Vô Lượng
Thọ Kinh
Ưu Bà
Đề Xá Chú Giải
Giảng
Nghĩa
phần
8
無量壽經優婆提舍註解講義
Ấn Độ
Thế Thân Bồ Tát tạo luận
印度世親菩薩造論
Nguyên Ngụy
Thiên Trúc Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi dịch luận
元魏天竺三藏菩提流支譯論
Nguyên Ngụy
Huyền Trung Tự sa-môn Đàm Loan chú giải
元魏玄中寺
Dân Quốc
Tịnh Luật Tự sa-môn Tánh Phạm giảng nghĩa
民國淨律寺 門性梵講義
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
2.2.2.2.3.2.1.3.
Thị hiện đức tự lợi, lợi tha của
Như Lai
(Luận) Tức kiến bỉ
Phật, vị chứng tịnh tâm Bồ Tát, tất cánh đắc
chứng b́nh đẳng Pháp Thân, dữ tịnh tâm Bồ
Tát, dữ thượng địa chư Bồ Tát, tất
cánh đồng đắc tịch diệt b́nh đẳng cố.
(Chú) “B́nh đẳng
Pháp Thân” giả, Bát Địa
dĩ thượng pháp tánh sanh thân Bồ Tát dă. “Tịch
diệt b́nh đẳng” giả, tức thử
Pháp Thân Bồ Tát sở chứng tịch diệt b́nh đẳng
chi pháp dă. Dĩ đắc thử tịch diệt b́nh đẳng
pháp, cố danh vi “b́nh
đẳng Pháp Thân”. Dĩ
b́nh đẳng Pháp Thân Bồ Tát sở đắc, cố
danh vi “tịch
diệt b́nh đẳng pháp” dă.
(論)即見彼佛。未證淨心菩薩。畢竟得證平等法身。與淨心菩薩。與上地諸菩薩。畢竟同得寂滅平等故。
(註)平等法身者。八地已上法性生身菩薩也。寂滅平等者。即此法身菩薩所證寂滅平等之法也。以得此寂滅平等法。故名為平等法身。以平等法身菩薩所得。故名為寂滅平等法也。
(Luận:
Tức là thấy đức Phật th́ vị Bồ
Tát chưa chứng tịnh tâm sẽ rốt ráo chứng Pháp
Thân b́nh đẳng, cùng với tịnh tâm Bồ Tát và các vị
thượng địa Bồ Tát rốt ráo cùng đắc
tịch diệt b́nh đẳng.
Chú: “B́nh đẳng
Pháp Thân” là pháp
tánh sanh thân Bồ Tát từ Bát Địa trở lên. “Tịch
diệt b́nh đẳng” chính là pháp tịch diệt b́nh đẳng
do Pháp Thân Bồ Tát đă chứng. Do đắc pháp tịch
diệt b́nh đẳng này, nên gọi là “Pháp Thân b́nh
đẳng”. Do là
pháp chứng đắc bởi Pháp Thân Bồ Tát, nên gọi
là “pháp tịch diệt b́nh đẳng”).
Pháp Thân b́nh đẳng là Lư Thể
b́nh đẳng do chư Phật cùng chứng, c̣n gọi là tự
tánh thanh tịnh tâm, chân tâm, Chân Như, Thật Tướng,
Phật Tánh, pháp tánh, pháp giới, Như Lai Tạng Tâm, Đại
Viên Giác, hoặc
Vô Cấu Thức.
Pháp Thân: “Pháp” là nói theo ư
nghĩa “công năng”, Thân là nói theo ư nghĩa “nương cậy,
ǵn giữ”. Tức là cái “nhất
tâm” này có công năng
ǵn giữ, có thể hiển hiện các pháp nhiễm hay tịnh.
Các pháp đều nương theo tâm mà duyên thành, chẳng một,
chẳng khác với cái tâm. V́ thế, dùng b́nh đẳng nhất
tâm làm Pháp Thân, tức là chúng sanh tâm cấu nhưng tự tánh
thanh tịnh, chẳng phải là ĺa ngoài cái tâm nhơ bẩn
(cấu tâm) mà có riêng một cái tịnh tâm! V́ thế gọi
là “tự tánh thanh tịnh tâm”.
Vạn pháp hư ngụy, duyên
hội hợp bèn sanh; pháp được sanh ra vốn là Không,
hết thảy duy tâm. Do đối ứng với các pháp hư
ngụy mà gọi là Chân Tâm.
Hết
thảy các pháp nương vào tâm mà duyên khởi, dùng tâm làm
Thể th́ gọi là Chân. Tâm, Phật, chúng sanh, ba thứ chẳng
sai biệt, nên gọi là Như. V́ thế gọi là Chân
Như.
Pháp Thân vô tướng, vô bất
tướng (chẳng phải là không có tướng), nên gọi
là Thật Tướng.
Phật là Giác, Tánh tức là
tâm. Tịnh tâm vốn giác, nên gọi là Phật Tánh.
Pháp Thân b́nh đẳng, tức
là vạn pháp b́nh đẳng tánh Không. Tánh có nghĩa là “chẳng
thay đổi, chân thật”. V́ thế gọi
là Pháp Tánh.
Nhất niệm tâm trọn đủ
các pháp thuộc mười pháp giới, tùy duyên mà hiện,
nên gọi là Pháp Giới.
Nhất tâm nhị môn, chứa
đựng và tiếp nhận nhiều thứ. Chân Như Môn
là Như, Sanh Diệt Môn là Lai; v́ thế gọi là Như Lai
Tạng Tâm. Như Lai Tạng Tâm có ba nghĩa “năng tàng” (có thể chứa
đựng), “sở
tàng” (được
chứa đựng) và “năng
sanh” (có thể
sanh). Pháp Thân b́nh đẳng do chư Phật chứng đắc,
tánh đức tịnh tâm mà chúng sanh vốn trọn đủ
; đấy chính là Như Lai Tạng Tâm năng tàng. Nhất
tâm nhị môn, pháp vốn sẵn có như thế, nhưng
chúng sanh bị vô minh che lấp, [cho nên] có Sanh Diệt mà chẳng
có Chân Như. Đấy chính là Như Lai tạng Tâm sở
tàng. Như thai tạng (tử cung) của người nữ
có thể sanh ra con cái, cái tâm này cũng vậy: Thể của
nó trọn đủ công dụng của hai tánh tịnh và nhiễm,
có thể sanh ra các pháp nhiễm và tịnh. Đấy là Như
Lai Tạng Tâm năng sanh.
Tâm tuy không tịch, nhưng
bao trùm trọn vẹn thái hư, linh tri chẳng mê muội.
V́ thế gọi là Đại Viên Giác.
Như hoa sen mọc từ bùn
lầy mà chẳng bị nhuốm
bẩn, v́ thế gọi là Vô Cấu Thức.
Lời luận đă nói: Tịnh
tâm, Pháp Thân b́nh đẳng, và tịch diệt b́nh đẳng
(pháp tánh) là một pháp mà có nhiều tên gọi
khác nhau. Thể của nó chẳng khác biệt, tức là như
Thiền Tông đă gọi là “bản lai diện mục”
(diện mạo vốn sẵn có), Tịnh Độ Tông gọi
nó là “vô lượng quang, vô lượng thọ”. Phàm những ai có thể
nương theo luận này để tu ngũ niệm môn thành
tựu th́ trong hiện đời, hoặc
khi văng sanh, bèn thấy A Di Đà Phật. Do thấy Phật
(vị Phật tam thân nhất thể) bèn gọi là “đắc
Niệm Phật tam-muội”. Đấy chính là chứng
đắc tịnh tâm, Pháp Thân b́nh đẳng, pháp tánh tịch
diệt b́nh đẳng.
Bất luận quư vị là
phàm phu, Nhị Thừa, hoặc là Bồ Tát, trước
khi chứng Sơ Địa, tuy chưa chứng ngộ tịnh
tâm, chỉ cần có thể thấy Phật Di Đà, sẽ
có thể sanh về Cực Lạc, rốt ráo đều có
thể chứng đắc Pháp Thân b́nh đẳng, rốt
ráo b́nh đẳng, trọn chẳng có ai không chứng. Nếu
như quư vị là bậc địa thượng Bồ
Tát đă chứng tịnh tâm, sẽ có thể cùng với bậc
đại Bồ Tát từ Bát Địa trở lên cùng chứng
Pháp Thân thanh tịnh của chư Phật (Pháp Thân đức),
viên măn Báo Thân (Bát Nhă đức), ngàn trăm ức hóa thân
(Giải Thoát đức), cùng nhập biển đại tịch
diệt (Niết Bàn) của Như Lai. Tịch mà thường
Chiếu, Chiếu mà thường Tịch, cũng là rốt
ráo b́nh đẳng, chẳng có sai biệt.
Điều này cũng có cùng một
ư thú “rốt ráo cùng đắc Pháp Thân b́nh đẳng”
như trong phẩm Thí Dụ của kinh Pháp Hoa đă nói: “Như
bỉ trưởng giả, sơ dĩ tam xa dụ dẫn
chư tử, nhiên hậu đản dữ đại (bạch
ngưu) xa, bảo vật trang nghiêm, an ổn đệ nhất.
Như Lai diệc phục như thị, sơ thuyết tam
thừa dẫn đạo chúng sanh, nhiên hậu đản dĩ
Đại Thừa (đại Niết Bàn) nhi độ thoát
chi” (Như ông trưởng giả kia thoạt đầu
dùng ba loại xe để dẫn dụ các con, sau đấy
chỉ cho họ xe (trâu trắng) lớn,
trang hoàng bằng các món báu, an ổn bậc nhất. Như
Lai cũng giống như thế, thoạt đầu nói ba
thừa để hướng dẫn chúng sanh. Sau đấy
chỉ dùng Đại Thừa (đại Niết Bàn) để
độ thoát). Chẳng qua Pháp Hoa là “hội tam quy nhất”
(gộp chung ba thừa về một thừa), trước
là Quyền, sau là Thật. Pháp môn Tịnh Độ chính là “tức
Quyền, tức Thật” (tuy Quyền mà chính là Thật,
tuy Thật mà lại là Quyền), Quyền và Thật chẳng
hai, thuần nhất Phật Thừa. Pháp Hoa thuộc về
Nan Hành Đạo, c̣n Tịnh Độ là Dị Hành Đạo.
Pháp môn này do thấy đức
Di Đà “ba thân một Thể”, liền thấy Tự
Tánh Thiên Chân Phật, là con đường gọn tắt nhất
để hết thảy chúng sanh từ địa vị phàm
phu mà vào thẳng địa vị Phật! Đấy cũng
là cốt lơi, là then chốt của tất cả Bồ Tát hạnh
“tự lợi,
lợi tha” cho hết thảy
chúng sanh từ phát tâm cho đến khi thành Phật. Do vậy,
trong kinh Quán Phật Tam Muội, đức Thích Ca Thế Tôn
đă nói: “Ngă dĩ niệm Phật cố, quán Phật cố,
đắc Nhất Thiết Chủng Trí (thành Phật)”
(Ta do niệm Phật, do quán Phật mà đạt được
Nhất Thiết Chủng Trí, tức thành Phật). Do điều
này có thể biết, pháp môn ngũ niệm trong bộ luận
này chính là gom ngũ thừa cùng về Nhất Thừa, tùy ư
tự nhiên, cùng đạt được chiếc thuyền
Từ “thành Phật” to lớn. Phẩm cuối cùng
của kinh Hoa Nghiêm dùng mười đại Phổ Hiền
hạnh nguyện để hướng dẫn về Cực
Lạc, gặp gỡ, chầu hầu Phật Di Đà, có
thể viên măn Bồ Đề ngay trong một đời, rốt
ráo cùng chứng Pháp Thân thanh tịnh b́nh đẳng của Như
Lai, chính là ư này vậy.
Ngài Đàm Loan giảng giải,
dùng người năng chứng (có thể chứng đắc)
và sở chứng pháp (pháp được chứng bởi người
ấy) để giảng rơ chỗ sai khác giữa Pháp Thân b́nh
đẳng và tịch diệt b́nh đẳng, khiến cho
[người đọc] dễ liễu tri. Thật ra, Pháp
Thân b́nh đẳng và pháp tánh tịch diệt đều là “ngôn
ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”, chỉ có
chứng mới biết; lại c̣n chẳng có Năng và Sở,
chẳng thể phân biệt, ĺa tứ cú[1], tuyệt bách phi! Nếu
vẫn c̣n có “năng - sở, nhân - pháp” đối đăi
th́ chẳng phải là Pháp Thân b́nh đẳng! V́ thế,
trong kinh có nói: “Tự tâm tự thủ tâm (tác năng sở
phân biệt), phi huyễn thành huyễn pháp” (Tự tâm tự
chấp giữ cái tâm (tức là phân biệt có chủ thể
và khách thể), cái chẳng hư huyễn bèn trở thành pháp
hư huyễn), hoặc “tri kiến lập tri, tức vô
minh bổn; tri kiến vô kiến (vô năng sở phân biệt),
tư tức Niết Bàn” (từ nơi hay biết mà lập
ra một cái biết th́ chính là cội gốc của vô minh.
Đối với tri kiến mà chẳng có thấy (tức
là không có phân biệt chủ thể và khách thể), đấy
chính là Niết Bàn). Trung Luận có bài kệ rằng: “Chư
pháp Thật Tướng giả, tâm hạnh ngôn ngữ đoạn,
vô sanh diệc vô diệt, tịch diệt như Niết
Bàn, tự tri bất tùy tha, tịch diệt vô hư luận, vô
dị, vô phân biệt, thị tắc danh Thật Tướng
(b́nh đẳng Pháp Thân). Bất đoạn diệc bất
thường, bất nhất diệc bất dị, thị
danh chư Thế Tôn, giáo hóa cam lộ vị” (Đối với
Thật Tướng của các pháp th́ tâm suy nghĩ và ngôn ngữ
[toan diễn tả] đều bất lực. [Thật Tướng]
chẳng sanh mà cũng chẳng diệt, tịch diệt như
Niết Bàn. Tự hay biết, chẳng do điều ǵ khác
mà [hay biết]. Tịch diệt chẳng có hư luận, không
khác, không phân biệt. Đó gọi là Thật Tướng
(tức Pháp Thân b́nh đẳng). Chẳng đoạn mà cũng
chẳng thường, chẳng một mà cũng chẳng
khác. Đó gọi là vị cam lộ giáo hóa của các đức
Thế Tôn).
(Chú) Thử Bồ Tát
đắc báo sanh tam-muội, dĩ tam-muội thần lực,
năng nhất xứ, nhất niệm, nhất thời, biến
thập phương thế giới, chủng chủng cúng
dường nhất thiết chư Phật, cập chư
Phật đại hội chúng hải, năng ư vô
lượng thế giới vô Phật Pháp Tăng xứ, chủng
chủng thị hiện, chủng chủng giáo hóa, độ
thoát nhất thiết chúng sanh, thường tác Phật sự,
sơ vô văng lai tưởng, cúng dường tưởng, độ
thoát tưởng. Thị cố thử thân danh vi “b́nh
đẳng Pháp Thân”, thử
pháp danh vi “tịch
diệt b́nh đẳng pháp” dă.
(註)此菩薩得報生三昧。以三昧神力。能一處一念一時。遍十方世界。種種供養一切諸佛。及諸佛大會眾海。能於無量世界無佛法僧處。種種示現。種種教化。度脫一切眾生。常作佛事。初無往來想。供養想。度脫想。是故此身名為平等法身。此法名為寂滅平等法也。
(Chú:
Vị Bồ Tát ấy đắc báo sanh tam-muội, do thần
lực của tam-muội có thể trong một chỗ, một
niệm, một thời, mà trọn khắp mười
phương thế giới, đủ mọi thứ cúng
dường hết thảy chư Phật và biển đại
chúng
trong pháp hội của chư Phật,
có thể trong vô lượng thế giới là những chỗ
không có Phật Pháp Tăng mà thị hiện đủ mọi
cách, giáo hóa đủ mọi cách, độ thoát hết thảy
chúng sanh, thường làm Phật sự, trọn chẳng có
ư tưởng đến đi, ư tưởng cúng dường,
ư tưởng độ thoát. V́ thế, thân này gọi là “Pháp Thân b́nh
đẳng”, pháp này
được gọi là “pháp b́nh
đẳng tịch diệt”).
Trong đoạn
chú giải này, ngài Đàm Loan giảng giải về hàng Bồ
Tát văng sanh Tịnh Độ đă đắc tịnh tâm, đều
là vốn sẵn đắc báo sanh tam-muội (tức tam-muội
do quả báo mà tự nhiên có, chẳng phải là do kết
quả của sự tu tập). Do thần lực của tam-muội
ấy, cho nên giống như trên đây đă nói: Bồ Tát trong
cơi ấy có bốn thứ công đức do tu hành chân chánh. Báo
sanh tam-muội là ǵ? Tức là bậc Bát Địa Bồ
Tát trở lên mặc sức tự nhiên thường nhập
tam-muội, chẳng phải tốn tâm lực, chẳng cần
phải tác ư (dấy lên ư tưởng nhập Định),
có thể hiện các thứ h́nh, sanh ra đủ loại công
đức. Cái thân đắc báo sanh tam-muội ấy được
gọi là “Pháp Thân b́nh đẳng”, pháp báo sanh tam-muội
th́ được gọi là “pháp tịch diệt b́nh
đẳng”, cũng là chẳng một, chẳng khác!
(Chú) Vị chứng tịnh
tâm Bồ Tát giả, Sơ Địa dĩ thượng,
Thất Địa dĩ hoàn chư Bồ Tát dă. Thử Bồ
Tát diệc năng hiện thân, nhược bách, nhược
thiên, nhược vạn, nhược ức, nhược
bách thiên vạn ức, vô Phật quốc độ thi tác Phật
sự. Yếu tu tác tâm nhập tam-muội năi năng, phi bất
tác tâm. Dĩ tác tâm cố, danh vi “vị đắc tịnh
tâm”. Thử Bồ Tát nguyện sanh An Lạc Tịnh Độ,
tức kiến A Di Đà Phật. Kiến A Di Đà Phật
thời, dữ thượng địa chư Bồ Tát tất
cánh thân đẳng, pháp đẳng. Long Thọ Bồ Tát, Bà
Tẩu Bàn Đầu Bồ Tát bối, nguyện sanh bỉ
giả, đương vị thử nhĩ.
(註)未證淨心菩薩者。初地已上。七地已還。諸菩薩也。此菩薩亦能現身。若百若千若萬若億。若百千萬億。無佛國土。施作佛事。要須作心入三昧乃能。非不作心。以作心故。名為未得淨心。此菩薩願生安樂淨土。即見阿彌陀佛。見阿彌陀佛時。與上地諸菩薩畢竟身等法等。龍樹菩薩。婆藪槃頭菩薩輩。願生彼者。當為此耳。
(Chú: Bồ Tát chưa
chứng tịnh tâm là các vị Bồ Tát từ Sơ Địa
trở lên, từ Thất Địa Bồ Tát trở xuống.
Vị Bồ Tát này cũng có thể hiện thân trong trăm,
hoặc ngàn, hoặc vạn, hoặc ức, hoặc trăm
ngàn vạn ức cơi nước không có Phật để
thực hiện Phật sự, [nhưng vị ấy] phải
khởi tâm nhập tam-muội th́ mới có thể [hiện
thân trong quốc độ khác], chứ không phải là chẳng
khởi tâm. Do phải khởi tâm, nên gọi là “chưa đắc
tịnh tâm”. Vị Bồ Tát ấy nguyện sanh về An Lạc
Tịnh Độ, liền thấy A Di Đà Phật. Khi thấy
A Di Đà Phật, thân và pháp sẽ
rốt ráo ngang bằng các vị thượng địa Bồ
Tát. Những vị như Long Thọ Bồ Tát, Bà Tẩu Bàn
Đầu Bồ Tát nguyện sanh về cơi ấy chính là v́
chuyện này).
Trong đoạn
văn này, ngài Đàm Loan giải thích “Bồ Tát chưa chứng
tịnh tâm Bồ Tát” là ǵ? Điều này chẳng giống
như trong các kinh luận thường nói. Nói thông thường,
Sơ Địa Bồ Tát đắc vô lậu (tự tánh thanh
tịnh) tịnh tâm, các bậc Bồ Tát thuộc Địa
Tiền Tam Hiền[2] đều chưa đắc.
Chẳng phải là như [các vị Bồ Tát] từ Bát Địa
Bồ Tát trở lên, [các vị ấy]
chẳng khởi tâm mà có thể hiện ngàn trăm ức
hóa thân v́ đă đắc tịnh tâm. Từ Thất Địa
trở về trước, do phải khởi tâm, nên gọi
là “chưa đắc tịnh tâm”. C̣n như Long Thọ
Bồ Tát th́ trong kinh Lăng Già, đức Phật đă huyền
kư: Sau khi [Long Thọ] Bồ Tát chứng Sơ Địa, văng
sanh Cực Lạc, bèn thuộc loại Bồ Tát đă đắc
tịnh tâm văng sanh Tịnh Độ. Thế Thân Bồ Tát
(Bà Tẩu Bàn Đầu, Vasubandhu) Bồ
Tát thuộc địa vị Tứ Gia Hạnh Bồ Tát của
Đại Thừa, thuộc loại “chưa đắc
tịnh tâm Bồ Tát văng sanh”.
Như trong phần trước
tôi đă nói, bất luận quư vị là phàm phu hay Nhị Thừa,
hoặc là bất cứ hạng Bồ Tát nào, chỉ cần
có thể văng sanh An Lạc Tịnh Độ, thấy A Di
Đà Phật (tam thân nhất thể Phật), sẽ được
thấy Tự Tánh Thiên Chân Phật, tức là chứng đắc
tịnh tâm, b́nh đẳng với bậc Thập Địa
Bồ Tát. Đó gọi là “hoa nở thấy Phật, ngộ
Vô Sanh”, ai nấy đều như thế. Bất quá, như
người thấy mặt trăng, chỉ có một vầng
trăng, chẳng có sai biệt, nhưng trăng từ mồng
Ba đến Rằm tṛn khuyết khác nhau. Thập Địa
Bồ Tát cũng giống như thế, do liên quan đến
công hạnh cạn hay sâu, mà có mười địa vị
sai khác. Đó gọi là “đoạn vô minh từng phần,
chứng Pháp Thân từng phần”, chẳng phải là chứng
tịnh tâm và Pháp Thân b́nh đẳng có sai khác!
Luận này nói hàng Bồ Tát chưa
chứng tịnh tâm thấy A Di Đà Phật, liền đắc
Pháp Thân b́nh đẳng, sẽ b́nh đẳng, chẳng khác bậc
địa thượng tịnh tâm Bồ Tát. Đấy là
nói “rốt ráo bèn có thể đạt được, tất
nhiên chứng đắc”. Tôi nói một thí dụ: Như Thái
Tử đầu ḷng do quốc vương sanh ra, khác hẳn
những người dân b́nh phàm. Vừa sanh ra đă vượt
trỗi văn vơ bá quan, rốt ráo bằng với hết thảy
các quốc vương, v́ [Thái Tử] rốt cuộc sẽ
có thể kế thừa ngôi vị quốc vương, tất
nhiên sẽ làm quốc vương, trọn chẳng phải
là nói [Thái Tử] hiện thời đang làm quốc vương.
Bồ Tát văng sanh An Lạc Tịnh Độ khác các vị Bồ
Tát b́nh phàm, tức là giống như đệ nhất Thái Tử
do quốc vương sanh ra chẳng giống những người
dân b́nh phàm. Vừa đến cơi đó, sẽ vượt trỗi
các vị địa tiền Bồ Tát (Bồ Tát chưa chứng
Sơ Địa), phàm phu, và Nhị Thừa trong cơi này; v́ vị
ấy tất nhiên thấy A Di Đà Phật, ngộ Vô Sanh
Nhẫn, rốt cuộc chỉ trong một đời này,
sẽ cùng với các bậc địa thượng, cho đến
Đẳng Giác Bồ Tát đồng đắc tịnh tâm,
đồng nhập đại Niết Bàn của Như Lai,
Pháp Thân b́nh đẳng chẳng có sai biệt! Nhưng chẳng
phải là nói “hễ văng sanh Tịnh Độ, sẽ ngay lập
tức là bậc Bồ Tát từ Bát Địa trở lên
cho đến Đẳng Giác, ngay lập tức là Phật!”
Như Thái Tử trước khi đăng cực (lên ngôi)
kế vị, vẫn chẳng phải là quốc vương,
chỉ là Thái Tử rốt cuộc sẽ làm quốc vương
đó thôi! Đấy chính là nguyện thứ mười
trong bốn mươi tám nguyện, “chẳng dấy khởi
ư niệm tham đắm, so đo”; nguyện thứ mười
một, “Chánh Định ắt đạt đến Niết
Bàn”. Do sức công đức của hai nguyện ấy,
cũng như do thần lực chẳng thể nghĩ bàn của
A Di Đà Phật nhiếp thọ hàng Bồ Tát văng sanh cơi ấy,
các Ngài rốt cuộc đều có thể đạt được
Pháp Thân b́nh đẳng, Đại Niết Bàn lạc, chẳng
khác Phật!
(Chú) Vấn viết: Án Thập
Địa kinh, Bồ Tát tấn thú giai cấp, tiệm hữu
vô lượng công huân, kinh đa kiếp số, nhiên hậu
năi đắc. Thử (luận) vân hà kiến A Di Đà Phật
thời, tất cánh dữ thượng địa chư Bồ
Tát thân đẳng, pháp đẳng da? Đáp viết: Ngôn “tất
cánh” giả, vị ngôn “tức đẳng” dă. Tất cánh bất
thất thử đẳng, cố ngôn “đẳng” nhĩ.
Vấn viết: Nhược bất tức đẳng, phục
hà đăi ngôn? Bồ Tát đản đăng Sơ Địa,
dĩ tiệm tăng tấn, tự nhiên đương dữ
Phật đẳng, hà giả ngôn “dữ thượng địa
Bồ Tát đẳng”? Đáp viết: Bồ Tát ư Thất
Địa trung, đắc đại tịch diệt, thượng
bất kiến chư Phật khả cầu, hạ bất
kiến chúng sanh khả độ, dục xả Phật
đạo, chứng ư Thật Tế. Nhĩ thời, nhược
bất đắc thập phương chư Phật thần
lực gia khuyến, tức tiện diệt độ, dữ
Nhị Thừa vô dị. Bồ Tát nhược văng sanh An Lạc,
kiến A Di Đà Phật, tức vô thử nạn. Thị
cố, tu ngôn “tất cánh b́nh đẳng”.
(註)問曰。案十地經。菩薩進趣階級。漸有無量功勳。經多劫數。然後乃得。此(論)云何見阿彌陀佛時。畢竟與上地諸菩薩。身等法等耶。答曰。言畢竟者。未言即等也。畢竟不失此等。故言等耳。問曰。若不即等。復何待言。菩薩但登初地。以漸增進。自然當與佛等。何假言與上地菩薩等。答曰。菩薩於七地中。得大寂滅。上不見諸佛可求。下不見眾生可度。欲捨佛道。證於實際。爾時若不得十方諸佛神力加勸。即便滅度。與二乘無異。菩薩若往生安樂。見阿彌陀佛。即無此難。是故須言畢竟平等。
(Chú: Hỏi: Xét theo sự
tăng tấn theo từng tầng
cấp của Bồ Tát trong kinh Thập Địa, th́ do dần
dần có vô lượng công huân, trải qua nhiều kiếp
số, sau đó mới đạt được. V́ sao luận
này nói “khi thấy A Di Đà Phật, thân và pháp [của người
văng sanh ấy] sẽ rốt ráo bằng với các vị thượng
địa Bồ Tát?” Đáp: Chẳng nói là “ngay lập tức
liền bằng”! Do rốt cuộc chẳng mất sự ngang
bằng ấy, nên nói là “bằng”. Hỏi: Nếu chẳng
ngay lập tức được bằng, c̣n nói làm chi nữa?
Bồ Tát chỉ cần chứng
Sơ Địa, do dần dần tăng tấn, tự
nhiên sẽ bằng với Phật, hơi đâu mà nói là bằng
với bậc thượng địa Bồ Tát? Đáp:
Trong địa vị Thất Địa, Bồ Tát đắc
đại tịch diệt, trên là chẳng thấy chư Phật
để có thể cầu, dưới là chẳng thấy
chúng sanh để có thể độ, muốn bỏ Phật
đạo ḥng chứng Thật Tế. Lúc bấy giờ, nếu
chẳng được thần lực của mười
phương chư Phật gia hộ, khuyên lơn, sẽ liền
diệt độ, chẳng khác hàng Nhị Thừa. Nếu
Bồ Tát văng sanh An Lạc, thấy A Di Đà Phật, sẽ
chẳng có nạn ấy. V́ thế, cần phải nói là “rốt
ráo b́nh đẳng”).
Hai lượt
vấn đáp này nhằm thuyết minh điều được
nói trong bộ luận này, tức ư nghĩa đặc biệt
của chuyện “tất cả Bồ Tát chưa đắc
tịnh tâm nếu văng sanh
cơi ấy rốt cuộc sẽ cùng với tịnh tâm địa
thượng Bồ Tát đều đắc Pháp Thân b́nh
đẳng”, tức là: Đă văng sanh An Lạc
Tịnh Độ, chẳng cần được mười
phương chư Phật gia tŕ, khuyên lơn, rốt ráo sẽ
chẳng [đến nỗi do] quán Không, chứng diệt, mà
chẳng hóa độ chúng sanh. Như trong phần trước, ngài Đàm
Loan đă nói: “Tục quát chi quyền, bất đăi khuyến
nhi loan cung” (Phương
tiện quyền xảo đặt mũi tên để bắn
cho xa, chẳng đợi [người khác] khuyên kéo cong cánh
cung). V́ sao vậy? Do thấy A Di Đà Phật, tức là thấy vị Phật tam thân
nhất thể, sẽ chứng
trọn vẹn tam đức của đại Niết
Bàn. Pháp Thân không tịch, Báo Thân và Hóa Thân độ sanh, vốn
là chẳng một, chẳng khác, chắc chắn là chẳng
giống hàng Nhị Thừa nát thân diệt trí, ḥng giữ lấy
sự diệt độ, mà cũng chẳng giống các vị
Thất Địa Bồ Tát muốn chứng Thật Tế,
dứt diệt công dụng. Rốt ráo cùng với chư Phật
đồng đắc các công đức như tam thân, tứ
trí, thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng
v.v… Do vậy, cần phải nói “rốt ráo b́nh đẳng”,
tức là rốt ráo b́nh đẳng với chư Phật.
Ngài Đàm Loan giải thích “Thất
Địa Bồ Tát đắc đại tịch diệt”
là theo như kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp đă nói: “Thất
Địa là vô sanh tâm”. Nhưng trong các kinh luận Đại
Thừa khác, có [kinh] nói Đệ Bát Địa, c̣n gọi
là Bất Động Địa, th́ mới đắc đại
tịch diệt, muốn xả Phật đạo, chứng
Thật Tế. Khi ấy, bèn có chư Phật hiện tiền
gia tŕ, khuyên lơn,
bèn khởi vô tướng vô công dụng hạnh, trang nghiêm cơi
nước, khiến cho chúng sanh thành thục. Chân Ngôn Tông th́
gọi Bát Địa là “nhất đạo vô vi tâm”, lại
gọi là “như thật nhất đạo tâm”, [tức
là] cái tâm đúng như thật mà biết tự tâm tánh Không, tâm vô tánh. Nói
dung hội th́ nếu nói là Thất Địa, tức là xét
theo khi đă viên măn tâm Thất Địa, c̣n nói là Bát Địa
th́ là xét theo lúc mới tiến nhập Bát Địa. [Dung hội
như vậy] th́ hai thuyết chẳng trái nghịch nhau!
(Chú) Phục thứ, Vô
Lượng Thọ kinh trung, A Di Đà Như Lai bổn nguyện
ngôn: “Thiết ngă đắc Phật, tha phương Phật
độ, chư Bồ Tát chúng, lai sanh ngă quốc, cứu
cánh tất chí Nhất Sanh Bổ Xứ, trừ kỳ bổn
nguyện, tự tại sở hóa, vị chúng sanh cố, bị
hoằng thệ khải, tích lũy đức bổn, độ
thoát nhất thiết, du chư Phật quốc, tu Bồ
Tát hạnh, cúng dường thập phương chư Phật
Như Lai, khai hóa hằng sa vô lượng
chúng sanh, sử lập vô thượng chánh chân chi đạo,
siêu xuất thường luân chư địa chi hạnh,
hiện tiền tu tập Phổ Hiền chi đức.
Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác”.
(註)復次。無量壽經中。阿彌陀如來本願言。設我得佛。他方佛土。諸菩薩眾。來生我國。究竟必至一生補處。除其本願。自在所化。為眾生故。被弘誓鎧。積累德本。度脫一切。遊諸佛國。修菩薩行。供養十方諸佛如來。開化恒沙無量眾生。使立無上正真之道。超出常倫諸地之行。現前修習。普賢之德。若不爾者。不取正覺。
(Chú:
Lại nữa, trong kinh Vô Lượng Thọ, phần bổn
nguyện của A Di Đà Như Lai có chép: “Nếu tôi thành Phật,
các vị Bồ Tát trong cơi Phật ở phương khác
sanh về nước tôi, rốt ráo ắt đạt đến
Nhất Sanh Bổ Xứ, trừ những ai có bổn nguyện
riêng, tự tại giáo hóa, v́ chúng sanh mà mặc áo giáp hoằng
thệ, tích lũy cội đức, độ thoát hết
thảy, dạo chơi các cơi Phật, tu hạnh Bồ Tát,
cúng dường mười phương chư Phật
Như Lai, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh, khiến
cho họ an trụ nơi đạo vô thượng chánh chân,
vượt trỗi hạnh của các địa vị thông
thường, hiện tiền tu tập công đức của
Phổ Hiền. Nếu chẳng như vậy, tôi chẳng
giữ lấy ngôi Chánh Giác”).
Lại nói đến nguyện
thứ hai mươi hai trong Di Đà bổn nguyện, hàng Bồ
Tát trong nước đều là Nhất Sanh Bổ Xứ. Đă
là Nhất Sanh Bổ Xứ, công đức sẽ hoàn toàn bằng
với Thập Địa và Đẳng
Giác Bồ Tát, cho đến chư Phật phước huệ
nhị nghiêm, bi trí nhị lực. Lời bàn định
trong bộ luận này đă nói “rốt ráo cùng đắc
tịch diệt b́nh đẳng” chỉ là nói đại
lược. Nhất Sanh Bổ Xứ là ǵ? Chính là các vị
Bồ Tát từ phát Bồ Đề tâm trải qua ba đại
A-tăng-kỳ kiếp, rộng tu phước huệ; sau đấy,
trăm kiếp tu hành tướng hảo, hết thảy
đều viên măn. Trong đời tối hậu, sanh trong Đâu
Suất Nội Viện, đợi [tới thời tiết
nhân duyên] để kế nhiệm vị Phật đă diệt
độ mà thành Phật. Đó gọi là Nhất Sanh Bổ
Xứ Bồ Tát, như Di Lặc Bồ Tát chẳng hạn.
Những vị Bổ Xứ Bồ Tát như vậy rất
hiếm có, khó được gặp gỡ, nhưng sanh về
An Lạc Tịnh Độ, ai nấy đều rốt
ráo là Bổ Xứ Bồ Tát.
Ngài Đàm Loan đă dùng bổn
nguyện này và sự thật này để chứng minh điều
được nói trong bộ luận này: A Di Đà thành tựu
công đức “chẳng
uổng công thực hiện trụ tŕ” (bất hư tác trụ tŕ), khiến
cho những vị Bồ Tát hễ tu pháp môn ngũ niệm
thành tựu, văng sanh thấy đức Phật kia, sẽ
rốt ráo chỉ trong một đời này đồng
thành Phật đạo, chẳng có sai khác, chắc chắn
là như thế đó! Chuyện này khác hẳn [t́nh huống
thực tế của] những vị Bồ Tát tu Nan Hành Đạo:
Cần phải nhiều kiếp dài lâu rộng tu viên măn công
đức th́ mới thành Phật.
Trong lời nguyện [của
Pháp Tạng Bồ Tát] có nói: “Siêu xuất thường luân
chư địa chi hạnh, hiện tiền tu tập Phổ
Hiền chi đức” (Vượt
trỗi hạnh của các địa vị thông thường,
hiện tiền tu tập công đức của Phổ Hiền).
Đấy chẳng phải là dạy bảo
chúng ta hết sức minh bạch đó ư? Pháp môn Tịnh
Độ là Dị Hành Đạo, vượt trỗi Nan Hành
Đạo do các vị Bồ Tát thông thường tu tập.
[Theo Nan Hành Đạo] th́ phải từ địa vị phàm
phu, trải qua các địa vị Thập Tín, Thập Trụ,
Thập Hồi Hướng, Thập Địa v.v… tu hành dần
dần th́ mới có thể viên măn Bồ Tát đạo mà thành
Phật. Ngay trong khi quư vị tu tập ngũ niệm môn thành
tựu trong hiện tiền th́ chính là tu tập công đức
của Phổ Hiền, quyết định văng sanh Cực
Lạc. Do vậy, bằng
với Phật!
“Phổ Hiền đức”
chính là danh xưng chung để gọi công đức tu hành
bởi hết thảy các vị Bồ Tát trong thời gian
và không gian vô tận, không có một loại công đức nào
của Bồ Tát mà chẳng được bao gồm trong ấy.
Tức là như Thái Tử của nhà vua, hết thảy những
ǵ quốc vương có, Thái Tử sẽ đều có, rốt
ráo bằng với hết thảy các quốc vương. Mọi
người phải chú ư: Tu hành pháp môn ngũ niệm, tức
là tu tập Phổ Hiền đức trong hiện tiền.
Đấy hoàn toàn là do sức bổn nguyện công đức,
sức bi trí tự tại của Phật Di Đà, khiến
cho quư vị có thể đạt được như vậy.
Chẳng cần phải chiếu theo Bồ Tát đạo thông
thường, lần lượt tấn tu trải qua các địa
vị thuộc Tam Hiền và Thập Thánh. Ngay trong hiện
tiền, do v́ niệm Phật, do quán Phật, mà được
thấy A Di Đà Phật. Do v́ thấy Phật, được
sanh trong cơi An Lạc. Do sanh trong Tịnh Độ, nương
theo bổn nguyện của Phật, được Phật
nhiếp thọ, chỉ trong một đời này, sẽ rốt
ráo ắt đạt đến Nhất Sanh Bổ Xứ, bèn
là viên măn Phổ Hiền Hạnh, trọn đủ Phổ
Hiền đức. Đấy chính là chỗ đặc biệt
thù thắng của pháp môn Tịnh Độ.
V́ thế, tôi kính khuyên các vị
liên hữu: Không chỉ là phải thật thà niệm danh hiệu
A Di Đà Phật, mà c̣n phải chú ư quán sát bổn nguyện
công đức của A Di Đà Phật, cũng như các
thứ trang nghiêm thành tựu trong cơi ấy
và [công đức thành tựu của] chư Phật,
Bồ Tát như bộ luận này đă nói. Lại c̣n
phải chân thật phát nguyện “ngay trong đời hiện
tại, hoặc vào lúc lâm chung, nhất định sẽ thấy
A Di Đà Phật, nguyện sanh trong cơi An Lạc”. Nếu
có thể thấy Phật, chắc chắn sẽ chẳng
có hết thảy điên đảo gây chướng ngại,
nhất định văng sanh Tịnh Độ, liễu sanh thoát
tử, cùng với các vị thượng địa Bồ
Tát nhóm họp cùng một chỗ, cho tới lúc viên thành Phật
đạo, bằng với chư Phật.
Có lợi ích to tát như thế,
cho nên Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát đều phát nguyện rằng:
“Nguyện ngă lâm dục mạng chung thời, tận trừ
nhất thiết chư chướng ngại, diện kiến
bỉ A Di Đà Phật, tức đắc văng sanh An Lạc
sát. Ngă kư văng sanh bỉ quốc dĩ, hiện tiền thành
tựu thử đại nguyện, nhất thiết viên măn
tận vô dư, lợi lạc nhất thiết chúng sanh giới”
(Nguyện cho con lúc sắp mạng chung, trừ sạch hết
thảy các chướng ngại, tận mặt gặp Phật
A Di Đà, liền được văng sanh cơi An Lạc. Con đă
sanh về cơi ấy rồi, hiện tiền thành tựu
đại nguyện này. Hết thảy viên măn chẳng c̣n
sót, lợi lạc hết thảy chúng sanh giới).
(Chú) Án thử kinh thôi, bỉ
quốc Bồ Tát, hoặc khả bất tùng nhất địa
chí nhất địa. Ngôn Thập Địa giai thứ giả,
thị Thích Ca Như Lai ư Diêm Phù Đề, nhất ứng
hóa đạo nhĩ. Tha phương Tịnh Độ, hà
tất như thử. Ngũ chủng bất tư nghị
trung, Phật pháp tối bất khả tư nghị. Nhược
ngôn Bồ Tát tất tùng nhất địa chí nhất địa,
vô siêu việt chi lư, vị cảm tường dă. Thí như
hữu thụ, danh viết Hảo Kiên. Thị thụ địa
sanh, bách tuế năi cụ, nhất nhật trưởng cao
bách trượng. Nhật nhật như thử, kế bách
tuế chi trưởng, khởi loại tu tùng da? Kiến tùng
sanh trưởng, nhật bất quá thốn, văn bỉ Hảo
Kiên, hà năng bất nghi? Tức đồng hữu nhân văn
Thích Ca Như Lai, chứng La Hán ư nhất thính, chế Vô
Sanh ư chung triêu, vị thị tiếp dụ chi ngôn, phi xứng
thật chi thuyết.
Văn thử luận sự, diệc đương bất
tín. Phù phi thường chi ngôn, bất nhập thường
nhân chi nhĩ. Vị chi bất nhiên, diệc kỳ nghi dă.
(註)案此經推彼國菩薩。或可不從一地至一地。言十地階次者。是釋迦如來於閻浮提一應化道耳。他方淨土。何必如此。五種不思議中。佛法最不可思議。若言菩薩必從一地至一地。無超越之理。未敢詳也。譬如有樹。名曰好堅。是樹地生。百歲乃具。一日長高百丈。日日如此。計百歲之長。豈類修松耶。見松生長日不過寸。聞彼好堅。何能不疑。即同有人聞釋迦如來。證羅漢於一聽。制無生於終朝。謂是接誘之言。非稱實之說。聞此論事。亦當不信。夫非常之言。不入常人之耳。謂之不然。亦其宜也。
(Chú: Xét theo kinh ấy để
suy luận th́ Bồ Tát trong cơi ấy có thể là chẳng
từ một địa vị này tiến lên một địa
vị khác. Nói đến địa vị theo thứ tự
trong Thập Địa th́ là đạo ứng hóa của Thích
Ca Như Lai trong Diêm Phù Đề, chứ Tịnh Độ
trong các phương khác chưa chắc đă là như vậy.
Trong năm thứ chẳng nghĩ bàn, Phật pháp khó thể
nghĩ bàn nhất. Nếu nói Bồ Tát ắt phải từ
địa vị này tiến lên địa vị khác, chẳng
có lẽ nào vượt
trỗi, th́ tôi chẳng
dám bảo [cách nói ấy] là tường tận được!
Thí như có loại cây tên là Hảo Kiên (rất chắc chắn).
Cây này mọc trên mặt đất, trăm năm mới hoàn
toàn trưởng thành. Cây đó mỗi ngày mọc cao thêm một
trăm trượng, ngày nào cũng đều như vậy.
Tính toán mức
tăng trưởng [của cây ấy] trong một trăm
năm, há có giống như [sự tăng trưởng] của
loài trường tùng hay không? Thấy cây tùng mỗi ngày tăng
trưởng chẳng hơn một tấc, nghe nói đến
cây Hảo Kiên kia, làm sao chẳng ngờ cho được?
Tức là giống như có kẻ nghe nói [có người] nghe Thích Ca Như
Lai giảng pháp một lần, đă chứng La Hán, đạt
Vô Sanh trong sáng tối, bèn bảo “đó
là kiểu nói khuyên dụ
để tiếp dẫn, chẳng phải
là nói đúng theo sự thật”. Nghe chuyện trong bộ luận
này, họ cũng
sẽ chẳng tin. Phàm là lời lẽ chẳng tầm thường
sẽ không lọt tai kẻ tầm thường! [Nếu
họ] bảo “chẳng phải
là như
vậy” th́ cũng
phù hợp [với mức độ nhận thức] của
họ đấy mà!)
Nếu dựa theo lời nguyện
trong kinh Vô Lượng Thọ như vừa thuật trên đây
để suy lường hàng Bồ Tát trong cơi ấy: Do đă
là vượt trỗi hạnh của các địa vị
thông thường, chắc là thật sự có thể [có những
vị Bồ Tát]
chẳng theo thứ tự từ Sơ Địa tiến
lên Nhị Địa, [lần lượt tăng tấn]
cho đến Thập Địa để tu hành thành Phật.
Nói “Bồ
Tát đạo, Bồ Tát hạnh” th́ ắt cần phải từ địa
vị này tiến lên địa vị khác, có tầng cấp
Thập Địa để tấn tu dần dần; đấy chính là do đức Bổn Sư
thị hiện dấu vết giáo hóa suốt một đời
trong cơi này mà nói ra đó thôi. Các cơi Phật thuộc phương
khác chưa chắc đă đều là như vậy. V́ như
trong phần trước đă nói, thế gian có năm thứ
chẳng thể nghĩ bàn. Trong ấy, Phật pháp là chẳng
thể nghĩ bàn nhất. Do vậy, nếu nói quyết định
“Bồ Tát tu hành, ắt cần phải từ địa vị này tu viên
măn rồi mới tấn tu lên địa vị cao hơn,
chắc chắn chẳng có Lư và Sự
vượt trỗi” th́ Đàm Loan tôi chẳng dám nói kiểu đó.
Nay
nêu ra thí dụ, như cây Hảo Kiên. Thí dụ này là nói theo
quyển thứ mười của Trí Độ Luận: “Cây Hảo Kiên
mọc trên đất một trăm năm th́ cành lá mới
đầy đủ. Cây mỗi ngày tăng trưởng cao
thêm một trăm trượng. Cây ấy đă mọc rồi,
muốn cầu cây to để che rợp thân; khi đó, sẽ
có vị thần bảo với cây ấy rằng: - Trong cơi
đời không có ǵ cao to như ngươi, các cây khác đều
bị ngươi che rợp”. Há có thể đem cây trường tùng
so sánh với cây Hảo Kiên được chăng? Cây tùng tăng
trưởng mỗi ngày bất quá một
tấc mà thôi! Nay nghe nói cây Hảo Kiên mỗi ngày tăng trưởng
cao thêm một trăm trượng, làm sao có thể tin tưởng
chẳng nghi cho được?
Lại
nói đến một sự thật khác: Có người khi
nghe đức Phật giảng về sự tu hành của Ngài
trong quá khứ, nghe một bèn ngộ cả ngàn, lập tức
chứng quả La Hán. Từ sáng đến tối, tinh tấn
chẳng ngơi, trong một ngày liền đắc Vô Sanh
Pháp Nhẫn. Đấy là lời chân thật, nhưng đối
với kẻ b́nh thường chẳng tu hành mà nghe nói như
vậy, sẽ cho rằng: “Tuyệt đối chẳng thể
có chuyện ấy! Lời ấy chẳng qua là do đức
Bổn Sư phương tiện tiếp dẫn, khuyên dụ
chúng sanh dụng công tu hành đấy thôi!” Cũng chẳng
thể tin tưởng thật sự có chuyện ấy. V́
sao chẳng tin? V́ lời lẽ vượt trỗi thường
t́nh ấy, kẻ b́nh phàm sẽ chẳng nghe lọt tai, cho
là chẳng có chuyện ấy, chẳng chịu tin tưởng.
Đấy là lẽ đương nhiên! Dùng những thí dụ
ấy để sánh ví những kẻ chẳng tin pháp môn Tịnh
Độ, nghe luận này nói “do tu ngũ niệm môn liền
thấy A Di Đà Phật, sẽ có thể bằng với Thập
Địa Bồ Tát minh tâm kiến tánh, rốt ráo cùng đắc Pháp Thân tịch diệt b́nh
đẳng của Như Lai” th́ họ cũng sẽ tuyệt
đối chẳng thể tin tưởng đấy là sự
thật!
(Luận) Lược
thuyết bát cú, thị hiện Như Lai tự lợi, lợi
tha công đức trang nghiêm thứ đệ thành tựu, ưng
tri.
(論)略說八句。示現如來。自利利他功德。莊嚴次第成就。應知。
(Luận: Nói đại
lược tám câu nhằm chỉ bày công đức trang
nghiêm tự lợi, lợi tha thành tựu theo thứ tự,
hăy nên biết).
Trong
đoạn văn này, Luận Chủ đă quy nạp việc
quán sát tám thứ trang nghiêm công đức thành tựu của
A Di Đà Phật như đă nói trên đây để kết
luận: Tám câu ấy đều là công đức “trước
tự lợi, sau lợi tha” của A Di Đà Phật, như
Đại Trí Độ Luận đă nói: “Chẳng thể
tự độ mà có thể độ người khác, chẳng
có lẽ ấy!” Đấy chính là thứ tự tất nhiên, đệ
tử Phật phải nên biết! Từ trang nghiêm ṭa cho đến
trang nghiêm tâm là thuộc về công đức tự lợi;
từ trang nghiêm đại chúng cho đến trang nghiêm chẳng
uổng công thực hiện trụ tŕ, những điều
ấy thuộc về công đức lợi tha. Tự lợi
đă trọn, lợi tha càng rộng, Sự là tất nhiên,
Lư bèn đương
nhiên! Đấy chính là quy củ thơm thảo ngàn đời
chẳng đổi trong “học Phật, thành Phật” vậy!
(Chú) Thử vân
hà thứ đệ? Tiền thập thất cú, thị trang
nghiêm quốc độ công đức thành tựu. Kư tri quốc
độ tướng, ưng tri quốc độ chi chủ.
Thị cố, thứ quán Phật trang nghiêm công đức.
Bỉ Phật nhược vi trang nghiêm? Ư hà xứ tọa?
Thị cố, tiên quán ṭa. Kư
tri ṭa dĩ, nghi tri ṭa chủ. Thị cố, thứ quán Phật
trang nghiêm thân nghiệp. Kư tri thân nghiệp, ưng tri hữu
hà thanh danh? Thị cố, thứ quán Phật trang nghiêm khẩu
nghiệp. Kư tri danh văn, nghi tri đắc danh sở dĩ.
Thị cố, thứ quán trang nghiêm tâm nghiệp. Kư tri tam
nghiệp cụ túc, ưng vi nhân thiên đại sư, kham
thọ hóa giả thị thùy? Thị cố, thứ quán đại
chúng công đức. Kư tri đại chúng hữu vô lượng
công đức, nghi tri thượng thủ giả thùy? Thị
cố, thứ quán thượng thủ. Thượng thủ
thị Phật. Kư tri thượng thủ, khủng đồng
trưởng ấu. Thị cố, thứ quán chủ. Kư
tri thị chủ, chủ hữu hà tăng thượng? Thị
cố, thứ quán trang nghiêm bất hư tác trụ tŕ. Bát
cú thứ đệ thành dĩ.
(註)此云何次第。前十七句。是莊嚴國土功德成就。既知國土相。應知國土之主。是故次觀佛莊嚴功德。彼佛若為莊嚴。於何處坐。是故先觀座。既知座已。宜知座主。是故次觀佛莊嚴身業。既知身業。應知有何聲名。是故次觀佛莊嚴口業。既知名聞。宜知得名所以。是故次觀莊嚴心業。既知三業具足。應為人天大師堪受化者是誰。是故次觀大眾功德。既知大眾有無量功德。宜知上首者誰。是故次觀上首。上首是佛。既知上首。恐同長幼。是故次觀主。既知是主。主有何增上。是故次觀莊嚴不虛作住持。八句次第成已。
(Chú: Thứ tự của
những thứ này là như thế nào? Mười bảy
câu trước đó chính là trang nghiêm quốc độ
công đức thành tựu. Đă biết tướng quốc
độ, hăy nên biết vị chủ của quốc
độ. Do đó, kế đến bèn quán công đức trang nghiêm của Phật. Đức Phật
ấy trang nghiêm như thế nào? Ngài ngồi ở nơi đâu?
V́ thế, kế đó trước hết là quán ṭa. Đă
biết ṭa rồi, hăy nên biết vị ṭa chủ. V́ thế,
kế đó, quán thân nghiệp trang nghiêm của Phật. Đă
biết thân nghiệp, hăy nên biết có tiếng tăm ǵ? Do
vậy, kế đó là quán khẩu nghiệp trang nghiêm của đức
Phật. Đă biết tiếng tăm, hăy nên biết nguyên
do v́ sao có tiếng tăm ấy? V́ thế, tiếp đó là
quán trang nghiêm tâm nghiệp. Đă biết ba nghiệp đầy
đủ, đáng làm bậc đại sư cho trời người,
kẻ có thể tiếp nhận sự giáo hóa ấy là ai?
Do vậy, kế đó là quán công đức của đại
chúng. Đă biết đại chúng có vô lượng công
đức, hăy nên biết thượng thủ là ai? V́ thế,
kế đó là quán thượng thủ. Thượng thủ
là Phật. Đă biết thượng thủ, sợ sẽ tưởng lớn (đăng
địa Bồ Tát, hoặc Phật), nhỏ (tam
hiền Bồ Tát) đều
như nhau. V́ thế,
kế đó là quán đấng giáo hóa chủ. Đă biết
chủ, chủ có điều ǵ tăng thượng? V́ thế,
kế đó là quán trang nghiêm chẳng uổng công thực hiện
trụ tŕ. Thứ tự của tám câu đă h́nh thành xong).
Ngài Đàm Loan giải thích thứ tự
tất nhiên của những điều được quan
sát trong bộ luận này: Trước hết là quán quốc
độ, rồi quán vị chủ của quốc độ.
V́ thế, theo thứ tự quán vị chủ của quốc
độ An Lạc, tức là [quán] A Di Đà Phật có những
công đức trang nghiêm thành tựu nào. Trong khi quán sự trang
nghiêm của Phật, trước hết là quán chỗ ngồi
của Phật, tức là ṭa hoa sen vô lượng báu, rồi
quán tam nghiệp thân khẩu ư (tâm) trang nghiêm của Phật.
Phật đă có tam nghiệp (tam luân) giáo hóa chúng sanh chẳng
thể nghĩ bàn; v́ thế, kế đến là phải quán
sự trang nghiêm của đại chúng được Ngài giáo hóa. Trong đại chúng, ắt có bậc
thượng thủ. V́ thế, kế đó là quán thượng
thủ. Đă biết đại chúng được giáo
hóa và thượng thủ, hăy nên biết đấng năng
hóa chủ (đấng có thể giáo hóa chúng sanh). V́ thế,
kế đó quán sự trang nghiêm của chủ. “Chủ” là như vua của một nước,
hoặc chủ một nhà, có thể thật sự trụ
tŕ, cai trị quốc gia hay không? V́ thế, phải quán công
đức thành tựu trang nghiêm chẳng uổng công thực
hiện trụ tŕ. Quan sát như vậy, tất nhiên có thứ
tự trước sau. Cho nên tám thứ trang nghiêm phù hợp
luật duyên khởi, theo thứ tự “do có cái này mà
có cái kia” đạt được thành tựu
viên măn.
Hăy
nên biết: Những điều mục và thứ tự quan
sát được nêu lên trong bộ luận này hoàn toàn chiếu
theo Quán Kinh và kinh Vô Lượng Thọ. Từ phép Quán thứ
nhất đến phép Quán thứ sáu của Quán Kinh chính là mười
bảy thứ tướng trang nghiêm nơi quốc độ
An Lạc trong bộ luận này. Từ phép Quán thứ bảy cho đến phép Quán thứ mười
sáu chính là tám thứ tướng trang nghiêm của A Di Đà
Phật trong bộ luận này. Cái được gọi là
“quán công đức
của thượng thủ” trong bộ luận này chính là phép Quán
thứ mười và thứ mười một của Quán
Kinh, có tên là “quán tướng
kim sắc chân thật của Quán Thế Âm và Đại Thế
Chí”, chẳng phải là quán Phật. Phép
Quán thứ mười hai cho đến phép Quán thứ mười
sáu của Quán Kinh được gọi là phép Quán “bất hư
tác trụ tŕ công đức” trong bộ luận này, khiến cho ba
bậc chín phẩm đều được văng sanh Cực
Lạc để thành Phật. Phần sau của bộ luận
này là quán bốn thứ công đức chánh tu hành của hàng
Bồ Tát trong cơi ấy dựa theo phần kinh văn nói về
công đức của hàng Bồ Tát cơi Cực Lạc trong quyển
hạ của kinh Vô Lượng Thọ. V́ thế, mở đầu
[bộ luận này], vị Luận Chủ đă nói: “Ngă y Tu Đa
La, chân thật công đức tướng, thuyết nguyện
kệ tổng tŕ, dữ Phật giáo tương ứng” (Con nương theo Khế Kinh, tướng
công đức chân thật, nói nguyện kệ tổng tŕ, tương
ứng lời Phật dạy).
2.2.2.2.3.2.2.
Quán Bồ Tát
(Chú) Quán Bồ Tát giả.
(註)觀菩薩者。
(Chú:
Quán Bồ Tát).
2.2.2.2.3.2.2.1.
Nêu chung bốn thứ công đức do chánh tu hành
(Luận) Vân hà quán sát Bồ
Tát trang nghiêm công đức thành tựu? Quán sát Bồ Tát
trang nghiêm công đức thành tựu giả, quán bỉ Bồ
Tát hữu tứ chủng chánh tu hành công đức thành tựu,
ưng tri.
(Chú) Chân Như thị chư
pháp chánh thể, Thể như nhi hành, tắc thị bất
hành. Bất hành nhi hành, danh “như thật tu hành”. Thể
duy nhất như, nhi nghĩa phân vi tứ. Thị cố, tứ
hạnh dĩ nhất chánh thống chi.
(論)云何觀察菩薩莊嚴功德成就。觀察菩薩莊嚴功德成就者。觀彼菩薩。有四種正修行功德成就。應知。
(註)真如是諸法正體。體如而行。則是不行。不行而行。名如實修行。體唯一如。而義分為四。是故四行。以一正統之。
(Luận: Quán sát
sự trang nghiêm được thành tựu bởi công
đức của hàng Bồ Tát như thế nào? Quán sát sự
trang nghiêm được thành tựu bởi công đức
của hàng Bồ Tát là quán các vị Bồ Tát ấy có bốn
thứ công đức thành tựu do chánh tu hành, hăy nên biết!
Chú: Chân Như là chánh thể
của các pháp. Thể tuy là Như mà hành, [tuy hành mà] là chẳng
hành. “Chẳng hành mà hành” th́ gọi là “như thật tu hành”.
Do Thể chỉ có một, giống hệt nhau, nhưng [xét
theo] nghĩa lư th́ được chia thành bốn [hạnh].
V́ thế, bốn hạnh dùng một điều (tức nhất
tâm, hoặc Chân Như) để thâu nhiếp chung).
“Chân Như thị chư pháp
chánh thể” (Chân Như là chánh thể
của các pháp): Các pháp chẳng có chánh thể, duyên tụ hội
bèn có sanh. Pháp được sanh vốn là Không, chỉ là nhất
tâm tạo tác. V́ thế, kinh nói: “Tâm tác chư Phật, tâm
tác chúng sanh” (Tâm tạo
chư Phật, tâm tạo chúng sanh). Do vậy, các pháp đều
lấy nhất tâm làm chánh thể. Cái tâm ấy vô tướng,
vô sanh, tự tánh thanh tịnh, là Tâm Chân Như Môn. Tâm ấy
chẳng phải là không có tướng, có thể sanh ra muôn
pháp, tức là Tâm Sanh Diệt Môn. Nhất tâm nhị môn, Không
và Hữu vô ngại, cho nên [nhất tâm] có thể làm chánh thể
của muôn pháp. Nếu chẳng trọn đủ hai môn, th́
sẽ lệch về Không, hoặc
thiên về Hữu, chẳng thể làm chánh thể của các
pháp được! V́ thế, kinh nói: “Tâm sanh, tắc
chủng chủng pháp sanh” (Tâm sanh th́ đủ
mọi pháp sanh), “tâm bổn vô sanh, nhân cảnh hữu”
(tâm vốn vô sanh, do cảnh mà có). Đấy chính là chân lư của
vũ trụ và nhân sinh, là Thật Tướng của các pháp
thế gian và xuất thế gian.
“Thể như nhi hành” (Thể
tuy là Như mà có hành), tức là tánh Không mà duyên khởi. “Tắc
thị bất hành” ([Tuy có hành]
mà là chẳng hành) chính là
duyên khởi mà tánh Không. Nương vào nhất tâm nhị môn,
tánh Không mà duyên khởi, th́ gọi là “như thật tu hành”,
cũng gọi là “xứng tánh khởi tu, toàn tu tại tánh”.
Như trong phần Kệ Tụng của Trung Quán Luận có
nói: “Y ư Không nghĩa cố, nhất thiết pháp đắc
thành” (Do nương theo
nghĩa Không mà hết thảy các pháp được thành), “chư
pháp nhược bất không, nhất thiết pháp bất thành”
(các pháp nếu chẳng không, hết thảy pháp chẳng thành).
Thể của các pháp đă chỉ
là nhất tâm nhị môn, cho nên chúng ta quan sát hết thảy công
đức tu hành trang nghiêm thành tựu của các vị đại
Bồ Tát trong cơi ấy tuy nói tổng quát là có bốn thứ
khác nhau, nhưng Thể của chúng chỉ là nhất tâm tạo
tác. V́ thế, đối với bốn hạnh, nên dùng chánh
thể là nhất tâm để nhiếp trọn, đều
là công đức do nhất tâm xứng tánh tu hành. Đó gọi
là: “Sanh tử cũng là tâm, Niết Bàn cũng là tâm”. Nhất
tâm mà làm thành hai, tuy hai nhưng vẫn chẳng có hai tướng,
ví như nước trong biển cả, trọn đủ
kho các báu.
2.2.2.2.3.2.2.2.
Giải thích tường tận bốn thứ công đức
chánh tu hành
2.2.2.2.3.2.2.2.1.
Bất động ứng hóa đức (công đức
chẳng rời bổn xứ mà ứng hóa khắp nơi)
(Luận) Hà giả vi tứ?
Nhất giả, ư nhất Phật độ, thân bất
động dao, nhi biến thập phương chủng chủng
ứng hóa, như thật tu hành, thường tác Phật sự.
Kệ ngôn: “An Lạc quốc thanh tịnh, thường chuyển
vô cấu luân, hóa Phật, Bồ Tát nhật, như Tu Di trụ
tŕ” cố. Khai chư chúng sanh ứ nê hoa cố.
(Chú) Bát Địa dĩ thượng
Bồ Tát thường tại tam-muội. Dĩ tam-muội
lực, thân bất động bổn xứ, nhi năng biến
chí thập phương, cúng dường chư Phật, giáo
hóa chúng sanh. “Vô cấu luân” giả, Phật địa công
đức dă. Phật địa công đức vô tập
khí phiền năo cấu. Phật vị chư Bồ Tát, thường
chuyển thử pháp luân. Chư đại Bồ Tát diệc
năng dĩ thử pháp luân, khai đạo nhất thiết,
vô tạm thời hưu tức. Cố ngôn “thường
chuyển”. Pháp Thân như nhật, nhi ứng hóa thân quang biến
chư thế giới dă. Ngôn nhật vị túc dĩ minh bất
động, phục ngôn “như Tu Di trụ tŕ” dă. “Ứ nê
hoa” giả, kinh ngôn: “Cao nguyên, lục địa, bất
sanh liên hoa, ty thấp ứ nê, năi sanh liên hoa”. Thử dụ
phàm phu tại phiền năo nê trung, vị Bồ Tát khai đạo,
năng sanh Phật chánh giác hoa. Lượng phù thiệu long
Tam Bảo, thường sử bất tuyệt.
(論)何者為四。一者於一佛土。身不動搖。而遍十方。種種應化。如實修行。常作佛事。偈言安樂國清淨。常轉無垢輪。化佛菩薩日。如須彌住持故。開諸眾生。淤泥華故。 (註)八地已上菩薩。常在三昧。以三昧力。身不動本處。而能遍至十方。供養諸佛。教化眾生。無垢輪者。佛地功德也。佛地功德。無習氣煩惱垢。佛為諸菩薩。常轉此法輪。諸大菩薩亦能以此法輪。開導一切。無暫時休息。故言常轉。法身如日。而應化身光遍諸世界也。言日未足。以明不動。復言如須彌住持也。淤泥華者。經言高原陸地。不生蓮華。卑濕淤泥。乃生蓮華。此喻凡夫在煩惱泥中。為菩薩開導。能生佛正覺華。諒夫紹隆三寶。常使不絕。
(Luận:
Những ǵ là bốn? Một là trong một cơi Phật,
thân chẳng dao động mà đủ mọi thứ ứng
hóa trọn khắp mười phương, như thật
tu hành, thường làm Phật sự. Kệ rằng: “Cơi An
Lạc thanh tịnh, thường chuyển vô cấu luân, hóa
Phật, Bồ Tát nhật, như Tu Di trụ tŕ”, v́ nở
hoa nơi bùn lầy cho các chúng sanh vậy.
Chú: Bậc Bồ Tát từ
Bát Địa trở lên thường ở trong tam-muội.
Do sức tam-muội, thân chẳng ĺa bổn xứ mà có thể
đến khắp mười phương, cúng dường
chư Phật, giáo hóa chúng sanh. “Vô cấu luân” là công đức
nơi địa vị Phật. Công đức nơi địa
vị Phật chẳng có tập khí phiền năo cấu. Phật
v́ các Bồ Tát thường chuyển pháp luân này. Các đại
Bồ Tát cũng có thể dùng pháp luân này để khơi
gợi, hướng dẫn hết thảy, chẳng tạm
ngưng nghỉ chút nào. V́ thế nói là “thường chuyển”.
Pháp Thân như mặt trời, quang minh nơi thân ứng hóa
trọn khắp các thế giới. Do nói là “mặt trời”
chưa đủ nêu rơ sự bất động, lại nói
là “như trụ tŕ”. “Hoa sanh từ bùn lầy” là như kinh
nói: “Cao nguyên, đất liền chẳng sanh hoa sen, chốn
bùn lầy thấp kém mới sanh hoa sen”. Điều này ví như
phàm phu ở trong bùn phiền năo, được Bồ Tát hướng
dẫn, chỉ dạy, có thể sanh hoa Chánh Giác của Phật.
Tôi cho rằng: [Do công đức giáo hóa của Bồ Tát] Tam
Bảo sẽ được tiếp nối hưng thịnh,
thường khiến cho chẳng bị dứt mất).
Giải
thích cặn kẽ công đức của bốn loại chánh
tu hành. Thứ nhất là “bất động ứng hóa đức”,
tức là một vầng trăng in bóng trên ngàn sông. Nước
trong th́ trăng hiện, chẳng đến mà cũng chẳng
đi. V́ thế gọi là “bất động ứng hóa”.
Nói theo giáo pháp suốt một đời của đức
Bổn Sư trong cơi này, bậc Đăng Địa Bồ
Tát th́ mới có thể bất động đạo tràng
(chẳng rời khỏi đạo tràng) mà ứng hóa mười
phương. Như Sơ Địa Bồ Tát bèn có thể
ứng hóa thân Phật trong một trăm thế giới Phật
ḥng phổ độ chúng sanh. Mỗi địa vị sau bèn
vượt trỗi địa vị trước. Nếu
là Bồ Tát từ Bát Địa trở lên, sẽ có thể
giống như Phật, đồng thời ứng hóa trọn
khắp mười phương vô lượng thế giới
làm Phật sự độ sanh. Như phẩm Diệu Âm Bồ
Tát và phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn trong kinh Pháp
Hoa đều là sự thật về chuyện ứng hóa của
đại Bồ Tát. Nhưng hóa pháp (cách thức giáo hóa) và
hóa sự (những sự tướng dùng để giáo hóa)
của Phật Di Đà trong Tây Phương An Lạc quốc
chẳng giống cơi này. Tức là hàng Bồ Tát chỉ cần
đến cơi ấy (Cực Lạc), ai nấy đều
là “hoa nở thấy Phật, ngộ Vô Sanh”, ai nấy
đều trọn đủ bản lănh và công đức “bất
động ứng hóa”, bất luận là Địa Tiền
(chưa chứng Sơ Địa), hay Địa
Thượng (đă chứng Sơ Địa trở lên). V́ sao
vậy? Đấy chính là như phẩm Phân Biệt Công Đức
trong kinh Pháp Hoa đă nói: “Nhĩ thời, đại hội
văn Phật thuyết thọ mạng kiếp số trường
viễn, vô lượng chúng sanh đắc đại nhiêu ích,
hoặc trụ Bất Thoái địa, hoặc đắc đà-la-ni,
hoặc năng chuyển bất thoái pháp luân, hoặc năng
chuyển thanh tịnh pháp luân, đắc vô lượng vô
lậu thanh tịnh chi quả báo” (Lúc bấy giờ, chúng
hội nghe đức Phật nói thọ mạng kiếp số
dài lâu, vô lượng chúng sanh đạt được lợi
ích to lớn, hoặc trụ nơi địa vị Bất
Thoái, hoặc đắc đà-la-ni, hoặc có thể chuyển
pháp luân bất thoái, hoặc có thể chuyển pháp luân thanh
tịnh, đạt được quả báo vô lượng
vô lậu thanh tịnh).
Bồ Tát sanh về An Lạc
quốc, không chỉ là vô lượng thọ giống như
Phật, mà c̣n đích thân phụng sự A Di Đà Phật,
đích thân thấy rành rẽ ba thân một thể của đức
Phật, đều là vô lượng thọ, đích thân chứng
Thật Tướng nhất tâm nhị môn, cũng đều
là thời gian và không gian vô tận. Đương nhiên là có
thể lập tức thấy ngay Tự Tánh Thiên Chân Phật,
có công năng “bất biến
tùy duyên, tùy duyên bất biến”, ứng
hóa mười phương, như thật (nhất tâm nhị
môn) tu hành, thực hiện Phật sự “thường
chuyển vô cấu pháp luân, tự độ, độ người
khác”. Đấy là
nói theo phương diện tự lực. Huống hồ c̣n
kèm thêm sức công đức bổn nguyện, sức trí huệ
từ bi của A Di Đà Phật gia tŕ hàng Bồ Tát văng
sanh cơi ấy [khiến cho các vị ấy] đều có thể
rốt ráo đạt đến địa vị Nhất Sanh
Bổ Xứ Bồ Tát. Loại lợi
ích này chẳng thấy nói trong ngàn kinh muôn luận [dạy về
những pháp môn khác]!
Ngài Đàm Loan giải thích, “vô
cấu luân” chính là công đức nơi địa vị
Phật. Nhưng nói theo kinh luận, chỉ có tất
cả công hạnh tự lợi và lợi tha của bậc
Bát Địa (thuộc Biệt Giáo) đă chứng nhập
Cửu Địa, Thập Địa th́ mới đều
là vô tướng, vô công dụng. Đấy chính là tác dụng
của pháp luân thanh tịnh (vô cấu), là cái Thể của
pháp luân thanh tịnh. Phàm là bậc Bồ Tát từ Bát Địa
trở lên, tất cả tự chuyển pháp luân hoặc chuyển
tha pháp luân, đều gọi
là “thanh tịnh
(vô cấu) pháp luân”. Hàng Bồ
Tát trong An Lạc quốc đă là rốt ráo ắt đạt
đến địa vị Nhất Sanh Bổ Xứ, đều
là Thập Địa, hoặc Đẳng Giác Bồ Tát, số
đến vô lượng, mọi nơi mọi lúc đều
có. V́ thế nói: “Thường chuyển vô cấu luân”.
Như phần kinh văn trong kinh Vô Lượng Thọ có nói
về công đức thành tựu của Bồ Tát trong cơi ấy
như sau: “Trí huệ như đại hải, tam-muội
như sơn vương, thanh bạch chi pháp (vô cấu) cụ
túc viên măn” (Trí huệ
như biển cả, tam-muội như núi chúa, pháp trắng
sạch (vô cấu) trọn đủ viên măn). Lại nói: “Do
như liên hoa, ư chư thế gian, vô nhiễm ô cố. Do
như Tuyết sơn, chiếu chư công đức, đẳng
nhất tịnh cố” (Ví như hoa sen v́ ở trong các thế
gian chẳng nhuốm bẩn. Ví như núi Tuyết, chiếu
các công đức, b́nh đẳng một vị thanh tịnh).
Lời kệ nói “thường chuyển vô cấu luân, như
Tu Di trụ tŕ” chính là dựa theo những phần kinh
văn ấy mà nói.
Ngài Đàm Loan lại giải
thích: Pháp Thân như mặt trời, [quang minh nơi] Ứng
Hóa Thân giống
như ánh sáng mặt trời chiếu trọn khắp thế
giới. Vầng mặt trời là Thể, quang minh là Tướng,
chiếu trọn khắp là Dụng. Dùng điều này để
sánh ví tam thân nhất thể của Phật, Bồ Tát. Thể,
Tướng, Dụng bất tức, bất ly (Thể,
Tướng, Dụng chẳng phải chính là lẫn nhau, mà
cũng chẳng ĺa khỏi nhau). Điều này hết sức
phù hợp, thích đáng. Nhưng trong kinh có nói, vầng mặt
trời đi khắp tứ thiên hạ, nhân gian thấy có sự
kiện “mặt
trời mọc đằng Đông, lặn đằng Tây”,
cho nên chẳng thể dùng chuyện này để sánh ví công
đức “bất động ứng hóa” được.
V́ thế phần Kệ Tụng trong luận này lại nêu
ra thí dụ “núi Tu Di”, đấy chính là an trụ bất
động. Nếu dựa theo sự chứng minh của khoa
học hiện thời, vầng mặt trời (thái dương)
xác thực là an trụ bất động, nhưng địa
cầu di chuyển vừa tự xoay quanh nó, vừa xoay quanh
mặt trời; cho nên có sự sai biệt mặt trời mọc,
mặt trời lặn, ban ngày, ban đêm. Những điều
chú giải c̣n lại dễ hiểu, chẳng cần phải
nói nhiều.
Ngài Đàm Loan tổng kết
lời tán thán như sau: “Lượng phù! Thiệu long Tam
Bảo, thường sử bất tuyệt”. “Lượng
phù” (諒夫) nghĩa
là “tôi nghĩ như thế này”: Hàng Bồ Tát trong cơi ấy
do đều có báo đắc tam-muội, cho nên có thể tùy
ư tự nhiên khởi lên diệu dụng bất động
ứng hóa, mục đích không ǵ chẳng nhằm nối tiếp
hưng thịnh (thiệu long) Tam Bảo, khiến cho Tam Bảo
thường trụ trong cơi đời, gịng giống Phật
chẳng tuyệt, khiến cho hết thảy chúng sanh đều
có thể sanh khởi hoa Chánh Giác của Phật, tức là
chúng sanh trong ngũ trược đều thành Phật.
Hăy nên biết: Hàng Bồ Tát trong
cơi ấy thành tựu công đức của bốn thứ
chánh tu hành đều nương vào công đức nơi bổn
nguyện trong khi tu nhân và thần lực nơi quả địa
của A Di Đà Phật mà có. Chẳng giống hàng Bồ
Tát trong cơi này, hoàn toàn cậy vào tự lực để tu
tŕ, tu trọn một đại A-tăng-kỳ kiếp, dự
vào địa vị từ Sơ Địa trong Biệt Giáo
trở lên th́ mới có chút phần. Trọn hết một
A-tăng-kỳ thứ hai, chứng nhập Bát Địa trở
lên, mới có thể giống như các vị Bồ Tát trong
cơi ấy (Cực Lạc). Thế nhưng các vị Bồ
Tát trong cơi ấy đă nương vào những sức công đức
bổn nguyện nào? Chính là từ nguyện thứ năm
cho đến nguyện thứ mười, nguyện thứ
mười lăm, nguyện thứ hai mươi hai, cho đến
nguyện thứ hai mươi sáu, lại c̣n có nguyện thứ
bốn mươi trong bốn mươi tám nguyện ấy, tổng
cộng là sức công đức của mười ba nguyện.
Nếu không có bổn nguyện, sẽ chẳng thể thành
tựu công đức của bốn thứ chánh tu hành. Trong
phần kế tiếp, khi giải thích ba thứ công đức
kia, sẽ phỏng theo đây, chẳng cần phải nhắc
lại nữa.
2.2.2.2.3.2.2.2.2.
Đồng thời biến chí đức (công đức
đồng thời đến trọn khắp)
(Luận) Nhị giả, bỉ
ứng hóa thân nhất thiết thời, bất tiền, bất
hậu, nhất tâm, nhất niệm, phóng đại quang
minh, tất năng biến chí thập phương thế
giới, giáo hóa chúng sanh, chủng chủng phương tiện,
tu hành sở tác, diệt trừ nhất thiết chúng sanh khổ
cố. Kệ ngôn: “Vô cấu trang nghiêm quang, nhất niệm
cập nhất thời, phổ chiếu chư Phật hội,
lợi ích chư quần sanh” cố.
(Chú) Thượng ngôn “bất
động nhi chí”, dung hoặc chí hữu tiền hậu. Thị
cố phục ngôn “nhất
niệm, nhất
thời”, vô tiền
hậu cố.
(論)二者彼應化身。一切時不前不後。一心一念。放大光明。悉能遍至十方世界。教化眾生。種種方便。修行所作。滅除一切眾生苦故。偈言無垢莊嚴光。一念及一時。普照諸佛會。利益諸群生故。
(註)上言不動而至。容或至有前後。是故復言一念一時。無前後也。
(Luận:
Hai là thân ứng hóa ấy trong hết thảy các thời chẳng
trước, chẳng sau, nhất tâm, nhất niệm, phóng
đại quang minh, đều có thể đến trọn
khắp mười phương thế giới giáo hóa chúng
sanh, thực hiện đủ mọi phương tiện,
tu hành ḥng diệt trừ nỗi khổ của hết thảy
chúng sanh. Kệ rằng: “Vô cấu trang nghiêm quang, một niệm
và một thời, chiếu khắp các Phật hội, lợi
ích các quần sanh”.
Chú: Phần trên nói “bất
động mà đến” có thể là có đến trước
hay sau. V́ thế lại nói là “một
niệm, một thời”, tức là không có trước hay
sau vậy).
Chẳng
ĺa chỗ ḿnh mà ứng hóa mười phương; đấy
là nói theo không gian. Một niệm và một thời mà đến
khắp mười phương; đấy là nói theo thời
gian. Hăy nên biết, quan niệm có hạn định về
thời gian và không gian chính là vọng tưởng, chấp
trước của chúng sanh. Nếu là bậc Bồ Tát
đă chứng đắc Pháp Thân b́nh đẳng, khôi phục
bản tâm vốn tịnh, cái tâm ấy rỗng rang, vắng
lặng ấy lại bao trùm trọn vẹn mười phương,
trong ấy c̣n có hạn lượng sai biệt về thời
gian hay không gian nữa chăng? Do vậy, các Ngài tu hành bất
luận là tự lợi hay lợi tha đều là “theo
chiều ngang trọn khắp mười phương, theo
chiều dọc tột cùng ba đời”, tùy duyên bất
biến, bất biến tùy duyên. Trong một niệm tâm, phóng
quang chiếu khắp các pháp hội của chư Phật, lợi
ích chúng sanh. Đấy là diệu dụng nơi ứng hóa
thân của hàng Bồ Tát trong cơi ấy mà c̣n có thể [thực
hiện] như thế đó, huống hồ là quang minh nơi
tam thân nhất thể của A Di Đà Phật, đương
nhiên là càng có thể đồng thời chiếu trọn khắp
mười phương thế giới, nhiếp thọ chúng sanh niệm
Phật trở về Tịnh Độ, chẳng bị chướng
ngại. Chúng ta phải nên tin sâu, chẳng nghi chuyện này!
2.2.2.2.3.2.2.2.3.
Vô dư cúng tán đức (công đức cúng dường và tán thán
chẳng thừa sót)
(Luận) Tam giả, bỉ ư
nhất thiết thế giới, vô dư chiếu chư Phật
hội đại chúng, vô dư quảng đại vô
lượng cúng dường, cung kính, tán thán chư Phật
Như Lai công đức. Kệ ngôn: “Vũ thiên nhạc, hoa
y, diệu hương đẳng cúng dường, tán chư Phật công
đức, vô hữu phân biệt tâm” cố.
(Chú) “Vô dư” giả, minh biến
chí nhất thiết thế giới, nhất thiết chư
Phật đại hội, vô hữu nhất thế giới
nhất Phật hội bất chí dă. Triệu công ngôn: “Pháp
Thân vô tượng, nhi thù h́nh tịnh ứng. Chí vận vô
ngôn, nhi huyền tịch di bố, minh quyền vô mưu, nhi
động dữ sự hội”, cái tư ư dă.
(論)三者彼於一切世界。無餘照諸佛會大眾。無餘廣大無量供養。恭敬讚歎。諸佛如來功德。偈言雨天樂華衣。妙香等供養。讚諸佛功德。無有分別心故。
(註)無餘者。明遍至一切世界。一切諸佛大會。無有一世界。一佛會不至也。肇公言。法身無像。而殊形並應。至韻無言。而玄籍彌布。冥權無謀。而動與事會。蓋斯意也。
(Luận:
Ba là các vị Bồ Tát ấy
trong hết thảy các thế giới, chiếu đại
chúng trong hội của chư Phật
chẳng sót, vô lượng cúng dường, cung kính, tán
thán công đức của chư Phật Như Lai rộng
lớn chẳng thừa sót. Kệ rằng: “Mưa nhạc
trời, áo hoa, hương mầu…
để cúng dường,
khen công đức chư Phật, chẳng có tâm phân biệt”.
Chú: “Vô dư” là đến
trọn khắp các đại hội của hết thảy
chư Phật, không có thế giới nào, không Phật hội
nào chẳng đến. Ngài Tăng Triệu nói: “Pháp Thân không
có h́nh sắc, mà các h́nh tướng khác nhau đều cùng ứng hiện.
Âm vận tột bậc không có lời, mà sách huyền diệu[3]
trọn khắp, quyền âm thầm[4]
không mưu tính mà hễ dấy động đều khế
hội với Sự”
chính là ư này).
Hàng Bồ
Tát trong cơi ấy đến mười phương thế
giới tùy loại hiện thân, phóng quang khắp chốn, mọi
nơi mọi lúc đều cúng dường, tán thán công
đức của Tam Bảo, trên là báo ân Tam Bảo, dưới
là độ chúng sanh thành Phật. Đấy chính là Bồ Đề
tâm, Bồ Tát hạnh “thượng cầu, hạ hóa”.
Đấy là khuôn phép của hết thảy Bồ Tát. Phàm
là những vị xuất gia hay tại gia Bồ Tát đă
phát Bồ Đề tâm đều đáng nên phỏng theo mà
như thật tu hành như thế.
“Triệu công” là nói tới
Tăng Triệu đại sư tham gia đạo tràng dịch
kinh của La Thập đại sư thời Diêu Tần.
Ngài viết bộ Triệu Luận gồm ba quyển, chia
thành bốn thiên: Một là Vật Bất Thiên Luận, hai là
Bất Chân Không Luận, ba là Bát Nhă Vô Tri Luận, bốn là Niết
Bàn Vô Danh Luận. Đời Tống, Tuân Thức đại
sư trước tác bộ Triệu Luận Sớ gồm
sáu quyển. Đời Minh, Hám Sơn đại sư trước
tác Triệu Luận Lược Chú sáu quyển, [các vị độc
giả] đều nên t́m đọc.
“Pháp Thân vô tượng… nhi
động dữ sự hội” (Pháp Thân không có h́nh sắc…
mà dấy động th́ đều khế hội Sự):
Mấy câu văn này đều trích từ Triệu Luận,
cũng đều là những lời lẽ nhằm h́nh dung
Trung Đạo Thật Tướng của nhất tâm nhị
môn. Nói theo Tâm Chân Như Môn th́ Pháp Thân không h́nh tướng
(vô tướng), chí vận (至韻, âm vận
tột bậc) vô ngôn (tức là không có tiếng). “Minh quyền
vô mưu” (冥權無謀, phương
tiện quyền biến âm thầm không mưu tính, tức Căn
Bản Vô Phân Biệt Trí). Nói theo Tâm Sanh Diệt Môn th́ “thù
h́nh tịnh ứng” (h́nh tướng khác biệt cùng ứng
hiện), tức chẳng phải là không có tướng, là “huyền
tịch (diệu âm) di bố” (sách vở mầu nhiệm
(hay c̣n có thể hiểu là diệu âm), tức kinh điển
Phật giáo trọn khắp), tức là tiếng vô thanh th́ gọi
là “đại thanh”, theo chiều ngang trọn khắp mười
phương. “Động dữ sự hội” (Hễ dấy
lên th́ sẽ khế
hội Sự), tức là Hậu Đắc Phương Tiện
Trí, chẳng suy nghĩ mà biết, chẳng mưu tính mà hợp.
Có cảm liền có ứng, không ǵ chẳng thành. Ngài Đàm
Loan dẫn lời ngài Tăng Triệu để chỉ rơ tất
cả vô tướng vô công dụng hạnh của hàng Bồ
Tát trong cơi ấy đều là “nước
chảy măi sẽ
thành sông”, khéo đạt
đến chỗ tốt đẹp, cho nên có thể “thượng
cầu, hạ hóa”, hết thảy không ǵ chẳng viên măn,
chẳng thành tựu.
2.2.2.2.3.2.2.2.4.
Biến thị Tam Bảo đức (Công đức chỉ bày Tam Bảo trọn
khắp)
(Luận) Tứ giả, bỉ
ư thập phương nhất thiết thế giới
vô Tam Bảo xứ, trụ tŕ trang nghiêm Phật Pháp Tăng
Bảo công đức đại hải, biến thị
linh giải, như thật tu hành. Kệ ngôn: “Hà đẳng
thế giới vô, Phật pháp công đức bảo, ngă
nguyện giai văng sanh, thị Phật pháp như Phật” cố.
(Chú) Thượng tam cú, tuy ngôn
“biến chí”, giai thị hữu Phật quốc độ.
Nhược vô thử cú, tiện thị Pháp Thân hữu sở
bất pháp, thượng thiện hữu sở bất thiện.
(論)四者彼於十方。一切世界。無三寶處。住持莊嚴佛法僧寶功德大海。遍示令解。如實修行。偈言何等世界無。佛法功德寶。我願皆往生。示佛法如佛故。
(註)上三句。雖言遍至。皆是有佛國土。若無此句。便是法身有所不法。上善有所不善。
(Luận: Bốn
là trong mười phương, ở trong hết thảy các
chốn không có Tam Bảo, các vị Bồ Tát [trong cơi Cực
Lạc] trụ tŕ trang nghiêm biển cả công đức của
Phật Pháp Tăng Bảo, dạy trọn khắp khiến
cho chúng sanh thấu hiểu rồi như thật tu hành. Kệ
rằng: “Thế giới nào chẳng có, báu công đức
Phật pháp, tôi đều nguyện văng sanh, dạy Phật
pháp như Phật”.
Chú: Ba câu trước
tuy nói là “đến trọn khắp”, nhưng đều là
[đến trọn khắp] những quốc độ có Phật.
Nếu không có câu này th́ Pháp Thân sẽ có chỗ chẳng phải
là Pháp, thượng thiện sẽ có chỗ là bất thiện).
Ba loại
công đức chánh tu hành trước đó của Bồ
Tát tuy đều nói là “biến chí” (遍至, tới
trọn khắp), nhưng đều thuộc vào các quốc
độ có Phật trong mười phương. Loại
thứ nhất là ở trong quốc độ có Phật, bèn
như thật tu hành, giúp Phật thuyết pháp. Loại thứ
hai là đến các đại hội thuyết pháp của
chư Phật, phóng quang chiếu trọn khắp, diệt khổ
cho chúng sanh. Loại thứ ba là cúng dường mười
phương chư Phật. Loại thứ tư này th́ không
chỉ là trong thế giới có Phật, mà là muốn tới
hết thảy các thế
giới là chỗ không có Tam Bảo để kiến lập
Tam Bảo, v́ Tam Bảo là đèn sáng duy nhất trong thế
gian, là thuyền Từ trong biển khổ. Nếu chẳng
có Tam Bảo trụ thế, [thế gian] đúng là đêm dài
của trời người, biển khổ mênh mông, ai có thể
ban cho chúng sanh quang minh và an ổn? Do vậy, phàm
là hàng Bồ Tát đă phát Bồ Đề tâm “thượng
cầu, hạ hóa”, đều
là v́ đạo nghĩa mà chẳng chối từ, muốn đến
chỗ không có Tam Bảo để làm Phật thuyết pháp,
độ sanh. Như Quán Âm, Diệu Âm Bồ Tát đối
với kẻ đáng nên dùng thân Phật để độ,
liền hiện thân Phật để thuyết pháp cho họ.
Công đức trụ tŕ Tam Bảo cứu thế rộng
lớn không bờ bến như biển cả, khiến
cho chúng sanh đều được ĺa khổ hưởng
vui, cùng thành Phật đạo.
Giả sử làm Bồ Tát mà
chẳng có sự tu hành “tự lợi, lợi tha” theo
kiểu ấy, trong kinh nói [người như vậy] chẳng
phải là Bồ Tát chân thật. Nói theo Lư, Pháp Thân mà quư vị
chứng đắc sẽ chẳng phải là Pháp Thân chân thật
b́nh đẳng, chẳng phải là “không đâu chẳng tồn
tại, không tướng nào chẳng
hiện, chẳng thể trọn khắp hết thảy mọi nơi”. Đấy
chẳng phải là thanh tịnh
diệu Pháp Thân trọn đủ ba mươi hai tướng,
mà chỉ là Pháp Thân suông, hoặc là ứng hóa thân mà thôi! V́ thế
nói: “Pháp Thân hữu sở bất pháp” (Pháp Thân có chỗ
chẳng phải là pháp), có nghĩa là Pháp Thân ấy chẳng
phải là Pháp Thân. “Thượng thiện hữu sở bất
thiện” (Trong thượng
thiện, có những chỗ là bất thiện): Những điều
Bồ Tát tu hành đều vượt trỗi phàm phu, ngoại
đạo, và Nhị Thừa, nên gọi là “thượng
thiện”. Nhưng nếu chẳng thể đạt đến
mức “trụ tŕ Tam Bảo ở nơi không có Tam Bảo,
khiến cho chúng sanh thấy nghe, đều tin hiểu Tam Bảo,
tu hành học Phật” vậy th́ “sự nghiệp của
Bồ Tát” (thượng thiện) do quư vị thực hiện
đă bị khuyết thiếu, chẳng viên măn, chẳng thể
gọi là “thượng thiện”.
Lại nói, chúng sanh chẳng
thể thấy nghe Tam Bảo, sẽ chẳng biết Phật
pháp, chẳng thể học Phật. Vậy th́ họ sẽ
chẳng thể thấy Phật tánh của chính ḿnh để
thành Phật được. Tuy có Pháp Thân, nhưng lưu
chuyển trong sáu đường, gọi là “chúng sanh”,
há chẳng phải là đáng thương, đáng tiếc
quá ư? Đấy gọi là “Pháp Thân hữu sở bất
pháp”.
Lại nữa, Tam Bảo là
báu ma-ni vô thượng chí cực của xuất thế gian
và thế gian, hết thảy thiện pháp đều do Tam
Bảo lưu xuất. Nơi nào không có Tam Bảo, sẽ chẳng
có thiện pháp. Đấy gọi là “thượng thiện
hữu sở bất thiện”. Do vậy, Hoa Nghiêm đại
giáo sau khi dạy khắp hết thảy các vị Bồ Tát
những hạnh môn tu
nhân chứng quả, tới cuối
cùng, dùng mười đại hạnh nguyện của Phổ
Hiền để hướng dẫn trở về Cực
Lạc ngơ hầu viên thành Bồ Đề ngay trong một đời,
thành tựu tất cả công đức của Như Lai, cũng
là thành tựu bốn thứ công đức chánh tu hành của
hàng Bồ Tát trong Cực Lạc. Chúng ta hăy nên chánh niệm
chánh tri như thế, tự hành, hóa độ người
khác đều nương theo pháp môn ngũ niệm và mười
đại hạnh nguyện, như thật tu hành, nguyện
sanh Cực Lạc, mới có thể xem là bằng vai phải
lứa đối với tất cả Bồ Tát trong nước
ấy, mà cũng mới có thể thị hiện Phật pháp giống
như Phật. Đă sanh vào Cực Lạc, giống như
sanh vào mười phương quốc độ, sẽ có
thể đối với bất cứ thế gian nào không
có Tam Bảo, bèn nương theo nguyện để hóa sanh
trong cơi ấy ḥng kiến lập Tam Bảo, phổ độ
hữu t́nh đều thành Phật.
Ở đây, tôi phải nhắc
nhở mọi người: Hết thảy sự tu hành tự
lợi, lợi tha của Bồ Tát đều phải nương
tựa Phật
pháp, thường nói là [căn cứ trên] Thánh Ngôn Lượng,
chẳng thể làm những chuyện trái nghịch Phật
pháp, bày ra những tṛ mới mẻ, khác lạ để mê
hoặc, gạt gẫm chúng sanh. Chẳng thể dùng chuyện
thần bí, thần thông quỷ quái, hoặc tà mạng, tà
thuật để tự tung tự tác dạy bảo người
khác. Cổ đức nói: “Ninh khả tam niên mại bất
xuất nhất đảm chân, bất khả nhất đán
mại tam đảm giả” (Thà suốt
ba năm chẳng bán được một gánh thật, không
thể một ngày bán ba gánh giả). “Chân” tức là Phật
pháp, “giả” th́ chẳng phải là Phật pháp. Chính ḿnh
lầm lẫn là chuyện nhỏ, khiến cho người
khác lầm lẫn là chuyện to đùng! Ngàn vạn phần
phải cẩn thận, ắt cần phải chỉ bày Phật
pháp giống như Phật!
(Chú) Quán hạnh thể
tướng cánh.
(註)觀行體相竟。
(Chú: Phần quán hạnh
thể tướng đă xong).
Đây là ngài Đàm Loan tổng
kết phần Quán Hạnh Thể Tướng như vừa
nói trên đây, v́ thế nói “[dĩ] cánh” (đă
xong).
2.2.2.2.4.
Tịnh nhập nguyện tâm
(Chú) Dĩ hạ thị giải
nghĩa trung đệ tứ trùng, danh vi Tịnh Nhập
Nguyện Tâm. Tịnh nhập nguyện tâm giả…
(Chú: Từ đây trở
đi là tầng thứ bốn trong phần Giải
Nghĩa,
được gọi là Tịnh Nhập Nguyện Tâm. Tịnh
nhập nguyện tâm là…)
Bốn
câu văn này thuộc về khoa mục lớn thứ hai
trong phần chú giải lời Luận của ngài Đàm
Loan, [phần chú giải lời Luận] được
gọi là phần Giải Nghĩa. [Trong phần Giải Nghĩa],
khoa thứ ba là Quán Hạnh Thể Tướng, khoa thứ
tư là Tịnh Nhập Nguyện Tâm. Tịnh Nhập Nguyện
Tâm là ǵ? Chính là điều đang được
nói đến trong phần Luận hiện thời.
(Luận) Hựu hướng
thuyết quán sát trang nghiêm Phật độ công đức
thành tựu, trang nghiêm Phật công đức thành tựu, trang
nghiêm Bồ Tát công đức thành tựu, thử tam chủng thành tựu
nguyện tâm trang nghiêm, ưng tri.
(Chú) Ưng tri thử tam chủng
trang nghiêm thành tựu, do bổn tứ thập bát nguyện
đẳng thanh tịnh nguyện tâm chi sở trang nghiêm. Nhân
tịnh, cố quả tịnh, phi vô nhân tha nhân hữu dă.
(論)又向說觀察莊嚴佛土功德成就。莊嚴佛功德成就。莊嚴菩薩功德成就。此三種成就。願心莊嚴。應知。
(註)應知此三種莊嚴成就。由本四十八願等。清淨願心之所莊嚴。因淨故果淨。非無因他因有也。
(Luận: Lại nữa,
quán sát trang nghiêm Phật độ công đức thành tựu,
trang nghiêm Phật công đức thành tựu, trang nghiêm Bồ
Tát công đức thành tựu như vừa nói trên đây,
ba thứ ấy đều do nguyện tâm trang nghiêm, hăy nên biết.
Chú: Hăy nên biết ba thứ
trang nghiêm thành tựu ấy vốn được trang nghiêm bởi nguyện tâm thanh tịnh nơi bốn
mươi tám nguyện. Do nhân tịnh nên quả tịnh, chẳng
phải là do cái nhân nào khác mà có).
Quán sát ba
thứ trang nghiêm nơi quốc
độ Phật, đức Phật và Bồ Tát được thành tựu
bởi công đức như vừa nói trên đây chính là sự
trang nghiêm do nguyện tâm từ bốn mươi tám nguyện
của A Di Đà Phật thành tựu. Nguyện tâm thanh tịnh
là cái nhân của ba thứ trang nghiêm. V́ thế, có ba thứ quả
báo bao gồm y báo và chánh báo trang nghiêm thanh tịnh [của Phật,
Bồ Tát]; chẳng phải
là “không có nhân mà có quả”, cũng chẳng phải là được
trang nghiêm thành tựu bởi nhân tố nào khác.
2.2.2.2.4.1.
Quảng lược tương nhập (rộng
và lược dung nhập lẫn nhau)
(Luận) Lược thuyết
nhập nhất pháp cú cố. Nhất pháp cú giả, vị thanh
tịnh cú. Thanh tịnh cú giả, vị chân thật trí huệ,
vô vi Pháp Thân cố.
(論)略說入一法句故。一法句者。謂清淨句。清淨句者。謂真實智慧。無為法身故。
(Luận:
Nói giản lược th́ gộp vào một câu pháp. “Một
câu pháp” là câu thanh tịnh. Câu thanh tịnh là “chân thật trí
huệ, vô vi Pháp Thân”).
Sáu câu luận
định này là do Luận Chủ đă thâu tóm giản lược
các sự tướng trang nghiêm đă được nói
trong phần trước về Lư Tánh, chỉ có một pháp.
“Một pháp” chính là nhất tâm thanh tịnh. Tịnh tâm
tức là trí huệ chân thật (Sanh Diệt Môn), vô vi Pháp
Thân (Chân Như Môn). Nhất tâm nhị môn, Sanh Diệt Môn là
rộng, Chân Như Môn là lược, nương tựa vào
nhau mà thành tựu lẫn nhau; do vậy nói là “tương
nhập” (dung
nhập lẫn nhau).
(Chú) Thượng quốc
độ trang nghiêm thập thất cú, Như Lai trang nghiêm bát
cú, Bồ Tát trang nghiêm tứ cú, vi quảng. Nhập nhất
pháp cú, vi lược. Hà cố thị hiện quảng lược
tương nhập? Chư Phật, Bồ Tát hữu nhị
chủng Pháp Thân: Nhất giả, pháp tánh Pháp Thân; nhị
giả, phương tiện Pháp Thân. Do pháp tánh Pháp Thân, sanh phương
tiện Pháp Thân. Do phương tiện Pháp Thân, xuất pháp
tánh Pháp Thân. Thử nhị Pháp Thân dị, nhi bất khả
phân, nhất nhi bất khả đồng. Thị cố,
quảng lược tương nhập, thống dĩ pháp
danh. Bồ Tát nhược bất tri quảng lược tương
nhập, tắc bất năng tự lợi, lợi tha.
(註)上國土莊嚴十七句。如來莊嚴八句。菩薩莊嚴四句為廣。入一法句為略。何故示現廣略相入。諸佛菩薩有二種法身。一者法性法身。二者方便法身。由法性法身。生方便法身。由方便法身。出法性法身。此二法身異。而不可分。一而不可同。是故廣略相入。統以法名。菩薩若不知廣略相入。則不能自利利他。
(Chú: Mười bảy
câu trang nghiêm quốc độ, tám câu về sự trang
nghiêm của Như Lai, và bốn câu về sự trang nghiêm của
Bồ Tát trên đây là rộng. “Vào một câu pháp” là lược.
Cớ sao thị hiện rộng và lược dung nhập?
Chư Phật, Bồ Tát có hai thứ Pháp Thân: Một là pháp
tánh Pháp Thân, hai là phương tiện Pháp Thân. Do pháp tánh Pháp
Thân mà sanh phương tiện Pháp Thân. Do phương tiện
Pháp Thân mà xuất hiện pháp tánh Pháp Thân. Hai thứ Pháp Thân
này tuy khác mà chẳng thể tách rời, tuy là một mà chẳng
thể giống nhau. V́ thế, rộng và lược dung nhập,
đều gọi chung là pháp.
Nếu Bồ Tát chẳng biết rộng và lược dung
nhập, sẽ chẳng thể tự lợi và lợi lạc
người khác).
Qua đoạn
chú giải này, ngài Đàm Loan chỉ rơ nguyên do v́ sao có sự
“rộng
và lược
dung nhập” trong nguyện
tâm thanh tịnh, tức là Ngài chỉ ra Phật, Bồ Tát thành
tựu hai thứ Pháp Thân, tất nhiên là từ rộng mà vào
lược, từ lược sanh ra rộng, nương tựa
vào nhau, thành tựu lẫn nhau, chẳng một, chẳng khác.
Nói là “rộng” chính là phương tiện Pháp Thân, tùy duyên
khởi dụng, có thể sanh ra vạn pháp. Nói là “lược”
th́ chính là pháp tánh Pháp Thân vốn sẵn thanh tịnh, một
mực không tịch.
Rộng và lược dung nhập lẫn nhau chính là duyên khởi
mà tánh Không. Do tánh Không, nên duyên khởi. Do “duyên khởi mà tánh
Không” cho nên tuy khác nhưng chẳng thể tách ĺa. Do “tánh Không
mà duyên khởi”, cho nên là một nhưng chẳng thể đồng.
Đấy là Thật Tướng của các pháp, là pháp tánh của
vạn pháp. Dù là rộng (duyên khởi), hoặc là lược
(tánh Không), đều là “pháp nào cũng
đều như thế đó”. Do vậy, gộp
chung lại, dùng Pháp để gọi chung, đặt tên là
“pháp tánh Pháp Thân” và “phương tiện Pháp Thân’.
Nếu Bồ Tát học Phật
mà chẳng biết chân lư cơ bản “tánh Không duyên khởi”
của Phật pháp là một cái ấn Thật Tướng
trong Đại Thừa, vậy th́ sẽ
trở thành tu mù luyện đui, hoặc chấp Sự mà mê
muội Lư, hoặc chấp Lư phế Sự, chẳng thể
“Lư Sự
viên dung, Không và Hữu vô ngại”, mà cũng
chẳng thể tự lợi, lợi tha, cùng thành Phật đạo.
Khoa mục Quảng Lược
Tương Nhập này c̣n gọi là Thể Dụng Tương
Tức (Thể chính là Dụng, Dụng chính là Thể). Thể
là lược, Dụng là quảng. Thể là pháp tánh Pháp Thân,
Dụng là phương tiện Pháp Thân. Từ Thể khởi
Dụng, gọi là “pháp tánh sanh ra phương
tiện”. Gom Dụng
về Thể, gọi là “phương
tiện hiện xuất pháp tánh”. Vốn
là nương vào nhau, thành tựu lẫn nhau, chẳng một,
chẳng khác như thế đó!
(Chú) Thử tam cú, triển
chuyển tương nhập. Y hà nghĩa danh chi vi pháp? Dĩ
thanh tịnh cố. Y hà nghĩa danh vi thanh tịnh? Dĩ chân
thật trí huệ, vô vi Pháp Thân cố.
(註)此三句。展轉相入。依何義。名之為法。以清淨故。依何義。名為清淨。以真實智慧。無為法身故。
(Chú: Ba câu này lần
lượt dung nhập vào nhau. Do dựa theo nghĩa nào mà gọi
là pháp? Do v́ thanh tịnh. Do dựa theo nghĩa nào mà gọi
là thanh tịnh? Do chân thật trí huệ, vô vi Pháp Thân).
Đây
là giải thích sáu câu trong phần Luận. Sự lần lượt
nhập vào nhau ấy chẳng thể chia ĺa. Do cái này có, mà
cái kia có. Câu thứ nhất là từ rộng mà vào lược.
“Lược” là một pháp cú. Câu thứ hai, do nghĩa
nào mà gọi là “một pháp”? Một pháp chính là pháp bất
nhị. Pháp bất nhị này chính là nhất tâm thanh tịnh,
như Đại Thừa Chỉ Quán đă nói: “Tâm tánh tự
thanh tịnh, các pháp chỉ là một tâm”. Câu thứ ba, do
nghĩa nào mà gọi là thanh tịnh? Sự thanh tịnh ấy
chính là trí huệ chân thật, vô vi Pháp Thân. Trí huệ là tướng
dụng của tịnh tâm. Pháp Thân là Thể của tịnh
tâm. Trí huệ viên măn gọi là trí huệ Phật. Pháp Thân hiển
hiện gọi là Như Như Phật. Thứ trước
là Báo Hóa Phật, thứ sau là Pháp Thân Phật. Tam thân nhất
thể của Phật chính là ba khía cạnh lớn, tức
Thể, Tướng, Dụng sẵn có trong tịnh tâm, vốn
lần lượt dung nhập lẫn nhau, chẳng phải
chính là nhau, mà cũng chẳng tách ĺa nhau!
(Chú) Chân thật trí huệ
giả, Thật Tướng trí huệ dă. Thật Tướng
vô tướng, cố chân trí vô tri (vô phân biệt tâm) dă. Vô vi
Pháp Thân giả, pháp tánh thân dă. Pháp tánh tịch diệt, cố
Pháp Thân vô tướng (vô quyết định tướng)
dă. Vô tướng cố năng vô bất tướng. Thị
cố tướng hảo trang nghiêm, tức Pháp Thân dă. Vô
tri cố năng vô bất tri. Thị cố Nhất Thiết
Chủng Trí tức chân thật trí huệ dă. Dĩ chân thật
nhi mục trí huệ, minh trí huệ phi tác, phi phi tác dă. Dĩ
vô vi nhi tiêu Pháp Thân, minh Pháp Thân phi sắc, phi phi sắc dă.
Phi ư phi giả, khởi phi phi chi năng thị hồ? Cái
vô phi chi viết thị dă, tự thị vô đăi phục phi
thị dă. Phi thị phi phi, bách phi chi sở bất dụ. Thị
cố ngôn “thanh tịnh
cú”. Thanh tịnh
cú giả, vị “chân thật
trí huệ, vô vi Pháp Thân” dă.
(註)真實智慧者。實相智慧也。實相無相。故真智無知(無分別心)也。無為法身者。法性身也。法性寂滅。故法身無相(無決定相)也。無相故能無不相。是故相好莊嚴。即法身也。無知故能無不知。是故一切種智。即真實智慧也。以真實而目智慧。明智慧非作。非非作也。以無為而標法身。明法身非色。非非色也。非於非者。豈非非之能是乎。蓋無非之曰是也。自是無待復非是也。非是非非。百非之所不喻。是故言清淨句。清淨句者。謂真實智慧。無為法身也。
(Chú: Trí huệ chân thật
là trí huệ Thật Tướng. Thật Tướng vô tướng
cho nên chân trí vô tri (tâm chẳng phân biệt). Vô vi Pháp Thân là pháp
tánh thân. Pháp tánh tịch diệt, cho nên Pháp Thân vô tướng
(chẳng có tướng quyết định). Do vô tướng,
nên có thể “vô bất tướng”
(chẳng phải là không có tướng). V́ thế, tướng
hảo trang nghiêm chính là Pháp Thân. Do vô tri nên có thể “không có
ǵ chẳng biết”. Do vậy,
Nhất Thiết Chủng Trí tức là trí huệ chân thật.
Dùng [danh xưng] “chân thật” để gọi trí huệ, nhằm tỏ
rơ: Trí huệ chẳng phải là tác, chẳng phải là bất
tác. Dùng “vô vi” để phô bày Pháp Thân, nhằm chỉ rơ: Pháp
Thân chẳng phải là sắc, chẳng phải là không có sắc.
Phủ nhận cái “chẳng phải”, há có
thể nào coi “phủ nhận của
cái chẳng phải” sẽ là “phải” ư? Do v́ chẳng phải
là “không phải” th́ nói là “phải”, nên
chẳng cần phải đợi [phân biệt] “phải”
và “không phải: nữa! “Chẳng
phải” chính là “chẳng phải không phải”, cho nên bách phi chẳng
thể sánh ví được! Do vậy nói là một câu thanh
tịnh. “Câu thanh
tịnh” là “trí huệ chân thật, vô vi Pháp Thân”).
Đoạn chú giải này nhằm
giải thích “trí huệ
chân thật, vô vi Pháp Thân” là
ǵ? Văn lẫn nghĩa đều diệu. Nói giản yếu
th́ một cái tâm nhỏ nhoi trong hiện tiền của chúng
ta được gọi là “tự tánh thanh tịnh tâm”,
lại chính là A Di Đà Phật chẳng thể nghĩ bàn.
Bốn câu (không, có, cũng có cũng không, chẳng phải có
chẳng phải không) chẳng thể thâu nhiếp được,
bách phi chẳng thể thí dụ nổi cái tâm này. “Bách phi” là [từ ngữ] xuất phát kinh
văn
của kinh Đại Bát Niết Bàn nói về sự giải thoát
khỏi một trăm câu, đều nhằm
chỉ rơ “phi thị diệc phi phi” (“chẳng phải”
cũng là “chẳng phải không phải”), tức là ngôn ngữ
dứt bặt, tâm hành xứ diệt. Một cái tâm nhỏ
nhoi của chúng ta vốn có hai môn:
1) Tâm Chân Như Môn chiếu mà
thường tịch, gọi là Vô Lượng Thọ Phật.
Đấy chính là tướng thường tịch diệt,
là Pháp Thân vô vi đều quy vào Không.
2) Tâm Sanh Diệt Môn tịch
mà thường chiếu, gọi là Vô Lượng Quang Phật.
Đấy chính là trí huệ chân thật Vô Sư Trí và Nhất
Thiết Chủng Trí. Cho nên lời luận có nói “như bỉ
Như Lai quang minh trí tướng, A Di Đà Phật, tức
Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật”
(đúng như tướng quang minh và trí huệ
của đức Phật ấy, A Di Đà Phật chính là Vô Lượng Thọ Phật,
Vô Lượng Quang Phật). Nhất tâm nhị môn, Chân
Như tức sanh diệt, Pháp Thân tức là trí huệ. Nhất
tâm nhị môn chẳng một, chẳng khác; một vị Phật
mà có hai danh hiệu cũng giống như thế. Vô vi Pháp
Thân chẳng phải là sắc, chẳng phải là phi sắc,
chẳng rơi vào Biên Kiến chấp Có hay chấp Không. V́
thế gọi là Vô Vi, tức là tánh Tất Cánh Không Tánh. Tánh Không
bất sanh bất diệt, v́ thế gọi là Vô Lượng
Thọ Phật. Trí huệ chân thật chẳng phải là làm,
chẳng phải là không làm, chẳng thuộc vào pháp số
nhân duyên hay tự nhiên. V́ thế gọi là chân thật, tức
là “linh quang riêng chiếu, vượt thoát căn trần”.
Chiếu xưa, chiếu nay, chiếu xa, chiếu gần; v́
thế gọi là Vô Lượng Quang Phật.
Do vậy, “lược thuyết
nhập nhất pháp cú. Nhất pháp cú giả, vị thanh tịnh
cú” (nói đại lược th́ gộp vào trong một câu
pháp. Một câu pháp là câu thanh tịnh). Câu thanh tịnh ấy
chính là tâm thanh tịnh. Đem những sự tướng
trang nghiêm nơi y báo và chánh báo trong cơi Cực Lạc đă
quan sát trong những phần trước để quy nạp
giản lược (lời Luận dùng chữ “nhập”
để diễn tả ư này) thành một niệm tâm tuy nhỏ
nhoi nhưng thanh tịnh trọn đủ các tướng của
chúng ta. Cho nên nói: “Lược thuyết nhập nhất
pháp cú; nhất pháp cú tức thanh tịnh cú”. Cái tâm tướng
thanh tịnh ấy chính là A Di Đà Phật, cũng gọi
là Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ. Chúng sanh và Phật
đều b́nh đẳng có điều này, tức tướng
thanh tịnh của nhất tâm nhị môn, [và cũng] chính là
tướng chân thật của các pháp “duyên khởi tánh
Không, tánh Không duyên khởi”. Do tánh Không nên là vô vi Pháp Thân;
do duyên khởi nên là trí huệ chân thật. V́ thế nói “thanh
tịnh cú (tâm) giả, vị chân thật trí huệ vô vi Pháp
Thân cố” (câu thanh tịnh (tâm) là trí huệ chân thật,
vô vi Pháp Thân).
Nếu có thể ngộ nhập
nhất tâm nhị môn, duyên khởi tánh Không bèn chứng
đắc vô vi Pháp Thân, trọn đủ trí huệ chân thật,
cũng là có thể thành tựu y báo và chánh báo trang nghiêm như
A Di Đà Phật. V́ sao vậy? Từ Thể khởi Dụng,
có thể có các thứ trang nghiêm. Gom Dụng về Thể,
chỉ là thanh tịnh nhất tâm. Do vậy, Quán Kinh nói: “Thị
tâm thị Phật, thị tâm tác Phật. Chư Phật Chánh
Biến Tri hải tùng tâm tưởng sanh” (Tâm này là Phật,
tâm này làm Phật. Biển Chánh Biến Tri của chư Phật
sanh từ tâm tưởng). V́ thế, nếu có thể chí tâm
tin ưa, chấp tŕ danh hiệu A Di Đà Phật, tức
là chấp tŕ một câu thanh tịnh. Câu thanh tịnh chính là
“trí huệ chân thật, vô vi Pháp Thân”. V́ thế, chấp
tŕ thanh tịnh b́nh đẳng giác của nhất tâm nhị
môn th́ gọi là “tâm này làm Phật”. “Tâm này là Phật”:
Một niệm tương ứng một niệm Phật,
niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật.
Cổ đức nói “một câu Di Đà thành Phật có thừa”
là chân ngữ, thật ngữ.
Cũng có thể nói như thế
này: Một câu Di Đà chính là tướng hảo của chư
Phật, là sự trang nghiêm của cơi Cực Lạc! V́ sao
vậy? Rộng đă có thể vào trong lược; ắt
lược có thể sanh ra rộng! Rộng
và lược sanh ra nhau, dung nhập vào nhau, pháp vốn là như
thế đó! Hăy nên biết: Trong phương tiện độ
sanh của chư Phật, mỗi vị có nguyện tâm bất
đồng. A Di Đà Phật phát nguyện dùng danh hiệu
khi Ngài đă thành Phật và thành tựu thế giới An Lạc
để làm pháp môn phương tiện độ sanh duy
nhất. Chúng sanh muốn sanh về An Lạc chỉ cần
chí tâm tin ưa (tín nguyện), cho đến mười niệm,
niệm A Di Đà Phật liền được văng sanh. Hễ
đă sanh bèn bất thoái, măi cho đến khi thành Phật. V́
danh hiệu A Di Đà Phật chính là nhất tâm nhị môn,
vô vi Pháp Thân, là trí huệ chân thật, bao gồm hết thảy
công đức và sự trang nghiêm thanh tịnh. Trong khi quư vị
niệm A Di Đà Phật, sẽ ngay lập tức thành tựu
thân Phật và Tịnh Độ, tâm làm Phật, tâm là Phật, thẳng thừng,
thỏa đáng, viên đốn tột bậc. V́ thế được
mười phương chư Phật cùng khen ngợi là chẳng
thể nghĩ bàn!
2.2.2.2.4.2.
Hai thứ thanh tịnh
(Luận) Thử thanh tịnh
hữu nhị chủng, ưng tri.
(Chú) Thượng chuyển
nhập cú trung, thông nhất pháp nhập thanh tịnh, thông thanh
tịnh nhập Pháp Thân. Kim tương biệt thanh tịnh
xuất nhị chủng cố, cố ngôn “ưng tri”.
(論)此清淨。有二種。應知。
(註)上轉入句中。通一法入清淨。通清淨入法身。今將別清淨。出二種故。故言應知。
(Luận: Sự
thanh tịnh này có hai thứ, hăy nên biết.
Chú: Trong câu “nhập [một
câu pháp]” vừa
nói trên đây, do nói chung nên “từ một
pháp mà vào thanh tịnh”, và “từ
thanh tịnh mà tiến nhập Pháp Thân”. Nay lại
riêng
chia sự thanh tịnh thành hai loại,
nên nói là “hăy nên biết”).
Trong phần
trên là quán tưởng từ
rộng vào lược, gom Dụng về Thể.
V́ thế, lần lượt dung nhập vào nhau, tất cả
sự tướng trang nghiêm thanh tịnh bao gồm ba loại
(quốc độ, Phật, Bồ Tát) trong hai mươi chín
câu được quy nạp thành tâm thể thanh tịnh của
nhất tâm nhị môn. Bây giờ là quán tưởng từ
lược vào rộng, từ Thể mà khởi Dụng. Do
vậy, sẽ nương theo nguyện tâm mà thành tựu hai loại
(tức y báo và chánh báo) thanh tịnh trang nghiêm ḥng phân biệt hiểu biết rành rẽ th́ mới
chẳng đến nỗi đối với Thể và Dụng
chẳng tách bạch, chẳng biết rơ rộng và lược.
Như kinh văn trong phần sau có nói: “Như thị nhất
pháp cú, nhiếp nhị chủng thanh tịnh nghĩa” (Một câu pháp
như thế bao gồm hai ư nghĩa thanh tịnh). “Một
câu pháp” là Thể, tức là lược; “hai thứ thanh
tịnh” là Dụng, là rộng; chớ nên không biết!
(Luận) Hà đẳng
nhị chủng? Nhất giả, khí thế gian thanh tịnh;
nhị giả, chúng sanh thế gian thanh tịnh. Khí thế
gian thanh tịnh giả, như hướng thuyết thập
thất chủng trang nghiêm Phật độ công đức
thành tựu, thị danh khí thế gian thanh tịnh. Chúng sanh
thế gian thanh tịnh giả, như hướng thuyết
bát chủng trang nghiêm Phật công đức thành tựu, tứ
chủng trang nghiêm Bồ Tát công đức thành tựu. Thị
danh chúng sanh thế gian thanh tịnh. Như thị nhất
pháp cú, nhiếp nhị chủng thanh tịnh nghĩa, ưng
tri.
(Chú) Phù chúng sanh vi biệt báo
chi Thể, quốc độ vi cộng báo chi Dụng, Thể
Dụng bất nhất, sở
dĩ ưng tri.
(論)何等二種。一者器世間清淨。二者眾生世間清淨。器世間清淨者。如向說十七種莊嚴佛土功德成就。是名器世間清淨。眾生世間清淨者。如向說八種莊嚴佛功德成就。四種莊嚴菩薩功德成就。是名眾生世間清淨。如是一法句。攝二種清淨義。應知。
(註)夫眾生為別報之體。國土為共報之用。體用不一。所以應知。
(Luận: Những ǵ là
hai thứ? Một là khí thế gian thanh tịnh; hai là chúng
sanh thế gian thanh tịnh. Khí thế gian thanh tịnh là như
mười bảy thứ trang nghiêm cơi Phật công đức
thành tựu như đă nói trước đây. Đó gọi
là khí thế gian thanh tịnh. Chúng sanh thế gian thanh tịnh
là tám thứ trang nghiêm công đức thành tựu của Phật
và bốn thứ trang nghiêm công đức thành tựu của Bồ Tát như đă
nói trên đây. Đó gọi là chúng sanh thế gian thanh tịnh.
Một câu pháp như thế bao gồm hai ư nghĩa thanh tịnh,
hăy nên biết.
Chú: Chúng sanh là Thể của
biệt báo, quốc độ là Dụng của cộng báo.
Thể và Dụng chẳng phải
là một, cho nên hăy nên biết [như thế]).
Ngài Đàm Loan coi chúng sanh chánh
báo là Thể, quốc độ y báo là Dụng, chia thành Thể
và Dụng khác nhau. V́ thế, có hai thứ thanh tịnh. Nói
như vậy th́ cũng hợp lư.
(Chú) Nhiên chư pháp tâm thành,
vô dư cảnh giới. Chúng sanh cập khí, phục bất
đắc dị, bất đắc nhất. Bất nhất
tắc phân nghĩa, bất dị đồng thanh tịnh.
(註)然諸法心成。無餘境界。眾生及器。復不得異。不得一。不一則義分。不異同清淨。
(Chú: Nhưng các pháp do tâm
thành, không có cảnh giới nào khác. Chúng sanh và khí thế
gian lại chẳng khác, chẳng một. Chẳng một th́ là ư nghĩa
“chia ra”, chẳng khác là v́ cùng thanh tịnh).
Kinh dạy: “Tam giới duy
tâm, vạn pháp duy thức” và “ưng
quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (nên quán tánh
pháp giới, hết thảy chỉ tâm tạo). Các pháp đă
do tâm mà thành th́ ngoài tâm không có pháp, không có chúng sanh. Chúng sanh và
quốc độ thực tại là chẳng khác biệt. Nhưng chúng
sanh là hữu t́nh, quốc độ là vô t́nh, xét theo hàm nghĩa
của chúng, lại chẳng giống hệt như nhau. Đă
đều là Tướng và Dụng do tâm thanh tịnh duyên
khởi, nói theo cái tâm thanh tịnh th́ đích xác là chẳng
có sự bất đồng. Nói theo sự phân chia ấy th́ là dùng tịnh
tâm làm Thể, chúng
sanh và quốc độ đều là Dụng. Thể và Dụng
như thế chẳng một, chẳng khác! Thể thanh tịnh,
cho nên Dụng liền thanh tịnh. Đấy chính là sự
thanh tịnh đáng nên biết như luận này đă nói, hoàn
toàn phù hợp với ư nghĩa “tâm tịnh quốc độ
tịnh, tâm tịnh chúng sanh tịnh” trong các kinh Đại
Thừa.
(Chú) Khí giả, Dụng
dă. Vị bỉ Tịnh Độ thị bỉ thanh tịnh
chúng sanh chi sở thọ dụng, cố danh vi Khí. Như tịnh
thực dụng bất tịnh khí, dĩ khí bất tịnh
cố, thực diệc bất tịnh. Bất tịnh thực
dụng tịnh khí, thực bất tịnh cố, khí diệc
bất tịnh. Yếu nhị câu khiết, năi đắc
xưng tịnh. Thị dĩ, nhất thanh tịnh danh, tất
nhiếp nhị chủng.
(註)器者用也。謂彼淨土。是彼清淨眾生之所受用。故名為器。如淨食用不淨器。以器不淨故。食亦不淨。不淨食用淨器。食不淨故。器亦不淨。要二俱潔。乃得稱淨。是以一清淨名。必攝二種。
(Chú: “Khí” là nói đến
Dụng, nghĩa là Tịnh Độ ấy để cho chúng
sanh thanh tịnh [trong cơi] ấy thọ dụng,
cho nên gọi
là Khí. Như thức ăn sạch mà dùng đồ đựng
bất tịnh [để chứa], do đồ đựng
bất tịnh, thức ăn cũng bất tịnh. Thức
ăn bất tịnh dùng đồ đựng sạch sẽ,
do thức ăn bất tịnh, đồ đựng cũng
bất tịnh. Phải là hai thứ đều sạch sẽ
th́ mới gọi là “tịnh”. Do vậy, trong một danh xưng
thanh tịnh, ắt bao gồm hai thứ).
Đây là dùng thực phẩm
và đồ chứa đựng thức ăn trong thế gian
để sánh ví điều được nói trong luận
này: Hai thứ thanh tịnh, tức là khí thế
gian thanh tịnh và chúng sanh thế gian thanh tịnh. Tôi cảm
thấy thí dụ này chẳng thích đáng cho lắm. Thực
phẩm và đồ đựng thức ăn đều cùng
là vật vô t́nh, nhưng chúng sanh là hữu t́nh, đấy là
chỗ bất đồng. Lại nữa, nói thông thường,
y báo (khí thế gian) chuyển theo chánh báo. Khí thế gian thanh
tịnh hay không tùy thuộc chánh báo tức hữu t́nh chúng
sanh có thanh tịnh hay không, chẳng giống như dùng đồ
chứa thức ăn bất tịnh, thực phẩm cũng
trở thành bất tịnh. Nói hữu t́nh (chúng sanh) và vô t́nh
(khí) hai thứ thế gian chỉ là dựa theo Kiến Phần
và Tướng Phần[5] của tám thức mà
chia thành hai thứ. Nếu chuyển tám thức ô nhiễm
thành tứ trí Bồ Đề thanh tịnh (tức trí huệ
chân thật) th́ hai thứ thế gian (khí thế
gian và chúng sanh thế gian) sẽ liền chuyển
thành thanh tịnh theo! Trước khi chuyển, hai thứ thế
gian đều là bất tịnh. V́ thế kinh dạy: “Nhất
thanh tịnh (tâm thức), nhất thiết thanh tịnh”
(Một thứ thanh tịnh (tức tâm thức thanh tịnh),
hết thảy sẽ thanh tịnh). “T́nh dữ vô t́nh, đồng
viên Chủng Trí” (Hữu
t́nh và vô t́nh cùng viên măn Nhất Thiết Chủng Trí), “sơn
hà cập đại địa, tận thị pháp giới
thân” (núi sông và cơi đất, thảy đều
là thân pháp giới) chính là ư này. Như đức Bổn Sư
nhấn ngón chân xuống đất, ngay lập tức bèn chuyển
uế độ thành quốc độ trang nghiêm thanh tịnh.
Phẩm Hiện Bảo Tháp trong kinh Pháp Hoa đă có nói [thế
giới Sa Bà] ba lượt biến thành Tịnh Độ,
cũng nhằm
chứng minh hết thảy y báo đích xác là chuyển
theo chánh báo (tâm thức). Tức là nói theo t́nh huống thật
sự trong thế gian, đều là ánh trăng ngoài cửa
sổ như nhau, bệnh nhân trong bệnh viện và kẻ
hưởng lạc nơi chốn nhậu nhẹt ăn chơi
cùng nh́n vầng trăng, sẽ có cảm nhận khác biệt
rất lớn!
(Chú) Vấn viết: Ngôn
chúng sanh thanh tịnh, tắc thị Phật dữ Bồ Tát,
bỉ chư nhân thiên đắc nhập thử thanh tịnh
số phủ? Đáp viết: Đắc danh thanh tịnh, phi
thật thanh tịnh. Thí như xuất gia thánh nhân, dĩ sát
phiền năo tặc, cố
danh vi tỳ-kheo. Phàm phu xuất gia giả, tŕ giới, phá
giới, giai danh tỳ-kheo. Hựu như quán đảnh vương
tử, sơ sanh chi thời, cụ tam thập nhị tướng,
tức vi thất bảo sở thuộc. Tuy vị năng
vi Chuyển Luân Vương
sự, diệc danh Chuyển Luân Vương, dĩ kỳ tất
vi Chuyển Luân Vương
cố. Bỉ chư nhân thiên, diệc phục như thị,
giai nhập Đại Thừa Chánh Định chi tụ, tất
cánh đương đắc thanh tịnh Pháp Thân. Dĩ đương
đắc cố, đắc danh thanh tịnh.
(註)問曰。言眾生清淨。則是佛與菩薩。彼諸人天。得入此清淨數不。答曰。得名清淨。非實清淨。譬如出家聖人。以殺煩惱賊。故名為比丘。凡夫出家者。持戒破戒。皆名比丘。又如灌頂王子。初生之時。具三十二相。即為七寶所屬。雖未能為轉輪王事。亦名轉輪王。以其必為轉輪王故。彼諸人天。亦復如是。皆入大乘正定之聚。畢竟當得清淨法身。以當得故。得名清淨。
(Chú: Hỏi: Nói “chúng sanh
thanh tịnh” th́ là [nói đến] Phật và Bồ Tát, c̣n các vị
trời người [trong cơi] ấy có
thật sự đạt được thanh tịnh hay chăng?
Đáp: Được gọi là thanh tịnh, chưa phải
là thanh tịnh thật sự. Ví như bậc thánh nhân xuất
gia do giết giặc phiền năo nên gọi là tỳ-kheo. Phàm
phu xuất gia, [bất luận] tŕ giới hay phá giới, đều
gọi là tỳ-kheo. Lại như quán đảnh vương
tử, lúc mới sanh ra đă có đủ ba mươi hai tướng,
lập tức sở
hữu bảy món báu, tuy chưa thể làm chuyện của
Chuyển Luân Vương, vẫn gọi là Chuyển Luân Vương,
do vương tử ấy ắt sẽ làm Chuyển Luân Vương.
Các hàng trời người [trong
cơi Cực Lạc] ấy cũng
giống như thế, đều thuộc vào Chánh Định
Tụ của Đại Thừa, rốt ráo sẽ đắc
Pháp Thân thanh tịnh. Do sẽ đắc, nên gọi là thanh
tịnh).
Nếu
có kẻ hỏi: [Nói đến] chúng sanh thế gian thanh tịnh
trong thế giới Cực Lạc th́ chính là tám thứ công
đức thanh tịnh của Phật và bốn thứ công
đức của hàng Bồ Tát. Nhưng kinh Vô Lượng
Thọ chỗ nào cũng đều nhắc đến đại
chúng trời người trong cơi ấy, chẳng biết những
trời người ấy có được tính gộp vào
chúng sanh thanh tịnh hay không? Ngài Đàm Loan giải đáp, đă
nêu ra thí dụ về phàm phu xuất gia và con trai của Chuyển
Luân Vương, tức là nói họ có được
cái danh thanh tịnh, chẳng phải là thật sự thanh
tịnh! Xét theo đó để
nói, vậy th́ trong Tịnh Độ có chúng sanh chẳng phải
là thật sự thanh tịnh. Thí dụ này chẳng phù hợp
với lời dạy trong kinh luận và cũng trái nghịch
ư Phật, v́ sao vậy? Mười phương chúng sanh thành
tựu tam nghiệp thanh tịnh làm nhân, văng sanh An Lạc Tịnh
Độ là quả. Tuy nói “có thể
đới nghiệp văng sanh”, nhưng
chỉ là mang theo nghiệp chủng, chẳng phải là đem
theo nghiệp quả bất tịnh đang hiện hành mà được
văng sanh! Như tỳ-kheo Hùng Tuấn đời Đường
và đồ tể Trương Thiện Ḥa đời Đường
v.v… đă được văng sanh An Lạc thuộc loại
này. Quán Kinh nói: Chí tâm niệm A Di Đà Phật một tiếng,
có thể diệt trọng tội trong tám mươi ức
kiếp sanh tử. Đó là sự thật chân thật như
thế đó: Tội nghiệp tiêu diệt, khôi phục tịnh
tâm vốn có mà sanh Tịnh Độ. Chẳng phải là cái
tâm hữu danh vô thực chẳng thanh tịnh mà được
văng sanh.
Kinh Vô Lượng Thọ nói:
“Kỳ hữu chúng sanh, sanh bỉ quốc giả, giai tất
trụ ư Chánh Định chi tụ” (Có những chúng
sanh sanh về cơi ấy thảy đều trụ trong Chánh
Định Tụ), tức họ đều
là Đại Thừa Bất Thoái Chuyển Bồ Tát. Phần
Kệ Tụng trong luận này cũng nói: “Đại Thừa
thiện căn giới, đẳng vô cơ hiềm danh”
(Thiện căn
giới Đại Thừa, b́nh đẳng, không có danh xưng
gây chê gièm). Giả sử có phàm phu nhân thiên chẳng phải
là Bất Thoái Chuyển Bồ Tát, tâm chẳng thanh tịnh th́
sẽ có danh xưng đáng bị chê gièm mất rồi! V́
thế, kinh Vô Lượng Thọ c̣n nói: “A Nan! Bỉ Phật
quốc độ, chư văng sanh giả, cụ túc như
thị thanh tịnh sắc thân, chư diệu âm thanh, thần
thông công đức (thử tức tam nghiệp thanh tịnh).
Kỳ chư Thanh Văn, Bồ Tát, thiên, nhân, trí huệ cao
minh, thần thông đỗng đạt, hàm đồng nhất
loại, h́nh vô dị trạng, đản nhân thuận dư
phương, cố hữu thiên nhân chi danh. Nhan mạo đoan
chánh, siêu thế hy hữu, dung sắc vi diệu, phi thiên,
phi nhân, giai thọ tự nhiên hư vô chi thân, vô cực chi
thể” (Này A Nan! Những người sanh về cơi Phật
ấy trọn đủ sắc thân thanh tịnh, các âm thanh
mầu nhiệm, thần thông, công đức (tức là ba
nghiệp thanh tịnh) như thế. Các vị Thanh Văn,
Bồ Tát, trời, người ấy trí huệ cao minh, thần
thông thông đạt thấu suốt, đều cùng một loại, h́nh tướng chẳng
khác nhau, chỉ v́ thuận theo các phương khác mà có danh xưng
trời hay người. Dung mạo của họ đoan chánh,
hiếm có, vượt trỗi cơi đời, dung sắc vi
diệu, chẳng phải trời, chẳng phải người,
đều bẩm thọ cái thân hư vô tự nhiên, bản
thể vô cực). Đại chúng nhân thiên như thế làm
sao có thể là “mang cái danh là thanh tịnh, chứ không phải
là thật sự
thanh tịnh” cho được? Há có thể nào sánh ví như
phàm phu tỳ-kheo tŕ giới hay phá giới ư?
Chính ngài Đàm Loan trong phần
sau, nơi khoa mục Nguyện Sự Thành Tựu cũng nói:
“Vị ưng tri thử tứ chủng (trí huệ, phương
tiện, vô chướng, thắng chân tâm) thanh tịnh công
đức, năng đắc sanh bỉ Tịnh Độ,
phi thị tha duyên nhi sanh dă” (Tức là hăy nên biết: Do bốn
thứ công đức thanh tịnh này (trí huệ, phương
tiện, vô chướng, thắng chân tâm) mà có thể sanh vào
cơi Tịnh Độ ấy, chẳng phải do duyên khác mà
sanh). Trong trang năm mươi bảy thuộc phần trước
cũng có nói: “An Lạc Tịnh Độ chư văng sanh giả,
vô bất tịnh sắc, vô bất tịnh tâm, dĩ An Lạc
quốc thanh tịnh tánh thành tựu cố” (Những người
văng sanh An Lạc Tịnh Độ, không ai chẳng là tịnh
sắc, không ai chẳng là tịnh tâm, do An Lạc quốc được
thành tựu bởi tánh thanh tịnh). Do vậy, đều
là liên hoa hóa sanh. Đây chính là dùng hoa sen để sánh ví pháp
tánh thanh tịnh, tất cả trời người đều
là thân được sanh bởi pháp tánh thanh tịnh, làm sao
có thể nói “chỉ có danh xưng thanh tịnh, chẳng phải
là thật
sự thanh tịnh” cho được? Bởi vậy, trong
phần Kệ Tụng của Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Phẩm có ghi: “Bỉ Phật chúng hội hàm thanh tịnh,
ngă thời ư thắng liên hoa sanh” (Đại
chúng trong pháp hội của đức Phật ấy đều
thanh tịnh, lúc ấy tôi bèn sanh
trong hoa sen thù thắng). Trời người trong cơi ấy chắc
chắn thuộc loại thanh tịnh.
Lời luận c̣n nói: Quán tám
thứ công đức của A Di Đà Phật, và bốn
thứ công đức của Bồ Tát, đều thuộc
vào Chánh Giác thế gian thanh tịnh, c̣n gọi là chúng sanh thế
gian thanh tịnh. Đấy là gom hết đại chúng trời
người trong cơi ấy vào hàng Bồ Tát, chỉ có như
vậy th́ mới có thể phù hợp điều kinh Vô
Lượng Thọ đă dạy: “Bỉ quốc nhân thiên,
nhân thuận dư phương (thế giới), cố hữu
nhân thiên chi danh, kỳ thật, phi thiên, phi nhân” (Trời người
trong cơi ấy do thuận theo phương khác (thế giới
khác) cho nên có danh xưng trời người; thật ra, chẳng
phải trời, chẳng phải người). Do vậy, chẳng
c̣n ở ngoài Bồ Tát mà nói đến Sự và Lư đại
chúng trời người thanh tịnh!
Chúng sanh thuộc ba bậc chín
phẩm chỉ cần dấy lên nguyện tâm Vô Thượng
Bồ Đề, trọn đủ nguyện tâm ưa thích
[Cực Lạc] và chán
nhàm [Sa Bà], thành tựu
tịnh nghiệp ngũ niệm môn, văng sanh An Lạc Tịnh
Độ, sẽ nhất loạt b́nh đẳng, đều
là A Bệ Bạt Trí, cùng đều là một loại giống
như các vị Bồ Tát, liền dự vào loại Chánh Giác chúng
sanh thế gian thanh tịnh. Do vậy, kinh Vô Lượng Thọ
c̣n có tên là Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác
Kinh, chắc chắn chẳng có chuyện “mang tiếng thanh
tịnh, chứ thật sự chẳng thanh tịnh” mà có
thể sanh vào Tịnh Độ đâu nhé! V́ thế, phần
Kệ Tụng trong bộ luận này có đoạn: “Thiên
nhân bất động chúng, thanh tịnh trí hải sanh” (Chúng
trời người bất động, biển trí thanh tịnh
sanh). Ư kinh và ư Phật như thế đó.
Như hoàng đế Thuận
Trị đă soạn bài tán thán kinh Vô Lượng Thọ có
đoạn: “Xưng danh nhất thanh khởi nhất niệm,
bát thập ức kiếp tội giai trừ… Như thị
công đức bất khả thuyết. Bất khả thuyết
giả, diệu quang minh. Vô lượng thanh tịnh b́nh đẳng
thí, ngũ trược chúng sanh hàm tác Phật” (Xưng danh
một tiếng, khởi một niệm, tám mươi ức
kiếp tội đều trừ… công đức như thế
chẳng thể nói. Quang minh mầu nhiệm chẳng thể
nói. Vô lượng thanh tịnh b́nh đẳng thí, chúng sanh ngũ
trược đều thành Phật). Chúng sanh tội cấu
chỉ cần chí tâm tin ưa, tu ngũ niệm môn, lâm chung
mười niệm, niệm A Di Đà Phật, đều được
văng sanh thành Phật, đều cùng là người thanh tịnh
giải thoát thuộc vào Chánh Giác chúng sanh thế gian. Thật
ra, thế gian chính là phi thế gian, giả danh là “thế gian”. “Thế gian thanh tịnh” cũng là danh
từ lập bày giả
huyễn, như tổ sư Thiền Tông đă nói: “Tu chứng
th́ chẳng không, nhiễm ô th́ chẳng được”,
[các độc giả] chẳng ngại tham khảo. Tô Đông
Pha cũng nói: “Khê thanh tận thị quảng trường
thiệt, sơn sắc vô phi thanh tịnh thân” (Tiếng suối
đều là tướng lưỡi rộng dài, sắc núi
không ǵ chẳng phải là thân thanh tịnh). Hiểu ư này, thanh
tịnh hay chẳng thanh tịnh, hoàn toàn chỉ
là do thức biến, cũng như kinh Pháp Hoa đă dạy:
“Thanh tịnh diệu Pháp Thân, cụ tướng tam thập
nhị” (Pháp Thân diệu thanh tịnh, đầy đủ
băm hai tướng). Trời người trong cơi ấy đều
có ba mươi hai tướng, nên đều thuộc về
thanh tịnh.
2.2.2.2.5.
Thiện xảo nhiếp hóa
(Chú) Thiện xảo nhiếp
hóa giả.
(Chú: Nhiếp thọ, giáo
hóa khéo léo…)
2.2.2.2.5.1.
Thành tựu nhu nhuyễn tâm
(Luận) Như thị Bồ
Tát Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na quảng lược tu hành, thành tựu
nhu nhuyễn tâm.
(Chú) Nhu nhuyễn tâm giả,
vị quảng lược Chỉ Quán, tương thuận
tu hành, thành bất nhị tâm dă. Thí như dĩ thủy thủ
ảnh, thanh tĩnh tương tư nhi thành tựu dă.
(註)柔軟心者。謂廣略止觀。相順修行成不二心也。譬如以水取影。清靜相資。而成就也。
(Luận:
Bồ Tát tu hành Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na rộng hay lược
như thế, thành tựu tâm nhu nhuyễn.
Chú: “Nhu nhuyễn tâm” nghĩa
là tu hành Chỉ Quán thuận theo rộng hay lược mà thành
tựu cái tâm bất nhị. Ví như dùng nước để
lấy h́nh bóng, do thanh và tĩnh giúp đỡ
lẫn nhau mà thành tựu vậy).
Khoa mục
này được gọi là Thiện Xảo Nhiếp Hóa, cũng
chính là môn thứ năm, tức Hồi Hướng Môn. Trong
ngũ niệm môn, Tác Nguyện Môn là chánh tu Chỉ, Quán Sát Môn
là chánh tu Quán, hai môn Lễ Bái và Tán Thán là thật sự nương vào “Chỉ cảnh” (cảnh giới để tu tập
Chỉ) chẳng nghĩ bàn. Hồi Hướng Môn là nói tới hồi
hướng Bồ Đề chúng sanh, mong xa ĺa ba loại pháp
trái nghịch Bồ Đề môn, tùy thuận ba loại pháp
tương ứng Bồ Đề môn th́ mới có thể
thành tựu thiện xảo hồi hướng. Trong pháp môn
ngũ niệm này, phát nguyện là khẩn yếu nhất, chẳng
giống như pháp Chỉ trong các cách tu hành Chỉ Quán thông
thường. V́ thế, Luận
Chủ chẳng lập [ra môn] tu Chỉ, mà gọi là Tác Nguyện.
V́ Lễ Bái, Tán Thán, và Quán Sát trong năm niệm môn đều
thuộc về hạnh môn, Tác Nguyện và Hồi Hướng
thuộc về nguyện môn; hạnh
và nguyện giúp đỡ lẫn nhau như thế để
công có chỗ quy kết, tâm có chỗ để chuyên chú, cho
nên cần phải phát nguyện: “Nguyện sanh An Lạc quốc,
thượng cầu hạ hóa”. Trong ấy đă bao hàm hai
thứ ư nghĩa trọng yếu “phát Bồ Đề tâm”
và “hồi hướng Bồ Đề chúng sanh”. Nếu
có thể nhất tâm “chuyên chú nơi văng sanh Tây
Phương An Lạc quốc” th́ sẽ như người
có mắt, từng bước hướng đến chỗ
ắt phải đến. Như người bắn tên, bắn
vào mục tiêu trăm phát trăm trúng. Do phát nguyện, công có
chỗ quy kết, nên công chẳng mất mát. Do phát nguyện,
tâm có chỗ chuyên chú, nên thâu nhiếp cái tâm tán loạn vào định
tĩnh. Đó gọi
là tu Chỉ.
Do Chỉ mà khởi Quán, nương
vào phát nguyện để quan sát. Chỉ và Quán cùng vận
dụng, ắt đạt được vô thượng Bồ
Đề Định Huệ viên minh. Cuối cùng là thiện
xảo hồi hướng chúng sanh cùng thành Phật đạo.
Do điều này có thể biết: Luận này nêu ra ngũ
niệm môn, lấy phát nguyện môn làm
cốt lơi, có nguyện th́ mới có thể chí tâm tinh tấn,
giùi mài chẳng bỏ, như kinh Vô Lượng Thọ
đă nói: “Nhân hữu chí tâm tinh tấn, cầu đạo
bất chỉ, hội đương khắc quả, hà
nguyện bất đắc” (Nếu là người chí tâm
tinh tấn cầu đạo chẳng ngừng, ắt sẽ
đắc quả, có nguyện nào mà chẳng đạt được).
Tục ngữ có câu: “Hữu chí cánh thành” (có chí th́ nên).
Do đó, tu học Đại Thừa, tu hành pháp môn Tịnh
Độ, đều phải lấy phát nguyện làm đầu,
lấy phát nguyện làm căn bản. Như Ngẫu
Ích đại sư nói: “Đắc sanh dữ phủ, toàn
do tín nguyện chi hữu vô. Phẩm vị cao hạ, toàn do
tŕ danh chi thâm thiển” (Được văng sanh hay không hoàn
toàn là do có tín nguyện hay không. Phẩm vị cao hay thấp
hoàn toàn do tŕ danh cạn hay sâu). Như trong bài Khuyến Phát Bồ
Đề Tâm Văn của Tỉnh Am đại sư có đoạn
viết: “Nguyện cùng sanh Tịnh Độ, cùng thấy
Phật Di Đà, cùng hóa độ chúng sanh, cùng thành Chánh
Giác. Kính mong đại chúng thương xót tấm ḷng ngu thành
của tôi mà cùng lập nguyện này. Người chưa phát
th́ nay hăy phát, người đă phát hăy tăng trưởng,
người đă tăng trưởng hăy khiến cho liên tục.
Đừng nói một niệm là nhỏ nhặt, đừng
bảo nguyện suông là vô ích. Tâm thật th́ sự thật,
nguyện rộng ắt hạnh sâu. Hư không chẳng lớn,
tâm vương là lớn. Kim cang chẳng cứng, nguyện
lực cứng nhất. Nếu đại chúng thật sự
chẳng vứt bỏ lời tôi th́ Bồ Đề quyến
thuộc từ đây kết nối, bạn hữu liên xă
từ nay kết chặt”. Hy vọng Tịnh Tông liên hữu
hăy suy đi nghĩ lại lời này!
Lời luận nói: Bồ Tát
tu ngũ niệm môn có thể theo như luận này đă nói,
“tâm thường tác nguyện, nhất tâm chuyên niệm, tất
cánh văng sanh An Lạc quốc độ, dục như thật
tu hành Xa-ma-tha (Chỉ) cố” (tâm thường phát nguyện,
một ḷng chuyên niệm, rốt ráo văng sanh cơi nước
An Lạc v́ muốn như thật tu hành Xa-ma-tha, tức Chỉ).
Đấy là tu theo kiểu đại lược. Lại
nói: “Trí huệ quán sát, chánh niệm quán bỉ, dục như
thật tu hành Tỳ-bà-xá-na (Quán) cố” (Trí huệ quan
sát, chánh niệm quán cơi kia, v́ muốn như thật tu hành Tỳ-bà-xá-na, tức Quán). Đấy
là tu rộng. Tu hành Chỉ Quán rộng, lược như thế,
được thành tựu
cái tâm nhu nhuyễn. V́ thế, ngài Đàm Loan chú giải rằng:
“Nhu nhuyễn tâm giả, vị quảng lược Chỉ
Quán, tương thuận tu hành, thành bất nhị tâm dă”
(Nhu nhuyễn tâm là thuận theo Chỉ Quán mà rộng hay lược
tu hành, thành tựu cái tâm bất nhị).
“Quảng lược Chỉ
Quán, tương thuận tu hành” được
nói ở đây chính là thuận theo thứ tự của pháp
môn ngũ niệm mà tu, sẽ thành tựu cái tâm nhu nhuyễn.
V́ sao vậy? Nương theo hai môn Tác Nguyện và Quán Sát để
tu, tức là thuận theo phía Quảng để tu Quán. Quan
sát ba thứ trang nghiêm, tức là quốc độ, Phật,
và Bồ Tát. Ba thứ thành tựu nguyện tâm (bổn nguyện
tâm) trang nghiêm ấy, nói đại lược, sẽ gom thành
một câu pháp. Một câu pháp chính là câu thanh tịnh. Câu thanh
tịnh chính là “trí huệ chân thật (Quán), vô vi Pháp Thân (Chỉ)”.
Đấy chính là nhập vào lẫn nhau để tu Chỉ
Quán đại lược.
Lại nữa, nương
theo năm môn quán Phật do Thanh Lương quốc sư đă
nói hay ngũ phương tiện niệm Phật môn do Trí
Giả đại sư đề ra (như trong biểu đồ
dưới đây sẽ thuyết minh) [để tu tập],
th́ cũng là tu hành Chỉ Quán lược hay rộng theo chiều
thuận, không chỉ là có thể đoạn Kiến Hoặc
và Tư Hoặc, mà c̣n có thể phá vô minh,
chứng Pháp Thân, đắc Nhu Thuận Nhẫn và Vô Sanh Nhẫn.
Năm môn quán Phật của Thanh Lương quốc
sư |
Năm môn phương tiện niệm Phật của
Trí Giả đại sư |
Hữu tâm hữu cảnh quán Phật môn (有心有境觀佛門) |
Xưng danh văng sanh niệm Phật môn (稱名往生念佛門) |
Quán tướng diệt tội niệm Phật môn (觀相滅罪念佛門) |
|
Duy tâm vô cảnh quán Phật môn (唯心無境觀佛門) |
|
Tâm cảnh câu mẫn quán Phật môn (心境俱泯觀佛門) |
Chư cảnh duy tâm niệm Phật môn (諸境唯心念佛門) |
|
Tâm cảnh câu ly niệm Phật môn (心境俱離念佛門) |
Sự sự vô ngại quán Phật môn (事事無礙觀佛門) |
Tánh khởi viên thông niệm Phật môn (性起圓通念佛門) |
Trùng trùng vô ngại quán Phật môn (重重無礙觀佛門) |
Tâm nhu nhuyễn là ǵ? Nương
theo sự tu hành Chỉ Quán rộng hay lược được
nói trong luận này, ba nghiệp
thân, khẩu, ư đều được thanh tịnh, tương
ứng với
Chỉ Quán th́ gọi là “tương thuận tu hành”
(tu hành thuận theo). Do ba nghiệp thanh tịnh thuận
theo Chỉ Quán rộng hay lược, nên có thể thành tựu
cái tâm thanh tịnh bất nhị. Đó gọi là “nhu nhuyễn
tâm”.
Như “dĩ thủy thủ
ảnh” (dùng nước để lấy h́nh bóng), tức
là dùng nước thanh tịnh để soi mặt; khi ấy,
nước và khuôn mặt thanh tịnh hiển lộ lẫn
nhau. Ba nghiệp thanh tịnh như vẻ mặt, Chỉ
Quán rộng hay lược
như nước sạch. Dùng ba nghiệp thanh tịnh tu
ngũ niệm môn th́ là “vẻ mặt thanh tịnh”. Pháp ngũ
niệm Chỉ Quán rộng hay lược chính là “nước
thanh tịnh”. Ba nghiệp và ngũ môn giúp lẫn nhau thành
thanh tịnh, có thể đạt được “chẳng
có hết thảy phiền năo, vọng tưởng, chấp
trước” tức là ĺa hai tướng “lấy, bỏ”,
chứng Duy Thức Tánh. Tâm sanh tử và tâm Niết Bàn đều
chẳng hiện tiền, nên gọi là “tâm bất nhị”
hoặc “nhu nhuyễn tâm”. Đấy là do so sánh với
hàng Nhị Thừa đoạn Kiến Hoặc và Tư Hoặc,
ra khỏi tam giới, chứng Thiên Chân Niết Bàn mà nói là “đắc
nhu nhuyễn tâm” th́ càng thù thắng, nhiệm mầu hơn!
2.2.2.2.5.2.
Như thật biết các pháp
(Luận) Như thật tri
quảng lược chư pháp.
(Chú) Như thật tri giả,
như Thật Tướng nhi tri dă. Quảng trung nhị thập
cửu cú, lược trung nhất cú, mạc phi Thật Tướng
dă.
(論)如實知廣略諸法。
(註)如實知者。如實相而知也。廣中二十九句。略中一句。莫非實相也。
(Luận: Biết như
thật các pháp rộng hay lược.
Chú: “Biết như thật”
là đúng như Thật Tướng mà biết. Rộng là
hai mươi chín câu, lược là một câu, không ǵ chẳng
phải là Thật Tướng).
Có thể
đúng như Thật Tướng của các pháp mà biết th́ gọi là “như thật tri chư
pháp”. Thật Tướng của các pháp là ǵ? Chính là Như
Thật Không, Như Thật Bất Không. V́ thế, trong bộ
Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa, ngài Thiên Thai đă nói: “Vô tướng
(Không) bất tướng (bất Không), cố
danh Thật Tướng” (Do “không có tướng” (Không) mà
cũng “chẳng phải
là không có tướng” (Bất
Không), nên gọi là Thật Tướng). Liễu tri hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, không ǵ chẳng
phải là “duyên khởi mà tánh Không”, duyên khởi là Quảng,
tánh Không là lược. Đấy là biết đúng như
thật các pháp quảng và lược.
Nói theo sự tu tập ngũ
niệm môn, quan sát quốc độ An Lạc, Phật, và Bồ
Tát trong phần trước tổng cộng hai mươi chín
thứ (Văng
Sanh Luận gọi mỗi thứ là “một câu”) trang
nghiêm công đức th́ là biết như thật về Quảng.
Nói đại lược th́ gom vào một câu pháp. Một câu
pháp là câu thanh tịnh, đó là “biết
như thật về Lược”. Quảng
th́ Thật Tướng là Hữu chẳng
phải là không có tướng. Lược th́ Thật Tướng
là Không, chẳng có tướng. Nếu là Hữu th́ biết
là Hữu; nếu là Không th́ biết là Không. Hữu là Sanh Diệt
Môn, Không là Chân Như Môn. Các pháp chẳng ra ngoài nhất tâm nhị
môn. Đấy là tướng chân thật của các pháp quảng
và lược. Nếu có thể đích thân biết, đích
thân thấy như thế, th́ gọi là “biết như thật
các pháp rộng hay lược”.
2.2.2.2.5.3.
Xảo phương tiện hồi hướng
(Luận) Như thị thành
tựu xảo phương tiện hồi hướng.
(Chú) Như thị giả, như
tiền hậu quảng lược, giai Thật Tướng
dă. Dĩ tri Thật Tướng cố, tắc tri tam giới
chúng sanh hư vọng tướng dă. Tri chúng sanh hư vọng,
tắc sanh chân thật từ bi dă. Tri chân thật Pháp Thân, tắc
khởi chân thật quy y dă. Từ bi chi dữ quy y, xảo phương
tiện tại hạ.
(論)如是成就巧方便迴向。
(註)如是者。如前後廣略。皆實相也。以知實相故。則知三界眾生虛妄相也。知眾生虛妄。則生真實慈悲也。知真實法身。則起真實歸依也。慈悲之與歸依。巧方便在下。
(Luận:
Thành tựu phương tiện hồi hướng hay
khéo như thế.
Chú: “Như thế” là như
rộng trong phần trước (hai mươi chín câu trang
nghiêm công đức) và lược trong phần sau (một
câu thanh tịnh) đều là Thật Tướng. Do biết
Thật Tướng, cho nên biết chúng sanh trong tam giới là tướng hư vọng. Biết
chúng sanh là hư vọng, sẽ sanh ḷng từ bi chân thật.
Biết Pháp Thân chân thật, sẽ dấy lên sự quy y chân
thật. Từ bi và quy y, phương tiện hay khéo sẽ
[được tŕnh bày] dưới đây).
Phần
luận thuộc ba tiểu đoạn
từ “thành tựu cái tâm nhu nhuyễn” cho đến “xảo
phương tiện hồi hướng” trước sau liên
quan, chẳng thể tách rời. Bồ Tát nương theo
luận này để tu Chỉ Quán rộng lược trong
ngũ niệm môn, sẽ có thể thành tựu cái tâm nhu nhuyễn.
Đấy là do phục tâm Bồ Đề[6] mà thành tựu minh tâm
Bồ Đề, đắc Vô Phân Biệt Trí, phá vô minh, chứng
Pháp Thân (nhất tâm nhị môn). Đă được minh tâm,
tất nhiên là biết như thật các pháp rộng hay lược,
cũng là khôi phục cái tâm thanh tịnh “nhất tâm nhị
môn, Không Hữu
vô ngại”. Nương theo Chân
Như Môn, biết Pháp Thân chân thật, có thể tùy duyên bất
biến. Nương theo Sanh Diệt Môn, biết chúng sanh hư
vọng, có thể bất biến tùy duyên. Tùy duyên bất biến
chính là Vô Vi Pháp Thân của Bồ Tát, chính là chỗ quy y chân
thật. Bất biến tùy duyên chính là trí huệ chân thật
của Bồ Tát, chính là chỗ từ bi diệu dụng.
Như thế th́ có thể “tam luân thể không”, Ngă lẫn
Pháp hai đằng đều mất, do minh tâm Bồ Đề
mà tu xuất đáo Bồ Đề, thành tựu xảo phương
tiện hồi hướng, vượt thoát tam giới,
đạt đến Nhất Thiết Chủng Trí, viên măn Bồ
Đề, trở về chỗ “không có ǵ để đạt
được”.
Nói theo kinh Đại Bát Nhă
th́ Bồ Tát tu hết thảy công đức tự lợi,
lợi tha, nếu chẳng thể tương ứng với
cái Không “vô sở đắc” th́ chẳng thể đạt
được biển công đức của Phật quả
rốt ráo, chẳng thể tạo thành tư lương để
thành Phật. Do vậy, xảo phương tiện hồi
hướng chính là vô trí mà cũng là vô đắc, như Tâm
Kinh đă nói: “Do chẳng có ǵ để đạt được…
rốt ráo Niết Bàn, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác”. Xảo phương tiện hồi hướng
được nói trong luận này chính
là dựa theo điều này để nói. Như thế th́
mới có thể do xuất đáo Bồ Đề mà thành tựu viên măn cứu
cánh Bồ Đề.
(Luận) Hà giả Bồ
Tát xảo phương tiện hồi hướng? Bồ
Tát xảo phương tiện hồi hướng giả,
vị thuyết lễ bái đẳng ngũ chủng tu hành,
sở tập nhất thiết công đức thiện
căn, bất cầu tự thân trụ tŕ chi lạc, dục
bạt nhất thiết chúng sanh khổ. Cố tác nguyện
nhiếp thủ nhất thiết chúng sanh, cộng đồng
sanh bỉ An Lạc Phật quốc. Thị danh Bồ Tát xảo
phương tiện hồi hướng thành tựu.
(Chú) Án Vương Xá thành sở
thuyết Vô Lượng Thọ kinh, tam bối sanh trung, tuy
hạnh hữu ưu liệt, mạc bất giai phát Vô Thượng
Bồ Đề chi tâm. Thử Vô Thượng Bồ Đề
tâm, tức thị nguyện tác Phật tâm. Nguyện tác Phật
tâm, tức thị độ chúng sanh tâm. Độ chúng sanh
tâm, tức nhiếp thủ chúng sanh, sanh tịnh Phật quốc
độ tâm. Thị cố, nguyện sanh bỉ An Lạc Tịnh
Độ giả, yếu phát Vô Thượng Bồ Đề
tâm dă. Nhược nhân bất phát Vô Thượng Bồ Đề
tâm, đản văn bỉ quốc độ, thọ lạc
vô gián, vị lạc cố nguyện sanh, diệc đương
bất đắc văng sanh dă. Thị cố, ngôn bất cầu
tự thân trụ tŕ chi lạc, dục bạt nhất thiết
chúng sanh khổ cố. Trụ tŕ lạc giả, vị bỉ
An Lạc Tịnh Độ, vị A Di Đà Như Lai bổn
nguyện lực chi sở trụ tŕ, thọ lạc vô gián
dă.
(論)何者菩薩巧方便迴向。菩薩巧方便迴向者。謂說禮拜等五種修行。所集一切功德善根。不求自身住持之樂。欲拔一切眾生苦。故作願攝取一切眾生。共同生彼安樂佛國。是名菩薩巧方便。迴向成就。 (註)案王舍城所說無量壽經。三輩生中。雖行有優劣。莫不皆發無上菩提之心。此無上菩提心。即是願作佛心。願作佛心。即是度眾生心。度眾生心。即攝取眾生。生淨佛國土心。是故願生彼安樂淨土者。要發無上菩提心也。若人不發無上菩提心。但聞彼國土。受樂無間。為樂故願生。亦當不得往生也。是故言不求自身住持之樂。欲拔一切眾生苦故。住持樂者。謂彼安樂淨土。為阿彌陀如來本願力之所住持。受樂無間也。
(Luận: Xảo phương
tiện hồi hướng của Bồ Tát là ǵ? Xảo phương
tiện hồi hướng của Bồ Tát là nói đối
với công đức thiện căn do tu tập năm thứ
tu hành tức lễ bái v.v… bèn chẳng cầu nhằm duy tŕ
sự vui sướng cho bản thân, mà là muốn dẹp khổ
cho hết thảy chúng sanh, cho nên phát nguyện
nhiếp thủ hết thảy chúng sanh cùng nhau sanh về cơi
Phật An Lạc kia. Đó gọi là xảo phương tiện
hồi hướng thành tựu của Bồ Tát.
Chú: Theo kinh Vô Lượng
Thọ được nói tại thành Vương Xá, trong số
những người văng sanh thuộc ba bậc, tuy hạnh
có hơn kém, nhưng không ai chẳng đều phát tâm Vô Thượng
Bồ Đề. Cái tâm Vô Thượng Bồ Đề ấy
chính là tâm phát nguyện làm Phật. Tâm phát nguyện làm Phật
chính là tâm độ chúng sanh. Tâm độ chúng sanh chính là tâm
nhiếp thủ chúng sanh sanh về quốc độ thanh tịnh
của Phật. V́ thế, nguyện sanh về cơi An Lạc
Tịnh Độ kia, phải phát Vô Thượng Bồ
Đề tâm. Nếu kẻ nào chẳng phát Vô Thượng
Bồ Đề tâm, chỉ nghe nói trong quốc độ ấy
sẽ hưởng vui chẳng gián đoạn, v́ sự vui
sướng mà nguyện sanh [về đó], cũng sẽ chẳng
được văng sanh. V́ thế nói chẳng cầu duy tŕ
sự vui sướng cho bản thân, mà là muốn dẹp khổ
cho hết thảy chúng sanh. “Duy tŕ sự vui sướng” là
nói: Ở
trong An Lạc Tịnh Độ, do được sức
bổn nguyện của A Di Đà Như Lai trụ tŕ, bèn hưởng vui sướng chẳng
gián đoạn vậy).
Ngài Đàm Loan chú giải đoạn
này hết sức hay. Một mặt là chỉ ra tánh chất
trọng yếu của việc “muốn sanh về Tịnh
Độ, ắt trước hết phải phát tâm Vô Thượng
Bồ Đề”. Mặt khác là chỉ ra chỗ khác biệt
giữa phát Bồ Đề tâm trong Tịnh Độ Tông
và những cách nói thông thường khác. [Lập luận của
Ngài] hoàn toàn căn cứ trên kinh giáo, chẳng phải là tự
suy diễn nói bừa!
Như nói “độ sanh thành
Phật, thành Phật độ sanh”, đấy là nội
hàm chung của Vô Thượng Bồ Đề tâm. Nhưng
phát Bồ Đề tâm trong pháp môn Tịnh Độ th́ là trong vô lượng
phương tiện độ sanh của chư Phật, Bồ
Tát, đặc biệt chú trọng “nhiếp thủ chúng
sanh đều sanh về
cơi Phật thanh tịnh, cùng được thành Phật”. Đức
Bổn Sư lập giáo, Phật Di Đà nhiếp thủ, giáo
hóa, chư Phật cùng tán thán, tổ sư phán giáo, bảo [pháp môn Tịnh Độ] là “đạo
dễ hành”, đều là do điều này! Điều này
so với cách nói thông thường “phát Tứ Hoằng Thệ
Nguyện, thượng cầu, hạ hóa bèn gọi là phát Vô
Thượng Bồ Đề tâm”; đấy là “đạo
khó hành”. Sự sai khác chẳng cần phải nói cũng biết!
Phát Bồ Đề tâm là như thế, xảo phương
tiện hồi hướng cũng là như thế. Nếu
chẳng hồi hướng nhiếp thủ chúng sanh cùng
sanh An Lạc quốc, sẽ chẳng phải là “xảo phương
tiện hồi hướng” được nói trong luận
này. Do vậy, bộ luận này đă viết: “Hướng
thuyết lễ bái đẳng ngũ chủng tu hành, sở
tập nhất thiết công đức thiện căn, bất
cầu tự thân trụ tŕ chi lạc, tác nguyện nhiếp
thủ chúng sanh, đồng sanh An Lạc quốc. Thị
danh xảo phương tiện hồi hướng” (Xảo
phương tiện hồi hướng của Bồ Tát là
đối với hết thảy công đức thiện
căn do tu tập năm thứ tu hành, tức lễ bái v.v…
như đă nói trong phần trước, bèn chẳng cầu
nhằm duy tŕ sự vui sướng cho bản thân, mà là phát
nguyện nhiếp thủ hết thảy chúng sanh cùng sanh An
Lạc quốc. Đó gọi là xảo phương tiện
hồi hướng). Do vậy, ngài Đàm Loan nói: Nếu kẻ
nào chẳng phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, chẳng
hồi hướng nhiếp thủ chúng sanh sanh về An Lạc
quốc, chỉ cầu an lạc cho bản thân mà tu pháp môn Tịnh
Độ, cầu văng sanh Tịnh Độ th́ cũng đương
nhiên là chẳng được văng sanh An Lạc quốc.
“Trụ tŕ lạc” tức
là cơi An Lạc có Phật lực trụ tŕ, chẳng có các nỗi
khổ, chỉ hưởng các sự vui, chẳng thay đổi,
chẳng mất đi, hưởng vui sướng
chẳng gián đoạn. Hăy nên biết: Pháp môn Tịnh
Độ là pháp Đại Thừa, là đạo dễ hành
trong các phương tiện để thành Phật. Nếu
chẳng phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, sẽ chẳng
có chủng tử thành Phật, chẳng được thành
Phật. Đấy chẳng phải là bổn ư của đức
Thích Tôn, chẳng phải là phương tiện thành Phật
nơi bổn nguyện của Phật Di Đà. V́ thế,
cần phải là hoặc đă phát, hoặc nay phát, hoặc
sẽ phát, đều được trụ tŕ Bất
Thoái Bồ Đề, cùng thành Phật đạo. Hy vọng
các Tịnh Tông liên hữu đặc biệt lưu ư.
(Chú) Phàm thích hồi hướng
danh nghĩa, vị dĩ kỷ sở tập nhất thiết
công đức, thí dữ nhất thiết chúng sanh cộng
hướng Phật đạo. Xảo phương tiện
giả, vị Bồ Tát nguyện dĩ kỷ trí huệ hỏa,
thiêu nhất thiết chúng sanh phiền năo thảo mộc.
Nhược hữu nhất chúng sanh bất thành Phật, ngă
bất tác Phật. Nhi chúng sanh vị tận thành Phật, Bồ
Tát dĩ tự thành Phật. Thí như hỏa thiêm, dục
trích nhất thiết thảo mộc, thiêu linh sử tận.
Thảo mộc vị tận, hỏa thiêm dĩ tận. Dĩ
hậu kỳ thân, nhi thân tiên, cố danh “xảo
phương tiện”.
(註)凡釋迴向名義。謂以己所集一切功德。施與一切眾生。共向佛道。巧方便者。謂菩薩願以己智慧火。燒一切眾生煩惱草木。若有一眾生不成佛。我不作佛。而眾生未盡成佛。菩薩已自成佛。譬如火𣕊。欲摘一切草木。燒令使盡。草木未盡。火𣕊已盡。以後其身而身先。故名巧方便。
(Chú:
Phàm giải thích danh nghĩa của hồi hướng th́ là “đem tất
cả công đức do chính ḿnh đă tu tập
thí cho hết thảy chúng sanh đều cùng hướng đến
Phật đạo”. “Phương
tiện khéo” là Bồ Tát nguyện dùng lửa trí huệ của
chính ḿnh để đốt hết thảy cỏ cây phiền
năo của chúng sanh. Nếu có một chúng sanh chẳng thành Phật,
ta chẳng làm Phật. Nhưng chúng sanh đều chưa trọn hết
thành Phật, mà Bồ Tát đă tự thành Phật. Ví như
que củi nhóm lửa, muốn dùng để đốt sạch
hết thảy cỏ cây. Cỏ cây chưa cháy hết mà que
củi nhóm lửa đă cháy sạch. Đặt ḿnh ra sau mà
chính ḿnh lại [đạt thành tựu] trước; v́ thế
gọi là “phương tiện khéo”).
Trước hết, ngài Đàm
Loan giải thích hàm nghĩa trong danh xưng Hồi Hướng
thông thường, tức là nói: Đem công đức của
hết thảy thiện pháp thế gian và xuất thế
gian do chính ḿnh đă tu tập làm cái nhân, chính ḿnh chẳng cần
tham đắm quả báo, chuyển sang bố thí hết thảy
chúng sanh, [ngơ hầu họ] cùng được tiến hướng
theo đạo thành Phật mà thành Phật. Điều này
bao hàm “hồi nhân hướng quả, hồi tự hướng
tha, hồi Sự hướng Lư”.
Ngài lại giải thích thế
nào là xảo phương tiện? Nói đơn giản, phải
có hạnh nguyện Phổ Hiền trong thời gian và không
gian vô tận: Nếu một chúng sanh chẳng thành Phật,
tôi chẳng làm Phật. Ngài lại nêu ra thí dụ que củi
nhóm lửa để thuyết minh: Chúng sanh vô lượng
vô biên chưa thành Phật hết, Bồ Tát đă công viên quả
măn, đă tự thành Phật trước. Lư tất nhiên th́
Sự là đương nhiên. Đấy là phương tiện
thành Phật hay khéo không chi hơn được. Chữ “𣕊” đọc là Thiêm (添), tức
là “xuy táo mộc” (炊竈木), c̣n gọi
là “hỏa trượng” hoặc “mộc trượng”, [đều
có nghĩa là củi để nhóm ḷ]. Que củi
nhóm ḷ quyết chẳng v́ thiêu một
ít cỏ cây mà cháy, nó muốn thiêu
hết thảy cỏ cây, nhưng cỏ cây vô lượng,
chắc chắn là chẳng có lúc thiêu hết được,
nhưng bản thân của que củi nhóm ḷ v́ có hạn lượng,
sẽ có lúc bị thiêu sạch, đă
hóa thành tro. Bồ Tát độ chúng sanh thành Phật cũng giống như thế, tuy phát
nguyện độ hết chúng sanh rồi mới thành Phật,
kết quả là chính ḿnh đă thành Phật
trước. V́ thế nói là “hậu kỳ thân nhi thân tiên”
(đặt chính ḿnh ra sau mà chính ḿnh đạt được
trước).
(Chú) Thử trung ngôn phương
tiện giả, vị tác nguyện nhiếp thủ nhất
thiết chúng sanh, cộng đồng sanh bỉ An Lạc Phật
quốc. Bỉ
Phật quốc tức thị tất cánh thành Phật
đạo lộ vô thượng phương tiện dă.
(註)此中言方便者。謂作願攝取一切眾生。共同生彼安樂佛國。彼佛國即是畢竟成佛道路。無上方便也。
(Chú:
“Phương tiện” được nói ở đây là nói “nguyện
nhiếp thủ hết thảy chúng sanh cùng sanh về cơi Phật
An Lạc ấy”. Cơi Phật ấy chính là phương tiện
vô thượng trong đường
lối rốt ráo thành Phật).
“Thử trung ngôn” tức
là điều được nói trong phần luận của
bộ luận này. “Phương tiện” chính là phương
tiện thiện xảo, cũng là phương tiện
độ chúng sanh thành Phật dễ dàng nhất. Phương
tiện này có ǵ khác với những “phương tiện”
nói thông thường? Chính là do “phát nguyện nhiếp thủ
hết thảy chúng sanh cùng nhau sanh về quốc độ
An Lạc của A Di Đà Phật”, v́ cơi Phật ấy
là Tịnh Độ viên măn nhất trong các Tịnh Độ
của chư Phật. Chỉ cần chí tâm tin ưa, tâm được
thanh tịnh, dẫu chỉ mười niệm, niệm A
Di Đà Phật, nương theo bổn nguyện của Phật
nhiếp thọ, bất cứ ai cũng đều có thể
văng sanh, dẫu mang theo nghiệp chủng vẫn được
văng sanh. Đă văng sanh th́ đều là bất thoái chuyển,
vô lượng thọ, rốt ráo ắt đạt đến
Nhất Sanh Bổ Xứ, tức là rốt ráo thành Phật.
Đấy là trên Bồ Đề đại đạo thành
Phật, chẳng có pháp môn phương tiện nào tốt lành
hơn được nữa!
V́ chúng sanh ở trong sanh tử
đă lâu, vọng tưởng chấp trước đă tập
quen thành tánh. Nếu dùng “vô sở đắc Không” làm phương
tiện để khiến cho chúng sanh tự lực đoạn
trừ phiền năo mà văng sanh Tịnh Độ thành Phật,
họ sẽ khó thể làm được chuyện ấy.
Phương tiện ấy chẳng thể thích hợp trọn
khắp ba căn, gồm thâu trọn vẹn lợi căn
lẫn độn căn, chẳng thể gọi là thiện
xảo phương tiện!
Chỉ có nương theo bổn
nguyện nơi nhân địa và thần lực nơi quả
địa của A Di Đà Phật, thành tựu danh hiệu
Phật và Tịnh Độ, khiến cho hết thảy chúng
sanh tu ngũ niệm môn được sanh về cơi ấy,
th́ mới là phương tiện thù thắng chẳng thể
nghĩ bàn. Bất luận ba bậc chín phẩm, đều
có thể do hữu niệm mà đắc vô niệm, từ
hữu sanh mà nhập vô sanh, chẳng đoạn Hoặc chủng
(chủng tử phiền năo) mà thoát
khỏi
tam giới, thành Phật ngay trong một đời, vĩnh
viễn chẳng thoái chuyển, xác thực là một đại
đạo thành Phật an toàn nhất, nhanh chóng nhất, dễ
dàng nhất, phổ cập nhất, mà cũng là phương
tiện thiện xảo vô thượng nhất.
Vô Lượng
Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Chú Giải Giảng Nghĩa
phần
8 hết
[1] Tứ cú (四句) là “có,
không, cũng có cũng không, chẳng phải có chẳng phải
không”.
Bách phi (百非) là
đối với mỗi câu trong bốn câu trên đây,
đều có bốn câu (có, không, cũng có cũng không, chẳng
phải có chẳng phải không) tương ứng phối
hợp thành mười sáu (4x4) câu. Mười sáu câu phối hợp với ba đời
(quá khứ, hiện tại, vị lai) thành 16x3=48 câu. 48 câu ấy
lại phối hợp với dĩ khởi (đă dấy
lên) và vị khởi (chưa dấy lên) thành 96 (tức 48x2) câu. 96 câu ấy lại cộng với tứ cú ban đầu thành 100 câu, tức là bao hàm tất cả
những sự chấp trước, suy luận hư vọng,
cho nên gọi là “bách phi”.
[2] Địa Tiền Tam Hiền là ba mươi
địa vị Bồ Tát trước khi chứng Sơ
Địa, tức Thập Trụ, Thập Hạnh và Thập
Hồi Hướng.
[3] Theo Phật Học Đại Từ
Điển, “huyền tịch” (玄籍) là sách vở huyền
diệu, đấy là từ ngữ thông dụng để
chỉ kinh Phật. Sách Tư Tŕ Kư quyển hạ đă viết:
“Huyền tịch thông mục Phật giáo” (Huyền tịch là danh
xưng chung để gọi Phật giáo).
[4] Theo Phật Học Đại
Từ Điển, “Minh quyền” (冥權, quyền
âm thầm): Phương tiện quyền
biến của Phật, Bồ Tát th́ gọi là “minh quyền”.
[5]
Kiến Phần là khả năng nhận biết, tiếp
nhận, là chủ thể nhận thức của tám thức.
Tướng Phần là tướng trạng, tức là
đối tượng của Kiến Phần. Chẳng hạn
như chúng ta thấy một bông hoa, Nhăn Thức và Ư Thức
có thể nhận biết bông hoa, khả năng ấy gọi
là Kiến Phần, h́nh ảnh của bông hoa được
Nhăn Thức tiếp nhận chuyển cho Ư Thức th́ cái h́nh
ảnh ấy sẽ gọi là Tướng Phần.
[6] Phục tâm Bồ
Đề và minh tâm Bồ Đề là hai loại Bồ
Đề trong năm loại Bồ Đề:
1. Phát tâm Bồ
Đề: Thập Tín Bồ Tát trong vô lượng kiếp
sanh tử v́ Vô Thượng Bồ Đề mà phát Bồ
Đề tâm.
2. Phục tâm Bồ
Đề: Các vị Bồ Tát thuộc Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng điều phục
cái tâm phiền năo, hành các Ba La Mật.
3. Minh tâm Bồ
Đề: Hàng Bồ Tát từ Sơ Địa trở lên
quán Thật Tướng của các pháp, đă minh tâm kiến
tánh.
4. Xuất
đáo Bồ Đề: Hàng Bồ Tát từ Bát Địa
trở lên, chẳng chấp trước Bát Nhă mà có thể
diệt các Hoặc, vượt thoát tam giới, hướng
đến Phật quả.
5. Vô thượng
Bồ Đề: Hàng Đẳng Giác Bồ Tát ngồi
đạo tràng, đoạn sạch các phiền năo, đắc
Vô Thượng Chánh Giác.