Đại
Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần
2
大乘大集地藏十輪經講記
Mộng
Tham lăo ḥa thượng chủ giảng
梦参老和尚主講
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh:
Đức Phong và Huệ Trang
(Kinh) Thị thú Niết
Bàn thương nhân đạo thủ, như Như Ư Châu
vũ chúng tài bảo, tùy sở hy cầu, giai linh măn túc. Thí
chư thương nhân sở thải bảo chử, thị
năng sanh trưởng thiện căn lương điền,
thị năng thịnh trữ giải thoát lạc khí, thị
xuất diệu bảo công đức hiền b́nh. Chiếu hành thiện giả
do như lăng nhật. Chiếu thất đạo giả,
do như minh cự. Trừ phiền
năo nhiệt như nguyệt thanh lương. Như vô túc giả sở
đắc xa thặng. Như viễn
thiệp giả sở bị tư lương. Như mê phương giả
sở phùng thị đạo. Như cuồng
loạn giả sở phục diệu dược. Như tật bệnh
giả sở ngộ lương y. Như luy lăo giả sở
bằng kỷ trượng. Như b́ quyện
giả sở chỉ sàng ṭa.
(經)是趣涅槃商人導首。如如意珠雨眾財寶,隨所希求皆令滿足。譬諸商人所採寶渚,是能生長善根良田,是能盛貯解脫樂器,是出妙寶功德賢瓶。照行善者猶如朗日,照失道者猶如明炬,除煩惱熱如月清涼,如無足者所得車乘,如遠涉者所備資糧,如迷方者所逢示導,如狂亂者所服妙藥,如疾病者所遇良醫,如羸老者所憑几杖,如疲倦者所止床座。
(Kinh: Là người
hướng dẫn cầm đầu các thương nhân
đạt đến Niết Bàn. Như châu Như Ư tuôn ra
các thứ của báu, tùy ḷng mong cầu đều khiến
cho trọn đủ. Ví như bến báu cho các
thương nhân thu thập [của báu]. Là ruộng tốt
có thể sanh trưởng căn lành. Là dụng cụ chứa
đựng niềm vui giải thoát. Là hiền b́nh có thể
tuôn ra các thứ báu công
đức mầu nhiệm. Chiếu người làm lành ví
như mặt trời rạng rỡ. Soi kẻ lạc
đường ví như đuốc sáng. Trừ nóng phiền
năo như mặt trăng trong mát. Như kẻ không chân có
được xe cộ. Như người đi xa có
đủ lương thực, chi dụng. Như người
mê mất phương hướng gặp người chỉ
dẫn. Như kẻ cuồng loạn được uống
thuốc hay. Như người bệnh tật gặp
được lương y. Như ghế,
gậy cho kẻ già cả lụm cụm nương cậy.
Như giường, ṭa cho người mệt mỏi nghỉ
ngơi).
“Thị thú Niết Bàn
thương nhân đạo thủ” (là người hướng dẫn cho các thương
nhân tiến nhập Niết Bàn): Nếu muốn
thành Phật, sẽ giống như thương nhân vào biển
thu nhặt của báu, quư vị phải mời một
người hướng dẫn vào biển đi thâu thập
của báu. Nếu muốn tiến hướng Niết Bàn,
quư vị cũng phải có người hướng dẫn.
Ai là người hướng dẫn? Địa Tạng Bồ
Tát là người hướng dẫn, dẫn dắt quư vị
hướng đến Niết Bàn. Giống như Như Ư
Bảo Châu tuôn ra các thứ báu, tùy ḷng mong cầu đều
được thỏa măn, Ngài sẽ chẳng phiền
chán. Có những đạo hữu lạy Địa Tạng
Bồ Tát xong, hoặc là niệm kinh xong, trước hết, cầu cho người nhà của chính ḿnh b́nh an, hoặc
cầu thân tâm khỏe mạnh; xong rồi lại cầu
phát tài. C̣n cầu rất
nhiều! Có kẻ hỏi tôi: “Sư phụ ơi! Con cầu
nhiều quá, Địa Tạng Bồ Tát có bực bội
hay không?” Tôi đáp: “Quư vị cầu nhiều cỡ nào? Quư
vị cầu một ức, mười ức, trăm ức,
ngàn ức, vạn vạn ức, Địa Tạng Bồ
Tát cũng chẳng phiền. Quư vị cầu càng nhiều,
cho thấy công phu tu hành của quư vị càng tốt, cho nên mới có thể cầu nhiều ngần ấy. Nếu
không, sẽ cầu chẳng được!”
Mọi người niệm kinh
Địa Tạng xong rồi phát nguyện, tôi nghĩ quư vị
chẳng cầu quá nhiều, v́ tâm lượng của quư vị
chẳng lớn ngần ấy, cầu chẳng được,
mà nghĩ cũng chẳng tới. Quư vị có cầu cho hết
thảy chúng sanh đều thành Phật hay chăng? Cầu
Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ, khiến cho hết thảy
chúng sanh đều thành Phật, mong vĩnh viễn ở
trong pháp giới, có cầu như vậy hay chăng?
Chưa hề cầu! Tâm lượng của quư vị chẳng
thể coi là lớn, chỉ nghĩ đến chính ḿnh. Ắt
cần phải nghĩ đến những người ḿnh
gặp gỡ, nghĩ đến đồng bào. Tiến
hơn bước nữa là nghĩ tới hơn sáu
mươi ức người trên địa cầu. Có
nghĩ tới những tinh cầu khác hay chăng? Có
nghĩ đến pháp giới hay chăng? Có nghĩ mong cho
chúng sanh trong Liên Tŕ Hải Hội đều thành A Di Đà
Phật hay chăng? Mọi người đều rất
ít ai phát các nguyện ấy! [Chỉ nghĩ] “tôi văng sanh là
được rồi, có thể đến gia nhập Liên Tŕ Hải Hội, trở thành một thành viên là khá lắm rồi!” Quư vị có mong đại
chúng trong Liên Tŕ Hải Hội đều biến thành A Di
Đà Phật hay chăng? Nếu chưa từng mong, từ
nay trở đi, quư vị phải mong, phải phát nguyện.
Không chỉ là chính ḿnh có thể đến Liên Tŕ Hải Hội,
mà Thanh Văn, Duyên Giác, chỉ cần sanh vào Liên Tŕ Hải
Hội, ai nấy đều là A Di Đà Phật. Thậm
chí mong cho thế giới
Sa Bà, bất luận kẻ nào chịu khổ nạn lớn
đến mấy đi nữa, người trên thế giới
này nay đang chung sống với ta, nhất định
đều có thể thành Phật, cùng với ta thành Phật.
Phát nguyện lớn hơn một
chút th́ “sau khi họ đều thành Phật, tôi mới
thành Phật”. Trăm ngàn vạn ức sự đều
có thể hướng về Địa Tạng
Vương Bồ Tát để nói. Quỳ trước
Ngài, niệm thánh hiệu Địa Tạng mười
câu, niệm xong bèn phát nguyện, đặc biệt v́ những
nguyện ấy. Đó là tu đạo. Quư vị có nguyện
lớn cỡ nào, bèn có sức thần thông to chừng ấy.
Do nhờ mượn nguyện lực của chư Phật
và Bồ Tát, thế giới Cực Lạc của A Di
Đà Phật đều trở thành cái nguyện của
quư vị. Nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát là “tận
hư không khắp pháp giới, khiến cho hết thảy
chúng sanh đều thành Phật”, đó chính là đại
nguyện Phổ Hiền. Nhất định phải hiểu
đạo lư này; Bồ Tát sẽ chẳng phiền chán. Phiền
là do chính quư vị tự suy nghĩ lung tung, dấy lên vọng
tưởng. Toàn là nghĩ tưởng cảnh giới
ngũ dục, vậy là không được rồi! Nếu
nghĩ tới thánh cảnh, hoặc tướng cảnh giới
chẳng thể nghĩ bàn, sẽ là ruộng tốt có thể
sanh trưởng thiện căn. V́ thế nói “cuộc
đất ấy sanh trưởng hết thảy thiện
căn”.
“Thị năng thịnh trữ
giải thoát lạc khí” (là dụng cụ chứa đựng
niềm vui giải thoát): “Giải thoát lạc khí” là
ǵ? Chính là giải thoát. Đừng hiểu chữ “lạc
khí” (樂器) là “nhạc
khí” để tấu âm nhạc. Địa Tạng Bồ
Tát là cuộc đất chứa đựng hết thảy
chủng tử giải thoát, hết thảy đều có
thể giải thoát, là hiền b́nh[1]
có thể hiện ra hết thảy công đức quư báu, mầu
nhiệm. Giống như tôi vừa mới nhắc tới
chiếc bảo b́nh của Quán Thế Âm Bồ Tát, xuất
hiện hết thảy các món báu mầu nhiệm, tiêu tai, miễn
nạn. Cần thứ ǵ, trong bảo b́nh sẽ xuất hiện
thứ ấy. Quang minh của Địa Tạng Bồ Tát
chiếu đến những người làm lành, chỉ chiếu
người làm lành, chứ kẻ làm ác chẳng thành tựu.
Kẻ làm ác phải sửa đổi thành làm lành. Đó là “lăng
nhật”. “Lăng nhật” (朗日) tức là vầng
mặt trời sáng ngời.
Kẻ lạc lối chẳng
t́m thấy đường, phía trước bèn có đèn
sáng, hay có đuốc sáng, có đuốc lớn chỉ lối.
Khi nhiệt năo, vầng trăng trong mát nhất, [cho nên nói
là] “như nguyệt thanh lương” (như trăng
trong mát). Nếu là kẻ chẳng có chân, sẽ có xe lăn
cho quư vị ngồi, ví như chiếc xe, [nên nói là] giống
như “sở đắc xa thặng” (có được
xe cộ). Ví như quư vị đi đường xa, vừa
khát, vừa đói, chẳng có nước, chẳng có thức
ăn, vậy th́ sẽ cấp lương thực
cho quư vị. Như kẻ mê mất phương hướng,
sẽ chỉ bảo quư vị. “Như vô túc giả, sở
đắc xa thặng, như viễn thiệp giả sở
đắc tư lương, như mê phương giả
sở phùng thị đạo, như cuồng loạn giả,
sở phục diệu dược” (Như người
không chân có được xe cộ, như người
đi xa có được lương thực, chi dụng.
Như người lạc lối gặp người chỉ
đường. Như kẻ cuồng loạn được
uống thuốc hay).
Kẻ đó đă bị
điên cuồng, có cách nào chữa trị hay không? Vậy
th́ phải gặp được thuốc hay, gặp bác sĩ giỏi. Nếu gặp được
thần dược, có thể lập tức ngừng
điên cuồng. Chúng ta cứ nghĩ kẻ bị bệnh
mới điên cuồng; thật ra, chúng ta đều
đang điên cuồng! V́ sao chẳng tu Bồ Đề
đạo? Có đạo hữu tự cho rằng chính ḿnh
tu hành rất nhiều; tôi tính thử nhé! Tôi nói: Một ngày
hai mươi bốn tiếng đồng hồ, quư vị
tu được bao nhiêu? Quư vị c̣n tu chẳng nhiều
bằng tôi, sao c̣n nói quư vị tu nhiều lắm! Chính quư vị
hăy tự tính toán, trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, mỗi tiếng là sáu mươi phút, có mấy phút niệm
Phật, niệm Pháp, niệm Tăng? Có mấy phút niệm
tham, sân, si, niệm giết, trộm, dâm, niệm nói dối,
nói thêu dệt, nói thô ác? Quư vị có tính hay chưa? Quư vị tu
hành quá ít! Mọi người phải tu hành nhiều
hơn! Tu hành th́ đừng v́ chính ḿnh tu hành quá ít, c̣n tự
cho là lỗi lạc lắm. Cách biệt quá xa, làm sao có thể
minh tâm, làm sao có thể tiêu tai, miễn nạn cho được?
Hăy khéo suy nghĩ đôi chút, làm thế nào để tiêu tai,
miễn nạn?
“Thí chư thương nhân
sở thải bảo chử, thị năng sanh trưởng
thiện căn lương điền, thị năng thịnh
trữ giải thoát lạc khí” (Ví như băi báu cho các
thương nhân thu nhặt, là ruộng tốt có thể
sanh trưởng căn lành, là dụng cụ chứa đựng
niềm vui giải thoát): “Khí” (器) là một thứ đồ
đựng, đồ đựng ấy chứa ǵ
vậy? Chứa đựng điều vui sướng nhất.
Điều ǵ vui sướng nhất? Giải thoát! Giải
thoát th́ sẽ chẳng có phiền năo, chẳng có dục vọng;
đó gọi là “giải thoát lạc khí”. Đấy hoàn toàn chẳng phải
là những thứ nhạc khí như đàn tỳ bà hoặc
cổ cầm, “lạc” ở đây có nghĩa là “vui
sướng”. “Hiền b́nh có thể xuất sanh công đức
quư báu nhiệm mầu”: Cái b́nh ấy có thể sanh ra hết
thảy công đức; trong phần trước, tôi đă
nói cái b́nh ấy giống như bảo b́nh của Quán Âm Bồ
Tát. Đây là h́nh dung công đức của Địa Tạng
Bồ Tát.
Ai có thể làm chuyện tốt,
làm việc lành, quang minh của Địa Tạng Bồ
Tát sẽ như ánh sáng mặt trời rạng rỡ chiếu
đến thân quư vị. Đối với người lạc
đường, “thất đạo” (失道) là lạc
đường, đang đi đường th́ bị lạc
lối, Địa Tạng Bồ Tát giống như lửa
đuốc sáng ngời chiếu rọi quư vị. Nếu
là chúng sanh có phiền năo, quang minh của Địa Tạng
Bồ Tát liền diệt trừ sự nhiệt năo ấy,
giống như vầng trăng trong mát, khiến cho quư vị
chẳng có nhiệt năo.
“Như vô túc giả, sở
đắc xa thặng” (như người không có chân có
được xe cộ): Khi quư vị đi đường
rất mệt nhọc mà có xe cộ, sẽ có thể giảm
thiểu nỗi khốn khổ ấy. “Như viễn
thiệp giả, sở bị tư lương” (như
người đi xa có được lương thực
và chi dụng): Đi đường xa mà chẳng có
lương thực và tiền chi dụng, sẽ không đến
được. “Như mê phương giả, sở
phùng thị đạo”, ư nói: Đă mê mất
phương hướng, có người chỉ dẫn
phương hướng cho quư vị, giống như khi
chúng ta đi đường bèn hỏi đường. Một
hàm nghĩa khác là trong đời sống, chúng ta t́m ra một
pháp môn phương tiện thiện xảo để xuất
ly sanh tử, chính là niệm thánh hiệu Địa Tạng
Bồ Tát.
Theo những điều
đă nói trong đoạn kinh văn này, Địa Tạng
Bồ Tát có thể ban ǵ cho chúng ta? Chính là “phương tiện
thiện xảo”. Khi một người tu đạo,
do liên quan đến nguyện lực, người cầu
Ngài sẽ có thể đạt được những
thứ tốt lành, nhưng đó là đối với
người hữu duyên, chứ kẻ vô duyên th́ vẫn chẳng
thể đạt được. “Như cuồng loạn
giả sở phục diệu dược” (như kẻ
cuồng loạn được uống thuốc tốt
lành): Chúng tôi đă khuyên rất nhiều đạo hữu
cúng nước lên đức Địa Tạng. Khi cúng,
trong tâm quư vị phải rất chân thành. Đến lúc uống, phải chiếu theo phương thức do Thích Ca
Mâu Ni Phật dạy Quán Thế Âm Bồ Tát trong kinh Địa
Tạng để làm th́ mới có thể đạt
được lợi lạc. Đạt những lợi
lạc ǵ vậy? Hễ có bệnh khổ, sẽ giảm bớt
bệnh khổ. Chẳng có trí huệ, chẳng có trí
nhớ, th́ sẽ có trí nhớ. Kẻ cuồng loạn là
người mất trí, hoặc là v́ tư tưởng có vấn
đề, hoặc v́ kinh sợ, biến thành rối loạn
thần kinh. Nếu tŕ thánh hiệu Địa Tạng Bồ
Tát, Địa Tạng Bồ Tát sẽ giống như thuốc
hay. Hoặc là kẻ có bệnh tật mà gặp được
lương y. Đấy là đức Phật bảo Vô Cấu
Sanh Thiên Đế Thích rằng: “Cho đến tất cả
những đại chúng tham dự pháp hội”, tức là
nói với tất cả chúng Bồ Tát, Thanh Văn trong hội
Đại Tập này. Đức Phật hướng về đại chúng, bảo: Địa Tạng
có nhiều công đức dường ấy, khiến cho
người lụm cụm già cả dường như có
gậy chống để nương tựa, như kẻ
mệt mỏi có được giường, ṭa để
nghỉ ngơi.
(Kinh) Độ tứ
lưu giả, vị tác kiều lương. Thú bỉ ngạn
giả, vị tác thuyền phiệt, thị tam thiện
căn thù thắng quả báo, thị tam thiện bổn sở
dẫn đẳng lưu. Thường hành huệ thí,
như luân hằng chuyển. Tŕ giới kiên cố, như Diệu
Cao sơn. Tinh tấn nan hoại, như Kim Cang bảo.
An nhẫn bất động, do như đại
địa.
(經)度四流者為作橋樑,趣彼岸者為作船筏,是三善根殊勝果報,是三善本所引等流,常行惠施如輪恆轉,持戒堅固如妙高山,精進難壞如金剛寶,安忍不動猶如大地。
(Kinh: Làm cầu bến
cho kẻ vượt bốn gịng. Làm thuyền bè cho kẻ
hướng đến bờ kia. Là quả báo thù thắng
của ba thiện căn, là đẳng lưu quả do ba gốc lành dẫn khởi. Thường
hành bố thí rộng răi như bánh xe luôn xoay. Giữ giới
kiên cố như núi Diệu Cao. Tinh tấn khó hoại
như báu Kim Cang. An nhẫn bất động dường
như đại địa).
“Độ tứ lưu giả
vị tác kiều lương” (làm cầu bến cho kẻ
vượt bốn gịng): “Kiều lương” (橋樑, cầu bến)
là tỷ dụ. “Tứ lưu” (bốn gịng) là nói bốn
gịng thác sanh, lăo, bệnh, tử. Ngài làm cầu bến cho
quư vị, nghĩa là giúp cho quư vị đắc độ.
Ngay trong lúc quư vị từ bờ này [sanh tử] muốn tới
bờ kia [giải
thoát], Ngài có thể làm thuyền bè cho quư vị. Là quả
báo thù thắng của ba thiện căn. Ba thiện căn
là không tham, không sân, không si, v́ “không tham, không sân, không si” sẽ
có thể sanh ra hết thảy các thiện pháp. “Như quả
đẳng lưu do ba gốc lành dẫn khởi”: “Ba gốc
lành” chính là bố thí, từ bi, và trí huệ. Bố thí và
từ bi có thể khiến cho quư vị vượt qua hết
thảy ách nạn,
mà cũng có thể khiến cho phiền năo tham, sân, si
lưu nhập bố thí, từ bi. V́ vậy, thường
hành huệ thí (惠施, bố thí rộng răi). “Như luân hằng chuyển”
(như bánh xe thường xoay) có nghĩa là không ngưng nghỉ.
V́ tŕ tụng Địa Tạng Bồ Tát, cung kính Địa
Tạng Bồ Tát, vị Bồ Tát ấy sẽ có thể
giúp quư vị tŕ giới kiên cố, giống như núi Diệu
Cao (Tu Di) vậy.
“Tinh tấn nan hoại,
như kim cang bảo. An nhẫn bất động, do
như đại địa” (tinh tấn khó hoại
như báu kim cang. An nhẫn bất động ví như
đại địa): Nói đến tinh tấn bất hoại,
sẽ là chuyện rất khó khăn. Nếu chúng ta tu một
pháp, chẳng hạn như niệm kinh Địa Tạng,
hoặc là quán tưởng thánh tượng Địa Tạng
Bồ Tát, ngay trong lúc quư vị đang tu tập, sẽ có rất
nhiều chướng ngại. “Chướng ngại”
có nghĩa là khiến cho quư vị không thể thành tựu.
Mỗi ngày quư vị [tự ấn định] tụng một
bộ kinh Địa Tạng, thế nhưng luôn có những
việc khiến cho quư vị gián đoạn, chẳng thể
tụng kinh. Nếu kiên tŕ niệm thánh hiệu Địa
Tạng Bồ Tát không gián đoạn, bất cứ chuyện
phá hoại nào cũng đều chẳng thể phá hoại
sự tinh tấn của quư vị được. V́ sao chẳng
thể phá hoại? Do quư vị có tâm lực kiên cố.
Thường là có các chướng ngại
chúng ta không thể khắc phục được, chẳng
làm được. Khi ấy, hai đằng tinh tấn và
giải đăi có mối quan hệ rất lớn, đặc
biệt là đối với người học Phật, người
tin Phật. Không đạt
được lợi ích thật sự là v́ chúng ta chẳng
đủ tinh tấn, chẳng thể kiên tŕ!
Nếu chúng ta nguyện mỗi
ngày tụng một bộ kinh Địa Tạng, trong bất
cứ thời điểm khó khăn nào, vẫn đều
chẳng gián đoạn, vậy th́ tinh tấn sẽ có sức
mạnh. V́ sao phải tinh tấn? Cũng là v́ đối với
chuyện chẳng gián đoạn giữa chừng, rất
nhiều người chẳng làm được! Dẫu
đối với những chuyện thoạt nh́n rất nhỏ,
chẳng hạn như mỗi ngày ta phải niệm thánh hiệu
Địa Tạng một trăm câu, ta nghĩ chuyện
này quá dễ dàng, chẳng thể nào gián đoạn
được. Thế nhưng chính ḿnh sẽ quên mất,
hoặc v́ có chuyện khác
xen vào, nay chẳng làm nữa! Tôi nghĩ mỗi vị đạo
hữu đều thấu hiểu chuyện này. Thoạt
đầu, sau khi quư vị phát nguyện tin tưởng Tam
Bảo, tôi đă nói với rất nhiều đạo hữu:
“Đă thọ Tam Quy Y, từ hôm nay trở đi, buổi tối
sắp ngủ bèn niệm mười lần ‘quy y Phật,
quy y Pháp, quy y Tăng’. Niệm xong mới ngủ. Sáng dậy,
vừa mở mắt ra, ở ngay trên giường, trước
hết bèn niệm mười lần
quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”. Tột bậc
đơn giản như thế đó! Ai nấy đều
cho rằng chính ḿnh sẽ tuyệt đối làm được.
Tôi hỏi rất nhiều đạo hữu, thoạt
đầu, khi họ thọ Tam Quy, họ cam đoan làm được.
Một năm sau, lại hỏi họ: “Quư vị có làm
được hay không? Có làm mỗi ngày hay không?” “Ối trời!
Quên mất tiêu rồi!” Do nguyên nhân nào? Đương nhiên
là do chúng ta thường lần khân, nghiệp chướng
giải đăi, chẳng coi trọng chuyện này!
Công đức của Địa
Tạng Bồ Tát nhiều như đă nói trên đây, do
đức Phật dạy Vô Cấu Sanh Thiên Đế
Thích. Chúng ta nghe xong, có tin tưởng hay không? Đây là một
vấn đề to lớn! Chúng ta thường nghe pháp rất
nhiều, học pháp cũng chẳng ít. Rất nhiều
đạo hữu thường xuyên nói: “Tôi biết Phật
pháp quá ít, cho nên chẳng thể nhập môn”. Tôi thấy chẳng
phải là như vậy! Tôi nói: “Quư vị biết rất
nhiều. Tối thiểu, quư vị biết Phật, Pháp,
Tăng là ǵ? Chẳng biết dụng công ư? Niệm
Địa Tạng Bồ Tát đă gồm trọn cả rồi!
Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát đă gồm thâu hết rồi!
Quư vị có niệm
hay không? Mỗi ngày quư vị niệm bao nhiêu câu? Mỗi ngày hai
mươi tiếng đồng hồ, trừ thời gian
ngủ nghê và làm việc ra, thời gian trong tâm quư vị
duyên niệm Tam Bảo lại là bao nhiêu?
Hôm nay, có rất nhiều
đạo hữu cùng dùng cơm, tôi nghĩ: Trong lúc ấy,
[đại đa số] nói Đông, nói Tây, chẳng hề
nói đến Phật, chẳng nói đến Pháp, chẳng
nói đến Tăng. Nếu quư vị tùy thời nhắc
nhở mọi người như vậy, họ sẽ
nghĩ quư vị rất đáng ghét, quá lải nhải. Có cảm
giác ấy hay không? Quư vị không nói, họ quên bẵng rồi!
Khi quư vị mỗi ngày suốt hai mươi bốn tiếng
đồng hồ đều duyên niệm Tam Bảo, tới
tối lúc đi ngủ,
suy nghĩ: “Hôm nay ḿnh có bao nhiêu thời gian niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng?” Quư vị nói cầu cảm ứng,
cầu gia tŕ, cảm ứng hay gia tŕ đều do chính quư
vị. Tôi nhớ pháp sư Tinh Vân có nói “kẻ địch
lớn nhất trong đời người chính là bản
thân”. Câu nói ấy rất hữu lư! Nếu chúng ta có thể
quán tưởng như vậy, quán tưởng trong một
thời gian dài, đừng nói là hai mươi bốn giờ,
mà là một phần ba, tức tám giờ, cho đến một
ngày có thể duyên niệm Tam Bảo bốn tiếng đồng
hồ, tinh tấn chẳng lười nhác, tuyệt đối
sẽ chẳng đọa tam đồ. Quư vị lại
tăng thành tám tiếng nữa, rồi tăng thành mười
hai tiếng, nhất định là có thể thành tựu
đạo nghiệp!
V́ sao chúng ta chẳng hiểu
rơ? V́ sao chẳng thông suốt? V́ sao không biết? V́ sao chẳng có
trí huệ? V́ sao chẳng thể nhập Định? V́ cái tâm của quư vị cách biệt
Tam Bảo rất xa! Tôi nói những lời này, chắc mọi
người chẳng nghe lọt tai. V́ [quư vị tự nhủ]:
Tôi tin Phật rất nhiều năm. Hiện thời, hằng
ngày niệm Phật, tôi đă “chuyên nghiệp” rồi. Có lúc
trong khi mọi người đang tụ hội, đột
nhiên tôi suy nghĩ: Nay mọi người đang làm ǵ? Có
đang nói đến Phật hay không? Có nói
tới Phật pháp hay không? Có đang tu hành hay không? Có
đang buông lung, biếng nhác hay không? Nghĩ tới an nhẫn,
bất động như kim cang, giống hệt như
đại địa, chúng ta vẫn phải dụng công
nhiều hơn!
(Kinh) Tĩnh Lự thâm mật,
do như bí tạng. Đẳng chí nghiêm lệ, như diệu
hoa man. Trí huệ thâm quảng, do như đại hải.
Vô sở nhiễm trước, thí thái hư
không. Diệu quả cận nhân, như chúng hoa diệp. Phục
chư ngoại đạo, như sư tử vương.
Hàng chư thiên ma, như đại long tượng. Trảm
phiền năo tặc, do như thần kiếm. Yếm
chư huyên tạp, như Độc
Giác thừa. Tẩy phiền năo cấu, như thanh tịnh
thủy. Năng trừ xú uế, như tật phong phiêu.
Đoạn chúng kết phược, như lợi đao
kiếm.
(經)靜慮深密猶如秘藏,等至嚴麗如妙華鬘,智慧深廣猶如大海,無所染著譬太虛空,妙果近因如眾華葉,伏諸外道如師子王,降諸天魔如大龍象,斬煩惱賊猶如神劍,厭諸諠雜如獨覺乘,洗煩惱垢如清淨水,能除臭穢如疾飄風,斷眾結縛如利刀劍。
(Kinh: Tĩnh Lự sâu kín ví
như kho tàng bí mật. B́nh đẳng đạt tới
trang nghiêm đẹp đẽ như tràng hoa đẹp.
Trí huệ sâu rộng ví như biển cả. Chẳng bị
đắm nhiễm dường như thái hư không. Diệu quả
gần nhân như các hoa lá. Hàng phục các ngoại đạo
như sư tử chúa. Hàng phục các thiên ma như long
tượng lớn. Chém giặc phiền năo giống
như gươm thần. Chán các ồn náo như Độc
Giác thừa. Gột rửa chất nhơ phiền năo
như nước thanh tịnh. Có thể trừ xú uế
như gió thổi mạnh. Đoạn các kết phược
như đao, gươm sắc).
“Tĩnh Lự thâm mật do như bí tạng” (Tĩnh Lự
sâu kín ví như kho tàng bí mật): Tĩnh Lự (静虑) là tư lự, cũng
tức là khi chính ḿnh lắng ḷng suy nghĩ. Đây là cảnh
giới rất sâu, chẳng thể nghĩ bàn! Chẳng hạn như chúng ta tùy tiện tŕ một bài
chú nào đó, chú dài là Đà La Ni, chú ngắn th́ ba chữ, bốn
chữ, chân ngôn chỉ có một chữ, chẳng hạn
như chữ Án. Rất nhiều chữ đều là chữ
chủng tử, tùy thuộc do vị Bồ Tát nào truyền
dạy. Địa Tạng Bồ Tát có công đức
dường ấy, có những công lực ấy, có thể
khiến cho chúng ta “đẳng chí nghiêm lệ, như diệu
hoa man. Trí huệ thâm quảng, do như đại hải” (b́nh
đẳng đạt tới sự trang nghiêm đẹp
đẽ như tràng hoa mầu nhiệm. Trí huệ rộng
sâu ví như biển cả). Đấy là những lời
đức Phật tán thán Địa Tạng Bồ Tát.
“Vô sở nhiễm trước,
thí thái hư không” (chẳng bị đắm nhiễm
dường như thái hư không): Thái hư không chẳng bị
nhiễm đắm. Hư không chẳng bị nhiễm
đắm. Diệu quả trong quá khứ là do người
ấy tu nhân. Tu cái nhân trong hiện tại, sẽ thành diệu quả
trong vị lai. “Diệu quả cận nhân, như chúng hoa diệp”
(diệu quả gần nhân như các hoa lá): Giống như
lúc đơm hoa, kết trái, v́ c̣n phải dùng cành lá để
nâng đỡ. Hoa đẹp c̣n phải có lá xanh nâng đỡ.
Quư vị gieo chủng tử xuống th́ trước hết
nẩy lá, sau đấy mới đơm hoa. Lá cây sẽ hấp
thụ chất dinh dưỡng. Đó là mối quan hệ.
Hàng phục những kẻ ngoại đạo, như sư
tử chúa hàng phục hết thảy thiên ma, như đại
long tượng.
“Trảm phiền năo tặc,
do như thần kiếm” (Chém giặc phiền năo
như gươm thần): Gươm thần
chính là gươm trí huệ. “Yếm chư huyên tạp,
như Độc Giác thừa” (chán các ồn náo như
Độc Giác thừa): Độc Giác th́ sao? Ngài thích t́m chỗ
núi sâu tĩnh lặng để tu hành, chán ĺa ồn ào. “Tẩy
phiền năo cấu, như thanh tịnh thủy” (gột
rửa chất nhơ phiền năo như nước thanh tịnh):
Hai câu này, câu trên đối ứng câu dưới. Nếu
chúng ta mong gột sạch phiền năo, Địa Tạng Bồ
Tát sẽ biến thành nước thanh tịnh, gột sạch
phiền năo cho chúng ta. Nếu muốn trừ khử hôi thối,
ô uế, sẽ như gió mạnh thổi bạt đi. “Đoạn
chúng kết phược, như lợi đao kiếm”
(Cắt các trói buộc, như đao, gươm sắc):
“Kết phược” (結縛) là các Hoặc
nghiệp, tức là Hoặc nghiệp từ vô lượng kiếp
đến nay, trói chặt chúng ta, giống như rất
nhiều gông xiềng cùm chặt chúng ta, chẳng thể
tháo gỡ được!
(Kinh) Hộ chư bố
úy, như thân, như hữu. Pḥng chư oán địch,
như tiệm, như thành. Cứu chư nguy nan, do như
phụ mẫu. Tàng chư khiếp liệt, do nhược
tùng lâm. Như hạ viễn hành, sở đầu đại
thụ. Dữ nhiệt khát giả, tác thanh lănh thủy. Dữ
cơ phạp giả, tác chư cam quả. Vị lộ
h́nh giả, tác chư y phục. Vị nhiệt phạp giả,
tác đại mật vân. Vị bần quỹ giả, tác
như ư bảo. Vị khủng cụ giả, tác sở quy
y. Vị chư giá sắc, tác cam trạch vũ. Vị
chư trược thủy, tác Nguyệt Ái châu.
(經)護諸怖畏如親如友,防諸怨敵如塹如城,救諸危難猶如父母,藏諸怯劣猶若叢林。如夏遠行所投大樹,與熱渴者作清冷水、與飢乏者作諸甘果、為露形者作諸衣服、為熱乏者作大密雲、為貧匱者作如意寶、為恐懼者作所歸依、為諸稼穡作甘澤雨、為諸濁水作月愛珠。
(Kinh: Che chở khỏi
các sợ hăi như người thân, như bè bạn. Ngừa
các oán địch, như hào, như thành. Cứu các nguy nan,
giống như cha mẹ. Che giấu các kẻ khiếp
nhược, yếu đuối, giống như rừng rậm.
Như mùa Hè đi xa, nương dưới cây to. Làm nước
trong mát cho người khát v́ nóng bức. Làm quả ngọt
cho người đói thiếu. Làm y phục cho kẻ lơa lồ.
Làm mây dầy lớn cho người khốn khổ v́ nóng bức.
Làm báu như ư cho người nghèo túng. Làm chỗ
nương về cho người sợ hăi. Làm mưa ngọt
lành cho người trồng cấy. Làm Nguyệt Ái châu
cho các nước đục).
“Hộ chư bố úy, như thân, như hữu” (che chở khỏi
các sợ hăi, như người thân, như bạn bè): Sanh
khởi sợ hăi, thân nhân và bè bạn của chúng ta sẽ
giúp chúng ta giải trừ khó khăn. Pḥng ngừa oán tặc,
sợ oán tặc tấn công chúng ta, bèn tu bổ thành tŕ. Ngoài
thành, đào hào bảo vệ thành. “Hào” là sông đào nhằm
bảo vệ thành. Những điều này đều mang ư
nghĩa tỷ dụ. “Cứu chư nguy nan, do như phụ
mẫu” (cứu các nguy nan, giống như cha mẹ): Bất
luận là ai, khi gặp lúc khó khăn đều nghĩ
đến mẹ, đều gọi mẹ. Người
đang lúc lâm vào cửa tử, hoặc lúc nguy nan nhất,
hoặc khi trẻ nhỏ đau khổ, đại đa số
đều kêu mẹ. Chỉ có cha mẹ chúng ta mới quan
tâm chúng ta. Địa Tạng Bồ Tát giống như cha mẹ
bảo vệ, che chở chúng ta.
“Tàng chư khiếp liệt,
do nhược tùng lâm” (che giấu các kẻ khiếp
nhược, yếu đuối giống như rừng rậm):
Kẻ gặp cảnh sợ hăi, để tránh nạn bèn
trốn trong khu rừng rậm. “Như Hạ viễn
hành, sở đầu đại thụ”, ư nói: Giống
như lúc đi xa, bị mặt trời hun bức, rất
thống khổ, đến chỗ cây to hóng mát. Địa
Tạng Bồ Tát giống như cội cây to để
chúng ta hóng mát. Nếu đă khổ v́ nóng bức, lại rất
khát, Địa Tạng Bồ Tát giống như nước
mát lạnh. C̣n những kẻ đói, khát, bần cùng, Ngài
làm các thứ quả ngọt, [hàm nghĩa] những thức
ăn rất ngon lành. Kẻ chẳng có quần áo mặc, tức “lộ
h́nh giả” (kẻ lơa lồ), Địa Tạng Bồ
Tát liền bố thí quần áo cho chúng ta. “Vị nhiệt
phạp giả, tác đại mật vân” [nghĩa là] khi
rất nóng bức, Ngài giống như đám mây dầy,
ngăn che ánh mặt trời, chúng ta liền cảm thấy
mát mẻ.
“Vị bần quỹ giả,
tác như ư bảo” (v́ kẻ nghèo thiếu, làm báu như ư): “Như Ư Bảo”: Như người
khốn cùng có được kho báu. Giống như bảo
châu do Địa Tạng Bồ Tát cầm trong tay có thể
xuất hiện các thứ vật báu như ư. “Vị khủng
cụ giả, tác sở quy y” (làm chỗ nương về
cho người sợ hăi): Sợ hăi bèn quy y Bồ Tát, tâm kẻ
ấy sẽ an ổn, chẳng sợ hăi. “Vị chư
giá sắc, tác cam trạch vũ” (làm mưa ngọt cho
người trồng cấy): Tới lúc khô hạn, hoa mầu
chẳng tươi tốt, Địa Tạng Bồ Tát liền
tuôn mưa lành, có ư nghĩa như vậy đấy. “Vị
chư trược thủy, tác Nguyệt Ái Châu” (Làm Nguyệt
Ái Châu cho các thứ nước đục): Ở nơi
đây, chúng ta chẳng có loại châu này. Nguyệt Ái Châu có thể
biến nước đục thành nước trong sạch.
Nước dẫu rất vẩn đục, thả Nguyệt
Ái Châu vào, nước ngay lập tức thanh tịnh. Do vậy,
đang trong lúc vẩn đục, chẳng thanh tịnh, hễ
niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, tâm chúng
ta liền thanh tịnh. Trong lúc phiền năo, chẳng được
giải thoát, có thể đến Phật đường,
hoặc đối trước tượng Địa Tạng,
tĩnh tọa chốc lát, niệm thánh hiệu Địa
Tạng Bồ Tát, quư vị sẽ cảm thấy đỡ
rất nhiều. Những điều này đều nhằm
h́nh dung công đức của Địa Tạng Bồ Tát.
(Kinh)
Linh chư hữu t́nh, thiện căn bất hoại. Hiện
diệu cảnh giới, linh chúng hân duyệt. Khuyến phát
hữu t́nh, tăng thượng tàm quư. Cầu phước
huệ giả, linh cụ trang nghiêm. Năng trừ phiền
năo, như thổ hạ dược. Năng nhiếp loạn
tâm, như đẳng tŕ cảnh. Biện
tài vô trệ, như thủy kích luân. Nhiếp sự hệ
tâm, như quán diệu sắc. An nhẫn kiên trụ, như
Diệu Cao sơn. Tổng tŕ thâm quảng, do như đại
hải. Thần Túc vô ngại, thí nhược hư không. Diệt
trừ nhất thiết Hoặc chướng tập khí, do
như liệt nhật tiêu thích khinh băng. Thường du
tĩnh lự Vô Sắc chánh đạo, Nhất Thiết
Trí trí diệu bảo châu chử. Năng vô công dụng, chuyển
đại pháp luân.
(經)令諸有情善根不壞,現妙境界令眾欣悅,勸發有情增上慚愧,求福慧者令具莊嚴,能除煩惱如吐下藥,能攝亂心如等持境,辯才無滯如水激輪,攝事繫心如觀妙色,安忍堅住如妙高山,總持深廣猶如大海,神足無礙譬若虛空。滅除一切惑障習氣,猶如烈日銷釋輕冰。常游靜慮無色正道,一切智智妙寶洲渚,能無功用轉大法輪。
(Kinh: Khiến cho các hữu
t́nh thiện căn chẳng hư hoại. Hiện ra cảnh
giới mầu nhiệm khiến cho chúng sanh vui thích.
Khuyên lơn, khơi gợi hữu t́nh tăng thêm ḷng hổ
thẹn. Khiến cho kẻ cầu phước huệ trọn
đủ trang nghiêm. Có thể trừ phiền năo như thuốc
khiến cho ói ra. Có thể nhiếp loạn tâm, như cảnh Đẳng Tŕ. Biện
tài chẳng vướng mắc, như nước đẩy
guồng quay. Nhiếp sự, buộc tâm, như quán diệu
sắc. An nhẫn, trụ vững, như núi Diệu Cao. Tổng
tŕ sâu rộng giống như biển cả. Thần Túc vô ngại, khác nào hư không. Diệt
trừ hết thảy Hoặc chướng
tập khí, ví như mặt
trời rực rỡ tiêu ngay băng mỏng. Thường
dạo trong Tĩnh Lự Vô Sắc chánh đạo, và bến
băi diệu bảo của trí Nhất Thiết Trí. Có thể
vô công dụng mà chuyển đại pháp luân).
Địa Tạng Bồ Tát
có thể khiến cho thiện căn của chúng ta bất
hoại. Nếu hiện thời chúng ta đă gieo chủng tử,
đă có thiện căn, hoặc thiện căn đời
sau bất hoại, lại có thể gặp gỡ Địa
Tạng Bồ Tát, niệm thánh hiệu Địa Tạng
Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát sẽ có thể gia tŕ quư vị. Trong kinh Địa
Tạng, Địa Tạng Bồ Tát đă đối
trước Thích Ca Mâu Ni Phật phát nguyện, và Thích Ca Mâu
Ni Phật đă phó chúc chúng sanh đời Mạt Pháp cho Ngài.
Ngài nói: “Chỉ cần có công đức chừng bằng
một hạt vi trần, hay một giọt nước
trong Phật pháp, con sẽ đều làm cho kẻ ấy
được giải thoát”. Ngài đă phát
nguyện, sẽ thực hiện. Chỉ cần gieo thiện
căn, chờ đến khi nhân duyên chín muồi, nhất
định sẽ tăng trưởng, hiện ra cảnh
giới mầu nhiệm khiến cho chúng sanh vui thích.
Hiện thời, trong hội
này, Ngài đă biểu hiện, hiện ra những cảnh
giới rất thù thắng, rất chẳng thể nghĩ
bàn; mọi người đều sanh tâm hoan hỷ, có thể
khiến cho hết thảy hữu t́nh sanh ḷng hổ thẹn,
hiểu v́ sao chính ḿnh chẳng thể giải thoát? V́ sao
không thể tích tụ thiện nghiệp? V́ sao không thể
giúp đỡ người khác? V́ sao cái tâm ích kỷ của
chính ḿnh nặng nề dường ấy? V́ sao nhiều khổ
nạn giáng xuống thân ḿnh như vậy? Bèn hổ thẹn
chính ḿnh trong quá khứ đă sai trái, chẳng tích tụ
phước nghiệp, cho nên đời này chuyện ǵ
cũng thua kém kẻ khác. Vậy th́ Địa Tạng Bồ
Tát có thể giúp đỡ quư vị, khiến cho quư vị
tăng trưởng phước huệ, khiến cho cái tâm
sám hối của quư vị mạnh mẽ, khiến cho quư vị
có thể trang nghiêm, khiến cho quư vị có thể diệt
trừ phiền năo.
Nếu bụng dạ chẳng
thanh tịnh, hăy uống một chút thuốc xổ, giống
như chúng ta có rất nhiều phiền năo, chẳng hiểu
giải thoát như thế nào, hăy niệm thánh hiệu Địa
Tạng Bồ Tát, niệm kinh Địa Tạng, quư vị
sẽ có thể giải thoát. Ư nghĩa là như thế
đó. Tâm rất tán loạn, hăy niệm thánh hiệu cho nhiều.
Niệm thánh hiệu là phương pháp tốt nhất. Có
lúc chúng ta niệm kinh, hiệu quả cũng chẳng tốt
bằng! Niệm thánh hiệu
có thể khảo nghiệm cái tâm tán loạn của chính
ḿnh, mà cũng khảo nghiệm [để nhận biết]
quư vị trọn đủ phiền năo! Niệm một trăm
câu chưa được, lại niệm một ngàn câu. Vẫn
không được, bèn niệm một vạn câu. Không
được, bèn niệm mười vạn câu. Vẫn
không được, bèn niệm một trăm vạn câu.
Hiệu quả như thế liền sanh khởi.
Tôi chẳng nói bừa đâu
nhé; chính tôi đă làm như thế đó! Trước hết,
tôi chuẩn bị niệm một ngàn câu. Chẳng thành tựu, bèn niệm một vạn câu. Một vạn câu chẳng
thành tựu, bèn niệm mười vạn câu. Mười
vạn câu chẳng thành tựu, bèn niệm một trăm vạn
câu, bèn được! Nếu vẫn không được,
lại tiếp tục niệm, niệm không hạn chế
số lượng. Thế nhưng, đây chỉ là tính làm
một chuyện chi đó. Tôi mong làm một chuyện
chi đó, mong đạt được b́nh an, mong
được như ư; trước hết chính ḿnh hăy trắc
nghiệm một phen, vậy th́ hăy niệm đi! Lúc mới
bắt đầu niệm, tâm c̣n tán loạn, đến khi
quư vị niệm mười vạn câu, mấy chục vạn
câu trở lên, tự nhiên tán loạn ít đi. Đó gọi
là công phu, ai niệm cũng đều giống nhau. Quư vị
niệm như thế, cũng sẽ đạt được
như thế. Ai chịu làm theo, sẽ đạt
được như vậy. Nhưng quư vị phải biết
buông xuống, ngày đêm đều niệm. Quư vị phải
định kỳ hạn, hoặc là trong hai
mươi ngày, niệm một trăm vạn câu. Mỗi
ngày, b́nh quân ta sẽ niệm bao nhiêu câu, nhất định
phải làm. Hễ chưa làm được, quư vị không
ngủ, không ăn, chờ đến khi làm xong. Cũng có
thể là quư vị không cần chẳng ngủ, chẳng
ăn, quư vị vẫn có thể ngủ như thường,
nhưng vẫn phải niệm như vậy. Nếu quư vị
học pháp môn Quán Âm, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát cũng
được. Niệm thánh hiệu của bất cứ
vị Bồ Tát nào cũng đều được! Chỉ
cần quư vị chịu tinh tấn, chịu dụng công, sẽ
có thể đạt được.
Những điều
được nói trong đoạn kinh văn trên đây
đều là tỷ dụ, giảng kinh, thuyết pháp, hoặc
biện luận với người khác, quư vị chẳng
có biện tài, thường bị chướng ngại. Người
khác hỏi, ta chẳng trả lời được. Vậy
th́ niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát cho nhiều,
sẽ tăng trưởng trí huệ của quư vị. Hoặc
là uống Địa Tạng Thủy, sẽ được
Ngài gia tŕ. Khi ấy, đối trước cảnh, sẽ
có thể nhiếp cái tâm. Nếu không, đối trước
cảnh, chẳng thể nhiếp cái tâm. Cảnh là hiện
tượng. Đối trước hết thảy các hiện
tượng, quư vị sẽ có thể chẳng động
tâm.
“Như quán diệu sắc,
an nhẫn kiên trụ” (như quán sắc mầu nhiệm,
an nhẫn, trụ vững): “Diệu sắc” là sắc
ǵ vậy? Diệu sắc là vô sắc. Điều này sâu lắm!
Như quán diệu sắc thân, diệu sắc thân là vô
tướng. Tôi nêu thí dụ, khi quán thánh tượng của
Địa Tạng Bồ Tát, chúng ta nhờ vào sắc thân
có sắc tướng ấy [để quán]. Đó là giả,
v́ [sắc tướng ấy] là tranh vẽ hay tượng
đắp, nhưng từ cái giả ấy, có thể sanh ra cái thật. Cái thật là như thế
nào? Tướng “vô tướng”. Diệu sắc thân
là quang minh. Quán như thế lâu ngày, quang minh ấy và quang
minh của quư vị, tự tâm của quư vị và tâm tự
tánh của đức Địa Tạng, hai đằng sẽ
hợp lại, an nhẫn kiên trụ bất động! Tổng
tŕ hết thảy các pháp, tŕ vô lượng nghĩa ở mức
độ sâu, trí huệ như biển cả. Thần Túc là
thần thông, tức Thần Túc Thông. Thần Túc của Ngài
(Địa Tạng Bồ Tát) vô ngại, dường
như hư không. Hư không đối với hết thảy
đều là vô chướng ngại. Đấy là công
đức của Địa Tạng Bồ Tát. Ngài tu hành,
chứng nhập rất sâu, hết thảy chướng ngại
và tập khí phiền năo toàn bộ đều bị đoạn
trừ. T́nh huống đoạn trừ giống như vầng
thái dương chiếu vào băng mỏng: Mặt trời vừa mọc lên, toàn thể băng mỏng
đều tiêu mất.
“Thường du Tĩnh Lự vô sắc chánh
đạo” (thường dạo trong Tĩnh Lự vô sắc chánh
đạo): “Vô sắc chánh đạo” là ǵ? Chính là trí
huệ, là Bồ Đề đạo, là Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Vô sắc là hết thảy các sắc tướng
đều chẳng có. Đạo thật sự là vô đạo.
Vậy th́ sẽ có thể đạt được trí Nhất
Thiết Trí. Nhất Thiết Trí là b́nh phàm. [Từ ngữ]
“trí Nhất Thiết Trí” chuyên dùng để diễn tả:
Trong hết thảy các trí huệ do đức Phật
đă nói, trí Nhất Thiết Trí là trí huệ thù thắng nhất.
Khi ấy, mới có thể chuyển diệu pháp luân chẳng thể
nghĩ bàn thù thắng nhất. Diệu pháp luân có thể khiến
cho hết thảy các sự cảm nhiễm vô minh của hết
thảy chúng sanh đều tiêu trừ.
(Kinh) Thiện nam tử!
Thị Địa Tạng Bồ Tát Ma Hát, cụ như thị
đẳng vô lượng vô số bất khả tư nghị
thù thắng công đức, dữ chư quyến thuộc, dục lai chí thử, tiên hiện
như thị thần thông chi tướng. Thế Tôn thuyết
thị Địa Tạng Bồ Tát chư công đức
dĩ. Nhĩ thời, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát,
dữ bát thập bách thiên na-dữu-đa tần-bạt-la
Bồ Tát, dĩ thần thông lực, hiện Thanh Văn
tượng, tùng Nam phương lai. Chí Phật tiền trụ,
dữ chư quyến thuộc, cung kính đảnh lễ
Thế Tôn song túc, hữu nhiễu tam táp, tại Như Lai
tiền, hiệp chưởng nhi lập, dĩ tụng tán
viết.
(經)善男子,是地藏菩薩摩訶薩,具如是等無量、無數、不可思議殊勝功德,與諸眷屬欲來至此,先現如是神通之相。世尊說是地藏菩薩諸功德已,爾時地藏菩薩摩訶薩,與八十百千那庾多頻跋羅菩薩,以神通力現聲聞像,從南方來至佛前住,與諸眷屬,恭敬頂禮世尊雙足,右繞三匝,在如來前合掌而立,以頌讚曰。
(Kinh: “Này thiện nam tử!
Vị Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ấy có vô lượng
vô số công đức thù thắng chẳng thể nghĩ
bàn như thế đó, cùng với các quyến thuộc muốn
đến nơi đây. Trước hết, hiện ra tướng thần thông như thế”.
Đức Thế Tôn nói các công đức của Địa
Tạng Bồ Tát xong, khi ấy, Địa Tạng Bồ
Tát Ma Ha Tát và tám mươi trăm ngàn na-dữu-đa tần-bạt-la
Bồ Tát dùng sức thần thông, hiện h́nh tướng
Thanh Văn, từ phương Nam đến. Đến
trước đức Phật, Ngài cùng với các quyến
thuộc cung kính đảnh lễ dưới hai chân của
đức Thế Tôn, nhiễu theo chiều phải ba ṿng,
chắp tay, đứng trước
Như Lai, dùng kệ khen ngợi rằng).
Đức Phật hướng
về Vô Cấu Sanh Thiên Đế Thích tán thán Địa Tạng
Bồ Tát trọn đủ các công đức thù thắng
chẳng thể nghĩ bàn, nhưng quyến thuộc của
Bồ Tát cũng là những vị đă theo Ngài hóa độ
chúng sanh lâu dài, số lượng đều là chẳng thể
tính đếm, tức là [nói đại lược th́ có]
tám mươi trăm ngàn triệu tần-bạt la vị Bồ
Tát đến độ chúng sanh nơi đây. Tuy các vị Bồ Tát
chưa đến nơi, các Ngài đă hóa hiện trước
tướng thần thông như thế.
“Thế Tôn thuyết thị
Địa Tạng Bồ Tát chư công đức dĩ”
(đức Thế Tôn nói các công đức của vị
Địa Tạng Bồ Tát ấy xong): Vô Cấu Sanh Thiên
Đế Thích hỏi v́ sao có các thụy tướng hiện
ra? Đức Phật liền bảo: Có một vị Bồ
Tát tên là Địa Tạng Bồ Tát dẫn theo tám
mươi trăm ngàn tần-bạt-la na-dữu-đa quyến
thuộc sẽ đến nơi đây để cúng
dường ta, đến hội Đại Tập này
để tùy hỷ công đức, cho nên có nhiều cảnh tướng thù
thắng ngần ấy. Đức Phật vừa nói xong,
Địa Tạng Bồ Tát cũng đến nơi.
“Nhĩ thời, Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, dữ bát thập bách thiên na-dữu-đa
tần-bạt-la Bồ Tát, dĩ thần thông lực, hiện Thanh
Văn tượng, tùng Nam phương lai” (khi ấy,
Địa Tạng Ma Ha Tát cùng với tám mươi trăm
ngàn na-dữu-đa tần-bạt-la Bồ Tát dùng sức thần thông, hiện h́nh tướng
Thanh Văn, từ phương Nam đi đến): Từ
phương Nam đến, đương nhiên là nói theo lúc
đức Phật đang thuyết pháp, Bồ Tát từ
[phía Nam của] La Lân Sơn mà đến. Bất quá, có
người giải thích La Lân Sơn là Tịnh Độ của
Địa Tạng Bồ Tát. Tuy vậy, nếu đó là Tịnh
Độ của Địa Tạng Bồ Tát; đáng lẽ
Ngài phải ở ngay La Lân Sơn, v́ sao c̣n phải từ
phương Nam đến? Rốt cuộc, Địa Tạng
Bồ Tát trụ ở phương nào? Trọn khắp hết
thảy mọi nơi! Nơi nào có địa
ngục, nơi nào có khổ nạn, Địa Tạng Bồ
Tát ở ngay nơi ấy, Ngài từ chỗ nào đến
cũng đều được!
Đức Phật nói xong,
Địa Tạng Bồ Tát vận sức thần thông
đến pháp hội. “Nhĩ thời” (lúc bấy giờ)
tức là lúc Phật dạy Vô Cấu Sanh Thiên Đế
Thích vừa xong, Địa Tạng Bồ Tát liền cùng
quyến thuộc của Ngài, hiện h́nh tướng Thanh
Văn, đă đến nơi, tới trước đức
Phật. Lúc đến nơi, trước hết bèn thực
hiện một nghi thức: Trước hết, cung kính
đảnh lễ dưới hai chân đức Thế Tôn.
Đấy chính là nghi thức chúng ta đều làm mỗi
khi lễ bái. Khi lễ bái, v́ sao mọi người phải
lật ngửa hai bàn tay? [Lật ngửa] hai bàn tay nhằm
đỡ lấy hai chân đức Phật, gọi là “đầu
diện tiếp túc quy mạng lễ” (đầu và mặt
áp vào chân đức Phật để quy mạng lễ).
Hai tay đừng nên đặt cách nhau quá xa, v́ mặt và
hai tay của quư vị đều áp vào chân đức Phật.
Mặt áp vào chân Phật, tay áp vào chân Phật. Đấy là
“đầu diện tiếp túc quy mạng lễ”. Quy
mạng lễ th́ phải đảnh lễ dưới hai
chân của đức Thế Tôn.
Thuở đức Phật tại
thế thuyết pháp, [cũng như] lúc chúng ta đến
chùa miếu, hoặc khi thấy tháp, nhất định phải
“thuận nhiễu tam táp”, tức là
đi ṿng xung quanh ba ṿng [theo chiều kim đồng hồ]. V́ sao tượng
Phật trên đại điện của chùa miếu phải
thờ ở giữa, chẳng dựa vào vách tường?
V́ cần phải nhiễu Phật. Vừa bước vào,
nhất định phải đi
nhiễu theo chiều phải, tức là nhiễu
theo chiều kim đồng hồ như đức Phật
đă quy định. Nhiễu ba ṿng xong bèn đảnh lễ. Hễ tiến
vào, nhất định nhiễu ba ṿng, nhiễu ba ṿng xong
bèn đảnh lễ. Đảnh lễ
xong bèn ngồi trước đức Phật. Ở
đây, khi Địa Tạng Bồ Tát đến nơi,
Ngài tới trước đức Phật, sau khi nhiễu
ba ṿng bèn đứng, dùng kệ tán thán công đức của
đức Phật. Đức Phật tán thán Địa Tạng
Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát lại tán thán Phật.
Địa Tạng Bồ Tát c̣n chưa đến nơi, đă hiện
thần thông, đức Phật đă tán thán Bồ Tát có
công đức chẳng thể nghĩ bàn. Ngài đến
trước mặt đứng Phật, cung kính đảnh
lễ xong bèn nhiễu theo chiều phải ba ṿng, đứng
trước đức Phật, chắp tay tán thán công đức
của Phật.
(Kinh) Lưỡng Túc Tôn
đạo sư, từ tâm thường phổ phú, an nhẫn
như đại địa, biến trừ sân phẫn
tâm.
(經)兩足尊導師,慈心常普覆,安忍如大地,遍除瞋忿心。
(Kinh: Lưỡng Túc Tôn
đạo sư, từ tâm thường phủ khắp, an
nhẫn như đại địa, trừ trọn tâm sân
phẫn).
Đây là bài kệ tụng thứ
nhất. Cứ bốn câu là một kệ, tổng cộng
có ba mươi bốn bài tán, tức là dùng ba mươi bốn
bài kệ tụng để tán thán đức Phật. “Lưỡng
Túc Tôn đạo sư” tức là bậc phước trọn,
huệ trọn, làm bậc đạo sư chỉ
đường, dẫn dắt hết thảy chúng sanh
thoát khỏi biển khổ sanh tử. “Từ tâm thường
phổ phú” (tâm từ thường che phủ
khắp), nghĩa là: Tâm Phật đại từ, thường
dẹp trừ đau khổ, ban vui sướng cho chúng
sanh. “Từ tâm” nghĩa là ban
cho sự vui sướng. “Phổ” (普) là trọn khắp, chẳng bỏ sót, b́nh đẳng.
“Phú” (覆) nghĩa là che
phủ. Tức là ḷng Từ của đức Phật che phủ trọn khắp
hết thảy chúng sanh. “An nhẫn như đại
địa, biến trừ sân phẫn tâm” (an nhẫn
như đại địa, trừ trọn khắp hết
thảy tâm sân hận, phẫn nộ). “An nhẫn” có
nghĩa là chịu đựng. Đối với tất cả
những phiền năo và tất cả những chuyện chẳng
đúng pháp của hết thảy chúng sanh, đủ mọi
tai nạn trong đời ác ngũ trược, đức Phật
đều dùng ḷng đại từ. Không chỉ là có thể
chịu đựng, mà c̣n có thể dẹp trừ. Bản
thân đức Phật chẳng có tâm sân hận, phẫn nộ.
Chúng sanh có sân niệm, đức Phật thay họ diệt
trừ. “Phổ phú” có nghĩa là trọn khắp chúng
sanh, cũng tức là mong trừ tâm sân hận, phẫn nộ
cho trọn khắp chúng sanh. Hăy cẩn thận: Tâm sân nộ là thứ lợi hại nhất trong sân si. V́ thế,
một niệm sân của chúng sanh dấy lên, trăm vạn
cửa chướng mở! Cái tâm sân hận của chúng
sanh hễ có chút ǵ chẳng vừa ư bèn nổi cáu. Hễ nổi
cáu, sẽ thiêu rụi rừng công đức. Đấy
là bài kệ tán thán công đức thứ nhất.
(Kinh) Cụ thù thắng
tướng hảo, trang nghiêm chư Phật quốc,
năng dĩ đế từ bi, sung măn nhất thiết
độ.
(經)具殊勝相好,莊嚴諸佛國,能以諦慈悲,充滿一切土。
(Kinh: Đủ tướng
hảo thù thắng, trang nghiêm các cơi Phật, ḷng từ bi
chân thật, sung măn hết thảy cơi).
Tướng mạo của
đức Phật trọn đủ, không chỉ hạn
cuộc trong ṿng trời người, mà c̣n là trọn đủ
vô lượng tướng hảo trang nghiêm. Tướng mạo
ấy có hai loại: Một loại là tướng Hóa Thân,
loại kia là tướng Báo Thân. Tướng Báo Thân th́
như Lô Xá Na Phật (Rocana), tức là Báo Thân của Phật Thích Ca, tướng
ngàn trượng viên măn, giống như tướng Vô
Lượng Quang của A Di Đà Phật. Vô Lượng
Quang Thọ là tướng Báo Thân của Phật, là tướng
thù thắng của chư Phật. Bất luận Báo Thân
hay Hóa Thân, đều trọn đủ ba mươi tướng,
tám mươi thứ hảo thù thắng. Đó gọi là
tướng nhân thiên. Đức Phật có vô lượng
tướng hảo trang nghiêm.
“Trang nghiêm chư Phật
quốc” (trang nghiêm các cơi Phật): Trang nghiêm hết thảy
các Phật quốc độ. Có thể nói “chư Phật
quốc độ” là quốc độ của Thích Ca
Mâu Ni Phật tức thế giới Sa Bà, mà cũng có thể
nói là trọn khắp pháp giới hết thảy các Phật
quốc độ. Vị Phật nào cũng đều
trang nghiêm Phật quốc độ. Ḷng từ bi của Phật
chẳng phải là ái kiến đại bi, mà là “đế
từ bi”. “Đế” (諦) là chân lư. Nói tới
“chân lư” th́ là chân tâm, cũng chính là Thật Tướng
của chúng ta. Chữ Đế bao hàm ư nghĩa ấy. “Đế
từ bi” là ḷng từ bi đúng lư, dẹp trừ hết
thảy thống khổ, ban sướng vui cho hết thảy
chúng sanh, khiến cho hết thảy chúng sanh đều có
thể hiểu rơ pháp tánh của chính ḿnh, khiến cho hết
thảy chúng sanh đều có thể trọn đủ trí
huệ Bát Nhă tràn ngập hết thảy các cơi Phật. Ḷng
từ bi của Phật cứu độ hết thảy
chúng sanh chẳng hề phân biệt. Đấy là bài kệ
tụng thứ hai.
(Kinh) Vĩnh tuyệt
chư ái vơng, như thật thiện an trụ, xả
chư thanh tịnh quốc, độ nhiễm trược
chúng sanh.
(經)永絕諸愛網,如實善安住,舍諸清淨國,度染濁眾生。
(Kinh: Vĩnh viễn dứt
lưới ái, như thật, khéo an trụ, bỏ các cơi
thanh tịnh, độ chúng sanh nhiễm trược).
Đây là tán thán Thích Ca Mâu Ni
Phật đă thành Phật, đạt được thanh
tịnh rốt ráo, vĩnh viễn chẳng có ái dục. Chữ
“vơng” (網) là từ ngữ h́nh dung. Ái trong “ái dục”
giống như lưới rập [trói chặt], mong t́m đầu mối cũng
chẳng thể t́m được, hàm nghĩa
[chúng sanh] bị vướng vào trong lưới,
chẳng thể thoát ra. Đức Phật đă vĩnh viễn
đoạn tuyệt lưới ái dục. Ngài không chỉ
tự ḿnh đoạn tuyệt, mà c̣n muốn đoạn
tuyệt lưới ái dục của hết thảy chúng
sanh. Do Ngài có thể chứng đắc Thật Tế Lư Thể
chân thật, cho nên khéo an trụ, thường trụ trong cảnh
giới vô vi tịch tĩnh, cũng tức là Niết Bàn.
Chúng ta nói: “Ngài an trụ trong Thường Tịch Quang Tịnh
Độ!” Nơi chốn tốt đẹp như vậy,
đức Phật chẳng trụ, Ngài “xả chư thanh tịnh
quốc” (bỏ các cơi thanh tịnh), Ngài bỏ cơi Thật
Báo Trang Nghiêm và Thường Tịch Quang Tịnh Độ
để vào đời ác Ngũ Trược nhằm độ
chúng sanh nhiễm trược. Chúng sanh trong thế giới này cấu nhiễm rất nặng, đức Phật
v́ độ họ mà đến. Đây là tán thán công đức
của Phật chẳng thể nghĩ bàn!
(Kinh) Bổn nguyện
nhiếp uế độ, thành thục ác chúng sanh, khởi
kiên cố chánh cần, cửu tu chư khổ hạnh.
(經)本願攝穢土,成熟惡眾生,起堅固正勤,久修諸苦行。
(Kinh: Bổn nguyện
nhiếp cơi uế, thành thục chúng sanh ác, dấy chánh cần
vững chắc, tu khổ hạnh đă lâu).
Đức Phật ở
trong thế giới Sa Bà này độ chúng sanh rất khó
khăn. Đấy là nguyện lực sẵn có của Ngài,
là nguyện lực khi Ngài vừa mới phát tâm. Ngài đă phát thệ: “Trong tương lai, khi
thành Phật, sẽ độ chúng sanh khổ nhất, uế
trược nhất, sẽ đến nơi đó để
độ họ. Các chúng sanh ấy
trọn đủ hết thảy ác kiến, ương ngạnh,
khó điều phục, khó hóa độ, ta sẽ đều
thành thục họ”. Điều ấy
chẳng dễ thực hiện, ắt cần phải trải
qua vô lượng kiếp dũng mănh tinh tấn, siêng
năng tu tập không ngừng. [Đó là] “kiên cố chánh
cần” (siêng năng tu tập chánh đáng kiên cố). “Cửu
tu chư khổ hạnh” (tu các khổ hạnh đă
lâu): “Tu khổ hạnh” là có thể thị hiện tu
khổ hạnh giống hệt như chúng sanh, thị hiện
nêu gương, tu tập ngay trong khổ nạn th́ mới
có thể thành thục chúng sanh. Bài kệ kế tiếp nhằm
nhắc lại.
(Kinh) Cửu tu chư khổ
hạnh, văn sanh tủng cụ tâm, tu chư
Thí, Giới, Nhẫn, cập Tinh Tấn, Định, Huệ.
(經)久修諸苦行,聞生悚懼心,修諸施戒忍,及精進定慧。
(Kinh: Tu khổ hạnh
đă lâu, kẻ nghe, sanh hoảng sợ. Tu hạnh Thí, Giới,
Nhẫn, và Tinh Tấn, Định, Huệ).
Tu Lục Độ, vạn
hạnh, Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn,
Thiền Định, Trí Huệ, tức là Lục Ba La Mật.
Thành tựu Lục Ba La Mật bằng cách nào? Tu vô lượng
khổ hạnh. Do vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói: Trong
thế giới Sa Bà này, chẳng có chỗ nào nhỏ như
vi trần mà chẳng phải là chỗ đức Phật
xả sanh mạng. [Trong phần kinh văn giảng về] đại
nguyện thứ tám trong mười đại nguyện của
Phổ Hiền, [Phổ Hiền Bồ Tát đă nói] đức
Phật độ chúng sanh trong thế giới này như thế
nào? Khi Ngài chép kinh điển ḥng tạo lợi ích cho chúng
sanh, chẳng có giấy, liền lột da trên thân làm giấy,
bẻ xương của chính ḿnh để làm bút, dùng máu
trên người làm mực. Ngài biên chép kinh điển
như vậy đó. Khi chúng ta học kinh, phải sanh khởi
cái tâm cung kính như vậy, nghĩ đến đức
Phật trong quá khứ v́ độ chúng ta, đă tu các khổ hạnh ấy. Lúc chúng ta nghe nói cảnh giới như vậy, sẽ
sanh khởi cái tâm sợ hăi: Ngài gieo thân nuôi cọp, cắt
thịt [của chính ḿnh] cho chim ưng ăn [để cứu
con bồ câu bị chim ưng đuổi bắt]. Những
chuyện giống như vậy chúng ta đều đă
nghe nói cả rồi; khi nghĩ tới, sẽ
sanh tâm hoảng sợ. Đức Phật tu Bố Thí, Tŕ
Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định,
Trí Huệ, đều chẳng phải là dễ dàng mà đạt
được. Chẳng phải là tu một hai ngày, mà là do
tu tập đă lâu, cho nên mới
đạt được!
(Kinh) Tằng cúng sự
vô lượng, Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, cập tế
chư hữu t́nh, cơ khát bệnh tử giả.
(經)曾供事無量,佛菩薩聲聞 ,及濟諸有情,飢渴病死者。
(Kinh: Từng phụng sự
vô lượng, Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, và cứu các
hữu t́nh, kẻ đói, khát, bệnh, chết).
Thượng cầu, hạ
hóa: Hướng về hết thảy chư Phật cầu
pháp, cúng dường hết thảy chư Phật, cúng
dường hiền thánh tăng. Lại c̣n muốn độ
chúng sanh. “Hạ hóa” là tế độ hết thảy
hữu t́nh, xả ḿnh để cứu người khác.
(Kinh) Bổn vị tha hữu
t́nh, tự xả đa thân mạng, bổn vị chánh pháp
cố, xả đa cốt, huyết, b́.
(經)本為他有情,自舍多身命,本為正法故,舍多骨血皮。
(Kinh: Vốn v́ các hữu
t́nh, tự xả nhiều thân mạng. Vốn chỉ v́
chánh pháp, xả nhiều xương, máu, da).
V́ lợi ích chúng sanh mà tự
xả thân mạng của chính ḿnh nhằm lợi ích người
khác. Chuyện này hoàn toàn tương phản với chúng ta.
Chúng ta luôn v́ bảo vệ tánh mạng của chính ḿnh mà
thương tổn sanh mạng của kẻ khác. Miệng
xoen xoét “ta v́ mọi người thế này, thế nọ”,
thật ra, mọi người v́ ta! Xưa nay, những
tướng quân thốt ra những lời đó đều
y hệt như nhau. Xưa kia đă có câu thơ: “Nhất
tướng công thành, vạn cốt
khô” (một vị tướng thành tựu công nghiệp
th́ muôn người phơi thây). Một vị tướng
quân thành danh, quư vị biết bao nhiêu người phải
chết để thành tựu cho hắn? Trên chiến
trường, hy sinh rất nhiều người mới
giúp cho hắn thành tựu, đấy là nghiệp. Nhưng
đức Phật hoàn toàn tương phản, v́ hữu
t́nh chúng sanh, nhiều đời Ngài tự xả thân mạng
của chính ḿnh, chẳng phải là trong một, hai đời.
Đức Phật đă từng v́ một chúng sanh mà dùng rất
nhiều kiếp, xả thân mạng của chính ḿnh để
cứu kẻ ấy. V́ cầu chánh pháp, bảo tồn chánh
pháp, Ngài có thể dùng da của chính ḿnh làm giấy, dùng
xương làm bút, dùng máu làm mực. Đại nguyện thứ
tám của Phổ Hiền Bồ Tát đă nói như thế.
(Kinh) Khí xả tự an
lạc, bi mẫn chư hữu t́nh, chuyên vị chư hữu
t́nh, cần tu đoạn Hoặc vơng.
(經)棄舍自安樂,悲愍諸有情,專為諸有情,勤修斷惑網。
(Kinh: Bỏ an lạc tự
thân, thương xót các hữu t́nh, chuyên v́ các hữu t́nh,
siêng tu đoạn lưới Hoặc).
Ngài chẳng v́ cầu yên vui cho
chính ḿnh, mà chuyên v́ chúng sanh đạt được hạnh
phúc, giống như Quán Thế Âm Bồ Tát, mỗi vị Bồ
Tát, mỗi vị Phật đều là như thế. Tuy thế
giới Cực Lạc tốt đẹp, Quán Thế Âm Bồ
Tát chẳng trụ trong thế giới Cực Lạc, mà
đến thế giới Sa Bà độ chúng sanh. Thế
giới Hoa Tạng của Thích Ca Mâu Ni Phật là quốc
độ thanh tịnh, Ngài tới thế giới Hoa Nghiêm
thị hiện, đến thế giới Sa Bà độ
chúng sanh khổ sở. Thọ mạng trong các cơi Phật
khác là tám vạn bốn ngàn năm, có khi là tám vạn
năm, hoặc bốn vạn năm; thọ mạng của
Thích Ca Mâu Ni Phật chỉ có một trăm năm!
(Kinh) Thiện hộ
ư lục căn, hằng viễn ly chư dục, quán hữu vi, vô thường, khổ,
không, vô ngă tánh. Chư khổ nghiệp tăng trưởng,
giai tham ái vi nhân, cố tiên ư lục
căn, vĩnh đoạn chư tham dục.
(經)善護於六根,恆遠離諸欲,觀有為無常,苦空無我性。諸苦業增長,皆貪愛為因,故先於六根,永斷諸貪慾。
(Kinh: Khéo ǵn giữ sáu
căn, luôn xa ĺa các dục. Quán hữu vi, vô thường,
khổ, không, vô ngă tánh. Các khổ nghiệp tăng trưởng,
tham ái đều là nhân. Nên đoạn sáu căn trước,
măi dứt các tham dục).
Đức Phật thấy
chúng sanh đang tăng trưởng khổ nghiệp. V́ sao
tăng trưởng khổ nghiệp? Do cái nhân là tham ái.
Dùng tham ái làm nhân, cho nên cảm vời khổ quả từ
khổ nghiệp. Quư vị phải nên nhận biết, khéo
ǵn giữ sáu căn của chính ḿnh. Lục căn là mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, và ư. Hăy khéo ǵn giữ, đừng
nên buông lung, đừng nên tạo tội, đừng dấy
lên đủ thứ tham dục. Hăy xa ĺa hết thảy các
dục. Quán hết thảy các pháp hữu vi: Hết thảy
các pháp thế gian, hễ hữu
h́nh, hữu tướng, th́ những pháp
hữu vi ấy đều là vô thường. Quán hết thảy
các pháp là vô thường, quán hết thảy các pháp là Khổ,
quán hết thảy các pháp là Không. Khổ nghiệp tăng
trưởng, quư vị có biết cái khổ quả ấy
xảy tới như thế nào hay không? Chính là do tham ái làm
nhân, do tham ái mà có. V́ thế, nơi sáu căn mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, và ư, nếu đoạn dứt tham dục,
khổ nghiệp sẽ chẳng thể tăng trưởng.
Khổ nghiệp chẳng thể tăng trưởng, quư vị
sẽ chẳng phải chịu khổ. Ở đây, đức
Phật thị hiện giáo dục hết thảy chúng sanh,
tán thán đức Phật khi c̣n tu nhân đă dùng phương
thức này để chỉ dạy, hóa độ chúng sanh.
(Kinh) Phổ ư hữu
t́nh giới, thường an trụ đại bi, tuy đắc
thắng Bồ Đề, nhi bất xả bổn nguyện.
(經)普於有情界,常安住大悲,雖得勝菩提,而不舍本願。
(Kinh: Trọn khắp hữu
t́nh giới, thường an trụ đại bi, tuy chứng
diệu Bồ Đề, chẳng ĺa bỏ bổn nguyện).
Đây là tán thán đức Phật
ở trong cơi hữu t́nh, thường phát khởi tâm đại
bi. Trông thấy các hữu t́nh chúng sanh khổ nạn, tuy
đức Phật đă chứng đắc quả Bồ
Đề thù thắng, nhưng bổn nguyện của Ngài
là lợi lạc chúng sanh, chẳng xả nguyện lực
vốn sẵn có. Do vậy, vẫn đến cơi này để
độ chúng sanh. Nếu nói theo Lư, Phật độ hết
thảy chúng sanh, nhưng chẳng có chúng sanh để có thể
độ. Nay chúng ta trước hết nói về Sự,
chẳng nói theo Lư, v́ Địa Tạng Bồ Tát tán thán Phật, khởi đầu bằng những chuyện mà bọn
chúng sanh chúng ta có thể lănh hội được. V́ sao
chúng ta sanh vào cơi này? Sở dĩ chúng ta sanh vào cơi này là do Thập
Luân. Thập Luân là khổ luân. Phải đoạn khổ
luân ấy, tức là tu trí luân của Phật. Dùng trí luân
để đối trị khổ luân, hai đằng
đối lập. Khi Địa Tạng Bồ Tát tán thán
đức Phật, đă nêu ra danh từ rất giản
lược mà thôi. V́ sao Ngài chẳng nói [cặn kẽ]? Ngài
biết hết thảy các pháp đều là Không, đều
là giả, nhưng chúng sanh chẳng biết. Đối với chúng sanh, đó là nỗi khổ thật
sự.
(Kinh) Tùy kiến chư hữu
t́nh, bức thiết tại chúng khổ, tùy khởi cần
tinh tấn, dũng mănh nhi tế bạt.
(經)隨見諸有情,逼切在眾苦,隨起勤精進,勇猛而濟拔。
(Kinh: Hễ thấy các
hữu t́nh, bị các khổ bức bách, liền siêng
năng tinh tấn, để dũng mănh cứu giúp).
Ngài trông thấy hết thảy
các hữu t́nh bị khổ sở bức bách, đích xác là
đang ở trong các khổ. Cho nên đức Phật
dũng mănh, tinh tấn cứu vớt các chúng sanh đang
chịu khổ ấy. V́ thế, Ngài liền nêu
gương cho họ, hy vọng họ sẽ siêng tu bố
thí, sẽ tŕ giới, sẽ nhẫn nhục, sẽ tinh tấn,
sẽ tu Định, sẽ cầu trí huệ Bát Nhă.
(Kinh) Linh cần tu Thí, Giới,
Nhẫn, Tấn, Định, Bát Nhă, như mẫu ư nhất
tử, từ tâm nhi dưỡng dục.
(經)令勤修施戒,忍進定般若,如母於一子,慈心而養育。
(Kinh: Khiến siêng tu
Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Định, Bát Nhă, như mẹ
chỉ một con, từ tâm mà nuôi nấng).
“Như mẫu ư nhất
tử, từ tâm nhi dưỡng dục”: Giống
như mẹ chỉ sanh được một đứa
con. Toàn bộ thân tâm của mẹ đều v́ đứa
con ấy, yêu thương, bảo vệ, nuôi nấng đứa
bé ấy. Đấy là t́nh yêu thương của mẹ.
C̣n như trong hiện thời có người mẹ đem
cả hai đứa con đều giết chết,
quăng xuống biển; đó là hiện tượng
đặc thù. Trong xă hội hiện tại, nghiệp
chướng quá nặng, nên mới nẩy sanh hiện
tượng ấy. Đó là nghiệp chướng đặc
biệt nặng nề! Nói chung, ḷng mẹ yêu con trăm phần
trăm đều là chân thật, thiết tha. Đối với
người hiện thời th́ phải giảm bớt
đôi chút. Có kẻ nêu ra những trường hợp mẹ
giết con cũng nhiều, mà con cái giết cha mẹ càng
nhiều hơn. Điều đó cho thấy đời ác ngũ
trược, nghiệp chướng đă đến lúc tột
bậc sâu nặng. Do vậy, đức Phật chuyên ṛng,
siêng năng, chân thật, thiết tha mong thành Phật, v́
Ngài mong độ chúng sanh.
(Kinh) Bổn ư hữu
t́nh loại, thường trụ phổ từ tâm, cố tốc
chứng Bồ Đề, độ thoát vô lượng chúng.
(經)本於有情類,常住普慈心,故速證菩提,度脫無量眾。
(Kinh: Vốn đối
với hữu t́nh, thường trụ phổ từ tâm,
nên mau chứng Bồ Đề, độ thoát vô lượng
chúng).
V́ chúng sanh đức Phật
mới tu Phật đạo, v́ chúng sanh nên Ngài mới thành
Phật. Thành Phật để dễ độ chúng sanh.
(Kinh) Bổn tu Bồ
Đề hạnh, vô bất vị chúng sanh, cố kim ư
hữu t́nh, bất xả ư Lục Độ. Tích thường ư mạt thế,
cầu Vô Thượng Bồ Đề, kim hoàn mạt thế trung, tốc
thành Vô Thượng Giác.
(經)本修菩提行,無不為眾生,故今於有情,不舍於六度。昔常於末世,求無上菩提,今還末世中,速成無上覺。
(Kinh: Vốn tu hạnh
Bồ Đề, đều luôn v́ chúng sanh, nay đối với
hữu t́nh, chẳng ĺa bỏ Lục Độ. Xưa
thường trong đời Mạt, cầu Vô Thượng
Bồ Đề. Nay vẫn trong đời Mạt, chóng
thành Vô Thượng Giác).
Phật vĩnh viễn chẳng ngừng độ chúng sanh,
siêng năng, chuyên ṛng chẳng thôi. Do v́ chúng sanh, Ngài mới
tu Bồ Đề hạnh; v́ chúng sanh, Ngài mới tu Phật
đạo. Đă tu thành Phật đạo, Ngài vẫn mong
độ chúng sanh, độ thoát vô lượng chúng sanh.
Khi Địa Tạng Bồ Tát tán thán đức Phật,
đức Phật hoàn toàn chẳng phải như Thích Ca
Mâu Ni Phật mà tất cả chúng ta thường thấy:
Từ phát tâm, chứng Bồ Đề, cho đến
độ chúng sanh, thành Phật, nhập Niết Bàn [chỉ
trong một đời]. Địa Tạng Bồ Tát chẳng
thấy như vậy, [mà là thấy đức Bổn
Sư] đă thành Phật độ chúng sanh, chúng sanh
được độ lại thành Phật, thành Phật
rồi lại thị hiện làm chúng sanh. Làm chúng sanh lại
tu, tu rồi lại thành Phật. Đó là một vị Phật
không ngừng độ chúng sanh. Mấy câu này có ư nghĩa
như thế đó.
(Kinh) Điều phục
chư ác kiến, thiên, long, nhân, dược xoa, an trụ
năng đoạn Hoặc, như kim cang thánh đạo.
(經)調伏諸惡見,天龍人藥叉,安住能斷惑,如金剛聖道。
(Kinh: Điều phục
các ác kiến, trời, rồng, người, dược
xoa, an trụ đoạn trừ Hoặc, như kim cang thánh
đạo).
Ác kiến tức là kiến
giải tà ác rất khó điều phục, hiện thời
chúng ta thường gặp phải. Quư vị nói những
thiện đạo tốt lành với họ, họ chẳng
nghe lọt tai. Ác kiến của họ chẳng thể
nghĩ bàn. Ác kiến là ǵ? Chúng ta có thể thường
xuyên nghe thấy. Chúng ta nói “giết người là không
đúng”, họ vặn lại: “V́ sao giết người
không đúng? Tao không giết nó, nó sẽ giết tao”. Hoặc
là kẻ đó cũng chẳng giết người, hắn
v́ cướp tiền mà giết người. Chúng ta thấy
xác chết không đầu, hoặc thi thể vô danh, chẳng biết là ai giết! Giết rồi vứt
bỏ. Quư vị phải t́m ra nguyên nhân v́ sao? Tại Đài
Loan, có những đứa thanh niên đua xe, cưỡi
trên xe, nổ súng vào xe người khác đang lái. Trông thấy
kẻ chẳng vừa mắt liền vung đao giết gọn,
oán cừu ǵ cũng chẳng có! Đấy là nghiệp ǵ vậy?
Đấy là cộng nghiệp của chúng sanh trong hiện
thời cảm vời. Thứ kiến giải ấy có phải
là ác kiến hay không? Quư vị hỏi chúng nó v́ sao lại dấy
lên cách nh́n ấy, đối với chính ḿnh có lợi ích
chi đâu? Chúng nó cũng chẳng có mong cầu ǵ, chẳng
phải là v́ bọn chúng coi giết người là chuyện
vui sướng ư? Đấy gọi là ác kiến. Nếu
muốn điều phục những ác kiến ấy, mọi
người hăy ngẫm xem, có dễ điều phục hay
không? Chúng nó có nghe khuyên bảo hay không? Rất khó!
Dược Xoa (Yakşa) chính là Dạ
Xoa. Chúng ta thường nói đến Dược Xoa. Dạ
Xoa là ma quỷ, nhưng vẫn có những quỷ tốt
lành, có những loài tốt lành. Có những Dạ Xoa Đại
Tướng là hộ pháp. Người, trời, rồng
cũng có kẻ ác, đều là có thiện lẫn ác.
Điều phục các ác kiến, chế phục trời,
rồng, người, Dược Xoa thuộc loại ác.
“An trụ năng đoạn
Hoặc” (an trụ, có thể đoạn Hoặc): Khiến
cho họ đoạn tuyệt ác kiến, an trụ trong thiện
đạo, an trụ trong kim cang thánh đạo, cần sức
mạnh lớn cỡ nào? Do vậy, chỉ có Phật và các
vị đại Bồ Tát mới có thể điều phục.
Chuyện này cũng cần phải hữu duyên, mà cũng
phải có thiện căn. Trong kinh Phật, có nhiều vị
Bồ Tát như thế, có nhiều đức Phật
dường ấy, [thế mà] có người ngay cả
danh hiệu các vị Phật, Bồ Tát cũng chẳng
nghe thấy, ngay cả nhân duyên thoảng qua tai cũng không
có, làm sao có thể điều phục họ cho được?
Giống như vây quanh chúng ta là lục
thân quyến thuộc, mọi người đều có ḷng
yêu thương ta, đối với con cái của chính ḿnh
đặc biệt thương yêu, nhưng trọn chẳng phải là quư vị nói, họ sẽ nghe theo.
Nếu dễ độ như vậy, hiện thời chẳng
c̣n chúng sanh ác nữa! Tôi đến nhà tù Thổ Thành ở
Đài Loan, thấy những tù nhân trọng phạm đều
là bọn trẻ tuổi! Tống họ vào trong đó, quản
giáo họ như vậy, họ đều chẳng nghe
theo. Quư vị dùng thiện tâm khuyên họ, họ có nghe lời
quư vị hay không? Mong họ nghe lời quư vị th́ phải
có đại oai lực, bản thân quư vị cũng phải
tu đức trọn đủ. Đức chẳng đủ, sẽ chẳng
được! “Đức chẳng đủ cho kẻ
khác phục, oai chẳng đủ để trị người
khác”. Họ làm sao nghe lời quư vị cho được?
Do vậy, phải cậy vào chính ḿnh tự tu. Phật tự
tu trước hết. Địa Tạng Bồ Tát tán thán
điều này.
(Kinh) Thọ vô lượng
hữu t́nh, đắc thắng Bồ Đề kư, thành Ứng
Cúng đạo thủ, tối thượng lương
phước điền.
(經)授無量有情,得勝菩提記,成應供導首,最上良福田。
(Kinh: Thọ kư vô lượng
chúng, đắc Bồ Đề thù thắng, thành Ứng
Cúng đạo sư, ruộng phước tốt lành nhất).
Đấy là tốt đẹp.
Vô lượng hữu t́nh chúng sanh phát tâm hành đạo,
siêng tu Lục Ba La Mật, đức Phật sẽ thọ
kư họ đắc Bồ Đề thù thắng, tức là
nói trong tương lai, người ấy nhất định
có thể thành Phật, trong tương lai nhất định
có thể thành bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, làm người hướng dẫn cho hết thảy
chúng sanh, làm ruộng phước tốt lành nhất cho hết
thảy chúng sanh, cũng chính là thành Phật.
(Kinh) Thế Tôn vô đẳng
lữ, phổ phú chư quần sanh, vô lượng đại
danh văn, sung măn thập phương giới.
(經)世尊無等侶,普覆諸群生,無量大名聞,充滿十方界。
(Kinh: Thế Tôn không ai bằng,
che chở khắp quần sanh, thanh danh rền vô lượng,
tràn ngập mười phương cơi).
Hết thảy những vị
ngang hàng có thể sánh bằng đức Thế Tôn th́ phải
là hết thảy chư Phật. Chẳng có ai hơn nổi
Phật, mà cũng chẳng có ai bằng Phật! Chỉ có
Phật mới có thể phổ độ hết thảy
quần sanh, tức là hết thảy chúng sanh. Phật
đều có thể che chở họ trọn khắp. “Phổ
phú” (普覆, che phủ khắp)
có nghĩa là có thể vun bồi họ, khiến cho họ
tăng trưởng, thành Phật, có thanh danh giống
như Phật: Tiếng rền khắp mười
phương, các cơi nước trong mười
phương đều biết Thích Ca Mâu Ni Phật. Đấy
là đại thanh danh của Phật, cho đến mười
hiệu của Phật, tức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri… vị Phật nào cũng đều có mười
hiệu ấy.
(Kinh) Thị cố
chư Bồ Tát, vị thành tựu kỷ sự, hàm cộng
lai quy y, Đại Mâu Ni túc hạ.
(經)是故諸菩薩,為成就己事,咸共來歸依,大牟尼足下。
(Kinh: Do vậy, các Bồ
Tát, v́ thành tựu chuyện ḿnh, đều cùng đến
quy y, dưới
chân Đại Mâu Ni).
Bồ Tát là Bồ Đề
Tát Đỏa (Bodhisattva), tức Giác Hữu
T́nh, là những vị Bồ Tát phát đại tâm trong
mười phương pháp giới, mong lợi ích chúng
sanh, tức là những người mong làm cho hết thảy
hữu t́nh đều giác ngộ, phát đại Bồ Tát
tâm, thành tựu chính ḿnh, thành tựu sự nghiệp của
Phật, khéo độ chúng sanh, đều quy hướng
Thích Ca Mâu Ni Phật. “Hàm cộng lai quy y, Đại Mâu Ni
túc hạ” nghĩa là “đều quy thuận dưới
chân đức Thế Tôn, tức là Thích Ca Mâu Ni Phật”.
Đại Tịch Diệt là đại Niết
Bàn, Mâu Ni dịch nghĩa là Tịch Diệt.
(Kinh) Văn sở thuyết
diệu pháp, giai sanh hoan hỷ tâm, khởi tăng thượng
chánh cần, tu tập Bồ Đề hạnh.
(經)聞所說妙法,皆生歡喜心,起增上正勤,修習菩提行。
(Kinh: Nghe nói pháp nhiệm
mầu, đều sanh ḷng hoan hỷ, khởi chánh cần
tăng thượng, tu tập hạnh Bồ Đề).
Đến quy y Phật để
cầu thuyết diệu pháp. Diệu pháp là ǵ? Diệu Pháp
Liên Hoa Kinh cũng là diệu pháp, kinh Kim Cang cũng là diệu
pháp. “Diệu” (妙) là chẳng thể
nghĩ bàn, rất vi diệu. Trong tâm chúng ta chẳng thể
nghĩ đến, nghị luận chẳng được,
th́ gọi là Diệu. Quy luật, quy tắc, đó là Pháp,
chính là những ǵ khiến cho hiểu rơ. Nói cách khác, [hiểu
rơ] chính là khai ngộ. Chẳng khai ngộ, đức Phật sẽ không nói. Chúng ta chẳng hiểu rơ,
đức Phật vừa nói, chúng ta liền hiểu rơ.
Đó gọi là “diệu pháp”. Chúng ta chẳng biết
khổ do đâu mà có, đức Phật liền dạy Khổ
là do Tập mà có, tức chiêu cảm. Có cái nhân th́ mới có
khổ quả. Muốn thoát ly th́ sao? Ngài dạy phải tu
Đạo. Tu Đạo chứng Tịch Diệt, khổ quả
liền đoạn. Đấy là diệu pháp. Nếu chẳng
có trí huệ, hăy khởi lên quán chiếu, khởi lên tư
duy cho nhiều. Đối với hết thảy sự vật,
chẳng hiểu th́ phải học: Đóa hoa này sanh ra
như thế nào? V́ sao nó có màu vàng? Tùy tiện nêu ra một
sự vật, [sẽ thấy] chuyện chúng ta không biết
quá nhiều! Dùng trí huệ của Phật để chỉ
dạy chúng ta, những điều ấy đều gọi
là “diệu pháp”. Đấy là chẳng
thể nghĩ bàn! Các diệu pháp ấy
chỉ là nói đến pháp tắc để thoát sanh tử,
chứng Niết Bàn.
Nghe đức Phật nói loại diệu pháp ấy liền sanh tâm đại
hoan hỷ. Chúng sanh đă sanh tâm hoan hỷ, sẽ chánh
đáng siêng năng, hăng hái tu học,
sẽ sanh khởi sự chánh cần (正勤, siêng năng chánh
đáng) tăng thượng, tức là “khởi tăng
thượng chánh cần”. Nay chúng ta tuy siêng tu chánh
đáng (chánh cần), nhưng vẫn
chưa đủ tăng thượng. Phải dốc sức
thêm, tăng thêm cái tâm thù thắng, tăng thêm cái tâm tinh tấn.
Quư vị đă có cái tâm xuất ly, lại thêm tâm tăng
thượng, sẽ như thế nào? Tu tập giác ngộ,
phát khởi Bồ Đề tâm. Đấy cũng là tu tập
tánh môn giác ngộ. Cần phải làm như thế nào?
(Kinh) Do đạo
sư pháp lực, giai tốc chứng Bồ Đề, cố
kim giả đạo sư, Đại Tập vị tằng
hữu.
(經)由導師法力,皆速證菩提,故今者導師,大集未曾有。
(Kinh: Do pháp lực đạo
sư, đều mau chứng Bồ Đề, v́ thế
nay đạo sư, Đại Tập chưa từng có).
Do pháp lực của bậc
đạo sư, khiến cho các vị Thanh
Văn Tăng, Bồ Tát Tăng ấy đều rất
nhanh chóng chứng quả rốt ráo. Bồ Đề chính
là quả rốt ráo. V́ thế, nay con tán thán Phật, đại
pháp hội trong hiện tại đúng là chưa từng có,
cho nên con đến tùy hỷ.
(Kinh) Thập tam triệu
Dược Xoa, hằng đạm chư huyết nhục,
giai xả chư ác nghiệp, tốc thú đại Bồ
Đề.
(經)十三兆藥叉,恆啖諸血肉,皆舍諸惡業,速趣大菩提。
(Kinh: Mười ba
triệu Dược Xoa, luôn ăn các máu thịt, đều
bỏ các ác nghiệp, hướng ngay đại Bồ
Đề).
Có ǵ để chứng minh
[những người được pháp lực của đấng đạo sư tiếp
dẫn sẽ nhanh chóng chứng Bồ Đề] hay không? Ở đây,
nêu lên một trường hợp: Địa Tạng Bồ
Tát vừa đến, liền biết trong pháp hội này có
rất nhiều người đắc độ, rất
nhiều người nghe pháp khai ngộ, ở trong hội
Đại Tập này, họ sẽ chứng Bồ Đề.
Ngài nêu ra một con số: “Mười ba triệu Dược
Xoa”. Những quỷ Dạ Xoa ấy đều là hạng
ăn máu thịt, luôn ăn thịt chúng sanh. Trong hội
Đại Tập này, mười ba triệu Dạ Xoa do
nghe diệu pháp của đức Phật, họ chẳng
tạo sát nghiệp nữa, chẳng c̣n năo hại chúng sanh.
“Giai xả chư ác nghiệp”: Đều bỏ các ác
nghiệp. “Tốc thú đại Bồ Đề”
(nhanh chóng tiến đến Bồ Đề): Đây là
như chúng ta thường nói: “Phóng hạ đồ
đao, lập địa thành Phật” (buông dao đồ
tể, ngay lập tức thành Phật). Trong hội Đại
Tập này, có mười ba triệu quỷ Dạ Xoa chẳng
c̣n tạo sát nghiệp, chẳng c̣n lưu chuyển theo nghiệp,
xả trừ nghiệp, tiến hướng Phật quả.
(Kinh) Hữu đắc
thắng tổng tŕ, an nhẫn cập tĩnh lự, hữu
vĩnh tận chư lậu, Ứng Cúng thế gian tôn.
(經)有得勝總持,安忍及靜慮,有永盡諸漏,應供世間尊。
(Kinh: Đắc tổng tŕ thù thắng, an nhẫn
và tĩnh lự, vĩnh viễn hết các lậu, thành Ứng
Cúng Thế Tôn).
Địa Tạng Bồ Tát
vừa đến nơi đây, do sức trí huệ của
Ngài, liễu giải trong không thể tính đếm Thanh
Văn Tăng, không thể tính đếm Bồ Tát Tăng,
có bao nhiêu vị chứng đắc Bồ Đề, có bao
nhiêu vị phát Bồ Đề tâm, bao nhiêu vị trụ Tứ
Nhiếp Pháp. Trí huệ của Địa Tạng Bồ Tát
rất lớn. Ngài vừa đến nơi đây, đă biết bao nhiêu người như vậy! Chúng
ta một người cũng chẳng biết, chẳng có
trí huệ, cho nên vẫn là chúng sanh khổ sở. Nh́n từ
sự tường
thuật trong kinh văn, trong phần trước,
đức Phật tán thán công đức của Địa
Tạng Bồ Tát. Địa Tạng Bồ Tát đến
nơi đây, cũng tán thán công đức của Phật,
cũng nói ra sự thù thắng của Phật pháp. Đức
Phật thuyết diệu pháp ở nơi đây, có mười
ba triệu Dược Xoa buông xuống sát nghiệp, từ ác nhất chuyển
biến thành thiện nhất. Lại c̣n có rất nhiều
người đắc Đà La Ni (Tổng Tŕ), chứng
đắc rất nhiều quả Đà La Ni, đắc
Thiền Định rất sâu, vĩnh viễn hết sạch
các lậu. Có người
thành Phật,“Ứng Cúng thế gian tôn” (đấng Ứng Cúng được thế giới
tôn trọng): Trong hội Đại Tập này, có
rất nhiều người thành Phật, nhiều người
buông dao đồ tể, rất nhiều người đắc
Tổng Tŕ, rất nhiều người đắc Lục
Ba La Mật. Có nhân duyên thù thắng dường ấy. Chúng
ta vẫn chẳng chứng đắc, bèn tùy hỷ đôi
chút, hy vọng mọi người đều đạt
được Tổng Tŕ thù thắng.
(Kinh) Hữu tu Tứ Vô Lượng, hữu trụ Tứ
Nhiếp pháp, hữu đắc Tứ Biện Tài, hữu an trụ Thuận Nhẫn, hữu đắc Kiện Hành Định,
hữu đắc diệu huệ nhăn, hữu trụ Vô Sanh
Nhẫn, giai do đạo sư lực.
(經)有修四無量,有住四攝法,有得四辯才,有安住順忍,有得健行定,有得妙慧眼,有住無生忍,皆由導師力。
(Kinh: Người tu Tứ Vô Lượng, kẻ trụ pháp Tứ Nhiếp, kẻ
chứng bốn biện tài, kẻ an trụ Thuận Nhẫn, kẻ
đắc Kiện Hành Định, kẻ đắc diệu huệ nhăn,
kẻ trụ Vô Sanh Nhẫn, đều do sức Đạo
Sư).
Đây là những lời lẽ
đẹp đẽ để
tán thán đức Phật của Địa Tạng Bồ
Tát. Từ những lời ca ngợi ấy, chúng ta có thể
thấy trí huệ của Bồ Tát. Thông thường, chúng
ta chiếu theo kinh điển để ca ngợi Bồ
Tát, ca ngợi Phật. Nếu chúng ta tự soạn lời
ca ngợi, sợ rằng cũng chẳng thể tán thán nổi.
Lời ca ngợi ấy bao gồm rất nhiều hàm
nghĩa, có khi là [tán thán] sự tu hành của đức Phật
trong lúc tu nhân, có lúc là sự biểu hiện nơi quả
đức, có khi là tán nhân, có lúc là tán quả, nói ra bài Già
Đà mầu nhiệm này, chính là những lời lẽ tán
thán chẳng thể nghĩ bàn.
“Tứ Vô Lượng” tức là bốn
vô lượng tâm “từ, bi, hỷ, xả”. Tứ Nhiếp
là trong lúc tu nhân, đức Phật đă dùng những lời
lẽ tốt đẹp tột bậc để nhiếp
thọ hết thảy chúng sanh. Họ nghe những lời
lẽ của Ngài, tâm sanh hoan hỷ. Sau đấy, tiến
nhập Phật môn. Hoặc Ngài thị
hiện đồng sự với họ, hoặc thị hiện
bố thí. Do vậy, trong mỗi bài kệ tán thán, đều hàm nhiếp
những chuyện đức Phật đă làm trong vô lượng
ức kiếp. Chúng ta nghe những danh từ ấy, cảm
thấy dường như quá dễ dàng. Thế nhưng, khi chúng ta thực hiện, sẽ [nhận
thấy] rất khó, v́ chúng ta có tâm đố kỵ. Thấy
kẻ khác làm chuyện tốt, tâm sanh ganh ghét. Không chỉ
chẳng ca ngợi, mà lúc người khác khen ngợi, vẫn
muốn nói chen vào những lời lẽ phá bĩnh: “Có ǵ
hay ho đâu? Ai làm chẳng được!” Chúng ta đọc
những lời lẽ ca ngợi này, trong tâm thường
nghĩ tưởng như thế, sanh khởi ḷng hổ thẹn,
phải học theo Phật, Bồ Tát tán
thán như thế nào.
Nếu trong lúc biểu
dương một đệ tử để mọi
người sanh khởi cảm xúc thù thắng, học
tập theo, hăy khéo dùng những lời lẽ ca ngợi,
xưng tán người đệ tử ấy thích đáng.
Chúng ta luôn cảm thấy khi Bồ Tát tán thán Phật, đều
là tán thán chẳng trọn hết. Ngoại trừ các vị như Địa Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền,
Di Lặc, Quán Âm, nếu các vị đại
Bồ Tát ấy tán thán, sẽ có thể nêu trọn công
đức của Phật. Chứ chúng ta chẳng thấu
hiểu sâu xa dường ấy! Nếu muốn tán thán công
đức của Phật, sẽ chẳng thể tán thán nổi,
tán thán chẳng cùng tận.
Trong lời tán thán của
Địa Tạng Bồ Tát, từ trước đến
giờ, đều là tán thán những ǵ? Ngài nói: “Đức
Phật thật tuyệt diệu, con thấy các vị trong hội Đại Tập này đạt
được lợi ích nơi pháp”. Ngài tán thán
đức Phật giáo hóa các vị ấy, hội
này chẳng phải là hội Đại Tập ư? Thanh
Văn Tăng và Bồ Tát Tăng đều chẳng thể
tính đếm ư? Ở trong pháp hội này, có các vị do được đức Phật chỉ dạy,
có những người tu Tứ Vô Lượng Tâm; có
người do đức Phật dạy bèn tu Tứ Nhiếp
Pháp. Có người do được đức Phật dạy
bảo mà ở trong hội này
tu Tứ Vô Ngại Biện.
Tứ Nhiếp là ǵ? Chính là Bố
Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành, và Đồng Sự. Tứ Biện
Tài là ǵ? Pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ vô ngại,
biện vô ngại. Ở đây, c̣n có “Kiện Hành Định”, Kiện Hành
Định chính là Thủ Lăng Nghiêm tam-muội. Danh từ
Pháp Tướng liên quan tới mỗi bộ kinh. Mỗi bộ kinh đều có ư nghĩa như thế
nào, quư vị hăy tự xem, v́ các ư nghĩa ấy chẳng
phải là ư nghĩa chủ yếu mà chúng tôi muốn nói. Ư
nghĩa chủ yếu là ǵ? Chúng ta muốn tu hành theo kinh Thập
Luân th́ phải tu hành như thế nào? “Tu hành” là chúng
ta phải quán tưởng như thế nào? Có thể tu
Định như thế nào? Khai huệ như thế nào?
Đặc biệt là tuy chỉ có sáu chữ “sổ, tùy,
chỉ, quán, chuyển, tịnh”, nhưng các hàm nghĩa
trong ấy quá nhiều, chúng ta có thể từ nhập môn
mà một mực hành cho đến khi đắc Định.
“Diệu huệ nhăn” (mắt
trí huệ mầu nhiệm) là lời ca ngợi đức
Phật, ư nói: Trong hội này, có nhiều người dường
ấy c̣n đạt được con mắt trí huệ, tức
là đạt được diệu huệ nhăn nơi chánh
pháp nhăn tàng. Có người đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô
Sanh Pháp Nhẫn là chứng đắc pháp tánh, chứng
đắc Lư Thể, liễu giải, ngộ nhập hết
thảy các pháp vô sanh. Có thể hiểu chữ Nhẫn (忍) là “tán thành”. Có
người trụ trong Vô Sanh Pháp Nhẫn là do các sức mạnh nào? V́ sao các đạo hữu trong hội
có sức mạnh như thế ấy? Đều là do sức
của đấng Đạo Sư, tức là sức dạy
bảo của đức Phật.
(Kinh) Thế Tôn đại
oai lực, tồi diệt chúng ma oán, hàng phục chư ngoại
đạo, cửu thập ngũ dị loại.
(經)世尊大威德,摧滅眾魔怨,降伏諸外道,九十五異類。
(Kinh: Thế Tôn oai đức
lớn, dẹp tan các ma oán, hàng phục các ngoại đạo,
chín mươi lăm dị loại).
Đại chúng trong pháp hội
này hễ c̣n có các chướng ngại, bị oán địch
quấy nhiễu, do oai lực của Phật, các thứ ấy đều bị dẹp tan. “Cửu
thập ngũ dị loại” cũng là [chín mươi
lăm thứ] ngoại đạo.
(Kinh) Tận địa
ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, phi thiên thú, cố chân thật
hữu t́nh, hàm quy tôn túc hạ.
(經)盡地獄傍生,餓鬼非天趣,故貞實有情,咸歸尊足下。
(Kinh: Trọn địa
ngục, súc sanh, ngạ quỷ, nẻo phi thiên, các hữu t́nh
chân thật, đều quy ngưỡng Thế Tôn).
C̣n có địa ngục, bàng
sanh (súc sanh), ngạ quỷ, những loài phi thiên (chẳng
phải là chư thiên), [“phi thiên”] tức là các hữu t́nh chẳng thuộc vào thiên đạo, mà
cũng chẳng phải là nhân loại, ở đây là nói
đến A Tu La. Tuy họ có phước giống như
chư thiên, cũng thuộc vào thiên đạo,
nhưng họ chẳng giống chư thiên. [Do vậy, bài
kệ này] nói về lục đạo chúng sanh: Địa
ngục, ác quỷ, súc sanh, trời, người, và A Tu La. Đấy là gồm trọn lục đạo.
Tất cả hội chúng trong hội Đại Tập
đều quy y dưới chân đức Phật. “Hàm
quy tôn túc hạ” (đều nương về dưới
chân bậc tôn kính), [“bậc tôn kính”] tức là đức Phật.
(Kinh) Kim giả tức
đao binh, dịch bệnh, cơ cẩn kiếp,
độ mê thất chánh đạo, manh minh chư hữu
t́nh.
(經)今者息刀兵,疫病饑饉劫,度迷失正道,盲冥諸有情。
(Kinh: Nay dứt bặt
đao binh, kiếp đói kém, bệnh dịch, độ kẻ
mê đường chánh, các hữu t́nh mù tối).
Nếu có đao binh kiếp
(chiến tranh), do oai lực của Phật, đao binh kiếp
chấm dứt. Nếu có bệnh khổ lan tràn, hoặc nạn
đói kém, hoặc trong khi hoại kiếp, rất nhiều
chúng sanh mê mất chánh đạo, đức Phật đều
độ họ. “Manh minh chư hữu t́nh” (những
hữu t́nh mù tối) là những kẻ ở trong hắc
ám. Chữ Minh (冥) vốn nói tới
sự tối tăm. Những kẻ ấy do thần kinh bất
b́nh thường, dường như vĩnh viễn ở
trong tối tăm. Các hữu t́nh
như thế ở trong cảnh tối tăm, thường
nói là “có mắt mà chẳng thấy”, v́ nơi thân chẳng hề
thấy có quang minh. Nói “manh minh” là một cách h́nh dung vậy.
(Kinh) Chư phiền năo
cuồng loạn, giai an tịch diệt đạo, cố
ngă xả chư duyên, lai lễ kính tôn túc.
(經)諸煩惱狂亂,皆安寂滅道,故我舍諸緣,來禮敬尊足。
(Kinh: Kẻ phiền năo
cuồng loạn, đều trụ đạo tịch diệt,
nên con bỏ các duyên, đến lễ kính Thế Tôn).
C̣n có những kẻ phiền
năo, cuồng loạn. Chữ “cuồng loạn” bao
hàm rất nhiều ư nghĩa, chẳng tin chánh đạo,
chẳng có chánh tri kiến, tà kiến cũng chẳng ít.
[Đức Phật] khiến cho những người ấy
an trụ trong đạo tịch diệt, sức mạnh ấy
rất chẳng thể nghĩ bàn. V́ con thấy trong hội
Đại Tập này có nhiều công đức dường
ấy, nhiều lợi ích chẳng thể nghĩ bàn dường
ấy. “Cố ngă xả chư duyên” (nên con bỏ các
duyên): Địa Tạng Bồ Tát nói: “Con buông xuống hết
thảy các nhân duyên, buông xuống toàn bộ các duyên khác để đến lễ Phật”. Điều này
mang ư nghĩa cầu gia tŕ, “lai lễ kính tôn túc” (đến
lễ dưới chân bậc tôn kính).
(Kinh) Vô biên chư Phật
độ, hiện tại chư đạo sư, hàm quảng
tán Thế Tôn, văn giả giai lai thử.
(經)無邊諸佛土,現在諸導師,咸廣讚世尊,聞者皆來此。
(Kinh: Vô biên các cơi Phật,
các đạo sư hiện tại, đều rộng tán
Thế Tôn, người nghe đều đến đây).
Đây là Địa Tạng
Bồ Tát xưng tán: Con thấy vô biên cơi Phật, có rất
nhiều cơi nước giáo hóa của đức Phật, mỗi
vị Phật trong các quốc độ ấy đều
tán thán công đức chẳng thể nghĩ bàn của
Thích Ca Mâu Ni Như Lai, đều đang tán thán đức
Thế Tôn. V́ sao? Ngài đang ở trong chốn khổ sở
nhất, nhằm thuở ác thế ngũ trược để độ chúng
sanh, cho nên những ai thấy nghe, không ai chẳng sanh ḷng
hoan hỷ to lớn.
(Kinh) Ngă văn Biến
Tri hải, chân thật đức vô biên, độ thoát
chư hữu t́nh, tâm hoan hỷ kính lễ. Tằng tu vô lượng phước,
kim đắc lễ tôn túc, nguyện vô lượng kiếp
trung, thường tu đa cúng dường.
(經)我聞徧知海,真實德無邊,度脫諸有情,心歡喜敬禮。曾修無量福,今得禮尊足,願無量劫中,常修多供養。
(Kinh: Con nghe biển Biến
Tri, đức chân thật vô biên, độ thoát các hữu
t́nh, tâm hoan hỷ kính lễ, từng tu vô lượng
phước, nay được lễ Thế Tôn, nguyện
trong vô lượng kiếp, thường tu nhiều cúng dường).
Khi bái sám có mấy câu như
vậy, trước kia, tôi chẳng t́m thấy xuất xứ,
sau này, đọc kinh Thập Luân mới biết xuất xứ:
Ngẫu Ích đại sư đă trích lục từ chỗ
này, chứ trong kinh Địa Tạng chẳng có, mà kinh
Chiêm Sát cũng chẳng có. “Biến Tri hải” (biển Chánh Biến Tri) là Phật đạo.
Con liễu giải Phật, biết trí huệ của Phật,
pháp âm do Ngài nói có thể giải trừ nỗi khổ cùng
cực của hết thảy chúng sanh. Phật có chân thật
đức, [các công đức
được nói] trong phần trước là Đế
đức, tức là công đức sanh khởi xứng hợp
lẽ Chân, cho nên gọi là “chân thật đức”. Do
tánh thể trọn khắp hết thảy mọi nơi,
cho nên đức ấy cũng trọn khắp hết thảy
mọi nơi, vô biên. Trong câu “độ thoát chư hữu
t́nh”, “độ” là đức Phật giáo hóa, “thoát”
là chúng sanh thoát ly khổ nạn, có thể độ
thoát. Các hữu t́nh chúng sanh ấy đă ĺa thoát khổ nạn, được hưởng
vui sướng, tâm sanh khởi đại hoan hỷ, có thể
lễ Phật. Chẳng dễ ǵ thấy Phật! Nếu
chẳng tu vô lượng phước đức, có mong lễ
Phật cũng chẳng được!
“Tằng tu vô lượng
phước, kim đắc lễ tôn túc” (từng tu vô
lượng phước, nay được lễ dưới
chân bậc tôn kính): Sở dĩ chúng ta có thể bái sám, là do
nhiều đời nhiều kiếp tu tập mà ra! Đừng
nói là chúng ta hằng ngày bái sám, dẫu chỉ đến
chùa lễ một lạy, vẫn là chẳng thể
nghĩ bàn rồi! Kinh Pháp Hoa dạy: “Nhược nhân
ư tháp miếu trung, đơn hiệp chưởng, tiểu
đê đầu, giai dĩ thành Phật đạo” (Nếu
ai ở trong tháp, miếu, chỉ giơ một tay làm lễ,
hơi cúi đầu, đều đă thành Phật đạo).
Có khi nói là “Phật đạo giai dĩ thành” (Phật
đạo đều đă thành), c̣n kinh Pháp Hoa th́ nói “giai
dĩ thành Phật đạo”.
Có những kẻ chỉ nói
theo văn tự, [cho rằng] chỉ cần đến
tháp, miếu chắp tay, cúi đầu th́ đều đă
thành Phật đạo. Có một giáo sư thuộc đại
học Hạ Môn (Amoy) đă từng hỏi
tôi về vấn đề này. Ông ta hỏi: “Tôi lễ Phật
mỗi ngày, không chỉ là giơ một tay, mà chắp cả
hai tay, vẫn chẳng thành Phật! Những lời ấy
có khuyết điểm”. Tôi giải thích: “Những lời ấy
chẳng có khuyết điểm tí nào! Phàm là người
đến tháp, miếu, có thể chỉ giơ một tay [để
lễ kính], hơi cúi đầu, đă đều thành Phật.
Điều ấy xác nhận: Nay ông đă đến, có thể
trông thấy tượng Phật, chỉ giơ một tay
lễ kính, trong tương lai, nhất định sẽ
thành Phật, trọn chẳng phải là hiện tại ông
đă thành Phật. Quá khứ chư Phật gieo thiện
căn, trong khi tu nhân, các Ngài đă
gieo như thế. Cho nên các Ngài đă thành tựu Phật
đạo, chứng minh: Trong hiện tại, bất luận
vị nào có thể trông thấy tượng Phật mà có thể
giơ một tay lễ kính, hơi cúi đầu, trong
tương lai, nhất định sẽ có thể thành Phật.
Từ quá khứ mà chứng minh hiện tại”.
Do vậy, nếu quá khứ
chẳng tu vô lượng phước th́ nay quư vị sẽ
chẳng thể lễ Phật. Câu ấy có nghĩa như
vậy đó. Chúng ta không chỉ lễ Phật, lại c̣n
bái Phật, hằng ngày bái sám, chứng tỏ: Trong quá khứ,
chúng ta đă tu vô lượng phước. V́ thế, phải phát nguyện “nguyện vô lượng kiếp
trung, thường tu đa cúng dường” (nguyện
trong vô lượng kiếp, thường tu nhiều cúng
dường) ḥng có thể cúng dường đức Thế
Tôn.
(Kinh) Ngă kim học Thế
Tôn, phát như thị thệ nguyện, đương
ư thử uế độ, đắc Vô Thượng Bồ
Đề.
(經)我今學世尊,發如是誓願,當於此穢土,得無上菩提。
(Kinh: Con nay học Thế
Tôn, phát thệ nguyện như thế, sẽ trong cơi uế
này, đắc Vô Thượng Bồ Đề).
“Ngă” (con) là Địa Tạng
Bồ Tát tự xưng. Trong thuở quá khứ, đức
Thế Tôn phát nguyện như vậy. Thoạt đầu,
Thích Ca Mâu Ni Phật nghe danh hiệu của năm
mươi ba vị Phật, Ngài lần lượt hướng
về người khác truyền tụng, [những người
ấy] nay chính là ba ngàn vị Phật, cũng là ba ngàn vị
Phật trong Vị Lai Tinh Tú Kiếp, Hiện Tại Hiền
Kiếp, và Quá Khứ Trang Nghiêm Kiếp
khi chúng ta niệm kinh [Tam Thiên Phật Danh]. Ba ngàn vị Phật
trong ba kiếp thoạt đầu được nghe danh hiệu
của năm mươi ba vị Phật, gieo thiện
căn, dần dần tu hành, đều thành Phật. Địa
Tạng Bồ Tát tự khiêm, Ngài nói: “Nay con cũng học
theo Phật, cũng phát các thệ nguyện giống như
hội Đại Tập của đức Phật trong hiện
thời. Chính ḿnh cũng tu hành trong cơi uế vào lúc đời ác
Ngũ Trược này, chẳng ở trong quốc độ
thanh tịnh, [chịu đựng] hết sức nhiều
chướng ngại. Tu hành ở trong ấy chứng đắc
Vô Thượng Bồ Đề. Thích Ca Mâu Ni Phật phát
nguyện, do nhiều đời nhiều kiếp tu nhân mà
thành tựu”.
(Kinh) Nhĩ thời,
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát dĩ diệu già-tha lễ
tán Phật dĩ.
(經)爾時,地藏菩薩摩訶薩以妙伽他禮讚佛已。
(Kinh: Khi ấy, Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát dùng bài kệ mầu nhiệm lễ
tán đức Phật rồi).
Địa Tạng Bồ Tát
vừa lễ vừa tán, tức là vừa tán thán vừa đảnh
lễ. Giống như khi chúng ta lễ Phật, cũng là
tán thán và kính lễ. Chúng ta chẳng thể soạn kệ,
bèn lấy các bài kệ tán Phật của các vị Bồ
Tát để niệm, như trong phần trùng tụng của
phẩm Phổ Hiền, có rất nhiều bài kệ tán thán
Phật, đều có thể dùng để tán thán Phật.
C̣n có những bài có thể dùng để niệm sám hối
tội lỗi, chẳng phải là thuần túy tán thán công
đức của Phật, mà c̣n sám hối tội của
chính ḿnh, ai nấy đều phải tiêu trừ nghiệp
chướng của chính ḿnh. Trong khi chúng
ta lạy Phật, vừa lạy, vừa tưởng: “Nguyện
tiêu tam chướng chư phiền năo, nguyện đắc
trí huệ chân minh liễu, phổ nguyện tội chướng
tất tiêu trừ, thế thế thường
hành Bồ Tát đạo” (nguyện tiêu ba chướng,
các phiền năo, nguyện được chân trí hiểu
thông tỏ, nguyện các tội chướng thảy tiêu trừ,
đời đời thường hành Bồ Tát đạo).
Vừa niệm, vừa lễ, đă
tán Phật, lại sám hối tội lỗi, lại phát
nguyện. Đấy đều là những bài kệ do bậc đại Bồ Tát đă
soạn cho chúng ta.
Chính ḿnh cũng có thể soạn
kệ tụng, viết kệ, tùy thuộc ư nguyện của
chính quư vị. Quư vị học rất nhiều kinh, chính
ḿnh mong cầu chuyện ǵ, bèn soạn kệ
để chính ḿnh tán tụng. Chúng ta thấy bài kệ tán
thán Văn Thù Bồ Tát của đại sư Tông Khách Ba
(Tsongkhapa)[2].
Hiện thời, những bài kệ mà pháp sư Hoằng
Giác đọc khi giảng Bồ Đề Đạo Thứ
Đệ Luận đều do đại sư Tông Khách Ba
soạn ra, nguyện hết thảy chúng sanh đều
thành Phật. Tuy chỉ là bài tán tụng để niệm,
nhưng thật ra là tu hành. Đấy là các vị Bồ
Tát tán xướng lẫn nhau. Địa Tạng Bồ Tát
đến pháp hội Đại Tập này, trong khi lễ Phật,
đă nói tất cả
ba mươi bốn bài kệ. Ngài khởi đầu
bằng tán tụng, dùng tất cả ba mươi bốn
bài kệ tụng để tán thán. Sau khi tán thán, lễ bái,
lại c̣n phụng hiến cúng dường.
(Kinh) Dữ chư quyến
thuộc, phục tŕ vô lượng thiên diệu
hương, hoa, chủng chủng bảo sức, nhi tán Phật
thượng, biến thành bảo cái, trụ hư không
trung, vị thính pháp cố, tức ư Phật tiền,
nghiễm nhiên nhi tọa.
(經)與諸眷屬,復持無量天妙香華、種種寶飾而散佛上,變成寶蓋住虛空中,為聽法故,即於佛前儼然而坐。
(Kinh: Cùng các quyến thuộc
lại cầm vô lượng hương, hoa mầu nhiệm
cơi trời và các thứ trang hoàng quư báu rải trên đức
Phật, biến thành lọng báu, trụ trên hư không, v́
nghe pháp bèn ngồi đoan nghiêm trước đức Phật).
Quyến thuộc đông
đảo như vậy đều dùng hương, hoa mầu
nhiệm, và các thứ trang hoàng báu để cúng Phật. Những
vật ấy, những thứ hoa báu khi rải lên hư
không, đều biến thành lọng báu. Lọng báu giống
như dù che, biến thành lọng báu che trên đức Phật.
Sau khi tán thán, lễ bái, bèn “Phật tiền nghiễm
nhiên nhi tọa” (ngồi đoan nghiêm trước đức
Phật), cũng tức là rất thận trọng, trang
nghiêm đến ngồi trong hội.
(Kinh) Nhĩ thời, nhất
thiết chư lai đại chúng, kư kiến Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát dĩ, giai hoạch hy kỳ, đắc vị
tằng hữu, các tŕ chủng chủng thượng diệu
hương, hoa, bảo sức, y phục, tràng, phan, cái
đẳng, phụng tán Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha
Tát nhi vi cúng dường, giai tác thị ngôn.
(經)爾時,一切諸來大眾既見地藏菩薩摩訶薩已,皆獲希奇,得未曾有,各持種種上妙香華、寶飾衣服、幢幡蓋等,奉散地藏菩薩摩訶薩而為供養,皆作是言。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
hết thảy đại chúng đến dự hội
đă thấy Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát xong,
đều cảm thấy hiếm lạ, đạt
được chưa từng có, ai nấy đều cầm
các thứ hương, hoa, vật trang hoàng báu, y phục,
tràng, phan, lọng v.v… thượng diệu dâng rải lên
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát để cúng dường,
đều nói như thế này).
Các đại chúng vốn
đến dự hội Đại Tập, trông thấy Địa Tạng Bồ Tát đi đến,
“giai hoạch hy kỳ”, tức là cảm thấy đặc
biệt hiếm lạ, do vị Bồ Tát ấy dùng lời
lẽ mỹ diệu để tán thán đức Phật,
họ cảm thấy rất thù thắng, mà cũng rất
cảm động, cho nên đều muốn cúng dường
Địa Tạng Bồ Tát.
(Kinh) Ngă đẳng kim
giả khoái đắc thiện lợi, nhân Phật thần
lực, thân đắc chiêm ngưỡng, lễ kính, cúng
dường như thị Đại Sĩ.
(經)我等今者快得善利,因佛神力,親得瞻仰、禮敬、供養如是大士。
(Kinh: Chúng tôi nay mau chóng
đạt được lợi ích tốt lành, do thần
lực của đức Phật mà đích thân được
chiêm ngưỡng, lễ kính, cúng dường bậc Đại
Sĩ như thế).
Sở dĩ chúng tôi đạt
được lợi ích rất to lớn, rất tốt
đẹp, đều là do thần lực của đức
Phật, cho nên mới có thể chiêm ngưỡng, kính lễ,
cúng dường vị Đại Sĩ này, tức là Địa
Tạng Bồ Tát.
(Kinh) Nhĩ thời,
chúng trung hữu Bồ Tát Ma Ha Tát, danh Hảo Nghi Vấn.
(經)爾時眾中,有菩薩摩訶薩,名好疑問。
(Kinh: Khi ấy, trong
đại chúng có vị Bồ Tát Ma Ha Tát tên là Hảo Nghi Vấn).
Ngay lúc ấy, trong hội có
một vị Bồ Tát Ma Ha Tát tên là Hảo Nghi Vấn, có
nghi bèn thưa hỏi. Trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo, vị phát khởi bộ kinh ấy là Kiên Tịnh Tín Bồ
Tát, tức vị Bồ Tát nêu câu hỏi trước tiên có
tên là Kiên Tịnh Tín, biểu thị chúng ta đều chẳng có tín tâm, nhưng Ngài th́ tín tâm hết sức
kiên định, hy vọng sẽ khiến cho mọi người
cũng [có tín tâm] kiên định giống như Ngài. Nay vị
đại Bồ Tát phát khởi ở đây là Hảo Nghi
Vấn. Bản thân Hảo Nghi Vấn Đại Bồ Tát
đă hết sức liễu giải Địa Tạng Bồ
Tát, cho nên Ngài đại diện đại chúng trong đại
hội, v́ người khác chẳng có trí huệ để
thưa hỏi. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát cũng v́ như thế
mà hỏi. Có lúc, chẳng có ai thưa hỏi, Văn Thù Bồ
Tát bèn thưa hỏi, như trong các kinh luận, đều
do Văn Thù Bồ Tát thưa hỏi. Trong lúc thưa hỏi
lẫn nhau, sẽ sanh ra các nghĩa lư, khiến cho đại
chúng trong pháp hội đạt được rất nhiều
lợi ích. Vị Hảo Nghi Vấn Bồ Tát này hễ có
nghi liền hỏi.
Tôi nhớ Vĩnh Gia đại
sư có mấy câu như thế này: “Viên đốn giáo
vô nhân t́nh” (Viên Đốn Giáo không có chuyện nói theo t́nh
cảm b́nh phàm), [ư nói]: Giáo lư viên măn chẳng thể nghĩ
bàn, kẻ b́nh phàm sẽ chẳng thể liễu giải
được! Chẳng thể nói theo t́nh cảm b́nh phàm,
chẳng có t́nh cảm b́nh phàm nào để nói được
(tức là chẳng v́ nghi vấn mà e ngại người
khác mích ḷng, hay sợ bị chê là ngu dốt, độn
căn mà cứ ôm măi nỗi nghi). “Hữu nghi bất quyết
trực tu tranh” (có nghi vấn chẳng quyết đoán
được th́ cứ thẳng thừng tranh biện): Ta
có chuyện hoài nghi chẳng thể quyết đoán
được, “trực tu tranh” nghĩa là cứ tranh
luận như vậy chẳng sao cả! Đừng nên
nghe người khác bảo thế nào, ta bèn nói rập khuôn
thế đó, người khác bảo sao, ta nghe vậy!
Đấy là chẳng đúng, quư vị cần phải hỏi.
“Hữu nghi bất quyết trực tu tranh, thị phi
sơn tăng tranh nhân ngă” (Hễ có nghi vấn mà chẳng
thể quyết đoán được, cứ thẳng thừng
tranh biện để giải quyết mối nghi, chẳng
phải là chuyện tranh chấp giữa ta với người
của các vị tăng): Chẳng phải là ta tranh luận
đúng, sai. “Tu hành khủng lạc đoạn thường
khanh” ([nếu không giải quyết nghi hoặc], sợ
rằng tu hành sẽ rơi vào hầm bẫy Đoạn Kiến
và Thường Kiến): Người tu hành chẳng hiểu
đạo lư ấy, nếu chẳng đọa vào Đoạn
Kiến, th́ cũng rơi vào Thường Kiến. Hảo
Nghi Vấn Bồ Tát thấy cảnh tượng và sự
biến hóa ấy, cho nên bèn đứng dậy, hướng
về đức Phật thưa hỏi.
(Kinh) Tùng ṭa nhi khởi,
chỉnh lư y phục, thiên đản nhất kiên, lễ Phật
song túc, hữu tất trước địa, hiệp
chưởng hướng Phật, nhi bạch Phật ngôn:
“Thế Tôn! Thử thiện nam tử tùng hà nhi lai? Sở
cư Phật quốc khứ thử viễn cận? Thành tựu
hà đẳng công đức thiện căn, nhi mông Thế
Tôn chủng chủng xưng thán? Phục năng tán Phật
bất khả tư nghị công đức pháp hải? Ngă
đẳng tích lai, vị tằng văn kiến, duy nguyện
vị thuyết”.
(經)從座而起,整理衣服,偏袒一肩,禮佛雙足,右膝著地,合掌向佛,而白佛言:「世尊,此善男子從何而來?所居佛國,去此遠近?成就何等功德善根,而蒙世尊種種稱嘆?復能讚佛不可思議功德法海?我等昔來,未曾聞見,唯願為說。」
(Kinh: Từ chỗ ngồi
đứng dậy, chỉnh đốn y phục, trật
y một bên vai, lễ dưới hai chân đức Phật,
gối phải đặt sát đất, chắp tay hướng
về đức Phật, bạch cùng đức Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Vị thiện nam tử này từ
đâu đến? Cơi Phật mà vị ấy ở
cách đây xa hay gần? Thành tựu công đức, thiện
căn như thế nào mà được đức Thế
Tôn xưng tán đủ mọi lẽ? [V́ sao] vị ấy
lại có thể tán thán biển pháp công đức chẳng
thể nghĩ bàn của đức Phật? Chúng con trước
nay chưa từng thấy, nghe, kính mong hăy nói cho”).
Trước hết, đức
Phật tán thán Địa Tạng Bồ Tát, “mông Thế
Tôn chủng chủng xưng thán, phục năng tán Phật
bất khả tư nghị công đức pháp hải”
(được đức Thế Tôn xưng tán đủ
mọi lẽ, [vị ấy] lại có thể tán thán biển
pháp công đức chẳng thể nghĩ bàn của đức
Phật). Tán thán kiểu ấy, tán thán chẳng thể
nghĩ bàn, những kẻ b́nh phàm sẽ chẳng thể
tán thán được. Cớ sao trước nay [chúng con]
chưa hề nghe thấy? Chúng con chưa từng nghe thấy
vị đại Bồ Tát như thế, từ trước
đến nay chưa hề nghe thấy. “Duy nguyện vị
thuyết” [nghĩa là] xin đức Thế Tôn hăy giải
thích, khai thị cho chúng con. Có lúc khi chúng ta lễ sám xong, có
đạo hữu nói: “Sư phụ! Xin hăy khai thị”. Khai
thị điều ǵ? Quư vị có thắc mắc ǵ? Hăy nêu
ra câu hỏi. Hễ quư vị đối trước Phật
cầu chỉ dạy, đối trước tượng Phật cầu thỉnh,
ắt cần phải có nguyện lực, có mục đích
ǵ. Trước hết, quư vị phải có thắc mắc,
chẳng thể hồ đồ dập đầu nói
“đức Phật gia tŕ con” được! Giống
như quư vị mắc bệnh ǵ, cần phải hỏi
bác sĩ, th́ phải nói rơ căn bệnh. Phải có thắc
mắc rồi mới nêu ra câu hỏi.
(Kinh) Thế Tôn cáo viết:
- Chỉ! Thiện nam tử! Như thị Đại
Sĩ công đức, thiện căn, nhất thiết thế
gian thiên nhân đại chúng giai bất năng trắc kỳ
lượng thiển thâm. Nhược văn Như Lai vị
nhữ quảng thuyết như thị Đại Sĩ
công đức, thiện căn, nhất thiết thế
gian thiên nhân đại chúng giai sanh mê muộn, hoặc bất
tín thọ.
(經)世尊告曰:止!善男子!如是大士功德善根,一切世間天人大眾,皆不能測其量淺深。若聞如來為汝廣說如是大士功德善根,一切世間天人大眾,皆生迷悶,或不信受。
(Kinh: Đức Thế
Tôn bảo rằng: - Thôi đi! Thiện nam tử! Công đức
và thiện căn của vị Đại Sĩ như thế,
hết thảy đại chúng trời người trong thế
gian đều chẳng thể suy lường cạn hay
sâu. Nếu nghe Như Lai v́ ông rộng nói công đức và
thiện căn của vị Đại Sĩ như thế,
hết thảy đại chúng trời người trong thế
gian sẽ đều mê muội, mờ mịt, hoặc chẳng
tin nhận).
Đức Phật trả lời
Hảo Nghi Vấn Bồ Tát: “Chỉ” (thôi đi), tức
là ta không trả lời ông, chẳng cần phải hỏi
nữa! V́ sao ta không nói cho ông? “Như thị Đại Sĩ”,
công đức của vị đại Bồ Tát này, thiện
căn do Ngài đă tu, hết thảy đại chúng trời
người trong thế gian chẳng thể tin nhận, suy
lường mức độ cạn hay sâu của Ngài, sẽ chẳng thể
suy lường được! Giả sử ta đem công
đức của vị ấy nói cặn kẽ rồi, sẽ
có những kẻ sanh ḷng nghi báng, hoặc đâm ra mê muội,
mờ mịt. “Mê muộn” (迷悶) là chẳng thể lư giải!
(Kinh) Thời, Hảo
Nghi Vấn phục trùng thỉnh ngôn.
(經)時,好疑問復重請言。
(Kinh: Khi ấy, Hảo
Nghi Vấn lại thỉnh lần nữa như sau).
Hảo Nghi Vấn Bồ Tát
đă hỏi, đức Phật chẳng đáp. Ngài vẫn
muốn thỉnh, thỉnh lần nữa.
(Kinh) Duy nguyện Như
Lai ai mẫn vị thuyết.
(經)唯願如來,哀愍為說。
(Kinh: Kính mong đức
Như Lai xót thương nói cho).
Đă là như thế, [con vẫn]
cầu mong [Như Lai] thương xót hết thảy chúng
sanh, nói cho hết thảy chúng sanh. Hễ nói ra, chúng sanh sẽ
được phước, “được phước”
tức là ĺa khổ, được vui. Ngài thỉnh lần
nữa. Phàm là thỉnh một lần chẳng nói, chúng ta sẽ
thỉnh nữa. Có lúc, đức Phật
dù được thỉnh lần nữa, vẫn chẳng
nói. Thỉnh lần thứ ba, nhất định là đức
Phật sẽ nói. Một rồi hai, hai rồi ba lượt
thỉnh, trong rất nhiều bộ kinh, đều là thỉnh
từ một đến ba lượt. Kinh Pháp Hoa cũng vậy,
trước hết, đức Phật đáp ứng. Ngài
vừa mới đáp ứng sẽ nói, năm ngàn người
đang hiện diện đều lui ra, họ chẳng
nghe! Chưa đợi đến lúc đức Phật thuyết
pháp, họ đă lui về. Các đạo hữu nào đă
đọc kinh Pháp Hoa ắt biết chuyện này.
(Kinh) Phật ngôn: “Đế
thính! Thiện tư niệm chi”.
(經)佛言:諦聽!善思念之。
(Kinh: Đức Phật
dạy: “Lắng nghe! Hăy khéo suy niệm”).
Đă khải thỉnh lần
nữa, quư vị hăy “đế thính” (lắng nghe).
Trong phần trước là “đế ngữ, đế
kiến” (nói chắc thật, thấy chắc thật), ở
đây là “đế thính”. Mỗi lần đức Phật
trả lời đều dạy “đế thính”. “Đế
thính” là đúng như thật, [hàm ư] hăy lắng nghe đế
lư đúng như thật, hăy dụng
tâm mà nghe. Đừng dùng tai để nghe! Dùng tai để
nghe, sẽ từ tai này lọt sang tai kia, chớ nên! “Đế
thính” là mong quư vị hăy tư duy. Chỉ nghe suông là không
được, vẫn phải khéo suy niệm, phải khéo
quan sát.
(Kinh) Ngô đương
vị nhữ lược thuyết thiểu phần.
(經)吾當為汝略說少分。
(Kinh: Ta sẽ v́ ông nói
đại lược ít phần).
Nếu muốn nói viên măn công
đức của vị Đại Sĩ này, chỉ sợ
chẳng thể. Nay chỉ nói đại lược
đôi chút. “Thiểu phần” là rất ít.
(Kinh) Như thị Đại
Sĩ, thành tựu vô lượng bất khả tư nghị
thù thắng công đức.
(經)如是大士,成就無量不可思議殊勝功德。
(Kinh: Bậc Đại
Sĩ như thế thành tựu vô lượng công đức
thù thắng chẳng thể nghĩ bàn).
Vị Địa Tạng Bồ
Tát Đại Sĩ này đă thành tựu công đức thù
thắng chẳng thể nghĩ bàn. Tiếp đó, [đức
Phật] nêu ra công đức của Đại Sĩ.
(經)已能安住首楞伽摩勝三摩地,善能悟入如來境界,已得最勝無生法忍,於諸佛法已得自在,已能堪忍一切智位,已能超度一切智海,已能安住師子奮迅幢三摩地,善能登上一切智山,已能摧伏外道邪論,為欲成熟一切有情,所在佛國悉皆止住。如是大士,隨所止住諸佛國土,隨所安住諸三摩地,發起無量殊勝功德,成熟無量所化有情。
(Kinh: Đă có thể an
trụ chánh định Thủ Lăng Già Ma thù thắng,
khéo có thể ngộ nhập cảnh giới Như Lai,
đă đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn tối thắng, đă
được tự tại trong các Phật pháp, đă có
thể kham nhẫn địa vị Nhất Thiết Trí,
đă có thể vượt qua biển Nhất Thiết Trí,
đă có thể an trụ trong chánh định Sư Tử
Phấn Tấn Tràng, khéo có thể lên núi Nhất Thiết
Trí, đă có thể dẹp tan, hàng phục tà luận của
ngoại đạo, v́ muốn thành thục hết thảy
hữu t́nh, ở trong các cơi Phật
đều có thể an trụ. Vị Đại Sĩ
như thế hễ an trụ trong các cơi Phật, an trụ
trong các môn chánh định, sẽ đều phát khởi vô lượng công đức
thù thắng, thành thục vô lượng hữu t́nh do Ngài
giáo hóa).
Trong phần trước, [Hảo
Nghi Vấn Bồ Tát] đă thắc mắc: Vị thiện
nam tử này từ đâu tới? Ngài là người thuộc
cơi Phật nào? Cách thế giới Sa Bà tức là quốc
độ giáo hóa của đức Phật [Thích Ca Mâu Ni]
bao xa? Ngài thỉnh vấn như thế, đức Phật
bèn giải đáp: “Vị Đại Sĩ này trụ
trong quốc độ nào th́ quốc độ ấy là
nơi Ngài an trụ”. Do vậy, Ngài không nhất định
đến từ phương Nam. Kinh Địa Tạng
nói là từ phương Nam đến, nhưng theo kinh này
nói, chỉ cần cơi Phật nào có địa ngục, chỉ
cần có tam đồ, Ngài sẽ đều ở đó.
Ngài an trụ ở bất cứ nơi đâu, đều
trụ trong tam-ma-địa. Tam-ma-địa
(Samādhi) là Định, là diệu
định. Chúng ta nói tiếp về công đức thù thắng của Ngài.
“Thủ Lăng Già Ma (Śūraṅgama) thắng tam-ma-địa” tức
là Thủ Lăng Nghiêm tam-muội. Trong quá khứ, cách dịch
theo lối cũ là Thủ Lăng Nghiêm. Pháp sư Huyền
Trang chiếu theo nguyên ư để phiên dịch, nên dịch
thành Thủ Lăng Già Ma thắng tam-ma-địa. Kiện
Hành Định trong phần trước cũng
có thể dịch là Kiện Tướng Định, [hàm ư]
đă thực hiện xong những chuyện ấy. “Cứu
cánh Định” là rốt ráo nhất. Đối với
các tam-muội do đức Phật đă chứng đắc,
theo kinh Niết Bàn, quyển thứ hai mươi bảy,
Thủ Lăng Nghiêm tam-muội có năm tên. Tên gọi thứ
nhất là Thủ Lăng Nghiêm tam-muội. Tên gọi thứ
hai là Bát Nhă Ba La Mật. Bát Nhă Ba La Mật chính là Thủ
Lăng Nghiêm tam-muội, cũng tức là Thủ Lăng Già
Ma thắng tam-ma-địa như chúng ta vừa đọc
trong kinh này. Tên gọi thứ ba là Kim Cang tam-muội, đây
là danh từ được dùng trong Mật Tông. Tên gọi
thứ tư là Sư Tử Hống tam-muội. Tên gọi
thứ năm là Phật Tánh tam-muội.
Bất cứ nghiệp nào
đă làm, tức là bất cứ mỗi sự nghiệp do
đức Phật đă thực hiện, đều
được gọi là tam-muội, hành động nào
cũng đều gọi như vậy. Nhưng trong một
trăm lẻ tám tam-muội, có một môn tổng tam-muội.
Bồ Tát đă trụ trong tam-muội ấy, cũng tức là trụ trong môn Định này. Ngài từ sáng
sớm luôn trụ trong Định, dùng vô lượng định
để độ vô lượng chúng sanh. Dùng môn Định
ấy để đến cơi Phật nào ḥng độ loại
chúng sanh nào, đều chẳng nhất định. Địa
Tạng Bồ Tát là như thế đó, mỗi buổi
sáng sớm đều nhập vô lượng tam-muội
để độ vô lượng chúng sanh. Đức Phật
nói chút phần như thế đó, thành tựu chúng sanh,
công đức chẳng thể nghĩ bàn. V́ sao Địa
Tạng Bồ Tát có nhiều công đức dường ấy?
V́ Ngài đắc tam-muội nhiều ngần ấy. [Trong kinh Thập Luân này, chỉ nêu đại
lược] Ngài có hai mươi ba loại Định. Kế
đó là những môn Định mà Địa Tạng Bồ
Tát đă đắc, c̣n môn Định này là nói tổng quát.
Vị Đại Sĩ này có
thể ngộ nhập cảnh giới của Như Lai,
Ngài giống hệt Như Lai, đă đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn
tối thắng. Vô Sanh Pháp Nhẫn là đă thấy Pháp Tánh,
tức bậc Đăng Địa Bồ Tát. Bồ Tát dự
vào địa vị Sơ Địa, sẽ chứng đắc
từng phần, măi cho đến khi chứng rốt ráo, tức
là Vô Sanh Pháp Nhẫn rốt ráo nhất, tối thắng nhất, thừa nhận
các pháp đều vô sanh. Trong phần trước, chúng tôi
đă từng nói: Chuyện này rất khó khăn. Chúng ta cho
rằng hết thảy các pháp đều có sanh, cũng coi hết thảy
các pháp duyên khởi là chân thật. Do vậy, trong cuộc sống
hằng ngày, chúng ta thấy thứ ǵ cũng đều là
chân thật. Cái đồng hồ có quả lắc này là
chân thật, đóa hoa này cũng là chân thật, chẳng thể
biết chúng là vô thường, chẳng thể biết các
pháp là vô sanh, là nhân duyên. Pháp sanh bởi nhân duyên th́ chẳng
có tự tánh, nhưng chuyện này chẳng giống như
hư không. Vô sanh là “vô sanh, nhưng không ǵ chẳng sanh”,
trong các pháp, sẽ có bản thể của pháp tánh sanh. Tùy
tiện lấy bất cứ một pháp nào, không ǵ chẳng
phải là pháp giới.
Đối với vấn
đề này, tôi gần như hơn hai mươi mấy
năm dài chẳng thể
lư giải. Kinh Hoa Nghiêm luôn nói Có; trước nay, kinh Hoa
Nghiêm chưa hề nói Không. Hoa Nghiêm là Có, như vô biên thế
giới, thứ ǵ cũng đều là vô biên, thứ ǵ
cũng đều có! Sau hai mươi năm, tôi mới dần
dần hiểu đôi chút! Tôi nêu ra một thí dụ, “chuyển
đại pháp luân trong một vi trần”, tức là
đức Phật ở trong một hạt vi trần mà
nói đại pháp luân. Như vậy là trong hai vi trần có
hai vi trần số cơi nước, hai [vi trần số]
cơi sẽ có chẳng thể nghĩ tưởng chư Phật.
Trong mỗi vi trần, có vô cùng vô tận cơi Phật. Mỗi cơi Phật lại
có Phật thành đạo trong ấy, được hải
hội vây quanh, có các đại Bồ Tát. Sao vi trần lại
có sức mạnh to ngần ấy? Bản thân nó là Không, cho
nên trong một hạt vi trần chẳng phải là Hữu, tức
là quang minh trí huệ Bát Nhă. Hôm qua, pháp sư Hoằng Giác có
nói về Chiếu. Hạt vi trần chính là Chiếu, tức
là trí huệ có thể chiếu soi. Hễ
chiếu th́ thứ ǵ cũng đều được gộp
vào trong ấy. Chẳng có suy tưởng, nghĩ nhớ,
chẳng có phân biệt, chẳng nhờ vào phân biệt, chẳng
nhờ vào hành động. Kinh Hoa Nghiêm toàn là nghĩa lư
như thế đó. Có kẻ bảo kinh Kim Cang là Không, kinh
Hoa Nghiêm là Hữu, sai lầm mất rồi! Kinh Kim Cang chẳng
Không, mà kinh Hoa Nghiêm cũng chẳng Có! Kinh Hoa Nghiêm dạy
“Bát Nhă Không cũng là bất không”. Kinh Hoa Nghiêm nói
như vậy, chứa đựng nghĩa lư như thế,
ḥng làm cho quư vị ngộ hết thảy các pháp.
Tâm Kinh dạy “bất
tăng, bất giảm, bất cấu, bất tịnh”
cũng có ư nghĩa tương tự. Hiện thời, có một
loại nam kỹ (male prostitute). Trong quá khứ cũng có nam
kỹ viện, họ được gọi là “tướng
công”. Tại Bắc Kinh, quư vị chẳng thể gọi
người khác là “tướng công”, gọi như thế
là chửi mắng người ta. Tại Bắc Kinh thuở
đó, nếu quư vị đi giày có rồng xanh vờn
quanh, láng mướt, da dẻ tươi nhuận, người
khác vừa nh́n liền biết gă trai trẻ ấy là “tướng
công”, cũng là nam kỹ. Nếu là nữ th́ là kỹ nữ.
Kinh Hoa Nghiêm nói Thiện Tài đồng tử đến
tham yết cô Bà Tu Mật Đa (Vasumitra), cô ta là kỹ nữ.
Mọi người đều bảo: “Đồng tử
này có đạo đức đầy đủ dường
ấy, cớ sao t́m kỹ nữ?” Kinh Hoa Nghiêm là “nhiễm
tịnh như nhau”. Quư vị vừa tiếp xúc cô Bà Tu Mật
Đa, sẽ khai ngộ. Ai tiếp xúc cô ta, nắm tay cô ta,
hôn cô ta, ôm ấp cô ta, liền thành
đạo. Tiếc là chúng ta chẳng có phước báo ấy.
Chúng ta trông thấy cô ta bèn chạy tuốt! Do chạy tuốt nên chẳng
đạt được phước báo ấy, v́ chúng ta
dùng cái tâm phân biệt để nh́n!
Cảnh giới của kinh
Hoa Nghiêm là cảnh giới như thế đó, toàn thể
là trí huệ Bát Nhă. Như vua Vô Yếm Túc giết người
chẳng chán. Quư vị thấy đó, Thiện Tài đồng
tử đến tham yết nhà vua, trong tâm dấy nghi hoặc,
đó là thiện tri thức ư? Treo lủng lẳng
đùi người, năo người, quả thật là cả
đống chi thể bị chia cắt, giống như tới
pḥng giải phẫu trong bệnh viện. Vua Vô Yếm Túc
đang độ chúng sanh, Ngài khiến cho quư vị chẳng
dấy lên tâm phân biệt, phải sanh khởi trí vô phân biệt.
Đấy mới là cảnh giới Hoa Nghiêm. Đọc
kinh Hoa Nghiêm th́ phải đọc như vậy.
Kinh Hoa Nghiêm là ǵ? Hoàn toàn là
trí Bát Nhă, Không và Hữu bất nhị. Quư vị phải lư
giải “Không và Hữu bất nhị” th́ mới có thể
tiến nhập. Do vậy, Vô Sanh Pháp Nhẫn là biết các
pháp vô sanh, vô sanh cũng vô diệt. Vô sanh, vô diệt, vô h́nh,
vô tướng. Phàm hết thảy h́nh tướng, bản
thể của chúng vốn là Không, chúng ta nói đại
lược là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Ngài (Địa Tạng Bồ
Tát) có thể tự tại giống như chư Phật,
thật sự đạt được tự tại,
đă có thể kham nhẫn địa vị Nhất Thiết
Trí. Câu nào trong đoạn kinh văn này cũng đều
nhằm nói Địa Tạng Bồ Tát đă b́nh đẳng
với chư Phật, đă thành Phật. Ngài có thể
vượt qua biển Nhất Thiết Trí, đă có thể
an trụ trong Sư Tử Phấn Tấn Tràng tam-muội,
đó cũng là pháp môn Đại Bi. Pháp môn Như Huyễn
Đại Bi được gọi là Sư Tử Phấn
Tấn tam-muội.
“Thiện năng
đăng thượng Nhất Thiết Trí sơn” (khéo
có thể lên núi Nhất Thiết Trí): Đây là cách nói h́nh
dung, ví như đă có thể dẹp tan, hàng phục tà luận của
ngoại đạo. Nh́n từ phương diện cứu
cánh liễu nghĩa, hễ cái tâm vượt ra ngoài đạo,
chấp lấy pháp ngoài tâm th́ là tà luận. Ngoài tâm chẳng
có pháp, ngoài hết thảy các pháp cũng chẳng có tâm!
“Vị dục thành thục
nhất thiết hữu t́nh cố” (v́ muốn thành thục
hết thảy hữu t́nh): Do
muốn thành thục hết thảy hữu t́nh, cho nên tùy
thuận thị hiện thiện xảo. Bất cứ quốc
độ nào Ngài an trụ th́ nơi đó là Phật quốc
độ của Ngài. Do vậy, trong phần trước, Hảo Nghi Vấn Bồ Tát hỏi Ngài cư trụ
trong cơi Phật nào, [câu trả lời sẽ là] chẳng có!
Địa Tạng Bồ Tát là ai? Cơi Phật của Ngài là
như thế nào? Kinh Địa Tạng chẳng nói, kinh Thập
Luân nói tường tận như thế này: Phàm tất cả
các cơi Phật, Ngài đều trụ trong ấy. Bậc Đại Sĩ như thế, ở bất cứ
cơi Phật nào, cũng đều an trụ trong
các tam-ma-địa, phát khởi vô lượng công đức
thù thắng, thành thục vô lượng hữu t́nh do Ngài
hóa độ.
(Kinh) Như thị Đại
Sĩ, tùy trụ như thị chư Phật quốc độ.
Nhược nhập Năng Phát Trí Định, do thử định
lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu
t́nh giai tất đồng kiến chư tam-ma-địa sở
hành cảnh giới.
(經)如是大士,隨住如是諸佛國土,若入能發智定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆悉同見諸三摩地所行境界。
(Kinh: Vị Đại
Sĩ như thế, hễ trụ trong các cơi Phật
như thế, nếu có thể nhập Năng Phát Trí Định,
do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết
thảy hữu t́nh trong cơi Phật đó đều thấy
cảnh giới sở hành của các tam-ma-địa).
Bất luận trụ trong
cơi Phật nào, “tùy trụ như thị chư Phật quốc
độ” (hễ trụ trong các cơi Phật như thế),
Ngài sẽ nhập môn Định nào để hóa độ
hết thảy chúng sanh? Tiếp theo đây, [đức Phật]
sẽ liệt kê tất cả hai mươi ba môn Định.
Nếu Địa Tạng Bồ Tát trụ trong quốc
độ này, Ngài sẽ nhập Phát Trí Định trong quốc
độ ấy. Do trụ trong định lực đó,
Ngài sẽ khiến cho tất cả hữu t́nh trong quốc
độ ấy cùng nhập môn Phát Trí tam-ma-địa. Tiếp
theo đây là một môn định khác trong một
cơi Phật khác.
(Kinh)
Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ,
nhược nhập Cụ Túc Vô Biên Trí Định, do thử
định lực, linh bỉ Phật độ nhất
thiết hữu t́nh, tùy kỳ
sở ưng, năng dĩ vô lượng thượng diệu
cúng cụ, cung kính cúng dường chư Phật Thế
Tôn. Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ,
nhược nhập Cụ Túc Thanh Tịnh Trí Định,
do thử định lực, linh bỉ Phật độ
nhất thiết hữu t́nh, giai tất đồng kiến
chư dục cảnh giới vô lượng quá hoạn,
tâm đắc thanh tịnh.
(經)隨住如是諸佛國土,若入具足無邊智定,由此定力,令彼佛土一切有情,隨其所應,能以無量上妙供具,恭敬供養諸佛世尊。隨住如是諸佛國土,若入具足清淨智定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆悉同見諸欲境界無量過患,心得清淨。
(Kinh: Hễ trụ
trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc
Vô Biên Trí Định, do sức của môn Định ấy,
sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật
ấy, tùy theo lẽ
đáng nên, có thể dùng vô lượng
vật cúng thượng diệu cung
kính cúng dường chư Phật Thế Tôn. Hễ trụ
trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc
Thanh Tịnh Trí Định, do sức của môn Định
ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong
cơi Phật ấy thảy đều cùng thấy vô lượng
lỗi lầm, tai họa của các dục cảnh
giới, tâm được thanh tịnh).
Ngài đă nhập Cụ Túc
Thanh Tịnh Trí Định, sẽ hiển hiện lỗi
lầm, tai hại của dục. Dục bao gồm rất
nhiều thứ, chẳng hạn như tham dục.
Nhưng đây là Thanh Tịnh Trí Định, do sức của
Thanh Tịnh Trí Định, có thể khiến cho hữu
t́nh chúng sanh nhận biết các lỗi lầm, họa hại
trong cảnh dục, họ sẽ chẳng tham đắm hết
thảy các dục, chẳng dấy lên dục niệm, tâm
được thanh tịnh, có thể khiến cho hết
thảy hữu t́nh đạt được thanh tịnh.
Đó là một loại.
(Kinh) Tùy trụ như thị
chư Phật quốc độ, nhược nhập Cụ
Túc Tàm Quư Trí Định, do thử định lực, linh bỉ
Phật độ nhất thiết hữu t́nh, giai đắc
cụ túc tăng thượng tàm quư, ly chư ác pháp, tâm vô
vong thất.
(經)隨住如是諸佛國土,若入具足慚愧智定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆得具足增上慚愧,離諸惡法,心無忘失。
(Kinh: Hễ trụ trong
các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc Tàm
Quư Trí Định, do sức của môn Định ấy, sẽ
khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật đều
được trọn đủ hổ thẹn tăng
thượng, ĺa các pháp ác, tâm chẳng quên mất).
Phải sanh khởi ḷng hổ
thẹn, phải có trí huệ. Chúng ta bái sám, hằng ngày nói “không
hổ, không thẹn”, lại làm rất nhiều chuyện
sai trái, chẳng có một tí hổ thẹn nào, c̣n cho đó
là chánh xác. Đấy là lừa dối rất rơ rệt! Có
kẻ nào chấp trước dục cảnh, do sức của
môn Định do Bồ Tát đă nhập, dục vọng sẽ nhẹ bớt, thậm chí đoạn dứt. V́ thế,
Bồ Tát nhập môn Định này khiến cho chúng sanh hữu
duyên với Ngài trong cơi Phật ấy có thể trọn
đủ cái tâm thanh tịnh. Khi ngài nhập Cụ Túc Tàm
Quư Trí Định, chúng sanh trong cơi Phật ấy đều
sanh khởi cái tâm tàm quư (hổ thẹn). “Tàm” (慚) là sám hối quá khứ,
“quư” (愧) là thẹn với
tương lai, trong tương lai trọn chẳng làm nữa.
Hổ thẹn bao gồm hai loại ư nghĩa, phải sanh
khởi cái tâm hổ thẹn. Sám hối v́ quư vị vừa
mới làm chuyện rất sai trái, hổ thẹn sau này ta
trọn chẳng thể làm nữa. Địa Tạng Bồ
Tát ở trong cơi Phật ấy, dùng Tàm Quư Trí Định, do
sức của môn Định ấy, có thể khiến cho
hữu t́nh trong cơi Phật ấy đều trọn đủ
ḷng hổ thẹn vô thượng, hổ thẹn tăng
trưởng. Đối với chư Phật và Bồ
Tát, bản thân các vị đại Bồ
Tát cũng thường hổ thẹn, thường cảm
thấy chính ḿnh vẫn chẳng thể giống như Phật,
vẫn chưa thể lập tức thành Phật. Các Ngài
cũng có tâm hổ thẹn. Hổ thẹn có sâu và cạn.
Chẳng phải là các vị ấy đă thắc mắc
Địa Tạng Bồ Tát có trí lực ǵ ư? V́ sao trong
quá khứ chúng con chẳng nghe thấy? Đức Phật
bảo các Ngài: “Do các ông vô duyên với Ngài”. Địa Tạng
Bồ Tát ở bất cứ quốc độ nào, nhập
bất cứ môn Định nào, độ bất cứ
chúng sanh nào.
(Kinh) Tùy trụ như thị
chư Phật quốc độ, nhược nhập Cụ
Túc Chư Thừa Minh Định, do thử định lực,
linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh,
giai đắc thiện xảo Thiên Nhăn Trí Thông, Túc Trụ
Trí Thông, Tử Sanh Trí Thông, liễu đạt thử thế,
tha thế nhân quả.
(經)隨住如是諸佛國土,若入具足諸乘明定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆得善巧天眼智通,宿住智通,死生智通,了達此世他世因果。
(Kinh: Hễ trụ trong
các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc
Chư Thừa Minh Định, do sức của môn Định
ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong
cơi Phật ấy đều đắc thiện xảo
Thiên Nhăn Trí Thông, Túc Trụ Trí Thông, Tử Sanh Trí Thông, thông
đạt nhân quả trong đời này và đời khác).
“Chư Thừa Minh Định”:
Hoặc là Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, hoặc Bồ
Tát Thừa, Địa Tạng Bồ Tát nương vào môn
Chư Thừa Minh Định này, khiến cho hết thảy
hữu t́nh có thể thiện xảo đạt được
Thiên Nhăn Thông, Tha Tâm Thông, liễu sanh tử, trí thông đạt
sanh tử. “Sanh diệt” nghĩa là vô
thường, vốn chẳng có. Dựa vào định lực
để quán vô thường, sẽ đều chứng
đắc Bát Nhă Không. Nói chung, họ có thể biết nhân
quả thế gian và xuất thế gian.
(Kinh) Tùy trụ như thị
chư Phật quốc độ, nhược nhập Vô
Ưu Thần Thông Minh Định, do thử định lực,
linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh,
giai ly nhất thiết sầu ưu, hôn muội.
(經)隨住如是諸佛國土,若入無憂神通明定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆離一切愁憂昏昧。
(Kinh: Hễ trụ trong
các cơi Phật như thế, nếu nhập Vô Ưu Thần
Thông Minh Định, do sức của môn Định ấy,
sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật
đó đều ĺa hết thảy sầu ưu, tối
tăm).
Trong quốc độ Địa
Tạng Bồ Tát đă trụ, Ngài nhập Vô Ưu Thần
Thông Minh Định. Do sức của môn Định ấy,
có thể khiến cho hữu t́nh trong cơi Phật đó chẳng
ưu sầu, không buồn rầu, không lo lắng, sáng suốt,
tĩnh lặng, chẳng tối tăm, mờ mịt. “Hôn
muội” (昏昧) là tối tăm. Ở trong tối tăm th́ c̣n thông suốt
điều ǵ được nữa? V́ không hôn ám, cho nên họ
có thể ĺa hết thảy ưu sầu, biết ưu sầu
khổ năo là giả, chỉ là vọng niệm tơi bời!
(Kinh) Tùy trụ như thị
chư Phật quốc độ, nhược nhập Cụ
Túc Thắng Thông Minh Định, do thử định lực,
linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh
giai đắc cụ túc thần thông thiện xảo.
(經)隨住如是諸佛國土,若入具足勝通明定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆得具足神通善巧。
(Kinh: Hễ trụ trong
các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc Thắng
Thông Minh Định, do sức của môn Định ấy,
sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật
ấy đều được trọn đủ thần
thông hay khéo).
Thần thông là tâm. “Thần”
(神) là thiên tâm, cũng chính là cái tâm tự nhiên của chúng
ta. “Thông” (通) là tất cả trí huệ của chúng ta. “Huệ” (慧): Thông minh huệ
tánh. Quư vị do cái tâm minh tịnh (sáng suốt, thanh tịnh)
chẳng thể nghĩ bàn, sanh ra một thứ trí huệ
phương tiện thiện xảo, đó gọi là “thần
thông”. Thần thông là phương tiện thiện xảo.
Bồ Tát nhập môn Định này, chúng sanh trong quốc
độ ấy đều trọn đủ thần thông
thiện xảo. Nay Địa Tạng Bồ Tát đang ở
trong thế giới này của chúng ta, sáng sớm mỗi
ngày nhập Cụ Túc Thắng Thông Minh Định, chúng ta
có đạt được thần thông thiện xảo
hay chăng? Nếu Bồ Tát ở trong một quốc
độ nào, vừa nhập môn Định nào, chúng sanh
trong quốc độ ấy đều có thể đạt
được điều ấy. [Vậy mà] Địa Tạng
Bồ Tát ở trong quốc độ này, v́ sao chúng ta vẫn
chẳng thể đạt được? Hăy tham cứu
đi! Chúng ta có duyên với Địa Tạng Bồ Tát hay
không? Chẳng có duyên! Nay chúng ta niệm kinh Địa Tạng,
hằng ngày niệm thánh hiệu Địa Tạng, rất hữu duyên,
Địa Tạng Bồ Tát nhập nhiều môn Định
như vậy, v́ sao ta một môn cũng chẳng đạt
được? Hăy tham cứu đi! Chính ḿnh hăy tư duy,
quán tưởng một phen, v́ sao vậy?
(Kinh) Tùy trụ như thị
chư Phật quốc độ, nhược nhập Phổ
Chiếu Chư Thế Gian Định, do thử định
lực, linh thập phương giới, ly chư hôn ám, linh bỉ Phật
độ nhất thiết hữu t́nh, phổ kiến thập
phương chư Phật quốc độ. Tùy trụ
như thị chư Phật quốc độ, nhược
nhập Chư Phật Đăng Cự Minh Định, do
thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất
thiết hữu t́nh, xả tà quy y, quy chánh Tam Bảo.
(經)隨住如是諸佛國土,若入普照諸世間定,由此定力,令十方界離諸昏暗,令彼佛土一切有情,普見十方諸佛國土。隨住如是諸佛國土,若入諸佛燈炬明定,由此定力,令彼佛土一切有情,舍邪歸依,歸正三寶。
(Kinh: Hễ trụ trong
các cơi Phật như thế, nếu nhập Phổ Chiếu
Chư Thế Gian Định, do sức của môn Định
ấy, sẽ khiến cho mười phương cơi ĺa các
tối tăm, khiến cho hết thảy hữu t́nh trong
cơi Phật ấy thấy trọn khắp các cơi Phật
trong mười phương. Hễ trụ trong các cơi Phật
như thế, nếu nhập Chư Phật Đăng Cự
Minh Định, do sức của môn Định ấy, sẽ
khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy
bỏ tà quy y, nương về Tam Bảo chân chánh).
Phổ Chiếu Chư Thế
Gian Định (môn Định chiếu khắp các thế
gian) và Chư Phật Đăng Cự Minh Định (môn
Định đèn đuốc sáng của chư Phật),
hai thứ Định mọi người đều hiểu
rơ, nên tôi không thuyết minh thêm nữa.
(Kinh) Tùy trụ như thị
chư Phật quốc độ, nhược nhập Kim
Cang Quang Định, do thử định lực, linh bỉ
Phật độ sở hữu nhất thiết Tiểu
Luân Vi Sơn, Đại Luân Vi Sơn, Tô Mê Lô Sơn, cập
chư dư sơn, khê, giản, câu, hác, ngơa, lịch, độc
thích, chư uế thảo mộc, giai tất bất hiện,
linh bỉ Phật độ, sở hữu nhất thiết
chúng tà cổ độc, chư ác trùng thú, tai hoạnh, dịch lệ, hôn ám trần cấu,
bất tịnh xú uế, tất giai tiêu diệt, linh bỉ
Phật độ địa b́nh như chưởng, chủng
chủng gia tường tự nhiên dũng hiện, thanh tịnh
thù thắng, chúng tướng trang nghiêm.
(經)隨住如是諸佛國土,若入金剛光定,由此定力,令彼佛土,所有一切小輪圍山、大輪圍山、蘇迷盧山及諸餘山,溪澗溝壑,瓦礫毒刺,諸穢草木,皆悉不現;令彼佛土,所有一切眾邪蠱毒、諸惡蟲獸、災橫疫癘、昏暗塵垢、不淨臭穢,悉皆銷滅;令彼佛土,地平如掌,種種嘉祥自然踴現,清淨殊勝眾相莊嚴。
(Kinh: Hễ trụ trong
các cơi Phật như thế, nếu nhập Kim Cang Quang
Định, do sức của môn Định ấy, khiến
cho tất cả hết thảy núi Tiểu Luân Vi, núi Đại
Luân Vi, núi Tô Mê Lô (núi Tu Di), và các núi khác, khe, ng̣i, rănh, kẽm
núi[3], ngói, sỏi, gai
độc, các thảo mộc nhơ uế trong cơi Phật
ấy, thảy đều chẳng hiện, khiến cho hết
thảy các cổ độc[4]
tà vạy, các trùng thú ác, tai ương ngang trái, bệnh dịch,
bụi nhơ tăm tối, hôi nhơ chẳng sạch
trong cơi Phật ấy, thảy đều tiêu diệt, khiến
cho cơi Phật ấy đất phẳng như ḷng bàn tay,
các thứ tốt lành tự nhiên ồ ạt hiện ra,
thanh tịnh thù thắng, các tướng trang nghiêm).
Môn Định này có tên là Kim
Cang Quang Định. Khi nhập môn Định này, trong quốc độ ấy
có Đại Luân Vi Sơn, Tiểu Luân Vi Sơn, Tô Mê Lô
Sơn (cũng là núi Diệu Cao), trong những núi ấy có
khe nước, có ng̣i rănh, có cao thấp, lại c̣n có gạch,
sỏi, gai độc, cỏ cây dơ bẩn, có hoa cỏ,
cây cối độc địa, những thứ ấy
đều chẳng xuất hiện nữa. Các chúng sanh
trong thế giới ấy sẽ chẳng bị trúng phải
các thứ tà độc, trùng độc, cho đến chẳng
bị ác trùng, ác thú xâm hại, thậm chí những thứ bụi
bặm tối tăm, những thứ hôi nhơ bất tịnh
đều tiêu mất. Do sức của môn Kim Cang Quang Định,
khiến cho đất trong quốc độ
ấy bằng phẳng như ḷng bàn tay, đủ loại
hiện tượng tốt lành tự nhiên ồ ạt xuất
hiện, thanh tịnh thù thắng, các tướng trang
nghiêm. Khi Địa Tạng Bồ Tát nhập Kim Cang Quang
Định trong quốc độ ấy, khiến cho quốc
độ ấy sanh ra các thứ biến hóa đó.
(Kinh) Tùy trụ như thị
chư Phật quốc độ, nhược nhập Trí Lực
Nan Tồi Phục Định, do thử định lực,
linh bỉ Phật độ nhất thiết ma
vương, cập chư quyến thuộc giai
tất kinh bố, quy y Tam Bảo.
(經)隨住如是諸佛國土,若入智力難摧伏定,由此定力,令彼佛土一切魔王及諸眷屬,皆悉驚怖,歸依三寶。
(Kinh: Hễ trụ trong
các cơi Phật như thế, nếu nhập Trí Lực Nan Tồi
Phục Định, do sức của môn Định ấy,
sẽ khiến cho hết thảy ma vương và các quyến
thuộc trong cơi Phật ấy thảy đều kinh sợ,
quy y Tam Bảo).
Nếu Địa Tạng Bồ
Tát dùng môn Trí Lực Nan Tồi Phục Định (trí lực
khó thể dẹp tan) này, hễ vừa nhập th́ do sức
của môn Định ấy, sẽ khiến cho ma
vương và quyến thuộc của hắn trong cơi nước
ấy sanh ḷng hoảng sợ, đều quy y Tam Bảo. Ma
vương sanh ḷng hoảng sợ sẽ chẳng năo hại
người khác.
(Kinh)
Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược
nhập Điện Quang Minh Định, do thử Định lực, linh bỉ
Phật độ nhất thiết hữu t́nh, giai tất viễn
ly hậu thế khủng bố, đắc pháp an ủy.
(經)隨住如是諸佛國土,若入電光明定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆悉遠離後世恐怖,得法安慰。
(Kinh: Hễ trụ
trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Điện
Quang Minh Định, do sức của môn Định ấy,
sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật
ấy thảy đều xa ĺa sự sợ hăi trong đời
sau, được sự an ủi nơi pháp).
V́ được Điện
Quang Minh Định an ủi, thoát ly tam đồ, vĩnh
viễn chẳng bị sợ hăi. Điện Quang Minh Định
là pháp chẳng thể nghĩ bàn, có thể đạt
được sự an ủi bởi pháp trí.
(Kinh) Tùy trụ như thị
chư Phật quốc độ, nhược nhập Cụ
Túc Thượng Diệu Vị Định, do thử định
lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu
t́nh, tùy niệm giai đắc ẩm thực sung túc.
(經)隨住如是諸佛國土,若入具足上妙味定,由此定力,令彼佛土一切有情,隨念皆得飲食充足。
(Kinh: Hễ trụ trong
các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc
Thượng Diệu Vị Định, do sức của
môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu
t́nh trong cơi Phật đó, thuận theo ư niệm đều
được thức ăn sung túc).
Thượng Diệu Vị
Định cũng là ăn uống ngon lành. [Môn Định
này] khiến cho chúng sanh trong quốc độ ấy có thể
đạt được diệu vị thù thắng, tất
cả các thức ăn đều sung túc, đều ngon lành. Sanh vào Lục Dục Thiên, thức ăn của quư vị
chẳng cần đầu bếp, nghĩ ǵ bèn có nấy.
Chỉ cần tưởng món ǵ, món ấy bèn hiện hữu.
Sanh lên trời sẽ có năng lực ấy, huống hồ
lại được Bồ Tát nhập Định gia tŕ.
(Kinh) Tùy trụ như thị
chư Phật quốc độ, nhược nhập Cụ
Túc Thắng Tinh Khí Định, do thử định lực,
linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh,
vô bất giai đắc tăng thượng lực thế,
ly chư bệnh khổ.
(經)隨住如是諸佛國土,若入具足勝精氣定,由此定力,令彼佛土一切有情,無不皆得增上力勢,離諸病苦。
(Kinh: Hễ trụ trong
các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc Thắng
Tinh Khí Định, do sức của môn Định ấy,
sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật
ấy, không ai chẳng đều tăng thượng thế
lực, ĺa các bệnh khổ).
Bệnh khổ ǵ cũng
đều chẳng có, đấy là do sức Thắng Tinh
Khí Định của Địa Tạng Bồ Tát.
(Kinh) Tùy trụ như thị
chư Phật quốc độ, nhược nhập
Thượng Diệu Chư Tư Cụ Định, do thử
định lực, linh bỉ Phật độ nhất
thiết hữu t́nh, tùy nhạo giai đắc sàng, ṭa, phu cụ,
y phục, bảo sức, chư tư thân cụ, vô sở
phạp thiểu, thù diệu đoan nghiêm, thậm khả
ái nhạo.
(經)隨住如是諸佛國土,若入上妙諸資具定,由此定力,令彼佛土一切有情,隨樂皆得床座敷具、衣服寶飾,諸資身具無所乏少,殊妙端嚴,甚可愛樂。
(Kinh: Hễ trụ trong
các cơi Phật như thế, nếu nhập Thượng
Diệu Chư Tư Cụ Định, do sức của
môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu
t́nh trong cơi Phật ấy, tùy theo ḷng yêu thích, đều được giường, ṭa, đồ
trải, y phục, vật trang hoàng báu, các vật cần
dùng cho cuộc sống không bị thiếu khuyết,
đoan nghiêm, đẹp đẽ lạ lùng, hết sức
đáng yêu mến).
Thượng Diệu Chư
Tư Cụ Định: Do sức của
môn Định này, khiến cho hết thảy
hữu t́nh trong cơi Phật ấy, tất cả các thứ
giường, ṭa, đồ dùng, cơm áo,
bàn, ghế, ghế dài, đều
là thượng diệu chẳng thể nghĩ bàn. Cho đến
quần áo, vật trang hoàng báu, tất cả các vật dụng
cần dùng trong cuộc sống đều chẳng hề
thiếu thốn, lại c̣n toàn là những thứ thượng
diệu.
(Kinh) Tùy trụ như thị
chư Phật quốc độ, nhược nhập Vô
Tránh Trí Định, do thử định lực, linh bỉ
Phật độ nhất thiết hữu t́nh, thân tâm
dũng kiện, viễn ly nhất thiết oán tắng hệ
phược, ḥa thuận, hoan ngu, ái nhạo cụ túc, Thí,
Giới, an nhẫn, dũng mănh, tinh tấn, tâm vô tán loạn,
thành tựu trí huệ.
(經)隨住如是諸佛國土,若入無諍智定,由此定力,令彼佛土一切有情,身心勇健,遠離一切怨憎繫縛,和順歡娛,愛樂具足,施、戒、安忍、勇猛精進,心無散亂,成就智慧。
(Kinh: Hễ trụ trong
các cơi Phật như thế, nếu nhập Vô Tránh Trí Định,
do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết
thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy, thân tâm mạnh mẽ,
xa ĺa hết thảy oán ghét trói buộc, ḥa thuận, vui
sướng, yêu mến trọn đủ, Thí, Giới, an
nhẫn, dũng mănh tinh tấn, tâm chẳng tán loạn,
thành tựu trí huệ).
Nhập Vô Tránh Trí Định,
“Tránh” (諍) là đấu
tranh. Do có trí huệ, nên khi nhập môn Định này, sẽ
do sức của môn Định này mà chúng sanh trong cơi ấy, thân tâm mạnh mẽ, xa ĺa hết thảy oán ghét trói
buộc, ḥa thuận, hoan hỷ, trọn đủ những
điều yêu thích. Do vậy bèn đầy
đủ các hạnh bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục,
tinh tấn, Thiền Định, Bát Nhă, sáu môn Ba La Mật
đều trọn đủ. Do tâm chẳng tán loạn, nên
trọn đủ trí huệ Bát Nhă, thành tựu trí huệ.
(Kinh) Tùy trụ như thị
chư Phật quốc độ, nhược nhập
Năng Dẫn Thắng Dũng Dược Định, do
thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất
thiết hữu t́nh, giai thọ vô lượng thắng diệu
hoan hỷ.
(經)隨住如是諸佛國土,若入能引勝踴躍定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆受無量勝妙歡喜。
(Kinh: Hễ trụ trong
các cơi Phật như thế, nếu nhập Năng Dẫn
Thắng Dũng Dược Định, do sức của
môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu
t́nh trong cơi Phật ấy đều hưởng vô lượng
hoan hỷ thù thắng nhiệm mầu).
Khiến cho các hữu t́nh
đều có thể hưởng thụ vô lượng niềm
hoan hỷ thù thắng nhiệm mầu. Đấy là Thắng
Dũng Dược Định.
(Kinh) Tùy trụ như thị
chư Phật quốc độ, nhược nhập Cụ
Túc Thế Lộ Quang Định, do thử định lực,
linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh,
đắc Vô Ngại Trí, năng tu chủng chủng thanh tịnh
sự nghiệp. Tùy trụ như thị chư Phật quốc
độ, nhược nhập Thiện Trụ Thắng
Kim Cang Định, do thử định lực, linh bỉ
Phật độ nhất thiết hữu t́nh, giai đắc
chư căn cụ túc vô khuyết, thường nhạo viễn
ly, kỳ tâm tịch tĩnh. Tùy trụ như thị
chư Phật quốc độ, nhược nhập
Tăng Thượng Quán Thắng Tràng Định, do thử
định lực, linh bỉ Phật độ nhất
thiết hữu t́nh, giai thâm ha yếm tự ác nghiệp
quá, hàm thiện hộ tŕ thập thiện nghiệp đạo,
sanh thiên yếu lộ.
(經)隨住如是諸佛國土,若入具足世路光定,由此定力,令彼佛土一切有情,得無礙智,能修種種清淨事業。隨住如是諸佛國土,若入善住勝金剛定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆得諸根具足無缺,常樂遠離,其心寂靜。隨住如是諸佛國土,若入增上觀勝幢定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆深呵厭自惡業過,咸善護持十善業道生天要路。
(Kinh: Hễ trụ trong
các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc Thế
Lộ Quang Định, do sức của môn Định ấy,
sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật
ấy đắc Vô Ngại Trí, có thể tu các thứ sự
nghiệp thanh tịnh. Hễ trụ trong các cơi Phật
như thế, nếu nhập Thiện Trụ Thắng Kim
Cang Định, do sức của môn Định ấy, sẽ
khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy
đều được các căn đầy đủ,
chẳng thiếu khuyết, thường thích xa ĺa, tâm họ tịch tĩnh. Hễ trụ trong
các cơi Phật như thế, nếu nhập Tăng Thượng
Quán Thắng Tràng Định, do sức của môn Định
ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong
cơi Phật ấy đều chê trách, chán nhàm sâu xa lỗi lầm
ác nghiệp của chính ḿnh, đều khéo hộ tŕ thập
thiện nghiệp đạo là con đường trọng
yếu để sanh lên cơi trời).
Khi Địa Tạng Bồ
Tát nhập các môn Định này, chúng sanh trong các quốc
độ được Ngài giáo hóa sẽ có thể chẳng
tạo ác nghiệp, tăng trưởng thiện nghiệp,
hành theo thiện đạo là đường lối để
sanh lên cơi trời.
(Kinh) Tùy trụ như thị
chư Phật quốc độ, nhược nhập Cụ
Túc Từ Bi Thanh Định, do thử định lực,
linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh,
giai tất phát khởi từ tâm, bi tâm, vô oán hại tâm, phổ
b́nh đẳng tâm, cánh tương lợi ích an lạc chi
tâm.
(經)隨住如是諸佛國土,若入具足慈悲聲定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆悉發起慈心悲心、無怨害心、普平等心、更相利益安樂之心。
(Kinh: Hễ trụ trong
các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc Từ
Bi Thanh Định, do sức của môn Định ấy,
sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật
ấy thảy đều phát khởi từ tâm, bi tâm, tâm chẳng
oán hại, tâm b́nh đẳng trọn khắp, và tâm tạo
lợi ích an lạc lẫn nhau).
Địa Tạng Bồ Tát
nhập môn Từ Bi Thanh Định này, khiến cho hết
thảy hữu t́nh trong quốc độ ấy đều
phát khởi từ tâm và bi tâm, chưa hề có ḷng oán hại,
chẳng có tâm tổn hại kẻ khác, tâm b́nh đẳng
trọn khắp.
(Kinh) Tùy trụ như thị
chư Phật quốc độ, nhược nhập Dẫn
Tập Chư Phước Đức Định, do thử
định lực, linh bỉ Phật độ nhất
thiết hữu t́nh, ly chư đấu tránh, tật dịch,
cơ cẩn, phi thời phong vũ, khổ, sáp, tân, toan,
chư ác sắc xúc, tất giai tiêu diệt. Như thị
Đại Sĩ, tùy trụ như thị chư Phật quốc
độ, nhược nhập Hải Điện Quang
Định, do thử định lực, linh bỉ Phật
độ nhất thiết đại địa chúng bảo
hợp thành, nhất thiết quá hoạn giai tất viễn
ly, chủng chủng bảo thụ, y thụ, khí thụ,
chư anh lạc thụ, hoa thụ, quả thụ, chư
âm nhạc thụ, vô lượng nhạc cụ, châu biến
trang nghiêm. Dĩ yếu ngôn chi, thử thiện nam tử
ư nhất nhất nhật, mỗi thần triêu thời,
vị dục thành thục chư hữu t́nh cố, nhập
Căng Già hà sa đẳng chư định.
(經)隨住如是諸佛國土,若入引集諸福德定,由此定力,令彼佛土一切有情,離諸斗諍、疾疫、饑饉、非時風雨、苦澀辛酸、諸惡色觸,悉皆銷滅。如是大士,隨住如是諸佛國土,若入海電光定,由此定力,令彼佛土一切大地眾寶合成,一切過患皆悉遠離,種種寶樹、衣樹、器樹、諸瓔珞樹、華樹、果樹、諸音樂樹,無量樂具,週徧莊嚴。以要言之,此善男子,於一一日每晨朝時,為欲成熟諸有情故,入殑伽河沙等諸定。
(Kinh: Hễ trụ trong
các cơi Phật như thế, nếu nhập Dẫn Tập
Chư Phước Đức Định, do sức của
môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu
t́nh trong các cơi Phật ấy ĺa các tranh chấp,
tật dịch, đói kém, mưa gió trái thời, đắng,
rít, cay, chua, các sắc và sự xúc chạm xấu ác, thảy
đều tiêu diệt. Bậc Đại Sĩ như thế
hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập
Hải Điện Quang Định, do sức của môn
Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy đại
địa trong cơi Phật ấy đều do các thứ
báu hợp thành, hết thảy lầm lỗi, họa hoạn
thảy đều xa ĺa, các thứ cây báu, cây y phục, cây
vật dụng, cây các chuỗi anh lạc, cây hoa, cây quả,
cây các thứ âm nhạc, vô lượng nhạc cụ đều
trang nghiêm trọn khắp. Nói tổng quát, vị thiện
nam tử này hằng ngày vào lúc sáng sớm, v́ muốn thành thục
các hữu t́nh mà nhập các môn Định nhiều như
cát sông Hằng).
Ở đây nêu ra hai
mươi ba loại Định, vào lúc sáng sớm, Địa
Tạng Bồ Tát sẽ nhập Định nhiều
như số cát trong Hằng như vậy,
chẳng phải chỉ là hai mươi ba loại định,
mà là các môn Định nhiều như cát sông Hằng, vô
lượng môn Định.
(Kinh) Tùng Định khởi
dĩ, biến ư thập phương chư Phật quốc
độ, thành thục nhất thiết sở hóa hữu
t́nh, tùy kỳ sở ưng, lợi ích an lạc. Thử thiện
nam tử, dĩ ư vô lượng vô số đại kiếp,
Ngũ Trược ác thời, vô Phật thế giới,
thành thục hữu t́nh.
(經)從定起已,遍於十方諸佛國土,成熟一切所化有情,隨其所應,利益安樂。此善男子,已於無量無數大劫,五濁惡時無佛世界,成熟有情。
(Kinh: Từ Định
xuất, trọn khắp các cơi Phật trong mười
phương, thành thục hết
thảy hữu t́nh được hóa độ, tùy theo
căn cơ thích hợp mà tạo lợi ích an lạc. Vị
thiện nam tử ấy đă trong vô lượng vô số
đại kiếp, nhằm thời ác Ngũ Trược, ở
trong thế giới không có Phật để thành thục hữu
t́nh).
Vị Đại Sĩ này, tức
vị thiện nam tử này, đă trong vô lượng kiếp,
nhằm thuở Kiếp Trược,
Kiến Trược, Phiền Năo Trược,
Chúng Sanh Trược, và Mạng Trược mà lợi ích chúng sanh. Nhằm lúc
chẳng có Phật xuất thế, Ngài cũng lợi ích
chúng sanh. Quá khứ là như vậy, mà hiện tại
cũng là như vậy.
(Kinh) Phục ư
đương lai quá ư thị số, hoặc hữu thế
giới, đao binh kiếp khởi, hại chư hữu
t́nh, thử thiện nam tử kiến thị sự dĩ,
ư thần triêu thời, dĩ chư Định lực,
trừ đao binh kiếp, linh chư hữu t́nh hỗ
tương từ mẫn. Hoặc hữu thế giới,
dịch bệnh kiếp khởi, hại chư hữu t́nh,
thử thiện nam tử kiến thị sự dĩ,
ư thần triêu thời, dĩ chư Định lực,
trừ dịch bệnh kiếp, linh chư hữu t́nh giai
đắc an lạc. Hoặc hữu thế giới, cơ
cẩn kiếp khởi, hại chư hữu t́nh, thử
thiện nam tử kiến thị sự dĩ, ư thần
triêu thời, dĩ chư Định lực, trừ cơ
cẩn kiếp, linh chư hữu t́nh giai đắc băo măn.
(經)復於當來,過於是數。或有世界刀兵劫起,害諸有情;此善男子,見是事已,於晨朝時,以諸定力,除刀兵劫,令諸有情互相慈愍。或有世界疫病劫起,害諸有情;此善男子,見是事已,於晨朝時,以諸定力,除疫病劫,令諸有情皆得安樂。或有世界饑饉劫起,害諸有情;此善男子,見是事已,於晨朝時,以諸定力,除饑饉劫,令諸有情皆得飽滿。
(Kinh: Lại trong
tương lai vượt quá số ấy, nếu có thế
giới chiến tranh dấy lên, hại các hữu t́nh, vị
thiện nam tử này thấy chuyện ấy rồi, vào
lúc sáng sớm, dùng các Định lực trừ kiếp
đao binh, khiến cho các hữu t́nh từ ái, thương
xót lẫn nhau. Hoặc có thế giới, khi kiếp dịch
bệnh nổi lên, hại các hữu t́nh, vị thiện
nam tử này thấy chuyện ấy rồi, vào lúc sáng sớm,
dùng các Định lực, trừ kiếp dịch bệnh,
khiến cho các hữu t́nh đều được yên vui.
Hoặc có thế giới lúc kiếp đói kém nổi lên, hại
các hữu t́nh, vị thiện nam tử này thấy chuyện
ấy rồi, vào lúc sáng sớm, dùng các Định lực
trừ kiếp đói kém, khiến cho các hữu t́nh đều
được no đủ).
“Phục ư
đương lai” chính là tương lai. “Quá ư thị
số” nghĩa là c̣n nhiều hơn con số trước
kia. Hoặc là có thế giới, “đao binh kiếp khởi,
hại chư hữu t́nh” (kiếp đao binh dấy lên,
hại các hữu t́nh), thế giới này chưa hề có một
ngày nào không có chiến tranh, chẳng hề không nghe đến lửa
đạn. Hiện thời chính là lúc kiếp đao binh nổi
lên, tổn hại hữu t́nh. Địa Tạng Bồ Tát
thấy chuyện này, vào lúc sáng sớm, dùng Định lực
của Ngài để trừ khử kiếp đao binh. “Linh
chư hữu t́nh, hỗ tương từ mẫn” (khiến
cho các hữu t́nh từ ái, thương xót lẫn nhau). Hoặc
là có thế giới, khi tai kiếp tật dịch nổ ra,
hại các hữu t́nh. “Thử thiện nam tử kiến
thị sự dĩ” (vị thiện nam tử này thấy
chuyện ấy rồi) vào lúc sáng sớm, dùng các Định
lực trừ khử kiếp tật dịch ấy, khiến
cho các hữu t́nh đều được yên vui. Hoặc
có thế giới kiếp đói kém xảy ra, chẳng có
cơm ăn, mọi người đói khát, hại các hữu
t́nh, vị thiện nam tử này tức Địa Tạng
Bồ Tát, thấy chuyện ấy, cũng vào lúc sáng sớm,
dùng Định lực của Ngài trừ kiếp đói
kém, khiến cho hết thảy các hữu t́nh đều
được no đủ.
(Kinh) Thử thiện nam
tử, dĩ chư Định lực, tác như thị
đẳng vô lượng vô biên bất khả tư nghị
lợi ích an lạc chư hữu t́nh sự.
(經)此善男子,以諸定力,作如是等無量、無邊、不可思議,利益安樂諸有情事。
(Kinh: Vị thiện nam
tử này dùng các Định lực để làm vô lượng
vô biên chuyện lợi ích an lạc các hữu t́nh như thế
đó).
Địa Tạng Bồ Tát
dùng Định lực của Ngài để làm những
chuyện lợi ích chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn nhiều
ngần ấy.
(Kinh) Thử thiện nam
tử cụ túc thành tựu vô lượng vô số bất
khả tư nghị thù thắng công đức, thường
cần tinh tấn, lợi ích an lạc nhất thiết hữu
t́nh, tằng ư quá khứ vô lượng vô số Căng
Già sa đẳng Phật Thế Tôn sở, vị dục
thành thục, lợi ích an lạc chư hữu t́nh cố,
phát khởi đại bi, kiên cố nan hoại.
(經)此善男子,具足成就無量、無數、不可思議,殊勝功德,常勤精進,利益安樂一切有情。曾於過去無量、無數、殑伽沙等佛世尊所,為欲成熟利益安樂諸有情故,發起大悲堅固難壞。
(Kinh: Vị thiện
nam tử ấy thành tựu đầy đủ vô lượng
vô số công đức thù thắng chẳng thể nghĩ
bàn, thường siêng năng tinh tấn, lợi ích an lạc
hết thảy hữu t́nh, từng ở nơi quá khứ
vô lượng vô số Hằng hà sa Phật Thế Tôn, v́
muốn thành thục lợi ích an lạc các hữu t́nh mà
phát khởi đại bi kiên cố, khó phá hoại).
Tâm đại bi của Ngài hết
sức kiên cố, chẳng ai có thể phá hoại
được!
(Kinh) Dũng mănh tinh tấn,
vô tận thệ nguyện, do thử đại bi kiên cố
nan hoại. Dũng mănh tinh tấn, vô tận thệ nguyện,
tăng thượng thế lực. Ư nhất nhật dạ,
hoặc nhất thực khoảnh, năng độ vô
lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa số chư hữu
t́nh loại, giai linh giải thoát chủng chủng ưu khổ,
cập linh nhất thiết như pháp sở cầu, ư nguyện
măn túc. Tùy sở tại xứ, nhược chư hữu
t́nh, chủng chủng hy cầu, ưu khổ bức thiết,
hữu năng chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính,
cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát giả,
nhất thiết giai đắc như pháp sở cầu, ly
chư ưu khổ, tùy kỳ sở ưng, an trí sanh thiên, Niết Bàn chi
đạo.
(經)勇猛精進無盡誓願;由此大悲堅固難壞勇猛精進無盡誓願增上勢力,於一日夜或一食頃,能度無量百千俱胝那庾多數諸有情類,皆令解脫種種憂苦,及令一切如法所求,意願滿足。隨所在處,若諸有情,種種希求憂苦逼切,有能至心稱名念誦歸敬供養地藏菩薩摩訶薩者,一切皆得如法所求,離諸憂苦,隨其所應,安置生天涅槃之道。
(Kinh: Dũng mănh, tinh tấn,
thệ nguyện vô tận. Do ḷng đại bi kiên cố
khó hoại ấy, dũng mănh,
tinh tấn, thệ nguyện vô tận, mà tăng thượng
thế lực. Trong một ngày đêm, hoặc trong khoảng
một bữa ăn, có thể độ vô lượng
trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa số các loài hữu t́nh,
khiến cho họ đều được giải thoát
các thứ ưu khổ, và khiến cho hết thảy các
điều mong cầu đúng pháp đều được
thỏa măn theo ư nguyện. Ở bất cứ nơi
đâu, nếu các hữu t́nh do các thứ mong cầu mà bị sầu khổ bức bách, mà có thể chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy
ngưỡng, tôn kính, cúng dường Địa Tạng Bồ
Tát Ma Ha Tát, hết thảy các điều mong cầu
đúng pháp sẽ đều đạt được, ĺa
các nỗi ưu khổ, tùy theo căn tánh thích đáng mà
đặt yên họ nơi đạo sanh lên trời hoặc
Niết Bàn).
Tối thiểu là quư vị
có thể sanh lên trời, chẳng đọa vào tam đồ,
thậm chí đạt được bất sanh, bất diệt,
rốt ráo thành Phật.
(Kinh) Tùy sở tại xứ,
nhược chư hữu t́nh, cơ khát sở bức, hữu
năng chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng dường
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát giả, nhất thiết
giai đắc như pháp sở cầu, ẩm thực sung
túc, tùy kỳ sở ưng, an trí sanh thiên, Niết Bàn chi
đạo.
(經)隨所在處,若諸有情,飢渴所逼,有能至心稱名念誦歸敬供養地藏菩薩摩訶薩者,一切皆得如法所求,飲食充足,隨其所應,安置生天涅槃之道。
(Kinh: Ở bất cứ
nơi đâu, nếu các hữu t́nh bị đói khát bức
bách, mà có thể chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy
ngưỡng, tôn kính, cúng dường Địa Tạng Bồ
Tát Ma Ha Tát, hết thảy những điều cầu mong sẽ
đều đạt được đúng như pháp, thức
ăn sung túc, xứng theo căn tánh của họ mà đặt
yên họ nơi đạo sanh thiên, Niết Bàn).
Những lời lẽ này
đều có cùng một ư nghĩa [với đoạn kinh
văn trước đó].
(Kinh) Tùy sở tại xứ,
nhược chư hữu t́nh phạp thiểu chủng chủng
y phục, bảo sức, y dược, sàng phu, cập
chư tư cụ, hữu năng chí tâm xưng danh, niệm
tụng, quy kính, cúng dường Địa Tạng Bồ
Tát Ma Ha Tát giả, nhất thiết giai đắc như
pháp sở cầu, y phục, bảo sức, y dược,
sàng phu, cập chư tư cụ, vô bất bị túc, tùy kỳ
sở ưng, an trí sanh thiên, Niết Bàn chi
đạo. Tùy sở tại xứ, nhược chư hữu
t́nh, ái nhạo biệt ly, oán tắng hợp hội, hữu
năng chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng dường
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát giả, nhất thiết
giai đắc ái nhạo hợp hội, oán tắng biệt
ly, tùy kỳ sở ưng, an trí sanh thiên, Niết Bàn chi
đạo.
(經)隨所在處,若諸有情,乏少種種衣服、寶飾、醫藥、床敷及諸資具,有能至心稱名念誦歸敬供養地藏菩薩摩訶薩者,一切皆得如法所求,衣服、寶飾、醫藥、床敷及諸資具,無不備足,隨其所應,安置生天涅槃之道。隨所在處,若諸有情,愛樂別離,怨憎合會,有能至心稱名念誦歸敬供養地藏菩薩摩訶薩者,一切皆得愛樂合會,怨憎別離,隨其所應,安置生天涅槃之道。
(Kinh: Ở bất cứ
nơi đâu, nếu các hữu t́nh thiếu thốn các thứ
y phục, vật trang hoàng báu, thuốc men, giường,
đồ trải, và các thứ vật dụng cần thiết,
mà có thể chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy ngưỡng,
tôn kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha
Tát, hết thảy các điều mong cầu
đúng pháp sẽ đều đạt được. Y
phục, vật trang hoàng báu, thuốc men, giường,
đồ trải, và các thứ vật dụng cần thiết,
không ǵ chẳng trọn đủ, xứng theo căn tánh mà
đặt yên họ nơi đạo sanh thiên, Niết Bàn.
Ở bất cứ nơi đâu, nếu các hữu t́nh, kẻ
yêu chuộng phải chia ĺa, kẻ oán ghét cứ phải tụ
họp, mà có thể chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy
ngưỡng, tôn kính, cúng dường Địa Tạng Bồ
Tát Ma Ha Tát, th́ hết thảy sẽ đều được
kẻ yêu chuộng tụ hợp, xa ĺa kẻ oán ghét, tùy
theo căn tánh mà đặt yên họ nơi đạo sanh
thiên, Niết Bàn).
Đấy là khổ nạn.
Yêu thương mà chẳng thể tụ họp, kẻ oán
chẳng mong gặp gỡ mà chẳng thể được. Đó gọi là “oán
tắng hội khổ, ái biệt ly khổ”. Nếu chí
tâm xưng niệm, niệm tụng Địa Tạng Bồ
Tát, những nỗi khổ ái biệt ly và oán tắng hội
sẽ theo đúng lẽ mà tiêu mất, được đặt
yên nơi đạo sanh thiên, Niết Bàn.
(Kinh) Tùy sở tại xứ,
nhược chư hữu t́nh, thân tâm ưu khổ, chúng bệnh
sở năo, hữu năng chí tâm xưng danh, niệm tụng,
quy kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha
Tát giả, nhất thiết giai đắc thân tâm an lạc,
chúng bệnh trừ dũ, tùy kỳ sở ưng, an trí sanh
thiên, Niết
Bàn chi đạo.
(經)隨所在處,若諸有情,身心憂苦,眾病所惱,有能至心稱名念誦歸敬供養地藏菩薩摩訶薩者,一切皆得身心安樂,眾病除愈,隨其所應,安置生天涅槃之道。
(Kinh: Ở bất cứ
nơi đâu, nếu các hữu t́nh, thân tâm ưu khổ, bị
các thứ bệnh gây phiền năo, mà có thể chí tâm xưng
danh, niệm tụng, quy ngưỡng, tôn kính, cúng dường
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́ hết thảy
đều được thân tâm yên vui, các bệnh trừ
sạch, xứng theo căn tánh, đặt yên nơi đạo
sanh thiên, Niết Bàn).
Những đoạn kinh
văn trên đây tán thán Địa Tạng Bồ Tát. Chắc
mọi người sẽ hoài nghi: Theo các đoạn kinh
văn ấy, chỉ cần xưng niệm danh hiệu
thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, những ǵ chúng
ta thiếu thốn sẽ đều có thể đạt
được, cầu ǵ được nấy, thậm
chí thành Phật. [Cần phải nhớ]: Theo những ǵ
kinh văn đă dạy, chỉ cần chí tâm niệm danh hiệu
Địa Tạng Bồ Tát, khi Địa Tạng Bồ
Tát nhập định, Ngài sẽ gia tŕ quư vị. Trong mỗi
câu kinh đều có “chí tâm”, đừng vứt mất hai chữ “chí tâm” ấy.
Nếu đánh mất “chí tâm”, đoạn kinh văn
này sẽ có vấn đề. Ngài dạy: Ắt cần phải
“hữu năng chí tâm xưng danh giả” (có thể chí
tâm xưng danh). Mọi người bái sám, trước mỗi
câu cũng đều có “chí tâm xưng
danh giả”. Mọi người bái sám, trước mỗi
câu cũng đều có hai chữ “nhất tâm”. Do vậy, chúng
ta đừng nên nẩy sanh vấn đề đối với
tín tâm.
Vấn đề nơi tín
tâm là ǵ vậy? [Nếu quư vị thắc mắc]: “Đức
Phật bảo Hảo Nghi Vấn Bồ Tát rằng Địa
Tạng Bồ Tát có sức công đức nhiều ngần
ấy, cớ sao tôi làm theo mà hiệu quả khác hẳn? Có
phải là đức Phật nói dối hay không?” Như
trong phần trên, Ngài đă dạy [chí tâm], nhưng v́ quư vị chẳng làm như thế,
sẽ chẳng đạt được hiệu quả!
Trong một vạn câu niệm của quư vị, có một câu nào chí tâm hay không? Hễ có một câu là được
rồi. V́ thế, có lúc rất tương ứng, cũng
có nghĩa là trong lúc đó, tâm quư vị rất thanh tịnh.
Có cách nào để có thể đạt được hay
không? Mọi người nhất định phải tu quán
tưởng, quán tưởng Địa Tạng Bồ Tát,
c̣n phương pháp quán tưởng th́ trong phần sau, chúng
tôi sẽ nói.
Khi nói đến tu Định,
tu tĩnh, khi quư vị muốn quán tưởng, phải vận
dụng như thế nào? Quư vị sẽ dần dần có
thể tương ứng, xác thực tương ứng.
Đức Phật chẳng nói một câu nào giả dối,
mà cũng chẳng có câu nào gạt gẫm chúng ta. Nếu chẳng
có tác dụng, Ngài lừa gạt chúng ta
để làm ǵ? Phật, Bồ Tát chẳng như vậy.
Nhưng chúng ta đă làm theo phương pháp trong kinh Phật đă dạy, cớ sao chẳng
đạt được hiệu quả? V́ căn bản
là quư vị chẳng học đàng hoàng. Quư vị tự nhận
ḿnh là đệ tử Phật, và cũng đang tu tập;
nhưng căn bản là quư vị chẳng học, quư vị
chẳng làm ứng hợp với những điều
đă chỉ dạy!
Chẳng hạn như trong
phẩm thứ mười hai của kinh Địa Tạng,
Thích Ca Mâu Ni Phật đă bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: Nếu
trí nhớ kém cỏi, chẳng thể đọc tụng
kinh Phật, đấy là do túc chướng chưa tiêu mất,
hăy cúng dường một chén nước trước
tượng Địa Tạng Bồ Tát. Sáng sớm hôm nay
đă cúng, sáng sớm hôm sau đổ chén nước ấy
ra uống. Uống xong, rửa sạch cái chén ấy rồi
lại cúng, uống nước đă cúng ấy. Sau đó,
phải thận trọng chí tâm. V́ thế, Phật dạy
trong ṿng hai mươi mốt ngày, đừng sát
hại, kiêng rượu, thịt, tà dâm, vọng ngữ. Những
điều này kẻ b́nh phàm đều có thể làm
được, đệ tử Tam Bảo đều làm
được, nhưng chí tâm nghĩ nhớ danh hiệu
Đại Sĩ th́ chẳng làm được! Do vậy,
chẳng được tương ứng! Chúng tôi vừa
giải thích sâu hơn cái gọi là “chí tâm tư niệm
Đại Sĩ danh”, điều này liên quan đến
những điều chúng ta vừa đọc trong bộ
kinh [Thập Luân này]. Như thế nào th́ quư vị mới
đạt đến “chí tâm tư niệm Đại
Sĩ danh”? Trong ấy có công phu, mà cũng có đôi chút bí
mật. Nói rơ ràng th́ [thật ra] chẳng có ǵ là bí mật,
nhưng khi quư vị chẳng làm được th́ vẫn
là bí mật! Chuyện này phải cậy vào sức quán
tưởng. “Chí tâm” chẳng phải là miệng niệm,
cũng chẳng phải là dùng mắt nh́n, mà là trong tâm quán
tưởng. Trung Hoa có một câu nói cũ x́: “Tâm thành tắc
linh” (tâm chí thành sẽ linh). Tâm quư vị đă chí thành,
đá vàng cũng phải nứt, người học Phật
cái tâm vốn ít xáo động hơn người khác, sẽ
dễ thanh tịnh.
Chúng ta tựa theo lời dạy
trong kinh Phật để thực hiện, hoặc là
chưa đạt đến mục đích, c̣n chưa
đạt được tương ứng, nhất
định phải t́m ra nguyên nhân v́ sao? Phải kiểm tra
tư tưởng của chính ḿnh, tự ḿnh uốn nắn cho đúng. Sửa
đổi một lần chưa thành công, hai lần
chưa thành công, th́ mười lần! V́ sao tu hành cần
phải dụng công mấy chục năm? Hễ làm
đúng, sẽ lập tức khai ngộ. Hễ khai ngộ
th́ mới biết nguyên lai là chuyện như thế đó. Cho đến khi quư vị
đă biết chuyện nguyên lai là như thế đó, chuyện
ấy cũng chẳng có. Đạo lư này thoạt
nh́n rất đơn giản, làm được rất
khó! Nói rất dễ dàng, chỉ cần dùng cái tâm b́nh
thường để đối đăi là được
rồi, nhưng quư vị chẳng nắm chắc cái tâm
b́nh thường ấy!
Có rất nhiều người
hỏi tôi: Họ đă uống Địa Tạng thủy,
nhưng chẳng có hiệu quả tốt đẹp nào!
Tôi nói: “Có người đạt hiệu quả tốt,
quư vị hăy hỏi người ấy làm như thế
nào?” Nhưng đă có hiệu quả tốt, chớ nên tái
phạm. Nếu quư vị tái phạm, sẽ lại chẳng
c̣n [hiệu quả tốt đẹp ấy], sẽ có lúc
sáng suốt, có khi tối tăm. Cái tâm của chúng sanh có lúc
sáng suốt, có khi tối tăm, chúng ta chẳng quyết
định được. Cho nên trí huệ sáng suốt và
tối tăm, hai đằng cứ một mực chông
chênh: Có lúc sáng suốt, có lúc lại tối tăm; đă tối
tăm rồi lại khôi phục nguyên trạng sáng suốt.
Nói là “nghiệp chướng phát hiện”, có lúc người
ấy lại sáng suốt, nghiệp chướng lại
tiêu mất. Thế nhưng, chẳng cần
biết là như thế nào, hễ niệm tụng Địa
Tạng Bồ Tát, tuyệt đối chẳng đọa
vào tam đồ. Bất quá, phải trải qua đôi chút
luân chuyển.
Bất luận kinh Địa
Tạng, kinh Chiêm Sát, hay kinh Thập Luân cũng thế, chỉ
cần xưng tụng danh hiệu Địa Tạng Bồ
Tát, hiện tại đă kết duyên, sẽ đều có
thể đạt được công đức ấy. V́
trong kinh Địa Tạng, chính Địa Tạng Bồ
Tát đă hướng về Thích Ca Mâu Ni Phật cam đoan
điều ấy. Ngài nói: “Phàm là [chúng sanh] trong đời
Mạt, chỉ cần có đôi chút thiện căn trong Phật
pháp, dẫu bằng mảy tơ, sợi tóc, con cũng sẽ
nhất định độ thoát kẻ đó”. Như
vậy th́ cậy vào thần lực của Địa Tạng
Bồ Tát sẽ chẳng có vấn đề ǵ. Tuy vậy,
quư vị chớ nên v́ câu ấy mà đợi Địa Tạng
Bồ Tát đến độ! Chính ḿnh vẫn phải nỗ
lực! Nếu không, thời gian sẽ rất dài.
Nay chúng ta chỉ niệm kinh
văn một lượt, những đạo lư được
nói trong những phần kinh văn trên đây rất sâu, quư
vị đọc trước là được rồi. Thật
sự muốn học tập kinh Thập Luân là trong phần
sau, chờ đến khi nói tới quyển thứ hai, dùng
Thập Luân của Phật để đối trị Thập
Luân của chúng ta. Đối với kinh văn trong hai quyển
sau, hăy khéo dụng công đôi chút, đấy là chỗ chúng
ta tu hành. Trên đây là Tự Phần, trước hết, tán thán công đức
của Địa Tạng Bồ Tát để tâm quư vị quy
hướng: “Địa Tạng Bồ Tát đúng là chẳng
thể nghĩ bàn!” Trong tâm quư vị sẽ nẩy sanh cảm xúc rất chí thành, học tập theo, sẽ
dễ tiến nhập.
Đức Phật tán thán
công đức của Địa Tạng Bồ Tát lần
nữa, nhưng trong rất nhiều đại pháp hội,
rất ít khi Địa Tạng Bồ Tát đến dự.
Văn Thù Bồ Tát và Quán Thế Âm Bồ Tát thường ở
hai bên đức Phật, Địa Tạng Bồ Tát rất
ít đến! Trừ phi do liên quan đến Ngài mà cần
phải phát khởi pháp hội chi đó, Ngài mới đến
dự. Rất nhiều pháp hội chẳng có Địa Tạng
Bồ Tát. V́ sao? Ngài phải hiện thân trọn khắp trong rất
nhiều cơi Phật, Ngài có danh xưng là ǵ? Không nhất
định gọi là Địa Tạng Bồ Tát. Địa
Tạng Bồ Tát có vô lượng ức danh hiệu, Định
của Ngài cũng là vô lượng ức định, [ngay cả] danh tự của Ngài cũng là vô lượng
ức Định. Ngoài ra, vị Bồ
Tát nào sẽ là Địa Tạng Bồ Tát? Chúng ta đến
Ngũ Đài Sơn, triều bái Văn Thù Bồ Tát, vị
nào là Văn Thù Bồ Tát? Quư vị gặp quá nhiều
người! Thật ra, hằng ngày chúng ta gặp gỡ
Địa Tạng Bồ Tát, hoặc Địa Tạng ở
cạnh chúng ta mỗi ngày, chỉ là chính ḿnh chẳng biết
đấy thôi! Do vậy, quư vị cứ niệm là
được rồi. Khi quư vị niệm kinh Địa
Tạng, khi quư vị nghĩ nhớ Địa Tạng Bồ
Tát, Địa Tạng Bồ Tát đă ở trong tâm quư vị.
Đoạn kinh văn này nhắc
tới Hảo Nghi Vấn Bồ Tát v́ Ngài chẳng lư giải,
mà cũng chưa từng nghe nói qua, nhưng trong pháp hội
này, Ngài được gặp gỡ, mà cũng được
nghe nói [Địa Tạng Bồ Tát]. Trước hết,
đức Phật tán thán công đức của Địa
Tạng Bồ Tát; sau đấy, Địa Tạng Bồ
Tát lại dùng bài kệ mầu nhiệm để tán thán
công đức của đức Phật. Hảo Nghi Vấn
Bồ Tát cảm thấy Địa Tạng Bồ Tát chẳng
thể nghĩ bàn, liền hỏi: “Địa Tạng
Bồ Tát đă gieo thiện căn vào lúc nào? Nay Bồ Tát
đang ở trong cơi Phật nào? Cơi Phật ấy cách thế
giới Sa Bà của chúng ta xa hay gần? Trong đời quá
khứ, Địa Tạng Bồ Tát đă gieo thiện
căn nào, cũng như đă tu tập những công đức
ǵ?” Hảo Nghi Vấn Bồ Tát thỉnh vấn đức
Phật [những thắc mắc ấy]. Thoạt đầu,
đức Phật chẳng đáp ứng, v́ nói ra chỉ sợ
chúng sanh hoài nghi chẳng tin, đức Phật liền bảo
“thôi”. Do Hảo Nghi Vấn Bồ Tát xin chỉ dạy lần nữa, đức
Phật bèn dạy cho. Đấy là trong kinh Thập Luân,
Thích Ca Mâu Ni Phật tán thán Địa Tạng Bồ Tát.
Ngoài ra, chúng ta thấy trong
kinh Địa Tạng, hoặc xem kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo, [sẽ biết] thời gian Địa Tạng Bồ
Tát tu hành rất lâu xa. Đồng thời, đức Phật
chẳng nói cặn kẽ, Ngài giới thiệu cho Hảo
Nghi Vấn Bồ Tát chỉ là nói đại lược
chút phần! Trong chút phần ấy, trước hết,
nói một phần về các môn Định do Địa Tạng
Bồ Tát đă nhập. “Định” có nghĩa là quan
sát. Do Định th́ mới có thể sanh ra Huệ. Khi chúng
ta có chuyện ǵ, sẽ nói “đợi tôi lắng ḷng suy
nghĩ”, có ư nghĩa ấy. V́ Địa Tạng Bồ Tát
trọn khắp mọi nơi, hết thảy mọi
nơi đều là chỗ Ngài trụ. Ngài tùy ư an trụ
trong các cơi Phật. Chẳng phải là Hảo Nghi Vấn Bồ
Tát đă hỏi [Địa Tạng Bồ Tát] “trụ trong
cơi Phật nào, cách nơi này bao xa đấy ư?” Đức
Phật trả lời: “Ngài an trụ ở bất cứ
cơi Phật nào, nơi đó đều là xứ sở để
Địa Tạng Bồ Tát hành Bồ Tát đạo”.
Trọn chẳng phải chỉ là thế giới Sa Bà, mà
cũng chẳng phải chỉ là thế giới Cực Lạc,
chẳng phải chỉ là thế giới của Đông
phương Lưu Ly Quang Như Lai! Chỉ cần chỗ
nào có tam đồ, th́ sẽ có Ngài. Do vậy, trong rất
nhiều kinh giáo Đại Thừa, Địa Tạng Bồ
Tát rất ít khi hiện diện. Đấy là một vấn
đề: Có phải là Ngài thật sự chẳng ở
nơi đây? Chẳng phải! Chỉ là v́ danh xưng của
Ngài không phải là Địa Tạng Bồ Tát. Tùy theo quốc
độ đă hiện, tùy thuộc thân đă hiện, Ngài
lại có danh hiệu khác!
Đoạn kinh văn này nói
Ngài đă nhập tổng cộng hai mươi ba loại
Định; thật ra, chỉ là
nêu đại lược ít phần. Trong kinh Địa Tạng,
hoặc kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, Ngài nhập
Định nhiều hơn nữa. Mỗi sáng sớm bèn nhập
trăm ngàn vạn ức môn Định. Trước là dùng
Định để động, sau là dùng trí để cứu
bạt, tức là trước hết dùng Định để
quan sát một phen, sau đấy, dùng trí huệ để cứu
độ chúng sanh.
Trong thế giới này, Địa
Tạng Bồ Tát đặc biệt hữu duyên với thế
giới Sa Bà. Xét theo ư nghĩa của kinh văn, chúng ta ở
trong thế giới này lẽ ra phải đắc độ,
cớ sao đến giờ vẫn c̣n khổ sở như
vậy? Vẫn phải là do hữu duyên. Chúng ta niệm
thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát hằng ngày! Tôi dẫn
hai câu trong kinh do chính Địa Tạng Bồ Tát tự
nói: Có rất nhiều chúng sanh c̣n chưa được thấy
nghe danh tự của ta, “bất vị văn danh, vân hà
huyền niệm?” [ư nói]: Ngay cả danh tự của ta
c̣n chưa nghe thấy, làm sao niệm tên ta cho được?
Đối với điểm này, [chắc là] chúng ta sẽ
hoài nghi: “Hằng ngày chúng tôi đều niệm, sao lại
nói vẫn chẳng thấy nghe thánh hiệu Địa Tạng
Bồ Tát?”
Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo nói như thế này: “Phải chí tâm”. Khi sử dụng
Chiêm Sát Luân [để xem xét nghiệp chướng của
chính ḿnh sâu cạn như thế nào], nhất định phải
chí tâm. Chẳng chí tâm, sẽ chẳng nghe danh tự Địa
Tạng Bồ Tát, mà cũng chẳng tương ứng với
Địa Tạng Bồ Tát. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hỏi
Địa Tạng Bồ Tát, Ngài nói: “Hết thảy
chúng sanh muốn học tập pháp sám hối, nếu muốn
bái Địa Tạng Sám th́ phải chí tâm. Nếu chẳng
thể chí tâm, bất cứ hiện tượng nào cũng
đều chẳng đạt được, thậm chí
‘chẳng được nghe tên, làm sao suy niệm?’ Căn bản
là chẳng thấy nghe danh tự của tôi, niệm như
thế nào đây?” cũng tức là “chẳng niệm”.
Rành rành là đang niệm, rành rành là tôi đă thấy nghe, v́
sao [lại bảo là] “chẳng niệm”? V́ quư vị chẳng
chí tâm!
Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo nói: “Nhược bỉ chúng sanh tuy học sám hối,
bất năng chí tâm, bất hoạch thiện tướng
giả, thiết tác thọ tưởng, bất vi đắc
giới” (Nếu các chúng sanh đó tuy học sám hối,
nhưng chẳng thể chí tâm, chẳng đạt
được tướng lành, dẫu coi là [chính ḿnh]
đă thọ giới, vẫn chẳng đắc giới).
Điều ǵ cũng chẳng đạt được!
Khi chúng ta học pháp, thường là chẳng vâng theo pháp
để làm! Đă thọ Tam Quy Y, nhưng quư vị chẳng
hành theo Tam Quy Y, c̣n coi là đệ tử Phật được
chăng? Thọ Ngũ Giới, chẳng tŕ Ngũ Giới,
có được coi là đắc giới hay không? Hàm
nghĩa là như thế đấy!
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hỏi
Địa Tạng Bồ Tát nói: “Ngài nói chí tâm, như thế
nào mới được coi là chí tâm? Chí tâm là như thế
nào?” Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hỏi như thế, Địa
Tạng Bồ Tát đáp: “Thiện nam tử! Tôi nói chí tâm
th́ đại lược có hai loại. Những ǵ là hai? Một là lúc mới học
tập bèn cầu nguyện chí tâm, hai là nhiếp ư chuyên ṛng,
thành tựu tương ứng dũng mănh chí tâm. Có
được hai loại chí tâm ấy, sẽ có thể
đạt được thiện tướng. Loại
chí tâm thứ hai lại có hạ, trung, thượng, ba thứ
khác biệt”. Do đoạn kinh văn tôi vừa
đọc, mọi người sẽ đều có thể
biết sự trọng yếu của chí tâm. Trong phần
sau kinh Thập Luân, cũng sẽ giảng giải. Phần
trước chỉ nói tổng quát về công đức của
Bồ Tát mà thôi, trọn chẳng nói về những sự
thật mà Ngài đă thực hiện. Nhưng khi học
kinh, trước hết phải t́m ra hàm nghĩa trong bộ
kinh ấy, t́m ṭi những chỗ mâu thuẫn giữa các
kinh, giải quyết những chỗ quư vị cho là mâu thuẫn,
phải giải quyết những điều hoài nghi
trước đă, sau đấy mới có thể chí tâm,
thâm nhập, mới có thể được cứu, mới
tương ứng với nguyện lực của Bồ
Tát, tương ứng với những điều quư vị
mong cầu.
Nếu chẳng y pháp, chẳng
y pháp th́ là học pháp mà chẳng y pháp. Đó là căn bệnh
chung của chúng ta. Học kinh mà chẳng chiếu theo kinh,
điều này lại giải thích như thế nào đây?
Người học Phật rất đông, đức Phật dạy họ làm như thế
nào, họ chẳng làm như thế đó. Sau đấy, lại
c̣n ôm ḷng oán hận, chê bai Phật pháp chẳng linh. Chẳng phải
là không linh, mà là do quư vị chẳng làm theo, hoặc chẳng
làm đúng pháp, nhất định phải y pháp. Có những
chuyện xét theo lư th́ có thể thông, nhưng nơi Sự
th́ tuyệt đối chẳng được! Do vậy,
sau khi đă hiểu đạo lư này, mới biết rơ v́
sao suốt ngày bái sám, niệm Địa Tạng Bồ Tát,
mà dường như những mong cầu của chúng ta vẫn
chẳng được thỏa măn.
Trong sự gia tŕ của Bồ
Tát, c̣n có những hiện tượng rất rơ rệt, hoặc
là trong mộng, hoặc là thấy Địa Tạng Bồ
Tát gia tŕ, tai nạn của quư vị lập tức tiêu mất,
lập tức có thể hiểu rơ, tâm khai ư giải, hoặc
nghiệp tiêu mất. Đó gọi là “minh gia” (明加, gia tŕ rơ ràng), rất
rơ rệt! Lại c̣n có loại “minh gia” (冥加), tức là âm thầm
gia tŕ, từng bước dẫn dắt quư vị. Nếu
là gia tŕ rơ rệt, Bồ Tát có trí huệ, chúng ta chẳng có
trí huệ, sẽ dễ dàng kiêu ngạo, hoặc là do mộng
thấy tướng hảo, quang minh, quư vị sẽ rêu
rao chính ḿnh được gia tŕ khắp nơi ḥng chuốc
danh, chuốc lợi:
“Đêm hôm qua, Địa Tạng Bồ Tát đối
trước tôi phóng quang, tôi rất sung sướng”.
Người khác vừa nghe, [tấm tắc]: “Ông đă có
thành tựu”, vội vàng móc hồng bao ra, cúng dường
quư vị, hỏng bét! Quư vị đă bị đọa lạc!
Do đó, khi cầu th́ nhất định phải hiểu
loại kiến giải thù thắng này! Bất luận học
bộ kinh nào, cũng đều nhất
định phải học theo pháp, chớ nên lướt
qua.
[Chắc là sẽ có kẻ thắc
mắc]: Chẳng phải là [chư tổ thường] nói
“đốn ngộ” đó sao? Đốn ngộ chẳng ĺa khỏi Sự tu (tu hành
nơi Sự). Quư vị đừng thấy người ta
khai ngộ, vừa mới nghe đă lư giải [mà tưởng
là dễ]; sau đó, họ
đạt được lư giải thù thắng, được
thanh tịnh luân tướng, chẳng phải là do [chỉ
tu tập] trong đời này, mà là do đă nhiều kiếp
tu tập! Chúng ta thấy công nhân sử dụng các công cụ
hết sức thuần thục, nhoáy một cái đă làm
xong. Quư vị làm th́ mồ hôi mướt đầu, vẫn
ṃ mẫm, chẳng hiểu rơ cách làm như thế
nào! Lại c̣n làm ra những thứ chưa xứng gọi
là thứ phẩm. Đạo lư y hệt
như nhau! Trước hết, phải hiểu đạo
lư này rồi quư vị nghe những câu trong bộ kinh này,
được định lực của Bồ Tát gia tŕ,
cho đến Bồ Tát trụ trong bất cứ quốc
độ nào, ở bất cứ nơi đâu, cũng
đều có rất nhiều chúng sanh có thể đạt
được lợi ích. Chính quư vị sẽ có thể cảm
nhận được!
[Nếu nói] “tôi chẳng trông
thấy’, v́ sao tôi cảm nhận như vậy? V́ sao kinh
nói như thế? Hai đằng dường như chẳng
tương ứng. Hăy nên hiểu đạo lư này: Quư vị
ngay cả điều tối thiểu là chí tâm phát nguyện
cũng chẳng có! Chỉ có chí tâm ưa thích, nghe nói [những
công hạnh của] Địa Tạng Bồ Tát bèn rất
cảm động; đấy chỉ là cái tâm mong cầu,
vẫn chưa đạt đến mức chí tâm! Chí tâm có
mức độ nhất định. Đă phát khởi chí
tâm, giống như cái tâm dũng mănh, tinh tấn, đấy
vẫn là c̣n chia thành ba tâm. Đạt đến thâm tâm: “Địa
Tạng Bồ Tát là chính ta, ta là Địa Tạng Bồ
Tát”. Quán tưởng như thế th́ sẽ tương
ứng. Tự nhiên quư vị sẽ chứng đắc cảnh
giới khác hẳn. Như nghe nói về Địa Tạng
Bồ Tát, liền có thể đạt đến mức “xả
hết thảy, chuyện ǵ cũng giao cho Địa Tạng
Bồ Tát”, chúng ta vẫn chưa làm được!
C̣n như dựa theo những
yêu cầu trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, khi sử dụng
luân tướng, phải nên lễ bái như thế nào, y
pháp như thế nào, cầu ǵ được nấy, th́ cần
phải có công lực, tức là dũng mănh chí tâm, phải
trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, chẳng
phân biệt ngày đêm mà bái sám, xưng tụng danh hiệu,
tụng kinh Địa Tạng, dập đầu lễ
bái. Trọn chẳng phải là cứ chiếu theo bản
văn sám pháp lạy một lượt là xong! Phải thực
hiện liên tục, có yêu cầu nhất định!
Nhưng đối với bọn phàm phu chúng ta, đối
với thể lực và thân tâm của chúng ta trong hiện
thời, nếu chiếu theo quy định của Bồ
Tát th́ chúng ta chẳng thể làm nổi. Vậy th́ sẽ có
gia tŕ. Quư vị chỉ cần thật sự thực hiện
th́ sẽ được gia tŕ.
Trước kia, có một vị
tổ sư. Ngài dùng sanh mạng của chính ḿnh để
tu tŕ. V́ Ngài ưa ngủ gật, hôn trầm đặc biệt
nặng nề, bèn tự đặt ḿnh vào chỗ ắt phải
chết. Ai nấy đều sợ chết, Ngài đến
tĩnh tọa nơi vách đá cheo leo để coi chính ḿnh
có c̣n ngủ gục hay không? Hễ ngủ gục, sẽ
rơi phịch xuống, rơi xuống sẽ chết chắc!
Làm như vậy có thể chế ngự phiền năo hay
không? Chẳng thành công! Ngài tĩnh tọa, duy tŕ chẳng nổi,
bèn ngă nhào. Vi Đà Bồ Tát liền kéo Ngài lên, Ngài hỏi:
“Vị nào hộ pháp? Ai đă cứu tôi lên?” Vi Đà hộ
pháp bảo Ngài: “Ta là Vi Đà Bồ Tát đến hộ tŕ
ông”. Ngài vừa nghe như vậy, bèn sanh tâm kiêu mạn, nói:
“Trong Nam Thiệm Bộ Châu, người tu giống như
ta chỉ sợ chẳng được mấy ai!” Vi
Đà Bồ Tát nói: “Người giống như ông, ta
đă gặp quá nhiều, nhiều
như lông ḅ vậy. Kẻ có tâm kiêu ngạo như ông th́
mười kiếp sau ta mới hộ tŕ pháp cho ông. Suốt
mười kiếp ta chẳng hộ tŕ ông”. Vi Đà Bồ
Tát liền ẩn mất.
Ngài suy tưởng: “Thoạt
đầu, tôi cũng chẳng
cầu ông hộ pháp. Ông hộ pháp th́ cũng tốt, không hộ pháp
cũng chẳng sao. Tôi vẫn cứ tu như vậy”. Ngài
lại ngồi. Ngồi lâu chẳng thể duy tŕ nổi,
thân thể hữu hạn, lại rơi vèo xuống, Vi
Đà Bồ Tát lại cứu Ngài lên. [Tổ sư thắc
mắc]: “Chẳng phải là ông không hộ pháp cho tôi ư?
V́ sao lại hộ tŕ?” Vi Đà Bồ Tát nói: “Một niệm
của ông vượt khỏi mười kiếp. Ta nói
mười kiếp không hộ pháp cho ông, nhưng một niệm
tâm tinh tấn ấy đă vượt khỏi mười
kiếp”. Khi chúng ta gặp nguy nan hay trong hoàn cảnh khó
khăn, có sanh khởi tâm niệm vượt qua mười
kiếp hay không? Thường nói là “buông xuống thân tâm”,
chúng ta có buông xuống hay không? Chính ḿnh hiểu rất rơ!
Dựa trên đoạn kinh
văn đức Phật trả lời Hảo Nghi Vấn
Bồ Tát trong kinh Thập Luân, [sẽ thấy] đây chẳng
phải là Địa Tạng Bồ Tát tự tán
dương công đức của chính ḿnh, mà là do đức
Phật nói. Đức Phật nói: Vị thiện nam tử
ấy, ở ngay trong quốc độ mà Ngài trụ, do
định lực, nguyện lực, tâm từ bi, đạo
lực, chỉ cần Ngài ở nơi đâu, nơi ấy
liền cát tường. Thế nhưng chúng sanh ở
nơi ấy cũng phải chí tâm
tương ứng với Ngài. Không tương ứng th́ vẫn
chẳng đạt được! Nhưng có chỗ lại
nói, như trong phẩm thứ mười hai của kinh
Địa Tạng, đức Phật bảo Quán Thế
Âm Bồ Tát: “Vị Địa Tạng này đặc biệt
hữu duyên với chúng sanh trong cơi này. Chỉ cần chúng
sanh có cầu, chúng sanh có niệm, sẽ đều
được gia tŕ”, chẳng đ̣i hỏi nghiêm ngặt
như thế. Hơn nữa, trong phẩm thứ mười
ba của kinh Địa Tạng, cuối cùng đức Phật
đă phó thác: “Đối với chúng sanh đời Mạt
Pháp, ông nhất định phải dùng thần lực và
nguyện lực cứu giúp, che chở họ”. Địa
Tạng Bồ Tát liền nguyện rằng: “Trong thời
Mạt Pháp, những ai chỉ cần có chút thiện căn
trong Phật pháp, dẫu bằng một vi trần, hay một
giọt nước, con nhất định cứu độ
kẻ ấy, khiến cho kẻ ấy được giải
thoát”. So với chí tâm tương ứng vừa
được nói trên đây, kết hợp cả hai đằng
để xem, [sẽ hiểu] học pháp th́ chẳng thể
chấp trước nơi văn tự, ngôn ngữ. Nếu
không, sẽ ngă ḷng, chẳng thể sanh tâm chí thành
được. Địa Tạng Bồ Tát nói: “Có
đôi chút công đức bằng một vi trần, hoặc
một giọt nước trong Phật pháp, ta sẽ đều
cứu độ”, [thế mà] nay ta có rất nhiều
công đức nơi Phật pháp, không chỉ bằng một
giọt nước, cớ sao Địa Tạng Bồ Tát
chẳng cứu độ ta? Quư vị sanh tưởng ư niệm
oán thán như thế! Đối với Phật pháp, phải
nh́n theo mọi khía cạnh, luôn luôn tu tập, phải nh́n như
thế đó.
Đại Thừa
Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần 2 hết
[1] Hiền b́nh (Pūrna-ghata): Hiền có nghĩa là Thiện,
hàm ư “có thể sanh ra phước lành, thỏa
nguyện như ư”. B́nh này c̣n gọi là thiện b́nh,
đức b́nh, măn b́nh, hiền đức b́nh, công đức
b́nh, như ư b́nh, cát tường b́nh. Đây là chiếc b́nh
thường sử dụng trong đàn tràng Mật giáo, chứa đựng các thứ chất báu,
hương, thuốc báu v.v… Trong Tạng Truyền Phật
giáo, hiền b́nh thường được gọi là
Terbum, thường được dịch là Treasure Vase, Wealth Vase, hay
Treasure Urn, thường có h́nh tṛn, cổ thắt, miệng
loe, có nắp đậy, phía ngoài có h́nh Phật, Bồ Tát
và các h́nh cát tường, hay h́nh Hoàng Tài Thần (Dzambala, hóa
thân của Tỳ Sa Môn Thiên Vương), và các chú ngữ, đôi khi buộc giải vải
ngũ sắc quanh cổ b́nh.
[2] Tsongkhapa (có nghĩa là
“người đến
từ xứ Tsongkha”, 1357-1414), được coi là hóa
thân của Văn Thù Bồ Tát, là người sáng lập
tông phái Gelugpa của Phật Giáo Tây Tạng. Cha Ngài là
người Mông Cổ, mẹ là người Tây Tạng.
Ngài sanh ở thành phố Tsongkha thuộc vùng Amdo (nay thuộc
Tây Ninh của tỉnh Thanh Hải, Trung Hoa), thọ Ngũ
Giới với Karmapa đời thứ tư, với tên gọi
là Kunga Nyingpo. Lên bảy tuổi, Ngài cầu thọ giới
Sa Di với tu viện trưởng tu viện Hạ Quỳnh
(Jakhyung), được đặt pháp danh là Losang Drakpa (Thiện
Huệ Xưng). Ngài được truyền thụ các Mật
pháp bí nhiệm về Thánh Lạc (Heruka), Hỷ Kim Cang
(Hevajra) và Diễm Man Đắc Ca (Yamantaka) rất sớm. Do thông thạo kinh điển, Ngài đặc biệt hứng thú
nghiên cứu Luận Tạng, mật điển Thời
Luân (Kalachakra), và Đại Thủ Ấn (Mahamudra).
Lúc 24 tuổi, Ngài được thọ Cụ Túc Giới
theo tông phái Sakyapa. Ngài chuyên nghiên cứu các giáo điển
theo truyền thừa bởi tôn giả Atisha, và theo học với
nhiều vị thầy nổi tiếng của hai tông Kargyupa và Sakyapa. Không chỉ nghiên cứu
thâm nhập kinh điển, Ngài c̣n tự bế quan hành tŕ,
cúng dường, và sám hối. Theo ghi chép, Ngài đă tự ḿnh đảnh lễ hàng triệu
lần, tác pháp cúng dường, và sám hối tam nghiệp.
Nhận thấy các lama Tây Tạng lơi lỏng
giới luật, nhiều vị buông lung trong tửu sắc,
hoặc lạm dụng các pháp song tu (thậm chí mượn
tiếng song tu để hành dâm bừa băi), cũng như không chú trọng
nghiên cứu kinh điển và các bộ luận Đại
Thừa. Ngài nhấn mạnh việc nghiên cứu giới
luật, và kinh luận, đặc biệt là Duyên Khởi
Tánh Không và Trung Quán của Duy Thức, hành tŕ giới luật
nghiêm cẩn, cấm ngặt các đệ tử đă thọ
Đại Giới không được uống rượu,
không được tùy tiện cưới vợ, tuyệt
đối không được thực hành pháp song tu với nữ nhân. Do vậy, trong tu viện Ganden do Ngài
sáng lập vào năm 1409, các tăng sĩ được gọi
là
Gelugpa (những người
đức hạnh). Hai đệ tử nổi tiếng của
Ngài là Khedrup Geleg Pelzhang (Ban Thiền Lạt Ma đời thứ
nhất) và Gedun Drupa (Đại Lai Lạt Ma đời thứ
nhất) là những người góp phần tích cực trong
việc h́nh thành tông phái Gelugpa. Để phân biệt với
các tông phái cũ, họ đội mũ màu vàng, nên người
Hoa thường gọi họ là Hoàng Mạo Phái. Trong
khi các tông phái cũ được gọi là Hồng Mạo
Phái (Nyingmpa, Sakyapa và Kargyupa). Ngài để lại rất nhiều
trước tác, trọng yếu nhất là các bộ Bồ
Đề Đạo Thứ Đệ Luận Quảng Luận
(Lamrim Chenmo), Mật Tông Đạo Thứ Đệ Quảng
Luận, Bồ Đề Đạo Thứ Đệ
Lược Luận, Bồ Đề Đạo Thứ
Đệ Tâm Luận, Đại Thừa Tu Tâm Thất
Nghĩa Luận Quán Chú, Duyên Khởi Tán Ngũ Thập Bát Tụng…
[3] “Kẽm núi” là khe núi nhỏ hẹp, hai bên
là vách núi dựng đứng, chính giữa là một gịng
sông nhỏ quanh co. Những kẽm núi đẹp nổi tiếng
như kẽm Trống trên sông Đáy thuộc tỉnh Hà
Nam, hoặc Ḥn Kẽm ở Quảng Nam.
[4] Cổ (蠱) là các loại trùng độc (côn
trùng, rắn độc, nhện, rết, ḅ cạp v.v…), hoặc các loại thực vật có chất độc,
được chế thành bột để hạ độc
hoặc khống chế người nào đó. Người
luyện thuật này gọi là Vu Sư hay Cổ Sư, thuật này được gọi Vu Cổ hay Cổ
Thuật. Cách này thường sử dụng trong các bộ
tộc thiểu số, nhất là người Miêu, đặc
biệt là tại vùng Tương Tây (Hồ
Nam) của Trung Hoa. Tại
Trung Hoa, thường có truyền thuyết cổ trùng có thể
sống kư sinh trong thân thể người bị hại,
khiến cho người bị hại hoàn toàn nghe theo lời
sai khiến của Vu Sư. Thậm chí c̣n có truyền thuyết
nói Cổ Sư có thể dùng cổ để điều
khiển xác chết đi hại người. Truyền
thuyết phổ biến nhất là để luyện Cổ,
họ bỏ các loại trùng độc vào trong một
đồ chứa lớn, cho chúng tàn sát lẫn nhau. Con nào sống
sót cuối cùng sẽ là con độc địa nhất,
đem con đó luyện cổ.