Phương Đẳng, Phổ Hiền v.v… Về sau, Sư sang núi Tiên Thành ở Hà Dương, trụ tại Thin Quang Tự, giảng diễn Đại Thừa. Đối với tông chỉ của Thiền Trí, không ǵ chẳng đào sâu. Có sách tập hợp thư từ trao đổi giữa Sư và Đới Quỳ ở Tế Bắc, đáng gọi là sâu thẳm, thù thắng. Thiền sư Pháp Âm ở cùng quận và Sư đáng gọi là “đức bằng” (bằng hữu đức hạnh). Sư đến chỗ Năng thiền sư chùa Quả Nguyện ở Trường Sa cùng học tâm định, rồi trở về Tiên Thành. Một tối, Sư chống gậy, ở bên rừng tùng, ngó lại, cười nói: “Ta quyết chí về Tây”. Vào tháng Mười Một năm Thiên Ḥa thứ ba (568) đời Châu, Sư ngồi xếp bằng, hướng về Tây niệm Phật, [đại chúng] đều thấy Phật đến. Sư chắp tay qua đời. Hương và nhạc lạ lùng xông khắp, vang rền chẳng dứt. Tám ngày sau, sư Pháp Âm cũng ngồi qua đời, tướng lành kỳ lạ đều giống như ngài Huệ Mạng vậy.

 

* Thích Huệ Viễn đời Bắc Châu

 

          Sư họ Lư, người Đôn Hoàng. Mười ba tuổi xuất gia, hai mươi tuổi thọ Cụ Túc, trụ tại chùa Thanh Hóa. Các duyên tụ tập, năm Thừa Quang thứ hai, Châu Vũ Đế (Vũ Văn Ung) muốn diệt pháp giáo, mọi người đều câm lặng. Sư kháng chiếu, cực lực tŕnh bày [chủ ư]. Cạn hết lư luận, chẳng lay chuyển được vua, Sư liền ẩn cư tại Tây Sơn thuộc Cấp Quận, tụng kinh Pháp Hoa. Tính ra trong ba năm, Sư tụng trọn một ngàn lượt với dụng ư [mong cho] di pháp [của đức Phật] được hoằng thông. Năm Đại Tượng thứ hai (580), vua hối lỗi, tại Đông Kinh và Tây Kinh, mỗi nơi dựng hai chùa Trắc Hỗ. Sư bèn đến Thiếu Lâm, giảng kinh Pháp Hoa nhiều năm. Đầu niên hiệu Khai Hoàng [nhà Tùy], triều đ́nh sắc phong Sư làm Sa Môn Đô (người đứng đầu tăng chúng) ở Lạc Châu ḥng khuông nhậm Phật pháp. Mỗi lượt Sư giảng nói, đều có một con ngỗng tới nghe. Nó chỉ cần nghe tiếng chuông gọi đại chúng tụ tập, liền vào trong điện, phủ phục nghe kinh. Nghe phạm bái kết thúc buổi giảng xong xuôi, nó kêu lên rồi bay ra khỏi điện. Suốt sáu năm như vậy, mọi người đều lấy làm lạ. Về sau, Sư thị tịch, trong thất có mùi hương lạ.

 

* Thiên Thai Tu Thiền Tự Trí Giả đại sư đời Tùy

 

          Sư húy là Trí Nghĩ (), họ Trần, người Dĩnh Xuyên. Mẹ Ngài nằm mộng thấy khói hương năm màu vờn quanh chui vào ḷng, bèn có thai Sư. Đêm sanh ra Sư, thần quang chiếu vào nhà. Bảy tuổi, Sư vào chùa Quả Nguyện, nghe tăng tụng phẩm Phổ Môn, vừa nghe một lượt đă nhớ ngay, giống như đă quen tu tập từ kiếp trước. Mười bảy tuổi, Sư lễ tượng Phật, quyết chí xuất gia. Bỗng như trong mộng, Sư thấy vách núi vạn tầng, mây che phủ nửa bóng mặt trời, biển xanh mênh mông, bát ngát. Từ dưới núi [nh́n lên, thấy] trên đỉnh núi có vị Tăng vẫy tay. Trong khoảnh khắc, vị Tăng ấy duỗi tay kéo Sư vào già-lam, nói: “Ông sẽ ở nơi đây”. Mười tám tuổi Sư xuất gia, đến núi Đại Hiền, tụng các kinh Pháp Hoa, Vô Lượng Nghĩa, Phổ Hiền Quán v.v… Trải qua hai mươi ngày, đă tụng thông suốt ba bộ.

          Năm Thiên Gia nguyên niên (560) đời Trần, Sư nghe danh đại thiền sư Huệ Tư trụ tại núi Đại Tô, liền đến đảnh lễ. Ngài Huệ Tư nói: “Xưa kia, tại Linh Sơn cùng nghe Pháp Hoa, do túc duyên theo đuổi, nay lại đến đây”. Do vậy, Tổ dạy Sư Phổ Hiền đạo tràng, giảng Tứ An Lạc Hạnh. Sư nhập quán mười bốn ngày, tụng kinh Pháp Hoa tới câu “thị chân tinh tấn, thị danh chân pháp cúng dường Như Lai” (đấy là thật sự tinh tấn, là pháp cúng dường Như Lai chân thật) trong phẩm Dược Vương, thân tâm rỗng rang, lặng lẽ nhập Định, bèn thấy một hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan, túc thông ngầm phát khởi. Sư bạch với ngài Huệ Tư sở chứng, ngài Nam Nhạc tán thán: “Đấy chẳng phải là ông không chứng, chẳng phải là ta không biết. Môn định mà ông đă nhập chính là tiền phương tiện của Pháp Hoa tam-muội. Môn tổng tŕ mà ông đă phát khởi chính là sơ bộ của Toàn Đa La Ni. Dẫu cho ngàn vạn các vị sư tinh thông văn tự vẫn chẳng thể biện định cùng tột [sở chứng ấy]!”

          Đại Kiến nguyên niên (569), Sư tới chùa Ngơa Quan ở Kim Lăng, khai giảng tựa đề kinh Pháp Hoa. Vua truyền thôi chầu một ngày, sai quần thần đến nghe. Sư liền vào núi Thiên Thai, thấy đỉnh núi ở phía Nam rặng Phật Lũng liền bồi hồi lưu tâm. Trước đó, thần tăng Định Quang đă ở ngọn núi ấy ba mươi năm. Sư đến nơi, ngài Định Quang nói: “Thầy có nhớ lúc tôi vẫy tay và dẫn vào chùa hay không?” Do vậy, Sư bèn ngộ ra ư nghĩa của điều đă thấy khi lễ tượng. Bởi đó, Sư sáng lập già-lam ở ngọn núi phía Bắc, [nơi đó] tùng mọc thẳng tắp, suối chảy giống hệt như trong mộng xưa. Chùa tại ngọn núi phía Bắc được gọi là Hoa Đỉnh. Sư một ḿnh hành Đầu Đà. Từ đấy, bầu trời Bát Nhă rộng mở, xiển dương rộng lớn Pháp Hoa. Thiên Thai gần bờ biển, dân sống bằng nghề đánh cá. Tâm Sư thương xót, dùng tiền được cúng thí để mua một khoảnh biển dùng làm ao phóng sanh. Sư dâng biểu lên vua Trần, xin sắc lệnh cấm đánh bắt [trong khoảnh biển ấy]. Sư v́ họ giảng kinh Kim Quang Minh, ngư dân nghe pháp, đều quư sanh mạng, bỏ sát sanh. Sư gộp sáu mươi ba chỗ thuộc Giang Khê, Ba Lương, hơn ba trăm dặm, đều trở thành pháp tŕ.

          Năm Khai Hoàng 12 (592), Sư sáng lập tinh xá tại núi Ngọc Tuyền ở Đương Dương. Cha con Vũ An Vương Quan Thánh[39] hiển linh xin thọ giới, xin được làm đệ tử hộ pháp. Sư trước tác các sách như Pháp Hoa Huyền Nghĩa v.v… là bậc đại pháp vương sư cả hai triều Tùy và Trần. Mùa Đông năm Khai Hoàng 17 (597), Sư sắp nhập diệt, sai thị giả xướng tụng kinh Pháp Hoa và Vô Lượng Thọ để nghe và tư duy lần cuối. Nghe xong kinh Pháp Hoa, Sư tán thán: “Pháp môn là cha mẹ, huệ giải bởi đó mà sanh. Bổn Tích rộng lớn, vi diệu khó lường, quăng búa, đứt dây đàn vào ngày hôm nay vậy!” Sư nghe kinh Vô Lượng Thọ xong, tán thán: “Bốn mươi tám nguyện, trang nghiêm Tịnh Độ. Ao hoa, cây báu, dễ đi mà chẳng có người! Kẻ thấy tướng xe bốc lửa hiện mà có thể cải hối, c̣n được văng sanh, huống hồ bậc giới huệ huân tu! Do sức hành đạo, thật sự chẳng luống uổng!” Xướng kinh xong, Sư lại nói: “Thập Như, tứ bất sanh, thập pháp giới, tam quán, tứ vô lượng, Tứ Tất Đàn, Tứ Đế, thập nhị nhân duyên, Lục Ba La Mật, mỗi mỗi pháp môn đều nhiếp hết thảy các pháp, đều có thể khiến cho tâm thông đến thanh lương địa”. Nói xong, Sư xướng danh hiệu Tam Bảo, như nhập tam-muội [mà thị tịch]. Sư được chôn tại Phật Lũng Nham trong rặng Thiên Thai. Nói cặn kẽ th́ như trong các sách Quốc Thanh Bách Lục v.v…

 

* Thích Tăng Chiếu chùa Hành Nhạc đời Tùy

 

          Sư nghe pháp tâm quán diệu thiện của ngài Nam Nhạc Huệ Tư bèn đặc biệt đến tham yết. Những điều Tổ chỉ dạy, không điều nào Sư chẳng nhận lănh, giải ngộ. Về sau, Sư vâng theo mạng lệnh của tổ Nam Nhạc Huệ Tư, hành Pháp Hoa tam-muội ḥng tiêu túc chướng. Diệu hạnh sắp viên măn, Sư thấy Phổ Hiền đại sĩ cưỡi voi chúa trắng, phóng quang chứng minh. Lại cảm đấng Phổ Môn đại từ thuyết pháp cho Sư. Từ đấy, đốn ngộ huyền chỉ, biện tài vô ngại. Ở trong đại chúng, Sư tu khổ hạnh và Thiền Định đều là bậc nhất.

 

* Thích Đại Thiện ở Hành Châu đời Tùy

 

          Sư thuở bé sống ở vùng rừng, thường tụng Pháp Hoa. Về sau, Sư tham yết ngài Nam Nhạc, được khai Quán Huệ, cung kính hành Pháp Hoa tam-muội, thâm nhập sâu nhất. Sau này, Sư ngồi xếp bằng qua đời. Trong suốt bảy ngày, trời đổ mưa hoa, mùi hương lạ lắng đọng. Viên quan cai trị Hành Dương là Trần Chánh Nghiệp thường hết sức lễ kính, gặp Nội Sử[40] Trịnh Tăng Cảo bèn mấy lượt ca ngợi đức hạnh của Sư. Thường có thợ săn vây bắt một bầy nai, ông Cảo nói với Chánh Nghiệp: “Ông thường xưng tụng Đại Thiện thiền sư có sức từ bi tam-muội, bầy nai hiện thời sẽ như thế nào đây?” Ông Chánh Nghiệp bèn xướng suất thuộc hạ đồng thanh niệm “nam-mô Đại Thin thiền sư”, bầy nai bèn vọt lên không trung, chạy thoát, mọi người đều kinh hăi, thán phục.

 

* Thích Huệ Thành ở Kinh Châu đời Tùy

 

          Sư họ Đoàn, người Lễ Dương, tụng thông thạo các kinh Pháp Hoa, Duy Ma, Thắng Thiên Vương[41] v.v… Sư gặp ngài Nam Nhạc Huệ Tư đại thiền sư, được dạy nhập Pháp Hoa tam-muội. Sư vâng lời hành tŕ suốt ba năm, ma nghiệp, thiền quỷ nhanh chóng tan mất, dứt tuyệt. Về sau, Sư tới Chi Giang, tạo chùa Thiện Huệ. Tháng Sáu, nước sông dâng cao, trong một đêm có được kèo gỗ tốt. Có ông Đoàn Hoằng Giả là chủ của tinh xá, bỗng tắt hơi. Sư đến nơi th́ ông ta mới sống lại, thưa: “Con bị bắt tới chỗ vua, thấy Sư ở trên điện nói: ‘Người này công đức chưa hoàn tất, xin vua tha cho’. Vua đứng dậy, lễ dưới chân Sư, theo lời Sư nói, thả con về”. Lại có Thường luật sư nửa đêm bắt rận quăng xuống đất, tới sáng, Sư bảo: “Đêm qua có một đàn-việt bị lạnh cóng, đáng thương”. Thường luật sư hết sức hổ thẹn, vĩnh viễn tránh làm như vậy.

 

* Thích Huệ Siêu chùa Ngộ Chân ở núi Chung Nam đời Tùy

 

          Sư họ Trầm, người xứ Đan Dương, xuất gia từ nhỏ, chuyên tụng Pháp Hoa. Nghe nói Huệ Tư đại thiền sư ở Quang Châu riêng ngộ Nhất Thừa, hiểu sâu xa Tam Quán, cùng với ngài Trí Giả trống ḷng, khiết tịnh, ôm áo đến xin theo học. Ngài Huệ Tư nói: “Tâm tánh ông siêu việt, là người sẽ đắc nhẫn”. Tới khi Sư sang Hành lănh, lại cùng đường với ngài Trí Giả. Sư tụng kinh nhiều năm. Về sau, ẩn cư tại Chung Nam, hành đạo tám năm. Tới khi nằm bệnh được ít lâu, Sư triệu tập đồ chúng bảo: “Qua lại là chuyện thường, trường sanh chẳng mừng. [Sáng sanh] tối tử chẳng lo, Đệ Nhất Nghĩa Không, thanh tịnh trí quán là chỗ ta nương cậy”. Nói xong, Sư hướng về Tây, qua đời. Sư nhập đạo lúc chín tuổi, liền tụng kinh Pháp Hoa. Hơn năm mươi năm, tụng hơn một vạn lần, cảm được điều lành linh ứng chẳng thể thuật trọn!

 

* Thích Huệ Oai đời Tùy

 

          Sư là người Giang Lăng, thuở trẻ nương cậy tổ Nam Nhạc, hành Pháp Hoa tam-muội, chuyên nghĩ đến huyền tịch, liền đắc Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn Đà La Ni, nghe hiểu tiếng người lẫn tiếng chim thú. Vừa biết âm thanh ấy, Sư lại phát khởi, chứng thần thông, bay lên không, đi trên nước như bước trên đất bằng, mật hạnh khác thường, chẳng ai có thể lường được!

 

* Thích Quán Đảnh chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai đời Tùy

 

          Sư họ Ngô, người xứ Chương An, Lâm Hải. Sư sanh ra mới ba tháng có thể theo mẹ xưng danh Tam Bảo. Bảy tuổi, Sư xuất tục, mỗi ngày nhớ một vạn chữ. Hai mươi tuổi, Sư thọ Cụ Túc, yết kiến tổ Trí Giả, bẩm thọ quán pháp. Sư nghiên cứu, dùi mài lâu ngày, nhanh chóng được ấn khả. Về sau, Sư theo tổ Trí Giả tới Quang Trạch ở Kim Lăng, nghe giảng Pháp Hoa. Lại ở Ngọc Tuyền thuộc Giang Lăng, thọ lănh Pháp Hoa Huyền Nghĩa và Ma Ha Chỉ Quán. Về già, Sư trụ tại tinh xá Xứng Tâm ở Cối Kê, giảng nói Pháp Hoa. Khi đó, có những lời như “nhảy vọt khỏi lồng rọ, vượt mây, thoát ấn”. Tháng Tám năm Trinh Quán thứ sáu (632), Sư thị tịch, trong thất có mùi hương lạ.

          Sư giáo hóa đạo tục, thần dụng khôn ngằn. Mỗi lần Sư tụng kinh hay tĩnh tọa, thường có hoa trời rơi lăng đăng bên cạnh. Người trong thôn Pháp Long, cách núi ba mươi dặm, bị bệnh sắp chết. Con của người ấy tới núi xin Sư cứu. Sư v́ người đó chuyển đọc kinh Pháp Hoa, đốt hương chiên đàn. Bệnh nhân từ xa ngửi mùi hương xông vào mũi, ngay lập tức khỏi hẳn. Lại nữa, Nam Lănh ở Lạc An có cuộc đất tên là An Châu, cây biếc, khe trong, nước suối xoáy ngầm, đường xá chẳng thông. Sư lẩn quẩn yêu mến, đoái nh́n mà thề rằng: “Nếu cuộc đất này phẳng phiu, sẽ tới đây giảng kinh”. Chưa đầy mười ngày, cát trắng trào lên trọn khắp, đất bằng phẳng như gương ngọc. Sư bèn giảng kinh Pháp Hoa và Kim Quang Minh để đền đáp sự linh ứng ấy.

 

* Thích Chân Quán ở chùa Nam Thiên Trúc thuộc núi Linh Ẩn đời Tùy

 

          Sư họ Phạm, ở Tiền Đường. Từ thuở bé, Sư có tướng lạ, lưỡi có nhiều vằn màu tím. Hai bàn tay trái và phải có đường chỉ h́nh thành chữ Tiên Nhân. Sư tụng kinh Pháp Hoa, mỗi ngày hết một quyển. Năm Khai Hoàng 14 (594), trời đại hạn, [đại chúng] thỉnh Sư giảng kinh Hải Long Vương. Sư giảng phần Tự vừa xong, mưa rào ồ ạt trút xuống. Núi Linh Ẩn ở phía Tây huyện xưa kia được gọi là Tiên Cư. Sư hành Đầu Đà trong nhà đá, đại chúng dựng tinh xá, đặt tên là Nam Thiên Trúc, thỉnh Sư trụ tại đó. Sư thường giảng Pháp Hoa, coi đó là tâm yếu. Mỗi lần Sư rửa mặt, nước thừa rơi xuống chẳng ướt đất, mọi người đều lấy làm lạ. Một hôm, thần Cao Đ́nh thỉnh Sư giảng kinh Pháp Hoa, Sư cảm thần xả nhà làm chùa!

 

* Thích Phổ Minh ở Thiên Thai đời Tùy

 

          Sư vốn tên là Pháp Kinh, họ Châu ở Cối Kê. Lúc c̣n bé, Sư đă chắp tay, xưng Phật hiệu. Bỗng có vị Tăng chỉ bảo Sư đến núi Thiên Thai, nói: “Ở đó có vị Bồ Tát áo mỏng, thuyết pháp hóa độ cơi đời”. Do vậy, năm Đại Kiến 14 (582), Sư đến núi Thiên Thai, phụng sự tổ Trí Giả, chuyên tu sám pháp, hằng ngày tụng Pháp Hoa. Về sau, Sư tới Lư Sơn, ở gác thờ tượng [Văn Thù Bồ Tát do] Đào Khản [t́m được], hành Thỉnh Quán Âm tam-muội. Đang trong lúc Sư hành đạo, cảm một vị dị tăng đổi tên cho Sư thành Phổ Minh. V́ thế, Sư thưa với tổ Trí Giả, Ngài cũng thuận theo. Về già, Sư trở về chùa Quốc Thanh. Chỗ Sư ở cách chỗ có nước quá xa, Sư chỉ đá nói: “Đá phun ra suối th́ cũng chẳng sướng lắm hay sao?” Suối lập tức từ đá phun ra, mỗi ngày cung cấp nước đủ cho cả ngàn người. Tích Trượng Tuyền hiện thời chính là con suối đó.

 

* Thích Trí Việt chùa Quốc Thanh ở Thiên Thai đời Tùy

 

          Sư họ Trịnh, người xứ Nam Dương, ĺa khỏi trần tục từ nhỏ. Sư đi khắp các nơi học đạo. Tới Kim Lăng, gặp tổ Trí Giả, liền chiêm lễ xin theo học, được mật truyền tâm yếu. Ngài Trí Giả về già, quay về Thiên Thai, đem đại chúng [tại Kim Lăng] giao cho Sư. Trong hai mươi năm, Sư lần lượt khéo khuyên dạy, người học quy tâm. Sư suốt đời tụng Pháp Hoa, tính ra hơn một vạn bộ. Chỗ Sư ở, b́nh chứa nước tự đầy. Năm Đại Nghiệp 12 (616), Sư nằm bên hông phải, qua đời. Trời mưa hoa lạ, cả cơi tối sầm.

 

* Thích Trí Tảo đời Tùy

 

          Sư họ Trương, người Lâm Hải. Lúc hai mươi tuổi, Sư lên Thiên Thai, tham yết Trí Giả đại sư, cầu xuất gia. Tổ Trí Giả dạy tụng Pháp Hoa, kiêm tu tam-muội. Tới đêm thứ mười bốn, sau khi sám hối xong, Sư thấy chín con rồng từ dưới đất vọt lên, bay lên hư không. Tới sáng, thưa hỏi, tổ Trí Giả bảo: “Điều này biểu thị chúng sanh trong chín đường (chín pháp giới) nghe kinh Pháp Hoa sẽ phá vô minh trong đời tương lai, nhập pháp tánh Không”. Về sau, Sư chuyển sang trụ tại chùa Bảo Lâm, chuyên tu Pháp Hoa tam-muội. Đêm đầu tiên có quỷ lay lắc cánh cửa. Trong hai mươi mốt ngày, mỗi đêm đều như thế, thậm chí các hiện tượng như đập cột, phá vách, tắt đèn. Sư chẳng bị lay động chút nào, chỉ tọa Thiền, tụng kinh mà thôi. Tới ngày hai mươi mốt hoàn tất, thấy một đồng tử áo xanh tán thán: “Lành thay!” Nói xong, [đồng tử ấy] biến mất.

 

* Thích Trí Hy đời Tùy

 

          Sư họ Trần ở Dĩnh Xuyên, xuất tục từ lúc thơ ấu. Sư tới chỗ tổ Trí Giả núi Thiên Thai, bẩm thọ Thiền quyết và tu tịch định. Sư thường ở đạo tràng tu Thiền tại Phật Lũng, hành Pháp Hoa tam-muội. Khi đó, Sư muốn tạo đài hương. Do gỗ trong rừng cây ở ngọn Hương Lô đẹp đẽ lạ thường, Sư muốn chặt để dùng. Đại chúng nghi rằng đó là chỗ thần ở, [khuyên Sư không nên đụng đến]. Đêm đó, Sư mộng thấy thần tặng cho, bảo: “Cây sanh bách ở ngọn Hương Lô đều xả hết để làm đài kinh”. Sư bèn chặt cây. Có vị tăng tên Pháp Vân muốn lên đỉnh núi tọa Thiền, Sư ngăn trở bảo: “Ông đạo lực yếu ớt, sơn thần mạnh mẽ, chẳng nên đi”. Pháp Vân không nghe. Mới vừa một đêm, sơn thần hiện h́nh đuổi về, mới hiểu ư của Sư nói trước đó, sanh ḷng kính ngưỡng sâu xa. Sư từng đến tháp báu của vua A Dục, lễ tám vạn bốn ngàn lạy. Trinh Quán nguyên niên (627), Sư ngồi ngay ngắn, xếp bằng, vẫn cầm Như Ư thuyết pháp, đệ tử hỏi: “Thầy sẽ sanh về chỗ nào?” Đáp rằng: “Như ta thấy trong giấc mộng, sẽ sanh lên Đâu Suất”. Sư nghiễm nhiên như nhập Thiền Định. Trên hư không có tiếng đàn sáo, rất lâu sau [tiếng nhạc] mới dứt.

 

* Thích Pháp Hưởng chùa Chánh Kiến ở Dương Châu đời Tùy

 

          Sư họ Lư, người Duy Dương. Sư xuất gia siêng ṛng, theo học với tổ Trí Giả, chuyên tụng Pháp Hoa. Ở bên cạnh chùa Thê Hà tại Nhiếp Sơn, Sư lập Pháp Hoa đường, hành tam-muội sám pháp. Hai mươi mốt ngày tinh tấn, đạt được điềm lành linh ứng to lớn, Sư yên lặng chẳng nói. Trong núi có hổ dữ gây hại, đại chúng thiết đại trai để giải trừ tai ương. Bỗng hổ xông vào đại chúng, quắp một người chạy đi. Sư lớn tiếng hô: “Hôm nay chuyên v́ ngươi lập trai đàn, hăy nên thả người đó”. Hổ liền thả kẻ đó trở về. Sau đó, mấy chục con hổ tụ tập nơi trai đàn, mọi người kinh sợ, tránh né. Sư lấy tích trượng gơ vào cổ hổ thuyết pháp. Kể từ đó, chúng lánh xa, chẳng thấy tung tích.

 

* Thích Đẳng Quán đời Tùy

 

          Sư họ Tôn, người Phú Dương, thọ Tâm Quán từ tổ Trí Giả. Sư sống tại Thiên Thai, thường tụng Pháp Hoa. Trong niên hiệu Trinh Quán, Sư sang chùa Pháp Nhẫn ở Dư Hàng, khai giảng pháp ṭa. Ngày mồng Một Tết, có người mặc y phục của bậc vương giả, xưng là thần Cao Đ́nh đến yết kiến, xin nhận lănh giới pháp. Sư liền lấy ḷ thắp hương, truyền thọ Bồ Tát đại giới. Thần lễ tạ ra đi.

 

* Thích Đại Chí chùa Phước Lâm tại Lư Sơn đời Tùy

 

          Sư họ Cố, người Cối Kê, xuất gia từ thuở để chỏm. Sư theo hầu ngài Thiên Thai Trí Giả. Năm Khai Hoàng thứ mười (590), Sư đến Lư Nhạc, trụ tại chùa Hoa Đảnh, tụng kinh Pháp Hoa, thanh nhàn, tĩnh lặng. Tiếng tụng kinh trong trẻo, lan xa, mọi người đều thích nghe. Về sau, Sư dựng đạo tràng Tĩnh Quán trước ngọn Cam Lộ, tu hạnh Đầu Đà. Sư trơ trọi một thân, chẳng tránh né hổ, sói. Mỗi khi Sư bước chân vào chỗ chúng, hổ đều tránh đi!

 

* Thích Đạo Duyệt ở núi Thanh Khê thuộc Kinh Châu đời Tùy

 

          Sư họ Trương ở Chiêu Khâu, xuất gia tại chùa Ngọc Tuyền. Sư tánh khí trầm tĩnh, sâu lắng, tụng Pháp Hoa lâu năm. Thoạt đầu, ngài Trí Giả vào Ngọc Tuyền, chẳng có chuông khánh. Từ nguồn nước, Sư t́m được một mảnh đá lạ, bèn treo lên để gơ, âm thanh ngân nga trong trẻo. Mỗi lần Sư tụng kinh, tiếng như nước suối trong tuôn róc rách. Trọn hết một quyển, Sư lại gơ khánh một tiếng, người nghe nghiêm túc. Sư thọ thực, thường lưu lại một chút để thí cho loài chim cá. Ḷng từ thiện hun đúc, chúng hoặc bay đến đậu trên vai, hoặc bơi vẫy vùng trên tay, các điềm cảm ứng tốt lành chẳng phải chỉ một!

 

* Thích Đàm Tuân núi Bách Tiêm ở Hoài Châu đời Tùy

 

          Sư họ Dương, người xứ Hoa Âm. Sư xuất gia tại núi Bạch Lộc, chuyên tụng Pháp Hoa. Sư nghe nói Trù thiền sư chùa Vân Môn thuộc Long Sơn là bậc tông tưng về Thiền Định, xưa nay ít ai sánh bằng, liền t́m đến đảnh lễ. Về sau, Sư chuyển sang ở trong hang Lộc Thổ để tu Thiền, khiến cho suối khô có nước trở lại, hươu nai nhiễu quanh viện. Khi đó, do giảng pháp, Sư tạm thời qua Vân Môn, gặp phải đường tối, sương mù mờ mịt, cảm vời sơn thần chỉ đường. Sư lại c̣n đi trong núi gặp hổ đang đấu sức với nhau đă rất lâu chẳng ngừng, Sư dùng tích trượng tách ra, dùng thân ngăn trở chúng. Cọp cúi đầu, bỏ chạy. Sư thường nhập Thiền Định, lấy bảy ngày làm hạn. Trong niên hiệu Khai Hoàng, vua ban chiếu khen ngợi sự thần dị của Sư.

 

* Thích Đàm Vận ở Úy Châu đời Tùy

 

          Sư người Định Châu, xuất gia từ bé, luôn tụng Pháp Hoa. Sư dạo khắp Ngũ Đài, thấy trọn các tướng trạng linh ứng. Sư ngừng chân nơi chùa Mộc Qua ở Bắc Đài hơn hai mươi năm, Thiền Tụng chẳng sót. Cuối đời Tùy, rối ren, loạn lạc. Sư đă bảy mươi, bèn ẩn cư trong núi Tỷ Can, suốt ngày đêm nhiếp tâm chẳng biếng nhác. Sư thường muốn chép kinh Pháp Hoa, nhưng nhiều năm chưa thực hiện được. Chất chứa ư nguyện đă lâu, bỗng có một thư sinh tới nói anh ta giỏi chép kinh, nguyện thành tựu chí nguyện của Sư. Do vậy, quét dọn thất, dọn sạch đất, ngậm hương, lặng lẽ chép, ra th́ giữ giới, vào th́ tắm rửa. Chưa đầy mười ngày, bảy quyển đều xong. Sư toan đưa tiền công th́ khoảnh khắc chẳng thấy [thư sinh] đâu nữa. Về sau, do giặc Hồ bỗng ập tới, Sư giấu kinh trong hang đá. Sau một năm giặc mới yên, Sư trở về, t́m kinh chẳng thấy. Sau đó, t́m được kinh trong lùm cỏ dưới vách núi. Rương đựng kinh và vải bọc đều hư nát, nhưng quyển kinh vẫn y như cũ. Năm Trinh Quán 11 (637), Tuyên luật sư (ngài Đạo Tuyên) đích thân thấy chuyện ấy.

 

* Thích Huệ Hải chùa An Lạc ở Giang Đô đời Tùy

 

          Sư người Thanh Hà, họ Trương, tuổi thơ nhập đạo, lấy Tịnh Độ làm điều cầu mong. Sư chuyên ṛng nên được cảm vời. Bỗng có vị tăng ở Tề Châu là Đạo Thuyên mang tượng Vô Lượng Thọ Phật đến, vi diệu, tinh xảo chưa từng có trong đời, nói: “Đây là do Ngũ Thông Bồ Tát ở chùa Kê Đầu Ma tại Thiên Trúc, bay lên không trung, đến thế giới An Lạc, vẽ vời tôn dung. Sư ngầm hiểu thịnh t́nh, ôm ḷng lễ kính sâu xa, bèn thấy thần quang chiếu sáng rực, mừng rỡ trước điềm hiếm có. Tháng Năm năm Đại Nghiệp thứ năm (609), Sư bỗng hướng về Tây lễ bái xong, ngồi xếp bằng qua đời. Sư ngầm hành Ban Châu, về già càng chuyên dốc, giảng kinh Pháp Hoa năm mươi lượt. Sư hoằng pháp lợi sanh, dốc ḷng nơi Tịnh Độ, đáng gọi đứng đầu thuở ấy.

 

* Thích Huệ Cung chùa Chiêu Đề tại Ích Châu đời Tùy

 

          Sư kết bạn với vị Tăng đồng học là Huệ Viễn. Về sau, Sư sang Kinh Dương hỏi đạo rồi trở về, thấm thoát đă ba mươi năm. Ban đêm tṛ chuyện, Huệ Viễn nói như nước chảy, Sư lặng thinh, chẳng đáp được. Huệ Viễn nói: “Nhân giả có sở đắc ǵ chăng?” Sư thưa: “Tánh tôi tối tăm, chẳng hiểu biết ǵ!” Huệ Viễn nói: “Có tụng nổi kinh nào hay không?” Sư đáp: “Chỉ tụng một quyển phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa, tôi sẽ tụng cho thầy nghe, chỉ nên chí tâm nghe”. Sư bèn kết đàn, lên ṭa cao, vừa mới thốt ra tiếng xướng đề kinh, đă cảm thấy có mùi hương. Lâu sau, nghe tiếng thiên nhạc rền trời, mưa hoa tán loạn. Kinh tụng xong, [các hiện tượng ấy] mới hết. Huệ Viễn kính lễ, cảm tạ.

 

* Thích Pháp Sung đời Tùy

 

          Sư là người Cửu Giang, họ Tất, thường tụng Pháp Hoa, kiêm thông Đại Phẩm. Sư trụ tại chùa Hóa Thành ở Lư Sơn, thường khuyên tăng chúng chẳng cho nữ nhân vào chùa, v́ sẽ thương tổn sự giáo hóa của Phật, rơi vào sự đồn đăi của thói tục. Thoạt đầu, tăng chúng chẳng nghe theo. Sư liền ở trên đỉnh Hương Lô trong núi, gieo ḿnh xuống, thề nát xương cốt, cầu sanh Tịnh Độ. Bỗng đang ở trong không trung, đầu tự xoay lên trên, nhẹ nhàng rơi xuống, thân chẳng tổn hoại tí nào! Đại chúng cảm động trước hiện tượng lạ ấy, cùng răn nhau bắt đầu chẳng cho nữ nhân vào chùa. Cuối niên hiệu Khai Hoàng, Sư ngồi qua đời, đang lúc nắng gắt mà thân thể chẳng hư hoại, mùi hương lạ ngập thất.

 

* Thích Pháp Lăng đời Tùy

 

          Sư họ Hứa, người Nam Dương, không cư trụ nhất định một chỗ nào; phần nhiều trụ tại Ngạc Châu. Khi đó, Sư tụng đọc các kinh, nhưng chí chuyên chú nơi Pháp Hoa. Sư thề nguyện trong sạch tụng niệm: Hễ cứ một lần tụng là bảy lượt. Lâu ngày như thế, tiếng tụng kinh như sấm động, xa gần đều nghe rơ ràng. Người đời gọi Sư là Pháp Hoa Lăng. Có tỳ-kheo-ni bị quỷ dựa, siêu ngộ huyền giải, ai cũng gọi là bậc thông ngộ. Sư nói: “Đó là tà quỷ”. [Sư đến chỗ bà ni ấy], cao giọng quở trách, quỷ mị kinh sợ rời đi, bà ni ấy đột nhiên mất sạch biện tài!

 

* Thích Pháp Hỷ ở Ung Châu đời Tùy

 

          Sư người Tương Dương, họ Lư, bảy tuổi xuất tục, dốc chí tŕ Pháp Hoa. Trong niên hiệu Nhân Thọ (601-604), Sư trụ tại chùa Thiền Định ở kinh đô, muốn ngầm cầu sự linh ứng, thề tụng kinh Pháp Hoa một ngàn lần. Do vậy, Sư không ở trong thất cũ, mà vừa đi kinh hành, vừa tụng niệm đủ số tám trăm lượt, thệ tâm chẳng tán loạn. Tăng chúng cùng chùa bỗng thấy có xe báu anh lạc vào trong pḥng Sư, ép Sư cho vào xem, trọn chẳng thấy ǵ, mới biết là do ngầm thông mà cảm vời vậy.

 

* Thích Pháp Thành ở chùa Ngộ Chân núi Chung Nam đời Tùy

 

          Sư người Ung Châu, họ Phàn, trụ tại chùa Vương Hiệu ở Lam Điền, chuyên tụng Pháp Hoa. Sư quảy tráp đến thăm các danh sơn, thề dốc ḷng phụng hành Pháp Hoa tam-muội, mộng cảm vời Phổ Hiền Bồ Tát khuyên biên chép Đại Thừa. Sư liền mướn người chép tám bộ Bát Nhă. Lại tạo Hoa Nghiêm đường, dốc cạn ḷng tinh thành để biên chép, thọ tŕ. Khi đó, Hoằng Văn Học Sĩ Trương Tĩnh vốn giỏi viết lách, Sư bèn thỉnh [ông ta] đến chùa trên núi, bảo ông ta ngậm hương chép trọn một bộ. Khi đó, cảm con chim lạ bay tới án chép kinh, tự nhiên nhảy ṿng quanh. Đầu thời Trinh Quán, Sư đích thân chép Pháp Hoa. Khi đó, Sư đang ở nơi đất trống, do có chuyện phải đi, chẳng thâu cất được, gặp lúc mưa to trút xuống. Sư vội vàng trở về xem, cả án chép kinh khô ráo, những thứ khác đều bị cuốn trôi. Mùa Hạ năm Trinh Quán 14 (640), Sư bảo người hầu: “Ta nghe nói các hành vô thường, sanh diệt chẳng trụ, chín phẩm văng sanh lời ấy ứng nghiệm. Nay có đồng tử đến đón rước, ta sẽ ĺa đời”. Nói xong, miệng Sư phóng quang minh, chiếu khắp cả nhà. Lại nghe mùi hương lạ ngào ngạt, Sư ngồi ngay ngắn, qua đời. Sư tụng tập Pháp Hoa, tính đại lược là mười năm, hơn một vạn lần!

 

* Thích Pháp An đời Tùy

 

          Sư trụ tại chùa Kiến Nguyên, thông thạo rộng khắp lẽ huyền yếu, tụng Pháp Hoa đă lâu, giảng hơn bốn mươi lần. Bỗng bốn góc của giảng ṭa đều sanh một lùm hoa có mười mấy nhánh, trắng vàng xen lẫn, h́nh dạng giống như hoa sen, hương quang rạng rỡ. Mười ngày sau, lại ở bên bục giảng của Sư và chỗ ngồi của đại chúng, đều sanh tám chín đóa hoa, một tháng mới héo. Đạo tục kéo đến xem, tán thán là điềm lành lạ lùng.

 

* Thích Pháp Thái đời Tùy

 

          Sư là người Long Sơn ở My Châu, thường tụng Pháp Hoa, tự tay chép một bộ kinh, có mấy điều linh ứng. Sư mang kinh sang Ích Châu để trang hoàng, bỗng đánh rơi tráp đựng kinh xuống nước dưới cầu, t́m chẳng được. Sư buồn khóc, đi dọc theo hai bên bờ, bỗng thấy trên một cù lao nhỏ có một cái bọc, sai người ra lấy về th́ ra là kinh. Được cỏ cây nâng đỡ, kinh trọn chẳng bị ướt chỗ nào. Sư hoan hỷ khôn cùng, liền đem tới Thành Đô trang hoàng xong, dùng đàn hương làm trục, trang hoàng tột bậc trang nghiêm, đem về thờ ở chùa ḿnh. Mỗi đêm, mùi hương lạ đầy nhà. Sư siêng năng tŕ tụng, mỗi đêm ắt tụng hết một bộ. Khi đó, có Bưu pháp sư tới giảng kinh ở chùa đó. Đêm đến, Bưu pháp sư tới chỗ Sư tụng kinh, thấy có nhiều người hồ quỳ chắp tay, Bưu pháp sư toát mồ hôi, lui về.

 

* Thích Huyền Tú ở chùa Tế Hoa thuộc Hoàng Châu đời Tùy

 

          Sư luôn tụng Pháp Hoa, thường có tướng lạ. Khi đó, đang mùa hè nóng bức, Sư vừa mới tụng kinh xong. Tăng chúng trong chùa thấy có người hộ vệ nghiêm túc bên cạnh, sợ hăi bảo các đồng bạn cùng đến xem th́ thấy không chỉ giống hệt như trước, mà lại c̣n đầy ắp trên không. Tứ chúng đều xưng là thần dị.

 

* Thích Hạnh Kiên đời Tùy

 

          Sư thường tu Thiền Quán, tiết tháo nghiêm cẩn. Sư ngẫu nhiên đi sang phương Đông, trên đường ngang qua Thái Sơn. Đêm xuống, ngụ tại miếu thờ thần núi. Ông từ coi miếu nói: “Những người ngủ nhờ gần đây, phần nhiều bị chết bất ngờ, chớ nên ở lại”. Sư không nghe, cứ trải rơm bên gian xép của miếu, ngồi ngay ngắn tụng kinh. Khoảng canh một, nghe trong miếu có tiếng ṿng ngọc rung. Trong chốc lát, thần xuất hiện, áo mũ rất to lớn, thuộc hạ rầm rộ. Thần hướng về Sư chắp tay; do vậy, Sư mời ngồi tṛ chuyện như trong khoảng bữa ăn, Sư hỏi: “Cơi đời truyền tụng Thái Sơn cai quản quỷ, có chuyện ấy hay không?” Thần đáp: “Có ạ, há chẳng phải là Sư muốn thấy người đă mất ư?” Sư đáp: “Tôi có hai vị tăng đồng học đă chết, mong gặp một lần”. Thần hỏi tên tuổi rồi thưa: “Một người đă sanh trong nhân gian, người kia c̣n trong ngục chịu đối chất, chẳng thể gọi đến. Sư đến gặp th́ được”. [Thần liền sai người hầu] cùng Sư đến một chỗ, thấy trong ngục ánh lửa hết sức hừng hực. Sứ giả dẫn Sư vào. Từ xa, Sư thấy một người ở trong lửa kêu gào, máu thịt bị thiêu hôi thối. Sư chẳng nỡ ḷng nh́n, thương xót xin trở ra, lại ngồi cùng với thần, Sư hỏi: “Tôi muốn cứu đồng học có được hay chăng?” Thần nói: “Được chứ! Có thể v́ người ấy chép kinh Pháp Hoa, ắt sẽ được miễn tội”. Sắp sáng, thần cáo từ trở vào miếu. Ông từ coi miếu thấy Sư chẳng chết rất lạ lùng. Sư rời đi, vội thực hiện nguyện trước. Chép kinh và trang hoàng xong xuôi, Sư cầm đến miếu ngủ lại. Thần hiện ra như lúc trước, hoan hỷ lễ bái nói đă biết Sư v́ người ấy chép kinh: “Vừa mới viết đề kinh, người ấy đă được thoát nạn. Nay đă sanh trong nhân gian”. Đó là chuyện trong niên hiệu Đại Nghiệp.

 

* Cư sĩ Lục Thuần đời Tùy

 

          Ông là người Ngô Quận, tâm thường mộ đạo. Ngày đêm tụng tŕ một bộ kinh Pháp Hoa. Về sau, ông bỗng bị bệnh, nằm ngửa, nh́n lên nóc nhà, mắt chẳng tạm nháy. Có vị Tăng quen biết đến thăm bệnh, nhân đó hỏi v́ sao ông nằm ngửa ngó lên kèo nhà vậy? Ông nói: “Phật thọ kư Lục Thuần sẽ sanh lên trời Dạ Ma. Nay tôi thấy cung điện, thành khuyết trên cơi trời và các thiên chúng, cho nên ngắm nh́n chẳng mỏi mệt vậy”.

 

* Nghiêm Cung ở Tương Châu đời Tùy

 

          Trong niên hiệu Khai Hoàng đời Tùy, người xứ Tưng Châu là Nghiêm Cung suốt đời tịnh tâm quy y Phật pháp. Ông tạo tinh xá ở ngoài thành, chép kinh Pháp Hoa, thanh tịnh cúng dường. Giấy bút biên chép đều chú trọng tinh sạch, tốt đẹp nhất, tín tâm bố thí, chẳng dám dối trá. Hễ có tiền liền thực hiện, chẳng hề xin xỏ ai. Chép xong quyển nào, ông đều đích thân ḍ theo từng chữ để kiểm giảo, đă lâu ngày mà chẳng bỏ bê hay mỏi mệt. Từng có người vay ông một vạn đồng, ông Cung bất đắc dĩ phải đưa cho. Người vay tiền ngồi thuyền bị lật thuyền, tiền mất sạch, chỉ được thoát thân. Ngày hôm ấy, ông Cung vào kho trong nhà, thấy món tiền đă cho vay ướt như bị nhúng nước. Về sau, ông nghe chuyện ấy, mới biết là linh dị!

 

* Vương Phạm Hạnh ở Lâm Nghi đời Tùy

 

          Thuở bé ông bị mù, mẹ thương xót, dạy truyền khẩu kinh Pháp Hoa. Ông áo vải, ăn chay, thiền tụng chẳng thiếu sót. Tính ra đă tụng được một vạn bảy ngàn bộ. Về sau, ông ngồi xếp bằng qua đời. Di ngôn bỏ xác trong thi lâm (cánh rừng để bỏ xác). Lâu ngày, thịt da đă hết sạch, chỉ có lưỡi chẳng hoại, màu như hoa sen.

 

* Thôi Ngạn Vũ ở Ngụy Châu đời Tùy

 

          Trong niên hiệu Khai Hoàng đời Tùy, thứ sử Ngụy Châu là Thôi Ngạn Vũ quê tại Bác Lăng, nhân đi đường bộ, tới một ấp, bảo người theo hầu: “Đời trước, ta từng làm một người đàn bà trong ấp này, nay muốn đến xem”. Do vậy, cưỡi ngựa đi vào ngơ hẹp, tới nhà đó, sai người gơ cửa. Một cụ già ra chào. Ngạn Vũ vào nhà, nh́n vào chỗ cao trên vách phía Đông, nói với chủ nhân: “Xưa kia, ta từng cất kinh Pháp Hoa và năm cây thoa vàng ở đó. Cuối quyển bảy của kinh bị lửa đốt mất mấy hàng chữ. Nay mỗi lần tụng kinh đến đó, tâm liền như quên mất”. Ông sai tả hữu đục tường ra xem, hoàn toàn đúng như ông đă nói. Chủ nhân khôn cầm nước mắt. Ngạn Vũ biếu xén trọng hậu rồi đi.

 

* Đạo Tuyên luật sư chùa Tây Minh ở kinh đô đời Đường

 

          Sư người Hồ Châu, con của Lại Bộ Thượng Thư Tiền Thân đời Tùy. Khi mẹ có thai, mộng thấy một vị Phạm tăng nói: “Bà mang thai luật sư Tăng Hựu”. Sư mười sáu tuổi tụng kinh Pháp Hoa, hai mươi ngày bèn thông suốt. Trong niên hiệu Vũ Đức, Sư ẩn tích tại Chung Nam. Chỗ ở thiếu nước, thần nhân chỉ chỗ, đào xuống chừng hơn một thước, suối tự phun trào. Do vậy, đặt tên chùa là Bạch Tuyền Tự. Về sau, Sư dời sang chùa Phong Đức, do hành Ban Châu định, cảm các rồng lễ yết, cúng dường kỳ hoa dị quả. Sư giới đức vượt người, soạn Tứ Phần Luật Sao. Lại biên soạn Nội Điển Lục, Tam Bảo Cảm Thông Lục, Quảng Hoằng Minh Tập, Tục Cao Tăng Truyện.

          Trong niên hiệu Trinh Quán, Sư ẩn cư trong núi Vân Thất, mọi người thấy đồng tử cơi trời hầu hạ chung quanh. Ban đêm, Sư kinh hành tại Tây Minh, bước lên bậc vấp ngă, có thiếu niên mặc giáp trụ nâng đỡ. Sư hỏi: “Là vị thần nào vậy?” Đáp: “Tôi chính là Na Tra, con của thiên vương Tỳ Sa Môn. Do Sư giới đức cao diệu, cho nên đến hộ vệ bên cạnh”. Sư bèn hỏi cặn kẽ các chuyện trong Phật pháp, thần nhất nhất trả lời. Thần trao cho Sư răng Phật và tay báu để làm chứng cớ tin tưởng rồi ẩn mất. Mùa Xuân năm Càn Phong thứ hai (667), Sư cảm thiên nhân đến đàm luận luật tướng. Một hôm, lại có một vị trời đến lễ yết, nói: “Luật sư sẽ sanh về cung trời Đổ Sử (Đâu Suất)”. Vị ấy cầm một vật thưa: “Đây là Cức Lâm Hương”. Ngày mồng Ba tháng Mười, Sư an tọa qua đời, hiệu là Nam Sơn Giáo Chủ Trừng Chiếu đại sư. Khi Sư viết lời tựa cho kinh Pháp Hoa, Vi Đà Thiên do tôn sùng Pháp Hoa, chưa thay lời nói đầu, đă bẩm báo mười phương chư Phật, chư Phật đều cùng ấn khả, bài tựa ấy mới được lưu truyền, tức là bài tựa được hoằng truyền hiện thời.

 

* Thích Cát Tạng đời Đường

         

          Sư họ An, vốn là người An Tức[42], đời tổ tiên di cư tới Nam Hải. Sư bảy tuổi xuất gia, sau đó thọ Cụ Túc Giới, mang chí hướng truyền đăng, tiếp tục chuyển pháp luân. Sư trụ tại chùa Nhật Nghiêm ở kinh đô, khai giảng Pháp Hoa. Người nghe tin kéo đến nghe, tính ra cả vạn. Đầu niên hiệu Đại Nghiệp, Sư chép một ngàn bộ Pháp Hoa, lại riêng đặt tượng Phổ Hiền Bồ Tát, cung kính đối trước tượng tọa Thiền, quán lư Thật Tướng. Năm Vũ Đức thứ sáu (623), Sư đổi sang trụ tại chùa Diên Hưng, các thứ cúng dường khác lạ đua nhau đưa đến. Sáng một ngày nọ, Sư đốt hương, ngồi xếp bằng qua đời. Lúc ấy đang nhằm khi nắng gắt, vẻ mặt Sư càng tươi sáng, [môn nhân] khắc đá chôn Sư ở Bắc Nham. Sư b́nh sanh giảng kinh Pháp Hoa hơn ba mươi lượt. Lúc sắp mất, Sư soạn bài luận Tử Bất Bố (chết không sợ), [đại ư] như sau: “Tử do sanh mà có, hăy nên khóc v́ được sanh ra, chớ nên sợ chết”. Văn c̣n nhiều, chẳng chép thêm!

 

* Thích Huệ Chủ đời Đường

 

          Sư người Thỉ Châu, họ Giả. Thoạt đầu, Sư tới kinh đô thọ Cụ Túc Giới tại chùa Cam Lộ. Sư chuyên tụng kinh Pháp Hoa, cảm sơn thần dâng cúng. Sư sáu thời hành đạo, chim, thú bay theo, giống như ngưỡng mộ, lắng nghe. Sư c̣n trao truyền Bồ Tát giới cho u lẫn hiển. Trong niên hiệu Vũ Đức, Sư ở tại chùa Hương Lâm. Khi đó Lăng Dương Công đến Ích Châu, dẫn theo hơn một trăm con vật chở nặng đến chùa, xếp chúng trong giảng đường, không ai dám trái ư. Sư thấy uế tạp, liền vào Tăng pḥng, cầm tích trượng và ba y ra, giơ trượng, hướng về bọn la, lừa, chúng cùng lúc ngă nhào. Huyện quan hết sức kinh hoảng, bắt Sư lên tố cáo. Lăng Dương Công chẳng trách móc chút nào, chỉ nói: “Nhờ Sư phá keo tham, được lợi ích to lớn sâu xa”, tặng mười cân trầm hương. Sau khi trở về kinh, ông ta bèn thọ giới Bồ Tát.

 

* Thích Huyền Trang chùa Đại Từ Ân ở kinh đô đời Đường

 

          Sư họ Trần, người huyện Trần Lưu. Lúc mười một tuổi, Sư thường tụng Pháp Hoa và Duy Ma, tánh cang cường, chánh trực, bất khuất. Năm Trinh Quán thứ ba (629), Sư sang Tây Vực thỉnh các kinh chưa được truyền sang Trung Hoa. Sư đến nước Khúc Xà, cùng các thương nhân vượt qua sông Căng Già (sông Hằng). Phong tục nước ấy chuyên dùng người để tế trời, họ sắp giết Sư để tế. Bỗng gió lớn nổi lên, cát bụi đầy trời, mặt trời đang giữa ban ngày mà tối sầm. Họ cho rằng Sư là thánh nhân, Sư bèn được thả ra. Sư tới Trung Thiên Trúc, được nghe luận Du Già Sư Địa. Sư vào thành Vương Xá, từ Thượng Phương Giới Hiền luận sư học sâu xa lẽ bí áo trong Đại Thừa, trí chứng ngày càng tăng. Sư đi qua hơn một trăm năm mươi nước. Mười chín năm sau, Sư chở kinh và tượng về kinh đô. Sau đó, Sư dịch kinh luận tính ra bảy mươi lăm bộ. Tháng Hai năm Lâm Đức nguyên niên (664), Sư từ biệt đại chúng, sai người xung quanh niệm Di Lặc Như Lai, nằm an tường bên hông phải qua đời. Có dị tăng dâng hương để bôi lên thân thể Sư. Vua xuống chiếu chuẩn theo chuyện an táng Thế Tôn [để cử hành tang ma]. Tháp thờ Sư ở Bắc Nguyên thuộc Phàn Xuyên.

 

* Thích Huyền Uyển chùa Phổ Quang ở kinh đô đời Đường

 

          Sư họ Dương, người Hoa Âm, giảng diễn Pháp Hoa Đại Thừa v.v… và tham cứu sâu xa lư huyền áo, khéo tŕnh bày chỗ u vi. Năm Nhân Thọ (602) thứ hai, Sư tạo tượng vàng Thích Ca Như Lai cao một trượng sáu. Ḷng chí thành ngầm cảm ứng, trời mưa diệu hoa, bay lả tả như vân mẫu[43]. Đêm ấy, nhạc trời vang rền khắp không trung, cho tới b́nh minh mới dứt. Vào giới kỳ nhằm ngày mồng Tám tháng Hai mỗi năm, Sư nương theo hai mươi lăm vị Phật để chuyển đọc thần chú một ngàn lượt, tinh khiết, trai giới, kinh hành. Đầu niên hiệu Trinh Quán, vua sắc truyền hoàng thái tử và các vương đến thọ Bồ Tát giới từ Sư. Anh em Tả Bộc Xạ[44] Tiêu Vũ thường thưa hỏi ư chỉ “hội tam quy nhất” trong hội Pháp Hoa, Sư v́ họ phân tích lặp đi lặp lại chẳng mệt mỏi. Hữu Bộc Xạ Đỗ Như Hối để lại di ngôn, nguyện trải kiếp số làm đệ tử của Sư. Mỗi lần Sư truyền giới, thuyết pháp, có đồng cốt nói: “Thấy có dị loại quỷ thần từ các phương tụ lại, ra vẻ như đang nghe nhận”.

 

* Thích Khuy Cơ chùa Đại Từ Ân đời Đường

 

          Sư họ Uất Tŕ, người Trường An, là đệ tử của ngài Huyền Trang. Sư thông hiểu giáo pháp Đại Tiểu Thừa. Về sau, Sư đến Ngũ Đài, trụ tại Tây Hà Cổ Tự, thấy quyển kinh tỏa ánh sáng. T́m xem th́ ra là Di Lặc Thượng Sanh Kinh. Sư bèn cất bút soạn sớ. Từ đầu ngọn bút, thu được hai mươi bảy viên xá-lợi, hồng nhuận, đáng yêu. Sư tướng mạo trông thô to, nhưng tâm từ bi, hóa đạo khắp chốn. Sư sang Đông tới Bác Lăng, giảng kinh Pháp Hoa, lại c̣n soạn đại sớ. Sư từng tạo tượng Văn Thù Bồ Tát bằng ngọc, viết kinh Đại Bát Nhă bằng chữ vàng. [Tượng và kinh] đều tỏa thần quang sáng ngời khắp thất. Thoạt đầu, ngài Huyền Trang đích thân truyền dạy Du Già Sư Địa Luận, Sư lănh thọ trọn hết chỗ mầu nhiệm. Trong nước gọi Sư là Từ Ân pháp sư.

          Khi đó, Đạo Tuyên luật sư do hoằng dương Luật, cảm bếp trời cúng dường thức ăn, thường chê trách Sư đi đâu cũng phải có ba xe[45], chẳng đáng kính lễ. Sư từng tới thăm ngài Đạo Tuyên, hôm ấy đă quá ngọ mà thiên nhân chẳng dâng thức ăn. Sư đi rồi, thiên thần mới giáng xuống. Ngài Đạo Tuyên gạn hỏi v́ sao lại đến sau giờ Ngọ. Vị trời ấy đáp: “Vừa rồi tôi thấy bậc Đại Thừa Bồ Tát ở đây, được [chư thiên, quỷ thần] hộ vệ chung quanh rất nghiêm. Thần thông của bọn tôi không đủ sức để tiến vào!” Ngài Đạo Tuyên nghe nói mới bắt đầu kính phục [ngài Khuy Cơ].

 

* Thích Trí Thông ở chùa Thê Hà Tự thuộc Nhiếp Sơn đời Đường

 

          Sư trụ tại chùa Bạch Mă ở Dương Châu, chuyên học tập Tam Luận (Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận, và Bách Luận). Sau đó, vượt sông, trụ tại An Lạc Tự. Gặp lúc nhà Tùy mất nước, Sư nghĩ cách trở về, nhưng chẳng có cách nào, ẩn ḿnh trong đám lau lách bên sông, tụng kinh Pháp Hoa. Bảy ngày chẳng đói, luôn có bốn con hổ đi tuần chung quanh. Bỗng Sư thấy một ông lăo cắp nách một chiếc thuyền bé, đến nói: “Mời Sư vượt sông”. Trí Thông lên thuyền, bốn con hổ ẩn núp, không chịu đi. Sư nói: “Chẳng vượt sông ư?” Hổ bèn đứng lên, liền cùng Sư vượt sông sang bờ Nam. Thuyền cập bờ, bỗng chẳng thấy ông lăo đâu nữa. Sư dẫn bốn con hổ trụ tại chùa Thê Hà. Trong niên hiệu Trinh Quán, khi Sư chín mươi chín tuổi, ngồi ngay ngắn qua đời. Hổ gào rống bi thương rồi bỏ đi.

 

* Thích Trí Diễm ở chùa Thông Huyền tại Tô Châu đời Đường

 

          Sư họ Châu, người Ngô Quận. Lúc mười hai tuổi, tụng thông thạo kinh Pháp Hoa. Về sau, thọ Cụ Túc Giới từ Diên pháp sư chùa Tần Hoàng. Sư giữ oai nghi trang nghiêm, đạt sâu xa căn bản của giới. Năm Vũ Đức thứ bảy (624), Sư trở lại núi cũ, thường hành các sám pháp Pháp Hoa, Kim Quang Minh, Phổ Hiền v.v… Tụng kinh Pháp Hoa hơn ba ngàn lượt, giảng Niết Bàn và Pháp Hoa mỗi kinh ba mươi lượt, Quán Kinh một trăm mười lượt. Sư khắc khổ, siêng gắng, ḷ hương không đốt mà tự cháy, b́nh đựng nước hễ cạn sẽ tự đầy, các điều cảm ứng tốt lành chẳng phải là một chuyện. Năm Trinh Quán thứ tám (634), Sư thị hiện bị bệnh. Sư thấy Phạm tăng tay cầm b́nh báu, nói: “Ta là Vô Biên Quang; sau này, Tịnh Độ gọi là Công Đức Bảo Vương chính là ta vậy”. Sư bảo môn đệ: “Vô Biên Quang Đại Thế Chí đă tới. Công Đức Bảo Vương chính là danh hiệu khi Ngài thành Phật. Do nhân mà nói đến quả, ta sẽ về Tây lúc này đó chăng?” Sư liền ngồi xếp bằng qua đời.

 

* Thích Trí Thông ở Tử Châu đời Đường

 

          Sư họ Trần, tám tuổi ĺa tục, chuyên tụng Pháp Hoa, rất siêng giảng dạy. Sư trụ tại núi Ngưu Đầu, khéo giữ oai nghi, siêng khổ giữ vững giới hạnh. Thường có hai con ngỗng đúng thời đến nghe pháp. Sư giảng hơn trăm lượt, hai lần phóng quang minh. Sư thị tịch trong niên hiệu Trinh Quán. Khi đó các điện đường, pḥng ốc trong chùa đều biến thành sắc trắng, đều chấn động trong khoảng một bữa ăn mới thôi!

 

* Thích Trí Oai ở chùa Pháp Hoa núi Thiên Thai đời Đường

 

          Sư họ Tưng, người xứ Tấn Vân, gia đ́nh nhiều đời theo đạo Nho. Lúc Sư mười tám tuổi, sắp cưới vợ, trên đường gặp vị Phạm tăng bảo: “Tiền thân của chàng thiếu niên này là quan Bộc Xạ Từ Lăng đời Trần. Do nghe ngài Trí Giả giảng kinh Pháp Hoa, tự lập năm nguyện: Một là lâm chung chánh niệm; hai là chẳng đọa tam đồ; ba là thác sanh trong loài người; bốn là đồng chân xuất gia; năm là chẳng đọa thành tăng sĩ chạy theo thói tục. Nay ư ngươi như thế nào? Muốn trái lời thề xưa ư?” Sư nghe xong liền cảm ngộ, chẳng trở về nhà nữa, liền sang chùa Quốc Thanh, xin thờ ngài Chương An làm thầy, thưa hỏi, nhận lănh tâm yếu. Định huệ đều phát, liền chứng Pháp Hoa tam-muội.

          Thượng Nguyên nguyên niên (674), Sư muốn lựa chọn chỗ đất thù thắng để thuyết pháp, cầm tích trượng thề rằng: “Tích trượng dừng lại ở chỗ nào, chính là nơi tôi sẽ trụ”. Tích trượng từ chùa Quốc Thanh bay đến núi Phổ Thông trong rặng Thương Lănh cách đó năm trăm dặm. Do cuộc đất chật hẹp, chẳng thể rộng dung đồ chúng. Sư lại bay lên không ném tích trượng. [Tích trượng bay] tới núi Hiên Viên Luyện Đan. Sư bèn quyết tới đó, chặt gai, cắt tranh, ngày giảng, đêm tọa Thiền, biên chép kinh điển. Người theo học ngày một đông dần, chia thành chín chỗ để ở. Do vậy, đặt tên chỗ ấy là Pháp Hoa. Sư có phong cách thanh tú theo lối cổ. Mỗi lần đăng ṭa, có mây tía che đỉnh, h́nh dạng như lọng báu, chim chóc đậu bên cạnh, hết sức ngoan ngoăn thân thiết. Từ chùa Pháp Hoa tới Thượng Bản là chỗ Sư ở riêng khoảng tám mươi dặm. Mỗi ngày Sư qua lại, thọ trai, dùng cháo, thiền giảng, chưa từng thiếu sót. Mọi người đều nói Sư có Thần Túc Thông. Vĩnh Long nguyên niên (680), Sư ngồi qua đời, mùi hương lạ bảy ngày chẳng tan. Người thuở đó gọi Sư là Pháp Hoa tôn giả.

 

* Thích Huệ Đạt đời Đường

 

          Sư người Thái Nguyên, chuyên tụng Pháp Hoa hơn năm ngàn lượt. Trong các oai nghi đi ngồi, tiếng tụng kinh chẳng thiếu sót. Sư giữ ḷng yêu mến sanh mạng loài vật, mỗi lúc đi lại đều một mực nh́n xuống. Hễ đất có trùng bọ, Sư ắt xoay ḿnh tránh né. Nếu có ai hỏi, Sư đáp: “Bọn chúng và ta đều thăng trầm bất định! Biết đâu chúng nó thành Chánh Giác trước ta, sao dám xằng bậy khinh thường ư?” Năm Trinh Quán thứ tám (634), Sư ngồi qua đời, qua năm đêm mà vẻ mặt vẫn như lúc đầu.

 

* Thích Di Tục chùa Lễ Tuyền ở Ung Châu đời Đường

 

          Sư tụng Pháp Hoa một ngàn lượt. Trong niên hiệu Trinh Quán, do bị bệnh, Sư bảo bạn là thiền sư Huệ Khoách rằng: “Tôi suốt đời tụng kinh, ư mong có chứng nghiệm. Nếu sanh vào đường lành th́ cái lưỡi chẳng hoại. Chôn độ mười năm th́ hăy đào lên xem. Nếu lưỡi hư hoại th́ biết là tôi tụng kinh chẳng có công trạng ǵ! Nếu chẳng hoại th́ dựng một tháp để người khác tin tưởng, hướng theo”. Nói xong liền tịch. Mười năm sau, mở ḥm ra xem, quả nhiên lưỡi chẳng hoại. Người mộ đạo [kéo đến chiêm ngưỡng] đông như cái chợ, đại chúng dựng tháp ở Cam Cốc Nhai. Các vị Thích tử trước sau do tụng kinh Pháp Hoa mà đạt được lưỡi chẳng hoại rất đông, chẳng thể ghi hết được!

 

* Thích Nghĩa Trung chùa Đại Từ Ân ở kinh đô đời Đường

 

          Sư họ Doăn, người Tương Viên. Hai mươi tuổi, thọ Cụ Túc Giới, nghe pháp sư Khuy Cơ ở Trường An vừa mới soạn bộ Pháp Hoa Nghĩa Sớ, liền tới giảng ṭa của Ngài. Chưa hết năm năm, Sư đă thông hiểu hai kinh Pháp Hoa, Vô Cấu Xưng (kinh Duy Ma Cật), và năm luận Duy Thức v.v… Sư bèn soạn Pháp Hoa Kinh Sao hai mươi quyển. Những người cùng hàng đọc xong, không ai chẳng gật đầu thán phục. Mỗi khi Sư kinh hành, hướng mặt về phía Tây Bắc, tâm ngầm nội quán, nguyện thấy đức Từ Thị (Di Lặc Bồ Tát). Một ngày nọ, Sư buổi sáng thức dậy, tắm rửa, súc miệng, bỗng thấy mây hương đầy khắp hư không, Sư ngẩng lên nh́n, chắp tay nói: “Tỳ-kheo phàm trược nhọc công đại thánh khuất thân đến tiếp dẫn”. Nói xong, Sư qua đời.

 

* Thích Pháp Dung đời Đường

 

          Sư họ Vi, người Diên Lăng thuộc Nhuận Châu. Khi mười chín tuổi, Sư vào Mao Sơn, nương theo Linh pháp sư, hai mươi năm chuyên ṛng chẳng lười nhác. Sau này, Sư lập riêng lều tranh dưới vách đá phía Bắc chùa U Thê ở núi Ngưu Đầu, lấy Thiền tụng làm nghiệp. Núi vốn nhiều hổ, vắng bặt dấu tiều phu. Sư vào núi, qua lại vô ngại. Lại có bầy nai nhiễu quanh thất, nằm nghe. Trong niên hiệu Trinh Quán, Sư giảng kinh Pháp Hoa dưới vách núi. Lúc bấy giờ, tuyết trắng đọng đầy thềm. Trong băng ngưng đọng, thấy hai nhánh hoa, h́nh dạng như hoa phù dung, kim sắc rạng rỡ, bảy ngày mới tàn!

 

* Thích Pháp Triệt ở Bồ Châu đời Đường

 

          Sư là người Giáng Châu, siêng khổ từ bé, thông thạo kinh Pháp Hoa, thường dùng phẩm Hóa Thành của kinh ấy để hóa độ hết thảy. Trong ấp có Cô Sơn, Sư nương vào đó để kết nghiệp, sáng lập lan nhă. Cuộc đất ấy vốn cao vót, hiểm trở, từ trước chẳng có nguồn nước hay suối. Sư nhiều năm sùng đạo, một hôm, [tự nhiên có] suối trong chảy ra. Thứ sử Pḥng Nhân Dụ đích thân xin biển ngạch cho chùa, liền đặt tên là chùa Hăm Tuyền. Sư từng gặp một người cùi trên đường, bèn dẫn về núi, đào hang, cho người ấy thức ăn, bảo người ấy tụng Pháp Hoa. Người ấy hoàn toàn chẳng biết chữ, lại c̣n đần độn, phải dạy từng câu một. Sư trọn chẳng nề hà, mệt mỏi. Dạy tới quyển thứ sáu, bệnh cùi dần dần lành. Dạy xong kinh, lông mày mọc lại, da dẻ như cũ.

 

* Thích Pháp Đạt chùa Nam Hoa tại Thiều Châu đời Đường

 

          Sư người Hồng Châu, bảy tuổi xuất gia, tụng Pháp Hoa lâu dài. Sau Sư sang Tào Khê lễ Lục Tổ. Tổ hỏi: “Ông tụng kinh này, lấy ǵ làm tông?” Sư nói: “Con chỉ dựa theo kinh văn mà niệm, chẳng biết tông thú!” Tổ bảo lấy kinh mở ra tụng [cho Tổ nghe]. Sư liền lớn tiếng tụng tới phẩm Thí Dụ, Tổ bảo: “Thôi! Kinh này lấy nhân duyên xuất thế làm tông. Kinh dạy: Do một đại sự nhân duyên xuất hiện trong cơi đời. Một đại sự chính là tri kiến của Phật. Nếu có thể từ nơi tướng mà ĺa tướng, ở nơi không mà ĺa không, nhất niệm tâm khai, đó là khai tri kiến của Phật. Ông hăy nên tin tri kiến của Phật chính là tự tâm của ông, trọn chẳng phải là vật nào khác! Đừng hướng ra ngoài để cầu, [chính ḿnh] với Phật chẳng hai!” Tổ bèn nói kệ rằng: “Tâm mê, Pháp Hoa chuyển. Tâm ngộ, chuyển Pháp Hoa. Tụng kinh lâu không rơ. Thành oán thù của nghĩa. Vô niệm, niệm tức chánh. Hữu niệm, niệm thành tà. Hữu vô, chẳng bận ḷng, măi ngồi xe trâu trắng”. Sư nghe xong, bất giác buồn khóc, cũng dùng kệ tán thán, có câu: “Tụng kinh ba ngàn bộ, Tào Khê một câu quên”. Từ đó, Sư đốn ngộ huyền chỉ.

 

* Thích Pháp Tuyền đời Đường

 

          Trong niên hiệu Khai Nguyên, Sư ở chân núi phía Đông rặng Thiên Đồng, lập tinh xá để cư trụ. Về sau, Sư dời sang ở tháp Đa Bảo nơi góc Tây Nam. Hằng ngày, Sư tụng kinh Pháp Hoa, cảm đồng tử cơi trời đạp mây lên xuống, cầm thức ăn đến cúng dường. Ban đêm, Sư liền nhiễu tháp kinh hành. Người khác nh́n từ xa thấy thân Sư ngang bằng tướng luân của tháp. Người đương thời gọi Sư là Thái Bạch thiền sư.

 

* Thích Vô Úy chùa Thánh Thiện tại kinh đô Lạc Dương đời Đường

 

          Sư vốn là người Trung Ấn Độ, tên tiếng Phạn là Thâu Ba Ca La (Śubhakarasiṃha, c̣n dịch là Thiện Vô Úy). Sanh ra, Sư đă có bẩm tánh thần ngộ. Lúc mười ba tuổi, Sư nhường nước, xuất gia, đạo đức và danh xưng đứng đầu Thiên Trúc. Sư xuống phương Nam tới bờ biển, gặp một Chiêu Đề[46] thù thắng, đắc Pháp Hoa tam-muội. Sư tới đâu giảng pháp, cũng đều luôn có tướng lạ. Về sau, Sư theo thuyền buôn đến các nước, ngầm tu Thiền tụng, miệng phóng bạch quang. Khi đó, Trung Ấn Độ đại hạn, Sư ngầm cầu nguyện, liền thấy đức Quán Âm ở trong mặt trời, tay cầm b́nh quân tŕ[47], rưới nước xuống đất. Khi đó, đại chúng vui mừng cảm kích, đạt được điều chưa từng có.

          Sư sang Chấn Đán, dùng lạc đà chở kinh. Lạc đà ch́m trong sông, Sư cũng theo vào, ở trong cung rồng ba đêm, v́ họ tuyên nói pháp yếu. Lúc trở ra, kinh Phật đă chở theo, chẳng ướt một chữ nào. Năm Khai Nguyên thứ tư (716), Sư tới Trường An. Vua sắc truyền trụ tại chùa Tây Minh, dịch các kinh Hư Không Tạng và Đại Tỳ Lô Giá Na v.v… Từng gặp lúc đại hạn, vua sai cầu mưa. Sư đựng đầy một bát nước, tụng chú mấy trăm lượt. Trong khoảnh khắc, có vật như con ếch ngẩng đầu trên mặt nước. Chốc lát sau, có làn hơi trắng từ bát bốc lên giống như một xấp lụa trắng bay lên không. Trời nổi gió, rền sấm, tối đen, mưa to như trút. Lại từng có lúc mưa dầm dề quá lâu, Sư nặn đất sét thành năm tượng bà già, dùng Phạm ngữ tụng chú, tức khắc trời tạnh.

 

* Thích Huyền Lăng chùa Thanh Thái ở Đông Dương đời Đường

 

          Sư họ Phó, cháu sáu đời của Song Lâm Đại Sĩ đời Lương (Phó Hấp, tức Phó đại sĩ). Sư xuất gia từ bé, thọ giới lúc hai mươi tuổi. Nghe tông Thiên Thai hoằng truyền Chỉ Quán rất thịnh, Sư đến chùa Thiên Quan tại Đông Dương, yết kiến pháp sư Huệ Oai, tu Pháp Hoa tam-muội. Sư nhàm chán nhân gian, chí gởi nơi rừng núi, chỉ chú trọng mười tám thứ Thập Nhị Đầu Đà, ẩn cư nơi Tả Khê Nham. Bốn mươi mấy năm, Sư ở yên trong một thất, tự cho là rộng như pháp giới. Sư từng nơi vách điện vẽ tượng Quán Âm và [tôn giả] Tân Đầu Lô, dâng hương, thâu liễm ư niệm, cảm thần quang năm màu chói ngời cả thất. Đạo tục đều đến xem, than là chưa từng có! Sư thị tịch năm Thiên Bảo 13 (754), người thuở ấy gọi Sư là Tả Khê tôn giả.

 

* Thích Trạm Nhiên chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai đời Đường

 

          Sư người Kinh Khê, họ Thích. Lúc hai mươi tuổi, được học kinh với thiền sư Tả Khê Huyền Lăng. Sư Tả Khê hết sức kinh ngạc, lạ lùng [trước sự lănh hội mẫn tiệp của ngài Trạm Nhiên]. Sư (ngài Trạm Nhiên) từng mộng thấy chính ḿnh mặc tăng phục, cắp nách hai cái bánh xe vào trong sông to. Ngài Tả Khê nói: “Ôi! Ông sẽ dùng hai pháp Chỉ và Quán để độ chúng sanh trong vực thẳm sanh tử đấy chăng?” Bèn truyền dạy pháp Chỉ Quán mà Ngài đă được truyền dạy [từ ngài Huệ Oai]. Năm Thiên Bảo thứ bảy (748), Sư mới bỏ áo Nho xuất gia, đến chùa Khai Nguyên ở đất Ngô, tận lực hành diệu pháp, biên soạn trần thuật các chương cú do chư tổ truyền thừa tới mấy chục vạn chữ. Sư hoằng dương rộng lớn giáo pháp Nhất Tâm Tam Quán. Sư thường cùng bốn mươi vị danh tăng ở Giang Hoài cùng lễ Ngũ Đài. Ngài Thanh Lương Trừng Quán suất lănh đồ chúng cả ngàn người đón tiếp, đưa tiễn; khi đó, mọi người đều ca ngợi. Có môn nhân của Bất Không Tam Tạng[48] là Hàm Quang bạch với Sư rằng: “Con vừa theo ngài Bất Không sang Thiên Trúc, gặp một vị Phạm tăng nói: “Nghe nói Đại Đường có bậc Thiên Thai giáo tông, có thể hiểu Thiên và Viên, phân biệt tà chánh, hiểu rơ Chỉ Quán, có thể dịch ra để truyền đến cơi này hay chăng?” Sư nghe nói, than rằng: “Có thể nói là Trung Hoa mất pháp, cầu nơi bốn góc!” Tuổi già, Sư quay về Thiên Thai. Tháng Hai năm Kiến Trung thứ hai (781), Sư dạy đại chúng rằng: “Nhất niệm vô tướng gọi là Không. Không pháp nào chẳng trọn gọi là Giả. Chẳng một, chẳng khác th́ gọi là Trung. Nơi phàm th́ gọi là ba nhân, nơi thánh là ba đức. Tự lợi, lợi người khác, cốt như thế mà thôi!” Nói xong, Sư dựa vào ghế mà qua đời. Sư trước tác các bộ sách như Pháp Hoa Thích Thiêm Sớ Kư v.v… được lưu truyền rất rộng trong cơi đời.

 

* Thích Thần Ung chùa Đại Lịch ở Việt Châu đời Đường

 

          Sư là người Chư Kỵ, họ Thái, mười hai tuổi nhập đạo, nương theo thiền sư Tả Khê Huyền Lăng [để tu học]. Sư tu tập Thiên Thai Chỉ Quán, Pháp Hoa Huyền Sớ, giảng diễn suốt trong năm hạ. Người học vùng Ngô Cối kéo đến như mây. Trong niên hiệu Thiên Bảo[49], Sư sang Trường An, ở chùa An Quốc. Về sau, sang phương Đông trở về Tương Hán. Có Trước Tác Lang[50] Vi Tử Xuân học rộng, kiêu hănh, Sư bèn cùng ông ta tranh biện, Tử Xuân chịu phục. Trung Thư Xá Nhân[51] Uyển Hàm than rằng: “Có thể nói Sư là Ma Ni ở ngoài cơi trần, sư tử trong các luận. Người thời ấy cho đó là lời khéo diễn tả vậy!

 

* Thích Đạo Tiêm ở Phật Lũng đời Đường

 

          Sư đọc trọn khắp các trước tác của bách gia, tinh tường nhất là kinh Pháp Hoa. Trong niên hiệu Đại Lịch[52], Sư vào kinh đô hoằng hóa, trước thuật rất nhiều. Sư có thể du hành qua lại trên hư không. Khi đó, có người nói Sư đă chứng Thần Túc Thông.

 

* Thích Đạo Tuân núi Chi H́nh ở Tô Châu đời Đường

 

          Sư họ Trương, người Ngô Hưng, tham học ngài Tả Khê, học Thiên Thai Chỉ Quán. Sư muốn rộng chép kinh Pháp Hoa, bèn sáng lập Tịch Kinh Viện ở Chi H́nh, cử mười bốn vị sa-môn hạnh nghiệp chuyên ṛng, thường tŕ Pháp Hoa, đêm th́ thắp đuốc tiếp nối ban ngày, ḥng hoằng dương Đại Thừa. Vua sắc truyền chốn ấy là đạo tràng Pháp Hoa. Ở trong núi, Sư đúc tượng Lô Xá Na, và Đa Bảo Phật tháp, lấy tu Tịnh Độ làm hạnh nghiệp trong hiện đời. Sư tạc tượng A Di Đà Phật, b́nh thời giảng Pháp Hoa Huyền Nghĩa, cả năm chẳng luống uổng ngày nào. Thiên Bảo nguyên niên (742), tại đạo tràng Linh Nham, Sư hành Pháp Hoa tam-muội, bỗng thấy ánh sáng to lớn xông lên trời, thân Sư ở trong quang minh. Ngày hôm sau, Sư hỏi Kinh Khê Trạm Nhiên đại sư. Ngài Trạm Nhiên bảo: “Quang minh trí huệ từ tâm lưu xuất, sẽ dùng đó để hiển phát Đệ Nhất Nghĩa Thiên”. Sư lại nhập Pháp Hoa đạo tràng, thấy thân ḿnh đang ngồi trên không trung, biết là tướng trạng sạch hết tội cấu. Hưng Nguyên nguyên niên (784), Sư ngồi qua đời. Môn nhân như Linh Hàn v.v… dựng tháp.

 

* Thích Thần Ngộ ở núi Thạch Di tại Nhuận Châu đời Đường

 

          Sư người Lũng Tây, họ Lư. Thuở bé, Sư mắc bệnh ngặt nghèo. Trong niên hiệu Khai Nguyên, Sư đối trước tượng Bồ Đề, nồng nhiệt sám hối, mong trừ túc nghiệp, cảm ánh sáng lạ như tia sáng mặt trăng mông lung chiếu khắp nhà. Bệnh khổ nhanh chóng tiêu trừ. Năm Thiên Bảo thứ tư (745), Sư xuất gia, thọ Cụ Túc Giới, thường vào đạo tràng Pháp Hoa, lễ niệm suốt chín mươi ngày. Do vậy, Quán Phật tam-muội hiện tiền. V́ thế, Sư nói với môn nhân: “Tối tăm ảm đạm ảnh hưởng ǵ đến mặt trời, gió xoay chuyển nhưng hư không bất động. Nếu thấu đạt vọng, có ǵ chẳng phải là tánh?” Sư dựng nhà tại phía Đông núi Lao Lao, thường hành Thiền Định. Ban đêm có sơn thần hiện h́nh, xưng là cố Tân Thành Hầu đời Tùy, sống tại Nam Lănh đă lâu. Nay nguyện dâng đất này vĩnh viễn làm chỗ kinh hành. Nói xong, chẳng thấy nữa. Mười năm sau, Sư ngồi xếp bằng qua đời. Xà-duy xá lợi chồng chất, tươi đẹp khá nhiều!

 

* Thích Chí Lân ở chùa Đại An Quốc nơi kinh đô đời Đường

 

          Sư họ Phạm, người Duyện Châu. Mẹ họ Vương chẳng tin Tam Bảo. Ngài Chí Lân trốn sang Đông Đô, theo xuất gia với Tu Luật Sư chùa Quảng Thọ. Năm Khai Nguyên thứ mười (722), Sư nghĩ đến mẹ bèn về thăm. Mẹ mất đă ba năm. Do vậy, Sư đến miếu thờ thần Đông Nhạc trải tọa cụ, tụng kinh Pháp Hoa, mong thấy Nhạc Đế để hỏi mẹ sanh về chốn nào. Đến đêm, Sư thấy Nhạc Đế triệu vời, nói: “Mẹ thầy đă bị giam trong ngục, đang chịu các khổ”. Sư buồn khóc, mong mẹ thoát ti. Nhạc Đế nói: “Sư hăy qua Mậu Sơn lễ tháp A Dục Vương, sẽ có thể cứu”. Sư liền qua triều bái chùa ấy, buồn khóc, lễ bái tới bốn vạn lạy. Bỗng nghe trên không trung có tiếng gọi “Lân nhi”. Sư thấy mẹ cảm tạ rằng: “Nhờ sức của con, mẹ được sanh lên trời Đao Lợi”. Chốc lát chẳng thấy đâu nữa!

 

* Thích Sở Kim chùa Long Hưng ở kinh đô đời Đường

 

          Sư người Quảng B́nh, họ Tŕnh, bảy tuổi xuất gia, tụng kinh Pháp Hoa. Đủ tuổi thọ Cụ Túc Giới, Sư thăng ṭa giảng pháp. Sau đó, nhân lúc đêm thanh, tŕ tụng Pháp Hoa. Tụng tới phẩm Đa Bảo Tháp, thân tâm và tinh thần nhẹ nhàng như nhập Thiền Định. Đột nhiên, Sư thấy tháp báu rành rành trước mắt, phân thân của Phật Thích Ca đầy dẫy hư không. Sư cảm ngộ đă sâu, lệ tuôn như mưa, liền mặc áo vải, ngày ăn một bữa, chẳng ra khỏi cửa, thề trong sáu năm sẽ dựng tháp ấy. Sư thấy chùa Thiên Phước u nhàn, rộng răi, tính tạo tháp ở đó. Khéo sao, tại chùa Thiên Phước có sư Hoài Nhẫn bỗng nửa đêm thấy có một gịng nước bắt nguồn từ chùa Long Hưng, chảy tuôn vào Thiên Phước, lặng trong, sáng ngời. Trong ấy có chiếc thuyền vuông, lại thấy tháp báu từ trên không giáng xuống. Hồi lâu mới biến mất. Tới khi Sư đến đề nghị, Hoài Nhẫn hân hoan giúp sức.

          Sư mỗi đêm tới chỗ đắp nền, siêng ṛng kinh hành. Đại chúng nghe tiếng nhạc trời, đều ngửi thấy mùi hương lạ. Thiên Bảo nguyên niên (742), bắt đầu đặt tướng luân [trên đỉnh tháp], cảm thông vua nằm mộng. Vua bèn đích thân đề biển “Đa Bảo Tháp”, ban cho năm mươi vạn đồng. Tháp xây xong, có mây ngũ sắc vờn quanh tháp. Vạn người chiêm lễ, Sư nói với đồng học: “Các tăng sĩ chúng ta hăy nên ôm ấp cùng một chí hướng, hăy nên ngày đêm ở dưới tháp, tụng tŕ Pháp Hoa, dẫu chết chẳng bỏ”. [Sư và chúng tăng] ngâm vịnh kinh Pháp Hoa [tại đó] hơn sáu ngàn bộ. Mỗi năm vào hai dịp Xuân Thu, tập hợp các vị đại đức có cùng chí hướng, gồm bốn mươi chín người, hành Pháp Hoa tam-muội. Trước sau, cảm được bảy trăm hạt xá-lợi. Tới năm thứ sáu, Sư muốn cất giữ xá-lợi ḥng trang nghiêm đạo tràng, lại giáng xuống một trăm lẻ tám viên xá-lợi. Sư vẽ Phổ Hiền Biến Tướng Đồ, từ ngọn bút thu được liên tiếp mười chín hạt xá-lợi, không hạt nào chẳng tự chuyển động xoay tṛn, tỏa ánh sáng chói rực. Sư bèn thâu thập xá-lợi, đựng trong hộp đá, tạc tượng chính ḿnh bằng đá quỳ đội xá-lợi, cùng đặt dưới tháp để biểu lộ ḷng tôn kính. Từ thuở để chỏm, Sư tự chép kinh Pháp Hoa, từng trích máu chép một bộ, dùng chữ vàng để chép ba mươi sáu bộ, chép một ngàn bản bằng mực thường để trấn tháp. Lại chép một ngàn bộ để bố thí cho người thọ tŕ. Chuyện linh ứng rất nhiều, cặn kẽ như trong bia thiếp chùa Thiên Phước.

 

* Thích Đại Quang đời Đường

 

          Sư người Ngô Hưng, họ Đường. Từ tuổi c̣n mọc răng sữa, đă niệm Pháp Hoa, chỉ ba tháng là thông thạo. Tới khi xuất gia, mỗi ngày tŕ bảy quyển. Sư đi sang phương Tây đến kinh đô. Đường Túc Tông triệu vời vào cung cấm. Vua sắc truyền Sư tụng kinh. Tới phẩm Tùy Hỷ Công Đức, miệng Sư phóng quang minh năm màu. Vua hết sức vui mừng, than thở: “Xưa ta mộng thấy một vị Tăng ở đất Ngô miệng tŕ Đại Thừa. Ánh sáng năm màu theo tiếng tụng mà phát ra. Nay giọng nói và dáng vẻ của Sư giống hệt như trong mộng”. Do vậy, vua ban tên là Đại Quang, sắc truyền hành đạo tại chùa Thiên Phước. Qua hai mươi tám ngày, Phạm âm vang xa thấu đến hoàng cung, vua rất ngạc nhiên trước chuyện ấy.

          Sau đó, Sư trụ tại tinh xá Lam Điền. Trước đấy, tăng chúng trong chùa mộng thấy có đồng tử cơi trời giáng xuống, bảo rằng: “Tiếng tụng kinh của sư Đại Quang thấu đến trời Hữu Đảnh”. Một hôm, Sư đi trong núi, bỗng rơi xuống hang sâu. Do vậy, Sư nghĩ tới tháp Phật Đa Bảo trong kinh Pháp Hoa, nguyện tŕ phẩm ấy mười vạn lần. Chớp mắt, vọt thân lên khỏi suối như có thần nâng đỡ vậy. Về sau, Sư dâng biểu xin trở về đất Ngô, bèn nương vào Tùng Kính thuộc chùa Pháp Hoa, dựng am để ở. Sư hằng ngày tŕ kinh kệ Pháp Hoa để báo nguyện trước. Tướng Quốc Lư Thân làm thứ sử Ngô Hưng, đêm nghỉ tại đạo tràng tŕ kinh, đột nhiên thấy bạch quang đầy khắp hư không rạng ngời như ban ngày. Lần theo ánh sáng, ông ta thấy Sư đang ngồi yên, tŕ kinh, ánh sáng tỏa ra từ mặt Sư, như mở hào tướng. Tiếng tụng kinh vừa dứt, quang minh cũng theo đó mà thâu hồi. Sư thị tịch trong đầu niên hiệu Vĩnh Trinh[53], mùi hương lạ ba ngày chẳng tan.

 

* Thanh Lương quốc Sư Trừng Quán núi Ngũ Đài đời Đường

 

          Sư người Sơn Âm, họ Hạ Hầu, xuất gia lúc mười một tuổi, tụng thông thuộc kinh Pháp Hoa. Sư bẩm tánh cao vời, thanh khiết. Sư chuyên ṛng t́m cầu học hỏi bí tạng. Trong niên hiệu Đại Lịch[54], Sư theo thiền sư Kinh Khê Trạm Nhiên học các bộ kinh sớ Thiên Thai Chỉ Quán, Pháp Hoa, Duy Ma v.v… Giải do trí huệ bậc thượng phát sanh, bẩm tánh tự nhiên. Năm Đại Lịch 11 (776), Sư thề đến Ngũ Đài, đảnh lễ ngài Diệu Cát (Văn Thù), lại c̣n sang Nga Mi, chiêm ngưỡng trọn khắp thánh tượng Biến Cát (Phổ Hiền). Sư trở về Ngũ Đài, soạn Hoa Nghiêm Tân Sớ, [diễn giải] tột cùng ư chỉ viên đốn. Về sau, Sư trụ tại chùa Thê Nham núi Trung Điều. Trong chùa có vị Tăng áo ngắn, cuồng ca. Phàm những ǵ vị đó chỉ bày, chê trách, phần nhiều đều ứng nghiệm. Khi Sư chưa đến, vị đó xua đuổi tăng chúng, bắt họ quét dọn, nói: “Chẳng lâu sau, Bồ Tát sẽ đến”.

          Trước đó, Tán Chi đại tướng[55] vẽ trên vách chùa và quỷ quái sơn mị đều là những thứ gây họa. Khi Sư đến trụ chùa này, chúng bèn tuyệt tích. Năm Trinh Nguyên 15 (799), vua xuống chiếu vời Sư vào nội điện, thăng ṭa xiển dương tông chỉ kinh Hoa Nghiêm, ban cho Sư mỹ hiệu là Thanh Lương. Sư b́nh nhật luôn phát đại nguyện. Nguyện thứ năm là “chưa xả báo thân này, sẽ luôn tụng Pháp Hoa”. Lúc mới tạo sớ, cái ao trước ṭa nhà sanh ra năm cành sen mọc đôi, mỗi đóa hoa đều có ba đốt. Mọi người đều tán thán, ngưỡng mộ. Sư thị tịch năm Khai Thành thứ ba (838), được dựng tháp thờ toàn thân tại Chung Nam. Vua có soạn bài văn tán thán.

 

* Thích Huệ Nhân chùa Bao Sơn ở Ngô Quận đời Đường

 

          Sư thông hiểu Pháp Hoa, Kim Cang, siêng ṛng giảng tụng. Trong niên hiệu Chí Đức[56], vào lúc hoàng hôn, Sư thấy một người vào thưa: “Vua thỉnh pháp sư”, thân Sư liền cứng đờ, ngă lăn ra, chỉ có vùng tim vẫn ấm. Bảy ngày sau, Sư mới tỉnh lại, tự nói: - Ta theo sứ giả tới một ṭa thành. Ṭa thành ấy hết sức rộng răi, tráng lệ. Vào thành gặp vua, tùy tùng của vua tới mấy trăm người. Vua bước xuống điện, tới trước cửa, vái chào, thưa: “Đệ tử bất hạnh, chủ danh vọng tài lộc trong cơi đời và trừng trị tội nhân, rất khổ sở. Nghe thượng nhân khéo giảng Pháp Hoa, mong thầy hăy giảng giải, phân tích”. Do vậy, ta thăng ṭa giảng giải xong. Vua biếu tặng ba trăm xấp lụa, sai người đưa về. Lại thấy bên cạnh có hơn một trăm vị tăng, ngón tay đều sanh móng sắt cấu xé nhau, máu thịt nhầy nhụa trên đất. Do vậy, hoảng sợ sống lại. Sư ngồi dậy, lụa đă chất trong pḥng.

 

* Vị tăng trong niên hiệu Nguyên Ḥa đời Đường

 

          Trong niên hiệu Nguyên Ḥa[57] đời Đường, có vị tăng vào cơi âm, thấy Địa Tạng Bồ Tát. Đức Địa Tạng hỏi Sư b́nh thời tu nghiệp ǵ? Sư thưa: “Con niệm kinh Pháp Hoa”, Bồ Tát nói: “Chỉ chỉ bất tu thuyết, ngă pháp diệu nan tư (Thôi thôi chẳng cần nói, pháp ta diệu khó nghĩ), đó là nói hay chẳng nói?” Tăng không đáp được, Quy Tông đáp thay. [Bồ Tát dạy]: “Lần này hăy trở về, lần lượt truyền dạy cho người khác lưu thông”.

 

* Thích Giám Không chùa Hương Sơn ở Lạc Dương đời Đường

 

          Sư họ Tề, người Ngô Quận. Tuổi tráng niên, Sư dạo chơi khắp vùng Ngô Việt. Đầu niên hiệu Nguyên Ḥa, gặp lúc Tiền Đường mất mùa, đói kém, Sư tính đến xin ăn tại chùa Thiên Trúc. Sư tới phía Tây chùa Cô Sơn, đói đến nỗi không đi nổi. Do vậy, tới bên sông, trào nước mắt, ngâm ngợi bi thương để tiêu sầu. Bỗng có một vị Phạm tăng cũng đến ngồi bên sông, nh́n Sư cười nói: “Pháp sư tú tài, tư vị lữ du đă đủ chưa?” Sư nói: “Tư vị lữ du là được rồi, sao lại gọi là pháp sư?” Vị Phạm tăng nói: “Ông không nhớ đă từng giảng kinh Pháp Hoa tại chùa Đồng Đức ở Lạc Dương ư?” Sư đáp: “Tôi sanh ra đến nay bốn mươi lăm năm, chỉ quẩn quanh nơi vùng Ngô Việt, làm sao có thể nói đến chuyện Lạc Dương cho được?” Vị Phạm tăng nói: “Hẳn là ông bị lửa đói thiêu đốt, chẳng rảnh đâu mà ghi nhớ”. Liền lục trong đăy, lấy ra một quả táo to như nắm tay, trao cho Sư, bảo: “Táo này là sản vật của nước tôi, ăn vào sẽ đắc thượng trí, biết quá khứ, vị lai”.

          Sư quá đói, ăn táo, vốc nước uống, bỗng ngáp dài, duỗi ḿnh, gối đầu lên đá ngủ. Chốc lát tỉnh giấc, nhớ lại chuyện giảng kinh ở chùa Đồng Đức rơ ràng như chuyện đêm qua. Do vậy, bùi ngùi rơi nước mắt, hỏi: “Chấn ḥa thượng c̣n sống hay không?” Phạm tăng nói: “Do chưa chuyên tinh đạt mức, lại tái sanh làm vị Tăng ở đất Thục”. “Thần thượng nhân c̣n không?” Phạm tăng đáp: “Nguyện trước chưa măn, đọa vào chốn nhung y chiến mă”. “Ngộ pháp sư c̣n không?” Phạm tăng nói: “Thầy chẳng nhớ hay chăng? Ông ta đối trước tượng đá ở Hương Sơn đùa bỡn phát nguyện rằng: ‘Nếu chẳng chứng Vô Thượng Bồ Đề, ắt nguyện làm vị quan oai hùng, quyền quư’, nay đă làm đại tướng quân rồi! Năm vị tăng vân thủy thuở ấy, chỉ ḿnh tôi được giải thoát, chỉ riêng ông chịu cảnh đói lạnh!”

          Sư khóc, nói: “Tôi suốt bốn mươi mấy năm, ngày chỉ ăn một bữa, một tấm áo nâu ṣng, đối với chuyện thế tục hư huyễn, quyết đoạn cội nguồn. Nào ngờ phước chẳng hoàn bị, gặp phải cảnh đói lạnh này”. Vị Phạm tăng nói: “Trên ṭa sư tử, Sư nói quá nhiều lẽ dị đoan, khiến cho người học pháp Không tâm sanh nghi hoặc, giới hạnh thiếu sót. Tập khí xấu hăy c̣n đôi chút! H́nh cong th́ bóng vẹo, quả báo cũng phải nên là như thế!” Sư nói: “Làm như thế nào đây?” Phạm tăng bảo: “Nay sự việc đă định, tôi dùng cái duyên đời khác để cảnh tỉnh ông”. Sư bèn lục đăy, lấy ra một tm gương, bảo Sư rằng: “Muốn biết sang hèn sai khác, thời hạn dài hay ngắn, Phật pháp hưng suy, ông hăy nên soi một phen”. Sư soi hồi lâu, cảm tạ: “Điềm báo ứng, lư tươi tốt hay héo khô, chỉ nghe theo mạng”. Sư bèn cùng bạn nắm tay đi mấy bước, bỗng chẳng thấy vị Phạm tăng đâu nữa.

          Đêm hôm ấy, Sư xin xuất gia tại chùa Linh Ẩn. Sư thọ Cụ Túc Giới, chuyên tụng Pháp Hoa, càng nêu cao khí tiết khắc khổ. Về sau, Sư tới Lạc Dương, gặp Liễu Trinh ở Hà Đông nói chuyện ấy. Lại nói: “Tôi sống trên đời bảy mươi bảy năm, cầm bát khất thực, hăy c̣n sống chín năm nữa. Sau khi tôi diệt, Phật pháp sẽ suy vi”. Ông Trinh gạn hỏi, Sư cầm bút đề rằng: “Hưng nhất sa, suy hằng sa. Thố nhi trí, khuyển nhi noa. Ngưu hổ tương giao dữ giác nha, bảo đàn chung bất diệt kỳ hoa” (Hưng thịnh một hạt cát, suy vi nhiều như cát sông hằng. Thỏ đặt bày, chó bắt bớ. Trâu cọp cùng nhau đấu răng sừng, đàn báu trọn chẳng diệt hoa ấy)[58]. Về sau, quả nhiên phù hợp lời sấm ấy, v́ Sư nói đến chuyện triều đ́nh sa thải [Tăng sĩ, đóng cửa chùa] trong năm Hội Xương (niên hiệu của Đường Vũ Tông).

 

* Thích Thủ Tố đời Đường

 

          Sư trụ tại chùa Hưng Thiện ở Trường An, luôn chú trọng tụng tŕ, thề chẳng ra khỏi chùa. Sư tụng kinh Pháp Hoa ba vạn bảy ngàn bộ. Trong đêm, thường có con lửng chó (raccoon) nhiễu quanh nghe kinh. Khi Sư thọ trai, chim chóc mổ thức ăn trên tay. Trong sân chùa, có bốn gốc thanh đồng. Trong niên hiệu Nguyên Ḥa, công khanh, quan lại nhiều người đến văn cảnh chùa. Cây thanh đồng tới hạ đổ mồ hôi, khiến cho áo người khác bị lem luốc không thể gột rửa được. Trịnh tướng quốc do vậy từng muốn chặt bỏ. Sư căn dặn cây: “Ngươi dùng mồ hôi làm bẩn người ta, người ta sẽ đốn ngươi. Nếu có thể chẳng đổ mồ hôi th́ đừng đổ nữa”. Từ đấy, cây quả nhiên chẳng đổ mồ hôi nữa. Đầu niên hiệu Trường Khánh[59], có vị tăng Huyền U đề thơ nơi viện này rằng: “Ba vạn kinh Sen, ba mươi xuân, nửa đời chẳng dẫm bụi ngoài sân”. Người đương thời coi đó là chuyện đáng để ghi lại.

 

* Thích Vô Ngôn đời Đường

 

          Sư họ Lư, giáo pháp tinh mật. Sư từng cầm một cái bát sắt nhập Định. Trời sắp quang đăng th́ trong bát có ánh lửa chiếu lên trời, trời liền quang tạnh. Trời sắp mưa th́ trong bát có hơi trắng bốc lên, liền đổ mưa. Họ Mông phong Sư làm Quán Đảnh pháp sư. Sư một hôm giảng kinh Pháp Hoa, có ông lăo đứng nghe xong rồi cưỡi gió mây mà đi. Đại chúng kinh ngạc hỏi han, Sư bảo: “Đó là rồng ở Nhị Thủy”.

 

* Thích Diệu Hạnh đời Đường

 

          Sư tinh thông Thiên Thai Giáo Quán, vào ở trong Thái Sơn, kết cỏ làm áo, hái trái cây làm thức ăn. Sư hành Pháp Hoa tam-muội, cảm đức Phổ Hiền hiện thân chứng minh. Về sau, một buổi chiều, Sư thấy trên đất lưu ly có một vị Phật và hai vị Bồ Tát, vọt lên đứng giữa hư không. Đường Hy Tông nghe danh Ngài, xuống chiếu ban hiệu là Thường Tinh Tấn. Về sau, một ngày nọ, Sư lại thấy đất báu, bảo người chung quanh rằng: “Ta chẳng quán tướng mà lại thấy thật địa, kỳ hạn về An Dưỡng đă đến rồi”. Ngay trong ngày hôm đó, Sư nằm an tường bên hông phải qua đời.

 

* Thích Toại Đoan đời Đường

 

          Sư người Minh Châu, họ Trương, bỏ nhà xuất gia tại chùa Đức Nhuận. Thầy dạy kinh Pháp Hoa, Sư tụng như đă quen tu tập từ trước, mọi người đều kinh hăi, tán thán. Trong mười hai thời, Sư luôn phúng tụng chẳng để luống qua. Năm Hàm Thông thứ hai (861), Sư bỗng ngồi xếp bằng mà qua đời. Trong khoảnh khắc, miệng sanh ra bảy nhánh hoa sen xanh, tỏa hương ngào ngạt, xa gần tới chiêm lễ. Do vậy, tạo khám chôn Sư ở dưới Đông Sơn. Hai mươi mấy năm sau, mở ra xem, thấy h́nh hài như đang c̣n sống, bèn đón về chùa, bó nhựa cây sơn ta thành tượng. Nay đặt tên nơi ấy là Chân Thân Viện.

 

* Thích Nguyên Huệ đời Đường

 

          Sư trụ tại chùa Pháp Không Vương ở Gia Hưng, b́nh sanh tụng Pháp Hoa, chẳng tính nổi số. Sư lập chí giữ ba bạch pháp. Ba bạch pháp là thân chẳng vọng động, miệng chẳng nói dối, ư chẳng vọng duyên. Đó là ba bạch nghiệp. Người thuở đó gọi Sư là Tam Bạch Ḥa Thượng. Trong niên hiệu Hàm Thông, Sư đưa xá-lợi Phật cốt đến Phượng Tường, đốt ngón cái bên trái, miệng tụng kinh Pháp Hoa. Chẳng đầy một tháng, ngón ấy lại mọc ra.

 

* Thích Công Quưnh chùa Quảng Phước tại Biện Châu đời Đường

 

          Sư người xứ Tuấn Nghi thuộc Biện Châu. Lúc sáu tuổi, mẹ dạy truyền khẩu kinh Quán Âm, Sư học một ngày bèn thuộc. Mười sáu tuổi, Sư xả tục, vào Thái Sơn, phụng sự sư Hoằng Pháp. Sư thiểu dục, giữ vững khí tiết, áo vải ngồi trong lều tranh. Sư tự suy nghĩ: “Khoanh tay ngồi yên trong chốn núi rừng, một mực tốt lành cho riêng ḿnh [th́ được]. Nếu như duy tŕ, gởi gắm những ước vọng khác mà chẳng giáo hóa, khuyên dụ, sẽ chẳng thể hoằng dương”. Sư bèn đi tham học, trụ tại chùa Huệ Phước, chuyên tụng Pháp Hoa, soạn sớ giải gồm năm quyển. Sư thường diễn giảng. Một hôm, Phổ Hiền Bồ Tát hiện thân, cưỡi voi sáu ngà, đất đều trắng như bạc. Trước sau, Sư giảng Pháp Hoa hơn năm mươi lần. Mỗi lần giảng tới phẩm Dược Thảo Dụ, trời ắt đổ mưa.

 

* Thích Sở Vân đời Đường

 

          Sư sanh vào cuối đời Đường, xuất gia tại Hành Nhạc, từng trích máu chép một bộ kinh Pháp Hoa, dài bảy tấc, rộng bốn tấc, dày hai tấc. Sư dùng đàn hương làm hộp đựng, cất trong Tam Sanh Tạng chùa Phước Nghiêm. Lại khắc tám chữ trên đó rằng: “Nhược khai thử kinh, thệ đồng Từ Thị” (nếu [ai muốn] mở kinh này ra th́ phải có thệ nguyện giống như đức Di Lặc). Trong niên hiệu Hoàng Hựu[60], có quư nhân đến chơi núi, trông thấy, nghi là hư vọng, sai người dùng kềm phá niêm phong, có máu từng sợi tràn ra. Trong khoảnh khắc, băo tố sét đánh xuống sơn cốc. Khói mây tràn vào chùa, sờ soạng chẳng thấy nhau, suốt ngày chẳng hết. Quư nhân hết sức kinh sợ, gieo ḷng thành sám hối. Vị tăng tên Giác Phạm chùa Thạch Môn ở Quân Khê vào đời Tống đă từng đến thăm, kính cẩn vâng đội, nh́n kỹ th́ thấy sợi máu vẫn c̣n đó. Người cùng thời là sư Thiền Nguyệt Quán Hưu, có thơ đề tặng rằng: “Lóc da, trích máu sao mà khổ? V́ chép Linh Sơn chín hội văn. Huyết mười ngón cạn thành bảy quyển, cầu pháp sau này ai bằng ông?”

 

* Vị tăng chùa Ngộ Chân đời Đường

 

          Trong niên hiệu Trinh Quán đời Đường, vị tăng ở Ngộ Chân Tự tại Trường An, đêm nghỉ lại Lam Khê, bỗng nghe có tiếng tụng kinh Pháp Hoa. Âm thanh nhỏ nhẹ, lan xa. Dưới ánh trăng nh́n bốn phía, tịch mịch chẳng thấy ai. Sư hoảng sợ, trở về chùa thưa với chư Tăng, rủ họ đêm sau cùng đến nghe. Họ nghe thấy tiếng tụng kinh từ dưới đất vọng lên, bèn đánh dấu chỗ đó. Ngày hôm sau, đào chỗ đánh dấu, kiếm được một đầu lâu trong đống đất, xương đă khô ran, chỉ có miệng và lưỡi tươi nhuận, bèn đem về chùa, dùng hộp đá đựng trong chái Tây của Phật điện. Từ đó, mỗi đêm thường có tiếng tụng kinh Pháp Hoa phát ra từ hộp đá. Trai gái ở Trường An đến xem cả ngàn người. Về sau, hộp đá ấy bị một vị Tăng ở Tân La lén trộm đi.

 

* Tôn Hàm đời Đường

 

          Ông làm hiệu úy trong quân của Lương Sùng Nghĩa tại Tương Châu. Tuy ở trong quân, ông luôn kiền thành chép kinh Pháp Hoa. Một hôm, ông chết đột ngột. Hai ngày sau sống lại, nói ḿnh tới một vương phủ, nghi vệ rất nghiêm. Nha lại dẫn ra một ông Tăng đối chất, ông tăng tên là Hoài Tú, chết đă cả năm. Tăng lúc sống phạm giới, vào cơi âm th́ không thấy ghi chép điều thiện nào, bèn nói dối rằng: “Tôi từng sai Tôn Hàm chép kinh Pháp Hoa”. Vua (Diêm vương) sai triệu Tôn Hàm đến đối chất. Tôn Hàm thoạt đầu chẳng biết, thưa là chẳng có. Ông tăng cứ khăng khăng. Tôn Hàm bỗng thấy Địa Tạng Bồ Tát bảo: “Nếu ông chấp nhận, th́ người ấy cũng được hưởng ân, cũng sẽ được gia hộ”. Tôn Hàm vâng lời, ông tăng bèn được thả.

          Ngay trong lúc đang đối chất, ông thấy một vị vua mặc nhung phục từ ngoài đi vào, tùy tùng cả trăm người. Vua cơi âm xuống bệ đón vào, mời ngồi lên bệ. Chẳng lâu sau, có trận gió lớn cuốn đi mất. Lại có một người thường tŕ kinh Kim Cang, nhưng thích ăn thịt. Phía bên trái có mấy ngàn quyển kinh, bên phải chất thịt như núi, do thịt nhiều, [Diêm vương] bèn sắp luận tội. Bỗng từ trong đống kinh, văng ra một đốm lửa, bay đến núi thịt. Trong khoảnh khắc, [núi thịt] cháy sạch. Người ấy bước lên không trung mà đi. Tôn Hàm hỏi đức Địa Tạng: “Vị vua mặc nhung phục trước đó bị gió cuốn tới đâu?” Ngài Địa Tạng nói: “Vị vua ấy sẽ vào Vô Gián. Trận gió ấy chính là nghiệp phong”. Do vậy, Bồ Tát dẫn Tôn Hàm đi xem địa ngục. Đến cửa, lửa khói bốc hừng hực, ông sợ chẳng dám nh́n, bỗng vạc sôi trào bọt, văng giọt nước trúng đùi trái của ông, đau thấu tâm tủy. Địa Tạng sai nha lại đưa ông về.

          [Lúc ông sống lại], vợ con đang vây quanh khóc lóc, đă một ngày trôi qua rồi. Ông bèn dốc hết của cải trong nhà chép kinh Pháp Hoa, quyết chí thề xuất gia. Chỗ bị nước sôi văng trúng biến thành ghẻ lở, suốt đời chẳng lành. Hoài Tú nói dối c̣n được miễn tội phá giới, huống hồ người c̣n sống thật sự chép kinh ư? Đức Địa Tạng khuyên nhủ Tôn Hàm thừa nhận, chắc là ông tăng có điều túc thiện nào đó. Ông Hàm chịu tai ách v́ vạc sôi, sao biết chẳng phải là nghiệp? Từ đầu đến cuối, ông vâng theo lời chỉ dạy của đức Địa Tạng, rốt cuộc được sống lại, tức là công đức chép kinh đă rành rành rồi!

 

* Ni Pháp Tín ở Hà Đông đời Đường

 

          Đời Đường, tại Hà Đông có luyện hạnh ni tên là Pháp Tín, thường đọc Pháp Hoa. Bà đặc biệt tạo tịnh thất, mời người viết chữ đẹp chép kinh Pháp Hoa, trả công cao gấp mấy lần, cực lực trang nghiêm. [Người chép kinh] sáng dậy phải tắm rửa, thắp hương, thay áo, dụng công chép bảy quyển, tám năm mới xong. Năm Trinh Quán thứ hai (628), vị tăng chùa Long Môn là Pháp Đoan nhóm chúng giảng diễn, muốn mượn ni sư quyển kinh ấy, v́ cho đó là bản khuôn mẫu. Ni sư cố từ chối, Pháp Đoan trách mắng. Bất đắc dĩ, bà tự đưa đến cho Pháp Đoan. Pháp Đoan mở ra xem, chỉ thấy giấy vàng, chẳng thấy chữ. Sư hổ thẹn, sợ hăi, đưa trả. Ni sư buồn khóc, nhận lấy, dùng nước thơm rửa hộp đựng kinh, tắm gội, xông hương, đội kinh lên đầu, nhiễu Phật bảy ngày. Xong rồi mở ra xem, văn tự hiện ra như cũ. Lại có vị ni tên là Pháp Nhuận, trụ tại chùa Tam Muội Vương ở Đan Dương, nhập đạo từ bé, chuyên ṛng tu Thiền huệ, tụng thông thạo kinh Pháp Hoa, sáng tối không ngừng. Sau khi mất, da thịt đều tan hết, chỉ c̣n tim và lưỡi chẳng hư nát.

 

* Sầm Văn Bổn đời Đường

 

          Ông có tên tự là Cảnh Nhân, người Cức Dương, tin Phật từ bé, tụng phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa. Ông từng ngồi thuyền sang Ngô Giang. Giữa gịng thuyền lật, mọi người đều chết đuối. Văn Bổn cũng rơi xuống nước. Bỗng nghe có người nói: “Người có thể tụng kinh Pháp Hoa th́ sẽ chẳng chết”. Nói như thế ba lượt, ông liền nổi lên mặt nước. Trong chốc lát, đến bờ. Một hôm, ông làm trai tăng tại nhà, một vị Tăng rời đi sau cùng, nói: “Thiên hạ sắp loạn, ông may mắn chẳng bị tai ương. Rốt cuộc được hưởng thái b́nh, phú quư”. Nói xong, chẳng thấy đâu nữa. Tới khi Văn Bổn thọ trai, lại từ trong bát, t́m được hai viên xá-lợi. Về sau, ông làm quan cho nhà Đường tới chức Trung Thư Lệnh.

 

* Hoàng Môn Thị Lang Vương Yêm đời Đường

 

          Ông bẩm tánh vụng về, chậm chạp, một bộ kinh Pháp Hoa tụng lâu ngày mới thông thạo. Về sau, bệnh chết, báo mộng cho em trai là Thái Thú Tân An Vương Cố rằng: “Ta do tụng kinh được sanh về Tây Phương. Nhưng do chậm lụt, vẫn c̣n ở trong thai sen có cánh hoa bằng sắt. Báo cho các ngươi biết, tâm hăy siêng gắng nơi kinh điển”. Nói xong bèn từ biệt.

 

* Lệnh Hồ Nguyên Quỹ ở Long Châu đời Đường

 

          Ông là người xứ Ba Tây, kính tin Phật pháp, vâng theo lời dạy của Hàng thiền sư, chép một bộ kinh Pháp Hoa, sắp xếp thành quyển trang nghiêm, đẹp đẽ, kiền thành thờ ở trang trại tại Kỳ Châu. Một đêm, lửa rừng cháy lan đến trại, nhà cửa trong trang trại đều thành tro. Ông Quỹ sai bới tro, t́m được ống đồng đựng kinh, th́ thấy lớp bọc bên ngoài đă thành tro, kinh vẫn ngời ngời, màu vàng chẳng thay đổi. Đó là chuyện trong năm Trinh Quán thứ năm (631).

 

* Đổng Hùng ở Hà Nam đời Đường

 

          Trong niên hiệu Trinh Quán đời Đường, Đổng Hùng ở Hà Nam làm Đại Lư Thừa, do vướng vào chuyện Lư Tiên Đồng, chúa thượng tức giận, sai Thị Ngự là Vi Tông tra hỏi rất gấp. Lư Kính Huyền thuộc Đại Lư Tự, Tư Trực Vương Hân v.v… mấy chục người bị hạ ngục. Đổng Hùng chuyên niệm phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa, hằng ngày tụng ba mươi lượt, đêm cũng chẳng ngủ. Gông xiềng bỗng tự tháo ra. [Ngục tốt] kinh hăi báo lên người coi ngục. Đêm ấy, Giám Sát Ngự Sử Trương Thủ Nhất trực đêm, đích thân trông thấy, rất lạ lùng, bèn xiềng chặt, niêm phong mới rời đi. Đổng Hùng vẫn tụng kinh. Tới canh năm, xiềng tuột ra, rơi xuống đất vang ra tiếng, mà giấy niêm phong c̣n nguyên. Trong ngoài Ngự Sử Đài nghe chuyện ấy, đều lấy làm lạ. Khi yên chuyện, những tù nhân cùng trại giam với ông đều được thoát tội.

 

* Sử Ha Thệ tại Trường An đời Đường

 

          Đời Đường, tại thôn Nam Sử thuộc Phước Thủy, huyện Trường An, có Sử Ha Thệ b́nh sanh tụng kinh Pháp Hoa, được tuyển làm nha lại của huyện lệnh. Ông đi lại chuyên đi bộ, chưa từng cưỡi ngựa, bởi vâng theo kinh dạy mà thương xót hết thảy. Lúc lâm chung, có mùi hương lạ, mọi người đều lấy làm lạ. Mười năm sau, vợ ông mất, đào mồ lên để hợp táng, thấy lưỡi ông vẫn như lúc sống.

 

* Hiệu Úy Lư Sơn Long thuộc Hữu Giám Môn đời Đường

 

          Ông là người Phùng Dực. Trong niên hiệu Vũ Đức, bỗng chết đột ngột, ch có vùng tim vẫn c̣n ấm. Bảy ngày, ông mới sống lại, nói:

          - Ta tới một quan thự (dinh thự của quan), trong đó có mấy ngàn tù nhân, đều bị xiềng, đứng hướng mặt về phía Bắc. Vua hỏi Sơn Long b́nh sanh làm phước thiện ǵ? Ta thưa: ‘Hễ gặp người làng luôn cho họ đồ vật’. Lại hỏi: ‘Ông lại c̣n làm đức nghiệp ǵ?’ Ta đáp: ‘Hằng ngày tụng hai quyển kinh Pháp Hoa’. Vua đứng dậy nói: ‘Rất lành! Ông có thể lên ṭa cao ở phía Đông Bắc trước thềm mà tụng’. Ta liền cất giọng đọc tựa đề Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Tự Phẩm đệ nhất. Vua nói: “Xin thôi! Ông tụng kinh không chỉ tự lợi, mà c̣n khiến cho các tù nhân trong sân nghe pháp đều được thoát tội! Lành thay! Các tù nhân bỗng chẳng thấy đâu nữa. Vua sai thả ta trở về. Ta đi về phía Đông, thấy một ṭa thành bằng sắt rất rộng lớn. Nha lại nói: “Đấy là đại địa ngục. Bên trong chia ra từng ngăn, đều tùy theo bổn nghiệp mà vào từng ngục chịu tội”. Ta nghe nói buồn sợ, xưng Nam-mô Phật, lại xin nha lại dẫn ra. Ta bỗng thấy ngoài thành có người ngồi, nằm. Ta hỏi th́ nha lại nói: “Đấy là những kẻ mắc tội báo, đáng vào vạc sôi, do được hiền giả xưng Nam-mô Phật, các tội nhân tạm thời được nghỉ một ngày”.

 

* Cháu nội ông Cao Biểu Nhân ở Trường An đời Đường

 

          Ông thường đọc Pháp Hoa. Tháng Giêng năm Long Sóc thứ ba (663), ông cưỡi ngựa ra cửa Thuận Nghĩa, có hai kỵ sĩ đuổi theo, xưng là sứ giả cơi âm, đặc biệt đến truy đuổi ông. Ông Cao hoảng sợ chạy về phía Tây, muốn vào chùa Phổ Quang. Quỷ nhanh chóng chặn đằng trước cửa, không cho ông vào. Ông lại chạy về phía Đông muốn vào chùa Khai Thiện. Quỷ lại ngăn đằng trước, ông bèn chạy vào phường Lễ Tuyền. Một kỵ sĩ chặn đằng trước, ông Cao đấm cho quỷ đó rớt ngựa. Quỷ đằng sau tức giận, từ xa nắm tóc ông Cao lôi xuống ngựa. [Ông Cao hôn mê], người nhà khiêng về, tới đêm mới sống lại, tự nói:

          - Ta đến gặp vua cơi âm. Vua nói: “Cớ sao ngươi lấy trộm trái cây của tăng, lại c̣n kể lỗi Tam Bảo?” Ta nhận tội, không dám căi, vua nói: “Cái tội lấy trộm trái cây, đáng nuốt bốn trăm năm mươi ḥn sắt, thọ tội bốn năm mới hết. Cái tội kể lỗi, đáng bị cày lưỡi”. Do đó, thả về.

          Nói xong, ông lại đứt hơi, miệng như đang nuốt vật ǵ, toàn thân đỏ ửng, suốt một ngày mới tỉnh. Bốn năm như thế, quả báo nuốt ḥn sắt mới hết. Ông bỗng lại tắt hơi, thần thức tới chỗ vua. Vua sai quỷ sứ kéo lưỡi ra cày. Quỷ cầm móc câu cạy miệng, sắc bén dị thường, trọn chẳng lôi lưỡi ra được. Vua bèn xem sổ sách, biết là do sức công đức v́ từng đọc Pháp Hoa, chẳng thể kéo lưỡi ra được, bèn tha tội cho về. Từ đó, ông thường ở chùa Hóa Độ, hành ngũ hối pháp để sám hối tiền khiên.

 

* Phan Quả ở kinh đô đời Đường

 

          Lúc hai mươi, ông làm chức Đô Thủy Tiểu Lại (nha lại giúp trông coi về đường thủy) tại huyện Phú B́nh. Tới khi trở về nhà, cùng mấy thiếu niên đi chơi ngoài đồng. Thấy một con dê đang ăn cỏ, Phan Quả và bọn thiếu niên bắt đem về. Giữa đường, dê kêu ầm lên, Phan Quả sợ chủ nó nghe thấy, bèn cắt lưỡi nó, giết nó đem ăn. Sau một năm, lưỡi Phan Quả dần dần rút nhỏ, phải gởi đơn xin thôi làm tiểu lại. Huyện lệnh là Trịnh Dư Khánh nghi dối trá, bắt mở miệng để xét nghiệm, thấy lưỡi chỉ nhbằng hạt đậu chứ không mất. Quan hỏi nguyên cớ, ông lấy giấy viết ra để trả lời. Huyện lệnh dạy ông chép kinh Pháp Hoa, làm phước hồi hướng cho con dê. Phan Quả theo đúng lời dạy mà phát tâm biên chép, trai giới chẳng lười nhác. Sau một năm, lưỡi dần dần mọc ra, b́nh phục như cũ. Lại đến quan tŕnh đơn, huyện lệnh dùng ông làm Lư Chánh (trưởng làng).

 

* Thiếu Thường Bá[61] Thôi Nghĩa Khởi đời Đường

 

          Cha vợ của ông là Tiêu Văn Khanh chuyên tŕ Pháp Hoa trọn mấy ngàn biến, vĩnh viễn thôi ăn mặn. Vợ ông Thôi là Tiêu thị chết vào tháng Năm năm Long Sóc thứ ba (663). Ông Thôi làm chay hai mươi mốt ngày. Cô tớ gái là Tố Ngọc bỗng nói giọng của phu nhân, cho biết lúc sống chẳng tin Tam Bảo, nay chịu khổ chẳng thể nói: “Do các vị v́ tôi tụng kinh, thiết trai, tôi được tạm thả về. Tới ngày hai mươi sẽ trở lại, dẫn Tố Ngọc đi xem tôi chịu tội”. Tới kỳ hạn, quả nhiên Tố Ngọc chết. Ba ngày sau, cô ta sống lại nói thấy cung điện, phủ thự trong ṭa thành lớn, phu nhân vào một viện riêng. Trong chốc lát vạc lửa, giường sắt đưa đến, [phu nhân] chịu đủ mọi nỗi khổ độc. Cô đột nhiên thấy ông Tiêu Văn Khanh ngồi trên đài hoa sen, bảo Tố Ngọc rằng: “Con gái ta lúc sống hay sân hận, ghen ghét, chẳng tin lời ta, chẳng tin nhân quả. Nay chịu nỗi khổ này, ta chẳng thể cứu được. Ngươi quay về, hăy nên bảo với người nhà, khiến cho họ tu công đức ḥng được giải thoát”. Lại thấy một vị Phạm tăng từ không trung hạ xuống, dạy Tố Ngọc tụng kinh Pháp Hoa. Sư dặn ḍ: “Ngươi hăy nên nhớ tŕ kinh này, v́ người Diêm Phù Đề truyền tụng, sẽ có người tin tưởng”. Lân Đức nguyên niên (664), tại nhà Tưởng Tướng Quân thiết trai, đón Tố Ngọc tới để thử cô ta tụng kinh cơi âm. Có vị Phạm tăng nghe xong, chắp tay tán thán: “Giống hệt như kinh bổn tại Tây Quốc chẳng khác”, đại chúng mới kinh hăi, thán phục.

 

* Vợ chàng họ Mă

         

          [Chuyện này] phát sanh tại Thiểm Hữu. Trước kia, tập tục của vùng đất này là cưỡi ngựa, bắn tên, chẳng biết đến danh hiệu Tam Bảo. Năm Nguyên Ḥa 12 (817), bỗng có một cô gái xinh đẹp xách giỏ bán cá. Người ta tranh nhau muốn cưới cô. Cô gái nói: “Ai có thể trong một đêm tụng thuộc phẩm Phổ Môn, tôi sẽ theo người đó”. Tới sáng, tụng thấu triệt có hơn hai mươi người. Cô ta lại lấy kinh Kim Cang Bát Nhă [yêu cầu như trên]. Sáng ra, vẫn có mười người thông thuộc. Cô ta lại lấy toàn bộ kinh Pháp Hoa, hẹn ba ngày thông suốt, riêng chàng họ Mă là có thể [tụng thuộc]. Chàng ta bèn sắm sửa đủ lễ, đón cô về. Vào cửa, cô ta nói bị bệnh, xin cho ở riêng một pḥng. Trong khoảnh khắc đă chết, thân thể liền hư nát, họ bèn đem chôn. Mấy hôm sau, có một vị lăo tăng áo tía, tới chỗ chôn, sai đào lên xem. Chỉ c̣n có xương hoàng kim tỏa hăy c̣n. Sư bảo đại chúng: “Đấy là Quán Âm đại sĩ thương xót các ngươi chướng nặng, cho nên rủ ḷng ban phương tiện, thị hiện ḥng hóa độ các ngươi”. Nói xong, Sư bay lên không mà đi (Xem trong lời tựa tán thán bức tượng ở Tiềm Khê đời Tống, có bản ghi là Phổ Hiền [thay v́ Quán Âm]).

 

* Hai cô con gái họ Hoàng đời Đường

 

          Họ là người Tấn Lăng, thuở nhỏ nghe tụng kinh Pháp Hoa, lắng nghe lâu ngày, bèn nói: “Tôi hiểu nghĩa này”. [Từ đó, họ] có thể đàm luận sâu xa về Thật Tướng. Về sau, họ vào chùa An Quốc ở kinh đô làm ni, chị tên là Tŕ Pháp, em tên là Huệ Nhẫn, cùng tu Pháp Hoa tam-muội. Chợt có vị ni hiệu là Không Cô, từ ngữ, dung mạo rất lạ, đến chỗ họ lễ sám, cùng họ hành đạo. Mỗi khi tới giữa đêm, thân [Không Cô] tỏa quang minh rạng rỡ. Như thế suốt ba năm, [Không Cô] bèn rời đi. Có người nghi [Không Cô chính] là đức Phổ Hiền hóa hiện. Năm Hưng Nguyên thứ ba, Lương Túc ghi.

 

* Người thiếp của Đô Thủy Sứ Tô Trường

 

          Trong niên hiệu Vũ Đức đời Đường, Đô Thủy Sứ Tô Trường được phong làm thứ sử Ba Châu, vượt sông Gia Lăng. Giữa gịng gió nổi, thuyền lật. Mọi người cùng lúc chết ch́m. Chỉ có người thiếp thường đọc kinh Pháp Hoa, khi nước tràn vào thuyền, cô bèn đội hộp đựng kinh lên đầu, thề cùng kinh chết ch́m. Sau đó, chỉ có ḿnh cô chẳng ch́m, theo sóng dập dềnh. Trong khoảnh khắc tới bờ. Cô nâng hộp kinh lên bờ, mở ra xem chẳng thấy bị ướt. Rốt cuộc cô thiếp được toàn mạng.

          Lại ở phía Bắc thành Hoài Ninh, có chị dâu và cô em chồng cùng tụng Pháp Hoa, tiếng như vàng ngọc. Sau khi họ chết, mộ sanh một đóa sen hồng, nở x̣e rất đẹp. Người đời sau bèn dựng chùa Hoa Đài nơi cuộc đất ấy.

Lịch triều Pháp Hoa Tŕ Nghiệm Kỷ quyển thượng hết

         

 



[1] Kỷ ở đây được dùng theo ư nghĩa mô phỏng cách chép Sử trong lối biên niên sử truyền thống. Trong cách chép sử do Tư Mă Thiên đề ra, Bổn Kỷ là tiểu truyện của hoàng đế trong một triều đại, trần thuật cặn kẽ những sự kiện trọng đại trong một quốc gia trong một triều đại cụ thể. Châu Khắc Phục sưu tập các sự tích linh ứng do tŕ kinh Pháp Hoa, phân loại theo mỗi triều đại, sắp xếp theo thứ tự các triều đại trong lịch sử. Đối với mỗi câu chuyện trong cùng một triều đại, lại dựa theo thời điểm trước sau trong từng triều đại ấy để sắp xếp. Khi một nhân vật sống qua hai vương triều như tổ Trí Giả (Tổ sanh vào đời Trần, tịch vào đời Tùy), sẽ chọn triều đại nào Ngài sống nhiều hơn để xếp Ngài vào triều đại đó.

[2] Tức là quang minh chiếu từ tướng bạch hào của đức Phật như đă nói trong phẩm Tự của kinh Pháp Hoa.

[3] Đức Phật dùng âm thanh để giáo hóa nên giáo pháp của Ngài gọi là âm giáo hoặc thanh giáo.

[4] Tấn Vũ Đế chính là Tư Mă Viêm (235-290), người sáng lập triều đại Tấn. Cha ông là Tư Mă Chiêu đă nắm quyền thao túng nhà Tào Ngụy. Khi ông nội của ông ta là Tư Mă Ư chết, Tư Mă Sư là con trai trưởng lên thay. Khi Tư Mă Sư ốm chết, Tư Mă Viêm lên thay, kế thừa tước hiệu Tấn Vương. Không lâu sau, ông ép Tào Hoán (Ngụy Nguyên Đế) nhường ngôi cho ḿnh, lập ra nhà Tấn.

[5] Sa Lặc (Shule, c̣n phiên âm là Sớ Lặc) là một vương quốc cổ của người Ba Tư thành lập trên một ốc đảo trong sa mạc Taklamarkan, nằm ở phía Bắc con đường tơ lụa, thủ đô là Kashgar (Khách Thập). Họ nói tiếng Sakan (một ngôn ngữ cổ ở phía Đông Iran). Tới thế kỷ thứ tám, họ bị Thổ Phiên (một vương quốc cổ của người Tây Tạng) chinh phục. Cuối cùng bị sát nhập vào Khách Lạt Hăn Quốc (Kara-Khanid Khanate), một vương quốc cổ của người Thổ Nhĩ Kỳ. Vào thời Đường, Sa Lặc trở thành lănh thổ phụ thuộc của nhà Đường.

[6] Tức vùng thung lũng thuộc rặng núi Pamir (Thông Lănh), nằm giữa phần giao tiếp giữa các rặng núi Thiên Sơn, Khách Lạt (Karakoram), Côn Luân, và Hưng Đô Khố Thập (Hindukush). Vùng này nằm giữa các quốc gia Tajikistan, Kyrgyzstan, A Phú Hăn, Pakistan và Trung Hoa.

[7] Phù Tần tức là nhà Tiền Tần (350-394) do Phù Hồng sáng lập. Đây là một nước trong thời Thập Lục Quốc. Năm 350, một tướng lănh thuộc dân tộc Đê là Phù Hồng chiếm cứ vùng Quan Trung, xưng là Tam Tần Vương. Chẳng lâu sau, ông ta bị Ma Thu đầu độc chết, con trai là Phù Kiên lên kế vị, xưng đế. Do Quan Trung là lănh thổ của nhà Tần thời Chiến Quốc, cho nên Phù Kiên lấy quốc hiệu là Tần, đóng đô tại Trường An. Phù Kiên chinh phục các tiểu quốc lân cận, như diệt nhà Tiền Yên, đánh thắng Đông Tấn, chiếm cứ Lương Châu và Ích Châu, diệt Tiền Lương, diệt nước Đại của người Tiên Ty, sai Lữ Quang chiếm đóng Tây Vực. Thời cực thịnh, lănh thổ nhà Tiền Tần gần như chiếm trọn vùng bắc Trung Hoa. Sử nói: “Đông đến tận biển thẳm, Tây thôn tính Quy Tư, Nam bao gồm Tương Dương, Bắc đến tận sa mạc”.

[8] Tổ Đạt Ma sau khi đă tịch, có người sang sứ Tây Vực thấy Tổ quảy một chiếc dép đi. Người ấy về tâu lên, vua cho khai quật mộ, chỉ thấy trong quan tài c̣n một chiếc dép. Câu này có ư sánh ví ngài Huệ Vĩnh thần dị chẳng khác ǵ tổ Đạt Ma.

[9] Vi () là một loại rau dại, thuộc loài Dương Xỉ, tức Royal Fern, thường mọc dưới bóng cây, dọc bờ suối. Phần thường được dùng để ăn là búp non của nó.

[10] Giản Văn Đế là Tư Mă Dục (320-372), tên tự là Đạo Vạn, vua thứ mười bốn của nhà Tấn.

[11] Hưng Ninh là niên hiệu sử dụng từ năm 363 đến năm 365 của Tấn Ai Đế (Tư Mă Phi).

[12] Giang Tả chính là Giang Đông, tức vùng phía Đông sông Trường Giang (sông Dương Tử), bao gồm các tỉnh Giang Tô, An Huy, thành phố Thượng Hải, tỉnh Chiết Giang, tỉnh Giang Tây hiện thời.

[13] Tham Quân c̣n gọi là Tham Quân Sự, tức Tham Mưu Quân Vụ, là chức quan vơ, làm cố vấn cho trưởng quan.

[14] Khang Cư (Sogdiana) là một quốc gia ở Trung Á, thuộc miền Đông nước Kazakhstan (tức thung lũng Ferghana hiện thời) và lưu vực sông Syr Daria. Sử Trung Hoa cho biết nước này nằm phía Bắc Đại Uyển, phía Tây nước Ngô Tôn, giáp giới Nhục Chi ở phía Nam. Người Khang Cư là dân du mục. Hậu duệ của họ là người Zhuz nước Kazakhstan.

[15] Chức quan này gọi đủ là Biệt Giá Tùng Sự Sứ, là quan phụ tá của Thứ Sử coi một châu. Do địa vị khá cao, khi du hành có xe riêng, chẳng ngồi cùng một xe với Thứ Sử, cho nên gọi là Biệt Giá, có trách nhiệm xử lư thường vụ (hay thường gọi là Chánh Văn Pḥng theo nghĩa hiện thời) trong phủ thự của quan tri châu (thứ sử). Đời Tùy, chức quan này được gọi là Trưởng Sử. Đời Tống, đổi thành Thông Phán.

[16] Chặn sách (thư trấn) tức là vật dùng để đè lên trang sách khi đọc để sách khỏi bị xếp lại.

[17] Người phụ tá sắp xếp cho pháp sư giảng kinh.

[18] Đại Minh là niên hiệu thứ hai của Tống Hiếu Vũ Đế (Lưu Tuấn) sử dụng từ năm 457 đến 464.

[19] Thái Thỉ là niên hiệu của Tống Minh Đế (Lưu Úc) sử dụng từ năm 465 đến 471.

[20] Hiếu Kiến là niên hiệu đầu tiên của Tống Vũ Đế (Lưu Tuấn) sử dụng từ năm 454 đến năm 456.

[21] Nguyên Gia là niên hiệu của Tống Văn Đế (Lưu Nghĩa Long) từ năm 424 đến năm 453.

[22] Tiêu Bân là cháu họ của Tiêu Tư Thoại (Tiêu Tư Thoại là cháu gọi bà Tiêu Văn Thọ là cô). Tiêu Văn Thọ lấy Lưu Kiều (tức chú của vua khai sáng nhà Lưu Tống là Lưu Dụ). Mẹ Lưu Dụ mất ngay sau khi sanh, bà Tiêu Văn Thọ nuôi nấng Lưu Dụ như con ruột. Về sau, Lưu Dụ lên làm vua, bèn tôn Lưu Kiều làm Hiếu Hoàng Đế, phong cho Tiêu Văn Thọ làm Hoàng Thái Hậu. Khi bà mất, được vua tôn phong thụy hiệu là Hiếu Ư Thái Hậu. Do vậy, Tiêu Tư Thoại và họ Tiêu được trọng dụng. Tiêu Bân do có tài thao lược, được Tống Văn Đế trọng dụng, phong làm chủ soái cuộc Bắc phạt đánh nhà Bắc Ngụy.

[23] Ngụy Thế Tổ tức là Ngụy Thái Vũ Đế, tên là Thác Bạt Đảo. Ông này cũng là người nghe theo lời sàm tấu của đạo sĩ Thôi Hạo, diệt trừ Phật giáo tại Bắc Ngụy. Đây là lần pháp nạn đầu tiên của Phật giáo Trung Hoa.

[24] Khai Phủ hiểu theo nghĩa chung là quan viên có quyền hạn lớn, có thể mở riêng phủ thự. Thời Tây Ngụy và Bắc Châu, chia quân lực cả nước thành hai mươi bốn quân. Mỗi quân lập ra một Khai Phủ là người cầm đầu đội quân đó, mỗi quân chừng hai ngàn lính.

[25] Vĩnh Minh là niên hiệu của Nam Tề Vũ Đế (Tiêu Trách) từ năm 483 đến năm 493.

[26] Kiến Vũ ở đây là niên hiệu của Tề Minh Đế (Tiêu Loan) sử dụng từ năm 494 đến năm 498; trong khi niên hiệu Kiến Vũ được nói trong chuyện Vương Huệ Xưng là niên hiệu của Triệu Vũ Đế (Thạch Hổ) nhà Hậu Triệu sử dụng từ năm 335 đến năm 348.

[27] Tiêu Tử Lương (460-494) là con của Tề Vũ Đế (Tiêu Trách), được phong làm Cánh Lăng Vương, làm quan tới chức Tư Đồ. Văn Tuyên là thụy hiệu của ông sau khi mất.

[28] Chức quan này được đặt ra dưới thời Nguyên Đế nhà Đông Tấn, trực thuộc Tán Kỵ Tỉnh, có trách nhiệm theo hầu vua phê duyệt tấu chương, can gián khi vua phạm sai lầm, chưởng quản người hầu cận nhà vua.

[29] Quốc Tử Bác Sĩ là chức quan trông coi việc giáo dục, trông coi việc dạy dỗ các học sinh thuộc Quốc Tử Giám, đồng thời là cố vấn chánh trị và điển lễ, địa vị thấp hơn Quốc Học Tế Tửu (hiệu trưởng Quốc Tử Giám). Đến đời Tề, Quốc Học Bác Sĩ có địa vị ngang với Trung Thư Lang. Bác Sĩ có nghĩa là người học rộng, thấu hiểu sâu xa kinh điển Nho gia.

[30] Thiên Giám là niên hiệu của Lương Vũ Đế từ năm 502 tới năm 519.

[31] Viên Ngang (461-540), tự là Thiên Lư, quan chức nhà Nam Tề và Nam Lương, nổi tiếng chánh trực. Khi em trai của Thượng Thư Lệnh Vương Yến là Vương Hủ lạm quyền hối lộ, ông đàn hặc thẳng thừng, không sợ quyền hào. Ông làm quan đến chức Tư Không, kiêm Thượng Thư Lệnh, Tả Quang Lộc Đại Phu, được Lương Vũ Đế rất kính trọng. Viên Ngang c̣n là một nhà đại thư pháp, văn tài lỗi lạc, khéo vẽ vời.

[32] Trưng Sĩ là danh xưng chỉ vị ẩn sĩ chẳng tiếp nhận chức tước của triều đ́nh.

[33] Ở đây sách ghi tên ông là Tiển (), trong khi sách Pháp Hoa Hiển Ứng Lục lại ghi tên ông là Sân (), có lẽ là lỗi lầm trong quá tŕnh khắc ván ghi xưa.

[34] Tiêu Sát là con thứ ba của thái tử Tiêu Thống (Chiêu Minh thái tử), tức là cháu nội của Lương Vũ Đế. Về sau, ông này trở thành Lương Tuyên Đế.

[35] Thái Thanh là niên hiệu thứ bảy và là niên hiệu cuối cùng của Lương Vũ Đế sử dụng từ năm 547 đến năm 549. Lương Vũ Đế sử dụng các niên hiệu Thiên Giám, Phổ Thông, Đại Thông, Trung Đại Thông, Đại Đồng, Trung Đại Đồng, và Thái Thanh.

[36] Thái Học Bác Sĩ chính là chức quan Ngũ Kinh Bác Sĩ được lập ra từ đời Hán, được phong cho những người có tŕnh độ hiểu biết uyên thâm về ngũ kinh của Nho gia để dạy các sĩ tử thuộc Quốc Tử Giám (thoạt đầu gọi là Thái Học). Thông thường, đời Hán - Ngụy, chia ra cụ thể các kinh như Thư Kinh Bác Sĩ chẳng hạn. Từ thời Đông Tấn trở đi, chỉ gọi chung là Thái Học Bác Sĩ. Trách nhiệm cụ thể là dạy học con các quan từ ngũ phẩm trở lên cũng như con cháu các quan đứng đầu quận huyện, cũng như con cháu của các quan từ tam phẩm trở lên được tuyển vào trường Thái Học.

[37] Thái Kiến là niên hiệu của Trần Tuyên Đế (Trần Húc) từ năm 569 đến năm 582.

[38] Tấn Dương là kinh đô nhà Bắc Ngụy, nay thuộc thành phố Thái Nguyên. Nơi này c̣n được gọi là Tinh Châu hay Long Thành.

[39] Quan Công được gọi là Vũ An Vương v́ năm Đại Quán thứ hai (1107), Tống Huy Tông gia phong ông là Vũ An Vương, rồi cùng năm đó lại phong tặng thụy hiệu Chiêu Liệt Vũ An Vương. Tới năm 1123, lại gia phong Nghĩa Dũng Vũ An Vương. Tống Cao Tông gia phong thành Tráng Mục Nghĩa Dũng Vũ An Vương.

[40] Nội Sử là một chức quan thân cận nhà vua, được lập ra từ thời Tây Châu. Trách nhiệm chủ yếu là chưởng quản pháp lệnh, giúp vua biên soạn văn thư, truyền lệnh cho các khanh đại phu. Đến đời Tùy, Nội Sử là danh xưng để gọi Trung Thư Lệnh v́ nhà Tùy đổi cơ quan Trung Thư Tỉnh thành Nội Sử Tỉnh. Tới đời Đường, Nội Sử chính là Tể Tướng. Tới đời Thanh, Nội Sử tương đương với Đại Học Sĩ.

[41] Tức là kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhă Ba La Mật (Pravaradevarāja-pariprcchā). Kinh gồm bảy quyển, do ngài Nguyệt Bà Thủ Na (Upaśūna) dịch vào năm Thiên Gia thứ sáu (565) đời Trần. Kinh c̣n có danh xưng là Thắng Thiên Vương Vấn Bát Nhă Kinh. Trong kinh này, thuận theo lời hỏi thiên vương Bát Bà La (Pravara), đức Phật giảng giải Bát Nhă thậm thâm và cách tu tập. Kinh gồm mười sáu phẩm, chia thành bảy quyển. Kinh này chính là bản dịch khác của hội thứ sáu trong bộ Đại Bát Nhă Kinh do ngài Huyền Trang dịch.

[42] An Tức là một vương quốc cổ tại Ba Tư (Iran hiện thời). Tiếng Ba Tư gọi là Ashkanian, hoặc Parthia tồn tại từ năm 247 đến năm 224 trước Công Nguyên. Đế quốc này do vua Arsaces đệ nhất sáng lập. Arsaces vốn là lănh tụ bộ tộc Parni chiếm cứ vùng Parthia. Khi cực thịnh, đế quốc này trải dài từ lưu vực sông Ấu Phát Lạp Đê (Euphrates) tới A Phú Hăn và phần Tây Pakistan. Do nằm trên con đường tơ lụa, vương quốc này trở thành trung tâm mậu dịch quan trọng thời ấy.

[43] Vân mẫu (Micas) là tên gọi chung cho các khoáng chất thuộc nhóm Phyllosillicate (tức các hợp chất Sillicate có thể tách ra thành từng miếng mỏng), có thể trong suốt hoặc trong mờ. Mica thường là hợp chất của Kalium, Natrium, hoặc Calcium kết hợp với nhôm, manganese, hoặc sắt, và một thành phần không thể thiếu là chất silicon bị oxyde hóa. Tùy theo cách kết hợp khác nhau mà thành ra các loại mica khác nhau.

[44] Bộc Xạ là chức quan đă có từ thời cổ. Theo Hán Quan Nghi Chú, Bộc có nghĩa là chủ chốt, quản trị, c̣n Xạ là v́ thời cổ coi trọng vũ thuật. Do vậy, trong số những người cầm đầu thuộc hạ, luôn chọn người giỏi bắn tên. V́ thế gọi là Bộc Xạ. Từ đời Hán trở đi, Bộc Xạ là một danh xưng chung cho quan viên, từ Thị Trung, Thượng Thư, Bác Sĩ, các quan Lang, thậm chí người đứng đầu các cảng sông cũng gọi là Bộc Xạ. Hoặc nói riêng, Thượng Thư Bộc Xạ là phó quan cho Thượng Thư Lệnh. Từ đời Tùy, chức trưởng quan đứng đầu Thượng Thư Tỉnh gọi là Bộc Xạ, tức Thượng Thư Bộc Xạ (không c̣n danh xưng Thượng Thư Lệnh), các danh xưng khác về Bộc Xạ đều bị phế trừ. Như vậy, Tả Hữu Bộc Xạ chính là Tể Tướng (Thừa Tưng), Tả Bộc Xạ cao hơn Hữu Bộc Xạ. Từ đời Tống Huy Tông, đổi Tả Hữu Bộc Xạ thành Thái Tể và Thiếu Tể, từ đó, không c̣n danh xưng này nữa. Trong các triều đại Tùy, Đường, Ngũ Đại, chức Thượng Thư Bộc Xạ chính là Tể Tướng. Tả Bộc Xạ đứng đầu các quan, quản trị các bộ Lại, bộ Hộ, bộ Lễ. Hữu Bộc Xạ quản trị bộ Binh, bộ H́nh và bộ Công. Trong đời Đường, Cao Tông đổi Bộc Xạ thành Quốc Chánh, Vũ Tắc Thiên đổi thành Văn Chương Tả Hữu Tướng, Huyền Tông đổi thành Tả Hữu Thừa Tướng. Cuối đời Đường, Bộc Xạ trở thành hư chức (chức vụ không có thực quyền, chỉ để gia tặng cho các Tiết Độ Sứ).

[45] Ngài Khuy Cơ đi đâu cũng có ba chiếc xe: Xe đầu tiên chở kinh sách, xe thứ hai do ngài tự ngồi, xe thứ ba chở nữ nhạc công, tớ gái, thức ăn, nên có xước danh là Tam Xa Pháp Sư. Tuy vậy, có người nói đây là ngoa truyền, phóng đại, dựa trên chuyện khi được pháp sư Huyền Trang khuyên xuất gia, Sư nói chẳng buộc Sư đoạn thế duyên, chẳng bắt Sư không ăn mặn mới chịu đi tu. Đó là chuyện trước khi Ngài giác ngộ.

[46] Chiêu Đề (Caturdeśa), dịch nghĩa là Tứ Phương, vốn là danh xưng khác của tự viện.

[47] Quân Tŕ (Kundikā), dịch nghĩa là B́nh, Tháo B́nh (b́nh để đựng nước rửa ráy), Thủy B́nh. Đây là một trong mười tám món mà hàng tỳ-kheo thường mang theo để múc nước. Cũng có thể dùng để chứa dầu, muối, thạch mật v.v… Tùy theo công dụng mà sẽ có tên gọi khác nhau, như tịnh b́nh (b́nh dùng để đựng nước uống), tháo thủy b́nh (b́nh để múc nước rửa tay, rửa mặt), tẩy túc b́nh (b́nh để múc nước rửa chân), hoặc bất tịnh b́nh (b́nh chứa nước dùng để rửa ráy khi đại tiện) v.v...

[48] Bất Không (Amoghavajra, 705-774) là một vị cao tăng dịch kinh lỗi lạc đời Đường. Do Ngài dịch chủ yếu là kinh Mật Tông nên được tôn xưng là tổ của Đường Mật. Ngài là người nước Sư Tử (Samarkand) của Thiên Trúc, thông minh, mẫn tiệp từ bé. Lúc 14 tuổi, Sư theo học với ngài Kim Cang Trí, theo thầy đến Lạc Dương vào năm 720. Sư thông hiểu nhiều ngôn ngữ. Các kinh do ngài Kim Cang Trí dạy phần nhiều do ngài Bất Không dịch sang tiếng Hán. Ngài được tổ Kim Cang Trí dạy rất nhiều Mật pháp như Ngũ Bộ Quán Đảnh, Hộ Ma A Xà Lê Giáo Pháp, Đại Nhật Kinh Tô Tất Địa Nghi Quỹ, Chư Phật Đảnh Bộ. Tháng 12 năm 741, Ngài suất lănh các đệ tử như Hàm Quang, Huệ Biện v.v… hơn ba mươi người xuất phát từ Quảng Châu ngồi thuyền trở về Sư Tử Quốc. Ngài học được pháp Kim Cang Đảnh Du Già, Tỳ Lô Giá Na Đại Bi Thai Tạng. Ngài cần mẫn học tập, đạt được chỗ thâm yếu, thu thập nhiều kinh bổn. Năm 746, Ngài trở lại Trung Hoa và bắt tay công việc dịch thuật.

[49] Thiên Bảo là niên hiệu của Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng) từ năm 742 tới năm 756.

[50] Trước Tác Lang là chức quan được đặt ra từ đời Ngụy, trực thuộc Trung Thư Tỉnh, có trách nhiệm biên soạn quốc sử. Đến đời Tấn, đổi thành trực thuộc Bí Thư Tỉnh. Đến thời Đường Cao Tông, đổi Bí Thư Tỉnh thành Tư Văn Cục, Trước Tác Lang bị đổi thành Tư Văn Lang Trung, nhưng đến năm Hàm Hanh nguyên niên (670), đổi lại danh xưng cũ. Tuy nói là biên soạn quốc sử, nhưng Trước Tác Lang chuyên soạn thuật bi chí, chúc văn, văn tế… hơn là chú trọng ghi chép sử.

[51] Đây là một chức quan đặt ra từ đời Ngụy Tấn, trực thuộc Trung Thư Tỉnh, thoạt đầu gọi là Thông Sự Xá Nhân. Đến đời Lương bỏ đi hai chữ Thông Sự, gọi là Trung Thư Xá Nhân, có trách nhiệm biên soạn chiếu lệnh, tham dự bàn chuyện cơ mật. Tới đời Đường, Trung Thư Xá Nhân quản trị việc soạn thảo và ban hành chế cáo (chiếu chỉ, thông cáo) theo lệnh vua mà thôi.

[52] Đại Lịch là niên hiệu của Đường Đại Tông (Lư Dự) từ năm 766 đến năm 779.

[53] Vĩnh Trinh là niên hiệu của Đường Thuận Tông (Lư Tụng) từ năm 805 tới 806.

[54] Đại Lịch là niên hiệu của Đường Đại Tông (Lư Dự) từ năm 766 đến năm 779.

[55] Tán Chi (Pāñcika), c̣n phiên âm là Tán Chi Ca, Bán Chi Ca, Ban Xả Ca, Bán Chi Dạ Xoa, Tán Chi Dạ Xoa, là một trong tám vị đại tướng dạ xoa dưới quyền Tỳ Sa Môn thiên vương, chồng của Quỷ Tử Mẫu.

[56] Chí Đức là niên hiệu của Đường Túc Tông (Lư Hanh) từ năm 756 đến năm 758.

[57] Nguyên Ḥa là niên hiệu của Đường Hiến Tông (Lư Thuần) từ năm 806 đến năm 821.

[58] Câu đầu có ư nói: “Đạo pháp bị suy vi là chuyện phổ biến. Hưng thịnh th́ ít ỏi, mà suy vi th́ rất thường”. Theo chánh sử, ngày Kỷ Măo (8 tháng 2 năm 840), vua lúc đó là Đường Văn Tông lâm trọng bệnh, sai bọn Lưu Hoằng Dật, Tiết Quư Lăng triệu tể tướng Dương Tư Phục và Lư Giác vào cung để phó thác thái tử. Bọn hoạn quan Cừu Sĩ Lương, Ngưu Hoằng Chỉ vốn kiểm soát Văn Tông từ lâu, không muốn lập Thái Tử, bèn giả mạo chiếu chỉ, phong em vua là Lư Triền làm Hoàng Thái Đệ, viện cớ Thái Tử quá nhỏ, không thể đảm đương triều chính được. Sau khi Văn Tông chết vào hai ngày sau, chúng thừa cơ đưa Lư Triền lên ngôi, tức Đường Vũ Tông. Đó là ứng với câu “thố phục trí” (thỏ lại đặt bày. Măo là thỏ, không phải là mèo như trong cách hiểu của người Việt). Năm Nhâm Tuất, tức năm Hội Xương thứ hai (842), Đường Vũ Tông nghe lời xúi giục của đạo sĩ Triệu Quy Chân ra lệnh đuổi tăng ni phạm giới hoặc phạm tội hoàn tục, tịch thu tài sản nhà chùa. Thừa dịp này, vua cho đuổi 3.459 tăng ni (dù có tội hay không có tội) hoàn tục, đóng tất cả các chùa, chỉ giữ lại bốn chùa Từ Ân, Tiến Phước, Tây Minh và Trang Nghiêm. Đó là ứng với câu “khuyển nhi noa” (chó lại bắt bớ). Năm Hội Xương thứ năm (845), tức năm Ất Sửu, vua hạ lệnh bắt tăng ni toàn quốc hoàn tục, đồ đồng kể cả tượng Phật trong các chùa đem đúc thành tiền, đồ sắt chế thành nông cụ, phá hủy bốn ngàn sáu trăm ngôi chùa, đuổi gần 27 vạn tăng ni hoàn tục và bắt họ phải nộp thuế như dân thường. Vũ Tông chết vào năm Hội Xương thứ sáu (846), tức năm Canh Dần, ứng với câu “ngưu hổ tương giao dữ giác nha”. Phật giáo lại được phục hồi dưới thời Đường Tuyên Tông (ứng với “bảo đàn chung bất diệt kỳ hoa”).

[59] Trường Khánh là niên hiệu của Đường Mục Tông (Lư Hằng) từ năm 821 đến năm 825.

[60] Hoàng Hựu là niên hiệu của Tống Nhân Tông (Triệu Trinh) từ năm 1049 đến năm 1054.

[61] Thiếu Thường Bá tức là chức vụ Thị Lang. Năm Long Sóc thứ ba (663), Đường Cao Tông đổi Thị Lang thành Thiếu Thường Bá. Thị Lang thoạt đầu vốn là quan viên hầu cận nhà vua, giúp vua các việc hành chánh. Từ thời Đông Hán trở đi, Thị Lang trực thuộc Thượng Thư Tỉnh, là phó quan của vị đứng đầu một bộ (Thượng Thư), tương đương với thứ trưởng hiện thời.