Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh

Giảng Kư, phần 6

大乘大集地藏十輪經講記

Mộng Tham lăo ḥa thượng chủ giảng

梦参老和尚主講

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương, tri tự quốc độ, hữu vô lượng hữu t́nh Bổ Đặc Già La, quy y chủng chủng tà thần, ngoại đạo, khởi ư tà tín, cập khởi tà kiến, học tà cấm giới, chấp trước, tu trị tà cát hung tướng, cụ thọ chủng chủng vô lợi ích khổ. Đại vương tri dĩ, sổ sổ triệu tập, dĩ kỳ tiên vương trị quốc chánh pháp, khai ngộ, thị hiện, giáo tập, giới sắc, linh kỳ xả trừ đảo tín, đảo kiến, tu học tiên vương chánh trực cựu pháp, linh tự quốc độ nhất thiết hữu t́nh, nhất thú, nhất quy, nhất ư, nhất dục, nhất thiết ḥa hợp, đồng y tiên vương chánh pháp nhi chuyển, thính thọ chiếu mạng, tùy thuận phụng hành, suất độ ḥa đồng, tác sở ưng tác. Thời, Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương, thường dữ quần thần sổ sổ tập hội, cộng vị gia hào, thọ chư khoái lạc, hy hư du hành, bất tương sai nhị, hàm cộng trù tư, lư chư vương vụ. Thiện nam tử! Sát-đế-lợi chủng quán đảnh đại vương, thành tựu như thị đệ tứ vương luân. Do thử luân cố, linh tự quốc độ tăng trưởng an lạc, năng phục nhất thiết oán địch, ác hữu, thiện thủ hộ thân, linh tăng thọ mạng

          ()善男子,如剎帝利灌頂大王,知自國土有無量有情補特伽羅,歸依種種邪神外道,起於邪信,及起邪見,學邪禁戒,執著修治邪吉凶相,具受種種無利益苦。大王知已數數召集,以其先王治國正法,開悟示現教習誡敕,令其舍除倒信倒見,修學先王正直舊法,令自國土一切有情,一趣、一歸、一意、一欲,一切和合同依先王正法,而轉聽受詔命,隨順奉行,率土和同,作所應作。時剎帝利灌頂大王,常與群臣數數集會,共味嘉餚,受諸快樂,嬉戲遊行,不相猜貳,咸共疇諮理諸王務。善男子,剎帝利種灌頂大王,成就如是第四王輪。由此輪故,令自國土增長安樂,能伏一切怨敵惡友,善守護身,令增壽命。

       (Kinh: Này thiện nam tử! Như đại vương Sát-đế-lợi đă được quán đảnh, biết trong cơi nước của ḿnh có vô lượng hữu t́nh Bổ Đặc Già La quy y các thứ tà thần, ngoại đạo, dấy lên tà tín và dấy tà kiến, học theo giới cấm tà vạy, chấp trước chuyện tu tập, đối trị các tướng cát hung tà vạy, thọ trọn đủ các thứ khổ chẳng có lợi ích. Đại vương đă biết, bèn nhiều lượt triệu tập, dùng chánh pháp trị quốc của tiên vương để khai ngộ, thị hiện, dạy bảo, răn đe, khiến cho họ trừ bỏ niềm tin điên đảo và kiến giải điên đảo, tu học pháp cũ chánh trực của tiên vương, khiến cho hết thảy hữu t́nh trong đất nước của ḿnh đều hướng theo một lối, quay về một lối, một ư, một mong ước, hết thảy ḥa hợp, cùng nương theo chánh pháp của tiên vương để vận dụng, nghe nhận chiếu chỉ, mạng lệnh, tùy thuận vâng làm theo. Cả nước ḥa đồng, làm chuyện đáng nên làm. Khi ấy, đại vương Sát-đế-lợi đă được quán đảnh thường cùng với các vị quần thần nhiều lần tụ họp, cùng nếm các món ăn ngon, hưởng các sự vui sướng, vui thú du hành, chẳng nghi kỵ nhau, đều cùng nhau mưu tính, xử lư việc nước. Này thiện nam tử! Đại vương thuộc chủng tánh sát-đế-lợi đă được quán đảnh thành tựu vương luân thứ tư như vậy. Do v́ luân ấy, khiến cho cơi nước của ḿnh tăng thêm yên vui, có thể hàng phục hết thảy các oán địch và bạn ác, khéo giữ ǵn cái thân, tăng trưởng thọ mạng).

 

          Phần này giống như các phần trước, nói vương luân trước, rồi nói đến Phật Luân. Đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi đă được quán đảnh biết hết thảy chúng sanh Bổ Đặc Già La trong cơi nước của chính ḿnh, cũng tức là hết thảy chúng sanh trong nước của ông ta. Bổ Đặc Già La chúng sanh, đại khái có mười loại. Một loại là Bổ Đặc Già La chẳng gieo thiện căn, trong quá khứ chẳng có thiện căn, hiện tại lại chẳng tu phước nghiệp, cũng có nghĩa là chẳng tu thiện nghiệp. Hơn nữa, các nghiệp họ đă tu đều là liên tục tạp nhiễm. Một loại khác là những kẻ chẳng gặp gỡ bạn lành, toàn chung đụng bạn ác. Cả nước ấy đều là chúng sanh kiểu đó. Đồng thời, họ làm chuyện xấu, chẳng sợ hăi hậu quả. Dẫu trong tương lai phải chịu quả báo trong tam đồ, họ đều chẳng sợ hậu quả. Tham, sân, si hết sức mạnh mẽ, v́ tâm họ đă mê loạn, chấp chặt tà kiến. Nói đại khái th́ có mười loại t́nh huống. Loại Bổ Đặc Già La quy y tà giáo, tức là tà thần, ngoại đạo chẳng chánh đáng. Có các loại tà thần, ngoại đạo chẳng gây ra chuyện ác rất lớn; ở đây là nói tới loại tạo ác.

          Nêu một thí dụ như cúng tế quỷ tiên, nịnh nọt quỷ thần, giết các chúng sanh để cúng dường quỷ thần, cho rằng đấy mới là cầu phước. Thật ra, làm như vậy, không chỉ chẳng cầu được phước, mà ngược lại, c̣n gieo rất nhiều khổ quả trong vị lai. Đó gọi là “tà tín ngưỡng”. Thậm chí, tôi thấy những thầy phong thủy cũng là “tà tín ngưỡng”! Họ nói ṭa nhà này của quư vị tốt hay xấu, nói cát, hung, họa, phước. Nói theo Phật giáo, những điều ấy đều là tà tri, tà kiến. “Tà cấm giới”: Ấn Độ có rất nhiều ngoại đạo. Từ Ấn Độ, lại truyền sang Trung Hoa rất nhiều thứ ngoại đạo, hoặc là không ăn dầu, có kẻ chẳng ăn muối. Nói theo đất Trung Hoa th́ không hề có chuyện thờ chó hay thờ ḅ. Tại Ấn Độ, có một cách nói như sau: “Con ḅ này đă đắc thần thông”. Họ thấy một con ḅ về sau được sanh lên trời, [chẳng nhận biết con ḅ được sanh thiên] là v́ nó có công đối với con người, bèn sùng tín con ḅ ấy. Tôi vừa mới qua Gia Nhĩ Các Đáp (Calcutta) của Ấn Độ, tản bộ trên đường phố. Ở trên khá nhiều con đường, tôi thấy ḅ đều rất to, rất mập. Đầu chúng nó đeo kín những thứ trang sức xanh xanh, đỏ đỏ. Tôi thấy những người lái xe hễ thấy con ḅ, ngay lập tức ngừng xe lại, chờ con ḅ lững thững đi qua xong mới lái xe tiếp trên con đường đó. Con ḅ ấy cũng rất thông minh, nó đi trên con đường đó, chẳng đi sang phố khác, v́ [người ở] con đường ấy đều tin thờ nó. Loại tín ngưỡng ấy được gọi là “tà cấm giới”. C̣n có người đốt một đống lửa. Bà-la-môn thờ lửa như thế đó. Mọi người vây quanh sụp lạy, lạy xong lại niệm chú ngữ và kinh điển của họ. Những điều ấy được gọi là “tà cấm giới”.

          Có khi [các thứ ngoại đạo ấy] cũng rất giống Phật giáo. Họ nói: “Các vị là người xuất gia sống nơi mộ địa, ở ngoài đồng hoang, chúng tôi c̣n khổ hơn quư vị”. C̣n có một loại người, ngủ trên bàn chông. Họ cũng ngủ ngoài đồng hoang, [tự khoe] “ta khổ hạnh hơn quư vị, sẽ thành đạo lớn hơn quư vị”. Đó gọi là “tà kiến”. Tu khổ hạnh thành đạo, hoàn toàn chẳng phải là thành tựu như vậy! Hễ có các thứ khổ sở vô ích, vị vua quán đảnh Sát-đế-lợi thấy t́nh huống ấy, thường triệu tập các vị đại thần trong triều, và các nhân sĩ nổi danh trong nước, cùng nghiên cứu chánh pháp trị quốc của các vị tiên vương xưa kia để nhân dân cả nước học tập. Nếu có kẻ nào quấy rối tà vạy, sẽ chế tài họ: Nhẹ tội th́ xử phạt, giáo dục; kẻ tội nặng có thể bị tống giam. Chẳng hạn như có rất nhiều kẻ tà tri, tà kiến, có đôi khi chúng nó sẽ hại người trong nước.

          Chuyện xảy ra vào năm mươi năm trước, tức năm 1940, khi tôi đến Calcutta của Ấn Độ, nghe họ bảo: “Thầy đi đường tại Calcutta, phải cẩn thận đôi chút, đừng có đi một ḿnh. Họ thấy thầy là người ngoài tới đây, lại chẳng hiểu ngôn ngữ, sẽ bức hại thầy. Họ bắt thầy vô pḥng tối, đem thầy vô đó, chặt chân tay để cúng thần. Tṛng mắt th́ lại để cúng thần chi đó, c̣n bộ phận sinh dục th́ cúng thần chi đó. Chân th́ dùng để cúng thần chi đó”. Đấy là tà tri đảo kiến. Nếu quốc gia chẳng ngăn chặn những chuyện ấy, pháp luật của quốc vương chẳng cấm đoán, chuyện ấy chẳng biết sẽ đến mức độ nào nữa! Đấy là tà tri, tà kiến. Kiểu tà tri, tà kiến này ở Trung Hoa cũng rất nhiều!

          Chánh pháp của tiên vương là thuở đầu khi mới kiến lập quốc gia ấy, tổ tiên đều rất từ bi. Pháp lệnh của quốc gia chính là đạo đức của họ. Trước kia, chúng ta cũng thường nghiên cứu luân lư, đạo đức, hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ của quốc gia. Xưa kia, rất nghiên cứu các môn đạo đức ấy. Thuở bé, tôi c̣n phải học. Tới khi tôi học trung học, chẳng c̣n nữa. Hiện thời. chẳng có ai nói đến luân lư, đạo đức! Chúng tôi cũng chẳng phải là kẻ sùng cổ. Quá khứ cũng có điều tốt, mà hiện tại cũng có điều tốt. Những cái gọi là “tiến bộ, cải cách” th́ phải sửa đổi những điều bất hảo trong quá khứ, sửa trừ những thứ cũ kỹ có hại cho nhân dân, mới đáng gọi là “cải cách”. Hiện thời, chỉ sợ đều chẳng được như thế, sửa đổi toàn bộ những điều tốt đẹp trong quá khứ do thời đại bất đồng, chúng ta thường nghe nói những lời lẽ ấy. Cải cách mà giết, trộm, dâm, dối hoành hành chẳng bị ngăn trở! Trong quá khứ, dân số cũng ít ỏi, nếu bị giết hại như vậy, chỉ sợ là dân số sẽ bị giảm thiểu, chẳng đáng bị chết mà chết mất. Đấy là tà đảo kiến (邪倒見, tri kiến tà vạy, điên đảo). Nghiên cứu chánh pháp là nghiên cứu những điều đă được thi hành từ quá khứ xưa kia, nghiên cứu chánh trị luật pháp do tiên vương đă áp dụng trong quá khứ. Mọi người sau khi đă nghiên cứu, nhất trí tuân theo chánh pháp của tiên vương. Nếu kẻ nào không nghe theo, tức là trái nghịch chiếu mạng của hoàng đế. Hoàng đế chế định tân pháp, truyền cho hết thảy thần dân trong nước đều làm theo như vậy. Làm những ǵ họ đáng nên làm; chuyện chẳng nên làm, sẽ chẳng được phép làm. Vị vua quán đảnh Sát-đế-lợi ấy thường tụ họp với quần chúng, thảo luận các vấn đề ấy. Quốc thái dân an, mọi người được hưởng thụ, trọn chẳng phải như trong hiện thời: Dùng của công để mời khách, biếu quà! V́ thế, mọi người cùng nhau chè chén, khoái hoạt, hưởng thụ vui sướng, khoan khoái vui chơi. Đôi bên chẳng nghi kỵ nhau, đối với đất nước chẳng có hai ḷng, chẳng ngờ vực, chẳng đố kỵ nhau, nhất tâm nhất ư cùng nhau mưu tính mong xử lư việc nước vẹn toàn. Đấy là vua quán đảnh Sát-đế-lợi thành tựu vương luân thứ tư, dùng điều này để hiển thị chánh luân của đức Phật.

          Do vị quốc vương định ra các pháp luật mà khiến cho quốc độ ấy tăng trưởng an lạc, có thể khiến cho hết thảy oán địch và bạn ác đều bị hàng phục. Do vậy, có thể khéo thủ hộ thân ḿnh. Chữ Thân () hàm nghĩa mỗi người dân đều có thể bảo vệ chính ḿnh, mà cũng có thể yêu thương, che chở người khác. Như vậy th́ mới có thể tăng trưởng thọ mạng, tích phước, tăng thọ, cho đến chẳng thương tổn kẻ khác. Đó là luân thứ tư của quốc vương.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như thị Như Lai thành tựu thiện xảo tri thắng giải trí, kiến chư thế gian chủng chủng tà quy, tà kiến, tà ư, nhạo trước tà pháp, hành tà nghiệp hạnh. Do thị nhân duyên, thọ vô lượng khổ. Như Lai kiến dĩ, sổ sổ triệu tập, ư đại chúng tiền, dĩ kỳ quá khứ chư Phật Thế Tôn Tam Bảo chủng tánh nhân quả, lục chủng Ba La Mật Đa, Du Già y nhân tam luật nghi đẳng, chư nhân quả pháp, khai ngộ, thị hiện, khánh ủy, giới sắc nhất thiết chúng hội, linh kỳ giải thoát chư điên đảo kiến, kiến lập chánh kiến, an trí Thập Thiện chánh trực cựu đạo, cộng chư hữu t́nh sổ sổ đồng tu pháp tùy, pháp hạnh, phương tiện dẫn nhiếp nhân quả đẳng lưu. Vị chư hữu t́nh, tứ chúng ḥa hợp, đồng tu nhất thiết thù thắng thiện hạnh, tiện cộng du hư tứ chủng Niệm Trụ, ư tam-ma-địa giải thoát tri kiến, chư đạo phẩm trung, hoan ngu thọ lạc, vị linh thánh giáo cửu trụ thế cố, thiệu Tam Bảo chủng bất đoạn tuyệt cố, tiện cộng du hư Tứ Chánh Cần, Tứ Thần Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Đẳng Giác Chi, Bát Thánh Đạo Chi. Ư kỳ chủng chủng thắng tam-ma-địa giải thoát tri kiến chư đạo phẩm trung, hoan ngu thọ lạc. Thiện nam tử! Ngă thành như thị đệ tứ Phật Luân. Do thử luân cố, tri chư hữu t́nh Bổ Đặc Già La, chủng chủng thắng giải, quy thú, ư nhạo, chư nghiệp pháp thọ, tùy kỳ sở ưng, lợi ích an lạc, đắc an ổn trụ, đắc vô kinh khủng, đắc vô sở úy, tự xưng ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, tồi chư thiên ma, ngoại đạo tà luận, xử đại chúng trung, chánh sư tử hống.

          ()善男子,如是如來成就善巧知勝解智,見諸世間種種邪歸、邪見、邪意,樂著邪法,行邪業行,由是因緣受無量苦。如來見已,數數召集於大眾前,以其過去諸佛世尊三寶種姓因果、六種波羅蜜多、瑜伽依因、三律儀等諸因果法,開悟、示現、慶慰、誡敕一切眾會,令其解脫諸顛倒見,建立正見,安置十善正直舊道,共諸有情數數同修法隨法行,方便引攝因果等流。為諸有情四眾和合,同修一切殊勝善行,便共遊戲四種念住,於三摩地、解脫智見、諸道品中,歡娛受樂。為令聖教久住世故,紹三寶種不斷絕故,便共遊戲四正勤、四神足、五根、五力、七等覺支、八聖道支,於其種種勝三摩地、解脫智見、諸道品中,歡娛受樂。善男子,我成如是第四佛輪。由此輪故,知諸有情補特伽羅種種勝解、歸趣、意樂、諸業法受,隨其所應,利益安樂,得安穩住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,摧諸天魔外道邪論,處大眾中正師子吼。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như Lai thành tựu trí biết thắng giải hay khéo như thế, thấy các thứ tà quy, tà kiến, tà ư, ưa thích tà pháp, hành hạnh tà nghiệp trong các thế gian. Do nhân duyên ấy, [chúng sanh] chịu vô lượng khổ. Như Lai thấy rồi bèn nhiều lượt triệu tập, đối trước đại chúng, dùng chủng tánh, nhân quả Tam Bảo của chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, sáu loại Ba La Mật Đa, ba loại luật nghi nương theo cái nhân của Du Già v.v… các pháp nhân quả để khai ngộ thị hiện, an ủi khiến cho hoan hỷ, răn truyền hết thảy chúng hội, để họ thoát khỏi các tri kiến điên đảo, kiến lập chánh kiến, đặt vững đạo cũ Thập Thiện chánh trực, cùng với các hữu t́nh nhiều lượt cùng tu pháp tùy, pháp hạnh, dùng phương tiện để hướng dẫn, nhiếp thọ các thứ nhân quả, v́ các hữu t́nh tứ chúng ḥa hợp, cùng tu hết thảy hạnh lành thù thắng, liền cùng vui chơi trong bốn loại Niệm Trụ, hoan hỷ vui sướng trong các đạo phẩm chánh định, tri kiến giải thoát, v́ để cho thánh giáo được tồn tại lâu dài trên thế gian, v́ nối tiếp chủng tánh Tam Bảo chẳng đoạn tuyệt, bèn dạo chơi trong Tứ Chánh Cần, Tứ Thần Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Đẳng Giác Chi, Bát Thánh Đạo Chi, hoan hỷ vui thỏa trong các loại đạo phẩm, chánh định thù thắng, và tri kiến giải thoát. Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật Luân thứ tư như thế. Do v́ luân này, biết các thứ kiến giải thù thắng, sự quy hướng, các sự yêu thích, các nghiệp pháp nhận lănh của các hữu t́nh Bổ Đặc Già La, tùy theo lẽ đáng nên mà lợi ích, an lạc, được trụ an ổn, được không kinh hoảng, được không sợ hăi, tự xưng “ta đă ở nơi địa vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, dẹp tan tà luận của các thiên ma và ngoại đạo, ở trong đại chúng mà thực hiện sư tử hống).

 

          Đây là Phật Luân thứ tư của đức Phật. Hiện thời, phần lớn đều là tà quy, tà kiến, ưa thích tà pháp, hành nghiệp hạnh tà. Công việc hiện thời do chính nhân dân tự ḿnh lựa chọn. Nếu quư vị chọn nghề nghiệp không tốt, trong công việc ấy, đ̣i hỏi phải sát sanh, nhưng nghề nghiệp ấy hoàn toàn chẳng lừa gạt. Nghề nghiệp nào cũng đ̣i hỏi phải nói lời chân thật; bất quá, kẻ làm kinh doanh đều chẳng thể nói lời chân thật được! Tại Đại Lục, có những đạo hữu hỏi: “Không nói dối, sẽ chẳng có cách nào kinh doanh được!” Tôi đến Mỹ, thấy t́nh huống hoàn toàn chẳng phải là như vậy. Trong các siêu thị, trên quầy họ đề giá bao nhiêu tiền, sẽ bán bấy nhiêu tiền. V́ họ đề giá thật, chẳng cần có nhân viên phục vụ, họ cũng chẳng nói chuyện với quư vị. Do vậy, không nhất định phải nói dối! Lẽ đâu bắt buộc phải nói dối th́ mới có thể kinh doanh được! Tôi chỉ nêu ra một thí dụ như vậy. Đấy là tà nghiệp. Tà nghiệp là làm tà hạnh, không nhất định phải làm như thế mà vẫn cứ làm!

          Ngoài ra, nếu trong quá khứ, quư vị chẳng có phước báo lớn dường ấy, bất kể quư vị gạt gẫm cỡ nào, chèn ép như thế nào, mánh khóe lươn lẹo cỡ nào đi nữa, kể như có cơ hội tước đoạt lọt vào tay, ngay lập tức sẽ thất bại. Kẻ cường đạo cướp đoạt, c̣n có cường đạo lợi hại hơn hắn. Cường đạo cướp đoạt cường đạo, c̣n có cường đạo có thế lực to hơn nữa, chiến thắng quư vị! [Khăng khăng hành tà hạnh là do] chẳng biết mối quan hệ nhân duyên quả báo. Đủ loại tà kiến, tà nghiệp, ưa thích chuyện tà pháp quá nhiều, hậu quả là quư vị nhất định phải hứng chịu vô lượng thống khổ. Quy y thần là tà quy, tri kiến bất chánh. Chúng ta đều có thể trông thấy đệ tử của họ hết sức đông đảo. Quư vị phải nói như thế nào đây? Đấy chính là “phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân” (các phương pháp sẽ tụ tập theo từng loại, sự vật theo chia ra thành từng nhóm theo mỗi tánh chất riêng biệt). Nhân duyên kiểu đó chính là v́ gă ma vương ấy muốn chuyển thế, bọn ma con, ma cháu của hắn sẽ theo hắn kéo đến, đương nhiên là tín phụng hắn, chúng nó chẳng tín phụng chánh giáo của quư vị! Loại nào sẽ tín phụng theo loại ấy. Thuộc hạnh nào, nghiệp nào, sẽ kết giao những kẻ cùng hạnh, cùng nghiệp đó! Thương nhân sẽ chẳng qua lại, kết bằng hữu với kẻ làm chánh trị. Quư vị làm bạn với họ, nhất định sẽ gặp chuyện chẳng hay ho! Người ta nói: “Giao quan cùng, giao thương phú” (chơi với quan sẽ nghèo mạt, chơi với thương nhân sẽ giàu). Muốn đánh quan ṭa, chắc chắn sẽ bị khốn cùng. Đấy là sự giáo hóa xưa cũ của Trung Hoa. Quư vị giao du với kẻ nào, chơi với kẻ ác hay với người lành, sẽ có mối quan hệ hết sức to lớn, như người Hoa đă nói: “Cận châu giả xích, cận mặc giả hắc” (gần son th́ đỏ, gần mực th́ đen), hàm nghĩa như thế đó.

          Đức Phật chỉ dạy các đệ tử phải chiếu theo nhân quả của chủng tánh Tam Bảo, các thứ giới luật, hoặc là dùng Lục Ba La Mật, tức là dùng bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, ái hành, Tứ Nhiếp Pháp để giáo dục chúng sanh. Hoặc là nương theo tam luật nghi nơi nhân địa. Tam luật nghi là Tam TTịnh Giới, cũng tức là Nhiếp Thiện Pháp Giới, Nhiêu Ích Hữu T́nh Giới, và Nhiếp Luật Nghi Giới. Ba thứ luật nghi ấy đều là pháp nhân quả. Thiện có thiện báo, ác có ác báo. “Khai ngộ thị hiện”: Có thể giảng chữ Ngộ là “hiểu rơ”. Sau khi đă hiểu rơ nhân quả báo ứng, sẽ khiến cho họ quy y Phật, quy y Pháp trong Tam Bảo, gieo chủng tánh thiện căn. Gieo nhân lành, sẽ đạt được quả lành. Hoặc là có cái nhân tương ứng, th́ sẽ có cái quả tương ứng. Dựa trên cái nhân để nghiệm chứng cái quả. Du Già có nghĩa là “tương ứng”, cũng có nghĩa là các pháp nhân quả thuộc ba loại luật nghi v.v… Đó gọi là nhân quả báo ứng. Khiến cho họ hiểu rơ đạo lư này. Có khi đức Phật lại an ủi chúng sanh, khiến cho họ vui mừng v́ được an ủi, gieo phước điền nơi Tam Bảo, đời mai sau sẽ chẳng chịu khổ. Trong kinh Phật, có rất nhiều lời lẽ an ủi. Sau khi quư vị đă nghe pháp, đă quy y Phật, trong tương lai, sẽ hưởng đủ loại phước nghiệp, chẳng c̣n thọ khổ quả. Đấy là những ngôn từ an ủi.

          Tiếp đó là những ngôn từ răn truyền. Ngôn từ răn truyền chính là giới luật. Quư vị đă phạm giới, chẳng thể nào không đọa địa ngục, đọa vào ba ác đạo. Ngôn từ thuộc loại này rất nhiều. Đức Phật thường xuyên răn truyền các vị đại đệ tử làm thế nào để lợi ích chúng sanh, làm thế nào để tiêu trừ các tri kiến điên đảo của chúng sanh, khiến cho họ được giải thoát. Tri kiến giải thoát và tri kiến điên đảo, hai đằng hoàn toàn đối nghịch với nhau. Như thế nào th́ mới có thể giải thoát? Quư vị phải kiến lập chánh tri, chánh kiến, đừng hành theo tà mạng. V́ để chính ḿnh sống sót, mà kiến lập hạnh phúc của chính ḿnh trên sự đau khổ của chúng sanh, chớ nên! Cho đến v́ để chính ḿnh sống thoải mái, nói chung là v́ vật chất hữu hạn, bèn tranh đoạt. Có tranh đoạt hợp pháp và tranh đoạt bất hợp pháp. Có những thứ thuận theo nhân quả, đáng nên có th́ sẽ có, chẳng đáng nên có th́ sẽ chẳng thể đạt được! Chúng ta đổ công dốc sức, người ta sẽ đăi ngộ bằng tiền lương, đó là chuyện đáng nên có. Nếu đục khoét, trộm cắp, lường gạt người ta, đó là thứ chẳng đáng nên có. Mọi người đều biết chuyện đáng nên làm, chuyện chẳng nên làm, trong tâm họ tự biết rất rơ, nhưng v́ lợi, hoặc v́ danh, thây kệ chuyện nên làm hay chẳng nên làm, miễn sao ta có lợi để đổi lấy cái giả danh là được rồi! Biết rơ chuyện ấy chẳng thể làm mà cứ ương ngạnh muốn làm, biết rơ chuyện này đáng nên làm, nhưng chẳng có lợi ích ǵ cho ta, họ sẽ chẳng làm.

          Khi ấy, đức Phật dạy bảo hết thảy chúng sanh, khiến cho họ có Thập Thiện, đó là đạo cũ chánh trực. Hết thảy chư Phật đều chỉ dạy như thế này: “Chớ nên giết, trộm, dâm, đừng nên tạo tham, sân, si, đừng nên nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói thô ác”. Đó là Thập Thiện Nghiệp, đó là chánh đạo, cựu đạo. Cùng hết thảy hữu t́nh, hết thảy Bổ Đặc Già La, nhiều lượt cùng tu pháp. Tu pháp ǵ, sẽ hành theo pháp đó. Chúng ta tu Thập Thiện Nghiệp, sẽ hành theo Thập Thiện Nghiệp. Tu Lục Ba La Mật, sẽ hành theo pháp Lục Độ. Bố thí chẳng đơn thuần là vật chất. Chúng ta thường dùng vẻ mặt hoan hỷ đối đăi hết thảy chúng sanh, khiến chúng sanh trông thấy quư vị bèn hoan hỷ. Quư vị thấy Di Lặc Bồ Tát, Ngài ngồi đó tươi cười, Ngài bố thí hoan hỷ. Cho đến dùng Tài Bố Thí, c̣n có cách thuyết pháp cho người khác, tức Pháp Bố Thí, khuyên người khác làm chuyện tốt, đều là bố thí. Tôi chỉ nêu một thí dụ như vậy để nói.

          Dẫu sao, đấy là phương tiện thiện xảo, dùng các pháp nhân quả ấy để hướng dẫn, nhiếp thọ, cũng tức là trong thiện ác nhân quả, sẽ có cạn và sâu. Sâu nhất là phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Đề đạo, cho đến quư vị sẽ tự nhiên chứng đắc thành Phật quả, điều ấy sâu lắm! Đối với những kẻ b́nh phàm, hoặc là khuyên người khác niệm Phật, khuyên người ta tin Phật, tin Phật th́ có lợi ích ǵ? Miễn trừ tai nạn. Khuyên người khác coi trọng nhân quả một chút. Biết chúng ta khởi lên ư niệm xấu, trong tương lai, nhất định gặt hái quả báo xấu xa. Đấy là nói theo hàng Bồ Tát. Nói theo bọn chúng sanh b́nh phàm, ắt cần phải có sự thật. [Phải nói với họ]: Làm chuyện ấy, sẽ thật sự tạo thành thương tổn; đấy mới là trị tội. Đối với Bồ Tát th́ khởi tâm động niệm là đă không được rồi, phải hiểu nhân quả ấy. Hàng đệ tử Phật chúng ta, tức tứ chúng đệ tử, ḥa hợp cùng nhau tu hành thiện pháp.

          Thiện pháp thù thắng nhất là phải phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo, lợi ích chúng sanh, rộng độ chúng sanh. Phải cùng nhau tu hành thiện hạnh thù thắng, cùng nhau niệm Phật, đả Phật Thất, cùng nhau bái sám. Coi tu pháp thành thú vui, bốn loại Niệm Trụ, tức thân, thọ, tâm, pháp, vui chơi trong bốn loại Niệm Trụ ấy. Tam-ma-địa là Định. Tri kiến giải thoát có thể thành tựu Pháp Thân huệ mạng của quư vị. Cho đến đối với các đạo phẩm, bao gồm rất nhiều thứ, như Tứ Chánh Cần, Tứ Thần Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo. Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ. Chỉ có tín tâm đối với Phật giáo th́ vẫn chưa được, quư vị phải tinh tấn. Tấn là tinh tấn. Quư vị tinh tấn th́ mới có thể đạt được điều tốt đẹp. Thường luôn nghĩ nhớ Tam Bảo, nghĩ tới pháp quư vị đang tu, chẳng xả chánh niệm. Quư vị một mực tu như vậy, giữ vững hơi thở ra vào, dần dần đắc Định. Do Định, có thể sanh ra Huệ, khởi quán chiếu. Ở trong Định, hàm chứa quán chiếu. Trong quán chiếu, hàm chứa Định, nhưng do quư vị tu đă lâu, sẽ có sức mạnh. Ngũ Căn và Ngũ Lực chính là sức mạnh ấy. Cho đến đối với các loại tam-ma-địa, sẽ chứng các loại Định, đắc các loại Huệ.

          Đức Phật bảo Địa Tạng Bồ Tát: Do cái luân này, ta chẳng ở trong thế giới Sa Bà. Ta thuộc địa vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, tà luận của hết thảy thiên ma và ngoại đạo đều bị phá hủy, giống như sư tử hống. Đấy là Phật Luân thứ tư. Trước tiên, nói về đủ thứ nguy hại trong thế gian, quốc vương xử lư như thế nào. Sau đó, đức Phật cũng dạy các đệ tử của Ngài đối trị các lỗi lầm, họa hoạn như thế nào.

 

          (Kinh) Thiện nam tử, như Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương, tri tự quốc độ, hoặc tha quốc độ, hữu vô lượng hữu t́nh Bổ Đặc Già La, ư tự tài sắc, đam nhiễm vô yếm, ư tha tài sắc, tham cầu truy ái, tức tiện an trí kiên cố thành, quách, thôn, phường, thú la, quốc ấp, vương cung, quảng thuyết năi chí xá-la anh vũ, pḥng thủ chúng cụ, linh vô tổn thất. Thiện nam tử! Sát-đế-lợi chủng quán đảnh đại vương, thành tựu như thị đệ ngũ vương luân. Do thử luân cố, linh tự quốc độ, tăng trưởng an lạc, năng phục nhất thiết oán địch, ác hữu, thiện thủ hộ thân, linh tăng thọ mạng.

          ()善男子,如剎帝利灌頂大王,知自國土,或他國土,有無量有情補特伽羅,於自財色耽染無厭,於他財色貪求追愛,即便安置堅固城郭、村坊、戍邏、國邑、王宮,廣說乃至舍羅、鸚鵡,防守眾具令無損失。善男子,剎帝利種灌頂大王,成就如是第五王輪。由此輪故,令自國土增長安樂,能伏一切怨敵惡友,善守護身,令增壽命。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như đại vương quán đảnh Sát-đế-lợi tự biết trong quốc độ của ḿnh, hoặc quốc độ khác, có vô lượng hữu t́nh Bổ Đặc Già La đối với tài sắc của chính ḿnh đắm nhiễm chẳng chán, đối với tài sắc của kẻ khác bèn tham cầu, theo đuổi, yêu mến, liền sắp đặt thành quách, thôn, phường, tuần pḥng nghiêm ngặt, [pḥng vệ] quốc ấp, vương cung kiên cố, nói rộng th́ cho đến đặt [các loài chim báo động] như xá-la, chim két, các vật dụng để pḥng thủ, khiến cho chẳng bị tổn thất. Này thiện nam tử! Đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi đă được quán đảnh thành tựu vương luân thứ năm như thế. Do bởi luân ấy, khiến cho quốc độ của chính ḿnh tăng trưởng yên vui, có thể hàng phục hết thảy oán địch và bạn ác, khéo thủ hộ thân, tăng thêm thọ mạng).

 

          Những điều này đều nói về quốc vương. Thuở đức Phật tại thế, trước kia, hoàn toàn chẳng có dân chủ, [một đất nước] không thể nào chẳng có quốc vương. Trong lịch sử đều là như vậy. Nếu một quốc gia chẳng có quốc vương, sẽ như bầy rồng không có thủ lănh, loạn lạc ngay! Hiện thời, chúng ta là dân trị, pháp trị, chẳng phải là nhân trị. Dân trị là tuân theo pháp luật mà hành xử. Thời đại hiện tại chẳng giống thời đại thuở ấy, hiện thời loạn hay không, chúng ta cũng đều biết rất rơ ràng, nhưng chẳng có tư cách b́nh luận. Đức Phật nêu ra thí dụ, dựa trên hết thảy t́nh huống của thời Ngài đang sống. Hết thảy chúng sanh, đối với tài sắc của chính họ, “sắc” bao gồm các loại hưởng thụ, họ đắm nhiễm chẳng chán. Chữ Đam (, đắm đuối) vốn là nói về một thứ độc, chúng sanh chẳng biết đó là độc, cứ tham luyến không bỏ được. Chính ḿnh chẳng chịu xả, lại c̣n muốn bảo vệ, c̣n truy cầu những thứ thuộc về người khác. Do nguyên nhân này, nhà vua ắt cần phải bảo vệ quốc độ ấy, khiến cho cuộc sống của quốc dân an định. Hoặc là tu bổ tường thành cho kiên cố. Trong quá khứ, thành ấp đều được tu bổ như vậy. Thời đại ấy sử dụng đao thương. Nếu đắp tường thành cao hơn, dầy hơn, đóng cửa thành lại, kẻ giặc chẳng thể vào được. Thôn làng cũng là như vậy.

          Tôi nhớ thuở bé, sống trong một thôn xóm ở miền Đông Bắc Trung Hoa, đắp bốn lô-cốt (blockhaus, blockhouse). Ở đó, hoặc là có tám mươi gia đ́nh, hoặc là một gia đ́nh cả trăm người. Bốn lô-cốt đều có đặt thổ pháo[1], v́ thuở ấy, vùng Đông Bắc rất nhiều thổ phỉ. Thổ phỉ tấn công, tường thành rất dầy, [người trong lô-cốt] sẽ bắn súng từ trên xuống. Họ gọi chỗ ấy là Hưởng Dao (響窯)[2], thôn ấy được gọi là Hưởng Dao, biểu thị trong ấy có thuốc nổ, có súng đạn, đại pháo. Thổ phỉ muốn cướp thôn ấy, ắt phải tập hợp rất nhiều người. Trước hết, dùng thổ pháo công phá ṭa thành ấy rồi mới có thể tiến vào. Mỗi quốc gia xưa kia đều là như thế. Nếu quư vị đi qua, [sẽ thấy] mỗi thành thị có tường thành đắp dầy như thế. Thậm chí như Tần Thủy Hoàng mong bảo vệ đất nước của ḿnh bèn xây Vạn Lư Trường Thành. Vạn Lư Trường Thành dùng để ngăn chặn quân Hung Nô từ phương Bắc. Thuở ấy, nếu có tường thành bảo vệ sẽ rất tốt, thậm chí mỗi thôn trấn, mỗi thôn làng, cũng đều phải bảo vệ.

          “Vương cung”: Mọi người đến thăm thành Bắc Kinh, [sẽ thấy có] ngoại thành, nội thành, c̣n có một ṭa Tử Cấm Thành. Chúng ta đến thăm Tử Cấm Thành tại Cố Cung Bắc Kinh, [nếu] đóng chặt cửa, quư vị sẽ chẳng vào được. Hiện thời, có phi cơ trực thăng bay thẳng vào, thả bộ binh xuống, sẽ chiếm được ngay. Thời đại bất đồng, thiết bị cũng khác. Đây là nói theo ư nghĩa “pḥng hộ”.

          “Xá-la, anh vũ”: Con vẹt (két) trống gọi là Xá-la (Sāra), két mái gọi là Xá-lợi. Chim mái gọi là Xá-lợi (Sārikā), chim trống kêu là Xá-la. Xá La chuyên môn bảo vệ chim mái, nó làm nhiệm vụ ấy. Mọi người thấy chim nhạn, nhạn sợ bị lẻ loi. Một mai bị lẻ bạn, nó sẽ nghĩ đến chuyện tự sát. V́ sao? Cô đơn. Nếu bầy nhạn đáp xuống, con nhạn lẻ bạn phải tuần pḥng. Trong bầy nhạn, thường có nhạn lẻ bạn. Người săn nhạn sẽ bắt con nhạn lẻ bạn trước. Nó bị bắt, sẽ không kêu nữa. Con nhạn lẻ bạn không kêu nữa, hắn có thể bắt được rất nhiều nhạn, v́ những con nhạn khác đều đang ngủ. Tôi ở Tây Tạng, thấy Tây Tạng có rất nhiều đàn ḅ Yak (mao ngưu, 犛牛) được bảo vệ. Quư vị thấy thông thường ḅ sợ sói, sợ báo, và cũng sợ cọp. Nhưng trong đàn ḅ, sẽ có một hai con đầu đàn, được gọi là “đầu ngưu” (頭牛, ḅ đầu đàn). Hễ đến tối, chúng nó sẽ ăn đặc biệt ngon, cũng chẳng cần phải ra ngoài gặm cỏ. Chủ nhân luôn cho nó ăn tàm ba (tsampa)[3]. Chủ nhân ăn ǵ, bèn cho nó ăn thứ đó. Thậm chí, nấu thức ăn cho nó. Nó sẽ làm ǵ? Tới buổi tối, chủ nhân đi ngủ, thả chó ra, chó sẽ phối hợp với ḅ đầu đàn. Con ḅ đầu đàn đi lại, đi quanh đàn ḅ vài ṿng. Ḅ sợ con ḅ đầu đàn; nếu chủ mục trường đích thân chăn ḅ, ḅ vẫn chạy lộn xộn. Nhưng con ḅ đầu đàn đi quanh vài ṿng, đàn ḅ đều nằm phục xuống, chẳng dám động đậy. Nó bèn tuần tra, xem có sói hay báo hay không? Ḅ đầu đàn phát huy tác dụng ấy. Tôi nêu thí dụ này, [nhằm chứng tỏ] ngay cả súc sanh hay phi cầm đều cần được bảo vệ, huống hồ nhân loại ư? Hiện thời, loài người trí huệ phức tạp, chẳng giống như quá khứ, có hỏa tiễn cùng máy bay chiến đấu. Lại c̣n từ biển tấn công, từ trên lục địa bay tới, quá nhiều. Hiện thời, so với trước kia lại càng khác biệt. Đấy là hàng phục hết thảy oán địch, bảo vệ tánh mạng và tài sản của bản thân và gia đ́nh.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như thị Như Lai thành tựu thiện xảo tri chư tánh trí, tri chư ác ma, cập cửu thập ngũ chúng tà ngoại đạo, tịnh dư vô lượng chúng ma ngoại đạo sở hoặc hữu t́nh. Ư tự tài sắc, đam nhiễm vô yếm, ư tha tài sắc, tham cầu, truy ái, ư ngă tự thân, cập ngă đồ chúng, thâm sanh tăng tật, vi hại ngă cố, giả thiết trân soạn, tạp dĩ độc dược, ám trí hỏa khanh, ngụy phu sàng ṭa, hoặc thôi sơn thạch, hoặc phóng cuồng tượng, bạt kiếm truy trục, tán bộn trần uế, báng hành dâm dục, hủy thị bất nam, hoặc vị phi nhân, hoặc ngôn huyễn hóa, dĩ thị chư ác nhi tương phỉ hủy.

          ()善男子,如是如來成就善巧知諸性智,知諸惡魔,及九十五眾邪外道,並餘無量眾魔外道所惑有情,於自財色耽染無厭,於他財色貪求追愛,於我自身及我徒眾深生憎嫉,為害我故,假設珍饌雜以毒藥,闇置火坑,偽敷床座,或推山石,或放狂象,拔劍追逐,散坌塵穢,謗行淫慾,毀是不男,或謂非人,或言幻化,以是諸惡而相誹毀。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như Lai thành tựu trí thiện xảo biết các tánh như vậy, biết các ác ma, và chín mươi lăm loại tà, ngoại đạo, và vô lượng các ma, ngoại đạo mê hoặc hữu t́nh. Đối với tài sắc của chính ḿnh, đắm nhiễm chẳng chán, đối với tài sắc của người khác bèn tham cầu, mê say theo đuổi. Họ đối với bản thân ta và đồ chúng của ta, sanh ḷng ghen ghét sâu xa, v́ muốn làm hại ta mà hoặc giả vờ bày các thức ăn ngon xen lẫn thuốc độc, ngầm bày hố lửa, giả vờ trải giường, ṭa, hoặc là đẩy đá từ trên núi xuống, hoặc thả voi cuồng, rút gươm truy đuổi, vung rải bụi dơ, báng bổ ta làm chuyện dâm dục, hủy báng ta chẳng phải là nam nhân, hoặc bảo chẳng phải là người, hoặc nói ta là huyễn hóa, dùng các điều ác như thế để phỉ báng, hủy gièm).

 

          Chúng sanh trong đời Mạt Pháp hiện thời đă bị danh lợi dụ dỗ, mê hoặc, lại c̣n bị ngoại cảnh dụ dỗ, mê hoặc, [cho nên] tham, sân, si trong nội tâm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tài sản của chính ḿnh, họ sẽ bảo vệ. Tài sản thuộc về lợi, họ pḥng bị rất châu đáo, tham lam chẳng chán, nhưng lại muốn lừa gạt, tước đoạt tài sản của người khác. Một người chưa đủ, c̣n dây dưa đến mấy người! Hiện thời, chuyện kiểu ấy rất nhiều. C̣n có kẻ theo đuổi tài sắc, nghi kỵ lẫn nhau. Hữu t́nh chúng sanh trong hiện thời, đặc biệt là đệ tử Phật, phải đối phó với ác ma như thế nào? Ngoại đạo dụ dỗ, mê hoặc không ǵ chẳng ngoài tài, sắc, lợi, hại. Đồng thời đối với bản thân chúng ta, thậm chí đối với đồ chúng của chúng ta, cũng là đây kia đều bất an. Ngoại đạo ganh tỵ đối với chánh đạo của đức Phật. Hiện thời, không chỉ là ngoại đạo ganh tỵ, mà là đệ tử Phật cũng đang ghen tỵ lẫn nhau. Do vậy, tứ chúng đệ tử chúng ta phải tán thán lẫn nhau, chớ nên công kích lẫn nhau, hay hủy báng lẫn nhau. Như vậy là không nên!

          Họ lừa gạt quư vị, mời quư vị làm khách, quư vị phải cẩn thận, họ bỏ thuốc độc trong đó. Hoặc là đào hầm bẫy, tức bẫy rập để bắt dă thú. Mọi người nếu đến vùng núi sẽ biết. Như khi tôi ở miền Đông Bắc [Trung Hoa], họ sắp đi vào núi, dặn ḍ quư vị, đi đường phải cẩn thận: “Ngươi thấy con đường này, thật ra, phía dưới là hầm bẫy, phía trên phủ cỏ. Dă thú chạy lên đó, sẽ sụp bẫy”. C̣n có bẫy treo trên cây, dùng những sợi thừng to thô trói lại. Nếu quư vị giẫm phải, sẽ bị bắn trúng, hoặc treo ngược lên. Sau đó, sẽ có người tới bắt. Đấy là cách bẫy dă thú. Có người đi lầm vào chỗ gài bẫy dă thú ấy, đại đa số là chỗ núi rừng rất hiếm người lui tới. Kinh Địa Tạng có nói: Nếu quư vị hoặc v́ có việc, chẳng thể nào không tiến vào rừng núi, sợ chuốc phải nguy hiểm, hăy niệm thánh hiệu của ta cho nhiều. Đó là trường hợp hăm nhập loại nguy nan này.

          Hoặc là họ mời mọc quư vị, trải giường ṭa, đối với quư vị [giả vờ] rất cung kính, rất kính phục. “Hoặc thôi sơn thạch, hoặc phóng cuồng tượng” (hoặc đẩy núi đá, hoặc thả voi cuồng): Tại Ấn Độ, c̣n có voi cuồng; ở nơi đây (Trung Hoa) chẳng có. Có đôi khi họ cho voi uống rượu khiến nó điên cuồng. Voi giẫm đạp quư vị, dùng ṿi cuốn quư vị ném đi. Hoặc là dùng vũ khí, rút gươm, giương súng bức bách quư vị. “Tán bộn trần uế” (vung rải bụi nhơ) tức là vu hăm quư vị, dùng những lời lẽ vu cáo, hăm hại, tung tin đồn có hại. Quư vị rơ ràng là thanh tịnh, họ liền tung rải tin đồn.       

          “Báng hành dâm dục”: Hủy báng quư vị phá giới. Hoặc là hủy hoại quư vị, hoài nghi quư vị chẳng phải là nam nhân. Trong Phật giáo, có năm loại “bất nam”, chẳng phải nam mà cũng chẳng phải nữ. Nêu một thí dụ, như thái giám chẳng phải là nam nhân, đó là một loại. Trong giới luật của kinh Phật, có nói năm loại bất nam[4]. Họ hoặc là nửa nam nửa nữ: Ở với nam nhân, họ là nữ. Ở chung với nữ nhân, họ là nam. Loại này gọi là Biến Bất Nam. Chẳng thể thâu nhận hạng người như vậy xuất gia. Họ hủy báng người ấy, thấy người ấy có đạo đức, đồ chúng quy y rất đông, liền hủy báng người ấy, nói người ấy chẳng phải là người, mà là quỷ biến hiện, đừng nên tin người ấy. Đấy đều là ngôn từ hủy báng.

 

          (Kinh) Ư Phật, Pháp, Tăng, diệc khởi vô lượng chủng chủng phỉ báng, mạ lỵ, hủy nhục. Ư ngă cận trụ Thanh Văn đệ tử, tật đố nhân duyên, khởi chư hủy báng. Như Lai tri dĩ, thiện thủ lục căn, y tứ phạm trụ, cụ tứ biện tài, vị chư Thanh Văn, tuyên thuyết pháp yếu, an lập thanh tịnh tam giải thoát môn, ngă dĩ như thị thế, xuất thế gian, tri chư tánh trí, như thật liễu tri nhất thiết chúng sanh chủng chủng vô lượng chư tánh sai biệt, tùy kỳ sở ưng, vị tác nhiêu ích.

          ()於佛法僧亦起無量種種誹謗罵詈毀辱,於我近住聲聞弟子嫉妒因緣起諸譭謗。如來知已,善守六根,依四梵住,具四辯才,為諸聲聞宣說法要,安立清淨三解脫門。我以如是世出世間知諸性智,如實了知一切眾生,種種無量諸性差別,隨其所應,為作饒益。

          (Kinh: Đối với Phật, Pháp, Tăng, cũng dấy lên vô lượng các thứ phỉ báng, chửi bới, hủy nhục. Đối với các đệ tử Thanh Văn cận trụ của ta, v́ nhân duyên ganh ghét, dấy lên các thứ hủy báng. Như Lai đă biết, bèn khéo giữ ǵn sáu căn, nương vào bốn phạm trụ, trọn đủ bốn món biện tài, v́ các Thanh Văn tuyên nói pháp yếu, an lập ba môn giải thoát thanh tịnh. Ta dùng trí biết các tánh thế gian và xuất thế gian như thế, đúng như thật biết rơ vô lượng các loại tánh sai biệt của hết thảy các chúng sanh, tùy theo lẽ đáng nên mà tạo lợi ích cho họ).

 

          Tiếp đó, đều là ngôn từ hủy báng. Dùng đủ loại ác sự hủy báng quư vị, hủy báng ǵ vậy? Hủy báng Phật, Pháp, Tăng. Rơ ràng là chánh pháp, họ nói đấy chẳng phải là chánh pháp, [pháp của họ] mới là chánh pháp. Hoặc quư vị tŕ giới, tŕ giới thanh tịnh, họ bày ra đủ tṛ gây khó dễ, thậm chí hủy báng quư vị, khiến cho quư vị chẳng thể sống yên nổi. T́nh h́nh kiểu ấy, trong chốn chùa miếu cũng có, tứ chúng đệ tử đều có. Chúng ta phải có trí huệ, phải nhận biết hạng người ấy. Nói rộng hơn, [sẽ là] vô lượng các loại hủy báng, chửi bới, hủy nhục. Đó là nói rộng. Hoặc là đối với các vị đệ tử Thanh Văn cận trụ của ta, “cận trụ” (近住) là ở bên cạnh đức Phật, tức là Tăng chúng gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị ở cạnh đức Phật. Do nhân duyên ganh tỵ, v́ họ sanh ḷng ganh tỵ, bèn sanh khởi hủy báng. Đây là chuyện chỉ có khi đức Phật tại thế, những vị ở cạnh đức Phật được gọi là “cận sự đệ tử”. Đức Phật nhập Niết Bàn th́ chẳng có nữa. Chùa lớn có của cải rất lớn, thấy nhà chùa giàu có, họ cũng sanh khởi hủy báng, chuyện này rất nhiều. Đức Phật răn nhắc chúng ta hăy khéo bảo vệ sáu căn, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư. Khéo ǵn giữ sáu căn, cũng là “pḥng ư như thành” (ngăn ngừa ư như giữ thành tŕ), đặc biệt là ư thức, giống như là đắp tường thành để pḥng bị nó, v́ nó (ư thức) sẽ tùy thời, chẳng thuận theo quy củ, tùy thời phạm sai lầm.    

          “Y Tứ Phạm Trụ” (nương cậy Tứ Phạm Trụ): Tứ Phạm Trụ là thanh tịnh. Thanh tịnh là nói đến điều ǵ vậy? Tức là TVô Lượng Tâm, từ, bi, hỷ, xả. Y từ, bi, hỷ, xả mà trụ. Phải trọn đủ bốn thứ biện tài. Có biện tài th́ mới có thể bảo vệ Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo thanh tịnh, biện luận cùng ngoại đạo. Khi các vị Ca Diếp Ma Đằng (Kāśyapa Mātaṇga) và Trúc Pháp Lan (Dharmaratna) vào Trung Hoa truyền pháp, Đạo giáo biện luận cùng họ, nói [Phật pháp] là tà pháp, [bởi lẽ], chủng tộc bất đồng, quốc độ bất đồng. Họ tới Trung Hoa hoằng pháp, sẽ là tà đạo. Hoàng đế nói “cũng chẳng có cách nào, bèn đem kinh sách do Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Luân đem đến, đặt trên một cái đài, đem kinh sách Đạo giáo đặt trên đài khác, châm lửa đốt. Kinh điển Đạo giáo đều bị thiêu hủy. Kinh do Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan mang đến thuở ấy là Tứ Thập Nhị Chương Kinh. Kinh Tứ Thập Nhị Chương tỏa quang minh, chẳng bị thiêu hủy. Khi ấy, mới kiến lập chùa miếu.

          Tứ Biện Tài là biện tài vô ngại, pháp vô ngại, ư vô ngại, và từ vô ngại. Tư cách của một vị pháp sư chân chánh là trọn đủ Tứ Vô Ngại Biện. Một vị thánh tăng thật sự nếu chẳng có ngữ ngôn tam-muội, hoằng pháp sẽ chẳng thể đạt được lợi ích rộng lớn, chẳng thể gọi là bậc pháp sư toàn tài được. Khi đó, các vị đại đức Ấn Độ tới Trung Hoa chẳng bao lâu, bèn học hiểu tiếng Hoa, học thông suốt ngôn ngữ, văn tự, đạt được phương tiện lợi sanh. Như chúng tôi rất đáng hổ thẹn, chẳng có trí huệ ấy. Tới quốc độ của người khác, chẳng hiểu ngôn ngữ, chẳng biết phong tục và tập quán của người ta, làm sao phiên dịch kinh sách cho được? Một vị đại đức hay đại pháp sư thật sự, ắt cần phải có hạnh thanh tịnh, từ, bi, hỷ, xả trọn đủ, pháp, ư, từ, biện tài ắt cần phải trọn đủ, khéo thuyết pháp cho người khác. Đức Phật chỉ dạy đệ tử, biết các nhân duyên trên đây, tức là các thứ hủy báng đă nói trên đây. Ngài răn dạy đệ tử hăy khéo bảo vệ sáu căn, siêng năng chuyên ṛng, đừng buông lung, hăy nên nương vào Tứ Niệm Xứ để trụ, thường nghĩ đến vô thường, nghĩ đến vô ngă, nghĩ đến khổ. Tuyên nói pháp yếu như vậy cho các vị Thanh Văn, an lập ba môn giải thoát thanh tịnh.

          Đức Phật đă biết các thứ ngoại đạo hủy báng như trên, liền răn dạy các đệ tử hăy khéo bảo vệ sáu căn, giữ ǵn các căn môn cẩn thận. “Căn môn (根門) tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư, phải chiếu theo từ, bi, hỷ, xả để trụ, phải học tập trọn đủ bốn loại biện tài. Đức Phật v́ các đệ tử, các vị Thanh Văn, tuyên nói pháp yếu. Nói chung, phải an lập ba môn giải thoát. Ba môn giải thoát chính là Không, Vô Tướng, Vô Nguyện. Dưới đây đều là những lời đức Phật dạy.

          “Ngă dĩ như thị thế, xuất thế gian tri chư tánh trí” (ta dùng trí biết các tánh thế gian và xuất thế gian như thế): Ta biết tánh của pháp, biết bản thể của pháp, biết nhân duyên của pháp, biết quả báo của pháp. Có loại trí huệ ấy, sẽ đúng như thật mà biết rơ chúng sanh có vô lượng các thứ tánh sai biệt. Có thể nói tánh ấy là tánh t́nh, mỗi người có tánh t́nh khác nhau. Nói như vậy, hoàn toàn chẳng phải là nói theo “tánh thể” (性體, bản thể của tánh). Tánh thể chẳng có sai biệt. Tánh được nói ở đây sẽ là căn tánh thiện căn của họ, các loại căn tánh thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại. Mỗi người một tánh, cũng có nghĩa là thói quen trong cuộc sống của quư vị. Mỗi người có thói quen sanh hoạt riêng. Có khi họ tin Phật, quy y trở thành đệ tử Phật, vâng theo giới luật của đức Phật đă dạy, cùng sống với Tăng đoàn, hàng phục cá tánh của chính ḿnh, chẳng dám phóng túng. Cùng sống với đại chúng tăng, chính ḿnh đă là đệ tử của đức Phật, chẳng thể tùy hứng, chẳng thể mặc t́nh theo tánh t́nh của cá nhân. Đức Phật biết các thứ cá tánh hoàn toàn bất đồng của hết thảy đệ tử cho đến hết thảy chúng sanh. Đức Phật ứng cơ, [nghĩa là] tùy thuộc quư vị thích ǵ, Ngài sẽ khai ngộ quư vị điều đó, sẽ dựa theo đó để chỉ dạy quư vị. Chúng ta chẳng biết, khi đức Phật giảng kinh, chẳng hạn như kinh Thập Luân, các chúng sanh tương ứng với pháp này sẽ đều tụ hội, đều nhóm đến, đều tán thán, tùy hỷ. Địa Tạng Bồ Tát rốt ráo cảm được pháp hội này bèn đến dự, khi mọi người nhóm họp đông đủ, sẽ ứng theo căn cơ trong hội ấy mà thuyết các thứ pháp.

          Hiện thời, t́nh h́nh thông thường là học một bộ kinh nào, sẽ thỉnh vấn bộ kinh ấy. Giống như chúng tôi ở Mân Nam Phật Học Viện, hoặc Trung Quốc Phật Học Viện, tôi chỉ giảng về Pháp Tướng, chỉ giảng về Ngũ Giáo, chỉ nói về Tứ Đế, những điều khác tôi không nói, căn cứ theo những ǵ họ đang học để cống hiến. Đức Phật hoàn toàn chẳng phải là như vậy, đức Phật căn cứ trên căn cơ: “Quư vị cần ǵ, ta sẽ nói cho quư vị điều ấy”. Hiện thời, trái ngược hẳn, quư vị có phải là căn cơ ấy hay không, tôi mặc kệ, tôi chỉ nói điều này! V́ sao mong sanh vào thời có đức Phật tại thế? V́ dễ dàng khai ngộ, dễ dàng thành đạo, gieo thiện căn, cho nên muốn sanh nhằm thời có Phật xuất thế. Coi như chúng ta thuộc vào tám nạn. Một trong tám nạn là nhằm lúc chẳng có Phật xuất thế, đă sai khác rất nhiều. Lại c̣n có đủ loại tà tri, tà kiến quấy nhiễu, quư vị có thể giải thoát bằng cách nào đây? Chẳng giải thoát được! Cho nên đức Phật có thể đúng như thật mà biết đủ loại tánh của chúng sanh, đủ loại sự khác biệt. “Tùy kỳ sở ưng” (theo lẽ đáng nên), “sở ưng” (所應) là tùy thuận người ấy đáng nên dùng pháp ǵ để có thể đắc độ, đức Phật liền tạo lợi ích cho người ấy, nói cho người ấy nghe pháp đó.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Ngă thành như thị đệ ngũ Phật Luân. Do thử luân cố, dĩ thế, xuất thế tri chư tánh trí, tri chư hữu t́nh Bổ Đặc Già La chủng chủng vô lượng chư tánh sai biệt, tùy kỳ sở ưng, lợi ích, an lạc, đắc an ổn trụ, đắc vô kinh khủng, đắc vô sở úy, tự xưng ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, tồi chư thiên ma, ngoại đạo tà luận, xử đại chúng trung, chánh sư tử hống.

          ()善男子,我成如是第五佛輪。由此輪故,以世出世知諸性智,知諸有情補特伽羅,種種無量諸性差別,隨其所應,利益安樂,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,摧諸天魔外道邪論,處大眾中正師子吼。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật Luân thứ năm như thế. Do v́ luân ấy, dùng trí biết các tánh thế gian và xuất thế gian, biết các tánh sai biệt của vô lượng các hữu t́nh Bổ Đặc Già La, tùy theo lẽ đáng nên, mà lợi ích, yên vui, được trụ nơi an ổn, được không kinh hoảng, được không sợ hăi, tự xưng ta ở nơi địa vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, dẹp tan tà luận của các thiên ma và ngoại đạo, ở trong đại chúng, thực hiện sư tử hống).

 

          “Thiện nam tử! Ngă thành như thị đệ ngũ Phật Luân” (Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật Luân thứ năm như thế): Đây là thành tựu Phật Luân thứ năm. Do Phật Luân này, ta đối với pháp tánh của pháp thế gian và xuất thế gian, cũng đúng như lư mà nói, hoặc nói theo Sự, hoặc dùng giới luật để nói, v́ ta có thể biết rơ pháp thế gian và xuất thế gian, có loại trí huệ ấy để đối đăi các loại Bổ Đặc Già La, tức các loại chúng sanh. Họ có vô lượng căn tánh khác biệt, vô lượng nhu cầu, ta sẽ theo đúng lẽ đáng nên mà lợi ích, an vui họ, khiến cho sau khi được nghe pháp đó, hành theo, sẽ được giải thoát. Dẫu không làm theo, cũng được an ổn. Họ đă hiểu rơ, đă liễu giải, sẽ chẳng sợ hăi, [tự nhủ]: “Hoặc là ta không đến đó, hoặc ta né tránh”. Chúng ta liễu giải đằng trước là nguy hiểm, chẳng cần phải đến đó, quư vị chẳng tránh né ư? Rơ ràng biết là nguy hiểm, lại chẳng thể nào không đi, quư vị sẽ làm như thế nào? Ắt cần phải đi qua lănh thổ một nước, phải đi qua núi, rừng, th́ phải làm sao? Quư vị đă niệm kinh Địa Tạng, sẽ biết là cần niệm Địa Tạng Bồ Tát. Trong phần trên, cũng đă nói rồi: Niệm thánh hiệu Địa Tạng có đủ loại công đức, được trụ trong an ổn. Khi ấy, quư vị mới có thể an ổn, chẳng sợ sệt, chẳng kinh hoảng, chẳng sợ hăi.

          “Tự xưng ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, tồi chư thiên ma, ngoại đạo tà luận, xử đại chúng trung, chánh sư tử hống” (Tự xưng ta thuộc địa vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, dẹp tan tà luận của các thiên ma và ngoại đạo, ở trong đại chúng, thực hiện sư tử hống): Phần này giống như kinh văn trong phần trên. Đối với Thập Luân, trong mỗi luân, kinh văn đều nói như thế.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương, an trí nhất thiết kiên cố thành quách, thôn phường, thú la, quốc ấp, vương cung, quảng thuyết năi chí xá-la, anh vũ, pḥng thủ cụ dĩ, xử tự cung trung, dữ chư quyến thuộc, hậu phi, thái nữ, nhi tự vi nhiễu, du hư ngũ dục, chủng chủng nhạc cụ, phóng tứ lục căn, thọ chư hỷ lạc. Thiện nam tử! Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương, thành tựu như thị đệ lục vương luân. Do thử luân cố, linh tự quốc độ tăng trưởng an lạc, năng phục nhất thiết oán địch, ác hữu, thiện thủ hộ thân, linh tăng thọ mạng.

          ()善男子,如剎帝利灌頂大王,安置一切堅固城郭、村坊、戍邏、國邑、王宮,廣說乃至舍羅、鸚鵡防守具已,處自宮中,與諸眷屬后妃、婇女而自圍繞,遊戲五欲種種樂具,放恣六根受諸喜樂。善男子,剎帝利灌頂大王,成就如是第六王輪。由此輪故,令自國土增長安樂,能伏一切怨敵惡友,善守護身,令增壽命。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi đă được quán đảnh, xếp đặt hết thảy thành quách kiên cố, thôn phường, tuần pḥng nghiêm ngặt, quốc ấp, vương cung, cho đến nói rộng là [xếp đặt các phương tiện báo động] như xá-la, anh vũ. Đă pḥng thủ đầy đủ rồi, bèn ở trong cung của chính ḿnh, cùng với các quyến thuộc, hậu phi, thái nữ vây quanh, vui chơi ngũ dục, các thứ nhạc cụ, buông lỏng sáu căn, hưởng các vui sướng. Này thiện nam tử! Đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi đă được quán đảnh thành tựu vương luân thứ sáu như thế. Do v́ luân ấy, khiến cho quốc độ của chính ḿnh tăng trưởng yên vui, có thể hàng phục hết thảy oán địch và bạn ác, khéo giữ ǵn cái thân, khiến cho thọ mạng tăng trưởng).

 

          Luân thứ sáu và luân thứ năm tương tự. V́ nhà vua đă pḥng hộ tốt đẹp, chuyên môn đề pḥng, ngăn ngừa oán địch. Trong nước đă tốt đẹp, bèn pḥng ngự hải ngoại. Đă có thể thống nhất trong nước, chẳng hai ḷng, mọi người đều nhất trí, chẳng c̣n đấu đá nội bộ. Sau đấy, lại xây dựng thành thị kiên cố, thậm chí các thôn trấn đều có ngăn ngừa, bảo vệ. Điều này giống như trong phần trước [đă nói] “năi chí xá-la, anh vũ”. Đă pḥng thủ kỹ càng, th́ sau đấy trong cung mới có thể vui sướng, mới có thể vui chơi. “Phóng tứ lục căn, thọ chư hỷ lạc” (buông lung sáu căn, hưởng các hỷ lạc). Đấy là một tỷ dụ. Bên ngoài chẳng có thành quách chắc chắn, chẳng có thôn, phường. “Thú la” (戍邏) có nghĩa là tuần tra. Chúng ta biết những người chỉ huy các đội lính pḥng vệ chuyên lo pḥng thủ. “Thú” () có nghĩa là pḥng thủ, “la” () có nghĩa là tuần tra, xem có kẻ trộm cắp hay không. Cho đến vương cung, quốc ấp, “ấp” () có nghĩa là đô thị hay thành thị, hoặc là thôn trấn. “Vương cung” là chỗ nhà vua ở. [Các nơi ấy] đều phải pḥng thủ kỹ càng, cũng tức là đảm bảo rất an toàn. Sau đấy, mới có thể hưởng thụ, mới có thể vui sướng. “Thọ chư hỷ lạc” (hưởng các vui sướng), ta thích nghe âm nhạc bèn nghe. Đấy là vua quán đảnh thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi thành tựu vương luân thứ sáu.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như thị Như Lai, dữ chư Bồ Tát Ma Ha Tát chúng, cập đại Thanh Văn, an trí nhất thiết kiên cố thánh giáo pḥng thủ chi sự, tức tiện hiện nhập tối sơ Tĩnh Lự, năi chí hiện nhập đệ tứ Tĩnh Lự, hiện nhập Vô Biên Hư Không Xứ Định, quảng thuyết năi chí hiện nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Định. Như thị năi chí hiện nhập nhất thiết Phật sở hành định. Nhập thử Định dĩ, vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa thiên, long, Dược Xoa, La Sát, Kiện Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già, Bệ Lệ Đa, Tất Xá Giá, Bố Đát Na, Yết Trá Bố Đát Na đẳng, ư chư chúng sanh, thường hoài độc ác, tổn hại chi tâm, vô từ, vô bi, ư hậu thế khổ bất kiến bố úy, nhi bỉ kiến ngă nhập ư nhất thiết Phật sở hành Định, giai ư ngă sở, sanh đại hoan hỷ, khởi tịnh tín tâm. Ư Tam Bảo trung, giai sanh tối thắng hoan hỷ tịnh tín, tôn trọng cung kính, đắc vị tằng hữu. Ư nhất thiết ác, tàm quư phát lộ, thâm tâm hối quá, thệ nguyện vĩnh đoạn. Do thị nhân duyên, nhất sát-na khoảnh, vô lượng vô số chư phiền năo chướng, nghiệp chướng, pháp chướng giai đắc tiêu diệt. Vô lượng vô số phước huệ tư lương giai đắc thành măn, bối ly sanh tử, thú hướng Niết Bàn, hộ tŕ Như Lai vô thượng chánh pháp. Thiện nam tử! Ngă thành như thị đệ lục Phật Luân.

                ()善男子,如是如來,與諸菩薩摩訶薩眾,及大聲聞,安置一切堅固聖教防守之事,即便現入最初靜慮,乃至現入第四靜慮,現入無邊虛空處定,廣說乃至現入非想非非想定,如是乃至現入一切佛所行定。入此定已,無量百千俱胝那庾多天、龍、藥叉、羅剎、健達縛、阿素洛、揭路荼、緊捺洛、莫呼洛伽、薜荔多、畢舍遮布怛那、羯吒布怛那等,於諸眾生常懷毒惡損害之心,無慈無悲,於後世苦不見怖畏,而彼見我入於一切佛所行定,皆於我所生大歡喜,起淨信心,於三寶中皆生最勝歡喜淨信,尊重恭敬得未曾有,於一切惡慚愧發露,深心悔過誓願永斷。由是因緣,一剎那頃,無量無數諸煩惱障、業障、法障皆得銷滅,無量無數福慧、資糧、皆得成滿,背離生死,趣向涅槃,護持如來無上正法。善男子,我成如是第六佛輪。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như Lai và các vị Bồ Tát Ma Ha Tát cùng các đại Thanh Văn cũng như vậy, sắp đặt hết thảy các sự pḥng thủ bằng thánh giáo kiên cố, liền thị hiện nhập môn Tĩnh Lự tối sơ, cho đến thị hiện nhập môn Tĩnh Lự thứ tư, thị hiện nhập Vô Biên Hư Không Xứ Định, nói rộng là cho đến thị hiện nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Định. Như thế cho đến thị hiện nhập hết thảy các môn Định do Phật đă hành. Đă nhập môn Định ấy rồi, vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa trời, rồng, Dược Xoa, La Sát, Kiện Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già, Bệ Lệ Đa, Tất Xá Giá, Bố Đát Na, Yết Trá Bố Đát Na v.v… đối với các chúng sanh thường ôm ḷng độc ác, tổn hại, chẳng từ, chẳng bi, đối với sự khổ trong đời sau chẳng thấy sợ hăi, nhưng họ thấy ta nhập trong hết thảy các môn Định do Phật đă hành, bèn đối với ta sanh ḷng hoan hỷ to lớn, khởi tín tâm trong sạch. Đối với Tam Bảo, đều sanh ḷng tin thanh tịnh, hoan hỷ tối thắng, tôn trọng, cung kính, đạt được điều chưa từng có. Đối với hết thảy các điều ác, đều hổ thẹn, bày tỏ, thâm tâm hối lỗi, thệ nguyện vĩnh viễn đoạn trừ. Do nhân duyên ấy, trong khoảng một sát-na, vô lượng vô số các phiền năo chướng, nghiệp chướng, pháp chướng đều được tiêu diệt. Vô lượng vô số tư lương phước huệ đều được thành tựu viên măn, trái ĺa sanh tử, tiến hướng Niết Bàn, hộ tŕ chánh pháp vô thượng của Như Lai. Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật Luân thứ sáu như thế đó).

         

          Tĩnh Lự (靜慮): Có bốn loại Tĩnh Lự. Bốn Tĩnh Lự là ǵ? Chính là bốn loại Thiền Định. Dùng Tứ Thiền để đối trị Hoặc (, phiền năo) của quư vị. Có công phu Định ấy, thậm chí có thể pḥng ngừa Hoặc nhiễm. Đấy là Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, và Tứ Thiền trong Sắc Giới. V́ thế, lại gọi là Sắc Giới Định. Tĩnh Lự là thẩm lự (審慮, suy xét), đúng như thật biết rơ cảnh tánh của tâm ư. Định là trụ chắc nơi một loại cảnh tánh, cũng là quán tâm định trụ trong một loại cảnh tánh.

          Người có thể thâm nhập [môn Thiền Định ấy], sau khi đă có thể ĺa khỏi Dục Giới, cảm nhận có thể tương ứng với sự quán tưởng Sắc Giới. Trong quá tŕnh tu Định, ba món Thiền đầu (Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền) là những bậc thang phương tiện, là các hoạt động trong tâm dần dần phát triển, h́nh thành thế giới tinh thần. Tiến nhập đệ tứ Thiền mới là Thiền Định chân thật. Đấy là nói về Sơ Quả thánh nhân, Nhị Quả thánh nhân, và Tam Quả thánh nhân. Sơ Quả thánh nhân trong quá tŕnh sanh thiên, đă sanh thiên xong, lại trở vào nhân gian. Sơ Quả thánh nhân c̣n phải bảy lượt sanh vào nhân gian. Nhị Quả thánh nhân phải một lần trở lại nhân gian. Bậc Tam Quả chẳng trở lại [nhân gian], luôn ở trên cơi trời, luôn trụ trong Tứ Thiền Thiên. V́ các Ngài tu loại Định này, dần dần có thể thành tựu, đoạn dứt Kiến Hoặc phiền năo, đoạn dứt Tư Hoặc phiền năo, dần dần đoạn sạch Kiến Hoặc phiền năo, mà cũng đoạn trừ Tư Hoặc phiền năo, sẽ chứng đắc quả A La Hán. Sơ Thiền Ly Sanh Hỷ Lạc Địa, ĺa khỏi Tầm và Tứ.

          Loại Thiền thứ hai là do Định sanh khởi, phiền năo trong nội tâm người ấy bèn thanh tịnh. Chẳng như chúng ta, hễ nội tâm sanh khởi phiền năo, liền cảm thấy trong tâm rất bứt rứt, nội hỏa bốc lên rất to. Khi đó, vị ấy [trong tâm] chẳng có ǵ, Kiến Hoặc nội tại đă đoạn. Lại c̣n có thể đoạn Tư Hoặc. Đạt tới Tam Thiền Thiên, dần dần sanh khởi Định, sanh khởi cảm giác hỷ lạc. Đă đạt tới Tam Thiền Thiên, bèn ly hỷ, [tức là] Tam Thiền Thiên ĺa khỏi hỷ (sự hoan hỷ) đo Định sanh ra. Đó cũng là thô lạc biến thành tế lạc, cho nên gọi là Diệu Lạc Địa. Khi ấy, sanh ra chánh tri, chánh kiến. Tứ Thiền Thiên là Xả Niệm Thanh Tịnh Địa (địa vị thanh tịnh, xả trừ ư niệm), đều là địa vị sau thù thắng hơn địa vị trước. Cơi trời phía sau không chỉ xả trừ những điều [hành giả] đă xả trừ khi chứng đắc trong cơi trời trước, mà c̣n tiến cao hơn một bước là xả trừ [những cảnh giới] trong cơi trời trước. Giống như chúng ta tu đạo, khi tu Định, quư vị tiến thêm một bước, đă chẳng c̣n thấy phiền năo, đă hàng phục thô Hoặc. Nếu tu Sổ Tức Quán, quư vị sẽ cảm thấy hơi thở ra rất thô, cho đến khi rất tĩnh, chẳng c̣n duyên niệm theo cảnh giới đă tu khi hơi thở c̣n thô tháp. Đấy là tiến nhập cảnh giới tế, cũng là giai đoạn sau thù thắng hơn giai đoạn trước. Khi đă có tiến bộ trong giai đoạn sau, có thể bỏ qua các điều thuộc giai đoạn trước, chẳng c̣n duyên niệm những điều trước đó nữa!

          Chúng ta thường nói “đă vượt sông, chẳng cần thuyền nữa”. Chớ nên duyên niệm những sự vật trước đó, hăy bỏ đi! Sau đó, học pháp. Đă học thâm nhập rồi, nếu đă đắc Định, quư vị chẳng bắt buộc phải xem văn tự, cũng không cần phải cầm kinh bổn để niệm nữa. Quư vị có thể nhất tâm tu Định. Trong khi tu hành, nhất định là sẽ có loại cảnh giới này. Sau khi đă đắc loại Định này, quư vị mới có thể hàng phục Hoặc, đối với sự dẫn dụ từ cảnh giới bên ngoài cũng thế, mà đối với [những thứ phiền năo] sanh khởi trong nội tâm cũng thế, quư vị đều hàng phục được. Nếu chẳng có Định lực, quư vị sẽ chẳng thể hàng phục được. Sau bốn thứ Tĩnh Lự, tiếp đó, kinh văn nói đến chuyện nhập Vô Biên Hư Không Xứ Định, cho đến hiện nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định. Những điều ấy được gọi là Tứ Thiền Tứ Không Định, tức là Không Vô Biên Xứ Định, Thức Vô Biên Xứ Định, Vô Sở Hữu Xứ Định, và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định; đó là Tứ Không Định. Cho đến thị hiện nhập hết thảy các môn Định do Phật đă hành, từng bước đều có rất nhiều công sức.

          Sau khi đă nhập Định, có thể ngăn ngừa hết thảy thiên ma và ngoại đạo, chúng sẽ chẳng thể quấy nhiễu quư vị. Ngăn ngừa ǵ vậy? “Định như thành” (Định như ṭa thành). “Kiên cố” là thành quách, thôn phường kiên cố. Đấy là nói sau khi đă nhập Định, quư vị sẽ thành đạo. Đối với nội tặc và ngoại tặc, thảy đều có thể hàng phục, chẳng bị kẻ giặc năo hại. Kế đó, [chánh kinh] nêu ra vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa, tức là nói “ức triệu”, trời, rồng, Dược Xoa, La Sát, Kiện Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già nhiều ngần ấy. Đấy là bát bộ quỷ thần chúng.

          Sau đó toàn là quỷ, Bệ Lệ Đa, Tất Xá Giá, Bố Đát Na, Yết Trá Bố Đát Na v.v… tổng cộng mười hai loại. Những loài quỷ ấy có thiện và ác. Có đôi khi họ là hộ pháp, có khi là loài ác, thường ôm ḷng độc ác và tổn hại, chẳng có tâm từ bi. Do hành giả đắc bốn loại Tĩnh Lự, nhập Tứ Thiền Bát Định, cho đến Cửu Thứ Đệ Định, thậm chí nhập hết thảy các môn Định của Phật như Thủ Lăng Nghiêm Định, các quỷ thần sẽ chẳng thể năo hại người tu hành. Các quỷ thần trông thấy người tu hành và các bậc thánh hiền tu các môn Định do Phật đă hành, không chỉ chẳng năo hại, mà c̣n sanh khởi tâm hoan hỷ, sanh khởi tâm tịnh tín. Tịnh tín chẳng dễ sanh khởi; đấy là tín tâm thanh tịnh. Khi đó, các quỷ thần ấy đối với Tam Bảo Phật Pháp Tăng, sẽ sanh khởi tịnh tín hoan lạc tối thắng.

          Nếu chúng ta sanh khởi tịnh tín đối với Tam Bảo, sẽ chẳng xen tạp bất cứ danh văn ǵ nữa, chẳng màng đến quan hệ lợi hại. Quan hệ lợi hại là ǵ? Nếu sanh bệnh, quư vị mong cầu hết bệnh. Đó gọi là quan hệ lợi hại. Hiện thời, quá khốn khó, túng quẫn, quư vị mong cầu những thứ cần dùng cho cuộc sống sung túc đôi chút, cầu Phật, Bồ Tát gia tŕ. Cho đến đối với những việc kinh doanh, đều gọi là quan hệ lợi hại, chẳng gọi là “tịnh tín”. Đấy là có mong cầu. “Tịnh tín” là chẳng mong cầu, nhưng chúng ta phát Bồ Đề tâm cầu Phật, có tính là mong cầu hay không? Đó là thuận chánh đạo, là tâm thanh tịnh, chẳng thể so sánh với pháp thế gian. Nhất định phải liễu giải. Sau khi đă liễu giải, nhất định phải hiểu rơ ràng. Đă hiểu rơ ràng rồi, khi quư vị cầu, sẽ có hai loại nguyện. Phát nguyện là tốt nhất. Niệm phẩm Tịnh Hạnh, [quư vị sẽ thấy] tổng cộng có một trăm bốn mươi mốt loại nguyện, nhưng tổng kết lại, vẫn chỉ là hai nguyện: Độ chúng sanh và cầu thành Phật, thậm chí làm cho hết thảy chúng sanh đều thành Phật. Khi phát nguyện ấy, sẽ là thanh tịnh. V́ quư vị mong cái tâm của quư vị biến thành Phật tâm, đồng thời, mong phục hồi diện mạo sẵn có của chúng sanh, lại c̣n thanh tịnh Phật Tánh vốn có của họ. Đó gọi là tịnh tín.

          Do vậy, nhất định phải phân định rơ ràng tịnh tín và nhiễm ô tín. Thế nhưng, chúng ta mới vào Phật môn, gặp phải kẻ bất tín th́ làm như thế nào? Quư vị phải khuyên nhủ họ: “Tin Phật sẽ có lợi ích, trong nhà sẽ có thể b́nh an”. Quư vị chẳng thể lập tức kỳ vọng cao sâu quá mức, họ chẳng tiến nhập được! Trước hết, dùng dục để lôi kéo, dần dần khiến cho họ nhập Phật đạo. Thoạt đầu, dùng những điều họ ưa thích nhất, cần thiết cấp bách nhất, quư vị nói với họ, họ sẽ thích chí, tin tưởng. Có gia tŕ hay không? Có gia tŕ. Sau khi được gia tŕ, sẽ làm cho họ dần dần sanh khởi tín tâm thanh tịnh hoan hỷ tối thắng, khiến cho họ sanh ḷng cung kính đối với Tam Bảo th́ mới có thể đoạn hết thảy ác, đoạn dần dần, chính họ mới nhận biết. Sau khi đă biết, sẽ hổ thẹn, biết phát lộ sám hối. Đă biết hối cải, cho nên ắt cần phải trọn đủ thân tâm, tịnh tín tâm, th́ mới có thể thệ nguyện vĩnh viễn đoạn dứt phiền năo.

          Trong Phật Luân thứ sáu, đức Phật dạy: Khiến cho đệ tử của ta đều phải nên tu tập các pháp môn thuộc về Định, nhập Tứ Thiền Bát Định, cho đến hết thảy các môn Định của Như Lai. Đấy là pḥng ngừa, ngăn trở kẻ giặc bên ngoài quấy nhiễu và kẻ trộm bên trong trộm cắp. Cướp nhà khó pḥng! Hăy nhớ cổ nhân đă bảo: “Sơn tặc dị pḥng, gia tặc nan pḥng” (giặc trên núi dễ ngừa, giặc trong nhà khó ngừa). [Đề pḥng] kẻ trộm bên ngoài th́ dễ, quư vị chú ư cẩn thận là được, chứ gia tặc (家賊, kẻ giặc trong nhà), quư vị sẽ chẳng thể lo toan xuể. Giặc trong nhà ḿnh rất khó đề pḥng! Chúng ta có thể chế phục tướng cảnh giới bên ngoài ngay lập tức, hoặc chẳng dính líu đến, chẳng tham gia. Nếu căn cơ của chính ḿnh chẳng dầy, rất dễ bị tiêm nhiễm. Trà đ́nh, tửu quán ta chẳng đến đó là được, chẳng đến pḥng khiêu vũ là được. Những nơi chốn nào đừng nên tới, ta không tới là được rồi. Đă thọ Bát Quan Trai Giới, [giới luật] chẳng chấp thuận quư vị đến các chỗ ấy. Điều ấy mang ư nghĩa “pḥng hộ”. Đức Phật đă pḥng hộ quư vị tốt đẹp, cho nên mới có thể tiêu trừ phiền năo của quư vị.

          Do nhân duyên này, vô lượng vô số các phiền năo chướng, nghiệp chướng, và pháp chướng đều được tiêu diệt, hết thảy nhân duyên chướng đạo đều bị tiêu diệt, nhân duyên của thánh đạo tăng trưởng, vô lượng vô số tư lương phước huệ đều viên măn. Như thế th́ sẽ trái nghịch sanh tử, rời ĺa sanh tử, gần với Niết Bàn, tiến hướng bất sanh, bất diệt. Sanh tử là sanh diệt. Có sanh, ắt có tử; đấy là quy luật tất nhiên. Chúng ta đều sợ chết, chẳng biết so sánh giữa lúc sanh và lúc tử th́ cũng đau khổ chẳng khác nhau cho mấy! Quỷ sợ đầu thai, người sợ chết! Quỷ có thần thông, họ biết trụ thai, thọ thai, sanh ra, các thứ đau khổ khôn ngằn. Quỷ sợ siêu sanh, chẳng mong siêu sanh, làm quỷ tốt hơn. Quỷ cũng mong làm quỷ lâu dài.

          Cùng một đạo lư, con người sợ chết, chẳng muốn chết. Quỷ cũng sợ chết, sợ chết th́ mới biết chết rồi sẽ phải sanh. Con người đối với nỗi đau khổ chết chóc, chỉ biết sẽ biệt ly, chia ĺa với người thân yêu của chính ḿnh, vĩnh viễn biệt ly. Tài vật và nhà cửa do chính ḿnh suốt đời gây tạo, thứ ǵ cũng chẳng đem theo được. Tới [thế gian này] như thế nào, sẽ ra đi như thế ấy! Khi sanh ra, thứ ǵ cũng chẳng cầm đến được. Từ trong bụng mẹ sanh ra, trần trùng trục, thứ ǵ cũng đều chẳng có. Khi quư vị chết đi, mặc vào một thân áo liệm, hỏa thiêu xong, thứ ǵ cũng đều chẳng c̣n, ngay cả bă xương cũng chẳng có. Đó gọi là trái ĺa sanh tử, phải hiểu đạo lư này. Quư vị mong cầu bất tử ư? Chứng Niết Bàn sẽ bất tử, Niết Bàn là bất sanh, bất diệt.

          Chắc là có kẻ bảo: “Ngươi nói sai rồi! Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng phải là cũng chết đó thôi!” Chẳng phải là Ngài cũng thọ sanh ư? Hễ thọ sanh th́ nhục thể nhất định phải chết. Đó gọi là “bất sanh, bất tử”, nhưng quư vị ngỡ là Ngài phải thọ sanh tử. Thật ra, Ngài hóa hiện. Cho đến khi quư vị thành đạo, sẽ biết là Ngài hóa hiện. Hiện thời cũng là hóa hiện. Nhục thể này do Thất Đại, tức địa, thủy, hỏa, phong, không, căn, và thức hợp thành, căn bản là chẳng có. Nếu là chân thật, đương nhiên sẽ bất diệt. Do chẳng chân thật, cho nên sẽ huyễn diệt.

          “Hộ tŕ Như Lai vô thượng chánh pháp” (hộ tŕ chánh pháp vô thượng của Như Lai): Tám bộ quỷ thần thấy đức Phật tu các môn Định ấy, sanh khởi tâm hoan hỷ to lớn, sanh khởi tịnh tín hoan hỷ đối với Tam Bảo, đạt được điều chưa từng có, chẳng c̣n làm hết thảy các điều ác nữa, cho đến hổ thẹn, phát lộ sám hối những điều đă trót làm trong quá khứ, thâm tâm hối cải hết thảy lỗi ác, vô lượng phước huệ đều được tăng trưởng, tiến hướng Niết Bàn. Sau đó, không chỉ là chẳng năo hại chúng sanh, mà sẽ c̣n hộ tŕ Tam Bảo, hộ tŕ chúng sanh. Ngay cả quỷ cũng đều phát nguyện: Người nào tu đạo, họ sẽ liền bảo vệ!

          V́ sao chúng ta phải hộ tŕ Tam Bảo? Nếu có các thiện quỷ thần, [nếu như họ thấy chúng ta] tụng kinh, hoặc làm Phật sự, họ sẽ hộ tŕ chúng ta, chúng ta phải gia tŕ họ. Họ cầu phước huệ nơi chúng ta. Do vậy, chúng ta làm rất nhiều chuyện, ắt cần phải thành tâm, tịnh khiết, thậm chí tiến vào Phật đường, phải cung kính. Đấy đều là đối ứng với quỷ thần. Nếu chúng ta làm sai, quỷ thần sẽ có tâm sân hận, Phật, Bồ Tát từ bi, chẳng quở trách quư vị, biết quư vị nghiệp nặng, do theo nghiệp lưu chuyển mà biểu hiện bất đồng. Quỷ thần chẳng như vậy. Do vậy, chúng ta có rất nhiều giới luật nhằm pḥng hộ tâm tham, ngăn ngừa sân tâm dấy lên. Đấy là Phật Luân thứ sáu.

 

          (Kinh) Do thử luân cố, Như Lai du hư Tĩnh Lự giải thoát, đẳng tŕ, đẳng chí, vô lượng bách thiên vi diệu thâm định, dĩ tịnh trí tùy chuyển diệt chư hữu t́nh vô lượng phiền năo, tùy kỳ sở ưng, lợi ích, an lạc, đắc an ổn trụ, đắc vô kinh khủng, đắc vô sở úy, tự xưng ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, tồi chư thiên ma, ngoại đạo tà luận, xử đại chúng trung, chánh sư tử hống.

          ()由此輪故,如來遊戲靜慮解脫、等持等至、無量百千微妙深定,以淨智隨轉,滅諸有情無量煩惱,隨其所應,利益安樂,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,摧諸天魔外道邪論,處大眾中正師子吼

          (Kinh: Do v́ luân ấy, Như Lai vui chơi nơi Tĩnh Lự, giải thoát, đẳng tŕ, đẳng chí[5], vô lượng trăm ngàn môn Định sâu vi diệu, dùng tịnh trí để chuyển đổi, diệt trừ vô lượng phiền năo cho các hữu t́nh. Theo lẽ đáng nên mà lợi ích, an lạc, trụ trong an ổn, được chẳng kinh hoảng, được chẳng sợ hăi, tự xưng ta ở nơi địa vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, dẹp tan tà luận của các thiên ma và ngoại đạo, ở trong đại chúng, thực hiện sư tử hống).

 

          Những điều này giống như trong phần trước, chẳng cần phải nói nữa.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương, dữ chư quần thần, lănh tứ binh chúng, châu tuần quán sát nhất thiết tự quốc thành, ấp, tụ lạc, sơn, xuyên, khê, giản, viên uyển, điền trạch, pha, hà, tŕ chiểu, khoáng dă, tùng lâm, trấn la đẳng xứ. Tùy bỉ sở tại, quốc giới chư phương hiểm trở đa nạn, bất nhậm doanh lư, hữu nghi, hữu bố, kham dung ngoại cảnh oán địch, ác hữu đầu thoán, tàng phục, thử Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương, tùy kỳ lực năng, phương tiện an trí chủng chủng tu lư kiên cố pḥng thủ, linh bỉ chư phương, b́nh thản, vô nạn, kham nhậm doanh lư, vô nghi, vô bố, giá kỳ ngoại cảnh oán địch, ác hữu đầu thoán, tàng phục, an phủ tự quốc nhất thiết nhân dân, giai ly chúng khổ, thọ chư khoái lạc. Thiện nam tử! Sát-đế-lợi chủng quán đảnh đại vương, thành tựu như thị đệ thất vương luân. Do thử luân cố, linh tự quốc độ tăng trưởng an lạc, năng phục nhất thiết oán địch, ác hữu, thiện thủ hộ thân, linh tăng thọ mạng.

          ()善男子,如剎帝利灌頂大王,與諸群臣領四兵眾,周巡觀察一切自國城邑、聚落、山川、溪澗、園苑、田澤、陂河、池沼、曠野、叢林、鎮邏等處。隨彼所在國界諸方險阻多難,不任營理有疑有怖,堪容外境怨敵惡友投竄藏伏;此剎帝利灌頂大王,隨其力能方便安置,種種修理堅固防守,令彼諸方平坦無難,堪任營理無疑無怖,遮其外境怨敵惡友投竄藏伏,安撫自國一切人民皆離眾苦,受諸快樂。善男子,剎帝利種灌頂大王,成就如是第七王輪。由此輪故,令自國土增長安樂,能伏一切怨敵惡友,善守護身,令增壽命。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như đại vương Sát-đế-lợi đă được quán đảnh, cùng với các quần thần, thống lănh bốn loại binh, đi tuần tra trọn khắp, quan sát hết thảy thành, ấp, xóm làng, núi, sông, khe, ng̣i, vườn tược, ruộng, nhà, sườn núi, sông ng̣i, ao, chuôm, đồng hoang, rừng rậm, thị trấn v.v… trong nước ḿnh. Ở bất cứ chỗ nào là chỗ hiểm trở, lắm tai nạn, không thể làm ăn, đáng ngờ, đáng sợ, có thể là chỗ để oán địch nước ngoài và bạn ác ẩn nấp, giấu ḿnh. Vị đại vương Sát-đế-lợi đă được quán đảnh ấy sẽ tùy theo sức ḿnh, dùng phương tiện sắp đặt các thứ sửa chữa, chỉnh đốn, pḥng thủ kiên cố, khiến cho các nơi b́nh thản, chẳng có hoạn nạn, có thể buôn bán, không c̣n nghi ngờ, không có sợ hăi, ngăn chặn bọn oán địch và bạn ác nước ngoài ẩn núp, giấu ḿnh, vỗ yên hết thảy nhân dân trong nước ḿnh đều ĺa các khổ, hưởng các vui sướng. Này thiện nam tử! Đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi đă được quán đảnh thành tựu vương luân thứ bảy như thế. Do v́ luân này, khiến cho cơi nước của chính ḿnh tăng trưởng an vui, có thể hàng phục hết thảy oán địch và bạn ác, khéo thủ hộ cái thân, khiến cho thọ mạng tăng thêm).

 

          Đây là vương luân thứ bảy. Trong phần trước, đă nói bốn loại Thiền Định, tức Tứ Vô Sắc Định. Các danh từ như thế ấy, rất nhiều kinh luận sử dụng giống nhau. Khi quư vị thật sự học tập, sẽ thấu hiểu rất nhiều kinh Phật. Tứ Vô Sắc Định là vượt khỏi sắc tướng, chẳng có sắc để có thể biểu hiện, nên gọi là Vô Sắc. Bốn loại cảnh giới ấy đều là cảnh giới nơi tư tưởng, chẳng phải là hữu h́nh tướng, hữu sắc. Chẳng giống như sáu tầng trời trong Dục Giới và mười tám tầng trời trong Sắc Giới, [Tứ Không Thiên] chẳng có h́nh tướng, do tư duy mà đắc Định. Có thể chứng đắc Vô Sắc Giới Định chính là đă đối trị các thứ trói buộc trong Sắc GiớiDục Giới, tức [đối trị] các thứ trói buộc có h́nh tướng. Nhập loại Định này, sẽ chẳng có trói buộc. Nhờ vào sự tu hành ấy, sẽ có thể hàng phục phiền năo của quư vị. Học Phật pháp là hàng phục phiền năo. Đắc bốn loại Định ấy, cảnh giới tinh thần và diện mạo của người ấy sẽ khác hẳn. Người ấy đang trụ trong Tịch Tĩnh.

          1) Môn Định thứ nhất là Không Vô Biên Xứ. Hư không có ngằn mé ư? Chẳng có! Vô biên. [Đặt tên như vậy] nhằm h́nh dung tâm thức khi nhập môn Định này, sẽ chẳng bị trói buộc bởi hết thảy các môn Định thuộc Tứ Thiền Thiên. tức Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, các môn Định ấy có h́nh thức trói buộc, c̣n môn Không Xứ Định này chẳng có h́nh thức, chẳng có h́nh tướng. Chúng ta có thể tưởng tượng không gian to lớn vô hạn, không cách nào hạn chế. Không gian rốt cuộc lớn cỡ nào? Vô Biên Xứ có nghĩa là “chẳng có hạn chế, chẳng có xứ sở, chẳng có bờ mé, chẳng có h́nh tướng”. Môn Định này vượt cao hơn Tứ Thiền Bát Định trong phần trước. Có kinh luận nói đến loại Định thứ chín, tức là Cửu Thứ Đệ Định, có Tứ Thiền Bát Định. Tứ Không Xứ Định ở đây chính là Tứ Vô Sắc Định. Hiện thời, nếu chú ư hơi thở ra vào, tu tŕ Xuất Nhập Tức, [tức quán tưởng] thở ra, hít vào. Nếu có thể giữ vững đến rốt ráo, quư vị sẽ đều vượt lên cao hơn. Các loại Định này đều nói theo tâm thức, chúng trừ khử chướng ngại của quư vị. Chẳng có chướng ngại. Trong không trung, có chướng ngại hay không? Chẳng có chướng ngại! Đó là Không Xứ Định. Không Vô Biên Xứ Định là Không Xứ Định, có thể diệt trừ chướng ngại của chúng ta. Khi đó, chẳng thể diễn tả: Có khi ngă năng nhập Định, hoặc ngă sở nhập Định, Năng và Sở đều là không, tư tưởng của người ấy (người tu Định) vẫn tác ư. Tác ư chính là Không Xứ của tư tưởng, to lớn vô biên, vô tướng. Chỉ tận cùng hư không, chẳng có tướng ngằn mé, cho nên gọi là Không Vô Biên Xứ Định. Nói theo chúng ta hiện thời mà muốn tu loại Định này th́ c̣n cách biệt rất xa, phải tiến từng bước. Bất quá, cần phải biết thứ tự ấy trước đă.

          2) Loại thứ hai là Thức Xứ Định. Thức ở đây là thức trong “tâm ư thức”. Môn Định này gọi là Thức Xứ Định. Thức ấy lớn vô hạn. Nay chúng ta dùng năm thức trước là Nhăn Thức, Nhĩ Thức, Tỵ Thức, Thiệt Thức, và Thân Thức. Năm thức ấy mang tánh chất cục bộ, hạn chế. Nếu chẳng có ǵ bên ngoài để giúp đỡ, chẳng có Không Đại giúp đỡ, chẳng có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, hoặc đèn giúp đỡ, mắt chúng ta thứ ǵ cũng chẳng thể thấy được. Trong tối tăm, c̣n có thể thấy được chăng? Tai chúng ta chỉ cần bị chướng ngại đôi chút, sẽ chẳng nghe rơ ràng. Thức Vô Biên Xứ là nói quư vị nhập môn Định này, sẽ khác hẳn. Nhập môn Định này, chẳng cậy vào ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, tinh tú giúp đỡ, quư vị vừa tác ư, nhăn căn có thể trông thấy hết thảy. Đại Phạm thiên vương có thể thấy tam thiên đại thiên thế giới. Nhập môn Định này, chẳng phải là rỗng không. [Đừng hiểu lầm]: Nếu là Không định, đă là Không, thứ ǵ cũng chẳng có. Nó chẳng phải là Đoạn Diệt Không. “Nhập môn Định này sẽ giống như rỗng không”, chẳng phải là ư nghĩa ấy! Đây là Thức Xứ Định, Thức cũng to lớn vô hạn, Không cũng to lớn vô hạn; nhưng cái Thức này vẫn có tư duy. Cái Thức tư duy ấy chẳng có tướng biên giới.

          3) Môn Định thứ ba là Vô Sở Hữu Xứ, c̣n gọi là Diệu Xứ Định. Môn Định này vượt cao hơn Thức Vô Biên Xứ Định, nương vào tất cả hết thảy các tướng tư duy của quư vị để an trụ. Diệu Xứ Định là quư vị tư duy đến chỗ nào, sẽ nhập Định nơi đó. Đấy gọi là Diệu Xứ. Quư vị nghĩ đến chỗ nào, nơi đó là chỗ quư vị nhập Định, tùy thuận an trụ, tùy thuận tất cả các tướng của quư vị mà an trụ.

          4) Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ: Môn Định này vượt cao hơn Vô Sở Hữu Xứ Định. Tư duy tướng ấy, nói là có tướng chẳng thể được, mà bảo là không có tướng cũng chẳng thể được! Quư vị tưởng thứ ǵ, có tưởng hay không có tưởng? Có tác ư hay chăng? Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ là cái phi tưởng ấy cũng bị trừ khử, chẳng phải là hư huyễn, mà cũng chẳng phải là rỗng không. Chẳng phải là tưởng, chẳng phải là phi tưởng, mà cũng chẳng là phi phi tưởng; ư nghĩa bao hàm như thế đó. Phi Tưởng tức là chẳng thể coi là có. Nó chẳng cần quư vị chấp trước, tức là diệt trừ tướng chấp trước của quư vị. Sự tư duy ấy chẳng phải là tư duy, chẳng phải là tưởng, chẳng giống như chúng ta dùng lục căn ư thức để tưởng. Chúng ta nghĩ tới sự vật ǵ, nghĩ tưởng sự vật này, nghĩ tưởng sự vật kia, trọn chẳng phải là như vậy. Phi Tưởng chẳng phải là tưởng, mà cũng chẳng phải là vô tưởng. Phi Phi Tưởng chẳng phải là Tưởng đối ứng với Phi Tưởng. Phi Phi Tưởng tức là môn Định này khác với Diệt Tận Định. Diệt Tận Định là môn Định của A La Hán, vị ấy đă diệt sạch Kiến Tư phiền năo. Nhưng khi nhập môn Định này (Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Định), người ấy (người tu môn Định này) hăy c̣n vô minh phiền năo. Môn Định này c̣n có Tư Hoặc phiền năo, [người chứng đắc môn Định này] hoàn toàn chẳng phải là thánh nhân, thế nhưng, chẳng phải là vô tưởng, khác với vô tưởng. Phải giải thích hai câu sau cùng, tức “chẳng phải là vô tưởng, khác với vô tưởng” như thế nào? Phi Tưởng tức là chẳng phải tư duy, không suy nghĩ. Không suy nghĩ th́ giống với Không Tịch, có nghĩa là nó khác với Vô Tưởng Định, chẳng phải hoàn toàn là Không Tịch.

          Tứ Vô Biên Xứ Định, bốn loại cảnh giới ấy đều do tư duy mà đắc Định. Vô Sắc Giới Định để đối trị ǵ vậy? Đối trị trói buộc, tức là đối trị các Hoặc nghiệp trói buộc chúng ta. Nói cách khác, đối với tướng cảnh giới bên ngoài, chúng ta đều có một loại cảm nhận. Bốn môn Định ấy là ĺa khỏi sự cảm nhận, ĺa khỏi sự cảm nhận tướng cảnh giới bên ngoài. Nói cách khác, đắc các môn Định ấy, cái tâm phan duyên của chúng ta sẽ ngưng dứt. V́ sao bốn môn Định này, mỗi môn sau lại tiến bộ hơn môn trước? Nói chung, chúng được gọi là Tứ Vô Sắc Định, tức là các môn Định thuộc vào Vô Sắc Giới. Trong Duy Thức đă nói về chúng rất rơ ràng!

          Trong ấy, có ba loại thần biến. Ba loại thần biến ấy lại là ba thứ chỉ dạy, ba thứ thị hiện, ba thứ giáo hóa. Khi Phật, Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, các Ngài thị hiện “đức, tướng, dụng” của thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ư nghiệp:

          1) Điều thứ nhất là thần thông biến hiện. Bồ Tát thương xót các chúng sanh chịu khổ trong địa ngục, Ngài bèn hiện sức thần thông. Đó gọi là “thần thông biến hiện”. Dùng sức thần thông của Ngài để tiêu diệt núi đao, biển lửa, các loại dụng cụ hành h́nh v.v… trong địa ngục. Khi Ngài dùng sức thần thông để hàng phục các hiện tượng ấy, chúng sanh chịu khổ trong địa ngục có thể siêu sanh, có thể thoát ra, sanh lên trời. Đấy là thần thông biến hiện.

          2) Điều thứ hai là kư thuyết biến hiện (記說變現). Kư thuyết biến hiện cũng là do Bồ Tát thương xót chúng sanh đang chịu khổ trong địa ngục; họ nghĩ nhớ ǵ (đó là Kư), Ngài bèn đến nói cho họ nghe pháp ấy (đó là Thuyết). Bồ Tát có thần thông, thuyết pháp ứng cơ. Trong tâm họ nghĩ ǵ, Phật bèn nói cho họ nghe pháp ấy, khiến cho chúng sanh nương nhờ pháp lực đó, thoát khỏi địa ngục. Nhờ vào sự hàng phục, nhờ vào sức thuyết pháp của Bồ Tát mà từ địa ngục thoát ra, sanh trong cơi trời, người, hưởng thụ vui sướng. Đấy là Tha Tâm Thông của Bồ Tát. Chúng sanh trong địa ngục có thể cảm Bồ Tát tới thuyết pháp, chỉ là cơ hội này quá xa vời! Như thế nào th́ mới có thể cảm thọ được? Trừ phi trong đời này, trước khi đọa địa ngục, quư vị có sức tín ngưỡng thành khẩn đối với đức Địa Tạng, Quán Âm, Phổ Hiền, Văn Thù, hoặc A Di Đà Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật. Lại c̣n do đền trả quả báo của một loại nghiệp. Khi lâm chung, dẫu quư vị chẳng giữ vững chánh niệm, do đền trả quả báo phải đọa địa ngục, nhưng do sức thiện căn của quư vị rất mạnh mẽ, sẽ cảm ứng Phật, Bồ Tát. Các chúng sanh ấy nay đă đọa địa ngục, trong quá khứ họ có nhân duyên nhất định với ta, có tu vi (bản lănh tu hành) nhất định. Như vậy th́ Bồ Tát mới có thể cảm thông với người ấy được. Hoặc là nhờ sức cầu khẩn của lục thân quyến thuộc, thỉnh vị Bồ Tát ấy đến cứu độ. Giống như mẹ của Địa Tạng Bồ Tát, do Ngài cảm vời, bèn có thể sanh lên trời. Như mẹ của tôn giả Mục Kiền Liên đọa làm ngạ quỷ, Ngài muốn dùng sức thần thông cứu mẹ, nhưng không đủ sức. Thức ăn Ngài đưa cho mẹ đều biến thành lửa. Ngài liền cầu đức Phật cứu mẹ. Đức Phật dạy vào ngày hội Vu Lan Bồn, tức ngày Rằm tháng Bảy, hăy cúng dường đại chúng tăng. Nhờ vào sức mạnh của việc cúng dường đại chúng tăng, cậy vào sức mạnh ấy siêu độ mẹ Ngài. Do thí thực cho đại chúng, [mẹ Ngài] sẽ có thức ăn. Loại [thị hiện] này là thần biến, tức thuyết pháp thần biến. Nếu ở trong địa ngục mà vẫn có thể nghe Bồ Tát thuyết pháp, chẳng dễ dàng đâu nhé! So với chúng ta hiện thời đến pháp hội cùng nhau học tập, khó hơn rất nhiều!

          3) Loại thứ ba là giáo giới biến hiện (教誡變現, biến hiện răn dạy), cũng là Bồ Tát phát tâm từ bi, thuyết pháp để răn dạy họ. Nhờ sự răn dạy ấy, được thoát khỏi địa ngục, có thể dẹp trừ tai họa, nhưng chỉ có Bồ Tát đắc Lậu Tận Thông th́ mới có thể đến địa ngục.

          Bồ Tát có ba loại thần biến này, hoặc là chỉ dạy, hoặc là thị hiện, hoặc là giáo hóa, đều rất khó có. Trong kinh văn, đức Phật đă dạy như vậy. Vị quốc vương ấy, hoặc là chánh phủ, đối với quốc giới, phàm là chỗ nào nguy hiểm, bèn nói chỗ ấy có thể biến thành nơi chốn để vui chơi, kiến lập đại đô thị tại chỗ đó. Ở những chỗ ấy, đều pḥng ngừa ngoại địch xâm nhập, lại c̣n ngăn ngừa trộm cướp xâm đoạt. Do vậy, giữ cho ngoại địch chẳng dễ ẩn núp, xâm lược quốc giới của nhà vua, sắp đặt đủ loại tuần tra, pḥng ngừa, xếp đặt đất nước sao cho oán địch và bạn ác chẳng thể ẩn núp trong nước nhà. Đồng thời, khiến cho nhân dân cả nước ấy an cư lạc nghiệp, ĺa các sự bức hại, ĺa các khổ nạn. Vị quốc vương ấy thành tựu vương luân như thế; sau đó, quốc gia của nhà vua tăng trưởng an lạc, cuộc sống được bảo đảm. Đồng thời, oán địch và bạn ác thường chẳng đến xâm lăng, quấy rối, nhân dân an cư lạc nghiệp.

          Người ta nói “tâm quảng thể bàn” (心廣體胖), nghĩa là nếu cái tâm rộng răi hơn, thân thể sẽ mập mạp hơn. Nếu quốc giới rất an định, mọi người chẳng phải lo lắng, bất luận sĩ, nông, công, thương đều rất tốt đẹp. Bất luận quư vị làm ǵ, cái tâm đă an rồi, tự nhiên phước thọ tăng trưởng, chẳng có ưu sầu nữa. Cái gây tổn thương lớn nhất cho thân thể và thọ mạng là ưu sầu. V́ sao phải ưu sầu? Cuộc sống chẳng được bảo đảm, thân thể bị xâm hại, quấy nhiễu. Quư vị thấy quốc gia nào có cuộc sống tốt đẹp hơn một chút, chứng tỏ pháp luật chánh trị của quốc gia ấy có quan tâm, bảo vệ người dân tốt đẹp hơn. Nếu một quốc gia chẳng thể bảo vệ nhân dân trong nước ḿnh, đấy trọn chẳng phải là thiên tai, mà là nhân họa. Kế đó, kinh văn nói về Phật Luân.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như thị Như Lai dĩ kỳ Phật nhăn, như thật liễu tri nhất thiết hữu t́nh Bổ Đặc Già La, hữu tham, hữu sân, hữu si tâm đẳng, như thật liễu tri thị chư hữu t́nh chủng chủng phiền năo bệnh hạnh sai biệt. Như Lai tri dĩ, tiện khởi vô lượng tinh tấn dũng mănh phương tiện, thế lực, tùy kỳ sở nghi, thọ dĩ chủng chủng tu Định diệu dược, linh chư hữu t́nh tinh cần tu học, trừ phiền năo bệnh.

          ()善男子,如是如來以其佛眼,如實了知一切有情補特伽羅,有貪、有瞋、有癡心等;如實了知是諸有情種種煩惱病行差別,如來知已,便起無量精進勇猛方便勢力,隨其所宜,授以種種修定妙藥,令諸有情,精勤修學除煩惱病。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như Lai dùng Phật nhăn như thế, đúng như thật biết rơ hết thảy hữu t́nh Bổ Đặc Già La có các tâm tham, sân, si v.v… đúng như thật biết rơ các hữu t́nh có các thứ bệnh hạnh phiền năo sai khác. Như Lai đă biết, bèn dấy lên vô lượng phương tiện và thế lực tinh tấn, dũng mănh, tùy theo lẽ thích đáng, mà trao cho họ các thứ diệu dược tu Định, dạy các hữu t́nh siêng năng, chuyên ṛng tu học để trừ bệnh phiền năo).

 

          “Thiện nam tử, như thị Như Lai dĩ kỳ Phật nhăn, như thật liễu tri nhất thiết hữu t́nh Bổ Đặc Già La” (Này thiện nam tử! Như Lai dùng Phật nhăn đúng như thật biết rơ hết thảy hữu t́nh Bổ Đặc Già La như thế): Có mười loại Bổ Đặc Già La. Bổ Đặc Già La (Pudgala) là danh từ dùng để chỉ luân hồi thọ sanh.

          Loại thứ nhất là Bổ Đặc Già La chẳng gieo thiện căn. Trong đời quá khứ, hoặc trong đời hiện tại, người ấy chẳng có thiện căn Bồ Đề, mà cũng chẳng hề phát tâm. Không gieo thiện căn th́ sẽ làm ác, chẳng tạo cái nhân thiện sự.

          Loại thứ hai chưa từng tu phước nghiệp, chẳng bố thí cho người khác. Nói cách khác, chẳng hề giúp đỡ người khác, cho đến chẳng hề tiếp cận Phật pháp. Phải tiếp cận Phật pháp th́ mới thọ giới, tŕ giới. Chưa tu phước nghiệp, cũng là tạo nhiều ác hạnh.

          Loại thứ ba là tạp nhiễm liên tục, cũng là các thứ phiền năo như tham, sân, si, Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Thủ Kiến, Kiến Thủ Kiến, và Tà Kiến rất nhiều. Đấy cũng gọi là “chẳng có thiện căn”. Tạp nhiễm tham, sân, si rất nặng, lại c̣n liên tục chẳng dứt, mà cũng là tạo ác nghiệp tham, sân, si chẳng gián đoạn.

          Loại thứ tư là hữu t́nh tùy thuận điều ác. V́ đối với thiện nghiệp và ác nghiệp, họ dường như có tánh chất bất định. Gặp bạn lành, họ sẽ học theo điều lành. Gặp phải bạn ác, họ sẽ làm điều ác. Đây là nói do thiện căn của họ trong quá khứ ít ỏi, chẳng gặp bạn lành. Nếu gặp gỡ bạn lành, họ lại chẳng thể theo bạn lành cùng làm việc thiện. Hiện thời, có rất nhiều người tin Phật và cũng tiếp cận Phật pháp, thậm chí đă thọ Tam Quy. Sau đó, họ lại phạm giới. Phạm giới ǵ vậy? Phạm Tam Quy, v́ quy y tà đạo. Họ chẳng thể thâm nhập chánh đạo. Gặp phải ác hữu, ác tri thức dẫn dắt, bèn tiến hướng tà đạo, đi theo bạn ác.

          Loại thứ năm là kẻ chẳng sợ khổ quả đời sau. Tạo ác nghiệp, kẻ ấy chẳng tin nhân quả, chẳng sợ nhân quả đời sau. Loại chúng sanh này chẳng tin nhân quả. Họ nói: “Chết rồi là kết thúc, c̣n thọ hậu báo chi nữa, thọ hậu hữu chi nữa!” Do vậy, họ chẳng sợ khổ quả trong đời sau. Loại Bổ Đặc Già La này tâm tham dục chẳng chán đủ, đặc biệt mạnh mẽ. Đối với của cải, [ḷng ham muốn] vĩnh viễn chẳng hề có giới hạn. Chúng ta thấy các quốc vương, các quan chức chánh phủ, cho đến các nhà đại tư bản, các tập đoàn tài chánh lớn, họ đều chẳng có chừng hạn. Có mười ức, bèn mong có một trăm ức; có một trăm ức, bèn mơ một ngàn ức! Đem cả quả địa cầu trao cho họ, họ vẫn mong chiếm lấy mặt trời, chiếm luôn mặt trăng trong không trung, vĩnh viễn chẳng thể thỏa măn! Đă làm quốc vương vẫn chưa đủ, vẫn mong làm Chuyển Luân Vương, muốn địa cầu đă tṛn bèn to hơn. Đó là chuyện chẳng thể được. Ḷng tham cầu dữ đội, vĩnh viễn chẳng chán đủ. Loại Bổ Đặc Già La này sân khuể mạnh mẽ, ngu si dữ dội. Phiền năo xảy đến chẳng có cách nào ngưng dứt, đặc biệt là cái tâm sân hận dấy khởi rất mạnh mẽ. Ba thứ tham, sân, si đều chẳng chịu thua kém nhau, thế nhưng, si mạnh mẽ hơn đôi chút [so với tham và sân]. Si là đối với hết thảy các cảnh bèn mơ hồ, dấy lên các tà kiến, phá nát chánh pháp.

          Có các đạo hữu đă tin tưởng chánh pháp, v́ tin tưởng đă rất lâu, nhưng do một thứ lợi ích chi đó, hoặc do thân thể mắc bệnh khổ, nếu tin tưởng nhân quả sẽ biết đó là túc nghiệp mà ta hăy c̣n sót lại, bèn trừ sạch, Đó là một loại. Hoặc là buôn bán thất bại, bị tổn thất, gặp kẻ nói hươu nói vượn, hoặc kẻ khoe có thần thông: “Tôi sẽ giúp cho quư vị phát tài” bèn tin theo, quên ḿnh đă quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Thậm chí [kẻ dối trá ấy] dạy họ chẳng cần tin Phật nữa, chẳng cần cúng dường Tăng nữa, chẳng cần thân cận người xuất gia. Đấy là tội ngu si. Hiện tượng này rất nghiêm trọng. Loại Bổ Đặc Già La như thế cũng là v́ trong đời quá khứ đă tích tập thiện căn chẳng sâu.

          Loại Bổ Đặc Già La thứ chín[6] là đă mê hoặc, tâm họ mê loạn, tâm không thể làm chủ, không làm thiện nghiệp.

          Loại thứ mười là giữ tà kiến ác, chẳng tin chánh giáo của Như Lai, giữ vững tà kiến của ngoại đạo.

          Mười loại Bổ Đặc Già La này đương nhiên sẽ đọa vào súc sanh đạo, hoặc đọa vào ngạ quỷ đạo. Chúng ta là Bổ Đặc Già La có thiện căn, hoàn toàn tương phản với những loại ấy. Nhưng chúng ta cũng có tham, sân, si, bất quá chẳng phải tham, sân, si giống như các loại Bổ Đặc Già La ấy. Họ là [tham, sân, si] liên tục chẳng ngừng, chẳng chịu ngưng dứt. Hiểu ư nghĩa này, [mới biết] chúng ta rất may mắn. V́ cái tâm tham, sân, si của Bổ Đặc Già La rất nặng. Đức Phật v́ cứu độ loại chúng sanh này, thấy các loại bệnh của họ, không chỉ là thân thể sanh bệnh. Hễ có phiền năo, th́ đấy là bệnh trạng, có đủ loại bệnh phiền năo. Không chỉ là bệnh tật nơi thân thể, mà tâm lư cũng có bệnh, cũng mắc đủ loại bệnh phiền năo. Giống như một quốc gia có rất nhiều nguy nan hiểm trở. Bất luận Đại Lục cũng thế, Đài Loan cũng thế, Gia Nă Đại cũng thế, Hoa Kỳ cũng thế, chúng ta từ đây nh́n vào, [sẽ thấy] mỗi vị đại vương quán đảnh Sát-đế-lợi đều c̣n cách biệt rất xa yêu cầu “quốc giới thanh tịnh”! V́ thời đại này khác hẳn, tham, sân, si đặc biệt nặng nề, thời đại này tuyệt đối bất đồng. Những ǵ quư vị gặp gỡ, trông thấy hằng ngày, cho đến những ǵ quư vị suy tưởng, nghĩ ngợi đều thuộc về các căn bệnh tham, sân, si khác biệt. Như Lai hiểu rành mạch. Đức Phật và các vị đại Bồ Tát nếu muốn độ các chúng sanh đó, chẳng phải là tùy tiện mà có thể độ được.

          Trong phẩm thứ tám của kinh Địa Tạng, vua Diêm La và đại quỷ vương nói: “Địa Tạng Bồ Tát đă phát đại nguyện lớn dường ấy, v́ sao vẫn độ chưa xong? V́ sao đă độ xong, sau đó, họ lại trở vào? Mới từ địa ngục thoát ra, hầu như trở lại ngay”. Đức Phật bèn bảo các vị đại quỷ vương: “Chúng sanh trong cơi Diêm Phù Đề ương ngạnh, khó điều ḥa, khó chế phục”. [Ở đây, đức Phật dạy] quư vị phải sửa sang quốc giới sao cho địch nhân chẳng thể xâm nhập; quả thật [điều này] rất khó đạt được. Chỉ sợ rằng quốc vương hiện thời chẳng có năng lực này. Từ trên trời bay đến, từ dưới đất ḅ lên. Tu phước nghiệp có thể miễn trừ. Nếu chẳng tu phước nghiệp, làm người c̣n chưa dám nói chắc, quư vị có thể nghĩ ra biện pháp nào để đối trị. Lũ lụt, băo tố, hỏa hoạn, có cách nào hay không? Chư Phật, Bồ Tát hiểu nỗi thống khổ của chúng sanh, các Ngài sanh khởi vô lượng phương tiện và thế lực tinh tấn, dũng mănh. Điều này cần phải do vô lượng kiếp tinh tấn tu hành, giống như các đạo hữu đă phát đại Bồ Đề tâm cứu độ chúng sanh. Chính quư vị trễ tràng, giải đăi, th́ ngay cả chính ḿnh c̣n chẳng cứu được, làm sao cứu nổi người khác? Ắt phải tinh tấn!

          Xác thật là chúng ta dũng mănh chưa đủ! Chẳng phải là dũng mănh đối với người khác, mà là dũng mănh đối với phiền năo của chính ḿnh. Chính ḿnh đối với tham sân của chính ḿnh, phải dũng mănh hơn! Nếu bại trận, sân tâm của quư vị vĩnh viễn càng ngày càng to. Phải dũng mănh tiêu trừ, khắc chế nó, phải dùng sức mạnh nào? Phải nhẫn nại. Nhẫn rất khó! [Trong chữ Hán, chữ Nhẫn ()] là trên chữ Tâm () cắm một thanh Đao (). Quư vị nhẫn bằng cách nào? Thường là khi chúng ta bực bội, sẽ chẳng thể nhẫn được! Cổ nhân nói: “Nóng giận như mănh hổ xuống núi”. Khi một người nổi trận lôi đ́nh, khi tâm sân hận dấy lên, ai khuyên người ấy cũng chẳng nghe lọt tai, phải cậy vào trí huệ của chính ḿnh để chế ngự. Dùng sức nhẫn nại, dùng sức hàng phục để đừng nổi giận. Hăy thường tươi cười hoan hỷ với người khác, học theo ḷng từ bi của Di Lặc Bồ Tát. Quư vị khiến người ta khóc lóc, người ta cũng khóc lóc trả lại. Người ta chửi quư vị, quư vị vẫn cười với họ. Họ đánh quư vị, quư vị vẫn dùng khuôn mặt tươi cười đối với họ, họ sẽ bó tay, cũng chẳng đánh nổi nữa. Đấy là tâm sân hận. Đối với tâm tham cũng thế. Tham, sân, si đều chẳng sai biệt cho mấy!

          Đức Phật đối đăi loại chúng sanh này, chính ḿnh tinh tấn, dũng mănh, dùng sức trí huệ, dùng phương tiện thiện xảo, dùng sức mạnh ấy. Nhưng vẫn phải biết xem xét căn cơ, xem chúng sanh này hẳn là mắc phải loại bệnh nào, phải uống mấy loại thuốc. Kẻ có ḷng sân hận lẫn tham lam nặng nề, quư vị khuyên bảo họ: “Đừng nổi nóng!” Họ sẽ tin ư? Họ chẳng hề tin đâu nhé! Nếu thế lực của quư vị mạnh hơn họ, tâm sân hận của họ sẽ sanh khởi, muốn đánh lộn. Họ muốn đánh nhau, nếu quư vị chế phục họ, đánh bại họ, cái tâm sân hận của họ cũng chẳng có, khiến cho họ liền thành thật. “Cường lăng nhược, chúng bạo quả” (mạnh hiếp yếu, đông hiếp ít). Hai chữ “thế lực” hàm chứa ư nghĩa này. Chúng ta biết Quan Thế Âm Bồ Tát tại đất Hán hiện tướng từ bi, phần lớn thị hiện tướng nữ nhân. Ở Tây Tạng, Ngài thị hiện tướng hộ pháp, tức là tướng Dạ Xoa hung mănh.

          Những điều này thuộc về các loại diệu dược tu Định. Diệu dược sanh ra diệu lạc, trị các loại bệnh tham, sân, si cho quư vị. Dựa vào những ǵ? Cậy vào định lực. Quư vị nói “chẳng tham”, như có một đạo hữu hướng về tôi sám hối: Lúc ông ta ở trong một ngôi chùa, khi rời đi, nhất định phải lấy trộm một vật mang đi. Nếu chẳng lấy một món đồ nào, trong ḷng đúng là khó chịu lắm. Bất luận ở trong ngôi chùa miếu nào, dẫu ngôi chùa ấy nghèo nàn đến mấy đi nữa, ông ta cũng phải cầm một món đồ đi. Thật ra th́ cũng chẳng lấy ǵ. Ông ta lấy món đồ cúng nào đó trước tượng Phật mang đi, vừa bước ra ngoài, đều đưa cho người khác, hoàn toàn chẳng phải chiếm dụng làm của riêng cho ḿnh. Về sau, ông ta xin sám hối với tôi, nói: “Con chẳng hiểu v́ sao! Trong tâm biết rơ là sai lầm, biết là đă phạm Căn Bản Giới, biết đấy là ăn trộm vật của Tam Bảo, chẳng thể nào không đọa địa ngục, lại c̣n là đọa xuống địa ngục Vô Gián. Biết th́ biết thế, nhưng vẫn cứ làm như vậy! Hôm nay, con thưa với Ngài cũng coi như sám hối. Con nói ra, chắc là về sau sẽ có thể chẳng làm nữa!” Tôi nói: “Nói với một người th́ chưa được! Ông đến ngôi chùa nào, bèn nói với [mọi người trong] ngôi chùa ấy, tôi sẽ lấy trộm đồ, quư vị phải chú ư tôi, canh chừng tôi, khiến cho tôi đừng trộm cắp. Hoặc là quư vị sám hối giùm tôi. Dũng khí ấy chẳng dễ ǵ mà có được. Khi ăn trộm đồ vật của người ta, ông phải nói trắng ra cho người ta biết. Sau đấy, người ta sẽ ngăn chặn ông. Điều này rất khó khăn!”

          Ai nấy đều có ḷng tham. Nếu triệt để đoạn dứt căn bản phiền năo, quư vị sẽ thành tựu. Chẳng đoạn được! Chẳng có cái tâm trộm cắp, bất quá có cái tâm chiếm tiện nghi, sợ rằng rất nhiều người đều có. Cũng có người chẳng chiếm tiện nghi của kẻ khác. Phàm là vật của người khác, trọn chẳng sanh vọng tưởng. Loại người này thiện căn trong quá khứ rất sâu dầy, thấy vật thuộc về kẻ khác, không chỉ là vật thuộc về con người, mà đối với hết thảy các vật phẩm, hết thảy vật chất, người ấy đều chẳng sanh ḷng tham ái, huống hồ sẽ chiếm hữu ư? Vật của chính ḿnh c̣n mong xả, thậm chí quán tưởng thân thể của chính ḿnh, biết là giả, ai muốn, ta cũng cho người đó. Bất quá, tôi thấy tại Đài Loan, những người hiến các bộ phận thân thể, chờ chết rồi mới lấy, tôi nói: “Nếu quư vị thật sự phát Bồ Đề tâm, sẽ cho người khác chẳng bận tâm. Ai cần cứ lấy trên thân tôi, tôi cho người đó”.

          Tôi từng hỏi bác sĩ, tôi nói: “Giả sử tôi đă tám mươi tuổi, tôi muốn bỏ các bộ phận trên thân tôi cho người ngoài ba mươi tuổi th́ có thích hợp hay không? Có được hay không?” Ông ta nói: “Cũng chẳng sống được mấy ngày. Gắn vào th́ cũng vẫn được, cũng tùy thuộc thể lực của thầy, tùy thuộc các cơ quan của thầy mạnh hay yếu. Nếu cơ quan hay thân thể có bệnh, thầy buông xả, ghép vào thân người khác. Vốn các cơ quan khác của người ấy chẳng có vấn đề ǵ, khi chuyển cơ quan của thầy qua thân người ấy, không được rồi, đâm ra người ấy lại bị tổn thương”. Bác sĩ hiểu rất rơ chuyện này. Nếu thật sự hiến cơ quan th́ hăy xả ngay khi ấy, cho người khác là được rồi. Luyến tiếc, đợi sau khi chết, quư vị chết đi, dẫu sao cũng bị thiêu hủy, quư vị chẳng làm chủ được, có xả hay không cũng bằng không! Bất quá, quư vị chẳng phát cái nguyện ấy, khi chẳng xả, người khác chẳng dám cắt lấy cơ quan của quư vị. Nếu không, sẽ là phạm tội!

          Do vậy, ắt cần phải có diệu dược dũng mănh tu Định này th́ mới trừ được. Ngay cả đối với thân thể của chính ḿnh, cũng thường tu Quán như vậy, th́ sẽ có Định lực. Đă có loại Định lực ấy, quư vị c̣n có ǵ chẳng xả được, c̣n muốn trộm đồ vật của người khác nữa ư? Tự nhiên là chẳng có! Phải thường quán tưởng nhẫn nhục, chẳng nổi nóng với bất cứ ai. Hễ gặp phải chuyện trái ư, chuyện chẳng vừa ḷng, hoặc bị người khác chèo kéo, chính ḿnh ngay lập tức cảnh giác: “Đấy là cơ hội tốt để ta tu hành! Đấy là cơ hội tốt cho ta sám hối”. Nếu thường suy nghĩ như vậy, tham, sân, si của quư vị hiện tiền, sẽ có thể đối trị như vậy, c̣n có ngu si nữa hay không? Đấy là có trí huệ. Chẳng có trí huệ, sẽ chẳng làm được! Luyện tập đối trị tham, sân, si của chính ḿnh, gặp loại cảnh giới này hiện tiền, sẽ khắc phục được! Đức Phật đă đáp ứng ban cho chúng ta loại diệu dược ǵ? Chính là các pháp ấy! Quư vị học theo phương pháp của đức Phật. Khi học, phải chuyên ṛng, siêng năng học tập.

          Tôi nghĩ mọi người vào lúc ấy, [chẳng hạn như] nếu tôi quở trách quư vị, hoặc có vị đạo hữu nào nói đụng chạm quư vị mấy câu, hoặc quư vị ngủ gục, người khác đánh thức quư vị ngay lập tức, quư vị sẽ thường sanh khởi tâm sân hận. Nếu khi tôi không nói, [khi bị đánh thức, kẻ đó sẽ cáu kỉnh]: “Ông nghe th́ nghe, [tôi ngủ] mắc mớ ǵ đến ông? Tôi xác thực đă thấy chuyện ấy. Hai người căi cọ, tôi hỏi: “Hai vị căi lẫy chuyện ǵ vậy?” Người kia nói: “Người này ngủ gục, tôi kêu ổng xốc lại tinh thần đôi chút”. Khi đó, tôi đang giảng kinh Hoa Nghiêm ở chùa Nam Phổ Đà, tôi nói: “Về sau, hăy chú ư một chút, người ta giúp đỡ quư vị, hăy nên sám hối ḿnh đă si [v́ ngủ gục]”. Sau đó c̣n nổi sân [khi được nhắc nhở], tham, sân, si đều trọn đủ! Tôi nói [với người kia]: “Quư vị giúp đỡ người ấy, vốn là chuyện tốt. Quư vị lại căi nhau với người ta, sân tâm lại phát lên th́ cũng như quư vị chẳng giúp người ta chi hết”. Rất khó! Khi chúng tôi giảng bộ kinh này, quư vị có một tia quang minh, tham, sân, si đều bị chế ngự, ngăn chặn.

          Trường kỳ học tập như vậy; nếu có thể chuyên ṛng, siêng năng học tập, sẽ giảm thiểu bệnh khổ của quư vị. Bệnh khổ lớn nhất của con người chính là bệnh phiền năo, trọn chẳng phải là thân thể bị bệnh ung thư. Các thứ khác đều có thể chuyển biến, nhưng tâm tham rất khó chuyển biến. Quư vị mong chuyển biến tham, sân, si, rất khó! Chúng nó theo quư vị từ vô lượng đời đến nay, xoay chuyển chúng bằng cách nào? Bệnh tật trong hiện thời chỉ là bệnh trong một đời này. Hễ đời này chẳng c̣n nữa, lại thay đổi diện mạo, chẳng biết sẽ biến thành bộ dạng chi nữa. Chúng ta ở nơi đây, tướng nam, tướng nữ, tướng già, tướng trẻ, luôn luôn chuyển hóa. Trước khi thành Phật, đều là như thế. Mọi người đều biết Đề Bà Đạt Đa chống đối đức Phật nhất, bị đọa địa ngục. Nhưng trong quá khứ, ông ta là vị thầy nói pháp Đại Thừa cho đức Phật, chúng ta thường chỉ nh́n vào tướng cảnh giới trước mắt.


          (Kinh) Nhược chư hữu t́nh, nghi tu bất tịnh, trừ phiền năo bệnh, tức tiện thọ dĩ tu bất tịnh dược. Nhược chư hữu t́nh, nghi tu phạm trụ, trừ phiền năo bệnh, tức tiện thọ dĩ tu phạm trụ dược. Nhược chư hữu t́nh, nghi tu duyên khởi, trừ phiền năo bệnh, tức tiện thọ dĩ tu duyên khởi dược. Nhược chư hữu t́nh, nghi tu tức niệm, trừ phiền năo bệnh, tức tiện thọ dĩ tu tức niệm dược. Nhược chư hữu t́nh, nghi khả tu ư tam giải thoát môn, trừ phiền năo bệnh, tức tiện thọ dĩ tu ư tam chủng giải thoát môn dược. Nhược chư hữu t́nh, nghi tu Tĩnh Lự, trừ phiền năo bệnh, tức tiện thọ dĩ tu Tĩnh Lự dược. Nhược chư hữu t́nh, nghi tu Vô Sắc, trừ phiền năo bệnh, tức tiện thọ dĩ tu Vô Sắc dược. Nhược chư hữu t́nh, năi chí nghi tu Thủ Lăng Già Ma chư tam-ma-địa, trừ phiền năo bệnh, tức tiện thọ dĩ Thủ Lăng Già Ma tam-ma-địa dược.

          ()若諸有情,宜修不淨除煩惱病,即便授以修不淨藥。若諸有情,宜修梵住除煩惱病,即便授以修梵住藥。若諸有情,宜修緣起除煩惱病,即便授以修緣起藥。若諸有情,宜修息念除煩惱病,即便授以修息念藥。若諸有情,宜可修於三解脫門除煩惱病,即便授以修於三種解脫門藥。若諸有情,宜修靜慮除煩惱病,即便授以修靜慮藥。若諸有情,宜修無色除煩惱病,即便授以修無色藥。若諸有情,乃至宜修首楞伽摩諸三摩地除煩惱病,即便授以首楞伽摩三摩地藥

          (Kinh: Nếu các hữu t́nh, đáng nên tu bất tịnh để trừ bệnh phiền năo, liền trao cho thuốc tu bất tịnh. Nếu các hữu t́nh, đáng nên tu phạm trụ, để trừ bệnh phiền năo, liền trao cho thuốc tu phạm trụ. Nếu các hữu t́nh, đáng nên tu duyên khởi, để trừ bệnh phiền năo, liền trao cho thuốc tu duyên khởi. Nếu các hữu t́nh, đáng nên tu dứt niệm, để trừ bệnh phiền năo, liền trao cho thuốc tu dứt niệm. Nếu các hữu t́nh, đáng nên tu ba môn giải thoát để trừ bệnh phiền năo, liền trao cho thuốc tu ba loại giải thoát môn. Nếu các hữu t́nh, đáng nên tu Tĩnh Lự, để trừ bệnh phiền năo, liền trao cho thuốc tu Tĩnh Lự. Nếu các hữu t́nh, đáng nên tu Vô Sắc để trừ bệnh phiền năo, liền trao cho thuốc tu Vô Sắc. Nếu các hữu t́nh, cho đến đáng nên tu các tam-ma-địa như Thủ Lăng Già Ma để trừ bệnh phiền năo, liền trao cho thuốc Thủ Lăng Già Ma tam-ma-địa).

 

          Hết thảy hữu t́nh đáng nên tu Bất Tịnh Quán, ta sẽ cho họ tu Bất Tịnh Quán để trị bệnh phiền năo, trao cho họ thuốc Bất Tịnh, nói cho họ pháp Bất Tịnh Quán để đối trị. Họ chịu uống thuốc ấy, cũng tức là họ nghe pháp, bệnh sẽ lành. Có các chúng sanh, đáng nên tu Phạm Trụ. Phạm Trụ là thanh tịnh, tu hạnh thanh tịnh, hoặc là tŕ giới, hoặc nhẫn nhục, đều là phạm hạnh. Phạm () có nghĩa là “thanh tịnh”, trừ bệnh phiền năo. Ta sẽ cho họ thuốc tu Phạm Trụ. Tu Tứ Niệm Xứ, hoặc là tu Ngũ Căn, tu Ngũ Lực đều được.

          “Nhược chư hữu t́nh, nghi tu duyên khởi” (nếu các hữu t́nh đáng nên tu duyên khởi): Hiểu hết thảy các pháp sanh bởi nhân duyên, chẳng có thật thể. Các chúng sanh ấy tu Không Quán rất khá, liền nói pháp duyên khởi cho họ. Hết thảy các pháp là duyên khởi, hết thảy các pháp vô tự tánh, bản thể của hết thảy các pháp là rỗng không. Đó gọi là duyên khởi tánh Không.

          “Nhược chư hữu t́nh, nghi tu Tức Niệm” (nếu các hữu t́nh đáng nên tu Tức Niệm): Tức Niệm (息念) là ngưng dứt tạp niệm, như “tŕ khứ lai niệm” (giữ vững niệm qua lại, tức Sổ Tức Quán) cũng được. Đấy là dứt vọng. Dứt vọng sẽ có thể diệt trừ bệnh phiền năo của quư vị.

          “Nhược chư hữu t́nh, nghi khả tu ư tam giải thoát môn” (nếu các hữu t́nh đáng nên tu ba môn giải thoát): Cũng chính là ba môn giải thoát Không, Vô Tướng, Vô Nguyện. Đấy là tu Không Quán, tu Vô Tác, tu Vô Tướng. Đó là ba môn giải thoát, sẽ trao cho họ thuốc Tam Giải Thoát Môn.

          “Nhược chư hữu t́nh, nghi tu Tĩnh Lự” (nếu các hữu t́nh đáng nên tu Tĩnh Lự): Tĩnh Lự là Định. Tu tam-muội, tức là dùng Định để trừ bệnh phiền năo. Như vậy th́ sẽ trao cho họ thuốc tu Tĩnh Lự.

          “Nhược chư hữu t́nh, nghi tu Vô Sắc” (nếu các hữu t́nh đáng nên tu Vô Sắc): Vô Sắc là trừ bệnh phiền năo. Trong phần trước, đă nói đến Vô Sắc Xứ Định, quán hết thảy các pháp chẳng có h́nh tướng, cũng tương tự như tu Không Tướng. Vô Sắc là có thể là đối với ngũ uẩn Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, dùng sắc pháp để đại diện. Trong phần trước nói về tu tâm, c̣n ở đây là tu Sắc.

          “Nhược chư hữu t́nh, năi chí nghi tu Thủ Lăng Già Ma chư tam-ma-địa” (nếu các hữu t́nh cho đến tu các môn tam-ma-địa như Thủ Lăng Già Ma): Đây cũng là đại định, tức Thủ Lăng Già Ma tam-ma-địa định. Tu môn Định này chính là môn Định rốt ráo, là môn Định rất sâu vô thượng trong một trăm lẻ tám môn tam-muội. Như vậy th́ bèn trao truyền thuốc Thủ Lăng Già Ma tam-ma-địa.

 

          (Kinh) Sở dĩ Như Lai thọ chư hữu t́nh như thị pháp dược, bất linh nhất thiết sở hóa hữu t́nh, vi tứ ma oán chi sở hệ nhiếp, bất linh nhất thiết sở hóa hữu t́nh, bối nhân thiên thừa, hướng chư ác thú, bất linh Như Lai vô thượng pháp nhăn, Tam Bảo chủng tánh tốc tật hoại diệt.

          ()所以如來授諸有情如是法藥,不令一切所化有情為四魔怨之所繫攝,不令一切所化有情背人天乘向諸惡趣,不令如來無上法眼三寶種姓速疾壞滅

          (Kinh: Do Như Lai trao cho các hữu t́nh pháp dược như thế, chẳng khiến cho hết thảy hữu t́nh được hóa độ bị bốn thứ ma oán trói buộc, nhiếp thọ, chẳng để cho hết thảy hữu t́nh được hóa độ trái nghịch nhân thiên thừa, hướng đến các đường ác, chẳng để cho vô thượng pháp nhăn của Như Lai và chủng tánh Tam Bảo bị hoại diệt nhanh chóng).

 

          “Như Lai thọ chư hữu t́nh như thị pháp dược, bất linh nhất thiết sở hóa hữu t́nh, vi tứ ma oán chi sở hệ nhiếp” (Do Như Lai trao cho các hữu t́nh pháp dược như thế, chẳng khiến cho hết thảy hữu t́nh được hóa độ bị bốn thứ ma oán trói buộc, nhiếp thọ): Đây là nói chung. Trao cho thuốc Thủ Lăng Già Ma tam-ma-địa sẽ là rốt ráo. Đối với pháp được nói trong các loại pháp dược ấy, nếu họ chịu tiếp nhận, chịu thọ tŕ, th́ coi như đă uống thuốc. Đă uống thuốc, sẽ chẳng có phiền năo. Đây là Phật Luân thứ bảy. Phật Luân này khiến cho hết thảy hữu t́nh chẳng bị tứ ma “hệ nhiếp” (繫攝), “hệ” () là trói buộc, “nhiếp” () là nhiếp tŕ. Tứ Ma th́ thứ nhất là Ngũ Uẩn Ma. Ngũ Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức; đấy là một thứ ma. C̣n có Phiền Năo Ma. Phiền Năo bao gồm Kiến Tư phiền năo. C̣n có Tử Ma. Chúng ta hết sức sợ hăi Tử Ma, chẳng có ai muốn chết! Chẳng đặng đừng, tự sát cũng có. Chết là chẳng thoải mái. Hễ tự sát, so với người chết b́nh thường sẽ đau khổ gấp bội, xuống địa ngục nhanh như tên bắn. Quư vị nói chẳng thể chịu nổi phiền năo này, mong trốn thoát trách nhiệm, tự sát cho xong chuyện. Hễ chết là hết chuyện! Đấy cách nghĩ tưởng tuyệt đối sai lầm! Trong giới luật, tự sát và sát nhân có cùng một tội lỗi, chớ nên tự sát!

          Lúc đức Phật tại thế, có những vị tỳ-kheo vâng lời đức Phật dạy, tu tŕ Bất Tịnh Quán. Họ chán ghét thân thể khôn cùng, đă tu Bất Tịnh Quán sâu rồi, thấy thân thể này đúng là gịi bọ, tạp uế khôn kham! Họ phiền chán thân thể của chính ḿnh tới cực điểm. Đă tu Bất Tịnh Quán thành tựu, sẽ có hiện tượng ấy, nhưng họ chẳng phát tâm Bồ Đề, chẳng niệm niệm độ chúng sanh. Do vậy, họ tu thành Bất Tịnh Quán suông, chỉ nghĩ sao cho chính ḿnh được siêu thoát sạch sẽ! Nếu là độ chúng sanh, có đại Bồ Đề tâm, họ sẽ chẳng tự sát. Họ nhận thấy hết thảy chúng sanh đều là như vậy, đáng tiếc là chúng sanh chẳng hiểu rơ, bèn dùng hiện tượng thật tế của chính ḿnh để nói cho mọi người biết. Họ nói ra, người khác cũng chẳng thấy.

          Họ tự quán chiếu, tu Bất Tịnh Quán đă thành công, [do chẳng có Bồ Đề tâm], sẽ làm như thế nào? Tự sát chẳng được, họ bèn mượn tay các ngoại đạo Ấn Độ, đem y phục, vật dụng cho các ngoại đạo ấy, xin họ giết ḿnh. Các ngoại đạo v́ tiền, bèn giết chết họ. Về sau, đức Phật biết được, chẳng cho phép tự sát, người khác giết cũng không được. Tự ḿnh giết cũng không được, mà mượn kẻ khác giết cũng không được! Đấy là nói tới chuyện cũ trong giới luật. Phải quán tưởng cái chết ấy như thế nào? Chết là chướng ngại cho sự tu đạo của chúng ta. Nếu quư vị đang tu đạo, tử thuộc về phi mạng. “Phi mạng” có nghĩa là không đáng chết, là nhân duyên chướng đạo. Chướng ngạo này được coi là một loại Ma, gọi là Tử Ma.

          C̣n có Thiên Ma. Thiên Ma là nói đến quỷ thần. Khi quư vị tu đạo đến một mức độ nhất định, lúc sắp thành tựu, thiên ma sẽ t́m tới, hóa hiện đủ loại tướng. Như khi Thích Ca Mâu Ni Phật sắp thành Phật, ma vương Ba Tuần liền suất lănh bọn ma binh, ma tử đến vây quanh, quấy nhiễu đức Phật. Thiên ma gây chướng ngại cho quư vị. Đó là Thiên Ma. Quư vị đọc kinh, thấy quỷ, hoặc có quỷ đến, thân thể phát sốt, hoặc thấy tướng chi đó. Đấy chẳng phải là chuyện xấu. Nếu chẳng phải là quyến thuộc của quư vị, sẽ không thể đến trước mặt quư vị. Chẳng phải là cha mẹ nhiều đời trong quá khứ, hoặc lục thân quyến thuộc của quư vị, sẽ chẳng đến trước mặt được! Họ t́m tới mong quư vị siêu độ, đâu có biết là quư vị sợ hăi. Họ chỉ biết quư vị là người nhà của họ, cho nên họ t́m đến. Kẻ t́m đến, tùy thuộc là loại người nào, nếu là loại chúng sanh có oai thần rất lớn, thân thể quư vị sẽ cảm thấy nóng bừng. Nếu là chư thiên, hoặc thiên thần tới nghe quư vị niệm kinh Địa Tạng, niệm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, niệm phẩm Phổ Môn, quư vị có cảm ứng, tương thông với họ, họ đến tăng phước, quư vị sẽ cảm thấy trên thân ḿnh nóng bừng. Quỷ thật sự đến, quư vị sẽ cảm thấy thân thể rét run, rét từng chập, lạnh từng chập. Quư vị cứ tiếp tục niệm kinh, coi như chẳng có chuyện ǵ. Đến khi quư vị niệm xong, sẽ chẳng có chuyện ǵ cả! Có người [sợ hăi] chẳng niệm, nói: “Tôi không niệm nữa th́ sẽ chẳng có [những chuyện đáng sợ ấy]”. Tôi nói: “Quư vị chẳng niệm, đương nhiên là chẳng có”. Người đó nói: “Tôi vĩnh viễn không niệm nữa!” Tôi nói: “Vĩnh viễn chẳng niệm là hỏng mất rồi! Quư vị cứ tiếp tục niệm, sẽ chẳng có chuyện ǵ!” Đó là chướng ngại, đấy chẳng phải là ma, phải phân biệt rơ ràng!

          Khi Phật Luân vận chuyển, sẽ khiến cho những người ấy đều chẳng trái nghịch nhân thiên thừa, hoặc là làm người, hoặc sanh lên trời. Tối thiểu là chẳng trái nghịch nhân thiên thừa, chẳng tiến hướng ba ác đạo. Đồng thời, khiến cho pháp của Như Lai, khiến cho pháp nhăn của Như Lai và chủng tánh Tam Bảo chẳng bị hoại diệt. Khiến cho các hữu t́nh được hóa độ chẳng trái nghịch nhân thiên thừa, chẳng hướng theo đường ác. Đối với pháp nhăn của Như Lai và chủng tánh Tam Bảo, sẽ khiến cho chẳng bị hoại diệt. “Hoại diệt nhanh chóng” là như chúng ta đối với pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật đă hoại diệt rất nhanh chóng: Chánh Pháp năm trăm năm, Tượng Pháp năm trăm năm, Mạt Pháp một vạn năm. Tuy nói như vậy, nhưng các điều ấy đều chẳng chuẩn xác, tùy thuộc nghiệp của chúng sanh như thế nào? Thời Mạt Pháp, cũng vẫn có chánh pháp tồn tại. Chỉ cần có người đọc tụng Đại Thừa, có Tam Bảo hiện diện, có tượng Phật, có Pháp Bảo, có Tăng chúng, tức là có Tam Bảo, có chỗ cho chúng ta gieo phước th́ [thời Mạt Pháp] có thể trở thành Chánh Pháp.

          Nay chúng ta đang học tập, đó là Chánh Pháp. Nếu rời chỗ này đi tạo tội th́ sẽ là Mạt Pháp. Ư nghĩa của việc phân chia thành các thời điểm Chánh Pháp, Tượng Pháp và Mạt Pháp chính là: Chánh Pháp là nói theo ư nghĩa chánh đạo và thành đạo. Vừa vào trong Phật pháp, vừa nghe giảng, bèn khai ngộ, bèn hiểu rơ, đó sẽ là Chánh Pháp. Cho đến lúc Mạt Pháp th́ hằng ngày đều học mà phiền năo chẳng dễ đoạn. V́ sức huân tập của chúng ta chẳng đủ, cũng có lẽ suốt mấy tháng chỉ nghe giảng một hai buổi, hoặc là mấy năm mới nghe một lần, tu th́ tu vậy, nhưng tu như thế nào? Đức Phật yêu cầu chúng ta nghe pháp xong, tu ngay lập tức. Đă tu bèn chứng đắc. Điều đó gọi là “chuyên ṛng, siêng năng dũng mănh” th́ mới có thể trừ phiền năo.

 

          (Kinh) Do thị Như Lai thọ chư hữu t́nh như thị pháp dược. Thiện nam tử! Ngă thành như thị đệ thất Phật Luân. Do thử luân cố, dĩ kỳ vô thượng Biến Hành hạnh trí, thọ chư chúng sanh chủng chủng pháp dược, linh cần tu học, trừ phiền năo bệnh, đắc an ổn trụ, đắc vô kinh khủng, đắc vô sở úy, tự xưng ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, tồi chư thiên ma, ngoại đạo tà luận, xử đại chúng trung, chánh sư tử hống.

          ()由是如來授諸有情如是法藥。善男子,我成如是第七佛輪。由此輪故,以其無上徧行行智,授諸眾生種種法藥,令勤修學除煩惱病,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,摧諸天魔外道邪論,處大眾中正師子吼。

          (Kinh: Do vậy Như Lai trao pháp dược như thế cho các hữu t́nh. Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật Luân thứ bảy như thế. Do v́ luân ấy, dùng hạnh trí Biến Hành vô thượng, trao các loại pháp dược cho các chúng sanh, khiến họ siêng tu học, trừ bệnh phiền năo, được trụ trong an ổn, được chẳng kinh hoảng, được chẳng sợ hăi, tự xưng ta thuộc địa vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, dẹp tan tà luận của thiên ma và ngoại đạo, ở trong đại chúng thực hiện sư tử hống).

 

          Địa Tạng Bồ Tát hỏi như vậy, đức Phật trả lời đến Phật Luân thứ bảy như thế. “Biến Hành” (徧行, Sarvatraga) có năm món, đối ứng với Biệt Cảnh (別境)[7]. Năm món Biến Hành [trong Tâm Sở pháp] là Tác Ư (作意, Manasi-kāra), Xúc (, Sparśa), Thọ (, Vedanā), Tưởng (, Saṃjñā), và Tư (, Cetanā). Món thứ nhất là Tác Ư. Tác Ư là tâm chúng ta suy tưởng như vậy, vận dụng ư niệm suy nghĩ. Thọ là tiếp nhận. Tiếp nhận các h́nh tướng ǵ? Người ta đánh quư vị, quư vị sẽ cảm thấy đau. Người ta xoa bóp, quư vị sẽ cảm thấy thoải mái, chẳng nói ra ngoài h́nh tướng được. Đó là ư nghĩa “tiếp nhận”. Chẳng hạn như nếu người khác tán dương quư vị, quư vị cũng tiếp nhận âm thanh ấy. Chửi bới th́ quư vị tiếp nhận, sẽ sanh khởi phiền năo, hoặc sẽ căi lộn với kẻ đó. Người khác tán dương quư vị, trong tâm quư vị khoái trá. Thọ thuộc về tâm pháp, chẳng thể dùng h́nh tướng để h́nh dung. Tưởng cũng là “biến” (, trọn khắp). Biến Hành khác với Biệt Cảnh. “Biến” có nghĩa là trọn khắp hết thảy mọi nơi. Tưởng là suy nghĩ, nghĩ tưởng. Để tưởng, quư vị phải Tác Ư (khởi lên ư niệm, vận dụng tâm tư). Tác Ư khác với Tưởng đôi chút. Tưởng chỉ là Tư Duy, c̣n Tác Ư là nghĩ tới cách thức [để thực hiện]. Trong Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận, điều này đă được giải thích rất rơ ràng. Món thứ tư là Tư, Tư và Tưởng thường liên quan với nhau. Tư là tư duy, tự ḿnh tư duy. C̣n Tưởng th́ có lúc thêm vào hồi ức; do vậy, có sai khác đôi chút. Xúc là tiếp xúc. Xúc và Thọ dường như giống nhau, nhưng thật ra, chúng hoàn toàn chẳng giống nhau.

          Năm món Biến Hành ấy, do vô thượng Biến Hành, sẽ dẫn khởi phiền năo. Đối với điều này, phải có trí huệ. Nếu chẳng có trí huệ, sẽ chẳng thể đoạn phiền năo. Nếu quư vị siêng năng, chuyên ṛng, sẽ trừ được bệnh phiền năo, được trụ trong an ổn, chẳng kinh hoảng, mà cũng chẳng sợ hăi, chẳng bị sợ sệt. Đức Phật tự xưng Ngài thuộc địa vị đại tiên tôn quư, thuộc vào địa vị Phật, chuyển pháp luân của Phật. Luân ấy có thể dẹp tan tà luận của hết thảy thiên ma và ngoại đạo, ở giữa đại chúng mà sư tử hống.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương, ức niệm tự tha bổn tích chủng tánh, sơ sanh, đồng tử hy hư đẳng sự, vị ức tự tha ư như thị xứ, sơ sanh mộc dục, hoài băo nhũ bộ, án ma chi tiết, năi chí hư tiếu, hoặc lộng hôi thổ, hoặc dữ thị tùng chủng chủng ngao du, hoặc tập kỹ nghệ, hoặc phục tu doanh chủng chủng sự nghiệp, hoặc du tha quốc, túc dạ thê bạc, hoặc phụng sự vương, hoặc lư vương vụ, hoặc vi Thái Tử. Hoặc đăng vương vị, đắc đại tự tại, thọ chư khoái lạc, quảng đại danh xưng, biến chư phương duy. Niệm thị sự dĩ, an lập tiên vương sở tuân chánh pháp, phủ dục nhất thiết quốc độ nhân dân, thủ hộ tự quốc, bất xâm tha cảnh. Thiện nam tử! Sát-đế-lợi chủng quán đảnh đại vương thành tựu như thị đệ bát vương luân. Do thử luân cố, linh tự quốc độ tăng trưởng an lạc, năng phục nhất thiết oán địch, ác hữu, thiện thủ hộ thân, linh tăng thọ mạng.

          ()善男子,如剎帝利灌頂大王,憶念自他本昔種姓,初生童子嬉戲等事;謂憶自他於如是處,初生沐浴懷抱乳哺,按摩支節乃至戲笑,或弄灰土,或與侍從種種遨遊,或習技藝,或復修營種種事業,或游他國夙夜棲泊,或奉事王,或理王務,或為太子,或登王位得大自在受諸快樂,廣大名稱遍諸方維;念是事已,安立先王所遵正法,撫育一切國土人民,守護自國不侵他境。善男子,剎帝利種灌頂大王,成就如是第八王輪。由此輪故,令自國土增長安樂,能伏一切怨敵惡友,善守護身,令增壽命。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như đại vương Sát-đế-lợi đă được quán đảnh nghĩ nhớ bổn tích và chủng tánh của chính ḿnh lẫn người khác, các chuyện như lúc mới sanh ra, vui đùa khi c̣n là trẻ thơ v.v… tức là ḿnh và người khác ở chỗ như vậy, lúc mới sanh được tắm rửa, ẵm bồng, bú mớm, xoa bóp chân tay, cho đến cười đùa, hoặc nghịch tro, đất, hoặc cùng người hầu ngao du các thứ, hoặc học tập nghề khéo, hoặc là kiến lập, lo liệu các thứ sự nghiệp, hoặc dạo chơi nước khác, hoặc trong đêm trú lại nghỉ ngơi, hoặc phụng sự vua, hoặc lo liệu việc nước, hoặc làm Thái Tử. Hoặc lên ngôi vua, được đại tự tại, hưởng các vui sướng, danh tiếng rộng lớn, trọn khắp các phương. Nghĩ tới những chuyện ấy rồi bèn an lập chánh pháp do tiên vương đă tuân hành để vỗ yên, nuôi nấng hết thảy nhân dân trong quốc độ, bảo vệ nước ḿnh, chẳng xâm lấn nước khác. Này thiện nam tử! Đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi đă được quán đảnh thành tựu vương luân thứ tám như thế. Do v́ luân ấy, khiến cho nước ḿnh tăng trưởng yên vui, có thể hàng phục hết thảy oán địch và bạn ác, khéo thủ hộ cái thân, khiến cho thọ mạng tăng trưởng).

 

          Quốc vương ấy nhớ lại quá khứ, bắt đầu từ lúc c̣n là đứa bé, giống như mọi người, hoặc là vọc tro, đất, hoặc là được hầu hạ, rong chơi, hoặc là học tập các thứ tài khéo, hoặc tu tập các thứ sự nghiệp, nhớ lại những chuyện thuở làm đồ đệ, hoặc làm đệ tử. Nói những chuyện ấy để làm ǵ? Nhớ lại lúc quá khứ, nhà vua sẽ biết phải nên làm như thế nào trong hiện tại. Vị đại vương quán đảnh ấy trong quá khứ, chính ḿnh đă lúc trẻ thơ cho tới khi trưởng thành, đă được trưởng thành dưới pháp độ của tiên vương. Ông ta nhớ lại pháp độ của tiên vương tốt đẹp ngần nào! Ta phải phát triển. Những chỗ không tốt, ta sẽ cải tiến, đó gọi là “cách mạng”. Phàm là cách mạng, cải cách, tức là trừ bỏ những phần không tốt đẹp, [thế nhưng] lịch sử hoàn toàn phát triển trái ngược, diệt trừ những cái tốt đẹp. Họ cách mạng theo kiểu chiếu theo những cái xấu xa để thực hiện. Tôi thấy lịch sử phát triển như thế đó. Phật giáo đồ nói hoằng dương Phật pháp, [thế mà] chẳng hoằng dương th́ c̣n đỡ, [Phật pháp] sẽ bị diệt chậm một chút. Càng hoằng dương, càng bị diệt lẹ! Phật đường càng nhiều, đệ tử Tam Bảo giả mạo càng đông, mọi người ắt cần phải có con mắt chánh pháp.

          V́ thế, nhà vua nhớ quá khứ, phải dùng chánh pháp của tiên vương, dùng các pháp do tiên vương đă áp dụng cho quốc độ này để vỗ yên nhân dân hiện thời trong nước, bảo vệ nước ḿnh thành tựu tốt đẹp. Tốt lành như thế sẽ khiến cho nhân dân trong nước của nhà vua có thể an cư lạc nghiệp. Đấy là nhớ lại quá khứ, Thích Ca Mâu Ni Phật cũng nhớ lại quá khứ!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như thị Như Lai xử đại chúng hội, ức niệm tự tha túc thế sở kinh vô lượng chủng sự, vị ức nhất sanh, hoặc nhị, hoặc tam, năi chí vô lượng bách thiên sanh sự, hoặc ức thành kiếp, hoặc ức hoại kiếp, hoặc ức vô lượng thành kiếp, hoại kiếp, tằng ư quá khứ trụ như thị xứ, như thị danh tự, như thị chủng tánh, như thị chủng loại, như thị ẩm thực, như thị lănh nạp khổ thọ, lạc thọ, như thị thọ lượng, như thị cửu trụ, như thị cực ư thọ lượng biên tế, tùng bỉ xứ một, lai sanh thử gian, phục tùng thử một, văng sanh bỉ xứ, ức niệm túc thế như thị đẳng sự vô lượng, vô biên, tùy chư chúng sanh căn tánh sai biệt, kiến lập chánh pháp, vị tác nhiêu ích. Thiện nam tử! Ngă thành như thị đệ bát Phật Luân.

          ()善男子,如是如來處大眾會,憶念自他宿世所經無量種事:謂憶一生,或二、或三乃至無量百千生事,或憶成劫,或憶壞劫,或憶無量成劫、壞劫;曾於過去住如是處,如是名字、如是種性、如是種類、如是飲食、如是領納苦受樂受、如是壽量、如是久住、如是極於壽量邊際;從彼處沒,來生此間,復從此沒,往生彼處;憶念宿世如是等事無量無邊,隨諸眾生根性差別,建立正法為作饒益。善男子,我成如是第八佛輪。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như Lai ở trong các đại chúng hội như thế, nghĩ nhớ vô lượng các sự mà ḿnh và người đă trải qua trong các đời trước, tức là chuyện trong một đời, hoặc hai, hoặc ba, cho đến vô lượng trăm ngàn đời, hoặc nhớ kiếp thành, hoặc nhớ kiếp hoại, hoặc nhớ vô lượng kiếp thành, kiếp hoại, từng trong quá khứ ở chỗ như thế, tên gọi như thế, chủng tánh như thế, chủng loại như thế, ăn uống như thế, nhận lănh khổ thọ và lạc thọ như thế, thọ lượng như thế, tồn tại lâu dài như thế, cùng tột ngằn mé thọ lượng như thế, từ chỗ kia chết, đến sanh trong cơi này, lại từ cơi này mất đi, đến sanh trong chỗ kia. Nghĩ nhớ các sự trong những đời trước như thế, vô lượng, vô biên, tùy theo căn tánh sai biệt của các chúng sanh mà kiến lập chánh pháp, ḥng tạo lợi ích. Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật Luân thứ tám như thế).

 

          Trong đại chúng hội, đối với hết thảy các đệ tử do ta giáo hóa, đối với trăm ngàn ức chúng sanh, đều làm ǵ? Thuyết pháp đúng theo căn cơ. Hoặc là ở trong hoại kiếp, các đệ tử ấy đều theo ta làm ǵ? Trong thành kiếp, chúng ta đều làm ǵ? Trong một đại kiếp, có bốn kiếp là Thành, Trụ, Hoại, Không. Thành kiếp gồm hai mươi tiểu kiếp, Trụ kiếp gồm hai mươi tiểu kiếp, Hoại kiếp gồm hai mươi tiểu kiếp, Không kiếp có hai mươi tiểu kiếp. Hoại kiếp là giai đoạn giữa Thành kiếp và Không kiếp, thế giới đă sắp hủy diệt, địa cầu hoàn toàn chẳng c̣n. Khi hư hoại đến tột cùng, đại tam tai [xảy ra, thế giới] chẳng c̣n nữa, rỗng tuếch! Sau đấy, lại dần dần ngưng tụ, ngưng kết, tinh vân (Nebula) lại dần dần h́nh thành. Giai đoạn Thành gồm hai mươi tiểu kiếp, Trụ gồm hai mươi tiểu kiếp. Nay chúng ta đang thuộc Trụ kiếp, trọn chẳng phải là Hoại kiếp.

          Trong Trụ kiếp, nghĩ nhớ các nơi trong kiếp ấy, đă trải qua thời gian nhiều ngần ấy, lại c̣n trải qua rất nhiều chỗ. Trong kinh điển, Thích Ca Mâu Ni Phật từng nói như thế này: Trong thế giới Sa Bà này, tức trong tam thiên đại thiên thế giới này, chẳng có chỗ nào chừng bằng vi trần mà không phải là nơi Ngài xả thân mạng. Cũng tức là nói Ngài ở trong thế giới Sa Bà độ chúng sanh quá lâu! Cho đến [thời gian] làm chúng sanh trong thế giới này cũng rất nhiều, xả thân mạng nhằm lợi ích chúng sanh. Trong quá khứ, ta trụ ở nơi đây, ngươi cũng trụ ở nơi đây. Người khác ở nơi kia có tên gọi là ǵ. Các thứ chủng tánh, chủng loại như thế nào, ăn những thực phẩm ǵ, nhận lănh khổ thọ, lạc thọ, thọ mạng khá nhiều, hoặc là sống lâu nơi đời, hoặc là thọ mạng rất dài. “Tùng bỉ xứ một, lai sanh thử gian” [nghĩa là] lại sanh đến chỗ này, từ chỗ này chết đi, lại sanh sang chỗ khác. Nghĩ nhớ các chuyện trong các đời trước như vậy, vô lượng, vô biên, quá nhiều! Khi mọi người đều thành Phật, nh́n lại một phen, sẽ biết các sanh mạng trong quá khứ là vô lượng, vô biên.

          Trong khi quư vị niệm kinh, nằm mộng là giả, chẳng thật; nhưng khi tôi nằm mộng, có khi đúng là thật! Lại nữa nằm mộng, giấc mộng ấy là giả, nhưng có lúc, đầu óc coi nó thành sự thật. V́ sao nói như vậy? Xác thực là tôi có cảm giác ấy. Khi tôi ở Nữu Ước, tôi nằm mộng, dường như là giấc mộng bắt đầu từ thời Nguyên. Tối hôm nay, mộng vẫn chưa xong, tỉnh giấc, tối mai chỉ cần đặt đầu xuống gối, lại nằm mộng, giống như viết tiểu thuyết theo lối từng chương, từng hồi vậy. Giấc mộng ấy sẽ được tiếp tục vào hồi thứ hai như thế này, như thế nọ! Sau đấy tỉnh giấc, không mộng nữa. Đấy vốn là giả, v́ tôi tự ḿnh chứng nghiệm giấc mộng của ḿnh. Do nằm mộng mà xuất gia, đến Cửu Hoa Sơn là do nằm mộng. Đến Cổ Sơn cũng là do nằm mộng. Sau khi đă đến Cổ Sơn, chẳng nằm mộng nữa. Đến nơi ấy chẳng c̣n mộng nữa. Sau đấy, chẳng c̣n nằm mộng nữa, măi cho đến hiện tại, tôi vẫn hy vọng được giấc mộng chỉ điểm. Không nằm mộng, tức là lúc không mộng, tôi lại mê. So với lúc nằm mộng, mê càng sâu hơn. Đó là tật xấu của bản thân tôi.

          Tuy nói mộng là giả, nhưng nó chỉ cho tôi phương hướng, tôi bèn cho rằng nó là thật. Khi đó, cũng chưa hề tiếp xúc Phật pháp, chuyện ǵ cũng chẳng biết. Do nằm mộng, tôi bèn xuất gia, do giấc mộng bèn xuất gia. Sư phụ đặt cho tôi pháp danh là Giác Tỉnh (覺醒), ngụ ư “hễ giác ngộ, sẽ thức tỉnh”. Sau đấy, tôi nghĩ cái tên ấy chẳng thích hợp cho lắm. Dường như tôi vẫn chưa tỉnh, tôi nói tôi đang nằm mộng. Mộng Tham (夢參) là cái tên do tôi tự đặt, đúng là tương phản với chữ Giác Tỉnh. Mấy hôm trước, tôi bỗng ngẫu nhiên nhớ đến thầy tôi là lăo ḥa thượng Tu Lâm. Khi tôi niệm kinh, nghĩ đến vị thầy thế độ đă đặt tên cho ḿnh. Tôi nghĩ: Khi nào tôi sẽ có thể tỉnh? Nay đă sắp chết đến nơi rồi, vẫn chẳng tỉnh, vẫn đang ở trong mộng, vẫn đang tham cứu. Hiện thời, ngay cả tham cứu cũng tham cứu chẳng xong! V́ sao? Tham cứu đến mức già khọm rồi, già lụm cụm rồi, chẳng giống như thuở trẻ trung, lúc mới vừa học pháp, lúc vừa mới tu. Do vậy, tu đạo mà mong đoạn phiền năo rất khó, tôi tự ḿnh thể nghiệm. Từ kinh nghiệm của cá nhân tôi, đă xuất gia hơn sáu mươi năm, hiện thời vẫn cách biệt rất xa, chẳng nắm vững một tí nào! Quư vị đừng nghĩ tôi đang nói nhảm, chẳng nói nhảm tí nào hết!

          Do đó, khi đức Phật chỉ dạy hết thảy chúng sanh, Ngài đă căn cứ vào các thứ khác biệt trong quá khứ của họ. Đức Phật thuyết pháp, chúng ta lập tức thành đạo. Nếu kẻ nào chưa thành đạo, chẳng hạn như chúng tôi cũng muốn thật sự phát Bồ Đề tâm, chúng tôi giảng giải, giảng suốt mấy tháng, chỉ sợ người giảng lẫn người nghe đều chẳng thể tiến nhập, chỉ là gieo thiện căn cho tương lai. Chúng tôi khẳng định điều này: Tuy chẳng có lợi ích to lớn, nhưng lợi ích ấy vẫn chẳng nhỏ! Có lợi ích ǵ thế? Chúng ta niệm kinh Địa Tạng, giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, giảng kinh Địa Tạng, giảng kinh Thập Luân, nói chung là Địa Tạng Bồ Tát sẽ chú ư chúng ta đôi chút.

          V́ thế, chúng ta nghe, niệm, đều gởi gắm nơi Địa Tạng Bồ Tát. Mỗi lần, tôi niệm Địa Tạng Bồ Tát, tôi đều nghĩ như thế. Tôi và các đạo hữu đều phó thác cho Địa Tạng Bồ Tát, hy vọng Bồ Tát sẽ nhanh chóng cứu chúng con. Cái tâm của quư vị đă hướng về Ngài, Địa Tạng Bồ Tát đă hướng đến chúng ta. Thật ra, đó là quư vị tự độ chính ḿnh, cầu người khác chẳng bằng cầu chính ḿnh! Cầu chính ḿnh th́ quư vị có thể cầu như thế nào? Niệm, đọc, chính ḿnh tự xem một lượt, cũng sẽ cảm vời Địa Tạng Bồ Tát. Địa Tạng Bồ Tát giảng cho quư vị, quư vị càng dễ dàng khai ngộ. V́ sao phải quan sát quá khứ? V́ như thế th́ mới có thể biết căn tánh của họ, mà cũng biết nhân duyên giữa Phật và chúng ta trong quá khứ. Tuy chúng ta là đệ tử Phật trong thời Mạt Pháp, mà có thể cảm được Pháp Bảo Đại Thừa vẫn c̣n tồn tại trong thời Mạt Pháp, Tăng Bảo tồn tại, Phật Bảo tồn tại, đấy cũng chính là Trụ Thế Tam Bảo. Tượng bằng đất nặn, gỗ chạm chính là Phật Bảo, Tam Tạng kinh văn là Pháp Bảo, người cạo đầu mặc y nhiễm sắc là Tăng Bảo. Quư vị có thể thấy Tăng Bảo, nếu thường xuyên cùng ở chung với Phật Pháp Tăng Tam Bảo, sẽ đắc độ rất nhanh. Đôi khi chúng ta nói: “Phiền năo rất nặng, nghiệp chướng rất sâu”, tiêu cực khôn ngằn! Chúng ta hăy nghĩ theo phương diện này: Đă gieo không ít thiện căn, hiện thời c̣n có thể ở cùng Phật Pháp Tăng. Có những vị tối ngủ vẫn niệm, có khi niệm cả trong mộng. Có những đạo hữu c̣n có thể làm như vậy, quư vị c̣n sợ hăi chi nữa? V́ quư vị đă học pháp, sẽ chẳng sợ hăi, cũng đă thành tựu Phật Luân thứ tám rồi!

 

          (Kinh) Do thử luân cố, lợi ích an lạc vô lượng hữu t́nh, đắc an ổn trụ, đắc vô kinh khủng, đắc vô sở úy, tự xưng ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, tồi chư thiên ma, ngoại đạo tà luận, xử đại chúng trung, chánh sư tử hống.

          ()由此輪故,利益安樂無量有情,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,摧諸天魔外道邪論,處大眾中正師子吼。

          (Kinh: Do v́ luân này, lợi ích an lạc vô lượng hữu t́nh, được trụ an ổn, được chẳng kinh hoảng, được chẳng sợ hăi, tự xưng ta ở nơi địa vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, dẹp tan tà luận của các thiên ma và ngoại đạo, ở trong đại chúng, thực hiện sư tử hống).

 

          Trên đây là Phật Luân thứ tám.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương, tùy niệm quán sát tự quốc hữu t́nh, chủng tánh, kỹ nghệ, cập chư sự nghiệp, tử thử sanh bỉ, nhân quả thắng liệt, sai biệt bất đồng. Tri bỉ hữu t́nh sanh như thị gia, kỳ thân dũng kiện, hoặc phục khiếp nhược, ư chư kỹ nghệ, dĩ học, vị học, sở hữu sự nghiệp thiện tác, ác tác, phú quư, bần tiện, đoan chánh, xú lậu, như thị đẳng loại, năi chí mạng chung. Hoặc hữu tự nghiệp vị tận nhi tử, hoặc hữu tự nghiệp dĩ tận nhi tử, hoặc phạm vương pháp h́nh lục nhi tử, hoặc hữu đệ tương tàn hại nhi tử, hoặc nhân tiên trượng chủy sở nhi tử, hoặc nhân linh ngữ u trập nhi tử, hoặc nhân tập học kỹ nghệ nhi tử, hoặc nhân chiến trận thương sát nhi tử, hoặc nhân đấu tránh ẩu kích nhi tử, hoặc nhân tài bảo tham lận nhi tử, hoặc nhân sắc dục đam miện nhi tử, hoặc nhân phẫn hận kết phẫn nhi tử, hoặc nhân lao quyện đốn tệ nhi tử, hoặc nhân cơ khát phạp tuyệt nhi tử, hoặc hữu quá tử, hoặc vô quá tử, hoặc kỳ niên tử, hoặc tráng niên tử, hoặc ấu niên tử, hoặc tác chủng chủng thiện nghiệp nhi tử, hoặc tác chủng chủng ác nghiệp nhi tử, tri chư hữu t́nh hành thiện hạnh giả, thân hoại, mạng chung, đương văng thiện thú. Tri chư hữu t́nh hành ác hạnh giả, thân hoại, mạng chung, đương văng ác thú. Tri thị sự dĩ, phục tự tư duy: “Ngă đương chánh cần, tu thân thiện hạnh, tu ngữ thiện hạnh, tu ư thiện hạnh, ngă đương thi thiết chủng chủng phương tiện, tu hành bố thí, điều phục tịch tĩnh, thân hoại mạng chung, đương văng thiện thú, vật đọa ác thú”. Thử Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương tư duy thị dĩ, dũng mănh, tinh tấn, tu thân, ngữ, ư, tam chủng thiện hạnh, thường hành bố thí, nhất thiết sở hữu ẩm thực, y phục, tượng, mă, kỵ, thừa, ngọa cụ, y dược, pḥng xá, đăng minh, cập dư tư cụ, nô tỳ, đồng bộc, chủng chủng trân tài, đầu, mục, thủ, túc, năi chí thân mạng, vô sở lận tích, cập ly sát sanh, ly bất dữ thủ, ly dục tà hạnh, ly hư cuống ngữ, ly thô ác ngữ, ly ly gián ngữ, ly tạp uế ngữ, ly chư tham dục, ly chư sân khuể, ly chư tà kiến.

          ()善男子,如剎帝利灌頂大王,隨念觀察自國有情,種姓、技藝及諸事業,死此生彼,因果勝劣差別不同。知彼有情生如是家,其身勇健或復怯弱,於諸技藝已學未學,所有事業善作惡作,富貴貧賤,端正醜陋,如是等類乃至命終,或有自業未盡而死,或有自業已盡而死,或犯王法刑戮而死,或有遞相殘害而死,或因鞭杖捶楚而死,或因囹圄幽縶而死,或因習學技藝而死,或因戰陣傷殺而死,或因斗諍毆擊而死,或因財寶貪吝而死,或因色慾耽湎而死,或因忿恨結憤而死,或因勞倦頓弊而死,或因飢渴乏絕而死,或有過死,或無過死,或耆年死,或壯年死,或幼年死,或作種種善業而死,或作種種惡業而死。知諸有情行善行者,身壞命終,當往善趣;知諸有情,行惡行者,身壞命終,當往惡趣。知是事已,復自思維:我當正勤修身善行,修語善行,修意善行。我當施設種種方便,修行佈施、調伏、寂靜,身壞命終,當往善趣,勿墮惡趣。此剎帝利灌頂大王,思惟是已,勇猛精進,修身、語、意三種善行,常行佈施,一切所有飲食、衣服、象馬、騎乘、臥具、醫藥、房舍、燈明及餘資具,奴婢、僮僕、種種珍財,頭目手足乃至身命,無所吝惜;及離殺生,離不與取,離欲邪行,離虛誑語,離粗惡語,離離間語,離雜穢語,離諸貪慾,離諸瞋恚,離諸邪見。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như đại vương Sát-đế-lợi đă được quán đảnh thuận theo ư niệm, quan sát hữu t́nh trong nước của chính ḿnh, chủng tánh, tài khéo, và các sự nghiệp, chết đây, sanh kia, nhân quả hơn kém, sai khác bất đồng. Biết các hữu t́nh đó sanh trong gia đ́nh như thế, thân họ dũng mănh, tráng kiện, hoặc là yếu ớt, đối với các nghề khéo đă học hay chưa học, tất cả sự nghiệp là làm lành hay làm ác, phú quư hay nghèo hèn, đoan chánh hay xấu xí, thô kệch, các loại như thế cho đến lúc mạng chung: Hoặc có người nghiệp của chính họ chưa hết mà đă chết, hoặc có người nghiệp của chính họ đă hết mà chết, hoặc phạm phải phép vua, bị xử tử chết. Hoặc có khi tàn hại lẫn nhau mà chết. Hoặc do bị roi, gậy đánh đập mà chết. Hoặc do bị giam kín trong nhà tù mà chết. Hoặc do học tập tài khéo mà chết. Hoặc do chiến trận bị sát thương mà chết. Hoặc do tranh chấp, đánh lộn mà chết. Hoặc do tham lam, keo kiệt của cải mà chết. Hoặc do tham đắm sắc dục mà chết. Hoặc do phẫn hận, phẫn uất mà chết. Hoặc do mệt mỏi, suy sụp mà chết. Hoặc do đói khát, thiếu thốn mà chết. Hoặc do có lỗi mà chết, hoặc không có lỗi mà chết. Hoặc tuổi già mà chết, hoặc tuổi tráng niên mà chết, hoặc tuổi thơ bé mà chết. Hoặc làm các loại nghiệp lành mà chết. Hoặc làm các loại ác nghiệp mà chết. Biết các hữu t́nh làm các hạnh lành, thân hoại, mạng hết, sẽ tiến vào đường lành. Biết các hữu t́nh làm các hạnh ác, thân hoại, mạng hết, sẽ vào đường ác. Đă biết chuyện ấy rồi, lại tự tư duy: “Ta nên siêng năng chánh đáng để tu thiện hạnh nơi thân, thiện hạnh nơi ngôn ngữ, thiện hạnh nơi ư. Ta sẽ sắp đặt các loại phương tiện, tu hành bố thí, điều phục tịch tĩnh. Thân hoại, mạng chung, sẽ tiến vào đường lành, chẳng đọa vào đường ác”. Vị đại vương Sát-đế-lợi đă được quán đảnh ấy tư duy như thế xong, bèn dũng mănh, tinh tấn, tu ba thứ hạnh lành nơi thân, ngữ, ư, thường hành bố thí, hết thảy tất cả thức ăn, y phục, voi, ngựa, vật cưỡi, xe cộ, đồ trải nằm, thuốc men, nhà cửa, đèn sáng, và các thứ vật dụng sinh hoạt khác, nô tỳ, người hầu, các loại của cải quư báu, đầu, mắt, chân, tay, cho đến thân mạng, chẳng hề keo tiếc, và ĺa sát sanh, ĺa chẳng cho mà lấy, ĺa dục tà hạnh, ĺa lời hư huyễn, dối trá, ĺa lời thô ác, ĺa lời ly gián, ĺa lời tạp uế, ĺa các tham dục, ĺa các sân khuể, ĺa các tà kiến).

 

          Trong phần trước, đă nói về năm thứ Biến Hành, tôi sẽ giải thích lần nữa. Tác Ư, Xúc, Thọ, Tưởng, Tư, đấy là năm loại. Khi năm loại Biến Hành ấy dấy lên, chúng sẽ đồng thời khởi, chẳng có trước sau. Tác Ư (作意) có nghĩa là “cảnh giác”, có nghĩa là khi cái tâm chưa dấy lên [ư niệm], Tác Ư sẽ khiến cho cái tâm khởi niệm. Khởi niệm là dấy lên tướng cảnh giới. Nếu cái tâm vừa dấy niệm, nó sẽ có thể dẫn khởi quán cảnh. “Quán” có nghĩa là đối trước cảnh. Xúc là đă đối cảnh (對境, tiếp nhận cảnh). Thọ là lănh nhận, lănh nhận tiền cảnh. Tưởng là nắm giữ lấy tướng cảnh giới. Tư là khởi tâm tạo nghiệp. Năm loại này đồng thời cùng khởi, cho nên gọi là Biến Hành.

          Vương luân thứ chín của vua Sát-đế-lợi: Vị quốc vương ấy có trí huệ to lớn, tự ḿnh trước hết xem xét trong nước ấy, chủng tánh, tài khéo, sự khéo léo, quốc gia ấy làm sự nghiệp ǵ, cho đến nhân dân trong quốc gia ấy “tử thử, sanh bỉ” tức là từ nơi này chết đi, sanh vào nơi kia. Cái trí huệ biết họ “chết ở nơi này, sanh vào nơi kia” chẳng phải là Túc Mạng Trí, nhà vua hoàn toàn chẳng biết “từ thế giới này chết đi, sẽ sanh vào thế giới nào”, mà là căn cứ trên các nghiệp họ đă làm, căn cứ theo những chuyện họ đă làm khi c̣n sống bèn có thể phán đoán. Những chuyện họ đă làm trong hiện tại là nhân; trong tương lai, họ sanh đến nơi kia là quả. [Cụ thể là] sanh đến chỗ nào, ông ta không phán định được; vị quốc vương ấy chẳng có Túc Mạng Trí và Tha Tâm Trí. Ở đây là nói khi ông ta quan sát, bèn quan sát nhân dân trong quốc gia ấy đă gieo cái nhân tốt hay xấu, hiện thời họ hứng chịu cái quả. V́ sao phải hứng chịu cái quả như vậy? Do quá khứ đă gieo cái nhân không tốt. Biết nhân quả quá khứ của họ là thù thắng hay kém hèn? Hiện thời, v́ sao có sự khác biệt như vậy? Từ cái quả của quá khứ, sẽ có thể biết cái nhân đă làm trong đời này: Sanh trong một gia đ́nh tốt đẹp, hay sanh vào một gia đ́nh không tốt. Như thế nào là một gia đ́nh tốt đẹp? Như thế nào là một gia đ́nh không tốt đẹp? Hoàn toàn chẳng phải là luận định theo của cải.

          Tại Ấn Độ, sanh trong chủng tánh Bà-la-môn th́ là gia đ́nh tốt đẹp, có kiến thức, có học vấn. Sanh vào chủng tánh Sát-đế-lợi th́ là gia đ́nh phú quư. Nếu sanh trong chủng tánh Phệ-xá hoặc Thú-đà-la, sanh trong nhà đồ tể, sanh trong nhà thợ thuyền, sẽ là hơn kém bất đồng. Có người sanh ra cứ một mực trưởng thành, thân thể rất mạnh khỏe, rất dũng mănh, rất tráng kiện. Có người sanh ra liền ốm đau, quặt quẹo, đó là ư nghĩa của từ “khiếp nhược” (怯弱) [trong chánh kinh]. Có người sanh ra đă rất thông minh, rất lanh lợi, hễ học nghề khéo nào liền thông hiểu. Có kẻ học rất khó, rất đần. Giống như trong thuở trước, công nhân theo thầy học ba năm, có người học một năm đă hiểu, mỗi người mỗi khác!

          Do vậy làm lành, làm ác, phú quư, nghèo hèn, sanh ra đoan chánh, hoặc xấu xí, thô kệch, đủ mọi chủng loại, cho đến mạng chung, cũng là thọ mạng mỗi người khác biệt. Có người v́ nghề nghiệp của chính ḿnh, mạng chưa đáng chết mà lại chết mất. Đó là thọ mạng chưa tận, mà lại đoản mạng chết đi. Duyên tận bèn chết th́ là chết chánh đáng. Tục gia có cách nh́n như thế này: Nếu chết trong nhà của chính ḿnh th́ gọi là “thọ chung chánh tẩm” (壽終正寢). Nếu chết ở bên ngoài, là do quư vị tạo nghiệp, chẳng thể “thọ chung chánh tẩm”, chết trong khi đang lưu lạc. Nếu phạm phải phép vua, bị chặt đầu, hoặc bị phán h́nh phạt treo cổ. Đấy là “chết v́ h́nh lục”. Họ do giết hại lẫn nhau mà chết, hoặc là bị roi gậy quật đánh mà chết. Bị trách phạt, hoặc do đấu đá với kẻ khác, hoặc bị giam cầm, chết trong tù ngục. Cho đến cả một đời u ám, chết trong nhà giam. Hoặc là v́ học nghề khéo, bất luận học nghề nào, v́ lỡ lầm gây nên thương tích mà chết. Cũng có trường hợp như vậy. Hoặc là quân trận đôi bên giao chiến mà chết. Hoặc là xô xát do căi lộn với người khác mà chết. Hoặc v́ tham luyến của cải mà chết.

          Đối với chuyện tham luyến của cải này, tôi kể một câu chuyện: Có một vị lăo ḥa thượng suốt đời chắt mót được một đĩnh bạc, chẳng cẩn thận, làm rớt xuống nhà cầu. Do tiếc nuối đĩnh bạc ấy, bèn chết đi. Sau khi mạng chung, ông ta biến thành một con ếch ở dưới hầm cầu, ôm đĩnh bạc ấy. Vị thầy Tri Khách trong ngôi chùa ấy rất có thần thông, rất có trí huệ, biết vị lăo ḥa thượng ấy chết rất bất thường, bèn mời người đào nhà cầu ấy lên. Hầm cầu trong chùa ở Đại Lục rất sâu, đào lên rất tốn công. Đào vét sạch cái hầm ấy, mới lấy ra được, niệm kinh hồi hướng, cầu nguyện cho ông ta, dùng đĩnh bạc ấy v́ ông ta làm Phật sự, giúp cho ông ta siêu độ. Vị lăo ḥa thượng ấy may mắn gặp vị sư Tri Khách ấy. Nếu chẳng gặp, sẽ vĩnh viễn đọa trong đó để mà tham tiếc. V́ tham luyến tiền tài mà chết giống như thế, thường là những kẻ làm kinh doanh thất bại, tiền của đều tổn thất, hoặc do cái tâm nuối tiếc của báu bị mất đi. Do toàn bộ tâm lực chú ư vào đó, hễ mất đi, mạng người ấy cũng chấm dứt theo. Đó là do tham keo tài sắc mà chết vậy!

          Hoặc là v́ sắc dục mà chết. Có người luyến ái chẳng thành, u buồn mà chết. Có người luyến ái đă thành, cũng v́ tham dục mà chết. Hoặc bị người khác hăm hại, tâm lư chẳng cân bằng được, không có sức chống lại kẻ đó, bèn phẫn hận, ưu uất mà chết. Đủ loại chết như vậy. Hoặc là do mệt nhọc, kiệt sức mà chết, hoặc là đói khát, thiếu thốn, suy kiệt mà chết. Hoặc là có lỗi mà chết, không có lỗi mà chết. Hoặc chết vào lúc tuổi già, hoặc chết trong thuở tráng niên, hoặc chết khi c̣n tấm bé. Hoặc là có thiện nghiệp mà chết, có kẻ mang ác nghiệp mà chết.

          Vị vua Sát-đế-lợi ấy căn cứ vào các loại t́nh huống tử vong để phán đoán. Ông ta nói hữu t́nh do tạo thiện nghiệp, khi thân hoại, mạng chung, nhất định sẽ sanh vào chốn lành, sanh trong đường trời người. Nếu là kẻ rất ác, làm ác lắm nỗi, kẻ ấy thân hoại, mạng chung, nhất định sanh vào tam ác đạo. Ông ta thấy sự t́nh trong xă hội, thấy rất rơ ràng. Bất quá, chỉ giới hạn trong ṿng nhân dân của đất nước ḿnh. Nói theo Phật giáo, không chỉ là một vị vua Sát-đế-lợi, chúng ta nh́n vào thế gian, xem toàn thể nhân gian, chuyện này thuộc vào pháp Tứ Đế. Lại nói nó là pháp thế gian. Hết thảy Phật pháp chẳng rời thế gian. Phật pháp do đức Phật đă nói chính là v́ thế gian mà kiến lập pháp xuất thế gian.

          Chúng ta có rất nhiều người sống đến sáu mươi mấy tuổi, trải qua rất nhiều chuyện trong thế gian. Kinh này nói đến các loại chết là nói đến thọ mạng khác biệt, có các loại chết [khác nhau]. Thuở ấy, c̣n chưa có tai nạn xe cộ. Nếu có tai nạn xe cộ, nhất định là sẽ có trường hợp chết v́ tai nạn xe cộ. Có đủ loại tai nạn xe cộ, cũng có trường hợp chết v́ máy bay. Thuở đó, chỉ có thuyền, qua sông bị chết đuối th́ có, nhưng công cụ để qua sông khác biệt. Giống như chúng ta ngồi thuyền lớn, thuyền chạy bằng máy, rất tốt. Thuyền gỗ trước kia cũng khá lắm. Nếu mọi người sống tại Tây Tạng, lúc qua sông ở vùng Khang Tây[8] phải ngồi thuyền, sẽ khiến quư vị sợ chết khiếp! Thuyền ǵ vậy? Thuyền bằng da ḅ. Một lớp da ḅ được lột ra, dùng bốn cọc gỗ để căng ra, đem phơi khô, dùng nó [bọc khung gỗ làm thành thuyền] để vượt sông. Họ chèo như thế này: Mỗi bên có một mái chèo. Đi về phía này th́ chèo bên này, đi về phía bên kia th́ chèo bên kia. Ngồi trong thuyền sẽ khiến quư vị sợ run lập cập. Sóng dồn tới, thuyền sẽ bị tung lên rất cao. Sóng rút xuống, thuyền lại trầm xuống. Nếu gặp sóng dữ, nước ùa vào, sẽ bị nhấn ch́m. Nhấn ch́m th́ cũng chẳng có cách nào hết.

          Đây là nói về các loại chết, chết đủ mọi cách, mọi dạng. Vị đại vương quán đảnh Sát-đế-lợi này, khi tu phước, đă quan sát đủ loại hiện tượng trong quốc giới, bèn tư duy. Ông ta nói: “Sanh mạng vô thường, chẳng thể làm chuyện xấu, chỉ nên làm chuyện tốt. Ta phải nên theo con đường chánh xác, siêng năng, dũng cảm tu hành”. “Ngă đương chánh cần” (ta nên siêng năng chánh đáng): “Chánh” là chánh xác, chẳng phải là tà ma, ngoại đạo. Tự ḿnh tu thiện hạnh nơi thân. Thiện hạnh nơi thân là thân nghiệp. Thiện hạnh là không giết, không trộm, không tà dâm. Tu thiện hạnh nơi lời ăn tiếng nói, tức là tu cái miệng, chẳng nói dối, chẳng nói thêu dệt, chẳng nói thô ác, chẳng nói đôi chiều. Đấy là tu ngữ thiện nghiệp. Tu thiện hạnh nơi ư là chẳng tham, chẳng sân, chẳng si. Ngoài ra, c̣n phải hành các loại bố thí, sắp đặt đủ loại phương tiện. Tu bố thí th́ cũng phải là phương tiện thiện xảo, điều phục cái tâm của chính ḿnh. Nhà vua có thể đắc Định, điều ḥa hơi thở, khiến cho cái tâm lắng xuống. Như vậy th́ tới khi thân hoại, mạng chung, sẽ có thể sanh vào đường lành, chẳng đọa trong nẻo ác. Vị vua Sát-đế-lợi quán đảnh tư duy về chuyện này; sau đó, ông ta dũng mănh, tinh tấn. Tu thiện hạnh nơi ba nghiệp thân, ư, ngữ, hành thiện đạo. Thường hành bố thí, bố thí ǵ vậy? Thức ăn, quần áo, hết thảy các công cụ giao thông, voi, ngựa, xe cộ, cho đến đồ trải để ngủ, cho đến thuốc men cho người mắc bệnh, bố thí nhà cửa, bố thí đèn chiếu sáng, cho đến hết thảy các vật dụng cần thiết cho cuộc sống, tùy sức mà hành.

          Vua quán đảnh Sát-đế-lợi có sức mạnh ấy, nhưng hiện thời, ông ta chẳng làm quốc vương, lúc đó, ông ta là người tu hành. Do sự tu hành, tư duy, thí xả, chẳng tạo các nghiệp ấy, cho nên ĺa khỏi sát sanh, ĺa khỏi chẳng cho mà lấy, ĺa dục tà hạnh, cũng tức là ĺa khỏi giết, trộm, dâm. Thân chẳng làm giết, trộm, dâm, miệng ĺa lời lẽ hư dối, lời thô ác, lời ly gián, lời tạp uế. Chúng ta gọi lời lẽ tạp uế là ỷ ngữ (綺語, nói thêu dệt). Lời ly gián chính là nói đôi chiều, lời thô ác là ác khẩu, lời hư dối là vọng ngữ. Ĺa các tham dục, ĺa các sân khuể, ĺa các tà kiến, cũng là ĺa tham, sân, si.

 

          (Kinh) Do thị nhân duyên, thử Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương, đương hoạch thập chủng công đức thắng lợi. Hà đẳng vi thập? Nhất giả, cụ đại danh xưng. Nhị giả, cụ đại tài bảo. Tam giả, cụ diệu sắc tướng. Tứ giả, cụ đa quyến thuộc. Ngũ giả, thiểu bệnh, thiểu năo. Lục giả, bằng hữu, quyến thuộc thông huệ, đa văn. Thất giả, chánh chí, chánh hạnh, thân cận cúng dường. Bát giả, quảng mỹ thanh dự, lưu chấn thập phương. Cửu giả, đại oai đức thiên thần thường tùy vệ hộ. Thập giả, thân hoại, mạng chung, đương sanh thiên thượng, thường cư thiện thú, An Lạc quốc độ. Thiện nam tử! Sát-đế-lợi chủng quán đảnh đại vương thành tựu như thị đệ cửu vương luân.

          ()由是因緣,此剎帝利灌頂大王,當獲十種功德勝利:何等為十?一者、具大名稱;二者、具大財寶;三者、具妙色相;四者、具多眷屬;五者、少病少惱;六者、朋友眷屬,聰慧多聞;七者、正至正行,親近供養;八者、廣美聲譽,流振十方;九者、大威德天神,常隨衛護;十者、身壞命終,當生天上,常居善趣安樂國土。善男子,剎帝利種灌頂大王,成就如是第九王輪。

          (Kinh: Do nhân duyên ấy, vị đại vương Sát-đế-lợi được quán đảnh ấy sẽ đạt được mười loại lợi ích công đức thù thắng. Những ǵ là mười? Một là trọn đủ danh xưng to lớn. Hai là trọn đủ của cải to lớn. Ba là trọn đủ sắc tướng mầu nhiệm. Bốn là có nhiều quyến thuộc. Năm là ít bệnh, ít phiền năo. Sáu là bạn bè, quyến thuộc thông minh, trí huệ, đa văn. Bảy là chánh chí, chánh hạnh thân cận, cúng dường. Tám là thanh danh đẹp đẽ rộng lớn, vang rền mười phương. Chín thiên thần có oai đức lớn thường theo bảo vệ. Mười là khi thân hoại, mạng chung, sẽ sanh lên trời, thường ở trong đường lành, hoặc cơi An Lạc. Này thiện nam tử! Đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi đă được quán đảnh thành tựu vương luân thứ chín như thế).

 

          Do nhân duyên mười nghiệp thanh tịnh, quán đảnh đại vương Sát-đế-lợi đạt được mười loại công đức thù thắng. Không chỉ riêng ḿnh ông ta, bất cứ hữu t́nh chúng sanh nào, nếu hành Thập Thiện Nghiệp, tùy thuộc người ấy hành Thập Thiện Nghiệp như thế nào, có sâu, có cạn. Như chúng ta thọ Ngũ Giới, đối với giới ĺa tà dâm, nếu người ấy tŕ giới, ngay cả chánh dâm cũng không dâm, sẽ có thể sanh về Phạm Thiên. Người ấy chẳng nói dối, nói lời chân thật, chẳng nói lời châm ng̣i ly gián, tận lực nói lời tốt lành, khiến cho người khác hiền ḥa, tốt đẹp. Đấy là người ấy đă đảo ngược [những tập khí xấu ác], đó là công đức của người ấy, ai cũng gọi người ấy là “đại thiện nhân”, thanh danh đẹp đẽ. V́ người ấy bố thí, sẽ có thể được giàu to. Quả báo của bố thí là sẽ giàu có. Chúng ta cho rằng xả rồi sẽ chẳng có, khéo tương phản là trong tương lai, quư vị sẽ đạt được của cải to lớn. Có của cải là do phước đức chiêu cảm, hoặc do tu hành chiêu cảm. Quư vị chẳng có phước báo, hết thảy của cải đều chẳng thuộc về quư vị!

          Mọi người biết hoàng đế cuối cùng của nhà Măn Thanh là Tuyên Thống (Phổ Nghi). Về sau, lúc ông ta ngồi tù, chỉ có một người cháu trai theo ông ta. Người cháu ấy một mực theo ông ta đến cùng, cũng ở tù cùng với ông ta. Cháu ông ta hoàn toàn chẳng phạm tội ǵ, từ nhỏ đă ở bên cạnh chăm sóc ông ta, theo ông ta đi tù để có thể chăm sóc cuộc sống cho cựu hoàng. Anh ta và chú ḿnh cất giấu rất nhiều thứ quư báu, chuyển từ trong cung ra, một mực cất giấu. Từ lúc sang Liên Sô cho đến khi về nước, Liên Sô chẳng tịch thu, đảng Cộng Sản [Trung Quốc] chẳng tịch thu, vẫn cho anh ta giữ, tùy ư anh ta bán cho ai cũng được. Về sau, anh ta hiến toàn bộ cho nhà nước. Năm trước, tôi trở về Nam Phổ Đà, có gặp anh ta. Nay anh ta đang học vẽ, có họ là Ái Tân Giác La[9], biến thành một họa sĩ.

          Sau khi Phổ Nghi mất, đảng Cộng Sản đối xử với anh ta cũng khá khoan dung. Sau khi tốt nghiệp học viện nghệ thuật, anh ta làm họa sĩ. Ở Nam Phổ Đà, tôi có gặp anh ta, tôi nói: “Trở về Cố Cung, anh có cảm tưởng như thế nào?” Nếu Phổ Nghi không chết, vẫn làm hoàng đế, kể như anh ta là Thái Tử. Phổ Nghi chết rồi, sẽ do anh ta tiếp nhận [ngôi báu]. Anh ta nói: “Hết thảy vô thường, cũng chẳng thuộc về chúng ta, rốt cuộc sẽ thuộc về ai?” Anh ta học Phật đă rất lâu, hiểu được đạo lư ấy, Tôi lấy anh ta làm thí dụ, v́ rất nhiều người mong cầu của cải, nói món đồ chi đó là bảo bối, rất đáng tiền. Ngay lập tức, quư vị sẽ có cách nh́n khác, sẽ đặc biệt bảo vệ món đồ ấy, sợ bị mất đi. Thật ra, quư vị chẳng thể bảo vệ được món đồ ấy. Hiện thời, trân bảo của Cố Cung rải rác khắp thế giới. Các món trân bảo ấy do đâu mà có? Khi một triều đại hoàng đế có phước, sẽ có người khai thác của báu từ trong biển dâng lên, cũng có món đồ do ngoại quốc tấn cống. Long vương, quỷ thần đều biến thành người b́nh phàm đến dâng của báu. Khi phước báo đă hết, thứ ǵ cũng đều chẳng c̣n, chỉ sợ bát cơm cũng biến thành vấn đề. Trân bảo là ǵ? Ăn no là trân bảo!

          Đại ca Phổ Nghi, tại Bắc Kinh, [mọi người] thường gọi ông ta là Đại A Ca[10]. Trước kia ông ta hút nha phiến (thuốc phiện), hút bạch phiến (heroin), [gia sản] vẫn có thể cầm cự, chẳng đến nỗi suy sụp nhanh như thế. Nhưng ông ta bài bạc, trong một đêm, thua mất một vạn, hai vạn đồng. Toàn chơi những canh bạc lớn, bán sạch đại vương phủ lẫn các phủ trạch. Thua sạch rồi, chẳng có tiền th́ làm ǵ? Thuở ấy, Bắc Kinh nói “kéo xe”. Ông ta phải đi kéo xe. Ai nấy đều biết, đó là Đại A Ca kéo xe! Thuở ấy, ông ta là thân vương, khi quư vị phước báo đă mất, cái ǵ cũng chẳng có! Quư vị chẳng thể dùng cân năo để tích tụ được của cải đâu nhé, nhất định phải hiểu đạo lư này!

          “Cụ diệu sắc tướng” (trọn đủ sắc tướng mầu nhiệm): Trưởng thành rất đẹp đẽ, ai trông thấy cũng đều hoan hỷ, lại c̣n hết sức cung kính. Có những kẻ xấu xí, thô kệch, nên bị kẻ khác xem thường. Nếu kẻ đó có nội đức th́ c̣n được. Nếu nội đức cũng chẳng có, sẽ chẳng được người khác cung kính. “Diệu sắc tướng là sắc tướng thù diệu, chẳng b́nh phàm! Có nghĩa là vị quốc vương ấy nếu có thể làm các thiện sự đó, tức là thực hiện tốt đẹp Thập Thiện Nghiệp, thậm chí c̣n hành bố thí, th́ trong hiện đời, sẽ có được mười thứ lợi ích: Trọn đủ tiếng tăm to lớn, trọn đủ của cải to lớn, trọn đủ sắc tướng mầu nhiệm, quyến thuộc đông đảo. Mọi người đừng nghĩ “quyến thuộc” chỉ là con cái, hay lục thân của chính ḿnh, trọn chẳng phải là như vậy. Chúng ta là đệ tử đức Phật, đều là quyến thuộc của đức Phật, tức quyến thuộc của Thích Ca Mâu Ni Phật. Nếu chúng ta sanh vào thế giới Cực Lạc, sẽ lại thay đổi, sẽ là quyến thuộc của A Di Đà Phật. Đấy cũng là quyến thuộc của Phật, là đệ tử Tam Bảo. Bất luận phá giới, thậm chí trái nghịch Tam Bảo, Phật vẫn nhiếp thọ quư vị, quư vị vẫn là quyến thuộc của Phật. Nếu quư vị tŕ giới thanh tịnh, nương theo Tam Quy, hành Thập Thiện, sẽ là quyến thuộc tốt. Quyến thuộc của đức Phật không nhất định mỗi người đều là đại Bồ Tát. Trong thời Mạt Pháp, quyến thuộc của đức Phật là tứ chúng đệ tử. Có rất nhiều kẻ xấu, nhưng đức Phật chẳng vứt bỏ họ. Nói chung là do thiện căn, trong tương lai, cũng sẽ được nhiếp thọ. V́ thế, vị quốc vương ấy làm nhiều chuyện tốt đẹp như vậy, quyến thuộc của quốc vương đặc biệt đông đảo. Quốc dân trong quốc gia đều là quyến thuộc của nhà vua.

          Loại công đức thứ năm là ít bệnh, ít khổ năo. Rất ít sanh bệnh, rất ít phiền năo. Thậm chí tất cả cảnh giới bên ngoài đều chẳng thể khiến cho vua cáu kỉnh, đều khiến cho vua ít phiền năo. Vua có chánh niệm hiện tiền, đương nhiên là ít bệnh, ít phiền năo. Bằng hữu và quyến thuộc của vua cũng đều có trí huệ. Lại c̣n đa văn, đa văn là nói đến chuyện nghe pháp. Chúng ta mở rộng thêm một chút, sẽ là có tài khéo công nghệ thế gian, các loại kỹ thuật đều học được toàn bộ. Ông ta thông minh, “đa văn” là nghe nhiều pháp. Chánh trí, chánh hạnh, ông ta làm toàn chuyện tốt, đều là các hành vi chánh thường, đều chẳng ĺa khỏi Thập Thiện, nói chung là như thế đó. Thân cận cúng dường Phật, Bồ Tát, cúng dường Tam Bảo, cho đến cúng dường, thí xả cho hết thảy mọi người.

          “Quảng mỹ thanh dự, lưu chấn thập phương” (Tiếng tăm rộng lớn đẹp đẽ vang dội khắp mười phương): [Thanh danh của] vị thiện vương ấy cho đến hiện tại vẫn c̣n được lưu truyền, như vua A Dục (Aśoka Maurya) tạo tám vạn bốn ngàn ṭa Phật tháp, trọn khắp thế giới Sa Bà. Trên trời, trong nhân gian, và cung rồng đều có. Nhân gian kể ra vẫn c̣n rất ít. Tại Trung Hoa, chỉ có chùa A Dục Vương ở Ninh Ba. Các nơi khác cũng nói là có xá-lợi của đức Phật, hoàn toàn chẳng thể khảo cứu được. Hiện thời, răng Phật[11] c̣n có thể khảo chứng. Xá-lợi lóng xương ngón tay của Phật ở chùa Pháp Môn c̣n có thể khảo chứng. Đối với [nơi thờ] xá-lợi đức Phật [tại Trung Hoa], chỉ có chùa A Dục Vương do vua A Dục kiến tạo là có một hạt, nhưng trong Phật đường của nhân gian, xá-lợi Phật quá nhiều. Đây cũng là xá-lợi Phật, mà kia cũng là xá-lợi Phật.     

          Lúc tôi ở Đài Bắc, có một đệ tử nói: Có người lấy được xá-lợi Phật đem bán, ông ta mua rất nhiều xá-lợi của Phật, đầy cả một b́nh, đem thờ ở đó! Quư vị coi đó là xá-lợi Phật để thờ phụng cũng được, ngay cả h́nh tượng vẽ trên giấy cũng đều là xá-lợi của Phật. Thế nhưng, xá-lợi Phật thật sự chỉ có một viên. Đối với tiếng tăm danh vọng, tôi nêu vua A Dục làm thí dụ. Như Đường Thái Tông được tất cả mọi người xưng tụng là “hiền quân” (vua hiền) hoặc “thánh quân”. Đời Đường, Phật pháp đặc biệt hưng thịnh. Gần đây nhất là vị hoàng đế tương đối hưởng phước là vua Càn Long, làm vị thái b́nh thiên tử suốt sáu mươi năm. Chuyện ǵ cũng đều chẳng phải làm, lo làm thơ, vui chơi, ngắm phong cảnh. Đó là chuyện ông ta phải làm! Làm hoàng đế kiểu đó rất sung sướng. Sau ông ta, hai ba đời vua vẫn c̣n khá. Đó là quả báo thanh danh rộng lớn, đẹp đẽ!

          “Cửu giả, đại oai đức thiên thần thường tùy vệ hộ” (Chín là bậc thiên thần có oai đức lớn thường theo hộ vệ): Người ấy chẳng thấy được. Tại Bắc Kinh, [dân chúng] thường kể những câu chuyện về Càn Long. Quan Thánh Đế Quân chỗ nào cũng có miếu thờ; là do chánh lệnh của Càn Long ban xuống, ấn định thành pháp luật quốc gia: “Mỗi huyện, mỗi thôn làng đều dựng miếu Quan Đế”. V́ sao dựng miếu Quan Đế? Vào thời Càn Long mới khởi đầu [xây dựng], trước kia, cũng chẳng có. Sau này, quư vị tới từng thôn trấn đều có miếu Quan Đế. Quan Đế thánh quân cũng hiển thánh, v́ Quan Đế thánh quân bảo vệ vua Càn Long. [Chuyện kể rằng]: Có một hôm khi vua thượng triều, nghe đằng sau có tiếng vũ khí, ông ta chẳng cho đó là có người ám sát, mà biết đó là thần đến bảo vệ ông ta. Vua hỏi: “Ai hộ giá? Ai đến bảo vệ ta?” Sau lưng vua có tiếng đáp: “Nhị đệ Vân Trường”. Ông ta biết chính ḿnh là Lưu Bị chuyển thế. Hoàng đế đều rất thông minh, bèn hỏi: “Tam đệ (Trương Phi) ở đâu?” Quan Công đáp: “Trấn thủ Liêu Dương”, cũng chính là Liêu Dương ở miệt Đông Bắc. Bất quá, vị tướng quân trấn thủ Liêu Dương chẳng có phước báo. Càn Long nghe nói, liền điều vị ấy vào kinh. Do tâm vua nôn nóng bèn dùng kim bài để vời. Sau khi nhận được kim bài, [vị tướng quân] ấy lập tức phải lên đường, ngày đêm rong ruổi. Đó gọi là “kim bài điều”. Bị điều động, vị tướng quân ấy cho rằng chính ḿnh đă phạm lỗi lầm rất lớn. Nếu không, sao [triều đ́nh] lại dùng kim bài để điều động? Ông ta uống thuốc độc tự sát. Đây là một câu chuyện cũ. Đó là “đại oai đức thiên thần thường tùy thủ hộ”.

          Như trong lúc chúng ta thọ giới, quư vị thọ Tam Quy, thọ Ngũ Giới, sẽ có hộ pháp thiện thần hộ tŕ quư vị. Quư vị vừa phá giới, họ liền rời khỏi quư vị. Phàm là người thọ Tam Quy, Ngũ Giới, sẽ gặp nguy nan rất ít. Tại Bắc Kinh thuở đó, có một vị ḥa thượng hút thuốc phiện, lúc chết th́ vẫn chết trong ngôi chùa ấy. Vào thời đó, Nhật Bản xâm lược [Trung Hoa], sau khi họ đă chiếm Bắc Kinh, tôi c̣n ở Bắc Kinh, có rất nhiều ḥa thượng hút thuốc phiện. Trong chùa c̣n có tiền [th́ chưa sao], lúc hết tiền, họ bèn bán chùa từng chỗ một. Những ngôi chùa ấy đều rất lớn. Họ tùy tiện bán một ít đất đai, đủ cho họ hút một, hai năm, nhưng họ cũng chẳng đến nỗi chết vật vạ trên đường phố!

          Ở quê hương tôi có lời đồn, mùa Đông lạnh mấy chục độ âm, hành tây bị đông cứng, nhưng không chết, vẫn sống như thường. Có bao nhiêu tai ương, bao nhiêu tai nạn, vẫn chưa thấy có ḥa thượng phải lê lết, lêu bêu ngoài đường. Tục ngữ có câu: “Ngạ bất tử tăng, đống bất tử thông” (Tăng chẳng chết đói, hành chẳng chết v́ lạnh). V́ thế có người nói: “Chẳng có cơm ăn bèn xuất gia làm ḥa thượng!” Ở phương Bắc, phong tục này rất nặng. Thuở ấy, tại các chùa ở nông thôn, ḥa thượng không ăn chay, đều ăn mặn. Tuy rằng trong chùa không cho phép ḥa thượng cưới vợ, nhưng họ cũng chẳng thọ giới, c̣n có “ngoại gia”. Ngoại gia là ǵ? Nhà của họ ở bên ngoài, chẳng ở trong chùa. Đó gọi là “ngoại gia”. Thời Mạt Pháp là như vậy đó.

          Đối trước hiện tượng này, đức Phật chẳng cho phép hủy báng họ, không chấp thuận hành h́nh họ, không chấp thuận dùng phép nước để xử phạt họ, v́ họ thuộc chủng tánh Tam Bảo. Nếu quư vị làm thiện nghiệp, sẽ có bậc oai thần đến hộ pháp cho quư vị. Khi quư vị thân hoại, mạng chung, sẽ sanh lên trời, thường ở trong đường lành. “Quốc độ an lạc” là nhân gian hoặc trên cơi trời. Đấy là đại vương Sát-đế-lợi đă được quán đảnh thành tựu vương luân thứ chín như thế đó.

 

          (Kinh) Do thử luân cố, linh tự quốc độ tăng trưởng an lạc, năng phục nhất thiết oán địch, ác hữu, thiện thủ hộ thân, linh tăng thọ mạng. Thiện nam tử! Như thị Như Lai như thật liễu tri nhất thiết hữu t́nh tử sanh đẳng sự, vị như thật tri: Nhược chư hữu t́nh, thành thân ác hạnh, thành ngữ ác hạnh, thành ư ác hạnh, phỉ báng hiền thánh, cụ túc tà kiến, tà kiến nghiệp nhân, thân hoại, mạng chung, đọa chư ác thú, hoặc sanh địa ngục, hoặc sanh bàng sanh, hoặc sanh ngạ quỷ. Nhược chư hữu t́nh, thành thân thiện hạnh, thành ngữ thiện hạnh, thành ư thiện hạnh, bất báng hiền thánh, cụ túc chánh kiến, chánh kiến nghiệp nhân, thân hoại, mạng chung, thăng chư thiện thú, hoặc sanh thiên thượng, hoặc sanh nhân trung, hoặc tận chư lậu. Như Lai như thị như thật tri dĩ, ư bỉ chúng sanh, khởi đại từ bi, dũng mănh, tinh tấn, hiện tam thần biến, linh bỉ chúng sanh, quy thú Phật pháp, giáo giới an trí, thành lập thế gian xuất thế gian tín.

          ()由此輪故,令自國土增長安樂,能伏一切怨敵惡友,善守護身,令增壽命。善男子,如是如來如實了知一切有情死生等事,謂如實知:若諸有情,成身惡行,成語惡行,成意惡行,誹謗賢聖,具足邪見,邪見業因,身壞命終,墮諸惡趣,或生地獄,或生傍生,或生餓鬼;若諸有情,成身善行,成語善行,成意善行,不謗賢聖,具足正見,正見業因,身壞命終,升諸善趣,或生天上,或生人中,或盡諸漏。如來如是如實知已,於彼眾生起大慈悲,勇猛精進,現三神變,令彼眾生歸趣佛法,教誡安置,成立世間、出世間信。

          (Kinh: Do v́ luân này, khiến cho quốc độ của chính ḿnh tăng trưởng an vui, có thể hàng phục hết thảy oán địch và bạn ác, khéo thủ hộ thân, khiến cho thọ mạng tăng trưởng. Này thiện nam tử! Như Lai biết rơ đúng như thật các chuyện tử sanh v.v… của hết thảy hữu t́nh như thế, tức là biết đúng như thật: Nếu các hữu t́nh thành tựu ác hạnh nơi thân, thành tựu ác hạnh nơi ngữ, thành tựu ác hạnh nơi ư, phỉ báng hiền thánh, trọn đủ tà kiến và nghiệp nhân tà kiến, thân hoại, mạng hết, sẽ đọa vào các đường ác, hoặc sanh vào địa ngục, hoặc sanh làm bàng sanh, hoặc sanh làm quỷ đói. Nếu các hữu t́nh thành tựu thiện hạnh nơi thân, thành tựu thiện hạnh nơi ngữ, thành tựu thiện hạnh nơi ư, chẳng báng hiền thánh, trọn đủ chánh kiến và nghiệp nhân của chánh kiến, thân hoại, mạng hết, sẽ thăng lên các đường lành, hoặc sanh lên trời, hoặc sanh trong loài người, hoặc hết sạch các lậu. Như Lai đă biết đúng như thật rồi, đối với các chúng sanh ấy, dấy đại từ bi, dũng mănh, tinh tấn, hiện ra ba thứ thần biến, khiến cho các chúng sanh ấy quy hướng Phật pháp, sắp đặt các thứ răn dạy, thành tựu niềm tin xuất thế gian trong thế gian).

 

          “Do thử luân cố, linh tự quốc độ tăng trưởng an lạc, năng phục nhất thiết oán địch, ác hữu, thiện thủ hộ thân, linh tăng thọ mạng” (do v́ luân ấy, khiến cho nước ḿnh tăng trưởng yên vui, có thể chế phục hết thảy oán địch và bạn ác, khéo thủ hộ thân, khiến cho thọ mạng tăng trưởng): Vị quốc vương ấy rất tốt, không chỉ tốt đẹp cho riêng ḿnh, mà c̣n khiến cho trong quốc giới ấy chẳng có kẻ làm ác! “Thiện nam tử! Như thị Như Lai như thật liễu tri nhất thiết hữu t́nh tử sanh đẳng sự” (Này thiện nam tử, Như Lai đúng như thật biết rơ những chuyện sanh tử của hết thảy các hữu t́nh): Những chuyện giống như thế, do trí huệ mà đức Phật bèn biết rơ đúng như thật, tức là lư giải xứng tánh. Đối với sanh tử, làm chuyện tốt, hay làm chuyện xấu, đức Phật đều biết. Trong mười loại Trí, [đức Phật] khéo biết chỗ sanh tử của hết thảy chúng sanh. Nếu hết thảy hữu t́nh, thân làm ác, miệng nói ác, ư nghĩ ác, cũng tức là ba thứ ác hạnh nơi thân, ngữ, ư đều thành tựu, ác nghiệp đă thành tựu. Có các chúng sanh ác hạnh hủy báng hiền thánh. Đối với bậc hiền thánh có đức hạnh, họ đều hủy báng, trọn đủ tà kiến. Do cái nhân tà kiến ấy, sau khi họ chết đi, sẽ đọa vào ba ác đạo, sẽ rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. “Hoặc sanh bàng sanh”: Bàng sanh (傍生) là súc sanh. Hoặc sanh làm ngạ quỷ, tức là ba ác đạo.

          Nếu nói ngược lại, các chúng sanh đó “thân thiện hạnh thành, ngữ thiện hạnh thành, ư thiện hạnh thành”, tức là đă thành tựu thiện hạnh nơi thân, thành tựu thiện hạnh nơi ngữ, thành tựu thiện hạnh nơi ư, chẳng hủy báng hiền thánh, cũng chính là chánh tri, chánh kiến, chẳng phải là tà tri, tà kiến. Do các nghiệp nhân ấy, khi họ thân hoại, mạng chung, chỗ họ sanh về sẽ khác hẳn: Sanh vào đường lành, sanh trong nhân gian, hưởng thụ phú quư, vinh hoa. Sanh lên trời th́ sao? Càng tốt hơn sanh trong nhân gian! “Hoặc sanh thiên thượng, hoặc sanh nhân trung” (hoặc sanh lên trời, hoặc sanh trong loài người): Câu này có ư nghĩa bất định, tùy thuộc thiện nghiệp và ác nghiệp của người ấy lớn hay nhỏ. Như Lai đều biết rơ đúng như thật. “Ư bỉ chúng sanh khởi đại từ bi, dũng mănh, tinh tấn, hiện tam thần biến” (Đối với các chúng sanh ấy, dấy đại từ bi, dũng mănh, tinh tấn, hiện ra ba thứ thần biến): Đức Phật biết rơ đúng như thật. Hạng chúng sanh này làm thiện nghiệp, Phật sanh khởi ḷng từ bi nhiếp thọ, hộ tŕ. Nhiếp thọ, hộ tŕ người ấy như thế nào? Khiến cho chúng sanh ấy, tức những chúng sanh tốt lành ấy, những chúng sanh thiện nghiệp đă chín muồi do thần lực của Như Lai, sẽ tiến hướng Phật pháp. Đức Phật sắp đặt răn dạy họ như thế nào? Thành lập niềm tin thế gian xuất thế gian, tức là tuy ở trong thế gian mà tin vào pháp xuất thế gian, kiến lập tín tâm.

 

          (Kinh) Hà đẳng vi tam? Nhất giả, thần thông biến hiện. Nhị giả, kư thuyết biến hiện. Tam giả, giáo giới biến hiện. Do thị tam chủng biến hiện oai lực, khuyến phát hữu t́nh, giáo giới, an trí, thành lập thế gian xuất thế gian tín, linh ư nhất thiết hữu thú tử sanh giai đắc giải thoát.

          ()何等為三?一者,神通變現;二者,記說變現;三者,教誡變現。由是三種變現威力,勸發有情教誡安置,成立世間、出世間信,令於一切有趣死生皆得解脫。

          (Kinh: Những ǵ là ba?Một là thần thông biến hiện. Hai là kư thuyết biến hiện (do chúng sanh nghĩ nhớ pháp nào, bèn hiện thân nói pháp đó). Ba là giáo giới biến hiện (biến hiện răn dạy). Do oai lực của ba loại biến hiện này, khuyên lơn, phát khởi hữu t́nh, răn dạy, đặt yên, thành lập niềm tin xuất thế gian trong thế gian, khiến cho những kẻ tử sanh trong hết thảy các đường đều được giải thoát).

 

          Ba loại thần biến, “hà đẳng vi tam? Nhất giả, thần thông biến hiện. Nhị giả, kư thuyết biến hiện. Tam giả, giáo giới biến hiện (những ǵ là ba? Một là thần thông biến hiện, hai là tùy họ nghĩ nhớ pháp nào sẽ hiện thân nói pháp đó, ba là biến hiện răn dạy): Răn dạy họ hăy khéo tăng thêm thiện hạnh, siêu xuất mười thiện nghiệp, tu tập Thiền Định, cho đến thọ kư, biến hiện thần thông, thọ kư họ trong tương lai, thị hiện Thần Túc Thông, Thần Cảnh Thông, khiến cho tín tâm của họ tăng trưởng. Nếu chúng ta mắc bệnh chẳng trị được, quư vị niệm thành khẩn, cầu nguyện như thế, Địa Tạng Bồ Tát sẽ trị lành cho chúng ta. Chẳng riêng ḿnh quư vị sanh khởi tín tâm thanh tịnh, mà những thân hữu chung quanh cũng sẽ đều sanh khởi ḷng tin thanh tịnh. Cũng có kẻ trông thấy cảnh giới ấy, họ vẫn hủy báng, do họ là hạng chúng sanh căn tánh xấu hèn. Họ là hạng người như vậy đó. Nếu quư vị nói người nào đó do niệm kinh Địa Tạng mà được Bồ Tát gia tŕ, được lành bệnh, hoặc chuyển hóa cảnh sống, kẻ không tin sẽ nói: “Lẽ nào có chuyện ấy? Bệnh ấy vốn có thể chữa lành”. Cũng có kẻ không tin, lư do không tin là v́ căn tánh xấu ác. Người khéo tin là do có lư do để khéo tin. Do vậy, [có những kẻ] dùng thần thông hoặc những tṛ biến hiện lạ lùng để lường gạt người khác, là có các chúng sanh ham chuộng. Nhưng người chánh tín sẽ chẳng đọa vào tà tri, tà kiến. Tuy họ cũng tán thán, tùy hỷ, nhưng cho rằng đấy chưa phải là rốt ráo, nhất định phải hiểu đạo lư này. Phải khuyên lơn, phát khởi hữu t́nh như vậy, sắp đặt sao cho họ thành lập niềm tin xuất thế gian trong thế gian, khiến cho hết thảy “hữu thú chúng sanh” đều được giải thoát. “Hữu thú” (有趣) là lục đạo chúng sanh có nỗi khổ sanh tử, bao gồm trời, người, Tu La, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. “Hữu thú” có sáu đường, ở đây, là nói đến đường ác. Có sanh tử th́ chưa được giải thoát, đều khiến cho bọn họ được giải thoát.

 

          (Kinh) Thiện nam tử, ngă thành như thị đệ cửu Phật Luân. Do thử luân cố, lợi ích an lạc vô lượng hữu t́nh, đắc an ổn trụ, đắc vô kinh khủng, đắc vô sở úy, tự xưng ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, tồi chư thiên ma, ngoại đạo tà luận, xử đại chúng trung, chánh sư tử hống.

          ()善男子,我成如是第九佛輪。由此輪故,利益安樂無量有情,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,摧諸天魔外道邪論,處大眾中正師子吼。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật Luân thứ chín như thế. Do v́ luân này, lợi ích an lạc vô lượng hữu t́nh, trụ trong an ổn, được không kinh hoảng, được chẳng sợ hăi, tự xưng ta trụ nơi địa vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, dẹp tan tà luận của các thiên ma và ngoại đạo, ở trong đại chúng, thực hiện sư tử hống).

 

          Pháp do ta nói đều là chánh pháp, giống như sư tử rống, tà ma và ngoại đạo nghe thấy đều bị khuất phục. Có ư nghĩa ấy!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương, vị trừ tứ châu vô lượng hữu t́nh, chủng chủng thân bệnh, khí xả vương vị. Dĩ chư hương thang mộc dục thân thủ, trước tiên tịnh y, đoan tọa tư duy, ư chư chúng sanh, kỳ tâm b́nh đẳng, từ bi hộ niệm, vị linh giải thoát nhất thiết bệnh cố, dĩ kỳ chủng chủng hương, hoa, kỹ nhạc, cập dư cúng cụ, cúng dường nhất thiết đại oai đức thiên thần. Nhĩ thời, nhất thiết thiên đế, long đế, năi chí Mạc Hô Lạc Già thần đế, tri thị sự dĩ, các tương vị ngôn: “Thử Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương, cụ chư công đức, hữu đại oai thần, ưng tác Luân Vương, thống tứ châu chử. Ngă đẳng nghi ưng cộng văng kiến lập, linh phục vương vị, thống tứ châu chử, linh chư chúng sanh, vô bệnh an lạc”. Thời, chư thiên đế, năi chí Mạc Hô Lạc Già thần đế, tức tiện cộng văng, lập Sát-đế-lợi quán đảnh đại vương Chuyển Luân Vương vị, linh cụ thất bảo, thống tứ đại châu, giai đắc tự tại, thiên tử cụ túc, dũng kiện, đoan chánh, năng tồi oán địch, khóa vương đại địa, hằng cùng hải tế, trích phạt giai đ́nh, đao trượng bất cử, hàm tu chánh pháp, phổ thọ an lạc. Thiện nam tử! Sát-đế-lợi chủng quán đảnh đại vương, thành tựu như thị đệ thập vương luân. Do thử luân cố, ư tứ đại châu, viên cập bát vạn tứ thiên tiểu chử, an lập kỳ trung chư hữu t́nh loại, Thập Thiện nghiệp đạo, thiện thủ hộ thân, linh tăng thọ mạng, thân hoại, mạng chung, đương sanh thiên trung, thọ chư diệu lạc.

          ()善男子,如剎帝利灌頂大王,為除四洲無量有情種種身病,棄舍王位,以諸香湯沐浴身首,著鮮淨衣,端坐思維,於諸眾生,其心平等慈悲護念,為令解脫一切病故,以其種種香華伎樂及餘供具,供養一切大威德天神。爾時,一切天帝、龍帝,乃至莫呼洛伽神帝,知是事已,各相謂言:此剎帝利灌頂大王,具諸功德有大威神,應作輪王,統四洲渚,我等宜應共往建立,令復王位統四洲渚,令諸眾生無病安樂。時諸天帝,乃至莫呼洛伽神帝,即便共往立剎帝利灌頂大王轉輪王位,令具七寶,統四大洲,皆得自在,千子具足,勇健端正,能摧怨敵,跨王大地恆窮海際,謫罰皆停,刀杖不舉,咸修正法,普受安樂。善男子,剎帝利種灌頂大王,成就如是第十王輪。由此輪故,於四大洲,爰及八萬四千小渚,安立其中諸有情類十善業道,善守護身,令增壽命,身壞命終,當生天中,受諸妙樂。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như đại vương Sát-đế-lợi được quán đảnh v́ trừ các thứ thân bệnh cho vô lượng hữu t́nh trong bốn châu, bèn vứt bỏ ngôi vua, dùng các nước thơm tắm gội thân và đầu, mặc áo sạch sẽ, ngồi ngay ngắn tư duy, đối với các chúng sanh, tâm vua b́nh đẳng, từ bi hộ niệm, v́ để giải thoát hết thảy bệnh, dùng các thứ hương, hoa, kỹ nhạc, và các vật cúng khác để cúng dường hết thảy các thiên thần có oai đức lớn. Lúc bấy giờ, hết thảy vua trời, vua rồng, cho đến thần đế Mạc Hô Lạc Già biết sự ấy rồi, đều nói với nhau: “Vị đại vương quán đảnh Sát-đế-lợi này có đủ các công đức, có oai thần lớn, đáng làm Luân Vương thống lănh bốn đại châu, chúng ta hăy nên cùng đến kiến lập, khôi phục ngôi vua, khiến cho ông ta thống lănh bốn đại châu, khiến cho các chúng sanh không bệnh, yên vui”. Khi ấy, các vị thiên đế cho đến Mạc Hô Lạc Già thần đế liền cùng nhau đến, lập đại vương quán đảnh Sát-đế-lợi lên ngôi Chuyển Luân Vương, khiến cho ông ta trọn đủ bảy báu, thống lănh bốn đại châu đều được tự tại, có đủ một ngàn con trai, dũng mănh, tráng kiện, đoan chánh, có thể dẹp tan oán địch, làm vua trọn khắp đại địa, tột cùng ngằn mé biển cả, các loại trừng phạt đều ngừng, đao, gậy chẳng dùng đến, [nhân dân] đều tu chánh pháp, khắp hưởng yên vui. Này thiện nam tử! Đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi đă được quán đảnh thành tựu vương luân thứ mười như thế. Do v́ luân ấy, trong bốn đại châu, cùng với tám vạn bốn ngàn tiểu châu, đặt yên các loài hữu t́nh nơi Thập Thiện nghiệp đạo, khéo thủ hộ thân, khiến cho thọ mạng tăng trưởng, khi thân hoại, mạng chung, sẽ sanh về cơi trời, hưởng các sự vui mầu nhiệm).

 

          Đây là vương luân thứ mười, là pháp thế gian tốt đẹp nhất. Vị đại vương quán đảnh Sát-đế-lợi ấy v́ muốn trừ khử bệnh tật của chúng sanh trong bốn đại bộ châu, bèn “khí xả vương vị” (vứt bỏ ngôi vua), dùng nước thơm tắm rửa thân thể, mặc y phục mới sạch. Nhà vua liền tư duy, tư duy cũng là quán tưởng: Đối với chúng sanh mắc bệnh trong bốn đại bộ châu, phải trừ khử thân bệnh của họ như thế nào? V́ sao có thân bệnh? Thân bệnh là do nghiệp sát sanh nặng nề của họ trong nhiều đời quá khứ, cho nên thân thể mới bị bệnh. C̣n nữa, thân bệnh dễ trị, tâm bệnh chẳng dễ trị. Làm như thế nào đây? Thuyết pháp cho họ, v́ họ giải trừ các loại thân bệnh của hết thảy hữu t́nh trong bốn châu. Sau khi đă tư duy, vua bèn cúng dường các thiên thần có đại oai đức. Đấy là nói đến Ngọc Hoàng Đại Đế, và cũng nói đến tầng trời thứ tư, hoàn toàn chẳng bao gồm Phạm Thiên. V́ “cúng dường thiên đế” là nói đến [vua] tầng trời thứ tư. C̣n có long đế của các long vương, cho đến tám bộ quỷ thần chúng, cho đến thần đế của thần đại măng xà. Mạc Hô Lạc Già là măng thần (蟒神, thần đại măng xà). Ông ta cúng dường những vị thần ấy, mong những vị thần ấy sẽ dùng thần lực để tiêu trừ bệnh tật của hết thảy chúng sanh. Đấy chỉ là thân bệnh, trọn chẳng thuyết pháp.

          Vị quán đảnh đại vương ấy trọn đủ công đức, có oai thần to lớn, đáng làm Chuyển Luân Thánh Vương. Chuyển Luân Thánh Vương ở đây là nói đến Kim Luân Thánh Vương, sẽ làm vua bốn bộ châu. Kim Luân Thánh Vương là vua bốn bộ châu. Ngân Luân Thánh Vương làm vua ba bộ châu. Đồng Luân Thánh Vương làm vua hai bộ châu. Thiết Luân Thánh Vương chỉ có thể làm vua một bộ châu. Hiện thời, trong thế giới này không có thánh vương. Trong thời đại này, dường như cũng chẳng có nghiệp luân của thánh vương! Quốc gia vô đạo, tai họa nhiều lượt dấy lên. Mọi người niệm kinh Nhân Vương Hộ Quốc sẽ biết. V́ công đức và phước đức của nhà vua, các vị thiên thần, thiên đế, long đế, cho đến thần đế của măng xà thần, thần đế của tám bộ quỷ thần, đều cùng nhau tụ hội, thảo luận, nghiên cứu vị Luân Vương này, xem [làm cách nào để] có thể khôi phục vương vị cho ông ta, [để ông ta] có thể làm bậc quán đảnh đại vương, bèn lập ông làm vị đại vương quán đảnh thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi giữ ngôi vị Chuyển Luân Vương, để ông ta làm vua cả bốn bộ châu, trọn đủ bảy món báu. Bảy món báu ấy không phải là vàng, bạc, mă năo, bảo châu v.v… mà là thất bảo (Satta ratanāni) trong Tứ Đại Bộ Châu:

          Một là Luân Bảo (Cakra-ratna). Nếu do phước báo, Luân Vương cảm được [ngôi vị] Kim Luân Vương, các vị quỷ thần, thiên, địa sẽ kiến tạo một cái kim luân. Luân ấy to cỡ nào? Xe Tổng Thống lớn nhất cũng chẳng to bằng cái luân ấy, c̣n to hơn cả tàu thủy. Quyến thuộc của nhà vua, tứ đại binh chủng, bảy báu đều đặt trên cái luân ấy. Thất bảo đều bao gồm trong Luân Bảo. Vua có thể cưỡi cái luân ấy phi hành bốn đại bộ châu: Đông Thắng Thần Châu, Bắc Câu Lô Châu, Tây Ngưu Hạ Châu [và Nam Thiệm Bộ Châu]. Chúng ta chỉ có thể ở Nam Thiệm Bộ Châu v́ ở phía Nam của mặt trời. Phía Bắc của mặt trời là Bắc Câu Lô Châu. Phía Tây mặt trời là Tây Ngưu Hạ Châu, phía Đông của mặt trời là Đông Thắng Thần Châu.

          Đây là thần thoại, kinh Phật trích dẫn thần thoại để thuyết minh về Kim Luân Vương. Chúng ta không cần nói tới tứ đại bộ châu. Một Nam Thiệm Bộ Châu có bao nhiêu chủng tộc, bao nhiêu ngôn ngữ, bao nhiêu tập quán sanh hoạt. Mỗi bộ lạc đều có tập quán sanh hoạt của riêng họ. Quốc độ đă phát triển th́ họ có một thứ ngôn ngữ chung để giao tiếp. Nơi chưa khai phá, có chỗ phi cơ đă bay đến, cũng có chỗ phi cơ chưa bay tới. Đặc biệt là chủng tộc rồng trong biển, có bao nhiêu loại hữu t́nh chúng sanh trong biển? Đối với bốn bộ châu của nhà vua, quư vị phải thông hiểu hết thảy ngôn ngữ. Điều thứ nhất là tập quán sanh hoạt, họ có phong tục bất đồng. Nếu mong thống nhất, há dễ dàng như vậy ư? Thống nhất tứ đại bộ châu chẳng dễ dàng! Nhà vua có thần lực này, đấy là Luân Bảo.

          C̣n có Tượng Bảo (Hasti-ratna), con voi ấy khác hẳn voi b́nh phàm. [Tuy nó] chẳng có thần thông lớn như con voi do Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi, mà là loại Tượng Bảo thông thường. Tượng Bảo là của báu trong loài voi. Con voi ấy là voi báu. C̣n có Mă Bảo (Aśva-ratna), thiên mă bay trên hư không, có nghĩa là ngựa báu, thiên mă có thể bay. C̣n Châu Bảo (Mai-ratna), Châu Bảo tức là Như Ư Bảo Châu (Cintāmaṇi). Tất cả các bảo bối của Luân Vương khác với các thứ của chúng ta. Chúng ta chẳng có Dạ Minh Châu, trong đêm tối phải dùng ánh sáng của đèn. Nếu có một viên Dạ Minh Châu, căn nhà này liền sáng bừng. Chúng ta cũng chẳng có Tỵ Thủy Châu. Bất luận quư vị đến sông, hồ, rạch, biển, hễ dùng Tỵ Thủy Châu, nước liền rẽ làm hai để quư vị có thể đi qua. Ngay cả gió lốc, bất luận băo tố, bất luận loại gió nào, quư vị dùng Định Phong Châu hướng về phía đó, gió đều chẳng c̣n nữa. Luân Vương có các bảo bối ấy, vốn trọn đủ, chúng ta chẳng có phước báo gặp gỡ. Bất quá, các bảo châu ấy đều chẳng bằng viên Như Ư Bảo Châu trong tay Địa Tạng Bồ Tát. Tu thành tựu như Địa Tạng Bồ Tát, quư vị sẽ có được Như Ư Bảo Châu.

          Đấy là thất bảo, c̣n có Nữ Bảo (Strī-ratna). Nữ Bảo cũng là mỹ nữ. Các mỹ nữ ấy hoàn toàn chẳng phải là mỹ nữ tham dục, mà rất thanh tịnh. Mọi người nghe giảng Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, thiên nữ nói móc ngài Xá Lợi Phất là do Bồ Tát hóa hiện. Vị Luân Vương này tuy có đức, vẫn chưa thể cảm Bồ Tát hóa hiện [làm Nữ Bảo]. Mọi người chớ nên nghĩ [Nữ Bảo] là các ca nữ, kỹ nữ, toàn là phường xướng ca! Nếu nghĩ Nữ Bảo là bọn ca nữ trong nhân gian, th́ sẽ chẳng thành của báu. Trong nhân gian, Bảo là ǵ? Bảo là tôn quư, hiếm hoi. Dùng ư nghĩa như vậy để nói về Nữ Bảo.

          C̣n có người tổng chỉ huy quân đội (Chủ Binh Bảo, Pariṇāyaka-ratna), đều ở trên Kim Luân. Vị đại thần ấy có oai thần chẳng thể nghĩ bàn, có thể dẹp tan hết thảy oán địch[12]. Tới lúc ấy, mọi người đều tŕ giới, đều hành Thập Thiện Nghiệp, làm sao có oán địch cho được? Luân Bảo của quốc vương đến đâu, nơi đó đều thanh tịnh, tôn vua làm bậc quán đảnh đại vương. Trọn đủ Thất Bảo, thống lănh tứ đại bộ châu, đều được tự tại. Hễ nói đến vua Sát-đế-lợi, Luân Vương có đủ “thiên tử”, tức là một ngàn đứa con trai, nhưng chẳng phải do cùng một vị phu nhân sanh ra, hoặc là vua có vô lượng phu nhân. Loại t́nh huống này chẳng thể dùng quy chế “một vợ, một chồng” để luận đoán được! Nhà vua thọ mạng cực dài, dũng kiện, lại có một ngàn con trai, nhưng hành hạnh thanh tịnh. Nếu Chuyển Luân Thánh Vương thật sự dâm dục th́ sẽ không được, ông ta cũng chẳng thể làm Chuyển Luân Thánh Vương. Đây là ư cảnh. [Con cái] có khi là hóa sanh. Đă thế, một ngàn đứa con đều dũng kiện, đoan chánh, có thể dẹp tan oán địch.

          Phàm là tứ đại bộ châu do nhà vua thống lănh, cùng tận đến bờ mé của biển cả. Bờ mé của biển chẳng dễ ǵ cùng tận được. Thái B́nh Dương, Đại Tây Dương là các đại dương chúng ta trông thấy, c̣n bảy rặng kim sơn vây quanh núi Tu Di và bảy tầng biển nước thơm, phía ngoài đều là biển cả nước mặn. Có câu tục ngữ rằng: “Tam sơn, lục thủy, nhất phần điền”, ư nói: Ruộng đất chỉ chiếm một phần, ba phần là đất núi non, sáu phần là đất ngập nước. Chỗ ruộng nương có thể trồng trọt chỉ được một phần. Có ai đo lường Thái B́nh Dương rốt cuộc to cỡ nào hay không? C̣n có năm đại dương nữa! Không chỉ là một đại dương, mà c̣n có Ấn Độ Dương, Nam Băng Dương, Bắc Băng Dương. “Hằng cùng hải tế” là ngay cả bờ mé của biển cả đều đạt đến tận cùng. Đó là nói sự thống lănh rộng lớn, ngoài đại địa ra, hết thảy các quả núi, các mé biển. Tới khi ấy, vua chẳng có h́nh phạt, chẳng quở trách, hết thảy các h́nh phạt đều đ́nh chỉ. Cũng chẳng có h́nh cụ để trách phạt, đao trượng chẳng dùng, v́ [tất cả mọi người] đều tu chánh pháp, khắp tất cả đều hưởng yên vui. Do vậy, vị vua quán đảnh ấy thành tựu vương luân thứ mười.

          Do v́ luân này, ở trong tứ đại châu cho đến trọn khắp tám vạn bốn ngàn tiểu chử (小渚), tức là các tiểu châu. Tám vạn bốn ngàn tiểu châu, tiểu quốc gia có tám vạn bốn ngàn nước. Đây là nêu ra con số tổng quát, an lập trong đó. Các loài hữu t́nh ấy đều hành Thập Thiện Đạo, đều giữ ǵn thân ḿnh, thọ mạng tăng trưởng, thân hoại, mạng chung, chẳng đọa vào ba ác đạo. Khi đó, Kim Luân Vương thống lănh nhân dân đều hành Thập Thiện Nghiệp. Khi hết thọ mạng, đều sanh lên cơi trời, chẳng đọa vào ba ác đạo. Kinh Phật chỉ nói như vậy, rốt cuộc có bao nhiêu Kim Luân Vương xuất thế, hoàn toàn chẳng ghi chép. Tối thiểu là trong quốc độ này, chẳng thấy ghi chép. Thiết Luân Vương cũng chẳng có. Thuở ấy, chỉ nói “suất độ chi tân, mạc phi vương thổ” (khắp cả bờ cơi, không ǵ chẳng phải là đất của nhà vua). “Phổ thiên chi hạ” (dưới trọn khắp bầu trời) [trong cách nói của đế vương Trung Hoa thời cổ] gần như chỉ là [đất đai] ở hai bên bờ Hoàng Hà mà thôi. Lănh thổ cai trị của Tam Hoàng Ngũ Đế rất nhỏ. Đó là tọa tỉnh quán thiên” (ngồi dưới đáy giếng nh́n trời, ếch ngồi đáy giếng), chẳng biết lănh thổ của người khác ở ngoài lănh thổ của ḿnh to cỡ nào. Ư nghĩa là như vậy đấy, hiểu ư nghĩa bao hàm ấy là được rồi!

          Đây là dùng Phật nhăn để nh́n. Trong quốc độ tốt đẹp như thế, vào lúc tứ đại châu đều tốt đẹp, hoặc là khi đại châu được kiến lập đă hơn vạn vạn năm, đức Phật xuất thế thọ tám vạn năm, cũng có khi Phật trụ thế suốt một kiếp. Những lúc đó, có thể là có Kim Luân Vương hộ pháp. Nhưng nguyện lực của Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng phải là như vậy, [khi Ngài xuất thế] con người thọ mạng chỉ có một trăm năm, quốc gia thường xuyên chiến tranh, loạn lạc. Thuở đức Phật tại thế, đáng lẽ phải không có chiến tranh, loạn lạc chứ? Thuở đức Phật tại thế th́ cũng [chiến tranh, loạn lạc] như vậy. Nếu nghiên cứu lịch sử Ấn Độ, xem xét t́nh huống của Ấn Độ như thế nào, ta sẽ thấy t́nh trạng y hệt. Hơn nữa, Thích Ca Mâu Ni Phật chỉ giáo hóa hai bên bờ sông Hằng. Quư vị đến Ấn Độ chiêm bái thánh tích, chỉ là [các nơi] ở hai bên bờ sông Hằng. Về sau, Phật pháp truyền bá khắp tứ đại bộ châu. Trừ Bắc Câu Lô Châu không tin, những nơi khác đều có, thậm chí đại thiên thế giới, tức tam thiên đại thiên thế giới. Nhưng đối với quốc độ chúng ta đang cư trụ, theo như những ǵ chúng ta có thể trông thấy, chúng ta cũng chỉ có thể liễu giải như vậy mà thôi! [Đối với kiến giải hạn hẹp của chúng ta], bốn đại bộ châu dường như thần thoại, v́ chẳng được ghi chép, trong ư thức chẳng bảo tồn loại hồi ức này! Hoặc là đời trước th́ có, hiện tại đều đă mê; nhưng quư vị phải tu, dũng mănh tinh tấn tu, sẽ đạt được thần thông, sẽ [biết các cảnh giới nói trong kinh Phật] đều thật sự có.         

          Do vậy, có các vị đại đức nhập Định quan sát, có thể quan sát khá nhiều thế giới, v́ sao các Ngài không nói? Nói ra có ai tin hay không? C̣n có thể bị chê là điên rồi, tinh thần thác loạn! Cho nên ắt cần phải b́nh đẳng! Đức Phật thị hiện trong nhân gian, cũng chẳng thể [thị hiện] cao siêu hơn người khác quá nhiều. Kinh A Hàm nói Ngài giống như mọi người, cũng ôm bát khất thực, sống cuộc đời giống như mọi người. V́ nếu muốn hóa độ kẻ khác mà thị hiện đặc biệt cao, người khác sẽ cảm thấy Ngài cao không nắm bắt được: “Chúng ta làm sao có thể học theo được?” Cho nên có người nói: “Những giới điều như của các vị ḥa thượng quư Ngài, tôi làm sao thọ cho nổi?” Cũng có kẻ nh́n vào, thậm chí c̣n cho rằng chẳng ăn thịt th́ làm sao được? Có kẻ nói: “Tôi cũng muốn làm ḥa thượng, nhưng nếu họ không cho tôi ăn thịt, tôi sẽ chẳng làm!” Mong muốn mọi thứ đều phải thuận theo dục vọng để nhận thức, đó là chuyện không thể nào được! Nếu nhận thức như thế, Luân Vương cũng là như vậy.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như thị Như Lai tích Bồ Tát vị, tri tự tha thân hữu vô lượng chủng chư phiền năo bệnh, dĩ Định hương thủy, tẩy dục kỳ thân, cập dĩ Đế pháp đại từ đại bi, quán mộc kỳ thủ, trước tàm quư y. Thập phương nhất thiết chư Phật Thế Tôn, dĩ chư Tĩnh Lự, đẳng tŕ tinh tấn, phương tiện trí ư, từ bi hộ niệm, hàm tác thị ngôn: “Như thị Đại Sĩ, thị đại phước huệ trang nghiêm bảo khí, kham dung nhất thiết tam chủng bất hộ, tứ vô sở úy, Như Lai thập lực, cập dữ thập bát bất cộng Phật pháp, kham đắc vô thượng Nhất Thiết Trí trí, đại từ, đại bi, vô bất cụ túc, thường hân lợi lạc nhất thiết chúng sanh. Thị cầu Phật Bảo thương nhân đạo thủ, năng cứu hữu t́nh sanh tử chúng khổ, năng thí hữu t́nh Niết Bàn đại lạc. Ngă đẳng nhất thiết chư Phật Thế Tôn, ưng dĩ thành ngôn, dữ kỳ sở nguyện, linh thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đắc vô thượng pháp, vi đại pháp vương”. Ngă ư nhĩ thời, y phước huệ lực, dũng mănh, tinh tấn, ư Tứ Thánh Đế như thật tri dĩ, chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Thiện nam tử! Như Chuyển Luân Vương thống tứ đại châu, giai đắc tự tại, như thị Như Lai ư Tứ Tĩnh Lự, Tứ Vô Sắc Định, tứ chủng phạm trụ, tứ vô ngại giải, tứ thánh đế quán, tứ vô sở úy, Như Lai thập lực, cập dữ thập bát bất cộng Phật pháp, Nhất Thiết Chủng Trí giai đắc tự tại. Như Chuyển Luân Vương cụ túc thất bảo, như thị Như Lai thành tựu thất chủng Bồ Đề Phần bảo. Như Chuyển Luân Vương thiên tử cụ túc, dũng kiện, đoan chánh, năng phục oán địch, như thị Như Lai hữu A Nhă Đa Kiều Trần Na vi tối sơ, Tô Bạt Đà La Tô Lạt Đa vi tối hậu. Chư đại Thanh Văn, tùng Phật tâm sanh, tùng Phật khẩu sanh, tùng pháp hóa sanh, đắc Phật pháp phần, chư lậu vĩnh tận, danh vi dũng kiện, cụ tứ phạm trụ, danh vi đoan chánh, năng phục nhất thiết thiên ma, ngoại đạo dị luận, oán địch. Như Chuyển Luân Vương, hóa cập bát vạn tứ thiên tiểu chử. Như thị Như Lai ư bách câu-chi Nam Thiệm Bộ Châu, ư bách câu-chi Tây Cù Đà Ni châu, ư bách câu-chi Đông Tỳ Đề Ha châu, ư bách câu-chi Bắc Câu Lô châu, ư bách câu-chi chư đại minh hải, ư bách câu-chi chư Diệu Cao sơn, ư bách câu-chi tứ đại vương thiên, ư bách câu-chi năi chí Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thiên, ư bách câu-chi đại Luân Vi sơn, ư thử cao quảng nhất Phật độ trung, ngôn âm thí hóa, giai đắc tự tại. Thiện nam tử! Ngă thành như thị đệ thập Phật Luân. Do thử luân cố, như thật liễu tri tự thân, tha thân, chư lậu vĩnh tận, lợi ích an lạc vô lượng hữu t́nh, đắc an ổn trụ, đắc vô kinh khủng, đắc vô sở úy. Tự xưng ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, tồi chư thiên ma, ngoại đạo tà luận, xử đại chúng trung, chánh sư tử hống.

          ()善男子,如是如來昔菩薩位,知自他身有無量種諸煩惱病,以定香水洗浴其身,及以諦法、大慈大悲灌沐其首,著慚愧衣。十方一切諸佛世尊,以諸靜慮、等持精進、方便智意、慈悲護念,咸作是言:如是大士,是大福慧莊嚴寶器,堪容一切三種不護、四無所畏、如來十力及與十八不共佛法,堪得無上一切智智,大慈大悲無不具足,常欣利樂一切眾生,是求佛寶商人導首,能救有情生死眾苦,能施有情涅槃大樂。我等一切諸佛世尊,應以誠言與其所願,令成如來應正等覺,得無上法,為大法王。我於爾時依福慧力,勇猛精進,於四聖諦如實知已,證得無上正等菩提。善男子,如轉輪王統四大洲,皆得自在;如是如來,於四靜慮、四無色定、四種梵住、四無礙解、四聖諦觀、四無所畏、如來十力及與十八不共佛法、一切種智,皆得自在。如轉輪王,具足七寶;如是如來,成就七種菩提分寶。如轉輪王千子具足,勇健端正,能伏怨敵;如是如來,有阿若多憍陳那為最初,蘇跋陀囉囌剌多為最後,諸大聲聞從佛心生,從佛口生,從法化生,得佛法分,諸漏永盡名為勇健,具四梵住名為端正,能伏一切天魔外道異論怨敵。如轉輪王,化及八萬四千小渚;如是如來,於百俱胝南贍部洲,於百俱胝西瞿陀尼洲,於百俱胝東毗提訶洲,於百俱胝北俱盧洲,於百俱胝諸大溟海,於百俱胝諸妙高山,於百俱胝四大王天,於百俱胝乃至非想非非想天,於百俱胝大輪圍山,於此高廣一佛土中,言音施化皆得自在。善男子,我成如是第十佛輪。由此輪故,如實了知自身他身諸漏永盡,利益安樂無量有情,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,摧諸天魔外道邪論,處大眾中正師子吼。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như Lai xưa thuộc địa vị Bồ Tát cũng như thế, biết thân ḿnh và thân người khác có vô lượng các loại bệnh phiền năo. Dùng nước Định thơm để tắm rửa thân ḿnh, dùng Đế pháp đại từ, đại bi để xối, gội đầu ḿnh, mặc áo hổ thẹn. Mười phương hết thảy chư Phật Thế Tôn dùng các Tĩnh Lự, đẳng tŕ, tinh tấn, phương tiện trí ư, từ bi hộ niệm, đều nói như thế này: “Vị Đại Sĩ như thế là vật dụng báu trang nghiêm bằng phước huệ to lớn, có thể chứa hết thảy ba thứ bất hộ, bốn món vô sở úy, mười lực của Như Lai, cùng với mười tám món Phật pháp bất cộng, kham đạt được trí Nhất Thiết Trí vô thượng, đại từ, đại bi không ǵ chẳng trọn đủ, thường thích lợi lạc hết thảy chúng sanh, là người hướng dẫn cho thương nhân [thâu lượm] Phật Bảo, có thể cứu các nỗi khổ sanh tử cho hữu t́nh, có thể thí niềm vui Niết Bàn to lớn cho hữu t́nh. Hết thảy chư Phật Thế Tôn chúng ta hăy nên dùng lời chân thành để thỏa nguyện của ông ta, khiến cho ông ta thành Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, đắc vô thượng pháp, làm đại pháp vương”. Ngay trong lúc ấy, ta nương vào sức phước huệ, dũng mănh, tinh tấn, đă biết Tứ Thánh Đế đúng như thật rồi, chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Này thiện nam tử! Như Chuyển Luân Vương thống lănh bốn đại châu đều được tự tại, cũng như thế, Như Lai đối với Tứ Tĩnh Lự, Tứ Vô Sắc Định, bốn loại phạm trụ, tứ vô ngại giải, tứ thánh đế quán, tứ vô sở úy, Như Lai thập lực, và mười tám món Phật pháp bất cộng, Nhất Thiết Chủng Trí, đều được tự tại. Như Chuyển Luân Vương trọn đủ bảy báu; cũng như thế, Như Lai thành tựu bảy loại báu Bồ Đề Phần. Như Chuyển Luân Vương có đủ một ngàn con trai dũng kiện, đoan chánh, có thể hàng phục oán địch, cũng giống như thế, Như Lai có A Nhă Đa Kiều Trần Na là đệ tử tối sơ, Tô Bạt Đà La Tô Lạt Đa là đệ tử tối hậu. Các đại Thanh Văn sanh từ tâm Phật, sanh từ miệng Phật, từ pháp hóa sanh, có phần trong Phật pháp, các lậu vĩnh viễn hết sạch, ai nấy đều dũng cảm, tráng kiện, trọn đủ tứ phạm trụ, được gọi là đoan chánh, có thể hàng phục hết thảy dị luận của hết thảy thiên ma, ngoại đạo và oán địch. Như Chuyển Luân Vương giáo hóa trọn khắp tám vạn bốn ngàn tiểu châu, cũng giống như thế, Như Lai trong một trăm câu-chi Nam Thiệm Bộ Châu, trong một trăm câu-chi Tây Cù Đà Ni châu, trong một trăm câu-chi Đông Tỳ Đề Ha châu, trong một trăm câu-chi Bắc Câu Lô châu, trong một trăm câu-chi các biển lớn mênh mông, trong một trăm câu-chi các núi Diệu Cao, trong một trăm câu-chi tứ đại vương thiên, trong một trăm câu-chi cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thiên, trong một trăm câu-chi núi đại Luân Vi, trong một Phật độ cao rộng ấy, dùng ngôn âm để ban bố sự giáo hóa, đều được tự tại. Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật Luân thứ mười như thế. Do v́ luân ấy, biết rơ đúng như thật thân ḿnh và thân người khác đă vĩnh viễn hết sạch các lậu, lợi ích an lạc vô lượng hữu t́nh, được trụ trong an ổn, được không kinh hoảng, được chẳng sợ hăi, tự xưng ta thuộc địa vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, dẹp tan tà luận của các thiên ma và ngoại đạo, ở trong đại chúng thực hiện sư tử hống).

 

          Kế đó, nói về Phật Luân. “Thiện nam tử, như thị Như Lai tích Bồ Tát vị” (này thiện nam tử! Như Lai xưa kia ở địa vị Bồ Tát cũng như thế), [nghĩa là] khi đức Phật trong quá khứ, hành Bồ Tát đạo trong Đâu Suất Thiên Cung, chỉ là từ sự từng trải của bản thân giống hệt như chúng sanh, biết thân ḿnh và thân người khác, cũng tức là khi đức Phật hành Bồ Tát đạo, trong lúc tu nhân, chưa thành Phật, biết thân của chính ḿnh và thân của hết thảy chúng sanh đều có vô lượng các loại bệnh phiền năo. Đấy chẳng phải là thân bệnh của đại vương quán đảnh, ông ta biết vô lượng bệnh phiền năo. Phật dùng Định hương, để trừ phiền năo th́ dùng Định để trừ. Định có thể sanh ra Huệ. Dùng Định hương th́ mới có thể trừ khử phiền năo. Dùng nước Định thơm ấy để xối gột cái thân. Dùng ǵ để xối gột? Đế pháp. Đế pháp là lư pháp. Nước thơm tắm gội là pháp thế gian. Thế gian dùng hương để trị liệu là sạch sẽ nhất, thanh tịnh nhất, thanh khiết, thơm tho nhất để tẩy gột thân bệnh th́ c̣n được, chứ chẳng thể tẩy gột bệnh phiền năo của chúng sanh. Đế pháp có thể nói là tâm pháp, là lư pháp, nhập lư, là minh tâm kiến tánh. Dùng “hành đại từ, đại bi” cũng có nghĩa là cứu vớt, che chở hết thảy chúng sanh. Bi có thể dẹp khổ, Từ có thể ban vui, ban cho chúng sanh sự vui sướng. Lấy nước đại từ đại bi để xối gội đầu. Chúng ta biết khi Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh, phụ vương của Ngài dùng nước bốn biển rưới lên đỉnh đầu đức Phật. Đó là pháp thế gian. Ông ta lấy nước bằng cách nào? Do long vương đem đến cúng dường đức Phật.

          “Trước tàm quư y” (mặc áo tàm quư): Mặc y phục là áo Tàm Quư, có nghĩa là có hổ, có thẹn. Tàm () là chính ḿnh có lỗi bèn sám hối, luôn cảm thấy chính ḿnh chẳng xứng đáng, chẳng kiêu mạn, giải đăi. Tinh tấn, dũng mănh, chẳng có ư nghĩ kiêu căng, ngă mạn. Nếu chính ḿnh làm chuyện xấu, sẽ thẹn với kẻ khác. Tàm là trong nội tâm của chính ḿnh. Quư () [nói theo phương diện] hành vi. Nếu tư tưởng nẩy sanh ư niệm xấu, cảm thấy có hại cho chúng sanh, bất luận khởi lên ư niệm nào cũng đều có hại cho chúng sanh. Đồng thời, cũng bất lợi cho chính ḿnh, bất lợi cho việc tu đạo. Ngài mặc y phục như thế đó. Y phục nhằm bảo vệ thân thể, dùng Tàm Quư để bảo vệ Pháp Thân, khiến cho Pháp Thân được thanh khiết, khiến cho Pháp Thân vĩnh viễn tồn tại. Mười phương hết thảy chư Phật Thế Tôn đều “dĩ chư Tĩnh Lự” (dùng các Tĩnh Lự). Tĩnh Lự vẫn là Định, là tu Tư Duy. Tu Tư Duy c̣n gọi là tam-muội, hay c̣n gọi là Định.

          “Đẳng tŕ tinh tấn, phương tiện trí ư”: Đẳng Tŕ là b́nh đẳng. Tam Học Giới, Định, Huệ đều b́nh đẳng thọ tŕ [th́ gọi là Đẳng Tŕ]. Đối với hết thảy chúng sanh cũng đều b́nh đẳng, chẳng có lấy hay bỏ. Tinh tấn như vậy để làm ǵ? Mong cầu trí huệ phương tiện. Nếu muốn lợi ích chúng sanh, ắt cần phải đạt được phương tiện huệ. Liên quan đến lư Đế pháp, ắt cần phải có phương tiện thiện xảo. Đă có huệ ấy, dùng từ bi để hộ niệm, hộ niệm những người nào? Những người có các căn bệnh phiền năo. Đối với những người có bệnh phiền năo, bèn từ bi hộ niệm họ.

          “Hàm tác thị ngôn, như thị Đại Sĩ, thị đại phước huệ trang nghiêm bảo khí” (đều nói như thế này: Bậc Đại Sĩ như thế là vật báu được trang nghiêm bằng phước huệ to lớn): Ngài nói, khi ta c̣n thuộc địa vị tu nhân, hành Bồ Tát đạo, ta đă làm như vậy. Hết thảy chúng sanh xưng dương ta có đại phước huệ, là vật dụng quư báu trang nghiêm. Món báu ấy chính là món vật báu trang nghiêm. Đó là ǵ vậy? Chính là phước huệ. Món vật báu ấy dùng để chứa đựng phước huệ. Ngài giống như vật báu, giống như vật báu chứa đầy châu báu. Món vật báu ấy có thể chứa đựng hết thảy ba loại bất hộ. Có nhiều cách giải thích từ ngữ “ba loại bất hộ”. Có người nói là “chẳng hộ niệm tam đồ” cũng được, hoặc hiểu là “chẳng có tâm hộ niệm Tam Bảo” cũng được, hoặc là “địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh là ba loại chẳng thể bảo vệ, cho nên không hộ niệm họ”. Như vậy là khi ta phát Bồ Đề tâm, ta thậm chí có thể dung nạp, nhẫn thọ, bao dung họ, tức là ta đều có thể hộ niệm hết thảy chúng sanh, kể cả những chúng sanh chẳng được hộ niệm. Nói cách khác, “kham dung ba thứ bất hộ” tức là có thể hộ niệm họ.

          “Tứ Vô Sở Úy, Như Lai thập lực”: Trong phần trước, đă có nói về Tứ Vô Sở Úy, c̣n Như Lai Thập Lực và mười tám pháp bất cộng, trong quá khứ, tôi rất ít nhắc đến, chỉ nêu lên danh xưng. Hàm nghĩa trong các danh từ ấy rất sâu, tôi chỉ nói đại lược. Thập Lực là mười loại nào vậy? Chính là mười loại trí huệ của Như Lai. Do trí huệ sanh ra sức mạnh, do các sức mạnh ấy mà lợi lạc chúng sanh. Mười loại trí lực ấy, một là XPhi XTLực. Trí huệ của đức Phật biết hết thảy chỗ sanh về của hết thảy chúng sanh, chỗ đă sanh trong quá khứ, sẽ sanh đến đâu, [tức là] từ chỗ nào mà sanh đến đây, rồi sẽ lại sanh về chỗ nào. Đó là XPhi XTLực.

          Thứ hai là Nghiệp DThục Trí Lực. Nghiệp nhân cảm quả báo, trong ấy có Dị Thục Quả (異熟果), cái nhân của nó rắc rối, phức tạp. Chẳng hạn những sự nghiệp đă làm trong đời này bao gồm thiện nghiệp và ác nghiệp, có thiện lớn, ác nhỏ, có ác lớn, thiện nhỏ. Các thứ nghiệp ấy, nghiệp nào chín muồi trước, sẽ thọ quả báo của nghiệp ấy trước. Đức Phật biết rành mạch, Ngài có trí huệ ấy. Ở đây là nói tới hết thảy chúng sanh, không phải là một, hai người, phạm vi bao quát của [trí biết nghiệp dị thục] của hết thảy chúng sanh quá nhiều.

          Loại thứ ba là Tĩnh Lự Giải Thoát Đẳng T Trí Lực. Có thể đạt tới các thứ giải thoát, giải thoát là Định, Tĩnh Lự là Định. Chúng ta nói một trăm lẻ tám môn tam-muội. Tam-muội là Tĩnh Lự, Tĩnh Lự Định. Quá tŕnh của Tĩnh Lự cũng rất nhiều, đức Phật đều b́nh đẳng thọ tŕ. Giống như chúng ta thọ tŕ mấy bộ kinh, mỗi bộ kinh [chỉ chọn ra] một phẩm như [thọ tŕ] phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa th́ cũng coi như là thọ tŕ kinh Pháp Hoa, nhưng đấy chỉ là một phẩm trong hai mươi tám phẩm của kinh Pháp Hoa. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện là phẩm cuối cùng trong tám mươi mốt phẩm của [kinh Hoa Nghiêm], [tụng phẩm ấy] cũng coi như tụng kinh Hoa Nghiêm. Tụng một phẩm tương đương tụng toàn thể bộ kinh. Phải thấu hiểu tầng ư nghĩa này. Chúng ta chẳng có tâm lượng ấy, sẽ chẳng thể b́nh đẳng. “Tŕ” có nghĩa là “nhậm tŕ” (任持, nắm giữ), dùng trí huệ ấy để đối đăi hết thảy tam-muội, có thể khiến cho chúng sanh giải thoát.

          Loại thứ tư là Căn Thắng Liệt TLực. Thượng căn, hạ căn, hoặc trung căn, đây là thuyết pháp tương ứng với căn cơ. Mười loại trí lực nhằm nói đối ứng với [căn cơ của] chúng sanh. Ngài biết họ là hàng thượng căn, hay là kẻ hạ căn, biết căn cơ của họ đă chín muồi hay chưa. Đức Phật có loại trí lực ấy. Đó gọi là [Căn Thắng Liệt ] TLực.

          Loại thứ năm là Chủng Chủng Thắng Giải TLực. Hết thảy các pháp, hết thảy sự vật, hết thảy Lư pháp, hết thảy Sự pháp, đức Phật có các loại thắng giải, siêu thế gian, vượt hẳn Nhị Thừa, vượt hẳn Bồ Tát. Loại trí lực này cao hơn Thập Địa. Mười loại trí lực nơi Phật quả chỉ có đức Phật trọn đủ, rốt ráo viên măn.

          Loại thứ sáu là Chủng Chủng Giới TLực. Giới () có nghĩa là “sanh trưởng”. Chỗ giáp ranh giữa huyện này và huyện kia, giữa thôn này và thôn kia [được gọi là Giới]. Biết chủng tánh của hết thảy chúng sanh. Kinh Hoa Nghiêm nói đến “pháp giới”, giới sanh ra các thứ pháp, cho nên gọi là “pháp giới”. Ở đây không nói là pháp giới, mà gọi là “chủng chủng thắng giải trí lực”, có loại trí huệ này.

          Loại thứ bảy là Biến THành TLực. Chúng tôi vừa mới giải thích năm loại Biến Hành, nhưng đấy chỉ mới là lúc sơ khởi. [Biến THành (遍趣行) có nghĩa là] có thể biết trọn khắp chúng sanh do nghiệp đă tạo, sẽ tiến hướng vào đường nào. Đối với mười pháp giới, chúng ta thường nói về sáu đường, chẳng nhắc đến thánh nhân pháp giới, tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, [do thiện nghiệp] cũng sẽ tiến hướng những pháp giới ấy. Nếu hành vi trong hiện thời của chúng ta nhằm tiến hướng Phật pháp giới th́ sẽ là Phật. Hiện thời, quư vị dụng tâm, hiện thời đang tư duy, hiện thời đang thực hiện, đấy là cái nhân. Quư vị đi theo con đường đó, tức là khi quư vị đang thực hiện, đă phân biệt sẽ hướng về đâu. Chuyện này rất rơ ràng. Nếu tu tập pháp Khổ, Tập, Diệt, Đạo, quư vị tiến hướng Thanh Văn. Học pháp duyên khởi mười hai nhân duyên, sẽ tiến hướng pháp Duyên Giác. Tu Lục Ba La Mật, tu Bát Nhă Ba La Mật, tu Lục Độ vạn hạnh, sẽ tiến hướng pháp Bồ Tát, Bồ Tát rốt cục có thể thành Phật. Đấy là “biến thú” (遍趣, tiến hướng trọn khắp).

          Loại thứ tám là Nhập Tùy Niệm TLực, cũng gọi là Túc Mạng Thông. Đức Phật là Túc Mạng rốt ráo, biết túc mạng của hết thảy chúng sanh. Biết hết thảy chúng sanh trong vô lượng kiếp quá khứ. Chuyện của mỗi chúng sanh trong vô lượng kiếp, đức Phật đều biết rành mạch. Thậm chí hiện thời quư vị đang nghĩ ǵ, tưởng ǵ, quư vị đang khởi tâm động niệm, nghĩ tới vô lượng kiếp trong quá khứ của quư vị, đức Phật đều biết rành mạch, hiểu rơ như trong ḷng bàn tay. Trong kinh Kim Cang, đức Phật đă dùng số cát sông Hằng để tỷ dụ, mỗi hạt cát là một thế giới, cho đến một vi trần trong tam thiên đại thiên thế giới, lại dùng [số lượng] cát trong một sông Hằng nơi mỗi thế giới trong các thế giới nhiều như cát sông Hằng tích lũy lại, có các Phật quốc độ nhiều ngần ấy, mỗi Phật quốc độ có vô lượng vô biên chúng sanh, đức Phật đều biết tâm niệm của họ. Vô lượng vô biên chúng sanh trong tâm nghĩ tưởng điều ǵ, so sánh với sáu mươi ức người trên địa cầu hiện thời, chẳng biết là nhiều gấp bao nhiêu ngàn ngàn vạn vạn lần! Do vậy, tâm niệm của chúng ta đức Phật đều biết rơ ràng. Đấy là Niệm TLực, chẳng thể nghĩ bàn! Cuối cùng, đức Phật nói, tâm của tất cả chúng sanh, tâm quá khứ chẳng thể được, tâm vị lai chẳng thể được, tâm hiện tại chẳng thể được, ba tâm chẳng thể được. Đức Phật liễu giải tâm niệm của quư vị như thế đó. [Trong bài kệ tán Phật có câu] sát-na tâm niệm khả sổ tri” nghĩa là tâm niệm trong từng sát na, đức Phật đều biết từng điều một. Quư vị nghĩ ǵ, Ngài đều tính ra cho quư vị. Đó gọi là Tùy Niệm Trí Lực. Hễ quư vị nghĩ ǵ, chỉ cần vừa động niệm, đức Phật đều biết.

          Loại thứ chín là TSanh TLực. Chết đây, sanh kia, chết từ nơi kia, sanh vào nơi đây. Sanh sanh tử tử, sanh sanh diệt diệt.

          Loại thứ mười là Lậu Tận TLực. Đức Phật là lậu tận rốt ráo. Hàng Nhị Thừa cũng gọi là đă lậu tận, chẳng c̣n tạo tác nữa. Khi đó, chỉ là họ chẳng rơi rớt vào tam giới. Lậu Tận của Phật là chẳng rơi vào chín pháp giới, cũng chẳng thoái chuyển thành Bồ Tát. Ngài cũng có thể thị hiện làm hết thảy chúng sanh, v́ Ngài đă hết sạch các lậu. Các lậu đă tận th́ mới có thể thị hiện. V́ thị hiện, mới có thể độ các chúng sanh. Đó là mười loại trí lực.

          Đây là nói đại khái, nhưng kinh Hoa Nghiêm lại nói mười loại trí lực khác hẳn, nói sâu hơn một chút. Các bộ kinh nói về mười loại trí lực có sâu hay cạn, nhận thức sâu hay cạn tùy thuộc trí lực của mỗi người. Ví như nước trong biển cả, hương vị đều là vị mặn. Dẫu quư vị múc một chén [nếm thử], vẫn là cùng một vị mặn. Hàm nghĩa như thế đó. Học Phật pháp, chỉ cần quư vị tiến nhập Phật môn, thậm chí quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Đấy chính là tu hành.

          Khi truyền thọ Tam Quy, tôi thường chúc phước mọi người như thế này. Tôi nói: “Quư vị niệm quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Trước khi ngủ phải niệm, buổi sáng tỉnh dậy phải niệm. Như thế th́ sẽ trọn đủ hết thảy Phật pháp”. Tuy quư vị chẳng phân biệt cặn kẽ như vậy, nhưng nói chung, chúng ta nói “Phật, Pháp, Tăng”, đó là pháp. Pháp do ai nói? Đức Phật nói. Ai truyền? Ḥa thượng, tăng nhân truyền. Hễ quư vị niệm “Phật, Pháp, Tăng”, bộ kinh này quư vị đă trọn đủ, mà bộ kinh kia quư vị cũng trọn đủ. Pháp này trọn đủ hết thảy các pháp, mười phương hết thảy các pháp tạng. Khi bái sám, chẳng phải là cầu như vậy hay sao? Chẳng phải là sám hối như vậy đó ư? Quư vị phải lư giải mười Phật trí như vậy. Sau khi đă lư giải, quư vị sẽ hồi hướng nhiều hơn!

          C̣n có mười tám pháp bất cộng. Mười tám pháp bất cộng là Thân Vô Thất, Khẩu Vô Thất, Ư Vô Thất, tam nghiệp vô thất (ba nghiệp chẳng sai sót, lầm lỗi), đó là ba pháp. Ư là niệm. “Thân vô thất” là thân không có lầm lỗi. Như vậy th́ thân Phật và thân của hết thảy chúng sanh, cho đến thân của Bồ Tát đều bất cộng (Phật có các pháp chuyên biệt mà các địa vị khác chẳng có). Đấy là nói mười tám pháp bất cộng của Phật chẳng giống với các đại Bồ Tát; đó là Bất Cộng. Thân Phật là Thân Vô Thất, Khẩu Vô Thất, Ư Vô Thất, Bất DTưởng (không có suy nghĩ khác lạ), Vô Bất Định Tâm (tâm không lúc nào chẳng Định), tâm Ngài luôn ở trong Định. Thậm chí khi thị hiện hóa thân, lợi ích chúng sanh, Ngài đều luôn ở trong Định, chẳng có lúc nào không Định. “Na Già thường tại Định” có ư nghĩa như vậy đó. Chẳng có ǵ mà trí huệ của Phật không thể chiếu soi. Bất luận pháp nào, chẳng có pháp nào không chiếu tỏ. Pháp bất cộng thứ bảy là Dục Vô Giảm tức là độ sanh chẳng chán mệt. Pháp thứ tám là Tinh Tấn Vô Giảm, tức vĩnh viễn tinh tấn. Pháp thứ chín là Niệm Vô Giảm, tức là niệm nào cũng đều chẳng quên lợi ích chúng sanh. Niệm Vô Giảm là chẳng có niệm nào bỏ sót chuyện lợi ích chúng sanh.

          V́ thế, chúng ta cũng phải niệm nào cũng đều chẳng quên Tam Bảo, chẳng bỏ sót một niệm nào! Trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, chúng ta có bao nhiêu niệm? Do vậy, chúng ta cách Phật bao xa sẽ biết ngay! Quư vị nói xem, trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, có bao nhiêu niệm mà ta chẳng niệm Tam Bảo? Quư vị niệm Tam Bảo bao nhiêu niệm? Chính ḿnh biết rất rơ ràng. Quư vị niệm ǵ vậy? Tài, sắc, lợi lộc, công danh, phú quư, và gia đ́nh, quyến thuộc của chính ḿnh. Bọn ḥa thượng chúng tôi th́ nghĩ tới chùa miếu, đạo hữu. Thậm chí kể cả khi quư vị niệm kinh Phật hay niệm Phật, tâm niệm vẫn quẩn quanh trong đó. Nếu quư vị có tham đắm, tâm sẽ bất b́nh đẳng. Chúng ta [phân biệt] có lớn, nhỏ, từ cái này đến cái kia là chẳng được rồi. Giống như chúng ta mở mắt ra, liền thấy là nam, nữ, già, trẻ, tướng phân biệt rất nhiều. [Khi chứng đắc Phật quả], các niệm ấy đều mất. Dục Vô Giảm là độ chúng sanh chẳng giảm. Tinh Tấn Vô Giảm là chẳng có một niệm thoái thất.

          Hết thảy trí huệ tương ứng vô giảm, vĩnh viễn bất thoái. Huệ Vô Giảm, Giải Thoát Vô Giảm, Giải Thoát Tri Kiến Vô Giảm, thân nghiệp có thể hành theo trí huệ, khẩu nghiệp hành theo trí huệ, ư nghiệp hành theo trí huệ, trí huệ biết quá khứ vô ngại. Quá khứ c̣n có quá khứ, quá khứ c̣n có vô ngại. Vô vô ngại, vô chướng ngại. Trí huệ biết vị lai vô ngại, trí huệ biết hiện tại vô ngại. Tổng cộng là mười tám pháp. Những pháp ấy chẳng cùng chung với hết thảy Bồ Tát. Chúng ta th́ càng chẳng cần phải nói nữa, [các pháp bất cộng của Phật] chẳng cùng chung với chúng ta. Chỉ có Phật và Phật là cùng có chung các pháp ấy. Đó gọi là mười tám pháp bất cộng[13].

          Mười lực và mười tám pháp bất cộng bao gồm hết thảy. Như thế th́ mới có thể kham đạt được trí Vô Thượng Nhất Thiết Trí, đại từ, đại bi, không ǵ chẳng trọn đủ, thường hành lợi lạc hết thảy chúng sanh, tâm thường luôn cầu. Tâm vui sướng, hân hoan lợi ích chúng sanh. Chúng ta đều phải học theo đức Phật, học ǵ vậy? Đừng thấy cái này là xấu, cái kia là tốt, cái nọ xinh đẹp. Người đẹp đẽ th́ quư vị rất hào hứng thân cận. Đối với kẻ xấu ỉn th́ trông thấy kẻ đó bèn cụt hứng, cách xa một chút. Kẻ đó nói chuyện với quư vị, quư vị chẳng kiên nhẫn cho lắm, tâm bất b́nh đẳng! C̣n có những kẻ quư vị chán ghét, c̣n có kẻ từng hăm hại, oán địch của quư vị. Điều thứ nhất quư vị phải phát tâm là độ người chống đối quư vị, tức là oan gia của quư vị. Nếu quư vị có thể độ oan gia, tự nhiên là lục thân quyến thuộc của quư vị đều độ được, phiền năo của quư vị sẽ ít đi, tâm oán hận cũng chẳng có, tâm căm ghét cũng chẳng c̣n. Kẻ đó hại quư vị, dụng tâm hại quư vị, quư vị dùng ḷng từ bi đối đăi kẻ đó.

          Tôi kể một câu chuyện: Khi chúng tôi ở Nữu Ước, có một cô gái người Mă Lai, trong các đồng nghiệp của cô tại sở bưu điện, có một cô nàng da trắng đúng là luôn t́m mọi cách gây khó dễ cho cô. Hai người cùng ngồi chung bàn làm việc. Cô ta đến bái sám ở chỗ tôi, tức tối khôn cùng, tính xin nghỉ, không làm việc ấy nữa, nhưng lại nghĩ ngợi: Rất khó xin vào sở bưu điện. Đă vào được bưu điện, bảo hiểm lao động và phước lợi (benefits) đều đặc biệt tốt, muốn dùng cấm chú để nguyền rủa cô ả da trắng kia, khiến cho cô ả khốn đốn. Tôi nói: “Đừng nên nguyền rủa cô ta. Nguyền rủa sẽ càng tệ hơn. Cô hăy bái sám thay cho cô ta, cầu cô đó chuyển biến tư tưởng”. Cô ta nói: “Con mụ đó hại con như vậy, con c̣n lạy giùm mụ, hồi hướng cho mụ hay sao?” Tôi đáp: “Đấy là phương pháp mầu nhiệm trong nhà Phật, dùng từ bi đối đăi kẻ oán hại. Trong quá khứ, nhất định là cô đă có nhân duyên với cô ta. Nếu không, sẽ chẳng tụ hội. Cô cứ làm thử xem”. Nói lần đầu, cô ta không làm. Nói hai ba lần [cô ta vẫn khăng khăng không chịu], tôi nghĩ ra một cách. Tôi nói: “Cô đi mua cà phê, mua thêm một ly nữa. Buổi trưa đều là uống cà phê, ăn bánh ḿ. Cô mua thêm một phần cho cô ta. Cô đối đăi với cô ta đặc biệt tốt. Cô ta càng xử tệ với cô, cô đối với cô ta càng tốt. Cô chỉ làm như vậy tám ngày, mười bữa, xem thử thế nào?” Sau đó, cô ta làm theo đề nghị của tôi, cô da trắng kia đối xử tốt hơn đối với cô ta. Trước kia cần dừng xe th́ cô da trắng đặc biệt ngừng xe, khiến cho cô ta phải ngừng theo, chẳng lái vào băi đậu được. Về sau, đối xử với cô ta đặc biệt tốt đẹp.

          Đấy là chuyện nhỏ, cũng là đôi bên chẳng có oán cừu to cho lắm, tức là tùy tiện như thế một phen bèn có thể chuyển biến được. Nếu là đại oán cừu, quư vị xử tốt với người ấy cỡ nào đi nữa, người ấy vẫn một mực có tâm lư chẳng tín nhiệm quư vị. Thậm chí giữa mẹ con, chị em dâu, anh em, đều có hiện tượng này. Do nguyên nhân ǵ vậy? Kết oán từ đời quá khứ. Bên nào kết? Khúc mắc ấy chẳng tháo gỡ được! Hiện thời, quư vị dùng phương pháp tốt đẹp, cầu Phật, Bồ Tát gia tŕ kẻ ấy để cởi gỡ oán kết. Chúng ta cởi gỡ th́ mới có thể chứng đắc Bồ Đề. Đối với oan gia, quư vị phải đặc biệt hồi hướng cho họ. Do vậy, quư vị phải đối đăi b́nh đẳng, chẳng có người nào tốt, chẳng có kẻ nào xấu. Chúng ta làm pháp sư, đối với các đạo hữu, đừng khởi tâm phân biệt. Hoặc là do đạo hữu này trí huệ to lớn, tôi vừa nói, người ấy hiểu liền, nói chuyện rất hợp ư, bèn đối với người ấy đặc biệt tốt hơn một chút. Đối với đạo hữu khác rất lợt lạt, luôn nghĩ kẻ đó chẳng vừa ư, như vậy là không được! Đấy chẳng phải là khởi tâm đại từ đại bi. Càng là đạo hữu như vậy th́ càng phải đối xử đặc biệt tốt với họ. Họ càng chẳng tiến lên, chẳng tinh tấn, biếng nhác, th́ càng phải đặc biệt từ bi đối với họ, phải tha thứ cho họ, đừng khiến cho họ giải đăi.

          Chúng tôi có một vị đạo hữu ở Đại Lục, đă quy y Phật rất nhiều năm, miệng lưỡi ngoa ngoắt, chửi mắng người khác đều kèm theo những chữ thô tục. Không được rồi! Chẳng nói năng th́ c̣n được, hễ mở miệng ra là [phê phán] đạo hữu này, đạo hữu nọ, khuấy động thị phi, đó gọi là “nói lỗi của Tam Bảo”. Đối với người xuất gia bèn kể lỗi của tăng sĩ. Thậm chí, Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật, Dược Sư Phật, người ấy cũng đều phê phán. Ông ta c̣n học Phật khá nhiều năm, cái tâm phân biệt quá nặng! Chúng ta phải coi mỗi vị đạo hữu như Thích Ca Mâu Ni Phật. Người dùng thuốc cứu độ chúng sanh, làm như vậy th́ là Dược Sư Phật, là A Di Đà Phật, là Bất Động Như Lai. Quư vị cũng có thể nói như vậy. Phương tiện lợi sanh của năm mươi ba vị Phật khác nhau. Các Ngài chứng đắc Căn Bản Trí giống nhau, trọn đủ Pháp Thân giống hệt như chúng ta, nhưng phương tiện thiện xảo chẳng giống nhau, nhất định phải hiểu! Giữa các đạo hữu với nhau, phải đối xử ḥa thuận.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Ngă thành như thị thập chủng Phật Luân, bổn nguyện lực cố, cư thử Phật độ, ngũ trược ác thế nhất thiết hữu t́nh, tổn giảm nhất thiết bạch tịnh thiện pháp, quỹ phạp sở hữu thất thánh tài bảo, viễn ly nhất thiết thông mẫn trí giả, đoạn thường la vơng chi sở phú tế, thường háo thừa ngự chư ác thú xa, ư hậu thế khổ bất kiến bố úy, thường xử biến trọng vô minh hắc ám, cụ thập ác nghiệp, tạo NVô Gián, phỉ báng chánh pháp, hủy tử hiền thánh, ly chư thiện pháp, cụ chư ác pháp. Ngă ư kỳ trung, thành tựu như thị Phật Thập Luân cố, đắc an ổn trụ, đắc vô kinh khủng, đắc vô sở úy, tự xưng ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, hàng chư thiên ma, ngoại đạo tà luận, tồi diệt nhất thiết chư hữu t́nh loại, do như kim cang kiên cố phiền năo, tùy kỳ sở nhạo, an lập nhất thiết hữu lực chúng sanh, linh trụ tam thừa bất thoái chuyển vị.

          ()善男子,我成如是十種佛輪。本願力故居此佛土,五濁惡世一切有情,損減一切白淨善法,匱乏所有七聖財寶,遠離一切聰敏智者,斷常羅網之所覆蔽,常好乘馭諸惡趣車,於後世苦不見怖畏,常處遍重無明黑闇,具十惡業,造五無間,誹謗正法,毀呰賢聖,離諸善法,具諸惡法。我於其中成就如是佛十輪故,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,降諸天魔外道邪論,摧滅一切諸有情類猶如金剛堅固煩惱,隨其所樂,安立一切有力眾生,令住三乘不退轉位。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Ta thành tựu mười thứ Phật Luân như thế, do sức bổn nguyện, ở trong cơi Phật này, hết thảy hữu t́nh trong đời ác ngũ trược tổn giảm hết thảy thiện pháp trắng sạch, thiếu khuyết tất cả của báu Thất Thánh Tài, xa ĺa hết thảy bậc thông minh, mẫn tiệp, trí huệ, bị lưới rập Đoạn Kiến và Thường Kiến che phủ, thường thích ngồi trên xe vào các đường ác, chẳng sợ hăi nỗi khổ trong đời sau, thường ở trong tối tăm vô minh nặng nề trọn khắp, trọn đủ mười ác nghiệp, tạo tội NVô Gián, phỉ báng chánh pháp, hủy báng, chê bai hiền thánh, ĺa các thiện pháp, đủ các ác pháp. Ta ở trong đó, do thành tựu Thập Luân của Phật như thế, được trụ an ổn, được không kinh hoảng, được chẳng sợ hăi, tự xưng ta thuộc địa vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, hàng phục tà luận của các thiên ma và ngoại đạo, dẹp tan hết thảy các phiền năo kiên cố ví như kim cang của hết thảy các loài hữu t́nh, tùy ḷng họ ưa thích mà đặt yên hết thảy chúng sanh hữu lực trụ nơi địa vị bất thoái chuyển thuộc tam thừa).

 

          Đoạn cuối cùng này nhằm tổng kết Thập Luân của Phật. Đức Phật bảo Địa Tạng Bồ Tát, “thiện nam tử” là danh xưng đức Phật dùng để gọi Địa Tạng Bồ Tát. Ta v́ thành tựu mười loại Phật Luân vừa nói trên đây, lại c̣n thêm sức bổn nguyện. Do sức bổn nguyện, sẽ sanh trong đời ác ngũ trược này, độ thoát hết thảy hữu t́nh chúng sanh khổ nạn. Đối với các thiện pháp ấy, chữ “bạch tịnh” nhằm h́nh dung thiện pháp. “Bạch” là tương phản với hắc, “thiện” đối lập với “ác”, “tịnh” đối lập với “cấu”. Chúng sanh trong đời ác ngũ trược này đều hành hắc pháp, đều là pháp cấu nhiễm, đều là pháp bất tịnh, thiếu thốn của báu Thất Thánh Tài. Của báu thánh tài khác với Thất Bảo [của Luân Vương] vừa nói trong phần trên. Thất Thánh Tài là ǵ? Tín, Giới, Tàm, Quư, Văn Pháp (nghe pháp), BThí, THuệ, bảy món báu ấy. “Quỹ phạp” (匮乏) là chẳng có, thiếu khuyết. Đối với hết thảy bậc thiện tri thức trí sáng thông huệ, đă xa ĺa đời ác ngũ trược này, nếu gặp những người có trí huệ ấy mà xa ĺa th́ là kẻ ngu si, vẩn đục, đều là ác nghiệp chúng sanh.

          “Đoạn Thường la vơng” (lưới rập Đoạn Kiến và Thường Kiến): Đoạn là Đoạn Kiến, Thường là Thường Kiến, đều là chẳng tin nhân quả, chẳng tin quả báo thiện ác. Chẳng thiên lệch nơi Đoạn, sẽ lệch về Thường. Hoặc là cho rằng người đă chết là đoạn diệt. Thường Kiến là như thế này: Thấy hết thảy các pháp thường luôn như thế [chẳng hạn như người chết đi sẽ lại đầu thai làm người, súc sanh tái sanh vẫn là súc sanh]. [Những kiến chấp ấy] che lấp cái tâm trí huệ của chính ḿnh, che lấp cái tâm sáng suốt. Họ ưa thích ǵ? Trụ trong đường ác, [đó là ư nghĩa của câu] “thường háo thừa ngự chư ác thú xa”, thường làm ác nghiệp, rất ít thiện nghiệp. “Thừa ác thú xa” nghĩa là tiến vào đường ác. “Ác thú” (惡趣) thuần nói về ba ác đạo. V́ họ chẳng tin nhân quả, đối với chuyện hưởng vui hay chịu khổ trong vị lai, họ chẳng tin tưởng. Họ đă có tư tưởng Đoạn Kiến, chẳng tin nỗi khổ trong tương lai, cho nên chẳng sanh tâm sợ hăi. Nếu sanh khởi tâm sợ hăi đối với nỗi khổ trong tương lai, [nhận biết] hễ làm chuyện ác, làm một chuyện hại người, hoặc chuyện tổn người lợi ḿnh, nhất định sẽ phải chịu quả báo ác. Nếu sanh khởi cái tâm sợ hăi ấy, kẻ đó sẽ chẳng làm. Nghe nói “hại người rốt cuộc hại ḿnh”, kẻ [bị vướng vào Đoạn Kiến hay Thường Kiến] sẽ chẳng tin tưởng lời ấy, đương nhiên phải đạt được yên vui trước mắt đă, thây kệ hậu quả. Do vậy, kẻ đó chẳng kinh hoảng, chẳng sợ hăi nỗi khổ trong đời sau. Những ǵ kẻ đó chú trọng, thực hiện, hoàn toàn là hắc nghiệp. Do bị vô minh hắc ám phủ lấp, kẻ đó tạo nghiệp Thập Ác. Mười ác nghiệp là giết, trộm, dâm, tham, sân, si, nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói lời thô ác. Đấy đều là ác nghiệp, cũng là mười ác nghiệp. “Ngũ Vô Gián tội”: Tội NVô Gián là giết cha, giết mẹ, làm thân Phật chảy máu, phá ḥa hợp Tăng, giết A La Hán. Nếu phạm vào năm loại tội ấy, sẽ đọa địa ngục nhanh như tên bắn. Hủy báng chánh pháp, hành tà kiến. Những điều đức Phật giáo huấn đều là chánh pháp, họ hủy báng chẳng tin; do chẳng tin bèn hủy báng. Tức là họ hủy báng hiền thánh, phá hoại Tam Bảo, hủy báng Tam Bảo.

          Hủy báng pháp do đức Phật thuyết, hủy báng, chê gièm các vị hiền thánh tăng; đấy cũng là hủy báng, ư nghĩa như nhau. Xa cách thiện pháp [là ư nghĩa của câu] “ly chư thiện pháp”. Họ làm toàn ác pháp, đó là “cụ chư ác pháp”. Đấy là cách nói h́nh dung bọn hữu t́nh trong đời ác ngũ trược, thân, miệng, ư của họ đều là làm như thế ấy, những ǵ họ đă làm toàn là ác nghiệp. Đă chẳng có thiện pháp, v́ đă bị “tổn giảm”. “Tổn” () là tổn thất, hoặc giảm bớt, chẳng phải là hoàn toàn hủy diệt. Do vậy, hữu t́nh chúng sanh trong đời ác ngũ trược toàn là điều khiển xe đi vào đường ác, chẳng phải là xe tiến vào đường lành. “Thừa ác thú xa” là hành Thập Ác nghiệp, sẽ bị khổ quả trong đời sau. Bất luận thời gian hay nơi chốn, hoặc hết thảy các chuyện đă làm, họ đều ở trong vô minh hắc ám. Nói là “vô minh hắc ám” v́ họ chẳng có trí huệ. Do vậy, họ trọn đủ cỗ xe “ác thú”. Thậm chí c̣n nặng hơn Thập Ác là tạo tội NVô Gián, hủy báng chánh pháp, hủy báng hiền thánh. Trong thời ngũ trược ác thế, ta sở dĩ có thể trụ an ổn là do nương vào mười thứ Phật Luân như đă nói trên đây.

          “Ngă ư kỳ trung thành tựu như thị Phật Thập Luân cố, đắc an ổn trụ, đắc vô kinh khủng, đắc vô sở úy, tự xưng ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển ư Phật Luân, hàng phục chư thiên ma, ngoại đạo tà luận” (Ta ở trong ấy, do thành tựu mười luân của Phật như vậy, được trụ trong an ổn, được không kinh hoảng, được không sợ hăi, tự xưng ta thuộc địa vị đại tiên tôn quư, chuyển Phật Luân, hàng phục tà luận của chư thiên ma và ngoại đạo): Loại chúng sanh ấy có phiền năo cứng chắc như kim cang, rất khó chuyển biến. Có phải là rất khó chuyển biến phiền năo của mỗi chúng ta hay không? Rất khó thay đổi! Phiền năo bao gồm quá nhiều! V́ chúng ta chẳng có trí huệ, chẳng thấy rơ hết thảy sự vật. Ngă Chấp, Ngă Kiến luôn rất sâu. Hễ hơi có tí ǵ chẳng vừa ư ḿnh, bèn nẩy sanh phiền năo. Chuyện như vậy rất nhiều, có nhẹ, có nặng. Nếu muốn đoạn trừ loại phiền năo này, rất khó!

          Do vậy, đức Phật nói: Muốn độ chúng sanh trong thế giới Sa Bà, thế giới Sa Bà ương ngạnh, khó thể điều phục, rất khó độ thoát. Phiền năo của họ kiên cố như kim cang. Trong t́nh huống ấy, đức Phật vẫn ưa thích họ. Thế giới Sa Bà này vẫn c̣n có chúng sanh tốt lành, chẳng hoàn toàn đều là [bại hoại, cứng đầu] như vậy, vẫn c̣n có hạng người trí huệ, hoặc là mong thoát ĺa tam giới, mong cầu quả vị tam thừa. Như vậy th́ thuận theo điều họ tin tưởng, ưa thích, đức Phật sẽ an lập hết thảy hữu t́nh chúng sanh, thuyết pháp cho họ, khiến cho họ trụ nơi địa vị Bất Thoái Chuyển trong tam thừa, tức là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chẳng c̣n thoái đọa vào sáu đường, chẳng luân chuyển trong sáu đường. Địa vị chẳng thoái chuyển là nói theo lục đạo, tức là chẳng lui sụt thành phàm phu!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, hội trung nhất thiết Bồ Tát Ma Ha Tát chúng, nhất thiết Thanh Văn, nhất thiết thiên, long, quảng thuyết năi chí nhất thiết Yết Trá Bố Đát Na chúng, nhân phi nhân đẳng, giai đại hoan hỷ, đồng xướng thiện tai, vũ đại hương vũ, vũ đại hoa vũ, vũ chúng bảo vũ, vũ đại y vũ, nhất thiết đại địa giai tất chấn động. Văn thuyết như thị thập chủng Phật Luân, ư chúng hội trung, hữu bát thập tứ bách thiên na-dữu-đa Bồ Tát Ma Ha Tát đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Phục hữu vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát hoạch đắc chủng chủng chư đà-la-ni tam-ma-địa nhẫn. Phục hữu vô lượng, vô số hữu t́nh, sơ phát Vô Thượng Chánh Đẳng Giác tâm, đắc bất thoái chuyển. Phục hữu vô lượng, vô số hữu t́nh đăi đắc quả chứng.

          ()爾時,會中一切菩薩摩訶薩眾,一切聲聞,一切天、龍,廣說乃至一切羯吒布怛那眾、人非人等,皆大歡喜,同唱善哉,雨大香雨,雨大華雨,雨眾寶雨,雨大衣雨,一切大地皆悉震動。聞說如是十種佛輪,於眾會中,有八十四百千那庾多菩薩摩訶薩,得無生法忍;復有無量菩薩摩訶薩,獲得種種諸陀羅尼三摩地忍;復有無量無數有情,初發無上正等覺心,得不退轉;復有無量無數有情,逮得果證。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, trong hội, hết thảy các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, hết thảy Thanh Văn, hết thảy trời, rồng, nói rộng là cho đến hết thảy các Yết Trá Bố Đát Na, nhân phi nhân v.v… đều hoan hỷ to lớn, cùng xướng “lành thay”, tuôn mưa hương to, tuôn mưa hoa to, tuôn mưa các thứ báu, tuôn mưa to y phục, hết thảy đại địa thảy đều chấn động. Nghe nói mười loại Phật Luân như thế, trong chúng hội, có tám mươi bốn trăm ngàn na-dữu-đa Bồ Tát Ma Ha Tát đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Lại có vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được các thứ đà-la-ni tam-ma-địa nhẫn. Lại có vô lượng vô số hữu t́nh sơ phát Vô Thượng Chánh Đẳng Giác tâm, đạt được bất thoái chuyển. Lại có vô lượng vô số hữu t́nh đều được chứng quả).

 

          Đức Phật thuyết pháp, từ trời, rồng cho đến Càn Đạt Bà (Càn Thát Bà), A Tu La, cho đến nhân phi nhân v.v… do nghe đức Phật giảng về Phật Luân, đều hoan hỷ to lớn. Những người tham dự hội ấy là tứ chúng đệ tử, có Bồ Tát, có Thanh Văn, cũng có Duyên Giác, do được nghe đức Phật thuyết pháp, họ đều hoan hỷ. “Đồng xướng thiện tai” (cùng xướng “lành thay”) cũng là tán thán. Đồng thời, ở trong hội, tuôn xuống mưa hương, “vũ đại hoa vũ” là dùng các thứ hương, hoa, vật báu để cúng dường. Số lượng [nhiều đến nỗi] phải dùng chữ Vũ để h́nh dung, giống như trời giáng xuống một trận mưa ngọt vậy. Khi ấy, hết thảy đại địa sáu thứ chấn động. Đại địa đều bị chấn động, nghĩa là khi đức Phật thuyết pháp ấy đă chiêu cảm đất đai đều rúng động. Nghe nói mười thứ Phật Luân như vậy, nghe Phật Luân ấy, những người nghe pháp trong hội, có tám mươi bốn trăm ngàn na-dữu-đa Bồ Tát Ma Ha Tát. “Na-dữu-đa” là triệu, “Câu-xá-la” là Ức, cũng là một ức triệu. Ở trong hội ấy, có bao nhiêu vị đại Bồ Tát đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn? Nhiều đến tám mươi bốn trăm ngàn triệu Bồ Tát như vậy đă đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.

          “Phục hữu vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát hoạch đắc chủng chủng chư đà-la-ni tam-ma-địa nhẫn” (lại có vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được các thứ đà-la-ni tam-ma-địa nhẫn), chứng đắc vô lượng tam-muội. “Đà-la-ni” là tổng tŕ, tổng tŕ hết thảy các pháp. “Phục hữu vô lượng vô số hữu t́nh, sơ phát Vô Thượng Chánh Đẳng Giác tâm, đắc bất thoái chuyển” (lại có vô lượng vô số hữu t́nh sơ phát Vô Thượng Chánh Đẳng Giác tâm, đắc bất thoái chuyển): Có các chúng sanh ở trong hội ấy phát Bồ Đề tâm, đạt được địa vị Bất Thoái Chuyển. Bất Thoái Chuyển là nói đến tín tâm. Sau khi đă tin bèn phát tâm, đă phát tâm sẽ chẳng lui sụt tín tâm. C̣n có vô lượng hữu t́nh được chứng quả. Quả họ đă chứng chính là Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả, hoặc là Duyên Giác. Đây là nói khi đức Phật giảng Thập Luân, có nhiều vị Bồ Tát, có nhiều hữu t́nh như vậy hoặc là phát tâm, hoặc là chứng quả, có người chứng địa vị Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đấy là phần kinh văn nói về lợi ích sau khi nghe thuyết pháp. Quyển thứ hai tức phẩm Thập Luân đă giảng xong.

          Phiền năo của chúng sanh trong đời ác ngũ trược cứng cỏi như kim cang, mọi người đều có thể lănh hội. Bất quá, giết Phật, làm thân Phật chảy máu th́ chẳng thể, nhưng phá hoại tượng vẽ trên giấy, hoặc tượng bằng đất nặn, gỗ khắc, sẽ có tội tương ứng như thế. Phá pháp, tức [phá hoại] Đế pháp (諦法), báng Tăng, ở trong Tăng chúng xúc xiểm ly gián, phá ḥa hợp Tăng, đ̣n xóc hai đầu, khuấy động thị phi, tội ấy to lắm. Đấy chẳng phải là nói kẻ đó dùng khẩu nghiệp khuấy động thị phi mà là do phá ḥa hợp Tăng, bèn trở thành tội nghịch. Trong hiện thời, chỉ sợ rằng t́nh huống ấy chẳng ít. Chúng sanh tạo nghiệp này rất nhiều, bất quá trong quá khứ, rất ít nghe thấy hiện tượng giết cha, giết mẹ. Hiện thời, các vụ án về tội phạm loại này cũng chẳng ít. V́ sao? Nghiệp nặng! Phước nghiệp của chúng sanh càng lúc càng nhẹ, thậm chí chẳng c̣n. Do vậy, trong xă hội mới xuất hiện hiện tượng ấy. Đức Phật nói: “Phật pháp trong thế gian, chẳng rời thế gian giác”. Trên đây, đă dùng Thập Luân của Phật để đối chiếu Thập Luân của thế gian, tức Thập Luân của vua Sát-đế-lợi, đó là pháp thế gian, hiện tượng trong thế gian. Đức Phật từ trong thế gian, vượt thoát thế gian, đạt tới xuất thế gian. Đây chỉ là phẩm thứ hai do đức Phật nói.

          Bắt đầu từ phẩm thứ ba, sẽ giải thích rộng khắp ư nghĩa của Phật Luân, cũng như ư nghĩa của pháp thế gian nơi vua Sát-đế-lợi, hai t́nh huống đều cùng tồn tại. Bất quá, trong t́nh huống hiện thời, nơi pháp thế gian, chúng sanh tạo mười ác nghiệp nghiêm trọng hơn, người tạo Thập Thiện Nghiệp rất ít, chứ chẳng phải là không có. Đệ tử quy y Tam Bảo đều hành mười thiện nghiệp, nhưng so với năm mươi bảy ức dân cư trên cả thế giới để nói, vẫn là thiểu số. C̣n như những vị Bồ Tát chứng quả thành đạo, đạt được các môn đà-la-ni tam-ma-địa chắc là chẳng có. Dẫu có đi nữa, chúng ta do chẳng đủ phước huệ, cũng chẳng thể thấy được! Đă phát Bồ Đề tâm, đă có thể tin tưởng, mà cũng chẳng hoài nghi, đối với Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo đă tin rồi, sẽ có thể khởi hạnh, chiếu theo lời chỉ dạy của đức Phật để hành, hạng chúng sanh như vậy rất ít!

Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần 6 hết



[1] Thổ pháo (土炮) là loại súng “thần công” kiểu xưa, tức loại đại bác sử dụng từ thời Trung Cổ, ṇng súng đúc bằng gang đặc, phải dùng dây ng̣i để đốt thuốc súng, bắn ra đạn gang, có tác dụng công phá thành lũy, chưa sử dụng các loại đạn nổ tung văng miểng gây sát thương nặng nề như các loại pháo cối sau này.

[2] Hưởng Dao là cách kiến trúc phổ biến tại vùng Quan Đông dành cho các gia trang hoặc thôn ấp lớn. Chung quanh xây thành cao và dầy, bốn phía đặt lầu canh để gia đinh bắn súng, tên nỏ, pḥng ngự khi giặc cướp, thổ phỉ tấn công.

[3] Tàm ba (tsampa) là bột lúa đại mạch (barley) rang chín, đôi khi trộn lẫn với bột ḿ. Khi ăn trộn với trà bơ (nước trà cho bơ và muối vào) nắm thành từng vắt để ăn. Đôi khi, người khá giả có thể cho nhiều trà để trộn thành một loại cháo sền sệt, hoặc thêm mật ong, hoặc sữa và Chang (một loại của Tây Tạng). Tsampa được coi là lương thực chính yếu của người Tây Tạng. Họ cũng dùng Tsampa ḥa nước, ngào với mật hay đường, nặn thành từng khối to h́nh nón, gắn lên đó những mẫu trang trí nặn bằng bơ nhuộm nhiều màu sắc khác nhau, tạo h́nh thành hoa lá, chim muông, các biểu tượng trong Phật giáo như hoa sen, ngọc như ư, ngà voi, bánh xe pháp luân v.v… và gọi đó là Torma để cúng dường trên bàn thờ Phật và các thần linh.

[4] Ngũ Bất Nam (Pañca Pandakāh), c̣n gọi là Ngũ Chủng Hoàng Môn. Theo luật Thập Tụng gồm:

1. Sanh bất nam (Jāti-pandaka) tức là từ lúc sanh ra, không có nam căn, hay không có khả năng hành dâm.

2. Bát bất nam (Paksa-pandaka): Chỉ có thể hành dâm trong nửa tháng, nửa tháng sau hoàn toàn chẳng thể.

3. Đố bất năng nam (Īrsyā-pandaka): Thấy người khác hành dâm, do đố kỵ bèn sanh khởi dâm tâm.

4. Biến bất nam (Saktaprādurbhāvī-pandaka): Khi hành dâm, nam căn bị biến mất. Theo từ điển Phật Học của Đinh Phước Bảo th́ giải thích giống như lăo pháp sư đă nói.

5. Bệnh bất nam (Āpat-pandaka): Nhân v́ thương tích hay bệnh tật mà cắt bỏ nam căn.

[5] Đẳng Chí (Samāpati), c̣n phiên âm là Tam Ma Bát Để, Tam Ma Bạt Đề, có nghĩa là sau khi đă viễn ly hôn trầm và điệu cử, có thể giữ cho tâm và tâm sở b́nh đẳng chuyển đổi cảnh giới. Tứ Thiền và Tứ Vô Sắc Định cũng được gọi là Bát Đẳng Chí. Sách Huyền Ứng Âm Nghĩa cho rằng Đẳng Chí là chính thức tiến nhập cảnh giới Định, sau khi đă an trụ trong cảnh giới Định th́ gọi Tam Ma Bát Na (Samāpanna, chánh thọ). Đẳng Tŕ là tên gọi khác của Tam Ma Địa (Chánh Định).

[6] Không thấy lăo pháp sư nói đến loại thứ sáu, bảy và tám. Có lẽ những loại này đă được gộp chung trong đoạn kinh văn dài sau phần nói về loại Bổ Đặc Già La thứ năm.

[7] Biệt Cảnh là năm món tâm sở do tâm vương (tám thức) duyên từng cảnh riêng biệt mà sanh khởi. Biệt Cảnh gồm Dục, Thắng Giải, Niệm, Định và Huệ. Năm món Tâm Sở này thông với thiện, ác, và vô kư.

[8] Khang Tây là cách người Hoa phiên âm tên gọi vùng Khams của Tây Tạng (c̣n được phiên âm là Khách Mộc, và dịch là Khang Khu). Vùng này nằm ở phía Đông Tây Tạng, là một tỉnh xưa của Tây Tạng, tiếp giáp với hai tỉnh Vệ Tạng (U-Tsang) và Am Đương (Amdo). Tỉnh này nay đă bị Trung Cộng chia nhỏ thành nhiều huyện để sát nhập vào các tỉnh Tứ Xuyên, Thanh Hải, Cam Túc, và Vân Nam. Chiến binh Khampa nổi tiếng về tài bắn cung và cưỡi ngựa. Do đây là vùng đầu nguồn của bốn con sông lớn, nên họ sử dụng thuyền rất nhiều.

[9] Ái Tân Giác La (Aisin Gioro) là họ của các hoàng đế nhà Thanh. Aisin có nghĩa là Kim Quốc, chỉ triều đại nhà Kim trong lịch sử Trung Hoa v́ Hoàng Thái Cực tự coi là người phục hưng nhà Kim (nhà Thanh thoạt đầu xưng quốc hiệu là Hậu Kim). Ái Tân là tộc danh (tên thị tộc, bộ tộc), c̣n Giác La là họ thật sự, Thanh Thái Tổ (Hoàng Thái Cực) đă ghép hai chữ này thành họ riêng của chi tộc ḿnh. Giác La là bộ tộc Măn Châu sống ở vùng Yilan, tỉnh Hắc Long Giang. Khi thành hoàng đế Trung Hoa, theo khuynh hướng Hán hóa, các vua đă đặt ra một số chữ trước tên mỗi thế hệ để đánh dấu thứ tự truyền thừa. Khang Hy đặt ra hai chữ Dận và Hoằng để đánh dấu con cháu trực hệ của ḿnh. Càn Long đặt thêm các chữ Vĩnh, Miên, Dịch, Tải. Vua Đạo Quang đặt thêm các chữ Phổ, Dục, Hằng, Khải. Vua Hàm Phong đặt các chữ Đào, Tăng, Kỳ. Chẳng hạn vua Ung Chánh tên húy là Dận Chân, Càn Long là Hoằng Lịch, Gia Khánh là Vĩnh Diễm, Đạo Quang là Miên Ninh, Hàm Phong là Dịch Trữ, vua Quang Tự là Tải Điềm, vua Tuyên Thống tên húy là Phổ Nghi v.v… Sau khi nhà Thanh sụp đổ, con cháu hoàng tộc Ái Tân Giác La thường đổi họ thành Kim, Ngải, La, Triệu, hoặc lấy chữ thuộc thế hệ làm họ (như trường hợp của nhà thư pháp Khải Công, hoặc em trai vua Phổ Nghi là Phổ Nhậm đổi tên thành Kim Hữu Chi), nhưng vẫn có người giữ nguyên họ hoàng gia như diễn viên Ái Tân Giác La Khải Tinh, nhà thư pháp Ái Tân Giác La Khải Tương v.v…

[10] A Ca (阿哥), c̣n phiên âm là A Cách (có nghĩa là “anh” giống như “ca ca” trong tiếng Hán), vốn là một tiếng xưng hô trang trọng trong tiếng Măn Châu để gọi vương tử, con cái của vương tử, thiếu gia, công tử v.v… Khi quân Măn Châu vào Trung Hoa, danh xưng này trở thành tước hiệu riêng để gọi các hoàng tử nhà Thanh và các thế tử của các vương công Mông Cổ. Năm 1635, Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực (Hong Taji, Đại Hăn đời thứ hai của nhà Hậu Kim, về sau cải quốc hiệu là Đại Thanh, cha của vua Thuận Trị (Phúc Lâm) nhà Thanh) hạ chiếu quy định chỉ có con cháu trai của Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích được gọi là A Ca. Dân chúng không được gọi thẳng tên họ, mà phải gọi họ bằng A Ca hoặc Giác La. Sau khi chiếm được Trung Hoa, Thanh Thái Tông lại hạ lệnh: Tất cả con cháu trực hệ của hoàng đế được gọi là tông thất, chỉ riêng các hoàng tử mới được gọi là A Ca, thêm vào chữ chỉ thứ tự. Chẳng hạn Ung Chánh trước khi lên ngôi, được gọi là Tứ A Ca (do hoàng tử Dận Chân là con trai thứ tư của vua Khang Hy).

[11] Hiện thời, tại Tân Gia Ba có Phật Nha Tự Long Hoa Viện thờ xá-lợi là một chiếc răng được tin là của đức Phật, và chùa Sri Dalada Maligawa tại Kandy (Sri Lanka) cũng thờ một chiếc răng của đức Phật. Ngoài ra, tại chùa Linh Quang ở Bắc Kinh, tổng đàn Phật Quang Sơn ở Cao Hùng (Đài Loan), chùa Viên Giác (Zuirokusan Engaku Kōshō Zenji, Thụy Lộc Sơn Viên Giác Hưng Thánh Thiền Tự) ở Kamakura (Kiếm Thương) Nhật Bản, chùa Somawathiya Chaitya tại Plonnaruwa (Sri Lanka), chùa Lư Sơn (ở Rosemead, California) đều tuyên bố họ có thờ răng Phật. Không biết ở đây lăo pháp sư nói đến nơi nào.

[12] Lăo pháp sư c̣n nói thiếu một Bảo nữa là Chủ Tạng Bảo, đôi khi c̣n gọi là Cư Sĩ Bảo (Gahapati-ratna). Vị đại thần này có thể biết chỗ nào có kho báu, có thể mở các kho báu cho Chuyển Luân Vương tùy nghi sử dụng.

[13] Do cách nói của lăo pháp sư không nêu rơ rệt mười tám pháp bất cộng, xin liệt kê theo thứ tự như sau để tiện tham khảo: Thân vô thất, khẩu vô thất, niệm vô thất, vô bất định tâm, vô dị tưởng tâm, vô bất tri xả tâm, dục vô giảm, tinh tấn vô giảm, niệm vô giảm, huệ vô giảm, giải thoát vô giảm, giải thoát tri kiến vô giảm, nhất thiết thân nghiệp tùy trí huệ hạnh, nhất thiết khẩu nghiệp tùy trí huệ hạnh, nhất thiết ư nghiệp tùy trí huệ hạnh, trí huệ tri quá khứ thế vô ngại, trí huệ tri vị lai thế vô ngại, trí huệ tri hiện tại vô ngại. Đó là các pháp Bất Cộng theo kinh Đại Bát Nhă và Trí Độ Luận, và là cách nói phổ biến nhất khi luận định về mười tám pháp bất cộng. Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ lại chủ trương mười tám pháp Bất Cộng bao gồm Thập Lực, Tứ Vô Sở Úy, Tam Niệm Trụ (tâm b́nh đẳng đối với người nghe pháp cung kính, tâm b́nh đẳng đối với người nghe pháp chẳng cung kính, tâm b́nh đẳng đối với người nghe pháp tâm cung kính hay chẳng cung kính). Truyền thống Nam Truyền Phật giáo lại có cách giải thích khác, như trong các bộ Giải Thoát Đạo Luận, Thanh Tịnh Đạo Luận v.v… đă nói, nhưng sợ rườm rà nên không trích dẫn.