Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 4

Đất Cổ Ngô, Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật

妙法蓮華經綸貫會義

古吳後學蕅益智旭述

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang


2.2.2. Rộng khai tam hiển nhất để đoạn nghi sanh tín

 

          Trong tam châu:

          - Một, từ phần kinh văn này cho đến câu “tận hồi hướng Phật đạo” (đều hồi hướng Phật đạo) trong quyển thứ hai [của kinh Pháp Hoa] chính là Pháp Thuyết Châu, [trong tầng này], bậc thượng căn đắc ngộ.

          - Kế đó, từ câu “nhĩ thời, Xá Lợi Phật bạch Phật ngôn: - Ngă kim vô phục nghi hối” (lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất bạch cùng đức Phật rằng: - Con nay chẳng c̣n ngờ vực, hối hận) cho đến phẩm Thọ Kư là Thí Thuyết Châu, bậc trung căn đắc ngộ.

          - Ba, ba phẩm như Hóa Thành Dụ v.v… chính là Nhân Duyên Thuyết Châu, bậc hạ căn đắc ngộ.

         

2.2.2.1. Liệu giản Tam Châu bằng mười nghĩa

 

          Ba châu ấy cũng gọi là “Lư, Sự, Hạnh tam châu”. Nay dùng mười nghĩa để liệu giản:

          - Một là có thông và biệt.

          - Hai là có Thanh Văn hay không?

          - Ba là Hoặc (phiền năo) có dày hay mỏng.

          - Bốn là căn có chuyển hay không chuyển.

          - Năm là căn có ngộ hay chẳng ngộ.

          - Sáu là có lănh giải (tiếp nhận, thấu hiểu) hay không lănh giải.

          - Bảy là được thọ kư hay không thọ kư.

          - Tám là ngộ có cạn hay sâu.

          - Chín là lợi ích có Quyền và Thật.

          - Mười là đợi thời hay chẳng đợi thời.

 

2.2.2.1.1. Luận về Thông và Biệt

 

          Tầng thứ nhất, Biệt th́ gọi là Pháp Thuyết, Thông th́ có đủ cả ba châu [tức là ngoài danh xưng Pháp Thuyết Châu ra, trong kinh văn thuộc tầng này có nói]: “Như Ưu Đàm hoa thời nhất hiện nhĩ” (như hoa Ưu Đàm đă lâu mới hiện một lần), đó chính là Thí Thuyết. Nhược ngă ngộ chúng sanh, tận giáo dĩ Phật đạo” (Nếu ta gặp chúng sanh, đều dùng Phật đạo để dạy), tức là Nhân Duyên Thuyết.

          Tầng thứ hai, xét theo Biệt th́ gọi là Thí Thuyết. Xét theo Thông, cũng đủ ba tầng: “Ngă tiên bất ngôn giai vi nhất Phật Thừa cố. Hựu ư nhất Phật Thừa, phân biệt thuyết tam” (do ta trước hết chẳng nói [ba thừa] đều là một Phật Thừa. Lại do một Phật Thừa, phân biệt nói thành ba), tức là Pháp Thuyết. “Trưởng giả văn dĩ, kinh nhập hỏa trạch, phương nghi cứu tế” (trưởng giả nghe xong, liền kinh hăi vào trong nhà lửa, t́m phương cách cứu vớt) chính là Nhân Duyên Thuyết.

          Tầng thứ ba, xét theo Biệt th́ gọi là Túc Thế Nhân Duyên (nhân duyên trong đời trước); xét theo Thông th́ cũng có đủ ba tầng: “Niết Bàn thời đáo, chúng hựu thanh tịnh, linh nhập Phật huệ” (Thời Niết Bàn đă đến, đại chúng lại thanh tịnh, khiến cho họ nhập trí huệ của Phật), tức là Pháp Thuyết. “Hữu nhất đạo sư” (có một người hướng dẫn), tức là Thí Thuyết.

          Nay v́ dựa theo đa số, dựa theo ư nghĩa chánh yếu, dựa theo sự giản lược, xét theo sự nói kèm thêm, muốn giữ cho danh tự chẳng lẫn lộn, cho nên gác các ư nghĩa thuộc về Thông lại, chỉ giữ lấy các danh tự thuộc Biệt.

 

2.2.2.1.2. Nói rơ có Thanh Văn hay không

         

          Ngài Quang Trạch nói: “Chắc chắn có người thật sự hành hạnh Thanh Văn. Nếu bảo là chẳng thật sự có, Quyền làm sao tương ứng cho được?” Ngài Khai Thiện[1] bảo: “Chắc chắn không có người thật sự hành Thanh Văn”, và trích dẫn kinh Thắng Man “sơ nghiệp trong tam thừa chẳng mê lầm nơi pháp” [để làm minh chứng cho lập luận] ngoại phàm[2] đă biết Nhất Thừa, há có Nhị Thừa vẫn chấp trước tiểu quả ư? Kinh nói có [người hành Tiểu Thừa], tức là quyền biến [mà nói như thế]”. Hai vị này đều thiên chấp, trái nghịch kinh, đánh mất ư nghĩa! Nếu chắc chắn là có [người thật sự hành hạnh Thanh Văn], sao kinh này lại nói “đản hóa chư Bồ Tát, vô Thanh Văn đệ tử” (chỉ giáo hóa các vị Bồ Tát, chẳng có đệ tử Thanh Văn)? Nếu chắc chắn là không có, ai vào hóa thành, mà cũng chẳng có tam thừa để dung hội [vào Nhất Thừa], có Quyền nào để dẫn khởi về Thật đây?

          Vặn rằng: “Nếu nói thật sự có Thanh Văn là đối tượng để được dẫn khởi quyền biến, cũng phải nên thật sự có Tam Tạng Phật để được Quyền Tam Tạng Phật dẫn khởi! Nếu thật sự chẳng có Tam Tạng Phật, chỉ có Quyền Phật, lẽ nào chẳng chấp thuận “chỉ có Quyền Thanh Văn, chẳng có Thanh Văn thật sự ư?

          Đáp: Nghĩa ấy chẳng thể dùng làm lệ được. V́ có người thật sự đoạn Phiền Hoặc thuộc giới nội (phiền năo trong tam giới), th́ người ấy được gọi là Quyền Thanh Văn, nhưng Quyền là ứng hiện, chỗ nào có vị Phật chỉ đoạn Phiền Hoặc thuộc giới nội để có Quyền Phật tương ứng với vị Phật đó ư? Nay nói rơ: “Có [Thanh Văn] hay không, đều chẳng thể thiên chấp”. Nếu xét theo cách nh́n của ông trưởng giả Thật Trí, sẽ chẳng có kẻ làm khách. Nếu xét theo căn tánh của đứa con nghèo, Pháp Hoa Luận[3] nói rơ có bốn loại Thanh Văn: Một là quyết định, hai là thượng mạn, ba là thoái Đại (lui sụt đối với Đại Thừa, trở lại hành hạnh Thanh Văn), bốn là ứng hóa. Hai loại trước, căn tánh chưa chín muồi, chẳng được thọ kư. Hai loại sau được thọ kư. Nếu xét theo kinh này, phải nên có năm loại:

          - Một là người tu tập Tiểu Thừa đă lâu, đời này đạo chín muồi, nghe tiểu giáo (giáo pháp Tiểu Thừa) mà chứng quả, giống như loại quyết định Thanh Văn trong [Pháp Hoa] Luận.

          - Hai là [những người] vốn là Bồ Tát, đă nhiều kiếp tu đạo, giữa chừng chán ngán sanh tử, thoái thất Đại Thừa, giữ lấy Tiểu Thừa. Kinh Đại Phẩm gọi [hạng người này] là “biệt dị thiện căn” (thiện căn khác lạ). Đức Phật v́ muốn thành tựu tiểu đạo cho họ, bèn v́ họ nói pháp Cộng Bát Nhă, khiến cho họ đoạn kết phược, đắc quả. Những người ấy thoái thất Đại Thừa chưa lâu, tu tập tiểu pháp trong thời gian gần đây, theo đúng lẽ sẽ dễ ngộ, giống như “thoái Đại Thanh Văn” trong Pháp Hoa Luận.

          - Ba v́ hai hạng người ấy, chư Phật, Bồ Tát trong ngầm tu đạo Bồ Tát, ngoài hiện tướng Thanh Văn, ḥng thành tựu, dẫn dắt, tiếp dẫn, khiến cho họ nhập đại đạo, giống như hạng “ứng hóa Thanh Văn” trong Pháp Hoa Luận.

          - Bốn là những người do thấy hai loại Thanh Văn Quyền Thật có thể thoát khỏi sanh tử; do vậy, bèn ưa thích Niết Bàn, tu Giới, Định, Huệ, đă hơi có quán huệ, chưa nhập địa vị Tương Tự, vừa có chút sở đắc mà đă nói là “chứng quả”. Đó gọi là “chưa đắc mà nói là đă đắc, chưa chứng mà nói là đă chứng”, giống như hạng “thượng mạn Thanh Văn” trong Pháp Hoa Luận.

          - Năm là hàng Đại Thừa Thanh Văn, tức là dùng âm thanh của Phật đạo khiến cho hết thảy đều được nghe.

          Nếu xét theo hai loại quyết địnhthoái đại th́ là “có Thanh Văn”. Nếu xét theo Đại Thừa, theo đúng lư sẽ chẳng “hôi đoạn[4], chẳng trụ trong hóa thành, rốt cuộc về chỗ có của báu (bảo sở). Thật đă là như vậy, sẽ chẳng có Quyền, cho nên chẳng có Thanh Văn. Nếu là kẻ tăng thượng mạn, do chẳng dự vào địa vị, cho nên chẳng gọi là Thật. Lại chẳng phải là ứng hóa; v́ thế, chẳng gọi là Quyền. Nếu hiểu ư này, có [người thật sự hành hạnh Thanh Văn] hay không đều rành rành, cần ǵ phải khổ sở tranh luận?

          Lại nữa, chỉ xét theo Phật đạo Thanh Văn để luận định có hay không một lần nữa. Nếu là bậc quyền biến ứng hóa, ngoài hiện h́nh tích Tiểu Thừa, trong ẩn đại đức, sẽ nói là “không có Đại Thừa Thanh Văn”. Nếu xét theo tự hành, chỉ bày Tích nhằm hiển lộ Bổn, bèn nói là “có Đại Thừa Thanh Văn”. Nay [kinh Pháp Hoa] khai Quyền hiển Thật chính v́ dẫn dắt hai loại Thanh Văn quyết địnhthoái Đại, khiến cho họ trở thành Đại Thừa Thanh Văn. Tự hạnh đă lập, sẽ có thể làm Thanh Văn ứng hóa. Nếu hiểu ư này, sẽ thông đạt chuyện có [người thật sự hành hạnh Thanh Văn] hay không!

 

2.2.2.1.3. Nêu bày Hoặc (phiền năo) có dày hay mỏng

 

          Xét theo Vô Minh Biệt Hoặc và căn tánh Đại Thừa để nói, tức là bốn câu: Một, Hoặc nhẹ, căn nhạy bén; hai là Hoặc nặng, căn nhạy bén; ba là Hoặc nhẹ, căn chậm lụt; bốn là Hoặc nặng, căn chậm lụt. Nếu Biệt Hoặc nhẹ, đại căn (căn tánh Đại Thừa) nhạy bén, vừa nghe liền ngộ. Nếu Hoặc nặng, căn tánh nhạy bén, nghe hai lần mới ngộ. Nếu Hoặc nhẹ, căn chậm lụt, ba lượt nghe mới ngộ. Nếu Hoặc nặng nề, căn tánh chậm lụt, dẫu nghe đôi ba lượt, vẫn chẳng thể ngộ, chỉ là Kết Duyên Chúng mà thôi! Hoặc có thể nói bậc lợi căn trong trường hợp thứ nhất và thứ hai, đều cùng là thượng căn. Người thuộc câu thứ ba là trung căn, người thuộc câu thứ tư là hạ căn. Hoặc có thể nói câu đầu là thượng căn, câu thứ hai và thứ ba gộp chung thành trung căn, câu thứ tư là hạ căn.

          Lại nữa, xét theo sơ phẩm vô minh th́ có ba tầng, có thể che lấp Trung Đạo của bậc Sơ Trụ. Thoạt tiên, [đức Phật] thực hiện Pháp Thuyết Châu, bậc thượng căn nghe xong, ba tầng vô minh cùng lúc đều hết, mở mang tri kiến của Phật, dự vào địa vị Bồ Tát, được thọ kư Bồ Đề. Trung căn chỉ đoạn hai tầng, hạ căn chỉ đoạn một tầng. Kế đó là Thí Thuyết Châu, trung căn đoạn hết tầng thứ ba, mở mang tri kiến của Phật, được thọ kư Bồ Đề. Hạ căn tiến lên, đoạn được tầng thứ hai. Sau đó, khi [đức Phật] thực hiện Nhân Duyên Thuyết Châu, hạ căn đoạn hết ba tầng [vô minh], được thọ kư Bồ Đề.

 

2.2.2.1.4. Luận định căn chuyển hay chẳng chuyển

 

          Cổ nhân nói: “Thượng căn vừa nghe Pháp Thuyết Châu liền ngộ, mà trung căn chuyển thành giống như thượng căn, hạ căn chuyển thành giống như trung căn. Tới lúc Thí Thuyết Châu, trung căn do trước đó đă trở thành thượng căn, sẽ liền có thể đắc ngộ. Hạ căn do trước đó đă trở thành trung căn, nay sẽ chuyển thành giống như thượng căn. Tới thời Nhân Duyên Thuyết, hạ căn do trước đó đă thành thượng căn, cho nên đắc ngộ”. Nay nói: “Nếu là như vậy th́ người đă ngộ đều là thượng căn, sao c̣n gọi là tam căn? Nếu đều là thượng căn, cần ǵ phải gọi là lợi hay độn?” Phàm là chúng sanh tâm thần bất định, gặp ác duyên sẽ chuyển lợi căn thành độn căn. Gặp thiện duyên, sẽ chuyển độn căn thành lợi căn. Đời trước, gặp Phật, nghe pháp, có người tự chuyển hạ căn và trung căn thành thượng căn, đều là đắc ngộ nơi Pháp Thuyết Châu. Có người tự chuyển hạ căn thành trung căn th́ đều là đắc ngộ nơi Thí Thuyết Châu. Có người đời trước chưa chuyển, cần phải đợi đến châu thứ ba (Nhân Duyên Thuyết) mới ngộ. Chuyển căn như thế khác với các cách giải thích trước kia (cách giải thích trước thời Trí Giả đại sư). Ví như ba thanh đao chặt gỗ, đao bén vừa chém sẽ đứt ngay. Đao loại vừa th́ phải chém hai lần mới đứt. Đao cùn phải chém ba lượt mới đứt. Cái tên lợi hay độn đều chẳng mất, nhưng gỗ bị chặt đứt giống nhau. Đao ví như Căn, gỗ ví như Hoặc, người cầm đao ví như cơ (căn cơ). Người dạy chặt ví như Phật. Người tiếp nhận lời dạy ví như nghe pháp. Vận dụng đao ví như sử dụng Quán. Gỗ đứt ví như chứng nhập. “Từng mài” là ví như đời trước đă chuyển căn. Do gặp dịp mài giũa khác nhau, cho nên có lợi hay độn. Trong ấy, nghe pháp đắc ngộ tợ hồ thuộc Tín Hạnh, không phải là chẳng kiêm Pháp Hạnh. Do đời trước tin pháp mà xoay chuyển, giúp đỡ lẫn nhau khác biệt, nhưng trong một hội, lẽ ra chẳng có sáu mươi bốn phen[5].

          Hỏi: Tam căn đă dự vào địa vị Sơ Trụ, vẫn c̣n có lợi căn hay độn căn ư?

          Đáp: Chân tu th́ Thể hiển lộ, sẽ không có hơn kém.

          Hỏi: Nếu là như thế, từ Sơ Trụ trở lên, khởi duyên tu, có hơn kém hay chăng?

          Đáp: Những người cùng một địa vị ấy, sẽ chẳng có hơn, kém, chân tu th́ Thể dung thông, há có khác biệt?

 

2.2.2.1.5. Nói rơ căn có ngộ và chẳng ngộ

 

          Trong kinh, phần nhiều nói Bồ Tát là thượng căn, Duyên Giác là trung căn. Thanh Văn là hạ căn. Nếu như vậy, [sẽ có người lập luận] “Bồ Tát đều phải nên đắc ngộ ngay trong châu đầu tiên (Pháp Thuyết Châu)”. Chưa chắc đă là nghĩa như thế! Bắt đầu từ tam châu, cho đến Lưu Thông, Thọ Lượng, có các vị Bồ Tát lần lượt ngộ Vô Sanh Nhẫn ở mỗi lúc, sao có thể nói [Bồ Tát đắc ngộ] hạn cuộc trong Pháp Thuyết Châu? Duyên Giác cũng chẳng hạn cuộc trong Thí Thuyết Châu, [suy ra] cũng có thể biết.

          Hỏi: Bồ Tát đắc ngộ từ đầu đến cuối đều có, [vậy th́] Nhị Thừa đắc ngộ cũng phải nên thuộc vào lúc sau?

          Đáp: Tam châu đă xác định cha con có mối thiênnh [liên quan] xong, [người đắc ngộ trong bất cứ châu nào] cũng đều gọi là Bồ Tát. Dẫu ngộ sau này, vẫn cùng gọi là “Bồ Tát đắc ngộ”.

 

2.2.2.1.6. Luận về có lănh giải hay không lănh giải

 

          Nếu tam thừa cùng ngộ, sao lại chỉ thấy [kinh chép] Thanh Văn lănh giải (tiếp nhận, thấu hiểu), c̣n hai loại kia (Duyên Giác và Bồ Tát) th́ không? Nay nói rơ: Lúc không có Phật xuất thế [mà giải ngộ], th́ gọi là Độc Giác. Nghe Phật nói pháp nhân duyên bèn đắc ngộ, th́ gọi Duyên Giác, như Đại Ca Diếp, Xá Lợi Phất v.v… đều là căn tánh Trung Thừa, nhưng do đă dự vào hàng Thanh Văn, bèn đắc ngộ, lănh giải chẳng khác. Bồ Tát chẳng lănh giải là v́ trong giáo pháp Thanh Văn, chẳng nói đến chuyện thành Phật. Nay kinh này mở ra con đường trở về Đại Thừa [khẳng định “mọi chúng sanh đều sẽ thành Phật”, bậc Thanh Văn] tự sợ hiểu sai lầm, bèn đối trước đức Phật trần thuật kiến giải. Bồ Tát chẳng vậy, cho nên chẳng lănh giải!

          Ư này lại có ba:

          - Một là Bồ Tát vốn sẵn có ư nguyện cầu thành Phật. Dẫu có chấp trước sai khác, nhưng do chấp trước nhẹ nhàng, rốt cuộc sẽ quy về Phật đạo, chẳng hề phải lo lắng! Nay nghe nói tam châu, chỉ [dựa theo đó để] điều chỉnh Quán Huệ cho đúng, cho nên chẳng cần phải [nêu bày sự] lănh giải.

          - Hai là Bồ Tát ngộ to lớn, kinh văn chỗ nào cũng nói điều đó. Nhị Thừa thành Phật th́ bắt đầu từ giáo pháp này mới lưu truyền. V́ thế, lược đi chuyện Bồ Tát lănh giải. Trong Phạn văn [của kinh Pháp Hoa] có thể có [ghi chép chuyện này], nhưng bản chữ Hán lược đi, chẳng viết.

          - Ba là do địa vị và hạnh của Bồ Tát sâu tuyệt, các vị tân tiểu Bồ Tát chẳng dám [nêu bày sự] lănh giải. Khi [đức Phật] nói phẩm Thọ Lượng xong, các vị Bồ Tát như ngài Di Lặc đều lănh giải. Kể từ những vị đắc Vô Sanh Nhẫn cho đến cuối cùng là những vị Nhất Sanh Bổ Xứ đều lănh giải trọn vẹn, chẳng cầu chi nữa.

 

2.2.2.1.7. Nói về chuyện được thọ kư hay không

 

          Nếu đều cùng lănh giải, v́ sao Thanh Văn được thọ kư, chẳng thấy Duyên Giác và Bồ Tát được thọ kư? Chuyện này cũng có ba ư:

          - Một, trước đó đă nói rơ hàng Nhị Thừa nhập chánh vị, chẳng thể phát tâm, sẽ do đâu mà được thọ kư? Nay đă ngộ đại pháp, vui thích được thọ kư, cho nên [đức Phật] bèn v́ họ thọ kư kiếp số, quốc độ [khi họ thành Phật trong tương lai]. Bồ Tát phát tâm cầu thành Phật, hạnh măn sẽ tự thành Phật; v́ thế, chẳng mong cầu gấp [được thọ kư]; Phật cũng chẳng vội thọ kư. Hơn nữa, trong các giáo trước kia (Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Bát Nhă), chỗ nào cũng đều thọ kư Bồ Tát. Đấy là điều được luôn nói, c̣n nay [trong kinh này] chỉ chú trọng truyền dịch [chuyện Thanh Văn được thọ kư, ḥng khơi gợi tín tâm “ai cũng đều có thể thành Phật”].

          - Hai, Bồ Tát cũng được thọ kư. Điều Đạt (Đề Bà Đạt Đa), long nữ, há chẳng phải là được thọ kư đấy ư? Hơn nữa, phẩm Pháp Sư có nói: “Cầu Thanh Văn giả, cầu Bích Chi Phật giả, cầu Phật đạo giả, như thị đẳng loại, hàm ư Phật tiền văn Pháp Hoa kinh, ngă giai dữ thọ Tam Bồ Đề kư” (Người cầu Thanh Văn, người cầu Bích Chi Phật, người cầu Phật đạo, những hạng người như thế, đều ở trước đức Phật nghe kinh Pháp Hoa, ta đều thọ kư Chánh Giác cho họ). Đấy chẳng phải là đều thọ kư ư?

          - Ba, Nhị Thừa trước nay chưa từng được thọ kư tám tướng [thành đạo]; v́ thế, nay thọ kư kiếp số và quốc độ [cho hàng Thanh Văn]. Bồ Tát trước kia đă từng được thọ kư. V́ thế, chẳng cần nói lại nữa! Thọ kư về cái quả nông cạn, gần gũi th́ bậc Sơ Trụ đă đạt được. Điều hàng Bồ Tát vui thích chính là được thọ kư quả Diệu Giác viên măn cùng tột, lâu xa. V́ thế, trong phẩm Thọ Lượng, kể từ mới phát tâm cho đến đă đạt được Nhất Sanh Bổ Xứ, cái nhân mầu nhiệm đă viên măn, cực quả sẽ nhanh chóng viên thành. Đấy chính là thọ kư cho Pháp Thân, sao lại nói là chẳng thọ kư?

          Hỏi: Nếu Tiểu Thừa đă ngộ đại đạo, lẽ ra phải nên cùng được thọ kư Pháp Thân? Sao lại thọ kư “tám tướng thành đạo” cho họ?

          Đáp: Tám tướng là ứng kư (thọ kư cho Ứng Thân). Đă được ứng kư, sẽ biết [Ứng Thân] ắt có Bổn (Pháp Thân). Muốn khiến cho chúng sanh nghe biết, cùng đến kết duyên; cho nên, trao truyền ứng kư đó thôi! Lại nữa, nếu Nhị Thừa nghe thọ lượng, sẽ cùng tăng đạo, tổn sanh[6], được thọ kư Pháp Thân.

 

2.2.2.1.8. Luận về ngộ cạn hay sâu

         

          Một mực cùng phá vô minh, dự vào địa vị Sơ Trụ của Viên Giáo, suy t́m tỉ mỉ th́ ắt có sáng hay tối (ngộ nhiều hay ít). Trước hết, nghe Pháp Thuyết. Người đă nhập Phật huệ, sẽ nghe Thí Thuyết, há chẳng càng sáng suốt hơn (ngộ sâu hơn)? Lại nghe Nhân Duyên, ắt đương nhiên sẽ tăng tấn. Lại nghe Thọ Lượng, càng thêm cao sâu! Như người nghe pháp, nghe giảng lại lần nữa, chắc chắn [sẽ lănh ngộ] hơn hẳn lần trước. Như lạnh mà được áo, áo đơn hay áo kép, do chia thành dày hay mỏng [mà cảm thấy mức độ ấm áp khác nhau].

 

2.2.2.1.9. Lợi ích có Quyền và Thật

         

          Có người cho rằng: “Do Thật hành mà đạt được lợi ích, c̣n Quyền hành chính là để ảnh hưởng, tiếp dẫn, [cho nên] chẳng luận định lợi ích [của Quyền hành]”. Nay tôi nói rơ chẳng phải vậy. Nếu đến phẩm Thọ Lượng, [sẽ thấy rơ] Quyền hay Thật đều đạt được lợi ích, tăng đạo càng cao, tổn sanh càng hết, gần với địa vị cùng tột trong Viên Giáo, chỉ c̣n một đời (Nhất Sanh Bổ Xứ), há chẳng phải là lợi ích của Quyền ư? Do vậy, [bậc Quyền hành Thanh Văn] thoạt đầu làm Ảnh Hưởng, cùng Thật hành viên măn, sau đó nói đến cực quả, tức là đạo của chính ḿnh được tỏa sáng. Kinh văn nói: “Xuất nhập tức lợi, năi biến tha quốc” (chi ra, nhập vào, lợi tức trọn khắp các nước khác). Lợi tức ở nơi ḿnh, tức là chính ḿnh được lợi ích. Thật hành đạt được lợi ích, do Quyền dẫn khởi [người khác cùng Thật hành], công giáo hóa quy về chính ḿnh; [v́ thế dẫu là] Quyền [hành], cũng đạt được lợi ích. Do vậy, đức Phật dùng một âm thanh diễn nói pháp, chúng sanh tùy từng loại đều được hiểu, cần ǵ cứ phải chờ đến phẩm Thọ Lượng mới biết Quyền hành cũng đạt được lợi ích ư? Các vị Bồ Tát từ dưới đất vọt lên, thưa: “Ngă đẳng tự diệc dục đắc thử chân tịnh đại pháp” (chúng con cũng muốn đạt được đại pháp thật sự thanh tịnh này), tức là tự đạt được lợi ích vậy.

 

2.2.2.1.10. Luận về đợi thời hay không đợi thời

 

          Kẻ trước đó chẳng ngộ, ắt đợi đến thời Pháp Hoa mới ngộ, th́ gọi là “đăi thời” (đợi thời). Do các giáo trước mà đă ngộ th́ gọi là “bất đăi thời” (chẳng đợi thời). V́ sao vậy? Phật có hiển thuyết và mật thuyết. Nếu xét theo hiển thuyết, trước thời Pháp Hoa, hàng Nhị Thừa chưa ngộ đại đạo, cần phải dùng ngũ vị (sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ) để điều phục thuần thục, ngơ hầu trong hội Pháp Hoa, họ sẽ thấu hiểu. V́ thế nói: “Sở dĩ vị tằng thuyết, thuyết thời vị chí cố. Kim chánh thị kỳ thời, quyết định thuyết Đại Thừa” (Sở dĩ chưa từng nói là v́ chưa đến đúng lúc để nói. Nay chính là đúng lúc, quyết định nói Đại Thừa). Đấy chính là “đợi thời”. Nếu xét theo mật thuyết, chưa chắc phải đợi đủ ngũ vị để đến hội Pháp Hoa mới hiểu. Trước đó, đă có người ngầm nhập, bèn gọi là “chẳng đợi thời”. Ở đây, chính là phán định “đúng thời”“chẳng phải thời”. Nếu xét theo tam châu, cũng là “đợi thời” và “chẳng đợi thời”. Hai môn Tích và Bổn cũng là “đợi thời” và “chẳng đợi thời”, cho nên có kẻ ngộ nhập trước hay sau. Trong tam châu, tự luận mật là như trong thời Pháp Thuyết, [có những vị] do ngầm nghe chuyện cỗ xe lớn và chuyện Đại Thông Trí Thắng Phật bèn được ngộ nhập. Đó chính là “chẳng đợi thời”. Đối với chuyện ngầm nghe trong châu thứ hai (Thí Thuyết Châu) [mà được ngộ nhập], cứ dựa theo đó cũng có thể biết.

          Hỏi: Nếu trong tam châu và Bổn đều có mật thuyết, sao trong sách Huyền Nghĩa lại nói “Pháp Hoa chỉ là hiển thuyết?”

          Đáp: Nói là hiển hay mật là do trước kia Thiên và Viên chẳng biết lẫn nhau, nay đến kinh này, cùng nhập một lư Viên như nhau, tuy mật mà hiển, do thuần nhất một vị. Nhưng trong hội Pháp Hoa này, có “đợi” và “chẳng đợi”, nhưng biết hàng Nhị Thừa được thọ kư rành rành, hiển lộ phân minh nói thọ mạng dài lâu, trong pháp ṭa này (những người cùng dự hội Pháp Hoa), không ai chẳng nghe biết. V́ thế gọi là Hiển.

          Hỏi: Có một loại căn tánh, trong bốn thời trước đă chẳng có mật ích (ngầm đạt được lợi ích), chẳng tới thời Pháp Hoa, sẽ càng không thể hiển lộ được. Do chẳng thuộc vào hai thời, đáng lẽ phải là “thất thời” (không đúng thời), vĩnh viễn chẳng đắc ngộ chớ?

          Đáp: Các kinh khác có thể nói đấy là “thất thời”, kinh này (kinh Pháp Hoa) chẳng phải vậy! Trong hai thời hiển và mật, người ấy đều chẳng ngộ, sanh ư tưởng diệt độ, nhập Niết Bàn, nhưng trong cơi nước của người ấy, hễ được nghe kinh này, th́ chẳng phải là thất thời, mà chính là “đợi thời” trong cơi ấy.

          Hỏi: Năm ngàn người đứng lên rời đi, phải là “thất thời” chứ?

          Đáp: Bọn họ sau khi Như Lai diệt độ, sẽ đạt được lợi ích từ chỗ người hoằng kinh, cho nên cũng là “đợi thời”. Liệu giản mười nghĩa nơi tam châu đă xong.

 

2.2.2.2. Pháp Thuyết Châu

2.2.2.2.1. Chánh pháp thuyết

2.2.2.2.1.1. Trường Hàng

2.2.2.2.1.1.1. Hứa khả

2.2.2.2.1.1.1.1. Thuận hứa

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Xá Lợi Phất: - Nhữ dĩ ân cần tam thỉnh, khởi đắc bất thuyết?

          ()爾時世尊告舍利弗。汝已慇懃三請。豈得不說。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Xá Lợi Phất: - Ông đă ân cần thỉnh cầu ba lượt, lẽ đâu chẳng nói!)

 

          “Nhữ dĩ ân cần” (ông đă ân cần) là thuận, “khởi bất đắc thuyết” (lẽ đâu chẳng nói) là hứa (, chấp thuận).

 

2.2.2.2.1.1.1.2. Giới hứa (hứa khả bằng cách căn dặn)

 

          (Kinh) Nhữ kim đế thính, thiện tư niệm chi, ngô đương vị nhữ phân biệt, giải thuyết.

          ()汝今諦聽。善思念之。吾當為汝分別解說。

          (Kinh: Ông nay lắng nghe, hăy khéo suy nghĩ, ta sẽ v́ ông phân biệt, giải nói).

 

          Hai câu trước là răn nhắc, câu sau cùng là hứa khả. “Đế thính” (lắng nghe, chân thật nghe) là Văn Huệ. “Thiện tư” (khéo suy nghĩ) là Tư Huệ. “Niệm chi” (nghĩ ngợi) là Tu Huệ. Đại kinh nói: “Nhất giả, thân cận thiện hữu. Nhị giả, thính văn chánh pháp. Tam giả, tư duy kỳ nghĩa. Tứ giả, như thuyết tu hành. Duy thử tứ pháp, thị Niết Bàn nhân. Nhược ngôn khổ hạnh thị Niết Bàn nhân, vô hữu thị xứ!” (Một là thân cận bạn lành, hai là lắng nghe chánh pháp, ba là tư duy nghĩa lư, bốn là tu hành đúng như lời dạy. Chỉ có bốn pháp ấy là cái nhân của Niết Bàn. Nếu nói “khổ hạnh là cái nhân của Niết Bàn”, chẳng có lẽ ấy). “Thiện tri thức” trong câu thứ nhất nói đến Như Lai. Ba câu sau chính là Tam Huệ (Văn, Tư, Tu). V́ thế, đức Phật răn nhắc; đấy là nhân duyên gần của Niết Bàn vậy.

 

2.2.2.2.1.1.1.3. Giản hứa (hứa khả sau khi loại trừ)

 

          (Kinh) Thuyết thử ngữ thời, hội trung hữu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu bà-di ngũ thiên nhân đẳng, tức tùng ṭa khởi, lễ Phật nhi thoái. Sở dĩ giả hà? Thử bối tội căn thâm trọng, cập tăng thượng mạn, vị đắc vị đắc, vị chứng vị chứng, hữu như thử thất, thị dĩ bất trụ. Thế Tôn mặc nhiên, nhi bất chế chỉ. Nhĩ thời, Phật cáo Xá Lợi Phất: - Ngă kim thử chúng, vô phục chi diệp, thuần hữu trinh thật. Xá Lợi Phất! Như thị tăng thượng mạn nhân thoái diệc giai hỹ. Nhữ kim thiện thính, đương vị nhữ thuyết.

          ()說此語時。會中有比丘比丘尼優婆塞優婆夷五千人等。卽從座起。禮佛而退。所以者何。此輩罪根深重。及增上慢。未得謂得。未證謂證。有如此失。是以不住。世尊默然而不制止。爾時佛告舍利弗。我今此眾。無復枝葉。純有貞實。舍利弗。如是增上慢人。退亦佳矣。汝今善聽。當為汝說。

          (Kinh: Khi nói lời ấy, trong hội có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu bà-di năm ngàn người liền từ chỗ ngồi đứng lên, lễ Phật lui ra. V́ cớ sao vậy? Bọn họ tội căn sâu nặng, và tăng thượng mạn, chưa đắc nói là đă đắc, chưa chứng nói là đă chứng. Phạm lỗi như thế, cho nên chẳng ở lại. Đức Thế Tôn im lặng, chẳng ngăn trở. Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: - Nay đại chúng này của ta chẳng c̣n cành lá, thuần là hạt chắc. Này Xá Lợi Phất! Những kẻ tăng thượng mạn như thế rút lui cũng tốt. Ông nay khéo nghe, ta sẽ v́ ông nói).

 

          Từ đầu cho đến “thoái diệc giai hỹ” (rút lui cũng tốt) là chọn lựa. “Nhữ kim thiện thính” (ông nay hăy khéo nghe) là hứa khả. Do có năm ngàn người ấy đang hiện diện, đức Phật ba lượt ngăn trở [ngài Xá Lợi Phất thưa hỏi]. Nay sắp hứa nói, oai thần xua họ đi. V́ thế gọi là “giản chúng” (揀眾, chọn lọc đại chúng). Ngũ Trược chướng nhiều là “tội trọng”. Chấp Tiểu, mịt mờ Đại th́ là “căn thâm”. Chưa đắc tam quả, nói là đă đắc tam quả, chưa chứng Vô Học mà nói là đă chứng Vô Học, như ngộ nhận Tứ Thiền là Tứ Quả v.v… th́ gọi là “tăng thượng mạn”. Những kẻ mắc khuyết điểm như thế gọi là “chướng chấp mạn tam thất” (mắc ba khuyết điểm: Chướng ngại, chấp trước và ngạo mạn).

“Mặc bất chế chỉ” (im lặng, chẳng ngăn cản): Trước đó, [những kẻ tăng thượng mạn ấy] đă nghe “khai tam, hiển nhất” đại lược, do ngôn từ đơn giản, nghĩa lư ẩn tàng, họ c̣n chưa sanh tâm phỉ báng. Đúng là nhân duyên “viên châu buộc trong áo”, họ rời đi c̣n có ích. Nếu nghe “khai tam, hiển nhất” cặn kẽ, do t́nh kiến so đo, sẽ dấy ḷng phỉ báng, ở lại sẽ bị tổn hại. V́ thế, chẳng ngăn cản họ!

“Vô phục chi diệp” (chẳng c̣n cành lá): Cành lá nhỏ nhặt, chẳng kham làm khí cụ được. Bọn họ chấp vào phương tiện trong phương tiện (Tứ Quả của Tiểu Thừa hăy c̣n là phương tiện, [thế mà] họ lại hư vọng chấp Noăn, Đảnh là pháp tột bậc), chẳng phải là căn khí Đại Thừa. V́ thế, kinh Đại Phẩm nói: “Phan chi phụ diệp, khí vu căn bản. Thị nhân vi bất hiệt” (nắm níu cành lá, vứt bỏ cội gốc, người ấy chẳng thông sáng) tức là nói về nghĩa này vậy. “Thoái diệc giai hỹ” (lui về cũng tốt) : Đă tự bị mờ ḷa bởi Tiểu pháp, lại c̣n ngăn trở ánh sáng Đại pháp của kẻ khác! Nay họ rút lui, sẽ chẳng mắc tội khiên báng pháp, lại chẳng phạm lỗi chướng ngại người khác. V́ thế nói là “giai hỹ” (tốt lắm). Do cành lá chưa rời đi, cho nên Như Lai ba lượt ngăn trở. [Do những người căn cơ] “chắc thật” muốn nghe, cho nên Thân Tử (Xá Lợi Phất) bốn lượt thỉnh. [Đó là v́] thầy tṛ soi xét căn cơ [của thính chúng], chẳng phải là chần chừ suông!

          Hỏi: Đức Phật đại từ bi, sao không dùng thần lực khiến cho họ ở lại, nhưng chẳng nghe, giống như hàng Nhị Thừa trong hội Hoa Nghiêm như điếc, như câm, sao chẳng cưỡng ép họ nghe Đại pháp, như Hỷ Căn đối với Thắng Ư[7]?

          Đáp: Mỗi đằng đều có duyên do. Cuối hội Hoa Nghiêm đă thật sự mở ra Tiệm pháp, chưa phá chấp trước Tiểu Thừa. V́ thế, [Nhị Thừa tuy] hiện diện trong pháp ṭa, nhưng bị ngăn cách. Nay đang muốn diệt hóa thành, phá am tranh[8], cần phải chọn lựa, xua đuổi. Nếu họ dù đi hay ở đều báng bổ, th́ sẽ như Hỷ Căn cưỡng nói [đại pháp với Thắng Ư]. Nay họ rời đi sẽ có ích, bỗng dưng bảo họ ở lại, ở lại th́ họ sẽ bị tổn hoại. Nếu bỗng dưng chẳng xua đuổi, [sẽ giống như] Hỷ Căn chỉ khiến cho kẻ đó đạt được lợi ích trong đời lâu xa, do ḷng Từ nên cưỡng nói, gieo cái nhân yên vui cho họ, [chứ họ hoàn toàn chẳng đạt được lợi ích trong hiện tại, lại c̣n tạo cái nhân gây khổ do báng bổ trong hiện tiền]. Như Lai hộ tŕ, khiến cho kẻ đó chẳng báng bổ, do ḷng bi mà xua đuổi, ḥng dẹp trừ nỗi khổ trong tương lai cho họ.

          Hỏi: Năm ngàn người ngồi đó chẳng đạt được lợi ích, bỏ đi th́ đạt được lợi ích ǵ?

          Đáp: Họ chẳng phải là đương cơ, mà là hạng kết duyên. Xưa kia, vào thời Đại Thông Trí Thắng Phật, cũng có vô lượng chúng sanh tâm sanh nghi hoặc, đời đời sanh cùng một chỗ với thầy, nay đều được đắc độ, cho đến sau khi Như Lai diệt độ, vẫn chưa độ hết. Hăy nên biết năm ngàn người ấy cũng giống như thế. Lại nữa, khi nói đại kinh, có tám vạn năm ngàn ức người đối với kinh ấy chẳng sanh tín tâm. Những người ấy trong vị lai cũng sẽ tin tưởng. Phỏng theo đó [mà suy, sẽ biết] lợi ích là lâu hay mau! Phần thứ nhất là hứa khả đă xong.

 

2.2.2.2.1.1.2. Tiếp nhận ư chỉ

         

          (Kinh) Xá Lợi Phất ngôn: - Dụy nhiên Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn.

          ()舍利弗言。唯然世尊。願樂欲聞。

          (Kinh: Xá Lợi Phất nói: - Bạch vâng đức Thế Tôn! Con vui thích mong được nghe).

 

          Trước đó đă có ba lượt thỉnh, phần này cũng chính là thỉnh lần thứ tư.

 

2.2.2.2.1.1.3. Chánh thuyết

 

          Chánh Thuyết được chia thành hai phần: Một là nói về bốn loại Phật, nói rộng về Quyền Thật của chư Phật. Hai là nói về Phật Thích Ca, [tức là] nói cặn kẽ về Quyền Thật của Phật Thích Ca. Trong phần trên, nói khá ít tức là “văn lược” (kinh văn nói đại lược). Nói chung về chư Phật tức là “nhân lược” (nói đại lược về người). Chỉ khai tam hiển nhất là “nghĩa lược”. Trong phần này, có nhiều câu kinh văn tức là “văn quảng” (kinh văn nói rộng, nói chi tiết, nói cặn kẽ). Nói ra năm loại Phật tức là “nhân quảng”. Sáu phen nói rơ tức là “nghĩa quảng”. “Sáu phen” chính là:

          - Một, tán thán pháp hiếm có.

          - Hai, nói chẳng hư vọng.

          - Ba, mở ra phương tiện.

          - Bốn, chỉ bày chân thật.

          - Năm, nêu lên Ngũ Trược để giải thích Quyền.

          - Sáu, loại trừ hư ngụy để củng cố niềm tin.

          Tán thán pháp nhằm khiến cho [thính chúng] sanh ḷng tôn trọng. Nói [pháp này] chẳng hư vọng ḥng dứt phỉ báng. Mở ra phương tiện khiến cho họ đừng chấp Tiểu pháp. Chỉ bày chân thật khiến cho họ ngộ Đại Thừa. Nêu ra Ngũ Trược nhằm chỉ bày [v́ sao chư Phật] ắt phải dạy tam thừa. Loại trừ hư ngụy th́ ắt phải chân thật.

          Trong chương nói về năm loại Phật, mỗi mỗi đều có đủ sáu nghĩa, trước sau tỏ lộ lẫn nhau. [Những chỗ dường như] chẳng đầy đủ [sáu nghĩa] là do Như Lai khéo nói, dẫu đại lược mà chẳng thiếu khuyết, đạt đến mục đích mà chẳng cần đến văn từ rườm rà. Lại nữa, sáu nghĩa trước sau cũng không đâu chẳng tồn tại (sanh khởi rành rành, đại thể tùy thời. Do sáu nghĩa ấy, cùng hợp thành sự khai hiển ư chỉ chánh yếu. Như [luận về] chư Phật trong ba đời chỉ có hai chương, há chẳng phải là cực sơ lược, nhưng [ư nghĩa] khai hiển chẳng khuyết! [Phần kinh văn] dạy hành nhân từ Quyền đạt đến Thật, lược đi bốn chương, khiến cho văn từ chẳng rườm rà. “Nghệ” là đạt tới. [Nói] “tiền hậu bất tại” (trước sau không đâu chẳng tồn tại) chính là đối với chỗ trọng yếu của cả sáu chương, không ǵ chẳng được khai hiển như thế. [Nếu nghĩa nào trong sáu chương (tức sáu phần nói về sáu nghĩa trên đây)] trước sau chẳng có, tức là [các ư nghĩa không được nói rơ ấy] đă gộp trong bốn chương kia, nhưng [thật ra] nghĩa nào cũng trọn đủ sáu nghĩa, gộp chung thành một ư, chẳng cần phải [phân chia tách bạch] theo thứ tự).

 

2.2.2.2.1.1.3.1. Nói tới bốn loại Phật[9]

2.2.2.2.1.1.3.1.1. Nói chung về chư Phật

 

          Phần này chia thành bốn đoạn: Một là tán thán pháp hy hữu, hai là nói chẳng hư vọng, ba là mở ra phương tiện, bốn là nêu bày chân thật, tức là thiếu hai nghĩa. Hai nghĩa ấy sẽ được nêu ra trong phần sau.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.1.1. Tán thán pháp hy hữu

 

          (Kinh) Phật cáo Xá Lợi Phất: - Như thị diệu pháp, chư Phật Như Lai thời năi thuyết chi, như Ưu Đàm Bát Hoa, thời nhất hiện nhĩ.

          ()佛告舍利弗。如是妙法。諸佛如來時乃說之。如優曇缽華。時一現耳。

          (Kinh: Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: - Diệu pháp như thế, chư Phật Như Lai đến đúng thời mới nói, như hoa Ưu Đàm Bát La đến đúng thời mới hiện ra một lần).

 

          Ở đây, cùng tán thán pháp và thí dụ. Nếu chư Phật xuất thế trong đời Ngũ Trược, ắt trước hết phải mở ra tam thừa. Như nay đức Thế Tôn hơn bốn mươi năm mới hiển lộ chân thật, ẩn kín đă lâu. V́ thế nói “thời năi thuyết chi” (đến đúng lúc mới nói). “Đă lâu chẳng nói” là v́ con người chẳng kham nổi. Do chưa đến thời, cho nên chưa xua đuổi năm ngàn người. Nay đă có người kham nhận, đă đến thời, năm ngàn người đă rời đi, quyết định nói Đại Thừa, cho nên nói là “thời năi thuyết chi”. Hoa Ưu Đàm (Udumbara), phương này dịch là Linh Thụy (靈瑞), ba ngàn năm mới xuất hiện. Lại nữa, hoa ấy xuất hiện, Kim Luân Vương xuất thế, biểu thị sau khi đă điều phục tam thừa thuần thục th́ mới nói diệu pháp, được đấng Pháp Vương thọ kư. Lại nữa, do đă vượt qua các tam-muội thuộc các vị lạc, sanh tô và thục tô, bèn nói đề hồ.

          Giải thích theo quán tâm th́ là Trung diệu quán, thông với hết thảy các pháp, đạt tới Thật Tướng th́ gọi là Linh. Linh tức là “linh thông”. Do có phép Quán này, ắt được Phật thọ kư, bèn gọi là Thụy (tốt lành). Do có phép Quán này, mới đạt được Phật quả, nên gọi là Hoa.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.1.2. Nói chẳng hư vọng

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Nhữ đẳng đương tín Phật chi sở thuyết, ngôn bất hư vọng.

          ()舍利弗。汝等當信佛之所說。言不虛妄。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Các ông phải nên tin lời Phật dạy, Ngài chẳng nói hư vọng).

 

          Lư này sâu tột bậc, khác với Quyền Lư trước kia. Lời này chí diệu, tương phản với Quyền ngôn (ngôn từ quyền biến) trước kia. Hạnh này phổ biến tột bậc, đối lập với Quyền hạnh trước kia. Người này thù thắng tột bậc, hơn hẳn sự hèn kém trước kia. Lại c̣n có nghĩa là khách tạo bốn thứ thô, đến nay đều diệu. Sợ chúng sanh sẽ ngờ vực, báng bổ, cho nên trước hết khuyến tín, khiến cho [thính chúng] tin tưởng “người chẳng hư vọng sẽ nói pháp chẳng hư vọng”.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.3. Khai phương tiện

2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.3.1. Khơi mở

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Chư Phật tùy nghi thuyết pháp, ư thú nan giải.

          ()舍利弗。諸佛隨宜說法。意趣難解。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Chư Phật tùy theo cơ nghi mà thuyết pháp, ư thú[10] khó hiểu).

 

          Thuận theo ba loại cơ nghi, khéo nói phương tiện, nhưng ư Phật ở nơi Thật, loài người chẳng thể hiểu!

 

2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.3.2. Giải thích

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Ngă dĩ vô số phương tiện, chủng chủng nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, diễn thuyết chư pháp.

          ()所以者何。我以無數方便。種種因緣譬喻言辭演說諸法。

          (Kinh: V́ cớ sao vậy? Ta dùng vô số phương tiện, các thứ nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để diễn nói các pháp).

 

          Nêu ra quyền năng của vị Phật hiện tại nhằm giải thích phương tiện của chư Phật. Do xảo huệ (trí huệ thiện xảo) giống như nhau, cho nên mượn chuyện này để giải thích chuyện kia. Hăy nên biết chư Phật mở ra phương tiện quyền biến cũng giống như ta (Thích Ca Mâu Ni Phật) vậy.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.3.3. Tiểu kết

 

          (Kinh) Thị pháp phi tư lượng, phân biệt chi sở năng giải, duy hữu chư Phật năi năng tri chi.

          ()是法非思量分別之所能解。唯有諸佛。乃能知之。

          (Kinh: Pháp này chẳng suy nghĩ, so lường, phân biệt mà có thể hiểu được, chỉ có chư Phật mới có thể biết).

 

          Đây là tiểu kết chuyện mở ra phương tiện quyền biến có ư thú khó hiểu, bởi lẽ, người bẩm thọ giáo không ai chẳng nói là tam thừa, chỉ có chư Phật mới có thể biết [ba thừa đều] là một mà thôi! Đoạn kinh văn này có hai tầng ư nghĩa:

          - Nếu dạy chân thật th́ như kinh văn trong phần sau nêu bày nhân và pháp thù thắng, pháp chẳng phân biệt, chỉ có Phật mới có thể biết.

          - Phật do trí chẳng phân biệt mà hiểu biết pháp chẳng phân biệt. V́ thế, hiển thị Thật.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4. Chỉ bày chân thật

2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4.1. Nêu lên ư nghĩa v́ sao Phật xuất thế

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Chư Phật Thế Tôn, duy dĩ nhất đại sự nhân duyên cố, xuất hiện ư thế.

          ()所以者何。諸佛世尊。唯以一大事因緣故出現於世。

          (Kinh: V́ lẽ nào vậy? Chư Phật Thế Tôn chỉ v́ một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cơi đời).

 

          Lời giải thích đoạn này được chia làm hai phần: Một là nói tổng quát, hai là tách từng chữ ra để giảng giải.

          Trước hết là nói tổng quát, nối tiếp ư của kinh văn trong đoạn trước: V́ sao là “pháp chẳng thể suy nghĩ, so lường, phân biệt để hiểu được, chỉ có chư Phật mới có thể biết”? Đó là v́ chư Phật hiểu biết tướng như thật. Nương vào Thật đạo ấy để xuất ứng (xuất thế ứng hiện) trong thế gian, chỉ khiến cho chúng sanh đạt được Thật Tướng ấy, chẳng c̣n chuyện ǵ khác. Thật Tướng vô tướng, vi diệu bậc nhất. V́ thế, chẳng thể do suy nghĩ, so lường, phân biệt mà ḥng hiểu được!

          Kế đó, là phân tích từng chữ để giải thích. “Một” tức là một Thật Tướng, chẳng phải ba, chẳng phải năm, chẳng phải bảy, chẳng phải chín. V́ thế nói là “một” (“ba” tức là tam thừa, “năm” là [tam thừa] cộng thêm nhân và thiên, “bảy” là [ngũ thừa] cộng thêm Nhị Thừa của Thông Giáo, “chín” là cộng thêm Bồ Tát trong Thông Giáo và Biệt Giáo). Tánh ấy rộng lớn, rộng lớn khắp ba, năm, bảy, chín v.v… V́ thế gọi là Đại. Do là nghi thức xuất thế của chư Phật, cho nên gọi là Sự. Chúng sanh có căn cơ ấy để cảm, cho nên gọi là Nhân. Như Lai thuận theo căn cơ ấy mà ứng, cho nên gọi là Duyên. Đó chính là bổn ư xuất thế, nhưng trước hết mở ra tam thừa để dẫn dắt. Như người muốn lấy [thứ ǵ] th́ trước hết phải trao cho. Tuy nói các thứ đạo, thật ra là Nhất Thừa.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4.3. Nhắc lại

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Vân hà danh chư Phật Thế Tôn duy dĩ nhất đại sự nhân duyên cố, xuất hiện ư thế?

          ()舍利弗云何名諸佛世尊。唯以一大事因緣故出現於世。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Cớ sao gọi là chư Phật Thế Tôn chỉ v́ một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cơi đời?)

 

          Đức Phật sắp giải thích, lại gạn hỏi lần nữa để làm lời phát khởi. Lại nữa, đại sự này được Phật tôn trọng, như trong Thích Luận nói phụ vương muốn nghe tên Thái Tử nhiều lần bèn nhiều lượt nhắc đến, chẳng hề chán đủ!

 

2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4.4. Giải thích

 

          Những lời tổ [Trí Khải] đả phá [các lập luận thiên kiến của cổ đức trước thời Ngài] chẳng trích lục v́ đă hiển Thật th́ vô lượng pháp đều là một. Như Thập Diệu được nói trong sách Huyền Nghĩa chính là mười thứ Nhất. Nếu nói giản lược để tương ứng với cách hiểu xưa (tức cách hiểu của chư cổ đức trước thời Trí Giả đại sư) th́ là Tứ Nhất (bốn thứ Nhất). Nói “vô lượng Nhất” th́ mỗi sắc, mỗi hương, không ǵ chẳng phải là Trung Đạo. Nghĩa này có thể biết được. Nói đến “mười thứ Nhất”, xét theo kinh văn hoàn toàn trọn đủ, tuy chẳng theo thứ tự, nhưng mười nghĩa chẳng giảm. “Pháp ấy chẳng thể suy nghĩ, so lường, phân biệt mà có thể hiểu được” chính là hiển thị Lư Nhất. “Chỉ có chư Phật mới có thể biết” là hiển thị Trí Nhất. “Chỉ v́ một đại sự”, “một” chính là Lư, “đại” chính là Trí (trí có thể chiếu cảnh th́ mới thấu đạt cảnh to lớn. V́ thế “đại” được gọi là Trí). Sự chính là Hạnh (tự hành, hóa độ người khác th́ đều gọi là Sự). Lư phát khởi Trí, Trí hướng dẫn Hạnh. Xét theo ư nghĩa này, sẽ chính là hiển thị Hạnh Nhất. “Tri kiến”: Trí biết Lư, mắt thấy pháp chân thật, Đế lư vô vi sẽ chẳng phân biệt. Do pháp vô vi mà có sai biệt. Xét theo tri kiến ấy để luận định “khai, thị, ngộ, nhập”.

          Từ đại lược mà suy ra cặn kẽ th́ có bốn mươi mốt địa vị, tức là hiển thị Vị Nhất. Lại dùng cách nói tổng kết để nêu rơ Nhất: Nhất tức là Pháp Thân, Đại tức là Bát Nhă, Sự tức là giải thoát, là tạng bí mật. Đó là hiển thị ba pháp Nhất. “Xuất hiện trong cơi đời” hiển thị Cảm Ứng Nhất. “Chỉ giáo hóa Bồ Tát” hiển thị Quyến Thuộc Nhất. “Chư hữu sở tác” (Các điều thực hiện) hiển thị Thần Thông Nhất. “Chỉ dùng tri kiến của Phật để chỉ dạy cho chúng sanh ngộ” hiển thị Lợi Ích Nhất. “Chỉ dùng một Phật Thừa để thuyết pháp cho chúng sanh” hiển thị Thuyết Pháp Nhất. Các nghĩa được in dấu trong kinh văn đúng là phù hợp khít khao! Nay đại lược chỉ nói bốn thứ Nhất giống như cách giải thích của cổ đức. Số lượng giống nhau, nhưng ư nghĩa khác biệt. Cổ đức nói Quả Nhất, nay nói là Lư Nhất. Dựa theo nghĩa và dựa theo văn, [sở dĩ đề ra Lư Nhất] là v́:

          - Dựa theo nghĩa, nếu chẳng có Lư Nhất, các sự sẽ điên đảo, đều là ma thuyết, chẳng c̣n là kinh Phật nữa. V́ thế, cần phải có Lư Nhất.

          - Dựa theo văn th́ kinh văn nói đến tri kiến của Phật. Nay xét theo cái được thấy biết th́ cái được thấy chính là Đế, cái được biết chính là Cảnh. Cảnh và Đế chính là Lư Thật Tướng. V́ thế gọi là Lư Nhất.

Cổ đức nói Nhân Nhất (因一), từ đơn giản, ư nghĩa khác biệt, nay nói là Hạnh Nhất để gồm thâu cả nhân lẫn quả. Nhân Nhất (人一) và Giáo Nhất th́ danh xưng giống như cách nói của cổ đức. [Do vậy], lời giải thích sẽ chia thành bốn phần: Một là Lư Nhất, hai là Nhân Nhất, ba là Hạnh Nhất, bốn là Giáo Nhất.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4.4.1. Chỉ ra Lư Nhất

 

          (Kinh) Chư Phật Thế Tôn dục linh chúng sanh khai Phật tri kiến, sử đắc thanh tịnh cố, xuất hiện ư thế. Dục thị chúng sanh Phật chi tri kiến cố, xuất hiện ư thế. Dục linh chúng sanh ngộ Phật tri kiến cố, xuất hiện ư thế. Dục linh chúng sanh nhập Phật tri kiến đạo cố, xuất hiện ư thế. Xá Lợi Phất! Thị vi chư Phật dĩ nhất đại sự nhân duyên cố xuất hiện ư thế.

          ()諸佛世尊。欲令眾生開佛知見使得清淨故。出現於世。欲示眾生佛之知見故。出現於世。欲令眾生悟佛知見故。出現於世。欲令眾生入佛知見道故。出現於世。舍利弗。是為諸佛以一大事因緣故出現於世。

          (Kinh: Chư Phật Thế Tôn muốn khiến cho chúng sanh khai tri kiến của Phật thanh tịnh, nên xuất hiện trong cơi đời. Muốn chỉ bày tri kiến của Phật cho chúng sanh, nên xuất hiện trong cơi đời. Muốn khiến cho chúng sanh ngộ tri kiến của Phật, nên xuất hiện trong cơi đời. Muốn khiến cho chúng sanh nhập đạo tri kiến của Phật, nên xuất hiện trong cơi đời. Này Xá Lợi Phất! Đó là chư Phật do một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cơi đời).

 

          Giải thích Lư Nhất, lại chia thành bốn ư: Một là xét theo bốn địa vị, hai là xét theo bốn trí, ba là xét theo bốn môn, bốn là xét theo quán tâm.

          * Xét theo bốn địa vị, Đế và Cảnh chẳng thể thấy biết. Nếu xét theo trí nhăn th́ có thể thấy biết. Bốn loại mắt dựa trên hai trí (Nhất Thiết Trí và Đạo Chủng Trí) chẳng thể thấy biết; chỉ có Phật nhăn từ Nhất Thiết Chủng Trí là có thể thấy biết. Kinh nói “vị linh chúng sanh khai Phật tri kiến” (v́ khiến cho chúng sanh mở mang tri kiến của Phật); nếu chỉ nói về Phật quả, sẽ bỏ mất chúng sanh. Nếu chỉ nói về chúng sanh, sẽ chẳng phải là tri kiến của Phật. V́ thế, chẳng thể chấp giữ thiên lệch.

Hành giả thuộc ba giáo trước (Tạng, Thông, Biệt) tuy là chúng sanh, nhưng chưa đắc Phật nhăn và Phật trí, cho nên không thể thấy biết Thật Tướng. Bốn địa vị trong Viên Giáo (tức Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa) cũng là chúng sanh, nhưng đă do đă đắc một phần Phật nhăn và Phật trí, cho nên ư nghĩa “chúng sanh” đă thành, mà ư nghĩa “tri kiến của Phật” cũng thành tựu. V́ thế, nhờ vào bốn địa vị ấy để giải thích Lư Nhất. Như trong các thụy tướng (tướng tốt lành) [nói trong Tự Phần], có cơi trời tuôn mưa bốn loại hoa, biểu thị “vạn thiện đồng quy, được nhập bốn địa vị”. Nương vào hoa “bốn địa vị” (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa) để tiến nhập Phật quả. Do đó, dựa theo địa vị để hiển Lư. “Khai” tức là Thập Trụ trong Viên Giáo, vừa mới phá vô minh, mở ra Như Lai Tạng, thấy lư Thật Tướng. V́ sao? Tánh đức diệu lư nhằm tiếp độ kẻ bị đắm nhiễm bởi hai thứ Hoặc thông và biệt, khó thể biết rơ. Sơ tâm tuy có thể viên tín (tin trọn vẹn, tức địa vị Danh Tự), viên thọ (tiếp nhận trọn vẹn, tức địa vị Ngũ Phẩm), viên phục (hàng phục trọn vẹn, tức địa vị Thập Tín), nhưng chưa thể đoạn Hoặc, chẳng gọi là Khai! Trong th́ thêm quán hạnh, ngoài nhờ vào mưa pháp giúp phá trừ Hoặc thuộc Thông và Biệt ẩn tàng, hiển xuất tu tánh chân thật, tri kiến khơi mở, phát khởi rạng ngời. Như mặt trời mọc lên, tối tăm bị diệt trừ. Mắt có tác dụng, cho nên gọi là Khai. Duyên tu phá Hoặc; v́ thế nói là “sử đắc thanh tịnh” (khiến cho được thanh tịnh). Kinh Nhân Vương dạy: “Nhập lư Bát Nhă, danh vi Trụ, trụ ư Thập Trụ Bạch Hoa vị dă” (Nhập lư Bát Nhă th́ gọi là Trụ, trụ trong địa vị hoa trắng (hoa mạn-đà-la) Thập Trụ).

“Thị” là Hoặc chướng đă trừ, cái Thể của tri kiến hiển lộ. Thể trọn vạn đức, các đức thuộc pháp giới hiển thị phân minh. V́ thế, gọi là Thị, tức là địa vị đại bạch hoa (hoa ma-ha mạn-đà-la) Thập Hạnh vậy.

“Ngộ” là chướng trừ, Thể hiển lộ, hạnh pháp giới rơ ràng, Sự Lư dung thông, chẳng có hai đường! Như Lư Trí và Như Lượng Trí, Lư và Lượng chẳng hai. V́ thế gọi là Ngộ, tức là địa vị hoa đỏ (hoa mạn-thù-sa) Thập Hồi Hướng vậy.

“Nhập” là Sự Lư đă dung thông, tự tại vô ngại, mặc t́nh tuôn rót, vào trong biển Tát Bà Nhă (Nhất Thiết Trí). Như Lư, Như Lượng, thông đạt tự tại. Tri kiến như lượng có thể tŕ các đức. Tri kiến như lư có thể ngăn các Hoặc, tức là địa vị hoa đại xích (hoa ma-ha mạn-thù-sa) Thập Địa.

Nhưng địa vị mầu nhiệm trong viên đạo, trong mỗi địa vị, trọn đủ công đức của bốn mươi mốt địa vị. Chỉ Khai đă trọn đủ “thị, ngộ, nhập”, chẳng có tâm nào khác nữa! Nhưng tri kiến như lư chẳng có tướng phân biệt cạn hay sâu. Muốn hiển thị tri kiến như lượng, cho nên phân biệt bốn địa vị. Phát tâm rốt ráo chẳng có sai khác bất nhị. Hai tâm như thế, tâm trước khó. Đă nói đến khó dễ, bèn biết sơ tâm và tất cánh tâm phải nên có sự sai biệt sáng, tối, cạn, sâu, giống như bản thể của vầng trăng trước sau đều tṛn đầy, thế mà có [tướng trạng] mồng Một, ngày Rằm [khuyết, tṛn] sai khác. Tri kiến thuộc bốn địa vị đều chiếu sáng Thật Tướng, mà nói Khai, Thị, Ngộ, Nhập sai khác!

          * Hai là xét theo bốn trí (gọi là Xuất Bát Nhă, thông với ba giáo, nay chỉ nói theo Viên Giáo):

          - Một là Đạo Huệ: Thấy thật tánh của đạo, từ trong Thật Tánh mà được khai Phật tri kiến.

          - Hai là Đạo Chủng Huệ: Biết tướng biệt giải Hoặc của các đạo chủng trong mười pháp giới. Mỗi mỗi đều là phô bày tri kiến Phật.

          - Ba là Nhất Thiết Trí, biết hết thảy các pháp [có cùng] một tướng tịch diệt. “Tịch diệt” tức là ngộ tri kiến của Phật.

          - Bốn là Nhất Thiết Chủng Trí: Biết hết thảy các pháp đều có cùng một tướng tịch diệt, các thứ tướng mạo hạnh loại đều biết, tức là nhập tri kiến của Phật (hai chữ Trí Huệ đều thông nhân quả và tổng biệt. Nay chỉ nói đến Đạo Huệ. V́ thế, xét theo nhân, xét theo tổng, thêm một chữ Chủng. Do xét theo nhân, xét theo biệt, trước Trí có hai chữ Nhất Thiết. Xét theo quả, theo Tổng lại thêm một chữ Chủng. Đó là xét theo quả, theo Biệt).

          Lại nữa, Đạo Huệ như Lư th́ gọi là Khai. Đạo Chủng Huệ như lượng gọi là Thị. Lư và lượng của Nhất Thiết Trí bất nhị, gọi là Ngộ. Nhất Thiết Chủng Trí lư và lượng cùng chiếu, đó là Nhập. Đấy cũng là xét theo Thật Lư chẳng có cạn hay sâu, nhưng phân biệt thành cạn hay sâu (như đối với tục cảnh có số lượng, bèn dùng Thật Lư để khế hợp, Lư và Lượng chính là lẫn nhau, chẳng phải là “nhân quả, biệt, tổng” mà luận định “nhân, quả, tổng, biệt”. Do có bốn danh xưng làm phương tiện, lư trước và sau giống nhau).

          * Ba là xét theo bốn môn của Viên Giáo để giải thích theo chiều ngang, sẽ thành bốn câu:

          - Không môn th́ “một thứ không, hết thảy đều không”, tức là Khai tri kiến của Phật.

          - Hữu môn th́ “một thứ có, hết thảy đều có”, chính là Thị tri kiến của Phật.

          - Diệc Hữu Diệc Không môn th́ hết thảy vừa không, vừa có, tức là Ngộ tri kiến của Phật.

          - Phi Không Phi Hữu môn, hết thảy đều chẳng phải có, chẳng phải không, tức là Nhập tri kiến của Phật.

          Cái có thể thông (Khai, Thị, Ngộ, Nhập) là bốn, đối tượng được thông (tri kiến của Phật) là một. Khai, Thị, Ngộ, Nhập là môn có thể thông. Cái được thấy được biết chính là Lư được thông.

          * Bốn là xét theo quán tâm để giải thích. Quán lư Tam Đế trong tâm tánh chẳng thể nghĩ bàn. Phép Quán ấy sáng sạch th́ là Khai. Tuy chẳng thể nghĩ bàn, nhưng cái tâm có thể phân biệt Không, Giả, Trung rành rành, chẳng xen lạm, th́ gọi là Thị. Cái tâm Không, Giả, Trung tuy ba mà một, tuy một mà là ba, đó gọi là Ngộ. Cái tâm Không, Giả, Trung chẳng phải là Không, Giả, Trung, mà chiếu b́nh đẳng Không, Giả, Trung th́ chính là Nhập. Đấy là Nhất Tâm Tam Quán mà tách thành Khai, Thị, Ngộ, Nhập sai khác.

          V́ thế, dùng bốn khía cạnh để giải thích, thấy Lư do địa vị, mỗi địa vị do Trí mà sai khác, Trí được phát khởi do môn, thông suốt môn nhờ Quán. Do Quán nên bèn thông suốt môn, do môn đă thông nên trí thành. Do trí thành nên các địa vị được thành lập. Do các địa vị được thành lập mà thấy Lư. Do thấy Lư, nên gọi là Lư Nhất (Tuy nói là Lư Nhất, nhưng Môn chính là Giáo Nhất, Quán tức Hạnh Nhất, địa vị tức Nhân Nhất). Đấy là đối với ba món Giáo, Hạnh, Nhân, đều nhờ vào Lư để biện định. Lư đă là như thế, ba điều kia cũng phỏng theo đó, sự hay khéo trong giải thích chẳng c̣n thêm ǵ được nữa!

          Lại nữa, trong phần xét theo trí của mỗi địa vị thuộc phần trước, Sơ Trụ mới được gọi là Khai, tợ hồ phàm phu chẳng có phần. Trong phần sau, xét theo Môn và xét theo Quán th́ danh tự sơ tâm có phần tu chứng, huống hồ bản thể tri kiến của chúng sanh vốn chính bản thể tri kiến của Phật! Như Thể của băng chính là nước, chỉ v́ Hoặc chướng đông lạnh mà toàn thể nước thành băng. Nếu tin tưởng Viên môn, ngay nơi quán tâm sẽ có danh tự khai, thị, ngộ, nhập, cho đến rốt ráo khai, thị, ngộ, nhập, há có nên đề cao thánh cảnh, tự gièm chính ḿnh chẳng có phần ư? Há lại nên hư vọng so đo “sơ tâm chính là Phật”, đem phàm xâm lạm cái quả tột cùng ư? Xét theo địa vị ở đây, chẳng phải chiều dọc mà luận bàn chiều dọc. Xét theo môn, chẳng phải chiều ngang mà luận bàn theo chiều ngang. Xét theo trí, chẳng phải vừa là dọc vừa là ngang, mà luận vừa ngang vừa dọc. Xét theo Quán, chẳng phải “không phải dọc, không phải ngang” mà luận định “chẳng phải dọc, chẳng phải ngang”, lại c̣n song chiếu ngang lẫn dọc.

          Từ “Xá Lợi Phất” trở đi, tức là tiểu kết ư nghĩa Lư Nhất. Trước kia là phương tiện giáo, cũng đều luận định khai, thị, ngộ, nhập, nhưng chẳng phải là [khai thị ngộ nhập] tri kiến của Phật. V́ thế là Quyền. Nay nói rơ tri kiến của Phật, v́ thế là Thật. Thật chính là Lư Nhất.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4.4.2. Chỉ ra Nhân Nhất

 

          (Kinh) Phật cáo Xá Lợi Phất: - Chư Phật Như Lai đản giáo hóa Bồ Tát.

          ()佛告舍利弗。諸佛如來。但教化菩薩。

          (Kinh: Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: - Chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát).

 

          Các phương tiện trước kia nhằm giáo hóa tam thừa. Lư Thật chỉ giáo hóa Bồ Tát, như đứa con nghèo tự coi ḿnh là gă khách hèn mọn. Trưởng giả trông thấy, biết hắn thật sự là con của ḿnh. Đó chính là Nhân Nhất.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4.4.3. Chỉ ra Hạnh Nhất

 

          (Kinh) Chư hữu sở tác, thường vị nhất sự, duy dĩ Phật chi tri kiến thị ngộ chúng sanh.

          ()諸有所作。常為一事。唯以佛之知見示悟眾生。

          (Kinh: Các việc đă làm thường v́ một sự: Chỉ dùng tri kiến của Phật để chỉ bày, khiến cho chúng sanh được ngộ).

 

          Các hạnh thuộc tam thừa được gọi là “chư”. Do Viên nên là Chư, tức là Sự Nhất. Các hạnh ấy hướng đến đâu? Chỉ hướng đến tri kiến của Phật, tức là ư nghĩa Hạnh Nhất vậy.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4.4.4. Chỉ ra Giáo Nhất

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Như Lai đản dĩ nhất Phật Thừa cố, vị chúng sanh thuyết pháp, vô hữu dư thừa, nhược nhị, nhược tam.

          ()舍利弗。如來但以一佛乘故。為眾生說法。無有餘乘若二若三。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Như Lai chỉ dùng một Phật Thừa để v́ chúng sanh thuyết pháp, chẳng có thừa nào khác, dù hai hay ba).

 

          Giáo pháp viên đốn được gọi là Nhất Phật Thừa. Từ Biệt Giáo trở về trước, đều gọi là “hữu dư thuyết”, tức là “bất liễu nghĩa”, chẳng phải là Nhất Phật Thừa. “Vô hữu dư thừa” (chẳng có thừa nào khác) tức là chẳng có “kèm thêm Biệt” như trong Hoa Nghiêm. “Vô nhị”: Chẳng kèm thêm hai giáo trước như trong Bát Nhă. “Vô tam”: Chẳng như Phương Đẳng đối ứng với ba giáo trước.

          Nhưng bốn đoạn kinh văn trên đây, mỗi đoạn đều có hai nghĩa: Trong đoạn văn thứ nhất, nếu chú trọng “có thể thấy biết” th́ chính là Nhân Nhất. Nay chú trọng “cái được thấy biết” th́ là Lư Nhất. Trong đoạn văn kế tiếp, nếu chú trọng sự giáo hóa th́ là Giáo Nhất. Nếu chú trọng Bồ Tát th́ là Nhân Nhất. Trong đoạn văn thứ ba, tức đoạn nói về “chư hữu sở tác”, nếu nói theo phía đức giáo chủ th́ là Giáo Nhất. Nay nếu nói theo phía hành nhân, sẽ là Hạnh Nhất. Trong đoạn văn thứ tư, nếu chú trọng ư nghĩa “chuyên chở” th́ là Hạnh Nhất. Nếu chú trọng ư nghĩa “v́ chúng sanh thuyết pháp” th́ là Giáo Nhất! Bất quá là xét theo phương tiện để giải thích. Phần giải thích chánh yếu về bốn điều Nhất đă xong.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4.4.5. Tổng kết

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Nhất thiết thập phương chư Phật pháp diệc như thị.

          ()舍利弗。一切十方諸佛法亦如是。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Pháp của mười phương hết thảy chư Phật cũng như thế).

 

          Câu này tổng kết bốn điều Nhất (Tứ Nhất), văn giản lược, nghĩa tường tận. V́ sao nói vậy? Trong Tự Phần, do quang minh [phóng ra từ tướng bạch hào của đức Phật] liền theo chiều ngang thấy một vạn tám ngàn cơi nước. Ngài Văn Thù dẫn chứng chuyện xưa theo chiều dọc, [nêu ra] hai vạn vị Phật, không vị nào chẳng v́ Thật mà thị hiện Quyền, khai Quyền hiển Thật, đều có cùng một ư nghĩa với Phật xuất hiện trong đời Ngũ Trược hiện thời. V́ thế, [Phật Thích Ca] chẳng đợi thỉnh cầu, đă nói (tức là tán thán trí huệ của Phật chẳng thể nghĩ bàn). C̣n như trong hết thảy mười phương, nơi biển các cơi nước vô tận, chư Phật xuất thế trong các thế giới tịnh hay uế sai biệt vô tận, cũng có chỗ thuần nói Đại Thừa, cũng có chỗ thuần nói tiểu pháp. Thuần nói Đại Thừa th́ chẳng cần ban bố tam thừa, cố nhiên là [trọn đủ] bốn điều Nhất (Lư Nhất, Giáo Nhất, Nhân Nhất, Hạnh Nhất). Thuần nói tiểu pháp, sẽ chẳng thể hiển Thật, nhưng lâu sau, rốt cuộc cũng là sẽ không cơi nào chẳng trở thành “bốn điều Nhất”, thế nhưng chẳng thể dùng số kiếp lâu hay mau để tính toán được, chẳng thể dùng Thiên Nhăn của những vị có thần thông thấp hơn Đẳng Giác để ḍ lường được! Trong phần kinh văn kế tiếp, sẽ khai Tích hiển Bổn. Công giáo hóa suốt ba đời của Như Lai là như thế đó. Nếu chẳng tin điều này, sao gọi là “tùy hỷ” cho được? Phần thứ nhất, “nói chung về chư Phật” đă xong.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.1.2. Liệt kê tam thế chư Phật

 

          Chia thành ba phần: Một là quá khứ Phật, hai là vị lai Phật, ba là hiện tại Phật. Trong phần này, phải nên có đủ sáu nghĩa, nhưng chẳng ra ngoài hai loại: Một là mở ra phương tiện, hai là hiển thị chân thật. [Trong sáu nghĩa ấy], hai nghĩa nói về loại trước, hai nghĩa nói về loại sau (tán thán pháp chưa từng có, nói chẳng hư vọng, tức là nói đến chương nêu tổng quát chư Phật trên đây. Nêu ra Ngũ Trược để giải thích Quyền, loại trừ hư ngụy để củng cố niềm tin, tức là phần nói về Phật Thích Ca trong phần sau).

 

2.2.2.2.1.1.3.1.1.2.1. Quá khứ Phật

         

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Quá khứ chư Phật dĩ vô lượng vô số phương tiện, chủng chủng nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, nhi vị chúng sanh diễn thuyết chư pháp. Thị pháp giai vi nhất Phật Thừa cố. Thị chư chúng sanh tùng chư Phật văn pháp, cứu cánh giai đắc Nhất Thiết Chủng Trí.

          ()舍利弗。過去諸佛。以無量無數方便。種種因緣譬喻言辭。而為眾生演說諸法。是法皆為一佛乘故。是諸眾生。從諸佛聞法。究竟皆得一切種智。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Quá khứ chư Phật dùng vô lượng vô số phương tiện, các thứ nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để v́ chúng sanh diễn nói các pháp. Các pháp ấy đều là một Phật Thừa. Các chúng sanh ấy nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đắc Nhất Thiết Chủng Trí).

 

          “Vô lượng vô số phương tiện” là khai Quyền. “Thị pháp giai vi” (các pháp ấy đều là) tức là hiển Thật. “Vi nhất Phật Thừa” (là một Phật Thừa) tức Giáo Nhất. “Chúng sanh” tức là Nhân Nhất. Có thể đạt được Chủng Trí là Hạnh Nhất. Những điều hay biết bởi Chủng Trí chính là Lư Nhất.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.1.2.2. Vị lai Phật

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Vị lai chư Phật đương xuất ư thế, diệc dĩ vô lượng vô số phương tiện, chủng chủng nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, nhi vị chúng sanh diễn thuyết chư pháp. Thị pháp giai vi nhất Phật Thừa cố. Thị chư chúng sanh tùng Phật văn pháp, cứu cánh giai đắc Nhất Thiết Chủng Trí.

          ()舍利弗。未來諸佛當出於世。亦以無量無數方便。種種因緣譬喻言辭。而為眾生演說諸法。是法皆為一佛乘故。是諸眾生從佛聞法。究竟皆得一切種智。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Vị lai chư Phật sẽ xuất hiện trong thế gian, cũng dùng vô lượng vô số phương tiện, các thứ nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để v́ chúng sanh diễn nói các pháp. Các pháp ấy đều là một Phật Thừa. Các chúng sanh ấy nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đắc Nhất Thiết Chủng Trí).

 

2.2.2.2.1.1.3.1.1.2.3. Hiện tại chư Phật

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Hiện tại thập phương vô lượng bách thiên vạn ức Phật độ trung, chư Phật Thế Tôn đa sở nhiêu ích, an lạc chúng sanh. Thị chư Phật diệc dĩ vô lượng vô số phương tiện, chủng chủng nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, nhi vị chúng sanh diễn thuyết chư pháp. Thị pháp giai vi nhất Phật Thừa cố. Thị chư chúng sanh tùng Phật văn pháp, cứu cánh giai đắc Nhất Thiết Chủng Trí. Xá Lợi Phất! Thị chư Phật đản giáo hóa Bồ Tát, dục dĩ Phật chi tri kiến thị chúng sanh cố. Dục dĩ Phật chi tri kiến ngộ chúng sanh cố. Dục linh chúng sanh nhập Phật chi tri kiến cố.

          ()舍利弗。現在十方無量百千萬億佛土中。諸佛世尊。多所饒益。安樂眾生。是諸佛亦以無量無數方便。種種因緣譬喻言辭而為眾生演說諸法。是法皆為一佛乘故。是諸眾生從佛聞法。究竟皆得一切種智。舍利弗。是諸佛但教化菩薩。欲以佛之知見示眾生故。欲以佛之知見悟眾生故。欲令眾生入佛之知見故。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Hiện tại, trong vô lượng trăm ngàn vạn ức cơi Phật ở mười phương, chư Phật Thế Tôn tạo nhiều lợi ích, an lạc chúng sanh. Các vị Phật cũng dùng vô lượng vô số phương tiện, các thứ nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để v́ chúng sanh diễn nói các pháp. Các pháp ấy đều là một Phật Thừa. Các chúng sanh ấy nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đắc Nhất Thiết Chủng Trí. Này Xá Lợi Phất! Các vị Phật ấy chỉ giáo hóa Bồ Tát, v́ muốn dùng tri kiến của Phật để dạy chúng sanh, v́ muốn cho chúng sanh ngộ tri kiến của Phật, v́ muốn khiến cho chúng sanh nhập tri kiến của Phật).

 

          Hiện tại Phật chính là hóa chủ. V́ thế, trước hết nêu ra ư nghĩa xuất thế. Kế đó là nói về khai Quyền hiển Thật. Sau đó, kết thành ư “khai, thị, ngộ, nhập”. [Đoạn văn này] thiếu câu nói về Khai [tri kiến của Phật] là do văn từ giản lược. Phần thứ nhất, chương nói về bốn loại Phật đă xong.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.2. Nêu bày cặn kẽ về Quyền Thật của Phật Thích Ca

 

           Trong sáu nghĩa, do chẳng tán thán pháp hy hữu, [cho nên] chỉ có năm đoạn văn: Một là khai Quyền, hai là hiển Thật, ba là dùng Ngũ Trược để giải thích phương tiện, bốn là loại trừ hư ngụy để củng cố niềm tin, năm là nói rơ chẳng có hư vọng.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.2.1. Khai Quyền

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Ngă kim diệc phục như thị, tri chư chúng sanh hữu chủng chủng dục, thâm tâm sở trước, tùy kỳ bổn tánh, dĩ chủng chủng nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, phương tiện lực, nhi vị thuyết pháp.

          ()舍利弗。我今亦復如是知諸眾生有種種欲。深心所著。隨其本性。以種種因緣譬喻言辭方便力而為說法。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Ta nay cũng như thế, biết các chúng sanh có các thứ dục và các điều chấp trước nơi thân tâm, thuận theo bổn tánh của họ, dùng các thứ nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, và sức phương tiện để v́ họ thuyết pháp).

 

          Trước là ba (tam thừa), sau là một (Phật Thừa), giống như bốn loại Phật chẳng khác. V́ thế nói “diệc phục như thị” (cũng giống như thế). “Chủng chủng dục” (các thứ dục) tức là các dục thuộc căn tánh của ngũ thừa. Quá khứ gọi là Căn, v́ nó có ư nghĩa “có thể sanh”. Hiện tại gọi là Dục, v́ nó có ư nghĩa “giữ lấy cảnh”. Vị lai gọi là Tánh, v́ nó có ư nghĩa “chẳng thay đổi”. “Thâm tâm sở trước” (các điều chấp trước trong thâm tâm): Tập khí cũ khó chuyển, tức là Căn. “Phương tiện” chính là tùy nghi mở ra Quyền pháp tam thừa. Đối ứng với sự cảm ứng ở đây th́ “các thứ căn tánh dục của chúng sanh” là Cảm, đức Phật nhận biết, dùng sức phương tiện để thuyết pháp cho họ. Đó là Ứng.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.2.2. Hiển Thật

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Như thử giai vi đắc nhất Phật Thừa Nhất Thiết Chủng Trí cố.

          ()舍利弗。如此皆為得一佛乘一切種智故。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Như thế đều là v́ đắc Nhất Thiết Chủng Trí nơi một Phật Thừa).

 

2.2.2.2.1.1.3.1.2.3. Nêu ra Ngũ Trược để giải thích phương tiện

2.2.2.2.1.1.3.1.2.3.1. Nêu ư nghĩa

         

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Thập phương thế giới trung, thượng vô nhị thừa, hà huống hữu tam?

          ()舍利弗。十方世界中。尚無二乘。何況有三。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Trong mười phương thế giới, c̣n chẳng có hai thừa, huống hồ là có ba ư?)

 

          Trước khi nêu ra Ngũ Trược, bèn nêu ra ư nghĩa này trước hết. Trong phần trên, đă nói chư Phật khai Quyền hiển Thật, nhưng chưa nói “ẩn Thật để hành Quyền”. Nay nói rơ tương xứng với Thật để quán th́ trong mười phương thế giới, không đâu chẳng phải là diệu lư pháp giới Chân Như, c̣n chẳng có giáo pháp thứ hai là Biệt Giáo, huống hồ có ba giáo là Tạng, Thông, Biệt! Biệt Giáo được gọi là Nhị Thừa v́ Trung Đạo vượt thoát nhị biên, chẳng phải chính là nhị biên. Trung và Biên th́ thành ra hai; v́ thế, gọi là “đệ nhị thừa” (thừa thứ hai). “Hai” nơi Biệt Giáo đă là chẳng thể được, huống hồ có Thông Giáo và Tạng Giáo để cùng với Biệt Giáo tạo thành ba loại Quyền ư? Đặc biệt xuất hiện trong cơi đời Ngũ Trược, chẳng thể nào không ẩn Nhất Thật để thực thi ba thứ quyền biến vậy!

 

2.2.2.2.1.1.3.1.2.3.2. Nêu ra Ngũ Trược

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Chư Phật xuất ư Ngũ Trược ác thế, sở vị kiếp trược, phiền năo trược, chúng sanh trược, kiến trược, mạng trược.

          ()舍利弗。諸佛出於五濁惡世。所謂劫濁。煩惱濁。眾生濁。見濁。命濁。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Chư Phật xuất hiện trong đời ác Ngũ Trược, tức là kiếp trược, phiền năo trược, chúng sanh trược, kiến trược, mạng trược).

 

          “Kiếp” (Kalpa) là Thời. Thời (thời gian) chẳng phải là pháp có thật, nó nương vào phận vị của sắc và tâm mà giả lập. Nay nói là “trược” (, dơ bẩn), tức là bốn thứ trược tăng trưởng mạnh mẽ, tụ tập trong lúc này. V́ thế, trong phần sau, kinh văn ghi “kiếp trược loạn thời”.

          Phiền Năo Trược (Kleśa-kasāya): Nói chung, ngũ trụ tam hoặc[11] đều gọi là phiền năo. Nay chỉ coi ngũ độn sử trong tam giới là Phiền Năo Trược, tức là tham, sân, si, mạn, nghi. Chúng sanh cũng chẳng có cái Thể nào khác, nương vào sắc, tâm, Ngũ Ấm mà lập ra cái giả danh này.

          Do Kiến phiền năo, cảm vời sắc tâm thô tệ, quả báo xấu kém. V́ thế gọi là Chúng Sanh Trược (Sattva-kasāya).

          Kiến Trược (Drsti-kasāya): Nói chung là các phân biệt Hoặc trong tam giới và ngoài tam giới th́ đều gọi là Kiến. Nay chỉ lấy năm lợi sử trong tam giới làm Kiến Trược, tức là Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Thủ Kiến, Kiến Thủ Kiến và Tà Kiến.

          Mạng Căn (Jīvitendriya) cũng chẳng phải là thật pháp, do nương vào thức chủng, một phần dựa vào công năng duy tŕ sắc tâm liên tục chẳng đoạn mà giả lập. Nay nói là Trược, v́ ác dị thục nghiệp cảm vời thức chủng, có thể khiến cho sắc tâm tồn tại ngắn ngủi; v́ thế gọi là Mạng Trược (Āyu-kasāya).

          Nếu xét theo nhân quả sanh khởi lẫn nhau, th́ do Kiến phiền năo làm nhân, cảm vời sắc tâm trong tam giới làm quả. Do nương vào quả mà lập ra danh xưng Chúng Sanh. Dựa theo một thời kỳ sanh tử của chúng sanh là lập ra danh xưng Mạng Căn. Nếu nương vào bốn pháp (kiếp, kiến, chúng sanh, mạng căn) đều là trược, sẽ lập ra danh xưng Kiếp Trược (Kalpa-kasāya). Nếu dựa theo thứ tự trong các kinh, Kiếp Trược đứng đầu; Kiến, phiền năo, chúng sanh, và mạng theo thứ tự được xếp đằng sau. Kinh này [liệt kê Ngũ Trược] không tuân theo thứ tự ấy, ư nghĩa cũng chẳng thay đổi.

          Hỏi: Ngũ Trược nói trong kinh này và kinh Đại Phật Đảnh (kinh Lăng Nghiêm) giống nhau, hay khác nhau?

          Đáp: Ngũ Trược nói trong kinh Đại Phật Đảnh bao trùm chín pháp giới, chỉ có Phật là thanh tịnh (không có Ngũ Trược). Ngũ Trược nói trong kinh này hạn cuộc trong kiếp giảm nơi uế độ, chẳng xét theo Tịnh Độ, chẳng xét theo tăng kiếp.

          Hỏi: Kinh này tối diệu, sao lại ngược ngạo nói Ngũ Trược nông cạn vậy?

          Đáp: Điều này nhằm minh định “chư Phật ẩn Thật để thực hiện tam thừa”. Do các Ngài xuất thế trong đời Ngũ Trược, chuyện bất đắc dĩ là [nêu bày Ngũ Trược nhằm] tỏ rơ phương tiện thiện xảo quyền biến chẳng thể nghĩ bàn! Há có nên dùng kinh Đại Phật Đảnh để so đo? Kinh ấy riêng v́ một hạng lợi căn mà trực tiếp mở mang kiến giải viên măn [cho họ].

          Hỏi: Nếu Ngũ Trược có thể gây chướng ngại to lớn, sao trong kinh Hoa Nghiêm, người chưa trừ trược lại có thể nghe xong bèn ngộ là v́ lẽ nào vậy?

          Đáp: Điều này phải nên dùng bốn câu để phân biệt:

          - Một là căn tánh Đại Thừa nhạy bén, chướng nặng nề. Do căn nhạy bén, trọng chướng chẳng thể gây chướng ngại. Đó là những người nghe Đại Thừa đầu tiên nơi hội Hoa Nghiêm trong cơi này.

          - Hai là căn nhạy bén, chướng nhẹ, tức là những người nhanh chóng nghe Đại Thừa trong các cơi thanh tịnh ở phương khác.

          - Ba là căn độn, chướng nhẹ, tức là những người trước hết nghe tam thừa, sau đó ngộ Nhất Thừa trong các cơi thanh tịnh ở phương khác.

          - Bốn là căn độn, chướng nặng ở trong cơi này do nghe pháp dần dần trừ trược rồi mới nghe Đại Thừa.

          Hỏi: Ngũ Trược cũng chướng ngại Tiểu Thừa ư?

          Đáp: Đối với Tiểu Thừa, cũng nên có bốn câu phân biệt:

          - Một là hàng Tiểu Thừa căn nhạy bén, chướng nhẹ, Trược chẳng thể gây chướng, như Xá Lợi Phất, Đại Ca Diếp v.v…

          - Hai là Tiểu Thừa căn nhạy bén, chướng nặng, Trược cũng chẳng thể ngăn chướng, như Ương Quật Ma La (Aṅgulimāliya, Aṅgulimāla)[12] trong kinh A Hàm.

          - Ba là Tiểu Thừa căn độn, chướng nhẹ, Trược cũng chẳng thể gây chướng, như tỳ-kheo Bàn Đà (Śuddhipanthaka, tức ngài Châu Lợi Bàn Đặc, Châu Lợi Bàn Đà Già).

          - Bốn là Tiểu Thừa căn độn, chướng nặng, Trược bèn thành chướng, tức là những kẻ khi đức Phật tại thế chẳng nghe Tiểu Thừa, chẳng được độ thoát.

          Hỏi: Có người chẳng ở trong Hoa Nghiêm, chẳng ở trong Tam Tạng, mà được nghe đại pháp hay nghe tiểu pháp là v́ cớ ǵ?

          Đáp: Điều này cũng nên dựa theo tứ giáo mà chia tổng quát thành bốn câu. Bốn câu tổng quát là:

          - Căn nhạy bén, chướng nhẹ, bất cứ lúc nào cũng đều nên nghe Viên Giáo.

          - Căn nhạy bén, chướng nặng, th́ bất cứ lúc nào cũng đều nên nghe Biệt Giáo.

          - Căn độn, chướng nhẹ, th́ bất cứ lúc nào cũng đều nên nghe Thông Giáo.

          - Căn độn, chướng nặng, bất cức lúc nào cũng đều nên nghe Tạng Giáo.

          Đức Phật do khẩu mật mà luôn ứng theo, khiến cho họ đạt được lợi ích. Đối với mỗi giáo, đều chia thành bốn câu, v́ mỗi giáo trong bốn giáo đều có bốn môn:

          - Căn nhạy bén, chướng nhẹ th́ do nghe môn “phi Hữu, phi Không” bèn nhập.

          - Căn nhạy bén, chướng nặng th́ do nghe môn “cũng Có, cũng Không” mà nhập.

          - Căn độn, chướng nhẹ th́ do nghe Không môn mà nhập.

          - Căn độn, chướng nặng th́ do nghe Hữu môn mà nhập.

          Nói chung, bất luận là có chướng hay không chướng, quư ở chỗ có căn, có thừa chủng (chủng tử thuộc thừa nào đó). Chướng là do phá giới, “chủng” (chủng tử) là do huân tập thành. Căn do túc tập (sự tu tập từ đời trước) mà có lợi hay độn. Tới nay gặp Phật, ngộ th́ bèn có “đợi thời” và “chẳng đợi thời”. Nếu chẳng có “thừa chủng” từ đời trước, sẽ chẳng gặp thiện căn xuất thế. Dẫu cho chướng nhẹ, vẫn đắm đuối nơi lạc, chẳng ngộ, chẳng thuộc vào bốn câu, chẳng gồm trong bốn môn, biết làm sao được nữa?

          Hỏi: V́ sao Ngũ Trược một mực chướng Đại mà chẳng chướng Tiểu? (Dựa theo câu thứ tư trong bốn câu đầu tiên mà hỏi).

          Đáp: Chúng sanh trược nặng, hư vọng chấp trước Ngũ Ấm là Tứ Đức (đó là chướng nặng). Nếu nghe “thường, lạc, ngă, tịnh” của Đại Thừa, liền chấp sai là đúng (tức là căn độn), thầy thuốc cũ ngốc nghếch, ngu xuẩn[13], chẳng biết sữa tốt xấu (chẳng biết thuốc), chẳng biết cội nguồn gây nên bệnh, chẳng biết cách thêm hay bớt các vị thuốc (chẳng biết kê toa), chẳng hiểu biết ǵ. V́ thế, trược lẫn chướng đều to. Kinh văn chép: “Nhược đản tán Phật Thừa, chúng sanh một tại khổ” (nếu chỉ khen ngợi Đại Thừa chúng sanh sẽ ch́m đắm trong sự khổ) chính là nghĩa này. Nếu nghe vô thường, khổ, vô ngă, bất tịnh, sẽ chán ngán sanh tử, ưa Niết Bàn, phá chấp trước tà kiến. V́ thế, Ngũ Trược chẳng chướng Tiểu Thừa. Kinh văn chép: “Tác thị tư duy thời, thập phương Phật giai hiện. Phạm âm ủy dụ ngă” (Khi ta suy nghĩ như thế, mười phương Phật đều hiện ra, dùng phạm âm để an ủi, khuyên dụ ta) chính là ư nghĩa này!

 

2.2.2.2.1.1.3.1.2.3.3. Tiểu kết lời giải thích

 

          (Kinh) Như thị Xá Lợi Phất! Kiếp trược loạn thời, chúng sanh cấu trọng, xan tham, tật đố, thành tựu chư bất thiện căn cố, chư Phật dĩ phương tiện lực, ư nhất Phật Thừa, phân biệt thuyết tam.

          ()如是舍利弗。劫濁亂時。眾生垢重。慳貪嫉妒。成就諸不善根故。諸佛以方便力。於一佛乘。分別說三。

          (Kinh: Như thế đó, Xá Lợi Phất! Trong thời loạn kiếp trược, do chúng sanh cấu chướng nặng nề, keo tham, ghen ghét, thành tựu các bất thiện căn, chư Phật dùng sức phương tiện từ trong một Phật Thừa mà phân biệt nói thành ba).

 

          Câu đầu tiên nói đến Kiếp Trược, câu kế tiếp nói về Chúng Sanh Trược. “Xan tham, tật đố” tức Phiền Năo Trược và Kiến Trược. “Thành tựu chư bất thiện căn” (thành tựu các căn chẳng lành) chính là Mạng Trược. Nếu chẳng khéo léo lập bày phương tiện, dùng ǵ để tiếp dẫn [chúng sanh] thoát khỏi khổ luân? Phần thứ ba, “nêu ra Ngũ Trược để giải thích phương tiện” đă xong.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.2.4. Loại trừ hư ngụy để củng cố niềm tin vào Nhất Thật

         

          Nếu là đệ tử Phật, sẽ có thể tự tín giải. Nếu chẳng tín giải, sẽ chẳng phải là đệ tử thật sự, mà cũng chẳng phải là La Hán. Đôn đốc đại chúng trong thuở ấy, khiến cho họ tin nhận [Nhất Thừa].

 

2.2.2.2.1.1.3.1.2.4.1. Phân biệt chân ngụy

2.2.2.2.1.1.3.1.2.4.1.1. Nếu chẳng nghe, chẳng biết, sẽ chẳng phải là đệ tử thật sự

         

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Nhược ngă Phật tử tự vị A La Hán, Bích Chi Phật giả, bất văn, bất tri chư Phật Như Lai đản giáo hóa Bồ Tát sự, thử phi Phật đệ tử, phi A La Hán, phi Bích Chi Phật.

          ()舍利弗若我佛子。自謂阿羅漢辟支佛者。不聞不知諸佛如來但教化菩薩事。此非佛弟子。非阿羅漢。非辟支佛。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Nếu Phật tử của ta tự nói ḿnh là A La Hán hay Bích Chi Phật, mà chẳng nghe, chẳng biết chuyện chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, kẻ đó chẳng phải là đệ tử Phật, chẳng phải là A La Hán, chẳng phải là Bích Chi Phật).

 

          Như đệ tử trong thế gian tùy thuận pháp của thầy, tiếp nối đạo, truyền đăng, nay chẳng nghe, chẳng biết, sẽ chẳng có cách nào tùy thuận! Đệ tử là ǵ? Như Lai trước kia đă v́ đối trị Ngũ Trược mà phương tiện thực hiện tam thừa, ông được nghe biết, tùy thuận tu tập, th́ gọi là “đệ tử”. Ngay Ngũ Trược đă trừ, [Như Lai] sẽ v́ ông hiển lộ Nhất Thừa, cớ sao chẳng nghe, chẳng biết? “Chẳng nghe” tức là không nghe Giáo Nhất. “Chẳng biết” tức là không biết Hành Nhất. “Chẳng phải là đệ tử” tức chẳng phải là Nhân Nhất. Nói chung là v́ mê nơi Lư Nhất vậy.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.2.4.1.2. Nếu đă nghe mà chẳng tin nhận th́ là kẻ tăng thượng mạn

 

          (Kinh) Hựu Xá Lợi Phất! Thị chư tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, tự vị dĩ đắc A La Hán, thị tối hậu thân, cứu cánh Niết Bàn, tiện bất phục chí cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Đương tri thử bối, giai thị tăng thượng mạn nhân. Sở dĩ giả hà? Nhược hữu tỳ-kheo thật đắc A La Hán, nhược bất tín thử pháp, vô hữu thị xứ!

          ()又舍利弗。是諸比丘比丘尼。自謂已得阿羅漢。是最後身。究竟涅槃。便不復志求阿耨多羅三藐三菩提。當知此輩。皆是增上慢人。所以者何。若有比丘實得阿羅漢。若不信此法。無有是處。

          (Kinh: Lại này Xá Lợi Phất! Các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni ấy tự nói là đă đắc A La Hán, là thân cuối cùng, rốt ráo Niết Bàn, mà vẫn chẳng mong cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hăy nên biết hạng người ấy đều là kẻ tăng thượng mạn. V́ sao vậy? Nếu có tỳ-kheo thật sự đắc A La Hán mà chẳng tin pháp này, chẳng có lẽ ấy!)

 

          Đức Phật lập ra Nhị Thừa vốn là v́ Ngũ Trược chướng nặng, tạm thời khiến cho họ dứt khổ, cho nên quyền biến nói “đoạn hết Kiến Tư th́ gọi là A La Hán”, chẳng thọ thân hậu hữu trong tam giới, gọi là “tối hậu thân” (thân cuối cùng), ra khỏi khổ luân Phần Đoạn [sanh tử] trong cơi Đồng Cư th́ gọi là Niết Bàn. Nhưng nếu đă thật sự đắc đạo A La Hán, chứng Hữu Dư giải thoát, nay nghe kinh này, phải nên tin nhận, tiến lên cầu Vô Thượng Bồ Đề. V́ lẽ nào vậy? Trược chướng đă trừ, lại được nghe đại pháp này, ắt sẽ suy xét, trù tính, cân nhắc: Vô minh Biệt Hoặc nếu vẫn c̣n, sao gọi là La Hán cho được? Biến Dịch sanh tử mênh mông, sao gọi là “tối hậu thân” cho được? Hóa thành chưa phải là chỗ có của báu, sao gọi là Niết Bàn rốt ráo cho được? V́ thế, người thật sự đắc A La Hán, chưa hề có ai chẳng tin pháp này do đức Phật đă nói. Nếu tự cho là đủ, chẳng dốc chí cầu Bồ Đề, hăy nên biết kẻ đó hoàn toàn chưa chứng A La Hán, chỉ là phường tăng thượng mạn đó thôi! Phần thứ nhất, “phân biệt chân ngụy” đă xong.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.2.4.2. Khai trừ để cởi gỡ nghi hoặc         

2.2.2.2.1.1.3.1.2.4.2.1. Khai trừ

         

          (Kinh) Trừ Phật diệt độ hậu, hiện tiền vô Phật, sở dĩ giả hà? Phật diệt độ hậu, như thị đẳng kinh, thọ tŕ, độc tụng, giải nghĩa giả, thị nhân nan đắc.

          ()除佛滅度後。現前無佛。所以者何。佛滅度後。如是等經。受持讀誦解義者。是人難得。

          (Kinh: Trừ phi sau khi đức Phật diệt độ, hoặc hiện tiền chẳng có Phật. V́ cớ sao vậy? Sau khi đức Phật diệt độ, người nào thọ tŕ, đọc tụng, giải nghĩa các kinh như thế th́ người ấy khó có).

 

          Sợ có kẻ hỏi: “Nếu là như vậy, hết thảy La Hán ắt đều dốc chí cầu Vô Thượng Bồ Đề hay sao?” V́ thế, nay để khai trừ [lư luận nói nhất loạt như thế], bèn nói: “Trừ Phật diệt hậu, hiện tiền vô Phật”, [ư nói] những người được gọi quyền biến là “đă chứng La Hán chưa chắc đă liền có thể dốc chí cầu Bồ Đề. Lại có người hỏi: Tuy đức Phật diệt độ, nhưng kinh này c̣n tồn tại trong cơi đời, sao họ chẳng tin? V́ thế, nay giải thích rằng: V́ lẽ nào vậy? Sau khi đức Phật diệt độ, tuy kinh này vẫn c̣n trong cơi đời, nhưng người thọ tŕ, đọc tụng, giải nghĩa khó thể gặp gỡ. Chẳng gặp người như vậy, th́ thánh giả tiểu quả làm sao có thể tự thông hiểu, quyết chí cho được?

 

2.2.2.2.1.1.3.1.2.4.2.2. Cởi gỡ mối nghi

         

          (Kinh) Nhược ngộ dư Phật, ư thử pháp trung, tiện đắc quyết liễu.

          ()若遇餘佛。於此法中便得決了。

          (Kinh: Nếu gặp vị Phật khác, sẽ đối với pháp này liền được hiểu rơ, quyết định).

 

          Sợ có kẻ nghi rằng: “Nếu sau khi đức Phật nhập diệt, các vị A La Hán không gặp được kinh này, chẳng gặp người thọ tŕ, đọc tụng, giải nghĩa kinh này, sẽ vĩnh viễn nhập tiểu Niết Bàn ư?” V́ thế, nay giải thích rằng: Người ấy tuy sanh ư tưởng “diệt độ, nhập Niết Bàn”, nhưng do sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư, gặp Phật nói pháp này, sẽ nhất quyết hiểu rơ “hóa thành chẳng phải là thật”, ắt vẫn dốc chí cầu Vô Thượng Bồ Đề, trọn chẳng có lẽ nào vĩnh viễn nhập Niết Bàn! V́ thế, phẩm Thích Tất Định trong Đại Trí Độ Luận có nói: “Thân La Hán ắt phải diệt, trụ trong chỗ nào để trọn đủ Phật đạo? Đáp: Ra khỏi tam giới bèn có Tịnh Độ của chư Phật”.

          [Trong Tịnh Độ của chư Phật], chẳng có danh xưng phiền năo. Ở trong quốc độ ấy, nghe kinh Pháp Hoa, trọn đủ Phật đạo. Liền dẫn kinh này để làm chứng: Có La Hán nếu chẳng nghe Pháp Hoa, tự nói đă đắc diệt độ, ta ở trong các nước khác, v́ người đó nói chuyện này: Ông sẽ thành Phật”. Lại nữa, nếu ở trong cơi này mà được gặp gỡ người thọ tŕ, đọc tụng, giải nghĩa, th́ cũng được hiểu rơ, quyết chí. V́ thế, Nam Nhạc đại sư nói: “Các vị Phật khác [trong đoạn kinh văn này] là bốn chỗ nương tựa. La Hán gặp gỡ, nghe kinh bèn quyết định hiểu rơ”. Lại nói: “La Hán tu Niệm Phật Định, thấy mười phương Phật v́ vị ấy nói kinh điển này, liền được quyết định hiểu rơ” (Nếu nói niệm “mười phương Phật” tức là đă phát đại tâm. Nếu lại chỉ nghĩ tới đức Thích Ca, th́ sẽ là do Tiểu mà cảm Đại, cũng là do căn cơ phát khởi khiến cho thành ra như thế đó). Phần thứ tư, “loại trừ hư ngụy, củng cố tín tâm” đă xong.

 

2.2.2.2.1.1.3.1.2.5. Chỉ rơ chẳng hư vọng

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Nhữ đẳng đương nhất tâm tín giải, thọ tŕ Phật ngữ. Chư Phật Như Lai ngôn vô hư vọng, vô hữu dư thừa, duy nhất Phật Thừa.

          ()舍利弗。汝等當一心信解受持佛語。諸佛如來。言無虛妄。無有餘乘。唯一佛乘。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Các ông hăy nên nhất tâm tin hiểu, thọ tŕ lời Phật. Chư Phật Như Lai chẳng nói lời hư vọng, chẳng có thừa nào khác, chỉ có một Phật Thừa).

 

          Trước là khuyên tin tưởng lời nói chân thật của Phật Thích Ca. Kế đó, khuyên hăy nên tin tưởng lời chân thành của chư Phật. Cuối cùng, kết lại Phật Thừa duy nhất. Do vậy, ngăn dứt ngờ vực, báng bổ. Đến đây, phần kinh văn Trường Hàng đă xong.

 

2.2.2.2.1.2. Kệ tụng

2.2.2.2.1.2.1. Hứa khả sẽ giải đáp

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Tỳ kheo, tỳ-kheo-ni, hữu hoài tăng thượng mạn. Ưu-bà-tắc ngă mạn. Ưu-bà-di bất tín. Như thị tứ chúng đẳng, kỳ số hữu ngũ thiên, bất tự kiến kỳ quá. Ư giới hữu khuyết lậu, hộ tích kỳ hà tỳ[14]. Thị tiểu trí dĩ xuất, chúng trung chi tao khang[15], Phật oai đức cố khứ, tư nhân tiển phước đức, bất kham thọ thị pháp. Thử chúng vô chi diệp, duy hữu chư trinh thật. Xá Lợi Phất thiện thính.

          ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。比丘比丘尼。有懷增上慢。優婆塞我慢。優婆夷不信。如是四眾等。其數有五千。不自見其過。於戒有缺漏。護惜其瑕疵。是小智已出。眾中之糟糠。佛威德故去。斯人尠福德。不堪受是法。此眾無枝葉。唯有諸貞實。舍利弗善聽。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Tỳ kheo, tỳ-kheo-ni, ôm ḷng tăng thượng mạn, ưu-bà-tắc ngă mạn, ưu-bà-di chẳng tin, tứ chúng như thế đó, số đến năm ngàn người, chẳng tự thấy lỗi ḿnh, khuyết lậu đối với giới, tự che giấu tỳ vết. Bọn tiểu trí đă đi, cám bă trong đại chúng, oai đức Phật phải đi. Bọn họ kém phước đức, chẳng kham nhận pháp này. Đại chúng không cành lá, chỉ có các hạt chắc, Xá Lợi Phất khéo nghe).

 

          “Thượng mạn, ngă mạn, bất tín” tứ chúng đều có, nhưng hai chúng xuất gia (tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni) phần nhiều tu đạo, đắc Thiền, lầm tưởng đă đắc thánh quả, dấy ḷng tăng thượng mạn. Kẻ kiêu căng trong cơi tục, phần nhiều dấy ḷng ngă mạn. Nữ nhân trí cạn, phần nhiều sanh tâm chẳng tin. Kẻ chẳng tự thấy lỗi ấy, bị ba thứ khuyết điểm che lấp cái tâm, giấu diếm tỳ vết, phô phang phẩm đức, chẳng thể tự phản tỉnh, tức là kẻ chẳng hổ thẹn! Nếu tự thấy lỗi ḿnh, sẽ là vị Tăng biết hổ thẹn. “Ư giới hữu khuyết lậu” (có thiếu sót đối với giới): Sai sót nơi luật nghi th́ gọi là Khuyết. Định Cộng Giới và Đạo Cộng Giới đều đánh mất, th́ gọi là Lậu. Do thiếu Định Cộng Giới và Đạo Cộng Giới, trong tâm dấy lên sự cảm nhận xấu ác, như ngọc có tỳ vết. Do thiếu luật nghi, ngoài th́ dấy động thân, miệng, như ngọc lộ ra vết nứt, giấu diếm tội để tự an, chẳng biết phát lộ, cho nên gọi là “hộ tích” (giấu diếm). “Tiểu trí” chẳng đạt được trí của bậc Hữu Học hay Vô Học, chỉ có cái trí thế gian nhỏ nhoi, hư vọng so đo, ngỡ hữu lậu là vô lậu, do [trí ấy] nhỏ nhoi nhất trong thứ nhỏ nhoi, nên gọi là “tiểu trí”. Chẳng được nhuần thấm bởi Thiền Định vô lậu, chỉ có Thiền Định thế gian, cho nên như bă rượu. Chẳng có lư huệ (trí huệ thuộc về Lư) xuất thế, chỉ hiểu sơ sài văn tự, mê mờ nơi kinh văn, đánh mất ư chỉ, v́ thế như cám. Lại nữa, “cám bă” ví như chẳng có căn cơ Đại Thừa, “chi diệp” (cành lá) ví như chẳng phải là dụng cụ tốt, đều chẳng kham dùng được. V́ thế, cần phải loại bỏ. Bốn bài kệ đều nhằm trùng tụng chuyện hứa khả sau khi loại trừ [những kẻ tăng thượng mạn]. Câu cuối cùng trùng tụng chuyện giới hứa (hứa khả bằng cách răn nhắc Xá Lợi Phật hăy khéo nghe). Phần thuận hứa bị lược đi, chẳng trùng tụng.

 

2.2.2.2.1.2.2. Trùng tụng phần chánh thuyết

2.2.2.2.1.2.2.1. Trùng tụng về bốn loại Phật

2.2.2.2.1.2.2.1.1. Trùng tụng về chư Phật

 

          Phần kệ tụng này có ba chỗ khác biệt với phần Trường Hàng:

          - Một là đôi bên đều có những chỗ phần này có mà phần kia không có. [Chẳng hạn như] phần Trường Hàng có tán thán pháp, nhưng không nói [cặn kẽ về] Ngũ Trược. Phần này (kệ tụng) có Ngũ Trược, nhưng không tán thán pháp.

          - Hai là thứ tự khác nhau. Phần Trường Hàng trước hết tán thán pháp, kế đó nói đến “chẳng hư dối” nhằm khai Quyền hiển Thật. Kệ tụng th́ trước hết khai Quyền hiển Thật, sau đó mới nói “chẳng hư dối”.

          - Ba là tách ra hay gộp lại khác nhau. Phần Trường Hàng gộp chung khuyến tín và [khẳng định pháp này] chẳng hư dối. Kệ tụng tách rời “khuyến tín” và “chẳng hư dối”. Lại nữa, phần Trường Hàng dùng phương tiện của Phật Thích Ca để giải thích sự quyền biến của chư Phật. Kệ tụng dùng chuyện “hiển nhất” (hiển thị Nhất Thừa) của Phật Thích Ca để giải thích Thật pháp của chư Phật.

          Đó là bốn điều sai khác. Kinh văn trong phần này được chia thành năm phần: Một là trùng tụng về chuyện thực hiện Quyền, hai là trùng tụng về chuyện hiển Thật, ba là trùng tụng khuyến tín, bốn là nêu ra Ngũ Trược, năm là trùng tụng [pháp này] chẳng hư dối.

 

2.2.2.2.1.2.2.1.1.1. Trùng tụng về chuyện thực hiện Quyền

 

          (Kinh) Chư Phật sở đắc pháp, vô lượng phương tiện lực, nhi vị chúng sanh thuyết. Chúng sanh tâm sở niệm, chủng chủng sở hành đạo, nhược can chư dục tánh, tiên thế thiện ác nghiệp. Phật tất tri thị dĩ. Dĩ chư duyên, thí dụ, ngôn từ, phương tiện lực, linh nhất thiết hoan hỷ, hoặc thuyết Tu Đa La, Già Đà, cập Bổn Sự, Bổn Sanh, Vị Tằng Hữu, diệc thuyết ư Nhân Duyên, Thí Dụ tịnh Kỳ Dạ, Ưu Ba Đề Xá Kinh. Độn căn nhạo tiểu pháp, tham trước ư sanh tử, ư chư vô lượng Phật, bất hành thâm diệu đạo, chúng khổ sở năo loạn, vị thị thuyết Niết Bàn.

          ()諸佛所得法。無量方便力。而為眾生說。眾生心所念。種種所行道。若干諸欲性。先世善惡業。佛悉知是已。以諸緣譬喻。言辭方便力。令一切歡喜。或說修多羅。伽陀及本事。本生未曾有。亦說於因緣。譬喻並祇夜。優波提舍經。鈍根樂小法。貪著於生死。於諸無量佛。不行深妙道。眾苦所惱亂。為是說涅槃。

          (Kinh: Pháp chư Phật đă đắc, vô lượng sức phương tiện, v́ chúng sanh mà nói. Tâm chúng sanh suy nghĩ, các thứ đạo đă hành, bao nhiêu loại chủng tánh, nghiệp thiện ác đời trước, Phật đều biết hết cả. Dùng các duyên, thí dụ, ngôn từ, sức phương tiện, khiến hết thảy hoan hỷ, hoặc nói ra Khế Kinh, Kệ Tụng và Bổn Sự, Bổn Sanh, Vị Tằng Hữu, và cũng nói Nhân Duyên, Thí Dụ cùng Trùng Tụng, Ưu Ba Đề Xá kinh. Độn căn ưa tiểu pháp, tham đắm nơi sanh tử, ở nơi vô lượng Phật, chẳng hành đạo sâu mầu, bị các khổ năo loạn, v́ họ nói Niết Bàn).

 

          “Chư Phật sở đắc pháp” (pháp do chư Phật đạt được): Tu đạo đạt được các Quyền pháp. Ấy là v́ cái nhân tự hành đă trọn vẹn, cảm vời Hậu Đắc Vô Phân Biệt Trí, c̣n gọi là Sai Biệt Trí. Ngay trong khi tự hành Quyền pháp thuộc về Thể, bản thể của pháp ấy cũng chẳng thể nói. Do v́ phương tiện, v́ chúng sanh mà nói, trở thành hóa tha Quyền, chiếu soi căn cơ trong chín pháp giới, nói ra bảy phương tiện. Chín [pháp giới] là đối tượng tiếp độ, giáo hóa chẳng ngoài bảy [phương tiện]. Nói ra bảy [phương tiện] để thích ứng với [căn cơ] trong chín [pháp giới], khiến cho họ dần dần nhập Thật. Trong bảy và chín thứ đó, tùy theo căn cơ như thế nào, sẽ được nghe pháp như thế đó. Hễ gặp căn cơ liền [thuyết pháp] phù hợp, chứ thoạt đầu không nhất định [phải nói pháp nào]; v́ thế nói “vô lượng phương tiện lực, nhi vị chúng sanh thuyết” (vô lượng sức phương tiện, v́ chúng sanh mà nói). Hiện hành, dấy lên hy vọng th́ gọi là “sở niệm”. “Niệm” chính là mong muốn, những điều mong muốn quen thuộc đă trở thành tánh, có thể tạo thành chủng tử sau này, cộng thêm các nghiệp trước đó có thiện và ác, sai biệt ngần ấy, đúng là chẳng thể do một duyên, một thí dụ, một loại phương tiện mà có thể độ thoát, chỉ có Phật đều có thể biết trọn! V́ thế, [đức Phật] có thể tùy nghi thuyết chín bộ pháp[16], khiến cho hết thảy đều hoan hỷ. Hoan hỷ ắt “sanh thiện, diệt ác, nhập lư” (tức Vị Nhân, Đối Trị và Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn). [Kệ tụng] nêu ra điều [Tất Đàn] đầu tiên (hoan hỷ) để gồm chung các điều [Tất Đàn] sau đó (sanh thiện, diệt ác, nhập lư).

          “Chín bộ”: Nói chung th́ Đại Thừa hay Tiểu Thừa đều có mười hai bộ loại, nhưng luận riêng th́ Tiểu Thừa hoặc là mười một bộ, hoặc chỉ có chín bộ, nói cặn kẽ th́ như trong sách Huyền Nghĩa đă nói. Sáu câu từ “độn căn nhạo tiểu pháp” (độn căn ưa pháp nhỏ) trở đi nhằm tiểu kết ư “thực hiện Quyền”. Đời trước độn căn, đời này chẳng có cơ hội, chẳng kham nghe đại pháp. V́ thế nói là “bất hành thâm diệu đạo” (chẳng hành đạo sâu mầu). Đời trước tham đắm, chướng nặng, đời này bị các khổ quấy nhiễu, năo hại, chỉ có thể nghe tiểu pháp. V́ thế nói “vị thị thuyết Niết Bàn” (v́ những người ấy mà nói Niết Bàn).

 

2.2.2.2.1.2.2.1.1.2. Kệ tụng hiển Thật

2.2.2.2.1.2.2.1.1.2.1. Trùng tụng Lư Nhất

 

          (Kinh) Ngă thiết thị phương tiện, linh đắc nhập Phật huệ, vị tằng thuyết nhữ đẳng, đương đắc thành Phật đạo. Sở dĩ vị tằng thuyết, thuyết thời vị chí cố. Kim chánh thị kỳ thời, quyết định thuyết Đại Thừa. Ngă thử cửu bộ pháp, tùy thuận chúng sanh thuyết, nhập Đại Thừa vi bổn. cố thuyết thị kinh.

          ()我設是方便。令得入佛慧。未曾說汝等。當得成佛道。所以未曾說。說時未至故。今正是其時。決定說大乘。我此九部法。隨順眾生說。入大乘為本。以故說是經。

          (Kinh: Ta lập phương tiện này, khiến được nhập Phật huệ. Chưa từng nói các ông, sẽ được thành Phật đạo. Sở dĩ chưa từng nói, v́ chưa đến lúc nói. Nay chính là đúng lúc, quyết định nói Đại Thừa. Chín bộ pháp của ta, tùy thuận chúng sanh nói, nhập Đại Thừa làm gốc. V́ thế, nói kinh này).

 

          “Phật huệ” chính là một đại sự nhân duyên. Nếu xét theo người có thể biết th́ là Hạnh Nhất. Nếu xét theo cái được biết th́ là Lư Nhất. Nếu lại xét theo khía cạnh “nói kinh” th́ phải là Giáo Nhất. Nếu xét theo pháp được tuyên nói th́ là Lư Nhất. Do cũng chọn lấy điều thuận tiện, nên gọi là Lư Nhất.

 

2.2.2.2.1.2.2.1.1.2.2. Trùng tụng Nhân Nhất

 

          (Kinh) Hữu Phật tử tâm tịnh, nhu nhuyễn diệc lợi căn, vô lượng chư Phật sở, nhi hành thâm diệu đạo. Vị thử chư Phật tử, thuyết thị Đại Thừa kinh. Ngă kư như thị nhân, lai thế thành Phật đạo, dĩ thâm tâm niệm Phật, tu tŕ tịnh giới cố. Thử đẳng văn đắc Phật, đại hỷ sung biến thân, Phật tri bỉ tâm hạnh, cố vị thuyết Đại Thừa. Thanh Văn, nhược Bồ Tát, văn ngă sở thuyết pháp, năi chí ư nhất kệ, giai thành Phật vô nghi.

          ()有佛子心淨。柔軟亦利根。無量諸佛所。而行深妙道。為此諸佛子。說是大乘經。我記如是人。來世成佛道。以深心念佛。修持淨戒故。此等聞得佛。大喜充徧身。佛知彼心行。故為說大乘。聲聞若菩薩。聞我所說法。乃至於一偈。皆成佛無疑。

          (Kinh: Có Phật tử tâm tịnh, mềm mỏng và lợi căn, nơi vô lượng chư Phật, tu hành đạo sâu mầu. V́ các Phật tử ấy, nói kinh Đại Thừa này. Ta thọ kư người ấy, đời sau thành Phật đạo, do thâm tâm niệm Phật, v́ tu tŕ tịnh giới. Bọn họ nghe thành Phật, khắp thân rất mừng rỡ. Phật biết tâm hạnh họ, v́ họ nói Đại Thừa. Thanh Văn hay Bồ Tát, nghe pháp do ta nói, thậm chí một bài kệ, đều thành Phật chẳng ngờ).

 

          Đây chính là trùng tụng chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, rộng tạo các phương tiện khiến cho mọi người đều trở thành Thật nhân (người chứng nhập Thật lư). “Hữu Phật tử tâm tịnh” (có Phật tử tâm thanh tịnh) tức là người thuộc Biệt Giáo. “Vị chư Phật tử thuyết Đại Thừa kinh” (v́ các Phật tử nói kinh Đại Thừa): Được thọ kư tâm hoan hỷ, tức là trở thành người chân thật trong Viên Giáo. “Thanh Văn, nhược Bồ Tát” (Thanh Văn hoặc Bồ Tát): Nói Thanh Văn là gộp chung cả Duyên Giác, tức là hàng Nhị Thừa trong hai giáo. “Bồ Tát” gồm chung các vị đại sĩ thuộc Tạng Giáo và Thông Giáo, đều thành Phật chẳng nghi, tức là bảy loại phương tiện, không ai chẳng phải là Phật tử; điều ấy đă rơ! Đấy là lời chân thành của bậc cực thánh (Phật), sao lại chẳng tin?

 

2.2.2.2.1.2.2.1.1.2.3. Trùng tụng Giáo Nhất

         

          (Kinh) Thập phương Phật độ trung, duy hữu Nhất Thừa pháp, vô nhị, diệc vô tam, trừ Phật phương tiện thuyết, đản dĩ giả danh tự, dẫn đạo ư chúng sanh, thuyết Phật trí huệ cố.

          ()十方佛土中。唯有一乘法。無二亦無三。除佛方便說。但以假名字。引導於眾生。說佛智慧故。

          (Kinh: Trong mười phương cơi Phật, chỉ có pháp Nhất Thừa, không hai, cũng chẳng ba, trừ Phật nói phương tiện; chỉ dùng danh tự giả, hướng dẫn các chúng sanh, nói trí huệ của Phật).

 

          Đây là trùng tụng điều đă nói trong phần trước (phần Trường Hàng): Như Lai chỉ dùng một Phật Thừa để thuyết pháp cho chúng sanh, chẳng có thừa nào khác, dù hai hay ba! Chỉ là dùng giả danh “tam giáo” để hướng dẫn họ nhập một giáo thuộc Phật huệ! V́ thế, do dựa theo phương tiện để nói, cho nên là tạm thời có. Xét theo mục đích cuối cùng để luận định, chắc chắn chẳng có hai hay ba thừa!

 

2.2.2.2.1.2.2.1.1.2.4. Trùng tụng Hạnh Nhất

 

          (Kinh) Chư Phật xuất ư thế, duy thử nhất sự thật, dư nhị tắc phi chân. Chung bất dĩ Tiểu Thừa, tế độ ư chúng sanh. Phật tự trụ Đại Thừa, như kỳ sở đắc pháp, Định Huệ lực trang nghiêm. Dĩ thử độ chúng sanh, tự chứng vô thượng đạo. Đại Thừa b́nh đẳng pháp. Nhược dĩ Tiểu Thừa hóa, năi chí ư nhất nhân, ngă tắc đọa xan tham, thử sự vi bất khả!

          ()諸佛出於世。唯此一事實。餘二則非真。終不以小乘。濟度於眾生。佛自住大乘。如其所得法。定慧力莊嚴。以此度眾生。自證無上道。大乘平等法。若以小乘化。乃至於一人。我則墮慳貪。此事為不可。

          (Kinh: Chư Phật hiện trong đời, chỉ một sự thật này, hai thứ kia chẳng thật. Trọn chẳng dùng Tiểu Thừa, để tế độ chúng sanh. Phật tự trụ Đại Thừa, đúng như pháp đă đắc, sức Định Huệ trang nghiêm. Dùng đó độ chúng sanh, tự chứng đạo vô thượng, pháp Đại Thừa b́nh đẳng. Nếu dạy pháp Tiểu Thừa, thậm chí chỉ một người, ta liền đọa keo tham, chuyện ấy chẳng thể được).

 

          “Duy thử nhất sự thật” (chỉ có một sự thật này): Trùng tụng chuyện nói trong phần trên, trong tất cả các việc làm, thường v́ một đại sự. “Phật tự trụ Đại Thừa”: Trùng tụng chuyện đă nói trong phần trên, chỉ dùng tri kiến của Phật để chỉ bày khiến cho chúng sanh ngộ. Sáu câu cuối nhằm giải thích ư nghĩa “Phật chẳng dùng pháp Tiểu Thừa để độ chúng sanh”. Phần thứ hai, trùng tụng về Hiển Thật đă xong.

 

2.2.2.2.1.2.2.1.1.3. Trùng tụng chuyện khuyến tín         

2.2.2.2.1.2.2.1.1.3.1. Nêu ra cái quả để khuyến tín

 

          (Kinh) Nhược nhân tín quy Phật, Như Lai bất khi cuống, diệc vô tham tật ư, đoạn chư pháp trung ác. Cố Phật ư thập phương, nhi độc vô sở úy. Ngă dĩ tướng nghiêm thân, quang minh chiếu thế gian, vô lượng chúng sở tôn, vị thuyết Thật Tướng ấn.

          ()若人信歸佛。如來不欺誑。亦無貪嫉意。斷諸法中惡。故佛於十方。而獨無所畏。我以相嚴身。光明照世間。無量眾所尊。為說實相印。

          (Kinh: Nếu ai tin, quy Phật, Như Lai chẳng lừa dối, cũng chẳng hề tham, ganh, đoạn trừ các pháp ác. V́ thế trong mười phương, riêng Phật không sợ hăi. Ta dùng các tướng hảo, để trang nghiêm thân ḿnh, quang minh soi thế gian, vô lượng chúng tôn kính, nói ra ấn Thật Tướng).

 

          Tâm Phật thanh tịnh, đoạn hết các ác, thuyết pháp không sợ hăi. Nội đức ấy đáng tin. Diệu tướng trang nghiêm quang minh rạng ngời, được đại chúng tôn trọng, nói Đại Thừa ấn th́ chính là ngoại đức đáng tin.

 

2.2.2.2.1.2.2.1.1.3.2. Nêu ra cái nhân để khuyến tín

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất đương tri, ngă bổn lập thệ nguyện, dục linh nhất thiết chúng, như ngă đẳng vô dị, như ngă tích sở nguyện, kim giả dĩ măn túc, hóa nhất thiết chúng sanh, giai linh nhập Phật đạo.

          ()舍利弗當知。我本立誓願。欲令一切眾。如我等無異。如我昔所願。今者已滿足。化一切眾生。皆令入佛道。

          (Kinh: Xá Lợi Phất nên biết, ta vốn lập thệ nguyện, muốn cho hết thảy chúng, bằng như ta chẳng khác. Như nguyện xưa của ta, đến nay đă trọn đủ, giáo hóa mọi chúng sanh, khiến đều nhập Phật đạo).

 

          Xưa đă có thệ nguyện chân thành, nay nhằm tương ứng với lời thề cho nên nói ra; nguyện xưa ấy đáng tin! Nguyện Bồ Đề được thỏa, giáo hóa người khác cùng nhập Bồ Đề. Cái nhân ắt đạt được quả, nhân chẳng hư luống, càng rất đáng tin!

          Hỏi: Bổn thệ đă trọn khắp, nay chúng sanh vẫn c̣n đông đảo, sao lại nói là “nguyện được viên măn”?

          Đáp: Phật ba đời luôn tạo lợi ích cho chúng sanh, chẳng hề có lúc xong. Nay xét theo căn cơ đă chín muồi trong hiện tại, mà nói là “nguyện măn”. Phần kệ tụng thứ ba nhằm khuyến tín đă xong.

 

2.2.2.2.1.2.2.1.1.4. Nêu ra Ngũ Trược

2.2.2.2.1.2.2.1.1.4.1. Nêu chung Ngũ Trược gây chướng ngại to lớn

 

          (Kinh) Nhược ngă ngộ chúng sanh, tận giáo dĩ Phật đạo. Vô trí giả thác loạn, mê hoặc bất thọ giáo.

          ()若我遇眾生。盡教以佛道。無智者錯亂。迷惑不受教。

          (Kinh: Nếu ta gặp chúng sanh, trọn dạy bằng Phật đạo. Kẻ vô trí lầm loạn, mê hoặc, chẳng nghe dạy).

 

          Chúng sanh tự dùng khổ năo nung nấu. Chư Phật v́ đại bi mà cứu vớt muôn loài. Bi đối ứng với khổ, cho nên nói là “tương ngộ” (gặp gỡ). Hơn nữa, Phật như, chúng sanh như, nhất như, chẳng phải là nhị như, thiên tánh tương quan, v́ thế nói là “tương ngộ”. “Tận giáo dĩ Phật đạo” (đều dạy họ trọn hết bằng Phật đạo), đó là bổn hoài của Phật. Kẻ vô trí do mê hoặc chẳng tiếp nhận lời dạy. Ngũ Trược ngăn chướng đại pháp. Họ (chúng sanh) đă có chướng, há lẽ nào chẳng lập ra phương tiện để dẫn dụ dần dần? Kinh dạy: “Quá khứ hữu Phật, hiệu Trụ Vô Trụ, phát nguyện sử kỷ quốc chúng sanh đồng nhật, đồng thời thành Phật, tức nhật diệt độ. Hựu Hiền Kiếp tiền hữu Phật, hiệu viết B́nh Đẳng, diệc nguyện kỷ quốc, cập thập phương chúng sanh đồng nhật thành Phật, tức nhật diệt độ. Nhược nhĩ, kim nhật hữu Phật, phục hữu chúng sanh, vân hà da? Phật ngôn: “Chỉ chỉ, ngă tiền sở ngôn, đắc nhân thân giả nhĩ”. “Phả hữu phát nguyện, linh ngũ đạo đồng nhật thành Phật phủ?” Phật ngôn: - Bất khả dĩ phi khí chi thân thành vô thượng đạo. Yếu tiên hóa tam thú, linh đắc nhân thiên, nhiên hậu năi khả như nguyện. Tam thú phi thiện đạo, hà năng thành Phật?” ([Đức Phật dạy]: “Trong quá khứ, có Phật hiệu là Trụ Vô Trụ, phát nguyện khiến cho chúng sanh trong nước ḿnh trong cùng một ngày, đồng thời thành Phật và nhập diệt ngay trong ngày hôm ấy. Lại nữa, trước Hiền Kiếp có Phật, hiệu là B́nh Đẳng, cũng nguyện cho chúng sanh trong nước ḿnh và mười phương cùng một ngày thành Phật, diệt độ ngay trong hôm ấy”. [Đại chúng có người thắc mắc]: “Nếu là như vậy, ngày nay có Phật mà cũng có chúng sanh, tức là như thế nào vậy?” Đức Phật dạy: “Thôi, thôi, ta nói những chúng sanh trên đây là những kẻ đă được làm thân người”. [Người ấy lại thắc mắc]: “Há có vị nào phát nguyện năm đường thành Phật trong cùng một ngày hay không?” Đức Phật dạy: “Chẳng thể dùng cái thân không phải là pháp khí để thành vô thượng đạo. Trước hết, phải hóa độ ba đường [ác] đều đạt được thân người hay trời. Sau đấy mới có thể như nguyện. Ba đường chẳng phải là thiện đạo, sao có thể thành Phật cho được?”)

 

2.2.2.2.1.2.2.1.1.4.2. Nói riêng về ngũ chướng

 

          (Kinh) Ngă tri thử chúng sanh, vị tằng tu thiện bổn, kiên trước ư ngũ dục, si ái cố sanh năo. Dĩ chư dục nhân duyên, trụy đọa tam ác đạo, luân hồi lục thú trung, bị thọ chư khổ độc.

          ()我知此眾生。未曾修善本。堅著於五欲。癡愛故生惱。以諸欲因緣。墜墮三惡道。輪迴六趣中。備受諸苦毒。

          (Kinh: Ta biết chúng sanh ấy, chưa từng tu cội lành, chấp chặt vào ngũ dục, si ái nên phiền năo. Do nhân duyên các dục, rơi rớt ba đường ác, luân hồi trong sáu nẻo, chịu đủ các khổ độc).

 

          Hai bài kệ này riêng nói về Chúng Sanh Trược. Chân Như Thật Tướng được gọi là “thiện bổn” (cội lành). Do chẳng nương theo loại thiện căn này, cho nên chẳng thể cảm đại pháp. Ngũ dục là cội gốc của các điều ác. Từ si mà có ái, cho nên các thứ phiền năo đua nhau nẩy sanh.

 

          (Kinh) Thọ thai chi vi h́nh, thế thế thường tăng trưởng. Bạc đức thiểu phước nhân, chúng khổ sở bức bách.

          ()受胎之微形。世世常增長。薄德少福人。眾苦所逼迫。

          (Kinh: Lúc thọ thai bé bỏng, đời đời thường tăng trưởng[17], kẻ đức mỏng, ít phước, bị các khổ bức bách).

 

          Bài kệ này riêng nói về Mạng Trược. Kinh Xử Thai nói cặn kẽ tướng trạng tăng trưởng dần dần từ bảy ngày đầu tiên cho đến tuần thứ ba mươi tám (tṛn chín tháng mười ngày), tức là như kinh nói “thế thế thường tăng trưởng” (đời đời thường tăng trưởng), đúng là đáng chán ĺa. Dùng quán tâm để giải thích th́ một niệm tâm khởi chính là tạo nghiệp cho vị lai. Do nghiệp bèn nhập thai, thai nghiệp vô cùng, đời đời chẳng đoạn, tức là “tăng trưởng”.

 

          (Kinh) Nhập tà kiến trù lâm. Nhược hữu, nhược vô đẳng, y chỉ thử chư kiến, cụ túc lục thập nhị.

          ()入邪見稠林。若有若無等。依止此諸見。具足六十二。

          (Kinh: Vào rừng rậm tà kiến, dường như có, như không, nương các tà kiến ấy, trọn đủ sáu mươi hai).

 

          Bài kệ này nói riêng về Kiến Trược. Năm thứ kiến đan xen, giống như rừng rậm dày đặc. “Nhược hữu” là Thường Kiến, “nhược vô” là Đoạn Kiến. Nương vào hai loại Kiến ấy, bèn thành sáu mươi hai kiến[18], nói cặn kẽ th́ như [các sách giảng về] Pháp Số đă nói.

 

          (Kinh) Thâm trước hư vọng pháp, kiên thọ bất khả xả, ngă mạn, tự căng cao, siểm khúc tâm bất thật.

          ()深著虛妄法。堅受不可捨。我慢自矜高。諂曲心不實。

          (Kinh: Chấp sâu pháp hư vọng; nhận chắc, chẳng thể bỏ. Ngă mạn, tự hống hách, siểm khúc, tâm chẳng thật).

 

          Bài kệ này nói riêng về Phiền Năo Trược, nêu đại lược tham và mạn trong các căn bản [phiền năo], cũng như Siểm trong Tiểu Tùy phiền năo để nói gộp chung các phiền năo khác.

 

          (Kinh) Ư thiên vạn ức kiếp, bất văn Phật danh tự, diệc bất văn chánh pháp. Như thị nhân nan độ.

          ()於千萬億劫。不聞佛名字。亦不聞正法。如是人難度。

          (Kinh: Trong ngàn vạn ức kiếp, chẳng nghe danh hiệu Phật, cũng chẳng nghe chánh pháp. Kẻ như thế khó độ).

 

          Bài kệ này nói riêng về Kiếp Trược. Thời gian dài lâu chẳng nghe Phật pháp, tức là Kiếp Trược. Lại nữa, bốn loại Trược trên đây tập trung trong thời này, nên gọi là Kiếp Trược. Do Ngũ Trược ngăn chướng, nên chẳng tin Nhất Thừa; v́ thế, khó độ! Giải thích theo quán tâm, niệm nào cũng là cảm nhận ác, vĩnh viễn chẳng có chánh quán tự giác. Đó là “chẳng nghe danh hiệu Phật”. Vĩnh viễn chẳng tương ứng với Bát Chánh Đạo là “chẳng nghe chánh pháp”. Cái tâm ấy sẽ khó độ. Phần thứ hai, “nói riêng về năm chướng” đă xong.

 

2.2.2.2.1.2.2.1.1.4.3. Chỉ ra “v́ Ngũ Trược cho nên nói tiểu pháp”

 

          (Kinh) Thị cố, Xá Lợi Phất! Ngă vị thiết phương tiện, thuyết chư tận khổ đạo, thị chi dĩ Niết Bàn.

          ()是故舍利弗。我為設方便。說諸盡苦道。示之以涅槃。

          (Kinh: V́ thế, Xá Lợi Phất! Ta lập ra phương tiện, nói các đạo dứt khổ, dùng Niết Bàn để dạy).

 

2.2.2.2.1.2.2.1.1.4.4. Nói rơ “v́ pháp Đại mà thí pháp Tiểu. Tiểu pháp nhằm đối trị Ngũ Trược, nhờ đó hưng khởi đại nguyện”

 

          (Kinh) Ngă tuy thuyết Niết Bàn, thị diệc phi chân diệt. Chư pháp tùng bổn lai, thường tự tịch diệt tướng, Phật tử hành đạo dĩ, lai thế đắc tác Phật.

          ()我雖說涅槃。是亦非真滅。諸法從本來。常自寂滅相。佛子行道已。來世得作佛。

          (Kinh: Ta tuy nói Niết Bàn, cũng chẳng phải chân diệt. Các pháp vốn trước nay, thường tự tịch diệt tướng. Phật tử đă hành đạo, đời sau được làm Phật).

 

          Chia chẻ tam giới nhằm dứt hết sạch vọng, diệt Sắc giữ lấy Không th́ chẳng phải là “thật sự diệt” (chân diệt), v́ vô minh Biệt Hoặc vẫn c̣n đó th́ Biến Dịch sanh tử thuộc giới ngoại (ở ngoài tam giới) vẫn đang lồng lộng. Nếu thấu đạt “vô minh vốn là Không”, các pháp sao c̣n nữa! Như mắt có màng mộng, sẽ thấy hoa đốm trên hư không, h́nh tướng của hoa đốm vốn là hư giả. Pháp tuy vốn tịch, nếu chẳng tu đạo, sẽ chẳng do đâu mà khế hội được! V́ thế nói “Phật tử hành đạo dĩ, lai thế đắc tác Phật” (Phật tử đă hành đạo, đời sau sẽ thành Phật). Như hoa đốm trên hư không tuy tịch, nhưng nếu không trừ màng mộng, sẽ chẳng có cách nào thấy hư không thanh tịnh được! Phần thứ tư “nêu bày Ngũ Trược” đă xong.

 

2.2.2.2.1.2.2.1.1.5. Trùng tụng [pháp Nhất Thừa] chẳng hư giả

 

          (Kinh) Ngă hữu phương tiện lực, khai thị tam thừa pháp, nhất thiết chư Thế Tôn, giai thuyết Nhất Thừa đạo, kim thử chư đại chúng, giai ưng trừ nghi hoặc, chư Phật ngữ vô dị, duy nhất, vô nhị thừa.

          ()我有方便力。開示三乘法。一切諸世尊。皆說一乘道。今此諸大眾。皆應除疑惑。諸佛語無異。惟一無二乘。

          (Kinh: Ta có sức phương tiện, khai thị pháp tam thừa, hết thảy các Thế Tôn, đều nói đạo Nhất Thừa, nay trong đại chúng đây, đều nên trừ nghi hoặc, lời chư Phật chẳng khác, duy nhất, chẳng hai thừa).

 

          Trước là Quyền, sau là Thật, khéo v́ Ngũ Trược thực hiện phương tiện này, lời thành thật chẳng dối, chớ sanh nghi! Phần thứ nhất, trùng tụng về chư Phật đă xong.

 

2.2.2.2.1.2.2.1.2. Trùng tụng quá khứ chư Phật

2.2.2.2.1.2.2.1.2.1. Trùng tụng đại lược về chuyện khai tam hiển nhất

 

          (Kinh) Quá khứ vô số kiếp, vô lượng diệt độ Phật, bách thiên vạn ức chủng, kỳ số bất khả lượng. Như thị chư Thế Tôn, chủng chủng duyên, thí dụ, vô số phương tiện lực, diễn thuyết chư pháp tướng, thị chư Thế Tôn đẳng, giai thuyết Nhất Thừa pháp, hóa vô lượng chúng sanh, linh nhập ư Phật đạo.

          ()過去無數劫。無量滅度佛。百千萬億種。其數不可量。如是諸世尊。種種緣譬喻。無數方便力。演說諸法相。是諸世尊等。皆說一乘法。化無量眾生。令入於佛道。

          (Kinh: Vô số kiếp quá khứ, vô lượng Phật diệt độ, trăm ngàn vạn ức loại, số ấy chẳng thể lường. Các Thế Tôn như thế, các thứ duyên, thí dụ, vô số sức phương tiện, diễn nói các pháp tướng. Các vị Thế Tôn ấy, đều nói pháp Nhất Thừa, độ vô lượng chúng sanh, khiến vào trong Phật đạo).

 

          Hai bài kệ nói đến chuyện Phật ban bố pháp tam thừa, bài kệ sau cùng nói về chuyện “khai tam, hiển nhất”. Nói pháp Nhất Thừa chính là Giáo Nhất. Hóa độ vô lượng chúng sanh tức là Nhân Nhất. Nhập Phật đạo tức là Hạnh Nhất và Lư Nhất.

 

2.2.2.2.1.2.2.1.2.2. Trùng tụng chi tiết về chuyện khai tam hiển nhất

2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.1. Nêu ra phương tiện chung giúp cho việc khai hiển

 

          (Kinh) Hựu chư đại thánh chúa, tri nhất thiết thế gian, thiên nhân quần sanh loại, thâm tâm chi sở dục, cánh dĩ dị phương tiện, trợ hiển Đệ Nhất Nghĩa.

          ()又諸大聖主。知一切世間。天人群生類。深心之所欲。更以異方便。助顯第一義。

          (Kinh: Lại các đại thánh chúa, biết hết thảy thế gian, trời, người, các quần sanh, thâm tâm ham muốn ǵ, bèn dùng phương tiện lạ, giúp hiển Đệ Nhất Nghĩa).

 

          Nói “thiên nhân quần sanh” là nêu ra các thừa ḥng chỉ rơ Nhân Nhất. “Dị phương tiện” (phương tiện lạ) là nêu ra các giáo, các hạnh để hiển thị Giáo Nhất và Hạnh Nhất. Đệ Nhất Nghĩa là Lư Nhất. Chánh nhân Phật tánh chính là Đệ Nhất Nghĩa. Nếu dùng viên diệu chánh quán th́ là phương tiện Thật Tướng, chẳng nói là “dị” (khác lạ). Nay dùng năm thừa, bảy phương tiện v.v… để giúp hiển lộ [Đệ Nhất Nghĩa], cho nên gọi là “dị phương tiện”, tức là nói từ Lục Độ cho đến cúng dường, xưng danh v.v… trong phần sau. Ấy là v́ chúng sanh ưa muốn khác nhau, khiến cho phương tiện của chư Phật có sai khác. Nhưng phương tiện tuy khác, [công năng] giúp hiển lộ [Nhất Thừa] giống nhau. Đă hiển Thật th́ “dị” ấy chẳng phải là dị! Ân cần ca ngợi là v́ lẽ này!

 

2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2. Riêng chỉ bày tướng khai hiển

2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.1. Dựa theo các điều thiện để hiển lộ công đức của duyên nhân[19]

2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.1.1. Dựa theo Lục Độ để nói về khai hiển

         

          (Kinh) Nhược hữu chúng sanh loại, trị chư quá khứ Phật, nhược văn pháp bố thí, hoặc tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền, trí đẳng, chủng chủng tu phước huệ. Như thị chư nhân đẳng, giai dĩ thành Phật đạo.

          ()若有眾生類。值諸過去佛。若聞法佈施。或持戒忍辱。精進禪智等。種種修福慧。如是諸人等。皆已成佛道。

          (Kinh: Nếu có các chúng sanh, gặp chư Phật quá khứ, hoặc nghe pháp bố thí, hoặc tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền, trí thảy, tu phước huệ mọi lẽ. Những người như thế đó, đều đă thành Phật đạo).

 

          Chánh nhân Phật tánh th́ chúng sanh và Phật có cùng một Thể. Nếu huyễn chướng sâu, sẽ vĩnh viễn chẳng gặp Phật. Người được gặp gỡ quá khứ Phật, ắt do sức của nội nhân (cái nhân bên trong) mạnh mẽ, bèn cảm cái duyên xuất thế. Nhưng điều ham muốn trong thâm tâm của chúng sanh khác nhau, cho nên chư Phật thuyết pháp cũng khác biệt. Trong lúc đó, hoặc nghe đốn pháp, hoặc nghe tiệm pháp, hoặc tu bố thí, hoặc tu tŕ giới, hoặc tu nhẫn nhục, hoặc tu tinh tấn, hoặc tu Thiền Định, hoặc tu trí huệ, hoặc chỉ tu một pháp, một hạnh, hoặc kiêm tu các pháp, các hạnh khác, hoặc chuyển[20], hoặc trợ, các thứ bất đồng. Lại hoặc dùng tâm hữu tướng để tu Lục Độ, hoặc dùng tâm vô tướng để tu Lục Độ, hoặc dùng phi tướng phi vô tướng để lần lượt tu Lục Độ, lại c̣n có nhiều thứ khác nhau! Nay xét ra, [những người ấy tu tập như thế ấy] đều đă thành Phật, đều chứng Lư Nhất, vậy th́ những người như thế chính là Nhân Nhất. Phước huệ do họ đă tu chính là Hạnh Nhất. Các pháp họ được nghe chính là Giáo Nhất. Nghe pháp và trí huệ ở đây tợ hồ thuộc về liễu nhân, nhưng do [nghe pháp và trí huệ] khiến cho họ về sau được nghe kinh Pháp Hoa. V́ thế, chúng chỉ thuộc vào duyên nhân!

 

2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.1.2. Dựa theo tâm bi luyến để nói rơ về sự khai hiển

 

          (Kinh) Chư Phật diệt độ hậu, nhược nhân thiện nhuyễn tâm. Như thị chư chúng sanh, giai dĩ thành Phật đạo.

          ()諸佛滅度後。若人善軟心。如是諸眾生。皆已成佛道。

          (Kinh: Chư Phật diệt độ rồi, nếu ai tâm thiện nhuyễn, các chúng sanh như thế, đều đă thành Phật đạo).

 

          Nối tiếp ư đoạn kinh văn trước đó: Không chỉ là người gặp Phật, nghe pháp, tu hành Lục Độ đă thành Phật, mà ngay sau khi chư Phật đă thị hiện nhập diệt, nếu có thể khởi tâm bi luyến đối với Như Lai, trong một niệm, xả ác theo thiện, hóa ương ngạnh thành mềm mỏng. Nếu xét theo lúc đó, tợ hồ [pháp họ tu] thuộc về nhân, thiên, Nhị Thừa, nhưng nay xét ra, họ cũng đều đă thành Phật đạo. Đối với Phật đạo đă chứng Lư Nhất. Vậy th́ các chúng sanh chính là Nhân Nhất. Cái tâm tốt lành, mềm mỏng chính là Hạnh Nhất. Thị hiện nhập diệt chính là Giáo Nhất.

 

2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.1.3. Xét theo chuyện cúng dường xá-lợi để nói rơ về sự khai hiển

 

          (Kinh) Chư Phật diệt độ dĩ, cúng dường xá-lợi giả, khởi vạn ức chủng tháp, kim, ngân, cập pha lê, xa cừ dữ mă năo, mai khôi, lưu ly châu, thanh tịnh quảng nghiêm sức, trang hiệu ư chư tháp. Hoặc hữu khởi thạch miếu, chiên đàn cập trầm thủy, mộc mật tịnh dư tài, chuyên ngơa, nê, thổ đẳng. Nhược ư khoáng dă trung, tích thổ thành Phật miếu. Năi chí đồng tử hư, tụ sa vi Phật tháp. Như thị chư nhân đẳng, giai dĩ thành Phật đạo.

          ()諸佛滅度已。供養舍利者。起萬億種塔。金銀及玻瓈。硨磲與碼碯。玫瑰琉璃珠。清淨廣嚴飾。莊校於諸塔。或有起石廟。旃檀及沈水。木樒并餘材。甎瓦泥土等。若於曠野中。積土成佛廟。乃至童子戲。聚沙為佛塔。如是諸人等。皆已成佛道。

          (Kinh: Chư Phật đă diệt độ, người cúng dường xá-lợi, dựng vạn ức loại tháp. Vàng, bạc, và pha lê[21], xa cừ cùng mă năo[22], mai khôi[23], châu lưu ly, thanh tịnh, rộng trang hoàng, tô điểm nơi các tháp. Hoặc là dựng miếu đá, chiên đàn và trầm thủy, gỗ mật[24], các vật liệu, gạch, ngói, bùn, đất thảy. Hoặc là nơi đồng trống, đắp đất thành Phật miếu. Cho đến trẻ nhỏ giỡn, gom cát làm tháp Phật. Những người như thế đó, đều đă thành Phật đạo).

 

          Nối tiếp ư câu trên. Lại nữa, không chỉ người do bi luyến Như Lai mà sanh tâm mềm mỏng, tốt lành đă thành Phật. Ngay như sau khi chư Phật đă nhập diệt, nát thân thành bao nhiêu viên xá-lợi, những người ấy do thờ phụng xá-lợi bèn dựng tháp báu, cho đến kẻ dựng miếu bằng đá, hay xây miếu bằng đất. Thậm chí trẻ nhỏ gom cát làm miếu. Hoặc có xá-lợi bằng hạt cải, hoặc chẳng có xá-lợi, hoặc do tâm chân thành, hoặc dùng tâm đùa giỡn, ngay trong lúc đó, công đức dù lớn hay nhỏ, dù có hay không, nay nh́n lại, cũng đều đă thành Phật đạo. Đă chứng Phật đạo th́ là Lư Nhất. Vậy th́ những người như thế chính là Nhân Nhất. Dựng tháp, xây miếu, đắp đất, gom cát tức là Hạnh Nhất. Nát thân thành xá-lợi tức là Giáo Nhất.

 Xét ra, Phật Thích Ca thị hiện nhập diệt, trà-tỳ[25] xong, ngài Đại Ca Diếp nói: “Xá-lợi của Như Lai chẳng phải là chuyện của chúng ta. Đă có quốc vương, vương tử, đại thần, tể quan, trưởng giả, cư sĩ, Bà La Môn v.v… là những người yêu thích phước điền sẽ rộng tu cúng dường. Chuyện của chúng ta là hăy nên kết tập Tam Tạng, chớ để chánh pháp nhanh chóng diệt mất”. Do vậy, thấy rằng: Ngài Ca Diếp coi truyền tâm ấn của Phật là chuyện cấp bách phải chú trọng trước tiên. Trời, người thích gieo phước điền, cho nên coi chuyện cúng dường làm đầu. Khi họ tu cúng dường, đă phát ra tâm nguyện ba thừa hoặc năm thừa khác nhau, nhưng do sức phương tiện của chư Phật quá khứ, lâu sau, chẳng ai không quy vào Phật đạo.

Lại xét theo cách tạo tháp trong kinh, tháp của Như Lai mười ba cấp, Bích Chi Phật năm cấp, A La Hán bốn cấp, A Na Hàm ba cấp, Tư Đà Hàm hai cấp, Tu Đà Hoàn một cấp, Luân Vương chẳng có cấp. “Cấp” [được nói ở đây] chính là luân tướng[26]. Hiện thời, phàm phu cứ hở ra là dựng tháp [thờ tro cốt của người đă mất], đem phàm lạm thánh, trái nghịch chẳng nhẹ! Sách Luận Ngữ nói: “Quân tử ái nhân dĩ đức” (quân tử dựa theo đạo đức để yêu thương người khác, hoặc có thể hiểu là quân tử yêu thương người khác theo đúng chuẩn mực đạo đức). Dẫu cho đệ tử tôn trọng thầy, há có nên hăm thầy mắc tội lạm thánh hay chăng? Lại nữa, dẫu cho người chết mờ mịt, há chẳng tỏ rơ sự xoàng xĩnh của kẻ sống ư?

 

2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.1.4. Xét theo việc tạo tượng Phật để nói rơ chuyện khai hiển

 

          (Kinh) Nhược nhân vị Phật cố, kiến lập chư h́nh tượng, khắc điêu thành chúng tướng, giai dĩ thành Phật đạo. Hoặc dĩ thất bảo thành, thâu thạch, xích bạch đồng. Bạch lạp cập diên tích, thiết, mộc, cập dữ nê, hoặc dĩ giao tất bố, nghiêm sức tác Phật tượng. Như thị chư nhân đẳng, giai dĩ thành Phật đạo.

          ()若人為佛故。建立諸形像。刻雕成眾相。皆已成佛道。或以七寶成。鍮鉐赤白銅。白蠟及鉛錫。鐵木及與泥。或以膠漆布。嚴飾作佛像。如是諸人等。皆已成佛道。

          (Kinh: Nếu có người v́ Phật, tạo lập các h́nh tượng, chạm khắc thành các tướng, đều đă thành Phật đạo. Hoặc dùng bảy báu tạo, đồng thau, đồng trắng, đỏ, sáp trắng ch́, thiếc, sắt, gỗ, cùng đất sét, hoặc dùng keo, sơn, vải, trang hoàng tạo tượng Phật. Những người như thế đó, đều đă thành Phật đạo).

 

          Tiếp nối đoạn kinh văn trên đây: Lại nữa, không chỉ người v́ thờ phụng xá-lợi mà dựng tháp, cất miếu đều đă thành Phật, mà [những ai] dùng bất cứ vật liệu ǵ để tạo lập h́nh tượng [cũng sẽ đều thành Phật]. Trong khi đó, vật liệu có thô tháp hay tinh tế, giá trị có cao hay thấp, tâm có chân thành hay không, nguyện có xa hay gần, dường như công đức cũng có lớn hay nhỏ. Nhưng nay nh́n lại, họ cũng đă đều thành Phật đạo! Phật đạo là Lư Nhất. Các người [tạo tượng] chính là Nhân Nhất, tạo tượng tức là Hạnh Nhất. Như Lai phân biệt công đức tạo tượng chính là Giáo Nhất. Nhưng kinh Ưu Bà Tắc Giới dạy tạo tượng chẳng được dùng keo[27], [nếu dùng] sẽ mắc tội thất ư (vô ư, chẳng cẩn thận); kinh này lại cho phép dùng. Cổ đức nói: “Ngoại quốc dùng chất keo từ nhựa cây”. Có người nói: “Nước đậu nành có thể thay thế chất keo trong”. Lại nữa, kinh Địa Tŕ chẳng cho phép sử dụng thư hoàng[28], hoặc các vật có mùi hôi thối. Giới kinh chẳng cho phép tạo tượng bán thân. Hơn nữa, đối trước tượng Phật đứng, chớ nên ngồi; đối trước tượng Phật ngồi, chớ nên nằm. Hơn nữa, kinh Tạo Tượng Công Đức nói đại lược mười một công đức:

          - Một là đời đời mắt trong sạch.

          - Hai là sanh vào chỗ chẳng có điều ác.

          - Ba là thường sanh trong nhà sang quư.

          - Bốn là thân có màu như vàng tía được giồi mài.

          - Năm là các vật quư báu dư dật.

          - Sáu là sanh vào nhà hiền thiện.

          - Bảy là sanh ra được làm vua.

          - Tám là làm Kim Luân Vương.

          - Chín là sanh vào Phạm Thiên, thọ mạng một kiếp.

          - Mười là chẳng đọa ác đạo.

          - Mười một, đời sau vẫn có thể kính trọng Tam Bảo.

          Lại nói: - Nếu người lúc lâm chung thốt lời tạo tượng, thậm chí [tượng chỉ to] bằng hạt lúa mạch, sẽ có thể trừ tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử khắp ba đời. Hăy nên biết công đức như thế ấy hoàn toàn là hoa báo, quả báo thuộc vào địa vị Phật.

 

2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.1.5. Dựa theo chuyện vẽ tượng để nói rơ chuyện khai hiển   

          (Kinh) Thái họa tác Phật tượng, bách phước trang nghiêm tướng, tự tác, nhược sử nhân, giai dĩ thành Phật đạo. Năi chí đồng tử hư, nhược thảo mộc cập bút, hoặc dĩ chỉ trảo giáp, nhi họa tác Phật tượng. Như thị chư nhân đẳng, tiệm tiệm tích công đức, cụ túc đại bi tâm, giai dĩ thành Phật đạo, đản hóa chư Bồ Tát, độ thoát vô lượng chúng.

          ()彩畫作佛像。百福莊嚴相。自作若使人。皆已成佛道。乃至童子戲。若草木及筆。或以指爪甲。而畫作佛像。如是諸人等。漸漸積功德。具足大悲心。皆已成佛道。但化諸菩薩。度脫無量眾。

          (Kinh: Vẽ vời làm tượng Phật, tướng trăm phước trang nghiêm, tự làm, sai người làm, đều đă thành Phật đạo. Cho đến trẻ nhỏ giỡn, dùng cỏ cây làm bút, hoặc dùng móng tay ḿnh, để vẽ thành tượng Phật. Những người như thế đó, dần dần chứa công đức, trọn đủ tâm đại bi, đều đă thành Phật đạo, chỉ giáo hóa Bồ Tát, độ thoát vô lượng chúng).

 

          Nối tiếp ư của đoạn kinh văn trước đó. Lại nữa, không chỉ người tạo lập tượng Phật đă thành Phật, mà vẽ h́nh ảnh của Phật, tự làm, hoặc sai người khác làm, cho đến trẻ nhỏ vẽ giỡn chơi. Trong lúc đó, công đức dù lớn hay nhỏ, hoặc có hay không. Nay nh́n lại, [những người ấy] cũng đều đă thành Phật đạo. Phật đạo là Lư Nhất. Những người đó là Nhân Nhất. Dần dần tích tập công đức trọn đủ đại bi tâm, tức Hạnh Nhất. Chỉ giáo hóa Bồ Tát tức là Giáo Nhất. Lại nữa, hai câu “chỉ giáo hóa” nói rơ chuyện sau khi họ đă thành Phật, chính là tự chứng Tứ Nhất (Lư Nhất, Giáo Nhất, Hạnh Nhất, Nhân Nhất), lại dùng Tứ Nhất để độ chúng sanh.

 

2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.1.6. Xét theo chuyện cúng tháp để nói rơ về chuyện khai hiển

 

          (Kinh) Nhược nhân ư tháp miếu, bảo tượng, cập họa tượng, dĩ hoa, hương, phan, cái, kính tâm nhi cúng dường. Nhược sử nhân tác nhạc, kích cổ, xuy giác bối, tiêu, địch, cầm, không hầu, tỳ bà, năo, đồng bạt. Như thị chúng diệu âm, tận tŕ dĩ cúng dường. Hoặc dĩ hoan hỷ tâm, ca bái tụng Phật đức. Năi chí nhất tiểu âm, giai dĩ thành Phật đạo. Nhược nhân tán loạn tâm, năi chí dĩ nhất hoa, cúng dường ư họa tượng, tiệm kiến vô số Phật. Hoặc hữu nhân lễ bái, hoặc phục đản hiệp chưởng, năi chí cử nhất thủ, hoặc phục tiểu đê đầu. Dĩ thử cúng dường tượng, tiệm kiến vô lượng Phật, tự thành vô thượng đạo, quảng độ vô số chúng, nhập Vô Dư Niết Bàn, như tân tận hỏa diệt.

          ()若人於塔廟。寶像及畫像。以華香幡蓋。敬心而供養。若使人作樂。擊鼓吹角貝。簫笛琴箜篌。琵琶鐃銅鈸。如是眾妙音。盡持以供養。或以歡喜心。歌唄頌佛德。乃至一小音。皆已成佛道。若人散亂心。乃至以一華。供養於畫像。漸見無數佛。或有人禮拜。或復但合掌。乃至舉一手。或復小低頭。以此供養像。漸見無量佛。自成無上道。廣度無數眾。入無餘涅槃。如薪盡火滅。

          (Kinh: Nếu ai nơi tháp miếu, đối tượng báu, tượng vẽ, dùng hoa, hương, phan, lọng, tâm cung kính cúng dường. Nếu sai người tấu nhạc, đánh trống, thổi sừng, ốc[29], tiêu, sáo, đàn, không hầu, tỳ bà, chiêng, chập chơa[30]. Các diệu âm như thế, dùng hết để cúng dường. Hoặc dùng tâm hoan hỷ, xướng tán tụng Phật đức, thậm chí một âm nhỏ, đều đă thành Phật đạo. Nếu ai tâm tán loạn, cho đến dùng một hoa, cúng dường nơi tượng vẽ, dần thấy vô số Phật. Hoặc có người lễ bái, hoặc lại chỉ chắp tay, cho đến giơ một tay, hoặc lại khẽ cúi đầu. Dùng đó cúng dường tượng, dần thấy vô lượng Phật, tự thành vô thượng đạo, rộng độ vô số chúng, nhập Vô Dư Niết Bàn, như củi hết lửa diệt).

 

          Nối tiếp đoạn kinh văn trước đó. Lại nữa, không chỉ người dựng tháp, cất miếu, tạo tượng, vẽ tượng đă thành Phật, mà người đối trước tượng báu hoặc tượng vẽ trong bất cứ loại tháp miếu nào để tu các loại cúng dường, đều đă thành Phật. Luận định cặn kẽ sự cúng dường, chẳng ra ngoài ngũ trần. Hoa, phan, lọng là Sắc Trần. Âm nhạc, ca vịnh, phạm bái là Thanh Trần. Hương chính là Hương Trần. Lễ bái tức là Xúc Trần. Lại c̣n y phục là Xúc Trần. Thức ăn là Vị Trần. Những thứ này lược đi chẳng nói, chứ theo đúng lẽ th́ ắt phải có.

Lại nữa, cúng dường cần luận định tam nghiệp. Tâm cung kính chính là ư nghiệp, ca tụng phẩm đức chính là khẩu nghiệp. Lễ bái, chắp tay, giơ tay, hoặc cúi đầu chính là thân nghiệp. Xét theo ngũ trần và ba nghiệp ấy, Trần hoặc nhiều, hoặc ít, nghiệp hoặc chuyên ṛng hoặc tản mạn. Trong lúc đó, công đức ắt có sai biệt. Nay nh́n lại, [những người làm như thế] đều thành tựu Tứ Nhất. Lại dùng Tứ Nhất để rộng độ chúng sanh. Củi Tam Hoặc đă hết, lửa nhị tử (Phần Đoạn và Biến Dịch sanh tử) bèn tắt, nhập Vô Trụ Xứ Đại Bát Niết Bàn.

Kinh văn nói nhược sử nhân tác nhạc” (nếu sai người khác tấu nhạc), tức là hàng xuất gia tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, sa-di, sa-di-ni, hàng tại gia như quốc vương, trưởng giả, tể quan, cư sĩ trọn chẳng có lẽ nào tự tấu nhạc, cho nên ắt nói “sử nhân” (sai người [tấu nhạc]). C̣n như ca vịnh, phạm bái, tán tụng phẩm đức th́ xuất gia lẫn tại gia đều có thể làm, nhưng cũng cần phải biết đại thể. Nếu phạm âm ḥa nhă, dẫu dính dáng đến [nhạc giải trí, vui chơi của] thế tục vẫn là thích đáng. Nếu xen lạm giống như ca khúc giải trí của thế tục th́ giới luật chẳng cho phép. Thường thấy xướng tán trong thời gần đây, phần nhiều sử dụng xoang điệu của các nhà soạn nhạc [theo lối giải trí thế tục]. Lại c̣n khi lễ sám, xướng phạm bái, chẳng tuân theo quy cách thời cổ, đua nhau khoe hơi dài, chỉ sợ tăng trưởng tham và mạn cho người khác, tăng thêm sự buông lung cho chính ḿnh. Phước ít, lỗi nhiều, hăy nên suy nghĩ để lựa chọn!

 

2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.1.7. Xét theo chuyện xưng danh hiệu Phật để nói rơ chuyện khai hiển

 

          (Kinh) Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng Nam-mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo.

          ()若人散亂心。入於塔廟中。一稱南無佛。皆已成佛道。

          (Kinh: Nếu ai tâm tán loạn, vào trong chốn tháp miếu, xưng mô Phật một tiếng, đều đă thành Phật đạo).

 

          Tiếp nối ư trong đoạn văn trên đây. Lại nữa, không chỉ người dùng ngũ trần tam nghiệp để cúng tháp, cúng tượng đă thành Phật, ngay cả kẻ tán tâm xưng danh Phật một tiếng, cũng đều thành Phật. “Nam-mô” được phương này dịch là Quy Mạng, cũng dịch thành Độ Ngă (độ tôi), cũng dịch thành Kính Tùng (kính trọng thuận theo). Điều Đạt (Đề Bà Đạt Đa) khi lâm chung, xưng Nam-mô, chưa niệm tới chữ Phật th́ sanh thân đă hăm nhập địa ngục. Đức Phật thọ kư khi ông ta từ địa ngục thoát ra, sẽ làm Bích Chi Phật, có tên là Nam Mô.

          Cơi Tây Trúc có kẻ thờ tượng thiên thần, dùng vàng làm đầu tượng, giặc đến ăn trộm, chẳng thể lấy được. Kẻ giặc xưng “nam-mô Phật” liền lấy được đầu vàng. Hôm sau, mọi người tụ tập bàn bạc: “Tượng trời mất đầu, tức là chẳng có thiên thần dựa vào. Nếu có thiên thần dựa, sao lại mất đầu?” Thiên thần bèn nhập vào thân một người, nói: “Khi kẻ giặc lấy đầu đă xưng nam-mô Phật, chư thiên đều kinh động. Do đó hắn bèn thừa cơ chiếm lợi nơi ta; v́ thế bị mất đầu”. Mọi người nói: “Trời chẳng bằng Phật ư? Đă chẳng bằng, sao không thờ Phật? Kẻ giặc xưng nam-mô Phật c̣n lấy được đầu của thiên thần, huống hồ người hiền xưng danh hiệu Phật, mười phương tôn thần há dám chống lại?” Chỉ nên tinh tấn, chớ giải đăi.

Kinh Na Tiên chép: “Như nhân tŕ nhất thạch trí thủy, tất một vô nghi. Nhược tŕ bách thạch trí thuyền thượng, tất bất một. Hữu ác nghiệp nhân, trực nhĩ tử, tất đọa Nê Lê, như thạch trí thủy. Nhược lâm tử, xưng nam-mô Phật, Phật lực cố linh bất nhập Nê Lê. Như thuyền lực cố, sử thạch bất một” (Như người cầm ḥn đá bỏ vào nước, ắt ch́m chẳng ngờ. Nếu cầm một trăm tảng đá, đặt trên thuyền, ắt chẳng ch́m. Kẻ có ác nghiệp tới khi chết ắt đọa địa ngục, giống như đá bỏ xuống nước. Nếu lúc sắp chết, niệm nam-mô Phật, do Phật lực nên chẳng vào địa ngục, như do sức của thuyền khiến đá chẳng ch́m). Kinh c̣n dạy: Đại hội thứ ba ở vườn Hoa Lâm [của Di Lặc Bồ Tát khi Ngài thành Phật], gồm chín mươi hai ức người, toàn là những người xưng nam-mô Phật trong di pháp của đức Phật Thích Ca mà được thấy ngài Di Lặc!

Lại nữa, thuở Phật tại thế, có một cụ già, xin được thế độ với khắp năm trăm vị thượng tọa. Các vị thượng tọa quán thấy người ấy đời trước chẳng có thiện căn, đều chẳng chấp thuận. Cuối cùng, cụ già gặp Phật, đức Phật liền độ cho cụ xuất gia, cụ chứng A La Hán. Các vị thượng tọa hỏi Phật, đức Phật bảo: Người này trong vô lượng kiếp trước, vào rừng đẵn củi, gặp cọp hoảng sợ, liền xưng nam-mô Phật. Nay thiện căn xưng danh ấy đă chín muồi, cho nên đắc độ. Do người ấy chẳng có thiện căn nào khác, cho nên lưu chuyển sanh tử rất lâu trong kiếp số dài lâu. V́ thế, đạo nhăn của Thanh Văn chẳng thể thấy, chẳng thể biết được!” Đă được chứng A La Hán, rành rành là ắt cũng sẽ chứng Vô Thượng Bồ Đề. Tán loạn xưng danh mà c̣n ắt đều thành Phật, huống hồ nhất tâm bất loạn ư? Một niệm tương ứng một niệm Phật, một ngày tương ứng một ngày Phật. Tâm này làm Phật, tâm này là Phật. Chẳng tin điều này, ta chẳng biết làm như thế nào nữa! Phần thứ nhất, “xét theo các điều thiện để hiển lộ công đức nơi duyên nhân” đă xong.

 

2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.2. Xét theo chuyện nghe kinh để hiển lộ công đức của liễu nhân

 

          (Kinh) Ư chư quá khứ Phật, tại thế hoặc diệt hậu, nhược hữu văn thị pháp, giai dĩ thành Phật đạo.

          ()於諸過去佛。在世或滅後。若有聞是法。皆已成佛道。

          (Kinh: Nơi quá khứ chư Phật, tại thế hoặc diệt độ, nếu ai nghe pháp này, đều đă thành Phật đạo).

 

          “Thị pháp” (pháp này) chính là nói pháp Khai Quyền Hiển Thật trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Trên đây, từ Lục Độ cho đến đối với kinh tượng, từ cúng dường cho đến xưng danh, hoàn toàn là chư Phật dùng sức phương tiện lạ để giúp hiển lộ chân thật. Mở ra [các phương tiện lạ như thế] mà c̣n tạo thành duyên nhân mầu nhiệm, huống hồ kinh này thật sự hiển lộ chân thật. Nếu có người nghe [kinh này], tức là đă gieo liễu nhân, há chẳng thành Phật ư? Nhưng xét theo lúc nghe kinh, hoặc là hiểu, hoặc không hiểu, hữu tướng hay vô tướng, chí tâm hay tán tâm, Sự chẳng phải nhất loạt như nhau, cũng phải luận định theo ư nghĩa “ngũ thừa sai biệt”. Nhưng hễ thoảng qua tai, sẽ vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo, dù xa hay gần, rốt cuộc đều nhờ vào đó mà được giải thoát, chẳng có một ai không thành Phật! Đấy là lời lẽ chân thật của chư Phật, chẳng thể không tin tưởng sâu xa!

          Hỏi: V́ sao chỉ xét theo quá khứ Phật để nói cặn kẽ ngũ thừa đều cùng nhập Thật?

          Đáp: Tam thế chư Phật đều mở ra Quyền, nhưng vị lai chưa dấy lên, hiện tại mới hành, [nếu dùng chuyện hiện tại và vị lai để] chứng nghĩa th́ sẽ hơi yếu! Quá khứ khai Quyền đă lâu, người được giáo hóa đều đă thành tựu Tứ Nhất, lại c̣n ở trong mười phương khai Quyền hiển Thật, chứng nghĩa mạnh mẽ. Nói suông chẳng bằng dùng sự thật để kiểm chứng. V́ thế, đối với quá khứ Phật, nêu cặn kẽ chuyện ngũ thừa hiển Thật. Phần thứ hai, “trùng tụng quá khứ Phật” đă xong.

 

2.2.2.2.1.2.2.1.3. Trùng tụng chư Phật vị lai

2.2.2.2.1.2.2.1.3.1. Trùng tụng chuyện thực hành Quyền

 

          (Kinh) Vị lai chư Thế Tôn, kỳ số vô hữu lượng, thị chư Như Lai đẳng, diệc phương tiện thuyết pháp.

          ()未來諸世尊。其數無有量。是諸如來等。亦方便說法。

          (Kinh: Vị lai các Thế Tôn, số ấy chẳng hạn lượng, các đức Như Lai ấy, cũng phương tiện thuyết pháp).

 

2.2.2.2.1.2.2.1.3.2. Trùng tụng hiển Thật

2.2.2.2.1.2.2.1.3.2.1. Trùng tụng Nhân Nhất

 

          (Kinh) Nhất thiết chư Như Lai, dĩ vô lượng phương tiện, độ thoát chư chúng sanh, nhập Phật vô lậu trí. Nhược hữu văn pháp giả, vô nhất bất thành Phật.

          ()一切諸如來。以無量方便。度脫諸眾生。入佛無漏智。若有聞法者。無一不成佛。

          (Kinh: Hết thảy các chư Như Lai, dùng vô lượng phương tiện, độ thoát các chúng sanh, nhập Phật vô lậu trí. Nếu có người nghe pháp, không ai chẳng thành Phật).

 

          Xét theo người nghe pháp, do không ai chẳng thành Phật, nên là Nhân Nhất. Nếu xét theo người hóa độ th́ là Giáo Nhất. Pháp được chứng bởi Phật trí chính là Lư Nhất. Nhập Phật trí chính là Hạnh Nhất.

 

2.2.2.2.1.2.2.1.3.2.2. Trùng tụng Hạnh Nhất

 

          (Kinh) Chư Phật bổn thệ nguyện, ngă sở hành Phật đạo, phổ dục linh chúng sanh, diệc đồng đắc thử đạo.

          ()諸佛本誓願。我所行佛道。普欲令眾生。亦同得此道。

          (Kinh: Chư Phật vốn thệ nguyện, Phật đạo do ta hành, muốn khiến khắp chúng sanh, cũng cùng đắc đạo này).

 

          Tự hành, hóa độ người khác, không ǵ chẳng phải là Phật đạo. V́ thế là Hạnh Nhất.

 

2.2.2.2.1.2.2.1.3.2.3. Trùng tụng Giáo Nhất

 

          (Kinh) Vị lai thế chư Phật, tuy thuyết bách thiên ức, vô số chư pháp môn, kỳ thật vi Nhất Thừa, chư Phật Lưỡng Túc Tôn, tri pháp thường vô tánh, Phật chủng tùng duyên khởi, thị cố thuyết Nhất Thừa.

          ()未來世諸佛。雖說百千億。無數諸法門。其實為一乘。諸佛兩足尊。知法常無性。佛種從緣起。是故說一乘。

          (Kinh: Chư Phật đời vị lai, tuy nói trăm ngàn ức, vô số các pháp môn, thật ra v́ Nhất Thừa. Chư Phật Lưỡng Túc Tôn, biết pháp thường vô tánh, Phật chủng do duyên khởi. V́ thế nói Nhất Thừa).

 

          “Trăm ngàn vô số các pháp môn” là nói đến hết thảy các thứ nói quyền biến thuộc bảy phương tiện trong ngũ thừa. “Kỳ thật vi Nhất Thừa” (Thật ra là Nhất Thừa): Nói rơ ư nghĩa của Quyền. Tuy nói pháp quyền biến, ư vốn ở nơi Thật. Quyền chính là Quyền sẵn có nơi Thật. V́ thế, hễ được chỉ bày đó là Quyền, sẽ cùng trở thành liễu nhân. “Tri pháp thường vô tánh” (biết pháp là thường, chẳng có tự tánh): Thật Tướng thường trụ, chẳng có tự tánh, chẳng có tha tánh, chẳng có cộng tánh, chẳng phải là vô nhân tánh (tánh Không), vô tánh cũng chẳng có tánh (tướng Không). Hễ nói đến vô tánh, sẽ có đủ hai thứ vô tánh, tức là có tánh chất vô tánh và tánh chất vô tướng. Do vốn tự có, nên nói“thường vô”. “Tri” (biết) là chiếu (quán chiếu). Nói chi tiết th́ như trong cảnh chẳng thể nghĩ bàn thứ năm của Chỉ Quán: “Một niệm trọn đủ tam thiên, chẳng có tự hay tha” v.v… Đă chẳng có bốn tánh (tự tánh, tha tánh, cộng tánh, vô nhân tánh), một niệm cũng chẳng có, tức là tánh Không. Đă chẳng có một niệm th́ vô niệm cũng chẳng có, tức là tướng Không. Đấy chính là Nhị Không (tướng không và tánh không) chẳng thể nghĩ bàn! Nếu vốn đă là Nhị Không, đấy chính là Tánh Đức. Nếu truy vấn, suy xét để nhập Không th́ là Tu Đức. Thôi thúc mà chẳng thành, cần phải tu vạn hạnh, chánh lẫn trợ cùng hành, trong hành trọn đủ hết thảy các hạnh th́ mới gọi là Duyên Nhân. Nghe nghĩa ấy rồi th́ mới gọi là Khai.

          Hỏi: Nhân duyên trong thế gian có thể dùng bốn câu để hiểu rơ sanh và vô sanh. Nay tánh vốn tịnh, chẳng liên quan đến duyên khởi, sao lại cần phải dùng bốn câu ấy để suy cầu?

          Đáp: Duyên khởi của pháp thế gian vốn cũng là vô sanh, nhưng do t́nh kiến chấp trước, bèn cho đó là sanh. Lư tánh cũng thế, do cho là có tự, tha v.v… cho nên cần phải suy cầu. Nhị Không chẳng hiển lộ, vẫn cần phải dựa theo sự liên tục đối đăi để suy nghiệm, huống hồ do cái nhân mà thành ư?

          Hỏi: V́ sao kinh văn ở đây chẳng lập ra môn Quán ấy?

          Đáp: Kinh này do hàng lợi căn mà khai.

          “Phật chủng tùng duyên khởi” (Phật chủng do duyên mà dấy lên): Trung Đạo vô tánh chính là “Phật chủng”. Kẻ mê lư này, do vô minh làm duyên, ắt sẽ có “chúng sanh” dấy lên. Kẻ hiểu lư này, do Giáo Hạnh làm duyên, sẽ có Chánh Giác khởi. Muốn dấy khởi Phật chủng, cần có Nhất Thừa giáo. V́ thế, trùng tụng Giáo Nhất.

          Hơn nữa, “vô tánh” chính là chánh nhân Phật tánh. “Phật chủng tùng duyên khởi” tức là duyên liễu, dùng duyên để trợ giúp. Chánh chủng (chủng tử chánh yếu) đă dấy lên, một thứ dấy lên, hết thảy đều dấy lên. Ba tánh như thế gọi là Nhất Thừa (ba cái nhân chẳng thay đổi, cùng gọi là Tánh. Toàn thể đều thành tu, lại gọi là duyên liễu. Đó chính là địa vị Lư Tức. Khổ là chánh nhân Phật tánh, Hoặc là liễu nhân Phật tánh, Nghiệp là duyên nhân Phật tánh. Ba thứ Phật tánh ấy chẳng ngang hay dọc, chẳng cùng hay khác, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng có tự tánh, cho đến chẳng có vô nhân tánh, vô tánh cũng chẳng tánh, bèn gọi cái vô tánh ấy là Chánh Nhân Phật Tánh, tức là thuộc vào địa vị Danh Tự Tức. Hơi có chút hiểu biết, và cũng có chút hành tŕ, tức là tánh “vô tánh”. Toàn thể trở thành hiểu biết đôi chút, hành tŕ đôi chút, cho đến thuộc địa vị Quán Hạnh và Tương Tự, giải hạnh dần dần tích tụ, cũng là do toàn thể của tánh vô tánh mà tạo thành. Ba cái nhân chẳng thể nghĩ bàn ấy trong các địa vị Danh Tự, Quán Hạnh và Tương Tự được gọi là Duyên Nhân Phật Tánh. Trong địa vị Phần Chân, Sơ Trụ một thứ phát th́ hết thảy đều phát, cái tâm thuộc về Lư Chánh Nhân đă phát th́ gọi là Pháp Thân Đức. Liễu nhân huệ tâm đă phát th́ gọi là Bát Nhă Đức. Do duyên nhân thiện tâm phát khởi th́ gọi là Giải Thoát Đức, chẳng dọc ngang, không cùng hàng hay khác biệt, chẳng thể nghĩ bàn! Gọi ba cái nhân chẳng thể nghĩ bàn trong địa vị Phần Chân là Liễu Nhân Phật Tánh. Trong địa vị Cứu Cánh, Tánh Đức hiển lộ trọn hết, Tu Đức hoàn tất công năng. V́ thế nói “chánh chủng được khởi, một thứ khởi th́ hết thảy đều khởi” chính là hiển thị tướng của quả thừa. Y báo, chánh báo, chủ, bạn, cho đến mỗi trần, mỗi hạnh đều nhằm đền đáp cái nhân cùng lúc đều dấy lên. Hễ dấy lên th́ sẽ là thành. Tu và tánh hễ gộp lại, chẳng c̣n chia tách, tức là ba cái nhân của lư tánh rốt ráo được hiển lộ trọn vẹn. V́ thế nói: “Ba tánh như thế gọi là Nhất Thừa”).

 

2.2.2.2.1.2.2.1.3.2.4. Trùng tụng Lư Nhất

 

          (Kinh) Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ, ư đạo tràng tri dĩ, đạo sư phương tiện thuyết.

          ()是法住法位。世間相常住。於道場知已。導師方便說。

          (Kinh: Pháp này trụ pháp vị, tướng thế gian thường trụ, nơi đạo tràng đă biết, đạo sư phương tiện nói).

 

          Chữ Thị chỉ Nhất Thừa “tánh tu bất nhị” trên đây. Nhất Thừa ấy chính là “pháp trụ”, c̣n gọi là “pháp vị”. Từ cái gốc vô trụ mà lập ra hết thảy các pháp. Do cái gốc vô trụ ấy chẳng thể động, cho nên là “pháp trụ”. Các loại pháp nói chung chẳng ra ngoài phạm vi ấy, bèn gọi là “pháp vị”. Nêu ra “pháp này trụ pháp vị” để làm tướng Chánh Giác thế gian, do “pháp trụ pháp vị” là thường trụ. V́ thế, tướng Chánh Giác thế gian cũng là thường trụ. Nêu ra “pháp trụ pháp vị” để làm tướng của chúng sanh thế gian và khí thế gian[31]. Do pháp trụ pháp vị là thường trụ, cho nên tướng chúng sanh và thế gian cũng thường trụ. Đấy chính là ba tướng thế gian, mỗi mỗi không ǵ chẳng thường trụ, mỗi mỗi không ǵ chẳng phải “pháp trụ pháp vị”, mỗi mỗi không ǵ chẳng phải là Nhất Thừa. Nhưng chúng sanh mê ám, chẳng thể hay biết, đối với thường trụ lại hư vọng thấy là sanh diệt. Đối với Nhất Thừa, hư vọng thấy sai biệt. Chỉ có đấng đại giác đạo sư ngồi nơi đạo tràng là biết như thật mà thôi. Đối với lư tánh tịch diệt ĺa các hư luận chẳng thể nói, có thể dùng phương tiện để nói Lư Nhất này! Lại có thể dùng phương tiện lạ để giúp hiển lộ Lư Nhất này.

          Hỏi: Ngộ lư tánh này th́ gọi là Chánh Giác Thế Gian, do v́ thuận tánh. Tánh là thường, mà tướng cũng thường th́ được, nhưng mê lư tánh này sẽ là Chúng Sanh Thế Gian. Do đă trái tánh, tánh tuy vốn thường, tướng ắt phải vô thường. Cớ sao tướng chúng sanh thế gian và tướng khí thế gian cũng là thường trụ?

          Đáp: Như băng và nước, cùng lấy “ướt” làm tánh. Ướt th́ lấy băng và nước làm tướng. Băng và nước vô thường, tức là tánh ướt vô thường. V́ thế, gọi tánh ướt là vô tánh. Tướng ướt đă là thường, tức tướng của băng và nước cũng đều thường! V́ thế, gọi tướng của băng và nước là thường trụ. Lại nữa, Lư Nhất Thừa vô tánh giống như cái nhà vốn chẳng xoay chuyển, Như Lai đă ngộ, giống như người tỉnh sẽ thấy nhà chẳng xoay chuyển. Chín pháp giới do mê, giống như kẻ say, hư vọng thấy nhà cửa xoay chuyển! Tuy họ thấy là xoay chuyển, nhà vốn chẳng chuyển. V́ thế, tuy họ hư vọng thấy tướng chúng sanh thế gian và tướng khí thế gian sanh diệt, [các tướng ấy] thật ra là thường trụ, do chúng sanh thế gian và khí thế gian chính là vô tánh, chính là pháp trụ, chính là pháp vị.

          Lại như mắt có màng mộng, lầm lạc thấy hư không có hoa đốm dấy lên hay diệt mất, nhưng hoa đốm trên hư không thật sự chẳng dấy lên hay diệt mất. Do là vô tánh, do chính là Không, thế gian thường trụ. Lư ấy như thế, hết thảy chúng sanh chỉ có lư thường, nghe mà có thể hiểu th́ Danh TThường. Niệm niệm thấu hiểu, xem xét, tâm tâm chẳng gián đoạn, th́ gọi là Quán Hạnh Thường. Thô cấu rụng trước, sáu căn thanh tịnh là Tương Tự Thường. Hoát nhiên khai ngộ, chứng chân nhân (cái nhân chân thật) của bốn mươi mốt địa vị, th́ gọi là Phần Chứng Thường. Viên măn hiển phát, chẳng thừa, chẳng thiếu, th́ là Cứu Cánh Thường. Do từ đầu tới đuôi b́nh đẳng, nên gọi là Tức. Thăng trầm rất khác, cho nên cần phải biện định sáu món. Nương vào cái Thể b́nh đẳng, cho nên mới có thăng trầm khác biệt. Như nương vào hư không th́ mới có thể luận định xa gần. V́ thế nói “toàn tánh khởi tu” (nói chung hai cách tu nghịch và thuận), bất luận thăng trầm khác biệt vời vợi, vẫn chẳng ĺa một Thể b́nh đẳng, như xa và gần chẳng ra khỏi hư không. V́ thế nói “toàn tu tại tánh”. Giáo vốn để diễn nói điều này, cho nên gọi là Giáo Nhất. Hạnh để khế nhập điều này, cho nên gọi là Hạnh Nhất. Người ắt hiểu điều này, cho nên gọi là Nhân Nhất. Phần ba, “trùng tụng vị lai Phật” đă xong.

 

          * Ghi chú của người chuyển ngữ:

 

          Do đoạn này Tổ giảng quá cao và quá sâu, chúng tôi xin trích thêm lời giảng của pháp sư Phổ Hành như sau: - “Thị pháp trụ pháp vị”, chữ Pháp thứ nhất nói về hết thảy các pháp, chữ Pháp thứ hai chỉ Chân Như Pháp Tánh. Hết thảy các pháp vốn trụ trong không tịch, như như bất động, tức là an trụ trong Chân Như pháp vị. V́ thế, nói là “pháp này trụ trong pháp vị”. Đại Trí Độ Luận nói: “Pháp tánh, pháp giới, pháp vị đều là tên gọi khác của Chân Như”.

          Trong Pháp Hoa Kinh Giảng Diễn Lục, Thái Hư đại sư viết: “Pháp thường tức là Trung Đạo trong nơi các pháp, là tánh Viên Thành Thật. Pháp vô tánh tức là pháp không, tức là Biến Kế Chấp Tánh. Phật chủng chính là vô lậu chủng tử mà chúng sanh vốn sẵn có. ‘Từ duyên khởi’ tức là từ các duyên thù thắng được huân tập trong Phật pháp mà dấy lên. Pháp trụ, tức là thường trụ nơi Thật Tướng Nhất Thừa do Phật đă chứng. Pháp trụ pháp vị tức là pháp thường trụ nơi Thật Tướng ấy, tức là trụ trong bổn tâm chân thật của Phật và chúng sanh. Đấy chính là nói chư Phật Thế Tôn biết thật lư của các pháp, biết pháp tánh vốn không, và biết chúng sanh vốn có Phật chủng vô lậu, cần phải dựa vào các duyên thù thắng để dấy khởi, cho nên nói ra pháp Nhất Thừa”.

 

2.2.2.2.1.2.2.1.4. Trùng tụng hiện tại Phật

 

          (Kinh) Thiên nhân sở cúng dường, hiện tại thập phương Phật. Kỳ số như Hằng sa, xuất hiện ư thế gian, an ổn chúng sanh cố, diệc thuyết như thị pháp. Như đệ nhất tịch diệt, dĩ phương tiện lực cố, tuy thị chủng chủng đạo, kỳ thật vị Phật Thừa. Tri chúng sanh chư hạnh, thâm tâm chi sở niệm, quá khứ sở tập nghiệp, dục tánh, tinh tấn lực, cập chư căn lợi độn. Dĩ chủng chủng nhân duyên, thí dụ, diệc ngôn từ, tùy ứng phương tiện thuyết.

          ()天人所供養。現在十方佛。其數如恒沙。出現於世間。安隱眾生故。亦說如是法。如第一寂滅。以方便力故。雖示種種道。其實為佛乘。知眾生諸行。深心之所念。過去所習業。欲性精進力。及諸根利鈍。以種種因緣。譬喻亦言辭。隨應方便說。

          (Kinh: Trời người nay cúng dường, hiện tại mười phương Phật. Số như cát sông Hằng, xuất hiện trong thế gian. V́ an ổn chúng sanh, cũng nói pháp như thế, như đệ nhất tịch diệt, do v́ sức phương tiện, tuy dạy các thứ đạo, thật ra là Phật Thừa. Biết các hạnh chúng sanh, thâm tâm họ nghĩ tưởng, nghiệp tu tập quá khứ, dục tánh, sức tinh tấn, và các căn lợi độn, dùng các thứ nhân duyên, thí dụ và ngôn từ, đúng lẽ phương tiện nói).

 

          Trước là trùng tụng ư nghĩa hóa độ, kế đến trùng tụng chuyện hiển Thật, sau đó trùng tụng chuyện hành Quyền. “Như thị pháp” (pháp như thế) tức là nói đến hai pháp Quyền và Thật. “Đệ nhất tịch diệt” tức Lư Nhất. “Phương tiện thị chủng chủng đạo” (phương tiện dạy các thứ đạo) thật sự v́ Phật Thừa. Xét theo người chỉ dạy, đó chính là Giáo Nhất. Xét theo điều được dạy th́ là Hạnh Nhất. Biết các hạnh của chúng sanh là thực hành Quyền. Phần thứ nhất, “trùng tụng bốn loại Phật” đă xong.

 

2.2.2.2.1.2.2.2. Trùng tụng Phật Thích Ca

2.2.2.2.1.2.2.2.1. Trùng tụng đại lược Quyền Thật trong phần trước để làm căn bản cho các thí dụ trong phần sau

2.2.2.2.1.2.2.2.1.1. Trùng tụng hiển Thật

 

          (Kinh) Kim ngă diệc như thị, an ổn chúng sanh cố, dĩ chủng chủng pháp môn, tuyên thị ư Phật đạo.

          ()今我亦如是。安隱眾生故。以種種法門。宣示於佛道。

          (Kinh: Nay ta cũng như thế, do an ổn chúng sanh, dùng đủ thứ pháp môn, tuyên nói, dạy Phật đạo).

 

          Đoạn kinh văn này trùng tụng trọn đủ Tứ Nhất. “Kim ngă diệc như thị” (nay ta cũng giống như thế) tức là giống như chư Phật, cùng dùng Nhất Thật để giáo hóa chúng sanh, tức là trùng tụng chung về chuyện hiển Thật. “An ổn” là Niết Bàn bí tạng, là chỗ an ổn. Phật tự trụ trong đó, mà cũng xếp đặt cho chúng sanh cùng vào trong đó. Chỗ an ổn chính là Lư Nhất. Chúng sanh là Nhân Nhất. “Các thứ pháp môn nhập Phật đạo” chính là Hạnh Nhất. “Tuyên thị” chính là Giáo Nhất.

 

2.2.2.2.1.2.2.2.1.2. Trùng tụng thực hành Quyền 

 

          (Kinh) Ngă dĩ trí huệ lực, tri chúng sanh tánh dục, phương tiện thuyết chư pháp, giai linh đắc hoan hỷ.

          ()我以智慧力。知眾生性欲。方便說諸法。皆令得歡喜。

          (Kinh: Ta dùng sức trí huệ, biết tánh dục chúng sanh, phương tiện nói các pháp, khiến họ đều hoan hỷ).

 

          Sức trí huệ chính là Quyền Trí. “Tri tánh dục” là soi xét hàng tiểu cơ. Nói các pháp chính là thực hành Quyền, “đều hoan hỷ”: [Do nói pháp] tương xứng cơ nghi. Hai bài kệ trên đây tuy đại lược, nhưng đă thâu nhiếp sự giáo hóa của đức Phật từ đầu đến đuôi, không ǵ chẳng gồm tận. V́ thế tương xứng với phần trùng tụng đại lược chuyện Quyền Thật đă nói trong phần trên, nhằm làm căn bản cho sáu nghĩa thuộc tổng thí dụ [nhà lửa] trong phần sau:

          - Một, ta nay cũng giống như thế. “Ta” chính là Phật Thích Ca, là vị hóa chủ Nhất Thừa, làm căn bản cho ông đại trưởng giả trong phẩm Thí Dụ thuộc phần sau.

          - Hai, an ổn tức là đại Niết Bàn thường lạc ngă tịnh, chẳng có Ngũ Trược gây chướng ngại. Đối với tam giới tỏ lộ Ngũ Trược th́ gọi là “chẳng an ổn”, tức là căn bản cho thí dụ “nhà lửa” trong phần sau.

          - Ba, chúng sanh chính là các đồ đệ tiếp nhận sự giáo hóa trong năm đường, tức là thí dụ cho năm trăm người [ở trong ngôi nhà cũ nát bốc cháy] trong phần sau.

          - Bốn, pháp an ổn, vẫn đối ứng với pháp chẳng an ổn trong thuở Ngũ Trược, là căn bản của thí dụ [căn nhà cũ] bốc lửa trong phần sau.      

          - Năm, các thứ pháp môn, đối lập với “các thứ”, làm căn bản cho thí dụ trong phần sau [căn nhà cũ đang bốc cháy ấy] chỉ có một cửa [để ra vào].

          - Sáu, biết tánh dục của chúng sanh, tức là trong ngũ đạo có căn tánh tam thừa sai khác, làm căn bản cho thí dụ ba mươi đứa con [ông trưởng giả] trong phần sau. Phần thứ nhất, “trùng tụng đại lược Quyền Thật trong phần trên” đă xong.

 

2.2.2.2.1.2.2.2.2. Trùng tụng cặn kẽ sáu nghĩa trong phần trước để làm căn bản cho phần Biệt Thí trong phần sau

2.2.2.2.1.2.2.2.2.1. Trùng tụng Ngũ Trược để làm căn bản cho thí dụ “lửa bốc cháy” trong phần sau

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất đương tri, ngă dĩ Phật nhăn quán, kiến lục đạo chúng sanh, bần cùng, vô phước huệ, nhập sanh tử hiểm đạo, tương tục khổ bất đoạn, thâm trước ư ngũ dục, như mao ngưu ái vĩ, dĩ tham ái tự tế, manh minh vô sở kiến, bất cầu đại thế Phật, cập dữ đoạn khổ pháp, thâm nhập chư tà kiến, dĩ khổ dục xả khổ. Vị thị chúng sanh cố, nhi khởi đại bi tâm.

          ()舍利弗當知。我以佛眼觀。見六道眾生。貧窮無福慧。入生死險道。相續苦不斷。深著於五欲。如犛牛愛尾。以貪愛自蔽。盲瞑無所見。不求大勢佛。及與斷苦法。深入諸邪見。以苦欲捨苦。為是眾生故。而起大悲心。

          (Kinh: Xá Lợi Phất nên biết: Ta dùng Phật nhăn xem, thấy lục đạo chúng sanh, bần cùng, không phước huệ, vào đường hiểm sanh tử, liên tục khổ chẳng dứt, chấp sâu nơi ngũ dục, như mao ngưu[32] mến đuôi, bị tham ái che lấp, mù ḷa chẳng trông thấy, chẳng cầu đại thế Phật, ban cho pháp dứt khổ. Thâm nhập các tà kiến, toan dùng khổ xả khổ, v́ các chúng sanh ấy, bèn dấy ḷng đại bi).

 

          Mười một chữ đầu nhằm nói rơ Phật nhăn có thể trông thấy. Trong phần sau có nói: Chủ nhà đứng ở ngoài cửa, ấy là v́ Phật thuộc địa vị Pháp Thân, dùng Phật nhăn thường tịch chiếu soi trọn vẹn các căn cơ. Nếu [chúng sanh] căn nhạy bén, trược nhẹ, sẽ dùng h́nh tượng Lô Xá Na (Báo Thân Phật) nói pháp Nhất Thừa. Nếu căn độn, trược nặng, sẽ dùng h́nh tượng giống như một vị lăo tỳ-kheo, kinh sợ vào trong nhà lửa, phương tiện thực thi tam thừa, chỉ là đúng thời soi xét căn cơ. V́ thế nói: “Ngă dĩ Phật nhăn quán” (ta dùng Phật nhăn nh́n thấy). Phàm quán Sắc pháp, phải nên dùng Thiên Nhăn. Phân biệt căn cơ th́ phải nên dùng Pháp Nhăn. Nay nói dùng Phật nhăn quán”, tức là nêu ra mắt thù thắng để bao gồm các loại mắt kém hơn. Hơn nữa, bốn loại mắt kia được gộp trong Phật nhăn, đều gọi là Phật Nhăn.

          Từ câu “lục đạo chúng sanh” trở đi, nói đến chuyện thấy Ngũ Trược. Trong phần sau, kinh văn nói: “Nhữ chư tử đẳng, tiên nhân du hư, lai nhập thử trạch, trĩ tiểu vô tri, hoan ngu nhạo trước” (các con của ông trước kia do chơi đùa, vào trong nhà này, trẻ dại không hiểu biết, vui sướng, ham thích). “Bần cùng vô phước huệ” là trùng tụng Chúng Sanh Trược. Hai câu “nhập sanh tử” trùng tụng Mạng Trược. Bốn câu như “thâm trước” (chấp trước sâu đậm) v.v… trùng tụng Phiền Năo Trược. Hai châu “bất cầu [đại thế Phật]…” (chẳng cầu vị Phật có oai thế to lớn) trùng tụng Kiếp Trược. Trong kiếp chẳng có Phật, nên gọi là Trược. Nếu kiếp có Phật, dẫu trược vẫn có thể phá. Hai câu “thâm nhập” trùng tụng Kiến Trược. Bốn câu “hoặc bất cầu” trùng tụng chung về Kiến Trược. “Dĩ tà kiến cố, bất cầu đại thế Phật” (do v́ tà kiến, chẳng cầu vị Phật có oai thế lớn): Chẳng cầu pháp đoạn khổ, bèn chuốc lấy cái nhân khổ, cứ lầm lạc mong xả khổ quả, há có được chăng? Lúc bốn thứ trược (Kiến Trược, Chúng Sanh Trược, Mạng Trược, Phiền Năo Trược) tụ tập th́ gọi là Kiếp Trược. V́ thế, chẳng cần trùng tụng riêng. Hai câu “vị thị chúng sanh” (v́ các chúng sanh ấy) ư nói Phật dấy ḷng đại bi ứng hiện. Đó chính là căn bản cho chuyện ông trưởng giả nghe nói xong, liền kinh hăi vào nhà lửa trong phần sau.

 

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2. Trùng tụng dùng phương tiện để giáo hóa để làm căn bản cho thí dụ bỏ bàn ghế, dùng xe trong phần sau

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.1. Nghĩ sử dụng Đại Thừa chẳng được

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.1.1. Tính dùng Đại Thừa

         

          (Kinh) Ngă thỉ tọa đạo tràng, quán thụ diệc kinh hành, ư tam thất nhật trung, tư duy như thị sự, ngă sở đắc trí huệ, vi diệu tối đệ nhất.

          ()我始坐道場。觀樹亦經行。於三七日中。思惟如是事。我所得智慧。微妙最第一。

          (Kinh: Ta mới ngồi đạo tràng, quán cây và kinh hành, trong hai mươi mốt ngày, tư duy chuyện thế này: Ta đạt được trí huệ, vi diệu tột bậc nhất).

 

          “Thỉ tọa đạo tràng” (thoạt đầu ngồi tại đạo tràng): Chí lư (lư cùng tột) chẳng có thời, giả lập thời để hóa độ chúng sanh, trở thành điểm khởi đầu của sự giáo hóa. V́ thế nói là “thỉ” (khởi đầu). Giải thích theo Sự th́ thoạt đầu Ngài tu tŕ, đắc đạo nơi đây, v́ thế nói là “đạo tràng”. Do ngồi dưới cây ấy, bèn đắc Chánh Giác, nên gọi là “đạo thụ” (cây đạo tràng). Do cảm ơn cây nên quan sát, do nghĩ tới phẩm đức của đất nên kinh hành. Cây và đất chẳng có phân biệt, há cần phải báo ân? Kinh Vị Tằng Hữu nói: “Chỉ dĩ thông hóa truyền pháp, danh báo ân nhĩ” (Chỉ v́ giáo hóa chung để truyền pháp nên gọi là báo ân). Kinh Quá Khứ Nhân Quả dạy: “Phật thành đạo sơ thất nhật, tư duy ngă pháp diệu, vô năng thọ giả. Nhị thất nhật, tư duy chúng sanh thượng trung hạ căn. Tam thất nhật, tư duy thùy ưng tiên văn pháp? Tức chí Ba La Nại, vị ngũ nhân thuyết Tứ Đế, Trần Như đắc Pháp Nhăn Tịnh” (Đức Phật thành đạo, trong bảy ngày đầu tiên, tư duy “pháp của ta mầu nhiệm, chẳng ai có thể tiếp nhận”. Trong bảy ngày kế đó, tư duy chúng sanh là thượng, trung, hay hạ căn. Bảy ngày thứ ba, tư duy ai là người đáng nghe pháp trước hết? Bèn tới thành Ba La Nại (Vāraṇasi, tức thành phố Benares hiện thời), v́ năm người nói Tứ Đế, ngài Kiều Trần Như đắc Pháp Nhăn Tịnh). Đó là xét theo cái thấy của tiểu cơ.

          Nay nói rơ Phật trụ trong địa vị Pháp Thân, tịch mà thường chiếu, luôn dùng Phật Nhăn nh́n thấu suốt chẳng sót, há có phải [thật sự là] thoạt đầu tới đạo tràng, im lặng suốt hai mươi mốt ngày để suy nghĩ chuyện này. Nói “hai mươi mốt ngày” nhằm biểu thị muốn dùng tam châu để thuyết pháp. Bảy ngày đầu tiên suy nghĩ về Pháp Thuyết Châu. Bảy ngày kế tiếp suy nghĩ về Thí Thuyết Châu. Bảy ngày sau cùng nghĩ về Nhân Duyên Thuyết Châu. Ba châu ấy đều là “chẳng có căn cơ tương xứng sẽ không được!” V́ thế, ngưng nói đại pháp mà nói tiểu pháp. Đây là cách giải thích riêng biệt của Viên Giáo trong Đại Thừa. Nếu giải thích thông thường theo Đại Thừa th́ bảy ngày đầu tiên suy nghĩ về Viên Giáo, bảy ngày kế tiếp nghĩ về chuyện nói Biệt Giáo. Bảy ngày sau cùng nghĩ về chuyện nói Thông Giáo, đều thấy “chẳng có căn cơ tương ứng [để tiếp nhận] th́ sẽ không được (chẳng hóa độ được)! V́ thế, thôi nói Đại Thừa nói pháp phương tiện thuộc tam thừa trong Tam Tạng.

          Giải thích theo quán tâm th́ Cây chính là cây to mười hai nhân duyên. Quán sâu xa duyên khởi, tự thành Bồ Đề, toan dùng rừng pháp vô lậu để che rợp, lợi ích chúng sanh. V́ thế nói là “quán thụ”. “Kinh hành” chính là ba mươi bảy phẩm của Đại Thừa, tức là hành tŕ đạo pháp, tự dùng đạo phẩm để đặt chân lên đất Thật Tướng, được thành tựu Phật đạo, muốn dùng pháp này để hóa độ chúng sanh. V́ thế khởi hạnh. “Tam thất” (hai mươi mốt ngày): Bảy ngày đầu muốn nói về Trung Đạo Quán. Trung Đạo mầu nhiệm khó quán, chẳng được! Bảy ngày kế tiếp muốn nói Tức Giả Quán, Tức Giả Quán th́ Phân Biệt Trí khó sanh khởi, chẳng được! Bảy ngày cuối, muốn nói Tức Không Quán, tức Không Xảo Đ[33], vẫn chẳng được! Đấy chính là nói đến phương tiện chia chẻ các pháp để quán của Tiểu Thừa.

 

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2. Nói rơ chúng sanh chẳng phải là căn cơ [của pháp viên đốn]

 

          (Kinh) Chúng sanh chư căn độn, trước lạc si sở manh, như tư chi đẳng loại, vân hà nhi khả độ?

          ()眾生諸根鈍。著樂癡所盲。如斯之等類。云何而可度。

          (Kinh: Chúng sanh các căn độn, chấp vui si mù quáng, những hạng người như thế, sẽ độ như thế nào?)

 

          Trí huệ đă là vi diệu bậc nhất. V́ thế, chẳng phải là kẻ căn độn, ngu si, mù tối mà ḥng lănh nhận, thông hiểu được. Kinh văn trong phần sau có nói: “Chư tử vô tri, tuy văn phụ hối, do cố nhạo trước, hy hư bất dĩ” (Các con vô tri, tuy nghe cha răn dạy, vẫn cứ vui thích chấp trước, vui đùa chẳng ngớt).

 

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.1.3. Suy nghĩ toan thôi giáo hóa

 

          (Kinh) Nhĩ thời, chư Phạm vương, cập chư Thiên Đế Thích, hộ thế tứ thiên vương, cập Đại Tự Tại Thiên, tịnh dư chư thiên chúng, quyến thuộc bách thiên vạn, cung kính hiệp chưởng lễ, thỉnh ngă chuyển pháp luân. Ngă tức tự tư duy, nhược đản tán Phật Thừa, chúng sanh một tại khổ, bất năng tín thị pháp. Phá pháp, bất tín cố, trụy ư tam ác đạo. Ngă ninh bất thuyết pháp, tật nhập ư Niết Bàn.

          ()爾時諸梵王。及諸天帝釋。護世四天王。及大自在天。並餘諸天眾。眷屬百千萬。恭敬合掌禮。請我轉法輪。我卽自思惟。若但讚佛乘。眾生沒在苦。不能信是法。破法不信故。墜於三惡道。我寧不說法。疾入於涅槃。

          (Kinh: Khi đó, các Phạm vương, và các Thiên Đế Thích, hộ thế bốn thiên vương, và Đại Tự Tại Thiên, cùng các chúng trời khác, quyến thuộc trăm ngàn vạn, cung kính, chắp tay lễ, thỉnh ta chuyển pháp luân. Ta liền tự suy nghĩ: “Nếu chỉ khen Phật Thừa, chúng sanh ch́m trong khổ, chẳng thể tin pháp này. Do phá pháp chẳng tin, rơi vào ba đường ác. Ta thà chẳng thuyết pháp, mau chóng nhập Niết Bàn”).

 

          Tuy Phạm thiên, Đế Thích thỉnh cầu, đức Phật biết chẳng có căn cơ [tương ứng để lănh thọ đại pháp], cho nên chẳng nói. Kinh văn trong phần sau chép: “Chư tử ấu trĩ, vị hữu sở thức, hoặc đương đọa lạc, vị hỏa sở thiêu” (các con thơ dại, chẳng hiểu biết, chắc sẽ bị té ngă, bị lửa đốt cháy). Phần thứ nhất, “suy nghĩ dùng Đại Thừa chẳng được” đă xong.

 

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2. Nghĩ giống như chư Phật, sử dụng tam thừa, do tương xứng cơ nghi nên có thể hóa độ được

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2.1. Nói rơ có thể giáo hóa

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2.1.1. Tam thừa có thể phù hợp cơ nghi

 

          (Kinh) Tầm niệm quá khứ Phật, sở hành phương tiện lực, ngă kim sở đắc đạo, diệc ưng thuyết tam thừa.

          ()尋念過去佛。所行方便力。我今所得道。亦應說三乘。

          (Kinh: Liền nghĩ quá khứ Phật, thực hành sức phương tiện. Ta nay đă đắc đạo, cũng nên nói ba thừa).

 

          Nghĩ chúng sanh tuy chẳng có đại cơ, nhưng chẳng thể bỏ mặc vĩnh viễn, cần phải dùng phương tiện để khuyên dụ cứu vớt, chẳng phải là [đức Phật] hoàn toàn không biết vận dụng tam thừa! Do Ngài muốn dẫn chứng [Ngài làm như thế] giống hệt chư Phật, cho nên nói là “tầm niệm” (nghĩ lại). Kinh văn trong phần sau chép: “Tức tiện tư duy, thiết chư phương tiện” (ta liền tư duy, lập các phương tiện).

 

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2.1.2. Có căn cơ Tiểu Thừa

 

          Lại chia làm hai phần: Một là chư Phật tán thán, hai là Phật Thích Ca thuận theo. Trong phần trước, đă nói [đức Phật] muốn dùng đại pháp để giáo hóa, nhưng do đại chúng chẳng có căn cơ ấy, cho nên chư Phật chẳng tán thán. Nay muốn nói pháp Tiểu Thừa, do khéo hiểu căn duyên, cho nên từ đầu đến cuối [chúng sanh] sẽ đều được đắc độ. Do vậy, chư Phật tán thán (nếu chẳng trước là nói tiểu pháp th́ đại căn lẫn tiểu căn đều bỏ lỡ. Nếu trước hết dùng tiểu pháp th́ rốt cuộc họ ắt sẽ đạt được lợi ích to lớn; v́ thế nói là “từ đầu đến cuối đều đắc độ”).

 

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2.1.2.1. Chư Phật tán thán

 

          (Kinh) Tác thị tư duy thời, thập phương Phật giai hiện. Phạm âm ủy dụ ngă: “Thiện tai! Thích Ca Văn, đệ nhất chi đạo sư, đắc thị vô thượng pháp. Tùy chư nhất thiết Phật, nhi dụng phương tiện lực. Ngă đẳng diệc giai đắc, tối diệu đệ nhất pháp, vị chư chúng sanh loại, phân biệt thuyết tam thừa. Thiểu trí nhạo tiểu pháp, bất tự tín tác Phật. Thị cố dĩ phương tiện, phân biệt thuyết chư quả. Tuy phục thuyết tam thừa, đản vị giáo Bồ Tát”.

          ()作是思惟時。十方佛皆現。梵音慰喻我。善哉釋迦文。第一之導師。得是無上法。隨諸一切佛。而用方便力。我等亦皆得。最妙第一法。為諸眾生類。分別說三乘。少智樂小法。不自信作佛。是故以方便。分別說諸果。雖復說三乘。但為教菩薩。

          (Kinh: Khi tư duy như thế, mười phương Phật đều hiện, phạm âm an ủi ta: “Lành thay, Thích Ca Văn[34], đấng đạo sư bậc nhất. Đắc pháp vô thượng này, tùy thuận hết thảy Phật, bèn dùng sức phương tiện. Chúng ta cũng đều đắc, pháp tối diệu bậc nhất. V́ các loài chúng sanh, phân biệt nói ba thừa. Trí nhỏ chuộng tiểu pháp, chẳng tin ḿnh thành Phật. V́ thế, dùng phương tiện, phân biệt nói các quả. Tuy lại nói tam thừa, chỉ nhằm dạy Bồ Tát”).

 

          Ba câu đầu, Phật Thích Ca trần thuật chuyện chư Phật hiện ra. Do sức phương tiện niệm Phật, khế pháp, khế cơ, cho nên Phật hiện. Trong năm câu kế đó, chư Phật ca ngợi Phật Thích Ca có thể v́ Thật mà hành Quyền, nên nói là “thiện tai” (lành thay). V́ một (Nhất Thừa) mà thực hiện ba (tam thừa) nhằm dẫn nhập Phật huệ. V́ thế nói là “đệ nhất đạo sư”. Chứng Thật Trí vi diệu bậc nhất, nên nói là “đắc vô thượng pháp”. Thuận theo hết thảy chư Phật ẩn Thật thí Quyền, v́ thế nói “dụng phương tiện lực” (dùng sức phương tiện). Bốn câu kế, chư Phật tự nói chúng tôi cũng ẩn Thật thi Quyền. Trong bốn câu kế tiếp, cùng giải thích hai nghĩa Ẩn và Thí: V́ chúng sanh trí nhỏ, chẳng tự tin chính ḿnh sẽ thành Phật, cho nên ẩn Thật. V́ họ thích tiểu pháp, cho nên thực hiện Quyền, nói các quả. Hai câu sau cùng, tổng kết cả hai nghĩa ấy: Thoạt đầu tuy nói ba thừa, rốt cuộc ắt sẽ hiển một (Nhất Thừa).

 

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2.1.2.2. Phật Thích Ca tùy thuận

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất đương tri, ngă văn thánh sư tử, thâm tịnh vi diệu âm, xưng nam-mô chư Phật. Phục tác như thị niệm: - Ngă xuất trược ác thế, như chư Phật sở thuyết, ngă diệc tùy thuận hành.

          ()舍利弗當知。我聞聖師子。深淨微妙音。稱南無諸佛。復作如是念。我出濁惡世。如諸佛所說。我亦隨順行。

          (Kinh: Xá Lợi Phất nên biết, ta nghe thánh sư tử, tiếng vi diệu tịnh sâu, xưng “nam-mô chư Phật”. Lại nghĩ như thế này: “Ta sanh đời trược ác, đúng như chư Phật dạy, ta cũng tùy thuận hành”).

 

          Bài kệ thứ nhất là thốt lời đáp ứng tùy thuận. “Nam-mô” được phương này dịch là Kính Tùng (kính vâng theo). Bài kệ sau đó [nói lên ư] nghĩ thuận theo cơ nghi của chúng sanh. Phần thứ hai nói về tiểu cơ (căn cơ Tiểu Thừa) đă xong.

 

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2.1.3. Nói về sự thực thi giáo hóa

         

          (Kinh) Tư duy thị sự dĩ, tức thú Ba La Nại, chư pháp tịch diệt tướng, bất khả dĩ ngôn tuyên, dĩ phương tiện lực cố, vị ngũ tỳ-kheo thuyết.

          ()思惟是事已。卽趣波羅柰。諸法寂滅相。不可以言宣。以方便力故。為五比丘說。

          (Kinh: Tư duy chuyện ấy xong, liền đến Ba La Nại, tướng các pháp tịch diệt, chẳng thể tuyên nói được, do dùng sức phương tiện, nói với năm tỳ-kheo[35]).

 

          [Nói “đến”] Ba La Nại[36] tức là [đến] Lộc Uyển. Lư Trung Đạo vô tánh Phật chủng, lư ấy chẳng thể tính đếm, lại chẳng thể nói. Nay dùng phương tiện nói thành tam giáo (giáo pháp tam thừa). Lại chẳng sanh, chẳng diệt, mà dùng phương tiện nói sanh diệt. Lại nữa, lư Thiên Chân cũng chẳng thể nói. Do v́ phương tiện, bèn nói bốn môn: Thoạt đầu, v́ năm tỳ-kheo thuyết vô thường Hữu môn (thoạt đầu, so sánh giữa Quyền và Thật. Thật chẳng thể nói. Hễ nói ra, sẽ thuộc vào Quyền. Ba thừa quyền biến có số lượng, Nhất Thật chẳng thể tính kể. Kế đó, so sánh giữa sanh diệt và chẳng sanh diệt, liền diễn thành môn chẳng sanh diệt. V́ thế, chẳng thể nói mà lại nói sanh diệt, tức là đối chiếu giữa Đại và Tiểu. Sau đó, lại dùng tiểu lư Thiên Chân so sánh bốn môn thuộc Tiểu Thừa, lư Thiên Chân cũng chẳng thể nói. Đó là hai lư Đại và Tiểu đều chẳng thể nói, nhưng do phương tiện v́ chúng sanh mà đều có thể nói. Tuy đều có thể nói, ư Phật ở nơi Thật, nhưng chúng sanh đối với Thật chẳng thể thích nghi (chẳng thể lănh nhận, thấu hiểu). V́ thế, suy nghĩ phương tiện nói sanh diệt).

 

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2.1.4. Thọ hành ngộ nhập

 

          Căn cơ lănh hội tức là Thọ. Nghe rồi quán chuyển, đạt đến Noăn pháp gọi là Hành. Đạt tới Thế Đệ Nhất th́ gọi là Ngộ. Nếu đắc Sơ Quả th́ gọi là Nhập.

 

          (Kinh) Thị danh chuyển pháp luân, tiện hữu Niết Bàn âm, cập dĩ A La Hán, Pháp, Tăng sai biệt danh.

          ()是名轉法輪。便有涅槃音。及以阿羅漢。法僧差別名。

          (Kinh: Đó gọi Chuyển Pháp Luân, bèn có tiếng Niết Bàn, cùng với A La Hán, Pháp, Tăng tên sai biệt).

 

          Chuyển pháp hóa độ người khác từ trong tâm Phật vào tâm người khác, th́ gọi là Chuyển Pháp Luân. Kiều Trần Như thoạt đầu đắc Kiến Đế, đoạn phân biệt Hoặc, chứng Hữu Dư Niết Bàn một phần. Âm thanh Niết Bàn bắt đầu từ đấy mà có. Do vậy, Ngài trở thành bậc Vô Học, bèn có danh xưng A La Hán. Người nói gọi là Phật, tam thừa được nói th́ gọi là Pháp, bậc Kiến Đế A La Hán chính là Tăng. Do vậy, Tam Bảo xuất hiện trong thế gian. Phần thứ nhất nói về sự hóa độ đă xong.

 

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2.2. Cởi gỡ mối nghi

 

          (Kinh) Tùng cửu viễn kiếp lai, tán thị Niết Bàn pháp, sanh tử khổ vĩnh tận. Ngă thường như thị thuyết.

          ()從久遠劫來。讚示涅槃法。生死苦永盡。我常如是說。

          (Kinh: Kể từ kiếp lâu xa, khen dạy pháp Niết Bàn, khổ sanh tử măi diệt, ta thường nói như thế).

 

          Sợ đại chúng sẽ sanh nghi đối với thầy: “Thoạt đầu, đức Phật chẳng soi xét căn cơ. Do t́m ṭi, nghĩ tới chư Phật mới biết căn tánh”. Nay giải thích rằng: V́ muốn dẫn dắt chúng sanh giống như chư Phật, nên mới nghĩ tới chư Phật, chẳng phải là nay mới niệm, mới biết! Từ lâu xa đến nay, đă thấy chúng sanh chuộng pháp nhỏ, đă từng tán thán, chỉ bày, khiến cho họ hết sạch các khổ. V́ thế, họ nghe tiểu pháp liền được giải thoát. Lại sợ [có kẻ nghe nói như thế, sẽ] nghi ngờ các đệ tử [của đức Phật] rằng: “V́ sao được tạm nghe trong một đời, liền chứng Vô Học?” Nay giải thích rằng: Từ xa xôi đến nay, [đức Phật] đă v́ họ tán thán, chỉ bày tương xứng với điều họ vốn tu tập. V́ thế, họ nhanh chóng đắc đạo. “Lâu xa” tức là nói sau khi kết duyên với Đại Thông Trí Thắng Phật. V́ thế, kinh văn trong phần sau có nói: “Phụ tri chư tử tiên tâm các hữu sở hảo giả” (Cha biết các con mỗi đứa đều sẵn có điều ưa thích riêng từ trước). Hai bài tụng nói phương tiện ban bố sự giáo hóa làm căn bản cho thí dụ bỏ ghế, dùng xe trong phần sau (phẩm Thí Dụ) đă xong.

 

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.3. Kệ tụng về sự hiển Thật làm cơ sở cho thí dụ b́nh đẳng ban cho con cỗ xe lớn trong phần sau

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất đương tri, ngă kiến Phật tử đẳng, chí cầu Phật đạo giả, vô lượng thiên vạn ức, hàm dĩ cung kính tâm, giai lai chí Phật sở, tằng tùng chư Phật văn, phương tiện sở thuyết pháp. Ngă tức tác thị niệm: “Như Lai sở dĩ xuất, vị thuyết Phật huệ cố. Kim chánh thị kỳ thời”. Xá Lợi Phất đương tri, độn căn tiểu trí nhân, trước tướng, kiêu mạn giả, bất năng tín thị pháp. Kim ngă hỷ vô úy, ư chư Bồ Tát trung, chánh trực xả phương tiện, đản thuyết vô thượng đạo. Bồ Tát văn thị pháp, nghi vơng giai dĩ trừ, thiên nhị bách La Hán, tất diệc đương tác Phật.

          ()舍利弗當知。我見佛子等。志求佛道者。無量千萬億。咸以恭敬心。皆來至佛所。曾從諸佛聞。方便所說法。我卽作是念。如來所以出。為說佛慧故。今正是其時。舍利弗當知。鈍根小智人。著相憍慢者。不能信是法。今我喜無畏。於諸菩薩中。正直捨方便。但說無上道。菩薩聞是法。疑網皆已除。千二百羅漢。悉亦當作佛。

          (Kinh: Xá Lợi Phất nên biết, ta thấy các Phật tử, có chí cầu Phật đạo, vô lượng ngàn vạn ức, đều dùng tâm cung kính, đều đến chỗ của Phật, từng nghe từ chư Phật, pháp do phương tiện nói. Ta liền nghĩ thế này: Như Lai vốn ra đời, là để nói Phật huệ. Nay chính là đúng lúc. Xá Lợi Phật nên biết: “Kẻ độn căn, trí nhỏ, phường chấp tướng, kiêu mạn, chẳng thể tin pháp này. Ta nay vui vô úy, ở giữa các Bồ Tát, thẳng thừng xả phương tiện, chỉ nói vô thượng đạo”. Bồ Tát nghe pháp này, lưới nghi đều đă trừ. Ngàn hai trăm La Hán, cũng sẽ đều thành Phật).

 

          Phật tử dùng cái tâm cung kính đến chỗ đức Phật, từng nghe chư Phật phương tiện thuyết pháp. Điều này hiển lộ hành nhân trong tam thừa đều là Phật tử. Đó là trùng tụng Nhân Nhất. “Vị thuyết Phật huệ cố” (v́ để nói trí huệ của Phật) tức là tri kiến của Phật, Nhất Thiết Chủng Trí. Đó là trùng tụng Lư Nhất. “Đản thuyết vô thượng đạo” (chỉ nói đạo vô thượng) là trùng tụng Giáo Nhất. Bồ Tát trừ nghi, La Hán làm Phật, chính là trùng tụng Hạnh Nhất.

          Lại nữa, hai bài kệ đầu nhằm nói căn cơ Đại Thừa đă phát khởi, cũng gọi là Sách Quả (索果, t́m cầu cái quả), là căn bản cho thí dụ các con đ̣i xe trong phẩm sau. Một câu trong hai bài kệ tiếp cho thấy Phật hoan hỷ, chúng sanh kham đạt lợi ích nơi Đại Thừa. Đó chính là căn bản cho thí dụ [ông trưởng giả] thấy các con thoát nạn bèn hoan hỷ trong phần sau. Ba câu kế tiếp nói về Hiển Thật, là căn bản cho việc “cha b́nh đẳng ban cỗ xe lớn cho các con” trong thí dụ ở phần sau. Bài kệ cuối cùng nói về thọ hành, ngộ nhập, tức là căn bản của chuyện “các con được xe bèn hoan hỷ” trong thí dụ thuộc phần sau.

          Thoạt đầu là nói “do căn cơ phát khởi mà mong cầu cái quả”, phải nên có bốn câu:

          - Có người chướng đă trừ, mà căn cơ chưa phát, như các vị A La Hán trong thời Tam Tạng, do ưa thích tiểu pháp, trược chướng tuy trừ, đại căn lại độn, cho nên diệu cơ chưa phát.

          - Lại có người dẫu chướng chưa trừ, nhưng đại cơ đă phát, như các phàm phu trong hội Pháp Hoa, tuy chưa đoạn hết kết sử, do đại căn nhạy bén, cho nên căn cơ bèn phát.

          - Lại có người chướng vừa trừ, cơ liền phát, như khi [đức Phật] nói kinh Vô Lượng Nghĩa, họ bèn chứng tiểu quả, liền ngay trong ṭa ấy (trong pháp hội ấy), đại cơ đă phát.

          - Có kẻ chướng chưa trừ, cơ chưa phát, như năm ngàn người rời khỏi pháp ṭa.

          “Chí cầu Phật đạo” chính là truy cầu đại quả. “Truy cầu” có ba ư:

          - Một, đại cơ (căn cơ Đại Thừa) có ư nghĩa cảm quả; trong căn cơ bèn luận định sự truy cầu.

          - Hai, trong t́nh kiến bèn ngầm truy cầu, như kinh văn trong phần sau nói là đắc hay chẳng đắc.

          - Ba, nói rơ sự truy cầu, tức là ân cần thỉnh ba lượt [như ngài Xá Lợi Phật đă làm trong phẩm này]. Trong giáo pháp xưa kia, đă có hai sự truy cầu [trước đó], nhưng chưa nói ra. Đến hiện thời, có đầy đủ cả ba sự truy cầu [Phật quả].

          Hỏi: Xưa kia, [các con] ra khỏi nhà [lửa đang bốc cháy], bèn t́m cha đ̣i cha cho ba loại xe, nếu đó là sự truy cầu phát xuất từ căn cơ hay t́nh kiến, kinh văn nói “như tiên sở hứa” (như cha đă hứa từ trước), đấy chính là cầu tam thừa, sao lại liên quan đến chuyện cầu Nhất Thừa cho được?

          Đáp: [Các con] ra ngoài [nhà lửa] chẳng thấy [ba loại xe như cha đă hứa], ắt cha có phương cách khác. Có ư dựa trên lời cha đă hứa trước đó để mong cầu loại xe khác th́ cũng là cầu t́m Nhất Thừa.

          “Hàm dĩ cung kính tâm giai lai chí ngă sở” (Đều dùng cái tâm cung kính để đến chỗ của ta) như ngài Xá Lợi Phất thỉnh rằng: “Chư thiên long thần đẳng, hiệp chưởng dĩ kính tâm, dục văn cụ túc đạo” (Các đại chúng trời, rồng, thần v.v… chắp tay, dùng tâm cung kính, muốn được nghe đạo trọn đủ). “Tằng tùng chư Phật văn phương tiện sở thuyết pháp” (Từng từ nơi chư Phật được nghe các pháp nói phương tiện): Thọ đủ sự điều phục, [căn tánh đă] chín muồi từ bốn thời trước (A Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng và Bát Nhă).

          Điều thứ hai, kệ tụng nói rơ [do chúng sanh] đă trừ chướng, Phật bèn hoan hỷ. Đức Phật v́ Phật huệ mà xuất hiện trong cơi đời. [Chúng sanh] xưa kia chướng nặng, chẳng có căn cơ tương ứng, Phật chẳng thể nói ngay Phật huệ được. Trong chặng giữa (tức là trong các thời A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhă), tuy chướng đă trừ, nhưng do cơ chưa chín muồi, đức Phật vẫn chưa thể nói. Nay căn cơ đă phát, đúng là lúc để nói. Xưa kia, chúng sanh căn độn, trí nhỏ, sợ họ do báng pháp này, sẽ đọa vào đường ác. Nay [chúng sanh] căn nhạy bén, chí to lớn, nghe rồi ắt tín giải, cho nên vui vẻ, vô úy, tức là chẳng sợ họ chấp Tiểu báng Đại, dấy tội, đọa vào đường ác.

          Điều thứ ba là chánh thức hiển thị Thật: Năm thừa (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và hai đường trời người) là đường ṿng, chẳng phải là trực tiếp. Nếu ngả về phía Thông Giáo và Biệt Giáo, sẽ chẳng phải là chánh. Nay đều bỏ sự lệch lạc, ṿng vèo ấy, chỉ nói một đạo chánh trực.

          Điều thứ tư là “thọ hành ngộ nhập”. Thoạt đầu là nghe nói đại lược, lâu sau (chúng sanh nghe pháp, được giáo hóa đă lâu) th́ sẽ phải nên nói đến Thật. Tam thừa không ǵ chẳng phải là phương tiện. Lại nữa, Bất Thoái Bồ Tát chẳng biết Phật trí. V́ thế, Bồ Tát lẫn La Hán đều rơi vào lưới nghi. Nay khai Quyền hiển Thật, không chỉ La Hán trừ nghi, mà hàng Bồ Tát trong ba giáo (Tạng, Thông, Biệt), không vị nào chẳng trừ nghi. Không chỉ Bồ Tát thành Phật, mà La Hán cũng đều thành Phật.

 

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.4. Trùng tụng tán thán pháp hy hữu

 

          (Kinh) Như tam thế chư Phật, thuyết pháp chi nghi thức. Ngă kim diệc như thị, thuyết vô phân biệt pháp. Chư Phật hưng xuất thế, huyền viễn trị ngộ nan. Chánh sử xuất ư thế, thuyết thị pháp phục nan. Vô lượng vô số kiếp, văn thị pháp diệc nan. Năng thính thị pháp giả, tư nhân diệc phục nan. Thí như Ưu Đàm hoa, nhất thiết giai ái nhạo, thiên nhân sở hy hữu, thời thời năi nhất xuất. Văn pháp hoan hỷ tán, năi chí phát nhất ngôn, tắc vi dĩ cúng dường, nhất thiết tam thế Phật. Thị nhân thậm hy hữu, quá ư Ưu Đàm hoa.

          ()如三世諸佛。說法之儀式。我今亦如是。說無分別法。諸佛興出世。懸遠值遇難。正使出於世。說是法復難。無量無數劫。聞是法亦難。能聽是法者。斯人亦復難。譬如優曇華。一切皆愛樂。天人所希有。時時乃一出。聞法歡喜讚。乃至發一言。則為已供養。一切三世佛。是人甚希有。過於優曇華。

          (Kinh: Như nghi thức thuyết pháp, của chư Phật ba đời, nay ta cũng giống vậy, nói pháp chẳng phân biệt. Chư Phật hiện trong đời, lâu xa khó gặp gỡ. Dẫu cho Phật xuất thế, nói pháp này cũng khó. Vô lượng vô số kiếp, nghe pháp này cũng khó. Kẻ nghe được pháp này, người ấy cũng khó có. Ví như hoa Ưu Đàm, hết thảy đều ưa thích, hiếm có trong trời người, rất lâu mới xuất hiện. Nghe pháp hoan hỷ khen, cho đến thốt một lời, là đă hành cúng dường, hết thảy tam thế Phật. Người ấy quá hy hữu, c̣n hơn hoa Ưu Đàm).

 

          Đây là trùng tụng diệu pháp như thế được chư Phật Như Lai đúng thời nói ra, ví như hoa Ưu Đàm đă lâu mới hiện một lần. Diệu pháp chẳng ra ngoài Quyền Thật. “Nghi thức” chính là phương tiện quyền biến để chư Phật hướng dẫn chúng sanh. “Vô phân biệt pháp”: Chư Phật hiển thị Thật. Lại nữa, Quyền Thật vốn chẳng phân biệt độn căn, tiểu trí. Phân biệt Quyền Thật th́ gọi là “nghi thức”. Nay c̣n ngộ nhập “một thừa và tam thừa bất nhị”, th́ gọi là “vô phân biệt”. Hai câu “chư Phật xuất thế” là nói “người khó có”. Hai câu kế tiếp nói đến pháp khó có. Như hơn bốn mươi năm, đức Phật giữ kín điều trọng yếu này. Hai câu kế tiếp nói “nghe pháp khó”. Như năm ngàn người rời khỏi chỗ lui về, chẳng được nghe pháp ngay khi đức Phật c̣n tại thế. Hai câu kế nói “tin Phật khó”, như giữa đại chúng trong cả pháp hội này, chỉ có một ḿnh ngài Xá Lợi Phất có thể tiếp nhận, thấu hiểu đầu tiên. Kế đó là nêu thí dụ nhằm nói “chỉ nghe mà đă tin” th́ đă khó lắm rồi, những điều khác có thể dựa theo đó mà hiểu.

 

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.5. Trùng tụng [pháp này] chẳng hư dối để làm căn bản cho thí dụ [ông trưởng giả] chẳng hư vọng trong phần sau

 

          (Kinh) Nhữ đẳng vật hữu nghi, ngă vi chư pháp vương, phổ cáo chư đại chúng, đản dĩ Nhất Thừa đạo, giáo hóa chư Bồ Tát. Vô Thanh Văn đệ tử. Nhữ đẳng Xá Lợi Phất, Thanh Văn cập Bồ Tát, đương tri thị diệu pháp, chư Phật chi bí yếu.

          ()汝等勿有疑。我為諸法王。普告諸大眾。但以一乘道。教化諸菩薩。無聲聞弟子。汝等舍利弗。聲聞及菩薩。當知是妙法。諸佛之秘要。

          (Kinh: Các ông đừng nên nghi, ta là vua các pháp, bảo khắp các đại chúng: “Chỉ dùng đạo Nhất Thừa, giáo hóa các Bồ Tát. Không đệ tử Thanh Văn!” Các ông Xá Lợi Phất! Thanh Văn và Bồ Tát, nên biết diệu pháp này, bí yếu của chư Phật).

 

          Sáu câu đầu nhằm răn dạy đừng nên sanh nghi đối với bậc đáng tin. Bốn câu kế đó, răn đừng nên sanh nghi đối với pháp đáng tin. Phàm là kẻ làm vua chúa trong thế gian c̣n chẳng nói hai lời, huống hồ Phật là pháp vương, há có hư vọng? Lại phương tiện nói quyền biến, c̣n có thể trừ trược, huống hồ diệu pháp bí yếu, há chẳng phải chân thật ư?

 

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.6. Trùng tụng về chuyện chọn lọc đại chúng thích hợp pháp này và đôn đốc niềm tin

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.6.1. Trùng tụng về chuyện chọn lọc đại chúng

 

          (Kinh) Dĩ Ngũ Trược ác thế, đản nhạo trước chư dục, như thị đẳng chúng sanh, chung bất cầu Phật đạo. Đương lai thế ác nhân, văn Phật thuyết Nhất Thừa, mê hoặc bất tín thọ, phá pháp đọa ác đạo. Hữu tàm quư thanh tịnh, chí cầu Phật đạo giả, đương vị như thị đẳng, quảng tán Nhất Thừa đạo.

          ()以五濁惡世。但樂著諸欲。如是等眾生。終不求佛道。當來世惡人。聞佛說一乘。迷惑不信受。破法墮惡道。有慚愧清淨。志求佛道者。當為如是等。廣讚一乘道。

          (Kinh: Do đời ác Ngũ Trược, chỉ ưa đắm các dục, các chúng sanh như thế, trọn chẳng cầu Phật đạo. Trong tương lai kẻ ác, nghe Phật nói Nhất Thừa, mê hoặc, chẳng tin nhận, phá pháp, đọa ác đạo. Kẻ hổ thẹn thanh tịnh, chí hướng cầu Phật đạo, nên v́ người như thế, rộng khen đạo Nhất Thừa).

 

          Bốn câu đầu trùng tụng [loại trừ những kẻ] chẳng phải là đệ tử Phật, v́ sao? Nếu ưa thích các dục, tức là hành ma nghiệp. V́ thế, cần phải loại trừ. Kinh văn trong phần trước nói kẻ chấp Niết Bàn c̣n chẳng phải là đệ tử Phật. Đoạn này nói kẻ chấp sanh tử, há có phải là đệ tử Phật? Cùng loại trừ hai loại ấy! Phàm phu và Tiểu Thừa đều bỏ [tham dục và chấp trước], th́ mới kham thọ kư. Lại nữa, câu “trọn chẳng cầu Phật đạo” nhằm nói kèm thêm những kẻ như trên đều là phường tăng thượng mạn, do chưa đạt được pháp trên đây mà nói là đă đắc pháp ấy. V́ thế, họ chẳng cầu Phật đạo. Bốn câu “đương lai thế ác nhân” (kẻ ác trong đời tương lai) trùng trụng chuyện Như Lai sau khi diệt độ, người thọ tŕ, đọc tụng, giải nghĩa đều là khó có. Bốn câu cuối trùng tụng ư nghĩa: Nếu họ gặp các vị Phật, sẽ được quyết nghi.

 

2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.6.2. Kế tiếp trùng tụng nhằm đôn đốc tín tâm

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất đương tri, chư Phật pháp như thị, dĩ vạn ức phương tiện, tùy nghi nhi thuyết pháp, kỳ bất tập học giả, bất năng hiểu liễu thử, nhữ đẳng kư dĩ tri, chư Phật thế chi sư, tùy nghi phương tiện sự. Vô phục chư nghi hoặc, tâm sanh đại hoan hỷ, tự tri đương tác Phật.

          ()舍利弗當知。諸佛法如是。以萬億方便。隨宜而說法。其不習學者。不能曉了此。汝等旣已知。諸佛世之師。隨宜方便事。無復諸疑惑。心生大歡喜。自知當作佛。

          (Kinh: Xá Lợi Phất nên biết, pháp chư Phật như thế, dùng vạn ức phương tiện, tùy nghi để thuyết pháp. Kẻ chẳng học, tu tập, chẳng thể hiểu pháp này. Các ông đă hiểu biết, chư Phật thầy cơi đời, tùy nghi hành phương tiện, chẳng c̣n các ngờ vực, tâm sanh hoan hỷ lớn, tự biết sẽ thành Phật).

 

          Đây là trùng tụng người thật sự đắc A La Hán nếu chẳng tin pháp này, sẽ chẳng có lẽ ấy! Sáu câu đầu nhằm đôn đốc niềm tin nơi Quyền, sáu câu sau đôn đốc niềm tin nơi Thật. Trong phần thứ nhất là Pháp Thuyết Châu, phần chánh yếu của Pháp Thuyết đă xong.

          Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thai Tông Hội Nghĩa, quyển một hết

 

 

 



[1] Khai Thiện chính là pháp sư Trí Tạng (458-522). Ngài là một vị danh tăng sống vào đời Lương, quê ở Ngô Quận (nay là Ngô Huyện, tỉnh Giang Tô), thông minh từ bé, tánh t́nh khiêm tốn, ḥa nhă, tinh thông kinh luận. Văn Tuyên Vương muốn thiệu long Phật giáo, giảng kinh Tịnh Danh, triệu tập hai mươi mấy vị giảng sư kinh luận về tham khảo ư kiến, Sư là người có Tăng lạp nhỏ nhất, ngồi ở ṭa cuối cùng, nhưng phô diễn nghĩa lư không ai hơn được. rất được Lương Vũ Đế coi trọng, xuống chiếu thỉnh Sư trụ tŕ chùa Khai Thiện, nên thường được gọi là pháp sư Khai Thiện. Lúc hai mươi bảy tuổi, nghe người khéo coi tướng nói Sư sống không quá ba mươi mốt tuổi. Sư bèn thôi giảng giải, dốc ḷng tinh tu, không ra khỏi cửa chùa, ngày đêm tŕ tụng kinh Kim Cang Bát Nhă. Tới lúc ba mươi mốt tuổi, Sư tắm gội bằng nước thơm, tụng kinh chờ chết, bỗng trên hư không có tiếng bảo: “Do sức kinh Bát Nhă nên được tăng thọ”. Lương Vũ Đế từng nghĩ tự ḿnh làm Tăng Chánh (chức quan cai quản các tăng sĩ) để nương theo giới luật lập pháp, chỉnh lư kỷ cương Tăng chúng; chẳng có ai dám ngăn trở, can gián. Riêng Sư nói “biển cả Phật pháp, tục nhân chẳng thể biết trọn”, mấy lượt gởi thư can vua, chuyện ấy mới thôi. Suốt đời Sư nhiều lượt giảng các kinh Đại Tiểu Phẩm Bát Nhă, Niết Bàn, Pháp Hoa, Thập Địa, Kim Quang Minh, Bách Luận, A Tỳ Đàm Tâm v.v… Lại c̣n soạn nhiều bản chú sớ, tới nay đă thất truyền.

[2] Ngoại Phàm là các giai vị trước khi đạt đến Kiến Đạo. Ba giai vị Ngũ Đ́nh Tâm Trụ, Niệm Trụ Biệt Tướng, Niệm Trụ Tổng Tướng của Thanh Văn Thừa là ngoại phàm. Đối với Bồ Tát th́ địa vị Phục Nhẫn trong Thập Tín là ngoại phàm. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương giảng: “Kẻ hướng đến đường lành nhưng hướng ra ngoài cầu Lư, chưa thể dứt tướng nội duyên chân tánh, cho nên gọi là ngoại phàm. Thân phần đoạn trong lục đạo vẫn chưa thể xả, nên gọi là Phàm”. Tông Thiên Thai phán định ngoại phàm trong tứ giáo mỗi giáo mỗi khác. Do quá rườm rà nên không ghi vào đây.

[3] Pháp Hoa Luận là tên gọi tắt của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luận Ưu Ba Đề Xá (Saddharma-pundarīka-upadeśa) do ngài Thế Thân (Vasubandhu) soạn. Tác phẩm này được ngài Bồ Đề Lưu Chi, Đàm Lâm v.v… hợp dịch sang tiếng Hán vào thời Hậu Ngụy. Nhóm các Ngài Lặc Na Mặc Đề, Tăng Lăng v.v… cũng dịch một bản khác dưới thời Nguyên Ngụy, nhưng thiếu phần kệ tụng quy kính. Đây là một tác phẩm trọng yếu để nghiên cứu kinh Pháp Hoa ngoài các bản chú giải của tổ Trí Giả đại sư. Trong Hán Tạng, bản luận này có hai bản chú giải: Một là Pháp Hoa Luận Sớ của ngài Cát Tạng viết trong đời Tùy; hai là sách Pháp Hoa Luận Thuật Kư do hai vị Nghĩa Tịch và Nghĩa Nhất hợp soạn trong đời Đường.

[4] Hôi đoạn (灰斷) là thuật ngữ chỉ bậc Tiểu Thừa La Hán sau khi nhập diệt định hoặc trà-tỳ, sắc thân diệt mất như tro tàn, hoặc c̣n nói là “hôi thân diệt trí” (thân như tro tàn, trí diệt mất),

[5] “Sáu mươi bốn phen” là nói đến cách phán định quán hạnh trong bộ Ma Ha Chỉ Quán. Theo Ma Ha Chỉ Quán quyển một: Trong bốn phép An Tâm, viên đốn Chỉ Quán xét theo hạnh bèn lập ra sáu mươi bốn phen [thực hành Chỉ Quán viên đốn].

[6] Đây là thuật ngữ trong tông Thiên Thai, hàm nghĩa “dần dần tăng trưởng trí huệ, dần dần giảm thiểu sanh tử phiền hoặc”.

[7] Theo kinh Chư Hành Vô Hành, quyển hạ (được trích dẫn trong Đại Trí Độ Luận), Văn Thù Bồ Tát bạch cùng đức Phật: - Xưa kia, vào thời Sư Tử Âm Vương Phật, có hai vị Bồ Tát tỳ-kheo, một tên là Hỷ Căn, dung nghi chất phác, thẳng thắn, chẳng xả pháp thế gian, lại chẳng phân biệt thiện ác, chẳng tán thán thiểu dục tri túc, chẳng tán thán giới hạnh Đầu Đà, chỉ nói Thật Tướng của các pháp, dạy các đệ tử: “Hết thảy các pháp dâm dục tướng, sân khuể tướng, ngu si tướng, các pháp tướng ấy chính là Thật Tướng của các pháp, chẳng hề vướng mắc”. Dùng phương tiện ấy, dạy các đệ tử nhập Nhất Tướng Trí. Vị kia là Thắng Ư Bồ Tát, tŕ giới thanh tịnh, hành mười hai hạnh Đầu Đà, đắc Tứ Thiền, Tứ Vô Sắc Định, nhưng đệ tử của Thắng Ư th́ độn căn, tham cầu, phân biệt chấp trước, tâm xáo động. Thắng Ư thường phỉ báng Hỷ Căn, bị đệ tử đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn của Hỷ Căn vấn nạn không trả lời được, sanh đại sân hận. Sau đó đọa địa ngục, rồi lại được làm người, trong bảy mươi bốn vạn đời thường bị phỉ báng, trong vô lượng kiếp chẳng nghe tên Phật. Sau đó, tội nghiệp tiêu dần, xuất gia tu hành, không thể tŕ tịnh giới toàn vẹn, các căn ám độn, c̣n Hỷ Căn th́ thành Phật trong cơi Bảo Nghiêm, hiệu là Quang Du Nhật Minh Vương. Thắng Ư chính là tiền thân của ngài Văn Thù Sư Lợi.

[8] “Phá am tranh”: “Am tranh” là nói đến chuyện ẩn cư tu hành, chú trọng liễu thoát cho riêng ḿnh. Nghĩa thứ hai là nói đến thí dụ đứa con bỏ cha trốn đi trong phẩm Tín Giải. Do không biết chính ḿnh là con ông trưởng giả, nên đứa con coi ḿnh là khách, tuy quản lư chuyện chi thu cho cha, biết các tài sản trân quư, vẫn không mơ tưởng, chỉ an phận sống trong lều tranh, ví như hàng Thanh Văn tuy được nghe các pháp Bồ Tát mà chẳng màng, vẫn chấp vào Thiên Chân Niết Bàn.

[9] Tổ dùng chữ “bốn loại Phật” ở đây nhằm nói đến bốn nghĩa được nêu ra trong phần Trường Hàng, tức là trước hết luận chung về chư Phật rồi lần lượt luận định Phật quá khứ, Phật vị lai, và Phật hiện tại.

[10] “Ư thú” tức là “chỗ ư chí sẽ hướng đến”, hay nói cách khác: Ư thú chính là “ư hướng mà nội tâm muốn biểu thị”. Đức Phật thuyết pháp có b́nh đẳng, biệt thời, biệt nghĩa, và bổ đặc già la ư thú.

1. B́nh đẳng ư thú: Gột trừ hết thảy kiến giải phân biệt, đứng trên lập trường b́nh đẳng mà nói. Chẳng hạn như Phật Thích Ca chẳng phải là Tỳ Bà Thi Phật, nhưng chân lư chứng ngộ của chư Phật là b́nh đẳng, bất nhị, cho nên Ngài có thể nói: “Ta là Tỳ Bà Thi Phật”.

2. Biệt thời ư thú: Giáo pháp do gột trừ tất cả chướng ngại, lười nhác mà nói ra. Chẳng hạn như đa phần lợi ích chúng sanh sẽ đạt được là biệt thời (tức là không thể thành tựu hay đạt được ngay lập tức mà cần phải có thời gian, hay sẽ thành tựu trong tương lai), chẳng hạn như trong phẩm này nói người vào tháp miếu hoặc chỉ cúi đầu, hoặc giơ một tay đă đều thành Phật.

3. Biệt nghĩa ư thú: Nhằm trừ khử chướng ngại do khinh mạn khi nghe pháp của thính chúng, bèn dùng một ư nghĩa riêng biệt để thuyết minh. Chẳng hạn như nói do trong quá khứ đă từng cúng dường, thừa sự chư Phật, mà nay được liễu giải pháp Đại Thừa. Sự “liễu giải” ấy thật ra có nghĩa là “chứng ngộ”.

4. Bổ đặc già la ư thú (c̣n gọi là chúng sanh ư nhạo ư thú, hoặc chúng sanh lạc dục ư). Bổ đặc già la (Pudgala) nghĩa là người, tức nói đến chúng sanh. Do tùy thuận tánh cách, chí hướng của chúng sanh mà tuyên nói các giáo pháp thích ứng.

[11] Tam Hoặc là Kiến Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc, và Vô Minh Hoặc.

[12] Ương Quật Ma La (c̣n phiên âm là Ương Cừu Ma La, Ương Củ Lợi Ma La, Ương Quật Ma) dịch nghĩa là Chỉ Man (đeo chuỗi kết bằng ngón tay người): Vị này vốn là một người tu theo ngoại đạo sống tại thành Thất La Phiệt Để (Śrāvastī, Xá Vệ), theo học với tà sư Ma Ni Bạt Đà La, hết sức cung kính, hiếu thuận. Do sư mẫu nẩy sanh tà tâm, toan quyến rũ, bị Ương Quật Ma La cự tuyệt, tức giận, bèn vu cáo Ương Quật dụ dỗ không được bèn lăng nhục bà ta. Thầy căm tức, bèn giả vờ dạy Ương Quật hăy giết đủ một ngàn người lấy ngón tay đeo vào cổ. Khi nào đủ số, sẽ dạy đạo tối thắng cho. Ương Quật tín thuận, bèn giết người, cứ giết một người bèn cắt lấy ngón tay xỏ vào chuỗi đeo cổ. Đến khi giết đủ 999 người, không t́m ra người để giết, ông ta toan giết mẹ ruột. Đức Phật liền đến hóa độ. Ương Quật thấy từ xa có một vị tỳ-kheo đi lại, mừng lắm, đuổi theo toan giết. Đuổi mệt nhoài, vị tỳ-kheo vẫn đi thong dong đằng trước mà ông ta không có cách nào đến gần, bèn hét lên: “Sa-môn dừng lại, đừng chạy nữa”. Đức Phật đáp: “Như Lai dừng lại đă lâu rồi, c̣n ông th́ sao?” Ương Quật nghe hỏi sững sờ, buông đao suy ngẫm. Đức Phật bèn giảng chánh pháp. Ương Quật Ma La sám hối, và xin xuất gia, chứng quả A La Hán.

[13] Đây là một thí dụ trong kinh Đại Bát Niết Bàn. Theo quyển hai thuộc phẩm Thọ Mạng trong kinh ấy, đức Phật nêu một thí dụ: Ví như có một quốc vương, ám độn, kém trí. Vua có một thầy thuốc ngu xuẩn, nhưng nhà vua chẳng biết, thường ban thưởng bổng lộc trọng hậu cho gă đó. Để trị liệu các bệnh, gă thầy thuốc đó đều nhất loạt dùng sữa, lại cũng chẳng biết cội nguồn các căn bệnh. Dẫu biết sữa có thể chữa bệnh, nhưng chẳng hiểu cặn kẽ, bệnh ǵ cũng đều cho uống sữa. Lại có một vị thầy thuốc khác thông hiểu y thuật, khéo trị các bệnh, biết các toa thuốc, từ phương xa đến. Gă thầy thuốc dốt chẳng biết t́m đến học hỏi, lại sanh ḷng kiêu căng, ngạo nghễ. Vị thầy thuốc thông hiểu bèn t́m cách thân cận gă thầy thuốc dốt, tôn hắn làm thầy, xin hắn dạy các toa thuốc. Hắn buộc vị thầy thuốc giỏi phải hầu hạ bốn mươi tám năm, vị thầy thuốc giỏi chấp thuận. Hắn bèn dẫn vị thầy thuốc đến gặp nhà vua. Vị thầy thuốc giỏi bèn tâu cặn kẽ các triệu chứng, phương cách trị liệu chẩn đoán. Khi đó, vua mới vỡ lẽ gă ngự y của ḿnh dốt nát, ngu xuẩn, bèn tống cổ gă dốt đó. Đồng thời, vị thầy thuốc giỏi lại xin vua hạ lệnh cấm dân chúng dùng sữa làm thuốc, ai trái lệnh sẽ bị chém đầu. Vị thầy thuốc ấy ḥa hợp các vị cay, đắng, mặn, ngọt, chua làm thuốc để trị các bệnh, không ai chẳng được lành. Sau đó, nhà vua bị bệnh. Thầy thuốc chẩn bệnh lại bảo nhà vua hăy dùng sữa làm thuốc. Nhà vua nghi ngờ, thầy thuốc giải thích cặn kẽ: Để trị đúng bệnh phải biết sữa tốt xấu thiện ác khác nhau, cũng như căn bệnh nào cần phải dùng sữa làm thuốc, căn bệnh nào dùng sữa sẽ có hại. Vua hiểu ra, dùng sữa, lập tức lành bệnh.

[14] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Ngọc có vết nứt hay khuyết điểm th́ gọi là Hà, người có tội lỗi th́ gọi là Tỳ”.

[15] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Bă rượu (hèm) là Tao, lớp vỏ cám bên ngoài hạt ngũ cốc là Khang”.

[16] Chín bộ pháp tức là các loại thể tài dùng trong kinh văn nhà Phật, như Trường Hàng, Trùng Tụng, Cô Khởi, Vô Vấn Tự Thuyết v.v… Tùy theo chia ra hay gộp lại mà kinh nói “thập nhị bộ kinh” hay “cửu bộ pháp”.

[17] Theo pháp sư Phổ Hành, câu này phải hiểu là con người khi mới vào thai mẹ, h́nh trạng nhỏ nhiệm, khó thể thấy bằng mắt thường nên gọi là “vi h́nh” (h́nh trạng nhỏ nhặt).

[18] “Sáu mươi hai kiến” là từ ngữ chỉ chung các quan điểm chấp trước của ngoại đạo đối với tự ngă và thân tâm. Nói chung, các quan điểm của ngoại đạo dựa trên quá khứ mà đề ra mười tám loại kiến chấp chính yếu: Biến thường luận (mọi thứ đều là thường), bán thường luận (có một số thứ là thường), vô nhân luận (không có nguyên nhân), hữu biên vô biên luận, bất tử luận… Họ c̣n dựa theo các kiến chấp về vị lai mà đề ra 44 loại, tức sanh tử hữu tưởng luận, vô tưởng luận, phi hữu tưởng phi vô tưởng luận, đoạn diệt luận, hiện pháp Niết Bàn luận v.v… Gộp chung thành sáu mươi hai kiến chấp. Kinh Đại Phẩm Bát Nhă giải thích đơn giản hơn như sau: Đối với Sắc Uẩn bèn chấp trước thành bốn câu: “Sắc là thường, Sắc là vô thường, Sắc vừa là thường vừa vô thường, Sắc chẳng phải thường chẳng phải vô thường”. Đối với bốn Uẩn c̣n lại cũng có bốn câu như thế, nên thành 5x4=20 câu. Đó là chấp trước đối với Ngũ Uẩn thuộc quá khứ. Kế đó, đối với Sắc Uẩn bèn chấp trước hữu biên hay vô biên thành bốn câu: “Sắc là hữu biên, Sắc là vô biên, Sắc vừa hữu biên vừa vô biên, Sắc chẳng phải là hữu biên hay vô biên”. Đối với bốn Uẩn kia cũng thế, cho nên tạo thành hai mươi câu nữa. Đó là chấp trước trong hiện tại đối với Ngũ Uẩn. Lại đối với Ngũ Uẩn mà chấp trước là sẽ qua đi hay không qua đi mà thành bốn câu “Sắc sẽ như khứ (quá khứ không từ đâu đến), Sắc không như khứ (vị lai không do đâu mà có)…” thành hai mươi câu nữa, tức là chấp trước đối với Ngũ Uẩn trong vị lai. Sáu mươi kiến chấp ấy cộng với hai kiến chấp “thân và thần thức là một”, “thân và thần thức khác nhau” mà thành sáu mươi hai kiến. Cũng dựa trên Ngũ Uẩn, các vị Trí Giả và Gia Tường lại giải thích như sau: Đối với Sắc bèn chấp thành bốn câu: “Sắc là ngă; ĺa sắc bèn có ngă; sắc lớn ngă nhỏ, ngă ở trong sắc; ngă lớn, sắc nhỏ, sắc ở trong ngă”. Đối với bốn Uẩn c̣n lại đều chấp như vậy (tức Thọ là ngă, ĺa thọ bèn có ngă v.v…) gộp thành hai mươi câu, ứng với ba đời thành sáu mươi câu, cộng thêm hai kiến chấp thường và chấp đoạn thành sáu mươi hai câu. C̣n nhiều cách giải thích khác nữa, nhưng sợ rườm rà không ghi vào đây!

[19] Duyên nhân là các nhân phụ thuộc giúp cho chánh nhân tăng trưởng, kết thành cái quả. Chẳng hạn như hạt lúa là chánh nhân, duyên nhân là đất, nước, ánh sáng mặt trời, phân bón, cày bừa, gieo mạ, làm cỏ v.v…

[20] “Chuyển” ở đây là chánh hạnh. Do có công năng khiến cho hành nhân đạt được mục đích, chẳng hạn như chuyển phàm thành thánh nên gọi là Chuyển.

[21] Pha lê (Sphatika), c̣n phiên âm là Phả Chi Ca, Phả Chi, Phả Trí Ca, Phá Trí Ca, Sa Bà Trí ca, Tắc Phả Trí Ca, Tốt Ba Trí Ca, dịch nghĩa là Thủy Ngọc, Bạch Châu, Thủy Tinh, nhưng không có nghĩa là thủy tinh hay pha lê (crystal) như trong tiếng Hán hiện đại. Theo Đại Trí Độ Luận, đây là một chất báu có bốn màu tím, trắng, đỏ, xanh biếc, trong đó loại màu đỏ và xanh biếc quư nhất. Chất báu này trong suốt, hết sức kiên cố, cứng rắn như ngọc, cho nên mới gọi là Thủy Ngọc. Pha Lê sanh từ trong núi thẳm. Sách Huyền Ứng Âm Nghĩa c̣n giảng Pha Lê chia thành hai loại là Hỏa Châu và Thủy Châu.

[22] Xa cừ (Musāragalva), c̣n phiên âm là Mâu Sa Lạc Yết Bà, hoặc Mục Sa Ra Già La Bà v.v… dịch nghĩa là Tử Sắc Bảo (chất báu màu tím), là một chất báu. Có thuyết (như sách Bản Thảo Cương Mục) cho xa cừ là chất phủ trên mặt trong của vỏ một loại ốc lớn ngoài biển.

Mă Năo (Aśmagarbha) c̣n dịch nghĩa là Thạch Tạng, hoặc Chử Tạng. Loại chất báu này khác với chất Mă Năo (Agate) hiện thời! V́ Agate có màu hồng đỏ cho đến gần như đỏ nâu, trong khi kinh sách nhà Phật nói Mă Năo có màu xanh như chim phỉ thúy, hoặc xanh đậm.

[23] Theo pháp sư Phổ Hành, Mai Khôi là một loại bảo thạch tṛn xoe và rất đẹp, tức là Hỏa Tế Châu được nhắc đến trong sách Thuyết Văn Giải Tự.

[24] Theo pháp sư Phổ Hành, Mộc Mật là một loại gỗ có h́nh dạng giống như gỗ bạch đàn, có mùi thơm nhẹ.

[25] Trà tỳ (Jhāpita), c̣n phiên âm là Xà Duy, Xà Tỳ, Da Duy, Da Duyện, dịch nghĩa là Thiêu Nhiên (đốt cháy), Thiêu Thân, Phần Thiêu (đốt), hoặc nói gọn là Thiêu, tức là hỏa táng. Cách hỏa táng đă thịnh hành tại Ấn Độ trước khi Phật xuất thế, chư Tăng tại Ấn Độ cũng áp dụng cách xử lư thi thể này. Khi Phật giáo truyền sang phương Đông, đa số Tăng chúng tại Trung Hoa, Nhật Bản v.v… cũng áp dụng phương thức này. Thiền lâm Trung Hoa đôi khi c̣n gọi Trà Tỳ là Tống Văng Sanh (đưa đi văng sanh).

[26] Luân tướng (輪相) ở đây tức là kiến trúc gồm nhiều khối tṛn trên đỉnh tháp, tượng trưng cho các lọng báu chồng lên nhau. Kinh luận c̣n gọi kiến trúc này là Kim Sát, Thừa Luân Bàn, Tướng Luân, Luân Cái v.v… Theo Nam Hải Kư Quy Nội Pháp Truyện, quyển 4: “Chế để (tháp thờ Phật) như quả táo nhỏ, bên trên đặt luân tướng, giống như một cái sào cao nhỏ”. Tại Nhật Bản, trên các tháp hoặc các lầu gác chính của tự viện (nhất là chánh điện), thường đặt luân tướng có chín cấp, gọi là Cửu Luân (九輪). Thông thường, Luân Tướng tại Nhật được chia thành bốn phần:

1) Phần đế có h́nh hoa sen, bộ phận hoa sen này lại chia thành ba phần:

a. Phần đế vuông gọi là Lộ Bàn (露盤).

b. Trên đó là phần kim loại như cái bát úp xuống, được gọi là Phục Bát (伏鉢).

c. Phần cánh sen trên đỉnh Phục Bát được gọi là Thọ Hoa (受花), hay Thỉnh Hoa,請花).

2) Trên đó, đặt một trục thẳng, gắn chín ṿng tṛn bằng kim loại, gần giống như bát úp (mô phỏng các lọng che), gọi là Cửu Luân (c̣n gọi là Bảo Luân, 宝輪).

3) Phía trên Cửu Luân là Thủy Yên (水煙) giống các tia sáng tỏa ra từ một lồng sắt h́nh chuông úp. Phía trên Thủy Yên là một khối tṛn gọi là Long Xa (竜車).

4) Trên chót cùng của trụ luân tướng là một khối tṛn gọi là Bảo Châu (宝珠). Nếu có xá-lợi, sẽ đặt trong Bảo Châu.

Chung quanh Cửu Luân và Thủy Yên thường gắn các linh nhỏ.

[27] Keo ở đây là chất kết dính nấu từ da trâu, da ḅ (c̣n gọi là A Giao) để pha màu vẽ sẽ không bị bay màu.

[28] Thư hoàng (Orpiment) chính là chất arsenic sulfide (A2S3). Đây là khoáng vật có màu vàng đậm óng ả, hoặc vàng cam, thường t́m thấy tại các mạch suối phun, hay suối nước nóng, do hùng hoàng (realgar) phân giải thành. Đây là một chất độc, tuy được dùng làm thuốc trong Trung Y. Do có màu sắc tươi đẹp, nó thường được dùng để pha màu làm tranh vẽ tường hoặc các bức họa. Do nó có màu vàng óng, các nhà giả kim thuật Châu Âu và các đạo sĩ thường dùng thư hoàng để luyện đan với tham vọng biến ch́ thành vàng, hoặc luyện kim đan với mục đích cầu trường sanh bất tử, nhưng đa số bị trúng độc bởi các loại kim đan có chứa các hợp chất của thủy ngân và thạch tín (arsenic).

[29] Thông thường, “giác bối” (角貝) được hiểu là loại tù và làm bằng sừng trâu hay ốc biển, pháp sư Phổ Hành lại giảng như sau: “Giác bối là một loại động vật, có tên là bát giác bối (ốc tám cạnh), dùng vỏ của nó để chế làm nhạc khí, gọi là pháp loa”.

[30] Tiêu () là loại sáo to, đôi khi c̣n gọi là động tiêu (洞簫) thường làm bằng trúc, hoặc đôi khi bằng gỗ khoét rỗng, thổi dọc, lỗ thổi ở một đầu của Tiêu. Thân tiêu thường có sáu lỗ, lại chia thành nhiều loại như Bắc Tiêu, Nam Tiêu, Cầm Tiêu v.v… Loại Cầm Tiêu ngắn nhất nên thường gọi là Xích Bát (một thước tám tấc), được truyền sang Nhật và được người Nhật rất ưa chuộng sử dụng trong dàn nhạc với danh xưng Shakuhachi (tức Xích Bát đọc theo âm Nhật).

Địch (, c̣n gọi là Hoành Địch) là loại sáo thổi ngang, thường được biết với tên “sáo trúc” trong tiếng Việt. Địch thường làm bằng tre, nhưng có khi làm bằng gỗ, đá, hay ngọc. Tuy thế, sáo trúc được ưa chuộng nhất v́ có độ cộng hưởng tốt và âm sắc đẹp hơn các loại chất liệu khác.

Cầm () là loại đàn cổ, có bảy dây (thoạt đầu chỉ có năm dây), đặt nằm ngang. Cầm là nhạc khí rất cổ, thậm chí được tin là đă có từ thời Thần Nông, Phục Hy. Cầm thường được coi là gắn liền với nho gia hay hiền nhân, và được gọi nhạc khí của bậc triết nhân. Tuy vậy, về sau, Cầm c̣n thường dùng như một danh từ chung để chỉ các loại đàn có dây như Hồ Cầm (đàn kéo bằng cung mă vĩ, giống như Nhị hoặc đàn c̣), Dương Cầm (dulcimer, tức đàn gơ bằng hai dùi, không hiểu theo nghĩa Dương Cầm trong tiếng Việt. Một loại Dương Cầm khá phổ biến trong dàn nhạc cổ truyền Á Châu chính là đàn Tam Thập Lục), Cương Cầm (đàn piano), Tiểu Đê Cầm (violin) v.v… V́ thế, để chỉ rơ đàn Cầm trong truyền thống, người ta thường dùng chữ Cổ Cầm hay Dao Cầm. Hiện thời, ngoại trừ một số nghệ sĩ chuyên nghiệp diễn tấu Cổ Cầm, hầu như Cổ Cầm chỉ dùng trong dàn Nhă Nhạc, hoặc dùng trong các lễ tế Khổng Miếu.

Không Hầu (箜篌, Vīnā) là một loại đàn có nguồn gốc từ Tây Vực (truyền vào Trung Hoa dưới thời Hán Linh Đế), c̣n gọi là Không Cổ, hoặc Giang Hồ, có h́nh dáng hơi giống như thụ cầm (Harp) hiện thời, nhưng nhỏ hơn, khung đàn đơn giản hơn, có thể đặt gọn trong ḷng khi diễn tấu. Không Hầu chia thành nhiều loại như Thụ Không Hầu, Ngọa Không Hầu, và Phượng Thủ Không Hầu. Thụ Không Hầu khi gảy, phải ôm đứng lên. Thụ Không Hầu, có từ hai mươi ba cho đến hai mươi lăm dây. Ngọa Không Hầu đặt nằm ngang, chỉ có bảy dây v.v… Hiện thời, hai loại Ngọa Không Hầu và Phượng Thủ Không Hầu đă thất truyền.

Đàn Tỳ Bà (琵琶) có thân đàn giống như quả lê, cổ đàn ngắn, có bốn trục lên dây. Số lượng dây biến thiên từ 12 đến 31 dây. Truyền thuyết thường cho rằng khi quận chúa Tế Quân (con gái của Giang Đô Vương Lưu Kiện) bị gả cho tù trưởng Ô Tôn, cô ta đă chế ra đàn này để gảy trên lưng ngựa khi vượt sa mạc cho đỡ nhớ nhà và vơi bớt buồn tủi. Từ truyền thuyết này, khi viết về Chiêu Quân, các thi sĩ hay kịch tác gia Trung Hoa cũng thường hay mô tả Chiêu Quân gảy đàn TBà khi bị đưa cống Hồ (gả cho Thiền Vu Hô Hàn Tà của dân Hung Nô) dưới thời Hán Nguyên Đế. Tuy vậy, các nhà nghiên cứu cho rằng Tỳ Bà có nguồn gốc từ Trung Á hoặc Ấn Độ. Loại đàn này được truyền sang Đại Hàn với tên gọi là Bipa, và người Nhật gọi nó là Biwa. Một số người cho rằng đàn Nguyễn được Nguyễn Hàm (một người trong Trúc Lâm Thất Hiền) phát triển từ Tỳ Bà, và chia thành năm loại (đại nguyễn, trung nguyễn, tiểu nguyễn, cao âm nguyễn và đê âm nguyễn). Từ đàn Nguyễn, h́nh thành loại đàn nguyệt (thường gọi là “đàn ḱm” tại miền Nam Việt Nam). Điểm khác biệt về h́nh dáng giữa đàn nguyệt và đàn Nguyễn là cán của Nguyễn to hơn, thùng đàn của Nguyễn có hai lỗ tṛn thoát âm hoặc khoét thành h́nh chim phượng, trong khi thùng đàn Nguyệt không có lỗ thoát âm, cán đàn Nguyệt Việt Nam dài và trông thanh thoát hơn đàn Nguyễn, trong khi Nguyệt Cầm của Trung Hoa cán ngắn và thô hơn đàn Nguyễn. Thêm nữa, đàn nguyệt Việt Nam có hai dây, trong khi đàn Nguyệt của Trung Hoa có từ hai đến bốn dây tùy từng địa phương, nhưng loại bốn dây phổ biến nhất. Từ TBà cũng h́nh thành liễu cầm (nhỏ và ngắn hơn Tỳ Bà). Thời Đường, Tỳ Bà rất ưa chuộng đến nỗi trong bài Tỳ Bà Hành, Bạch Cư Dị đă mô tả tiếng đàn Tỳ Bà như sau: “Đại huyền tao tao như cấp vũ, tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ, tao tao thiết thiết thác tạp đàn, đại châu, tiểu châu lạc ngọc bàn, gian quan oanh ngữ hoa đề hoạt, u yết lưu thủy cảnh hạ than, thủy tuyền lănh sáp huyền ngưng tuyệt”. Cụ Phan Huy Thực đă diễn Nôm như sau: “Dây to nhường đổ mưa rào, nỉ non dây nhỏ như tṛ chuyện riêng, tiếng cao thấp lần chen liền gảy, mâm ngọc đâu bổng nảy hạt châu. Trong hoa, oanh ríu rít nhau, suối tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh”.

Năo () là một nhạc khí cổ, đúc bằng kim loại, dùng dùi gơ, có h́nh dáng giống như một cái bát lật ngửa, miệng xéo, có cán dưới đáy để cầm. Năo được đánh lên nhằm ra hiệu dứt trống thúc quân. Người đánh nắm cán của Năo, tay kia dùng dùi đập vào cho vang ra tiếng. Sách Thuyết Văn Giải Tự lại giảng Năo là một loại chiêng nhỏ dùng để đệm trong khi tấu nhạc để tế lễ.

Đồng bạt (chập chơa, chũm chọe, chập cheng, cymbals) là loại nhạc khí thường đúc thành một đôi bằng đồng hay hợp kim, h́nh tṛn, chính giữa có núm tṛn, có lỗ để xỏ dây nắm. Khi đánh th́ chập vào nhau. Chập chơa cũng thường được dùng trong các dàn trống hiện đại, nhưng dùng để gơ. Chập chơa truyền thống của Trung Hoa chia thành tiểu bạt, trung bạt, đại bạt và thủy bạt (tùy theo kích cỡ và cao độ của âm thanh). Loại pháp khí Kha (Ha, thường bị đọc trại thành Cơ) dùng trong các tự viện cũng là một loại đồng bạt.

[31] Đối lập với chân tánh là Thế Gian, gồm hai phần:

- Một là Chúng Sanh Thế Gian (c̣n gọi là Hữu T́nh Thế Gian), bao gồm tất cả hết thảy chúng sanh.

- Khí Thế Gian (Quốc Độ Thế Gian, Trụ Xứ Thế Gian) là quốc độ thế giới để hết thảy chúng sanh nương vào mà tồn tại.

[32] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Mao ngưu là tên một loài thú. Đuôi có lông dài như sợi tơ, có thể dùng lông để trang hoàng các loại tinh kỳ. Lông trên mặt con thú ấy dài che cả mắt, khiến nó thấy cảnh vật chung quanh chẳng rơ. Do thường yêu tiếc cái đuôi, nó chạy trốn tránh người săn bắt đến nỗi sụp bẫy mà chết. V́ thế ‘mao ngưu ái vĩ’ chính là nói chúng sanh do tham đắm ngũ dục, chịu đủ mọi nỗi khổ”. Theo một số nhà nghiên cứu, Mao Ngưu chính là loài ḅ Yak ở Tây Tạng.

[33] Không Xảo Độ tức là Thể Không Quán, trực tiếp thấu hiểu vạn pháp là Không, thấy Không Tánh của các pháp, chẳng cần phải chia chẻ từng nhân duyên như trong Tích Không Quán (Không Chuyết Độ).

[34] Thích Ca Văn: Tức là Thích Ca Mâu Ni bị phiên âm lệch đi thành Thích Ca Văn. Nguyên do là thời cổ hai W (tương ứng với V trong phiên âm Hán Việt) và M trong tiếng Hán đều phát âm như M, do vậy, chữ Mâu Ni c̣n được phiên âm là Văn Ni rồi bị rút gọn thành Văn. Hoặc như Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Manjusri, chữ Mạn bị biến âm thành Văn). Một số phương ngữ Hoa Nam như tiếng Quảng Đông vẫn bảo lưu âm cổ, như chữ Văn () vẫn được đọc thành với mẫu âm M, tức là đọc với âm Man4, chứ không đọc là Wén như trong tiếng Phổ Thông.

[35] Năm vị tỳ-kheo đầu tiên tên là Kiều Trần Như, Át Bệ (tức ngài Mă Thắng), Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp và Ma Ha Câu Lợi (tức ngài Ma Ha Nam). Theo truyền thống Nam Truyền Phật Giáo th́ năm vị tỳ-kheo đầu tiên là Kiều Trần Như, A Thuyết Thị (Mă Thắng, Assaji), Ma Ha Nam (Mahānāma), Bà Đề (Bhaddiya), và Bà Phu (Vappa).

[36] Ba La Nại chính là kinh đô của nước Ca Thi (Kāśī), một trong mười sáu đại quốc thời đức Phật tại thế. Nước này được thành lập vào thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên, nằm trong lưu vực sông Hằng, giữa sông Hằng và Tùng Hà (Sone River). Do thủ đô là Ba La Nại nên đôi khi kinh sách gọi nước Ca Thi là nước Ba La Nại. Khi ngài Huyền Trang sang Ấn Độ thỉnh kinh, nước này hăy c̣n tồn tại. Ngài chép trong Đại Đường Tây Vực Kư như sau: “Ba La Nê Tư quốc rộng hơn bốn ngàn dặm. Phía Tây của đô thành là sông Căng Già… Cư dân đông đảo, nhiều nhà lắm của cải, hàng hóa hiếm lạ đầy nhà. Dân chúng tánh t́nh ôn ḥa, cung kính, chuộng học rộng, phần nhiều tin theo ngoại đạo, ít tôn kính Phật pháp… Chùa chiền hơn ba mươi chỗ, Tăng chúng hơn ba ngàn người, hoàn toàn học theo pháp của Chánh Lượng Bộ thuộc Tiểu Thừa”.