Vô Lượng
Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá
Chú Giải
Giảng Nghĩa
phần
4
無量壽經優婆提舍註解講義
Ấn Độ
Thế Thân Bồ Tát tạo luận
印度世親菩薩造論
Nguyên Ngụy
Thiên Trúc Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi dịch luận
元魏天竺三藏菩提流支譯論
Nguyên Ngụy
Huyền Trung Tự sa-môn Đàm Loan chú giải
元魏玄中寺
Dân Quốc
Tịnh Luật Tự sa-môn Tánh Phạm giảng nghĩa
民國淨律寺 門性梵講義
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
2.2.1.2.3.1.2.
Tiểu kết thành phát nguyện văng sanh
(Luận) Thị cố nguyện
sanh bỉ, A Di Đà Phật quốc.
(Chú) Thử nhị cú, kết
thành thượng quán sát thập thất chủng trang nghiêm
quốc độ thành tựu, sở dĩ nguyện sanh,
thích khí thế gian thanh tịnh, ngật chi ư thượng.
(論)是故願生彼。阿彌陀佛國。
(註)此二句。結成上觀察十七種莊嚴國土成就。所以願生。釋器世間清淨。訖之於上。
(Luận:
V́ thế nguyện văng sanh, cơi A Di Đà Phật.
Chú: Hai câu này để tổng
kết sự quán sát các thành tựu nơi mười bảy
thứ trang nghiêm quốc độ trên đây, cho nên nguyện
sanh [về
cơi An Lạc]. Trên đây là phần giải thích về
khí thế gian thanh tịnh đă xong).
Luận
Chủ dùng hai câu Kệ Tụng này để biểu thị:
Do Ngài (vị Luận Chủ) quan sát, thấy quốc độ
An Lạc có mười bảy loại công đức thành tựu trang nghiêm như đă nói trên,
cho nên bèn phát nguyện mong văng sanh thế giới (“quốc”) thanh tịnh
của A Di Đà Phật. Các thứ trang nghiêm trong thế
giới ấy chính là cảnh giới Lư Sự vô ngại chẳng
thể nghĩ bàn thuộc về Đệ Nhất Nghĩa
Đế (Thắng Nghĩa Đế), vọng thức của
phàm phu chẳng thể biết
rơ được! Ắt cần phải có Bát Nhă th́ mới
có thể quan sát, cũng ắt cần phải có tín nguyện
th́ mới có thể văng sanh cơi ấy. Do vậy, sau phần
Kệ Tụng về mười bảy thứ trang nghiêm, vị
Luận Chủ đă phát nguyện quyết định muốn
sanh về cơi đó. Phần Kệ Tụng về khí thế
gian thanh tịnh trong bộ luận này cũng đến đây
là hết; v́ thế nói là “ngật chi ư thượng”
(đă xong trong phần trên đây), chẳng cần phải
nói thêm nữa!
2.2.1.2.3.1.3.
Quan sát công đức thanh tịnh của chúng sanh thế
gian
2.2.1.2.3.1.3.1.
Hai môn quán sát của chúng sanh thế gian
(Chú) Thứ quán chúng sanh thế
gian thanh tịnh. Thử môn trung phân vi nhị biệt: Nhất
giả, quán sát A Di Đà Như Lai trang nghiêm công đức;
nhị giả, quán sát bỉ chư Bồ Tát trang nghiêm công
đức. Quán sát Như Lai trang nghiêm công đức trung, hữu
bát chủng, chí văn đương mục.
(註)次觀眾生世間清淨。此門中分為二別。一者觀察阿彌陀如來莊嚴功德。二者觀察彼諸菩薩莊嚴功德。觀察如來莊嚴功德中。有八種。至文當目。
(Chú:
Kế đó, quán chúng sanh thế gian thanh tịnh. Trong môn
này, chia thành hai môn riêng biệt: Một là quan sát công đức
trang nghiêm của A Di Đà Như Lai; hai là quan sát công đức
trang nghiêm của các vị Bồ Tát trong cơi ấy. Trong phần
quan sát công đức trang nghiêm của Như Lai có tám loại,
đến phần kinh văn sẽ nêu rơ từng mục).
Ngài Đàm
Loan sẽ giải thích tiếp, vị Luận Chủ đă
nêu ra sự quan sát chúng sanh thế gian của quốc độ
An Lạc có mười hai loại trang nghiêm thanh tịnh. Trước hết, [ngài Đàm
Loan] chia chúng thành hai môn, cũng tức là hai loại. Loại
thứ nhất thuộc về công đức trang nghiêm của
A Di Đà Phật, loại thứ hai thuộc về công
đức trang nghiêm của hàng Bồ Tát sanh trong cơi ấy.
Trong loại thứ nhất, có tất cả tám thứ công
đức trang nghiêm. Khi tới phần
giải thích Kệ Tụng, sẽ tự đối với
từng món mà nêu ra tên gọi của tám thứ ấy.
2.2.1.2.3.1.3.2.
Giải thích về chúng sanh
(Chú) Vấn viết: Hữu
luận sư phiếm giải “chúng
sanh” danh nghĩa, dĩ kỳ luân chuyển tam hữu, thọ
chúng đa sanh tử, cố danh “chúng
sanh”. Kim danh
Phật, Bồ Tát vi “chúng
sanh”, thị
nghĩa vân hà?
(註)問曰。有論師汎解眾生名義。以其輪轉三有。受眾多生死。故名眾生。今名佛菩薩為眾生。是義云何。
(Chú:
Hỏi: Đối với danh nghĩa của [từ ngữ]
“chúng sanh”, theo cách giải thích chung của các luận sư
th́ do [hữu t́nh] luân chuyển trong ba cơi, hứng chịu khá nhiều sanh
tử; cho nên gọi là “chúng sanh”. Nay gọi Phật, Bồ
Tát là “chúng
sanh”, nghĩa
ấy là như thế nào?)
Đă muốn
quan sát chúng sanh thế gian; trước hết, phải biết định nghĩa
của “chúng
sanh”. V́ thế,
Ngài (Đàm
Loan đại sư) giả lập
[một đoạn] vấn đáp để thuyết minh.
Có người hỏi: Có những vị luận sư (người
có thể hiểu pháp nghĩa th́ được gọi là
Luận Sư). “Phiếm giải” (汎解, tức
là luận định chung, tức là cách giải nói phổ
biến) danh nghĩa của chúng sanh, chính là nói: Hễ thuộc
trong tam hữu (tam giới), nhận lấy khá nhiều sanh
mạng thể sanh tử luân hồi th́ gọi là “chúng
sanh”, nhưng nay luận này lại gọi A Di Đà Phật
và hàng Bồ Tát trong cơi Ngài là “chúng sanh”. Nói theo Lư, Phật,
Bồ Tát đă thoát tam giới, liễu thoát sanh tử, cớ
sao vẫn có thể gọi là “chúng sanh”? Ư nghĩa được bao hàm trong ấy là như
thế nào?
(Chú) Đáp viết: Kinh
ngôn, nhất pháp hữu vô lượng danh, nhất danh hữu
vô lượng nghĩa, như dĩ thọ chúng đa sanh tử
cố, danh vi “chúng
sanh” dă. Thử
thị Tiểu Thừa gia thích tam giới trung “chúng
sanh” danh nghĩa, phi Đại Thừa gia “chúng sanh” danh nghĩa
dă. Đại Thừa gia sở ngôn “chúng sanh” giả, như
Bất Tăng Bất Giảm kinh ngôn: “Ngôn chúng sanh giả,
tức thị bất sanh bất diệt nghĩa. Hà dĩ
cố? Nhược hữu sanh, sanh dĩ phục sanh, hữu
vô cùng quá cố, hữu bất sanh nhi sanh quá cố. Thị
cố vô sanh. Nhược hữu sanh, khả hữu diệt.
Kư vô sanh, hà đắc hữu diệt? Thị cố vô sanh
vô diệt thị chúng sanh nghĩa”. Như kinh trung ngôn: “Ngũ
Thọ Ấm thông đạt Không, Vô Sở Hữu, thị
Khổ nghĩa”. Tư kỳ loại dă.
(註)答曰。經言。一法有無量名。一名有無量義。如以受眾多生死故名為眾生者。此是小乘家釋三界中眾生名義。非大乘家眾生名義也。大乘家所言眾生者。如不增不減經言。言眾生者即是不生不滅義。何以故。若有生。生已復生有無窮過故。有不生而生過故。是故無生。若有生。可有滅。既無生。何得有滅。是故無生無滅是眾生義。如經中言。五受陰通達空無所有是苦義。斯其類也。
(Chú:
Đáp: Kinh dạy, một pháp có vô lượng tên, một tên
có vô lượng nghĩa. Nếu coi “do chịu nhiều lần
sanh tử nên gọi là chúng sanh” th́ đấy chính là cách giải
nghĩa danh xưng “chúng sanh trong tam giới” của các vị
Tiểu Thừa, chẳng phải là cách giải thích ư nghĩa
danh xưng “chúng sanh” của các vị Đại Thừa. Đại
Thừa nói đến “chúng sanh” th́ như kinh Bất Tăng
Bất Giảm đă dạy: “Nói đến chúng sanh th́ chính
là theo nghĩa bất sanh bất diệt. V́ cớ sao vậy? Nếu
là có sanh, th́ do đă sanh rồi lại sanh nữa, cho nên mắc
lỗi ‘vô cùng’, mắc lỗi ‘có chẳng sanh mà sanh’, cho nên
là vô sanh. Nếu có sanh, th́ sẽ có diệt. Đă là vô sanh
th́ làm sao có diệt cho được? Do vậy, vô sanh vô diệt
là nghĩa của chúng sanh”. Như trong kinh đă nói: “Thông đạt
Ngũ Thọ Ấm không, vô sở hữu chính là nghĩa của
Khổ”. [Những pháp khác] đều giống như điều
này vậy).
Trong lời đáp của đoạn
này, trước hết nêu ra điều được nói
trong pháp Đại Thừa, “một pháp có nhiều tên, một
tên có nhiều nghĩa”. Chẳng hạn như “tâm”
là một pháp, gồm có Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
và sáu thức, bảy thức, tám thức, chín thức khác
nhau. Lại có nhục đoàn tâm (trái tim bằng máu thịt),
duyên lự tâm (cái tâm do suy nghĩ, vọng tưởng, tức
vọng tâm gồm tám thức), tập khởi tâm (集起心, chỉ
riêng cho A Lại Da Thức), Chân Như tâm v.v… khác nhau. Lại
tách ra bèn có năm mươi mốt loại Tâm Sở Pháp; đều
là các tên khác nhau của tâm, mỗi tên đều bao hàm ư nghĩa
khác nhau. “Sách” là một pháp, bèn có vô lượng tên sách
khác nhau, và vô lượng nghĩa lư khác nhau trong mỗi sách.
“Xe” là một pháp, có rất nhiều tên chủng loại
xe khác nhau, và các loại h́nh thể xe, dáng xe, công dụng v.v…
khác nhau. V́ các pháp không ǵ chẳng phải là do nhân duyên ḥa hợp
mà có, chẳng có tánh độc lập, chẳng có tánh bất
biến, [mỗi pháp] đều có mười Như Thị,
cho đến ba ngàn tánh tướng. Do vậy, tất nhiên
là một pháp có nhiều tên, một tên có nhiều nghĩa.
Ư nghĩa được bao
hàm trong từ ngữ “chúng sanh” cũng giống như
thế. Nhận lănh khá nhiều sanh tử th́ gọi là “chúng
sanh”. Đấy là nói theo pháp Tiểu Thừa. Nếu nói
theo Đại Thừa Phật pháp, ngài Đàm Loan dẫn ư “bất
sanh bất diệt là ư nghĩa của chúng sanh” từ kinh
Bất Tăng Bất Giảm của Đại Thừa để
giải thích [từ ngữ] “chúng sanh thế gian” được
nói trong bộ luận này. V́ sao bất sanh bất diệt được
gọi là chúng sanh? V́ vô sanh vô diệt mới là Thật Tướng
của chúng sanh. Nếu có sanh, có diệt, đấy là “giả
danh chúng sanh”, cũng được gọi là “giả
thi thiết” (假施設, giả
đặt bày ra), tức là Thế Tục Đế. Như
kinh Kim Cang nói: “Chúng sanh tức phi chúng sanh, giả danh chúng
sanh” (Chúng sanh tức chẳng phải là chúng sanh, giả
gọi là chúng sanh). Có sanh có diệt th́ là Tâm Sanh Diệt Môn,
vô sanh vô diệt là Tâm Chân Như Môn. Nhất tâm nhị môn,
chẳng một, chẳng khác, pháp vốn là như thế đấy.
Đấy là tướng chân thật và nghĩa chân thật
của các pháp. Do vậy, nói theo pháp Tiểu Thừa, có khá
nhiều sanh tử th́ gọi là “chúng
sanh”, tức
là nói theo Sanh Diệt Môn, chỉ nói đến tâm một nửa,
cho nên gọi là Bán Tự Giáo. Đại Thừa nói vô sanh vô
diệt, đấy mới là khế hợp tướng chân
thật của nhất tâm nhị môn, được gọi
là Măn Tự Giáo.
Tâm tánh tự thanh tịnh (vô
sanh, vô diệt), các pháp chỉ là nhất tâm (duy tâm sở hiện).
Tâm này làm chúng sanh, tâm này là Bồ Tát, Phật. Lục phàm tứ
thánh đều do tâm tạo, tam đồ lục đạo
do tâm tạo. Hết thảy mọi sự trong thế gian do
tâm vẽ, chân tâm rốt ráo không tạo tác. Do vậy, tuy tâm
này làm chúng sanh; thật ra, tâm này là chúng sanh. Đấy là ư
nghĩa chân thật của “chúng sanh”. Chín câu
từ “nhược hữu sanh” (nếu có sanh) cho đến
“hà đắc hữu diệt” (làm sao có diệt cho được)
nhằm thuyết minh đạo lư bất sanh bất diệt,
lời văn dễ hiểu.
“Như kinh ngôn” (Như kinh nói),
câu này nhằm nói kinh Bất Tăng Bất Giảm đă dạy:
Ngũ Thọ Ấm (Ngũ Ấm tiếp nhận ngoại
cảnh, bèn gọi là Ngũ Thọ Ấm), có thể thông đạt
chúng đều là Không, vô sở hữu, đấy là hàm nghĩa
của Khổ. Đấy là nói có thể liễu giải cảm
thọ khổ hay lạc của mỗi cá nhân đều là
do nhân duyên sanh ra, chẳng
có thể tánh khổ hay lạc thực tại; vậy th́ người
ấy có thể thông đạt chân nghĩa của Khổ
Thánh Đế. Cảm thọ Ngũ Ấm của chúng sanh
là Tâm Sanh Diệt Môn. “Không, vô sở hữu” là Tâm Chân
Như Môn. Nhất tâm nhị môn chẳng một, chẳng
khác. Đấy là tướng chân thật của Khổ. “Tư
kỳ loại dă”, câu này chính là đem Ngũ Thọ Ấm
so sánh với chúng sanh, suy rộng ra cho đến hết thảy
các pháp, [sẽ thấy] không ǵ chẳng phải là như vậy.
V́ thế nói “tư kỳ loại dă”.
2.2.1.2.3.1.3.3.
Quan sát công đức trang nghiêm của A Di Đà Như Lai
2.2.1.2.3.1.3.3.1.
Công đức của hoa ṭa
(Luận) Vô lượng đại
bảo vương, vi diệu tịnh hoa đài.
(Chú) Thử nhị cú, danh “trang
nghiêm ṭa công đức thành tựu”. Phật bổn hà cố
trang nghiêm thử ṭa? Kiến hữu Bồ Tát, ư mạt
hậu thân, phu thảo nhi tọa, thành A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề. Nhân thiên kiến giả, bất
sanh tăng thượng tín, tăng thượng cung kính, tăng
thượng ái nhạo, tăng thượng tu hành.
(論)無量大寶王。微妙淨華臺。 (註)此二句。名莊嚴座功德成就。佛本何故莊嚴此座。見有菩薩。於末後身。敷草而坐。成阿耨多羅三藐三菩提。人天見者。不生增上信。增上恭敬。增上愛樂。增上修行。
(Luận:
Vô lượng đại bảo vương, đài hoa
tịnh, vi diệu.
Chú: Hai câu này được
gọi là “trang nghiêm ṭa công đức thành tựu”. Vốn
v́ lẽ nào mà Phật trang nghiêm ṭa ấy? Do Ngài thấy có Bồ
Tát nơi thân sau cùng, trải cỏ mà ngồi để thành
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. [Do vậy] người,
trời trông thấy, chẳng sanh ḷng tin tăng thượng,
ḷng cung kính tăng thượng, ḷng yêu thích tăng thượng,
tu hành tăng thượng).
Mười bảy thứ trang
nghiêm được thành tựu bởi công đức như
đă nói trong phần trước chính là quán sự trang nghiêm
nơi y báo của quốc độ An Lạc. Từ chỗ
này trở đi là quán sự trang nghiêm nơi chánh báo của
cơi nước ấy. Trong việc quán chánh báo th́ trước
hết là quán Phật, có tất cả tám thứ trang
nghiêm. Hai câu kệ này là món thứ nhất, được
gọi là “trang nghiêm ṭa công đức”. Trong pháp Tiểu
Thừa, ṭa ngồi của đức Phật [khi Ngài chứng
đạo] chỉ là cỏ Cát Tường, thân Phật cao
một trượng sáu thước, có h́nh tướng của
một vị lăo tỳ-kheo. Trong pháp Đại Thừa th́ khác
hẳn: Ṭa ngồi của đức Phật bằng bảy
báu, cho đến vô lượng thứ báu trang nghiêm. Thân Phật
cao ngàn trượng, cho đến cao lớn vô lượng.
Các căn, tướng hảo, mỗi mỗi đều vô
lượng. V́ sao có sự sai biệt ấy? Thuận theo
tâm chúng sanh, ứng theo khả năng nhận biết của
họ. Do tâm lượng của chúng sanh [khác nhau] mà cảnh
giới bất đồng. V́ thế, trông thấy khác nhau.
Chẳng hạn như cùng là nước sạch, cá thấy
là nhà cửa, người thấy là nước, chư thiên
thấy là chất báu lưu ly. Trông thấy ṭa của đức
Phật khác nhau cũng giống như
thế đó.
A Di Đà Phật khi Ngài c̣n đang
tu nhân (đó là “bổn”), trông thấy Nhất Sanh Bổ
Xứ Bồ Tát vào đời cuối cùng (“mạt hậu
thân” tức là từ đấy trở đi chẳng c̣n
thọ thân sanh tử nữa) ngồi trên cỏ Cát Tường
mà thành Phật. Như Bổn Sư Thích Ca Thế Tôn chính là
như vậy đấy. A Nậu Đa La (Anuttarā) dịch
là Vô Thượng, Tam Miệu (Samyak) dịch là Chánh Đẳng,
Tam Bồ Đề (Saṃbodhi) dịch
là Chánh Giác. Thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tức
là thành Phật. Ṭa của đức Phật chỉ là cỏ
Cát Tường thông thường, thân Phật lại là h́nh
tướng lăo tỳ-kheo; như vậy th́ sẽ khiến
cho khi trời người nh́n vào, chẳng thể sanh khởi
ḷng tin tăng thượng và ḷng cung kính tăng thượng.
Đấy là thiếu khuyết Tín môn. Chẳng sanh ḷng yêu
thích tăng thượng; đấy là thiếu khuyết Nguyện
môn. Chẳng sanh tâm tu hành tăng thượng; đấy là
khuyết thiếu hai môn Hành và Niệm. Bốn môn như thế
đều chẳng viên măn, nói theo phía chúng sanh, sẽ là tổn
thất lớn nhất, mà cũng
là chướng ngại lớn nhất để thành Phật. Do vậy,
đức Di Đà phát nguyện khi Ngài thành Phật, ṭa của
Ngài sẽ chẳng phải là cỏ Cát Tường thông thường.
Đấy là dựa theo nhu cầu của chúng sanh, mà phát Bồ
Đề tâm (nguyện), nương theo tâm Bồ Đề
mà thành Phật.
(Chú) Thị cố nguyện
ngôn, ngă thành Phật thời, sử vô lượng đại
bảo vương, vi diệu tịnh hoa đài dĩ vi Phật
ṭa.
(註)是故願言。我成佛時。使無量大寶王。微妙淨華臺。以為佛座。
(Chú: V́ thế, nguyện
rằng: Khi tôi thành Phật, khiến cho vô lượng
đại bảo vương, hoa đài thanh tịnh vi diệu
làm ṭa của đức Phật).
Phật Di Đà phát nguyện,
Ngài thành Phật, ṭa của Ngài sẽ do vô lượng
đại bảo tạo thành, đài hoa sen vi diệu thanh tịnh
làm ṭa. Hoa sen mọc từ bùn lầy mà chẳng bị nhuốm
bẩn, ví như Phật từ phàm phu tu hành thành Phật.
Hoa sen là hoa quả đồng thời, ví như Phật tu
nhân Nhất Thừa (nhất tâm vạn hạnh), chứng
quả Nhất Thừa (vạn hạnh nhất tâm). Nhân bao
trùm biển quả, quả thấu triệt nguồn nhân,
nhân và quả cùng ở trong một tâm. Pháp vốn là “bất
tức, bất ly” (chẳng chính là, chẳng ĺa). “Bất
tức” là vô tướng, “bất ly” chính là “vô bất
tướng” (chẳng phải là không có tướng). Vô tướng,
vô bất tướng; đấy là Thật Tướng của
các pháp. Rốt ráo chứng đắc Thật Tướng
của các pháp th́ gọi là “thành Phật”. Như kinh Quán
Phật Tam Muội đă dạy: “Phật ṭa thị đại
hồng bảo liên hoa vương” (Ṭa của
Phật là đại hồng bảo liên hoa vương). Đấy
chính là dùng hoa sen để tượng trưng cho tâm người.
Phật là do tu tâm mà thành; tâm chúng sanh tuy là cái tâm hư vọng,
phân biệt, nhưng tu hành trọn chẳng
thể ĺa vọng tâm này. Do vậy, Thiên Thai Chỉ Quán chính
là dốc sức nơi Ư Thức, tức thức thứ sáu
(vọng tâm) mà tu tập. Chỉ Quán viên thành, chính là ĺa vọng
tâm, hiển lộ chân tâm. Điều này được gọi
là “hiển tâm thành trí”. Cái tâm Chân Như hiển lộ
ấy được gọi là “như như Phật”.
Tứ Trí Bồ Đề được thành tựu th́ gọi
là “trí huệ Phật”. Điều ấy được
gọi là “thành Đẳng
Chánh Giác”.
Trong phần sau, ngài Đàm
Loan dẫn kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật để
giải thích lời kệ. Đấy là phù hợp thích đáng
nhất; v́ Luận Chủ soạn luận này, đă dựa
trên kinh Vô Lượng Thọ và Quán Kinh, dùng kinh để dung
hội luận th́ mới là khít khao, không sai sót!
(Chú) Vô lượng giả,
như Quán Vô Lượng Thọ Kinh ngôn: “Thất bảo địa
thượng, hữu đại bảo liên hoa vương
ṭa. Liên hoa nhất nhất diệp, tác bách bảo sắc, hữu
bát vạn tứ thiên mạch, do như thiên họa. Mạch
hữu bát vạn tứ thiên quang. Hoa diệp tiểu giả,
tung quảng nhị bách ngũ thập do-tuần. Như thị
liên hoa cụ hữu bát vạn tứ thiên diệp (dĩ thượng
tổng minh hoa ṭa). Nhất nhất diệp gian, hữu bách
ức ma-ni châu vương, dĩ vi ánh sức. Nhất nhất
ma-ni, phóng thiên quang minh. Kỳ quang như cái, thất bảo
hợp thành, biến phú địa thượng (dĩ thượng
thị minh hoa diệp trang nghiêm). Thích Ca Tỳ Lăng Già bảo,
dĩ vi kỳ đài. Thử liên hoa đài, bát vạn kim
cang, Chân Thúc Ca bảo, Phạm ma-ni bảo, diệu chân châu
vơng, dĩ vi hiệu sức
(dĩ thượng minh hoa đài trang nghiêm). Ư kỳ
đài thượng, tự nhiên nhi hữu tứ trụ bảo
tràng. Nhất nhất bảo tràng, như bách thiên vạn ức Tu Di sơn.
Tràng thượng bảo mạn, như Dạ Ma thiên cung. Hữu
ngũ bách ức vi diệu bảo châu, dĩ vi ánh sức.
Nhất nhất bảo châu, hữu bát vạn tứ thiên
quang. Nhất nhất quang, tác bát vạn tứ thiên dị
chủng kim sắc (dĩ thượng minh hoa tràng trang nghiêm).
Nhất nhất kim quang, biến An Lạc bảo độ,
xứ xứ biến hóa, các tác dị tướng. Hoặc
vi kim cang đài, hoặc tác chân châu vơng, hoặc tác tạp
hoa vân. Ư thập phương diện, tùy ư biến hiện,
thi tác Phật
sự” (dĩ thượng minh hoa ṭa hữu bất khả
tư nghị đức dụng). Như thị đẳng
sự, xuất quá số lượng. Thị cố ngôn: “Vô
lượng đại bảo vương, vi diệu tịnh
hoa đài”. (註)無量者。如觀無量壽經言。七寶地上。有大寶蓮華王座。蓮華一一葉。作百寶色。有八萬四千脈。猶如天畫。脈有八萬四千光。華葉小者。縱廣二百五十由旬。如是蓮華具有八萬四千葉 (以上總明華座)。一一葉間。有百億摩尼珠王。以為映飾。一一摩尼。放千光明。其光如蓋。七寶合成。遍覆地上(以上是明華葉莊嚴)。釋迦毘楞伽寶。以為其臺。此蓮華臺。八萬金剛。甄叔迦寶。梵摩尼寶。妙真珠網。以為校飾(以上明華臺莊嚴)。於其臺上。自然而有四柱寶幢。一一寶幢。如百千萬億須彌山。幢上寶幔。如夜摩天宮。有五百億微妙寶珠以為映飾。一一寶珠。有八萬四千光。一一光。作八萬四千異種金色(以上明華幢莊嚴)。一一金光。遍安樂寶土。處處變化。各作異相。或為金剛臺。或作真珠網。或作雜華雲。於十方面。隨意變現。施作佛事(以上明華座有不可思議德用)。如是等事。出過數量。是故言無量大寶王。微妙淨華臺。
(Chú: “Vô lượng” là
như kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đă nói: “Trên đất
bảy báu, có ṭa đại bảo liên hoa vương. Mỗi
cánh hoa sen có màu của trăm thứ báu, có tám vạn bốn
ngàn đường gân như nét vẽ cơi trời. Mỗi đường
gân có tám vạn bốn ngàn quang minh. Cánh hoa nhỏ có kích thước
là hai trăm năm mươi do-tuần. Hoa sen như thế
có đủ tám vạn bốn ngàn cánh (trên đây là nói tổng
quát về hoa ṭa). Giữa mỗi cánh hoa, có trăm ức ma-ni
châu vương để tô điểm chói ngời. Mỗi
viên ma-ni tỏa ra một ngàn tia quang minh. Quang minh ấy như
cái lọng, do bảy báu hợp thành, che rợp trên đất
(trên đây là nói về sự trang nghiêm nơi cánh hoa). Chất
báu Thích Ca Tỳ Lăng Già dùng làm đài hoa. Đài hoa sen ấy
có tám vạn kim cang, chất báu Chân Thúc Ca, báu Phạm ma-ni, lưới
chân châu mầu nhiệm dùng để trang hoàng (trên đây là
nói về sự trang nghiêm của đài hoa). Ở trên đài
ấy, tự nhiên có bốn trụ tràng báu. Mỗi tràng báu như
trăm ngàn vạn ức núi Tu Di.
Mành báu trên tràng như cung trời Dạ Ma. Có năm trăm
ức bảo châu vi diệu để tô điểm chói ngời.
Mỗi viên bảo châu có tám vạn bốn ngàn tia quang minh. Mỗi
quang minh có tám vạn bốn ngàn sắc vàng khác loại (trên
đây là nói về sự trang nghiêm nơi tràng hoa). Mỗi sắc
vàng trọn khắp cơi báu An Lạc, biến hóa khắp nơi.
Mỗi sắc biến hóa các tướng khác nhau. Hoặc là
đài kim cang, hoặc là lưới chân châu, hoặc là mây các
thứ hoa khác nhau. Trong mười phương, tùy ư biến
hiện, thực hiện Phật sự” (trên đây là nói rơ
hoa ṭa có đức dụng chẳng thể nghĩ bàn). Những
chuyện như vậy đều vượt khỏi số
lượng. V́ thế nói: “Vô lượng đại bảo
vương, đài hoa tịnh vi diệu”).
“Thích Ca Tỳ Lăng Già”
(Śakrābhi
lagna-mani-ratna) là tiếng Phạn, là
tên của bảo châu, dịch là Năng Thắng (能勝), do loại
chất báu này có
thể vượt trỗi hết thảy các thứ báu
trong thế gian. Chân Thúc Ca (Kimśuka) là tiếng
Phạn, dịch nghĩa là Xích Sắc Bảo (chất báu có
màu đỏ). “Vô lượng đại bảo vương”
là nói theo kiểu biểu thị pháp, tức là nhất tâm
vi diệu hiện tiền của chúng ta trọn đủ
ba ngàn tánh tướng. Do trọn đủ về Lư, bèn có
vô lượng công dụng về mặt Sự. Làm chúng sanh
hay làm Phật, đều do cái tâm này, nên gọi là “đại
bảo”. Nương theo tâm mà hiện cảnh, hoa ṭa
trang nghiêm, chẳng hiện mà hiện, tự tại vô ngại,
nên gọi là Vương (王). “Hoa
diệp” (華葉) chính là
cánh hoa. “Mạch” (脈) chính là
đường gân trên cánh hoa, giống như vân tay, cũng
giống như đường gân, dường như nét vẽ
khéo léo của thiên nhiên. Trên mỗi đường gân, đều
tỏa ra tám vạn bốn ngàn tia quang minh. Mỗi cánh hoa to
hai trăm năm mươi do-tuần, một do-tuần là
bốn mươi dặm, tức là to chừng một vạn
dặm. Cánh hoa to ngần ấy, lại nhiều đến
tám vạn bốn ngàn cánh. Đấy là nói tổng quát h́nh dáng và kích thước
của ṭa hoa sen do A Di Đà Phật ngồi khi Ngài đă thành
Phật.
Giữa cánh hoa này và cánh hoa
kia, có rất nhiều Như Ư bảo châu để trang
nghiêm (kinh văn ghi là “ánh sức”). Mỗi viên châu lại
phóng rất nhiều quang minh, giống như dù, lọng,
che khắp hoa ṭa và đại địa. Đấy là thuyết
minh về sự trang nghiêm nơi cánh hoa. Chính giữa hoa sen,
có một đài sen rất đẹp đẽ, rất lớn,
có rất nhiều trân bảo nổi tiếng nhất, quư
nhất để trang nghiêm (kinh văn ghi là “hiệu sức”).
Đấy là nói về sự trang nghiêm nơi hoa đài.
Bốn phía của đài hoa
sen ấy, tự nhiên có bốn nhánh, tức bốn tràng báu
giống như những cái trụ của đài hoa, hết
sức cao lớn, khó thể h́nh dung, [cho nên]
miễn cưỡng dùng núi Tu Di để sánh ví. Núi Tu
Di dịch nghĩa là núi Diệu Cao. Do bốn báu hợp thành,
nên gọi là Diệu (妙); do vượt
trỗi bảy tầng kim sơn, nên là
Cao (高). “Mạn”
(幔) tức
là màn vải. [“Bảo mạn”] là màn vải do châu báu dệt
thành, giăng phủ trên bốn trụ hoa tràng. Mỗi
một bảo châu đều phóng tám vạn bốn ngàn tia
sáng, mỗi một tia sáng lại tỏa ra các thứ sắc
vàng khác nhau. Đấy là nói về sự trang nghiêm nơi
hoa tràng.
Vô lượng quang minh kim sắc,
mỗi kim sắc đều là chiếu rực trọn khắp
quốc độ Cực Lạc. Tùy theo căn cơ của
chúng sanh trong cơi ấy mà biến hiện các thứ tướng
trang nghiêm hy hữu, lạ
lùng: Hoặc hiện đài sen bằng chất báu kim cang,
hoặc hiện lưới chân châu, mây các thứ hoa, che phủ
hoa ṭa và toàn thể mặt đất. Lại c̣n từ bốn
phương tám hướng của hoa ṭa, tùy ư biến hiện
các thứ Phật sự, chẳng hạn như: Tu Lục
Độ, hành Tứ Nhiếp, niệm Phật, Pháp, Tăng,
giảng kinh, tụng kinh, tọa Thiền, lạy Phật,
kinh hành, khất thực v.v… Phàm là những chuyện có thể
lợi ích chúng sanh, thuận theo căn tánh, mong muốn, ước
nguyện của chúng sanh, xứng hợp những chỗ tốt
đẹp, mà hóa hiện những chuyện ấy, khiến
cho chúng sanh ngay khi đó đạt được lợi ích.
Đấy là nói rơ hoa ṭa có
đức dụng chẳng thể nghĩ bàn, được
gọi là “thi tác Phật sự” (thực hiện Phật
sự). Ngài Đàm Loan trích dẫn kinh văn của Quán Kinh,
tôi đă giảng giải giản lược.
“Như thị đẳng
sự, xuất quá số lượng” (những chuyện
như vậy đều vượt khỏi số lượng):
Hai câu này nhằm tổng kết phần quan sát hoa ṭa [được
nói] trong phần trước, mỗi thứ đều có sự
trang nghiêm vượt trỗi số lượng. Do vậy,
lời Kệ ghi là: “Vô lượng đại bảo vương,
vi diệu tịnh hoa đài” (Vô lượng
đại bảo vương, đài hoa tịnh, vi diệu).
Kế đó, Quán Kinh c̣n nói: “Như
thử diệu hoa, thị bổn Pháp Tạng tỳ-kheo nguyện
lực sở thành. Nhược dục niệm bỉ Phật
giả, đương tiên tác thử hoa ṭa tưởng. Tác
thử tưởng thời, bất đắc tạp quán…
Thử tưởng thành giả, diệt trừ ngũ vạn
ức kiếp sanh tử chi tội, tất định đương
sanh Cực Lạc thế giới” (Hoa mầu nhiệm
như thế vốn do nguyện lực của tỳ-kheo Pháp
Tạng tạo thành. Nếu là người muốn niệm
Phật, trước hết hăy nên tưởng hoa ṭa này. Khi
quán tưởng điều này, đừng nên quán xen tạp…
Phép quán tưởng này thành tựu, sẽ diệt trừ tội
trong năm vạn ức kiếp sanh tử, nhất định
sẽ sanh về thế giới Cực Lạc). Này các vị
thượng thiện nhân! Hoa ṭa của Phật Di Đà có
sự trang nghiêm vi diệu như thế. Từ cái quả
mà suy ra cái nhân, có thể biết bổn nguyện công đức
của Phật Di Đà xác thực là chẳng thể
nghĩ bàn. Do vậy, hăy nên tin sâu: Nếu có chúng sanh chí tâm
tin ưa, mười niệm thành công, quyết định
được sanh về Cực Lạc.
2.2.1.2.3.1.3.3.2.
Công đức nơi thân nghiệp
(Luận) Tướng hảo
quang nhất tầm, sắc tượng siêu quần sanh.
(Chú) Thử nhị cú, danh “trang
nghiêm thân nghiệp công đức thành tựu”. Phật bổn
hà cố trang nghiêm như thử thân nghiệp? Kiến hữu
Phật thân, thọ nhất trượng quang minh, ư nhân
thân quang, bất thậm siêu tuyệt. Như Chuyển Luân Vương
tướng hảo diệc đại đồng, Đề
Bà Đạt Đa sở giảm duy nhị, trí linh A Xà Thế
vương dĩ tư hoặc loạn, San Xà Da đẳng
cảm như đang lang, hoặc như thử loại dă.
Thị cố trang nghiêm như thử thân nghiệp.
(論)相好光一尋。色像超群生。 (註)此二句。名莊嚴身業功德成就。佛本何故莊嚴如此身業。見有佛身。受一丈光明。於人身光。不甚超絕。如轉輪王相好亦大同。提婆達多所減唯二。致令阿闍世王以茲惑亂。刪闍耶等敢如蟷蜋。或如此類也。是故莊嚴如此身業。
(Luận:
Tướng hảo quang một tầm, h́nh sắc trỗi
quần sanh.
Chú: Hai câu này gọi là “trang
nghiêm thân nghiệp công đức thành tựu”. Vốn
v́ lẽ nào mà Phật trang nghiêm thân nghiệp như thế?
Do Ngài thấy có những vị Phật thân có quang minh
[chiếu xa] một trượng, đối với quang
minh nơi thân con người th́ chẳng vượt trỗi
cho lắm! Như [đem tướng hảo
của Phật so sánh với] tướng
hảo của vua Chuyển Luân th́ cũng gần giống
như nhau. Đề Bà Đạt Đa
chỉ ít hơn hai tướng, [thế mà ông ta có thể] dùng
[những tướng] đó khiến cho vua A Xà
Thế bị
mê hoặc. Những kẻ như
San Xà Da v.v… dám [vênh váo] như bọ ngựa, hoặc là các sự
việc giống như vậy. V́ thế, trang nghiêm thân nghiệp
như thế).
V́ sao A
Di Đà Phật phải trang nghiêm thân Phật? Theo lời
giải thích của ngài Đàm Loan, v́ khi Phật Di Đà c̣n
thuộc địa vị Bồ Tát, trông thấy có vị Phật,
thân quang (quang minh nơi thân) là một trong ba mươi hai
tướng, c̣n gọi là “thường quang”, hoặc
“viên quang” chỉ có (lời chú giải dùng chữ Thọ,
受) một
trượng. So sánh với người thế gian, sẽ chẳng
có sự thù thắng vượt trỗi (lời chú giải
dùng chữ Tuyệt (絕) để
diễn tả điều này) rất lớn. Chẳng hạn
như: Chuyển Luân thánh vương trong thế gian cũng
có ba mươi hai tướng giống như vậy, bất
quá chẳng rơ ràng như Phật mà thôi! Lại như em họ
của Thích Ca Thế Tôn là Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), [tên vị
này] dịch là Thiên Nhiệt, cũng có ba mươi tướng,
chỉ giảm bớt hai tướng là tướng nhục kế
trên đỉnh đầu và tướng bạch hào giữa
hai mày. Do vậy, khiến cho vua A Xà Thế (Ajātaśatru) nước Ma Kiệt Đà (Magadha) thuở đó tâm thần
mê hoặc, lầm lộn, kính phụng Đề Bà Đạt
Đa như Phật. Lại như ông San
Xà Da (Saṃjaya Vairāṣṭrikaputra), dịch
nghĩa là Đẳng Thắng, là một ngoại đạo
chủ trương tự nhiên trong lục sư ngoại
đạo[1], cho
rằng chẳng cần tu hành, tṛn tám vạn kiếp sẽ
tự nhiên đắc đạo. Những kẻ theo lục
sư ngoại đạo rất đông, v́ thế nói là “San
Xà Da đẳng” (San Xà Da v.v…) “Cảm như đang
lang” (dám [vênh váo] như con bọ ngựa), chính là nói lục
sư ngoại đạo coi thường đức Bổn
Sư, chẳng sanh ḷng tôn kính, chẳng tự lượng
sức, công khai dám đối kháng đức Phật, giống
như con bọ ngựa lại dám giương càng ngăn
xe, đúng là ngu si không chi hơn.
“Hoặc như thử loại
dă”: Câu này nhằm nói, hoặc là có những kẻ khác, trông
thấy tướng hảo của Phật trọn chẳng
đặc biệt siêu tuyệt, cho nên chẳng sanh ḷng kính
trọng, chẳng có ḷng quy ngưỡng, tin tưởng,
những kẻ như San Xà Da đáng thương, đáng
tiếc quá! Do có các nguyên nhân như vừa nói trên đây; cho
nên Phật Di Đà trong lúc tu nhân, phát nguyện sẽ trang
nghiêm thân nghiệp chẳng thể nghĩ bàn, khiến cho hết
thảy chúng sanh tin kính, tôn trọng, quy hướng đức
Phật bèn được liễu sanh thoát tử, cùng thành Phật
đạo. Đấy cũng là hoàn toàn
phát xuất từ tâm đại từ bi đồng thể.
(Chú) Án thử gian hỗ
huấn, lục xích viết Tầm. Như Quán Vô Lượng
Thọ Kinh ngôn: “A Di Đà Như Lai, thân cao lục thập
vạn ức na-do-tha Hằng hà sa do-tuần, Phật viên quang
như bách ức tam thiên đại thiên thế giới”. Dịch
giả dĩ Tầm nhi ngôn, hà kỳ hối hồ? Lư xá gian
nhân, bất giản tung hoành, trường đoản, hàm vị
hoành thư lưỡng thủ tư vi Tầm. Nhược dịch
giả hoặc thủ thử loại, dụng chuẩn A
Di Đà Như Lai thư tư vi ngôn, cố xưng “nhất tầm”
giả, viên quang diệc ưng kính lục thập vạn ức
na-do-tha Hằng hà sa do-tuần. Thị cố ngôn “tướng
hảo quang nhất tầm, sắc tượng siêu quần
sanh”.
(註)案此間詁訓。六尺曰尋。如觀無量壽經言。阿彌陀如來。身高六十萬億那由他恒河沙由旬。佛圓光如百億三千大千世界。譯者以尋而言。何其晦乎。里舍間人。不簡縱橫長短。咸謂橫舒兩手臂為尋。若譯者或取此類。用準阿彌陀如來舒臂為言。故稱一尋者。圓光亦應徑六十萬億那由他恒河沙由旬。是故言相好光一尋。色像超群生。
(Chú: Xét theo cách giảng
giải trong thế gian này th́ sáu thước gọi là một Tầm. Như kinh Quán Vô
Lượng Thọ có nói: “Thân của A Di Đà Như Lai cao
sáu mươi vạn ức na-do-tha Hằng hà sa do-tuần,
viên quang của Phật như trăm ức tam thiên đại
thiên thế giới”. Dịch giả dùng chữ Tầm để
nói mới mờ mịt làm sao? Người ở chốn quê
mùa không phân biệt ngang, dọc, dài, ngắn, đều nói
hễ giang hai cánh tay ngang ra th́ gọi là một Tầm. Nếu
dịch giả dùng kiểu nói ấy, chuẩn theo A Di
Đà Như Lai giang tay để nói, cho nên bảo là “một
tầm” th́ viên quang [của Ngài] cũng phải rộng đến
sáu mươi vạn ức na-do-tha Hằng hà sa do-tuần.
V́ thế nói là “tướng hảo quang một tầm, h́nh
sắc trỗi quần sanh”).
Đối
với lời Kệ “tướng hảo quang nhất tầm”,
chiếu theo cách “hỗ huấn” của Trung Hoa, tức
là dùng ngôn ngữ đă biết trong hiện thời để
giải thích các từ ngữ chưa biết thời cổ,
[điều ấy] được gọi là Hỗ Huấn
(詁訓), th́ chỉ
có sáu thước là một Tầm. Nói theo kiểu ấy th́
thân quang của Phật Di Đà chỉ có sáu thước, thật
sự là quá nhỏ! Như Quán Kinh có nói: “Thân A Di Đà
Như Lai cao sáu mươi vạn ức na-do-tha Hằng hà
sa do-tuần, viên quang của Phật như trăm ức tam
thiên đại thiên thế giới”. Na-do-tha (Nayutaḥ) là tiếng
Phạn, dịch là Ức. Cát trong một sông Hằng đă
là Vô Ương Số (無央數, dịch nghĩa của chữ
A-tăng-kỳ), huống hồ
là sáu mươi vạn ức sông Hằng. Cát trong các sông Hằng
nhiều ngần ấy, chẳng có cách nào tính toán được!
Coi một hạt cát là một do-tuần, một do-tuần
(Yojanā) là bốn
mươi dặm. V́ thế, thân quang của Phật Di Đà
rộng lớn vô lượng, chẳng thể tính toán. Nhưng
vị đại đức phiên dịch bộ luận này
dùng một Tầm để nói, “hà kỳ hối hồ”?
Chữ Hối (晦) đọc
là Hối (誨). Mỗi
tháng có ba mươi ngày; [ngày cuối tháng], đêm đen
không có trăng được gọi là Hối. Dịch thân
quang của Phật Di Đà là [to rộng] “một Tầm”, sao mà
lại tối tăm, chẳng trong sáng ngần ấy, khiến
cho người ta mê hoặc, chẳng hiểu như vậy?
Thường là những người
sống ở nông thôn (lư xá gian, 里舍間), chẳng
có kiến thức để phân biệt độ rộng
ngang, dọc, dài, ngắn, chỉ gọi [khoảng cách giữa]
hai cánh tay duỗi thẳng sang hai bên là một Tầm để
tính toán dài ngắn. Nếu như vị đại đức
phiên dịch có thể cũng dùng [khoảng cách khi] Phật
Di Đà duỗi ngang hai tay để h́nh dung thân quang của
Ngài là [chiếu
xa] một Tầm, vậy th́ viên quang (thân quang) cũng phải
nên có độ lớn với đường kính là sáu mươi
vạn ức hằng hà sa do-tuần; sự to lớn ấy
đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Nói theo ư nghĩa ấy:
Phật Di Đà có vô lượng tướng, vô lượng
hảo, viên quang của Ngài là một Tầm,
thân thể sắc tượng ấy đích xác là vượt
trỗi hết thảy quần sanh, vậy th́ vẫn có thể
nói suông sẻ được!
(Chú) Vấn viết: - Quán
Vô Lượng Thọ kinh ngôn, “chư Phật Như Lai thị
pháp giới thân, nhập nhất thiết chúng sanh tâm tưởng
trung. Thị cố nhữ đẳng tâm tưởng Phật
thời, thị tâm tức thị tam thập nhị tướng,
bát thập tùy h́nh hảo. Thị tâm tác Phật, thị tâm
thị Phật, chư Phật Chánh Biến Tri hải tùng tâm
tưởng sanh”. Thị nghĩa vân hà?
(註)問曰。觀無量壽經言。諸佛如來是法界身。入一切眾生心想中。是故汝等。心想佛時。是心即是三十二相。八十隨形好。是心作佛。是心是佛。諸佛正遍知海從心想生。是義云何。
(Chú:
Hỏi: - Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Chư
Phật Như Lai là thân pháp giới, vào trong tâm tưởng
của hết thảy chúng sanh. V́ thế, khi tâm các ông tưởng
Phật, tâm này chính là ba mươi hai tướng, tám mươi
tùy h́nh hảo. Tâm này làm Phật, tâm này là Phật. Biển Chánh
Biến Tri của chư Phật sanh từ tâm tưởng”.
Nghĩa ấy là như thế nào?)
Đoạn
này dựa theo [những điều] kinh [Quán Vô Lượng
Thọ Phật] đă nói để lập ra lời hỏi,
nghĩa ấy rất sâu; nay sẽ giải thích đơn
giản, trọng yếu như sau: Chư Phật dùng ǵ làm
thân thể? Chính là dùng pháp giới làm Thể. Pháp giới là
ǵ? Chính là cái tâm thanh tịnh mà chư Phật và chúng sanh có cùng
một Thể, c̣n gọi là Pháp Thân, hoặc Pháp Tánh. Tâm ấy
tạo đủ hết thảy các pháp y báo và chánh báo thuộc mười
pháp giới (lục phàm tứ thánh). “Tâm trọn
đủ” là Thể, là Chân Như Môn.
“Tâm tạo” là Dụng, là Sanh Diệt Môn. Nhất tâm nhị
môn, Thể và Dụng chẳng tách ĺa, Thể là Tổng Tướng
chẳng khác, đều gọi là “pháp”. Dụng là Biệt
Tướng chẳng một, mỗi mỗi đều có
giới hạn. Pháp nào cũng đều có Tổng, Biệt,
Thể, Dụng, chẳng khác, chẳng một, thường
giống như nhau mà thường khác. V́ thế gọi là “pháp
giới”. Đă là chúng sanh và Phật đồng thể,
chẳng khác, chẳng một, cho nên chúng sanh và Phật trọn
khắp lẫn nhau, thân Phật vào trong tâm chúng sanh, tâm chúng
sanh cũng nhập vào tâm của chư Phật. Do vậy,
kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm, Phật và chúng sanh, ba điều ấy
chẳng sai khác”. Có thể liễu giải các pháp
trong mười giới chẳng ra ngoài nhất tâm nhị
môn. Vậy th́ trong lúc quư vị dùng tâm thanh tịnh để
quán tưởng thân Phật, đấy là Tâm Sanh Diệt Môn,
thuận theo tịnh duyên mà khởi tác dụng. Tâm sanh th́ pháp
sanh; cái tâm ấy ngay lập tức bèn có tướng hảo
nơi thân Phật hiển hiện.
Ví như một người,
trong khi người ấy chuyên nhất cái tâm, nghĩ nhớ
cha mẹ của ḿnh, h́nh tượng của cha mẹ tất
nhiên sẽ xuất hiện trong tâm người ấy. [H́nh
dáng] cha mẹ xuất hiện chẳng phải là giả, mà
là thật. Phật hiện trong tâm cũng giống như vậy.
Đức Phật được hiện chính là chân Phật.
Điều này gọi là “thị tâm tác Phật” (tâm này
làm Phật). “Tác” chính là quán tưởng. Quán tưởng
th́ mới có, chẳng quán tưởng sẽ không có. Thế
nhưng, các pháp trong mười giới hoàn toàn do nhất tâm
hiển hiện, ĺa cái tâm th́ chắc chắn chẳng có các
pháp. Đó gọi là “thị tâm thị Phật” (tâm này
là tâm Phật); tâm này là hết thảy các pháp. Do vậy có
thể biết, chư Phật và muôn pháp hết thảy hữu
t́nh, vô t́nh, đều từ nhất tâm có cùng một Thể
mà duyên khởi xuất sanh. V́ thế, kinh Hoa Nghiêm nói: “Ưng
quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Nên quán tánh pháp
giới, hết thảy chỉ tâm tạo). Sách Đại
Thừa Chỉ Quán cũng nói: “Tâm tánh tự thanh tịnh,
các pháp chỉ một tâm, tâm này là chúng sanh. Tâm này, Bồ Tát,
Phật, ví như nước biển cả, trọn đủ
các kho báu”.
Nếu có thể khôi phục
tâm tánh
vốn sẵn thanh tịnh, chẳng
có phiền năo, vọng tưởng, chấp trước, tự
tại vô ngại của chúng ta, chứng
nhập biển tánh Chân Như. Đấy gọi là “Phật”
(giác), cũng có thể tùy theo duyên khởi khác nhau, mà hoặc
gọi nó là “người”, hoặc gọi bằng những
danh tướng khác đều được, v́ là đồng
thể, chẳng có ǵ bất đồng. Do vậy, tổ
sư Thiền Tông có nói: “Lư cước thân thời, Phật
thủ khai” (Khi lừa
duỗi chân, Phật x̣e tay ra). Khi quư vị đă khai ngộ,
đích thân chứng các pháp đồng thể, b́nh đẳng
bất nhị, tùy duyên dấy lên tác dụng,
hoặc làm tay Phật, hoặc là chân lừa v.v… đều
có thể được. Phàm là hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian, đều thuận theo tâm chúng
sanh, thích ứng với các danh tướng mà chúng sanh đă
biết để gọi nó. Một pháp có ngàn tên gọi, tùy
duyên mà đặt tên, nhưng thể tánh của nó chẳng
có ǵ bất đồng.
Nếu có thể thông đạt
hết thảy các pháp, đều là “tâm tác”, chẳng bỗng
dưng [mà có], Sanh Diệt Môn đấy nhé. “Tâm thị”
(Tâm là) chẳng
phải là nhân duyên, Chân Như Môn đấy
nhé. Nhất tâm nhị môn, Chân Tục nhị đế viên dung
vô ngại. Chính từ “tâm thị” (tâm là) mà “tâm tác”
(tâm làm); cho nên chẳng phải là một. Đó gọi là “toàn
tánh khởi tu”. Ngay từ “tâm tác” mà là “tâm thị”,
cho nên chẳng khác. Đó gọi là “toàn tu tại tánh”.
Như thế th́ sẽ có thể ĺa lỗi chấp trước
“nhị biên” (hai bên) của ngoại đạo, tức là [chấp
trước] Đoạn,
Thường, sanh, diệt, một, khác, đến, đi
v.v… Đấy là Chánh Đẳng Chánh Giác của Phật, c̣n
gọi là “biển Chánh Biến Tri của chư Phật”.
Chánh Biến Tri ấy ở trong nhất tâm nhị môn thanh
tịnh của mỗi người, viên măn trọn đủ,
xuất sanh ngay từ đó. V́ thế, Quán Kinh nói: “Biển
Chánh Biến Tri của chư Phật sanh từ tâm tưởng”.
Ba mươi hai tướng, tám mươi tùy h́nh hảo của
Phật, xin hăy tra trong Phật Học Từ Điển, chẳng
cần phải nói nhiều!
(Chú) Đáp viết: Thân
danh tập thành, giới danh Sự biệt. Như Nhăn Giới
duyên Căn, Sắc, Không, Minh, Tác Ư, ngũ nhân duyên sanh, danh vi Nhăn
Giới. Thị Nhăn đản tự hành kỷ duyên, bất
hành tha duyên, dĩ Sự biệt cố. Nhĩ, Tỵ đẳng
giới diệc như thị. Ngôn “chư Phật Như
Lai thị pháp giới thân” giả, pháp giới thị chúng
sanh tâm pháp dă. Dĩ tâm năng sanh thế gian xuất thế
gian nhất thiết chư pháp, cố danh tâm vi pháp giới.
Pháp giới năng sanh chư Như Lai tướng hảo
thân, diệc như Sắc đẳng năng sanh Nhăn Thức.
Thị cố Phật thân danh pháp giới thân. Thị thân bất
hành tha duyên, thị cố nhập nhất thiết chúng sanh
tâm tưởng trung. Tâm tưởng Phật thời, thị
tâm tức thị tam thập nhị tướng, bát thập
tùy h́nh hảo giả. Đương chúng sanh tâm tưởng
Phật thời, Phật thân, tướng hảo, hiển
hiện chúng sanh tâm trung dă. Thí như thủy thanh tắc sắc
tượng hiện. Thủy chi dữ tượng, bất
nhất, bất dị, cố ngôn “Phật tướng hảo
thân tức thị tâm tưởng dă”. Thị tâm tác Phật
giả, ngôn tâm năng tác Phật dă. Thị tâm thị Phật
giả, tâm ngoại vô Phật dă. Thí như hỏa tùng mộc
xuất, hỏa bất năng ly mộc
dă. Dĩ bất ly mộc cố, tắc năng thiêu mộc.
Mộc vị hỏa thiêu, mộc tức vi hỏa dă. Chư
Phật Chánh Biến Tri hải tùng tâm tưởng sanh giả,
Chánh Biến Tri giả, chân chánh như pháp giới nhi tri dă.
Pháp giới vô tướng, cố chư Phật vô tri dă. Dĩ
vô tri, cố vô bất tri dă. Vô tri nhi tri giả, thị Chánh
Biến Tri dă. Thị tri thâm quảng bất khả trắc
lượng, cố thí hải dă.
(註)答曰。身名集成。界名事別。如眼界。緣根。色。空。明。作意。五因緣生。名為眼界。是眼但自行己緣。不行他緣。以事別故。耳鼻等界亦如是。言諸佛如來是法界身者。法界是眾生心法也。以心能生世間出世間一切諸法。故名心為法界。法界能生諸如來相好身。亦如色等能生眼識。是故佛身名法界身。是身不行他緣。是故入一切眾生心想中。心想佛時。是心即是三十二。相八十隨形好者。當眾生心想佛時。佛身相好。顯現眾生心中也。譬如水清則色像現。水之與像。不一。不異。故言佛相好身即是心想也。是心作佛者。言心能作佛也。是心是佛者。心外無佛也。譬如火從木出。火不能離木也。以不離木故。則能燒木。木為火燒。木即為火也。諸佛正遍知海從心想生者。正遍知者。真正如法界而知也。法界無相。故諸佛無知也。以無知。故無不知也。無知而知者。是正遍知也。是知深廣不可測量。故譬海也。
(Chú: Đáp: Thân là do [các duyên] tập
hợp thành, Giới là do các sự khác biệt [mà chia riêng
thành từng nhóm]. Như Nhăn Giới duyên theo năm nhân duyên
là Căn, Sắc, Không, Minh, và Tác Ư mà sanh ra, bèn gọi là Nhăn Giới.
Nhăn ấy chỉ tự hành theo duyên của chính ḿnh, chẳng
hiện hành theo các duyên khác, bởi các sự khác biệt. Các
giới như Nhĩ Giới, Tỵ Giới v.v… cũng giống
như vậy. Nói “chư Phật Như Lai là thân pháp giới”
v́ pháp giới là tâm pháp của chúng sanh vậy. Do tâm có thể
sanh hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian,
nên gọi tâm là “pháp giới”. Pháp giới
có thể sanh ra thân và tướng hảo của chư Như
Lai, cũng như Sắc v.v… có thể sanh ra Nhăn Thức. V́
thế, thân Phật được gọi là “pháp giới thân”.
Thân ấy chẳng hành theo các duyên khác. V́ thế, vào trong tâm
tưởng của hết thảy chúng sanh. Khi tâm tưởng
Phật, tâm này chính là ba mươi hai tướng, tám mươi
tùy h́nh hảo, tức
là ngay trong khi tâm chúng sanh tưởng [Phật], thân và tướng
hảo của Phật hiển hiện trong tâm chúng sanh. Ví
như nước trong th́ h́nh sắc hiện. Nước và
h́nh sắc chẳng một, chẳng khác. V́ thế nói thân và
tướng hảo của Phật chính là tâm tưởng. “Tâm
này làm Phật” là nói “tâm có thể làm Phật”. “Tâm này là Phật”:
Ngoài tâm không có Phật. Ví như lửa từ gỗ mà ra, lửa
chẳng thể ĺa gỗ. Do chẳng thể ĺa gỗ, nên
có thể đốt gỗ. Gỗ bị lửa thiêu, gỗ
chính là lửa. “Biển Chánh Biến Tri của Phật sanh
từ tâm tưởng”: Chánh Biến Tri là thật sự biết đúng
như pháp giới. Pháp giới vô tướng; v́ thế,
chư Phật vô tri. Do vô tri, cho nên không ǵ chẳng biết.
Không biết mà biết th́ là Chánh Biến Tri. Cái biết ấy sâu rộng
chẳng thể lường, cho nên sánh ví như biển).
Đoạn giải đáp này
của ngài Đàm Loan phần lớn là theo sự tướng
để giải thích lời văn trong Quán Kinh. Những điều
tôi đă nói trong phần trước phần nhiều là dựa
theo sự liễu đạt lư tánh. Lư do Sự hiển, Sự
do Lư thành. Lư và Sự viên dung vô ngại th́ mới có thể
gọi là “đại khai viên giải”. Ngài Đàm Loan giải
thích Chánh Biến Tri là “chư Phật vô tri; do vô tri nên không
ǵ chẳng biết”. [Ngài cho rằng] “vô tri mà
tri” là Chánh Biến Tri. Đấy là v́ Ngài đă từng học
Lăo Trang, nên đă dùng cách nói của Đạo gia: “Vô tri
nhi vô sở bất tri, vô vi nhi vô sở bất vi” (Không biết mà
không điều ǵ chẳng biết, không làm mà không điều
ǵ chẳng làm), dùng điều này để mô tả Chánh
Biến Tri của chư Phật là “vô tri nhi tri”. Điều
này chỉ có thể coi là cách nói theo Tỷ Lượng, chẳng
thể coi là cảnh Hiện Lượng được!
Tam Miệu Tam Phật Đà (Samyak
Sambuddha) trong tiếng Phạn dịch là Chánh Biến Trí, Chánh
Biến Giác, hoặc Chánh Biến Tri. Như quyển thứ
hai của Đại Trí Độ Luận có nói: “Cớ
sao gọi là Tam Miệu Tam Phật Đà? Tam Miệu (Samyak)
là Chánh, Tam (Sam) là Biến (trọn khắp), Phật (Buddha) là
Tri. Do vậy nói là Chánh Biến Tri hết thảy các pháp”.
Kinh Đại Niết Bàn, quyển thứ mười tám nói:
“Vân hà Chánh Biến Tri? Chánh danh bất điên đảo,
Biến Tri giả ư tứ điên đảo vô bất
thông đạt” (Thế nào là Chánh Biến Tri? Chánh là chẳng
điên đảo, Biến Tri là đối với bốn
món điên đảo[2] không ǵ chẳng thông
đạt). Sách Danh Nghĩa Tập, quyển thứ nhất
ghi: “Tam Miệu Tam Phật Đà, ngài La Thập dịch là
Chánh Biến Giác. Ư nói: Do pháp không sai lạc nên bảo là Chánh.
Trí không ǵ chẳng trọn khắp nên gọi là Biến. Do
thoát khỏi giấc mộng sanh tử nên gọi là Giác”.
Dựa theo những điều kinh luận đă nói th́ chẳng
phải là “không biết mà biết” bèn gọi
là Chánh Biến Tri được! Phải nên là: Tịnh tâm
Chân Như Môn của chư Phật có Như Lư Trí, chứng
Chân Đế, chẳng phạm lỗi điên đảo,
tà kiến, th́ gọi là Chánh Tri. Tịnh
tâm Sanh Diệt Môn của chư Phật có Như Lượng
Trí, chứng Tục Đế, biết trọn các pháp và nhân
quả, thường nói là “bách giới thiên như”. Đấy
gọi là Biến Tri. Chánh Biến Tri chính là “nhất tâm
nhị môn, nhị trí”. Trung Đạo Trí viên dung Nhị
Đế (Chân Đế và Tục Đế) th́ gọi là
Nhất Thiết Chủng Trí, nhiếp trọn hết tất
cả trí huệ nơi Phật quả. Do vậy, giác tri
linh thông, Bổn Giác tịnh trí viên diệu làm Thể, chẳng
thể coi giống như “vô biết mà biết” hỗn
độn của Đạo gia được!
Do vậy, bộ Quán Kinh Sớ
Diệu Tông Sao của tông Thiên Thai có nói: “Tam trí viên dung mầu
nhiệm th́ gọi là Chánh Biến Tri. Do vô lượng rất
sâu, nên ví như biển. Đấy chính là đại giác viên
minh rốt ráo, chẳng hai, chẳng khác với cái Thể của
tâm ta (Bổn Giác). Nay dựa theo Đốn giáo (Thập Lục
Quán Kinh), từ ngay tam Hoặc nhiễm (Kiến Tư, Trần
Sa, Vô Minh) mà tu cái tâm viên tịnh để quán Phật (nhất
tâm tam quán chẳng thể nghĩ bàn), có thể sanh ra biển
Chánh Biến Tri của chư Phật. Đấy chính là dựa
theo Tha Phật (vị Phật ở ngoài tự tâm) để
giải thích ‘tâm sanh’. Nếu dựa theo cái tâm này (nhất
tâm tam quán) sẽ có thể thành cái quả ngay trong hiện tại
(Phật). Đấy chính là ước theo vị Phật của
chính ḿnh (tự Phật) để giải thích tâm sanh”.
2.2.1.2.3.1.3.3.3.
Công đức nơi khẩu nghiệp
(Luận) Như Lai vi diệu
thanh, phạm hưởng văn thập phương.
(Chú) Thử nhị cú, danh “trang
nghiêm khẩu nghiệp công đức thành tựu”. Phật
bổn hà cố hưng thử trang nghiêm? Kiến hữu Như
Lai, danh tự bất tôn. Như ngoại đạo nhung nhân
xưng Cù Đàm tánh, thành đạo nhật thanh duy triệt
Phạm Thiên.
(論)如來微妙聲。梵響聞十方。 (註)此二句。名莊嚴口業功德成就。佛本何故興此莊嚴。見有如來。名似不尊。如外道軵人。稱瞿曇姓。成道日聲。唯徹梵天。
(Luận: Tiếng
Như Lai vi diệu, âm phạm rền mười
phương.
Chú: Hai câu này được
gọi là “trang nghiêm khẩu nghiệp công đức thành tựu”.
Vốn v́ lẽ nào mà đức Phật dấy lên sự trang
nghiêm này? Do Ngài thấy có Như Lai, danh tự dường
như chẳng tôn quư. Như kẻ ngoại đạo đẩy
xe gọi [đức Phật] bằng họ là Cù Đàm, âm
thanh ngày thành đạo chỉ thấu tới Phạm Thiên).
Do trong
lúc tu nhân, Phật Di Đà thấy có những vị Phật
mà danh hiệu khi các Ngài thành Phật dường như chẳng
tôn quư cho lắm. Chẳng hạn như đức Bổn
Sư của chúng ta, khi Ngài thành Phật chẳng bao lâu, một
hôm, tĩnh
tọa dưới cội cây, bèn có một vị Bà La Môn đang
đẩy xe, kẻ ấy được gọi là “nhung
nhân” (軵人), đến trước đức
Phật bèn réo họ của Ngài là Cù Đàm (Gautama), ngay cả tên
cũng chẳng gọi! Kiểu thái độ khinh thường
ấy hết sức vô phép. Lại nữa, khi đức Bổn
Sư vừa mới thành Chánh Giác dưới cội Bồ
Đề, chư thiên hoan hỷ, lần lượt bảo
ban nhau, nhưng cũng chỉ hạn cuộc trong ṿng tam thiên
đại thiên thế giới, hoàn toàn chẳng thể danh
vang trọn khắp mười phương thế giới;
[v́ thế nói là “thành đạo nhật thanh, duy triệt
Phạm thiên” (âm thanh ngày thành đạo chỉ thấu
tới trời Phạm Thiên)].
Nói theo đạo Bà La Môn của
Ấn Độ, từ Vy Nữu Thiên (Vishnu) sanh ra Phạm
Thiên (Brahma), từ Phạm Thiên sanh ra tám đứa con[3]. Đó là khởi nguồn
của muôn vật, sanh ra trời đất, nhân dân. V́ thế,
Phạm Thiên Vương là chủ của đại thiên thế
giới. Do vậy, “duy triệt Phạm Thiên” tức chỉ
là danh xưng lan truyền trong một đại thiên thế
giới.
(Chú) Thị cố nguyện
ngôn, sử ngă thành Phật, diệu thanh hà bố, văn giả
ngộ Nhẫn. Thị cố ngôn: “Như Lai vi diệu
thanh, Phạm hưởng văn thập phương”.
(註)是故願言。使我成佛。妙聲遐布。聞者悟忍。是故言如來微妙聲。梵響聞十方。
(Chú:
V́ thế, nguyện rằng: Nếu tôi thành Phật, diệu
thanh sẽ lan xa, người nghe [danh hiệu ấy], sẽ
ngộ pháp Nhẫn. V́ thế nói: “Tiếng Như Lai vi diệu,
âm Phạm rền mười phương”).
Ngài Đàm Loan giải
thích: Do vậy, Phật Di Đà bèn phát ra nguyện như
sau. Nếu như khi Ngài thành Phật, tiếng tăm vi diệu
sẽ có thể truyền xa lan rộng (lời chú giải
dùng chữ “hà bố” (遐布) để diễn
tả ư này) thấu tới mười phương vô
lượng thế giới, lại c̣n sẽ khiến cho
chúng sanh được nghe danh hiệu Phật, đều
có thể ngộ chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đấy
chính là điều được thành tựu bởi công
đức của nguyện thứ mười bảy và
nguyện thứ bốn mươi tám trong bốn
mươi tám nguyện. Do vậy nói: “Như Lai vi diệu
thanh, Phạm hưởng văn thập phương” (Tiếng Như Lai vi diệu, âm Phạm rền mười
phương).
Bất quá, phần Kệ này
cũng có thể giải thích theo cách khác, tức là tiếng
nói từ miệng A Di Đà Phật thốt ra có trọn đủ
tám loại phạm âm vi diệu, có thể nghe thấu suốt
trọn khắp mười phương thế giới. Như vậy th́ mới là công đức nơi khẩu nghiệp của
A Di Đà Như Lai. Tám loại phạm âm của đức
Phật chính là cực hảo âm (tiếng tột bậc hay
đẹp), nhu nhuyễn âm (tiếng êm dịu, không thô ráp),
ḥa thích âm (tiếng ḥa nhă, khiến người nghe thoải
mái), tôn huệ âm (tiếng tôn quư, tràn đầy trí huệ),
bất nữ âm (tiếng không có cách nói ẻo lả, nũng nịu của
giọng nữ), bất ngộ âm (tiếng nói chẳng sai
lầm), thâm viễn âm (tiếng nói thẳm sâu), bất kiệt
âm (âm thanh hùng hồn, không bao giờ hụt hơi, rè đục,
hay tắt tiếng), khiến cho người nghe bất luận
xa hay gần, âm thanh ấy đều có thể phân minh như
ở sát bên tai. Lại có thể khiến cho người nghe
tùy theo từng loài đều được liễu giải,
ở nhân gian th́ [người nghe cảm nhận]
là tiếng của loài người, ở loài chim th́ là tiếng
chim, hoặc nghe nói là Không, hoặc nghe nói là Hữu. Tác dụng
của âm thanh ấy vi diệu bí mật chẳng thể
nghĩ bàn.
2.2.1.2.3.1.3.3.4.
Công đức nơi tâm nghiệp
(Luận) Đồng địa,
thủy, hỏa, phong, hư không vô phân biệt.
(Chú) Thử nhị cú, danh “trang
nghiêm tâm nghiệp công đức thành tựu”. Phật bổn
hà cố hưng thử trang nghiêm? Kiến hữu Như Lai
thuyết pháp vân thử hắc, thử bạch, thử bất
hắc bất bạch, hạ pháp, trung pháp, thượng pháp,
thượng thượng pháp. Hữu như thị đẳng
vô lượng sai biệt phẩm, tự hữu phân biệt.
(論)同地水火風。虛空無分別。
(註)此二句。名莊嚴心業功德成就。佛本何故興此莊嚴。見有如來說法云此黑。此白。此不黑不白。下法。中法。上法。上上法。有如是等無量差別品。似有分別。
(Luận: Như đất,
nước, lửa, gió, hư không chẳng phân biệt.
Chú: Hai câu này được
gọi là “trang nghiêm tâm nghiệp công đức thành tựu”.
Vốn v́ lẽ nào mà đức Phật dấy lên sự trang
nghiêm này? Do Ngài thấy có Như Lai thuyết pháp nói pháp này là
đen, pháp này là trắng, pháp này chẳng đen chẳng trắng,
hạ pháp, trung pháp, thượng pháp, thượng thượng
pháp. Do có vô lượng phẩm loại sai biệt như
thế, cho nên dường như là có phân biệt).
Tâm nghiệp
(ư nghiệp) của Phật Di Đà có sự trang nghiêm như
thế nào? Như Quán Kinh nói: “Phật tâm giả, đại
từ bi thị” (Tâm Phật
là đại từ bi). Tâm đại từ bi chính là tâm rốt
ráo b́nh đẳng. Lời kệ viết: “Đồng địa
thủy hỏa phong, hư không vô phân biệt” (Như đất,
nước, lửa, gió, hư không chẳng phân biệt).
Hai câu này nói theo sự tướng b́nh đẳng. Thật
ra, tâm Phật là linh linh giác giác, chẳng giống như Ngũ
Đại, tức địa, thủy v.v… tối tăm,
trơ trơ, vô tri. Phật là chẳng suy nghĩ mà biết,
chẳng suy nghĩ mà ứng [khi chúng
sanh cảm], giống như trống trời [không ai gơ] mà tự vang
ra tiếng. Đó gọi là “bất động đạo
tràng, phổ ứng thập phương” (chẳng rời
đạo tràng mà ứng hiện khắp mười
phương), lại c̣n có thể liễu đạt tướng
chân thật của các pháp, tức là “như thị tướng”
(tướng như thế) cho đến “như thị
bổn mạt cứu cánh” (gốc và ngọn rốt ráo là
như thế). Ví như gương sáng đặt trên đài,
khi cảnh tượng đưa đến, [gương
bèn soi bóng] rành rẽ, phân minh. Khi cảnh tượng qua đi,
gương chẳng giữ lại dấu vết. Không lúc
nào chẳng chiếu, không vật ǵ chẳng chiếu. Tâm Phật
vô phân biệt, gọi là Vô Phân Biệt Trí. Đấy là dựa
theo tánh phân biệt của các pháp, tánh Y Tha, tánh chân thật mà
tu Đại Thừa Chỉ Quán thành tựu, đích thân chứng
“tâm, Phật, chúng sanh cả ba chẳng sai biệt”,
cùng dùng một tịnh tâm làm Thể, ngoài tâm không có pháp,
không có người!
Khi Chỉ
hạnh thành tựu, sẽ khế hợp tánh vô nhị của
tịnh tâm, [tuy khởi]
Dụng mà thường tịch. Chư Phật và chúng sanh cùng
viên măn thân nhất tướng. Tam Bảo v́ thế mà đồng
thể, chẳng sai biệt; Nhị Đế v́ lẽ này mà tĩnh
lặng bất nhị. Lặng lẽ lắng trong mà chiếu,
bát ngát trong lặng mà tịch. Dụng mà không có tướng
của Dụng, Động mà không có tướng động.
Do Quán hạnh thành tựu th́ tâm hiển lộ tác dụng (Dụng) “pháp giới
vô ngại”, tịch mà thường
dụng, xuất sanh công năng duyên khởi rất sâu. Điều
này được diễn tả là “quang chiếu đại
thiên, lục chủng động địa” (quang minh
chiếu khắp tam thiên đại thiên, sáu thứ chấn
động đại địa), kéo dài một niệm thành
dài cả kiếp, rút gọn cả kiếp lâu dài thành một
niệm. Tùy loại hiện thân, phân thân ứng hóa mười
phương, thị hiện Ngũ Thông, tam luân thí hóa[4], gởi h́nh bóng nơi
môn Trí Huyễn, thông linh nơi đạo phương tiện,
cho đến tám tướng thành đạo, viên măn Bồ
Đề, trở về cái “không có ǵ để đạt
được”. Những điều ấy đều
là đại bi, đại trí, đại nguyện, đại
hạnh của Phật, pháp vốn là như thế đó.
Ngài Đàm Loan giải thích v́
sao Phật Di Đà phải trang nghiêm tâm nghiệp? Đấy
là v́ khi Ngài làm Bồ Tát, do thấy có những vị Phật
thuyết pháp, phân biệt nhiều thứ: Đây là hắc
nghiệp (tức ác nghiệp), kia là bạch nghiệp (tức
thiện nghiệp), đây là nghiệp bất hắc bất
bạch (tức là nghiệp có tánh chất vô kư). Những pháp
kia là hạ pháp (tức pháp thuộc về Thanh Văn Thừa),
những pháp này là trung pháp (tức pháp thuộc Duyên Giác Thừa),
những pháp này là thượng pháp (tức pháp Bồ Tát),
những pháp kia là thượng thượng pháp (tức Nhất
Thừa Phật pháp). Dường như là có vô lượng
phẩm loại sai biệt như thế, tợ hồ là có
tâm phân biệt giống như người đời!
(Chú) Thị cố nguyện
ngôn: Sử ngă thành Phật, như địa hà phụ, vô
khinh trọng chi thù. Như thủy nhuận trưởng, vô
sao quát chi dị. Như hỏa thành thục, vô phương
xú chi biệt. Như phong khởi phát, vô miên ngụ chi sai. Như
không bao thọ, vô khai tắc chi niệm, đắc chi ư
nội, vật an ư ngoại. Hư văng thật quy, ư
thị hồ tức. Thị cố ngôn: “Đồng địa,
thủy, hỏa, phong, hư không vô phân biệt”.
(註)是故願言。使我成佛。如地荷負。無輕重之殊。如水潤長。無莦葀之異。如火成熟。無芳臭之別。如風起發。無眠寤之差。如空苞受。無開塞之念。得之於內。物安於外。虛往實歸。於是乎息。是故言。同地水火風。虛空無分別。
(Chú:
V́ thế nguyện rằng: Nếu tôi thành Phật, như đất
gánh vác, không có nặng
nhẹ khác biệt. Như nước nhuần thấm, sanh
trưởng, không có cỏ dại hay cỏ tốt sai khác.
Như lửa nấu chín, không có thơm thối sai biệt.
Như gió trỗi lên, chẳng màng ngủ thức sai khác. Như
không trung chứa đựng, không có ư niệm thông hay tắc.
Được [vô phân biệt như thế] ở bên trong
th́ mọi vật ở bên ngoài sẽ an vui. Rỗng rang ra đi,
chân thật trở về, do vậy bèn dứt. V́ thế nói:
“Giống địa, thủy, hỏa, phong, hư không chẳng
phân biệt”).
Trong đoạn này, ngài Đàm
Loan phần lớn dựa theo sự tướng của Ngũ
Đại để giải thích sự trang nghiêm nơi tâm
nghiệp của A Di Đà Phật. Như có đại địa,
“hà phụ” (荷負, gánh vác)
hết thảy muôn vật, nhưng chẳng phân biệt là nặng
hay nhẹ. Tâm như nước mưa, nhuần thấm,
sanh trưởng cỏ cây, nhưng chẳng phân biệt là
cỏ dại (sao, 莦) hay cỏ
tốt (quát, 葀). Tâm như
lửa ấm, có thể làm chín hết thảy, nhưng chẳng
phân biệt thứ này là thơm, thứ kia là thối. Tâm như
gió mát, lùa qua thân người, chẳng phân biệt [người
ấy] đang ngủ say hay tỉnh táo, đều có thể
khiến cho người ấy cảm giác thoải mái. Tâm
như hư không, bao dung, dung nạp vạn hữu, chẳng
có ư niệm thông thoáng hay bế
tắc.
Phàm là khởi tâm động
niệm, đều có thể trong là chẳng có phân biệt,
ngoài th́ khiến cho hết thảy hữu t́nh và vô t́nh đều
“chẳng có các
nỗi khổ, chỉ hưởng
các niềm vui”. “Hư
văng thật quy” là nói tâm Phật rỗng rang mà đi, đắc
đạo bèn trở về. Lại nữa, tâm Phật chẳng
chấp trước nơi danh tướng hư vọng của
các pháp, mỗi mỗi đều quy vào tự tánh b́nh đẳng
của các pháp, tức là Thật Tế. “Ư thị hồ
tức” (Do vậy
bèn dứt): “Tức” là “hưu tức” (休息, nghỉ
ngơi). Tâm Phật đă là vô tướng, vô công dụng;
do vậy, ngưng dứt hết thảy niệm lự, phân
biệt, nhưng hoàn toàn chẳng giống như Ngũ Đại
vô tâm. Cổ đức nói: “Mạc thuyết vô tâm tiện
thị đạo, vô tâm do cách nhất trùng quan” (Đừng bảo
vô tâm là lẽ đạo, vô tâm c̣n cách một tầng xa).
2.2.1.2.3.1.3.3.5.
Công đức của đại chúng
(Luận) Thiên nhân bất
động chúng, thanh tịnh trí hải sanh.
(Chú) Thử nhị cú, danh “trang
nghiêm đại chúng công đức thành tựu”. Phật bổn
hà cố khởi thử trang nghiêm? Kiến hữu Như
Lai thuyết pháp luân hạ, sở hữu đại chúng,
chư căn tánh dục chủng chủng bất đồng,
ư Phật trí huệ, nhược thoái, nhược một,
dĩ bất đẳng cố, chúng bất thuần tịnh.
(論)天人不動眾。清淨智海生。 (註)此二句。名莊嚴大眾功德成就。佛本何故起此莊嚴。見有如來。說法輪下。所有大眾。諸根性欲種種不同。於佛智慧。若退。若沒。以不等故。眾不純淨。
(Luận: Chúng trời người
bất động, biển trí thanh tịnh sanh.
Chú: Hai câu này gọi là “trang
nghiêm đại chúng công đức thành tựu”. Vốn v́
lẽ nào mà đức Phật dấy lên sự trang nghiêm này?
Do v́ Ngài thấy có Như Lai khi chuyển pháp luân, tất cả
đại chúng có các căn tánh và ưa muốn đủ
loại bất đồng, đối với trí huệ của
Phật, hoặc thoái thất, hoặc ch́m mất. Do chẳng
giống như nhau, đại chúng chẳng thuần tịnh).
Trước hết, nêu ra nguyên
nhân khiến cho đại chúng trang nghiêm là v́ lẽ nào? Chính
là v́ Ngài trông thấy có những vị
Như Lai khi chuyển pháp luân, tất cả loài người
và chư thiên nghe pháp trong hội ấy, kể cả thất
chúng đệ tử[5] bao gồm tại gia
và xuất gia, căn tánh, ước nguyện và dục lạc
của mỗi người có đủ loại khác nhau. Có
người cầu phước báo nhân thiên, có người
cầu tự liễu thoát sanh tử, có người chẳng
cầu tự độ mà mong độ người khác trước,
có người thẳng thừng bỏ pháp phương tiện,
chỉ cầu Vô Thượng Đạo.
Đại chúng như vậy đối với
trí huệ sẵn có của chư Phật như Vô Sư
Trí, Tự Nhiên Trí, Nhất Thiết Chủng Trí, Quyền Trí,
Thật Trí, thường là có kẻ chưa đắc mà nói
là đă đắc, chưa chứng mà khoe là đă chứng,
trở thành đại vọng ngữ, đọa lạc địa
ngục Vô Gián, như Đề Bà Đạt Đa chẳng
hạn. Đó gọi là “một” (沒, ch́m đắm).
Hoặc đạt được chút ít đă cho là đủ,
hoặc gặp duyên bèn thoái chuyển, giống như các vị
Thanh Văn như ngài Xá Lợi Phất v.v… Đó gọi là “thoái”
(退, thoái
chuyển, lui sụt). Lại có chánh định, tà định,
và bất
định ba loại khác nhau. Do trong các vị đệ tử
của đức Phật đă chẳng “thuần nhất
không tạp”, nên cũng sẽ chẳng có sự trang nghiêm
nơi thanh tịnh hải chúng được! Như thế
là chẳng lư tưởng!
(Chú) Sở dĩ hưng
nguyện, nguyện ngă thành Phật, sở hữu thiên nhân,
giai tùng Như Lai trí huệ thanh tịnh hải sanh. Hải
giả, ngôn
Phật Nhất Thiết Chủng Trí thâm quảng vô nhai, bất
túc Nhị Thừa tạp thiện trung hạ tử thi, dụ
chi như hải. Thị cố ngôn: “Thiên nhân bất động
chúng, thanh tịnh trí hải sanh”. Bất động giả,
ngôn bỉ thiên nhân thành tựu Đại Thừa căn, bất
khả khuynh động dă.
(註)所以興願。願我成佛。所有天人。皆從如來智慧清淨海生。海者。言佛一切種智深廣無涯。不宿二乘雜善中下死屍。喻之如海。是故言。天人不動眾。清淨智海生。不動者。言彼天人成就大乘根。不可傾動也。
(Chú: Do vậy, dấy lên
nguyện khi tôi thành Phật, tất cả trời người
đều sanh từ biển trí huệ thanh tịnh của
Như Lai. “Biển” nhằm nói Nhất Thiết Chủng Trí
của Phật sâu rộng
không bờ bến, chẳng chứa đựng xác chết
của Nhị Thừa, tạp thiện, trung hạ căn,
nên sánh ví như biển. V́ thế nói: “Chúng trời người
bất động, biển trí thanh tịnh sanh”. “Bất động”
là nói những hàng trời người ấy thành tựu căn
tánh Đại Thừa, chẳng thể khuynh đảo,
lay động được).
Đă có Phật là vị giáo
hóa chủ, ắt phải có đại chúng tiếp nhận
sự giáo hóa. Tuy Phật phổ độ chúng sanh trong chín
pháp giới, nhưng thân ứng hóa của chư Phật
đều thị hiện xuất sanh trong nhân gian. V́ thế,
đối tượng hóa độ của chư Phật
lấy người và trời làm chánh. Đệ tử Phật
thuộc ngũ thừa luôn bao gồm chúng trời người.
Đấy chính là quyến thuộc Bồ Đề của
Phật.
Trong lúc tu nhân, Phật Di Đà
phát nguyện, giả sử khi Ngài thành Phật th́ quyến
thuộc Bồ Đề đều là các vị Bồ Tát
thuần nhất, không xen tạp, thấu hiểu thông suốt
thần thông, trí huệ thanh tịnh. Trong bốn mươi
tám nguyện, nguyện thứ mười một là nguyện
“chánh định, ắt đạt đến Niết
Bàn”, nguyện thứ hai mươi mốt là nguyện “đều
trọn đủ ba mươi hai tướng”, nguyện
thứ hai mươi hai là nguyện “rốt ráo Nhất
Sanh Bổ Xứ”. Lại c̣n được thành tựu
bởi công đức của các nguyện thứ hai mươi
lăm, hai mươi sáu, hai mươi chín, ba mươi
v.v… “Thiên nhân bất động chúng” tức là trong cơi
nước Phật ấy, hết thảy đại chúng trời
người đều là Chánh Định Tụ Bất
Thoái Chuyển Bồ Tát, chẳng có Tà Định và Bất
Định Tụ, hoặc đại chúng thoái chuyển Bồ
Tát đạo. Như kinh Vô Lượng Thọ quyển hạ
có chép: “Chư Phật cáo Bồ Tát, linh cận An Dưỡng
Phật, văn pháp nhạo thọ hành, tật đắc thanh
tịnh xứ, chí bỉ nghiêm tịnh quốc, tiện tốc
đắc thần thông, tất ư Vô Lượng Tôn, thọ
kư thành Đẳng Giác. Kỳ Phật bổn nguyện lực,
văn danh dục văng sanh, giai tất đáo bỉ quốc,
tự trí bất thoái chuyển” (Chư Phật
bảo Bồ Tát, hăy quán An Dưỡng Phật, nghe pháp, thích
nhận, hành, mau đạt chỗ thanh tịnh, đến
cơi nghiêm tịnh ấy, nhanh chóng đắc thần thông, ắt
Vô Lượng Thọ Phật, thọ kư thành Đẳng Giác.
Do sức bổn nguyện Phật, nghe tên mong văng sanh, thảy
đều đến cơi ấy, tự đạt bất thoái
chuyển). Đối với Tam Tụ Giới (“tụ” là loại), trong bộ
Vô Lượng Thọ Kinh Giảng Nghĩa, nơi trang hai trăm hai mươi lăm và hai trăm
hai mươi sáu, tôi đă giảng giải
cặn kẽ, xin hăy tự tra duyệt.
“Thanh tịnh trí hải sanh”,
điều này có hai thuyết:
1) Sanh từ biển trí thanh
tịnh của A Di Đà Phật.
2) Từ trong cái tâm tự tánh
thanh tịnh vốn sẵn có của chúng sanh mà xuất
sanh. Trí thanh tịnh tâm ấy ví như hoa sen, cho nên chúng sanh
trong cơi Cực Lạc đều là hoa sen hóa sanh.
Lại sánh ví Nhất
Thiết Chủng Trí của Phật như biển rộng
sâu không bến bờ, trọn đủ hết thảy các món báu thần thông,
trí huệ, công đức Đại Thừa. Ở trong biển
Nhất Thiết Chủng Trí, chẳng lưu giữ xác chết
của Nhị Thừa và trung hạ căn tạp thiện
của trời người. V́ thế nói “thiên nhân bất
động chúng, thanh tịnh trí hải sanh” (chúng trời
người bất động, biển trí thanh tịnh
sanh).
Hỏi: Thiên nhân thuộc loại
phàm phu sanh tử ô trược, cớ sao lại sanh từ
tâm trí thanh tịnh? Ví như nói lửa từ nước mà
ra, há chẳng phải là lời nói dối trá ư?
Đáp: Câu này có thể chia thành
hai phương diện để nói.
1) Nói theo sự tướng,
tất cả danh tướng trong quốc độ An Lạc
chẳng thể xem giống như những danh tướng
trong thế giới này của chúng ta. Tuy đức Bổn
Sư đă v́ chúng ta giới thiệu tất cả sự trang
nghiêm thanh tịnh trong thế giới Cực Lạc như
thế nào, nhưng những thứ ấy đều là nói
theo các danh tướng mà chúng ta biết, như cây báu, ao
sen, giảng đường, tinh xá, y phục, thức ăn,
Thanh Văn, Bồ Tát, đại
chúng trời người, bạch hạc, khổng tước
v.v… Những thứ ấy là những danh tướng mà chúng
ta có thể liễu giải. Thật ra, những sự vật
được bao hàm trong các danh tướng ấy tuyệt
nhiên bất đồng giữa Sa Bà và Cực Lạc! Như
kinh A Di Đà nói: “Kỳ Phật quốc độ, thượng
vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thật! Thị
chư chúng điểu, giai thị A Di Đà Phật dục
linh pháp âm tuyên lưu biến hóa sở tác” (Cơi nước
Phật ấy c̣n không có cái tên ác đạo, huống là thật
sự có! Những loài chim ấy đều do A Di Đà Phật
muốn cho pháp âm tuyên dương, lưu truyền mà biến
hóa ra). Lại như trong quyển thượng của kinh Vô
Lượng Thọ có chép: “Kỳ chư Thanh Văn, Bồ
Tát, thiên, nhân trí huệ cao minh, thần thông đỗng đạt,
hàm đồng nhất loại, h́nh vô dị trạng, đản
nhân thuận dư phương (kỳ tha thế giới),
cố hữu thiên nhân chi danh. Nhan mạo đoan chánh, siêu thế
hy hữu, dung sắc vi diệu, phi thiên, phi nhân, giai thọ
tự nhiên hư vô chi thân, vô cực chi thể” (Các vị
Thanh Văn, Bồ Tát, trời, người trí huệ cao
minh, thấu suốt thần thông, đều là cùng một
loại, h́nh dạng chẳng khác nhau, chỉ v́ thuận
theo phương khác (các thế giới khác) mà có tên gọi
là trời hay người. Dung mạo của họ đoan
chánh, trỗi vượt hơn đời, hiếm có, dung
sắc vi diệu, chẳng phải trời, chẳng phải
người, đều nhận lănh cái thân hư vô, bản
thể vô cực).
2) Nói theo sự biểu thị
pháp, quốc độ An Lạc là cảnh giới Viên Giáo
Nhất Thừa, mà cũng là cảnh giới Sự Sự vô ngại,
điều này được diễn tả là: “Khi mê th́
toàn thể chân trở thành vọng, hễ giác th́ toàn thể
vọng chính là chân”, hoặc “tâm, Phật, và chúng sanh là ba thứ
không sai biệt”. Tự tánh thanh
tịnh tâm, ai nấy vốn sẵn có, chúng sanh và Phật đồng
thể. Tâm này là chúng sanh (trời, người), tâm này là Bồ
Tát, Phật. Toàn thể chân trở thành vọng, giả danh
là trời, người, phàm phu. Toàn thể vọng chính là
chân, th́ gọi là chư Phật, Bồ Tát. Chân và vọng bất
nhị, chúng sanh và Phật cùng nguồn. Do vậy, trong kinh
có nói: “Phiền năo chính là Bồ Đề, sanh tử chính
là Niết Bàn. Chúng sanh chính là Phật”. Vĩnh Gia đại
sư cũng viết trong bài Chứng Đạo Ca như
sau: “Vô minh thật tánh tức Phật tánh, huyễn hóa không
thân tức Pháp Thân”. Nếu có thể liễu đạt
như thế, vậy th́ chúng trời người bất động
được sanh từ biển trí thanh tịnh chính là biểu
thị “toàn thể vọng tức là chân, từ ngay nơi
mê mà giác, cùng viên thành Chủng Trí”. Giơ tay, cúi đầu,
đều đă thành Phật. Đó gọi là pháp tánh b́nh đẳng,
cũng gọi là Nhất Chân pháp giới, là pháp môn Bất
Nhị. Đấy chẳng phải là cảnh giới mà hàng
phàm phu Nhị Thừa cho đến Quyền Giáo Bồ Tát có
thể thấu hiểu được.
Lại nói, “thanh tịnh trí
hải” chính là Tâm Chân Như Môn, “thiên nhân bất động
chúng” chính là Tâm Sanh Diệt Môn. Do Chân Như mà có sanh diệt,
tuy sanh diệt mà chẳng ĺa Chân Như. Nhất tâm nhị
môn, chúng sanh và Phật b́nh đẳng trọn đủ, thường
sai biệt mà thường tương đồng, pháp vốn
là như thế đó. V́ thế nói “thiên nhân bất động
chúng, thanh tịnh trí hải sanh” (chúng trời người
bất động, biển trí thanh tịnh sanh).
2.2.1.2.3.1.3.3.6.
Công đức của thượng thủ
(Luận) Như Tu Di sơn vương,
thắng diệu vô quá giả.
(Chú) Thử nhị cú, danh “trang
nghiêm thượng thủ công đức thành tựu”. Phật
bổn hà cố khởi thử nguyện? Kiến hữu Như
Lai chúng trung, hoặc hữu cường lương giả,
như Đề Bà Đạt Đa lưu tỷ. Hoặc
hữu quốc vương dữ Phật tịnh trị, bất
tri thậm thôi Phật. Hoặc hữu thỉnh Phật, dĩ
tha duyên phế vong. Hữu như thị đẳng, tự
thượng thủ lực bất thành tựu.
(論)如須彌山王。勝妙無過者。
(註)此二句。名莊嚴上首功德成就。佛本何故起此願。見有如來眾中。或有強梁者。如提婆達多流比。或有國王與佛並治。不知甚推佛。或有請佛。以他緣廢忘。有如是等。似上首力不成就。
(Luận:
Như núi chúa Tu Di, thắng diệu không chi hơn.
Chú: Hai câu này gọi là “trang
nghiêm thượng thủ công đức thành tựu”. Vốn
v́ lẽ nào mà đức Phật dấy lên nguyện này? Do
Ngài thấy trong đại chúng của Như Lai, hoặc là
có kẻ ương ngạnh giống như hạng người
Đề Bà Đạt Đa. Hoặc là có quốc vương
cùng Phật trị v́, chẳng biết nhún nhường đối
với Phật. Hoặc là có kẻ thỉnh Phật, nhưng
v́ duyên cớ khác bèn quên bẵng. Có những [khuyết điểm]
như thế ấy, cho nên sức thượng thủ dường
như chẳng thành tựu).
Chư Phật
xuất hiện trong nhân gian, đấy là chuyện hiếm
có, khó được! Như trong phẩm Diệu Trang Nghiêm
Vương của kinh Pháp Hoa có chép: “Thiện tai phụ
mẫu! Nguyện thời văng nghệ Phật sở, thân cận
cúng dường. Sở dĩ giả
hà? Phật nan đắc trị, như Ưu Đàm Bát La hoa.
Hựu như nhất nhăn chi quy, trị phù mộc khổng… Chư
Phật nan trị, thời diệc nan ngộ… Kỳ
vương tức thời dĩ quốc phó đệ, dữ
phu nhân nhị tử, tịnh chư quyến thuộc, ư
Phật pháp trung, xuất gia tu đạo… đắc Nhất
Thiết Tịnh Công Đức Trang Nghiêm tam-muội” (Lành thay,
thưa cha mẹ! Xin hăy ngay lập tức đi đến
chỗ đức Phật để thân cận, cúng dường.
V́ lẽ nào vậy? Phật khó gặp gỡ, như hoa Ưu
Đàm Bát La. Lại như con rùa một mắt gặp bộng
cây nổi… Chư Phật khó gặp, thời cũng khó gặp… Vị
vua ấy ngay lập tức giao đất nước cho
em trai, cùng phu nhân và hai con với các quyến thuộc, xuất
gia tu đạo trong Phật pháp… đắc Nhất Thiết
Tịnh Công Đức Trang Nghiêm tam-muội). Đấy là
tấm gương gặp Phật xuất gia, trở thành đệ
tử thượng thủ. Được gọi là “thượng
thủ” th́ là vua của một nước, hoặc là bậc
đức cao vọng
trọng trong đại chúng, như các vị Xá Lợi Phất,
Đại Ca Diếp dưới ṭa của đức Bổn
Sư, hoặc Quán Âm, Thế Chí dưới ṭa của A Di
Đà Phật. Như núi Diệu Cao (núi Tu Di) đă cao lớn
thù thắng, nhiệm mầu, lại ṿi vọi bất động,
chẳng có ǵ có thể vượt trỗi nó được!
Ngài Đàm Loan chỉ ra: Trong
lúc tu nhân, Phật Di Đà đă thấy có những vị Như
Lai mà trong đại chúng có kẻ hiền, người dữ
chẳng giống nhau. Chẳng hạn trong các đệ tử
môn hạ của đức Bổn Sư, trong số ấy
có những kẻ chống trái đức Phật, chẳng
tuân hành luật nghi đạo đức, chẳng tin theo kinh
giáo, tôn sùng thế lực, ương ngạnh chẳng thể
điều phục được. Những kẻ đó được
gọi là “cường lương” (強梁), giống
như hạng người Đề Bà Đạt Đa, vốn
cũng là đệ tử thượng thủ của đức
Phật, nhưng làm nhiều chuyện bất nghĩa, ắt
có ác báo. V́ thế, đọa vào địa ngục Vô Gián
ngay trong khi c̣n sống. Lăo Tử của Trung Hoa cũng nói: “Cường
lương giả, bất đắc kỳ tử” (Kẻ ương
ngạnh sẽ chẳng chết yên lành). Hoặc có quốc
vương muốn cùng đức Phật cai trị đất
nước, chẳng biết dốc hết ḷng thành, vét cạn
ḷng kính tôn trọng đức Phật, như vua Tần Bà
Sa La (Bimbisāra)[6] chẳng hạn. Hoặc
có kẻ thỉnh Phật kết hạ an cư trong đất
nước của họ, sẽ hằng ngày đem thức
ăn đến cúng dường, nhưng quốc vương
A Kỳ Đạt Bà La Môn do v́ có chuyện nhân duyên khác, rốt
cuộc quên bẵng chẳng nhớ, chẳng cúng dường,
khiến cho đức Phật và năm trăm vị tỳ-kheo
suốt ba tháng chỉ ăn lúa mạch dành cho ngựa cho qua
ngày. Những loại đệ tử thượng thủ
của đức Phật giống như vậy, tuy thuộc
địa vị đứng đầu trong đại
chúng, nhưng chẳng có đức hạnh và công sức đáng
nên có của một vị Thượng Thủ, chẳng thể
giúp Phật giáo hóa. V́ thế nói là “tự Thượng Thủ
lực bất thành tựu” (dường như là sức
Thượng
Thủ
chẳng thành tựu).
(Chú) Thị cố nguyện
ngôn: Ngă vi Phật thời, nguyện nhất thiết đại
chúng, vô năng sanh tâm cảm dữ ngă đẳng, duy nhất
pháp vương, cánh vô tục vương. Thị cố ngôn:
“Như Tu Di sơn vương, thắng diệu vô quá giả”.
(註)是故願言。我為佛時。願一切大眾。無能生心敢與我等。唯一法王。更無俗王。是故言。如須彌山王。勝妙無過者。
(Chú: V́ thế, nguyện
rằng: Khi tôi làm Phật, nguyện hết thảy đại
chúng chẳng ai có thể sanh tâm dám bằng tôi, duy nhất một
vị pháp vương, chẳng có vua thế tục. V́ thế
nói: “Như núi chúa Tu Di, thắng diệu không chi hơn”).
V́ thế, Phật Di Đà phát
nguyện: Trong thế giới Cực Lạc khi tôi thành Phật,
chỉ có Phật làm pháp vương, chẳng có hết thảy
thiên vương và nhân vương của thế tục. Hết
thảy đại chúng ai nấy đều ngưỡng vọng
đức Phật, rốt ráo hoàn thành đức học, rốt
ráo đạt thành Nhất Sanh Bổ Xứ như núi Tu Di
cao lớn ṿi vọi, nên nói “như Tu Di sơn vương,
thắng diệu vô quá giả” (như núi chúa Tu Di, thắng
diệu không chi hơn). Tuy ai nấy đều là như thế,
nhưng lại có thể trống ḷng mà ra đi, đắc
đạo bèn trở lại, quyết định chẳng
có kẻ nào sanh tâm dám sánh bằng đức Phật.
2.2.1.2.3.1.3.3.7.
Chủ công đức
(Luận)
Thiên nhân trượng phu chúng, cung kính nhiễu chiêm ngưỡng.
(Chú) Thử nhị cú, danh “trang
nghiêm chủ công đức thành tựu”. Phật bổn hà
cố khởi thử trang nghiêm? Kiến hữu Phật
Như Lai, tuy hữu đại chúng, chúng trung diệc hữu
bất thậm cung kính. Như nhất tỳ-kheo ngữ
Thích Ca Mâu Ni Phật: “Nhược bất dữ ngă giải
thập tứ nạn, ngă đương cánh học dư
đạo”. Diệc như Cư Ca Ly báng Xá Lợi Phất,
Phật tam ngữ nhi tam bất thọ. Hựu như
chư ngoại đạo bối, giả nhập Phật
chúng, nhi thường ty cầu Phật đoản. Hựu
như Đệ Lục Thiên Ma thường ư Phật sở
tác chư lưu nạn. Hữu như thị đẳng chủng
chủng bất cung kính tướng.
(論)天人丈夫眾。恭敬繞瞻仰。
(註)此二句。名莊嚴主功德成就。佛本何故起此莊嚴。見有佛如來。雖有大眾。眾中亦有不甚恭敬。如一比丘語釋迦牟尼佛。若不與我解十四難。我當更學餘道。亦如居迦離謗舍利弗。佛三語而三不受。又如諸外道輩。假入佛眾。而常伺求佛短。又如第六天魔。常於佛所。作諸留難。有如是等種種不恭敬相。
(Luận:
Chúng trượng phu trời người, cung kính nhiễu
chiêm ngưỡng.
Chú: Hai câu này gọi là “trang
nghiêm chủ công đức thành tựu”. Phật vốn v́
lẽ nào mà dấy lên sự trang nghiêm này? Do Ngài thấy có Phật
Như Lai, tuy có đại chúng, nhưng trong đại
chúng cũng có kẻ chẳng cung kính cho lắm. Như một
tỳ-kheo nói với Thích Ca Mâu Ni Phật: “Nếu Ngài chẳng
giải đáp cho tôi mười bốn điều vấn
nạn, tôi sẽ học theo đạo khác”. Cũng như
Cư Ca Ly báng bổ ngài Xá Lợi Phất, đức Phật
nói ba lần mà cả ba lượt ông ta đều chẳng
nghe theo. Lại như phường ngoại đạo giả
vờ theo làm đệ tử Phật mà thường bới
t́m những khuyết điểm của đức Phật.
Hoặc như Đệ Lục Thiên Ma thường gây nên
các chướng nạn cho đức Phật. Có đủ
mọi tướng chẳng cung kính như thế đó”).
Chữ
Chủ (主) được
nói ở đây tức là “Phật
là giáo chủ”. Trong lúc
tu nhân, Phật Di Đà thấy có những quốc độ
trong ấy vị giáo chủ tuy có đại chúng đệ
tử, nhưng trong đại chúng đó thường có những
chuyện chẳng cung kính đối với vị giáo chủ.
Đối với vị giáo chủ là bậc “tam giới
đạo sư, tứ sanh từ phụ” như
thế [mà chẳng cung kính như vậy] th́ đó là một
thứ sai trái, cũng là một kiểu khinh mạn
đối với Phật. Chẳng hạn như có một
lần đức Bổn Sư đang thuyết pháp, có một
tỳ-kheo vốn từ ngoại đạo đi theo Phật
môn liền đứng dậy, hướng về đức
Phật, nêu ra mười bốn điều cật vấn,
lại c̣n thưa với Phật: “Nếu Ngài chẳng giải
đáp cho tôi, tôi sẽ rời bỏ Tăng đoàn, đi
học với những giáo môn khác”. Do mười bốn câu
cật vấn ấy chính là tà kiến, tà chấp của ngoại
đạo, chẳng phải là chánh kiến, chẳng có sự thật,
cho nên đức Phật chẳng giải đáp. Ông tỳ-kheo
ấy bèn xả giới, hoàn tục, trở về ngoại
đạo. Nói về mười bốn điều cật
vấn ấy của ngoại đạo th́ có hai thuyết:
1) Theo quyển thứ mười
chín trong bộ Câu Xá Luận th́:
a) Một là thế giới và
Ngă là thường ư? b) Là vô thường ư? c) Là cũng
hữu thường mà cũng vô thường ư? d) Chẳng
phải là hữu thường mà cũng chẳng phải là
vô thường ư? e) Là hữu biên ư? f) Là vô biên ư?
g) Vừa là hữu biên vừa là vô biên ư? h) Chẳng phải
là hữu biên, chẳng phải là vô biên ư? i) Chết rồi
có thần thức ra đi ư? j) Chẳng có thần thức
ra đi ư? k) Vừa là có thần thức vừa là vô thần
thức ra đi ư? l) Vừa chẳng phải là thần
thức vừa chẳng phải là không thần thức ra đi
ư? m) Thân đời sau và thần (thần
thức) là một hay chăng? n) Thân và thần là khác ư?
Mười bốn câu hỏi
này đều thuộc về Thân Kiến và Biên Kiến. Phật
pháp nói “các pháp do nhân duyên mà sanh, các pháp do nhân duyên mà diệt”,
nói là [các pháp] thường
trụ bất biến th́ chẳng có lẽ ấy! Nói nó là “đoạn
diệt, không, vô” th́ cũng chẳng hợp lư. Do vậy, đức
Phật chẳng giải đáp cho ông ta. Ví như có người
hỏi: “Từ sừng
trâu có thể vắt ra bao nhiêu sữa?” Về
căn bản là chẳng hề có chuyện ấy, chẳng
thể đáp được!
2) Theo phẩm Phật Mẫu
trong kinh Đại Phẩm Bát Nhă, từ mười bốn
điều vấn nạn mà triển khai thành sáu mươi
hai thứ tà kiến của ngoại đạo.
- Một là Sắc (tức thế
giới) và Ngă (Ngă chính là thần thức, tách ra thành bốn
Uẩn là Thọ, Tưởng, Hành, Thức) là thường
hay vô thường v.v… bốn câu, [do từ Sắc cho đến
Thức là năm câu, mỗi câu phối ứng với bốn
câu “thường, vô thường...”] mà hợp thành
hai mươi câu. Đấy là đối với Ngũ Uẩn
trong quá khứ mà dấy lên sự so đo tà vạy.
- Hai là Sắc
và Ngă là “hữu biên, vô biên” v.v… bốn câu, hợp thành
hai mươi câu. Đấy là chấp trước đối
với Ngũ Uẩn trong hiện tại.
- Ba là Sắc và Ngă “như
khứ”, “bất như khứ” v.v… bốn câu, hợp
thành hai mươi câu. Đấy là đối với Ngũ
Uẩn trong vị lai mà dấy lên tà kiến. “Như khứ”
là như người sanh trong thế gian, [sau đó chết
đi], tuy đă đi rồi nhưng đến đời
sau th́ vẫn giống như vậy [đó gọi là “như
khứ”, tức là đă đi rồi (đă chết rồi),
đời sau lại sanh ra giống như đời này]. Chấp
trước ấy chính là Thường Kiến. “Bất
như khứ” là quá khứ chẳng từ đâu đến,
mà vị lai cũng chẳng đi về đâu. Đấy chính là chấp tướng
đoạn diệt (Đoạn Kiến). “Như
khứ bất như khứ” nghĩa là thân và thần thức
ḥa hợp thành người; chết rồi,
thần thức ra đi, thân chẳng đi. Đấy chính
là tà kiến chấp trước “Sắc và Tâm chắc chắn
là khác”. “Phi như khứ phi bất như khứ”
là do thấy lỗi của ba câu trên đây bèn chuyển sang
chấp trước câu này. Đấy chính là cách luận định
vặn vẹo loạn xạ. Do ba đời mà dấy lên mười hai câu ([tách cái tâm thành ra bốn Uẩn cùng
với Sắc thành năm món tức Ngũ Uẩn. Mười
hai câu nhân với Ngũ Uẩn],
sẽ thành sáu mươi câu), lại thêm hai kiến chấp
“thần thức và thân là một” hay [“thần thức
và thân”] là khác, sẽ thành mười bốn câu vấn nạn,
triển khai ra sẽ thành sáu mươi hai thứ tà kiến
của ngoại đạo. Những điều ấy đều
là Biên Kiến “đoạn, thường, hữu, vô”.
Lại như quyển thứ
mười ba của Đại Trí Độ Luận có chép:
Có lần, hai vị Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên
trên đường gặp phải trận mưa to, đêm
ngủ tại nhà một người thợ làm gốm. Trong
buồng tối, trước đó đă có một người
nữ, nhưng hai vị Xá Lợi Phất, Mục Kiền
Liên không biết. Người nữ đó đêm nằm mộng
mơ tưởng, tiết dâm dịch,
sáng sớm bèn trở dậy tắm rửa, bị đại
đệ tử của Đề
Bà Đạt Đa là tỳ-kheo
Cù Già Ly (Kokālika, c̣n phiên
âm là Cư Ca Ly) trông thấy, liền báng bổ hai vị Xá
Lợi Phất, Mục Kiền Liên và người nữ ấy
làm chuyện bất tịnh. Đức Phật ba lượt
quở trách ông ta đừng
phỉ báng ngài Xá Lợi Phất, nhưng Cù Già Ly cả ba lượt
đều không tiếp nhận lời quở trách của đức
Phật, bèn nổi ghẻ độc mà chết, đọa
vào địa ngục Đại Liên Hoa. Thập Tụng Luật
quyển ba mươi bảy cũng chép chuyện này.
Lại như thuở đức
Phật tại thế, có những kẻ ngoại đạo
chẳng phải là hạng chân thành tín ngưỡng Phật
giáo, họ giả vờ tin Phật, xuất gia, dự vào
Tăng đoàn, trở thành chúng tỳ-kheo của đức
Phật, thường xuyên bươi móc những khuyết
điểm của Phật và các vị đệ tử, mong
phá hoại Tăng đoàn, hủy diệt Phật giáo. Đối
với đức Phật, căn bản là chẳng có nửa
điểm cung kính, tín phụng.
Lại c̣n có Đệ Lục
Thiên thuộc Dục Giới trong cơi này, có tên là Tha Hóa Tự
Tại Thiên (Parinirmita-vaśavartin), c̣n gọi là
Ma Vương Thiên. Những thiên ma ấy thường gây
ra đủ mọi chuyện khó khăn, chướng ngại
đức Phật. Như khi đức Bổn Sư thành đạo,
thiên ma trước hết liền sai ma nữ đến
chướng nạn đủ mọi cách; sau đấy, lại
suất lănh ma binh, ma tướng, tạo đủ
mọi thứ khủng bố uy hiếp. Những điều
này được chép tường tận trong kinh Giáng Ma thuộc
bộ Trung A Hàm, và khá nhiều loại ma chướng được
nói trong kinh Hư Không Tạng Bồ Tát Sở Vấn đều
thuộc loại này. Cổ đức gọi thế giới
này là Ma Hương (quê ma), lại c̣n viết một bài Quy
Khứ Lai Từ (quay về
đi thôi): “Quy khứ lai, ma hương bất khả đ́nh,
khoáng kiếp lai lưu chuyển, lục đạo tận
giai kinh, đáo xứ vô dư lạc, duy văn sầu thán
thanh, tất thử sanh b́nh hậu nhập Niết Bàn thành!”
(Quay về thôi! Quê ma chẳng thể ở lâu dài, lưu
chuyển bao kiếp đă lâu rồi, sáu nẻo đều
trải qua hết cả, nơi nào cũng chẳng có yên
vui. Chỉ nghe tiếng sầu than, xong một đời này
hăy vào thành Niết Bàn). Tốt nhất là khi xả báo thân này,
bèn văng sanh Tịnh Độ, tiến nhập thành tŕ An Lạc!
“Hữu như thị đẳng,
chủng chủng bất cung kính tướng” (Có đủ loại
tướng chẳng cung kính như thế): Đấy chính
là ngài Đàm Loan tổng kết về vị giáo chủ cơi
này, ma và ngoại đạo chẳng cung kính Ngài đủ mọi
sự tướng như đă kể trên đây, cho nên mới
khiến cho đức Di Đà trong khi tu nhân bèn phát nguyện.
Trong thế giới mà Ngài sẽ làm giáo chủ khi thành Phật,
trọn chẳng có các t́nh huống tà ma, ngoại đạo
chẳng cung kính Ngài. Đấy gọi là “trang nghiêm chủ
công đức thành tựu”.
(Chú) Thị cố nguyện
ngôn: Sử ngă thành Phật, thiên nhân đại chúng, cung kính
vô quyện. Sở dĩ đản ngôn thiên nhân giả, Tịnh
Độ vô nữ nhân, cập bát bộ quỷ thần cố
dă. Thị cố ngôn: “Thiên nhân trượng phu chúng, Cực
Lạc nhiễu chiêm ngưỡng”.
(註)是故願言。使我成佛。天人大眾。恭敬無倦。所以但言天人者。淨土無女人及八部鬼神故也。是故言。天人丈夫眾。恭敬繞瞻仰。
(Chú: V́ thế, nguyện
rằng: Nếu tôi thành Phật, đại chúng trời người
cung kính chẳng mệt mỏi. Sở dĩ chỉ nói đến
trời người là v́ Tịnh Độ không có nữ nhân
và tám bộ quỷ thần. Do vậy nói: “Chúng trượng
phu trời người, cung kính vây quanh chiêm ngưỡng”).
Hết thảy đại
chúng trời người trong quốc độ An Lạc đều
là bậc đại trượng phu có đủ ba mươi
hai tướng, hoàn toàn chẳng có nữ nhân, họ đều
có thể cung kính, chầu hầu đấng giáo chủ, chẳng
có tâm chán mệt. Đấy chính là sự trang nghiêm được
thành tựu bởi nguyện thứ hai mươi mốt
trong bốn mươi tám nguyện: “Thiết ngă đắc
Phật, quốc trung thiên nhân, bất tất thành măn tam thập
nhị đại trượng phu tướng giả, bất
thủ Chánh Giác” (Nếu tôi thành Phật mà trời, người
trong nước chẳng đều thành tựu viên măn ba mươi
hai tướng đại trượng phu th́ tôi chẳng
giữ lấy ngôi Chánh Giác). Lại như quyển hạ
kinh Vô Lượng Thọ có chép: “Nhất thiết chư
Bồ Tát, các tê thiên diệu hoa, bảo hương, vô giá y,
cúng dường Vô Lượng Giác. Hàm nhiên tấu thiên nhạc,
sướng phát ḥa nhă âm, ca thán tối thắng tôn, cúng
dường Vô Lượng Giác. Cung kính nhiễu tam táp, khể
thủ Vô Thượng Tôn” (Hết
thảy các Bồ Tát, đều cầm hoa trời đẹp,
hương báu, áo vô giá, cúng dường Vô Lượng Giác.
Thảy đều tấu nhạc trời, thánh thót tiếng
ḥa nhă, ca ngợi đấng tối thắng, cúng dường
Vô Lượng Giác. Cung kính nhiễu ba ṿng, kính lễ đấng
Vô Thượng). “Nhiễu” (繞) là chắp
tay đi ṿng quanh Phật, hoặc một ṿng, hoặc ba ṿng,
là lễ tiết thuở ấy tại Ấn Độ, biểu
thị sự cung kính nhất. “Khể thủ” (稽首, dập
đầu lễ sát đất) là sự lễ kính [trân trọng]
nhất bằng cách gieo năm vóc xuống đất. Vô Lượng
Giác, Vô Thượng Tôn đều là A Di Đà Phật.
2.2.1.2.3.1.3.3.8.
Bất hư tác trụ tŕ công đức
(Luận) Quán Phật bổn
nguyện lực, ngộ vô không quá giả, năng linh tốc
măn túc, công đức đại bảo hải.
(Chú) Thử tứ cú, danh “trang
nghiêm bất hư tác trụ tŕ công đức thành tựu”. Phật
bổn hà cố khởi thử trang nghiêm? Kiến hữu Như
Lai, đản dĩ Thanh Văn vi Tăng, vô cầu Phật
đạo giả. Hoặc hữu trị Phật, nhi bất
miễn tam đồ. Thiện Tinh, Đề Bà Đạt
Đa, Cư Ca Ly đẳng thị dă. Hựu nhân văn Phật
danh hiệu, phát vô thượng
đạo tâm, ngộ ác nhân duyên, thoái nhập Thanh Văn, Bích
Chi Phật địa giả. Hữu như thị đẳng
không quá giả, thoái một giả.
(論)觀佛本願力。遇無空過者。能令速滿足。功德大寶海。 (註)此四句。名莊嚴不虛作住持功德成就。佛本何故起此莊嚴。見有如來。但以聲聞為僧。無求佛道者。或有值佛而不免三塗。善星。提婆遮多。居迦離等是也。又人聞佛名號。發無上道心。遇惡因緣。退入聲聞。辟支佛地者。有如是等空過者。退沒者。
(Luận:
Quán sức bổn nguyện Phật, gặp gỡ chẳng
luống uổng, hay nhanh chóng thỏa nguyện, biển công
đức báu lớn.
Chú: Bốn câu này gọi
là “sự trang nghiêm được thành tựu bởi công
đức chẳng uổng công trụ
tŕ”. Vốn v́ lẽ nào mà đức Phật dấy lên sự
trang nghiêm này? Do Ngài thấy có Như Lai chỉ dùng Thanh
Văn làm Tăng, chẳng có người cầu Phật
đạo. Hoặc có kẻ gặp Phật mà chẳng tránh
khỏi tam đồ; Thiện Tinh, Đề Bà Đạt
Đa, Cư Ca Ly v.v… là hạng người ấy! Lại
có người nghe danh hiệu Phật, do gặp nhân duyên ác,
bèn lui sụt trở lại địa vị Thanh Văn, Bích
Chi Phật. Có những kẻ luống uổng và lui sụt
như thế đó).
V́ sao gọi là “trụ tŕ”?
“Trụ” là an trụ thế gian, nhưng bất động.
“Tŕ” là chấp tŕ (nắm giữ) chánh pháp bất biến.
Quyển thứ hai mươi bảy của Lục Thập
Hoa Nghiêm, trong phần nói về mười thân của Như
Lai, có nhắc đến Trụ Tŕ Thân và Trụ Tŕ Phật.
Đấy là do sau khi Ứng Hóa Thân của Phật đă diệt
độ, lưu lại xá-lợi trong nhân gian, hoặc vẽ,
đắp thành tượng Phật, có thể khiến cho Phật
pháp tồn tại lâu dài trong thế gian, thuộc về Phật
Bảo trong Trụ Tŕ Tam Bảo. Trong chương Trụ
Tŕ của Bách Trượng Thanh Quy có nói: “Chẳng đề
cao địa vị của vị ấy th́ khuôn phép sẽ
chẳng nghiêm. Thoạt đầu mời vị sư ấy
làm Trụ Tŕ, do tôn trọng nên gọi là Trưởng Lăo”. Lại
theo Thiền Uyển Thanh Quy[7] nói: “Mỗi vị
ở một phương, tiếp nối huệ mạng của
Phật, vị ấy được gọi là Trụ Tŕ”.
Ba loại Trụ Tŕ như đă nói trên đây đều
chẳng phải là ư nghĩa của từ ngữ Trụ
Tŕ trong bộ luận này. Phải như kinh Viên Giác đă nói:
“Nhất thiết Như Lai, quang nghiêm trụ tŕ” (Hết thảy
Như Lai dùng báo thân trụ tŕ thế gian). Lại như Thập
Trụ Tỳ Bà Sa Luận đă nói: “Do Phật lực trụ
tŕ liền thuộc vào Chánh Định Tụ của Đại
Thừa”. “Quang nghiêm trụ tŕ” (光嚴住持) là Báo
Thân của Phật trụ tŕ thế gian. “Phật lực
trụ tŕ” chính là nói sức bổn nguyện của Phật
trụ tŕ. Đấy mới là ư nghĩa bao hàm trong từ
ngữ “trụ tŕ” của bộ luận này.
Thế nào là trụ tŕ chẳng
uổng công thực hiện? Chính là Báo Thân của Phật Di
Đà trụ tŕ thế giới Cực Lạc, lại có sức
công đức của bốn mươi tám nguyện nhiếp
thọ chúng sanh, như nam châm hút sắt, quyết định
chẳng bị thất lạc, có thể khiến cho chúng sanh
nghe danh Ngài rồi xưng niệm, văng sanh Cực Lạc, nghe pháp, được thọ kư, đều có thể
đạt được đại lợi ích “ĺa khổ
được vui, liễu sanh thoát tử, thành Phật, làm
Tổ”. Đấy
gọi là “bất hư tác trụ tŕ” (sức trụ
tŕ chẳng luống công thực hiện). Sức công đức
bổn nguyện của Phật Di Đà có thể quy nạp
thành hai loại, gọi là lực dụng của “bất
hư tác trụ tŕ”:
1) Phàm là chúng sanh đă văng
sanh An Lạc quốc, ai nấy đều thành tựu công
đức lợi ích đúng như bốn mươi tám nguyện
đă nói, tuyệt đối chẳng có một điều
nào luống qua, chẳng đạt được lợi ích
như thế.
2) Chúng sanh thuộc ba bậc
chín phẩm trong mười phương thế giới chỉ
cần được nghe danh hiệu Di Đà, muốn sanh
về cơi ấy, chí tâm tin ưa, cho đến niệm A Di
Đà Phật mười niệm, khi lâm chung liền
được A Di Đà Phật x̣e tay tiếp dẫn, văng
sanh cơi ấy. Bất luận công hạnh cạn hay sâu, bất
luận có đoạn Hoặc hay không, đă đạt được
nhất tâm hay chưa, cũng chẳng cần biết là nam,
nữ, già, trẻ, xuất gia, tại gia, nghèo, giàu, sang, hèn,
chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch và phỉ báng chánh pháp,
đều có thể được bổn nguyện của
Phật Di Đà nhiếp thọ, từ bi tiếp dẫn, được
sanh về Tịnh Độ. Tuyệt đối chẳng
bỏ sót một người nào không được văng
sanh. Phật lực [của Phật A Di Đà] có thể gia
tŕ vô lượng, chúng sanh được gia tŕ bèn đạt lợi
ích cũng vô lượng (văng sanh thành Phật) như hộp
to th́ nắp to; đó gọi là “bất hư tác trụ
tŕ”.
Ngài Đàm Loan giải thích v́
sao Phật Di Đà phải có sự trang nghiêm “bất hư
tác trụ tŕ” này? Đấy là v́ Ngài trông thấy có vị
Phật chỉ có Thanh Văn Tăng, chẳng có Bồ Tát Tăng,
cũng chính là chẳng có chúng sanh đại tâm cầu vô thượng
Phật đạo. Đấy là chẳng viên măn, chẳng rốt
ráo. Như trong giáo pháp của đức Thích Ca, tín đồ
Phật giáo Nam Truyền là như thế đó. Họ chỉ
có Tiểu Thừa Thanh Văn Tăng, chỉ cầu chứng
quả A La Hán, cho đó là mục đích học Phật
đă đạt được rồi. Như thế là đă
đánh mất ư nghĩa chân thật của chuyện Phật
pháp trụ tŕ thế gian, đáng gọi là “hư tác trụ
tŕ”.
Lại có kẻ gặp Phật
xuất thế, theo Phật xuất gia, thế nhưng không chỉ là chẳng chứng
quả liễu sanh tử, mà c̣n ngược ngạo đọa
lạc tam đồ. Đấy chẳng phải là quá oan uổng
ư? Như con trai của đức Bổn Sư khi Ngài làm
Thái Tử tên là Thiện Tinh (Sunakṣatra). Sau khi xuất
gia, vị này chứng đắc Tứ Thiền; do thân cận
bạn ác, bèn thoái thất Tứ Thiền, dấy lên tà kiến
bài bác cho là không có nhân quả, c̣n khởi ác tâm đối với
đức Phật, bị đọa vào địa ngục
Vô Gián ngay trong khi c̣n sống. Theo như Khuy Cơ đại
sư đời Đường đă viết trong bộ
Pháp Hoa Huyền Tán th́ đức Phật có ba con trai, một
là Thiện Tinh, hai là Ưu Bà Ma Da (Upamaana), ba là La
Hầu La (Rahula). Lại
như Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), dịch
nghĩa là Thiên Nhiệt, hoặc là Thiên Thọ, là con của
Hộc Phạn Vương (Dronodana)[8], là anh ruột của
A Nan, là em họ của đức Phật, thân có đủ
ba mươi tướng. Sau khi xuất gia, ông có thể tụng
sáu vạn pháp tạng, v́ lợi dưỡng mà tạo tội
Ngũ Nghịch. Theo Pháp Hoa Văn Cú, quyển thứ tám [th́
Đề Bà Đạt Đa đă tạo những tội
như sau]:
1) Dụ dỗ năm trăm
vị tỳ-kheo, lập riêng năm pháp để phá ḥa hợp
Tăng. Năm pháp là (1) Chẳng ăn năm vị (2) Không
ăn thịt (3) Không ăn muối (4) Chẳng nhận y do
cắt xén (5) Chẳng ở trong chùa bên cạnh xóm làng.
2) Quăng đá lớn làm thân
Phật chảy máu.
3) Bảo vua A Xà Thế thả
voi say giẫm Phật.
4) Đấm chết tỳ-kheo-ni
Liên Hoa Sắc.
5) Bỏ chất độc
trong mười móng tay, muốn do lễ dưới chân Phật
bèn [cào chân Phật để chất độc] tổn thương
Phật.
Do vậy, ông ta cũng
đọa vào địa ngục trong khi c̣n sống. Lại
c̣n có tỳ-kheo Cư (Câu) Ca Ly như đă nói trong phần
trước, do phỉ báng ngài Xá Lợi Phất mà đọa
vào địa ngục. Ba người như thế thật
sự là quá đáng buồn, đáng than!
Lại có vị như ngài Xá
Lợi Phất, trong đời quá khứ nghe danh hiệu Phật,
phát vô thượng Bồ Đề tâm, trong sáu mươi
kiếp hành Bồ Tát đạo. Về sau, do nhân duyên gặp phải
một Bà La Môn hướng về Ngài xin mắt, ngài Xá
Lợi Phất liền
móc một mắt cho. Người xin nhận lấy
con mắt, chê là hôi thối, vứt xuống đất, lại
c̣n giày xéo. Do vậy, ngài Xá Lợi Phất thoái thất Bồ
Tát đạo, hồi Đại hướng Tiểu, trở
thành hàng Thanh Văn, liễu thoát sanh tử cho riêng ḿnh. Những
trường hợp như vậy đều là có Phật trụ
thế, chúng sanh có thể gặp Phật, thậm chí theo Phật
xuất gia tu đạo, kết quả là luống uổng
một đời, thậm chí đọa lạc trong tam đồ.
Đấy chính là Phật hư tác trụ tŕ. Phật Di Đà
thấy trong sự thị hiện giáo hóa suốt một đời
của đức Bổn Sư có những khuyết điểm
ấy; do vậy, Ngài phát nguyện sẽ trang nghiêm công đức bất
hư tác trụ tŕ để đạt thành nguyện vọng
tối cao “hễ có ai thấy nghe, không một ai chẳng
thành Phật”.
(Chú) Thị cố
nguyện ngôn: Sử ngă thành Phật thời, trị ngộ
ngă giả, giai tốc tật măn túc vô thượng đại
bảo. Thị cố ngôn: “Quán Phật bổn nguyện lực,
ngộ vô không quá giả, năng linh tốc
măn túc, công đức đại bảo hải”. Trụ tŕ
nghĩa như thượng, quán Phật trang nghiêm bát chủng
công đức, ngật chi ư thượng.
(註)是故願言。使我成佛時。值遇我者。皆速疾滿足無上大寶。是故言。觀佛本願力。遇無空過者。能令速滿足。功德大寶海。住持義如上。觀佛莊嚴八種功德。訖之於上。
(Chú: V́
thế, nguyện rằng: “Nếu khi tôi thành Phật,
người gặp gỡ tôi sẽ đều nhanh chóng
đầy đủ của báu lớn vô thượng”. V́
thế nói: “Quán sức bổn nguyện Phật, gặp gỡ
chẳng luống uổng, hay nhanh chóng thỏa nguyện, biển
công đức báu lớn”. Nghĩa trụ tŕ như trên
đây, phần quán tám thứ công đức trang nghiêm của
Phật đến đây là xong).
“Giai tốc tật măn túc vô
thượng đại bảo” (Đều
nhanh chóng đầy đủ của báu lớn vô thượng):
Câu này nói rơ nguyên do v́ sao pháp môn Tịnh Độ là Dị Hành
Đạo hoàn toàn là do sức bổn nguyện của Phật
Di Đà có thể nhiếp thọ hết thảy chúng sanh phàm
phu nghiệp chướng nặng nề đới nghiệp
văng sanh, vượt khỏi tam giới theo chiều ngang, liễu
sanh thoát tử, viên măn Bồ Đề trong một đời,
thành tựu hết thảy công đức đại bảo
nơi Phật quả. Cũng chỉ có như vậy th́ mới
là “bất hư tác trụ tŕ” của chư Phật. “Trụ
tŕ nghĩa như thượng” là nói ư nghĩa của Trụ
Tŕ như đă được giảng giải trong phần
trên. Bất quá, dựa theo lời giải thích nơi đoạn
văn Trường Hàng thuộc phần sau luận này th́ “tức
kiến bỉ Phật, vị chứng tịnh tâm Bồ
Tát, tất cánh đắc chứng b́nh đẳng Pháp Thân,
dữ tịnh tâm Bồ Tát vô dị; dữ Thượng Địa
chư Bồ Tát tất cánh đồng đắc tịch
diệt b́nh đẳng cố” (tức là thấy đức
Phật ấy th́ hàng Bồ Tát chưa chứng tịnh tâm sẽ
rốt ráo chứng đắc Pháp Thân b́nh đẳng, chẳng
khác tịnh tâm Bồ Tát, v́ cùng với các vị Bồ Tát thượng
địa rốt ráo cùng đắc tịch diệt b́nh đẳng).
Đó gọi là “bất hư tác trụ tŕ”. Đợi
đến khi giảng giải phần văn Trường
Hàng, tôi sẽ nói lại đoạn văn này. Luận này nói
quan sát A Di Đà Phật có tám loại công đức trang
nghiêm tự lợi và lợi tha, trước là tự lợi,
sau là lợi tha, đến đây đă kết thúc viên măn.
2.2.1.2.3.1.3.4.
Quan sát công đức trang nghiêm của các vị Bồ Tát trong
cơi ấy
2.2.1.2.3.1.3.4.1.
Nêu chung bốn loại công đức
(Chú) Thứ quán An Lạc quốc
chư đại Bồ Tát tứ chủng trang nghiêm công đức
thành tựu.
(Chú:
Kế đó là quan sát bốn thứ công đức trang
nghiêm thành tựu của hàng Bồ Tát trong cơi An Lạc).
2.2.1.2.3.1.3.4.2.
Vấn đáp trừ nghi
(Chú) Vấn viết: Quán Như
Lai trang nghiêm công đức, hà sở khuyết thiếu, phục
tu quán Bồ Tát công đức da?
(Chú:
Hỏi: Quán công đức trang nghiêm của Như Lai có chỗ
nào thiếu sót mà lại cần phải quan sát công đức
của Bồ Tát vậy?)
Có lẽ,
sẽ có người hỏi: Trong phần trên là quan sát công
đức của A Di Đà Như Lai chính là quan sát công
đức của Chúng Sanh Thế Gian trong
quốc độ An Lạc, có thể nói là đă rất viên
măn, chẳng khuyết thiếu tí nào, lại cần ǵ phải
quan sát công đức của hàng Bồ Tát nữa ư?
(Chú) Đáp viết: Như
hữu minh quân, tắc hữu hiền thần, Nghiêu Thuấn
chi xưng vô vi, thị kỳ tỷ dă. Nhược tiện
đản hữu Như Lai pháp vương, nhi vô đại
Bồ Tát pháp thần, ư dực tán đạo, khởi túc
vân măn? Diệc như tân tích tiểu, tắc hỏa
bất đại.
(註)答曰。如有明君。則有賢臣。堯舜之稱無為。是其比也。若便但有如來法王。而無大菩薩法臣。於翼讚道。豈足云滿。亦如薪𧂐小則火不大。
(Chú:
Đáp: Như có các vị vua sáng, ắt có tôi hiền. Vua Nghiêu,
vua Thuấn được xưng tụng là vô vi, đó là do so sánh [với
quần thần] mà ra. Giả sử chỉ có đấng Như
Lai pháp vương, không có hàng Bồ Tát là bầy tôi nơi
chánh pháp để giúp đỡ, tán trợ đạo th́
sao đáng nói là viên măn cho được? Cũng như chất
chứa ít củi th́ lửa chẳng lớn).
Ngài Đàm Loan giải đáp:
Ví như một quốc gia trong thế gian, đă có vị quân
chủ thánh minh, ắt phải có quần thần phụ tá
hiền năng. Chẳng hạn, thánh vương thời cổ
Trung Hoa như vua Nghiêu, vua Thuấn, trong lịch sử họ
đều được ca ngợi “vô vi nhi trị”,
quốc thái dân an, thiên hạ ḥa thuận. Đấy là v́ vua
Nghiêu, vua Thuấn có bầy tôi hiền năng phù tá, cho nên đạt
được quốc gia b́nh trị, chẳng loạn, chính
trị thuận lợi, không có thói tệ, nhân dân th́ vui sướng,
không lo âu. Có thể so sánh điều này với sự giáo hóa
cơi đời, độ người của Phật, Bồ
Tát cũng giống như thế. Giả sử chỉ có Phật
là đấng pháp vương, chẳng có các vị đại
Bồ Tát giúp Phật giáo hóa, th́ cũng giống như chỉ
có minh quân, mà chẳng có bầy tôi hiền năng th́ đối
với sự phù tá (lời chú giải dùng chữ Dực (翼) để
diễn tả ư này), tán trợ đạo giáo hóa, sẽ chẳng
viên măn, chẳng lư tưởng. Lại giống như chất
chứa củi rất ít, chỉ có một hai que, vậy
th́ lửa đốt lên sẽ chẳng thể rất lớn
được! Do vậy, đức Phật có nói: “Một
vị Phật xuất thế, ngàn vị Phật hộ tŕ”,
tất nhiên là sẽ có rất nhiều vị đại Bồ
Tát đồng thời ứng thế (xuất hiện trong
cơi đời) giúp Phật giáo hóa.
(Chú) Như kinh ngôn: A Di
Đà Phật quốc, hữu vô lượng vô biên chư đại
Bồ Tát, như Quán Thế Âm, Đại Thế Chí đẳng,
giai đương nhất sanh ư tha phương thứ
bổ Phật xứ. Nhược nhân xưng danh ức niệm
giả, quy y giả, quán sát giả, như Pháp Hoa Kinh Phổ
Môn phẩm thuyết, vô nguyện bất măn. Nhiên Bồ Tát
ái nhạo công đức, như hải thôn lưu, vô chỉ
túc t́nh.
(註)如經言。阿彌陀佛國。有無量無邊諸大菩薩。如觀世音。大勢至等。皆當一生於他方次補佛處。若人稱名憶念者。歸依者。觀察者。如法華經普門品說。無願不滿。然菩薩愛樂功德。如海吞流。無止足情。
(Chú: Như kinh nói cơi A
Di Đà Phật có vô lượng vô biên các vị đại
Bồ Tát, như Quán Thế Âm, Đại Thế Chí v.v… đều
sẽ trong một đời sẽ được bổ
làm Phật kế tiếp nơi phương khác. Nếu có
người nghĩ nhớ, quy y, quan sát họ, sẽ như
trong phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa Kinh Phổ Môn đă
nói, không nguyện nào chẳng được thỏa. Nhưng
Bồ Tát yêu thích công đức, như biển nuốt các
gịng nước, chẳng cảm thấy là đủ).
“Như kinh ngôn” (Như kinh nói) được
nhắc đến ở đây chính là như kinh Vô Lượng
Thọ đă nói: “Phật cáo A Nan: ‘Bỉ quốc Bồ
Tát giai đương cứu cánh Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ
Tát (tức thị giai đương nhất
sanh ư tha phương thứ bổ Phật xứ). Hữu
nhị Bồ Tát, tối tôn đệ nhất, oai thần quang
minh, phổ chiếu tam thiên đại thiên thế giới’.
A Nan bạch Phật: ‘Bỉ nhị Bồ Tát, kỳ hiệu
vân hà?’ Phật cáo: - Nhất danh Quán Thế Âm, nhị danh Đại
Thế Chí. Thử nhị Bồ Tát, ư thử quốc
độ tu Bồ Tát hạnh, mạng chung chuyển hóa,
sanh bỉ Phật quốc. Bỉ quốc Bồ Tát, giai tất
cụ túc tam thập nhị tướng, trí huệ thành măn,
thâm nhập chư pháp, cứu sướng yếu diệu,
thần thông vô ngại, chư căn minh lợi, đắc
bất khả kế Vô Sanh Pháp Nhẫn… cứu cánh nhất
thiết Bồ Tát sở hành, cụ túc thành tựu vô lượng
công đức” (Đức Phật
bảo ngài A Nan: ‘Bồ Tát trong cơi ấy đều sẽ rốt
ráo là Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát (tức
là sẽ đều ở phương khác, kế tiếp
thành Phật). Có hai vị Bồ Tát tôn quư bậc nhất, oai thần,
quang minh chiếu trọn khắp tam thiên đại thiên thế
giới’. Ngài A Nan bạch Phật: ‘Hai vị Bồ Tát ấy
danh hiệu như thế nào?’ Đức Phật bảo: ‘Vị thứ
nhất tên là Quán Thế Âm, vị thứ hai tên là Đại
Thế Chí. Hai vị Bồ Tát ấy tu Bồ Tát hạnh trong
quốc độ này, sau khi mạng chung, chuyển hóa, sanh
về cơi Phật kia. Hàng Bồ Tát trong cơi ấy thảy đều
trọn đủ ba mươi hai tướng, trí huệ thành
tựu viên măn, thâm nhập các pháp, hiểu thông suốt rốt
ráo những điều trọng yếu, huyền nhiệm,
thần thông vô ngại, các căn sáng suốt nhạy bén, đạt
được chẳng thể tính toán Vô Sanh
Pháp Nhẫn… rốt ráo hết thảy sở hành của Bồ
Tát, thành tựu trọn đủ vô lượng công đức’).
Thế giới Cực Lạc
có vô lượng vô biên đại Bồ Tát đều là bậc
Bổ Xứ Bồ Tát giống như Quán Âm, Thế Chí, đều
có lục thông tự tại, Ngũ Nhăn viên minh, tứ trí trọn
đủ. Kinh Vô Lượng Thọ c̣n nói hai mươi thí
dụ để h́nh dung sự thù thắng nhiệm mầu
của bậc Bổ Xứ Bồ Tát. Do vậy, kinh Di Đà
cũng có nói: “Cực Lạc quốc độ, chúng sanh sanh
giả, giai thị A Bệ Bạt Trí, kỳ trung đa hữu
Nhất Sanh Bổ Xứ, kỳ số thậm đa, phi thị
toán số sở năng tri chi, đản khả dĩ vô
lượng vô biên A-tăng-kỳ (Vô Ương Số) thuyết”
(Chúng sanh sanh về quốc độ Cực Lạc đều
là A Bệ Bạt Trí, trong ấy có nhiều vị là Nhất
Sanh Bổ Xứ. Số ấy rất nhiều, chẳng thể
dùng toán số mà ḥng biết được, chỉ có thể
dùng vô lượng vô biên A-tăng kỳ (Vô Ương Số)
để nói). Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật
bảo ngài A Nan: “Bỉ chư Bồ Tát, thành tựu như
thị vô lượng công đức, ngă đản vị
nhữ lược ngôn chi nhĩ. Nhược quảng thuyết
giả, bách thiên vạn kiếp bất năng cùng tận” (Các
vị Bồ Tát ấy thành tựu vô lượng công đức
như thế, ta chỉ v́ ông nói đại lược đó
thôi. Nếu nói rộng ra th́ trăm ngàn vạn kiếp vẫn
chẳng thể nói hết được).
“Nhược nhân ức niệm
giả, quy y giả, quán sát giả, như Pháp Hoa kinh Phổ
Môn phẩm thuyết, vô nguyện bất măn” (Nếu có người
nghĩ nhớ, quy y, quán sát th́ như phẩm Phổ Môn của
kinh Pháp Hoa đă nói, không nguyện ǵ chẳng được
thỏa măn): Mấy câu văn này đă trích dẫn phẩm Phổ
Môn để chứng minh.
Lại c̣n như kinh Quán Vô Lượng
Thọ Phật đă nói: “Quán Âm Bồ Tát thủ chưởng
hữu vô lượng quang sắc, phổ chiếu nhất
thiết. Dĩ thử bảo thủ, tiếp dẫn chúng
sanh (văng sanh Cực Lạc). Tác thị quán giả, bất
ngộ chư họa, tịnh trừ nghiệp chướng.
Như thử Bồ Tát, đản văn kỳ danh, hoạch
phước vô lượng, hà huống đế quán… Đản
văn Phật danh, nhị Bồ Tát danh, trừ vô lượng
kiếp sanh tử chi tội, hà huống ức niệm. Đương
tri thử nhân tắc thị nhân trung Phân Đà Lợi Hoa (bạch
liên hoa), Quán Âm, Thế Chí vi kỳ thắng hữu, đương
tọa đạo tràng, sanh chư Phật gia” (Bàn tay của
Quán Âm Bồ Tát có vô lượng quang minh và màu sắc, chiếu
trọn khắp hết thảy. Ngài dùng tay báu ấy để
tiếp dẫn chúng sanh (văng sanh Cực Lạc). Tu phép Quán này,
sẽ chẳng gặp các tai họa, trừ sạch nghiệp
chướng. Bậc Bồ Tát như vậy, chỉ nghe danh
hiệu Ngài, sẽ được vô lượng phước,
huống hồ là quán chắc thật… Chỉ nghe danh hiệu
của Phật, danh hiệu của hai vị Bồ Tát, sẽ
trừ tội trong vô lượng kiếp sanh tử, huống
hồ là nghĩ nhớ. Hăy nên biết người ấy chính
là hoa Phân Đà Lợi (hoa sen trắng) trong loài người,
Quán Âm, Thế Chí là bạn thù thắng của người ấy,
người ấy sẽ ngồi đạo tràng (thành Chánh
Giác), sanh trong nhà chư Phật). [Những điều này] có
thể dùng để chứng minh, để có
thể quan sát công đức trang nghiêm của các vị đại
Bồ Tát trong quốc độ An Lạc [ḥng nhận biết] lợi ích lớn nhất là “sẽ được thành
Phật”.
“Nhiên Bồ Tát ái nhạo công
đức, như hải thôn lưu, vô chỉ túc t́nh” (Nhưng Bồ
Tát yêu thích công đức như biển nuốt các gịng chảy, chẳng cảm
thấy ngưng đủ): Đây là nói các vị đại
Bồ Tát trong cơi ấy đều trọn đủ hạnh
Phổ Hiền, đức Phổ Hiền, có thể trong thời
gian và không gian vô tận mà yêu thích, tu tập hết thảy
công đức, giống như biển cả dung nạp các
gịng nước, vĩnh viễn chẳng có ngày trọn đủ.
Những điều nói trong phẩm Phổ Môn và Quán Kinh chỉ
nhằm tán thán chút ít phần công đức của các Ngài mà
thôi!
(Chú) Diệc như Thích
Ca Mâu Ni Như Lai văn
nhất mục ám tỳ-kheo hu ngôn: “Thùy ái công đức, vị
ngă duy châm”. Nhĩ thời, Như Lai tùng Thiền Định
khởi, lai đáo kỳ sở, ngữ ngôn: “Ngă ái phước
đức”, toại vị kỳ duy châm. Nhĩ thời, thất
minh tỳ-kheo ám văn Phật ngữ thanh, kinh hỷ giao tập,
bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thế Tôn công đức do
vị măn da?” Phật báo ngôn: “Ngă công đức viên măn, vô sở
phục tu, đản ngă thử thân tùng công đức sanh,
tri công đức ân phần cố. Thị cố ngôn ái”. Như
sở vấn quán Phật công đức, thật vô nguyện
bất sung. Sở dĩ phục quán Bồ Tát công đức
giả, hữu như thượng chủng chủng nghĩa
cố nhĩ.
(註)亦如釋迦牟尼如來。聞一目闇比丘吁言。誰愛功德。為我維鍼。爾時如來從禪定起。來到其所。語言。我愛福德。遂為其維鍼。爾時失明比丘。暗聞佛語聲。驚喜交集。白佛言。世尊。世尊功德猶未滿耶。佛報言。我功德圓滿。無所復須。但我此身從功德生。知功德恩分故。是故言愛。如所問觀佛功德。實無願不充。所以復觀菩薩功德者。有如上種種義故耳。
(Chú:
Cũng như Thích Ca Mâu Ni Như Lai nghe một vị tỳ-kheo
mù mắt than thở: “Ai yêu công đức hăy xỏ kim giùm tôi”.
Lúc bấy giờ, đức Như Lai từ Thiền Định
khởi, đến chỗ vị ấy, bảo rằng: “Ta
yêu phước đức”, liền v́ vị ấy xỏ
kim. Khi đó, vị tỳ-kheo mù ấy nghe ra tiếng nói của
đức Phật, vui sợ lẫn lộn, bạch đức
Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Công đức của
Thế Tôn c̣n chưa viên măn ư?” Đức Phật đáp:
“Công đức của ta viên măn, chẳng c̣n ǵ phải tu nữa,
chỉ v́ thân này của ta sanh từ công đức, do biết
ơn công đức, cho nên nói là Yêu”. Như trong câu hỏi
thuộc phần trên, quán công đức của Phật th́ quả thật không nguyện nào chẳng thỏa. Sở
dĩ lại quán công đức của Bồ Tát là do có các thứ
nghĩa như trên đây vậy).
Ngài Đàm Loan trích dẫn
chuyện đức Thích Ca xâu kim, mọi người đều
biết rành chuyện này. “Mục ám tỳ-kheo” tức
là một vị xuất gia cả hai mắt đều mù. “Duy
châm” (維鍼) là dùng
chỉ xuyên qua cái lỗ nhỏ ở trên kim. Đức Phật
nói “chỉ v́ thân này của ta sanh từ công đức”.
Đấy là như Đại Trí Luận đă nói: “Pháp
Thân của Phật là lư pháp tụ, Báo Thân của Phật là
trí pháp tụ, Hóa Thân của Phật là công đức pháp tụ”.
Thích Ca Thế Tôn thị hiện thành Phật tại Ấn
Độ là Hóa Thân Phật. Tuy là do nhân duyên cha mẹ mà sanh
ra, nhưng chủng tử thật sự có thể sanh ra [Hóa Thân Phật] th́ chính là công đức vô lậu do đức Phật
đă tu, mà cũng là chủng tử vô lậu thanh tịnh pháp
vốn là như thế, và cũng là chủng tử công
đức do trí huệ huân tập vừa mới sanh, ḥa hợp
lại mà sanh ra Hóa Thân Phật. V́ thế nói là “sanh từ
công đức”. Những điều khác dễ hiểu!
2.2.1.2.3.1.3.4.3.
Nói riêng bốn loại công đức
2.2.1.2.3.1.3.4.3.1.
Công đức ứng hóa bất động
(Luận) An Lạc quốc thanh
tịnh, thường chuyển vô cấu luân, hóa Phật, Bồ
Tát nhật, như Tu Di trụ tŕ.
(Chú) Phật bổn hà cố
khởi thử trang nghiêm? Kiến hữu Phật độ,
đản thị tiểu Bồ Tát, bất năng ư thập
phương thế giới quảng tác Phật sự, hoặc
đản Thanh Văn nhân thiên, sở lợi hiệp tiểu.
(論)安樂國清淨。常轉無垢輪。化佛菩薩日。如須彌住持。 (註)佛本何故起此莊嚴。見有佛土。但是小菩薩。不能於十方世界廣作佛事。或但聲聞人天。所利狹小。
(Luận:
Cơi An Lạc thanh tịnh, thường chuyển vô cấu
luân, hóa Phật, Bồ Tát nhật, như Tu Di trụ tŕ.
Chú: Vốn v́ lẽ nào
mà đức Phật ấy lên sự trang nghiêm này? Do Ngài thấy
có cơi Phật chỉ là tiểu Bồ Tát, chẳng thể rộng
làm Phật sự trong mười phương pháp giới,
hoặc chỉ là Thanh Văn, người, trời, lợi
ích hẹp nhỏ).
Bốn
tiết (tiểu mục) từ đây trở đi đều
là Luận Chủ bảo chúng ta phải quan sát công đức
chánh hạnh tu hành “tự lợi, lợi
tha” của các vị đại Bồ Tát trong thế giới
Cực Lạc như thế nào? Phẩm đức thuộc
loại thứ nhất là bất động bổn xứ
(chẳng rời khỏi chỗ ḿnh) mà ứng hóa trong mười
phương. V́ sao A Di Đà Phật phải có loại công
đức trang nghiêm dành cho hàng Bồ Tát này? V́ trong khi tu nhân,
Ngài thấy có những cơi Phật chỉ có tiểu Bồ
Tát, tức là phàm phu Bồ Tát, hoặc chỉ có nhân thiên Nhị
Thừa, căn bản là chẳng có Bồ Tát. Như vậy
th́ tất nhiên là đă đánh mất đại lợi ích
“phổ độ chúng sanh trong vô lượng thế giới”
của Phật pháp, đấy cũng chẳng phải là bổn
hoài xuất thế của chư Phật!
(Chú) Thị cố hưng
nguyện, nguyện ngă quốc trung, hữu vô lượng
đại Bồ Tát chúng, bất động bổn xứ,
biến chí thập phương, chủng chủng ứng hóa,
như thật tu hành, thường tác Phật sự. Thí như
nhật tại thiên thượng, nhi ảnh hiện bách xuyên,
nhật khởi lai da? Khởi bất lai da? Như Đại
Tập Kinh ngôn: “Thí như hữu nhân thiện trị đê
đường, lượng kỳ sở nghi, cập phóng
thủy thời, bất gia tâm lực. Bồ Tát diệc như
thị, tiên trị nhất thiết chư Phật cập chúng
sanh ưng cúng dường, ưng giáo hóa chủng chủng
đê đường, cập nhập tam-muội thân tâm bất
động, như thật tu hành, thường tác Phật sự.
Như thật tu hành giả, tuy thường tu hành, thật
vô sở tu hành dă. Thị cố ngôn: “An Lạc quốc thanh
tịnh, thường chuyển vô cấu luân, hóa Phật, Bồ
Tát nhật, như Tu Di trụ tŕ”.
(註)是故興願。願我國中。有無量大菩薩眾。不動本處。遍至十方。種種應化。如實修行。常作佛事。譬如日在天上。而影現百川。日豈來耶。豈不來耶。如大集經言。譬如有人善治堤塘。量其所宜。及放水時。不加心力。菩薩亦如是。先治一切諸佛及眾生應供養。應教化種種堤塘。及入三昧。身心不動。如實修行。常作佛事。如實修行者。雖常修行。實無所修行也。是故言。安樂國清淨。常轉無垢輪。化佛菩薩日。如須彌住持。
(Chú: V́ thế, dấy
lên nguyện: Nguyện trong nước của tôi có vô lượng
các vị đại Bồ Tát, chẳng rời chỗ ḿnh
mà đến khắp mười phương, đủ mọi
cách ứng hóa, tu hành như thật, thường làm Phật
sự. Ví như mặt trời ở trên bầu trời, mà
hiện bóng nơi trăm sông, há mặt trời có đến
đó hay không? Há mặt trời chẳng đến đó
hay chăng? Như kinh Đại Tập nói: “Ví như có người
giỏi đắp bờ đê, ước lượng thích
đáng, đến khi tháo nước vào, chẳng mất công
suy nghĩ thêm. Bồ Tát cũng giống như vậy, trước
hết khéo đắp cho xong các thứ bờ đê ‘đáng
nên cúng dường’ chư
Phật, ‘đáng
nên giáo hóa’ chúng sanh, và nhập tam-muội, thân tâm bất động,
như thật tu hành, thường làm Phật sự”. “Như
thật tu hành” là tuy thường tu hành, nhưng thật sự
chẳng có ǵ để tu hành. V́ thế nói: “Cơi An Lạc thanh
tịnh, thường chuyển pháp luân vô cấu, vầng mặt
trời hóa Phật, Bồ Tát, như núi Tu Di trụ tŕ”).
Trong đoạn văn này, trước
hết ngài Đàm Loan nêu ra pháp để nói, sau đó, dùng
thí dụ để chỉ rơ, lại nêu lên những điều
được nói trong kinh; cuối cùng là kết hợp với
pháp. Khi tu nhân, Phật Di Đà đă phát nguyện, nguyện
quốc độ khi Ngài thành Phật, có vô lượng các
vị đại Bồ Tát. “Đại” ở đây chẳng
phải là do đối với Tiểu mà nói là Đại,
mà là Đại do tương xứng với pháp giới,
như sự to lớn của hư không trọn khắp hết
thảy mọi nơi, là chúng sanh và Phật, tâm và cảnh,
y báo và chánh báo, tánh và tướng, Lư và Sự, nhân và quả,
Bi và Trí, nguyện và hạnh, tự lợi và lợi tha, đều
là sự to lớn rốt ráo b́nh đẳng bất nhị,
là sự to lớn do thanh tịnh vô ngại, viên măn chẳng
khuyết, thường trụ bất biến, là sự to
lớn của thời gian và không gian vô tận, là sự to
lớn của Phổ Hiền hạnh. Tức là sự to lớn
“tâm bao thái hư, lượng châu sa giới” (tâm bao trùm
hư không, lượng trọn khắp các cơi có số lượng
nhiều như cát). Chẳng phải là sự to lớn mà hàng
nhân thiên, Nhị Thừa, Quyền Tiểu Bồ Tát có thể
tưởng tượng được. Như nguyện thứ
hai mươi hai trong bốn mươi tám nguyện có nói: “Thiết
ngă đắc Phật, tha phương Phật độ chư
Bồ Tát chúng, lai sanh ngă quốc, cứu cánh tất chí Nhất
Sanh Bổ Xứ, trừ kỳ bổn nguyện, tự tại
sở hóa. Vị chúng sanh cố, bị hoằng thệ khải,
tích lũy đức bổn, độ thoát nhất thiết,
du chư Phật quốc, tu Bồ Tát hạnh, cúng dường
tha phương chư Phật Như Lai, khai hóa hằng sa vô
lượng chúng sanh, sử lập vô thượng chánh chân
chi đạo, siêu xuất thường luân chư địa
chi hạnh, hiện tiền tu tập Phổ Hiền chi đức.
Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác”
(Nếu tôi được thành Phật, các vị Bồ Tát
trong các cơi Phật ở phương khác sanh vào nước
tôi, rốt ráo ắt đạt đến Nhất Sanh Bổ
Xứ, trừ khi họ có nguyện riêng tự tại giáo
hóa. Do v́ chúng sanh mà mặc áo giáp hoằng thệ, tích lũy
cội đức, độ thoát hết thảy, dạo
chơi các cơi Phật, tu hạnh Bồ Tát, cúng dường
chư Phật Như Lai trong mười
phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh, khiến cho
họ an trụ nơi đạo vô thượng chánh chân, vượt
trỗi các hạnh thuộc những địa vị thông
thường, hiện tiền tu tập phẩm đức
Phổ Hiền. Nếu chẳng như vậy, tôi sẽ chẳng
giữ lấy ngôi Chánh Giác). Lại c̣n có nguyện thứ
hai mươi ba, tức là “nguyện cùng lúc cúng dường
trọn khắp chư Phật”, nguyện thứ hai mươi
bốn tức là nguyện “những thứ vật cúng đều
đúng như ư nguyện”, nguyện thứ hai mươi
lăm là nguyện “Bồ Tát diễn Nhất Thiết Trí”,
nguyện thứ ba mươi là nguyện “trí huệ biện
tài chẳng có hạn lượng”, nguyện thứ bốn
mươi là nguyện “tùy ư thấy các cơi Phật”. Do
công đức của các nguyện như thế, chúng đại
Bồ Tát được trang nghiêm thành tựu, đương
nhiên là có thể bất động trong cơi Cực Lạc, mà
phân thân vô số, đến trọn khắp mười
phương thế giới, làm các thứ sự nghiệp giáo
hóa chúng sanh thích ứng với căn cơ, như núi Tu Di ṿi
vọi bất động, quang minh chiếu trọn khắp
bốn phương, bốn châu. Các vị đại Bồ
Tát trong cơi ấy từ trong lợi tha mà thành tựu tự
lợi, từ trong tùy thuận hết thảy mà vượt
trỗi hết thảy. Điều này được gọi
là “như thật tu hành, thường làm Phật sự”.
Tất cả những Phật
sự ứng hóa của các vị đại Bồ Tát ấy
ví như mặt trăng (hoặc mặt trời) in bóng trong
ngàn sông, [mặt trời, mặt trăng] không đến
[các gịng sông] mà cũng chẳng không đến, như kinh Hoa
Nghiêm đă dạy: “Bồ Tát thanh lương nguyệt,
thường du tất cánh không, chúng sanh tâm cấu tịnh,
Bồ Tát ảnh hiện trung” (Vầng trăng trong mát của
Bồ Tát thường dạo trong cái Không rốt ráo. Tâm chúng
sanh hết sạch phiền năo th́ h́nh bóng Bồ Tát thường
hiện trong ấy).
Lại như có một người
rất thiện xảo đắp một cái ao có đập
ngăn kiên cố để trữ nước cần dùng.
Khi người ấy cần dùng nước, sẽ chẳng
cần phải lo không có nước để dùng. Giống
như tại Đài Loan trong hiện thời, trên đỉnh những cao ốc ở khắp mọi
nơi đều có những tháp nước lớn nhỏ khác
nhau, thường tích trữ những khối nước cần
dùng, lại c̣n lắp đặt những chốt bơm nước tự động, có thể tùy tâm
dùng nước, lấy măi chẳng hết, dùng mà chẳng
cạn kiệt. Các vị đại Bồ Tát trong thế
giới Cực Lạc cũng giống như thế. Họ
trước hết tu bổ hết thảy bờ đê
tam-muội (chánh định) thế gian và xuất thế
gian. Sau đấy, nhập vào tam-muội, có thể trên là cúng
dường vô lượng chư Phật, dưới là hóa
độ vô lượng chúng sanh, tự tại vô ngại,
thời gian và không gian vô tận, giống như vầng thái dương
bất động trên hư không mà có thể chiếu sáng đại
địa, hết thảy chúng sanh đều cùng thấy mặt
trời.
“Như thật tu hành” tức
là xứng hợp Thật Tướng nhất tâm nhị môn
để tu hành. Tuy nương theo Tâm Sanh Diệt Môn, thường
xuyên duyên khởi Lục Độ vạn hạnh, nhưng
lại chẳng ĺa Tâm Chân Như Môn, vô trí mà cũng vô đắc,
nhưng chẳng chấp trước những ǵ đă tu, đă
hành. Như trong phẩm An Lạc Hạnh của kinh Pháp Hoa
có nói: “Nhu ḥa thiện thuận nhi bất tốt bạo,
tâm diệc bất kinh, hựu phục ư pháp vô sở hành,
nhi quán chư pháp như Thật Tướng, diệc bất
hành, bất phân biệt. Thị danh Bồ Tát Ma Ha Tát hành xứ”
(Nhu ḥa, khéo tùy thuận, chẳng bộp chộp, tâm cũng
chẳng kinh sợ, lại c̣n đối với các pháp [tuy
hành mà thấy] chẳng có pháp ǵ để hành, quán các pháp đúng
như Thật Tướng, cũng chẳng hành, chẳng
phân biệt. Đó gọi là hành xứ của Bồ Tát Ma
Ha Tát). Lại như trong phẩm Pháp Sư có nói: “Nhược
nhân thuyết thử kinh, ưng nhập Như Lai thất, trước
ư Như Lai y, nhi tọa Như Lai ṭa, xử chúng vô sở
úy, quảng vị phân biệt thuyết. Đại từ
bi vi thất, nhu ḥa nhẫn nhục y, chư pháp không vi ṭa,
xử thử vị thuyết pháp” (Nếu ai nói kinh này, nên
vào nhà Như Lai, khoác mặc y Như Lai, ngồi trên ṭa Như
Lai, trong đại chúng chẳng sợ, rộng v́ họ phân
biệt. Đại từ bi làm nhà, áo nhu ḥa nhẫn nhục,
các pháp không làm ṭa, ở nơi đó thuyết pháp). Lại như
kinh Vô Lượng Thọ nói: “Bỉ quốc Bồ Tát
ư kỳ quốc độ, sở hữu vạn vật,
vô ngă sở tâm, vô nhiễm trước tâm, khứ lai tấn
chỉ, t́nh vô sở hệ, tùy ư tự tại, vô sở thích
mạc, vô bỉ, vô ngă, vô cạnh, vô tụng, ư chư chúng
sanh, đắc đại từ bi nhiêu ích chi tâm” (Hàng Bồ
Tát trong cơi ấy đối với tất cả muôn vật
trong cơi nước ấy, không có tâm “của ta”, tâm không đắm
nhiễm, đến, đi, tiến, dừng, không bị vướng
mắc trong t́nh kiến, tùy ư tự tại, không có yêu, ghét, không
người, không ta, không cạnh tranh, không tranh căi, đối
với chúng sanh, đạt được cái tâm đại
từ bi tạo lợi ích). Những điều ấy đều
là sự tu hành “tự lợi, lợi tha” như thật
của các vị đại Bồ Tát trong cơi ấy, nếu
chúng ta quán sát như thật th́ sẽ có thể phát khởi
đạo tâm “kiến hiền tư tề” (thấy người
hiền bèn mong được bằng), sanh khởi nguyện
tâm “ham [Tịnh Độ], chán [Sa Bà]” thiết thực.
Như kinh Di Đà nói: “Chúng sanh văn giả, ưng đương
phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Sở dĩ giả
hà? Đắc dữ như thị chư thượng thiện
nhân câu hội nhất xứ” (Chúng sanh được
nghe, hăy nên phát nguyện, nguyện sanh về cơi ấy. V́ cớ
sao vậy? Được cùng các vị thượng thiện
nhân như thế nhóm họp một chỗ). Đấy mới
là ư thú chân thật của việc quán công đức trang
nghiêm của các vị Bồ Tát ấy.
Nếu dựa theo lời giải
thích trong phần văn Trường Hàng ở phía sau bộ
luận này, c̣n có một câu “khai chư chúng sanh ứ nê hoa
cố” (v́ nở hoa từ trong bùn lầy cho chúng sanh). Đấy
là nói các vị đại Bồ Tát trong cơi ấy đều
như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc,
Địa Tạng v.v… đều có thể tùy loại hiện
thân, ứng hóa làm Phật, hoặc làm Bồ Tát, đồng
thời đến mười phương vô lượng thế
giới phổ độ chúng sanh. Bồ Tát giống như
ánh mặt trời chiếu trọn khắp trên không trung, chúng
sanh giống như hoa sen mọc trong bùn lầy hôi thối được
ánh mặt trời chiếu đến, bèn có thể vượt
khỏi bùn lầy mà nở hoa, kết quả. Do vậy, Báo
Thân của các vị đại Bồ Tát trong cơi ấy vẫn
ở trong cơi đó, như núi chúa Tu Di thường trụ
bất động, mà hóa thân thị hiện mười
phương, ứng theo căn cơ mà giáo hóa, độ hết
thảy chúng sanh, cùng sanh về cơi An Lạc, cùng được
liên hoa hóa sanh, cùng thân cận Phật Di Đà, cùng được
thọ kư, cùng thành Phật đạo, lại cùng độ
chúng sanh. Như thế lần lượt hóa độ vô tận,
đèn nối tiếp đèn, có lực dụng và lợi ích
chẳng thể nghĩ bàn như thế ấy.
V́ thế, kệ tụng ghi là: “An Lạc quốc thanh tịnh,
thường chuyển vô cấu luân (thanh tịnh Đại
Thừa pháp luân), hóa Phật Bồ Tát nhật, như Tu Di
trụ tŕ” (Cơi An Lạc thanh tịnh, thường chuyển
pháp luân vô cấu (pháp luân thanh tịnh Đại Thừa),
vầng mặt trời hóa Phật, Bồ Tát, như núi Tu
Di trụ tŕ).
2.2.1.2.3.1.3.4.3.2.
Công đức đồng thời đến trọn khắp
(Luận) Vô cấu trang nghiêm
quang, nhất niệm cập nhất thời, phổ chiếu
chư Phật hội, lợi ích chư quần sanh.
(Chú) Phật bổn hà cố
khởi thử trang nghiêm? Kiến hữu Như Lai quyến
thuộc, dục cúng dường tha phương vô lượng
chư Phật, hoặc dục giáo hóa vô lượng chúng sanh,
thử một, bỉ xuất, tiên Nam, hậu Bắc, bất
năng dĩ nhất niệm, nhất
thời phóng quang phổ chiếu, biến chí thập
phương thế giới, giáo hóa chúng sanh, hữu xuất
một tiền hậu tướng cố.
(論)無垢莊嚴光。一念及一時。普照諸佛會。利益諸群生。 (註)佛本何故起此莊嚴。見有如來眷屬。欲供養他方無量諸佛。或欲教化無量眾生。此沒彼出。先南後北。不能以一念。一時。放光普照。遍至十方世界。教化眾生。有出沒前後相故。
(Luận:
Sáng trang nghiêm không nhơ, một niệm và một thời,
chiếu khắp các Phật hội, lợi ích các quần
sanh.
Chú: Vốn v́ lẽ nào
mà đức Phật dấy lên sự trang nghiêm này? Do Ngài thấy
có Như Lai mà quyến thuộc muốn cúng dường vô
lượng chư Phật ở phương khác, hoặc
muốn giáo hóa vô lượng chúng sanh, biến mất nơi
đây, xuất hiện ở nơi kia, trước Nam, sau
Bắc, chẳng thể trong một niệm hoặc một thời phóng
quang chiếu trọn khắp, đến trọn khắp mười
phương thế giới giáo hóa chúng sanh, cho nên có tướng
hiện ra, mất đi, trước, sau).
Đây
là loại công đức trang nghiêm thứ hai của các vị
đại Bồ Tát trong quốc độ An Lạc: Thân ứng
hóa của các Ngài có thể trong hết thảy các thời,
dùng một niệm tâm phóng đại quang minh, chiếu trọn
khắp mười phương lợi ích quần sanh. Đó
gọi là công đức “đồng thời đến trọn
khắp”.
V́ sao A Di Đà Phật phải
có công đức trang nghiêm này? Chính là v́ trong khi tu nhân, Ngài trông
thấy có những vị Như Lai, mà các vị Bồ Tát là
pháp quyến của các Ngài, trước khi đăng địa
(trước khi chứng Sơ Địa), muốn cúng
dường vô lượng chư Phật ở những thế
giới khác, hoặc là muốn đến những cơi Phật
khác giúp Phật giáo hóa chúng sanh, thân nghiệp
báo hoặc là ư sanh thân[9] của họ tất
nhiên là có tướng sai biệt hiện ra, biến mất,
trước, sau, đến, đi, chẳng thể đồng
thời đến trọn khắp, công dụng chẳng lớn. Không chỉ
là chẳng khế hợp tâm đại từ bi độ
chúng sanh của Bồ Tát, mà cũng
chẳng thể thuận hợp Chân Như pháp tánh tột cùng
theo chiều dọc, trọn khắp theo chiều ngang. Đấy
là chẳng đủ lư tưởng, chẳng rất viên măn!
(Chú) Thị cố hưng
nguyện, nguyện ngă Phật độ chư đại
Bồ Tát, ư nhất niệm, thời khoảnh, biến
chí thập phương, tác chủng chủng Phật sự,
thị cố ngôn: “Vô cấu trang nghiêm quang, nhất niệm
cập nhất thời, phổ chiếu chư Phật hội,
lợi ích chư quần sanh”.
(註)是故興願。願我佛土諸大菩薩。於一念時頃。遍至十方。作種種佛事。是故言。無垢莊嚴光。一念及一時。普照諸佛會。利益諸群生。
(Chú:
V́ thế, phát nguyện, nguyện các vị đại Bồ
Tát trong cơi Phật của tôi trong khoảng thời gian một
niệm đến trọn khắp mười
phương, làm các thứ Phật sự. V́ thế nói: “Sáng
trang nghiêm không nhơ, một niệm và một thời, chiếu
khắp các Phật hội, lợi ích các quần sanh”).
Đă có những nguyên nhân chẳng viên măn như
vừa nói trên đây, trong khi tu nhân,
A Di Đà Phật bèn phát nguyện, trong thế giới khi
Ngài thành Phật, tất cả chúng sanh văng sanh cơi ấy, ai
nấy đều “hoa nở thấy
Phật, ngộ Vô Sanh”, đều
đă phá vô minh, đă phần chứng Pháp Thân, cho đến
bậc đại Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Xứ đều
có thể cùng lúc cúng dường trọn khắp vô lượng
chư Phật, đều có thể diễn nói Nhất Thiết
Trí Trí, đều có tam thân, tứ trí, ngũ nhăn, lục thông.
Chỉ có như vậy th́ mới có thể trong hết thảy
thời, trong khoảng một niệm, thị hiện thân ứng
hóa của Phật, trong mười phương thế giới
làm đủ mọi Phật sự độ sanh. Đấy
chính là những điều được thành tựu bởi
công đức của các nguyện từ nguyện thứ hai
mươi hai cho đến nguyện thứ hai mươi
lăm trong bổn nguyện của Phật Di Đà.
“Vô cấu trang nghiêm quang”
(Quang minh trang nghiêm vô cấu): Đấy là nói về quang
minh nơi Báo Thân thanh tịnh
viên măn. Chúng sanh trong chín pháp giới chẳng thể thấy
Tự Thọ Dụng Báo Thân của Phật. Phàm phu, Nhị
Thừa và Địa Tiền Bồ Tát (các địa
vị Bồ Tát trước khi chứng Sơ Địa) cũng chẳng thể thấy Tha Thọ Dụng Báo Thân!
Chỉ có bậc Địa Thượng Bồ Tát đă phá
vô minh, phần chứng Pháp Thân và Báo Thân là có thể thấy, và cũng có thể do phần chứng
Báo Thân mà dấy
lên Ứng Hóa Thân, thị hiện Ứng Hóa Phật. Do vậy,
có thể trong “nhất niệm cập nhất thời”
(một niệm và một thời), tỏa ra quang minh trang
nghiêm vô cấu, đồng thời chiếu trọn khắp
trăm, ngàn, vạn, ức đại hội của ứng
hóa Phật. Như trong phẩm Như Lai Thọ Lượng
kinh Pháp Hoa có nói: “Ngă thường tại thử Sa Bà thuyết
pháp giáo hóa, diệc ư dư xứ bách thiên vạn ức
na-do-tha A-tăng-kỳ quốc đạo lợi chúng sanh”
(Ta thường
ở trong cơi Sa Bà này thuyết pháp giáo hóa, cũng ở trong
trăm ngàn vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ cơi ở những
nơi khác để hướng dẫn, lợi lạc chúng
sanh). Ứng Hóa Phật không chỉ là thuyết pháp, giáo hóa chúng
sanh, mà cũng có thể phóng quang, hiện thần thông, dùng đủ
mọi phương tiện diệt trừ hết thảy
sự khổ ách của chúng sanh, khiến cho chúng sanh liễu
sanh thoát tử, đều được thành Phật. V́
thế nói: “Lợi ích chư quần sanh”.
(Chú) Vấn viết: Thượng
chương vân “thân bất động dao, nhi biến chí thập
phương, bất động nhi chí”, khởi phi thị “nhất
thời” nghĩa
da? Dữ thử nhược vi sai biệt? Đáp viết:
Thượng đản ngôn “bất
động nhi chí”, hoặc
dung hữu tiền hậu. Thử ngôn “vô tiền, vô hậu”, thị
vi sai biệt,
diệc thị thành thượng bất động nghĩa.
Nhược bất nhất thời, tắc thị văng lai; nhược hữu văng lai, tắc
phi bất động. Thị cố vi thành thượng bất
động nghĩa cố, tu quán nhất thời.
(註)問曰。上章云。身不動搖。而遍至十方。不動而至。豈非是一時義耶。與此若為差別。答曰。上但言不動而至。或容有前後。此言無前無後。是為差別。亦是成上不動義。若不一時。則是往來。若有往來。則非不動。是故為成上不動義故。須觀一時。
(Chú: Hỏi: Chương
trước nói “thân chẳng lay động mà đến trọn
khắp mười phương”, “bất động
mà đến”, há chẳng phải là ư nghĩa “nhất thời”
ư? Có ǵ khác biệt với chỗ này? Đáp: Phần trước
chỉ nói “bất động mà đến”, có thể là có
trước sau. Ở đây nói là “chẳng trước, chẳng sau”, đó
là chỗ sai biệt,
mà cũng là để thành tựu ư nghĩa “bất động”
trong phần trước. Nếu chẳng phải là một
thời, sẽ là đến, đi, tức là chẳng
phải bất động. V́ thế, để thành tựu
ư nghĩa “bất động” trong phần trên th́ cần phải
quán “nhất thời”).
Trong đoạn văn này, ngài
Đàm Loan giả lập một đoạn vấn đáp để
giải thích sự khác biệt giữa “bất động”
và “nhất thời”, lời văn dễ hiểu. Nay
tôi nêu ra hai thí dụ:
1) Như là một khối vàng
ṛng chẳng biến động, nhưng tùy thuộc người
thợ kim hoàn có thể chế thành các đồ vật. Những
món đồ vật được chế tạo ra, tất nhiên là có thứ
tự trước sau bất đồng, chẳng thể đồng
thời cùng trên một khối vàng mà chế thành rất nhiều
món đồ.
2) Như một tấm gương
sáng cũng chẳng biến động, có thể tùy thuộc
các đồ vật soi vào mà hiện ra các h́nh ảnh. Các h́nh
ảnh không có trước sau, cùng một lúc hiển hiện
trong tấm gương sáng.
Vàng ṛng và gương sáng đều
bất động, nhưng có “trước sau” và “chẳng
trước, chẳng
sau” sai biệt. Các vị đại Bồ Tát trong cơi ấy
làm Phật sự cũng giống như thế. Nói theo địa
vị th́ từ Sơ Địa cho đến những địa
vị Bồ Tát cao hơn đều có phẩm đức “bất
động mà ứng hóa”, nhưng từ Bát Địa Bồ
Tát trở lên và hóa thân của Phật th́ mới có phẩm đức
“đồng thời đến trọn khắp”.
Vô Lượng
Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Chú Giải Giảng Nghĩa
phần
4 hết
[1] Lục
sư ngoại đạo là sáu luận sư lớn thời
đức Phật, có đồ chúng đông đảo, đề
ra những triết thuyết trái nghịch Phật pháp:
1) San-xà-da Tỳ-la-chi-tử (Saṃjaya Vairāṣṭrikaputra) chủ
trương chủ nghĩa hoài nghi. Chủ trương đối với sự
vật đều chẳng thể nào hiểu biết.
2) A-kỳ-đa Xí-xá-khâm-bà-la (Ajita-kesakambarin) chủ trương đoạn diệt luận, phủ
nhận hành vi thiện ác trong đời này sẽ ảnh hưởng
đến quả báo trong đời sau. Con người chết
đi tức Tứ Đại chia ĺa, không c̣n ǵ hết.
3) Mạt Già Lê Câu Xá Lê Tử (Maskarī Gośālīputra), chủ trương Chánh
Mạng Luận, tức là khổ vui đều đă định
sẵn. Kẻ trí, người ngu, thiện ác ǵ đi nữa
th́ sau tám ngàn đại kiếp sẽ đều được
giải thoát.
4) Phú-lan-na Ca-diếp (Purāṇa-kāśyapa) phủ
nhận giá trị chân thật của thiện ác, do vậy
không quư trọng đạo đức. Ông ta chủ trương
chẳng cần phải hành thiện để đạt được
giải thoát.
5) Ca-la-cưu-đà Ca-chiên-diên (Kakudha-kātyāyana)
giải thích sự hiện hữu của thế giới
thông qua bảy yếu
tố cơ bản
(địa, thủy, hỏa, phong, khổ, lạc, mạng).
6) Ni-kiền-đà Nhă-đề-tử (Nigaṇṭha-Jñatiputra): người sáng lập Kỳ-na
giáo (Jain), theo
chủ thuyết tương đối.
[2] Tứ
điên đảo là bốn quan niệm điên đảo đối
với các pháp của chúng sanh, tức là:
1. Vô thường
cho là thường, cho rằng thường là vô thường.
2. Khổ cho là
vui, vui tưởng là khổ.
3. Bất tịnh
tưởng là tịnh, tưởng tịnh là bất tịnh.
4. Không có ngă mà
cho là có ngă, đối với chân ngă lại tưởng là không
có ngă.
[3]
Truyền thống Ấn Độ giáo giải thích về
nguồn gốc của ba vị sáng thế chủ (Vishnu,
Brahma và Shiva) khá rắc rối. Họ có nhiều thuyết
khác nhau. Ở đây, ngài Tánh Phạm đă nói theo cách nói của
những người theo trường phái Vaishnava Puran; theo họ,
Brahma (Phạm Thiên) sanh ra trong một bông sen mọc từ rốn
của thần Vishnu, và theo lệnh của Shiva, Phạm Thiên
đă sáng tạo thế giới. Thông thường, nữ
thần Sarasvati (Đại Biện Thiên, hoặc Biện Tài
thiên nữ) được coi là vợ của Phạm Thiên.
Các con của họ là Jambavan, Manu, Narada, Daksha, Marichi (Ma Lợi
Chi thiên)….
[4] “Tam
luân thí hóa” tức là bố thí, giáo hóa mà tam luân không tịch,
tức là dù bố thí hay giáo hóa chẳng thấy ta là người
thực hiện, chẳng thấy có người nhận
lănh, chẳng thấy có giáo pháp, phương tiện hay
đồ vật được thí xả trong khi hành bố
thí hay giáo hóa.
[5] “Thất chúng đệ tử” là
tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, sa-di, sa-di-ni, thức-xoa-ma-na (học
pháp nữ), ưu-bà-tắc (cận sự nam), và ưu-bà-di
(cận sự nữ).
[6] Tần Bà Sa La (558-491 trước
Công Nguyên, c̣n gọi là B́nh Sa Vương) là vua của
vương quốc Ma Kiệt Đà (Magadha) thuộc
vương triều Ha Lê (Haryanka). Ông lên ngôi từ năm mười lăm tuổi, và là đệ tử đầu tiên của
đức Phật trong hàng quốc vương. Ông là
người kiến tạo kinh đô Vương Xá và dâng
vườn trúc Veluvana để kiến tạo thành tinh xá
Trúc Lâm. Chánh hậu của ông chính là bà Vi Đề Hy (Vaidehy, công chúa xứ Kiều
Tát La, Kosala). Con trai nhà vua là Thái Tử A Xà Thế (Ajātaśatru) do nghe lời xúi giục của Đề Bà Đạt
Đa, đă bắt giam nhà vua và bỏ đói cho đến
chết, giam kín mẹ trong hậu cung. Trước t́nh cảnh
ngang trái ấy, bà Vi Đề Hy đă cầu thỉnh
đức Phật dạy phương pháp thoát khổ, và
đức Phật đă nói kinh Quán Vô Lượng Thọ
Phật.
[7]
Thiền Uyển Thanh Quy (禪苑清規)
là một tác phẩm về những thanh quy (quy củ giúp
cho đại chúng thanh tịnh) dành riêng cho Thiền Tông do
ngài Tông Trách biên soạn, dựa theo tinh thần của Bách
Trượng Thanh Quy. Tác phẩm này được hoàn thành
vào năm Sùng Ninh thứ hai (1103) đời Tống Huy Tông.
Do vậy, tác phẩm này c̣n được gọi là Sùng
Ninh Thanh Quy hoặc gọi gọn là Thiền Quy. Nguyên do h́nh
thành bộ sách này là do vào đời Tống, những quy củ
trong tùng lâm nhà Thiền đă rối ren lộn xộn v́
nguyên bản của Bách Trượng Thanh Quy đă bị tam
sao thất bổn, ngài Tông Trách muốn phục hưng tinh
thần của Bách Trượng Thanh Quy nên dựa theo những
bản tàn khuyết của Bách Trượng Thanh Quy cũng
như các bài kệ về hành pháp của chư cổ đức,
chọn lấy những điểm tinh yếu, biên tập
thành bộ sách này gồm mười quyển. Đến năm
Chí Nguyên thứ tư (1338) đời Nguyên, ngài Đông Dương
Đức Huy đă đem bộ Tùng Lâm Giảo Định
Thanh Quy Tổng Yếu của ngài Duy Miễn đối chiếu,
so sánh với bộ Thiền Uyển Thanh Quy để gạt
bỏ những chỗ rườm rà, đính chính những
chỗ in chép sai lạc để tạo thành phiên bản Bách
Trượng Thanh Quy như trong hiện thời.
[8] Sư Tử Giáp Vương (Simhahanu)
là ông nội của đức Phật, có nhiều người
con, trong đó con cả là Tịnh Phạn Vương
(Śuddhodana) là cha của đức Phật. Em kế của
Tịnh Phạn Vương là Hộc Phạn Vương
(Dhotodana, hoặc Dronodana), và một người em nữa
[của vua Tịnh Phạn] là Cam Lộ Phạn
Vương (Amitodana) cũng thường được
kinh nhắc đến.
[9] Ư
Sanh Thân (意生身): Hàng Bồ
Tát Thông Giáo đăng địa, đắc Như Huyễn
tam-muội, có năng lực thị hiện vô lượng
thần thông tự tại, vào khắp các cơi Phật, tùy ư vô
ngại, ư muốn đến nơi nào, thân bèn theo đến
nơi ấy, cho nên gọi là Ư Sanh Thân. Nói chi tiết th́ có
ba loại Ư Sanh Thân như kinh Lăng Già quyển thứ ba đă
nói.