Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần 2

大乘大集地藏十輪經講記

Mộng Tham lăo ḥa thượng chủ giảng

梦参老和尚主講

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

         

          (Kinh) Thị thú Niết Bàn thương nhân đạo thủ, như Như Ư Châu vũ chúng tài bảo, tùy sở hy cầu, giai linh măn túc. Thí chư thương nhân sở thải bảo chử, thị năng sanh trưởng thiện căn lương điền, thị năng thịnh trữ giải thoát lạc khí, thị xuất diệu bảo công đức hiền b́nh. Chiếu hành thiện giả do như lăng nhật. Chiếu thất đạo giả, do như minh cự. Trừ phiền năo nhiệt như nguyệt thanh lương. Như vô túc giả sở đắc xa thặng. Như viễn thiệp giả sở bị tư lương. Như mê phương giả sở phùng thị đạo. Như cuồng loạn giả sở phục diệu dược. Như tật bệnh giả sở ngộ lương y. Như luy lăo giả sở bằng kỷ trượng. Như b́ quyện giả sở chỉ sàng ṭa.

          ()是趣涅槃商人導首。如如意珠雨眾財寶,隨所希求皆令滿足。譬諸商人所採寶渚,是能生長善根良田,是能盛貯解脫樂器,是出妙寶功德賢瓶。照行善者猶如朗日,照失道者猶如明炬,除煩惱熱如月清涼,如無足者所得車乘,如遠涉者所備資糧,如迷方者所逢示導,如狂亂者所服妙藥,如疾病者所遇良醫,如羸老者所憑几杖,如疲倦者所止床座。

          (Kinh: Là người hướng dẫn cầm đầu các thương nhân đạt đến Niết Bàn. Như châu Như Ư tuôn ra các thứ của báu, tùy ḷng mong cầu đều khiến cho trọn đủ. Ví như bến báu cho các thương nhân thu thập [của báu]. Là ruộng tốt có thể sanh trưởng căn lành. Là dụng cụ chứa đựng niềm vui giải thoát. Là hiền b́nh có thể tuôn ra các thứ báu công đức mầu nhiệm. Chiếu người làm lành ví như mặt trời rạng rỡ. Soi kẻ lạc đường ví như đuốc sáng. Trừ nóng phiền năo như mặt trăng trong mát. Như kẻ không chân có được xe cộ. Như người đi xa có đủ lương thực, chi dụng. Như người mê mất phương hướng gặp người chỉ dẫn. Như kẻ cuồng loạn được uống thuốc hay. Như người bệnh tật gặp được lương y. Như ghế, gậy cho kẻ già cả lụm cụm nương cậy. Như giường, ṭa cho người mệt mỏi nghỉ ngơi).

 

          “Thị thú Niết Bàn thương nhân đạo thủ” (là người hướng dẫn cho các thương nhân tiến nhập Niết Bàn): Nếu muốn thành Phật, sẽ giống như thương nhân vào biển thu nhặt của báu, quư vị phải mời một người hướng dẫn vào biển đi thâu thập của báu. Nếu muốn tiến hướng Niết Bàn, quư vị cũng phải có người hướng dẫn. Ai là người hướng dẫn? Địa Tạng Bồ Tát là người hướng dẫn, dẫn dắt quư vị hướng đến Niết Bàn. Giống như Như Ư Bảo Châu tuôn ra các thứ báu, tùy ḷng mong cầu đều được thỏa măn, Ngài sẽ chẳng phiền chán. Có những đạo hữu lạy Địa Tạng Bồ Tát xong, hoặc là niệm kinh xong, trước hết, cầu cho người nhà của chính ḿnh b́nh an, hoặc cầu thân tâm khỏe mạnh; xong rồi lại cầu phát tài. C̣n cầu rất nhiều! Có kẻ hỏi tôi: “Sư phụ ơi! Con cầu nhiều quá, Địa Tạng Bồ Tát có bực bội hay không?” Tôi đáp: “Quư vị cầu nhiều cỡ nào? Quư vị cầu một ức, mười ức, trăm ức, ngàn ức, vạn vạn ức, Địa Tạng Bồ Tát cũng chẳng phiền. Quư vị cầu càng nhiều, cho thấy công phu tu hành của quư vị càng tốt, cho nên mới có thể cầu nhiều ngần ấy. Nếu không, sẽ cầu chẳng được!”

          Mọi người niệm kinh Địa Tạng xong rồi phát nguyện, tôi nghĩ quư vị chẳng cầu quá nhiều, v́ tâm lượng của quư vị chẳng lớn ngần ấy, cầu chẳng được, mà nghĩ cũng chẳng tới. Quư vị có cầu cho hết thảy chúng sanh đều thành Phật hay chăng? Cầu Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ, khiến cho hết thảy chúng sanh đều thành Phật, mong vĩnh viễn ở trong pháp giới, có cầu như vậy hay chăng? Chưa hề cầu! Tâm lượng của quư vị chẳng thể coi là lớn, chỉ nghĩ đến chính ḿnh. Ắt cần phải nghĩ đến những người ḿnh gặp gỡ, nghĩ đến đồng bào. Tiến hơn bước nữa là nghĩ tới hơn sáu mươi ức người trên địa cầu. Có nghĩ tới những tinh cầu khác hay chăng? Có nghĩ đến pháp giới hay chăng? Có nghĩ mong cho chúng sanh trong Liên Tŕ Hải Hội đều thành A Di Đà Phật hay chăng? Mọi người đều rất ít ai phát các nguyện ấy! [Chỉ nghĩ] “tôi văng sanh là được rồi, có thể đến gia nhập Liên Tŕ Hải Hội, trở thành một thành viênkhá lắm rồi!” Quư vị có mong đại chúng trong Liên Tŕ Hải Hội đều biến thành A Di Đà Phật hay chăng? Nếu chưa từng mong, từ nay trở đi, quư vị phải mong, phải phát nguyện. Không chỉ là chính ḿnh có thể đến Liên Tŕ Hải Hội, mà Thanh Văn, Duyên Giác, chỉ cần sanh vào Liên Tŕ Hải Hội, ai nấy đều là A Di Đà Phật. Thậm chí mong cho thế giới Sa Bà, bất luận kẻ nào chịu khổ nạn lớn đến mấy đi nữa, người trên thế giới này nay đang chung sống với ta, nhất định đều có thể thành Phật, cùng với ta thành Phật.

          Phát nguyện lớn hơn một chút th́ “sau khi họ đều thành Phật, tôi mới thành Phật”. Trăm ngàn vạn ức sự đều có thể hướng về Địa Tạng Vương Bồ Tát để nói. Quỳ trước Ngài, niệm thánh hiệu Địa Tạng mười câu, niệm xong bèn phát nguyện, đặc biệt v́ những nguyện ấy. Đó là tu đạo. Quư vị có nguyện lớn cỡ nào, bèn có sức thần thông to chừng ấy. Do nhờ mượn nguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật đều trở thành cái nguyện của quư vị. Nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát là “tận hư không khắp pháp giới, khiến cho hết thảy chúng sanh đều thành Phật”, đó chính là đại nguyện Phổ Hiền. Nhất định phải hiểu đạo lư này; Bồ Tát sẽ chẳng phiền chán. Phiền là do chính quư vị tự suy nghĩ lung tung, dấy lên vọng tưởng. Toàn là nghĩ tưởng cảnh giới ngũ dục, vậy là không được rồi! Nếu nghĩ tới thánh cảnh, hoặc tướng cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, sẽ là ruộng tốt có thể sanh trưởng thiện căn. V́ thế nói “cuộc đất ấy sanh trưởng hết thảy thiện căn”.

          “Thị năng thịnh trữ giải thoát lạc khí” (là dụng cụ chứa đựng niềm vui giải thoát): “Giải thoát lạc khí” là ǵ? Chính là giải thoát. Đừng hiểu chữ “lạc khí” (樂器) là “nhạc khí” để tấu âm nhạc. Địa Tạng Bồ Tát là cuộc đất chứa đựng hết thảy chủng tử giải thoát, hết thảy đều có thể giải thoát, là hiền b́nh[1] có thể hiện ra hết thảy công đức quư báu, mầu nhiệm. Giống như tôi vừa mới nhắc tới chiếc bảo b́nh của Quán Thế Âm Bồ Tát, xuất hiện hết thảy các món báu mầu nhiệm, tiêu tai, miễn nạn. Cần thứ ǵ, trong bảo b́nh sẽ xuất hiện thứ ấy. Quang minh của Địa Tạng Bồ Tát chiếu đến những người làm lành, chỉ chiếu người làm lành, chứ kẻ làm ác chẳng thành tựu. Kẻ làm ác phải sửa đổi thành làm lành. Đó là “lăng nhật”. “Lăng nhật” () tức là vầng mặt trời sáng ngời.

          Kẻ lạc lối chẳng t́m thấy đường, phía trước bèn có đèn sáng, hay có đuốc sáng, có đuốc lớn chỉ lối. Khi nhiệt năo, vầng trăng trong mát nhất, [cho nên nói là] “như nguyệt thanh lương” (như trăng trong mát). Nếu là kẻ chẳng có chân, sẽ có xe lăn cho quư vị ngồi, ví như chiếc xe, [nên nói là] giống như “sở đắc xa thặng” (có được xe cộ). Ví như quư vị đi đường xa, vừa khát, vừa đói, chẳng có nước, chẳng có thức ăn, vậy th́ sẽ cấp lương thực cho quư vị. Như kẻ mê mất phương hướng, sẽ chỉ bảo quư vị. “Như vô túc giả, sở đắc xa thặng, như viễn thiệp giả sở đắc tư lương, như mê phương giả sở phùng thị đạo, như cuồng loạn giả, sở phục diệu dược” (Như người không chân có được xe cộ, như người đi xa có được lương thực, chi dụng. Như người lạc lối gặp người chỉ đường. Như kẻ cuồng loạn được uống thuốc hay).

          Kẻ đó đă bị điên cuồng, có cách nào chữa trị hay không? Vậy th́ phải gặp được thuốc hay, gặp bác sĩ giỏi. Nếu gặp được thần dược, có thể lập tức ngừng điên cuồng. Chúng ta cứ nghĩ kẻ bị bệnh mới điên cuồng; thật ra, chúng ta đều đang điên cuồng! V́ sao chẳng tu Bồ Đề đạo? Có đạo hữu tự cho rằng chính ḿnh tu hành rất nhiều; tôi tính thử nhé! Tôi nói: Một ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ, quư vị tu được bao nhiêu? Quư vị c̣n tu chẳng nhiều bằng tôi, sao c̣n nói quư vị tu nhiều lắm! Chính quư vị hăy tự tính toán, trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, mỗi tiếng là sáu mươi phút, có mấy phút niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng? Có mấy phút niệm tham, sân, si, niệm giết, trộm, dâm, niệm nói dối, nói thêu dệt, nói thô ác? Quư vị có tính hay chưa? Quư vị tu hành quá ít! Mọi người phải tu hành nhiều hơn! Tu hành th́ đừng v́ chính ḿnh tu hành quá ít, c̣n tự cho là lỗi lạc lắm. Cách biệt quá xa, làm sao có thể minh tâm, làm sao có thể tiêu tai, miễn nạn cho được? Hăy khéo suy nghĩ đôi chút, làm thế nào để tiêu tai, miễn nạn?

          “Thí chư thương nhân sở thải bảo chử, thị năng sanh trưởng thiện căn lương điền, thị năng thịnh trữ giải thoát lạc khí” (Ví như băi báu cho các thương nhân thu nhặt, là ruộng tốt có thể sanh trưởng căn lành, là dụng cụ chứa đựng niềm vui giải thoát): “Khí” () là một thứ đồ đựng, đồ đựng ấy chứa ǵ vậy? Chứa đựng điều vui sướng nhất. Điều ǵ vui sướng nhất? Giải thoát! Giải thoát th́ sẽ chẳng có phiền năo, chẳng có dục vọng; đó gọi là “giải thoát lạc khí”. Đấy hoàn toàn chẳng phải là những thứ nhạc khí như đàn tỳ bà hoặc cổ cầm, “lạc” ở đây có nghĩa là “vui sướng”. “Hiền b́nh có thể xuất sanh công đức quư báu nhiệm mầu”: Cái b́nh ấy có thể sanh ra hết thảy công đức; trong phần trước, tôi đă nói cái b́nh ấy giống như bảo b́nh của Quán Âm Bồ Tát. Đây là h́nh dung công đức của Địa Tạng Bồ Tát.

          Ai có thể làm chuyện tốt, làm việc lành, quang minh của Địa Tạng Bồ Tát sẽ như ánh sáng mặt trời rạng rỡ chiếu đến thân quư vị. Đối với người lạc đường, “thất đạo” (失道) là lạc đường, đang đi đường th́ bị lạc lối, Địa Tạng Bồ Tát giống như lửa đuốc sáng ngời chiếu rọi quư vị. Nếu là chúng sanh có phiền năo, quang minh của Địa Tạng Bồ Tát liền diệt trừ sự nhiệt năo ấy, giống như vầng trăng trong mát, khiến cho quư vị chẳng có nhiệt năo.

          “Như vô túc giả, sở đắc xa thặng” (như người không có chân có được xe cộ): Khi quư vị đi đường rất mệt nhọc mà có xe cộ, sẽ có thể giảm thiểu nỗi khốn khổ ấy. “Như viễn thiệp giả, sở bị tư lương” (như người đi xa có được lương thực và chi dụng): Đi đường xa mà chẳng có lương thực và tiền chi dụng, sẽ không đến được. “Như mê phương giả, sở phùng thị đạo”, ư nói: Đă mê mất phương hướng, có người chỉ dẫn phương hướng cho quư vị, giống như khi chúng ta đi đường bèn hỏi đường. Một hàm nghĩa khác là trong đời sống, chúng ta t́m ra một pháp môn phương tiện thiện xảo để xuất ly sanh tử, chính là niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát.

          Theo những điều đă nói trong đoạn kinh văn này, Địa Tạng Bồ Tát có thể ban ǵ cho chúng ta? Chính là “phương tiện thiện xảo”. Khi một người tu đạo, do liên quan đến nguyện lực, người cầu Ngài sẽ có thể đạt được những thứ tốt lành, nhưng đó đối với người hữu duyên, chứ kẻ vô duyên th́ vẫn chẳng thể đạt được. “Như cuồng loạn giả sở phục diệu dược” (như kẻ cuồng loạn được uống thuốc tốt lành): Chúng tôi đă khuyên rất nhiều đạo hữu cúng nước lên đức Địa Tạng. Khi cúng, trong tâm quư vị phải rất chân thành. Đến lúc uống, phải chiếu theo phương thức do Thích Ca Mâu Ni Phật dạy Quán Thế Âm Bồ Tát trong kinh Địa Tạng để làm th́ mới có thể đạt được lợi lạc. Đạt những lợi lạc ǵ vậy? Hễ có bệnh khổ, sẽ giảm bớt bệnh khổ. Chẳng có trí huệ, chẳng có trí nhớ, th́ sẽ có trí nhớ. Kẻ cuồng loạn là người mất trí, hoặc là v́ tư tưởng có vấn đề, hoặc v́ kinh sợ, biến thành rối loạn thần kinh. Nếu tŕ thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát sẽ giống như thuốc hay. Hoặc là kẻ có bệnh tật mà gặp được lương y. Đấy là đức Phật bảo Vô Cấu Sanh Thiên Đế Thích rằng: “Cho đến tất cả những đại chúng tham dự pháp hội”, tức là nói với tất cả chúng Bồ Tát, Thanh Văn trong hội Đại Tập này. Đức Phật hướng về đại chúng, bảo: Địa Tạng có nhiều công đức dường ấy, khiến cho người lụm cụm già cả dường như có gậy chống để nương tựa, như kẻ mệt mỏi có được giường, ṭa để nghỉ ngơi.

 

          (Kinh) Độ tứ lưu giả, vị tác kiều lương. Thú bỉ ngạn giả, vị tác thuyền phiệt, thị tam thiện căn thù thắng quả báo, thị tam thiện bổn sở dẫn đẳng lưu. Thường hành huệ thí, như luân hằng chuyển. Tŕ giới kiên cố, như Diệu Cao sơn. Tinh tấn nan hoại, như Kim Cang bảo. An nhẫn bất động, do như đại địa.

          ()度四流者為作橋樑,趣彼岸者為作船筏,是三善根殊勝果報,是三善本所引等流,常行惠施如輪恆轉,持戒堅固如妙高山,精進難壞如金剛寶,安忍不動猶如大地

          (Kinh: Làm cầu bến cho kẻ vượt bốn gịng. Làm thuyền bè cho kẻ hướng đến bờ kia. Là quả báo thù thắng của ba thiện căn, là đẳng lưu quả do ba gốc lành dẫn khởi. Thường hành bố thí rộng răi như bánh xe luôn xoay. Giữ giới kiên cố như núi Diệu Cao. Tinh tấn khó hoại như báu Kim Cang. An nhẫn bất động dường như đại địa).

 

          “Độ tứ lưu giả vị tác kiều lương” (làm cầu bến cho kẻ vượt bốn gịng): “Kiều lương” (橋樑, cầu bến) là tỷ dụ. “Tứ lưu” (bốn gịng) là nói bốn gịng thác sanh, lăo, bệnh, tử. Ngài làm cầu bến cho quư vị, nghĩa là giúp cho quư vị đắc độ. Ngay trong lúc quư vị từ bờ này [sanh tử] muốn tới bờ kia [giải thoát], Ngài có thể làm thuyền bè cho quư vị. Là quả báo thù thắng của ba thiện căn. Ba thiện căn là không tham, không sân, không si, v́ “không tham, không sân, không si” sẽ có thể sanh ra hết thảy các thiện pháp. “Như quả đẳng lưu do ba gốc lành dẫn khởi: “Ba gốc lành” chính là bố thí, từ bi, và trí huệ. Bố thí và từ bi có thể khiến cho quư vị vượt qua hết thảy ách nạn, mà cũng có thể khiến cho phiền năo tham, sân, si lưu nhập bố thí, từ bi. V́ vậy, thường hành huệ thí (, bố thí rộng răi). “Như luân hằng chuyển” (như bánh xe thường xoay) có nghĩa là không ngưng nghỉ. V́ tŕ tụng Địa Tạng Bồ Tát, cung kính Địa Tạng Bồ Tát, vị Bồ Tát ấy sẽ có thể giúp quư vị tŕ giới kiên cố, giống như núi Diệu Cao (Tu Di) vậy.

          “Tinh tấn nan hoại, như kim cang bảo. An nhẫn bất động, do như đại địa” (tinh tấn khó hoại như báu kim cang. An nhẫn bất động ví như đại địa): Nói đến tinh tấn bất hoại, sẽ là chuyện rất khó khăn. Nếu chúng ta tu một pháp, chẳng hạn như niệm kinh Địa Tạng, hoặc là quán tưởng thánh tượng Địa Tạng Bồ Tát, ngay trong lúc quư vị đang tu tập, sẽ có rất nhiều chướng ngại. “Chướng ngại” có nghĩa là khiến cho quư vị không thể thành tựu. Mỗi ngày quư vị [tự ấn định] tụng một bộ kinh Địa Tạng, thế nhưng luôn có những việc khiến cho quư vị gián đoạn, chẳng thể tụng kinh. Nếu kiên tŕ niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát không gián đoạn, bất cứ chuyện phá hoại nào cũng đều chẳng thể phá hoại sự tinh tấn của quư vị được. V́ sao chẳng thể phá hoại? Do quư vị có tâm lực kiên cố. Thường là có các chướng ngại chúng ta không thể khắc phục được, chẳng làm được. Khi ấy, hai đằng tinh tấn và giải đăi có mối quan hệ rất lớn, đặc biệt là đối với người học Phật, người tin Phật. Không đạt được lợi ích thật sự là v́ chúng ta chẳng đủ tinh tấn, chẳng thể kiên tŕ!

          Nếu chúng ta nguyện mỗi ngày tụng một bộ kinh Địa Tạng, trong bất cứ thời điểm khó khăn nào, vẫn đều chẳng gián đoạn, vậy th́ tinh tấn sẽ có sức mạnh. V́ sao phải tinh tấn? Cũng là v́ đối với chuyện chẳng gián đoạn giữa chừng, rất nhiều người chẳng làm được! Dẫu đối với những chuyện thoạt nh́n rất nhỏ, chẳng hạn như mỗi ngày ta phải niệm thánh hiệu Địa Tạng một trăm câu, ta nghĩ chuyện này quá dễ dàng, chẳng thể nào gián đoạn được. Thế nhưng chính ḿnh sẽ quên mất, hoặc v́ có chuyện khác xen vào, nay chẳng làm nữa! Tôi nghĩ mỗi vị đạo hữu đều thấu hiểu chuyện này. Thoạt đầu, sau khi quư vị phát nguyện tin tưởng Tam Bảo, tôi đă nói với rất nhiều đạo hữu: “Đă thọ Tam Quy Y, từ hôm nay trở đi, buổi tối sắp ngủ bèn niệm mười lần ‘quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng’. Niệm xong mới ngủ. Sáng dậy, vừa mở mắt ra, ở ngay trên giường, trước hết bèn niệm mười lần quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”. Tột bậc đơn giản như thế đó! Ai nấy đều cho rằng chính ḿnh sẽ tuyệt đối làm được. Tôi hỏi rất nhiều đạo hữu, thoạt đầu, khi họ thọ Tam Quy, họ cam đoan làm được. Một năm sau, lại hỏi họ: “Quư vị có làm được hay không? Có làm mỗi ngày hay không?” “Ối trời! Quên mất tiêu rồi!” Do nguyên nhân nào? Đương nhiên là do chúng ta thường lần khân, nghiệp chướng giải đăi, chẳng coi trọng chuyện này!

          Công đức của Địa Tạng Bồ Tát nhiều như đă nói trên đây, do đức Phật dạy Vô Cấu Sanh Thiên Đế Thích. Chúng ta nghe xong, có tin tưởng hay không? Đây là một vấn đề to lớn! Chúng ta thường nghe pháp rất nhiều, học pháp cũng chẳng ít. Rất nhiều đạo hữu thường xuyên nói: “Tôi biết Phật pháp quá ít, cho nên chẳng thể nhập môn”. Tôi thấy chẳng phải là như vậy! Tôi nói: “Quư vị biết rất nhiều. Tối thiểu, quư vị biết Phật, Pháp, Tăng là ǵ? Chẳng biết dụng công ư? Niệm Địa Tạng Bồ Tát đă gồm trọn cả rồi! Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát đă gồm thâu hết rồi! Quư vị có niệm hay không? Mỗi ngày quư vị niệm bao nhiêu câu? Mỗi ngày hai mươi tiếng đồng hồ, trừ thời gian ngủ nghê và làm việc ra, thời gian trong tâm quư vị duyên niệm Tam Bảo lại là bao nhiêu?

          Hôm nay, có rất nhiều đạo hữu cùng dùng cơm, tôi nghĩ: Trong lúc ấy, [đại đa số] nói Đông, nói Tây, chẳng hề nói đến Phật, chẳng nói đến Pháp, chẳng nói đến Tăng. Nếu quư vị tùy thời nhắc nhở mọi người như vậy, họ sẽ nghĩ quư vị rất đáng ghét, quá lải nhải. Có cảm giác ấy hay không? Quư vị không nói, họ quên bẵng rồi! Khi quư vị mỗi ngày suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ đều duyên niệm Tam Bảo, tới tối lúc đi ngủ, suy nghĩ: “Hôm nay ḿnh có bao nhiêu thời gian niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng?” Quư vị nói cầu cảm ứng, cầu gia tŕ, cảm ứng hay gia tŕ đều do chính quư vị. Tôi nhớ pháp sư Tinh Vân có nói “kẻ địch lớn nhất trong đời người chính là bản thân”. Câu nói ấy rất hữu lư! Nếu chúng ta có thể quán tưởng như vậy, quán tưởng trong một thời gian dài, đừng nói là hai mươi bốn giờ, mà là một phần ba, tức tám giờ, cho đến một ngày có thể duyên niệm Tam Bảo bốn tiếng đồng hồ, tinh tấn chẳng lười nhác, tuyệt đối sẽ chẳng đọa tam đồ. Quư vị lại tăng thành tám tiếng nữa, rồi tăng thành mười hai tiếng, nhất định là có thể thành tựu đạo nghiệp!

          V́ sao chúng ta chẳng hiểu rơ? V́ sao chẳng thông suốt? V́ sao không biết? V́ sao chẳng có trí huệ? V́ sao chẳng thể nhập Định? V́ cái tâm của quư vị cách biệt Tam Bảo rất xa! Tôi nói những lời này, chắc mọi người chẳng nghe lọt tai. V́ [quư vị tự nhủ]: Tôi tin Phật rất nhiều năm. Hiện thời, hằng ngày niệm Phật, tôi đă “chuyên nghiệp” rồi. Có lúc trong khi mọi người đang tụ hội, đột nhiên tôi suy nghĩ: Nay mọi người đang làm ǵ? Có đang nói đến Phật hay không? Có nói tới Phật pháp hay không? Có đang tu hành hay không? Có đang buông lung, biếng nhác hay không? Nghĩ tới an nhẫn, bất động như kim cang, giống hệt như đại địa, chúng ta vẫn phải dụng công nhiều hơn!

 

          (Kinh) Tĩnh Lự thâm mật, do như bí tạng. Đẳng chí nghiêm lệ, như diệu hoa man. Trí huệ thâm quảng, do như đại hải. Vô sở nhiễm trước, thí thái hư không. Diệu quả cận nhân, như chúng hoa diệp. Phục chư ngoại đạo, như sư tử vương. Hàng chư thiên ma, như đại long tượng. Trảm phiền năo tặc, do như thần kiếm. Yếm chư huyên tạp, như Độc Giác thừa. Tẩy phiền năo cấu, như thanh tịnh thủy. Năng trừ xú uế, như tật phong phiêu. Đoạn chúng kết phược, như lợi đao kiếm.

          ()靜慮深密猶如秘藏,等至嚴麗如妙華鬘,智慧深廣猶如大海,無所染著譬太虛空,妙果近因如眾華葉,伏諸外道如師子王,降諸天魔如大龍象,斬煩惱賊猶如神劍,厭諸諠雜如獨覺乘,洗煩惱垢如清淨水,能除臭穢如疾飄風,斷眾結縛如利刀劍。

          (Kinh: Tĩnh Lự sâu kín ví như kho tàng bí mật. B́nh đẳng đạt tới trang nghiêm đẹp đẽ như tràng hoa đẹp. Trí huệ sâu rộng ví như biển cả. Chẳng bị đắm nhiễm dường như thái hư không. Diệu quả gần nhân như các hoa lá. Hàng phục các ngoại đạo như sư tử chúa. Hàng phục các thiên ma như long tượng lớn. Chém giặc phiền năo giống như gươm thần. Chán các ồn náo như Độc Giác thừa. Gột rửa chất nhơ phiền năo như nước thanh tịnh. Có thể trừ xú uế như gió thổi mạnh. Đoạn các kết phược như đao, gươm sắc).

 

          “Tĩnh Lự thâm mật do như bí tạng” (Tĩnh Lự sâu kín ví như kho tàng bí mật): Tĩnh Lự (静虑) là tư lự, cũng tức là khi chính ḿnh lắng ḷng suy nghĩ. Đây là cảnh giới rất sâu, chẳng thể nghĩ bàn! Chẳng hạn như chúng ta tùy tiện tŕ một bài chú nào đó, chú dài là Đà La Ni, chú ngắn th́ ba chữ, bốn chữ, chân ngôn chỉ có một chữ, chẳng hạn như chữ Án. Rất nhiều chữ đều là chữ chủng tử, tùy thuộc do vị Bồ Tát nào truyền dạy. Địa Tạng Bồ Tát có công đức dường ấy, có những công lực ấy, có thể khiến cho chúng ta “đẳng chí nghiêm lệ, như diệu hoa man. Trí huệ thâm quảng, do như đại hải” (b́nh đẳng đạt tới sự trang nghiêm đẹp đẽ như tràng hoa mầu nhiệm. Trí huệ rộng sâu ví như biển cả). Đấy là những lời đức Phật tán thán Địa Tạng Bồ Tát.

          “Vô sở nhiễm trước, thí thái hư không” (chẳng bị đắm nhiễm dường như thái hư không): Thái hư không chẳng bị nhiễm đắm. Hư không chẳng bị nhiễm đắm. Diệu quả trong quá khứ là do người ấy tu nhân. Tu cái nhân trong hiện tại, sẽ thành diệu quả trong vị lai. “Diệu quả cận nhân, như chúng hoa diệp” (diệu quả gần nhân như các hoa lá): Giống như lúc đơm hoa, kết trái, v́ c̣n phải dùng cành lá để nâng đỡ. Hoa đẹp c̣n phải có lá xanh nâng đỡ. Quư vị gieo chủng tử xuống th́ trước hết nẩy lá, sau đấy mới đơm hoa. Lá cây sẽ hấp thụ chất dinh dưỡng. Đó là mối quan hệ. Hàng phục những kẻ ngoại đạo, như sư tử chúa hàng phục hết thảy thiên ma, như đại long tượng.

          “Trảm phiền năo tặc, do như thần kiếm” (Chém giặc phiền năo như gươm thần): Gươm thần chính là gươm trí huệ. “Yếm chư huyên tạp, như Độc Giác thừa” (chán các ồn náo như Độc Giác thừa): Độc Giác th́ sao? Ngài thích t́m chỗ núi sâu tĩnh lặng để tu hành, chán ĺa ồn ào. “Tẩy phiền năo cấu, như thanh tịnh thủy” (gột rửa chất nhơ phiền năo như nước thanh tịnh): Hai câu này, câu trên đối ứng câu dưới. Nếu chúng ta mong gột sạch phiền năo, Địa Tạng Bồ Tát sẽ biến thành nước thanh tịnh, gột sạch phiền năo cho chúng ta. Nếu muốn trừ khử hôi thối, ô uế, sẽ như gió mạnh thổi bạt đi. “Đoạn chúng kết phược, như lợi đao kiếm” (Cắt các trói buộc, như đao, gươm sắc): “Kết phược” (結縛) là các Hoặc nghiệp, tức là Hoặc nghiệp từ vô lượng kiếp đến nay, trói chặt chúng ta, giống như rất nhiều gông xiềng cùm chặt chúng ta, chẳng thể tháo gỡ được!

 

          (Kinh) Hộ chư bố úy, như thân, như hữu. Pḥng chư oán địch, như tiệm, như thành. Cứu chư nguy nan, do như phụ mẫu. Tàng chư khiếp liệt, do nhược tùng lâm. Như hạ viễn hành, sở đầu đại thụ. Dữ nhiệt khát giả, tác thanh lănh thủy. Dữ cơ phạp giả, tác chư cam quả. Vị lộ h́nh giả, tác chư y phục. Vị nhiệt phạp giả, tác đại mật vân. Vị bần quỹ giả, tác như ư bảo. Vị khủng cụ giả, tác sở quy y. Vị chư giá sắc, tác cam trạch vũ. Vị chư trược thủy, tác Nguyệt Ái châu.

          ()護諸怖畏如親如友,防諸怨敵如塹如城,救諸危難猶如父母,藏諸怯劣猶若叢林。如夏遠行所投大樹,與熱渴者作清冷水、與飢乏者作諸甘果、為露形者作諸衣服、為熱乏者作大密雲、為貧匱者作如意寶、為恐懼者作所歸依、為諸稼穡作甘澤雨、為諸濁水作月愛珠。

          (Kinh: Che chở khỏi các sợ hăi như người thân, như bè bạn. Ngừa các oán địch, như hào, như thành. Cứu các nguy nan, giống như cha mẹ. Che giấu các kẻ khiếp nhược, yếu đuối, giống như rừng rậm. Như mùa Hè đi xa, nương dưới cây to. Làm nước trong mát cho người khát v́ nóng bức. Làm quả ngọt cho người đói thiếu. Làm y phục cho kẻ lơa lồ. Làm mây dầy lớn cho người khốn khổ v́ nóng bức. Làm báu như ư cho người nghèo túng. Làm chỗ nương về cho người sợ hăi. Làm mưa ngọt lành cho người trồng cấy. Làm Nguyệt Ái châu cho các nước đục).

 

          “Hộ chư bố úy, như thân, như hữu” (che chở khỏi các sợ hăi, như người thân, như bạn bè): Sanh khởi sợ hăi, thân nhân và bè bạn của chúng ta sẽ giúp chúng ta giải trừ khó khăn. Pḥng ngừa oán tặc, sợ oán tặc tấn công chúng ta, bèn tu bổ thành tŕ. Ngoài thành, đào hào bảo vệ thành. “Hào” là sông đào nhằm bảo vệ thành. Những điều này đều mang ư nghĩa tỷ dụ. “Cứu chư nguy nan, do như phụ mẫu” (cứu các nguy nan, giống như cha mẹ): Bất luận là ai, khi gặp lúc khó khăn đều nghĩ đến mẹ, đều gọi mẹ. Người đang lúc lâm vào cửa tử, hoặc lúc nguy nan nhất, hoặc khi trẻ nhỏ đau khổ, đại đa số đều kêu mẹ. Chỉ có cha mẹ chúng ta mới quan tâm chúng ta. Địa Tạng Bồ Tát giống như cha mẹ bảo vệ, che chở chúng ta.

          “Tàng chư khiếp liệt, do nhược tùng lâm” (che giấu các kẻ khiếp nhược, yếu đuối giống như rừng rậm): Kẻ gặp cảnh sợ hăi, để tránh nạn bèn trốn trong khu rừng rậm. “Như Hạ viễn hành, sở đầu đại thụ”, ư nói: Giống như lúc đi xa, bị mặt trời hun bức, rất thống khổ, đến chỗ cây to hóng mát. Địa Tạng Bồ Tát giống như cội cây to để chúng ta hóng mát. Nếu đă khổ v́ nóng bức, lại rất khát, Địa Tạng Bồ Tát giống như nước mát lạnh. C̣n những kẻ đói, khát, bần cùng, Ngài làm các thứ quả ngọt, [hàm nghĩa] những thức ăn rất ngon lành. Kẻ chẳng có quần áo mặc, tức “lộ h́nh giả” (kẻ lơa lồ), Địa Tạng Bồ Tát liền bố thí quần áo cho chúng ta. “Vị nhiệt phạp giả, tác đại mật vân” [nghĩa là] khi rất nóng bức, Ngài giống như đám mây dầy, ngăn che ánh mặt trời, chúng ta liền cảm thấy mát mẻ.

          “Vị bần quỹ giả, tác như ư bảo” (v́ kẻ nghèo thiếu, làm báu như ư): “Như Ư Bảo”: Như người khốn cùng có được kho báu. Giống như bảo châu do Địa Tạng Bồ Tát cầm trong tay có thể xuất hiện các thứ vật báu như ư. “Vị khủng cụ giả, tác sở quy y” (làm chỗ nương về cho người sợ hăi): Sợ hăi bèn quy y Bồ Tát, tâm kẻ ấy sẽ an ổn, chẳng sợ hăi. “Vị chư giá sắc, tác cam trạch vũ” (làm mưa ngọt cho người trồng cấy): Tới lúc khô hạn, hoa mầu chẳng tươi tốt, Địa Tạng Bồ Tát liền tuôn mưa lành, có ư nghĩa như vậy đấy. “Vị chư trược thủy, tác Nguyệt Ái Châu” (Làm Nguyệt Ái Châu cho các thứ nước đục): Ở nơi đây, chúng ta chẳng có loại châu này. Nguyệt Ái Châu có thể biến nước đục thành nước trong sạch. Nước dẫu rất vẩn đục, thả Nguyệt Ái Châu vào, nước ngay lập tức thanh tịnh. Do vậy, đang trong lúc vẩn đục, chẳng thanh tịnh, hễ niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, tâm chúng ta liền thanh tịnh. Trong lúc phiền năo, chẳng được giải thoát, có thể đến Phật đường, hoặc đối trước tượng Địa Tạng, tĩnh tọa chốc lát, niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, quư vị sẽ cảm thấy đỡ rất nhiều. Những điều này đều nhằm h́nh dung công đức của Địa Tạng Bồ Tát.

 

          (Kinh) Linh chư hữu t́nh, thiện căn bất hoại. Hiện diệu cảnh giới, linh chúng hân duyệt. Khuyến phát hữu t́nh, tăng thượng tàm quư. Cầu phước huệ giả, linh cụ trang nghiêm. Năng trừ phiền năo, như thổ hạ dược. Năng nhiếp loạn tâm, như đẳng tŕ cảnh. Biện tài vô trệ, như thủy kích luân. Nhiếp sự hệ tâm, như quán diệu sắc. An nhẫn kiên trụ, như Diệu Cao sơn. Tổng tŕ thâm quảng, do như đại hải. Thần Túc vô ngại, thí nhược hư không. Diệt trừ nhất thiết Hoặc chướng tập khí, do như liệt nhật tiêu thích khinh băng. Thường du tĩnh lự Vô Sắc chánh đạo, Nhất Thiết Trí trí diệu bảo châu chử. Năng vô công dụng, chuyển đại pháp luân.

          ()令諸有情善根不壞,現妙境界令眾欣悅,勸發有情增上慚愧,求福慧者令具莊嚴,能除煩惱如吐下藥,能攝亂心如等持境,辯才無滯如水激輪,攝事繫心如觀妙色,安忍堅住如妙高山,總持深廣猶如大海,神足無礙譬若虛空。滅除一切惑障習氣,猶如烈日銷釋輕冰。常游靜慮無色正道,一切智智妙寶洲渚,能無功用轉大法輪。

          (Kinh: Khiến cho các hữu t́nh thiện căn chẳng hư hoại. Hiện ra cảnh giới mầu nhiệm khiến cho chúng sanh vui thích. Khuyên lơn, khơi gợi hữu t́nh tăng thêm ḷng hổ thẹn. Khiến cho kẻ cầu phước huệ trọn đủ trang nghiêm. Có thể trừ phiền năo như thuốc khiến cho ói ra. Có thể nhiếp loạn tâm, như cảnh Đẳng Tŕ. Biện tài chẳng vướng mắc, như nước đẩy guồng quay. Nhiếp sự, buộc tâm, như quán diệu sắc. An nhẫn, trụ vững, như núi Diệu Cao. Tổng tŕ sâu rộng giống như biển cả. Thần Túc vô ngại, khác nào hư không. Diệt trừ hết thảy Hoặc chướng tập khí, ví như mặt trời rực rỡ tiêu ngay băng mỏng. Thường dạo trong Tĩnh Lự Vô Sắc chánh đạo, và bến băi diệu bảo của trí Nhất Thiết Trí. Có thể vô công dụng mà chuyển đại pháp luân).

 

          Địa Tạng Bồ Tát có thể khiến cho thiện căn của chúng ta bất hoại. Nếu hiện thời chúng ta đă gieo chủng tử, đă có thiện căn, hoặc thiện căn đời sau bất hoại, lại có thể gặp gỡ Địa Tạng Bồ Tát, niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát sẽ có thể gia tŕ quư vị. Trong kinh Địa Tạng, Địa Tạng Bồ Tát đă đối trước Thích Ca Mâu Ni Phật phát nguyện, và Thích Ca Mâu Ni Phật đă phó chúc chúng sanh đời Mạt Pháp cho Ngài. Ngài nói: “Chỉ cần có công đức chừng bằng một hạt vi trần, hay một giọt nước trong Phật pháp, con sẽ đều làm cho kẻ ấy được giải thoát”. Ngài đă phát nguyện, sẽ thực hiện. Chỉ cần gieo thiện căn, chờ đến khi nhân duyên chín muồi, nhất định sẽ tăng trưởng, hiện ra cảnh giới mầu nhiệm khiến cho chúng sanh vui thích.

          Hiện thời, trong hội này, Ngài đă biểu hiện, hiện ra những cảnh giới rất thù thắng, rất chẳng thể nghĩ bàn; mọi người đều sanh tâm hoan hỷ, có thể khiến cho hết thảy hữu t́nh sanh ḷng hổ thẹn, hiểu v́ sao chính ḿnh chẳng thể giải thoát? V́ sao không thể tích tụ thiện nghiệp? V́ sao không thể giúp đỡ người khác? V́ sao cái tâm ích kỷ của chính ḿnh nặng nề dường ấy? V́ sao nhiều khổ nạn giáng xuống thân ḿnh như vậy? Bèn hổ thẹn chính ḿnh trong quá khứ đă sai trái, chẳng tích tụ phước nghiệp, cho nên đời này chuyện ǵ cũng thua kém kẻ khác. Vậy th́ Địa Tạng Bồ Tát có thể giúp đỡ quư vị, khiến cho quư vị tăng trưởng phước huệ, khiến cho cái tâm sám hối của quư vị mạnh mẽ, khiến cho quư vị có thể trang nghiêm, khiến cho quư vị có thể diệt trừ phiền năo.

          Nếu bụng dạ chẳng thanh tịnh, hăy uống một chút thuốc xổ, giống như chúng ta có rất nhiều phiền năo, chẳng hiểu giải thoát như thế nào, hăy niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, niệm kinh Địa Tạng, quư vị sẽ có thể giải thoát. Ư nghĩa là như thế đó. Tâm rất tán loạn, hăy niệm thánh hiệu cho nhiều. Niệm thánh hiệu là phương pháp tốt nhất. Có lúc chúng ta niệm kinh, hiệu quả cũng chẳng tốt bằng! Niệm thánh hiệu có thể khảo nghiệm cái tâm tán loạn của chính ḿnh, mà cũng khảo nghiệm [để nhận biết] quư vị trọn đủ phiền năo! Niệm một trăm câu chưa được, lại niệm một ngàn câu. Vẫn không được, bèn niệm một vạn câu. Không được, bèn niệm mười vạn câu. Vẫn không được, bèn niệm một trăm vạn câu. Hiệu quả như thế liền sanh khởi.

          Tôi chẳng nói bừa đâu nhé; chính tôi đă làm như thế đó! Trước hết, tôi chuẩn bị niệm một ngàn câu. Chẳng thành tựu, bèn niệm một vạn câu. Một vạn câu chẳng thành tựu, bèn niệm mười vạn câu. Mười vạn câu chẳng thành tựu, bèn niệm một trăm vạn câu, bèn được! Nếu vẫn không được, lại tiếp tục niệm, niệm không hạn chế số lượng. Thế nhưng, đây chỉ là tính làm một chuyện chi đó. Tôi mong làm một chuyện chi đó, mong đạt được b́nh an, mong được như ư; trước hết chính ḿnh hăy trắc nghiệm một phen, vậy th́ hăy niệm đi! Lúc mới bắt đầu niệm, tâm c̣n tán loạn, đến khi quư vị niệm mười vạn câu, mấy chục vạn câu trở lên, tự nhiên tán loạn ít đi. Đó gọi là công phu, ai niệm cũng đều giống nhau. Quư vị niệm như thế, cũng sẽ đạt được như thế. Ai chịu làm theo, sẽ đạt được như vậy. Nhưng quư vị phải biết buông xuống, ngày đêm đều niệm. Quư vị phải định kỳ hạn, hoặc là trong hai mươi ngày, niệm một trăm vạn câu. Mỗi ngày, b́nh quân ta sẽ niệm bao nhiêu câu, nhất định phải làm. Hễ chưa làm được, quư vị không ngủ, không ăn, chờ đến khi làm xong. Cũng có thể là quư vị không cần chẳng ngủ, chẳng ăn, quư vị vẫn có thể ngủ như thường, nhưng vẫn phải niệm như vậy. Nếu quư vị học pháp môn Quán Âm, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát cũng được. Niệm thánh hiệu của bất cứ vị Bồ Tát nào cũng đều được! Chỉ cần quư vị chịu tinh tấn, chịu dụng công, sẽ có thể đạt được.

          Những điều được nói trong đoạn kinh văn trên đây đều là tỷ dụ, giảng kinh, thuyết pháp, hoặc biện luận với người khác, quư vị chẳng có biện tài, thường bị chướng ngại. Người khác hỏi, ta chẳng trả lời được. Vậy th́ niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát cho nhiều, sẽ tăng trưởng trí huệ của quư vị. Hoặc là uống Địa Tạng Thủy, sẽ được Ngài gia tŕ. Khi ấy, đối trước cảnh, sẽ có thể nhiếp cái tâm. Nếu không, đối trước cảnh, chẳng thể nhiếp cái tâm. Cảnh là hiện tượng. Đối trước hết thảy các hiện tượng, quư vị sẽ có thể chẳng động tâm.

          “Như quán diệu sắc, an nhẫn kiên trụ” (như quán sắc mầu nhiệm, an nhẫn, trụ vững): “Diệu sắc” là sắc ǵ vậy? Diệu sắc là vô sắc. Điều này sâu lắm! Như quán diệu sắc thân, diệu sắc thân là vô tướng. Tôi nêu thí dụ, khi quán thánh tượng của Địa Tạng Bồ Tát, chúng ta nhờ vào sắc thân có sắc tướng ấy [để quán]. Đó là giả, v́ [sắc tướng ấy] là tranh vẽ hay tượng đắp, nhưng từ cái giả ấy, có thể sanh ra cái thật. Cái thật là như thế nào? Tướng “vô tướng”. Diệu sắc thân là quang minh. Quán như thế lâu ngày, quang minh ấy và quang minh của quư vị, tự tâm của quư vị và tâm tự tánh của đức Địa Tạng, hai đằng sẽ hợp lại, an nhẫn kiên trụ bất động! Tổng tŕ hết thảy các pháp, tŕ vô lượng nghĩa ở mức độ sâu, trí huệ như biển cả. Thần Túc là thần thông, tức Thần Túc Thông. Thần Túc của Ngài (Địa Tạng Bồ Tát) vô ngại, dường như hư không. Hư không đối với hết thảy đều là vô chướng ngại. Đấy là công đức của Địa Tạng Bồ Tát. Ngài tu hành, chứng nhập rất sâu, hết thảy chướng ngại và tập khí phiền năo toàn bộ đều bị đoạn trừ. T́nh huống đoạn trừ giống như vầng thái dương chiếu vào băng mỏng: Mặt trời vừa mọc lên, toàn thể băng mỏng đều tiêu mất.

          “Thường du Tĩnh Lự vô sắc chánh đạo” (thường dạo trong Tĩnh Lự vô sắc chánh đạo): “Vô sắc chánh đạo” là ǵ? Chính là trí huệ, là Bồ Đề đạo, là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô sắc là hết thảy các sắc tướng đều chẳng có. Đạo thật sự là vô đạo. Vậy th́ sẽ có thể đạt được trí Nhất Thiết Trí. Nhất Thiết Trí là b́nh phàm. [Từ ngữ] “trí Nhất Thiết Trí” chuyên dùng để diễn tả: Trong hết thảy các trí huệ do đức Phật đă nói, trí Nhất Thiết Trí là trí huệ thù thắng nhất. Khi ấy, mới có thể chuyển diệu pháp luân chẳng thể nghĩ bàn thù thắng nhất. Diệu pháp luân có thể khiến cho hết thảy các sự cảm nhiễm vô minh của hết thảy chúng sanh đều tiêu trừ.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Thị Địa Tạng Bồ Tát Ma Hát, cụ như thị đẳng vô lượng vô số bất khả tư nghị thù thắng công đức, dữ chư quyến thuộc, dục lai chí thử, tiên hiện như thị thần thông chi tướng. Thế Tôn thuyết thị Địa Tạng Bồ Tát chư công đức dĩ. Nhĩ thời, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, dữ bát thập bách thiên na-dữu-đa tần-bạt-la Bồ Tát, dĩ thần thông lực, hiện Thanh Văn tượng, tùng Nam phương lai. Chí Phật tiền trụ, dữ chư quyến thuộc, cung kính đảnh lễ Thế Tôn song túc, hữu nhiễu tam táp, tại Như Lai tiền, hiệp chưởng nhi lập, dĩ tụng tán viết.

          ()善男子,是地藏菩薩摩訶薩,具如是等無量、無數、不可思議殊勝功德,與諸眷屬欲來至此,先現如是神通之相。世尊說是地藏菩薩諸功德已,爾時地藏菩薩摩訶薩,與八十百千那庾多頻跋羅菩薩,以神通力現聲聞像,從南方來至佛前住,與諸眷屬,恭敬頂禮世尊雙足,右繞三匝,在如來前合掌而立,以頌讚曰。

          (Kinh: “Này thiện nam tử! Vị Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ấy có vô lượng vô số công đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn như thế đó, cùng với các quyến thuộc muốn đến nơi đây. Trước hết, hiện ra tướng thần thông như thế”. Đức Thế Tôn nói các công đức của Địa Tạng Bồ Tát xong, khi ấy, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát và tám mươi trăm ngàn na-dữu-đa tần-bạt-la Bồ Tát dùng sức thần thông, hiện h́nh tướng Thanh Văn, từ phương Nam đến. Đến trước đức Phật, Ngài cùng với các quyến thuộc cung kính đảnh lễ dưới hai chân của đức Thế Tôn, nhiễu theo chiều phải ba ṿng, chắp tay, đứng trước Như Lai, dùng kệ khen ngợi rằng).

 

          Đức Phật hướng về Vô Cấu Sanh Thiên Đế Thích tán thán Địa Tạng Bồ Tát trọn đủ các công đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn, nhưng quyến thuộc của Bồ Tát cũng là những vị đă theo Ngài hóa độ chúng sanh lâu dài, số lượng đều là chẳng thể tính đếm, tức là [nói đại lược th́ có] tám mươi trăm ngàn triệu tần-bạt la vị Bồ Tát đến độ chúng sanh nơi đây. Tuy các vị Bồ Tát chưa đến nơi, các Ngài đă hóa hiện trước tướng thần thông như thế.

          “Thế Tôn thuyết thị Địa Tạng Bồ Tát chư công đức dĩ” (đức Thế Tôn nói các công đức của vị Địa Tạng Bồ Tát ấy xong): Vô Cấu Sanh Thiên Đế Thích hỏi v́ sao có các thụy tướng hiện ra? Đức Phật liền bảo: Có một vị Bồ Tát tên là Địa Tạng Bồ Tát dẫn theo tám mươi trăm ngàn tần-bạt-la na-dữu-đa quyến thuộc sẽ đến nơi đây để cúng dường ta, đến hội Đại Tập này để tùy hỷ công đức, cho nên có nhiều cảnh tướng thù thắng ngần ấy. Đức Phật vừa nói xong, Địa Tạng Bồ Tát cũng đến nơi.

          “Nhĩ thời, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, dữ bát thập bách thiên na-dữu-đa tần-bạt-la Bồ Tát, dĩ thần thông lực, hiện Thanh Văn tượng, tùng Nam phương lai” (khi ấy, Địa Tạng Ma Ha Tát cùng với tám mươi trăm ngàn na-dữu-đa tần-bạt-la Bồ Tát dùng sức thần thông, hiện h́nh tướng Thanh Văn, từ phương Nam đi đến): Từ phương Nam đến, đương nhiên là nói theo lúc đức Phật đang thuyết pháp, Bồ Tát từ [phía Nam của] La Lân Sơn mà đến. Bất quá, có người giải thích La Lân Sơn là Tịnh Độ của Địa Tạng Bồ Tát. Tuy vậy, nếu đó là Tịnh Độ của Địa Tạng Bồ Tát; đáng lẽ Ngài phải ở ngay La Lân Sơn, v́ sao c̣n phải từ phương Nam đến? Rốt cuộc, Địa Tạng Bồ Tát trụ ở phương nào? Trọn khắp hết thảy mọi nơi! Nơi nào có địa ngục, nơi nào có khổ nạn, Địa Tạng Bồ Tát ở ngay nơi ấy, Ngài từ chỗ nào đến cũng đều được!

          Đức Phật nói xong, Địa Tạng Bồ Tát vận sức thần thông đến pháp hội. “Nhĩ thời” (lúc bấy giờ) tức là lúc Phật dạy Vô Cấu Sanh Thiên Đế Thích vừa xong, Địa Tạng Bồ Tát liền cùng quyến thuộc của Ngài, hiện h́nh tướng Thanh Văn, đă đến nơi, tới trước đức Phật. Lúc đến nơi, trước hết bèn thực hiện một nghi thức: Trước hết, cung kính đảnh lễ dưới hai chân đức Thế Tôn. Đấy chính là nghi thức chúng ta đều làm mỗi khi lễ bái. Khi lễ bái, v́ sao mọi người phải lật ngửa hai bàn tay? [Lật ngửa] hai bàn tay nhằm đỡ lấy hai chân đức Phật, gọi là “đầu diện tiếp túc quy mạng lễ” (đầu và mặt áp vào chân đức Phật để quy mạng lễ). Hai tay đừng nên đặt cách nhau quá xa, v́ mặt và hai tay của quư vị đều áp vào chân đức Phật. Mặt áp vào chân Phật, tay áp vào chân Phật. Đấy là “đầu diện tiếp túc quy mạng lễ”. Quy mạng lễ th́ phải đảnh lễ dưới hai chân của đức Thế Tôn.

          Thuở đức Phật tại thế thuyết pháp, [cũng như] lúc chúng ta đến chùa miếu, hoặc khi thấy tháp, nhất định phải thuận nhiễu tam táp”, tức là đi ṿng xung quanh ba ṿng [theo chiều kim đồng hồ]. V́ sao tượng Phật trên đại điện của chùa miếu phải thờ ở giữa, chẳng dựa vào vách tường? V́ cần phải nhiễu Phật. Vừa bước vào, nhất định phải đi nhiễu theo chiều phải, tức là nhiễu theo chiều kim đồng hồ như đức Phật đă quy định. Nhiễu ba ṿng xong bèn đảnh lễ. Hễ tiến vào, nhất định nhiễu ba ṿng, nhiễu ba ṿng xong bèn đảnh lễ. Đảnh lễ xong bèn ngồi trước đức Phật. Ở đây, khi Địa Tạng Bồ Tát đến nơi, Ngài tới trước đức Phật, sau khi nhiễu ba ṿng bèn đứng, dùng kệ tán thán công đức của đức Phật. Đức Phật tán thán Địa Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát lại tán thán Phật. Địa Tạng Bồ Tát c̣n chưa đến nơi, đă hiện thần thông, đức Phật đă tán thán Bồ Tát có công đức chẳng thể nghĩ bàn. Ngài đến trước mặt đứng Phật, cung kính đảnh lễ xong bèn nhiễu theo chiều phải ba ṿng, đứng trước đức Phật, chắp tay tán thán công đức của Phật.

 

          (Kinh) Lưỡng Túc Tôn đạo sư, từ tâm thường phổ phú, an nhẫn như đại địa, biến trừ sân phẫn tâm.

          ()兩足尊導師,慈心常普覆,安忍如大地,遍除瞋忿心。

          (Kinh: Lưỡng Túc Tôn đạo sư, từ tâm thường phủ khắp, an nhẫn như đại địa, trừ trọn tâm sân phẫn).

 

          Đây là bài kệ tụng thứ nhất. Cứ bốn câu là một kệ, tổng cộng có ba mươi bốn bài tán, tức là dùng ba mươi bốn bài kệ tụng để tán thán đức Phật. “Lưỡng Túc Tôn đạo sư” tức là bậc phước trọn, huệ trọn, làm bậc đạo sư chỉ đường, dẫn dắt hết thảy chúng sanh thoát khỏi biển khổ sanh tử. “Từ tâm thường phổ phú” (tâm từ thường che phủ khắp), nghĩa là: Tâm Phật đại từ, thường dẹp trừ đau khổ, ban vui sướng cho chúng sanh. Từ tâm nghĩa là ban cho sự vui sướng. “Phổ” () là trọn khắp, chẳng bỏ sót, b́nh đẳng. “Phú” () nghĩa là che phủ. Tức là ḷng Từ của đức Phật che phủ trọn khắp hết thảy chúng sanh. “An nhẫn như đại địa, biến trừ sân phẫn tâm” (an nhẫn như đại địa, trừ trọn khắp hết thảy tâm sân hận, phẫn nộ). “An nhẫn” có nghĩa là chịu đựng. Đối với tất cả những phiền năo và tất cả những chuyện chẳng đúng pháp của hết thảy chúng sanh, đủ mọi tai nạn trong đời ác ngũ trược, đức Phật đều dùng ḷng đại từ. Không chỉ là có thể chịu đựng, mà c̣n có thể dẹp trừ. Bản thân đức Phật chẳng có tâm sân hận, phẫn nộ. Chúng sanh có sân niệm, đức Phật thay họ diệt trừ. “Phổ phú” có nghĩa là trọn khắp chúng sanh, cũng tức là mong trừ tâm sân hận, phẫn nộ cho trọn khắp chúng sanh. Hăy cẩn thận: Tâm sân nộ là thứ lợi hại nhất trong sân si. V́ thế, một niệm sân của chúng sanh dấy lên, trăm vạn cửa chướng mở! Cái tâm sân hận của chúng sanh hễ có chút ǵ chẳng vừa ư bèn nổi cáu. Hễ nổi cáu, sẽ thiêu rụi rừng công đức. Đấy là bài kệ tán thán công đức thứ nhất.

 

          (Kinh) Cụ thù thắng tướng hảo, trang nghiêm chư Phật quốc, năng dĩ đế từ bi, sung măn nhất thiết độ.

          ()具殊勝相好,莊嚴諸佛國能以諦慈悲,充滿一切土。

          (Kinh: Đủ tướng hảo thù thắng, trang nghiêm các cơi Phật, ḷng từ bi chân thật, sung măn hết thảy cơi).

 

          Tướng mạo của đức Phật trọn đủ, không chỉ hạn cuộc trong ṿng trời người, mà c̣n là trọn đủ vô lượng tướng hảo trang nghiêm. Tướng mạo ấy có hai loại: Một loại là tướng Hóa Thân, loại kia là tướng Báo Thân. Tướng Báo Thân th́ như Lô Xá Na Phật (Rocana), tức là Báo Thân của Phật Thích Ca, tướng ngàn trượng viên măn, giống như tướng Vô Lượng Quang của A Di Đà Phật. Vô Lượng Quang Thọ là tướng Báo Thân của Phật, là tướng thù thắng của chư Phật. Bất luận Báo Thân hay Hóa Thân, đều trọn đủ ba mươi tướng, tám mươi thứ hảo thù thắng. Đó gọi là tướng nhân thiên. Đức Phật có vô lượng tướng hảo trang nghiêm.

          “Trang nghiêm chư Phật quốc” (trang nghiêm các cơi Phật): Trang nghiêm hết thảy các Phật quốc độ. Có thể nói “chư Phật quốc độ” là quốc độ của Thích Ca Mâu Ni Phật tức thế giới Sa Bà, mà cũng có thể nói là trọn khắp pháp giới hết thảy các Phật quốc độ. Vị Phật nào cũng đều trang nghiêm Phật quốc độ. Ḷng từ bi của Phật chẳng phải là ái kiến đại bi, mà là “đế từ bi”. “Đế” () là chân lư. Nói tới “chân lư” th́ là chân tâm, cũng chính là Thật Tướng của chúng ta. Chữ Đế bao hàm ư nghĩa ấy. “Đế từ bi” là ḷng từ bi đúng lư, dẹp trừ hết thảy thống khổ, ban sướng vui cho hết thảy chúng sanh, khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể hiểu rơ pháp tánh của chính ḿnh, khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể trọn đủ trí huệ Bát Nhă tràn ngập hết thảy các cơi Phật. Ḷng từ bi của Phật cứu độ hết thảy chúng sanh chẳng hề phân biệt. Đấy là bài kệ tụng thứ hai.

 

          (Kinh) Vĩnh tuyệt chư ái vơng, như thật thiện an trụ, xả chư thanh tịnh quốc, độ nhiễm trược chúng sanh.

          ()永絕諸愛網,如實善安住,舍諸清淨國,度染濁眾生。

          (Kinh: Vĩnh viễn dứt lưới ái, như thật, khéo an trụ, bỏ các cơi thanh tịnh, độ chúng sanh nhiễm trược).

 

          Đây là tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật đă thành Phật, đạt được thanh tịnh rốt ráo, vĩnh viễn chẳng có ái dục. Chữ “vơng” () là từ ngữ h́nh dung. Ái trong “ái dục” giống như lưới rập [trói chặt], mong t́m đầu mối cũng chẳng thể t́m được, hàm nghĩa [chúng sanh] bị vướng vào trong lưới, chẳng thể thoát ra. Đức Phật đă vĩnh viễn đoạn tuyệt lưới ái dục. Ngài không chỉ tự ḿnh đoạn tuyệt, mà c̣n muốn đoạn tuyệt lưới ái dục của hết thảy chúng sanh. Do Ngài có thể chứng đắc Thật Tế Lư Thể chân thật, cho nên khéo an trụ, thường trụ trong cảnh giới vô vi tịch tĩnh, cũng tức là Niết Bàn. Chúng ta nói: “Ngài an trụ trong Thường Tịch Quang Tịnh Độ!” Nơi chốn tốt đẹp như vậy, đức Phật chẳng trụ, Ngài “xả chư thanh tịnh quốc” (bỏ các cơi thanh tịnh), Ngài bỏ cơi Thật Báo Trang Nghiêm và Thường Tịch Quang Tịnh Độ để vào đời ác Ngũ Trược nhằm độ chúng sanh nhiễm trược. Chúng sanh trong thế giới này cấu nhiễm rất nặng, đức Phật v́ độ họ mà đến. Đây là tán thán công đức của Phật chẳng thể nghĩ bàn!

 

          (Kinh) Bổn nguyện nhiếp uế độ, thành thục ác chúng sanh, khởi kiên cố chánh cần, cửu tu chư khổ hạnh.

          ()本願攝穢土,成熟惡眾生,起堅固正勤,久修諸苦行。

          (Kinh: Bổn nguyện nhiếp cơi uế, thành thục chúng sanh ác, dấy chánh cần vững chắc, tu khổ hạnh đă lâu).

 

          Đức Phật ở trong thế giới Sa Bà này độ chúng sanh rất khó khăn. Đấy là nguyện lực sẵn có của Ngài, là nguyện lực khi Ngài va mới phát tâm. Ngài đă phát thệ: Trong tương lai, khi thành Phật, sẽ độ chúng sanh khổ nhất, uế trược nhất, sẽ đến nơi đó để độ họ. Các chúng sanh ấy trọn đủ hết thảy ác kiến, ương ngạnh, khó điều phục, khó hóa độ, ta sẽ đều thành thục họ. Điều ấy chẳng dễ thực hiện, ắt cần phải trải qua vô lượng kiếp dũng mănh tinh tấn, siêng năng tu tập không ngừng. [Đó là] “kiên cố chánh cần” (siêng năng tu tập chánh đáng kiên cố). “Cửu tu chư khổ hạnh” (tu các khổ hạnh đă lâu): “Tu khổ hạnh” là có thể thị hiện tu khổ hạnh giống hệt như chúng sanh, thị hiện nêu gương, tu tập ngay trong khổ nạn th́ mới có thể thành thục chúng sanh. Bài kệ kế tiếp nhằm nhắc lại.

 

          (Kinh) Cửu tu chư khổ hạnh, văn sanh tủng cụ tâm, tu chư Thí, Giới, Nhẫn, cập Tinh Tấn, Định, Huệ.

          ()久修諸苦行,聞生悚懼心,修諸施戒忍,及精進定慧。

          (Kinh: Tu khổ hạnh đă lâu, kẻ nghe, sanh hoảng sợ. Tu hạnh Thí, Giới, Nhẫn, và Tinh Tấn, Định, Huệ).

 

          Tu Lục Độ, vạn hạnh, Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Huệ, tức là Lục Ba La Mật. Thành tựu Lục Ba La Mật bằng cách nào? Tu vô lượng khổ hạnh. Do vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói: Trong thế giới Sa Bà này, chẳng có chỗ nào nhỏ như vi trần mà chẳng phải là chỗ đức Phật xả sanh mạng. [Trong phần kinh văn giảng về] đại nguyện thứ tám trong mười đại nguyện của Phổ Hiền, [Phổ Hiền Bồ Tát đă nói] đức Phật độ chúng sanh trong thế giới này như thế nào? Khi Ngài chép kinh điển ḥng tạo lợi ích cho chúng sanh, chẳng có giấy, liền lột da trên thân làm giấy, bẻ xương của chính ḿnh để làm bút, dùng máu trên người làm mực. Ngài biên chép kinh điển như vậy đó. Khi chúng ta học kinh, phải sanh khởi cái tâm cung kính như vậy, nghĩ đến đức Phật trong quá khứ v́ độ chúng ta, đă tu các khổ hạnh ấy. Lúc chúng ta nghe nói cảnh giới như vậy, sẽ sanh khởi cái tâm sợ hăi: Ngài gieo thân nuôi cọp, cắt thịt [của chính ḿnh] cho chim ưng ăn [để cứu con bồ câu bị chim ưng đuổi bắt]. Những chuyện giống như vậy chúng ta đều đă nghe nói cả rồi; khi nghĩ tới, sẽ sanh tâm hoảng sợ. Đức Phật tu Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Huệ, đều chẳng phải là dễ dàng mà đạt được. Chẳng phải là tu một hai ngày, mà là do tu tập đă lâu, cho nên mới đạt được!

 

          (Kinh) Tằng cúng sự vô lượng, Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, cập tế chư hữu t́nh, cơ khát bệnh tử giả.

          ()曾供事無量,佛菩薩聲聞 ,及濟諸有情,飢渴病死者。

          (Kinh: Từng phụng sự vô lượng, Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, và cứu các hữu t́nh, kẻ đói, khát, bệnh, chết).

 

          Thượng cầu, hạ hóa: Hướng về hết thảy chư Phật cầu pháp, cúng dường hết thảy chư Phật, cúng dường hiền thánh tăng. Lại c̣n muốn độ chúng sanh. “Hạ hóa” là tế độ hết thảy hữu t́nh, xả ḿnh để cứu người khác.

 

          (Kinh) Bổn vị tha hữu t́nh, tự xả đa thân mạng, bổn vị chánh pháp cố, xả đa cốt, huyết, b́.

          ()本為他有情,自舍多身命,本為正法故,舍多骨血皮。

          (Kinh: Vốn v́ các hữu t́nh, tự xả nhiều thân mạng. Vốn chỉ v́ chánh pháp, xả nhiều xương, máu, da).

 

          V́ lợi ích chúng sanh mà tự xả thân mạng của chính ḿnh nhằm lợi ích người khác. Chuyện này hoàn toàn tương phản với chúng ta. Chúng ta luôn v́ bảo vệ tánh mạng của chính ḿnh mà thương tổn sanh mạng của kẻ khác. Miệng xoen xoét “ta v́ mọi người thế này, thế nọ”, thật ra, mọi người v́ ta! Xưa nay, những tướng quân thốt ra những lời đó đều y hệt như nhau. Xưa kia đă có câu thơ: “Nhất tướng công thành, vạn cốt khô” (một vị tướng thành tựu công nghiệp th́ muôn người phơi thây). Một vị tướng quân thành danh, quư vị biết bao nhiêu người phải chết để thành tựu cho hắn? Trên chiến trường, hy sinh rất nhiều người mới giúp cho hắn thành tựu, đấy là nghiệp. Nhưng đức Phật hoàn toàn tương phản, v́ hữu t́nh chúng sanh, nhiều đời Ngài tự xả thân mạng của chính ḿnh, chẳng phải là trong một, hai đời. Đức Phật đă từng v́ một chúng sanh mà dùng rất nhiều kiếp, xả thân mạng của chính ḿnh để cứu kẻ ấy. V́ cầu chánh pháp, bảo tồn chánh pháp, Ngài có thể dùng da của chính ḿnh làm giấy, dùng xương làm bút, dùng máu làm mực. Đại nguyện thứ tám của Phổ Hiền Bồ Tát đă nói như thế.

 

          (Kinh) Khí xả tự an lạc, bi mẫn chư hữu t́nh, chuyên vị chư hữu t́nh, cần tu đoạn Hoặc vơng.

          ()棄舍自安樂,悲愍諸有情,專為諸有情,勤修斷惑網。

          (Kinh: Bỏ an lạc tự thân, thương xót các hữu t́nh, chuyên v́ các hữu t́nh, siêng tu đoạn lưới Hoặc).

 

           Ngài chẳng v́ cầu yên vui cho chính ḿnh, mà chuyên v́ chúng sanh đạt được hạnh phúc, giống như Quán Thế Âm Bồ Tát, mỗi vị Bồ Tát, mỗi vị Phật đều là như thế. Tuy thế giới Cực Lạc tốt đẹp, Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng trụ trong thế giới Cực Lạc, mà đến thế giới Sa Bà độ chúng sanh. Thế giới Hoa Tạng của Thích Ca Mâu Ni Phật là quốc độ thanh tịnh, Ngài tới thế giới Hoa Nghiêm thị hiện, đến thế giới Sa Bà độ chúng sanh khổ sở. Thọ mạng trong các cơi Phật khác là tám vạn bốn ngàn năm, có khi là tám vạn năm, hoặc bốn vạn năm; thọ mạng của Thích Ca Mâu Ni Phật chỉ có một trăm năm!

 

          (Kinh) Thiện hộ ư lục căn, hằng viễn ly chư dục, quán hữu vi, vô thường, khổ, không, vô ngă tánh. Chư khổ nghiệp tăng trưởng, giai tham ái vi nhân, cố tiên ư lục căn, vĩnh đoạn chư tham dục.

          ()善護於六根,恆遠離諸欲,觀有為無常,苦空無我性。諸苦業增長,皆貪愛為因,故先於六根,永斷諸貪慾。

          (Kinh: Khéo ǵn giữ sáu căn, luôn xa ĺa các dục. Quán hữu vi, vô thường, khổ, không, vô ngă tánh. Các khổ nghiệp tăng trưởng, tham ái đều là nhân. Nên đoạn sáu căn trước, măi dứt các tham dục).

 

          Đức Phật thấy chúng sanh đang tăng trưởng khổ nghiệp. V́ sao tăng trưởng khổ nghiệp? Do cái nhân là tham ái. Dùng tham ái làm nhân, cho nên cảm vời khổ quả từ khổ nghiệp. Quư vị phải nên nhận biết, khéo ǵn giữ sáu căn của chính ḿnh. Lục căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư. Hăy khéo ǵn giữ, đừng nên buông lung, đừng nên tạo tội, đừng dấy lên đủ thứ tham dục. Hăy xa ĺa hết thảy các dục. Quán hết thảy các pháp hữu vi: Hết thảy các pháp thế gian, hễ hữu h́nh, hữu tướng, th́ những pháp hữu vi ấy đều là vô thường. Quán hết thảy các pháp là vô thường, quán hết thảy các pháp là Khổ, quán hết thảy các pháp là Không. Khổ nghiệp tăng trưởng, quư vị có biết cái khổ quả ấy xảy tới như thế nào hay không? Chính là do tham ái làm nhân, do tham ái mà có. V́ thế, nơi sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư, nếu đoạn dứt tham dục, khổ nghiệp sẽ chẳng thể tăng trưởng. Khổ nghiệp chẳng thể tăng trưởng, quư vị sẽ chẳng phải chịu khổ. Ở đây, đức Phật thị hiện giáo dục hết thảy chúng sanh, tán thán đức Phật khi c̣n tu nhân đă dùng phương thức này để chỉ dạy, hóa độ chúng sanh.

 

          (Kinh) Phổ ư hữu t́nh giới, thường an trụ đại bi, tuy đắc thắng Bồ Đề, nhi bất xả bổn nguyện.

          ()普於有情界,常安住大悲,雖得勝菩提,而不舍本願。

          (Kinh: Trọn khắp hữu t́nh giới, thường an trụ đại bi, tuy chứng diệu Bồ Đề, chẳng ĺa bỏ bổn nguyện).

 

          Đây là tán thán đức Phật ở trong cơi hữu t́nh, thường phát khởi tâm đại bi. Trông thấy các hữu t́nh chúng sanh khổ nạn, tuy đức Phật đă chứng đắc quả Bồ Đề thù thắng, nhưng bổn nguyện của Ngài là lợi lạc chúng sanh, chẳng xả nguyện lực vốn sẵn có. Do vậy, vẫn đến cơi này để độ chúng sanh. Nếu nói theo Lư, Phật độ hết thảy chúng sanh, nhưng chẳng có chúng sanh để có thể độ. Nay chúng ta trước hết nói về Sự, chẳng nói theo Lư, v́ Địa Tạng Bồ Tát tán thán Phật, khởi đầu bằng những chuyện mà bọn chúng sanh chúng ta có thể lănh hội được. V́ sao chúng ta sanh vào cơi này? Sở dĩ chúng ta sanh vào cơi này là do Thập Luân. Thập Luân là khổ luân. Phải đoạn khổ luân ấy, tức là tu trí luân của Phật. Dùng trí luân để đối trị khổ luân, hai đằng đối lập. Khi Địa Tạng Bồ Tát tán thán đức Phật, đă nêu ra danh từ rất giản lược mà thôi. V́ sao Ngài chẳng nói [cặn kẽ]? Ngài biết hết thảy các pháp đều là Không, đều là giả, nhưng chúng sanh chẳng biết. Đối với chúng sanh, đó là nỗi khổ thật sự.

 

          (Kinh) Tùy kiến chư hữu t́nh, bức thiết tại chúng khổ, tùy khởi cần tinh tấn, dũng mănh nhi tế bạt.

          ()隨見諸有情,逼切在眾苦,隨起勤精進,勇猛而濟拔。

          (Kinh: Hễ thấy các hữu t́nh, bị các khổ bức bách, liền siêng năng tinh tấn, để dũng mănh cứu giúp).

 

          Ngài trông thấy hết thảy các hữu t́nh bị khổ sở bức bách, đích xác là đang ở trong các khổ. Cho nên đức Phật dũng mănh, tinh tấn cứu vớt các chúng sanh đang chịu khổ ấy. V́ thế, Ngài liền nêu gương cho họ, hy vọng họ sẽ siêng tu bố thí, sẽ tŕ giới, sẽ nhẫn nhục, sẽ tinh tấn, sẽ tu Định, sẽ cầu trí huệ Bát Nhă.

 

          (Kinh) Linh cần tu Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Định, Bát Nhă, như mẫu ư nhất tử, từ tâm nhi dưỡng dục.

          ()令勤修施戒,忍進定般若,如母於一子,慈心而養育。

          (Kinh: Khiến siêng tu Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Định, Bát Nhă, như mẹ chỉ một con, từ tâm mà nuôi nấng).

 

          “Như mẫu ư nhất tử, từ tâm nhi dưỡng dục”: Giống như mẹ chỉ sanh được một đứa con. Toàn bộ thân tâm của mẹ đều v́ đứa con ấy, yêu thương, bảo vệ, nuôi nấng đứa bé ấy. Đấy là t́nh yêu thương của mẹ. C̣n như trong hiện thời có người mẹ đem cả hai đứa con đều giết chết, quăng xuống biển; đó là hiện tượng đặc thù. Trong xă hội hiện tại, nghiệp chướng quá nặng, nên mới nẩy sanh hiện tượng ấy. Đó là nghiệp chướng đặc biệt nặng nề! Nói chung, ḷng mẹ yêu con trăm phần trăm đều là chân thật, thiết tha. Đối với người hiện thời th́ phải giảm bớt đôi chút. Có kẻ nêu ra những trường hợp mẹ giết con cũng nhiều, mà con cái giết cha mẹ càng nhiều hơn. Điều đó cho thấy đời ác ngũ trược, nghiệp chướng đă đến lúc tột bậc sâu nặng. Do vậy, đức Phật chuyên ṛng, siêng năng, chân thật, thiết tha mong thành Phật, v́ Ngài mong độ chúng sanh.

 

          (Kinh) Bổn ư hữu t́nh loại, thường trụ phổ từ tâm, cố tốc chứng Bồ Đề, độ thoát vô lượng chúng.

          ()本於有情類,常住普慈心,故速證菩提,度脫無量眾。

          (Kinh: Vốn đối với hữu t́nh, thường trụ phổ từ tâm, nên mau chứng Bồ Đề, độ thoát vô lượng chúng).

 

          V́ chúng sanh đức Phật mới tu Phật đạo, v́ chúng sanh nên Ngài mới thành Phật. Thành Phật để dễ độ chúng sanh.

 

          (Kinh) Bổn tu Bồ Đề hạnh, vô bất vị chúng sanh, cố kim ư hữu t́nh, bất xả ư Lục Độ. Tích thường ư mạt thế, cầu Vô Thượng Bồ Đề, kim hoàn mạt thế trung, tốc thành Vô Thượng Giác.

          ()本修菩提行,無不為眾生,故今於有情,不舍於六度。昔常於末世,求無上菩提,今還末世中,速成無上覺。

          (Kinh: Vốn tu hạnh Bồ Đề, đều luôn v́ chúng sanh, nay đối với hữu t́nh, chẳng ĺa bỏ Lục Độ. Xưa thường trong đời Mạt, cầu Vô Thượng Bồ Đề. Nay vẫn trong đời Mạt, chóng thành Vô Thượng Giác).

 

          Phật vĩnh viễn chẳng ngừng độ chúng sanh, siêng năng, chuyên ṛng chẳng thôi. Do v́ chúng sanh, Ngài mới tu Bồ Đề hạnh; v́ chúng sanh, Ngài mới tu Phật đạo. Đă tu thành Phật đạo, Ngài vẫn mong độ chúng sanh, độ thoát vô lượng chúng sanh. Khi Địa Tạng Bồ Tát tán thán đức Phật, đức Phật hoàn toàn chẳng phải như Thích Ca Mâu Ni Phật mà tất cả chúng ta thường thấy: Từ phát tâm, chứng Bồ Đề, cho đến độ chúng sanh, thành Phật, nhập Niết Bàn [chỉ trong một đời]. Địa Tạng Bồ Tát chẳng thấy như vậy, [mà là thấy đức Bổn Sư] đă thành Phật độ chúng sanh, chúng sanh được độ lại thành Phật, thành Phật rồi lại thị hiện làm chúng sanh. Làm chúng sanh lại tu, tu rồi lại thành Phật. Đó là một vị Phật không ngừng độ chúng sanh. Mấy câu này có ư nghĩa như thế đó.   

          (Kinh) Điều phục chư ác kiến, thiên, long, nhân, dược xoa, an trụ năng đoạn Hoặc, như kim cang thánh đạo.

          ()調伏諸惡見,天龍人藥叉,安住能斷惑,如金剛聖道。

          (Kinh: Điều phục các ác kiến, trời, rồng, người, dược xoa, an trụ đoạn trừ Hoặc, như kim cang thánh đạo).

 

          Ác kiến tức là kiến giải tà ác rất khó điều phục, hiện thời chúng ta thường gặp phải. Quư vị nói những thiện đạo tốt lành với họ, họ chẳng nghe lọt tai. Ác kiến của họ chẳng thể nghĩ bàn. Ác kiến là ǵ? Chúng ta có thể thường xuyên nghe thấy. Chúng ta nói “giết người là không đúng”, họ vặn lại: “V́ sao giết người không đúng? Tao không giết nó, nó sẽ giết tao”. Hoặc là kẻ đó cũng chẳng giết người, hắn v́ cướp tiền mà giết người. Chúng ta thấy xác chết không đầu, hoặc thi thể vô danh, chẳng biết là ai giết! Giết rồi vứt bỏ. Quư vị phải t́m ra nguyên nhân v́ sao? Tại Đài Loan, có những đứa thanh niên đua xe, cưỡi trên xe, nổ súng vào xe người khác đang lái. Trông thấy kẻ chẳng vừa mắt liền vung đao giết gọn, oán cừu ǵ cũng chẳng có! Đấy là nghiệp ǵ vậy? Đấy là cộng nghiệp của chúng sanh trong hiện thời cảm vời. Thứ kiến giải ấy có phải là ác kiến hay không? Quư vị hỏi chúng nó v́ sao lại dấy lên cách nh́n ấy, đối với chính ḿnh có lợi ích chi đâu? Chúng nó cũng chẳng có mong cầu ǵ, chẳng phải là v́ bọn chúng coi giết người là chuyện vui sướng ư? Đấy gọi là ác kiến. Nếu muốn điều phục những ác kiến ấy, mọi người hăy ngẫm xem, có dễ điều phục hay không? Chúng nó có nghe khuyên bảo hay không? Rất khó!

          Dược Xoa (Yakşa) chính là Dạ Xoa. Chúng ta thường nói đến Dược Xoa. Dạ Xoa là ma quỷ, nhưng vẫn có những quỷ tốt lành, có những loài tốt lành. Có những Dạ Xoa Đại Tướng là hộ pháp. Người, trời, rồng cũng có kẻ ác, đều là có thiện lẫn ác. Điều phục các ác kiến, chế phục trời, rồng, người, Dược Xoa thuộc loại ác.

          “An trụ năng đoạn Hoặc” (an trụ, có thể đoạn Hoặc): Khiến cho họ đoạn tuyệt ác kiến, an trụ trong thiện đạo, an trụ trong kim cang thánh đạo, cần sức mạnh lớn cỡ nào? Do vậy, chỉ có Phật và các vị đại Bồ Tát mới có thể điều phục. Chuyện này cũng cần phải hữu duyên, mà cũng phải có thiện căn. Trong kinh Phật, có nhiều vị Bồ Tát như thế, có nhiều đức Phật dường ấy, [thế mà] có người ngay cả danh hiệu các vị Phật, Bồ Tát cũng chẳng nghe thấy, ngay cả nhân duyên thoảng qua tai cũng không có, làm sao có thể điều phục họ cho được? Giống như vây quanh chúng ta là lục thân quyến thuộc, mọi người đều có ḷng yêu thương ta, đối với con cái của chính ḿnh đặc biệt thương yêu, nhưng trọn chẳng phải là quư vị nói, họ sẽ nghe theo. Nếu dễ độ như vậy, hiện thời chẳng c̣n chúng sanh ác nữa! Tôi đến nhà tù Thổ Thành ở Đài Loan, thấy những tù nhân trọng phạm đều là bọn trẻ tuổi! Tống họ vào trong đó, quản giáo họ như vậy, họ đều chẳng nghe theo. Quư vị dùng thiện tâm khuyên họ, họ có nghe lời quư vị hay không? Mong họ nghe lời quư vị th́ phải có đại oai lực, bản thân quư vị cũng phải tu đức trọn đủ. Đức chẳng đủ, sẽ chẳng được! “Đức chẳng đủ cho kẻ khác phục, oai chẳng đủ để trị người khác”. Họ làm sao nghe lời quư vị cho được? Do vậy, phải cậy vào chính ḿnh tự tu. Phật tự tu trước hết. Địa Tạng Bồ Tát tán thán điều này.

 

          (Kinh) Thọ vô lượng hữu t́nh, đắc thắng Bồ Đề kư, thành Ứng Cúng đạo thủ, tối thượng lương phước điền.

          ()授無量有情,得勝菩提記,成應供導首,最上良福田。

          (Kinh: Thọ kư vô lượng chúng, đắc Bồ Đề thù thắng, thành Ứng Cúng đạo sư, ruộng phước tốt lành nhất).

 

          Đấy là tốt đẹp. Vô lượng hữu t́nh chúng sanh phát tâm hành đạo, siêng tu Lục Ba La Mật, đức Phật sẽ thọ kư họ đắc Bồ Đề thù thắng, tức là nói trong tương lai, người ấy nhất định có thể thành Phật, trong tương lai nhất định có thể thành bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, làm người hướng dẫn cho hết thảy chúng sanh, làm ruộng phước tốt lành nhất cho hết thảy chúng sanh, cũng chính là thành Phật.

 

          (Kinh) Thế Tôn vô đẳng lữ, phổ phú chư quần sanh, vô lượng đại danh văn, sung măn thập phương giới.

          ()世尊無等侶,普覆諸群生,無量大名聞,充滿十方界。

          (Kinh: Thế Tôn không ai bằng, che chở khắp quần sanh, thanh danh rền vô lượng, tràn ngập mười phương cơi).

 

          Hết thảy những vị ngang hàng có thể sánh bằng đức Thế Tôn th́ phải là hết thảy chư Phật. Chẳng có ai hơn nổi Phật, mà cũng chẳng có ai bằng Phật! Chỉ có Phật mới có thể phổ độ hết thảy quần sanh, tức là hết thảy chúng sanh. Phật đều có thể che chở họ trọn khắp. “Phổ phú” (普覆, che phủ khắp) có nghĩa là có thể vun bồi họ, khiến cho họ tăng trưởng, thành Phật, có thanh danh giống như Phật: Tiếng rền khắp mười phương, các cơi nước trong mười phương đều biết Thích Ca Mâu Ni Phật. Đấy là đại thanh danh của Phật, cho đến mười hiệu của Phật, tức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri… vị Phật nào cũng đều có mười hiệu ấy.

 

          (Kinh) Thị cố chư Bồ Tát, vị thành tựu kỷ sự, hàm cộng lai quy y, Đại Mâu Ni túc hạ.

          ()是故諸菩薩,為成就己事,咸共來歸依,大牟尼足下。

          (Kinh: Do vậy, các Bồ Tát, v́ thành tựu chuyện ḿnh, đều cùng đến quy y, dưới chân Đại Mâu Ni).

 

          Bồ Tát là Bồ Đề Tát Đỏa (Bodhisattva), tức Giác Hữu T́nh, là những vị Bồ Tát phát đại tâm trong mười phương pháp giới, mong lợi ích chúng sanh, tức là những người mong làm cho hết thảy hữu t́nh đều giác ngộ, phát đại Bồ Tát tâm, thành tựu chính ḿnh, thành tựu sự nghiệp của Phật, khéo độ chúng sanh, đều quy hướng Thích Ca Mâu Ni Phật. “Hàm cộng lai quy y, Đại Mâu Ni túc hạ” nghĩa là “đều quy thuận dưới chân đức Thế Tôn, tức là Thích Ca Mâu Ni Phật”. Đại Tịch Diệt là đại Niết Bàn, Mâu Ni dịch nghĩa là Tịch Diệt.

 

          (Kinh) Văn sở thuyết diệu pháp, giai sanh hoan hỷ tâm, khởi tăng thượng chánh cần, tu tập Bồ Đề hạnh.

          ()聞所說妙法,皆生歡喜心,起增上正勤,修習菩提行。

          (Kinh: Nghe nói pháp nhiệm mầu, đều sanh ḷng hoan hỷ, khởi chánh cần tăng thượng, tu tập hạnh Bồ Đề).

 

          Đến quy y Phật để cầu thuyết diệu pháp. Diệu pháp là ǵ? Diệu Pháp Liên Hoa Kinh cũng là diệu pháp, kinh Kim Cang cũng là diệu pháp. “Diệu” () là chẳng thể nghĩ bàn, rất vi diệu. Trong tâm chúng ta chẳng thể nghĩ đến, nghị luận chẳng được, th́ gọi là Diệu. Quy luật, quy tắc, đó là Pháp, chính là những ǵ khiến cho hiểu rơ. Nói cách khác, [hiểu rơ] chính là khai ngộ. Chẳng khai ngộ, đức Phật sẽ không nói. Chúng ta chẳng hiểu rơ, đức Phật vừa nói, chúng ta liền hiểu rơ. Đó gọi là “diệu pháp”. Chúng ta chẳng biết khổ do đâu mà có, đức Phật liền dạy Khổ là do Tập mà có, tức chiêu cảm. Có cái nhân th́ mới có khổ quả. Muốn thoát ly th́ sao? Ngài dạy phải tu Đạo. Tu Đạo chứng Tịch Diệt, khổ quả liền đoạn. Đấy là diệu pháp. Nếu chẳng có trí huệ, hăy khởi lên quán chiếu, khởi lên tư duy cho nhiều. Đối với hết thảy sự vật, chẳng hiểu th́ phải học: Đóa hoa này sanh ra như thế nào? V́ sao nó có màu vàng? Tùy tiện nêu ra một sự vật, [sẽ thấy] chuyện chúng ta không biết quá nhiều! Dùng trí huệ của Phật để chỉ dạy chúng ta, những điều ấy đều gọi là diệu pháp. Đấy là chẳng thể nghĩ bàn! Các diệu pháp ấy chỉ là nói đến pháp tắc để thoát sanh tử, chứng Niết Bàn.

          Nghe đức Phật nói loại diệu pháp ấy liền sanh tâm đại hoan hỷ. Chúng sanh đă sanh tâm hoan hỷ, sẽ chánh đáng siêng năng, hăng hái tu học, sẽ sanh khởi sự chánh cần (正勤, siêng năng chánh đáng) tăng thượng, tức là “khởi tăng thượng chánh cần”. Nay chúng ta tuy siêng tu chánh đáng (chánh cần), nhưng vẫn chưa đủ tăng thượng. Phải dốc sức thêm, tăng thêm cái tâm thù thắng, tăng thêm cái tâm tinh tấn. Quư vị đă có cái tâm xuất ly, lại thêm tâm tăng thượng, sẽ như thế nào? Tu tập giác ngộ, phát khởi Bồ Đề tâm. Đấy cũng là tu tập tánh môn giác ngộ. Cần phải làm như thế nào?


          (Kinh) Do đạo sư pháp lực, giai tốc chứng Bồ Đề, cố kim giả đạo sư, Đại Tập vị tằng hữu.

          ()由導師法力,皆速證菩提,故今者導師,大集未曾有。

          (Kinh: Do pháp lực đạo sư, đều mau chứng Bồ Đề, v́ thế nay đạo sư, Đại Tập chưa từng có).

 

          Do pháp lực của bậc đạo sư, khiến cho các vị Thanh Văn Tăng, Bồ Tát Tăng ấy đều rất nhanh chóng chứng quả rốt ráo. Bồ Đề chính là quả rốt ráo. V́ thế, nay con tán thán Phật, đại pháp hội trong hiện tại đúng là chưa từng có, cho nên con đến tùy hỷ.

 

          (Kinh) Thập tam triệu Dược Xoa, hằng đạm chư huyết nhục, giai xả chư ác nghiệp, tốc thú đại Bồ Đề.

          ()十三兆藥叉,恆啖諸血肉,皆舍諸惡業,速趣大菩提。

          (Kinh: Mười ba triệu Dược Xoa, luôn ăn các máu thịt, đều bỏ các ác nghiệp, hướng ngay đại Bồ Đề).

 

          Có ǵ để chứng minh [những người được pháp lực của đấng đạo sư tiếp dẫn sẽ nhanh chóng chứng Bồ Đề] hay không? Ở đây, nêu lên một trường hợp: Địa Tạng Bồ Tát vừa đến, liền biết trong pháp hội này có rất nhiều người đắc độ, rất nhiều người nghe pháp khai ngộ, ở trong hội Đại Tập này, họ sẽ chứng Bồ Đề. Ngài nêu ra một con số: “Mười ba triệu Dược Xoa”. Những quỷ Dạ Xoa ấy đều là hạng ăn máu thịt, luôn ăn thịt chúng sanh. Trong hội Đại Tập này, mười ba triệu Dạ Xoa do nghe diệu pháp của đức Phật, họ chẳng tạo sát nghiệp nữa, chẳng c̣n năo hại chúng sanh. “Giai xả chư ác nghiệp”: Đều bỏ các ác nghiệp. “Tốc thú đại Bồ Đề” (nhanh chóng tiến đến Bồ Đề): Đây là như chúng ta thường nói: “Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật” (buông dao đồ tể, ngay lập tức thành Phật). Trong hội Đại Tập này, có mười ba triệu quỷ Dạ Xoa chẳng c̣n tạo sát nghiệp, chẳng c̣n lưu chuyển theo nghiệp, xả trừ nghiệp, tiến hướng Phật quả.

 

          (Kinh) Hữu đắc thắng tổng tŕ, an nhẫn cập tĩnh lự, hữu vĩnh tận chư lậu, Ứng Cúng thế gian tôn.

          ()有得勝總持,安忍及靜慮,有永盡諸漏,應供世間尊。

          (Kinh: Đắc tổng tŕ thù thắng, an nhẫn và tĩnh lự, vĩnh viễn hết các lậu, thành Ứng Cúng Thế Tôn).

 

          Địa Tạng Bồ Tát vừa đến nơi đây, do sức trí huệ của Ngài, liễu giải trong không thể tính đếm Thanh Văn Tăng, không thể tính đếm Bồ Tát Tăng, có bao nhiêu vị chứng đắc Bồ Đề, có bao nhiêu vị phát Bồ Đề tâm, bao nhiêu vị trụ Tứ Nhiếp Pháp. Trí huệ của Địa Tạng Bồ Tát rất lớn. Ngài vừa đến nơi đây, đă biết bao nhiêu người như vậy! Chúng ta một người cũng chẳng biết, chẳng có trí huệ, cho nên vẫn là chúng sanh khổ sở. Nh́n từ sự tường thuật trong kinh văn, trong phần trước, đức Phật tán thán công đức của Địa Tạng Bồ Tát. Địa Tạng Bồ Tát đến nơi đây, cũng tán thán công đức của Phật, cũng nói ra sự thù thắng của Phật pháp. Đức Phật thuyết diệu pháp ở nơi đây, có mười ba triệu Dược Xoa buông xuống sát nghiệp, từ ác nhất chuyển biến thành thiện nhất. Lại c̣n có rất nhiều người đắc Đà La Ni (Tổng Tŕ), chứng đắc rất nhiều quả Đà La Ni, đắc Thiền Định rất sâu, vĩnh viễn hết sạch các lậu. Có người thành Phật,“Ứng Cúng thế gian tôn” (đấng Ứng Cúng được thế giới tôn trọng): Trong hội Đại Tập này, có rất nhiều người thành Phật, nhiều người buông dao đồ tể, rất nhiều người đắc Tổng Tŕ, rất nhiều người đắc Lục Ba La Mật. Có nhân duyên thù thắng dường ấy. Chúng ta vẫn chẳng chứng đắc, bèn tùy hỷ đôi chút, hy vọng mọi người đều đạt được Tổng Tŕ thù thắng.

 

          (Kinh) Hữu tu TVô Lượng, hữu trụ Tứ Nhiếp pháp, hữu đắc TBiện Tài, hữu an trụ Thuận Nhẫn, hữu đắc Kiện Hành Định, hữu đắc diệu huệ nhăn, hữu trụ Vô Sanh Nhẫn, giai do đạo sư lực.

          ()有修四無量,有住四攝法,有得四辯才,有安住順忍,有得健行定,有得妙慧眼,有住無生忍,皆由導師力。

          (Kinh: Người tu TVô Lượng, kẻ trụ pháp Tứ Nhiếp, kẻ chứng bốn biện tài, kẻ an trụ Thuận Nhẫn, kẻ đắc Kiện Hành Định, kẻ đắc diệu huệ nhăn, kẻ trụ Vô Sanh Nhẫn, đều do sức Đạo Sư).

 

          Đây là những lời lẽ đẹp đẽ để tán thán đức Phật của Địa Tạng Bồ Tát. Từ những lời ca ngợi ấy, chúng ta có thể thấy trí huệ của Bồ Tát. Thông thường, chúng ta chiếu theo kinh điển để ca ngợi Bồ Tát, ca ngợi Phật. Nếu chúng ta tự soạn lời ca ngợi, sợ rằng cũng chẳng thể tán thán nổi. Lời ca ngợi ấy bao gồm rất nhiều hàm nghĩa, có khi là [tán thán] sự tu hành của đức Phật trong lúc tu nhân, có lúc là sự biểu hiện nơi quả đức, có khi là tán nhân, có lúc là tán quả, nói ra bài Già Đà mầu nhiệm này, chính là những lời lẽ tán thán chẳng thể nghĩ bàn.

          “Tứ Vô Lượng” tức là bốn vô lượng tâm “từ, bi, hỷ, xả”. Tứ Nhiếp là trong lúc tu nhân, đức Phật đă dùng những lời lẽ tốt đẹp tột bậc để nhiếp thọ hết thảy chúng sanh. Họ nghe những lời lẽ của Ngài, tâm sanh hoan hỷ. Sau đấy, tiến nhập Phật môn. Hoặc Ngài thị hiện đồng sự với họ, hoặc thị hiện bố thí. Do vậy, trong mỗi bài kệ tán thán, đều hàm nhiếp những chuyện đức Phật đă làm trong vô lượng ức kiếp. Chúng ta nghe những danh từ ấy, cảm thấy dường như quá dễ dàng. Thế nhưng, khi chúng ta thực hiện, sẽ [nhận thấy] rất khó, v́ chúng ta có tâm đố kỵ. Thấy kẻ khác làm chuyện tốt, tâm sanh ganh ghét. Không chỉ chẳng ca ngợi, mà lúc người khác khen ngợi, vẫn muốn nói chen vào những lời lẽ phá bĩnh: “Có ǵ hay ho đâu? Ai làm chẳng được!” Chúng ta đọc những lời lẽ ca ngợi này, trong tâm thường nghĩ tưởng như thế, sanh khởi ḷng hổ thẹn, phải học theo Phật, Bồ Tát tán thán như thế nào.

          Nếu trong lúc biểu dương một đệ tử để mọi người sanh khởi cảm xúc thù thắng, học tập theo, hăy khéo dùng những lời lẽ ca ngợi, xưng tán người đệ tử ấy thích đáng. Chúng ta luôn cảm thấy khi Bồ Tát tán thán Phật, đều là tán thán chẳng trọn hết. Ngoại trừ các vị như Địa Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc, Quán Âm, nếu các vị đại Bồ Tát ấy tán thán, sẽ có thể nêu trọn công đức của Phật. Chứ chúng ta chẳng thấu hiểu sâu xa dường ấy! Nếu muốn tán thán công đức của Phật, sẽ chẳng thể tán thán nổi, tán thán chẳng cùng tận.

          Trong lời tán thán của Địa Tạng Bồ Tát, từ trước đến giờ, đều là tán thán những ǵ? Ngài nói: “Đức Phật thật tuyệt diệu, con thấy các vị trong hội Đại Tập này đạt được lợi ích nơi pháp”. Ngài tán thán đức Phật giáo hóa các vị ấy, hội này chẳng phải là hội Đại Tập ư? Thanh Văn Tăng và Bồ Tát Tăng đều chẳng thể tính đếm ư? Ở trong pháp hội này, có các vị do được đức Phật chỉ dạy, có những người tu Tứ Vô Lượng Tâm; có người do đức Phật dạy bèn tu Tứ Nhiếp Pháp. Có người do được đức Phật dạy bảo mà ở trong hội này tu Tứ Vô Ngại Biện.

          Tứ Nhiếp là ǵ? Chính là Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành, và Đồng Sự. Tứ Biện Tài là ǵ? Pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ vô ngại, biện vô ngại. Ở đây, c̣n có Kiện Hành Định”, Kiện Hành Định chính là Thủ Lăng Nghiêm tam-muội. Danh từ Pháp Tướng liên quan tới mỗi bộ kinh. Mỗi bộ kinh đều có ư nghĩa như thế nào, quư vị hăy tự xem, v́ các ư nghĩa ấy chẳng phải là ư nghĩa chủ yếu mà chúng tôi muốn nói. Ư nghĩa chủ yếu là ǵ? Chúng ta muốn tu hành theo kinh Thập Luân th́ phải tu hành như thế nào? “Tu hành” là chúng ta phải quán tưởng như thế nào? Có thể tu Định như thế nào? Khai huệ như thế nào? Đặc biệt là tuy chỉ có sáu chữ “sổ, tùy, chỉ, quán, chuyển, tịnh”, nhưng các hàm nghĩa trong ấy quá nhiều, chúng ta có thể từ nhập môn mà một mực hành cho đến khi đắc Định.

          “Diệu huệ nhăn” (mắt trí huệ mầu nhiệm) là lời ca ngợi đức Phật, ư nói: Trong hội này, có nhiều người dường ấy c̣n đạt được con mắt trí huệ, tức là đạt được diệu huệ nhăn nơi chánh pháp nhăn tàng. Có người đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô Sanh Pháp Nhẫn là chứng đắc pháp tánh, chứng đắc Lư Thể, liễu giải, ngộ nhập hết thảy các pháp vô sanh. Có thể hiểu chữ Nhẫn () là “tán thành”. Có người trụ trong Vô Sanh Pháp Nhẫn là do các sức mạnh nào? V́ sao các đạo hữu trong hội có sức mạnh như thế ấy? Đều là do sức của đấng Đạo Sư, tức là sức dạy bảo của đức Phật.

 

          (Kinh) Thế Tôn đại oai lực, tồi diệt chúng ma oán, hàng phục chư ngoại đạo, cửu thập ngũ dị loại.

          ()世尊大威德,摧滅眾魔怨,降伏諸外道,九十五異類。

          (Kinh: Thế Tôn oai đức lớn, dẹp tan các ma oán, hàng phục các ngoại đạo, chín mươi lăm dị loại).

 

          Đại chúng trong pháp hội này hễ c̣n có các chướng ngại, bị oán địch quấy nhiễu, do oai lực của Phật, các thứ ấy đều bị dẹp tan. “Cửu thập ngũ dị loại” cũng là [chín mươi lăm thứ] ngoại đạo.

 

          (Kinh) Tận địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, phi thiên thú, cố chân thật hữu t́nh, hàm quy tôn túc hạ.

          ()盡地獄傍生,餓鬼非天趣,故貞實有情,咸歸尊足下。

          (Kinh: Trọn địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, nẻo phi thiên, các hữu t́nh chân thật, đều quy ngưỡng Thế Tôn).

 

          C̣n có địa ngục, bàng sanh (súc sanh), ngạ quỷ, những loài phi thiên (chẳng phải là chư thiên), [“phi thiên”] tức là các hữu t́nh chẳng thuộc vào thiên đạo, mà cũng chẳng phải là nhân loại, ở đây là nói đến A Tu La. Tuy họ có phước giống như chư thiên, cũng thuộc vào thiên đạo, nhưng họ chẳng giống chư thiên. [Do vậy, bài kệ này] nói về lục đạo chúng sanh: Địa ngục, ác quỷ, súc sanh, trời, người, A Tu La. Đấy là gồm trọn lục đạo. Tất cả hội chúng trong hội Đại Tập đều quy y dưới chân đức Phật. “Hàm quy tôn túc hạ” (đều nương về dưới chân bậc tôn kính), [“bậc tôn kính”] tức là đức Phật.

 

          (Kinh) Kim giả tức đao binh, dịch bệnh, cơ cẩn kiếp, độ mê thất chánh đạo, manh minh chư hữu t́nh.

          ()今者息刀兵,疫病饑饉劫,度迷失正道,盲冥諸有情。

          (Kinh: Nay dứt bặt đao binh, kiếp đói kém, bệnh dịch, độ kẻ mê đường chánh, các hữu t́nh mù tối).

 

          Nếu có đao binh kiếp (chiến tranh), do oai lực của Phật, đao binh kiếp chấm dứt. Nếu có bệnh khổ lan tràn, hoặc nạn đói kém, hoặc trong khi hoại kiếp, rất nhiều chúng sanh mê mất chánh đạo, đức Phật đều độ họ. “Manh minh chư hữu t́nh” (những hữu t́nh mù tối) là những kẻ ở trong hắc ám. Chữ Minh () vốn nói tới sự tối tăm. Những kẻ ấy do thần kinh bất b́nh thường, dường như vĩnh viễn ở trong tối tăm. Các hữu t́nh như thế ở trong cảnh tối tăm, thường nói là “có mắt mà chẳng thấy”, v́ nơi thân chẳng hề thấy có quang minh. Nói “manh minh” là một cách h́nh dung vậy.

 

          (Kinh) Chư phiền năo cuồng loạn, giai an tịch diệt đạo, cố ngă xả chư duyên, lai lễ kính tôn túc.

          ()諸煩惱狂亂,皆安寂滅道,故我舍諸緣,來禮敬尊足。

          (Kinh: Kẻ phiền năo cuồng loạn, đều trụ đạo tịch diệt, nên con bỏ các duyên, đến lễ kính Thế Tôn).

 

          C̣n có những kẻ phiền năo, cuồng loạn. Chữ “cuồng loạn” bao hàm rất nhiều ư nghĩa, chẳng tin chánh đạo, chẳng có chánh tri kiến, tà kiến cũng chẳng ít. [Đức Phật] khiến cho những người ấy an trụ trong đạo tịch diệt, sức mạnh ấy rất chẳng thể nghĩ bàn. V́ con thấy trong hội Đại Tập này có nhiều công đức dường ấy, nhiều lợi ích chẳng thể nghĩ bàn dường ấy. “Cố ngă xả chư duyên” (nên con bỏ các duyên): Địa Tạng Bồ Tát nói: “Con buông xuống hết thảy các nhân duyên, buông xuống toàn bộ các duyên khác để đến lễ Phật”. Điều này mang ư nghĩa cầu gia tŕ, “lai lễ kính tôn túc” (đến lễ dưới chân bậc tôn kính).

         

          (Kinh) Vô biên chư Phật độ, hiện tại chư đạo sư, hàm quảng tán Thế Tôn, văn giả giai lai thử.

          ()無邊諸佛土,現在諸導師,咸廣讚世尊,聞者皆來此。

          (Kinh: Vô biên các cơi Phật, các đạo sư hiện tại, đều rộng tán Thế Tôn, người nghe đều đến đây).

 

          Đây là Địa Tạng Bồ Tát xưng tán: Con thấy vô biên cơi Phật, có rất nhiều cơi nước giáo hóa của đức Phật, mỗi vị Phật trong các quốc độ ấy đều tán thán công đức chẳng thể nghĩ bàn của Thích Ca Mâu Ni Như Lai, đều đang tán thán đức Thế Tôn. V́ sao? Ngài đang ở trong chốn khổ sở nhất, nhằm thuở ác thế ngũ trược để độ chúng sanh, cho nên những ai thấy nghe, không ai chẳng sanh ḷng hoan hỷ to lớn.     

 

          (Kinh) Ngă văn Biến Tri hải, chân thật đức vô biên, độ thoát chư hữu t́nh, tâm hoan hỷ kính lễ. Tằng tu vô lượng phước, kim đắc lễ tôn túc, nguyện vô lượng kiếp trung, thường tu đa cúng dường.

          ()我聞徧知海,真實德無邊,度脫諸有情,心歡喜敬禮。曾修無量福,今得禮尊足,願無量劫中,常修多供養。

          (Kinh: Con nghe biển Biến Tri, đức chân thật vô biên, độ thoát các hữu t́nh, tâm hoan hỷ kính lễ, từng tu vô lượng phước, nay được lễ Thế Tôn, nguyện trong vô lượng kiếp, thường tu nhiều cúng dường).

 

          Khi bái sám có mấy câu như vậy, trước kia, tôi chẳng t́m thấy xuất xứ, sau này, đọc kinh Thập Luân mới biết xuất xứ: Ngẫu Ích đại sư đă trích lục từ chỗ này, chứ trong kinh Địa Tạng chẳng có, mà kinh Chiêm Sát cũng chẳng có. “Biến Tri hải” (biển Chánh Biến Tri) là Phật đạo. Con liễu giải Phật, biết trí huệ của Phật, pháp âm do Ngài nói có thể giải trừ nỗi khổ cùng cực của hết thảy chúng sanh. Phật có chân thật đức, [các công đức được nói] trong phần trước là Đế đức, tức là công đức sanh khởi xứng hợp lẽ Chân, cho nên gọi là “chân thật đức”. Do tánh thể trọn khắp hết thảy mọi nơi, cho nên đức ấy cũng trọn khắp hết thảy mọi nơi, vô biên. Trong câu “độ thoát chư hữu t́nh”, “độ” là đức Phật giáo hóa, “thoát” là chúng sanh thoát ly khổ nạn, có thể độ thoát. Các hữu t́nh chúng sanh ấy đă ĺa thoát khổ nạn, được hưởng vui sướng, tâm sanh khởi đại hoan hỷ, có thể lễ Phật. Chẳng dễ ǵ thấy Phật! Nếu chẳng tu vô lượng phước đức, có mong lễ Phật cũng chẳng được!

          “Tằng tu vô lượng phước, kim đắc lễ tôn túc” (từng tu vô lượng phước, nay được lễ dưới chân bậc tôn kính): Sở dĩ chúng ta có thể bái sám, là do nhiều đời nhiều kiếp tu tập mà ra! Đừng nói là chúng ta hằng ngày bái sám, dẫu chỉ đến chùa lễ một lạy, vẫn là chẳng thể nghĩ bàn rồi! Kinh Pháp Hoa dạy: “Nhược nhân ư tháp miếu trung, đơn hiệp chưởng, tiểu đê đầu, giai dĩ thành Phật đạo” (Nếu ai ở trong tháp, miếu, chỉ giơ một tay làm lễ, hơi cúi đầu, đều đă thành Phật đạo). Có khi nói là “Phật đạo giai dĩ thành” (Phật đạo đều đă thành), c̣n kinh Pháp Hoa th́ nói “giai dĩ thành Phật đạo”.

          Có những kẻ chỉ nói theo văn tự, [cho rằng] chỉ cần đến tháp, miếu chắp tay, cúi đầu th́ đều đă thành Phật đạo. Có một giáo sư thuộc đại học Hạ Môn (Amoy) đă từng hỏi tôi về vấn đề này. Ông ta hỏi: “Tôi lễ Phật mỗi ngày, không chỉ là giơ một tay, mà chắp cả hai tay, vẫn chẳng thành Phật! Những lời ấy có khuyết điểm”. Tôi giải thích: “Những lời ấy chẳng có khuyết điểm tí nào! Phàm là người đến tháp, miếu, có thể chỉ giơ một tay [để lễ kính], hơi cúi đầu, đă đều thành Phật. Điều ấy xác nhận: Nay ông đă đến, có thể trông thấy tượng Phật, chỉ giơ một tay lễ kính, trong tương lai, nhất định sẽ thành Phật, trọn chẳng phải là hiện tại ông đă thành Phật. Quá khứ chư Phật gieo thiện căn, trong khi tu nhân, các Ngài đă gieo như thế. Cho nên các Ngài đă thành tựu Phật đạo, chứng minh: Trong hiện tại, bất luận vị nào có thể trông thấy tượng Phật mà có thể giơ một tay lễ kính, hơi cúi đầu, trong tương lai, nhất định sẽ có thể thành Phật. Từ quá khứ mà chứng minh hiện tại”.

          Do vậy, nếu quá khứ chẳng tu vô lượng phước th́ nay quư vị sẽ chẳng thể lễ Phật. Câu ấy có nghĩa như vậy đó. Chúng ta không chỉ lễ Phật, lại c̣n bái Phật, hằng ngày bái sám, chứng tỏ: Trong quá khứ, chúng ta đă tu vô lượng phước. V́ thế, phải phát nguyện “nguyện vô lượng kiếp trung, thường tu đa cúng dường” (nguyện trong vô lượng kiếp, thường tu nhiều cúng dường) ḥng có thể cúng dường đức Thế Tôn.

 

          (Kinh) Ngă kim học Thế Tôn, phát như thị thệ nguyện, đương ư thử uế độ, đắc Vô Thượng Bồ Đề.

          ()我今學世尊,發如是誓願,當於此穢土,得無上菩提。

          (Kinh: Con nay học Thế Tôn, phát thệ nguyện như thế, sẽ trong cơi uế này, đắc Vô Thượng Bồ Đề).

 

          “Ngă” (con) là Địa Tạng Bồ Tát tự xưng. Trong thuở quá khứ, đức Thế Tôn phát nguyện như vậy. Thoạt đầu, Thích Ca Mâu Ni Phật nghe danh hiệu của năm mươi ba vị Phật, Ngài lần lượt hướng về người khác truyền tụng, [những người ấy] nay chính là ba ngàn vị Phật, cũng là ba ngàn vị Phật trong Vị Lai Tinh Tú Kiếp, Hiện Tại Hiền Kiếp, và Quá Khứ Trang Nghiêm Kiếp khi chúng ta niệm kinh [Tam Thiên Phật Danh]. Ba ngàn vị Phật trong ba kiếp thoạt đầu được nghe danh hiệu của năm mươi ba vị Phật, gieo thiện căn, dần dần tu hành, đều thành Phật. Địa Tạng Bồ Tát tự khiêm, Ngài nói: “Nay con cũng học theo Phật, cũng phát các thệ nguyện giống như hội Đại Tập của đức Phật trong hiện thời. Chính ḿnh cũng tu hành trong cơi uế vào lúc đời ác Ngũ Trược này, chẳng ở trong quốc độ thanh tịnh, [chịu đựng] hết sức nhiều chướng ngại. Tu hành ở trong ấy chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề. Thích Ca Mâu Ni Phật phát nguyện, do nhiều đời nhiều kiếp tu nhân mà thành tựu”.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát dĩ diệu già-tha lễ tán Phật dĩ.

          ()爾時,地藏菩薩摩訶薩以妙伽他禮讚佛已。

          (Kinh: Khi ấy, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát dùng bài kệ mầu nhiệm lễ tán đức Phật rồi).

 

          Địa Tạng Bồ Tát vừa lễ vừa tán, tức là vừa tán thán vừa đảnh lễ. Giống như khi chúng ta lễ Phật, cũng là tán thán và kính lễ. Chúng ta chẳng thể soạn kệ, bèn lấy các bài kệ tán Phật của các vị Bồ Tát để niệm, như trong phần trùng tụng của phẩm Phổ Hiền, có rất nhiều bài kệ tán thán Phật, đều có thể dùng để tán thán Phật. C̣n có những bài có thể dùng để niệm sám hối tội lỗi, chẳng phải là thuần túy tán thán công đức của Phật, mà c̣n sám hối tội của chính ḿnh, ai nấy đều phải tiêu trừ nghiệp chướng của chính ḿnh. Trong khi chúng ta lạy Phật, vừa lạy, vừa tưởng: “Nguyện tiêu tam chướng chư phiền năo, nguyện đắc trí huệ chân minh liễu, phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ, thế thế thường hành Bồ Tát đạo” (nguyện tiêu ba chướng, các phiền năo, nguyện được chân trí hiểu thông tỏ, nguyện các tội chướng thảy tiêu trừ, đời đời thường hành Bồ Tát đạo). Vừa niệm, vừa lễ, đă tán Phật, lại sám hối tội lỗi, lại phát nguyện. Đấy đều là những bài kệ do bậc đại Bồ Tát đă soạn cho chúng ta.

          Chính ḿnh cũng có thể soạn kệ tụng, viết kệ, tùy thuộc ư nguyện của chính quư vị. Quư vị học rất nhiều kinh, chính ḿnh mong cầu chuyện ǵ, bèn soạn kệ để chính ḿnh tán tụng. Chúng ta thấy bài kệ tán thán Văn Thù Bồ Tát của đại sư Tông Khách Ba (Tsongkhapa)[2]. Hiện thời, những bài kệ mà pháp sư Hoằng Giác đọc khi giảng Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận đều do đại sư Tông Khách Ba soạn ra, nguyện hết thảy chúng sanh đều thành Phật. Tuy chỉ là bài tán tụng để niệm, nhưng thật ra là tu hành. Đấy là các vị Bồ Tát tán xướng lẫn nhau. Địa Tạng Bồ Tát đến pháp hội Đại Tập này, trong khi lễ Phật, đă nói tất cả ba mươi bốn bài kệ. Ngài khởi đầu bằng tán tụng, dùng tất cả ba mươi bốn bài kệ tụng để tán thán. Sau khi tán thán, lễ bái, lại c̣n phụng hiến cúng dường.

 

          (Kinh) Dữ chư quyến thuộc, phục tŕ vô lượng thiên diệu hương, hoa, chủng chủng bảo sức, nhi tán Phật thượng, biến thành bảo cái, trụ hư không trung, vị thính pháp cố, tức ư Phật tiền, nghiễm nhiên nhi tọa.

          ()與諸眷屬,復持無量天妙香華、種種寶飾而散佛上,變成寶蓋住虛空中,為聽法故,即於佛前儼然而坐。

          (Kinh: Cùng các quyến thuộc lại cầm vô lượng hương, hoa mầu nhiệm cơi trời và các thứ trang hoàng quư báu rải trên đức Phật, biến thành lọng báu, trụ trên hư không, v́ nghe pháp bèn ngồi đoan nghiêm trước đức Phật).

 

          Quyến thuộc đông đảo như vậy đều dùng hương, hoa mầu nhiệm, và các thứ trang hoàng báu để cúng Phật. Những vật ấy, những thứ hoa báu khi rải lên hư không, đều biến thành lọng báu. Lọng báu giống như dù che, biến thành lọng báu che trên đức Phật. Sau khi tán thán, lễ bái, bèn “Phật tiền nghiễm nhiên nhi tọa” (ngồi đoan nghiêm trước đức Phật), cũng tức là rất thận trọng, trang nghiêm đến ngồi trong hội.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, nhất thiết chư lai đại chúng, kư kiến Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát dĩ, giai hoạch hy kỳ, đắc vị tằng hữu, các tŕ chủng chủng thượng diệu hương, hoa, bảo sức, y phục, tràng, phan, cái đẳng, phụng tán Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nhi vi cúng dường, giai tác thị ngôn.

          ()爾時,一切諸來大眾既見地藏菩薩摩訶薩已,皆獲希奇,得未曾有,各持種種上妙香華、寶飾衣服、幢幡蓋等,奉散地藏菩薩摩訶薩而為供養,皆作是言。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, hết thảy đại chúng đến dự hội đă thấy Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát xong, đều cảm thấy hiếm lạ, đạt được chưa từng có, ai nấy đều cầm các thứ hương, hoa, vật trang hoàng báu, y phục, tràng, phan, lọng v.v… thượng diệu dâng rải lên Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát để cúng dường, đều nói như thế này).

 

          Các đại chúng vốn đến dự hội Đại Tập, trông thấy Địa Tạng Bồ Tát đi đến, “giai hoạch hy kỳ”, tức là cảm thấy đặc biệt hiếm lạ, do vị Bồ Tát ấy dùng lời lẽ mỹ diệu để tán thán đức Phật, họ cảm thấy rất thù thắng, mà cũng rất cảm động, cho nên đều muốn cúng dường Địa Tạng Bồ Tát.

 

          (Kinh) Ngă đẳng kim giả khoái đắc thiện lợi, nhân Phật thần lực, thân đắc chiêm ngưỡng, lễ kính, cúng dường như thị Đại Sĩ.

          ()我等今者快得善利,因佛神力,親得瞻仰、禮敬、供養如是大士。

          (Kinh: Chúng tôi nay mau chóng đạt được lợi ích tốt lành, do thần lực của đức Phật mà đích thân được chiêm ngưỡng, lễ kính, cúng dường bậc Đại Sĩ như thế).

 

          Sở dĩ chúng tôi đạt được lợi ích rất to lớn, rất tốt đẹp, đều là do thần lực của đức Phật, cho nên mới có thể chiêm ngưỡng, kính lễ, cúng dường vị Đại Sĩ này, tức là Địa Tạng Bồ Tát.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, chúng trung hữu Bồ Tát Ma Ha Tát, danh Hảo Nghi Vấn.

          ()爾時眾中,有菩薩摩訶薩,名好疑問。

          (Kinh: Khi ấy, trong đại chúng có vị Bồ Tát Ma Ha Tát tên là Hảo Nghi Vấn).

 

          Ngay lúc ấy, trong hội có một vị Bồ Tát Ma Ha Tát tên là Hảo Nghi Vấn, có nghi bèn thưa hỏi. Trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, vị phát khởi bộ kinh ấy là Kiên Tịnh Tín Bồ Tát, tức vị Bồ Tát nêu câu hỏi trước tiên có tên là Kiên Tịnh Tín, biểu thị chúng ta đều chẳng có tín tâm, nhưng Ngài th́ tín tâm hết sức kiên định, hy vọng sẽ khiến cho mọi người cũng [có tín tâm] kiên định giống như Ngài. Nay vị đại Bồ Tát phát khởi ở đây là Hảo Nghi Vấn. Bản thân Hảo Nghi Vấn Đại Bồ Tát đă hết sức liễu giải Địa Tạng Bồ Tát, cho nên Ngài đại diện đại chúng trong đại hội, v́ người khác chẳng có trí huệ để thưa hỏi. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát cũng v́ như thế mà hỏi. Có lúc, chẳng có ai thưa hỏi, Văn Thù Bồ Tát bèn thưa hỏi, như trong các kinh luận, đều do Văn Thù Bồ Tát thưa hỏi. Trong lúc thưa hỏi lẫn nhau, sẽ sanh ra các nghĩa lư, khiến cho đại chúng trong pháp hội đạt được rất nhiều lợi ích. Vị Hảo Nghi Vấn Bồ Tát này hễ có nghi liền hỏi.

          Tôi nhớ Vĩnh Gia đại sư có mấy câu như thế này: “Viên đốn giáo vô nhân t́nh” (Viên Đốn Giáo không có chuyện nói theo t́nh cảm b́nh phàm), [ư nói]: Giáo lư viên măn chẳng thể nghĩ bàn, kẻ b́nh phàm sẽ chẳng thể liễu giải được! Chẳng thể nói theo t́nh cảm b́nh phàm, chẳng có t́nh cảm b́nh phàm nào để nói được (tức là chẳng v́ nghi vấn mà e ngại người khác mích ḷng, hay sợ bị chê là ngu dốt, độn căn mà cứ ôm măi nỗi nghi). “Hữu nghi bất quyết trực tu tranh” (có nghi vấn chẳng quyết đoán được th́ cứ thẳng thừng tranh biện): Ta có chuyện hoài nghi chẳng thể quyết đoán được, “trực tu tranh” nghĩa là cứ tranh luận như vậy chẳng sao cả! Đừng nên nghe người khác bảo thế nào, ta bèn nói rập khuôn thế đó, người khác bảo sao, ta nghe vậy! Đấy là chẳng đúng, quư vị cần phải hỏi. “Hữu nghi bất quyết trực tu tranh, thị phi sơn tăng tranh nhân ngă” (Hễ có nghi vấn mà chẳng thể quyết đoán được, cứ thẳng thừng tranh biện để giải quyết mối nghi, chẳng phải là chuyện tranh chấp giữa ta với người của các vị tăng): Chẳng phải là ta tranh luận đúng, sai. “Tu hành khủng lạc đoạn thường khanh” ([nếu không giải quyết nghi hoặc], sợ rằng tu hành sẽ rơi vào hầm bẫy Đoạn Kiến và Thường Kiến): Người tu hành chẳng hiểu đạo lư ấy, nếu chẳng đọa vào Đoạn Kiến, th́ cũng rơi vào Thường Kiến. Hảo Nghi Vấn Bồ Tát thấy cảnh tượng và sự biến hóa ấy, cho nên bèn đứng dậy, hướng về đức Phật thưa hỏi.

 

          (Kinh) Tùng ṭa nhi khởi, chỉnh lư y phục, thiên đản nhất kiên, lễ Phật song túc, hữu tất trước địa, hiệp chưởng hướng Phật, nhi bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thử thiện nam tử tùng hà nhi lai? Sở cư Phật quốc khứ thử viễn cận? Thành tựu hà đẳng công đức thiện căn, nhi mông Thế Tôn chủng chủng xưng thán? Phục năng tán Phật bất khả tư nghị công đức pháp hải? Ngă đẳng tích lai, vị tằng văn kiến, duy nguyện vị thuyết”.

          ()從座而起,整理衣服,偏袒一肩,禮佛雙足,右膝著地,合掌向佛,而白佛言:「世尊,此善男子從何而來?所居佛國,去此遠近?成就何等功德善根,而蒙世尊種種稱嘆?復能讚佛不可思議功德法海?我等昔來,未曾聞見,唯願為說。」

          (Kinh: Từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục, trật y một bên vai, lễ dưới hai chân đức Phật, gối phải đặt sát đất, chắp tay hướng về đức Phật, bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Vị thiện nam tử này từ đâu đến? Cơi Phật vị ấy ở cách đây xa hay gần? Thành tựu công đức, thiện căn như thế nào mà được đức Thế Tôn xưng tán đủ mọi lẽ? [V́ sao] vị ấy lại có thể tán thán biển pháp công đức chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật? Chúng con trước nay chưa từng thấy, nghe, kính mong hăy nói cho”).

 

          Trước hết, đức Phật tán thán Địa Tạng Bồ Tát, “mông Thế Tôn chủng chủng xưng thán, phục năng tán Phật bất khả tư nghị công đức pháp hải” (được đức Thế Tôn xưng tán đủ mọi lẽ, [vị ấy] lại có thể tán thán biển pháp công đức chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật). Tán thán kiểu ấy, tán thán chẳng thể nghĩ bàn, những kẻ b́nh phàm sẽ chẳng thể tán thán được. Cớ sao trước nay [chúng con] chưa hề nghe thấy? Chúng con chưa từng nghe thấy vị đại Bồ Tát như thế, từ trước đến nay chưa hề nghe thấy. “Duy nguyện vị thuyết” [nghĩa là] xin đức Thế Tôn hăy giải thích, khai thị cho chúng con. Có lúc khi chúng ta lễ sám xong, có đạo hữu nói: “Sư phụ! Xin hăy khai thị”. Khai thị điều ǵ? Quư vị có thắc mắc ǵ? Hăy nêu ra câu hỏi. Hễ quư vị đối trước Phật cầu chỉ dạy, đối trước tượng Phật cầu thỉnh, ắt cần phải có nguyện lực, có mục đích ǵ. Trước hết, quư vị phải có thắc mắc, chẳng thể hồ đồ dập đầu nói “đức Phật gia tŕ con” được! Giống như quư vị mắc bệnh ǵ, cần phải hỏi bác sĩ, th́ phải nói rơ căn bệnh. Phải có thắc mắc rồi mới nêu ra câu hỏi.

 

          (Kinh) Thế Tôn cáo viết: - Chỉ! Thiện nam tử! Như thị Đại Sĩ công đức, thiện căn, nhất thiết thế gian thiên nhân đại chúng giai bất năng trắc kỳ lượng thiển thâm. Nhược văn Như Lai vị nhữ quảng thuyết như thị Đại Sĩ công đức, thiện căn, nhất thiết thế gian thiên nhân đại chúng giai sanh mê muộn, hoặc bất tín thọ.

          ()世尊告曰:止!善男子!如是大士功德善根,一切世間天人大眾,皆不能測其量淺深。若聞如來為汝廣說如是大士功德善根,一切世間天人大眾,皆生迷悶,或不信受。

          (Kinh: Đức Thế Tôn bảo rằng: - Thôi đi! Thiện nam tử! Công đức và thiện căn của vị Đại Sĩ như thế, hết thảy đại chúng trời người trong thế gian đều chẳng thể suy lường cạn hay sâu. Nếu nghe Như Lai v́ ông rộng nói công đức và thiện căn của vị Đại Sĩ như thế, hết thảy đại chúng trời người trong thế gian sẽ đều mê muội, mờ mịt, hoặc chẳng tin nhận).

         

          Đức Phật trả lời Hảo Nghi Vấn Bồ Tát: “Chỉ” (thôi đi), tức là ta không trả lời ông, chẳng cần phải hỏi nữa! V́ sao ta không nói cho ông? “Như thị Đại Sĩ”, công đức của vị đại Bồ Tát này, thiện căn do Ngài đă tu, hết thảy đại chúng trời người trong thế gian chẳng thể tin nhận, suy lường mức độ cạn hay sâu của Ngài, sẽ chẳng thể suy lường được! Giả sử ta đem công đức của vị ấy nói cặn kẽ rồi, sẽ có những kẻ sanh ḷng nghi báng, hoặc đâm ra mê muội, mờ mịt. “Mê muộn” (迷悶) là chẳng thể lư giải!

 

          (Kinh) Thời, Hảo Nghi Vấn phục trùng thỉnh ngôn.

          ()時,好疑問復重請言。

          (Kinh: Khi ấy, Hảo Nghi Vấn lại thỉnh lần nữa như sau).

 

          Hảo Nghi Vấn Bồ Tát đă hỏi, đức Phật chẳng đáp. Ngài vẫn muốn thỉnh, thỉnh lần nữa.

 

          (Kinh) Duy nguyện Như Lai ai mẫn vị thuyết.

          ()唯願如來,哀愍為說。

          (Kinh: Kính mong đức Như Lai xót thương nói cho).

 

          Đă là như thế, [con vẫn] cầu mong [Như Lai] thương xót hết thảy chúng sanh, nói cho hết thảy chúng sanh. Hễ nói ra, chúng sanh sẽ được phước, “được phước” tức là ĺa khổ, được vui. Ngài thỉnh lần nữa. Phàm là thỉnh một lần chẳng nói, chúng ta sẽ thỉnh nữa. Có lúc, đức Phật dù được thỉnh lần nữa, vẫn chẳng nói. Thỉnh lần thứ ba, nhất định là đức Phật sẽ nói. Một rồi hai, hai rồi ba lượt thỉnh, trong rất nhiều bộ kinh, đều là thỉnh từ một đến ba lượt. Kinh Pháp Hoa cũng vậy, trước hết, đức Phật đáp ứng. Ngài vừa mới đáp ứng sẽ nói, năm ngàn người đang hiện diện đều lui ra, họ chẳng nghe! Chưa đợi đến lúc đức Phật thuyết pháp, họ đă lui về. Các đạo hữu nào đă đọc kinh Pháp Hoa ắt biết chuyện này.    

 

          (Kinh) Phật ngôn: “Đế thính! Thiện tư niệm chi”.

          ()佛言:諦聽!善思念之。

          (Kinh: Đức Phật dạy: “Lắng nghe! Hăy khéo suy niệm”).

 

          Đă khải thỉnh lần nữa, quư vị hăy “đế thính” (lắng nghe). Trong phần trước là “đế ngữ, đế kiến” (nói chắc thật, thấy chắc thật), ở đây là “đế thính”. Mỗi lần đức Phật trả lời đều dạy “đế thính”. “Đế thính” là đúng như thật, [hàm ư] hăy lắng nghe đế lư đúng như thật, hăy dụng tâm mà nghe. Đừng dùng tai để nghe! Dùng tai để nghe, sẽ từ tai này lọt sang tai kia, chớ nên! “Đế thính” là mong quư vị hăy tư duy. Chỉ nghe suông là không được, vẫn phải khéo suy niệm, phải khéo quan sát.

 

          (Kinh) Ngô đương vị nhữ lược thuyết thiểu phần.

          ()吾當為汝略說少分。

          (Kinh: Ta sẽ v́ ông nói đại lược ít phần).

 

          Nếu muốn nói viên măn công đức của vị Đại Sĩ này, chỉ sợ chẳng thể. Nay chỉ nói đại lược đôi chút. “Thiểu phần” là rất ít.

 

          (Kinh) Như thị Đại Sĩ, thành tựu vô lượng bất khả tư nghị thù thắng công đức.

          ()如是大士,成就無量不可思議殊勝功德。

          (Kinh: Bậc Đại Sĩ như thế thành tựu vô lượng công đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn).

 

          Vị Địa Tạng Bồ Tát Đại Sĩ này đă thành tựu công đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn. Tiếp đó, [đức Phật] nêu ra công đức của Đại Sĩ.

 

          (Kinh) Dĩ năng an trụ Thủ Lăng Già Ma thắng tam-ma-địa, thiện năng ngộ nhập Như Lai cảnh giới, dĩ đắc tối thắng Vô Sanh Pháp Nhẫn, ư chư Phật pháp, dĩ đắc tự tại, dĩ năng kham nhẫn Nhất Thiết Trí vị, dĩ năng siêu độ Nhất Thiết Trí hải, dĩ năng an trụ Sư Tử Phấn Tấn Tràng tam-ma-địa, thiện năng đăng thượng Nhất Thiết Trí sơn, dĩ năng tồi phục ngoại đạo tà luận, vị dục thành thục nhất thiết hữu t́nh, sở tại Phật quốc tất giai chỉ trụ. Như thị Đại Sĩ, tùy sở chỉ trụ chư Phật quốc độ, tùy sở an trụ chư tam-ma-địa, phát khởi vô lượng thù thắng công đức, thành thục vô lượng sở hóa hữu t́nh.

          ()已能安住首楞伽摩勝三摩地,善能悟入如來境界,已得最勝無生法忍,於諸佛法已得自在,已能堪忍一切智位,已能超度一切智海,已能安住師子奮迅幢三摩地,善能登上一切智山,已能摧伏外道邪論,為欲成熟一切有情,所在佛國悉皆止住。如是大士,隨所止住諸佛國土,隨所安住諸三摩地,發起無量殊勝功德,成無量所化有情。

          (Kinh: Đă có thể an trụ chánh định Thủ Lăng Già Ma thù thắng, khéo có thể ngộ nhập cảnh giới Như Lai, đă đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn tối thắng, đă được tự tại trong các Phật pháp, đă có thể kham nhẫn địa vị Nhất Thiết Trí, đă có thể vượt qua biển Nhất Thiết Trí, đă có thể an trụ trong chánh định Sư Tử Phấn Tấn Tràng, khéo có thể lên núi Nhất Thiết Trí, đă có thể dẹp tan, hàng phục tà luận của ngoại đạo, v́ muốn thành thục hết thảy hữu t́nh, ở trong các cơi Phật đều có thể an trụ. Vị Đại Sĩ như thế hễ an trụ trong các cơi Phật, an trụ trong các môn chánh định, sẽ đều phát khởi vô lượng công đức thù thắng, thành thục vô lượng hữu t́nh do Ngài giáo hóa).

 

          Trong phần trước, [Hảo Nghi Vấn Bồ Tát] đă thắc mắc: Vị thiện nam tử này từ đâu tới? Ngài là người thuộc cơi Phật nào? Cách thế giới Sa Bà tức là quốc độ giáo hóa của đức Phật [Thích Ca Mâu Ni] bao xa? Ngài thỉnh vấn như thế, đức Phật bèn giải đáp: “Vị Đại Sĩ này trụ trong quốc độ nào th́ quốc độ ấy là nơi Ngài an trụ”. Do vậy, Ngài không nhất định đến từ phương Nam. Kinh Địa Tạng nói là từ phương Nam đến, nhưng theo kinh này nói, chỉ cần cơi Phật nào có địa ngục, chỉ cần có tam đồ, Ngài sẽ đều ở đó. Ngài an trụ ở bất cứ nơi đâu, đều trụ trong tam-ma-địa. Tam-ma-địa (Samādhi) là Định, là diệu định. Chúng ta nói tiếp về công đức thù thắng của Ngài.

          “Thủ Lăng Già Ma (Śūraṅgama) thắng tam-ma-địa” tức là Thủ Lăng Nghiêm tam-muội. Trong quá khứ, cách dịch theo lối cũ là Thủ Lăng Nghiêm. Pháp sư Huyền Trang chiếu theo nguyên ư để phiên dịch, nên dịch thành Thủ Lăng Già Ma thắng tam-ma-địa. Kiện Hành Định trong phần trước cũng có thể dịch là Kiện Tướng Định, [hàm ư] đă thực hiện xong những chuyện ấy. “Cứu cánh Định” là rốt ráo nhất. Đối với các tam-muội do đức Phật đă chứng đắc, theo kinh Niết Bàn, quyển thứ hai mươi bảy, Thủ Lăng Nghiêm tam-muội có năm tên. Tên gọi thứ nhất là Thủ Lăng Nghiêm tam-muội. Tên gọi thứ hai là Bát Nhă Ba La Mật. Bát Nhă Ba La Mật chính là Thủ Lăng Nghiêm tam-muội, cũng tức là Thủ Lăng Già Ma thắng tam-ma-địa như chúng ta vừa đọc trong kinh này. Tên gọi thứ ba là Kim Cang tam-muội, đây là danh từ được dùng trong Mật Tông. Tên gọi thứ tư là Sư Tử Hống tam-muội. Tên gọi thứ năm là Phật Tánh tam-muội.

          Bất cứ nghiệp nào đă làm, tức là bất cứ mỗi sự nghiệp do đức Phật đă thực hiện, đều được gọi là tam-muội, hành động nào cũng đều gọi như vậy. Nhưng trong một trăm lẻ tám tam-muội, có một môn tổng tam-muội. Bồ Tát đă trụ trong tam-muội ấy, cũng tức là trụ trong môn Định này. Ngài từ sáng sớm luôn trụ trong Định, dùng vô lượng định để độ vô lượng chúng sanh. Dùng môn Định ấy để đến cơi Phật nào ḥng độ loại chúng sanh nào, đều chẳng nhất định. Địa Tạng Bồ Tát là như thế đó, mỗi buổi sáng sớm đều nhập vô lượng tam-muội để độ vô lượng chúng sanh. Đức Phật nói chút phần như thế đó, thành tựu chúng sanh, công đức chẳng thể nghĩ bàn. V́ sao Địa Tạng Bồ Tát có nhiều công đức dường ấy? V́ Ngài đắc tam-muội nhiều ngần ấy. [Trong kinh Thập Luân này, chỉ nêu đại lược] Ngài có hai mươi ba loại Định. Kế đó là những môn Định mà Địa Tạng Bồ Tát đă đắc, c̣n môn Định này là nói tổng quát.

          Vị Đại Sĩ này có thể ngộ nhập cảnh giới của Như Lai, Ngài giống hệt Như Lai, đă đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn tối thắng. Vô Sanh Pháp Nhẫn là đă thấy Pháp Tánh, tức bậc Đăng Địa Bồ Tát. Bồ Tát dự vào địa vị Sơ Địa, sẽ chứng đắc từng phần, măi cho đến khi chứng rốt ráo, tức là Vô Sanh Pháp Nhẫn rốt ráo nhất, tối thắng nhất, thừa nhận các pháp đều vô sanh. Trong phần trước, chúng tôi đă từng nói: Chuyện này rất khó khăn. Chúng ta cho rằng hết thảy các pháp đều có sanh, cũng coi hết thảy các pháp duyên khởi là chân thật. Do vậy, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thấy thứ ǵ cũng đều là chân thật. Cái đồng hồ có quả lắc này là chân thật, đóa hoa này cũng là chân thật, chẳng thể biết chúng là vô thường, chẳng thể biết các pháp là vô sanh, là nhân duyên. Pháp sanh bởi nhân duyên th́ chẳng có tự tánh, nhưng chuyện này chẳng giống như hư không. Vô sanh là “vô sanh, nhưng không ǵ chẳng sanh”, trong các pháp, sẽ có bản thể của pháp tánh sanh. Tùy tiện lấy bất cứ một pháp nào, không ǵ chẳng phải là pháp giới.

          Đối với vấn đề này, tôi gần như hơn hai mươi mấy năm dài chẳng thể lư giải. Kinh Hoa Nghiêm luôn nói Có; trước nay, kinh Hoa Nghiêm chưa hề nói Không. Hoa Nghiêm là Có, như vô biên thế giới, thứ ǵ cũng đều là vô biên, thứ ǵ cũng đều có! Sau hai mươi năm, tôi mới dần dần hiểu đôi chút! Tôi nêu ra một thí dụ, “chuyển đại pháp luân trong một vi trần”, tức là đức Phật ở trong một hạt vi trần mà nói đại pháp luân. Như vậy là trong hai vi trần có hai vi trần số cơi nước, hai [vi trần số] cơi sẽ có chẳng thể nghĩ tưởng chư Phật. Trong mỗi vi trần, có vô cùng vô tận cơi Phật. Mỗi cơi Phật lại có Phật thành đạo trong ấy, được hải hội vây quanh, có các đại Bồ Tát. Sao vi trần lại có sức mạnh to ngần ấy? Bản thân nó là Không, cho nên trong một hạt vi trần chẳng phải là Hữu, tức là quang minh trí huệ Bát Nhă. Hôm qua, pháp sư Hoằng Giác có nói về Chiếu. Hạt vi trần chính là Chiếu, tức là trí huệ có thể chiếu soi. Hễ chiếu th́ thứ ǵ cũng đều được gộp vào trong ấy. Chẳng có suy tưởng, nghĩ nhớ, chẳng có phân biệt, chẳng nhờ vào phân biệt, chẳng nhờ vào hành động. Kinh Hoa Nghiêm toàn là nghĩa lư như thế đó. Có kẻ bảo kinh Kim Cang là Không, kinh Hoa Nghiêm là Hữu, sai lầm mất rồi! Kinh Kim Cang chẳng Không, mà kinh Hoa Nghiêm cũng chẳng Có! Kinh Hoa Nghiêm dạy “Bát Nhă Không cũng là bất không”. Kinh Hoa Nghiêm nói như vậy, chứa đựng nghĩa lư như thế, ḥng làm cho quư vị ngộ hết thảy các pháp.

          Tâm Kinh dạy “bất tăng, bất giảm, bất cấu, bất tịnh” cũng có ư nghĩa tương tự. Hiện thời, có một loại nam kỹ (male prostitute). Trong quá khứ cũng có nam kỹ viện, họ được gọi là “tướng công”. Tại Bắc Kinh, quư vị chẳng thể gọi người khác là “tướng công”, gọi như thế là chửi mắng người ta. Tại Bắc Kinh thuở đó, nếu quư vị đi giày có rồng xanh vờn quanh, láng mướt, da dẻ tươi nhuận, người khác vừa nh́n liền biết gă trai trẻ ấy là “tướng công”, cũng là nam kỹ. Nếu là nữ th́ là kỹ nữ. Kinh Hoa Nghiêm nói Thiện Tài đồng tử đến tham yết cô Bà Tu Mật Đa (Vasumitra), cô ta là kỹ nữ. Mọi người đều bảo: “Đồng tử này có đạo đức đầy đủ dường ấy, cớ sao t́m kỹ nữ?” Kinh Hoa Nghiêm là “nhiễm tịnh như nhau”. Quư vị vừa tiếp xúc cô Bà Tu Mật Đa, sẽ khai ngộ. Ai tiếp xúc cô ta, nắm tay cô ta, hôn cô ta, ôm ấp cô ta, liền thành đạo. Tiếc là chúng ta chẳng có phước báo ấy. Chúng ta trông thấy cô ta bèn chạy tuốt! Do chạy tuốt nên chẳng đạt được phước báo ấy, v́ chúng ta dùng cái tâm phân biệt để nh́n!

          Cảnh giới của kinh Hoa Nghiêm là cảnh giới như thế đó, toàn thể là trí huệ Bát Nhă. Như vua Vô Yếm Túc giết người chẳng chán. Quư vị thấy đó, Thiện Tài đồng tử đến tham yết nhà vua, trong tâm dấy nghi hoặc, đó là thiện tri thức ư? Treo lủng lẳng đùi người, năo người, quả thật là cả đống chi thể bị chia cắt, giống như tới pḥng giải phẫu trong bệnh viện. Vua Vô Yếm Túc đang độ chúng sanh, Ngài khiến cho quư vị chẳng dấy lên tâm phân biệt, phải sanh khởi trí vô phân biệt. Đấy mới là cảnh giới Hoa Nghiêm. Đọc kinh Hoa Nghiêm th́ phải đọc như vậy.

          Kinh Hoa Nghiêm là ǵ? Hoàn toàn là trí Bát Nhă, Không và Hữu bất nhị. Quư vị phải lư giải “Không và Hữu bất nhị” th́ mới có thể tiến nhập. Do vậy, Vô Sanh Pháp Nhẫn là biết các pháp vô sanh, vô sanh cũng vô diệt. Vô sanh, vô diệt, vô h́nh, vô tướng. Phàm hết thảy h́nh tướng, bản thể của chúng vốn là Không, chúng ta nói đại lược là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Ngài (Địa Tạng Bồ Tát) có thể tự tại giống như chư Phật, thật sự đạt được tự tại, đă có thể kham nhẫn địa vị Nhất Thiết Trí. Câu nào trong đoạn kinh văn này cũng đều nhằm nói Địa Tạng Bồ Tát đă b́nh đẳng với chư Phật, đă thành Phật. Ngài có thể vượt qua biển Nhất Thiết Trí, đă có thể an trụ trong Sư Tử Phấn Tấn Tràng tam-muội, đó cũng là pháp môn Đại Bi. Pháp môn Như Huyễn Đại Bi được gọi là Sư Tử Phấn Tấn tam-muội.

          “Thiện năng đăng thượng Nhất Thiết Trí sơn” (khéo có thể lên núi Nhất Thiết Trí): Đây là cách nói h́nh dung, ví như đă có thể dẹp tan, hàng phục tà luận của ngoại đạo. Nh́n từ phương diện cứu cánh liễu nghĩa, hễ cái tâm vượt ra ngoài đạo, chấp lấy pháp ngoài tâm th́ là tà luận. Ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài hết thảy các pháp cũng chẳng có tâm!

          “Vị dục thành thục nhất thiết hữu t́nh cố” (v́ muốn thành thục hết thảy hữu t́nh): Do muốn thành thục hết thảy hữu t́nh, cho nên tùy thuận thị hiện thiện xảo. Bất cứ quốc độ nào Ngài an trụ th́ nơi đó là Phật quốc độ của Ngài. Do vậy, trong phần trước, Hảo Nghi Vấn Bồ Tát hỏi Ngài cư trụ trong cơi Phật nào, [câu trả lời sẽ là] chẳng có! Địa Tạng Bồ Tát là ai? Cơi Phật của Ngài là như thế nào? Kinh Địa Tạng chẳng nói, kinh Thập Luân nói tường tận như thế này: Phàm tất cả các cơi Phật, Ngài đều trụ trong ấy. Bậc Đại Sĩ như thế, ở bất cứ cơi Phật nào, cũng đều an trụ trong các tam-ma-địa, phát khởi vô lượng công đức thù thắng, thành thục vô lượng hữu t́nh do Ngài hóa độ.

         

          (Kinh) Như thị Đại Sĩ, tùy trụ như thị chư Phật quốc độ. Nhược nhập Năng Phát TĐịnh, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh giai tất đồng kiến chư tam-ma-địa sở hành cảnh giới.

          ()如是大士,隨住如是諸佛國土,若入能發智定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆悉同見諸三摩地所行境界。

          (Kinh: Vị Đại Sĩ như thế, hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu có thể nhập Năng Phát Trí Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật đó đều thấy cảnh giới sở hành của các tam-ma-địa).

 

          Bất luận trụ trong cơi Phật nào, “tùy trụ như thị chư Phật quốc độ” (hễ trụ trong các cơi Phật như thế), Ngài sẽ nhập môn Định nào để hóa độ hết thảy chúng sanh? Tiếp theo đây, [đức Phật] sẽ liệt kê tất cả hai mươi ba môn Định. Nếu Địa Tạng Bồ Tát trụ trong quốc độ này, Ngài sẽ nhập Phát Trí Định trong quốc độ ấy. Do trụ trong định lực đó, Ngài sẽ khiến cho tất cả hữu t́nh trong quốc độ ấy cùng nhập môn Phát Trí tam-ma-địa. Tiếp theo đây là một môn định khác trong một cơi Phật khác.

 

          (Kinh) Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Cụ Túc Vô Biên Trí Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, tùy kỳ sở ưng, năng dĩ vô lượng thượng diệu cúng cụ, cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn. Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Cụ Túc Thanh Tịnh Trí Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, giai tất đồng kiến chư dục cảnh giới vô lượng quá hoạn, tâm đắc thanh tịnh.

          ()隨住如是諸佛國土,若入具足無邊智定,由此定力,令彼佛土一切有情,隨其所應,能以無量上妙供具,恭敬供養諸佛世尊。隨住如是諸佛國土,若入具足清淨智定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆悉同見諸欲境界無量過患,心得清淨。

          (Kinh: Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc Vô Biên Trí Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy, tùy theo lẽ đáng nên, có thể dùng vô lượng vật cúng thượng diệu cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn. Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc Thanh Tịnh Trí Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy thảy đều cùng thấy vô lượng lỗi lầm, tai họa của các dục cảnh giới, tâm được thanh tịnh).

 

          Ngài đă nhập Cụ Túc Thanh Tịnh Trí Định, sẽ hiển hiện lỗi lầm, tai hại của dục. Dục bao gồm rất nhiều thứ, chẳng hạn như tham dục. Nhưng đây là Thanh Tịnh Trí Định, do sức của Thanh Tịnh Trí Định, có thể khiến cho hữu t́nh chúng sanh nhận biết các lỗi lầm, họa hại trong cảnh dục, họ sẽ chẳng tham đắm hết thảy các dục, chẳng dấy lên dục niệm, tâm được thanh tịnh, có thể khiến cho hết thảy hữu t́nh đạt được thanh tịnh. Đó là một loại.

 

          (Kinh) Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Cụ Túc Tàm Quư Trí Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, giai đắc cụ túc tăng thượng tàm quư, ly chư ác pháp, tâm vô vong thất.

          ()隨住如是諸佛國土,若入具足慚愧智定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆得具足增上慚愧,離諸惡法,心無忘失。

          (Kinh: Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc Tàm Quư Trí Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật đều được trọn đủ hổ thẹn tăng thượng, ĺa các pháp ác, tâm chẳng quên mất).

 

          Phải sanh khởi ḷng hổ thẹn, phải có trí huệ. Chúng ta bái sám, hằng ngày nói “không hổ, không thẹn”, lại làm rất nhiều chuyện sai trái, chẳng có một tí hổ thẹn nào, c̣n cho đó là chánh xác. Đấy là lừa dối rất rơ rệt! Có kẻ nào chấp trước dục cảnh, do sức của môn Định do Bồ Tát đă nhập, dục vọng sẽ nhẹ bớt, thậm chí đoạn dứt. V́ thế, Bồ Tát nhập môn Định này khiến cho chúng sanh hữu duyên với Ngài trong cơi Phật ấy có thể trọn đủ cái tâm thanh tịnh. Khi ngài nhập Cụ Túc Tàm Quư Trí Định, chúng sanh trong cơi Phật ấy đều sanh khởi cái tâm tàm quư (hổ thẹn). “Tàm” () là sám hối quá khứ, “quư” () là thẹn với tương lai, trong tương lai trọn chẳng làm nữa. Hổ thẹn bao gồm hai loại ư nghĩa, phải sanh khởi cái tâm hổ thẹn. Sám hối v́ quư vị vừa mới làm chuyện rất sai trái, hổ thẹn sau này ta trọn chẳng thể làm nữa. Địa Tạng Bồ Tát ở trong cơi Phật ấy, dùng Tàm Quư Trí Định, do sức của môn Định ấy, có thể khiến cho hữu t́nh trong cơi Phật ấy đều trọn đủ ḷng hổ thẹn vô thượng, hổ thẹn tăng trưởng. Đối với chư Phật và Bồ Tát, bản thân các vị đại Bồ Tát cũng thường hổ thẹn, thường cảm thấy chính ḿnh vẫn chẳng thể giống như Phật, vẫn chưa thể lập tức thành Phật. Các Ngài cũng có tâm hổ thẹn. Hổ thẹn có sâu và cạn. Chẳng phải là các vị ấy đă thắc mắc Địa Tạng Bồ Tát có trí lực ǵ ư? V́ sao trong quá khứ chúng con chẳng nghe thấy? Đức Phật bảo các Ngài: “Do các ông vô duyên với Ngài”. Địa Tạng Bồ Tát ở bất cứ quốc độ nào, nhập bất cứ môn Định nào, độ bất cứ chúng sanh nào.

 

          (Kinh) Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Cụ Túc Chư Thừa Minh Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, giai đắc thiện xảo Thiên Nhăn Trí Thông, Túc Trụ Trí Thông, Tử Sanh Trí Thông, liễu đạt thử thế, tha thế nhân quả.

          ()隨住如是諸佛國土,若入具足諸乘明定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆得善巧天眼智通,宿住智通,死生智通,了達此世他世因果。

          (Kinh: Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc Chư Thừa Minh Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy đều đắc thiện xảo Thiên Nhăn Trí Thông, Túc Trụ Trí Thông, Tử Sanh Trí Thông, thông đạt nhân quả trong đời này và đời khác).

 

          “Chư Thừa Minh Định”: Hoặc là Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, hoặc Bồ Tát Thừa, Địa Tạng Bồ Tát nương vào môn Chư Thừa Minh Định này, khiến cho hết thảy hữu t́nh có thể thiện xảo đạt được Thiên Nhăn Thông, Tha Tâm Thông, liễu sanh tử, trí thông đạt sanh tử. Sanh diệt nghĩa là vô thường, vốn chẳng có. Dựa vào định lực để quán vô thường, sẽ đều chứng đắc Bát Nhă Không. Nói chung, họ có thể biết nhân quả thế gian và xuất thế gian.

 

          (Kinh) Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Vô Ưu Thần Thông Minh Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, giai ly nhất thiết sầu ưu, hôn muội.

          ()隨住如是諸佛國土,若入無憂神通明定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆離一切愁憂昏昧。

          (Kinh: Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Vô Ưu Thần Thông Minh Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật đó đều ĺa hết thảy sầu ưu, tối tăm).

 

          Trong quốc độ Địa Tạng Bồ Tát đă trụ, Ngài nhập Vô Ưu Thần Thông Minh Định. Do sức của môn Định ấy, có thể khiến cho hữu t́nh trong cơi Phật đó chẳng ưu sầu, không buồn rầu, không lo lắng, sáng suốt, tĩnh lặng, chẳng tối tăm, mờ mịt. “Hôn muội” (昏昧) là tối tăm. Ở trong tối tăm th́ c̣n thông suốt điều ǵ được nữa? V́ không hôn ám, cho nên họ có thể ĺa hết thảy ưu sầu, biết ưu sầu khổ năo là giả, chỉ là vọng niệm tơi bời!

         

          (Kinh) Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Cụ Túc Thắng Thông Minh Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh giai đắc cụ túc thần thông thiện xảo.

          ()隨住如是諸佛國土,若入具足勝通明定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆得具足神通善巧。

          (Kinh: Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc Thắng Thông Minh Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy đều được trọn đủ thần thông hay khéo).

 

          Thần thông là tâm. “Thần” () là thiên tâm, cũng chính là cái tâm tự nhiên của chúng ta. “Thông” () là tất cả trí huệ của chúng ta. “Huệ” (): Thông minh huệ tánh. Quư vị do cái tâm minh tịnh (sáng suốt, thanh tịnh) chẳng thể nghĩ bàn, sanh ra một thứ trí huệ phương tiện thiện xảo, đó gọi là “thần thông”. Thần thông là phương tiện thiện xảo. Bồ Tát nhập môn Định này, chúng sanh trong quốc độ ấy đều trọn đủ thần thông thiện xảo. Nay Địa Tạng Bồ Tát đang ở trong thế giới này của chúng ta, sáng sớm mỗi ngày nhập Cụ Túc Thắng Thông Minh Định, chúng ta có đạt được thần thông thiện xảo hay chăng? Nếu Bồ Tát ở trong một quốc độ nào, vừa nhập môn Định nào, chúng sanh trong quốc độ ấy đều có thể đạt được điều ấy. [Vậy mà] Địa Tạng Bồ Tát ở trong quốc độ này, v́ sao chúng ta vẫn chẳng thể đạt được? Hăy tham cứu đi! Chúng ta có duyên với Địa Tạng Bồ Tát hay không? Chẳng có duyên! Nay chúng ta niệm kinh Địa Tạng, hằng ngày niệm thánh hiệu Địa Tạng, rất hữu duyên, Địa Tạng Bồ Tát nhập nhiều môn Định như vậy, v́ sao ta một môn cũng chẳng đạt được? Hăy tham cứu đi! Chính ḿnh hăy tư duy, quán tưởng một phen, v́ sao vậy?

 

          (Kinh) Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Phổ Chiếu Chư Thế Gian Định, do thử định lực, linh thập phương giới, ly chư hôn ám, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, phổ kiến thập phương chư Phật quốc độ. Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Chư Phật Đăng Cự Minh Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, xả tà quy y, quy chánh Tam Bảo.

          ()隨住如是諸佛國土,若入普照諸世間定,由此定力,令十方界離諸昏暗,令彼佛土一切有情,普見十方諸佛國土。隨住如是諸佛國土,若入諸佛燈炬明定,由此定力,令彼佛土一切有情,舍邪歸依,歸正三寶。

          (Kinh: Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Phổ Chiếu Chư Thế Gian Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho mười phương cơi ĺa các tối tăm, khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy thấy trọn khắp các cơi Phật trong mười phương. Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Chư Phật Đăng Cự Minh Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy bỏ tà quy y, nương về Tam Bảo chân chánh).

 

          Phổ Chiếu Chư Thế Gian Định (môn Định chiếu khắp các thế gian) và Chư Phật Đăng Cự Minh Định (môn Định đèn đuốc sáng của chư Phật), hai thứ Định mọi người đều hiểu rơ, nên tôi không thuyết minh thêm nữa.

 

          (Kinh) Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Kim Cang Quang Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ sở hữu nhất thiết Tiểu Luân Vi Sơn, Đại Luân Vi Sơn, Tô Mê Lô Sơn, cập chư dư sơn, khê, giản, câu, hác, ngơa, lịch, độc thích, chư uế thảo mộc, giai tất bất hiện, linh bỉ Phật độ, sở hữu nhất thiết chúng tà cổ độc, chư ác trùng thú, tai hoạnh, dịch lệ, hôn ám trần cấu, bất tịnh xú uế, tất giai tiêu diệt, linh bỉ Phật độ địa b́nh như chưởng, chủng chủng gia tường tự nhiên dũng hiện, thanh tịnh thù thắng, chúng tướng trang nghiêm.

          ()隨住如是諸佛國土,若入金剛光定,由此定力,令彼佛土,所有一切小輪圍山、大輪圍山、蘇迷盧山及諸餘山,溪澗溝壑,瓦礫毒刺,諸穢草木,皆悉不現;令彼佛土,所有一切眾邪蠱毒、諸惡蟲獸、災橫疫癘、昏暗塵垢、不淨臭穢,悉皆銷滅;令彼佛土,地平如掌,種種嘉祥自然踴現,清淨殊勝眾相莊嚴。

          (Kinh: Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Kim Cang Quang Định, do sức của môn Định ấy, khiến cho tất cả hết thảy núi Tiểu Luân Vi, núi Đại Luân Vi, núi Tô Mê Lô (núi Tu Di), và các núi khác, khe, ng̣i, rănh, kẽm núi[3], ngói, sỏi, gai độc, các thảo mộc nhơ uế trong cơi Phật ấy, thảy đều chẳng hiện, khiến cho hết thảy các cổ độc[4] tà vạy, các trùng thú ác, tai ương ngang trái, bệnh dịch, bụi nhơ tăm tối, hôi nhơ chẳng sạch trong cơi Phật ấy, thảy đều tiêu diệt, khiến cho cơi Phật ấy đất phẳng như ḷng bàn tay, các thứ tốt lành tự nhiên ồ ạt hiện ra, thanh tịnh thù thắng, các tướng trang nghiêm).

 

          Môn Định này có tên là Kim Cang Quang Định. Khi nhập môn Định này, trong quốc độ ấy có Đại Luân Vi Sơn, Tiểu Luân Vi Sơn, Tô Mê Lô Sơn (cũng là núi Diệu Cao), trong những núi ấy có khe nước, có ng̣i rănh, có cao thấp, lại c̣n có gạch, sỏi, gai độc, cỏ cây dơ bẩn, có hoa cỏ, cây cối độc địa, những thứ ấy đều chẳng xuất hiện nữa. Các chúng sanh trong thế giới ấy sẽ chẳng bị trúng phải các thứ tà độc, trùng độc, cho đến chẳng bị ác trùng, ác thú xâm hại, thậm chí những thứ bụi bặm tối tăm, những thứ hôi nhơ bất tịnh đều tiêu mất. Do sức của môn Kim Cang Quang Định, khiến cho đất trong quốc độ ấy bằng phẳng như ḷng bàn tay, đủ loại hiện tượng tốt lành tự nhiên ồ ạt xuất hiện, thanh tịnh thù thắng, các tướng trang nghiêm. Khi Địa Tạng Bồ Tát nhập Kim Cang Quang Định trong quốc độ ấy, khiến cho quốc độ ấy sanh ra các thứ biến hóa đó.

 

          (Kinh) Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Trí Lực Nan Tồi Phục Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết ma vương, cập chư quyến thuộc giai tất kinh bố, quy y Tam Bảo.

          ()隨住如是諸佛國土,若入智力難摧伏定,由此定力,令彼佛土一切魔王及諸眷屬,皆悉驚怖,歸依三寶。

          (Kinh: Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Trí Lực Nan Tồi Phục Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy ma vương và các quyến thuộc trong cơi Phật ấy thảy đều kinh sợ, quy y Tam Bảo).

 

          Nếu Địa Tạng Bồ Tát dùng môn Trí Lực Nan Tồi Phục Định (trí lực khó thể dẹp tan) này, hễ vừa nhập th́ do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho ma vương và quyến thuộc của hắn trong cơi nước ấy sanh ḷng hoảng sợ, đều quy y Tam Bảo. Ma vương sanh ḷng hoảng sợ sẽ chẳng năo hại người khác.

 

          (Kinh) Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Điện Quang Minh Định, do thử Định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, giai tất viễn ly hậu thế khủng bố, đắc pháp an ủy.

          ()隨住如是諸佛國土,若入電光明定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆悉遠離後世恐怖,得法安慰。

          (Kinh: Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Điện Quang Minh Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy thảy đều xa ĺa sự sợ hăi trong đời sau, được sự an ủi nơi pháp).

 

          V́ được Điện Quang Minh Định an ủi, thoát ly tam đồ, vĩnh viễn chẳng bị sợ hăi. Điện Quang Minh Định là pháp chẳng thể nghĩ bàn, có thể đạt được sự an ủi bởi pháp trí.

 

          (Kinh) Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Cụ Túc Thượng Diệu Vị Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, tùy niệm giai đắc ẩm thực sung túc.

          ()隨住如是諸佛國土,若入具足上妙味定,由此定力,令彼佛土一切有情,隨念皆得飲食充足。

          (Kinh: Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc Thượng Diệu Vị Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật đó, thuận theo ư niệm đều được thức ăn sung túc).

 

          Thượng Diệu Vị Định cũng là ăn uống ngon lành. [Môn Định này] khiến cho chúng sanh trong quốc độ ấy có thể đạt được diệu vị thù thắng, tất cả các thức ăn đều sung túc, đều ngon lành. Sanh vào Lục Dục Thiên, thức ăn của quư vị chẳng cần đầu bếp, nghĩ ǵ bèn có nấy. Chỉ cần tưởng món ǵ, món ấy bèn hiện hữu. Sanh lên trời sẽ có năng lực ấy, huống hồ lại được Bồ Tát nhập Định gia tŕ.

 

          (Kinh) Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Cụ Túc Thắng Tinh Khí Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, vô bất giai đắc tăng thượng lực thế, ly chư bệnh khổ.

          ()隨住如是諸佛國土,若入具足勝精氣定,由此定力,令彼佛土一切有情,無不皆得增上力勢,離諸病苦。

          (Kinh: Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc Thắng Tinh Khí Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy, không ai chẳng đều tăng thượng thế lực, ĺa các bệnh khổ).

 

          Bệnh khổ ǵ cũng đều chẳng có, đấy là do sức Thắng Tinh Khí Định của Địa Tạng Bồ Tát.

 

          (Kinh) Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Thượng Diệu Chư Tư Cụ Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, tùy nhạo giai đắc sàng, ṭa, phu cụ, y phục, bảo sức, chư tư thân cụ, vô sở phạp thiểu, thù diệu đoan nghiêm, thậm khả ái nhạo.

          ()隨住如是諸佛國土,若入上妙諸資具定,由此定力,令彼佛土一切有情,隨樂皆得床座敷具、衣服寶飾,諸資身具無所乏少,殊妙端嚴,甚可愛樂。

          (Kinh: Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Thượng Diệu Chư Tư Cụ Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy, tùy theo ḷng yêu thích, đều được giường, ṭa, đồ trải, y phục, vật trang hoàng báu, các vật cần dùng cho cuộc sống không bị thiếu khuyết, đoan nghiêm, đẹp đẽ lạ lùng, hết sức đáng yêu mến).

         

          Thượng Diệu Chư Tư Cụ Định: Do sức của môn Định này, khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy, tất cả các thứ giường, ṭa, đồ dùng, cơm áo, bàn, ghế, ghế dài, đều là thượng diệu chẳng thể nghĩ bàn. Cho đến quần áo, vật trang hoàng báu, tất cả các vật dụng cần dùng trong cuộc sống đều chẳng hề thiếu thốn, lại c̣n toàn là những thứ thượng diệu.

 

          (Kinh) Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Vô Tránh Trí Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, thân tâm dũng kiện, viễn ly nhất thiết oán tắng hệ phược, ḥa thuận, hoan ngu, ái nhạo cụ túc, Thí, Giới, an nhẫn, dũng mănh, tinh tấn, tâm vô tán loạn, thành tựu trí huệ.

          ()隨住如是諸佛國土,若入無諍智定,由此定力,令彼佛土一切有情,身心勇健,遠離一切怨憎繫縛,和順歡娛,愛樂具足,施、戒、安忍、勇猛精進,心無散亂,成就智慧。

          (Kinh: Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Vô Tránh Trí Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy, thân tâm mạnh mẽ, xa ĺa hết thảy oán ghét trói buộc, ḥa thuận, vui sướng, yêu mến trọn đủ, Thí, Giới, an nhẫn, dũng mănh tinh tấn, tâm chẳng tán loạn, thành tựu trí huệ).

 

          Nhập Vô Tránh Trí Định, “Tránh” () là đấu tranh. Do có trí huệ, nên khi nhập môn Định này, sẽ do sức của môn Định này mà chúng sanh trong cơi ấy, thân tâm mạnh mẽ, xa ĺa hết thảy oán ghét trói buộc, ḥa thuận, hoan hỷ, trọn đủ những điều yêu thích. Do vậy bèn đầy đủ các hạnh bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền Định, Bát Nhă, sáu môn Ba La Mật đều trọn đủ. Do tâm chẳng tán loạn, nên trọn đủ trí huệ Bát Nhă, thành tựu trí huệ.

 

          (Kinh) Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Năng Dẫn Thắng Dũng Dược Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, giai thọ vô lượng thắng diệu hoan hỷ.

          ()隨住如是諸佛國土,若入能引勝踴躍定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆受無量勝妙歡喜。

          (Kinh: Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Năng Dẫn Thắng Dũng Dược Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy đều hưởng vô lượng hoan hỷ thù thắng nhiệm mầu).

 

          Khiến cho các hữu t́nh đều có thể hưởng thụ vô lượng niềm hoan hỷ thù thắng nhiệm mầu. Đấy là Thắng Dũng Dược Định.

 

          (Kinh) Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Cụ Túc Thế Lộ Quang Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, đắc Vô Ngại Trí, năng tu chủng chủng thanh tịnh sự nghiệp. Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Thiện Trụ Thắng Kim Cang Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, giai đắc chư căn cụ túc vô khuyết, thường nhạo viễn ly, kỳ tâm tịch tĩnh. Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Tăng Thượng Quán Thắng Tràng Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, giai thâm ha yếm tự ác nghiệp quá, hàm thiện hộ tŕ thập thiện nghiệp đạo, sanh thiên yếu lộ.

          ()隨住如是諸佛國土,若入具足世路光定,由此定力,令彼佛土一切有情,得無礙智,能修種種清淨事業。隨住如是諸佛國土,若入善住勝金剛定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆得諸根具足無缺,常樂遠離,其心寂靜。隨住如是諸佛國土,若入增上觀勝幢定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆深呵厭自惡業過,咸善護持十善業道生天要路。

          (Kinh: Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc Thế Lộ Quang Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy đắc Vô Ngại Trí, có thể tu các thứ sự nghiệp thanh tịnh. Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Thiện Trụ Thắng Kim Cang Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy đều được các căn đầy đủ, chẳng thiếu khuyết, thường thích xa ĺa, tâm họ tịch tĩnh. Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Tăng Thượng Quán Thắng Tràng Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy đều chê trách, chán nhàm sâu xa lỗi lầm ác nghiệp của chính ḿnh, đều khéo hộ tŕ thập thiện nghiệp đạo là con đường trọng yếu để sanh lên cơi trời).

 

          Khi Địa Tạng Bồ Tát nhập các môn Định này, chúng sanh trong các quốc độ được Ngài giáo hóa sẽ có thể chẳng tạo ác nghiệp, tăng trưởng thiện nghiệp, hành theo thiện đạo là đường lối để sanh lên cơi trời.

 

          (Kinh) Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Cụ Túc Từ Bi Thanh Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, giai tất phát khởi từ tâm, bi tâm, vô oán hại tâm, phổ b́nh đẳng tâm, cánh tương lợi ích an lạc chi tâm.

          ()隨住如是諸佛國土,若入具足慈悲聲定,由此定力,令彼佛土一切有情,皆悉發起慈心悲心、無怨害心、普平等心、更相利益安樂之心。

          (Kinh: Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Cụ Túc Từ Bi Thanh Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong cơi Phật ấy thảy đều phát khởi từ tâm, bi tâm, tâm chẳng oán hại, tâm b́nh đẳng trọn khắp, và tâm tạo lợi ích an lạc lẫn nhau).

 

          Địa Tạng Bồ Tát nhập môn Từ Bi Thanh Định này, khiến cho hết thảy hữu t́nh trong quốc độ ấy đều phát khởi từ tâm và bi tâm, chưa hề có ḷng oán hại, chẳng có tâm tổn hại kẻ khác, tâm b́nh đẳng trọn khắp.

 

          (Kinh) Tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Dẫn Tập Chư Phước Đức Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết hữu t́nh, ly chư đấu tránh, tật dịch, cơ cẩn, phi thời phong vũ, khổ, sáp, tân, toan, chư ác sắc xúc, tất giai tiêu diệt. Như thị Đại Sĩ, tùy trụ như thị chư Phật quốc độ, nhược nhập Hải Điện Quang Định, do thử định lực, linh bỉ Phật độ nhất thiết đại địa chúng bảo hợp thành, nhất thiết quá hoạn giai tất viễn ly, chủng chủng bảo thụ, y thụ, khí thụ, chư anh lạc thụ, hoa thụ, quả thụ, chư âm nhạc thụ, vô lượng nhạc cụ, châu biến trang nghiêm. Dĩ yếu ngôn chi, thử thiện nam tử ư nhất nhất nhật, mỗi thần triêu thời, vị dục thành thục chư hữu t́nh cố, nhập Căng Già hà sa đẳng chư định.

          ()隨住如是諸佛國土,若入引集諸福德定,由此定力,令彼佛土一切有情,離諸斗諍、疾疫、饑饉、非時風雨、苦澀辛酸、諸惡色觸,悉皆銷滅。如是大士,隨住如是諸佛國土,若入海電光定,由此定力,令彼佛土一切大地眾寶合成,一切過患皆悉遠離,種種寶樹、衣樹、器樹、諸瓔珞樹、華樹、果樹、諸音樂樹,無量樂具,週徧莊嚴。以要言之,此善男子,於一一日每晨朝時,為欲成熟諸有情故,入殑伽河沙等諸定。

          (Kinh: Hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Dẫn Tập Chư Phước Đức Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy hữu t́nh trong các cơi Phật ấy ĺa các tranh chấp, tật dịch, đói kém, mưa gió trái thời, đắng, rít, cay, chua, các sắc và sự xúc chạm xấu ác, thảy đều tiêu diệt. Bậc Đại Sĩ như thế hễ trụ trong các cơi Phật như thế, nếu nhập Hải Điện Quang Định, do sức của môn Định ấy, sẽ khiến cho hết thảy đại địa trong cơi Phật ấy đều do các thứ báu hợp thành, hết thảy lầm lỗi, họa hoạn thảy đều xa ĺa, các thứ cây báu, cây y phục, cây vật dụng, cây các chuỗi anh lạc, cây hoa, cây quả, cây các thứ âm nhạc, vô lượng nhạc cụ đều trang nghiêm trọn khắp. Nói tổng quát, vị thiện nam tử này hằng ngày vào lúc sáng sớm, v́ muốn thành thục các hữu t́nh mà nhập các môn Định nhiều như cát sông Hằng).

 

          Ở đây nêu ra hai mươi ba loại Định, vào lúc sáng sớm, Địa Tạng Bồ Tát sẽ nhập Định nhiều như số cát trong Hằng như vậy, chẳng phải chỉ là hai mươi ba loại định, mà là các môn Định nhiều như cát sông Hằng, vô lượng môn Định.

 

          (Kinh) Tùng Định khởi dĩ, biến ư thập phương chư Phật quốc độ, thành thục nhất thiết sở hóa hữu t́nh, tùy kỳ sở ưng, lợi ích an lạc. Thử thiện nam tử, dĩ ư vô lượng vô số đại kiếp, Ngũ Trược ác thời, vô Phật thế giới, thành thục hữu t́nh.

          ()從定起已,遍於十方諸佛國土,成熟一切所化有情,隨其所應,利益安樂。此善男子,已於無量無數大劫,五濁惡時無佛世界,成熟有情。

          (Kinh: Từ Định xuất, trọn khắp các cơi Phật trong mười phương, thành thục hết thảy hữu t́nh được hóa độ, tùy theo căn cơ thích hợp mà tạo lợi ích an lạc. Vị thiện nam tử ấy đă trong vô lượng vô số đại kiếp, nhằm thời ác Ngũ Trược, ở trong thế giới không có Phật để thành thục hữu t́nh).

 

          Vị Đại Sĩ này, tức vị thiện nam tử này, đă trong vô lượng kiếp, nhằm thuở Kiếp Trược, Kiến Trược, Phiền Năo Trược, Chúng Sanh Trược, Mạng Trược mà lợi ích chúng sanh. Nhằm lúc chẳng có Phật xuất thế, Ngài cũng lợi ích chúng sanh. Quá khứ là như vậy, mà hiện tại cũng là như vậy.

 

          (Kinh) Phục ư đương lai quá ư thị số, hoặc hữu thế giới, đao binh kiếp khởi, hại chư hữu t́nh, thử thiện nam tử kiến thị sự dĩ, ư thần triêu thời, dĩ chư Định lực, trừ đao binh kiếp, linh chư hữu t́nh hỗ tương từ mẫn. Hoặc hữu thế giới, dịch bệnh kiếp khởi, hại chư hữu t́nh, thử thiện nam tử kiến thị sự dĩ, ư thần triêu thời, dĩ chư Định lực, trừ dịch bệnh kiếp, linh chư hữu t́nh giai đắc an lạc. Hoặc hữu thế giới, cơ cẩn kiếp khởi, hại chư hữu t́nh, thử thiện nam tử kiến thị sự dĩ, ư thần triêu thời, dĩ chư Định lực, trừ cơ cẩn kiếp, linh chư hữu t́nh giai đắc băo măn.

          ()復於當來,過於是數。或有世界刀兵劫起,害諸有情;此善男子,見是事已,於晨朝時,以諸定力,除刀兵劫,令諸有情互相慈愍。或有世界疫病劫起,害諸有情;此善男子,見是事已,於晨朝時,以諸定力,除疫病劫,令諸有情皆得安樂。或有世界饑饉劫起,害諸有情;此善男子,見是事已,於晨朝時,以諸定力,除饑饉劫,令諸有情皆得飽滿。

          (Kinh: Lại trong tương lai vượt quá số ấy, nếu có thế giới chiến tranh dấy lên, hại các hữu t́nh, vị thiện nam tử này thấy chuyện ấy rồi, vào lúc sáng sớm, dùng các Định lực trừ kiếp đao binh, khiến cho các hữu t́nh từ ái, thương xót lẫn nhau. Hoặc có thế giới, khi kiếp dịch bệnh nổi lên, hại các hữu t́nh, vị thiện nam tử này thấy chuyện ấy rồi, vào lúc sáng sớm, dùng các Định lực, trừ kiếp dịch bệnh, khiến cho các hữu t́nh đều được yên vui. Hoặc có thế giới lúc kiếp đói kém nổi lên, hại các hữu t́nh, vị thiện nam tử này thấy chuyện ấy rồi, vào lúc sáng sớm, dùng các Định lực trừ kiếp đói kém, khiến cho các hữu t́nh đều được no đủ).

 

          “Phục ư đương lai” chính là tương lai. “Quá ư thị số” nghĩa là c̣n nhiều hơn con số trước kia. Hoặc là có thế giới, “đao binh kiếp khởi, hại chư hữu t́nh” (kiếp đao binh dấy lên, hại các hữu t́nh), thế giới này chưa hề có một ngày nào không chiến tranh, chẳng hề không nghe đến lửa đạn. Hiện thời chính là lúc kiếp đao binh nổi lên, tổn hại hữu t́nh. Địa Tạng Bồ Tát thấy chuyện này, vào lúc sáng sớm, dùng Định lực của Ngài để trừ khử kiếp đao binh. “Linh chư hữu t́nh, hỗ tương từ mẫn” (khiến cho các hữu t́nh từ ái, thương xót lẫn nhau). Hoặc là có thế giới, khi tai kiếp tật dịch nổ ra, hại các hữu t́nh. “Thử thiện nam tử kiến thị sự dĩ” (vị thiện nam tử này thấy chuyện ấy rồi) vào lúc sáng sớm, dùng các Định lực trừ khử kiếp tật dịch ấy, khiến cho các hữu t́nh đều được yên vui. Hoặc có thế giới kiếp đói kém xảy ra, chẳng có cơm ăn, mọi người đói khát, hại các hữu t́nh, vị thiện nam tử này tức Địa Tạng Bồ Tát, thấy chuyện ấy, cũng vào lúc sáng sớm, dùng Định lực của Ngài trừ kiếp đói kém, khiến cho hết thảy các hữu t́nh đều được no đủ.

 

          (Kinh) Thử thiện nam tử, dĩ chư Định lực, tác như thị đẳng vô lượng vô biên bất khả tư nghị lợi ích an lạc chư hữu t́nh sự.

          ()此善男子,以諸定力,作如是等無量、無邊、不可思議,利益安樂諸有情事。

          (Kinh: Vị thiện nam tử này dùng các Định lực để làm vô lượng vô biên chuyện lợi ích an lạc các hữu t́nh như thế đó).

 

          Địa Tạng Bồ Tát dùng Định lực của Ngài để làm những chuyện lợi ích chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn nhiều ngần ấy.

 

          (Kinh) Thử thiện nam tử cụ túc thành tựu vô lượng vô số bất khả tư nghị thù thắng công đức, thường cần tinh tấn, lợi ích an lạc nhất thiết hữu t́nh, tằng ư quá khứ vô lượng vô số Căng Già sa đẳng Phật Thế Tôn sở, vị dục thành thục, lợi ích an lạc chư hữu t́nh cố, phát khởi đại bi, kiên cố nan hoại.

          ()此善男子,具足成就無量、無數、不可思議,殊勝功德,常勤精進,利益安樂一切有情。曾於過去無量、無數、殑伽沙等佛世尊所,為欲成熟利益安樂諸有情故,發起大悲堅固難壞。

          (Kinh: Vị thiện nam tử ấy thành tựu đầy đủ vô lượng vô số công đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn, thường siêng năng tinh tấn, lợi ích an lạc hết thảy hữu t́nh, từng ở nơi quá khứ vô lượng vô số Hằng hà sa Phật Thế Tôn, v́ muốn thành thục lợi ích an lạc các hữu t́nh mà phát khởi đại bi kiên cố, khó phá hoại).

 

          Tâm đại bi của Ngài hết sức kiên cố, chẳng ai có thể phá hoại được!

 

          (Kinh) Dũng mănh tinh tấn, vô tận thệ nguyện, do thử đại bi kiên cố nan hoại. Dũng mănh tinh tấn, vô tận thệ nguyện, tăng thượng thế lực. Ư nhất nhật dạ, hoặc nhất thực khoảnh, năng độ vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa số chư hữu t́nh loại, giai linh giải thoát chủng chủng ưu khổ, cập linh nhất thiết như pháp sở cầu, ư nguyện măn túc. Tùy sở tại xứ, nhược chư hữu t́nh, chủng chủng hy cầu, ưu khổ bức thiết, hữu năng chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát giả, nhất thiết giai đắc như pháp sở cầu, ly chư ưu khổ, tùy kỳ sở ưng, an trí sanh thiên, Niết Bàn chi đạo.

          ()勇猛精進無盡誓願;由此大悲堅固難壞勇猛精進無盡誓願增上勢力,於一日夜或一食頃,能度無量百千俱胝那庾多數諸有情類,皆令解脫種種憂苦,及令一切如法所求,意願滿足。隨所在處,若諸有情,種種希求憂苦逼切,有能至心稱名念誦歸敬供養地藏菩薩摩訶薩者,一切皆得如法所求,離諸憂苦,隨其所應,安置生天涅槃之道。

          (Kinh: Dũng mănh, tinh tấn, thệ nguyện vô tận. Do ḷng đại bi kiên cố khó hoại ấy, dũng mănh, tinh tấn, thệ nguyện vô tận, mà tăng thượng thế lực. Trong một ngày đêm, hoặc trong khoảng một bữa ăn, có thể độ vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa số các loài hữu t́nh, khiến cho họ đều được giải thoát các thứ ưu khổ, và khiến cho hết thảy các điều mong cầu đúng pháp đều được thỏa măn theo ư nguyện. Ở bất cứ nơi đâu, nếu các hữu t́nh do các thứ mong cầu mà bị sầu khổ bức bách, có thể chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy ngưỡng, tôn kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, hết thảy các điều mong cầu đúng pháp sẽ đều đạt được, ĺa các nỗi ưu khổ, tùy theo căn tánh thích đáng mà đặt yên họ nơi đạo sanh lên trời hoặc Niết Bàn).

 

          Tối thiểu là quư vị có thể sanh lên trời, chẳng đọa vào tam đồ, thậm chí đạt được bất sanh, bất diệt, rốt ráo thành Phật.

 

          (Kinh) Tùy sở tại xứ, nhược chư hữu t́nh, cơ khát sở bức, hữu năng chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát giả, nhất thiết giai đắc như pháp sở cầu, ẩm thực sung túc, tùy kỳ sở ưng, an trí sanh thiên, Niết Bàn chi đạo.

          ()隨所在處,若諸有情,飢渴所逼,有能至心稱名念誦歸敬供養地藏菩薩摩訶薩者,一切皆得如法所求,飲食充足,隨其所應,安置生天涅槃之道。

          (Kinh: Ở bất cứ nơi đâu, nếu các hữu t́nh bị đói khát bức bách, mà có thể chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy ngưỡng, tôn kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, hết thảy những điều cầu mong sẽ đều đạt được đúng như pháp, thức ăn sung túc, xứng theo căn tánh của họ mà đặt yên họ nơi đạo sanh thiên, Niết Bàn).

 

          Những lời lẽ này đều có cùng một ư nghĩa [với đoạn kinh văn trước đó].

 

          (Kinh) Tùy sở tại xứ, nhược chư hữu t́nh phạp thiểu chủng chủng y phục, bảo sức, y dược, sàng phu, cập chư tư cụ, hữu năng chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát giả, nhất thiết giai đắc như pháp sở cầu, y phục, bảo sức, y dược, sàng phu, cập chư tư cụ, vô bất bị túc, tùy kỳ sở ưng, an trí sanh thiên, Niết Bàn chi đạo. Tùy sở tại xứ, nhược chư hữu t́nh, ái nhạo biệt ly, oán tắng hợp hội, hữu năng chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát giả, nhất thiết giai đắc ái nhạo hợp hội, oán tắng biệt ly, tùy kỳ sở ưng, an trí sanh thiên, Niết Bàn chi đạo.

          ()隨所在處,若諸有情,乏少種種衣服、寶飾、醫藥、床敷及諸資具,有能至心稱名念誦歸敬供養地藏菩薩摩訶薩者,一切皆得如法所求,衣服、寶飾、醫藥、床敷及諸資具,無不備足,隨其所應,安置生天涅槃之道。隨所在處,若諸有情,愛樂別離,怨憎合會,有能至心稱名念誦歸敬供養地藏菩薩摩訶薩者,一切皆得愛樂合會,怨憎別離,隨其所應,安置生天涅槃之道。

          (Kinh: Ở bất cứ nơi đâu, nếu các hữu t́nh thiếu thốn các thứ y phục, vật trang hoàng báu, thuốc men, giường, đồ trải, và các thứ vật dụng cần thiết, mà có thể chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy ngưỡng, tôn kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, hết thảy các điều mong cầu đúng pháp sẽ đều đạt được. Y phục, vật trang hoàng báu, thuốc men, giường, đồ trải, và các thứ vật dụng cần thiết, không ǵ chẳng trọn đủ, xứng theo căn tánh mà đặt yên họ nơi đạo sanh thiên, Niết Bàn. Ở bất cứ nơi đâu, nếu các hữu t́nh, kẻ yêu chuộng phải chia ĺa, kẻ oán ghét cứ phải tụ họp, mà có thể chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy ngưỡng, tôn kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, th́ hết thảy sẽ đều được kẻ yêu chuộng tụ hợp, xa ĺa kẻ oán ghét, tùy theo căn tánh mà đặt yên họ nơi đạo sanh thiên, Niết Bàn).

 

          Đấy là khổ nạn. Yêu thương mà chẳng thể tụ họp, kẻ oán chẳng mong gặp gỡ mà chẳng thể được. Đó gọi là “oán tắng hội khổ, ái biệt ly khổ”. Nếu chí tâm xưng niệm, niệm tụng Địa Tạng Bồ Tát, những nỗi khổ ái biệt ly và oán tắng hội sẽ theo đúng lẽ mà tiêu mất, được đặt yên nơi đạo sanh thiên, Niết Bàn.

 

          (Kinh) Tùy sở tại xứ, nhược chư hữu t́nh, thân tâm ưu khổ, chúng bệnh sở năo, hữu năng chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát giả, nhất thiết giai đắc thân tâm an lạc, chúng bệnh trừ dũ, tùy kỳ sở ưng, an trí sanh thiên, Niết Bàn chi đạo.

          ()隨所在處,若諸有情,身心憂苦,眾病所惱,有能至心稱名念誦歸敬供養地藏菩薩摩訶薩者,一切皆得身心安樂,眾病除愈,隨其所應,安置生天涅槃之道。

          (Kinh: Ở bất cứ nơi đâu, nếu các hữu t́nh, thân tâm ưu khổ, bị các thứ bệnh gây phiền năo, mà có thể chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy ngưỡng, tôn kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́ hết thảy đều được thân tâm yên vui, các bệnh trừ sạch, xứng theo căn tánh, đặt yên nơi đạo sanh thiên, Niết Bàn).

 

          Những đoạn kinh văn trên đây tán thán Địa Tạng Bồ Tát. Chắc mọi người sẽ hoài nghi: Theo các đoạn kinh văn ấy, chỉ cần xưng niệm danh hiệu thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, những ǵ chúng ta thiếu thốn sẽ đều có thể đạt được, cầu ǵ được nấy, thậm chí thành Phật. [Cần phải nhớ]: Theo những ǵ kinh văn đă dạy, chỉ cần chí tâm niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, khi Địa Tạng Bồ Tát nhập định, Ngài sẽ gia tŕ quư vị. Trong mỗi câu kinh đều có “chí tâm”, đừng vứt mất hai chữ “chí tâm” ấy. Nếu đánh mất “chí tâm”, đoạn kinh văn này sẽ có vấn đề. Ngài dạy: Ắt cần phải “hữu năng chí tâm xưng danh giả” (có thể chí tâm xưng danh). Mọi người bái sám, trước mỗi câu cũng đều“chí tâm xưng danh giả”. Mọi người bái sám, trước mỗi câu cũng đều có hai chữ “nhất tâm”. Do vậy, chúng ta đừng nên nẩy sanh vấn đề đối với tín tâm.

          Vấn đề nơi tín tâm là ǵ vậy? [Nếu quư vị thắc mắc]: “Đức Phật bảo Hảo Nghi Vấn Bồ Tát rằng Địa Tạng Bồ Tát có sức công đức nhiều ngần ấy, cớ sao tôi làm theo mà hiệu quả khác hẳn? Có phải là đức Phật nói dối hay không?” Như trong phần trên, Ngài đă dạy [chí tâm], nhưng v́ quư vị chẳng làm như thế, sẽ chẳng đạt được hiệu quả! Trong một vạn câu niệm của quư vị, có một câu nào chí tâm hay không? Hễ có một câu là được rồi. V́ thế, có lúc rất tương ứng, cũng có nghĩa là trong lúc đó, tâm quư vị rất thanh tịnh. Có cách nào để có thể đạt được hay không? Mọi người nhất định phải tu quán tưởng, quán tưởng Địa Tạng Bồ Tát, c̣n phương pháp quán tưởng th́ trong phần sau, chúng tôi sẽ nói.

          Khi nói đến tu Định, tu tĩnh, khi quư vị muốn quán tưởng, phải vận dụng như thế nào? Quư vị sẽ dần dần có thể tương ứng, xác thực tương ứng. Đức Phật chẳng nói một câu nào giả dối, mà cũng chẳng có câu nào gạt gẫm chúng ta. Nếu chẳng có tác dụng, Ngài lừa gạt chúng ta để làm ǵ? Phật, Bồ Tát chẳng như vậy. Nhưng chúng ta đă làm theo phương pháp trong kinh Phật đă dạy, cớ sao chẳng đạt được hiệu quả? V́ căn bản là quư vị chẳng học đàng hoàng. Quư vị tự nhận ḿnh là đệ tử Phật, và cũng đang tu tập; nhưng căn bản là quư vị chẳng học, quư vị chẳng làm ứng hợp với những điều đă chỉ dạy!

          Chẳng hạn như trong phẩm thứ mười hai của kinh Địa Tạng, Thích Ca Mâu Ni Phật đă bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: Nếu trí nhớ kém cỏi, chẳng thể đọc tụng kinh Phật, đấy là do túc chướng chưa tiêu mất, hăy cúng dường một chén nước trước tượng Địa Tạng Bồ Tát. Sáng sớm hôm nay đă cúng, sáng sớm hôm sau đổ chén nước ấy ra uống. Uống xong, rửa sạch cái chén ấy rồi lại cúng, uống nước đă cúng ấy. Sau đó, phải thận trọng chí tâm. V́ thế, Phật dạy trong ṿng hai mươi mốt ngày, đừng sát hại, kiêng rượu, thịt, tà dâm, vọng ngữ. Những điều này kẻ b́nh phàm đều có thể làm được, đệ tử Tam Bảo đều làm được, nhưng chí tâm nghĩ nhớ danh hiệu Đại Sĩ th́ chẳng làm được! Do vậy, chẳng được tương ứng! Chúng tôi vừa giải thích sâu hơn cái gọi là “chí tâm tư niệm Đại Sĩ danh”, điều này liên quan đến những điều chúng ta vừa đọc trong bộ kinh [Thập Luân này]. Như thế nào th́ quư vị mới đạt đến “chí tâm tư niệm Đại Sĩ danh”? Trong ấy có công phu, mà cũng có đôi chút bí mật. Nói rơ ràng th́ [thật ra] chẳng có ǵ là bí mật, nhưng khi quư vị chẳng làm được th́ vẫn là bí mật! Chuyện này phải cậy vào sức quán tưởng. “Chí tâm” chẳng phải là miệng niệm, cũng chẳng phải là dùng mắt nh́n, mà là trong tâm quán tưởng. Trung Hoa có một câu nói cũ x́: “Tâm thành tắc linh” (tâm chí thành sẽ linh). Tâm quư vị đă chí thành, đá vàng cũng phải nứt, người học Phật cái tâm vốn ít xáo động hơn người khác, sẽ dễ thanh tịnh.

          Chúng ta tựa theo lời dạy trong kinh Phật để thực hiện, hoặc là chưa đạt đến mục đích, c̣n chưa đạt được tương ứng, nhất định phải t́m ra nguyên nhân v́ sao? Phải kiểm tra tư tưởng của chính ḿnh, tự ḿnh uốn nắn cho đúng. Sửa đổi một lần chưa thành công, hai lần chưa thành công, th́ mười lần! V́ sao tu hành cần phải dụng công mấy chục năm? Hễ làm đúng, sẽ lập tức khai ngộ. Hễ khai ngộ th́ mới biết nguyên lai là chuyện như thế đó. Cho đến khi quư vị đă biết chuyện nguyên lai là như thế đó, chuyện ấy cũng chẳng có. Đạo lư này thoạt nh́n rất đơn giản, làm được rất khó! Nói rất dễ dàng, chỉ cần dùng cái tâm b́nh thường để đối đăi là được rồi, nhưng quư vị chẳng nắm chắc cái tâm b́nh thường ấy!

          Có rất nhiều người hỏi tôi: Họ đă uống Địa Tạng thủy, nhưng chẳng có hiệu quả tốt đẹp nào! Tôi nói: “Có người đạt hiệu quả tốt, quư vị hăy hỏi người ấy làm như thế nào?” Nhưng đă có hiệu quả tốt, chớ nên tái phạm. Nếu quư vị tái phạm, sẽ lại chẳng c̣n [hiệu quả tốt đẹp ấy], sẽ có lúc sáng suốt, có khi tối tăm. Cái tâm của chúng sanh có lúc sáng suốt, có khi tối tăm, chúng ta chẳng quyết định được. Cho nên trí huệ sáng suốt và tối tăm, hai đằng cứ một mực chông chênh: Có lúc sáng suốt, có lúc lại tối tăm; đă tối tăm rồi lại khôi phục nguyên trạng sáng suốt. Nói là “nghiệp chướng phát hiện”, có lúc người ấy lại sáng suốt, nghiệp chướng lại tiêu mất. Thế nhưng, chẳng cần biết là như thế nào, hễ niệm tụng Địa Tạng Bồ Tát, tuyệt đối chẳng đọa vào tam đồ. Bất quá, phải trải qua đôi chút luân chuyển.

          Bất luận kinh Địa Tạng, kinh Chiêm Sát, hay kinh Thập Luân cũng thế, chỉ cần xưng tụng danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, hiện tại đă kết duyên, sẽ đều có thể đạt được công đức ấy. V́ trong kinh Địa Tạng, chính Địa Tạng Bồ Tát đă hướng về Thích Ca Mâu Ni Phật cam đoan điều ấy. Ngài nói: “Phàm là [chúng sanh] trong đời Mạt, chỉ cần có đôi chút thiện căn trong Phật pháp, dẫu bằng mảy tơ, sợi tóc, con cũng sẽ nhất định độ thoát kẻ đó”. Như vậy th́ cậy vào thần lực của Địa Tạng Bồ Tát sẽ chẳng có vấn đề ǵ. Tuy vậy, quư vị chớ nên v́ câu ấy mà đợi Địa Tạng Bồ Tát đến độ! Chính ḿnh vẫn phải nỗ lực! Nếu không, thời gian sẽ rất dài.

          Nay chúng ta chỉ niệm kinh văn một lượt, những đạo lư được nói trong những phần kinh văn trên đây rất sâu, quư vị đọc trước là được rồi. Thật sự muốn học tập kinh Thập Luân là trong phần sau, chờ đến khi nói tới quyển thứ hai, dùng Thập Luân của Phật để đối trị Thập Luân của chúng ta. Đối với kinh văn trong hai quyển sau, hăy khéo dụng công đôi chút, đấy là chỗ chúng ta tu hành. Trên đây Tự Phần, trước hết, tán thán công đức của Địa Tạng Bồ Tát để tâm quư vị quy hướng: “Địa Tạng Bồ Tát đúng là chẳng thể nghĩ bàn!” Trong tâm quư vị sẽ nẩy sanh cảm xúc rất chí thành, học tập theo, sẽ dễ tiến nhập.

          Đức Phật tán thán công đức của Địa Tạng Bồ Tát lần nữa, nhưng trong rất nhiều đại pháp hội, rất ít khi Địa Tạng Bồ Tát đến dự. Văn Thù Bồ Tát và Quán Thế Âm Bồ Tát thường ở hai bên đức Phật, Địa Tạng Bồ Tát rất ít đến! Trừ phi do liên quan đến Ngài mà cần phải phát khởi pháp hội chi đó, Ngài mới đến dự. Rất nhiều pháp hội chẳng có Địa Tạng Bồ Tát. V́ sao? Ngài phải hiện thân trọn khắp trong rất nhiều cơi Phật, Ngài có danh xưng là ǵ? Không nhất định gọi là Địa Tạng Bồ Tát. Địa Tạng Bồ Tát có vô lượng ức danh hiệu, Định của Ngài cũng là vô lượng ức định, [ngay cả] danh tự của Ngài cũng là vô lượng ức Định. Ngoài ra, vị Bồ Tát nào sẽ là Địa Tạng Bồ Tát? Chúng ta đến Ngũ Đài Sơn, triều bái Văn Thù Bồ Tát, vị nào là Văn Thù Bồ Tát? Quư vị gặp quá nhiều người! Thật ra, hằng ngày chúng ta gặp gỡ Địa Tạng Bồ Tát, hoặc Địa Tạng ở cạnh chúng ta mỗi ngày, chỉ là chính ḿnh chẳng biết đấy thôi! Do vậy, quư vị cứ niệm là được rồi. Khi quư vị niệm kinh Địa Tạng, khi quư vị nghĩ nhớ Địa Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát đă ở trong tâm quư vị.

          Đoạn kinh văn này nhắc tới Hảo Nghi Vấn Bồ Tát v́ Ngài chẳng lư giải, mà cũng chưa từng nghe nói qua, nhưng trong pháp hội này, Ngài được gặp gỡ, mà cũng được nghe nói [Địa Tạng Bồ Tát]. Trước hết, đức Phật tán thán công đức của Địa Tạng Bồ Tát; sau đấy, Địa Tạng Bồ Tát lại dùng bài kệ mầu nhiệm để tán thán công đức của đức Phật. Hảo Nghi Vấn Bồ Tát cảm thấy Địa Tạng Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn, liền hỏi: “Địa Tạng Bồ Tát đă gieo thiện căn vào lúc nào? Nay Bồ Tát đang ở trong cơi Phật nào? Cơi Phật ấy cách thế giới Sa Bà của chúng ta xa hay gần? Trong đời quá khứ, Địa Tạng Bồ Tát đă gieo thiện căn nào, cũng như đă tu tập những công đức ǵ?” Hảo Nghi Vấn Bồ Tát thỉnh vấn đức Phật [những thắc mắc ấy]. Thoạt đầu, đức Phật chẳng đáp ứng, v́ nói ra chỉ sợ chúng sanh hoài nghi chẳng tin, đức Phật liền bảo “thôi”. Do Hảo Nghi Vấn Bồ Tát xin chỉ dạy lần nữa, đức Phật bèn dạy cho. Đấy là trong kinh Thập Luân, Thích Ca Mâu Ni Phật tán thán Địa Tạng Bồ Tát.

          Ngoài ra, chúng ta thấy trong kinh Địa Tạng, hoặc xem kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, [sẽ biết] thời gian Địa Tạng Bồ Tát tu hành rất lâu xa. Đồng thời, đức Phật chẳng nói cặn kẽ, Ngài giới thiệu cho Hảo Nghi Vấn Bồ Tát chỉ là nói đại lược chút phần! Trong chút phần ấy, trước hết, nói một phần về các môn Định do Địa Tạng Bồ Tát đă nhập. “Định” có nghĩa là quan sát. Do Định th́ mới có thể sanh ra Huệ. Khi chúng ta có chuyện ǵ, sẽ nói “đợi tôi lắng ḷng suy nghĩ”, có ư nghĩa ấy. V́ Địa Tạng Bồ Tát trọn khắp mọi nơi, hết thảy mọi nơi đều là chỗ Ngài trụ. Ngài tùy ư an trụ trong các cơi Phật. Chẳng phải là Hảo Nghi Vấn Bồ Tát đă hỏi [Địa Tạng Bồ Tát] “trụ trong cơi Phật nào, cách nơi này bao xa đấy ư?” Đức Phật trả lời: “Ngài an trụ ở bất cứ cơi Phật nào, nơi đó đều là xứ sở để Địa Tạng Bồ Tát hành Bồ Tát đạo”. Trọn chẳng phải chỉ là thế giới Sa Bà, mà cũng chẳng phải chỉ là thế giới Cực Lạc, chẳng phải chỉ là thế giới của Đông phương Lưu Ly Quang Như Lai! Chỉ cần chỗ nào có tam đồ, th́ sẽ có Ngài. Do vậy, trong rất nhiều kinh giáo Đại Thừa, Địa Tạng Bồ Tát rất ít khi hiện diện. Đấy là một vấn đề: Có phải là Ngài thật sự chẳng ở nơi đây? Chẳng phải! Chỉ là v́ danh xưng của Ngài không phải là Địa Tạng Bồ Tát. Tùy theo quốc độ đă hiện, tùy thuộc thân đă hiện, Ngài lại có danh hiệu khác!

          Đoạn kinh văn này nói Ngài đă nhập tổng cộng hai mươi ba loại Định; thật ra, chỉ là nêu đại lược ít phần. Trong kinh Địa Tạng, hoặc kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, Ngài nhập Định nhiều hơn nữa. Mỗi sáng sớm bèn nhập trăm ngàn vạn ức môn Định. Trước là dùng Định để động, sau là dùng trí để cứu bạt, tức là trước hết dùng Định để quan sát một phen, sau đấy, dùng trí huệ để cứu độ chúng sanh.

          Trong thế giới này, Địa Tạng Bồ Tát đặc biệt hữu duyên với thế giới Sa Bà. Xét theo ư nghĩa của kinh văn, chúng ta ở trong thế giới này lẽ ra phải đắc độ, cớ sao đến giờ vẫn c̣n khổ sở như vậy? Vẫn phải là do hữu duyên. Chúng ta niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát hằng ngày! Tôi dẫn hai câu trong kinh do chính Địa Tạng Bồ Tát tự nói: Có rất nhiều chúng sanh c̣n chưa được thấy nghe danh tự của ta, “bất vị văn danh, vân hà huyền niệm?” [ư nói]: Ngay cả danh tự của ta c̣n chưa nghe thấy, làm sao niệm tên ta cho được? Đối với điểm này, [chắc là] chúng ta sẽ hoài nghi: “Hằng ngày chúng tôi đều niệm, sao lại nói vẫn chẳng thấy nghe thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát?”

          Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo nói như thế này: “Phải chí tâm”. Khi sử dụng Chiêm Sát Luân [để xem xét nghiệp chướng của chính ḿnh sâu cạn như thế nào], nhất định phải chí tâm. Chẳng chí tâm, sẽ chẳng nghe danh tự Địa Tạng Bồ Tát, mà cũng chẳng tương ứng với Địa Tạng Bồ Tát. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hỏi Địa Tạng Bồ Tát, Ngài nói: “Hết thảy chúng sanh muốn học tập pháp sám hối, nếu muốn bái Địa Tạng Sám th́ phải chí tâm. Nếu chẳng thể chí tâm, bất cứ hiện tượng nào cũng đều chẳng đạt được, thậm chí ‘chẳng được nghe tên, làm sao suy niệm?’ Căn bản là chẳng thấy nghe danh tự của tôi, niệm như thế nào đây?” cũng tức là “chẳng niệm”. Rành rành là đang niệm, rành rành là tôi đă thấy nghe, v́ sao [lại bảo là] “chẳng niệm”? V́ quư vị chẳng chí tâm!

          Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo nói: “Nhược bỉ chúng sanh tuy học sám hối, bất năng chí tâm, bất hoạch thiện tướng giả, thiết tác thọ tưởng, bất vi đắc giới” (Nếu các chúng sanh đó tuy học sám hối, nhưng chẳng thể chí tâm, chẳng đạt được tướng lành, dẫu coi là [chính ḿnh] đă thọ giới, vẫn chẳng đắc giới). Điều ǵ cũng chẳng đạt được! Khi chúng ta học pháp, thường là chẳng vâng theo pháp để làm! Đă thọ Tam Quy Y, nhưng quư vị chẳng hành theo Tam Quy Y, c̣n coi là đệ tử Phật được chăng? Thọ Ngũ Giới, chẳng tŕ Ngũ Giới, có được coi là đắc giới hay không? Hàm nghĩa là như thế đấy!

          Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hỏi Địa Tạng Bồ Tát nói: “Ngài nói chí tâm, như thế nào mới được coi là chí tâm? Chí tâm là như thế nào?” Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hỏi như thế, Địa Tạng Bồ Tát đáp: “Thiện nam tử! Tôi nói chí tâm th́ đại lược có hai loại. Những ǵ là hai? Một là lúc mới học tập bèn cầu nguyện chí tâm, hai là nhiếp ư chuyên ṛng, thành tựu tương ứng dũng mănh chí tâm. Có được hai loại chí tâm ấy, sẽ có thể đạt được thiện tướng. Loại chí tâm thứ hai lại có hạ, trung, thượng, ba thứ khác biệt”. Do đoạn kinh văn tôi vừa đọc, mọi người sẽ đều có thể biết sự trọng yếu của chí tâm. Trong phần sau kinh Thập Luân, cũng sẽ giảng giải. Phần trước chỉ nói tổng quát về công đức của Bồ Tát mà thôi, trọn chẳng nói về những sự thật mà Ngài đă thực hiện. Nhưng khi học kinh, trước hết phải t́m ra hàm nghĩa trong bộ kinh ấy, t́m ṭi những chỗ mâu thuẫn giữa các kinh, giải quyết những chỗ quư vị cho là mâu thuẫn, phải giải quyết những điều hoài nghi trước đă, sau đấy mới có thể chí tâm, thâm nhập, mới có thể được cứu, mới tương ứng với nguyện lực của Bồ Tát, tương ứng với những điều quư vị mong cầu.

          Nếu chẳng y pháp, chẳng y pháp th́ là học pháp mà chẳng y pháp. Đó là căn bệnh chung của chúng ta. Học kinh mà chẳng chiếu theo kinh, điều này lại giải thích như thế nào đây? Người học Phật rất đông, đức Phật dạy họ làm như thế nào, họ chẳng làm như thế đó. Sau đấy, lại c̣n ôm ḷng oán hận, chê bai Phật pháp chẳng linh. Chẳng phải là không linh, mà là do quư vị chẳng làm theo, hoặc chẳng làm đúng pháp, nhất định phải y pháp. Có những chuyện xét theo lư th́ có thể thông, nhưng nơi Sự th́ tuyệt đối chẳng được! Do vậy, sau khi đă hiểu đạo lư này, mới biết rơ v́ sao suốt ngày bái sám, niệm Địa Tạng Bồ Tát, mà dường như những mong cầu của chúng ta vẫn chẳng được thỏa măn.   

          Trong sự gia tŕ của Bồ Tát, c̣n có những hiện tượng rất rơ rệt, hoặc là trong mộng, hoặc là thấy Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ, tai nạn của quư vị lập tức tiêu mất, lập tức có thể hiểu rơ, tâm khai ư giải, hoặc nghiệp tiêu mất. Đó gọi là “minh gia” (明加, gia tŕ rơ ràng), rất rơ rệt! Lại c̣n có loại “minh gia” (冥加), tức là âm thầm gia tŕ, từng bước dẫn dắt quư vị. Nếu là gia tŕ rơ rệt, Bồ Tát có trí huệ, chúng ta chẳng có trí huệ, sẽ dễ dàng kiêu ngạo, hoặc là do mộng thấy tướng hảo, quang minh, quư vị sẽ rêu rao chính ḿnh được gia tŕ khắp nơi ḥng chuốc danh, chuốc lợi: “Đêm hôm qua, Địa Tạng Bồ Tát đối trước tôi phóng quang, tôi rất sung sướng”. Người khác vừa nghe, [tấm tắc]: “Ông đă có thành tựu”, vội vàng móc hồng bao ra, cúng dường quư vị, hỏng bét! Quư vị đă bị đọa lạc! Do đó, khi cầu th́ nhất định phải hiểu loại kiến giải thù thắng này! Bất luận học bộ kinh nào, cũng đều nhất định phải học theo pháp, chớ nên lướt qua.

          [Chắc là sẽ có kẻ thắc mắc]: Chẳng phải là [chư tổ thường] nói “đốn ngộ” đó sao? Đốn ngộ chẳng ĺa khỏi Sự tu (tu hành nơi Sự). Quư vị đừng thấy người ta khai ngộ, vừa mới nghe đă lư giải [mà tưởng là dễ]; sau đó, họ đạt được lư giải thù thắng, được thanh tịnh luân tướng, chẳng phải là do [chỉ tu tập] trong đời này, mà là do đă nhiều kiếp tu tập! Chúng ta thấy công nhân sử dụng các công cụ hết sức thuần thục, nhoáy một cái đă làm xong. Quư vị làm th́ mồ hôi mướt đầu, vẫn ṃ mẫm, chẳng hiểu rơ cách làm như thế nào! Lại c̣n làm ra những thứ chưa xứng gọi là thứ phẩm. Đạo lư y hệt như nhau! Trước hết, phải hiểu đạo lư này rồi quư vị nghe những câu trong bộ kinh này, được định lực của Bồ Tát gia tŕ, cho đến Bồ Tát trụ trong bất cứ quốc độ nào, ở bất cứ nơi đâu, cũng đều có rất nhiều chúng sanh có thể đạt được lợi ích. Chính quư vị sẽ có thể cảm nhận được!

          [Nếu nói] “tôi chẳng trông thấy’, v́ sao tôi cảm nhận như vậy? V́ sao kinh nói như thế? Hai đằng dường như chẳng tương ứng. Hăy nên hiểu đạo lư này: Quư vị ngay cả điều tối thiểu là chí tâm phát nguyện cũng chẳng có! Chỉ có chí tâm ưa thích, nghe nói [những công hạnh của] Địa Tạng Bồ Tát bèn rất cảm động; đấy chỉ là cái tâm mong cầu, vẫn chưa đạt đến mức chí tâm! Chí tâm có mức độ nhất định. Đă phát khởi chí tâm, giống như cái tâm dũng mănh, tinh tấn, đấy vẫn là c̣n chia thành ba tâm. Đạt đến thâm tâm: “Địa Tạng Bồ Tát là chính ta, ta là Địa Tạng Bồ Tát”. Quán tưởng như thế th́ sẽ tương ứng. Tự nhiên quư vị sẽ chứng đắc cảnh giới khác hẳn. Như nghe nói về Địa Tạng Bồ Tát, liền có thể đạt đến mức “xả hết thảy, chuyện ǵ cũng giao cho Địa Tạng Bồ Tát”, chúng ta vẫn chưa làm được!

          C̣n như dựa theo những yêu cầu trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, khi sử dụng luân tướng, phải nên lễ bái như thế nào, y pháp như thế nào, cầu ǵ được nấy, th́ cần phải có công lực, tức là dũng mănh chí tâm, phải trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, chẳng phân biệt ngày đêm mà bái sám, xưng tụng danh hiệu, tụng kinh Địa Tạng, dập đầu lễ bái. Trọn chẳng phải là cứ chiếu theo bản văn sám pháp lạy một lượt là xong! Phải thực hiện liên tục, có yêu cầu nhất định! Nhưng đối với bọn phàm phu chúng ta, đối với thể lực và thân tâm của chúng ta trong hiện thời, nếu chiếu theo quy định của Bồ Tát th́ chúng ta chẳng thể làm nổi. Vậy th́ sẽ có gia tŕ. Quư vị chỉ cần thật sự thực hiện th́ sẽ được gia tŕ.

          Trước kia, có một vị tổ sư. Ngài dùng sanh mạng của chính ḿnh để tu tŕ. V́ Ngài ưa ngủ gật, hôn trầm đặc biệt nặng nề, bèn tự đặt ḿnh vào chỗ ắt phải chết. Ai nấy đều sợ chết, Ngài đến tĩnh tọa nơi vách đá cheo leo để coi chính ḿnh có c̣n ngủ gục hay không? Hễ ngủ gục, sẽ rơi phịch xuống, rơi xuống sẽ chết chắc! Làm như vậy có thể chế ngự phiền năo hay không? Chẳng thành công! Ngài tĩnh tọa, duy tŕ chẳng nổi, bèn ngă nhào. Vi Đà Bồ Tát liền kéo Ngài lên, Ngài hỏi: “Vị nào hộ pháp? Ai đă cứu tôi lên?” Vi Đà hộ pháp bảo Ngài: “Ta là Vi Đà Bồ Tát đến hộ tŕ ông”. Ngài vừa nghe như vậy, bèn sanh tâm kiêu mạn, nói: “Trong Nam Thiệm Bộ Châu, người tu giống như ta chỉ sợ chẳng được mấy ai!” Vi Đà Bồ Tát nói: “Người giống như ông, ta đă gặp quá nhiều, nhiều như lông ḅ vậy. Kẻ có tâm kiêu ngạo như ông th́ mười kiếp sau ta mới hộ tŕ pháp cho ông. Suốt mười kiếp ta chẳng hộ tŕ ông”. Vi Đà Bồ Tát liền ẩn mất.

          Ngài suy tưởng: “Thoạt đầu, tôi cũng chẳng cầu ông hộ pháp. Ông hộ pháp th́ cũng tốt, không hộ pháp cũng chẳng sao. Tôi vẫn cứ tu như vậy”. Ngài lại ngồi. Ngồi lâu chẳng thể duy tŕ nổi, thân thể hữu hạn, lại rơi vèo xuống, Vi Đà Bồ Tát lại cứu Ngài lên. [Tổ sư thắc mắc]: “Chẳng phải là ông không hộ pháp cho tôi ư? V́ sao lại hộ tŕ?” Vi Đà Bồ Tát nói: “Một niệm của ông vượt khỏi mười kiếp. Ta nói mười kiếp không hộ pháp cho ông, nhưng một niệm tâm tinh tấn ấy đă vượt khỏi mười kiếp”. Khi chúng ta gặp nguy nan hay trong hoàn cảnh khó khăn, có sanh khởi tâm niệm vượt qua mười kiếp hay không? Thường nói là “buông xuống thân tâm”, chúng ta có buông xuống hay không? Chính ḿnh hiểu rất rơ!

          Dựa trên đoạn kinh văn đức Phật trả lời Hảo Nghi Vấn Bồ Tát trong kinh Thập Luân, [sẽ thấy] đây chẳng phải là Địa Tạng Bồ Tát tự tán dương công đức của chính ḿnh, mà là do đức Phật nói. Đức Phật nói: Vị thiện nam tử ấy, ở ngay trong quốc độ mà Ngài trụ, do định lực, nguyện lực, tâm từ bi, đạo lực, chỉ cần Ngài ở nơi đâu, nơi ấy liền cát tường. Thế nhưng chúng sanh ở nơi ấy cũng phải chí tâm tương ứng với Ngài. Không tương ứng th́ vẫn chẳng đạt được! Nhưng có chỗ lại nói, như trong phẩm thứ mười hai của kinh Địa Tạng, đức Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: “Vị Địa Tạng này đặc biệt hữu duyên với chúng sanh trong cơi này. Chỉ cần chúng sanh có cầu, chúng sanh có niệm, sẽ đều được gia tŕ”, chẳng đ̣i hỏi nghiêm ngặt như thế. Hơn nữa, trong phẩm thứ mười ba của kinh Địa Tạng, cuối cùng đức Phật đă phó thác: “Đối với chúng sanh đời Mạt Pháp, ông nhất định phải dùng thần lực và nguyện lực cứu giúp, che chở họ”. Địa Tạng Bồ Tát liền nguyện rằng: “Trong thời Mạt Pháp, những ai chỉ cần có chút thiện căn trong Phật pháp, dẫu bằng một vi trần, hay một giọt nước, con nhất định cứu độ kẻ ấy, khiến cho kẻ ấy được giải thoát”. So với chí tâm tương ứng vừa được nói trên đây, kết hợp cả hai đằng để xem, [sẽ hiểu] học pháp th́ chẳng thể chấp trước nơi văn tự, ngôn ngữ. Nếu không, sẽ ngă ḷng, chẳng thể sanh tâm chí thành được. Địa Tạng Bồ Tát nói: “Có đôi chút công đức bằng một vi trần, hoặc một giọt nước trong Phật pháp, ta sẽ đều cứu độ”, [thế mà] nay ta có rất nhiều công đức nơi Phật pháp, không chỉ bằng một giọt nước, cớ sao Địa Tạng Bồ Tát chẳng cứu độ ta? Quư vị sanh tưởng ư niệm oán thán như thế! Đối với Phật pháp, phải nh́n theo mọi khía cạnh, luôn luôn tu tập, phải nh́n như thế đó.

Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần 2 hết



[1] Hiền b́nh (Pūrna-ghata): Hiền có nghĩa là Thiện, hàm ư có thể sanh ra phước lành, thỏa nguyện như ư. B́nh này c̣n gọi là thiện b́nh, đức b́nh, măn b́nh, hiền đức b́nh, công đức b́nh, như ư b́nh, cát tường b́nh. Đây là chiếc b́nh thường sử dụng trong đàn tràng Mật giáo, chứa đựng các thứ chất báu, hương, thuốc báu v.v… Trong Tạng Truyền Phật giáo, hiền b́nh thường được gọi là Terbum, thường được dịch là Treasure Vase, Wealth Vase, hay Treasure Urn, thường có h́nh tṛn, cổ thắt, miệng loe, có nắp đậy, phía ngoài có h́nh Phật, Bồ Tát và các h́nh cát tường, hay h́nh Hoàng Tài Thần (Dzambala, hóa thân của Tỳ Sa Môn Thiên Vương), và các chú ngữ, đôi khi buộc giải vải ngũ sắc quanh cổ b́nh.

[2] Tsongkhapa (có nghĩa là “người đến từ xứ Tsongkha, 1357-1414), được coi là hóa thân của Văn Thù Bồ Tát, là người sáng lập tông phái Gelugpa của Phật Giáo Tây Tạng. Cha Ngài là người Mông Cổ, mẹ là người Tây Tạng. Ngài sanh ở thành phố Tsongkha thuộc vùng Amdo (nay thuộc Tây Ninh của tỉnh Thanh Hải, Trung Hoa), thọ Ngũ Giới với Karmapa đời thứ tư, với tên gọi là Kunga Nyingpo. Lên bảy tuổi, Ngài cầu thọ giới Sa Di với tu viện trưởng tu viện Hạ Quỳnh (Jakhyung), được đặt pháp danh là Losang Drakpa (Thiện Huệ Xưng). Ngài được truyền thụ các Mật pháp bí nhiệm về Thánh Lạc (Heruka), Hỷ Kim Cang (Hevajra) và Diễm Man Đắc Ca (Yamantaka) rất sớm. Do thông thạo kinh điển, Ngài đặc biệt hứng thú nghiên cứu Luận Tạng, mật điển Thời Luân (Kalachakra), và Đại Thủ Ấn (Mahamudra). Lúc 24 tuổi, Ngài được thọ Cụ Túc Giới theo ng phái Sakyapa. Ngài chuyên nghiên cứu các giáo điển theo truyền thừa bởi tôn giả Atisha, và theo học với nhiều vị thầy nổi tiếng của hai tông Kargyupa và Sakyapa. Không chỉ nghiên cứu thâm nhập kinh điển, Ngài c̣n tự bế quan hành tŕ, cúng dường, và sám hối. Theo ghi chép, Ngài đă tự ḿnh đảnh lễ hàng triệu lần, tác pháp cúng dường, và sám hối tam nghiệp. Nhận thấy các lama Tây Tạng lơi lỏng giới luật, nhiều vị buông lung trong tửu sắc, hoặc lạm dụng các pháp song tu (thậm chí mượn tiếng song tu để hành dâm bừa băi), cũng như không chú trọng nghiên cứu kinh điển và các bộ luận Đại Thừa. Ngài nhấn mạnh việc nghiên cứu giới luật, và kinh luận, đặc biệt là Duyên Khởi Tánh Không và Trung Quán của Duy Thức, hành tŕ giới luật nghiêm cẩn, cấm ngặt các đệ tử đă thọ Đại Giới không được uống rượu, không được tùy tiện cưới vợ, tuyệt đối không được thực hành pháp song tu với nữ nhân. Do vậy, trong tu viện Ganden do Ngài sáng lập vào năm 1409, các tăng sĩ được gọi là Gelugpa (những người đức hạnh). Hai đệ tử nổi tiếng của Ngài là Khedrup Geleg Pelzhang (Ban Thiền Lạt Ma đời thứ nhất) và Gedun Drupa (Đại Lai Lạt Ma đời thứ nhất) là những người góp phần tích cực trong việc h́nh thành tông phái Gelugpa. Để phân biệt với các tông phái cũ, họ đội mũ màu vàng, nên người Hoa thường gọi họ là Hoàng Mạo Phái. Trong khi các tông phái cũ được gọi là Hồng Mạo Phái (Nyingmpa, Sakyapa và Kargyupa). Ngài để lại rất nhiều trước tác, trọng yếu nhất là các bộ Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận Quảng Luận (Lamrim Chenmo), Mật Tông Đạo Thứ Đệ Quảng Luận, Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Lược Luận, Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Tâm Luận, Đại Thừa Tu Tâm Thất Nghĩa Luận Quán Chú, Duyên Khởi Tán Ngũ Thập Bát Tụng…

[3] “Kẽm núi” là khe núi nhỏ hẹp, hai bên là vách núi dựng đứng, chính giữa là một gịng sông nhỏ quanh co. Những kẽm núi đẹp nổi tiếng như kẽm Trống trên sông Đáy thuộc tỉnh Hà Nam, hoặc Ḥn Kẽm ở Quảng Nam.

[4] Cổ () là các loại trùng độc (côn trùng, rắn độc, nhện, rết, ḅ cạp v.v…), hoặc các loại thực vật có chất độc, được chế thành bột để hạ độc hoặc khống chế người nào đó. Người luyện thuật này gọi là Vu Sư hay Cổ Sư, thuật này được gọi Vu Cổ hay Cổ Thuật. Cách này thường sử dụng trong các bộ tộc thiểu số, nhất là người Miêu, đặc biệt là tại vùng Tương Tây (Hồ Nam) của Trung Hoa. Tại Trung Hoa, thường có truyền thuyết cổ trùng có thể sống kư sinh trong thân thể người bị hại, khiến cho người bị hại hoàn toàn nghe theo lời sai khiến của Vu Sư. Thậm chí c̣n có truyền thuyết nói Cổ Sư có thể dùng cổ để điều khiển xác chết đi hại người. Truyền thuyết phổ biến nhất là để luyện Cổ, họ bỏ các loại trùng độc vào trong một đồ chứa lớn, cho chúng tàn sát lẫn nhau. Con nào sống sót cuối cùng sẽ là con độc địa nhất, đem con đó luyện cổ.