Đại
Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh
Giảng
Kư, phần 6
大乘大集地藏十輪經講記
Mộng Tham lăo
ḥa thượng chủ giảng
梦参老和尚主講
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh:
Đức Phong và Huệ Trang
(Kinh)
Thiện nam tử! Như Sát-đế-lợi quán đảnh
đại vương, tri tự quốc độ, hữu
vô lượng hữu t́nh Bổ Đặc Già La, quy y chủng
chủng tà thần, ngoại đạo, khởi ư tà
tín, cập khởi tà kiến, học tà cấm giới, chấp
trước, tu trị tà cát hung tướng, cụ thọ
chủng chủng vô lợi ích khổ. Đại
vương tri dĩ, sổ sổ triệu tập, dĩ kỳ
tiên vương trị quốc chánh pháp, khai ngộ, thị
hiện, giáo tập, giới sắc, linh kỳ xả trừ
đảo tín, đảo kiến, tu học tiên
vương chánh trực cựu pháp, linh tự quốc
độ nhất thiết hữu t́nh, nhất thú, nhất
quy, nhất ư, nhất dục, nhất thiết ḥa hợp,
đồng y tiên vương chánh
pháp nhi chuyển, thính thọ chiếu mạng, tùy thuận
phụng hành, suất độ ḥa đồng, tác sở
ưng tác. Thời, Sát-đế-lợi quán đảnh
đại vương, thường dữ quần thần
sổ sổ tập hội, cộng vị gia hào, thọ
chư khoái lạc, hy hư du hành, bất tương
sai nhị, hàm cộng trù tư, lư chư vương vụ.
Thiện nam tử! Sát-đế-lợi chủng quán
đảnh đại vương, thành tựu như thị
đệ tứ vương luân. Do thử luân cố, linh tự
quốc độ tăng trưởng an lạc, năng phục
nhất thiết oán địch, ác hữu, thiện thủ
hộ thân, linh tăng thọ mạng
(經)善男子,如剎帝利灌頂大王,知自國土有無量有情補特伽羅,歸依種種邪神外道,起於邪信,及起邪見,學邪禁戒,執著修治邪吉凶相,具受種種無利益苦。大王知已數數召集,以其先王治國正法,開悟示現教習誡敕,令其舍除倒信倒見,修學先王正直舊法,令自國土一切有情,一趣、一歸、一意、一欲,一切和合同依先王正法,而轉聽受詔命,隨順奉行,率土和同,作所應作。時剎帝利灌頂大王,常與群臣數數集會,共味嘉餚,受諸快樂,嬉戲遊行,不相猜貳,咸共疇諮理諸王務。善男子,剎帝利種灌頂大王,成就如是第四王輪。由此輪故,令自國土增長安樂,能伏一切怨敵惡友,善守護身,令增壽命。
(Kinh: Này thiện
nam tử! Như đại vương Sát-đế-lợi
đă được quán đảnh, biết trong cơi nước
của ḿnh có vô lượng hữu t́nh Bổ Đặc
Già La quy y các thứ tà thần, ngoại đạo, dấy
lên tà tín và dấy tà kiến, học theo giới cấm tà vạy,
chấp trước chuyện tu tập, đối trị
các tướng cát hung tà vạy, thọ trọn đủ
các thứ khổ chẳng có lợi ích. Đại
vương đă biết, bèn nhiều lượt triệu
tập, dùng chánh pháp trị quốc của tiên vương
để khai ngộ, thị hiện, dạy bảo,
răn đe, khiến cho họ trừ bỏ niềm tin
điên đảo và kiến giải
điên đảo, tu học pháp cũ chánh trực của
tiên vương, khiến cho hết thảy hữu t́nh trong
đất nước của ḿnh đều hướng
theo một lối, quay về một lối, một ư, một
mong ước, hết thảy ḥa hợp, cùng nương
theo chánh pháp của tiên vương để vận dụng,
nghe nhận chiếu chỉ, mạng lệnh, tùy thuận
vâng làm theo. Cả nước ḥa đồng, làm chuyện
đáng nên làm. Khi ấy, đại vương Sát-đế-lợi
đă được quán đảnh thường cùng với
các vị quần thần nhiều lần tụ họp,
cùng nếm các món ăn ngon, hưởng các sự vui sướng,
vui thú du hành, chẳng nghi kỵ nhau, đều cùng nhau
mưu tính, xử lư việc nước. Này thiện nam tử!
Đại vương thuộc chủng
tánh sát-đế-lợi đă được quán đảnh
thành tựu vương luân thứ tư như vậy. Do
v́ luân ấy, khiến cho cơi nước của ḿnh tăng
thêm yên vui, có thể hàng phục hết thảy các oán địch
và bạn ác, khéo giữ ǵn cái thân, tăng trưởng thọ
mạng).
Phần này giống
như các phần trước, nói vương luân trước,
rồi nói đến Phật Luân. Đại vương
thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi đă được
quán đảnh biết hết thảy chúng sanh Bổ Đặc
Già La trong cơi nước của chính ḿnh, cũng tức là hết
thảy chúng sanh trong nước của ông ta. Bổ Đặc
Già La chúng sanh, đại khái có mười loại. Một
loại là Bổ Đặc Già La chẳng gieo thiện căn, trong quá khứ chẳng
có thiện căn, hiện tại lại chẳng tu phước
nghiệp, cũng có nghĩa là chẳng tu thiện nghiệp.
Hơn nữa, các nghiệp họ đă tu đều là liên
tục tạp nhiễm. Một loại khác là những kẻ
chẳng gặp gỡ bạn lành, toàn chung đụng bạn ác. Cả
nước ấy đều là chúng sanh kiểu đó.
Đồng thời, họ làm chuyện xấu, chẳng sợ
hăi hậu quả. Dẫu trong tương lai phải chịu
quả báo trong tam đồ, họ đều chẳng sợ hậu quả. Tham, sân, si hết sức
mạnh mẽ, v́ tâm họ đă mê loạn, chấp chặt
tà kiến. Nói đại khái th́ có mười loại t́nh
huống. Loại Bổ Đặc Già La quy y tà giáo, tức
là tà thần, ngoại đạo chẳng chánh đáng. Có các loại tà thần, ngoại đạo chẳng gây ra
chuyện ác rất lớn; ở đây là nói tới loại
tạo ác.
Nêu
một thí dụ như cúng tế quỷ tiên, nịnh nọt
quỷ thần, giết các chúng sanh để cúng dường
quỷ thần, cho rằng đấy mới là cầu
phước. Thật ra, làm như vậy, không chỉ chẳng
cầu được phước, mà ngược lại,
c̣n gieo rất nhiều khổ quả trong vị lai. Đó
gọi là “tà tín ngưỡng”. Thậm chí, tôi thấy
những thầy phong thủy cũng là “tà tín ngưỡng”! Họ nói ṭa nhà này của quư vị tốt hay xấu,
nói cát, hung, họa, phước. Nói theo Phật giáo, những
điều ấy đều là tà tri, tà kiến. “Tà cấm
giới”: Ấn Độ có rất nhiều ngoại
đạo. Từ Ấn Độ, lại truyền sang
Trung Hoa rất nhiều thứ ngoại đạo, hoặc
là không ăn dầu, có kẻ chẳng ăn muối. Nói
theo đất Trung Hoa th́ không hề có chuyện thờ chó
hay thờ ḅ. Tại Ấn Độ, có một cách nói
như sau: “Con ḅ này đă đắc thần thông”. Họ
thấy một con ḅ về sau được sanh lên trời,
[chẳng nhận biết con ḅ được sanh thiên] là
v́ nó có công đối với con người, bèn sùng tín con
ḅ ấy. Tôi vừa mới qua Gia Nhĩ Các Đáp (Calcutta) của
Ấn Độ, tản bộ trên đường phố. Ở trên khá nhiều
con đường, tôi thấy ḅ đều rất to, rất
mập. Đầu chúng nó đeo kín những thứ trang sức
xanh xanh, đỏ đỏ. Tôi thấy những người
lái xe hễ thấy con ḅ, ngay lập tức ngừng xe lại,
chờ con ḅ lững thững đi qua xong mới lái xe tiếp
trên con đường đó. Con ḅ ấy cũng rất
thông minh, nó đi trên con đường đó, chẳng
đi sang phố khác, v́ [người ở] con đường
ấy đều tin thờ nó. Loại tín ngưỡng ấy
được gọi là “tà cấm giới”. C̣n có
người đốt một đống lửa. Bà-la-môn
thờ lửa như thế đó. Mọi người vây quanh
sụp lạy, lạy xong lại niệm chú ngữ và
kinh điển của họ. Những điều ấy
được gọi là “tà cấm giới”.
Có
khi [các thứ ngoại đạo ấy] cũng rất giống
Phật giáo. Họ nói: “Các vị là người xuất gia
sống nơi mộ địa, ở ngoài đồng
hoang, chúng tôi c̣n khổ hơn quư vị”. C̣n có một loại
người, ngủ trên bàn chông. Họ cũng ngủ ngoài
đồng hoang, [tự khoe] “ta khổ hạnh hơn quư vị,
sẽ thành đạo lớn hơn quư vị”. Đó gọi
là “tà kiến”. Tu khổ hạnh thành đạo, hoàn
toàn chẳng phải là thành tựu như vậy! Hễ có
các thứ khổ sở vô ích, vị vua quán đảnh
Sát-đế-lợi thấy t́nh huống ấy, thường
triệu tập các vị đại thần trong triều,
và các nhân sĩ nổi danh trong nước, cùng nghiên cứu
chánh pháp trị quốc của các vị tiên vương
xưa kia để nhân dân cả nước học tập.
Nếu có kẻ nào quấy rối tà vạy, sẽ chế tài họ: Nhẹ tội th́ xử phạt,
giáo dục; kẻ tội nặng có thể bị tống
giam. Chẳng hạn như có rất nhiều kẻ tà tri,
tà kiến, có đôi khi chúng nó sẽ hại người
trong nước.
Chuyện
xảy ra vào năm mươi năm trước, tức
năm 1940, khi tôi đến Calcutta của Ấn Độ,
nghe họ bảo: “Thầy đi đường tại
Calcutta, phải cẩn thận đôi chút, đừng có
đi một ḿnh. Họ thấy thầy là người
ngoài tới đây, lại chẳng hiểu ngôn ngữ, sẽ
bức hại thầy. Họ bắt thầy vô pḥng tối,
đem thầy vô đó, chặt chân tay để cúng thần.
Tṛng mắt th́ lại để cúng thần chi đó, c̣n bộ
phận sinh dục th́ cúng thần chi đó. Chân th́ dùng để
cúng thần chi đó”. Đấy là tà tri đảo kiến.
Nếu quốc gia chẳng ngăn chặn những chuyện
ấy, pháp luật của quốc vương chẳng cấm
đoán, chuyện ấy chẳng biết sẽ đến
mức độ nào nữa! Đấy là tà tri, tà kiến.
Kiểu tà tri, tà kiến này ở Trung Hoa cũng rất nhiều!
Chánh
pháp của tiên vương là thuở đầu khi mới
kiến lập quốc gia ấy, tổ tiên đều rất
từ bi. Pháp lệnh của quốc gia chính là đạo
đức của họ. Trước kia, chúng ta cũng thường
nghiên cứu luân lư, đạo đức, hiếu, đễ,
trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ của quốc gia.
Xưa kia, rất nghiên cứu các môn đạo đức ấy.
Thuở bé, tôi c̣n phải học. Tới khi tôi học trung
học, chẳng c̣n nữa. Hiện thời. chẳng có ai
nói đến luân lư, đạo đức! Chúng tôi cũng
chẳng phải là kẻ sùng cổ. Quá khứ cũng có
điều tốt, mà hiện tại cũng có điều
tốt. Những cái gọi là “tiến bộ, cải
cách” th́ phải sửa đổi những điều bất
hảo trong quá khứ, sửa trừ những thứ
cũ kỹ có hại cho nhân dân, mới đáng gọi là “cải
cách”. Hiện thời, chỉ sợ đều chẳng
được như thế, sửa đổi toàn bộ
những điều tốt đẹp trong quá khứ do thời
đại bất đồng, chúng ta thường nghe nói
những lời lẽ ấy. Cải cách mà “giết, trộm, dâm, dối” hoành hành chẳng
bị ngăn trở! Trong quá khứ, dân số cũng ít ỏi,
nếu bị giết hại như vậy, chỉ sợ
là dân số sẽ bị giảm thiểu, chẳng đáng
bị chết mà chết mất. Đấy là tà đảo
kiến (邪倒見, tri kiến tà vạy,
điên đảo). Nghiên cứu chánh pháp là nghiên cứu những
điều đă được thi hành từ quá khứ
xưa kia, nghiên cứu chánh trị luật pháp do tiên vương
đă áp dụng trong quá khứ. Mọi người sau khi
đă nghiên cứu, nhất trí tuân theo chánh pháp của tiên
vương. Nếu kẻ nào không nghe theo, tức là trái nghịch
chiếu mạng của hoàng đế. Hoàng đế chế
định tân pháp, truyền cho hết thảy thần dân
trong nước đều làm theo như vậy. Làm những
ǵ họ đáng nên làm; chuyện chẳng nên làm, sẽ chẳng
được phép làm. Vị vua quán đảnh Sát-đế-lợi
ấy thường tụ họp với quần chúng, thảo
luận các vấn đề ấy. Quốc thái
dân an, mọi người được hưởng thụ, trọn chẳng phải như trong hiện thời:
Dùng của công để mời khách, biếu quà! V́ thế,
mọi người cùng nhau chè chén, khoái hoạt, hưởng
thụ vui sướng, khoan khoái vui chơi. Đôi bên chẳng
nghi kỵ nhau, đối với đất nước chẳng
có hai ḷng, chẳng ngờ vực, chẳng đố kỵ
nhau, nhất tâm nhất ư cùng nhau mưu tính mong xử lư việc
nước vẹn toàn. Đấy là vua quán đảnh
Sát-đế-lợi thành tựu vương luân thứ
tư, dùng điều này để hiển thị chánh luân
của đức Phật.
Do
vị quốc vương định ra các pháp luật mà
khiến cho quốc độ ấy tăng trưởng
an lạc, có thể khiến cho hết thảy oán địch
và bạn ác đều bị hàng phục. Do vậy, có thể
khéo thủ hộ thân ḿnh. Chữ Thân (身) hàm nghĩa mỗi
người dân đều có thể bảo vệ chính ḿnh,
mà cũng có thể yêu thương, che chở người
khác. Như vậy th́ mới có thể
tăng trưởng thọ mạng, tích phước, tăng
thọ, cho đến chẳng thương tổn kẻ
khác. Đó là luân thứ tư của quốc vương.
(Kinh)
Thiện nam tử! Như thị Như Lai thành tựu thiện
xảo tri thắng giải trí, kiến chư thế gian chủng
chủng tà quy, tà kiến, tà ư, nhạo trước tà pháp,
hành tà nghiệp hạnh. Do thị nhân duyên, thọ vô lượng
khổ. Như Lai kiến dĩ, sổ sổ triệu tập,
ư đại chúng tiền, dĩ kỳ quá khứ chư
Phật Thế Tôn Tam Bảo chủng tánh nhân quả, lục
chủng Ba La Mật Đa, Du Già y nhân tam luật nghi đẳng,
chư nhân quả pháp, khai ngộ, thị hiện, khánh ủy,
giới sắc nhất thiết chúng hội, linh kỳ giải
thoát chư điên đảo kiến, kiến lập chánh
kiến, an trí Thập Thiện chánh trực cựu đạo,
cộng chư hữu t́nh sổ sổ đồng tu pháp
tùy, pháp hạnh, phương tiện dẫn nhiếp nhân quả
đẳng lưu. Vị chư hữu t́nh, tứ chúng ḥa hợp, đồng
tu nhất thiết thù thắng thiện hạnh, tiện cộng
du hư tứ chủng Niệm Trụ, ư tam-ma-địa
giải thoát tri kiến, chư đạo phẩm trung, hoan
ngu thọ lạc, vị linh thánh giáo cửu trụ thế
cố, thiệu Tam Bảo chủng bất đoạn tuyệt
cố, tiện cộng du hư Tứ Chánh Cần, Tứ Thần
Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Đẳng Giác
Chi, Bát Thánh Đạo Chi. Ư kỳ chủng chủng thắng
tam-ma-địa giải thoát tri kiến chư đạo
phẩm trung, hoan ngu thọ lạc.
Thiện nam tử! Ngă thành như thị đệ tứ Phật
Luân. Do thử luân cố, tri chư hữu t́nh Bổ Đặc Già La, chủng
chủng thắng giải, quy thú, ư nhạo, chư nghiệp
pháp thọ, tùy kỳ sở ưng, lợi ích an lạc,
đắc an ổn trụ, đắc vô kinh khủng,
đắc vô sở úy, tự xưng ngă xử đại
tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, tồi chư
thiên ma, ngoại đạo tà luận, xử đại
chúng trung, chánh sư tử hống.
(經)善男子,如是如來成就善巧知勝解智,見諸世間種種邪歸、邪見、邪意,樂著邪法,行邪業行,由是因緣受無量苦。如來見已,數數召集於大眾前,以其過去諸佛世尊三寶種姓因果、六種波羅蜜多、瑜伽依因、三律儀等諸因果法,開悟、示現、慶慰、誡敕一切眾會,令其解脫諸顛倒見,建立正見,安置十善正直舊道,共諸有情數數同修法隨法行,方便引攝因果等流。為諸有情四眾和合,同修一切殊勝善行,便共遊戲四種念住,於三摩地、解脫智見、諸道品中,歡娛受樂。為令聖教久住世故,紹三寶種不斷絕故,便共遊戲四正勤、四神足、五根、五力、七等覺支、八聖道支,於其種種勝三摩地、解脫智見、諸道品中,歡娛受樂。善男子,我成如是第四佛輪。由此輪故,知諸有情補特伽羅種種勝解、歸趣、意樂、諸業法受,隨其所應,利益安樂,得安穩住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,摧諸天魔外道邪論,處大眾中正師子吼。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Như Lai thành tựu trí biết thắng giải hay
khéo như thế, thấy các thứ tà quy, tà kiến, tà ư,
ưa thích tà pháp, hành hạnh tà nghiệp trong các thế
gian. Do nhân duyên ấy, [chúng sanh] chịu vô lượng khổ.
Như Lai thấy rồi bèn nhiều lượt triệu tập,
đối trước đại chúng, dùng chủng tánh,
nhân quả Tam Bảo của chư Phật Thế Tôn trong
quá khứ, sáu loại Ba La Mật Đa, ba loại luật
nghi nương theo cái nhân của Du Già v.v… các pháp nhân quả
để khai ngộ thị hiện, an ủi khiến cho
hoan hỷ, răn truyền hết thảy chúng hội,
để họ thoát khỏi các tri kiến điên đảo,
kiến lập chánh kiến, đặt vững đạo
cũ Thập Thiện chánh trực, cùng với các hữu
t́nh nhiều lượt cùng tu pháp tùy, pháp hạnh, dùng
phương tiện để hướng dẫn, nhiếp
thọ các thứ nhân quả, v́ các hữu t́nh tứ chúng
ḥa hợp, cùng tu hết thảy hạnh lành thù thắng, liền cùng vui chơi
trong bốn loại Niệm Trụ, hoan hỷ vui sướng trong các đạo phẩm
chánh định, tri kiến giải thoát, v́ để cho
thánh giáo được tồn tại lâu dài trên thế
gian, v́ nối tiếp chủng tánh Tam Bảo chẳng
đoạn tuyệt, bèn dạo chơi trong Tứ Chánh Cần,
Tứ Thần Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất
Đẳng Giác Chi, Bát Thánh Đạo Chi, hoan hỷ vui thỏa
trong các loại đạo phẩm, chánh định thù thắng,
và tri kiến giải thoát. Này thiện nam tử! Ta thành tựu
Phật Luân thứ tư như thế. Do v́ luân này, biết
các thứ kiến giải thù thắng, sự quy hướng,
các sự yêu thích, các nghiệp pháp nhận lănh của các hữu
t́nh Bổ Đặc Già La, tùy theo lẽ đáng nên mà lợi
ích, an lạc, được trụ an ổn, được không kinh hoảng, được không
sợ hăi, tự xưng “ta đă ở nơi địa vị đại tiên
tôn quư”, chuyển Phật Luân, dẹp tan tà luận của
các thiên ma và ngoại đạo, ở trong đại chúng
mà thực hiện sư tử hống).
Đây
là Phật Luân thứ tư của đức Phật. Hiện
thời, phần lớn đều là tà quy, tà kiến,
ưa thích tà pháp, hành nghiệp hạnh tà. Công việc hiện
thời do chính nhân dân tự ḿnh lựa chọn. Nếu quư vị chọn
nghề nghiệp không tốt, trong công việc ấy, đ̣i hỏi phải sát sanh, nhưng nghề nghiệp
ấy hoàn toàn chẳng lừa gạt. Nghề nghiệp nào
cũng đ̣i hỏi phải nói lời chân thật; bất
quá, kẻ làm kinh doanh đều chẳng thể nói lời chân thật được! Tại
Đại Lục, có những đạo hữu hỏi:
“Không nói dối, sẽ chẳng có cách nào kinh doanh được!”
Tôi đến Mỹ, thấy t́nh huống hoàn toàn chẳng
phải là như vậy. Trong các siêu thị, trên quầy họ
đề giá bao nhiêu tiền, sẽ bán bấy nhiêu tiền.
V́ họ đề giá thật, chẳng cần có nhân viên phục
vụ, họ cũng chẳng nói chuyện với quư vị.
Do vậy, không nhất định phải nói dối! Lẽ
đâu bắt buộc phải nói dối th́ mới có thể
kinh doanh được! Tôi chỉ nêu ra một thí dụ
như vậy. Đấy là tà nghiệp. Tà nghiệp là làm
tà hạnh, không nhất định phải làm như thế
mà vẫn cứ làm!
Ngoài
ra, nếu trong quá khứ, quư vị chẳng có phước
báo lớn dường ấy, bất kể quư vị gạt
gẫm cỡ nào, chèn ép như thế nào, mánh khóe
lươn lẹo cỡ nào đi nữa, kể như có
cơ hội tước đoạt lọt vào tay, ngay lập
tức sẽ thất bại. Kẻ cường đạo
cướp đoạt, c̣n có cường
đạo lợi hại hơn hắn. Cường đạo
cướp đoạt cường đạo, c̣n có cường
đạo có thế lực to hơn nữa, chiến thắng
quư vị! [Khăng khăng hành tà hạnh là do] chẳng biết
mối quan hệ nhân duyên quả báo. Đủ loại tà kiến, tà nghiệp,
ưa thích chuyện tà pháp quá nhiều, hậu quả là quư
vị nhất định phải hứng chịu vô lượng
thống khổ. Quy y thần là tà quy, tri kiến bất
chánh. Chúng ta đều có thể trông thấy đệ tử
của họ hết sức đông đảo. Quư vị
phải nói như thế nào đây? Đấy chính là “phương
dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân” (các
phương pháp sẽ tụ tập theo từng loại, sự
vật theo chia ra thành từng nhóm theo mỗi tánh chất
riêng biệt). Nhân duyên kiểu đó chính là v́ gă ma
vương ấy muốn chuyển thế, bọn ma con,
ma cháu của hắn sẽ theo hắn kéo đến,
đương nhiên là tín phụng hắn, chúng nó chẳng
tín phụng chánh giáo của quư vị! Loại nào sẽ tín
phụng theo loại ấy. Thuộc hạnh nào, nghiệp
nào, sẽ kết giao những kẻ cùng hạnh, cùng nghiệp
đó! Thương nhân sẽ chẳng qua lại, kết bằng
hữu với kẻ làm chánh trị. Quư vị làm bạn với
họ, nhất định sẽ gặp chuyện chẳng
hay ho! Người ta nói: “Giao quan cùng, giao thương phú”
(chơi với quan sẽ nghèo mạt, chơi với
thương nhân sẽ giàu). Muốn đánh quan ṭa, chắc
chắn sẽ bị khốn cùng. Đấy là sự giáo
hóa xưa cũ của Trung Hoa. Quư vị giao du với kẻ
nào, chơi với kẻ ác hay với người lành, sẽ
có mối quan hệ hết sức to lớn, như người
Hoa đă nói: “Cận châu giả xích, cận mặc giả
hắc” (gần son th́ đỏ, gần mực th́
đen), hàm nghĩa như thế đó.
Đức
Phật chỉ dạy các đệ tử phải chiếu
theo nhân quả của chủng tánh Tam Bảo, các thứ giới
luật, hoặc là dùng Lục Ba La Mật, tức là dùng bố
thí, tŕ giới, nhẫn nhục, ái hành, Tứ Nhiếp
Pháp để giáo dục chúng sanh. Hoặc là nương
theo tam luật nghi nơi nhân địa. Tam luật nghi là Tam Tụ Tịnh Giới, cũng tức là Nhiếp Thiện Pháp Giới,
Nhiêu Ích Hữu T́nh Giới, và Nhiếp Luật Nghi Giới.
Ba thứ luật nghi ấy đều là pháp nhân quả.
Thiện có thiện báo, ác có ác báo. “Khai ngộ thị hiện”:
Có thể giảng chữ Ngộ là “hiểu rơ”. Sau khi
đă hiểu rơ nhân quả báo ứng, sẽ khiến cho họ
quy y Phật, quy y Pháp trong Tam Bảo, gieo chủng tánh thiện
căn. Gieo nhân lành, sẽ đạt được quả
lành. Hoặc là có cái nhân tương ứng, th́ sẽ có cái
quả tương ứng. Dựa trên cái nhân để nghiệm
chứng cái quả. Du Già có nghĩa là “tương ứng”,
cũng có nghĩa là các pháp nhân quả thuộc ba loại
luật nghi v.v… Đó gọi là “nhân quả báo ứng”. Khiến cho họ hiểu rơ đạo lư này. Có khi
đức Phật lại an ủi chúng sanh, khiến cho họ
vui mừng v́ được an ủi, gieo phước
điền nơi Tam Bảo, đời mai sau sẽ chẳng
chịu khổ. Trong kinh Phật, có rất nhiều lời
lẽ an ủi. Sau khi quư vị đă nghe pháp, đă quy y Phật,
trong tương lai, sẽ hưởng đủ loại
phước nghiệp, chẳng c̣n thọ khổ quả.
Đấy là những ngôn từ an ủi.
Tiếp
đó là những ngôn từ răn truyền. Ngôn từ
răn truyền chính là giới luật. Quư vị đă phạm giới, chẳng
thể nào không đọa địa ngục, đọa
vào ba ác đạo. Ngôn từ thuộc loại này rất
nhiều. Đức Phật thường xuyên răn truyền
các vị đại đệ tử làm thế nào để
lợi ích chúng sanh, làm thế nào để tiêu trừ các tri kiến điên đảo của chúng sanh,
khiến cho họ được giải thoát. Tri kiến
giải thoát và tri kiến điên đảo, hai đằng
hoàn toàn đối nghịch với nhau. Như thế nào
th́ mới có thể giải thoát? Quư vị phải kiến
lập chánh tri, chánh kiến, đừng hành theo tà mạng.
V́ để chính ḿnh sống sót, mà kiến lập hạnh
phúc của chính ḿnh trên sự đau khổ của chúng
sanh, chớ nên! Cho đến v́ để chính ḿnh sống
thoải mái, nói chung là v́ vật chất hữu hạn, bèn
tranh đoạt. Có tranh đoạt hợp pháp và tranh đoạt
bất hợp pháp. Có những thứ thuận theo nhân quả,
đáng nên có th́ sẽ có, chẳng đáng nên có th́ sẽ chẳng
thể đạt được! Chúng ta đổ công dốc
sức, người ta sẽ đăi ngộ bằng tiền
lương, đó là chuyện đáng nên có. Nếu đục
khoét, trộm cắp, lường gạt người ta,
đó là thứ chẳng đáng nên có. Mọi người
đều biết chuyện đáng nên làm, chuyện chẳng
nên làm, trong tâm họ tự biết rất rơ, nhưng v́ lợi,
hoặc v́ danh, thây kệ chuyện nên làm hay chẳng nên làm,
miễn sao ta có lợi để đổi lấy cái giả
danh là được rồi! Biết rơ chuyện ấy chẳng
thể làm mà cứ ương ngạnh muốn làm, biết
rơ chuyện này đáng nên làm, nhưng
chẳng có lợi ích ǵ cho ta, họ sẽ chẳng làm.
Khi
ấy, đức Phật dạy bảo hết thảy
chúng sanh, khiến cho họ có Thập Thiện, đó là
đạo cũ chánh trực. Hết thảy chư Phật
đều chỉ dạy như thế này: “Chớ nên giết,
trộm, dâm, đừng nên tạo tham, sân, si, đừng
nên nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói thô ác”.
Đó là Thập Thiện Nghiệp, đó là chánh đạo,
là cựu đạo. Cùng hết thảy hữu t́nh, hết
thảy Bổ Đặc Già La, nhiều lượt cùng tu
pháp. Tu pháp ǵ, sẽ hành theo pháp đó. Chúng ta tu Thập Thiện
Nghiệp, sẽ hành theo Thập Thiện Nghiệp. Tu Lục
Ba La Mật, sẽ hành theo pháp Lục Độ. Bố thí
chẳng đơn thuần là vật chất. Chúng ta
thường dùng vẻ mặt hoan hỷ đối đăi
hết thảy chúng sanh, khiến chúng sanh trông thấy quư vị
bèn hoan hỷ. Quư vị thấy Di Lặc Bồ Tát, Ngài ngồi
đó tươi cười, Ngài bố thí hoan hỷ. Cho
đến dùng Tài Bố Thí, c̣n có cách thuyết pháp cho
người khác, tức Pháp Bố Thí, khuyên người
khác làm chuyện tốt, đều là bố thí. Tôi chỉ
nêu một thí dụ như vậy để nói.
Dẫu
sao, đấy là phương tiện thiện xảo, dùng
các pháp nhân quả ấy để hướng dẫn, nhiếp
thọ, cũng tức là trong thiện ác nhân quả, sẽ
có cạn và sâu. Sâu nhất là phát Bồ Đề tâm, hành Bồ
Đề đạo, cho đến quư vị sẽ tự
nhiên chứng đắc thành Phật quả, điều ấy
sâu lắm! Đối với những kẻ b́nh phàm, hoặc
là khuyên người khác niệm Phật, khuyên người
ta tin Phật, tin Phật th́ có lợi ích ǵ? Miễn trừ
tai nạn. Khuyên người khác coi trọng nhân quả một chút. Biết chúng ta
khởi lên ư niệm xấu, trong tương lai, nhất
định gặt hái quả báo xấu xa. Đấy là nói
theo hàng Bồ Tát. Nói theo bọn chúng sanh b́nh phàm, ắt cần
phải có sự thật. [Phải nói với họ]: Làm
chuyện ấy, sẽ thật sự tạo thành
thương tổn; đấy mới là trị tội.
Đối với Bồ Tát th́ khởi tâm động niệm
là đă không được rồi, phải hiểu nhân quả
ấy. Hàng đệ tử Phật chúng ta, tức tứ
chúng đệ tử, ḥa hợp cùng nhau tu hành thiện pháp.
Thiện
pháp thù thắng nhất là phải phát Bồ Đề tâm,
hành Bồ Tát đạo, lợi ích chúng sanh, rộng độ
chúng sanh. Phải cùng nhau tu hành thiện hạnh thù thắng,
cùng nhau niệm Phật, đả Phật Thất, cùng nhau
bái sám. Coi tu pháp thành thú vui, bốn loại Niệm Trụ,
tức “thân, thọ, tâm,
pháp”, vui chơi trong
bốn loại Niệm Trụ ấy. Tam-ma-địa là
Định. Tri kiến giải thoát có thể thành tựu
Pháp Thân huệ mạng của quư vị. Cho đến
đối với các đạo phẩm, bao gồm rất
nhiều thứ, như Tứ Chánh Cần, Tứ Thần
Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Chánh
Đạo. Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ. Chỉ
có tín tâm đối với Phật giáo th́ vẫn chưa
được, quư vị phải tinh tấn. Tấn là tinh
tấn. Quư vị tinh tấn th́ mới có thể đạt
được điều tốt đẹp. Thường
luôn nghĩ nhớ Tam Bảo, nghĩ tới pháp quư vị
đang tu, chẳng xả chánh niệm. Quư vị một mực
tu như vậy, giữ vững hơi thở ra vào, dần
dần đắc Định. Do Định, có thể sanh
ra Huệ, khởi quán chiếu. Ở trong Định, hàm chứa quán chiếu. Trong quán chiếu, hàm chứa
Định, nhưng do quư vị tu
đă lâu, sẽ có sức mạnh. Ngũ Căn và Ngũ Lực
chính là sức mạnh ấy. Cho đến đối với
các loại tam-ma-địa, sẽ chứng các loại
Định, đắc các loại Huệ.
Đức
Phật bảo Địa Tạng Bồ Tát: Do cái luân này,
ta chẳng ở trong thế giới Sa Bà. Ta thuộc địa
vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, tà luận
của hết thảy thiên ma và ngoại đạo đều
bị phá hủy, giống như sư tử hống.
Đấy là Phật Luân thứ tư. Trước tiên, nói
về đủ thứ nguy hại trong thế gian, quốc
vương xử lư như thế nào. Sau đó, đức
Phật cũng dạy các đệ tử của Ngài đối
trị các lỗi lầm, họa hoạn như thế nào.
(Kinh)
Thiện nam tử, như Sát-đế-lợi quán đảnh
đại vương, tri tự quốc độ, hoặc
tha quốc độ, hữu vô lượng hữu t́nh Bổ
Đặc Già La, ư tự tài sắc, đam nhiễm vô yếm,
ư tha tài sắc, tham cầu truy ái, tức tiện an trí kiên cố thành, quách,
thôn, phường, thú la, quốc ấp, vương cung, quảng
thuyết năi chí xá-la anh vũ, pḥng thủ chúng cụ, linh vô
tổn thất. Thiện nam tử! Sát-đế-lợi chủng quán
đảnh đại vương, thành tựu như thị
đệ ngũ vương luân. Do thử luân cố, linh tự quốc độ,
tăng trưởng an lạc, năng phục nhất thiết
oán địch, ác hữu, thiện thủ hộ thân, linh
tăng thọ mạng.
(經)善男子,如剎帝利灌頂大王,知自國土,或他國土,有無量有情補特伽羅,於自財色耽染無厭,於他財色貪求追愛,即便安置堅固城郭、村坊、戍邏、國邑、王宮,廣說乃至舍羅、鸚鵡,防守眾具令無損失。善男子,剎帝利種灌頂大王,成就如是第五王輪。由此輪故,令自國土增長安樂,能伏一切怨敵惡友,善守護身,令增壽命。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Như đại
vương quán đảnh Sát-đế-lợi tự biết
trong quốc độ của ḿnh, hoặc quốc độ
khác, có vô lượng hữu t́nh Bổ Đặc Già La
đối với tài sắc của chính ḿnh đắm nhiễm
chẳng chán, đối với tài sắc của kẻ
khác bèn tham cầu, theo đuổi, yêu mến, liền sắp
đặt thành quách, thôn, phường, tuần pḥng nghiêm ngặt,
[pḥng vệ] quốc ấp,
vương cung kiên cố, nói rộng th́ cho đến
đặt [các loài chim báo động] như xá-la, chim két,
các vật dụng để pḥng thủ, khiến cho chẳng bị tổn thất. Này thiện
nam tử! Đại vương thuộc chủng
tánh Sát-đế-lợi đă được quán đảnh
thành tựu vương luân thứ năm như thế. Do
bởi luân ấy, khiến cho quốc độ của
chính ḿnh tăng trưởng yên vui, có thể hàng phục hết
thảy oán địch và bạn ác, khéo thủ hộ thân,
tăng thêm thọ mạng).
Những
điều này đều nói về quốc vương. Thuở
đức Phật tại thế, trước kia, hoàn toàn
chẳng có dân chủ, [một đất nước] không
thể nào chẳng có quốc vương. Trong lịch sử
đều là như vậy. Nếu một quốc gia chẳng
có quốc vương, sẽ như bầy rồng không có thủ lănh, loạn lạc
ngay! Hiện thời, chúng ta là dân trị, pháp trị, chẳng
phải là nhân trị. Dân trị là tuân theo pháp luật mà
hành xử. Thời đại hiện tại chẳng giống
thời đại thuở ấy, hiện thời loạn
hay không, chúng ta cũng đều biết rất rơ ràng, nhưng chẳng
có tư cách b́nh luận. Đức Phật nêu ra thí dụ,
dựa trên hết thảy t́nh huống của thời Ngài
đang sống. Hết thảy chúng sanh, đối với
tài sắc của chính họ, “sắc” bao gồm các loại
hưởng thụ, họ đắm nhiễm chẳng
chán. Chữ Đam (耽, đắm đuối)
vốn là nói về một thứ
độc, chúng sanh chẳng biết đó là độc, cứ
tham luyến không bỏ được. Chính ḿnh chẳng chịu
xả, lại c̣n muốn bảo vệ, c̣n truy cầu những
thứ thuộc về người khác. Do nguyên nhân này, nhà
vua ắt cần phải bảo vệ quốc độ ấy,
khiến cho cuộc sống của quốc dân an
định. Hoặc là tu bổ tường thành cho kiên cố.
Trong quá khứ, thành ấp đều được tu bổ
như vậy. Thời đại ấy sử dụng
đao thương. Nếu đắp tường thành cao
hơn, dầy hơn, đóng cửa thành lại, kẻ giặc chẳng thể
vào được. Thôn làng cũng là như vậy.
Tôi
nhớ thuở bé, sống trong một thôn xóm ở miền
Đông Bắc Trung Hoa, đắp bốn lô-cốt (blockhaus,
blockhouse). Ở đó, hoặc là có tám mươi gia đ́nh, hoặc
là một gia đ́nh cả trăm người. Bốn lô-cốt
đều có đặt thổ pháo[1],
v́ thuở ấy, vùng Đông Bắc rất nhiều thổ
phỉ. Thổ phỉ tấn công, tường thành rất
dầy, [người trong lô-cốt] sẽ bắn
súng từ trên xuống. Họ gọi chỗ ấy là
Hưởng Dao (響窯)[2],
thôn ấy được gọi là Hưởng Dao, biểu
thị trong ấy có thuốc nổ, có súng đạn,
đại pháo. Thổ phỉ muốn cướp thôn ấy,
ắt phải tập hợp rất nhiều người.
Trước hết, dùng thổ pháo công phá ṭa thành ấy rồi
mới có thể tiến vào. Mỗi quốc gia xưa kia
đều là như thế. Nếu quư vị đi qua, [sẽ
thấy] mỗi thành thị có tường thành đắp
dầy như thế. Thậm chí như Tần Thủy
Hoàng mong bảo vệ đất nước của ḿnh bèn
xây Vạn Lư Trường Thành. Vạn Lư Trường Thành
dùng để ngăn chặn quân Hung Nô từ phương
Bắc. Thuở ấy, nếu có tường thành bảo vệ
sẽ rất tốt, thậm chí mỗi thôn trấn, mỗi
thôn làng, cũng đều phải bảo vệ.
“Vương
cung”: Mọi người đến thăm thành Bắc
Kinh, [sẽ thấy có] ngoại thành, nội thành, c̣n có một
ṭa Tử Cấm Thành. Chúng ta đến thăm Tử Cấm Thành tại Cố Cung Bắc Kinh, [nếu]
đóng chặt cửa, quư vị sẽ chẳng vào
được. Hiện thời, có phi cơ trực
thăng bay thẳng vào, thả bộ binh xuống, sẽ
chiếm được ngay. Thời đại bất
đồng, thiết bị cũng khác. Đây là nói theo ư
nghĩa “pḥng hộ”.
“Xá-la, anh vũ”: Con vẹt (két) trống
gọi là Xá-la (Sāra), két mái gọi là Xá-lợi.
Chim mái gọi là Xá-lợi (Sārikā), chim trống
kêu là Xá-la. Xá La chuyên môn bảo vệ chim mái, nó làm nhiệm
vụ ấy. Mọi người thấy chim nhạn, nhạn
sợ bị lẻ loi. Một mai bị lẻ bạn,
nó sẽ nghĩ đến chuyện tự sát. V́ sao? Cô
đơn. Nếu bầy nhạn đáp xuống, con nhạn
lẻ bạn phải tuần pḥng. Trong bầy nhạn, thường có nhạn lẻ bạn.
Người săn nhạn sẽ bắt con nhạn lẻ
bạn trước. Nó bị bắt, sẽ không kêu nữa.
Con nhạn lẻ bạn không kêu nữa, hắn có thể bắt
được rất nhiều nhạn, v́ những con nhạn
khác đều đang ngủ. Tôi ở Tây Tạng, thấy
Tây Tạng có rất nhiều đàn ḅ Yak (mao ngưu, 犛牛) được
bảo vệ. Quư vị thấy thông thường ḅ sợ
sói, sợ báo, và cũng sợ cọp. Nhưng trong đàn
ḅ, sẽ có một hai con đầu đàn, được
gọi là “đầu ngưu” (頭牛, ḅ đầu
đàn). Hễ đến tối, chúng nó sẽ ăn đặc
biệt ngon, cũng chẳng
cần phải ra ngoài gặm cỏ. Chủ nhân luôn cho nó
ăn tàm ba (tsampa)[3].
Chủ nhân ăn ǵ, bèn cho nó ăn thứ đó. Thậm
chí, nấu thức ăn cho nó. Nó sẽ làm ǵ? Tới buổi
tối, chủ nhân đi ngủ, thả chó ra, chó sẽ phối
hợp với ḅ đầu đàn. Con ḅ đầu đàn
đi lại, đi quanh đàn ḅ vài ṿng. Ḅ sợ con ḅ
đầu đàn; nếu chủ mục trường
đích thân chăn ḅ, ḅ vẫn chạy lộn xộn.
Nhưng con ḅ đầu đàn đi quanh vài ṿng, đàn ḅ
đều nằm phục xuống, chẳng dám động
đậy. Nó bèn tuần tra, xem có sói hay báo hay không? Ḅ đầu
đàn phát huy tác dụng ấy. Tôi nêu thí dụ này, [nhằm
chứng tỏ] ngay cả súc sanh hay phi cầm đều cần
được bảo vệ, huống hồ nhân loại
ư? Hiện thời, loài người trí huệ phức tạp,
chẳng giống như quá khứ, có hỏa tiễn cùng
máy bay chiến đấu. Lại c̣n từ biển tấn
công, từ trên lục địa bay tới, quá nhiều. Hiện
thời, so với trước kia lại càng khác biệt.
Đấy là hàng phục hết thảy oán địch, bảo
vệ tánh mạng và tài sản của
bản thân và gia đ́nh.
(Kinh)
Thiện nam tử! Như thị Như Lai thành tựu thiện
xảo tri chư tánh trí, tri chư ác ma, cập cửu thập
ngũ chúng tà ngoại đạo, tịnh dư vô lượng
chúng ma ngoại đạo sở hoặc hữu t́nh. Ư
tự tài sắc, đam nhiễm vô yếm, ư tha tài sắc,
tham cầu, truy ái, ư ngă tự thân, cập ngă đồ
chúng, thâm sanh tăng tật, vi hại ngă cố, giả thiết
trân soạn, tạp dĩ độc dược, ám trí hỏa
khanh, ngụy phu sàng ṭa, hoặc thôi sơn thạch, hoặc
phóng cuồng tượng, bạt kiếm truy trục, tán bộn
trần uế, báng hành dâm dục, hủy thị bất
nam, hoặc vị phi nhân, hoặc ngôn huyễn hóa, dĩ thị
chư ác nhi tương phỉ hủy.
(經)善男子,如是如來成就善巧知諸性智,知諸惡魔,及九十五眾邪外道,並餘無量眾魔外道所惑有情,於自財色耽染無厭,於他財色貪求追愛,於我自身及我徒眾深生憎嫉,為害我故,假設珍饌雜以毒藥,闇置火坑,偽敷床座,或推山石,或放狂象,拔劍追逐,散坌塵穢,謗行淫慾,毀是不男,或謂非人,或言幻化,以是諸惡而相誹毀。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Như Lai thành tựu trí thiện xảo
biết các tánh như vậy, biết các ác ma, và chín
mươi lăm loại tà, ngoại đạo, và vô
lượng các ma, ngoại đạo mê hoặc hữu
t́nh. Đối với tài sắc của chính ḿnh, đắm
nhiễm chẳng chán, đối với tài sắc của
người khác bèn tham cầu, mê say theo đuổi. Họ
đối với bản thân ta và đồ chúng của ta,
sanh ḷng ghen ghét sâu xa, v́ muốn làm hại ta mà hoặc giả
vờ bày các thức ăn ngon xen lẫn thuốc độc,
ngầm bày hố lửa, giả vờ trải giường,
ṭa, hoặc là đẩy đá từ trên núi xuống, hoặc
thả voi cuồng, rút gươm truy đuổi, vung rải
bụi dơ, báng bổ ta làm chuyện dâm dục, hủy
báng ta chẳng phải là nam nhân, hoặc bảo chẳng phải
là người, hoặc nói ta là huyễn hóa, dùng các điều
ác như thế để phỉ báng, hủy gièm).
Chúng
sanh trong đời Mạt Pháp hiện thời đă bị
danh lợi dụ dỗ, mê hoặc, lại c̣n bị ngoại
cảnh dụ dỗ, mê hoặc, [cho nên] tham, sân, si trong nội
tâm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tài
sản của chính ḿnh, họ sẽ bảo vệ. Tài sản
thuộc về lợi, họ pḥng bị rất châu
đáo, tham lam chẳng chán, nhưng lại muốn lừa
gạt, tước đoạt tài sản của người
khác. Một người chưa đủ, c̣n dây dưa
đến mấy người! Hiện thời, chuyện kiểu ấy rất nhiều. C̣n có
kẻ theo đuổi tài sắc, nghi kỵ lẫn nhau. Hữu
t́nh chúng sanh trong hiện thời, đặc biệt là
đệ tử Phật, phải đối phó với ác
ma như thế nào? Ngoại đạo dụ dỗ, mê hoặc
không ǵ chẳng ngoài tài, sắc, lợi, hại.
Đồng thời đối với bản thân chúng ta, thậm
chí đối với đồ chúng của chúng ta, cũng
là đây kia đều bất an. Ngoại đạo ganh tỵ
đối với chánh đạo của đức Phật.
Hiện thời, không chỉ là ngoại đạo ganh tỵ,
mà là đệ tử Phật cũng đang ghen tỵ lẫn
nhau. Do vậy, tứ chúng đệ tử chúng ta phải
tán thán lẫn nhau, chớ nên công kích lẫn nhau, hay hủy
báng lẫn nhau. Như vậy là không nên!
Họ
lừa gạt quư vị, mời quư vị làm khách, quư vị
phải cẩn thận, họ bỏ thuốc độc
trong đó. Hoặc là đào hầm bẫy, tức bẫy
rập để bắt dă thú. Mọi người nếu
đến vùng núi sẽ biết. Như khi tôi ở miền
Đông Bắc [Trung Hoa], họ sắp đi vào núi, dặn
ḍ quư vị, đi đường phải cẩn thận:
“Ngươi thấy con đường này, thật ra, phía
dưới là hầm bẫy, phía trên phủ cỏ. Dă thú chạy
lên đó, sẽ sụp bẫy”. C̣n có bẫy treo trên cây, dùng
những sợi thừng to thô trói lại. Nếu quư vị
giẫm phải, sẽ bị bắn trúng, hoặc treo
ngược lên. Sau đó, sẽ có người tới bắt.
Đấy là cách bẫy dă thú. Có người đi lầm
vào chỗ gài bẫy dă thú ấy, đại đa số là
chỗ núi rừng rất hiếm người lui tới.
Kinh Địa Tạng có nói: Nếu quư vị hoặc v́ có
việc, chẳng thể nào không tiến vào rừng núi, sợ
chuốc phải nguy hiểm, hăy niệm thánh hiệu của
ta cho nhiều. Đó là trường hợp hăm nhập loại
nguy nan này.
Hoặc
là họ mời mọc quư vị, trải giường ṭa,
đối với quư vị [giả vờ] rất cung kính,
rất kính phục. “Hoặc thôi sơn thạch, hoặc
phóng cuồng tượng” (hoặc đẩy núi đá,
hoặc thả voi cuồng): Tại Ấn Độ, c̣n có
voi cuồng; ở nơi đây (Trung Hoa) chẳng có. Có
đôi khi họ cho voi uống rượu khiến nó
điên cuồng. Voi giẫm đạp quư vị, dùng ṿi cuốn
quư vị ném đi. Hoặc là dùng vũ khí, rút gươm,
giương súng bức bách quư vị. “Tán bộn trần
uế” (vung rải bụi nhơ) tức là vu hăm quư vị,
dùng những lời lẽ vu cáo, hăm hại, tung tin đồn
có hại. Quư vị rơ ràng là thanh tịnh, họ liền
tung rải tin đồn.
“Báng
hành dâm dục”: Hủy báng quư vị phá giới. Hoặc
là hủy hoại quư vị, hoài nghi quư vị chẳng phải
là nam nhân. Trong Phật giáo, có năm loại “bất nam”,
chẳng phải nam mà cũng chẳng phải nữ. Nêu một
thí dụ, như thái giám chẳng phải là nam nhân, đó là
một loại. Trong giới luật của kinh Phật, có
nói năm loại bất nam[4].
Họ hoặc là nửa nam nửa nữ: Ở với nam
nhân, họ là nữ. Ở chung với nữ nhân, họ là
nam. Loại này gọi là Biến Bất Nam. Chẳng thể
thâu nhận hạng người như vậy xuất gia.
Họ hủy báng người ấy, thấy người ấy
có đạo đức, đồ chúng quy y rất
đông, liền hủy báng người ấy, nói người
ấy chẳng phải là người, mà là quỷ biến
hiện, đừng nên tin người ấy. Đấy
đều là ngôn từ hủy báng.
(Kinh)
Ư Phật, Pháp, Tăng, diệc khởi vô lượng chủng chủng phỉ
báng, mạ lỵ, hủy nhục. Ư ngă cận trụ Thanh
Văn đệ tử, tật đố nhân duyên, khởi
chư hủy báng. Như
Lai tri dĩ, thiện thủ lục căn, y tứ phạm
trụ, cụ tứ biện tài, vị chư Thanh Văn, tuyên
thuyết pháp yếu, an lập thanh tịnh tam giải thoát
môn, ngă dĩ như thị thế,
xuất thế gian, tri chư tánh trí, như thật liễu
tri nhất thiết chúng sanh chủng chủng
vô lượng chư tánh sai biệt, tùy kỳ sở ưng,
vị tác nhiêu ích.
(經)於佛法僧亦起無量種種誹謗罵詈毀辱,於我近住聲聞弟子嫉妒因緣起諸譭謗。如來知已,善守六根,依四梵住,具四辯才,為諸聲聞宣說法要,安立清淨三解脫門。我以如是世出世間知諸性智,如實了知一切眾生,種種無量諸性差別,隨其所應,為作饒益。
(Kinh:
Đối với Phật, Pháp, Tăng, cũng dấy lên
vô lượng các thứ phỉ
báng, chửi bới, hủy nhục. Đối với
các đệ tử Thanh Văn cận trụ của ta, v́
nhân duyên ganh ghét, dấy lên các thứ hủy báng. Như Lai đă biết, bèn khéo giữ ǵn sáu căn, nương vào bốn phạm
trụ, trọn đủ bốn món biện tài, v́ các Thanh
Văn tuyên nói pháp yếu, an lập ba môn giải thoát thanh tịnh.
Ta dùng trí biết các tánh thế gian và xuất thế gian
như thế, đúng như thật biết rơ vô lượng
các loại tánh sai biệt của hết thảy các chúng
sanh, tùy theo lẽ đáng nên mà tạo lợi ích cho họ).
Tiếp
đó, đều là ngôn từ hủy báng. Dùng đủ loại
ác sự hủy báng quư vị, hủy báng ǵ vậy? Hủy
báng Phật, Pháp, Tăng. Rơ ràng là chánh pháp, họ nói đấy
chẳng phải là chánh pháp, [pháp của họ] mới là
chánh pháp. Hoặc quư vị tŕ giới, tŕ giới thanh tịnh,
họ bày ra đủ tṛ gây khó dễ, thậm chí hủy
báng quư vị, khiến cho quư vị chẳng thể sống
yên nổi. T́nh h́nh kiểu ấy, trong chốn
chùa miếu cũng có, tứ chúng đệ tử đều
có. Chúng ta phải có trí huệ, phải nhận biết hạng
người ấy. Nói rộng hơn, [sẽ là] vô lượng
các loại hủy báng, chửi bới, hủy nhục.
Đó là nói rộng. Hoặc là đối với các vị
đệ tử Thanh Văn cận trụ của ta, “cận
trụ” (近住) là ở bên cạnh
đức Phật, tức là Tăng chúng gồm một ngàn hai
trăm năm mươi vị ở cạnh đức Phật.
Do nhân duyên ganh tỵ, v́ họ sanh ḷng ganh tỵ, bèn sanh khởi hủy báng. Đây là chuyện chỉ có khi
đức Phật tại thế, những vị ở cạnh
đức Phật được gọi là “cận sự
đệ tử”. Đức Phật nhập Niết
Bàn th́ chẳng có nữa. Chùa lớn có của cải rất
lớn, thấy nhà chùa giàu có, họ cũng sanh khởi
hủy báng, chuyện này rất nhiều. Đức
Phật răn nhắc chúng ta hăy khéo bảo vệ sáu
căn, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư. Khéo
ǵn giữ sáu căn, cũng là “pḥng ư như thành”
(ngăn ngừa ư như giữ thành tŕ), đặc biệt
là ư thức, giống như là đắp tường thành
để pḥng bị nó, v́ nó (ư thức) sẽ tùy thời,
chẳng thuận theo quy củ, tùy thời phạm sai lầm.
“Y
Tứ Phạm Trụ” (nương cậy Tứ Phạm Trụ): Tứ Phạm
Trụ là thanh tịnh. “Thanh tịnh” là nói đến điều ǵ vậy? Tức là Tứ Vô Lượng Tâm, từ, bi, hỷ, xả.
Y từ, bi, hỷ, xả mà trụ. Phải trọn đủ
bốn thứ biện tài. Có biện tài th́ mới có thể
bảo vệ Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo
thanh tịnh, biện luận cùng ngoại đạo. Khi các
vị Ca Diếp Ma Đằng (Kāśyapa Mātaṇga) và Trúc
Pháp Lan (Dharmaratna) vào Trung Hoa
truyền pháp, Đạo giáo biện luận cùng họ, nói
[Phật pháp] là tà pháp, [bởi lẽ], “chủng
tộc bất đồng, quốc độ bất đồng.
Họ tới Trung Hoa hoằng pháp, sẽ là tà đạo”. Hoàng đế
nói “cũng chẳng
có cách nào”, bèn đem
kinh sách do Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Luân đem đến,
đặt trên một cái đài, đem kinh sách Đạo giáo
đặt trên đài khác, châm lửa đốt.
Kinh điển Đạo giáo đều bị thiêu hủy.
Kinh do Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan mang đến
thuở ấy là Tứ Thập Nhị Chương Kinh.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương tỏa quang minh, chẳng
bị thiêu hủy. Khi ấy, mới kiến lập chùa miếu.
Tứ
Biện Tài là biện tài vô ngại, pháp
vô ngại, ư vô ngại, và từ vô ngại. Tư cách của
một vị pháp sư chân chánh là trọn đủ Tứ
Vô Ngại Biện. Một vị thánh tăng thật sự
nếu chẳng có ngữ ngôn tam-muội, hoằng pháp sẽ
chẳng thể đạt được lợi ích rộng
lớn, chẳng thể gọi là bậc pháp sư toàn tài
được. Khi đó, các vị đại đức
Ấn Độ tới Trung Hoa chẳng bao lâu, bèn học
hiểu tiếng Hoa, học thông suốt ngôn ngữ, văn
tự, đạt được phương tiện lợi
sanh. Như chúng tôi rất đáng hổ thẹn, chẳng
có trí huệ ấy. Tới quốc độ của
người khác, chẳng hiểu ngôn ngữ, chẳng biết
phong tục và tập quán của người ta, làm sao phiên
dịch kinh sách cho được? Một vị đại
đức hay đại pháp sư thật
sự, ắt cần phải có hạnh thanh tịnh, từ,
bi, hỷ, xả trọn đủ, pháp, ư, từ, biện
tài ắt cần phải trọn đủ, khéo thuyết
pháp cho người khác. Đức Phật chỉ dạy
đệ tử, biết các nhân duyên trên đây, tức là
các thứ hủy báng đă nói trên đây. Ngài răn dạy
đệ tử hăy khéo bảo vệ sáu căn, siêng năng
chuyên ṛng, đừng buông lung, hăy nên nương vào Tứ
Niệm Xứ để trụ, thường nghĩ đến
vô thường, nghĩ đến vô ngă, nghĩ đến
khổ. Tuyên nói pháp yếu như vậy cho các vị Thanh
Văn, an lập ba môn giải thoát thanh tịnh.
Đức
Phật đă biết các thứ ngoại đạo hủy
báng như trên, liền
răn dạy các đệ tử hăy khéo bảo vệ sáu căn,
giữ ǵn các căn môn cẩn thận. “Căn môn” (根門) tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư, phải chiếu theo từ,
bi, hỷ, xả để trụ, phải học tập
trọn đủ bốn loại biện tài. Đức Phật
v́ các đệ tử, các vị Thanh Văn, tuyên nói pháp yếu.
Nói chung, phải an lập ba môn giải thoát. Ba môn giải
thoát chính là Không, Vô Tướng, và Vô Nguyện.
Dưới đây đều là những lời đức
Phật dạy.
“Ngă
dĩ như thị thế, xuất thế gian tri chư
tánh trí” (ta dùng trí biết các tánh thế gian và xuất thế
gian như thế): Ta biết tánh của pháp, biết bản
thể của pháp, biết nhân duyên của pháp, biết quả
báo của pháp. Có loại trí huệ ấy, sẽ đúng
như thật mà biết rơ chúng sanh có vô lượng các thứ
tánh sai biệt. Có thể nói tánh ấy là tánh t́nh, mỗi
người có tánh t́nh khác nhau. Nói như vậy, hoàn toàn chẳng
phải là nói theo “tánh thể” (性體, bản thể của
tánh). Tánh thể chẳng có sai biệt. Tánh được nói ở đây sẽ là căn tánh thiện
căn của họ, các loại căn
tánh thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại. Mỗi người
một tánh, cũng có nghĩa là thói quen trong cuộc sống
của quư vị. Mỗi người có thói quen sanh hoạt
riêng. Có khi họ tin Phật, quy y trở thành đệ tử
Phật, vâng theo giới luật của đức Phật
đă dạy, cùng sống với Tăng đoàn, hàng phục
cá tánh của chính ḿnh, chẳng dám phóng túng. Cùng sống với
đại chúng tăng, chính ḿnh đă là đệ tử của
đức Phật, chẳng thể tùy hứng, chẳng thể
mặc t́nh theo tánh t́nh của cá nhân. Đức Phật
biết các thứ cá tánh hoàn toàn bất đồng của
hết thảy đệ tử cho đến hết thảy
chúng sanh. Đức Phật ứng cơ, [nghĩa là] tùy thuộc quư vị
thích ǵ, Ngài sẽ khai ngộ quư vị điều đó, sẽ
dựa theo đó để chỉ dạy quư vị. Chúng ta
chẳng biết, khi đức Phật giảng kinh, chẳng
hạn như kinh Thập Luân, các chúng sanh tương ứng
với pháp này sẽ đều tụ hội, đều
nhóm đến, đều tán thán, tùy hỷ. Địa Tạng
Bồ Tát rốt ráo cảm được pháp hội này
bèn đến dự, khi mọi người nhóm họp
đông đủ, sẽ ứng theo căn cơ trong hội
ấy mà thuyết các thứ pháp.
Hiện
thời, t́nh h́nh thông thường là học một bộ
kinh nào, sẽ thỉnh vấn bộ kinh ấy. Giống
như chúng tôi ở Mân Nam Phật Học Viện, hoặc
Trung Quốc Phật Học Viện, tôi chỉ giảng về
Pháp Tướng, chỉ giảng về Ngũ Giáo, chỉ
nói về Tứ Đế, những điều khác tôi không
nói, căn cứ theo những ǵ họ đang học để
cống hiến. Đức Phật hoàn toàn chẳng phải
là như vậy, đức Phật căn cứ trên
căn cơ: “Quư vị cần ǵ, ta sẽ nói cho quư vị điều
ấy”. Hiện thời, trái ngược hẳn, quư vị
có phải là căn cơ ấy hay không, tôi mặc kệ,
tôi chỉ nói điều này! V́ sao mong sanh vào thời có đức
Phật tại thế? V́ dễ dàng khai ngộ, dễ dàng
thành đạo, gieo thiện căn, cho nên muốn sanh nhằm
thời có Phật xuất thế. Coi như chúng ta thuộc
vào tám nạn. Một trong tám nạn là nhằm lúc chẳng
có Phật xuất thế, đă sai khác rất nhiều. Lại
c̣n có đủ loại tà tri, tà kiến quấy nhiễu, quư
vị có thể giải thoát bằng cách nào đây? Chẳng
giải thoát được! Cho nên đức Phật có thể
đúng như thật mà biết rơ đủ loại
cá tánh của chúng
sanh, đủ loại sự khác biệt. “Tùy kỳ sở
ưng” (theo lẽ đáng nên), “sở ưng” (所應) là tùy thuận người
ấy đáng nên dùng pháp ǵ để có thể đắc
độ, đức Phật liền tạo lợi ích cho
người ấy, nói cho người ấy nghe pháp đó.
(Kinh)
Thiện nam tử! Ngă thành như thị đệ ngũ
Phật Luân. Do thử luân cố, dĩ thế, xuất thế
tri chư tánh trí, tri chư hữu t́nh Bổ Đặc Già
La chủng chủng vô lượng chư tánh sai biệt,
tùy kỳ sở ưng, lợi ích, an lạc, đắc an ổn
trụ, đắc vô kinh khủng, đắc vô sở úy, tự
xưng ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển ư Phật
Luân, tồi chư thiên ma, ngoại đạo tà luận, xử
đại chúng trung, chánh sư tử hống.
(經)善男子,我成如是第五佛輪。由此輪故,以世出世知諸性智,知諸有情補特伽羅,種種無量諸性差別,隨其所應,利益安樂,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,摧諸天魔外道邪論,處大眾中正師子吼。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật Luân thứ
năm như thế. Do v́ luân ấy, dùng trí biết các tánh
thế gian và xuất thế gian, biết các tánh sai biệt
của vô lượng các hữu t́nh Bổ Đặc Già
La, tùy theo lẽ đáng nên, mà lợi ích, yên vui, được
trụ nơi an ổn, được không kinh hoảng,
được không sợ hăi, tự xưng “ta ở nơi địa vị đại tiên tôn quư”, chuyển Phật Luân, dẹp tan tà luận của
các thiên ma và ngoại đạo, ở trong đại chúng,
thực hiện sư tử hống).
“Thiện
nam tử! Ngă thành như thị đệ ngũ Phật
Luân” (Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật Luân thứ
năm như thế): Đây là thành tựu Phật Luân thứ
năm. Do Phật Luân này, ta đối với pháp tánh của
pháp thế gian và xuất thế gian, cũng đúng như
lư mà nói, hoặc nói theo Sự, hoặc dùng giới luật
để nói, v́ ta có thể biết rơ pháp thế gian và xuất
thế gian, có loại trí huệ ấy
để đối đăi các loại Bổ Đặc
Già La, tức các loại chúng sanh. Họ có vô lượng
căn tánh khác biệt, vô lượng nhu cầu, ta sẽ
theo đúng lẽ đáng nên mà lợi ích, an vui họ, khiến
cho sau khi được nghe pháp đó, hành theo, sẽ
được giải thoát. Dẫu không làm theo, cũng
được an ổn. Họ đă hiểu rơ, đă liễu giải,
sẽ chẳng sợ hăi, [tự nhủ]: “Hoặc là ta
không đến đó, hoặc ta né tránh”. Chúng ta liễu giải đằng
trước là nguy hiểm, chẳng cần phải
đến đó, quư vị chẳng tránh né ư?
Rơ ràng biết là nguy hiểm, lại chẳng thể nào
không đi, quư vị sẽ làm như thế nào? Ắt cần phải đi qua lănh thổ một nước, phải
đi qua núi, rừng, th́ phải
làm sao? Quư vị đă niệm kinh Địa Tạng, sẽ
biết là cần niệm Địa Tạng Bồ Tát.
Trong phần trên, cũng đă nói rồi: Niệm thánh hiệu
Địa Tạng có đủ loại công đức,
được trụ trong an ổn. Khi ấy, quư vị mới
có thể an ổn, chẳng sợ sệt, chẳng kinh hoảng,
chẳng sợ hăi.
“Tự
xưng ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển ư Phật
Luân, tồi chư thiên ma, ngoại đạo tà luận, xử
đại chúng trung, chánh sư tử hống” (Tự
xưng ta thuộc địa vị đại tiên tôn quư,
chuyển Phật Luân, dẹp tan tà luận của các thiên
ma và ngoại đạo, ở trong đại chúng, thực
hiện sư tử hống): Phần này giống như
kinh văn trong phần trên. Đối với Thập Luân,
trong mỗi luân, kinh văn đều nói như thế.
(Kinh)
Thiện nam tử! Như Sát-đế-lợi quán đảnh
đại vương, an trí nhất thiết kiên cố
thành quách, thôn phường, thú la, quốc ấp,
vương cung, quảng thuyết năi chí xá-la, anh vũ,
pḥng thủ cụ dĩ, xử tự cung trung, dữ
chư quyến thuộc, hậu phi, thái nữ, nhi tự vi
nhiễu, du hư ngũ dục, chủng chủng nhạc cụ,
phóng tứ lục căn, thọ chư hỷ lạc. Thiện
nam tử! Sát-đế-lợi quán đảnh đại
vương, thành tựu như thị đệ lục vương luân. Do thử
luân cố, linh tự quốc độ tăng trưởng
an lạc, năng phục nhất thiết oán địch, ác
hữu, thiện thủ hộ thân, linh tăng thọ mạng.
(經)善男子,如剎帝利灌頂大王,安置一切堅固城郭、村坊、戍邏、國邑、王宮,廣說乃至舍羅、鸚鵡防守具已,處自宮中,與諸眷屬后妃、婇女而自圍繞,遊戲五欲種種樂具,放恣六根受諸喜樂。善男子,剎帝利灌頂大王,成就如是第六王輪。由此輪故,令自國土增長安樂,能伏一切怨敵惡友,善守護身,令增壽命。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Như đại vương thuộc
chủng tánh Sát-đế-lợi đă được quán
đảnh, xếp đặt hết thảy thành quách kiên cố, thôn
phường, tuần pḥng nghiêm ngặt, quốc ấp,
vương cung, cho đến nói rộng là [xếp đặt
các phương tiện báo động] như xá-la, anh
vũ. Đă pḥng thủ đầy đủ rồi, bèn ở
trong cung của chính ḿnh, cùng với các quyến thuộc,
hậu phi, thái nữ vây quanh, vui chơi ngũ dục, các
thứ nhạc cụ, buông lỏng sáu căn, hưởng
các vui sướng. Này thiện nam tử! Đại
vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi
đă được quán đảnh thành tựu
vương luân thứ sáu như thế.
Do v́ luân ấy, khiến cho quốc độ của chính
ḿnh tăng trưởng yên vui, có thể hàng phục hết
thảy oán địch và bạn ác, khéo giữ ǵn cái thân,
khiến cho thọ mạng tăng trưởng).
Luân
thứ sáu và luân thứ năm tương tự. V́ nhà vua
đă pḥng hộ tốt đẹp, chuyên môn đề
pḥng, ngăn ngừa oán địch. Trong nước đă
tốt đẹp, bèn pḥng ngự hải ngoại. Đă có
thể thống nhất trong nước, chẳng hai ḷng, mọi
người đều nhất trí, chẳng c̣n đấu
đá nội bộ. Sau đấy, lại xây dựng thành
thị kiên cố, thậm chí các thôn trấn đều có
ngăn ngừa, bảo vệ. Điều này giống như
trong phần trước [đă nói] “năi chí xá-la, anh vũ”.
Đă pḥng thủ kỹ càng, th́ sau đấy trong cung mới
có thể vui sướng, mới có thể vui chơi. “Phóng
tứ lục căn, thọ chư hỷ lạc” (buông
lung sáu căn, hưởng các hỷ lạc). Đấy là
một tỷ dụ. Bên ngoài chẳng có thành quách chắc chắn,
chẳng có thôn, phường. “Thú la” (戍邏) có nghĩa là “tuần tra”. Chúng ta biết những người chỉ huy các
đội lính pḥng vệ chuyên lo pḥng thủ. “Thú” (戍) có nghĩa là pḥng thủ,
“la” (邏) có nghĩa là tuần
tra, xem có kẻ trộm cắp hay không.
Cho đến vương cung, quốc ấp, “ấp”
(邑) có nghĩa là đô thị hay thành thị, hoặc là
thôn trấn. “Vương cung” là chỗ nhà vua ở.
[Các nơi ấy] đều phải pḥng thủ kỹ
càng, cũng tức là đảm bảo rất an toàn. Sau
đấy, mới có thể hưởng thụ, mới có
thể vui sướng. “Thọ chư hỷ lạc”
(hưởng các vui sướng), ta thích nghe âm nhạc bèn
nghe. Đấy là vua quán đảnh thuộc chủng tánh
Sát-đế-lợi thành tựu vương luân thứ sáu.
(Kinh)
Thiện nam tử! Như thị Như Lai, dữ chư Bồ
Tát Ma Ha Tát chúng, cập đại Thanh Văn, an trí nhất
thiết kiên cố thánh giáo pḥng thủ chi sự, tức tiện
hiện nhập tối sơ
Tĩnh Lự, năi chí hiện nhập đệ tứ
Tĩnh Lự, hiện nhập Vô Biên Hư Không Xứ Định,
quảng thuyết năi chí hiện nhập Phi Tưởng Phi
Phi Tưởng Định. Như thị năi chí hiện nhập
nhất thiết Phật sở hành định. Nhập thử
Định dĩ, vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa
thiên, long, Dược Xoa, La Sát, Kiện Đạt Phược,
A Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc,
Mạc Hô Lạc Già, Bệ Lệ Đa, Tất Xá Giá, Bố
Đát Na, Yết Trá Bố Đát Na đẳng, ư
chư chúng sanh, thường hoài độc ác, tổn hại
chi tâm, vô từ, vô bi, ư hậu thế khổ bất kiến
bố úy, nhi bỉ kiến ngă nhập ư nhất thiết
Phật sở hành Định, giai ư ngă sở, sanh đại
hoan hỷ, khởi tịnh tín tâm. Ư Tam Bảo trung, giai
sanh tối thắng hoan hỷ tịnh tín, tôn trọng cung
kính, đắc vị tằng hữu. Ư nhất thiết
ác, tàm quư phát lộ, thâm tâm hối quá, thệ nguyện
vĩnh đoạn. Do thị nhân duyên, nhất sát-na khoảnh,
vô lượng vô số chư phiền năo chướng,
nghiệp chướng, pháp chướng giai đắc tiêu
diệt. Vô lượng vô số phước huệ tư
lương giai đắc thành măn, bối ly sanh tử, thú
hướng Niết Bàn, hộ tŕ Như Lai vô thượng
chánh pháp. Thiện nam tử! Ngă thành như thị đệ
lục Phật Luân.
(經)善男子,如是如來,與諸菩薩摩訶薩眾,及大聲聞,安置一切堅固聖教防守之事,即便現入最初靜慮,乃至現入第四靜慮,現入無邊虛空處定,廣說乃至現入非想非非想定,如是乃至現入一切佛所行定。入此定已,無量百千俱胝那庾多天、龍、藥叉、羅剎、健達縛、阿素洛、揭路荼、緊捺洛、莫呼洛伽、薜荔多、畢舍遮布怛那、羯吒布怛那等,於諸眾生常懷毒惡損害之心,無慈無悲,於後世苦不見怖畏,而彼見我入於一切佛所行定,皆於我所生大歡喜,起淨信心,於三寶中皆生最勝歡喜淨信,尊重恭敬得未曾有,於一切惡慚愧發露,深心悔過誓願永斷。由是因緣,一剎那頃,無量無數諸煩惱障、業障、法障皆得銷滅,無量無數福慧、資糧、皆得成滿,背離生死,趣向涅槃,護持如來無上正法。善男子,我成如是第六佛輪。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Như Lai và các vị Bồ Tát Ma Ha
Tát cùng các đại Thanh Văn cũng như vậy, sắp
đặt hết thảy các sự pḥng thủ bằng thánh giáo kiên cố, liền thị hiện nhập môn Tĩnh Lự
tối sơ, cho đến thị hiện nhập môn
Tĩnh Lự thứ tư, thị hiện nhập Vô Biên
Hư Không Xứ Định, nói rộng là cho đến thị
hiện nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Định.
Như thế cho đến thị hiện nhập hết
thảy các môn Định do Phật đă hành. Đă nhập
môn Định ấy rồi, vô lượng trăm ngàn câu-chi
na-dữu-đa trời, rồng, Dược Xoa, La Sát, Kiện
Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ
Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già, Bệ
Lệ Đa, Tất Xá Giá, Bố Đát Na, Yết Trá Bố
Đát Na v.v… đối với các chúng sanh thường ôm
ḷng độc ác, tổn hại, chẳng từ, chẳng
bi, đối với sự khổ trong đời sau chẳng
thấy sợ hăi, nhưng họ thấy ta nhập trong hết
thảy các môn Định do Phật đă hành, bèn đối
với ta sanh ḷng hoan hỷ to lớn, khởi tín tâm trong sạch.
Đối với Tam Bảo, đều sanh ḷng tin thanh tịnh,
hoan hỷ tối thắng, tôn trọng, cung kính, đạt
được điều chưa từng có. Đối với
hết thảy các điều ác, đều hổ thẹn, bày tỏ, thâm tâm hối lỗi, thệ
nguyện vĩnh viễn đoạn trừ. Do nhân duyên ấy,
trong khoảng một sát-na, vô lượng vô số các phiền
năo chướng, nghiệp chướng, pháp chướng
đều được tiêu diệt. Vô lượng vô số
tư lương phước huệ đều được
thành tựu viên măn, trái ĺa sanh tử, tiến hướng
Niết Bàn, hộ tŕ chánh pháp vô thượng của Như
Lai. Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật Luân thứ
sáu như thế đó).
Tĩnh
Lự (靜慮): Có bốn loại Tĩnh Lự. Bốn
Tĩnh Lự là ǵ? Chính là bốn loại Thiền Định.
Dùng Tứ Thiền để đối trị Hoặc (惑, phiền năo) của quư vị. Có công phu Định ấy,
thậm chí có thể pḥng ngừa Hoặc nhiễm. Đấy
là Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, và Tứ Thiền
trong Sắc Giới. V́ thế, lại gọi là Sắc Giới
Định. Tĩnh Lự là “thẩm lự” (審慮, suy xét), đúng
như thật biết rơ cảnh tánh của tâm ư. Định
là trụ chắc nơi một loại cảnh tánh,
cũng là quán tâm định trụ trong một loại cảnh
tánh.
Người có thể thâm nhập
[môn Thiền Định ấy], sau khi đă có thể ĺa khỏi
Dục Giới, cảm nhận có thể tương ứng
với sự quán tưởng Sắc Giới. Trong quá tŕnh
tu Định, ba món Thiền đầu (Sơ Thiền, Nhị
Thiền, Tam Thiền) là những bậc thang phương
tiện, là các hoạt động trong tâm dần dần
phát triển, h́nh thành thế giới tinh thần. Tiến
nhập đệ tứ Thiền mới là Thiền Định
chân thật. Đấy là nói về Sơ Quả thánh nhân,
Nhị Quả thánh nhân, và Tam Quả thánh nhân. Sơ Quả
thánh nhân trong quá tŕnh sanh thiên, đă sanh thiên xong, lại trở vào nhân
gian. Sơ Quả thánh nhân c̣n phải bảy lượt
sanh vào nhân gian. Nhị Quả thánh nhân phải một lần
trở lại nhân gian. Bậc Tam Quả chẳng trở lại
[nhân gian], luôn ở trên cơi trời, luôn trụ trong Tứ
Thiền Thiên. V́ các Ngài tu loại Định này, dần dần
có thể thành tựu, đoạn dứt Kiến Hoặc
phiền năo, đoạn dứt Tư Hoặc phiền năo,
dần dần đoạn sạch Kiến Hoặc phiền
năo, mà cũng đoạn trừ Tư Hoặc phiền năo,
sẽ chứng đắc quả A La Hán. Sơ Thiền Ly
Sanh Hỷ Lạc Địa, ĺa khỏi Tầm và Tứ.
Loại
Thiền thứ hai là do Định sanh khởi, phiền
năo trong nội tâm người ấy bèn thanh tịnh.
Chẳng như chúng ta, hễ nội tâm sanh khởi phiền
năo, liền cảm thấy trong tâm rất bứt rứt, nội
hỏa bốc lên rất to. Khi đó, vị ấy [trong
tâm] chẳng có ǵ, Kiến Hoặc nội tại đă
đoạn. Lại c̣n có thể đoạn Tư Hoặc.
Đạt tới Tam Thiền Thiên, dần dần sanh khởi
Định, sanh khởi cảm giác hỷ lạc. Đă
đạt tới Tam Thiền Thiên, bèn ly hỷ, [tức là] Tam Thiền Thiên ĺa khỏi hỷ (sự
hoan hỷ) đo Định sanh ra. Đó cũng là thô lạc
biến thành tế lạc, cho nên gọi là Diệu Lạc
Địa. Khi ấy, sanh ra chánh tri, chánh kiến. Tứ Thiền
Thiên là Xả Niệm Thanh Tịnh Địa (địa vị
thanh tịnh, xả trừ ư niệm), đều là địa
vị sau thù thắng hơn địa vị trước.
Cơi trời phía sau không chỉ xả trừ những
điều [hành giả] đă xả trừ
khi chứng đắc trong cơi trời trước, mà c̣n tiến cao hơn một bước là xả trừ
[những cảnh giới] trong cơi trời trước. Giống
như chúng ta tu đạo, khi tu Định, quư vị tiến
thêm một bước, đă chẳng c̣n thấy phiền
năo, đă hàng phục thô Hoặc. Nếu tu Sổ Tức Quán,
quư vị sẽ cảm thấy hơi thở ra rất thô,
cho đến khi rất tĩnh, chẳng c̣n duyên niệm
theo cảnh giới đă tu khi hơi thở c̣n thô tháp.
Đấy là tiến nhập cảnh giới tế,
cũng là giai đoạn sau thù thắng hơn giai đoạn
trước. Khi đă có tiến bộ trong giai đoạn
sau, có thể bỏ qua các điều thuộc giai đoạn
trước, chẳng c̣n duyên niệm những điều
trước đó nữa!
Chúng
ta thường nói “đă vượt sông, chẳng cần
thuyền nữa”. Chớ nên duyên niệm những sự
vật trước đó, hăy bỏ đi! Sau đó, học
pháp. Đă học thâm nhập rồi, nếu đă đắc
Định, quư vị chẳng bắt buộc phải xem
văn tự, cũng không cần phải cầm kinh bổn
để niệm nữa. Quư vị có thể nhất tâm tu
Định. Trong khi tu hành, nhất định là sẽ có
loại cảnh giới này. Sau khi đă đắc loại
Định này, quư vị mới có thể hàng phục Hoặc,
đối với sự dẫn dụ từ cảnh
giới bên ngoài cũng thế, mà đối với [những
thứ phiền năo] sanh khởi trong nội tâm cũng thế, quư vị đều
hàng phục được. Nếu chẳng có Định
lực, quư vị sẽ chẳng thể hàng phục
được. Sau bốn thứ Tĩnh Lự, tiếp
đó, kinh văn nói đến chuyện nhập Vô Biên
Hư Không Xứ Định, cho đến hiện nhập Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định. Những
điều ấy được gọi là Tứ Thiền
Tứ Không Định, tức là Không Vô Biên Xứ Định,
Thức Vô Biên Xứ Định, Vô Sở Hữu Xứ
Định, và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
Định; đó là Tứ Không Định. Cho đến
thị hiện nhập hết thảy các môn Định do
Phật đă hành, từng bước đều có rất
nhiều công sức.
Sau
khi đă nhập Định, có thể ngăn ngừa hết
thảy thiên ma và ngoại đạo, chúng sẽ chẳng
thể quấy nhiễu quư vị. Ngăn ngừa ǵ vậy?
“Định như thành” (Định như ṭa thành). “Kiên
cố” là thành quách, thôn phường kiên cố. Đấy
là nói sau khi đă nhập Định, quư vị sẽ thành
đạo. Đối với nội tặc và ngoại tặc,
thảy đều có thể hàng phục, chẳng bị kẻ
giặc năo hại. Kế đó, [chánh kinh] nêu ra vô lượng
trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa, tức là nói “ức triệu”,
trời, rồng, Dược Xoa, La Sát, Kiện Đạt
Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn
Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già nhiều ngần ấy.
Đấy là bát bộ quỷ thần chúng.
Sau
đó toàn là quỷ, Bệ Lệ Đa, Tất Xá Giá, Bố
Đát Na, Yết Trá Bố Đát Na v.v… tổng cộng
mười hai loại. Những loài quỷ ấy có thiện
và ác. Có đôi khi họ là hộ pháp, có khi là loài ác, thường
ôm ḷng độc ác và tổn hại, chẳng có tâm từ
bi. Do hành giả đắc bốn loại Tĩnh Lự,
nhập Tứ Thiền Bát Định, cho đến Cửu
Thứ Đệ Định, thậm chí nhập hết thảy
các môn Định của Phật như Thủ Lăng
Nghiêm Định, các quỷ thần sẽ chẳng thể
năo hại người tu hành. Các quỷ thần trông thấy
người tu hành và các bậc thánh hiền tu các môn Định
do Phật đă hành, không chỉ chẳng năo hại, mà c̣n
sanh khởi tâm hoan hỷ, sanh khởi tâm tịnh tín. Tịnh
tín chẳng dễ sanh khởi; đấy là tín tâm thanh tịnh.
Khi đó, các quỷ thần ấy đối với Tam
Bảo Phật Pháp Tăng, sẽ sanh khởi tịnh
tín hoan lạc tối thắng.
Nếu
chúng ta sanh khởi tịnh tín đối với Tam Bảo,
sẽ chẳng xen tạp bất cứ danh văn ǵ nữa,
chẳng màng đến quan hệ lợi hại. Quan hệ
lợi hại là ǵ? Nếu sanh bệnh, quư vị mong cầu
hết bệnh. Đó gọi là quan hệ lợi hại.
Hiện thời, quá khốn khó, túng quẫn, quư vị mong cầu
những thứ cần dùng cho cuộc sống sung túc
đôi chút, cầu Phật, Bồ Tát gia tŕ. Cho đến
đối với những việc kinh doanh, đều gọi
là quan hệ lợi hại, chẳng gọi là “tịnh
tín”. Đấy là có mong cầu. “Tịnh tín” là chẳng
mong cầu, nhưng chúng ta phát Bồ Đề tâm cầu
Phật, có tính là mong cầu hay không? Đó là thuận chánh
đạo, là tâm thanh tịnh, chẳng thể so sánh với
pháp thế gian. Nhất định phải liễu giải.
Sau khi đă liễu giải, nhất định phải hiểu
rơ ràng. Đă hiểu rơ ràng rồi, khi quư vị cầu, sẽ
có hai loại nguyện. Phát nguyện là tốt nhất. Niệm
phẩm Tịnh Hạnh, [quư vị sẽ thấy] tổng
cộng có một trăm bốn mươi mốt loại
nguyện, nhưng tổng kết lại, vẫn chỉ là
hai nguyện: Độ chúng sanh và cầu thành Phật, thậm
chí làm cho hết thảy chúng sanh đều thành Phật.
Khi phát nguyện ấy, sẽ là thanh tịnh. V́ quư vị
mong cái tâm của quư vị biến thành Phật tâm, đồng
thời, mong phục hồi diện mạo sẵn có của
chúng sanh, lại c̣n thanh tịnh Phật Tánh vốn có của họ.
Đó gọi là tịnh tín.
Do
vậy, nhất định phải phân định rơ ràng tịnh
tín và nhiễm ô tín. Thế nhưng, chúng ta mới vào Phật
môn, gặp phải kẻ bất tín th́ làm như thế
nào? Quư vị phải khuyên nhủ họ: “Tin Phật sẽ
có lợi ích, trong nhà sẽ có thể b́nh an”. Quư vị chẳng
thể lập tức kỳ vọng cao sâu quá mức, họ
chẳng tiến nhập được! Trước hết,
dùng dục để lôi kéo, dần dần khiến cho họ
nhập Phật đạo. Thoạt đầu, dùng những
điều họ ưa thích nhất, cần thiết cấp
bách nhất, quư vị nói với họ, họ sẽ thích
chí, tin tưởng. Có gia tŕ hay không? Có gia tŕ. Sau khi được
gia tŕ, sẽ làm cho họ dần dần sanh khởi tín tâm
thanh tịnh hoan hỷ tối thắng, khiến cho họ
sanh ḷng cung kính đối với Tam Bảo th́ mới có thể
đoạn hết thảy ác, đoạn dần dần,
chính họ mới nhận biết. Sau khi đă biết, sẽ
hổ thẹn, biết phát lộ sám hối. Đă biết
hối cải, cho nên ắt cần phải trọn đủ
thân tâm, tịnh tín tâm, th́ mới có thể thệ nguyện
vĩnh viễn đoạn dứt phiền năo.
Trong
Phật Luân thứ sáu, đức Phật dạy: Khiến
cho đệ tử của ta đều phải nên tu tập
các pháp môn thuộc về Định, nhập Tứ Thiền
Bát Định, cho đến hết thảy các môn Định
của Như Lai. Đấy là pḥng ngừa, ngăn trở
kẻ giặc bên ngoài quấy nhiễu và kẻ trộm bên
trong trộm cắp. Cướp nhà khó pḥng! Hăy nhớ cổ
nhân đă bảo: “Sơn tặc dị pḥng, gia tặc
nan pḥng” (giặc trên núi dễ ngừa, giặc trong nhà khó
ngừa). [Đề pḥng] kẻ trộm bên ngoài th́ dễ,
quư vị chú ư cẩn thận là được, chứ gia
tặc (家賊, kẻ giặc trong nhà), quư vị
sẽ chẳng thể lo toan xuể. Giặc trong nhà ḿnh rất khó đề pḥng! Chúng ta có thể chế phục
tướng cảnh giới bên ngoài ngay lập tức, hoặc
chẳng dính líu đến, chẳng tham gia. Nếu căn
cơ của chính ḿnh chẳng dầy, rất dễ bị
tiêm nhiễm. Trà đ́nh, tửu quán ta chẳng đến
đó là được, chẳng đến pḥng khiêu vũ
là được. Những nơi chốn nào đừng
nên tới, ta không tới là được rồi. Đă thọ
Bát Quan Trai Giới, [giới luật] chẳng chấp thuận
quư vị đến các chỗ ấy. Điều ấy
mang ư nghĩa “pḥng hộ”. Đức Phật đă
pḥng hộ quư vị tốt đẹp, cho nên mới có thể
tiêu trừ phiền năo của quư vị.
Do
nhân duyên này, vô lượng vô số các phiền năo chướng,
nghiệp chướng, và pháp chướng đều
được tiêu diệt, hết thảy nhân duyên chướng
đạo đều bị tiêu diệt, nhân duyên của
thánh đạo tăng trưởng, vô lượng vô số
tư lương phước huệ đều viên măn.
Như thế th́ sẽ trái nghịch sanh tử, rời ĺa
sanh tử, gần với Niết Bàn, tiến hướng
bất sanh, bất diệt. Sanh tử là sanh diệt. Có sanh, ắt có tử; đấy là quy luật
tất nhiên. Chúng ta đều sợ chết, chẳng biết
so sánh giữa lúc sanh và lúc tử th́ cũng đau khổ chẳng
khác nhau cho mấy! Quỷ sợ đầu thai, người
sợ chết! Quỷ có thần thông, họ biết trụ
thai, thọ thai, sanh ra, các thứ đau khổ
khôn ngằn. Quỷ sợ siêu sanh, chẳng mong siêu sanh, làm
quỷ tốt hơn. Quỷ cũng mong làm quỷ lâu dài.
Cùng
một đạo lư, con người sợ chết, chẳng
muốn chết. Quỷ cũng sợ chết, sợ chết
th́ mới biết chết rồi sẽ phải sanh. Con
người đối với nỗi đau khổ chết
chóc, chỉ biết sẽ biệt ly, chia ĺa với
người thân yêu của chính ḿnh, vĩnh viễn biệt
ly. Tài vật và nhà cửa
do chính ḿnh suốt đời gây tạo, thứ ǵ
cũng chẳng đem theo được. Tới [thế
gian này] như thế nào, sẽ ra đi như thế ấy!
Khi sanh ra, thứ ǵ cũng chẳng cầm đến
được. Từ trong bụng mẹ sanh ra, trần
trùng trục, thứ ǵ cũng đều chẳng có. Khi quư
vị chết đi, mặc vào một thân áo liệm, hỏa
thiêu xong, thứ ǵ cũng đều chẳng c̣n, ngay cả
bă xương cũng chẳng có. Đó gọi là “trái ĺa sanh tử”, phải hiểu đạo
lư này. Quư vị mong cầu bất tử ư? Chứng Niết
Bàn sẽ bất tử, Niết Bàn là bất sanh, bất diệt.
Chắc
là có kẻ bảo: “Ngươi nói sai rồi! Thích Ca Mâu Ni
Phật chẳng phải là cũng chết đó thôi!” Chẳng
phải là Ngài cũng thọ sanh ư? Hễ thọ sanh th́
nhục thể nhất định phải chết. Đó
gọi là “bất sanh, bất tử”, nhưng quư vị
ngỡ là Ngài phải thọ sanh tử. Thật ra, Ngài hóa
hiện. Cho đến khi quư vị thành đạo, sẽ
biết là Ngài hóa hiện. Hiện thời cũng là hóa hiện.
Nhục thể này do Thất Đại, tức địa,
thủy, hỏa, phong, không, căn, và thức hợp thành,
căn bản là chẳng có. Nếu là chân thật,
đương nhiên sẽ bất diệt. Do chẳng chân
thật, cho nên sẽ huyễn diệt.
“Hộ
tŕ Như Lai vô thượng chánh pháp” (hộ tŕ chánh pháp
vô thượng của Như Lai): Tám bộ quỷ thần
thấy đức Phật tu các môn Định ấy, sanh
khởi tâm hoan hỷ to lớn, sanh khởi tịnh tín hoan
hỷ đối với Tam Bảo, đạt được
điều chưa từng có, chẳng c̣n làm hết thảy
các điều ác nữa, cho đến hổ thẹn, phát lộ sám hối những điều đă trót
làm trong quá khứ, thâm tâm hối cải hết thảy lỗi
ác, vô lượng phước huệ đều được
tăng trưởng, tiến hướng Niết Bàn. Sau
đó, không chỉ là chẳng năo hại chúng sanh, mà sẽ c̣n hộ tŕ Tam Bảo, hộ tŕ chúng
sanh. Ngay cả quỷ cũng đều phát nguyện:
Người nào tu đạo, họ sẽ liền bảo
vệ!
V́
sao chúng ta phải hộ tŕ Tam Bảo? Nếu có các thiện
quỷ thần, [nếu như họ thấy chúng ta] tụng
kinh, hoặc làm Phật sự, họ sẽ hộ tŕ chúng
ta, chúng ta phải gia tŕ họ. Họ cầu phước
huệ nơi chúng ta. Do vậy, chúng ta làm rất nhiều
chuyện, ắt cần phải thành tâm, tịnh khiết,
thậm chí tiến vào Phật đường, phải cung
kính. Đấy đều là đối ứng với quỷ
thần. Nếu chúng ta làm sai, quỷ thần sẽ có tâm
sân hận, Phật, Bồ Tát từ bi, chẳng quở
trách quư vị, biết quư vị nghiệp nặng, do theo
nghiệp lưu chuyển mà biểu hiện bất đồng.
Quỷ thần chẳng như vậy. Do vậy, chúng ta có
rất nhiều giới luật nhằm pḥng hộ tâm tham,
ngăn ngừa sân tâm dấy lên. Đấy là Phật Luân
thứ sáu.
(Kinh)
Do thử luân cố, Như Lai du hư Tĩnh Lự giải
thoát, đẳng tŕ, đẳng chí, vô lượng bách thiên
vi diệu thâm định, dĩ tịnh
trí tùy chuyển diệt chư hữu t́nh vô lượng phiền
năo, tùy kỳ sở ưng, lợi ích, an lạc, đắc
an ổn trụ, đắc vô kinh khủng,
đắc vô sở úy,
tự xưng ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển ư
Phật Luân, tồi chư thiên ma, ngoại đạo tà luận,
xử đại chúng trung, chánh sư tử hống.
(經)由此輪故,如來遊戲靜慮解脫、等持等至、無量百千微妙深定,以淨智隨轉,滅諸有情無量煩惱,隨其所應,利益安樂,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,摧諸天魔外道邪論,處大眾中正師子吼。
(Kinh:
Do v́ luân ấy, Như Lai vui chơi nơi Tĩnh Lự, giải
thoát, đẳng tŕ, đẳng chí[5],
vô lượng trăm ngàn môn Định sâu vi diệu, dùng
tịnh trí để chuyển đổi, diệt trừ
vô lượng phiền năo cho các hữu t́nh. Theo lẽ
đáng nên mà lợi ích, an lạc, trụ trong an ổn,
được chẳng kinh hoảng, được chẳng
sợ hăi, tự xưng ta ở nơi địa vị
đại tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, dẹp tan tà luận
của các thiên ma và ngoại đạo, ở trong đại
chúng, thực hiện sư tử hống).
Những
điều này giống như trong phần trước, chẳng
cần phải nói nữa.
(Kinh)
Thiện nam tử! Như Sát-đế-lợi quán đảnh
đại vương, dữ chư quần thần, lănh tứ
binh chúng, châu tuần quán sát nhất thiết tự quốc
thành, ấp, tụ lạc, sơn, xuyên, khê, giản, viên uyển,
điền trạch, pha, hà, tŕ chiểu, khoáng dă, tùng lâm, trấn
la đẳng xứ. Tùy bỉ sở tại, quốc giới
chư phương hiểm trở đa nạn, bất nhậm
doanh lư, hữu nghi, hữu bố, kham dung ngoại cảnh
oán địch, ác hữu đầu thoán, tàng phục, thử Sát-đế-lợi
quán đảnh đại vương, tùy kỳ lực
năng, phương tiện an trí chủng chủng tu lư
kiên cố pḥng thủ, linh bỉ chư phương, b́nh thản,
vô nạn, kham nhậm doanh lư, vô nghi, vô bố, giá kỳ ngoại
cảnh oán địch, ác hữu đầu thoán, tàng phục, an phủ tự quốc
nhất thiết nhân dân, giai ly chúng khổ, thọ chư
khoái lạc. Thiện nam tử! Sát-đế-lợi chủng
quán đảnh đại vương, thành tựu như
thị đệ thất vương luân. Do thử luân cố,
linh tự quốc độ tăng trưởng an lạc,
năng phục nhất thiết oán địch, ác hữu,
thiện thủ hộ thân, linh tăng thọ mạng.
(經)善男子,如剎帝利灌頂大王,與諸群臣領四兵眾,周巡觀察一切自國城邑、聚落、山川、溪澗、園苑、田澤、陂河、池沼、曠野、叢林、鎮邏等處。隨彼所在國界諸方險阻多難,不任營理有疑有怖,堪容外境怨敵惡友投竄藏伏;此剎帝利灌頂大王,隨其力能方便安置,種種修理堅固防守,令彼諸方平坦無難,堪任營理無疑無怖,遮其外境怨敵惡友投竄藏伏,安撫自國一切人民皆離眾苦,受諸快樂。善男子,剎帝利種灌頂大王,成就如是第七王輪。由此輪故,令自國土增長安樂,能伏一切怨敵惡友,善守護身,令增壽命。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Như đại vương
Sát-đế-lợi đă được quán đảnh,
cùng với các quần thần, thống lănh bốn loại
binh, đi tuần tra trọn khắp, quan sát hết thảy
thành, ấp, xóm làng, núi, sông, khe, ng̣i, vườn tược,
ruộng, nhà, sườn núi, sông ng̣i, ao, chuôm, đồng
hoang, rừng rậm, thị trấn v.v… trong nước
ḿnh. Ở bất cứ chỗ nào là chỗ hiểm trở,
lắm tai nạn, không thể làm ăn, đáng ngờ,
đáng sợ, có thể là chỗ để oán địch
nước ngoài và bạn ác ẩn nấp, giấu ḿnh. Vị
đại vương Sát-đế-lợi đă được
quán đảnh ấy sẽ tùy theo sức ḿnh, dùng
phương tiện sắp đặt các thứ sửa chữa,
chỉnh đốn, pḥng thủ kiên cố, khiến cho các
nơi b́nh thản, chẳng có hoạn nạn, có thể
buôn bán, không c̣n nghi ngờ, không có sợ hăi, ngăn chặn
bọn oán địch và bạn ác nước ngoài ẩn
núp, giấu ḿnh, vỗ yên hết thảy nhân dân trong nước
ḿnh đều ĺa các khổ, hưởng các vui sướng.
Này thiện nam tử! Đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi
đă được quán đảnh thành tựu
vương luân thứ bảy như thế. Do v́ luân này, khiến
cho cơi nước của chính ḿnh tăng trưởng an
vui, có thể hàng phục hết thảy oán địch và bạn
ác, khéo thủ hộ cái thân, khiến cho thọ mạng
tăng thêm).
Đây
là vương luân thứ bảy. Trong phần trước,
đă nói bốn loại Thiền Định, tức Tứ
Vô Sắc Định. Các danh từ như thế ấy, rất
nhiều kinh luận sử dụng giống nhau. Khi quư vị
thật sự học tập, sẽ thấu hiểu rất
nhiều kinh Phật. Tứ Vô Sắc Định là vượt
khỏi sắc tướng, chẳng có sắc để có thể biểu hiện, nên gọi là Vô Sắc.
Bốn loại cảnh giới ấy đều là cảnh
giới nơi tư tưởng, chẳng phải là hữu
h́nh tướng, hữu sắc.
Chẳng giống như sáu tầng trời trong Dục Giới
và mười tám tầng trời trong Sắc Giới,
[Tứ Không Thiên] chẳng có h́nh tướng, do tư duy mà
đắc Định. Có thể chứng đắc Vô Sắc
Giới Định chính là đă đối trị các
thứ trói buộc trong Sắc Giới và Dục Giới, tức [đối
trị] các thứ trói buộc có h́nh tướng. Nhập
loại Định này, sẽ chẳng có trói buộc. Nhờ
vào sự tu hành ấy, sẽ có thể hàng phục phiền
năo của quư vị. Học Phật pháp là hàng phục phiền
năo. Đắc bốn loại Định ấy, cảnh
giới tinh thần và diện mạo của người ấy
sẽ khác hẳn. Người ấy
đang trụ trong Tịch Tĩnh.
1) Môn Định thứ nhất là Không Vô Biên Xứ.
Hư không có ngằn mé ư? Chẳng có! Vô biên. [Đặt
tên như vậy] nhằm h́nh dung tâm thức khi nhập môn
Định này, sẽ chẳng bị trói buộc bởi hết
thảy các môn Định thuộc Tứ Thiền Thiên. tức Sơ Thiền,
Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, các môn Định
ấy có h́nh thức trói buộc, c̣n môn Không Xứ Định
này chẳng có h́nh
thức, chẳng có h́nh tướng. Chúng ta có thể tưởng
tượng không gian to lớn vô hạn, không có cách nào hạn chế. Không gian rốt cuộc lớn
cỡ nào? Vô Biên Xứ có nghĩa là “chẳng có hạn chế,
chẳng có xứ sở, chẳng có bờ mé, chẳng có h́nh
tướng”. Môn Định này vượt cao
hơn Tứ Thiền Bát Định trong phần trước.
Có kinh luận nói đến loại Định thứ chín,
tức là Cửu Thứ Đệ Định, có Tứ Thiền Bát Định. Tứ Không Xứ
Định ở đây chính là Tứ Vô Sắc Định.
Hiện thời, nếu chú ư hơi thở ra vào, tu tŕ Xuất
Nhập Tức, [tức quán tưởng] thở ra, hít vào. Nếu
có thể giữ vững đến rốt ráo, quư vị sẽ
đều vượt lên cao hơn. Các loại Định
này đều nói theo tâm thức, chúng trừ khử chướng
ngại của quư vị. Chẳng có chướng ngại.
Trong không trung, có chướng ngại hay không? Chẳng có
chướng ngại! Đó là Không Xứ Định. Không
Vô Biên Xứ Định là Không Xứ Định, có thể
diệt trừ chướng ngại của chúng ta. Khi
đó, chẳng thể diễn tả: Có khi ngă năng nhập
Định, hoặc ngă sở nhập Định, Năng
và Sở đều là không, tư tưởng của người ấy (người tu Định)
vẫn có tác ư. Tác ư chính
là Không Xứ của tư tưởng, to lớn vô biên, vô
tướng. Chỉ tận cùng hư không, chẳng có
tướng ngằn mé, cho nên gọi là Không Vô Biên Xứ
Định. Nói theo chúng ta hiện thời mà muốn tu loại
Định này th́ c̣n cách biệt rất xa, phải tiến
từng bước. Bất quá, cần phải biết thứ
tự ấy trước đă.
2) Loại thứ hai là Thức Xứ Định. Thức
ở đây là thức trong “tâm ư thức”. Môn Định
này gọi là Thức Xứ Định. Thức ấy lớn
vô hạn. Nay chúng ta dùng năm thức trước là Nhăn Thức,
Nhĩ Thức, Tỵ Thức, Thiệt Thức, và Thân Thức.
Năm thức ấy mang tánh chất cục bộ, hạn
chế. Nếu chẳng có ǵ bên ngoài để giúp đỡ,
chẳng có Không Đại giúp đỡ, chẳng có ánh sáng của mặt trời, mặt
trăng, hoặc đèn giúp đỡ, mắt
chúng ta thứ ǵ cũng chẳng thể thấy được.
Trong tối tăm, c̣n có thể thấy được
chăng? Tai chúng ta chỉ cần bị chướng ngại
đôi chút, sẽ chẳng nghe rơ ràng. Thức Vô Biên Xứ
là nói quư vị nhập môn Định này, sẽ khác hẳn.
Nhập môn Định này, chẳng cậy vào ánh sáng của
mặt trời, mặt trăng, tinh tú giúp đỡ, quư vị
vừa tác ư, nhăn căn có thể trông thấy hết thảy.
Đại Phạm thiên vương có thể thấy tam
thiên đại thiên thế giới. Nhập môn Định
này, chẳng phải là rỗng không. [Đừng
hiểu lầm]: Nếu là Không định, đă là Không, thứ ǵ cũng chẳng
có. Nó chẳng phải là Đoạn Diệt Không. “Nhập
môn Định này sẽ giống như rỗng không”, chẳng
phải là ư nghĩa ấy! Đây là Thức Xứ Định,
Thức cũng to lớn vô hạn, Không cũng to lớn vô
hạn; nhưng cái Thức này vẫn có tư duy. Cái Thức
tư duy ấy chẳng có tướng biên giới.
3) Môn Định thứ ba là Vô Sở Hữu Xứ, c̣n
gọi là Diệu Xứ Định. Môn Định này vượt
cao hơn Thức Vô Biên Xứ Định, nương vào tất
cả hết thảy các tướng tư duy của quư vị
để an trụ. Diệu Xứ Định là quư vị
tư duy đến chỗ nào, sẽ nhập Định
nơi đó. Đấy gọi là Diệu Xứ. Quư vị
nghĩ đến chỗ nào, nơi đó là chỗ quư vị
nhập Định, tùy thuận an trụ, tùy thuận tất
cả các tướng của quư vị mà an trụ.
4) Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ: Môn Định
này vượt cao hơn Vô Sở Hữu Xứ Định.
Tư duy tướng ấy, nói là có tướng chẳng
thể được, mà bảo là không có tướng
cũng chẳng thể được! Quư vị tưởng
thứ ǵ, có tưởng hay không có tưởng? Có tác ư hay
chăng? Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ là cái phi
tưởng ấy cũng bị trừ khử, chẳng
phải là hư huyễn, mà cũng chẳng phải là rỗng
không. Chẳng phải là tưởng, chẳng phải là
phi tưởng, mà cũng chẳng là phi phi tưởng; ư nghĩa bao hàm như thế đó. Phi Tưởng
tức là chẳng thể coi là có. Nó chẳng cần quư vị chấp trước, tức là diệt trừ
tướng chấp trước của quư vị. Sự tư duy ấy
chẳng phải là tư duy, chẳng phải là tưởng,
chẳng giống như chúng ta dùng lục căn ư thức
để tưởng. Chúng ta nghĩ tới sự vật
ǵ, nghĩ tưởng sự vật này, nghĩ tưởng
sự vật kia, trọn chẳng phải là như vậy.
Phi Tưởng chẳng phải là tưởng, mà cũng
chẳng phải là vô tưởng. Phi Phi Tưởng chẳng
phải là Tưởng đối ứng với Phi Tưởng.
Phi Phi Tưởng tức là môn Định này khác với Diệt
Tận Định. Diệt Tận Định là môn Định
của A La Hán, vị ấy đă diệt sạch Kiến
Tư phiền năo. Nhưng khi nhập môn Định này (Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng Định), người ấy
(người tu môn Định này) hăy c̣n có vô minh phiền năo. Môn
Định này c̣n có Tư Hoặc phiền năo, [người
chứng đắc môn Định này] hoàn toàn chẳng phải
là thánh nhân, thế nhưng, chẳng phải là vô tưởng,
khác với vô tưởng. Phải giải thích hai câu sau
cùng, tức “chẳng phải là vô tưởng, khác với
vô tưởng” như thế nào? Phi Tưởng tức
là chẳng phải tư duy, không suy nghĩ. Không suy nghĩ
th́ giống với Không Tịch, có nghĩa là nó khác với
Vô Tưởng Định, chẳng phải hoàn toàn là Không
Tịch.
Tứ
Vô Biên Xứ Định, bốn loại cảnh giới ấy
đều do tư duy mà đắc Định. Vô Sắc
Giới Định để đối trị ǵ vậy?
Đối trị trói buộc, tức là đối trị
các Hoặc nghiệp trói buộc chúng ta. Nói cách khác, đối
với tướng cảnh giới bên ngoài, chúng ta đều
có một loại cảm nhận. Bốn môn Định ấy
là ĺa khỏi sự cảm nhận, ĺa khỏi sự cảm
nhận tướng cảnh giới bên ngoài. Nói cách khác,
đắc các môn Định ấy, cái tâm phan duyên của
chúng ta sẽ ngưng dứt. V́ sao bốn môn Định
này, mỗi môn sau lại tiến bộ hơn môn trước?
Nói chung, chúng được gọi là Tứ Vô Sắc Định,
tức là các môn Định thuộc vào Vô Sắc Giới. Trong Duy Thức đă nói về chúng rất rơ ràng!
Trong
ấy, có ba loại thần biến. Ba loại thần biến
ấy lại là ba thứ chỉ dạy, ba thứ thị
hiện, ba thứ giáo hóa. Khi Phật, Bồ Tát giáo hóa chúng
sanh, các Ngài thị hiện “đức, tướng, dụng”
của thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ư nghiệp:
1)
Điều thứ nhất là thần thông biến hiện.
Bồ Tát thương xót các chúng sanh chịu khổ trong
địa ngục, Ngài bèn hiện sức thần thông.
Đó gọi là “thần thông biến hiện”. Dùng sức
thần thông của Ngài để tiêu diệt núi đao, biển
lửa, các loại dụng cụ hành h́nh v.v… trong địa
ngục. Khi Ngài dùng sức thần thông để hàng phục
các hiện tượng ấy, chúng sanh chịu khổ trong
địa ngục có thể siêu sanh, có thể thoát ra, sanh
lên trời. Đấy là thần thông biến hiện.
2)
Điều thứ hai là kư thuyết biến hiện (記說變現). Kư thuyết biến hiện cũng là do Bồ Tát
thương xót chúng sanh đang chịu khổ trong địa
ngục; họ nghĩ nhớ ǵ (đó là Kư), Ngài bèn đến
nói cho họ nghe pháp ấy (đó là Thuyết). Bồ Tát có
thần thông, thuyết pháp ứng cơ. Trong tâm họ
nghĩ ǵ, Phật bèn nói cho họ nghe pháp ấy, khiến
cho chúng sanh nương nhờ pháp lực đó, thoát khỏi
địa ngục. Nhờ vào sự hàng phục, nhờ
vào sức thuyết pháp của Bồ Tát mà từ địa
ngục thoát ra, sanh trong cơi trời, người, hưởng
thụ vui sướng. Đấy là Tha Tâm Thông của Bồ
Tát. Chúng sanh trong địa ngục có thể cảm Bồ
Tát tới thuyết pháp, chỉ là cơ hội này quá xa vời! Như thế nào th́ mới có thể cảm
thọ được? Trừ phi trong đời này,
trước khi đọa địa ngục, quư vị có
sức tín ngưỡng thành khẩn đối với
đức Địa Tạng, Quán Âm, Phổ Hiền,
Văn Thù, hoặc A Di Đà Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật. Lại
c̣n do đền trả quả báo của một loại
nghiệp. Khi lâm chung, dẫu quư vị chẳng giữ vững
chánh niệm, do đền trả quả báo phải đọa địa ngục,
nhưng do sức thiện căn của quư vị rất mạnh
mẽ, sẽ cảm ứng Phật, Bồ Tát. Các chúng sanh
ấy nay đă đọa địa ngục, trong quá khứ
họ có nhân duyên nhất định với ta, có tu vi (bản
lănh tu hành) nhất định. Như vậy th́ Bồ Tát mới
có thể cảm thông với người ấy được.
Hoặc là nhờ sức cầu khẩn của lục thân
quyến thuộc, thỉnh vị Bồ Tát ấy đến
cứu độ. Giống như mẹ của Địa
Tạng Bồ Tát, do Ngài cảm vời, bèn có thể sanh
lên trời. Như mẹ của tôn giả Mục Kiền
Liên đọa làm ngạ quỷ, Ngài muốn dùng sức thần
thông cứu mẹ, nhưng không đủ sức. Thức
ăn Ngài đưa cho mẹ đều biến thành lửa.
Ngài liền cầu đức Phật cứu mẹ. Đức
Phật dạy vào ngày hội Vu Lan Bồn, tức ngày Rằm
tháng Bảy, hăy cúng dường đại chúng tăng. Nhờ
vào sức mạnh của việc cúng dường đại
chúng tăng, cậy vào sức mạnh ấy siêu độ
mẹ Ngài. Do thí thực cho đại chúng, [mẹ Ngài] sẽ
có thức ăn. Loại [thị hiện] này là thần biến,
tức thuyết pháp thần biến. Nếu ở trong
địa ngục mà vẫn có thể nghe Bồ Tát thuyết
pháp, chẳng dễ dàng đâu nhé! So với chúng ta hiện
thời đến pháp hội cùng nhau học tập, khó
hơn rất nhiều!
3)
Loại thứ ba là giáo giới biến hiện (教誡變現, biến hiện răn dạy), cũng là Bồ
Tát phát tâm từ bi, thuyết pháp để răn dạy họ.
Nhờ sự răn dạy ấy, được thoát khỏi
địa ngục, có thể dẹp trừ tai họa,
nhưng chỉ có Bồ Tát đắc Lậu Tận Thông
th́ mới có thể đến địa ngục.
Bồ
Tát có ba loại thần biến này, hoặc là chỉ dạy,
hoặc là thị hiện, hoặc là giáo hóa, đều rất
khó có. Trong kinh văn, đức Phật đă dạy
như vậy. Vị quốc vương ấy, hoặc là
chánh phủ, đối với quốc giới, phàm là chỗ
nào nguy hiểm, bèn nói chỗ ấy có thể biến thành
nơi chốn để vui chơi, kiến lập đại
đô thị tại chỗ đó. Ở những
chỗ ấy, đều pḥng ngừa
ngoại địch xâm nhập, lại c̣n ngăn ngừa
trộm cướp xâm đoạt. Do vậy, giữ cho ngoại
địch chẳng dễ ẩn núp, xâm lược quốc
giới của nhà vua, sắp đặt đủ loại
tuần tra, pḥng ngừa, xếp đặt đất
nước sao cho oán địch và bạn ác chẳng thể
ẩn núp trong nước nhà. Đồng thời, khiến
cho nhân dân cả nước ấy an cư lạc nghiệp,
ĺa các sự bức hại, ĺa các khổ nạn. Vị quốc
vương ấy thành tựu vương luân như thế;
sau đó, quốc gia của nhà vua tăng trưởng an lạc,
cuộc sống được bảo đảm. Đồng
thời, oán địch và bạn ác thường chẳng
đến xâm lăng, quấy rối, nhân dân an cư lạc
nghiệp.
Người
ta nói “tâm quảng thể bàn” (心廣體胖), nghĩa là nếu cái tâm rộng răi hơn, thân thể
sẽ mập mạp hơn. Nếu quốc giới rất
an định, mọi người chẳng phải lo lắng,
bất luận sĩ, nông, công, thương đều rất
tốt đẹp. Bất luận quư vị làm ǵ, cái tâm
đă an rồi, tự nhiên phước thọ tăng
trưởng, chẳng có ǵ ưu sầu nữa.
Cái gây tổn thương lớn nhất cho thân thể và
thọ mạng là ưu sầu. V́ sao phải ưu sầu?
Cuộc sống chẳng được bảo đảm,
thân thể bị xâm hại, quấy nhiễu. Quư vị thấy
quốc gia nào có cuộc sống tốt đẹp hơn một
chút, chứng tỏ pháp luật và chánh trị của
quốc gia ấy có quan tâm, bảo vệ người dân tốt
đẹp hơn. Nếu một quốc gia chẳng thể
bảo vệ nhân dân trong nước ḿnh, đấy trọn
chẳng phải là thiên tai, mà là nhân họa. Kế đó,
kinh văn nói về Phật Luân.
(Kinh)
Thiện nam tử! Như thị Như Lai dĩ kỳ Phật
nhăn, như thật liễu tri nhất thiết hữu t́nh
Bổ Đặc Già La, hữu tham, hữu sân, hữu si tâm
đẳng, như thật liễu tri thị chư hữu
t́nh chủng chủng phiền năo bệnh hạnh sai biệt.
Như Lai tri dĩ, tiện khởi vô lượng tinh tấn
dũng mănh phương tiện, thế lực, tùy kỳ sở
nghi, thọ dĩ chủng chủng tu Định diệu
dược, linh chư hữu t́nh tinh cần tu học, trừ
phiền năo bệnh.
(經)善男子,如是如來以其佛眼,如實了知一切有情補特伽羅,有貪、有瞋、有癡心等;如實了知是諸有情種種煩惱病行差別,如來知已,便起無量精進勇猛方便勢力,隨其所宜,授以種種修定妙藥,令諸有情,精勤修學除煩惱病。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Như Lai dùng Phật nhăn như thế,
đúng như thật biết rơ hết thảy hữu t́nh
Bổ Đặc Già La có các tâm tham, sân, si v.v… đúng như
thật biết rơ các hữu t́nh có các thứ bệnh hạnh
phiền năo sai khác. Như Lai đă biết, bèn dấy lên vô
lượng phương tiện và thế lực tinh tấn,
dũng mănh, tùy theo lẽ thích đáng, mà trao cho họ các thứ
diệu dược tu Định, dạy các hữu t́nh
siêng năng, chuyên ṛng tu học để trừ bệnh
phiền năo).
“Thiện
nam tử, như thị Như Lai dĩ kỳ Phật nhăn,
như thật liễu tri nhất thiết hữu t́nh Bổ
Đặc Già La” (Này thiện nam tử! Như Lai dùng Phật
nhăn đúng như thật biết rơ hết thảy hữu
t́nh Bổ Đặc Già La như thế): Có mười loại
Bổ Đặc Già La. Bổ Đặc Già La (Pudgala) là
danh từ dùng để chỉ luân hồi thọ sanh.
Loại
thứ nhất là Bổ Đặc Già La chẳng gieo thiện
căn. Trong đời quá khứ, hoặc trong đời
hiện tại, người ấy chẳng có thiện
căn Bồ Đề, mà cũng chẳng hề phát tâm.
Không gieo thiện căn th́ sẽ làm ác, chẳng tạo cái
nhân thiện sự.
Loại
thứ hai chưa từng tu phước nghiệp, chẳng
bố thí cho người khác. Nói cách khác, chẳng hề
giúp đỡ người khác, cho đến chẳng hề
tiếp cận Phật pháp. Phải tiếp cận Phật
pháp th́ mới thọ giới, tŕ giới. Chưa tu phước
nghiệp, cũng là tạo nhiều ác hạnh.
Loại
thứ ba là tạp nhiễm liên tục, cũng là các thứ
phiền năo như tham, sân, si, Thân Kiến, Biên Kiến, Giới
Thủ Kiến, Kiến Thủ Kiến, và Tà Kiến rất
nhiều. Đấy cũng gọi là “chẳng có thiện
căn”. Tạp nhiễm tham, sân, si rất nặng, lại
c̣n liên tục chẳng dứt, mà cũng là tạo ác nghiệp
tham, sân, si chẳng gián đoạn.
Loại
thứ tư là hữu t́nh tùy thuận điều ác. V́
đối với thiện nghiệp và ác nghiệp, họ dường
như có tánh chất bất định. Gặp bạn
lành, họ sẽ học theo điều lành. Gặp phải
bạn ác, họ sẽ làm điều ác. Đây là nói do thiện
căn của họ trong quá khứ ít ỏi, chẳng gặp
bạn lành. Nếu gặp gỡ bạn lành, họ lại
chẳng thể theo bạn lành cùng làm việc thiện. Hiện
thời, có rất nhiều người tin Phật và
cũng tiếp cận Phật pháp, thậm chí đă thọ
Tam Quy. Sau đó, họ lại phạm giới. Phạm giới
ǵ vậy? Phạm Tam Quy, v́ quy y tà đạo. Họ chẳng
thể thâm nhập chánh đạo. Gặp phải ác hữu,
ác tri thức dẫn dắt, bèn tiến hướng tà
đạo, đi theo bạn ác.
Loại
thứ năm là kẻ chẳng sợ khổ quả đời
sau. Tạo ác nghiệp, kẻ ấy chẳng tin nhân quả,
chẳng sợ nhân quả đời sau. Loại chúng sanh
này chẳng tin nhân quả. Họ nói: “Chết rồi là kết
thúc, c̣n thọ hậu báo chi nữa, thọ hậu hữu
chi nữa!” Do vậy, họ chẳng sợ khổ quả
trong đời sau. Loại Bổ Đặc Già La này tâm tham
dục chẳng chán đủ, đặc biệt mạnh
mẽ. Đối với của cải, [ḷng ham muốn]
vĩnh viễn chẳng hề có giới hạn. Chúng ta thấy
các quốc vương, các quan chức chánh phủ, cho đến
các nhà đại tư bản, các tập đoàn tài chánh lớn,
họ đều chẳng có chừng hạn. Có mười
ức, bèn mong có một trăm ức; có một trăm ức,
bèn mơ một ngàn ức! Đem cả quả địa
cầu trao cho họ, họ vẫn mong chiếm lấy mặt
trời, chiếm luôn mặt trăng trong không trung, vĩnh
viễn chẳng thể thỏa măn! Đă làm quốc
vương vẫn chưa đủ, vẫn mong làm Chuyển
Luân Vương, muốn địa cầu đă tṛn bèn to
hơn. Đó là chuyện chẳng thể được.
Ḷng tham cầu dữ đội,
vĩnh viễn chẳng chán đủ. Loại Bổ Đặc
Già La này sân khuể mạnh mẽ, ngu si dữ dội. Phiền
năo xảy đến chẳng có cách nào ngưng dứt,
đặc biệt là cái tâm sân hận dấy khởi rất
mạnh mẽ. Ba thứ tham, sân, si đều chẳng chịu
thua kém nhau, thế nhưng, si mạnh mẽ hơn đôi
chút [so với tham và sân]. Si là đối với hết thảy
các cảnh bèn mơ hồ, dấy lên các tà kiến, phá nát chánh
pháp.
Có
các đạo hữu đă tin tưởng chánh pháp, v́ tin
tưởng đă rất lâu, nhưng do một thứ lợi
ích chi đó, hoặc do thân thể mắc bệnh khổ, nếu
tin tưởng nhân quả sẽ biết đó là túc nghiệp
mà ta hăy c̣n sót lại, bèn trừ sạch, Đó là một loại.
Hoặc là buôn bán thất bại,
bị tổn thất, gặp kẻ nói hươu nói
vượn, hoặc kẻ khoe có thần thông: “Tôi sẽ
giúp cho quư vị phát tài” bèn tin theo, quên ḿnh đă quy y Phật,
quy y Pháp, quy y Tăng. Thậm chí [kẻ dối trá ấy] dạy
họ chẳng cần tin Phật nữa, chẳng cần
cúng dường Tăng nữa, chẳng cần thân cận
người xuất gia. Đấy là tội ngu si. Hiện
tượng này rất nghiêm trọng. Loại Bổ Đặc
Già La như thế cũng là v́ trong đời quá khứ
đă tích tập thiện căn chẳng sâu.
Loại
Bổ Đặc Già La thứ chín[6]
là đă mê hoặc, tâm họ mê loạn, tâm không thể làm
chủ, không làm thiện nghiệp.
Loại
thứ mười là giữ tà kiến ác, chẳng tin chánh
giáo của Như Lai, giữ vững tà kiến của ngoại
đạo.
Mười
loại Bổ Đặc Già La này đương nhiên sẽ
đọa vào súc sanh đạo, hoặc đọa vào ngạ
quỷ đạo. Chúng ta là Bổ Đặc Già La có thiện
căn, hoàn toàn tương phản với những loại
ấy. Nhưng chúng ta cũng có tham, sân, si, bất quá chẳng
phải tham, sân, si giống như các loại Bổ Đặc
Già La ấy. Họ là [tham, sân, si] liên tục chẳng ngừng,
chẳng chịu ngưng dứt. Hiểu ư nghĩa này, [mới
biết] chúng ta rất may mắn. V́ cái tâm tham, sân, si của
Bổ Đặc Già La rất nặng. Đức Phật
v́ cứu độ loại chúng sanh này, thấy các loại
bệnh của họ, không chỉ là thân thể sanh bệnh.
Hễ có phiền năo, th́ đấy là bệnh trạng, có
đủ loại bệnh phiền năo. Không chỉ là bệnh
tật nơi thân thể, mà tâm lư cũng có bệnh, cũng
mắc đủ loại bệnh phiền năo. Giống
như một quốc gia có rất nhiều nguy nan hiểm
trở. Bất luận Đại Lục cũng thế,
Đài Loan cũng thế, Gia Nă Đại cũng thế,
Hoa Kỳ cũng thế, chúng ta từ đây nh́n vào, [sẽ
thấy] mỗi vị đại vương quán đảnh
Sát-đế-lợi đều c̣n cách biệt
rất xa yêu cầu “quốc giới thanh tịnh”! V́ thời
đại này khác hẳn, tham, sân, si đặc biệt nặng
nề, thời đại này tuyệt đối bất
đồng. Những ǵ quư vị gặp gỡ, trông thấy
hằng ngày, cho đến những ǵ quư vị suy tưởng,
nghĩ ngợi đều thuộc về các căn bệnh
tham, sân, si khác biệt. Như Lai hiểu rành mạch. Đức
Phật và các vị đại Bồ Tát nếu muốn
độ các chúng sanh đó, chẳng phải là tùy tiện mà có thể
độ được.
Trong
phẩm thứ tám của kinh Địa Tạng, vua Diêm La
và đại quỷ vương nói: “Địa Tạng Bồ
Tát đă phát đại nguyện lớn dường ấy,
v́ sao vẫn độ chưa xong? V́ sao đă độ
xong, sau đó, họ lại trở
vào? Mới từ địa ngục thoát ra, hầu như
trở lại ngay”. Đức Phật bèn bảo các vị
đại quỷ vương: “Chúng sanh trong cơi Diêm Phù
Đề ương ngạnh, khó điều ḥa, khó chế
phục”. [Ở đây, đức Phật dạy] quư vị
phải sửa sang quốc giới sao cho địch nhân chẳng
thể xâm nhập; quả thật
[điều này] rất khó đạt được. Chỉ
sợ rằng quốc vương hiện thời chẳng
có năng lực này. Từ trên trời bay đến, từ
dưới đất ḅ lên. Tu phước nghiệp có thể
miễn trừ. Nếu chẳng tu phước nghiệp,
làm người c̣n chưa dám nói chắc, quư vị có thể
nghĩ ra biện pháp nào để đối trị.
Lũ lụt, băo tố, hỏa hoạn, có cách nào hay không?
Chư Phật, Bồ Tát hiểu nỗi thống khổ của
chúng sanh, các Ngài sanh khởi vô lượng phương tiện và thế
lực tinh tấn, dũng mănh. Điều này cần phải
do vô lượng kiếp tinh tấn tu hành, giống như
các đạo hữu đă phát đại Bồ Đề
tâm cứu độ chúng sanh. Chính quư vị trễ tràng, giải
đăi, th́ ngay cả chính ḿnh c̣n chẳng cứu được,
làm sao cứu nổi người khác? Ắt phải tinh tấn!
Xác
thật là chúng ta dũng mănh chưa đủ! Chẳng phải
là dũng mănh đối với người khác, mà là
dũng mănh đối với phiền năo của chính ḿnh.
Chính ḿnh đối với tham sân của
chính ḿnh, phải dũng mănh hơn! Nếu bại
trận, sân tâm của quư vị vĩnh viễn càng ngày càng
to. Phải dũng mănh tiêu trừ, khắc chế nó, phải
dùng sức mạnh nào? Phải nhẫn nại. Nhẫn rất
khó! [Trong chữ Hán, chữ Nhẫn (忍)] là trên chữ
Tâm (心) cắm một thanh Đao (刀). Quư vị nhẫn
bằng cách nào? Thường là khi chúng ta bực bội, sẽ
chẳng thể nhẫn được! Cổ nhân nói: “Nóng
giận như mănh hổ xuống núi”. Khi một người
nổi trận lôi đ́nh, khi tâm sân hận dấy lên, ai
khuyên người ấy cũng chẳng nghe lọt tai, phải cậy vào trí
huệ của chính ḿnh để chế ngự. Dùng sức
nhẫn nại, dùng sức hàng phục để đừng
nổi giận. Hăy thường tươi cười hoan
hỷ với người khác, học theo ḷng từ bi của
Di Lặc Bồ Tát. Quư vị khiến người ta khóc
lóc, người ta cũng khóc lóc trả lại. Người
ta chửi quư vị, quư vị vẫn cười với họ.
Họ đánh quư vị, quư vị vẫn dùng khuôn mặt
tươi cười đối với họ, họ sẽ
bó tay, cũng chẳng đánh nổi nữa. Đấy là
tâm sân hận. Đối với tâm tham cũng thế. Tham,
sân, si đều chẳng sai biệt cho mấy!
Đức
Phật đối đăi loại chúng sanh này, chính ḿnh tinh tấn,
dũng mănh, dùng sức trí huệ, dùng phương tiện
thiện xảo, dùng sức mạnh ấy. Nhưng vẫn
phải biết xem xét căn cơ, xem chúng sanh này hẳn là
mắc phải loại bệnh nào, phải uống mấy
loại thuốc. Kẻ có ḷng sân hận lẫn tham lam nặng
nề, quư vị khuyên bảo họ: “Đừng nổi
nóng!” Họ sẽ tin ư? Họ chẳng hề tin đâu
nhé! Nếu thế lực của quư vị mạnh hơn họ,
tâm sân hận của họ sẽ sanh khởi, muốn đánh lộn.
Họ muốn đánh nhau, nếu quư vị chế phục
họ, đánh bại họ, cái tâm sân hận của họ
cũng chẳng có, khiến cho họ liền thành thật.
“Cường lăng nhược, chúng bạo quả”
(mạnh hiếp yếu, đông hiếp ít). Hai chữ “thế
lực” hàm chứa ư nghĩa này. Chúng ta biết Quan Thế
Âm Bồ Tát tại đất Hán hiện tướng từ
bi, phần lớn thị hiện tướng nữ nhân. Ở
Tây Tạng, Ngài thị hiện tướng hộ pháp, tức
là tướng Dạ Xoa hung mănh.
Những
điều này thuộc về các loại diệu dược
tu Định. Diệu dược sanh ra diệu lạc, trị
các loại bệnh tham, sân, si cho quư vị. Dựa vào những
ǵ? Cậy vào định lực. Quư vị nói “chẳng tham”,
như có một đạo hữu hướng về tôi
sám hối: Lúc ông ta ở trong một ngôi chùa, khi rời
đi, nhất định phải lấy trộm một vật
mang đi. Nếu chẳng lấy một món đồ nào,
trong ḷng đúng là khó chịu lắm. Bất luận ở
trong ngôi chùa miếu nào, dẫu ngôi chùa ấy nghèo nàn đến
mấy đi nữa, ông ta cũng phải cầm một món
đồ đi. Thật ra th́ cũng chẳng lấy ǵ.
Ông ta lấy món đồ cúng nào đó trước tượng
Phật mang đi, vừa bước ra ngoài, đều
đưa cho người khác, hoàn toàn chẳng phải chiếm
dụng làm của riêng cho ḿnh. Về sau, ông ta xin sám hối
với tôi, nói: “Con chẳng hiểu v́ sao! Trong tâm biết rơ
là sai lầm, biết là đă phạm Căn Bản Giới,
biết đấy là ăn trộm vật của
Tam Bảo, chẳng thể nào không đọa địa ngục,
lại c̣n là đọa xuống địa ngục Vô Gián.
Biết th́ biết thế, nhưng vẫn
cứ làm như vậy! Hôm nay, con thưa với Ngài
cũng coi như sám hối. Con nói ra, chắc là về sau sẽ
có thể chẳng làm nữa!” Tôi nói: “Nói với một
người th́ chưa được! Ông đến ngôi
chùa nào, bèn nói với [mọi người trong] ngôi chùa ấy,
tôi sẽ lấy trộm đồ, quư vị phải chú ư
tôi, canh chừng tôi, khiến cho tôi đừng trộm cắp.
Hoặc là quư vị sám hối giùm tôi. Dũng khí ấy chẳng
dễ ǵ mà có được. Khi ăn trộm đồ vật
của người ta, ông phải nói trắng ra cho người
ta biết. Sau đấy, người ta sẽ ngăn chặn
ông. Điều này rất khó khăn!”
Ai
nấy đều có ḷng tham. Nếu triệt để
đoạn dứt căn bản phiền năo, quư vị sẽ
thành tựu. Chẳng đoạn được! Chẳng
có cái tâm trộm cắp, bất quá có cái tâm chiếm tiện
nghi, sợ rằng rất nhiều
người đều có. Cũng có người chẳng
chiếm tiện nghi của kẻ khác. Phàm là vật của người khác, trọn
chẳng sanh vọng tưởng. Loại người này
thiện căn trong quá khứ rất sâu dầy, thấy vật
thuộc về kẻ khác, không chỉ là vật thuộc về
con người, mà đối với hết thảy các vật
phẩm, hết thảy vật chất, người ấy
đều chẳng sanh ḷng tham ái, huống hồ sẽ chiếm
hữu ư? Vật của chính ḿnh c̣n mong xả, thậm
chí quán tưởng thân thể của chính ḿnh, biết là giả,
ai muốn, ta cũng cho người đó. Bất quá, tôi thấy
tại Đài Loan, những người hiến các bộ
phận thân thể, chờ chết rồi mới lấy,
tôi nói: “Nếu quư vị thật sự phát Bồ Đề
tâm, sẽ cho người khác chẳng bận tâm. Ai cần
cứ lấy trên thân tôi, tôi cho người đó”.
Tôi
từng hỏi bác sĩ, tôi nói: “Giả sử tôi đă tám
mươi tuổi, tôi muốn bỏ các bộ
phận trên thân tôi cho người ngoài ba mươi tuổi
th́ có thích hợp hay không? Có được hay không?” Ông ta
nói: “Cũng chẳng sống được mấy ngày. Gắn
vào th́ cũng vẫn được, cũng tùy thuộc thể
lực của thầy, tùy thuộc các cơ quan của thầy
mạnh hay yếu. Nếu cơ quan hay thân thể có bệnh,
thầy buông xả, ghép vào thân người khác. Vốn các
cơ quan khác của người ấy chẳng có vấn đề
ǵ, khi chuyển cơ quan của thầy qua thân người
ấy, không được rồi, đâm ra người ấy
lại bị tổn thương”. Bác sĩ hiểu rất
rơ chuyện này. Nếu thật sự hiến cơ quan th́
hăy xả ngay khi ấy, cho người khác là được
rồi. Luyến tiếc, đợi sau khi chết, quư vị
chết đi, dẫu sao cũng bị thiêu hủy, quư vị
chẳng làm chủ được, có xả hay không cũng
bằng không! Bất quá, quư vị chẳng phát cái nguyện
ấy, khi chẳng xả, người khác chẳng dám cắt
lấy cơ quan của quư vị. Nếu không, sẽ là phạm
tội!
Do
vậy, ắt cần phải có diệu dược
dũng mănh tu Định này th́ mới trừ được.
Ngay cả đối với thân thể của chính ḿnh, cũng
thường tu Quán như vậy, th́ sẽ có Định lực.
Đă có loại Định lực ấy, quư vị c̣n có
ǵ chẳng xả
được, c̣n muốn trộm đồ vật
của người khác nữa ư? Tự nhiên là chẳng
có! Phải thường quán tưởng nhẫn nhục,
chẳng nổi nóng với bất cứ ai. Hễ gặp
phải chuyện trái ư, chuyện chẳng vừa ḷng, hoặc
bị người khác chèo kéo, chính ḿnh ngay lập tức cảnh
giác: “Đấy là cơ hội tốt để ta tu hành!
Đấy là cơ hội tốt cho ta sám hối”. Nếu
thường suy nghĩ như vậy, tham, sân, si của quư
vị hiện tiền, sẽ có thể đối trị
như vậy, c̣n có ngu si nữa hay không? Đấy là có trí
huệ. Chẳng có trí huệ, sẽ chẳng
làm được! Luyện tập đối trị tham,
sân, si của chính ḿnh, gặp loại cảnh giới này hiện
tiền, sẽ khắc phục được! Đức
Phật đă đáp ứng ban cho chúng ta loại diệu
dược ǵ? Chính là các pháp ấy! Quư vị học theo
phương pháp của đức Phật. Khi học, phải
chuyên ṛng, siêng năng học tập.
Tôi
nghĩ mọi người vào lúc ấy, [chẳng hạn
như] nếu tôi quở trách quư vị, hoặc có vị
đạo hữu nào nói đụng chạm quư vị mấy
câu, hoặc quư vị ngủ gục, người khác
đánh thức quư vị ngay lập tức, quư vị sẽ
thường sanh khởi tâm sân hận. Nếu khi tôi không
nói, [khi bị đánh thức, kẻ đó sẽ cáu kỉnh]: “Ông nghe th́ nghe, [tôi ngủ] mắc mớ
ǵ đến ông?” Tôi xác thực
đă thấy chuyện ấy. Hai người căi cọ,
tôi hỏi: “Hai vị căi lẫy chuyện ǵ vậy?” Người
kia nói: “Người này ngủ gục, tôi kêu ổng xốc
lại tinh thần đôi chút”. Khi đó, tôi đang giảng
kinh Hoa Nghiêm ở chùa Nam Phổ Đà, tôi nói: “Về sau, hăy
chú ư một chút, người ta giúp đỡ quư vị, hăy
nên sám hối ḿnh đă si [v́ ngủ gục]”. Sau đó c̣n nổi
sân [khi được nhắc nhở], tham, sân, si đều trọn đủ!
Tôi nói [với người kia]: “Quư vị giúp đỡ
người ấy, vốn là chuyện tốt. Quư vị lại
căi nhau với người ta, sân tâm lại phát lên th́
cũng như quư vị chẳng giúp người ta chi hết”.
Rất khó! Khi chúng tôi giảng bộ kinh này, quư vị có một
tia quang minh, tham, sân, si đều bị chế ngự,
ngăn chặn.
Trường
kỳ học tập như vậy; nếu có thể chuyên
ṛng, siêng năng học tập, sẽ giảm thiểu bệnh
khổ của quư vị. Bệnh khổ lớn nhất của
con người chính là bệnh phiền năo, trọn chẳng
phải là thân thể bị bệnh ung thư. Các thứ khác đều
có thể chuyển biến, nhưng tâm tham rất khó chuyển
biến. Quư vị mong chuyển biến tham, sân, si, rất
khó! Chúng nó theo quư vị từ vô lượng đời đến nay, xoay chuyển chúng bằng cách nào? Bệnh
tật trong hiện thời chỉ là bệnh trong một
đời này. Hễ đời này chẳng c̣n nữa, lại thay
đổi diện mạo, chẳng biết sẽ biến
thành bộ dạng chi nữa. Chúng ta ở nơi đây,
tướng nam, tướng nữ, tướng già, tướng
trẻ, luôn luôn chuyển hóa. Trước khi thành Phật,
đều là như thế. Mọi người đều
biết Đề Bà Đạt Đa chống đối
đức Phật nhất, bị đọa địa ngục.
Nhưng trong quá khứ, ông ta là vị thầy nói pháp Đại
Thừa cho đức Phật, chúng ta thường chỉ
nh́n vào tướng cảnh giới trước mắt.
(經)若諸有情,宜修不淨除煩惱病,即便授以修不淨藥。若諸有情,宜修梵住除煩惱病,即便授以修梵住藥。若諸有情,宜修緣起除煩惱病,即便授以修緣起藥。若諸有情,宜修息念除煩惱病,即便授以修息念藥。若諸有情,宜可修於三解脫門除煩惱病,即便授以修於三種解脫門藥。若諸有情,宜修靜慮除煩惱病,即便授以修靜慮藥。若諸有情,宜修無色除煩惱病,即便授以修無色藥。若諸有情,乃至宜修首楞伽摩諸三摩地除煩惱病,即便授以首楞伽摩三摩地藥。
(Kinh:
Nếu các hữu t́nh, đáng nên tu bất tịnh để
trừ bệnh phiền năo, liền trao cho thuốc tu bất
tịnh. Nếu các hữu t́nh, đáng nên tu phạm trụ,
để trừ bệnh phiền năo, liền trao cho thuốc
tu phạm trụ. Nếu các hữu t́nh, đáng nên tu duyên
khởi, để trừ bệnh phiền năo, liền trao
cho thuốc tu duyên khởi. Nếu các hữu t́nh, đáng
nên tu dứt niệm, để trừ bệnh phiền
năo, liền trao cho thuốc tu dứt niệm. Nếu các hữu
t́nh, đáng nên tu ba môn giải thoát để trừ bệnh
phiền năo, liền trao cho thuốc tu ba loại giải
thoát môn. Nếu các hữu t́nh, đáng nên tu Tĩnh Lự,
để trừ bệnh phiền năo, liền trao cho thuốc
tu Tĩnh Lự. Nếu các hữu t́nh, đáng nên tu Vô Sắc
để trừ bệnh phiền năo, liền trao cho thuốc
tu Vô Sắc. Nếu các hữu t́nh, cho đến đáng nên
tu các tam-ma-địa như Thủ Lăng Già Ma để
trừ bệnh phiền năo, liền trao cho thuốc Thủ
Lăng Già Ma tam-ma-địa).
Hết
thảy hữu t́nh đáng nên tu Bất Tịnh Quán, ta sẽ
cho họ tu Bất Tịnh Quán để trị bệnh
phiền năo, trao cho họ thuốc Bất Tịnh, nói cho họ
pháp Bất Tịnh Quán để đối trị. Họ
chịu uống thuốc ấy, cũng tức là họ
nghe pháp, bệnh sẽ lành. Có các chúng sanh, đáng nên tu Phạm
Trụ. Phạm Trụ là thanh tịnh, tu hạnh thanh tịnh,
hoặc là tŕ giới, hoặc nhẫn nhục, đều
là phạm hạnh. Phạm (梵) có nghĩa là “thanh tịnh”,
trừ bệnh phiền năo. Ta sẽ cho họ thuốc tu Phạm Trụ. Tu Tứ Niệm
Xứ, hoặc là tu Ngũ Căn, tu Ngũ Lực đều
được.
“Nhược
chư hữu t́nh, nghi tu duyên khởi” (nếu các hữu
t́nh đáng nên tu duyên khởi): Hiểu hết thảy các
pháp sanh bởi nhân duyên, chẳng có thật thể. Các chúng
sanh ấy tu Không Quán rất khá, liền nói pháp duyên khởi
cho họ. Hết thảy các pháp là duyên khởi, hết thảy
các pháp vô tự tánh, bản thể của hết thảy
các pháp là rỗng không. Đó gọi là “duyên khởi tánh
Không”.
“Nhược
chư hữu t́nh, nghi tu Tức Niệm” (nếu các hữu
t́nh đáng nên tu Tức Niệm): Tức Niệm (息念) là ngưng dứt tạp niệm, như “tŕ khứ
lai niệm” (giữ vững niệm qua lại, tức Sổ
Tức Quán) cũng được. Đấy là dứt vọng.
Dứt vọng sẽ có thể diệt trừ bệnh phiền
năo của quư vị.
“Nhược
chư hữu t́nh, nghi khả tu ư tam giải thoát môn”
(nếu các hữu t́nh đáng nên tu ba môn giải thoát):
Cũng chính là ba môn giải thoát Không, Vô Tướng, và Vô Nguyện. Đấy là tu Không Quán, tu Vô Tác, tu Vô
Tướng. Đó là ba môn giải thoát, sẽ trao cho họ
thuốc Tam Giải Thoát Môn.
“Nhược
chư hữu t́nh, nghi tu Tĩnh Lự” (nếu các hữu
t́nh đáng nên tu Tĩnh Lự): Tĩnh Lự là Định.
Tu tam-muội, tức là dùng Định để trừ bệnh
phiền năo. Như vậy th́ sẽ trao cho họ thuốc tu
Tĩnh Lự.
“Nhược
chư hữu t́nh, nghi tu Vô Sắc” (nếu các hữu
t́nh đáng nên tu Vô Sắc): Vô Sắc là trừ bệnh phiền
năo. Trong phần trước, đă nói đến Vô Sắc
Xứ Định, quán hết thảy các pháp chẳng có
h́nh tướng, cũng tương tự như tu Không
Tướng. Vô Sắc là có thể là đối với
ngũ uẩn Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
dùng sắc pháp để đại diện. Trong phần
trước nói về tu tâm, c̣n ở đây là tu Sắc.
“Nhược
chư hữu t́nh, năi chí nghi tu Thủ Lăng Già Ma chư
tam-ma-địa” (nếu các hữu t́nh cho đến tu
các môn tam-ma-địa như Thủ Lăng Già Ma): Đây
cũng là đại định, tức Thủ Lăng Già
Ma tam-ma-địa định. Tu môn Định này chính là
môn Định rốt ráo, là môn Định rất sâu vô
thượng trong một trăm lẻ tám môn tam-muội.
Như vậy th́ bèn trao truyền thuốc Thủ Lăng
Già Ma tam-ma-địa.
(Kinh)
Sở dĩ Như Lai thọ chư hữu t́nh như thị
pháp dược, bất linh nhất thiết sở hóa hữu
t́nh, vi tứ ma oán chi sở hệ nhiếp, bất linh nhất
thiết sở hóa hữu t́nh, bối nhân thiên thừa,
hướng chư ác thú, bất linh Như Lai vô thượng
pháp nhăn, Tam Bảo chủng tánh tốc tật hoại diệt.
(經)所以如來授諸有情如是法藥,不令一切所化有情為四魔怨之所繫攝,不令一切所化有情背人天乘向諸惡趣,不令如來無上法眼三寶種姓速疾壞滅。
(Kinh:
Do Như Lai trao cho các hữu t́nh pháp dược như thế,
chẳng khiến cho hết thảy hữu t́nh được
hóa độ bị bốn thứ ma oán trói buộc, nhiếp
thọ, chẳng để cho hết thảy hữu t́nh
được hóa độ trái nghịch nhân thiên thừa,
hướng đến các đường ác, chẳng
để cho vô thượng pháp nhăn của Như Lai và chủng
tánh Tam Bảo bị hoại diệt nhanh chóng).
“Như
Lai thọ chư hữu t́nh như thị pháp dược,
bất linh nhất thiết sở hóa hữu t́nh, vi tứ
ma oán chi sở hệ nhiếp” (Do Như Lai trao cho các hữu
t́nh pháp dược như thế, chẳng khiến cho hết
thảy hữu t́nh được hóa độ bị bốn
thứ ma oán trói buộc, nhiếp thọ): Đây là nói
chung. Trao cho thuốc Thủ Lăng Già Ma tam-ma-địa sẽ
là rốt ráo. Đối với pháp được nói trong
các loại pháp dược ấy, nếu họ chịu tiếp
nhận, chịu thọ tŕ, th́ coi như đă uống thuốc.
Đă uống thuốc, sẽ chẳng có phiền năo.
Đây là Phật Luân thứ bảy. Phật Luân này khiến
cho hết thảy hữu t́nh chẳng bị tứ ma “hệ
nhiếp” (繫攝), “hệ”
(繫) là trói buộc,
“nhiếp” (摄) là nhiếp tŕ. Tứ
Ma th́ thứ nhất là Ngũ Uẩn Ma. Ngũ Uẩn là Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức; đấy là một thứ
ma. C̣n có Phiền Năo Ma. Phiền Năo bao gồm Kiến Tư
phiền năo. C̣n có Tử Ma. Chúng ta hết sức sợ hăi
Tử Ma, chẳng có ai muốn chết! Chẳng đặng
đừng, tự sát cũng có. Chết là chẳng thoải
mái. Hễ tự sát, so với người chết b́nh
thường sẽ đau khổ gấp bội, xuống
địa ngục nhanh như tên bắn. Quư vị nói chẳng
thể chịu nổi phiền năo này, mong trốn thoát trách
nhiệm, tự sát cho xong chuyện. Hễ chết là hết
chuyện! Đấy cách nghĩ tưởng tuyệt đối
sai lầm! Trong giới luật, tự sát và sát nhân có cùng một
tội lỗi, chớ nên tự sát!
Lúc
đức Phật tại thế, có những vị tỳ-kheo
vâng lời đức Phật dạy, tu tŕ Bất Tịnh
Quán. Họ chán ghét thân thể khôn cùng, đă tu Bất Tịnh
Quán sâu rồi, thấy thân thể này đúng là gịi bọ, tạp uế khôn kham! Họ phiền chán thân thể của
chính ḿnh tới cực điểm. Đă tu Bất Tịnh
Quán thành tựu, sẽ có hiện tượng ấy,
nhưng họ chẳng phát tâm Bồ Đề, chẳng niệm
niệm độ chúng sanh. Do vậy, họ tu thành Bất
Tịnh Quán suông, chỉ nghĩ sao cho chính ḿnh được
siêu thoát sạch sẽ! Nếu là độ chúng sanh, có
đại Bồ Đề tâm, họ sẽ chẳng tự
sát. Họ nhận thấy hết thảy chúng sanh đều
là như vậy, đáng tiếc là chúng sanh chẳng hiểu
rơ, bèn dùng hiện tượng thật tế của chính ḿnh
để nói cho mọi người biết. Họ nói ra,
người khác cũng chẳng thấy.
Họ
tự quán chiếu, tu Bất Tịnh Quán đă thành công, [do
chẳng có Bồ Đề tâm], sẽ làm như thế
nào? Tự sát chẳng được, họ bèn mượn
tay các ngoại đạo Ấn Độ, đem y phục,
vật dụng cho các ngoại đạo ấy, xin họ
giết ḿnh. Các ngoại đạo v́ tiền, bèn giết
chết họ. Về sau, đức Phật biết
được, chẳng cho phép tự sát, người khác
giết cũng không được. Tự ḿnh giết
cũng không được, mà mượn kẻ khác giết
cũng không được! Đấy là nói tới chuyện
cũ trong giới luật. Phải quán tưởng cái chết
ấy như thế nào? Chết là chướng ngại cho
sự tu đạo của chúng ta. Nếu quư vị đang
tu đạo, tử thuộc về phi mạng. “Phi mạng”
có nghĩa là không đáng chết, là nhân duyên chướng
đạo. Chướng ngạo này được coi là một
loại Ma, gọi là Tử Ma.
C̣n
có Thiên Ma. Thiên Ma là nói đến quỷ thần. Khi quư vị
tu đạo đến một mức độ nhất
định, lúc sắp thành tựu, thiên ma sẽ t́m tới,
hóa hiện đủ loại tướng. Như khi Thích Ca
Mâu Ni Phật sắp thành Phật, ma vương Ba Tuần
liền suất lănh bọn ma binh, ma tử đến vây
quanh, quấy nhiễu đức Phật. Thiên ma gây chướng
ngại cho quư vị. Đó là Thiên Ma. Quư vị đọc
kinh, thấy quỷ, hoặc có quỷ đến, thân thể
phát sốt, hoặc thấy tướng chi đó. Đấy
chẳng phải là chuyện xấu. Nếu chẳng phải
là quyến thuộc của quư vị, sẽ không thể
đến trước mặt quư vị. Chẳng phải
là cha mẹ nhiều đời trong quá khứ, hoặc lục
thân quyến thuộc của quư vị, sẽ chẳng
đến trước mặt được! Họ t́m tới
mong quư vị siêu độ, đâu có biết là quư vị sợ
hăi. Họ chỉ biết quư vị là người nhà của
họ, cho nên họ t́m đến. Kẻ t́m đến, tùy
thuộc là loại người nào, nếu là loại chúng
sanh có oai thần rất lớn, thân thể quư vị sẽ
cảm thấy nóng bừng. Nếu là chư thiên, hoặc
thiên thần tới nghe quư vị niệm kinh Địa Tạng,
niệm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, niệm
phẩm Phổ Môn, quư vị có cảm ứng, tương
thông với họ, họ đến tăng phước, quư
vị sẽ cảm thấy trên thân ḿnh nóng bừng. Quỷ
thật sự đến, quư vị sẽ cảm thấy
thân thể rét run, rét từng chập, lạnh từng chập.
Quư vị cứ tiếp tục niệm kinh, coi như chẳng
có chuyện ǵ. Đến khi quư vị niệm xong, sẽ chẳng
có chuyện ǵ cả! Có người [sợ hăi] chẳng niệm,
nói: “Tôi không niệm nữa th́ sẽ chẳng có [những
chuyện đáng sợ ấy]”. Tôi nói: “Quư vị chẳng
niệm, đương nhiên là chẳng có”. Người
đó nói: “Tôi vĩnh viễn không niệm nữa!” Tôi nói:
“Vĩnh viễn chẳng niệm là hỏng mất rồi!
Quư vị cứ tiếp tục niệm, sẽ chẳng có
chuyện ǵ!” Đó là chướng ngại, đấy chẳng
phải là ma, phải phân biệt rơ ràng!
Khi
Phật Luân vận chuyển, sẽ khiến cho những
người ấy đều chẳng trái nghịch nhân
thiên thừa, hoặc là làm người, hoặc sanh lên trời.
Tối thiểu là chẳng trái nghịch nhân thiên thừa,
chẳng tiến hướng ba ác đạo. Đồng
thời, khiến cho pháp của Như Lai, khiến cho pháp
nhăn của Như Lai và chủng tánh Tam Bảo chẳng bị
hoại diệt. Khiến cho các hữu t́nh được
hóa độ chẳng trái nghịch nhân thiên thừa, chẳng
hướng theo đường ác. Đối với pháp
nhăn của Như Lai và chủng tánh Tam Bảo, sẽ khiến
cho chẳng bị hoại diệt. “Hoại diệt nhanh
chóng” là như chúng ta đối với pháp của Thích
Ca Mâu Ni Phật đă hoại diệt rất nhanh chóng: Chánh
Pháp năm trăm năm, Tượng Pháp năm trăm
năm, Mạt Pháp một vạn năm. Tuy nói như vậy,
nhưng các điều ấy đều chẳng chuẩn
xác, tùy thuộc nghiệp của chúng sanh như thế nào?
Thời Mạt Pháp, cũng vẫn có chánh pháp tồn tại.
Chỉ cần có người đọc tụng Đại
Thừa, có Tam Bảo hiện diện, có tượng Phật,
có Pháp Bảo, có Tăng chúng, tức là có Tam Bảo, có chỗ
cho chúng ta gieo phước th́ [thời Mạt Pháp] có thể
trở thành Chánh Pháp.
Nay
chúng ta đang học tập, đó là Chánh Pháp. Nếu rời chỗ
này đi tạo tội th́ sẽ là Mạt Pháp. Ư nghĩa của
việc phân chia thành các thời điểm Chánh Pháp, Tượng
Pháp và Mạt Pháp chính là: Chánh Pháp là nói theo ư nghĩa chánh
đạo và thành đạo. Vừa vào trong Phật pháp, vừa
nghe giảng, bèn khai ngộ, bèn hiểu rơ, đó sẽ là
Chánh Pháp. Cho đến lúc Mạt Pháp th́ hằng ngày đều
học mà phiền năo chẳng dễ đoạn. V́ sức
huân tập của chúng ta chẳng đủ, cũng có lẽ suốt
mấy tháng chỉ nghe giảng một hai buổi, hoặc
là mấy năm mới nghe một lần, tu th́ tu vậy,
nhưng tu như thế nào? Đức Phật yêu cầu
chúng ta nghe pháp xong, tu ngay lập tức. Đă tu bèn chứng
đắc. Điều đó gọi là “chuyên ṛng, siêng
năng dũng mănh” th́ mới có thể trừ phiền
năo.
(Kinh)
Do thị Như Lai thọ chư hữu t́nh như thị
pháp dược. Thiện nam tử! Ngă thành như thị
đệ thất Phật Luân. Do thử luân cố, dĩ kỳ
vô thượng Biến Hành hạnh trí, thọ chư chúng
sanh chủng chủng pháp dược, linh cần tu học,
trừ phiền năo bệnh, đắc an ổn trụ,
đắc vô kinh khủng, đắc vô sở úy, tự
xưng ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển ư Phật
Luân, tồi chư thiên ma, ngoại đạo tà luận, xử
đại chúng trung, chánh sư tử hống.
(經)由是如來授諸有情如是法藥。善男子,我成如是第七佛輪。由此輪故,以其無上徧行行智,授諸眾生種種法藥,令勤修學除煩惱病,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,摧諸天魔外道邪論,處大眾中正師子吼。
(Kinh:
Do vậy Như Lai trao pháp dược như thế cho các
hữu t́nh. Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật
Luân thứ bảy như thế. Do v́ luân ấy, dùng hạnh
trí Biến Hành vô thượng, trao các loại pháp dược cho các
chúng sanh, khiến họ siêng tu học, trừ bệnh phiền
năo, được trụ trong an ổn, được chẳng kinh hoảng, được chẳng sợ hăi, tự xưng ta thuộc địa
vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, dẹp
tan tà luận của thiên ma và ngoại đạo, ở
trong đại chúng thực hiện sư tử hống).
Địa Tạng Bồ Tát hỏi như vậy,
đức Phật trả lời đến Phật Luân thứ
bảy như thế. “Biến Hành” (徧行, Sarvatraga) có năm
món, đối ứng với Biệt Cảnh (別境)[7]. Năm
món Biến Hành [trong Tâm Sở pháp] là Tác Ư (作意, Manasi-kāra), Xúc (觸, Sparśa), Thọ
(受, Vedanā), Tưởng
(想, Saṃjñā), và Tư
(思, Cetanā). Món thứ
nhất là Tác Ư. Tác Ư là tâm chúng ta suy tưởng
như vậy, vận dụng ư niệm suy nghĩ. Thọ
là tiếp nhận. Tiếp nhận các h́nh tướng ǵ?
Người ta đánh quư vị, quư vị sẽ cảm thấy
đau. Người ta xoa bóp, quư vị sẽ cảm thấy
thoải mái, chẳng nói ra ngoài h́nh tướng được.
Đó là ư nghĩa “tiếp nhận”. Chẳng hạn
như nếu người khác tán dương quư vị, quư vị
cũng tiếp nhận âm thanh ấy. Chửi bới th́ quư
vị tiếp nhận, sẽ sanh khởi phiền năo, hoặc
sẽ căi lộn với kẻ đó. Người khác tán
dương quư vị, trong tâm quư vị khoái trá. Thọ thuộc
về tâm pháp, chẳng thể dùng h́nh tướng để
h́nh dung. Tưởng cũng là “biến” (徧, trọn khắp). Biến Hành khác với
Biệt Cảnh. “Biến” có nghĩa là “trọn khắp hết thảy mọi
nơi”. Tưởng là suy nghĩ, nghĩ tưởng. Để
tưởng, quư vị phải Tác Ư (khởi lên ư niệm, vận
dụng tâm tư). Tác Ư khác với Tưởng đôi chút.
Tưởng chỉ là Tư Duy, c̣n Tác Ư là nghĩ tới
cách thức [để thực hiện]. Trong Đại Thừa
Bách Pháp Minh Môn Luận, điều này đă được
giải thích rất rơ ràng. Món thứ tư là Tư, Tư
và Tưởng thường liên quan với nhau. Tư là
tư duy, tự ḿnh tư duy. C̣n Tưởng th́ có lúc thêm vào hồi ức; do vậy, có sai
khác đôi chút. Xúc là tiếp xúc. Xúc và Thọ dường
như giống nhau, nhưng thật ra, chúng hoàn toàn chẳng
giống nhau.
Năm
món Biến Hành ấy, do vô thượng Biến Hành, sẽ
dẫn khởi phiền năo. Đối với điều
này, phải có trí huệ. Nếu chẳng có trí huệ, sẽ
chẳng thể đoạn phiền năo. Nếu quư vị
siêng năng, chuyên ṛng, sẽ trừ được bệnh
phiền năo, được trụ trong an ổn, chẳng
kinh hoảng, mà cũng chẳng sợ hăi, chẳng bị sợ
sệt. Đức Phật tự xưng Ngài thuộc địa
vị đại tiên tôn quư, thuộc vào địa vị
Phật, chuyển pháp luân của Phật. Luân ấy có thể
dẹp tan tà luận của hết thảy thiên ma và ngoại
đạo, ở giữa đại chúng mà sư tử hống.
(Kinh)
Thiện nam tử! Như Sát-đế-lợi quán đảnh
đại vương, ức niệm tự tha bổn tích
chủng tánh, sơ sanh, đồng tử hy hư đẳng
sự, vị ức tự tha ư như thị xứ,
sơ sanh mộc dục, hoài băo nhũ bộ, án ma chi tiết,
năi chí hư tiếu, hoặc lộng hôi thổ, hoặc dữ
thị tùng chủng chủng ngao du, hoặc tập kỹ
nghệ, hoặc phục tu doanh chủng chủng sự
nghiệp, hoặc du tha quốc, túc dạ thê bạc, hoặc
phụng sự vương, hoặc lư vương vụ,
hoặc vi Thái Tử. Hoặc đăng vương vị,
đắc đại tự tại, thọ chư khoái lạc,
quảng đại danh xưng, biến chư phương
duy. Niệm thị sự dĩ, an lập tiên vương sở
tuân chánh pháp, phủ dục nhất thiết quốc độ
nhân dân, thủ hộ tự quốc, bất xâm tha cảnh.
Thiện nam tử! Sát-đế-lợi chủng quán đảnh đại
vương thành tựu như thị đệ bát
vương luân. Do thử luân cố, linh tự quốc
độ tăng trưởng an lạc, năng phục nhất
thiết oán địch, ác hữu, thiện thủ hộ
thân, linh tăng thọ mạng.
(經)善男子,如剎帝利灌頂大王,憶念自他本昔種姓,初生童子嬉戲等事;謂憶自他於如是處,初生沐浴懷抱乳哺,按摩支節乃至戲笑,或弄灰土,或與侍從種種遨遊,或習技藝,或復修營種種事業,或游他國夙夜棲泊,或奉事王,或理王務,或為太子,或登王位得大自在受諸快樂,廣大名稱遍諸方維;念是事已,安立先王所遵正法,撫育一切國土人民,守護自國不侵他境。善男子,剎帝利種灌頂大王,成就如是第八王輪。由此輪故,令自國土增長安樂,能伏一切怨敵惡友,善守護身,令增壽命。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Như đại vương
Sát-đế-lợi đă được quán đảnh
nghĩ nhớ bổn tích và chủng tánh của chính ḿnh lẫn
người khác, các chuyện như lúc mới sanh ra, vui
đùa khi c̣n là trẻ thơ v.v… tức là ḿnh và người
khác ở chỗ như vậy, lúc mới sanh được
tắm rửa, ẵm bồng, bú mớm, xoa bóp chân tay, cho
đến cười đùa, hoặc
nghịch tro, đất, hoặc cùng người hầu
ngao du các thứ, hoặc học tập nghề khéo, hoặc
là kiến lập, lo liệu các thứ sự nghiệp, hoặc
dạo chơi nước khác, hoặc trong đêm trú lại nghỉ ngơi, hoặc
phụng sự vua, hoặc lo liệu việc nước,
hoặc làm Thái Tử. Hoặc lên ngôi vua, được
đại tự tại, hưởng các vui sướng,
danh tiếng rộng lớn, trọn khắp các
phương. Nghĩ tới những chuyện ấy rồi
bèn an lập chánh pháp do tiên vương đă tuân hành để
vỗ yên, nuôi nấng hết thảy nhân dân trong quốc
độ, bảo vệ nước ḿnh, chẳng xâm lấn
nước khác. Này thiện nam tử! Đại
vương thuộc chủng
tánh Sát-đế-lợi đă được quán đảnh
thành tựu vương luân thứ tám như thế. Do v́
luân ấy, khiến cho nước ḿnh tăng trưởng
yên vui, có thể hàng phục hết thảy oán địch
và bạn ác, khéo thủ hộ cái thân, khiến cho thọ mạng
tăng trưởng).
Quốc
vương ấy nhớ lại quá khứ, bắt đầu
từ lúc c̣n là đứa bé, giống như mọi người,
hoặc là vọc tro, đất, hoặc là được
hầu hạ, rong chơi, hoặc là học tập các thứ
tài khéo, hoặc tu tập các thứ sự nghiệp, nhớ
lại những chuyện thuở làm đồ đệ, hoặc làm đệ tử. Nói những chuyện ấy
để làm ǵ? Nhớ lại lúc quá khứ, nhà vua sẽ
biết phải nên làm như thế nào trong hiện tại.
Vị đại vương quán đảnh ấy trong quá
khứ, chính ḿnh đă lúc trẻ thơ cho tới khi trưởng
thành, đă được trưởng thành dưới
pháp độ của tiên vương. Ông ta nhớ lại
pháp độ của tiên vương tốt đẹp ngần
nào! Ta phải phát triển. Những chỗ không tốt, ta
sẽ cải tiến, đó gọi là “cách mạng”.
Phàm là cách mạng, cải cách, tức là trừ bỏ những
phần không tốt đẹp, [thế nhưng] lịch sử
hoàn toàn phát triển trái ngược, diệt trừ những
cái tốt đẹp. Họ cách mạng theo kiểu chiếu
theo những cái xấu xa để thực hiện. Tôi thấy
lịch sử phát triển như thế đó. Phật
giáo đồ nói hoằng dương Phật pháp, [thế
mà] chẳng hoằng dương th́ c̣n đỡ, [Phật pháp] sẽ bị diệt
chậm một chút. Càng hoằng dương, càng bị diệt
lẹ! Phật đường càng nhiều, đệ tử
Tam Bảo giả mạo càng đông, mọi người ắt
cần phải có con mắt chánh pháp.
V́
thế, nhà vua nhớ quá khứ, phải dùng chánh pháp của
tiên vương, dùng các pháp do tiên vương đă áp dụng
cho quốc độ này để vỗ yên nhân dân hiện
thời trong nước, bảo vệ nước ḿnh thành
tựu tốt đẹp. Tốt lành như thế sẽ
khiến cho nhân dân trong nước của nhà vua có thể
an cư lạc nghiệp. Đấy là nhớ lại quá khứ,
Thích Ca Mâu Ni Phật cũng nhớ lại quá khứ!
(Kinh)
Thiện nam tử! Như thị Như Lai xử đại
chúng hội, ức niệm tự tha túc thế sở kinh
vô lượng chủng sự, vị ức nhất sanh, hoặc
nhị, hoặc tam, năi chí vô lượng bách thiên sanh sự,
hoặc ức thành kiếp, hoặc ức hoại kiếp,
hoặc ức vô lượng thành kiếp, hoại kiếp,
tằng ư quá khứ trụ như thị xứ, như
thị danh tự, như thị
chủng tánh, như thị chủng loại, như thị
ẩm thực, như thị lănh nạp khổ thọ, lạc
thọ, như thị thọ lượng, như thị cửu
trụ, như thị cực ư thọ lượng biên
tế, tùng bỉ xứ một, lai sanh thử gian, phục
tùng thử một, văng sanh bỉ xứ, ức niệm túc
thế như thị đẳng sự vô lượng, vô
biên, tùy chư chúng sanh căn tánh sai biệt, kiến lập
chánh pháp, vị tác nhiêu ích. Thiện nam tử! Ngă thành
như thị đệ bát Phật Luân.
(經)善男子,如是如來處大眾會,憶念自他宿世所經無量種事:謂憶一生,或二、或三乃至無量百千生事,或憶成劫,或憶壞劫,或憶無量成劫、壞劫;曾於過去住如是處,如是名字、如是種性、如是種類、如是飲食、如是領納苦受樂受、如是壽量、如是久住、如是極於壽量邊際;從彼處沒,來生此間,復從此沒,往生彼處;憶念宿世如是等事無量無邊,隨諸眾生根性差別,建立正法為作饒益。善男子,我成如是第八佛輪。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Như Lai ở trong các đại
chúng hội như thế, nghĩ nhớ vô lượng các
sự mà ḿnh và người đă trải qua trong các đời
trước, tức là chuyện trong một đời, hoặc
hai, hoặc ba, cho đến vô lượng trăm ngàn
đời, hoặc nhớ kiếp thành, hoặc nhớ kiếp
hoại, hoặc nhớ vô lượng kiếp thành, kiếp
hoại, từng trong quá khứ ở chỗ như thế,
tên gọi như thế, chủng tánh như thế, chủng
loại như thế, ăn uống như thế, nhận
lănh khổ thọ và lạc thọ như thế, thọ
lượng như thế, tồn tại lâu dài như thế,
cùng tột ngằn mé thọ lượng như thế, từ
chỗ kia chết, đến sanh trong cơi này, lại từ
cơi này mất đi, đến sanh trong chỗ kia. Nghĩ
nhớ các sự trong những đời trước
như thế, vô lượng, vô biên, tùy theo căn tánh sai biệt
của các chúng sanh mà kiến lập chánh pháp, ḥng tạo lợi
ích. Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật Luân thứ
tám như thế).
Trong
đại chúng hội, đối với hết thảy
các đệ tử do ta giáo hóa, đối với trăm
ngàn ức chúng sanh, đều làm ǵ? Thuyết pháp đúng
theo căn cơ. Hoặc là ở trong hoại kiếp, các
đệ tử ấy đều theo ta làm ǵ? Trong thành kiếp,
chúng ta đều làm ǵ? Trong một đại kiếp, có bốn
kiếp là Thành, Trụ, Hoại, Không. Thành kiếp gồm
hai mươi tiểu kiếp, Trụ kiếp gồm hai
mươi tiểu kiếp, Hoại kiếp gồm hai mươi
tiểu kiếp, Không kiếp có hai mươi tiểu kiếp.
Hoại kiếp là giai đoạn giữa Thành kiếp và
Không kiếp, thế giới đă sắp hủy diệt,
địa cầu hoàn toàn chẳng c̣n. Khi hư hoại
đến tột cùng, đại tam tai [xảy ra, thế
giới] chẳng c̣n nữa, rỗng tuếch! Sau đấy,
lại dần dần ngưng tụ, ngưng kết, tinh
vân (Nebula) lại dần dần h́nh thành. Giai đoạn
Thành gồm hai mươi tiểu kiếp, Trụ gồm
hai mươi tiểu kiếp. Nay chúng ta đang thuộc Trụ
kiếp, trọn chẳng phải là Hoại kiếp.
Trong
Trụ kiếp, nghĩ nhớ các nơi trong kiếp ấy,
đă trải qua thời gian nhiều ngần ấy, lại
c̣n trải qua rất nhiều chỗ. Trong kinh điển,
Thích Ca Mâu Ni Phật từng nói như thế này: Trong thế
giới Sa Bà này, tức trong tam thiên đại thiên thế
giới này, chẳng có chỗ nào chừng bằng vi trần
mà không phải là nơi Ngài xả thân mạng. Cũng tức
là nói Ngài ở trong thế giới Sa Bà độ chúng sanh
quá lâu! Cho đến [thời gian] làm chúng sanh trong thế giới
này cũng rất nhiều, xả thân mạng nhằm lợi
ích chúng sanh. Trong quá khứ, ta trụ ở nơi đây,
ngươi cũng trụ ở nơi đây. Người
khác ở nơi kia có tên gọi là ǵ. Các thứ chủng
tánh, chủng loại như thế nào, ăn những thực
phẩm ǵ, nhận lănh khổ thọ, lạc thọ, thọ
mạng khá nhiều, hoặc là sống lâu nơi đời,
hoặc là thọ mạng rất dài. “Tùng bỉ xứ một,
lai sanh thử gian” [nghĩa là] lại sanh đến chỗ
này, từ chỗ này chết đi, lại sanh sang chỗ
khác. Nghĩ nhớ các chuyện trong các đời trước
như vậy, vô lượng, vô biên, quá nhiều! Khi mọi
người đều thành Phật, nh́n lại một
phen, sẽ biết các sanh mạng trong quá khứ là vô lượng,
vô biên.
Trong
khi quư vị niệm kinh, nằm mộng là giả, chẳng
thật; nhưng khi tôi nằm
mộng, có khi đúng là thật! Lại nữa nằm mộng,
giấc mộng ấy là giả, nhưng có lúc, đầu
óc coi nó thành sự thật. V́ sao nói như vậy? Xác thực
là tôi có cảm giác ấy. Khi tôi ở Nữu Ước,
tôi nằm mộng, dường như là giấc mộng bắt
đầu từ thời Nguyên. Tối hôm nay, mộng vẫn
chưa xong, tỉnh giấc, tối mai chỉ cần đặt
đầu xuống gối, lại nằm mộng, giống
như viết tiểu thuyết theo lối từng
chương, từng hồi vậy. Giấc mộng ấy
sẽ được tiếp tục vào hồi thứ hai
như thế này, như thế nọ! Sau đấy tỉnh
giấc, không mộng nữa. Đấy vốn là giả,
v́ tôi tự ḿnh chứng nghiệm giấc mộng của
ḿnh. Do nằm mộng mà xuất gia, đến Cửu Hoa
Sơn là do nằm mộng. Đến Cổ Sơn cũng
là do nằm mộng. Sau khi đă đến Cổ Sơn,
chẳng nằm mộng nữa. Đến nơi ấy chẳng
c̣n mộng nữa. Sau đấy, chẳng c̣n nằm mộng
nữa, măi cho đến hiện tại, tôi vẫn hy vọng
được giấc mộng chỉ điểm. Không nằm
mộng, tức là lúc không mộng, tôi lại mê. So với
lúc nằm mộng, mê càng sâu hơn. Đó là tật xấu
của bản thân tôi.
Tuy
nói mộng là giả, nhưng nó chỉ cho tôi phương
hướng, tôi bèn cho rằng nó là thật. Khi đó,
cũng chưa hề tiếp xúc Phật pháp, chuyện ǵ
cũng chẳng biết. Do nằm mộng, tôi bèn xuất
gia, do giấc mộng bèn xuất gia. Sư phụ đặt
cho tôi pháp danh là Giác Tỉnh (覺醒), ngụ ư “hễ
giác ngộ, sẽ thức tỉnh”. Sau đấy, tôi
nghĩ cái tên ấy chẳng thích hợp cho lắm. Dường
như tôi vẫn chưa tỉnh, tôi nói tôi đang nằm mộng.
Mộng Tham (夢參) là cái tên do tôi tự
đặt, đúng là tương phản với chữ
Giác Tỉnh. Mấy hôm trước, tôi bỗng ngẫu
nhiên nhớ đến thầy tôi là lăo ḥa thượng Tu
Lâm. Khi tôi niệm kinh, nghĩ đến vị thầy thế
độ đă đặt tên cho ḿnh. Tôi nghĩ: Khi nào tôi sẽ
có thể tỉnh? Nay đă sắp chết đến
nơi rồi, vẫn chẳng tỉnh, vẫn đang ở
trong mộng, vẫn đang tham cứu. Hiện thời,
ngay cả tham cứu cũng tham cứu chẳng xong! V́ sao?
Tham cứu đến mức già khọm rồi, già lụm
cụm rồi, chẳng giống như thuở trẻ
trung, lúc mới vừa học pháp, lúc vừa mới tu. Do vậy,
tu đạo mà mong đoạn phiền năo rất khó, tôi tự
ḿnh thể nghiệm. Từ kinh nghiệm của cá nhân tôi,
đă xuất gia hơn sáu mươi năm, hiện thời
vẫn cách biệt rất xa, chẳng nắm vững một
tí nào! Quư vị đừng nghĩ tôi đang nói nhảm, chẳng
nói nhảm tí nào hết!
Do
đó, khi đức Phật chỉ dạy hết thảy
chúng sanh, Ngài đă căn cứ vào các thứ khác biệt
trong quá khứ của họ. Đức Phật thuyết
pháp, chúng ta lập tức thành đạo. Nếu kẻ nào
chưa thành đạo, chẳng hạn như chúng tôi
cũng muốn thật sự phát Bồ Đề tâm, chúng
tôi giảng giải, giảng suốt mấy tháng, chỉ sợ
người giảng lẫn người nghe đều chẳng
thể tiến nhập, chỉ là gieo thiện căn cho
tương lai. Chúng tôi khẳng định điều này:
Tuy chẳng có lợi ích to lớn, nhưng lợi ích ấy
vẫn chẳng nhỏ! Có lợi ích ǵ thế? Chúng ta niệm
kinh Địa Tạng, giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo, giảng kinh Địa Tạng, giảng
kinh Thập Luân, nói chung là Địa Tạng Bồ Tát sẽ
chú ư chúng ta đôi chút.
V́
thế, chúng ta nghe, niệm, đều gởi gắm
nơi Địa Tạng Bồ Tát. Mỗi lần, tôi niệm
Địa Tạng Bồ Tát, tôi đều nghĩ như
thế. Tôi và các đạo hữu đều phó thác cho
Địa Tạng Bồ Tát, hy vọng Bồ Tát sẽ
nhanh chóng cứu chúng con. Cái tâm của quư vị đă hướng
về Ngài, Địa Tạng Bồ Tát đă hướng
đến chúng ta. Thật ra, đó là quư vị tự độ
chính ḿnh, cầu người khác chẳng bằng cầu
chính ḿnh! Cầu chính ḿnh th́ quư vị có thể cầu
như thế nào? Niệm, đọc, chính ḿnh tự xem một
lượt, cũng sẽ cảm vời Địa Tạng
Bồ Tát. Địa Tạng Bồ Tát giảng cho quư vị,
quư vị càng dễ dàng khai
ngộ. V́ sao phải quan sát quá khứ? V́ như thế th́
mới có thể biết căn tánh của họ, mà
cũng biết nhân duyên giữa Phật và chúng ta trong quá khứ.
Tuy chúng ta là đệ tử Phật trong thời Mạt
Pháp, mà có thể cảm được Pháp Bảo Đại
Thừa vẫn c̣n tồn tại
trong thời Mạt Pháp, Tăng Bảo tồn tại, Phật
Bảo tồn tại, đấy cũng chính là Trụ Thế Tam Bảo.
Tượng bằng đất nặn, gỗ chạm chính
là Phật Bảo, Tam Tạng kinh văn là Pháp Bảo,
người cạo đầu mặc y nhiễm sắc là
Tăng Bảo. Quư vị có thể thấy Tăng Bảo,
nếu thường xuyên cùng ở chung với Phật Pháp
Tăng Tam Bảo, sẽ đắc độ rất nhanh.
Đôi khi chúng ta nói: “Phiền năo rất nặng, nghiệp
chướng rất sâu”, tiêu cực khôn ngằn! Chúng ta
hăy nghĩ theo phương diện này: Đă gieo không ít thiện
căn, hiện thời c̣n có thể ở cùng Phật Pháp
Tăng. Có những vị tối ngủ vẫn niệm, có
khi niệm cả trong mộng. Có những đạo hữu
c̣n có thể làm như vậy, quư vị c̣n sợ hăi chi nữa?
V́ quư vị đă học pháp, sẽ chẳng sợ hăi,
cũng đă thành tựu Phật Luân thứ tám rồi!
(Kinh)
Do thử luân cố, lợi ích an lạc vô lượng hữu
t́nh, đắc an ổn trụ, đắc vô kinh khủng,
đắc vô sở úy, tự xưng ngă xử đại
tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, tồi chư
thiên ma, ngoại đạo tà luận, xử đại
chúng trung, chánh sư tử hống.
(經)由此輪故,利益安樂無量有情,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,摧諸天魔外道邪論,處大眾中正師子吼。
(Kinh:
Do v́ luân này, lợi ích an lạc vô lượng hữu t́nh,
được trụ an ổn, được chẳng
kinh hoảng, được chẳng sợ hăi, tự
xưng ta ở nơi địa vị đại tiên tôn
quư, chuyển Phật Luân, dẹp tan tà luận của các
thiên ma và ngoại đạo, ở trong đại chúng, thực
hiện sư tử hống).
Trên
đây là Phật Luân thứ tám.
(Kinh)
Thiện nam tử! Như Sát-đế-lợi quán đảnh
đại vương, tùy niệm quán sát tự quốc hữu
t́nh, chủng tánh, kỹ nghệ, cập chư sự nghiệp,
tử thử sanh bỉ, nhân quả thắng liệt, sai biệt
bất đồng. Tri bỉ hữu t́nh sanh như thị
gia, kỳ thân dũng kiện, hoặc phục khiếp
nhược, ư chư kỹ nghệ, dĩ học, vị
học, sở hữu sự nghiệp thiện tác, ác tác,
phú quư, bần tiện, đoan chánh, xú lậu, như thị
đẳng loại, năi chí mạng chung. Hoặc hữu tự
nghiệp vị tận nhi tử, hoặc hữu tự
nghiệp dĩ tận nhi tử, hoặc phạm
vương pháp h́nh lục nhi tử, hoặc hữu đệ
tương tàn hại nhi tử, hoặc nhân tiên trượng
chủy sở nhi tử, hoặc nhân linh ngữ u trập
nhi tử, hoặc nhân tập học kỹ nghệ nhi tử,
hoặc nhân chiến trận thương sát nhi tử, hoặc
nhân đấu tránh ẩu kích nhi tử, hoặc nhân tài bảo
tham lận nhi tử, hoặc nhân sắc dục đam miện
nhi tử, hoặc nhân phẫn hận kết phẫn nhi tử,
hoặc nhân lao quyện đốn tệ nhi tử, hoặc
nhân cơ khát phạp tuyệt nhi tử, hoặc hữu quá
tử, hoặc vô quá tử, hoặc kỳ niên tử, hoặc
tráng niên tử, hoặc ấu niên tử, hoặc tác chủng
chủng thiện nghiệp nhi tử, hoặc tác chủng
chủng ác nghiệp nhi tử, tri chư hữu t́nh hành thiện
hạnh giả, thân hoại, mạng chung, đương
văng thiện thú. Tri chư hữu t́nh hành ác hạnh giả,
thân hoại, mạng chung, đương văng ác thú. Tri thị
sự dĩ, phục tự tư duy: “Ngă đương
chánh cần, tu thân thiện hạnh, tu ngữ thiện hạnh,
tu ư thiện hạnh, ngă đương thi thiết chủng
chủng phương tiện, tu hành bố thí, điều
phục tịch tĩnh, thân hoại mạng chung,
đương văng thiện thú, vật đọa ác thú”. Thử
Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương
tư duy thị dĩ, dũng mănh, tinh tấn, tu thân, ngữ,
ư, tam chủng thiện hạnh, thường hành bố thí,
nhất thiết sở hữu ẩm thực, y phục,
tượng, mă, kỵ, thừa, ngọa cụ, y dược,
pḥng xá, đăng minh, cập dư tư cụ, nô tỳ,
đồng bộc, chủng chủng trân tài, đầu, mục,
thủ, túc, năi chí thân mạng, vô sở lận tích, cập
ly sát sanh, ly bất dữ thủ, ly dục tà hạnh, ly
hư cuống ngữ, ly thô ác ngữ, ly ly gián ngữ, ly tạp
uế ngữ, ly chư tham dục, ly chư sân khuể, ly
chư tà kiến.
(經)善男子,如剎帝利灌頂大王,隨念觀察自國有情,種姓、技藝及諸事業,死此生彼,因果勝劣差別不同。知彼有情生如是家,其身勇健或復怯弱,於諸技藝已學未學,所有事業善作惡作,富貴貧賤,端正醜陋,如是等類乃至命終,或有自業未盡而死,或有自業已盡而死,或犯王法刑戮而死,或有遞相殘害而死,或因鞭杖捶楚而死,或因囹圄幽縶而死,或因習學技藝而死,或因戰陣傷殺而死,或因斗諍毆擊而死,或因財寶貪吝而死,或因色慾耽湎而死,或因忿恨結憤而死,或因勞倦頓弊而死,或因飢渴乏絕而死,或有過死,或無過死,或耆年死,或壯年死,或幼年死,或作種種善業而死,或作種種惡業而死。知諸有情行善行者,身壞命終,當往善趣;知諸有情,行惡行者,身壞命終,當往惡趣。知是事已,復自思維:我當正勤修身善行,修語善行,修意善行。我當施設種種方便,修行佈施、調伏、寂靜,身壞命終,當往善趣,勿墮惡趣。此剎帝利灌頂大王,思惟是已,勇猛精進,修身、語、意三種善行,常行佈施,一切所有飲食、衣服、象馬、騎乘、臥具、醫藥、房舍、燈明及餘資具,奴婢、僮僕、種種珍財,頭目手足乃至身命,無所吝惜;及離殺生,離不與取,離欲邪行,離虛誑語,離粗惡語,離離間語,離雜穢語,離諸貪慾,離諸瞋恚,離諸邪見。
(Kinh: Này thiện nam tử!
Như đại vương Sát-đế-lợi đă
được quán đảnh thuận theo ư niệm, quan
sát hữu t́nh trong nước của chính ḿnh, chủng
tánh, tài khéo, và các sự nghiệp, chết đây, sanh kia,
nhân quả hơn kém, sai khác bất đồng. Biết các
hữu t́nh đó sanh trong gia đ́nh như thế, thân họ
dũng mănh, tráng kiện, hoặc là yếu ớt, đối
với các nghề khéo đă học hay chưa học, tất
cả sự nghiệp là làm lành hay làm ác, phú quư hay nghèo hèn,
đoan chánh hay xấu xí, thô kệch, các loại như thế
cho đến lúc mạng chung: Hoặc có người
nghiệp của chính họ chưa hết
mà đă chết, hoặc có người nghiệp của
chính họ đă hết mà chết, hoặc phạm phải
phép vua, bị xử tử chết. Hoặc có khi tàn hại
lẫn nhau mà chết. Hoặc do bị roi, gậy đánh
đập mà chết. Hoặc do bị giam kín trong nhà tù mà
chết. Hoặc do học tập tài khéo mà chết. Hoặc
do chiến trận bị sát thương mà chết. Hoặc
do tranh chấp, đánh lộn mà chết. Hoặc do tham lam,
keo kiệt của cải mà chết. Hoặc do tham đắm
sắc dục mà chết. Hoặc do phẫn hận, phẫn uất mà chết. Hoặc
do mệt mỏi, suy sụp mà chết. Hoặc do đói
khát, thiếu thốn mà chết. Hoặc do có lỗi mà chết,
hoặc không có lỗi mà chết. Hoặc tuổi già mà chết,
hoặc tuổi tráng niên mà chết, hoặc tuổi thơ
bé mà chết. Hoặc làm các loại nghiệp lành mà chết.
Hoặc làm các loại ác nghiệp mà chết. Biết các hữu
t́nh làm các hạnh lành, thân hoại, mạng hết, sẽ
tiến vào đường lành. Biết các hữu t́nh làm
các hạnh ác, thân hoại, mạng hết, sẽ vào
đường ác. Đă biết chuyện ấy rồi, lại
tự tư duy: “Ta nên siêng năng chánh đáng để tu
thiện hạnh nơi thân, thiện hạnh nơi ngôn ngữ,
thiện hạnh nơi ư. Ta sẽ sắp đặt các loại
phương tiện, tu hành bố thí, điều phục tịch
tĩnh. Thân hoại, mạng chung, sẽ tiến vào
đường lành, chẳng đọa vào đường
ác”. Vị đại vương Sát-đế-lợi
đă được quán đảnh ấy tư duy như
thế xong, bèn dũng mănh, tinh tấn, tu ba thứ hạnh
lành nơi thân, ngữ, ư, thường hành bố thí, hết
thảy tất cả thức ăn, y phục, voi, ngựa,
vật cưỡi, xe cộ, đồ trải nằm, thuốc
men, nhà cửa, đèn sáng, và các thứ vật dụng sinh hoạt
khác, nô tỳ, người hầu, các loại của cải
quư báu, đầu, mắt, chân, tay, cho đến thân mạng,
chẳng hề keo tiếc, và ĺa sát sanh, ĺa chẳng cho mà lấy,
ĺa dục tà hạnh, ĺa lời hư huyễn, dối trá,
ĺa lời thô ác, ĺa lời ly gián, ĺa lời tạp uế,
ĺa các tham dục, ĺa các sân khuể, ĺa các tà kiến).
Trong
phần trước, đă nói về năm thứ Biến
Hành, tôi sẽ giải thích lần nữa. Tác Ư, Xúc, Thọ,
Tưởng, Tư, đấy là năm loại. Khi năm
loại Biến Hành ấy dấy lên, chúng sẽ đồng
thời khởi, chẳng có trước sau. Tác Ư (作意) có nghĩa là “cảnh
giác”, có nghĩa là khi cái tâm chưa dấy lên [ư niệm],
Tác Ư sẽ khiến cho cái tâm khởi niệm. Khởi niệm
là dấy lên tướng cảnh giới. Nếu cái tâm vừa
dấy niệm, nó sẽ có thể dẫn khởi quán cảnh.
“Quán” có nghĩa là đối trước cảnh. Xúc
là đă đối cảnh (對境, tiếp nhận cảnh).
Thọ là lănh nhận, lănh nhận tiền cảnh. Tưởng
là nắm giữ lấy tướng cảnh giới.
Tư là khởi tâm tạo nghiệp. Năm loại này
đồng thời cùng khởi, cho nên gọi là Biến
Hành.
Vương
luân thứ chín của vua Sát-đế-lợi: Vị quốc
vương ấy có trí huệ to lớn, tự ḿnh trước
hết xem xét trong nước ấy, chủng tánh, tài khéo, sự
khéo léo, quốc gia ấy làm sự nghiệp ǵ, cho đến
nhân dân trong quốc gia ấy “tử thử, sanh bỉ”
tức là từ nơi này chết đi, sanh vào nơi kia.
Cái trí huệ biết họ “chết ở nơi này, sanh
vào nơi kia” chẳng phải là Túc Mạng Trí, nhà vua hoàn
toàn chẳng biết “từ thế giới này chết
đi, sẽ sanh vào thế giới nào”, mà là căn cứ
trên các nghiệp họ đă làm, căn cứ theo những
chuyện họ đă làm khi c̣n sống bèn có thể phán
đoán. Những chuyện họ đă làm trong hiện tại
là nhân; trong tương lai, họ sanh đến nơi kia
là quả. [Cụ thể là] sanh đến chỗ nào, ông ta
không phán định được; vị quốc
vương ấy chẳng có Túc Mạng Trí và Tha Tâm Trí. Ở
đây là nói khi ông ta quan sát, bèn quan sát nhân dân trong quốc gia
ấy đă gieo cái nhân tốt hay xấu, hiện thời họ
hứng chịu cái quả. V́ sao phải hứng chịu
cái quả như vậy? Do quá khứ đă gieo cái nhân không
tốt. Biết nhân quả quá khứ của họ là thù thắng
hay kém hèn? Hiện thời, v́ sao có sự khác biệt như
vậy? Từ cái quả của quá khứ, sẽ có thể
biết cái nhân đă làm trong đời này: Sanh trong một
gia đ́nh tốt đẹp, hay sanh vào một gia đ́nh
không tốt. Như thế nào là một gia đ́nh tốt
đẹp? Như thế nào là một gia đ́nh không tốt
đẹp? Hoàn toàn chẳng phải là luận định
theo của cải.
Tại
Ấn Độ, sanh trong chủng tánh Bà-la-môn th́ là gia
đ́nh tốt đẹp, có kiến thức, có học vấn.
Sanh vào chủng tánh Sát-đế-lợi th́ là gia đ́nh phú
quư. Nếu sanh trong chủng tánh Phệ-xá hoặc
Thú-đà-la, sanh trong nhà đồ tể, sanh trong nhà thợ
thuyền, sẽ là hơn kém bất đồng. Có người
sanh ra cứ một mực trưởng thành, thân thể rất
mạnh khỏe, rất dũng mănh, rất tráng kiện. Có
người sanh ra liền ốm đau, quặt quẹo,
đó là ư nghĩa của từ “khiếp nhược”
(怯弱) [trong chánh kinh]. Có người sanh ra đă rất thông
minh, rất lanh lợi, hễ học nghề khéo nào liền
thông hiểu. Có kẻ học rất khó, rất đần.
Giống như trong thuở trước, công nhân theo thầy
học ba năm, có người học một năm đă
hiểu, mỗi người mỗi khác!
Do
vậy làm lành, làm ác, phú quư, nghèo hèn, sanh ra đoan chánh, hoặc
xấu xí, thô kệch, đủ mọi chủng loại,
cho đến mạng chung, cũng là thọ
mạng mỗi người khác biệt. Có người v́
nghề nghiệp của chính ḿnh, mạng chưa đáng chết
mà lại chết mất. Đó là thọ mạng chưa tận,
mà lại đoản mạng chết đi. Duyên tận bèn
chết th́ là chết chánh đáng. Tục gia có cách nh́n
như thế này: Nếu chết trong nhà của chính ḿnh th́
gọi là “thọ chung chánh tẩm” (壽終正寢). Nếu chết ở
bên ngoài, là do quư vị tạo nghiệp, chẳng thể “thọ
chung chánh tẩm”, chết trong khi đang lưu lạc.
Nếu phạm phải phép vua, bị chặt đầu, hoặc
bị phán h́nh phạt treo cổ. Đấy là “chết
v́ h́nh lục”. Họ do giết hại lẫn nhau mà chết,
hoặc là bị roi gậy quật đánh mà chết. Bị
trách phạt, hoặc do đấu đá với kẻ khác,
hoặc bị giam cầm, chết trong tù ngục. Cho đến
cả một đời u ám, chết trong nhà giam. Hoặc
là v́ học nghề khéo, bất luận học nghề nào,
v́ lỡ lầm gây nên thương tích mà chết. Cũng có
trường hợp như vậy. Hoặc là quân trận
đôi bên giao chiến mà chết. Hoặc là xô xát do căi lộn
với người khác mà chết. Hoặc v́ tham luyến của
cải mà chết.
Đối
với chuyện tham luyến của cải này, tôi kể một
câu chuyện: Có một vị lăo ḥa thượng suốt
đời chắt mót được một đĩnh bạc,
chẳng cẩn thận, làm rớt xuống nhà cầu. Do
tiếc nuối đĩnh bạc ấy, bèn chết
đi. Sau khi mạng chung, ông ta biến thành một
con ếch ở dưới hầm cầu, ôm đĩnh bạc
ấy. Vị thầy Tri Khách trong ngôi chùa ấy rất có thần thông, rất
có trí huệ, biết vị lăo ḥa thượng ấy chết
rất bất thường, bèn mời người đào
nhà cầu ấy lên. Hầm cầu trong chùa ở Đại
Lục rất sâu, đào lên rất tốn công. Đào vét sạch
cái hầm ấy, mới lấy ra được, niệm
kinh hồi hướng, cầu nguyện cho ông ta, dùng
đĩnh bạc ấy v́ ông ta làm Phật sự, giúp cho
ông ta siêu độ. Vị lăo ḥa thượng ấy may mắn
gặp vị sư Tri Khách ấy. Nếu chẳng gặp, sẽ vĩnh viễn
đọa trong đó để mà tham tiếc. V́ tham luyến
tiền tài mà chết giống như thế, thường
là những kẻ làm kinh doanh thất
bại, tiền của đều tổn thất, hoặc
do cái tâm nuối tiếc của báu bị mất đi. Do
toàn bộ tâm lực chú ư vào đó, hễ mất đi, mạng
người ấy cũng chấm dứt theo. Đó là do
tham keo tài sắc mà chết vậy!
Hoặc
là v́ sắc dục mà chết. Có người luyến ái chẳng
thành, u buồn mà chết. Có người luyến ái đă
thành, cũng v́ tham dục mà chết. Hoặc bị người
khác hăm hại, tâm lư chẳng cân bằng
được, không có sức chống lại kẻ
đó, bèn phẫn hận, ưu uất mà chết. Đủ
loại chết như vậy. Hoặc là do mệt nhọc,
kiệt sức mà chết, hoặc là đói khát, thiếu thốn,
suy kiệt mà chết. Hoặc là có lỗi mà chết, không
có lỗi mà chết. Hoặc chết vào lúc tuổi già, hoặc
chết trong thuở tráng niên, hoặc chết khi c̣n tấm
bé. Hoặc là có thiện nghiệp mà chết, có kẻ mang
ác nghiệp mà chết.
Vị
vua Sát-đế-lợi ấy căn cứ vào các loại
t́nh huống tử vong để phán đoán. Ông ta nói hữu
t́nh do tạo thiện nghiệp, khi thân hoại, mạng
chung, nhất định sẽ sanh vào chốn lành, sanh trong
đường trời người. Nếu là kẻ rất
ác, làm ác lắm nỗi, kẻ ấy thân hoại, mạng
chung, nhất định sanh vào tam ác đạo. Ông ta thấy
sự t́nh trong xă hội, thấy rất rơ ràng. Bất quá,
chỉ giới hạn trong ṿng nhân dân của đất
nước ḿnh. Nói theo Phật giáo, không chỉ là một vị
vua Sát-đế-lợi, chúng ta nh́n vào thế gian, xem toàn thể
nhân gian, chuyện này thuộc vào pháp Tứ Đế. Lại
nói nó là pháp thế gian. Hết thảy Phật pháp chẳng
rời thế gian. Phật pháp do đức Phật đă
nói chính là v́ thế gian mà kiến lập pháp xuất thế
gian.
Chúng
ta có rất nhiều người sống đến sáu
mươi mấy tuổi, trải qua rất nhiều chuyện
trong thế gian. Kinh này nói đến các loại chết là
nói đến thọ mạng khác biệt, có các loại chết
[khác nhau]. Thuở ấy, c̣n chưa có tai nạn xe cộ. Nếu
có tai nạn xe cộ, nhất định là sẽ có
trường hợp chết v́ tai nạn xe cộ. Có đủ
loại tai nạn xe cộ, cũng có trường hợp
chết v́ máy bay. Thuở đó, chỉ có thuyền, qua sông
bị chết đuối th́ có, nhưng công cụ để
qua sông khác biệt. Giống như chúng ta ngồi thuyền
lớn, thuyền chạy bằng máy, rất tốt. Thuyền
gỗ trước kia cũng khá lắm. Nếu mọi
người sống tại Tây Tạng, lúc qua sông ở vùng
Khang Tây[8]
phải ngồi thuyền, sẽ khiến quư vị sợ chết
khiếp! Thuyền ǵ vậy? Thuyền bằng da ḅ. Một
lớp da ḅ được lột ra, dùng bốn cọc gỗ
để căng ra, đem phơi khô, dùng nó [bọc khung gỗ làm thành thuyền] để vượt
sông. Họ chèo như thế này: Mỗi bên có một mái
chèo. Đi về phía này th́ chèo bên này, đi về
phía bên kia th́ chèo bên kia. Ngồi trong
thuyền sẽ khiến quư vị sợ run lập cập.
Sóng dồn tới, thuyền sẽ bị tung lên rất
cao. Sóng rút xuống, thuyền lại trầm xuống. Nếu
gặp sóng dữ, nước ùa vào, sẽ bị nhấn
ch́m. Nhấn ch́m th́ cũng chẳng có cách nào hết.
Đây
là nói về các loại chết, chết đủ mọi
cách, mọi dạng. Vị đại vương quán đảnh Sát-đế-lợi
này, khi tu phước, đă quan sát đủ loại hiện
tượng trong quốc giới, bèn tư duy. Ông ta nói:
“Sanh mạng vô thường, chẳng thể làm chuyện xấu,
chỉ nên làm chuyện tốt. Ta phải nên theo con
đường chánh xác, siêng năng, dũng cảm tu hành”.
“Ngă đương chánh cần” (ta nên siêng
năng chánh đáng): “Chánh” là chánh xác, chẳng
phải là tà ma, ngoại đạo. Tự ḿnh tu thiện hạnh
nơi thân. Thiện hạnh nơi thân là thân nghiệp.
Thiện hạnh là không giết, không trộm, không tà dâm. Tu thiện hạnh nơi lời ăn tiếng nói,
tức là tu cái miệng, chẳng nói dối, chẳng nói
thêu dệt, chẳng nói thô ác, chẳng nói đôi chiều.
Đấy là tu ngữ thiện nghiệp. Tu thiện hạnh
nơi ư là chẳng tham, chẳng sân, chẳng si. Ngoài ra, c̣n
phải hành các loại bố thí, sắp đặt đủ
loại phương tiện. Tu bố thí th́ cũng phải
là phương tiện thiện xảo, điều phục
cái tâm của chính ḿnh. Nhà vua có thể đắc Định,
điều ḥa hơi thở, khiến cho cái tâm lắng xuống.
Như vậy th́ tới khi thân hoại, mạng chung, sẽ
có thể sanh vào đường lành, chẳng đọa
trong nẻo ác. Vị vua Sát-đế-lợi quán đảnh
tư duy về chuyện này; sau đó, ông ta dũng mănh, tinh
tấn. Tu thiện hạnh nơi ba nghiệp thân, ư, ngữ,
hành thiện đạo. Thường hành bố thí, bố
thí ǵ vậy? Thức ăn, quần áo, hết thảy các
công cụ giao thông, voi, ngựa, xe cộ, cho đến
đồ trải để ngủ, cho đến thuốc
men cho người mắc bệnh, bố thí nhà cửa, bố
thí đèn chiếu sáng, cho đến hết thảy các vật
dụng cần thiết cho cuộc sống, tùy sức mà
hành.
Vua
quán đảnh Sát-đế-lợi có sức mạnh ấy,
nhưng hiện thời, ông ta chẳng làm quốc
vương, lúc đó, ông ta là người tu hành. Do sự
tu hành, tư duy, thí xả, chẳng tạo các nghiệp ấy,
cho nên ĺa khỏi sát sanh, ĺa khỏi chẳng cho mà lấy,
ĺa dục tà hạnh, cũng tức là ĺa khỏi giết,
trộm, dâm. Thân chẳng làm giết, trộm, dâm, miệng
ĺa lời lẽ hư dối, lời thô ác, lời ly gián,
lời tạp uế. Chúng ta gọi lời lẽ tạp uế
là ỷ ngữ (綺語, nói thêu dệt).
Lời ly gián chính là nói đôi chiều, lời thô ác là ác khẩu,
lời hư dối là vọng ngữ. Ĺa các tham dục,
ĺa các sân khuể, ĺa các tà kiến, cũng là ĺa tham, sân, si.
(Kinh)
Do thị nhân duyên, thử Sát-đế-lợi quán đảnh
đại vương, đương hoạch thập chủng
công đức thắng lợi. Hà đẳng vi thập? Nhất
giả, cụ đại danh xưng. Nhị giả, cụ
đại tài bảo. Tam giả, cụ diệu sắc
tướng. Tứ giả, cụ đa quyến thuộc.
Ngũ giả, thiểu bệnh, thiểu
năo. Lục giả, bằng hữu, quyến
thuộc thông huệ, đa văn. Thất giả, chánh chí,
chánh hạnh, thân cận cúng dường. Bát giả, quảng
mỹ thanh dự, lưu chấn thập phương. Cửu giả,
đại oai đức thiên thần thường tùy vệ
hộ. Thập giả, thân hoại, mạng chung, đương
sanh thiên thượng, thường cư thiện thú, An Lạc
quốc độ. Thiện nam tử! Sát-đế-lợi
chủng quán đảnh
đại vương thành tựu như thị đệ
cửu vương luân.
(經)由是因緣,此剎帝利灌頂大王,當獲十種功德勝利:何等為十?一者、具大名稱;二者、具大財寶;三者、具妙色相;四者、具多眷屬;五者、少病少惱;六者、朋友眷屬,聰慧多聞;七者、正至正行,親近供養;八者、廣美聲譽,流振十方;九者、大威德天神,常隨衛護;十者、身壞命終,當生天上,常居善趣安樂國土。善男子,剎帝利種灌頂大王,成就如是第九王輪。
(Kinh:
Do nhân duyên ấy, vị đại vương Sát-đế-lợi
được quán đảnh ấy sẽ đạt
được mười loại lợi ích công đức
thù thắng. Những ǵ là mười? Một là trọn
đủ danh xưng to lớn. Hai là trọn đủ của
cải to lớn. Ba là trọn đủ sắc tướng
mầu nhiệm. Bốn là có nhiều quyến thuộc.
Năm là ít bệnh, ít phiền năo. Sáu là bạn bè, quyến thuộc thông minh, trí huệ, đa văn. Bảy
là chánh chí, chánh hạnh thân cận, cúng dường. Tám là
thanh danh đẹp đẽ rộng lớn, vang rền
mười phương. Chín là thiên thần có
oai đức lớn thường theo bảo vệ. Mười
là khi thân hoại, mạng chung, sẽ sanh lên trời,
thường ở trong đường lành, hoặc cơi An Lạc.
Này thiện nam tử! Đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi
đă được quán đảnh thành tựu
vương luân thứ chín như thế).
Do
nhân duyên mười nghiệp thanh tịnh, quán đảnh
đại vương Sát-đế-lợi đạt
được mười loại công đức thù thắng.
Không chỉ riêng ḿnh ông ta, bất cứ hữu t́nh chúng sanh
nào, nếu hành Thập Thiện Nghiệp, tùy thuộc
người ấy hành Thập Thiện Nghiệp như
thế nào, có sâu, có cạn. Như chúng ta thọ
Ngũ Giới, đối với giới ĺa tà dâm, nếu
người ấy tŕ giới, ngay cả chánh dâm cũng
không dâm, sẽ có thể sanh về Phạm Thiên. Người
ấy chẳng nói dối, nói lời chân thật, chẳng
nói lời châm ng̣i ly gián, tận lực nói lời tốt
lành, khiến cho người khác hiền ḥa, tốt đẹp. Đấy là người
ấy đă đảo ngược [những tập khí xấu
ác], đó là công đức của người ấy, ai
cũng gọi người ấy là “đại thiện
nhân”, thanh danh đẹp đẽ. V́ người ấy
bố thí, sẽ có thể được giàu to. Quả báo
của bố thí là sẽ giàu có. Chúng ta cho rằng xả rồi
sẽ chẳng có, khéo tương phản là trong tương
lai, quư vị sẽ đạt được của cải
to lớn. Có của cải là do phước đức
chiêu cảm, hoặc do tu hành chiêu cảm. Quư vị chẳng
có phước báo, hết thảy của cải đều
chẳng thuộc về quư vị!
Mọi
người biết hoàng đế cuối cùng của nhà
Măn Thanh là Tuyên Thống (Phổ Nghi). Về sau, lúc ông ta ngồi tù, chỉ có một người cháu trai
theo ông ta. Người cháu ấy một mực theo ông ta
đến cùng, cũng ở tù cùng với ông ta. Cháu ông ta
hoàn toàn chẳng phạm tội ǵ, từ nhỏ đă ở
bên cạnh chăm sóc ông ta, theo ông ta đi tù để có thể
chăm sóc cuộc sống cho cựu hoàng. Anh ta và chú ḿnh cất
giấu rất nhiều thứ quư báu, chuyển từ
trong cung ra, một mực cất giấu. Từ lúc sang Liên
Sô cho đến khi về nước, Liên Sô chẳng tịch
thu, đảng Cộng Sản [Trung Quốc] chẳng tịch
thu, vẫn cho anh ta giữ, tùy ư anh ta bán cho ai cũng
được. Về sau, anh ta hiến toàn bộ cho nhà
nước. Năm trước, tôi trở về Nam Phổ
Đà, có gặp anh ta. Nay anh ta đang học vẽ, có họ
là Ái Tân Giác La[9],
biến thành một họa sĩ.
Sau
khi Phổ Nghi mất, đảng Cộng Sản đối
xử với anh ta cũng khá khoan dung. Sau
khi tốt nghiệp học viện nghệ thuật, anh ta
làm họa sĩ. Ở Nam Phổ Đà, tôi có gặp anh ta,
tôi nói: “Trở về Cố Cung, anh có cảm tưởng
như thế nào?” Nếu Phổ Nghi không chết, vẫn
làm hoàng đế, kể như anh ta là Thái Tử. Phổ
Nghi chết rồi, sẽ do anh ta tiếp nhận [ngôi báu].
Anh ta nói: “Hết thảy vô thường, cũng chẳng
thuộc về chúng ta, rốt cuộc sẽ thuộc về
ai?” Anh ta học Phật đă rất lâu, hiểu được
đạo lư ấy, Tôi lấy anh ta làm thí dụ, v́ rất
nhiều người mong cầu của cải, nói món đồ
chi đó là bảo bối, rất đáng tiền. Ngay lập
tức, quư vị sẽ có cách nh́n khác, sẽ đặc biệt
bảo vệ món đồ ấy, sợ bị mất đi. Thật ra, quư vị chẳng thể bảo vệ
được món đồ ấy. Hiện thời, trân bảo
của Cố Cung rải rác khắp thế giới. Các món
trân bảo ấy do đâu mà có? Khi một triều đại
hoàng đế có phước, sẽ có người khai thác
của báu từ trong biển dâng lên, cũng có món đồ
do ngoại quốc tấn cống. Long vương, quỷ
thần đều biến thành
người b́nh phàm đến dâng của báu. Khi phước
báo đă hết, thứ ǵ cũng đều chẳng c̣n,
chỉ sợ bát cơm cũng biến thành vấn đề.
Trân bảo là ǵ? Ăn no là trân bảo!
Đại
ca Phổ Nghi, tại Bắc Kinh, [mọi người]
thường gọi ông ta là Đại A Ca[10].
Trước kia ông ta hút nha phiến (thuốc phiện), hút
bạch phiến (heroin), [gia sản] vẫn có thể cầm
cự, chẳng đến nỗi suy sụp nhanh như thế.
Nhưng ông ta bài bạc, trong một đêm, thua mất một
vạn, hai vạn đồng. Toàn chơi những canh bạc
lớn, bán sạch đại vương phủ lẫn
các phủ trạch. Thua sạch rồi, chẳng có tiền
th́ làm ǵ? Thuở ấy,
Bắc Kinh nói “kéo xe”. Ông ta phải đi kéo
xe. Ai nấy đều biết, đó là Đại A Ca kéo
xe! Thuở ấy, ông ta là thân vương, khi quư vị phước
báo đă mất, cái ǵ cũng chẳng có! Quư vị chẳng
thể dùng cân năo để tích tụ được của
cải đâu nhé, nhất định phải hiểu đạo
lư này!
“Cụ
diệu sắc tướng” (trọn đủ sắc
tướng mầu nhiệm): Trưởng thành rất
đẹp đẽ, ai trông thấy cũng đều hoan
hỷ, lại c̣n hết sức cung kính. Có những kẻ
xấu xí, thô kệch, nên bị kẻ khác xem thường.
Nếu kẻ đó có nội đức th́ c̣n được.
Nếu nội đức cũng chẳng có, sẽ chẳng
được người khác cung kính. “Diệu sắc tướng” là sắc tướng
thù diệu, chẳng b́nh phàm! Có nghĩa là vị quốc
vương ấy nếu có thể làm các thiện sự
đó, tức là thực hiện tốt đẹp Thập
Thiện Nghiệp, thậm chí c̣n hành bố thí, th́ trong hiện
đời, sẽ có được mười thứ lợi
ích: Trọn đủ tiếng tăm to lớn, trọn đủ
của cải to lớn, trọn đủ sắc tướng
mầu nhiệm, quyến thuộc đông đảo. Mọi
người đừng nghĩ “quyến thuộc” chỉ
là con cái, hay lục thân của chính ḿnh, trọn chẳng phải
là như vậy. Chúng ta là đệ tử đức Phật, đều là quyến thuộc
của đức Phật, tức quyến thuộc
của Thích Ca Mâu Ni Phật. Nếu chúng ta sanh vào thế giới
Cực Lạc, sẽ lại thay đổi, sẽ là quyến
thuộc của A Di Đà Phật. Đấy cũng là quyến
thuộc của Phật, là đệ tử Tam Bảo. Bất luận phá giới,
thậm chí trái nghịch Tam Bảo, Phật vẫn nhiếp
thọ quư vị, quư vị vẫn là quyến
thuộc của Phật. Nếu quư vị tŕ giới thanh tịnh,
nương theo Tam Quy, hành Thập Thiện, sẽ là quyến
thuộc tốt. Quyến thuộc của đức Phật
không nhất định mỗi người đều là
đại Bồ Tát. Trong thời Mạt Pháp, quyến thuộc
của đức Phật là tứ chúng đệ tử.
Có rất nhiều kẻ xấu, nhưng
đức Phật chẳng vứt bỏ họ. Nói chung là
do thiện căn, trong tương lai, cũng sẽ
được nhiếp thọ. V́ thế, vị quốc
vương ấy làm nhiều chuyện tốt đẹp
như vậy, quyến thuộc của quốc
vương đặc biệt đông đảo. Quốc
dân trong quốc gia đều là quyến thuộc của
nhà vua.
Loại
công đức thứ năm là ít bệnh, ít khổ năo. Rất
ít sanh bệnh, rất ít phiền năo. Thậm chí tất cả
cảnh giới bên ngoài đều chẳng thể khiến
cho vua cáu kỉnh, đều khiến cho vua ít phiền năo.
Vua có chánh niệm hiện tiền, đương nhiên là ít
bệnh, ít phiền năo. Bằng hữu và quyến thuộc
của vua cũng đều có trí huệ. Lại c̣n đa
văn, đa văn là nói đến chuyện nghe pháp. Chúng
ta mở rộng thêm một chút, sẽ là có tài khéo công nghệ
thế gian, các loại kỹ thuật đều học
được toàn bộ. Ông ta thông minh, “đa văn”
là nghe nhiều pháp. Chánh trí, chánh hạnh, ông ta làm toàn chuyện
tốt, đều là các hành vi chánh thường, đều
chẳng ĺa khỏi Thập Thiện, nói chung là như thế
đó. Thân cận cúng dường Phật, Bồ Tát, cúng
dường Tam Bảo, cho đến cúng dường, thí xả cho hết thảy mọi người.
“Quảng
mỹ thanh dự, lưu chấn thập phương” (Tiếng
tăm rộng lớn đẹp đẽ vang dội khắp
mười phương): [Thanh danh của] vị thiện
vương ấy cho đến hiện tại vẫn c̣n
được lưu truyền, như vua A Dục (Aśoka
Maurya)
tạo tám vạn bốn ngàn ṭa Phật tháp, trọn
khắp thế giới Sa Bà. Trên trời, trong nhân gian, và
cung rồng đều có. Nhân gian kể ra vẫn c̣n rất
ít. Tại Trung Hoa, chỉ có chùa A Dục Vương ở
Ninh Ba. Các nơi khác cũng nói là có xá-lợi của đức
Phật, hoàn toàn chẳng thể khảo cứu được.
Hiện thời, răng Phật[11]
c̣n có thể khảo chứng. Xá-lợi lóng xương ngón
tay của Phật ở chùa Pháp Môn c̣n có thể khảo chứng.
Đối với [nơi thờ] xá-lợi đức Phật
[tại Trung Hoa], chỉ có chùa A Dục Vương do vua A Dục
kiến tạo là có một hạt, nhưng trong Phật
đường của nhân gian, xá-lợi Phật quá nhiều.
Đây cũng là xá-lợi Phật, mà kia cũng là xá-lợi
Phật.
Lúc
tôi ở Đài Bắc, có một đệ tử nói: Có
người lấy được xá-lợi Phật
đem bán, ông ta mua rất nhiều xá-lợi của Phật,
đầy cả một b́nh, đem thờ ở đó! Quư
vị coi đó là xá-lợi Phật để thờ phụng
cũng được, ngay cả h́nh tượng vẽ
trên giấy cũng đều là xá-lợi của Phật.
Thế nhưng, xá-lợi Phật thật sự chỉ có
một viên. Đối với tiếng tăm danh vọng,
tôi nêu vua A Dục làm thí dụ. Như Đường Thái
Tông được tất cả mọi người
xưng tụng là “hiền quân” (vua hiền) hoặc “thánh
quân”. Đời Đường, Phật pháp đặc
biệt hưng thịnh. Gần đây nhất là vị
hoàng đế tương đối hưởng phước
là vua Càn Long, làm vị thái b́nh thiên tử suốt sáu
mươi năm. Chuyện ǵ cũng đều chẳng
phải làm, lo làm thơ, vui chơi, ngắm phong cảnh.
Đó là chuyện ông ta phải làm! Làm hoàng đế kiểu
đó rất sung sướng. Sau ông ta, hai ba đời vua
vẫn c̣n khá. Đó là quả báo thanh danh rộng lớn,
đẹp đẽ!
“Cửu
giả, đại oai đức thiên thần thường
tùy vệ hộ” (Chín là bậc thiên thần có oai đức
lớn thường theo hộ vệ): Người ấy
chẳng thấy được. Tại Bắc Kinh, [dân
chúng] thường kể những câu chuyện về Càn
Long. Quan Thánh Đế Quân chỗ nào cũng có miếu thờ;
là do chánh lệnh của Càn Long ban xuống, ấn định
thành pháp luật quốc gia: “Mỗi huyện, mỗi thôn làng đều dựng miếu Quan Đế”. V́ sao dựng
miếu Quan Đế? Vào thời Càn Long mới khởi
đầu [xây dựng], trước kia,
cũng chẳng có. Sau này, quư vị tới từng thôn trấn
đều có miếu Quan Đế. Quan Đế thánh quân
cũng hiển thánh, v́ Quan Đế thánh quân bảo vệ
vua Càn Long. [Chuyện kể rằng]: Có một hôm khi vua
thượng triều, nghe đằng sau có tiếng vũ
khí, ông ta chẳng cho đó là có người ám sát, mà biết
đó là thần đến bảo vệ ông ta. Vua hỏi:
“Ai hộ giá? Ai đến bảo vệ ta?” Sau lưng vua
có tiếng đáp: “Nhị đệ Vân Trường”. Ông
ta biết chính ḿnh là Lưu Bị chuyển thế. Hoàng
đế đều rất thông minh, bèn hỏi: “Tam đệ
(Trương Phi) ở đâu?” Quan Công đáp: “Trấn thủ
Liêu Dương”, cũng chính là Liêu Dương ở miệt
Đông Bắc. Bất quá, vị tướng quân trấn
thủ Liêu Dương chẳng có phước báo. Càn Long
nghe nói, liền điều vị ấy vào kinh. Do tâm vua nôn
nóng bèn dùng kim bài để vời. Sau khi nhận được
kim bài, [vị tướng quân] ấy lập tức phải
lên đường, ngày đêm rong ruổi. Đó gọi là
“kim bài điều”. Bị điều động, vị
tướng quân ấy cho rằng chính ḿnh đă phạm lỗi
lầm rất lớn. Nếu không, sao [triều đ́nh] lại
dùng kim bài để điều động? Ông ta uống
thuốc độc tự sát. Đây là một câu chuyện
cũ. Đó là “đại oai đức thiên thần
thường tùy thủ hộ”.
Như
trong lúc chúng ta thọ giới, quư vị thọ Tam Quy, thọ
Ngũ Giới, sẽ có hộ pháp thiện thần hộ
tŕ quư vị. Quư vị vừa phá giới, họ liền rời
khỏi quư vị. Phàm là người thọ Tam Quy, Ngũ
Giới, sẽ gặp nguy nan rất ít. Tại Bắc Kinh
thuở đó, có một vị ḥa thượng hút thuốc
phiện, lúc chết th́ vẫn chết trong ngôi chùa ấy.
Vào thời đó, Nhật Bản xâm lược [Trung Hoa],
sau khi họ đă chiếm Bắc Kinh, tôi c̣n ở Bắc
Kinh, có rất nhiều ḥa thượng hút thuốc phiện.
Trong chùa c̣n có tiền [th́ chưa sao], lúc hết tiền, họ
bèn bán chùa từng chỗ một. Những ngôi chùa ấy
đều rất lớn. Họ tùy tiện bán một ít
đất đai, đủ cho họ hút một, hai
năm, nhưng họ cũng chẳng đến nỗi chết vật vạ trên đường phố!
Ở
quê hương tôi có lời đồn, mùa Đông lạnh mấy
chục độ âm, hành tây bị đông cứng, nhưng
không chết, vẫn sống như thường. Có bao nhiêu
tai ương, bao nhiêu tai nạn, vẫn chưa thấy có
ḥa thượng phải lê lết, lêu bêu ngoài đường.
Tục ngữ có câu: “Ngạ bất tử tăng, đống
bất tử thông” (Tăng chẳng chết đói, hành
chẳng chết v́ lạnh). V́ thế có người nói: “Chẳng
có cơm ăn bèn xuất gia làm ḥa thượng!” Ở
phương Bắc, phong tục này rất nặng. Thuở
ấy, tại các chùa ở nông thôn, ḥa thượng không
ăn chay, đều ăn mặn. Tuy rằng trong chùa không
cho phép ḥa thượng cưới vợ, nhưng họ cũng chẳng thọ giới, c̣n có “ngoại gia”. Ngoại
gia là ǵ? Nhà của họ ở bên ngoài, chẳng ở trong
chùa. Đó gọi là “ngoại gia”. Thời Mạt Pháp
là như vậy đó.
Đối
trước hiện tượng này, đức Phật chẳng
cho phép hủy báng họ, không chấp thuận hành h́nh họ,
không chấp thuận dùng phép nước để xử
phạt họ, v́ họ thuộc chủng tánh Tam Bảo. Nếu
quư vị làm thiện nghiệp, sẽ có bậc oai thần
đến hộ pháp cho quư vị. Khi quư vị thân hoại,
mạng chung, sẽ sanh lên trời, thường ở trong
đường lành. “Quốc độ an lạc” là
nhân gian hoặc trên cơi trời. Đấy là đại
vương Sát-đế-lợi đă được quán
đảnh thành tựu vương luân thứ chín như thế
đó.
(Kinh)
Do thử luân cố, linh tự quốc độ tăng
trưởng an lạc, năng phục nhất thiết oán
địch, ác hữu, thiện thủ hộ thân, linh
tăng thọ mạng. Thiện nam tử! Như thị
Như Lai như thật liễu tri nhất thiết hữu
t́nh tử sanh đẳng sự, vị như thật tri:
Nhược chư hữu t́nh, thành thân ác hạnh, thành ngữ
ác hạnh, thành ư ác hạnh, phỉ báng hiền thánh, cụ
túc tà kiến, tà kiến nghiệp nhân, thân hoại, mạng
chung, đọa chư ác thú, hoặc sanh địa ngục,
hoặc sanh bàng sanh, hoặc sanh ngạ quỷ. Nhược
chư hữu t́nh, thành thân thiện hạnh, thành ngữ thiện
hạnh, thành ư thiện hạnh, bất báng hiền thánh, cụ
túc chánh kiến, chánh kiến nghiệp nhân, thân hoại, mạng
chung, thăng chư thiện thú, hoặc sanh thiên thượng,
hoặc sanh nhân trung, hoặc tận chư lậu. Như
Lai như thị như thật tri dĩ, ư bỉ chúng
sanh, khởi đại từ bi, dũng mănh, tinh tấn, hiện
tam thần biến, linh bỉ chúng sanh, quy thú Phật pháp,
giáo giới an trí, thành lập thế gian xuất thế
gian tín.
(經)由此輪故,令自國土增長安樂,能伏一切怨敵惡友,善守護身,令增壽命。善男子,如是如來如實了知一切有情死生等事,謂如實知:若諸有情,成身惡行,成語惡行,成意惡行,誹謗賢聖,具足邪見,邪見業因,身壞命終,墮諸惡趣,或生地獄,或生傍生,或生餓鬼;若諸有情,成身善行,成語善行,成意善行,不謗賢聖,具足正見,正見業因,身壞命終,升諸善趣,或生天上,或生人中,或盡諸漏。如來如是如實知已,於彼眾生起大慈悲,勇猛精進,現三神變,令彼眾生歸趣佛法,教誡安置,成立世間、出世間信。
(Kinh:
Do v́ luân này, khiến cho quốc độ của chính ḿnh
tăng trưởng an vui, có thể hàng phục hết thảy
oán địch và bạn ác, khéo thủ hộ thân, khiến
cho thọ mạng tăng trưởng. Này thiện nam tử!
Như Lai biết rơ đúng như thật các chuyện tử
sanh v.v… của hết thảy hữu t́nh như thế, tức
là biết đúng như thật: Nếu các hữu t́nh thành
tựu ác hạnh nơi thân, thành tựu ác hạnh nơi
ngữ, thành tựu ác hạnh nơi ư, phỉ báng hiền
thánh, trọn đủ tà kiến và nghiệp nhân tà kiến,
thân hoại, mạng hết, sẽ đọa vào các
đường ác, hoặc sanh vào địa ngục, hoặc
sanh làm bàng sanh, hoặc sanh làm quỷ đói. Nếu các hữu
t́nh thành tựu thiện hạnh nơi thân, thành tựu thiện
hạnh nơi ngữ, thành tựu thiện hạnh nơi
ư, chẳng báng hiền thánh, trọn đủ
chánh kiến và nghiệp nhân của chánh kiến, thân hoại,
mạng hết, sẽ thăng lên các đường lành,
hoặc sanh lên trời, hoặc sanh trong loài người, hoặc
hết sạch các lậu. Như Lai đă biết đúng
như thật rồi, đối với các chúng sanh ấy,
dấy đại từ bi, dũng mănh, tinh tấn, hiện
ra ba thứ thần biến, khiến cho các chúng sanh ấy
quy hướng Phật pháp, sắp đặt các thứ
răn dạy, thành tựu niềm tin xuất thế gian
trong thế gian).
“Do
thử luân cố, linh tự quốc độ tăng
trưởng an lạc, năng phục nhất thiết oán
địch, ác hữu, thiện thủ hộ thân, linh
tăng thọ mạng” (do v́ luân ấy, khiến cho
nước ḿnh tăng trưởng yên vui, có thể chế
phục hết thảy oán địch và bạn ác, khéo thủ
hộ thân, khiến cho thọ mạng tăng trưởng):
Vị quốc vương ấy rất tốt, không chỉ
tốt đẹp cho riêng ḿnh, mà c̣n khiến cho trong quốc
giới ấy chẳng có kẻ làm ác! “Thiện nam tử!
Như thị Như Lai như thật liễu tri nhất
thiết hữu t́nh tử sanh đẳng sự” (Này thiện
nam tử, Như Lai đúng như thật biết rơ những
chuyện sanh tử của hết thảy các hữu t́nh):
Những chuyện giống như thế, do trí huệ mà
đức Phật bèn biết rơ đúng như thật, tức
là lư giải xứng tánh. Đối với sanh tử, làm
chuyện tốt, hay làm chuyện xấu, đức Phật
đều biết. Trong mười loại Trí, [đức
Phật] khéo biết chỗ sanh tử của hết thảy
chúng sanh. Nếu hết thảy hữu t́nh, thân làm ác, miệng
nói ác, ư nghĩ ác, cũng tức là ba thứ ác hạnh
nơi thân, ngữ, ư đều thành tựu, ác nghiệp
đă thành tựu. Có các chúng sanh ác hạnh
hủy báng hiền thánh. Đối với bậc hiền
thánh có đức hạnh, họ đều hủy báng, trọn
đủ tà kiến. Do cái nhân tà kiến ấy, sau khi họ
chết đi, sẽ đọa vào ba ác đạo, sẽ
rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh. “Hoặc sanh bàng sanh”: Bàng sanh (傍生) là súc sanh. Hoặc sanh làm ngạ quỷ, tức là ba ác
đạo.
Nếu
nói ngược lại, các chúng sanh đó “thân thiện hạnh
thành, ngữ thiện hạnh thành, ư thiện hạnh thành”,
tức là đă thành tựu thiện hạnh nơi thân,
thành tựu thiện hạnh nơi ngữ, thành tựu thiện
hạnh nơi ư, chẳng hủy báng hiền thánh, cũng
chính là chánh tri, chánh kiến, chẳng phải là tà tri, tà kiến.
Do các nghiệp nhân ấy, khi họ thân hoại, mạng
chung, chỗ họ sanh về sẽ khác hẳn: Sanh vào
đường lành, sanh trong nhân gian, hưởng thụ
phú quư, vinh hoa. Sanh lên trời th́ sao? Càng tốt hơn sanh trong
nhân gian! “Hoặc sanh thiên thượng, hoặc sanh nhân
trung” (hoặc sanh lên trời, hoặc sanh trong loài người):
Câu này có ư nghĩa bất định, tùy thuộc thiện
nghiệp và ác nghiệp của người ấy lớn
hay nhỏ. Như Lai đều biết rơ đúng như thật.
“Ư bỉ chúng sanh khởi đại từ bi, dũng
mănh, tinh tấn, hiện tam thần biến” (Đối
với các chúng sanh ấy, dấy đại từ bi,
dũng mănh, tinh tấn, hiện ra ba thứ thần biến):
Đức Phật biết rơ đúng như thật. Hạng
chúng sanh này làm thiện nghiệp, Phật sanh khởi ḷng từ
bi nhiếp thọ, hộ tŕ. Nhiếp thọ, hộ tŕ
người ấy như thế nào? Khiến cho chúng sanh ấy,
tức những chúng sanh tốt lành ấy, những chúng
sanh thiện nghiệp đă chín muồi do thần lực của
Như Lai, sẽ tiến
hướng Phật pháp. Đức Phật sắp đặt
răn dạy họ như thế nào? Thành lập niềm
tin thế gian xuất thế gian, tức là tuy ở trong thế
gian mà tin vào pháp xuất thế gian, kiến lập tín tâm.
(Kinh)
Hà đẳng vi tam? Nhất giả, thần thông biến hiện.
Nhị giả, kư thuyết biến hiện. Tam giả, giáo
giới biến hiện. Do thị tam chủng biến hiện
oai lực, khuyến phát hữu t́nh, giáo giới, an trí, thành
lập thế gian xuất thế gian tín, linh ư nhất
thiết hữu thú tử sanh giai đắc giải thoát.
(經)何等為三?一者,神通變現;二者,記說變現;三者,教誡變現。由是三種變現威力,勸發有情教誡安置,成立世間、出世間信,令於一切有趣死生皆得解脫。
(Kinh:
Những ǵ là ba?Một là thần thông biến hiện. Hai
là kư thuyết biến hiện (do chúng sanh nghĩ nhớ
pháp nào, bèn hiện thân
nói pháp đó). Ba là giáo giới biến hiện (biến hiện
răn dạy). Do oai lực của ba loại biến hiện
này, khuyên lơn, phát khởi hữu t́nh, răn dạy,
đặt yên, thành lập niềm tin xuất thế gian
trong thế gian, khiến cho những kẻ tử sanh trong
hết thảy các đường đều được
giải thoát).
Ba
loại thần biến, “hà đẳng vi tam? Nhất
giả, thần thông biến hiện. Nhị giả, kư thuyết
biến hiện. Tam giả, giáo giới biến hiện” (những ǵ là ba? Một là thần thông biến hiện,
hai là tùy họ nghĩ nhớ pháp nào sẽ hiện thân nói
pháp đó, ba là biến hiện răn dạy): Răn dạy họ
hăy khéo tăng thêm thiện hạnh, siêu xuất mười
thiện nghiệp, tu tập Thiền Định, cho đến
thọ kư, biến hiện thần thông, thọ kư họ
trong tương lai, thị hiện Thần Túc Thông, Thần
Cảnh Thông, khiến cho tín tâm của họ tăng trưởng.
Nếu chúng ta mắc bệnh chẳng trị được,
quư vị niệm thành khẩn, cầu nguyện như thế,
Địa Tạng Bồ Tát sẽ trị lành cho chúng ta. Chẳng
riêng ḿnh quư vị sanh khởi tín tâm thanh tịnh, mà những
thân hữu chung quanh cũng sẽ đều sanh khởi
ḷng tin thanh tịnh. Cũng có kẻ trông thấy cảnh
giới ấy, họ vẫn hủy báng, do họ là hạng
chúng sanh căn tánh xấu hèn. Họ là hạng người
như vậy đó. Nếu quư vị nói người nào
đó do niệm kinh Địa Tạng mà được Bồ
Tát gia tŕ, được lành bệnh, hoặc chuyển hóa cảnh sống, kẻ không tin sẽ
nói: “Lẽ nào có chuyện ấy? Bệnh ấy vốn có
thể chữa lành”. Cũng có kẻ không tin, lư do không tin là
v́ căn tánh xấu ác. Người khéo tin là do có lư do để
khéo tin. Do vậy, [có những kẻ] dùng thần thông hoặc
những tṛ biến hiện lạ lùng để lường
gạt người khác, là v́ có các chúng sanh
ham chuộng. Nhưng người chánh tín sẽ chẳng
đọa vào tà tri, tà kiến. Tuy họ cũng tán thán, tùy
hỷ, nhưng cho rằng đấy chưa phải là rốt
ráo, nhất định phải hiểu đạo lư này. Phải
khuyên lơn, phát khởi hữu t́nh như vậy, sắp
đặt sao cho họ thành lập niềm tin xuất thế
gian trong thế gian, khiến cho hết thảy “hữu
thú chúng sanh” đều được giải thoát. “Hữu
thú” (有趣) là lục đạo chúng sanh có nỗi khổ sanh tử,
bao gồm trời, người, Tu La, địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh. “Hữu thú” có sáu đường,
ở đây, là nói đến đường
ác. Có sanh tử th́ chưa được giải thoát,
đều khiến cho bọn họ được giải
thoát.
(Kinh)
Thiện nam tử, ngă thành như thị đệ cửu Phật
Luân. Do thử luân cố, lợi ích an lạc vô lượng
hữu t́nh, đắc an ổn trụ, đắc vô kinh khủng,
đắc vô sở úy, tự xưng ngă xử đại
tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, tồi chư
thiên ma, ngoại đạo tà luận, xử đại
chúng trung, chánh sư tử hống.
(經)善男子,我成如是第九佛輪。由此輪故,利益安樂無量有情,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,摧諸天魔外道邪論,處大眾中正師子吼。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật Luân thứ chín
như thế. Do v́ luân này, lợi ích an lạc vô lượng
hữu t́nh, trụ trong an ổn, được không kinh hoảng,
được chẳng sợ hăi, tự xưng ta trụ
nơi địa vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật
Luân, dẹp tan tà luận của các thiên ma và ngoại đạo,
ở trong đại chúng, thực hiện sư tử hống).
Pháp
do ta nói đều là chánh pháp, giống như sư tử rống,
tà ma và ngoại đạo nghe thấy đều bị khuất
phục. Có ư nghĩa ấy!
(Kinh)
Thiện nam tử! Như Sát-đế-lợi quán đảnh
đại vương, vị trừ tứ châu vô lượng
hữu t́nh, chủng chủng thân bệnh, khí xả
vương vị. Dĩ chư hương thang mộc dục
thân thủ, trước tiên tịnh y, đoan tọa tư
duy, ư chư chúng sanh, kỳ tâm b́nh đẳng, từ bi
hộ niệm, vị linh giải thoát nhất thiết bệnh
cố, dĩ kỳ chủng chủng hương, hoa, kỹ
nhạc, cập dư cúng cụ, cúng dường nhất
thiết đại oai đức thiên thần. Nhĩ thời,
nhất thiết thiên đế, long đế, năi chí Mạc
Hô Lạc Già thần đế, tri thị sự dĩ, các
tương vị ngôn: “Thử Sát-đế-lợi quán
đảnh đại vương, cụ chư công đức,
hữu đại oai thần, ưng tác Luân Vương, thống
tứ châu chử. Ngă đẳng nghi ưng cộng văng kiến
lập, linh phục vương vị, thống tứ châu
chử, linh chư chúng sanh, vô bệnh an lạc”. Thời,
chư thiên đế, năi chí Mạc Hô Lạc Già thần
đế, tức tiện cộng văng, lập Sát-đế-lợi
quán đảnh đại vương Chuyển Luân
Vương vị, linh cụ thất bảo, thống tứ
đại châu, giai đắc tự tại, thiên tử cụ
túc, dũng kiện, đoan chánh, năng tồi oán địch,
khóa vương đại địa, hằng cùng hải tế,
trích phạt giai đ́nh, đao trượng bất cử,
hàm tu chánh pháp, phổ thọ an lạc. Thiện nam tử!
Sát-đế-lợi chủng quán đảnh đại
vương, thành tựu như thị đệ thập
vương luân. Do thử luân cố, ư tứ đại
châu, viên cập bát vạn tứ thiên tiểu chử, an lập
kỳ trung chư hữu t́nh loại, Thập Thiện nghiệp
đạo, thiện thủ hộ thân, linh tăng thọ mạng,
thân hoại, mạng chung, đương sanh thiên trung, thọ
chư diệu lạc.
(經)善男子,如剎帝利灌頂大王,為除四洲無量有情種種身病,棄舍王位,以諸香湯沐浴身首,著鮮淨衣,端坐思維,於諸眾生,其心平等慈悲護念,為令解脫一切病故,以其種種香華伎樂及餘供具,供養一切大威德天神。爾時,一切天帝、龍帝,乃至莫呼洛伽神帝,知是事已,各相謂言:此剎帝利灌頂大王,具諸功德有大威神,應作輪王,統四洲渚,我等宜應共往建立,令復王位統四洲渚,令諸眾生無病安樂。時諸天帝,乃至莫呼洛伽神帝,即便共往立剎帝利灌頂大王轉輪王位,令具七寶,統四大洲,皆得自在,千子具足,勇健端正,能摧怨敵,跨王大地恆窮海際,謫罰皆停,刀杖不舉,咸修正法,普受安樂。善男子,剎帝利種灌頂大王,成就如是第十王輪。由此輪故,於四大洲,爰及八萬四千小渚,安立其中諸有情類十善業道,善守護身,令增壽命,身壞命終,當生天中,受諸妙樂。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Như đại vương
Sát-đế-lợi được quán đảnh v́ trừ
các thứ thân bệnh cho vô lượng hữu t́nh trong bốn
châu, bèn vứt bỏ ngôi vua, dùng các nước thơm tắm
gội thân và đầu, mặc áo sạch sẽ, ngồi
ngay ngắn tư duy, đối với các chúng sanh, tâm vua
b́nh đẳng, từ bi hộ niệm, v́ để giải
thoát hết thảy bệnh, dùng các thứ hương, hoa,
kỹ nhạc, và các vật cúng khác để cúng dường
hết thảy các thiên thần có oai đức lớn. Lúc
bấy giờ, hết thảy vua trời, vua rồng, cho
đến thần đế Mạc Hô Lạc Già biết sự
ấy rồi, đều nói với
nhau: “Vị đại vương quán đảnh Sát-đế-lợi
này có đủ các công đức, có oai thần lớn,
đáng làm Luân Vương thống lănh bốn đại
châu, chúng ta hăy nên cùng đến kiến lập, khôi phục
ngôi vua, khiến cho ông ta thống lănh bốn đại
châu, khiến cho các chúng sanh không bệnh, yên vui”. Khi ấy,
các vị thiên đế cho đến Mạc Hô Lạc Già
thần đế liền cùng nhau đến, lập đại
vương quán đảnh Sát-đế-lợi lên ngôi Chuyển
Luân Vương, khiến cho ông ta trọn đủ bảy
báu, thống lănh bốn đại châu đều được
tự tại, có đủ một ngàn con trai, dũng mănh,
tráng kiện, đoan chánh, có thể dẹp tan oán địch,
làm vua trọn khắp đại địa, tột cùng ngằn
mé biển cả, các loại trừng phạt đều ngừng,
đao, gậy chẳng dùng đến, [nhân dân] đều tu chánh pháp,
khắp hưởng yên vui. Này thiện nam tử! Đại
vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi đă
được quán đảnh thành tựu vương luân
thứ mười như thế. Do v́ luân ấy, trong bốn
đại châu, cùng với tám vạn bốn ngàn tiểu
châu, đặt yên các loài hữu t́nh nơi Thập Thiện
nghiệp đạo, khéo thủ hộ thân, khiến cho thọ
mạng tăng trưởng, khi thân hoại, mạng chung,
sẽ sanh về cơi trời, hưởng các sự vui mầu
nhiệm).
Đây
là vương luân thứ mười, là pháp thế gian tốt
đẹp nhất. Vị đại vương quán đảnh
Sát-đế-lợi ấy v́ muốn trừ khử bệnh
tật của chúng sanh trong bốn đại bộ châu,
bèn “khí xả vương vị” (vứt bỏ ngôi
vua), dùng nước thơm tắm rửa thân thể, mặc
y phục mới sạch. Nhà vua liền tư duy, tư duy
cũng là quán tưởng: Đối với chúng sanh mắc
bệnh trong bốn đại bộ châu, phải trừ
khử thân bệnh của họ như thế nào? V́ sao có
thân bệnh? Thân bệnh là do nghiệp sát sanh nặng nề
của họ trong nhiều đời quá khứ, cho nên thân
thể mới bị bệnh. C̣n nữa, thân bệnh dễ
trị, tâm bệnh chẳng dễ trị. Làm như thế
nào đây? Thuyết pháp cho họ, v́ họ giải trừ
các loại thân bệnh của hết thảy hữu t́nh
trong bốn châu. Sau khi đă tư duy, vua bèn cúng dường
các thiên thần có đại oai đức. Đấy là nói
đến Ngọc Hoàng Đại Đế, và cũng nói
đến tầng trời thứ tư, hoàn toàn chẳng
bao gồm Phạm Thiên. V́ “cúng dường
thiên đế” là nói đến [vua] tầng trời thứ
tư. C̣n có long đế của các long vương, cho
đến tám bộ quỷ thần chúng, cho đến thần
đế của thần đại măng xà. Mạc Hô Lạc Già là măng thần (蟒神, thần đại
măng xà). Ông ta cúng dường những vị thần ấy,
mong những vị thần ấy sẽ dùng thần lực
để tiêu trừ bệnh tật của hết thảy
chúng sanh. Đấy chỉ là thân bệnh, trọn chẳng
thuyết pháp.
Vị
quán đảnh đại vương ấy trọn đủ
công đức, có oai thần to lớn, đáng làm Chuyển
Luân Thánh Vương. Chuyển Luân Thánh Vương ở
đây là nói đến Kim Luân Thánh Vương, sẽ làm vua
bốn bộ châu. Kim Luân Thánh Vương là vua bốn bộ
châu. Ngân Luân Thánh Vương làm vua ba bộ châu. Đồng
Luân Thánh Vương làm vua hai bộ châu. Thiết Luân Thánh
Vương chỉ có thể làm vua một bộ châu. Hiện
thời, trong thế giới này không có thánh
vương. Trong thời đại này, dường như
cũng chẳng có nghiệp luân của thánh vương! Quốc
gia vô đạo, tai họa nhiều lượt dấy lên.
Mọi người niệm kinh Nhân Vương Hộ Quốc
sẽ biết. V́ công đức và phước đức
của nhà vua, các vị thiên thần, thiên đế, long
đế, cho đến thần đế của măng xà thần,
thần đế của tám bộ quỷ thần, đều
cùng nhau tụ hội, thảo luận, nghiên cứu vị Luân Vương này, xem [làm cách nào để] có thể khôi
phục vương vị cho ông ta, [để
ông ta] có thể làm bậc quán đảnh đại
vương, bèn lập ông làm vị đại vương
quán đảnh thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi
giữ ngôi vị Chuyển Luân Vương, để ông ta
làm vua cả bốn bộ châu, trọn đủ bảy
món báu. Bảy món báu ấy không phải là vàng, bạc, mă
năo, bảo châu v.v… mà là thất bảo (Satta ratanāni) trong Tứ
Đại Bộ Châu:
Một
là Luân Bảo (Cakra-ratna). Nếu do phước
báo, Luân Vương cảm được [ngôi vị] Kim
Luân Vương, các vị quỷ thần,
thiên, địa sẽ kiến tạo một cái kim luân.
Luân ấy to cỡ nào? Xe Tổng Thống lớn nhất
cũng chẳng to bằng cái luân ấy, c̣n to hơn cả
tàu thủy. Quyến thuộc của nhà vua, tứ đại
binh chủng, bảy báu đều đặt trên cái luân ấy.
Thất bảo đều bao gồm trong Luân Bảo. Vua có
thể cưỡi cái luân ấy phi hành bốn đại bộ
châu: Đông Thắng Thần Châu, Bắc Câu Lô Châu, Tây
Ngưu Hạ Châu [và Nam Thiệm Bộ
Châu]. Chúng ta chỉ có thể ở Nam Thiệm Bộ Châu
v́ ở phía Nam của mặt trời. Phía Bắc của mặt
trời là Bắc Câu Lô Châu. Phía Tây mặt trời là Tây
Ngưu Hạ Châu, phía Đông của mặt trời là
Đông Thắng Thần Châu.
Đây
là thần thoại, kinh Phật trích dẫn thần thoại
để thuyết minh về Kim Luân
Vương. Chúng ta không cần nói tới tứ đại
bộ châu. Một Nam Thiệm Bộ Châu có bao nhiêu chủng
tộc, bao nhiêu ngôn ngữ, bao nhiêu tập quán sanh hoạt.
Mỗi bộ lạc đều có tập quán sanh hoạt của
riêng họ. Quốc độ đă phát triển th́ họ
có một thứ ngôn ngữ chung để
giao tiếp. Nơi chưa khai phá, có chỗ phi cơ đă
bay đến, cũng có chỗ phi cơ chưa bay tới.
Đặc biệt là chủng tộc rồng trong biển,
có bao nhiêu loại hữu t́nh chúng sanh trong biển? Đối
với bốn bộ châu của nhà vua, quư vị phải thông
hiểu hết thảy ngôn ngữ. Điều thứ nhất
là tập quán sanh hoạt, họ có phong tục bất đồng.
Nếu mong thống nhất, há dễ dàng như vậy ư?
Thống nhất tứ đại bộ châu chẳng dễ
dàng! Nhà vua có thần
lực này, đấy là Luân Bảo.
C̣n có Tượng Bảo (Hasti-ratna), con voi
ấy khác hẳn voi b́nh phàm. [Tuy nó] chẳng có thần thông
lớn như con voi do Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi,
mà là loại Tượng Bảo thông thường. Tượng
Bảo là của báu trong loài voi. Con voi
ấy là voi báu. C̣n có Mă Bảo (Aśva-ratna), thiên mă
bay trên hư không, có nghĩa là “ngựa
báu”, thiên mă có thể
bay. C̣n Châu Bảo (Maṇi-ratna), Châu Bảo
tức là Như Ư Bảo Châu (Cintāmaṇi). Tất cả
các bảo bối của Luân Vương khác với các thứ
của chúng ta. Chúng ta chẳng có Dạ Minh Châu, trong đêm tối
phải dùng ánh sáng
của đèn. Nếu có một viên Dạ Minh Châu, căn nhà này
liền sáng bừng. Chúng ta cũng chẳng có Tỵ Thủy
Châu. Bất luận quư vị đến sông, hồ, rạch,
biển, hễ dùng Tỵ Thủy Châu, nước liền
rẽ làm hai để quư vị có thể đi qua. Ngay cả
gió lốc, bất luận băo tố, bất luận loại
gió nào, quư vị dùng Định Phong Châu hướng về
phía đó, gió đều chẳng c̣n nữa. Luân Vương
có các bảo bối ấy, vốn trọn đủ, chúng
ta chẳng có phước báo gặp gỡ. Bất quá, các bảo
châu ấy đều chẳng bằng viên Như Ư Bảo
Châu trong tay Địa Tạng Bồ Tát. Tu thành tựu như
Địa Tạng Bồ Tát, quư vị sẽ có được
Như Ư Bảo Châu.
Đấy là thất bảo, c̣n có Nữ Bảo (Strī-ratna). Nữ
Bảo cũng là mỹ nữ. Các mỹ nữ ấy hoàn
toàn chẳng phải là mỹ nữ tham dục, mà rất thanh
tịnh. Mọi người nghe giảng Duy Ma Cật Sở
Thuyết Kinh, thiên nữ nói móc ngài Xá Lợi Phất là do Bồ
Tát hóa hiện. Vị Luân Vương này tuy có đức, vẫn
chưa thể cảm Bồ Tát hóa hiện [làm Nữ Bảo].
Mọi người chớ nên nghĩ [Nữ Bảo] là các
ca nữ, kỹ nữ, toàn là phường xướng ca!
Nếu nghĩ Nữ Bảo là bọn ca nữ trong nhân gian,
th́ sẽ chẳng thành của báu. Trong
nhân gian, Bảo là ǵ? Bảo là tôn quư, hiếm hoi. Dùng ư nghĩa
như vậy để nói về Nữ Bảo.
C̣n có người tổng chỉ huy quân đội (Chủ Binh Bảo, Pariṇāyaka-ratna), đều ở
trên Kim Luân. Vị đại thần ấy có oai thần chẳng
thể nghĩ bàn, có thể dẹp tan hết thảy oán
địch[12].
Tới lúc ấy, mọi người đều tŕ giới,
đều hành Thập Thiện Nghiệp,
làm sao có oán địch cho được? Luân Bảo của
quốc vương đến đâu, nơi đó đều thanh tịnh,
tôn vua làm bậc quán đảnh đại vương. Trọn
đủ Thất Bảo, thống lănh tứ đại bộ
châu, đều được tự tại. Hễ nói
đến vua Sát-đế-lợi, Luân Vương có đủ
“thiên tử”, tức là một ngàn đứa con trai,
nhưng chẳng phải do cùng một vị phu nhân sanh ra,
hoặc là vua có vô lượng phu nhân. Loại t́nh huống
này chẳng thể dùng quy chế “một vợ, một
chồng” để luận đoán được! Nhà
vua thọ mạng cực dài, dũng kiện, lại có một
ngàn con trai, nhưng hành hạnh thanh tịnh. Nếu Chuyển
Luân Thánh Vương thật sự dâm dục th́ sẽ không
được, ông ta cũng chẳng thể
làm Chuyển Luân Thánh Vương. Đây là ư cảnh. [Con
cái] có khi là hóa sanh. Đă thế, một ngàn đứa con
đều dũng kiện, đoan chánh, có thể dẹp
tan oán địch.
Phàm là tứ đại bộ châu do nhà vua thống lănh, cùng tận
đến bờ mé của biển cả. Bờ mé của
biển chẳng dễ ǵ cùng tận được. Thái
B́nh Dương, Đại Tây Dương là các đại
dương chúng ta trông thấy, c̣n bảy rặng kim
sơn vây quanh núi Tu Di và bảy tầng biển nước
thơm, phía ngoài đều là biển cả nước mặn.
Có câu tục ngữ rằng: “Tam sơn, lục thủy,
nhất phần điền”, ư nói: Ruộng đất
chỉ chiếm một phần, ba phần là đất núi
non, sáu phần là đất ngập nước. Chỗ ruộng
nương có thể trồng trọt chỉ được
một phần. Có ai đo lường Thái B́nh Dương
rốt cuộc to cỡ nào hay không? C̣n có năm đại
dương nữa! Không chỉ là một đại
dương, mà c̣n có Ấn Độ Dương, Nam
Băng Dương, Bắc Băng Dương. “Hằng
cùng hải tế” là ngay cả bờ mé của biển
cả đều đạt đến tận cùng. Đó
là nói sự thống lănh rộng lớn, ngoài đại
địa ra, hết thảy các quả núi, các mé biển.
Tới khi ấy, vua chẳng có h́nh phạt, chẳng quở
trách, hết thảy các h́nh phạt đều đ́nh chỉ.
Cũng chẳng có h́nh cụ để trách phạt, đao
trượng chẳng dùng, v́ [tất cả mọi người]
đều tu chánh pháp, khắp tất cả đều
hưởng yên vui. Do vậy, vị vua quán đảnh ấy
thành tựu vương luân thứ mười.
Do
v́ luân này, ở trong tứ đại
châu cho đến trọn khắp tám vạn bốn ngàn “tiểu chử” (小渚), tức là các tiểu châu. Tám vạn bốn ngàn tiểu
châu, tiểu quốc gia có tám vạn bốn ngàn nước.
Đây là nêu ra con số tổng quát, an lập trong đó.
Các loài hữu t́nh ấy đều hành Thập Thiện
Đạo, đều giữ ǵn thân ḿnh, thọ mạng
tăng trưởng, thân hoại, mạng chung, chẳng
đọa vào ba ác đạo. Khi đó, Kim Luân Vương thống
lănh nhân dân đều hành Thập Thiện Nghiệp. Khi hết thọ mạng, đều sanh lên
cơi trời, chẳng đọa vào ba ác đạo. Kinh Phật
chỉ nói như vậy, rốt cuộc có bao nhiêu Kim Luân
Vương xuất thế, hoàn toàn chẳng ghi chép. Tối
thiểu là trong quốc độ này, chẳng thấy ghi
chép. Thiết Luân Vương cũng chẳng có. Thuở ấy,
chỉ nói “suất độ chi tân, mạc phi
vương thổ” (khắp cả bờ cơi, không ǵ chẳng
phải là đất của nhà vua). “Phổ thiên chi hạ”
(dưới trọn khắp bầu trời) [trong cách nói của
đế vương Trung Hoa thời cổ] gần như
chỉ là [đất đai] ở hai bên bờ Hoàng Hà mà
thôi. Lănh thổ cai trị của Tam Hoàng Ngũ Đế rất
nhỏ. Đó là “tọa tỉnh quán
thiên” (ngồi dưới đáy giếng nh́n trời, ếch ngồi đáy giếng), chẳng biết lănh thổ của người khác ở
ngoài lănh thổ của ḿnh to cỡ nào. Ư nghĩa là như vậy
đấy, hiểu ư nghĩa bao hàm ấy là được
rồi!
Đây
là dùng Phật nhăn để nh́n. Trong quốc độ tốt
đẹp như thế, vào lúc tứ đại châu đều
tốt đẹp, hoặc là khi đại châu được
kiến lập đă hơn vạn vạn
năm, đức Phật xuất thế thọ tám vạn
năm, cũng có khi Phật trụ thế suốt một
kiếp. Những lúc đó, có thể là có Kim Luân
Vương hộ pháp. Nhưng nguyện lực của Thích
Ca Mâu Ni Phật chẳng phải là như vậy, [khi Ngài xuất thế] con người thọ
mạng chỉ có một trăm năm, quốc gia thường
xuyên chiến tranh, loạn lạc. Thuở đức Phật
tại thế, đáng lẽ phải
không có chiến tranh, loạn lạc chứ? Thuở đức
Phật tại thế th́ cũng [chiến
tranh, loạn lạc] như vậy. Nếu
nghiên cứu lịch sử Ấn Độ, xem xét t́nh huống
của Ấn Độ như thế nào, ta sẽ thấy
t́nh trạng y hệt. Hơn nữa, Thích Ca Mâu Ni Phật chỉ
giáo hóa hai bên bờ sông Hằng. Quư vị đến Ấn
Độ chiêm bái thánh tích, chỉ là [các nơi] ở hai bên
bờ sông Hằng. Về sau, Phật pháp truyền bá khắp
tứ đại bộ châu. Trừ Bắc Câu Lô Châu không
tin, những nơi khác đều có, thậm chí đại
thiên thế giới, tức tam thiên đại thiên thế
giới. Nhưng đối với quốc độ chúng
ta đang cư trụ, theo như những ǵ chúng ta có thể
trông thấy, chúng ta cũng chỉ có thể liễu giải
như vậy mà thôi! [Đối với kiến giải hạn
hẹp của chúng ta], bốn đại bộ châu dường
như thần thoại, v́ chẳng được ghi chép, trong ư thức chẳng bảo tồn
loại hồi ức này! Hoặc là
đời trước th́ có, hiện tại đều
đă mê; nhưng quư vị phải tu, dũng mănh tinh tấn
tu, sẽ đạt được thần thông, sẽ [biết
các cảnh giới nói trong kinh Phật] đều thật
sự có.
Do
vậy, có các vị đại đức nhập Định
quan sát, có thể quan sát khá nhiều thế giới, v́ sao
các Ngài không nói? Nói ra có ai tin hay không? C̣n có thể bị chê
là điên rồi, tinh thần thác loạn! Cho nên ắt cần
phải b́nh đẳng! Đức Phật thị hiện
trong nhân gian, cũng chẳng thể [thị hiện] cao
siêu hơn người khác quá nhiều. Kinh A Hàm nói Ngài giống
như mọi người, cũng ôm bát khất thực, sống
cuộc đời giống như mọi người. V́ nếu
muốn hóa độ kẻ khác mà thị hiện đặc
biệt cao, người khác sẽ cảm thấy Ngài cao
không nắm bắt được: “Chúng ta làm sao có thể
học theo được?” Cho nên có người nói: “Những
giới điều như của các vị
ḥa thượng quư Ngài, tôi làm
sao thọ cho nổi?” Cũng có kẻ nh́n vào, thậm chí
c̣n cho rằng chẳng ăn thịt th́ làm sao được?
Có kẻ nói: “Tôi cũng muốn làm ḥa thượng, nhưng nếu
họ không cho tôi ăn thịt, tôi sẽ chẳng làm!” Mong
muốn mọi thứ đều phải thuận theo dục vọng để nhận thức,
đó là chuyện không thể nào được! Nếu nhận
thức như thế, Luân Vương cũng là như vậy.
(Kinh)
Thiện nam tử! Như thị Như Lai tích Bồ Tát vị,
tri tự tha thân hữu vô lượng chủng chư phiền
năo bệnh, dĩ Định hương thủy, tẩy dục
kỳ thân, cập dĩ Đế pháp đại từ
đại bi, quán mộc kỳ thủ, trước tàm quư
y. Thập phương nhất thiết chư Phật Thế
Tôn, dĩ chư Tĩnh Lự, đẳng tŕ tinh tấn,
phương tiện trí ư, từ bi hộ niệm, hàm tác thị
ngôn: “Như thị Đại Sĩ, thị đại
phước huệ trang nghiêm bảo khí, kham dung nhất thiết
tam chủng bất hộ, tứ vô sở úy, Như Lai thập
lực, cập dữ thập bát bất cộng Phật
pháp, kham đắc vô thượng Nhất Thiết Trí trí,
đại từ, đại bi, vô bất cụ túc, thường
hân lợi lạc nhất thiết chúng sanh. Thị cầu
Phật Bảo thương nhân đạo thủ, năng
cứu hữu t́nh sanh tử chúng khổ, năng thí hữu
t́nh Niết Bàn đại lạc. Ngă đẳng nhất
thiết chư Phật Thế Tôn, ưng dĩ thành ngôn, dữ
kỳ sở nguyện, linh thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác, đắc vô thượng pháp, vi đại pháp
vương”. Ngă ư nhĩ thời, y phước huệ
lực, dũng mănh, tinh tấn, ư Tứ Thánh Đế
như thật tri dĩ, chứng đắc Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ Đề. Thiện nam tử! Như Chuyển
Luân Vương thống tứ đại châu, giai đắc
tự tại, như thị Như Lai ư Tứ Tĩnh Lự,
Tứ Vô Sắc Định, tứ chủng phạm trụ,
tứ vô ngại giải, tứ thánh đế quán, tứ
vô sở úy, Như Lai thập lực, cập dữ thập
bát bất cộng Phật pháp, Nhất Thiết Chủng
Trí giai đắc tự tại. Như Chuyển Luân
Vương cụ túc thất bảo, như thị Như
Lai thành tựu thất chủng Bồ Đề Phần bảo.
Như Chuyển Luân Vương thiên tử cụ túc, dũng
kiện, đoan chánh, năng phục oán địch, như
thị Như Lai hữu A Nhă Đa Kiều Trần Na vi tối
sơ, Tô Bạt Đà La Tô Lạt Đa vi tối hậu.
Chư đại Thanh Văn, tùng Phật tâm sanh, tùng Phật khẩu sanh, tùng pháp hóa sanh,
đắc Phật pháp phần, chư lậu vĩnh tận,
danh vi dũng
kiện, cụ tứ phạm trụ, danh vi đoan chánh, năng
phục nhất thiết thiên ma, ngoại đạo dị
luận, oán địch. Như Chuyển Luân Vương,
hóa cập bát vạn tứ thiên tiểu chử. Như thị
Như Lai ư bách câu-chi Nam Thiệm Bộ Châu, ư bách
câu-chi Tây Cù Đà Ni châu, ư bách câu-chi Đông Tỳ Đề
Ha châu, ư bách câu-chi Bắc Câu Lô châu, ư bách câu-chi
chư đại minh hải, ư bách câu-chi chư Diệu
Cao sơn, ư bách câu-chi tứ đại vương
thiên, ư bách câu-chi năi chí Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
thiên, ư bách câu-chi đại Luân Vi sơn, ư thử
cao quảng nhất Phật độ trung, ngôn âm thí hóa,
giai đắc tự tại. Thiện nam tử! Ngă thành
như thị đệ thập Phật Luân. Do thử luân
cố, như thật liễu tri tự thân, tha thân, chư
lậu vĩnh tận, lợi ích an lạc vô lượng hữu
t́nh, đắc an ổn trụ, đắc vô kinh khủng,
đắc vô sở úy. Tự xưng ngă xử đại tiên
tôn vị, chuyển ư Phật Luân, tồi chư thiên ma,
ngoại đạo tà luận, xử đại chúng trung,
chánh sư tử hống.
(經)善男子,如是如來昔菩薩位,知自他身有無量種諸煩惱病,以定香水洗浴其身,及以諦法、大慈大悲灌沐其首,著慚愧衣。十方一切諸佛世尊,以諸靜慮、等持精進、方便智意、慈悲護念,咸作是言:如是大士,是大福慧莊嚴寶器,堪容一切三種不護、四無所畏、如來十力及與十八不共佛法,堪得無上一切智智,大慈大悲無不具足,常欣利樂一切眾生,是求佛寶商人導首,能救有情生死眾苦,能施有情涅槃大樂。我等一切諸佛世尊,應以誠言與其所願,令成如來應正等覺,得無上法,為大法王。我於爾時依福慧力,勇猛精進,於四聖諦如實知已,證得無上正等菩提。善男子,如轉輪王統四大洲,皆得自在;如是如來,於四靜慮、四無色定、四種梵住、四無礙解、四聖諦觀、四無所畏、如來十力及與十八不共佛法、一切種智,皆得自在。如轉輪王,具足七寶;如是如來,成就七種菩提分寶。如轉輪王千子具足,勇健端正,能伏怨敵;如是如來,有阿若多憍陳那為最初,蘇跋陀囉囌剌多為最後,諸大聲聞從佛心生,從佛口生,從法化生,得佛法分,諸漏永盡名為勇健,具四梵住名為端正,能伏一切天魔外道異論怨敵。如轉輪王,化及八萬四千小渚;如是如來,於百俱胝南贍部洲,於百俱胝西瞿陀尼洲,於百俱胝東毗提訶洲,於百俱胝北俱盧洲,於百俱胝諸大溟海,於百俱胝諸妙高山,於百俱胝四大王天,於百俱胝乃至非想非非想天,於百俱胝大輪圍山,於此高廣一佛土中,言音施化皆得自在。善男子,我成如是第十佛輪。由此輪故,如實了知自身他身諸漏永盡,利益安樂無量有情,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,摧諸天魔外道邪論,處大眾中正師子吼。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Như Lai xưa thuộc địa
vị Bồ Tát cũng như thế, biết thân ḿnh và
thân người khác có vô lượng các loại bệnh phiền
năo. Dùng nước Định thơm để tắm rửa
thân ḿnh, dùng Đế pháp đại từ, đại bi
để xối, gội đầu ḿnh, mặc áo hổ thẹn.
Mười phương hết thảy chư Phật Thế
Tôn dùng các Tĩnh Lự, đẳng tŕ, tinh tấn,
phương tiện trí ư, từ bi hộ niệm, đều
nói như thế này: “Vị Đại Sĩ như thế
là vật dụng báu trang nghiêm bằng phước huệ
to lớn, có thể chứa hết thảy ba thứ bất
hộ, bốn món vô sở úy, mười lực của
Như Lai, cùng với mười tám món Phật pháp bất
cộng, kham đạt được trí Nhất Thiết
Trí vô thượng, đại từ, đại bi không ǵ
chẳng trọn đủ, thường thích lợi lạc
hết thảy chúng sanh, là người hướng dẫn
cho thương nhân [thâu lượm] Phật Bảo, có thể
cứu các nỗi khổ sanh tử cho hữu t́nh, có thể
thí niềm vui Niết Bàn to lớn cho hữu t́nh. Hết thảy
chư Phật Thế Tôn chúng ta hăy nên dùng lời chân thành
để thỏa nguyện của ông ta, khiến cho ông ta
thành Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, đắc
vô thượng pháp, làm đại pháp vương”. Ngay trong
lúc ấy, ta nương vào sức phước huệ,
dũng mănh, tinh tấn, đă biết Tứ Thánh Đế
đúng như thật rồi, chứng đắc Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ Đề. Này thiện nam tử!
Như Chuyển Luân Vương thống lănh bốn đại
châu đều được tự tại, cũng như
thế, Như Lai đối với Tứ Tĩnh Lự, Tứ
Vô Sắc Định, bốn loại phạm trụ, tứ
vô ngại giải, tứ thánh đế quán, tứ vô sở
úy, Như Lai thập lực, và mười tám món Phật
pháp bất cộng, Nhất Thiết Chủng Trí, đều
được tự tại. Như Chuyển Luân
Vương trọn đủ bảy báu; cũng như thế,
Như Lai thành tựu bảy loại báu Bồ Đề Phần.
Như Chuyển Luân Vương có đủ một ngàn con
trai dũng kiện, đoan chánh, có thể hàng phục oán
địch, cũng giống như thế, Như Lai có A
Nhă Đa Kiều Trần Na là đệ tử tối
sơ, Tô Bạt Đà La Tô Lạt Đa là đệ tử
tối hậu. Các đại Thanh Văn sanh từ tâm Phật,
sanh từ miệng Phật, từ pháp hóa sanh, có phần
trong Phật pháp, các lậu vĩnh viễn hết sạch,
ai nấy đều dũng cảm, tráng kiện, trọn
đủ tứ phạm trụ, được gọi là
đoan chánh, có thể hàng phục hết thảy dị luận
của hết thảy thiên ma, ngoại đạo và oán địch. Như Chuyển
Luân Vương giáo hóa trọn khắp tám vạn bốn
ngàn tiểu châu, cũng giống như thế, Như Lai
trong một trăm câu-chi Nam Thiệm Bộ Châu, trong một
trăm câu-chi Tây Cù Đà Ni châu, trong một trăm câu-chi
Đông Tỳ Đề Ha châu, trong một trăm câu-chi Bắc
Câu Lô châu, trong một trăm câu-chi các biển lớn mênh
mông, trong một trăm câu-chi các núi Diệu Cao, trong một
trăm câu-chi tứ đại vương thiên, trong một
trăm câu-chi cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
thiên, trong một trăm câu-chi núi đại Luân Vi, trong một
Phật độ cao rộng ấy, dùng ngôn âm để
ban bố sự giáo hóa, đều được tự tại.
Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật Luân thứ
mười như thế. Do v́ luân ấy, biết rơ
đúng như thật thân ḿnh và thân người khác đă
vĩnh viễn hết sạch các lậu, lợi ích an lạc
vô lượng hữu t́nh, được trụ trong an ổn,
được không kinh hoảng, được chẳng sợ
hăi, tự xưng ta thuộc địa vị đại
tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, dẹp tan tà luận của
các thiên ma và ngoại đạo, ở trong đại chúng
thực hiện sư tử hống).
Kế
đó, nói về Phật Luân. “Thiện nam tử, như
thị Như Lai tích Bồ Tát vị” (này thiện nam tử! Như Lai xưa kia ở địa
vị Bồ Tát cũng như thế), [nghĩa là] khi
đức Phật trong quá khứ, hành Bồ Tát đạo
trong Đâu Suất Thiên Cung, chỉ là từ sự từng
trải của bản thân giống hệt như chúng sanh,
biết thân ḿnh và thân người khác, cũng tức là khi đức Phật hành Bồ Tát
đạo, trong lúc tu nhân, chưa thành Phật, biết thân
của chính ḿnh và thân của hết thảy chúng sanh đều
có vô lượng các loại bệnh phiền năo. Đấy
chẳng phải là thân bệnh của đại
vương quán đảnh, ông ta biết vô lượng bệnh
phiền năo. Phật dùng Định hương, để
trừ phiền năo th́ dùng Định để trừ.
Định có thể sanh ra Huệ. Dùng Định
hương th́ mới có thể trừ khử phiền năo.
Dùng nước Định thơm ấy để xối
gột cái thân. Dùng ǵ để xối gột? “Đế pháp”. Đế pháp
là lư pháp. Nước thơm tắm gội là pháp thế
gian. Thế gian dùng hương để trị liệu là
sạch sẽ nhất, thanh tịnh nhất, thanh khiết, thơm tho nhất để tẩy gột thân bệnh
th́ c̣n được, chứ chẳng thể tẩy gột
bệnh phiền năo của chúng sanh. Đế pháp có thể
nói là tâm pháp, là lư pháp, nhập lư, là minh tâm kiến tánh. Dùng “hành
đại từ, đại bi” cũng có nghĩa là cứu
vớt, che chở hết thảy chúng sanh. Bi có thể dẹp
khổ, Từ có thể ban vui, ban cho chúng sanh sự vui
sướng. Lấy nước đại từ đại
bi để xối gội đầu. Chúng ta biết khi
Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh, phụ vương của Ngài
dùng nước bốn biển rưới lên đỉnh
đầu đức Phật. Đó là pháp thế gian. Ông
ta lấy nước bằng cách nào? Do long vương
đem đến cúng dường đức Phật.
“Trước
tàm quư y” (mặc áo tàm quư): Mặc y phục là áo
Tàm Quư, có nghĩa là có hổ, có thẹn. Tàm (慚) là chính ḿnh có lỗi bèn sám hối, luôn cảm thấy
chính ḿnh chẳng xứng đáng, chẳng kiêu mạn, giải
đăi. Tinh tấn, dũng mănh, chẳng có ư nghĩ kiêu
căng, ngă mạn. Nếu chính ḿnh làm chuyện xấu, sẽ
thẹn với kẻ khác. Tàm là trong nội tâm của chính
ḿnh. Quư (愧) là [nói theo phương diện] hành vi. Nếu
tư tưởng nẩy sanh ư niệm xấu, cảm thấy
có hại cho chúng sanh, bất luận khởi lên ư niệm nào cũng đều
có hại cho chúng sanh. Đồng thời, cũng bất lợi
cho chính ḿnh, bất lợi cho việc tu đạo. Ngài mặc
y phục như thế đó. Y phục nhằm bảo vệ
thân thể, dùng Tàm Quư để bảo vệ Pháp Thân, khiến
cho Pháp Thân được thanh khiết, khiến
cho Pháp Thân vĩnh viễn tồn tại. Mười
phương hết thảy chư Phật Thế Tôn đều
“dĩ chư Tĩnh Lự” (dùng các Tĩnh Lự).
Tĩnh Lự vẫn là Định, là tu Tư Duy. Tu Tư
Duy c̣n gọi là tam-muội, hay c̣n gọi là Định.
“Đẳng
tŕ tinh tấn, phương tiện trí ư”: Đẳng Tŕ
là b́nh đẳng. Tam Học Giới, Định, Huệ
đều b́nh đẳng thọ tŕ [th́ gọi là Đẳng
Tŕ]. Đối với hết thảy chúng sanh cũng đều
b́nh đẳng, chẳng có lấy hay bỏ. Tinh tấn
như vậy để làm ǵ? Mong cầu trí huệ
phương tiện. Nếu muốn lợi ích chúng sanh, ắt
cần phải đạt được phương tiện
huệ. Liên quan đến lư Đế pháp, ắt cần
phải có phương tiện thiện xảo. Đă có huệ
ấy, dùng từ bi để hộ niệm, hộ niệm
những người nào? Những người có các căn
bệnh phiền năo. Đối với những người
có bệnh phiền năo, bèn từ bi hộ niệm họ.
“Hàm
tác thị ngôn, như thị Đại Sĩ, thị đại
phước huệ trang nghiêm bảo khí” (đều nói
như thế này: Bậc Đại Sĩ như thế là
vật báu được trang nghiêm bằng phước huệ
to lớn): Ngài nói, khi ta c̣n thuộc địa vị tu
nhân, hành Bồ Tát đạo, ta đă làm như vậy. Hết
thảy chúng sanh xưng dương ta có đại phước
huệ, là vật dụng quư báu trang nghiêm. Món báu ấy chính
là món vật báu trang nghiêm. Đó là ǵ vậy? Chính là phước
huệ. Món vật báu ấy dùng để chứa đựng
phước huệ. Ngài giống như vật báu, giống
như vật báu chứa đầy châu báu. Món vật báu ấy
có thể chứa đựng hết thảy ba loại bất
hộ. Có nhiều cách giải thích từ ngữ “ba loại
bất hộ”. Có người nói là “chẳng hộ niệm
tam đồ” cũng được, hoặc hiểu là “chẳng
có tâm hộ niệm Tam Bảo” cũng được, hoặc
là “địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh là ba loại
chẳng thể bảo vệ, cho nên không hộ niệm họ”.
Như vậy là khi ta phát Bồ Đề tâm, ta thậm chí
có thể dung nạp, nhẫn thọ, bao dung họ, tức
là ta đều có thể hộ niệm hết thảy
chúng sanh, kể cả những chúng sanh chẳng được
hộ niệm. Nói cách khác, “kham dung ba thứ bất hộ”
tức là có thể hộ niệm họ.
“Tứ
Vô Sở Úy, Như Lai thập lực”: Trong phần trước,
đă có nói về Tứ Vô Sở Úy, c̣n Như Lai Thập Lực
và mười tám pháp bất cộng, trong quá khứ, tôi rất
ít nhắc đến, chỉ nêu lên danh xưng. Hàm nghĩa
trong các danh từ ấy rất sâu, tôi chỉ nói đại
lược. Thập Lực là mười loại nào vậy?
Chính là mười loại trí huệ của Như Lai. Do
trí huệ sanh ra sức mạnh, do các sức mạnh ấy
mà lợi lạc chúng sanh. Mười loại trí lực ấy,
một là Xứ Phi Xứ Trí Lực. Trí huệ của đức Phật biết hết
thảy chỗ sanh về của hết thảy chúng sanh,
chỗ đă sanh trong quá khứ, sẽ sanh đến đâu,
[tức là] từ chỗ nào mà sanh đến đây, rồi
sẽ lại sanh về chỗ nào. Đó là Xứ Phi Xứ Trí Lực.
Thứ
hai là Nghiệp Dị Thục Trí Lực. Nghiệp
nhân cảm quả báo, trong ấy có Dị Thục Quả (異熟果), cái nhân của nó rắc
rối, phức tạp. Chẳng hạn những sự
nghiệp đă làm trong đời này bao gồm thiện
nghiệp và ác nghiệp, có thiện lớn, ác nhỏ, có ác
lớn, thiện nhỏ. Các thứ nghiệp ấy, nghiệp
nào chín muồi trước, sẽ thọ quả báo của
nghiệp ấy trước. Đức Phật biết
rành mạch, Ngài có trí huệ ấy. Ở đây là nói tới
hết thảy chúng sanh, không phải là một, hai người, phạm vi bao quát của [trí biết
nghiệp dị thục] của hết thảy chúng sanh quá
nhiều.
Loại
thứ ba là Tĩnh Lự Giải Thoát Đẳng Tŕ Trí Lực. Có thể đạt tới các thứ
giải thoát, giải thoát là Định, Tĩnh Lự là
Định. Chúng ta nói một trăm lẻ tám môn tam-muội.
Tam-muội là Tĩnh Lự, Tĩnh Lự Định. Quá
tŕnh của Tĩnh Lự cũng rất nhiều, đức
Phật đều b́nh đẳng thọ tŕ. Giống
như chúng ta thọ tŕ mấy bộ kinh, mỗi bộ
kinh [chỉ chọn ra] một phẩm như [thọ tŕ] phẩm
Phổ Môn của kinh Pháp Hoa th́ cũng coi như là thọ
tŕ kinh Pháp Hoa, nhưng đấy chỉ là một phẩm
trong hai mươi tám phẩm của kinh Pháp Hoa. Phẩm Phổ
Hiền Hạnh Nguyện là phẩm cuối cùng trong tám
mươi mốt phẩm của [kinh Hoa Nghiêm], [tụng phẩm
ấy] cũng coi như tụng kinh Hoa Nghiêm. Tụng một
phẩm tương đương tụng toàn thể bộ
kinh. Phải thấu hiểu tầng ư nghĩa này. Chúng ta chẳng
có tâm lượng ấy, sẽ chẳng thể b́nh đẳng.
“Tŕ” có nghĩa là “nhậm tŕ” (任持, nắm giữ),
dùng trí huệ ấy để đối đăi hết thảy
tam-muội, có thể khiến cho chúng sanh giải thoát.
Loại
thứ tư là Căn Thắng Liệt Trí Lực. Thượng căn, hạ căn, hoặc
trung căn, đây là thuyết pháp tương ứng với
căn cơ. Mười loại trí lực nhằm nói
đối ứng với [căn cơ của] chúng sanh.
Ngài biết họ là hàng thượng căn, hay là kẻ hạ
căn, biết căn cơ của họ đă chín muồi
hay chưa. Đức Phật có loại trí lực ấy.
Đó gọi là [Căn Thắng Liệt ] Trí Lực.
Loại
thứ năm là Chủng Chủng Thắng Giải Trí Lực. Hết
thảy các pháp, hết thảy sự vật, hết thảy
Lư pháp, hết thảy
Sự pháp, đức
Phật có các loại thắng giải, siêu thế gian,
vượt hẳn Nhị Thừa, vượt hẳn Bồ
Tát. Loại trí lực này cao hơn Thập Địa.
Mười loại trí lực nơi Phật quả chỉ
có đức Phật trọn đủ, rốt ráo viên măn.
Loại
thứ sáu là Chủng Chủng Giới Trí Lực. Giới (界) có nghĩa là “sanh
trưởng”. Chỗ giáp ranh giữa huyện này và huyện
kia, giữa thôn này và thôn kia [được gọi là Giới].
Biết chủng tánh của hết thảy chúng sanh. Kinh Hoa
Nghiêm nói đến “pháp giới”, giới sanh ra các thứ
pháp, cho nên gọi là “pháp giới”. Ở đây không nói
là pháp giới, mà gọi là “chủng chủng thắng giải
trí lực”, có loại trí huệ này.
Loại
thứ bảy là Biến Thú Hành Trí Lực. Chúng tôi vừa mới giải thích năm loại
Biến Hành, nhưng đấy chỉ mới là lúc sơ
khởi. [Biến Thú Hành (遍趣行) có nghĩa là] có thể
biết trọn khắp chúng sanh do nghiệp đă tạo,
sẽ tiến hướng vào đường nào. Đối
với mười pháp giới, chúng ta thường nói về
sáu đường, chẳng nhắc đến thánh nhân
pháp giới, tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật, [do thiện
nghiệp] cũng sẽ tiến hướng những pháp
giới ấy. Nếu hành vi trong hiện thời của
chúng ta nhằm tiến hướng Phật pháp giới th́
sẽ là Phật. Hiện thời, quư vị dụng tâm, hiện
thời đang tư duy, hiện thời đang thực hiện,
đấy là cái nhân. Quư vị đi theo con đường
đó, tức là khi quư vị đang thực hiện, đă
phân biệt sẽ hướng về đâu. Chuyện này rất
rơ ràng. Nếu tu tập pháp Khổ, Tập, Diệt, Đạo,
quư vị tiến hướng Thanh Văn. Học pháp duyên
khởi mười hai nhân duyên, sẽ tiến hướng
pháp Duyên Giác. Tu Lục Ba La Mật, tu Bát Nhă Ba La Mật, tu Lục
Độ vạn hạnh, sẽ tiến hướng pháp Bồ
Tát, Bồ Tát rốt cục có thể thành Phật. Đấy
là “biến thú” (遍趣, tiến hướng
trọn khắp).
Loại
thứ tám là Nhập Tùy Niệm Trí Lực, cũng gọi
là Túc Mạng Thông. Đức Phật là Túc Mạng rốt
ráo, biết túc mạng của hết thảy chúng sanh. Biết
hết thảy chúng sanh trong vô lượng kiếp quá khứ.
Chuyện của mỗi chúng sanh trong vô lượng kiếp,
đức Phật đều biết rành mạch. Thậm
chí hiện thời quư vị đang nghĩ ǵ, tưởng
ǵ, quư vị đang khởi tâm động niệm, nghĩ
tới vô lượng kiếp trong quá khứ của quư vị,
đức Phật đều biết rành mạch, hiểu rơ như trong
ḷng bàn tay. Trong kinh Kim Cang, đức Phật đă dùng số
cát sông Hằng để tỷ dụ, mỗi hạt cát là
một thế giới, cho đến một vi trần
trong tam thiên đại thiên thế giới, lại dùng [số
lượng] cát trong một sông Hằng nơi mỗi thế
giới trong các thế giới nhiều như cát sông Hằng
tích lũy lại, có các Phật quốc độ nhiều
ngần ấy, mỗi Phật quốc độ có vô
lượng vô biên chúng sanh, đức Phật đều
biết tâm niệm của họ. Vô lượng vô biên chúng
sanh trong tâm nghĩ tưởng điều ǵ, so sánh với
sáu mươi ức người trên địa cầu hiện
thời, chẳng biết là nhiều gấp bao nhiêu ngàn ngàn
vạn vạn lần! Do vậy, tâm niệm của chúng ta
đức Phật đều biết rơ ràng. Đấy là Niệm Trí Lực, chẳng thể
nghĩ bàn! Cuối cùng, đức Phật nói, tâm của tất
cả chúng sanh, tâm quá khứ chẳng thể được,
tâm vị lai chẳng thể được, tâm hiện tại
chẳng thể được, ba tâm chẳng thể
được. Đức Phật liễu giải tâm niệm
của quư vị như thế đó. [Trong bài kệ
tán Phật có câu] “sát-na tâm niệm khả sổ tri” nghĩa là tâm niệm
trong từng sát na, đức Phật đều biết từng
điều một. Quư vị nghĩ ǵ, Ngài đều
tính ra cho quư vị. Đó gọi là Tùy Niệm Trí Lực. Hễ
quư vị nghĩ ǵ, chỉ cần vừa động niệm,
đức Phật đều biết.
Loại
thứ chín là Tử Sanh Trí Lực. Chết đây, sanh kia, chết từ nơi
kia, sanh vào nơi đây. Sanh sanh tử tử, sanh sanh diệt
diệt.
Loại
thứ mười là Lậu Tận Trí Lực. Đức
Phật là lậu tận rốt ráo. Hàng Nhị Thừa
cũng gọi là đă lậu tận, chẳng c̣n tạo
tác nữa. Khi đó, chỉ là họ chẳng rơi rớt
vào tam giới. Lậu Tận của Phật là chẳng
rơi vào chín pháp giới, cũng chẳng thoái chuyển
thành Bồ Tát. Ngài cũng có thể thị hiện làm hết
thảy chúng sanh, v́ Ngài đă hết sạch các lậu. Các
lậu đă tận th́ mới có thể thị hiện. V́
thị hiện, mới có thể độ các chúng sanh.
Đó là mười loại trí lực.
Đây
là nói đại khái, nhưng kinh Hoa Nghiêm lại nói mười
loại trí lực khác hẳn, nói sâu hơn một chút. Các bộ
kinh nói về mười loại trí lực có sâu hay cạn,
nhận thức sâu hay cạn tùy thuộc trí lực của
mỗi người. Ví như nước trong biển cả,
hương vị đều là vị mặn. Dẫu quư vị
múc một chén [nếm thử], vẫn là cùng một vị
mặn. Hàm nghĩa như thế đó. Học Phật
pháp, chỉ cần quư vị tiến nhập Phật môn, thậm
chí quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Đấy chính là tu
hành.
Khi
truyền thọ Tam Quy, tôi thường chúc phước mọi
người như thế này. Tôi nói: “Quư vị niệm quy
y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Trước khi
ngủ phải niệm, buổi sáng tỉnh dậy phải
niệm. Như thế th́ sẽ trọn đủ hết
thảy Phật pháp”. Tuy quư vị chẳng phân biệt cặn
kẽ như vậy, nhưng nói chung, chúng ta nói “Phật,
Pháp, Tăng”, đó là pháp. Pháp do ai nói? Đức Phật
nói. Ai truyền? Ḥa thượng, tăng nhân truyền. Hễ
quư vị niệm “Phật, Pháp, Tăng”, bộ kinh này
quư vị đă trọn đủ, mà bộ kinh kia quư vị
cũng trọn đủ. Pháp này trọn đủ hết
thảy các pháp, mười phương hết thảy các
pháp tạng. Khi bái sám, chẳng phải là cầu như vậy
hay sao? Chẳng phải là sám hối như vậy đó
ư? Quư vị phải lư giải mười Phật trí
như vậy. Sau khi đă lư giải, quư vị sẽ hồi
hướng nhiều hơn!
C̣n
có mười tám pháp bất cộng. Mười tám pháp bất
cộng là Thân Vô Thất, Khẩu Vô Thất, Ư Vô Thất, tam nghiệp
vô thất (ba nghiệp
chẳng sai sót, lầm lỗi), đó là ba pháp. Ư là niệm.
“Thân vô thất” là thân không có lầm lỗi. Như vậy
th́ thân Phật và thân của hết thảy chúng sanh, cho
đến thân của Bồ Tát đều bất cộng
(Phật có các pháp chuyên biệt mà các địa vị khác
chẳng có). Đấy là nói mười tám pháp bất cộng
của Phật chẳng giống với các đại Bồ
Tát; đó là Bất Cộng. Thân Phật là Thân Vô Thất, Khẩu Vô Thất, Ư Vô Thất, Bất Dị Tưởng (không có suy nghĩ khác lạ), Vô Bất Định
Tâm (tâm không lúc nào chẳng Định), tâm Ngài luôn ở
trong Định. Thậm chí khi thị hiện hóa thân, lợi
ích chúng sanh, Ngài đều luôn ở trong Định, chẳng có lúc
nào không Định. “Na Già thường tại Định”
có ư nghĩa như vậy đó. Chẳng có ǵ mà trí huệ
của Phật không thể chiếu soi. Bất luận pháp
nào, chẳng có pháp nào không chiếu tỏ. Pháp bất cộng
thứ bảy là Dục Vô Giảm tức là độ sanh chẳng chán mệt.
Pháp thứ tám là Tinh Tấn Vô Giảm, tức
vĩnh viễn tinh tấn. Pháp thứ chín là Niệm Vô Giảm, tức
là niệm nào cũng đều chẳng quên lợi ích chúng
sanh. Niệm Vô Giảm là chẳng
có niệm nào bỏ sót chuyện lợi ích chúng sanh.
V́
thế, chúng ta cũng phải niệm nào cũng đều
chẳng quên Tam Bảo, chẳng bỏ sót một niệm
nào! Trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ,
chúng ta có bao nhiêu niệm? Do vậy, chúng ta cách Phật bao xa
sẽ biết ngay! Quư vị nói xem, trong hai mươi bốn
tiếng đồng hồ, có bao nhiêu niệm mà ta chẳng
niệm Tam Bảo? Quư vị niệm Tam Bảo bao nhiêu niệm?
Chính ḿnh biết rất rơ ràng. Quư vị niệm ǵ vậy?
Tài, sắc, lợi lộc, công danh, phú quư, và gia đ́nh, quyến
thuộc của chính ḿnh. Bọn ḥa thượng chúng tôi th́
nghĩ tới chùa miếu, đạo hữu. Thậm chí kể
cả khi quư vị niệm kinh Phật hay niệm Phật,
tâm niệm vẫn quẩn quanh trong đó. Nếu quư vị
có tham đắm, tâm sẽ bất b́nh đẳng. Chúng ta [phân
biệt] có lớn, nhỏ, từ cái này đến cái kia là chẳng được rồi. Giống
như chúng ta mở mắt ra, liền thấy là nam, nữ,
già, trẻ, tướng phân biệt rất nhiều. [Khi chứng
đắc Phật quả], các niệm ấy đều mất.
Dục Vô Giảm là độ chúng sanh chẳng giảm. Tinh Tấn Vô Giảm là chẳng
có một niệm thoái thất.
Hết
thảy trí huệ tương ứng vô giảm, vĩnh viễn bất
thoái. Huệ Vô Giảm, Giải Thoát Vô Giảm, Giải Thoát Tri Kiến Vô Giảm, thân nghiệp
có thể hành theo trí huệ, khẩu nghiệp hành theo trí huệ,
ư nghiệp hành theo trí huệ, trí huệ biết quá khứ
vô ngại. Quá khứ c̣n có quá khứ, quá khứ c̣n có vô ngại.
Vô vô ngại, vô chướng ngại. Trí huệ biết vị
lai vô ngại, trí huệ biết hiện tại vô ngại.
Tổng cộng là mười tám pháp. Những pháp ấy chẳng
cùng chung với hết thảy Bồ Tát. Chúng ta th́ càng chẳng
cần phải nói nữa, [các pháp bất cộng của Phật]
chẳng cùng chung với chúng ta. Chỉ có Phật và Phật
là cùng có chung các pháp ấy. Đó gọi là mười tám
pháp bất cộng[13].
Mười
lực và mười tám pháp bất cộng bao gồm hết
thảy. Như thế th́ mới có thể kham đạt
được trí Vô Thượng Nhất Thiết
Trí, đại từ, đại bi, không ǵ chẳng trọn
đủ, thường hành lợi lạc hết thảy
chúng sanh, tâm thường luôn cầu. Tâm vui sướng, hân
hoan lợi ích chúng sanh. Chúng ta đều phải học theo đức
Phật, học ǵ vậy? Đừng thấy cái này là xấu,
cái kia là tốt, cái nọ xinh đẹp. Người đẹp
đẽ th́ quư vị rất hào hứng thân cận. Đối với kẻ xấu ỉn th́ trông thấy kẻ đó
bèn cụt hứng, cách xa một chút. Kẻ đó nói chuyện
với quư vị, quư vị chẳng kiên nhẫn cho lắm,
tâm bất b́nh đẳng! C̣n có những kẻ quư vị
chán ghét, c̣n có kẻ từng hăm hại, oán địch của
quư vị. Điều thứ nhất quư vị phải phát
tâm là độ người chống đối quư vị,
tức là oan gia của quư vị. Nếu quư vị có thể
độ oan gia, tự nhiên là lục thân quyến thuộc
của quư vị đều độ được, phiền
năo của quư vị sẽ ít đi, tâm oán hận cũng chẳng
có, tâm căm ghét cũng chẳng c̣n. Kẻ đó hại quư
vị, dụng tâm hại quư vị, quư vị dùng ḷng từ
bi đối đăi kẻ đó.
Tôi
kể một câu chuyện: Khi chúng tôi ở Nữu Ước,
có một cô gái người Mă Lai, trong các đồng nghiệp
của cô tại sở bưu điện, có một cô nàng
da trắng đúng là luôn t́m mọi cách gây khó dễ cho cô.
Hai người cùng ngồi chung bàn làm việc. Cô ta đến
bái sám ở chỗ tôi, tức tối khôn cùng, tính xin nghỉ,
không làm việc ấy nữa, nhưng lại nghĩ ngợi:
Rất khó xin vào sở bưu điện. Đă vào
được bưu điện, bảo hiểm lao động
và phước lợi (benefits) đều đặc biệt
tốt, muốn dùng cấm chú để nguyền
rủa cô ả da trắng kia, khiến cho cô ả khốn
đốn. Tôi nói: “Đừng nên nguyền rủa cô ta.
Nguyền rủa sẽ càng tệ hơn. Cô hăy bái sám thay cho
cô ta, cầu cô đó chuyển biến tư tưởng”.
Cô ta nói: “Con mụ đó hại con như vậy, con c̣n lạy
giùm mụ, hồi hướng cho mụ hay sao?” Tôi đáp:
“Đấy là phương pháp mầu nhiệm trong nhà Phật,
dùng từ bi đối đăi kẻ oán hại. Trong quá khứ,
nhất định là cô đă có nhân duyên với cô ta. Nếu
không, sẽ chẳng tụ hội. Cô cứ làm thử xem”.
Nói lần đầu, cô ta không làm. Nói hai ba lần [cô ta vẫn
khăng khăng không chịu], tôi nghĩ ra một cách. Tôi
nói: “Cô đi mua cà phê, mua thêm một ly nữa. Buổi
trưa đều là uống cà phê, ăn bánh ḿ. Cô mua thêm một
phần cho cô ta. Cô đối đăi với cô ta đặc
biệt tốt. Cô ta càng xử tệ với cô, cô đối
với cô ta càng tốt. Cô chỉ làm như vậy tám ngày,
mười bữa, xem thử thế nào?” Sau đó, cô ta làm
theo đề nghị của tôi, cô da trắng kia đối
xử tốt hơn đối với cô ta. Trước
kia cần dừng xe th́ cô da trắng đặc biệt ngừng
xe, khiến cho cô ta phải ngừng theo, chẳng lái vào băi
đậu được. Về sau, đối xử với
cô ta đặc biệt tốt đẹp.
Đấy
là chuyện nhỏ, cũng là đôi bên chẳng có oán cừu
to cho lắm, tức là tùy tiện như thế một
phen bèn có thể chuyển biến được. Nếu
là đại oán cừu, quư vị xử tốt với
người ấy cỡ nào đi nữa, người ấy
vẫn một mực có tâm lư chẳng tín nhiệm quư vị. Thậm
chí giữa mẹ con, chị em dâu, anh em, đều có hiện
tượng này. Do nguyên nhân ǵ vậy? Kết oán từ
đời quá khứ. Bên nào kết? Khúc mắc ấy chẳng
tháo gỡ được! Hiện thời, quư vị dùng
phương pháp tốt đẹp, cầu Phật, Bồ
Tát gia tŕ kẻ ấy để cởi gỡ oán kết.
Chúng ta cởi gỡ th́ mới có thể chứng đắc
Bồ Đề. Đối với oan gia, quư vị phải
đặc biệt hồi hướng cho họ. Do vậy,
quư vị phải đối đăi b́nh đẳng, chẳng
có người nào tốt, chẳng có kẻ nào xấu. Chúng
ta làm pháp sư, đối với các đạo hữu, đừng
khởi tâm phân biệt. Hoặc là do đạo hữu này
trí huệ to lớn, tôi vừa nói, người ấy hiểu
liền, nói chuyện rất hợp ư, bèn đối với
người ấy đặc biệt tốt hơn một
chút. Đối với đạo hữu khác rất lợt
lạt, luôn nghĩ kẻ đó chẳng vừa ư, như vậy
là không được! Đấy chẳng phải là khởi
tâm đại từ đại bi. Càng là đạo hữu
như vậy th́ càng phải đối xử đặc
biệt tốt với họ. Họ càng chẳng tiến
lên, chẳng tinh tấn, biếng nhác, th́ càng phải đặc
biệt từ bi đối với họ, phải tha thứ
cho họ, đừng khiến cho họ giải đăi.
Chúng
tôi có một vị đạo hữu ở Đại Lục,
đă quy y Phật rất nhiều năm, miệng lưỡi
ngoa ngoắt, chửi mắng người khác đều
kèm theo những chữ thô tục. Không được rồi!
Chẳng nói năng th́ c̣n được, hễ mở miệng
ra là [phê phán] đạo hữu này, đạo hữu nọ,
khuấy động thị phi, đó gọi là “nói lỗi
của Tam Bảo”. Đối với người xuất
gia bèn kể lỗi của tăng sĩ. Thậm chí, Thích
Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật, Dược Sư Phật,
người ấy cũng đều phê phán. Ông ta c̣n học
Phật khá nhiều năm, cái tâm phân biệt quá nặng!
Chúng ta phải coi mỗi vị đạo hữu như
Thích Ca Mâu Ni Phật. Người dùng thuốc cứu độ
chúng sanh, làm như vậy th́ là Dược Sư Phật,
là A Di Đà Phật, là Bất Động Như Lai. Quư vị
cũng có thể nói như vậy. Phương tiện lợi
sanh của năm mươi ba vị Phật khác nhau. Các
Ngài chứng đắc Căn Bản Trí giống nhau, trọn
đủ Pháp Thân giống hệt như chúng ta, nhưng
phương tiện thiện xảo chẳng giống nhau,
nhất định phải hiểu! Giữa các đạo
hữu với nhau, phải đối xử ḥa thuận.
(Kinh)
Thiện nam tử! Ngă thành như thị thập chủng
Phật Luân, bổn nguyện lực cố, cư thử
Phật độ, ngũ trược ác thế nhất thiết
hữu t́nh, tổn giảm nhất thiết bạch tịnh
thiện pháp, quỹ phạp sở hữu thất thánh tài
bảo, viễn ly nhất thiết thông mẫn trí giả,
đoạn thường la vơng chi sở phú tế, thường
háo thừa ngự chư ác thú xa, ư hậu thế khổ
bất kiến bố úy, thường xử biến trọng
vô minh hắc ám, cụ thập ác nghiệp, tạo Ngũ Vô Gián, phỉ báng chánh pháp, hủy tử
hiền thánh, ly chư thiện pháp, cụ chư ác pháp. Ngă
ư kỳ trung, thành tựu như thị Phật Thập
Luân cố, đắc an ổn trụ, đắc vô kinh khủng,
đắc vô sở úy, tự xưng ngă xử đại
tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, hàng chư thiên ma, ngoại đạo
tà luận, tồi diệt nhất thiết chư hữu t́nh
loại, do như kim cang kiên cố phiền năo, tùy kỳ sở
nhạo, an lập nhất thiết hữu lực chúng sanh, linh trụ tam thừa bất thoái chuyển
vị.
(經)善男子,我成如是十種佛輪。本願力故居此佛土,五濁惡世一切有情,損減一切白淨善法,匱乏所有七聖財寶,遠離一切聰敏智者,斷常羅網之所覆蔽,常好乘馭諸惡趣車,於後世苦不見怖畏,常處遍重無明黑闇,具十惡業,造五無間,誹謗正法,毀呰賢聖,離諸善法,具諸惡法。我於其中成就如是佛十輪故,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,降諸天魔外道邪論,摧滅一切諸有情類猶如金剛堅固煩惱,隨其所樂,安立一切有力眾生,令住三乘不退轉位。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Ta thành tựu mười thứ Phật
Luân như thế, do sức bổn nguyện, ở trong cơi
Phật này, hết thảy hữu t́nh trong đời ác
ngũ trược tổn giảm hết thảy thiện
pháp trắng sạch, thiếu khuyết tất cả của
báu Thất Thánh Tài, xa ĺa hết thảy bậc thông minh, mẫn
tiệp, trí huệ, bị lưới rập Đoạn
Kiến và Thường Kiến che phủ, thường
thích ngồi trên xe vào các đường ác, chẳng sợ
hăi nỗi khổ trong đời sau, thường ở
trong tối tăm vô minh nặng nề trọn khắp, trọn
đủ mười ác nghiệp, tạo tội Ngũ Vô Gián, phỉ báng chánh pháp, hủy báng, chê bai hiền
thánh, ĺa các thiện pháp, đủ các ác pháp. Ta ở trong
đó, do thành tựu Thập Luân của Phật như thế,
được trụ an ổn, được không kinh hoảng,
được chẳng sợ hăi, tự xưng ta thuộc
địa vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật
Luân, hàng phục tà luận của các thiên ma và ngoại
đạo, dẹp tan hết thảy các phiền năo kiên cố
ví như kim cang của hết thảy các loài hữu t́nh,
tùy ḷng họ ưa thích mà đặt yên hết thảy
chúng sanh hữu lực trụ nơi địa vị bất
thoái chuyển thuộc tam thừa).
Đoạn
cuối cùng này nhằm tổng kết Thập Luân của
Phật. Đức Phật bảo Địa Tạng Bồ
Tát, “thiện nam tử” là danh xưng đức Phật
dùng để gọi Địa Tạng Bồ Tát. Ta v́
thành tựu mười loại Phật Luân vừa nói trên đây, lại c̣n thêm sức bổn
nguyện. Do sức bổn
nguyện, sẽ sanh trong đời ác ngũ trược này,
độ thoát hết thảy hữu t́nh chúng sanh khổ nạn.
Đối với các thiện pháp ấy, chữ “bạch
tịnh” nhằm h́nh dung thiện pháp. “Bạch” là
tương phản với hắc, “thiện” đối
lập với “ác”, “tịnh” đối lập với
“cấu”. Chúng sanh trong đời ác ngũ trược
này đều hành hắc pháp, đều là pháp cấu nhiễm,
đều là pháp bất tịnh, thiếu thốn của
báu Thất Thánh Tài. Của báu thánh tài khác với Thất Bảo
[của Luân Vương] vừa nói trong phần trên. Thất
Thánh Tài là ǵ? Tín, Giới, Tàm, Quư, Văn Pháp (nghe pháp), Bố Thí, Trí Huệ, bảy món báu ấy. “Quỹ phạp” (匮乏) là chẳng có, thiếu
khuyết. Đối với hết thảy bậc thiện
tri thức trí sáng thông huệ, đă xa ĺa đời ác
ngũ trược này, nếu gặp những người
có trí huệ ấy mà xa ĺa th́ là kẻ ngu si, vẩn đục,
đều là ác nghiệp chúng sanh.
“Đoạn
Thường la vơng” (lưới rập Đoạn Kiến
và Thường Kiến): Đoạn là Đoạn Kiến,
Thường là Thường Kiến, đều là chẳng
tin nhân quả, chẳng tin quả báo thiện ác. Chẳng
thiên lệch nơi Đoạn, sẽ lệch về
Thường. Hoặc là cho rằng người đă chết
là đoạn diệt. Thường Kiến là như thế
này: Thấy hết thảy các pháp thường luôn như
thế [chẳng hạn như người chết đi sẽ
lại đầu thai làm người, súc sanh tái sanh vẫn
là súc sanh]. [Những kiến chấp ấy] che lấp cái
tâm trí huệ của chính ḿnh, che lấp cái tâm sáng suốt.
Họ ưa thích ǵ? Trụ trong đường ác, [đó là
ư nghĩa của câu] “thường háo thừa ngự
chư ác thú xa”, thường làm ác nghiệp, rất ít
thiện nghiệp. “Thừa ác thú xa” nghĩa là tiến
vào đường ác. “Ác thú” (惡趣) thuần nói về ba ác đạo.
V́ họ chẳng tin nhân quả, đối với chuyện
hưởng vui hay chịu khổ trong vị lai, họ chẳng
tin tưởng. Họ đă có tư tưởng Đoạn
Kiến, chẳng tin nỗi khổ trong tương lai, cho
nên chẳng sanh tâm sợ hăi. Nếu sanh khởi tâm sợ hăi
đối với nỗi khổ trong tương lai, [nhận
biết] hễ làm chuyện ác, làm
một chuyện hại người, hoặc chuyện tổn người lợi ḿnh, nhất
định sẽ phải chịu quả báo ác. Nếu sanh
khởi cái tâm sợ hăi ấy, kẻ đó sẽ chẳng
làm. Nghe nói “hại người rốt cuộc hại
ḿnh”, kẻ [bị vướng vào Đoạn Kiến
hay Thường Kiến] sẽ chẳng tin tưởng lời ấy,
đương nhiên phải đạt được yên vui trước mắt đă, thây kệ hậu quả.
Do vậy, kẻ đó chẳng kinh hoảng, chẳng sợ
hăi nỗi khổ trong đời sau. Những ǵ kẻ
đó chú trọng, thực hiện, hoàn toàn là hắc nghiệp.
Do bị vô minh hắc ám phủ lấp, kẻ đó tạo
nghiệp Thập Ác. Mười ác nghiệp là giết, trộm,
dâm, tham, sân, si, nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều,
nói lời thô ác. Đấy đều là ác nghiệp,
cũng là mười ác nghiệp. “Ngũ Vô Gián tội”: Tội Ngũ Vô Gián là giết
cha, giết mẹ, làm thân Phật chảy máu, phá ḥa hợp
Tăng, giết A La Hán. Nếu phạm vào năm loại tội
ấy, sẽ đọa địa ngục nhanh như tên
bắn. Hủy báng chánh pháp, hành tà kiến. Những điều
đức Phật giáo huấn đều là chánh pháp, họ
hủy báng chẳng tin; do chẳng tin bèn hủy báng. Tức
là họ hủy báng hiền thánh, phá hoại Tam Bảo, hủy
báng Tam Bảo.
Hủy
báng pháp do đức Phật thuyết, hủy báng, chê gièm
các vị hiền thánh tăng; đấy cũng là hủy
báng, ư nghĩa như nhau. Xa cách thiện pháp [là ư nghĩa của
câu] “ly chư thiện pháp”. Họ làm toàn ác pháp, đó
là “cụ chư ác pháp”. Đấy là cách nói h́nh dung bọn
hữu t́nh trong đời ác ngũ trược, thân, miệng,
ư của họ đều là làm như thế ấy, những ǵ họ đă làm toàn
là ác nghiệp. Đă chẳng có thiện pháp, v́ đă bị
“tổn giảm”. “Tổn” (損) là tổn thất, hoặc giảm bớt, chẳng
phải là hoàn toàn hủy diệt. Do vậy, hữu t́nh
chúng sanh trong đời ác ngũ trược toàn là điều
khiển xe đi vào đường ác, chẳng phải là
xe tiến vào đường lành. “Thừa ác thú xa” là
hành Thập Ác nghiệp, sẽ bị khổ quả trong
đời sau. Bất luận thời gian hay nơi chốn,
hoặc hết thảy các chuyện đă làm, họ đều
ở trong vô minh hắc ám. Nói là “vô minh hắc ám” v́ họ
chẳng có trí huệ. Do vậy, họ trọn đủ cỗ
xe “ác thú”. Thậm chí c̣n nặng hơn Thập Ác là tạo
tội Ngũ Vô Gián, hủy báng
chánh pháp, hủy báng hiền thánh. Trong thời ngũ trược
ác thế, ta sở dĩ có thể trụ an ổn là do
nương vào mười thứ Phật Luân như đă
nói trên đây.
“Ngă
ư kỳ trung thành tựu như thị Phật Thập
Luân cố, đắc an ổn trụ, đắc vô kinh khủng,
đắc vô sở úy, tự xưng ngă xử đại
tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, hàng phục
chư thiên ma, ngoại đạo
tà luận” (Ta ở trong ấy, do thành tựu
mười luân của Phật như vậy, được
trụ trong an ổn, được không kinh hoảng,
được không sợ hăi, tự xưng ta thuộc
địa vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật
Luân, hàng phục tà luận của chư thiên ma và ngoại
đạo): Loại chúng sanh ấy có phiền năo cứng
chắc như kim cang, rất khó chuyển biến. Có phải
là rất khó chuyển biến phiền năo của mỗi
chúng ta hay không? Rất khó thay đổi! Phiền năo bao gồm quá nhiều! V́
chúng ta chẳng có trí huệ, chẳng thấy rơ hết thảy
sự vật. Ngă Chấp, Ngă Kiến luôn rất sâu. Hễ
hơi có tí ǵ chẳng vừa ư ḿnh, bèn nẩy sanh phiền
năo. Chuyện như vậy rất nhiều, có nhẹ, có nặng.
Nếu muốn đoạn trừ loại phiền năo này,
rất khó!
Do
vậy, đức Phật nói: Muốn độ chúng sanh
trong thế giới Sa Bà, thế giới Sa Bà ương ngạnh,
khó thể điều phục, rất khó độ thoát.
Phiền năo của họ kiên cố như kim cang. Trong t́nh
huống ấy, đức Phật vẫn ưa thích họ.
Thế giới Sa Bà này vẫn c̣n có chúng sanh tốt lành, chẳng
hoàn toàn đều là [bại hoại, cứng đầu]
như vậy, vẫn c̣n có hạng người trí huệ,
hoặc là mong thoát ĺa tam giới, mong cầu quả vị
tam thừa. Như vậy th́ thuận theo điều họ
tin tưởng, ưa thích, đức Phật sẽ an lập
hết thảy hữu t́nh chúng sanh, thuyết pháp cho họ,
khiến cho họ trụ nơi địa vị Bất
Thoái Chuyển trong tam thừa, tức là Thanh Văn, Duyên
Giác, Bồ Tát, chẳng c̣n thoái đọa vào sáu đường,
chẳng luân chuyển trong sáu đường. Địa vị
chẳng thoái chuyển là nói theo lục đạo, tức
là chẳng lui sụt thành phàm phu!
(Kinh)
Nhĩ thời, hội trung nhất thiết Bồ Tát Ma Ha Tát
chúng, nhất thiết Thanh Văn, nhất thiết thiên,
long, quảng thuyết năi chí nhất thiết Yết Trá Bố
Đát Na chúng, nhân phi nhân đẳng, giai đại hoan hỷ,
đồng xướng “thiện tai”, vũ đại hương
vũ, vũ đại hoa vũ, vũ chúng bảo vũ,
vũ đại y vũ, nhất thiết đại địa
giai tất chấn động. Văn thuyết như thị
thập chủng Phật Luân, ư chúng hội trung, hữu
bát thập tứ bách thiên na-dữu-đa Bồ Tát Ma Ha Tát
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Phục hữu vô lượng
Bồ Tát Ma Ha Tát hoạch đắc chủng chủng
chư đà-la-ni tam-ma-địa nhẫn. Phục hữu
vô lượng, vô số hữu t́nh, sơ phát Vô Thượng
Chánh Đẳng Giác tâm, đắc bất thoái chuyển. Phục
hữu vô lượng, vô số hữu t́nh đăi đắc
quả chứng.
(經)爾時,會中一切菩薩摩訶薩眾,一切聲聞,一切天、龍,廣說乃至一切羯吒布怛那眾、人非人等,皆大歡喜,同唱善哉,雨大香雨,雨大華雨,雨眾寶雨,雨大衣雨,一切大地皆悉震動。聞說如是十種佛輪,於眾會中,有八十四百千那庾多菩薩摩訶薩,得無生法忍;復有無量菩薩摩訶薩,獲得種種諸陀羅尼三摩地忍;復有無量無數有情,初發無上正等覺心,得不退轉;復有無量無數有情,逮得果證。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, trong hội, hết thảy các vị Bồ
Tát Ma Ha Tát, hết thảy Thanh Văn, hết thảy trời,
rồng, nói rộng là cho đến hết thảy các Yết
Trá Bố Đát Na, nhân phi nhân v.v… đều hoan hỷ to lớn,
cùng xướng “lành thay”, tuôn mưa hương to, tuôn
mưa hoa to, tuôn mưa các thứ báu, tuôn mưa to y phục,
hết thảy đại địa thảy đều chấn
động. Nghe nói mười loại Phật Luân như
thế, trong chúng hội, có tám mươi bốn trăm
ngàn na-dữu-đa Bồ Tát Ma Ha Tát đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Lại có vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được
các thứ đà-la-ni tam-ma-địa nhẫn. Lại có vô
lượng vô số hữu t́nh sơ phát Vô Thượng
Chánh Đẳng Giác tâm, đạt được bất
thoái chuyển. Lại có vô lượng vô số hữu t́nh
đều được chứng quả).
Đức
Phật thuyết pháp, từ trời, rồng cho đến
Càn Đạt Bà (Càn Thát Bà), A Tu La, cho đến nhân phi nhân
v.v… do nghe đức Phật giảng về Phật Luân,
đều hoan hỷ to lớn. Những người tham dự
hội ấy là tứ chúng đệ tử, có Bồ Tát,
có Thanh Văn, cũng có Duyên Giác, do được nghe đức
Phật thuyết pháp, họ đều hoan hỷ. “Đồng
xướng thiện tai” (cùng xướng “lành
thay”) cũng là tán thán. Đồng thời, ở trong hội,
tuôn xuống mưa hương, “vũ đại hoa
vũ” là dùng các thứ hương, hoa, vật báu để
cúng dường. Số lượng [nhiều đến nỗi]
phải dùng chữ Vũ để h́nh dung, giống như
trời giáng xuống một trận mưa ngọt vậy.
Khi ấy, hết thảy đại địa sáu thứ
chấn động. Đại địa đều bị
chấn động, nghĩa là khi đức Phật thuyết
pháp ấy đă chiêu cảm đất đai đều
rúng động. Nghe nói mười thứ Phật Luân
như vậy, nghe Phật Luân ấy, những người
nghe pháp trong hội, có tám mươi bốn trăm ngàn na-dữu-đa
Bồ Tát Ma Ha Tát. “Na-dữu-đa” là triệu, “Câu-xá-la”
là Ức, cũng là một ức triệu. Ở trong hội
ấy, có bao nhiêu vị đại Bồ Tát đắc Vô
Sanh Pháp Nhẫn? Nhiều đến tám mươi bốn
trăm ngàn triệu Bồ Tát như vậy đă đắc
Vô Sanh Pháp Nhẫn.
“Phục
hữu vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát hoạch đắc
chủng chủng chư đà-la-ni tam-ma-địa nhẫn”
(lại có vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát đạt
được các thứ đà-la-ni tam-ma-địa nhẫn),
chứng đắc vô lượng tam-muội. “Đà-la-ni” là tổng tŕ, tổng
tŕ hết thảy các pháp. “Phục hữu vô lượng
vô số hữu t́nh, sơ phát Vô Thượng Chánh Đẳng Giác tâm, đắc bất thoái chuyển” (lại có vô
lượng vô số hữu t́nh sơ phát Vô Thượng
Chánh Đẳng Giác tâm, đắc bất thoái chuyển):
Có các chúng sanh ở trong hội ấy phát Bồ Đề
tâm, đạt được địa vị Bất
Thoái Chuyển. Bất Thoái Chuyển là nói đến tín tâm.
Sau khi đă tin bèn phát tâm, đă phát tâm sẽ chẳng lui sụt
tín tâm. C̣n có vô lượng hữu t́nh được chứng
quả. Quả họ đă chứng chính là Sơ Quả,
Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả, hoặc là Duyên
Giác. Đây là nói khi đức Phật giảng Thập
Luân, có nhiều vị Bồ Tát, có nhiều hữu t́nh
như vậy hoặc là phát tâm, hoặc là chứng quả,
có người chứng địa vị Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Đấy là phần kinh văn nói về lợi ích sau khi
nghe thuyết pháp. Quyển thứ hai tức phẩm Thập
Luân đă giảng xong.
Phiền
năo của chúng sanh trong đời ác ngũ trược cứng
cỏi như kim cang, mọi người đều có thể
lănh hội. Bất quá, giết Phật,
làm thân Phật chảy máu th́ chẳng thể, nhưng phá hoại
tượng vẽ trên giấy, hoặc tượng bằng
đất nặn, gỗ khắc, sẽ có tội
tương ứng như thế. Phá pháp, tức [phá hoại] Đế pháp (諦法), báng Tăng, ở trong Tăng chúng xúc xiểm ly gián, phá ḥa hợp
Tăng, đ̣n xóc hai đầu, khuấy động thị
phi, tội ấy to lắm. Đấy chẳng phải là
nói kẻ đó dùng khẩu nghiệp khuấy động
thị phi mà là do phá ḥa hợp Tăng, bèn trở thành tội
nghịch. Trong hiện thời, chỉ sợ rằng t́nh
huống ấy chẳng ít. Chúng sanh tạo nghiệp này rất
nhiều, bất quá trong quá khứ, rất ít nghe thấy hiện
tượng giết cha, giết mẹ. Hiện thời,
các vụ án về tội phạm loại này cũng chẳng
ít. V́ sao? Nghiệp nặng! Phước nghiệp của
chúng sanh càng lúc càng nhẹ, thậm chí chẳng c̣n. Do vậy,
trong xă hội mới xuất hiện hiện tượng ấy.
Đức Phật nói: “Phật pháp trong thế gian, chẳng
rời thế gian giác”. Trên đây, đă dùng Thập Luân
của Phật để đối chiếu Thập Luân của
thế gian, tức Thập Luân của vua Sát-đế-lợi,
đó là pháp thế gian, hiện tượng trong thế
gian. Đức Phật từ trong thế gian, vượt
thoát thế gian, đạt tới xuất thế gian.
Đây chỉ là phẩm thứ
hai do đức Phật nói.
Bắt
đầu từ phẩm thứ ba, sẽ giải thích rộng
khắp ư nghĩa của Phật Luân, cũng như ư
nghĩa của pháp thế gian nơi vua Sát-đế-lợi,
hai t́nh huống đều cùng tồn tại. Bất quá,
trong t́nh huống hiện thời, nơi pháp thế gian,
chúng sanh tạo mười ác nghiệp nghiêm trọng
hơn, người tạo Thập Thiện Nghiệp rất ít, chứ
chẳng phải là không có. Đệ tử quy y Tam Bảo
đều hành mười thiện nghiệp, nhưng so với
năm mươi bảy ức dân cư trên cả thế
giới để nói, vẫn là thiểu số. C̣n như những vị Bồ Tát chứng quả
thành đạo, đạt được các môn đà-la-ni
tam-ma-địa chắc là chẳng có. Dẫu có đi nữa,
chúng ta do chẳng đủ phước huệ, cũng chẳng thể
thấy được! Đă phát Bồ Đề tâm,
đă có thể tin tưởng, mà cũng chẳng hoài nghi,
đối với Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo đă tin
rồi, sẽ có thể khởi hạnh, chiếu theo lời
chỉ dạy của đức Phật để hành, hạng
chúng sanh như vậy rất ít!
Đại Thừa
Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần 6 hết
[1] Thổ pháo (土炮) là loại súng “thần công” kiểu
xưa, tức loại
đại bác sử
dụng từ thời Trung Cổ, ṇng súng đúc bằng gang đặc, phải dùng dây ng̣i để
đốt thuốc súng, bắn ra đạn gang, có tác dụng
công phá thành lũy, chưa sử dụng các loại đạn
nổ tung văng miểng gây sát thương nặng nề
như các loại pháo cối sau này.
[2] Hưởng Dao là cách kiến trúc phổ
biến tại vùng Quan Đông dành cho các gia trang hoặc
thôn ấp lớn. Chung quanh xây thành cao và dầy, bốn phía
đặt lầu canh để gia đinh bắn súng, tên nỏ,
pḥng ngự khi giặc cướp, thổ phỉ tấn
công.
[3] Tàm ba (tsampa) là bột lúa đại
mạch (barley) rang chín, đôi khi trộn lẫn với bột
ḿ. Khi ăn trộn với trà bơ (nước trà cho
bơ và muối vào) nắm thành từng vắt để
ăn. Đôi khi, người khá giả
có thể cho nhiều trà để trộn thành một loại
cháo sền sệt, hoặc thêm mật ong, hoặc sữa
và Chang (một loại
của Tây Tạng). Tsampa được coi là lương thực chính yếu
của người Tây Tạng. Họ cũng dùng Tsampa ḥa nước, ngào với mật
hay đường, nặn thành từng khối to h́nh nón, gắn
lên đó những mẫu trang trí nặn bằng bơ nhuộm
nhiều màu sắc khác nhau, tạo h́nh thành
hoa lá, chim muông, các biểu tượng trong Phật giáo như hoa sen, ngọc như ư, ngà
voi, bánh xe pháp luân v.v… và gọi đó là Torma để cúng dường trên bàn thờ Phật
và các thần linh.
[4] Ngũ Bất Nam (Pañca Pandakāh), c̣n gọi là Ngũ Chủng Hoàng Môn.
Theo luật Thập Tụng gồm:
1. Sanh bất nam (Jāti-pandaka) tức là từ lúc sanh
ra, không có nam căn, hay không có khả năng hành dâm.
2. Bát bất nam (Paksa-pandaka): Chỉ có thể hành dâm
trong nửa tháng, nửa tháng sau hoàn toàn chẳng thể.
3. Đố bất năng nam (Īrsyā-pandaka): Thấy
người khác hành dâm, do đố kỵ bèn sanh khởi dâm
tâm.
4. Biến bất nam (Saktaprādurbhāvī-pandaka): Khi
hành dâm, nam căn bị biến mất. Theo từ điển
Phật Học của
Đinh Phước Bảo th́
giải thích giống như lăo pháp sư đă nói.
5. Bệnh bất nam (Āpat-pandaka): Nhân v́ thương
tích hay bệnh tật mà cắt bỏ nam căn.
[5]
Đẳng Chí (Samāpati),
c̣n phiên âm là Tam Ma Bát Để, Tam Ma Bạt Đề, có
nghĩa là sau khi đă viễn ly hôn trầm và điệu cử,
có thể giữ cho tâm và tâm sở b́nh đẳng chuyển
đổi cảnh giới. Tứ Thiền và Tứ Vô Sắc
Định cũng được gọi là Bát Đẳng
Chí. Sách Huyền Ứng Âm Nghĩa cho rằng Đẳng
Chí là chính thức tiến nhập cảnh giới Định,
sau khi đă an trụ trong cảnh giới Định th́ gọi
Tam Ma Bát Na (Samāpanna,
chánh thọ). Đẳng Tŕ là tên gọi khác của Tam Ma
Địa (Chánh Định).
[6] Không thấy lăo pháp sư nói đến
loại thứ sáu, bảy và tám. Có lẽ những loại
này đă được gộp chung trong đoạn kinh văn
dài sau phần nói về loại Bổ Đặc Già La thứ
năm.
[7] Biệt Cảnh là năm món tâm sở
do tâm vương (tám thức) duyên từng cảnh riêng biệt
mà sanh khởi. Biệt Cảnh gồm Dục, Thắng Giải,
Niệm, Định và Huệ. Năm món Tâm Sở này thông với
thiện, ác, và vô kư.
[8] Khang Tây là cách người Hoa phiên âm tên gọi vùng Khams của Tây Tạng (c̣n
được phiên âm là Khách Mộc, và dịch là Khang Khu).
Vùng này nằm ở phía Đông Tây Tạng, là một tỉnh
xưa của Tây Tạng, tiếp giáp với hai tỉnh Vệ Tạng (U-Tsang) và Am
Đương (Amdo). Tỉnh này nay đă bị Trung Cộng
chia nhỏ thành nhiều huyện để sát nhập vào
các tỉnh Tứ Xuyên, Thanh Hải, Cam Túc, và Vân Nam. Chiến binh
Khampa nổi tiếng về tài bắn cung và cưỡi ngựa.
Do đây là vùng đầu nguồn của bốn con sông lớn,
nên họ sử dụng thuyền rất nhiều.
[9] Ái Tân Giác La (Aisin Gioro) là họ của
các hoàng đế nhà Thanh. Aisin có nghĩa là Kim Quốc, chỉ
triều đại nhà Kim trong lịch sử Trung Hoa v́ Hoàng
Thái Cực tự coi là người phục hưng nhà Kim
(nhà Thanh thoạt đầu xưng quốc hiệu là Hậu
Kim). Ái Tân là tộc danh (tên thị tộc, bộ tộc),
c̣n Giác La là họ thật sự, Thanh Thái Tổ (Hoàng Thái Cực) đă ghép hai chữ này thành họ riêng của chi tộc
ḿnh. Giác La là bộ tộc Măn Châu sống ở vùng Yilan, tỉnh Hắc Long Giang. Khi thành
hoàng đế Trung Hoa, theo khuynh hướng
Hán hóa, các vua đă đặt ra một số chữ
trước tên mỗi thế hệ để đánh dấu thứ
tự truyền thừa. Khang Hy đặt ra hai chữ Dận và Hoằng để đánh dấu
con cháu trực hệ của ḿnh. Càn Long đặt thêm các chữ
Vĩnh, Miên, Dịch, Tải. Vua Đạo Quang đặt
thêm các chữ Phổ, Dục, Hằng, Khải. Vua Hàm Phong đặt các chữ Đào,
Tăng, Kỳ. Chẳng hạn vua Ung Chánh tên húy là Dận
Chân, Càn Long là Hoằng Lịch, Gia Khánh là Vĩnh Diễm,
Đạo Quang là Miên Ninh, Hàm Phong là Dịch Trữ, vua Quang Tự là Tải
Điềm, vua Tuyên Thống tên húy là Phổ Nghi v.v… Sau khi nhà Thanh sụp đổ,
con cháu hoàng tộc Ái Tân Giác La thường đổi họ
thành Kim, Ngải, La, Triệu, hoặc lấy chữ thuộc
thế hệ làm họ (như trường hợp của
nhà thư pháp Khải Công, hoặc em trai vua Phổ Nghi là Phổ
Nhậm đổi tên thành Kim Hữu Chi), nhưng vẫn có
người giữ nguyên họ hoàng gia như diễn viên
Ái Tân Giác La Khải Tinh, nhà thư pháp Ái Tân Giác La Khải
Tương v.v…
[10] A Ca (阿哥), c̣n phiên âm là A Cách (có
nghĩa là “anh” giống như “ca ca” trong tiếng Hán),
vốn là một tiếng xưng hô trang trọng trong tiếng
Măn Châu để gọi vương tử, con cái của
vương tử, thiếu gia, công tử v.v… Khi quân Măn Châu vào Trung Hoa, danh xưng này trở
thành tước hiệu riêng để gọi các hoàng tử nhà
Thanh và các thế tử của các vương công Mông Cổ.
Năm 1635, Thanh
Thái Tông Hoàng Thái Cực (Hong Taji,
Đại Hăn đời thứ hai của nhà Hậu Kim, về
sau cải quốc hiệu là Đại Thanh, cha của vua
Thuận Trị (Phúc Lâm) nhà Thanh) hạ chiếu quy định
chỉ có con và cháu trai của Thái Tổ Nỗ
Nhĩ Cáp Xích được gọi là A Ca. Dân chúng không
được gọi thẳng tên họ, mà phải gọi
họ bằng A Ca hoặc Giác La. Sau khi chiếm được
Trung Hoa, Thanh Thái Tông lại hạ lệnh: Tất cả con cháu trực hệ của
hoàng đế được gọi là tông thất, chỉ
riêng các hoàng tử mới được gọi là A Ca, thêm
vào chữ chỉ thứ tự. Chẳng hạn Ung Chánh trước
khi lên ngôi, được gọi là Tứ A Ca (do hoàng tử
Dận Chân là con trai thứ tư của vua Khang Hy).
[11]
Hiện thời, tại Tân Gia Ba có Phật Nha Tự Long Hoa
Viện thờ xá-lợi là một chiếc răng
được tin là của đức Phật, và chùa Sri
Dalada Maligawa tại Kandy (Sri Lanka) cũng thờ một chiếc
răng của đức Phật. Ngoài ra, tại chùa Linh
Quang ở Bắc Kinh, tổng đàn Phật Quang Sơn ở
Cao Hùng (Đài Loan), chùa Viên Giác (Zuirokusan Engaku Kōshō Zenji, Thụy Lộc
Sơn Viên Giác Hưng Thánh Thiền Tự) ở
Kamakura (Kiếm Thương) Nhật Bản, chùa Somawathiya Chaitya tại
Plonnaruwa (Sri Lanka), chùa Lư Sơn (ở Rosemead, California)
đều tuyên bố họ có thờ răng Phật. Không
biết ở đây lăo pháp sư nói đến nơi nào.
[12]
Lăo pháp sư c̣n nói thiếu một Bảo nữa là Chủ
Tạng Bảo, đôi khi c̣n gọi là Cư Sĩ Bảo (Gahapati-ratna).
Vị đại thần này có thể biết chỗ nào có
kho báu, có thể mở các kho báu cho Chuyển Luân
Vương tùy nghi sử dụng.
[13] Do cách nói của lăo pháp sư không
nêu rơ rệt mười tám pháp bất cộng, xin liệt
kê theo thứ tự như sau để tiện tham khảo:
Thân vô thất, khẩu vô thất, niệm vô thất, vô bất
định tâm, vô dị tưởng tâm, vô bất tri xả
tâm, dục vô giảm, tinh tấn vô giảm, niệm vô giảm,
huệ vô giảm, giải thoát vô giảm, giải thoát tri
kiến vô giảm, nhất thiết thân nghiệp tùy trí huệ
hạnh, nhất thiết khẩu nghiệp tùy trí huệ hạnh,
nhất thiết ư nghiệp tùy trí huệ hạnh, trí huệ
tri quá khứ thế vô ngại, trí huệ tri vị lai thế
vô ngại, trí huệ tri hiện tại vô ngại. Đó là
các pháp Bất Cộng theo kinh Đại Bát Nhă và Trí Độ
Luận, và là cách nói phổ biến nhất khi luận
định về mười tám pháp bất cộng. Thuyết
Nhất Thiết Hữu Bộ lại chủ trương
mười tám pháp Bất Cộng bao gồm Thập Lực,
Tứ Vô Sở Úy, Tam Niệm Trụ (tâm b́nh đẳng đối với
người nghe pháp cung kính, tâm b́nh đẳng đối với
người nghe pháp chẳng cung kính, tâm b́nh đẳng
đối với người nghe pháp tâm cung kính hay chẳng
cung kính). Truyền thống Nam Truyền Phật giáo lại
có cách giải thích khác, như trong các bộ Giải Thoát
Đạo Luận, Thanh Tịnh Đạo Luận v.v…
đă nói, nhưng sợ rườm rà nên không trích dẫn.