phần
3
無量壽經優婆提舍註解講義
Ấn Độ
Thế Thân Bồ Tát tạo luận
印度世親菩薩造論
Nguyên Ngụy
Thiên Trúc Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi dịch luận
元魏天竺三藏菩提流支譯論
Nguyên Ngụy
Huyền Trung Tự sa-môn Đàm Loan chú giải
元魏玄中寺
Dân Quốc
Tịnh Luật Tự sa-môn Tánh Phạm giảng nghĩa
民國淨律寺 門性梵講義
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
2.2.1.2.3.1.1.7. Xúc công
đức
(Luận) Bảo tánh công đức thảo,
nhu nhuyễn tả hữu toàn, xúc giả sanh thắng lạc,
quá Ca Chiên Lân Đà.
(Chú) Thử tứ cú, danh “trang nghiêm xúc công
đức thành tựu”. Phật bổn hà cố khởi thử
trang nghiêm? Kiến hữu quốc độ, tuy bảo trọng
kim ngọc, bất đắc vi y phục. Tuy trân ngoạn
minh kính, vô nghị ư phu cụ. Tư duyên duyệt ư
mục, bất tiện ư thân dă. Thân nhăn nhị t́nh, khởi
phất mâu thuẫn hồ? Thị cố nguyện ngôn, sử
ngă quốc độ nhân thiên lục t́nh, ḥa ư thủy nhũ,
tốt khứ Sở Việt chi lao. Sở dĩ thất bảo
nhu nhuyễn, duyệt mục, tiện thân.
(此四句,名莊嚴觸功德成就。佛本何故起此莊嚴。見有國土。雖寶重金玉。不得為衣服。雖珍玩明鏡。無議於敷具。斯緣悅於目。不便於身也。身眼二情豈弗矛盾乎。是故願言。使我國土人天六情,和於水乳,卒去楚越之勞。所以七寶柔軟。悅目便身。
(Luận:
Cỏ công đức tánh báu, mềm mại xoay trái phải,
chạm vào vui thù thắng, hơn Ca Chiên Lân Đà.
Chú: Bốn câu
này được gọi là “trang nghiêm xúc công đức
thành tựu”. Vốn v́ lẽ nào mà đức Phật dấy
lên sự trang nghiêm này? Do Ngài thấy có quốc độ tuy
có vàng ngọc đáng quư trọng, nhưng chẳng thể
làm thành y phục. Tuy có đồ trân ngoạn, gương
sáng, nhưng chẳng thể bàn đến chuyện [làm thành] đồ trải phủ
được. Như vậy là các thứ ấy chỉ sướng
mắt, nhưng chẳng
thuận tiện cho thân. Hai t́nh thức nơi thân và mắt
há chẳng mâu thuẫn ư? V́ thế, Ngài nguyện rằng:
Khiến cho trong cơi nước của tôi, sáu t́nh ḥa hợp
như nước với sữa, diệt hết nỗi nhọc
nhằn giữa Sở và Việt. V́ thế, bảy báu mềm
mại, vừa đẹp mắt, vừa thuận tiện
cho thân thể).
V́ sao A
Di Đà Phật muốn có “xúc công
đức trang nghiêm”? V́ Ngài
thấy có những quốc độ, tuy có vàng, ngọc, bảy
báu đáng quư trọng nhất, mọi người thật
sự yêu thích, nhưng chất báu có đặc tánh kiên cố,
chỉ có thể làm thành những món đồ vật để
trang hoàng, chẳng thể chế thành y phục để mặc.
Ngay như trân châu kể ra rất nổi tiếng quư báu, cũng chỉ
có thể dùng làm gương sáng, hoặc đồ trân ngoạn
cho mọi người, trọn chẳng thể dùng làm những
thứ mền đệm để trải lên giường
ngơ hầu thân thể mệt mỏi nghỉ ngơi được!
Những món vật trân ngoạn ấy chỉ có thể khiến
cho người ta nh́n vào đẹp ḷng, chẳng thể khiến
cho thân thể con người có được cảm xúc
vui sướng. Ngược lại, đụng phải chúng,
có thể gây tổn thương, có hại cho thân
thể! Nh́n như vậy, đối với thân thể và tṛng mắt của
con người, trân bảo chẳng thể đồng thời
tạo cảm xúc vui sướng và tạo lợi ích được,
há chẳng trở thành mâu thuẫn lẫn nhau ư? Do có nguyên
nhân ấy, đức Di Đà đă phát nguyện,
khiến cho trong quốc độ khi Ngài thành Phật, sáu căn
(lời chú giải dùng chữ “lục t́nh” để
chỉ sáu căn) của hết thảy đại chúng trời
người hễ tiếp xúc sáu trần, sẽ đồng thời đều
có cảm nhận vui sướng, hài ḥa, chẳng có cảm
xúc đau khổ, chống trái, giống như nước và
sữa ḥa lẫn vào nhau, chẳng phân đây, kia. Căn bản
là chẳng có mâu thuẫn sướng hay khổ, hoặc t́nh
huống vừa có lợi vừa có hại.
Không chỉ là như
vậy, mà c̣n có thể khiến cho hết thảy những
ai văng sanh cơi ấy, đều đắc lục căn thanh
tịnh, trọn đủ sáu món thần thông vi diệu. Chính
ḿnh có thể đạt được lợi ích yên vui, lại
c̣n có thể tạo lợi ích trọn
khắp cho người khác, chẳng
khiến cho ta và người chống trái, chẳng có khuyết
điểm coi trọng bên này, thờ
ơ bên kia. V́ thế nói “tốt khứ Sở Việt
chi lao” (dứt tuyệt nỗi nhọc nhằn giữa
Sở và Việt). Vào thời cổ, tại Trung Hoa, nước
Sở và nước Việt[1] đối địch
lẫn nhau. Quư vị muốn giúp đỡ nước Sở,
sẽ gây bất lợi cho nước Việt. Quư vị
muốn đồng thời giúp đỡ hai nước, tất
nhiên là sẽ uổng công vô ích, đối với đôi bên
đều chẳng tốt đẹp ǵ! Ngài Đàm Loan dùng
sự thật này để làm thí dụ: Quư vị muốn
cho các thứ trân bảo trong cơi [Sa Bà] này có thể đồng
thời có lợi ích và tạo cảm nhận vui sướng
cho nhăn căn và thân căn th́ sẽ
tuyệt đối chẳng thể được! Chỉ
có người ở trong cơi nước được thành
tựu bởi bổn nguyện của Phật Di Đà th́ mới
có thể “một căn đối với trọn khắp
hết thảy các trần, một trần khiến cho hết
thảy các căn đều vui sướng”. Căn và
trần không ǵ chẳng xứng tánh dung thông, tự tại
vô ngại, chỉ hưởng các niềm vui, chẳng hứng
chịu đau khổ. Do vậy, bảy báu trong cơi ấy
cho đến vô lượng các thứ báu đều sẵn
có bản tánh mềm mại, khiến cho mọi người
đă được thưởng
ngoạn sướng mắt, lại c̣n có thể khoác mặc
trên thân thể, đồng thời có sự thọ dụng
trang nghiêm vui sướng.
(Chú) Ca Chiên Lân Đà
giả, Thiên Trúc nhu nhuyễn thảo danh dă, xúc chi giả, năng
sanh lạc thọ, cố dĩ vi dụ.
(Chú:
Ca Chiên Lân Đà là tên của một thứ cỏ mềm mại
bên Thiên Trúc, chạm vào sẽ có cảm giác vui sướng,
nên dùng nó làm thí dụ).
Ca Chiên Lân Đà (Kācalindikāka) là tiếng
Phạn, ngài Đàm Loan giải thích đó là tên một thứ
cỏ mềm mại tại Ấn Độ (Thiên Trúc). Loại
cỏ ấy chạm vào thân thể con người, sẽ
khiến cho sáu căn của quư vị đều có sự cảm nhận vui sướng rất thoải
mái. Do vậy, dùng nó để sánh ví trân bảo trong cơi ấy
(cơi Cực Lạc) có thể khiến cho sáu căn của con
người đồng thời đạt được
cảm giác vui sướng. Nhưng trong kinh Chánh Pháp Niệm
Xứ, quyển thứ ba mươi, có chép: “Ca Chiên Lân Đà,
diệc danh Ca Chiên Lân Đề, Ca Chân Lân Đà, Ca Giá Lân Địa,
Ca Lân Đà, Ca Lân Đề đẳng, hải trung điểu
danh, xúc chi đại lạc. Hữu Luân Vương xuất,
thử điểu tắc hiện” (Ca Chiên Lân Đà c̣n gọi
là Ca Chiên Lân Đề, Ca Chân Lân Đà, Ca Giá Lân Địa,
Ca Lân Đà, Ca Lân Đề v.v… là tên một loài chim trong biển,
chạm vào nó sẽ hết sức vui sướng. Khi có Luân
Vương ra đời, loài chim này sẽ xuất hiện).
Theo sách Pháp Uyển Châu Lâm[2], quyển thứ hai
mươi lăm: “Chim Ca Chiên Lân Đà sống trong biển,
ôm hoặc
chạm vào nó, thân tâm vui sướng
thỏa thích c̣n hơn lục dục”. Lại
theo sách Huệ Lâm Âm Nghĩa[3], quyển thứ hai
mươi lăm th́: “Ca Lân Đề, cơi này dịch là Thật
Khả Ái, ư nói loài thủy điểu này thuộc loại
uyên ương”. Quyển thứ mười chín của
bộ sách ấy lại chép: “Ca Chỉ Lật Đế,
c̣n gọi là Ca Chân Lân Để Ca, là tên một loài chim tốt
lành. Thân nó có lông mềm mịn, hết sức nhẹ nhàng,
đẹp đẽ, dùng làm áo, hoặc se thành sợi, Chuyển
Luân Thánh Vương mới có thể dùng loại y phục ấy”.
Từ những lời giải thích vừa trích dẫn trên đây,
vậy th́ [Ca Chiên Lsân Đà]
không phải là tên một loài cỏ, mà là tên một loài chim.
Lời kệ của
Luận Chủ viết: “Bảo tánh công đức thảo,
nhu nhuyễn tả hữu toàn, xúc giả sanh thắng lạc,
quá Ca Chiên Lân Đà” (Cỏ báu tánh công đức, mềm
mại trái phải xoay, chạm vào vui thù thắng, hơn
Ca Chiên Lân Đà), nhằm nói đại địa và muôn vật
do các thứ báu hợp thành trong quốc độ An Lạc
được thành tựu bởi công đức nơi bổn
nguyện của Phật Di Đà. Thể tánh của chúng là
vô cấu, thanh tịnh, lại c̣n nhu thuận, chẳng ương
ngạnh, cứng cỏi. Lại như nước
trong cơi ấy có tánh chất có thể lên xuống, có thể
tùy thuận ư muốn của con người; giống như
loại cỏ mềm mại, có thể thuận theo ư của
con người mà xoay sang phía trái hoặc xoay sang phía phải,
chẳng chĩa ngược lên, đâm vào ḷng bàn chân người
ta, khiến cho họ cảm thấy đau khổ. Khi tiếp
xúc loại cỏ ấy, chỉ sanh khởi niềm vui mầu
nhiệm thù thắng. Đấy là nêu ra một loại cỏ
mềm mại để làm đại biểu, nhằm sánh
ví hết thảy các thứ trân bảo trang nghiêm trong cơi ấy
đều khiến cho con người chẳng hứng chịu
các nỗi khổ, chỉ hưởng các niềm vui. Niềm
vui sướng ấy khó thể h́nh dung, [chỉ đành] so
sánh: Lông chim Ca Chiên Lân Đà mềm mại đáng yêu nhất
tại Ấn Độ vào thuở ấy, đem dệt thành vải rồi
may thành y phục quư giá, khi mặc trên thân thể, sẽ đạt
được niềm vui sướng vi diệu, [nhưng
niềm vui sướng do chạm vào các thứ trân bảo trong
Cực Lạc] c̣n vượt xa [cảm giác ấy].
(Chú) Chú giả
ngôn, thử gian thổ, thạch, thảo, mộc, các hữu
định thể, dịch giả hà duyên mục bỉ bảo
vi thảo da? Đương dĩ kỳ lam, nhung, quynh, miểu,
cố dĩ thảo mục chi nhĩ. Dư
nhược tham dịch, đương biệt hữu đồ.
(註)註者言。此間土石草木各有定體。譯者何緣目彼寶為草耶。當以其葻,茸,𦾵,𦳥,故以草目之耳。余若參譯。當別有途。
(Chú: Người
chú giải cho rằng: Đất, đá, cỏ, cây trong cơi
này mỗi thứ đều có h́nh thể nhất định,
v́ duyên cớ nào mà dịch giả lại gọi các chất
báu trong cơi kia là cỏ? Do v́ thấy chúng lả lướt,
mơn mởn, mềm mại xoay chuyển, mịn màng, bèn
gọi chúng là cỏ đó thôi. Nếu tôi tham gia dịch thuật,
th́ sẽ có cách khác).
Trong đoạn văn
này, ngài Đàm Loan nói rơ Ngài có cách nh́n khác đối với lời
dịch. Ngài cho rằng: Trong thế giới này của chúng
ta, mỗi thứ trong muôn vật đều có h́nh thể nhất
định, mỗi thứ khác nhau, chẳng thể biến
đổi được! Vị đại đức phiên
dịch bộ luận này v́ sao lại coi các thứ báu trang
nghiêm trong quốc độ An Lạc giống hệt như
cỏ mềm mại? Hăy nên hiểu đó là [v́ nh́n theo] h́nh
dạng khi cỏ bị gió đùa, điều này gọi là
Lam (葻). Cỏ
có dáng vẻ xoay chuyển về bên trái, hoặc bên phải,
điều này gọi là Quynh (𦾵); cỏ
mọc rất mịn th́ gọi là Miểu (𦳥). Có mấy
loại t́nh h́nh như vậy, cho nên dịch thành “bảo
tánh công đức thảo” (cỏ báu tánh công đức),
[tức là] dùng danh xưng “cỏ” để gọi các
thứ trân bảo. Giả sử Đàm Loan tôi được
tham dự phiên dịch bộ luận này, tôi sẽ đổi
thành lời dịch khác. V́ thế, nói là “đương
biệt hữu đồ” (sẽ có cách khác). Nhưng ngài
Đàm Loan chẳng nói thêm, tôi thử thay Ngài đổi lời
dịch thành bốn câu như sau: “Bảo tánh như thủy
tánh, công đức sở thành tựu. Xúc giả sanh thắng
lạc, quá Ca Chiên Lân Đà” (Chất báu tánh như nước,
do công đức thành tựu. Chạm vào vui thù thắng, hơn
chim Thật Khả
Ái). V́ Địa, Thủy, Hỏa, Phong đều thuộc
về Xúc Trần, lại thuộc vào Ngũ Căn. Căn
và Trần tiếp xúc, sẽ có lạc thọ, khổ thọ,
và xả thọ. Nhưng nước trong thế giới Cực
Lạc là nước tám công đức, chỉ có lạc thọ.
Lại có nghĩa là “tùy thuận thanh tịnh, ly dục,
tịch diệt”, tùy thuận
đạo được hành bởi hàng Bồ Tát và Thanh
Văn. Do vậy, dùng nước tám công đức để
tượng trưng cho các thứ báu trong cơi ấy, sẽ
là thích hợp nhất, không chi hơn được! Chẳng
biết Luận Chủ và ngài Đàm Loan có cho là đúng hay
không?
(Chú) Sanh thắng
lạc giả, xúc Ca Chiên Lân Đà sanh nhiễm trước
lạc. Xúc bỉ nhuyễn bảo, sanh pháp
hỷ lạc. Nhị sự tương huyền, phi thắng
như hà? Thị cố
ngôn “bảo tánh công đức thảo, nhu nhuyễn tả
hữu toàn, xúc giả sanh thắng lạc, quá Ca Chiên Lân Đà”.
(註)生勝樂者。觸迦旃隣陀生染著樂。觸彼軟寶生法喜樂。二事相懸。非勝如何。是故言寶性功德草。柔軟左右旋。觸者生勝樂。過迦旃隣陀。
(Chú: “Sanh niềm
vui thù thắng”: Chạm vào Ca Chiên Lân Đà sẽ sanh ra niềm
vui đắm nhiễm, c̣n chạm vào chất báu mềm mại
trong cơi kia, sẽ sanh ra niềm vui pháp hỷ. So sánh
giữa hai chuyện này, nếu chẳng phải là thù thắng
th́ c̣n là ǵ nữa? V́ thế nói “cỏ công đức tánh báu,
mềm mại xoay trái phải, chạm vào vui thù thắng, hơn
Ca Chiên Lân Đà”).
Đây là ngài Đàm
Loan nói rơ nguyên do chạm vào chất báu sẽ có thể sanh ra
sự vui sướng thù thắng. Giả sử chạm vào quần áo tốt đẹp
nhất trong thế gian này, chúng sẽ chỉ khiến cho
con người sanh khởi ḷng tham đắm, và chấp trước
niềm vui sướng nơi sáu trần là có thật. Đấy
chính là Thân Nhân Duyên khiến cho Tam Độc tham, sân, si sanh
khởi, mà cũng là Tăng Thượng Duyên của sanh tử
luân chuyển. Kết quả vẫn là “lạc cực
sanh bi” (vui quá hóa buồn), thoạt ch́m thoạt nổi trong
tam đồ lục đạo, chịu khổ vô cùng. Nếu
chạm vào các thứ báu mềm mại trong cơi kia, chúng nó có
thể khiến cho người ta sanh khởi niềm vui sướng
pháp hỷ sung măn, liền có thể đạt được
pháp lạc nơi Bồ Đề Giác nơi
Phật quả và niềm vui Niết
Bàn tịch tĩnh. So sánh giữa hai sự kiện ấy, đúng
là khác biệt vời vợi một trời một vực!
Diệu bảo trong Cực Lạc vượt trỗi diệu
y trong thế gian này. Đấy là chuyện thiên kinh địa
nghĩa[4], ai có thể nói chúng
không thù thắng vượt trỗi ư? Do vậy, Luận
Chủ dùng bốn câu “bảo tánh công đức thảo…”
để tán thán.
Theo như kinh Vô
Lượng Thọ có nói: “Vi phong từ động, xuy
chư bảo thụ, diễn xuất vô lượng diệu
pháp âm thanh. Kỳ thanh lưu bố, biến chư Phật
quốc. Văn kỳ âm giả, đắc thâm Pháp Nhẫn,
trụ Bất Thoái Chuyển, chí thành Phật đạo, nhĩ
căn thanh triệt, bất tao khổ hoạn. Mục đổ
kỳ sắc, tỵ tri kỳ hương, khẩu thường
kỳ vị, thân xúc kỳ quang, tâm dĩ pháp duyên, giai đắc
thậm thâm Pháp Nhẫn, trụ Bất Thoái Chuyển. Chí thành
Phật đạo, lục căn thanh triệt, vô chư năo
hoạn. A Nan! Nhược bỉ quốc độ thiên nhân
kiến thử thụ giả (bảo thụ), đắc tam
Pháp Nhẫn, nhất giả Âm Hưởng Nhẫn, nhị
giả Nhu Thuận Nhẫn, tam giả Vô Sanh Pháp Nhẫn. Thử
giai Vô Lượng Thọ Phật oai thần lực cố,
bổn nguyện lực cố, măn túc nguyện cố, minh
liễu nguyện cố, kiên cố nguyện cố, cứu
cánh nguyện cố” (Gió nhẹ thong thả động,
thổi qua các cây báu, vang ra vô lượng âm thanh diệu pháp.
Tiếng ấy lan truyền trọn khắp các cơi Phật.
Người nghe âm thanh ấy, đắc Pháp Nhẫn sâu, trụ
Bất Thoái Chuyển, cho đến khi thành Phật, nhĩ
căn trong sáng, thấu suốt, chẳng gặp các nỗi
khổ sở, hoạn nạn. Mắt thấy h́nh sắc của
cây, mũi ngửi mùi hương,
miệng nếm vị nó, thân chạm ánh sáng của nó, tâm
duyên theo pháp, đều đắc Pháp Nhẫn rất sâu, trụ
Bất Thoái Chuyển. Cho đến khi thành Phật, sáu căn
trong sáng, thấu suốt, không có các phiền năo gây họa. Này
A Nan! Nếu hàng trời người trong cơi ấy trông thấy
cây đó (cây báu), sẽ đắc ba món Pháp Nhẫn: Một
là Âm Hưởng Nhẫn, hai là
Nhu Thuận Nhẫn, ba là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Những điều
này đều là do sức oai thần, sức bổn nguyện,
do nguyện tṛn đủ, do nguyện hiểu rơ, do nguyện
kiên cố, do nguyện rốt ráo của Vô Lượng Thọ
Phật).
Chúng ta đọc đoạn
kinh văn này, sẽ có thể tin sâu lời vị Luận
Chủ nói: Cỏ báu trong quốc độ An Lạc có tánh
chất công đức, chạm vào nó, sẽ sanh khởi niềm
vui thù thắng, chắc chắn là như thế!
2.2.1.2.3.1.1.8. Ba thứ công
đức
2.2.1.2.3.1.1.8.1. Công đức
của nước
(Luận) Bảo hoa thiên vạn chủng, di
phú tŕ lưu tuyền, vi phong động hoa diệp, giao thác
quang loạn chuyển.
(Chú) Thử tứ cú danh “trang nghiêm thủy công
đức thành tựu”. Phật bổn hà cố khởi thử
nguyện? Kiến hữu quốc độ, hoặc vân nịch,
hồng đào, tể mạt kinh nhân, hoặc ngưng tư
giáp điệp, xúc già hoài đại, hướng vô an duyệt
chi t́nh, bối hữu khủng trị chi lự, Bồ Tát kiến
thử, hưng đại bi tâm.
(註)此四句名莊嚴水功德成就。佛本何故起此願。見有國土。或澐溺洪濤。滓沫驚人。或凝凘𠗉𠗨。蹙枷懷𢘋。向無安悅之情。背有恐值之慮。菩薩見此。興大悲心。
(Luận:
Hoa báu ngàn vạn thứ, che rợp ao, suối chảy, gió nhẹ lay cánh hoa,
ánh sáng xen tạp chuyển.
Chú: Bốn câu
này được gọi là “trang nghiêm thủy công đức
thành tựu”. Vốn v́ lẽ nào mà đức Phật dấy
lên nguyện này? Do Ngài thấy có quốc độ, chết
đuối nơi sóng cả trong sông ng̣i, bọt nước
cáu bẩn rợn người, hoặc băng đông thành
khối trôi nổi, thúc bách, chộn rộn, thuận theo
[những t́nh cảnh ấy] sẽ chẳng có tâm t́nh an vui. Tránh né
chúng th́ lo âu sẽ gặp nạn. Bồ Tát trông thấy những
lẽ ấy, bèn dấy ḷng đại bi như thế đó).
Món thứ
tám trong mười bảy món trang nghiêm được gọi
là “tam chủng công đức thành tựu” (ba thứ công đức
thành tựu). Luận Chủ nêu ra ba thứ, tức là ao
nước, đất liền, và hư không. Bài Tụng này chính
là [nói đến] thủy
công đức. V́ sao Phật Di Đà phải có sự
trang nghiêm bằng nước tám công đức? Ấy là v́
Ngài thấy có những quốc độ, chẳng hạn
như quả địa cầu này của chúng ta, nước
trong sông ng̣i, biển
cả, sóng ṃi cuồn
cuộn, mười phần đáng sợ! Chữ “澐” đọc
là Vân (雲), “vân nịch”
(澐溺) là chết
đuối trong sóng cả nơi sông ng̣i. “Hồng đào”
(洪濤, sóng cả):
Hoặc là vùi thân nơi sóng cả nơi biển khơi. V́
thế nói là “vân nịch hồng đào, tể mạt
kinh nhân” (chết đuối bởi sóng cả trong sông ng̣i, biển
khơi, bọt nước cáu bẩn rợn người).
Chữ “滓” đọc
là Tể (宰), tức
là những vật ch́m lắng trong nước bẩn. Chữ
“沫” đọc
là Mạt (末), tức
là bọt nước. Chữ “凝” đọc là
Ngưng, chữ “凘” đọc
là Tư (司). Ngưng Tư
(凝凘) là băng
trôi. Chữ “𠗉” đọc
là Giáp (甲), chữ
“𠗨” đọc
là Điệp (牒), “giáp
điệp” (𠗉𠗨) là băng
đông thành từng khối. Những khối băng trôi
ngang, va đụng nhau, sẽ gây ra tai nạn. V́ thế nói
là “ngưng tư giáp điệp”.
“Xúc già hoài đại”
(蹙枷懷𢘋): Chữ “蹙” đọc
là Xúc (促), chữ “𢘋” đọc
là Đại (代), chính là
nỗi sợ hăi thất thường. Mắt thấy nước
như thế; quư vị mong thân cận nó (lời chú giải
dùng chữ “hướng” (向) để diễn
tả ư “thân cận”), ắt sẽ chẳng có tâm t́nh an ổn
vui sướng (安悅, an duyệt).
Quư vị muốn tránh né nó (背, bối)
th́ cũng sẽ ôm nỗi lo sầu, sợ hăi vạn nhất
sẽ gặp phải nó! Sóng cả, băng trôi đem lại
tai hại cho nhân loại, cổ nhân h́nh dung là “hồng thủy
mănh thú” (nước lụt như thú dữ), “vũ trụ
hồng hoang”, “thập thất cửu không” (mười
nhà chín căn trống rỗng), “khuynh gia đăng sản”
(tan cửa nát nhà). Phàm là bậc Bồ Tát đă phát Bồ
Đề tâm trông thấy, tất nhiên sẽ sanh khởi tâm
đại bi, muốn khiến cho nước có lợi, vô
hại, khiến cho chúng sanh ĺa khổ được vui.
(Chú) Nguyện
ngă thành Phật, sở hữu lưu tuyền, tŕ, chiểu,
dữ cung điện tương xứng (sự xuất
kinh trung), chủng chủng bảo hoa bố vi thủy sức. Vi phong từ
phiến, ánh phát hữu tự, khai thần duyệt thể,
vô nhất bất khả. Thị cố ngôn “bảo hoa thiên
vạn chủng, di phú tŕ lưu tuyền, vi phong động
hoa diệp, giao thác quang loạn chuyển”.
(註)願我成佛。所有流泉。池沼。與宮殿相稱(事出經中)。種種寶華布為水飾。微風徐扇。映發有序。開神悅體。無一不可。是故言寶華千萬種。彌覆池流泉。微風動華葉。交錯光亂轉。
(Chú:
Nguyện tôi thành Phật, tất cả các gịng suối, ao,
chuôm, đều tương xứng với cung điện
(chuyện này xuất phát từ kinh điển), các thứ
hoa báu trang hoàng khắp mặt nước. Gió nhẹ thong
thả thổi, tỏa sáng theo thứ tự, thoải mái tâm
thần, vui sướng thân thể, không ǵ chẳng thể!
V́ thế nói “hoa báu ngàn muôn thứ, che rợp ao, suối chảy,
gió nhẹ lay cánh hoa, ánh sáng xen tạp chuyển”).
Trong lúc tu nhân, Phật
Di Đà trông thấy t́nh huống như đă nói trên đây,
cho nên Ngài phát nguyện: Khi Ngài thành Phật, trong quốc
độ, tất cả suối chảy, ao nước, hoặc
là hồ, đầm, đều tương xứng với
cung điện, lầu, đài trên mặt đất, có sự
phối hợp thích đáng, chẳng sâu, chẳng cạn,
chẳng lớn, chẳng bé, có thể xứng hợp nhu cầu
của con người. Câu “sự xuất kinh trung” là
nói sự tướng ấy phát xuất từ những điều
được nói trong kinh Vô Lượng Thọ: “Kỳ
giảng đường, tinh xá, cung điện, lâu quán… nội
ngoại tả hữu, hữu chư dục tŕ… bát công
đức thủy, trạm nhiên doanh măn. Hoàng kim tŕ giả,
để bạch ngân sa, năi chí thất bảo, chuyển cộng
hợp thành. Tứ sắc liên hoa, di phú thủy thượng”
(Trong, ngoài, trái, phải của giảng đường, tinh
xá, cung điện, lầu, đền, có các ao tắm… Nước
tám công đức lắng trong, đầy ắp. Ao bằng
vàng ṛng, đáy [trải] cát bằng bạc trắng, cho đến
bảy báu lần lượt ghép thành. Hoa sen bốn màu che rợp
mặt nước).
“Chủng chủng
bảo hoa, bố vi thủy sức” (Các thứ hoa báu
trang hoàng trọn khắp mặt nước): Ư nói phía trên mặt
nước, đều có hoa sen bảy báu trọn khắp,
trở thành vật trang hoàng cho nước.
“Vi phong từ phiến”
(Gió nhẹ thong thả thổi) tức là như kinh Vô Lượng
Thọ đă nói: “Thanh phong thời phát, xuất ngũ âm
thanh, vi diệu cung thương, tự nhiên tương ḥa,
vi phong từ động xuy chư bảo thụ”
(Gió mát đúng thời nổi lên, vang ra tiếng ngũ âm, réo
rắt vi diệu, tự nhiên hài ḥa. Gió nhẹ thong thả động,
thổi qua các cây báu). “Phiến” (扇) có nghĩa là
lay động.
“Ánh phát hữu tự”
tức là màu sắc của các thứ báu trên, dưới,
trong, ngoài ao rất có thứ tự, chiếu sáng ngời trong
nước. Gió nhẹ thổi qua, phát ra tiếng ngũ âm,
đôi bên tự nhiên hài ḥa. Những màu sắc, quang minh, và âm
thanh ấy đều chẳng tạp loạn.
“Khai thần duyệt
thể”: Phàm những ai thấy nghe, tiếp xúc với nước
ấy, đều được thân tâm an lạc. “Vô nhất
bất khả” nghĩa là nước trong cơi ấy chẳng
có mảy may khuyết điểm, luôn phù hợp với nhu
cầu và sự yêu thích của con người, giúp họ
tu hành, thực hiện đạo, đều được
thành Phật. Trong quốc độ An Lạc, có các ao nước
vi diệu như thế đó, cho nên Luận Chủ bèn viết
kệ rằng: “Bảo hoa thiên vạn chủng, di phú
tŕ lưu tuyền, vi phong động hoa diệp, giao thác quang
loạn chuyển” (Hoa báu ngàn muôn thứ, phủ
rợp ao và suối, gió nhẹ lay cánh hoa, ánh sáng xen tạp
chuyển).
2.2.1.2.3.1.1.8.2. Công đức
nơi đất
(Luận) Cung điện, chư lâu các, quán thập
phương vô ngại, tạp thụ dị quang sắc, bảo
lan biến vi nhiễu.
(Chú)Thử tứ cú danh “trang nghiêm địa
công đức thành tựu”, Phật bổn hà cố khởi
thử trang nghiêm? Kiến hữu quốc độ, tiêu
nghiêu tuấn lănh, khô mộc hoành sầm, trách ngạch h́nh lân,
sao mao
doanh hác, mang mang thương hải, vi tuyệt mục chi
xuyên, lam lam quảng trạch, vi vô tung chi sở, Bồ Tát kiến
thử, hưng đại bi nguyện.
(註)此四句名莊嚴地功德成就。佛本何故起此莊嚴。見有國土。嶕嶢峻嶺。枯木橫岑。岝峉𡷨嶙。莦茅盈壑。茫茫滄海。為絕目之川。葻葻廣澤。為無蹤之所。菩薩見此。興大悲願。
(Luận:
Cung, điện, các lầu gác, quán mười phương
vô ngại, mỗi cây quang sắc khác, lan can báu vây khắp.
Chú: Bốn
câu này được gọi là “trang nghiêm địa công
đức thành tựu”. Vốn v́ lẽ nào mà đức
Phật dấy lên sự trang nghiêm này? Do Ngài thấy có
quốc độ núi cao chót vót hiểm trở, cây khô vắt
ngang đỉnh núi, hang sâu hun hút, vách đá cheo leo, cỏ dại
rối bời mọc đầy hang hốc, biển xanh mênh
mông, sông rộng trọn chẳng thấy bến bờ, đầm
rộng um tùm là nơi không dấu vết. Bồ Tát thấy
những điều ấy, bèn dấy
lên nguyện đại bi).
Trước hết,
nêu ra nguyên nhân v́ sao mặt đất cơi ấy phải có các
thứ trang nghiêm? Chính là do khi Phật Di Đà c̣n đang hành
Bồ Tát đạo, trông thấy có những quốc độ
rất chẳng lư tưởng. Chẳng hạn như cơi này:
Chữ “嶕” đọc
là Tiêu (焦), chữ
“嶢” đọc
là Nghiêu (堯). “Tiêu nghiêu” (嶕嶢) là dáng núi cao. Chữ 峻đọc là Tuấn (俊).“Tuấn
lănh” (峻嶺) là dáng núi cao chót vót. “Trách ngạch” (岝峉) là dáng
vẻ núi hiểm trở. Chữ
“𡷨” đọc
là H́nh (陘), chữ
“嶙” đọc
là Lân (隣). “H́nh
lân” (𡷨嶙) là dáng
vẻ hang sâu, vách đá cheo leo. Không chỉ là non cao, hang thẳm,
vách đá cheo leo hiểm trở, trên núi khắp nơi lại
có những cội cây chết khô. V́ thế, nói là “tiêu nghiêu
tuấn lănh, khô mộc hoành sầm, trách ngạch h́nh lân” (non cao
chót vót, cây khô vắt ngang đỉnh núi, hang sâu hun hút, vách núi
cheo leo). Quốc độ thuộc loại này khắp nơi
là gai góc, ngoắt ngoéo, hoang vu. V́ thế nói là “sao mao doanh hác” (莦茅盈壑, cỏ dại
rối bời mọc đầy hang hốc). Lại c̣n có biển
xanh mênh mông
dơi mắt nh́n mà chẳng thấy
bờ, nước lẫn trời tiếp giáp nhau, được
gọi là “tuyệt mục chi xuyên” (sông rộng nh́n chẳng
thấu). Lại có hồ đầm bát ngát, muôn ngàn sóng ṃi,
chẳng có bến bờ, như hồ Động Đ́nh
của Trung Hoa chẳng hạn. Những loại biển, hồ
ấy vào một, hai ngàn năm trước, chỉ có rất
ít thuyền bè có thể qua lại được! Ngoài ra,
chẳng thấy có dấu vết của con người. V́
thế nói “vi vô tung chi sở” (là nơi không có vết chân người). Pháp Tạng
Bồ Tát trông thấy những t́nh h́nh ấy, cho nên Ngài duyên
khởi tâm đại bi, phát ra bốn mươi tám nguyện,
nương theo nguyện mà tu các công đức, trải qua
vô lượng kiếp, trang nghiêm quốc độ khi Ngài
thành Phật, sẽ có quả báo thanh tịnh trang nghiêm. Nhân
quả vốn là như thế đó!
(Chú) Nguyện
ngă quốc độ, địa b́nh như chưởng,
cung, điện, lâu, các, kính
nạp thập phương, đích vô sở thuộc, diệc
phi bất thuộc, bảo thụ, bảo lan, hỗ vi ánh
sức. Thị cố ngôn “cung điện chư lâu các, quán
thập phương vô ngại, tạp thụ dị quang sắc,
bảo lan biến vi nhiễu”.
(註)願我國土。地平如掌。宮殿樓閣。鏡納十方。的無所屬。亦非不屬。寶樹。寶欄。互為映飾。是故言宮殿諸樓閣。觀十方無礙。雜樹異光色。寶欄遍圍繞。
(Chú:
Nguyện cơi nước của tôi đất phẳng như
ḷng bàn tay, cung, điện, lầu, gác dung nạp mười
phương như h́nh bóng hiện trong gương, đích
xác là chẳng thuộc [vào tam giới] mà cũng chẳng phải
là không thuộc [v́ là do công đức thành tựu]. Cây báu,
lan can báu chiếu rạng ngời, tô điểm lẫn
nhau. V́ thế nói, “cung, điện, các lầu gác, quán mười
phương vô ngại, mỗi cây quang sắc khác, lan can báu
vây khắp”).
Tiếp đó [ngài Đàm Loan] bèn thuyết
minh quốc độ được thành tựu bởi sự
phát nguyện của Pháp Tạng Bồ Tát, tức là thế
giới Cực Lạc ở phương Tây trong hiện tại,
đích xác là đất bằng phẳng
như ḷng bàn tay. Nếu hỏi: Ḷng bàn tay con người há
bằng phẳng ư? Đấy là nh́n vào bàn tay của quư vị, chứ
nếu đức Phật tự nh́n vào ḷng bàn tay của chính
Ngài, [sẽ thấy] thật sự giống như một
tấm gương phẳng phiu. Đấy chính là một
trong ba mươi hai tướng đại nhân. Hết thảy
các kiến trúc trên mặt đất trong cơi ấy, hoặc
lớn, hoặc nhỏ, hoặc cung điện, hoặc
lầu gác, đều
chẳng chướng ngại lẫn nhau. Lại c̣n giống
như gương sáng, mười phương thế giới
đều dung nạp vào trong tường vách hoặc cột
trụ của nhà cửa, chỗ nào cũng đều có thể
trông thấy mười
phương vô lượng thế giới. Điều này thật
sự quá hy hữu, lạ lùng, vi diệu.
Như kinh Vô Lượng
Thọ đă nói: “Kỳ giảng đường, tinh xá,
cung, điện, lâu, quán, giai thất bảo trang nghiêm, tự
nhiên hóa thành. Phong xuy tán hoa, biến măn Phật độ, tùy
sắc thứ đệ, nhi bất tạp loạn, nhu nhuyễn,
quang trạch, hinh hương phân liệt. Túc lư kỳ thượng,
đạo hạ tứ thốn. Tùy cử túc dĩ, hoàn phục
như cố. Hoa dụng dĩ ngật, địa triếp
khai liệt, dĩ thứ hóa một, thanh tịnh vô di. Tùy kỳ
thời tiết, phong xuy tán hoa, như thị lục phản.
Hựu chúng bảo liên hoa, châu măn thế giới. Kỳ hoa
quang minh, vô lượng chủng sắc, minh diệu nhật
nguyệt. Nhất nhất hoa trung, xuất vô lượng quang.
Nhất nhất quang trung, xuất vô lượng Phật”
(Giảng đường, tinh xá, cung, điện, lầu, đền,
đều trang nghiêm bằng bảy báu, tự nhiên hóa thành.
Gió thổi rải hoa đầy khắp cơi Phật, theo thứ
tự từng màu [riêng biệt], chẳng tạp loạn.
Hoa mềm mại, tươi sáng, thơm ngát ngào ngạt.
Chân đạp lên đó, lún xuống bốn tấc; hễ
nhấc chân lên, [thảm
hoa] trở lại như cũ. Hoa đă dùng xong, đất
liền nứt ra, hoa theo thứ tự biến mất, thanh
tịnh, chẳng c̣n sót ǵ! Tùy theo thời tiết, gió thổi
rải hoa, sáu lượt như thế. Lại có các hoa sen
báu trọn khắp thế giới. Hoa ấy sáng ngời, vô
lượng thứ màu sắc,
chói ngời mặt trời, mặt trăng. Trong mỗi đóa
hoa, tỏa ra vô lượng ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng, xuất
hiện vô lượng Phật).
Đấy chẳng
phải là chuyện ngàn lẻ một đêm, mà là do bổn
nguyện của Phật Di Đà thành tựu như thế.
Như nguyện thứ ba mươi mốt trong bốn mươi
tám nguyện [đă
nói]: “Thiết ngă đắc Phật, quốc độ
thanh tịnh, giai tất chiếu kiến thập
phương bất khả tư nghị chư Phật thế
giới, do như minh kính, đổ kỳ diện tượng”
(Nếu tôi thành Phật, cơi nước thanh tịnh, thảy
đều soi thấy mười phương chẳng thể
nghĩ bàn các thế giới chư Phật, ví như gương
sáng, trông thấy vẻ mặt). Nguyện thứ ba mươi
hai là: “Thiết ngă đắc Phật, tự địa
dĩ thượng, chí ư hư không, cung, điện, lâu, quán, tŕ
lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất
thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng thập bảo
nhi cộng hợp thành, nghiêm sức kỳ diệu, siêu chư
thiên nhân” (Nếu tôi thành Phật, từ mặt đất trở
lên cho đến hư không, cung, điện, lầu, đền,
tất cả hết thảy muôn vật trong cơi nước
đều do vô lượng thứ báu cùng hợp thành, trang
hoàng đẹp đẽ, kỳ diệu, vượt trỗi
trời người). Bổn nguyện của Phật Di Đà
là nhân, hết thảy sự trang nghiêm trong quốc độ
An Lạc là quả. Có cái nhân như thế th́ mới có cái
quả như thế, hăy nên tin sâu, đừng nghi!
“Cung, điện,
lâu, các, kính nạp thập phương, đích vô sở thuộc,
diệc phi bất thuộc” (Cung, điện, lầu, gác
như gương dung nạp mười
phương, đích xác là chẳng thuộc [vào tam giới],
mà cũng chẳng phải là không thuộc): Điều này
giống như trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử
tham học năm mươi ba lần xong, vào trong lâu các của
ngài Di Lặc, bất cứ chỗ nào trong lâu các cũng đều giống
hệt như thế, đều có thể thấy mười
phương thế giới rơ ràng như nh́n vẻ mặt.
Lâu các của ngài Di Lặc ở trong thế giới Sa Bà,
thuộc vào trong tam giới, mà c̣n như
thế, huống chi An Lạc Tịnh Độ được
thành tựu bởi công đức của A Di Đà Phật ư? Đương
nhiên là có thể từ cung điện, lầu gác, mà thấy
mười phương vô ngại! Chuyện này chẳng
thuộc vào tam giới, mà thuộc về phương diện
thành tựu bởi công đức. Do vậy nói: “Diệc
phi bất thuộc” (Cũng chẳng phải là không thuộc).
Kệ Tụng ghi “tạp
thụ dị quang sắc, bảo lan biến thập
phương” (các loài cây khác nhau có
quang minh và màu sắc khác nhau, lan can báu trọn khắp mười
phương), tức là nói bốn phía của cung điện, nhà cửa
trong cơi ấy đều có cây cối do các thứ báu hợp
thành, quang minh và màu sắc của mỗi thứ báu khác nhau.
V́ thế nói là “dị quang sắc” (quang minh và màu sắc
khác nhau). Không chỉ là có cây báu, mà c̣n có lan can bảy báu tầng
tầng vây quanh nhà cửa. Những thứ cây báu và lan can báu
ấy trang hoàng lẫn nhau, chói ngời tô điểm lẫn
nhau, như kinh Di Đà có nói: “Thất trùng lan thuẫn, thất
trùng hàng thụ” (Bảy tầng lan can, bảy tầng hàng
cây), trông hết sức trang nghiêm! Giả sử có một căn
nhà rất đẹp đẽ, trang nghiêm, nhưng bốn
phía chung quanh toàn là một vùng hoang vu bát ngát, rỗng tuếch,
sẽ chẳng đẹp mắt, giống như những
căn biệt thự cao cấp trong hiện thời, đều
cần phải có sân vườn, hoa cỏ, cây cối, hồ
nước, núi giả, cho đến các thiết bị như
hồ bơi có tường bao quanh v.v… th́ mới có thể
được gọi là trang nghiêm đẹp mắt.
2.2.1.2.3.1.1.8.3. Công đức
nơi hư không
(Luận) Vô lượng bảo giao lạc, la
vơng biến hư không, chủng chủng linh phát hưởng,
tuyên thổ diệu pháp âm.
(Chú) Thử tứ cú danh “trang nghiêm hư không
công đức thành tựu”, Phật bổn hà cố khởi
thử trang nghiêm? Kiến hữu quốc độ, yên vân
trần vụ, tế chướng thái hư, chấn liệt
sâm hoắc,
tùng thượng nhi đọa, bất tường tài nghê,
mỗi tự không lai, ưu lự bách đoan, vi chi mao
thụ.
(註)此四句名莊嚴虛空功德成就。佛本何故起此莊嚴。見有國土。煙雲塵霧。蔽障太虛。震烈𩅨霍。從上而墮。不祥烖霓。每自空來。憂慮百端。為之毛竪。
(Luận:
Vô lượng báu giăng xen, lưới mành khắp hư
không, các thứ linh vang tiếng, tuyên nói diệu pháp âm.
Chú: Bốn
câu này được gọi là “trang nghiêm hư không công đức
thành tựu”. Vốn
v́ lẽ nào mà đức Phật dấy lên sự trang
nghiêm này? Do Ngài thấy có quốc độ, khói, mây, bụi,
sương mù che lấp thái hư, sấm rền, giông tuôn,
từ trên cao đổ xuống. Điềm gở, cầu
vồng thường xuất hiện trên hư không, âu lo trăm
mối, rởn cả lông tóc).
Pháp Tạng Bồ
Tát thấy có những quốc độ, trên hư không thường
có khói, mây, bụi bặm, sương mù, khiến cho diện
mục vốn sẵn thanh tịnh của thái hư bị
che phủ chẳng hiện, ngăn lấp quang minh của
mặt trời, mặt trăng, khiến cho nhân gian chẳng
thấy mặt trời. Lại c̣n có sấm to vang rền. “Sâm hoắc” (𩅨霍) là mưa
to từ trên không trung giáng xuống. “Tài” (烖): Lửa
trời chẳng cát tường th́ gọi là Tài. Cầu vồng
giống như chiếc cung cong cong, lại thường xuất
hiện trên hư không. Do vậy khiến cho người
trong cơi đời nẩy sanh đủ mọi nỗi ưu
sầu, lo nghĩ, chỉ sợ tai họa giáng xuống, thường
bị [những hiện tượng ấy] dọa dẫm
đến nỗi rởn da gà, nằm
ngồi chẳng yên!
(Chú) Bồ Tát kiến
thử, hưng đại bi tâm.
(註)菩薩見此。興大悲心。
(Chú:
Bồ Tát thấy những điều ấy bèn dấy ḷng
đại bi).
Đấy chính là Thân
Nhân Duyên khiến cho Pháp Tạng Bồ Tát trang nghiêm Tịnh
Độ. Đó chính là v́ chẳng nỡ thấy chúng sanh chịu
khổ mà duyên khởi tâm đại bi.
(Chú) Nguyện
ngă quốc độ, bảo vơng giao lạc, la biến hư
không, linh đạc cung thương, minh tuyên đạo pháp,
thị chi vô yếm, hoài đạo kiến đức.
(註)願我國土。寶網交絡。羅遍虛空。鈴鐸宮商。鳴宣道法。視之無厭。懷道見德。
(Chú: Nguyện
cho quốc độ của tôi lưới báu giăng xen,
mành phủ khắp hư không, chuông, linh réo rắt, ngân nga tuyên dương đạo
pháp, nh́n không biết chán, nhớ đạo thấy đức).
Do vậy,
Ngài phát nguyện
tu các công đức để trang nghiêm thành tựu hư
không trong quốc độ khi Ngài thành Phật. Như kinh Vô Lượng Thọ có nói: “Trân
diệu bảo vơng, la phú kỳ thượng (hư không),
nhất thiết trang nghiêm, tùy ứng nhi hiện” (Lưới
báu quư đẹp giăng phủ bên trên (hư không), hết
thảy các món trang nghiêm ứng hiện theo ḷng mong). “Phục
dĩ chân châu, minh nguyệt, ma-ni chúng bảo, dĩ vi giao lạc,
la phú kỳ thượng” (Lại dùng các thứ báu như
chân châu, minh nguyệt, ma-ni để giăng xen, che phủ
bên trên), “vô lượng bảo vơng, di phú Phật độ,
giai dĩ kim lũ, chân châu, bách thiên tạp bảo, kỳ
diệu trân dị, trang nghiêm hiệu sức, châu táp tứ
diện, thùy dĩ bảo linh… Tự nhiên đức phong…
xuy chư la vơng, diễn phát vô lượng vi diệu pháp âm,
lưu bố vạn chủng ôn nhă đức hương.
Kỳ hữu văn giả, trần lao cấu tập, tự
nhiên bất khởi. Phong xúc kỳ thân, giai đắc khoái
lạc, thí như tỳ-kheo đắc Diệt Tận tam-muội”
(vô lượng lưới báu phủ kín cơi Phật, đều
dùng sợi vàng để xâu chân châu, hoặc trăm ngàn thứ
báu khác nhau, kỳ diệu, quư lạ để trang hoàng, tô điểm.
Trọn khắp bốn mặt, treo rủ các linh báu… Gió đức
tự nhiên… lùa qua các lưới mành, phát ra vô lượng pháp
âm vi diệu, lan tỏa muôn thứ đức hương dịu
dàng, thanh nhă. Những người ngửi thấy th́ những
tập khí trần lao phiền năo tự nhiên chẳng dấy
lên. Gió chạm vào thân đều được vui sướng,
ví như tỳ-kheo đắc Diệt Tận tam-muội). Đấy
là những thứ được thành tựu bởi công đức
từ bổn nguyện thứ hai mươi bảy, ba mươi
hai, và bốn mươi sáu của Phật Di Đà.
Linh (鈴) có h́nh
tṛn dài, c̣n đạc (鐸) có h́nh
vuông và dẹt. Trong hư không, có các lưới mành bằng
các thứ báu giăng xen, trên lưới có treo
hay móc linh, đạc. Gió thổi động các
linh, đạc, tự nhiên phát ngũ âm, tức Cung, Thương,
Giốc, Chủy, Vũ. [Danh xưng của] năm
âm ấy phát xuất từ kinh Thi của Trung Hoa, là âm thanh đẹp
đẽ nhất trong nhân gian. Các âm thanh đẹp đẽ
ấy đều tuyên dương diệu pháp chánh đạo
Vô Thượng Bồ Đề. Trong cơi ấy, chỗ nào
cũng đều có thể nghe pháp âm, chẳng như cơi này, không dễ
ǵ nghe pháp!
Lại c̣n có những
thứ đức hương tự nhiên lan tỏa chẳng
ngớt. Gió đức tự nhiên thổi qua thân người,
cho nên khiến cho chúng sanh trong cơi ấy nh́n chẳng chán, chẳng
bị bất cứ lo sầu, sợ hăi ǵ! Hoặc là ngửi
hương, hay được gió lùa qua thân, hoặc là nghe Phật
pháp, đều có thể sanh tâm nhớ đạo, tăng
tấn đức, mà cũng có thể đạt được
sự an lạc tịch tĩnh giống như đắc Diệt
Thọ Tưởng Định. Do v́ như vậy, cơi Phật
ấy được gọi là Cực Lạc.
(Chú) Thị cố
ngôn: “Vô lượng bảo giao lạc, la vơng biến hư
không, chủng chủng linh phát hưởng, tuyên thổ diệu
pháp âm”.
(註)是故言無量寶交絡。羅網遍虛空。種種鈴發響。宣吐妙法音。
(Chú:
V́ thế nói “vô lượng báu giăng xen, lưới mành
khắp hư không, các thứ linh vang tiếng, tuyên nói diệu
pháp âm”).
Đây là ngài Đàm
Loan nhắc lại lời kệ của vị Luận Chủ
một lần nữa để làm kết luận cho phần
hư không trang nghiêm.
2.2.1.2.3.1.1.9. Vũ công đức
(Luận) Vũ hoa y trang nghiêm, vô lượng
hương phổ huân.
(Chú) Thử nhị cú danh “trang nghiêm vũ công
đức thành tựu”, Phật bổn hà cố hưng thử
trang nghiêm? Kiến hữu quốc độ, dục dĩ
phục sức bố địa diên thỉnh sở tôn, hoặc
dục dĩ hương, hoa, danh bảo, dụng biểu cung
kính, nhi nghiệp bần cảm bạc, thị sự bất
quả! Thị cố
hưng đại bi nguyện.
(論)雨華衣莊嚴。無量香普薰。
(註)此二句名莊嚴雨功德成就。佛本何故興此莊嚴。見有國土。欲以服飾布地。延請所尊。或欲以香華名寶用表恭敬。而業貧感薄。是事不果。是故興大悲願。
(Luận:
Mưa áo, hoa trang
nghiêm, vô lượng hương xông khắp.
Chú: Hai câu này được
gọi là “trang nghiêm vũ công đức thành tựu”. Vốn
v́ lẽ nào mà đức Phật dấy khởi sự trang
nghiêm này? Do Ngài thấy có quốc độ, [chúng sanh trong ấy]
muốn dùng những thứ y phục để trải đất
ḥng thỉnh vời người họ tôn quư, hoặc nuốn
dùng hoa, hương, các thứ quư báu để tỏ ḷng cung
kính, nhưng do nghiệp nghèo, phước bạc, chuyện
ấy chẳng được thỏa nguyện. V́ thế,
dấy lên nguyện đại bi).
Nên hiểu
chữ Vũ (雨, mưa)
như động từ, có ư nghĩa “từ trên trời
rơi xuống”. Phật Di Đà lúc tu nhân, trông thấy
có những chúng sanh trong các quốc độ muốn dùng những
tấm vải dài choáng lộn, Ấn Độ gọi [những
thứ vải ấy] là “y phục”, trải
trên mặt đất, giống như trải thảm trong
hiện thời. Đấy là phong tục của xứ Ấn.
Dùng y trải đất để trang hoàng, ḥng
nghênh thỉnh Tam Bảo, hoặc quốc vương, sư
trưởng, cha mẹ, hoặc mong cầm hương, hoa,
trân bảo quư báu để tỏ lộ ḷng cung kính cúng
dường Tam Bảo. Thế nhưng tấm thân nghèo khổ,
chẳng có phước báo, có ḷng mà thiếu sức, chẳng
thể như nguyện, chẳng có hoa, y, trân bảo, thường
cảm thấy áo năo, nhụt chí, buồn than! Do vậy, Pháp
Tạng Bồ Tát chẳng nỡ thấy chúng sanh có nỗi
thống khổ như
thế ấy, bèn phát khởi tâm nguyện đại
bi dẹp khổ cho chúng sanh, muốn ban vui sướng cho chúng
sanh.
(Chú) Nguyện
ngă quốc độ, thường vũ thử vật, măn
chúng sanh ư, hà cố dĩ vũ vi ngôn? Khủng thủ trước
vân, nhược thường vũ hoa y, diệc ưng điền
tắc hư không, hà duyên bất phương? Thị cố
dĩ vũ vi dụ. Vũ thích thời, tắc vô hồng
thao chi hoạn, An Lạc báo khởi hữu lụy t́nh chi vật
hồ?
(註)願我國土。常雨此物。滿眾生意。何故以雨為言。恐取著云。若常雨華衣。亦應填塞虛空。何緣不妨。是故以雨為喻。雨適時則無洪滔之患。安樂報豈有累情之物乎。
(Chú: Nguyện
cơi nước của tôi thường mưa xuống những
vật ấy thỏa ư chúng sanh. V́ sao dùng “mưa” để
nói [về chuyện ấy]? Sợ có kẻ chấp trước,
nói rằng: Nếu thường mưa hoa, y, th́ phải đầy
nghẹt hư không, vậy do duyên ǵ mà chẳng ngại [thường
mưa như vậy]? Cho nên dùng mưa làm thí dụ. Mưa đúng
thời, ắt không lo bị tràn ngập, quả báo nơi
cơi An Lạc há có những thứ gây phiền lụy ư?)
Pháp Tạng Bồ
Tát phát nguyện, nguyện khi Ngài thành Phật th́ quốc
độ thường xuyên có những thứ hoa báu, y báu, và những
thứ trân bảo khác từ không trung rơi xuống, thỏa
măn tâm ư mong cầu của chúng sanh. Ngài Đàm Loan hỏi: “V́
sao phải gọi là “vũ” (mưa)?” Ngài giải thích
chữ Vũ như là một danh từ dùng làm thí dụ. Do
sợ chúng sanh có kẻ chấp trước, cho nên gọi
là Vũ. Như trong thế gian, hư
không tuôn mưa, tuy rất nhiều, nhưng hư không chẳng
bị đặc nghẹt, cũng chẳng cần phải
chấp trước! Những thứ mưa xuống chính là
những ǵ tôi có, tôi tuôn xuống để ban cho chúng sanh. Dùng
t́nh h́nh ấy để sánh ví ḷng đại từ bi của
Phật, Bồ Tát dẹp khổ, ban vui cho chúng sanh, đều
là “tam luân thể không”, chẳng chấp trước,
chẳng chướng ngại, giống như mưa đúng
thời, rất phù hợp, chẳng nhiều, chẳng ít. Thường
xuyên tuôn xuống, nhưng đại địa chẳng bị thủy
tai. Lại nói, y báo của chúng sanh trong quốc độ An
Lạc (Địa, Thủy, Hỏa, Phong), quyết định
chẳng hề gây liên lụy, làm hại vật phẩm của
chúng sanh. Như kinh A Di Đà đă nói: “Kỳ quốc chúng
sanh, vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc”
(Chúng sanh trong cơi ấy chẳng có các nỗi khổ, chỉ
hưởng các niềm vui). V́ thế nói: “An Lạc báo khởi
hữu lụy t́nh chi vật hồ?” (Há quả báo trong cơi
An Lạc có những vật gây phiền lụy ư?)
(Chú) Kinh ngôn: Nhật
dạ lục thời, vũ bảo y, vũ bảo hoa, bảo
chất nhu nhuyễn, lư tiễn kỳ thượng, tắc
hạ tứ thốn, tùy cử túc thời, hoàn phục như
cố. Dụng ngật, nhập bảo địa như thủy
nhập khảm. Thị cố ngôn “vũ hoa y trang nghiêm, vô
lượng hương phổ huân”.
(註)經言。日夜六時。雨寶衣。雨寶華。寶質柔軟。履踐其上則下四寸。隨舉足時。還復如故。用訖。入寶地。如水入坎。是故言雨華衣莊嚴。無量香普薰。
(Chú: Kinh nói: “Ngày
đêm sáu thời, mưa y báu, mưa hoa báu. Chất báu mềm
mại, chân đạp lên sẽ lún xuống bốn tấc.
Khi giở chân lên, trở lại như cũ. Dùng xong, [hoa và
các chất báu] sẽ lọt vào trong đất báu, như nước
rút xuống hầm”. V́ thế nói: “Mưa hoa, y
trang nghiêm, vô lượng hương xông khắp”).
Trong đoạn văn
này, ngài Đàm Loan đă dẫn những điều kinh Vô Lượng
Thọ đă nói để chứng minh và kết luận. Lời
văn gần gũi, dễ hiểu, chẳng cần phải
nói nhiều. Kinh ấy c̣n nói: “Phật cáo A Nan: - Vô
Lượng Thọ quốc, kỳ chư thiên nhân, y phục,
ẩm thực, hoa, hương, anh lạc, cung điện,
lâu, các, năi chí vô lượng chúng bảo, tùy ư sở dục,
ứng niệm tức chí” (Đức
Phật bảo ngài A Nan: - Các hàng trời người trong cơi
Vô Lượng Thọ, đối với y phục, thức
ăn, hoa, hương, anh lạc, cung điện, lầu,
gác, cho đến vô lượng các thứ báu, thuận theo
ḷng muốn, vừa
nghĩ tới
liền có). “Hựu phong xuy tán hoa, biến măn Phật độ,
nhu nhuyễn quang trạch, hinh hương phân liệt… Dĩ
thứ hóa một, thanh tịnh vô di, tùy kỳ thời tiết,
như thị lục phản” (Lại nữa, gió thổi
rải hoa trọn khắp cơi Phật, mềm mại, tươi
sáng, thơm tho ngào ngạt… Theo thứ tự biến mất,
thanh tịnh, chẳng c̣n sót ǵ, tùy theo thời tiết mà [gió
thổi rải hoa] như thế sáu lượt). V́ thế,
Luận Chủ viết kệ rằng: “Vũ hoa y trang
nghiêm, vô lượng hương phổ huân” (Mưa hoa, áo
trang nghiêm, vô lượng hương xông khắp). Đấy
là điều thành tựu bởi công đức của các
lời nguyện thứ hai mươi bốn, ba mươi
hai, và ba mươi tám trong Di Đà
bổn nguyện. Có người cho rằng
trong bản dịch đời Ngụy của kinh này, trong
phần bốn mươi tám nguyện, không có lời nguyện
“y thực tự nhiên” (cơm áo tự nhiên), [bèn chê là] chẳng viên
măn cho lắm! Họ trọn chẳng biết đấy chính là chỗ
hay của bản dịch đời Ngụy. V́ trong phần
trần thuật quả báo thù thắng của ngài Pháp Tạng,
có mấy đoạn kinh văn đă nói đến [chuyện
ấy]. Không chỉ là y phục, thức ăn, mà cho đến
hết thảy các vật báu, đều tùy tâm mong muốn,
vừa nghĩ bèn có, kinh văn đă nói rất cặn kẽ,
sao lại có thể nói là chẳng viên măn cho được?
Điều này rất khế hợp căn tánh của người
Hoa, kinh văn tận hết sức tránh trùng lặp. Nếu
như trong phần bổn nguyện cũng có (cũng nhắc
tới những chuyện này), há chẳng phải là rườm
rà, trùng lặp ư?
Trong mấy tiết
trên đây, Luận Chủ đă viết kệ tụng về
các thứ trang nghiêm thanh tịnh của quốc độ An
Lạc, bao gồm sáu chuyện “y thực trụ hành dục
lạc” (cơm, áo, ăn ở, dục lạc) của
chúng sanh, mà cũng bao gồm sáu trần, tức sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp, đều có thể khiến
cho đại chúng trời người sống trong cơi ấy
không ǵ chẳng phải là “sáu căn thường hợp
đạo, sáu thức thường thanh tịnh”, tập
khí phiền năo tự nhiên chẳng dấy lên, đều như
đạt được niềm vui nhập Diệt Tận
tam-muội. Lành thay bổn
nguyện của ngài Pháp Tạng! Mầu
nhiệm thay cơi An Lạc! Chỉ có cơi
An Lạc là chỗ quy y chân chánh của
chúng sanh, hăy nên suốt một đời dâng hiến thân mạng,
tin nhận, tu hành pháp môn Tịnh Độ, cùng sanh về Cực
Lạc quốc!
2.2.1.2.3.1.1.10. Quang minh công
đức
(Luận) Phật huệ minh tịnh nhật,
trừ thế si ám minh.
(Chú) Thử nhị cú, danh “trang nghiêm quang minh
công đức thành tựu”. Phật bổn hà cố hưng
thử trang nghiêm? Kiến hữu quốc độ, tuy phục
hạng bối nhật quang, nhi vi ngu si sở ám.
(論)佛慧明淨日。除世癡闇冥。
(註)此二句名莊嚴光明功德成就。佛本何故興此莊嚴。見有國土。雖復項背日光。而為愚癡所闇。
(Luận:
Phật huệ nhật sáng sạch, trừ si tối cơi
đời.
Chú: Hai câu này được
gọi là “trang nghiêm quang minh công đức thành tựu”. Vốn
v́ lẽ nào mà đức Phật dấy lên sự trang nghiêm
này? Do Ngài thấy có cơi nước tuy có ánh sáng mặt trời
ở ngay trên đỉnh đầu, nhưng [chúng sanh trong
cơi ấy] bị ngu si che ám).
Pháp Tạng Bồ
Tát thấy có chúng sanh trong những quốc độ tuy trên
đỉnh đầu có ánh sáng mặt trời chiếu soi,
nhưng chính họ bị ngu si, vô minh che lấp, giống như
ở trong pḥng tối, trong tâm nhăn chỉ thấy một bầu
đen tối, chẳng có tướng quang minh trí huệ.
Ngu si vô trí như người đi đêm đă thiếu ánh
sáng của đèn,
lại chẳng có người hướng dẫn giỏi
giang. Đó gọi là “manh nhân hạt mă dạ độ kiều”
(người mù cưỡi ngựa đui, vượt cầu
vào ban đêm), khó tránh khỏi sụp hầm, hoặc rơi
xuống nước, táng thân mất mạng, thật đáng
thương xót!
(Chú) Thị cố
nguyện ngôn: Sử ngă quốc độ, sở hữu quang
minh năng trừ si ám, nhập Phật trí huệ, bất
vi vô kư chi sự. Diệc vân: An Lạc quốc độ,
quang minh tùng Như Lai trí huệ báo khởi, cố năng
trừ thế ám minh.
(註)是故願言。使我國土。所有光明能除癡闇。入佛智慧。不為無記之事。亦云。安樂國土。光明從如來智慧報起。故能除世闇冥。
(Chú:
Do vậy, nguyện rằng: Khiến cho tất cả quang
minh trong quốc độ của tôi có thể trừ sự
tối tăm do ngu si, tiến nhập trí huệ của Phật,
chẳng phải là một thứ sự vật không thiện
không ác. Ngài cũng nói: Quang minh của quốc độ An
Lạc xuất phát từ quả báo trí huệ của Như
Lai. V́ thế, nó có thể trừ sự tối tăm trong
cơi đời).
Do vậy, Pháp Tạng
Bồ Tát phát đại nguyện, nguyện cho trong quốc
độ khi tôi thành Phật, tất cả muôn vật đều
có quang minh. Những quang minh ấy có thể trừ khử
hết thảy tối tăm v́ ngu si trong thế gian, khiến
cho hết thảy chúng sanh đều đạt được
(tức là “nhập”) trí huệ của Phật, nghĩa
là rốt ráo thành Nhất Sanh Bổ Xứ, đều sẽ
thành Phật. Bất luận quang minh nào, cũng đều
chẳng phải chỉ là [một sự việc] có tác
dụng vô kư (không thiện, không ác) đối với chúng
sanh, trọn chẳng có lợi ích ǵ! Hăy nên biết: Hết
thảy quang minh trong quốc độ An Lạc đều
thành tựu từ chánh báo thể của A Di Đà Như
Lai, sanh khởi từ trí huệ Nhất Thiết Trí, Đạo
Chủng Trí, và Nhất Thiết Chủng Trí. V́ thế, giống
như ánh sáng mặt trời sáng sạch, có thể trừ
khử tối tăm cho thế gian. Đây chính là điều
được thành tựu do công đức của các nguyện
thứ mười hai, hai mươi bảy, ba mươi
ba, và bốn mươi trong bổn nguyện của Phật
Di Đà. Như kinh Vô Lượng Thọ đă chép: “Kỳ
hữu chúng sanh, ngộ tư quang giả, tam cấu tiêu diệt…
Hựu Vô Lượng Thọ Phật, kỳ đạo tràng
thụ… vô lượng quang viêm, chiếu diệu vô cực…
Hựu chúng bảo liên hoa,
châu măn thế giới. Kỳ hoa quang minh, vô lượng chủng
sắc… Quang sắc hách nhiên, minh diệu nhật nguyệt.
Nhất nhất hoa trung, xuất tam thập lục bách thiên
ức quang. Nhất nhất quang trung, xuất tam thập lục
bách thiên ức Phật. Nhất nhất chư Phật, hựu
phóng bách thiên quang minh, phổ vị thập phương, thuyết vi diệu pháp” (Có những
chúng sanh gặp ánh sáng này th́ tam cấu (tham, sân, si) tiêu diệt…
Lại nữa, cây đạo tràng của Vô Lượng Thọ
Phật… có vô lượng tia sáng rực rỡ, chiếu sáng
ngời chẳng cùng cực…Lại có các thứ hoa sen báu trọn
khắp thế giới. Quang minh của hoa, vô lượng
các thứ màu... quang minh và màu sắc chói ngời, sáng rực
như mặt trời, mặt trăng. Trong mỗi đóa hoa,
tỏa ra ba mươi sáu trăm ngàn ức tia sáng. Trong mỗi
tia sáng, xuất hiện ba mươi sáu trăm ngàn ức Phật.
Mỗi một vị Phật lại phóng trăm ngàn quang
minh, v́ khắp mười
phương, nói pháp vi diệu). Những đoạn kinh
văn như thế đă mô tả t́nh huống thật sự
của “Phật huệ tịnh minh nhật, trừ thế
si ám minh” (Phật huệ nhật sáng sạch, trừ si
tối trong đời).
(Chú) Kinh ngôn: “Hoặc
hữu Phật độ, dĩ quang minh vi Phật sự”,
tức thị thử dă. Cố ngôn: “Phật huệ minh tịnh
nhật, trừ thế si ám minh”.
(註)經言。或有佛土。以光明為佛事。即是此也。故言佛慧明淨日。除世癡闇冥。
(Chú: Kinh nói: “Hoặc
có cơi Phật dùng quang minh làm Phật sự” chính là nói về
chuyện này vậy. V́ thế nói: “Phật huệ nhật
sáng sạch, trừ si tối cơi đời”).
Ngài Đàm Loan
trích dẫn kinh để chứng minh, nên nói là “kinh ngôn”,
nhưng chưa chỉ ra bộ kinh nào. Trong quyển thứ
sáu của Lục Thập Hoa Nghiêm, nơi phẩm Hiền
Thủ có nói: “Phóng đại quang minh nan tư nghị,
dĩ thử quang minh cứu quần sanh… Hựu phóng quang
minh danh Thanh Tịnh, ánh tế nhất thiết thiên nhân
quang, trừ diệt nhất thiết chư ám minh. Phổ
chiếu thập phương vô lượng quốc” (Phóng
quang minh lớn khó nghĩ bàn, dùng quang minh ấy cứu quần
sanh… Lại phóng quang minh tên Thanh Tịnh, che lấp hết
thảy quang trời người, trừ diệt hết thảy
các tối tăm, chiếu khắp mười phương
các cơi nước). [Trong phẩm ấy], có tất cả bốn
mươi ba thứ quang minh thực hiện Phật sự,
hóa độ chúng sanh. Chắc là ngài Đàm Loan cũng nói
đến chuyện này!
2.2.1.2.3.1.1.11. Diệu
thanh công đức
(Luận) Phạm thanh ngộ thâm viễn, vi
diệu văn thập phương.
(Chú) Thử nhị cú, danh “trang nghiêm diệu
thanh công đức thành tựu”, Phật bổn hà cố hưng
thử nguyện? Kiến hữu quốc độ, tuy hữu
thiện pháp, nhi danh thanh bất viễn. Hữu danh thanh tuy
viễn, phục bất vi diệu. Hữu danh thanh diệu
viễn, phục bất năng ngộ vật, thị cố
khởi thử trang nghiêm.
(論)梵聲悟深遠。微妙聞十方。
(註)此二句名莊嚴妙聲功德成就。佛本何故興此願。見有國土。雖有善法而名聲不遠。有名聲雖遠。復不微妙。有名聲妙遠。復不能悟物。是故起此莊嚴。
(Luận:
Tiếng phạm
ngộ sâu xa, vi diệu thấu mười phương.
Chú: Hai câu này
được gọi là “trang nghiêm diệu thanh công đức
thành tựu”. Vốn v́ lẽ nào mà đức Phật dấy
lên nguyện này? Do Ngài thấy có quốc độ, tuy có
thiện pháp, nhưng thanh danh chẳng vang xa! Có quốc
độ tuy thanh danh vang xa, vẫn chẳng vi diệu. Có quốc
độ thanh danh vi diệu, vang xa, lại chẳng thể
giác ngộ chúng sanh. Do đó, dấy lên sự trang nghiêm này).
Phật
Di Đà trong lúc tu nhân, thấy có quốc độ, tuy chúng
sanh làm lành, chẳng ác, là người lành trong thế gian; nhưng danh xưng (“thanh”)
của vị thiện nhân ấy truyền bá chẳng xa, chỉ
lan đến một làng, một thành, hoặc trong một
thời, như các vị chánh nhân quân tử hoặc những
bậc từ thiện v.v… trong các thời, các xứ. Ngoài
ra, có những người tuy tiếng tăm lan truyền
khá xa, nhưng những ǵ họ đă làm không ǵ chẳng phải
là pháp thế gian, chẳng được coi là “vi diệu”.
Như Khổng Tử, Mạnh Tử, Lăo Tử, Trang Tử,
Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Châu Văn Vương, Châu Vũ
Vương, Châu Công v.v… của Trung Hoa. Hoặc có người
tiếng tăm vừa truyền xa vừa vi diệu, nhưng
chẳng thể khiến cho chúng sanh ngộ nhập Thật
Tướng của các pháp, chân lư của vũ trụ, vượt
thoát tam giới sanh tử luân hồi. Chẳng hạn như
người Ấn Độ tin thờ Phạm Vương,
người phương Tây tin thờ Thượng Đế
Gia Tô. Danh xưng của họ tuy vang xa cơi trời và nhân gian,
nhưng Tứ Vi Đà[5] hoặc
Thánh Kinh do họ nói phần lớn là thần thoại, chẳng
phù hợp sự lư nhân quả thế gian và xuất thế
gian, chẳng phải là chân lư của vũ trụ và nhân
sinh, chỉ có thể tín ngưỡng mà thôi, chẳng có triết
lư thật sự, chẳng thể khơi mở chánh trí của
con người, chẳng thể ngộ nhập “tâm tánh vốn
tự thanh tịnh, các pháp chỉ là nhất tâm” và chân lư nhất
tâm nhị môn, mà cũng chẳng thể khiến cho chúng
sanh liễu sanh thoát tử, thoát tam giới! Do có mấy loại
nguyên nhân như vừa nói trên đây, cho nên Pháp Tạng Bồ
Tát mới phát đại nguyện, muốn dùng công đức
diệu thanh để trang nghiêm quốc độ.
(Chú) Thiên Trúc quốc
xưng tịnh hạnh vi phạm hạnh, xưng diệu
từ vi phạm ngôn. Bỉ quốc quư trọng Phạm Thiên,
đa dĩ Phạm
vi tán, diệc ngôn “trung quốc
pháp dữ Phạm Thiên thông” cố dă.
(註)天竺國稱淨行為梵行。稱妙辭為梵言。彼國貴重梵天。多以梵為讚。亦言。中國法與梵天通故也。
(Chú: Xứ Thiên
Trúc gọi “tịnh hạnh” là “phạm hạnh”, gọi lời
lẽ hay khéo là “phạm ngôn”. Xứ ấy quư trọng Phạm
Thiên, phần nhiều dùng chữ Phạm để ca ngợi,
nên cũng nói là “pháp tại đất
nước văn hiến có thể thông với Phạm Thiên”).
Đây là chú giải
nguồn gốc của hai chữ “Phạm thanh”. “Thiên
Trúc quốc” chính là xứ Ấn Độ hiện thời.
Trong quốc gia của họ, vốn tin thờ Bà La Môn giáo,
kính trọng Đại
Phạm Thiên Vương. Nếu xuất gia tu tập hạnh
thanh tịnh theo tôn giáo ấy th́ sẽ được gọi
là “tu Phạm hạnh”. Tất
cả ngôn ngữ, văn tự sử dụng trong xứ ấy
hay trong tôn giáo ấy được coi là vi diệu nhất
trong thế gian, nên được xưng tụng là “Phạm
ngôn”. V́ quư trọng Phạm Thiên, cho nên hễ tán thán sự
vật ǵ đẹp đẽ, hay khéo, th́ đều gọi
là Phạm. Do vậy, “Phạm thanh” vốn là từ ngữ
dùng để tán thán của người Ấn Độ,
cũng nhằm biểu thị trung thổ trong nhân gian (người
Ấn Độ tự xưng quốc gia của họ ở
chính giữa địa cầu) và Phạm Thiên đôi bên có
thể dùng ngôn ngữ để giao tiếp với nhau, cho
nên ngôn ngữ và văn tự của xứ ấy được
gọi là “Phạm thanh”.
(Chú) Thanh giả
danh dă, danh vị An Lạc độ danh. Kinh ngôn: “Nhược
nhân đản văn An Lạc Tịnh Độ chi danh, dục
nguyện văng sanh, diệc đắc như nguyện”. Thử
danh “ngộ
vật” chi chứng
dă. Thích Luận ngôn: “Như tư Tịnh Độ, phi tam
giới sở nhiếp. Hà dĩ ngôn chi? Vô dục cố, phi
Dục Giới. Địa cư cố, phi Sắc Giới.
Hữu sắc
cố, phi Vô Sắc Giới. Cái Bồ Tát biệt nghiệp
sở trí nhĩ”.
(註)聲者名也。名謂安樂土名。經言。若人但聞安樂淨土之名。欲願往生。亦得如願。此名悟物之證也。釋論言。如斯淨土非三界所攝。何以言之。無欲故非欲界。地居故非色界。有色故非無色界。蓋菩薩別業所致耳。
(Chú: “Thanh”
là “danh”. Danh là
tên gọi của cơi An Lạc. Kinh dạy: “Nếu ai chỉ
nghe danh xưng An Lạc Tịnh Độ mà muốn nguyện
văng sanh th́ cũng được như nguyện”. Đấy
chính là bằng chứng về [khả năng] giác ngộ
chúng sanh vậy. Thích Ma Ha Diễn Luận nói: “Như cơi Tịnh
Độ ấy chẳng thuộc vào tam giới. V́ sao nói như
vậy? Do không có dục, nên chẳng phải là Dục Giới.
Do ở trên mặt đất, nên chẳng phải là Sắc
Giới. Do có sắc tướng, nên chẳng phải là Vô
Sắc Giới. Do v́ nghiệp riêng của Bồ Tát mà thành
ra như vậy”).
Ngài Đàm Loan giải
thích, phân tích. Tiếng tăm được xưng tán là “Phạm âm” chính là nói về
thanh
danh của An Lạc Tịnh Độ. Trước hết, Ngài trích
dẫn “kinh ngôn”, tức là dùng ư nghĩa trong kinh Vô
Lượng Thọ để nói: Chỉ cần nghe danh xưng
của quốc độ An Lạc, tất nhiên sẽ biết
đến A Di Đà Phật trong cơi ấy có bổn nguyện
và thần lực chẳng thể nghĩ bàn, hy vọng sẽ
được văng sanh thấy Phật, th́ cũng có thể
được đúng như
sở nguyện sanh về cơi ấy. Điều này có thể
gọi là “thanh danh có thể ngộ vật”. “Ngộ
vật” (悟物, giác
ngộ chúng sanh) có nghĩa là văng sanh về
cơi ấy, nhất định sẽ “hoa nở thấy Phật,
ngộ Vô Sanh”. Kế đó, Ngài trích dẫn những điều
được nói trong bộ Thích Ma
Ha Diễn Luận do Long Thọ Bồ Tát biên soạn: An Lạc
Tịnh Độ chẳng thuộc vào tam giới, chẳng
nằm trong phạm vi của tam giới. V́ sao vậy? Chúng
sanh trong cơi ấy đều là liên hoa hóa sanh, chẳng có dâm
dục; cho nên chẳng phải là Dục Giới. Cơi nước
Phật ấy vàng ṛng và các thứ báu làm đất, thuộc
loại Địa Cư, cho nên chẳng phải là Sắc
Giới. Tứ Thiền Thiên thuộc Sắc Giới trong cơi
này (Sa Bà) đều là Không Cư. Trời người trong cơi
ấy dung sắc vi diệu, diện mạo đoan chánh, đều
có ba mươi hai tướng, thân sắc như vàng tía được
giồi mài. Do có h́nh sắc, cho nên chẳng thuộc vào Vô Sắc
Giới. An Lạc Tịnh Độ là biệt nghiệp tu
tập lục độ vạn hạnh của Pháp Tạng
Bồ Tát, là cơi nước do nhân như thế mà cảm được
quả báo như thế, đương nhiên là chẳng giống
với tam giới trong cơi này, chẳng thuộc vào tam giới,
mà tiếng tăm cũng
chẳng giống như cơi này.
(Chú) Xuất hữu
nhi hữu, viết Vi. Danh năng khai ngộ, viết Diệu. Thị
cố ngôn: “Phạm thanh ngộ thâm viễn, vi diệu văn
thập phương”.
(註)出有而有曰微。名能開悟曰妙。是故言梵聲悟深遠。微妙聞十方。
(Chú: Vượt
khỏi Tam Hữu mà là Hữu th́ nói là Vi. Danh có thể khai
ngộ nên gọi là Diệu. V́ thế nói: “Tiếng Phạm
ngộ sâu xa, vi diệu vang mười phương”).
“Vi
diệu” là ǵ? Ngài Đàm Loan nói: “Xuất Hữu nhi Hữu,
viết Vi”. Chữ Hữu nhằm nói đến Tam Hữu,
tức là tam giới. Vượt ra ngoài tam giới, chẳng
thuộc trong tam giới, th́ gọi là “xuất Hữu”.
“Nhi Hữu” (Mà là Hữu), ư nói: Có các Tịnh Độ của
chư Phật. Như Đại Trí Độ Luận có nói:
“Xuất tam giới ngoại, hữu Tịnh Độ.
Danh năng ngộ vật, cố xưng Diệu” (Vượt
ra ngoài tam giới th́ có Tịnh Độ, danh hiệu có thể
khiến cho chúng sanh giác ngộ, nên gọi là Diệu). Điều
này có ư nói chúng sanh trong mười phương thế giới
chỉ cần nghe danh hiệu A Di Đà Phật và quốc
độ An Lạc, chí tâm tin ưa, muốn sanh về cơi ấy,
cho đến mười niệm hoặc một niệm,
sẽ có thể sanh về Tịnh Độ, ngộ Vô Sanh
Nhẫn. Bồ Đề viên măn ngay trong một đời,
rốt ráo thành Phật. Đấy không phải là vi diệu
chẳng thể nghĩ bàn ư? Do vậy, kệ tụng
viết là: “Phạm thanh ngộ thâm viễn, vi diệu văn
thập phương” (Tiếng Phạm ngộ sâu xa, vi
diệu vang mười phương).
2.2.1.2.3.1.1.12. Chủ công
đức
(Luận) Chánh giác A Di Đà, pháp vương
thiện trụ tŕ.
(Chú) Thử nhị cú danh “trang nghiêm chủ công
đức thành tựu”. Phật bổn hà cố hưng thử
nguyện? Kiến hữu quốc độ, La-sát vi quân, tắc
suất thổ tương đạm. Bảo luân trụ điện,
tắc tứ
vực vô ngu, thí chi phong mỵ, khởi vô bổn da?
(論)正覺阿彌陀。法王善住持。
(註)此二句名莊嚴主功德成就。佛本何故興此願。見有國土。羅剎為君。則率土相噉。寶輪駐殿。則四域無虞。譬之風靡。豈無本耶。
(Luận:
Chánh giác A Di Đà, pháp vương khéo trụ tŕ.
Chú: Hai câu này
được gọi là “trang nghiêm chủ công đức
thành tựu”. V́ sao đức Phật dấy lên nguyện này?
Do Ngài thấy có quốc độ La-sát làm vua, ắt cả
nước sẽ ăn nuốt lẫn nhau. Bánh xe báu [của
Chuyển Luân Thánh Vương] dừng lại, ngự trong điện
th́ bốn phương an vui, ví như cỏ ngả rạp
theo gió, há chẳng có căn cội ư?)
Chánh Giác là nói tắt
của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà cũng là
thông hiệu (đức hiệu chung) của Phật. Hai câu
này nhằm nói A Di Đà Phật là giáo chủ của quốc
độ An Lạc, trong hết thảy các pháp Ngài được
tự tại, cho nên gọi là Pháp Vương. So sánh với
những vị quốc vương thông thường, họ
chỉ có thể thống lănh muôn dân, xử lư mọi chuyện,
th́ [A Di Đà Phật] càng vượt trỗi hơn! Điều
này được gọi là “chủ công đức thành tựu”,
v́ Phật có thể trụ tŕ hết thảy các thiện
pháp thế gian và xuất thế gian, khiến cho nhân tánh và Phật
tánh trong thế gian chẳng bị mê mất hoặc biến
chất. Do vậy nói là
“thiện trụ tŕ” (khéo trụ tŕ). V́ sao Pháp Tạng
Bồ Tát phải phát nguyện khi Ngài thành Phật, quốc
độ sẽ do Phật khéo trụ tŕ? Chính là v́ Ngài thấy
có những quốc độ mà La-sát làm quốc vương,
quốc gia ấy tất nhiên khắp nơi toàn là La-sát ăn
thịt người. Chúng sanh trong toàn thể quốc độ
ấy (lời chú giải gọi [toàn thể quốc độ]
là “suất độ”, 率土) đều
hành nghiệp Thập Ác, đây kia sát hại nhau, ăn nuốt
lẫn nhau, như thế bèn trở thành La-sát quỷ quốc!
Có những quốc độ mà chúng sanh trong đó đều
hành Thập Thiện, bèn có Chuyển Luân Thánh Vương xuất
thế, an trụ trong cung điện của Luân Vương,
cai quản quốc gia. Vậy th́ bốn phương tám hướng
trong bờ cơi nước ấy, nhất định là gió
ḥa, mưa thuận, nhân dân an lạc, chẳng ưu lự.
“Thí chi phong mỵ”:
Câu này dùng chuyện cỏ trên đầu tường ngả
rạp theo gió để sánh ví nhân dân trong một quốc
gia sẽ thuận theo quốc chúa (vị chủ đất
nước) là thiện hay ác mà sẽ làm lành hay làm ác. Do vậy,
quốc vương là căn bản khiến cho một quốc
gia hưng thịnh hay suy vong, b́nh trị hay loạn lạc.
Lẽ đâu một quốc độ lại có thể chẳng
có quốc chúa ư? Như hiện thời các nước
trên thế giới, đối với điều kiện
để tạo thành một quốc gia, ắt cần phải
có bốn điều là quốc độ, lănh tụ (quốc
vương, tổng thống), chủ quyền, và nhân dân. Thiếu
một điều th́ sẽ chẳng thành quốc gia!
(Chú) Thị cố
hưng nguyện, nguyện ngă quốc độ thường
hữu pháp vương, pháp vương thiện lực chi
sở trụ tŕ. Trụ tŕ giả, như hoàng hộc tŕ Tử
An, thiên linh cánh khởi, ngư mẫu niệm tŕ tử, kính
học bất hoại. An Lạc quốc vị Chánh Giác thiện
tŕ, kỳ quốc khởi hữu phi Chánh Giác sự da? Thị
cố ngôn: “Chánh Giác A Di Đà, pháp vương thiện trụ
tŕ”.
(註)是故興願。願我國土常有法王。法王善力之所住持。住持者,如黃鵠持子安。千齡更起。魚母念持子。逕澩不壞。安樂國為正覺善持。其國豈有非正覺事耶。是故言正覺阿彌陀。法王善住持。
(Chú: V́ thế
dấy nguyện, nguyện cho quốc độ của tôi
thường có pháp vương, được trụ tŕ bởi
thiện lực của pháp vương. “Trụ
tŕ” là như
chim hoàng hộc giữ Tử An[6],
ngàn năm lại sống dậy, như cá mẹ v́ ǵn giữ
cá con, dẫu ở trong rănh nước hẹp mà [tánh mạng
của cá con] chẳng bị hư hoại. Cơi An Lạc được
Chánh Giác khéo trụ tŕ, cơi ấy há có chuyện chẳng phù
hợp Chánh Giác ư? V́ thế nói: “Chánh giác A Di Đà, pháp vương
khéo trụ tŕ”).
Đă có những
nhân duyên như đă nói trên; do vậy, Pháp Tạng Bồ
Tát phát nguyện rằng: Nguyện khi tôi thành Phật, quốc
độ chẳng cần quốc vương thống trị,
thường xuyên có Phật trụ thế, dùng Phật pháp
và nghiệp lực Thập Thiện để nhiếp thọ
và giáo hóa chúng sanh liên tục chẳng dứt cho đến
tột cùng đời vị lai. Do vậy, khi Ngài thành Phật,
thế giới Cực Lạc trước hết có A Di
Đà Phật trụ tŕ. Trải qua vô lượng kiếp
sau, hóa thân của Phật Di Đà diệt độ, sẽ
do Quán Âm Bồ Tát nối ngôi pháp vương. Cơi ấy đổi
tên thành thế giới Nhất Thiết Trân Bảo Sở
Thành Tựu, các thứ trang nghiêm vượt trỗi thế
giới Cực Lạc. Phật hiệu là Biến Xuất
Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như
Lai. Lại trải qua vô lượng kiếp sau, hóa thân của
Công Đức Sơn Vương Phật nhập diệt,
sẽ do Thế Chí Bồ Tát nối ngôi, Phật hiệu là
Thiện Trụ Trân Bảo Sơn Vương Như Lai. Nối
tiếp như thế, đều có Phật trụ tŕ cơi ấy,
chẳng có t́nh huống “trước Phật, sau Phật,
không có Phật trụ thế”.
Ngài Đàm Loan lại
nêu ra hai thí dụ để giảng giải, phân tích ư nghĩa
“bất thất, bất hoại” (chẳng mất, chẳng
hư hoại) của trụ tŕ, như Hộc quốc có
chim Hoàng Hộc nuốt trộng người ta. Người
sống trong bụng chim mấy trăm năm mà không chết.
Điển cố ấy phát xuất từ những điều
được ghi chép trong bộ Thần Dị Kinh vào thời
cổ của Trung Hoa: “Ở ngoài biển Tây có Hộc quốc,
nam nữ đều cao bảy tấc, thọ ba trăm năm, mỗi
ngày đi ngàn dặm, chỉ sợ loài hải hộc. Dẫu
bị chim hộc nuốt, vẫn thọ ba trăm năm.
Người ta ở trong bụng chim hộc mà không chết”. V́ thế
nói là “hoàng hộc tŕ Tử An, thiên linh bất khởi”.
Lại giống như
cá mẹ luôn nghĩ ǵn giữ cá con. “Kính học bất
hoại”: Chữ Học (澩) có
nghĩa là con suối khô cạn, mùa Hè có nước, mùa Đông
th́ không. “Kính học bất hoại” có nghĩa là: Khi cá
mẹ nhằm thời kỳ nước cạn khô, v́ muốn
tiếp tục duy tŕ [tánh mạng của] cá con yêu dấu
trong bụng, cho nên vẫn có thể sống sót, không bị
chết mất.
Quốc độ
An Lạc có A Di Đà Phật trụ thế, từ
bi chẳng bỏ, giáo hóa chúng sanh. Lại có Quán Âm, Thế
Chí, kế tục thành Phật để trụ tŕ, quyết
định chẳng có chuyện không có Tam Bảo trụ tŕ
thế gian. Phật dùng Chánh Giác do chính ḿnh đă chứng
đắc để trụ tŕ thế gian. Vậy th́ trong quốc
độ ấy, làm sao có chuyện chẳng phù hợp Phật
pháp, chẳng phải là Chánh Giác cho được? V́ thế,
trong Kệ Tụng mới có câu: “Chánh Giác A Di Đà, pháp vương
thiện trụ tŕ”.
Lại
nói “pháp vương thiện trụ tŕ” chính là Phật
có phương tiện thiện xảo, chẳng rời khỏi
đạo tràng, mà ứng hiện trọn khắp mười
phương, phổ độ chúng sanh, khiến họ chẳng
đọa lạc. Như kinh Vô Lượng Thọ đă
nói: “An Lạc quốc độ biến địa bảo
hoa. Nhất nhất hoa xuất vô lượng quang, nhất
nhất quang xuất vô lượng Phật,
nhất nhất Phật hựu phóng bách thiên quang minh, phổ
vị thập phương, thuyết vi diệu pháp, an lập
chúng sanh ư Phật chánh đạo” (Quốc
độ An Lạc khắp nơi là hoa báu, mỗi đóa
hoa tỏa ra vô lượng quang. Mỗi quang minh xuất hiện
vô lượng Phật, mỗi vị Phật lại phóng
trăm ngàn quang minh, khắp v́ mười phương nói
pháp vi diệu đặt
yên chúng sanh nơi chánh đạo của Phật). Như
vậy th́ mới gọi là “pháp vương thiện trụ
tŕ” (pháp vương khéo trụ tŕ).
Lại nữa, như
Bát Thập Hoa Nghiêm có nói mười thứ phương tiện
huệ. Trọn đủ những loại
huệ ấy th́ mới có thể thiện xảo trụ
tŕ chánh pháp, chẳng đến nỗi biến chất. Mười
loại nào vậy?
“1) Khéo tu Không, Vô
Tướng, Vô Nguyện tam-muội, nhưng dấy ḷng từ
bi, chẳng bỏ chúng sanh.
2) Đắc pháp b́nh
đẳng của chư Phật, nhưng thường thích
cúng dường chư Phật.
3) Nhập quán Không
trí môn, nhưng siêng tu tập phước
đức.
4) Xa ĺa tam giới,
nhưng trang nghiêm tam giới.
5) Rốt ráo tịch
diệt các ngọn lửa phiền năo, mà có thể v́ hết
thảy chúng sanh khởi diệt lửa tham, sân, si phiền
năo.
6) Biết các pháp như
huyễn, như mộng, tự tánh bất nhị, mà tùy tâm
tạo nghiệp vô lượng sai biệt.
7) Biết hết
thảy quốc độ giống như hư không, nhưng
có thể dùng diệu hạnh thanh tịnh để trang
nghiêm tịnh độ.
8) Biết bản tánh
của Pháp Thân chư Phật là không có thân, nhưng dùng tướng
hảo để trang nghiêm thân ấy.
9) Biết tánh của
âm thanh chư Phật là Không, tịch diệt, chẳng thể
diễn nói, nhưng có thể nói hết thảy âm thanh sai
biệt của chúng sanh.
10) Biết ba đời
chỉ là một niệm, nhưng thuận
theo ư giải của chúng sanh mà phân biệt, dùng các thứ tướng,
các thứ thời, để tu các hạnh”.
Phần Kệ Tụng
của luận này nói “Chánh Giác A Di Đà Phật, pháp vương
thiện trụ tŕ” chính là tán thán A Di Đà trong quốc
độ An Lạc xác thực trọn đủ mười
thứ phương tiện huệ thù thắng ấy. Do vậy,
Ngài có thể hết sức thiện xảo khiến cho chúng
sanh trong cơi ấy đều an trụ trong chánh đạo
Nhất Thừa của Phật, đều rốt ráo đắc
Nhất Sanh Bổ Xứ, muốn đến thế giới
nào không có Phật để bổ xứ thành Phật th́ sẽ
có thể tùy ư tự tại đến đó làm Phật, trụ
tŕ Phật pháp. Như kinh Pháp Hoa có nói: “Phàm hữu văn
pháp giả, vô nhất bất thành Phật” (Phàm những
ai nghe pháp, không một ai chẳng thành Phật). Đấy
mới là ư thú chân thật của “pháp vương thiện
trụ tŕ”.
2.2.1.2.3.1.1.13. Quyến
thuộc công đức
(Luận) Như Lai tịnh hoa chúng, Chánh Giác
hoa hóa sanh.
(Chú) Thử nhị cú danh “trang nghiêm quyến
thuộc công đức thành tựu”. Phật bổn hà cố
hưng thử nguyện? Kiến hữu quốc độ,
hoặc dĩ bào huyết vi thân khí, hoặc dĩ phẩn
niệu vi sanh nguyên, hoặc ḥe cức cao kỳ, xuất
sai cuồng chi tử, hoặc thụ tử tỳ phúc xuất trác lạc
chi tài, cơ tiếu do chi hoài hỏa, sỉ nhục duyên dĩ
băo băng.
(論)如來淨華眾。正覺華化生。
(註)此二句名莊嚴眷屬功德成就。佛本何故興此願。見有國土。或以胞血為身器。或以糞尿為生元。或槐棘高圻。出猜狂之子。或豎子婢腹。出卓犖之才。譏誚由之懷火。恥辱緣以抱氷。
(Luận:
Như Lai tịnh hoa chúng, hoa Chánh Giác hóa sanh.
Chú: Hai câu này được
gọi là “trang nghiêm quyến thuộc công đức thành tựu”.
Vốn v́ lẽ nào mà đức Phật
dấy lên nguyện này? Do Ngài thấy có quốc độ,
[chúng sanh trong ấy] trong ấy dùng thai huyết để
làm thân thể, hoặc dùng phân tiểu để làm nguồn
sống, hoặc có những người thuộc địa
vị cao quư mà sanh ra đứa con bụng dạ
ty tiện hoặc cuồng bạo, hoặc là từ kẻ
bấy bớt ngu si, hay từ bụng nô tỳ mà sanh ra đứa
con tài năng trác tuyệt. Do bị cười chê mà ấp
lửa, do bị sỉ nhục mà ôm băng).
Phật
là giáo chủ, như cha mẹ hoặc gia trưởng trong
một nhà, chúng sanh là đệ tử của Phật, giống
như con cái trong một gia đ́nh; v́ thế gọi là “quyến
thuộc”. Tam thừa thánh hiền đệ tử được
gọi là “quyến thuộc trang nghiêm”. Đại chúng
sanh trong An Lạc quốc đều là thánh hiền Đại
Thừa, đều từ liên hoa hóa sanh. Đặc tánh của
hoa sen là sanh từ bùn nhơ mà chẳng
bị nhuốm bẩn, có thể nói [hoa sen] là biểu tượng
của cái tâm thanh tịnh, mà cũng là tượng trưng
cho “nhất tâm nhị môn”. Hoa sen là hoa quả đồng thời[7], tức là có thể
sánh ví “nhất tâm nhị môn cùng trọn đủ trong một
tâm”. Hết thảy đại chúng trong cơi ấy đều
có tâm Bồ Tát, đều thanh tịnh giống như hoa sen,
đều đă chứng đắc nhất tâm nhị môn.
V́ thế nói: “Như Lai tịnh hoa chúng” (Đại chúng
của Như Lai như những đóa hoa thanh tịnh). Như
kinh Vô Lượng Thọ đă nói: “Huệ quang minh tịnh,
siêu du nhật nguyệt, thanh bạch chi pháp, cụ túc viên măn,
do như Tuyết Sơn chiếu chư công đức, đẳng
nhất tịnh cố… Do như liên hoa, ư chư thế
gian, vô nhiễm ô cố” (Quang minh trí huệ sáng suốt, trong sạch, vượt
trỗi mặt trời, mặt trăng, trọn đủ
viên măn pháp trong trắng, ví như Tuyết Sơn v́ chiếu các công đức
b́nh đẳng thanh tịnh như nhau… Ví như
hoa sen v́ ở trong các thế gian chẳng bị nhuốm bẩn).
Lại nữa, hễ
là chúng sanh thuộc ba bậc văng sanh cơi ấy th́ đều
đă phát tâm Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác Bồ Đề, chí nguyện
trang nghiêm Tịnh Độ, thành thục hữu t́nh. Tam thừa
thánh hiền đều là Bồ Tát. Bồ Tát là nhân hoa, thành
Phật là kết quả. V́ thế nói: “Chánh Giác hoa hóa sanh”
(Hóa sanh từ hoa Chánh Giác). Như kinh Vô Lượng
Thọ đă nói: “Nhất thiết chư Bồ Tát… cúng dường
Vô Lượng Giác… Ứng thời Vô Lượng Tôn, động
dung phát hân tiếu, khẩu xuất vô số quang, biến
chiếu thập phương quốc… Phạm thanh do lôi chấn, đương thọ
Bồ Tát kư. Thập phương lai Chánh Sĩ, ngô tất tri
bỉ nguyện, chí cầu nghiêm tịnh độ, thọ
quyết đương tác Phật… Thông đạt chư pháp
tánh, nhất thiết Không, Vô Ngă, chuyên cầu tịnh Phật
độ, tất thành như thị lợi” (Hết
thảy các Bồ Tát… cúng dường Vô Lượng Giác. Khi
đó, Vô Lượng Tôn, lộ vẻ mặt vui cười,
miệng phóng vô số quang, chiếu khắp mười phương
cơi… Tiếng Phạm như sấm rền, sẽ thọ kư Bồ
Tát. Mười phương Chánh Sĩ (Bồ
Tát) đến, ta đều biết nguyện họ, cầu
trang nghiêm cơi tịnh, thọ kư sẽ thành Phật… Thông đạt
tánh các pháp, hết thảy Không, Vô Ngă, chuyên cầu tịnh cơi Phật, ắt thành lợi như thế).
Lại nói, chúng sanh
trong cơi ấy đều từ hoa sen hóa sanh, ví như tu pháp
môn Tịnh Độ, do tu nhân bèn đắc
quả, chính là giáo pháp Viên Đốn, Nhất Phật Thừa,
là pháp Bất Nhị. Trong Vô Lượng Thọ Kinh Giảng
Nghĩa, từ trang bốn trăm mười hai đến
trang bốn trăm mười bốn, tôi đă giải thích
rất tường tận, [độc giả] chẳng ngại
tham khảo! V́ sao Pháp Tạng Bồ Tát phải phát ra cái nguyện
trang nghiêm ấy? Là v́ Ngài thấy có những quốc độ
mà chúng sanh trong ấy từ trong thai mẹ sanh ra, toàn bộ
thân thể không ǵ chẳng phải là xương, thịt,
gân, huyết, trưởng thành từ lá nhau (placenta) của mẹ.
Lại c̣n ở trong bụng mẹ, ở lẫn lộn với
phân, tiểu, coi đó là cội nguồn xuất sanh của
họ.
Hoặc là trông thấy
“ḥe cức cao kỳ”: “Ḥe cức” (槐棘): Ở Trung Hoa
vào thời cổ, nhà Châu dùng “tam ḥe cửu cức”[8] để ấn định
[chỗ đứng khi vào chầu vua của] các quan chức
thuộc hàng tam công cửu khanh. “Cao kỳ” (高圻): Chữ
Kỳ (圻) đồng
nghĩa với chữ Kỳ (畿), tức là vào
thời cổ, đất phong rộng ngàn dặm th́ được
gọi là “cao kỳ”. [Câu “ḥe cức cao kỳ xuất
sai cuồng chi tử” ngụ ư] những nhân vật cao
quư như tam công cửu khanh thường sanh ra những đứa
con thần kinh rối loạn, tức là Cuồng, hoặc nghi
ngờ, hận thù, đố kỵ, đó là Sai (猜, đa
nghi); có những đứa con “sai cuồng” (cuồng
dại, nhỏ nhen) như thế ấy, nên nói là “xuất
sai cuồng chi tử”. Như đức Bổn Sư
sanh ra tỳ-kheo Thiện Tinh[9] bài bác chẳng có nhân
quả, do [Thiện Tinh] làm ác nên bị đọa
địa ngục trong khi c̣n sống, chính là một thí dụ.
Hoặc là trông thấy
“thụ tử tỳ phúc”. “Thụ tử” (豎子) là những
kẻ ngu si, yếu đuối, chẳng có năng lực
ǵ, hèn hạ, kém cỏi, bị người khác khinh rẻ.
“Tỳ” (婢) là nô tỳ,
là nữ nhân hạ tiện, nhưng những người ấy
thường có thể sanh ra những nhân tài siêu tuyệt xuất
chúng (ngài Đàm Loan dùng chữ “trác lạc chi tài” để
chỉ các nhân tài ấy). Trong lịch sử Trung Hoa, Cổ
Tẩu[10]
sanh ra vua Thuấn chính là một chứng cứ.
Lời lẽ có xen
lẫn ư tứ châm chọc th́ là “cơ tiếu” (譏誚).
Nếu có t́nh h́nh cha con mà trí ngu, sang
hèn khác biệt như vừa nói trên đây, gặp người
khác thốt lời châm chích, hoặc là bị người khác
coi rẻ, đương nhiên là sẽ cảm thấy rất
sỉ nhục và hổ thẹn.
“Hoài hỏa, băo băng”
(Ấp lửa, ôm băng) chính là từ ngữ h́nh dung sự
khắc khổ ḥng tự khích lệ. “Cơ tiếu do
chi hoại hỏa, sỉ nhục duyên dĩ băo băng”
(Do bị chê cười mà ấp lửa, v́ bị sỉ nhục
mà ôm băng): Hai câu này là do vào thời Xuân Thu Chiến Quốc,
trong truyện Việt Vương Câu Tiễn Quy Quốc Ngoại
Truyện có nói: “Đông thường băo băng, hạ hoàn
ác hỏa, sầu tâm khổ chí, huyền đảm ư hộ,
xuất nhập thường chi” (Mùa Đông thường
ôm băng, mùa Hạ c̣n nắm lửa, sầu tâm khổ chí,
treo một cái mật trên
cửa, ra vào thường nếm). Đấy là sự thật
về việc “tuyết sỉ đồ cường”
(mong mỏi mạnh lên để rửa nhục), dùng [những
chuyện này] để h́nh dung quyến thuộc trong cơi này,
khó đạt được sự trang nghiêm mỹ măn, thường
bị kẻ khác chê gièm, sỉ nhục, cảm thấy thống
khổ và ôm hận.
(Chú) Sở
dĩ nguyện ngôn: Sử ngă quốc độ, tất ư
Như Lai tịnh hoa trung sanh, quyến thuộc b́nh đẳng,
dự đoạt vô lộ. Cố ngôn “Như Lai tịnh hoa
chúng, Chánh Giác hoa hóa sanh”.
(註)所以願言。使我國土。悉於如來淨華中生。眷屬平等。與奪無路。故言如來淨華眾。正覺華化生。
(Chú:
Cho nên nguyện rằng: Khiến cho trong quốc độ
của tôi, do [mọi người] đều sanh từ hoa
thanh tịnh của Như Lai, cho nên quyến thuộc b́nh đẳng,
chẳng có cách nào khen ngợi hay hủy nhục. V́ thế
nói: “Như Lai tịnh hoa chúng, hoa Chánh Giác hóa sanh”).
Do đă
có những nguyên nhân như đă nói trên đây, cho nên Pháp Tạng
Bồ Tát chẳng nỡ thấy chúng sanh chịu khổ,
duyên khởi tâm đại bi, phát nguyện muốn cho khi Ngài
thành Phật, tất cả đại chúng trời, người,
và tam thừa thánh hiền trong cơi nước của Ngài hoàn
toàn xuất sanh từ tâm thanh tịnh (hoa sen) của nhất
tâm nhị môn (Như Lai), chẳng sanh từ cha mẹ. Do đại
chúng được sanh từ tịnh tâm “chúng sanh và Phật
b́nh đẳng” cho nên có thể đạt
được “quyến thuộc nhất loạt b́nh
đẳng”, thanh tịnh trang nghiêm, chẳng có thiện,
ác, tốt, xấu, trí, ngu, sang, hèn sai khác.
“Dự đoạt
vô lộ” tức là nói: Về căn bản, chẳng có chuyện
“dự” (與, tức
xưng dự (稱譽), ca ngợi),
hoặc “đoạt” (奪, hủy
nhục). V́ thế nói: “Như Lai tịnh hoa chúng, Chánh Giác
hoa hóa sanh”.
2.2.1.2.3.1.1.14. Thọ dụng
công đức
(Luận) Ái nhạo Phật pháp vị, Thiền
tam-muội vi thực.
(Chú) Thử nhị cú danh “trang nghiêm thọ dụng
công đức thành tựu”. Phật bổn hà cố hưng
thử nguyện? Kiến hữu quốc độ, hoặc
thám sào phá noăn vi mông nhiêu chi thiện, hoặc huyền sa chỉ
đại vi tương ủy chi phương. Ô hô! Chư
tử thật khả
thống tâm.
(論)愛樂佛法味。禪三昧為食。
(註)此二句名莊嚴受用功德成就。佛本何故興此願。見有國土。或探巢破卵為饛饒之膳。或懸沙指帒為相慰之方。嗚呼。諸子實可痛心。
(Luận:
Yêu thích Phật pháp vị, ăn bằng Thiền tam-muội.
Chú: Hai câu này được
gọi là “trang nghiêm thọ dụng công đức thành tựu”.
Vốn v́ lẽ nào mà Phật dấy lên nguyện này? Do thấy
có quốc độ, hoặc là có kẻ lục ổ phá trứng
để làm bữa ăn sang trọng, ê hề, hoặc kẻ
nghèo túng, đói khát, chỉ đành dùng niềm mong mỏi được bạn bè giúp đỡ để
làm phương cách an ủi chính ḿnh. Than ôi! Các ông thật đáng
đau ḷng).
Nói đến
sự thọ dụng của một cá nhân th́ bao gồm các
chuyện ăn, mặc, cư trụ, hành xử, dục lạc
v.v… Lời Kệ chỉ dùng một chuyện Ăn để
đại diện, những chuyện khác cứ theo đó
suy ra sẽ biết. Các thứ dinh dưỡng có thể
duy tŕ sanh mạng th́ gọi là “thực phẩm”. “Ái
nhạo Phật pháp vị” (Yêu thích pháp vị của Phật),
điều này được gọi là Pháp Hỷ Thực.
“Thiền tam-muội vi thực” (Dùng Thiền Định
làm thức ăn), điều này được gọi là
Thiền Duyệt Thực. Pháp Hỷ thuộc về Huệ,
Thiền Duyệt thuộc về Định, hai thứ này
đều được gọi là Pháp Thực.
Pháp Thân huệ mạng
của đại chúng trong quốc độ An Lạc được
trưởng dưỡng bởi pháp thực Định và
Huệ, cho nên lấy Định Huệ làm thọ dụng.
Như trong phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Kư của
kinh Pháp Hoa, trong lời thọ kư thành Phật cho ngài Măn Từ
Tử (Phú Lâu Na), [đức Phật] cũng nói chúng sanh trong
quốc độ khi ngài Phú Lâu Na thành Phật sẽ thường
dùng hai món thức ăn, một là Pháp Hỷ Thực, hai là
Thiền Duyệt Thực, chẳng nghĩ đến những
thực phẩm khác. Có thể nói là tương đồng
với thế giới Cực Lạc. Không chỉ là một
chuyện ăn uống, mà những thứ khác như quốc
độ trang nghiêm bằng chất báu, thân trang nghiêm trọn đủ
các tướng, thuần nhất là biến
hóa sanh ra, chẳng có nữ nhân và ác đạo v.v… đều
tương tự như Tây Phương Cực Lạc Tịnh
Độ trong hiện tại. Bất quá, phải qua vô
lượng kiếp mai sau, ngài Măn Từ Tử mới thành
Phật trong cơi này, mới có quốc độ trang nghiêm như
thế đó!
Nghe pháp hoan hỷ,
trong tâm có một thứ cảm nhận yêu thích, có thể
duy tŕ huệ mạng, nên nói là “ái nhạo Phật pháp vị”
(yêu thích pháp vị của Phật), đấy chính là “pháp
hỷ dùng làm thức ăn”. Nhập Định đạt
được sự vui sướng khinh an (an vui nhẹ
nhàng) th́ cũng có thể duy tŕ thân mạng, nên nói là “Thiền
tam-muội vi thực” (Thiền tam-muội làm thức ăn). Như
thời Dân Quốc, lăo ḥa thượng Hư Vân nhập Thiền Định
bốn mươi chín ngày chẳng cần ăn uống; đấy
chính là bằng cớ của “Thiền duyệt làm thức
ăn”. Trong kinh luận đă nói có nhiều loại ăn
khác nhau, như kinh Phật Địa nói có hai loại ăn
khác nhau: Một là “pháp vị rộng lớn”, hai là “được
duy tŕ bởi hỷ lạc”. Đấy chính là hai cách ăn
giống như luận này đă nói, đều là vô lậu
thực, chẳng phải là hữu lậu! Như Nhiếp
Đại Thừa Luận nói có bốn cách ăn: Một là
chẳng thanh tịnh, hai là thanh tịnh, ba là tịnh bất
tịnh, và bốn là thị hiện ăn ở, sinh hoạt.
Bốn loại ăn này là do dựa theo người ăn
khác nhau mà phân loại. Loại thứ nhất là nói về chúng
sanh phàm phu trong uế độ. Loại thứ hai là nói tới
tam thừa thánh chúng. Loại thứ ba là ngũ chúng xuất
gia[11] đệ tử của
đức Phật. Loại thứ tư là Phật và các vị
Đẳng Giác Bồ Tát, như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù,
Phổ Hiền. Như kinh Tăng Nhất A Hàm đă nói có
chín loại ăn:
- Một là đoạn
thực, tức là ăn thức ăn [như cách chúng ta cắn,
nhai, nuốt thường ngày].
- Hai là xúc thực,
tức quỷ thần dùng sáu căn tiếp xúc những thực
phẩm do con người cúng bái.
- Ba là tư thực,
như nghĩ đến quả mơ bèn có thể đỡ
khát.
- Bốn là thức
thực, tức A Lại Da Thức duy tŕ sanh mạng thể.
- Năm là Thiền
thực, tức là dùng Thiền duyệt làm thức ăn.
- Sáu là nguyện thực,
tức là dùng nguyện để duy tŕ tấm thân chẳng
hư hoại. Như tôn giả Đại Ca Diếp nhập
định trong núi Kê Túc đợi Di Lặc Bồ Tát giáng
sanh thành Phật.
- Bảy là niệm
thực, tức là niệm Tam Bảo cho đến khi đạt
tới chẳng có phiền năo, vọng tưởng, thân tâm
an lạc, chẳng cần ăn uống mà có thể duy tŕ
sanh mạng.
- Tám là giải thoát
thực, tức là cảnh giới Chỉ và Quán cùng hiện
hữu, Định Huệ viên minh, đoạn hết ngũ
trụ phiền năo, hai thứ sanh tử (Phần Đoạn
và Biến Dịch) vĩnh viễn mất đi, chứng
nhập cảnh giới Đại Niết Bàn (hàng Nhị Thừa
bèn chứng Tiểu Thừa Niết Bàn).
- Chín là hỷ thực,
tức là Pháp Hỷ Thực.
Trong chín loại ăn
ấy, bốn loại đầu đều là hữu lậu,
chỉ có năm loại thọ dụng sau đó mới là
vô lậu, mà cũng là điều chúng ta cần thiết.
Ngài Đàm Loan đă
nêu ra v́ sao Phật Di Đà phải phát cái nguyện
“thọ dụng trang nghiêm” này? Không ǵ chẳng phải
là do Ngài thấy
có những chúng sanh trong các quốc độ v́ để
duy tŕ sanh mạng của chính ḿnh và đạt được
sự hưởng thụ áo cơm phong phú, thường là
do chỉ cầu tự lợi mà chẳng nề hà thủ đoạn,
khó tránh khỏi “mạnh ăn thịt yếu”, giết
hại chúng sanh, oan oan tương báo chẳng có thuở nào
xong, thật đáng buồn đau!
Phật Di Đà
trong lúc tu nhân, do thấy có những người “thám sào phá
noăn” (lục lọi ổ, phá trứng): “Sào” (巢) là chỗ
nghỉ ngơi của các loài chim bay, thú chạy, “noăn”
(卵) là cái để
chúng nó thọ sanh ḥng tiếp tục sanh mạng thể. “Thám
sào phá noăn” tức là giết hại cầm thú. Do phá hoại,
giết hại chúng sanh để làm thức ăn cho chính
ḿnh có thức ăn phong phú; v́ thế
nói là “vị mông nhiêu chi thiện” (để làm bữa
ăn sang trọng, ê hề). “Mông nhiêu” (饛饒) chính là
thức ăn thuộc loại sơn trân hải vị, đă
rất nhiều, mà lại c̣n có h́nh dạng rất đẹp
đẽ. Cổ nhân nói: “Châu môn tửu nhục xú, lộ
hữu đống tử cốt” (Cửa son[12] rượu thịt
bỏ hư, kẻ th́ đói lạnh xương quăng ngoài
đường). Lại nói: “Nhất gia băo noăn thiên gia oán,
bán thế công danh bách thế oan” (Một nhà no ấm, ngàn
nhà oán; nửa kiếp công danh, trăm đời oan). Sự
hưởng thụ vinh hoa phú quư trong thế gian đa số
là do ác nghiệp mà có. Nếu như quư vị có đại phước
báo, sẽ có thể hưởng sự thọ dụng cơm
áo rất tốt đẹp, nhưng sự thọ dụng
ấy chính là cái ḷ ấp để tạo ác nghiệp. Ác
nghiệp đă thành, khó tránh tam đồ! Đó gọi là “đời
này hưởng phước, đời sau là oán gia”. Thọ
dụng kiểu ấy chẳng đáng ham tí nào! Cổ nhân
có một bài thơ răn kiêng giết như sau:
Mạc đạo
quần sanh tánh mạng vi,
Nhất ban cốt
nhục, nhất
ban b́,
Khuyến quân mạc
đả chi đầu điểu,
Tử tại sào trung
vọng mẫu quy.
(Đừng cho mạng
vật chẳng ra ǵ,
Cũng thịt, xương,
da, há khác chi,
Khuyên chàng đừng
giết chim đầu nhánh,
Trong
tổ, chim non ngóng mẹ về).
Do vậy, trong kinh
Phạm Vơng, đức Phật đă dạy kiêng ăn thịt:
“Nhất thiết chúng sanh nhục bất đắc thực.
Thực nhục giả, đoạn đại từ bi Phật
tánh chủng tử, nhất thiết chúng sanh kiến nhi xả
khứ, thực nhục đắc vô lượng tội”
(Chẳng được ăn thịt hết thảy chúng
sanh. Kẻ ăn thịt dứt bặt chủng tử Phật tánh đại từ bi. Hết thảy chúng
sanh trông thấy sẽ ĺa bỏ [kẻ ấy]. Ăn thịt
sẽ mắc vô lượng tội).
“Huyền sa chỉ
đại, vi tương ủy chi phương”: Đấy
là nói đến những kẻ chẳng có phước báo,
chẳng được thọ dụng cơm áo. Tuy suốt
đời vất vả, vẫn là thân c̣m, mặt choắt,
cuộc sống nghèo túng, thiếu thốn, suốt ngày ao ước,
khao khát sẽ khỏi lo âu v́ cơm áo. Đó gọi là “huyền
sa” (懸沙)[13] cũng tức là mong
ngóng, khao khát vậy. “Chỉ đại” (指帒): Chữ
Đại (帒) đồng
nghĩa với chữ Đại (袋, cái đăy). “Chỉ
đại” có cùng nghĩa với “chỉ khuân” (指囷)[14], có nghĩa là bạn
bè giúp đỡ lẫn nhau [bằng tiền bạc, lương
thực]. Điển cố này xuất từ truyện Lỗ
Túc trong Tam Quốc Chí: “Châu Do đứng đầu vùng Cư
Sào (nay là huyện Sào tỉnh An Huy), làm thủ lănh của mấy
trăm người, cố ư tới thăm Lỗ Túc, và xin
giúp đỡ lương thực. Nhà Lỗ Túc có hai kho gạo,
mỗi kho chứa ba ngàn hộc gạo, Lỗ Túc bèn chỉ
một kho, đưa cho Châu Do. Châu Do càng hiểu Lỗ Túc là
bậc kỳ nhân vậy”. V́ thế nói: “Huyền sa chỉ
đại, vi tương ủy chi phương”, tức
là nói kẻ bần khổ chẳng được hưởng
cơm no áo ấm, chỉ mong ngóng, khát khao trong tương
lai sẽ đạt được [cơm no áo ấm], cũng
mong mỏi bạn bè thân quen có thể ra sức giúp đỡ,
dùng điều mơ tưởng ấy để tự
an ủi mà thôi!
Đối với
những điều vừa nói trên đây, kẻ có phước
báo và người không phước báo tuy thọ dụng về
cơm áo có sự sướng khổ khác biệt vời vợi,
nhưng nghiệp quả tuần hoàn, luân hồi trong sáu đường,
sanh tử vô lượng, không ai chẳng giống nhau! V́ thế,
ngài Đàm Loan cảm thán nói: “Ô hô chư tử, thật
khả thống tâm!” (Than ôi! Các ông thật đáng đau
ḷng). Người có trí huệ giả sử có thể biết
“hết thảy các sự hưởng thụ dư dật,
tốt đẹp trong thế gian là chẳng tốt đẹp,
chẳng viên măn, chẳng dài lâu, chẳng rốt ráo như thế
đó, chúng chẳng thể khiến cho con người tam nghiệp
thanh tịnh, ḿnh lẫn người đều được
lợi ích liễu sanh thoát tử, vĩnh viễn hưởng
vui sướng”, sẽ thật sự chẳng cần phải
truy cầu chẳng ngớt, ắt sẽ chẳng tham đắm,
chẳng bỏ được. Dẫu cầu chẳng được,
th́ cũng chẳng đến nỗi phải oán trời, hờn
người, làm càn, làm quấy, gian dối, trốn thuế,
[khiến cho] ḿnh lẫn người đều có hại.
Trong Thập Lai Kệ,
đức Phật đă nói: “Bần cùng giả xan tham
trung lai” (Người
nghèo túng là v́ do keo tham mà ra). Đời
này thọ dụng nghèo túng, thiếu thốn, chính là quả
báo do đời trước đă keo tham. Mong cầu chuyển
nghèo thành giàu, đạt được sự hưởng
thụ tốt đẹp, th́ chỉ có cách siêng hành bố
thí. Đấy chính là nhân quả thế gian. Muốn có một
quốc độ an lạc, hết thảy thọ dụng
tự nhiên, th́ phải tu pháp môn ngũ niệm viên măn, trọn
đủ, [cho đến khi] bỏ báo thân này, văng sanh Tịnh
Độ, tất nhiên là chẳng có các nỗi khổ, chỉ
hưởng những sự vui. Nhân quả vốn là như
vậy đấy, quyết định là như thế đấy!
(Chú) Thị cố
hưng đại bi nguyện, nguyện ngă quốc độ,
dĩ Phật pháp, dĩ Thiền Định, dĩ tam-muội
vi thực, vĩnh tuyệt tha thực chi lao. “Ái nhạo Phật
pháp vị” giả, như Nhật Nguyệt Đăng Minh
Phật thuyết Pháp Hoa kinh lục thập tiểu kiếp,
thời hội thính giả, diệc tọa nhất xứ,
lục thập tiểu kiếp, vị như thực khoảnh,
vô hữu nhất nhân, nhược thân, nhược tâm, nhi
sanh giải quyện. “Dĩ
Thiền Định vi thực” giả,
vị chư đại Bồ Tát thường tại
tam-muội, vô tha thực dă. Tam-muội giả, bỉ chư
nhân thiên nhược tu thực thời, bách vị gia hào, la
liệt tại tiền, nhăn kiến sắc, tỵ văn hương,
thân thọ thích duyệt, tự nhiên băo túc. Ngật dĩ hóa
khứ, nhược tu phục hiện. Kỳ sự tại
kinh, thị cố ngôn: “Ái nhạo Phật pháp vị, Thiền
tam-muội vi thực”.
(註)是故興大悲願。願我國土。以佛法。以禪定。以三昧為食。永絕他食之勞。愛樂佛法味者。如日月燈明佛說法華經六十小劫。時會聽者。亦坐一處六十小劫。謂如食頃。無有一人。若身若心。而生懈倦。以禪定為食者。謂諸大菩薩常在三昧。無他食也。三昧者。彼諸人天若須食時。百味嘉餚。羅列在前。眼見色。鼻聞香。身受適悅。自然飽足。訖已化去。若須復現。其事在經。是故言「愛樂佛法味。禪三昧為食」。
(Chú:
V́ thế, dấy lên nguyện đại bi, nguyện quốc
độ của tôi dùng Phật pháp, dùng Thiền Định,
dùng tam-muội làm thức ăn, vĩnh viễn dứt bỏ
nỗi nhọc nhằn v́ các thức ăn khác. “Yêu thích pháp
vị của Phật” là như Nhật Nguyệt Đăng
Minh Phật nói kinh Pháp Hoa suốt sáu mươi tiểu kiếp.
Người nghe trong hội khi ấy cũng ngồi tại
một chỗ suốt sáu mươi tiểu kiếp, mà ngỡ
là trong khoảng một bữa ăn. Chẳng có một ai dù
thân hay tâm sanh lười nhác, mệt mỏi. “Dùng Thiền Định
làm thức ăn” là nói các vị đại Bồ Tát thường
ở trong tam-muội, không ăn chi khác. “Tam-muội” là các trời,
người trong cơi đó, nếu lúc cần ăn, các món ăn
ngon trăm vị sẽ bày ra la liệt trước mặt.
Mắt thấy sắc, mũi ngửi hương, thân cảm
thấy vui thích, tự nhiên no đủ. Ăn xong, [những
thứ ấy] biến mất; nếu cần, chúng lại
hiện ra. Chuyện này trích từ trong kinh, cho nên nói: “Yêu thích
Phật pháp vị, ăn bằng Thiền tam-muội”).
Đă có những
nguyên nhân như đă nói trên đây, cho nên Pháp Tạng Bồ
Tát hưng khởi tâm nguyện đại bi, nguyện khi
Ngài thành Phật, chúng sanh trong cơi nước [của Ngài] chỉ
dùng Định Huệ xuất thế làm thức ăn, vĩnh
viễn chẳng cần bốn cách ăn hữu lậu như
trong các thế gian khác. Ngài Đàm Loan dẫn dụng những
điều được nói trong phẩm Tự của
kinh Pháp Hoa “trong quá khứ, Nhật Nguyệt Đăng Minh
Phật giảng kinh Pháp Hoa, thính chúng đều đắc
Pháp Hỷ Thực” để chứng minh. Đại chúng
trong thế giới An Lạc cũng có thể yêu thích pháp vị
của Phật y hệt như vậy, chẳng cần những
thứ thực phẩm khác! Kế đến, Ngài nói rơ chúng
sanh trong cơi ấy đă làm như thế nào để có thể
lấy Thiền Định làm thức ăn? V́ họ đều
đắc tam-muội, thường ở trong Chánh Định,
từ trong Định xuất hiện thức ăn trăm
vị, bày đầy trước mắt. Do trong Định,
Ư Thức thấy sắc, ngửi hương, thân thể sẽ
cảm nhận sự thoải mái, vui sướng, chẳng
c̣n cần những thức ăn khác!
“Kỳ sự tại
kinh” (Chuyện này có chép trong kinh), tức là nói chuyện này phát xuất
từ kinh Vô Lượng Thọ: “Chư văng sanh giả…
sở xử cung điện, y phục, ẩm thực, chúng
diệu hoa hương, trang nghiêm chi cụ, do Đệ Lục
Thiên tự nhiên chi vật. Nhược ẩm thực thời,
thất bảo bát khí tự nhiên tại tiền, kim, ngân, lưu
ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, minh nguyệt, chân châu. Như
thị chư bát, tùy ư nhi chí, bách vị ẩm thực, tự
nhiên doanh măn. Tuy hữu thử thực, thật vô thực
giả, đản kiến sắc, văn hương, ư dĩ
vi thực, tự nhiên băo túc, thân tâm nhu nhuyễn, vô sở vị
trước. Sự dĩ hóa khứ, thời chí phục hiện.
Bỉ Phật quốc độ, thanh tịnh an ổn, vi
diệu khoái lạc, thứ ư vô vi Nê Hoàn chi đạo”
(Những người văng sanh… th́ cung điện họ ở,
y phục, thức ăn uống, các thứ hoa, hương
mầu nhiệm, các vật trang nghiêm, ví như những món
vật tự nhiên trong Đệ Lục Thiên. Nếu đến
lúc ăn uống, bát chén bằng bảy báu tự nhiên hiện
ra trước, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô,
hổ phách, minh nguyệt, chân châu, những bát như vậy,
thuận theo ư nghĩ mà hiện đến. Thức ăn trăm
vị tự nhiên đầy ắp [trong chén bát]. Tuy có những
thức ăn ấy, nhưng thật sự chẳng ăn,
chỉ thấy sắc, ngửi hương, bèn nghĩ là đă
ăn, tự nhiên no đủ, thân tâm mềm mại, chẳng
tham đắm mùi vị. Xong việc, [những thứ ấy]
bèn biến mất, đến thời lại hiện ra. Cơi
nước Phật ấy thanh tịnh an ổn, vui sướng
vi diệu, chỉ kém đạo vô vi Nê Hoàn).
2.2.1.2.3.1.1.15. Vô chư
nạn công đức (công đức không có các
nạn)
(Luận) Vĩnh ly thân tâm năo, thọ lạc
thường vô gián.
(Chú) Thử nhị cú danh “trang nghiêm vô chư
nạn công đức thành tựu”. Phật bổn hà cố
hưng thử nguyện? Kiến hữu quốc độ,
hoặc triêu dự cổn sủng, tịch hoàng phủ việt.
Hoặc ấu xả bồng lê, trưởng liệt Phương
Trượng. Hoặc minh già đạo xuất, lịch
kinh thôi hoàn. Hữu như thị đẳng chủng chủng
vi đoạt.
(論)永離身心惱。受樂常無間。
(註)此二句名莊嚴無諸難功德成就。佛本何故興此願。見有國土。或朝預袞寵。夕惶斧鉞。或幼捨蓬藜。長列方丈。或鳴笳道出。歷經催還。有如是等種種違奪。
(Luận:
Măi ĺa thân tâm năo, thường hưởng vui chẳng ngừng.
Chú: Hai câu này
được gọi là “trang nghiêm công đức thành tựu
không có các nạn”. Vốn v́ lẽ nào mà đức Phật
dấy lên nguyện này? Do Ngài thấy có cơi nước, sáng
vui v́ được vua sủng ái, tối đă kinh hoàng v́ búa ŕu. Hoặc
thuở bé lây lất nơi lều tranh, lớn lên dự vào
chốn đảo tiên Phương Trượng. Hoặc
thổi kèn lên đường [xuất chinh], nhiều lượt
bị giục giă rút quân về. Có những thứ mất mát
ngang trái như vậy).
Bất
luận khổ năo nơi thân hoặc tâm, quốc độ
An Lạc đều chẳng có. Do vậy gọi là “trang
nghiêm công đức thành tựu không có các nạn”. Đấy
chính là như kinh A Di Đà đă nói: “Vô hữu chúng khổ,
đản thọ chư lạc” (Chẳng có các nỗi
khổ, chỉ hưởng những niềm vui). Do là liên
hoa hóa sanh, cho nên tấm thân hư vô, bản thể vô cực
(chẳng có vật chất). V́ vậy, chẳng có hết thảy
các nỗi khổ về cảm nhận nơi thân thể.
Tuy có chủng tử phiền năo, nhưng thiếu duyên, cho nên
[các chủng tử ấy] chẳng khởi [hiện hành]. V́
vậy, chẳng có những khó khăn, phiền năo nơi tâm
lư. Như kinh Vô Lượng Thọ đă nói: “Vô hữu
tam đồ khổ nạn chi danh, đản hữu tự
nhiên khoái lạc chi âm. Thị cố kỳ quốc danh vi An
Lạc” (Chẳng có danh xưng tam đồ khổ nạn,
chỉ có âm thanh vui sướng tự nhiên. V́ thế, cơi ấy
có tên là An Lạc).
Lại như trong
bổn nguyện, điều nguyện thứ ba mươi
chín là: “Thiết ngă đắc Phật, quốc trung thiên
nhân, sở thọ khoái lạc, bất như Lậu Tận
tỳ-kheo giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu tôi thành
Phật mà trời người trong nước chẳng hưởng
niềm vui sướng như bậc tỳ-kheo Lậu Tận,
tôi sẽ chẳng giữ lấy Chánh Giác). Lại nữa,
trong nguyện thứ mười lăm, tức là điều
nguyện về tuổi thọ của mỗi người
[trong cơi An Lạc] dài hay ngắn thuận theo ư nguyện. Điều
nguyện thứ mười là nguyện chẳng dấy khởi
ư niệm tham đắm, so đo. Cho nên có thể đạt
được sự hưởng lạc đến tột
cùng đời vị lai chẳng gián đoạn! V́ sao lúc
tu nhân, Phật Di Đà phải phát khởi nguyện trang
nghiêm “không có các nạn”? Ngài Đàm Loan đă nêu ra ba nguyên nhân:
1) Thứ nhất là
do Ngài trông thấy có các quốc độ, chúng sanh trong ấy
trong suốt
một đời phải chịu
nỗi đau khổ họa
phước vô thường. Một loại
[đau khổ là] từ giàu chuyển thành
nghèo, từ sang trở thành hèn, từ phước trở
thành họa! Chẳng hạn như một vị quư nhân làm
quan hiển đạt, vào lúc sáng sớm vẫn c̣n chức
vị, tức là ở dưới một người, ở
trên muôn người. Đó gọi là “triêu dự cổn sủng”
(sáng được hưởng sự sủng ái của người
mặc áo cổn[15], tức nhà vua), vinh
diệu sánh chi bằng? Nhưng thường là đến
tối, sẽ v́ lầm lỗi mà bị băi chức, thậm
chí bị xử tử, đó gọi là “tịch hoàng phủ
việt” (tối kinh hoàng v́ búa ŕu), buồn đau chi bằng?
Tục ngữ có câu: “Triêu vi ṭa thượng tân, tịch
tác bệ hạ tù” (Sáng làm thượng khách ṭa cao, tối
thành tù tội dưới sân bệ rồng). Lại nói: “Thiên
hữu bất trắc chi phong vân, nhân hữu đán tịch
chi họa phước” (Trời th́ mưa gió không ngờ,
người th́ sáng tối tai ương chẳng lường).
Thế giới của chúng ta chẳng phải là như vậy
ư?
2) Một loại khác là từ
nghèo chuyển thành giàu, từ hèn hạ trở thành sang quư.
Chẳng hạn như một người tuổi thơ
nghèo khổ, sống trong một căn cḥi tồi tàn lợp
bằng cỏ dại. Về sau, do có nhân duyên phước báo
tốt đẹp, đến tuổi trưởng thành, công
danh thành tựu, vinh hoa phú quư, chỗ ở giống như tiên
đảo (Phương Trượng, Bồng Lai, và Doanh Châu, gọi
là ba đảo tiên trong biển). Hưởng lạc như
thế ấy. Thế nhưng, vô thường mau chóng, chớp
mắt đă chẳng c̣n ǵ! Vui quá hóa buồn, cảm nhận
nỗi đau khổ càng khó thể h́nh dung! Do vậy, vị
Tổ thứ hai của Tịnh Tông là Thiện Đạo đại
sư đă làm bài kệ khuyên đời như sau:
Tiệm tiệm kê
b́ hạc phát,
Khán khán hành bộ
lung chung,
Túng nhiêu kim ngọc
măn đường,
Khởi miễn suy
tàn bệnh khổ,
Nhậm nhữ thiên
ban khoái lạc,
Vô thường
chung thị đáo lai,
Duy hữu kính lộ
tu hành,
Đản niệm
A Di Đà Phật.
(Dần dần da gà,
tóc hạc,
Nh́n xem chân bước
liêu xiêu,
Dẫu cho vàng ngọc
đầy nhà,
Há khỏi suy tàn bệnh
khổ?
Mặc ngươi
khoái lạc muôn vàn,
Rốt cuộc vô
thường xảy tới,
Chỉ có đường
tắt tu hành,
Chỉ niệm A Di
Đà Phật).
Đấy
chẳng phải là lời cảnh cáo hay nhất đấy
sao?
3) Tuy không có những
nỗi khổ năo tốt, xấu, được, mất đột
nhiên chuyển biến như vậy, nhưng chuyện khiến
cho người ta chẳng vừa ư th́ thường là mười
chuyện có đến tám chín! Như sanh ly tử biệt
v.v… khiến cho thân tâm quư vị cảm nhận “chí lớn
chưa thành, thân đă chết trước, măi măi khiến
cho anh hùng lệ tuôn đẫm áo”, phải cam đành bi
thống, than thở áo năo!
Đó gọi là “minh
già đạo xuất, lịch kinh thôi hoàn” (thổi kèn lên
đường xuất chinh, nhiều lần bị giục
giă rút về): Già (笳) tức
là hồ già (胡笳), là một
loại ống địch[16], dài hai thước
bốn tấc, có ba lỗ. “Minh già” (鳴笳) tức
là thổi ống địch hồ già. Vào thời cổ,
hễ ra trận, ban ngày dùng tinh kỳ (旌旗, cờ
hiệu) để điều khiển, ban đêm dùng trống
sắt, hồ già để làm quân lệnh. Như vị trung
thần đời Tống là Nhạc Phi vốn được
Tần Cối sai đi đánh dẹp quân Kim, suất lănh mấy
chục vạn đại quân, ra trận hết sức hùng
tráng. Đó gọi là “minh già đạo xuất” (thổi
hồ già lên đường), nhưng bị Tể Tướng
Tần Cối đố kỵ, giả danh hoàng đế hạ
lệnh, liên tiếp ban xuống mười hai tấm kim bài [trong một ngày], giục
giă ông phải lui binh. Cuối cùng, [Tần Cối] giết chết
Nhạc Phi. Đấy không chỉ là “lịch kinh thôi hoàn” (nhiều
lần bị giục giă rút binh), mà c̣n là táng
thân mất mạng. Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc tại
Trung Hoa, trên dưới giao tranh, công kích lẫn nhau, thường
có những t́nh huống tương tự. Do vậy, ngài Đàm
Loan dẫn chứng để làm thí dụ. Lại như vào
thời Hán, Vương Chiêu Quân tuân lệnh vua gả cho vua Hung
Nô; thuở ấy, có thơ rằng:
Bồ đào mỹ
tửu dạ quang bôi,
Dục băo tỳ bà
thượng mă thôi,
Khuyến quân cánh tận
tam bôi tửu,
Tây xuất Dương
Quan vô cố nhân.[17]
Đấy cũng
là “minh già đạo xuất,
lịch kinh thôi hoàn”. Loại
sanh ly tử biệt này là t́nh huống đúng là không
thể làm sao được! “Hữu như thị đẳng
chủng chủng vi đoạt” (Có những thứ mất
mát ngang trái như thế đó): Câu này là lời tổng kết.
Thế gian có đủ mọi thứ chẳng thuận ḷng người như
thế đó, dời đổi vô thường, sanh khởi
tai nạn khổ năo, xác thực là chuyện rất phổ
biến, rất đáng đau buồn!
(Chú) Thị cố
nguyện ngôn: Sử ngă quốc độ an lạc tương
tục, tất cánh vô gián. Thân năo giả, cơ, khát, hàn, nhiệt,
sát hại đẳng dă. Tâm năo giả, thị, phi, đắc,
thất, tam độc đẳng dă. Thị cố ngôn “vĩnh
ly thân tâm năo, thọ lạc thường vô gián”.
(註)是故願言。使我國土。安樂相續。畢竟無間。身惱者。飢渴寒熱殺害等也。心惱者。是非得失三毒等也。是故言「永離身心惱。受樂常無間」。
(Chú: V́ thế
nguyện rằng: Khiến cho quốc độ của tôi
an vui liên tục, rốt ráo chẳng gián đoạn. “Khổ
năo nơi thân” là đói, khát, lạnh, nóng, giết hại
v.v… “Khổ năo nơi tâm” là đúng, sai, được, mất,
tam độc v.v… V́ thế nói: “Măi ĺa
thân tâm năo, thường hưởng vui chẳng ngừng”).
Có những nguyên
nhân như vừa nói trên đây, cho nên Pháp Tạng Bồ Tát
phát nguyện: Nếu khi Ngài thành Phật, quốc độ
của
Ngài chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng các
niềm vui, lại c̣n thường hưởng an lạc,
chẳng bị vui quá hóa buồn. Đó gọi là “an lạc
tương tục, tất cánh vô gián” (yên vui
liên tục, rốt ráo chẳng
bị gián đoạn). Sự khổ năo nơi thân là ǵ?
Đói, khát, lạnh, nóng khiến cho thân thể của quư vị
có một loại khổ thọ (cảm nhận đau khổ), cho đến
bị kẻ khác sát hại, sanh ly tử biệt, nỗi thống
khổ ấy càng to! Sự khổ năo nơi tâm là ǵ? Trong các
mối quan hệ giữa con người với nhau, th́ đúng,
sai, được, mất, cho đến Tam Độc
tham, sân, si, và hết thảy Kiến, Tư, Vô Minh phiền
năo đều là nó, nhiều như số lượng vi trần,
chẳng chuốc vời mà cứ xảy đến, đuổi
đi chẳng được! Nếu
chẳng tu đạo, trọn chẳng thể tránh khỏi.
Do vậy, vào thời Minh, La Trạng Nguyên viết bài thơ
Tỉnh Thế (cảnh tỉnh cơi đời) có đoạn:
“Triêu triêu mộ mộ doanh gia kế, thị thị phi phi
bạch liễu đầu” (Sáng tối bon chen lo kiếm
sống, đúng đúng sai sai bạc trắng đầu).
[Do thấy] những nỗi khổ năo nơi thân tâm như
thế, ngài
Pháp Tạng phát nguyện: Phàm là đại chúng sanh về
Cực Lạc quốc, sẽ hoàn toàn chẳng có [những
nỗi khổ ấy]. Theo như kinh Vô Lượng Thọ
đă nói: “Kỳ hữu chúng sanh, sanh bỉ quốc giả,
giai tất cụ túc tam thập nhị tướng” (Có
chúng sanh nào sanh về cơi ấy sẽ đều trọn đủ
ba mươi hai tướng). Đă có ba mươi hai tướng
và tám mươi thứ hảo, đương nhiên là có thể
ĺa khỏi hết thảy khổ năo nơi phương diện
thân thể. Kinh lại nói: “Trí huệ thành măn… thần thông
vô ngại… đắc bất khả kế Vô Sanh Pháp Nhẫn…
giai đương cứu cánh Nhất Sanh Bổ Xứ”
(Trí huệ thành tựu viên măn… thần thông vô ngại… đạt
được chẳng thể tính Vô Sanh Pháp Nhẫn… sẽ
đều rốt ráo Nhất Sanh Bổ Xứ). Điều
này c̣n thù thắng vượt trỗi sự đại
triệt đại ngộ của Thiền Tông, đương
nhiên là xa ĺa hết thảy khổ năo nơi tâm.
Lại nói: “Năi chí
thành Phật, bất thọ ác thú, thần thông tự tại,
thường thức Túc Mạng, nhất thực chi khoảnh,
văng nghệ thập phương vô lượng thế giới,
cung kính cúng dường chư Phật. Dĩ vi diệu âm,
ca thán Phật đức, thính thọ kinh pháp, hoan hỷ vô
lượng, mạc bất tâm giải đắc đạo…
Đương tư chi thời, hy di khoái lạc, bất
khả thắng ngôn… Ư kỳ quốc độ, sở
hữu vạn vật, vô ngă sở tâm, vô nhiễm trước
tâm, khứ lai tấn chỉ, t́nh vô sở hệ, tùy ư tự
tại, vô sở thích mạc, vô bỉ, vô ngă, vô cạnh, vô
tụng… diệt chư phiền năo, ly ác thú tâm” (Cho đến
khi thành Phật, chẳng thọ thân trong đường ác,
thần thông tự tại, thường biết Túc Mạng.
Trong khoảng một bữa ăn, đi đến vô
lượng thế giới trong mười phương, cung
kính cúng dường chư Phật. Dùng âm thanh vi diệu, ca
tụng, tán thán Phật đức, nghe nhận kinh pháp, hoan
hỷ vô lượng, không ai mà chẳng tâm thông hiểu, đắc
đạo… Ngay trong lúc ấy, khoan khoái, vui sướng, chẳng
thể kể xiết… Trong quốc độ ấy, đối
với tất cả vạn vật, không có tâm ngă sở, không
có tâm đắm nhiễm. Đến, đi, cư xử, không
bị t́nh kiến buộc ràng, tùy ư tự tại, không có yêu
ghét, không người, không ta, chẳng tranh giành, chẳng
tranh tụng… diệt các phiền năo, tâm ĺa đường
ác).
Trong kinh ấy, đức
Bổn Sư khuyến cáo đại chúng rằng: “Hựu
kỳ quốc độ vi diệu an lạc thanh tịnh
nhược thử, nghi các cần tinh tấn,
nỗ lực tự cầu chi, tất đắc siêu tuyệt
khứ, văng sanh An Lạc quốc, ác đạo tự nhiên bế,
thăng đạo vô cùng cực, khả đắc cực
trường sanh, thọ lạc vô hữu cực” (Lại
nữa, quốc độ ấy vi diệu an vui thanh tịnh
dường ấy, ai nấy hăy nên siêng năng tinh tấn, nỗ
lực tự cầu, ắt sẽ được vượt
thoát, dứt khỏi (cơi Sa Bà), sanh về cơi An Lạc, đường
ác tự nhiên đóng lại, vượt lên Phật đạo
chẳng có cùng cực, sẽ có thể đạt được
trường sanh tột bậc, thọ mạng và vui sướng
chẳng có cùng cực). Do vậy, Luận Chủ phát nguyện,
viết kệ rằng: “Vĩnh ly thân tâm năo, thọ lạc
thường vô gián… phổ cộng chư chúng sanh, văng sanh An
Lạc quốc” (Vĩnh viễn ĺa khỏi nỗi khổ
nơi thân, tâm, thọ mạng và vui sướng thường
chẳng gián đoạn… nguyện
cùng khắp các chúng sanh, sanh về cơi An Lạc).
2.2.1.2.3.1.1.16. Đại
nghĩa môn công đức
(Luận) Đại Thừa thiện căn
giới, đẳng vô cơ hiềm danh, nữ nhân cập
căn khuyết, Nhị Thừa chủng bất sanh.
(Chú) Thử tứ cú danh “trang nghiêm đại
nghĩa môn công đức thành tựu”. Môn giả, thông đại
nghĩa chi môn dă. Đại nghĩa giả, Đại Thừa
sở dĩ dă. Như nhân tạo thành, đắc môn tắc
nhập. Nhược nhân đắc sanh An Lạc giả, thị
tắc thành tựu Đại Thừa chi môn dă.
(註)此四句名莊嚴大義門功德成就。門者通大義之門也。大義者。大乘所以也。如人造城。得門則入。若人得生安樂者。是則成就大乘之門也。
(Luận:
Giới thiện căn Đại Thừa, trọn không tên
chê gièm, nữ nhân và căn khuyết, giống Nhị Thừa
chẳng sanh.
Chú: Bốn câu
này được gọi là “trang nghiêm đại nghĩa môn
công đức thành tựu”. Môn là cửa để thông vào đại
nghĩa. “Đại nghĩa” là nguyên do của Đại
Thừa vậy. Như người ta xây thành, đến được
cửa sẽ vào được thành. Nếu ai được
sanh về An Lạc tức là thành tựu cửa của Đại
Thừa vậy).
Trước hết,
ngài Đàm Loan giải thích, phân tích, vị Luận Chủ nói
“đại nghĩa môn công đức thành tựu”. Nói
đơn giản, sanh về Cực Lạc là đă thành tựu
Đại Thừa nghĩa môn. Đấy chính là như kinh
Vô Lượng Thọ đă nói: “Kỳ hữu chúng sanh,
sanh bỉ quốc giả, giai tất trụ ư Chánh Định
chi tụ” (Có những chúng sanh sanh về cơi ấy thảy
đều trụ trong Chánh Định Tụ). Nói đến
Chánh Định Tụ th́ là bậc Bồ Tát văng sanh đắc
Bất Thoái Chuyển. Đấy chính là công đức thành
tựu của nguyện thứ mười một trong bổn
nguyện của A Di Đà Phật. Những điều khác
dễ hiểu.
(Chú) Phật bổn
hà cố hưng thử nguyện? Kiến hữu quốc
độ, tuy hữu Phật Như Lai hiền thánh đẳng
chúng, do quốc trược cố, phân nhất thuyết tam,
hoặc dĩ thác mi trí tiếu, hoặc duyên chỉ ngữ
chiêu cơ.
(註)佛本何故興此願。見有國土。雖有佛如來賢聖等眾。由國濁故分一說三。或以拓眉致誚。或緣指語招譏。
(Chú: Vốn
v́ lẽ nào mà đức Phật dấy lên nguyện này? Do
Ngài thấy có quốc độ tuy có Phật Như Lai, các
vị hiền thánh v.v… nhưng do cơi nước dơ bẩn,
nên tách Nhất Thừa nói thành ba, hoặc do tách [pháp Nhất
Thừa] thành pháp Nhị Thừa mà đến nỗi bị
chê trách, hoặc do thốt lời chỉ dạy mà chuốc
lấy tiếng gièm báng).
V́ sao Phật Di Đà
phải phát ra cái nguyện Đại Thừa nghĩa môn? Đấy
chính là v́ do Ngài thấy có quốc độ tuy có Phật và
thánh hiền tăng, nhưng v́ thế giới họ đang
sống là ngũ trược ác thế, đức Phật
bất đắc dĩ từ Thật mà hành Quyền, [tức
là] phương tiện đem một pháp Nhất Thừa tách
ra, nói thành tam thừa. Như trong phẩm Phương Tiện
của kinh Pháp Hoa đă nói: “Nhược đản tán Phật
Thừa (Nhất Thừa), chúng sanh một tại khổ, bất
năng tín thị pháp, phá pháp bất tín cố, đọa ư
tam ác đạo, tầm niệm quá khứ Phật, sở
hành phương tiện lực, ngă kim sở đắc đạo,
diệc ưng thuyết tam thừa” (Nếu chỉ tán Phật
Thừa (Nhất Thừa), chúng sanh ch́m trong khổ, chẳng
thể tin pháp này, do phá pháp chẳng tin, đọa trong ba ác
đạo, suy nghĩ quá khứ Phật, đều hành sức
phương tiện, ta nay đă đắc đạo, cũng
nên nói tam thừa). Đây hoàn toàn là v́ nhằm thích ứng phù
hợp căn cơ, nên bèn có cách nói tam thừa phân biệt khác
nhau. “Hoặc dĩ thác mi trí tiếu” (Hoặc do tách lông
mày ra mà đến nỗi bị cười chê): “Thác”
(拓) đọc
như Thác (託), nghĩa
là mở. “Tiếu” (誚) là quở
trách. “Thác mi trí tiếu” có nghĩa là đức Phật
do Thật mà khai Quyền, đem pháp Đại Thừa vốn
b́nh đẳng một vị, tách ra thành nhị thừa (như
[tách ra thành] hai cái lông
mày), hoặc là các pháp sai biệt tam thừa, ngũ thừa,
khó tránh bị chư Phật quở trách.
“Hoặc duyên chỉ
ngữ chiêu cơ” (Hoặc v́ thốt lời chỉ dạy
mà chuốc lấy tiếng gièm báng): “Chỉ” (指) là bảo
ban, ư nói những lời chỉ dạy. “Chỉ ngữ
chiêu cơ” tức là đức Phật trước hết
từ Nhất Thừa mà tách ra thành tam thừa; đối
với các đệ tử có căn tánh tam thừa, bèn chỉ
rơ, bảo ban, giáo hóa pháp tam thừa sai biệt. Về sau, cho
đến trong hội Pháp Hoa, Ngài lại khai Quyền hiển
Thật (vạch rơ các giáo pháp trước đó là quyền
biến, hiển lộ pháp Nhất Thừa chân thật), nói
chỉ có một Phật Thừa (Nhất Thừa), không hai
(tức Nhị Thừa), mà cũng không ba (Tam Thừa). Lời
chỉ dạy như vậy trước sau có mâu thuẫn,
sẽ bị người khác chê gièm. Như trong phẩm Phương
Tiện của kinh Pháp Hoa có nói: “Phật tự trụ Đại
Thừa, như kỳ sở đắc pháp, Định Huệ
lực trang nghiêm, dĩ thử độ chúng sanh, tự chứng
Vô Thượng đạo, Đại Thừa b́nh đẳng
pháp, nhược dĩ Tiểu Thừa hóa, năi chí ư nhất
nhân, ngă tắc đọa xan tham, thử sự vi bất khả”
(Phật tự trụ Đại Thừa, như pháp Ngài đă
đắc, sức Định Huệ trang nghiêm, dùng pháp ấy
độ sanh, tự chứng đạo Vô Thượng. Pháp
Đại Thừa b́nh đẳng. Nếu dạy bằng Tiểu
Thừa, dẫu chỉ dạy một người, ta bèn đọa
keo tham, chuyện ấy chẳng thể được).
(Chú) Thị cố
nguyện ngôn, sử ngă quốc độ, giai thị Đại
Thừa nhất vị, b́nh đẳng nhất vị, căn
bại chủng tử, tất cánh bất sanh, nữ nhân, tàn
khuyết, danh tự diệc đoạn. Thị cố ngôn
“Đại Thừa thiện căn giới, đẳng vô cơ
hiềm danh, nữ nhân cập căn khuyết, Nhị Thừa
chủng bất sanh”.
(註)是故願言。使我國土。皆是大乘一味。平等一味。根敗種子。畢竟不生。女人。殘缺。名字亦斷。是故言「大乘善根界。等無譏嫌名。女人及根缺。二乘種不生」。
(Chú: V́ thế
nguyện rằng: Khiến cho quốc độ của tôi
đều là một vị Đại Thừa, một vị
b́nh đẳng. Căn bại chủng tử, rốt ráo chẳng
sanh [vào cơi nước của tôi]. Danh xưng nữ nhân, tàn
tật cũng dứt bặt. V́ thế nói: “Giới thiện
căn Đại Thừa, b́nh đẳng, không có tên chê gièm, nữ
nhân và căn thiếu, giống Nhị Thừa chẳng sanh”).
Đă có những nguyên
nhân như vừa nói trên đây, cho nên trong lúc tu nhân, Phật
Di Đà bèn phát nguyện: Khi tôi thành Phật, quốc độ
được thành tựu bởi thiện
căn Đại Thừa vô lậu. Tất cả những
người sanh về đó đều là Bồ Tát đă
phát tâm Đại Thừa, cùng hưởng pháp vị Đại
Thừa b́nh đẳng, cùng đạt được bốn
thứ Bất Thoái nhất loạt b́nh đẳng, chẳng
có những danh xưng có thể gây nên chê gièm. Tức là không
có nữ nhân, kẻ căn khuyết, và hàng Nhị Thừa v.v…
[là những hạng người] có thể bị chê gièm. Tất
cả đệ tử Thanh Văn đều là hàng Bồ
Tát hồi Tiểu hướng Đại sanh về nước
của tôi. Đấy là công đức trang nghiêm từ nguyện
thứ nhất cho đến nguyện thứ mười
một, và các nguyện thứ mười sáu, hai mươi,
hai mươi mốt, hai mươi hai, ba mươi chín
v.v… trong bốn mươi tám nguyện như kinh Vô Lượng
Thọ đă nói.
“Căn bại chủng
tử” là nói đến những kẻ định tánh Nhị
Thừa, hoặc là bậc Thanh Văn từ Đại Thừa
lui sụt xuống Tiểu Thừa, khuyết thiếu Đại
Thừa Bồ Đề tâm, chẳng có chánh nhân chủng tử
thành Phật, nên chẳng được thành Phật. Trong các
kinh Phương Đẳng, Bát Nhă, [đức
Phật] đă quở trách [những người đó] là “tiêu
nha bại chủng” (mầm hư hạt lép). Nữ nhân
và người sáu căn tàn khuyết [là những đối
tượng] bị người đời chê gièm. Chúng sanh
trong quốc độ Cực Lạc đều có ba mươi
hai tướng, tức đều là bậc nam tử đại
trượng phu, đều đắc Lục Thông, chẳng
có xấu hay đẹp, tức là sáu căn viên măn, một
tướng b́nh đẳng, cho nên không có bốn tướng
ta, người v.v… mà cũng chẳng có danh xưng sai biệt
để có thể nói, rốt ráo chẳng bị chê gièm.
(Chú) Vấn viết:
Án Vương Xá thành sở thuyết Vô Lượng Thọ
kinh, Pháp Tạng Bồ Tát tứ thập bát nguyện trung ngôn:
“Thiết ngă đắc Phật, quốc trung Thanh Văn hữu
năng kế lượng tri kỳ số giả, bất
thủ Chánh Giác”. Thị hữu Thanh Văn nhất chứng
dă. Hựu Thập Trụ Tỳ Bà Sa trung, Long Thọ Bồ
Tát tạo A Di Đà Tán vân: “Khởi xuất tam giới ngục,
mục như liên hoa diệp, Thanh Văn chúng vô lượng,
thị cố khể thủ lễ”. Thị hữu Thanh
Văn nhị chứng dă. Hựu Ma Ha Diễn Luận trung
ngôn: “Phật độ chủng chủng bất đồng,
hoặc hữu Phật độ thuần thị Thanh Văn
Tăng, hoặc hữu Phật độ thuần thị Bồ
Tát Tăng, hoặc hữu Phật độ Bồ Tát, Thanh
Văn hội vi Tăng, như A Di Đà An Lạc quốc đẳng
thị dă”. Thị
hữu Thanh Văn tam chứng dă. Chư kinh trung hữu thuyết
An Lạc quốc xứ, đa ngôn hữu Thanh Văn, bất
ngôn vô Thanh Văn. Thanh Văn tức thị Nhị Thừa
chi nhất. Luận ngôn năi chí “vô Nhị
Thừa danh”, thử
vân hà hội?
(註)問曰。案王舍城所說無量壽經。法藏菩薩四十八願中言。設我得佛。國中聲聞。有能計量。知其數者。不取正覺。是有聲聞一證也。又十住毘婆沙中。龍樹菩薩造阿彌陀讚云。起出三界獄。目如蓮華葉。聲聞眾無量。是故稽首禮。是有聲聞二證也。又摩訶衍論中言。佛土種種不同。或有佛土。純是聲聞僧。或有佛土。純是菩薩僧。或有佛土。菩薩聲聞會為僧。如阿彌陀安樂國等是也。是有聲聞三證也。諸經中有說安樂國處。多言有聲聞。不言無聲聞。聲聞即是二乘之一。論言乃至無二乘名。此云何會。
(Chú: Hỏi:
Xét theo kinh Vô Lượng Thọ được nói tại
thành Vương Xá, trong phần bốn mươi tám nguyện
của Pháp Tạng Bồ Tát có nói: “Nếu tôi thành Phật,
có người có thể tính toán
mà biết số lượng Thanh Văn trong nước th́
tôi chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác”. Đó là một chứng
cớ [cơi Cực Lạc] có Thanh Văn. Lại nữa, trong
Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, Long Thọ Bồ Tát viết
bài A Di Đà Tán có đoạn: “Vượt khỏi ngục
tam giới, mắt như cánh hoa sen, Thanh Văn đông vô
lượng; v́ thế, dập đầu lễ”, Đó là chứng
cớ thứ hai có Thanh Văn. Lại nữa, trong Ma Ha Diễn
Luận có nói: “Cơi Phật có nhiều loại khác nhau, hoặc
có cơi Phật thuần là Thanh Văn Tăng, hoặc có cơi Phật
thuần là Bồ Tát Tăng, hoặc có cơi Phật, Bồ
Tát và Thanh Văn hợp lại làm Tăng, như cơi An Lạc
của Phật A Di Đà vậy”. Đó là chứng cớ
thứ ba có Thanh Văn. Các kinh hễ có chỗ nào nói đến
cơi An Lạc, phần nhiều là nói “có Thanh
Văn”, chẳng
nói “không có Thanh
Văn”. Thanh
Văn là một loại Nhị Thừa. Thậm chí luận
nói “không có danh hiệu Nhị Thừa”, dung thông điều
này như thế nào?)
Qua văn tự trong
lời hỏi này, ngài Đàm Loan đă trích dẫn những
điều đă nói trong kinh luận nhằm chứng minh quốc
độ An Lạc có Thanh Văn, chẳng nói không có Thanh
Văn, nhưng luận này lại nói “Nhị Thừa chủng
bất sanh” (chủng tánh Nhị Thừa chẳng
sanh về đó), cho đến ngay cả
danh tự Nhị Thừa cũng chẳng có. Đấy chẳng
phải là mâu thuẫn lẫn nhau hay không? Hăy nên biết hội
thông như thế nào? Do lời văn dễ hiểu, chẳng
cần phải nói nhiều.
(Chú) Đáp viết:
Dĩ lư thôi chi, An Lạc Tịnh Độ bất ưng hữu
Nhị Thừa. Hà dĩ
ngôn chi? Phù hữu bệnh, tắc hữu dược, lư số
chi thường dă. Pháp Hoa kinh ngôn: “Thích Ca Mâu Ni Như Lai dĩ
xuất ngũ trược thế cố, phân nhất vi tam”.
Tịnh Độ kư phi ngũ trược, vô tam thừa
minh hỹ. Pháp Hoa kinh hựu thuyết: “Chư Thanh Văn, thị
nhân ư hà nhi đắc giải thoát? Đản ly hư vọng
(sanh tử), danh vi giải thoát. Thị nhân thật vị đắc
nhất thiết giải thoát, dĩ vị đắc Vô Thượng
đạo cố. Hạch thôi thử lư, A La Hán kư vị đắc
nhất thiết giải thoát, tất ưng hữu sanh. Thử
nhân cánh bất sanh tam giới, tam giới ngoại trừ Tịnh
Độ, cánh vô sanh xứ. Thị dĩ, duy ưng ư Tịnh
Độ sanh. Như ngôn (như thử lai thuyết) Thanh
Văn giả, thị tha phương Thanh Văn lai sanh (An
Lạc quốc), nhưng bổn danh cố, xưng vi Thanh Văn.
Như Thiên Đế Thích sanh nhân trung thời, tánh Kiều
Thi Ca, hậu tuy vi thiên chúa, Phật dục sử nhân tri kỳ
do lai, dữ Đế Thích ngữ thời, do xưng Kiều
Thi Ca. Kỳ (An Lạc quốc
đích Thanh Văn) thử loại (dă thị loại thử xưng hô) dă! Hựu thử luận
đản ngôn “Nhị Thừa chủng bất sanh”, vị
An Lạc quốc bất sanh Nhị Thừa chủng tử,
diệc hà phương Nhị Thừa lai sanh da? Thí như
quất tài bất sanh Giang Bắc (tại Trường Giang
dĩ Bắc, tài thực quất chủng, bất hội
sanh trưởng), Hà Lạc (tức Hà Nam, Lạc Dương
nhất đới, diệc thị Giang Bắc) quả tứ
(mại thủy quả đích thương điếm) diệc
kiến hữu quất (mại quất tử). Hựu ngôn
anh vũ (điểu) bất độ Lũng Tây (tức
kim Cam Túc tỉnh), Triệu Ngụy giá hành diệc hữu
anh vũ (anh vũ sản ư Cam Túc, Tứ Xuyên nhất đới.
Bất độ giả, bất sản kỳ tha địa
phương. Triệu Ngụy thị Nam Bắc Triều thời
đích quốc danh, tại Trung Nguyên đích Đông Bắc
phương. Giá hành diệc hữu anh vũ giả, thị
Triệu Ngụy địa phương đích pḥng ốc,
giá lương thượng, huyền quải đích điểu
lung, diệc hữu tự dưỡng anh vũ). Thử nhị
vật đản ngôn kỳ chủng bất độ, bỉ
(An Lạc quốc) hữu Thanh Văn diệc như thị.
Tác như thị giải, kinh luận tắc hội (thông liễu).
(註)答曰。以理推之。安樂淨土不應有二乘。何以言之。夫有病則有藥。理數之常也。法華經言。釋迦牟尼如來。以出五濁世故。分一為三。淨土既非五濁。無三乘明矣。法華經又說。諸聲聞。是人於何而得解脫。但離虛妄(生死)。名為解脫。是人實未得一切解脫。以未得無上道故。覈推此理。阿羅漢既未得一切解脫。必應有生。此人更不生三界。三界外除淨土。更無生處。是以。唯應於淨土生。如言(如此來說)聲聞者。是他方聲聞來生(安樂國)。仍本名故。稱為聲聞。如天帝釋生人中時。姓憍尸迦。後雖為天主。佛欲使人知其由來。與帝釋語時。猶稱憍尸迦。其(安樂國的聲聞)此類 (也是類此稱呼)也。又此論但言二乘種不生。謂安樂國不生二乘種子。亦何妨二乘來生耶。譬如橘栽,不生江北(在長江以北,裁植橘種,不會生長)。河洛(即河南洛陽一帶,亦是江北)菓肆(賣水果的商店)。亦見有橘(賣橘子)。又言鸚鵡(鳥)不渡壟西(即今甘肅 省)。趙魏架桁亦有鸚鵡(鸚鵡産於甘肅四川一帶。不渡者,不産其他地方。趙魏是南北朝時的國名,在中原的東北方。架桁亦有鸚鵡者,是趙魏地方的房屋架梁上,懸掛的鳥籠,亦有飼養鸚鵡)。此二物,但言其種不渡)彼(安樂國)有聲聞亦如是。作如是解,經論則會(通了)。
(Chú:
Đáp: Suy luận theo Lư, An Lạc Tịnh Độ chẳng
nên có Nhị Thừa, cớ sao nói vậy? Hễ có bệnh
th́ có thuốc, đó là lẽ thường. Kinh Pháp Hoa nói: “Thích
Ca Mâu Ni Như Lai do xuất hiện trong đời
ngũ trược, nên chia pháp Nhất Thừa thành ba”. Tịnh
Độ đă chẳng phải là ngũ trược, không
có tam thừa là chuyện rành rành! Kinh Pháp Hoa lại nói: “Các
vị Thanh Văn, những người ấy giải thoát
như thế nào? Chỉ ĺa hư vọng (sanh tử) th́ gọi
là giải thoát. Những người ấy thật sự chưa
đạt đến chỗ hết thảy giải thoát,
v́ chưa đắc đạo Vô Thượng”. Xét kỹ
lẽ này, A La Hán đă chưa đạt hết thảy giải
thoát, ắt phải có sanh. Các vị ấy lại chẳng
sanh trong tam giới, mà ở ngoài tam giới, trừ Tịnh
Độ ra, sẽ chẳng có chỗ để sanh! Do vậy, chỉ
nên sanh vào
Tịnh Độ. Như nói đến (nói như
vậy th́) Thanh Văn tức là Thanh
Văn từ phương khác sanh về (cơi An Lạc), vẫn
giữ tên gốc, nên gọi là Thanh Văn. Như Thiên Đế
Thích khi mang
thân người, có họ là Kiều Thi Ca, về sau, tuy làm
chúa cơi trời, đức Phật muốn cho mọi người
biết gốc tích của ông ta, khi nói với Đế Thích,
vẫn gọi ông ta là Kiều Thi Ca. (Đối với những
vị Thanh Văn trong cơi An Lạc) cũng suy luận giống
như vậy (suy ra th́ [các vị ấy] cũng
được xưng hô giống như vậy). Lại nữa,
luận này chỉ nói “giống Nhị Thừa chẳng sanh”
là có ư nói cơi An Lạc chẳng sanh ra chủng tử Nhị
Thừa, cũng chẳng trở
ngại Nhị Thừa sanh về cơi ấy! Ví như
quất chẳng mọc tại Giang Bắc (ở phía Bắc
Trường Giang mà vun trồng quất th́ nó sẽ không mọc
được), trong sạp trái cây (tiệm bán trái cây) tại Hà Lạc
(tức một giải Hà Nam, Lạc Dương, cũng là
vùng Giang Bắc) vẫn thấy có quất (có bán quất). Lại
nói chim két chẳng ra khỏi Lũng Tây (nay là tỉnh Cam Túc).
Trong lồng treo chim vùng Triệu Ngụy cũng có chim két (chim
két sống tại một giải Cam Túc, Tứ Xuyên. “Chẳng
ra khỏi” nghĩa là chẳng sống ở nơi khác. Triệu
Ngụy là tên một nước thời Nam Bắc Triều,
ở phía Đông Bắc của Trung Nguyên. “Lồng chim cũng
có chim két”: Trong các nhà tại vùng Triệu Ngụy, lồng
chim treo trên kèo nhà cũng có nuôi dưỡng chim két). Chỉ
nói hai vật ấy chẳng sanh trưởng [ở nơi
khác, chứ
không nói chúng chẳng thể t́m thấy ở nơi khác], cơi kia
(cơi An Lạc) có Thanh Văn th́ cũng giống như vậy.
Hiểu như thế th́ kinh luận sẽ dung hội thông
suốt).
Đây là ngài Đàm
Loan giải đáp, hội thông, tôi mở dấu ngoặc để
chú thích cho rơ hơn, vừa đọc bèn liễu giải,
chẳng cần phải nói nhiều.
(Chú) Vấn viết:
Dĩ danh triệu sự, hữu sự năi hữu danh. An Lạc
quốc kư vô Nhị Thừa, nữ nhân, căn khuyết chi
sự, diệc hà tu phục ngôn “vô thử tam danh” da? Đáp
viết: Như nhuyễn tâm Bồ Tát (diệc danh khinh mao Bồ
Tát, tức Biệt Giáo Thập Tín), bất thậm dũng
mănh, cơ ngôn Thanh Văn (bại chủng), như nhân siểm
khúc (siểm mị loan khúc, tức bất lăo thật), hoặc
phục nĩnh
nhược (tức nọa nhược),
cơ ngôn nữ nhân. Hựu như nhăn tuy minh, nhi bất thức
sự, cơ ngôn manh nhân. Hựu như nhĩ tuy thính, nhi thính
nghĩa (đạo lư) bất giải, cơ ngôn lung nhân. Hựu
như thiệt tuy ngữ, nhi nột khẩu (ngôn ngữ tŕ
độn) kiển ngật (kiển
ngật tức thuyết thoại khẩu ngật, ngật
ngật trọng ngữ), cơ ngôn á nhân. Hữu như thị
đẳng căn (lục căn) tuy cụ túc, nhi hữu cơ
hiềm chi danh. Thị cố tu ngôn năi chí vô (cơ hiềm)
danh, minh Tịnh Độ vô như thị đẳng dự
đoạt (hảo hoại) chi danh.
(註)問曰。以名召事。有事乃有名。安樂國既無二乘女人根缺之事。亦何須復言。無此三名耶。答曰。如輭心菩薩(亦名輕毛菩薩。即別敎十信)不甚勇猛。譏言聲聞 (敗種)。如人諂曲(諂媚彎曲。即不老實)。或復儜弱(即懦弱)。譏言女人。又如眼雖明。而不識事。譏言盲人。又如耳雖聽。而聽義(道理)不解。譏言聾人。又如舌雖語。而訥口(言語遲鈍)謇吃(謇吃即說話口吃。吃吃重語)。譏言瘂人。有如是等根(六根)雖具足。而有譏嫌之名。是故須言乃至無(譏嫌)名。明淨土無如是等與奪(好壞)之名。
(Chú:
Hỏi: Dùng danh để triệu vời sự, hễ có
sự bèn có danh. Cơi An Lạc đă không có Nhị Thừa, nữ
nhân và căn khuyết, vậy th́ cũng cần ǵ phải
nói “không có ba danh xưng” ấy? Đáp: Như nhuyễn tâm Bồ
Tát (c̣n gọi là “khinh mao Bồ Tát”, tức Thập Tín trong Biệt
Giáo) chẳng dũng mănh cho lắm, th́ bị chê gièm là Thanh
Văn (hạt giống hư). Như người siểm
khúc (siểm nịnh, cong vạy, tức là chẳng thật
thà), hoặc là yếu ớt (tức nhu nhược) th́ bị
chê gièm là “nữ nhân”. Lại như mắt tuy sáng mà chẳng
biết chuyện th́ bị chê gièm là “kẻ mù”. Lại như
tai tuy nghe tỏ, nhưng nghe nghĩa lư (đạo lư) chẳng
hiểu, th́ bị chê gièm là “kẻ điếc”. Lại như
lưỡi tuy có thể nói, nhưng lúng búng (ăn nói chậm
lụt), lắp bắp (lắp bắp là ăn nói ấp úng,
chữ dính vào nhau) th́ bị chê cười là “đứa câm”.
Có những người tuy đầy đủ các căn (sáu căn)
như thế, nhưng bị mang tiếng chê gièm. V́ thế
cần phải nói “cho đến chẳng có danh xưng (chê
gièm)”, nhằm nói rơ
Tịnh Độ chẳng có những danh xưng khen chê (tốt
xấu) như thế).
Ngài Đàm Loan lại
nêu ra lượt hỏi đáp thứ hai, nhằm thuyết
minh nguyên do An Lạc Tịnh Độ không có danh xưng chê
gièm.
(Chú) Vấn viết:
Tầm (y cứ) Pháp Tạng Bồ Tát bổn nguyện, cập
Long Thọ Bồ Tát sở tán, giai tự dĩ bỉ quốc
Thanh Văn chúng đa vi kỳ, thử hữu hà nghĩa? Đáp
viết: Thanh Văn dĩ Thật Tế (tức Ngũ Uẩn
giai Không) vi chứng, kế bất ưng cánh năng sanh Phật
đạo căn nha. Nhi Phật (Di Đà) dĩ bổn nguyện
bất khả tư nghị thần lực, nhiếp linh
sanh bỉ (An Lạc Tịnh Độ), tất đương
phục dĩ thần lực sanh kỳ Vô Thượng đạo
tâm. Thí như trấm điểu nhập thủy, ngư bạng
hàm tử. Tê ngưu xúc chi, tử giả giai hoạt. Như
thử bất ưng sanh nhi sanh, sở dĩ khả kỳ.
Nhiên ngũ bất tư nghị trung, Phật pháp tối bất
khả tư nghị, Phật năng sử Thanh Văn phục
sanh Vô Thượng đạo tâm, chân bất khả tư
nghị chi chí dă.
(註)問曰。尋(依據)法藏菩薩本願。及龍樹菩薩所讚。皆似以彼國聲聞眾多為奇。此有何義。答曰。聲聞以實際(即五蘊皆空)為證。計不應更能生佛道根芽。而佛(彌陀)以本願不可思議神力。攝令生彼(安樂淨土)。必當復以神力生其無上道心。譬如鴆鳥入水。魚蜯咸死。犀牛觸之。死者皆活。如此不應生而生。所以可奇。然五不思議中佛法最不可思議。佛能使聲聞復生無上道心。真不可思議之至也。
(Chú: Hỏi:
Xét theo (dựa theo) bổn nguyện của Pháp Tạng Bồ
Tát và lời tán thán của Long Thọ Bồ Tát, dường
như đều coi chuyện hàng Thanh Văn đông đảo
trong cơi ấy là điều lạ lùng, điều này có nghĩa
ǵ vậy? Đáp: Thanh Văn dùng Thật Tế (tức là năm
uẩn đều không) để chứng, tính ra, họ sẽ
chẳng thể sanh khởi mầm rễ đạo Phật,
nhưng đức Phật (Di Đà) dùng thần lực chẳng
thể nghĩ bàn nơi bổn nguyện để nhiếp
thọ họ sanh về cơi đó (An Lạc Tịnh Độ),
lại c̣n ắt dùng thần lực sanh trưởng Vô Thượng
đạo tâm cho họ. Ví như chim Trấm vào trong nước,
cá, ṣ đều
chết, dùng [sừng] tê giác chạm vào, những con vật
bị chết ấy đều
sống lại. Như vậy, lẽ ra chẳng thể sanh
về [Cực Lạc] mà lại sanh về, cho nên coi đó
là điều lạ lùng. Nhưng trong năm thứ chẳng
thể nghĩ bàn, Phật pháp là chẳng thể nghĩ bàn
nhất. Phật có thể khiến cho Thanh Văn lại
sanh khởi Vô Thượng đạo tâm, đúng là chẳng
thể nghĩ bàn tột bậc).
Ngài Đàm Loan lại
nêu ra lần vấn đáp thứ ba nhằm thuyết minh trong
An Lạc Tịnh Độ, chúng Thanh Văn đông đảo
chính là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn nhất.
Hàng Thanh Văn chứng đắc Ngă Không, bèn coi là những việc
làm đă rốt ráo (tức là cho
rằng những ǵ cần phải tu tập đă hoàn tất), có thể
nghỉ ngơi nơi Niết Bàn. “Kế” (計) [ở
đây phải hiểu là] có nghĩa “vốn là như vậy”.
Vốn chẳng thể sanh khởi rễ, mầm, hoa, quả
thành Phật, nhưng do đại bi bổn nguyện của
Phật Di Đà và chư Phật, muốn khiến cho hết
thảy chúng sanh đều được thành Phật. V́
thế, dùng thần lực chẳng thể nghĩ bàn, khiến
cho hàng Thanh Văn bất định tánh hồi Tiểu hướng
Đại, phát Bồ Đề tâm, tu hạnh Tịnh
Độ, nhiếp hóa khiến cho họ sanh về Phương
Tiện Hữu Dư Tịnh Độ của thế giới
Cực Lạc. Đă sanh rồi, Phật ắt lại dùng
thần lực, khiến cho họ hành Bồ Tát đạo
thành Phật, như trong phẩm Tín Giải của kinh Pháp
Hoa đă nói: “Như phú trưởng giả, tri tử chí
liệt, dĩ phương tiện lực, nhu phục kỳ
tâm, nhiên hậu năi phó, nhất thiết tài vật. Phật diệc
như thị, hiện hy hữu sự, tri nhạo tiểu giả, dĩ phương
tiện lực, điều phục kỳ tâm, năi giáo đại
trí” (Như trưởng giả giàu, biết con chí hèn, dùng
sức phương tiện, điều phục tâm con, sau đấy
giao phó, hết thảy tài vật. Phật cũng như thế,
hiện chuyện hy hữu, biết kẻ
ưa thích, đạo pháp Tiểu Thừa, dùng sức
phương tiện, điều phục tâm họ, rồi
dạy đại trí).
Ngài Đàm Loan lại
dùng chim Trấm và tê ngưu để làm thí dụ.
Trấm (鴆) là loài chim có chất
độc, giống như chim nhạn, nhưng màu tía đen.
Lông vũ của nó có chất độc; do vậy, nó vào nước,
nước bèn có chất độc, cá lẫn ṣ đều
chết. Thế nhưng chỗ nào có chim Trấm, ắt có
tê ngưu (犀牛, tê giác). Sừng
tê ngưu có thể giải chất độc của chim
Trấm. Do vậy nói “xúc chi tử giả giai hoạt”
(chạm vào th́ những con vật đă
chết đều có thể sống lại). Dùng những điều
này để sánh ví cơi kia sở dĩ có Thanh Văn, tức
là như cá lẫn ṣ có được sừng tê ngưu [chạm
vào] sẽ sống lại, vốn chẳng thể sống
(bị trúng độc chết) mà lại được sống
(sống lại). Điều này hoàn toàn là do cậy
vào sức thần lực của Phật Di Đà và chư Phật
mà có, cho nên hiếm lạ!
“Ngũ chủng
bất khả tư nghị” (Năm
loại chẳng thể nghĩ bàn) xuất phát từ quyển
ba mươi của bộ Đại Trí Độ Luận:
“Một là chúng sanh nhiều hay ít, hai là nghiệp quả báo,
ba là sức Thiền Định, bốn là sức rồng,
năm là Phật lực”. Thần lực của Phật
và sức của Phật pháp có thể khiến cho bất định
tánh Thanh Văn hồi Tiểu hướng Đại, phát
khởi Vô Thượng Bồ Đề tâm, tu Bồ Tát hạnh,
đều sẽ thành Phật. Đấy là cực điểm
chẳng
thể nghĩ bàn vậy!
Hỏi: Luận này
nói Tây Phương Tịnh Độ là cơi thiện căn
Đại Thừa, chẳng có nữ nhân, căn khuyết, và hàng Nhị
Thừa, há chẳng phải là trái nghịch bổn nguyện
phổ độ chúng sanh của Phật ư?
Đáp: Chẳng phải
là nói “Phật không độ những người ấy”,
mà là nói chúng sanh sanh về Tây Phương Tịnh Độ,
quyết định là chẳng có những hạng người
có thể bị chê gièm ấy! Ngay cả những danh xưng
bị chê gièm ấy c̣n chẳng nghe thấy. V́ người
sống trong quốc độ Cực Lạc là những người
có đại thiện căn, đại phước báo, như
kinh Di Đà có nói: “Bất khả dĩ thiểu thiện
căn, phước đức, nhân duyên đắc sanh bỉ
quốc” (Chẳng thể do ít thiện căn, phước
đức, nhân duyên mà sanh về cơi ấy). Thiện căn
Đại Thừa chính là phát Vô Thượng Bồ Đề
tâm. Người có thể sanh về Tây Phương Tịnh
Độ, bất luận là phàm phu hay Nhị Thừa, đều
là chúng sanh đă phát Bồ Đề tâm, thuần nhất là
chúng sanh có thiện căn Đại Thừa. Do vậy, chẳng
có những chuyện như phàm phu, Nhị Thừa v.v… là những
điều ở ngoài Đại Thừa có thể bị
chê gièm vậy! Đấy chính là do công đức nơi bổn nguyện “phổ
độ chúng sanh cùng thành Phật đạo” của
Phật Di Đà mà thành tựu vậy.
Hỏi: Tây
Phương Tịnh Độ là như thế, trong các Tịnh
Độ khác của chư Phật, có giống như vậy
hay chăng? Ư nghĩa kiến lập Tịnh Độ là ở
chỗ nào?
Đáp: Nay tôi trích lục
lời dạy của
Thái Hư đại sư trong bộ Văng Sanh Tịnh Độ
Luận Giảng Yếu để đáp như
sau:
“Người đời
có kẻ do ác báo hiện tiền, sợ hăi, kinh hoảng, mà
cầu sanh Tịnh Độ, có kẻ v́ đói rét khốn
khổ, cuộc sống bức bách mà cầu sanh Tịnh
Độ, có người v́ nỗi khổ già, bệnh v.v…
bức bách, khổ năo mà cầu
sanh Tịnh Độ. Những người ấy đều
có tâm lư “tránh khổ, hướng đến vui” để
làm động cơ văng sanh Tịnh Độ. Xét kỹ các
Tịnh Độ do chư Phật an lập, sở dĩ Thích
Ca Thế Tôn nói pháp môn Tịnh Độ, tuy có ư muốn khiến
cho chúng sanh chán khổ, ưa vui, nhưng đấy chẳng
phải là bổn ư kiến lập Tịnh Độ của
Phật. Bổn ư của Phật là v́ những người
thật sự phát Đại Thừa Bồ Đề tâm mà
an lập hay tuyên nói.
Cái tâm “tránh khổ,
hướng đến vui” của chúng sanh phàm phu là do dốc
chí nơi vui sướng, chẳng cầu vĩnh viễn đoạn
sanh tử, như chán ĺa nỗi khổ tam ác đạo, muốn
ǵn giữ chẳng mất thân người. Chán ĺa nỗi
khổ trong đời người, mong cầu sanh lên trời.
Chán nỗi khổ trong Dục Giới, cầu sanh vào Sắc
Giới. Chán nỗi khổ trong Sắc Giới, cầu sanh
vào Vô Sắc Giới. (Đối với những
hạng
người giống như thế)
chỉ cần dùng pháp nhân thiên thừa trong Phật pháp, tức
là Ngũ Giới, Thập Thiện, Tứ Thiền Bát Định
v.v… để thâu nhiếp (hóa độ). Tŕ Ngũ Giới
có thể ǵn giữ chẳng mất thân người. Tu Thập
Thiện, Bát Định, được sanh vào thiên đạo,
chư Phật cần ǵ phải an lập Tịnh Độ?
Thích Ca Thế Tôn cần ǵ phải nói pháp môn Tịnh Độ
ư?
C̣n như hàng Nhị
Thừa quán tam giới như lao ngục, coi sanh tử như
oan gia, cầu thoát tam giới, đoạn Phần Đoạn
Sanh Tử, chỉ cần biết rơ nỗi khổ trong tam
giới và những nghĩa “chúng sanh bất tịnh, vô thường,
vô ngă” v.v… nương vào ba mươi bảy đạo phẩm
như Tứ Niệm Xứ, dấy lên Tứ Chánh Cần, Bát Chánh Đạo v.v… tinh
tấn siêng tu, trong một đời tuy chẳng đắc ngay quả
A La Hán, cũng có thể đắc quả Tu Đà Hoàn. Đắc
Sơ Quả (chỉ có bảy lượt sanh tử), liền
vĩnh viễn chẳng thoái chuyển để phải hứng
chịu nỗi khổ v́ phiền năo sanh tử nữa, họ cũng
chẳng cần phải nương vào pháp môn Tịnh Độ
để cầu sanh Tịnh Độ. Như Tiểu Thừa
Phật pháp tại các nước Tích Lan, Miến Điện,
Thái Lan v.v… bèn chuyên cầu đắc quả
A La Hán, liễu thoát sanh tử. V́ thế, trong các xứ Tích
Lan, Miến Điện v.v… chẳng có pháp môn Tịnh Độ.
Do vậy suy ra, sở
dĩ chư Phật an lập Tịnh Độ, sở dĩ
Phật Thích Ca tuyên nói pháp môn Tịnh Độ, chẳng phải
v́ Nhị Thừa, mà thật sự v́ chúng sanh phàm phu có căn
tánh Đại Thừa, lắng nghe Phật pháp, chẳng cầu
phước báo an lạc trong đời sau, chẳng mong tự
liễu thoát nỗi khổ năo sanh tử trong tam giới, mà
v́ phát khởi, phổ độ hết thảy chúng sanh là
những người có tâm Đại Thừa, phát khởi Bồ
Đề tâm (cùng liễu sanh tử, cùng thành Phật đạo)
mà an lập, tuyên nói!
Người phát
tâm Đại Thừa biết rơ đạo lư các pháp duyên
sanh, biết hết thảy các pháp sanh bởi các duyên. Do các
pháp sanh bởi các duyên, một pháp chính là hết thảy các
pháp. Do chúng sanh được sanh bởi các duyên, một chúng
sanh chính là hết thảy chúng sanh, rời ngoài hết thảy
chúng sanh, chẳng có một cái Ngă nào khác! Chẳng khiến
cho hết thảy chúng sanh đều cùng thành Phật, sẽ
không có Phật để có thể thành! Do vậy, phát ra đại
nguyện “phổ
độ hết thảy chúng sanh cùng thành Phật đạo” này, quyết
chẳng có lư nào rời ĺa hết
thảy chúng sanh để chính ḿnh liễu thoát sanh tử!
Do chúng sanh chính là chính ḿnh, chính ḿnh là chúng sanh, chẳng có sự
khác biệt giữa chúng sanh và ta. Đó gọi là “vô ngă tướng,
vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả
tướng”, chẳng có chuyện ĺa ngoài chúng sanh mà có thể
độ thoát chính ḿnh!
Bồ Tát đă thấy
hết thảy chúng sanh đồng thể bất nhị,
mà phát khởi bi nguyện phổ độ hết thảy
chúng sanh; nhưng muốn thành tựu viên măn nguyện ấy,
nếu chẳng chứng đắc quả Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, sẽ không thể được!
Nếu không, tuy có nguyện ấy, nhưng thật ra trọn
chẳng thể có ngày thành tựu. Do phát tâm đại bi muốn
độ trọn hết hư không khắp pháp giới chúng
sanh, muốn độ vô số chúng sanh, cho nên cần phải
đoạn vô tận phiền năo, tu học vô lượng pháp
môn, thành tựu Phật quả viên măn vô lượng phước
đức trí huệ trang nghiêm, cần phải trải qua
ba đại A-tăng-kỳ kiếp, vào vô lượng thế
giới, độ vô lượng chúng sanh, chẳng phải là
chuyện có thể làm được trong một đời.
Khởi Tín Luận có nói: “Tín tâm thành tựu, nhập Chánh Định
Tụ, cần phải qua mười ngàn đại kiếp”.
Mười ngàn đại kiếp tức là một vạn
đại kiếp mới đắc Đại Thừa tín
tâm thành tựu. Khó khăn như thế đó, huống hồ
Phật quả ư!
Đă chẳng thể
thành Phật trong một đời (tức là Nan Hành Đạo),
người đă phát tâm Đại Thừa cần tu Lục
Độ. Khi tu Lục Độ, sẽ luôn có những thứ
nghịch duyên gây thoái đọa, phá hoại tâm Đại Thừa, có nỗi
nguy hiểm đánh mất, hư hoại tâm Đại Thừa.
Thế nhưng, mạng người ngắn ngủi, tạm
bợ, vô thường xảy đến trong sáng tối,
hoặc thăng lên đường lành, hoặc ch́m trong nẻo
khổ. Lại có nỗi nguy hiểm mê mất tâm Đại
Thừa, tức tâm Bồ Đề. Do có các thứ ác duyên
như thế, Bồ Tát đă phát tâm Đại Thừa, muốn
ǵn giữ chẳng lui sụt, quả thật chẳng dễ
dàng! Chư Phật có trách nhiệm hộ niệm Bồ Tát,
như kinh Kim Cang có nói: “Như Lai thiện hộ niệm chư
Bồ Tát” (Như Lai khéo hộ tŕ, nghĩ nhớ các Bồ
Tát). Đối với những vị Bồ Tát đă phát tâm
Đại Thừa, nhưng chưa thể bất thoái ấy,
rốt cuộc sẽ dùng pháp nào để từ bi hộ
niệm ngơ hầu họ
khỏi đến nỗi gặp phải nguy hiểm “tâm Đại
Thừa bị mất đi, hư
hoại, hoặc lui sụt,
đọa lạc”? Do chư Phật
muốn hộ tŕ, nghĩ nhớ loại Bồ Tát ấy, bèn
an lập quốc độ trang nghiêm thanh tịnh. Loại
Bồ Tát ấy có duyên với Tịnh Độ nào, sẽ
phát nguyện văng sanh Tịnh Độ ấy. Tùy theo sự
phát nguyện mà dấy lên ḷng tin quyết định, chuyên
nhất cái tâm (niệm danh hiệu đức Phật kia, và
tu các công đức, hồi hướng nguyện sanh về
nước ấy) th́ khi lâm chung, thuận theo sở nguyện,
sẽ văng sanh cơi Phật Tịnh Độ ấy, nghe pháp
bất thoái (vị, hạnh, niệm), trở lại độ
hết thảy chúng sanh. Nếu chư Phật chẳng an lập
các Tịnh Độ để làm chỗ nương về
cho hàng Bồ Tát phát tâm Đại Thừa, một mai họ bị thoái thất,
th́ các công đức tu tập Lục Độ (vạn hạnh)
trước kia sẽ bị phí uổng vô ích. V́ thế, Bồ
Tát ắt dùng Tịnh Độ làm chỗ quy túc th́ mới
chẳng đến nỗi thoái thất tâm Đại Thừa
(Bồ Đề tâm) để khỏi phí uổng công lao trước
kia! Đấy chính là chánh nghĩa v́ sao A Di Đà Phật và
mười phương chư Phật thành lập Tịnh
Độ, mà cũng chính là chân nghĩa v́ sao Phật Thích Ca
nói ra pháp môn Tịnh Độ này. Người tu pháp môn Tịnh
Độ, cần phải chú ư liễu giải sâu xa, thiết
thực ư nghĩa này”.
Do vậy, có thể
biết An Lạc Tịnh Độ không chỉ chẳng có
nữ nhân, căn khuyết, Nhị Thừa (tức là những
người thuộc loại định tánh Thanh Văn, chẳng
phát tâm Đại Thừa) là những hạng người có
thể bị chê gièm, mà cũng chẳng có nỗi nguy hiểm
“thoái thất Bồ Đề tâm, thoái chuyển Bồ
Tát hạnh”. Phàm những ai văng sanh, sẽ rốt ráo là vô
lượng thọ, thành Phật trong một đời, lại
có bổn nguyện của Phật Di Đà nhiếp thọ,
gia tŕ, mong sanh về cơi ấy hết sức dễ dàng! Kẻ
Ngũ Nghịch Thập Ác mà có thể phát tâm Đại Thừa,
có tín nguyện hạnh, sẽ được Phật nhiếp
thọ, đều có thể văng sanh. Có lợi ích thù thắng
như thế, cho nên mười phương chư Phật
đều hiện tướng lưỡi rộng dài, nói
lời thành thật, khuyên bọn chúng sanh chúng ta hăy nên tin vào
pháp môn Tịnh Độ là “pháp môn chẳng thể nghĩ
bàn được hết thảy chư Phật hộ niệm”
này!
2.2.1.2.3.1.1.17. Công đức
hết thảy điều mong cầu đều được
thỏa măn
(Luận) Chúng sanh sở nguyện nhạo,
nhất thiết năng măn túc.
(Chú) Thử nhị cú danh “trang nghiêm nhất
thiết sở cầu măn túc công đức thành tựu”. Phật
bổn hà cố hưng thử nguyện? Kiến hữu quốc
độ, hoặc danh cao vị trọng, tiềm xử vô
do, hoặc nhân phàm tánh bỉ, hy xuất mỵ lộ, hoặc
tu đoản hệ nghiệp, chế bất tại kỷ.
Như A Tư Đà tiên nhân loại dă. Hữu như thị
đẳng vị nghiệp phong sở xuy, bất đắc
tự tại.
(論)眾生所願樂。一切能滿足。
(註)此二句名莊嚴一切所求滿足功德成就。佛本何故興此願。見有國土。或名高位重。潛處無由。或人凡性鄙。悕出靡路。或脩短繫業。制不在己。如阿私陀仙人類也。有如是等為業風所吹。不得自在。
(Luận:
Điều chúng sanh ưa muốn, hết thảy
đều thỏa măn.
Chú: Hai câu này gọi
là “sự
trang nghiêm hết thảy những điều mong cầu
đều được thỏa măn được thành tựu
bởi công đức”. Vốn v́ lẽ
nào mà đức Phật dấy
khởi nguyện này? Do Ngài thấy có quốc độ, hoặc
[là người
có] tiếng tăm, địa vị cao trọng, không có
cách nào ở ẩn, hoặc là kẻ tầm thường, tánh t́nh thô lậu
mong ngoi đầu vượt trỗi mà không có cách nào, hoặc
do bị nghiệp buộc ràng mà thọ mạng dài hay ngắn,
chính ḿnh chẳng thể quyết định được.
Như tiên nhân A Tư Đà [chẳng thể quyết định
thọ mạng của chính ḿnh], bị gió nghiệp thổi,
chẳng được tự tại).
“Hoặc danh cao vị
trọng”: Đây là nói đến những người
thuộc tầng
lớp phú quư, như quốc vương, Tổng
Thống, ủy viên lập pháp trong quốc hội, các đảng
viên đang nắm giữ chức vụ v.v… trong hiện thời.
“Tiềm xử vô do” có nghĩa là muốn ẩn dật,
ở một ḿnh mà chẳng thể được. Những
cái gọi là chuyện trong đảng, chuyện đất
nước, chuyện thiên hạ, chuyện nào cũng cần
phải quan tâm, cũng chính là như hoàng đế Thuận
Trị đă cảm khái than thở, phiền năo v́ chuyện
lo cho nước, lo cho dân.
“Hoặc nhân phàm
tánh bỉ” là nói tới những kẻ b́nh dân, hoặc đảng
phái chánh trị ở vùng quê. “Hy xuất mỵ lộ”
ư nói: Tuy nghĩ trọn hết mọi biện pháp mong được
cai quản quốc gia, hoặc để trỗi vượt
hơn người khác, trở thành bậc anh hùng hào kiệt
một thuở, nhưng chẳng được thỏa ư,
cầu mà chẳng được. Thậm chí có kẻ phải
than thở “tráng chí vị thành thân tiên tử, trường
sử anh hùng lệ măn khâm” (chí lớn chưa thành, thân chết
trước, đẫm áo anh hùng lệ cứ tuôn).
“Hoặc tu đoản
hệ nghiệp” là nói thọ mạng của một người
dài hay ngắn, chính là do nghiệp lực nhân quả ba đời
quyết định (trói buộc) mà có hạn chế dài hay
ngắn nhất định, chẳng thể do chính quư vị
làm chủ được! Tục ngữ có câu: “Diêm vương
yếu nhĩ tam canh khứ, bất năng lưu đăi đáo
ngũ canh” (Diêm vương đ̣i mạng canh ba, đừng
mong nấn ná canh năm ĺa trần). Có những kẻ gặp
cảnh bệnh khổ, hoặc bị tai nạn vùi dập,
hy vọng chết sớm, nhưng nhiều năm vẫn sống
lây lất, đó gọi là “mong sống chẳng được,
cầu chết quách chẳng xong”, chỉ đành than thở
chẳng biết làm sao được!
A Tư Đà (Asita)
là tiếng Phạn, dịch nghĩa là “vô tỷ đoan
chánh” (đoan chánh khôn sánh). “Tiên nhân” là như trong
kinh Pháp Hoa đă nói, Đề Bà Đạt Đa trong quá khứ
làm tiên nhân A Tư Đà. Lại nữa, khi Thích Ca Thế Tôn
mới xuất sanh, cha là Tịnh Phạn Vương thỉnh
tiên nhân A Tư Đà xem tướng cho Thái Tử. Hai vị
tiên nhân ấy có thể nói là danh vị cao trọng, thường
nhân chẳng sánh bằng, nhưng cũng khó tránh khỏi lưu
chuyển lục đạo, sanh tử luân hồi, bị nghiệp
lực sai sử, chẳng được tự tại. Nói
chung là thuộc về Cầu Bất Đắc Khổ. Do vậy nói: Người
đời chẳng cần biết là nghèo, giàu, sang, hèn, đều
giống như tiên nhân A Tư Đà, đều bị thổi bởi nghiệp
phong thiện hay ác do chính ḿnh đă tạo, chẳng được
tự tại! Dẫu quư vị có
tu hành, có triệt ngộ, giả sử chưa đoạn
hết phiền hoặc, sẽ cũng bị gió nghiệp
thổi quư vị ngả rạp sang trái hay sang phải hệt như nhau. Nếu quư vị bị thổi về
phía Đông, sẽ không thể nào chẳng ngả sang phía Đông.
Như bài thơ Tự Thuật của lăo ḥa thượng
Hư Vân có đoạn viết:
Nghiệp phong xuy
tống đáo Vũ Xương,
Nhất thứ kinh
qua nhất tạm hoàng.
(Gió nghiệp thổi
văng tới Vũ Xương,
Một phen từng
trải, một phen rầu).
Thế gian có t́nh h́nh
bị nghiệp sai khiến, chẳng thuận theo ư con người
như vậy đó! Trong tâm nhăn của Phật, Bồ Tát,
tất nhiên sẽ nẩy sanh sự đồng t́nh và thương
xót.
(Chú) Thị cố
nguyện ngôn, sử ngă quốc độ, các xứng sở
cầu, măn túc t́nh nguyện. Thị cố ngôn: “Chúng sanh sở
nguyện nhạo, nhất thiết năng măn túc”.
(註)是故願言。使我國土。各稱所求。滿足情願。是故言「眾生所願樂。一切能滿足」。
(Chú:
V́ thế, nguyện rằng: Khiến cho quốc độ
của tôi, điều mong cầu của mỗi người
đều xứng hợp, thỏa măn ư nguyện. V́ thế
nói: “Điều chúng sanh ưa thích, hết thảy đều
thỏa măn”).
Đây là phần tổng
kết những điều vừa nói trên đây, mười
bảy món trang nghiêm thành tựu vi diệu của An Lạc
quốc độ, đều do Phật Di Đà khi c̣n tu nhân
đă phát nguyện: Nguyện
khi tôi thành Phật, hết thảy tất cả [mọi sự] trong quốc độ đều có thể thỏa măn
nguyện cầu của chúng sanh. Điều này cũng biểu
thị công đức tự lợi lợi tha của A Di
Đà Phật đă thành tựu viên măn. Nói theo phía tự lợi,
tam thân, tứ trí, ngũ nhăn, lục thông, quang minh, thọ mạng
nơi Phật quả, quốc độ thanh tịnh trang
nghiêm, quyến thuộc là A Bệ Bạt Trí, mỗi điều
đều viên măn trọn đủ, lại c̣n đều
là vô lượng. Nói theo phía lợi tha, phàm là chúng sanh sanh vào
cơi ấy, đều được rốt ráo là Nhất
Sanh Bổ Xứ, thuận theo ḷng muốn đều có thể
xứng hợp những điều nguyện cầu khác biệt
của mỗi chúng sanh, quyết định chẳng có mảy
may thiếu khuyết. Do vậy, trong lời Kệ, Luận
Chủ đă viết: “Chúng sanh sở nguyện nhạo, nhất
thiết năng măn túc” (điều
chúng sanh ưa thích, hết thảy đều thỏa măn).
Vô Lượng
Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Chú Giải Giảng Nghĩa
phần
3 hết
[1] Sở và Việt đều là
nước chư hầu dưới triều đại
nhà Châu. Nước Sở vào thời cực thịnh bao gồm
địa bàn các tỉnh Hồ Bắc, An Huy, Hà Nam, Hồ
Nam, Giang Tô, Thượng Hải, Chiết Giang, Giang Tây, một phần Trùng Khánh, Quư Châu, và miền Đông tỉnh Sơn Tây.
Nước Sở được thành lập khi Châu Thành
Vương phong cho Hùng Dịch tước Tử, ban thái ấp ở đất Sở Man, đóng đô ở
Đan Dương. Đến thời Xuân Thu, nước Sở
dưới sự lănh đạo của Sở Trang Vương
(Hùng Lữ) hùng mạnh, diệt hết các nước tiểu
chư hầu thuộc lưu vực sông Trường Giang,
xưng bá Trung Nguyên. Đến cuối thời Xuân Thu,
nước Sở lâm vào cảnh nội loạn, Ngô
Vương Hạp Lư đánh bại quân Sở, vây hăm
Dĩnh Đô, nhờ quân Tần cứu giúp mới không bị
diệt vong. Sau đó, vào các đời Sở
Tuyên Vương và Sở Oai Vương, nước Sở
lại khôi phục. Đến năm 223 trước Công
Nguyên, nước Sở bị Tần Thủy Hoàng diệt
quốc.
Nước Việt c̣n
gọi là Ư Việt, hoặc Đại Việt, do hậu
duệ của nhà Hạ là Tử Vô Dư sáng lập, lănh thổ
từ phía Đông của nước Sở cho đến tận
biển Đông, thuộc địa bàn tỉnh Chiết
Giang, Giang Tô, An Huy và Giang Tây hiện thời. Kinh đô thay
đổi nhiều lần, nổi tiếng nhất là kinh
đô Cô Tô (trước đó là kinh đô Cối Kê). Nguồn
gốc của người ở quốc gia này cho đến
giờ vẫn đang c̣n tranh luận. Đa phần cho rằng họ là một
bộ lạc của Bách Việt thời đó, v́ họ cũng có thói quen búi tóc xâm ḿnh giống như Lạc Việt,
cũng như sở hữu kỹ thuật đúc đồng,
đặc biệt là ŕu đồng rất tinh xảo, kỹ
thuật chế tác đồ đá cũng rất cao.
Hơn nữa, các thanh cổ kiếm trứ danh của Trung Hoa đa phần xuất
phát từ nước Việt. Có thuyết cho rằng họ là hậu duệ của
người Tam Miêu. Sử quan Trung Hoa ít chép về nước
Việt. Họ chỉ chép về nước Việt sau khi
vua Ngô là Phù Sai xâm lăng nước Việt, và vua nước
Việt là Câu Tiễn đă chịu cảnh nằm gai nếm
mật, chịu đủ mọi nỗi nhục để
phục hưng nước Việt, cuối cùng đánh bại Phù Sai,
chiếm lănh nước Ngô. Vua cuối cùng của nước Việt là Tự Vô Cương bị quân Sở
giết chết và lănh thổ nước Việt bị sát
nhập vào nước Sở. Về sau, dưới thời
Tần Thủy Hoàng, do vùng Ngô Việt liên tục nổi lên
chống đối, Tần Thủy Hoàng đă đặt
tên cho vùng này là Cối Kê Quận, cấm
dùng danh xưng Đại Việt để gọi vùng này.
[2]
Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林)
là tác phẩm do ngài Đạo Thế soạn vào đời
Đường. Sách được hoàn thành vào năm Tổng
Chương nguyên niên (668). Kể từ năm Hiển Khánh
thứ tư (659) đời Đường Cao Tông, ngài Đạo
Thế đă dựa theo bộ Kinh Luật Dị Tướng
biên soạn thành tác phẩm Chư Kinh Tập Yếu, về
sau lại tăng bổ, soạn thành bộ Pháp Uyển Châu
Lâm. Trong tác phẩm này, Ngài đă trích dẫn hơn 400 bộ
kinh sách của Phật giáo, Đạo giáo, cách sách sấm vĩ
và trước tác cổ. Bộ sách này có thể coi như một
bộ bách khoa từ điển về Phật học. Sách
trích dẫn nhiều bộ kinh sách đă thất truyền
tại Trung Hoa như Phật Bổn Hạnh Kinh, Bồ Tát
Bổn Hạnh Kinh, Quán Phật Tam Muội Kinh, Tây Vực
Chí, Trung Thiên Trúc Hành Kư v.v…
[3]
Huệ Lâm Âm Nghĩa (慧琳音義)
vốn có tên gốc là Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa, do ngài
Huệ Lâm (737-820) biên soạn, gồm 100 quyển. Do trước
đó, ngài Thích Huyền Ứng có viết một tác phẩm
khác trùng tên, nên bản của ngài Huyền Ứng thường
được gọi là Đại Đường Chúng
Kinh Âm Nghĩa, c̣n bản của ngài Huệ Lâm được
gọi là Huệ Lâm Âm Nghĩa. Đây là một tác phẩm
tổng hợp tất cả những tác phẩm trước
đó như Tân Dịch Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh Âm Nghĩa, Đại Bát Niết Bàn Kinh Âm Nghĩa,
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Âm Huấn, Đại Đường
Chúng Kinh Âm Nghĩa v.v… tham khảo các sách Tự Thư, Vận
Thư, Vận Thuyên, Khảo Thanh Thiết Vận, Thuyết
Văn, Nhĩ Nhă, Phương Ngôn, Thích Danh, Ngọc Thiên, Tập
Huấn, Cổ Kim Chánh Tự v.v… nhằm biện định
âm đọc và ư nghĩa của các từ tiếng Phạn
hoặc danh tướng trong kinh Phật để người
đọc kinh Phật hiểu đúng ư nghĩa của các
thuật ngữ chuyên dụng trong Phật giáo.
[4]
Thiên kinh địa nghĩa: Kinh có nghĩa là nguyên tắc, c̣n
Nghĩa là chánh lư. “Thiên kinh địa nghĩa” là một thành
ngữ hàm ư “lẽ đương nhiên, hoặc đạo
lư chẳng thể thay đổi được”.
[5] Tứ
Vi Đà (Veda, c̣n phiên âm là Vệ Đà hay Phệ Đà) là bốn
thánh điển tối cổ của Bà La Môn giáo. Người
Ấn Độ tin các bộ kinh này do các thánh giả
được khải thị trong khi nhập Thiền
Định rất sâu. Bốn bộ thánh điển là Ly
Câu Phệ Đà (Rig Veda),
Sa Ma Phệ Đà (Sāmaveda),
Dạ Nhu Phệ Đà (Yajurveda),
và A Thát Bà Phệ Đà (Atharvaveda).
[6] Đây là một câu chuyện trích từ
bộ Liệt Tiên Truyện. Theo đó, có một người
học đạo tiên tên là Tử An t́m đến núi
Lăng Dương thuộc Tuyên Châu tỉnh An Huy để
theo Đậu Tử Minh học đạo tiên. Một ngày
nọ, ông ta đi đường, thấy có người
bắt được con chim hoàng hạc (Hộc là chim hạc),
nhốt buộc nó rất khổ sở. Do không sẵn tiền,
Tử An bèn cởi áo ra chuộc rồi thả cho chim bay
đi. Cũng chính ông này đă tạo thành giai thoại
cưỡi hoàng hạc đến một ngôi lầu cao ở
Vũ Xương, nghỉ chân ở đó. V́ thế, ngôi lầu
ấy được đặt tên là Hoàng Hạc Lâu. Vài
năm sau, Tử An chết, chôn trong mộ, hoàng hạc mỗi
ngày đến bên mộ kêu ṛng ră suốt ba năm: “Tử
An! Tử An”. Quả nhiên, sau ba năm, Tử An sống lại.
Chim hoàng hạc ngă lăn ra chết, giống như đổi
mạng ḿnh cho Tử An vậy. Tương truyền, hoàng
hạc sống ngàn năm, cho nên mới viết là “thiên
linh cánh khởi” (ngàn năm [đổi mạng] lại
sống dậy).
[7] Hạt sen chính là quả, do trong hoa
sen luôn có hạt sen nơi gương sen, nên gọi là “hoa quả đồng thời”.
[8] Thành ngữ này xuất phát từ
sách Châu Lễ, trong thiên Thu Quan, phần Triều Sĩ có nói
để quy định chỗ đứng của các quan: Ở ngoài sân đại
điện, trồng ba cây ḥe đối diện ngai vua là
chỗ đứng của Tam Công. Bên trái trồng chín cây cức (tức là loại táo có gai) làm chỗ
đứng cho quan thuộc địa vị cửu khanh,
các quan khanh nhỏ hơn đứng sau đó. Bên phải
trồng chín cây cức là chỗ đứng cho các vị
mang tước công, hầu, bá, tử, nam, các quan nhỏ
hơn đứng sau họ. Trịnh Huyền chú thích: “Cây
cức ruột đỏ, ngoài có gai, biểu thị tấm
ḷng trung lương, nhiệt tâm can gián. Chữ Ḥe đọc
giống như Hoài, ư nói ngôn hoài, tức là sẵn sàng chia sẻ,
bày mưu tính kế, dùng những lời hay lẽ thật
để giúp vua”. Thời Châu, Tam Công là Thái Sư, Thái
Phó và Thái Bảo, đến đời sau đổi thành
Thừa Tướng, Thái Úy, Ngự Sử Đại Phu, rồi
đổi thành Thái Úy, Tư Đồ, Tư Không. Đến thời Minh - Thanh lại gọi là Thái Sư, Thái
Phó, Thái Bảo như xưa, nhưng thường là các
tước vinh dự kèm thêm cho chức quan thật sự, chứ không phải là chức quan thật sự. Cửu Khanh là Thái Thường,
Lang Trung Lệnh, Vệ Úy, Thái Bộc, Đ́nh Úy, Điển
Khách (về sau đổi thành Đại Hồng Lô), Tông
Chánh, và Trị Túc Nội Sứ (tức Đại Tư
Nông).
[9] Thiện
Tinh: Theo bộ
Pháp Hoa Huyền Tán của Khuy Cơ đại sư, th́ đức
Phật có ba con trai, một là Thiện Tinh, hai là Ưu Bà Ma
Da, ba là La Hầu La. Sau khi đức Phật thành đạo,
Thiện Tinh theo Phật xuất gia, đă chứng đắc
Tứ Thiền, nhưng do thân cận Đề Bà Đạt
Đa, bèn khởi ác tâm đối với Phật, đọa
vào địa ngục Vô Gián trong khi c̣n sống. Trong kinh Đại
Bát Niết Bàn, phẩm Ca Diếp Bồ Tát, có một đoạn
dài chép về những hành vi chống phá Phật pháp của
Thiện Tinh.
[10] Cổ Tẩu (瞽叟) có
nghĩa là “lăo già mù”, không rơ tên thật là ǵ. Ông là cháu đời thứ tám của vua Hoàng
Đế, là con của Kiều Ngư. Cổ Tẩu tánh
t́nh hung bạo, ngu muội. Có thuyết nói do ông ngu muội,
mù quáng nghe theo lời vợ kế đến nỗi không tiếc sức hại con, nên bị người thuở ấy gọi miệt thị là Cổ Tẩu, chứ không phải
ông ta bị mù thật sự. Vợ đầu của ông
ta là Ốc Đăng sanh được một người
con trai (Diêu Trọng Hoa, tức Đế Thuấn) rồi
chết sớm. Vợ kế sanh được một
trai là Tượng, tính t́nh xấu xa, nhưng rất
được Cổ Tẩu cưng chiều. Nghe lời vợ
kế xui siểm, Cổ Tẩu nhiều lần âm mưu
giết Trọng Hoa, nhưng Trọng Hoa vẫn một niềm
hiếu thuận. Vua Nghiêu biết Trọng Hoa là người có đức hạnh
bèn gả con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh cho, rồi nhường
ngôi cho Trọng Hoa. Trọng Hoa trở thành vua Thuấn.
[11] Ngũ chúng xuất gia là tỳ-kheo,
sa di, tỳ-kheo-ni, sa-di-ni, và thức-xoa-ma-na (học
pháp nữ).
[12] Khi xưa nhà giàu có sang cả thường
có cửa sơn màu đỏ, nên nhà giàu có thường gọi
là “châu môn” (cửa đỏ như son).
[13] Theo đa số các giảng sư,
chữ “huyền sa” có nghĩa là treo một bịch
cát lên giả làm bao đựng thức ăn. Do trong thời
đói kém, con đói đ̣i ăn, mẹ treo bịch cát giả
vờ là bao đựng thức ăn để dỗ cho
con tạm nín khóc.
[14] Khuân (囷) có nghĩa là cái kho có
h́nh tṛn.
[15]
Cổn (袞) là loại
lễ phục rộng tay, thêu rồng mà nhà vua thường
mặc trong các dịp tế lễ, nhất là khi giỗ kỵ
các vị tiên vương. Thời cổ, áo lễ của thiên tử
và các vương công đều gọi là Cổn, nhưng về
sau, chỉ có lễ phục vua mặc mới gọi là Cổn.
Do vậy, chữ Cổn cũng thường dùng để
chỉ nhà vua
[16] Hồ Già không rơ là nhạc khí của
nước nào, nhưng các nhà nghiên cứu đều công nhận
nó xuất phát từ các sắc dân du mục ở
phương Bắc Trung Hoa, có lẽ phát xuất từ loại
sáo Modu Tsuur của Mông Cổ. Hồ già không có lưỡi
rung, người thổi phải dùng đầu lưỡi
của chính ḿnh để khống chế cao độ của
mỗi nốt nhạc.
[17] Ở đây, pháp sư Tánh Phạm
viết nhầm. Hai câu đầu là của bài Lương
Châu Từ do Vương Hàn sáng tác, tức là: “Bồ
đào mỹ tửu dạ quang bôi, dục ẩm tỳ bà
thượng mă thôi, túy ngọa sa trường quân mạc
tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Trần
Trọng San dịch thơ như sau: “Rượu bồ đào,
chén dạ quang, muốn say, đàn đă rền vang giục
rồi, sa trường say ngủ ai cười, từ
xưa chinh chiến mấy người về đâu?”
C̣n hai câu sau trích từ bài thơ Tống Nguyên Nhị Sứ
An Tây của Vương Duy: “Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần,
khách xá thanh thanh liễu sắc tân, khuyến quân cánh tận
nhất bôi tửu, Tây xuất Dương quan vô cố
nhân”. Nam Trân dịch thành: “Mưa
mai thấm bụi Vị Thành, liễu bên quán trọ sắc
xanh ngời ngời, khuyên anh hăy cạn chén mời,
Dương quan ra khỏi ai người cố tri?” Cả hai bài ấy đều là thơ đời
Đường.