Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa
phần
4
Đất
Cổ Ngô, Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật
妙法蓮華經綸貫會義
古吳後學蕅益智旭述
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong và
Huệ Trang
2.2.2. Rộng khai tam hiển nhất để đoạn
nghi sanh tín
Trong tam châu:
- Một, từ phần kinh
văn này cho đến câu “tận hồi hướng Phật
đạo” (đều hồi hướng Phật
đạo) trong quyển thứ hai [của kinh Pháp Hoa] chính
là Pháp Thuyết Châu, [trong tầng này], bậc thượng
căn đắc ngộ.
- Kế đó, từ câu “nhĩ
thời, Xá Lợi Phật bạch Phật ngôn: - Ngă kim vô phục
nghi hối” (lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất bạch
cùng đức Phật rằng: - Con nay chẳng c̣n ngờ
vực, hối hận) cho đến phẩm Thọ Kư là
Thí Thuyết Châu, bậc trung căn đắc ngộ.
- Ba, ba phẩm như Hóa Thành
Dụ v.v… chính là Nhân Duyên Thuyết Châu, bậc hạ
căn đắc ngộ.
2.2.2.1. Liệu
giản Tam Châu bằng mười nghĩa
Ba châu ấy cũng gọi
là “Lư, Sự, Hạnh tam châu”. Nay dùng mười
nghĩa để liệu giản:
- Một là có thông và biệt.
- Hai là có Thanh Văn hay không?
- Ba là Hoặc (phiền năo)
có dày hay mỏng.
- Bốn là căn có chuyển
hay không chuyển.
- Năm là căn có ngộ
hay chẳng ngộ.
- Sáu là có lănh giải (tiếp
nhận, thấu hiểu) hay không lănh giải.
- Bảy là được thọ
kư hay không thọ kư.
- Tám là ngộ có cạn hay
sâu.
- Chín là lợi ích có Quyền
và Thật.
- Mười là đợi thời
hay chẳng đợi thời.
2.2.2.1.1. Luận
về Thông và Biệt
Tầng thứ
nhất, Biệt th́ gọi là Pháp Thuyết, Thông th́ có đủ
cả ba châu [tức là ngoài danh xưng Pháp Thuyết Châu ra,
trong kinh văn thuộc tầng này có nói]: “Như
Ưu Đàm hoa thời nhất hiện nhĩ” (như hoa Ưu Đàm đă lâu mới hiện một lần), đó chính là Thí Thuyết. “Nhược
ngă ngộ chúng sanh, tận giáo dĩ Phật đạo” (Nếu ta gặp chúng sanh, đều dùng Phật đạo để dạy), tức là Nhân Duyên Thuyết.
Tầng thứ hai, xét theo Biệt
th́ gọi là Thí Thuyết. Xét theo Thông,
cũng có đủ ba tầng: “Ngă tiên bất ngôn giai vi nhất
Phật Thừa cố. Hựu ư nhất Phật Thừa,
phân biệt thuyết tam” (do ta trước hết chẳng
nói [ba thừa] đều là một Phật Thừa. Lại
do một Phật Thừa, phân biệt nói thành ba), tức là
Pháp Thuyết. “Trưởng giả văn dĩ, kinh nhập
hỏa trạch, phương nghi cứu tế” (trưởng
giả nghe xong, liền kinh hăi vào trong nhà lửa, t́m phương
cách cứu vớt) chính là Nhân Duyên Thuyết.
Tầng thứ ba, xét theo Biệt
th́ gọi là Túc Thế Nhân Duyên (nhân duyên trong đời
trước); xét theo Thông th́ cũng
có đủ ba tầng: “Niết Bàn thời đáo, chúng hựu
thanh tịnh, linh nhập Phật huệ” (Thời Niết
Bàn đă đến, đại chúng lại thanh tịnh,
khiến cho họ nhập trí huệ của Phật), tức
là Pháp Thuyết. “Hữu nhất đạo sư” (có
một người hướng dẫn), tức là Thí Thuyết.
Nay v́ dựa theo đa số,
dựa theo ư nghĩa chánh yếu, dựa theo sự giản
lược, xét theo sự nói kèm thêm, muốn giữ cho danh
tự chẳng lẫn lộn, cho nên gác các ư nghĩa thuộc
về Thông lại, chỉ giữ lấy các danh tự thuộc
Biệt.
2.2.2.1.2. Nói rơ có
Thanh Văn hay không
Ngài Quang Trạch nói: “Chắc
chắn có người thật sự hành hạnh Thanh
Văn. Nếu bảo là chẳng thật
sự có, Quyền làm sao tương ứng
cho được?” Ngài Khai Thiện[1]
bảo: “Chắc chắn không có người thật sự
hành Thanh Văn”, và trích dẫn kinh Thắng Man “sơ
nghiệp trong tam thừa chẳng mê lầm nơi pháp”
[để làm minh chứng cho lập luận] “ngoại phàm[2]
đă biết Nhất Thừa, há có Nhị Thừa vẫn
chấp trước tiểu quả ư? Kinh nói có [người
hành Tiểu Thừa], tức là quyền biến [mà nói
như thế]”. Hai vị này đều thiên chấp, trái
nghịch kinh, đánh mất ư nghĩa! Nếu chắc chắn
là có [người thật sự hành hạnh Thanh Văn],
sao kinh này lại nói “đản hóa chư Bồ
Tát, vô Thanh Văn đệ tử” (chỉ giáo hóa
các vị Bồ Tát, chẳng có đệ tử Thanh Văn)? Nếu chắc chắn là không có, ai vào hóa thành, mà
cũng chẳng có tam thừa để dung hội [vào Nhất
Thừa], có Quyền nào để dẫn khởi về Thật đây?
Vặn rằng: “Nếu nói
thật sự có Thanh Văn là đối tượng để được
dẫn khởi quyền biến, cũng phải nên thật
sự có Tam Tạng Phật để được Quyền
Tam Tạng Phật dẫn khởi! Nếu thật sự
chẳng có Tam Tạng Phật, chỉ có Quyền Phật,
lẽ nào chẳng chấp thuận “chỉ có Quyền Thanh
Văn, chẳng có Thanh Văn thật sự” ư?
Đáp: Nghĩa ấy chẳng thể dùng làm lệ được.
V́ có người thật sự đoạn Phiền Hoặc thuộc giới
nội (phiền năo trong tam giới), th́ người ấy
được gọi là Quyền Thanh Văn, nhưng Quyền
là ứng hiện, chỗ nào có vị Phật chỉ đoạn
Phiền Hoặc
thuộc giới nội để có Quyền Phật
tương ứng với vị Phật đó ư? Nay nói
rơ: “Có [Thanh Văn] hay không, đều chẳng thể thiên
chấp”. Nếu xét theo cách nh́n của ông trưởng giả
Thật Trí, sẽ chẳng có kẻ làm khách. Nếu xét theo
căn tánh của đứa con nghèo, Pháp Hoa Luận[3]
nói rơ có bốn loại Thanh Văn: Một là quyết định,
hai là thượng mạn, ba là thoái Đại (lui sụt
đối với Đại Thừa, trở lại hành hạnh
Thanh Văn), bốn là ứng hóa. Hai loại trước,
căn tánh chưa chín muồi, chẳng được thọ
kư. Hai loại sau được thọ kư. Nếu xét theo
kinh này, phải nên có năm loại:
- Một là người tu tập
Tiểu Thừa đă lâu, đời này đạo chín muồi,
nghe tiểu giáo (giáo pháp Tiểu Thừa) mà chứng quả,
giống như loại quyết định Thanh Văn
trong [Pháp Hoa] Luận.
- Hai là [những người]
vốn là Bồ Tát, đă nhiều kiếp tu đạo, giữa
chừng chán ngán sanh tử, thoái thất Đại Thừa,
giữ lấy Tiểu Thừa. Kinh Đại Phẩm gọi
[hạng người này] là “biệt dị thiện
căn” (thiện căn khác lạ). Đức Phật
v́ muốn thành tựu tiểu đạo cho họ, bèn v́ họ
nói pháp Cộng Bát Nhă, khiến cho họ đoạn kết
phược, đắc quả. Những người ấy
thoái thất Đại Thừa chưa lâu, tu tập tiểu
pháp trong thời gian gần đây, theo đúng lẽ sẽ
dễ ngộ, giống như “thoái Đại Thanh
Văn” trong Pháp Hoa Luận.
- Ba là v́ hai hạng
người ấy, chư Phật, Bồ Tát trong ngầm
tu đạo Bồ Tát, ngoài hiện tướng Thanh
Văn, ḥng thành tựu, dẫn dắt, tiếp dẫn, khiến
cho họ nhập đại đạo, giống như hạng
“ứng hóa Thanh Văn” trong Pháp Hoa Luận.
- Bốn là những người
do thấy hai loại Thanh Văn Quyền Thật có thể
thoát khỏi sanh tử; do vậy, bèn
ưa thích Niết Bàn, tu Giới, Định, Huệ,
đă hơi có quán huệ, chưa nhập địa vị
Tương Tự, vừa có chút sở đắc mà đă
nói là “chứng quả”. Đó gọi là “chưa
đắc mà nói là đă đắc, chưa chứng mà nói
là đă chứng”, giống như hạng “thượng
mạn Thanh Văn” trong Pháp Hoa Luận.
- Năm là hàng Đại Thừa
Thanh Văn, tức là dùng âm thanh của Phật
đạo khiến cho hết thảy đều
được nghe.
Nếu xét theo hai loại “quyết định” và “thoái đại” th́ là “có Thanh
Văn”. Nếu xét theo Đại Thừa, theo đúng lư sẽ
chẳng “hôi đoạn”[4],
chẳng trụ trong hóa thành, rốt cuộc về chỗ
có của báu (bảo sở). Thật đă là như vậy, sẽ chẳng có Quyền, cho nên chẳng
có Thanh Văn. Nếu là kẻ tăng thượng mạn,
do chẳng dự vào địa vị, cho nên chẳng gọi
là Thật. Lại chẳng phải là ứng hóa; v́ thế, chẳng gọi là Quyền. Nếu hiểu ư này, có
[người thật sự hành hạnh Thanh Văn] hay không
đều rành rành, cần ǵ phải khổ sở tranh luận?
Lại nữa, chỉ xét
theo Phật đạo Thanh Văn để luận định
có hay không một lần nữa. Nếu là bậc quyền biến ứng
hóa, ngoài hiện h́nh tích Tiểu Thừa, trong ẩn đại
đức, sẽ nói là “không
có Đại Thừa Thanh Văn”. Nếu xét theo tự
hành, chỉ bày Tích nhằm hiển lộ Bổn, bèn nói là “có
Đại Thừa Thanh Văn”. Nay [kinh Pháp Hoa] khai Quyền
hiển Thật chính v́ dẫn dắt hai loại Thanh
Văn “quyết định” và “thoái Đại”, khiến cho họ
trở thành Đại Thừa Thanh Văn. Tự hạnh
đă lập, sẽ có thể làm Thanh Văn ứng hóa. Nếu
hiểu ư này, sẽ thông đạt chuyện có [người
thật sự hành hạnh Thanh Văn] hay không!
2.2.2.1.3. Nêu bày Hoặc
(phiền năo) có dày hay mỏng
Xét theo Vô Minh Biệt Hoặc
và căn tánh Đại Thừa để nói, tức là bốn
câu: “Một, Hoặc
nhẹ, căn nhạy bén; hai là Hoặc nặng, căn nhạy
bén; ba là Hoặc nhẹ, căn chậm lụt; bốn là Hoặc
nặng, căn chậm lụt”. Nếu Biệt
Hoặc nhẹ, đại căn (căn tánh Đại Thừa)
nhạy bén, vừa nghe liền ngộ. Nếu Hoặc nặng,
căn tánh nhạy bén, nghe hai lần mới ngộ. Nếu
Hoặc nhẹ, căn chậm lụt, ba lượt nghe mới
ngộ. Nếu Hoặc nặng nề, căn tánh chậm lụt,
dẫu nghe đôi ba lượt, vẫn chẳng thể ngộ,
chỉ là Kết Duyên Chúng mà thôi! Hoặc
có thể nói bậc lợi căn trong trường hợp
thứ nhất và thứ hai, đều cùng là thượng
căn. Người thuộc câu thứ ba là trung căn,
người thuộc câu thứ tư là hạ căn. Hoặc
có thể nói câu đầu là thượng căn, câu thứ
hai và thứ ba gộp chung thành trung căn, câu thứ tư
là hạ căn.
Lại nữa, xét theo sơ
phẩm vô minh th́ có ba tầng, có thể che lấp Trung
Đạo của bậc Sơ Trụ. Thoạt tiên, [đức
Phật] thực hiện Pháp Thuyết Châu, bậc thượng
căn nghe xong, ba tầng vô minh cùng lúc đều hết, mở
mang tri kiến của Phật, dự vào địa vị
Bồ Tát, được thọ kư Bồ Đề. Trung
căn chỉ đoạn hai tầng, hạ căn chỉ
đoạn một tầng. Kế đó là Thí Thuyết
Châu, trung căn đoạn hết tầng thứ ba, mở
mang tri kiến của Phật, được thọ kư Bồ
Đề. Hạ căn tiến lên, đoạn được
tầng thứ hai. Sau đó, khi [đức Phật] thực
hiện Nhân Duyên Thuyết Châu, hạ căn đoạn hết
ba tầng [vô minh], được thọ kư Bồ Đề.
2.2.2.1.4. Luận
định căn chuyển hay chẳng chuyển
Cổ nhân nói: “Thượng
căn vừa nghe Pháp Thuyết Châu liền ngộ, mà trung
căn chuyển thành giống như thượng căn, hạ
căn chuyển thành giống như trung căn. Tới lúc
Thí Thuyết Châu, trung căn do trước đó đă trở
thành thượng căn, sẽ liền có thể đắc
ngộ. Hạ căn do trước đó đă trở thành trung căn, nay sẽ chuyển thành giống
như thượng căn. Tới thời Nhân Duyên Thuyết,
hạ căn do trước đó đă thành thượng
căn, cho nên đắc ngộ”. Nay nói: “Nếu
là như vậy th́ người đă ngộ đều là
thượng căn, sao c̣n gọi là tam căn? Nếu đều
là thượng căn, cần ǵ phải gọi là lợi
hay độn?” Phàm là chúng sanh tâm thần bất định,
gặp ác duyên sẽ chuyển lợi căn thành độn
căn. Gặp thiện duyên, sẽ chuyển độn
căn thành lợi căn. Đời trước, gặp
Phật, nghe pháp, có người tự chuyển hạ
căn và trung căn thành thượng căn, đều là
đắc ngộ nơi Pháp Thuyết Châu. Có người tự
chuyển hạ căn thành trung căn th́ đều là
đắc ngộ nơi Thí Thuyết Châu. Có người
đời trước chưa chuyển, cần phải
đợi đến châu thứ ba (Nhân
Duyên Thuyết) mới ngộ. Chuyển căn
như thế khác với các cách giải thích trước
kia (cách giải thích trước thời Trí Giả đại
sư). Ví như ba thanh đao chặt gỗ, đao bén vừa
chém sẽ đứt ngay. Đao loại vừa th́ phải
chém hai lần mới đứt. Đao cùn phải chém ba
lượt mới đứt. Cái tên “lợi” hay “độn” đều chẳng mất,
nhưng gỗ bị chặt đứt giống nhau.
Đao ví như Căn, gỗ ví
như Hoặc, người cầm đao ví như cơ
(căn cơ). Người dạy chặt ví như Phật.
Người tiếp nhận lời dạy ví như nghe
pháp. Vận dụng đao ví như sử dụng Quán. Gỗ
đứt ví như chứng nhập. “Từng mài” là
ví như đời trước đă chuyển căn. Do gặp
dịp mài giũa khác nhau, cho nên có lợi hay độn.
Trong ấy, nghe pháp đắc ngộ tợ hồ thuộc
Tín Hạnh, không phải là chẳng kiêm Pháp Hạnh. Do đời
trước tin pháp mà xoay chuyển, giúp đỡ lẫn
nhau khác biệt, nhưng trong một hội, lẽ ra chẳng
có sáu mươi bốn phen[5].
Hỏi: Tam căn đă dự
vào địa vị Sơ Trụ, vẫn c̣n có lợi
căn hay độn căn ư?
Đáp: Chân tu th́ Thể hiển
lộ, sẽ không có hơn kém.
Hỏi: Nếu là như thế,
từ Sơ Trụ trở lên, khởi duyên tu, có hơn kém
hay chăng?
Đáp: Những người
cùng một địa vị ấy, sẽ chẳng có
hơn, kém, chân tu th́ Thể
dung thông, há có khác biệt?
2.2.2.1.5. Nói rơ
căn có ngộ và chẳng ngộ
Trong kinh, phần nhiều nói
Bồ Tát là thượng căn, Duyên Giác là trung căn. Thanh
Văn là hạ căn. Nếu như vậy, [sẽ có
người lập luận] “Bồ Tát đều phải
nên đắc ngộ ngay trong châu đầu tiên (Pháp Thuyết
Châu)”. Chưa chắc
đă là nghĩa như thế! Bắt đầu từ tam châu,
cho đến Lưu Thông, Thọ Lượng, có các vị
Bồ Tát lần lượt ngộ Vô Sanh Nhẫn ở mỗi
lúc, sao có thể nói [Bồ Tát đắc ngộ] hạn cuộc
trong Pháp Thuyết
Châu? Duyên Giác cũng chẳng hạn cuộc trong Thí Thuyết Châu,
[suy ra] cũng có thể biết.
Hỏi: Bồ Tát đắc
ngộ từ đầu đến cuối đều có,
[vậy th́] Nhị Thừa đắc ngộ cũng phải
nên thuộc vào lúc sau?
Đáp: Tam châu đă xác định cha con có mối thiên tánh [liên quan] xong, [người
đắc ngộ trong bất cứ châu nào] cũng đều
gọi là Bồ Tát. Dẫu ngộ sau này, vẫn cùng gọi
là “Bồ Tát đắc ngộ”.
2.2.2.1.6. Luận
về có lănh giải hay không lănh giải
Nếu tam thừa cùng ngộ,
sao lại chỉ thấy [kinh chép] Thanh Văn lănh giải
(tiếp nhận, thấu hiểu), c̣n hai loại kia (Duyên Giác
và Bồ Tát) th́ không? Nay nói rơ: Lúc không có Phật xuất thế
[mà giải ngộ], th́ gọi là Độc Giác. Nghe Phật
nói pháp nhân duyên bèn đắc ngộ, th́ gọi Duyên Giác,
như Đại Ca Diếp, Xá Lợi Phất v.v… đều
là căn tánh Trung Thừa, nhưng do đă dự vào hàng Thanh
Văn, bèn đắc ngộ, lănh giải chẳng khác. Bồ
Tát chẳng lănh giải là v́ trong giáo pháp Thanh Văn, chẳng
nói đến chuyện thành Phật. Nay kinh này mở ra con
đường trở về Đại Thừa [khẳng
định “mọi chúng sanh đều sẽ thành Phật”,
bậc Thanh Văn] tự sợ hiểu
sai lầm, bèn đối trước đức Phật trần
thuật kiến giải. Bồ Tát chẳng vậy, cho nên
chẳng lănh giải!
Ư này lại có ba:
- Một là Bồ Tát vốn
sẵn có ư nguyện cầu thành Phật. Dẫu có chấp
trước sai khác, nhưng do chấp trước nhẹ
nhàng, rốt cuộc sẽ quy về Phật đạo, chẳng
hề phải lo lắng! Nay nghe nói tam châu, chỉ [dựa
theo đó để] điều chỉnh Quán Huệ cho đúng, cho
nên chẳng cần phải [nêu bày sự] lănh giải.
- Hai là Bồ Tát ngộ to lớn,
kinh văn chỗ nào cũng nói điều đó. Nhị Thừa
thành Phật th́ bắt đầu từ giáo pháp này mới
lưu truyền. V́ thế, lược đi chuyện Bồ
Tát lănh giải. Trong Phạn văn [của kinh Pháp Hoa] có thể
có [ghi chép chuyện này], nhưng bản chữ Hán lược
đi, chẳng viết.
- Ba là do địa vị và
hạnh của Bồ Tát sâu tuyệt, các vị tân tiểu
Bồ Tát chẳng dám [nêu bày sự] lănh giải. Khi [đức
Phật] nói phẩm Thọ Lượng xong, các vị Bồ
Tát như ngài Di Lặc đều
lănh giải. Kể từ những vị đắc Vô Sanh
Nhẫn cho đến cuối cùng là những vị Nhất
Sanh Bổ Xứ đều lănh giải trọn vẹn, chẳng
cầu chi nữa.
2.2.2.1.7. Nói về
chuyện được thọ kư hay không
Nếu đều cùng lănh giải,
v́ sao Thanh Văn được thọ kư, chẳng thấy
Duyên Giác và Bồ Tát được thọ kư? Chuyện này
cũng có ba ư:
- Một, trước đó
đă nói rơ hàng Nhị Thừa nhập chánh vị, chẳng
thể phát tâm, sẽ do đâu mà được thọ kư?
Nay đă ngộ đại pháp, vui thích được thọ
kư, cho nên [đức Phật] bèn v́ họ thọ kư kiếp
số, quốc
độ [khi họ thành Phật trong tương lai]. Bồ Tát
phát tâm cầu thành Phật, hạnh
măn sẽ tự thành Phật; v́ thế, chẳng mong cầu
gấp [được thọ kư]; Phật cũng chẳng
vội thọ kư. Hơn nữa, trong các giáo trước kia (Hoa Nghiêm, Phương
Đẳng, Bát Nhă), chỗ nào cũng đều thọ kư
Bồ Tát. Đấy là điều được luôn nói,
c̣n nay [trong kinh này] chỉ chú trọng truyền dịch
[chuyện Thanh Văn được thọ kư, ḥng khơi
gợi tín tâm “ai cũng đều có thể thành Phật”].
- Hai, Bồ Tát cũng
được thọ kư. Điều Đạt (Đề
Bà Đạt Đa), long nữ, há chẳng phải là
được thọ kư đấy ư? Hơn nữa, phẩm
Pháp Sư có nói: “Cầu Thanh Văn giả, cầu Bích Chi
Phật giả, cầu Phật đạo giả, như
thị đẳng loại, hàm ư Phật tiền văn
Pháp Hoa kinh, ngă giai dữ thọ Tam Bồ Đề kư”
(Người cầu Thanh Văn, người cầu Bích Chi
Phật, người cầu Phật đạo, những hạng
người như thế, đều ở trước
đức Phật nghe kinh Pháp Hoa, ta đều thọ kư
Chánh Giác cho họ). Đấy chẳng phải là đều
thọ kư ư?
- Ba, Nhị Thừa trước
nay chưa từng được thọ kư tám tướng
[thành đạo]; v́ thế, nay thọ kư kiếp số và quốc độ [cho hàng Thanh
Văn]. Bồ Tát trước kia đă từng được
thọ kư. V́ thế, chẳng cần nói lại nữa! Thọ
kư về cái quả nông cạn, gần gũi th́ bậc
Sơ Trụ đă đạt được. Điều
hàng Bồ Tát vui thích chính là được thọ kư quả
Diệu Giác viên măn cùng tột, lâu xa. V́ thế, trong phẩm
Thọ Lượng, kể từ mới phát tâm cho đến
đă đạt được
Nhất Sanh Bổ Xứ, cái nhân mầu nhiệm đă viên
măn, cực quả sẽ nhanh chóng viên thành. Đấy chính
là thọ kư cho Pháp Thân, sao lại nói là chẳng thọ kư?
Hỏi: Nếu Tiểu Thừa
đă ngộ đại đạo, lẽ ra phải nên
cùng được thọ kư Pháp Thân? Sao lại thọ kư “tám
tướng thành đạo” cho họ?
Đáp: Tám tướng là ứng
kư (thọ kư cho Ứng Thân). Đă được ứng
kư, sẽ biết [Ứng Thân] ắt có Bổn (Pháp Thân). Muốn
khiến cho chúng sanh nghe biết, cùng đến kết duyên; cho nên, trao truyền ứng kư đó thôi! Lại nữa, nếu
Nhị Thừa nghe thọ lượng, sẽ cùng tăng
đạo, tổn sanh[6],
được thọ kư Pháp Thân.
2.2.2.1.8. Luận
về ngộ cạn hay sâu
Một mực cùng phá vô minh,
dự vào địa vị Sơ Trụ của Viên Giáo, suy
t́m tỉ mỉ th́ ắt có sáng hay tối (ngộ nhiều
hay ít). Trước hết, nghe Pháp Thuyết. Người
đă nhập Phật huệ, sẽ nghe Thí Thuyết, há chẳng
càng sáng suốt hơn (ngộ sâu hơn)? Lại nghe Nhân
Duyên, ắt đương nhiên sẽ tăng tấn. Lại
nghe Thọ Lượng, càng thêm cao sâu! Như người
nghe pháp, nghe giảng lại lần nữa, chắc chắn
[sẽ lănh ngộ] hơn hẳn lần trước.
Như lạnh mà được áo, áo đơn hay áo kép, do chia thành dày hay mỏng
[mà cảm thấy mức độ ấm áp khác nhau].
2.2.2.1.9. Lợi
ích có Quyền và Thật
Có người cho rằng:
“Do Thật hành mà đạt được lợi ích, c̣n
Quyền hành chính là để ảnh hưởng, tiếp
dẫn, [cho nên] chẳng luận định lợi ích [của
Quyền hành]”. Nay tôi nói rơ chẳng phải vậy. Nếu
đến phẩm Thọ Lượng, [sẽ thấy rơ]
Quyền hay Thật đều đạt được lợi ích, tăng đạo càng cao, tổn sanh càng hết, gần
với địa vị cùng tột trong Viên Giáo, chỉ c̣n
một đời (Nhất Sanh Bổ Xứ), há chẳng phải
là lợi ích của Quyền ư? Do vậy, [bậc Quyền
hành Thanh Văn] thoạt đầu làm Ảnh Hưởng,
cùng Thật hành viên măn, sau đó nói đến cực quả,
tức là đạo của chính ḿnh được tỏa
sáng. Kinh văn nói: “Xuất nhập tức lợi, năi biến
tha quốc” (chi ra, nhập vào, lợi tức trọn khắp
các nước khác). Lợi tức ở nơi ḿnh, tức
là chính ḿnh được lợi ích. Thật hành đạt
được lợi ích, do Quyền dẫn khởi
[người khác cùng Thật hành], công giáo hóa quy về chính
ḿnh; [v́ thế dẫu là] Quyền [hành], cũng đạt
được lợi ích. Do vậy, đức Phật
dùng một âm thanh diễn nói pháp, chúng sanh tùy từng loại đều được
hiểu, cần ǵ cứ phải chờ
đến phẩm Thọ Lượng mới biết Quyền
hành cũng đạt được lợi ích ư? Các vị Bồ
Tát từ dưới đất vọt lên, thưa: “Ngă
đẳng tự diệc dục đắc thử chân tịnh
đại pháp” (chúng con cũng muốn đạt
được đại pháp thật sự thanh tịnh này), tức là tự
đạt được lợi ích vậy.
2.2.2.1.10. Luận về
đợi thời hay không đợi thời
Kẻ trước đó chẳng
ngộ, ắt đợi đến thời Pháp Hoa mới
ngộ, th́ gọi là “đăi thời” (đợi thời).
Do các giáo trước mà đă ngộ th́ gọi là “bất
đăi thời” (chẳng đợi thời). V́ sao vậy?
Phật có hiển thuyết và mật thuyết. Nếu xét
theo hiển thuyết, trước thời Pháp Hoa, hàng Nhị
Thừa chưa ngộ đại đạo, cần phải
dùng ngũ vị (sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề
hồ) để điều phục thuần thục, ngơ hầu trong
hội Pháp Hoa, họ sẽ thấu hiểu. V́ thế nói: “Sở
dĩ vị tằng thuyết, thuyết thời vị chí
cố. Kim chánh thị kỳ thời, quyết định
thuyết Đại Thừa” (Sở dĩ chưa từng
nói là v́ chưa đến đúng lúc để nói. Nay chính
là đúng lúc, quyết định nói Đại Thừa).
Đấy chính là “đợi thời”. Nếu xét theo
mật thuyết, chưa chắc phải đợi đủ
ngũ vị để đến hội Pháp Hoa mới hiểu.
Trước đó, đă có người ngầm nhập, bèn
gọi là “chẳng đợi thời”. Ở đây, chính là phán định “đúng thời” và “chẳng
phải thời”. Nếu xét theo tam châu, cũng là “đợi
thời” và “chẳng đợi thời”. Hai môn Tích và Bổn
cũng là “đợi thời” và “chẳng đợi thời”,
cho nên có kẻ ngộ nhập trước hay sau. Trong tam
châu, “tự luận mật” là như trong thời Pháp Thuyết, [có những vị]
do ngầm nghe chuyện cỗ xe lớn và chuyện Đại
Thông Trí Thắng Phật bèn được ngộ nhập.
Đó chính là “chẳng đợi thời”. Đối với
chuyện ngầm nghe trong châu thứ hai (Thí Thuyết Châu)
[mà được ngộ nhập], cứ dựa theo đó
cũng có thể biết.
Hỏi: Nếu trong tam châu và
Bổn đều có mật thuyết, sao trong sách Huyền
Nghĩa lại nói “Pháp Hoa chỉ là hiển thuyết?”
Đáp: Nói là hiển hay mật
là do trước kia Thiên và Viên chẳng biết lẫn nhau,
nay đến kinh này, cùng nhập một lư Viên như nhau,
tuy mật mà hiển, do thuần nhất một vị.
Nhưng trong hội Pháp Hoa này, có “đợi” và “chẳng
đợi”, nhưng biết
hàng Nhị Thừa được thọ kư rành rành,
hiển lộ phân minh nói thọ mạng
dài lâu, trong pháp ṭa này (những người cùng dự hội
Pháp Hoa), không ai chẳng nghe biết. V́ thế gọi là Hiển.
Hỏi: Có một loại
căn tánh, trong bốn thời trước đă chẳng
có mật ích (ngầm đạt được lợi
ích), chẳng tới thời Pháp Hoa, sẽ càng không thể
hiển lộ được. Do chẳng thuộc vào hai thời,
đáng lẽ phải là “thất thời” (không
đúng thời), vĩnh viễn chẳng đắc ngộ
chớ?
Đáp: Các kinh khác có thể
nói đấy là “thất thời”, kinh này (kinh Pháp Hoa)
chẳng phải vậy! Trong hai thời hiển và mật,
người ấy đều chẳng ngộ, sanh ư tưởng
diệt độ, nhập Niết Bàn, nhưng trong cơi
nước của người ấy, hễ được
nghe kinh này, th́ chẳng phải
là thất thời, mà chính là “đợi thời”
trong cơi ấy.
Hỏi: Năm ngàn người
đứng lên rời đi, phải là “thất thời”
chứ?
Đáp: Bọn họ sau khi Như Lai
diệt độ, sẽ đạt được lợi
ích từ chỗ người hoằng kinh, cho nên cũng là “đợi
thời”. Liệu giản mười nghĩa nơi tam
châu đă xong.
2.2.2.2. Pháp Thuyết
Châu
2.2.2.2.1. Chánh pháp
thuyết
2.2.2.2.1.1. Trường
Hàng
2.2.2.2.1.1.1. Hứa
khả
2.2.2.2.1.1.1.1. Thuận
hứa
(Kinh) Nhĩ thời, Thế
Tôn cáo Xá Lợi Phất: - Nhữ dĩ ân cần tam thỉnh,
khởi đắc bất thuyết?
(經)爾時世尊告舍利弗。汝已慇懃三請。豈得不說。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Xá Lợi
Phất: - Ông đă ân cần thỉnh cầu ba lượt,
lẽ đâu chẳng nói!)
“Nhữ dĩ ân cần”
(ông đă ân cần) là thuận, “khởi bất đắc
thuyết” (lẽ đâu chẳng nói) là hứa (許, chấp thuận).
2.2.2.2.1.1.1.2. Giới
hứa (hứa khả bằng cách căn dặn)
(Kinh) Nhữ kim đế
thính, thiện tư niệm chi, ngô đương vị nhữ
phân biệt, giải thuyết.
(經)汝今諦聽。善思念之。吾當為汝分別解說。
(Kinh: Ông nay lắng
nghe, hăy khéo suy nghĩ, ta sẽ v́ ông phân biệt, giải
nói).
Hai câu trước là răn
nhắc, câu sau cùng là hứa khả. “Đế thính”
(lắng nghe, chân thật nghe) là Văn Huệ. “Thiện
tư” (khéo suy nghĩ) là Tư Huệ. “Niệm chi”
(nghĩ ngợi) là Tu Huệ. Đại kinh nói: “Nhất
giả, thân cận thiện hữu. Nhị giả, thính
văn chánh pháp. Tam giả, tư duy kỳ nghĩa. Tứ
giả, như thuyết tu hành. Duy thử tứ pháp, thị
Niết Bàn nhân. Nhược ngôn khổ hạnh thị Niết
Bàn nhân, vô hữu thị xứ!” (Một là thân cận bạn
lành, hai là lắng nghe chánh pháp, ba là tư duy nghĩa lư, bốn
là tu hành đúng như lời dạy. Chỉ có bốn pháp ấy
là cái nhân của Niết Bàn. Nếu nói “khổ hạnh là
cái nhân của Niết Bàn”, chẳng có lẽ ấy). “Thiện
tri thức” trong câu thứ nhất nói đến Như
Lai. Ba câu sau chính là Tam Huệ (Văn, Tư, Tu). V́ thế,
đức Phật răn nhắc; đấy là nhân duyên gần
của Niết Bàn vậy.
2.2.2.2.1.1.1.3. Giản
hứa (hứa khả sau khi loại trừ)
(Kinh) Thuyết thử ngữ
thời, hội trung hữu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu bà-di ngũ thiên nhân đẳng, tức
tùng ṭa khởi, lễ Phật nhi thoái. Sở dĩ giả
hà? Thử bối tội căn thâm trọng, cập
tăng thượng mạn, vị đắc vị đắc,
vị chứng vị chứng, hữu như thử thất,
thị dĩ bất trụ. Thế Tôn mặc nhiên, nhi bất chế
chỉ. Nhĩ thời, Phật cáo Xá Lợi Phất: - Ngă
kim thử chúng, vô phục chi diệp, thuần hữu trinh
thật. Xá Lợi Phất! Như thị tăng thượng
mạn nhân thoái diệc giai hỹ. Nhữ kim thiện thính,
đương vị nhữ thuyết.
(經)說此語時。會中有比丘比丘尼優婆塞優婆夷五千人等。卽從座起。禮佛而退。所以者何。此輩罪根深重。及增上慢。未得謂得。未證謂證。有如此失。是以不住。世尊默然而不制止。爾時佛告舍利弗。我今此眾。無復枝葉。純有貞實。舍利弗。如是增上慢人。退亦佳矣。汝今善聽。當為汝說。
(Kinh: Khi nói
lời ấy, trong hội có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu bà-di năm ngàn người liền từ
chỗ ngồi đứng lên, lễ Phật lui ra. V́ cớ
sao vậy? Bọn họ tội căn sâu nặng, và
tăng thượng mạn, chưa đắc nói là đă
đắc, chưa chứng nói là đă chứng. Phạm lỗi
như thế, cho nên chẳng ở lại. Đức Thế
Tôn im lặng, chẳng ngăn trở. Lúc bấy giờ,
đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: - Nay đại
chúng này của ta chẳng c̣n cành lá, thuần là hạt chắc.
Này Xá Lợi Phất! Những kẻ tăng thượng mạn
như thế rút lui cũng tốt. Ông nay khéo nghe, ta sẽ
v́ ông nói).
Từ đầu cho đến
“thoái diệc giai hỹ” (rút lui cũng tốt) là chọn
lựa. “Nhữ kim thiện thính” (ông nay hăy khéo nghe) là
hứa khả. Do có năm ngàn người ấy đang hiện
diện, đức Phật ba lượt ngăn trở
[ngài Xá Lợi Phất thưa hỏi]. Nay sắp hứa
nói, oai thần xua họ đi. V́ thế gọi là “giản
chúng” (揀眾, chọn lọc đại chúng). Ngũ Trược
chướng nhiều là “tội trọng”. Chấp Tiểu,
mịt mờ Đại th́ là “căn thâm”. Chưa
đắc tam quả, nói là đă đắc tam quả,
chưa chứng Vô Học mà nói là đă chứng Vô Học,
như ngộ nhận Tứ Thiền là Tứ Quả v.v…
th́ gọi là “tăng thượng mạn”. Những kẻ
mắc khuyết điểm như thế gọi là “chướng
chấp mạn tam thất” (mắc ba khuyết điểm:
Chướng ngại, chấp trước và ngạo mạn).
“Mặc bất chế chỉ” (im lặng, chẳng ngăn cản): Trước đó, [những
kẻ tăng thượng mạn ấy] đă nghe “khai
tam, hiển nhất” đại lược, do ngôn từ
đơn giản, nghĩa lư ẩn tàng, họ c̣n chưa
sanh tâm phỉ báng. Đúng là nhân duyên “viên châu buộc trong
áo”, họ rời đi c̣n có ích. Nếu nghe “khai tam, hiển
nhất” cặn kẽ, do t́nh kiến so đo, sẽ dấy
ḷng phỉ báng, ở lại sẽ bị tổn hại.
V́ thế, chẳng ngăn cản họ!
“Vô phục chi diệp” (chẳng c̣n cành lá):
Cành lá nhỏ nhặt, chẳng kham làm khí cụ được.
Bọn họ chấp vào phương tiện trong
phương tiện (Tứ Quả của Tiểu Thừa
hăy c̣n là phương tiện, [thế mà] họ lại
hư vọng chấp Noăn, Đảnh là pháp tột bậc),
chẳng phải là căn khí Đại Thừa. V́ thế,
kinh Đại Phẩm nói: “Phan chi phụ diệp, khí vu căn bản. Thị nhân vi bất hiệt” (nắm níu cành
lá, vứt bỏ cội gốc, người ấy chẳng
thông sáng) tức là nói về nghĩa này vậy. “Thoái diệc
giai hỹ” (lui về cũng tốt) : Đă tự bị
mờ ḷa bởi Tiểu pháp, lại c̣n ngăn trở ánh
sáng Đại pháp của kẻ khác! Nay họ rút lui,
sẽ chẳng mắc tội khiên “báng pháp”, lại chẳng phạm lỗi chướng ngại
người khác. V́ thế nói là “giai hỹ” (tốt lắm).
Do cành lá chưa rời đi, cho nên Như Lai ba lượt
ngăn trở. [Do những người căn cơ] “chắc
thật” muốn nghe, cho nên Thân Tử (Xá Lợi Phất)
bốn lượt thỉnh. [Đó là v́] thầy
tṛ soi xét căn cơ [của thính chúng], chẳng phải là
chần chừ suông!
Hỏi: Đức Phật
đại từ bi, sao không dùng thần lực khiến cho
họ ở lại, nhưng chẳng
nghe, giống như hàng Nhị Thừa trong hội
Hoa Nghiêm như điếc, như câm, sao chẳng cưỡng
ép họ nghe Đại pháp, như Hỷ Căn đối
với Thắng Ư[7]?
Đáp: Mỗi đằng
đều có duyên do. Cuối hội Hoa Nghiêm đă thật
sự mở ra Tiệm pháp, chưa phá chấp trước
Tiểu Thừa. V́ thế, [Nhị Thừa tuy] hiện diện
trong pháp ṭa, nhưng bị ngăn cách. Nay đang muốn diệt
hóa thành, phá am tranh[8],
cần phải chọn lựa, xua đuổi. Nếu họ
dù đi hay ở đều báng bổ, th́ sẽ như Hỷ
Căn cưỡng nói [đại pháp với Thắng Ư].
Nay họ rời đi sẽ có ích, bỗng dưng bảo
họ ở lại, ở lại th́ họ sẽ bị tổn
hoại. Nếu bỗng dưng chẳng xua đuổi, [sẽ
giống như] Hỷ Căn chỉ khiến cho kẻ
đó đạt được lợi ích trong đời
lâu xa, do ḷng Từ nên cưỡng nói, gieo cái nhân yên vui cho họ,
[chứ họ hoàn toàn chẳng đạt được lợi
ích trong hiện tại, lại c̣n tạo cái nhân gây khổ
do báng bổ trong hiện tiền]. Như Lai hộ
tŕ, khiến cho kẻ đó chẳng báng bổ, do ḷng bi
mà xua đuổi, ḥng dẹp trừ nỗi khổ trong
tương lai cho họ.
Hỏi: Năm ngàn người
ngồi đó chẳng đạt được lợi
ích, bỏ đi th́ đạt được lợi ích ǵ?
Đáp: Họ chẳng phải
là đương cơ, mà là hạng kết duyên. Xưa
kia, vào thời Đại Thông Trí Thắng Phật, cũng
có vô lượng chúng sanh tâm sanh nghi hoặc, đời
đời sanh cùng một chỗ với thầy, nay đều
được đắc độ,
cho đến sau khi Như Lai diệt độ, vẫn
chưa độ hết. Hăy nên biết năm ngàn người
ấy cũng giống như
thế. Lại nữa, khi nói đại kinh, có tám vạn
năm ngàn ức người đối với kinh ấy
chẳng sanh tín tâm. Những người ấy trong vị
lai cũng sẽ tin tưởng. Phỏng theo
đó [mà suy, sẽ biết] lợi
ích là lâu hay mau! Phần thứ nhất là hứa khả
đă xong.
2.2.2.2.1.1.2. Tiếp
nhận ư chỉ
(Kinh) Xá Lợi Phất
ngôn: - Dụy nhiên Thế Tôn! Nguyện nhạo dục
văn.
(經)舍利弗言。唯然世尊。願樂欲聞。
(Kinh: Xá Lợi
Phất nói: - Bạch vâng đức Thế Tôn! Con vui thích
mong được nghe).
Trước đó đă có ba
lượt thỉnh, phần này cũng chính là thỉnh lần
thứ tư.
2.2.2.2.1.1.3. Chánh
thuyết
Chánh Thuyết được chia thành hai phần: Một
là nói về bốn loại Phật, nói rộng về Quyền
Thật của chư Phật. Hai là nói về Phật Thích
Ca, [tức là] nói cặn
kẽ về Quyền Thật của Phật Thích Ca. Trong
phần trên, nói khá ít tức là “văn lược”
(kinh văn nói đại lược). Nói chung về chư
Phật tức là “nhân lược” (nói đại
lược về người). Chỉ
khai tam hiển nhất là “nghĩa lược”. Trong phần
này, có nhiều câu kinh văn tức là “văn quảng”
(kinh văn nói rộng, nói chi tiết, nói cặn kẽ).
Nói ra năm loại Phật tức là “nhân quảng”. Sáu phen nói rơ tức
là “nghĩa quảng”. “Sáu phen” chính là:
- Một, tán thán pháp hiếm
có.
- Hai, nói chẳng hư vọng.
- Ba, mở ra phương tiện.
- Bốn, chỉ bày chân thật.
- Năm, nêu lên Ngũ Trược
để giải thích Quyền.
- Sáu, loại trừ hư ngụy
để củng cố niềm tin.
“Tán thán pháp” nhằm khiến cho [thính chúng] sanh
ḷng tôn trọng. “Nói [pháp này] chẳng hư
vọng” ḥng dứt phỉ
báng. “Mở ra phương tiện” khiến cho họ đừng chấp Tiểu pháp. “Chỉ bày chân thật” khiến cho họ
ngộ Đại Thừa. “Nêu ra Ngũ
Trược” nhằm chỉ
bày [v́ sao chư Phật] ắt phải dạy tam thừa. “Loại trừ hư ngụy” th́ ắt phải
chân thật.
Trong chương nói về
năm loại Phật, mỗi mỗi đều có đủ
sáu nghĩa, trước sau tỏ lộ lẫn nhau. [Những
chỗ dường như] chẳng đầy đủ [sáu nghĩa] là do Như Lai khéo nói, dẫu
đại lược mà chẳng thiếu khuyết, đạt
đến mục đích mà chẳng cần đến
văn từ rườm rà. Lại nữa, sáu
nghĩa trước sau cũng không đâu chẳng tồn
tại (sanh khởi rành rành, đại thể tùy thời.
Do sáu nghĩa ấy, cùng hợp thành sự khai hiển ư chỉ
chánh yếu. Như [luận về] chư Phật trong ba
đời chỉ có hai chương, há chẳng phải là
cực sơ lược, nhưng [ư nghĩa] khai hiển chẳng
khuyết! [Phần kinh văn] dạy hành nhân từ Quyền
đạt đến Thật, lược đi bốn
chương, khiến cho văn từ chẳng rườm
rà. “Nghệ” là đạt tới. [Nói] “tiền hậu
bất tại” (trước sau không đâu chẳng tồn
tại) chính là đối với chỗ trọng yếu của
cả sáu chương, không ǵ chẳng được khai
hiển như thế. [Nếu nghĩa nào trong sáu
chương (tức sáu phần nói về sáu nghĩa trên
đây)] trước sau chẳng có, tức là [các ư nghĩa
không được nói rơ ấy] đă gộp trong bốn
chương kia, nhưng [thật ra] nghĩa nào cũng trọn
đủ sáu nghĩa, gộp chung thành một ư, chẳng cần
phải [phân chia tách bạch] theo thứ tự).
2.2.2.2.1.1.3.1. Nói
tới bốn loại Phật[9]
2.2.2.2.1.1.3.1.1.
Nói chung về chư Phật
Phần này chia
thành bốn đoạn: Một là tán thán
pháp hy hữu, hai là nói chẳng hư vọng, ba là mở ra
phương tiện, bốn là nêu bày chân thật, tức là
thiếu hai nghĩa. Hai nghĩa ấy
sẽ được nêu ra trong phần sau.
2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.
Tán thán pháp hy hữu
(Kinh) Phật cáo Xá Lợi
Phất: - Như thị diệu pháp, chư Phật Như
Lai thời năi thuyết chi, như Ưu Đàm Bát Hoa, thời
nhất hiện nhĩ.
(經)佛告舍利弗。如是妙法。諸佛如來時乃說之。如優曇缽華。時一現耳。
(Kinh: Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất:
- Diệu pháp như thế, chư Phật Như Lai đến
đúng thời mới nói, như hoa Ưu Đàm Bát La đến đúng thời mới hiện ra một lần).
Ở đây, cùng tán thán pháp và thí dụ. Nếu chư Phật
xuất thế trong đời Ngũ Trược, ắt
trước hết phải mở ra tam thừa. Như nay
đức Thế Tôn hơn bốn mươi năm mới
hiển lộ chân thật, ẩn kín đă lâu. V́ thế nói
“thời năi thuyết chi” (đến đúng lúc mới
nói). “Đă lâu chẳng nói” là v́ con người chẳng
kham nổi. Do chưa đến thời, cho nên chưa xua
đuổi năm ngàn người. Nay đă có người
kham nhận, đă đến thời, năm ngàn người
đă rời đi, quyết định nói Đại Thừa,
cho nên nói là “thời năi thuyết chi”. Hoa Ưu Đàm
(Udumbara), phương này dịch là Linh Thụy
(靈瑞), ba ngàn năm mới
xuất hiện. Lại nữa, hoa ấy xuất hiện,
Kim Luân Vương xuất thế, biểu thị sau khi
đă điều phục tam thừa thuần thục th́ mới
nói diệu pháp, được đấng Pháp
Vương thọ kư. Lại nữa, do đă vượt qua các tam-muội thuộc các vị lạc,
sanh tô và thục tô, bèn nói đề hồ.
Giải thích theo quán tâm th́ là Trung diệu quán, thông với hết thảy các pháp,
đạt tới Thật Tướng th́ gọi là Linh.
Linh tức là “linh thông”. Do có phép Quán này, ắt
được Phật thọ kư, bèn gọi là Thụy (tốt lành). Do có phép Quán này, mới
đạt được Phật quả, nên gọi là Hoa.
2.2.2.2.1.1.3.1.1.2.
Nói chẳng hư vọng
(Kinh) Xá Lợi Phất!
Nhữ đẳng đương tín Phật chi sở thuyết, ngôn bất
hư vọng.
(經)舍利弗。汝等當信佛之所說。言不虛妄。
(Kinh: Này Xá Lợi Phất!
Các ông phải nên tin lời Phật dạy, Ngài chẳng nói
hư vọng).
Lư này sâu tột bậc, khác với
Quyền Lư trước kia. Lời này chí diệu,
tương phản với Quyền ngôn (ngôn từ quyền
biến) trước kia. Hạnh này phổ biến tột
bậc, đối lập với Quyền hạnh trước
kia. Người này thù thắng tột bậc, hơn hẳn
sự hèn kém trước kia. Lại c̣n có nghĩa là khách tạo
bốn thứ thô, đến nay đều diệu. Sợ
chúng sanh sẽ ngờ vực, báng bổ, cho nên trước
hết khuyến tín, khiến cho [thính chúng] tin tưởng “người
chẳng hư vọng sẽ nói pháp chẳng hư vọng”.
2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.3.
Khai phương tiện
2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.3.1.
Khơi mở
(Kinh) Xá Lợi Phất!
Chư Phật tùy nghi thuyết pháp, ư thú nan giải.
(經)舍利弗。諸佛隨宜說法。意趣難解。
(Kinh: Này Xá
Lợi Phất! Chư Phật tùy theo cơ nghi mà thuyết
pháp, ư thú[10]
khó hiểu).
Thuận theo ba loại cơ
nghi, khéo nói phương tiện, nhưng ư Phật ở
nơi Thật, loài người chẳng thể hiểu!
2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.3.2.
Giải thích
(Kinh) Sở dĩ giả
hà? Ngă dĩ vô số phương tiện, chủng chủng
nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, diễn thuyết chư pháp.
(經)所以者何。我以無數方便。種種因緣譬喻言辭演說諸法。
(Kinh: V́ cớ
sao vậy? Ta dùng vô số phương tiện, các thứ
nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để diễn nói các
pháp).
Nêu ra quyền năng của
vị Phật hiện tại nhằm giải thích
phương tiện của chư Phật. Do xảo huệ
(trí huệ thiện xảo) giống như nhau, cho nên
mượn chuyện này để giải thích chuyện
kia. Hăy nên biết chư Phật mở ra phương tiện
quyền biến cũng giống như ta (Thích Ca Mâu Ni Phật)
vậy.
2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.3.3.
Tiểu kết
(Kinh) Thị pháp phi
tư lượng, phân biệt chi sở năng giải,
duy hữu chư Phật năi năng tri chi.
(經)是法非思量分別之所能解。唯有諸佛。乃能知之。
(Kinh: Pháp
này chẳng suy nghĩ, so lường, phân biệt mà có thể
hiểu được, chỉ có chư Phật mới có
thể biết).
Đây là tiểu kết chuyện
mở ra phương tiện quyền biến có ư thú khó hiểu, bởi lẽ, người bẩm thọ
giáo không ai chẳng nói là tam thừa, chỉ có chư Phật
mới có thể biết [ba thừa đều] là một mà
thôi! Đoạn kinh văn này có hai tầng
ư nghĩa:
- Nếu dạy
chân thật th́ như kinh văn trong phần sau nêu bày nhân và pháp thù thắng, pháp chẳng phân biệt, chỉ có Phật
mới có thể biết.
- Phật do trí chẳng phân biệt mà hiểu biết pháp chẳng
phân biệt. V́ thế, hiển thị Thật.
2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4.
Chỉ bày chân thật
2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4.1.
Nêu lên ư nghĩa v́ sao Phật xuất thế
(Kinh) Sở dĩ giả hà?
Chư Phật Thế Tôn, duy dĩ nhất đại sự
nhân duyên cố, xuất hiện ư thế.
(經)所以者何。諸佛世尊。唯以一大事因緣故出現於世。
(Kinh: V́
lẽ nào vậy? Chư Phật Thế Tôn chỉ v́ một
đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cơi đời).
Lời giải thích đoạn
này được chia làm hai phần: Một là nói tổng
quát, hai là tách từng chữ ra để giảng giải.
Trước hết là nói tổng
quát, nối tiếp ư của kinh văn trong đoạn trước:
V́ sao là “pháp chẳng thể suy nghĩ, so lường,
phân biệt để hiểu được, chỉ có
chư Phật mới có thể biết”? Đó là v́
chư Phật hiểu biết tướng
như thật. Nương vào Thật đạo ấy
để xuất ứng (xuất thế ứng hiện)
trong thế gian, chỉ v́ khiến cho
chúng sanh đạt được Thật Tướng ấy,
chẳng c̣n chuyện ǵ khác. Thật Tướng vô tướng,
vi diệu bậc nhất. V́ thế, chẳng thể do suy
nghĩ, so lường, phân biệt mà ḥng hiểu được!
Kế đó, là phân tích từng
chữ để giải thích. “Một” tức là một
Thật Tướng, chẳng phải ba, chẳng phải
năm, chẳng phải bảy, chẳng phải chín. V́ thế
nói là “một” (“ba” tức là tam thừa, “năm” là [tam
thừa] cộng thêm nhân và thiên, “bảy” là [ngũ thừa]
cộng thêm Nhị Thừa của Thông Giáo, “chín” là cộng
thêm Bồ Tát trong Thông Giáo và Biệt Giáo). Tánh ấy rộng
lớn, rộng lớn khắp ba, năm, bảy, chín v.v…
V́ thế gọi là Đại. Do là nghi thức xuất thế
của chư Phật, cho nên gọi là Sự. Chúng sanh có
căn cơ ấy để cảm, cho nên gọi là
Nhân. Như Lai thuận theo căn cơ ấy mà ứng, cho nên gọi là Duyên.
Đó chính là bổn ư xuất thế, nhưng trước
hết mở ra tam thừa để dẫn dắt.
Như người muốn lấy [thứ ǵ] th́ trước
hết phải trao cho. Tuy nói các thứ đạo, thật
ra là Nhất Thừa.
2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4.3.
Nhắc lại
(Kinh) Xá Lợi Phất!
Vân hà danh chư Phật Thế Tôn duy dĩ nhất đại
sự nhân duyên cố, xuất hiện
ư thế?
(經)舍利弗云何名諸佛世尊。唯以一大事因緣故出現於世。
(Kinh: Này Xá Lợi Phất!
Cớ sao gọi là chư Phật Thế Tôn chỉ v́ một
đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cơi đời?)
Đức Phật sắp giải
thích, lại gạn hỏi lần nữa để làm lời
phát khởi. Lại nữa, đại sự này được
Phật tôn trọng, như trong Thích Luận nói phụ
vương muốn nghe tên Thái Tử nhiều lần bèn nhiều
lượt nhắc đến, chẳng hề chán đủ!
2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4.4.
Giải thích
Những lời
tổ [Trí Khải] đả phá [các lập luận thiên kiến
của cổ đức trước thời Ngài] chẳng
trích lục v́ đă hiển Thật th́ vô lượng pháp
đều là một. Như Thập Diệu được
nói trong sách Huyền Nghĩa chính là mười thứ Nhất.
Nếu nói giản lược để tương ứng
với cách hiểu xưa (tức cách hiểu của
chư cổ đức trước thời Trí Giả
đại sư) th́ là Tứ Nhất (bốn thứ Nhất).
Nói “vô lượng Nhất” th́ mỗi sắc, mỗi
hương, không ǵ chẳng phải là Trung Đạo.
Nghĩa này có thể biết được. Nói đến
“mười thứ Nhất”, xét theo kinh
văn hoàn toàn trọn đủ, tuy chẳng theo
thứ tự, nhưng mười nghĩa chẳng giảm.
“Pháp ấy chẳng thể suy nghĩ, so lường,
phân biệt mà có thể hiểu được” chính là hiển thị Lư Nhất. “Chỉ có chư Phật
mới có thể biết” là hiển thị Trí Nhất. “Chỉ
v́ một đại sự”, “một” chính là Lư, “đại”
chính là Trí (trí có thể chiếu cảnh th́ mới thấu
đạt cảnh to lớn. V́ thế “đại”
được gọi là Trí). Sự chính là Hạnh (tự
hành, hóa độ người khác th́ đều gọi là Sự). Lư phát khởi Trí, Trí hướng dẫn Hạnh.
Xét theo ư nghĩa này, sẽ chính là hiển
thị Hạnh Nhất. “Tri kiến”: Trí biết Lư, mắt
thấy pháp chân thật, Đế lư vô vi sẽ chẳng
phân biệt. Do pháp vô vi mà có sai biệt. Xét theo tri kiến ấy
để luận định “khai, thị, ngộ, nhập”.
Từ đại lược
mà suy ra cặn kẽ th́ có bốn mươi mốt địa
vị, tức là hiển thị Vị Nhất. Lại dùng
cách nói tổng kết để nêu rơ Nhất: Nhất tức
là Pháp Thân, Đại tức là Bát Nhă, Sự tức là giải
thoát, là tạng bí mật. Đó là hiển thị ba pháp Nhất.
“Xuất hiện trong cơi đời” hiển thị Cảm
Ứng Nhất. “Chỉ giáo hóa Bồ Tát” hiển thị
Quyến Thuộc Nhất. “Chư hữu sở tác”
(Các điều thực hiện) hiển thị Thần
Thông Nhất. “Chỉ dùng tri kiến của Phật để
chỉ dạy cho chúng sanh ngộ” hiển thị Lợi
Ích Nhất. “Chỉ dùng một Phật Thừa để
thuyết pháp cho chúng sanh” hiển thị Thuyết Pháp Nhất. Các
nghĩa được in dấu trong kinh văn đúng là
phù hợp khít khao! Nay đại lược chỉ nói bốn
thứ Nhất giống như cách giải thích của cổ
đức. Số lượng giống nhau, nhưng ư nghĩa khác biệt.
Cổ đức nói Quả Nhất, nay nói là Lư Nhất. Dựa
theo nghĩa và dựa theo văn, [sở dĩ đề ra
Lư Nhất] là v́:
- Dựa theo nghĩa, nếu
chẳng có Lư Nhất, các sự sẽ điên đảo,
đều là ma thuyết, chẳng c̣n là kinh Phật nữa.
V́ thế, cần phải có Lư Nhất.
- Dựa theo văn th́ kinh
văn nói đến tri kiến của Phật. Nay xét theo
cái được thấy biết th́ cái được thấy
chính là Đế, cái được biết chính là Cảnh.
Cảnh và Đế chính là Lư Thật Tướng. V́ thế
gọi là Lư Nhất.
Cổ đức nói
Nhân Nhất (因一), từ
đơn giản, ư nghĩa khác biệt, nay nói là Hạnh
Nhất để gồm thâu cả nhân lẫn quả. Nhân
Nhất (人一) và Giáo Nhất
th́ danh xưng giống như cách nói của cổ đức.
[Do vậy], lời giải thích sẽ chia thành bốn phần:
Một là Lư Nhất, hai là Nhân Nhất, ba là Hạnh Nhất,
bốn là Giáo Nhất.
2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4.4.1.
Chỉ ra Lư Nhất
(Kinh) Chư Phật Thế
Tôn dục linh chúng sanh khai Phật tri kiến, sử đắc
thanh tịnh cố, xuất hiện ư thế. Dục thị
chúng sanh Phật chi tri kiến cố, xuất hiện ư
thế. Dục linh chúng sanh ngộ Phật tri kiến cố,
xuất hiện ư thế. Dục linh chúng sanh nhập Phật
tri kiến đạo cố, xuất hiện ư thế.
Xá Lợi Phất! Thị vi chư Phật dĩ nhất
đại sự nhân duyên cố xuất hiện ư thế.
(經)諸佛世尊。欲令眾生開佛知見使得清淨故。出現於世。欲示眾生佛之知見故。出現於世。欲令眾生悟佛知見故。出現於世。欲令眾生入佛知見道故。出現於世。舍利弗。是為諸佛以一大事因緣故出現於世。
(Kinh: Chư Phật
Thế Tôn muốn khiến cho chúng sanh khai tri kiến của
Phật thanh tịnh, nên xuất hiện trong cơi đời.
Muốn chỉ bày tri kiến của Phật cho chúng sanh, nên xuất hiện
trong cơi đời. Muốn khiến cho chúng sanh ngộ tri
kiến của Phật, nên xuất hiện trong cơi đời.
Muốn khiến cho chúng sanh nhập đạo tri kiến
của Phật, nên xuất hiện trong cơi đời. Này
Xá Lợi Phất! Đó là chư Phật do một đại
sự nhân duyên mà xuất hiện trong cơi đời).
Giải thích Lư Nhất, lại
chia thành bốn ư: Một là xét theo bốn địa vị,
hai là xét theo bốn trí, ba là xét theo bốn môn, bốn là xét
theo quán tâm.
* Xét theo bốn địa vị,
Đế và Cảnh chẳng thể thấy biết. Nếu
xét theo trí nhăn th́ có thể thấy biết. Bốn loại
mắt dựa trên hai trí (Nhất Thiết Trí và Đạo
Chủng Trí) chẳng thể thấy biết; chỉ có Phật
nhăn từ Nhất Thiết Chủng Trí là có thể thấy
biết. Kinh nói “vị linh chúng sanh khai Phật tri kiến”
(v́ khiến cho chúng sanh mở mang tri kiến của Phật); nếu chỉ nói về Phật quả, sẽ bỏ
mất chúng sanh. Nếu chỉ nói về chúng sanh, sẽ chẳng
phải là tri kiến của Phật. V́ thế, chẳng thể
chấp giữ thiên lệch.
Hành giả thuộc ba giáo trước (Tạng, Thông,
Biệt) tuy là chúng sanh, nhưng chưa đắc Phật
nhăn và Phật trí, cho nên không thể thấy biết Thật
Tướng. Bốn địa vị trong Viên Giáo (tức
Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng,
Thập Địa) cũng là chúng sanh, nhưng đă do
đă đắc một phần Phật nhăn và Phật trí,
cho nên ư nghĩa “chúng sanh” đă thành, mà ư nghĩa “tri
kiến của Phật” cũng thành tựu. V́ thế,
nhờ vào bốn địa vị ấy để giải
thích Lư Nhất. Như trong các thụy tướng (tướng
tốt lành) [nói trong Tự Phần], có cơi trời
tuôn mưa bốn loại hoa, biểu thị “vạn
thiện đồng quy, được nhập bốn
địa vị”. Nương vào hoa “bốn địa
vị” (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Địa) để tiến nhập
Phật quả. Do đó, dựa theo địa vị để
hiển Lư. “Khai” tức là Thập Trụ trong Viên Giáo,
vừa mới phá vô minh, mở ra Như Lai Tạng, thấy
lư Thật Tướng. V́ sao? Tánh đức diệu lư nhằm
tiếp độ kẻ bị đắm nhiễm bởi
hai thứ Hoặc thông và biệt, khó thể biết rơ.
Sơ tâm tuy có thể viên tín (tin trọn vẹn,
tức địa vị Danh Tự), viên thọ (tiếp
nhận trọn vẹn, tức địa vị Ngũ Phẩm),
viên phục (hàng phục trọn vẹn, tức địa
vị Thập Tín), nhưng chưa thể đoạn Hoặc,
chẳng gọi là Khai! Trong th́ thêm quán hạnh, ngoài nhờ
vào mưa pháp giúp phá trừ Hoặc thuộc Thông và Biệt
ẩn tàng, hiển xuất tu tánh chân thật, tri kiến
khơi mở, phát khởi rạng ngời. Như mặt
trời mọc lên, tối tăm bị diệt trừ. Mắt
có tác dụng, cho nên gọi là Khai. Duyên tu phá Hoặc; v́ thế
nói là “sử đắc thanh tịnh” (khiến cho
được thanh tịnh). Kinh Nhân Vương dạy: “Nhập
lư Bát Nhă, danh vi Trụ,
trụ ư Thập Trụ Bạch Hoa
vị dă” (Nhập lư Bát Nhă th́ gọi
là Trụ, trụ trong địa vị hoa trắng (hoa mạn-đà-la) Thập
Trụ).
“Thị” là Hoặc chướng đă trừ,
cái Thể của tri kiến hiển lộ. Thể trọn
vạn đức, các đức thuộc pháp giới hiển
thị phân minh. V́ thế, gọi là Thị, tức là địa
vị đại bạch hoa (hoa ma-ha mạn-đà-la) Thập
Hạnh vậy.
“Ngộ” là chướng trừ, Thể hiển
lộ, hạnh pháp giới rơ ràng, Sự Lư dung thông, chẳng
có hai đường! Như Lư Trí và Như Lượng Trí,
Lư và Lượng chẳng hai. V́ thế gọi là Ngộ, tức
là địa vị hoa đỏ (hoa mạn-thù-sa) Thập
Hồi Hướng vậy.
“Nhập” là Sự Lư đă dung thông, tự tại
vô ngại, mặc t́nh tuôn rót, vào trong biển Tát Bà Nhă (Nhất
Thiết Trí). Như Lư, Như Lượng, thông đạt
tự tại. Tri kiến như lượng có thể tŕ
các đức. Tri kiến như lư có thể ngăn các Hoặc,
tức là địa vị hoa đại xích (hoa ma-ha mạn-thù-sa)
Thập Địa.
Nhưng địa vị mầu nhiệm trong viên
đạo, trong mỗi địa vị, trọn đủ
công đức của bốn mươi mốt địa
vị. Chỉ Khai là đă trọn
đủ “thị, ngộ, nhập”, chẳng có tâm nào
khác nữa! Nhưng tri kiến như lư chẳng có tướng
phân biệt cạn hay sâu. Muốn hiển thị tri kiến
như lượng, cho nên phân biệt bốn địa vị.
Phát tâm rốt ráo chẳng có sai khác bất nhị. Hai tâm
như thế, tâm trước khó. Đă nói đến khó dễ,
bèn biết sơ tâm và tất cánh tâm phải nên có sự sai
biệt sáng, tối, cạn, sâu, giống như bản thể
của vầng trăng trước sau đều tṛn đầy,
thế mà có [tướng trạng] mồng Một, ngày Rằm
[khuyết, tṛn] sai khác. Tri kiến thuộc bốn địa
vị đều chiếu sáng Thật Tướng, mà nói
Khai, Thị, Ngộ, Nhập sai khác!
* Hai là xét theo bốn trí (gọi
là Xuất Bát Nhă, thông với ba giáo, nay chỉ nói theo Viên
Giáo):
- Một là Đạo Huệ:
Thấy thật tánh của đạo, từ trong Thật Tánh
mà được khai Phật tri kiến.
- Hai là Đạo Chủng Huệ:
Biết tướng biệt giải Hoặc của các
đạo chủng trong mười pháp giới. Mỗi mỗi
đều là phô bày tri kiến Phật.
- Ba là Nhất Thiết Trí, biết
hết thảy các pháp [có cùng] một tướng tịch
diệt. “Tịch diệt” tức là ngộ tri kiến
của Phật.
- Bốn là Nhất Thiết
Chủng Trí: Biết hết thảy các pháp đều có
cùng một tướng tịch diệt, các thứ tướng
mạo hạnh loại đều biết, tức là nhập
tri kiến của Phật (hai chữ Trí Huệ đều
thông nhân quả và tổng biệt. Nay chỉ nói đến
Đạo Huệ. V́ thế, xét theo nhân, xét theo tổng,
thêm một chữ Chủng. Do xét theo nhân, xét theo biệt,
trước Trí có hai chữ Nhất Thiết. Xét theo quả,
theo Tổng lại thêm một chữ Chủng. Đó là xét
theo quả, theo Biệt).
Lại nữa, Đạo Huệ
như Lư th́ gọi là Khai. Đạo Chủng Huệ
như lượng gọi là Thị. Lư và lượng của
Nhất Thiết Trí bất nhị, gọi là Ngộ. Nhất
Thiết Chủng Trí lư và lượng cùng chiếu, đó là
Nhập. Đấy cũng là xét theo Thật Lư chẳng có cạn
hay sâu, nhưng phân biệt thành cạn hay sâu (như đối
với tục cảnh có số lượng, bèn dùng Thật Lư để khế hợp, Lư và Lượng
chính là lẫn nhau, chẳng phải là “nhân quả, biệt,
tổng” mà luận định “nhân, quả, tổng, biệt”. Do có bốn danh xưng làm
phương tiện, lư trước và sau giống nhau).
* Ba là xét theo bốn môn của Viên Giáo để giải thích theo chiều ngang, sẽ thành bốn
câu:
- Không môn th́ “một thứ
không, hết thảy đều không”, tức là Khai tri kiến
của Phật.
- Hữu môn th́ “một thứ
có, hết thảy đều có”, chính là Thị tri kiến
của Phật.
- Diệc Hữu Diệc
Không môn th́ hết thảy vừa không, vừa có, tức là
Ngộ tri kiến của Phật.
- Phi Không Phi Hữu môn, hết
thảy đều chẳng phải có, chẳng phải
không, tức là Nhập tri kiến của Phật.
Cái có thể thông (Khai, Thị,
Ngộ, Nhập) là bốn, đối tượng
được thông (tri kiến của Phật) là một.
Khai, Thị, Ngộ, Nhập là môn có thể thông. Cái
được thấy được biết chính là Lư
được thông.
* Bốn là xét theo quán tâm
để giải thích. Quán lư Tam Đế trong tâm tánh chẳng
thể nghĩ bàn. Phép Quán ấy sáng sạch
th́ là Khai. Tuy chẳng thể nghĩ bàn,
nhưng cái tâm có thể phân biệt Không, Giả, Trung rành
rành, chẳng xen lạm, th́ gọi là Thị. Cái tâm Không, Giả,
Trung tuy ba mà một, tuy một mà là ba, đó gọi là Ngộ.
Cái tâm Không, Giả, Trung chẳng phải là Không, Giả,
Trung, mà chiếu b́nh đẳng Không, Giả, Trung th́
chính là Nhập. Đấy là Nhất Tâm Tam Quán mà tách thành
Khai, Thị, Ngộ, Nhập sai khác.
V́ thế, dùng bốn khía cạnh
để giải thích, thấy Lư do địa vị, mỗi
địa vị do Trí mà sai khác, Trí được phát khởi
do môn, thông suốt môn nhờ Quán. Do Quán nên bèn thông suốt
môn, do môn đă thông nên trí thành. Do trí thành nên các địa vị
được thành lập. Do các địa vị
được thành lập mà thấy Lư. Do thấy Lư, nên gọi là Lư Nhất (Tuy nói là Lư Nhất, nhưng Môn chính là Giáo Nhất,
Quán tức Hạnh Nhất, địa vị tức Nhân Nhất).
Đấy là đối với ba món Giáo, Hạnh, Nhân,
đều nhờ vào Lư để biện định. Lư
đă là như thế, ba điều kia cũng phỏng
theo đó, sự hay khéo trong giải thích chẳng c̣n thêm ǵ
được nữa!
Lại nữa, trong phần
xét theo trí của mỗi địa vị thuộc phần trước, Sơ Trụ
mới được gọi là Khai, tợ hồ phàm phu chẳng
có phần. Trong phần sau, xét theo Môn và xét theo Quán th́ danh tự sơ
tâm có phần tu chứng, huống hồ bản thể tri
kiến của chúng sanh vốn chính là bản thể tri kiến của
Phật! Như Thể của băng chính là nước, chỉ
v́ Hoặc chướng đông lạnh mà toàn thể nước
thành băng. Nếu tin tưởng Viên môn, ngay nơi quán
tâm sẽ có danh tự “khai, thị, ngộ, nhập”, cho đến rốt
ráo “khai, thị, ngộ, nhập”, há có nên đề cao
thánh cảnh, tự gièm chính ḿnh chẳng có phần ư? Há
lại nên hư vọng so đo “sơ tâm chính là Phật”,
đem phàm xâm lạm cái quả tột
cùng ư? Xét theo địa vị ở đây, chẳng phải
chiều dọc mà luận bàn chiều dọc.
Xét theo môn, chẳng phải chiều ngang mà luận bàn theo chiều ngang. Xét theo trí, chẳng phải vừa
là dọc vừa là ngang, mà luận vừa ngang vừa dọc. Xét theo Quán, chẳng
phải “không phải dọc, không phải ngang” mà luận
định “chẳng phải dọc, chẳng phải
ngang”, lại c̣n song chiếu ngang lẫn dọc.
Từ “Xá Lợi Phất”
trở đi, tức là tiểu kết ư nghĩa Lư Nhất.
Trước kia là phương tiện giáo, cũng đều
luận định “khai, thị, ngộ, nhập”, nhưng chẳng phải
là [khai thị ngộ
nhập] tri kiến của Phật. V́ thế
là Quyền. Nay nói rơ tri kiến của Phật, v́ thế là
Thật. Thật chính là Lư Nhất.
2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4.4.2.
Chỉ ra Nhân Nhất
(Kinh) Phật cáo Xá Lợi
Phất: - Chư Phật Như Lai đản giáo hóa Bồ
Tát.
(經)佛告舍利弗。諸佛如來。但教化菩薩。
(Kinh: Đức Phật
bảo ngài Xá Lợi Phất: - Chư Phật Như Lai chỉ
giáo hóa Bồ Tát).
Các phương tiện
trước kia nhằm giáo hóa tam thừa. Lư Thật chỉ
giáo hóa Bồ Tát, như đứa con nghèo tự coi ḿnh là gă khách hèn mọn.
Trưởng giả trông thấy, biết hắn thật sự
là con của ḿnh. Đó chính là Nhân Nhất.
2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4.4.3.
Chỉ ra Hạnh Nhất
(Kinh) Chư hữu sở
tác, thường vị nhất sự, duy dĩ Phật chi
tri kiến thị ngộ chúng sanh.
(經)諸有所作。常為一事。唯以佛之知見示悟眾生。
(Kinh: Các việc đă
làm thường v́ một sự: Chỉ dùng tri kiến của
Phật để chỉ bày, khiến cho chúng sanh được
ngộ).
Các hạnh thuộc tam thừa
được gọi là “chư”. Do Viên nên là Chư, tức
là Sự Nhất. Các hạnh ấy hướng đến
đâu? Chỉ hướng đến tri kiến của Phật,
tức là ư nghĩa Hạnh Nhất vậy.
2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4.4.4.
Chỉ ra Giáo Nhất
(Kinh) Xá Lợi Phất!
Như Lai đản dĩ nhất Phật Thừa cố,
vị chúng sanh thuyết pháp, vô hữu dư thừa,
nhược nhị, nhược tam.
(經)舍利弗。如來但以一佛乘故。為眾生說法。無有餘乘若二若三。
(Kinh: Này Xá Lợi Phất!
Như Lai chỉ dùng một Phật Thừa để v́
chúng sanh thuyết pháp, chẳng có thừa nào khác, dù hai hay ba).
Giáo pháp viên đốn
được gọi là Nhất Phật Thừa. Từ
Biệt Giáo trở về trước, đều gọi
là “hữu dư thuyết”, tức là “bất liễu
nghĩa”, chẳng phải là Nhất Phật Thừa.
“Vô hữu dư thừa” (chẳng có thừa nào khác) tức
là chẳng có “kèm thêm Biệt” như trong Hoa Nghiêm. “Vô
nhị”: Chẳng kèm thêm hai giáo trước như trong
Bát Nhă. “Vô tam”: Chẳng như Phương Đẳng
đối ứng với ba giáo trước.
Nhưng bốn đoạn
kinh văn trên đây, mỗi đoạn đều có hai nghĩa:
Trong đoạn văn thứ nhất, nếu chú trọng “có
thể thấy biết” th́ chính là Nhân Nhất. Nay chú trọng
“cái được thấy biết” th́ là Lư Nhất.
Trong đoạn văn kế tiếp, nếu chú trọng sự
giáo hóa th́ là Giáo Nhất. Nếu chú trọng Bồ Tát th́ là
Nhân Nhất. Trong đoạn văn thứ ba, tức đoạn
nói về “chư hữu sở tác”, nếu nói theo phía
đức giáo chủ th́ là Giáo Nhất. Nay nếu nói theo phía hành
nhân, sẽ là Hạnh Nhất. Trong đoạn văn thứ
tư, nếu chú trọng ư nghĩa “chuyên chở” th́
là Hạnh Nhất. Nếu chú trọng ư nghĩa “v́ chúng sanh
thuyết pháp” th́ là Giáo Nhất! Bất quá là xét
theo phương tiện để giải thích. Phần giải
thích chánh yếu về bốn điều Nhất đă
xong.
2.2.2.2.1.1.3.1.1.1.4.4.5.
Tổng kết
(Kinh) Xá Lợi Phất!
Nhất thiết thập phương chư Phật pháp diệc
như thị.
(經)舍利弗。一切十方諸佛法亦如是。
(Kinh: Này Xá Lợi Phất!
Pháp của mười phương hết thảy chư
Phật cũng như thế).
Câu này tổng kết bốn
điều Nhất (Tứ Nhất), văn giản lược,
nghĩa tường tận. V́ sao nói vậy? Trong Tự Phần,
do quang minh [phóng ra từ tướng bạch hào của
đức Phật] liền theo chiều
ngang thấy một vạn tám ngàn cơi nước. Ngài
Văn Thù dẫn chứng chuyện xưa theo chiều dọc,
[nêu ra] hai vạn vị Phật, không vị nào chẳng v́
Thật mà thị hiện Quyền, khai Quyền hiển Thật,
đều có cùng một ư nghĩa với Phật xuất
hiện trong đời Ngũ Trược hiện thời.
V́ thế, [Phật Thích Ca] chẳng đợi thỉnh cầu,
đă nói (tức là “tán thán trí huệ của Phật chẳng thể
nghĩ bàn”). C̣n như trong
hết thảy mười phương, nơi biển các
cơi nước vô tận, chư Phật xuất thế
trong các thế giới tịnh hay uế sai biệt vô tận, cũng có chỗ thuần nói
Đại Thừa, cũng có chỗ thuần nói tiểu
pháp. Thuần nói Đại Thừa th́ chẳng cần ban bố
tam thừa, cố nhiên là [trọn đủ] bốn điều
Nhất (Lư Nhất, Giáo Nhất, Nhân Nhất, Hạnh Nhất).
Thuần nói tiểu pháp, sẽ chẳng thể hiển Thật,
nhưng lâu sau, rốt cuộc cũng là sẽ không cơi nào chẳng
trở thành “bốn điều Nhất”, thế nhưng chẳng
thể dùng số kiếp lâu hay mau để tính toán
được, chẳng thể dùng Thiên Nhăn của những
vị có thần thông thấp hơn Đẳng Giác để
ḍ lường được! Trong phần kinh văn kế
tiếp, sẽ khai Tích hiển Bổn. Công giáo hóa suốt
ba đời của Như Lai là như thế đó. Nếu
chẳng tin điều này, sao gọi là “tùy hỷ” cho
được? Phần thứ nhất, “nói chung về
chư Phật” đă xong.
2.2.2.2.1.1.3.1.1.2.
Liệt kê tam thế chư Phật
Chia thành ba phần:
Một là quá khứ Phật, hai là vị lai Phật, ba là hiện
tại Phật. Trong phần này, phải nên có đủ sáu
nghĩa, nhưng chẳng ra ngoài hai loại: Một là mở
ra phương tiện, hai là hiển thị chân thật.
[Trong sáu nghĩa ấy], hai nghĩa nói về loại
trước, hai nghĩa nói về loại sau (tán thán pháp chưa
từng có, nói chẳng hư vọng, tức là nói đến
chương nêu tổng quát chư Phật trên đây. Nêu ra
Ngũ Trược để giải thích Quyền, loại
trừ hư ngụy để củng cố niềm tin,
tức là phần nói về Phật Thích Ca trong phần sau).
2.2.2.2.1.1.3.1.1.2.1.
Quá khứ Phật
(Kinh) Xá Lợi Phất!
Quá khứ chư Phật dĩ vô lượng vô số
phương tiện, chủng chủng nhân duyên, thí dụ,
ngôn từ, nhi vị chúng sanh diễn thuyết chư pháp.
Thị pháp giai vi nhất Phật Thừa cố. Thị
chư chúng sanh tùng chư Phật văn pháp, cứu cánh giai
đắc Nhất Thiết Chủng Trí.
(經)舍利弗。過去諸佛。以無量無數方便。種種因緣譬喻言辭。而為眾生演說諸法。是法皆為一佛乘故。是諸眾生。從諸佛聞法。究竟皆得一切種智。
(Kinh: Này Xá
Lợi Phất! Quá khứ chư Phật dùng vô lượng
vô số phương tiện, các thứ nhân duyên, thí dụ,
ngôn từ để v́ chúng sanh diễn nói các pháp. Các pháp ấy
đều là một Phật Thừa. Các chúng sanh ấy nghe
pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đắc
Nhất Thiết Chủng Trí).
“Vô lượng vô số
phương tiện” là khai Quyền. “Thị pháp giai
vi” (các pháp ấy đều là) tức là hiển Thật.
“Vi nhất Phật Thừa” (là một Phật Thừa)
tức Giáo Nhất. “Chúng sanh” tức là Nhân Nhất. Có
thể đạt được Chủng Trí là Hạnh Nhất.
Những điều hay biết bởi Chủng Trí chính là
Lư Nhất.
2.2.2.2.1.1.3.1.1.2.2.
Vị lai Phật
(Kinh) Xá Lợi Phất!
Vị lai chư Phật đương xuất ư thế,
diệc dĩ vô lượng vô số phương tiện,
chủng chủng nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, nhi vị
chúng sanh diễn thuyết chư pháp. Thị pháp giai vi nhất
Phật Thừa cố. Thị chư chúng sanh tùng Phật
văn pháp, cứu cánh giai đắc Nhất Thiết Chủng
Trí.
(經)舍利弗。未來諸佛當出於世。亦以無量無數方便。種種因緣譬喻言辭。而為眾生演說諸法。是法皆為一佛乘故。是諸眾生從佛聞法。究竟皆得一切種智。
(Kinh: Này Xá Lợi Phất!
Vị lai chư Phật sẽ xuất hiện trong thế
gian, cũng dùng vô lượng vô số phương tiện,
các thứ nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để v́ chúng
sanh diễn nói các pháp. Các pháp ấy đều là một Phật
Thừa. Các chúng sanh ấy nghe pháp từ chư Phật, rốt
ráo đều đắc Nhất Thiết Chủng Trí).
2.2.2.2.1.1.3.1.1.2.3.
Hiện tại chư Phật
(Kinh) Xá Lợi Phất!
Hiện tại thập phương vô lượng bách thiên
vạn ức Phật độ trung, chư Phật Thế
Tôn đa sở nhiêu ích, an lạc chúng sanh. Thị chư Phật
diệc dĩ vô lượng vô số phương tiện,
chủng chủng nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, nhi vị
chúng sanh diễn thuyết chư pháp. Thị pháp giai vi nhất
Phật Thừa cố. Thị chư chúng sanh tùng Phật
văn pháp, cứu cánh giai đắc Nhất Thiết Chủng
Trí. Xá Lợi Phất! Thị chư Phật đản giáo
hóa Bồ Tát, dục dĩ Phật chi tri kiến thị
chúng sanh cố. Dục dĩ Phật chi tri kiến ngộ
chúng sanh cố. Dục linh chúng sanh nhập Phật chi tri kiến
cố.
(經)舍利弗。現在十方無量百千萬億佛土中。諸佛世尊。多所饒益。安樂眾生。是諸佛亦以無量無數方便。種種因緣譬喻言辭而為眾生演說諸法。是法皆為一佛乘故。是諸眾生從佛聞法。究竟皆得一切種智。舍利弗。是諸佛但教化菩薩。欲以佛之知見示眾生故。欲以佛之知見悟眾生故。欲令眾生入佛之知見故。
(Kinh: Này Xá Lợi Phất!
Hiện tại, trong vô lượng trăm ngàn vạn ức
cơi Phật ở mười phương, chư Phật Thế
Tôn tạo nhiều lợi ích, an lạc chúng sanh. Các vị
Phật cũng dùng vô lượng vô số phương tiện,
các thứ nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để v́ chúng
sanh diễn nói các pháp. Các pháp ấy đều là một Phật
Thừa. Các chúng sanh ấy nghe pháp từ chư Phật, rốt
ráo đều đắc Nhất Thiết Chủng Trí. Này
Xá Lợi Phất! Các vị Phật ấy chỉ giáo hóa Bồ
Tát, v́ muốn dùng tri kiến của Phật để dạy
chúng sanh, v́ muốn cho chúng sanh ngộ tri kiến của Phật,
v́ muốn khiến cho chúng sanh nhập tri kiến của Phật).
Hiện tại Phật chính
là hóa chủ. V́ thế, trước hết nêu ra ư nghĩa
xuất thế. Kế đó là nói về khai Quyền hiển
Thật. Sau đó, kết thành ư “khai, thị, ngộ, nhập”.
[Đoạn văn này] thiếu câu nói về Khai [tri kiến
của Phật] là do văn từ giản lược. Phần
thứ nhất, “chương nói
về bốn loại Phật” đă xong.
2.2.2.2.1.1.3.1.2.
Nêu bày cặn kẽ về Quyền Thật của Phật
Thích Ca
Trong sáu nghĩa, do chẳng tán thán
pháp hy hữu, [cho nên] chỉ có
năm đoạn văn: Một là khai Quyền, hai là hiển
Thật, ba là dùng Ngũ Trược để giải thích
phương tiện, bốn là loại trừ hư ngụy
để củng cố niềm tin, năm là nói rơ chẳng
có hư vọng.
2.2.2.2.1.1.3.1.2.1.
Khai Quyền
(Kinh) Xá Lợi Phất!
Ngă kim diệc phục như thị, tri chư chúng sanh hữu
chủng chủng dục, thâm tâm sở trước, tùy kỳ
bổn tánh, dĩ chủng chủng nhân duyên, thí dụ, ngôn
từ, phương tiện lực, nhi vị thuyết
pháp.
(經)舍利弗。我今亦復如是知諸眾生有種種欲。深心所著。隨其本性。以種種因緣譬喻言辭方便力而為說法。
(Kinh: Này Xá
Lợi Phất! Ta nay cũng như thế, biết các chúng
sanh có các thứ dục và các điều chấp trước
nơi thân tâm, thuận theo bổn tánh của họ, dùng các
thứ nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, và sức phương
tiện để v́ họ thuyết pháp).
Trước là ba (tam thừa),
sau là một (Phật Thừa), giống như bốn loại
Phật chẳng khác. V́ thế nói “diệc phục
như thị” (cũng giống như thế). “Chủng
chủng dục” (các thứ dục) tức là các dục thuộc căn tánh của ngũ thừa. Quá
khứ gọi là Căn, v́ nó có ư nghĩa “có thể sanh”. Hiện
tại gọi là Dục, v́ nó có ư nghĩa “giữ lấy cảnh”.
Vị lai gọi là Tánh, v́ nó có ư nghĩa “chẳng thay đổi”.
“Thâm tâm sở trước” (các điều chấp
trước trong thâm tâm): Tập khí cũ khó chuyển, tức
là Căn. “Phương tiện” chính là tùy nghi mở ra
Quyền pháp tam thừa. Đối ứng với sự cảm
ứng ở đây th́ “các thứ căn tánh dục của
chúng sanh” là Cảm, đức Phật nhận biết,
dùng sức phương tiện để thuyết pháp cho
họ. Đó là Ứng.
2.2.2.2.1.1.3.1.2.2.
Hiển Thật
(Kinh) Xá Lợi Phất!
Như thử giai vi đắc nhất Phật Thừa Nhất
Thiết Chủng Trí cố.
(經)舍利弗。如此皆為得一佛乘一切種智故。
(Kinh: Này Xá
Lợi Phất! Như thế đều là v́ đắc Nhất
Thiết Chủng Trí nơi một Phật Thừa).
2.2.2.2.1.1.3.1.2.3.
Nêu ra Ngũ Trược để giải thích
phương tiện
2.2.2.2.1.1.3.1.2.3.1.
Nêu ư nghĩa
(Kinh) Xá Lợi Phất!
Thập phương thế giới trung, thượng vô nhị
thừa, hà huống hữu tam?
(經)舍利弗。十方世界中。尚無二乘。何況有三。
(Kinh: Này Xá Lợi Phất!
Trong mười phương thế giới, c̣n chẳng có
hai thừa, huống hồ là có ba ư?)
Trước khi nêu ra Ngũ
Trược, bèn nêu ra ư nghĩa này trước hết. Trong
phần trên, đă nói chư Phật khai Quyền hiển Thật,
nhưng chưa nói “ẩn Thật để hành Quyền”.
Nay nói rơ tương xứng với Thật để quán
th́ trong mười phương thế giới, không đâu
chẳng phải là diệu lư pháp giới Chân Như, c̣n chẳng
có giáo pháp thứ hai là Biệt Giáo, huống hồ có ba giáo
là Tạng, Thông, Biệt! Biệt Giáo được gọi
là Nhị Thừa v́ Trung Đạo vượt thoát nhị
biên, chẳng phải chính là nhị biên. Trung và Biên th́ thành
ra hai; v́ thế, gọi là “đệ nhị thừa”
(thừa thứ hai). “Hai” nơi Biệt Giáo đă là chẳng
thể được, huống hồ có Thông Giáo và Tạng
Giáo để cùng với Biệt Giáo tạo thành ba loại
Quyền ư? Đặc biệt xuất hiện trong cơi
đời Ngũ Trược, chẳng thể nào không ẩn
Nhất Thật để thực thi ba thứ quyền biến
vậy!
2.2.2.2.1.1.3.1.2.3.2.
Nêu ra Ngũ Trược
(Kinh) Xá Lợi Phất!
Chư Phật xuất ư Ngũ Trược ác thế, sở
vị kiếp trược, phiền năo trược, chúng
sanh trược, kiến trược, mạng trược.
(經)舍利弗。諸佛出於五濁惡世。所謂劫濁。煩惱濁。眾生濁。見濁。命濁。
(Kinh: Này Xá Lợi Phất!
Chư Phật xuất hiện trong đời ác Ngũ
Trược, tức là kiếp trược, phiền năo
trược, chúng sanh trược, kiến trược, mạng
trược).
“Kiếp” (Kalpa) là Thời. “Thời” (thời gian) chẳng phải là
pháp có thật, nó nương vào phận vị của sắc
và tâm mà giả lập. Nay nói là “trược” (濁, dơ bẩn), tức là bốn
thứ trược tăng trưởng mạnh mẽ, tụ
tập trong lúc này. V́ thế, trong phần sau, kinh văn ghi “kiếp
trược loạn thời”.
Phiền Năo Trược (Kleśa-kasāya): Nói chung,
ngũ trụ tam hoặc[11]
đều gọi là phiền năo. Nay chỉ coi ngũ độn
sử trong tam giới là Phiền Năo Trược, tức là
tham, sân, si, mạn, nghi. Chúng sanh cũng chẳng có cái Thể
nào khác, nương vào sắc, tâm, Ngũ Ấm mà lập
ra cái giả danh này.
Do Kiến phiền
năo, cảm vời sắc tâm thô tệ, quả báo xấu kém.
V́ thế gọi là Chúng Sanh Trược (Sattva-kasāya).
Kiến Trược (Drsti-kasāya): Nói chung là các
phân biệt Hoặc trong tam giới và ngoài tam giới th́
đều gọi là Kiến. Nay chỉ lấy năm lợi
sử trong tam giới làm Kiến Trược, tức là
Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Thủ Kiến, Kiến
Thủ Kiến và Tà Kiến.
Mạng Căn (Jīvitendriya) cũng chẳng phải là thật
pháp, do nương vào thức chủng, một phần dựa
vào công năng duy tŕ sắc tâm liên tục chẳng đoạn
mà giả lập. Nay nói là Trược, v́ ác dị thục
nghiệp cảm vời thức chủng, có thể khiến
cho sắc tâm tồn tại ngắn ngủi; v́ thế gọi
là Mạng Trược (Āyu-kasāya).
Nếu xét theo nhân quả sanh
khởi lẫn nhau, th́ do Kiến
phiền năo làm nhân, cảm vời sắc tâm trong tam giới
làm quả. Do nương vào quả mà lập ra danh xưng Chúng Sanh. Dựa theo một thời kỳ sanh tử của
chúng sanh là lập ra danh xưng Mạng Căn. Nếu
nương vào bốn pháp (kiếp, kiến, chúng sanh, mạng
căn) đều là trược, sẽ lập ra danh xưng
Kiếp Trược (Kalpa-kasāya). Nếu dựa
theo thứ tự trong các kinh, Kiếp Trược đứng
đầu; Kiến, phiền năo, chúng sanh, và mạng theo thứ tự
được xếp đằng sau. Kinh này [liệt kê
Ngũ Trược] không tuân theo thứ tự ấy, ư
nghĩa cũng chẳng thay đổi.
Hỏi: Ngũ Trược
nói trong kinh này và kinh Đại Phật Đảnh (kinh
Lăng Nghiêm) giống nhau, hay khác nhau?
Đáp: Ngũ Trược
nói trong kinh Đại Phật Đảnh bao trùm chín pháp giới,
chỉ có Phật là thanh tịnh (không có Ngũ Trược). Ngũ Trược
nói trong kinh này hạn cuộc trong kiếp giảm nơi uế
độ, chẳng xét theo Tịnh Độ, chẳng xét
theo tăng kiếp.
Hỏi: Kinh này tối diệu,
sao lại ngược ngạo nói Ngũ Trược nông cạn vậy?
Đáp: Điều này nhằm
minh định “chư Phật ẩn Thật để
thực hiện tam thừa”. Do các Ngài xuất thế
trong đời Ngũ Trược, chuyện bất đắc dĩ
là [nêu bày Ngũ Trược nhằm] tỏ
rơ phương tiện thiện xảo quyền biến chẳng
thể nghĩ bàn! Há có nên dùng kinh Đại Phật Đảnh
để so đo? Kinh ấy riêng
v́ một hạng lợi căn mà trực tiếp mở
mang kiến giải viên măn [cho họ].
Hỏi: Nếu Ngũ Trược có thể gây chướng
ngại to lớn, sao trong kinh Hoa Nghiêm, người
chưa trừ trược lại có thể nghe xong bèn ngộ
là v́ lẽ nào vậy?
Đáp: Điều này phải
nên dùng bốn câu để phân biệt:
- Một là căn tánh Đại
Thừa nhạy bén, chướng nặng nề. Do căn
nhạy bén, trọng chướng chẳng thể gây
chướng ngại. Đó là những
người nghe Đại Thừa đầu tiên nơi hội
Hoa Nghiêm trong cơi này.
- Hai là căn nhạy bén,
chướng nhẹ, tức là những người nhanh
chóng nghe Đại Thừa trong các cơi thanh tịnh ở
phương khác.
- Ba là căn độn,
chướng nhẹ, tức là những người trước
hết nghe tam thừa, sau đó ngộ Nhất Thừa
trong các cơi thanh tịnh ở
phương khác.
- Bốn là căn độn,
chướng nặng ở trong cơi này do nghe pháp dần dần
trừ trược rồi mới nghe Đại Thừa.
Hỏi: Ngũ Trược
cũng chướng ngại Tiểu Thừa ư?
Đáp: Đối với Tiểu
Thừa, cũng nên có bốn câu phân biệt:
- Một là hàng Tiểu Thừa căn nhạy bén, chướng nhẹ,
Trược chẳng
thể gây chướng, như Xá Lợi Phất, Đại
Ca Diếp v.v…
- Hai là Tiểu Thừa căn
nhạy bén, chướng nặng, Trược
cũng chẳng thể ngăn chướng, như Ương
Quật Ma La (Aṅgulimāliya, Aṅgulimāla)[12]
trong kinh A Hàm.
- Ba là Tiểu Thừa căn
độn, chướng nhẹ, Trược
cũng chẳng thể gây chướng, như tỳ-kheo Bàn
Đà (Śuddhipanthaka,
tức ngài Châu Lợi Bàn Đặc, Châu Lợi
Bàn Đà Già).
- Bốn là Tiểu Thừa căn
độn, chướng nặng, Trược
bèn thành chướng, tức là những kẻ khi đức
Phật tại thế chẳng nghe Tiểu Thừa, chẳng
được độ thoát.
Hỏi: Có người chẳng
ở trong Hoa Nghiêm, chẳng ở trong Tam Tạng, mà được
nghe đại pháp hay nghe tiểu pháp là v́ cớ ǵ?
Đáp: Điều này
cũng nên dựa theo tứ giáo mà chia tổng quát thành bốn
câu. Bốn câu tổng quát là:
- Căn nhạy bén, chướng
nhẹ, bất cứ lúc nào cũng đều nên nghe Viên
Giáo.
- Căn nhạy bén, chướng
nặng, th́ bất cứ lúc nào cũng đều nên nghe Biệt
Giáo.
- Căn độn, chướng
nhẹ, th́ bất cứ lúc nào cũng đều nên nghe
Thông Giáo.
- Căn độn, chướng
nặng, bất cức lúc nào cũng đều nên nghe Tạng
Giáo.
Đức Phật do khẩu
mật mà luôn ứng theo, khiến cho họ đạt
được lợi ích. Đối với mỗi giáo,
đều chia thành bốn câu, v́ mỗi giáo trong bốn giáo
đều có bốn môn:
- Căn nhạy bén, chướng
nhẹ th́ do nghe môn “phi Hữu, phi Không” bèn nhập.
- Căn nhạy bén, chướng
nặng th́ do nghe môn “cũng Có, cũng Không” mà nhập.
- Căn độn, chướng
nhẹ th́ do nghe Không môn mà nhập.
- Căn độn, chướng
nặng th́ do nghe Hữu môn mà nhập.
Nói chung, bất luận là có
chướng hay không chướng, quư ở chỗ có
căn, có thừa chủng (chủng tử thuộc thừa
nào đó). Chướng là do phá giới, “chủng” (chủng
tử) là do huân tập thành. Căn do túc tập (sự tu tập
từ đời trước) mà có lợi hay độn. Tới
nay gặp Phật, ngộ th́ bèn có “đợi thời” và
“chẳng đợi thời”. Nếu chẳng có “thừa
chủng” từ đời trước, sẽ chẳng
gặp thiện căn xuất thế. Dẫu cho chướng
nhẹ, vẫn đắm đuối nơi lạc, chẳng ngộ, chẳng thuộc vào bốn câu, chẳng
gồm trong bốn môn, biết làm sao được nữa?
Hỏi: V́ sao Ngũ Trược một mực chướng
Đại mà chẳng chướng Tiểu? (Dựa theo câu
thứ tư trong bốn câu đầu tiên mà hỏi).
Đáp: Chúng sanh trược
nặng, hư vọng chấp trước Ngũ Ấm là
Tứ Đức (đó là chướng nặng). Nếu
nghe “thường, lạc, ngă, tịnh” của Đại
Thừa, liền chấp sai là đúng (tức là căn
độn), thầy thuốc cũ ngốc nghếch, ngu xuẩn[13],
chẳng biết sữa tốt xấu (chẳng biết
thuốc), chẳng biết cội nguồn gây nên bệnh,
chẳng biết cách thêm hay bớt các vị thuốc (chẳng
biết kê toa), chẳng hiểu biết ǵ. V́ thế, trược
lẫn chướng đều to. Kinh văn chép: “Nhược
đản tán Phật Thừa, chúng sanh một tại khổ”
(nếu chỉ khen ngợi Đại Thừa chúng sanh sẽ
ch́m đắm trong sự khổ) chính là nghĩa này. Nếu
nghe “vô thường, khổ, vô ngă, bất tịnh”, sẽ chán ngán sanh tử, ưa Niết Bàn, phá chấp
trước tà kiến. V́ thế, Ngũ Trược chẳng chướng
Tiểu Thừa. Kinh văn chép: “Tác thị tư duy thời,
thập phương Phật giai hiện. Phạm âm ủy
dụ ngă” (Khi ta suy nghĩ như thế, mười
phương Phật đều hiện ra, dùng phạm âm
để an ủi, khuyên dụ ta) chính là ư nghĩa này!
2.2.2.2.1.1.3.1.2.3.3.
Tiểu kết lời giải thích
(Kinh) Như thị Xá Lợi
Phất! Kiếp trược loạn thời, chúng sanh cấu
trọng, xan tham, tật đố, thành tựu chư bất
thiện căn cố, chư Phật dĩ phương tiện
lực, ư nhất Phật Thừa, phân biệt thuyết
tam.
(經)如是舍利弗。劫濁亂時。眾生垢重。慳貪嫉妒。成就諸不善根故。諸佛以方便力。於一佛乘。分別說三。
(Kinh: Như thế
đó, Xá Lợi Phất! Trong thời loạn kiếp
trược, do chúng sanh cấu chướng nặng nề,
keo tham, ghen ghét, thành tựu các bất thiện căn,
chư Phật dùng sức phương tiện từ trong một
Phật Thừa mà phân biệt nói thành ba).
Câu đầu tiên nói đến
Kiếp Trược, câu kế tiếp nói về Chúng Sanh
Trược. “Xan tham, tật đố” tức Phiền
Năo Trược và Kiến Trược. “Thành tựu
chư bất thiện căn” (thành tựu các căn chẳng
lành) chính là Mạng Trược. Nếu chẳng khéo léo lập
bày phương tiện, dùng ǵ để tiếp dẫn
[chúng sanh] thoát khỏi khổ
luân? Phần thứ ba, “nêu ra Ngũ Trược để giải
thích phương tiện” đă xong.
2.2.2.2.1.1.3.1.2.4.
Loại trừ hư ngụy để củng cố niềm
tin vào Nhất Thật
Nếu là đệ
tử Phật, sẽ có thể tự tín giải. Nếu chẳng
tín giải, sẽ chẳng phải là đệ tử thật
sự, mà cũng chẳng phải là La Hán. Đôn đốc
đại chúng trong thuở ấy, khiến cho họ tin nhận
[Nhất Thừa].
2.2.2.2.1.1.3.1.2.4.1.
Phân biệt chân ngụy
2.2.2.2.1.1.3.1.2.4.1.1.
Nếu chẳng nghe, chẳng biết, sẽ chẳng phải
là đệ tử thật sự
(Kinh) Xá Lợi Phất!
Nhược ngă Phật tử tự vị A La Hán, Bích Chi
Phật giả, bất văn, bất tri chư Phật
Như Lai đản giáo hóa Bồ Tát sự, thử phi Phật
đệ tử, phi A La Hán, phi Bích Chi Phật.
(經)舍利弗若我佛子。自謂阿羅漢辟支佛者。不聞不知諸佛如來但教化菩薩事。此非佛弟子。非阿羅漢。非辟支佛。
(Kinh: Này Xá Lợi Phất!
Nếu Phật tử của ta tự nói ḿnh là A La Hán hay
Bích Chi Phật, mà chẳng nghe, chẳng biết chuyện
chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, kẻ
đó chẳng phải là đệ tử Phật, chẳng
phải là A La Hán, chẳng phải là Bích Chi Phật).
Như đệ tử trong thế
gian tùy thuận pháp của thầy, tiếp nối đạo,
truyền đăng, nay chẳng nghe, chẳng biết, sẽ
chẳng có cách nào tùy thuận! Đệ tử là ǵ? Như
Lai trước kia đă v́ đối trị Ngũ Trược mà phương tiện
thực hiện tam thừa, ông được nghe biết,
tùy thuận tu tập, th́ gọi là “đệ tử”.
Ngay Ngũ Trược đă trừ, [Như
Lai] sẽ v́ ông hiển lộ Nhất Thừa, cớ sao chẳng
nghe, chẳng biết? “Chẳng nghe” tức là không nghe Giáo
Nhất. “Chẳng biết” tức là không biết Hành Nhất.
“Chẳng phải là đệ tử” tức chẳng phải
là Nhân Nhất. Nói chung là v́ mê nơi Lư Nhất vậy.
2.2.2.2.1.1.3.1.2.4.1.2.
Nếu đă nghe mà chẳng tin nhận th́ là kẻ tăng
thượng mạn
(Kinh) Hựu Xá Lợi Phất!
Thị chư tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, tự vị dĩ
đắc A La Hán, thị tối hậu thân, cứu cánh Niết
Bàn, tiện bất phục chí cầu A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề. Đương tri thử bối, giai thị tăng thượng mạn
nhân. Sở dĩ giả hà? Nhược hữu tỳ-kheo
thật đắc A La Hán, nhược bất tín thử
pháp, vô hữu thị xứ!
(經)又舍利弗。是諸比丘比丘尼。自謂已得阿羅漢。是最後身。究竟涅槃。便不復志求阿耨多羅三藐三菩提。當知此輩。皆是增上慢人。所以者何。若有比丘實得阿羅漢。若不信此法。無有是處。
(Kinh: Lại
này Xá Lợi Phất! Các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni ấy tự
nói là đă đắc A La Hán, là thân cuối cùng, rốt ráo
Niết Bàn, mà vẫn chẳng mong cầu Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, hăy nên biết hạng người
ấy đều là kẻ tăng thượng mạn. V́
sao vậy? Nếu có tỳ-kheo thật sự đắc A
La Hán mà chẳng tin pháp này, chẳng có lẽ ấy!)
Đức Phật lập ra
Nhị Thừa vốn là v́ Ngũ Trược chướng
nặng, tạm thời khiến cho họ dứt khổ,
cho nên quyền biến nói “đoạn hết Kiến
Tư th́ gọi là A La Hán”, chẳng thọ thân hậu hữu
trong tam giới, gọi là “tối hậu thân” (thân cuối cùng), ra khỏi khổ luân
Phần Đoạn [sanh tử] trong cơi Đồng Cư
th́ gọi là Niết Bàn. Nhưng nếu đă thật sự
đắc đạo A La Hán, chứng Hữu Dư giải
thoát, nay nghe kinh này, phải nên tin nhận, tiến lên cầu
Vô Thượng Bồ Đề. V́ lẽ nào vậy? Trược
chướng đă trừ, lại được nghe đại
pháp này, ắt sẽ suy xét, trù tính, cân nhắc: Vô minh Biệt
Hoặc nếu vẫn c̣n, sao gọi là La Hán cho được?
Biến Dịch sanh tử mênh mông, sao gọi là “tối hậu
thân” cho được? Hóa thành chưa phải là chỗ
có của báu, sao gọi là Niết Bàn rốt ráo cho
được? V́ thế, người thật sự đắc
A La Hán, chưa hề có ai chẳng tin pháp này do đức
Phật đă nói. Nếu tự cho là đủ, chẳng dốc
chí cầu Bồ Đề, hăy nên biết kẻ đó hoàn
toàn chưa chứng A La Hán, chỉ
là phường tăng thượng mạn đó thôi! Phần
thứ nhất, “phân biệt chân ngụy” đă xong.
2.2.2.2.1.1.3.1.2.4.2.
Khai trừ để cởi gỡ nghi hoặc
2.2.2.2.1.1.3.1.2.4.2.1.
Khai trừ
(Kinh) Trừ Phật diệt
độ hậu, hiện tiền vô Phật,
sở dĩ giả hà? Phật diệt độ hậu, như
thị đẳng kinh, thọ tŕ, độc tụng, giải
nghĩa giả, thị nhân nan đắc.
(經)除佛滅度後。現前無佛。所以者何。佛滅度後。如是等經。受持讀誦解義者。是人難得。
(Kinh: Trừ phi sau khi
đức Phật diệt độ, hoặc hiện tiền
chẳng có Phật. V́ cớ sao vậy? Sau khi đức Phật diệt độ, người
nào thọ tŕ, đọc tụng, giải nghĩa các kinh
như thế th́ người ấy khó có).
Sợ có kẻ hỏi: “Nếu
là như vậy, hết thảy La Hán ắt đều dốc
chí cầu Vô Thượng Bồ Đề hay sao?” V́ thế,
nay để khai trừ [lư luận nói nhất loạt
như thế], bèn nói: “Trừ Phật diệt hậu, hiện
tiền vô Phật”, [ư nói] những
người được gọi quyền biến là
“đă chứng La Hán” chưa chắc
đă liền có thể dốc chí cầu Bồ Đề. Lại có người hỏi: “Tuy đức Phật diệt độ, nhưng kinh
này c̣n tồn tại trong cơi đời, sao họ chẳng
tin?” V́ thế, nay giải thích rằng: V́ lẽ nào vậy?
Sau khi đức Phật diệt độ, tuy kinh này vẫn
c̣n trong cơi đời, nhưng người thọ tŕ, đọc
tụng, giải nghĩa khó thể gặp gỡ. Chẳng
gặp người như vậy, th́ thánh giả tiểu
quả làm sao có thể tự thông hiểu, quyết chí cho
được?
2.2.2.2.1.1.3.1.2.4.2.2.
Cởi gỡ mối nghi
(Kinh) Nhược ngộ
dư Phật, ư thử pháp trung, tiện đắc quyết
liễu.
(經)若遇餘佛。於此法中便得決了。
(Kinh: Nếu
gặp vị Phật khác, sẽ đối với pháp này
liền được hiểu rơ, quyết định).
Sợ có kẻ nghi rằng:
“Nếu sau khi đức Phật nhập diệt, các vị
A La Hán không gặp được kinh này, chẳng
gặp người thọ tŕ, đọc tụng, giải
nghĩa kinh này, sẽ vĩnh viễn nhập tiểu Niết
Bàn ư?” V́ thế, nay giải thích rằng: Người ấy
tuy sanh ư tưởng “diệt độ, nhập Niết
Bàn”, nhưng do sanh vào cơi Phương
Tiện Hữu Dư, gặp Phật nói pháp này, sẽ nhất
quyết hiểu rơ “hóa thành chẳng phải là thật”, ắt
vẫn dốc chí cầu Vô Thượng Bồ Đề, trọn
chẳng có lẽ nào vĩnh viễn nhập Niết Bàn! V́
thế, phẩm Thích Tất Định trong Đại Trí
Độ Luận có nói: “Thân La Hán ắt phải diệt,
trụ trong chỗ nào để trọn đủ Phật
đạo? Đáp: Ra khỏi tam giới bèn có Tịnh Độ
của chư Phật”.
[Trong Tịnh Độ của
chư Phật], chẳng có danh xưng phiền năo. Ở trong quốc độ ấy, nghe kinh Pháp Hoa, trọn
đủ Phật đạo. Liền dẫn kinh này để
làm chứng: Có La Hán nếu chẳng nghe Pháp Hoa, tự nói
đă đắc diệt độ, ta ở trong các nước
khác, v́ người đó nói chuyện này: “Ông sẽ thành Phật”. Lại nữa,
nếu ở trong cơi này mà được gặp gỡ
người thọ tŕ, đọc tụng, giải
nghĩa, th́ cũng được hiểu rơ, quyết chí. V́
thế, Nam Nhạc đại sư nói: “Các vị Phật
khác [trong đoạn kinh văn này] là bốn chỗ
nương tựa. La Hán gặp gỡ, nghe kinh bèn quyết
định hiểu rơ”. Lại nói: “La Hán tu Niệm Phật
Định, thấy mười phương Phật v́ vị
ấy nói kinh điển này, liền được quyết
định hiểu rơ” (Nếu nói niệm “mười
phương Phật” tức là đă phát đại tâm. Nếu
lại chỉ nghĩ tới đức Thích Ca, th́ sẽ
là do Tiểu mà cảm Đại, cũng là do căn cơ
phát khởi khiến cho thành ra như thế đó). Phần
thứ tư, “loại trừ
hư ngụy, củng cố tín tâm” đă xong.
2.2.2.2.1.1.3.1.2.5.
Chỉ rơ chẳng hư vọng
(Kinh) Xá Lợi Phất!
Nhữ đẳng đương nhất tâm tín giải,
thọ tŕ Phật ngữ. Chư Phật Như Lai ngôn vô
hư vọng, vô hữu dư thừa, duy nhất Phật
Thừa.
(經)舍利弗。汝等當一心信解受持佛語。諸佛如來。言無虛妄。無有餘乘。唯一佛乘。
(Kinh: Này Xá Lợi Phất!
Các ông hăy nên nhất tâm tin hiểu, thọ tŕ lời Phật.
Chư Phật Như Lai chẳng nói lời hư vọng,
chẳng có thừa nào khác, chỉ có một Phật Thừa).
Trước là khuyên tin tưởng
lời nói chân thật của Phật Thích Ca. Kế đó, khuyên hăy nên tin tưởng lời
chân thành của chư Phật. Cuối cùng, kết lại
Phật Thừa duy nhất. Do vậy, ngăn dứt ngờ vực, báng bổ. Đến đây, phần
kinh văn Trường Hàng đă xong.
2.2.2.2.1.2. Kệ
tụng
2.2.2.2.1.2.1. Hứa
khả sẽ giải đáp
(Kinh) Nhĩ thời, Thế
Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn:
- Tỳ kheo, tỳ-kheo-ni, hữu hoài tăng thượng mạn.
Ưu-bà-tắc ngă mạn. Ưu-bà-di bất tín. Như thị tứ
chúng đẳng, kỳ số hữu ngũ thiên, bất tự
kiến kỳ quá. Ư giới hữu khuyết lậu, hộ
tích kỳ hà tỳ[14]. Thị tiểu
trí dĩ xuất, chúng trung chi tao khang[15], Phật oai
đức cố khứ, tư nhân tiển phước
đức, bất kham thọ thị pháp. Thử chúng vô chi
diệp, duy hữu chư trinh thật. Xá Lợi Phất thiện
thính.
(經)爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。比丘比丘尼。有懷增上慢。優婆塞我慢。優婆夷不信。如是四眾等。其數有五千。不自見其過。於戒有缺漏。護惜其瑕疵。是小智已出。眾中之糟糠。佛威德故去。斯人尠福德。不堪受是法。此眾無枝葉。唯有諸貞實。舍利弗善聽。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này,
bèn nói kệ rằng: - Tỳ kheo, tỳ-kheo-ni, ôm ḷng
tăng thượng mạn, ưu-bà-tắc ngă mạn,
ưu-bà-di chẳng tin, tứ chúng như thế đó, số
đến năm ngàn người, chẳng tự thấy
lỗi ḿnh, khuyết lậu đối với giới, tự
che giấu tỳ vết. Bọn tiểu trí đă đi,
cám bă trong đại chúng, oai đức Phật phải
đi. Bọn họ kém phước đức, chẳng
kham nhận pháp này. Đại chúng không cành lá, chỉ có các
hạt chắc, Xá Lợi Phất khéo nghe).
“Thượng mạn, ngă mạn,
bất tín” tứ chúng đều có, nhưng hai chúng xuất
gia (tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni) phần nhiều
tu đạo, đắc Thiền, lầm tưởng
đă đắc thánh quả, dấy ḷng tăng thượng
mạn. Kẻ kiêu căng trong cơi tục, phần nhiều
dấy ḷng ngă mạn. Nữ nhân trí cạn, phần nhiều
sanh tâm chẳng tin. Kẻ chẳng tự thấy lỗi ấy,
bị ba thứ khuyết điểm che lấp cái tâm, giấu
diếm tỳ vết, phô phang phẩm đức, chẳng
thể tự phản tỉnh, tức là kẻ chẳng hổ
thẹn! Nếu tự thấy lỗi ḿnh, sẽ là vị
Tăng biết hổ thẹn. “Ư giới hữu khuyết
lậu” (có thiếu sót đối với giới): Sai
sót nơi luật nghi th́ gọi là Khuyết. Định Cộng
Giới và Đạo Cộng Giới đều đánh mất,
th́ gọi là Lậu. Do thiếu Định Cộng Giới
và Đạo Cộng Giới, trong tâm dấy lên sự cảm
nhận xấu ác, như ngọc có tỳ vết. Do thiếu
luật nghi, ngoài th́ dấy động thân, miệng, như ngọc lộ ra vết nứt, giấu
diếm tội để tự an, chẳng biết phát lộ,
cho nên gọi là “hộ tích” (giấu diếm). “Tiểu
trí” là chẳng đạt được trí của bậc Hữu Học hay Vô Học, chỉ
có cái trí thế gian nhỏ nhoi, hư vọng so đo, ngỡ
hữu lậu là vô lậu, do [trí ấy] nhỏ nhoi nhất trong thứ nhỏ nhoi, nên
gọi là “tiểu trí”. Chẳng được nhuần
thấm bởi Thiền Định vô lậu, chỉ có Thiền
Định thế gian, cho nên như bă rượu. Chẳng
có lư huệ (trí huệ thuộc về Lư) xuất thế,
chỉ hiểu sơ sài văn tự, mê mờ nơi kinh văn, đánh mất ư chỉ, v́ thế
như cám. Lại nữa, “cám bă” ví như chẳng có
căn cơ Đại Thừa, “chi diệp” (cành lá)
ví như chẳng phải là dụng cụ tốt, đều
chẳng kham dùng được. V́ thế, cần phải
loại bỏ. Bốn bài kệ đều nhằm trùng tụng
chuyện hứa khả sau khi loại trừ
[những kẻ tăng thượng mạn]. Câu cuối cùng
trùng tụng chuyện giới hứa (hứa khả bằng
cách răn nhắc Xá Lợi Phật hăy khéo nghe). Phần thuận
hứa bị lược đi, chẳng trùng tụng.
2.2.2.2.1.2.2. Trùng
tụng phần chánh thuyết
2.2.2.2.1.2.2.1.
Trùng tụng về bốn loại Phật
2.2.2.2.1.2.2.1.1.
Trùng tụng về chư Phật
Phần kệ tụng
này có ba chỗ khác biệt với phần Trường
Hàng:
- Một là đôi bên đều
có những chỗ phần này có mà phần kia không có. [Chẳng
hạn như] phần Trường Hàng có tán thán pháp, nhưng không nói [cặn kẽ về] Ngũ Trược. Phần này (kệ tụng)
có Ngũ Trược, nhưng không tán thán
pháp.
- Hai là thứ tự khác nhau.
Phần Trường Hàng trước hết tán thán pháp, kế
đó nói đến “chẳng hư dối” nhằm khai Quyền
hiển Thật. Kệ tụng th́ trước hết khai
Quyền hiển Thật, sau đó mới nói “chẳng
hư dối”.
- Ba là tách ra hay gộp lại
khác nhau. Phần Trường Hàng gộp chung khuyến tín
và [khẳng định pháp này] chẳng hư dối. Kệ
tụng tách rời “khuyến tín” và “chẳng hư dối”.
Lại nữa, phần Trường Hàng dùng phương tiện
của Phật Thích Ca để giải thích sự quyền
biến của chư Phật. Kệ tụng dùng chuyện
“hiển nhất” (hiển thị Nhất Thừa) của
Phật Thích Ca để giải thích Thật pháp của
chư Phật.
Đó là bốn điều
sai khác. Kinh văn trong phần này được chia thành
năm phần: Một là trùng tụng về chuyện thực
hiện Quyền, hai là trùng tụng về chuyện hiển
Thật, ba là trùng tụng khuyến tín, bốn là nêu ra
Ngũ Trược, năm là trùng tụng [pháp này] chẳng
hư dối.
2.2.2.2.1.2.2.1.1.1.
Trùng tụng về chuyện thực hiện Quyền
(Kinh) Chư Phật sở
đắc pháp, vô lượng phương tiện lực,
nhi vị chúng sanh thuyết. Chúng sanh tâm sở niệm, chủng
chủng sở hành đạo, nhược can chư dục
tánh, tiên thế thiện ác nghiệp. Phật tất tri thị
dĩ. Dĩ chư duyên, thí dụ, ngôn từ, phương
tiện lực, linh nhất thiết hoan hỷ, hoặc
thuyết Tu Đa La, Già Đà, cập Bổn Sự, Bổn
Sanh, Vị Tằng Hữu, diệc thuyết ư Nhân Duyên,
Thí Dụ tịnh Kỳ Dạ, Ưu Ba Đề Xá Kinh.
Độn căn nhạo tiểu pháp, tham trước
ư sanh tử, ư chư vô lượng Phật, bất
hành thâm diệu đạo, chúng khổ sở năo loạn, vị
thị thuyết Niết Bàn.
(經)諸佛所得法。無量方便力。而為眾生說。眾生心所念。種種所行道。若干諸欲性。先世善惡業。佛悉知是已。以諸緣譬喻。言辭方便力。令一切歡喜。或說修多羅。伽陀及本事。本生未曾有。亦說於因緣。譬喻並祇夜。優波提舍經。鈍根樂小法。貪著於生死。於諸無量佛。不行深妙道。眾苦所惱亂。為是說涅槃。
(Kinh: Pháp
chư Phật đă đắc, vô lượng sức phương
tiện, v́ chúng sanh mà nói. Tâm chúng sanh suy nghĩ, các thứ
đạo đă hành, bao nhiêu loại chủng tánh, nghiệp thiện ác đời
trước, Phật đều biết hết cả. Dùng
các duyên, thí dụ, ngôn từ, sức phương tiện,
khiến hết thảy hoan hỷ, hoặc nói ra Khế
Kinh, Kệ Tụng và Bổn Sự, Bổn Sanh, Vị Tằng
Hữu, và cũng nói Nhân Duyên, Thí Dụ cùng Trùng Tụng,
Ưu Ba Đề Xá kinh. Độn căn ưa tiểu
pháp, tham đắm nơi sanh tử, ở nơi vô lượng
Phật, chẳng hành đạo sâu mầu, bị các khổ
năo loạn, v́ họ nói Niết Bàn).
“Chư Phật sở
đắc pháp” (pháp do chư Phật đạt
được): Tu đạo đạt được
các Quyền pháp. Ấy là v́ cái nhân tự hành đă trọn
vẹn, cảm vời Hậu Đắc Vô Phân Biệt Trí, c̣n gọi là Sai Biệt Trí. Ngay trong khi tự hành Quyền
pháp thuộc về Thể, bản thể của pháp ấy
cũng chẳng thể nói. Do v́ phương tiện, v́
chúng sanh mà nói, trở thành hóa tha Quyền, chiếu soi căn
cơ trong chín pháp giới, nói ra bảy phương tiện.
Chín [pháp giới] là đối tượng tiếp độ,
giáo hóa chẳng ngoài bảy [phương tiện]. Nói ra bảy
[phương tiện] để thích ứng với [căn
cơ] trong chín [pháp giới], khiến cho họ dần dần
nhập Thật. Trong bảy và chín thứ đó, tùy theo
căn cơ như thế nào, sẽ được nghe
pháp như thế đó. Hễ gặp căn cơ liền
[thuyết pháp] phù hợp, chứ thoạt
đầu không nhất định [phải nói pháp nào]; v́ thế nói “vô lượng phương tiện lực,
nhi vị chúng sanh thuyết” (vô lượng sức
phương tiện, v́ chúng sanh mà nói). Hiện hành, dấy
lên hy vọng th́ gọi là “sở niệm”. “Niệm”
chính là mong muốn, những điều mong muốn quen thuộc đă trở thành tánh,
có thể tạo thành chủng tử sau này, cộng thêm
các nghiệp trước đó có thiện và ác, sai biệt
ngần ấy, đúng là chẳng thể do một duyên, một
thí dụ, một loại phương tiện mà có thể
độ thoát, chỉ có Phật đều có thể biết
trọn! V́ thế, [đức Phật] có thể tùy nghi thuyết
chín bộ pháp[16],
khiến cho hết thảy đều hoan hỷ. Hoan hỷ
ắt “sanh thiện, diệt ác, nhập lư” (tức Vị Nhân, Đối Trị và Đệ Nhất
Nghĩa Tất Đàn). [Kệ tụng] nêu ra
điều [Tất Đàn] đầu tiên (hoan hỷ) để
gồm chung các điều [Tất Đàn] sau đó (sanh thiện,
diệt ác, nhập lư).
“Chín bộ”: Nói chung th́
Đại Thừa hay Tiểu Thừa đều có mười
hai bộ loại, nhưng luận riêng th́ Tiểu Thừa
hoặc là mười một bộ, hoặc chỉ có chín
bộ, nói cặn kẽ th́ như trong sách Huyền Nghĩa
đă nói. Sáu câu từ “độn căn nhạo
tiểu pháp” (độn căn ưa
pháp nhỏ) trở đi nhằm tiểu kết
ư “thực hiện Quyền”. Đời trước
độn căn, đời này chẳng có cơ hội,
chẳng kham nghe đại pháp. V́ thế nói là “bất
hành thâm diệu đạo” (chẳng hành đạo sâu mầu).
Đời trước tham đắm, chướng nặng,
đời này bị các khổ quấy nhiễu, năo hại, chỉ
có thể nghe tiểu pháp. V́ thế nói “vị thị thuyết
Niết Bàn” (v́ những người ấy mà nói Niết
Bàn).
2.2.2.2.1.2.2.1.1.2.
Kệ tụng hiển Thật
2.2.2.2.1.2.2.1.1.2.1.
Trùng tụng Lư Nhất
(Kinh) Ngă thiết thị
phương tiện, linh đắc nhập Phật huệ,
vị tằng thuyết nhữ đẳng,
đương đắc thành Phật đạo. Sở
dĩ vị tằng thuyết, thuyết thời vị chí
cố. Kim chánh thị kỳ thời, quyết định
thuyết Đại Thừa. Ngă thử cửu bộ pháp,
tùy thuận chúng sanh thuyết, nhập Đại Thừa
vi bổn. Dĩ cố thuyết
thị kinh.
(經)我設是方便。令得入佛慧。未曾說汝等。當得成佛道。所以未曾說。說時未至故。今正是其時。決定說大乘。我此九部法。隨順眾生說。入大乘為本。以故說是經。
(Kinh: Ta lập
phương tiện này, khiến được nhập Phật
huệ. Chưa từng nói các ông, sẽ được
thành Phật đạo. Sở dĩ chưa từng nói, v́
chưa đến lúc nói. Nay chính là đúng lúc, quyết
định nói Đại Thừa. Chín bộ pháp của ta,
tùy thuận chúng sanh nói, nhập Đại Thừa làm gốc.
V́ thế, nói kinh này).
“Phật huệ” chính là
một đại sự nhân duyên. Nếu xét theo người
có thể biết th́ là Hạnh Nhất. Nếu xét theo cái
được biết th́ là Lư Nhất. Nếu lại xét
theo khía cạnh “nói kinh” th́ phải là Giáo Nhất. Nếu
xét theo pháp được tuyên nói th́ là Lư Nhất. Do cũng
chọn lấy điều thuận tiện, nên gọi là
Lư Nhất.
2.2.2.2.1.2.2.1.1.2.2.
Trùng tụng Nhân Nhất
(Kinh) Hữu Phật tử
tâm tịnh, nhu nhuyễn diệc lợi căn, vô lượng
chư Phật sở, nhi hành thâm diệu đạo. Vị
thử chư Phật tử, thuyết thị Đại
Thừa kinh. Ngă kư như thị nhân, lai thế thành Phật
đạo, dĩ thâm tâm niệm Phật, tu tŕ tịnh giới
cố. Thử đẳng văn đắc Phật, đại
hỷ sung biến thân, Phật tri bỉ tâm hạnh, cố
vị thuyết Đại Thừa. Thanh Văn, nhược
Bồ Tát, văn ngă sở thuyết pháp, năi chí ư nhất
kệ, giai thành Phật vô nghi.
(經)有佛子心淨。柔軟亦利根。無量諸佛所。而行深妙道。為此諸佛子。說是大乘經。我記如是人。來世成佛道。以深心念佛。修持淨戒故。此等聞得佛。大喜充徧身。佛知彼心行。故為說大乘。聲聞若菩薩。聞我所說法。乃至於一偈。皆成佛無疑。
(Kinh: Có Phật
tử tâm tịnh, mềm mỏng và lợi
căn, nơi vô lượng chư Phật, tu hành đạo
sâu mầu. V́ các Phật tử
ấy, nói kinh Đại Thừa này. Ta thọ kư người
ấy, đời sau thành Phật đạo, do thâm tâm niệm
Phật, v́ tu tŕ tịnh giới. Bọn họ nghe thành Phật,
khắp thân rất mừng rỡ. Phật biết
tâm hạnh họ, v́ họ nói
Đại Thừa. Thanh Văn hay Bồ Tát, nghe pháp do ta
nói, thậm chí một bài kệ, đều thành Phật chẳng
ngờ).
Đây chính là trùng tụng
chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, rộng tạo
các phương tiện khiến cho mọi người
đều trở thành Thật nhân (người chứng nhập
Thật lư). “Hữu Phật tử tâm tịnh” (có Phật
tử tâm thanh tịnh) tức là người thuộc Biệt
Giáo. “Vị chư Phật tử thuyết Đại Thừa
kinh” (v́ các Phật tử nói kinh Đại Thừa):
Được thọ kư tâm hoan hỷ, tức là trở
thành người chân thật trong Viên Giáo. “Thanh Văn,
nhược Bồ Tát” (Thanh Văn hoặc Bồ Tát):
Nói Thanh Văn là gộp chung cả Duyên Giác, tức là hàng Nhị
Thừa trong hai giáo. “Bồ Tát” gồm chung các vị
đại sĩ thuộc Tạng Giáo và Thông Giáo, đều
thành Phật chẳng nghi, tức là bảy
loại phương tiện, không ai chẳng phải là Phật
tử; điều ấy đă rơ! Đấy là lời chân
thành của bậc cực thánh (Phật), sao lại chẳng
tin?
2.2.2.2.1.2.2.1.1.2.3.
Trùng tụng Giáo Nhất
(Kinh) Thập
phương Phật độ trung, duy hữu Nhất Thừa
pháp, vô nhị, diệc vô tam, trừ Phật phương tiện
thuyết, đản dĩ giả danh tự, dẫn đạo
ư chúng sanh, thuyết Phật trí huệ cố.
(經)十方佛土中。唯有一乘法。無二亦無三。除佛方便說。但以假名字。引導於眾生。說佛智慧故。
(Kinh: Trong mười
phương cơi Phật, chỉ có pháp Nhất Thừa, không
hai, cũng chẳng ba, trừ Phật nói phương tiện;
chỉ dùng danh tự giả, hướng dẫn các chúng sanh,
nói trí huệ của Phật).
Đây là trùng tụng điều
đă nói trong phần trước (phần Trường Hàng):
Như Lai chỉ dùng một Phật
Thừa để thuyết pháp cho chúng sanh, chẳng có thừa
nào khác, dù hai hay ba! Chỉ là dùng giả
danh “tam giáo” để hướng dẫn họ nhập
một giáo thuộc Phật huệ! V́ thế, do dựa theo phương tiện để nói, cho nên là
tạm thời có. Xét theo mục đích cuối cùng để
luận định, chắc chắn chẳng có hai hay ba thừa!
2.2.2.2.1.2.2.1.1.2.4.
Trùng tụng Hạnh Nhất
(Kinh) Chư Phật xuất
ư thế, duy thử nhất sự thật, dư nhị
tắc phi chân. Chung bất dĩ Tiểu Thừa, tế
độ ư chúng sanh. Phật tự trụ Đại
Thừa, như kỳ sở đắc pháp, Định Huệ lực
trang nghiêm. Dĩ thử độ chúng sanh, tự chứng
vô thượng đạo. Đại Thừa b́nh đẳng
pháp. Nhược dĩ Tiểu Thừa hóa, năi chí ư nhất
nhân, ngă tắc đọa xan tham, thử sự vi bất khả!
(經)諸佛出於世。唯此一事實。餘二則非真。終不以小乘。濟度於眾生。佛自住大乘。如其所得法。定慧力莊嚴。以此度眾生。自證無上道。大乘平等法。若以小乘化。乃至於一人。我則墮慳貪。此事為不可。
(Kinh: Chư Phật
hiện trong đời, chỉ một sự thật này,
hai thứ kia chẳng thật. Trọn chẳng dùng Tiểu
Thừa, để tế độ chúng sanh. Phật tự
trụ Đại Thừa, đúng như pháp đă đắc,
sức Định Huệ trang
nghiêm. Dùng đó độ chúng sanh, tự chứng đạo
vô thượng, pháp Đại Thừa b́nh đẳng. Nếu
dạy pháp Tiểu Thừa, thậm chí chỉ một
người, ta liền đọa keo tham, chuyện ấy
chẳng thể được).
“Duy thử nhất sự
thật” (chỉ có một sự thật này): Trùng tụng
chuyện nói trong phần trên, trong tất cả các việc
làm, thường v́ một đại
sự. “Phật tự trụ Đại Thừa”:
Trùng tụng chuyện đă nói trong phần trên, chỉ dùng
tri kiến của Phật để chỉ bày khiến cho
chúng sanh ngộ. Sáu câu cuối nhằm giải thích ư nghĩa
“Phật chẳng dùng pháp Tiểu Thừa để độ chúng
sanh”. Phần thứ hai, trùng tụng về Hiển Thật
đă xong.
2.2.2.2.1.2.2.1.1.3.
Trùng tụng chuyện khuyến tín
2.2.2.2.1.2.2.1.1.3.1.
Nêu ra cái quả để khuyến tín
(Kinh) Nhược nhân tín quy
Phật, Như Lai bất khi cuống, diệc vô tham tật
ư, đoạn chư pháp trung ác. Cố Phật ư thập
phương, nhi độc vô sở úy. Ngă dĩ tướng
nghiêm thân, quang minh chiếu thế gian, vô lượng chúng sở
tôn, vị thuyết Thật Tướng ấn.
(經)若人信歸佛。如來不欺誑。亦無貪嫉意。斷諸法中惡。故佛於十方。而獨無所畏。我以相嚴身。光明照世間。無量眾所尊。為說實相印。
(Kinh: Nếu ai tin, quy Phật, Như Lai chẳng lừa dối,
cũng chẳng hề tham, ganh, đoạn trừ các pháp
ác. V́ thế trong mười phương, riêng Phật không
sợ hăi. Ta dùng các tướng hảo, để trang
nghiêm thân ḿnh, quang minh soi thế gian, vô lượng chúng tôn
kính, nói ra ấn Thật Tướng).
Tâm Phật thanh tịnh,
đoạn hết các ác, thuyết pháp không sợ hăi. Nội
đức ấy đáng tin. Diệu tướng trang nghiêm
quang minh rạng ngời, được đại chúng tôn
trọng, nói Đại Thừa ấn th́ chính là ngoại
đức đáng tin.
2.2.2.2.1.2.2.1.1.3.2.
Nêu ra cái nhân để khuyến tín
(Kinh) Xá Lợi Phất
đương tri, ngă bổn lập thệ nguyện, dục
linh nhất thiết chúng, như ngă đẳng vô dị,
như ngă tích sở nguyện, kim giả dĩ măn túc, hóa nhất
thiết chúng sanh, giai linh nhập Phật đạo.
(經)舍利弗當知。我本立誓願。欲令一切眾。如我等無異。如我昔所願。今者已滿足。化一切眾生。皆令入佛道。
(Kinh: Xá Lợi Phất
nên biết, ta vốn lập thệ nguyện, muốn cho hết
thảy chúng, bằng như ta chẳng khác. Như nguyện
xưa của ta, đến nay đă trọn đủ,
giáo hóa mọi chúng sanh, khiến đều nhập Phật
đạo).
Xưa đă có thệ nguyện
chân thành, nay nhằm tương ứng với lời thề
cho nên nói ra; nguyện xưa ấy đáng tin! Nguyện Bồ
Đề được thỏa, giáo hóa người khác
cùng nhập Bồ Đề. Cái nhân ắt đạt
được quả, nhân chẳng hư luống, càng rất
đáng tin!
Hỏi: Bổn thệ đă
trọn khắp, nay chúng sanh vẫn c̣n đông đảo,
sao lại nói là “nguyện được viên măn”?
Đáp: Phật ba đời
luôn tạo lợi ích cho chúng sanh, chẳng hề có lúc xong.
Nay xét theo căn cơ đă chín muồi trong hiện tại, mà nói là “nguyện măn”. Phần kệ tụng thứ
ba nhằm khuyến tín đă xong.
2.2.2.2.1.2.2.1.1.4.
Nêu ra Ngũ Trược
2.2.2.2.1.2.2.1.1.4.1.
Nêu chung Ngũ Trược gây chướng ngại to lớn
(Kinh) Nhược ngă ngộ
chúng sanh, tận giáo dĩ Phật đạo. Vô trí giả
thác loạn, mê hoặc bất thọ giáo.
(經)若我遇眾生。盡教以佛道。無智者錯亂。迷惑不受教。
(Kinh: Nếu ta gặp
chúng sanh, trọn dạy bằng Phật đạo. Kẻ
vô trí lầm loạn, mê hoặc, chẳng nghe dạy).
Chúng sanh tự dùng khổ năo
nung nấu. Chư Phật v́ đại bi mà cứu vớt
muôn loài. Bi đối ứng với khổ, cho nên nói là “tương
ngộ” (gặp gỡ). Hơn nữa, Phật như,
chúng sanh như, nhất như, chẳng phải là nhị
như, thiên tánh
tương quan, v́ thế nói là “tương ngộ”.
“Tận giáo dĩ Phật đạo” (đều dạy
họ trọn hết bằng Phật đạo), đó là
bổn hoài của Phật. Kẻ vô trí do mê hoặc chẳng
tiếp nhận lời dạy. Ngũ Trược ngăn
chướng đại pháp. Họ (chúng sanh) đă có
chướng, há lẽ nào chẳng lập ra phương tiện
để dẫn dụ dần dần? Kinh dạy: “Quá
khứ hữu Phật, hiệu Trụ Vô Trụ, phát nguyện
sử kỷ quốc chúng sanh đồng nhật, đồng
thời thành Phật, tức nhật diệt độ. Hựu
Hiền Kiếp tiền hữu Phật, hiệu viết B́nh
Đẳng, diệc nguyện kỷ quốc, cập thập phương chúng sanh đồng nhật
thành Phật, tức nhật diệt độ. Nhược
nhĩ, kim nhật hữu Phật, phục hữu chúng sanh,
vân hà da? Phật ngôn: “Chỉ chỉ, ngă tiền sở ngôn,
đắc nhân thân giả nhĩ”. “Phả hữu
phát nguyện, linh ngũ đạo đồng nhật thành
Phật phủ?” Phật ngôn: - Bất khả dĩ phi khí
chi thân thành vô thượng đạo. Yếu tiên hóa tam thú,
linh đắc nhân thiên, nhiên hậu năi khả như nguyện.
Tam thú phi thiện đạo, hà năng thành Phật?”
([Đức Phật dạy]: “Trong quá khứ, có Phật hiệu
là Trụ Vô Trụ, phát nguyện khiến cho chúng sanh trong
nước ḿnh trong cùng một ngày, đồng thời
thành Phật và nhập diệt ngay trong ngày hôm ấy. Lại
nữa, trước Hiền Kiếp có Phật, hiệu là
B́nh Đẳng, cũng nguyện cho chúng sanh trong nước
ḿnh và mười phương cùng một ngày thành Phật,
diệt độ ngay trong hôm ấy”. [Đại chúng có
người thắc mắc]: “Nếu là như vậy, ngày
nay có Phật mà cũng có chúng sanh, tức là như thế
nào vậy?” Đức Phật dạy: “Thôi, thôi, ta nói những
chúng sanh trên đây là những kẻ đă được
làm thân người”. [Người ấy lại thắc
mắc]: “Há có vị nào phát nguyện năm đường
thành Phật trong cùng một ngày hay không?” Đức Phật
dạy: “Chẳng thể dùng cái thân không phải là pháp khí
để thành vô thượng đạo. Trước hết, phải hóa độ
ba đường [ác] đều đạt được
thân người hay trời. Sau đấy mới
có thể như nguyện. Ba đường chẳng phải
là thiện đạo, sao có thể thành Phật cho
được?”)
2.2.2.2.1.2.2.1.1.4.2.
Nói riêng về ngũ chướng
(Kinh) Ngă tri thử chúng sanh,
vị tằng tu thiện bổn, kiên trước ư
ngũ dục, si ái cố sanh năo. Dĩ chư dục nhân duyên,
trụy đọa tam ác đạo, luân hồi lục thú
trung, bị thọ chư khổ độc.
(經)我知此眾生。未曾修善本。堅著於五欲。癡愛故生惱。以諸欲因緣。墜墮三惡道。輪迴六趣中。備受諸苦毒。
(Kinh: Ta biết chúng
sanh ấy, chưa từng tu cội lành, chấp chặt
vào ngũ dục, si ái nên phiền năo. Do nhân duyên các dục,
rơi rớt ba đường
ác, luân hồi trong sáu nẻo, chịu đủ các khổ
độc).
Hai bài kệ này riêng nói về
Chúng Sanh Trược. Chân Như Thật Tướng
được gọi là “thiện bổn” (cội
lành). Do chẳng nương theo loại thiện căn này,
cho nên chẳng thể cảm đại pháp. Ngũ dục
là cội gốc của các điều ác. Từ si mà có ái,
cho nên các thứ phiền năo đua nhau nẩy sanh.
(Kinh) Thọ thai chi vi h́nh,
thế thế thường tăng trưởng. Bạc
đức thiểu phước nhân, chúng khổ sở bức
bách.
(經)受胎之微形。世世常增長。薄德少福人。眾苦所逼迫。
(Kinh: Lúc thọ thai bé
bỏng, đời đời thường tăng trưởng[17], kẻ đức
mỏng, ít phước, bị các khổ bức bách).
Bài kệ này riêng nói về Mạng
Trược. Kinh Xử Thai nói cặn kẽ tướng trạng
tăng trưởng dần dần từ bảy ngày đầu
tiên cho đến tuần thứ ba mươi tám (tṛn chín
tháng mười ngày), tức là như kinh nói “thế thế
thường tăng trưởng” (đời đời
thường tăng trưởng), đúng là đáng chán
ĺa. Dùng quán tâm để giải thích th́ một niệm tâm
khởi chính là tạo nghiệp cho vị lai. Do nghiệp
bèn nhập thai, thai nghiệp vô cùng, đời đời
chẳng đoạn, tức là “tăng trưởng”.
(Kinh) Nhập tà kiến
trù lâm. Nhược hữu, nhược vô đẳng, y chỉ
thử chư kiến, cụ túc lục thập nhị.
(經)入邪見稠林。若有若無等。依止此諸見。具足六十二。
(Kinh: Vào rừng rậm
tà kiến, dường như có, như không, nương
các tà kiến ấy, trọn đủ sáu mươi hai).
Bài kệ này nói riêng về Kiến
Trược. Năm thứ kiến đan xen, giống
như rừng rậm dày đặc. “Nhược hữu”
là Thường Kiến, “nhược vô” là Đoạn
Kiến. Nương vào hai loại Kiến ấy, bèn thành
sáu mươi hai kiến[18], nói cặn kẽ th́ như [các sách
giảng về] Pháp Số đă nói.
(Kinh) Thâm trước
hư vọng pháp, kiên thọ bất khả xả, ngă mạn,
tự căng cao, siểm khúc tâm bất thật.
(經)深著虛妄法。堅受不可捨。我慢自矜高。諂曲心不實。
(Kinh: Chấp sâu pháp
hư vọng; nhận chắc, chẳng
thể bỏ. Ngă mạn, tự hống hách, siểm khúc,
tâm chẳng thật).
Bài kệ này nói
riêng về Phiền Năo Trược, nêu đại lược
tham và mạn trong các căn bản [phiền năo], cũng như Siểm trong Tiểu Tùy phiền năo
để nói gộp chung các phiền
năo khác.
(Kinh) Ư thiên vạn ức
kiếp, bất văn Phật danh tự, diệc bất
văn chánh pháp. Như thị nhân nan độ.
(經)於千萬億劫。不聞佛名字。亦不聞正法。如是人難度。
(Kinh: Trong ngàn vạn ức
kiếp, chẳng nghe danh hiệu Phật, cũng chẳng
nghe chánh pháp. Kẻ như thế khó độ).
Bài kệ này nói riêng về Kiếp
Trược. Thời gian dài lâu chẳng nghe Phật pháp, tức
là Kiếp Trược. Lại nữa, bốn loại
Trược trên đây tập trung trong thời này, nên gọi
là Kiếp Trược. Do Ngũ Trược ngăn chướng,
nên chẳng tin Nhất
Thừa; v́ thế, khó độ! Giải thích theo quán tâm, niệm
nào cũng là cảm nhận ác, vĩnh viễn chẳng có
chánh quán tự giác. Đó là “chẳng nghe danh hiệu Phật”.
Vĩnh viễn chẳng tương ứng với Bát Chánh Đạo
là “chẳng nghe chánh pháp”. Cái tâm ấy sẽ khó độ.
Phần thứ hai, “nói riêng về
năm chướng” đă xong.
2.2.2.2.1.2.2.1.1.4.3.
Chỉ ra “v́ Ngũ Trược cho nên nói tiểu pháp”
(Kinh) Thị cố, Xá Lợi
Phất! Ngă vị thiết phương tiện, thuyết
chư tận khổ đạo, thị chi dĩ Niết
Bàn.
(經)是故舍利弗。我為設方便。說諸盡苦道。示之以涅槃。
(Kinh: V́ thế, Xá Lợi
Phất! Ta lập ra phương tiện, nói các đạo
dứt khổ, dùng Niết Bàn để dạy).
2.2.2.2.1.2.2.1.1.4.4.
Nói rơ “v́ pháp Đại mà thí pháp Tiểu. Tiểu pháp nhằm đối trị
Ngũ Trược, nhờ đó hưng khởi đại
nguyện”
(Kinh) Ngă tuy thuyết Niết
Bàn, thị diệc phi chân diệt. Chư pháp tùng bổn
lai, thường tự tịch diệt tướng, Phật
tử hành đạo dĩ, lai thế đắc tác Phật.
(經)我雖說涅槃。是亦非真滅。諸法從本來。常自寂滅相。佛子行道已。來世得作佛。
(Kinh: Ta tuy nói Niết
Bàn, cũng chẳng phải chân diệt. Các pháp vốn
trước nay, thường tự tịch diệt tướng.
Phật tử đă hành đạo, đời sau
được làm Phật).
Chia chẻ tam giới nhằm
dứt hết sạch vọng, diệt Sắc giữ lấy
Không th́ chẳng phải là “thật sự diệt”
(chân diệt), v́ vô minh Biệt Hoặc vẫn c̣n đó th́ Biến
Dịch sanh tử thuộc giới ngoại (ở ngoài tam
giới) vẫn đang lồng lộng. Nếu thấu
đạt “vô minh vốn là Không”, các pháp sao c̣n nữa!
Như mắt có màng mộng, sẽ thấy hoa đốm
trên hư không, h́nh tướng của hoa đốm vốn
là hư giả. Pháp tuy vốn tịch, nếu chẳng tu
đạo, sẽ chẳng do đâu mà khế hội
được! V́ thế nói “Phật tử hành đạo
dĩ, lai thế đắc tác Phật” (Phật tử
đă hành đạo, đời sau sẽ thành Phật).
Như hoa đốm trên hư không tuy tịch, nhưng nếu
không trừ màng mộng, sẽ chẳng có cách nào thấy
hư không thanh tịnh được! Phần thứ tư
“nêu bày Ngũ Trược” đă xong.
2.2.2.2.1.2.2.1.1.5.
Trùng tụng [pháp Nhất Thừa] chẳng hư giả
(Kinh) Ngă hữu phương
tiện lực, khai thị tam thừa pháp, nhất thiết
chư Thế Tôn, giai thuyết Nhất Thừa đạo,
kim thử chư đại chúng, giai ưng trừ nghi hoặc,
chư Phật ngữ vô dị, duy nhất, vô nhị thừa.
(經)我有方便力。開示三乘法。一切諸世尊。皆說一乘道。今此諸大眾。皆應除疑惑。諸佛語無異。惟一無二乘。
(Kinh: Ta
có sức phương tiện, khai thị pháp tam thừa, hết
thảy các Thế Tôn, đều nói đạo Nhất Thừa,
nay trong đại chúng đây, đều nên trừ nghi hoặc,
lời chư Phật chẳng khác, duy nhất, chẳng hai
thừa).
Trước là Quyền, sau
là Thật, khéo v́ Ngũ Trược thực hiện
phương tiện này, lời thành thật chẳng dối,
chớ sanh nghi! Phần thứ nhất, trùng tụng về
chư Phật đă xong.
2.2.2.2.1.2.2.1.2.
Trùng tụng quá khứ chư Phật
2.2.2.2.1.2.2.1.2.1.
Trùng tụng đại lược về chuyện khai tam
hiển nhất
(Kinh) Quá khứ vô số
kiếp, vô lượng diệt độ Phật, bách thiên
vạn ức chủng, kỳ số bất khả lượng.
Như thị chư Thế Tôn, chủng chủng duyên, thí dụ,
vô số phương tiện lực, diễn thuyết
chư pháp tướng, thị chư Thế Tôn đẳng,
giai thuyết Nhất Thừa pháp, hóa vô lượng chúng
sanh, linh nhập ư Phật đạo.
(經)過去無數劫。無量滅度佛。百千萬億種。其數不可量。如是諸世尊。種種緣譬喻。無數方便力。演說諸法相。是諸世尊等。皆說一乘法。化無量眾生。令入於佛道。
(Kinh: Vô số kiếp
quá khứ, vô lượng Phật diệt độ,
trăm ngàn vạn ức loại, số ấy chẳng thể
lường. Các Thế Tôn như thế, các thứ duyên,
thí dụ, vô số sức phương tiện, diễn nói
các pháp tướng. Các vị Thế Tôn ấy, đều
nói pháp Nhất Thừa, độ vô lượng chúng sanh,
khiến vào trong Phật đạo).
Hai bài kệ nói đến
chuyện Phật ban bố pháp tam thừa, bài kệ sau cùng
nói về chuyện “khai tam, hiển nhất”. Nói pháp Nhất
Thừa chính là Giáo Nhất. Hóa độ vô lượng
chúng sanh tức là Nhân Nhất. Nhập Phật đạo tức
là Hạnh Nhất và Lư Nhất.
2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.
Trùng tụng chi tiết về chuyện khai tam hiển nhất
2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.1.
Nêu ra phương tiện chung giúp cho việc khai hiển
(Kinh) Hựu chư đại
thánh chúa, tri nhất thiết thế gian, thiên nhân quần
sanh loại, thâm tâm chi sở dục, cánh dĩ dị
phương tiện, trợ hiển Đệ Nhất
Nghĩa.
(經)又諸大聖主。知一切世間。天人群生類。深心之所欲。更以異方便。助顯第一義。
(Kinh: Lại các đại
thánh chúa, biết hết thảy thế gian, trời,
người, các quần sanh, thâm tâm ham muốn ǵ, bèn dùng
phương tiện lạ, giúp hiển Đệ Nhất
Nghĩa).
Nói “thiên nhân quần sanh”
là nêu ra các thừa ḥng chỉ rơ Nhân Nhất. “Dị
phương tiện” (phương tiện lạ) là nêu ra các giáo,
các hạnh để hiển thị Giáo Nhất và Hạnh
Nhất. Đệ Nhất Nghĩa là Lư Nhất. Chánh nhân Phật
tánh chính là Đệ Nhất Nghĩa. Nếu dùng viên diệu
chánh quán th́ là phương tiện Thật Tướng, chẳng
nói là “dị” (khác lạ). Nay dùng năm thừa, bảy
phương tiện v.v… để giúp hiển lộ [Đệ
Nhất Nghĩa], cho nên gọi là “dị phương tiện”,
tức là nói từ Lục Độ cho đến cúng
dường, xưng danh v.v… trong phần sau. Ấy là v́
chúng sanh ưa muốn khác nhau, khiến cho phương tiện
của chư Phật có sai khác. Nhưng phương tiện
tuy khác, [công năng] giúp hiển lộ [Nhất Thừa] giống
nhau. Đă hiển Thật th́ “dị” ấy chẳng
phải là dị! Ân cần ca ngợi là v́ lẽ này!
2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.
Riêng chỉ bày tướng khai hiển
2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.1.
Dựa theo các điều thiện để hiển lộ
công đức của duyên nhân[19]
2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.1.1.
Dựa theo Lục Độ để nói về khai hiển
(Kinh) Nhược hữu
chúng sanh loại, trị chư quá khứ Phật, nhược
văn pháp bố thí, hoặc tŕ giới, nhẫn nhục,
tinh tấn, Thiền, trí
đẳng, chủng chủng tu phước huệ. Như
thị chư nhân đẳng, giai dĩ thành Phật đạo.
(經)若有眾生類。值諸過去佛。若聞法佈施。或持戒忍辱。精進禪智等。種種修福慧。如是諸人等。皆已成佛道。
(Kinh: Nếu có các
chúng sanh, gặp chư Phật quá khứ, hoặc nghe pháp bố
thí, hoặc tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền, trí thảy, tu phước huệ mọi lẽ.
Những người như thế đó, đều đă
thành Phật đạo).
Chánh nhân Phật tánh th́ chúng
sanh và Phật có cùng một Thể. Nếu huyễn chướng
sâu, sẽ vĩnh viễn chẳng gặp Phật. Người
được gặp gỡ quá khứ Phật, ắt do sức
của nội nhân (cái nhân bên trong) mạnh mẽ, bèn cảm
cái duyên xuất thế. Nhưng điều ham muốn trong
thâm tâm của chúng sanh khác nhau, cho nên chư Phật thuyết
pháp cũng khác biệt. Trong lúc đó, hoặc nghe đốn
pháp, hoặc nghe tiệm pháp, hoặc tu bố thí, hoặc tu
tŕ giới, hoặc tu nhẫn nhục, hoặc tu tinh tấn,
hoặc tu Thiền Định, hoặc tu trí huệ, hoặc
chỉ tu một pháp, một hạnh, hoặc kiêm tu các pháp,
các hạnh khác, hoặc chuyển[20],
hoặc trợ, các thứ bất đồng. Lại hoặc
dùng tâm hữu tướng để tu Lục Độ,
hoặc dùng tâm vô tướng để tu Lục Độ,
hoặc dùng phi tướng phi vô tướng để lần
lượt tu Lục Độ, lại c̣n có nhiều thứ
khác nhau! Nay xét ra, [những người ấy tu tập
như thế ấy] đều đă thành Phật, đều
chứng Lư Nhất, vậy th́ những người như
thế chính là Nhân Nhất. Phước huệ do họ
đă tu chính là Hạnh Nhất. Các pháp họ được
nghe chính là Giáo Nhất. Nghe pháp và trí huệ ở đây tợ
hồ thuộc về liễu nhân, nhưng do [nghe pháp và trí
huệ] khiến cho họ về sau được nghe kinh
Pháp Hoa. V́ thế, chúng chỉ thuộc vào duyên nhân!
2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.1.2.
Dựa theo tâm bi luyến để nói rơ về sự khai
hiển
(Kinh) Chư Phật diệt
độ hậu, nhược nhân thiện nhuyễn tâm.
Như thị chư chúng sanh, giai dĩ thành Phật đạo.
(經)諸佛滅度後。若人善軟心。如是諸眾生。皆已成佛道。
(Kinh: Chư Phật
diệt độ rồi, nếu ai tâm thiện nhuyễn,
các chúng sanh như thế, đều đă thành Phật
đạo).
Nối tiếp ư đoạn
kinh văn trước đó: Không chỉ là người gặp
Phật, nghe pháp, tu hành Lục Độ đă thành Phật,
mà ngay sau khi chư Phật đă thị hiện nhập diệt,
nếu có thể khởi tâm bi luyến
đối với Như Lai, trong một niệm, xả ác
theo thiện, hóa ương ngạnh thành mềm mỏng. Nếu
xét theo lúc đó, tợ hồ [pháp họ tu] thuộc về
nhân, thiên, Nhị Thừa, nhưng nay xét ra, họ cũng
đều đă thành Phật đạo. Đối với
Phật đạo đă chứng Lư Nhất. Vậy th́ các
chúng sanh chính là Nhân Nhất. Cái tâm tốt lành, mềm mỏng
chính là Hạnh Nhất. Thị hiện nhập diệt chính là Giáo Nhất.
2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.1.3.
Xét theo chuyện cúng dường xá-lợi để nói rơ về
sự khai hiển
(Kinh) Chư Phật diệt
độ dĩ, cúng dường xá-lợi giả, khởi
vạn ức chủng tháp, kim, ngân, cập pha lê, xa cừ dữ
mă năo, mai khôi, lưu ly châu, thanh tịnh quảng nghiêm sức,
trang hiệu ư chư tháp. Hoặc hữu
khởi thạch miếu, chiên đàn cập trầm thủy,
mộc mật tịnh dư tài, chuyên ngơa, nê, thổ đẳng.
Nhược ư khoáng dă trung, tích thổ thành Phật miếu. Năi chí đồng tử
hư, tụ sa vi Phật tháp. Như thị chư nhân đẳng,
giai dĩ thành Phật đạo.
(經)諸佛滅度已。供養舍利者。起萬億種塔。金銀及玻瓈。硨磲與碼碯。玫瑰琉璃珠。清淨廣嚴飾。莊校於諸塔。或有起石廟。旃檀及沈水。木樒并餘材。甎瓦泥土等。若於曠野中。積土成佛廟。乃至童子戲。聚沙為佛塔。如是諸人等。皆已成佛道。
(Kinh: Chư Phật
đă diệt độ, người cúng dường xá-lợi,
dựng vạn ức loại tháp. Vàng, bạc, và pha lê[21], xa cừ cùng mă
năo[22], mai khôi[23], châu lưu ly,
thanh tịnh, rộng trang hoàng, tô điểm nơi các tháp.
Hoặc là dựng miếu đá, chiên đàn và trầm thủy,
gỗ mật[24], các vật liệu,
gạch, ngói, bùn, đất thảy. Hoặc là nơi đồng
trống, đắp đất thành Phật miếu. Cho
đến trẻ nhỏ giỡn, gom cát làm tháp Phật. Những
người như thế đó, đều đă thành Phật
đạo).
Nối tiếp ư câu trên. Lại
nữa, không chỉ người do bi luyến Như Lai mà
sanh tâm mềm mỏng, tốt lành đă thành Phật. Ngay
như sau khi chư Phật đă nhập diệt, nát thân
thành bao nhiêu viên xá-lợi, những người ấy do thờ
phụng xá-lợi bèn dựng tháp báu, cho đến kẻ dựng
miếu bằng đá, hay xây miếu bằng đất. Thậm
chí trẻ nhỏ gom cát làm miếu. Hoặc có xá-lợi bằng
hạt cải, hoặc chẳng có xá-lợi, hoặc do tâm
chân thành, hoặc dùng tâm đùa giỡn, ngay trong lúc đó,
công đức dù lớn hay nhỏ, dù có hay không, nay nh́n lại,
cũng đều đă thành Phật đạo. Đă chứng
Phật đạo th́ là Lư Nhất. Vậy th́ những
người như thế chính là Nhân Nhất. Dựng tháp,
xây miếu, đắp đất, gom cát tức là Hạnh
Nhất. Nát thân thành xá-lợi tức là Giáo Nhất.
Xét ra, Phật Thích Ca thị
hiện nhập diệt, trà-tỳ[25]
xong, ngài Đại Ca Diếp nói: “Xá-lợi của
Như Lai chẳng phải là chuyện của chúng ta. Đă
có quốc vương, vương tử, đại thần,
tể quan, trưởng giả, cư sĩ, Bà La Môn v.v… là
những người yêu thích phước điền sẽ
rộng tu cúng dường. Chuyện của chúng ta là hăy nên
kết tập Tam Tạng, chớ để chánh pháp nhanh
chóng diệt mất”. Do vậy, thấy rằng: Ngài Ca
Diếp coi truyền tâm ấn của Phật là chuyện cấp
bách phải chú trọng trước tiên. Trời, người
thích gieo phước điền, cho nên coi chuyện cúng
dường làm đầu. Khi họ tu cúng dường,
đă phát ra tâm nguyện ba thừa hoặc
năm thừa khác nhau, nhưng do sức phương tiện
của chư Phật quá khứ, lâu sau, chẳng có ai không quy vào Phật
đạo.
Lại xét theo cách tạo tháp trong kinh, tháp của Như
Lai mười ba cấp, Bích Chi Phật năm cấp, A La
Hán bốn cấp, A Na Hàm ba cấp, Tư Đà Hàm hai cấp,
Tu Đà Hoàn một cấp, Luân Vương chẳng có cấp.
“Cấp” [được nói ở đây] chính là luân
tướng[26]. Hiện
thời, phàm phu cứ hở ra là dựng tháp [thờ tro cốt
của người đă mất], đem phàm lạm thánh,
trái nghịch chẳng nhẹ! Sách Luận Ngữ nói: “Quân
tử ái nhân dĩ đức” (quân tử dựa theo
đạo đức để yêu thương người
khác, hoặc có thể hiểu là quân tử yêu thương
người khác theo đúng chuẩn mực đạo
đức). Dẫu cho đệ tử tôn trọng thầy,
há có nên hăm thầy mắc tội “lạm thánh” hay chăng?
Lại nữa, dẫu cho người chết mờ mịt,
há chẳng tỏ rơ sự xoàng xĩnh của kẻ sống
ư?
2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.1.4.
Xét theo việc tạo tượng Phật để nói rơ
chuyện khai hiển
(Kinh) Nhược nhân vị
Phật cố, kiến lập chư h́nh tượng, khắc
điêu thành chúng tướng, giai dĩ thành Phật đạo.
Hoặc dĩ thất bảo thành, thâu thạch, xích bạch
đồng. Bạch lạp cập diên tích, thiết, mộc,
cập dữ nê, hoặc dĩ giao tất bố, nghiêm sức
tác Phật tượng. Như thị chư nhân đẳng,
giai dĩ thành Phật đạo.
(經)若人為佛故。建立諸形像。刻雕成眾相。皆已成佛道。或以七寶成。鍮鉐赤白銅。白蠟及鉛錫。鐵木及與泥。或以膠漆布。嚴飾作佛像。如是諸人等。皆已成佛道。
(Kinh:
Nếu có người v́ Phật, tạo lập các h́nh
tượng, chạm khắc thành các tướng, đều
đă thành Phật đạo. Hoặc dùng bảy báu tạo,
đồng thau, đồng trắng, đỏ, sáp trắng và ch́, thiếc,
sắt, gỗ, cùng đất sét, hoặc dùng keo, sơn, vải,
trang hoàng tạo tượng Phật. Những người
như thế đó, đều đă thành Phật đạo).
Tiếp nối đoạn
kinh văn trên đây: Lại nữa, không chỉ người
v́ thờ phụng xá-lợi mà dựng tháp, cất miếu
đều đă thành Phật, mà [những ai] dùng bất cứ
vật liệu ǵ để tạo lập h́nh tượng
[cũng sẽ đều thành Phật]. Trong khi đó, vật
liệu có thô tháp hay tinh tế, giá trị có cao hay thấp,
tâm có chân thành hay không, nguyện có xa hay gần, dường
như công đức cũng có lớn hay nhỏ. Nhưng
nay nh́n lại, họ cũng đă đều thành Phật
đạo! Phật đạo là Lư Nhất. Các người
[tạo tượng] chính là Nhân Nhất, tạo tượng
tức là Hạnh Nhất. Như Lai phân biệt công đức
tạo tượng chính là Giáo Nhất. Nhưng kinh Ưu Bà
Tắc Giới dạy tạo tượng chẳng
được dùng keo[27],
[nếu dùng] sẽ mắc tội “thất
ư” (vô ư, chẳng cẩn
thận); kinh này lại cho phép dùng. Cổ
đức nói: “Ngoại quốc dùng chất keo từ nhựa
cây”. Có người nói: “Nước đậu nành có
thể thay thế chất keo trong”. Lại nữa, kinh
Địa Tŕ chẳng cho phép sử dụng thư hoàng[28],
hoặc các vật có mùi hôi thối. Giới kinh chẳng cho
phép tạo tượng bán thân. Hơn nữa, đối
trước tượng Phật đứng, chớ nên ngồi; đối
trước tượng Phật ngồi, chớ nên nằm.
Hơn nữa, kinh Tạo Tượng Công Đức nói
đại lược mười một công đức:
- Một là đời đời
mắt trong sạch.
- Hai là sanh vào chỗ chẳng
có điều ác.
- Ba là thường sanh trong
nhà sang quư.
- Bốn là thân có màu như
vàng tía được giồi mài.
- Năm là các vật quư báu
dư dật.
- Sáu là sanh vào nhà hiền thiện.
- Bảy là sanh ra được
làm vua.
- Tám là làm Kim Luân Vương.
- Chín là sanh vào Phạm Thiên,
thọ mạng một kiếp.
- Mười là chẳng
đọa ác đạo.
- Mười một, đời
sau vẫn có thể kính trọng Tam Bảo.
Lại nói: - Nếu người
lúc lâm chung thốt lời tạo tượng, thậm chí
[tượng chỉ to] bằng hạt lúa mạch, sẽ
có thể trừ tội trong tám mươi ức kiếp
sanh tử khắp ba đời. Hăy nên biết công đức
như thế ấy hoàn toàn là hoa báo, quả báo thuộc vào
địa vị Phật.
2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.1.5.
Dựa theo chuyện vẽ tượng để nói rơ chuyện
khai hiển
(Kinh) Thái họa tác Phật
tượng, bách phước trang nghiêm tướng, tự
tác, nhược sử nhân, giai dĩ thành Phật đạo.
Năi chí đồng tử hư, nhược thảo mộc cập
bút, hoặc dĩ chỉ trảo giáp, nhi họa tác Phật
tượng. Như thị chư nhân đẳng, tiệm
tiệm tích công đức, cụ túc đại bi tâm, giai
dĩ thành Phật đạo, đản hóa chư Bồ
Tát, độ thoát vô lượng chúng.
(經)彩畫作佛像。百福莊嚴相。自作若使人。皆已成佛道。乃至童子戲。若草木及筆。或以指爪甲。而畫作佛像。如是諸人等。漸漸積功德。具足大悲心。皆已成佛道。但化諸菩薩。度脫無量眾。
(Kinh: Vẽ vời
làm tượng Phật, tướng trăm phước
trang nghiêm, tự làm, sai người làm, đều đă
thành Phật đạo. Cho đến trẻ nhỏ giỡn,
dùng cỏ cây làm bút, hoặc dùng móng tay ḿnh, để vẽ
thành tượng Phật. Những người như thế
đó, dần dần chứa công đức, trọn đủ
tâm đại bi, đều đă thành Phật đạo,
chỉ giáo hóa Bồ Tát, độ thoát vô lượng
chúng).
Nối tiếp
ư của đoạn kinh văn trước đó. Lại nữa,
không chỉ người tạo lập tượng Phật
đă thành Phật, mà vẽ h́nh ảnh của Phật, tự
làm, hoặc sai người khác làm, cho đến trẻ nhỏ
vẽ giỡn chơi. Trong lúc đó, công đức dù lớn
hay nhỏ, hoặc có hay không. Nay nh́n lại, [những người
ấy] cũng đều đă thành Phật đạo. Phật
đạo là Lư Nhất. Những người đó là Nhân
Nhất. Dần dần tích tập công đức trọn
đủ đại bi tâm, tức Hạnh Nhất. Chỉ
giáo hóa Bồ Tát tức là Giáo Nhất. Lại nữa, hai
câu “chỉ giáo hóa” nói rơ chuyện sau khi họ
đă thành Phật, chính là tự chứng
Tứ Nhất (Lư Nhất, Giáo Nhất, Hạnh Nhất,
Nhân Nhất), lại dùng Tứ Nhất để độ
chúng sanh.
2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.1.6.
Xét theo chuyện cúng tháp để nói rơ về chuyện khai
hiển
(Kinh) Nhược nhân
ư tháp miếu, bảo tượng, cập họa tượng,
dĩ hoa, hương, phan, cái, kính tâm nhi
cúng dường. Nhược sử nhân tác nhạc, kích cổ,
xuy giác bối, tiêu, địch, cầm, không hầu, tỳ
bà, năo, đồng bạt. Như thị chúng diệu âm, tận
tŕ dĩ cúng dường. Hoặc dĩ hoan hỷ tâm, ca bái
tụng Phật đức. Năi chí nhất tiểu âm, giai
dĩ thành Phật đạo. Nhược nhân tán loạn
tâm, năi chí dĩ nhất hoa, cúng dường ư họa
tượng, tiệm kiến vô số Phật. Hoặc hữu
nhân lễ bái, hoặc phục đản hiệp chưởng,
năi chí cử nhất thủ, hoặc phục tiểu đê
đầu. Dĩ thử cúng dường tượng, tiệm
kiến vô lượng Phật, tự thành vô thượng
đạo, quảng độ vô số chúng, nhập Vô
Dư Niết Bàn, như tân tận hỏa diệt.
(經)若人於塔廟。寶像及畫像。以華香幡蓋。敬心而供養。若使人作樂。擊鼓吹角貝。簫笛琴箜篌。琵琶鐃銅鈸。如是眾妙音。盡持以供養。或以歡喜心。歌唄頌佛德。乃至一小音。皆已成佛道。若人散亂心。乃至以一華。供養於畫像。漸見無數佛。或有人禮拜。或復但合掌。乃至舉一手。或復小低頭。以此供養像。漸見無量佛。自成無上道。廣度無數眾。入無餘涅槃。如薪盡火滅。
(Kinh: Nếu
ai nơi tháp miếu, đối tượng báu, tượng vẽ, dùng hoa, hương, phan, lọng, tâm cung kính cúng dường. Nếu sai
người tấu nhạc, đánh trống, thổi sừng,
ốc[29],
tiêu, sáo, đàn, không hầu, tỳ bà, chiêng, chập chơa[30]. Các diệu âm
như thế, dùng hết để cúng dường. Hoặc dùng tâm hoan hỷ, xướng tán tụng Phật
đức, thậm chí một âm nhỏ, đều đă thành
Phật đạo. Nếu ai tâm tán loạn, cho đến
dùng một hoa, cúng dường nơi tượng vẽ, dần
thấy vô số Phật. Hoặc có người lễ bái,
hoặc lại chỉ chắp tay, cho đến giơ một
tay, hoặc lại khẽ cúi đầu.
Dùng đó cúng dường tượng, dần thấy vô
lượng Phật, tự thành vô thượng đạo,
rộng độ vô số chúng, nhập Vô Dư Niết
Bàn, như củi hết lửa diệt).
Nối tiếp đoạn
kinh văn trước đó. Lại nữa, không chỉ
người dựng tháp, cất miếu, tạo tượng,
vẽ tượng đă thành Phật, mà người đối
trước tượng báu hoặc tượng vẽ
trong bất cứ loại tháp miếu nào để tu các loại
cúng dường, đều
đă thành Phật. Luận định cặn kẽ sự
cúng dường, chẳng ra ngoài ngũ trần. Hoa, phan, lọng
là Sắc Trần. Âm nhạc, ca vịnh, phạm bái là Thanh
Trần. Hương chính là Hương Trần. Lễ bái tức
là Xúc Trần. Lại c̣n y phục là Xúc Trần. Thức
ăn là Vị Trần. Những thứ này lược
đi chẳng nói, chứ theo đúng lẽ th́ ắt phải
có.
Lại nữa, cúng dường cần luận định
tam nghiệp. Tâm cung kính chính là ư nghiệp, ca tụng phẩm
đức chính là khẩu nghiệp. Lễ bái, chắp tay,
giơ tay, hoặc cúi đầu chính là thân nghiệp. Xét
theo ngũ trần và ba nghiệp ấy, Trần hoặc nhiều,
hoặc ít, nghiệp hoặc chuyên ṛng hoặc tản mạn.
Trong lúc đó, công đức ắt có sai biệt. Nay nh́n lại,
[những người làm như thế] đều thành tựu
Tứ Nhất. Lại dùng Tứ Nhất để rộng
độ chúng sanh. Củi Tam Hoặc đă hết, lửa
nhị tử (Phần Đoạn và Biến Dịch sanh tử)
bèn tắt, nhập Vô Trụ Xứ Đại Bát Niết
Bàn.
Kinh văn nói “nhược sử nhân tác nhạc” (nếu sai người
khác tấu nhạc), tức là hàng xuất gia tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
sa-di, sa-di-ni, hàng tại gia như quốc vương,
trưởng giả, tể quan, cư sĩ trọn chẳng
có lẽ nào tự tấu nhạc, cho nên ắt nói “sử nhân” (sai người
[tấu nhạc]). C̣n như ca vịnh, phạm
bái, tán tụng phẩm đức th́ xuất gia lẫn tại
gia đều có thể làm, nhưng cũng cần phải
biết đại thể. Nếu phạm âm ḥa nhă, dẫu dính dáng đến [nhạc giải trí, vui chơi của]
thế tục vẫn là thích đáng. Nếu xen lạm giống
như ca khúc giải trí của thế tục th́ giới luật
chẳng cho phép. Thường thấy xướng tán trong
thời gần đây, phần nhiều sử dụng xoang
điệu của các nhà soạn nhạc [theo lối giải trí thế tục]. Lại c̣n khi lễ
sám, xướng phạm bái, chẳng tuân theo quy cách thời
cổ, đua nhau khoe hơi dài, chỉ sợ
tăng trưởng tham và mạn cho người khác,
tăng thêm sự buông lung cho chính ḿnh. Phước ít, lỗi
nhiều, hăy nên suy nghĩ để lựa chọn!
2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.1.7.
Xét theo chuyện xưng danh hiệu Phật để nói rơ
chuyện khai hiển
(Kinh) Nhược nhân tán
loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng Nam-mô
Phật, giai dĩ thành Phật đạo.
(經)若人散亂心。入於塔廟中。一稱南無佛。皆已成佛道。
(Kinh: Nếu
ai tâm tán loạn, vào trong chốn tháp miếu, xưng mô Phật
một tiếng, đều đă thành Phật đạo).
Tiếp nối ư trong đoạn
văn trên đây. Lại nữa, không chỉ người
dùng ngũ trần tam nghiệp để cúng tháp, cúng tượng
đă thành Phật, ngay cả kẻ tán tâm xưng danh Phật
một tiếng, cũng đều thành
Phật. “Nam-mô” được phương này dịch
là Quy Mạng, cũng dịch thành Độ Ngă (độ
tôi), cũng dịch thành Kính Tùng (kính trọng thuận theo).
Điều Đạt (Đề Bà Đạt Đa) khi
lâm chung, xưng Nam-mô, chưa niệm tới chữ Phật
th́ sanh thân đă hăm nhập địa ngục. Đức Phật thọ
kư khi ông ta từ địa ngục thoát ra, sẽ làm Bích
Chi Phật, có tên là Nam Mô.
Cơi Tây Trúc có kẻ thờ
tượng thiên thần, dùng vàng làm đầu tượng,
giặc đến ăn trộm, chẳng thể lấy
được. Kẻ giặc xưng “nam-mô Phật”
liền lấy được đầu vàng. Hôm sau, mọi
người tụ tập bàn bạc: “Tượng trời
mất đầu, tức là chẳng có thiên thần dựa
vào. Nếu có thiên thần dựa, sao lại mất đầu?”
Thiên thần bèn nhập vào thân một người, nói: “Khi
kẻ giặc lấy đầu đă xưng nam-mô Phật,
chư thiên đều kinh động. Do đó hắn bèn thừa
cơ chiếm lợi nơi ta; v́ thế bị mất
đầu”. Mọi người nói: “Trời chẳng bằng
Phật ư? Đă chẳng bằng, sao không thờ Phật?
Kẻ giặc xưng nam-mô Phật c̣n lấy được
đầu của thiên thần, huống hồ người
hiền xưng danh hiệu Phật, mười
phương tôn thần há dám chống lại?” Chỉ nên
tinh tấn, chớ giải đăi.
Kinh Na Tiên chép: “Như nhân tŕ nhất thạch trí thủy,
tất một vô nghi. Nhược tŕ bách thạch trí thuyền
thượng, tất bất một. Hữu ác nghiệp
nhân, trực nhĩ tử, tất đọa Nê Lê, như thạch
trí thủy. Nhược lâm tử, xưng nam-mô Phật, Phật
lực cố linh bất nhập Nê Lê. Như thuyền lực
cố, sử thạch bất một” (Như người
cầm ḥn đá bỏ vào nước, ắt ch́m chẳng ngờ.
Nếu cầm một trăm tảng đá, đặt trên
thuyền, ắt chẳng ch́m. Kẻ có ác nghiệp tới
khi chết ắt đọa địa ngục, giống
như đá bỏ xuống nước. Nếu lúc sắp
chết, niệm nam-mô Phật, do Phật lực nên chẳng
vào địa ngục, như do sức của thuyền khiến
đá chẳng ch́m). Kinh c̣n dạy: Đại hội thứ
ba ở vườn Hoa Lâm [của Di Lặc Bồ Tát khi
Ngài thành Phật], gồm chín mươi hai ức người,
toàn là những người xưng “nam-mô Phật” trong di pháp của
đức Phật Thích Ca mà được thấy ngài Di Lặc!
Lại nữa, thuở Phật tại thế, có một
cụ già, xin được thế độ với khắp
năm trăm vị thượng tọa. Các vị thượng
tọa quán thấy người ấy đời trước chẳng
có thiện căn, đều chẳng chấp thuận. Cuối
cùng, cụ già gặp Phật, đức Phật liền
độ cho cụ xuất gia, cụ chứng A La Hán. Các vị
thượng tọa hỏi Phật, đức Phật bảo:
“Người này
trong vô lượng kiếp trước, vào rừng đẵn
củi, gặp cọp hoảng sợ, liền xưng
nam-mô Phật. Nay thiện căn xưng danh ấy đă
chín muồi, cho nên đắc độ. Do người ấy
chẳng có thiện căn nào khác, cho nên lưu chuyển
sanh tử rất lâu trong kiếp số dài lâu. V́ thế,
đạo nhăn của Thanh Văn chẳng thể thấy,
chẳng thể biết được!” Đă được
chứng A La Hán, rành rành là ắt cũng sẽ chứng Vô Thượng
Bồ Đề. Tán loạn xưng danh mà c̣n ắt đều
thành Phật, huống hồ nhất tâm bất loạn
ư? Một niệm tương ứng một niệm Phật,
một ngày tương ứng một ngày Phật. Tâm này làm
Phật, tâm này là Phật. Chẳng tin điều này, ta chẳng biết làm như thế
nào nữa! Phần thứ nhất, “xét theo các điều thiện
để hiển lộ công đức nơi duyên nhân”
đă xong.
2.2.2.2.1.2.2.1.2.2.2.2.
Xét theo chuyện nghe kinh để hiển lộ công đức
của liễu nhân
(Kinh) Ư chư quá khứ
Phật, tại thế hoặc diệt hậu, nhược
hữu văn thị pháp, giai dĩ thành Phật đạo.
(經)於諸過去佛。在世或滅後。若有聞是法。皆已成佛道。
(Kinh: Nơi quá khứ
chư Phật, tại thế hoặc diệt độ, nếu
ai nghe pháp này, đều đă thành Phật đạo).
“Thị pháp” (pháp này)
chính là nói pháp Khai Quyền Hiển Thật trong kinh Diệu
Pháp Liên Hoa. Trên đây, từ Lục Độ cho đến đối với
kinh tượng, từ cúng dường cho đến
xưng danh, hoàn toàn là chư Phật dùng sức
phương tiện lạ để giúp hiển lộ
chân thật. Mở ra [các phương tiện lạ như
thế] mà c̣n tạo thành duyên nhân mầu nhiệm, huống
hồ kinh này thật sự hiển lộ chân thật. Nếu
có người nghe [kinh này], tức là đă gieo liễu nhân,
há chẳng thành Phật ư? Nhưng xét theo lúc nghe kinh, hoặc
là hiểu, hoặc không hiểu, hữu tướng hay vô
tướng, chí tâm hay tán tâm, Sự chẳng phải nhất
loạt như nhau, cũng phải luận định theo
ư nghĩa “ngũ thừa sai biệt”. Nhưng hễ
thoảng qua tai, sẽ vĩnh viễn trở thành hạt
giống đạo, dù xa hay gần, rốt cuộc đều
nhờ vào đó mà được giải thoát, chẳng có
một ai không thành Phật! Đấy là lời lẽ chân
thật của chư Phật, chẳng thể không tin
tưởng sâu xa!
Hỏi: V́ sao chỉ xét theo
quá khứ Phật để nói cặn kẽ ngũ thừa
đều cùng nhập Thật?
Đáp: Tam thế chư Phật
đều mở ra Quyền, nhưng vị lai chưa dấy
lên, hiện tại mới hành, [nếu dùng chuyện hiện
tại và vị lai để] chứng nghĩa th́ sẽ hơi yếu! Quá khứ khai Quyền đă lâu,
người được giáo hóa đều đă thành tựu
Tứ Nhất, lại c̣n ở trong mười
phương khai Quyền hiển Thật, chứng nghĩa
mạnh mẽ. Nói suông chẳng bằng dùng sự thật
để kiểm chứng. V́ thế, đối với
quá khứ Phật, nêu cặn kẽ chuyện ngũ thừa
hiển Thật. Phần thứ hai, “trùng tụng quá khứ
Phật” đă xong.
2.2.2.2.1.2.2.1.3.
Trùng tụng chư Phật vị lai
2.2.2.2.1.2.2.1.3.1.
Trùng tụng chuyện thực hành Quyền
(Kinh) Vị lai chư Thế
Tôn, kỳ số vô hữu lượng, thị chư
Như Lai đẳng, diệc phương tiện thuyết
pháp.
(經)未來諸世尊。其數無有量。是諸如來等。亦方便說法。
(Kinh: Vị lai các Thế
Tôn, số ấy chẳng hạn lượng, các đức
Như Lai ấy, cũng phương tiện thuyết
pháp).
2.2.2.2.1.2.2.1.3.2.
Trùng tụng hiển Thật
2.2.2.2.1.2.2.1.3.2.1.
Trùng tụng Nhân Nhất
(Kinh) Nhất thiết
chư Như Lai, dĩ vô lượng phương tiện,
độ thoát chư chúng sanh, nhập Phật vô lậu
trí. Nhược hữu văn pháp giả, vô nhất bất
thành Phật.
(經)一切諸如來。以無量方便。度脫諸眾生。入佛無漏智。若有聞法者。無一不成佛。
(Kinh: Hết thảy
các chư Như Lai, dùng vô lượng phương tiện,
độ thoát các chúng sanh, nhập Phật vô lậu trí. Nếu
có người nghe pháp, không ai chẳng thành Phật).
Xét theo người nghe pháp,
do không ai chẳng thành Phật, nên là Nhân Nhất.
Nếu xét theo người hóa độ
th́ là Giáo Nhất. Pháp được chứng bởi Phật
trí chính là Lư Nhất. Nhập Phật trí chính là Hạnh Nhất.
2.2.2.2.1.2.2.1.3.2.2.
Trùng tụng Hạnh Nhất
(Kinh) Chư Phật bổn
thệ nguyện, ngă sở hành Phật đạo, phổ
dục linh chúng sanh, diệc đồng đắc thử
đạo.
(經)諸佛本誓願。我所行佛道。普欲令眾生。亦同得此道。
(Kinh: Chư Phật vốn
thệ nguyện, Phật đạo do ta hành, muốn khiến
khắp chúng sanh, cũng cùng đắc đạo này).
Tự hành, hóa độ
người khác, không ǵ chẳng phải là Phật đạo.
V́ thế là Hạnh Nhất.
2.2.2.2.1.2.2.1.3.2.3.
Trùng tụng Giáo Nhất
(Kinh) Vị lai thế
chư Phật, tuy thuyết bách thiên ức, vô số chư
pháp môn, kỳ thật vi Nhất Thừa, chư Phật
Lưỡng Túc Tôn, tri pháp thường vô tánh, Phật chủng
tùng duyên khởi, thị cố thuyết Nhất Thừa.
(經)未來世諸佛。雖說百千億。無數諸法門。其實為一乘。諸佛兩足尊。知法常無性。佛種從緣起。是故說一乘。
(Kinh: Chư Phật
đời vị lai, tuy nói trăm ngàn ức, vô số các
pháp môn, thật ra v́ Nhất Thừa. Chư Phật Lưỡng
Túc Tôn, biết pháp thường vô tánh, Phật chủng do
duyên khởi. V́ thế nói Nhất Thừa).
“Trăm ngàn vô số các
pháp môn” là nói đến hết thảy các thứ nói quyền
biến thuộc bảy phương tiện trong ngũ thừa.
“Kỳ thật vi Nhất Thừa” (Thật ra là Nhất
Thừa): Nói rơ ư nghĩa của Quyền. Tuy nói pháp quyền
biến, ư vốn ở nơi Thật. Quyền chính là Quyền
sẵn có nơi Thật. V́ thế, hễ được
chỉ bày đó là Quyền, sẽ cùng trở thành liễu
nhân. “Tri pháp thường vô tánh” (biết pháp là thường,
chẳng có tự tánh): Thật Tướng thường trụ,
chẳng có tự tánh, chẳng có tha tánh, chẳng có cộng
tánh, chẳng phải là vô nhân tánh (tánh Không), vô tánh cũng chẳng
có tánh (tướng Không). Hễ nói đến vô tánh, sẽ
có đủ hai thứ vô tánh, tức là có tánh chất vô tánh
và tánh chất vô tướng. Do vốn tự có, nên nói là “thường vô”.
“Tri” (biết) là chiếu (quán chiếu). Nói chi tiết
th́ như trong cảnh chẳng thể nghĩ bàn thứ
năm của Chỉ Quán: “Một niệm trọn đủ
tam thiên, chẳng có tự hay tha” v.v… Đă chẳng có bốn
tánh (tự tánh, tha tánh, cộng tánh, vô nhân tánh), một niệm
cũng chẳng có, tức là tánh Không. Đă chẳng có một
niệm th́ vô niệm cũng chẳng có, tức là
tướng Không. Đấy chính là Nhị Không (tướng không và tánh không)
chẳng thể nghĩ bàn! Nếu vốn đă là Nhị
Không, đấy chính là Tánh Đức. Nếu
truy vấn, suy xét để nhập Không th́ là Tu Đức. Thôi thúc mà chẳng thành, cần phải
tu vạn hạnh, chánh lẫn trợ cùng hành, trong hành trọn
đủ hết thảy các hạnh th́ mới gọi là
Duyên Nhân. Nghe nghĩa ấy rồi th́ mới gọi là Khai.
Hỏi: Nhân duyên trong thế
gian có thể dùng bốn câu để hiểu rơ sanh và vô
sanh. Nay tánh vốn tịnh, chẳng liên quan đến duyên
khởi, sao lại cần phải dùng bốn câu ấy
để suy cầu?
Đáp: Duyên khởi của
pháp thế gian vốn cũng là vô sanh, nhưng do t́nh kiến
chấp trước, bèn cho đó là sanh. Lư tánh cũng thế,
do cho là có tự, tha v.v… cho nên cần phải suy cầu. Nhị Không chẳng hiển lộ,
vẫn cần phải dựa theo sự liên tục đối
đăi để suy nghiệm, huống hồ do cái nhân mà
thành ư?
Hỏi: V́ sao kinh văn ở
đây chẳng lập ra môn Quán ấy?
Đáp: Kinh này do hàng lợi
căn mà khai.
“Phật chủng tùng duyên
khởi” (Phật chủng do duyên mà dấy lên): Trung
Đạo vô tánh chính là “Phật chủng”. Kẻ mê lư
này, do vô minh làm duyên, ắt sẽ có “chúng sanh” dấy lên. Kẻ
hiểu lư này, do Giáo Hạnh làm duyên, sẽ có Chánh Giác khởi.
Muốn dấy khởi Phật chủng, cần có Nhất
Thừa giáo. V́ thế, trùng tụng Giáo Nhất.
Hơn nữa, “vô tánh”
chính là chánh nhân Phật tánh. “Phật chủng tùng duyên khởi”
tức là duyên liễu, dùng duyên để trợ giúp. Chánh
chủng (chủng tử chánh yếu) đă dấy lên, một
thứ dấy lên, hết thảy đều dấy lên. Ba
tánh như thế gọi là Nhất Thừa (ba cái nhân chẳng
thay đổi, cùng gọi là Tánh. Toàn thể đều
thành tu, lại gọi là “duyên liễu”. Đó chính là địa vị Lư Tức. Khổ là
chánh nhân Phật tánh, Hoặc là liễu nhân Phật tánh, Nghiệp
là duyên nhân Phật tánh. Ba thứ Phật tánh ấy chẳng
ngang hay dọc, chẳng
cùng hay khác, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng có tự
tánh, cho đến chẳng có vô nhân tánh, vô tánh cũng chẳng
có tánh, bèn gọi cái vô tánh ấy là Chánh Nhân Phật Tánh,
tức là thuộc vào địa vị Danh Tự Tức.
Hơi có chút hiểu biết, và cũng có chút hành tŕ, tức
là tánh “vô tánh”. Toàn thể trở thành hiểu biết
đôi chút, hành tŕ đôi chút, cho đến thuộc địa
vị Quán Hạnh và Tương
Tự, giải hạnh dần dần tích tụ, cũng là do
toàn thể của tánh vô tánh mà tạo thành. Ba cái nhân chẳng
thể nghĩ bàn ấy trong các địa vị Danh Tự,
Quán Hạnh và Tương Tự được gọi là
Duyên Nhân Phật Tánh. Trong địa vị Phần Chân,
Sơ Trụ một thứ phát th́ hết thảy đều
phát, cái tâm thuộc về Lư Chánh Nhân đă phát th́ gọi là
Pháp Thân Đức. Liễu nhân huệ tâm đă phát th́ gọi là
Bát Nhă Đức. Do duyên nhân thiện tâm phát khởi th́ gọi là Giải Thoát Đức,
chẳng dọc ngang, không cùng hàng hay khác biệt, chẳng
thể nghĩ bàn! Gọi ba cái nhân chẳng thể nghĩ
bàn trong địa vị Phần Chân là Liễu Nhân Phật
Tánh. Trong địa vị Cứu Cánh, Tánh Đức hiển
lộ trọn hết, Tu Đức hoàn
tất công năng. V́ thế nói “chánh chủng được
khởi, một thứ khởi th́ hết thảy đều
khởi” chính là hiển thị tướng của quả thừa.
Y báo, chánh báo, chủ, bạn, cho đến mỗi trần, mỗi hạnh đều
nhằm đền đáp cái nhân cùng lúc đều dấy
lên. Hễ dấy lên th́ sẽ là thành. Tu và tánh hễ gộp
lại, chẳng c̣n chia tách, tức là ba cái nhân của lư
tánh rốt ráo được hiển lộ
trọn vẹn. V́ thế nói: “Ba tánh như thế gọi
là Nhất Thừa”).
2.2.2.2.1.2.2.1.3.2.4.
Trùng tụng Lư Nhất
(Kinh) Thị pháp trụ
pháp vị, thế gian tướng thường trụ,
ư đạo tràng tri dĩ, đạo sư
phương tiện thuyết.
(經)是法住法位。世間相常住。於道場知已。導師方便說。
(Kinh: Pháp này trụ
pháp vị, tướng thế gian thường trụ,
nơi đạo tràng đă biết, đạo sư
phương tiện nói).
Chữ Thị chỉ Nhất
Thừa “tánh tu bất nhị” trên đây. Nhất Thừa
ấy chính là “pháp trụ”, c̣n gọi là “pháp
vị”. Từ cái gốc vô trụ mà lập ra hết thảy
các pháp. Do cái gốc vô trụ ấy chẳng thể động,
cho nên là “pháp trụ”.
Các loại pháp nói chung chẳng
ra ngoài phạm vi ấy, bèn gọi là “pháp vị”. Nêu
ra “pháp này trụ pháp vị” để làm tướng
Chánh Giác thế gian, do “pháp trụ
pháp vị” là thường trụ. V́ thế, tướng
Chánh Giác thế
gian cũng là thường trụ. Nêu ra “pháp trụ pháp
vị” để làm
tướng của chúng sanh thế gian và khí thế
gian[31].
Do pháp trụ pháp vị là thường trụ, cho nên tướng
chúng sanh và thế gian cũng là thường trụ.
Đấy chính là ba tướng thế gian, mỗi mỗi
không ǵ chẳng thường trụ, mỗi mỗi không ǵ
chẳng phải là “pháp trụ
pháp vị”, mỗi mỗi không ǵ chẳng phải là Nhất Thừa.
Nhưng chúng sanh mê ám, chẳng thể hay biết, đối
với thường trụ lại hư vọng thấy
là sanh diệt. Đối với Nhất Thừa, hư vọng
thấy sai biệt. Chỉ có đấng đại giác
đạo sư ngồi nơi đạo tràng
là biết như thật mà thôi. Đối với lư tánh
tịch diệt ĺa các hư luận chẳng thể nói, có thể
dùng phương tiện để nói Lư Nhất này! Lại
có thể dùng phương tiện lạ để giúp hiển
lộ Lư Nhất này.
Hỏi: Ngộ lư tánh này th́ gọi
là Chánh Giác Thế Gian, do v́ thuận tánh. Tánh là thường, mà tướng cũng thường
th́ được, nhưng mê lư tánh này sẽ là Chúng Sanh Thế
Gian. Do đă trái tánh, tánh tuy vốn thường, tướng
ắt phải vô thường. Cớ sao tướng chúng
sanh thế gian và tướng khí thế gian cũng là
thường trụ?
Đáp: Như băng và
nước, cùng lấy “ướt” làm tánh. Ướt th́ lấy
băng và nước làm tướng. Băng và nước
vô thường, tức là tánh ướt vô thường. V́
thế, gọi tánh ướt là vô tánh. Tướng ướt
đă là thường, tức tướng của băng và
nước cũng đều thường! V́ thế, gọi
tướng của băng và nước là thường trụ.
Lại nữa, Lư Nhất Thừa vô tánh giống như cái
nhà vốn chẳng xoay chuyển, Như Lai đă ngộ, giống
như người tỉnh sẽ thấy nhà chẳng xoay
chuyển. Chín pháp giới do mê, giống như kẻ say,
hư vọng thấy nhà cửa xoay chuyển! Tuy họ thấy
là xoay chuyển, nhà vốn chẳng chuyển. V́ thế, tuy
họ hư vọng thấy tướng chúng sanh thế
gian và tướng khí thế gian sanh diệt, [các tướng
ấy] thật ra là thường trụ, do chúng sanh thế
gian và khí thế gian chính là vô tánh, chính là pháp trụ, chính là
pháp vị.
Lại như mắt có màng mộng,
lầm lạc thấy hư không có hoa đốm dấy
lên hay diệt mất, nhưng hoa đốm trên hư không
thật sự chẳng dấy lên hay diệt mất. Do là vô
tánh, do chính là Không, thế gian
thường trụ. Lư ấy như thế, hết thảy
chúng sanh chỉ có lư thường, nghe mà có thể hiểu th́ là Danh Tự Thường. Niệm niệm
thấu hiểu, xem xét, tâm tâm chẳng gián đoạn, th́ gọi
là Quán Hạnh Thường. Thô cấu rụng trước,
sáu căn thanh tịnh là Tương Tự Thường.
Hoát nhiên khai ngộ, chứng chân nhân (cái nhân chân thật) của bốn
mươi mốt địa vị, th́ gọi là Phần
Chứng Thường. Viên măn hiển phát, chẳng thừa,
chẳng thiếu, th́ là Cứu Cánh Thường. Do từ
đầu tới đuôi b́nh đẳng, nên gọi là Tức.
Thăng trầm rất khác, cho nên cần phải biện
định sáu món. Nương vào cái Thể b́nh đẳng,
cho nên mới có thăng trầm khác biệt. Như
nương vào hư không th́ mới có thể luận định
xa gần. V́ thế nói “toàn tánh khởi tu” (nói chung hai
cách tu nghịch và thuận), bất luận thăng trầm
khác biệt vời vợi, vẫn chẳng ĺa một Thể
b́nh đẳng, như xa và gần chẳng ra khỏi
hư không. V́ thế nói “toàn tu tại tánh”. Giáo vốn
để diễn nói điều này, cho nên gọi là Giáo Nhất.
Hạnh để khế nhập điều này, cho nên gọi
là Hạnh Nhất. Người ắt hiểu điều
này, cho nên gọi là Nhân Nhất. Phần ba, “trùng tụng vị
lai Phật” đă xong.
* Ghi chú của người
chuyển ngữ:
Do đoạn này Tổ giảng
quá cao và quá sâu, chúng tôi xin trích thêm lời giảng của
pháp sư Phổ Hành như sau: - “Thị pháp trụ pháp vị”,
chữ Pháp thứ nhất nói về hết thảy các pháp,
chữ Pháp thứ hai chỉ Chân Như Pháp Tánh. Hết thảy
các pháp vốn trụ trong không tịch, như như bất
động, tức là an trụ trong Chân Như pháp vị.
V́ thế, nói là “pháp này trụ trong pháp vị”. Đại
Trí Độ Luận nói: “Pháp tánh, pháp giới, pháp vị
đều là tên gọi khác của Chân Như”.
Trong Pháp Hoa
Kinh Giảng Diễn Lục, Thái Hư đại sư viết:
“Pháp thường tức là Trung Đạo trong nơi các
pháp, là tánh Viên Thành Thật. Pháp vô tánh tức là pháp không, tức
là Biến Kế Chấp Tánh. Phật chủng chính là vô lậu
chủng tử mà chúng sanh vốn sẵn có. ‘Từ duyên khởi’
tức là từ các duyên thù thắng được huân tập
trong Phật pháp mà dấy lên. Pháp trụ, tức là thường
trụ nơi Thật Tướng Nhất Thừa do Phật
đă chứng. Pháp trụ pháp vị tức là pháp thường
trụ nơi Thật Tướng ấy, tức là trụ
trong bổn tâm chân thật của Phật và chúng sanh. Đấy
chính là nói chư Phật Thế Tôn biết thật lư của
các pháp, biết pháp tánh vốn không, và biết chúng sanh vốn
có Phật chủng vô lậu, cần phải dựa vào các
duyên thù thắng để dấy khởi, cho nên nói ra pháp
Nhất Thừa”.
2.2.2.2.1.2.2.1.4.
Trùng tụng hiện tại Phật
(Kinh) Thiên nhân sở cúng
dường, hiện tại thập phương Phật.
Kỳ số như Hằng sa, xuất hiện ư thế
gian, an ổn chúng sanh cố, diệc thuyết như thị
pháp. Như đệ nhất tịch diệt, dĩ
phương tiện lực cố, tuy thị chủng chủng
đạo, kỳ thật vị Phật Thừa. Tri chúng
sanh chư hạnh, thâm tâm chi sở niệm, quá khứ sở
tập nghiệp, dục tánh, tinh tấn lực, cập
chư căn lợi độn. Dĩ chủng chủng
nhân duyên, thí dụ, diệc ngôn từ, tùy ứng
phương tiện thuyết.
(經)天人所供養。現在十方佛。其數如恒沙。出現於世間。安隱眾生故。亦說如是法。如第一寂滅。以方便力故。雖示種種道。其實為佛乘。知眾生諸行。深心之所念。過去所習業。欲性精進力。及諸根利鈍。以種種因緣。譬喻亦言辭。隨應方便說。
(Kinh: Trời người
nay cúng dường, hiện tại mười
phương Phật. Số như cát sông Hằng, xuất
hiện trong thế gian. V́ an ổn chúng sanh, cũng nói pháp
như thế, như đệ nhất tịch diệt, do
v́ sức phương tiện, tuy dạy các thứ đạo,
thật ra là Phật Thừa. Biết các hạnh chúng sanh,
thâm tâm họ nghĩ tưởng, nghiệp tu tập quá khứ,
dục tánh, sức tinh tấn, và các căn lợi độn,
dùng các thứ nhân duyên, thí dụ và ngôn từ, đúng lẽ
phương tiện nói).
Trước là trùng tụng ư
nghĩa hóa độ, kế đến trùng tụng chuyện
hiển Thật, sau đó trùng tụng chuyện hành Quyền.
“Như thị pháp” (pháp như thế) tức là nói
đến hai pháp Quyền và Thật. “Đệ nhất
tịch diệt” tức Lư Nhất. “Phương tiện
thị chủng chủng đạo” (phương tiện
dạy các thứ đạo) thật sự v́ Phật Thừa.
Xét theo người chỉ dạy, đó chính là Giáo Nhất.
Xét theo điều được dạy th́ là Hạnh Nhất.
Biết các hạnh của chúng sanh là thực hành Quyền.
Phần thứ nhất, “trùng tụng bốn loại Phật”
đă xong.
2.2.2.2.1.2.2.2. Trùng
tụng Phật Thích Ca
2.2.2.2.1.2.2.2.1.
Trùng tụng đại lược Quyền Thật trong phần
trước để làm căn bản cho các thí dụ
trong phần sau
2.2.2.2.1.2.2.2.1.1.
Trùng tụng hiển Thật
(Kinh) Kim ngă diệc
như thị, an ổn chúng sanh cố, dĩ chủng chủng
pháp môn, tuyên thị ư Phật đạo.
(經)今我亦如是。安隱眾生故。以種種法門。宣示於佛道。
(Kinh: Nay ta
cũng như thế, do an ổn chúng sanh, dùng đủ thứ
pháp môn, tuyên nói, dạy Phật đạo).
Đoạn kinh văn này
trùng tụng trọn đủ Tứ Nhất. “Kim ngă diệc
như thị” (nay ta cũng giống như thế) tức
là giống như chư Phật, cùng dùng Nhất Thật
để giáo hóa chúng sanh, tức là trùng tụng chung về
chuyện hiển Thật. “An ổn” là Niết Bàn bí tạng,
là chỗ an ổn. Phật tự trụ trong đó, mà
cũng xếp đặt cho chúng sanh cùng vào trong đó. Chỗ
an ổn chính là Lư Nhất. Chúng sanh là Nhân Nhất. “Các thứ
pháp môn nhập Phật đạo” chính là Hạnh Nhất.
“Tuyên thị” chính là Giáo Nhất.
2.2.2.2.1.2.2.2.1.2.
Trùng tụng thực hành Quyền
(Kinh) Ngă dĩ trí huệ
lực, tri chúng sanh tánh dục, phương tiện thuyết
chư pháp, giai linh đắc hoan hỷ.
(經)我以智慧力。知眾生性欲。方便說諸法。皆令得歡喜。
(Kinh: Ta dùng sức trí
huệ, biết tánh dục chúng sanh, phương tiện
nói các pháp, khiến họ đều hoan hỷ).
Sức trí huệ chính là Quyền
Trí. “Tri tánh dục” là soi xét hàng tiểu cơ. Nói các
pháp chính là thực hành Quyền, “đều hoan hỷ”: [Do
nói pháp] tương xứng cơ nghi. Hai bài kệ trên
đây tuy đại lược, nhưng đă
thâu nhiếp sự giáo hóa của đức Phật từ
đầu đến đuôi, không ǵ chẳng gồm tận.
V́ thế tương xứng với phần trùng tụng
đại lược chuyện Quyền Thật đă nói
trong phần trên, nhằm làm
căn bản cho sáu nghĩa thuộc tổng thí dụ [nhà
lửa] trong phần sau:
- Một, ta nay cũng giống
như thế. “Ta” chính là Phật Thích Ca, là vị hóa
chủ Nhất Thừa, làm căn bản cho ông đại
trưởng giả trong phẩm Thí Dụ thuộc phần
sau.
- Hai, an ổn tức là đại
Niết Bàn thường lạc ngă tịnh, chẳng có
Ngũ Trược gây chướng ngại. Đối với
tam giới tỏ lộ Ngũ Trược th́ gọi là “chẳng
an ổn”, tức là căn bản cho thí dụ “nhà lửa”
trong phần sau.
- Ba, chúng sanh chính là các đồ
đệ tiếp nhận sự giáo hóa trong năm
đường, tức là thí dụ cho năm trăm
người [ở trong ngôi nhà cũ nát bốc
cháy] trong phần sau.
- Bốn, pháp an ổn, vẫn
đối ứng với pháp chẳng an ổn trong thuở
Ngũ Trược, là căn bản của thí dụ
[căn nhà cũ] bốc lửa trong phần sau.
- Năm, các thứ pháp môn,
đối lập với “các thứ”, làm
căn bản cho thí dụ trong phần sau [căn nhà cũ
đang bốc cháy ấy] chỉ có một cửa [để
ra vào].
- Sáu, biết tánh dục của
chúng sanh, tức là trong ngũ đạo có căn tánh tam thừa
sai khác, làm căn bản cho thí dụ ba mươi đứa
con [ông trưởng giả] trong phần sau. Phần thứ
nhất, “trùng tụng đại lược Quyền Thật
trong phần trên” đă xong.
2.2.2.2.1.2.2.2.2.
Trùng tụng cặn kẽ sáu nghĩa trong phần trước
để làm căn bản cho phần Biệt Thí trong phần
sau
2.2.2.2.1.2.2.2.2.1.
Trùng tụng Ngũ Trược để làm căn bản
cho thí dụ “lửa bốc cháy” trong phần sau
(Kinh) Xá Lợi Phất đương
tri, ngă dĩ Phật nhăn quán, kiến lục đạo chúng
sanh, bần cùng, vô phước huệ, nhập sanh tử
hiểm đạo, tương tục khổ bất
đoạn, thâm trước ư ngũ dục, như mao
ngưu ái vĩ, dĩ tham ái tự tế, manh minh vô sở
kiến, bất cầu đại thế Phật, cập
dữ đoạn khổ pháp, thâm nhập chư tà kiến,
dĩ khổ dục xả khổ. Vị thị chúng sanh cố,
nhi khởi đại bi tâm.
(經)舍利弗當知。我以佛眼觀。見六道眾生。貧窮無福慧。入生死險道。相續苦不斷。深著於五欲。如犛牛愛尾。以貪愛自蔽。盲瞑無所見。不求大勢佛。及與斷苦法。深入諸邪見。以苦欲捨苦。為是眾生故。而起大悲心。
(Kinh: Xá Lợi Phất
nên biết: Ta dùng Phật nhăn xem, thấy lục đạo
chúng sanh, bần cùng, không phước huệ, vào đường
hiểm sanh tử, liên tục khổ chẳng dứt, chấp
sâu nơi ngũ dục, như mao ngưu[32] mến đuôi,
bị tham ái che lấp, mù ḷa chẳng trông thấy, chẳng
cầu đại thế Phật, ban cho pháp dứt khổ.
Thâm nhập các tà kiến, toan dùng khổ xả khổ, v́
các chúng sanh ấy, bèn dấy ḷng đại bi).
Mười một chữ
đầu nhằm nói rơ Phật nhăn có thể trông thấy.
Trong phần sau có nói: Chủ nhà đứng ở ngoài cửa,
ấy là v́ Phật thuộc địa vị Pháp Thân, dùng
Phật nhăn thường tịch chiếu soi trọn vẹn
các căn cơ. Nếu [chúng sanh] căn nhạy
bén, trược nhẹ, sẽ dùng h́nh tượng Lô Xá Na
(Báo Thân Phật) nói pháp Nhất Thừa. Nếu căn độn,
trược nặng, sẽ dùng h́nh tượng giống
như một vị lăo tỳ-kheo, kinh sợ vào trong nhà lửa,
phương tiện thực thi tam thừa, chỉ là
đúng thời soi xét căn cơ. V́ thế nói: “Ngă
dĩ Phật nhăn quán” (ta dùng Phật nhăn nh́n thấy).
Phàm quán Sắc pháp, phải nên dùng Thiên Nhăn. Phân biệt
căn cơ th́ phải nên dùng Pháp Nhăn. Nay nói “dùng Phật nhăn
quán”, tức là nêu ra
mắt thù thắng để bao gồm các loại mắt
kém hơn. Hơn nữa, bốn loại mắt kia được
gộp trong Phật nhăn, đều gọi là Phật Nhăn.
Từ câu “lục đạo
chúng sanh” trở đi, nói đến chuyện thấy
Ngũ Trược. Trong phần sau, kinh văn nói: “Nhữ
chư tử đẳng, tiên nhân du hư, lai nhập thử trạch,
trĩ tiểu vô tri, hoan ngu nhạo trước” (các con
của ông trước kia do chơi đùa, vào trong nhà này, trẻ
dại không hiểu biết, vui sướng, ham thích). “Bần
cùng vô phước huệ” là trùng tụng Chúng Sanh Trược.
Hai câu “nhập sanh tử” trùng tụng Mạng Trược.
Bốn câu như “thâm trước” (chấp trước
sâu đậm) v.v… trùng tụng Phiền Năo Trược. Hai
châu “bất cầu [đại thế Phật]…” (chẳng
cầu vị Phật có oai thế to lớn) trùng tụng
Kiếp Trược. Trong kiếp chẳng có Phật, nên gọi
là Trược. Nếu kiếp có Phật, dẫu trược
vẫn có thể phá. Hai câu “thâm nhập” trùng tụng
Kiến Trược. Bốn câu “hoặc bất cầu”
trùng tụng chung về Kiến Trược. “Dĩ tà kiến
cố, bất cầu đại thế Phật” (do v́
tà kiến, chẳng cầu vị Phật có oai thế lớn):
Chẳng cầu pháp đoạn khổ, bèn chuốc lấy
cái nhân khổ, cứ lầm lạc mong xả khổ quả,
há có được chăng? Lúc bốn
thứ trược (Kiến Trược, Chúng Sanh Trược,
Mạng Trược, Phiền Năo Trược) tụ tập
th́ gọi là Kiếp Trược. V́ thế, chẳng cần
trùng tụng riêng. Hai câu “vị thị chúng sanh” (v́ các
chúng sanh ấy) ư nói Phật dấy ḷng đại bi ứng
hiện. Đó chính là căn bản cho chuyện ông trưởng giả
nghe nói xong, liền kinh hăi vào nhà lửa trong phần sau.
2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.
Trùng tụng dùng phương tiện để giáo hóa để
làm căn bản cho thí dụ bỏ bàn ghế, dùng xe trong phần
sau
2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.1.
Nghĩ sử dụng Đại Thừa chẳng
được
2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.1.1.
Tính dùng Đại Thừa
(Kinh) Ngă thỉ tọa đạo
tràng, quán thụ diệc kinh hành, ư tam thất nhật
trung, tư duy như thị sự, ngă sở đắc trí
huệ, vi diệu tối đệ nhất.
(經)我始坐道場。觀樹亦經行。於三七日中。思惟如是事。我所得智慧。微妙最第一。
(Kinh: Ta
mới ngồi đạo tràng, quán cây và kinh hành, trong hai
mươi mốt ngày, tư duy chuyện thế này: Ta
đạt được trí huệ, vi diệu tột bậc
nhất).
“Thỉ tọa đạo
tràng” (thoạt đầu ngồi tại đạo
tràng): Chí lư (lư cùng tột) chẳng có thời, giả lập
thời để hóa độ chúng sanh, trở thành điểm
khởi đầu của sự giáo hóa. V́ thế nói là “thỉ”
(khởi đầu). Giải thích theo Sự th́ thoạt
đầu Ngài tu tŕ, đắc đạo nơi đây, v́
thế nói là “đạo tràng”. Do ngồi dưới
cây ấy, bèn đắc
Chánh Giác, nên gọi là “đạo thụ” (cây đạo tràng). Do cảm ơn cây nên
quan sát, do nghĩ tới
phẩm đức của đất nên kinh hành. Cây và đất
chẳng có phân biệt, há cần phải báo ân? Kinh Vị Tằng
Hữu nói: “Chỉ dĩ thông hóa truyền pháp, danh báo ân
nhĩ” (Chỉ v́ giáo hóa chung để truyền pháp nên
gọi là báo ân). Kinh Quá Khứ Nhân Quả dạy: “Phật
thành đạo sơ thất nhật, tư duy ngă pháp diệu,
vô năng thọ giả. Nhị thất nhật, tư duy
chúng sanh thượng trung hạ căn. Tam thất nhật,
tư duy thùy ưng tiên văn pháp? Tức chí Ba La Nại, vị
ngũ nhân thuyết Tứ Đế, Trần Như đắc
Pháp Nhăn Tịnh” (Đức Phật thành đạo,
trong bảy ngày đầu tiên, tư duy “pháp của ta mầu
nhiệm, chẳng ai có thể tiếp nhận”. Trong bảy
ngày kế đó, tư duy chúng sanh là thượng, trung, hay
hạ căn. Bảy ngày thứ ba, tư
duy ai là người đáng nghe pháp trước hết? Bèn tới
thành Ba La Nại (Vāraṇasi, tức thành phố Benares
hiện thời), v́ năm người
nói Tứ Đế, ngài Kiều Trần Như đắc
Pháp Nhăn Tịnh). Đó là xét theo cái thấy của tiểu
cơ.
Nay nói rơ Phật trụ trong địa
vị Pháp Thân, tịch mà thường chiếu, luôn dùng Phật
Nhăn nh́n thấu suốt chẳng sót, há có phải [thật sự
là] thoạt đầu tới đạo tràng, im lặng suốt
hai mươi mốt ngày để suy nghĩ chuyện này.
Nói “hai mươi mốt ngày” nhằm biểu thị muốn dùng tam châu để thuyết
pháp. Bảy ngày đầu tiên suy nghĩ về Pháp Thuyết
Châu. Bảy ngày kế tiếp suy nghĩ về Thí Thuyết
Châu. Bảy ngày sau cùng nghĩ về Nhân Duyên Thuyết Châu. Ba châu ấy đều
là “chẳng có căn cơ tương xứng sẽ không
được!” V́ thế, ngưng nói đại pháp mà nói
tiểu pháp. Đây là cách giải thích riêng biệt của
Viên Giáo trong Đại Thừa. Nếu giải thích thông
thường theo Đại Thừa th́ bảy ngày đầu
tiên suy nghĩ về Viên Giáo, bảy ngày kế tiếp
nghĩ về chuyện nói Biệt Giáo. Bảy ngày sau cùng
nghĩ về chuyện nói Thông Giáo, đều thấy “chẳng
có căn cơ tương ứng [để tiếp nhận] th́ sẽ không được (chẳng hóa
độ được)”! V́ thế, thôi nói Đại Thừa mà nói pháp phương tiện
thuộc tam thừa trong Tam Tạng.
Giải thích theo quán tâm th́ Cây
chính là cây to mười hai nhân duyên. Quán sâu xa duyên khởi, tự
thành Bồ Đề, toan dùng rừng pháp vô lậu để
che rợp, lợi ích chúng sanh. V́ thế nói là “quán thụ”.
“Kinh hành” chính là ba mươi bảy phẩm của
Đại Thừa, tức là hành tŕ đạo pháp, tự
dùng đạo phẩm để đặt chân lên đất
Thật Tướng, được thành tựu Phật
đạo, muốn dùng pháp này để hóa độ chúng
sanh. V́ thế khởi hạnh. “Tam thất” (hai mươi
mốt ngày): Bảy ngày đầu muốn nói về Trung
Đạo Quán. Trung Đạo mầu nhiệm khó quán, chẳng
được! Bảy ngày kế tiếp muốn nói Tức
Giả Quán, Tức Giả Quán th́ Phân Biệt Trí khó sanh khởi,
chẳng được! Bảy ngày cuối, muốn nói Tức
Không Quán, tức Không Xảo Độ[33],
vẫn chẳng được! Đấy chính là nói đến
phương tiện chia chẻ các pháp để
quán của Tiểu Thừa.
2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.
Nói rơ chúng sanh chẳng phải là căn cơ [của pháp viên đốn]
(Kinh) Chúng sanh chư
căn độn, trước lạc si sở manh, như
tư chi đẳng loại, vân hà nhi khả độ?
(經)眾生諸根鈍。著樂癡所盲。如斯之等類。云何而可度。
(Kinh: Chúng sanh các
căn độn, chấp vui si mù quáng, những hạng
người như thế, sẽ độ như thế
nào?)
Trí huệ đă là vi diệu
bậc nhất. V́ thế, chẳng phải là kẻ căn
độn, ngu si, mù tối mà ḥng lănh nhận,
thông hiểu được. Kinh văn trong phần sau có nói:
“Chư tử vô tri, tuy văn phụ hối, do cố nhạo
trước, hy hư bất dĩ” (Các con vô tri, tuy nghe cha
răn dạy, vẫn cứ vui thích chấp trước,
vui đùa chẳng ngớt).
2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.1.3.
Suy nghĩ toan thôi giáo hóa
(Kinh) Nhĩ thời,
chư Phạm vương, cập chư Thiên Đế Thích,
hộ thế tứ thiên vương, cập Đại Tự
Tại Thiên, tịnh dư chư thiên chúng, quyến thuộc
bách thiên vạn, cung kính hiệp chưởng lễ, thỉnh
ngă chuyển pháp luân. Ngă tức tự tư duy, nhược
đản tán Phật Thừa, chúng sanh một tại khổ,
bất năng tín thị pháp. Phá pháp, bất tín cố, trụy
ư tam ác đạo. Ngă ninh bất thuyết pháp, tật
nhập ư Niết Bàn.
(經)爾時諸梵王。及諸天帝釋。護世四天王。及大自在天。並餘諸天眾。眷屬百千萬。恭敬合掌禮。請我轉法輪。我卽自思惟。若但讚佛乘。眾生沒在苦。不能信是法。破法不信故。墜於三惡道。我寧不說法。疾入於涅槃。
(Kinh: Khi
đó, các Phạm vương, và các Thiên Đế Thích, hộ
thế bốn thiên vương, và Đại Tự Tại
Thiên, cùng các chúng trời khác, quyến thuộc trăm ngàn vạn,
cung kính, chắp tay lễ, thỉnh ta chuyển pháp luân. Ta liền
tự suy nghĩ: “Nếu chỉ khen Phật Thừa, chúng
sanh ch́m trong khổ, chẳng thể tin pháp này. Do phá pháp chẳng
tin, rơi vào ba đường ác. Ta thà chẳng thuyết
pháp, mau chóng nhập Niết Bàn”).
Tuy Phạm thiên, Đế
Thích thỉnh cầu, đức Phật biết chẳng
có căn cơ [tương ứng để lănh thọ
đại pháp], cho nên chẳng nói. Kinh văn
trong phần sau chép: “Chư tử ấu trĩ, vị hữu
sở thức, hoặc đương đọa lạc,
vị hỏa sở thiêu” (các con thơ dại, chẳng
hiểu biết, chắc sẽ bị té ngă, bị lửa
đốt cháy). Phần thứ nhất, “suy nghĩ dùng Đại
Thừa chẳng được” đă xong.
2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2. Nghĩ giống như chư Phật, sử dụng tam thừa, do tương