phần
6
無量壽經優婆提舍註解講義
Ấn Độ
Thế Thân Bồ Tát tạo luận
印度世親菩薩造論
Nguyên Ngụy
Thiên Trúc Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi dịch luận
元魏天竺三藏菩提流支譯論
Nguyên Ngụy
Huyền Trung Tự sa-môn Đàm Loan chú giải
元魏玄中寺
Dân Quốc
Tịnh Luật Tự sa-môn Tánh Phạm giảng nghĩa
民國淨律寺 門性梵講義
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
2.2.2.2.2.2.2.3.
Tác Nguyện Môn
(Luận) Vân hà tác nguyện? Tâm thường
tác nguyện, nhất tâm chuyên niệm, tất cánh văng sanh An
Lạc quốc độ, dục như thật tu hành Xa Ma
Tha cố.
(Chú) Dịch Xa Ma Tha viết
Chỉ. Chỉ giả, chỉ tâm nhất xứ, bất tác
ác dă. Thử dịch danh năi bất quai đại ư, ư
nghĩa vị măn. Hà dĩ ngôn chi? Như chỉ tâm tỵ đoan,
diệc danh vi Chỉ. Bất Tịnh Quán chỉ tham, Từ
Bi Quán chỉ sân, Nhân Duyên Quán chỉ si. Như thị đẳng
diệc danh vi Chỉ. Như nhân tương hành bất hành,
diệc danh vi Chỉ. Thị tri Chỉ ngữ phù mạn,
bất chánh đắc Xa Ma Tha danh dă. Như xuân, chá, du, liễu,
tuy giai danh mộc, nhược đản vân mộc, an đắc
du, liễu da? Xa Ma Tha vân Chỉ giả, kim hữu tam nghĩa:
Nhất giả, nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Như
Lai, nguyện sanh bỉ độ. Thử Như Lai danh hiệu,
cập bỉ quốc độ danh hiệu, năng chỉ
nhất thiết ác. Nhị giả, bỉ An Lạc độ,
quá tam giới đạo. Nhược nhân sanh bỉ quốc,
tự nhiên chỉ thân khẩu ư ác. Tam giả, A Di
Đà Như Lai Chánh Giác trụ tŕ lực, tự nhiên chỉ
cầu Thanh Văn, Bích Chi Phật tâm. Thử tam chủng Chỉ,
tùng Như Lai như thật công đức sanh. Thị cố
ngôn: “Dục như thật tu hành Xa Ma Tha cố”.
(論)云何作願。心常作願。一心專念。畢竟往生安樂國土。欲如實修行奢摩他故。 ()譯奢摩他曰止。止者。止心一處。不作惡也。此譯名乃不乖大意。於義未滿。何以言之。如止心鼻端。亦名為止。不淨觀止貪。慈悲觀止瞋。因緣觀止癡。如是等亦名為止。如人將行不行。亦名為止。是知止語浮漫。不正得奢摩他名也。如椿柘榆柳。雖皆名木。若但云木。安得榆柳耶。奢摩他云止者。今有三義。一者一心專念阿彌陀如來。願生彼土。此如來名號及彼國土名號。能止一切惡。二者彼安樂土過三界道。若人生彼國。自然止身口意惡。三者阿彌陀如來正覺住持力。自然止求聲聞辟支佛心。此三種止。從如來如實功德生。是故言。欲如實修行奢摩他故。
(Luận:
“Tác nguyện” là như thế nào? Tâm thường phát
nguyện, nhất tâm chuyên niệm, rốt ráo được
sanh về quốc độ An Lạc v́ muốn như thật
tu hành Xa Ma Tha vậy.
Chú: Xa Ma Tha được
dịch là Chỉ. “Chỉ” là lắng ḷng tại một chỗ,
chẳng làm ác. Dịch [chữ Xa Ma Tha] bằng danh từ này
(Chỉ) th́ chẳng trái nghịch ư nghĩa đại cương,
nhưng nghĩa lư chưa trọn. V́ sao nói vậy? Như lắng
tâm nơi chót mũi, cũng gọi là Chỉ. Bất Tịnh
Quán ngưng dứt tham, Từ Bi Quán ngưng dứt sân, Nhân
Duyên Quán ngưng dứt si. Những thứ như thế cũng
gọi là Chỉ. Như người sắp đi mà chẳng
đi th́ cũng gọi là Chỉ. Do vậy biết rằng:
Nói [Xa Ma Tha] là Chỉ th́ quá mơ hồ, chẳng đạt
được ư nghĩa chân chánh của từ ngữ Xa Ma
Tha. Như xuân, chá, du, liễu tuy đều
là tên các loài cây, nhưng nếu chỉ nói là “cây”, làm sao biết
được nó là du hay liễu? Nay nói Xa Ma Tha là Chỉ, có
ba nghĩa: Một là nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Như
Lai, nguyện sanh về cơi ấy. Danh hiệu của đức
Như Lai ấy và danh hiệu của quốc độ ấy
có thể ngưng dứt hết thảy ác. Hai là cơi An Lạc
ấy vượt trỗi tam giới đạo. Nếu ai
sanh vào cơi ấy, tự nhiên sẽ ngưng dứt điều
ác nơi thân, miệng, ư. Ba là do sức Chánh Giác trụ tŕ của
A Di Đà Như Lai, tự nhiên ngưng dứt cái tâm cầu
Thanh Văn và Bích Chi Phật. Ba loại Chỉ ấy sanh từ
công đức chân thật của Như Lai; v́ thế nói: “V́
muốn như thật tu hành Xa Ma Tha”).
“Tác nguyện” là phát
nguyện. Phát nguyện ǵ vậy? Phát ra nguyện tâm quyết
định (lời chú giải dùng chữ “tất cánh”
(rốt ráo) để diễn tả ư này) mong văng sanh
quốc độ An Lạc. Như thế nào th́ sẽ có thể
thành tựu viên măn tâm nguyện ấy? Ắt cần phải
trong mười hai thời, đi, đứng, nằm, ngồi,
thường xuyên phát nguyện, nhất tâm niệm Phật
liên tục chẳng gián đoạn, chánh niệm phân minh, trước
hết là thành tựu nhất tâm bất loạn nơi Sự,
buộc cái tâm nơi danh hiệu Phật và nơi nguyện
ước văng sanh, chẳng để cho cái tâm tán
loạn, vọng động. Đấy là Chỉ, c̣n gọi
là “hệ tâm nhất xứ” (buộc tâm vào một chỗ),
tâm được an trụ. Đấy gọi là “như
thật tu hành Chỉ, có thể thành tựu viên măn nguyện
tâm”.
Ngài Đàm Loan lại c̣n phân
biệt Chỉ theo cách nói thông thường và “như thật
tu Chỉ” trong bộ luận này. Xa Ma Tha (Śamatha) là tiếng
Phạn, dịch là Chỉ. Chữ này có nghĩa là “lắng
ḷng một chỗ, chẳng làm ác”. Tuy [dịch như vậy
th́] chẳng trái nghịch ư nghĩa tổng quát Phật pháp, nhưng chẳng hoàn toàn khế hợp “tu
Chỉ” được nói trong bộ luận này. Như
Đạo gia lắng tâm nơi chót mũi, nhà Phật tu Ngũ
Đ́nh Tâm, đều có thể gọi là Chỉ, nhưng đều
chẳng phải là Chỉ được nói trong bộ luận
này. Có thể biết một chữ Chỉ rất thông thường,
tản mạn, chẳng thật sự diễn tả được
ư nghĩa gốc của chữ Xa Ma Tha. Ví như cây Xuân (椿, Toon), cao ba
bốn trượng, có thể dùng để chế tạo
đồ đạc. Cây Du (榆, Elm) cao tới
mười trượng, có thể dùng làm vật liệu xây
cất. Hai loại cây ấy đều sanh trưởng tại
vùng đất lạnh ở phương Bắc Trung Hoa. Cây
Liễu (柳, Willow) tức
là cây Tiểu Dương, gọi chung là Dương Liễu,
thuộc loại gỗ mềm, dễ găy. Cây Chá (柘, Cudrang) chính là
cây dâu, lá nó dùng để nuôi tằm, gỗ nó có thể chế
thành đàn Cầm hoặc đàn Sắt. Hai loại cây này đều
mọc ở phương Nam Trung Hoa. Xuân, Chá, Du, Liễu tuy
đều có thể gọi là gỗ, nhưng nếu chỉ
gọi chúng là gỗ, sẽ chẳng biết Du và Liễu là
vật ǵ! Cứ như vậy mà suy, Xa Ma Tha dịch là Chỉ
sẽ giống như gọi “Xuân, Liễu” là gỗ,
chẳng thể đạt được bản thể của
Xuân hay Liễu! Luận này nói “như thật tu hành Xa Ma
Tha” có ba ư nghĩa căn bản, không giống với Chỉ
như thường nói, chớ nên không biết! Những ǵ
là ba?
1) Nhất tâm chuyên niệm A Di
Đà Phật, nguyện sanh về cơi ấy. Niệm niệm
liên tục như thế, chánh niệm phân minh, sẽ có thể
đắc Chỉ, [tức là] có thể ngưng dứt cho đến
đoạn trừ hết thảy ác.
2) Quốc độ An Lạc
vượt trỗi tam giới trong thế gian này. Nếu sanh về
cơi ấy, tự nhiên “nghiệp tận, t́nh không”, cùng
nhập biển Đại Niết Bàn tịch diệt.
3) Do sức công đức bổn
nguyện của A Di Đà Phật trụ tŕ, khiến cho
những ai được văng sanh sẽ đều thuộc
vào Đại Thừa Chánh Định Tụ, rốt ráo là
bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, tất nhiên sẽ
ngưng dứt cái tâm cầu chứng Nhị Thừa.
Ba thứ hàm ư và lực dụng
của Chỉ ấy hoàn toàn sanh khởi từ công đức
như thật của A Di Đà Phật, mà cũng là được
thành tựu bởi công đức như thật tu hành pháp
môn Ngũ Niệm của người văng sanh, trọn chẳng
thể nói theo kiểu “cá mè một lứa” với các thứ
Chỉ thông thường được! V́ thế nói: “Dục
như thật tu hành Xa Ma Tha cố” (V́ muốn như thật
tu hành Xa Ma Tha).
2.2.2.2.2.2.2.4.
Quán Sát Môn
(Luận) Vân hà quán sát? Trí huệ
quán sát, chánh niệm quán bỉ, dục như thật tu hành
Tỳ Bà Xá Na cố. Bỉ quan sát hữu tam chủng. Hà đẳng
tam chủng? Nhất giả, quán sát bỉ Phật quốc
độ trang nghiêm công đức; nhị giả, quán sát
A Di Đà Phật trang nghiêm công đức; tam giả, quán sát
bỉ chư Bồ Tát trang nghiêm công đức.
(Chú) Dịch Tỳ Bà Xá Na viết
Quán. Đản phiếm ngôn Quán, nghĩa diệc vị măn.
Hà dĩ ngôn chi? Như quán thân vô thường, khổ, không,
vô ngă, cửu tưởng đẳng, giai danh vi Quán, diệc
như thượng mộc danh, bất đắc xuân, chá dă.
Tỳ Bà Xá Na vân Quán giả, diệc hữu nhị nghĩa:
Nhất giả, tại thử tác tưởng, quán bỉ tam
chủng trang nghiêm công đức. Thử công đức như
thật cố, tu hành giả diệc đắc như thật
công đức. Như thật công đức giả, quyết
định đắc sanh bỉ độ. Nhị giả,
nhất đắc sanh bỉ Tịnh Độ, tức kiến
A Di Đà Phật, vị chứng tịnh tâm Bồ Tát, tất
cánh đắc chứng b́nh đẳng Pháp Thân, dữ tịnh
tâm Bồ Tát, dữ thượng địa Bồ Tát, tất
cánh đồng đắc tịch diệt b́nh đẳng.
Thị cố ngôn: “Dục như thật tu hành Tỳ Bà Xá
Na cố”. Tâm duyên kỳ sự, viết Quán. Quán tâm phân minh,
viết Sát.
(論)云何觀察。智慧觀察。正念觀彼。欲如實修行毘婆舍那故。彼觀察有三種。何等三種。一者觀察彼佛國土莊嚴功德。二者觀察阿彌陀佛莊嚴功德。三者觀察彼諸菩薩莊嚴功德。
()譯毘婆舍那曰觀。但汎言觀。義亦未滿。何以言之。如觀身無常苦空無我九相等。皆名為觀。亦如上木名。不得椿柘也。毘婆舍那云觀者。亦有二義。一者在此作想。觀彼三種莊嚴功德。此功德如實故。修行者亦得如實功德。如實功德者。決定得生彼土。二者一得生彼淨土。即見阿彌陀佛。未證淨心菩薩。畢竟得證平等法身。與淨心菩薩。與上地菩薩。畢竟同得寂滅平等。是故言。欲如實修行毘婆奢那故。心緣其事曰觀。觀心分明曰察。
(Luận: Quán sát
như thế nào? Trí huệ quán sát, chánh niệm quán cơi ấy,
v́ muốn như thật tu hành Tỳ Bà Xá Na. Sự quán sát ấy
có ba thứ. Những ǵ là ba thứ? Một là quán sát công
đức trang nghiêm của cơi Phật ấy. Hai là quán sát công
đức trang nghiêm của A Di Đà Phật. Ba là quán sát công
đức trang nghiêm của các vị Bồ Tát ấy.
Chú: Tỳ Bà Xá Na dịch
là Quán. Chỉ nói Quán chung chung th́ nghĩa cũng chưa viên
măn. V́ sao nói vậy? Như quán thân vô thường, khổ, không,
vô ngă, chín phép quán tưởng v.v… đều gọi là Quán, th́
cũng giống như các loài gỗ đă kể trên đây,
[nếu chỉ gọi chung là gỗ], sẽ chẳng
biết gỗ Xuân hay gỗ Chá là ǵ! Nói Tỳ Bà Xá Na là Quán,
cũng có hai nghĩa: Một là quán tưởng ở nơi
đây, quán ba thứ công đức trang nghiêm ấy. Do các công
đức ấy như thật, người tu hành cũng
sẽ đắc công đức như thật. “Công đức
như thật” chính là quyết định được
sanh về cơi ấy. Hai là hễ được sanh về
cơi Tịnh Độ ấy, liền thấy A Di Đà Phật,
hàng Bồ Tát chưa chứng tịnh tâm sẽ rốt ráo chứng
Pháp Thân b́nh đẳng, cùng với tịnh tâm Bồ Tát và bậc
Bồ Tát thượng địa rốt ráo cùng đạt
được sự b́nh đẳng tịch diệt. V́ thế
nói: “Do muốn như thật tu hành Tỳ Bà Xá Na”. Tâm duyên
theo Sự là Quán, quán tâm phân minh là Sát).
Hai chữ
Quán Sát hiểu theo cách dùng thông thường của mọi người
chỉ là tán tâm phân biệt Sự Lư mà thôi. Tu Quán trong Phật
pháp th́ phải dùng trí huệ (Bát Nhă) để quán chiếu.
Hơn nữa, trước khi tu Quán, trước hết cần
phải đạt được chánh niệm (Chỉ),
sau đấy khởi Quán. Nếu không, quán sát chẳng đạt
hiệu quả; đâm ra đầu óc xây xẩm, hồi hộp, mất ngủ.
Chuyện này có dụng ư tương đồng như sách Đại
Học của Nho gia Trung Hoa đă nói: “Chỉ nhi hậu
năng tĩnh, tĩnh nhi hậu năng lự” (Đă ngưng lặng
rồi bèn có thể tĩnh, đă tĩnh rồi bèn có thể
suy tưởng). Quán Huệ tuy sanh từ Chỉ, nhưng
Thể và Dụng của nó không giống Chỉ. Thể và
Dụng của Chỉ th́ chỉ có thể ngưng lắng
vọng niệm, c̣n Quán ắt phải dùng trí huệ làm Thể
và Dụng, bao hàm các công năng “phân biệt, suy t́m, chọn
lựa dứt khoát”. Do vậy, lời Luận viết là
“trí huệ quán sát, chánh niệm quán bỉ” (chánh niệm
quán sát, chánh niệm quán những điều đó).
Chánh niệm là ǵ? Có thể
buộc tâm vào một cảnh, chánh niệm, chánh tri, chẳng
có vọng tưởng hay tạp niệm nào khác. Do vậy
khiến cho nội tâm thanh tịnh, phiền năo chẳng dấy
lên, như nước
b́nh lặng, tỏa ra ánh sáng (tướng trí huệ). Đấy
gọi là “đắc chánh niệm”. Quán sát là ǵ? Ngài Đàm
Loan nói: “Tâm duyên theo Sự là Quán, quán tâm phân minh là Sát”. Đấy
là nói theo kiểu chung chung, thông tục, thuộc
loại quán sát thông thường, như Tứ Niệm Xứ
Quán, tức “quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ,
quán tâm vô thường, quán pháp vô ngă”. Hoặc như
Cửu Tưởng Quán: Thũng Trướng tưởng (tưởng
xác chết trương phềnh), Thanh Ứ Tưởng (tưởng
xác chết xanh bầm), Nùng Huyết Tưởng (tưởng
xác chết ứa máu, chảy mủ), Giáng Trấp Tưởng
(tưởng xác chết tuôn dịch màu đỏ), Trùng Đạm
Tưởng (tưởng gịi bọ đục khoét xác chết),
Cân Triền Tưởng (tưởng xác chết ră thịt,
các khớp xương chỉ c̣n dính lỏng lẻo với
nhau do dây gân chằng néo), Cốt Tán Tưởng (tưởng
xương vung văi), Bạch Cốt Tưởng (tưởng
tướng xương trắng), và Thiêu Hôi Tưởng (tưởng
đốt thành tro). C̣n có Ngũ Đ́nh Tâm Quán, Tứ Đế
Quán, Thập Nhị Nhân Duyên Quán, Ngũ Trùng Duy Thức Quán,
Nhất Chân Pháp Giới Quán, Nhất
Tâm Tam Quán, Phế Nhị Bất Lập Nhất Trung Quán v.v…
đều gọi
chung là Quán, nhưng nội dung quán
sai khác. Điều này cũng giống như thí dụ đă
nêu trong đoạn trước, tức Xuân, Chá, Du, Liễu,
nếu đều gọi chúng là “gỗ”, sẽ trọn chẳng
biết được Thể và Dụng sai khác giữa Xuân
và Chá! Do vậy, lời Luận nói: “Dục như thật
tu hành Tỳ Bà Xá Na” (Muốn
như thật tu hành Tỳ Bà Xá Na). Tỳ Bà Xá Na (Vipaśyanā) dịch
là Quán, đó là gọi chung. C̣n tu Quán nói trong Luận này th́ có
hai loại ư nghĩa đặc biệt như thật:
1) Một là người tu Quán
quán tưởng trong thế giới Sa Bà này, cảnh để
quán chính là ba thứ công đức trang nghiêm, tức A Di
Đà Phật, quốc độ, và hàng Bồ Tát trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới v.v… Những công
đức trang nghiêm ấy đều có Sự
và Lư chân thật
như thế. Người tu Quán cũng đạt
được lợi ích công đức chân thật như
thế, chính là quyết định được sanh vào
thế giới Cực Lạc, diện kiến A Di Đà Phật,
và sẽ cùng các vị đại Bồ Tát nhóm họp một
chỗ, hưởng thụ hết thảy sự vui sướng
vi diệu trang nghiêm.
2) Mục đích tu Quán là nguyện
sanh về cơi ấy; hễ nguyện sanh, bèn có thể sanh về.
Hễ được văng sanh, sẽ liền có thể “hoa nở thấy Phật, ngộ Vô Sanh”. Chưa chứng tịnh tâm ([tịnh tâm] tức là tự
tánh thanh tịnh tâm mà chúng sanh và Phật đều b́nh
đẳng, c̣n gọi là Pháp Thân) th́ sẽ rốt ráo chứng
đắc (cổ đức nói: “Chỉ được
thấy Di Đà, lo ǵ chẳng khai ngộ”) Pháp Thân mà
chúng sanh và Phật b́nh đẳng, bằng với bậc Bồ
Tát đăng địa tịnh tâm vừa phá vô minh, vừa
chứng Pháp Thân, mà ắt cũng có thể bằng với
hàng thượng địa Bồ Tát từ Nhị Địa
cho đến Thập Địa, rốt ráo ắt đạt
đến Nhất Sanh Bổ Xứ, cùng đắc Tịch
Diệt Nhẫn nơi Phật quả, b́nh đẳng chẳng
sai biệt với chư Phật.
Có hai thứ công dụng thù
thắng chân thật như thế th́ mới là như thật
tu hành Tỳ-bà-xá-na như luận này đă nói. Công đức là ǵ? “Công”
là công dụng, hoặc lực dụng. “Đức” là
thiện nhân, thiện quả. Dùng công sức ḥng thành tựu
thiện nhân, thiện quả, th́ gọi là “công đức”.
Quán sát ba thứ trang nghiêm của cơi Phật ấy do đâu
mà có, [sẽ thấy] không ǵ chẳng thành tựu từ thiện
nhân, thiện quả vi diệu trang nghiêm do A Di Đà Phật
đă tu tập, đều là bổn nguyện của A Di
Đà Phật. Do vậy, kinh A Di Đà đă nói: “Bỉ
Phật quốc độ thành tựu như thị công đức
trang nghiêm” (Cơi Phật ấy thành tựu
công đức trang nghiêm như thế). Trong thế giới Cực
Lạc, các thứ trang nghiêm vi diệu nơi chủ
(Phật), bạn (Bồ Tát và
đại chúng trời người), và cơi nước
đều là tướng chân thật được thành tựu bởi bổn nguyện của
A Di Đà Phật và do A Di Đà Phật đă tu tập vô lượng
công đức. Phàm là Tịnh nghiệp hành nhân tu hành pháp môn
ngũ niệm th́ phải như thật quán sát. Đối
với mười sáu phép Quán như Quán Kinh đă nói,
cũng phải nên tu quán tưởng như thế. Đấy
là chỗ hoàn toàn bất đồng so với các phép tu Quán
thông thường.
2.2.2.2.2.2.2.5. Hồi Hướng Môn
(Luận) Vân hà hồi
hướng? Bất xả nhất thiết khổ năo chúng
sanh, tâm thường tác nguyện, hồi hướng vi thủ,
đắc thành tựu đại bi tâm cố.
(Chú) Hồi hướng hữu
nhị chủng tướng, nhất giả văng tướng,
nhị giả hoàn tướng. Văng tướng giả,
dĩ kỷ công đức hồi thí nhất thiết chúng
sanh, tác nguyện cộng văng sanh bỉ A Di Đà Như Lai
An Lạc Tịnh Độ. Hoàn tướng giả, sanh bỉ
độ dĩ, đắc Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na phương tiện lực
thành tựu, hồi nhập sanh tử trù lâm, giáo hóa nhất
thiết chúng sanh cộng hướng Phật đạo.
Nhược văng, nhược hoàn, giai vị bạt chúng
sanh độ sanh tử hải. Thị cố ngôn, “hồi
hướng vi thủ, đắc thành tựu đại bi
tâm cố”.
(論)云何迴向。不捨一切苦惱眾生。心常作願。迴向為首。得成就大悲心故。
()迴向有二種相。一者往相。二者還相。往相者。以己功德。迴施一切眾生。作願共往生彼阿彌陀如來安樂淨土。還相者。生彼土已。得奢摩他。毘婆舍那方便力成就。迴入生死稠林。教化一切眾生。共向佛道。若往。若還。皆為拔眾生渡生死海。是故言迴向為首。得成就大悲心故。
(Luận: Hồi
hướng là như thế nào? Chẳng bỏ hết thảy
chúng sanh khổ năo, tâm thường phát nguyện hồi
hướng làm đầu, v́ để được
thành tựu tâm đại bi.
Chú: Hồi hướng
có hai loại tướng, một là văng tướng (tướng
đi), hai là hoàn tướng (tướng trở lại).
Văng tướng là dùng công đức của chính ḿnh thí cho
hết thảy chúng sanh, phát nguyện cùng văng sanh An Lạc
Tịnh Độ của A Di Đà Như Lai. Hoàn tướng
là đă sanh về cơi ấy rồi, đạt được
sức phương tiện Xa-ma-tha và Tỳ-bà-xá-na thành tựu, trở vào rừng rậm sanh tử, giáo
hóa hết thảy chúng sanh cùng hướng đến Phật
đạo. Dù văng hay hoàn, đều nhằm cứu bạt
chúng sanh vượt thoát biển sanh tử. V́ thế nói: “Hồi hướng làm đầu v́ để thành tựu
tâm đại bi”).
Hồi Hướng Môn được
nói trong bộ luận này cũng khác với các loại hồi
hướng thông thường. Nói thông thường, hồi
tự hướng tha (đem công đức của chính
ḿnh hồi hướng cho người khác), hồi nhân
hướng quả (đem công đức do tu nhân hướng
đến quả), hồi Sự hướng Lư (từ Sự
mà hồi hướng ḥng đạt được Lư),
đều thuộc loại hồi hướng đơn
hướng (tức hồi hướng một chiều),
cũng chính là văng tướng hồi hướng. C̣n hồi
hướng được nói trong luận này bao gồm
hai loại: Một là văng tướng, hai là hoàn tướng,
tức là loại hồi hướng song hướng (hồi
hướng hai chiều). Tịnh nghiệp hành nhân trước
hết đă hiểu rơ cảnh chẳng thể nghĩ bàn
(tâm, Phật, chúng sanh, cả ba không sai biệt), phát Bồ
Đề tâm, thành tựu Đại Thừa tín tâm. V́ thế,
tu ngũ niệm môn đều có thể chẳng bỏ hết
thảy chúng sanh đang ở trong khổ năo. Đem công
đức Tịnh nghiệp do chính ḿnh đă tu, tâm tâm niệm
niệm phát nguyện thí cho chúng sanh cùng sanh về Cực Lạc.
Đồng thời lại phát nguyện: Đă sanh về Tịnh
Độ, sẽ trở lại Sa Bà để phổ
độ chúng sanh khổ năo xuất ly biển khổ sanh
tử. Hai thứ hồi hướng ấy đều là
dùng cái tâm chẳng phân biệt để duyên theo hết thảy
chúng sanh, b́nh đẳng, chẳng có cảnh để lấy
hay bỏ. Do tâm và cảnh b́nh đẳng, chúng sanh và chư
Phật b́nh đẳng, sanh tử và Niết Bàn b́nh đẳng,
Sa Bà và Cực Lạc b́nh đẳng, tuy ưa thích [Cực
Lạc] và chán nhàm [Sa Bà] trọn đủ, phát nguyện “nhanh
chóng ĺa Sa Bà, sớm sanh về Tịnh Độ”. Văng
sanh! Phải văng sanh! Nhất định phải văng sanh! Thế
nhưng, đồng thời phát nguyện trở lại cứu
độ chúng sanh. Phải trở lại! Đi rồi sẽ lập tức trở lại!
B́nh đẳng hồi hướng
đôi chiều như thế, sẽ thành tựu tâm đại
bi. Như phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện đă
nói: “Chư Phật Như Lai dĩ đại bi tâm vi Thể
cố, nhân ư chúng sanh nhi khởi đại bi, nhân ư
đại bi, sanh Bồ Đề tâm. Nhân Bồ Đề
tâm, thành Đẳng Chánh Giác… Dĩ ư chúng sanh tâm b́nh
đẳng cố, tắc năng thành tựu viên măn đại
bi” (Chư Phật Như Lai do dùng tâm đại bi làm Thể
nên có thể khởi ḷng đại bi
đối với chúng sanh. Do v́ đại bi mà sanh Bồ
Đề tâm. Do Bồ Đề tâm mà thành Đẳng Chánh
Giác… Do tâm b́nh đẳng đối với chúng sanh nên có thể
thành tựu viên măn đại bi). Như trong bài Đại
Hồi Hướng Văn có nói: “Tấn ly ngũ trược
sanh Tịnh Độ, bất vi An Dưỡng nhập Sa
Bà, thiện tri phương tiện độ chúng sanh, xảo
bả trần lao vi Phật sự” (Chóng ĺa ngũ
trược, sanh Tịnh Độ. Chẳng rời An
Dưỡng nhập Sa Bà. Khéo biết phương tiện
độ chúng sanh, khéo lấy trần lao làm Phật sự).
Đấy chính là dù văng sanh hay trở lại, đều là
chân thật hồi hướng, nhằm cứu chúng sanh
vượt qua biển sanh tử, cũng chính là nguyên do của
việc “hồi hướng làm đầu, v́ được thành tựu tâm đại bi”. Do vậy có thể
biết: Pháp môn Tịnh Độ đích xác là Đại
Thừa Bồ Tát đạo, thấu trước, thông sau,
xác thực là có thể đặt yên chúng sanh nơi vô
thượng chánh chân Phật đạo.
Ngài Đàm Loan chú giải:
Đă sanh về cơi ấy, do được thành tựu sức
phương tiện của Chỉ Quán, bèn trở vào rừng
rậm sanh tử, giáo hóa chúng sanh cùng hướng đến
Phật đạo. Đấy là do dựa theo
những điều đă nói trong quyển Hạ của kinh Vô Lượng Thọ, tức phần
kinh văn nói về công đức của các vị Bồ
Tát trong cơi ấy: “Cứu cánh Nhất Thừa, chí ư bỉ
ngạn, quyết đoạn si vơng, huệ do tâm xuất.
Ư Phật giáo pháp, cai la vô ngoại. Trí huệ như
đại hải, tam-muội như sơn vương, huệ
quang minh tịnh, siêu du nhật nguyệt, thanh bạch chi
pháp, cụ túc viên măn… Nhân lực, duyên lực, ư lực, huệ
lực, nguyện lực, phương tiện chi lực,
thường lực, thiện lực, định lực,
huệ lực, đa văn chi lực, Thí, Giới, Nhẫn
Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Huệ chi lực,
chánh niệm Chỉ Quán, chư thông minh lực, như pháp
điều phục chư chúng sanh lực, như thị
đẳng lực, nhất thiết cụ túc… viễn ly
Thanh Văn, Duyên Giác chi địa” (Rốt ráo Nhất Thừa,
đạt tới bờ kia, quyết đoạn lưới
si, huệ sanh từ tâm. Đối với giáo pháp của
Phật, trọn khắp không thừa sót ǵ. Trí huệ
như biển cả, tam-muội như núi chúa, huệ quang
sáng sạch, vượt trỗi mặt trời, mặt
trăng. Pháp sáng sạch trọn đủ viên măn… Nhân lực,
duyên lực, ư lực, huệ lực, nguyện lực,
phương tiện lực, thường lực, thiện
lực, định lực, huệ lực, đa văn lực,
Thí, Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định,
Trí Huệ lực, chánh niệm Chỉ Quán, các sức thần
thông và tam minh, sức điều phục chúng sanh đúng
pháp, các sức như thế, hết thảy đều trọn
đủ… xa ĺa địa vị Thanh Văn và Duyên Giác).
Cũng như phẩm Hóa Thành Dụ của kinh Pháp Hoa có
nói: “Nguyện dữ thử công đức, phổ cập
ư nhất thiết, ngă đẳng dữ chúng sanh, giai cộng
thành Phật đạo” (Nguyện đem
công đức này, thí khắp cho hết thảy, chúng con và
chúng sanh, đều cùng thành Phật đạo). Hỡi Tịnh
Tông liên hữu! Ắt cần phải hồi hướng
phát nguyện như thế, hăy ghi khắc đừng quên!
2.2.2.2.3.
Quán Hạnh Thể Tướng
(Chú) Quán hạnh thể tướng
giả, thử phần trung hữu nhị thể: Nhất
giả, khí thể; nhị giả, chúng sanh thể.
(Chú:
Quán hạnh thể tướng: Trong phần này có hai thể,
một là khí thể, hai là chúng sanh thể).
Từ đây trở đi là
phần giải thích của luận này về đối tượng
để Quán Sát Môn duyên theo. Ngài Đàm Loan đă lập riêng
thành một khoa gọi là Quán Hạnh Thể Tướng. Trong
khoa này, có hai loại đối tượng: Một là khí
thế gian (ngài Đàm Loan dùng chữ Thể để chỉ
“thế
gian”), hai là chúng sanh thế gian (tức Chánh Giác thế
gian).
2.2.2.2.3.1.
Khí Thể
(Chú) Khí phần trung, hựu hữu
tam chủng: Nhất giả, quốc độ thể tướng.
Nhị giả, thị hiện tự lợi, lợi tha.
Tam giả, nhập Đệ Nhất Nghĩa Đế.
()器分中。又有三重。一者國土體相。二者示現自利利他。三者入第一義諦。
(Chú:
Trong phần Khí Thể, lại
có ba tầng: Một là thể tướng của quốc
độ, hai là thị hiện tự lợi lạc và lợi
ích người khác, ba là nhập Đệ Nhất Nghĩa
Đế).
Trong khoa Quán Sát Khí Thế Gian, lại có ba tầng
hàm nghĩa sai khác: Một là thể tướng của quốc
độ (tức mười bảy thứ trang nghiêm), hai
là nói rơ tất cả các món trang nghiêm nhằm thành tựu
công đức tự lợi, lợi tha, ba là quy hết thảy
các thứ công đức trang nghiêm vào Trung Đạo Đệ
Nhất Nghĩa Đế.
2.2.2.2.3.1.1.
Quán thể tướng của quốc độ ấy
(Chú) Quốc độ thể
tướng giả.
()國土體相者。
(Chú:
Thể tướng của quốc độ).
2.2.2.2.3.1.1.1.
Nêu chung sự chẳng thể nghĩ bàn
(Luận) Vân hà quán sát bỉ Phật
quốc độ trang nghiêm công đức? Bỉ Phật quốc
độ trang nghiêm công đức giả, thành tựu bất
khả tư nghị lực cố, như bỉ ma-ni như
ư bảo tánh, tương tự, tương đối pháp
cố.
(Chú) Bất khả tư nghị
lực giả, tổng chỉ bỉ Phật quốc
độ thập thất chủng trang nghiêm công đức
lực, bất
khả đắc tư nghị dă.
(論)云何觀察彼佛國土莊嚴功德。彼佛國土莊嚴功德者。成就不可思議力故。如彼摩尼如意寶性。相似相對法故。
()不可思議力者。總指彼佛國土十七種莊嚴功德力。不可得思議也。
(Luận:
Quán sát sự công đức trang nghiêm của cơi nước
Phật ấy như thế nào? Công đức trang
nghiêm của cơi Phật ấy là do thành tựu sức chẳng
thể nghĩ bàn, như tánh chất của báu Ma-ni như ư,
v́ là pháp tương tự, tương đối vậy.
Chú: “Sức chẳng thể
nghĩ bàn” là chỉ chung sức
công đức của mười bảy thứ trang nghiêm trong
cơi Phật ấy đều
chẳng thể nghĩ bàn).
Trong phần
trước, Luận Chủ đă nêu chung lực dụng và
đại ư của pháp môn ngũ niệm. Nay Ngài đặc
biệt nêu ra tổng quát: Quốc độ An Lạc được
thành tựu bởi sức bổn nguyện của A Di
Đà Phật và danh hiệu A Di Đà Phật đều được
trang nghiêm bởi sức công đức chẳng thể nghĩ
bàn. Khi tu hành pháp môn ngũ niệm, phải như thật
quán sát danh hiệu Di Đà chẳng thể nghĩ bàn, quốc
độ chẳng thể nghĩ bàn, giống như tánh chất
của báu Ma-ni như ư trong cơi này, như ư tự tại, có
thể thỏa măn nguyện cầu của hết thảy chúng
sanh. V́ thế, chỉ cần một niệm hoặc mười
niệm niệm Phật, nguyện văng sanh bèn được
văng sanh. Đă văng sanh, sẽ chẳng có các nỗi khổ,
chỉ hưởng những sự vui, vĩnh viễn chẳng
thoái chuyển, thẳng cho đến khi thành Phật. Hăy nên
biết chỗ khác biệt giữa Cực Lạc và Sa Bà: Cơi
này (Sa Bà) được thành tựu bởi các nghiệp tạp
nhiễm do chúng sanh cùng nhau tạo tác, cơi kia được
thành tựu bởi sức công đức chẳng thể
nghĩ bàn của A Di Đà Phật. Do đó, hết thảy
sự trang nghiêm trong cơi ấy đều chẳng thể
nghĩ bàn, chẳng thể dùng những sự lư có thể nghĩ
bàn thông thường để khảo sát, suy lường,
quán sát được!
(Chú) Chư kinh thống
ngôn hữu ngũ chủng bất khả tư nghị: Nhất
giả, chúng sanh đa thiểu bất khả tư nghị;
nhị giả, nghiệp lực bất khả tư nghị;
tam giả, long lực bất khả tư nghị; tứ giả,
Thiền Định lực bất khả tư nghị;
ngũ giả, Phật pháp lực bất khả tư nghị.
()諸經統言。有五種不可思議。一者眾生多少不可思議。二者業力不可思議。三者龍力不可思議。四者禪定力不可思議。五者佛法力不可思議。
(Chú: Các kinh đều
nói có năm thứ chẳng thể nghĩ bàn: Một là chúng
sanh nhiều hay ít chẳng thể nghĩ bàn, hai là nghiệp
lực chẳng thể nghĩ bàn, ba là sức rồng chẳng
thể nghĩ bàn, bốn là sức Thiền Định chẳng
thể nghĩ bàn, năm là sức của Phật pháp chẳng
thể nghĩ bàn).
Ngài Đàm Loan đă dựa
theo điều được nói trong quyển thứ ba mươi
của bộ Đại Trí Độ Luận: Có năm thứ
chẳng thể nghĩ bàn như vừa dẫn trên đây.
Trí Độ Luận lại nói: “Tiểu Thừa pháp trung
vô bất khả tư nghị sự, duy Đại Thừa
pháp trung hữu” (Trong pháp Tiểu Thừa chẳng có chuyện
chẳng thể nghĩ bàn, chỉ trong pháp Đại Thừa
mới có). Nói “chẳng thể nghĩ bàn” th́ có hai loại:
Một là lư Nhị Không, hai là chuyện thần kỳ. Phàm
những ǵ có thể dùng ngôn ngữ hoặc tư tưởng
để phân biệt phạm vi và giới hạn của nó
th́ đều gọi là “khả tư nghị” (có thể
nghĩ bàn được). Chẳng thể dùng ngôn ngữ hoặc
tư tưởng để h́nh dung hoặc biết rơ được th́ gọi là “bất khả
tư nghị”.
Có chuyện chẳng thể
nghĩ bàn đối với phàm phu, nhưng là có thể nghĩ
bàn đối với Nhị Thừa, như sức của
loài rồng. Có chuyện là chẳng thể nghĩ bàn đối
với Nhị Thừa, nhưng là có thể nghĩ bàn đối
với Bồ Tát, như sức Thiền Định. Có chuyện
là chẳng thể nghĩ bàn đối với Bồ Tát,
nhưng là chuyện có thể nghĩ bàn đối với
Phật, như nghiệp lực, Phật pháp lực, và cảnh
giới trong cơi Phật. Như kinh Pháp Hoa đă nói: “Duy Phật
dữ Phật năi năng cứu tận chư pháp Thật
Tướng, sở vị chư pháp như thị tướng,
năi chí như thị bổn mạt cứu cánh đẳng”
(Chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu
tột cùng Thật Tướng của các pháp, tức là các
pháp có tướng như thế cho đến gốc ngọn
rốt ráo là như thế). Lại nói: “Bất như tam
giới, kiến ư tam giới, phi thật, phi hư, phi
như, phi dị” (Chẳng như tam giới mà thấy tam
giới chẳng thật, chẳng hư, chẳng giống
như, chẳng khác biệt). Tam giới đều thuộc
về danh ngôn giả lập (tức là những danh tướng
giả lập ra, không thật); v́ thế, có thể nghĩ
bàn. Cảnh giới sở hành nơi Phật
trí th́
chẳng thuộc vào danh ngôn (những sự tướng
có thể diễn tả bằng tên gọi), thường nói
là “dứt bặt ngôn ngữ, tâm hành xứ diệt”,
cho đến Nhất Chân pháp giới hết thảy vô ngại.
V́ thế, chẳng thể nghĩ bàn.
Xét theo sự giáo hóa suốt
một đời của đức Phật Thích Ca để
phân biệt th́:
1) Tạng Giáo là Sanh Diệt
Tứ Đế có thể nghĩ bàn. Khổ
là “sanh, trụ,
dị, diệt”, bốn
tướng đổi dời. Tập th́ chia thành tham, sân,
si v.v… bốn tâm lưu chuyển. “Diệt” là diệt cái nhân
trong tam giới, nhập cái quả Thiên Chân. Đạo là đối
trị phân minh.
2) Thông Giáo là Vô Sanh Tứ Đế
có thể nghĩ bàn. Biết rơ Khổ như huyễn, biết
Hoặc vô tánh. Do là Không nên chẳng sanh. Do chẳng sanh nên
chẳng bị diệt. Năng lẫn Sở đều là
Không, chẳng có Đạo để có thể tu.
3) Biệt Giáo là Vô Lượng
Tứ Đế chẳng thể nghĩ bàn. Chúng sanh vô biên,
mỗi người khổ sở khác biệt. Phiền năo
vô tận, khó thể nghĩ bàn. Pháp môn vô lượng, chỉ
có Phật mới liễu đạt rốt ráo. Phật quả
vô thượng, chín pháp giới chẳng thể chứng
đắc.
4) Viên Giáo là Vô Tác Tứ Đế
chẳng thể nghĩ bàn. Pháp nào cũng đều là Như,
chúng sanh chính là Phật, phiền năo chính là Bồ Đề,
sanh tử chính là Niết Bàn. Vạn pháp duy tâm, tâm tánh vốn
thanh tịnh, không tu, không đắc.
Hỡi các vị thượng
thiện nhân! Quư vị phải biết đức Phật nói
tám vạn bốn ngàn pháp môn và tứ giáo Tạng, Thông, Biệt,
Viên, đều vẫn là có thể nghĩ bàn. Chỉ có pháp
môn Tịnh Độ và danh hiệu A Di Đà Phật là thật
sự chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy, trong kinh Di Đà, đức Phật đă dạy: “Nhữ đẳng
đương tín thị xưng tán bất khả tư
nghị, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm
kinh” (Các ông hăy nên tin tưởng kinh ca ngợi chẳng
thể nghĩ bàn được hết thảy chư Phật
hộ niệm này). Nếu chẳng tin lời Phật, c̣n nói
ǵ được nữa?
(Chú) Thử trung Phật
độ bất khả tư nghị, hữu nhị chủng
lực: Nhất giả, nghiệp lực, vị
Pháp Tạng Bồ Tát xuất thế thiện căn đại
nguyện nghiệp lực sở thành; nhị giả, Chánh
Giác A Di Đà pháp vương thiện trụ tŕ lực sở
nhiếp. Thử bất khả tư nghị, như hạ
thập thất chủng, nhất nhất tướng giai
bất khả tư nghị, chí văn đương thích.
()此中佛土不可思議。有二種力。一者業力。謂法藏菩薩出世善根大願業力所成。二者正覺阿彌陀法王。善住持力所攝。此不可思議如下十七種。一一相皆不可思議。至文當釋。
(Chú:
Trong ấy, cơi Phật chẳng thể nghĩ bàn có hai loại lực: Một
là nghiệp lực, tức là [cơi Cực Lạc] được
thành tựu bởi thiện căn đại nguyện nghiệp
lực xuất
thế của Pháp Tạng Bồ Tát. Hai là được nhiếp thọ bởi sức
khéo trụ tŕ của đấng pháp vương Chánh Giác A
Di Đà. Những sự chẳng thể nghĩ bàn ấy như
mười bảy thứ [sẽ nói] dưới đây, mỗi
tướng đều là chẳng thể nghĩ bàn. Đến
phần luận văn nói về từng tướng ấy,
tôi sẽ giải thích).
Sở dĩ quốc độ
An Lạc chẳng thể nghĩ bàn là do A Di Đà Phật mà
có:
1) Một là các chủng tử
mới sanh do được trí huân tập, tức là những
điều chẳng thể nghĩ bàn được thành
tựu bởi nghiệp lực. Đấy là nói khi A Di
Đà Phật tu nhân, đă dùng trí huệ Bát Nhă xuất thế
phát ra bốn mươi tám đại nguyện, nương
theo nguyện mà tu hành, huân tập hết thảy thiện căn
công đức xuất thế, thành tựu cơi Phật trang nghiêm
thanh tịnh.
2) Hai là chủng tử vốn
sẵn vô lậu thanh tịnh được hiển lộ,
phát khởi bởi Chánh Giác A Di Đà Phật, vốn sẵn
có hết thảy các công năng chẳng thể nghĩ bàn,
nhiếp thủ y báo và chánh báo trang nghiêm thanh tịnh, khéo trụ
tŕ ba thứ thế gian (quốc độ, chánh giác, và hữu
t́nh), mỗi thứ đều chẳng thể nghĩ bàn.
Chủng tử được huân tập bởi trí là mới
sanh ra. Chủng tử vốn sẵn thanh tịnh th́ vốn
sẵn có. Cái vốn sẵn có là nhân, cái mới sanh ra là duyên.
Do nhân duyên ḥa hợp, cho nên y báo và chánh báo trong cơi Cực Lạc có các thứ trang
nghiêm thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn!
(Chú) Như bỉ ma-ni như
ư bảo tánh, tương tự, tương đối giả,
tá bỉ ma-ni như ư bảo tánh, thị An Lạc Phật
độ bất khả tư nghị tánh dă. Chư Phật
nhập Niết Bàn thời, dĩ phương tiện lực,
lưu toái thân xá-lợi, dĩ phước chúng sanh. Chúng
sanh phước tận, thử xá-lợi biến vi ma-ni như
ư bảo châu. Thử châu đa tại đại hải
trung, đại long vương dĩ vi thủ sức. Nhược
Chuyển Luân thánh vương xuất thế, dĩ từ
bi phương tiện, năng đắc thử châu, ư
Diêm Phù Đề tác đại nhiêu ích. Nhược tu y phục,
ẩm thực, đăng minh, nhạc cụ, tùy ư sở dục
chủng chủng vật thời, vương tiện khiết
trai, trí châu ư trường can đầu, phát nguyện ngôn:
“Nhược ngă thật thị Chuyển Luân vương giả,
nguyện bảo châu vũ như thử chi vật. Nhược
biến nhất lư, nhược thập lư, nhược bách
lư, tùy ngă tâm nguyện”. Nhĩ thời, tức tiện ư
hư không trung, vũ chủng chủng vật, giai xứng
sở tu, măn túc thiên hạ nhất thiết nhân nguyện. Dĩ
thử bảo tánh lực cố, bỉ An Lạc Phật
độ diệc như thị, dĩ an lạc tánh, chủng
chủng thành tựu cố.
()如彼摩尼如意寶性。相似相對者。借彼摩尼如意寶性。示安樂佛土不可思議性也。諸佛入涅槃時。以方便力。留碎身舍利。以福眾生。眾生福盡。此舍利變為摩尼如意寶珠。此珠多在大海中。大龍王以為首飾。若轉輪聖王出世。以慈悲方便。能得此珠。於閻浮提。作大饒益。若須衣服飲食燈明樂具。隨意所欲種種物時。王便潔齋。置珠於長竿頭。發願言。若我實是轉輪王者。願寶珠雨如此之物。若遍一里。若十里。若百里。隨我心願。爾時即便於虛空中。雨種種物。皆稱所須滿足天下一切人願。以此寶性力故。彼安樂佛土亦如是。以安樂性種種成就故。
(Chú: “Như tánh chất
của báu ma-ni như ư, tương tự, tương đối”:
Mượn tánh chất của báu ma-ni như ư để chỉ
bày tánh chất chẳng thể nghĩ bàn của cơi Phật
An Lạc. Khi chư Phật nhập Niết Bàn, [các Ngài] dùng
sức phương tiện, lưu lại thân đă nát thành
các viên xá-lợi để tạo phước cho chúng sanh. Khi
chúng sanh đă hết phước, xá-lợi ấy liền
biến thành ma-ni như ư bảo châu. Châu ấy phần lớn
ở trong biển cả, đại long vương dùng làm
vật trang sức trên đầu. Nếu Chuyển Luân thánh
vương xuất thế, do phương tiện từ
bi, sẽ có thể đạt được châu ấy, tạo
lợi ích to lớn trong cơi Diêm Phù Đề. Nếu có lúc cần
đến y phục, thức ăn, đèn sáng, nhạc cụ,
các món vật tùy ḷng mong muốn, nhà vua bèn thanh khiết, tŕ
trai, đặt viên châu trên đầu sào dài, phát nguyện rằng:
“Nếu tôi thật sự là Chuyển Luân vương, nguyện
bảo châu hăy tuôn ra các vật như thế, hoặc là trọn
khắp một dặm, hoặc mười dặm, hoặc
trăm dặm, tùy theo tâm nguyện của tôi”. Lúc bấy giờ,
bảo châu liền ở trong hư không tuôn các thứ vật,
đều tương xứng với sự cần dùng, thỏa
măn ước nguyện của hết thảy mọi người
trong thiên hạ. Do tánh lực của bảo châu ấy [mà được
như vậy], cơi Phật An Lạc cũng giống như
thế, nó được thành tựu đủ các thứ là do đặc
tánh an lạc vậy).
Trong đoạn văn này, ngài
Đàm Loan đă giải thích câu “như bỉ ma-ni như
ư bảo tánh, tương tự, tương đối pháp
cố” trong lời Luận. Ngài nói: [Luận Chủ] đă
mượn đặc tánh của ma-ni như ư bảo để
sánh ví tánh chất “hết thảy đều như ư chẳng
thể nghĩ bàn” của cơi Phật An Lạc. Hết
thảy sự trang nghiêm trong cơi ấy đều thuộc
vào cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chúng sanh như
thật quán sát bằng cách nào? Luận Chủ từ bi, đặc
biệt nêu ra sự chẳng thể nghĩ bàn trong đặc
tánh của như ư bảo châu trong cơi này để sánh ví sự
chẳng thể nghĩ bàn trong cơi kia, khiến cho chúng sanh có
thể từ sự tương tự mà liễu giải.
V́ thế nói là “tương tự tương đối
pháp” (cách so sánh tương
tự tương
đối).
Ma-ni (Maṇiratna) là tiếng
Phạn, dịch nghĩa là Như Ư. Do cùng nêu danh xưng Hán
và Phạn, nên nói là “ma-ni như ư bảo tánh”. Có hai thuyết
về nhân duyên sanh khởi của loại châu này:
1) Một là như ngài Đàm
Loan đă nói trên đây.
2) Theo thuyết thứ hai th́
viên châu ấy do trái tim của Đại Bằng Kim Xí Điểu
(chim Garuḍa,
tức Ca Lâu La) tạo thành, bị long
vương lấy được, chuyển giao cho Chuyển
Luân Thánh Vương đặt trong búi tóc trên đỉnh
đầu. Như trong phẩm An Lạc Hạnh của kinh Pháp
Hoa đă chép: “Tùy công thưởng tứ… duy kế trung minh
châu bất dĩ dữ chi. Sở dĩ giả hà? Độc
vương đảnh thượng hữu thử nhất
châu, nhược dĩ dữ chi, vương chư quyến
thuộc tất đại kinh quái” (Tùy theo công lao mà ban
thưởng… chỉ riêng viên minh châu trong búi tóc là không ban cho.
V́ sao vậy? Chỉ riêng trên đỉnh đầu nhà vua là
có viên châu ấy. Nếu vua đem thưởng, các quyến
thuộc của vua sẽ đều hết sức kinh hăi,
lạ lùng). Các bảo vật khác chẳng thể sánh bằng
như ư bảo châu. Những bảo vật khác đều
có đặc tánh và phạm vi nhất định, c̣n đặc
tánh của như ư bảo châu th́ chẳng có phạm vi và hạn
định. Thuận theo ḷng mong mỏi của chúng sanh, nó
có thể hiển hiện hết thảy các bảo vật.
V́ thế, gọi là “chẳng thể nghĩ bàn”. Nhưng
tánh chất của loại báu này là chỉ có chút phần tương
tự đặc tánh thành tựu các thứ chẳng thể
nghĩ bàn trong cơi Phật An Lạc, chẳng phải là hoàn
toàn tương đồng tuyệt đối! Như cổ
đức đă ngâm vịnh Tịnh Độ Thi có đoạn
như sau:
Mạc bả danh ngôn hướng
ngoại tầm,
Tây Phương cảnh giới
tối cao thâm (bất khả tư nghị),
Chủng chủng bảo vật
phi tha vật,
Nhất nhất ba thanh xuất
tự tâm.
(Danh ngôn chớ kiếm ở
bên ngoài,
Cảnh giới Tây
Phương tột thẳm sâu (chẳng thể nghĩ bàn),
Các món bảo vật nào sai khác,
Tiếng sóng đều phát từ
tự tâm).
Lại như kinh Hoa Nghiêm nói:
“Tâm như công họa sư, năng họa chư thế
gian, Ngũ Uẩn tất tùng sanh, vô pháp nhi bất tạo. Nhược
nhân tri tâm hạnh, phổ tạo chư thế gian, thị
nhân tắc kiến Phật, liễu Phật chân thật tánh”
(Tâm như thợ vẽ khéo, hay vẽ các thế gian, năm
uẩn sanh từ đó, không pháp nào chẳng tạo. Nếu
ai biết tâm hạnh, tạo khắp các thế gian, người
ấy sẽ thấy Phật, hiểu Phật chân thật
tánh). Lại như Quán Kinh có nói: “Thị tâm tác Phật,
thị tâm thị Phật, chư Phật Chánh Biến Tri hải
tùng tâm tưởng sanh” (Tâm này làm Phật, tâm này là Phật,
biển Chánh Biến Tri của chư Phật sanh từ tâm
tưởng). Do vậy có thể biết: Hết thảy sự
trang nghiêm trong quốc độ An Lạc sở dĩ chẳng
thể nghĩ bàn, hoàn toàn là do tâm tánh thanh tịnh chẳng
thể nghĩ bàn dấy khởi. Cho nên có thể như ư,
tự tại, thanh tịnh, trang nghiêm, vui sướng. Đấy
là chẳng thể nghĩ bàn “dứt bặt đối đăi,
chẳng thể so sánh”. Đối với hết thảy
sự vật và tất cả danh tướng trong quốc
độ An Lạc, chúng ta đều chẳng thể coi chúng
giống như sự vật và danh tướng
trong cơi này được!
(Chú) Tương tự,
tương đối giả, bỉ bảo châu lực, cầu
y thực giả, năng vũ y thực đẳng vật,
xứng cầu giả ư, phi thị bất cầu. Bỉ Phật
độ tắc bất nhiên, tánh măn túc thành tựu cố,
vô sở phạp thiểu. Phiến thủ bỉ tánh vi dụ,
cố ngôn “tương tự, tương đối”. Hựu
bỉ bảo đản năng dữ chúng sanh y thực đẳng
nguyện, bất năng dữ chúng sanh vô thượng đạo
nguyện. Hựu bỉ bảo đản năng dữ chúng
sanh nhất thân nguyện, bất năng dữ chúng sanh vô
lượng thân nguyện. Hữu như thị đẳng
vô lượng sai biệt, cố ngôn “tương tự”.
()相似相對者。彼寶珠力求衣食者。能雨衣食等物。稱求者意。非是不求。彼佛土則不然。性滿足成就故。無所乏少。片取彼性為喻。故言相似相對。又彼寶但能與眾生衣食等願。不能與眾生無上道願。又彼寶但能與眾生一身願。不能與眾生無量身願。有如是等無量差別。故言相似。
(Chú: “Tương tự,
tương đối”: Sức của bảo châu ấy là
đối với kẻ cầu thức ăn, quần áo, bèn
có thể tuôn ra các vật như quần áo, thức ăn
v.v.. thỏa ư người cầu, chẳng phải là không
cầu [mà tự nhiên tuôn ra]. Cơi Phật kia th́ chẳng phải
là như vậy, v́ nó có tánh chất thành tựu trọn vẹn,
[cho nên những vật cần dùng hoặc mong cầu đều]
chẳng thiếu khuyết. Chỉ dùng phần nào đặc
tánh [thỏa nguyện của bảo châu] để làm thí dụ
[cho tánh thỏa nguyện viên măn của cơi Cực Lạc],
cho nên nói là “tương tự, tương đối”. Hơn
nữa, chất báu ấy chỉ có thể cho chúng sanh được
thỏa nguyện về quần áo, thức ăn v.v… Chẳng
thể thỏa nguyện vô thượng đạo cho chúng
sanh. Đă thế, vật báu (bảo châu) ấy chỉ có
thể thỏa nguyện cho chúng sanh nơi một thân, chẳng
thể thỏa nguyện của chúng sanh nơi vô lượng
thân. Do có vô lượng sai biệt như vậy, nên nói là “tương
tự”).
Ngài Đàm Loan ba lượt
giải thích từ ngữ “tương tự, tương
đối” trong lời luận.
1) Lần thứ nhất, nói
theo phương diện không gian: Như ư bảo châu chỉ
có thể măn nguyện chúng sanh có nhu cầu mong muốn vật
chất ngay trong lúc đó, c̣n cơi Phật kia do được
thành tựu bởi bản tánh thỏa măn như ư, cho nên chẳng
cần phải nguyện cầu mà hết thảy đều
hiển hiện, thành tựu. Nó chính là cái kho vô tận vậy.
Giống như gió mát trên sông, trăng sáng nơi núi non, cũng
như ánh sáng mặt trời, không khí, nước, không chỗ nào chẳng
có, không thiếu khuyết, có thể lấy bất tận,
sử dụng chẳng cạn kiệt. Sở dĩ lời
Luận nói “như bỉ ma ni như ư bảo tánh” (như
tánh chất của báu ma-ni như ư kia) chính là
từ trong sự vật khác mà “phiến thủ” (片取, lấy
một phần) để sánh ví tánh như ư của quốc
độ An Lạc. V́ thế nói là “tương tự tương
đối” (so sánh tương tự).
2) Lần thứ hai là dựa
theo pháp xuất thế để nói. Báu như ư chỉ có
thể thỏa măn các ước mong thế gian của chúng
sanh như cơm, áo v.v… chẳng thể ban tặng cho chúng sanh thành tựu
Phật quả vô thượng xuất thế được,
c̣n cơi ấy (Cực Lạc) th́ có thể thỏa măn đại
nguyện Bồ Đề cho chúng sanh rốt ráo thành Phật.
V́ thế nói là “tương tự tương đối”.
3) Lần thứ ba, dựa
theo phương diện thời gian để nói. Báu như
ư chỉ có thể thỏa măn nguyện cầu của chúng
sanh trong một thân nơi hiện đời, chẳng thể
thỏa măn nguyện cầu cho vô lượng thân trong đời
đời kiếp kiếp. C̣n cơi kia th́ có thể thỏa măn
nguyện cầu của chúng sanh trong vô lượng thọ
đến tột cùng đời vị lai. Lại có thể
thỏa măn nguyện tùy loại ứng hóa, hiện ra vô
lượng thân để thực hiện Phật sự, giáo
hóa chúng sanh, lại c̣n có những ước nguyện tự
lợi lợi tha vô lượng sai khác nữa, cơi ấy đều
có thể thỏa măn ḷng mong cầu của quư vị. Như
phần Kệ Tụng trong phần trước đă viết:
“Chúng sanh sở nguyện nhạo, nhất thiết năng
măn túc” (Điều chúng
sanh ưa thích, hết thảy đều thỏa măn). Báu như
ư chẳng thể có những chuyện này; v́ thế, nói là pháp
“tương tự tương đối” mà thôi!
2.2.2.2.3.1.1.2.
Giải thích chi tiết mười bảy công đức
2.2.2.2.3.1.1.2.1.
Nêu chung
(Luận) Quán sát bỉ Phật
quốc độ trang nghiêm công đức thành tựu giả,
hữu thập thất chủng ưng tri. Hà đẳng thập
thất? Nhất giả, trang nghiêm thanh tịnh công đức
thành tựu. Nhị giả, trang nghiêm lượng công đức
thành tựu. Tam giả, trang nghiêm tánh công đức thành tựu.
Tứ giả, trang nghiêm h́nh tướng công đức
thành tựu. Ngũ giả, trang nghiêm chủng chủng sự
công đức thành tựu. Lục giả, trang nghiêm diệu
sắc công đức thành tựu. Thất giả, trang
nghiêm xúc công đức thành tựu. Bát giả, trang nghiêm tam
chủng công đức thành tựu. Cửu giả, trang
nghiêm vũ công đức thành tựu. Thập giả, trang
nghiêm quang minh công đức thành tựu. Thập nhất giả,
trang nghiêm diệu thanh công đức thành tựu. Thập
nhị giả, trang nghiêm chủ công đức thành tựu.
Thập tam giả, trang nghiêm quyến thuộc công đức
thành tựu. Thập tứ giả, trang nghiêm thọ dụng
công đức thành tựu. Thập ngũ giả, trang
nghiêm vô chư nạn công đức thành tựu. Thập lục
giả, trang nghiêm đại nghĩa môn công đức thành
tựu. Thập thất giả, trang nghiêm nhất thiết
sở cầu măn túc công đức thành tựu.
(論)觀察彼佛國土莊嚴功德成就者。有十七種應知。何等十七。一者莊嚴清淨功德成就。二者莊嚴量功德成就。三者莊嚴性功德成就。四者莊嚴形相功德成就。五者莊嚴種種事功德成就。六者莊嚴妙色功德成就。七者莊嚴觸功德成就。八者莊嚴三種功德成就。九者莊嚴雨功德成就。十者莊嚴光明功德成就。十一者莊嚴妙聲功德成就。十二者莊嚴主功德成就。十三者莊嚴眷屬功德成就。十四者莊嚴受用功德成就。十五者莊嚴無諸難功德成就。十六者莊嚴大義門功德成就。十七者莊嚴一切所求滿足功德成就。
(Luận:
Quán sát sự trang nghiêm trong cơi Phật ấy được
thành tựu bởi công đức th́ có mười bảy
thứ, hăy nên biết. Những ǵ là mười bảy? Một
là trang nghiêm thanh tịnh công đức thành tựu. Hai là trang
nghiêm lượng công đức thành tựu. Ba là trang nghiêm
tánh công đức thành tựu. Bốn là trang nghiêm h́nh tướng
công đức thành tựu. Năm là trang nghiêm các thứ sự
công đức thành tựu. Sáu là trang nghiêm diệu sắc công
đức thành tựu. Bảy là trang nghiêm xúc công đức
thành tựu. Tám là trang nghiêm ba thứ công đức thành tựu.
Chín là trang nghiêm vũ công đức thành tựu. Mười
là trang nghiêm quang minh công đức thành tựu. Mười
một là trang nghiêm diệu thanh công đức thành tựu.
Mười hai là trang nghiêm chủ công đức thành tựu.
Mười ba là trang nghiêm quyến thuộc công đức
thành tựu. Mười bốn là trang nghiêm thọ dụng
công đức thành tựu. Mười lăm là trang nghiêm không
có các nạn công đức thành tựu. Mười sáu là trang
nghiêm đại nghĩa môn công đức thành tựu. Mười
bảy là trang nghiêm hết thảy những điều mong
cầu đều được thỏa măn công đức
thành tựu).
2.2.2.2.3.1.1.2.2.
Nói rơ riêng biệt từng điều
(Chú) Tiên cử chương môn,
thứ tục đề thích.
()先舉章門。次續提釋。
Chú: Trước hết
nêu ra từng chương, từng môn, sau đó sẽ tiếp
tục giải thích theo từng đề mục).
Dưới
đây, vị Luận Chủ sẽ phân biệt, nói rơ mười
bảy thứ trang nghiêm được thành tựu bởi
công đức. Đối với mỗi thứ đều
là trước hết nêu ra danh xưng của
khoa mục (lời chú giải gọi “khoa mục” là “chương
môn”); sau đấy,
nêu rơ lời kệ để giải thích. Ngài Đàm Loan đă
thuyết minh đơn giản, trọng yếu: Mười
bảy thứ ấy đều được thành tựu
bởi công đức chẳng thể nghĩ bàn, cho nên được
mười phương chư Phật đồng thời
hộ niệm, cùng khen ngợi là “chẳng thể nghĩ
bàn”.
2.2.2.2.3.1.1.2.2.1.
Công đức thanh tịnh
(Luận) Trang nghiêm thanh tịnh
công đức thành tựu giả, kệ ngôn: “Quán bỉ thế
giới tướng, thắng quá tam giới đạo” cố.
(Chú) Thử vân hà bất tư
nghị? Hữu phàm phu nhân phiền năo thành tựu, diệc
đắc sanh bỉ Tịnh Độ, tam giới hệ
nghiệp, tất cánh bất khiên, tắc thị bất đoạn
phiền năo, đắc Niết Bàn phần, yên khả tư
nghị.
(論)莊嚴清淨功德成就者。偈言觀彼世界相。勝過三界道故。
()此云何不思議。有凡夫人煩惱成就。亦得生彼淨土。三界繫業畢竟不牽。則是不斷煩惱。得涅槃分。焉可思議。
(Luận:
Sự trang nghiêm thanh tịnh được thành tựu
bởi công đức là như kệ viết: “Quán tướng
thế giới ấy, vượt trỗi đạo tam giới”.
Chú: V́ sao nói điều
này là chẳng thể nghĩ bàn? Có kẻ phàm phu phiền năo
mà được thành tựu, cũng được sanh Tịnh
Độ ấy, rốt ráo chẳng c̣n bị lôi kéo bởi
nghiệp trói buộc trong tam giới, tức là chẳng đoạn
phiền năo mà có phần nơi Niết Bàn, há có thể nghĩ
bàn ư?)
Đạo được
chia thành hai loại là hữu lậu và vô lậu. Chúng sanh do
phiền năo mà tạo nghiệp, do nghiệp bèn cảm báo,
thường nói là “Hoặc, nghiệp, khổ”, giống
như ṿng lửa xoay, quay tṛn chẳng ngừng th́ gọi là
“hữu lậu đạo”. Tam thừa đệ tử
của đức Phật tu tập thiện căn công
đức xuất thế, [công đức ấy] thanh tịnh
vô lậu, có thể liễu sanh tử, thoát luân hồi, nên
gọi là “vô lậu đạo”. A Di Đà Phật
đă nương theo đạo vô lậu này mà phát nguyện
tu hành, thành tựu thế giới Cực Lạc được
trang nghiêm bởi công đức vô lậu để làm diệu
pháp độ chúng sanh, giống như chèo thuyền chở
người, dùng thuyền làm diệu pháp để độ
người khác. Đấy là đạo vô lậu chẳng
thể nghĩ bàn; v́ thế nói là “thắng quá tam giới
đạo”.
Hơn nữa, cơi Phật ấy
chính là báo độ tinh diệu (tinh túy, nhiệm mầu). Chúng
sanh phàm phu có phiền năo vốn chẳng thể sanh vào cơi ấy,
nhưng do cậy vào sức nhiếp thọ từ bổn nguyện công đức của A Di Đà Phật
mà cũng có thể văng sanh. Phàm phu đă tạo nghiệp sanh
tử, đáng bị trói buộc trong tam giới, nhưng rốt
cuộc nghiệp ấy đă mất tác dụng lôi kéo phàm
phu trụ trong tam giới. Từ ngay nơi nhiễm mà tịnh,
chẳng đoạn phiền năo mà đắc tam thừa Niết
Bàn. Những điều này đều là lực dụng chẳng
thể nghĩ bàn của Đại Thừa Viên Giáo, thường
nói là “phiền năo chính là Bồ Đề, sanh tử chính
là Niết Bàn”, là cảnh chẳng thể nghĩ lường,
chỉ có người chứng tịnh tâm mới biết, há có thể nghĩ bàn nổi ư?
2.2.2.2.3.1.1.2.2.2.
Lượng công đức
(Luận) Trang nghiêm lượng
công đức thành tựu giả, kệ ngôn: “Cứu cánh
như hư không, quảng đại vô biên tế” cố.
(Chú) Thử vân hà bất tư
nghị? Bỉ quốc nhân thiên, nhược ư dục cung điện,
lâu, các, nhược quảng nhất do-tuần, nhược
bách do-tuần, nhược thiên do-tuần, thiên gian, vạn
gian, tùy tâm sở thành, nhân các như thử. Hựu thập
phương thế giới chúng sanh nguyện văng sanh giả,
nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương
sanh. Nhất thời, nhất nhật chi khoảnh, toán số
sở bất năng tri kỳ đa thiểu, nhi bỉ thế
giới thường nhược hư không, vô bách trách tướng.
Bỉ trung chúng sanh trụ như thử lượng trung,
chí nguyện quảng đại, diệc như hư không vô
hữu hạn lượng. Bỉ quốc độ lượng,
năng thành chúng sanh tâm hạnh lượng, hà khả tư
nghị?
(論)莊嚴量功德成就者。偈言。究竟如虛空。廣大無邊際故。
()此云何不思議。彼國人天。若意欲宮殿樓閣。若廣一由旬。若百由旬。若千由旬。千間萬間。隨心所成。人各如此。又十方世界眾生願往生者。若已生。若今生。若當生。一時一日之頃。算數所不能知其多少。而彼世界常若虛空。無迫迮相。彼中眾生住如此量中。志願廣大。亦如虛空。無有限量。彼國土量能成眾生心行量。何可思議。
(Luận:
Trang nghiêm lượng công đức thành tựu là như
kệ nói: “Rốt ráo như hư không, rộng lớn không
ngằn mé”.
Chú: V́ sao chuyện này là
chẳng thể nghĩ bàn? Trời người trong cơi ấy
nếu ư muốn cung, điện, lầu, gác, hoặc
rộng một do-tuần, hoặc trăm do-tuần, hoặc
ngàn do-tuần, ngàn gian, vạn gian, đều thuận theo
tâm nguyện mà thành tựu, ai nấy đều như vậy.
Lại nữa, mười phương thế giới chúng
sanh nguyện sanh về [Cực Lạc], hoặc là đă
sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, trong khoảng
thời gian một thời, hoặc một ngày, dẫu tính
toán vẫn chẳng thể biết số lượng là
bao nhiêu, nhưng thế giới ấy thường giống
như hư không, chẳng có tướng chật hẹp. Chúng
sanh trong cơi ấy do sống trong “lượng” như thế
ấy, chí nguyện rộng lớn, cũng như hư không
chẳng có hạn lượng. Phân lượng của quốc
độ ấy có thể thành tựu cái lượng [rộng
lớn] nơi tâm hạnh của chúng sanh, làm sao có thể
nghĩ bàn cho được?)
Trong đoạn
này có ba lần giải thích “lượng bất khả tư
nghị”. Trước hết là nói đại
chúng trời người trong thế giới An Lạc do đă
đắc bổn tâm thanh tịnh, đều là liên hoa hóa
sanh, đều là tấm thân hư vô vi diệu, có bản
thể thanh tịnh vô cực, cho nên đều có công dụng
“lượng bất khả tư nghị”. Như tịnh
tâm trọn khắp hết thảy mọi nơi, ĺa hết
thảy các tướng, vô lượng, vô ngại,
thuận theo tâm của chúng sanh để
ứng với khả năng tiếp nhận của họ, mà
hiện to, hiện nhỏ, hoặc nhiều, hoặc ít, vừa
nghĩ tới liền có. Cung, điện, lầu, gác không ǵ
chẳng xứng hợp tịnh tâm, có thể lớn hoặc
nhỏ, thuận theo cái tâm mà thành. Ai nấy đều như
thế, chẳng trở ngại lẫn nhau.
Kế đến nói: Trong cơi
Phật ấy, thường như hư không, trong thời
gian và không gian vô tận, tuy thường có vô lượng
chúng sanh từ vô lượng
thế giới đă sanh, nay sanh, sẽ sanh, chẳng cần
biết là bao nhiêu [người văng sanh Cực Lạc], nhưng
thế giới An Lạc đều chẳng tăng, chẳng
giảm, như hư không rộng lớn không có ngằn
mé, chẳng có tướng tăng giảm, chẳng có tướng
chật hẹp, chen chúc. Chẳng như quốc độ [Sa
Bà] của chúng ta, dân số tăng thêm đôi chút, bèn xuất
hiện vấn đề: Không gian chật chội, kiếm
sống gian nan, thậm chí là hạn chế sanh nở, cưỡng
bức phá thai, dẫn đến hành vi chẳng nhân đạo!
Cuối cùng nói: Chúng sanh trong cơi
ấy, sống trong cảnh giới quốc độ chẳng
thể nghĩ bàn ấy, tâm cũng tự nhiên rộng mở
bao la, thành tựu tâm hạnh Bồ Tát. Ai nấy đều
phát Tứ Hoằng Thệ Nguyện, tu hạnh Phổ Hiền,
thành Phổ Hiền đức. Như quyển Hạ của kinh Vô Lượng
Thọ đă nói: “Thường năng tu hành, kỳ đại
bi giả, thâm viễn vi diệu, mỵ bất phú tái… do như
đại phong, hành chư thế gian, vô chướng ngại
cố…. Khoáng nhược hư không, đại từ đẳng
cố” (Thường có thể tu hành, ḷng đại bi sâu
xa vi diệu, không ǵ chẳng chở che… giống như gió
lớn thổi qua các thế gian, chẳng bị chướng
ngại… Rộng răi dường hư không, do đại từ
b́nh đẳng vậy).
Trong Pháp Hoa Kinh Giảng Nghĩa,
nơi trang một ngàn một trăm
sáu mươi tám, tôi có làm bài tụng như
sau:
Lục căn thanh tịnh
bất hy kỳ,
Hoàn hữu Cực Lạc cánh
thù thắng,
Tâm tánh bổn lai vô cấu ngại,
Phàm tâm chuyển xử tức
Phật tâm,
Ngũ chủng pháp sư tŕ
kinh lực,
Tâm tịnh cố năng tịnh
lục căn,
Nhược năng niệm Phật
sanh Tịnh Độ,
Thỉ thức Di Đà nguyện
cánh thâm.
(Sáu căn thanh tịnh lạ
lùng chi,
Cực Lạc thù thắng mới
hy kỳ,
Tâm tánh vô cấu, vốn vô ngại,
Phàm tâm chuyển ngay thành Phật
tâm,
Năm loại pháp sư tŕ
kinh lực,
Tâm tịnh thường hay tịnh
sáu căn,
Nếu siêng niệm Phật sanh
Tịnh Độ,
Mới biết Di Đà nguyện
càng sâu).
Đấy chính là ư thú chân thật
của việc cơi Phật ấy có thể thành tựu phân
lượng [rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn] nơi
tâm hạnh của chúng sanh.
2.2.2.2.3.1.1.2.2.3.
Tánh công đức
(Luận) Trang nghiêm tánh công
đức thành tựu giả, kệ ngôn: “Chánh đạo
đại từ bi, xuất thế thiện căn sanh” cố.
(Chú) Thử vân hà bất
tư nghị? Thí như Ca La Cầu La trùng, kỳ h́nh vi tiểu,
nhược đắc đại phong, thân như đại
sơn, tùy phong đại tiểu, vi kỷ thân tướng.
Sanh An Lạc chúng sanh, diệc phục như thị. Sanh bỉ
chánh đạo thế giới, tức thành tựu xuất
thế thiện căn, nhập Chánh Định Tụ, diệc
như bỉ phong, phi thân nhi thân, yên khả tư nghị?
()此云何不思議。譬如迦羅求羅蟲。其形微小。若得大風。身如大山。隨風大小。為己身相。生安樂眾生。亦復如是。生彼正道世界。即成就出世善根。入正定聚。亦如彼風。非身而身。焉可思議。
(Luận:
Trang nghiêm tánh công đức thành tựu là như kệ
nói: “Chánh đạo đại từ bi, thiện căn xuất
thế sanh”.
Chú: Điều này v́ sao
là chẳng thể nghĩ bàn? Ví như con trùng Ca La Cầu
La, thân h́nh bé tí, nếu có gió lớn, thân nó sẽ như quả
núi lớn. Tùy theo gió lớn hay nhỏ để biến đổi
thân tướng của chính ḿnh. Chúng sanh sanh trong cơi An Lạc,
cũng giống như thế. Sanh vào thế giới chánh đạo
ấy, liền thành tựu
thiện căn xuất thế, dự vào Chánh Định Tụ,
cũng giống như trận gió ấy, tuy chẳng phải
là thân mà có tác dụng biến đổi thân, há có thể
nghĩ bàn ư?)
“Tánh” có nghĩa
là “nhân” (因, cái nhân) hoặc
“giới” (界, giới hạn,
khuôn khổ, phạm vi), như mười tám giới
cũng có thể dịch
thành “mười tám tánh”.
Trong phần trước, đă có nói quốc độ An Lạc
có tánh chất như báu ma-ni chẳng thể nghĩ bàn! Nay bèn
dẫn lời Kệ “chánh đạo đại từ
bi, xuất thế thiện căn sanh”, Bồ Đề
chánh đạo và đại từ đại bi chính là thiện
căn xuất thế chẳng thể nghĩ bàn, là cái nhân để
thành tựu hết thảy sự trang nghiêm nơi y báo và chánh
báo trong cơi ấy. Do vậy, thế giới An Lạc dù nhân
hay quả, đều là thanh tịnh vô cấu chẳng thể
nghĩ bàn. Tức là như Đại Trí Độ Luận
quyển thứ bảy đă nói: “Con trùng Ca La Cầu La (Kalākula) thân nó
bé tí, hễ gặp gió sẽ chuyển thành to, càng có gió, nó càng
to, cho đến ăn nuốt hết thảy”.
Chúng sanh sống trong An Lạc
Tịnh Độ chẳng thể nghĩ bàn cũng giống
như thế. Do tâm Bồ Đề đại từ bi làm
nhân, công đức vô lậu xuất thế làm duyên, nhân duyên
ḥa hợp, bèn sanh khởi cái thân hư vô vi diệu, bản
thể thanh tịnh vô cực, là thân mà chẳng phải là
thân, có thể lớn, có thể nhỏ, tâm bao trùm thái hư, lượng
trọn khắp các cơi nhiều như cát, thân ấy cũng
giống như vậy. Huống hồ người đă
sanh về cơi ấy, chẳng cần biết ba bậc hay
chín phẩm, thảy đều được Phật lực
trụ tŕ, liền dự vào Chánh Định Tụ trong Đại
Thừa. Chánh Định Tụ chính là Bất Thoái Chuyển
Bồ Tát, như Thập Nghi Luận có nói: “Sanh vào Cực
Lạc bèn có năm duyên bất thoái:
- Một là do được
đại bi nguyện lực của Phật nhiếp tŕ nên
bất thoái.
- Hai là do Phật quang thường
chiếu, nên Bồ Đề tâm thường
tăng tấn bất thoái.
- Ba là nước, chim, rừng
cây, tiếng gió, âm nhạc đều nói diệu pháp. Người
nghe thường khởi tâm niệm Phật, niệm Pháp,
niệm Tăng, cho nên bất thoái.
- Bốn là cơi ấy thuần
là các Bồ Tát làm bạn lành, chẳng có cảnh duyên ác, ngoài
th́ không có thần quỷ, ma, tà đạo, trong th́ các phiền
năo như Tam Độc v.v… rốt ráo chẳng dấy lên,
cho nên bất thoái.
- Năm là sanh vào cơi ấy,
liền có thọ mạng bao kiếp dài lâu, bằng với
Phật, Bồ Tát, cho nên bất thoái”.
Có các nhân duyên bất thoái chẳng
thể nghĩ bàn như thế ấy, làm sao có thể nghĩ
bàn cho được?
2.2.2.2.3.1.1.2.2.4.
H́nh tướng công đức
(Luận) Trang nghiêm h́nh tướng
công đức thành tựu giả, kệ ngôn: “Tịnh quang
minh măn túc, như kính, nhật nguyệt luân” cố.
(Chú) Thử vân hà bất tư
nghị? Phù nhẫn nhục đắc đoan chánh, ngă tâm ảnh
hưởng dă. Nhất đắc sanh bỉ, vô sân nhẫn
chi thù, nhân thiên sắc tượng, b́nh đẳng diệu
tuyệt, cái tịnh quang chi lực dă. Bỉ quang phi tâm hạnh,
nhi vi tâm hạnh chi sự, yên khả tư nghị?
()此云何不思議。夫忍辱得端正。我心影嚮也。一得生彼。無瞋忍之殊。人天色像。平等妙絕。蓋淨光之力也。彼光非心行而為心行之事。焉可思議。
(Luận:
Trang nghiêm h́nh tướng công đức thành tựu là
như kệ nói: “Quang minh sạch trọn đủ, như
gương, vầng nhật nguyệt”.
Chú: V́ sao điều này
là chẳng thể nghĩ bàn? Hễ nhẫn nhục sẽ
được đoan chánh, do tâm ta ảnh hưởng vậy.
Hễ sanh vào cơi ấy, sẽ không có sân hận hay nhẫn
nhục khác biệt. H́nh sắc
của trời người đều b́nh đẳng đẹp
đẽ tuyệt vời, đấy là v́ sức của quang
minh thanh tịnh vậy. Quang minh ấy chẳng phải là
tâm hạnh, mà là chuyện ảnh hưởng đến tâm
hạnh, há có thể nghĩ bàn nổi ư?)
H́nh sắc, tướng mạo chẳng
thể nghĩ bàn. Đấy là nói đến muôn vật
trong thế giới Cực Lạc đều lấy quang
minh thanh tịnh làm Thể. Quang minh ấy như quang minh của
gương, mặt trời, mặt trăng, trọn khắp
hết thảy mọi nơi, thanh lương, thoải mái,
b́nh đẳng vi diệu, chẳng có sự sai khác giữa
cái này và cái kia! Thập Lai Kệ có nói: “Đoan chánh là do nhẫn nhục mà ra”. Nếu tâm có ḷng từ nhẫn, h́nh tướng
ắt đoan chánh, thường nói là “tướng chuyển theo tâm”. Thế nhưng, chúng sanh sanh vào Cực
Lạc Tịnh Độ, chẳng có sân khuể hay từ
nhẫn (từ bi, nhẫn nhục) khác biệt. Ai nấy đều
b́nh đẳng, đều có ba mươi hai tướng,
tám mươi thứ hảo. Đấy đều là do quang
minh thanh tịnh làm Thể, nhưng quang minh ấy trọn chẳng
phải là tâm, thế mà có thể làm chuyện ảnh hưởng
đến tâm hạnh, khiến cho chúng sanh đều có h́nh
tướng đoan chánh. Chuyện này đúng là chẳng thể
nghĩ bàn!
2.2.2.2.3.1.1.2.2.5.
Công đức các thứ sự
(Luận) Trang nghiêm chủng
chủng sự công đức thành tựu giả, kệ ngôn:
“Bị chư trân bảo tánh, cụ túc diệu trang nghiêm” cố.
(Chú) Thử vân hà bất tư
nghị? Bỉ chủng chủng sự, hoặc nhất bảo,
thập bảo, bách thiên chủng bảo, tùy tâm xứng ư, vô
bất cụ túc, nhược dục linh vô, thúc yên hóa một,
tâm đắc tự tại, hữu du thần thông, an khả
tư nghị?
(論)莊嚴種種事功德成就者。偈言。備諸珍寶性。具足妙莊嚴故。
()此云何不思議。彼種種事。或一寶。十寶。百千種寶。隨心稱意。無不具足。若欲令無。儵焉化沒。心得自在。有踰神通。安可思議。
(Luận:
Trang nghiêm các thứ sự công đức thành tựu là như
kệ nói: “Đủ tánh các trân bảo, đầy đủ
diệu trang nghiêm”.
Chú: V́ sao điều này
là chẳng thể nghĩ bàn? Các thứ sự ấy, hoặc
là một thứ báu, mười thứ báu, trăm ngàn thứ
báu, tùy tâm xứng ư, không ǵ chẳng trọn đủ. Nếu
muốn cho chúng chẳng có nữa, th́ chúng sẽ bỗng dưng
biến mất, tâm được tự tại, vượt
trỗi thần thông, làm sao có thể nghĩ bàn cho nổi?)
Tất
cả muôn vật trong quốc độ An Lạc đều
do trân bảo trang nghiêm, hoặc là một thứ báu, mười
thứ báu, cho đến trăm ngàn vạn thứ báu, nên nói
là “chủng chủng” (đủ mọi thứ). Cơi ấy
trọn đủ các thứ báu, cho nên có thể trang nghiêm đủ
mọi lẽ, thuận theo ḷng muốn. Điều này đă
là rất hiếm hoi, lạ lùng. Huống chi, nếu nghĩ
chẳng cần những vật báu ấy, chúng nó bỗng
nhiên biến mất. Ứng theo ư niệm mà có, thuận theo tâm chẳng
c̣n, hết thảy như ư tự tại, vượt trỗi
những chuyện được thực hiện bởi sáu
phép thần thông. Chuyện chẳng thể nghĩ bàn này, phàm
t́nh làm sao có thể ḍ lường được nổi!
2.2.2.2.3.1.1.2.2.6.
Diệu sắc công đức
(Luận) Trang nghiêm diệu sắc
công đức thành tựu giả, kệ ngôn: “Vô cấu quang
diễm xí, minh tịnh diệu thế gian” cố.
(Chú) Thử vân hà bất tư
nghị? Kỳ quang diệu sự, tắc ánh triệt biểu
lư. Kỳ quang diệu tâm, tắc chung tận vô minh. Quang vi Phật
sự, yên khả tư nghị?
()此云何不思議。其光曜事。則映徹表裏。其光曜心則終盡無明。光為佛事。焉可思議。
(Luận:
Trang nghiêm diệu sắc công đức thành tựu là như
kệ nói: “Vô cấu quang chói rực, sáng sạch rạng thế
gian”.
Chú: V́ sao chuyện này là
chẳng thể nghĩ bàn? Quang minh ấy chiếu sáng sự
vật liền soi thấu suốt trong lẫn ngoài. Quang minh ấy
chiếu sáng cái tâm th́ sẽ dứt trọn vô minh. Quang minh
làm Phật sự, há có thể nghĩ bàn ư?)
“Sắc” th́ có h́nh sắc
và hiển sắc sai khác. Dài, ngắn, vuông, tṛn th́ gọi là
“h́nh sắc” (形色). Xanh,
vàng, đỏ, trắng th́ gọi là “hiển sắc” (顯色). “Công đức
diệu sắc” ở đây là nói đến hiển sắc, cũng
chính là nói đến quang minh thanh tịnh vô cấu. Quang
minh sáng sạch trong cơi ấy hết sức rực rỡ,
bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào cũng đều
hiện hữu, chiếu soi rạng ngời
muôn vật, muôn sự, có thể khiến cho quư vị
thấy rơ ràng trong ngoài muôn vật, chẳng bị che giấu
mảy may. Nếu nó chiếu soi cái tâm của con người,
do sức công đức của quang minh ấy, sẽ khiến
cho quư vị đoạn sạch hết thảy cấu ô vô
minh phiền năo. Loại quang minh vi diệu này có thể làm Phật
sự, lợi ích các quần sanh, làm sao có thể nghĩ bàn
được nổi?
2.2.2.2.3.1.1.2.2.7.
Xúc công đức
(Luận) Trang nghiêm xúc công
đức thành tựu giả, kệ ngôn: “Bảo tánh công
đức thảo, nhu nhuyễn tả hữu toàn, xúc giả
sanh thắng lạc, quá Ca Chiên Lân Đà” cố.
(Chú) Thử vân hà bất tư
nghị? Phù bảo lệ kiên cường, nhi thử nhu
nhuyễn, xúc lạc ưng trước, nhi thử tăng đạo.
Sự đồng Ái Tác, hà khả tư nghị? Hữu Bồ
Tát tự Ái Tác, h́nh dung đoan chánh, sanh nhân nhiễm trước.
Kinh ngôn: “Nhiễm chi giả, hoặc sanh thiên thượng,
hoặc phát Bồ Đề tâm”.
(論)莊嚴觸功德成就者。偈言。寶性功德草。柔軟左右旋。觸者生勝樂。過迦旃隣陀故。
()此云何不思議。夫寶例堅強。而此柔軟。觸樂應著。而此增道。事同愛作。何可思議。有菩薩字愛作。形容端正。生人染著。經言。染之者。或生天上。或發菩提心。
(Luận: Trang
nghiêm xúc công đức thành tựu là như kệ nói: “Cỏ
công đức tánh báu, mềm mại xoay trái phải, chạm
vào vui thù thắng, hơn Ca Chiên Lân Đà”.
Chú: V́ sao chuyện này là
chẳng thể nghĩ bàn? Do chất báu thường là cứng
cỏi, nhưng chất báu ở đây lại mềm mại.
Chạm vào cảm thấy vui sướng th́ sẽ sanh ḷng
đắm nhiễm, nhưng [sự vui sướng do chạm
vào các chất báu trong cơi Cực Lạc] lại tăng tấn
đạo nghiệp. Chuyện này giống như ngài Ái Tác,
làm sao có thể nghĩ bàn cho được? Tức là có một
vị Bồ Tát tên là Ái Tác, h́nh dung đoan chánh, khiến cho
người ta sanh ḷng đắm nhiễm. Kinh nói: “Người
đắm nhiễm [Ái Tác Bồ Tát] sẽ hoặc là sanh lên
trời, hoặc là phát tâm Bồ Đề”).
Quốc độ An Lạc được
thành tựu bởi các thứ công đức của A Di Đà
Phật, cho nên có các thứ báu chẳng giống những thứ
báu thông thường cứng ngắc,
trơ trơ. Chúng nó mềm mại thích ư, có thể khiến
cho ai chạm phải, sẽ sanh khởi niềm vui sướng
thù thắng nhiệm mầu. Chúng sanh trong cơi này (Sa Bà), hễ
gặp Lạc Thọ (cảm xúc vui sướng), tất
nhiên sẽ sanh tâm tham ái lạc
cảnh, lại c̣n chấp trước chẳng bỏ. Nhưng
chúng sanh trong cơi kia, hễ có xúc lạc, liền có thể đoạn
trừ phiền năo, tăng trưởng công đức, thành
tựu đạo nghiệp. Chuyện này làm sao có thể
nghĩ bàn cho nổi?
Ngài Đàm Loan nói: Chuyện này
giống như Ái Tác Bồ Tát, là bậc quốc sắc
thiên hương, dung
mạo đoan chánh, ai trông thấy
sẽ đều sanh tâm tham ái, nhiễm đắm. Kinh dạy:
Phàm những ai thân cận, tham ái [Ái
Tác Bồ Tát], th́ hoặc là sanh lên cơi trời, hoặc là phát tâm Bồ
Đề. Đúng là mầu nhiệm chẳng thể diễn
tả được! Chuyện này
giống như trong quyển sáu mươi tám của bộ Bát
Thập Hoa Nghiêm đă nói: Trong
năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài Đồng
Tử, vị thiện tri thức thứ hai mươi lăm
là một cô gái có tên là Bà
Tu Mật Đa (Vasumitrā). Cô ta bảo
Thiện Tài rằng: “Ta đắc môn giải thoát của
Bồ Tát có tên là Ly Tham Dục Tế, thuận theo ḷng ham muốn,
ưa thích [của chúng sanh] mà hiện thân. Nếu có chúng
sanh tạm thời nắm tay ta, sẽ ĺa tham dục, đắc
Bồ Tát Biến Văng Nhất Thiết Phật Sát tam-muội
(tam muội đến trọn khắp hết thảy các cơi
Phật của hàng Bồ Tát)… Nếu có chúng sanh ôm ấp ta,
sẽ ĺa tham dục, đắc Bồ Tát Nhiếp Nhất
Thiết Chúng Sanh Hằng Bất Xả Ly tam-muội (tam-muội
nhiếp thọ hết thảy chúng sanh thường chẳng
ĺa bỏ của hàng Bồ Tát). Nếu có chúng sanh hôn hít môi
ta, sẽ ĺa tham dục, đắc Bồ Tát Tăng Trưởng
Nhất Thiết Chúng Sanh Phước Đức Tạng tam-muội.
Phàm là có chúng sanh thân cận ta, hết thảy đều đắc
Trụ Ly Tham Tế, nhập môn giải thoát Hết Thảy
Trí Địa Hiện Tiền Vô Ngại của hàng Bồ
Tát”. Trong thế giới Cực Lạc, các thứ báu
trang nghiêm sanh ra xúc lạc thù thắng, nhiệm mầu, cũng
giống như thế đó, đều là nhập cảnh
giới giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, há có thể
nghĩ bàn được ư?
2.2.2.2.3.1.1.2.2.8.
Ba thứ công đức
(Luận) Trang nghiêm tam chủng
công đức thành tựu giả, hữu tam chủng sự ưng tri, hà đẳng
tam chủng? Nhất giả thủy, nhị giả địa,
tam giả hư không.
(Chú) Thử tam chủng sở
dĩ tịnh ngôn giả, dĩ đồng
loại cố dă. Hà dĩ ngôn chi? Nhất giả, lục đại
loại, sở vị hư không, thức, địa, thủy,
hỏa, phong. Nhị giả, vô phân biệt loại, sở
vị địa, thủy, hỏa, phong, hư không, đản
ngôn tam loại giả, thức nhất đại thuộc
chúng sanh thế gian cố, hỏa nhất đại bỉ
trung vô cố. Tuy hữu phong, phong bất khả kiến cố,
vô trụ xứ cố. Thị dĩ lục đại ngũ
loại trung, thủ hữu nhi khả trang nghiêm tam chủng
tịnh ngôn chi.
(論)莊嚴三種功德成就者。有三種事應知。何等三種。一者水。二者地。三者虛空。
()此三種所以并言者。以同類故也。何以言之。一者六大類。所謂虛空識地水火風。二者無分別類。所謂地水火風虛空。但言三類者。識一大屬眾生世間故。火一大彼中無故。雖有風。風不可見故。無住處故。是以六大五類中。取有而可莊嚴。三種并言之。
(Luận:
Trang nghiêm ba thứ công đức thành tựu th́ có ba thứ,
ba thứ là ǵ? Một là nước, hai là đất, ba là hư
không.
Chú: Sở dĩ cùng nói
[gộp chung] ba thứ này là v́ chúng cùng một loại. V́
sao nói như vậy? Một là cùng thuộc loại Lục Đại,
tức là hư không, thức, địa, thủy, hỏa,
phong. Hai là chúng đều thuộc loại chẳng phân biệt,
tức là địa, thủy, hỏa, phong, hư không. Chỉ
nói ba loại v́ Thức Đại thuộc Chúng Sanh Thế
Gian, c̣n Hỏa Đại th́ trong cơi ấy chẳng có. Tuy có
gió, nhưng do chẳng thể thấy, do gió chẳng có trụ
xứ, [cho nên không nói đến]. V́ thế, trong năm loại
thuộc Lục Đại, chọn lấy ba thứ có thể
trang nghiêm để cùng nói).
Ngài Đàm Loan nói rơ trong quốc
độ An Lạc, Lục Đại (địa, thủy,
hỏa, phong, không, thức), có năm loại, tức địa,
thủy, hỏa, phong, hư không đều
thuộc về Sắc pháp vô phân biệt. Luận Chủ chỉ
chọn lấy ba loại có thể trang nghiêm, tức là địa,
thủy và hư không để nói gộp chung. Ngoài ra, Thức
Đại thuộc về tâm pháp, Hỏa Đại th́
trong thế giới Cực Lạc chẳng có. Hết thảy
quang minh trong cơi ấy chẳng phải do Hỏa Đại
phát ra, cho nên quang minh ấy thanh lương, dễ chịu,
vừa ư. Nghĩ muốn ăn bèn có thức ăn, chẳng
cần phải nấu cơm đốt củi. V́ thế không
có Hỏa Đại. Phong Đại th́ tuy có gió nhẹ, nhưng
gió chẳng thể thấy, lại chẳng có trụ xứ.
Thật ra, Phong Đại chính là tướng động của
hư không mà thôi! Do vậy, Thức, Hỏa, Phong đều
chẳng được kể trong công đức trang nghiêm!
2.2.2.2.3.1.1.2.2.8.1.
Nước
(Luận) Trang nghiêm thủy công
đức thành tựu giả, kệ ngôn: “Bảo hoa thiên vạn
chủng, di phú tŕ lưu tuyền, vi phong động hoa diệp,
giao thác quang loạn chuyển” cố.
(Chú) Thử vân hà bất tư
nghị? Bỉ Tịnh Độ nhân thiên, phi thủy cốc
thân, hà tu thủy da? Thanh tịnh thành tựu, bất tu tẩy
trạc, phục hà dụng thủy da? Bỉ trung vô tứ
thời, thường điều thích, bất phiền nhiệt,
phục hà tu thủy da? Bất tu nhi hữu, đương
hữu sở dĩ. Kinh ngôn: “Bỉ chư Bồ Tát cập
Thanh Văn, nhược nhập bảo tŕ, ư dục linh thủy
một túc, thủy tức một túc. Dục linh chí tất,
thủy tức chí tất. Dục linh chí yêu, thủy tức
chí yêu. Dục linh chí cảnh, thủy tức chí cảnh. Dục
linh quán thân, tự nhiên quán thân. Dục linh hoàn phục, thủy
triếp hoàn phục. Điều ḥa lănh noăn, tự nhiên tùy ư,
khai thần duyệt thể, đăng trừ tâm cấu. Thanh
minh trừng khiết, tịnh nhược vô h́nh. Bảo sa
ánh triệt, vô thâm bất chiếu. Vi lan hồi lưu, chuyển
tương quán chú, an tường từ thệ, bất tŕ,
bất tật. Ba dương vô lượng tự nhiên diệu
thanh, tùy kỳ sở ưng, mạc bất văn giả.
Hoặc văn Phật thanh, hoặc văn Pháp thanh, hoặc
văn Tăng thanh, hoặc văn tịch tĩnh thanh, không,
vô ngă thanh, đại từ bi thanh, Ba La Mật thanh, hoặc
văn Thập Lực, Vô Úy, bất cộng pháp thanh, chư
thông huệ thanh, vô sở tác thanh, bất khởi diệt
thanh, Vô Sanh Nhẫn thanh, năi chí cam lộ quán đảnh, chúng
diệu pháp thanh. Như thị đẳng thanh, xứng kỳ
sở văn, hoan hỷ vô lượng. Tùy thuận thanh tịnh,
ly dục tịch diệt, chân thật chi nghĩa, tùy thuận
Tam Bảo lực, vô sở úy, bất cộng chi pháp, tùy thuận
thông huệ Bồ Tát Thanh Văn sở hành chi đạo. Vô
hữu tam đồ khổ nạn chi danh, đản hữu
tự nhiên khoái lạc chi âm. Thị cố, kỳ quốc
danh viết An Lạc”. Thử thủy vi Phật sự, an
khả tư nghị?
(論)莊嚴水功德成就者。偈言。寶華千萬種。彌覆池流泉。微風動華葉。交錯光亂轉故。
()此云何不思議。彼淨土人天非水穀身。何須水耶。清淨成就。不須洗濯。復何用水耶。彼中無四時。常調適不煩熱。復何須水耶。不須而有。當有所以。經言。彼諸菩薩及聲聞。若入寶池。意欲令水沒足。水即沒足。欲令至膝。水即至膝。欲令至腰。水即至腰。欲令至頸。水即至頸。欲令灌身。自然灌身。欲令還復。水輒還復。調和冷煖。自然隨意。開神悅體。蕩除心垢。清明澂潔。淨若無形。寶沙映徹。無深不照。微瀾迴流。轉相灌注。安祥徐逝。不遲不疾。波揚無量。自然妙聲。隨其所應。莫不聞者。或聞佛聲。或聞法聲。或聞僧聲。或聞寂靜聲。空無我聲。大慈悲聲。波羅蜜聲。或聞十力無畏。不共法聲。諸通慧聲無所作聲。不起滅聲。無生忍聲。乃至甘露灌頂眾妙法聲。如是等聲。稱其所聞。歡喜無量。隨順清淨離欲寂滅真實之義。隨順三寶力。無所畏不共之法。隨順通慧菩薩聲聞所行之道。無有三塗苦難之名。但有自然快樂之音。是故其國名曰安樂。此水為佛事。安可思議。
(Luận:
Trang nghiêm thủy công đức thành tựu là như kệ
nói: “Hoa báu ngàn muôn thứ, phủ rợp ao, suối chảy. Gió nhẹ lay cánh
hoa, ánh sáng xen tạp chuyển”.
Chú: V́ sao chuyện này là
chẳng thể nghĩ bàn? Trời người trong Tịnh
Độ ấy chẳng phải là thân [được tăng
trưởng và duy tŕ tánh mạng bằng] cơm nước,
sao lại cần nước? Họ được thành tựu
thanh tịnh, chẳng cần tắm rửa, lại c̣n cần
dùng nước nữa ư? Trong cơi ấy chẳng có bốn
mùa, [khí hậu] thường điều ḥa, thích hợp, chẳng
bị nóng bức, sao c̣n cần đến nước? Chẳng
cần mà có, đương nhiên là có nguyên do. Kinh dạy:“Các
vị Bồ Tát và Thanh Văn đó nếu vào ao báu, ư muốn
nước ngập chân, nước liền ngập chân. Muốn
nước ngập đến gối, nước liền
ngập đến gối. Muốn nước ngập đến
eo, nước liền ngập đến eo. Muốn nước
ngập đến cổ, nước liền ngập đến
cổ. Muốn nước xối thân, tự nhiên xối
thân. Muốn nước trở lại như cũ, nước
liền trở lại. Điều ḥa lạnh ấm, tự
nhiên tùy ư, tinh thần sáng suốt, thân thể sảng khoái,
gột sạch cấu nhơ trong tâm. Nước trong, sáng,
lắng sạch, thanh tịnh dường như vô h́nh. Cát báu
chiếu rực, không chỗ nước sâu nào mà chẳng
chiếu thấu. Sóng nhẹ lan tỏa thành ṿng tṛn, lần
lượt tưới rót, an tường thong thả chảy
đi, chẳng chậm, chẳng nhanh. Sóng vỗ vang ra vô
lượng âm thanh mầu nhiệm tự nhiên, thuận
theo lẽ đáng nên, không ai chẳng được nghe. Hoặc
là nghe tiếng Phật, hoặc là nghe tiếng Pháp, hoặc
là nghe tiếng Tăng, hoặc nghe tiếng tịch tĩnh,
tiếng không, vô ngă, tiếng đại từ bi, tiếng
Ba La Mật, hoặc nghe tiếng Thập Lực, vô úy bất
cộng pháp, tiếng
các thông huệ. Tiếng vô sở tác, tiếng chẳng
dấy lên diệt mất, tiếng Vô Sanh Nhẫn, cho đến
các thứ tiếng diệu pháp cam lộ quán đảnh. Những
tiếng như thế tương xứng với người
nghe, khiến cho họ hoan hỷ vô lượng. Tùy thuận
nghĩa thanh tịnh ly dục tịch diệt chân thật,
tùy thuận Tam Bảo lực, các pháp vô sở úy, bất cộng,
tùy thuận đạo được hành bởi bậc thông
huệ Bồ Tát và Thanh Văn, chẳng có danh xưng tam đồ
khổ nạn, chỉ có tiếng vui sướng tự
nhiên. V́ thế, cơi ấy tên là An Lạc”. Nước ấy
làm Phật sự, há có thể nghĩ bàn ư?)
Trước hết, ngài Đàm
Loan nêu ra t́nh huống thật sự vốn chẳng cần
có nước trong quốc độ An Lạc, chia ra làm ba điểm
để thuyết minh:
1) Đại chúng trời người
trong cơi ấy đều là liên hoa hóa sanh, chẳng phải
là thân thể Tứ Đại giả hợp do nhân duyên cha
mẹ sanh ra. V́ thế, chẳng cần đến Thủy
Đại.
2) Vạn vật trong cơi ấy,
y báo và chánh báo đều thành tựu bản tánh thanh tịnh.
Do vậy, chẳng cần dùng nước để gột
rửa cấu uế.
3) Trong cơi An Lạc, chẳng
có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, bốn mùa đều
như mùa Xuân, khí hậu luôn điều ḥa, chẳng lạnh,
chẳng nóng. V́ thế, chẳng cần dùng nước để
điều ḥa nhiệt độ của không khí.
Đă chẳng cần thiết,
nhưng khắp nơi vẫn có ao nước bảy báu đầy
ắp nước tám công đức. Trong ấy, ắt có nguyên
nhân đặc biệt. Nguyên nhân ǵ vậy? Ngài Đàm Loan đă
trích dẫn một đoạn kinh văn từ bản dịch
đời Ngụy của kinh Vô Lượng Thọ để
chứng minh sự trang nghiêm của nước trong cơi Phật
ấy, tức là hoàn toàn dùng nước để làm Phật
sự tạo lợi ích cho chúng sanh. Chuyện này há có thể
nghĩ bàn nổi ư? Trong Vô Lượng Thọ Kinh Giảng
Nghĩa, phần giảng về ao tắm
bảy báu, từ trang ba trăm năm mươi sáu cho đến
ba trăm sáu mươi lăm, tôi đă có giải thích cặn
kẽ, xin hăy tự tra duyệt, sẽ có thể hiểu rành
rẽ ư nghĩa bao hàm trong đoạn kệ văn “bảo
hoa thiên vạn chủng, di phú tŕ lưu tuyền, vi phong động
hoa diệp, giao thác quang loạn chuyển” (hoa báu ngàn vạn
thứ, che phủ ao, suối chảy, gió nhẹ lay cánh hoa,
ánh sáng xen tạp chuyển) và diệu dụng chẳng thể
nghĩ bàn của nước trong ao.
2.2.2.2.3.1.1.2.2.8.2.
Đất
(Luận) Trang nghiêm địa
công đức thành tựu giả, kệ ngôn: “Cung điện,
chư lâu các, quán thập phương vô ngại, tạp thụ
dị quang sắc, bảo lan biến vi nhiễu” cố.
(Chú) Thử vân hà bất tư
nghị? Bỉ chủng chủng sự, hoặc nhất bảo,
thập bảo, bách bảo, vô lượng bảo, tùy tâm xứng
ư, trang nghiêm cụ túc. Thử trang nghiêm sự, như tịnh
minh kính, thập phương quốc độ tịnh uế
chư tướng, thiện ác nghiệp duyên, nhất thiết
tất hiện. Bỉ trung nhân thiên kiến tư sự cố,
thám thang bất cập chi t́nh, tự nhiên thành tựu, diệc
như chư đại Bồ Tát, dĩ chiếu pháp tánh đẳng
bảo vi quan. Thử bảo quan trung, giai kiến chư Phật.
Hựu liễu đạt nhất thiết chư pháp chi tánh.
Hựu như Phật thuyết Pháp Hoa kinh thời, phóng mi gian
quang, chiếu ư Đông phương vạn bát thiên độ,
giai như kim sắc, tùng A Tỳ ngục, thượng chí
Hữu Đảnh, chư thế giới trung lục đạo
chúng sanh, sanh tử sở thú, thiện ác nghiệp duyên, thọ
báo hảo xú, ư thử tất kiến, cái tư loại
dă. Thử ảnh vi Phật sự, an khả tư nghị?
(論)莊嚴地功德成就者。偈言。宮殿諸樓閣。觀十方無礙。雜樹異光色。寶欄遍圍遶故。 ()此云何不思議。彼種種事。或一寶。十寶。百寶。無量寶隨心稱意。莊嚴具足。此莊嚴事。如淨明鏡。十方國土。淨穢諸相。善惡業緣。一切悉現。彼中人天見斯事故。探湯不及之情。自然成就。亦如諸大菩薩以照法性等寶為冠。此寶冠中。皆見諸佛。又了達一切諸法之性。又如佛說法華經時。放眉間光。照於東方萬八千土。皆如金色。從阿鼻獄。上至有頂。諸世界中。六道眾生。生死所趣。善惡業緣。受報好醜。於此悉見。蓋斯類也。此影為佛事。安可思議。
(Luận:
Trang nghiêm địa công đức thành tựu là như
kệ nói: “Cung điện, các lầu gác, quán mười phương
vô ngại, mỗi cây quang sắc khác, lan can báu vây khắp”.
Chú: V́ sao chuyện này là
chẳng nghĩ bàn? Đủ mọi sự trong ấy, hoặc
là một thứ báu, mười thứ báu, trăm thứ
báu, vô lượng thứ báu, tùy tâm xứng ư, trang nghiêm trọn
đủ. Những sự trang
nghiêm ấy như gương sáng sạch, các tướng
tịnh hay uế của mười phương cơi nước,
nghiệp duyên thiện ác, hết thảy đều hiện.
Trời, người trong cơi ấy do thấy những chuyện
ấy, tự nhiên thành tựu tâm ư “nhanh chóng tránh né điều
ác” và “chỉ sợ không kịp làm lành”, cũng như các vị
đại Bồ Tát dùng các thứ báu chiếu soi pháp tánh để
làm măo. Từ trong măo báu ấy, đều thấy chư Phật.
Lại c̣n liễu đạt tánh của hết thảy các
pháp. Lại như khi đức Phật nói kinh Pháp Hoa, Ngài phóng
quang minh giữa hai mày, chiếu thấu đến một
vạn tám ngàn cơi ở phương Đông, đều như
sắc vàng, từ địa ngục A Tỳ cho đến
trên là trời Hữu Đảnh, lục đạo chúng
sanh trong các thế giới, tiến hướng vào sanh tử,
nghiệp duyên thiện ác, chịu báo tốt xấu, từ
trong quang minh đều thấy rơ. Chuyện ấy [và các h́nh
tượng trang nghiêm trong cơi Cực Lạc] cũng là cùng
một loại. Những h́nh ảnh ấy làm Phật sự,
há có thể nghĩ bàn ư?)
Trên đại
địa của quốc độ An Lạc chẳng thể
nghĩ bàn như thế nào? Trong Vô Lượng Thọ Kinh Giảng
Nghĩa từ trang ba trăm hai mươi mốt cho đến
trang ba trăm ba mươi mốt, và từ trang ba trăm
bốn mươi bốn cho đến trang ba trăm năm
mươi lăm, tôi đă có giải thích. Như kinh nói: “Hạnh
nghiệp quả báo bất khả tư nghị, chư Phật
thế giới diệc bất khả tư nghị (Di Đà
bổn nguyện công đức lực). Kỳ chư chúng
sanh công đức thiện lực, trụ hạnh nghiệp
chi địa, cố năng nhĩ nhĩ” (Hạnh nghiệp
quả báo chẳng thể nghĩ bàn, thế giới của
chư Phật cũng chẳng thể nghĩ bàn (sức bổn
nguyện công đức của Phật Di Đà). Do sức
công đức của chúng sanh trong cơi ấy trụ nơi địa
vị thuộc hạnh nghiệp, cho nên có thể được
như vậy). Trong cơi ấy, đại địa có các
thứ trang nghiêm thanh tịnh, có thể chiếu tỏ vô
lượng thế giới trong mười phương, dù
tịnh hay uế, dù thiện hay ác, hết thảy đều
hiện. Huống chi, khắp cơi đất lại có các hoa
sen báu trọn khắp thế giới. Trong mỗi đóa
hoa tỏa ra ba mươi sáu trăm ngàn ức quang minh.
Trong mỗi quang minh, xuất hiện ba mươi sáu trăm
ngàn ức Phật. Mỗi vị Phật lại phóng trăm
ngàn quang minh, v́ khắp mười phương nói pháp vi diệu,
đặt yên vô lượng chúng sanh nơi chánh đạo
của Phật. Những điều này đều được
thành tựu bởi công đức của các nguyện hai mươi
bảy, hai mươi tám, ba mươi mốt, ba mươi
hai v.v… trong bổn nguyện của A Di Đà Phật. V́ thế,
có thể có những sự chẳng thể nghĩ bàn như
vậy!
Ngài Đàm Loan nói, đại
chúng trời người trong cơi ấy, do từ quốc
độ đó mà trông thấy những chuyện chẳng
thể nghĩ bàn nơi y báo, chánh báo, và nhân quả của mười
phương thế giới bèn “thám thang bất cập
chi t́nh, tự nhiên thành tựu” (tự nhiên thành tựu tâm
ư “thăm ḍ canh” và “chẳng kịp”). Hai câu này phát xuất
từ truyện Phạm Bàng[1] trong Hậu Hán Thư[2], Trọng Ni (Khổng
Tử) nói: “Kiến thiện như bất cập, kiến
ác như thám thang” (Thấy
điều lành bèn [sốt sắng] như sợ chẳng kịp
[làm lành], thấy điều ác bèn như thăm ḍ canh nóng).
Như người thử thăm ḍ canh nóng, [do sợ bỏng],
ắt nhanh chóng rụt tay lại! Dùng điều này để
sánh ví “thấy chuyện ác bèn nhanh chóng rời bỏ”. Dùng hai
câu ấy để h́nh dung chúng sanh trong cơi nước Cực
Lạc tự nhiên thành tựu đức hạnh “trừ
bỏ hết sạch điều ác, chỉ sợ tu thiện
chẳng kịp”. Đó là điều chẳng thể
nghĩ bàn nói theo mặt Sự.
Ngài Đàm Loan lại nói: “Diệc
như chư đại Bồ Tát, dĩ chiếu pháp tánh bảo
vi quan, tại bảo quan trung, giai kiến chư Phật, cập
nhất thiết chư pháp chi tánh” (Cũng
như các vị đại Bồ Tát dùng các chất báu có thể
chiếu soi pháp tánh để làm măo. Từ trong ấy măo báu,
đều trông thấy chư Phật và tánh của hết
thảy các pháp): Đấy là dùng măo báu của Bồ Tát
để sánh ví quốc độ ấy có thể hiển
hiện pháp tánh Trung Đạo của chư Phật và các
pháp, tức là “nhất tâm nhị môn, Chân Không Diệu Hữu,
sắc và tâm bất nhị”. Đấy là điều chẳng
thể nghĩ bàn nói theo mặt Lư.
Dù Sự hay Lư, đều chẳng
thể nghĩ bàn như thế, như kinh Pháp Hoa đă nói:
Khi đức Bổn Sư nói kinh Pháp Hoa, trước hết,
Ngài nói kinh Vô Lượng Nghĩa. Nói xong, Ngài nhập Vô Lượng
Nghĩa Xứ tam-muội, từ tướng bạch hào giữa
hai mày, phóng ra quang minh chiếu khắp một vạn tám ngàn
cơi ở phương Đông. Tất cả các thế giới
trong ấy, tất cả chúng sanh, hết thảy quả
báo, hết thảy nghiệp duyên, đều trông thấy
ngay trong một lúc. Xét theo Sự th́ “một là vô lượng,
vô lượng là một”, chẳng thể nghĩ bàn như
thế đó! Xét theo Lư th́ nhất tâm vạn hạnh (Sanh Diệt
môn), vạn hạnh nhất tâm (Chân Như môn), chẳng thể
nghĩ bàn như thế đó, đều là cùng một loại.
Trong quốc độ An Lạc, chuyện chẳng thể
nghĩ bàn như các h́nh ảnh hiện ra trong gương, và
chuyện chẳng thể nghĩ bàn “do phóng
quang hiện ra các h́nh tướng” trong
kinh Pháp Hoa, đều là dùng h́nh ảnh để làm Phật
sự, làm sao có thể nghĩ bàn cho được?
2.2.2.2.3.1.1.2.2.8.3.
Hư không
(Luận) Trang nghiêm hư
không công đức thành tựu giả, kệ ngôn: “Vô lượng
bảo giao lạc, la vơng biến hư không, chủng chủng
linh phát hưởng, tuyên thổ diệu pháp âm” cố.
(Chú) Thử vân hà bất tư
nghị? Kinh ngôn: “Vô lượng bảo vơng, di phú Phật
độ, giai dĩ kim lũ, chân châu, bách thiên tạp bảo,
kỳ diệu trân dị, trang nghiêm hiệu sức. Châu táp
tứ diện, thùy dĩ bảo linh, quang sắc hoảng
diệu, tận cực nghiêm lệ. Tự nhiên đức
phong, từ khởi vi động. Kỳ phong điều ḥa,
bất hàn, bất thử, ôn lương nhu nhuyễn, bất
tŕ, bất tật, xuy chư la vơng, cập
chúng bảo thụ, diễn phát vô lượng vi diệu pháp
âm, lưu bố vạn chủng ôn nhă đức hương.
Kỳ hữu văn giả, trần lao cấu tập, tự
nhiên bất khởi. Phong xúc kỳ thân, giai đắc khoái
lạc. Thử thanh vi Phật sự, yên khả tư nghị?
(論)莊嚴虛空功德成就者。偈言。無量寶交絡。羅網遍虛空。種種鈴發響。宣吐妙法音故。 ()此云何不思議。經言。無量寶網。彌覆佛土。皆以金縷真珠。百千雜寶。奇妙珍異。莊嚴校飾。周匝四面。垂以寶鈴。光色晃耀。盡極嚴麗。自然德風。徐起微動。其風調和。不寒不暑。溫涼柔軟。不遲不疾。吹諸羅網。及眾寶樹。演發無量微妙法音。流布萬種溫雅德香。其有聞者。塵勞垢習自然不起。風觸其身。皆得快樂。此聲為佛事。焉可思議。
(Luận:
Trang nghiêm hư không công đức thành tựu là như
kệ nói: “Vô lượng báu giăng xen, lưới mành khắp
hư không, các thứ linh vang tiếng, tuyên nói diệu pháp âm”.
Chú: V́ sao chuyện này là
chẳng thể nghĩ bàn? Kinh nói: “Vô lượng lưới
báu che phủ khắp cơi Phật, đều dùng sợi vàng
xỏ chân châu, trăm ngàn các thứ báu khác nhau để
trang nghiêm tô điểm. Trọn khắp bốn mặt,
treo rủ linh báu, quang minh và màu sắc chói ngời, trang nghiêm,
rực rỡ tột bậc. Tự nhiên gió đức thong
thả nhẹ trỗi, gió ấy điều ḥa, chẳng lạnh,
chẳng nóng, dịu dàng, mát mẻ, mềm mại, chẳng
chậm, chẳng nhanh, thổi qua các lưới mành và các cây
báu, phát ra vô lượng pháp âm vi diệu, lan tỏa muôn thứ
đức hương dịu dàng, thanh nhă. Có ai ngửi thấy
th́ phiền năo và tập khí nhơ bẩn tự nhiên chẳng
dấy lên. Gió chạm vào thân đều được vui
sướng. Những âm thanh ấy làm Phật sự, há có
thể nghĩ bàn ư?)
Ngài Đàm Loan trích dẫn kinh
văn của kinh Vô Lượng Thọ để giải
thích tướng hư không trang nghiêm trong phần Kệ, nhằm
chỉ rơ nơi hư không trong cơi ấy, chẳng giống
như hư không trơ trơ trong cơi này, mà là tột bậc
trang nghiêm, tráng lệ, lại c̣n có gió đức tự
nhiên, phát ra pháp âm vi diệu, lan tỏa đức hương
dịu dàng, thanh nhă. Nghe pháp âm, ngửi đức hương,
có thể thành tựu Giới, Định, Huệ, đoạn
sạch phiền năo (trần lao) và tập khí (trần cấu).
Gió chạm vào thân, đều được vui sướng
(đắc Diệt Tận Định). Âm thanh vi diệu và
gió nhẹ trong hư không của cơi ấy có thể làm Phật
sự, khiến cho hết thảy chúng sanh đều được
thành tựu năm phần Pháp Thân Đại Thừa, tức
là [chứng thành] Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, thật
sự là quá chẳng thể nghĩ bàn!
2.2.2.2.3.1.1.2.2.9.
Vũ công đức
(Luận) Trang nghiêm vũ công
đức thành tựu giả, kệ ngôn: “Vũ hoa y trang
nghiêm, vô lượng hương phổ huân” cố.
(Chú) Thử vân hà bất tư
nghị? Kinh ngôn: “Phong xuy tán hoa, biến măn Phật độ,
tùy sắc thứ đệ, nhi bất tạp loạn, nhu
nhuyễn quang trạch, hinh hương phân liệt, túc lư kỳ
thượng, hăm hạ tứ thốn. Tùy cử tức dĩ,
hoàn phục như cố. Hoa dụng dĩ ngật, địa
triếp khai liệt, dĩ thứ hóa một, thanh tịnh
vô di. Tùy kỳ thời tiết, phong xuy tán hoa, như thị
lục phản”.
()此云何不思議。經言。風吹散華。遍滿佛土。隨色次第。而不雜亂。柔軟光澤。馨香芬烈。足履其上。陷下四寸。隨舉足已。還復如故。華用已訖。地輒開裂。以次化沒。清淨無遺。隨其時節。風吹散華。如是六返。
(Luận:
Trang nghiêm vũ công đức thành tựu là như kệ
nói: “Mưa hoa, áo trang nghiêm, vô lượng hương xông
khắp”.
Chú: V́ sao chuyện này là
chẳng thể nghĩ bàn? Kinh dạy: “Gió thổi rải
hoa trọn khắp cơi Phật, lần lượt theo từng
màu, chẳng tạp loạn. Hoa mềm mại, tươi
sáng, thơm tho ngào ngạt. Chân đạp lên đó, lún xuống
bốn tấc. Chân vừa giở lên, trở lại như
cũ. Hoa dùng đă xong, đất liền nứt ra, hoa
theo thứ tự biến mất, thanh tịnh, chẳng c̣n
sót ǵ. Tùy theo thời tiết, gió thổi rải hoa, sáu lượt
như thế”).
Dùng kinh
văn để chỉ rơ công đức chẳng thể
nghĩ bàn của “vũ” (nghĩa
là từ trên hư không rơi xuống) trong quốc độ
An Lạc. “Vũ hoa y trang nghiêm” là từ trên hư không
rơi xuống hương, hoa, y kích (lẳng đựng
hoa), và các vật trang hoàng khác để trang nghiêm cơi ấy.
Trong Vô Lượng Thọ Kinh Giảng Nghĩa, từ trang
ba trăm bảy mươi lăm cho đến ba trăm
bảy mươi tám, tôi cũng đă giải thích tường
tận, chẳng ngại tra duyệt, tham khảo.
(Chú) Hựu chúng bảo
liên hoa, châu măn thế giới. Nhất nhất bảo hoa, bách
thiên ức diệp. Kỳ hoa quang minh, vô lượng chủng
sắc, thanh sắc thanh quang, bạch sắc bạch quang,
huyền hoàng, châu tử, quang sắc diệc nhiên, vĩ việp
hoán lạn, minh diệu nhật nguyệt. Nhất nhất
hoa trung, xuất tam thập lục bách thiên ức quang, nhất
nhất quang trung, xuất tam thập lục bách thiên ức
Phật, thân sắc tử kim, tướng hảo thù đặc.
Nhất nhất chư Phật, hựu phóng bách thiên quang
minh, phổ vị thập phương, thuyết vi diệu
pháp. Như thị chư Phật, các các an lập vô lượng
chúng sanh ư Phật chánh đạo. Hoa vi Phật sự, an
khả tư nghị?
()又眾寶蓮華周滿世界。一一寶華。百千億葉。其華光明。無量種色。青色青光。白色白光。玄黃朱紫。光色亦然。暐曄煥爛。明曜日月。一一華中。出三十六百千億光。一一光中。出三十六百千億佛。身色紫金。相好殊特。一一諸佛。又放百千光明。普為十方。說微妙法。如是諸佛各各安立無量眾生於佛正道。華為佛事。安可思議。
(Chú:
Lại c̣n các thứ hoa sen báu đầy khắp thế giới.
Mỗi một hoa báu có trăm ngàn ức cánh. Hoa ấy và quang
minh của nó có vô lượng thứ màu: Hoa màu xanh, ánh sáng
xanh, hoa màu trắng, ánh sáng trắng. Vàng sậm, đỏ
tía, quang minh và màu sắc cũng như vậy, chói ngời rực
rỡ, chiếu ḷa mặt trời, mặt trăng. Trong mỗi
hoa, tỏa
ra ba mươi sáu trăm ngàn ức quang minh.
Trong mỗi quang minh, xuất hiện ba mươi sáu trăm
ngàn ức Phật, thân sắc vàng tía, tướng hảo đẹp
đẽ đặc biệt. Mỗi một vị Phật
lại tỏa ra trăm ngàn quang minh, v́ khắp mười
phương nói pháp vi diệu. Các vị Phật như vậy,
mỗi vị đều đặt yên vô lượng chúng
sanh nơi chánh đạo của Phật. Hoa làm Phật sự,
há có thể nghĩ bàn ư?)
Trong lời kệ của vị
Luận Chủ nói về công đức của “mưa”,
tức là những thứ hoa và y (những tấm vải) vi
diệu từ hư không rơi xuống để trang
nghiêm cơi ấy. Nhưng đoạn văn này lại nói về
hoa sen, chẳng phải từ trên hư không giáng xuống,
mà là sanh trưởng từ mặt đất. Chiếu
theo Lư, chẳng thể trích dẫn để giải thích lời
Kệ! Trong kinh c̣n nói: “Hựu dĩ chúng bảo diệu
y, biến bố kỳ địa, nhất thiết thiên nhân,
tiễn nhi chi hành” (Lại
có các thứ diệu y quư báu trải khắp mặt đất,
hết thảy trời, người đạp lên mà đi).
Bốn câu kinh văn ấy đều có thể bao gồm
trong hàm ư của câu “vũ hoa
y trang nghiêm”. Đă là gió thổi rải
hoa từ trên hư không rơi xuống, trải khắp cơi
đất, hoa thơm tho ngào ngạt, cho nên kệ văn nói
“vô lượng hương phổ huân” (vô lượng
hương xông khắp) như trong đoạn trước
đă nói: “Lưu bố vạn chủng ôn nhă đức
hương, kỳ hữu văn giả, trần lao cấu
tập, tự nhiên bất khởi” (Lan tỏa
muôn thứ đức hương ôn nhu, thanh nhă. Có ai ngửi
được, trần lao và cấu tập tự nhiên chẳng
dấy lên). Đấy chính là trang nghiêm vũ công đức,
thành tựu diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn.
2.2.2.2.3.1.1.2.2.10.
Quang minh công đức
(Luận) Trang nghiêm quang minh
công đức thành tựu giả, kệ ngôn: “Phật huệ
minh tịnh nhật, trừ thế si ám minh” cố.
(Chú) Thử vân hà bất tư
nghị? Bỉ độ quang minh, tùng Như Lai trí huệ báo
khởi. Xúc chi giả, vô minh hắc ám, chung tất tiêu trừ.
Quang minh phi huệ, năng vi huệ dụng, yên khả tư
nghị?
()此云何不思議。彼土光明從如來智慧報起。觸之者。無明黑闇。終必消除。光明非慧。能為慧用。焉可思議。
(Luận:
Trang nghiêm quang minh công đức thành tựu là như kệ
nói: “Phật huệ nhật sáng sạch, trừ si tối cơi
đời”.
Chú: V́ sao chuyện này là
chẳng thể nghĩ bàn? Quang minh trong cơi ấy từ quả
báo trí huệ của Như Lai dấy lên. Chạm vào [quang
minh] ấy th́ tối tăm do si mê vô minh trọn đều
tiêu trừ. Quang minh chẳng phải là huệ, mà có thể
khởi tác dụng của huệ, há có thể nghĩ bàn ư?)
Trong phần
trước, tức trong phần nói về h́nh tướng
và diệu sắc công đức thành tựu, Luận Chủ cũng
có nói đến quang minh trong cơi ấy, nhưng đều
là nói về quang minh tỏa ra từ vật chất. Đoạn
này chuyên nói về quang minh từ trí huệ của Phật.
Đấy là quang minh của tâm pháp. Quang minh của vật
chất chỉ có thể phá trừ sự tối tăm của
thế gian, chẳng thể trừ sự si ám trong tâm của
chúng sanh. Chỉ có quang minh trí huệ phát xuất từ
trong tâm của chánh báo thể A Di Đà Phật th́ không chỉ
là có thể phá trừ sự tối tăm trong thế gian,
mà c̣n có thể khiến cho chúng sanh khi được [Phật
quang] chạm vào, đều có thể phá trừ hết thảy
vô minh ngu si, tăm tối ngoan cố, khiến cho chúng sanh chẳng
có nỗi đau khổ v́ mù mắt hay v́ cơi ḷng mù ḷa! V́
quang minh của A Di Đà Phật chính là tướng trí huệ; cho nên có tác dụng trí huệ. Đấy
chính là chỗ tuyệt nhiên bất đồng so với những
thứ quang minh b́nh thường khác. Do vậy, quang minh ấy
sáng sạch vượt trỗi mặt trời, mặt trăng,
có thể trừ sự si ám cho cơi đời, chẳng thể
nghĩ bàn được! Đấy chính là điều được
thành tựu bởi công đức của nguyện thứ
ba mươi ba trong bốn mươi tám nguyện: “Thiết
ngă đắc Phật, thập phương vô lượng bất
khả tư nghị chư Phật thế giới chúng
sanh chi loại, mông ngă quang minh xúc kỳ thể giả, thân
tâm nhu nhuyễn, siêu quá nhân thiên” (Nếu tôi thành Phật,
các loài chúng sanh trong mười phương vô lượng chẳng
thể nghĩ bàn thế giới chư Phật, được
quang minh của tôi chạm vào thân, thân tâm sẽ mềm mại,
vượt trỗi trời, người).
2.2.2.2.3.1.1.2.2.11.
Diệu thanh công đức
(Luận) Trang nghiêm diệu
thanh công đức thành tựu giả, kệ ngôn: “Phạm
thanh ngộ thâm viễn, vi diệu văn thập
phương” cố.
(Chú) Thử vân hà bất tư
nghị? Kinh ngôn: “Nhược nhân đản văn bỉ
quốc độ thanh tịnh an lạc, khắc niệm
nguyện sanh, diệc đắc văng sanh, tắc nhập Chánh
Định Tụ”. Thử thị quốc độ danh tự
vi Phật sự, an khả tư nghị?
()此云何不思議。經言。若人但聞彼國土清淨安樂。剋念願生。亦得往生。則入正定聚。此是國土名字為佛事。安可思議。
(Luận:
Trang nghiêm diệu thanh công đức thành tựu là như
kệ nói: “Tiếng phạm ngộ sâu mầu, vi diệu vọng
mười phương”.
Chú: V́ sao chuyện này là
chẳng thể nghĩ bàn? Kinh dạy: “Nếu có người
chỉ nghe sự an lạc thanh tịnh trong quốc độ
ấy, quyết chí niệm Phật nguyện văng sanh th́ cũng
được văng sanh, liền dự vào Chánh Định Tụ”.
Đấy là dùng danh xưng của quốc độ để
làm Phật sự, làm sao có thể nghĩ bàn cho được?)
Đoạn
này nói về công đức của diệu thanh (âm thanh mầu
nhiệm), bao gồm thanh danh của A Di Đà Phật và danh
xưng của quốc độ An Lạc đều có thể
làm Phật sự, có công dụng vi diệu chẳng thể
nghĩ bàn. Nói tường tận th́ như các công đức
được nói trong bổn nguyện, từ nguyện thứ
mười bảy cho đến nguyện thứ hai mươi,
và từ nguyện ba mươi tư cho đến nguyện
ba mươi bảy, từ nguyện bốn mươi mốt
cho đến nguyện bốn mươi tám. Ngài Đàm
Loan đă trích dẫn kinh Vô Lượng Thọ như sau: “Chư
hữu chúng sanh, văn kỳ danh hiệu (quốc độ
danh thanh, hoặc Phật đích danh hiệu), tín tâm hoan hỷ,
năi chí nhất niệm, chí tâm hồi hướng, nguyện
sanh bỉ quốc, tức đắc văng sanh, trụ Bất
Thoái Chuyển (nhập Chánh Định Tụ), duy trừ Ngũ
Nghịch, phỉ báng chánh pháp” (Có các chúng sanh nghe danh hiệu
ấy (tiếng tăm của quốc độ, hoặc danh
hiệu của Phật), tín tâm hoan hỷ, cho đến một
niệm, chí tâm hồi hướng, nguyện sanh về cơi ấy,
liền được văng sanh, trụ Bất Thoái Chuyển
(dự vào Chánh Định Tụ), chỉ trừ kẻ Ngũ
Nghịch, phỉ báng chánh pháp). Cũng như kinh Lăng
Nghiêm nói: “Thử phương chân giáo thể, thanh tịnh
tại âm văn” (Chân giáo thể phương này, thanh tịnh
nơi nghe tiếng). Do vậy, thanh danh thanh tịnh an lạc
của đức Phật và quốc độ ấy có thể
khiến cho chúng sanh trong mười phương vô lượng
thế giới nghe tiếng bèn đạt được lợi
ích. V́ thế, kệ nói: “Phạm thanh ngộ thâm viễn,
vi diệu văn thập phương” (Tiếng Phạm
ngộ sâu mầu, vi diệu vọng mười
phương).
2.2.2.2.3.1.1.2.2.12.
Chủ công đức
(Luận) Trang nghiêm chủ công
đức thành tựu giả, kệ ngôn: “Chánh Giác A Di
Đà, pháp vương thiện trụ tŕ” cố.
(Chú) Thử vân hà bất tư
nghị? Chánh Giác A Di Đà bất khả tư nghị, bỉ
An Lạc Tịnh Độ, vi Chánh Giác A Di Đà thiện lực
trụ tŕ. Vân hà khả đắc tư nghị da? “Trụ”
danh bất dị, bất diệt, “tŕ” danh bất tán, bất
thất. Như dĩ Bất Hủ dược
đồ chủng tử, tại thủy bất lạn, tại
hỏa bất tiêu, đắc nhân duyên tắc sanh. Hà dĩ
cố? Bất Hủ dược
lực cố. Nhược nhân nhất sanh An Lạc Tịnh
Độ, hậu thời, ư nguyện sanh tam giới giáo
hóa chúng sanh, xả Tịnh Độ mạng, tùy nguyện đắc
sanh. Tuy sanh tam giới tạp sanh thủy hỏa trung, Vô Thượng
Bồ Đề chủng tử tất cánh bất hủ.
Hà dĩ cố? Dĩ kinh Chánh Giác A Di Đà Phật thiện
trụ tŕ cố.
()此云何不思議。正覺阿彌陀不可思議。彼安樂淨土。為正覺阿彌陀善力住持。云何可得思議耶。住名不異不滅。持名不散不失。如以不朽藥塗種子。在水不爛。在火不燋。得因緣則生。何以故。不朽藥力故。若人一生安樂淨土。後時意願生三界。教化眾生。捨淨土命。隨願得生。雖生三界雜生水火中。無上菩提種子。畢竟不朽。何以故。以經正覺阿彌陀善住持故。
(Luận:
Trang nghiêm chủ công đức thành tựu là như kệ
nói: “Chánh Giác A Di Đà, pháp vương khéo trụ tŕ”.
Chú: V́ sao chuyện này là
chẳng thể nghĩ bàn? Chánh Giác A Di Đà chẳng thể
nghĩ bàn, An Lạc Tịnh Độ được thiện
lực của Chánh Giác A Di Đà trụ tŕ, làm sao có thể
nghĩ bàn được? “Trụ” là chẳng khác, chẳng
diệt, “tŕ” là chẳng tan tác, chẳng mất đi. Như
dùng loại thuốc Bất Hủ bôi lên hạt giống, [hạt
giống sẽ] ở trong nước chẳng nát, ở
trong lửa chẳng cháy, hễ có nhân duyên bèn sanh trưởng.
V́ cớ sao? Do sức của thuốc Bất Hủ vậy.
Nếu người được sanh về An Lạc Tịnh
Độ, về sau có ư muốn sanh trong tam giới để
giáo hóa chúng sanh, xả mạng trong Tịnh Độ, sẽ
tùy nguyện mà được sanh. Tuy sanh trong tam giới, tạp
sanh (lục đạo), ở trong nước (ngạ quỷ),
lửa (địa ngục), chủng tử Vô Thượng
Bồ Đề rốt ráo chẳng mục nát. V́ cớ
sao? Do được Chánh Giác A Di Đà Phật khéo trụ
tŕ).
Quốc
độ Cực Lạc không chỉ có các thứ trang nghiêm, mà c̣n có A Di Đà Phật làm đấng Giáo Hóa Chủ.
V́ thế nói là Chánh Giác (Phật) A Di Đà, pháp vương
(tức Phật) khéo trụ tŕ, khiến cho Đại
Thừa Phật pháp tồn tại lâu dài trong thế gian, lợi
lạc chúng sanh. Phật là một trong năm loại chẳng
thể nghĩ bàn. Đấng Giáo Hóa Chủ đă chẳng
thể nghĩ bàn, cơi Ngài giáo hóa tức
quốc độ An Lạc được Phật trụ
tŕ, đương nhiên là cũng có chuyện
chẳng thể nghĩ bàn!
“Thiện trụ tŕ” là ǵ? Ngài
Đàm Loan giải thích: “Bất biến dị, bất hoại
diệt, danh chi vi Trụ; kiên cố bất tán thất, thuần
chánh bất sam tạp (như ngưu nhũ sam thủy tắc
thất kỳ nguyên vị), danh chi vi Tŕ” (Chẳng biến
đổi, chẳng hư diệt, th́ gọi là Trụ. Kiên
cố chẳng tan mất, thuần chánh, chẳng xen tạp
(như sữa ḅ xen lẫn nước sẽ đánh mất
vị ban đầu) th́ gọi là Tŕ), cũng
chính là như phần kệ về Đại Nghĩa Môn
trong phần sau có nói: “Đại Thừa thiện căn
giới, đẳng vô cơ hiềm danh, nữ nhân cập
căn khuyết, Nhị Thừa chủng bất sanh” (Cơi
thiện căn Đại Thừa, b́nh đẳng, không có
danh xưng chê gièm, nữ nhân và căn khuyết, chủng tánh
Nhị Thừa chẳng sanh [về Cực Lạc]), và trong
phần Kệ về “hết thảy
những điều mong cầu đều được
thỏa măn” có nói: “Chúng
sanh sở nguyện nhạo, nhất thiết năng măn túc”
(Điều chúng
sanh ưa thích, hết thảy đều thỏa măn). Có công
năng thiện lực như thế th́ gọi là “thiện
trụ tŕ”.
Ngài Đàm Loan lại nêu thí dụ
bôi thuốc Bất Hủ lên hạt giống. “Bất Hủ”
tức là Bất Tử. Đại Niết Bàn Kinh, quyển
thứ hai mươi lăm nói: “Tuyết Sơn chi trung,
hữu thượng hương dược, danh viết Sa
Ha. Hữu nhân kiến chi, đắc thọ vô lượng,
vô hữu bệnh tử” (Trong Tuyết Sơn có loại
thuốc thơm bậc thượng, tên là Sa Ha. Có người
trông thấy, sẽ thọ vô lượng, chẳng có bệnh,
chết). Sa Ha chính là thuốc bất tử, bôi lên một hạt
giống, nước sẽ chẳng làm nó mục nát được,
lửa chẳng thể đốt nó được, đă
lâu ngày mà chẳng hư hoại. Về sau, có được
các nhân duyên như đất đai, ánh sáng mặt trời,
nó sẽ nẩy mầm, sanh trưởng. V́ sao có thể như
vậy? Chuyện này hoàn toàn do cậy vào sức của thuốc
Bất Tử. Phàm là chúng sanh tu hành ngũ niệm môn, sẽ
giống như một hạt giống đă bôi thuốc Bất
Tử. Sau khi đă văng sanh Tịnh Độ, có thể chẳng
ĺa An Dưỡng, trở vào Sa Bà, khéo biết phương
tiện độ chúng sanh. Tuy sanh trong ngũ trược ác
thế, tam giới lục đạo (tạp sanh), cho đến
ở trong nước (súc sanh), lửa (địa ngục),
nhưng chủng tử Vô Thượng Bồ Đề tâm
vốn đă phát sẽ rốt ráo chẳng mục nát, vĩnh
viễn có thể giữ ǵn thiện căn Đại Thừa,
măi cho đến khi thành Phật. Thuốc Bất Tử ví
như A Di Đà Phật, Phật chẳng thể nghĩ
bàn. Chúng sanh văng sanh Tịnh Độ (chủng tử) cũng
chẳng thể nghĩ bàn. V́ cớ sao? Do được thiện
lực công đức chẳng thể nghĩ bàn của A
Di Đà Phật (thuốc bất tử) trụ tŕ mà thành tựu.
Chúng ta tŕ tụng
chú Văng Sanh, câu “a-di-rị-đá” (Amṛta) trong ấy
có nghĩa là Cam Lộ Vương. Cam Lộ là thuốc bất
tử. V́ thế, tŕ chú Văng Sanh sẽ được pháp lực
cam lộ của A Di Đà Phật gia tŕ. Sau khi đă văng sanh
Tịnh Độ, sẽ có được lợi ích và diệu
dụng chẳng thể nghĩ bàn như hạt giống được
bôi thuốc Bất Hủ vậy.
2.2.2.2.3.1.1.2.2.13.
Quyến thuộc công đức
(Luận) Trang nghiêm quyến
thuộc công đức thành tựu giả, kệ ngôn: “Như
Lai tịnh hoa chúng, Chánh Giác hoa hóa sanh” cố.
(Chú) Thử vân hà bất tư
nghị? Phàm thị tạp sanh thế giới, nhược
thai, nhược noăn, nhược thấp, nhược hóa,
quyến thuộc nhược can, khổ lạc vạn phẩm,
dĩ tạp nghiệp cố. Bỉ An Lạc quốc
độ, mạc phi thị A Di Đà Như Lai Chánh Giác tịnh
hoa chi sở hóa sanh, đồng nhất niệm Phật, vô
biệt đạo cố. Viễn thông phù pháp giới chi nội,
giai vi huynh đệ dă, quyến thuộc vô lượng, yên
khả tư nghị?
()此云何不思議。凡是雜生世界。若胎若卵若濕若化。眷屬若干。苦樂萬品。以雜業故。彼安樂國土。莫非是阿彌陀如來正覺淨華之所化生。同一念佛。無別道故。遠通夫法界之內皆為兄弟也。眷屬無量。焉可思議。
(Luận:
Trang nghiêm quyến thuộc công đức thành tựu là như
kệ nói: “Như Lai tịnh hoa chúng, hoa Chánh Giác hóa sanh”.
Chú: V́ sao chuyện này là
chẳng thể nghĩ bàn? Phàm là tạp sanh trong thế giới,
hoặc là thai sanh, hoặc noăn sanh, hoặc thấp sanh, hoặc
hóa sanh, quyến thuộc bao nhiêu đó, khổ sướng
muôn ngàn loại, do v́ các nghiệp xen tạp. Cơi nước
An Lạc ấy không ai chẳng hóa sanh từ hoa thanh tịnh
Chánh Giác của A Di Đà Như Lai, cùng là niệm Phật như
nhau, không hành theo đạo nào khác. Xa là suốt cả khắp
pháp giới đều là anh em. Quyến thuộc vô lượng,
há có thể nghĩ bàn được ư?)
Người đời nói tới
quyến thuộc, chỉ là nói theo gia tộc. Chúng sanh trong
cơi An Lạc đều chẳng có gia đ́nh, làm sao có quyến
thuộc cho được? Quyến thuộc của A Di
Đà Phật chính là hết thảy chúng sanh trong cơi ấy,
cho đến hết
thảy hữu t́nh trong tận pháp giới, khắp mười
phương đều là quyến thuộc. Giả sử
là thế giới tạp sanh (lục đạo) trong uế
độ, v́ đă tạo tạp nghiệp ô nhiễm bất
đồng, tất nhiên là có tứ sanh, tức thai, noăn, thấp,
hóa, cũng có đủ thứ khổ lạc sai khác vời
vợi! Nếu [là chúng
sanh] ở trong Cực Lạc Tịnh Độ th́ đều
được sanh bởi
giác tánh b́nh đẳng vô lượng thanh tịnh và sức
công đức chẳng thể nghĩ bàn của A Di Đà Như
Lai, tức là hóa sanh từ hoa sen thanh tịnh vô lượng.
Phàm những ai có thể sanh vào cơi An Lạc, đều tu pháp
môn Niệm Phật thuần thiện đồng nhất,
tuy chưa đoạn phiền hoặc, vẫn
có thể được văng sanh, quyết định chẳng
do tu hành loại nghiệp đạo nào khác mà được
văng sanh. Nghiệp đạo niệm Phật là nhân, liên hoa
hóa sanh là quả, nhân quả quyết định là như thế.
Do vậy, chuyên niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Cực
Lạc, gọi là đạo dễ hành “hoành siêu tam giới”
(vượt thoát tam giới theo chiều ngang), đới
nghiệp văng sanh, là đường tắt nhất trong các
đường tắt. Chuyện này há có phải là hạng
phàm phu b́nh phàm hoặc hàng Nhị Thừa mà có thể nghĩ,
có thể bàn được ư?
“Viễn thông phù
pháp giới chi nội, giai vi huynh đệ”: Hai câu này nói gần
th́ hết thảy chúng sanh trong cơi Cực Lạc đều
là quyến thuộc của A Di Đà Phật giống
như anh, như em. Nói xa th́ trong tận hư không khắp
pháp giới, hết thảy chúng sanh hữu t́nh cũng
đều là quyến thuộc của A Di Đà Phật,
thường nói là “tứ hải chi nội giai huynh đệ
dă” (trong bốn biển đều là anh em). V́ A Di Đà
Phật (giác tánh vô lượng thanh tịnh b́nh đẳng)
chính là cội nguồn của chư Phật, là căn bản
của hết thảy chúng sanh. Do vậy, quyến thuộc
của A Di Đà Phật là vô lượng chẳng thể
nghĩ bàn. Thường nói là “t́nh và vô t́nh cùng viên thành Chủng
Trí”, hoặc “một niệm trọn đủ
ba ngàn tánh tướng”. Trong khắp pháp giới, có pháp
nào có thể vượt ra ngoài giác tánh vô lượng thanh tịnh
b́nh đẳng hay chăng? Đấy chính là môn “chủ
bạn viên dung cụ đức” (chủ (Phật) và bạn
(các vị Bồ Tát và nhân dân trong Cực Lạc) viên dung trọn
đủ các đức) trong Thập Huyền Môn như kinh Hoa Nghiêm đă nói, là cảnh giới
chẳng thể nghĩ bàn!
2.2.2.2.3.1.1.2.2.14.
Thọ dụng công đức
(Luận) Trang nghiêm thọ dụng
công đức thành tựu giả, kệ ngôn: “Ái nhạo Phật
pháp vị, Thiền tam-muội vi thực” cố.
(Chú) Thử vân hà bất tư
nghị? Bất thực nhi tư mạng, cái sở tư hữu
dĩ dă. Khởi bất thị Như Lai măn bổn nguyện
hồ? Thừa Phật nguyện vi ngă mạng, yên khả tư
nghị?
()此云何不思議。不食而資命。蓋所資有以也。豈不是如來滿本願乎。乘佛願為我命。焉可思議。
(Luận:
Trang nghiêm thọ dụng công đức thành tựu là như
kệ nói: “Yêu thích Phật pháp vị, ăn bằng Thiền
tam-muội”.
Chú: V́ sao chuyện này là
chẳng thể nghĩ bàn? Chẳng ăn mà có thể nuôi được
tánh mạng, ấy là v́ có duyên do nuôi dưỡng cái mạng
ấy. [Duyên do ấy] há chẳng phải là do Như Lai đă
viên măn bổn nguyện đó ư? Nương theo nguyện
của Phật để làm mạng của chính ḿnh, há có
thể nghĩ bàn nổi ư?)
Ngài Đàm
Loan có kim cang pháp nhăn, ở đây, Ngài đă đặc biệt
chỉ điểm chúng ta: Bổn nguyện của A Di
Đà Phật là chẳng thể nghĩ bàn nhất trong các điều
chẳng thể nghĩ bàn. Hết thảy đại chúng trời
người và tam thừa
thánh hiền trong quốc độ An Lạc đều là liên
hoa hóa sanh, đều chẳng cần ăn uống để
nuôi nấng, duy tŕ tánh mạng. Như kinh Vô Lượng Thọ
đă nói: “Thật vô thực giả, đản kiến
sắc, văn hương, ư dĩ vi thực, tự nhiên băo
túc” (Thật sự chẳng ăn, chỉ thấy sắc,
ngửi hương, nghĩ là đă ăn, tự nhiên no đủ).
V́ sao có thể như vậy? Há chẳng phải là do bổn
nguyện trọn đủ, bổn nguyện rốt ráo của
A Di Đà Phật ư? Chín phẩm phàm phu nương theo bổn
nguyện của A Di Đà Phật, chẳng do cha mẹ
sanh thành, mà được liên hoa hóa sanh trong Tịnh Độ.
Cũng là do nương cậy bổn nguyện của A Di
Đà Phật, chẳng cần ăn uống mà được
thọ mạng vô lượng, chẳng có lúc cùng tận!
Lại c̣n cậy vào bổn
nguyện của A Di Đà Phật, chẳng cần phải
trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp, chỉ
trong một đời này mà viên măn Bồ
Đề, thành tựu tam thân, tứ trí, ngũ nhăn, lục
thông, hết thảy công đức thần thông. Nếu không
có bổn nguyện của Phật Di Đà, chúng ta làm sao có
thể văng sanh Tịnh Độ, liên hoa hóa sanh? Làm sao có thể chẳng ăn mà vẫn
nuôi nấng, duy tŕ sanh mạng được? Làm sao có thể
hễ văng sanh bèn vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, rốt
ráo nhất sanh bổ xứ? Đấy chính là như ngài Đàm
Loan đă nói: “Cái sở tư hữu dĩ dă” (ấy
là v́ có duyên do mà cái mạng ấy được nuôi dưỡng)!
Chư vị liên hữu ơi!
Chúng ta đă biết bổn nguyện của A Di Đà Phật,
Ngài đối với chúng ta có ân đức không ǵ lớn
hơn được, hăy thiết thực ghi tạc trong ḷng:
“A Di Đà Phật đại nguyện vương (bổn
nguyện), từ bi hỷ xả khó lường, giữa
hai mày thường phóng bạch hào quang, độ chúng sanh sanh
về cơi Cực Lạc, ao tám đức trổ sen chín phẩm,
cây mầu bảy báu xếp thành hàng. Như Lai thánh hiệu
nếu tuyên dương, tiếp dẫn (nhất định)
về Tây Phương. Di Đà thánh hiệu nếu xưng
dương, đồng nguyện về Tây Phương”.
Niệm niệm chẳng quên, thật thà niệm Phật, cầu
sanh Cực Lạc! Sau đấy, nương theo bổn
nguyện của Phật và bổn nguyện
của chính ḿnh, trở vào Sa Bà, phân thân trong các cơi nhiều như
vi trần, rộng độ hàm thức để báo ân Phật!
Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà
Đề Xá Chú Giải Giảng Nghĩa
phần 6 hết
[1] Phạm Bàng (137-169), tự là Mạnh
Bác, quê ở huyện Chinh Khang, quận Nhữ Nam, từng
làm đến chức
Thái Thú quận Nhữ Nam. Dưới đời Hán Linh
Đế, bọn Thập Thường Thị hoành hành.
Nguyên do là v́ Hán Linh Đế u mê, sủng ái, hoàn toàn mù quáng tin cậy mười tên thái giám
(Trương Nhượng, Triệu Trung, Hạ Uẩn,
Quách Thắng, Tôn Chương, Tất Lam v.v…). Do chúng đều
giữ chức Trung Thường Thị, nên sử sách gọi
chúng là đảng Thập Thường Thị. Vua cho bọn
chúng can dự triều chánh, có đặc quyền xem tấu
chương, đàn hặc các quan. Chúng thừa cơ ton
hót, xúi vua phong cho anh em, cháu chắt của chúng giữ trọng
quyền trong các phiên trấn, vu cáo, hăm hại các bậc
trung lương. Do chống đối bè đảng Thập
Thường Thị, Phạm Bàng nhiều lần bị tù
đày. Đốc Bưu quận Nhữ Nam là Ngô Đạo
khi nhận được chiếu chỉ bắt giam Phạm
Bàng đă ôm chiếu chỉ khóc ṛng, không muốn đi. Phạm
Bàng tự vào nhà giam, huyện lệnh Nhữ Nam liền tháo bỏ ấn tín của chính ḿnh,
khuyên Phạm Bàng cùng bỏ trốn, nhưng ông cự tuyệt.
Về sau, Phạm Bàng chết trong ngục.
[2] Hậu Hán Thư là tác phẩm biên
niên sử được xếp vào trong hai mươi
lăm bộ sử của Trung Hoa. Sách do Phạm Việp
(398-445) biên soạn vào đời Lưu Tống, chép lịch
sử nhà Hán từ lúc Hán Quang Vũ Đế diệt
Vương Măng, tái lập nhà Hán cho đến khi Hán Hiến Đế bị
ép nhường ngôi cho Tào Phi (lập ra nhà Ngụy).