Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

感應篇彙編

Quyển 1

Phần 1

(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2000)

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

Lời tựa đề xướng in Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

 

          Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, nói đơn giản, chính là bài văn dùng Lư và Sự nhân quả cảm ứng để khuyên mọi người làm lành, bỏ ác. Chẳng biết tác giả là ai! Có người nói là Cát Hồng[1], người học chưa chắc đă tin theo thuyết ấy. C̣n như nói [tác giả là] Thái Thượng [Lăo Quân][2], là giáo huấn xứng theo ḷng trời lập ra, thuyết ấy càng mơ hồ, chẳng thể nào tra cứu được! Kể từ đời Triệu Tống[3] đến nay, bài văn này được lưu truyền rất thịnh, được ghi chép trong Đạo Tạng[4]. Ngoài những sách dạy về bùa chú, luyện đơn, hành công, tu luyện ra, đây là một tác phẩm giúp giữ yên cơi đời bậc nhất của Đạo Giáo. Toàn bộ bài văn này chỉ hơn một ngàn chữ, nhưng Lư lẫn Sự đều chu đáo. Trong ấy đă kể ra hơn hai trăm chuyện lầm lỗi mà thế gian thường phạm để cảnh tỉnh mọi người, [bao gồm những điều] to lớn hay nhỏ nhặt, chẳng sót một điều nào, chẳng ngại phiền phức, do thương xót kẻ đôi khi v́ chẳng thận trọng mà trót phạm, sẽ chuốc lấy họa tai! Ư tưởng thanh thoát, ngôn từ ḥa nhă, nhưng khí thế chánh nghĩa tràn trề, lẫm liệt, dường như có quỷ thần xét soi, khiến cho người đọc hoảng sợ, xót xa, áy náy, hổ thẹn chẳng yên! Từ đấy, tự vấn ḷng ḿnh, mạnh mẽ tỉnh ngộ, lại c̣n lập tức hiểu họa phước là do chính ḿnh tạo, cũng như thấu đạt ư nghĩa sống động trong trời đất, sẽ có hy vọng thành thánh, thành hiền. Do bài văn này chỉ bảo rành rành, dẫu ngu hay hiền, [hễ đọc đến] đều được lợi lạc. Khuyên dụ đủ mọi lẽ, dẫu kẻ học kém vẫn dễ thấu đạt lẽ cao xa, mà cũng toàn là những điều học vấn thiết thực, gần gũi. Do v́ như vậy, nó có hiệu quả khuyến thiện rành rành, có công năng giữ yên cơi đời sâu xa. Đạo trưởng dưỡng sự tăng tấn, học vấn nhằm giáo hóa dân, giữ yên mỹ tục, đều được chứa đựng hết trong tác phẩm này. Dẫu nói đây là trước tác của Cát Hồng cũng được, dẫu bảo là lời dạy của trời cao truyền lại, cũng đều chẳng có ǵ là không được!

          Trải các đời, đă có nhiều người chú giải. Có vị giảng giải văn từ, có vị trích dẫn những lời lẽ xiển dương nghĩa lư, có vị dùng những câu chuyện để làm chứng. Cho đến đời Thanh, những người có chí bèn hội tập, chỉnh lư, nhuận sắc, khiến cho ngữ ư tường tận, nghĩa lư thấu triệt, dẫn chứng rộng răi, đặt tên là Vựng Biên. Do vậy, những lời nghị luận liên quan đến tâm tánh và đức nghiệp trong sách Nho, kinh Phật, những mẫu chuyện liên quan đến nhân duyên quả báo trong chánh sử, dă sử [đều được thâu thập] hết sức phong phú, tinh hoa nối tiếp khôn cùng. [Bộ sách này] có khoảng hai mươi vạn chữ, văn chương trong sáng, lưu loát dễ đọc, Sự lẫn Lư cùng dung hội. Nói chung là lấy ḷng nhân từ trắc ẩn làm Thể, lấy chuyện yên đời lợi người làm Dụng. Một niềm khẩn thiết rạng ngời trên giấy, mỗi phen đọc đến, chẳng khi nào không cảm thấy chánh khí tốt lành tràn trề nẩy sanh. Đúng là một bộ đại kỳ thư trong thiên hạ vậy!

          Nếu bảo: “Thiện ác là nghĩa lư của Nho gia, nhân quả là pháp giáo trong Phật môn, cảm ứng là sự chỉ dạy của đạo nhân, cớ sao lại khiên cưỡng kết hợp ba thứ ấy? Hơn nữa, để khuyến thiện, cần ǵ phải dùng nhân quả, cảm ứng? Từ xưa, giáo huấn thành tựu phẩm đức, trọn hết cái tâm để biết tánh của bậc thạc Nho đă đủ để nói rồi, chưa hề dùng nhân quả và cảm ứng v́ sợ rúng động ḷng người. Dùng cảm ứng và nhân quả để khuyến thiện, có nghĩa là đánh động đến họa, phước, lợi, hại. Do v́ họa, phước, lợi, hại mà làm lành, điều thiện ấy sẽ chẳng phải là chân thiện!” Tôi cho rằng, phẩm cách của con người có nhiều loại, giáo hóa cũng có nhiều cách. Từ tánh cách như Nghiêu, Thuấn trở xuống, trăm vị quân tử thuở đầu lập chí, chưa vị nào có thể thuần thiện, vô dục! Khi động tâm, ḷng canh cánh nhân quả, kiêng dè họa phước, há chẳng phải là đă giúp đỡ to lớn cho sự kiêng sợ, nỗ lực [giữ vẹn phẩm đức] suốt từ sáng đến tối đó ư? Hơn nữa, nhân quả báo ứng, họa phước đưa tới, có cảm bèn ứng, vốn là chuyện thật t́nh trong trời đất, tạo hóa. Cậy vào đó, sẽ chẳng hề thêm nhiều, dẫu gạt bỏ đi, cũng chẳng ít bớt. Bậc quân tử tăng tấn đức hạnh, có so đo [lợi, hại, họa, phước để làm lành] hay không, lạnh nóng tự biết. Thoạt đầu, dựa vào đó th́ nặng nề, cuối cùng bỏ đi th́ nhẹ nhàng[5]; cũng chẳng trở ngại công phu tâm tánh có thể ngày càng thêm tinh thuần, danh vọng, tài lộc, địa vị, trường thọ chẳng cầu mà tự đạt! V́ thế, người khéo tu đức, tuy dốc chí nơi tâm tánh, vốn chẳng cầu công quả mà tự có công quả, cớ ǵ cứ phải vất vả gạt bỏ [nhân quả, cảm ứng] để tự coi ḿnh là cao siêu?

          Huống hồ dân chúng khắp cơi nước, do ôm ḷng lợi hại mà làm, người tránh được lỗi lầm sẽ nhờ đó càng đông. Tâm tánh khó thể thành lập, nhưng nhân quả lại dễ hiểu. Chẳng nói đến họa phước v́ sợ ḷng người kinh hăi, làm sao có thể khuyên răn rộng răi [mọi người] tránh né tội lệ cho được? V́ thế, người khéo nói nhân quả, tuy lời lẽ phải dựa vào họa phước, rốt cuộc vẫn là chú trọng nơi tâm tánh, nhưng ít nhắc tới tâm tánh đó thôi! Sao lại cứ phải ra rả nêu lên những điều như thế để bắt chẹt người khác ư?

          Nếu có thể dốc ư nơi tâm tánh mà bàn nhân quả, khiến cho nhân dân v́ sợ quả báo mà chẳng dám làm ác ḥng gieo nhân, dần dà, họ sẽ an trụ nơi tâm tánh, thích làm lành, ḥng thành tựu đức hạnh. Đấy chính là phương tiện môn trong Phật pháp, chuyển thành công năng bổ trợ sự giáo hóa của Nho gia. Thiện ác và nhân quả, dùng cảm ứng để kết hợp chặt chẽ, một Thể thành tựu lẫn nhau. Đấy chính là phương tiện chân thật, mà cũng là sự giáo hóa chân thật.

          Nếu nói rộng ra, sẽ là do “tận hết cái tâm để biết tánh” của Nho gia mà tâm tánh ấy ắt sẽ là đức hợp thiên địa. Phật môn liễu nhân chứng quả, ắt nhân quả ấy sẽ bao trùm trọn khắp pháp giới. Đối với đạo th́ cảm thấu suốt, ứng cùng cực, ắt sẽ do sự cảm ứng ấy mà thấu triệt u minh[6]. Thiên địa, pháp giới, u minh, đều trọn đủ vô lượng đức, vô lượng nghĩa. Nói tâm tánh, nói nhân quả, nói cảm ứng, xét theo phương cách giáo huấn, chẳng thể nói là không khác; nhưng xét theo thật lư, ắt có chỗ tương đồng! Không chỉ là ư tưởng dạy dân, hướng dẫn thế tục tương đồng, kể cả sự thành tựu cũng tương thông, chẳng thể nói là sai khác!

          Có kẻ bảo: Tôi thường cảm thấy thuyết nhân quả huyền hoặc, sâu thẳm, lạ lùng, hư huyễn, chuyện cảm ứng hết sức dính dáng ‘quái lực, loạn thần’[7], nay đang thuở khoa học phát triển rực rỡ, phàm những chuyện không có căn cứ để khảo sát, hăy nên xem như mê tín mà phá trừ. Cớ sao tin sâu chẳng nghi? Há chẳng phải là tự dối ḿnh, lừa người đấy ư?” Tôi nói: Đấy chính là lời lẽ của kẻ chẳng hiểu rơ khoa học vậy. Khoa học là thái độ hễ tin th́ truyền bá ḷng tin, hễ nghi th́ truyền bá ḷng nghi, chẳng vượt phận, chẳng tràn lan. Bọn chúng ta cố nhiên chẳng thể dối gạt chuyện huyễn vọng thành chuyện thật sự có, mà bọn họ cũng chẳng thể nói “những ǵ chẳng thể chỉ rơ, ắt sẽ là hư vô” được! Ngán thay, kể từ phong trào Ngũ Tứ[8] đến nay, hễ nói đến khoa học, [thiên hạ] thường nghĩ những ǵ có thể chứng nghiệm bằng vật lư là chân thật duy nhất. Ngoài những thứ ấy ra, nhất loạt coi là mê tín. Chẳng biết lư có nhiều đường, mà sự chẳng dễ nêu rơ, cứ lỗ măng diệt trừ, bác bỏ, sổ toẹt hết thảy, tự cho ḿnh là đúng, coi kẻ khác sai bét. Đấy chính là sự mê tín lớn nhất. Bản chất và biểu hiện của nhân quả cảm ứng đúng là mờ ảo, xa vời, khó hiểu, lời lẽ [phê phán] trong cơi đời chẳng tránh khỏi xuyên tạc, thêm thắt. Thế nhưng Lư rạng ngời, Sự rành rành cũng có chẳng ít, sao lại nhất loạt bác bỏ là không có? Đối với những chuyện cần phải thể nghiệm sâu xa, khó thể tra cứu, suy lường, cái trí thông tục hiếm có khi lănh hội được, càng phải nên kính sợ, để lại đó chớ bàn luận, sao lại khổ công bộp chộp gièm báng? Nếu có kẻ vờ vịt bày chuyện nhân quả ḥng dối gạt kẻ ngu, lừa bịp thế tục, ai nấy đều phải nên bài xích, đả phá; chứ đối với những bậc khéo dẫn chuyện báo ứng để khuyên đời, lợi lạc cơi tục, đại cơ đại quyền lập ra những lời dạy bảo chánh đáng, lợi ích cơi đời rất nhiều, cớ ǵ cứ khăng vội vă gạt bỏ? V́ thế, ắt phải là bậc hiếu học, suy nghĩ sâu xa, khiêm tốn, biết kiềm chế, hiểu rơ tường tận, khéo vận dụng trí thức, chẳng mặc t́nh khuấy loạn th́ mới thật sự là bậc thông thạo trong giới khoa học vậy!

          Lại có người đọc tác phẩm này, thấy nêu ra các chuyện chứng thực toàn là chuyện cũ người xưa, bèn cho là chẳng phù hợp thời thế khít khao, coi những chuyện sách đă kể như chó rơm. Nghe xong lờ đi là được rồi, sao cứ phải khăng khăng ôm ḷng chê bai là viễn vông, vớ vẩn? Tôi cho rằng, sự việc trong thiên hạ có Lư, có Sự. Đời có thể đổi khác, nhưng tánh con người chẳng khác, sự có thể biến đổi, nhưng ḷng người chẳng cần biến đổi! Tánh chẳng khác, tâm bất biến, vậy th́ Lư ấy luôn tồn tại. Các nhà Duy Thức từ Sự mà t́m ra Lư, dùng Lư để ứng Sự, vậy th́ người xưa chuyện cũ có thể dùng để giúp cho thời nay thường chuyển pháp luân. Đối với tác phẩm này, nếu có người có thể nêu bày những sự việc khác, phù hợp khít khao hiện thời để thay thế, cố nhiên là chuyện tốt đẹp. Nhưng nếu chưa có, th́ bản xưa cũng đủ để ứng dụng rồi, tùy thuộc độc giả tự lựa chọn như thế nào!

          Nhằm đang lúc thời thế suy vi, đạo học tuyệt diệt, đang buổi ḷng người suy đồi, vùi lấp, có những bậc lo cho đời, mạnh mẽ phát chí khuông pḥ mỹ tục, đề xướng in bộ Vựng Biên này, sai tôi viết lời tựa, bảo là có thể giúp lưu truyền rộng răi ḥng phụ trợ giáo hóa cơi đời! Than ôi! Sự giáo hóa cơi đời hưng thịnh vốn do mạng trời, tôi c̣n chẳng đủ thời gian để phản tỉnh, há dám rườm lời tán trợ, tuyên truyền! Nhưng thấy người ấy ḷng thành, bèn lược thuật những điều tâm đắc của chính ḿnh khi đọc Vựng Biên tŕnh lên, nguyện những người có ḷng nhân trong thiên hạ gắng sức, cũng như đề nghị đại chúng đọc kinh hăy nên đọc đi đọc lại bộ sách này. Chẳng đầy năm ngày hoặc một tuần, sẽ có thể ghi nhớ nằm ḷng, ắt sẽ được thọ dụng suốt đời chẳng hết. Người có thể hiểu văn nghĩa, hăy để bộ sách này bên cạnh chỗ thường ngồi, luôn luôn giở xem, ắt sẽ được lợi ích tăng tấn nơi sự tu tập và đức hạnh chẳng thể lường được!

          Ngày Rằm tháng Sáu, Trung Hoa Dân Quốc năm 87 (1998), Vương Tài Quư kính đề

 

Lời tựa tái bản

 

          Thiên sách này dùng hai chữ Cảm Ứng để đặt tên. Cảm chính là nhân, Ứng chính là quả. Bốn câu mở đầu [của thiên sách này] là: “Họa phước vô môn, duy nhân tự triệu. Thiện ác chi báo, như ảnh tùy h́nh” (Họa phước chẳng có cửa, do con người tự chuốc lấy. Thiện báo, ác báo như bóng theo h́nh), xiển dương lư nhân quả, báo ứng “làm lành được phước, tạo ác mắc họa” hết sức đơn giản, rơ ràng. Nếu ai có thể hiểu lư nhân quả, biết làm ác nhất định mắc họa hại, ắt dẫu bị ép làm chuyện ác, trong tâm ắt kiêng sợ, chẳng dám làm theo! Biết làm lành nhất định được phước lộc, ắt tâm cũng mong cầu, tuy bị ngăn trở làm lành, cũng chẳng chịu thôi! Pháp sư Ấn Quang từng bảo: “Nhân quả là phương tiện to lớn để thánh nhân thế gian và xuất thế gian b́nh trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh. Trong thế gian hiện thời, nếu chẳng đề xướng sự lư nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi, mà muốn cho thiên hạ thái b́nh, nhân dân an lạc, dẫu Phật, Tổ, thánh hiền cùng xuất hiện, cũng chẳng làm sao được!”

          Cảm Ứng Thiên tuy trích từ Đạo Tạng, nhưng lời chú giải phần nhiều trích từ sách Nho, kinh Phật. Đọc một quyển sách mà t́m được nghĩa lư tinh hoa trong tam giáo. Đó là một điều vui sướng.

          Vựng Biên là tác phẩm hội tập các bản chú giải xưa nay, tra cứu cặn kẽ để chọn lựa, đă tinh vi lại càng thêm tinh vi, biên tập thành sách. Do vậy, đọc bộ sách Vựng Biên, tức là đă đọc trọn hết các bản chú giải Cảm Ứng Thiên vậy. Đấy là hai điều vui sướng.

          Tài nghệ của người biên tập xuất sắc cao trỗi, chẳng ai sánh bằng. Độc giả có được người hướng dẫn tốt lành này, tâm lượng do vậy rộng mở, phước duyên do đấy được vun bồi rộng răi. Đó là ba điều vui sướng.

          Những câu danh ngôn chí lư của Nho giáo, công phu chánh tâm thành ư, yếu quyết tu thân tề gia đă được bộ sách này thu thập quá nửa. Từ tác phẩm này, cũng có thể thấy đại lược phần nào Văn Tự Bát Nhă của Phật môn. Yếu nghĩa nhiếp tâm của Đạo gia cũng được thu vén vào bộ sách này. Đó là bốn điều vui sướng.

          V́ thế, Vựng Biên không chỉ đứng đầu trong các bản chú giải Cảm Ứng Thiên, mà thật sự là vua của hết thảy các thiện thư vậy. Hễ ai được gặp gỡ, chính là người có phước. Có thể đọc một mạch từ đầu đến cuối, lắng tâm tĩnh khí, nghiền ngẫm nhiều phen, lănh hội trong tâm, vận dụng vào cách cư xử, sẽ là người đại phước. Nếu lại c̣n thấu đạt lẽ tinh túy, [sẽ nhận biết bí quyết] thành thánh, thành hiền, làm Phật, làm Tổ đều trọn hết trong ấy. Người sống trong cơi đời, chẳng thể không đọc bộ sách vua của các sách này, trầm luân bao kiếp dài lâu, không cách nào tự thoát, há chẳng phải là chuyện đại bất hạnh ư?

          Cảm Ứng Thiên được chú giải minh bạch như thế, tường tận như thế, thấu triệt như thế, khẩn thiết như thế, khác nào mạng lệnh ở sát ngay bên tai, khác nào lớn tiếng ḥ hét ư? Tấm ḷng bi mẫn lệ tuôn theo từng câu nói. Hữu duyên đọc đến sách này, hăy nên tự quay đầu, há c̣n ngờ chi? Hai trăm chín mươi ba điều thiện ác được chép trong thiên sách này, lớn nhỏ đều đủ cả, nguyện khắp đại chúng siêng tŕ thiên sách này. Hăy nên luôn luôn thầm nhớ trong ḷng, từng chữ đều áp dụng nơi thân, những chuyện trái lẽ, dần dần ít đi. Ngày nào cũng như thế, năm nào cũng như vậy, tự nhiên mọi hành vi đều là thiện, tiếp xúc nơi đâu cũng là thiện, sẽ tự trừ khổ được vui, có phước, không họa, có cát, chẳng hung vậy!

          Tháng Năm năm 1959, Lâm Hiệp Am ở Phật Sơn do tái bản bèn kính cẩn đề tựa.

 

Lời tựa tái bản Cảm Ứng Vựng Biên

 

          Tấm ḷng của trời đất là tấm ḷng chí thiện. Con người do khí thiên địa hóa sanh, tánh vốn đều lành, nhưng để khơi gợi, dẫn dụ, cổ vũ, vun bồi niềm tin, ắt đều nhờ vào sách Cảm Ứng. Nay nói những điều lành với người đời, khiến họ chẳng dám làm điều sai trái, riêng ḿnh sách Cảm Ứng [có tác dụng ấy]. Thường là những kẻ coi thường, đọc lướt qua, thậm chí nhăn mày chẳng vui, xét ra, ư họ cứ ngỡ “thuyết cảm ứng dùng để dạy kẻ ác, ta chẳng có điều ác ǵ, đọc để làm chi?” Riêng tôi cho rằng, không phải đă là người lành th́ chẳng thể đọc thiện thư. V́ lẽ nào vậy? Do thiện sẽ cảm thiện, như keo bỏ vào sơn, như tô ḥa với lạc, có cùng căn khí, có cùng loại, sẽ cảm lẫn nhau, tự nhiên [sẽ thấy những lời dạy trong sách] ư vị nồng nàn, mỗi ngày một có công hiệu. Tôi tin là như thế. Chẳng phải hễ là người lành th́ không nên đọc thiện thư, làm thiện sự, lập thiện luận! Hay là như tôi c̣n nói, Nho và Đạo nói “cảm ứng” giống như Thích giáo nói nhân quả. Cảm chính là nhân, Ứng chính là quả. V́ thế, dùng thiện để cảm, sẽ được phước quả. Dùng bất thiện để cảm, sẽ mắc khổ quả. Dùng Lục Độ vạn hạnh Vô Thượng Bồ Đề để cảm, sẽ đắc Phật quả. Dùng siêng tu Tịnh Độ niệm Phật cầu văng sanh để cảm, sẽ đắc quả nơi đài sen trong cơi Cực Lạc. Chẳng có cảm nào không phải là nhân, chẳng có ứng nào không phải là quả. Cảm ứng đă rơ ràng, nhân quả càng thêm tỏ lộ. Các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng có pháp nào không thể dùng sách này để làm bậc thang [tấn nhập]. Chỉ mong nhà nào cũng có bộ sách này, tin nhận, phụng hành. Thiện niệm ngày càng chan chứa, tâm địa ngày càng thanh tịnh. Dùng đó để hồi hướng Tịnh Độ, cầu sanh Cực Lạc. Tiến lên là cầu Phật quả, sẽ chẳng khó khăn. Khắc in lại bộ sách này há chẳng phải là một điều hết sức vui sướng ư? Do vậy viết lời tựa.

          Niên hiệu Quang Tự đời Thanh, tháng Ba năm Bính Thân (1896), Đại Liên cư sĩ Trương Bính Viêm rửa tay kính đề

 

Lời thưa tŕnh khuyên đọc Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

 

          Tuy Cảm Ứng Thiên phát xuất từ Đạo Tạng, nhưng lời chú giải phần nhiều trích dẫn từ sách Nho, kinh Phật. Đọc một quyển sách mà nắm được nghĩa lư tinh hoa của tam giáo. Đấy là điều vui sướng thứ nhất. Vựng Biên là tác phẩm biên tập các bản chú giải xưa nay, tra cứu cặn kẽ để chọn lựa, đă tinh vi lại càng thêm tinh vi, biên tập thành sách. Do vậy, đọc bộ sách Vựng Biên, tức là đă đọc trọn hết các bản chú giải Cảm Ứng Thiên vậy. Đấy là hai điều vui sướng. Tài nghệ của người biên tập xuất sắc cao trỗi, chẳng ai sánh bằng. Độc giả có được người hướng dẫn tốt lành này, tâm lượng do vậy rộng mở, phước duyên do đấy được vun bồi rộng răi. Đó là ba điều vui sướng. Những câu danh ngôn chí lư của Nho giáo, công phu chánh tâm thành ư, yếu quyết tu thân tề gia đă được bộ sách này thu thập quá nửa. Từ tác phẩm này cũng có thể thấy đại lược phần nào Văn Tự Bát Nhă của Phật môn. Yếu nghĩa nhiếp tâm của Đạo gia cũng được thu vén trong bộ sách này. Đó là bốn điều vui sướng.

          V́ thế, Vựng Biên không chỉ đứng đầu trong các bản chú giải Cảm Ứng Thiên, mà thật sự là vua của hết thảy các thiện thư vậy. Hễ ai được gặp gỡ, chính là người có phước. Có thể đọc một mạch từ đầu đến cuối, lắng tâm tĩnh khí, nghiền ngẫm nhiều phen, lănh hội trong tâm, vận dụng vào cách cư xử, sẽ là người đại phước. Nếu lại c̣n thấu đạt lẽ tinh túy, [sẽ nhận biết bí quyết] “thành thánh, thành hiền, làm Phật, làm Tổ” đều ở trong ấy. Người sống trong cơi đời, chẳng thể không đọc bộ sách vua của các sách này, trầm luân bao kiếp dài lâu, không cách nào tự thoát, há chẳng phải là chuyện đại bất hạnh ư?

          Cảm Ứng Thiên được chú giải minh bạch như thế, tường tận như thế, thấu triệt như thế, khẩn thiết như thế, khác nào mạng lệnh ở sát ngay bên tai, khác nào lớn tiếng ḥ hét. Tấm ḷng bi mẫn lệ tuôn theo từng câu nói. Hữu duyên đọc đến sách này, hăy nên tự quay đầu, há c̣n ngờ chi? Những người gặp ác báo được chép trong Vựng Biên, cứ ùa đến chỗ chết như loài c̣, đến chết vẫn chẳng ngộ, đều là do cả đời chưa từng đọc Cảm Ứng Thiên. Cảm Ứng Thiên lợi ích nhân sinh, há chẳng phải đường tắt duy nhất để chuyển họa thành phước, hoặc cũng có thể coi là pháp môn bất nhị để siêu phàm nhập thánh đấy ư?

 

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (nguyên văn)

 

          Thái Thượng viết: - Họa phước vô môn, duy nhân tự triệu. Thiện ác chi báo, như ảnh tùy h́nh. Thị dĩ, thiên địa hữu tư quá chi thần. Y nhân sở phạm khinh trọng, dĩ đoạt nhân toán. Toán giảm tắc bần hao, đa phùng ưu hoạn, nhân giai ố chi, h́nh họa tùy chi, cát khánh tỵ chi, ác tinh tai chi. Toán tận tắc tử, hựu hữu Tam Thai, Bắc Đẩu thần quân, tại nhân đầu thượng, lục nhân tội ác, đoạt kỳ kỷ toán. Hựu hữu Tam Thi thần, tại nhân thân trung, mỗi đáo Canh Thân nhật, triếp thượng nghệ thiên tào, ngôn nhân tội quá. Nguyệt hối chi nhật, Táo thần diệc nhiên. Phàm nhân hữu quá, đại tắc đoạt kỷ, tiểu tắc đoạt toán. Kỳ quá đại tiểu, hữu sổ bách sự, dục cầu trường sanh giả, tiên tu tỵ chi.

          Thị đạo tắc tấn, phi đạo tắc thoái. Bất lư tà kính, bất khi ám thất. Tích đức lũy công, từ tâm ư vật, trung hiếu hữu đễ, chánh kỷ hóa nhân, căng cô tuất quả, kính lăo hoài ấu. Côn trùng thảo mộc, do bất khả thương. Nghi mẫn nhân chi hung, nhạo nhân chi thiện. Tế nhân chi cấp, cứu nhân chi nguy. Kiến nhân chi đắc, như kỷ chi đắc. Kiến nhân chi thất, như kỷ chi thất. Bất chương nhân đoản, bất huyễn kỷ trường. Át ác dương thiện, thôi đa thủ thiểu. Thọ nhục bất oán, thọ sủng nhược kinh. Thi ân bất cầu báo. Dữ nhân bất truy hối, sở vị thiện nhân, nhân giai kính chi, thiên đạo hựu chi, phước lộc tùy chi, chúng tà viễn chi, thần linh vệ chi, sở tác tất thành, thần tiên khả kư. Dục cầu thiên tiên giả, đương lập nhất thiên tam bách thiện. Dục cầu địa tiên giả, đương lập tam bách thiện.

          Cẩu hoặc phi nghĩa nhi động, bối lư nhi hành, dĩ ác vi năng, nhẫn tác tàn hại, âm tặc lương thiện, ám vũ quân thân, mạn kỳ tiên sinh, bạn kỳ sở sự, cuống chư vô thức, báng chư đồng học, hư vu trá ngụy, công kiết tông thân, cang cường bất nhân, ngận lệ tự dụng, thị phi bất đang, hướng bối quai nghi, ngược hạ thủ công, siểm thượng hy chỉ, thọ ân bất cảm, niệm oán bất hưu, khinh miệt thiên dân, nhiễu loạn quốc chánh, thưởng cập phi nghĩa, h́nh cập vô cô, sát nhân thủ tài, khuynh nhân thủ vị, tru hàng lục phục, biếm chánh bài hiền, lăng cô bức quả, khí pháp thọ lộ. Dĩ trực vi khúc, dĩ khúc vi trực. Nhập khinh vi trọng, kiến sát gia nộ. Tri quá bất cải, tri thiện bất vi, tự tội dẫn tha, ung tắc phương thuật, sán báng thánh hiền, xâm lăng đạo đức. Xạ phi trục tẩu, phát trập kinh thê, điền huyệt phúc sào, thương thai phá noăn. Nguyện nhân hữu thất, hủy nhân thành công. Nguy nhân tự an, giảm nhân tự ích. Dĩ ác dịch hảo, dĩ tư phế công. Thiết nhân chi năng, tế nhân chi thiện. H́nh nhân chi xú, kiết nhân chi tư, hao nhân hóa tài, ly nhân cốt nhục, xâm nhân sở ái, trợ nhân vi phi. Sính chí tác oai, nhục nhân cầu thắng. Bại nhân miêu giá, phá nhân hôn nhân. Cẩu phú nhi kiêu, cẩu miễn vô sỉ. Nhận ân thôi quá, giá họa mại ác, cô măi hư dự, bao trữ hiểm tâm. Tọa nhân sở trường, hộ kỷ sở đoản, thừa oai bách hiếp, túng bạo sát thương. Vô cố tiễn tài, phi lễ phanh tể, tán khí ngũ cốc, lao nhiễu chúng sanh. Phá nhân chi gia, thủ kỳ tài bảo, quyết thủy phóng hỏa, dĩ hại dân cư. Vặn loạn quy mô, dĩ bại nhân công. Tổn nhân khí vật, dĩ cùng nhân dụng. Kiến tha vinh quư, nguyện tha lưu biếm. Kiến tha phú hữu, nguyện tha phá tán. Kiến tha sắc mỹ, khởi tâm tư chi. Phụ tha hóa tài, nguyện tha thân tử. Can cầu bất toại, tiện sanh chú hận. Kiến tha thất tiện, tiện thuyết tha quá. Kiến tha thể tướng bất cụ nhi tiếu chi. Kiến tha tài năng khả xưng nhi ức chi. Mai cổ yếm nhân, dụng dược sát thụ. Khuể nộ sư phó, chỉ xúc phụ huynh. Cưỡng thủ cưỡng cầu, hiếu xâm hiếu đoạt, lỗ lược trí phú, xảo trá cầu thiên, thưởng phạt bất b́nh, dật lạc quá tiết. Hà ngược kỳ hạ, khủng hách ư tha. Oán thiên vưu nhân, ha phong mạ vũ. Đấu hợp tranh tụng. Vọng trục bằng đảng. Dụng thê thiếp ngữ, vi phụ mẫu huấn. Đắc tân vong cố. Khẩu thị tâm phi. Tham mạo ư tài, khi vơng kỳ thượng. Tạo tác ác ngữ, sàm hủy b́nh nhân. Hủy nhân xưng trực, mạ thần xưng chánh, khí thuận hiệu nghịch. Bối thân hướng sơ. Chỉ thiên địa dĩ chứng bỉ hoài, dẫn thần minh nhi giám ổi sự. Thí dữ hậu hối, giả tá bất hoàn, phận ngoại doanh cầu, lực thượng thi thiết. Dâm dục quá độ, tâm độc mạo từ. Uế thực ủy nhân. Tả đạo hoặc chúng. Đoản xích hiệp độ, khinh xứng tiểu thăng. Dĩ ngụy tạp chân, thải thủ gian lợi. Áp lương vi tiện, mạn mộ ngu nhân, tham lam vô yếm. Chú trớ cầu trực. Thị tửu bột loạn. Cốt nhục phẫn tranh. Nam bất trung lương, nữ bất nhu thuận. Bất ḥa kỳ thất, bất kính kỳ phu. Mỗi hiếu căng khoa, thường hành đố kỵ. Vô hạnh ư thê tử, thất lễ ư cữu cô, khinh mạn tiên linh. Vi nghịch thượng mạng, tác vi vô ích, hoài hiệp ngoại tâm. Tự chú chú tha, thiên tăng thiên ái. Việt tỉnh việt táo, khiêu thực khiêu nhân. Tổn tử đọa thai, hành đa ẩn tịch. Hối lạp ca vũ, sóc đán hiệu nộ. Đối Bắc thế thóa cập nịch. Đối táo ngâm vịnh cập khốc. Hựu dĩ táo hỏa thiêu hương, uế sài tác thực. Dạ khởi lơa lộ, bát tiết hành h́nh. Thóa lưu tinh, chỉ hồng nghê, triếp chỉ tam quang. Cửu thị nhật nguyệt. Xuân nguyệt liệu liệp. Đối Bắc ác mạ, vô cố sát quy đả xà.

          Như thị đẳng tội, Tư Mạng tùy kỳ khinh trọng, đoạt kỳ kỷ toán. Toán tận tắc tử, tử hữu dư trái, năi ương cập tử tôn. Hựu chư hoạnh thủ nhân tài giả, năi kế kỳ thê tử gia khẩu dĩ đương chi, tiệm chí tử táng. Nhược bất tử táng, tắc hữu thủy hỏa đạo tặc, di vong khí vật, tật bệnh, khẩu thiệt chư sự, dĩ đáng vọng thủ chi trực. Hựu uổng sát nhân giả, thị dịch đao binh nhi tương sát dă. Thủ phi nghĩa chi tài giả, thí như lậu bô cứu cơ, trấm tửu chỉ khát, phi bất tạm băo, tử diệc cập chi.

          Phù tâm khởi ư thiện, thiện tuy vị vi, nhi cát thần dĩ tùy chi. Hoặc tâm khởi ác, ác tuy vị vi, nhi hung thần dĩ tùy chi. Kỳ hữu tằng hành ác sự, hậu tự cải hối, chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, cửu cửu tất hoạch cát khánh. Sở vị chuyển họa vi phước dă. Cố cát nhân ngữ thiện, thị thiện, hành thiện, nhất nhật hữu tam thiện, tam niên thiên tất giáng chi phước. Hung nhân ngữ ác, thị ác, hành ác, nhất nhật hữu tam ác, tam niên thiên tất giáng chi họa, hồ bất miễn nhi hành chi?

太上感應篇

太上曰。禍福無門。惟人自召。善惡之報。如影隨形。是以天地有司過之神。依人所犯輕重。以奪人算。算減則貧耗。多逢憂患。人皆惡之。刑禍隨之。吉慶避之。惡星災之。算盡則死。又有三台北斗神君。在人頭上。錄人罪惡。奪其紀算。又有三尸神。在人身中。每到庚申日。輒上詣天曹。言人罪過。月晦之日。灶神亦然。凡人有過。大則奪紀。小則奪算。其過大小。有數百事。欲求長生者。先須避之。 

是道則進。非道則退。不履邪徑。不欺暗室。積德累功。慈心於物。忠孝友悌。正己化人。矜孤恤寡。敬老懷幼。昆蟲草木。猶不可傷。宜憫人之凶。樂人之善。濟人之急。救人之危。見人之得。如己之得。見人之失。如己之失。不彰人短。不炫己長。遏惡揚善。推多取少。受辱不怨。受寵若驚。施恩不求報。與人不追悔。所謂善人。人皆敬之。天道佑之。福祿隨之。眾邪遠之。神靈衛之。所作必成。神仙可冀。欲求天仙者。當立一千三百善。欲求地仙者。當立三百善。 

苟或非義而動。背理而行。以惡為能。忍作殘害。陰賊良善。暗侮君親。慢其先生。叛其所事。誑諸無識。謗諸同學。虛誣詐偽。攻訐宗親。剛強不仁。狠戾自用。是非不當。向背乖宜。虐下取功。諂上希旨。受恩不感。念怨不休。輕蔑天民。擾亂國政。賞及非義。刑及無辜。殺人取財。傾人取位。誅降戮服。貶正排賢。凌孤逼寡。棄法受賂。以直為曲。以曲為直。入輕為重。見殺加怒。知過不改。知善不為。自罪引他。壅塞方術。訕謗聖賢。侵凌道德。射飛逐走。發蟄驚棲。填穴覆巢。傷胎破卵。願人有失。毀人成功。危人自安。減人自益。以惡易好。以私廢公。竊人之能。蔽人之善。形人之醜。訐人之私。耗人貨財。離人骨肉。侵人所愛。助人為非。逞志作威。辱人求勝。敗人苗稼。破人婚姻。苟富而驕。苟免無恥。認恩推過。嫁禍賣惡。沽買虛譽。包貯險心。挫人所長。護己所短。乘威迫脅。縱暴殺傷。無故剪裁。非禮烹宰。散棄五縠。勞擾眾生。破人之家。取其財寶。決水放火。以害民居。紊亂規模。以敗人功。損人器物。以窮人用。見他榮貴。願他流貶。見他富有。願他破散。見他色美。起心私之。負他貨財。願他身死。干求不遂。便生咒恨。見他失便。便說他過。見他體相不具而笑之。見他才能可稱而抑之。埋蠱厭人。用藥殺樹。恚怒師傅。抵觸父兄。強取強求。好侵好奪。擄掠致富。巧詐求遷。賞罰不平。逸樂過節。苛虐其下。恐嚇於他。怨天尤人。呵風罵雨。鬥合爭訟。妄逐朋黨。用妻妾語。違父母訓。得新忘故。口是心非。貪冒於財。欺罔其上。造作惡語。讒毀平人。毀人稱直。罵神稱正。棄順效逆。背親向疏。指天地以證鄙懷。引神明而鑒猥事。施與後悔。假借不還。分外營求。力上施設。淫慾過度。心毒貌慈。穢食餧人。左道惑眾。短尺狹度。輕秤小升。以偽雜真。採取姦利。壓良為賤。謾驀愚人。貪婪無厭。咒詛求直。嗜酒悖亂。骨肉忿爭。男不忠良。女不柔順。不和其室。不敬其夫。每好矜誇。常行妒忌。無行於妻子。失禮於舅姑。輕慢先靈。違逆上命。作為無益。懷挾外心。自咒咒他。偏憎偏愛。越井越灶。跳食跳人。損子墮胎。行多隱僻。晦臘歌舞。朔旦號怒。對北涕唾及溺。對灶吟詠及哭。又以灶火燒香。穢柴作食。夜起裸露。八節行刑。唾流星。指虹霓。輒指三光。久視日月。春月燎獵。對北惡罵。無故殺龜打蛇。如是等罪。司命隨其輕重。奪其紀算。算盡則死。死有餘責。乃殃及子孫。又諸橫取人財者。乃計其妻子家口以當之。漸至死喪。若不死喪。則有水火盜賊。遺亡器物。疾病口舌諸事。以當妄取之值。又枉殺人者。是易刀兵而相殺也。取非義之財者。譬如漏脯救饑。鴆酒止渴。非不暫飽。死亦及之。 夫心起於善。善雖未為。而吉神已隨之。或心起於惡。惡雖未為。而凶神已隨之。其有曾行惡事。後自改悔。諸惡莫作。眾善奉行。久久必獲吉慶。所謂轉禍為福也。 故吉人語善。視善。行善。一日有三善。三年天必降之福。凶人語惡。視惡。行惡。一日有三惡。三年天必降之禍。胡不勉而行之。

          (Tạm dịch[9]: Thái Thượng nói: - Họa và phước chẳng có cửa nẻo [nhất định], chỉ do con người tự chuốc lấy. Thiện báo, ác báo như bóng theo h́nh. V́ thế, trong trời đất có các vị thần trông coi tội lỗi [của người đời]. Căn cứ con người đă phạm [tội lỗi] nặng hay nhẹ mà giảm bớt tuổi thọ của họ. Giảm thọ th́ thường bị nghèo túng, hao tổn, gặp nhiều nỗi ưu tư, hoạn nạn, ai nấy đều ghét bỏ. H́nh phạt, tai họa theo đến, chẳng gặp những sự tốt lành, mừng vui. Sao ác gieo tai họa. Tuổi thọ đă hết phải chết. Lại có Tam Thai, Bắc Đẩu thần quân ở trên đầu con người, ghi chép tội ác của họ để tước bớt tuổi thọ. Lại có thần Tam Thi ở trong thân người, mỗi khi đến ngày Canh Thân, liền lên chốn thiên tào, tâu tội lỗi của con người. Vào ngày cuối tháng, Táo thần cũng vậy. Hễ ai có lỗi, nặng th́ giảm thọ mười hai năm, nhỏ th́ giảm thọ một trăm ngày. Tội lỗi lớn nhỏ của con người, có đến mấy trăm chuyện. Kẻ mong sống lâu, trước hết hăy nên tránh né.

          Hợp đạo th́ tiến, trái đạo th́ lui. Chẳng theo đường tà, chẳng dối lừa dẫu ở trong pḥng tối. Tích lũy công đức, từ tâm đối với muôn loài, trung, hiếu, thuận thảo với anh em. Sửa ḿnh, dạy người. Thương xót con côi, cứu giúp quả phụ. Kính già, thương trẻ. Côn trùng, thảo mộc chớ nên thương tổn. Hăy nên xót thương kẻ ác, vui v́ điều thiện của họ, giúp người trong cơn nguy cấp. Thấy người khác đạt được, [cảm thấy] như chính ḿnh đạt được. Thấy người khác mất mát, [cảm thấy] như chính ḿnh bị mất mát. Chẳng phô bày sự kém cỏi của kẻ khác, chẳng khoe khoang cái hay của chính ḿnh. Ngăn chặn điều ác, tuyên dương điều lành. [Khi phân chia], nhường cho người khác phần nhiều, giữ cho ḿnh phần ít. Bị nhục chẳng oán, được sủng ái phải sợ. Thi ân chẳng cầu báo, đă cho người khác th́ đừng nghĩ lại rồi hối tiếc. Người được coi là thiện nhân ai cũng đều kính trọng, đạo trời giúp đỡ họ, phước lộc thuận theo, các thứ tà quái tránh xa, do họ được thần linh hộ vệ, việc làm ắt thành, có thể mong thành thần tiên. Muốn cầu thành thiên tiên, hăy nên làm một ngàn ba trăm điều lành. Muốn thành địa tiên, hăy nên làm ba trăm điều thiện.

          Nếu có kẻ làm những điều phi nghĩa, trái nghịch đạo lư [như sau]: Coi thủ đoạn độc ác là tài năng, nhẫn tâm làm chuyện tàn ác, độc hại, ngầm hại người lương thiện, ngầm khinh vua và cha mẹ, khinh rẻ thầy dạy, phản bội người ḿnh phải phụng sự, lừa kẻ không hiểu biết, gièm báng bạn học, dối trá, hư ngụy, công kích thân thuộc, ương bướng bất nhân, sử dụng những thủ đoạn độc ác, tàn nhẫn. Chẳng phân biệt đúng sai, hành xử không thích đáng[10], ngược đăi kẻ dưới để lập công, nịnh bợ kẻ trên để đón ư [cầu lợi]. Chịu ơn [người khác] mà chẳng cảm kích, luôn ôm ḷng oán hận chẳng dứt, khinh miệt dân chúng, nhiễu loạn nền chánh trị trong nước, khen thưởng kẻ phi nghĩa, trừng phạt người vô tội, giết người cướp của, lật đổ người khác để chiếm đoạt địa vị, giết hại kẻ đă đầu hàng, giáng chức người ngay, gạt bỏ người hiền, lăng nhục con côi, bức hại bà góa, coi thường pháp luật mà tiếp nhận hối lộ. Coi thẳng là cong, lấy cong làm thẳng. [Kẻ đáng phán] tội nhẹ bèn phạt nặng hơn. Thấy [người khác mắc tội] đă bị giết chết mà vẫn c̣n giận dữ. Biết lỗi chẳng sửa, biết điều thiện mà chẳng làm. Tự ḿnh có tội, khiến cho kẻ khác liên lụy. Cản trở tài năng của kẻ khác. Chê bai, báng bổ thánh hiền. Xâm phạm, lăng nhục bậc đạo đức. Săn bắn chim thú, phá tổ côn trùng, kinh động nơi chim đậu, lấp hang, lật tổ, phá thai, hại trứng. Mong cho người khác phạm sai lầm, hủy hoại sự thành công của người khác. Làm người khác lâm nguy để chính ḿnh an ổn. Giảm trừ lợi ích của người khác để chính ḿnh được lợi. Dùng thứ xấu thay cho đồ tốt [trong khi giao dịch]. V́ ḷng riêng tư mà phế trừ lẽ công. Trộm cắp tài năng của kẻ khác. Che lấp điều lành của người khác. Phô bày những điều xấu của người khác. Rêu rao chuyện riêng tư của người ta. Làm cho kẻ khác hao tổn tài vật. Chia ĺa cốt nhục của kẻ khác. Xâm phạm những thứ yêu thích của người khác. Giúp kẻ khác làm quấy. Phô trương oai thế cho thỏa chí. Làm nhục người khác để giành phần thắng. Hủy hoại mùa màng của người ta, phá hoại hôn nhân của kẻ khác. Vừa mới giàu có đă kiêu căng, tùy tiện trốn thoát không biết hổ thẹn. Mạo nhận ân huệ, chối bay tội lỗi. Giá họa, ác ư. Mua bán danh hăo, ôm ḷng sâu hiểm, ém tài người khác, giấu diếm sự kém cỏi của chính ḿnh. Cậy oai bức hiếp, phóng túng hung bạo, giết hại, tổn thương [kẻ khác]. Vô cớ cắt xén, không có lễ lạc mà giết hại gia súc. Phung phí ngũ cốc. Khiến cho chúng sanh vất vả, ưu phiền. Phá hoại nhà người khác, chiếm đoạt của cải. Phá hoại đê điều, đốt nhà làm hại dân cư. Làm loạn phép tắc để khiến cho công sức của người khác bị thất bại. Phá hoại vật dụng của người khác khiến họ chẳng sử dụng được. Thấy người khác vinh hiển, sang cả, mong họ bị lưu đày, biếm trích. Thấy người khác giàu có, mong họ tàn mạt. Thấy vợ con người ta xinh đẹp, nẩy ḷng dan díu. Thiếu nợ người khác tiền bạc, của cải, bèn mong họ chết đi. Mong cầu chẳng được toại ư, sanh ḷng oán hận, chửi rủa. Thấy người khác sa chân lỡ bước, bèn rêu rao lỗi lầm của họ. Thấy người khác h́nh hài chẳng vẹn toàn bèn chê cười. Thấy người khác có tài năng đáng ca ngợi bèn chèn ép. Chôn bùa ếm đối hại người. Dùng thuốc giết chết cây cối. Oán giận thầy dạy của chính ḿnh. Xung đột với cha anh. Đoạt ngang, cướp cạn, thích xâm lấn, chiếm đoạt. Cướp bóc để trở nên giàu có. Xảo trá cầu thăng quan lên chức. Thưởng phạt chẳng công bằng. Hưởng lạc quá độ. Hà khắc, ngược đăi cấp dưới. Đe dọa người khác. Oán trời hờn người. Chửi gió, mắng mưa. Tranh chấp kiện tụng. Kéo bè kết đảng làm quấy. Nghe lời thê thiếp, trái nghịch lời cha mẹ dạy răn. Có mới nới cũ. Tâm khẩu chẳng nhất trí. Tham lam, xằng bậy đoạt tiền của, lừa dối bề trên. Nói lời ác độc, gièm chê, hủy báng người lành. Hủy báng kẻ khác, tự khoe bản thân chánh trực. Nhục mạ thần linh, tự xưng ḿnh là chánh đáng. Bỏ thuận theo nghịch. Phản bội người thân thuộc, chạy theo người ngoài. Chỉ trời đất thề thốt làm chứng cho ḷng dạ xấu xa. Viện dẫn thần minh ḥng chứng giám chuyện tồi tệ. Cho rồi lại hối. Vay mượn không trả. Cầu mong quá phận. Dốc hết sức bày vẽ, tạo tác. Dâm dục quá mức. Ḷng dạ thâm độc, ra vẻ hiền lành. Cho người khác ăn thực phẩm dơ. Bàng môn tả đạo dối đời. Thước non, thước thiếu, cân nhẹ, thưng non. Đồ giả xen lẫn hàng thật. Dùng thủ đoạn để kiếm lợi gian trá. Chèn ép người lành khiến họ mạt rệp. Dối gạt kẻ ngu. Tham lam không chán. Thề thốt để người khác tin ḿnh chánh trực. Ham nhậu nhẹt, quậy phá. Ruột thịt giận dữ, tranh chấp. Trai không trung lương. Gái chẳng nhu thuận. Bất ḥa với vợ. Chẳng kính trọng chồng. Thường thích khoác lác, kiêu căng. Thường hay ganh tỵ. Đối xử với vợ con không ra ǵ. Chẳng lễ phép đối với bố mẹ chồng. Khinh rẻ tổ tiên. Vi phạm mạng lệnh của bề trên. Làm chuyện vô ích. Ngầm đổi ḷng thay dạ. Rủa ḿnh, rủa người. Yêu ghét thiên vị. Nhảy qua giếng và bếp ḷ. Nhảy qua thức ăn, nhảy qua người khác. Tổn hại con cái, phá thai. Làm nhiều chuyện ám muội. Ca múa vào cuối tháng, ngày lạp. Gào hét, giận dữ vào ngày đầu tháng hoặc sáng sớm. Quay về hướng Bắc hỉ mũi, khạc nhổ, tiểu tiện. Đối trước bếp ḷ ca hát, khóc lóc. Lại c̣n dùng lửa từ bếp ḷ để châm hương. Nấu thức ăn bằng củi dơ. Ban đêm thức dậy, thân thể lơa lồ. Hành h́nh nhằm tám ngày Tiết. Hướng về sao băng khạc nhổ, chỉ trỏ cầu vồng, bộp chộp chỉ trỏ tam quang, nh́n mặt trời, mặt trăng thật lâu. Mùa Xuân đốt rừng để săn bắn. Hướng về phương Bắc chửi rủa độc địa. Vô duyên vô cớ, đánh giết rắn rùa.

          Đối với các tội như thế, thần Tư Mạng tùy theo tội nặng hay nhẹ mà bớt tuổi thọ của người gây tội. Tuổi thọ đă hết, sẽ phải chết. Đă chết mà c̣n chưa hết nợ th́ con cháu phải gánh tai ương. Lại c̣n những kẻ cướp ngang tài vật của người khác th́ vợ con, cả gia đ́nh của hắn phải hứng chịu dần dần cho đến chết. Nếu không chết chóc, sẽ bị những chuyện như tai họa nước, lửa, trộm cướp, mất mát vật dụng, bệnh tật, khẩu thiệt để trả cái giá cướp càn. Lại c̣n những kẻ giết oan người khác, sẽ đổi lại bị giết trong chiến tranh. Kẻ chiếm giữ tài sản phi nghĩa, ví như dùng thịt nhiễm độc[11] để cứu đói, dùng rượu ngâm lông chim Trấm để khỏi khát, không chỉ là chẳng tạm no mà c̣n phải chết. Hễ dấy thiện niệm, tuy chưa làm lành, cát thần đă đi theo. Tâm móng niệm ác, tuy chưa làm ác, hung thần đă theo. Nếu kẻ đă từng làm ác, về sau sửa đổi, hối hận, chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, lâu ngày chầy tháng, ắt được cát khánh, đó gọi là “chuyển họa thành phước” vậy. Do vậy, người cát tường nói lời lành, xem điều lành, làm điều lành, mỗi ngày có ba điều lành th́ ba năm trời ắt ban phước cho. C̣n kẻ ác nói lời ác, xem điều ác, làm điều ác, mỗi ngày có ba điều ác, ba năm trời ắt sẽ giáng họa. Sao không cố gắng thi hành vậy thay?)

 

 

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên

Chú Giảng Chứng Án Vựng Biên[12],
Quyển một

 

          Thái Thượng là danh xưng chí tôn, v́ xứng theo ḷng trời mà lập ra giáo huấn, nhằm dạy con người chớ nên sơ suất, xem thường. Cảm là như gieo trồng, Ứng như hoa quả. Dùng hai chữ y để đặt tên cho bài văn này, ngụ ư: Hễ có cảm, ắt sẽ có ứng, mà cũng là hễ cảm bèn ứng, nêu tỏ lẽ nhân quả báo ứng trong đạo trời vậy. Tục ngữ có câu: “Trồng dưa được dưa, gieo đậu được đậu. Lưới trời lồng lộng, tuy thưa chẳng lọt”. Đấy chính là nói đến sự cảm ứng. Cả thiên sách này lấy bốn câu đầu tiên làm đề cương, bao gồm toàn bộ ư nghĩa trong thiên sách.

          Tiếp đó, toàn là những câu nhằm tận lực giảng rơ bốn câu ấy. Từ câu “thị dĩ thiên địa hữu tư quá chi thần” (v́ thế, trời đất có những vị thần trông coi tội lỗi) cho tới “tiên tu tỵ chi” (hăy nên tránh né trước), chính là phần luận định chung về sự giám sát nghiêm ngặt của thần minh, phạt tội nghiêm khắc, nhằm trước hết khơi gợi cái tâm kính sợ của mọi người. Từ câu “thị đạo tắc tấn” (hợp đạo th́ tiến) cho tới “đương lập tam bách thiện” (hăy nên làm ba trăm điều thiện) nhằm nói tới chuyện do làm lành mà cảm vời phước báo. Từ câu “cẩu hoặc phi nghĩa nhi động” (nếu làm chuyện phi nghĩa) cho tới “ương cập tử tôn” (tai ương lan tới con cháu) là nói tới quả báo do chuyện làm ác cảm vời. Sau đấy, lại dùng hai chuyện cướp đoạt ngang xương và giết chóc oan uổng để đặc biệt nhắc lại, nhằm nói tới chuyện làm ác cùng cực! Từ câu “phù tâm khởi ư thiện” (hễ tâm dấy thiện niệm) cho đến “hung thần dĩ tùy chi” (hung thần đă theo) nhằm [nhấn mạnh ư]: Suy đến tận gốc, lúc ư niệm vừa mới dấy lên, thần minh ngay lập tức soi thấu. Đối với nền tảng phước mầm mống họa, hăy nên thận trọng, kiêng dè, biện định từ thuở ban đầu! Từ câu “kỳ hữu tằng hành ác sự” (có kẻ từng làm chuyện ác) cho tới “chuyển họa vi phước” (chuyển họa thành phước) nhằm dạy [mọi người] đừng v́ lầm lỗi trước kia mà buông xuôi! Nếu có thể sửa lỗi, chuyển lành, ắt sẽ chuyển họa thành phước. Đúng là hết sức dễ dàng! Đấy chính là ư chỉ chánh yếu trong lời khai thị của Thái Thượng vậy. Đó gọi là “họa hay phước, không ǵ chẳng do chính ḿnh cầu” ứng hợp với ư “duy nhân tự triệu” (chỉ do con người tự chuốc lấy) trong phần trước.

          Phần tổng kết cuối cùng nêu ra ba chuyện để hành, đấy chính là khuôn phép trừ khử phiền năo để phụng hành, tích lũy [công đức]. Câu kết thúc nhằm cổ vũ [người đọc] hăy thực hành. Một chữ Miễn (, gắng sức) chính là bí quyết trọng yếu để sửa lỗi, chuyển thành tốt lành, mang ư nghĩa dặn ḍ sâu thẳm, thiết tha tột bậc vậy!

          Thế đạo chẳng bằng thuở trước, ḷng người ly tán, bạc bẽo, lễ giáo chẳng thể khuyến hóa, h́nh phạt chẳng thể cấm đoán. Chỉ có hai chữ Cảm Ứng là có thể đánh động lương tâm để [mọi người] thuận theo điều thiện, trừ khử điều ác. Con người dẫu chẳng sợ phép vua, chưa có kẻ nào chẳng sợ quỷ thần! Đối với phép vua, có thể dùng thế lực hoặc mánh khóe để trốn thoát, đối với quỷ thần th́ chắc chắn chẳng thể dùng phú quư, nấp kín để tránh né được! V́ thế, có người viết lời tựa cho thiên sách này đă nói: “Người lành nghe thấy th́ càng được khuyên lơn [ḥng mạnh mẽ thực hiện hơn], chẳng cần chờ được tưởng thưởng. Kẻ ác trông thấy, sẽ tự cảm thấy bất an c̣n hơn bị h́nh phạt giáng xuống”. Có thể thấy thiên sách này không chỉ giúp sức cho kinh điển của thánh hiền, mà c̣n bổ trợ sự giáo hóa của nhà vua nữa kia!

          Có người bảo thiên sách này xuất phát từ Đạo Tạng, nghi ngờ nó trái nghịch đạo Nho. Nói chung, kẻ ấy chưa từng nghiên cứu tinh tường sách Nho! Kinh Dịch dạy: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh. Tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương” (Nhà tích lũy điều thiện ắt điều lành có thừa. Nhà chứa điều bất thiện, ắt tai ương có thừa). [Kinh Dịch dùng chữ] Tích () cho thấy thiện ác không chỉ là một chuyện. Chữ “dư” () cho thấy quả báo không chỉ là một đường. Lời chú giải kinh Dịch nói tóm gọn, bao quát, sách này nói rơ từng điều. Lại như kinh Thư có chép: “Tác thiện giáng chi bách tường. Tác bất thiện giáng chi bách ương” (Làm lành th́ trăm điều tốt lành giáng xuống. Làm điều bất thiện th́ trăm điều tai ương giáng xuống). Kinh Thi ngâm vịnh sự xét soi của Thượng Đế, Lễ Kư chép sự được mất của con người. Kinh Xuân Thu th́ chép sự việc trong phần trước, ghi sự báo ứng trong phần sau. Những điều được sáu kinh ghi chép toàn là những lời lẽ tinh ṛng về cảm ứng, há có ǵ là chẳng ứng với lư này ư?

          Thiên sách này lại ghi chép điều thiện, chuyện ác tỉ mỉ, cặn kẽ. Ngay như chuyện ca khóc, khạc nhổ, đều liên quan đến sự giám sát của trời. Do đọc những lời lẽ ấy, người ta bèn nghi là mơ hồ, vớ vẩn, chẳng thể tra cứu đến nơi đến chốn, [nghi như vậy tức là] chẳng biết thánh hiều cố nhiên coi trọng đạo “thận trọng nơi những điều nhỏ nhặt”. Kinh Thư chép: “Tế hành bất căng, đại đức chi lũy” (Chẳng cẩn thận nơi những hành vi nhỏ nhặt, sẽ khiến cho đức lớn bị tổn giảm). Kinh Dịch nói: “Tiểu nhân dĩ tiểu thiện vi vô ích nhi bất vi dă, dĩ tiểu ác vi vô thương nhi bất khử dă. Cố ác tích nhi bất khả yểm, tội đại nhi bất khả giải” (Tiểu nhân coi điều lành nhỏ là vô ích nên chẳng làm, cứ nghĩ điều ác nhỏ chẳng tổn hại ǵ nên chẳng bỏ. Do vậy, điều ác chất chứa chẳng thể che giấu được, tội to lớn chẳng thể giải trừ được). Cả bộ sách Lễ Kư, đối với nhất cử nhất động của con người đều có khuôn phép, chừng mực. Cổ nhân dạy mọi người cẩn thận trong từng hành vi nhỏ nhặt, phần nhiều là như thế đó!

          Đời Minh, tiến sĩ Vương Chí Kiên ở Côn Sơn đọc rộng răi các sách, lại c̣n thông thạo nội điển (kinh Phật), thường bảo con em: - Cảm Ứng Thiên nói đến hai trăm chín mươi ba chuyện. Trong một thiên sách, cạn, sâu, tinh, thô, trước sau bổ trợ[13] cho nhau. Như đối với giới sát th́ nói “côn trùng thảo mộc, do bất khả thương” (côn, trùng, cỏ cây, chớ nên tổn thương), rất chi ly. Nói “phi lễ phanh tể (chẳng phải là lễ lạc mà giết mổ) tức là chẳng cấm ăn thịt. Nói “vô cố tiễn tài” (vô cớ mà cắt xén) tức là chẳng cấm ăn mặc chải chuốt. Lại nói “xuân nguyệt liệu liệp” (trong tháng mùa Xuân đốt rừng để săn bắn), nói “vô cố sát quy đả xà” (vô duyên cớ giết rùa đánh rắn) dường như là càng thêm khoan dung vậy. Ấy là v́ một đằng là nói với người học đạo, một đằng là nói với những kẻ thông tục. Kẻ học đạo được nghe lời này bèn t́m cầu chỗ tinh túy, sẽ có thể siêu phàm nhập thánh, mà kẻ b́nh phàm quen thói tạo nghiệp cũng có thể nhờ đó mà bỏ những điều quá đáng, chẳng đến nỗi buông lung không ngăn dè. Cần phải đọc thiên sách này như thế th́ mới biết là nó chẳng nói trùng lặp vậy.

          Người tŕ thiên sách này cần phải trong tâm luôn luôn thầm niệm, đối với từng chữ đều xét lại tự thân, [chính ḿnh] có chuyện ấy hay là không, [nếu có, sẽ gắng sức] dần dần bỏ bớt. Hằng ngày như thế, hằng năm như vậy, tự nhiên mọi hành động đều là thiện, tiếp xúc chỗ nào cũng là thiện. Trong quyển đầu tiên của các bản in khác có chép nghi thức tŕ tụng, và các thánh hiệu, dụng ư chỉ nhằm dạy người ta nhiếp tâm làm lành, học theo chuyện ông Triệu Duyệt Đạo[14] [hằng ngày] thắp hương thưa với trời những chuyện đă làm [trong mỗi ngày] đó thôi. Nếu chẳng thật t́nh phụng hành, chỉ tụng niệm suông ḥng cầu phước, tức là đă sai lầm quá xa rồi!

          Thiên sách này chuyên nhằm khuyên con người chuyên dụng tâm để tu sửa những điều sai trái mà nói. Nho giáo có lư “huệ cát, nghịch hung” (惠吉逆凶, thuận theo điều nhân từ, sẽ có điều tốt lành đưa tới; ngả theo điều trái lẽ nghịch đạo, sẽ có chuyện hung hiểm đưa tới). Có được tác phẩm này (Cảm Ứng Thiên) càng cảm thấy tường tận, rơ ràng gấp bội! Thích giáo (đạo Phật) có thuyết nhân quả luân hồi. Đọc thiên sách này, sẽ có thể thấy đại khái [giáo thuyết ấy]. Quán thông tam giáo, dù hành những chuyện khác nhau, mà đạt thành tựu như nhau, đúng là bậc thềm để siêu phàm nhập thánh, thật sự là con đường để chuyển họa thành phước. Khuyên trọn khắp những người cùng hàng, hăy tin, nhận, phụng hành. Những chuyện linh nghiệm sẽ được tŕnh bày như dưới đây.

          Đời Nam Tống, huyện lệnh huyện Nga Mi là Vương Tương, vào năm Thiệu Hưng 31 (1161) đă phát tâm thề hành mấy chục chuyện trong thiên sách này. Một ngày nọ, do bệnh mà ngất lịm, con cái vây quanh khóc lóc. Vương Tương cảm thấy thân thể như đang ở trên không trung, nghe tiếng khóc nhỏ rí như tiếng ong, tiếng ruồi. Trong chốc lát, có vị thần nói: “Vương Tương vừa mới toan dốc sức thực hiện Cảm Ứng Thiên, hăy nên mau thả về”. Về sau, ông thọ đến một trăm lẻ hai tuổi!

          Đời Nam Tống, Châu Tŕ ở phủ Toại Ninh hằng ngày tụng thiên sách này. Lại thích giảng nói cho người khác. Giữa Xuân năm Thiệu Hưng 21 (1151), chết bất ngờ, trải qua một ngày mới sống lại, bảo vợ: - Ta tới âm ty, thấy hai bên đều là những người bị chết đói trong làng. Trên điện, có một vị quan gọi ta, dặn ḍ: “Ngươi vốn có tên trong sổ những kẻ đói kém. Do kiền thành phụng hành Cảm Ứng Thiên, giảng nói cho người khác. Kẻ nghe xong, hồi tâm làm lành rất nhiều. Nay sửa cho người được hưởng lộc thọ. Nếu vẫn kiên cố tu tŕ, có thể chứng đại đạo, chẳng trở lại chỗ này nữa”. Tôi đi ra, gặp một viên nha lại, [ông ta] căn dặn: “Ngươi sống lại, càng nên lưu truyền rộng răi thiên sách này. Nếu một vùng thọ tŕ, ắt một vùng sẽ thoát nạn. Thiên hạ thọ tŕ, ắt thiên hạ ấm no, thịnh trị. Người truyền dạy, kẻ thọ tŕ, công nghiệp đều chẳng cạn! Không chỉ là thoát khỏi các tai ách nước, lửa, binh đao, giặc cướp, bệnh tật, mà cầu con nối dơi, cầu thọ, cầu lộc, cầu tiên đều như đă nói trong kinh này”.

          Đời Minh, Dương Thủ Nghiệp ở Hà Gian[15], hằng ngày tụng thiên sách này. Tuổi đă sáu mươi mà chẳng có con. Năm Vạn Lịch thứ sáu (1578), bị bệnh chết, đột nhiên sống lại, bảo người nhà: “Ta tới cơi âm, thấy một vị quan cầm sổ bộ điểm danh, bảo ta vốn không có con, do luôn tụng Cảm Ứng Thiên sẽ được tăng lộc và thọ, ban cho một con”. Năm sau, quả nhiên sanh một trai, [đứa con ấy] phụng dưỡng cha mẹ, chôn cất chu đáo, lại c̣n đỗ đạt.

          Đời Tống, Lư Xương Linh người Tây Thục, làm Thái Thú ở Quang Châu[16], xử lại các vụ án bắt giam oan uổng, hết sức có tiếng tăm. Ông chú giải tường tận Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, khiến cho người đọc do sự mà t́m được Lư, góp phần tuyên dương, giáo hóa. Những ư nghĩa chánh yếu trong kinh này được tỏ lộ rạng rỡ trong cơi đời. Ông làm quan đến chức Ngự Sử Trung Thừa, phước lẫn thọ đều cao.

          Đời Tống, Trịnh Thanh Chi ở Việt Quốc đă từng dâng thiên sách này lên Tống Lư Tông. Sau khi lên ngôi, nhà vua ban tiền để ông khắc ván in ra. Vua đích thân viết hai câu “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành” ở đầu thiên sách. Từ đó, người phụng hành càng đông. Thanh Chi đă từng hứa soạn bài tán [ca ngợi sách Cảm Ứng Thiên], nhưng chưa làm, do vậy bị bệnh mắt có mộng thịt. Ông gắng hết sức chống chọi cơn bệnh để soạn bài tán, mắt liền khỏi. Về sau, được giữ chức quan trọng cơ mật, làm Đồng Tri Xu Mật Viện Sự[17].

          Vương Trúc ở Thai Châu, có con trai tên là Tịnh, bốn tuổi bị bệnh chết. Họ Vương đau buồn khôn xiết, phát tâm khắc in thiên sách này, mong cầu đứa con trai đă mất sẽ quay lại làm con lần nữa. Vợ quả nhiên có thai. Do tới Hoàng Nham dâng hương, chợt giống như cùng với Tịnh ngồi cùng kiệu về nhà. Vợ sanh con ra, đặt tên là Sư Hồi, diện mạo giống như trước chẳng khác. Cốt nhục lại được vẹn toàn.

          Dương Sâm ở huyện Hoàng Nham thấy người khác khắc in thiên sách này, tự nghĩ ḿnh chẳng có sức, bèn tùy duyên, góp tiền khắc ván trang thứ mười bảy. Mộng thấy thần bảo: “Sẽ đậu giống như ông đă khắc”. Quả nhiên, đỗ Tiến Sĩ hạng mười bảy.

          Trầm Cầu ở Nam Trực do vợ Hạng thị có thai lắm bệnh, bèn phát tâm khắc [Cảm Ứng Thiên] thành một quyển sách nhỏ để người khác thuận tiện tŕ tụng. Hôm thợ khắc mang bản in đến nhà, vợ sanh được một trai, mẹ và con đều khỏe mạnh.

          Uông Tĩnh Hư ở Hàng Châu có ư định khắc ván [Cảm Ứng Thiên] để thí rộng răi. Do quan chức nhỏ nhoi [chẳng có nhiều tiền bạc], nên chưa tṛn nguyện. Con ông ta là Nguyên bèn nối chí cha, bỏ tài sản ra để khắc ván thành công, dùng nhiều cách khuyến mộ các thiện sĩ đóng góp, in thí một vạn bộ. Ông Nguyên mộng thấy cha bảo: “Con đă khéo thành tựu chí nguyện của cha, khuyến thiện, bố thí trọn khắp. Cha đă sanh lên trời, mẹ con cũng thọ. Mọi người và con đều được ghi tên vào sổ lành”.

          Vương Tốn ở Giản Châu bị bệnh đă lâu, [bỗng thấy ḿnh] đến âm phủ. Thấy một nha môn, biển đề bằng chữ vàng, ghi Đông Nhạc Phủ. Bên trái ṭa điện có một tấm bia chạm chữ bằng vàng, [nội dung] chính là bài Cảm Ứng Thiên. Vương Tốn đọc một lượt, hoan hỷ, cung kính. Liền nghe thần nói: “Vương Tốn vừa thấy chân kinh, liền sanh ḷng kính mộ như vậy. Nếu từ rày trở đi có thể phụng hành, kiêm tŕ giới sát, sẽ tự nhiên bệnh lành, thân an, chẳng cần ở chỗ này”. Bèn được hoàn hồn, bệnh nặng nhanh chóng b́nh phục. Do vậy, phụng hành chẳng lười nhác. Ấy là kẻ không biết chữ tụng kinh sẽ trỗi hơn người biết chữ, do không có tạp tưởng. Đọc kinh thuộc ḷng sẽ thù thắng hơn nh́n vào kinh bổn để đọc, do có thể nhiếp tâm. Nghĩa lư chỉ ở tại chữ Kính. Vương Tốn có thể làm chứng vậy.

           Tần Tam ở Từ Khê, nhà nghèo, làm lụng vất vả nuôi mẹ. Bị trúng phong lâu ngày thành tàn phế. Gặp một đạo sĩ bảo: “Ngươi hăy theo ta, ta sẽ trị cho ngươi”. Bèn kéo chân Tần Tam duỗi ra, bệnh khỏi ngay. Tần Tam thưa với mẹ xin theo [đạo sĩ]. Đạo sĩ bảo Tần Tam nhắm mắt, cầm tay kéo theo, cưỡi gió mà đi. Tới một ngọn núi trên biển, người trên núi chê: “Gă này chẳng có tiên cốt, sao lại đến đây ?” Đạo sĩ bảo: “Nhà hắn thờ phụng Cảm Ứng Thiên mấy đời, thường v́ con cháu khuyên giảng, thiện căn chẳng dứt. Do vậy, ta thâu nhận”. Tần Tam đau đáu nhớ mẹ, lại được [đạo sĩ] đem trở về th́ đă qua mười ba ngày rồi!

          Trương đạo nhân ở Thiên Bành tụng Cảm Ứng Thiên. Đi hóa duyên sống qua ngày, nhưng chỉ có thể tụng thuộc ḷng một nửa. Bỗng bị bệnh, thấy ḿnh tới cơi âm. Một vị quan hỏi: “Ngươi tụng Cảm Ứng Thiên, sao không gắng tụng thuộc trọn hết cả thiên, mà chỉ tụng thuộc một nửa? Hăy nên trở lại nhân gian, chịu đựng khổ sở một trăm ngày”. Lúc đi ra, gặp một nha lại răn dạy: “Do ngươi chẳng tụng thuộc cả thiên nên tới chỗ này. Nay hăy nên tự hối, và khuyên lơn rộng khắp người đời. Không chỉ là khỏi tội, mà công hạnh c̣n tăng thêm”. Đạo nhân tỉnh lại, khuyên khắp một vùng, quả nhiên mọi người kính tin. Nơi ấy nhiều năm được mùa, đạo nhân cũng được lành bệnh. Về sau đắc đạo!

          Uông Nguyên ở Tiền Đường, nhà nghèo, không con, chỉ có mẹ già c̣n sống. Hằng ngày tụng thiên sách này, quyên tiền khắc in để cầu mẹ sống thọ và có con nối ḍng. Vừa mới khắc quyển đầu, vợ đă có thai. Về sau, sanh con trai. Mẹ sống rất thọ. Uông Nguyên thường nói: “Ta do một niệm chân thành, cầu mẹ sống thọ, mẹ bèn thọ. Cầu con nối ḍng, bèn có con nối ḍng”. Lư cảm ứng đă sáng vằng vặc vậy!

          Hứa Đ́nh Du ở Hàng Châu, cả nhà kiền thành phụng tŕ thiên sách này. Lại c̣n viết thành một bức tranh chữ, treo trong nhà. Một tối, có kẻ giặc dữ vào cướp, dường như là bị xua đuổi phải bỏ chạy. Về sau, ông Hứa biết chuyện này, càng thêm phụng hành chuyên dốc.

          Trần Bích Tùng ở Vũ Lâm thường giúp người, lợi vật, lại c̣n khắc in thiên sách này rất đẹp đẽ, lưu thông khắp chốn. Về sau, gặp trận mưa kéo dài cả tháng, ông Trần đi xa chưa về. Vợ ông ban đêm chưa ngủ, chợt nghe đập cửa ầm ầm. Khi ấy, bọn giặc hung bạo vào làng cướp bóc liên tiếp; nhà nào nhà nấy đề pḥng nghiêm ngặt. Vợ ông Trần [nghe tiếng đập cửa dữ dội] bèn kinh hoảng, cho là bọn cướp kéo tới, vội gọi người nhà cùng trốn đi. Mới ra khỏi nhà, bức tường cao bỗng sụp đổ, đồ vật trong nhà vỡ tan như bột, nhưng cả nhà không hề hấn ǵ!

          Đời Minh, Châu Nhữ Đăng ở Hải Môn theo học dưới trướng của tiên sinh Long Khê đă lâu, nhưng chẳng đạt được ǵ. Về sau, hành theo thiên sách này, soạn thành tác phẩm biên tập những điểm trọng yếu để khuyên đời, người theo về đường lành đông đảo. Do công đức ấy, một hôm [ông Châu] tâm địa mở mang, thông sáng, hiểu rơ thánh đạo, trở thành bậc đại Nho cuối đời Minh. Than ôi! Nay Nho học thánh, Thích học Phật, Đạo học tiên, có kẻ học suốt một đời chẳng ngộ, dở dang nửa chừng. Đó là v́ căn khí kém cỏi, lại chẳng có công đức bằng ai. Trương Tử Dương nói: “Nếu không tích tập tu hành âm đức, hễ động tới, bèn có các thứ ma gây chướng duyên”. Người có chí nơi đạo, há chẳng nên tỉnh ngộ mạnh mẽ ư?

          Đời Minh, Vu Ngọc Bệ ở huyện Tiền Đường có vợ là Lương thị, bệnh rề rề đă ba năm. Một tối, mộng thấy Pháp Vân đại sĩ giáng xuống, đứng trên đám mây, quang minh chói ḷa, quỷ mị đều trốn sạch. Ngày hôm sau, đến lễ bái Vân Thê đại sư[18], Lương thị thấy từ nhan nghiễm nhiên như trong giấc mộng, bất giác hoan hỷ, bệnh ngặt đă lâu nhanh chóng khỏi hẳn. Đại sư dạy: “Bệnh sanh từ nghiệp, nghiệp từ tâm sanh. Gắng hết sức làm công đức, sẽ có thể tăng thọ”. Sư bèn đem Cảm Ứng Thiên trao cho Ngọc Bệ bảo: “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành chính là ư chỉ chánh yếu trong thiên sách này. Nói nông cạn là ngăn chặn điều ác, tuyên dương điều thiện. Chỉ cần tận lực nói với những người dân lành vâng giữ bổn phận trong một thôn có ba nhà[19]. Nói tột cùng, đoạn hết sạch những điều ham muốn nhỏ nhặt, muôn điều thiện sẽ tṛn đầy, là trời trong trời, là thánh của các thánh. Đức Thế Tôn cũng giống như vậy. Ông hăy nên lưu truyền rộng răi để thực hiện pháp thí to tát”. Ngọc Bệ cảm ngộ, tin nhận, soạn bộ [Cảm Ứng Thiên] Tiêu Nguyên tám quyển để khuyên đời.

          Phương Thời Khả ở Hưu Ninh thuở nhỏ lắm bệnh, gặp một dị nhân bảo: “Tướng mạo của ngươi nghèo hèn, lại không có con, chẳng thọ. Hăy nên gieo nhiều thiện căn”. Do vậy, họ Phương phát nguyện khắc in thiên sách này để thí tặng, khuyên lơn. Về sau, bệnh nhanh chóng khỏi hẳn, gia đ́nh dần dần khá lên, sanh được ba trai đều vinh hiển, tuổi già mới mất.

          Đời Minh, Mạo Khởi Tông nhằm năm Bính Ngọ (1606) trong niên hiệu Vạn Lịch, vào trường học hành. Hễ hơi rảnh rỗi, bèn kiền thành đọc thiên sách này. Ông đỗ khoa thi Hương năm Mậu Ngọ (1618). Lúc thi khoa ấy, do bị bệnh nặng, lúc vào trường thi, tứ chi bải hoải, mắt chẳng nh́n thấy quyển thi, chẳng biết đặt bút viết chỗ nào. Ra khỏi trường thi, đối với bài văn đă làm, chẳng nhớ một chữ. Tới khi thi đỗ, thấy quyển bài thi từng chữ đều ngay ngắn, chân phương, mới biết là trong trường thi dường như có thần giúp đỡ. Năm Kỷ Mùi (1619), ông thi trượt, lại phát nguyện chú giải Cảm Ứng Thiên rộng thêm, dẫn chứng rộng răi những điều khảo cứu, không điều nào chẳng tường tận. Soạn xong sách bèn đậu Tiến Sĩ, làm quan tới chức Bố Chánh[20].

          Tháng Chạp năm Giáp Thân (1644) niên hiệu Thuận Trị nhà Thanh, Xương Môn ở Tô Châu bị hỏa hoạn lớn. Trước đó ba ngày, có người cầm sào đo đất. Mọi người hỏi thăm, người ấy trả lời bí hiểm. Tới khi hỏa hoạn, mới thấy những chỗ bị cháy vừa đúng những chỗ người ấy đă đo, mới biết người ấy là thần. Trong khi hỏa hoạn, tại ngơ Chuyên Chư của Xương Môn có nhà ông Trần Tùng Hiên, vốn có khách từ Tân An đến trọ tại đó, cách ngọn lửa chừng gang tấc. Người trong thành đều thấy có vị thần đứng trên nóc nhà ấy chữa cháy. Khi lửa tàn, nhà chung quanh đều cháy sạch, chỉ riêng căn nhà ấy c̣n nguyên. Ngày hôm sau, mới biết người khách từ Tân An đă khắc in và giữ bản in Cảm Ứng Thiên.

          Lỗ Tử Tấn là chư sanh[21] ở Cối Kê, kiền thành phụng hành thiên sách này, lại c̣n chú thích tường tận. Do nhà nghèo bèn bán ruộng để khắc in lưu thông. Con trai ông Lỗ là Đức Thăng làm quan tới chức Hàn Lâm Viện Kiểm Thảo[22].

          Sự linh nghiệm cảm ứng đă được ghi chép xưa nay chẳng thể thuật trọn. Nay nêu đại lược các trường hợp như trên đây đều đích xác là [do người ghi chép] đích thân thấy nghe, đă đáng tin lại c̣n rơ rệt, ḥng chứng thực lư cảm ứng quyết định. Chỉ mong những người có được sách này, [đọc những câu chuyện ấy], chớ nên bài bác. Trong khi ngồi ngay ngắn, thanh tịnh, hăy gạt bỏ những xáo động bộp chộp, giữ tấm ḷng cung kính rỗng rang để tiếp nhận, đọc cẩn thận, tường tận, nghiền ngẫm sâu xa, gắng sức thực hiện. Cái duyên tốt lành không chi lớn bằng, hăy cẩn thận đừng đánh mất. Khôn ngăn thắp hương dập đầu cầu khẩn!

          Sách Địch Cát Lục có chép: - Một là mong hăy dấy lên ḷng tin. Phàm thuận theo điều thiện, sẽ có tốt lành đưa tới. Phàm trái nghịch điều thiện, sẽ có hung hiểm xảy tới. Thánh nhân đă thốt lời đoan quyết, nhưng cơi đời gần như coi lẽ thuận nghịch ấy là mơ hồ, cứ mông muội chẳng tin! Họ cho rằng làm lành chưa chắc đă được báo đáp, làm ác chưa chắc đă bị tai ương, cắt đứt phước duyên của chính ḿnh, diệt thiện căn của kẻ khác. Cái tâm ấy thật sự là tâm ǵ vậy? Người thấy điều này, hăy nên tự dấy lên tín tâm to lớn. Một niệm tín sẽ là một niệm thiện căn. Niệm nào cũng đều tin, tức là niệm nào cũng là niệm thiện căn.

          Một điều mong mỏi nữa là hăy siêng tu. Phàm làm lành, chẳng thể do hai ba [thiện] niệm mà đạt được quả báo [tốt lành. Ví như] dùng một chén nước để dập tắt lửa của một xe củi [cháy], rồi bảo “chẳng cần làm lành”, lười nhác sống ơ hờ qua ngày, há chẳng c̣n tệ hơn kẻ bất nhân ư? Hăy nên sốt sắng tu tŕ, dũng mănh chẳng biếng nhác. Thường như trời đất giáng lâm trên đỉnh đầu ta, quỷ thần răn dạy ta, th́ mới chẳng cô phụ cái thân này. Nếu không, hờ hững, qua quưt, ngày lại qua ngày, tuổi thọ được mấy? Cứ đợi ta thong dong tích lũy, sợ rằng vô thường bỗng ập tới, than thở c̣n kịp hay chăng?

          Một điều nữa là coi trọng dưỡng tâm. Quản Tử nói: “Hỷ khí nghênh nhân, thân ư huynh đệ. Nộ khí nghênh nhân, thảm ư binh qua” (Dùng sự hoan hỷ đối xử với người khác, họ sẽ thân thiết như anh em. Dùng sự cáu giận đối đăi người khác, sẽ thê thảm như chiến tranh). Nam Hoa [Kinh][23] cũng nói: “Binh mạc thảm ư nhẫn, nhi Mạc Gia vi hạ” (Chẳng có ǵ thảm khốc bằng sự tàn nhẫn của kẻ cầm binh khí, dẫu thanh gươm Mạc Gia cũng chẳng bằng). Do vậy mới nói, do ảnh hưởng của chí khí, dẫu chưa cứu giúp chúng sanh, mà họ đă được hưởng sự hài ḥa, hạnh phúc. V́ thế, [sự cảm ứng] nhanh chóng như dùi gơ vào trống [liền phát ra tiếng]. Xưa vua Đại Vũ và ông Hậu Tắc phù tá vua Nghiêu, vua Thuấn định thiên hạ. Dân bị lênh đênh v́ nạn lụt mới sống yên, dân đói mới được no ấm. V́ thế, [các vị ấy] có công đức mênh mông, thật sự giúp dân vậy. Ni Sơn (Khổng Tử)[24] áo vải, chưa thi thố được kế sách nào, nói suông, có thực hiện được ǵ? Riêng [ấp ủ] một ḷng yên già, thương trẻ, siêng gắng, khẩn thiết đến chết, rốt cuộc so lường công đức với những kẻ ngoảnh mặt về phía Nam[25], Ngài được tôn thờ là vị thầy của muôn đời. Như vậy là tâm có trọn đủ muôn pháp, con người chỉ nên hàm dưỡng cội nguồn sẵn có[26] sao cho tràn đầy ḥa ái, hoạt bát, chẳng đánh động những thói bộp chộp. Gặp cha mẹ bèn có thể hiếu, gặp muôn vật bèn có thể nhân. Gặp điều lành bèn có thể thực hiện vẹn toàn. Gặp nhục nhă bèn có thể nhẫn. Hữu t́nh, vô t́nh, hữu sự, vô sự, luôn là một bầu ư niệm ḥa hợp ngập tràn cơi hư không. Phước đức ấy c̣n có thể nghĩ bàn hay sao? Làm lành chính nhiệm vụ cấp bách bậc nhất vậy!

          Một điều nữa là quư ở chỗ kiên tŕ vĩnh hằng. Điều thiện nhỏ th́ quả báo gần. Điều thiện lớn th́ quả báo xa. Quả báo gần th́ phước nhẹ, quả báo xa th́ phước dầy. Như do thể chất của liễu bồ[27], sáng trồng, tối đă tăng trưởng. Tùng, bách chẳng phải vậy, [lúc chưa tăng trưởng] bị cỏ dại phủ lấp, bị trâu, dê làm hại, nhưng sau đó, sẽ có thể dùng đến ngàn vạn năm! Đời này, chẳng phải là không có kẻ tin vào điều thiện, nhưng người kiên tŕ vĩnh hằng chẳng nhiều! Bởi có kẻ trong khi hành theo một vài chuyện [được nói trong Cảm Ứng Thiên], lỡ gặp phải thử thách, gieo neo, bèn lầm lạc bảo “đạo trời khó biết”, nhanh chóng bỏ sạch những ǵ đă tu trước đó. Đấy đều là lầm lạc do cái tâm mong cầu “sẽ nhanh chóng đạt được mà ra. V́ thế, tích đức mà nhún nhường, đấy là nền tảng của phước. Gặp cảnh hiểm mà bền chí, đấy là thực hành đức. Cổ nhân nói: “Chăm chú vun bồi đức, gắng trừ sạch ác”. Thường thấy những nhà nẩy sanh những chuyện tốt lành là do đă nhiều đời hành tŕ tích tập, hoặc do đă nhiều năm tận lực làm lành. Những kẻ gặp điều tốt lành có thừa, chẳng phải là do một sáng, một chiều! Nếu có một chút thiện quả, liền mong phước dầy, cội nguồn đă kém tệ, mong chi có lắm chuyện mừng vui dồn lại! Ông Châu Thiên Lân[28] nói: tâm cảm, sẽ cảm chẳng linh. Có tâm mong ứng, sẽ chẳng ứng nổi”. Hăy nên thuận theo tự nhiên, chớ nên lầm lạc sanh tâm so đo. V́ thế, kiên tŕ vĩnh hằng là một điều rất then chốt trong việc tích đức!

          Một điều nữa là coi trọng lưu truyền. Chỗ nào có kinh sách, đấy chính là thiện duyên. Giấu kín chẳng truyền, ắt bị trời giáng tai ương. Theo Công Quá Cách, truyền thiện thư cho một người, sẽ được mười điều thiện. Truyền cho mười người, sẽ là trăm điều thiện. Truyền cho bậc đại quư nhân, đại hào kiệt, người có thế lực lớn, sẽ là ngàn điều thiện. In lại để lưu truyền, phát hành rộng răi không ngằn mé, sẽ là một vạn điều thiện. Luôn luôn xưng nói, luôn luôn nhắc nhở, dẫu là kẻ nông dân, nữ nhân trong chốn khuê pḥng, mục đồng, trẻ nhỏ chốn làng quê, không kẻ nào chẳng biến đổi, sẽ là thiện duyên vô biên, mà phước duyên cũng vô biên. Xưa kia, Tôn Chân Nhân[29] in Thiên Kim Phương [để phổ biến rộng khắp], sách in xong, Ngài thành tiên. Ông Châu Tŕ giảng Cảm Ứng Thiên cho người khác, thoát khỏi sổ ghi tên chết đói. Đức hạnh do công bố điều thiện, há có số lượng ư?

          Một điều nữa là nguyện bổ sung, phát huy. Những chuyện báo ứng thiện ác xưa nay, há có ngằn hạn? Ngẫu nhiên chép lại [một hai chuyện], há có thể nào [coi như] đă hoàn thiện ư? Những người cùng ôm ấp ư niệm ấy, hoặc chọn lựa từ những điều đă ghi chép trong sách vở, hoặc dựa theo sự thấy nghe của chính ḿnh, chẳng ngại chép thêm vào sách này, vận dụng đại học vấn, gọt giũa những nghĩa lư tinh vi, trau chuốt những lời ngay thẳng, khiến cho người đọc khoái mắt sướng ḷng. Một câu tán dương là một câu hộ tŕ thiện căn. Một niệm [muốn làm lành, kiêng làm ác được] dấy động, cũng là một niệm tiêu trừ tội nghiệp. Phát huy càng rộng, lư tột cùng càng rơ, giúp trời xiển dương giáo hóa, công lao ấy sâu dầy thay!

 

          (Chánh văn) Thái Thượng viết: - Họa phước vô môn, duy nhân tự triệu.

          (正文)太上曰。禍福無門。惟人自召

          (Chánh văn: Thái Thượng nói: - Họa phước chẳng có cửa nẻo [nhất định], do con người tự chuốc lấy).

 

          Đoạn này hợp với đoạn sau thành cương lănh của cả thiên sách này, đấy chính là ư chỉ chánh yếu trong lời dạy này. Luận theo cái tâm của thánh hiền, chẳng ngoài [dạy cho con người] do cầu phước tránh họa, sau đó sẽ làm lành, chẳng làm ác. Luận theo lư của tạo hóa, do tích thiện hay tích ác mà sẽ là vui sướng có thừa hay tai ương có thừa. Do vậy, chẳng hề sai lầm!

          Nhỏ th́ gọi là “cát, hung”, lớn th́ gọi là “họa, phước”. “Vô môn” là chẳng có cửa nẻo nhất định. “Tự triệu”: Tự làm, tự chịu. Ư nói trời đất chẳng có ḷng riêng tư, do muôn vật [có tâm tư, hành vi] như thế nào mà ứng theo như thế ấy để giáng họa hay ban phước, vốn chẳng có cửa nẻo nhất định. Nghe theo sự cảm vời [của đương sự] mà báo ứng, chỉ là do ḷng người tự chuốc lấy đó thôi! Nhưng khi con người chưa dấy lên một niệm, cái tâm trong lặng giống như hư không, chẳng có thiện ác ǵ! Chỉ v́ một niệm mới động, nếu hướng theo chuyện tốt sẽ là lành, nếu hướng theo chuyện xấu sẽ là ác. Trước hết, bất quá là dấy lên một niệm, làm một chuyện; về sau, trải qua năm tháng tích lũy, bèn có người lành, kẻ ác sai khác. Nhưng mắc họa hay được phước, đều được quyết định khi ư niệm dấy lên. V́ thế, Thái Thượng vừa mở miệng bèn bảo là “vô môn” (không có cửa nẻo, ư nói không có sự chủ định sẵn), bảo là “tự triệu” (tự chiêu cảm lấy). Phải dè dặt lúc con người khởi niệm, hăy cắn chặt răng, chú tâm cảnh giác. “Giác” là nội quán, chiếu soi thấu triệt rỗng rang. Ḷng người thiện hay ác, không có ǵ chẳng do ư niệm vi tế nẩy sanh [dẫn dến điều thiện lẽ ác ấy]. Một niệm quán chiếu nội tâm, sẽ biết nên hướng theo ngả nào[30]. Kinh Dịch nói: “Cơ, động chi vi” (Cơ[31] là sự dấy động vi tế), [từ sự quán chiếu nội tâm, nhận biết ư niệm vi tế dấy lên là thiện hay ác] sẽ thấy trước cát hay hung [trong tương lai]. Do điều này mà có thể thấy thấu suốt, tự làm chủ, tự nhiên sạch dục, lư thuần, làm ǵ cũng tương ứng với chuyện tốt lành. Nếu có mảy may sai khác, sẽ cách biệt vời vợi như trời với đất!

          Đời Tống, thiền sư Linh Nguyên bảo Y Xuyên (Tŕnh Di): “Họa có thể sanh ra phước. Phước có thể sanh ra họa”. Họa có thể sanh ra phước, tức là khi gặp cảnh nguy hiểm, bèn thiết tha nghĩ đến sự an ổn, t́m cầu sâu xa đạo lư, càng nên kính sợ, cẩn trọng. Phước có thể sanh ra họa là khi hưởng yên vui, bèn buông lung, có ư niệm xa xỉ, mặc t́nh kiêu căng, lười nhác, càng thêm coi thường, khinh rẻ, ngạo mạn.

          Đông Nhạc Đại Đế huấn dụ: “Làm việc lành như cỏ trong vườn xuân, chẳng thấy nó tăng trưởng, nhưng hằng ngày nó đều mọc dầy hơn. Làm ác như đá mài dao, chẳng thấy bị hao tổn, nhưng hằng ngày đá đều bị ṃn đi”. Họa phước ngấm ngầm chuyển dời, nhưng kẻ mê chẳng cảm thấy.

          Đời Đường, Lục Tổ Huệ Năng bảo: “Hết thảy các phước điền, chẳng ĺa một tấc vuông”[32]. Kinh dạy: “Cát, hung, họa, phước đều do tâm tạo”. Lại nói: “Tội phước hai vầng, khổ lạc hai quả, đều do ba nghiệp tạo ra, do một tâm cảm”. Nếu có một niệm tâm sân khuể, tà dâm, chính là nghiệp địa ngục. Keo kiệt, tham lam, chẳng thí, chính là nghiệp ngạ quỷ. Ngu si tối tăm che lấp chính là nghiệp súc sanh. Ngă mạn, kiêu căng chính là nghiệp Tu La. Giữ vững Ngũ Giới chính là nghiệp làm người. Tu ṛng Thập Thiện chính là nghiệp cơi trời. Chứng ngộ Nhân Không chính là nghiệp Thanh Văn. Biết tánh của duyên là ĺa, chính là nghiệp Duyên Giác. Tu trọn Lục Độ chính là nghiệp Bồ Tát. Chân từ, b́nh đẳng, chính là nghiệp thành Phật. Tâm tịnh sẽ là đài hương, cây báu, hóa sanh cơi tịnh. Tâm nhơ ắt đồi, g̣, hầm, hố, gởi thân nơi uế độ. Chẳng phải là trời giáng xuống, há có phải do đất sanh ra, chỉ là do một niệm ban đầu mà ra. Ĺa khỏi nguồn tâm, chẳng có cái Thể nào khác!

          Cơ duyên cảm ứng nhỏ nhiệm thay! Nẻo thiện ác nguy hiểm thay! Cái khó ǵn giữ nhất chính là ḷng người. Tiếp xúc sự vật, cái tâm vừa động, bèn ch́m đắm trong vực sâu hay bay lên trời thẳm [chỉ v́ dấy động ác niệm hay thiện niệm]. Ư niệm chuyển dời, sẽ là ngưng đọng thành băng, hay lửa hừng đốt sạch. V́ thế, cổ nhân ngày siêng năng ba lượt phản tỉnh, đêm kiêng sợ có bốn điều biết[33]. Do vậy, gà gáy bèn thức dậy, sốt sắng làm lành, chẳng bỏ khắc nào không giữ ǵn, thực hiện, khiến cho cái tâm như gương luôn sáng ngời. Gương tâm đă sáng, chính ḿnh sẽ làm chủ được điều thiện, lẽ ác, mà họa phước cũng có thể làm chủ được. Do vậy, mạng trời vốn ở nơi ta. V́ thế, luận định lẽ “họa phước do tự ḿnh chuốc lấy, quyền thao túng [họa phước] vốn ở nơi tâm”, lại chép thêm những câu cách ngôn của bậc tiên nho ḥng tuyên dương lời dạy của Thái Thượng.

          Có kẻ hỏi: Gà gáy thức dậy, c̣n chưa tiếp xúc sự vật, làm lành như thế nào? Tŕnh Tử bảo: “Chỉ cần cốt yếu giữ ḷng kính, sẽ là làm lành”.

          Đời Tống, Trương Tử[34] nói: “Khởi đầu của việc chánh tâm, hăy nên coi cái tâm ḿnh như một vị thầy nghiêm khắc, đối với những hành động đều biết kiêng sợ, dè dặt. Như thế th́ trong ṿng một hai năm, sẽ giữ được vững vàng, tự nhiên cái tâm là chánh”.         

          Châu Tử[35] nói: “La tiên sinh dạy học, trong lúc tĩnh tọa, bèn xem xét lúc mừng, giận, buồn, vui chưa nổi lên, sẽ có khí tượng[36] như thế nào? Đấy chính là thuật trọng yếu để dưỡng cái tâm vậy!”

          Lại nói: “Cái tâm cần phải giữ sao cho chỉ ngưng lặng một chỗ, chớ nên xen tạp sự việc bên ngoài, nhưng vẫn cần phải siêng năng tu dưỡng, ǵn giữ. Hễ gặp chuyện, đừng tạm thời buông lỏng tinh thần. Tập luyện lâu ngày, sẽ tự thành. Nếu siêng gắng ǵn giữ, kiềm chế ư niệm, thật sự dụng công khẩn thiết, dẫu chỉ nửa tháng là đă có thể thấy sự hiệu nghiệm vậy!”

          Lại nói: “Công phu hàm dưỡng “bổn nguyên” (cội nguồn vốn có) dễ bị gián đoạn nhất; nhưng vừa cảm thấy gián đoạn, bèn tiếp tục ngay. Chỉ cần thường tự cảnh tỉnh, cứ tích lũy từng phân, từng tấc một, lâu ngày sẽ tự nhiên trở thành liên tục, trở thành một khối”.

          Lại nói: “Trong khi tĩnh lặng, ư niệm riêng tư (vọng niệm) nẩy sanh tơi bời. Đấy là căn bệnh chung của người học. Có thể tự phản tỉnh, quan sát đến chỗ này, rất khó đạt được. Hăy nên lấy ḷng tôn kính làm chủ để quan sát sâu xa khi ư niệm riêng tư mới vừa chớm nẩy, [ḥng nhận biết] phần lớn là chuyện ǵ, đối với chỗ nặng nhất bèn thống thiết khắc chế. Lâu dần thuần thục, sẽ tự thấy hiệu quả. Chớ nên [mới thực hiện mà] đă mong thành công trong một sáng, một chiều, mà cũng chẳng bị rối loạn bởi lắm thuyết”[37].

          Lại nói: “Giữ chánh niệm th́ các vọng tự nhiên lui mất, vâng phục”.

          Lại nói: “Khổng Tử dạy: ‘Hành xử luôn cung kính, làm việc luôn cung kính, trung hậu đối với người khác’. Đấy là cách giữ vững chánh niệm”. Nếu nói năng mà cảm thấy không đúng, sẽ không nói. Làm việc mà cảm thấy chẳng đúng, sẽ không làm. Đó cũng là cách giữ ǵn chánh niệm.

          Lại nói: - Đối chuyện học vấn, cần phải tự cảnh tỉnh. Ḥa thượng Thụy Nham hằng ngày đều tự hỏi: “Chủ nhân ông có tỉnh giác hay không?” Tự đáp: “Tỉnh giác”. Người học hăy nên bắt chước.

          Môn nhân là Châu Ngạn Văn hỏi: “Gần đây con cảm thấy đi, ngồi, nói năng, im lặng đều chẳng thể lừa dối chính ḿnh!” Châu Tử đáp: “Đấy là chỗ đắc lực, tâm linh đă hợp nhất với cái thân, chỉ nên luôn giữ cái tâm ngầm nhận biết”.

          Đời Tống, Trần Liệt khổ sở v́ không có trí nhớ. Ngẫu nhiên đọc sách Mạnh Tử thấy có câu: “Học vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ” (Đạo học vấn chẳng có ǵ khác, chỉ mong sao thâu hồi cái tâm buông lung mà thôi). Bỗng ngộ ra, nói: “Ta chưa hề thâu hồi cái tâm, làm sao có thể ghi nhớ cho được”, bèn đóng cửa tĩnh tọa, chẳng đọc sách hơn một trăm ngày để thâu hồi cái tâm buông lung. Sau đấy đọc sách, vừa đọc bèn ghi nhớ chẳng sót!

          Nếu hỏi dáng vẻ cung kính là như thế nào, Tạ Thượng Thái[38] nói: “Có thể thấy từ dáng vẻ đoan nghiêm, trầm mặc như đang suy nghĩ”. Hỏi: “[Như vậy th́] làm như thế nào để khỏi phải gắng sức quá mức ḥng giữ ǵn [dáng vẻ ấy]?” Đáp: “Cố ư gắng sức quá mức để giữ th́ sai mất rồi! Hăy nên đừng quên bẵng, mà cũng đừng cố ư ǵn giữ”.

          Cao Cảnh Dật nói: “Mỗi lúc chiều tà, bèn lặng lẽ kiểm điểm những chuyện đă làm trong suốt một ngày. Nếu chẳng thiết thực rèn luyện thân tâm, tức là đă uổng phí một ngày. Phải nên cẩn trọng tiếc nuối thời gian”[39]. Lại nói: “V́ thế, kẻ tiếc nuối thời gian, chẳng để cho tư tưởng tà vạy, vọng niệm chiếm cứ tâm địa dẫu trong chớp mắt, ngơ hầu ngày qua tháng lại, [tâm địa] luôn huân tập sáng ngời bởi quang minh”. Lại nói: “Phương pháp để chứng nhập sự thành kính của các vị tiên nho chính là chỉnh tề, nghiêm túc, là thường cảnh tỉnh, là thâu liễm, chẳng vương vấn bất cứ sự vật ǵ”. Nay cái tâm của bọn chúng ta nhộn nhạo, nháo nhào, muôn ngàn sự vật đều chất chứa đầy ắp trong ấy, há chỉ là một vật? Nếu muốn tránh khỏi t́nh trạng này, cần phải thường xuyên tỉnh giác. Để tỉnh giác th́ phải chỉnh tề, nghiêm túc. Ba pháp ấy lại có thứ tự.

          Do không ham muốn nên tĩnh. Hễ làm chủ được cái tâm th́ ḷng sẽ rỗng rang. Đấy chính là cương yếu trong đạo học vấn về cái tâm vậy.

          Đời Tống, em trai của tiên sinh Tŕnh Minh Đạo (Tŕnh Hạo) là Tŕnh Y Xuyên (tức Tŕnh Di) qua sông, thuyền sắp lật, mọi người đều kinh hoàng, sợ hăi. Chỉ ḿnh tiên sinh vẫn ngồi nghiêm chỉnh như thường. Được hỏi, tiên sinh liền đáp: “Đấy là do trong ḷng giữ sự thành kính”.

          Vị lăo tăng ở chùa Chân Không nói: - Vọng tưởng của phàm nhân chẳng đồng nhất. Hoặc là nhớ tới vinh, nhục, ân huệ, cừu thù, buồn, vui, chia ĺa, tụ hợp, đủ loại chuyện vớ vẩn mấy chục năm trước. Đó là vọng tưởng về quá khứ. Nếu chuyện xảy tới trước mắt, chỉ nên thuận theo cảnh duyên mà ứng phó, [thế mà] lại sợ đầu, sợ đuôi, do dự chẳng quyết! Đấy là vọng tưởng trong hiện tại. Hoặc mong ngày sau phú quư, vinh hoa, con cháu phát đạt, cùng với hết thảy những chuyện chẳng thể không thành, chẳng thể không đạt được. Đấy là vọng tưởng về tương lai. Thứ ba là vọng tưởng hoặc sanh, hoặc diệt, gọi là “huyễn tâm”. Thấy thấu suốt những thứ ấy là vọng, hễ dấy niệm bèn đoạn dứt ngay th́ gọi là “giác tâm”. V́ thế nói là ‘chẳng sợ niệm dấy lên, chỉ sợ nhận biết chậm’. Cái tâm ấy giống như thái hư, phiền năo c̣n có chỗ nào để đặt chân được nữa ư?

          Trên đây đều là những câu lời luận định tinh vi, xuất thần nhập hóa. Người có chí hăy nên suy nghĩ sâu xa, gắng sức thực hiện, mong sao đạt tới mức thuần thục, trở thành tự nhiên mới thôi. Xưa kia, vào đời Tống, ông Triệu Khang Tĩnh[40] để hai cái b́nh chứa đậu. Hễ dấy một thiện niệm, bèn bỏ vào đó một hạt đậu trắng. Hễ khởi một ác niệm, sẽ bỏ một hạt đậu đen. Thoạt đầu, đậu đen rất nhiều; kế đó, dần dần ít đi. Lâu ngày, hai ư niệm thiện và ác đều mất, b́nh đựng đậu cũng bỏ đi, chẳng dùng tới nữa, v́ đă tiêu tan sạch sẽ cả rồi. Hơn nữa, Âm Chất Văn có câu: “Nếu con người có thể giữ tấm ḷng như ta, ắt trời sẽ ban phước cho các ngươi”. Ấy là v́ có cái tâm như thế nào là do chính ta [quyết định], chỉ mong sao khắc chế ḷng riêng tư, khôi phục chân tánh để thờ trời[41], để mặc cho trời báo đền. Do hễ có cùng khí chất, thể loại giống nhau, sẽ cuốn hút lẫn nhau, tự nhiên là chẳng sai xẩy. Do vậy biết: Đạo để “trừ họa, vời phước” cốt yếu ở chỗ giữ ǵn cái tâm như thế nào. Ư chỉ là như vậy đó!

          Đời Tống, Vệ Trọng Đạt thoạt đầu làm quán chức[42], bị bắt tới âm phủ. [Các quan chức trong cơi âm] tra xét sổ sách thiện và ác, thấy sổ ghi chép điều ác chật sân, sổ ghi điều thiện chỉ có một quyển nhỏ. Minh quan (冥官, viên quan trong cơi âm) biến sắc, sai đem cân, đâm ra quyển sổ nhỏ nặng hơn các quyển sổ ác. Quan vui mừng bảo: “Ông có thể thoát rồi!” Trọng Đạt hỏi: “Tôi chưa đầy bốn mươi tuổi, sao lại có lắm điều ác như vậy?” Quan bảo: “Chỉ một niệm bất chánh, quỷ thần không ǵ chẳng biết. Hễ biết bèn ghi chép, chẳng đợi phải làm”. Hỏi: “Trong quyển sổ nhỏ ghi chép điều ǵ?” Quan bảo: “Triều đ́nh đă từng xướng suất công tŕnh đ̣i hỏi một lượng lớn dân phu nhằm sửa chữa ba chiếc cầu bằng đá trong núi. Ông tận lực can gián; điều ấy đă được ghi chép lại”. Hỏi: “Can gián nhưng chưa được nghe theo, làm sao thiện lực có thể truyền đến tận đây?” Quan đáp: “Ư niệm của ông rất chân thành, lời lẽ có thể giáo huấn cơi đời. Giả sử [triều đ́nh] có thể nghe theo, công đức há có hạn lượng? Nhờ vào đó mà cứu độ cơi đời há khó khăn chi? Hiềm rằng ác niệm quá nhiều, thiện lực bị giảm mất nửa, chẳng thể mong làm Tể Tướng được!” Về sau, quả nhiên ông chỉ làm quan tới chức Lại Bộ Thượng Thư. Than ôi! Điều ác của Trọng Đạt chỉ là ư niệm suông, thế mà c̣n gây tổn hại cho phước báo làm Tể Tướng trong hiện đời. Điều thiện của Trọng Đạt chỉ có nói suông, thế mà đă áp đảo những quyển sổ ghi điều ác chứa đầy cả sân, huống hồ kẻ thật sự làm thiện, tạo ác? Có thể thấy một niệm khởi lên chính là cửa nẻo dẫn đến họa hay phước vậy!

          Đời Tống, Liêu Đức Minh là đệ tử của Châu Hối Am. Thuở nhỏ, từng nằm mộng thấy [chính ḿnh] cầm danh thiếp đến yết kiến một ngôi miếu. Người giữ cửa hỏi danh thiếp, ông Liêu rút thiếp từ trong tay áo ra, thấy ghi là Tuyên Giáo Lang Liêu mỗ, bèn tỉnh giấc. Về sau, ông Liêu thi đỗ, quả nhiên được bổ làm Tuyên Giáo Lang trông coi xứ Mân (Phước Kiến). Đức Minh nghĩ tới giấc mộng trước, sợ rằng chỉ làm quan tới chức vụ đó, chẳng muốn đi, bèn thỉnh ư Hối Am. Ông (Châu Hối Am) chỉ các vật trên bàn nói: “Con người chẳng giống các vật dụng, như bút chỉ có thể dùng để viết, gươm chẳng thể làm đàn. V́ thế, [các vật dụng] h́nh thành hay hủy hoại lâu hay mau, có thời hạn nhất định. Con người chẳng phải vậy. V́ thế, có kẻ sáng là Đạo Chích mà tối là vua Thuấn. Cát, hung, họa, phước cũng thuận theo đó mà biến đổi, khó thể nói nhất định được. Nay ông đi làm quan, hăy nên mở rộng Tánh Đức, nỗ lực làm chuyện tốt, đừng bị vướng mắc bởi giấc mộng khi trước”. Đức Minh vâng lời, về sau, quả nhiên làm quan tới chức Chánh Lang[43].

          Nhà Tất Sưởng giàu có, chuyên dùng mưu trí để gạt người, tàn nhẫn, khắc bạc lập nghiệp. Sanh được hai con trai. Có người muốn bán gia sản cho ông ta, ông ta bề ngoài cự tuyệt: “Ta chẳng muốn”. Sau đó lại sai người ngấm ngầm dụ dỗ. Tới khi người ấy t́m đến, lại bảo: “Ta thật sự không muốn [mua]”, người ấy không biết làm sao, phải giảm giá cho xong việc. Tới khi viết khế ước, lại nói: “Ta không sẵn tiền, hẹn ngày nào đó đến lấy”. Đến ngày giao tiền, lại dùng bạc xấu hoặc dùng gạo, ngũ cốc để bù vào, trọn chẳng trả đúng như số tiền đă ước hẹn. Suốt đời thường làm những chuyện như thế. Về sau, đứa con cả do hại mạng người khác phải đi tù, phá sản mà chết. Đứa con thứ do dâm đăng, cờ bạc, phải lưu lạc, ăn mày nơi khác. Tất Sưởng rốt cuộc tuyệt tự!

          Đời Minh, Viên Liễu Phàm viết Lập Mạng Thiên[44] có đoạn viết:

          - Ta mồ côi cha từ bé, mẹ bảo: “Hăy thôi theo cử nghiệp để học làm thầy thuốc, vừa có thể nuôi sống, mà c̣n có thể giúp người khác. Học lấy một nghề thành danh chính là tâm nguyện xưa kia của cha ngươi vậy!” Về sau, tại chùa Từ Vân, ta gặp một cụ già, râu dài, dáng vẻ hùng vĩ, phiêu dật như tiên. Ta kính lễ cụ. Cụ bảo ta: “Anh là người thuộc giới sĩ tử, sang năm có thể vào học trường huyện, sao không đọc sách?” Ta thưa nguyên do. Cụ bảo: “Ta họ Khổng, là người Vân Nam, thông thạo Hoàng Cực Chánh Truyền của Thiệu Tử[45]. Theo số vận, đáng nên truyền cho ngươi”. Ta dẫn cụ về nhà, thưa với mẹ. Thử đoán mạng, những chuyện dẫu rất nhỏ nhặt cũng đều ứng nghiệm. Ta bèn dấy lên ư niệm đi học.

          Cụ Khổng đoán mạng cho ta, bảo khóa thi đồng sanh ở huyện[46] sẽ đỗ hạng thứ mười bốn. Thi trên phủ sẽ đỗ thứ bảy mươi mốt. Khi thi đề học, sẽ đậu thứ chín. Năm sau, đi thi, thứ hạng ở ba chỗ đều phù hợp. Cụ lại đoán mạng hên xui suốt đời cho ta, nói năm nào sẽ thi đỗ hạng thứ mấy. Năm nào đi thi để được bổ làm lẫm sanh, năm nào sẽ đỗ Cống Sanh[47]. Sau khi đỗ Cống Sanh mấy năm, sẽ được chọn làm đại doăn[48] ở Tứ Xuyên, giữ chức ba năm rưỡi, hăy nên cáo quan xin về. Vào giờ Sửu, ngày Mười Bốn tháng Tám vào lúc tṛn năm mươi ba tuổi, sẽ hết tuổi thọ. Tiếc là không có con. Ta ghi chép cẩn thận xong, từ đó về sau, hễ gặp dịp thi cử, thứ tự đỗ đạt trước sau đều chẳng khác những điều cụ Khổng đă đoán định. Chỉ riêng lần cụ đoán ta được ăn gạo lẫm sanh là chín mươi mốt thạch năm đấu, th́ khi sắp đỗ Cống Sanh, đă được hưởng gạo hơn bảy mươi thạch. Đồ tông sư[49] liền phê chuẩn cho ta đậu Cống Sanh, ta bèn trộm ngờ [cụ Khổng đă đoán sai]. Kết quả là bị quan thự ấn là ông Dương bác đi, cho đến năm Đinh Măo mới chấp thuận cho ta dự vào hàng Cống Sanh. Tính toán số gạo trước và sau đó, đúng là chín mươi mốt thạch năm đấu. Do vậy, ta càng tin tưởng tiến thoái đều có số mạng, sẽ đến sớm hay trễ đều có thời! [V́ thế], điềm nhiên chẳng mong cầu. Đỗ Cống Sanh xong, lên Bắc Kinh, ở lại kinh đô một năm, suốt ngày tĩnh tọa, chẳng đọc văn chương. Sau đó, trở về, sang chơi Nam Kinh, chẳng vào trường Quốc Tử Giám.

          Trước hết, đến thăm thiền sư Vân Cốc trong núi Thê Hà. Ngồi đối diện với Sư trong cùng một tĩnh thất, suốt ba ngày ba đêm, chẳng chợp mắt. Vân Cốc hỏi: “Sở dĩ phàm nhân chẳng thể thành thánh, chỉ v́ bị vọng niệm trói buộc. Ông ngồi suốt ba ngày, chẳng thấy dấy lên một vọng niệm”. Ta thưa: “Con đă được Khổng tiên sinh tính mạng sẵn. Vinh, nhục, chết, sống đều có số mạng định sẵn. Dẫu có muốn vọng tưởng, cũng chẳng thể vọng tưởng được!” Ngài Vân Cốc cười bảo: “Ta ngỡ ông là bậc hào kiệt, [nào ngờ] chỉ là phàm phu”. Hỏi nguyên do, Sư dạy:

          - Con người chưa thể không có tâm, rốt cuộc bị lẽ Âm Dương trói buộc, làm sao không có số mạng cho được? Nhưng chỉ phàm nhân có số mạng, chứ đối với bậc cực thiện, cố nhiên là số mạng chẳng thể ràng buộc nhất định được. Kẻ cực ác số mạng cũng chẳng thể ràng buộc nhất định được. Suốt hai mươi năm qua, ông đă bị ông ta tính sẵn, chưa hề cựa quậy mảy may! Há chẳng phải là phàm phu ư?

          Ta hỏi:

          - Vậy th́ có thể trốn thoát số mạng ư?

          Sư dạy:

          - Mạng do ta tự tạo, phước do chính ḿnh cầu! Những điều được nhắc nhở trong kinh Thi, kinh Thư, đích xác là những giáo huấn minh bạch. Trong giáo điển của ta, có nói: “Cầu công danh được công danh. Cầu phú quư được phú quư. Cầu con cái được con cái. Cầu trường thọ được trường thọ”. Nói dối chính là điều bị Phật Thích Ca cấm ngặt, chư Phật, Bồ Tát há nói dối gạt người ư?

          Ta lại hỏi thêm:

          - Mạnh Tử nói: “ Cầu tắc đắc chi, cầu tại ngă giả dă” (Hễ cầu bèn được, cầu ở nơi ta). Đạo đức, nhân nghĩa có thể tận lực cầu, chứ công danh, phú quư cầu bằng cách nào?

          Sư Vân Cốc bảo:

          - Lời Mạnh Tử chẳng sai, ông tự hiểu lầm! Ông không thấy Lục Tổ nói: “Nhất thiết phước điền, bất ly phương thốn” (Hết thảy phước điền, chẳng rời tấc ḷng) ư? Hăy t́m từ nơi tâm, không ǵ chẳng cảm thông! Cầu từ nơi ta, chẳng phải chỉ là đạt được đạo đức, nhân nghĩa, mà c̣n đạt được công danh, phú quư. Trong lẫn ngoài đều đạt được. Đấy chính là do mong cầu, đạt được bèn có ích! Nếu chẳng phản tỉnh nơi nội tâm, chỉ hướng ra ngoài rong ruổi cầu t́m, ắt là có phương pháp để cầu, nhưng phải do số mạng th́ mới đạt được. Trong lẫn ngoài đều bị tổn hại. V́ thế vô ích.

           Sư hỏi: “Ông Khổng tiên đoán số mạng suốt đời của ông như thế nào?” Ta thưa sự thật. Ngài Vân Cốc nói: “Ông hăy tự xét chính ḿnh có đáng nên đỗ đạt hay không? Có nên sanh con hay không?”

          Ta suy xét hồi lâu bèn thưa:

          - Chẳng nên! Những người đỗ đạt đều thuộc loại có phước tướng. Con bạc phước, lại chẳng thể tích lũy công hạnh để tạo nền phước sâu dầy. Lại c̣n chẳng thể chịu đựng những nỗi phiền toái quá mức, chẳng thể bao dung người khác. Có lúc nghĩ ḿnh tài trí hơn người, nghĩ ǵ làm nấy [chẳng suy tính cẩn thận], ăn nói bộp chộp. Phàm những điều như vậy đều là tướng bạc phước, há có nên đỗ đạt ư? Đất bẩn sanh nhiều vật, nước trong thường là không có cá. Con ưa sạch sẽ. Ḥa khí có thể sanh trưởng muôn vật, con hay giận. Ái chính là cái gốc để sanh ra các sanh vật. Tàn nhẫn là căn cội khiến chẳng thể sanh nở[50]. Con hết sức quư tiếc danh tiết, thường chẳng thể bỏ ḿnh cứu người. Lại c̣n nói nhiều hao khí, thích uống rượu khiến tinh bị hao tổn. Thích ngồi suốt đêm, chẳng bảo dưỡng nguyên thần, đấy đều là những lư do đáng nên không con. Những điều lỗi ác khác hăy c̣n nhiều lắm, chẳng thể tính trọn.

          Ngài Vân Cốc bảo:

          - Há chỉ là đỗ đạt ư? Kẻ hưởng tài sản ngàn vàng trong thế gian, chắc chắn là nhân vật đáng giá ngàn vàng. Kẻ hưởng tài sản trăm lạng vàng, chắc chắn là nhân vật đáng giá trăm lạng vàng. Kẻ phải chết đói, chắc chắn là nhân vật đáng bị chết đói. Trời bất quá do tài năng của mỗi người mà dốc sức giúp cho thành tựu, chưa từng có mảy may ư niệm ban phước, giáng họa! Ngay như chuyện sanh con, kẻ có đức trăm đời, chắc chắn là sẽ có con cháu trăm đời. Có đức mười đời, chắc chắn sẽ có con cháu mười đời. Kẻ có đức hai ba đời, chắc chắn sẽ có con cháu hai ba đời. Kẻ tuyệt tự vô hậu, đức mỏng tột bậc. Ông nay đă biết lỗi, hăy nên tận tâm sửa đổi tướng chẳng đỗ đạt, tướng chẳng sanh con. Phải hết sức chú trọng tích đức, phải chú trọng mở rộng tâm lượng, phải chú trọng ḥa ái, phải chú trọng tiếc quư tinh thần. Những điều trước kia ví như hôm qua đă chết, từ rày trở đi mọi điều đều ví như mới sanh từ hôm nay. Đấy là cái thân nghĩa lư được tái sanh vậy.

          Phàm cái thân xương thịt th́ vẫn có số mạng, chứ cái thân nghĩa lư há chẳng thể cảm ḷng trời ư? Thái Giáp[51] nói: “Trời tạo nghiệt, c̣n có thể chống lại. Chính ḿnh tạo oan nghiệt, sẽ chẳng thể trốn tránh”. Kinh Thi nói: “Vĩnh ngôn phối mạng, tự cầu đa phước” (Vĩnh viễn hành xử phù hợp mạng trời, sẽ được nhiều phước). Như Khổng tiên sinh đoán mạng ông chẳng đỗ đạt, chẳng sanh con; đấy chính là tai ương do trời gieo vậy, vẫn có thể chống lại được. Ông nay hăy nỗ lực làm các thiện sự, tích nhiều âm đức. Đấy là phước do chính ḿnh tạo ra, há chẳng thể thọ hưởng ư? Kinh Dịch là [giáo huấn] để bậc quân tử mưu tính [các biện pháp sửa ḿnh] ḥng hưởng điều cát, tránh né điều hung. Nếu nói “mạng trời thường hằng [chẳng thể biến đổi]”, làm sao có thể hướng đến điều cát, làm sao có thể tránh né điều hung cho được? Do vậy, vừa mở đầu quyển sách ấy, nghĩa thứ nhất là ‘nhà tích thiện, ắt điều tốt lành có thừa. Nhà tích bất thiện, ắt tai ương có thừa’! Ông có tin hay chăng?

           Ta tin lời ấy, lạy Sư, nghe theo lời dạy. Do vậy, bèn đem tội trước kia, đối trước Phật tận t́nh bày tỏ, viết sớ dâng lên, trước hết là cầu đỗ đạt, thề làm ba ngàn điều lành nhằm báo đức của trời đất, tổ tông. Ngài Vân Cốc đem sách Công Quá Cách dạy ta, bảo hằng ngày hăy ghi chép những việc đă làm. Thiện th́ ghi số, ác bèn trừ bớt. Sư lại c̣n dạy tŕ chú Chuẩn Đề để cầu ắt được hiệu nghiệm. Sư bảo ta:

          - Những nhà bùa chú có nói: “Chẳng biết vẽ bùa sẽ bị quỷ thần cười nhạo”. Điều bí truyền trong ấy chỉ là “chẳng động niệm”. Hễ cầm bút vẽ bùa, trước hết, hăy buông xuống muôn duyên. Từ đấy, chẳng dấy động ư niệm, chấm bút xuống, gọi là hỗn độn vừa mở nền tảng. Do vậy, vẽ xong ngay trong một nét bút, chẳng hề suy nghĩ. Đạo bùa ấy sẽ linh. Hễ cầu trời lập mạng, đều phải từ chỗ vô tư vô lự để cảm thông. Mạnh Tử luận về học vấn “lập mạng” đă nói: “Yểu và thọ chẳng hai!” Nếu nói chi ly hơn, dư dật và thiếu thốn không hai, sau đấy mới có thể lập cái mạng nghèo hay giàu. Cùng quẫn hay hanh thông chẳng hai, sau đấy mới có thể lập mạng sang hay hèn. Yểu và thọ chẳng hai, sau đấy mới có thể lập mạng sanh hay tử! Người sống trong thế gian, chỉ có sống chết là quan trọng. Nói yểu hay thọ, tức là hết thảy các sự thuận nghịch đều được bao gồm trong ấy. C̣n chuyện tu thân th́ hăy chờ đó, chính là chuyện tích đức để cầu trời vậy[52]. Nói “tu” tức là thân có lỗi, có ác, hăy đối trị, trừ khử. Nói “đợi” tức là chẳng có mảy may mong ngóng, chẳng có mảy may đón chờ, [những ư niệm ấy] đều nên chặt đứt. Đạt đến địa vị ấy, thẳng thừng tạo ra cảnh tiên thiên[53]. Đó là học vấn thật sự. Ông chưa thể vô tâm, chỉ nên tŕ chú Chuẩn Đề, chẳng tính đếm, chớ để gián đoạn. Tŕ đến mức thuần thục, sẽ là tŕ mà không tŕ, không tŕ mà tŕ. Cho tới khi chẳng động niệm, sẽ linh nghiệm.

          Thoạt đầu, ta có hiệu là Học Hải, nay đổi hiệu thành Liễu Phàm. Ấy là v́ đă ngộ thuyết lập mạng, chẳng muốn rơi vào khuôn sáo cũ của phàm phu nữa. Từ đấy trở đi, suốt ngày dè dặt, bèn cảm thấy khác hẳn khi trước. Trước kia là ơ hờ, tùy tiện, nay tự có cảnh tượng dè dặt, thận trọng. Dẫu ở trong nhà tối, buồng kín, thường sợ mắc tội với trời, đất, quỷ thần. Gặp kẻ ghét ta, chê gièm ta, có thể điềm nhiên chịu đựng. Đến năm sau, Lễ Bộ mở khoa thi. Khổng tiên sinh đoán ta sẽ đậu hạng ba, bỗng ta đậu hạng nhất. Lời tiên đoán ấy chẳng ứng nghiệm. Cho tới khoa thi mùa Thu, bèn đậu [Cử Nhân]. Nhưng làm việc nghĩa vẫn chưa thuần, kiểm điểm bản thân [th́ thấy] hăy c̣n nhiều sai lầm, hoặc thấy điều thiện mà chẳng dũng mănh [thực hiện], hoặc cứu người khác mà tâm thường tự nghi. Hoặc thân gắng sức làm lành, mà nói năng có lầm lỗi. Hoặc lúc tỉnh th́ hành tŕ, sau khi đă say bèn buông lung. Do có lỗi mà công bị giảm, hằng ngày thường phí uổng. Phát nguyện từ năm Kỷ Tỵ cho đến năm Kỷ Măo, trải hơn mười năm, ba ngàn thiện hạnh mới hoàn tất, bèn khởi nguyện cầu con, cũng hứa làm ba ngàn việc thiện. Năm Tân Tỵ, sanh con trai tên là Thiên Khải.

          Ta làm mỗi chuyện đều ghi lại. Mẹ ngươi[54] chẳng biết viết, mỗi lần làm một chuyện [tốt lành], bèn dùng bút lông ngỗng, khoanh một chấm son trên nhật lịch. Hoặc là bố thí người nghèo, hoặc phóng sanh. Mỗi ngày có đến mười mấy cái khoanh tṛn. Tới tháng Tám năm Quư Mùi, con số ba ngàn đă măn, tức là chín tháng mười ba ngày. Lại bắt đầu nguyện đỗ Tiến Sĩ, hứa làm một vạn điều thiện sự. Năm Bính Tuất thi đỗ, được bổ làm tri huyện Bảo Tŕ. Ta để một quyển sách toàn giấy trắng, đặt tên là Trị Tâm Biên. Sáng thức dậy ra công đường, gia nhân đem sách giao cho các nha lại, đặt ở trên bàn. Những việc thiện ác đă làm ắt đều ghi chép tường tận trong ấy. Đến đêm, kê bàn trong sân, bắt chước Triệu Duyệt Đạo dâng hương thưa tŕnh với Thượng Đế. Mẹ ngươi thấy những việc đă làm chẳng nhiều, nhăn nhó bảo: “Trước kia ông ở nhà, có thể giúp ông làm lành. V́ thế, hoàn tất con số ba ngàn. Nay hứa làm một vạn, trong nha môn vô sự th́ mới có thể làm, đến chừng nào mới viên măn đây?” Ban đêm, chợt mộng thấy một vị thần, ta thưa nguyên cớ khiến cho thiện sự khó thể hoàn tất. Thần bảo: “Chỉ do một chuyện giảm thuế, vạn hạnh sẽ đều hoàn tất”. Ấy là v́ ruộng ở Bảo Tŕ, mỗi mẫu phải đóng thuế hai cắc ba ly bảy hào. Ta quyết định giảm xuống một cắc bốn ly sáu hào.

          Tuy làm việc này, tâm vẫn nghi hoặc. Vừa khéo có thiền sư Huyễn Dư từ Ngũ Đài tới, ta kể lại giấc mộng ấy, cũng như hỏi chuyện này có đáng tin hay chăng? Sư dạy: “Cái tâm ấy chân thật, thiết tha, tức là làm một chuyện có thể coi như một vạn điều thiện. Huống hồ giảm thuế cả huyện, vạn dân được hưởng phước ư?” Ta bèn quyên tặng tiền lương, cậy sư đem về núi Ngũ Đài cúng trai tăng một vạn người để hồi hướng. Cụ Khổng tiên đoán ta lúc năm mươi ba tuổi sẽ gặp hạn, ta chưa từng mong sống thọ, nhưng suốt năm ấy chẳng sao cả! Nay đă sáu mươi chín tuổi rồi.

          Kinh Thư nói: “Thiên nan kham, mạng mị thường” (Mạng trời khó tin chắc, vận mạng chẳng thường hằng). Lại nói: “Duy mạng bất ư thường” (Chỉ có mạng là chẳng thường hằng), đều chẳng phải là những lời dối trá! Do vậy, ta bèn biết: Nếu nói đến họa phước, không ǵ chẳng phải là do tự ḿnh cầu. Thánh hiền dạy như thế đó. Nếu bảo “họa phước chỉ do trời định” th́ chính là luận điệu của thế tục! Chẳng biết mạng của ngươi sẽ như thế nào. Dẫu ngươi đang lúc vinh hiển, hăy thường nghĩ chính ḿnh chẳng đắc chí. Dẫu đang gặp lúc thuận lợi, hăy nghĩ đang gặp cảnh khó khăn. Dẫu trước mắt no đủ, hăy thường nghĩ là nghèo túng. Dẫu được người ta yêu kính, thường nghĩ là kinh sợ. Dẫu gia thế sang cả, thường nghĩ là thấp hèn. Dẫu học vấn khá giỏi, thường nghĩ chính ḿnh tri kiến hẹp kém. Xa là mong làm rạng rỡ đức hạnh của tổ tiên, gần là mong che lấp tội khiên của cha mẹ. Trên là mong báo ân đất nước. Dưới là nghĩ tạo phước cho gia đ́nh. Ngoài là nghĩ giúp đỡ người khác trong cơn túng ngặt. Trong th́ nghĩ giảm bớt những thói tà vạy của chính ḿnh. Hằng ngày biết ḿnh sai quấy, hằng ngày sửa lỗi. Ngày nào chẳng biết lỗi quấy, tức là ngày ấy tự cho ḿnh là đúng. Ngày nào không có lỗi để sửa, tức là ngày ấy chẳng thể tiến bộ. Kẻ thông minh, tài năng trong thiên hạ chẳng ít, do v́ chẳng gắng tu đức, mà tài năng chẳng thể thêm rộng! Chỉ v́ hai chữ chần chừ mà lỡ làng cả đời. Thuyết lập mạng do thiền sư Vân Cốc truyền dạy chính là lư tinh thuần tột bậc, sâu xa tột bậc, chân chánh tột bậc. Hăy nghiền ngẫm kỹ càng, gắng sức thực hiện, đừng ruồng rẫy chính ḿnh!

 

          (Chánh văn) Thiện ác chi báo, như ảnh tùy h́nh.

          (正文)善惡之報。如影隨形

          (Chánh văn: Thiện báo, ác báo, như bóng theo h́nh).

 

          “Thiện ác” là nói đến ḷng người. “Báo” là nói tới thiên lư. H́nh ngay, bóng sẽ ngay. H́nh lệch, bóng sẽ lệch. Nói chung là chẳng sai sẩy mảy may! Nhân lành, quả sẽ vui. Nhân ác, quả sẽ khổ. Thánh nhân dạy rất tường tận, hiềm rằng kẻ ngu chẳng tin. Do vậy bèn trái nghịch điều lành, hướng theo điều ác. Đó là v́ thấy người trong đời này, người lành có kẻ gặp cảnh gieo neo, kẻ ác lại sống thọ, chết an lành, các thứ hứng chịu trong đời này đủ mọi thứ khác nhau, bèn bảo: “Có điều thiện lẽ ác chẳng có báo ứng! Dường như nhân quả chẳng đáng để tin tưởng vậy!” Nào có biết người trong cơi đời có vô số lần trăm năm, trời hăy c̣n những bản án chưa kết thúc! Kẻ thuần thiện, thuần ác hiếm hoi, căn cơ có thể là thiện hay ác [tùy theo sự giáo huấn] là dễ [thành tựu] viên măn nhất[55]. Niệm có chuyển dời, [để luận định về] báo, hăy nên châm chước, [bởi lẽ, tùy theo cái nhân chín muồi như thế nào mà] hoặc [báo ứng] ở nơi thân ḿnh, hoặc nơi con cháu, hoặc trong đời này, hoặc trong thân sau. Lớn, nhỏ, chậm, nhanh, biến hóa, đổi dời, chẳng sai chạy mảy may! Tục ngữ có câu: “Thiện ác rốt rồi đều có báo, chỉ là sớm muộn khác nhau thôi”. Đừng luận định [báo ứng] dựa theo [những chuyện xảy ra] trước mắt, hăy nên xem xét rốt ráo. Há có bao giờ [báo ứng] chẳng như bóng theo h́nh ư?

          Theo cách nói [nhân quả] thông khắp ba đời trong kinh Phật, chúng sanh tạo nghiệp, sẽ có ba loại báo:

          1) Một là hiện báo, hứng chịu trong đời này.

          2) Hai là sanh báo, hứng chịu trong đời thứ hai.

          3) Ba là hậu báo, hứng chịu trong đời thứ ba và mười, trăm, ngàn, vạn đời [sau nữa].

          V́ vậy, trong cơi đời, kẻ làm lành mắc họa là do sự ác trong đời trước đă chín muồi. Kẻ làm ác được phước là do điều thiện trong đời trước chín muồi.

          Trong phước có họa, trong họa có phước, chẳng phải là thuần thiện, thuần ác! Thoạt đầu là phước, cuối cùng là họa, chính là thiện tâm lui sụt. Thoạt đầu là họa, cuối cùng là phước, là do ác tâm hối cải. Khổ và lạc chẳng dời đổi, chính là hiển trực báo (顯直報, báo ứng rơ rệt, trực tiếp). Tai ương và cát tường cùng xuất hiện, tức là ẩn xảo báo (隱巧報, báo ứng ẩn kín, khéo léo)[56], cũng có trường hợp do có đức ẩn giấu, hay lầm lỗi ẩn giấu [mà có báo ứng. Những sự báo ứng ấy chẳng phải là do] thiện hay ác trong hiện tiền như mọi người thấy biết. Loan Yểm có báo ứng tàn bạo là do Loan Thư, cái chết của Loan Doanh chính là quả báo của Loan Yểm[57]. [Chỉ nh́n vào những sự kiện trước mắt, sẽ ngỡ là báo ứng] điên đảo, những trường hợp như vậy cũng nhiều! Nhưng Bạch Khởi[58] hăm hại binh lính đă quy hàng, Lư Lâm Phủ[59], Tần Cối tàn độc dân đen, chẳng phải là [báo ứng] có thể xong hết trong một đời.

          Nói chung, đời trước hay đời này, cùng trong một đời sẽ bị người tru diệt, quỷ thần tru diệt, đau đớn như nhau, nhưng cơi đời chẳng hề nghĩ ngợi! Tuy vậy, báo ứng có bao giờ sai sót vậy thay! Thế mà vẫn có kẻ hỏi: “Bậc vương giả[60] phô bày điều thiện, ghét điều ác, há nên lải nhải vấn đề này, [nếu thiện ác báo ứng là có thật], sao trời không lập tức thực hiện [sự báo ứng] khiến cho con người cảnh tỉnh, kinh sợ, mà cứ thong thả như thế?” Đấy là v́ [kẻ ấy] nào có biết, nếu vương pháp[61] có sơ sót, đạo trời ắt chẳng lơ là, sai lầm! Hơn nữa, bậc vương giả chẳng nỡ ḷng, ắt sẽ xót thương bảo toàn. Ḷng trời nhân từ tột bậc, thường dung thứ kẻ biết hối hận v́ trót gây họa. Cổ nhân xưng tụng: “Ông trời có ḷng nhẫn nại cao nhất, con người cũng nên có ḷng kiên nhẫn!” Ví như mắc nợ, mai sau phải trả nợ, nhưng có kỳ hạn năm tháng sai khác. Một đời, hai đời, cho đến ba, bốn, năm đời cũng là con số to lớn trong thời hạn phải đền trả của trời đất. Hễ báo ứng chậm, ắt sẽ phải trả tiền lăi gấp bội! Hơn nữa, con người thấy như vậy là xa xôi, chứ trời thấy [chỉ là chuyện xảy ra] trong sáng tối! Do vậy, nói: “Tạo tác thiện thiện, ác ác, báo ứng như bóng theo h́nh, đừng nói là tạo ác chẳng báo! Chờ cho đến khi điều ác tràn ngập [rồi sẽ báo ứng]. Chớ bảo tu điều thiện chẳng ứng, chờ cho đến khi thiện quả viên thành”.

          Lại nói: “Giả sử trăm ngàn kiếp, nghiệp đă làm chẳng mất, khi nhân duyên hội ngộ, quả báo vẫn tự chịu”. Do vậy biết sự khổ lạc trong tam giới, thăng trầm trong lục đạo, đều ngộ là do tự tâm chiêu cảm. Khó trốn thoát lưới trời, dẫu lầm lạc sanh ḷng mong trốn tránh, sẽ như giữa đường gặp mưa, nh́n bốn phía đều ướt nhẹp, mờ mịt chẳng có chỗ ẩn náu! Nhưng người đời chẳng ngộ, cứ bỏ mặc đó chẳng xét. Do báo lâu xa, cho nên chẳng thấy kịp, c̣n như những điều có thể thấy chính là những cảnh thuận nghịch thông thường, nhưng đều bị coi thường, chẳng nhận biết. C̣n đối với những chuyện “thuận theo đạo nghĩa dẫn tới điều tốt lành, trái nghịch đạo nghĩa dẫn tới sự hung hiểm” to lớn đáng tin, lại viện dẫn những chuyện dường như chẳng hoàn toàn ứng nghiệm trong lẽ báo ứng để tự huyễn hoặc, tự nghi ngờ, ch́m đắm, do dự, chẳng tỉnh ra. Nếu như từng trải đă lâu, bỗng sanh giác ngộ, nhưng người đă già, thói quen đă tập thành [khó thể sửa đổi], thế mà đang độ tuổi trẻ trung, hào khí hừng hực, lại chẳng tin tưởng. Đấy chính là lư do khiến cho cơi đời này lắm kẻ lạc nẻo, buồn thay!

          Đời Thanh, Hoàng Vĩnh Tước ở Sùng Minh được thầy bói đoan quyết ông ta chẳng có con, chỉ thọ sáu mươi tuổi. Về sau, có một chiếc thuyền ở Nam Dương gặp gió sắp bị lật, họ Hoàng vội bỏ ra mười lạng bạc thuê thuyền đánh cá ra cứu. Mười ba mạng đều sống sót. Gặp lại thầy bói, ông ta kinh hăi bảo: “Mặt ông toàn là nét âm chất, ắt có đức dầy. Không chỉ là sẽ có con, mà c̣n đỗ Trạng Nguyên, và cũng được thượng thọ”. Về sau quả nhiên sanh con trai, đặt tên là Chấn Phượng. Đỗ đầu khoa thi Hội năm Kỷ Mùi (1679) đời Khang Hy, thọ chín mươi mấy tuổi, chết an lành. Đạo trời đáng tin cậy dường ấy, sao con người chẳng bỏ ác làm lành vậy?

          Đồ Phan Kỳ ở Tú Thủy, làm nhiều chuyện bất nghĩa, xúi người khác kiện cáo để đoạt tài vật của họ, gian dâm vợ con kẻ khác. Gặp chuyện chẳng vừa ư nhỏ nhặt, bèn oán hận chửi bới trời, thần. Bỗng chết đi, qua một đêm bèn tỉnh lại, gọi vợ kêu mọi người đến, bảo: “Diêm Vương bảo người chết chịu báo, kẻ sống chẳng biết. Kẻ thọ báo chịu khổ, kẻ tạo tác vẫn đắc chí, thật đáng buồn đau! Nay Phan Kỳ tội ác cùng cực, mượn nó để chỉ bảo muôn người”. Thế rồi vung dao tự cắt đứt dương vật nói “đây là quả báo dâm tà”. Tự khoét mắt, bảo: “Đây là báo ứng v́ đă giận dữ nh́n tiên, Phật, cha mẹ và chúng sanh”. Tự chặt tay nói: “Đây là quả báo v́ đă mổ xẻ sanh linh”. Mổ bụng lôi tim ra nói: “Đây là quả báo v́ âm hiểm, tàn nhẫn hăm hại”. Cắt lưỡi nói: “Đây là quả báo của lừa dối, nguyền rủa, chửi bới quàng xiên”. Xa gần trông thấy, truyền tụng, ai cũng kinh sợ. Phan Kỳ quằn quại sáu ngày, thân thể không c̣n miếng da nào lành lặn mà chết. Tự làm, tự chịu, nhanh chóng ngần ấy. Miếu Đông Nhạc có một cặp câu đối: “Dương thế gian hùng, nhẫn tâm hại lư giai do kỷ. Âm ty báo ứng, cổ văng kim lai phóng quá thùy” (Lúc sống gian hùng, nhẫn tâm trái lư do ḿnh tạo, cơi âm báo ứng, xưa qua nay lại sót ai đâu?) Cớ sao con người đă biết rơ mà vẫn cố phạm, tạo khổ vô cùng? Xin hăy mạnh mẽ cảnh tỉnh, sám hối, ai nấy sớm quay đầu. Theo gió lướt sóng cầm chắc lái, bên bờ vực thẳm gấp g̣ cương, ắt sẽ đều cùng thoát khỏi cửa ải tai họa, cùng bước lên đường phước.

          Đời Tống, Tào Bân trung thành thờ vua, giữ phận khiêm cung, chẳng tranh giành tài vật, chẳng ban ơn riêng tư cho ai. Ông giúp đỡ kẻ thiếu thốn, hoặc lâm vào đường cùng, châu cấp kẻ góa bụa, mừng hay giận chẳng để lộ. Phú quư mà chẳng kiêu căng. Dẫn quân chinh phạt, chưa hề giết chóc bừa băi. Khi đánh chiếm Thành Đô[62], bắt được phụ nữ, đều đem họ nhốt kín trong một ngôi nhà, khoét lỗ để đưa đồ ăn vào. Lại căn dặn người chung quanh: “Dành để dâng lên trên, hăy nên bảo vệ nghiêm ngặt”. Xong việc, t́m kiếm người thân để trả họ về. Kẻ nào không có thân thích, bèn sắm sửa đầy đủ lễ vật để gả đi. Khi ông Tào đánh hạ thành Kim Lăng, trước đó bèn thắp hương thề với mọi người: “Chẳng giết bậy một ai!” Trước sau toàn thể những người được sống sót chẳng thể tính rơ số. Những chuyện khác như bỏ oán riêng mà gỡ tội cho Triệu Xương Ngôn, nói gièm bản thân để cứu Vương Toàn Bân, hoăn chuyện xử phạt viên nha lại mới cưới dâu[63], chẳng kinh động những loài tiểu trùng ngủ Đông, đều là những chuyện đức dầy. Con ông ta là Vĩ, Tông, Xán, đều lần lượt lănh tiết việt, [một người con khác tên là] Kỷ được phong tước vương. Sanh con gái là Quang Hiến Thái Hậu. Con cháu hưng thịnh khôn sánh.

          Lại như Tào Hàn hạ thành Giang Châu, giận dữ v́ [dân chúng] trong thành chống cự lâu ngày, bèn giết sạch. Tào Hàn chết đi, chưa đầy ba mươi năm, con cháu có đứa đi ăn mày! Tuy hai vị tướng thành công như nhau, nhưng do dụng tâm khác biệt, cũng v́ đó mà trời báo đền sai khác. Để mong hậu duệ hưng thịnh, trước hết phải khởi đầu bằng giữ cho cái tâm chánh đáng. Tư Mă Ôn Công[64] nói: “Chứa vàng để lại cho con cháu, chưa chắc con cháu đă có thể giữ được. Chứa sách để lại cho con cháu, chưa chắc con cháu đă đọc được. Chẳng bằng tích âm đức trong chốn âm thầm, con cháu ắt có thể hưởng báo”.

          Ông Phan Tùng Tiên nói: - Tôi có một người bạn tên là Nguyễn Kiến Điền, thấy đồ tể mổ một con lợn, trên da nó có ba chữ “Tần Bạch Khởi” (Bạch Khởi đời Tần). Đấy là hắn trầm luân trong ngạ quỷ, địa ngục, ngẫu nhiên làm lợn ở một nơi để tỏ rơ nghiệp báo. Hơn một ngàn năm qua, ngoại trừ thọ sanh bị giết mổ, ắt phải chịu đựng không dứt nỗi khổ nơi núi đao, rừng kiếm. Chẳng biết đến năm nào, mới có thể kết thúc vụ án Trường B́nh[65]. Lại có một con trâu cày bị sét đánh chết. Một nho sĩ đi qua nói: “Bất hướng nhân gian trừ ác nghiệt. Thiên tùng điền nội đả canh ngưu” (Nhân gian ác nghiệt chẳng trừ, trên đồng, sét đánh trâu cày chết tươi). Nói xong, sét lại đánh tung con trâu, da trâu bị nứt ra, hiện chữ: “Đây là Lư Lâm Phủ đời Đường, ba đời làm gái điếm, bảy đời làm trâu, đến nay là hết”. Suy ra, đấy chính là phải chịu báo trong đời hiện tại, tính đại lược đă hơn ba trăm năm. Ngoài ra, c̣n phải chịu h́nh phạt nghiêm ngặt khổ sở tột cùng trong chốn âm phủ chẳng sót ngày nào! Mong được tạm ngưng thọ khổ [trong địa ngục] để làm gái điếm hoặc trâu cày, vẫn là quá sức tuyệt diệu! Ác nghiệp khó trốn khỏi lưới trời! Cố nhiên là như thế đó.

 

          (Chánh văn) Thị dĩ thiên địa hữu tư quá chi thần, y nhân sở phạm khinh trọng, dĩ đoạt nhân toán.

          (正文)是以天地有司過之神依人所犯輕重以奪人算

          (Chánh văn: Do vậy, trời đất có thần trông coi tội lỗi của con người, tùy thuộc con người phạm tội nặng hay nhẹ mà giảm thọ của họ).

 

          Câu này cho tới “toán tận tắc tử” (tuổi thọ đă hết sẽ chết) là một đoạn. Ư nói trong đời mỗi người, ngày đêm mỗi thời khắc, trên, dưới, bốn phía đều có quỷ thần giám sát. Trời th́ có Tam Quan, Ngũ Đế, trăm thần, các vị có chức trách[66]. Đất có ngũ nhạc, tứ độc, thành hoàng, lư xă[67]. Lại có Cử Ư Ty, chuyên chủ quản những ư niệm thiện ác dấy lên của con người. Những vị ấy đều là “tư quá chi thần” (thần trong coi tội lỗi). “Phạm” () là chính ḿnh tự chuốc lấy. “Đoạt” () là trừ bớt. “Toán” () là một trăm ngày.

          Ḷng trời nhân ái, muốn cho con người dẫu ở một ḿnh[68] vẫn làm lành, bỏ ác, cho nên có những vị thần trông coi tội lỗi, ḍ xét những lỗi con người đă phạm, cân nhắc nặng nhẹ để trừ bớt tuổi thọ. V́ thế, nói: “Nhân gian tư ngữ, thiên văn nhược lôi. Ám thất khuy tâm, thần mục như điện” (Những lời nói riêng tư trong nhân gian, trời nghe vang như sấm. Chuyện do thiếu cẩn trọng mà làm trong pḥng kín, mắt thần như chớp). Trong kinh Thi và kinh Thư cũng nói: “Thượng Đế lâm nhữ, nhật giám tại tiền” (Thượng Đế giáng xuống nơi ngươi, hằng ngày soi xét trước mặt), “thập mục, thập thủ, thần chi thính chi” (mười mắt, mười tay, thần luôn nghe thấy), tức là khi ta ở chỗ chỉ riêng ta biết, chính là lúc luôn có đông đảo quỷ thần rành rành xếp hàng nghiêm ngặt giám sát. Đấy chính là lư “trời người hợp nhất” vậy!

          Kinh Hoa Nghiêm nói: “Mỗi người sanh ra đều có hai vị trời đi theo, một vị tên là Đồng Sanh, vị thứ hai là Đồng Danh. Trời thường thấy người, người chẳng thấy trời”. Đấy chính thiện ác nhị bộ đồng tử. Hằng ngày con người trong mười hai thời, đối với những chỗ dấy ư, thốt lời, cất bước, gặp vật, ứng duyên, hăy thường nghĩ tới hai vị trời ấy, chớ để cho ác niệm tiếp tục. Lỡ có dấy lên một ác niệm, hăy gấp rút phấn chấn tinh thần xoay chuyển nó lại, khắc phục những tập khí thói xấu của chính ḿnh, cần phải thực hiện từ chỗ khó thể khắc chế, măi cho đến khi thấu đáo tột cùng chỗ ư niệm dấy lên, diệt mất, vậy th́ vô biên nghiệp chướng sẽ ngay lập tức thanh tịnh, lặng trong như thái hư! Như thế th́ cái quyền giảm thọ thuộc về ta, quỷ thần chẳng thể thao túng được, c̣n có chuyện những vị thần trông coi tội lỗi trừ tuổi thọ để nói nữa ư?

          Đời Minh, Vương Dụng Dư ở Nghi Châu, làm người trung hậu, ổn trọng, đơn giản, trầm lặng. Chuyên thờ phụng Văn Xương kính cẩn nhất, kết Văn Xương Xă[69] trong làng. Ngày Nguyên Đán mỗi năm, thay phiên nhau lập đàn cúng tế tại hành cung của Văn Xương Đế Quân trên đỉnh núi Vân Trung. Trong Văn Xương Xă, có ông Du Lân, được khen ngợi là hiếu thảo, cẩn trọng. Xa gần đều cắp tráp theo về. Lại có ông Úc Tùng Châu phong thái cao cả, khí độ rộng răi, nghị luận hùng hồn, nhấc bút liền viết ra ngàn chữ. Người trong làng tôn sùng, kính phục hai ông ấy. Ngày Nguyên Đán năm Tân Dậu (1441) trong niên hiệu Chánh Thống, Dụng Dư đến miếu trước, ngủ lại một đêm, mộng thấy Đế Quân thăng điện. Các vị thành hoàng trong thiên hạ nhóm lại tâu tŕnh danh sách những người sẽ đỗ trong khoa thi Hương. Một vị thần mặc triều phục màu đỏ ôm một đống danh sách to để dâng lên cho Đế Quân kư duyệt. Dụng Dư hỏi vị thần ôm danh sách: “Trong danh sách đỗ đạt của tỉnh này, có tên Vương Dụng Dư, Du Lân, Úc Tùng Châu hay không?” Đáp: “Không”.

          Chốc lát, các vị thần Thành Hoàng lui ra, vị thần mặc triều phục màu đỏ ôm danh sách vào điện, quỳ trước án, tŕnh lên. Đế Quân nhất nhất phê duyệt. Dưới mỗi tên [trong danh sách] Ngài đều kư duyệt, cũng có lúc do dự chẳng hạ bút. Một lúc thật lâu sau, vị thần mặc triều phục màu đỏ phát danh sách, tuyên chỉ dụ: “Giao cho thành hoàng các tỉnh, mau tra cứu âm đức của mọi nhà, xem [nhà nào] có con nhân đức, trung hậu, hăy báo danh để thay vào những tên không được phê duyệt trong danh sách”. Dụng Dư ẩn ḿnh dưới cột, chợt nghe trong điện truyền ra tiếng hô “Vương Dụng Dư vào điện diện kiến”. Dụng Dư phủ phục dưới thềm, được gọi đến trước án. Đế Quân bảo:

          - Chuyện công danh là chuyện được ghi chép bí mật của thiên tào, chẳng thể dễ dăi tiết lộ. Do ngươi chí thành, mười mấy năm như một ngày. V́ thế, vời ngươi tới đây để phân tích [cho ngươi biết rơ]. Ông nội ngươi hết sức chất phác, cẩn trọng, tay làm hàm nhai, chưa từng thiếu nợ ai. Đă ghi tên ngươi đậu khoa thi Hương trong danh sách trước (thượng bảng), ḥng tỏ rơ sự báo ứng cho ḍng dơi trung hậu. Do ngươi thường gặp thần, Phật, bèn cúi đầu, nhưng thầm cầu được công danh như ư và cầu cho vợ là Dương Thị được lành bệnh, sống với nhau đến già. Mẹ góa của ngươi vẫn c̣n sống, thế mà trọn chẳng có một câu cầu nguyện cho mẹ. Do vậy, giáng ngươi đỗ chậm hai khoa, đỗ thứ năm mươi ba trong hạ bảng. Ngươi hăy nên sửa đổi, đừng làm mất ḷng trời nữa!” Dụng Dư khấu đầu tạ tội. Đế Quân lại bảo: “Châu Cát là người cùng Văn Xương Xă, sẽ đậu Giải Nguyên của tỉnh này”. Khi ấy, trong Văn Xương Xă chỉ có Châu Cát là người nhũn nhặn nhất, văn chương lại chẳng hay hơn ai. Nghe xong, [Dụng Dư] khôn ngăn ngạc nhiên; do vậy, thưa hỏi lư do v́ sao ông ta đỗ Giải Nguyên. Đế Quân bảo:

          - Cha ông của Châu Cát đều là người có học, chưa hề viết một chữ nào thưa kiện, cũng chẳng gian dâm phụ nữ nào, suốt cả ba đời [đều là như vậy], chưa hề phô bày sự kém cỏi của kẻ khác, chưa hề bộc lộ một điều ác của kẻ khác. Hơn nữa, ông cố của Châu Cát c̣n vẽ Bách Nhẫn Đồ để khuyên kẻ khác, người được cảm hóa đông lắm. V́ thế, cha con, ông cháu đều có nền tảng phước giản dị, an tĩnh hơn sáu mươi năm, âm đức cao nhất, nhưng mọi người đều không biết. Thượng Đế ban thưởng cho hưng thịnh cả ba đời. Nay Châu Cát đỗ Giải Nguyên, chính là khởi đầu của phước trạch đặc biệt vậy.

          Dụng Dư lại dập đầu, thưa: “Con chưa rơ người cùng Văn Xương Xă là Du Lân và Úc Tùng Châu có đỗ đạt hay không?” Đế Quân kiểm lại danh sách sĩ tử của Thái Nguyên, lộ vẻ không vui nói:

          - Du Lân đáng lẽ thi đậu, nhưng v́ thờ mẹ [bề ngoài hiếu thảo] mà trong bụng ngầm phỉ báng, lại c̣n luận định người khác cay nghiệt, chẳng biết thông cảm, lại c̣n xằng bậy tự coi ḿnh là bậc quân tử! V́ thế, đánh hỏng khoa này, khiến cho hắn suốt đời lêu bêu trong phường Tú Tài mà thôi!

          Dụng Dư thưa hỏi: - Trong bụng phỉ báng là sao ạ?

          Đế Quân dạy: - Đối với ngôn ngữ, hành vi của cha mẹ, trong ḷng hắn đều coi chẳng ra ǵ, chỉ miễn cưỡng giấu diếm thanh sắc, vờ vịt thuận theo, ngày càng ĺa khỏi chân tánh, ngày càng trở thành hư ngụy, xem cha mẹ như kẻ qua đường. Hạnh hư giả, trộm danh, khiến thần giận nhất. V́ thế, trừng phạt hắn. C̣n như Úc Tùng Châu, bẩm sanh có tài lạ, [lẽ ra] hai mươi sáu tuổi đỗ Tiến Sĩ, ba mươi mấy tuổi lẽ ra được thăng quan thành Trung Thừa[70]. Bốn mươi lăm tuổi được bổ làm Đại Tư Không, kiêm lănh các ấn Tư Nông, Tư Khấu[71]. Năm mươi bốn tuổi, lănh chức Thiếu Bảo[72] về hưu. Tới sáu mươi chín tuổi bèn qua đời an lành. Chỉ v́ kể từ mười bảy tuổi, khi được dự vào hàng chư sanh, cậy tài khinh người, châm biếm, bỡn cợt, lời lẽ phần nhiều là ngọt ngào giả dối, nhưng chuyên môn đá đểu. Minh ty đă chép lỗi ăn nói khinh bạc của hắn đến hơn hai ngàn bốn trăm bảy mươi điều. Thượng Đế tức giận, ghi tên hắn vào sổ những kẻ có điều ác ngấm ngầm, trừ sạch tất cả [công danh]. Nếu chẳng biết hối lỗi, khi đă vượt hơn ba ngàn điều, sẽ đoạt mất tuổi thọ, ghi tên con cháu hắn vào sổ ăn mày. Tổn thương sự ḥa khí của trời đất, phạm điều cấm kỵ của thần minh, không ǵ quá đáng hơn chuyện này! Do vậy, tội này giống như sát sanh, tà dâm v.v… Các ngươi hăy thận trọng.

          Một hồi lâu sau, Ngài lại dạy rằng:

          - Dâm, giết, ăn nói sai lầm, dẫu bằng sợi tơ, hạt thóc đều có báo ứng, chẳng cần phải nói nữa. Nhưng đối với hai nghiệp dâm và sát, kẻ biết tự thương thân th́ c̣n biết ngăn ngừa, tránh phạm, c̣n như ngoài miệng châm biếm, chê cười, mặc t́nh bươi móc, biếm nhẽ, ngấm ngầm ôm ḷng tàn sát, hăm hại, do đă quen thói, chẳng nhận biết được! Xét tới ngôn từ, dáng vẻ, bụng dạ, toàn là khinh bạc, quỷ thần ắt ghi chép, sự hung ác sẽ đưa tới. Vốn sẵn phận phước đức sâu dầy, nhanh chóng đổi thành thân xác bần cùng! Đáng tiếc, đáng sợ thay! Ngươi hăy nên khuyên rộng khắp người đời, nh́n vào gương ấy mà răn dè, chẳng phiền ta khi kư duyệt danh sách thi đậu, quá tốn công do dự.

          Dụng Dư lại lạy, lui ra. Nghe tiếng chuông sớm bèn tỉnh giấc, gà đă gáy canh ba, bèn lạy tạ, vung bút ghi lại. Cho đến khoa thi mùa Thu, lúc yết bảng, quả nhiên Chu Cát đỗ đầu cả tỉnh. Dụng Dư do vậy công bố lời dạy ấy trong cơi đời.

          Đời Tống, An thiền sư chùa Quang Hiếu, trong Định thấy hai vị Tăng tṛ chuyện. Thoạt đầu có thiên thần ủng hộ. Nghe một hồi lâu sau, họ bỏ đi. Trong chốc lát, có ác quỷ thóa mạ, xóa sạch dấu chân của họ. Bởi lẽ, hai vị Tăng ấy thoạt đầu bàn luận Phật pháp, kế đó, kể lể con cà con kê. Cuối cùng, bàn luận lợi dưỡng. Đàm luận thế sự, c̣n bị quỷ thần cáu giận, quở trách. Huống hồ, người thời nay thân, khẩu, ư nghiệp không chỉ là như vậy. Chẳng bị thần giận, quỷ trách th́ sẽ lại như thế nào đây? Cũng đáng sợ thay!

Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

Quyển 1

Phần 1 hết

 



[1] Cát Hồng (283-343) tự là Trĩ Xuyên, hiệu Băo Phác Tử, thường được gọi là Cát Tiên Ông, là người xứ Đơn Dương, Câu Dung (nay thuộc tỉnh Giang Tô). Ông xuất thân từ ḍng dơi thư hương, thuở bé học Nho, lập chí chấn hưng Nho giáo. Đời Tây Tấn loạn lạc, ông lánh đời, học theo Đạo Giáo, chú tâm luyện đan, cầu t́m thuật trường sinh. Trước tác nổi tiếng nhất của ông là bộ sách Băo Phác Tử bao gồm những quan niệm luân lư đạo đức của ông cũng như các nguyên lư luyện đan.

[2] Thái Thượng Lăo Quân, c̣n gọi là Thái Thượng Hỗn Nguyên Lăo Quân, Phạm H́nh Thần Bảo Huyền Chân Giáng Sanh Đạo Đức Thiên Tôn, hoặc Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn là một trong ba vị Tam Thanh (Thái Thanh, Thượng Thanh và Ngọc Thanh) của Đạo giáo. Lăo Tử được coi là thân giáng trần của Thái Thượng Lăo Quân. Lăo Tử được coi là thỉ tổ của Đạo giáo, các tổ sư Đạo Giáo thường tự xưng là đă được học đạo trực tiếp hay gián tiếp từ Thái Thượng Lăo Quân.

[3] Tức là nhà Tống (960-1279) do Triệu Khuông Dẫn sáng lập. Gọi là Triệu Tống để phân biệt với nhà Lưu Tống (420-479) do Lưu Dũ sáng lập vào thời Nam Bắc Triều, cũng như những nhà Tống vụn vặt, ngắn ngủi trong lịch sử Trung Hoa như Từ Tống (do Từ Thọ Huy sáng lập cuối đời Nguyên), nhà Hàn Tống (do Hàn Lâm Nhi sáng lập, về sau bị Châu Nguyên Chương diệt) v.v…

[4] Có thể coi Đạo Tạng là Đại Tạng Kinh của Đạo Giáo, tức toàn tập các bộ kinh điển trước tác được chấp nhận là chánh thống của Đạo Giáo. Đạo Tạng bao gồm Chánh Thống Đạo Tạng được ấn hành vào năm Chánh Thống thứ mười (1455) đời Minh Anh Tông và Vạn Lịch Tục Đạo Tạng được ấn hành vào năm Vạn Lịch thứ 15 (1587). Đạo Tạng được chia thành các phần như Tam Động, Tứ Phụ, Thập Nhị Loại, bao gồm 1.400 tác phẩm. Đạo Tạng được manh nha từ thời Nam Bắc Triều khi Lục Tu Tĩnh viết Tam Động Kinh Thư Mục Lục, và được coi như hoàn thiện vào giữa đời Minh.

[5] Ư nói, thoạt đầu phải dựa vào cảm ứng họa phước và nhân quả để gắng sức hành thiện, trau dồi phẩm đức, sẽ thấy khó khăn. Đến khi đă thuần thục, sẽ chẳng thấy phải tốn công sức, dẫu chẳng chú tâm dè dặt kiêng sợ, phẩm đức vẫn tự nhiên đạt được, tự nhiên vẫn loại trừ những lầm lỗi mà chẳng tốn công nhọc sức.

[6] U minh (幽明): U minh là một khái niệm xuất phát từ kinh Dịch, phiếm chỉ các hiện tượng đối lập như sáng và tối, hữu h́nh vô h́nh, trí huệ và ngu si v.v…

[7] Quái lực, loạn thần: Đây là một câu nói xuất phát từ Luận Ngữ: “Tử bất ngữ quái, lực, loạn, thần” (Khổng Tử chẳng nói đến chuyện quái dị, dũng lực, phản loạn, quỷ thần). Dần dần từ ngữ “quái lực loạn thần” được dùng theo nghĩa hẹp để chỉ sự huyền hoặc, hoang đường, ma quái, kỳ quặc.

[8] Phong trào Ngũ Tứ là một phong trào đấu tranh sau Đệ Nhất Thế Chiến do các thành phần trí thức và sinh viên đề xướng tại Trung Hoa nhằm đạp đổ tất cả các phương cách giáo dục cổ truyền, đ̣i hỏi hiện đại hóa. Do cuộc biểu t́nh lớn nhất nổ ra nhằm ngày Bốn tháng Năm năm 1919 bao gồm phần lớn sinh viên của mười ba trường đại học tại Bắc Kinh, nên gọi là phong trào Ngũ Tứ (Ngũ Tứ vận động). Nguyên do dấy lên phong trào này là sau khi Đệ Nhất Thế Chiến kết thúc, trong hiệp ước Versailles, các nước thắng trận đă chuyển giao tô giới Sơn Đông từ Đức sang chính quyền Nhật Bản, không thèm hỏi ư chính quyền Dân Quốc. Sinh viên, học sinh dưới sự sách động của một số trí thức như Lư Đại Chiêu, Trần Độc Tú… đă biểu t́nh phản đối chính quyền, đ̣i cách chức ba viên chức thân Nhật là Tào Nhữ Lâm, Lục Tông Dư, Chương Tông Tường. Chính quyền Dân Quốc trước sức ép của phong trào đă cự tuyệt kư ḥa ướcVersailles, cách chức ba người ấy. Những người lănh đạo phong trào đă quy kết sự yếu hèn của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc là do nền giáo dục cổ truyền cũng như do các tư tưởng triết học, nhân văn, tôn giáo truyền thống gây ra. Do vậy, họ đề xướng gạt bỏ Tam Giáo, cấm ngặt sinh viên đọc các trước tác của bách gia, chư tử, kinh Phật, kinh Đạo giáo, loại bỏ Văn Ngôn…

[9] Chúng tôi tạm dịch phần này dựa theo cách diễn giải trong các sách Cảm Ứng Thiên Trực Giảng, Cảm Ứng Thiên Vựng Biên Bạch Thoại Tiết Bổn, cũng như dựa theo lời giảng của ḥa thượng Tịnh Không, pháp sư Định Hoằng và ông Hoàng Bách Lâm.

[10] Nguyên văn “bối hướng quai nghi”, hiểu theo nghĩa đen là “những điều trái nghịch và hướng theo đều chẳng đúng lẽ. Sách Cảm Ứng Thiên Vựng Biên Bạch Thoại Tiết Bổn giảng: “Đối với kẻ ác, đáng nên xa ĺa, mà lại ngược ngạo hướng ḷng theo họ. Đối với người lành phải nên thân cận, lại ngược ngạo chống trái. Làm như vậy, đúng là rất trái lẽ vậy”. Chúng tôi chỉ dịch gọn là “hành xử không thích đáng”.

[11] Nguyên văn “lậu bô” (漏脯) nghĩa là thịt khô để nơi dột nát, sẽ sanh ra nấm mốc rất độc.

[12] Danh xưng này có nghĩa là “hội tập toàn bộ những chú thích, giảng giải, và những câu chuyện để chứng thực thiên sách Thái Thượng Cảm Ứng”.

[13] Theo pháp sư Định Hoằng, câu này có nghĩa là “tùy theo kiến giải của người đọc mà thấy thiên sách này là nông cạn hay sâu xa, tinh tế hay thô lược. Đọc đến những phần sau, đối chiếu với những nhận định này sẽ thấy rơ ràng. V́ thế nói là tiền hậu hỗ kiến”.

[14] Triệu Duyệt Đạo, tên thật là Triệu Biện, Duyệt Đạo là tên tự. Ông là người huyện Củ, tỉnh Chiết Giang, là một nhà văn học lỗi lạc đời Tống, làm quan Ngự Sử đời Tống Nhân Tông. Ông nổi tiếng là người minh bạch, có thói quen mỗi đêm thắp hương tâu tŕnh với Thượng Đế những chuyện đă làm trong suốt một ngày, với ư nghĩa: Không làm chuyện ǵ xấu để đến nỗi không dám thưa với trời đất.

[15] Hà Gian (河間) là một quận thuộc thành phố Thương Châu, tỉnh Hà Bắc.

[16] Tây Thục chính là Tứ Xuyên. Quang Châu là một huyện thuộc tỉnh Hà Nam, không phải là Quảng Châu.

[17] Xu Mật Viện (樞密院) là danh xưng để gọi cơ quan quản trị quân sự (tương đương với bộ Quốc Pḥng hiện thời) dưới các triều đại Đường, Ngũ Đại, Tống, Liêu và Nguyên của Trung Hoa. Vị quan đứng đầu Xu Mật Viện gọi là Xu Mật Sứ (thường gọi thông tục là Thái Úy). Dưới Xu Mật Sứ là Tri Xu Mật Viện Sự, Đồng Tri Xu Mật Viện Sự, Xu Mật Phó Sứ, Thiêm Thư Xu Mật Viện Sự… Nếu nói theo cách tổ chức hiện thời, có thể nói Đồng Tri Xu Mật Viện Sự thuộc về Quân Ủy trung ương.

[18] Vân Thê đại sư chính là ngài Liên Tŕ Châu Hoằng, tác giả bộ A Di Đà Kinh Sớ Sao.

[19] Ở đây đại sư nói tỷ dụ: Một thôn có ba nhà tức là thôn ấy hết sức nhỏ, chỉ có ba gia đ́nh. Dù một thôn ít người như thế mà tận lực làm lành, công đức vẫn là vô lượng.

[20] Bố Chánh là gọi tắt của chức quan Thừa Tuyên Bố Chánh Sứ Ty Bố Chánh Sứ, c̣n gọi là Phương Bá, Phiên Đài, hay Phiên Ty, tương đương với tỉnh trưởng hiện thời.

[21] Chư sanh là tiếng gọi chung những người đă đỗ Tú Tài. Những người đă đỗ Tú Tài được gọi là Sanh Viên, lại chia thành nhiều cấp như Tăng Sanh (những người được lấy đỗ thêm ngoài hạn ngạch, không được hưởng thóc gạo), Phụ Sanh (những người được lấy đỗ thêm ngoài danh sách Tăng Sanh), Lẫm Sanh (những người thuộc danh ngạch chính thức, được trợ cấp gạo), Hướng Sanh (những người có danh Tú Tài do bỏ tiền ra đóng góp).

[22] Hàn Lâm Viện Kiểm Thảo là chức quan chấp chưởng Quốc Sử Quán.

[23] Nam Hoa Kinh tức là sách Trang Tử. Do Trang Tử ẩn cư tại núi Nam Hoa, đến đời Đường Huyền Tôn, nhà vua đă phong tặng cho ông hiệu là Nam Hoa Chân Nhân, cho nên Đạo giáo gọi bộ sách Trang Tử là Nam Hoa Kinh.

[24] Do Khổng Thúc Lương Ngột (cha của Khổng Tử) đă cao tuổi vẫn chưa có con nối dơi (v́ con trai đầu của Thúc Lương Ngột là Mạnh B́ bị tàn tật), bèn lấy bà Nhan Trưng Tại để mong kiếm được con trai nối ḍng. Hai vợ chồng cầu con tại núi Ni, đẻ ra Khổng Tử, bèn đặt tên là Khâu, và Khổng Tử có tên tự là Trọng Ni.

[25] Thời cổ, vua ngồi ở phương Bắc, ngoảnh mặt về phía Nam.

[26] Cội nguồn sẵn có (bổn nguyên) chính là tâm địa.

[27] Liễu bồ thật ra là hai loại cây, tức là liễu và thủy dương. Liễu (, Willow) là loại cây thân mộc, cao, lá hẹp dài, có hoa màu vàng nở vào mùa Xuân, có rất nhiều loại như thùy liễu (liễu rủ), dương liễu, hà liễu… Bồ (, Reedmace, Broadleaf cattail, Bullrush, Nailrod), c̣n gọi là Xương Bồ, là một loại cỏ mềm chỉ cao tối đa hai mét, thấp hơn liễu, thường mọc quanh bờ ao, gốc vùi trong bùn, nở hoa vào mùa Hạ. Lá Bồ dài và nhọn, người Hoa thường dùng lá nó để dệt đệm, bện thành quạt.

[28] Châu Thiên Lân (朱天麟, ?-1652), tên tự là Du Sơ, biệt hiệu là Chấn Thanh, là bậc danh Nho cuối đời Minh sống vào thời Sùng Trinh. Ông là người thông duệ, không xu nịnh, thanh cao, c̣n để lại những tác phẩm nổi tiếng như Đạo Thống Lục, Trị Thống Lục, Dịch Đỉnh Tam Nhiên, Thiên Văn Hoàn Độ Biện, Lục Thao Toản Thuật v.v…

[29] Tôn Chân Nhân chính là Tôn Tư Mạo (541-682), một cao nhân đắc đạo thời Đường, tinh thông Tam Giáo, giỏi y thuật. Tôn Tư Mạo quê ở Kinh Triệu, Hoa Nguyên (nay thuộc huyện Diệu, tỉnh Thiểm Tây). Thuở bé, bảy tuổi đi học, ông Tôn đă làm thầy giáo kinh ngạc v́ mỗi ngày có thể thuộc hơn một ngàn chữ. Do vậy, nguyên lăo Độc Cô Tín của nhà Bắc Châu đă gọi ông là Thánh Đồng. Ông tinh thông học thuyết của chư tử, sở trường về Lăo Trang, Âm Dương, số thuật, lại c̣n yêu thích kinh Phật. Do thuở nhỏ lắm bệnh, lại thấy dân chúng khổ sở v́ bệnh tật mà không có tiền chữa trị, ông lập chí học y. Do tài y thuật, ông từng được các vua Châu Tuyên Đế, Châu Tĩnh Đế, Tùy Văn Đế, Đường Thái Tông, Đường Cao Tông phong chức quan cao để giữ bên ḿnh, nhưng ông đều khéo léo từ chối. V́ t́nh thế ép buộc, ông phải làm Ngự Y cho Đường Thái Tông một thời gian. Lúc sắp mất, ông dặn con cháu: “Vùi lấp sơ sài cho xong, không chôn theo đồ tùy táng, đừng sát sanh cúng bái”. Người đương thời tôn ông là Tôn Dược Vương. Hiện thời tại núi Dược Vương ở quê nhà, vẫn c̣n miếu thờ ông, gọi là Dược Vương Miếu. Đạo giáo xưng tụng ông là Thiên Y Diệu Ứng Chân Quân. Bộ Thiên Kim Phương (tên gọi đầy đủ là Cấp Bị Thiên Kim Yếu Phương) gồm ba mươi quyển, chứa đựng những bài thuốc hữu hiệu nhất. Ngoài những toa thuốc, sách c̣n chứa đựng lư luận Trung Y, cách dùng thuốc, châm cứu, cách trị liệu bằng ăn uống thích hợp.

[30] Ư nói do quán chiếu, sẽ biết niệm ấy là thiện hay ác, có nên tiếp tục dấy khởi hay không, hay là sẽ trừ diệt, thay thế nó bằng một thiện niệm.

[31] Ở đây, lời chú giải dẫn cách định nghĩa chữ Cơ () trong kinh Dịch để giải thích câu trước “nhân tâm thiện ác, mạc giai hữu cơ” (ḷng người thiện hay ác, không ǵ là chẳng do ư niệm vi tế nẩy sanh [dẫn dến điều thiện lẽ ác ấy]).

[32] Nguyên văn “phương thốn” (方寸) là thuật ngữ chỉ cái tâm.

[33] Đây là hai điển cố về sự luôn phản tỉnh của cổ nhân: Tăng Sâm là đệ tử của Khổng Tử thường nói: Ngô nhật tam tỉnh thân, vị nhân mưu chi bất trung hồ? Dữ bằng hữu giao nhi bất tín hồ? Truyền bất tập hồ?” (Tôi hằng ngày luôn tự xét ḿnh ba điều, v́ người khác lo toan có tận hết trách nhiệm hay không? Chơi với bạn bè có giữ chữ tín hay không? Đối với những điều được truyền dạy có thực hành hay không?) “Bốn điều biết” là nói tới Dương Chấn đời Đông Hán. Ông Dương làm quan đến chức Thái Thú. Một đêm có người mang ngàn lạng vàng đến hối lộ, ông kiên quyết cự tuyệt. Người ấy nằn ń: “Đêm sâu có ai biết đâu mà Ngài lo?” Dương Chấn đáp: “Sao có thể nói là không ai biết? Tôi biết, ông biết, trời biết, đất biết”.

[34] Trương Tử ở đây chính là Trương Tải (tự là Tử Hậu, hiệu là Hoành Cừ Chân Nhân), một trong những người sáng lập Lư học đời Tống. Ông này là chú họ của Tŕnh Di và Tŕnh Hạo.

[35] Châu Tử ở đây là Châu Hy, tự là Nguyên Hối, hiệu là Hối Am, người xứ Vưu Khê, tỉnh Phước Kiến, là học tṛ đời thứ tư của Tŕnh Di và là học tṛ của Châu Đôn Di, là một trong những người hoàn thiện Lư học và khai sáng Tống Nho. La tiên sinh ở đây chính là La Tùng Ngạn, một bậc đại Nho thuở ấy, từng giảng kinh Dịch cho Dương Thời (đệ tử đích truyền của Tŕnh Di và Tŕnh Hạo).

[36] Có thể hiểu chữ “khí tượng” (氣象) ở đây như cảnh giới, trạng thái.

[37] Nguyên văn “nhi đa vị thuyết dĩ loạn chi dă”, pháp sư Định Hoằng giảng câu này như sau: “Đấy chính là tuy học mà hoàn toàn chẳng thực hiện. Nghe rất nhiều, học rất nhiều, nhưng chẳng chuyên tịnh, đâm ra công phu của chính ḿnh chẳng đắc lực. V́ thế, hễ học tập, tu đạo, hăy chú trọng thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”.

[38] Tạ Thượng Thái là một vị học giả đời Tống, tên thật là Tạ Lương Tá, là một trong bốn vị đại đệ tử của Tŕnh Di. Ông Tạ đỗ Tiến Sĩ dưới thời Tống Thần Tông. Do ông là người xứ Thọ Xuân, phủ Thượng Thái, nên thường được gọi là Thượng Thái Tiên Sinh.

[39] Nguyên văn “lưu quang khả cụ”, ư nói thời gian do trôi đi không ngừng như ḍng nước chảy, nên gọi là “lưu quang”, phải biết sợ thời gian đă trôi đi mất, chẳng trở lại. Do vậy, chúng tôi dịch đại lược là “cẩn trọng, tiếc nuối thời gian”.

[40] Ông này tên thật là Triệu Khái, là một người rất có đạo đức, học rộng, làm quan tới chức Thái Tử Thiếu Sư (thầy dạy cho Thái Tử), thụy hiệu là Khang Tĩnh.

[41] “Thờ trời” không có nghĩa là cúng tế, vái lạy, cầu đảo, mà là sống theo thiên đạo, tức là giữ đạo đức, giữ thiện tâm, tuân theo đức hiếu sinh của trời đất v.v…

[42] Quán chức (館職): Vào thời Đường - Tống, có nhiều cơ quan được gọi là quán như Sử Quán, Tập Hiền Quán, Chiêu Văn Quán v.v… Các quan chức làm việc trong các cơ quan ấy được gọi chung là “quán chức”.

[43] Chánh Lang là chức quan thấp hơn Thị Lang. Đứng đầu một bộ là Thượng Thư, viên phó của Thượng Thư gọi là Thị Lang. Dưới Thị Lang là Chánh Lang. Có thể tạm hiểu Chánh Lang như cục trưởng hoặc ty trưởng trong hiện thời.

[44] Đây là thiên sách thứ nhất trong bộ Gia Huấn của ông ta, thường được biết dưới tên gọi Liễu Phàm Tứ Huấn.

[45] Hoàng Cực Chánh Truyền tức là phương pháp bói dựa theo sách Hoàng Cực Kinh Thế của Thiệu Khang Tiết, thường gọi là Mai Hoa Dịch Số. Thiệu Khang Tiết, tên thật là Thiệu Ung (1011-1071), tự là Nghiêu Phu, hiệu Khang Tiết, người đời Bắc Tống. Ông vận dụng dịch số để bói theo ngày tháng, theo nét chữ, theo âm thanh, từ đó lập ra các quẻ Bát Quái để đoán số.

[46] “Đồng sanh” (童生) là những sĩ tử chưa đỗ Tú Tài, nhưng đỗ kỳ thi tại địa phương để được dự vào danh sách cho đi thi Hương. Khoa thi tuyển đồng sanh gồm ba cấp, huyện khảo (thi ở huyện), phủ khảo và viện khảo (c̣n gọi là Đề Học Khảo)

[47] Cống Sanh (貢生) là người đă đậu Tú Tài. Xưa kia, khoa thi này c̣n gọi là Minh Kinh (明經). Đến đời Minh - Thanh, người đỗ khoa thi này được gọi là Sanh Viên (生员), có thể vào học trường Quốc Tử Giám ở kinh đô. Cống Sanh khác với Cống Sĩ (貢士). Cống Sĩ là người đă đậu kỳ thi Hội. Kỳ thi này nếu nói chi tiết sẽ có nhiều bậc:

1. Tuế Cống ba năm mở một lần hoặc hai hay ba năm, tuyển theo quy chế từ huyện, phủ lên tỉnh để lựa người vào học Quốc Tử Giám. Sĩ tử thi đậu sẽ được trợ cấp gạo, gọi là Lẫm Sanh.

2. Bạt Cống sáu năm mở một lần để tuyển thêm sinh viên cho Quốc Tử Giám. Đến đời Càn Long là mười hai năm; lại c̣n lập ra Phó Cống để tuyển thêm người thi đỗ.

3. Ân Cống: Khoa thi đặc biệt do nhà vua khai ân khi mới lên ngôi hay vào những dịp khánh điển trọng thể (như sanh Hoàng Thái Tử, lễ thượng thọ của Thái Hậu v.v…)

4. Ưu Cống: Ba năm mở một lần, do ty học chánh các tỉnh tuyển sinh, lấy số lượng người đậu rất hạn chế.

5. Lệ Cống là con em của những nhà có tiền quyên tặng, hoặc con quan, được đặc cách làm cống sanh. Loại này lại c̣n chia thành Phụ Cống, Tăng Cống, Lẫm Cống v.v…

[48] Thời Minh - Thanh, Đại Doăn là chức quan đứng đầu công việc hành chánh trong một huyện, chỉ cao hơn nha lại một chút, trực thuộc quyền sai phái của tri huyện.

[49] Đồ tông sư là vị quan trông coi học chánh họ Đồ.

[50] Nguyên văn “ái vi sanh sanh chi bổn, nhẫn vi bất dục chi căn”. Chúng tôi dịch câu này theo lời giải thích của pháp sư Định Hoằng.

[51] Thái Giáp (tên thật là Tử Chí) là cháu nội của vua Thành Thang, làm vị vua thứ tư của nhà Thương Thang. Khi Thái Giáp tham hưởng dục lạc, bỏ bê triều chánh, đối xử hà khác với nhân dân. Y Doăn là cố mạng đại thần, giữ quyền Tể Tướng, đă đày vua sang Đồng cung, gần lăng mộ vua Thành Thang để sám hối, tự nhiếp chánh. Ba năm sau, Thái Giáp hối cải, Y Doăn lại đón về, giao quyền lại. Thái Giáp đă nói câu này khi tự xét lỗi ḿnh. “Nghiệt” () ở đây là tai ương. “Trời tạo nghiệt” nghĩa là trời giáng tai ương.

[52] Ḥa thượng Tịnh Không giảng câu này có nghĩa là “chuyện tu thân th́ phải chờ khi vận mạng của ta đă biến đổi, sửa đổi. Để sửa đổi mạng vận chẳng phải là chuyện ngày một, ngày hai mà ḥng đạt được. Phải có thời gian tích lũy, phải dũng mănh, tinh tấn. Điều này liên quan đến chính ḿnh siêng, lười, mê, ngộ. Vẫn là phải dũng mănh tinh tấn chờ đủ thời gian, nhất định sẽ đạt được hiệu quả”.

[53] Theo ḥa thượng Tịnh Không, “cảnh tiên thiên” được nói ở đây chính là như Phật pháp thường nói “phản bổn hoàn nguyên, tự tánh lưu lộ”. Nói “tiên thiên” là sánh ví như vũ trụ nguyên thủy, chưa tách rời thành âm dương, là thái cực nguyên thủy trong quan niệm của kinh Dịch. Nói “cảnh tiên thiên” tức là chân tánh vĩnh hằng thanh tịnh, tịch chiếu, chẳng bị biến đổi, chẳng bị chấp trước hư vọng che lấp.

[54] Ông Viên Liễu Phàm viết sách này nhằm răn dạy con, nên dùng chữ “mẹ ngươi” (nhữ mẫu) ở đây. Vợ ông Viên không biết chữ, nên không thể ghi chép. Hai vợ chồng đều tận lực hành thiện.

[55] Nguyên văn “khả thiện, khả ác chi cơ tối viên măn”. Chúng tôi dịch câu này theo sự diễn giải của pháp sư Định Hoằng.

[56] Theo pháp sư Định Hoằng, ngấm ngầm làm ác, nghĩ ác, không ai nhận biết, nên gọi là Ẩn. Do khéo léo giấu diếm nên không ai biết kẻ đó bề ngoài tốt đẹp, bên trong thối tha, bại hoại, cho nên gọi là Xảo.

[57] Câu này hơi khó hiểu nên chúng tôi mạn phép giải thích rườm rà như sau: Ḍng họ Loan của nước Tấn thời Xuân Thu là ḍng dơi vơ tướng, lập nhiều chiến công. Đến đời Loan Thư, do công lao hiển hách, trở thành quyền thần lấn át nhà vua, Loan Thư bèn cùng với Tuân Yển và Tam Khích (Khích Chí, Khích Xu, Khích Kỳ) thao túng chánh quyền nước Tần. Do vậy, Chỉ Huy Sứ Tư Đồng lập mưu, giết chết Tam Khích, bắt giam Loan Thư và Tuân Yển. Tấn Lệ Công nghĩ công lao chinh chiến nhiều năm của Loan Thư nên tha chết. Lấy oán trả ân, chờ dịp vua xuất du, Loan Thư hợp binh với Tuân Yểm chiếm đóng kinh thành, giết chết bọn Tư Đồng, bắt giam Tấn Lệ Công (Cơ Thọ Mạn) rồi giết chết nhà vua trong ngục, lập vua mới. Con Loan Thư là Loan Yểm c̣n tàn bạo, hiếu sát hơn cha, chinh chiến liên miên. Đến khi con Loan Yểm là Loan Doanh lên thay cha, bố vợ của Loan Yểm là Phạm Huyên Tư vốn đă thù ghét ḍng họ Loan, bèn mưu tính với con gái (mẹ ruột Loan Doanh) vu cáo Loan Doanh mưu phản, khiến Loan Doanh phải đào vong. Loan Doanh chạy sang cầu cứu vua Tề, đem binh về đánh nước Tấn, thua trận, bị bắt giết. Thừa cơ, bọn Phạm Huyên Tử và Sĩ Ưởng tru diệt toàn bộ gia tộc họ Loan. Họ Loan bị xóa sổ ở nước Tấn. Cả câu có ư nói: Do sự tàn bạo của Loan Thư mà sanh con cũng tàn bạo hiếu sát như Loan Yểm. Loan Thư và Loan Yểm tuy tàn bạo vẫn chết an lành, đến đời Loan Doanh, quả báo chín muồi, vợ Loan Yểm tàn nhẫn âm mưu giết con, hại chết toàn thể gia tộc nhà chồng. Đấy mới là quả báo thật sự cho Loan Thư và Loan Yểm, phí bao tâm cơ thao túng chính quyền, rốt cuộc tàn gia diệt tộc!

[58] Bạch Khởi là danh tướng của nước Tần thời Chiến Quốc. Do giết nhiều người quá nên sử gọi ông ta “nhân đồ” (tên đồ tể giết người). Bạch Khởi giỏi dùng binh. Năm 293 trước Công Nguyên, trong trận Y Khuyết, Bạch Khởi đă đánh tan liên quân Hàn và Ngụy, hạ lệnh chém chết hàng quân đến hai mươi bốn vạn người. Trong trận Yên Thành, ông đă dẫn nước sông Yên Thủy chảy vào Yên Thành, d́m chết mấy mươi vạn quân nước Sở. Trong trận Hoa Dương, Bạch Khởi đánh bại liên quân Triệu và Ngụy, giết chết mười ba vạn quân địch. Trong trận H́nh Thành, ông ta hạ lệnh chém giết đến năm vạn thủ cấp. Tàn nhẫn nhất là trong trận chiến Trường B́nh, sau khi đánh tan đoàn quân nước Triệu do Triệu Quát cầm đầu, bắt được bốn mươi vạn binh, Bạch Khởi sợ hàng quân sẽ thừa cơ nổi dậy, bèn sai mổ trâu nấu cỗ, ban rượu, bảo quân Triệu ăn uống no say. Sau đấy, ngầm truyền quân Tần quấn vải trắng trên đầu để nhận nhau, cứ gặp ai không có vải trắng là chặt đầu. Bốn mươi vạn hàng quân chỉ c̣n hai trăm bốn mươi người sống sót, bị đuổi về kinh đô nước Triệu.

[59] Lư Lâm Phủ là thừa tướng đời Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng), miệng ngọt ngào, ḷng dạ rắn rết, hăm hại trung thần. Theo ghi chép, mỗi lần bàn về cánh sự, ông ta nói năng như kẻ ngốc, người say, nhưng thích nói không ngừng. Hắn khéo nịnh nọt, bợ đỡ nên rất được hoàng đế tín nhiệm. Do vậy, hắn đă gây nên biến loạn An Lộc Sơn.

[60] Theo pháp sư Định Hoằng, chữ “vương giả” ở đây phải hiểu là bậc thánh vương, thánh quân.

[61] “Vương pháp” ở đây không có nghĩa là “pháp luật của vua” như trong cách hiểu thông thường, mà là pháp tắc cai trị bằng ḷng nhân từ, chủ yếu dùng các biện pháp cảm hóa dân chúng khiến cho họ sống đạo đức, an ổn. Có thể hiểu “vương pháp” là cách cai trị của các vị thánh quân như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, khác với “bá nghiệp” là dùng những thủ đoạn chính trị hà khắc, các mánh khóe để làm suy yếu các quốc gia lân cận ngơ hầu chính ḿnh hùng mạnh, thống trị kẻ khác.

[62] Thành Đô là tỉnh lỵ tỉnh Tứ Xuyên, đây chính là kinh đô của nước Cổ Thục thời Chiến Quốc, và cũng là kinh đô của nhà Thục Hán khi Lưu Bị làm vua xứ Quan Trung. Vào thời Ngũ Đại, nơi này trở thành kinh đô của nhà Tiền Thục (c̣n gọi là Vương Thục, do Tây Xuyên Tiết Độ Sứ Vương Kiến sáng lập, tồn tại mười tám năm) và Hậu Thục (934-965, c̣n gọi là Mạnh Thục, do Mạnh Ḥa Tường sáng lập).

[63] Triệu Xương Ngôn có lần dâng sớ đàn hặc lên Tống Thái Tổ, kết án Tào Bân không chú trọng giữ kỷ cương trong quân đội, dung túng thuộc hạ, đ̣i triều đ́nh phán tội chết cho Tào Bân. Tuy nhà vua không nghe theo, nhưng Triệu Xương Ngôn đă trở thành cừu nhân của Tào Bân. Đến khi Xương Ngôn bị kẻ khác vu cáo, muốn xin diện kiến hoàng đế để kêu oan, hoàng đế từ chối không gặp, Tào Bân đă van xin nhà vua cho Xương Ngôn có cơ hội gặp mặt thưa rơ chuyện. Nhờ đó, Xương Ngôn thoát tội chết.

Vương Toàn Bân là một vị tướng khác, có tài cầm quân, nhưng tính t́nh tàn nhẫn, dung túng thuộc hạ thả sức cướp bóc, hăm hiếp, giết chóc mỗi khi chiến thắng địch quân. V́ thế, quân địch thà chết, không chịu hàng. Sau khi b́nh định xong trận phản loạn ở Tứ Xuyên, triều đ́nh bàn định ban thưởng cho Tào Bân, trị tội Vương Toàn Bân v́ những hành vi của ông ta khiến cho địch quân nhất quyết liều chết khiến cho cuộc phản loạn cứ dây dưa kéo dài. Tào Bân tâu: “Tướng sĩ chinh Tây đều bị tội, sao thần riêng được thưởng ư?” Ông kiên quyết từ chối nhận thưởng, triều đ́nh bèn thôi không truy cứu tội của Vương Toàn Bân.

Khi Tào Bân làm quan ở Từ Châu, có một nha lại phạm tội, phải chịu h́nh phạt đánh trượng. Ông đă quyết định hoăn lại, chờ hôm sau mới hành h́nh. Người khác hỏi nguyên cớ, ông bảo: “Nó mới làm đám cưới cho con trai, ngay hôm rước dâu mà bố chồng bị đ̣n, người ta sẽ nghĩ là điềm bất tường”.

[64] Tư Mă Ôn Công chính là Tư Mă Quang (1019-1086), tự Quân Thật, hiệu Vu Tẩu, người huyện Vận Thành, tỉnh Sơn Tây. Ông làm quan từ thời Tống Nhân Tông, kịch liệt chống những cải cách mang tính cách cấp tiến đầy phiêu lưu của Vương An Thạch. Ông giữ nhiều chức vụ thời Tống Nhân Tông, Tống Anh Tông, Tống Thần Tông và được các hoàng đế hết sức coi trọng v́ ḷng trung thành và sự tận tụy. Ông làm thừa tướng đời Tống Triết Tông khi đă quá cao tuổi. Công tŕnh lớn nhất và giá trị nhất của ông là bộ sử Tư Trị Thông Giám. Khi ông mất, đă được truy tặng chức Thái Sư Ôn Quốc Công, thụy hiệu là Văn Chánh, bia mộ được đề tặng Tinh Trung Túy Đức.

[65] Trong trận chiến Trường B́nh, Bạch Khởi đă giết chết bốn mươi vạn quân ra hàng.

[66] Tam Quan (gọi đủ là Tam Quan Đại Đế, hoặc Tam Nguyên Đại Đế), tức là Thiên Quan (Thượng Nguyên Nhất Phẩm Cửu Khí Tứ Phước Thiên Quang Diệu Linh Nguyên Dương Đại Đế Tử Vi Đế Quân), Địa Quan (Trung Nguyên Nhị Phẩm Thất Khí Xá Tội Địa Quan Động Linh Thanh Hư Đại Đại Đế Thanh Linh Đế Quân) và Thủy Quan (Hạ Nguyên Tam Phẩm Ngũ Khí Thủy Quan Kim Linh Động Âm Đại Đế Dương Cốc Đế Quân). Ba vị này trông coi trời, đất và biển cả. Ngày vía của ba vị này tương ứng với ba ngày rằm lớn, tức Rằm tháng Giêng, Rằm tháng Bảy và Rằm tháng Mười. Từ danh hiệu của các vị này mà người ta hay gọi là Lễ Thượng Nguyên (đọc trại thành Thượng Nguơn). Đạo giáo lại nói ba vị này do Tam Thanh hóa ra, chẳng hạn Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn (Lăo Tử) hóa thành Thủy Quan.

Ngũ Đế chính là Ngũ Phương Thượng Đế, tức là năm vị thiên thần cai quản năm phương, chia thành Thượng Thiên Ngũ Đế (Đông Phương Thanh Đế Thái Hạo, Nam Phương Xích Đế Viêm Đế, Tây Phương Bạch Đế Thiếu Hạo, Bắc Phương Huyền Đế Chuyên Húc, và Trung Ương Hoàng Đế Hiên Viên). Hậu Thiên Ngũ Đế chính là hóa thân của các vị này trên thế gian, gồm có Phục Hy, Viêm Đế (Thần Nông), Hoàng Đế, Thiếu Hạo và Chuyên Húc.

[67] Ngũ Nhạc (五嶽) là Đông Nhạc Thái Sơn, Nam Nhạc Hành Sơn, Tây Nhạc Hoa Sơn, Bắc Nhạc Hằng Sơn và Trung Nhạc Tung Sơn. Theo Đạo Giáo, các vị thần núi này đều được gọi là Đại Đế, cai quản các vị thành hoàng trong thiên hạ. Riêng Đông Nhạc Đại Đế cai quản sanh tử.

Tứ Độc (四瀆) là Trường Giang (sông Dương Tử), Hoàng Hà, Hoài Hà và Tế Thủy, bốn vị thủy thần. Đời Đường, Hoài Hà được gọi là Đông Độc, Trường Giang là Nam Độc, Hoàng Hà là Tây Độc, Tế Thủy là Bắc Độc.

Lư Xă (里社) chính là thần thổ địa.

[68] Nguyên văn ngô tâm độc tri chi địa” (nơi chỉ có một ḿnh tâm ta biết), tức là ở chỗ chỉ có một ḿnh ta, không ai biết ta đang làm ǵ.

[69] Văn Xương Xă là tổ chức của những người cùng tu theo Văn Xương Âm Chất Văn.

[70] Trung Thừa có thể là Điện Trung Thừa tức Điện Trung Tỉnh Thừa chăm lo việc hậu cần cho triều đ́nh, tức là sắp xếp những tạp vụ cho các buổi thiết triều, hoặc lễ lạc. Hoặc là Ngự Sử Trung Thừa, là vị quan thuộc hạ của Ngự Sử Đại Phu. Do đời Minh đổi Ngự Sử Đài thành Đô Sát Viện, phế bỏ chức quan này, lập ra Đô Ngự Sử đứng đầu Đô Sát Viện. Do vậy, Trung Thừa chính là Phó Đô Ngự Sử.

[71] Đại Tư Không là quan coi về công tác thủy lợi, kiến tạo. Đây chính là cách gọi khác của chức vị Công Bộ Thượng Thư. Tư Khấu chuyên quản trị các h́nh phạt, giám sát, soạn thảo luật lệ. Đây là tên gọi khác của H́nh Bộ Thượng Thư đời Minh. Tư Nông quản lư nông nghiệp, về sau mở rộng thành quản trị thuế khóa, tài chánh, quốc khố, kinh tế. Đây là tên gọi khác của Hộ Bộ Thượng Thư đời Minh - Thanh. Nếu như Úc Tùng Châu không phạm lỗi, sẽ trở thành một nhân vật đầy quyền thế v́ đồng thời chưởng quản cả ba bộ.

[72] Theo quy chế đời Minh và Thanh, Tam Thái và Tam Thiếu đều là các quan cố vấn của Thái Tử. Thái Sư dạy văn, Thái Phó dạy vơ, Thái Bảo lo việc bảo vệ an toàn. Thiếu Sư, Thiếu Phó, Thiếu Bảo đều là các chức vị phó của Tam Thái.