Đại Thừa
Đại Tập Địa Tạng
Thập Luân Kinh
Giảng Kư
phần 1
大乘大集地藏十輪經講記
Mộng Tham lăo ḥa thượng
chủ giảng
梦参老和尚主講
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức
Phong và Huệ Trang
Đôi nét về lăo ḥa
thượng Mộng Tham
Lăo
pháp sư Mộng Tham (1915-2017), tục danh là Lưu Thụy
Đ́nh, pháp danh Giác Tỉnh, tự hiệu là Mộng Tham, hàm
ư “chẳng giác mà cũng chẳng tỉnh”. Lại do một
giấc mộng mà xuất gia, nên Sư tự xưng như
thế. Sư sanh năm 1915 tại huyện Khai Thông, tỉnh
Hắc Long Giang, là con cả trong gia đ́nh. Năm 1928, Sư
xin vào làm cảnh sát đường sắt tại cục đường
sắt Trường Xuân. Năm 1930, Sư vào học trường
quân sự Phụng Thiên, trở thành sĩ quan trong lữ đoàn
Phụng Thiên. Khi thủ lănh quân phiệt Phụng Thiên là Trương
Tác Lâm thua trận, phải rút quân về Bắc Kinh, Sư
theo quân đoàn về Bắc Kinh. Khi được giao nhiệm
vụ tuần pḥng tại Thạch Gia Trang vào cuối năm
ấy, trong khi nghỉ đêm tại một cơ xưởng
bỏ hoang, Sư mộng thấy chính ḿnh xuất gia. Tỉnh
giấc, Sư bèn t́m đến xin xuất gia với lăo ḥa
thượng Tu Lâm ở chùa Đâu Suất núi Thượng
Phương thuộc huyện Pḥng Sơn, thành phố Bắc
Kinh. Sư xuống tóc tại miếu Dược Vương
thuộc hậu sơn Di Ḥa Viên, được đặt
pháp danh là Giác Tỉnh. Do tự khiêm “chẳng giác, chẳng
tỉnh”, lại do mộng mà xuất gia, nên Sư lấy hiệu
là Mộng Tham.
Sau
khi xuất gia, Sư lại mộng thấy một vị
Tăng bảo hăy sang núi Cửu Hoa. Tỉnh giấc, Sư
bỗng phát hiện vị Tăng trong mộng giống hệt
chân dung của ḥa thượng Biến Dung (tổ Liên Tŕ cũng
do vị này mà đắc ngộ), Phật giáo Trung Hoa thường coi ngài Biến
Dung là một hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát. Ngài
đến Cửu Hoa Sơn, đúng dịp mở tháp thờ
nhục thân Kim Địa Tạng (ngài Kim Kiều Giác), cho nên
càng đặc biệt tín ngưỡng, tôn phụng Địa
Tạng Bồ Tát. Khi ở tại Cửu Hoa, Sư lại
mộng thấy có người bảo hăy sang chùa Dũng Tuyền
tại Cổ Sơn. Do vậy, Sư xin vào Cổ Sơn Phật
Học Viện để học kinh Hoa Nghiêm với lăo pháp
sư Từ Châu. Do tŕnh độ văn hóa quá thấp, Sư
nghe giảng chẳng hiểu ǵ, tính rời Cổ Sơn, th́
trong mộng lại thấy có một vị Tăng dạy
hăy học tập phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện
trước để khai trí huệ. Sư vâng theo, quả
nhiên, trí huệ tăng tấn. Sư lại t́m đến
chùa Trạm Sơn ở Thanh Đảo để học
Thiên Thai Tứ Giáo và thư pháp với pháp sư Đàm Hư.
Năm
1937, Sư vâng lệnh thầy, sang Hạ Môn, cung thỉnh pháp
sư Hoằng Nhất đến chùa Trạm Sơn. Sư
làm thị giả cho ngài Hoằng Nhất suốt nửa năm,
bèn cầu thỉnh pháp sư Hoằng Nhất chế tác một
bộ Luân Tướng theo đúng
cách thức như kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo đă
dạy. Pháp sư Hoằng Nhất không chỉ tạo Luân Tướng,
c̣n dạy rất nhiều yếu nghĩa của kinh ấy, lại c̣n đích
thân chép phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm trao tặng.
Bản thư pháp trân quư này được trân trọng cất
giữ chùa Pháp Nguyên ở Bắc Kinh, nhưng đă bị
Hồng Vệ Binh phá hủy tan nát trong thời kỳ Cách Mạng
Văn Hóa.
Năm
1940, do ủng hộ quân Kháng Nhật, Sư bị truy bắt,
phải ẩn náu, đổi trang phục thành thị giả
của một vị lạt-ma tại Ung Ḥa Cung. Muốn hiểu
thêm về Mật Tông, Sư bèn từ Bắc Kinh xuống
Thượng Hải, sang Hương Cảng, rồi đáp
thuyền sang Ấn Độ qua Tây Tạng cầu pháp. Tại
Tây Tạng, Sư y chỉ Rinphoche Hạ Ba của phái Cách Lỗ
(Gelugpa) chùa Sắc Lạp (Sera), học Bồ Tát Đạo
Tu Pháp Thứ Đệ với pháp danh là Cổn Khước
Đồ Đăng.
Khi
Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa thành lập, chánh quyền Mao Trạch
Đông t́m mọi cách hủy diệt Phật giáo Tây Tạng
nói riêng, và Phật giáo Trung Hoa nói chung. Đa số các tăng lữ
đều lâm vào cảnh tù đày, hay bị hạn chế mọi tự do hoạt động, rất nhiều
chùa chiền bị sung công, biến thành hợp tác xă hay kho
chứa lương thực, tăng sĩ bị đưa về
nông thôn “đi sâu sát với quần chúng”, thực chất đi
lao động cưỡng bức. Năm 1950, Sư
đang ở huyện Cam Đốn tỉnh Tứ Xuyên, do kiên
quyết từ chối hoàn tục, chẳng muốn theo các
cán bộ nhà nước vào Tây Tạng để thực hiện
công tác đồng hóa dân bản xứ nhằm xóa bỏ nền văn hóa Tây Tạng,
Sư bị tống vào trại “học tập cải
tạo”. Trong trại,
do Sư vẫn khăng khăng không chịu hoàn tục, không chịu chối bỏ Phật
giáo, nên đă bị giam vào trại tù h́nh sự. Trong tù, Sư
vẫn tuyên truyền Phật giáo, giúp nhiều người
hướng về Phật pháp, nên bị chánh quyền Trung
Cộng gán cho tội danh phản cách mạng và bị giam cầm
suốt mười lăm năm. Sau đó, chánh quyền
Trung Cộng kết thêm án lao động khổ sai mười
tám năm, tức là Sư bị tù suốt ba mươi ba
năm. Nhiều lúc hoàn cảnh cơ cực, chèn ép, bế tắc
khiến Sư phẫn chí, toan tự tử, luôn mộng thấy
có người đẩy lên đài giảng, cung thỉnh giảng
kinh. Sư tự biết ḿnh c̣n có trọng trách hoằng dương
Phật pháp nên ráng ẩn nhẫn. Sư thường niệm
bài kệ “giả sử nhiệt thiết luân, tại nhữ
đảnh thượng toàn, chung bất dĩ thử khổ,
thoái thất Bồ Đề tâm” (giả sử ṿng sắt
nóng, xoay trên đỉnh đầu ngươi, trọn chẳng
v́ khổ ấy, lui sụt tâm Bồ Đề) để
tự khích lệ, nhẫn nại trong hoàn cảnh ngặt nghèo.
Măi
cho tới năm 1982, khi Trung Ương Đảng Trung Cộng
và Quốc Vụ Viện (phủ thủ tướng) Hoa Lục quyết định
nới lỏng chánh sách tôn giáo, ngài Mộng Tham mới được
trả tự do. Từ Tứ Xuyên trở về Bắc
Kinh, Sư được mời dạy học tại
Trung Quốc Phật Học Viện, chuyên giảng dạy
Tứ Phần Luật. Năm 1984, Sư được các
vị pháp sư Diệu Trạm và Viên Chuyết thỉnh
sang chùa Nam Phổ Đà tại Hạ Môn để giúp khôi
phục Mân Nam Phật Học Viện, giữ chức Giáo Vụ
Trưởng. Năm 1987, Sư được ḥa thượng
Tuyên Hóa mời sang Vạn Phật Thánh Thành chủ tŕ pháp hội
Thủy Lục, tạo thành nhân duyên hoằng pháp tại hải
ngoại sau này. Năm 1988, nhận lời thỉnh của
Mỹ Quốc Bồ Đề Tâm Cơ Kim Hội, Sư cùng
thị giả là pháp sư Hoằng Giác định cư tại
Nữu Ước, bắt đầu giảng kinh Chiêm Sát và
pháp môn Địa Tạng suốt năm năm tại Mỹ.
Từ
đó, Sư lần lượt chống tích trượng
sang Gia Nă Đại, Tân Tây Lan, Tân Gia Ba, Hương Cảng,
và Đài Loan hoằng
pháp. Năm 1995, trong khi trụ tích tại chùa Hoằng Pháp ở
Vancouver, sau khi phát hiện bị ung thư trực tràng, Sư
tính bỏ vạn duyên, nhất tâm niệm Phật văng sanh. Chấp
thuận lời tha thiết cầu thỉnh trụ thế
của các đệ tử, Sư chấp thuận phẫu
thuật vào năm 1996 tại bệnh viện Chương
Hóa, Đài Bắc. Năm 2004, chấp thuận lời thỉnh
của tứ chúng chùa Phổ Thọ, Sư bắt đầu
giảng kinh Hoa Nghiêm từ ngày mồng Hai tháng Hai và các kinh
luận Đại Thừa. Năm 2006, nhận lời thỉnh
của tổ chức Phương Quảng Văn Hóa, giảng
kinh Thập Luân tại chùa Phổ Thọ. Năm 2007, Sư
đến các chùa Thông Giáo Tự và Cư Sĩ Lâm tại Bắc
Kinh hoằng pháp. Năm 2009, Sư tham dự hoạt động
hoằng pháp do Đài Bắc Quốc Tế Hội Nghị
tổ chức, mỗi buổi giảng có mấy ngàn người
nghe. Cuối năm đó, Sư trở về Ngũ Đài
Sơn, giảng kinh Lăng Nghiêm. Năm 2014, do lời thỉnh
cầu của các đệ tử xuất gia, Sư từ
Mộng Tham Tinh Xá ở Thâm Quyến (Quảng Đông) về
an dưỡng tại chùa Chân Dung núi Ngũ Đài. Ngày 27 tháng
Mười Một, Sư thị hiện viên tịch tại
chùa Chân Dung, thọ 103 tuổi.
Suốt
đời, Sư luôn tự coi ḿnh chưa xứng là một
vị tỳ-kheo, chỉ là người xuất gia vân du, không
truyền pháp (chẳng lập môn hộ),
mà cũng chẳng kiến lập đạo tràng nào (ngay cả
Mộng Tham Tinh Xá tại Thẩm Quyến chỉ là do các đệ
tử kiến lập rồi nhiều lượt tha thiết
thỉnh cầu, Sư mới chấp thuận cho đặt
tên như thế). Sư suốt đời chỉ mang ư niệm
hoằng pháp, cốt sao giảng giải những ư nghĩa
thâm viễn trong kinh cho mọi người đều hiểu.
Những lời giảng của Sư chất phác, b́nh dị.
Những người hâm mộ Sư, phát tâm tu học, hoặc
xuất gia rất đông. Chính nhờ ảnh hưởng
của Sư mà các chùa Phổ Thọ tại Ngũ Đài,
Năng Nhân tại núi Nhạn Đăng, và Chân Dung tại Ngũ
Đài đều được khôi phục, đỉnh thịnh.
Tuy giảng nhiều pháp khác nhau, nhưng pháp môn được
Sư đặc biệt chú trọng là pháp môn Địa Tạng,
nhất là kinh Chiêm Sát.
Đại Thừa
Đại Tập Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng
Kư
* Mạn đàm phẩm Tự
của kinh Thập Luân
Trước
khi bắt đầu giảng kinh Đại Thừa Đại
Tập Địa Tạng Thập Luân, tôi cùng mọi người
mạn đàm đôi chút. Chúng ta học một bộ kinh, phải
học thấu đáo, học hiểu như thế nào? Học
kinh xong th́ phải hành, phải kết hợp với thân tâm
của chính ḿnh, cũng phải hiểu pháp nhân duyên. Nhân duyên
đă trọn đủ,
hết thảy sự vật sẽ thành. Nhân duyên chẳng
trọn đủ, chuyện ấy sẽ chẳng thể thành
tựu được! Tôi cùng chư vị đạo hữu
chia tay nửa năm, trong nửa năm ấy, tôi đă đến
rất nhiều nơi, chẳng hạn như Đài Bắc,
Đại Lục, Hoa Kỳ; đấy là nhân duyên. Hàm nghĩa
của nhân duyên chính là chúng ta làm bất cứ chuyện ǵ, nhất
định là có “tiền nhân” (前因, cái nhân từ trước),
tùy thuộc cái duyên có trọn đủ hay không? Duyên chẳng
trọn đủ, sẽ chẳng thể thành tựu
được! Bất luận sự vật nào cũng đều
chẳng thể thành tựu. Nhưng tất cả hết
thảy nhân duyên lại đều là giả, cho nên nói “pháp
nhân duyên chẳng có thật thể”. Chúng ta cũng sẽ
nói tới “duyên khởi tánh không”, đối với vấn
đề này, bộ kinh này giảng rất nhiều.
Trước
khi chúng ta học tập kinh Đại Thừa Đại
Tập Địa Tạng Thập Luân, mọi người
cần phải phát tâm, phát tâm ǵ vậy? Phát tâm sám hối! Tôi
nghe rất nhiều người nói: “Tuy tôi chẳng liễu
giải chuyện chi khác, chứ đối với chính
ḿnh, tôi c̣n chẳng liễu
giải hay sao?” Tôi nói: “Tuy tôi xuất đă hơn sáu mươi
năm, vẫn chẳng liễu giải chính ḿnh!” Chắc mọi
người nghe nói, sẽ cảm thấy rất lạ lùng!
Không chỉ một ḿnh tôi chẳng liễu giải chính
ḿnh, chỉ sợ quư vị, trừ bậc thánh nhân và Bồ Tát ra,
kẻ chẳng liễu giải chính ḿnh rất nhiều! Phần
lớn mọi người đều chẳng liễu giải
chính ḿnh! Quư vị có biết trong quá khứ, chính ḿnh đă
làm những ǵ hay không? Kẻ chẳng liễu giải cái nhân trong quá
khứ, nay phải hứng chịu cái quả mà cũng chẳng
nhận biết. V́ sao tôi phải chịu đau khổ như
thế này? V́ sao tai nạn này giáng xuống thân tôi? Chắc
mỗi vị đạo hữu đều có kinh nghiệm
như thế này: Lọt vào t́nh cảnh oan uổng, bị ủy
khuất. Chuyện ấy về căn bản chẳng
liên quan ǵ đến ta, cuối cùng đổ xuống đầu
ta! Quư vị nghĩ “oan uổng quá”, đó là v́ quư vị chẳng
biết cái nhân trong quá khứ, chẳng liễu giải chính
ḿnh!
Cũng
có người mạn đàm cùng tôi, nói: “Trên thế giới
này, chuyện bất công quá nhiều!” Tôi nói: “Đó là cái nh́n
của quư vị”. Họ nói: “Sư phụ! Thầy thấy
như thế nào?” Tôi đáp: “Chẳng có nửa điểm
không công bằng! Hết sức công bằng, đặc biệt
công bằng”. Tôi nói những lời này, chắc là trong ḷng mọi
người chẳng thể chấp nhận cho lắm! Hết thảy những ǵ quư vị
phải hứng chịu, đều do chính ḿnh đă làm. Chính
quư vị làm, chính ḿnh hứng chịu; sao không công bằng cho được? V́ chúng ta không
có trí huệ, chẳng thấy rơ rất nhiều chuyện,
mới cho rằng chuyện
ấy quá thiếu công bằng. Trong quá khứ, lúc quư vị
oan uổng người khác, chính ḿnh có hiểu
hay không? Tôi nói: “Nay quư vị bị kẻ khác hại, có biết
là trong quá khứ, quư vị cũng từng hại người
hay không?”
Chúng
ta nói đến một vấn đề lớn hơn đôi
chút. Người Nhật xâm lược Trung Hoa, giết rất
nhiều người Hoa. Hiện thời, người Nhật
vẫn sống rất tốt, kinh tế rất phát triển,
c̣n người Hoa lại chịu nhiều đau khổ dường
ấy. Họ hỏi tôi thấy thế nào? Tôi đáp: “Chuyện
này rất công bằng!” Họ hỏi: “Chuyện này làm sao công
bằng cho được?” Tôi đáp: “Những người
bị giết chết thuở đó, đều đă bốn
mươi, năm mươi năm rồi. Hiện thời,
những người ấy đầu thai sống tại Nhật
Bản, đến nơi đó hưởng phước, c̣n
những tên sát nhân người Nhật lại sanh vào Trung
Hoa. Mọi người đổi vị trí để nh́n,
sẽ chấp nhận ngay!” Nếu nh́n theo quan điểm nhân
quả vô lượng kiếp, sẽ thấy hết sức
công bằng. Tôi nói những lời này, hy vọng các vị đạo
hữu lúc học kinh Thập Luân sẽ dùng cái tâm sám hối
như vậy để học. Bộ kinh này có một phẩm
là phẩm Sám Hối nhằm mong chúng ta hăy sám hối tội nghiệp trong quá
khứ, sám hối cho tội nghiệp thanh tịnh.
Hễ có trí huệ, quư vị sẽ biết. Mọi người phải chuẩn
bị trước tư tưởng. Quư vị chẳng biết
[chính ḿnh] trong quá khứ đă từng làm chuyện ǵ! Kinh
Thập Luân dạy cho quư vị biết: Trong quá khứ, quư
vị đă làm những chuyện ǵ, hiện tại phải
hứng chịu những khổ nạn ǵ. V́ sao quư sanh vào thời
điểm này? Lúc Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, quư vị
chẳng sanh, chẳng sanh về thế giới Cực Lạc,
chẳng sanh về Đâu Suất Thiên, cũng chẳng sanh về
thế giới của Đông Phương Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai, mà sanh trong thế giới Sa
Bà vào thời điểm này. V́ sao vậy? V́ quư vị đă tạo nghiệp ấy.
Đă có cái nghiệp ấy,
chính ḿnh phải hứng chịu. Đấy là rất công bằng,
chẳng có ǵ không công bằng! Do vậy, kinh Thập
Luân giống
như một cái màn h́nh cho chúng ta biết những tội
ác, những sai lầm của chính ḿnh, trong tâm sẽ chẳng
bất b́nh nữa!
Lần
này, vào lúc chúng ta học tập kinh Đại Thừa Đại
Tập Địa Tạng Thập Luân, bản thân tôi chẳng
có tín tâm [đối với chính ḿnh], v́ chẳng t́m thấy
những bản giảng thuật của cổ nhân, chẳng
t́m thấy tài liệu tham khảo, vậy là rất có thể
sẽ nói sai nhiều chỗ! Những kinh chúng tôi đă giảng
trước kia đều đă được
cổ nhân giảng rất nhiều lượt, có tài liệu
tham khảo để tra cứu. Nói sai th́ c̣n có thể đùn đẩy đôi chút:
“Các vị đại đức đều nói như vậy,
chẳng liên quan đến tôi cho lắm!” Nhưng bộ kinh
này người khác chưa từng nói qua, chẳng thể nào
đùn đẩy được!
Trước
tiên, tôi bắt đầu nói về một ngàn vị Phật,
khiến cho mọi người nhận thức nay chúng ta đang thuộc
thời đại nào. Trong một ngàn vị Phật ấy,
hiện thời là thời đại Mạt Pháp của Thích
Ca Mâu Ni Phật. Ở trong thời đại này, chúng ta rất
khổ. Cái nhân khiến chúng ta chịu khổ là do
cái nghiệp trong quá khứ rất nặng. Thời đại
Thích Ca Mâu Ni Phật, thọ mạng của nhân loại đặc
biệt ngắn ngủi, chỉ có một trăm năm. So
trong thời đại của Thất Phật, [sẽ
thấy] thời đại của chúng ta tốt nhất,
v́ chỉ có Thích Ca Mâu Ni Phật mới có nguyện lực
lớn dường ấy, Ngài đến giáng sanh nơi đây.
Nếu Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng xuất hiện trong thời
đại này, th́ ngay cả đạo lư này chúng ta cũng
chẳng biết. V́ thế, một khi chúng ta đă nhận
thức rơ ràng những sự đau khổ đang phải
hứng chịu trong thời đại này, cái tâm sẽ b́nh
tĩnh. Cho đến khi quư vị học, cũng sẽ biết
học như thế nào!
Ngoài
ra, bộ kinh này có phân lượng khá dài, thời gian chúng
ta học tập sẽ dài hơn đôi chút. Chẳng giống
như kinh Kim Cang, kinh Di Đà, hay Tâm Kinh có thể học
xong rất nhanh chóng, bộ kinh này
th́ không thể vậy! Bất quá, số phẩm cũng không
nhiều, tất cả chỉ có tám phẩm, gồm mười
quyển. Mọi người có thể mở quyển thứ
nhất ra xem: Phẩm Vô Y Hạnh và phẩm Hữu Y Hạnh
chiếm năm quyển. Lại thêm phẩm Tự trước
đó và phẩm Hoạch Ích Chúc Lụy, ngoại trừ phẩm
Thập Luân, số quyển của các phẩm trung gian cũng
chẳng nhiều. Phẩm Thập Luân dạy: Dùng Thập Luân của đức
Phật để đối trị thập luân nghiệp
chướng của phàm phu. Kế đó là phẩm Sám Hối,
phẩm Thiện Ác Nghiệp Đạo, và phẩm Phước
Điền Tướng, tuy số quyển và
số phẩm chẳng nhiều, các đạo
lư trong ấy vẫn rất phức tạp.
Trong
phẩm Tự, đức Phật tán thán công đức của
Địa Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát
lễ Phật và tán thán công đức của Phật. Do vậy,
trong phẩm Tự, chẳng có đạo lư to lớn ǵ để
có thể nói [cặn kẽ], nhưng đại
ư của phẩm Thập Luân th́ khác hẳn! Dùng Thập Luân của Phật
để đối trị thập luân trong hiện tại
của chúng ta đấy nhé!
Chúng
ta học tập bộ kinh này, phải có phương pháp; nhất
định phải kết hợp làm một với cuộc
sống hằng ngày của quư vị. Bộ kinh này dạy chúng
ta phải sống như thế nào. Trong cuộc sống thường
ngày, đừng tạo nghiệp nữa, đừng làm
chuyện sai trái nữa. V́ sau khi đă tạo, đợi đến
lúc phải hứng chịu, quư vị sẽ chịu không nổi,
sẽ rất đau khổ. Nếu có thể kết hợp
với cuộc sống hằng ngày để học tập,
kinh thường nói Thập Trí hoặc Thập Lực của
Phật, quư vị phải đối chiếu, học tập
Phật nghiệp, dùng nghiệp của Phật để
chuyển hóa nghiệp của chúng ta thành Phật nghiệp.
Điều này có nghĩa là mỗi câu nói, mỗi hành động,
khi thốt lời, khi thân thể hành động, khi tâm suy
tưởng, bèn dùng [Phật nghiệp] để đối
chiếu. Quư vị phải học tập từ mọi sự
ngay trong cuộc sống thường ngày. Sau khi đă học
xong, sẽ đối chiếu với chính ḿnh để dần
dần sửa đổi, càng học càng thâm nhập, sẽ
chẳng sanh phiền chán, sẽ có thể tiến nhập
rất nhanh chóng!
Nếu
chẳng học như vậy, quư vị sẽ chẳng thể
tiến nhập được. Nói theo ngôn ngữ thường
ngày của chúng ta, bộ kinh này do Huyền Trang đại
sư phiên dịch, so với kinh Địa Tạng, hoặc
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, văn tự phiên dịch
có khác nhau. V́ có những vị đại đức sử
dụng cách “dịch ư”, tức là căn cứ trên nếp
sống, t́nh cảm, ngôn ngữ, và hết thảy tập
quán của chúng ta để biểu đạt [ư kinh]. Huyền
Trang đại sư cho rằng cách biểu đạt ấy
có thể đánh mất tánh chất chân thật của [bản
kinh gốc], chỉ sợ sẽ chênh lệch với nguyên
nghĩa do đức Phật đă nói tại Ấn Độ. Do vậy, Ngài
dịch theo sát văn tự, và cũng dựa theo ư nghĩa
để dịch. Phần lớn văn tự [trong kinh này]
vốn là văn tự xuất phát từ Ấn Độ,
thoạt nh́n hơi xa lạ. Những danh tướng thường
thấy trong kinh văn, chẳng hạn như Phật, Thế
Tôn, trong bộ kinh này sẽ được gọi là Bạc
Già Phạm (Bhagavat).
Giống
như lúc thuở đầu, tôi qua Tây Tạng học pháp,
không chỉ là [cảm thấy] những câu văn trong kinh
điển rất khó học tập, mà ngay lời nói cũng
rất kỳ quặc, tốn một thời gian rất dài
mà cũng chẳng sửa được. Chẳng hạn
như chúng tôi muốn mời quư vị dùng cơm hay uống
trà, sẽ không nói “mời dùng cơm” hay “mời uống trà”,
mà nói là “trà uống mời” hay “cơm dùng mời”. Quư vị
nghe xong thấy rất kỳ quái, nói ra cũng rất trặc
trẹo. Văn từ trong bộ kinh này, có rất nhiều
chỗ giống như thế đó. Hiểu cách dùng từ,
khi chúng ta nói, sẽ đảo lại, hoán chuyển ư nghĩa
bao hàm trong ấy. Khi xem bộ kinh này, cũng phải xem như
vậy.
Trong
kinh văn có những chỗ “tỷ phương” (比方, so sánh, tỷ dụ).
Nói “tỷ phương” tức là xét theo ư nghĩa trong
Phật pháp, sợ quư vị không hiểu, cho nên dùng ư nghĩa
khác để tỷ dụ, như vậy th́ chúng ta sẽ
hiểu. Nhưng một khi đă thông qua cách “tỷ phương”
th́ nghĩa lư đă cách xa tám vạn bốn ngàn dặm! Chẳng
hạn như nói đến Không, Phật giáo thường
hay dùng Không để tỷ dụ Pháp Tánh, tỷ dụ Tự
Thể, tỷ dụ Thật Tướng. Chúng ta hoàn toàn hiểu
sai nó, bèn nói “đă
là Không th́ cái ǵ cũng
chẳng có”; do vậy, rơi vào Đoạn Kiến. “Không” trong Phật giáo chẳng phải
là rỗng không như thế! Nó chẳng tách rời vật
chất, do hiển thị vật chất, nên mới nói là Không!
Cái Không ấy do từ trên vật chất cụ thể mà
thấu đạt Không. Giống như quư vị nói “người”
là cụ thể, vẫn tồn tại, [nhưng xét theo bản
chất, theo nhân duyên ḥa hợp th́ người] “là Không”.
Hàm nghĩa trong Phật pháp là như vậy đó. Chẳng
phải nói “Không” th́ sẽ chẳng
có ǵ cả! Ở đây, chỉ nêu thí dụ mà thôi, có rất
nhiều trường hợp giống như vậy.
Lại
ví như nói phẩm Tự của kinh Thập Luân nói tới
Địa Tạng Bồ Tát, v́ bộ kinh này chủ yếu
lấy Địa Tạng Bồ Tát làm vị thuyết pháp
chủ. Nhưng trong kinh, ngài Địa Tạng là tùy hỷ
mà đến, [lúc Ngài chưa đến đă] có Bồ Tát Tăng,
La Hán Tăng, và phàm phu Tăng.
Mọi người tụ họp nói kinh Nguyệt Tạng.
Khi bộ kinh ấy đă nói xong, Địa Tạng Bồ
Tát mới tùy hỷ mà đến, hoàn toàn chẳng phải
v́ thỉnh kinh (thưa hỏi đức Phật dạy một
kinh nào đó) hay thuyết pháp mà đến. Đức Phật
liền do nhân duyên ấy mà nói công đức của Địa
Tạng Bồ Tát, mà Địa Tạng cũng tán thán công
đức của Phật. Nhân duyên của bộ kinh này do như
vậy mà dẫn khởi. Trước khi giảng kinh này, đức
Phật đang giảng kinh Đại Thừa Đại
Tập Nguyệt Tạng. Kinh Nguyệt Tạng vừa mới viên măn, Địa
Tạng Bồ Tát đến nơi. Tướng cảnh giới
khi Bồ Tát đến, mọi người xem kinh văn
liền biết ngay.
Trong
khi thâu thập các tài liệu, Hồng cư sĩ đă thâu
thập các kinh điển có liên quan đến Địa
Tạng Bồ Tát như kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn
Nguyện, kinh Đại Thừa Đại Tập Địa
Tạng Thập Luân, kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, kinh
Địa Tạng Thập Vương, kinh Địa Tạng
Bồ Tát Đà La Ni, Địa Tạng Bồ Tát Nghi Quỹ,
Địa Tạng Bồ Tát Tam Quốc Linh Dị Kư, Địa
Tạng Bồ Tát Sám Bổn, và Chiêm Sát Sám Pháp. Những bộ
ấy đều thuộc về pháp môn Địa Tạng
Bồ Tát. Quư vị chỉ cần thông đạt một bộ,
những bộ khác đều có liên quan.
Kinh
Địa Tạng và kinh Thập Luân tương thông, nhưng
chỗ bất đồng là phương pháp chuyển nghiệp
cho chúng sanh có đôi chút khác biệt. Kinh Thập Luân tu Chỉ
Quán, kinh Địa Tạng th́ chỉ cần tạo tượng,
bái sám, có thể niệm thánh hiệu Địa Tạng th́
coi như đă tu hành. Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo th́
phần liên quan đến sự tu hành của chúng ta, tôi vẫn
chưa giảng, tức là nửa bộ sau của kinh Chiêm
Sát. Kinh Thập Luân thoạt đầu dạy quư vị tu
hành như thế nào để chứng nhập Thiền Định.
Chẳng nhập Thiền Định, sẽ chẳng thành đạo.
Vừa khởi đầu, kinh dạy quư vị một phương
pháp từ cạn nhập sâu. Chúng ta nghe xong, cảm thấy dường
như rất đơn giản, nhưng sử dụng sẽ
chẳng dễ dàng cho lắm! Vẫn là sáu chữ Sổ, Tùy,
Chỉ, Quán, Chuyển, Tịnh, nếu quư vị khởi
tu, sẽ chẳng dễ dàng cho lắm. Đại khái, chúng
ta biết những phương pháp do Địa Tạng Bồ
Tát truyền dạy đều có các phương pháp ấy, đều
bao gồm trong những tài liệu ấy.
Tuy
vậy, trong ấy có một điều:“Khư La sơn
là Tịnh Độ của Địa Tạng Bồ Tát”;
Đối với cách nói ấy, chúng tôi không hoàn toàn nghĩ
như thế. V́ lúc đó, đức Phật đang thuyết
pháp tại núi Khư La; khi Ngài sắp nói xong, Địa Tạng
Bồ Tát từ phương Nam đến đó. Điều
ấy cho thấy núi
Khư La không phải là Tịnh Độ của Ngài. Nếu
là Tịnh Độ của Ngài, Ngài lại cần ǵ phải
từ phương Nam đến đó? Hơn nữa, kinh
Chiêm Sát và kinh Địa Tạng đều chỉ ra Địa
Tạng Bồ Tát từ phương Nam đến, từ
phương Nam nào vậy? Trong thời điểm ấy, chính
là phương Nam của trời Đao Lợi! “Phương
vô định phương” (không có phương vị nhất
định).
Tôi
nghĩ: Chỗ nào có địa ngục, chỗ nào nhằm
thời đại không có Phật, người nơi nào khổ
sở nhất, nơi ấy nhất định có Địa
Tạng Bồ Tát độ chúng sanh. Đấy là nguyện
của Ngài. Bất luận Ngài đến chỗ nào, chỗ
ấy sẽ là Tịnh Độ của Ngài. Chúng ta thấy
chữ Tịnh Độ, bèn nghĩ nơi đó phải
giống như thế giới Cực Lạc, thế giới
Bất Động, thế giới Lưu Ly, thế giới
Hương Tích th́ mới là Tịnh Độ, nhưng Tịnh
Độ của Địa Tạng Bồ Tát th́ “chỗ
nào có địa ngục, chỗ đó là Tịnh Độ,
chỗ ấy là Tịnh Độ để Ngài hóa độ
chúng sanh”. Có phải là chúng ta bắt buộc phải lư
giải như vậy hay không? Ở đây là mạn đàm,
mỗi người có phương pháp tu hành riêng. Có khi cách
tu hành là dựa theo Chiêm Sát Sám Pháp để lạy Chiêm Sát
Sám. Đấy chỉ là bước đầu trong tu hành, trọn
chẳng phải là chúng ta bái sám th́ là tu hành! Đương nhiên cũng
coi như là tu hành, v́ trước hết quư vị phải
tiêu nghiệp chướng. Nghiệp chướng đă tiêu
th́ mới có trí huệ; có trí huệ th́ mới có thể tu
hành.
Hiện
thời, chúng ta vẫn chưa thể tu hành, hễ quan sát hơi
thở ra vào, vừa quán bèn tán loạn,
làm sao có thể nhập Định cho nổi? Nhưng qua việc
bái sám, nghiệp chướng tiêu mất. Hễ nghiệp
chướng tiêu, trí huệ sẽ sanh khởi, dễ dàng
tiến nhập tu hành. Do vậy, bất cứ pháp môn tu hành
tối sơ nào, đều coi sám hối là bậc nhất,
phải tiêu trừ nghiệp chướng trước hết.
Học Mật Tông cũng giống như thế! Trước
hết, quư vị phải lạy mười vạn đại
lễ[1]. Cách lễ
ấy chẳng giống như chúng ta đảnh lễ, mà
là đại lễ bái! Trước hết, quư vị phải
tiêu nghiệp chướng, những điều ấy đều
là tiền phương tiện (phương tiện chuẩn
bị). Nếu suốt đời cứ lạy như vậy,
có thể thành tựu hay không? Nhất định là có thể
thành tựu, v́ trí huệ của quư vị tăng trưởng!
Khi lạy, quư vị khởi lên quán tưởng: “Năng
lễ, sở lễ tánh không tịch” (người lễ
và đấng được lễ, tánh đều không tịch). Thường xuyên quán
tưởng như vậy, lâu ngày sẽ có thể chứng
nhập. Khi đó, tu Định sẽ tiến nhập rất
nhanh chóng!
Nhưng
phương thức tu hành trong mỗi bộ kinh, mỗi bộ
luận, mỗi vị Bồ Tát cũng đều bất đồng. Cũng
có đạo hữu hỏi tôi như thế này: “Địa
Tạng Bồ Tát đến hội này, v́ sao có rất nhiều
người chẳng biết nhận biết Ngài, c̣n cần
phải t́m người giới thiệu?” Tôi nói: “Không chỉ
Địa Tạng Bồ Tát là như thế, ngay cả Thích
Ca Mâu Ni Phật mà c̣n có rất nhiều kẻ trong cơi Phật của Ngài mà chẳng
biết Ngài!” Pháp sư Hoằng Giác từng nói đùa: “Chẳng
cần nói quốc độ Phật giáo nào khác, ngay cả quốc
độ này, là đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật,
họ chỉ biết niệm A Di Đà Phật, chẳng
biết thầy họ là Thích Ca Mâu Ni Phật”. Chẳng có ǵ
khác, chỉ có thể nói là “không có duyên”. Cũng có các pháp sư chẳng
biết Địa Tạng Bồ Tát. Tôi cũng đă nghe có
người nói: “Tôi chưa từng nghe về Địa Tạng
Bồ Tát, chẳng học pháp môn của Địa Tạng
Bồ Tát, cũng chẳng biết Địa Tạng Bồ
Tát luôn!” Cũng giống như vậy, hiện thời, cũng
có rất nhiều người chẳng biết Văn Thù Sư
Lợi Bồ Tát. V́ sao vậy? Là do Duyên như tôi vừa thưa cùng mọi người. Nhiều đời
nhiều kiếp trong quá khứ chưa từng kết duyên
với Bồ Tát, tự nhiên sẽ chẳng liễu giải
phương pháp của Ngài.
Rất
nhiều người có thói quen phán giáo, phàm là kinh nói về Địa
Tạng Bồ Tát, bất luận là kinh Địa Tạng
cũng thế, mà kinh Thập Luân cũng thế, hễ nói
về chuyện địa ngục và nhân gian th́ dường
như chẳng phải là Đại Thừa! Hễ nói
đến Đại Thừa th́ phải là rất ư là lớn.
Họ cho rằng phải như pháp môn Duy Tâm th́ mới là Đại
Thừa, hoặc như Đại Thủ Ấn (Mahāmudrā) của Mật
Tông “lập tức thành Phật”, cho rằng đấy
mới là Đại Thừa. Bọn họ nghĩ kinh Địa
Tạng, kinh Thập Luân, thậm chí kinh Chiêm Sát Thiện Ác
Nghiệp Báo là Tiểu Thừa. C̣n như [tựa đề
là] Đại Thừa Đại Tập Thập Luân Kinh đặc
biệt chỉ ra đây là Đại Thừa, có những kẻ
chỉ viết là Đại Tập Thập Luân Kinh, chẳng
có chữ Đại Thừa, dẫu bản dịch của
pháp sư Huyền Trang ghi rơ là Đại Thừa!
Bộ
kinh này được dịch hai lần, một lần vào
đời Tùy, ai phiên dịch cũng chẳng biết, v́ bản
dịch ấy bị thiếu tên [người dịch]. Lần
phiên dịch thứ hai do Huyền Trang đại sư phiên
dịch. Mọi người thấy Ngài chú thích thời
gian, địa điểm, và điều kiện đều
có. Pháp sư Huyền Trang dịch bộ kinh này trong niên hiệu
Vĩnh Huy[2]
đời Đường, tức là mười sáu năm
sau khi Ngài từ Ấn Độ trở về Trung Hoa mới
phiên dịch bộ kinh này.
Trong
kinh, trừ tán thán công đức của Địa Tạng
Bồ Tát ra, Địa Tạng Bồ Tát cũng hướng
về đức Phật tán thán một lượt. Mục đích đức Phật
và Địa Tạng Bồ Tát thù tạc xướng họa với nhau, chủ yếu
là để phá trừ Thập Ác của chúng ta. Phần Chiêm
Sát Luân trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo cũng chú trọng
Thập Ác. Kinh Địa Tạng dạy: Sở dĩ quư vị
phải đọa địa ngục cũng là v́ Thập
Ác. Thập Ác là ǵ? Là “giết, trộm, dâm” phát sanh nơi thân, “nói dối, nói thêu dệt,
nói đôi chiều, ác khẩu” nơi miệng, và “tham, sân, si” nơi tâm của chúng
ta. Đó là mười nghiệp. Những nghiệp tạo
tác nơi thân, nghiệp phát xuất từ miệng, nghiệp
dấy khởi từ tâm, đấy là mười nghiệp.
Chẳng tạo mười ác nghiệp ấy, làm toàn chuyện
tốt, đó là Thập Thiện. Nói lời hay đẹp,
chẳng ác khẩu, tận lực xúc tiến khiến cho mọi
người ḥa hảo, chẳng phá hoại người khác,
tức là chẳng phạm Lưỡng Thiệt. Nói năng
chưa hề thốt lời ô uế, đó gọi là “chẳng
ác khẩu”. Luôn tán thán; ngoài tán thán công đức của người
khác ra, tận lực nói những lời êm tai, thốt lên
những lời lẽ khiến cho người khác hoan hỷ,
đấy là đối trị Ác Khẩu. Lời lẽ nào
chẳng có đạo lư sẽ không nói, suốt ngày từ sáng
đến tối đừng nói chuyện phiếm; chẳng
c̣n nói những chuyện “ta đúng, người sai” nữa.
Chẳng nói những lời lẽ kiểu đó, tức là
“chẳng nói lời thêu dệt”. Chẳng nói những lời
lẽ vô nghĩa, gạt người, lừa dối, những
lời lẽ dối trá lại càng chẳng nói, như thế
th́ khẩu nghiệp thanh tịnh. Hễ thêm chữ Chẳng
vào trước [Thập Ác], liền thành thiện nghiệp.
Không có chữ Chẳng th́ là ác nghiệp, c̣n gọi là Ác Luân.
Trong tâm khởi tham niệm, khởi sân niệm, dấy lên
tà kiến. Ngu si là tà kiến. Tà kiến là không hiểu rơ, hồ
đồ, nghiệp nhân của vô minh do “tham, sân, si” dẫn
khởi. Nếu trong tâm chúng ta chẳng có tham, sân, si, th́ là thiện
nghiệp. Thân chẳng giết, trộm, dâm là thiện nghiệp.
“Không dâm” tức là ngoài quan hệ vợ chồng ra, nhưng
nói rốt ráo th́ là hết thảy
không dâm, đấy là thiện nghiệp.
H́nh
dung mười thiện nghiệp ấy th́ là Thiện Luân.
Nếu tạo tội, sẽ trở thành Ác Luân. Luân có tác dụng
ǵ? Mọi người đều biết: Luân là “phát động,
vận chuyển chẳng ngừng”. Luân mang ư nghĩa
“chuyển biến”, luân chuyển
không ngừng. V́ sao chúng ta luân hồi trong lục đạo
vĩnh viễn chẳng ngưng dứt, vĩnh viễn lưu
chuyển? Chính v́ nghiệp.
Nghiệp khiến cho quư vị chẳng thể ngưng dứt.
Nếu quư vị tạo thiện nghiệp, thiện cũng
khiến cho quư vị chẳng thể ngưng nghỉ. Nhưng
Thập Luân cũng có rốt ráo và sơ bộ:
- Khiến cho thiện
nghiệp đạt tới Thập Luân của Phật th́ là
Thập Trí.
- Chuyển các điều
ác của chúng sanh thành Ngũ Nghịch, Thập Ác chính là Thập
Ác Luân ác nhất. Phẩm Vô Y Hạnh và Hữu Y Hạnh cũng giảng về
Thập Ác Luân.
Trước
hết là nói dùng Thập Luân của Phật để đối
trị Thập Ác Luân của chúng sanh. Do vậy, tên gọi
của bộ kinh này là Thập Luân. V́ sao lại phải thêm
Địa Tạng Thập Luân? Cuối bộ kinh này, vị
được dặn ḍ lưu truyền và hộ tŕ kinh này
chính là Hư Không Tạng Bồ Tát. Trong phẩm Chúc Lụy
Nhân Thiên của kinh Địa Tạng cũng là Hư Không
Tạng Bồ Tát. Mọi người biết Hư Không Tạng
Bồ Tát có hàm nghĩa ǵ? Trong kinh Hoa Nghiêm, Hư Không Tạng
Bồ Tát biểu thị “dung nạp hết thảy, hàm
nhiếp hết thảy”. Chữ Tạng (藏) trong Hư
Không Tạng có nghĩa là “kho báu”. Hư Không chẳng
phải là rỗng tuếch, mà là h́nh dung Ngài đă chứng
đắc tánh Không, chứng đắc chân tâm, chứng
đắc mười tướng của kinh Chiêm Sát. “Không” chẳng
phải là “không có ǵ”. Hư Không bao hàm hết
thảy các pháp, chẳng rỗng không. Căn dặn Ngài hăy
tuyên truyền kinh này, dặn Ngài hăy hoằng dương.
Mười
cái luân ấy chẳng có lúc nào ngưng nghỉ, bất luận
là thiện luân hay ác luân, khi nào th́ mới có thể ngưng
nghỉ? Chờ đến khi cái tâm của chính ḿnh lắng
xuống. Vị Phật nào cũng đều chứng cảnh
giới Thập Luân ngưng dứt, chứng đắc tánh
thể ấy. Nhằm khiến cho chúng ta đạt được
mục đích ấy, cho nên gọi là Đại Thừa.
“Đại” là nói cái tâm của
chúng ta. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
cũng là chữ Đại ấy. Đại Thừa Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh cũng là chữ Đại ấy. Chữ Đại
nêu rơ tâm thể, hoặc tổng thể của chúng ta. Cái Thể
của hết thảy các pháp môn, đại tổng tướng
của pháp môn là Đại. “Thừa” là chuyên chở. Nếu
nương vào mười thiện nghiệp ấy, chúng nó
sẽ có thể chuyên chở quư vị đạt đến
Tịch Diệt rốt ráo. “Có thể tịch diệt”
chính là Phật quả. Hàm nghĩa của Không trong tiếng
Phạn là Tịch Diệt, hoặc Tịch Tĩnh, đều
nhằm h́nh dung Không; thế nhưng chẳng nói là
Không! Do tiếng Hán không
có chữ ấy, chúng ta chẳng thể dịch được,
bèn dùng chữ Không để thay thế. Nhưng sử dụng
chữ Không, chúng ta lại hiểu lầm là “chẳng có ǵ”.
Vừa nói Không, có rất nhiều người liền rơi
vào Đoạn Diệt Kiến, bởi nghĩ Không là “chẳng
có ǵ cả”! “Không” chẳng phải là “không có”.
Chữ Không ấy bao gồm hết thảy các pháp Duyên Khởi,
bản thể của chúng là Tánh Không. Cái Không ấy bao gồm
hết thảy các pháp Duyên Khởi, làm thế nào để
hiển thị Tánh Không ấy? Dùng duyên khởi để
hiển thị cái Không ấy. Làm thế nào để chứng
đắc cái Không ấy? “Duyên khởi hoàn diệt” chính
là chứng đắc cái Không ấy.
Có
hai cách giải thích chữ “Đại Tập”:
1)
Một là trong pháp hội ấy, đă tập hợp rất
nhiều chúng sanh. Nhiều tới mức độ nào? Vô số!
Quư vị xem kinh văn sẽ biết: Có bao nhiêu Thanh Văn
Tăng? Vượt quá số lượng! Tức là dùng số
lượng để tính toán, sẽ chẳng thể tính
toán được! Đó gọi là “vượt quá số
lượng”. Có bao nhiêu vị Bồ Tát Tăng? Vượt
quá số lượng! Hễ nói đến pháp môn Địa
Tạng, trừ kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo ra, xứ
sở có hai chỗ: Một là ở Đao Lợi Thiên, hai là
giữa bảy rặng núi Kim Sơn, tức là núi Khư La,
ở giữa Dục Giới và Sắc Giới, kẻ b́nh
phàm chẳng thể tới được. Đấy là xứ
sở thù thắng. Tụ họp ở nơi đấy th́
mới có thể dung nạp nổi!
Trong
kinh Phật, hễ nói đến con số th́ chẳng dùng
những con số trong nhân gian để tính toán, [tức là
chẳng] dùng một, hai, ba, bốn, năm, sáu để tính
toán. Bao nhiêu ức? Bao nhiêu vạn? Bao nhiêu triệu? Chúng ta
chẳng thể tính toán; do vậy, đức Phật dùng một
tỷ dụ, tức là dùng cát sông Hằng để tỷ
dụ. “Hằng hà sa” (cát sông Hằng): Sông Hằng dài bảy, tám ngàn
dặm, số lượng cát trong ấy là bao nhiêu? Trí lực
con người chẳng thể tính đếm được.
Như vậy, đối với những con số ở đây,
quư vị phải nên lư giải như thế!
2)
Một cách giải thích khác: Quư vị có thể nghe nói Thập
Nghiệp tức là có thể vận chuyển quư vị, nêu
tỏ tâm địa, thành tựu Thể Tánh của chính
ḿnh, thành tựu Tỳ Lô Giá Na của chính ḿnh, tức là có
thể đạt đến Đại. Do vậy, các đại
chúng nhóm họp trong pháp hội lần này, đều là những
người hữu duyên. Nay chúng ta có thể cùng nhau học
tập bộ kinh này, luân chuyển măi cho tới nay, chúng ta
mới có duyên. Chẳng có cái duyên ấy, sẽ chẳng thể
gặp được!
Đối
với vấn đề này, tôi cũng suy nghĩ rất
nhiều lần. Bất cứ lúc nào, cũng đều
suy tưởng: “Nói là vô duyên th́ dường như lại
là hữu duyên. Nói là hữu duyên th́ dường như đă
nhiều năm qua, trước nay chưa có ai phát tâm muốn
giảng kinh Thập Luân”. Khi tôi chưa phát cái tâm ấy,
cứ thật thà nói: “Bộ kinh này, trừ khi có dịp phải
cùng học tập với mọi người th́ tôi mới
xem”. Trước kia, tôi chưa hề đọc qua. Tuy chúng
tôi có nhắc tới Địa Tạng Tam Kinh, nhưng tôi
chưa hề xem từ đầu đến đuôi kinh Thập
Luân. Ngược lại, pháp sư Hoằng Giác đă đọc,
đă nghiên cứu trước tôi. Sư đă xem một lượt,
Sư cầm quyển kinh được bọc b́a màu đỏ,
tức là không chỉ xem một lượt, mà c̣n phê chú.
Trước
kia, tôi không có tâm nguyện muốn giảng bộ kinh này.
Nay v́ một vài vị đạo hữu đề nghị:
“Mọi người cùng nhau học tập bộ kinh này”. Tôi
một chút tín tâm cũng không có; nếu học tập kinh này,
có ai nghe hay không? Bọn họ đáp: “Lẽ nào lại không
có ai nghe? V́ rất ít người biết có bộ kinh này!”
Cũng có lẽ là nhân duyên chín
muồi. Hiện thời, người đến nghe cũng
chẳng ít, vẫn là có người nghe, chẳng phải là
không ai nghe! Như vậy, khi chúng ta học, mọi người
có thắc mắc ǵ hăy nêu ra. Chúng ta phải dùng một thời
gian dài để học. Nếu đă phát tâm học, phải
học kỹ lưỡng. Như thế nào mới là học
kỹ lưỡng? Chúng ta phải sử dụng! Bất
luận học vấn ǵ, đều phải vận dụng.
Học viết chữ là v́ quư vị phải dùng. Học tiếng
Anh th́ quư vị cũng phải dùng, dùng tiếng Anh để
nói năng, tức là chúng ta phải dùng. Vậy th́ học phương
pháp do Địa Tạng Bồ Tát dạy để làm ǵ?
Thành Phật!
Nếu
phát tâm lớn hơn một chút, đương nhiên là sẽ
chẳng đọa địa ngục! Hễ học kinh
Thập Luân, sẽ chẳng đọa tam đồ nữa,
chẳng đọa địa ngục nữa, chẳng đọa
làm ác quỷ, chẳng đọa làm súc sanh! Chúng ta xem đó
có phải là đă thành tựu rồi hay chưa? Chưa phải!
Nhất định phải thành Phật. Có thể sanh lên
trời cũng thế, huởng thọ hạnh phúc cũng
thế, chỉ là tới một lúc nào đó, chúng ta sẽ
chẳng thể thỏa măn được. Cũng như trước
kia, cuộc sống và tập quán tại Trung Hoa Đại
Lục chẳng có cách nào so sánh với nước Mỹ, mà
cũng chẳng có cách nào so sánh với Ôn Ca Hoa (Vancouver) của
Gia Nă Đại, chúng ta thường nói cuộc sống ở
những nơi đó là thiên đường. Nhưng đă
đến đây, đă tới thiên đường rồi
đó, có cảm thấy hạnh phúc hay không? Chẳng thể!
V́ yêu cầu lại nâng cao hơn! Kết quả là chỗ
này chẳng phải, chỗ kia cũng không phải, như
thế nào cũng chẳng vừa ư. Chúng ta sanh lên trời rồi,
có măn ư hay không? Dẫu sanh lên trời, quư vị cũng chẳng
măn ư, tuy toàn là cảnh giới vui sướng. Khi đă có cảnh
giới vui sướng, quư vị lại có yêu cầu khác,
mong cầu bất tử! Làm thế nào để đạt
được? Nếu nói đến sung sướng th́ đầu
óc cũng ph́nh to. Chịu khổ th́ đầu óc cũng ph́nh
to. Ở trên trời hưởng phước, hưởng
sự vui sướng, đầu óc cũng sẽ ph́nh to! Chuyện
ǵ cũng chẳng làm, hưởng hết sạch phước,
lại phải nên làm như thế nào? Do vậy, chúng
ta nhất định phải chiếu theo kinh Thập Luân
học tập.
Chúng
ta phát nguyện thành Phật. Pháp môn này dạy chúng ta từng
bước thành Phật như thế nào. Chúng ta vận dụng
phương pháp này sẽ thành tựu. Lúc mới học
kinh Thập Luân, quư vị cảm thấy có những vấn
đề ǵ hay không? Hăy nêu ra để thảo luận. Chúng
ta tuân theo tánh chất nửa nghiên cứu, nửa học tập,
chớ nên nghe suông, chỉ dùng tai để nghe sẽ chẳng
đủ! Quư vị cần phải dùng ư căn, phải dùng
trí huệ, lục căn dùng lẫn cho nhau th́ mới học
được!
Khi
học tập, sẽ có những chướng ngại. Chướng
ngại ǵ vậy? Gia đ́nh của quư vị có chuyện,
hoặc là có nhân duyên này, nhân duyên nọ, rất khó nói! Trước
hết, quư vị phát nguyện, mong mỏi “Địa Tạng Bồ
Tát gia tŕ, khiến cho con học hoàn măn, có thể học từ
đầu đến cuối chẳng thiếu một buổi
nào”. Thiện căn
như vậy cũng rất khó có. Do vậy, quư vị nhất
định phải phát cái nguyện đầu tiên ấy.
Kế đó, phát nguyện thứ hai: “Nguyện cho con chấm
dứt nỗi đau khổ trong hiện tiền”. Muốn
giảm thiểu chướng ngại đâu phải dễ
dàng như thế! Ngă bệnh sẽ không đến được,
hoặc là đúng ngay lúc quư vị chuẩn bị đi nghe
giảng, vừa mới ra khỏi cửa, có khách tới chơi.
Quư vị cự tuyệt kẻ đó, nói phải đi nghe
giảng, sẽ là chẳng biết cách đối xử. Nếu
tiếp đăi kẻ đó th́ tối nay sẽ mất một
buổi học.
Quư
vị thấy vấn đề ấy thoạt nh́n là chuyện
nhỏ, nhưng nói tổng quát, sẽ thấy chẳng nhỏ!
Nếu chướng ngại phát sanh nơi thân tôi, tôi cũng
chẳng giảng được, cũng phải gián đoạn.
Do vậy, hiện thời, hễ gặp dịp giảng
kinh, cùng mọi người học một bộ kinh nào, chính
tôi sẽ phát nguyện tụng những bộ kinh ấy, lại
c̣n niệm thánh hiệu Địa Tạng để cầu
gia tŕ. Chẳng cầu gia tŕ, sẽ bị gián đoạn giữa
chừng. Một thứ bị gián đoạn, hết thảy
đều gián đoạn. Từ lúc giảng kinh tới
nay, cho đến bây giờ, điều tôi tiếc nuối
nhất là lần giảng kinh Hoa Nghiêm ở chùa Nam Phổ Đà
chẳng được viên măn! Tôi giảng đến phẩm
Ly Thế Gian bèn rời khỏi đó. Vẫn mong trở về
giảng viên măn bộ kinh ấy, thế mà vĩnh viễn chẳng
viên măn được! Quư vị quay lại giảng, người
nghe kinh thuở đó và người nghe kinh hiện thời
không giống nhau. Họ đă sớm đi hết rồi,
tôi quay lại giảng cách nào cũng chẳng thể bổ
sung khóa giảng ấy được! Làm thế nào đây?
Cũng chỉ đành sám hối, những kinh khác đều
giảng xong từ đầu đến đuôi. Tôi hy vọng
sẽ giảng viên măn kinh Thập Luân. Nếu không, trong tương
lai, đến khi lâm chung, sẽ bị vướng mắc,
sẽ rất khổ năo! V́ thế nói: Mọi người
chúng ta hăy cùng nhau phát nguyện mong học tập rất tốt
đẹp.
Mọi
người nhất định phải học hiểu tŕnh
tự, đừng học nửa vời. Như thế nào
là hiểu? Có thể sử dụng! Khi sử dụng, chẳng
bị chướng ngại. Lúc quư vị tu quán tưởng,
chẳng có ǵ gây chướng ngại. Bộ kinh này không giống
như kinh Địa Tạng dùng để đọc tụng.
Kinh Địa Tạng tán thành quư vị đọc tụng,
giống như chúng ta đọc Tâm Kinh hoặc kinh Kim Cang,
các kinh ấy dạy
chúng ta đọc tụng. Kinh Thập Luân bảo quư vị
hăy hành! Quư vị có thể làm được bao nhiêu, không nhất
định! Nay chúng tôi bắt đầu giảng kinh
văn.
I. Tự phẩm đệ
nhất (序品第一, phẩm thứ nhất:
Tự)
(Kinh)
Như thị ngă văn: Nhất thời, Bạc Già Phạm
tại Khư La Đế Da sơn, chư mâu-ni tiên sở
y trụ xứ, dữ đại bật-sô chúng câu, vị
quá số lượng đại Thanh Văn Tăng, phục
hữu Bồ Tát Ma Ha Tát chúng, vị quá số lượng đại
Bồ Tát Tăng, thuyết Nguyệt Tạng dĩ.
(經)如是我聞:一時,薄伽梵在佉羅帝耶山,諸牟尼仙所依住處。與大苾芻眾俱。謂過數量大聲聞僧,復有菩薩摩訶薩眾,謂過數量大菩薩僧,說《月藏》已。
(Kinh: Tôi
nghe như thế này: Một thời, đức Bạc Già
Phạm ở tại núi Khư La Đế Da, là nơi y trụ
của các vị mâu-ni tiên, cùng các vị đại bật-sô
nhóm họp, tức là hàng đại Thanh Văn Tăng chẳng
thể tính đếm. Lại có các vị Bồ Tát Ma Ha Tát,
tức là chẳng thể tính đếm các vị đại
Bồ Tát Tăng, nói kinh Nguyệt Tạng xong).
Đây là một đoạn
kinh văn. Nhân duyên ḥa hợp, nhằm lúc khế lư, khế
cơ, đức Phật thuyết pháp, thuyết pháp ǵ vậy?
Kinh Nguyệt Tạng. Chúng ta không học kinh Nguyệt Tạng
trong Đại Tạng Kinh, cho nên chúng tôi không nhắc tới.
Vào lúc khế cơ, khế lư ấy,
đức Thế Tôn ngự tại núi Khư La Đế
Da (Kharādīya). Nơi ấy là chỗ
của những người tu hạnh Tịch Tịnh. Mâu
Ni (Muni) dịch [sang tiếng Hán] là Tịch Tịnh (寂净). Các vị tiên nhân tu
Tịch Tịnh ở nơi ấy, đó là chỗ họ
nương náu để tu hành. Khi đó, có rất nhiều
vị tỳ-kheo Tăng thọ giới tỳ-kheo, có bao nhiêu?
“Quá số lượng” tức là chẳng thể dùng
số lượng để tính toán. Chẳng phải là ngàn,
vạn, ức, triệu! C̣n nhiều hơn những con số
ấy, chẳng thể biết nổi số lượng!
C̣n có những vị Bồ Tát Ma Ha Tát, Bồ Tát là giác hữu
t́nh. Đó là những chúng sanh phát đại tâm, đều
là bậc đại Bồ Tát, đạt được thành
tựu, cũng là chẳng thể tính đếm số lượng.
Vị
đương cơ trong bộ kinh ấy là Nguyệt Tạng
Bồ Tát. Khi [đức Phật] giảng bộ kinh ấy,
chính tôi (ngài A Nan) được nghe. “Như thị” là
nói đến pháp môn này. Đức Phật nói các pháp như thế,
tôi đích thân được nghe. Điều này được
gọi là “lục thành chứng tín tự” (phần tựa
đề chứng tín gồm sáu thứ thành tựu), tức
là có sáu thứ chứng minh
ḥng thành tựu pháp môn này, hoàn toàn chẳng phải là hư giả.
“Như thị” là nói đến pháp này, “ngă” là ngài
A Nan tự nói về ḿnh. Nói theo pháp Đại Thừa th́ kinh
điển do ngài A Nan kết tập, Ngài nói: “Tôi đích thân
tự nghe, chẳng phải là giả”. Nghe khi nào?
“Nhất
thời”: Phàm thời gian đức
Phật thuyết pháp đều là lúc khế lư, khế cơ.
V́ đức Phật có khi nói trên trời, có lúc nói trong nhân
gian, có khi ở địa điểm này, có lúc ở địa
điểm khác. Điều kiện địa điểm
và thời gian đều khác biệt. Chúng tôi có thể nêu
thí dụ để thuyết minh. Hiện thời, ở nơi
đây là tám giờ rưỡi, thời gian tại Đài
Loan sẽ khác, Đại Lục cũng khác. Nữu Ước
th́ sớm hơn ba tiếng đồng hồ, cũng đều là
thời gian bất đồng. “Thời vô định thể”
(thời gian không có bản thể nhất định): Nó là pháp vô định, huống hồ
đức Phật thuyết pháp trọn khắp các thế
giới, nhân gian lẫn cơi trời, khắp nơi đều có, lấy
thời gian ở chỗ nào làm chuẩn? Do vậy bèn ước
định là “nhất thời”, tức là lúc nhân duyên ḥa
hợp, khế lư, khế cơ. Đấy là Thời Thành
Tựu.
“Văn
Thành Tựu”: Ai nói? Đức Bạc Già Phạm, tức
là Thế Tôn, cũng là do đức Phật nói. Đấy
gọi là Chủ Thành Tựu. Nói ở chỗ nào? Núi Khư
La Đế Da (Kharādīya). Địa điểm
núi Khư La Đế Da chính là một quả núi trong bảy
Kim Sơn, rất gần núi Tu Di. Vây quanh núi Tu Di là một lớp
Kim Sơn, một tầng biển nước thơm, [có lần lượt bảy
tầng như thế]. “Kim sơn” được
nói trong kinh Phật bằng sắt, v́ sắt là một thứ
kim loại, không nhất định là hoàng kim, cho nên nói là Kim
Sơn. “Hải” là biển nước thơm vây quanh
núi Tu Di. Nếu nói theo cách phiên âm tiếng Hán th́ gọi là La
Lân Sơn. V́ nơi ấy chẳng có khói lửa của con người,
những vị tiên nhân có thần thông, tu tịnh hạnh mới
có thể đến đó tu hành. Đấy chính là trụ
xứ để các vị Mâu-ni tiên nhân nương ở.
Đức
Phật giảng kinh Nguyệt Tạng ở nơi đó. Có
những đại chúng nào tham dự pháp hội? Chính là các
vị Thanh Văn và Bồ Tát. Nơi ấy cũng chẳng
có phàm phu Tăng, v́ phàm phu Tăng chẳng thể đến
được. Không có thần thông, sẽ chẳng thể
đến nơi ấy được. Do vậy, chỉ
nêu lên hai chúng Thanh Văn và Bồ Tát nghe pháp. Chúng ta có thể
dựa trên hai chữ Đại Tập để lư giải.
Nếu đă là Đại Tập, chúng Thanh Văn và Bồ
Tát tới tham dự sẽ hết sức đông đảo.
Thanh Văn học tập Bồ Tát, đấy là cách nh́n và
suy nghĩ của chúng tôi, cũng có nghĩa là khiến cho hàng
Thanh Văn nghe pháp sẽ tiến nhập Đại Thừa,
đều trở thành đại Bồ Tát. Do vậy, kinh
có tên là Đại Thừa Đại Tập.
Khi
bộ kinh ấy viên măn, pháp hội
c̣n chưa giải tán, Địa Tạng Bồ Tát đến
tùy hỷ. Ngài biết nhân duyên hoằng dương pháp môn
trong kinh Thập Luân của Thích Ca Mâu Ni Phật đă chín muồi,
cho nên Ngài đến đấy vào lúc đó. Đoạn kinh
văn trên đây trần thuật t́nh huống trước
khi Địa Tạng Bồ Tát đến tụ hội với
đức Phật.
(Kinh)
Nhĩ thời, Nam phương đại hương vân
lai, vũ đại hương vũ, đại hoa vân
lai, vũ đại hoa vũ, đại diệu thù lệ
bảo sức vân lai, vũ đại thù lệ diệu bảo
sức vũ, đại diệu tiễn khiết y phục
vân lai, vũ đại tiễn khiết diệu y phục
vũ. Thị chư vân vũ sung biến kỳ sơn, chư
mâu-ni tiên sở y trụ xứ. Tùng chư hương, hoa,
bảo sức, y phục, diễn xuất chủng chủng
bách thiên vi diệu đại pháp âm thanh, vị quy kính Tam Bảo
thanh, thọ tŕ học xứ thanh, nhẫn nhục nhu ḥa
thanh.
(經)爾時,南方大香雲來,雨大香雨;大華雲來,雨大華雨;大妙殊麗寶飾雲來,雨大殊麗妙寶飾雨;大妙鮮潔衣服雲來,雨大鮮潔妙衣服雨。是諸雲雨,充遍其山,諸牟尼仙所依住處。從諸香華、寶飾、衣服,演出種種百千微妙大法音聲,謂歸敬三寶聲、受持學處聲、忍辱柔和聲。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, phương Nam có mây hương lớn bay
đến, tuôn mưa hương to, mây hoa lớn bay đến,
tuôn mưa hoa lớn, mây đồ trang hoàng quư báu, đặc
biệt lộng lẫy, mầu nhiệm to lớn
bay đến, mưa các thứ trang hoàng quư báu to lớn, đặc
biệt lộng lẫy, mầu nhiệm, mây y phục mới, sạch, đẹp
đẽ to lớn bay đến, tuôn xuống các thứ y
phục mới, sạch, đẹp
đẽ to lớn. Các thứ mây ấy mưa trọn khắp
núi ấy, tức là chỗ nương trụ
của các vị Mâu-ni tiên. Từ trong các thứ hương,
hoa, vật trang sức báu, y phục, diễn xuất đủ
loại trăm ngàn âm thanh đại pháp vi diệu, như
tiếng quy kính Tam Bảo, tiếng thọ tŕ học xứ,
tiếng nhẫn nhục, nhu ḥa).
Kế
đó là Địa Tạng Bồ Tát đến dự. Địa
Tạng Bồ Tát đến đó, trước hết, có một
thứ khí thế mà mỗi khi chúng ta xem kinh Địa tạng
và kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo đều [mô tả]
như thế. Ngay trong lúc ấy, từ phương Nam dấy
lên mây hương, tức là vầng mây. Trong hư không có vầng
mây chứa đựng hương thơm. Khi ngồi máy
bay, tôi từng dấy lên ảo tưởng, bay lên tận
chỗ cao tới hai vạn mét trên không trung, bay qua những
đám mây bồng bềnh phía dưới. Đă lên đến
các tầng mây, tôi nghĩ không có cách nào mở cửa sổ.
Nếu có thể mở cửa sổ, chắc chắn sẽ
có cảm nhận bất đồng về không khí hoặc
các đám mây. Lúc đó (lúc đức Phật vừa nói xong
kinh Nguyệt Tạng xong), mây hương trôi tới, lại
c̣n có mưa. Mọi người đừng hiểu Vũ ở
đây là trời mưa, v́ nhắc tới “vũ”, chắc
chắn ngỡ là trời mưa. Ở đây, quư vị thấy
nhé, ngay lập tức tuôn xuống châu báu. Tuôn xuống nhiều
như mưa sa vậy. Ngay lập tức lại tuôn xuống y phục, đấy
chẳng phải là mưa. Quư vị hỏi tôi: “Chuyện này
có thật hay không?” Tôi thưa với quư vị: “Đấy
là ư cảnh”. Đă thế, đến cuối cùng, trên hai
tay của mỗi người đều xuất hiện Như
Ư Bảo Châu. Như Ư Bảo Châu tuôn ra vô lượng bảy
báu. Nay Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ chúng ta, cũng sẽ
khiến cho hai tay chúng ta đều hiện ra bảy
báu. Như thế th́ mọi người đều hoan hỷ,
thế giới này sẽ chẳng có chiến tranh. Chiến
tranh chẳng qua là v́ tiền hay sao? Đă có rồi, tức
là có châu báu rồi.
Mây bay tới là mây hương, tuôn ra mưa hương.
Có thể hiểu Vũ là tuôn xuống, tuôn xuống các thứ hương.
Mây đại hoa bay tới, mây hoa sẽ trút hoa xuống, đều
chẳng phải là nước. Nếu là tuôn nước,
khắp trời toàn là nước, sẽ thành thủy tai! “Mưa”
ở đây phải hiểu theo ư nghĩa này. C̣n có một
loại mây gồm các thứ trang hoàng
báu mầu nhiệm đặc biệt lộng lẫy. Chắc
mọi người đă từng đến các chùa miếu
rất trang nghiêm, tràng và bảo cái (lọng báu) rất đầy
đủ. Ở Đài Loan cũng có. Kế đó là những
vật trang hoàng như bảo tràng. Những vật trang hoàng
như bảo tràng cũng từ trên hư không giáng xuống.
Y phục mầu nhiệm mới sạch từ trên cao rơi
xuống. Những thứ hương, vật trang sức đẹp
đẽ, hương, hoa tịnh khiết, y phục đẹp
đẽ mới mẻ, sạch sẽ đầy khắp
La Lân Sơn. Khắp đất đều là hương,
hoa, y báu, hoa đẹp. Điều kỳ lạ nhất là
lại c̣n có các âm thanh. Áo thơm bèn có âm thanh của áo thơm,
hương có âm thanh của hương, vật trang hoàng có
những âm thanh của vật trang hoàng, các loại hoa có âm
thanh của hoa, giống như kinh Di Đà đă nói: Hết
thảy âm thanh đều là pháp âm. V́ thế, cuối cùng tổng
kết bằng một câu: Từ những thứ hương,
hoa, vật trang sức báu, y phục, diễn nói trăm ngàn
pháp âm vi diệu để thuyết pháp. Chúng ta có thể
tưởng tượng, đấy là mong quư vị bố
thí, mong quư vị nhẫn nhục, mong quư vị hành thiện
nghiệp, chẳng giết, chẳng trộm, chẳng tham,
chẳng sân, chẳng si. Pháp âm nói các pháp ấy.
Lại
c̣n [có âm thanh] khuyên quư vị quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng,
c̣n có âm thanh quy y Tam Bảo, c̣n có âm thanh thọ tŕ giới luật
học xứ. Điều phải học ở đây là chuyên
nói về giới luật. Chúng ta phải nên học giới.
Phàm là đệ tử Phật, vừa khởi đầu,
nhất định phải học giới. “Quy y Phật, quy
y Pháp, quy y Tăng” cũng là giới.
Trước hết, quư vị học quy y Phật, quy y Pháp,
quy y Tăng. Khi những thứ y phục, bảo vật,
cho đến những vật trang hoàng báu rơi xuống,
trong đó có âm thanh. Âm thanh dạy quy y Tam Bảo, quy y Phật,
Pháp, Tăng, cho đến Lục Độ vạn hạnh,
đoạn ác, làm lành. Tất cả những âm thanh đều
là âm thanh như vậy! Dưới đây liệt kê những
âm thanh của các thứ từ
trên cao rơi xuống, tức là từ trong các vật rơi xuống, trong y phục
có âm thanh, trong hoa có âm thanh, trong mây hương tuôn ra các mùi hương
có âm thanh.
(Kinh)
Tinh tấn dũng mănh thanh, hàng phục tứ ma thanh, thú nhập
trí huệ thanh, quảng đại danh xưng biến măn tam
giới thanh, khuyến tu thù thắng niệm định tổng
tŕ thanh, không vô tướng vô nguyện thanh.
(經)精進勇猛聲、降伏四魔聲、趣入智慧聲、廣大名稱徧滿三界聲、勸修殊勝念定總持聲、空無相無願聲.
(Kinh: Tiếng tinh
tấn dũng mănh, tiếng hàng phục tứ ma, tiếng
tiến nhập trí huệ, tiếng danh xưng rộng lớn
trọn khắp ba cơi, tiếng khuyên tu niệm định
tổng tŕ thù thắng, tiếng Không, Vô Tướng, Vô Nguyện).
Đây là ba môn giải
thoát Không, Vô Tướng, Vô Nguyện.
(Kinh) Yếm ly tham dục thanh, Sắc như
tụ mạt thanh, Thọ như phù bào thanh, Tưởng như
dương diễm thanh, Hành như ba tiêu thanh, Thức như
huyễn sự thanh, vô thường thanh, khổ thanh, vô ngă
thanh, không thanh, tàm quư thanh, viễn ly thanh, hộ niệm
thanh, từ bi hỷ xả thanh, chứng đắc chư
pháp thanh, sanh thiên Niết Bàn thanh, thú hướng tam thừa
thanh, chuyển đại pháp luân thanh, vũ đại pháp
vũ thanh, thành thục hữu t́nh thanh, độ tam ác thú
thanh, tu trị viên măn lục đáo bỉ ngạn thanh, thiện
xảo phương tiện thanh, thú nhập Thập Địa
thanh, du hư thần thông thanh, du hư thanh tịnh vô thượng
Đại Thừa thanh, bất thoái chuyển địa
thanh, Vô Sanh Pháp Nhẫn thanh, quán đảnh thọ vị
thanh, thú nhập nhất thiết chư Phật đại
hải thanh.
(經)厭離貪慾聲、色如聚沬聲、受如浮泡聲、想如陽焰聲、行如芭蕉聲、識如幻事聲、無常聲、苦聲、無我聲、空聲、慚愧聲、遠離聲、護念聲、慈悲喜舍聲、證得諸法聲、生天涅槃聲、趣向三乘聲、轉大法輪聲、雨大法雨聲、成熟有情聲、度三惡趣聲、修治圓滿六到彼岸聲、善巧方便聲、趣入十地聲、遊戲神通聲、遊戲清淨無上大乘聲、不退轉地聲、無生法忍聲、灌頂受位聲、趣入一切諸佛大海聲。
(Kinh:
Tiếng chán ghét, xa ĺa tham dục, tiếng Sắc như bọt
nước tụ lại, tiếng Thọ như bọt nổi,
tiếng Tưởng như dợn nắng[3],
tiếng Hành như cây chuối[4],
tiếng Thức như huyễn sự, tiếng vô thường,
tiếng khổ, tiếng vô ngă, tiếng Không, tiếng hổ
thẹn, tiếng xa ĺa, tiếng hộ niệm, tiếng từ
bi hỷ xả, tiếng chứng đắc các pháp, tiếng
sanh lên trời, chứng Niết Bàn, tiếng tiến hướng
tam thừa, tiếng chuyển đại pháp luân, tiếng tuôn
mưa đại pháp, tiếng thành thục hữu t́nh, tiếng
độ ba nẻo ác, tiếng tu tập đối trị viên
măn Lục Ba La Mật, tiếng phương tiện thiện
xảo, tiếng tiến nhập Thập Địa, tiếng
du hư thần thông, tiếng du hư Đại Thừa vô thượng
thanh tịnh, tiếng địa vị chẳng thoái chuyển,
tiếng Vô Sanh Pháp Nhẫn, tiếng quán đảnh tiếp
nhận địa vị, tiếng tiến nhập biển
cả của hết thảy chư Phật).
Ư
nghĩa được bao hàm trong bộ kinh này là các âm thanh
thuyết pháp. Nếu là bậc đại trí huệ, như
hàng Bồ Tát Ma Ha Tát vừa nghe các âm thanh ấy,
sẽ thành đạo. Đối với những điều
sau đó, sẽ là chưa nói mà đều có thể hiểu rơ, giống
như một câu nói của thiền sư Trung Hoa (“thoại
đầu” hoặc “chuyển ngữ”), vừa chỉ điểm
bèn thông suốt, chuyện ǵ cũng chẳng cần phải
rườm lời nữa! Nhưng các âm thanh ấy,
tức những tiếng thuyết pháp ấy, nếu quư vị
bảo là do Thích Ca Mâu Ni Phật nói th́ cũng được,
nhờ vào sức oai thần của Phật. Nếu nói là Địa
Tạng Bồ Tát chưa tới mà đă thuyết pháp trước,
cũng được luôn!
Nếu nói theo cách thứ nhất th́ đó là pháp do đức
Phật nói, và là pháp do chẳng thể tính đếm số
lượng Thanh Văn Tăng và chẳng thể tính đếm
số lượng Bồ Tát Tăng đă nghe trong pháp hội
[giảng giải
về] Nguyệt Tạng Bồ Tát. Nay chúng ta nghe những ǵ? Chính
là các âm
thanh ấy, chúng ta có nghe biết hay không? Nếu phải giải
thích từng điều một, giải thích bộ kinh
này rất dài. Phẩm Tự thuộc Tự Phần, trọn
chẳng phải là chánh văn. Từ quyển thứ nhất
là phẩm Tự cho đến phẩm cuối cùng là phẩm
Hoạch Ích Chúc Lụy [thuộc phần Lưu Thông], các phẩm ở
giữa là phần Chánh Tông.
Phần
Chánh Tông giảng rơ mục đích của kinh này. Quư vị
mong đạt được điều ǵ, sẽ tu hành ở
chỗ nào? Nếu vừa bắt đầu biểu diễn
như thế, quư vị liền khai ngộ th́ có thể rời
đi rồi, chẳng cần phải nghe những điều
sẽ nói kế tiếp nữa! V́ chính ḿnh đă biết bộ
kinh này muốn nói điều ǵ, những điều sẽ
nói sau đó đă được vạch ra trong đại
ư của phần trước. V́ sao? Các vị đại sức
xưa kia vừa nghe liền hiểu rơ phần Huyền Nghĩa
của quư vị, cho nên chẳng nghe nữa! Pháp quư vị toan
nói, họ đă hiểu rơ, đă chứng nhập. Do đó,
họ mới có thể rời khỏi pháp hội, chỉ cần
nghe phần Huyền Nghĩa của quư vị. Nay chúng ta không
có loại trí huệ ấy, chẳng có sức mạnh ấy
để có thể vận dụng Huyền Nghĩa khiến
cho người khác khai ngộ, thành đạo. Thuở đức
Phật tại thế, Ngài cũng đối trước ba
căn thuyết pháp. Bậc thượng thượng căn
[vừa nghe nói] đă đạt được, đă lănh
ngộ, người ta bèn rời đi để tu đạo
ḥng thành tựu. Người thuộc căn cơ trung hạ
vẫn phải chờ ở đấy. Đức Phật
lại phải nói tiếp, nói đến cuối cùng mới
lục tục kéo đi. Cuối cùng, đức Phật vẫn
chẳng có cách nào độ trọn hết chúng sanh, phải
đợi Di Lặc Bồ Tát giáng thế, Ngài sẽ thay Phật
độ họ. Hoặc là rốt cuộc đức Phật
bèn phó chúc Hư Không Tạng Bồ Tát: “Ông lưu truyền
bộ kinh này để độ chúng sanh”. Hàm nghĩa như
vậy đấy!
Từ
phẩm Tự, chúng ta có thể cảm nhận oai lực của
Địa Tạng Bồ Tát; từ chỗ này, sẽ có thể
thấy chỗ tiến nhập. Chúng ta sẽ sanh khởi tín
tâm cực đại thù thắng, tín ngưỡng cực đại
đối với Địa Tạng Bồ Tát; đồng
thời sẽ phát nguyện: Nguyện có thần thông giống
như Địa Tạng Bồ Tát. Bất luận đến
nơi đâu, thanh thế đều hơn người! Của
cải, xe cộ, người hầu đă sớm đến
đó trước, đă an bài sẵn. Vừa nh́n vào, đă tạo
thành thanh thế. Bồ Tát cũng giống như vậy. Bất
quá, thanh thế của Ngài khác hẳn thanh thế của chúng
ta. [Ngài làm như vậy] có thể khiến cho rất nhiều
người được lợi ích.
(Kinh)
Nhĩ thời, nhất thiết chư lai đại chúng,
hàm kiến như thị chủng chủng vân vũ, diệc
văn như thị chư pháp âm thanh. Tùy ư sở nhạo, các
kiến kỳ thân, chủng chủng hương, hoa, bảo
sức, y phục chi sở trang nghiêm. Hựu các tự kiến
lưỡng thủ chưởng trung tŕ Như Ư Châu, tùng thị
nhất nhất Như Ư Châu trung, vũ chủng
chủng bảo. Phục tùng nhất nhất Như Ư trung, phóng chư quang
minh. Nhân quang minh cố, nhất nhất hữu t́nh giai kiến
thập phương Căng-già sa đẳng chư Phật
thế giới. Hựu nhân quang minh, kiến chư Phật
độ, nhất nhất Thế Tôn, vô lượng chúng hội
cung kính vi nhiễu. Phục nhân quang minh, kiến chư Phật
độ nhất thiết hữu t́nh, nhược hữu
bệnh giả, nhân thử quang minh chi sở chiếu xúc,
chúng bệnh trừ dũ. Chư ưng bị sát cập tù
hệ giả, quang minh chiếu cố, giai đắc giải
thoát. Chư thân, ngữ, ư thô trọng uế trược,
nhân quang giai đắc khinh nhuyễn thanh tịnh. Chư
cơ khát giả diệc giai băo măn. Chư bị chủng
chủng h́nh phạt bức thiết, quang minh chiếu cố,
giai ly ưu khổ. Chư thiểu y phục, bảo sức,
trân tài, quang minh chiếu cố, tùy niệm giai túc. Nhược
chư hữu t́nh nhạo dục sát sanh, năi chí hoặc hữu
nhạo dục tà kiến,
do thử quang minh chi sở chiếu xúc, giai tất nhạo dục viễn ly sát sanh, năi chí nhạo dục viễn
ly tà kiến. Nhược chư hữu t́nh, vị ư chủng
chủng cầu bất đắc khổ chi sở bức
thiết, quang minh chiếu cố, tùy nguyện giai đắc.
Hựu nhân quang minh, kiến chư Phật độ nhất
thiết hữu t́nh sở thọ chúng khổ, vô bất hưu
tức, giai tất hoan ngu, thọ chư diệu lạc. Hựu
kiến như thị chư Phật độ trung, do thử
quang minh chi sở chiếu xúc, viễn ly nhất thiết
hôn vân, trần vụ, liệt phong, bạo vũ, bất
thiện âm thanh, cập chư xú uế, khổ tân ác vị,
ác xúc khủng bố, viễn ly nhất thiết tà nghiệp,
tà ngữ, tà ư, tà quy, bất hàn, bất nhiệt, an tĩnh thản
nhiên, địa b́nh như chưởng, chư diệu lạc
cụ sung măn kỳ trung.
(經)爾時一切諸來大衆,咸見如是種種雲雨,亦聞如是諸法音聲,隨意所樂,各見其身種種香花寶飾衣服之所莊嚴,又各自見兩手掌中持如意珠,從是一一如意珠中雨種種寶,復從一一如意中放諸光明,因光明故,一一有情皆見十方殑伽沙等諸佛世界。又因光明,見諸佛土一一世尊,無量衆會恭敬圍繞,復因光明,見諸佛土一切有情,若有病者,因此光明之所照觸,衆病除愈,諸應被殺及囚繫者,光明照故,皆得解脫。諸身語意粗重穢濁,因光皆得輕軟清淨,諸飢渴者亦皆飽滿,諸被種種刑罰逼切,光明照故,皆離憂苦,諸少衣服寶飾珍財,光明照故,隨念皆足若諸有情樂欲殺生,乃至或有樂欲邪見,由此光明之所照觸,皆悉樂欲遠離殺生,乃至樂欲遠離邪見。若諸有情,爲於種種求不得苦之所逼切,光明照故,隨願皆得。又因光明,見諸佛土一切有情所受衆苦,無不休息,皆悉歡娛受諸妙樂。又見如是諸佛土中,由此光明之所照觸,遠離一切昏雲塵霧、烈風暴雨不善音聲,及諸臭穢苦辛惡味惡觸恐怖,遠離一切邪業邪語邪意邪歸,不寒不熱,安靜坦然,地平如掌,諸妙樂具充滿其中。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, hết thảy các đại chúng đến
dự pháp hội đều thấy các thứ mây tuôn mưa
như thế, cũng nghe các âm thanh thuyết pháp như thế.
Tùy theo ḷng ưa thích, ai nấy đều thấy các thứ
hương, hoa, vật trang hoàng báu, y phục trang nghiêm thân
ḿnh. Mỗi người lại thấy hai tay cầm Như
Ư Châu. Từ trong mỗi Như Ư
Châu ấy, tuôn ra các thứ báu. Lại từ mỗi viên Như
Ư Châu, tỏa ra các quang minh. Do quang minh, mỗi hữu t́nh đều
thấy mười phương các thế giới nhiều
như cát sông Hằng. Lại do quang minh, thấy các cơi Phật,
mỗi vị Thế Tôn có vô lượng chúng hội cung
kính vây quanh. Lại do quang minh, thấy trong các cơi Phật, hết
thảy hữu t́nh nếu là kẻ bị bệnh, do quang
minh ấy chiếu chạm, các bệnh trừ sạch. Những
kẻ đáng bị giết và tù tội, trói buộc, do quang
minh chiếu tới, đều được giải
thoát. Những kẻ thân, ngữ, ư thô tháp, nặng nề,
nhơ uế, do quang minh mà đều được nhẹ
nhàng, mềm dịu, thanh tịnh. Những kẻ đói khát
cũng đều được no đủ. Những kẻ
bị đủ mọi h́nh phạt bức bách, do quang minh chiếu
đến, đều ĺa ưu khổ. Những kẻ thiếu
thốn y phục, vật
trang hoàng báu, của cải quư báu, do quang minh chiếu tới,
thuận theo ư niệm mà trọn đủ. Nếu các hữu
t́nh ưa thích sát sanh, cho đến có kẻ ưa thích tà kiến,
do quang minh ấy chiếu chạm, thảy đều ưa
thích xa ĺa sát sanh, cho đến ưa thích xa ĺa tà kiến. Nếu
các hữu t́nh, bị đủ mọi nỗi khổ v́ cầu
chẳng được bức bách, do quang minh chiếu tới,
sẽ tùy theo ước nguyện mà đều đạt được.
Lại do quang minh mà thấy hết thảy hữu t́nh trong
các cơi Phật đang chịu các thứ khổ, không ai chẳng được
ngơi nghỉ, ngưng dứt, thảy đều vui sướng,
hưởng sự vui mầu nhiệm. Lại thấy trong
các cơi Phật như thế, do quang minh này chiếu chạm,
xa ĺa hết thảy mây đen, sương bụi, gió dữ,
mưa cuồng, các âm thanh bất thiện, và các thứ thối
tha, bẩn thỉu, các vị ác đắng cay, các sự đụng
chạm xấu ác, kinh sợ, xa ĺa hết thảy tà nghiệp,
tà ngữ, tà ư, quy hướng tà vạy, chẳng lạnh,
chẳng nóng, an tĩnh, thản nhiên, đất bằng phẳng
như ḷng bàn tay, các thứ vật tạo nên sự vui sướng
mầu nhiệm đều đầy ắp trong đó).
“Chư
lai đại chúng” là các vị Thanh Văn Tăng,
Bồ Tát Tăng, và c̣n có các vị đại chúng
mới đến. Khi Địa Tạng Bồ Tát tới,
c̣n có những người theo Địa Tạng Bồ Tát
từ thế giới phương khác mới tới. Đại
chúng c̣n chưa giải tán trong pháp hội ấy, đều
thấy các vầng mây ấy tuôn xuống những vật báu.
Đồng thời cũng thấy, nghe từ trong các thứ y phục,
vật trang hoàng báu ấy tuyên dương pháp âm. Bất luận
quư vị ưa thích màu sắc hoặc vật báu nào, quư vị sẽ thấy
từ trên hư không rơi xuống các vật trang sức báu tự động khoác lên thân ḿnh. V́ thế,
kinh nói: “Diệc văn như thị chư pháp âm thanh, tùy
ư sở nhạo” (cũng nghe các âm thanh như thế, tùy
theo ḷng yêu thích): Tùy ư ḿnh thích thứ ǵ, sẽ thấy thân ḿnh
được trang nghiêm bởi tất cả các thứ hương,
hoa, vật trang sức báu, y phục. Các thứ y phục
dâng lên quư vị đều là kích thước lớn, nhỏ,
dài, ngắn rất phù hợp, may cắt c̣n chuẩn xác hơn
thợ may! Tùy ư th́ một là do nguyện lực của Bồ
Tát, đằng khác là do tâm lực của quư vị.
Không
chỉ như thế, đồng thời ai nấy đều
thấy trên hai tay cầm Như Ư Bảo Châu, v́ Địa
Tạng Bồ Tát tay cầm Như Ư Bảo Châu. Tác dụng
của Như Ư Bảo Châu là trong tâm quư vị nghĩ tới
điều ǵ, bảo châu liền xuất hiện thứ đó,
thỏa măn hết thảy nhu cầu của quư vị. Đấy
là đối với mỗi người tham dự pháp hội,
không chỉ thỏa măn nhu cầu nơi thân, mà hết thảy
những điều mong muốn trong tâm đều được
thỏa măn. Đối với y phục, trăm hoa, vật
trang sức, có kẻ thích màu đỏ, có kẻ chuộng màu xanh, chẳng
thấy giống hệt như nhau, tự nhiên khoác trên thân quư
vị, trang nghiêm viên măn.
Nhưng
có một điều b́nh đẳng như nhau, tức là
tay ai nấy đều cầm Như Ư Bảo Châu. Chúng ta
thấy tượng ngài Địa Tạng, một tay cầm
tích trượng, tay kia cầm Như Ư Châu; Ngài bố thí Như Ư Bảo
Châu. Trong tay mỗi đại chúng dự hội đều
có Như Ư Châu. Không chỉ là có, mà c̣n từ Như Ư Châu sanh
ra vô lượng vật báu. Viên châu ấy phóng quang minh. Không
chỉ là có thể tuôn ra châu báu, mà c̣n có thể tỏa sáng. Quang
minh tỏa ra từ những viên châu ấy to cỡ nào? C̣n
to hơn ánh sáng đèn, c̣n to hơn ánh sáng mặt
trời, v́ ánh sáng của đèn đuốc hoặc mặt
trời chẳng thể chiếu tới các cơi Phật khác.
Quang minh của chúng khác hẳn.
“Nhất
nhất hữu t́nh” (mỗi một hữu t́nh) tức là
đại chúng tham dự pháp hội, họ có thể thấy
mười phương Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới.
“Căng-già sa” tức là cát sông Hằng. Có Hằng hà sa
thế giới Phật nhiều dường ấy, mỗi
hạt cát là một thế giới Phật. Tức là quang
minh từ Như Ư Châu tỏa ra chiếu sáng các thế giới
nhiều ngần ấy. Mỗi thế giới đều
có Phật đang thuyết pháp. Vậy th́ mỗi quang minh
chiếu thấu hết thảy các cơi Phật nhiều như
cát sông Hằng. Mỗi hạt cát là một thế giới
Phật. Mỗi thế giới có một vị Phật, đều
hiển hiện trong quang minh. Đồng thời, trong hội
ấy chẳng có tâm phân biệt, cũng chẳng phân biệt
đây là vị Phật ǵ, vị Phật kia có danh hiệu là
ǵ? Khi đó, họ chẳng có tâm phân biệt. “Nhân quang
minh cố” (do v́ quang minh), cho nên chiếu soi, hiện ra hết
thảy các cơi Phật, cũng thấy mỗi vị Phật
đều có vô lượng Bồ Tát, vô lượng đại
chúng vây quanh nơi đó. Vô lượng chư Phật đang
thuyết pháp trong đó.
Vừa
trông thấy như thế, nghiệp chướng ǵ cũng
đều tiêu trừ. Nếu nghiệp chẳng tiêu, sẽ
chẳng trông thấy! Lại do quang minh ấy mà trông thấy
hết thảy hữu t́nh trong các cơi Phật. Không chỉ thấy
chư Phật thuyết pháp, mà c̣n có thể thấy hết
thảy chúng sanh trong quốc độ của các Ngài. V́ quang
minh của Địa Tạng Bồ Tát chiếu đến
nơi nào, kẻ có bệnh liền khỏi bệnh, các bệnh
trừ sạch. Hoặc là kẻ sắp bị giết hại,
đúng lúc sắp ra pháp trường, cũng được
giải thoát, chẳng bị giết hại. Hoặc đang
bị giam cầm trong ngục, sẽ được thả
ra. V́ sao? “Quang minh chiếu cố” (do quang minh chiếu),
tức là do Như Ư Châu của Địa Tạng Vương
Bồ Tát ở trong tay các hữu t́nh tỏa ra quang minh chiếu
rọi. Quang minh từ [những viên châu trong tay] tất cả
đại chúng đều cùng chiếu rọi, cho nên đều
được giải thoát. Bất quá, chúng ta chỉ có thể
thấy cái Thể của cảnh
giới quang minh.
Nói
đến quang minh nơi tánh thể, do nghiệp của mỗi
người chúng ta, dẫu vẫn chưa thanh tịnh, nhưng
cậy vào sức gia tŕ của Địa Tạng Bồ
Tát, cùng với sức gia tŕ của đức Phật trong
pháp hội, sẽ ngay lập tức có tướng cảnh
giới ấy. Có tự do hay không? Có chứ! Địa Tạng
Bồ Tát đến đây, chiếu trọn khắp đại
địa. [Trong đoạn kinh văn kế tiếp, sẽ
nói Địa Đại nơi thân của đại chúng nặng
hơn, kiên cố hơn], muốn nâng cánh tay ư? Chẳng nâng được,
v́ [quang minh
đă] chiếu trọn khắp các Địa Đại. Đó
chỉ là hiện tượng trong một sát-na, đấy
là oai lực của Địa Tạng
Bồ Tát.
Gọi
là Tự Phẩm tức là Tự Thuyết (diễn giải
để dẫn nhập). Tự Thuyết sẽ chẳng
thể giảng giải thâm nhập được. Nếu
đă giảng hết trong phẩm Tự, những kinh văn
phía sau chẳng cần phải nói nữa. Nếu giảng
phẩm Tự hết sức dài, cũng là đem những
kinh văn trong phần sau giảng ghép vào phẩm Tự để giảng. V́ mọi người
cùng nhau học tập, rất khó giảng theo thứ tự.
Nhưng chúng tôi có mấy điều phạm sai lầm, là v́ cố ư vi phạm!
[V́
sao nói như vậy?] Bản thân tôi học [Thiên Thai] Tứ
Giáo, tức là dùng Tứ Giáo để phân khoa, phán giáo. Tức
là đối với Tạng, Thông, Biệt, Viên, nhận định
bộ kinh này nên thuộc về giáo nào. Trước hết,
phải thích danh (giải thích tên kinh). Giải thích tên kinh
xong, c̣n phải giảng giải ư nghĩa (tức là nói đến
Thể Tướng). Giảng giải ư nghĩa xong, giảng
về Tông Thú. Giảng Tông Thú xong, lại c̣n phải nêu rơ mục
đích (tức phần Lực Dụng). Ắt cần phải
tuân theo quy luật ấy. Đó là quy luật do các vị đại
đức trong Phật giáo Trung Hoa đă ấn định,
gọi là Ngũ Trùng Huyền Nghĩa (năm tầng ư nghĩa u huyền). Năm tầng
ấy, nếu phải giảng từng tầng một, cũng
phải tốn thời gian mười hôm th́ mới giảng
trọn hết năm tầng huyền nghĩa được.
Nhưng
tôi thuở đầu học Ngũ Giáo; nếu giảng
theo Ngũ Giáo, ngoại trừ Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn,
Viên ra, c̣n phải giảng Thập Huyền Môn. Trước
khi chưa giảng vào kinh văn, nhất định phải
giảng Thập Huyền Môn. Giảng Thập Huyền Môn,
chỉ sợ giảng phần huyền đàm mất nửa
tháng hoặc một tháng. Hiện thời, mỗi bữa chúng
tôi chỉ
giảng một tiếng rưỡi, v́ sao phải làm như
vậy? V́ khi các vị đại đức thời cổ
giảng kinh, chẳng hạn như tôi muốn giảng
kinh Pháp Hoa, những người đến dự toàn là học
kinh Pháp Hoa, nghiên cứu kinh Pháp Hoa, người đến
nghe cũng là v́ nghe Huyền Nghĩa mà đến, do nghe phán
giáo mà đến. Học xong những điều ấy rồi,
họ sẽ rời đi, không nghe phần giảng về
kinh văn. Ở đây, mọi người đều là sơ
học, nếu tôi bắt đầu bằng Huyền Đàm,
sợ mọi người sẽ lơ lửng hết, giống
như xe bay lên trời thẳm vậy, sẽ khiến cho mọi
người nghe không hiểu, chẳng biết bay đến
chỗ nào nữa!
Nay
chúng tôi dựa theo kinh văn để giảng rơ ư nghĩa,
nhưng đây là cách thức sai lầm! Nếu giảng
kinh, “y văn hiển nghĩa” tức là dựa theo văn
tự để giải thích ư nghĩa. Nếu chẳng chiếu
theo văn tự để nói, lại nói những nghĩa
lư khác, “tam thế Phật oan!” Đó là oan gia đối
đầu của tam thế Phật, chẳng thể được!
“Ly kinh nhất tự” (rời kinh một chữ), nếu
pháp sư rời ĺa kinh, tự ḿnh mù quáng nói bừa, không thể
nào chẳng đọa địa ngục, “tức đồng
ma thuyết” (liền giống như ma nói). Đấy chẳng
phải là Phật nói, mà là ma nói. Mọi người hăy nghĩ
xem, như vậy th́ pháp sư phải nên làm như thế
nào? Ĺa khỏi kinh, ĺa khỏi một chữ, là phạm sai
lầm. Chẳng ĺa văn tự, cứ dựa theo văn
tự để nói, sẽ là oan gia đối đầu của
Phật. Đấy là một lẽ!
Đối
ứng căn cơ để thuyết pháp, do [căn tánh của]
người nghe mà thí giáo. Hôm nay cùng mọi người hữu
duyên, mà trí huệ của tôi chỉ được như
thế, cống hiến cho mọi người đôi chút hiểu biết như thế.
Nhiều hơn nữa, tôi cũng chẳng có trí lực. Nói
sai, chỉ có đọa địa ngục. Đọa địa
ngục th́ cũng đành chịu, chẳng có cách nào! Đă
từ lâu rồi, bất luận giảng kinh, xử sự,
tôi luôn nghĩ như thế này: “Chuẩn bị xuống địa
ngục bất cứ lúc nào”. Có thể trốn thoát hay không?
Phải xem Địa Tạng Bồ Tát có gia tŕ hay không? Nếu
Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ, chắc là tôi sẽ tạm
thời chẳng đọa địa ngục; hoặc là đọa
địa ngục, tôi sẽ sám hối trước rồi
mới làm. Đợi đến khi làm xong, tôi lại sám hối.
Chỉ có cách như thế! Nếu không, kinh sẽ bị đoạn
tuyệt. Nếu không có ai giảng, kinh Thập Luân sẽ
tuyệt chủng. Thật sự đă gần như sắp
tuyệt chủng rồi! Trong Đại Tạng Kinh có rất
nhiều kinh hết sức vi diệu, hết sức hay đối
với chúng ta, chẳng có ai nói! Chẳng có ai nói th́ cũng
như đoạn tuyệt rồi! Chỉ có trong Đại
Tạng Kinh th́ cũng như bị bỏ xó trong ấy! C̣n
có rất nhiều chùa miếu, chẳng cho xem, mà cũng chẳng
cho phép động tới Đại Tạng Kinh, bảo động
tới là phạm tội, cho rằng Đại Tạng đáng
nên để thờ! Mỗi đằng đều có lư lẽ
riêng. Đối với tôi, kinh do đức Phật nói nhằm
dạy chúng ta học. Chẳng cho phép xem, chất đống
tại đó để làm ǵ? Chất lâu ngày, hư nát hết.
Hư nát hết mà mọi người cũng chẳng biết!
Khi
chúng ta học, phải xác thực học. Khi học vào phần
chánh văn, phải thật sự nhập lư, chẳng trái
nghịch lư. Ngoài ra, c̣n phải nhập thế, tức là nhất
định phải kết hợp với cuộc sống
hằng ngày, tức là phải có thể sử dụng những
ǵ chúng ta đă học, học xong dùng được liền!
Hiện thời có phiền năo, học xong kinh Thập Luân, phiền
năo tiêu mất, tức là dùng được! Rất khổ,
trong tâm nghĩ chẳng thông, lấy kinh Thập Luân xem,
nghe, học, cũng sẽ thông suốt. Có thể vận dụng
như vậy th́ rất tốt!
Trong
phần trước, tôi đă mạn đàm cùng quư vị,
nay chúng tôi chánh thức giảng kinh, không phải là nhắc
lại, mà là nói lại từ đầu. Bộ kinh này có
danh xưng là Đại Thừa Đại Tập Địa
Tạng Thập Luân Kinh.
“Đại
Thừa”: Phật giáo chia là ba thừa, tức đại,
trung, tiểu, v́ đức Phật thuyết pháp “đối
cơ”, tức là phù hợp căn cơ của người
nghe. Đối với Đại Thừa Bồ Tát, hoặc
là đối trước những người phát đại
tâm, bèn nói pháp liễu nghĩa rất sâu. Đối với
căn cơ trung hạ, tùy thuộc sự ưa thích hay cần
thiết của họ mà nói [các pháp thích ứng], để
có thể dần dần dẫn họ nhập môn các pháp thuộc Trung, Tiểu
Thừa. Hàm nghĩa của pháp đại và tiểu, trong
phần trước tôi đă giải thích. Chữ Đại
giải thích rất đơn giản, chính là một niệm
tâm b́nh thường trong hiện tiền của chúng ta. Hễ
nói đến Đại, đến tột cùng là muốn chỉ
rơ cái tâm của quư vị, hiểu rơ cái tâm của quư vị
trọn đủ hết thảy.
Pháp
không có đại, mà cũng chẳng có tiểu. Có người
v́ chịu khổ, biết khổ, họ sẽ hy vọng hết
thảy chúng sanh đều có thể ĺa khổ. Đó là Đại.
Dẫu đức Phật nói pháp tánh, lư thể, đối
với kẻ chỉ nghĩ đến chính ḿnh, chẳng
nghĩ đến người khác, đại pháp cũng
biến thành tiểu pháp! Pháp chẳng có đại mà cũng
chẳng có tiểu, chỉ thuận theo cái tâm của quư vị
mà lập! Bản thân Pháp là nói đến Tánh Thể. V́ chúng
sanh có đủ mọi tánh, cho nên Phật [thuyết pháp] cũng
có đủ loại tánh. Pháp là phương pháp, là đường
lối, pháp tắc, tùy thuộc quư vị lư giải như
thế nào. V́ thế, Đại Thừa, Tiểu Thừa, Hiển
Tông, Mật Tông, Tứ Giáo, Ngũ Giáo, chẳng cần phải
dấy lên tranh chấp. Hễ tranh chấp, sẽ thành hư luận.
Do vậy, trước hết chúng ta phải hiểu rơ hai
chữ Đại Thừa.
“Đại
Tập”: Đại chúng đến tham dự pháp hội
lần này rất đông. “Tập” (集) có nghĩa là
nhiều. Tập hợp một chỗ để làm ǵ? Để
diễn giải tuyên lưu Đại Thừa.
“Địa
Tạng”: Địa là cái tâm của mỗi người,
tức tâm địa, và sử dụng cái tâm địa ấy
như thế nào? “Địa” là h́nh dung cái tâm của chúng
ta, v́ đại địa
chứa đựng hết thảy. Hết thảy những
thứ chúng ta cần đều đến từ đất.
Bất luận xăng, than đá, nhiệt năng, toàn thể
đều từ đất mà ra. Địa có nghĩa “hàm
tàng” (chứa đựng), c̣n có ư nghĩa “sanh trưởng”.
Những thứ chúng ta ăn hoặc dùng đều sanh từ
đất. “Tạng” là giấu kín, cũng là “chứa đựng
rất nhiều nghĩa lư”, nhưng chúng ta không biết.
V́ sao không biết? V́ chúng ta đă mê, cũng có nghĩa là cái
tâm chúng ta đă mê. Hai chữ này đều có thể giải
thích là cái tâm của chúng ta. Do cái tâm của chúng ta sanh ra thân,
ngữ, ư nghiệp; từ thân, ngữ, ư nghiệp, lần
lượt sanh ra ba điều nơi thân, bốn điều
nơi miệng, và ba điều nơi ư, hợp thành mười
nghiệp. Mười nghiệp ấy vĩnh viễn không
ngừng, giống như bánh xe xoay tṛn, chẳng ngưng nghỉ,
vĩnh viễn xoay chuyển. Đồng thời, bánh xe có
một công năng là nghiền nát, có thể giúp chúng ta nghiền
nát Hoặc, Nghiệp, Khổ, sanh ra Giới,
Định, Huệ thanh tịnh.
Nói
theo hàng đệ
tử Phật chúng ta, nếu quy y Tam Bảo, học Phật
pháp, sẽ xoay ngược bánh xe. [Hiện thời], không chỉ
chẳng thể chuyển hướng chánh đáng để
trừ khử ba nghiệp, mà ngược lại c̣n tăng
thêm ba nghiệp rất nhiều là v́ lẽ nào? V́ vốn đă
sẵn có rất nhiều khổ năo, đáng lẽ vốn
phải tin Phật, tin Pháp, tin Tăng để diệt trừ
khổ năo, nhưng họ chẳng phải là như thế.
Trong Phật pháp, họ dấy lên phân biệt, phá ḥa hợp
Tăng, thậm chí tạo nghiệp, báng pháp, phá hoại Phật.
Họ tưởng họ đang tán thán Phật, thật ra
là phá hoại Phật.
Bộ
kinh này chuyên nói về hiện tượng ấy. Do vậy,
trong bộ kinh này, đối với hạng tỳ-kheo phá giới,
chỉ cần họ vẫn c̣n khoác ca-sa, họ tạo nghiệp
của họ, quư vị chẳng cần quan tâm đến
họ. Chỉ cần họ hiện tướng Tam Bảo,
vẫn phải cung kính họ. Cung kính họ, sẽ là phước
đức của quư vị. Nếu quư vị phá hoại, tức
là sanh ra tội ác. Bất luận họ bại hoại
cỡ nào, chẳng do quư vị quản. Do vậy, đức
Phật chẳng chấp thuận quốc vương, đại
thần dùng pháp luật để xử phạt tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni xuất gia. Tôi nêu lên thí dụ này nhằm nói rơ:
Thập Luân là dùng Thập Luân của Phật để đối
trị Thập Luân của chúng ta.
“Kinh”
là có nghĩa là “xuyên suốt”, giống như
chúng ta xâu hoa lại với nhau. Tại Ấn Độ, họ
dùng chỉ để xâu hoa [thành tràng hoa]. V́ những nghĩa
lư được giảng trong kinh nhằm nói đối ứng
với chúng sanh này, hoặc đối ứng chúng sanh khác,
nói trước, nói sau, hiển thuyết, mật thuyết,
đều được gom lại một chỗ, khiến
cho nghĩa lư trong kinh được gom tụ lại. Đấy
là tựa đề kinh.
Phẩm
Tự tức là phần giới thiệu dẫn nhập nhằm
phát khởi bộ kinh này. Trong phẩm Tự, một là tán
thán công đức của Phật, hai là đức Phật
tán thán công đức của
Địa Tạng Bồ Tát.
V́ sao đức Phật tán thán công đức của ngài Địa
Tạng? Trong [khi giảng] kinh Địa Tạng, chúng tôi cũng
đă từng nói. Trong [khi giảng] kinh Chiêm Sát, cũng đă
từng giảng, chính là khiến cho những kẻ chẳng
liễu giải sự tu hành nơi nhân địa của Địa
Tạng Bồ Tát và những kẻ tín tâm lẫn cung kính tâm
chưa trọn đủ, nhờ đức Phật tán thán,
sẽ sanh khởi ḷng ưa thích: “Vị
đại Bồ Tát này tuyệt diệu quá, ta phải thân
cận Ngài, cho đến nghe danh hiệu Ngài, lễ bái tượng
Ngài, ta sẽ đạt được nhiều điều
tốt đẹp”. Vậy th́ quư vị đến học,
sẽ có thể tiến nhập rất nhanh chóng.
Tâm
chúng sanh là như vậy. Nếu nghe người khác nói người
ấy tốt lắm, quư vị c̣n chưa gặp người
ấy, quư vị đă hết sức tin tưởng người
ấy. Giả sử gặp gỡ, càng cảm thấy tốt
đẹp hơn. Nhưng có những kẻ giả dối,
danh chẳng xứng với thật, nghe tiếng chẳng
bằng gặp mặt. Gặp mặt dường như hơn
hẳn nghe tiếng. Có kẻ ta gặp gỡ, [nhận thấy
kẻ ấy] chẳng được như danh tiếng.
Gặp kẻ đó, quả thật sẽ khinh thường,
sẽ càng liễu giải hơn, biết kẻ đó tồi tệ,
là phường giả danh. Bồ Tát khác hẳn! Phàm là đối
với các vị Phật, Bồ Tát được nói trong
kinh, quư vị nghiên cứu, được gặp gỡ, sẽ
sanh khởi vô lượng tâm cung kính.
Có
đạo hữu hỏi tôi: “Những vị như Địa
Tạng Bồ Tát hay Quán Thế Âm Bồ Tát, chẳng phải
là ai nghe nói cũng đều sanh khởi tâm cung kính ư? V́
sao c̣n phải giới thiệu?” Đức Phật hướng
đến đại chúng, hướng về pháp hội này
giới thiệu, chúng ta hăy xem xét vấn đề này từ
cảnh giới tư tưởng. Trên thế giới này,
trong năm sáu chục ức người, kẻ chẳng
biết Địa Tạng Bồ Tát quá nhiều, v́ chẳng
thân cận Tam Bảo, cho nên họ chẳng biết. Có kẻ
đă thân cận Tam Bảo, thậm chí có người xuất
gia rất nhiều năm, vẫn có kẻ chẳng biết
đến danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, lại
càng chẳng cần phải nói tới các kinh Địa Tạng,
kinh Thập Luân, kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Chính tôi
biết chuyện này, chẳng phải là nói xằng. Có kẻ
giảng kinh rất nhiều năm, vẫn chẳng biết
Địa Tạng Bồ Tát, chưa hề học đến,
mà cũng chẳng hề thân cận, cũng chẳng xem tới.
Do vậy, ắt cần phải giới thiệu một
phen!
Ngay
trong pháp hội ấy, có rất nhiều người chẳng
thấy, chẳng biết Địa Tạng Bồ Tát. Do vậy,
quư vị thấy trong kinh Địa Tạng, ngay cả Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Hư
Không Tạng Bồ Tát, Phổ Quảng Bồ Tát, đều
hướng về đức Phật thưa hỏi để
đức Phật dạy về công đức của Địa
Tạng Bồ Tát. Quư vị nghĩ xem: Quán Thế Âm Bồ
Tát thần lực lớn dường ấy, thần thông
to dường ấy, Ngài c̣n chẳng biết Địa
Tạng Bồ Tát ư? Mỗi vị giáo hóa một phương,
duyên của mỗi vị Phật
bất đồng. Tuy nói “Phật Phật đạo đồng”,
bất quá mỗi vị Phật thuyết pháp bất đồng, mỗi thế giới Phật
bất đồng. Do vậy, ắt phải giới thiệu
đôi chút, ư nghĩa của phẩm Tự là như vậy
đấy.
Trong
hội này, Địa Tạng Bồ Tát dùng sức thần
thông và nguyện lực của Ngài đến tùy hỷ. Ngài
biết Ngài có nhân duyên với pháp hội này, bèn đến
tùy hỷ, tán thán. Trong kinh Địa Tạng, đức Phật
phóng quang triệu vời. Quang tượng
trưng cho âm thanh, quang minh và âm thanh tương đồng.
Trong phần trước, chúng tôi đă giảng đại
khái ba mươi chín loại âm thanh. Mỗi loại vật
dụng được tuôn xuống, như y phục rơi
xuống, vật trang sức báu đặc biệt lộng
lẫy rơi xuống, đều đang thuyết pháp. Trong
ấy chứa đựng âm thanh, hết thảy động
tác đều có âm thanh, nhưng chúng ta chẳng nghe được.
V́ sao? V́ chúng ta chưa chứng đắc Nhĩ Căn viên thông.
Do vậy, Ngài cần phải dùng phương thức này để
biểu đạt. Âm thanh thuyết pháp [đă xuất hiện]
tuy người c̣n chưa tới, tức là Địa Tạng
Bồ Tát c̣n chưa hiện thân, âm thanh đă đến trước.
Đă thế, những thứ rơi xuống do Ngài chiêu cảm như vật
báu, y phục, đều là những vật dụng trong
đời sống, là những thứ ai nấy đều
cần dùng, ai nấy đều cảm thấy chúng tự
động khoác lên người.
V́
sao có cảnh tượng ấy? Đấy là do nguyện
lực của Địa Tạng Bồ Tát, là cái nhân tu hành
trong vô lượng kiếp chiêu cảm cái quả. Ngài vừa
mới động thân, c̣n chưa đến nơi ấy.
Chỉ cần chúng sanh nơi nào có duyên với Ngài, Ngài sẽ
đều đến đó. Đấy là tán thán công đức
của Địa Tạng Vương Bồ Tát [dựa trên]
những điều hy vọng, ưa thích liên quan đến
đại chúng. Những điều được nói trong
bộ kinh này đều liên quan đến cuộc sống
thường nhật, như trong phần trên đă nói: Chúng
ta luôn có các nhu cầu. Có
cần của cải hay không? Dẫu hiện thời không
có nhu cầu ấy, nhưng chúng ta vẫn đang ở
trong hắc ám, vô tri, vô minh. Vô minh là vô tri. Chúng ta có rất
nhiều tà kiến, tức là tri kiến chẳng
chánh xác, nh́n vấn đề nào cũng đều chẳng
đúng. Do chẳng nh́n đúng vấn đề, xử sự
dễ phạm sai lầm. Vốn kinh doanh để mong phát
tài, nhưng do chẳng nh́n nhận đúng, đầu
tư bèn cụt vốn. Vốn mong đi giải trí, đến
đó bèn ngă bệnh, v́ quư vị chẳng thích hợp khí hậu.
Muốn đi du lịch, máy bay xuất hiện trục trặc,
cho đến đủ mọi thứ bức hại. Đấy
là v́ hôn ám, vô trí. Chuyện chẳng nên làm, quư vị cứ làm,
sẽ gặp nguy hiểm. Nếu có trí huệ, sẽ chẳng
đi. Nếu quư vị được quang minh của Địa
Tạng Bồ Tát chiếu tới, sẽ có trí huệ. Đă có trí huệ, sẽ hiểu
rơ: Điều ǵ chẳng nên làm, quư vị sẽ chẳng làm;
chỗ nào chẳng nên tới, quư vị sẽ chẳng tới;
điều ǵ chẳng nên nói, quư vị sẽ không nói, liên quan
đến những điều bản thân chúng ta sẽ làm
như thế đó!
Nhưng
đối với các thứ công đức, cho đến
các thứ âm thanh thuyết pháp ở đây, có đạo hữu
hỏi: “V́ sao một thứ tôi cũng chẳng gặp được?”
V́ không có cái duyên ấy! Nay chúng tôi giảng bộ kinh này, giảng
công đức của Địa Tạng Bồ Tát, tức
là quư vị hữu duyên gặp gỡ. Mai sau, quư vị niệm
thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, hoặc cầu Địa
Tạng Bồ Tát, lễ tượng Địa Tạng,
hoặc học kinh Địa Tạng Thập Luân, kể cả
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, hoặc kinh Địa
Tạng [Bổn Nguyện Công Đức], đều
là có mối liên quan với Địa Tạng Bồ Tát. Sau
khi đă duyên niệm nhiều lần, quư vị sẽ dần
dần có thể đạt được. Đương
thời, trong pháp hội ấy của đức Phật,
những người trong pháp hội ấy đều đạt
được. Nay chúng ta cũng sẽ đạt được; trong tương
lai, khi chúng ta gặp nhân duyên này, cũng sẽ được
gia tŕ.
Ở
đây, có hai loại [gia tŕ]: Một là chúng ta thấy rơ ràng,
hoặc trong tâm cảm nhận. Loại kia là quư vị chẳng
thấy được, chẳng cảm nhận được.
Có những hiện tượng do Địa Tạng Bồ
Tát gia tŕ, hoặc là do niệm kinh Địa Tạng, sẽ
cảm thấy chuyện của chính ḿnh tốt hơn trước
kia đôi chút. Đó gọi là “minh gia” (gia tŕ ngấm
ngầm). “Minh gia” tức là chẳng hiển hiện, nhưng
cũng có khi thật sự mộng thấy, cũng có người
mộng thấy Địa Tạng Bồ Tát đến quán
đảnh. Uống nước quán đảnh xong, vốn
là kẻ rất ngu si, sẽ biến thành trí nhớ rất
mạnh, khôi phục trí nhớ. Có đứa bé vốn bị
ngu độn, hoặc sanh ra chẳng nghe được
hay nh́n được, tâm trí hôn ám. V́ nó niệm Địa
Tạng Bồ Tát, [hay do] cha mẹ cầu thay cho nó bèn niệm
Địa Tạng Bồ Tát, nó đă b́nh phục. Xác thực
là có những chuyện ấy, tôi biết rất nhiều
trường hợp. Đấy là Địa Tạng Bồ
Tát gia tŕ, nhưng đấy đều là những cái nhân
nhỏ nhoi. Hy vọng lớn nhất của chúng ta là thành Phật.
Có những người do vậy bèn có thể minh tâm kiến
tánh. Họ vừa trông thấy liền tâm khai ư giải,
toàn thể nghiệp chướng đều tiêu mất. Điều
này là do căn tánh mỗi người mỗi khác.
Khi nghe pháp, đại chúng cùng
ở trong pháp hội khi đó, có người chứng quả
Thanh Văn, có người phát Bồ Đề tâm, nhưng
cũng có người chưa đạt được lợi
ích, cũng có người tạo thành chủng tử cho mai
sau. Khi Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp tại Ấn Độ,
biết đâu chúng ta cũng hiện diện tại đó!
Tuy nghe, nhưng chẳng đạt được lợi ích,
vẫn bị lưu chuyển, đó gọi là “viễn chủng
tử”. Nếu đức Phật thuyết pháp mà độ
được hết th́ đức Phật cũng chẳng
cần căn dặn Di Lặc Bồ Tát hóa độ chúng sanh!
Quư vị thấy đó: Nói xong mỗi bộ kinh, đức
Phật đều phải phó thác một vị Bồ Tát: “Ông
phải khéo hoằng dương bộ kinh này, khiến cho chúng
sanh chưa đắc độ sẽ được độ,
người đă độ sẽ được tăng
trưởng, đều khiến cho họ thành Phật”. Mỗi
bộ kinh đều như thế. Chúng ta cần phải
nghĩ như thế này: Chỉ cần ta nghe thấy, chỉ
cần được nghe là đă được gieo chủng
tử, vĩnh viễn chẳng hư hoại. Đức Phật
sẽ tùy thời gia tŕ chúng ta, khiến cho chúng ta sẽ đạt
được lợi ích.
Trong
phẩm Tự, đức Phật giảng về công đức
của Địa Tạng Bồ Tát. Mỗi sự nghiệp,
mỗi công đức do Ngài đă làm, đều do Ngài tu thành.
Giống như hiện thời mọi người phát tâm
tu tập, tu các phương thức hoặc phương
pháp, chiếu theo cách nào đó để tu, h́nh thức bất
đồng, hiệu quả cũng khác biệt. Dụng tâm
rất chân thật, thiết tha, dụng tâm rất chí thành,
sẽ đạt được hiệu quả vừa mau
chóng, vừa to lớn. Nếu cái tâm của quư vị chỉ
là tùy tiện nghe, giống như đi học, quư vị sẽ
chỉ đạt được viễn nhân, trong tương
lai sẽ chẳng giống người khác, sẽ dần
dần đến đời nào đó mới chín muồi, mới
có thể lại gặp gỡ, lại tăng trưởng.
Lại phải sau nhiều đời nhiều kiếp mới
chín muồi, mới tăng trưởng. Thậm chí trong một
đời của mỗi
cá nhân, sau khi quư vị nghe pháp, sẽ dần dần tăng
trưởng biến hóa. Tuy vậy, quư vị đừng nẩy
sanh tà kiến. Nếu sanh khởi tà kiến, các công đức
trước đó sẽ giống như quư vị ấn nút
Cancel của computer vậy, ngay lập tức trừ sạch,
chẳng c̣n! Nẩy sanh tà kiến, sẽ chẳng thành tựu.
Điều đáng chú ư nhất ở đây là tà kiến. Nhất
định phải rời xa hết thảy tà nghiệp,
tà ngữ.
Tôi
đặc biệt giải thích cùng mọi người
đôi chút về tà nghiệp, đặc biệt là nghiệp
sát sanh. Đương nhiên, hàng đệ tử Phật chúng
ta chẳng mở kỹ viện, nhưng mở Karaoke sợ
là vẫn có, chỉ tùy thuộc quư vị làm như
thế nào! Quư vị làm nghề đồ tể, chuyên môn sát
hại chúng sanh, đó gọi là tà nghiệp. Tà ngữ c̣n quá
hơn nữa, nói những lời không chánh xác, nói những
lời trái nghịch lương tâm của chính ḿnh. V́ sao? V́ một
chút lợi nhỏ nhoi trước mắt, chính ḿnh cũng biết
là không đúng, cũng biết là chẳng thể nói như
vậy, nhưng để bảo vệ lợi ích của chính
ḿnh mà phải cổ động, ắt phải làm như thế.
Chuyện như vậy rất nhiều, chỉ sợ ai nấy
đều đă từng nói những lời lẽ như vậy!
Tà
ư càng khốn khổ hơn nữa! Tà ư nằm ngay trong tâm chúng ta. Đối
với ư niệm chẳng chánh đáng sanh khởi, quư vị phải luôn
quán chiếu, đừng để mất chánh niệm. Cuối
cùng, phải xa ĺa hết thảy tà nghiệp, tà ngữ, tà
kiến. V́ quư vị có thể lựa chọn nghề nghiệp,
nói năng th́ quư vị có thể làm chủ, có thể uốn
nắn tư tưởng được. Bản thân quư vị
thực hiện tốt đẹp, quy y Tam Bảo, sẽ chẳng
cần phải Đông t́m phương tiện, Tây kiếm phương
tiện chi nữa! Có người sở dĩ học Khí Công
là để giữ cho thân thể khỏe mạnh. Thế
nhưng, bất luận ǵn giữ như thế nào, cũng
chẳng thể ǵn giữ được,
v́ đấy chẳng phải là chánh nghiệp. Tôi thấy
những người bị xe đụng chết, hoặc
do máy bay xảy ra tai nạn, chẳng thấy thân thể họ
[trước khi tai nạn xảy ra] không tốt đẹp.
Quư vị chẳng thể làm chủ chuyện này được.
Quư vị phải chánh tín Tam Bảo. Nếu muốn vận
động th́ lạy nhiều hơn cũng được.
Lạy theo kiểu b́nh thường không được, th́
lạy rạp cả người xuống đất. Lạy
chưa tới hai ba chục lễ, cả người đẫm
mồ hôi. Đấy cũng là vận động, đấy
cũng là chánh nghiệp.
Tuy
vậy, tôi thấy rất nhiều người nghe xong, chẳng
cảm thấy thoải mái cho lắm. Họ nghĩ chuyện
bảo dưỡng thân thể không phải là chuyện xấu.
[Hăy tự vấn] v́ sao phải bảo dưỡng thân thể?
Thân thể tồn tại là v́ ư nghĩa nào? Họ chẳng
nghiên cứu, lại ngược ngạo theo đuổi ngũ
dục. Suốt ngày từ sáng đến tối vào quán rượu,
uống say bét nhè. Mong thân xác bảo dưỡng tốt đẹp,
rốt cuộc lại chơi ma túy. Mong thân thể bảo dưỡng
tốt đẹp, lại quan hệ nam nữ bừa băi. Chúng
ta bảo dưỡng thẩn thể này như thế nào, để
làm ǵ? Bảo dưỡng nó để tạo nghiệp! Đó
gọi là tà nghiệp.
Tà
ngữ là do tư tưởng chẳng chánh xác chủ đạo.
Mối quan hệ lớn nhất của tà kiến là nó chỉ
đạo cái thân và lời ăn tiếng nói của quư vị.
Sau khi ăn nói bừa băi, thường là chuốc họa rất
lớn. Chúng tôi thường
nói: Trong mỗi niệm, đều duyên niệm Tam Bảo.
Tam Bảo là nơi quy y của quư vị. Nếu ĺa chỗ
quy y ấy, mong quy y nơi khác,
sẽ là tà quy. Quy y Tam Bảo, vĩnh viễn đạt được
thanh tịnh măi cho đến khi thành Phật. Quư vị thọ
Tam Quy Y mà có thể giữ vững, sẽ chẳng đọa
tam đồ, vĩnh viễn thuộc vào nhân đạo. Dẫu
quư vị tu một đời chẳng thành, cứ từ từ
tu, cũng có thể thành đạo. Nếu quư vị vốn
tin tưởng đích xác là chánh giáo, cũng
đă quy y [Tam Bảo] rồi, nhưng cảm thấy kiểu
này chậm quá, nghe kẻ khác nói có một phương pháp ngay
lập tức có thần thông, liền bỏ rơi Tam Bảo, trái ĺa Tam Bảo. T́nh h́nh này tôi
nghe nói rất nhiều, đấy cũng là nghiệp của
mỗi người!
Tôi
vừa mới đến Nữu Ước, có những vị
cư sĩ đến quy y với tôi. Sau đó, họ lại
quy y Thanh Hải. Sau đấy, lại cảm thấy Thanh
Hải cũng chẳng đủ mau, muốn t́m một phương
pháp khác nhanh hơn. Cuối cùng, dẫn phát ma chứng. Ma chứng
ấy đă hiện ra, chẳng có cách nào cứu chữa! Nếu
quư vị muốn cứu văn, cũng chẳng thể cứu văn được.
Đă phá rồi, rất khó cứu. Đă phá giới, c̣n có
thể sám hối. Nếu là phá kiến, sẽ
chẳng phải là một hai đời, mà là vô lượng
kiếp. Hễ một ngày nào đó đọa vào tà trí, tà
kiến, rất khó văn hồi được! Giả như
người ấy có đại thiện căn, gặp Địa
Tạng Bồ Tát. Ngài phóng quang minh chiếu kẻ đó, kẻ
đó sẽ buông xả tà kiến, buông xả tà nghiệp,
nhưng nhân duyên kiểu ấy có nhiều hay chăng? Rất
ư là ít! Nay mọi người có vị nào được
quang minh của Địa Tạng Bồ Tát chiếu soi hay
chưa? Tôi cho rằng chưa có. Tôi nghĩ mọi người
chắc là sẽ đạt được lợi ích, nhưng
chuyện này tùy thuộc nhân duyên của mỗi người!
(Kinh)
Nhĩ thời, chúng hội kỳ thân huất nhiên, địa
giới tăng cường, kiên trọng nan cử. Kư đổ
tư thụy, hàm tất kinh nghi: “Hà nhân, hà duyên, nhi hiện
thử tướng?” Ư chúng
hội trung, hữu thiên Đế Thích, danh Vô Cấu Sanh,
khứ Bạc Già Phạm bất viễn nhi tọa, tức
tùng ṭa khởi, đảnh lễ Thế Tôn, hiệp chưởng
hướng Phật, dĩ tụng vấn viết:
(經)爾時,眾會其身欻然,地界增強,堅重難舉,既睹斯瑞,咸悉驚疑:何因何緣,而現此相?於眾會中有天帝釋,名無垢生,去薄伽梵不遠而坐,即從座起,頂禮世尊,合掌向佛,以頌問曰:
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đại chúng trong hội bỗng thấy
địa đại trong thân họ tăng mạnh, cứng
chắc, nặng nề khó cử động. Đă thấy
điềm ấy, thảy đều kinh nghi: “Nhân ǵ, duyên
ǵ mà hiện tướng này?” Trong chúng hội có trời Đế
Thích, tên là Vô Cấu Sanh, ngồi cách đức Bạc Già Phạm
chẳng xa, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ đức Thế Tôn, và chắp tay hướng
về đức Phật, dùng kệ hỏi rằng).
Mọi
người đều hoài nghi, chẳng biết xảy ra
chuyện ǵ. Trong hội trường Đại Tập, đức
Phật đang thuyết pháp, bỗng có những hiện tượng
ấy. Đấy chẳng phải là hiện tượng
b́nh thường. Trước đó, đă xuất hiện
đủ loại thụy tướng. Người tham dự
đại hội bỗng cảm thấy nơi thân thể
họ, tay chẳng thể động, chẳng nâng tay lên được.
“Địa giới tăng cường” tức là nơi
thân thể họ, Địa Đại mất đi tác dụng.
Bất quá, họ biết đây là tạm thời, chẳng
gây trở ngại. V́ sao có hiện tượng ấy xảy
ra? Hoài nghi, kinh sợ, chẳng biết nhân duyên ǵ mà nẩy sanh hiện
tướng ấy? Mọi người đều nghĩ
như thế.
Trong
số đó, có hàng đại Bồ Tát thưa hỏi đức
Phật. Trong đại chúng ở đây, có một vị
trời là Đế Thích. Chúng ta có thể nói Thiên Đế
Thích là Ngọc Hoàng Đại Đế, tức chúa trời
Đao Lợi, có tên là Vô Cấu Sanh. Đây là bậc đại
Bồ Tát thị hiện. Phàm là Đế Thích Thiên cũng
vậy, mà Phạm Thiên cũng thế,
ở trong pháp hội ấy, hướng về đức
Phật thưa hỏi đạo lư hết sức sâu xa, đều
là bậc Bồ Tát hóa hiện. Bồ Tát hóa hiện th́ mới có trí huệ
ấy. Cũng v́ ông ta ngồi cách đức Thế Tôn chẳng
xa, khi đứng lên hỏi, sẽ rất thuận tiện.
Ông ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy, hướng
về đức Phật đảnh lễ. Để thỉnh
pháp, trước hết, phải tuân theo nghi thức. Chúng ta
đều là phàm phu, mọi người thỉnh pháp, hoặc hỏi vấn
đề ǵ, trọn chẳng theo quy củ ấy. Mọi người
cất tiếng hỏi là được rồi, thầy yêu
cầu như thế, đạo hữu cũng làm như
thế. Thuở đức Phật tại thế, trong một
đại pháp hội, chẳng phải là tùy tiện hỏi
như vậy. Quư vị muốn thỉnh pháp, trước
hết, ắt cần phải rời
khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ đức Phật
trước đă. Đảnh lễ Thế Tôn xong, trong
kinh thường nói là “hồ quỳ, hiệp chưởng”,
tức là quỳ một chân xuống. Nay chúng ta quỳ cả
hai chân. Hồ quỳ, chắp tay, hướng về đức
Phật, trước khi thưa hỏi, phải tán thán đức
Phật. Kế đó, ông ta dùng kệ tán thán đức Phật.
(Kinh)
“Cụ đế ngữ, đế kiến, đế thiện
trụ Mâu Ni, phổ vị chúng hoằng tuyên, đế cứu
cánh kiên pháp, linh chư hữu t́nh loại, diệt khổ cập
khổ nhân, hà duyên ư thử trung, hiện chư vân vũ
đẳng? Linh cử chúng hoan duyệt, hàm sanh tịnh tín
tâm, giai phát thú Đại Thừa, độ nghi, sanh thật kiến.
Thiên nhân đại chúng thân, địa giới tăng kiên
trọng, bất năng tự thắng cử, thử tướng
hữu hà duyên? Lưỡng thủ giai châu hiện, vũ chúng
bảo, phóng quang, chiếu thập phương trừ tội,
tức khổ, hoạch an lạc. Đạo sư, phục
hà nhân, linh cử chúng giai kiến, chủng chủng hương
man đẳng, các các tự nghiêm thân? Thiên nhân phổ do dự,
bất trắc hà nhân duyên, hữu thùy tương dục
lai, hiện thử thần thông lực? Vị thị Phật,
Bồ Tát? Vị Phạm, ma, Thích,
thiên? Duy nguyện đại đạo sư, tốc
vị chúng tuyên thuyết”.
(經)具諦語諦見,諦善住牟尼,普為眾弘宣,諦究竟堅法,令諸有情類,滅苦及苦因。何緣於此中,現諸雲雨等?令舉眾歡悅,咸生淨信心,皆發趣大乘,度疑生實見。天人大眾身,地界增堅重,不能自勝舉,此相有何緣?兩手皆珠現,雨眾寶放光,照十方除罪,息苦獲安樂。導師復何因,令舉眾皆見,種種香鬘等,各各自嚴身?天人普猶豫,不測何因緣,有誰將欲來,現此神通力?為是佛菩薩,為梵魔釋天?唯願大導師,速為眾宣說。
(Kinh:
Đấng lời thật, thấy thật. Đấng Mâu Ni khéo
trụ, khắp v́ chúng hoằng tuyên, pháp rốt ráo chắc
thật, khiến các loài hữu t́nh, diệt khổ và nhân
khổ. Duyên ǵ ở nơi đây, hiện các thứ mây, mưa,
khiến đại chúng vui sướng, đều sanh tâm
tịnh tín, đều tiến hướng Đại Thừa,
thoát nghi, sanh chân kiến? Thân đại chúng trời,
người, địa đại thêm cứng, nặng, chẳng thể
tự cử động. Tướng ấy do duyên ǵ? Hai
tay đều hiện châu, tuôn các báu, phóng quang, chiếu mười
phương trừ tội, dứt khổ, được
an lạc. Đạo sư! Do nhân ǵ, khiến mọi người
đều thấy, các thứ như tràng hương, tự
trang nghiêm thân ḿnh? Trời, người đều do dự,
chẳng lường nhân duyên ǵ, là ai sẽ sắp đến,
hiện sức thần thông này? Đó là Phật, Bồ Tát?
Hay Phạm, ma, Thích, thiên? Kính mong đại sư, mau v́ đại
chúng nói).
Lời
đức Phật nói, những vấn đề đức
Phật thấy đều là chân thật. “Đế”
(諦) có nghĩa là chân thật.
“Đế” là lời nói đúng thật. Khi đức
Phật thuyết pháp, thường bảo: “Đế thính!
Đế thính!” (hăy lắng nghe chắc thật), tức
là “hăy nghe đúng như thật”, cũng có nghĩa là “hăy
quán chiếu cái tâm của quư vị”, hăy dùng cái tâm của
quư vị để nghe, đừng dùng tai để nghe. Khi
nói năng, phải nói tương xứng với cái tâm, phải
nói lời chân thật; đấy là Thật Tướng. Đức
Phật toàn nói tướng chân thật. Đức Phật
thuyết pháp, cũng sanh hoạt, cũng ôm bát khất thực,
nhưng Ngài chẳng rời Định. Như Lai thường
ở trong Định, hết thảy động tác đều
chẳng rời Định. Địa Tạng Bồ Tát cũng
giống như thế, hết thảy mọi lúc đều
chẳng rời Định, đều là hoạt động
trong Định. Định có thể sanh ra huệ. Phương
tiện ở trong huệ, hết thảy những ǵ đă
làm đều là phương tiện thiện xảo. Thật
ra, cơ sở thực tại của phương tiện
thiện xảo được sanh từ trí huệ căn
bản, mà trí huệ căn bản sanh từ Thật Tướng
Lư Thể. Ngày nào đó, quư vị chứng đắc trọn
vẹn, thấy Thật Tướng, những lời quư vị
nói ra sẽ đều những lời lẽ thực tại,
tri kiến cũng đều là tri kiến chân chánh, chẳng
hư dối. Quư vị trụ trong cảnh giới tương
xứng với lẽ Chân, thường ở trong Định.
“Mâu
Ni” (Muni) c̣n dịch là Tịch Mặc. Chữ Mâu Ni trong Thích
Ca Mâu Ni Phật được dịch thành Tịch Mặc
(寂默), Tịch Mặc
chính là Tĩnh. Cũng có thể nói Tịch Tĩnh là Niết
Bàn, hoặc cũng có thể nói là Niết Bàn Tịch Tĩnh,
chính là một loại trong ba loại pháp ấn. Khéo trụ
trong Tịch Tĩnh, trụ ở nơi đâu? Trong Thật
Tế lư địa, trụ trong Thật Tướng Lư Thể,
trụ trong nghĩa Trung Đạo, trụ trong Đệ
Nhất Nghĩa. Tịch Tĩnh có ư nghĩa như thế đó.
Vô
Cấu Sanh Thiên Đế Thích tán thán đức Phật: “Bạch
Phật! Ngài trọn đủ hết thảy lời lẽ
chân thật. Ngài là đấng tri kiến chân thật, thường
ở trong Định”. “Phổ vị chúng hoằng tuyên”
(v́ khắp đại chúng mà tuyên dương rộng lớn):
Mong Ngài sẽ dùng phương tiện thiện xảo, tức
là phương tiện huệ sanh khởi từ trí huệ
căn bản để thị hiện thiện xảo giáo
hóa chúng con là những kẻ vô tri. Thỉnh pháp cũng chẳng
phải dễ! Phàm là thỉnh pháp, ngoài tán thán ra, c̣n là mong cầu
những nghĩa lư được hiển lộ. Khi thỉnh
vấn những nghĩa lư ấy, người hỏi cũng
phải dùng đủ mọi phương tiện thiện
xảo để nêu ra câu hỏi. Nêu ra câu hỏi chẳng
dễ dàng đâu nhé! Phải xin khai thị, và cũng phải
học tập. Như trong hiện tại, giữa các đạo
hữu tán gẫu chuyện
đời thường với nhau, [phải hỏi thăm]
con cái như thế nào, thân thể như thế nào, hiện
tượng xă hội như thế nào. Trong pháp hội thuở
ấy, rất ít hỏi những vấn đề ấy,
nhưng cũng chẳng ngoài những vấn đề ấy; bất quá, ngôn ngữ
thiện xảo bất đồng. Đức Phật dạy
chúng ta những pháp thiện xảo rốt
ráo, kiên cố bất hoại, kim cang tánh. Đức Phật
là bậc “cụ đế ngữ, đế kiến, đế
thiện trụ Mâu Ni, phổ vị chúng hoằng tuyên,
đế cứu cánh kiên pháp” (là bậc nói chân thật,
thấy chân thật, là bậc khéo trụ trong Tịch Tĩnh,
v́ khắp các chúng sanh tuyên thuyết rộng răi các pháp rốt
ráo kiên cố chân thật), chuyên v́ chúng sanh nói pháp kim cang, nói
pháp bất động, khiến cho chúng sanh được
nhập chân thật. Đấy là sự thỉnh cầu.
Do
vậy, con mong cầu Phật “linh chư hữu t́nh loại,
diệt khổ cập khổ nhân, hà duyên ư thử trung,
hiện chư vân vũ đẳng” (khiến cho các loài hữu
t́nh diệt khổ quả và khổ nhân. V́ sao trong hội này,
hiện ra các thứ mây tuôn mưa). Trong pháp hội hiện
thời, xuất hiện những hiện tượng lạ
lùng, đặc biệt nhất, hiện ra những đám
mây tuôn mưa như vậy, tuôn xuống những thứ báu
nhiệm mầu, trên tay mỗi người đều có một
viên Như Ư Bảo Châu, khiến cho hết thảy chúng sanh
không chỉ là diệt quả khổ, mà ngay cả khổ nhân
cũng đều chẳng
có. Có nhân th́ mới có quả. Chỉ diệt khổ quả,
chẳng diệt khổ nhân, hoặc chúng ta tu đạo chỉ
cầu chuyển biến khổ quả, chẳng cầu chuyển
biến khổ nhân. Nay chúng ta chẳng thoải mái, bệnh
đă lành rồi, phải suy xét bệnh đă lành vẫn có
thể bị lại. Do vậy, phải trừ bỏ cái
nhân [gây bệnh] ấy. V́ sao quư vị mắc bệnh? Đó
là khổ nhân. V́ sao chúng ta bị khổ? V́ sao người khác
chẳng bị khổ? Ta chịu khổ, [cảm thấy]
thế giới này rất bất b́nh đẳng! Kẻ khác
có tiền, ta chẳng có tiền. V́ sao? Kẻ nào chẳng t́m
nhân, chỉ cầu b́nh đẳng nơi quả, sẽ chẳng
thể b́nh đẳng được! Chẳng có cách nào b́nh
đẳng! B́nh đẳng th́ phải b́nh đẳng nơi
cái nhân, phải hiểu đạo lư này!
Câu
hỏi ở đây là do nhân duyên ǵ mà trong pháp hội này, hiện
ra nhiều tướng đặc biệt, lạ lùng như
vậy? Sau khi thị hiện những đám mây ấy, lại
thị hiện tuôn ra những vật trang hoàng quư báu, mầu
nhiệm, tuôn xuống những vật dụng cần thiết
cho cuộc sống, cho đến hiện ra Như Ư Bảo
Châu. V́ sao? V́ những cảnh giới ấy khiến cho đại
chúng hết sức hoan hỷ, sung sướng, mọi người
đều hoan hỷ, hoan hỷ khôn ngằn, sanh khởi tín
tâm thanh tịnh. Nói đến chữ Tịnh, đó là nói tới
tham, sân, si, mạn, nghi, Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Thủ,
Tà Kiến, [cũng như Thập Ác], tức tham, sân, si, vọng
ngữ, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, giết,
trộm, dâm đều chẳng có, mà là sanh khởi tâm thanh
tịnh. Do tín tâm mà sanh khởi niềm tin thanh tịnh, cảm
nhận rất thù thắng.
Mọi
người đều biết Đại Thừa; nói đến
Đại Thừa th́ nói thông tục hơn sẽ là “thành
Phật”. Một khi đă phát tâm hướng tới thành
Phật; đấy là Đại Thừa. Biết cảnh
giới ấy là chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải
là b́nh phàm. Chướng ngại lớn nhất của chúng
ta là không có tín tâm. V́ sao chẳng có tín tâm? Do nghi hoặc quá nặng:
“Thật vậy ư? Có thể thành Phật ư?” Quá nhiều
dấu hỏi, chẳng biết đă đánh bao nhiêu dấu
hỏi? Toàn là nghi! Kẻ nghi chẳng phải là hoàn toàn không
tin, mà là nửa tin nửa ngờ. Hoàn toàn không tin th́ ngay cả
nghi cũng chẳng có; căn bản là họ không tin! Nghi là
có chứa đựng một chút tin tưởng, có nghi là tốt
rồi! Ư nghĩa bao hàm trong nghi là như thế đó. Cái tâm
hoài nghi ấy vẫn là cái tâm chẳng liễu giải, chưa
thể thành tựu, chưa có kiến giải thật sự.
Khiến cho những người như thế sanh khởi
thật kiến (kiến giải chân thật), [đó là ư nghĩa
của câu] “độ nghi, sanh thật kiến”. “Thật
kiến” tức là kiến địa chân thật. Người
minh tâm kiến tánh như vậy sẽ sanh khởi kiến
giải đều là thật kiến, những kiến giải
khởi lên từ tâm người ấy đều là thật
kiến.
C̣n
có một loại t́nh huống: Đột nhiên trong lúc ấy,
bất luận là trời hay người, tất cả đại
chúng tham dự pháp hội, v́ sao “địa giới tăng
kiên trọng” (địa giới tăng thêm cứng cỏi,
nặng nề)? “Địa giới” chính là thân thể,
Địa Đại cứng, nặng. “Bất năng tự
thắng cử” nghĩa là chính ḿnh muốn giơ tay lên,
muốn động đậy, đều chẳng thể
động được. Tôi nhớ hồi trước
xem tiểu thuyết, có nói một thứ là “định
thân pháp”. Đă bị định thân th́ một ngón tay cũng
chẳng thể cử động được. Ở đây
là nói do sức oai đức của Địa Tạng Bồ
Tát, thân thể [của đại chúng trong pháp hội] sẽ
cảm thấy chẳng thể cử động được.
Đấy là do duyên ǵ? V́ sao có hiện tượng ấy?
C̣n
có một hiện tượng đặc biệt lạ lùng,
“lưỡng thủ giai châu hiện” (hai tay đều
có bảo châu hiện ra). Bài kệ này nhằm trùng tụng
những điều đă nói trước đó, Thiên Đế
muốn nhắc lại lần nữa. Những điều
trước đó chưa nói cặn kẽ, sẽ được
nhắc lại trong bài kệ tụng này. “Lưỡng thủ
giai châu hiện”: Quư vị thấy tay Địa Tạng
Bồ Tát cầm Như Ư Bảo Châu. Như Ư Bảo Châu là “cầu
ǵ hiện đó”. Quán Thế Âm cầm b́nh tịnh thủy,
cái b́nh ấy không chỉ là chứa nước, mà là thứ
ǵ cũng đều có. Chỉ cần quư vị cầu ǵ, bèn hiện ra thứ ấy. Không chỉ
là hiện châu, mà châu ấy c̣n tuôn ra chất báu, tuôn đủ
loại báu. Lại c̣n từ các thứ báu đă xuất hiện
ấy, mỗi thứ báu đều phóng quang, chiếu thấu
các cơi Phật trong mười phương. Bất quá, hoàn
toàn chẳng phải là toàn bộ đều chiếu. Tức
là trên tay có châu, châu hiện ra các thứ báu, có thể tuôn ra
các thứ báu. Sau đó, lại hiện ra các thứ quang
minh. Các thứ quang minh ấy chiếu đến chỗ nào,
chỗ ấy đều được cát tường, vui
sướng. Trong phần trước, [kinh văn đă nói]
các loại bệnh tật hễ được quang minh chiếu
tới, đều khỏi hẳn. Vậy th́, nếu là người
tu đạo, gặp được quang minh ấy, cũng
sẽ thành đạo, hết thảy khổ luân cũng
đều “tức diệt” (ngưng dứt, diệt
trừ), “tức” (息) là ngưng nghỉ.
Hết thảy các khổ đều ngưng dứt, đều
được an lạc.
“Thế
Tôn”: Đức đạo sư được gọi
là Thế Tôn. Bạch Thế Tôn! Đây là do nguyên nhân nào? V́
sao có thể khiến cho đại chúng đều trông thấy,
[đó là ư nghĩa của câu] “linh cử chúng giai kiến”.
Chúng con đều thấy, mỗi người đều tận
mặt trông thấy. V́ sao quang minh vừa diệt dứt th́
[khổ đau] ǵ cũng chẳng trông thấy? V́ sao có quang
minh ấy, đấy là v́ nguyên nhân nào? Điều ǵ đă
khiến cho đại chúng có thể trông thấy, do cái nhân
nào vậy? Cho đến hiện ra các thứ hương,
hoa, các vật trang hoàng, tràng hoa, khiến cho thân thể mỗi
người đều trở thành rất trang nghiêm, rất
đầy đủ, trong quá khứ chẳng hề có chuyện
này! Đối với các thứ hiện tượng ấy,
mọi người đều rất hoài nghi, “thiên
nhân phổ do dự” (trời người đều do
dự). “Do dự” là hoài nghi, chẳng biết là chuyện
ǵ? Do chẳng thể suy lường nhân duyên v́ sao có những
hiện tượng như thế, chẳng lẽ là do có vị
Phật hay Bồ Tát nào đến? Là do các vị ấy hiện
sức thần thông ư? Hoặc là do Phạm Thiên, hoặc
là ma vương, hoặc là Đế Thích Thiên [có thế lực] đặc biệt
to lớn. Chuyện ấy vẫn là một dấu hỏi! Ai có phước
đức lớn dường ấy để có thể
hiện các sức thần thông khiến cho đại chúng
có các cảm nhận
như vậy? “Duy nguyện đại đạo sư,
tốc vị chúng tuyên thuyết” (kính mong đại đạo
sư, mau v́ chúng tuyên nói): Đức Phật là vị đại đạo
sư tiếp dẫn chúng con, hăy mau nói cho đại chúng biết.
Trong tâm đại chúng chẳng buông nghi vấn xuống được,
c̣n có điều do dự, hoài nghi. V́ thế, thưa hỏi.
Đế Thích vừa hỏi, đức Phật liền
trả lời.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Vô Cấu
Sanh Thiên Đế Thích viết: “Nhữ đẳng đương
tri, hữu Bồ Tát Ma Ha Tát, danh viết
Địa Tạng, dĩ ư vô lượng vô số
đại kiếp, ngũ trược ác thời, vô Phật
thế giới thành thục hữu t́nh, kim dữ bát thập
bách thiên na-dữu-đa tần-bạt-la Bồ Tát câu, vị
dục lai thử, lễ kính, thân cận, cúng dường ngă
cố, quán Đại Tập hội sanh tùy hỷ cố, tịnh
chư quyến thuộc tác Thanh Văn tượng, tương
lai chí thử, dĩ thần thông lực hiện thị
biến hóa”.
(經)爾時,世尊告無垢生天帝釋曰:汝等當知,有菩薩摩訶薩,名曰地藏,已於無量無數大劫,五濁惡時,無佛世界,成熟有情。今與八十百千那庾多頻跋羅菩薩俱,為欲來此禮敬親近供養我故,觀大集會生隨喜故,並諸眷屬,作聲聞像將來至此,以神通力現是變化。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn bảo Vô Cấu Sanh Thiên Đế Thích
rằng: “Các ông nên biết, có Bồ Tát Ma Ha Tát tên là Địa
Tạng, đă trong vô lượng vô số đại kiếp,
nhằm thời ác ngũ trược, ở trong thế giới
không có Phật để thành thục hữu t́nh, cùng với
tám mươi trăm ngàn na-dữu-đa tần-bạt-la Bồ
Tát câu hội, v́ muốn đến đây để lễ
kính, thân cận, cúng dường ta, do thấy hội Đại
Tập sanh tùy hỷ, bèn cùng các quyến thuộc, dùng h́nh tượng
Thanh Văn sẽ đến nơi đây, dùng sức thần
thông hiện ra các sự biến hóa ấy”).
V́ Vô Cấu Sanh Thiên Đế
Thích thưa hỏi như vậy, đức Phật liền
giải thích cho ông ta. Đức Phật là bậc Nhất
Thiết Trí, hết thảy các sự vật không có ǵ Ngài chẳng hiểu.
Đức Phật biết Địa Tạng Bồ Tát sắp
tới, bèn bảo Vô Cấu Sanh Thiên Đế Thích: “Ông hăy
nên biết, hiện thời có một vị đại Bồ
Tát tên là Địa Tạng”. “Ư vô lượng vô số
đại kiếp” (trong vô lượng vô số đại
kiếp) là nói đến quá tŕnh tu hành của Ngài, hóa độ, hướng
dẫn chúng sanh trải qua một thời gian rất dài. Do
vậy, dùng “vô lượng vô số” để h́nh dung.
“Kiếp” là tiếng Ấn Độ, [nói đầy đủ
là] Kiếp Bá (Kalpa), dịch là Thời Phần. [Kiếp là]
Thời Phần dài nhất. Hễ nói tới Kiếp bèn h́nh
dung một thời gian rất dài, nói thời gian ngắn th́
gọi là “sát-na”. Sát-na (kṣaṇa) trong tiếng Ấn Độ là thời gian
ngắn nhất, Kiếp là thời gian dài nhất, nhưng
ở đây là “đại kiếp”. Kiếp có đại,
trung, tiểu kiếp. Vị đại Bồ Tát này nguyện
lực hết sức to lớn. Ngài chuyên ở trong đời ác Ngũ
Trược hóa độ chúng sanh.
Ngũ Trược (Pañca-kasāyāh)
là thời đại này. Chúng
ta thường nói tới thời Mạt Pháp, tức là trong
thời đại này rất tệ, đục ngầu, dơ
bẩn, chẳng trong trẻo. Trong thời đại đục
ngầu, dơ bẩn, chẳng trong trẻo, muốn bảo
vệ môi trường, sẽ chẳng thể được. Chúng
ta thật sự chẳng thể bảo vệ. Sanh mạng
của chúng ta có thể chấm dứt bất cứ lúc nào,
chẳng như Bắc La Châu (Bắc Câu Lô Châu), [thọ mạng
ở nơi đó là] tám vạn bốn ngàn tuổi, chẳng
đục ngầu, nhơ bẩn, rất rơ ràng. V́ chúng ta người
già cũng chết, mà kẻ trẻ tuổi cũng chết,
chỉ là chẳng biết lúc nào thôi! Sanh tử chẳng nhất
định, nhơ đục, chẳng
trong lành. Mỗi người có quan điểm đối với
các vấn đề khác nhau. Con người có quá nhiều cách
nh́n, ngay cả đối với chính ḿnh cũng có quá nhiều
tri kiến. Đó là Kiến Trược (Drsti-kasāya). Do
nh́n nhận vấn đề chẳng nhất trí, cho nên có
Phiền Năo Trược (Kleśa-kasāya). Đối
với Phiền Năo Trược, tôi nghĩ mỗi người đều có thể
tự biết phiền năo của chính ḿnh, chẳng cần
phải nói nữa! Thế giới này có năm, sáu
mươi ức người, phiền năo và tri kiến của
mỗi người đều rất vẩn đục, đó
là Chúng Sanh Trược (Sattva-kasāya). Nói chung, thời đại này chẳng tốt
đẹp.
Trong thời đại này, đối
với “vô Phật thế giới” (thế giới không
có Phật), nguyện của Địa Tạng Bồ Tát là
ở trong đời ác Ngũ Trược độ chúng sanh.
Nơi nào chẳng có Phật, nơi nào
tam đồ khổ nạn đặc biệt nặng nề,
Ngài sẽ đến đó để độ các chúng sanh
ấy. “Thành thục hữu t́nh” chính là nguyện của
Ngài. “Na-dữu-đa tần-bạt-la” (Nayuta Viṃvara) là những con số lớn, là
mười triệu; có bao nhiêu mười triệu? Tám mươi
trăm ngàn lần mười triệu. Đó là nói tới
các quyến thuộc theo Địa Tạng Bồ Tát cùng đến.
Đối với số lượng nhiều đến tám
mươi trăm ngàn tần-bạt-la, thế giới này
của chúng ta cũng chẳng thể chứa nổi nhiều người ngần
ấy. Đó là ư cảnh, chớ nên t́m cầu nơi con số.
Chúng ta chỉ hiểu ư [là được rồi].
Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Vô
Cấu Sanh Thiên Đế Thích: Địa Tạng Bồ
Tát muốn đến nơi đây để thân cận, cúng
dường ta. Đồng thời, Bồ Tát thấy hội
Đại Tập này của ta, rất vui thích, Ngài sẽ đến
tùy hỷ, tán thán, tham dự pháp hội này. Nhưng Ngài hiện
h́nh tướng Thanh Văn. H́nh tướng Thanh Văn là cạo
tóc, đắp y nhiễm sắc. Phàm là Địa Tạng Bồ
Tát th́ đều là cạo tóc, hiện h́nh tướng Thanh
Văn, nhưng có lúc chúng ta thấy tượng Ngài ngồi
đội măo Ngũ Phật, tức là [trên măo có h́nh] Ngũ
Phương Phật[5]. Đó là [h́nh
tướng] dùng trong [trai đàn] Diệm Khẩu. Trừ
pháp hội Diệm Khẩu ra, nếu làm pháp sự, khi cầu
đảo cho chúng sanh, phải đội măo Ngũ Phật.
Bất quá, những lúc như vậy rất ít, thường
là Ngài để đầu trần, chúng ta thờ tượng
Địa Tạng Bồ Tát đều là h́nh tượng Thanh
Văn. Ngài muốn đến pháp hội này, bèn hiện ra
sự biến hóa ấy.
(Kinh) Thị Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát hữu vô lượng vô số bất
khả tư nghị thù thắng công đức chi sở trang
nghiêm, nhất thiết thế gian Thanh Văn, Độc Giác
sở bất năng trắc. Thử đại Bồ Tát thị
chư vi diệu công đức phục tạng, thị chư
giải thoát trân bảo xuất xứ, thị chư Bồ
Tát minh tịnh nhăn mục.
(經)是地藏菩薩摩訶薩,有無量無數不可思議殊勝功德之所莊嚴,一切世間聲聞、獨覺所不能測。此大菩薩,是諸微妙功德伏藏,是諸解脫珍寶出處,是諸菩薩明淨眼目。
(Kinh: Vị Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát này có vô lượng vô số chẳng
thể nghĩ bàn công đức thù thắng để trang
nghiêm, hết thảy thế gian, Thanh Văn, Độc Giác
chẳng thể lường được. Vị đại
Bồ Tát này là kho tàng của các công đức vi diệu, là
chỗ sanh ra các thứ trân quư giải thoát, là mắt sáng sạch
của các vị Bồ Tát).
Nhưng vị Địa Tạng
Bồ Tát Đại Bồ Tát này có vô lượng vô số
công đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn. Tuy Ngài
thị hiện h́nh tướng Thanh Văn, nhưng Ngài thù
thắng trang nghiêm vượt xa hết thảy các vị đại
Bồ Tát, hơn hẳn các vị Văn Thù, Phổ Hiền,
Quán Âm. Trong phẩm thứ mười một của kinh Địa
Tạng, Kiên Lao địa thần đă khen ngợi Địa
Tạng Bồ Tát như sau: “Con ở trong thế giới
này, gặp rất nhiều vị đại Bồ Tát như
Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Di Lặc, công đức
và nguyện lực của những vị ấy đă là chẳng
thể nghĩ bàn, nhưng Địa Tạng Bồ Tát vượt
xa các vị ấy”. So sánh các vị Bồ Tát với nhau, cũng
như giữa các vị Phật với nhau, vốn chỉ nhằm hiển
thị công đức của Địa Tạng Bồ Tát,
cho nên đến phần sau kinh Thập Luân cũng nêu rơ,
kinh Địa Tạng cũng nêu rơ. Như Ngài phát nguyện
chuyên cứu độ chúng sanh trong đời ác ngũ trược,
độ chúng sanh nơi địa ngục trong thế
gian không có Phật, chẳng dễ hóa độ! V́ vậy,
hết thảy chư Phật đều tán thán.
Có một câu
chuyện: Tôn giả Ca Diếp muốn nghe thử rốt
cuộc âm thanh của đức Phật lan xa tới cỡ
nào, bèn dùng sức thần thông của Ngài [để đi thật xa]. Kết quả là Ngài chẳng biết đă đến
nơi đâu, thế mà âm thanh của đức Phật vẫn
ở bên tai. Ngài tới quốc độ nào vậy? Ngài tới
pháp hội của người ta, đúng vào lúc đang thọ
trai. Ngài ở trên miệng bát
của một vị Tăng, đi trên một cái bát dùng để
ăn cơm. Vị Tăng đang dùng cơm ấy tưởng
Ngài chỉ là một con trùng nhỏ. Đức Phật [nơi
ấy] bảo vị Tăng ấy: “Ông đừng có động!
Đấy là đại đệ tử của một vị
Phật ở phương Đông”. Nói xong, vị tăng nhân
ấy cũng chẳng dám cử động. Đức Phật
ấy liền hướng về tôn giả Ca Diếp bảo:
“Ông có thể niệm Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Hễ
niệm Bổn Sư, vóc dáng của ông sẽ bằng vị
đệ tử này”. Vừa niệm Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật, thân lượng của Ngài bèn là vô lượng
vô biên.
Tôi nêu ra câu
chuyện này là v́ muốn chứng minh điều ǵ? Phật
Phật đạo đồng. V́ độ một loại
chúng sanh ấy, Ngài chỉ có thể thị hiện tương
tự như họ. Do vậy, đến địa ngục,
Địa Tạng Bồ Tát liền hiện thành một vị
xuất gia, tức là một vị ḥa thượng rất
khổ năo. Đôi khi quư vị thấy tượng Địa
Tạng, bất luận là trong mộng cũng thế, hay là
cảnh giới được thấy cũng thế, Ngài
giống như một vị ḥa thượng b́nh phàm. Nếu
thấy rất nhiều quang minh thù thắng, tức là nghiệp
lực của quư vị đă biến hóa, sẽ trông thấy
Địa Tạng Bồ Tát cũng biến hóa. Chư Phật,
Bồ Tát tùy tâm của quư vị mà biến hiện.
Chẳng hạn
như quư vị đến triều bái Ngũ Đài Sơn,
mỗi người thấy Văn Thù Bồ Tát khác nhau, tức
là tùy theo cái tâm của quư vị mà hiện. Hết thảy
các vị đại Bồ Tát đều là như thế. Do
kinh Địa Tạng hay kinh Thập Luân đều nhằm
hiển thị công đức của Địa Tạng Bồ
Tát, công đức của Địa Tạng Bồ Tát sẽ
được nói đặc biệt thù thắng. Nếu là
một bộ kinh khác, chẳng hạn như kinh nói về
Văn Thù Bồ Tát th́ sẽ lại khác hẳn: Văn Thù Bồ
Tát đặc biệt thù thắng. Văn Thù Bồ Tát đă
sớm thành Phật, là thầy của bảy vị Phật,
là mẹ của chư
Phật, tức Bát Nhă là mẹ của chư Phật. Đấy
là hiển thị cho chúng sanh thấy. C̣n có những bộ kinh,
trong ấy đức Phật tán thán vị Bồ Tát này;
qua kinh khác, đức Phật đột nhiên hiển thị
vị Bồ Tát khác, tán thán công đức của vị ấy.
Phải hiểu đạo lư này, đừng sanh khởi cái
tâm phân biệt! Nếu nói “công đức của Địa
Tạng Bồ Tát to lớn, công đức của Quán Âm Bồ
Tát nhỏ bé”, đă phạm sai lầm mất rồi! Nhưng
trong kinh, sở dĩ đức Phật nói như vậy nhằm
khiến cho đại chúng nhận biết, cúng dường Địa Tạng Bồ
Tát, trong tâm sanh khởi cảm giác thù thắng. Hàm nghĩa là
như thế đó!
Đức
Phật tán thán Địa Tạng Bồ Tát có vô lượng
vô số công đức thù thắng chẳng thể nghĩ
bàn để trang nghiêm. Hết thảy thế gian, Thanh
Văn, Độc Giác đều chẳng thể lường
được. Nếu muốn suy lường công đức
của Ngài, chẳng thể suy lường nổi! Mọi
người có c̣n nhớ trong phẩm thứ nhất của
kinh Địa Tạng: Đối trước chư Phật,
Bồ Tát cho đến trời, người tới tham dự
pháp hội, đức Phật hỏi Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát rằng: “Ông có tính được số lượng
người tham dự pháp hội là bao nhiêu hay không?” Văn
Thù Bồ Tát thưa cùng đức
Phật: “Dùng sức
trí huệ của con để suy lường trong một
ngàn kiếp, vẫn chẳng thể biết trọn hết
con số ấy”. Đức Phật bảo: “Ta dùng Phật
nhăn để xem trong một ngàn kiếp mà vẫn chưa
trọn hết số ấy”. Dùng Phật nhăn để
xem mà vẫn chưa thể trọn hết số lượng.
Phật nhăn chiếu hết thảy mà vẫn c̣n chưa thể
cùng tận con số đó. Đấy là đề cao công
đức của Địa Tạng Bồ Tát, khiến
cho chúng sanh sanh khởi cái tâm thù thắng. Học pháp, học
Phật, quư vị cũng phải vận dụng trí huệ
của chính ḿnh. Nếu hiểu được nghĩa lư của
Phật th́ sẽ thành tựu.
Trong kinh này
cũng vậy. Đức Phật tán thán Địa Tạng
Bồ Tát nói: Hết thảy Thanh
Văn và Duyên Giác chẳng thể suy lường, chẳng
thể suy tính ngằn mé công đức của Bồ Tát. Vị
đại Bồ Tát này là kho tàng của hết thảy công
đức vi diệu, chứa đựng vô lượng công
đức. Lại là chỗ sanh ra hết thảy của báu
giải thoát. V́ thế, từ Như Ư Bảo Châu trong tay mỗi
người, đều có
thể tuôn ra vô lượng trân bảo. V́ Địa Tạng
Bồ Tát hàm tàng hết thảy trân bảo, Ngài có thể khiến cho mọi người đều
đạt được chánh pháp nhăn tàng. V́ thế nói “thị
chư Bồ Tát minh tịnh nhăn mục” (là mắt sáng
trong sạch của các Bồ Tát). Mong đạt được
như thế th́ quư vị phải tu trong vô lượng kiếp,
chỉ sợ tu chẳng thành. Những lời tán thán ấy
biểu thị ư nghĩa rất tôn quư, rất thù thắng.
Đại Thừa
Đại Tập Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng
Kư phần 1 hết
[1] Đây là cách lễ theo truyền thống của
Tây Tạng, toàn bộ thân h́nh đổ rạp xuống đất,
hai tay duỗi thẳng về trước.
[2] Vĩnh
Huy là niên hiệu của Đường Cao Tông (Lư Trị)
từ năm 650 đến năm 655.
[3] Dợn nắng (dương diệm,
陽焰) là một hiện tượng quang học.
Khi trời nắng gắt, sẽ thấy xa xa có những vệt
nước đọng.
[4] Thân cây chuối gồm nhiều lớp bẹ
hợp thành, cứ bóc ra, bóc măi, cuối cùng chẳng có ǵ.
[5] Ngũ Phương Phật c̣n gọi là Ngũ
Phương Như Lai, hoặc Ngũ Trí Như Lai, hoặc
Ngũ Thiền Na Phật, chính
là năm vị Phật ở bốn phương và trung ương.
Đây là cụ thể hóa Chân Trí lưu xuất các trí riêng biệt, hoặc từ
tám thức đă chuyển biến thành năm trí:
1. Trung ương là Tỳ Lô Giá Na Phật (một
hóa thân của Ngài là Quảng Bác Thân Như Lai), là cụ thể
hóa của Pháp Giới Thể Tánh Trí, màu trắng, pháp bảo
là bánh xe, kết ấn Chuyển Pháp Luân, đối trị
vô minh, chủng tự (seed syllable) là Vam, lưu xuất Phật
Bộ. Vị Bồ Tát tương ứng là Phổ Hiền
Bồ Tát, lưu xuất Bất Động Minh Vương.
2. Đông phương A Súc Phật (hóa thân là Diệu Sắc Thân Như
Lai), cụ thể hóa của Đại Viên Kính Trí, màu xanh dương
thẫm, pháp bảo là chày kim cang đơn, kết Xúc Địa
ấn, đối trị đố kỵ, chủng tự
là Huṃ, lưu xuất Kim Cang Bộ. Vị Bồ
Tát tương ứng là Kim Cang Thủ Bồ Tát, lưu xuất
Hàng Tam Thế Minh Vương.
3. Tây phương A Di Đà Phật
(hóa thân là Cam Lộ Vương Như Lai), cụ thể hóa
của Diệu Quán Sát Trí, màu đỏ, pháp bảo là hoa
sen, kết Thiền Định ấn, đối trị ích
kỷ, chủng tự là Hrih, lưu xuất Liên Hoa Bộ. Vị
Bồ Tát tương ứng là Quán Thế Âm Bồ Tát, lưu
xuất Quân Trà Lợi Minh Vương.
4. Nam phương Bảo Sanh Phật
(hóa thân là Bảo Thắng Như Lai), cụ thể hóa của
B́nh Đẳng Tánh Trí, màu vàng, pháp bảo là Như Ư Bảo
Châu, kết Thí Xả ấn, đối trị kiêu ngạo,
chủng tự là Tram, lưu xuất Bảo Bộ. Vị Bồ
Tát tương ứng là Bảo Thủ Bồ Tát (tức Địa
Tạng Bồ Tát), lưu xuất Diễm Man Đắc Ca (Yamantaka) Minh Vương.
5. Bắc phương Bất
Không Thành Tựu Phật (hóa thân là Ly Bố Úy Như Lai), cụ
thể hóa của Thành Sở Tác Trí, màu xanh, pháp bảo là chày
kim cang kép, kết Thí Vô Úy Ấn, đối trị sân hận,
chủng tự là Ah, lưu xuất Yết Ma Bộ. Vị
Bồ Tát tương ứng là Viśvapāni Bồ Tát (Phổ Thủ Bồ Tát), lưu xuất Kim Cang Dược
Xoa Minh Vương.