Vô Lượng
Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá
Chú Giải
Giảng Nghĩa
phần
1
無量壽經優婆提舍註解講義
Ấn Độ
Thế Thân Bồ Tát tạo luận
印度世親菩薩造論
Nguyên Ngụy
Thiên Trúc Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi dịch luận
元魏天竺三藏菩提流支譯論
Nguyên Ngụy
Huyền Trung Tự sa-môn Đàm Loan chú giải
元魏玄中寺
Dân Quốc
Tịnh Luật Tự sa-môn Tánh Phạm giảng nghĩa
民國淨律寺 門性梵講義
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
Đôi
nét về pháp sư Tánh Phạm
Pháp sư Tánh Phạm
(1920-1997), tục danh là Hoàng Khuê, tự Hữu Minh, sanh quán tại
làng Phong Thị, huyện Vĩnh Định, tỉnh Phước
Kiến, trong một
gia đ́nh nông dân. Năm 17 tuổi, khi đang làm thầy giáo
làng tại quê nhà, do quân phiệt Nhật xâm chiếm Trung
Hoa, Sư bỏ dạy, đăng lính. Sau khi nhập ngũ,
Sư được đưa đi học tại trường
quân đội Trung Ương rồi được cử
làm cán bộ đặc trách chính trị cho quân đội
Quốc Dân Đảng. Sau khi quân đội Quốc
Dân Đảng thành công đuổi quân Nhật ra khỏi Đài
Loan, Sư được cử làm chủ nhiệm văn
pḥng xử lư thường vụ huyện Kim Môn của Đài
Loan. Năm 1949, khi Hoa Lục thất thủ, chính quyền
Quốc Dân Đảng phải chạy sang Đài Loan, Sư
xin giải ngũ, mở Tự Do Thư Cục tại Cơ
Long (Đài Loan). Trong số những người lui tới
thư cục, có nhiều vị là những nhân sĩ học
Phật có phẩm hạnh và tŕnh độ nội học
rất cao. Nhờ đó, hạt giống Bồ Đề được
vun bồi, Sư đă ôm chí nguyện xuất gia. Trước
hết, Sư xin quy y với pháp sư Từ Hàng, được
ban pháp danh là Từ Vạn. Sư từng thân cận các vị
danh tăng thuở ấy như Từ Hàng, Đạo An, Ấn
Thuận, Bạch Thánh, Đạo Nguyên, Sám Vân, Hội Tánh v.v…
Năm 1955 (vừa tṛn 35 tuổi), Sư cầu thọ Tại
Gia Bồ Tát Giới tại chùa Nguyên Quang thuộc núi Sư
Đầu. Năm 1958, Sư theo sát pháp sư Đạo
Nguyên để nghe giảng
kinh Địa Tạng tại chùa Hải Hội thuộc
huyện Cơ Long.
Măi đến năm
1962, khi Sư đă 42 tuổi, nhân duyên viên măn, Sư xin xuất
gia với pháp sư Hội Tánh tại chùa Linh Phong Lan Nhă thuộc
thành phố Miêu Lật, được ban pháp hiệu là Chấn
Từ, pháp tự là Tánh Phạm. Do giới hạnh kiêm ưu,
Sư được đặc cách thọ Cụ Túc Giới
ngay trong năm sau tại Viên Sơn Lâm Tế Tự ở Đài
Bắc dưới sự chứng đàn của các vị trưởng
lăo Bạch Thánh, Huệ Tam, và Đạo
Nguyên. Ngài được chọn làm Thủ Sa Di trong giới
đàn này. Trong khóa an cư kết hạ năm ấy, Sư
chuyên chú nghe trưởng lăo Đạo Nguyên giảng kinh Niết
Bàn. Năm 1964, Sư sang Phước Nghiêm Tinh Xá tại thành
phố Tân Trúc theo học với ngài Ấn Thuận.
Suốt trong hai năm
1964-1965, Sư sáng lập và điều hành hội phóng sanh Vô
Lượng Thọ và hội in kinh Vô Lượng Thọ.
Năm 1968, Sư được thỉnh làm Trụ Tŕ đời
thứ tám của chùa Nguyên Quang tại núi Sư Đầu.
Đến năm 1974, Sư xin nghỉ. Năm 1974, Sư sáng
lập Vô Lượng Thọ Đồ Thư Quán tại Tân
Trúc (nay là chùa Pháp Bảo trực thuộc hệ thống Phật
Quang Sơn). Từ năm 1974 đến năm 1976, Sư làm
Đương Gia và quyền
Trụ Tŕ của
Huệ Nhật Giảng Đường. Năm 1977, chấp
nhận lời thỉnh cầu của tứ chúng, Sư làm
Trụ Tŕ Phước Nghiêm Tinh Xá cho đến năm 1981.
Năm 1983, Sư lại làm Trụ Tŕ chùa Tam Hiệp Phật
Giáo Tịnh Nghiệp Lâm tại Đài Bắc. Sau đó, Sư
bế quan tu tập một năm tại các chùa Thiện
Thiên, Tường Lâm Tinh Xá v.v… Năm 1984, Sư trụ tích
tại chùa Tịnh Luật ở Lộc Cốc thuộc huyện
Nam Đầu. Năm 1985, chấp nhận lời thỉnh
cầu của Ḥa Thượng Trụ Tŕ chùa Tịnh Luật,
Ngài làm chủ thất khóa Tinh Tấn Niệm
Phật kéo dài suốt hai mươi mốt ngày. Sau đó, Ngài giảng các bộ
Bát Nhă Tâm Kinh và Quán Vô Lượng Thọ Phật cho tứ
chúng. Năm 1987, chùa Tịnh Luật thành lập Tịnh Luật
Học Phật Viện, cung thỉnh Sư làm Phó Viện Trưởng.
Sư bèn giảng kinh Pháp Hoa tại đó. Ngài bế quan suốt
năm 1991 tại Diệu Âm Tinh Xá thuộc huyện Nam Đầu.
Năm sau, Ngài xuất quan, giảng kinh Vô Lượng Thọ
hai lượt và các bộ Văng Sanh Luận Chú, Văng Sanh Tịnh
Độ Truyền Tập Yếu tại chùa Tịnh Luật.
Ngày 21 tháng Hai năm
1997, Sư bắt đầu bế quan tại chùa Tịnh
Luật, rồi chuyển sang Phước Nghiêm Tinh Xá. Ngày mồng
Ba tháng Ba năm 1997, Sư lập di chúc, giao cho hai vị pháp
sư Chân Hoa và Đại Hàng toàn quyền xử lư hậu
sự. Ngày 11 tháng Tư năm 1997, trong tiếng niệm Phật
của đại chúng, Sư nằm bên hông phải, an tường
viên tịch. Ngoài những bài giảng chưa được
biên tập, hiện thời, các tác phẩm của Sư đă
được in thành sách là Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh
Quán Hạnh Giải, Vô Lượng Thọ Kinh Giảng Nghĩa,
các bài giảng
về Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, An Lạc
Tập Giảng Nghĩa, Văng Sanh Tịnh Độ Truyền
Tập Yếu, Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận Giảng
Nghĩa, Vạn Thiện Đồng Quy Tập Giảng Nghĩa,
và Nhân Quả Tuyển Tập. Sư c̣n đang viết dở
bộ Quán Kinh Diệu Tông Sao Giảng Nghĩa th́ đă xả
báo viên tịch.
1. Huyền đàm
1.1. Thích danh (giải
thích danh xưng)
Bộ luận này có
tên gọi đầy đủ là Vô Lượng Thọ Kinh
Ưu Bà Đề Xá, c̣n gọi là Văng Sanh Tịnh Độ
Luận, gọi đơn giản là Văng Sanh Luận, hoặc
gọi là Tịnh Độ Luận. Nay để giải
thích danh xưng, sẽ chia thành ba đoạn:
1. Vô Lượng Thọ
Kinh.
2. Ưu Bà Đề
Xá.
3. Nguyện Sanh Kệ.
1.1.1. Vô Lượng Thọ
Kinh
Đây là tựa đề
kinh theo lối nhân đề (人題, dùng người
để đặt tên kinh), mà cũng là pháp đề (法題, dùng pháp
để đặt tên kinh) của một bộ giáo điển
cơ bản làm cơ sở y cứ cho Tịnh Độ Tông
Trung Hoa. Trong bộ Vô Lượng Thọ Kinh Giảng Nghĩa,
tôi đă giải thích, phân tích tường tận ư nghĩa
được bao hàm [trong tựa đề này], nay giảng
bộ luận này, chẳng cần nói nhiều nữa. Dựa
theo Lư và Sự, sẽ nói giản yếu như sau:
1) Nói theo Lư, Vô Lượng
chính là A Di Đà, dùng Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ
để bao gồm trọn vẹn hết thảy các thứ
vô lượng. V́ sao vậy? Vô Lượng Quang là theo chiều
ngang trọn khắp mười phương, Vô Lượng
Thọ th́ theo chiều
dọc tột cùng ba đời. Đấy là cái Thể của
Nhất Chân pháp giới, mà cũng chính là cảnh Thật Tướng
của các pháp, thường nói là “ngôn ngữ dứt bặt,
tâm hạnh xứ diệt”, chính là nhất tâm nhị môn chẳng
thể nghĩ bàn.
2) Nói theo Sự, đấng
Cực Lạc giáo chủ đă tu chứng
cảnh thể này mà thành Phật; v́ thế, Ngài có tên là A Di
Đà Phật. Chúng
ta niệm Phật, phát nguyện văng sanh, mục đích chính
là “hoa nở, thấy Phật, ngộ Vô Sanh”, mà cũng
v́ liễu ngộ, chứng nhập cảnh thể ấy để
rồi hoàn thành lư tưởng tối cao “trên cầu Phật
đạo, dưới hóa độ chúng sanh”. Chúng sanh
trong thế gian cho đến vạn hữu trong vũ trụ,
đều là pháp hữu vi sanh diệt, hết thảy
đều có hạn lượng, hoàn toàn thuộc vào vô
thường. Do vô thường nên khổ, điều này chẳng
lư tưởng! Chúng ta học Phật chính
là mong đạt đến cảnh giới Thường Lạc
Ngă Tịnh viên măn. Vô Lượng
Thọ chính là Thường, do Thường nên Lạc, Lạc
là tự tại, giải thoát, thanh tịnh! Do vậy, Vô Lượng
Thọ chính là mục tiêu duy nhất để học Phật
của chúng ta. Niệm Vô Lượng Thọ Phật chính là
“hệ niệm cảnh chẳng nghĩ bàn, niệm đâu
chú tâm tại đó”. Ba kinh một luận của Tịnh
Tông đều nhằm dạy tâm chúng ta chẳng ĺa điều
này: “Thường niệm A Di Đà”, rốt cuộc
ai nấy đều đạt đến Phật cảnh,
Phật quả Vô Lượng Thọ!
1.1.2. Ưu Bà Đề
Xá
Đây là [danh xưng
trong] tiếng Phạn của một thể loại trong mười
hai phần giáo, dịch nghĩa là Luận Nghị, tức
là đức Phật và các đệ tử giải thích ư
nghĩa của kinh. Trong ấy, bao gồm các ư nghĩa “vấn
đáp, chọn lựa dứt khoát, phân tích, thảo luận”.
Luận ở Ấn Độ có hai loại:
1) Một là Tông Kinh
Luận (宗經論), tức
là dựa theo tông yếu của một hay nhiều loại
ư nghĩa trong kinh để thuyết minh quy nạp những
[giáo nghĩa] thiết yếu [trong bộ kinh ấy hay các
kinh ấy], chẳng chú trọng câu văn [trong chánh kinh] là
nhiều hay ít. Luận này (Văng Sanh Luận) thuộc loại
Tông Kinh Luận.
2) Hai là Thích Kinh Luận (釋經論), tức
là dựa theo kinh văn của một bộ kinh nào đó,
xét theo từng câu mà giải thích ư nghĩa của kinh văn,
tương đương với chú sớ của Trung Hoa.
Luận này có hai phần:
1) Một là Tổng
Thuyết Phần, tức là phần Kệ Tụng mỗi
câu năm chữ.
2) Hai là Giải Nghĩa
Phần, tức là phần văn Trường Hàng sau đó.
Đặc điểm
của bộ luận này hoàn toàn chẳng nhằm phát huy giáo
lư, mà là dựa theo Tịnh Độ Tam Kinh, nhất là kinh
Vô Lượng Thọ để đề ra cương yếu
và phương pháp tu hành, tức là Ngũ Niệm Pháp Môn, nhằm
dạy chúng ta phải niệm Phật như thế nào (lễ
bái, xưng danh, quan sát)? Phát nguyện như thế nào? Hồi
hướng như thế nào ḥng “vạn người tu,
vạn người đến”. Đúng là thuyền Từ
trong biển khổ, là bè báu cứu đời! Do vậy, hễ
là liên hữu Tịnh Tông cho đến hết thảy mọi
người trong cơi đời đều phải nên duyệt
đọc và liễu giải, lại c̣n phải nên y giáo phụng
hành!
1.1.3. Nguyện Sanh Kệ
“Nguyện” (願) có nghĩa
là chí tâm tin ưa, mà cũng bao hàm các nhân tố tâm lư như “cung
kính, chẳng gián đoạn, lâu dài, không có những tâm khác”
v.v… “Sanh” (生) là bỏ
báo thân này, sanh sang Cực Lạc Tịnh Độ kia. “Kệ”
(偈) là nói
tắt của chữ Già Đà (伽陀, Gāthā) trong tiếng
Phạn, mỗi câu là bốn chữ, năm chữ, cho đến
tám chữ. Cứ bốn câu là một Kệ, c̣n gọi là một
Tụng (頌), giống
như cổ thi Trung Hoa.
Nguyện Sanh Kệ
chính là tên gọi chung của toàn bộ phần Kệ Tụng
trong bộ luận này. Trong Tống Tạng (Đại Tạng
Kinh đời Tống), [từ ngữ] Nguyện Sanh Kệ
được ghi trước chữ Kệ Tụng, trong
Cao Ly Tạng (Đại Tạng Kinh của Đại Hàn),
[Nguyện Sanh Kệ] được xếp ra phía sau trong
danh xưng của bộ luận. [Trong các bản Đại
Tạng Kinh ấy], tên gọi đầy đủ của
bộ luận này là Vô
Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Nguyện Sanh Kệ
(無量壽經優婆提願生偈), tức
là lấy Nguyện Sanh Kệ làm tên gọi của toàn thể
bộ luận. Đấy chính là sai lầm! Trong mục lục
của Đại Chánh Tạng (Đại Chánh Tân Tu Đại
Tạng Kinh) của Nhật Bản, họ lược bỏ ba chữ Nguyện
Sanh Kệ.
Nguyện Sanh Kệ
gồm tất cả hai mươi bốn bài Kệ. Trong
hai bài Kệ đầu tiên, Tạo Luận Chủ (tác giả
của bộ luận) biểu lộ ḷng quy kính Tam Bảo của
chính ḿnh và tŕnh bày ư nghĩa v́ sao tạo luận. Hai mươi
mốt bài Kệ kế tiếp là nói tổng quát về sự
tướng công đức trang nghiêm nơi y báo và chánh báo của
Cực Lạc. Bài kệ cuối cùng là hồi hướng,
phát nguyện văng sanh Cực Lạc quốc. Nói quy nạp lại,
toàn bộ phần Kệ Tụng cho đến phần Trường
Hàng giải thích, phân tích ư nghĩa kinh văn, đều nhằm
thuyết minh niệm Phật, quán tưởng y báo và chánh
báo trang nghiêm của đức Di Đà như thế nào, khiến
cho [những điều ấy] phân minh trước mắt [độc giả], do “an
lập” mà “an trụ”, cuối cùng là thành tựu Niệm
Phật tam-muội, đích thân thấy Phật Di Đà hoặc
Tịnh Độ, tín tâm bèn kiên định, nguyện cùng với
các chúng sanh đều cùng sanh về nước An Lạc, đạt
bất thoái chuyển, viên măn Bồ Đề ngay trong một
đời.
1.2. Biện định
cái Thể
Các pháp thế gian chẳng
ra ngoài Pháp Tánh. Nếu chẳng có Pháp Tánh, sẽ chẳng có
các pháp! Trong tri kiến của đức Phật, Pháp Tánh của
các pháp được gọi là “Thật Tướng của
các pháp”. Do vậy, Tam Tạng giáo điển do đức Phật đă nói đều
lấy Thật Tướng làm Thể. Như Thích Ma Ha Diễn
Luận[1] đă viết: “Các
kinh Đại Thừa đều dùng Thật Tướng ấn
chứng để làm chánh thể của kinh”.
Thật Tướng
là ǵ? Đức Phật tùy duyên lập ra danh xưng. Kinh luận
mỗi thứ [gọi Thể bằng những danh xưng]
khác nhau, như kinh Hoa Nghiêm coi Nhất Chân pháp giới là Thật
Tướng, kinh Pháp Hoa dùng “nhất tâm nhị môn” làm Thật
Tướng, ba kinh một luận của Tịnh Độ
th́ lấy Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ làm Thật
Tướng, cũng tức là dùng danh hiệu Vô Lượng
Quang Thọ của Phật làm chánh thể của ba kinh một
luận. Như bản chú giải của bộ luận này
đă viết: “Đấng Thích Tôn nói công đức trang
nghiêm của Vô Lượng Thọ Phật, tức là dùng danh
hiệu của đức Phật ấy làm cái Thể của
kinh”. Nói giản yếu th́ Thật Tướng chánh thể
của bộ luận này chính là hai danh hiệu của cùng một
vị Phật, cũng tức là nhất tâm nhị môn:
a. Tâm Chân
Như Môn: Tâm Chân Như Môn ĺa hết thảy tướng; do “ĺa” nên
vô tướng, tức là Pháp Thân Lư Thể “Thường, Lạc, Ngă, Tịnh”, gọi
là Vô Lượng Thọ Phật.
b. Tâm Sanh Diệt
Môn: Tâm Sanh Diệt Môn chính là hết thảy các pháp. Do
v́ “chính là”, nên chẳng
phải là không có tướng, tức là quang minh của Báo
Thân Phật và Hóa
Thân Phật chiếu trọn khắp mười
phương, gọi là Vô Lượng Quang Phật. V́ thế,
trong phần Trường Hàng của bộ luận này đă
viết: “Quan sát ba thứ nguyện tâm trang nghiêm thành tựu
cơi Phật, đức Phật, và Bồ Tát, hăy nên biết:
Nói đại lược th́ sẽ thâu tóm trong một câu pháp.
Một câu pháp chính là câu thanh tịnh. Câu thanh tịnh chính là
trí huệ chân thật, vô vi Pháp Thân”. Cổ
đức cũng nói: “Thật Tế Lư Thể chẳng
lập mảy trần; trong môn
Phật sự, chẳng bỏ một pháp”. [Những
câu này] đều diễn tả rơ rệt chánh thể của
bộ luận này.
1.3. Minh định Tông
Đă biết chánh
thể của bộ luận này, vậy th́ cương tông
và chỉ thú của nó lại là như thế nào? Như phần
Trường Hàng của bộ luận này đă viết: “Phần
Nguyện Kệ này nêu rơ nghĩa lư nào? Thị hiện quán sát thế
giới thế giới An Lạc trong hiện tại, thấy
A Di Đà Phật, nguyện sanh về cơi ấy. Nếu thiện
nam tử, thiện nữ nhân tu ngũ niệm môn hạnh thành tựu, rốt ráo được sanh về cơi nước
An Lạc, thấy A Di Đà Phật”. [Do vậy],
có thể biết tông thú của bộ luận này chính là nương
theo Đạo Dễ Hành (Dị Hành Đạo), dùng ba nghiệp
thanh tịnh tu pháp môn ngũ niệm ḥng thành tựu văng sanh
Tịnh Độ. Những ǵ là ngũ niệm
môn? Một là Lễ Bái Môn (thân nghiệp), hai là Tán Thán Môn (khẩu
nghiệp), ba là Tác Nguyện Môn, bốn là Quan Sát Môn (hai môn này
là ư nghiệp, cũng là tu Đại Thừa Chỉ Quán), năm
là Hồi Hướng Môn (công đức tích tụ do tu năm
niệm môn đều hồi hướng cho hết thảy
chúng sanh, dẹp hết thảy nỗi khổ, nhiếp thủ
hết thảy chúng sanh cùng sanh về cơi An Lạc). Như luận
này có nói: “Bồ Tát tùy thuận năm thứ pháp môn mà việc
làm tùy ư tự tại thành tựu, do thân nghiệp, khẩu
nghiệp, ư nghiệp, trí nghiệp và phương tiện
trí nghiệp như đă nói trên đây đều tùy thuận
pháp môn vậy”.
1.4. Luận định
về Dụng
Đă biết cương
tông, [vậy th́ bộ luận này] có lực dụng như
thế nào? Như phần Kệ Tụng của luận này
có đoạn viết: “Ngă y Tu Đa La, chân thật công
đức tướng, thuyết nguyện kệ tổng
tŕ, dữ Phật giáo tương ứng, ngă tác luận
thuyết kệ, nguyện kiến Di Đà Phật, phổ
cộng chư chúng sanh, văng sanh An Lạc quốc” (Tôi nương
theo Khế Kinh, tướng công đức chân thật, nói
nguyện kệ tổng tŕ, tương ứng lời Phật
dạy. Tôi tạo luận, nói kệ, nguyện thấy Phật
Di Đà, cùng khắp các chúng sanh, văng sanh cơi An Lạc). Đấy
chính là nói luận này nương theo cương yếu của
Đại Thừa Phật pháp, thành tựu tổng tŕ tu hành
ngũ niệm môn th́ ngay trong đời hiện tại, sẽ
được thấy Phật Di Đà và Tịnh Độ.
Nguyện cùng với hết thảy chúng sanh, khi báo thân này đă
tận, sẽ cùng sanh về cơi An Lạc. Đấy là đại
lực, đại dụng của bộ luận này. Lại
như lời chú giải của bộ luận này đă nói:
Bồ Tát đắc Bất Thoái Chuyển, có hai loại đạo,
một là Nan Hành Đạo, hai là Dị Hành Đạo. Luận
này đă đạt đến chỗ tột cùng của Dị
Hành Đạo, là chiếc thuyền buồm Bất Thoái; đấy
chính là lực dụng chẳng thể nghĩ bàn của bộ
luận này. Những lực dụng khác như đă nói trong
bộ Vô Lượng Thọ Kinh Giảng Nghĩa đều
là lực dụng của bộ luận này, chẳng cần
phải nhắc lại nữa!
1.5. Phán định giáo
tướng
Thể, Tông, và Dụng của
bộ luận này đă đều hiểu rơ, hăy nên hiểu
rành giáo tướng của nó. Dựa theo “hóa pháp tứ
giáo” do ngài Thiên Thai đă lập để nói th́ luận
này là Biệt Giáo Đại Thừa kiêm Viên Giáo, v́ sao vậy?
Tạng Giáo chẳng phát Bồ Đề tâm, chẳng nói đến
mười phương Tịnh Độ. Thông Giáo th́ thông
cả Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa, luận
này thuần túy thuộc về pháp yếu Đại Thừa,
ắt cần phải phát đại Bồ Đề tâm, dùng
bốn môn để thành tựu tự lợi, và một môn
để thành tựu lợi tha. Cảnh giới được
quán lại là thân Phật,
Tịnh Độ, thần thông, trí huệ của Phật, Lục
Độ, Tứ Nhiếp, Tứ Vô Lượng v.v… mỗi
thứ đều là vô lượng, vô tận, vô ngại,
khá tương tự với Hoa Nghiêm, nên [luận này] cũng
thuộc về Viên Giáo, có cùng một ư thú như phẩm cuối
cùng của kinh Hoa Nghiêm, tức là Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Phẩm dùng mười đại nguyện vương hướng
dẫn về Cực Lạc. Do vậy, trong bộ Di Đà
Sớ Sao, Liên Tŕ đại sư đă dùng nghĩa lư của
Hoa Nghiêm Tông để giải thích [kinh Di Đà].
Nói theo “hóa nghi tứ
giáo” của tông Thiên Thai th́ luận này thuộc hiển yếu
thuyết, quyết định thuyết, trong Tiệm lại
kiêm Đốn. Như trong lời chú giải cho luận này
đă viết: “Dị Hành Đạo là chỉ do nhân duyên tin Phật,
nguyện sanh Tịnh Độ, nương theo nguyện lực
của Phật liền được văng sanh cơi thanh tịnh
ấy, do Phật lực trụ tŕ bèn dự trong Chánh Định
Tụ của Đại Thừa. Chánh Định chính là A
Bệ Bạt Trí”. Do vậy có
thể biết, tu ngũ niệm môn là Tiệm, nhưng do nương
cậy nguyện lực của Phật gia tŕ, liền dự
vào Chánh Định Tụ của Đại Thừa, đạt
đến địa vị Bất Thoái. Đấy là kèm
theo lợi ích của Đốn giáo. Lại theo như Long
Thọ Bồ Tát đă nói: “Bồ Tát có hai thứ đạo,
một là Nan Hành Đạo, hai là Dị Hành Đạo”
th́ luận này thuộc về Dị Hành Đạo.
Nói gộp chung lại,
tựa đề của bộ luận này có đủ cả
Nhân và Pháp, lấy quang thọ Thật Tướng làm Thể,
dùng pháp môn ngũ niệm làm Tông, văng sanh Cực Lạc làm Dụng,
viên đốn dễ hành làm Giáo Tướng.
1.6. Vấn đáp trừ
nghi
1.6.1. Có Cực Lạc
Tịnh Độ hay không?
* Hỏi: Tịnh
Độ Tông Trung Hoa dựa theo ba kinh một luận để
lập tông, đều nói văng sanh Cực Lạc Tịnh
Độ, [vậy th́] có cơi Tịnh Độ ấy hay không?
Đáp: Như đạo
sư Ấn Thuận đă nói trong bộ Văng Sanh Luận Giảng
Kư: “Nay nói đến chuyện có Tịnh Độ hay không
th́ có hai thuyết: Một là đối với đại
chúng b́nh phàm, họ phán đoán bừa băi [Tịnh Độ] là mê tín,
v́ kẻ tin tưởng [Tịnh Độ] chưa từng
trông thấy, lại chưa từng đến đó, chẳng
thể chứng thực là có [Tịnh Độ]. Hai là người
tin Phật th́ cho rằng ắt phải có [Tịnh Độ],
v́ tin kinh nói như thế đó. Nay dựa theo lư thông thường
để phán đoán, chẳng cần phải đích thân
trải qua, cũng chẳng cần phải hoàn toàn dựa
theo [những ǵ] kinh đă nói, cũng có thể nhận định
‘ắt phải có’ [Tịnh Độ]. Ở đây, tôi biện
luận như sau:
Một là như
trong hiện thời, khoa
học phát triển, đă chứng thực thế giới
này của chúng ta (địa cầu) chỉ là một hành
tinh trong vô lượng tinh cầu, có thể biết là ngoài
thế giới này, c̣n có các thế giới khác.
Hai là nếu hỏi
các thế giới có sai biệt hơn kém hay không? Chỉ nh́n vào các nơi trên
thế giới này luôn có hơn
kém khác nhau, có thể suy ra mà biết các thứ thế giới
ắt phải có hơn, kém.
Ba là nếu các thế
giới đă có hơn kém th́ thế giới này của chúng
ta có phải tốt đẹp nhất hay chăng, sẽ
biết là chẳng phải vậy. Nếu đă là như vậy
th́ có thể biết “có thế giới ưu việt hơn
tồn tại” sẽ là điều chẳng ngờ chi nữa!
Ngay như gần đây nhất, trong giới khoa học,
do có hiện tượng bí ẩn về đĩa bay, cũng
cho rằng có thể là trong các tinh cầu khác có những
sinh vật trí huệ cao hơn chúng ta!
Từ những điều
trên đây, có thể biết: Không phải là chỉ có Tịnh
Độ, mà lại c̣n cực nhiều, mỗi thế giới
lại c̣n thù thắng khác biệt! Trong giới Phật giáo
lại có người nói ‘duy tâm Tịnh Độ’, cho rằng
Tịnh Độ chỉ ở trong tâm con người, ngoài
tâm thật sự không có Tịnh Độ. Nói kiểu đó,
hết sức trái nghịch ư Phật. Cần phải biết:
Thế giới ‘duy tâm sở hiện’ (chỉ do tâm hiện),
nói kiểu ấy cố nhiên là đúng, nhưng phải nên
biết uế độ mà chúng ta đang sống vẫn là
‘duy tâm sở hiện’! Nay đă thừa nhận uế độ
‘duy tâm sở hiện’ có thật trong hiện tiền; sao lại
chẳng thừa nhận Tịnh Độ ‘duy tâm sở hiện’
là có thật vậy? V́ thế, đă tin vào Tịnh Độ,
ắt phải tin là nó có thật, chớ nên chấp Lư phế
Sự!”
1.6.2. Thọ mạng của
Phật Di Đà là hữu lượng hay vô lượng?
*
Hỏi: Theo như kinh Vô Lượng Thọ đă nói,
tiền thân của A Di Đà Phật là tỳ-kheo Pháp Tạng,
Ngài đă thành Phật từ mười kiếp trước,
nay đang thuyết pháp tại Tây Phương. Theo như
kinh Quán Âm Thế Chí Thọ Kư đă nói th́ sau khi A Di Đà Phật
diệt độ, sẽ do Quán Âm Bồ Tát kế vị. Dựa
theo hai thuyết ấy, thọ mạng của Phật Di Đà
chẳng phải là vô lượng, mà là hữu lượng (có hạn
lượng); nhưng
hai kinh Di Đà Tiểu Bổn và Đại Bổn đều
nói đức Phật ấy thọ mạng vô lượng;
rốt cuộc [thọ mạng của A Di Đà Phật] là
hữu lượng hay vô lượng?
Đáp: Như đạo
sư Ấn Thuận đă giải thích: “Đấy là v́
tâm lượng của chúng sanh hữu hạn, đức Phật
cố ư nói kiểu ấy (‘hữu
lượng’). Như
trong kinh Duy Ma Cật, ngài Xá Lợi Phất đă nghi ngờ
đức Phật [Thích Ca do hạnh bất tịnh mà] chiêu
cảm uế độ. Ngài trọn chẳng biết: Trông
thấy [thế giới Sa Bà] là uế độ chính là v́ mắt
ngài Xá Lợi Phất thấy như vậy, chẳng phải
cơi Phật vốn là như thế. Nay A Di Đà Phật (và
cơi nước) vốn là vô lượng, nhưng v́ chúng sanh
hữu lượng, [đức Phật Thích Ca] bèn phương
tiện nói là tại Tây Phương (hữu lượng) như
thế này, như thế nọ. Đấy chính là trong vô
lượng mà hiện hữu lượng,
khiến cho chúng sanh từ hữu lượng mà đạt
đến vô lượng vậy”.
Ngài (đạo sư
Ấn Thuận) lại nói: “A Di Đà Phật tức là vô
lượng Phật. Nói đến vô lượng th́ trước
hết cần phải biết vô lượng là ǵ? Lượng
là nói lớn hay nhỏ, lâu xa hay tạm thời, nặng hay
nhẹ, dài hay ngắn, đây kia có thể cân đong được!
Muôn vật trong thế gian không ǵ là chẳng thể đo lường,
suy nghĩ, bàn bạc, có thể dùng câu văn để diễn
tả, giải thích, nhưng đối với vị Phật
nơi Phật quả rốt ráo viên măn th́ cảnh giới ấy
chẳng thể đo lường, chẳng thể nghĩ
bàn, v́ thế là vô lượng. Ví như các gịng nước
đổ vào biển cả, liền mất đi tên gọi
riêng của chúng, đều là cùng một loại nước
b́nh đẳng, chẳng thể phân biệt. Như chúng sanh
phước báo, trí huệ v.v… mỗi người mỗi
khác, nhưng đến khi thành Phật, Pháp Thân sẽ b́nh
đẳng, bằng nhau không sai khác, tức là trở thành vô lượng. V́ thế,
có thể nói A Di Đà Phật chính là đại diện chung
cho hết thảy các vị Phật (vô lượng Phật)”. V́ thế,
trong bài kệ Phát Nguyện của Đại Từ Bồ
Tát có câu: “Thập phương tam thế Phật, A Di
Đà đệ nhất” (Mười phương ba đời
Phật, A Di Đà bậc nhất), chính là do ư nghĩa này!
1.6.3. Cầu sanh Tịnh
Độ là Tiểu Thừa hay Đại Thừa?
* Hỏi:
Có người nói, kẻ cầu sanh Tịnh Độ là kẻ
mong giải thoát cho riêng ḿnh, chỉ cầu chính ḿnh hưởng
vui, chẳng phải là Bồ Tát hạnh! Thế nhưng
trong kinh có nói “chúng sanh sanh vào cơi nước Cực Lạc
đều là A Bệ Bạt Trí”. Đă là Bất Thoái Chuyển
Bồ Tát, đương nhiên là Đại Thừa, [vậy
th́ tu Tịnh Độ] rốt cuộc là Tiểu Thừa hay
Đại Thừa?
Đáp: Như đạo
sư Ấn Thuận đă nói: “Cần phải biết pháp
môn Tịnh Độ chính là pháp môn Đại Thừa. Tiểu
Thừa không có mười phương Tịnh Độ;
v́ thế, cầu văng sanh Tịnh Độ là điều đặc
sắc của Đại Thừa. Nhưng nghĩa lư trọng
yếu trong Đại Thừa là ‘trên cầu Phật đạo,
dưới hóa độ chúng sanh’. Nếu niệm Phật mà
chẳng ĺa tâm cảnh Đại Thừa ấy, sẽ phù
hợp với ư nghĩa sanh về Cực Lạc. Nếu
chỉ v́ chính ḿnh ĺa khổ, được vui, th́ là căn
tánh Tiểu Thừa. Nhưng đă phát tâm Đại Thừa
(Bồ Đề tâm), v́ lẽ nào mà cầu sanh Cực Lạc?
V́ uế độ chẳng đủ nhân duyên, chẳng dễ
học Phật, tuy phát Bồ Đề tâm, chướng ngại
đặc biệt nhiều. Sanh, lăo, bệnh, tử, chẳng
hề nắm chắc mảy may. V́ thế, cần phải
văng sanh Cực Lạc, [là nơi] các vị
thượng thiện nhân cùng tụ hội một chỗ,
quyết chẳng đến nỗi lui sụt tâm Đại
Thừa. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ
Tát có nói: ‘Như Lai có phương tiện thù thắng để
nhiếp thủ, ǵn giữ tín tâm, khiến cho [hành nhân] chẳng
bị thoái chuyển (lui sụt Bồ Đề tâm)’ chính là
nói về ư này vậy”.
Do điều này có
thể thấy: Văng sanh Tịnh Độ không chỉ là Đại
Thừa Bồ Tát đạo, mà c̣n có thể bảo vệ,
ǵn giữ Đại Thừa Bồ Đề tâm măi cho đến
khi thành Phật. Kinh A Di Đà có nói: “Bất khả dĩ
thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên
đắc sanh bỉ quốc” (Chẳng thể do ít thiện
căn, phước đức, nhân duyên mà sanh về cơi ấy
được), tức là nói chẳng thể thiếu sót thiện
căn “phát Đại Thừa Bồ Đề tâm” mà
ḥng văng sanh cơi Cực Lạc. Bởi lẽ, Đại Thừa
Bồ Đề tâm chính là chánh nhân văng sanh, là chủng tử
thành Phật, hết thảy cảnh, hạnh, và quả Đại
Thừa đều sanh khởi từ đấy, nó chính là thiện
căn nhiều nhất, lớn nhất. Đă hành Đại
Thừa, đă nguyện văng sanh, lẽ đâu chẳng phát Đại
Thừa Bồ Đề tâm ư? Do đó, ba bậc chín phẩm
văng sanh Cực Lạc đều ắt cần phải phát
Bồ Đề tâm, ba kinh một luận Tịnh Độ
đều cùng nói điều này. Đă phát Bồ Đề
tâm th́ chính là tu hành Đại Thừa.
1.6.4. Văng sanh Tịnh
Độ nói theo ư nghĩa rốt ráo trong Phật pháp th́ là
hữu sanh hay vô sanh?
* Hỏi: Cổ đức
có nói: “Văng vô sở văng, sanh vô sở sanh” (Đi th́ chẳng
có ǵ để đi, sanh th́ chẳng
có ǵ được sanh), lại c̣n nói: “Văng tắc quyết
định văng, sanh tắc quyết định sanh” (Văng
th́ quyết định là văng, sanh th́ quyết định là
sanh). Lại c̣n nói: “Sanh th́ quyết định sanh, đi
th́ thật sự chẳng đi”, hoặc “văng th́
có văng, nhưng sanh th́ không sanh”. Rốt cuộc là hữu
sanh hay vô sanh?
Đáp: Như trong
bộ Văng Sanh Tịnh Độ Luận Giảng Yếu, Thái
Hư đại sư đă nói: “Nói theo Thắng Nghĩa
Đế trong Phật pháp, cơi Phật rốt ráo thanh tịnh
chính là Nhất Chân pháp giới ĺa hết thảy các tướng,
ĺa hết thảy phân biệt, ngôn thuyết. Nhất Chân
pháp giới ấy trọn khắp hết thảy mọi nơi,
ai nấy đều vốn sẵn có, nhưng nó chẳng
hiển hiện, là v́ bị
phiền năo, nghiệp báo ngăn chướng. Tuy trọn
khắp hết thảy mà chẳng tương ứng, rốt
cuộc ở trong sanh tử như mộng, như huyễn,
lưu chuyển không ngừng. Nếu có thể phá phiền
năo nghiệp báo mộng huyễn ấy, một niệm giác
ngộ, th́ ngay trong một niệm liền tương ứng
Tịnh Độ. Đấy chính là ư nghĩa văng sanh ‘văng
vô sở văng, sanh vô sở sanh’ vậy.
Nếu dựa theo
Thế Tục Đế để bàn về văng sanh th́ văng
quyết định là văng, sanh th́ quyết định là
sanh. Do cái nhân là tu Tịnh nghiệp, đến
khi mạng chung, quyết định ĺa khỏi thế giới
Sa Bà này mà văng sanh thế giới Cực Lạc kia.
Nếu gộp chung
Thắng Nghĩa Đế và Thế Tục Đế để
luận định văng sanh th́ lại có thể nói: ‘Văng th́ không có văng,
sanh th́ quyết định sanh’. Do báo
thể (bản thể của báo thân) của người
văng sanh chính là A Lại Da Thức, thức ấy trọn khắp
hết thảy mọi nơi, chẳng có nơi chốn. Sanh
vào trong cơi nước này chính là do nghiệp lực năng
sanh (nghiệp lực chi phối sự chuyển sanh) đă
chín muồi cho nên cái báo
thể (thân do nghiệp báo kết thành) để sanh trong cơi
nước này bèn thành tựu. Nếu Tịnh nghiệp sanh
vào Tịnh Độ đă chín muồi th́ cái báo thể sanh
vào Tịnh Độ bèn thành tựu. V́ thế nói ‘văng th́ không
văng, sanh th́ quyết định sanh’.
Lại nữa, khi
cái báo thể đă thành trong hiện tại chưa xả mạng
th́ là báo thân trong thế giới này; nếu xả mạng bèn
văng sanh Cực Lạc, tức là trở thành báo thân trong thế
giới Cực Lạc. Đấy chính là ‘văng th́ có văng’, nhưng
không có năng sanh (chủ thể sanh về) và sở sanh (cơi
nước để sanh về) thực tại, tức là
báo thân như mộng huyễn, rốt cuộc là do đâu mà
sanh vào Sa Bà, do đâu mà sanh vào Cực Lạc? Nếu là từ
tự sanh th́ khi chưa sanh, tự thể vẫn c̣n chưa
có, làm sao có thể tự sanh? Nếu là tha sanh (do pháp ǵ khác
mà sanh), th́ do đối với tự mà nói là tha, tự đă
chẳng sanh, làm sao tha có thể sanh cho được? Nếu
chẳng do cái nhân mà sanh th́ giống như vô sanh. Trung Luận
có nói: ‘Các pháp chẳng tự sanh, cũng chẳng do pháp khác
sanh, chẳng cùng, chẳng không nhân, v́ thế nói vô sanh’. Do vậy,
có thể nói: ‘Văng th́ có văng, nhưng sanh th́ không sanh’.
Đối với
bốn câu trên đây, đều chớ nên thiên chấp. Nếu
có thể ĺa chấp, sẽ có thể tùy thuận cơ nghi
mà lập bày, diễn nói”.
Do vậy
có thể biết, liên hữu Tịnh Tông chỉ nên tự vấn
Tịnh nghiệp của chính ḿnh đă thành tựu hay chưa,
chẳng cần phải thắc mắc là hữu sanh hay vô
sanh? Tịnh nghiệp là nhân, Tịnh Độ là quả,
nhân và quả quyết định chẳng ĺa nhau. Pháp môn Tịnh
Độ từ hữu sanh mà ngộ vô sanh, nương nhờ
y báo và chánh báo của đức Di Đà để hiển
lộ tâm tánh của chính ḿnh; do huân tập mà thành tựu,
chứng nhập cái mà ḿnh vốn sẵn có. “Tâm này làm Phật,
tâm này là Phật”, nhất tâm nhị môn, Nhị Đế
(Chân Đế và Tục Đế) viên dung, Lư Sự vô ngại
vậy!
1.6.5. Văng sanh Cực Lạc
cần phải hội đủ những nhân duyên nào?
* Hỏi: Người
sanh về cơi An Lạc có ba bậc khác nhau, nhân duyên văng sanh của
mỗi bậc khác nhau như thế nào?
Đáp: Như trong
bộ Lược Luận An Lạc Tịnh Độ Nghĩa do Đàm
Loan đại sư trước
tác có nói:
“Người sanh
trong bậc thượng có năm nhân duyên: Một là bỏ
nhà, ĺa dục, làm sa-môn. Hai là phát Bồ Đề tâm. Ba là một
mực chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật. Bốn
là tu các công đức. Năm là nguyện sanh về cơi An Lạc.
Người sanh thuộc
bậc trung có bảy nhân duyên: Một là phát Bồ Đề
tâm. Hai là một mực chuyên niệm Vô Lượng Thọ
Phật. Ba là tu thiện nhiều hay ít, vâng giữ trai giới.
Bốn là tạo dựng tháp, tượng. Năm là đăi cơm
sa-môn (người xuất gia). Sáu là treo phan, thắp đèn,
rải hoa, đốt hương. Bảy là đem những
điều ấy hồi hướng nguyện sanh về
cơi An Lạc.
Người sanh
trong bậc hạ có ba nhân duyên: Một là giả sử chẳng
thể làm các công đức, hăy nên phát Vô Thượng Bồ
Đề tâm. Hai là một mực chuyên niệm, cho đến
mười niệm, niệm Vô Lượng Thọ Phật.
Ba là dùng tâm chí thành, nguyện sanh về cơi An Lạc.
Lại có một hạng
người văng sanh An Lạc chẳng thuộc vào ba bậc,
tức là do tâm nghi hoặc, tu các công đức, nguyện
sanh về An Lạc, chẳng hiểu rơ Phật trí, cho đến
vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí (trí thù
thắng tối thượng không sánh bằng). Đối
với các trí ấy, nghi hoặc chẳng tin, nhưng vẫn
tin tội phước nhân quả, tu tập gốc lành. Tuy
được văng sanh, nhưng là sanh nơi Biên Địa
của Cực Lạc, ở trong cung điện bảy báu,
hưởng các sự vui sướng, trong năm trăm năm,
chẳng thấy Tam Bảo, gọi là Thai Sanh. Ví như người
ở trong thai, do nhân pháp chưa thành, chẳng thể thọ
sanh trong bào thai. V́ sao biết? Cơi An Lạc một mực là
hóa sanh, sau năm trăm năm, [kẻ Thai Sanh] mới biết
lỗi của chính ḿnh, tự trách, hối hận sâu xa, cầu
ĺa chỗ ấy, liền được như ư, vẫn
giống như ba bậc văng sanh”.
1.6.6. Mười niệm
liên tục bèn được văng sanh là chuyện có thể ư?
* Hỏi: Trong kinh Vô
Lượng Thọ có nói bổn nguyện của đức
Di Đà là “nếu có chúng sanh muốn sanh về cơi ta, chí
tâm tin ưa, thậm chí mười niệm mà nếu chẳng
sanh về đó, ta chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác”.
Chỉ có mười niệm mà thật sự có thể văng
sanh ư?
Đáp: Như Đàm
Loan đại sư đă nói: “Ví như có người ở
chỗ đồng không mông quạnh, gặp phải oán tặc
vung dao toan giết. Người ấy rảo chạy, trước
mặt có một con sông, nếu vượt được
sông sẽ có thể
giữ nguyên cái đầu. Lúc đó, người ấy chỉ
nghĩ đến phương tiện để vượt
sông: Mặc áo lội qua? Hay là cởi áo rồi lội? Nếu
mặc quần áo, sợ chẳng bơi qua nổi. Nếu
cởi quần áo, sợ không kịp nữa. Chỉ có niệm
ấy, chẳng có duyên nào khác, chỉ nghĩ vượt sông
bằng cách nào, đấy chính là ‘nhất niệm’. Tâm chẳng
xen tạp như thế th́ gọi là ‘mười niệm
liên tục’.
Hành giả niệm
Phật cũng vậy (trong khi lâm chung), niệm A Di Đà
Phật, giống như kẻ kia nghĩ cách vượt sông,
trải qua mười niệm, hoặc chuyên niệm danh hiệu
Phật, hoặc chuyên niệm tướng hảo của Phật,
không có tâm niệm nào khác xen tạp, tâm niệm tiếp nối,
cho đến mười niệm, th́ gọi là ‘mười
niệm liên tục’ (liền được văng sanh).
Hăy nên dốc ḷng
tin, tự ấn định niệm sẵn (trong lúc b́nh thời),
khiến cho tích tập thành tánh, thiện căn kiên cố,
như cái cây đă nghiêng về Tây, nếu nó đổ, sẽ
đổ về phía Tây. Nếu như phong đao (vô thường)
xảy đến, trăm nỗi khổ tụ hội nơi
thân, nếu không đă tập quen từ trước, sẽ
không có cách nào niệm nổi! Lại hăy nên cùng với dăm
ba người cùng chí hướng, ước hẹn với
nhau, khi sắp mạng chung, sẽ nhắc nhở, trợ niệm
cho nhau, khiến cho người lâm chung tiếng niệm Phật
liên tục, thành tựu mười niệm. Khi mạng đă
đoạn, chính là lúc sanh về cơi An Lạc”.
1.7. Giải thích về
người dịch và người chú giải
1.7.1. Luận về người
dịch
Người biên soạn
bộ luận này là Thế Thân Bồ Tát, hành trạng của
Ngài tôi để lại, sẽ giới thiệu trong phần
Thích Năng Y Thị Lực Dụng (giải thích căn cứ để nương vào
[mà tạo luận], chỉ bày lực dụng [của bộ
luận này) trong phần sau. Nay nói về người dịch bản
luận này chính là ngài Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi
xứ Thiên Trúc [đến
Trung Hoa vào] đời Nguyên Ngụy. Nguyên Ngụy[2] chính là Thác Bạt Ngụy
(nhà Ngụy do Thác Bạt Khuê sáng lập) thuộc Bắc Triều
trong thời Nam Bắc Triều, không phải là nhà Tào Ngụy
(nhà Ngụy do Tào Phi sáng lập). Thiên Trúc[3] chính là Ấn Độ;
vị này chính là người Bắc Ấn Độ. Tam Tạng
chính là vị pháp sư tinh thông Tam Tạng Kinh Luật Luận.
Bồ Đề Lưu
Chi (Bodhiruci) là tiếng Phạn, chính là danh hiệu của vị
pháp sư này. Bồ Đề dịch nghĩa là Giác hay Đạo.
Lưu Chi dịch là Ái (愛) hoặc
Hy (希). Danh
hiệu này bao hàm ư nghĩa Mong Cầu hoặc Yêu Thích Giác Đạo.
Vị này khác với ngài Bồ Đề Lưu Chí đă
phiên dịch kinh Đại Bảo Tích vào thời Vũ Hậu
(Vũ Tắc Thiên) đời Đường. Vị pháp
sư này dịch rất nhiều bộ kinh luận, như
các bộ Kim Cang Kinh, Pháp Hoa Luận, Thập Địa Kinh
Luận v.v… Nhất là bộ Thập Địa Kinh Luận
sau khi được Ngài dịch ra, rất được
phổ biến một thời, h́nh thành Địa Luận
Tông, về sau lại trở thành Hoa Nghiêm Tông, có ảnh hưởng
rất lớn đối với Phật giáo Trung Hoa. Bộ
luận này do Ngài phiên dịch cũng có mối quan hệ cực
lớn đối với sự kiến lập và hoằng
dương Tịnh Độ Tông Trung Hoa. Có thể nói Ngài
là người đă đem Tịnh Độ Tông từ Ấn
Độ truyền sang gieo cấy tại Trung Hoa.
1.7.2. Luận về người
chú giải
Sau khi bộ Văng Sanh
Luận được ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch
ra, tuy là cương yếu của Tịnh Độ Tông,
nhưng chẳng được lưu thông rộng răi, chú
giải của bộ luận này càng ít. Chỉ có Đàm
Loan đại sư vào thời Bắc Ngụy[4] đă soạn chú giải
tường tận cho bộ luận này, giăi bày trọn vẹn
thệ nguyện của Phật Di Đà và bổn hoài của
ngài Thế Thân. Khế lư, khế cơ, văn chương
lưu loát, nghĩa lư phong phú, thật sự có thể mở
mang chánh trí cho người khác, khiến cho người
đọc dấy ḷng chánh tín, chỉ bày chánh hạnh, giúp họ
văng sanh. Nhưng tiếc là tác phẩm chú giải này bị
thất truyền từ
lâu tại Trung Hoa! Cuối đời Thanh, cư sĩ Dương
Nhân Sơn đă thỉnh từ Nhật Bản về, khắc
in lưu thông. Nay chúng tôi được soạn lời giảng
giải cho bộ chú giải này, thật sự là nhân duyên khó
có.
Ngài Đàm Loan là người
xứ Nhạn Môn tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Đại
của tỉnh Sơn Tây). Thuở trẻ, Ngài sang chơi núi
Ngũ Đài, thấy thần tích linh dị; do vậy bèn
phát tâm xuất gia. Đọc kinh luận Đại Thừa,
do v́ [nhận thấy] từ ngữ và ư nghĩa sâu xa, kín
nhiệm, Ngài bèn soạn chú giải. Chẳng lâu sau, Ngài mắc bệnh
về đường hô hấp, t́m thầy chữa trị
khắp nơi, thể chất vẫn yếu ớt như
cũ. Ngài cảm khái, than thở: “Mạng người mong
manh, sáng tối vô thường, nghe nói có bậc thần tiên
trường thọ xuất hiện trong nhân gian, chẳng
bằng ta cầu pháp trường thọ trước đă
rồi mới lại hoằng dương Phật giáo cũng
chẳng phải hơn ư?” Do vậy, Ngài xuống phương
Nam, theo đạo sĩ Đào Hoằng Cảnh học thuật
Phục Nhĩ[5].
Sau đấy, Ngài trở về Bắc Ngụy, gặp gỡ
ngài Bồ Đề Lưu Chi tại Lạc Dương, kể
lại quá tŕnh cầu tiên phỏng đạo. Ngài Bồ
Đề Lưu Chi quở trách Sư ngu si, xằng bậy.
Ngài Đàm Loan thưa thỉnh: “Phật giáo có thuật trường
sanh vượt trỗi tiên kinh hay không?” Ngài Bồ Đề
Lưu Chi nói: “Chỗ nào trong xứ này có pháp trường
sanh bất tử? Dẫu sống lâu, chẳng chết trong
một khoảng thời gian ngắn (như Bát Tiên thường
được nhắc đến), rốt cuộc cũng
bị luân chuyển, có ǵ là đáng quư hay chăng? Trường
sanh bất tử th́ chỉ trong giáo pháp của đức Phật
mới có!” Đại sư bèn dạy ngài Đàm Loan Thập
Lục Quán Kinh (tức Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh)
và bộ luận này, lại bảo Sư: “Hăy nương
theo pháp này tu học, sẽ chẳng c̣n sanh lại trong tam giới nữa, chẳng
c̣n trở vào lục đạo, đầy, vơi, tiêu mất,
họa phước, thành bại,
chẳng c̣n bận ḷng, đấy chính là Thọ. Kiếp số
nhiều như số
cát sông Hằng đều chẳng thể sánh bằng
được! Đấy chính là thuật trường
sanh của đấng Kim Tiên vậy (Phật là Đại
Giác Kim Tiên, [Kim Tiên] chẳng phải là những vị thần
tiên thông tục)”. Ngài Đàm Loan hết sức vui mừng,
liền đốt kinh đạo tiên, chuyên nương theo
Quán Kinh và bộ luận này để tu Tịnh quán. Ngài tự
hành, dạy người khác, hoằng dương pháp môn Tịnh
Độ.
Ngài trước tác
các bộ Văng Sanh Luận Chú Giải, Lược Luận An
Lạc Tịnh Độ Nghĩa, Tán A Di Đà Phật Kệ
v.v… Trí Giả đại sư đă trích dẫn khá nhiều
[đoạn văn của ngài Đàm Loan] trong bộ Thập
Nghi Luận. Vua Ngụy sắc truyền Ngài trụ tại
một ngôi chùa lớn ở Tinh Châu
(nay là huyện Dương Khúc tỉnh Sơn Tây). Về già,
Ngài chuyển sang chùa Huyền Trung tại Thạch Bích Cốc
thuộc Phần Châu (nay là huyện Phần Dương, tỉnh
Sơn Tây). Năm Hưng Ḥa thứ tư (542), vào một tối,
trong khi Thiền Quán, Ngài thấy một vị Phạm tăng
tới nói: “Ta là Long Thọ, ở trong Tịnh Độ
đă lâu, do ông có cùng chí hướng, cho nên đến gặp
gỡ”. Tổ lại nói kệ rằng:
Dĩ lạc diệp
bất khả cánh phụ chi,
Vị lai lật bất
khả thực trung cầu,
Bạch câu quá khích
bất khả tạm trú,
Dĩ khứ giả
bất khả phản,
Vị lai giả bất
khả truy,
Tại kim hà tại?
Bạch câu nan khả hồi!
(Lá đă
ĺa cành chẳng gắn lại,
Chẳng mong ăn
nổi thóc mai sau,
Ngựa trắng vụt
qua há ngừng vó?
Sự đă qua rồi
khó trở về,
Chuyện thuộc
mai sau há truy cầu?
Hiện tại đang
ở nơi đâu?
Bóng câu đă khuất
t́m cầu được chăng?)
Nói xong, chẳng thấy
đâu nữa. Ngài Đàm Loan tự biết đă đến
lúc, liền nhóm chúng, răn dạy rằng: “Vất vả
nhọc nhằn cả đời, chẳng nghỉ ngày nào!
Các nỗi khổ trong địa ngục chẳng thể
không kinh sợ. Chín phẩm Tịnh nghiệp chẳng thể
không tu”. Do vậy, Ngài bèn bảo các đệ tử lớn
tiếng xướng A Di Đà Phật, hướng về
phương Tây lễ
bái mà tạ thế. Đại chúng trong chùa đều thấy
phan, hoa, tràng, lọng từ phương Tây đi đến,
nhạc trời vang rền trên không trung hồi
lâu mới hết.
Do vậy, có thể
thấy ngài Đàm Loan không chỉ chú giải luận này lợi
ích các liên hữu trong Tịnh Tông, mà c̣n thân tâm quy mạng A
Di Đà Phật, tận lực tu pháp môn Ngũ Niệm, thành
tựu Tịnh nghiệp, được sanh về Tịnh
Độ, đúng là gương
mẫu cho các đệ tử Phật môn trong hiện thời,
nêu gương cho Tăng chúng. Chỉ mong kẻ thấy người
nghe, đều cùng phát tâm thù thắng, nương theo Bồ
Tát đạo dễ hành này để vượt thoát tam giới
theo chiều ngang, mau chóng ngự lên ngôi Bất Thoái, cùng thành
Phật đạo. Đấy là điều tôi mong mỏi
vậy!
2. Chánh giảng (phần
giảng giải chánh yếu)
2.1. Huyền nghĩa
2.1.1. Phán định rạch
ṛi giáo pháp
2.1.1.1. Nêu rơ giáo tướng
của hai đạo
(Chú) Cẩn án
Long Thọ Bồ Tát Thập Trụ Tỳ Bà Sa vân: “Bồ
Tát cầu A Bệ Bạt Trí hữu nhị chủng đạo:
Nhất giả, nan hành đạo, nhị giả, dị hành
đạo”.
(註)謹案龍樹菩薩十住毘婆沙云。菩薩求阿鞞跋致有二種道。一者難行道。二者易行道。
(Chú: Kính xét
theo bộ Thập Trụ Tỳ Bà Sa của Long Thọ Bồ
Tát có nói: “Bồ Tát cầu A Bệ Bạt Trí th́ có hai loại
đạo: Một là đạo khó hành, hai là đạo dễ
hành”).
Đây là người
chú giải, tức Đàm Loan đại sư, trước khi giải thích lời luận theo từng
câu, đă chia đại lược các nghĩa
lư u huyền, trọng yếu chứa
đựng trong bộ luận này thành
hai khoa để diễn nói. Một khoa là nêu ra giáo tướng
của hai đường lối, khoa
kia là giải thích đề mục và nêu đại cương
[của bộ luận này]. Phần này tương đương
với phần Huyền Nghĩa của tông Thiên Thai, hoặc
phần Huyền Đàm của tông Hiền Thủ.
Ngài Đàm Loan nêu ra
giáo tướng của hai đường lối dựa theo cách nói trong bộ Thập Trụ Tỳ Bà
Sa Luận do Long Thọ Bồ Tát biên soạn, chẳng phải
là sáng kiến của chính Ngài.
Long Thọ (Nāgārjuna, 龍樹) là tên
riêng của một vị Bồ Tát. Khoảng chừng bảy
trăm năm sau khi đức Phật Thích Ca nhập diệt,
Bồ Tát xuất sanh tại Nam Ấn Độ, thông huệ
hơn người, nổi danh từ trẻ. Ngài chơi thân
thiết với ba người bạn, đều là những
bậc tuấn kiệt đương thời. Họ đều
học được thuật ẩn thân của bọn đạo
sĩ, vào trong cung của quốc vương gian dâm các phi tần,
người khác chẳng thấy h́nh dạng của họ,
ra vào tự do. Về sau, chuyện bại lộ, ba người
bạn đều bị chết dưới lưỡi đao,
chỉ ḿnh Ngài thoát chết, mới ngộ “dục là cội
khổ”, chán dục mà xuất gia. Trong chín mươi ngày,
Ngài tụng trọn Tam Tạng, hiểu rơ ư nghĩa. Về
sau, Ngài được Đại Long dẫn vào cung rồng,
mở hộp bảy báu, trao truyền các diệu pháp Đại
Thừa. Ngài chuyên tâm đọc tụng, cũng
trải qua chín mươi ngày, thâm nhập Vô Sanh Pháp Nhẫn,
rồng lại đưa Ngài trở về. Ngài bèn hoằng
dương Phật pháp rộng lớn tại Nam Ấn Độ,
tuyên dương rộng răi Đại Thừa. Về sau,
do có một tỳ-kheo Tiểu Thừa thường ôm ḷng
ghen ghét, ngài Long Thọ bèn hỏi: “Ông có thích tôi trụ thế
lâu dài hay không?” Tỳ-kheo đáp rằng: “Tôi thật sự
chẳng muốn”. Ngài Long Thọ liền vào thất vắng,
như ve thoát xác mà qua đời. Sau khi Ngài tạ thế, các
quốc vương dựng miếu thờ, tôn kính Ngài như
Phật. Do Ngài được mẹ sanh ra dưới cội
cây, lại do rồng mà thành tựu đạo nghiệp, nên
lấy tên là Long Thọ. Ngài là vị Tổ thứ mười
ba của Thiền Tông, thọ mạng trụ thế hơn
hai trăm năm, duy tŕ Đại Thừa Phật pháp, độ
vô số người.
Bồ Tát chính là Bồ
Đề Tát Đỏa (Bodhisattva) gọi tắt, dịch
nghĩa là “hữu
t́nh giác ngộ”. Phàm là người
phát tâm Bồ Đề, trên cầu Phật đạo, dưới
hóa độ chúng sanh, đều có thể gọi là Bồ
Tát. Công hạnh của Bồ Tát có xa hay gần, trí huệ có
cạn hay sâu. Mười Tín vị thuộc Biệt Giáo chính
là Sơ Phát Tâm Bồ Tát, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng
chính là bốn địa vị gia hạnh, được
gọi là Tam Hiền Bồ Tát. Thập Địa là thánh vị
Bồ Tát. Ngài Long Thọ là thánh vị Bồ Tát; trong kinh Lăng Già, đức Phật có nói ngài Long Thọ
là Sơ Địa Bồ Tát, tức là vị Bồ Tát vừa
mới đạt được Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Thập Trụ Tỳ
Bà Sa (Daśabhūmikavibhāṣā): Tỳ
Bà Sa (Vibhāṣā) là tiếng
Phạn, dịch nghĩa là Quảng Thuyết (廣說, nói rộng),
hoặc là Quảng Giải (廣解, giải
thích rộng răi, cặn kẽ), hoặc Thắng Thuyết
(勝說, lời nói thù thắng), hoặc
Chủng Chủng Thuyết (種種說, nói ra đủ
mọi thứ). Thập
Trụ chính là địa vị Thập Địa trong Biệt
Giáo. Thập Trụ Tỳ Bà Sa là tên một bộ luận, c̣n gọi là Thập
Trụ Luận. Bộ luận ấy nhằm
giải thích hai địa vị đầu tiên trong phẩm
Thập Địa của kinh Hoa Nghiêm, do Long Thọ Bồ
Tát trước tác. Vào thời Diêu Tần ở Trung Hoa, bộ
luận ấy được ngài Cưu Ma La Thập dịch
sang tiếng Hán. Toàn thể bộ luận gồm mười
lăm quyển, [chia thành] ba mươi lăm phẩm, phẩm
thứ tám là A Bệ Bạt Trí Tướng và phẩm thứ
chín là Dị Hành, có đoạn viết: “Bồ Tát cầu
A Bệ Bạt Trí (cầu bất thoái chuyển), có hai đường
lối, một là đạo khó hành, hai là đạo dễ
hành”.
2.1.1.2. Giải thích về
sự khó dễ giữa hai đường
(Chú) Nan hành đạo giả, vị ư ngũ
trược chi thế, ư vô Phật thời, cầu A Bệ
Bạt Trí vi nan. Thử nan năi hữu đa đồ, thô ngôn
ngũ tam, dĩ thị
nghĩa ư. Nhất giả, ngoại đạo tướng
thiện loạn Bồ Tát pháp. Nhị giả, Thanh Văn tự
lợi chướng đại từ bi. Tam giả, vô lại
ác nhân phá tha thắng đức. Tứ giả, điên
đảo thiện quả, năng hoại Phạm hạnh.
Ngũ giả, duy thị tự lực, vô tha lực tŕ. Như
tư đẳng sự, xúc mục giai thị. Thí như lục
lộ, bộ hành tắc khổ. Dị hành đạo giả,
vị đản dĩ tín Phật nhân duyên, nguyện sanh Tịnh
Độ, thừa Phật nguyện lực, tiện đắc
văng sanh bỉ thanh tịnh độ. Phật lực trụ
tŕ, tức nhập Đại Thừa Chánh Định chi tụ.
Chánh Định tức thị A Bệ Bạt Trí, thí
như thủy lộ thừa thuyền tắc lạc.
(註)難行道者。謂於五濁之世。於無佛時。求阿鞞跋致為難。此難乃有多途。粗言五三以示義意。一者外道相善亂菩薩法。二者聲聞自利障大慈悲。三者無賴惡人破他勝德。四者顛倒善果能壞梵行。五者唯是自力。無他力持。如斯等事觸目皆是。譬如陸路。步行則苦。易行道者。謂但以信佛因緣。願生淨土。乘佛願力。便得往生彼清淨土。佛力住持。即入大乘正定之聚。正定即是阿鞞跋致。譬如水路。乘船則樂。
(Chú: “Đạo
khó hành” là trong đời ngũ trược, lúc chẳng có
Phật, cầu A Bệ Bạt Trí khó khăn. Sự khó khăn
ấy có nhiều lối, nói thô thiển dăm ba điều
để nêu tỏ nghĩa này. Một là những điều
thiện thuộc về h́nh tướng của ngoại
đạo gây rối loạn pháp Bồ Đề. Hai là Thanh
Văn v́ tự lợi mà chướng ngại ḷng đại
từ bi. Ba là kẻ ác vô lại phá hoại phẩm đức
thù thắng của người khác. Bốn là điên đảo
thiện quả, có thể phá hoại Phạm hạnh. Năm,
chỉ là tự lực, không được tha lực duy
tŕ. Những chuyện như thế chỗ nào cũng đều
thấy. Ví như đi theo đường bộ, đi bộ
th́ khổ. “Đạo dễ hành” là do nhân duyên tin Phật,
nguyện sanh về Tịnh Độ, nương vào nguyện
lực của Phật liền được sanh về cơi
thanh tịnh ấy. Do được Phật lực gia tŕ,
liền dự vào Chánh Định Tụ của Đại
Thừa. Chánh Định chính là A Bệ Bạt Trí, ví như
theo đường thủy, ngồi thuyền th́ vui).
Đoạn văn này
nhằm giải thích về Nan Hành và Dị Hành Đạo,
tức là lời giải thích của ngài Đàm Loan đối
với lời luận định trong Thập Trụ Tỳ
Bà Sa Luận ḥng khiến cho hết thảy các Bồ Tát sơ
tâm hiểu rơ để hành Bồ Tát đạo, ngơ hầu đạt
đến địa vị Bất Thoái Chuyển, sẽ có
hai đường lối khó và dễ khác nhau. Đối với
cả hai đường lối đều là trước
hết giải thích, sau đó dùng thí dụ để chỉ
rơ.
Nan Hành Đạo tức
là đường lối hành tŕ khó khăn trong Bồ Tát
đạo. Các kinh luận Đại Thừa thường
nói, Bồ Tát từ sơ phát Bồ Đề tâm lần lượt
trải qua bốn địa vị gia hạnh, tức Thập
Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi Hướng,
cần
phải mất một đại A-tăng-kỳ kiếp
rồi mới đăng địa (chứng địa vị
Sơ Địa). Từ Sơ Địa cho đến Bát
Địa, lại phải trải qua một đại A-tăng-kỳ
kiếp nữa. Từ Bát Địa cho đến Thập
Địa, lại phải mất một đại A-tăng-kỳ
kiếp. Thường nói là “tam kỳ tu phước huệ,
bách kiếp tu tướng hảo, thỉ đắc thành Phật”
(ba đại A-tăng-kỳ kiếp tu phước huệ,
trăm kiếp tu tướng hảo th́ mới được
thành Phật). Trước khi đắc Bất Thoái Chuyển,
thường là có lúc tiến, có lúc lùi, phải là sau khi đă
đăng địa th́ mới đảm bảo không thoái
chuyển (tức A Bệ Bạt Trí). Đấy là một đường
lối Bồ Tát đạo rất khó hành. V́ sao khó khăn
dường ấy? Tiếp đó, lời Luận bèn kèm theo phần giải
thích nguyên nhân.
“Ngũ trược
chi thế” (Đời ngũ trược): Bồ Tát sanh
nhằm đời ác ngũ trược, muốn tu phước
và tu huệ khó lắm! Ngũ Trược là năm thứ Kiếp
Trược, Kiến Trược, Phiền Năo Trược,
Chúng Sanh Trược, và Mạng Trược. Tôi đă giảng
giải cặn kẽ ư nghĩa bao hàm trong các danh từ ấy
từ trang tám mươi bốn cho đến trang tám mươi
bảy trong bộ Vô Lượng Thọ Kinh Giảng Nghĩa
cho nên chẳng nhắc lại.
“Ư vô Phật thời”
(Trong lúc không có Phật): Tức là Bồ Tát sanh nhằm lúc
trước Phật hay sau Phật; điều này là một
trong tám nạn. Do vậy, tu hành khó khăn, đắc Bất
Thoái Chuyển khó khăn, chứng quả thành Phật càng
khốn khó. Như đức Thích Ca Thế Tôn vào hơn hai
ngàn năm trăm năm trước, đă thị
hiện giáng sanh tại Ấn Độ. Sau đấy, Ngài
thành Phật, thuyết pháp độ sanh, chỉ có tám mươi
năm bèn diệt độ. Trước khi Phật giáng
sanh và sau khi Phật nhập diệt đều là “vô Phật
thời” (thời gian không có Phật). Sau khi Phật Thích
Ca diệt độ, phải qua năm mươi sáu ức
bảy ngàn vạn năm sau mới có Di Lặc Bồ Tát thị
hiện sanh trong thế giới này (trên địa cầu) của
chúng ta, xuất gia, tu hành thành Phật. Đến khi ấy
mới là thời có Phật tại thế. V́ thế, kinh Pháp
Hoa có nói: “Phật nan đắc trị, như Ưu Đàm
Bát La hoa, hựu như nhất nhăn chi quy trị phù mộc
khổng” (Đức Phật khó gặp gỡ
như hoa Ưu Đàm Bát La, lại như con rùa một mắt
gặp bộng cây nổi).
“Cầu A Bệ
Bạt Trí vi nan” (Cầu Bất Thoái Chuyển khó khăn):
A Bệ Bạt Trí (Avaivartika) là tiếng Phạn, c̣n phiên âm
là A Duy Bạt Trí. A Bệ Bạt Trí dịch nghĩa là Bất
Thoái Chuyển. Bồ Tát mong cầu đạt đến Bất
Thoái Chuyển đúng là khó khăn. Bởi lẽ, Bồ
Đề tâm dễ phát, nhưng cái tâm dài lâu sẽ khó có. Như
trong kinh Đại Bát Niết Bàn, đức
Phật đă nói: “Vô lượng chúng sanh phát Vô Thượng
Bồ Đề tâm, ngộ thiểu vi duyên, ư Vô Thượng
Bồ Đề đạo, tức tiện thoái chuyển.
Như thủy trung nguyệt, thủy động tắc động.
Thí như ngư mẫu, đa hữu thai noăn, thành ngư giả
tiễn. Như Am-ma-la thụ, hoa đa quả thiểu. Chúng
sanh phát tâm, năi hữu vô lượng, đản kỳ thành
tựu, thiểu bất túc ngôn” (Vô lượng chúng sanh phát
tâm Vô Thượng Bồ Đề, gặp chút duyên trái nghịch
liền thoái chuyển nơi đạo Vô Thượng Bồ
Đề. Như trăng [hiện bóng] trong nước, hễ
nước động, bóng trăng động theo. Ví như
cá mẹ có nhiều trứng, trứng nở thành cá con ít ỏi.
Như cây Am-ma-la, hoa nhiều, trái ít. Chúng sanh phát tâm số đến
vô lượng, nhưng người thành tựu ít ỏi chẳng
đáng nhắc tới). Lại như ngài Xá Lợi Phất
trong đời quá khứ từng phát tâm Đại Thừa,
hành Bồ Tát đạo, trong sáu mươi kiếp, từ
Sơ Trụ đạt đến Lục Trụ, lúc tiến,
lúc lùi, kết quả là thoái chuyển thành Nhị Thừa
Thanh Văn! Do vậy có thể biết, Bồ Tát trước
khi đắc Bất Thoái Chuyển được gọi
là “khinh mao Bồ Tát” (Bồ Tát nhẹ như lông tơ),
tức là vật bị gió cuốn, bị chuyển theo cảnh.
Bất Thoái Chuyển
có bốn tầng cấp:
1) Thất Trụ
trong Biệt Giáo, Thất Tín trong Viên Giáo đă đoạn hết
Kiến Tư Hoặc, liễu thoát Phần Đoạn Sanh
Tử, vượt thoát tam giới, chẳng c̣n là phàm phu trong
lục đạo. Đấy gọi là Vị Bất Thoái.
2) Từ Bát Trụ
của Biệt Giáo cho đến viên măn Thập Hồi Hướng,
phá vô minh, chứng Pháp Thân, chẳng c̣n lui mất Bồ Tát hạnh.
Đó gọi là Hạnh Bất Thoái.
3) Từ Sơ Địa
cho đến Bát Địa của Biệt Giáo, niệm nào
cũng đều lưu nhập biển Nhất Thiết
Trí, thuận theo Chân Như Pháp Tánh. Đó gọi là Niệm
Bất Thoái.
4) Từ Bát Địa
cho đến Thập Địa, tam kỳ hạnh (sự
tu hành trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp)
đă viên măn, gọi là Đẳng Giác Bồ Tát, đạt
được bốn chân đức “Thường, Lạc,
Ngă, Tịnh”, th́ gọi là Cứu Cánh Bất Thoái.
Nh́n từ chỗ này,
Bồ Tát mong cầu Bất Thoái Chuyển xác thực là rất
khó. Sự khó khăn ấy không phải chỉ là thời
gian dài lâu, đường nẻo xa xôi, mà là c̣n do có nhiều
nhân tố. V́ thế, Đàm Loan đại sư nói: “Thử
nan năi hữu đa đồ, thô ngôn ngũ tam, dĩ thị
nghĩa ư” (Sự khó khăn ấy có nhiều lối, nói
thô thiển dăm ba điều để chỉ bày ư nghĩa):
“Thô ngôn” là nêu ra đại lược năm thứ nhân
tố và ư nghĩa khó khăn, chẳng thể nói cặn kẽ
nổi!
“Nhất giả,
ngoại đạo tướng thiện, loạn Bồ Tát
pháp” (Một là các điều thiện thuộc về h́nh
tướng của ngoại đạo rối loạn pháp
Bồ Tát):“Ngoại đạo” là cầu pháp ngoài tâm
th́ gọi là ngoại đạo, cũng là nói đến các
thứ tôn giáo ngoài Phật giáo. Chữ “tương” (相) đọc
thành “tướng”, tức tướng trạng biểu
thị. “Tướng thiện” tức là nói hết thảy
các tôn giáo đều khuyên mọi người làm lành, nhưng
làm bao nhiêu chuyện từ thiện cứu tế, hoặc
những tín đồ tôn giáo khác làm lành biểu lộ ra ngoài
thường bị người đời ngộ nhận
họ là Bồ Tát. Thật ra, bậc Bồ Tát có đại
tâm, đại trí, vô ngă, vô chấp, tâm hạnh
của Bồ Tát là xả ḿnh ḥng lợi người. Chớ
nên chẳng hiểu rơ, lẫn lộn với những chuyện
làm lành thông thường. Lại c̣n có những kẻ chẳng
hiểu rơ ư nghĩa của [danh xưng] Bồ Tát, coi những
thứ thần tượng tô đắp hoặc khắc gỗ
đều là Bồ Tát. Hăy nên biết: Nếu có thể biết
các thứ công đức nơi Phật quả, phát khởi
tâm nguyện mong cầu đạt được Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, phải có tinh thần đại
vô úy, tận tụy đảm đương chuyện phổ
độ chúng sanh ḥng đều làm cho họ ĺa khổ, được
vui, cùng được thành Phật, phải thực
hiện sự nghiệp cứu đời, cứu người
trong thời gian và không gian vô lượng vô hạn; đấy mới là Bồ Tát. Những thiện hạnh
chẳng rốt ráo do ngoại đạo đă thực hiện
trong một lúc làm sao có thể sánh bằng Bồ Tát hạnh
chân thật cho được? Nhưng người đời
phần lớn chẳng phân biệt hơn kém, tuân theo tà sư,
tin tưởng ngoại đạo, lầm lạc đi vào ngơ rẽ.
Tri kiến và hành vi của ngoại đạo trong thế
gian đă nhiễu loạn pháp môn độ sanh của Bồ
Tát, khiến cho Bồ Tát muốn hóa độ chúng sanh, thành
tựu phước huệ trang nghiêm trở thành khó khăn.
Do vậy nói: “Ngoại đạo tướng thiện, loạn
Bồ Tát pháp” (Những điều thiện thuộc về
h́nh tướng của ngoại đạo gây rối loạn
cho pháp Bồ Tát). Tục ngữ có câu: “Chỉ lộc
vi mă” (Chỉ nai nói là ngựa), tợ hồ là đúng nhưng
sai be bét; đấy
chẳng phải là hiện tượng phổ biến
trong thế gian đó sao? Huống chi xưa, nay, trong ngoài nước,
c̣n có những phường ngoại đạo xen tạp, ăn
bám Phật giáo, vờ vĩnh mượn danh xưng Phật
Pháp Tăng và hoằng pháp lợi sanh để tận lực
làm những chuyện chẳng phù hợp Phật pháp hoặc
giới luật, chẳng hợp nhân quả và pháp Bồ Tát.
Hoặc là tu mù luyện đui, hoặc là bày ra những tṛ
lạ lùng để mê hoặc mọi người, hoặc
là dối gạt chúng sanh, hoặc là tham cầu danh lợi,
hoặc là tà tri tà kiến, tự lầm, lầm người,
kéo nhau vào hầm lửa! Những điều ấy được
gọi là “loạn Bồ Tát pháp”. Chẳng hạn như
có một thiểu số Bồ Tát xuất gia nói:
1) Làm Bồ Tát chẳng
sợ sanh tử, chẳng mong liễu sanh tử, cứ
mong đời đời kiếp kiếp trụ trong sanh tử
ḥng vẫy vùng độ chúng sanh.
2) Giới luật
xuất gia do đức Phật chế định chẳng
c̣n phù hợp
thời đại, cần phải phế trừ, phải
sửa đổi!
3) Học Phật th́
phải học theo Di Lặc Bồ Tát, chẳng tu Thiền
Định, chẳng đoạn phiền năo.
4) Làm bậc xuất
gia Bồ Tát th́ cần ǵ phải đoạn dục? Hăy nên giống
như người đời cũng có thể có vợ chồng,
gia đ́nh riêng.
5) Xuất gia Bồ
Tát chẳng cần phải bó buộc bởi giới luật
Thanh Văn, đừng nên chấp
tướng, chẳng ngại cùng người đời
tranh quyền đoạt lợi, tham gia chánh trị, kinh
doanh, chẳng ngại làm chuyện giết, trộm, dâm, dối,
hút thuốc phiện, uống rượu!
6) Phật ở
trong tâm, chúng ta vốn là Phật, chẳng cần phải tŕ
giới, tu hành, hết thảy phương tiện tùy duyên
tự tại; đấy mới là Bồ Tát.
Ngoài ra, có một số
ít tại gia Bồ Tát th́ cho rằng:
1) Tại gia Bồ
Tát chẳng cần phải tŕ trai, ăn chay.
2) Tại gia Bồ
Tát cũng là một ngôi trong Tam Bảo (hoặc cho rằng
phải nên có Tứ Bảo), có thể làm thầy quy y cho người
khác, và làm Trụ Tŕ của chùa miếu, cho đến làm thầy
truyền giới, pháp sư, thầy thế độ, lư sự
trưởng của hội Phật giáo v.v…
3) Hàng bạch y ngồi
ṭa cao, tỳ-kheo ngồi dưới thấp, [bạch y] tiếp
nhận người xuất gia lễ bái, cúng dường,
cho đến sai khiến người xuất gia làm mọi
chuyện thế tục đều được!
4) Tại gia Bồ
Tát hành Bồ Tát đạo thuận tiện hơn. Do vậy,
phản đối xuất gia tu hành, trở ngại người
khác xuất gia, thậm chí khuyên hàng xuất gia phá giới.
5) Nếu xuất
gia, xuất gia trong thời gian ngắn th́ được, [tức
là xuất gia trong ṿng] một tuần hay mười ngày, chẳng
trở ngại sự nghiệp trong cơi đời, mà cũng
có công đức giống như xuất gia suốt đời.
Đấy mới là thích hợp nhu cầu của người
hiện thời.
6) Trụ tŕ Phật
pháp, hoằng dương Phật pháp, hăy nên đi theo hướng
xă hội, cần phải ḥa lẫn với người
đời thành một khối, cần phải chọn phương
cách xí nghiệp hóa, hiện đại hóa, nghệ thuật
hóa, ca múa, hát xướng, uống rượu, chơi bời,
xem tướng, bói toán, kéo bè kết đảng mưu toan riêng tư đều
chẳng bị cấm kỵ. Chỉ cốt sao tín đồ
ngày càng đông, chẳng nề hà bất cứ thủ đoạn
nào! Đấy mới là Bồ Tát, mới có thể khiến
cho Phật pháp phổ cập.
Tôi nói những điều
ấy, chẳng qua là “nêu ra một góc, để suy ra ba
góc”, thật ra, những kiểu nói và sự tướng
“tợ hồ là đúng, nhưng sai be bét” ấy
đă uế tạp, che lấp hạnh Bồ Tát và pháp Bồ
Tát chân thật. Nói măi chẳng xong, kể chẳng hết!
Những điều ấy đều có thể gọi là “ngoại
đạo tướng thiện, loạn Bồ Tát pháp”.
V́ những người ấy toàn là nội tâm thật sự
ngoại đạo, bề ngoài khoác
lấy danh xưng Bồ Tát!
“Nhị giả, Thanh
Văn tự lợi, chướng đại từ bi”
(Hai là Thanh Văn tự lợi, chướng ngại ḷng đại
từ bi): Thanh Văn tức là tứ chúng đệ tử
nghe lời dạy về Tứ Thánh Đế của đức
Phật bèn tu hành, chứng Sơ Quả, Nhị Quả, Tam
Quả, Tứ Quả của Tiểu Thừa. V́ họ chỉ
cầu liễu sanh thoát tử cho chính ḿnh, chẳng có tâm hóa
độ chúng sanh, nên nói là “Thanh Văn tự lợi”.
Bồ Tát khác hẳn, ắt cần phải phát Bồ Đề
tâm th́ mới có thể gọi là Bồ Tát. Nhưng Bồ
Đề tâm ắt cần phải nương vào cái tâm đại
từ đại bi làm Thể. Nếu không có tâm từ bi, tức
là không có Bồ Đề tâm, sẽ chẳng gọi là Bồ
Tát. Do hàng Thanh Văn chỉ v́ tự ḿnh liễu thoát, chỉ
có tâm xuất ly, chẳng có ḷng từ bi, cho nên nói “chướng
đại từ bi”, cũng chính là chướng ngại
phát Bồ Đề tâm, chẳng thể tu Bồ Tát hạnh.
Bồ Tát hạnh chính là nguyên nhân để thành tựu Bồ
Tát đạo.
“Tam giả, vô lại
ác nhân phá tha thắng đức” (Ba là kẻ vô lại phá
hoại phẩm đức thù thắng của người
khác): “Vô lại” (無賴) là kẻ
chẳng chú trọng chánh nghiệp, chẳng có thiện tâm,
buông lung, biếng nhác. Đă không có thiện tâm, tất nhiên
sẽ làm ác, nên gọi là “ác nhân”. Hạng này có hai loại:
Một là thế gian, tức những phần tử bất
lương trái phạm pháp luật và kỷ cương,
gian trá, trốn thuế trong xă hội. Hai là những kẻ
trong Phật môn, tức là những hạng người bại
hoại trong Tăng đoàn ăn bám Phật pháp, phá trai, phạm
giới. Những kẻ ác ấy tự ḿnh làm ác, lại c̣n
đố kỵ bậc hiền thiện, thấy người
khác làm lành, tŕ giới, tu hành, liền đơm đặt,
phỉ báng, thậm chí vu vạ, hăm hại người khác,
khiến cho người khác thân bại danh liệt, hoặc
táng thân mất mạng! Do vậy nói là “phá tha thắng đức”.
Xưa nay trong ngoài nước, những chuyện như vậy
rất nhiều. Như các vị Tử Bách, Hám Sơn đại
sư vào cuối đời Minh, lăo ḥa thượng Hư Vân,
Từ Hàng Bồ Tát v.v… vào thời Dân Quốc hoặc là bị
giam cầm trong lao ngục, hoặc là bị đánh đập,
hoặc là bị lưu đày, bị sung quân v.v… chính là sự
thật [chứng tỏ những kẻ vô lại đă phá
hoại các Ngài].
“Tứ giả, điên
đảo thiện quả, năng hoại phạm hạnh”
(Bốn là điên đảo thiện quả, có thể phá
hoại phạm hạnh): “Điên đảo thiện quả”
tức là làm các thiện nghiệp hữu lậu thế
gian, sẽ đạt được thiện quả hữu
lậu trong thế gian. Chẳng hạn như tuân hành khuôn
phép đạo đức thế gian, làm một công dân an phận,
vâng giữ pháp luật, hoặc là có thể thọ tŕ Tam
Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện, làm những chuyện
từ thiện cứu tế, nhưng chẳng hiểu Phật
pháp, chưa phát tâm xuất ly và Bồ Đề tâm, khuyết
thiếu tâm từ bi, nhưng vẫn tin tưởng nhân quả
thiện ác, chỉ cầu
phước báo nhân thiên. Người như thế tuy làm lành,
nhưng đều thuộc vào thiện nghiệp hữu lậu,
chỉ đạt được phú quư trong nhân gian, cho đến
sanh lên trời hưởng phước. Thế nhưng hưởng
hết phước lạc, ắt sẽ đọa xuống,
khó tránh khỏi đọa trong tam đồ chịu khổ. Điều
này được gọi là “tam thế oán”. Đời
này tạo nhân lành, đời sau hưởng quả lành phú
quư. Do phú quư bèn rộng tạo các ác nghiệp, đời
sau ắt bị ác báo. Điều này được gọi
là “điên đảo thiện quả”. Bồ Tát thực
hiện sự nghiệp tự lợi, lợi tha, nếu chẳng
thể “tam luân thể không”, sẽ có sự chấp trước,
tham cầu phước lạc thế gian. Vậy th́ tuy người
ấy có thể làm Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc làm
quốc sư của hoàng đế, nhưng chẳng thể
thành bậc thánh nhân xuất thế thuộc tam thừa. Do vậy
nói là “năng hoại phạm hạnh” (có thể phá hoại
phạm hạnh). “Phạm hạnh” (梵行) nói theo nghĩa
rộng chính là thánh đạo được hành bởi các
bậc thánh nhân tam thừa, cho đến các hạnh thanh tịnh
nơi tam nghiệp được tu bởi các tín đồ
tôn giáo. Nói theo nghĩa hẹp, phạm hạnh là các hạnh
nhằm đoạn Ngũ Dục và đắc Thiền Định
thế gian. Do [hành các hạnh ấy] có thể sanh lên Phạm
Thiên, nên gọi là Phạm Hạnh. Những phạm hạnh
dù rộng hay hẹp ấy đều bị mất đi,
chẳng đạt được lợi ích xuất thế.
V́ vậy nói là “năng
hoại phạm hạnh” (phạm hạnh
có thể hư hoại). Chẳng
hạn như Vĩnh thiền sư đời Đường
chuyển thế làm Pḥng thái úy, một vị Ni tụng kinh
Pháp Hoa đời Tống chuyển thân, đọa làm quan kỹ
(kỹ nữ chính thức do hệ thống quan quyền quản
lư), một vị Tăng ở núi Nhạn Đăng chuyển thế thành gian
thần Tần Cối, hậu thân của ngài Thanh Thảo Đường
là Tăng Lỗ Công, hậu thân của Triết thiền sư
là một người đại quư, đều thuộc vào
trường hợp này.
“Ngũ giả,
duy thị tự lực, vô tha lực tŕ” (Năm, chỉ
là tự lực, chẳng có tha lực duy tŕ): Bồ Tát từ
phát Bồ Đề tâm, tu Bồ Tát hạnh, cho đến
khi thành Phật, theo đường lối thông thường
là phải trải qua nhị đạo ngũ Bồ Đề,
hoặc là năm địa vị, mười ba trụ, thời
gian là ba đại A-tăng-kỳ kiếp (tôi đă nói tường
tận những điều này trong bộ Tâm Kinh Quán Hạnh
Giải). Toàn bộ quá tŕnh ấy cậy vào Tam Huệ Văn
Tư Tu của chính ḿnh để thực hiện, v́ thế
nói là “duy thị tự lực” (chỉ là tự lực).
Trong quá tŕnh tu chứng, tuy có thể đạt được
Pháp Thân của chư Phật (do đồng thể với
Bồ Tát), và được Tam Bảo ngầm gia hộ,
nhưng chẳng có Phật lực rơ rệt (bao gồm nguyện
lực, thần thông lực, trí huệ lực, và sức cảm
ứng chẳng thể nghĩ bàn của Phật) gia bị,
nhiếp thọ, hộ tŕ, khiến cho Bồ Tát chẳng đánh
mất Bồ Đề tâm, chẳng lui sụt Bồ Tát hạnh,
nên nói là “vô tha lực tŕ” (chẳng có tha lực duy tŕ).
“Như tư đẳng
sự, xúc mục giai thị” (Những chuyện như vậy
chỗ nào cũng đều có): Năm thứ chướng
ngại sự tu hành của hàng Bồ Tát như vừa nói
trên đây bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào cũng
đều có thể thấy được.
“Thí như lục
lộ, bộ hành tắc khổ” (Ví như đi theo đường
bộ, đi bộ th́ khổ): Đây là nêu thí dụ. Như
người có chuyện phải đi xa, giả sử đi
đường bộ, chỉ cậy vào hai chân để bước
đi; đấy là chuyện hết sức gian nan, khốn
khổ. Do vậy, [đường lối này] được
gọi là Nan Hành Đạo.
“Dị hành đạo
giả”, ngược lại, hành Bồ Tát đạo ngoài
ra c̣n có một pháp môn tu tŕ dễ dàng. Đă giản dị,
lại c̣n thẳng chóng, có thể chứng đắc thánh
quả (địa vị Bất Thoái) rất nhanh. V́ thế
gọi là Dị Hành Đạo.
“Đản dĩ
tín Phật nhân duyên, nguyện sanh Tịnh Độ” (Chỉ
do nhân duyên tin Phật, nguyện sanh về Tịnh Độ):
Dị Hành Đạo như Đàm Loan đại sư đă
nói chẳng giống những cách “khai quan, điểm khiếu”,
hoặc dùng mật chú, vẽ bùa, thần thông, bí quyết
chi đó của ngoại đạo! Chỉ cần phát Bồ
Đề tâm, tín, nguyện, niệm,
hạnh trọn đủ, th́ sẽ có thể văng sanh. Nhất
là đối với sự văng sanh Tịnh Độ, phải
có “ḷng tin sâu đậm, nguyện thiết tha”, niệm
hạnh sẽ tự ở trong ấy, không ai chẳng văng
sanh. “Tin vào nhân duyên của Phật” là tin vào ba kinh Tịnh
Độ do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói, tin A Di Đà Phật
tu nhân chứng quả, nhiếp hóa, tiếp dẫn chúng sanh
văng sanh Cực Lạc Tịnh Độ, đủ mọi
sức công đức chẳng thể nghĩ bàn! Nhất là phải
tin A Di Đà Phật là Pháp Giới Thân vào trong tâm tưởng
của hết thảy chúng sanh, “tâm này làm Phật, tâm này
là Phật”, Phật Di Đà là Di Đà trong tâm chúng sanh, chúng
sanh là chúng sanh trong tâm A Di Đà Phật. Phật Di Đà nghĩ
tới chúng sanh như mẹ nghĩ đến con; chúng sanh
niệm Phật Di Đà như con nghĩ đến mẹ.
Mẹ và con nghĩ đến nhau như thế, ắt được
văng sanh Tịnh Độ, đích thân thấy Phật Di Đà,
nghe pháp khai ngộ, đắc Bất Thoái Chuyển. Chỉ
cần có tín tâm như thế, dùng cái tâm ấy để niệm
Phật Di Đà, hành Thập Thiện, phát nguyện cầu
sanh Cực Lạc. Đấy là hạnh môn ai nấy đều
làm được dễ dàng, thuộc về tự lực
của chúng sanh, thành tựu nhân duyên (điều kiện) văng
sanh Cực Lạc, ắt sẽ được sanh về Tịnh
Độ. V́ thế nói “đản dĩ tín Phật nhân
duyên, nguyện sanh Tịnh Độ” (chỉ do nhân duyên
tin Phật, nguyện sanh về Tịnh Độ).
“Thừa Phật
nguyện lực, tiện đắc văng sanh bỉ thanh tịnh
độ” (Nương vào nguyện lực của Phật
liền được sanh về cơi thanh tịnh ấy): Năm
câu kế đó thuộc về Tha Lực (sức bổn
nguyện của Phật Di Đà), nên nói là “thừa Phật
nguyện lực” (nương vào nguyện lực của
Phật). Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Bổn
Sư đă v́ chúng ta giới thiệu nhân địa của
Phật Di Đà: Khi Ngài làm tỳ-kheo Pháp Tạng, đă đối
trước Thế Tự Tại Vương Phật, xứng
tánh phát ra bốn mươi tám đại nguyện. Trải
qua vô lượng kiếp, dùng hạnh để thực hiện
nguyện, mỗi nguyện đều có quyết tâm “nhược
bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác” (nếu chẳng
được như vậy, tôi chẳng giữ lấy ngôi
Chánh Giác), khiến cho [những nguyện ấy] hoàn toàn được
thực hiện, đạt thành. V́ vậy, bốn mươi
tám đại nguyện ấy chính là chiếc thuyền Từ
trong biển khổ, là chiếc thuyền cứu độ
to lớn khiến cho chúng sanh ĺa khổ được vui.
Chỉ cần chúng sanh có thể tin tưởng, chịu lên
thuyền, không ai chẳng được sanh vào thế giới
Cực Lạc là cơi thanh tịnh trang nghiêm của Phật Di
Đà, “chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng
những điều vui”.
“Phật lực
trụ tŕ, tức nhập Đại Thừa Chánh Định
chi tụ, Chánh Định tức thị A Bệ Bạt Trí”
(Do Phật lực duy tŕ, liền dự vào Chánh Định
Tụ của Đại Thừa. Chánh Định chính là Bất
Thoái Chuyển): Đàm Loan đại sư đă căn cứ
vào lời dạy trong kinh Vô Lượng Thọ: “Kỳ
hữu chúng sanh, sanh bỉ quốc giả, giai tất trụ
ư Chánh Định chi tụ. Bỉ Phật quốc trung,
vô chư Tà Tụ, cập
Bất Định
Tụ” (Nếu
có chúng sanh sanh vào cơi ấy, thảy đều trụ trong
Chánh Định Tụ. Trong cơi của đức Phật ấy,
không có các thứ Tà Định
Tụ và Bất Định
Tụ), và nguyện
thứ mười một trong bốn mươi tám nguyện:
“Quốc trung thiên nhân, bất trụ Định Tụ,
tất chí diệt độ giả, bất thủ Chánh
Giác” (Nếu trời người
trong nước chẳng trụ trong Định Tụ, ắt
đạt đến diệt độ, tôi chẳng
giữ lấy ngôi Chánh Giác), nêu rơ đạo lư “dễ đắc
Bất Thoái Chuyển, viên măn Bồ Đề ngay trong một
đời” (“tất chí diệt độ”) của
pháp môn Tịnh Độ, tức là chúng sanh được
sức bổn nguyện công đức của A Di Đà Phật
nhiếp thọ và gia tŕ mà văng sanh, sẽ đều được
an trụ nơi A Bệ Bạt Trí (Bất Thoái Chuyển Bồ
Tát), chẳng rơi vào hai loại đệ tử Phật
thuộc Tà Định (chẳng tin Đại Thừa) và Bất
Định (Đại Tiểu Thừa bất định).
“Thí như độ
hải, thừa thuyền tắc lạc” (Ví như vượt
biển, ngồi thuyền bèn vui): Hai câu này là nêu thí dụ,
nhằm so sánh: Theo Dị Hành Đạo, giống như người
ngồi thuyền, thuận gió, thuận con nước (nương
vào sức bổn nguyện của Phật), chẳng tốn
hơi sức, chẳng cần nhiều thời gian, an lạc
tự tại, rất nhanh chóng đạt tới đích.
Trên đây, Đàm
Loan đại sư đă giải thích luận này, nêu ra
nguyên do hành Bồ Tát đạo có hai đường lối
khó và dễ khá. Do vậy
có thể biết, chúng ta thân ở trong Ngũ Trược,
nhằm thuở cơi đời không có Phật, tuy phát Bồ
Đề tâm, tu Bồ Tát hạnh, nhưng rất khó thành tựu.
V́ thế, ắt cần phải tu Dị Hành Đạo. Cốt
lơi của Dị Hành Đạo chính là coi trọng tự lực
lẫn tha lực, chẳng phế [một lực nào], nhưng
kim chỉ nam cho tự lực lẫn tha lực là chú trọng
nơi hai chữ Tín Nguyện. Tín như thế nào? Tin rằng: Theo đường
thủy ngồi thuyền sẽ vui. Một khi đă tin, vĩnh
viễn chẳng c̣n ngờ vực nữa! Nguyện như
thế nào? Nguyện chịu lên thuyền, nhanh chóng lên bờ
kia, chỉ cầu văng sanh, chẳng nguyện chi khác. Có Tín và
Nguyện như thế, lại thêm thân nghiệp thường
lễ bái Phật Di Đà, khẩu nghiệp luôn xưng niệm
Phật Di Đà, ư nghiệp thường luôn quán tưởng
sự thanh tịnh trang nghiêm nơi y báo và chánh báo của cơi
Cực Lạc, tu điều thiện (Thập Thiện) nhiều
hay ít, chí tâm hồi hướng, ắt được văng
sanh Tịnh Độ, liễu sanh thoát tử, đắc Bất
Thoái Chuyển, rộng độ chúng sanh, thẳng đến
khi thành Phật. Do vậy, Thế Thân Bồ Tát tạo bộ
luận này, trước hết dùng ba chữ Nguyện Sanh Kệ
để đặt tên; Đàm Loan đại sư chú giải
luận này, vừa mở đầu liền dùng Dị Hành
Đạo để phán giáo, phân định rơ rệt, rất
minh bạch bảo chúng ta: Muốn văng sanh Tịnh Độ,
hễ có nguyện sẽ dễ dàng. Chẳng có nguyện, sẽ
khó khăn. Nguyện hết thảy các vị Bồ Tát, các
liên hữu Tịnh Tông, ắt cần phải chân thành, thiết
tha phát nguyện văng sanh Tịnh Độ. Phải văng sanh!
Quyết định văng sanh! Ắt được văng sanh!
2.1.2. Giải thích tựa
đề và nêu đại cương
2.1.2.1. Dựa theo tựa
đề để trần thuật đại cương
2.1.2.1.1. Giải thích về
chỗ y cứ, phán định bản thể của kinh
(Chú) Thử Vô Lượng Thọ Kinh Ưu
Bà Đề Xá, cái thượng diễn chi cực trí, bất
thoái chi phong hàng giả dă. Vô Lượng Thọ thị An Lạc
Tịnh Độ Như Lai biệt hiệu. Thích Ca Mâu Ni Phật
tại Vương Xá thành cập Xá Vệ quốc, ư
đại chúng chi trung, thuyết Vô Lượng Thọ Phật
trang nghiêm công đức, tức dĩ Phật danh hiệu
vi kinh thể.
(註)此無量壽經優婆提舍。蓋上衍之極致。不退之風航者也。無量壽是安樂淨土如來別號。釋迦牟尼佛在王舍城及舍衛國。於大眾之中。說無量壽佛莊嚴功德。即以佛名號為經體。
(Chú: Bộ
Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá này đă bao gồm trọn vẹn chỗ
cùng tột của thượng thừa, là chiếc thuyền
buồm chẳng thoái chuyển. Vô Lượng Thọ là biệt
hiệu của đức Như Lai trong An Lạc Tịnh
Độ. Thích Ca Mâu Ni Phật tại thành Vương Xá và
nước Xá Vệ, ở giữa đại chúng, đă nói
về công đức trang nghiêm của Vô Lượng Thọ
Phật, tức là dùng danh hiệu của Phật làm bản
thể của kinh).
“Thử Vô Lượng
Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá”: Trong câu này, Đàm Loan đại
sư nêu ra chỗ y cứ của việc
đặt tựa đề cho bộ
luận này, ư nghĩa bao hàm trong ấy đă được
nói trong phần Huyền Đàm trên kia; có thể thấy là [nếu]
đem ba chữ Nguyện Sanh Kệ thêm vào cuối danh xưng
của bộ luận này sẽ là sai lầm vậy.
“Cái thượng
diễn chi cực trí, bất thoái chi phong hàng giả dă”(Nêu
bày trọn hết chỗ
cùng tột trong thượng thừa, là chiếc thuyền
buồm bất thoái): Hai câu này nhằm giải thích chung ư
nghĩa đại cương của bộ luận này, mà
cũng là lời lẽ tán thán. “Thượng diễn cực
trí” có nghĩa là mạnh mẽ tiến lên cao, chẳng có
tầng cấp, chẳng thể cùng tận được.
Bồ Tát nương theo bộ luận này để tu Bồ
Tát đạo, liền có thể do phát tâm mà vượt cao
hơn, tiến nhập thẳng vào cảnh địa Phật
quả (“cực trí”, đạt đến chỗ tột
cùng), chẳng cần phải noi theo những thứ Nan Hành
Đạo thông thường, [tức là chẳng cần] phải
trải qua các địa vị Thập Tín, Thập Trụ,
Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa
v.v… hướng thượng tăng tấn dần dần,
tới cuối cùng mới có thể thành Phật.
“Bất thoái phong
hàng” (Chiếc thuyền buồm bất thoái): “Hàng” (航) chính là
thuyền. “Phong hàng” (風航) chính là
thuyền buồm thời cổ. Nếu ở trong con sông rộng
và thẳng, thuận nước xuôi gịng trôi đi, lại được
thuận gió, tốc độ của thuyền sẽ nhanh chóng
như tên bắn, tứ mă[6] khó đuổi kịp,
vạn con trâu chẳng kéo lại được, quyết
chẳng đến nỗi lui trở lại hoặc chuyển
hướng. Dùng điều này để sánh ví [người
nghiên cứu, hành theo] bộ luận này, ví như
có được chiếc thuyền buồm, chắc chắn
văng sanh Tịnh Độ, đắc Bất Thoái Chuyển.
Do vậy, cổ đức gọi [pháp môn Tịnh Độ]
là “kính trung kính hựu kính” (徑中徑又徑, con đường
c̣n tắt hơn nẻo đường tắt nhất trong
các con đường tắt).
“Vô Lượng
Thọ thị An Lạc Tịnh Độ Như Lai biệt
hiệu” (Vô Lượng Thọ là biệt hiệu của
đức Như Lai trong An Lạc Tịnh Độ): Qua
hai câu này, Đàm Loan đại sư đă dựa theo sự
thật để giải thích chữ Vô Lượng Thọ.
Như Lai là danh hiệu chung (thông hiệu) của chư Phật,
Vô Lượng Thọ là biệt hiệu của đấng
giáo chủ trong Tây Phương Cực Lạc (An Lạc) thế
giới (Tịnh Độ). Xác thực có vị ấy, có chuyện ấy,
chẳng phải là ngụ ngôn hay thần thoại!
“Thích Ca Mâu Ni Phật
tại Vương Xá thành cập Xá Vệ quốc, ư đại
chúng chi trung, thuyết Vô Lượng Thọ Phật trang
nghiêm công đức” (Thích Ca Mâu Ni Phật tại thành Vương
Xá và nước Xá Vệ, ở giữa đại chúng, đă
nói về công đức trang nghiêm của Vô Lượng Thọ
Phật): Trong bốn câu này, ngài Đàm Loan lại nêu ra sự
thật lịch sử nhằm chứng minh các thứ công
đức trang nghiêm đă thuật trong bộ luận này
chẳng phải do vị Luận
Chủ bịa
đặt, mà cũng chẳng phải là nghe lỏm, nói ṃ! Xác thực
là muôn ngàn đích xác! Hơn hai ngàn năm trăm năm trước,
Thích Ca Mâu Ni Phật sau khi đă thành Phật, trước hết,
Ngài bèn nói các kinh điển Đại Tiểu Thừa khác.
Lại ở nơi thành Vương Xá (Rājagṛha) và núi
Linh Thứu (Gṛdhrakūṭa, Kỳ
Xà Quật) nước Ma Kiệt Đề (Maghada), cũng như
tại tinh xá Kỳ Viên (Jetavane
Anāthapindikassa Ārāma) của nước
Xá Vệ (Śrāvastī), trước
sau nói ra các bộ Đại Bổn Vô Lượng Thọ Kinh,
Tiểu Bổn A Di Đà Kinh, và Quán Kinh, khiến
cho đại chúng nghe kinh đều có thể biết danh
hiệu của Vô Lượng Thọ Phật, cũng như
bổn nguyện và công
đức của Ngài, các thứ trang nghiêm thanh tịnh v.v…
“Tức dĩ Phật
danh hiệu vi kinh thể” (Tức là dùng danh hiệu của
Phật làm bản thể của kinh): Câu này chính là lời phán
định của ngài Đàm Loan đối với ba kinh một
luận Tịnh Độ, tức là dùng danh hiệu quang thọ vô lượng của A Di Đà Phật làm bản thể của
kinh luận, cũng dùng điều
đó làm cái Thể nơi
thân và cơi của đấng Tây Phương giáo chủ, và cũng
làm cái Thể cho chúng
sanh văng sanh đắc Bất Thoái Chuyển. Mầu nhiệm
thay, danh hiệu Di Đà! Lành thay Văng Sanh Luận! Xác thực
là chiếc phi thuyền để chúng sanh thoát khổ thành Phật!
2.1.2.1.2. Giải thích về
năng y (người dựa vào kinh tạo luận), và nêu bày
hai thứ lực dụng
(Chú) Hậu thánh giả Bà Tẩu Bàn Đậu
Bồ Tát phục ưng Như Lai đại bi chi giáo, bàng
kinh tác Nguyện Sanh Kệ, phục tạo Trường Hàng
trùng thích.
(註)後聖者婆藪槃頭菩薩。服膺如來大悲之教。傍經作願生偈。復造長行重釋。
(Chú: Về
sau, bậc thánh nhân là Bà Tẩu Bàn Đậu Bồ Tát tuân
theo giáo pháp đại bi của đức Như Lai, dựa
theo kinh, soạn ra Nguyện Sanh Kệ, lại soạn phần
văn Trường Hàng để giải thích thêm).
“Hậu thánh giả”,
ư nói sau khi đức Phật nhập diệt chín trăm năm
(cách hiện thời khoảng một ngàn sáu trăm năm),
có một vị đă chứng thánh quả, tức là Thế
Thân Bồ Tát, xuất sanh tại vùng Tây Bắc Ấn Độ,
có ba anh em. Anh Ngài tên là Vô Trước, em Ngài là Sư Tử
Giác, đều là tỳ-kheo
xuất gia. Thuở ấy, ngài Thế Thân xuất gia theo Hữu
Bộ (Nhất Thiết Hữu Bộ, Sarvāstivāda) thuộc Tiểu
Thừa, đă trước tác năm trăm bộ luận
Tiểu Thừa. Bộ Câu Xá Luận (Abhidharma-kośabhāsyām) c̣n gọi
là Thông Minh Luận, chính là tác phẩm trứ danh của Ngài.
Anh Ngài là Vô Trước biết em mê chấp Tiểu Thừa,
muốn hóa độ Ngài hồi Tiểu hướng Đại,
vờ nói là ngă bệnh, gởi thư gọi Ngài về gặp
mặt, v́ Ngài nói giáo nghĩa Đại Thừa. Thế Thân
giác ngộ, muốn cắt lưỡi sám hối. Ngài Vô Trước
khuyên Thế Thân hoằng dương Đại Thừa để
lấy công chuộc tội. Thế Thân bèn dựa theo những
manh mối của ngài Vô Trước, soạn năm trăm
bộ luận Đại Thừa. Phàm là kinh Đại Thừa,
không bộ nào Ngài chẳng xưng tán, lưu thông rộng răi.
Thuở ấy, Ngài được
gọi là Thiên Bộ Luận Chủ (vị chủ nhân của
một ngàn bộ luận), danh tiếng vang dội Ngũ Ấn,
để lại tiếng thơm
muôn năm. Bộ luận này chính là tác phẩm của Ngài.
Do Ngài đă liễu giải tột bậc sâu xa toàn thể
Phật pháp, cho nên đối với sự tu tŕ trong pháp
môn Tịnh Độ, Ngài có kiến giải tột bậc
khế lư, khế cơ.
Bà Tẩu Bàn Đậu
(Vasubandhu) là tiếng Phạn, dịch theo lối cũ là Thiên
Thân (天親), Huyền
Trang đại sư đổi thành Thế Thân (世親). Bà Tẩu[7] là tên một vị thần
của Ấn Độ, vị thần ấy thân thiết
với người đời, hễ cầu con bèn có con, cầu
tài được tài, như cha mẹ trong thế gian yêu thương,
che chở con cái. V́ thế,
gọi là Thế Thân. Ngài đă do Tiểu Thừa chuyển
nhập Đại Thừa, cho nên phát đại Bồ Đề
tâm, tự lợi, lợi tha, sau đấy, trở thành bậc
thánh nhân chứng đắc địa vị Tứ Gia Hạnh
(Noăn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất) trong Đại
Thừa.
“Phục ưng Như
Lai đại bi chi giáo… phục tạo Trường Hàng trùng thích” (Lại
vâng theo lời dạy từ bi của đức Như Lai…
lại tạo văn Trường Hàng để giải thích
thêm): Ngài Đàm Loan đă nêu ra người có thể dựa
theo kinh để tạo luận, lại dùng ba câu để
chỉ rơ lực dụng “có thể văng sanh Tịnh Độ”
của bộ luận này. Chữ Ưng (膺) nên đọc
âm giống như chữ Nhân (因)[8]. “Phục ưng”
(服膺) có nghĩa
là “tin nhận, phụng hành”. Như
Lai tức là Phật, ở đây nhằm chỉ đức
Phật Thích Ca, mà cũng có thể nói tổng quát là mười
phương ba đời hết thảy chư Phật. Ngôn
giáo do Phật Thích Ca và chư Phật nói ra đều lưu
xuất từ tâm đại từ bi, thương xót chúng
sanh đang ch́m đắm trong sanh tử, muốn khiến
cho những ai nghe pháp đều có thể ĺa khổ, được
vui, liễu sanh thoát tử, không một ai chẳng thành Phật.
Do vậy, Tam Tạng mười hai phần giáo do chư Phật
đă nói đều có thể gọi là “giáo pháp đại
bi”.
“Bàng kinh tác Nguyện
Sanh Kệ” (Dựa theo kinh để soạn ra Nguyện
Sanh Kệ): Chữ Bàng (傍) có cùng
ư nghĩa với chữ Y (依, nương
theo, dựa vào). “Bàng kinh” có nghĩa là nương theo hết
thảy các kinh Đại Thừa. “Tác Nguyện Sanh Kệ”
ư nói ngài Thế Thân trước hết dùng thể loại Kệ
Tụng [mỗi bài
kệ gồm] bốn câu, [mỗi câu] năm
chữ để soạn luận, ḥng thuyết minh đơn
giản, trọng yếu về sự lư, nhân quả của
việc phát nguyện văng sanh Tịnh Độ.
“Phục tạo Trường
Hàng trùng thích” (Lại soạn phần văn Trường
Hàng để giải thích thêm): “Tạo” (造) có nghĩa
là trước thuật. Ngài lại dùng thể tài (genre) Trường
Hàng (văn
xuôi) để trước thuật ḥng giải thích cặn
kẽ hàm ư trong phần Kệ Tụng.
2.1.2.1.3. Nêu lên tựa đề
của bộ luận,
giải thích về sự phiên dịch
(Chú) Phạm ngôn Ưu Bà Đề Xá, thử
gian vô chánh danh tương dịch. Nhược cử nhất
ngung, khả danh vi Luận. Sở dĩ vô chánh danh dịch
giả, dĩ thử gian bổn vô Phật cố.
(註)梵言優婆提舍。此間無正名相譯。若舉一隅。可名為論。所以無正名譯者。以此間本無佛故。
(Chú: Từ
ngữ Ưu Bà Đề Xá trong tiếng Phạn, cơi này không
có chữ tương ứng khít khao để dịch. Nếu
chỉ nêu lên một góc (một khía cạnh của nhiều
ư nghĩa) th́ có thể gọi là Luận. Sở dĩ không
có từ ngữ tương ứng khít khao để dịch
là v́ trong cơi này vốn chẳng có Phật).
“Phạm ngôn” tức
là Phạm văn. Người
Ấn Độ cho rằng đó là ngôn ngữ của Đại
Phạm Thiên. Trước khi đức Phật xuất hiện
trong thế gian, Ấn Độ vốn tín ngưỡng Bà-la-môn,
cả xứ Ấn Độ đều tin thờ Bà-la-môn
giáo, cho rằng giai cấp Bà-la-môn thuộc ḍng dơi Phạm Thiên (Prajapati Brahmā), sanh từ
miệng của Đại Phạm Thiên Vương. Do vậy,
ngôn ngữ và văn tự của hàng Bà-la-môn được
gọi là Phạm văn (Saṃskṛtā
vāk, ngôn
ngữ văn tự của Phạm Thiên). Thuở ấy,
toàn thể Ấn Độ đều tin thờ Bà-la-môn
giáo; do đó, văn tự và ngôn ngữ của Ấn Độ
được gọi là “Phạm văn”.
“Ưu Bà Đề
Xá, thử gian vô chánh danh tương dịch” (Ưu Bà Đề
Xá, cơi này không có chữ tương ứng khít khao để
dịch): Do bốn chữ Ưu Bà Đề Xá (Upadeśa) là tiếng
Phạn, là ngôn ngữ của Ấn Độ, tại Trung
Hoa chẳng có từ ngữ nào có ư nghĩa phù hợp khít khao
để có thể dùng phiên dịch được.
“Nhược cử
nhất ngung, khả danh vi Luận” (Nếu chỉ nêu lên
một góc (một khía cạnh của nhiều ư nghĩa) th́
có thể gọi là Luận): “Ngung” (隅): Trong không gian,
mỗi vật thể đều có mười
phương, gọi là “phương ngung” (方隅).
Một phương diện trong ấy th́ gọi là “nhất
ngung”. Giả sử trong nhiều loại ư nghĩa được
bao hàm [trong từ ngữ Ưu Bà Đề Xá] của tiếng
Phạn, nêu ra một ư nghĩa để phiên dịch th́ có
thể gọi là Luận, hoặc gọi là Luận Nghị.
“Sở dĩ vô
chánh danh dịch giả, dĩ thử gian bổn vô Phật
cố”: Đây là ngài Đàm Loan nói rơ nguyên nhân chữ
Ưu Bà Đề Xá không có từ ngữ tiếng Hán tương
ứng khít khao để phiên dịch, không chỉ là v́ văn
tự, ngôn ngữ sai biệt bất đồng, mà chủ
yếu là v́ Kinh, Luật, Luận bằng tiếng Phạn phần
lớn do đức Phật nói. [Trong đất nước
của] người Hoa (“thử gian”, cơi này) vốn không
có Phật xuất thế thuyết pháp, cho nên cũng chẳng
có từ ngữ thích đáng để có thể sử dụng
phù hợp với kinh Phật bằng tiếng Phạn.
(Chú) Như thử
gian thư, tựu Khổng Tử nhi xưng Kinh, dư nhân
chế tác giai danh vi Tử. Quốc sử, quốc kỷ
chi đồ, các biệt thể lệ. Nhiên Phật sở
thuyết thập nhị bộ kinh trung, hữu luận nghị
kinh danh Ưu Bà Đề Xá. Nhược phục Phật chư
đệ tử giải Phật kinh giáo, dữ
Phật nghĩa tương ứng giả, Phật diệc
hứa danh Ưu Bà Đề Xá, dĩ nhập Phật pháp
tướng cố. Thử gian vân Luận, trực thị
Luận Nghị nhi dĩ, khởi đắc chánh dịch bỉ
danh da? Hựu như nữ nhân, ư tử xưng mẫu,
ư huynh vân muội, như thị đẳng sự, giai
tùy nghĩa các biệt. Nhược đản dĩ nữ
danh, phiếm đàm mẫu muội, năi bất thất nữ
chi đại thể, khởi hàm tôn ty chi nghĩa hồ! Thử
sở vân Luận, diệc phục như thị. Thị dĩ
nhưng tồn Phạm âm, viết Ưu Bà Đề Xá.
(註)如此間書。就孔子而稱經。餘人製作皆名為子。國史國紀之徒。各別體例。然佛所說十二部經中。有論議經名優婆提舍。若復佛諸弟子解佛經教。與佛義相應者。佛亦許名優婆提舍。以入佛法相故。此間云論。直是論議而已。豈得正譯彼名耶。又如女人於子稱母。於兄云妹。如是等事。皆隨義各別。若但以女名汎談母妹。乃不失女之大體。豈含尊卑之義乎。此所云論。亦復如是。是以仍存梵音。曰優婆提舍。
(Chú: Như sách
vở trong cơi này, sách của Khổng Tử th́ gọi là Kinh,
những thứ do người khác tạo ra th́ gọi là Tử.
Những sách thuộc loại quốc sử, quốc kỷ
mỗi thứ đều có thể lệ riêng. Nhưng
trong mười hai bộ loại do đức Phật
đă nói th́ có [một loại] là Luận Nghị Kinh, được
gọi là Ưu Bà Đề Xá. Nếu như các đệ tử
của đức Phật giải thích kinh giáo mà tương
ứng với nghĩa lư của đức Phật th́ đức
Phật cũng cho phép gọi là Ưu Bà Đề Xá, do đă
khế nhập pháp tướng của Phật. Cơi này nói Luận,
nói thẳng ra là Luận
Nghị đó thôi, há có thể dịch chánh xác danh từ ấy
hay sao? Lại như người nữ, đối với
con bèn xưng là mẹ, đối với anh bèn xưng là
em. Những chuyện như vậy đều tùy theo ư nghĩa
mà sai khác. Nếu chỉ dùng danh xưng “nữ” để gọi
chung cả mẹ lẫn con th́ tuy chẳng mất đại
thể của Nữ, nhưng há có thể bao hàm ư nghĩa tôn
ty hay chăng? “Luận” được nói ở đây cũng
giống như thế đó. V́ lẽ này, vẫn giữ
nguyên âm tiếng Phạn mà nói là Ưu Bà Đề Xá).
Trong đoạn văn
này, ngài Đàm Loan giảng giải, phân tích đạo lư [v́
sao] chẳng thể dịch chữ Ưu Bà Đề Xá trong
tiếng Phạn thành Luận trong tiếng Hán:
1) Như Trung Hoa có
bộ Tứ Khố Toàn Thư, [nội dung của bộ sách
ấy được] chia thành bốn loại là Kinh, Sử,
Tử, Tập. Tức là dựa theo Khổng Tử để
nói th́ các sách như Luận Ngữ v.v… do các đệ tử
ghi chép lại mà thành th́ gọi là Kinh. [Những tác phẩm]
do những người khác (kể cả những ngôn luận
hoặc trước tác của Mạnh Tử và các môn nhân đệ
tử) tạo tác th́ nhất loạt gọi là Tử (子). Quốc sử,
quốc kỷ[9] của
mỗi triều đại như những sách Sử Kỷ
(史紀), Tư
Trị Thông Giám v.v… đều gọi chung là Sử (史). Những sách
ở ngoài ba loại Kinh, Tử, Sử th́ đều gộp
vào bộ loại Tập (集). Bốn
thứ ấy đều là do dựa theo thể tài sai khác mà
phán định, biên tập thành Tứ Khố Toàn Thư, chẳng
thể lẫn lộn được. Nhưng trong mười
hai bộ kinh do đức Phật đă nói (“bộ” (部) ở đây
là thể loại), cố nhiên có một loại là Luận Nghị
Kinh, được gọi là Ưu Bà Đề Xá [trong tiếng
Phạn]. Giả sử, ngoài ra lại có đệ tử đức
Phật dùng miệng nói hoặc viết lách nhằm giải
thích kinh giáo do đức Phật dạy, những lời đă
nói hoặc câu văn viết ra đều phù hợp nghĩa
lư trong kinh Phật, lại c̣n có thể thích ứng nhu cầu
liễu giải kinh Phật của chúng sanh; đối với
những loại ngôn ngữ hoặc văn tự giống như
vậy, đức Phật cũng cho phép gọi
là Luận Nghị, cũng được gọi là Ưu Bà
Đề Xá giống y hệt, do chúng đă thuộc về
cùng một loại Phật pháp, chẳng có ư nghĩa khác biệt
so với pháp tướng do đức Phật đă nói.
Tuy vậy, chữ
Luận trong tiếng Hán rất đơn thuần, chỉ
bao hàm ư nghĩa “hỏi đáp, bàn luận”, làm sao có thể
dùng để dịch chính xác danh xưng Ưu Bà Đề
Xá trong tiếng Phạn cho được? Làm sao có thể chỉ
dùng hai chữ Luận Nghị bèn gồm thâu chẳng sót các
ư nghĩa “dựa theo kinh để giải thích, phân tích từng
câu”, hoặc “tổng hợp nhiều kinh để phát huy ư
nghĩa trọng yếu”, “có sự chọn lựa, phân tích,
thảo luận” v.v… được bao hàm trong danh xưng Ưu
Bà Đề Xá cho được? V́ thế, vẫn giữ
nguyên tiếng Phạn vốn có, chẳng phiên dịch.
2) Như nói đến
“nữ nhân”, đây là danh từ xưng hô phiếm chỉ.
Như con cái xưng hô đối với mẹ, chẳng thể
gọi mẹ là nữ nhân, phải nên gọi là “mẫu
thân”. Như anh phải nên gọi em gái là “muội muội”.
Những chuyện giống như vậy đều tùy theo
thân phận và ư nghĩa bất đồng mà đáng nên có sự
sai khác như thế. Giả sử chỉ dùng danh xưng “nữ
nhân” để thay thế cho tiếng xưng hô “mẹ”
hay “em gái”, tuy chẳng thích đáng, nhưng vẫn chẳng
mất đại thể, v́ mẹ hay em gái xác thực đều
là nữ nhân, nhưng hai chữ “nữ nhân” trọn chẳng
bao hàm ư nghĩa tôn kính của con cái đối với mẹ,
em gái đối với anh trong ấy! Hiện thời, chữ “Luận” được nhắc tới
trong Phật pháp cũng có t́nh h́nh giống như vậy. Nếu
dịch Ưu Bà Đề Xá thành Luận Nghị, sẽ giống
như gọi mẹ là “nữ nhân”, tuy chẳng mất
đại thể, nhưng đă đánh mất nhiều loại
ư nghĩa bao hàm đáng nên có trong danh từ ấy. Do v́ duyên
cớ này, cổ đức phiên dịch kinh luận vẫn
giữ nguyên âm tiếng Phạn là Ưu Bà Đề Xá, chẳng
dịch sang tiếng Hán thành hai chữ Luận Nghị.
2.1.2.2. Giảng giải
tựa đề của bộ luận
2.1.2.2.1. Giải thích tựa
đề của bộ luận
(Chú) Thử luận thỉ chung phàm hữu
nhị trùng: Nhất thị tổng thuyết phần, nhị
thị giải nghĩa phần. Tổng thuyết phần giả,
tiền ngũ ngôn kệ tận thị. Giải nghĩa phần
giả, “luận
viết” dĩ
hạ Trường
Hàng tận
thị.
(註)此論始終凡有二重。一是總說分。二是解義分。總說分者。前五言偈盡是。解義分者。論曰已下長行盡是。
(Chú: Từ
đầu đến cuối bộ luận này gồm có
hai tầng: Một là phần nói chung (tổng thuyết phần)
chính là toàn bộ phần đầu gồm kệ tụng
mỗi câu năm chữ. Phần giải nghĩa là toàn bộ
phần văn Trường Hàng kể từ chữ “luận
nói” trở xuống).
Đây là ngài Đàm
Loan dựa theo thể tài của bộ luận này, đă phán
định chung toàn thể bộ luận này thành hai tầng.
“Trùng” (重) tức
là “loại”, cũng gọi là “bộ phận”.
Một loại là Tổng Thuyết, tức là tất cả
các bài kệ tụng trong phần đầu, mỗi bài có bốn
câu, mỗi câu năm chữ, đều thuộc về loại này. Loại kia thuộc
phần giải thích nghĩa lư, tức là phần văn Trường
Hàng từ chữ “luận viết” (luận
nói) trở đi cho tới khi bộ luận hoàn tất đều
thuộc loại này.
(Chú) Sở dĩ
vi nhị trùng giả, hữu nhị nghĩa: Kệ dĩ
tụng kinh vi tổng nhiếp cố, Luận dĩ thích kệ
vi giải nghĩa cố.
(註)所以為二重者。有二義。偈以誦經為總攝故。論以釋偈為解義故。
(Chú: Sở dĩ
chia thành hai tầng là v́ có hai nghĩa: Phần kệ nhằm
tán tụng kinh để gồm thâu chung [các ư nghĩa trọng
yếu trong kinh], Luận nhằm giải thích Kệ ḥng giảng
giải ư nghĩa).
Mấy câu này nhằm
nói rơ đạo lư v́ sao phán định toàn thể bản
luận được chia thành hai loại. Trước tiên,
Luận Chủ dùng kệ văn để tán tụng kinh Vô
Lượng Thọ, đem các ư nghĩa trọng yếu
trong kinh chia thành hai mươi bốn
bài kệ tụng, thâu nhiếp
trọn vẹn chẳng sót. Lại
dùng phần luận văn Trường Hàng giải thích ư
nghĩa bao hàm trong từng bài của tất cả các bài kệ
tụng, khiến cho từng điều mục trong bộ
luận này được phân minh, nghĩa lư rơ rệt.
(Chú) Vô Lượng
Thọ giả, ngôn Vô Lượng Thọ Như Lai thọ
mạng trường viễn bất khả tư lượng
dă. Kinh giả, thường dă. Ngôn An Lạc quốc độ
Phật cập Bồ Tát thanh tịnh trang nghiêm công đức,
quốc độ thanh tịnh trang nghiêm công đức, năng
dữ chúng sanh tác đại nhiêu ích, khả thường hành
ư thế, cố danh viết Kinh. Ưu Bà Đề Xá thị
Phật luận nghị kinh danh.
(註)無量壽者。言無量壽如來壽命長遠不可思量也。經者常也。言安樂國土佛及菩薩清淨莊嚴功德。國土清淨莊嚴功德。能與眾生作大饒益。可常行於世。故名曰經。優婆提舍是佛論議經名。
(Chú: Vô Lượng
Thọ là nói Vô Lượng Thọ Như Lai thọ mạng
lâu xa, chẳng thể
nghĩ lường được. “Kinh” là “thường”,
nhằm nói đến công đức trang nghiêm thanh tịnh
của Phật và Bồ Tát trong quốc độ An Lạc,
và công đức trang nghiêm thanh tịnh của cơi nước,
có thể tạo lợi ích to lớn cho chúng sanh, có thể
thường lưu hành trong cơi đời. V́ thế gọi
là Kinh. Ưu Bà Đề Xá là danh xưng của thể loại
Luận Nghị Kinh của đức Phật).
Mấy câu này là dựa
theo sự thật để giải thích tựa đề
của kinh và tựa đề của luận. Do lời
văn dễ hiểu, chẳng cần phải nói nhiều!
(Chú) Nguyện
thị dục nhạo nghĩa. Sanh giả, Thiên Thân Bồ
Tát nguyện sanh bỉ An Lạc Tịnh Độ, Như
Lai tịnh hoa trung sanh, cố viết Nguyện Sanh. Kệ
thị cú số nghĩa. Dĩ ngũ ngôn cú lược tụng
Phật kinh, cố danh vi Kệ.
(註)願是欲樂義。生者天親菩薩願生彼安樂淨土。如來淨華中生。故曰願生。偈是句數義。以五言句略誦佛經故名為偈。
(Chú: “Nguyện”
có nghĩa là ham muốn, yêu thích. “Sanh” là Thiên Thân Bồ Tát nguyện
sanh về An Lạc Tịnh Độ. Sanh trong
đóa hoa thanh tịnh của Như Lai, nên gọi là Nguyện
Sanh. Kệ có nghĩa là “số câu”. Dùng mỗi câu có năm
chữ để trùng tụng đại lược kinh Phật,
nên gọi là Kệ).
Trong mấy câu văn
này, do trước phần Kệ Tụng trong lời luận
có thêm ba chữ Nguyện Sanh Kệ, Đàm Loan đại
sư bèn giải thích thêm, khiến cho mọi người biết:
Bộ Văng Sanh Luận này không chỉ là thay Phật khuyên mọi người y theo
kinh Vô Lượng Thọ để tu hành, sẽ có thể
cùng sanh về cơi An Lạc, mà c̣n là bằng chứng cho thấy vị Luận Chủ,
tức Thiên Thân (Thế Thân) Bồ Tát tự ḿnh phát nguyện
văng sanh cơi An Lạc. Do lời văn dễ hiểu, chẳng
cần phải nói nhiều.
2.1.2.2.2. Giải thích về
tên của người tạo luận
(Chú) Dịch Bà Tẩu vân Thiên, dịch Bàn Đầu ngôn Thân.
Thử nhân tự Thiên Thân, sự tại Phó Pháp Tạng
Kinh. Bồ Tát giả, nhược cụ tồn Phạm âm,
ưng ngôn Bồ Đề Tát Đỏa. Bồ Đề
giả thị Phật đạo danh. Tát Đỏa hoặc
vân chúng sanh, hoặc vân dũng kiện. Cầu Phật
đạo chúng sanh hữu dũng mănh kiện chí, cố danh
Bồ Đề Tát Đỏa. Kim đản ngôn Bồ Tát,
dịch giả lược nhĩ. Tạo diệc tác dă. Thứ
nhân nhân trùng pháp, cố vân mỗ tạo. Thị cố ngôn Vô
Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Nguyện Sanh Kệ
Bà Tẩu Bàn Đầu Bồ Tát tạo. Giải
luận danh mục cánh.
(註)譯婆藪云天。譯槃頭言親。此人字天親。事在付法藏經。菩薩者。若具存梵音。應言菩提薩埵。菩提者是佛道名。薩埵或云眾生。或云勇健。求佛道眾生有勇猛健志。故名菩提薩埵。今但言菩薩。譯者略耳。造亦作也。庶因人重法。故云某造。是故言無量壽經優婆提舍願生偈。婆藪槃頭菩薩造。解論名目竟。
(Chú: Bà
Tẩu dịch là Thiên, Bàn Đầu dịch là Thân. Vị này có tên tự là Thiên Thân, sự
tích của Ngài được chép trong Phó Pháp Tạng Kinh. Bồ
Tát nếu nói đủ theo âm tiếng Phạn th́ phải nên
nói là Bồ Đề Tát Đỏa. Bồ Đề là tên
của Phật đạo. Tát Đỏa th́ dịch là Chúng
Sanh, hoặc dịch là Dũng Kiện. Chúng sanh cầu Phật
đạo, có chí hướng dũng mănh, mạnh mẽ, nên
gọi là Bồ Đề Tát Đỏa. Nay chỉ nói Bồ
Tát là do người dịch nói giản lược vậy.
“Tạo” cũng chính là “soạn”. Lại do người nào đó
trùng tuyên pháp, nên nói là “người nào đó tạo”. V́ thế
nói là Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Nguyện
Sanh Kệ Bà Tẩu Bàn Đầu Bồ
Tát Tạo. Giải thích danh mục của luận đă
xong).
Ngài Đàm Loan giải
thích tên gọi của
vị “năng tạo” (người trước tác) bộ
luận này, tức là Thiên Thân Bồ Tát. Sau thời Huyền
Trang đại sư, tất cả các bản dịch đều
dịch tên vị Bồ Tát này là Thế Thân.
“Sự tại Phó
Pháp Tạng Kinh” ư nói: Sự tích b́nh sanh của Thiên Thân Bồ
Tát được chép trong kinh Phó Pháp Tạng, nhưng trong Đại
Chánh Tạng, tập thứ năm mươi, từ trang hai
trăm chín mươi bảy đến trang ba trăm hai mươi
mốt, [tức là] trong Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện, không
ghi chép ǵ về Thiên Thân Bồ Tát. Chỉ từ trang một
trăm tám mươi tám đến trang một trăm chín
mươi mốt [của tập năm mươi], có một
quyển là Bà Tẩu Bàn Đậu Pháp Sư Truyện do Tam
Tạng pháp sư Chân Đế từ Ấn Độ sang
Trung Hoa dịch ra vào thời Nam Bắc Triều. Có lẽ ngài
Đàm Loan muốn nói đến quyển này.
“Bồ Đề
thị Phật đạo danh” (Bồ Đề là tên của
Phật đạo): Phật cũng là tiếng Phạn, dịch
là Giác. Do vậy, Bồ Đề dịch theo danh từ sát
nghĩa là Giác hoặc Đạo. Những phần kinh
văn khác đă được giải thích trong phần trước
rồi, chẳng cần phải nhắc lại.
2.2. Chú giải
2.2.1. Giải phần Kệ
Tụng
2.2.1.1. Phân đoạn
kệ tụng thành từng chương, từng môn
(Chú) Kệ trung phân vi Ngũ Niệm Môn, như
hạ Trường Hàng sở thích, đệ nhất hàng tứ
cú tương hàm hữu tam niệm môn, thượng tam cú thị
Lễ Bái, Tán Thán môn, hạ nhất cú thị Tác Nguyện Môn.
Đệ nhị hàng Luận Chủ tự thuật “ngă y Phật
kinh tạo luận, dữ Phật giáo tương ứng”.
Sở phục hữu tông, hà cố vân thử? Vị thành Ưu
Bà Đề Xá danh cố, diệc thị thành thượng
tam môn, khởi hạ nhị môn. Sở dĩ thứ chi thuyết,
tùng đệ tam hàng tận nhị thập tứ hàng, thị
Quán Sát Môn. Mạt hậu nhất
hàng thị Hồi Hướng Môn. Phân kệ chương môn
cánh.
(註)偈中分為五念門。如下長行所釋。第一行四句。相含有三念門。上三句是禮拜讚歎門。下一句是作願門。第二行論主自述我依佛經造論。與佛教相應。所服有宗。何故云此。為成優婆提舍名故。亦是成上三門。起下二門。所以次之說。從第三行盡二十四行。是觀察門。末後一行是迴向門。分偈章門竟。
(Chú: Trong phần
Kệ chia thành năm niệm môn, như trong phần Trường
Hàng sau đó sẽ giải thích. Bốn câu trong bài kệ đầu
tiên bao gồm ba niệm môn: Ba câu đầu là Lễ Bái và
Tán Thán Môn, câu cuối cùng là Tác Nguyện Môn. Bài kệ thứ
hai là vị Luận Chủ tự thuật “tôi nương
theo kinh tạo luận, tương ứng lời Phật dạy”,
[hàm ư] những ǵ Ngài tin nhận đều có căn cứ. Cớ
sao nói như vậy? V́ để
thành tên Ưu Bà Đề Xá, mà cũng là nhằm thành tựu
ba môn trước, dẫn khởi hai môn sau. Do vậy, kế
đó bèn nói từ bài kệ thứ ba cho đến hết
bài kệ thứ hai mươi bốn là Quán Sát Môn. Bài kệ
sau cùng là Hồi Hướng Môn. Phân chia phần Kệ thành
từng chương, từng môn đă xong).
Ngài Đàm
Loan đă quy nạp hai mươi bốn kệ tụng (Ngài
dùng chữ Hàng (行) để
gọi mỗi bài Kệ) do vị Luận Chủ đă soạn
thành pháp môn ngũ niệm, v́ trong
bộ luận, phần Trường Hàng
để giải thích sau đó chính là Ngũ Niệm Môn. “Đệ
nhất hàng” tức là bài Kệ Tụng thứ
nhất, mỗi “hàng” gồm bốn câu.
“Dữ Phật giáo
tương ứng”, ư nói các thứ công đức chân thật
được tường thuật trong bộ luận này
đều khế hợp (tương ứng) với những
lời khai thị và răn dạy của đức Phật
trong kinh Vô Lượng Thọ và các bộ kinh Đại Thừa
khác.
“Sở phục hữu
tông” (Những điều tin tưởng đều có căn
cứ): Ư nói, vị Luận Chủ soạn bộ luận này
nhằm hoằng dương, tán thán, chẳng phải là đề
cao một kinh, hoặc là dựa theo một chương, một
đoạn kinh văn để soạn luận, mà là tin nhận,
phụng hành tất cả các kinh Đại Thừa do đức
Phật đă nói, tổng hợp những tướng công
đức của Tây Phương Cực Lạc thế giới
được nói trong các kinh ấy, quy nạp thành năm
niệm môn mà soạn ra bộ luận này, tức là [những
điều Ngài viết ra] có căn cứ (ngài Đàm Loan dùng
chữ Tông [để chỉ căn cứ ấy]), chẳng
phải là do ư kiến của chính ḿnh, mà hoàn toàn phát xuất
từ kinh Phật. Những đoạn văn khác dễ hiểu,
chẳng cần phải nói nhiều!
2.2.1.2. Giải thích kệ
văn
2.2.1.2.1. Luận chủ
tự thệ
(Luận) Nguyện Sanh Kệ.
(論)願生偈。
(Luận:
Nguyện Sanh Kệ).
Trước
phần Kệ Tụng của bộ luận này, có ba chữ
Nguyện Sanh Kệ. Đấy là vị Luận Chủ trước
hết đă đặt ra danh xưng chung cho phần Kệ
Tụng, như các bản Tống Tạng (Đại Tạng
Kinh đời Tống) v.v… đều xếp chữ Nguyện
Sanh Kệ trước phần Kệ Tụng. Đồng
thời, vị Luận Chủ tự ḿnh phát thệ, khích lệ,
đốc thúc chính ḿnh: Tôi sở dĩ viết ra bộ Văng
Sanh Luận này, nhằm
làm chứng thư cho việc phát nguyện văng sanh An Lạc
quốc của chính ḿnh, làm nguyên động lực (động
lực chánh yếu) để tu tŕ ḥng đạt thành văng
sanh cho chính ḿnh: Tôi nhất
định hễ nói được bèn làm được!
Nguyện văng sanh, chắc chắc sẽ văng sanh, nhất
định có thể văng sanh.
2.2.1.2.2. Nói đại lược
về phần kệ tụng thuộc Lễ Bái, Tán Thán, và Tác
Nguyện Môn
2.2.1.2.2.1. Ba niệm môn
(Luận) Thế Tôn ngă nhất tâm, quy mạng
tận thập phương, Vô Ngại Quang Như Lai, nguyện
sanh An Lạc quốc.
(Chú) Thế Tôn giả, chư Phật thông hiệu.
Luận Trí, tắc nghĩa vô bất đạt; ngữ Đoạn,
tắc tập khí vô dư. Trí Đoạn cụ túc, năng
lợi thế gian, vị thế tôn trọng, cố viết
Thế Tôn. Thử ngôn ư quy Thích Ca Như Lai, hà dĩ đắc
tri? Hạ cú ngôn “ngă y Tu Đa La”. Thiên Thân Bồ Tát tại Thích
Ca Như Lai Tượng Pháp chi trung, thuận Thích Ca Như
Lai kinh giáo, sở dĩ nguyện sanh. Nguyện sanh hữu
Tông, cố tri thử ngôn quy vu Thích Ca. Nhược vị thử
ư biến cáo chư Phật, diệc phục vô hiềm. Phù Bồ
Tát quy Phật như hiếu tử chi quy phụ mẫu,
trung thần chi quy quân hậu. Động tĩnh phi kỷ,
xuất một tất do, tri ân báo đức, lư nghi tiên khải.
Hựu sở nguyện bất khinh, nhược Như Lai bất
gia oai thần, tương hà dĩ đạt? Khất gia thần
lực, sở dĩ ngưỡng cáo.
(註)世尊者諸佛通號。論智則義無不達。語斷則習氣無餘。智斷具足。能利世間。為世尊重。故曰世尊。此言意歸釋迦如來。何以得知。下句言我依脩多羅。天親菩薩在釋迦如來像法之中。順釋迦如來經教。所以願生。願生有宗。故知此言歸于釋迦。若謂此意遍告諸佛。亦復無嫌。夫菩薩歸佛。如孝子之歸父母。忠臣之歸君后。動靜非己。出沒必由。知恩報德。理宜先啟。又所願不輕。若如來不加威神。將何以達。乞加神力。所以仰告。
(Luận: Thế
Tôn con nhất tâm, quy mạng trọn mười
phương, Vô Ngại Quang Như Lai, nguyện sanh cơi An Lạc.
Chú: Thế Tôn
là danh hiệu chung của chư Phật. Luận định
về Trí, Phật không có nghĩa nào chẳng thông đạt.
Bàn về Đoạn th́ chẳng c̣n thừa sót tập khí. Trí
Đoạn đầy đủ, sẽ có thể lợi lạc
thế gian. Do được cơi đời tôn trọng, nên
gọi là Thế Tôn. Ở đây có ư nói quy hướng Thích
Ca Như Lai, v́ cớ sao biết vậy? Câu kế tiếp
viết: “Con nương theo Kinh Tạng”. Thiên Thân Bồ Tát
sống trong thời Tượng Pháp của Thích Ca Như Lai,
thuận theo kinh giáo của Thích Ca Như Lai, cho nên nguyện
sanh. Nguyện sanh có căn cứ; do vậy, biết lời này quy vào đức Phật
Thích Ca. Nếu cho rằng câu ấy có ư nói “trọn khắp
các đức Phật” th́ cũng chẳng ngại ǵ. Bồ
Tát quy hướng Phật như đứa con hiếu thảo
hướng về cha mẹ, như tôi trung quy hướng
về vua, vương hậu. Động hay tĩnh chẳng
do ư ḿnh, ra hay vào ắt phải do mạng lệnh, biết ân
báo đức th́ theo đúng lư phải tâu tŕnh trước. Lại
nữa, điều đă nguyện chẳng phải nhẹ,
nếu chẳng được Như Lai oai thần gia hộ,
làm sao có thể đạt được? Do cầu xin thần
lực gia hộ, cho nên phải thưa bẩm, kính ngưỡng).
Thế Tôn: Tiếng
Phạn là Bạc Già Phạm (Bhagavān, 薄伽梵), hoặc [c̣n
phiên âm là] Bà Già Bà (婆伽婆), bao hàm
các ư nghĩa “tôn quư, cát tường, sung túc”, là thông hiệu
của hết thảy các đức Phật. Hễ là Phật
bèn trọn đủ mười đức, từ Như
Lai cho đến Thiên Nhân Sư v.v… V́ thế, Ngài được
hết thảy trời người trong thế gian tôn trọng,
cung kính. Mười đức của Phật có thể quy
nạp thành “trí đoạn trọn đủ”. Luận
về trí huệ th́ Ngài nhập Tâm Chân Như Môn, có Như Lư Trí, có thể
biết rơ tổng tướng của các pháp (tánh Không), nhập
Tâm Sanh Diệt Môn bèn có Như Lượng
Trí, có thể
liễu đạt biệt tướng của các pháp (duyên
khởi). Điều này được gọi là “không có
nghĩa lư nào chẳng thấu đạt”. Nói đến
chuyện đoạn Hoặc
th́ Ngài đoạn sạch các phiền năo Kiến, Tư, Trần
Sa, Vô Minh, ngay cả chủng tử của tập khí cũng
rốt ráo chẳng c̣n. Đấy là “tập khí chẳng
c̣n thừa sót”. Nói thông thường, Tự Giác là “Hoặc
hết, trí vẹn”, Giác Tha là độ chúng sanh vô lượng.
Giác Hạnh Viên Măn th́ mới có thể lợi ích thế
gian, được cơi đời tôn trọng, được
gọi là Thế Tôn.
“Ngă nhất tâm quy
mạng” (Con nhất tâm quy mạng): Câu này có nghĩa là vị
Luận Chủ trước khi tạo luận, trước
hết, dốc trọn ḷng cung kính quy mạng đức Phật
Thích Ca. “Quy mạng” chính là chữ Nam-mô trong tiếng
Phạn. “Nhất tâm” là tâm chí chuyên nhất, quy hướng,
tin tưởng Phật, nương theo vị thầy là đức
Phật, ắt cần phải toàn bộ thân tâm đều
tin tưởng, ngưỡng mộ, quy phục, như kinh
Lăng Nghiêm đă dạy: “Tương thử thân tâm phụng
trần sát, thị tắc danh vi báo Phật ân” (Đem thân
tâm này phụng sự Phật trong các cơi nhiều như vi
trần, đó gọi là báo ân đức Phật). Tín đồ
Phật giáo trải qua sự quyết định chọn
lựa bằng lư trí, hễ quy hướng, tin tưởng,
sẽ nhất tâm dốc cạn ḷng thành, hoàn toàn tin tưởng,
ngưỡng mộ, quy phục, không c̣n chừa lại ǵ.
Nếu chỉ tin một vị Phật, chỉ tin một phần
[những lời dạy của Ngài], những điều
khác chẳng tin, sẽ chẳng thể gọi là “quy tín”
(quy hướng, tin tưởng) được.
Từ câu “hà dĩ
đắc tri” (v́ cớ sao biết vậy) trở xuống
là chú giải, ngài Đàm Loan đă dựa theo “hạ cú ngôn”
(câu kế tiếp bèn nói) trong bộ luận này, tức là
trong bốn câu kệ kế tiếp có nói “ngă y Tu Đa La” (Tu Đa
La là Khế Kinh) để thuyết minh: Vị Luận Chủ
sanh trong thời Tượng Pháp của Phật Thích Ca, tín
thuận di giáo của Thích Ca Như Lai. Cho nên Ngài
đă nhất tâm quy mạng, soạn
luận, phát nguyện văng sanh Cực Lạc quốc.
Luận Chủ ra đời sau khi đức Phật Thích
Ca nhập diệt chín trăm năm, nhằm đúng thời
Tượng Pháp của đức Bổn Sư. Pháp vận
của Phật Thích Ca vốn bao gồm Chánh Pháp một ngàn
năm, Tượng Pháp một ngàn năm, và Mạt Pháp một
vạn năm. Chỉ v́ chấp thuận nữ nhân xuất
gia, Chánh Pháp giảm thiểu, chỉ c̣n năm trăm năm.
Từ năm trăm lẻ một năm trở đi, bèn bước
vào thời kỳ Tượng Pháp. Luận Chủ soạn
luận này, phát nguyện văng sanh là có lai lịch
(căn cứ, ở đây Ngài dùng chữ Tông để biểu
thị căn cứ ấy), cho nên có thể biết Ngài nhất
tâm quy mạng là quy mạng đức Phật Thích Ca. “Nhược
vị thử ư biến cáo chư Phật, diệc phục
vô hiềm” nghĩa là nếu nói “nhất tâm quy mạng”
là [nhất tâm quy mạng] trọn khắp hết thảy
chư Phật th́ cũng được.
“Phù Bồ Tát quy
Phật… khất gia thần lực, sở dĩ cáo ngưỡng”
(Bồ Tát quy hướng Phật, cầu xin được
thần lực gia hộ, cho nên phải thưa bẩm, kính
ngưỡng): Đoạn này nhằm giải thích dụng ư nhất tâm quy mạng
của vị Luận Chủ, tức là như trung thần
hoặc hiếu tử trong thế gian, biết ân, báo ân, mỗi
lời nói, mỗi hành vi, động, tĩnh, ra, vào, ắt
trước hết bẩm báo với vua hoặc cha, chẳng
tự ư ḿnh định đoạt, ắt đều do mạng
lệnh của vua hoặc cha. Đồng thời, phát nguyện
văng sanh An Lạc quốc là chuyện trọng đại; v́ thế, phải cầu xin
chư Phật (bao gồm vô lượng chư Phật)
dùng oai thần và sức công đức gia tŕ khiến cho sở
nguyện thật sự đạt được!
(Chú) “Ngă nhất
tâm” giả, Thiên Thân Bồ Tát tự đốc chi từ.
Ngôn “niệm
Vô Ngại Quang Như Lai” nguyện sanh An Lạc,
tâm tâm tương tục, vô tha tưởng gián tạp. Vấn
viết: Phật pháp trung vô ngă, thử trung hà dĩ xưng
Ngă? Đáp viết: Ngôn Ngă hữu tam căn bản, nhất
thị tà kiến ngữ, nhị thị tự đại
ngữ, tam thị lưu bố ngữ. Kim ngôn Ngă giả,
Thiên Thân Bồ Tát tự chỉ chi ngôn, dụng lưu bố
ngữ, phi tà kiến, tự đại dă.
(註)我一心者。天親菩薩自督之詞。言念無礙光如來願生安樂。心心相續無他想間雜。問曰。佛法中無我。此中何以稱我。答曰。言我有三根本。一是邪見語。二是自大語。三是流布語。今言我者。天親菩薩自指之言。用流布語。非邪見自大也。
(Chú: “Ngă nhất
tâm” (Con nhất tâm) là lời tự đốc thúc của Thiên
Thân Bồ Tát. Nói “niệm Vô Ngại Quang Như Lai” chính là nguyện
sanh An Lạc, tâm niệm liên tục, không xen tạp những
ư tưởng khác. Hỏi: Trong Phật pháp là vô ngă, v́ sao ở
đây lại nói là Ngă? Đáp: Nói Ngă th́ có ba món căn bản:
Một là từ ngữ tà kiến, hai là từ ngữ tự
cao tự đại, ba là từ ngữ thông dụng. Nay nói
Ngă chính là tiếng để Thiên Thân Bồ Tát tự chỉ,
sử dụng từ ngữ thông dụng, chẳng phải
là tà kiến hay tự cao tự đại).
Đoạn
văn này nhằm chú giải câu “ngă nhất tâm”. Như
thế nào th́ được gọi là nhất tâm? Chính là hệ
niệm Vô Ngại Quang Như Lai (A Di Đà Phật), phát
nguyện nhất định sẽ văng
sanh An Lạc quốc. Ư niệm như vậy giữ sao cho
tâm tâm niệm niệm liên tục chẳng dứt, đó gọi
là “vô hậu tâm”. Lại c̣n phải chẳng có ư tưởng
nào khác xen tạp trong ấy th́ gọi là “vô gián tâm” (tâm
chẳng gián đoạn). Nhất định là cần phải
trọn đủ vô hậu tâm và vô gián tâm th́ mới có thể
gọi là “nhất tâm”.
Từ chữ “vấn
viết” (hỏi rằng) trở đi là lời lẽ vấn đáp giả thiết nhằm
giải thích ư nghĩa [v́ sao] vị Luận Chủ xưng
là Ngă. “Tam căn bản” chính là nói đến dụng ư căn bản v́ sao trong thế gian có ba loại người
xưng là Ngă. Một là cách xưng hô Ngă của những kẻ
b́nh phàm, chấp có một cái Ngă thật sự tồn tại.
Đấy là cách nói tà kiến, chẳng phải là lời lẽ
chánh kiến. Hai là cách nói của ngoại đạo, như
Hồi giáo gọi Ngă là Chân Tể, hoặc Gia Tô Giáo gọi
Ngă là Thượng Đế. Xưng là Ngă như vậy hoàn
toàn là chứng bệnh cuồng tự cao tự đại.
Loại thứ ba chính là Phật, Bồ Tát, và các đệ
tử xưng là Ngă do thuận theo cách nói thông dụng của
thế tục, giả nói là có Ngă, chẳng phải là tà kiến
chấp thật sự có Ngă, mà cũng chẳng phải là cái
Ngă theo kiểu nói tự cao tự đại.
(Chú) “Quy mạng
tận thập phương Vô Ngại Quang Như Lai” giả,
“quy mạng” tức thị Lễ Bái Môn. “Tận thập phương
Vô Ngại Quang Như Lai” tức thị Tán Thán Môn. Hà dĩ
tri quy mạng thị lễ bái? Long Thọ Bồ Tát tạo
A Di Đà Như Lai Tán trung, hoặc ngôn “khể thủ lễ”,
hoặc ngôn “ngă quy mạng”, hoặc ngôn “quy mạng lễ”.
Thử luận Trường Hàng trung, diệc ngôn tu ngũ niệm
môn. Ngũ niệm môn trung, lễ bái thị nhất. Thiên Thân
Bồ Tát kư nguyện văng sanh, khởi dung bất lễ? Cố
tri quy mạng tức thị lễ bái. Nhiên lễ bái đản
thị cung kính, bất tất quy mạng; quy mạng tất
thị lễ bái. Nhược dĩ thử thôi, quy mạng
vi trọng; kệ
thân kỷ tâm, nghi ngôn “quy mạng”. Luận
giải kệ nghĩa, phiếm đàm lễ bái. Bỉ thử
tương thành, ư nghĩa di hiển. Hà dĩ tri “tận thập
phương Vô Ngại Quang Như Lai” thị
Tán Thán Môn? Hạ Trường Hàng trung ngôn: “Vân hà Tán Thán Môn?
Vị xưng bỉ Như Lai danh. Như bỉ Như Lai
quang minh, trí tướng, như bỉ danh nghĩa, dục
như thật tu hành tương ứng cố”. Y Xá Vệ quốc
sở thuyết Vô Lượng Thọ Kinh, Phật giải
A Di Đà Như Lai danh hiệu, hà cố hiệu A Di Đà?
“Bỉ Phật
quang minh vô lượng, chiếu thập phương quốc,
vô sở chướng ngại. Thị cố hiệu A Di
Đà”. Hựu
“bỉ Phật
thọ mạng cập kỳ nhân dân vô lượng vô biên A-tăng-kỳ
kiếp, cố danh A Di Đà”.
(註)歸命盡十方。無礙光如來者。歸命即是禮拜門。盡十方無礙光如來。即是讚歎門。何以知歸命是禮拜。龍樹菩薩造阿彌陀如來讚中。或言稽首禮。或言我歸命。或言歸命禮。此論長行中。亦言修五念門。五念門中。禮拜是一。天親菩薩既願往生。豈容不禮。故知歸命即是禮拜。然禮拜但是恭敬。不必歸命。歸命必是禮拜。若以此推。歸命為重。偈申己心。宜言歸命。論解偈義。汎談禮拜。彼此相成。於義彌顯。何以知盡十方無礙光如來是讚歎門。下長行中言。云何讚歎門。謂稱彼如來名。如彼如來光明智相。如彼名義。欲如實修行相應故。依舍衛國所說無量壽經。佛解阿彌陀如來名號。何故號阿彌陀。彼佛光明無量。照十方國。無所障礙。是故號阿彌陀。又彼佛壽命。及其人民。無量無邊阿僧祇劫。故名阿彌陀。
(Chú:
“Quy mạng tận thập phương Vô Ngại Quang Như
Lai”: “Quy mạng” chính là Lễ Bái Môn. “Tận thập
phương Vô Ngại Quang Như Lai” chính là Tán Thán Môn. V́ sao biết
“quy mạng” là “lễ bái”? Trong bài A Di Đà Như Lai Tán do Long Thọ Bồ Tát soạn,
hoặc nói là “dập đầu lễ”, hoặc nói “con quy
mạng”, hoặc nói “quy mạng lễ”. Trong phần Trường
Hàng của luận này, cũng nói tu năm niệm
môn, mà lễ bái là một môn trong năm niệm môn. Thiên Thân
Bồ Tát đă nguyện văng sanh, lẽ đâu chẳng lễ?
V́ thế biết “quy mạng” chính là “lễ bái”. Nhưng lễ
bái chỉ là cung kính, chưa chắc đă quy mạng; quy mạng
ắt phải là lễ bái. Nếu dùng chuyện này để
suy luận th́ quy mạng là trọng yếu. Dùng kệ
tụng để bày tỏ cái tâm của chính ḿnh th́ phải
nên nói là “quy mạng”. Trong phần giải thích về ư nghĩa
của bài kệ, luận đă bàn rộng về sự lễ
bái. Đôi bên thành tựu lẫn nhau, ư nghĩa càng rơ. V́ sao
biết “thập phương Vô Ngại Quang Như Lai” là Tán
Thán Môn? Trong phần Trường Hàng thuộc phần sau có
nói: “Như thế nào là Tán Thán Môn? Chính là xưng danh hiệu
đức Như Lai ấy. Do như quang minh và trí tướng
của đức Như Lai ấy, như danh nghĩa của
Ngài, mà muốn như thật tu hành tương ứng”. Theo
kinh Vô Lượng Thọ do đức Phật đă nói tại
nước Xá Vệ, đức Phật đă giải thích
danh hiệu A Di Đà Như Lai, “v́ sao hiệu
là A Di Đà? Đức Phật ấy quang minh vô lượng,
chiếu mười phương cơi, chẳng bị chướng
ngại. V́ thế hiệu là A Di Đà”. Hơn
nữa, “đức
Phật ấy và nhân dân trong cơi ấy có thọ mạng là vô
lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, nên Ngài tên là A Di
Đà”).
“Quy mạng” có ư nghĩa
lễ bái. Do vậy, “ngă nhất tâm quy mạng” chính là
Lễ Bái Môn. “Tận thập phương Vô Ngại Quang
Như Lai”: Vô Ngại Quang cũng chính là Vô Lượng
Quang Như Lai, tiếng Phạn là A Di Đà Bà Da (Amitabhaya). Đấy
chính là chỗ Luận Chủ nhất tâm quy mạng, cũng
chính là tán thán quang minh và trí tướng của A Di Đà Phật,
thuộc về Tán Thán Môn.
Từ câu “hà dĩ
tri quy mạng thị lễ bái?” (v́ sao biết quy mạng
là lễ bái?) chính là
ngài Đàm Loan trích dẫn kệ tán thán A Di Đà Phật của
Long Thọ Bồ Tát, các kinh Đại Tiểu Bổn A Di
Đà, và những câu văn thuộc phần Trường Hàng
của luận này để chứng minh bài kệ này xác thực
đă bao gồm hai môn Lễ Bái và Tán Thán. Ngài Đàm Loan nói “Long
Thọ Bồ Tát tạo A Di Đà Như Lai tán trung”, tức
là nói trong Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận có bài kệ tán
thán A Di Đà Phật, [trích dẫn] đại lược
như sau: “Nhược nhân nguyện tác Phật, tâm niệm
A Di Đà, ứng thời vị hiện thân, thị cố
ngă quy mạng… Thị cố ngă khể thủ… Ngă kim quy mạng
lễ… Thị cố lễ Phật túc” (Nếu ai nguyện
làm Phật, tâm niệm A Di Đà, Phật lập tức hiện
thân, v́ thế, con quy mạng… V́ thế, con dập đầu…
Con nay quy mạng lễ… Do vậy, lễ chân Phật).
“Như Lai”
trong tiếng Phạn là Đa Đà A Già Đà (Tathāgata). “Như”
là Chân Như, Thật Tướng, có các ư nghĩa “tương
đồng, b́nh đẳng, bất biến, chẳng thể
phân biệt” v.v… tức là Tâm Chân Như Môn. “Lai” nghĩa
là “duyên khởi, độ sanh, có đến đi, hành động,
sai biệt”, tức là Tâm Sanh Diệt Môn. Chứng đắc
nhất tâm nhị môn, sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, chẳng trái nghịch bổn nguyện, đến
độ chúng sanh. V́ thế gọi là Như Lai. Như Đại
Trí Độ Luận nói: “Thừa như thật đạo,
lai thành Chánh Giác, lai độ chúng sanh, cố danh Như Lai”
(Nương theo đạo như vậy để đến
thành Chánh Giác, đến độ chúng sanh, nên gọi là Như
Lai).
“Vô Ngại Quang Phật”
chính là như kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật
đă bảo ngài A Nan: “Vô Lượng Thọ Phật, oai
thần quang minh, tối tôn đệ nhất…. Thị cố
Vô Lượng Thọ Phật, hiệu Vô Lượng Quang Phật,
Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật… Siêu Nhật
Nguyệt Quang Phật” (Vô Lượng
Thọ Phật oai thần, quang minh, tôn trọng bậc nhất….
V́ thế, Vô Lượng Thọ Phật hiệu là Vô Lượng
Quang Phật, Vô Biên
Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật…
Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật). Tổng cộng có mười
hai thứ quang minh, bao gồm thân quang và trí quang. Dựa theo
mười hai thứ quang minh khác nhau, mà lập ra mười
hai thứ danh hiệu khác nhau. Chư Phật chẳng có chuyện
này! Ngài Đàm Loan c̣n soạn một tác phẩm khác, có tên là
Tán A Di Đà Phật Kệ gồm một quyển, được
ghi trong tập bốn mươi bảy của Đại
Chánh Tạng, trong ấy tán thán rằng: “Quang vân vô ngại
như hư không, cố Phật hựu xưng Vô Ngại
Quang. Nhất thiết hữu ngại mông quang trạch, thị
cố đảnh lễ Nan Tư Nghị” (Mây quang minh vô
ngại như hư không, v́ thế Phật c̣n được
gọi là Vô Ngại Quang. Hết thảy những thứ có
chướng ngại được quang minh ấy thấm
đẫm. V́ thế, con đảnh
lễ bậc Khó Nghĩ Bàn). “Quang vân vô ngại như hư
không” (mây quang minh chẳng chướng ngại
như hư không) là tán thán thân quang
và trí quang của A Di Đà Phật đều như hư
không, chiếu trọn khắp mười phương, chẳng
bị vật chất ngăn trở, như kinh Quán Vô Lượng
Thọ Phật có nói: “Vô Lượng Thọ Phật hữu
bát vạn tứ thiên tướng, nhất nhất tướng
trung, các hữu bát vạn tứ thiên tùy h́nh hảo, nhất
nhất hảo trung, phục hữu bát vạn tứ thiên quang
minh, nhất nhất quang minh biến chiếu thập
phương thế giới niệm Phật chúng sanh, nhiếp
thủ bất xả” (Vô Lượng Thọ Phật có
tám vạn bốn ngàn tướng. Trong mỗi tướng
đều có tám vạn bốn ngàn tùy h́nh hảo. Trong mỗi
hảo, lại có tám vạn bốn ngàn quang minh. Mỗi quang
minh chiếu trọn khắp chúng sanh niệm Phật trong mười
phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ).
Do vậy, Luận Chủ nhất tâm quy mạng thập phương
Vô Ngại Quang Như Lai chính là dùng hai hành pháp quy mạng (lễ
bái) và tán thán để được quang minh vô ngại của
Phật Di Đà nhiếp thủ chẳng bỏ mà được
sanh về cơi An Lạc.
Vô
Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Chú Giải Giảng
Nghĩa
phần
1 hết
[1] Thích
Ma Ha Diễn Luận là tác phẩm chú thích Đại Thừa
Khởi Tín Luận do ngài Long Thọ biên soạn, được
ngài Phiệt Đề Ma dịch ra tiếng Hán vào đời
Diêu Tần. Bộ luận này lại được chú giải
rất nhiều tại Trung Hoa như Thích Ma Ha Diễn Luận
Kư của ngài Thánh Pháp, Thích Ma Ha Diễn Luận Tán Huyền
Sớ (do ngài Pháp Ngộ soạn), Thích Ma Ha Diễn Luận
Thông Huyền Sao (do ngài Chí Phước soạn) v.v…
[2] Nguyên Ngụy: Do trong lịch sử
Trung Hoa có nhiều triều đại cùng lấy tên Ngụy
nên các sử gia thường thêm họ của người
sáng lập vương triều vào trước tên triều
đại cho dễ phân biệt. Thác Bạt Ngụy là triều
đại do người Tiên Ty sáng lập, tồn tại
từ năm 386 đến năm 535, kinh đô lần
lượt là Thịnh Đại, B́nh Thành, Lạc
Dương. và Trường An. Lănh thổ của triều đại
này bao gồm toàn bộ miền Hoa Bắc. Sở dĩ gọi
là nhà Nguyên Ngụy v́ trong quá tŕnh Hán hóa, Ngụy Hiếu
Văn Đế (Thác Bạt Hoằng) đă ra lệnh
đổi họ Thác Bạt thành Nguyên. Những người
thuộc họ Thác Bạt nhưng không thuộc trực hệ
của vương thất th́ đổi thành Trưởng
Tôn, họ Ất Phiên đổi thành Thúc Tôn, đồng thời
các họ gồm hai chữ trước đó của
người Tiên Ty đều đổi thành một chữ
như Mục, Lục, Hạ, Lưu, Lâu v.v…
[3] Thiên Trúc (天竺)
chính là cách phiên âm cổ của chữ Sindhu (tức sông
Indus hiện thời). Danh xưng này c̣n được phiên
âm thành Thân Độc, Hiền Đậu, Quyên Đốc,
Kiền Đốc v.v... Do người Ba
Tư
đọc sai chữ
Sindhu thành Hindu, mà người Hy Lạp khi xâm chiếm Ấn
Độ lại gọi trại
vùng lưu vực sông
Sindhu và sông Hằng thành Indu, cho nên từ chữ
Indu đă h́nh thành danh xưng India sau này.
[4]
Bắc Ngụy chính là nhà Nguyên Ngụy như vừa nói trên
đây. Sở dĩ gọi là Bắc Ngụy để phân
biệt với Đông Ngụy và Tây Ngụy. Cuối triều
đại Bắc Ngụy, tướng Cao Hoan chuyên quyền
sau khi Ngụy Hiếu Trang Đế (Nguyên Tử Du) dẹp
trừ quyền thần Nhĩ Chu Vinh. Gia tộc Nhĩ Chu
Vinh lật đổ Hiếu Trang Đế, tôn Ngụy Tiết
Mẫn Đế (Nguyên Cung) lên làm vua. Cao Hoan chống lại
phe Nhĩ Chu Vinh, đă tôn Nguyên Tu lên làm vua tức Ngụy Hiếu
Vũ Đế. Sau khi Cao Hoan dẹp tan phe Nhĩ Chu Vinh, giết
Mẫn Đế, hết sức chuyên quyền. Do lo sợ
trước thế lực ngày càng mạnh của Cao Hoan,
Hiếu Vũ Đế liên kết với tướng Vũ
Văn Thái, và tuyệt giao với Cao Hoan. Khi Cao Hoan xua quân xuống
đánh miền Nam nước Ngụy, Hiếu Vũ Đế
chạy trốn đến lănh địa của Vũ Văn
Thái. Cao Hoan bèn tôn Nguyên Thiện Kiến lên làm vua, tức Ngụy
Hiếu Tĩnh Đế. Bắc Ngụy bị chia thành
hai nước Đông Ngụy do Hiếu Vũ Đế làm
vua, và Đông Ngụy do Hiếu Tĩnh Đế làm vua, nhưng
cả hai vua đều trở thành con rối trong tay Cao
Hoan và Vũ Văn Thái. Về sau, con Cao Hoan là Cao Dương
(Tề Văn Tuyên Đế) soán ngôi Hiếu Tĩnh Đế,
lập ra nhà Cao Tề. Cháu Vũ Văn Thái là Vũ Văn Hộ
đă phế Tây Ngụy Cung Đế, đưa con trai Vũ
Văn Thái là Vũ Văn Giác lên làm vua, tức Bắc Châu Hiếu
Mẫn Đế.
[5] Phục Nhĩ (服餌) là một
thuật ngữ của Đạo giáo, là một
phương pháp dưỡng sinh, theo đó, người theo thuật này sẽ ăn nhiều loại thuốc, giảm thiểu
ăn cơm cho đến mức “tịch cốc”
(hoàn toàn
không ăn ngũ cốc).
Họ tin làm như vậy sẽ đạt được
trường sanh bất lăo. Các loại thuốc thường
dùng cho Phục Nhĩ là Phục Kinh Tô, Hạnh Nhân Tô v.v…
Đào Hoằng Cảnh
là tổ sư đời thứ chín của phái Thượng
Thanh (một phái Đạo giáo chuyên đề cao Thượng
Thanh Đại Động Chân Kinh). Sau khi quy ẩn mười
năm tại Mao Sơn, ông sáng lập Mao Sơn Tông, lấy
tên núi làm giáo phái, nhưng khác với Thượng
Thanh, phái Mao Sơn chú trọng phù chú, pháp thuật. Đào Hoằng Cảnh tinh thông y dược, đề xướng nhiều
cách luyện đan. Bộ Bản Thảo Kinh Tập Chú của
ông được đánh giá rất cao trong giới Trung Y.
[6] Tứ mă (駟馬): Thời cổ, ngựa được
chọn kỹ lưỡng, phải có sức mạnh giống
nhau, tốc độ chạy giống nhau, ghép thành hai cặp
gồm bốn con ngựa để kéo xe. Do đồng bộ,
chúng kéo xe chạy rất nhanh, ngựa như vậy được
gọi là Tứ Mă.
[7] Vasu là tên gọi chung của tám vị thần
(thường gọi là Aṣṭa-vasu) làm thị giả
cho thần Indra (Thiên Đế Thích), hoặc thần Vishnu (Tỳ Nữu Thiên) trong Ấn Độ giáo, có vai tṛ phù hộ tín đồ
được thịnh vượng may mắn. Họ chính
là Prithvi (thần đất),
Agni (thần lửa), Vayu (thần gió), Varuna (thần
nước), Āditya (thần mặt trời, c̣n gọi
là Surya, hoặc Pratyūsha), Dyaus (thần hư không),
Chandramas (thần mặt trăng), và Nakstrani (thần tinh tú,
tức thần Bắc Cực Tinh).
[8] Trong tiếng Quan Thoại, Ưng (膺) đọc là yīng,
c̣n Nhân (因) đọc là yīn.
[9] “Quốc kỷ” (國紀) chính là những luật lệ, kỷ
cương, pháp tắc, ước chế trong mỗi triều
đại.