Cảm Ứng Thiên Vựng Biên
感應篇彙編
Quyển 1
Phần 3
(theo bản
in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm
2000)
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
(Chánh văn): Từ tâm ư vật.
(正文)慈心於物。
(Chánh văn: Từ tâm đối với muôn
loài).
Từ là cội gốc của muôn điều
thiện, tức là ḷng nhân. Từ có hai nghĩa: Một là giúp
nghèo, dẹp khổ; hai là kiêng giết, phóng sanh. Suy ngẫm
chữ này, hăy nên nói theo phương diện “suy tới muôn loài”, có nghĩa
là bậc quân tử tích lũy công đức, không chỉ là
“thân thân nhân dân” (親親仁民,
thân ái đối với người thân, có ḷng nhân đối
với những người khác) mà thôi, mà ḷng Từ c̣n
hướng đến muôn vật nữa.
Đại Tạng Kinh nói: “Người chẳng sát sanh, yêu thương, bảo
vệ sanh mạng muôn vật, và phóng sanh, thí thực, sẽ
được quả báo sống lâu”. Người hiện
thời, đối với chuyện trẻ con trong nhà chơi
đùa, hăy đều nên ngăn cấm, đừng để
cho chúng nó tổn hại các loài ruồi, muỗi, bướm,
trùng, kiến, chim chóc v.v… [Nếu để mặc, không răn
đe], không chỉ là thương tổn các sinh vật, mà
c̣n khiến cho ư niệm giết chóc của chúng lừng lẫy; lớn lên, chúng nó sẽ
chẳng biết nhân từ, khoan dung! Đối với tôi
tớ, hễ họ đổ, hắt nước nóng, và
đốt củi, quét đất, [sẽ khiến cho] các
loài như đỉa, kiến v.v… phần nhiều bị tổn
thương, cũng nên răn nhắc. Hễ ai trông thấy
hết thảy chúng sanh gieo ḿnh vào tử địa, như
thiêu thân đâm đầu vào đèn, trùng vướng vào
lưới [nhện], chim chóc bị thương, dế, kiến
bị đạp, tôm, cá, những loài có vảy nhỏ bé bị
mắc lưới v.v… hăy nên tạo phương tiện cứu
giúp, che chở khiến cho chúng nó được toàn mạng!
Đấy là hành vi của bậc phước thọ lâu dài
vậy!
Kinh Quán Thế Âm nói Đại Phạm Thiên
Vương hỏi về tướng mạo của Đà
La Ni, Bồ Tát bèn đáp: “Là tâm
đại từ bi”. Sách Hoa Nghiêm Hợp Luận nói: “Quán Thế Âm biểu thị vị
trí Tây phương. Do phương Tây thuộc về chỗ
Thu sát[1], Ngài
hành ḷng Từ cứu khổ ở chỗ ‘sát’, nên tên là Quán
Thế Âm”. Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm chép:
“Nhược linh chúng sanh hoan hỷ,
tắc nhất thiết Như Lai hoan hỷ. Hà dĩ cố?
Chư Phật Như Lai dĩ đại bi tâm nhi vi Thể
cố, nhân ư chúng sanh nhi khởi đại bi, nhân ư đại
bi sanh Bồ Đề tâm. Nhân Bồ Đề tâm, thành Đẳng Chánh
Giác” (Nếu làm cho chúng sanh hoan hỷ, hết thảy
Như Lai sẽ hoan hỷ. V́ sao vậy? V́ chư Phật
Như Lai dùng tâm đại bi làm Thể, do v́ chúng sanh mà dấy
ḷng đại bi, do v́ đại bi mà sanh tâm Bồ Đề,
do tâm Bồ Đề mà thành Đẳng Chánh Giác). Chúng sanh
yêu quư thân mạng nhất, chư Phật yêu mến chúng
sanh nhất. Có thể cứu thân mạng của chúng sanh, tức
là có thể thành tựu tâm nguyện của chư Phật.
Do vậy, xét ra, chư Phật, Bồ Tát ngàn lời vạn
lẽ, không ǵ chẳng nhằm dạy mọi người hăy
cứu khổ cho chúng sanh! Ngàn lời vạn lẽ của
tà ma, ngoại đạo, không ǵ chẳng nhằm dạy
con người ăn thịt chúng sanh. V́ thế biết:
Khuyên kẻ khác phóng sanh, chính là khơi gợi ḷng từ bi của
họ, là cái nhân lành để hưởng sự vui sướng
dài lâu nhiều kiếp. Khuyên kẻ khác sát sanh, tức là dấy
động ḷng tàn nhẫn của họ, sẽ là căn cội
oan khiên bao kiếp! Một lời là then chốt gây nên họa
hay phước như thế đó, há chẳng thận trọng
ư?
Đời Hán, Dương Bảo lúc chín tuổi,
trông thấy một con sẻ lông vàng bị chim cú đánh văng
xuống đất, lại bị kiến bu. Dương Bảo
cứu nó, đặt trong rương, cho nó ăn hoa vàng.
Đến khi nó mọc lông vũ, bèn thả đi. Một
tối, có một đứa bé trai mặc áo vàng, hướng
về Dương Bảo bái tạ: “Tôi là sứ giả của
Tây Vương Mẫu[2],
đến núi Bồng Lai, qua đây gặp phải ách nạn
này, cảm tạ ông đă cứu giúp”. Bèn đem bốn chiếc
ṿng ngọc tặng cho ông ta, nói: “Khiến cho con cháu ông làm tới
Tam Công, trắng sạch như những chiếc ṿng này”. Nói
xong, chẳng thấy đâu nữa! Về sau, Dương
Bảo sanh ra Dương Chấn, Dương Chấn sanh Dương
Bỉnh, Dương Bỉnh sanh Dương Tứ, Dương
Tứ sanh ra Dương Bưu, bốn đời làm Tam Công,
thanh bạch khôn sánh!
Đời Minh, Trầm Vạn Tam thấy có
người cầm mấy trăm con ếch sắp đem
giết, bèn mua hết, đem thả trong ao. Một hôm,
đến bên bờ ao, thấy lũ ếch ngồi quanh một
cái chậu sành, Vạn Tam bèn cầm về làm chậu rửa
mặt. Ngẫu nhiên rửa tay, đánh rớt một chiếc
nhẫn vào đó. Sáng hôm sau, thức dậy, cầm đến,
nhẫn đă đầy chậu. Ông Trầm kinh dị, lấy
vàng, bạc thử bỏ vào cũng thế. Đấy chính
là Tụ Bảo Bồn (聚寶盆,
chậu gom chứa của báu), [ông Trầm trở thành] giàu
có nhất nước.
Đời Tống, thiền sư Diên Thọ
là người xứ Đan Dương. Thoạt đầu,
Sư làm nha lại ở huyện Dư Diêu, thâm thủng tiền
trong kho mấy chục vạn. Hữu Ty[3]
tra hỏi, [hóa ra] chỉ là do Sư mua những con vật đem
phóng sanh, xài lố vào đó, chẳng ngờ thiếu hụt
ngần ấy. [Quan trên phán định] tội phải chết,
lúc sắp bị xử tử, Sư vẻ mặt chẳng
đổi, nói: “Ta cứu sống mấy muôn vạn sanh mạng,
nay tuy chết, sẽ mau chóng về Tây Phương, há chẳng
vui ư?” Tiền Vương[4]
nghe nói thương xót, tha tội ấy. Sư trở thành
Tăng, mộng thấy ngài Quán Âm dùng cam lộ rưới
vào miệng, huệ tánh ngày càng mở mang. Sư viết bộ
Vạn Thiện Đồng Quy Tập gồm sáu quyển.
Sư trụ tại chùa Vĩnh Minh, thọ chín mươi
tám tuổi, ngồi chắp tay, qua đời. [Môn nhân] dựng
tháp [an táng Sư] bên cạnh chùa, có một vị tăng hằng
ngày nhiễu quanh tháp, lễ bái. Có người hỏi duyên
cớ, Tăng đáp rằng:
- Tôi là một ông sư ở Phủ Châu, do bị
bệnh, đến cơi âm. Thấy bên góc điện có treo một
cuộn tranh vẽ, Diêm Vương đích thân đến đảnh
lễ. Tôi hỏi người đứng đầu các nha
lại, người ấy đáp: “Thọ thiền sư đấy
mà! Phàm người chết đều phải qua chỗ này,
riêng có thiền sư đến thẳng Tây Phương Cực
Lạc thế giới, thượng phẩm thượng
sanh. V́ thế, Diêm Vương kính lễ”. Có thể thấy
rơ là sanh về Tây Phương được âm phủ kính
trọng dường ấy.
Trong bài Giới Sát Văn (bài văn khuyên kiêng
giết) của Liên Tŕ đại sư đời Minh có đoạn:
- Ai nấy đều yêu mạng, muôn vật
tham sống. Sao lại sát hại thân thể chúng nó để
thỏa thích miệng bụng ta? Hoặc là dao bén mổ bụng,
hoặc đao nhọn chọc tim. Hoặc lột da, lóc vẩy,
hoặc cắt họng, chẻ mai, hoặc luộc sôi,
nướng sống ba ba, lươn. Hoặc dùng muối,
rượu để muối tươi cua, tôm. Đáng thương
thay! Đau thảm thiết khôn nỗi giăi bày, khổ cùng cực
khôn bề chịu đựng! Tạo ác nghiệp ngập
trời, kết thành mối oán cừu sâu đậm muôn
đời. Một mai vô thường, liền đọa
địa ngục. Vạc sôi, ḷ than, rừng gươm, núi
đao. Khi thọ tội xong, c̣n làm súc sanh. Oán oán báo thù, mạng
mạng đền bồi. Hết nợ, được làm
người, lắm bệnh, chết yểu. Tôi nay đau
xót thưa cùng người đời, khuyên khắp mọi
người chớ giết, càng nên tùy sức phóng sanh, lại
c̣n tŕ niệm danh hiệu Phật, không chỉ là phước
đức tăng cao, ắt c̣n tùy nguyện văng sanh, vĩnh
viễn thoát khỏi luân hồi, công đức vô lượng.
(Chánh văn): Trung hiếu.
(正文)忠孝。
(Chánh văn: Trung hiếu).
Làm bầy tôi tận trung, làm con tận hiếu,
đấy là thiên lư thường hằng, là cội gốc
của nhân luân. Nếu làm bầy tôi mà bất trung, ắt
vua c̣n mong cậy ǵ bầy tôi nữa? Làm con bất hiếu,
cha c̣n mong đợi ǵ ở con nữa đây? Súc sanh cầm
thú đều chẳng bằng, há c̣n đáng gọi là người
nữa ư?
Loài người tuy đáng dự vào tiên phẩm,
[nhưng để thành tiên], ắt cần
phải trải qua nhiều năm tháng! Chỉ có
kẻ tột trung, tột hiếu, hôm nay tạ thế, ngày
mai liền sanh cơi trời. Người biết làm bầy tôi,
làm con trung hiếu, tiết tháo cao cả, há có biết đấy
lại càng là cội gốc để
được siêu độ ư?
Kẻ có hiếu, trước hết phải
giữ yên đất nước. Do nước đă yên,
[dân chúng] sẽ an cư. Do an cư, họ sẽ thực hiện
hạnh hiếu thảo. V́ thế, cổ nhân t́m trung thần,
ắt t́m nơi hiếu tử. Trung hiếu toàn vẹn đôi
bề mới là đạo trọng yếu để đạt
đến đức hạnh cao tột. Nhưng cũng có
khi trung hiếu chẳng thể đều vẹn toàn
được, do vậy, chia ra [thành từng phương
diện] để luận định, ngơ hầu mỗi người
sẽ tùy theo sự việc mà biết trọn hết tấm
ḷng.
“Trung” là tận
tâm, chẳng lừa dối. Phàm trong các mối quan hệ giữa
con người với nhau, như kẻ dưới phụng
sự người trên, như những người cùng hàng
chơi với nhau, xử sự, giao tiếp, đều nên
có [ḷng Trung], nhưng đoạn kinh văn này nhằm chuyên
nói về kẻ làm bầy tôi. Cha con,
anh em, vợ chồng, ai nấy đều tự biết kính
yêu, c̣n như [mối quan hệ] vua tôi là do đạo nghĩa
mà kết hợp, ai nấy dễ phạm lỗi cẩu thả.
Ở đây, nói ḷng Trung là nói tới chuyện thiên kinh địa
nghĩa, là chuyện chẳng thể trốn tránh giữa ṿng
trời đất vậy.
Ông Phan Trọng Mưu nói:
- Trong đời mỗi người, ngoài trời,
đất, cha mẹ ra, ân vua lớn nhất. Trong thường
nhật, bất luận cư trụ, ăn uống[5],
không ǵ chẳng phải là ân vua. Khi vào trường học
tập[6],
cho đến lúc ra làm quan, được phong tước, vinh hiển
tổ tông, rạng mặt nở mày ba họ[7],
hoặc được vua coi như kẻ tâm phúc, phong cho
quan cao chức cả[8],
bất quá là mong bồi dưỡng kẻ sĩ ḥng báo đáp
[nước nhà] đó thôi!
Con người chẳng phải là cây cỏ, ai chẳng động
ḷng? Thế mà có kẻ đă hưởng ân đất
nước, chẳng nghĩ dốc sức như khuyển
mă để báo đáp, chỉ biết vun vén cho bản thân
và gia đ́nh, cái tâm sao mà tàn nhẫn vậy?
Ông Vu Thiết Tiều nói:
- Sĩ, nông, công, thương mắt chẳng
thấy cửu trùng cung khuyết[9],
dường như chẳng có ơn vua để đáng nói
tới. Nhưng hăy thử nghĩ: Ở một phương,
những chốn chằm, đầm là nơi bọn giặc
cướp chiếm cứ, là nơi bọn vong mạng dấy
binh, ắt [chúng nó] sẽ
dâm, giết, cướp bóc, sáng chẳng bảo đảm
tối. Nếu không có oai
phước của quân đội triều đ́nh diệt
sạch [giặc cướp, loạn quân] cho an toàn, há [dân
chúng b́nh phàm] có thể yên ḷng ngồi hưởng phước
bốn biển thái b́nh ư? Nghĩ đến đây, [sẽ
thấy] gă phu gồng gánh, đứa trẻ chăn trâu, phụ
nữ canh cửi, anh chàng cấy cày, chốn chốn đều
thọ ơn vua, lúc nào cũng đều là do sức vua! Hăy
nên tùy phận dốc trọn ḷng trung, huống hồ kẻ
đọc sách ăn lộc vua ư? Kẻ chẳng biết
một chữ Trung, cũng đáng thẹn lắm thay!
Đạo làm bầy tôi không phải chỉ
có một. Người làm tể phụ[10],
ắt dốc trọn ḷng phù tá việc cai trị là trung. Là
kẻ ngôn quan (言官,
gián quan, ngự sử, gián nghị đại phu) ắt coi
chuyện can gián nhằm khuông pḥ [hoàng đế theo đúng
chánh đạo] là trung. Làm quan trông coi về h́nh pháp, bèn coi
chuyện chấp hành pháp luật công bằng, khoan dung là
trung. Làm quan lại, coi yêu dân, siêng năng nơi chức trách
là trung. Làm quan vơ, coi dốc hết sức dẹp yên loạn
lạc là trung. Những người giữ việc tiến
cử, trông coi văn học, lấy chuyện tuyển chọn
nhân tài cho đất nước là trung. Chuyện [tṛn hết
trách nhiệm để tận trung] khó thể nêu trọn!
Sở dĩ ư niệm [trung thành] của kẻ làm bầy tôi
bị phân tán đến nỗi chẳng đoái nghĩ
đấng quân vương[11]
là do có mấy điều, tức là do gia đ́nh của
chính ḿnh, do tước vị, do quyền thế, do ân oán,
do danh dự. Ư niệm về bản thân, gia đ́nh, tước
vị xuất phát từ kẻ tầm thường th́ chuyện
xấu [gây nên bởi cái tâm bất trung ấy] vẫn c̣n nhỏ.
Ư niệm quyền thế phần nhiều phát sanh từ kẻ
gian nịnh, thường liên quan đến lẽ lợi
hại của thiên hạ, nước nhà, nhưng nỗi hại
ấy rốt cuộc cũng gây hại cho chính kẻ gian!
C̣n như ân oán và danh dự, dẫu là kẻ được
cơi đời xưng tụng là quân tử, vẫn có khi chẳng
tránh khỏi! Từ thời Đường, Tống tới
nay, mối họa kéo bè kết đảng là như thế
đó. Chỉ có trung th́ sẽ tận tâm, chẳng lừa dối.
Chẳng lừa dối th́ sẽ chí thành. Hễ chí thành th́
khởi tâm động niệm, hoàn toàn chẳng v́ bản
thân, v́ gia đ́nh, v́ tước vị mà dấy
lên, chẳng tránh né kẻ quyền thế mạnh mẽ,
chẳng bị ảnh hưởng bởi t́nh cảm riêng
tư, chẳng tiếc nuối công danh của chính ḿnh, trọn
chẳng cầu được tiếng thơm là bậc
trung nghĩa, chánh trực. Tuy khéo léo chu toàn sự việc,
nhưng chẳng a dua, phụ họa, hoặc là chấp pháp
chẳng nể nang t́nh cảm, chẳng v́ t́nh tự khích
động mà uốn cong luật lệ. Chỉ cần là
chuyện thật sự hữu ích cho quốc kế, dân
sanh, [sẽ đều tận lực thực hiện]. Lại
c̣n coi vua của ḿnh đúng là như vua Nghiêu, vua Thuấn,
chẳng dám manh nha ư niệm coi thường. Đấy mới
là ḷng trung cung kính vậy!
Hàn Thi Ngoại Truyện[12]
chép:
- Đạo trung có ba loại. Một là thờ
vua bằng cách dùng đạo để bảo vệ th́ là
đại trung. Dùng đức hạnh để uốn nắn,
pḥ tá vua th́ là thứ trung (trung thành bậc thứ). Dùng lời
lẽ can gián những chuyện sai trái để cứu nhà
vua th́ là hạ trung.
Sách Thuyết Uyển[13]
nói:
- Tuân theo mạng lệnh, có lợi cho vua th́
gọi là Thuận. Tuân theo mạng lệnh mà có hại cho
vua th́ gọi là A Dua. Trái mạng mà gây hại cho vua th́ gọi
là Loạn. Trái mạng mà có lợi cho vua th́ gọi là Trung.
Nhan Quang Trung[14]
nói:
- Phàm là người làm quan xử sự trong
cơi đời, [khi gặp] những chuyện thị phi to tát,
gặp những chỗ có ảnh hưởng lợi hại
to lớn, thường liên quan đến tánh mạng, tuy lúc
rảnh rang th́ có thể lo liệu chánh vụ, tuân thủ
chánh đạo, nhưng cho đến khi ấy (đến
khi phải quyết định những chuyện trọng
đại), cứ ngập ngừng muốn nói lại thôi,
[cứ phân vân nên] thuận theo hay trái ư cấp trên, ắt sẽ
có chuyện giết người để lấy ḷng người
khác! Nếu không, sẽ là phường hồ đồ, chẳng
quyết đoán, bại hoại quốc sự, khiến
cho thế gian này phải hứng chịu [hậu quả của] sự chần chừ
ấy.
Xưa nay, những bậc hào kiệt hành sự,
thành tựu đại công danh, đại nhân phẩm,
đều là do từ trong “muôn
phần chết, một phần sống” mà ra, đạt
được định lực từ nơi ấy; sau
đấy, quốc gia mới được lợi ích. Như
Gia Cát Lượng cúc cung tận tụy, Quách Lệnh Công (Quách
Tử Nghi, 郭子儀)[15]
một ḿnh một ngựa gặp giặc Hồ, Lư Lâm Hoài[16]
giấu đao trong giày [để tỏ rơ chí], Hàn Kỳ
Vương[17] mười
ngón tay c̣n bốn, Lưu Thuận Xương[18]
chứa củi đợi chết [nhằm tỏ ư sanh tử
quyết chiến]. Ông ta ra vào giữa vạn quân, [trong ṿng]
tên đạn chi chít, [thế mà] thần khí bất động,
lặng lẽ thắng trận, há dễ dàng ư? Tấm
thân đă sớm giao cho nước nhà rồi! Nhưng đó
vẫn là nói về bậc chiến tướng. C̣n như
Từ Hữu Công[19],
Địch Lương Công[20],
Lư Phiên[21] đều
[bị vu cáo, hăm hại mà] mắc tội tử h́nh. Bùi Tấn
Công[22],
Trương Ngụy Công[23],
Hàn Ngụy Công[24]
bị vây hăm bởi kiếm khách[25],
nhưng họ rốt cuộc bất tử, công huân trọn
khắp trời đất, danh treo cùng nhật nguyệt. Cố
nhiên là họ đă bỏ sạch [bản thân] như thế,
nhưng sau đó đă đạt được tác dụng
to lớn.
Do vậy biết tạo vật, quỷ
thần cũng dùng chuyện này để thử thách con
người. Khi đă vượt được thử
thách, thần linh sẽ luôn bảo vệ, vũ trụ sẽ
thuộc quyền chấp chưởng của họ. Khi chẳng
vượt được sự thử thách ấy, sẽ
là thân bại danh liệt. Như Vương Diễn, Ân Hạo[26]
v.v… thoạt đầu cũng tự phụ là hạng
người đứng thẳng nơi
cao muôn trượng, tiếng tăm lừng lẫy trong bốn
biển, nhưng thấy cây cỏ th́ vui vẻ, thấy sói
bèn run rẩy, v́ sẵn mang bản chất của loài dê! Hễ
gặp chuyện biến hóa, bèn run giọng, líu lưỡi,
bọn họ làm sao có thể tranh thủ xoay chuyển vận
mạng càn khôn, có bản tánh của những nhân vật an định
cho được? Ấy là v́ họ gieo trồng căn cội
giả trất[27],
giả sẽ ứng với giả, nếu nhận
được đôi chút phước trạch nhỏ nhoi
là đă tiện nghi lắm rồi! Hiềm rằng do
được hưởng danh tiếng quá nặng, tự
mong mỏi thái quá, đến khi lộ rơ bản chất,
chẳng thi triển được một mánh khóe [giả
dối] nào, bị thiên hạ cười nhạo. Do vậy
bèn nói: Sự soi xét [của thiên địa, quỷ thần]
rất ẩn nhiệm, chẳng dung kẻ dối trời
lừa người ḥng cầu may mắn mà đạt
được thành công đâu nhé! V́ thế, đối với
chỗ này, phải gấp nên giữ cho thanh tịnh.
Tấm thân này đă phó thác thiên địa, vạn
vật, dẫu bất hạnh mà chết, như những cái
chết của Quan Tráng Mục, Trương Tuy Dương,
Nhạc Vũ Mục, Văn Văn Sơn[28]
[vẫn hết sức có giá trị]. Hăy xem bọn Lư Lâm Phủ,
Dương Quốc Trung, Hàn Thác Trụ, Giả Tự Đạo[29]
có kết cục như thế nào? Có ai không chết? Chỉ
có bậc chánh trực, trung hiếu, hễ chết sẽ
thành thần, được triều đ́nh phong tặng hiển
vinh, được tôn sùng, cúng tế vẻ vang, con cháu
được tập ấm. Chẳng thấy bọn quyền
thần, gian nịnh chết rồi sẽ được như
vậy! Chẳng bàn đến bọn quyền thần,
gian nịnh, ngay như bọn Ca Thư Hàn, Tiêu Chí Trung, Vương
Nhai, Giả Tốc[30]
nem nép xu phụ, mong giữ được đầu cổ,
nhưng khi đại hạn xảy tới, ngọc đá
chẳng c̣n! Đă sớm biết cũng bị chết
ngang trái như vậy, sao không liệt liệt oanh oanh, đội
trời đạp đất vậy thay?
Lại như vào thời Hán Vũ Đế,
thời Đường Vũ Hậu (Vũ Tắc Thiên), khí
tượng như thế nào? Những kẻ bị họ
vô cớ tru sát, tuyệt diệt vô số, nhưng những
quan lại chủ tŕ công đạo thuở đó, chẳng
có ai chết! Những gă đón ư xu phụ kẻ tàn khốc,
bạo ngược khi ấy, chẳng có kẻ nào bất
tử. Dẫu chẳng dám nhất loạt luận định
[những trường hợp như thế đó] đều
là họa phước, nhưng [đă hiểu] v́ sao mạng
(vận mạng) được gọi là mạng, chẳng
thể khiến cho ta càng thêm tự tin ư? Cớ ǵ cứ
ắt phải nem nép để rồi v́ tiếc nuối tánh
mạng này mà phụ bạc ơn vua, gieo rắc mầm độc
trong cơi đời!
Lư Bí làm Tể Tướng thời Đường
Đức Tông. Đức Tông v́ chuyện Cáo Quốc Trưởng Công Chúa[31]
mà muốn phế Thái Tử, gọi Lư Bí tới, kể cho
biết. Lại c̣n bảo: “Thư Vương[32]
gần đây đă trưởng thành, hiếu kính, thuận
thảo, ôn ḥa, nhân từ”. Lư Bí nói: “[Thái Tử] là con trai duy
nhất của bệ hạ, cớ sao bệ hạ muốn
phế đi để lập cháu? Hơn nữa, đối
với con ruột của bệ hạ mà c̣n hoài nghi, làm sao
không có [ḷng nghi] đối với cháu? Thư Vương
tuy hiếu, [nhưng chẳng phải là con ruột]; từ
nay, bệ hạ hăy nên nỗ lực, chớ nên mong cầu
nơi ḷng hiếu thuận ấy (ḷng hiếu thuận của
Thư Vương)”. Vua nói: “Khanh không yêu thương gia tộc
ư?” Lư Bí tâu: “Chỉ v́ thần yêu thương gia tộc,
cho nên chẳng dám không nói hết lời. Nếu sợ cơn
thịnh nộ của bệ hạ mà ép ḿnh thuận theo,
ngày sau, bệ hạ hối hận, nhất định sẽ
oán thần: ‘Ta riêng cử ngươi làm Tể Tướng,
ngươi chẳng tận lực can gián!’ Đến nỗi ấy, ắt
[bệ hạ] sẽ giết con thần. Thần đă già
rồi, những năm tháng c̣n lại chẳng đáng tiếc!
Nếu [bệ hạ] giết oan con thần, khiến cho thần
phải lấy cháu làm người nối dơi, thần chẳng
biết có được hưởng sự cúng tế ấy
hay không?” Nhân đó, nghẹn ngào tuôn lệ; vua cũng khóc, nói:
“Sự đă như vậy, biết làm sao?” Ông tâu: “Đối
với chuyện lớn này, xin hăy suy xét. Từ xưa, hễ
cha con ngờ nhau, chưa từng có chuyện không mất
nước”. Vua nói: “Trong các niên hiệu Trinh Quán và Khai Nguyên
đều thay Thái Tử, cớ sao chẳng mất nước?”
Ông tâu: “Chuyện Thừa Càn âm mưu làm phản bị phát
giác, Thái Tông bất đắc dĩ phế trừ và c̣n phế
bỏ Ngụy Vương Thái. C̣n như Vũ Huệ Phi (Dương
Quư Phi) gièm pha ba anh em Thái Tử Lư Anh, khiến họ bị
giết, toàn quốc oán hận, phẫn nộ; đấy
chính là chuyện trăm đời đều nên răn ngừa,
há lại có thể phỏng theo ư? Thần xin bệ hạ
hăy thong thả trong ba ngày, xét rơ đầu mối, ắt sẽ
biết rơ Thái Tử không có tâm ǵ khác. Nếu thật sự
có dấu tích ấy, xin bệ hạ hăy theo như phương
pháp thời Trinh Quán, phế luôn Thư Vương, lập
hoàng tôn, ắt trăm đời sau, người có
được thiên hạ vẫn là con cháu của bệ hạ.
Nếu nói với bọn người như Dương Tố,
Hứa Kính Tông, Lư Lâm Phủ, họ sẽ vâng theo ư chỉ
này, sẽ lập công mưu định sách lược với
Thư Vương”. Vua nói: “Ta sẽ v́ khanh kéo dài chuyện
này tới ngày mai để suy nghĩ”. Lư Bí tâu: “Như thế
th́ thần biết cha con bệ hạ ‘cha nhân từ, con hiếu
thuận’ như thuở đầu vậy. Nhưng bệ
hạ hăy nên tự tra xét, đoán định, chớ để
lộ ư này với kẻ chung quanh. Nếu để lộ
ra, họ sẽ tâng công với Thư Vương, Thái Tử
sẽ bị nguy”. Sau một ngày, vua ngự tại Diên Anh Điện,
triệu kiến một ḿnh Lư Bí, tuôn nước mắt bảo:
“Chẳng có lời [can gián] thống thiết của khanh, hôm
nay trẫm sẽ hối hận chẳng kịp. Thái Tử
nhân hiếu, thật sự chẳng có tâm ǵ khác”. Lư Bí làm Tể
Tướng bốn triều[33],
là bậc Tể Tướng lừng danh đời
Đường; về sau, lại thành thần tiên.
Đời Đường, Ngụy Trưng
có đảm lược, khéo xoay chuyển ư vua. Đối
với chuyện [nhà vua sai trái dẫu] lớn hay nhỏ, ông
ắt cực lực can gián, chẳng ngại mất ḷng
vua. Dẫu vua hết sức giận dữ, ông vẫn chẳng
thôi. Vua từng có một con diều hâu đẹp đẽ,
cho nó đứng trên cánh tay của ḿnh. Nó thấy Ngụy
Trưng từ xa đến, bèn trốn trong ḷng vua. Ngụy
Trưng cố ư tâu chuyện lâu lắc; rốt cuộc, diều
hâu chết trong ḷng vua. Văn Đức hoàng hậu[34]
băng, vua nghĩ nhớ không thôi, làm lầu mấy tầng
trong thượng uyển để nh́n về phía Chiêu Lăng.
Vua từng dẫn Ngụy Trưng theo lên đó, bảo hăy
nh́n xem. Ngụy Trưng nh́n kỹ, tâu: “Thần hoa mắt
chẳng thể thấy”. Vua bèn chỉ cho thấy, Ngụy
Trưng tâu: “Thần ngỡ là bệ hạ dơi nh́n Hiến
Lăng. Nếu là Chiêu Lăng th́ đương nhiên là thần
trông thấy”. Vua khóc, sai hủy cái lầu ấy. Ngụy Trưng
khuyên vua: “Hăy giảm bớt đao binh, chú trọng văn hóa.
Trung Quốc đă yên, tứ di tự phục tùng”. Vua nghe
theo lời ấy. Về sau, Hiệt Lợi[35]
bị bắt, viên tù trưởng ấy c̣n đeo đao, làm
túc vệ. [Thịnh trị] đến nỗi [nhà dân chúng] cửa
ngoài không cần đóng, người đi xa chẳng mang
theo lương thực, đều do sức của Ngụy
Trưng vậy. Ngụy Trưng là bậc đại thần
hữu danh đời Đường, được phong
làm Trịnh Công, cháu năm đời là Mô lại làm Tể
Tướng.
Thời Vũ Tắc Thiên, các pháp quan đua
nhau tàn khốc, chỉ riêng có quan Tư H́nh Thừa là Từ
Hữu Công giữ ḷng công bằng, khoan dung. Thoạt đầu,
ông trông coi về h́nh pháp ở Bồ Châu, chẳng đánh đập
tù nhân. Các nha lại ước định với nhau: “Nếu
vi phạm, sẽ bị Từ tư pháp đánh đ̣n, bị
mọi người cùng chê trách”. Cho đến khi ông măn nhiệm,
chẳng đánh đ̣n một ai, các người có chức
trách cũng sửa đổi. Tới khi ông làm Tư H́nh Thừa,
đối với những kẻ bị bọn nha lại tàn
ác lại vu cáo, cấu kết tội trạng, ông đều
làm rơ trắng đen, cứu sống vô số người.
Ông từng tranh luận trước triều đ́nh về
chuyện tù ngục, Thái Hậu (Vũ Tắc Thiên) nghiêm sắc
mặt cật vấn, Hữu Công thần sắc không nao núng,
tranh luận càng thêm thiết tha. Thái Hậu tuy hiếu sát, nhưng
biết Hữu Công là người chánh trực, hết sức
kính nể, kiêng dè. Bọn Châu Hưng v.v… sàm tấu, gièm xiểm đủ
kiểu, rốt cuộc chẳng thể hại ông. Sau đó,
ông được cất nhắc làm Tả Đài Điện
Trung Thị Ngự Sử, con cháu nhiều người hiển
đạt.
Đời Đường, Quách Tử Nghi
trong cơn biến loạn An Sử[36],
đă thu phục hai kinh[37],
công đứng đầu các tướng. Thời
Đường Đại Tông, bọn hoạn quan (thái giám)
nắm trọn quyền, Tử Nghi bị ngồi chơi xơi
nước đă lâu, thuộc hạ ly tán. Bỗng Thổ
Phiên[38]
xâm nhập [Trung Hoa] cướp phá, kinh thành chấn động,
kinh hăi. Vua phải chạy qua Thiểm Châu. Các đại
tướng như Lư Quang Bật v.v… đều ghét bọn
hoạn quan lộng quyền, đóng yên quân đội chẳng
đến [cứu giá]. Riêng ḿnh Tử Nghi tuyển mộ
hai mươi kỵ binh, lập tức lên đường,
kết hợp các tướng, gióng trống, giăng cờ,
đốt nhiều đống lửa để khiến
cho quân Thổ Phiên nghi ngại. Bọn Thổ Phiên sợ hăi,
tranh nhau rút lui. Về sau, lại có mấy chục vạn
quân Hồi Hột[39]
xâm nhập cướp bóc. Các tướng phần lớn
chẳng dẫn quân đến đúng lúc. Tử Nghi một
ḿnh cưỡi ngựa đến thuyết phục quân Hồi
Hột, đại phá quân Thổ Phiên. Tử Nghi làm đại
tướng, chỉ huy đoàn quân hùng mạnh, bọn Tŕnh
Nguyên Chấn, Ngư Triều Ân sàm tấu, hủy báng đủ
kiểu. Chiếu thư truyền xuống triệu tập
ông, không lần nào ông chẳng lập tức lên đường;
do vậy, bọn chúng sàm tấu, hủy báng không được.
Ông làm quan đến chức Trung Thư Lệnh, đă làm
chủ khảo hai mươi bốn lần, được
phong làm Phần Dương Vương. Tám con trai, bảy rể,
hiển đạt chẳng ai bằng!
Đời Tống, Tư Mă Ôn Công (Tư Mă
Quang) làm Tể Tướng, v́ nước mà hy sinh thân ḿnh, v́ nước mà hy sinh tấm thân. Khi
đă bị bệnh, do các
phép thanh miêu, miễn dịch, tướng quan[40]
vẫn c̣n, Tây Hạ[41]
chưa chịu hàng, ông than: “Bốn điều
tai hại chưa trừ, ta chết chẳng nhắm mắt”.
Tân khách thấy ông c̣m cơi, dẫn chuyện Gia Cát Lượng
ăn ít, lắm việc [đến nỗi hao ṃn, chết
sớm] để khuyên răn. Ông đáp: “Sanh tử là mạng”
rồi càng thêm dốc sức. Tới khi bệnh đă ngặt
nghèo, không c̣n tỉnh táo, những điều ông lẩm bẩm
như nói trong mộng toàn là chuyện triều đ́nh, thiên
hạ.
Ngụy Cao Tông[42]
bảo quần thần: - Vua và cha như một. Cha có lỗi,
con không gởi thư cho mọi người can gián, mà can ngăn
trong buồng riêng, chỗ khuất, chẳng muốn phô bày điều
ác của cha. Như ông Cao Doăn, trẫm có lỗi, ông chưa
hề nói ngay trước mặt khiến cho trẫm chẳng
thể chịu nổi. Trẫm biết lỗi mà thiên hạ
không biết, chẳng đáng gọi là trung ư? Cao Doăn một
dạ trung thành, không chỉ là kẻ phê phán kịch liệt
chẳng thể [sánh bằng ông ta], mà kẻ ưa châm biếm
cũng chẳng thể bằng được. Đáng gọi
là biết cách can gián vậy.
Đời Tống, Tô Bỉnh dâng sớ bàn
luận quốc sự, bị đổi đi Nhiêu Châu. Họ
Tô đi qua đất Lạc, trọ ở chỗ ông Doăn
Thuần. [Trong khi tṛ chuyện] có ư [phàn nàn] bị thiên chuyển,
biếm trích. Ông Thuần nói: “Khi Quư Minh[43]
dâng thư, chính là tính toán cho đất nước đó ư?
Hay là v́ tính toán cho bản thân? Nếu tính toán cho đất
nước, sẽ hoan hỷ phó nhậm Nhiêu Châu. Nếu v́
tính toán con đường tiến thủ, th́ bị biếm
trích tới Nhiêu Châu vẫn c̣n là h́nh phạt nhẹ nhàng”. Ông
Bỉnh vỡ lẽ. Trương Khả Am nói: “Sĩ tử làm quan, nếu có cái
tâm mong cầu công danh, cầu được thong dong, vui
sướng, sẽ chẳng làm được một chuyện
ǵ ra hồn”! Nói đúng lắm thay!
Xem khắp xưa nay, những kẻ bầy
tôi tận trung bèn được báo đáp, nhiều khôn kể
xiết! C̣n những bậc chẳng đánh mất tiết
tháo cao cả, thấy hiểm nguy bèn dâng hiến tánh mạng,
[dẫu khi ấy] do vận mạng chông chênh, ôm hận ngàn
thu, tợ hồ được trời trả báo đặc
biệt lạ lùng. Nào có biết khi sống bèn hưởng
tiếng tăm lừng lẫy trong thuở ấy, chết
đi được muôn dân quỳ lạy. Trời báo đáp
họ so với những kẻ hưởng phú quư, an lạc,
há chỉ gấp trăm lần! Những kẻ quên ơn
vua, hại dân, trời báo ứng thê thảm lại càng chẳng
cần phải nói nữa! Nay khoan nói về sự báo ứng
đối với kẻ có ḷng trung hay bất trung, hăy nh́n
vào những kẻ hời hợt, qua loa, chẳng quan tâm dân
đen, [sẽ thấy bọn họ] cũng chẳng có kết
cuộc tốt đẹp! Có thể thấy bổng lộc
của ông chắc chắn là chẳng thể phụ bạc
một chữ Trung này. Từ Tể Tướng cho tới
dân chúng, phần nhiều đáng nên trọn hết ḷng
trung, nhưng tánh mạng của bọn dân đen liên quan
đến quan huyện nhiều nhất. V́ thế, quan huyện
càng chẳng thể không có ḷng trung. Quốc gia đặt
ra quan huyện là để ông ta dưỡng dân. Cổ nhân
nói: “Dân là cội gốc của
đất nước”; cái gốc có vững vàng th́
đất nước mới yên ổn được. Được
phó thác trọng trách như vậy, há có thể cô phụ ư?
Ấy là v́ người đọc sách bèn phát
khởi cái tâm cứu đời chân thật, thiết tha;
đến khi nắm quyền, có thế, càng phải chú trọng
sao cho phút giây nào cũng đều nghĩ đến trời,
đất, vua, cha mẹ, hành thiện sự rộng lớn,
thanh liêm, thận trọng hướng dẫn thuộc hạ,
siêng năng t́m hiểu rơ nỗi khổ của
dân, phỏng theo cách
cai trị tốt đẹp của Tŕnh, Châu, học hỏi
khuôn mẫu tốt lành của những bậc hiền năng
đương thời. Đừng xử sự theo t́nh riêng,
chớ yêu mến tiền của, hăy
đề cao chuyện lành, trừng phạt kẻ
dữ, hưng khởi điều lợi, trừ khử điều
hại, đề xướng [tuân thủ] những ước
định của mỗi làng, chú trọng nông tang[44],
uốn nắn kẻ sĩ, quan tâm việc học, dạy
dân siêng năng, tiết kiệm, thúc đẩy, răn đe
[dân chúng] chú trọng nghĩ tưởng pháp lành. Đối
với chuyện h́nh ngục, thường trọn hết
ḷng nhân. Trừ bỏ những tục lệ nhảm nhí, trái
lẽ, giám sát bọn nha lại gian ngoan, phát hiện sớm
những vấn đề về lụt lội, hạn hán
để nhanh chóng báo lên cấp
trên. [Khi gặp] tai ương, đói kém, bèn t́m cách
cứu tế, cắt cử người chăm nuôi kẻ
góa bụa, cô đơn, mồ côi. Khuyến khích tu bổ đê
điều, ng̣i, rạch hữu hiệu. Nghiêm cấm những
chuyện ác như d́m chết con gái[45],
bắt cóc người khác đem bán, cờ bạc, hút sách,
chơi bời, nghênh thần, diễn tuồng, dâm thư,
quật mồ, mổ trâu v.v… Đề xướng những
việc lành như lập kho [trữ gạo cứu đói]
trong xă, Đồng Thiện Hội[46],
nuôi trẻ mồ côi, nghĩa học, nghĩa trủng[47],
trạm phát thuốc mùa Hè, trạm phát cháo mùa Đông, xưởng
in sách, trạm tạm trú cho những người lưu lạc
v.v… Đúng như đă gom góp núi báu vậy. Trong lời chú
giải cho phần trước đă nói “quan lại coi chuyện yêu dân, tận tụy chức
trách là trung”, tôi nay lại không ngại đôi ba lượt
rát miệng, thật sự là v́ [những chuyện này] liên
quan đến tánh mạng của người dân nhiều
nhất. Nếu có thể một niềm vâng giữ, có chuyện
ǵ mà chẳng làm
được? Phước đức ấy há có thể
lường ư? Lại chuyên ghi thêm vài câu chuyện để
những người làm “dân chi
phụ mẫu” xem tới mà
tiếp nhận lời khuyên.
Đời Tống, Tŕnh Minh Đạo làm
huyện lệnh Tấn Thành, giữ thân đoan chánh để
làm gương cho mọi người, dùng lễ nghĩa dạy
dân. Hễ dân có sự lên huyện, ông ắt bảo ban họ
về hiếu, đễ, trung, tín: Ở nhà th́ phụng sự
cha anh, ra ngoài xă hội ắt phụng sự bậc trưởng
thượng. Ông ước lượng các làng quê xa hay gần
để lập ra chế độ bảo vệ[48],
khiến cho họ ra sức giúp đỡ lẫn nhau trong các
việc lao dịch, đùm bọc nhau trong cơn hoạn nạn,
chẳng dung kẻ gian dối, trá ngụy. Phàm những
người cô quạnh, tàn phế, đều cắt cử
thân thích, xóm giềng chăm nom, ngơ hầu họ chẳng
đến nỗi bơ vơ. Những kẻ đi xa, lỡ
bị ngă bệnh trên đường, đều có người
chăm sóc. Nhân tiện, ông lập ra sáu mươi mấy
ngôi trường làng. Lúc rảnh rang, bèn mời phụ lăo tới
tṛ chuyện ḥng thăm hỏi nỗi khổ của dân.
Đối với những sách học của trẻ nhỏ,
ông đều đích thân chấm câu[49].
Kẻ nào dạy học không tốt, sẽ bị thay đổi,
loại bỏ. Ông chọn lựa những đứa sáng dạ
trong đám con em để gom lại dạy dỗ. Liên kết
dân các làng để lập hội, đặt ra các quy định,
nêu bày rành rẽ điều thiện, sự ác, khiến cho
họ được khuyên răn mà biết hổ thẹn.
Minh Đạo xem dân như con. Những kẻ muốn thưa
gởi, có thể chẳng cần cầm theo đơn, cứ
tới thẳng công đường, thưa bày đầu đuôi.
Tiên sinh thong dong bảo ban, ra rả
dặn ḍ chẳng biết mệt. Ông ở huyện ấy
ba năm, dân chúng yêu mến như cha mẹ. Ngày ông rời đi,
tiếng khóc vang rền ngoài đồng nội. Chỗ nào
Minh Đạo đến trấn nhậm, trên dưới
đều bị ảnh hưởng thuận theo; ấy là
v́ ông đă hành xử hợp ḷng dân, cho nên họ bị ảnh
hưởng. Thiên địa tạo hóa chỉ là [do hành xử
hợp lẽ mà] tự nhiên ảnh hưởng mọi người
đó thôi!
Minh Đạo cai quản một huyện.
Giữa Hè, đê bị vỡ to, theo đúng lẽ, phải
bẩm lên phủ, phủ sẽ bẩm lên tào[50],
sẽ phải mất hơn một tháng mới bắt
đầu sửa chữa được. Tiên sinh sợ hư
lúa mạ, bảo: “Cứu dân
th́ mắc tội cũng chẳng từ”, bèn xướng
suất dân chúng sửa chữa. Năm đó, [huyện ấy]
được mùa to.
Ông làm Chủ Bạ xứ Thượng
Nguyên, thuộc Hà Đông Lộ[51].
[Sản vật trong vùng đă không nhiều lại c̣n phải]
nộp thuế nên không sung túc. Hễ quan trên thu mua[52],
vật giá vẫn tăng vọt, dân chúng sẽ bị khổ
sở mỗi năm. Tiên sinh ước lượng nhu cầu,
bảo các nhà giàu mua gạo dự trữ, theo giá đă
định để bán ra. [Làm như vậy], nhà giàu chẳng
bị lỗ, mà dân chúng phải tốn thêm chẳng quá hai
ba phần mười so với trước đó. Hơn nữa,
khoản thuế [lương thực] do dân đóng góp,
thường được chuyển đến chỗ gần
[phủ lỵ] hơn. Do phải chở đi đường
xa, ắt cước phí sẽ tốn kém rất nhiều.
Tiên sinh chọn những nhà giàu đảm nhiệm [chuyện
vận chuyển thuế khóa], dặn họ mua gạo trữ
sẵn ở quận, chi phí được giảm bớt
rất lớn, dân được sống thoải mái
hơn.
Khi
ông làm tri huyện Phù Câu, trong dân chúng có chuyện đốt
phá, cướp bóc tài vật của các nhà thuyền. Mỗi
năm ắt xảy ra mười mấy lần. Ông bắt
được một tên, bèn bắt nó
chỉ điểm để bắt được mấy
chục đứa. Ông chẳng truy cứu lỗi cũ của
chúng, mà tách chúng ra sống ở những chỗ khác nhau, cho
bọn chúng sống bằng nghề kéo thuyền. Lại c̣n
giám sát những kẻ làm ác. Từ đấy, vùng đó không có nạn
đốt thuyền nữa.
Ông làm tri huyện Kỳ Ấp, dân chúng đói
rách v́ lụt lội, tiên sinh xin phát gạo cho dân chúng vay.
Quan Tư Nông[53]
bực tức, sai người xuống tra xét t́nh h́nh.
Người ấy bẩm báo không nên cho vay, tiên sinh cứ
xin vay măi không thôi, bèn vay được sáu ngàn thạch[54]
gạo, dùng để cứu giúp những kẻ đói. Quan
Tư Nông càng thêm giận, v́ thấy trong sổ ghi nợ, mỗi
hộ được phân loại giống như nhau, [lẽ
ra phải nên ghi số lượng cho vay giống nhau], nhưng
số gạo đă vay mỗi nhà mỗi khác, bèn truyền lệnh
xuống huyện đánh đ̣n người đứng
đầu đám nha lại. Tiên sinh nói: “Để cứu đói,
hăy nên xét xem mỗi hộ số người nhiều hay ít,
chớ nên xét theo hộ giàu hay nghèo, hăy xét theo t́nh h́nh thật
sự mà làm. Đó chẳng phải là tội của nha lại,
mà đáng phải nên làm như thế”. Tiên sinh thường
nói: “Đă giữ chức vụ
huyện lệnh, ắt phải làm cho dân chúng trong vùng cai trị của
chính ḿnh nhằm năm mất mùa, đói kém, chẳng bị
tử vong, ăn no, ở yên, tuân theo giáo huấn lễ
nghĩa th́ mới là trọn hết trách nhiệm vậy”.
Làm huyện lệnh Phù Câu, ông hướng dẫn
dân chúng tận lực khai thông ao, lạch. Tiếc là chưa
xong chuyện ấy, đă bị điều đi nơi
khác, cho nên chuyện đó phải ngưng lại. Khi tiên
sinh trông coi phu phen, lúc rét buốt, hoặc khi nắng gắt,
ông chẳng khoác áo cừu, chẳng che dù, luôn đi đôn
đốc khắp nơi, mọi người chẳng thể
biết lúc nào ông sẽ đến. V́ thế, ai nấy
đều gắng sức, thường là hoàn tất
trước kỳ hạn. Hễ tiên sinh làm quan huyện, ở
chỗ ngồi đều viết bốn chữ “thị dân như thương”[55].
Thường nói: “Hạo[56]
thường thẹn đối với bốn chữ ấy”.
Đời Tống, khi Châu Tử làm tri huyện
Chương Châu đă nói: “Ta muốn lưu tâm nơi
trường học, bèn mời Hoàng Tri Lục nêu gương
cho chư sanh. Lại thỉnh những bậc nho sĩ tiền
bối cùng nêu gương sáng, khiến cho sĩ tử biết
những điều nên tuân theo, hay nên kiêng giữ, biết
cách làm lành, khiến cho người trong một nước
cùng đều thành bậc quân tử”. Lại do thế tục chẳng
biết lễ, ông bèn chọn lễ nghi chôn cất, cưới
hỏi thời cổ để nêu ra, chỉ dạy, truyền
các bậc phụ lăo giải nói, dạy bảo con em. Ông cấm
dân Chương Châu trẩy hội[57],
chơi núi. Ông nói: “Chỉ v́ nam nữ hỗn tạp, phải
nên ngăn cấm”. Lại trừ bỏ những khoản đóng
góp vô nghĩa trong huyện, hằng năm miễn đến
bảy vạn [tiền thuế]. Ông từng đến
Đường Thạch, tiếp đăi những ông cụ
chốn làng quê và tiều phu như tiếp đăi tân khách,
chẳng hề có mảy may ngăn cách, phân biệt. Ông nói:
“Đối với hạng người ấy, nếu có sự
cách biệt, làm sao có thể khiến cho họ dốc hết
tấm ḷng được!”
Ông làm tri huyện Nam Khang, ra cáo thị: - Huyện
này đất xấu, dân thưa, tạp dịch nhiều, thuế
má nặng nề, sức dân ngày càng mệt mỏi, hết
sức đáng thương. Nay dưới quyền cai trị
của tôi, dân chúng, phụ lăo, tăng, đạo, quân, dân các
giới, những ai biết được cội nguồn
của điều lợi, lẽ hại, hăy lần lượt
hợp tác, xử trí như thế nào ḥng có thể giúp giảm
nhẹ, cứu văn. Lại xin hăy nêu cặn kẽ t́nh trạng
thật sự chẳng nề hà sớm hay trễ, hăy đến
huyện tŕnh bày để ta có thể tận mặt thăm
hỏi, [t́m ṭi] nhiều cách thực hiện, ngơ hầu nhà
nào cũng mỗi năm một khá hơn, gia đ́nh đông
đủ.
Làm tri huyện Nam Khang, ông có bài văn khuyến
dụ rằng: “Tá điền cấy cày nơi ruộng
đất của chủ ruộng, phải tốn nhiều
công sức, hoàn toàn cậy vào sự thu tô của chủ ruộng.
[Hăy nên] thương xót giúp đỡ cho họ được
sống yên vui”.
Ông khuyên dụ những nhà quan lại như
sau: “Đă gọi là nhà sĩ hoạn, tức là chẳng giống
như thường dân, càng phải nên an phận, noi theo lư,
chú trọng khắc chế những thói xấu của chính
ḿnh, tạo lợi ích cho người khác”.
Ông khuyên dụ những nhà thuộc cùng một
tổ liên kết bảo vệ nhau (ngũ bảo) hăy khuyên
răn lẫn nhau
như sau: “Đă là người cùng một tổ, hăy nên
khuyên răn lẫn nhau, hiếu thuận với cha mẹ, cung
kính bậc trưởng thượng, ḥa thuận với họ
hàng, sui gia, giúp đỡ xóm giềng. Ai nấy tuân giữ
bổn phận, ai nấy trau giồi nghề nghiệp của
chính ḿnh. Đừng làm chuyện gian dâm, trộm cắp,
đừng buông lung nhậu nhẹt, cờ bạc, đấu
đá lẫn nhau, đừng thưa kiện nhau. Con hiếu,
cháu ngoan, chồng có nghĩa, vợ tiết hạnh. Đối
với những người có cách cư xử tốt đẹp
rơ rệt, hăy bẩm báo đầy đủ lên trên, sẽ
được biểu dương, tưởng thưởng
theo đúng luật lệ. Kẻ nào chẳng nêu gương,
cũng bẩm báo lên, [để quan trên] theo đúng pháp luật
xem xét mà nghiêm trị”.
Ông làm tri huyện Nam Khang, cứ năm ngày lại
đến trường học một lần, gặp gỡ
chư sanh, tận lực giảng giải, bảo: “Nay [các
ngươi có] cảm thấy bị ảnh hưởng
hay không, dần dà theo thời gian, những thói xấu
trước kia cũng sẽ bị chuyển biến đôi
chút!”
Ông làm quan tại Sùng An, do dân bị đói, bèn
xin quan đầu quận là ông Từ Gia sáu trăm thạch
gạo để cho dân vay. Do đó, bèn lập xă
thương (社倉, kho thóc cứu đói trong huyện) cho đến
ba mươi năm sau, chứa trăm ngàn hộc[58]
gạo. Hễ mất mùa bèn phát ra, trong làng chẳng có năm
nào bị đói kém.
Vùng Chiết Đông bị nạn đói lớn,
vua sai Châu Tử giữ chức Đề Cử Thường
B́nh[59].
Đă vâng mạng, ông bèn gởi thư cho các nhà buôn gạo ở
các quận khác để khuyên họ quyên tặng, [người
quyên tặng] sẽ được miễn thuế. Hằng
ngày, ông cùng các thuộc hạ thảo luận, tra xét những
ẩn t́nh của dân chúng đến nỗi bỏ cả ăn
ngủ. Việc trù hoạch đă yên, ông bèn chiếu theo kế
hoạch đă định, lần lượt đi khắp
non sâu, hang thẳm, không chỗ nào chẳng đến ḥng
thăm hỏi, vỗ về, giúp đỡ. Những
người được sống sót [do ông giúp đỡ]
chẳng thể kể xiết. Mỗi lần ông đi đâu,
chỉ ngồi một xe, bỏ hết các tùy tùng, giảm
thiểu nhu cầu đến mức thấp nhất, không
phiền đến châu huyện [phải lo cung đốn].
Về sau, ông viết thư tŕnh báo cho quan thái thú phủ Kiến
Ninh như sau: “Lo việc nước
trong khi cứu tế tai nạn chẳng giống lúc b́nh
thường, quyết chẳng có lẽ nào rũ tay ngồi
yên mà có thể bắt được chim! Kẻ giàu lắm
gạo, hăy cho họ giữ lại một phần để
đợi đến năm sau. Họ nghe theo lệnh quan
giúp đỡ xóm giềng bị thiếu hụt, lẽ nào
không nên khuyên dụ họ hăy v́ ḷng nhân mà thi ân? Hăy dùng đại
nghĩa để khuyên trách. Kẻ nào chẳng nghe theo, hăy
dùng h́nh phạt trừng trị. Đối với kẻ
vui ḷng làm theo, bèn ban thưởng để đền
đáp. Sao lại đến nỗi sợ họ oán giận,
lo họ dối trá ta rồi chẳng làm ư?”
Ông lại hạ lệnh cho các huyện thuộc
quyền hạn rằng:
- Hăy khuyên dụ các nhà khá giả, chuẩn bị
đôi chút rượu, quả, mời họ đến
khuyên dụ, tỏ ư hết sức lễ độ, dùng điều
lợi, lẽ hại bảo ban họ, chớ nên dung túng
cho thuộc hạ quấy nhiễu họ! Những nhà khá
giả đă là nhà giàu có, nhất định sẽ có thể
thấu hiểu ư này. Trong số ấy, e rằng cũng có
kẻ chưa thể hiểu chuyện, cũng nên khuyên dụ đôi ba lượt.
Thẩm định hư thực như thế nào để
tăng hay giảm số lượng [quyên góp]. Nếu họ
dối trá, chống cự, liền bẩm báo danh tánh cụ
thể để đợi cách xử trí đặc biệt.
Lại nói:
- Hăy mang theo một ít tùy tùng, đích thân
đến nơi, chớ nên ngồi chỗ thảnh thơi,
mát mẻ, chỉ trông cậy vào những người thuộc
ngũ bảo dưới làng [lo liệu mọi việc giùm
ta].
Châu Tử thường nói:
- Do cứu dân mà mắc tội, cũng chẳng
dám từ nan.
Đời Thanh, Lục Giá Thư[60]
thường nói: “Bọn ta vâng
mạng triều đ́nh mà được vẻ vang, chẳng
thể dốc sức báo đáp, chỉ đành giữ chức
phận nuôi nấng, yêu thương [dân chúng] như con đỏ,
bồi dưỡng nguyên khí cho nước nhà”.
Ông Lục thoạt đầu trấn nhậm
xứ Gia Định. Đối với chuyện giục
thuế, ông lập ra cách “cam hạn”
(甘限, cam
kết kỳ hạn), tức là cho phép người đóng
thuế hạn định bao nhiêu ngày đó, đến thời
hạn ấy mà đóng được một nửa th́
coi như đă đóng đủ thuế. V́ vậy, trọn
chẳng dùng h́nh phạt đánh trượng mà người
đóng thuế tranh nhau nạp. Chỉ những kẻ quen
thói ngoan cố, đôi khi mới phải phạt trượng.
Ông thấy người nộp thuế đông đúc, sợ
dân phải vay mượn [rồi quịt nợ], liền ra
cáo thị buộc những người vay mượn phải
có kỳ hạn trả nợ.
Mỗi tháng vào ngày mồng Hai, mồng Bốn,
mồng Sáu, mồng Tám, lo liệu việc ở công đường
xong, ông đến trường nghe chư sanh giảng sách.
Những nho đồng[61]
có chí [học tập], ông bèn cho theo chư sanh nghe giảng.
Đối với những quyển bài thi, ông phê chấm đại
lược, chẳng phân hạng cao thấp. Đối với
chuyện giảng sách[62],
[ông yêu cầu nội dung bài văn] phải dẫn khởi
chuyện liên quan đến [việc tăng tấn] thân tâm,
chẳng phải chỉ luận định theo cách nh́n cử
nghiệp. Ông lại nghĩ ra một đề tài văn sách
để cho chư sanh trở về khảo cứu minh bạch,
ngơ hầu người học sẽ thông thạo thêm về
cách kinh bang tế thế.
Ông Lục xử án, hoàn toàn chẳng câu nệ
pháp luật. Khi phán xử, miệng nói đến hiếu,
đễ, trung, tín chẳng ngớt, ḥa nhă, b́nh ổn, thông
cảm, dùng lời lẽ chí t́nh để cảm động
[các phạm nhân và những người kiện tụng]. Từ
đó về sau, đất Gia Định cũng rất ít
có những vụ thưa kiện. Lại do [người nơi
ấy] quen thói xa hoa, ăn chơi, ông thống thiết răn
đe cấm đoán, khẩn thiết răn dạy, lại
c̣n tự ḿnh làm gương, thói tục bèn biến đổi.
Trong thị trấn, lại có bọn đầu ḅ kết đảng,
làm khổ xóm làng, ông nắm trọn tên tuổi chúng nó, chẳng
bắt ngay. Hễ có ai tố cáo, bèn bắt giữ, giam
trong nha môn, luôn luôn khuyến dụ. Nếu thấy kẻ đó
thật sự hối cải, bèn thả. Chưa hết tháng,
băng đảng ấy tự tan ră, trở thành dân lành. Ông
lại soạn bài văn khuyên tù, sai nha lại vào tù giảng
giải đọc cho tù nhân nghe. Các tù nhân đều đau
ḷng, khóc khan cả tiếng!
Ông Lục là người tiết tháo thanh
cao, liêm khiết[63],
yêu dân như con, do vô ư phạm lỗi mà bị cách chức.
Muôn dân oán thán, đau xót. Khi ông chưa đi, [dân chúng] ngơ
ngác chẳng họp chợ. Khi ông đă đi, nhà nhà đều
đặt hương án đưa tiễn[64].
Ông lại được bổ làm huyện
lệnh huyện Thọ. Sợ dân làng ngu si, vô tri, ông đi
khắp các làng để đề xướng chuyện hương
học[65], khiến
cho ai nấy đều biết nên làm lành. Phàm những lời
giảng giải cho bọn tiểu dân được gộp
thành một quyển sách, đem in. Ông từng nói: “Quyển
sách của kẻ hèn này đem giảng giải vào ngày mồng
Một và ngày Rằm sẽ có thể thắng hung tàn, trừ
giết chóc ư? Chỉ đáng để khơi gợi
đầu mối ấy mà thôi! Nếu như mở rộng
ra, dẫn dắt ra, khiến cho nhà nào nhà nấy đều
hiểu, thấm sâu tận xương tận thịt, gột
sạch tà uế, tan hết cáu cặn[66],
tùy thuộc từ nay trở đi sẽ hành như thế
nào đó thôi!”
Làm tri huyện Linh Ấp[67],
được lệnh phải vận chuyển than đá
nộp lên trên, dùng năm chiếc xe lừa [để chở].
Ông thấy các huyện khác [có xe chuyên chở] nhiều hơn,
bèn đứng ra cầu thỉnh cho tới khi thượng
cấp chấp thuận th́ mới được thay thế
[bằng phương pháp vận chuyển khác].
Ông làm tri huyện Linh Ấp, có [một người
dân tên là] Vương Khôi bán thân cho người Măn Thanh.
Người Măn Thanh cầm trát đ̣i người đến
[huyện đường] xin cấp công văn [để
làm bằng chứng], lại c̣n bắt cả vợ người
ấy là Từ Thị đi theo. Ông kiên quyết bỏ tiền
lương để chuộc người ấy về.
Linh Ấp dựa vào núi, nh́n ra sông, cuộc
đất nơi ấy có thể canh tác được, nhưng
dân đen lo ngại hễ cày cấy th́ sẽ phải đóng
thuế, thế mà thâu nhập sẽ chẳng đủ
để nộp thuế. Lợi hữu hạn mà hại
vô cùng, họ căn dặn nhau chẳng dám khai khẩn. Ông
Lục yết thị cho mọi người đều biết:
“Nếu quan trên chẳng điên cuồng, sẽ không bức
ép các ngươi nộp thuế để gây nỗi hại
vô cùng cho các ngươi”. Thế là dần dần có người
[khai khẩn] cuộc đất ấy.
Linh Ấp bị lụt to, ông Lục đích
thân đến khảo sát t́nh h́nh tai ương tại các làng,
bảo vệ nhiều cách, báo lên cấp trên, khẩn cầu
[thượng cấp] tấu tŕnh xin miễn thuế. Đến
khi cứu chẩn, ông mỗi ngày đem theo lương khô
bươn bả khắp hang cùng ngơ hẻm [đôn đốc
cứu trợ], hoàn tất [việc cứu tế] trong ṿng
bốn mươi lăm ngày. Lại nữa, năm nào Linh Ấp
thâu hoạch không khá, ông sẽ dùng nhiều cách cứu trợ,
[khiến cho] muôn dân an toàn. Khi ấy, có kẻ thâu gom tiền của để [mời
đoàn hát về] diễn tuồng, ông quở trách nghiêm
khắc kẻ cầm đầu, dùng món tiền họ thâu góp được để
giúp cho việc thí cháo. Về sau, ông được đề
cử về kinh[68]
làm Ngự Sử, húy là Thanh Hiến, được thờ
phụng trong Khổng Miếu.
Trong các bộ Nhị Tŕnh Toàn Thư, Châu Tử
Văn Tập Đại Toàn, Ngữ Loại Đại Toàn
đă chép các việc cai trị rất tường tận.
Người có tâm lo cho đời, có thể chọn lựa,
biên tập thành một quyển sách, [nghiền ngẫm kỹ
lưỡng, sẽ thấy] không có người nào lo việc
nước mà không có quy củ. Ngay như trong bộ sách gần
đây là Lục Thanh Hiến Niên Phổ cũng có những
pháp tắc cai trị tốt đẹp để có thể
học theo. Do v́ bộ Vựng Biên này hạn hẹp, không
thể trích lục đầy đủ được!
Trong bài Hiếu Đễ Luận của tiên
sinh Nhan Quang Trung có nói:
- Hữu Tử[69]
nói: “Hiếu đễ vi nhân
chi bổn” (Hiếu đễ
là cái gốc của ḷng nhân). Mạnh Tử nói: “Nghiêu Thuấn chi đạo, hiếu
đễ nhi dĩ hỹ” (Đạo
của Nghiêu, Thuấn là hiếu đễ mà thôi). Hiếu
đễ có mối quan hệ rất lớn, ngang lẫn dọc,
từ xưa tới nay, chẳng có bến bờ, đều
là sự vật này, nhưng cần phải hiểu hiếu
đễ là vật như thế nào? Cội rễ và mầm
mộng của hiếu đễ là ǵ? Con người [tồn
tại] trong ṿng trời đất chỉ là một hơi
thở, kể từ
khi có vũ trụ cho tới nay, chẳng có ngày nào không sanh,
đều luôn sống động. “Nhân” (仁, nhân
từ) là sống động; khi chân tay ta sống động,
sẽ biết đau ngứa. Chỗ nào bị tê bại, sẽ
chẳng biết đau ngứa. Hăy xem muôn vật trong trời
đất hoạt động, [thực vật] xanh biếc,
[sinh vật] nhảy nhót, bay vọt lên, rên rỉ, kêu, hót,
đều khiến cho tâm ta xúc động, nẩy sanh ư
tưởng nhận biết nỗi đau đớn của
chúng có tương quan với ta. Đó gọi là ḷng Nhân.
[Hăy thử xét xem] sự sống nơi thân
ta do đâu mà có? Liên quan đến Tinh và Khí, mà Tinh Khí vốn
chẳng phải là cái ta sẵn có, nó liên quan đến h́nh
sắc này, nhưng h́nh sắc cũng chẳng phải là cái
mà ta có sẵn, mà đều là được chia sớt từ
cha mẹ. Hăy thử xét xem, ở trong bụng mẹ, mẹ
thở th́ con cũng thở, mẹ hít vào, con cũng hít vào.
Con được nuôi dưỡng trong thai mẹ, uống
máu mẹ. Trong ấy, vốn sẵn có cái thân xác của chính
ḿnh hay chăng? Một mai ra khỏi thai, mới có tánh mạng,
nhưng có nơi nào chẳng quấn quít cha mẹ? Thử
xem những đứa trẻ thơ, suốt ngày tỉnh
th́ cũng tỉnh bên cha mẹ. Suốt ngày ngủ th́ cũng
ngủ bên cha mẹ. Suốt ngày vui cười, khóc lóc,
đều là vui cười, khóc lóc bên cha mẹ. Hễ rời
khỏi cha mẹ, sẽ chẳng làm ǵ được, chẳng
nẩy sanh được t́nh tự ǵ! Trong ấy c̣n có thân
xác sẵn có của chính ḿnh hay chăng? Đó chính là cuộc
sống trong một gia đ́nh, cả nhà cha, mẹ, anh, chị
chăm bẵm đứa bé ấy. Đứa bé ấy một mực chẳng
có ǵ cả, quấn quít với cha, mẹ, anh, chị thành một
khối. Vậy th́ ân của ngươi, oán của ta, ngươi
đúng, ta sai, há chẳng phải là một Thể ḥa quyện
ư? Đó gọi là Nhân. Nhân chính là [mối quan hệ tốt
đẹp] giữa con người với nhau, vốn ḥa hợp
cha con, anh em trở thành như một người. Đến
sau này, khi đă hơi lớn, [đứa trẻ ấy] chẳng
quấn quít theo cha mẹ nữa, tự có ư muốn chạy
nhảy một ḿnh. Chẳng c̣n vui giận bên cha mẹ, mà
có ư tưởng đùa nghịch, ĺ lợm của riêng ḿnh.
Chẳng c̣n lẩn quẩn ăn nghỉ bên cha mẹ, mà tự
có ư thích của riêng ḿnh, có ư nghĩ mong cầu tiện nghi,
há chẳng phải là cái Thể của ta (ư niệm chấp
Ngă) ngày càng lộ rơ th́ dần dần càng xa cách cha mẹ đó
ư?
Nhưng kẻ làm cha mẹ lại chẳng
nhận biết điều này, cứ dẫn dụ nó, chỉ
sợ nó chẳng thuận theo t́nh cảm thông tục trong cơi
đời, [sợ nó] chẳng trở thành chấp trước
ngă tướng, đối với mọi việc luôn khen
ngợi: “Bé ngoan của ta, cưng ngoan của ta”. Điều
ấy dẫn khởi cái gốc khen chê, chú trọng bề
ngoài của nó, mai sau sẽ trở thành thói khoe tài, hay làm khổ
kẻ khác, ham mê danh tiếng, giả vờ chính ḿnh là người
có phẩm tiết tốt đẹp. Đối với anh
em [của bọn trẻ], bèn đùa bỡn nói: “Đứa
này là con ta, đứa kia là con nuôi. Đứa này được
ta thương, đứa kia chẳng được ta thương”,
dẫn động cái gốc đố kỵ, cái gốc [phân
biệt] ta người của chúng nó. Mai sau sẽ trở
thành thói đố kỵ, làm trở ngại người hiền,
ruột thịt chẳng thuận ḥa! Hễ gặp đồ
ăn, bèn đùa giỡn bảo: “Đồ ăn của ta
phải nhiều chớ!” dẫn động tánh tham ăn
và ḷng tham lam [của trẻ], mai sau sẽ thành thói tranh ruộng,
tranh tài vật, nhận hối lộ, đút lót. Gặp trẻ
buồn khóc v́ được mất đôi chút [thứ ǵ
đó], bèn nói: “Ai chọc con ta vậy? Ta sẽ đánh nó”,
tức là dẫn động căn cội rất hung tợn,
căn cội ân oán của nó. Mai sau sẽ thành thói lập đảng
trái lẽ, âm hiểm, đấu đá tàn hại. Những
thói ấy dần dần h́nh thành, dần dần lộ rơ,
ngay cả cha mẹ cũng chẳng thể làm ǵ được
đối với đứa con như thế.
V́ sao? [Khi con c̣n thơ ấu], cha mẹ
cũng chớ nên lúc nào cũng nói ngon ngọt, chớ nên lúc
nào cũng nuông chiều, chớ nên cho ăn uống quá lố,
chớ nên không dạy con hiểu rơ ràng về cách cư xử
phải lẽ trong ân t́nh. Do vậy, những ǵ [do cha mẹ]
đă dạy con trước kia, sẽ đều dội
ngược lại thân cha mẹ. Giữa người nhà,
cha con, bèn có ư nghĩ “ngươi sai, ta đúng”, mưu tính
cho ḿnh được phần nhiều. Hễ bị mọi
người phê b́nh, bèn nói “cha mẹ thật sự [dạy
tôi] như thế đó”. Trong mỗi gia đ́nh, trong tiếng
cười, lời nói, đều là ân ân, oán oán, thắng
thắng, thua thua, không thể kể xiết! Các tranh chấp
giữa phe đảng Lư Ngưu và Lạc Sóc[70]
đều là do người nhà [xúi giục], mà cục diện
nhường nhịn, tranh giành, hay soán
đoạt đều là
từ trong một nhà chia rẽ mà ra[71],
huống hồ c̣n rong ruổi theo sự dụ hoặc bên
ngoài, bị mê hoặc bởi lời vợ, con cái, và người hầu xúi
giục! Như thế th́ có thể giữ nổi ḷng nhân
hay chăng? Nhà ḿnh là như thế, vậy th́ có thể cư
xử với người khác bèn quên đi vật chất
lẫn bản thân trong cảnh giới dù thuận hoặc
nghịch hay chăng? Có lẽ sẽ có một hai người
biết nghĩa lư, có chí khí, kiên quyết giữ được
hiếu đễ. Nhưng từ vô thỉ tới nay, tâm
quen nghĩ như thế, thói quen như thế khó thể
san bằng, khó thể cởi gỡ được! Trăm bề khiêm tốn,
hăng hái, bỗng hiện ra căn cội kiêu ngạo,
lười nhác. Trăm bề
thuận thảo, bỗng hiện ra căn cội lỗ măng,
hung tợn. Trăm bề nhường
nhịn, bỗng hiện căn cội “ta có thể, ta biết”.
Chẳng đoạn trừ triệt để các căn cội
ấy, tinh thần và khí sắc bỗng lưu lộ [những
tập khí xấu ác]. Cha con, anh em ắt phải thầm
quan sát những điều nhỏ nhặt ấy [để
răn nhắc lẫn nhau]. Do vậy, chớ nên vui vẻ,
hồn nhiên [coi như] không có chuyện ǵ!
V́ thế, hiếu đễ chẳng phải
là vật có h́nh chất[72].
Hễ có h́nh chất, sẽ trọn chẳng thể khởi
tác dụng cảm ứng đạo giao được! Do
không có h́nh chất, nó sẽ có thể thông đạt thiên hạ.
V́ sao? Vô ngă, nhẫn nhục, khéo nhún nhường, tuy chẳng
nói ra, nhưng người uống tự biết [nước
nóng hay lạnh], sẽ bị ảnh hưởng[73].
Điều này (hiếu đễ) nếu tồn tại
trong một nhà, cả nhà sẽ bị cảm động.
Nếu tồn tại trong thiên hạ, thiên hạ sẽ bị
cảm động. V́ thế, bên Đông gọi mẹ, bên Tây
dựa vào con, mỗi mỗi đều dính dáng đến
hiếu đễ, ắt phải nghĩ cách vỗ về,
khuyên dụ. Già không nơi nương tựa, trẻ nhỏ
lênh đênh, mỗi mỗi đều dính dáng đến hiếu
đễ; cho nên ắt phải nghĩ đến chuyện
phụng dưỡng suốt đời. Người đi
lao dịch, kẻ đi lính thú ngoài biên thùy, không rảnh rang
để phụng dưỡng cha mẹ, mỗi mỗi
đều liên quan đến hiếu đễ, ắt phải
suy nghĩ giúp đỡ họ. Cá to, cá con bị chết
ngay trong thai, gà mẹ dẫn gà con, x̣e cánh ấp trứng, cỏ
cây tươi tốt do cậy vào rễ mầm, mỗi mỗi
đều dính đến hiếu đễ, ắt phải
nghĩ đến chuyện tận lực giúp đỡ
khi chúng gặp cảnh khốn cùng, bảo vệ cho toàn thể
được sống sót linh động như thế[74].
Đúng là “thiên thiên linh, địa
địa ứng” (trời hằng ngày đều linh,
đất nơi nào cũng ứng). Cho đến mọi
rợ, các thứ dị loại, hễ là người có tâm
huyết, [sẽ cảm nhận] không ǵ chẳng có sự liên quan [đến chính ḿnh, như
thế th́] làm sao bất nhân cho được? Thường
thấy những bậc hiếu tử từ xưa, hoặc
là các thứ chim dữ chẳng tấn công, thú dữ chẳng
vồ người ấy, sao sáng, mây lành, điềm tốt
lành ứng hiện, há chẳng phải là do thuận theo
đức hạnh mà thành ra như thế ư? Trời
đất vận hành thuận lư; v́ thế, mặt trời,
mặt trăng chẳng vận hành sai lạc, bốn mùa chẳng
sai lạc. Thánh nhân cư xử thuận theo lư, h́nh phạt
rơ ràng, công bằng, dân chúng phục tùng, một bầu ḥa
thuận. [Sự hiếu đễ ấy khác nào] trân trọng
dâng cúng Thượng Đế, trời đất đầy
ắp sự nhân ái; [sự hiếu đễ ấy khác nào]
cúng quải tổ tông [bằng cỗ bàn thịnh soạn][75].
Ḷng hiếu thảo với cha mẹ đều ở tại
nơi đây. Ngoài những điều này ra, chẳng có
chuyện ǵ khác nữa.
Mạnh Tử nói: “Nghiêu Thuấn, hiếu đễ nhi dĩ hỹ”
(Đạo của Nghiêu,
Thuấn là hiếu đễ mà thôi). Lại nói: “Học vấn chi đạo vô
tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hỹ” (Đạo học vấn
chẳng có ǵ khác, cầu sao thâu hồi cái tâm buông lung đó
thôi). Hai điều “mà thôi” ấy
liên quan khít khao với nhau. Nếu hiếu đễ, chẳng
thể nào không t́m lại cái tâm đă đánh mất v́ buông
lung. Hễ t́m lại cái tâm buông lung, sẽ không thể nào
chẳng hiếu đễ! Chẳng phải là đă hoàn tất
một chuyện, th́ trăm điều cũng sẽ hoàn tất
ư? Bởi lẽ, tâm chẳng phải là quả tim trong lồng
ngực, mà vốn là ôn ḥa, hoan hỷ, vốn là ḷng trắc
ẩn, xót xa, vốn là tự nhiên sống động. Trời
khoảng khoát, đất mênh mông, tâm nhăn trọn khai. Trời
tối, đất đen, [sẽ khiến cho tâm người
ta cảm thấy] sầu loạn, lặng lẽ, [điều
ấy chứng tỏ] trời đất và tâm là một[76].
[Ngắm nh́n] cỏ xanh non, cây cao vót, chim rỉa lông, nai nằm,
[sẽ cảm thấy] vui sướng vô hạn. [Trông thấy]
núi non sụp đổ, hao khuyết, [trông thấy] kẻ
hung ác, thú dữ [khiến cho chúng sanh] bị chết yểu,
[chúng ta sẽ cảm nhận sự] thê lương, kinh hoàng
vô hạn. Đấy chính là vạn vật có cùng một tâm.
Bỏ điều này để đắm đuối những
thứ tiện nghi, cầu lợi khi người khác bị
tai ương, vui mừng v́ kẻ khác mắc họa, như
thế sẽ gọi là “buông
lung cái tâm”. Nếu chẳng phải vậy, th́ cái tâm mong
cầu tiếng tăm, cái tâm ghét bỏ tiếng tăm xấu
ác, cái tâm ham học rộng răi, tràn lan nhiều thứ, cái tâm
yêu chuộng tô điểm tiếng tăm, cái tâm khô khan giữ
lấy sự lặng lẽ[77],
cũng đều gọi là “tâm
buông lung”. V́ sao? [Những cái tâm như vậy] đều
chẳng thuộc vào cái tâm sống động (chân tâm) của
ta. Do vậy, trong phần trước đă nói phân minh: “Nhân là cái tâm của con người”[78].
Hiếu đễ là sự thấu lộ
đầu tiên từ căn cội ḷng nhân, là sự xum xuê
tươi tốt bậc nhất. Từ chỗ này, do cội
rễ nuôi sống, [dưỡng chất sẽ] thông thấu
cành, lá, ngàn vạn đóa hoa cùng một lúc nở chi chít, như
trong một thân người, tai nghe, mắt thấy, tay cầm,
chân đi, không ǵ chẳng phải là một bầu ḥa thuận.
Sự tu dưỡng của Đạo gia chỉ là luyện
thần khí cho thuần thục, hễ “thủ nhất”[79],
chuyện trường sanh sẽ dễ dàng thực hiện
được. Ấy là v́ một chỗ đă linh th́ ngay
cả các đốt xương cũng đều linh. Hiếu
đễ đối với trời, đất, người,
vật cũng thế, nó cũng là thần khí nơi toàn thân,
chính là chỗ trọng yếu trong thuật luyện đan
[tu dưỡng] của Đạo gia[80].
Hễ tu luyện từ chỗ trọng yếu ấy, sẽ
thoát phàm thành thánh trong khoảnh khắc, chẳng c̣n phải
[tu luyện công phu] điều ḥa nơi các đốt xương
nữa. Do vậy, hạ một lời chuyển ngữ rằng:
“Đạo học vấn chỉ
là ḷng nhân mà thôi. Đạo của ḷng nhân chỉ là hiếu
đễ mà thôi”. Do vậy, hai chữ “mà thôi” tương quan khít khao, chẳng có dấu
vết vậy!
Ông [Nhan Quang Trung] lại nói:
- Sở dĩ thiên hạ rối bời không
an tĩnh chỉ là v́ tâm tư, khí thế cường mănh,
nóng giận bộc phát, ra sức đấu đá, xông xáo
xung đột tấn công để tranh giành. Cuộc chiến
Trác Lộc[81], thất
hùng giận dữ thét gào[82],
tiếng trống thúc quân phản loạn chốn Ngư Dương[83].
Hăy xem kẻ chỉ trong một hơi thở lật nhào
đất trời là ǵ vậy? Họ thoạt đầu
chỉ v́ đôi chút ḷng hung hăng, giận dữ chẹn
ngang trong lồng ngực, dần dần sôi sục, nuốt
xuống chẳng được, thế là kháng cự cha
anh, ngạo mạn bậc trưởng thượng. Đấy
là mầm cội của sự kháng cự, ngạo mạn,
sẽ trở thành kềm kẹp quan trưởng, giết
người vùi thây để báo cừu, sẽ là kéo bè tụ
đảng những kẻ bất đắc chí [để
cướp bóc, hoành hành]. V́ thế, Dịch Truyện[84]
có câu: “Tụng tất hữu
chúng khởi” (Thưa kiện là
phải do nhiều người dấy lên). Không chỉ là thưa
kiện lên quan trên, mà trong nhà ḿnh cũng tỏ lộ nỗi
thị phi, có cái tâm tranh đoạt
thua thắng, đă bộc lộ khí thế hung hăn
hoành hành[85]. Vua Nghiêu
bảo Đan Châu[86]:
“Khí tụng khả hồ?”
(Có nên chẳng trung tín và hay tranh chấp hay chăng?) Vua Vũ
lại răn rằng: “Nhược
vô Đan Châu ngạo” (Đừng
nên ngạo mạn như Đan Châu).
Xét ra, một chữ Tụng (訟, thưa kiện), chỉ là v́ một
chữ Ngạo (傲,ngạo mạn). V́ thế,
thờ cha mẹ mà ngạo mạn, ắt chẳng thể
trọn hiếu được! Phụng sự bề trên
mà ngạo mạn, ắt chẳng thể trung. Cai trị dân
chúng mà ngạo mạn, ắt chẳng thể có ḷng nhân. Chỉ
do một chữ Ngạo, sẽ thuộc về hạng cấu
kết làm ác, bất tài, chẳng thể giải cứu! V́
thế, bậc quân tử có đại đạo, hễ
kiêu căng, ngạo mạn, ắt sẽ đánh mất [đại
đạo ấy]. Kẻ kiêu căng, tự cao, ngạo mạn,
quư ḿnh, khinh người, tự cho ḿnh là đúng, coi người
khác là sai bét, thấy ḿnh là trí huệ, kẻ khác ngu đần,
há có tâm t́nh ǵ để mưu tính tạo lợi ích, trừ
điều hại cho dân, nghĩ đến sự bệnh
khổ của dân chúng ư? [Nội dung của] sách Đại
Học, từ “tề gia”
cho đến “b́nh thiên hạ”
đều chẳng ngoài “hiếu,
đễ, từ”. Do vậy, kẻ kiêu căng rơ ràng là
bất hiếu, bất đễ (chẳng ḥa thuận, chẳng
nhường nhịn anh em), chẳng Từ; nhưng tuy là bất
hiếu, bất đễ, bất từ, rốt cuộc
chẳng giống với người khác. V́ thế, tuy có kẻ
hết sức ương bướng, nhưng không thể
nào chẳng phục tùng cha mẹ; có kẻ tột cùng hung hăng,
nhưng không thể nào chẳng khuất phục trước
bậc tôn trưởng. Đó là thiên tánh chẳng thể nào
cởi bỏ được!
Thử xem những kẻ bất hiếu,
đến trước người khác cũng sẽ tự
kiềm chế, thu liễm đôi chút. Nếu để cho
kẻ ấy ngồi, cha hắn phải đứng, chắc
chắn hắn sẽ bất an. Nếu như lại bảo
hắn là kẻ hiếu thảo, hắn sẽ vui vẻ;
chê hắn là đứa bất hiếu, hắn sẽ tức
giận! Đấy cũng là v́ căn cội làm người
chưa bị dứt mất. Chỗ chưa bị đoạn
dứt ấy chính là chỗ để dung nhập thiên tánh,
có thể tiếp nhận sự cảm hóa của ta. V́ vậy,
đối với con hiếu, em ḥa, hễ được
khơi gợi từ chỗ này, sẽ có thể chuyển
biến. Như Trịnh Trang Công đă từ bỏ mẹ
ruột của chính ḿnh, [trông thấy] Dĩnh Khảo Thúc ăn
thịt bèn chừa lại
[để đem về] biếu mẹ, hết sức liên
quan đến chuyện của nhà vua, bèn hoàn toàn hối hận, tỉnh
ngộ[87]. Lại
như Tử Cao cư tang, khóc ra máu suốt ba năm, chưa
từng nhe răng cười, há c̣n tham dự vào việc
cai trị trong huyện Thành ư? Nhưng xứ Thành có kẻ
tuy anh ḿnh đă chết [mà chẳng đau buồn, không mặc
tang phục], do Tử Cao [trở thành quan huyện], người
ấy bèn mặc tang phục. Trong lúc ấy, chẳng biết
v́ sao cảm, v́ sao ứng, [cái tâm của Tử Cao] không có h́nh
tướng mà tiếp xúc, lay động [kẻ đó] tận
tim phổi, tức là nếu không do thiên tánh xui khiến, sẽ
không thể làm như vậy được!
Xưa kia có ông Thí Hữu, anh em tranh nhau ruộng
đất. Do Thí Hữu có lần cùng ngồi thuyền với
Nghiêm Phượng, nhắc đến chuyện [tranh chấp]
tài sản, ông Phượng không ngừng gạt lệ. Ông
Hữu hết sức cảm ngộ, những chuyện như
vậy đều chớ nên phô ra. Nhà ông Nghiêm hiếu thảo,
ḥa thuận, việc ǵ phải quản chuyện nhà ông Thí mà
nước mắt đầm đ́a; nào có biết từng
giọt lệ ấy đă thấm vào ḷng ông Thí! Nói chung,
trong ṿng trời đất, kẻ xử sự theo sự
xung động của t́nh cảm, kẻ kèn cựa, kẻ
so đo, sẽ đều phát sanh xung đột với người
khác, [đó là] do chẳng có căn bản, [cho nên] không làm
sao được, [bởi lẽ, kẻ ấy] chẳng tự
biết. Riêng người có thể khiến cho kẻ khác cảm
động, dẫu sanh trong hoàn cảnh nào, [dẫu] là kẻ
ngu nhất, nghèo hèn nhất, nhưng là một đứa
con có hiếu, há mọi người chẳng ca ngợi, chẳng
kính phục, hoặc ngấm ngầm thẹn với kẻ
ấy ư? Khi có ḷng kính
trọng, thẹn thùng đối với kẻ ấy, đúng
là cái tâm hung hăn sẽ lắng xuống, cái tâm bộp chộp
sẽ tan đi, sẽ là cảnh giới một bầu đáng
mến, đáng yêu. Trong một nhà th́ nhà ấy b́nh yên, trong
thiên hạ th́ thiên hạ thanh b́nh. Trên là đến quan
trưởng, cho đến quân vương, tể tướng,
quyền lực càng lớn, [càng có sức] cổ vũ,
khuyên dụ đại chúng [to lớn], há lẽ nào chẳng
khiến cho khắp thiên hạ đều là con hiếu, em
hiền ư? V́ thế nói: “Nhất
gia nhân, nhất quốc hưng nhân” (Một nhà nhân từ sẽ
khiến cho cả nước đều dấy lên ḷng nhân).
Lại nói: “Nghiêu Thuấn soái
thiên hạ dĩ nhân, nhi dân tùng chi” (Vua Nghiêu, vua Thuấn
dùng ḷng nhân để dắt d́u thiên hạ, dân chúng đều
vâng theo), then chốt ở ngay chỗ này.
Khi phong tục trong thiên hạ bại hoại,
nói chung là do [chính ḿnh] trước hết đă làm hỏng
con em của ḿnh. Khi nhân phẩm, tâm thuật bại hoại,
nói chung cũng là do trước hết [phụ huynh] đă
làm hỏng con em. Từ bé, [nếu trẻ] đă có tánh sai
trái, hung tợn chẳng thể dung túng được, hơi
có chút tài năng đă chẳng thể thâu liễm, th́ khi
đến lúc trưởng thành, [chúng nó] sẽ nẩy sanh [những chuyện
tồi tệ] không thể h́nh dung được, chẳng
thể chịu đựng được! Từ xưa,
chuyện quét dọn, ứng đối, chầu chực bên
án, đứng hầu[88],
đều nhằm tiêu trừ cái tâm cường mănh của
con em, khiến cho chúng nó tỉ mỉ, tinh tế. Lại
như con của thiên tử, [khi vào trường học], sẽ
chiếu theo độ tuổi mà xưng hô khiêm tốn với
các bạn học. Nói “quân tại
tắc lễ nhiên, phụ tại tắc lễ nhiên,
trưởng tại tắc lễ nhiên” (hễ vua hiện
diện bèn giữ đúng lễ quân thần, hễ cha hiện
diện bèn giữ đúng lễ nghi giữa cha con, hễ
người trên có mặt th́ giữ đúng lễ nghĩa
giữa người trên kẻ dưới) là có ư nghĩa
như thế nào? Chẳng lo thiên hạ không có kẻ tài cán,
mà lo âu họ chẳng có tánh chân thật. Chẳng lo không thể
làm vua, cha, thầy, mà lo không thể làm đệ tử tốt
lành! Dùng đạo làm con để lănh đạo th́ chỗ
nào cũng sẽ có ư nghĩ phụng sự, thương tiếc.
Dùng đạo làm em để lănh đạo th́ khắp nơi
sẽ đều có ư nghĩ: “Hễ
cày cấy bèn có thể nhường ruộng, đi lại
sẽ có thể nhường đường”.
Xưa kia, vua Thuấn, vua Vũ có được
thiên hạ, thiên hạ mới âu ca, [các vị vua ấy] xét
xử, [được quan lại]
chầu hầu tột bậc hiển hách, nhưng vua Thuấn
tự coi ḿnh bất quá là kẻ nghèo cùng của họ Hữu
Ngu. Giếng, kho vẫn c̣n[89],
chỉ là chẳng thấy vận tải lương thực
nữa! [Vua Thuấn] gào khóc ngoài đồng, mới hận
không nơi giăi bày [nỗi niềm buồn bực v́ ḿnh chưa
đủ hiếu thảo để cảm động cha
mẹ], mà thiên hạ đă được b́nh trị. Vua Vũ
tự thấy ḿnh bất quá là đứa con của tội
nhân ở Vũ Sơn[90],
chẳng chuộc được nỗi đau của cha,
sóng lớn kinh rợn tận xương. Giữa
đường gặp tội nhân, bất giác lệ tuôn mấy
lượt[91], thế
mà thiên hạ lại được b́nh trị. Cho đến
Văn Vương, Vũ Vương, ḷng hiếu thảo
đều là như thế. Vua (Văn Vương) vẫn
hằng ngày đến chầu nơi tẩm môn của Vương
Quư [để thỉnh an] ba lượt. Vẫn đối
với mọi chuyện đều quan tâm tới từng hơi
thở nặng nề của cha, lúc nào cũng vâng theo lời
giáo huấn[92]. V́ thế
nói: “Sự tử như sự
sanh, sự vong như sự tồn” (Thờ phụng [cha mẹ]
sau khi đă chết, giống như phụng sự họ
khi c̣n sống; thờ phụng người đă khuất
như hăy c̣n sống). Ấy là v́ Văn Vương, Vũ
Vương trọn chẳng coi ḿnh là vua của mọi người,
mà hoàn toàn coi ḿnh là con của dân chúng
để phụng sự họ, luôn mong tưởng tạo
ân huệ cho người thiểu số, góa vợ, góa chồng,
an ủi dân, trừng phạt kẻ tàn bạo, chỉ có những
điều mong mỏi của tiền nhân rạng ngời
trong gan ruột. Đan Châu là người thông minh, há chẳng
phải là kẻ có tài, nhưng do một chữ Ngạo, đă
đoạn sạch mạng căn của thiên hạ. Do vậy,
ngũ điển, bách quỹ đều thuộc về họ
Hữu Quan vậy[93].
Lại nói:
- Thánh nhân nói đến Hiếu đều chẳng
coi đó là chuyện nhỏ nhặt. Sách Lễ Kư chép: “Tiểu hiếu dụng lực,
trung hiếu dụng lao, đại hiếu bất quỹ”
(Hiếu nhỏ là
bỏ ra sức của chính ḿnh [để phụng dưỡng,
chăm sóc nhu cầu của cha mẹ], trung hiếu là tạo
lập công nghiệp [khiến cho cha mẹ được
rạng mày nở mặt], đại hiếu là rộng thí
muôn vật chẳng có ngằn mé). Phu Tử nói đến sự
đại hiếu của vua Thuấn, bèn nói: Do đức
hạnh mà vua là thánh nhân, do đại đức ắt sẽ
tiếp nhận mạng trời, rơ ràng vẫn là dùng “cái
được sanh ra bởi trời” (thiên tánh). Dùng thiên tánh
ấy để phụng sự cha mẹ.
Cần phải hiểu cha mẹ là vật ǵ,
chẳng phải là nói đến cha mẹ theo kiểu một
khối máu thịt! [Phải hiểu] ta do cha mẹ sanh ra vốn
là vật ǵ, chẳng phải là cái ta một khối máu thịt
đâu nhé! Vốn tṛn xoe[94],
sáng vằng vặc, mọi người đều ḥa thành
một khối[95].
Cha mẹ cũng là vật này, mà muôn vật trong trời
đất cũng là vật này. Cha mẹ sanh ra thân ta; do vậy,
phải dâng hiến tất cả những ǵ thuộc về
thân ta, dâng hiến toàn bộ cho cha mẹ th́ mới là hiếu
thuận. Nếu chỉ “dụng
lực, dụng lao”
(phụng dưỡng bằng vật chất, kiến lập
công nghiệp), tức là đă phụng sự cha mẹ bằng
h́nh tướng thô thiển bên ngoài; nhưng đối với
một điểm chân cốt huyết rỗng rang, thông
linh (chân tâm), tức là món bảo bối vô biên, bèn quăng đi,
chẳng ngó ngàng tới, có thể gọi là hiếu tử hay
chăng? Ta thờ cha mẹ, mong sao mỗi điều nhỏ
nhặt, mỗi niệm, mỗi cử động của
cha mẹ, cho tới khạc nhổ, bắc ghế, dâng gậy,
không ǵ chẳng tận t́nh dâng hầu, nhưng đối với
một điểm chân cốt huyết thông linh, rỗng
rang, tức là đối với món bảo bối vô biên, lại
ném đi, chẳng ngó ngàng tới, có thể nói là hiếu tử
được chăng?
V́ thế, hễ nói đến đại hiếu
th́ chính là thuận thân, dưỡng chí. “Thuận thân” (順親) chính là thuận theo t́nh thân linh
diệu (giác tánh), thuận theo t́nh thân nơi phần tiên thiên
chưa phân ra [để cứu họ thoát khỏi tam đồ].
Hễ ch́m đắm trong t́nh thức, sẽ là ngụy thân
(t́nh thân hư ngụy). “Dưỡng
chí” (養志)
là nuôi cái chí đại công [vô tư][96],
dưỡng cái chí “bào dân dữ
vật” (胞民與物, coi mọi người
đều là ruột thịt, muôn loài chẳng khác ǵ ta)
thông trời thấu đất. [Nếu chỉ quan tâm
đến] cái thân xác này, sẽ là cái chí hư ngụy. Nhưng
đă phải thuận thân, dưỡng chí rồi, lại
c̣n phải “thành thân, thủ
thân” (誠身守身, giữ cho cái thân chân thành, ǵn giữ cái thân). “Thủ thân” là giữ lấy
cái thân tuân theo đạo lư sáng
ngời, tốt lành, giữ lấy cái thân
ḥng đạt được đức hạnh, đạt
đạo. Nếu không, dẫu dốc cạn sức chăm
nom, phụng dưỡng, vẻ mặt mềm mỏng, hầu
hạ, vẫn là cái thân hư ngụy[97]!
Có thể nhận biết cái thân thật sự th́ mới có
thể nhận biết t́nh thân chân thật! V́ thế nói: “Chẳng thấu đạt cái
thân chân thật, sẽ chẳng phải là tùy thuận t́nh
thân”.
Thân của Tăng Tử và thân của Tăng
Nguyên[98]
khác nhau vời vợi; do vậy, họ phụng sự cha
mẹ cũng khác nhau. Nay lại xét đến ḷng hiếu
của vua Thuấn và ḷng hiếu của Vương Tường.
Ḷng hiếu của Vương Tường tột bậc
chân thật, tột bậc khẩn thiết, chẳng tiếc
nuối mảy may sức lực nào, há chẳng bằng [ḷng
hiếu] “không suy nghĩ, không gắng
sức” (ư nói: Ḷng hiếu hạnh tự nhiên lưu lộ)
của vua Thuấn hay sao? Nếu luận theo ḷng hiếu th́
[ḷng hiếu của Vương Tường] giống hệt
như [ḷng hiếu của] vua Thuấn, Vương Tường
chính là Nghiêu Thuấn. Nếu nói theo địa vị phẩm
hạnh th́ sẽ cách biệt vời vợi,
tâm lượng [của Vương Tường] chưa hoàn
măn.
Lại gạn rằng: “Đạo của Nghiêu Thuấn chỉ là hiếu
đễ mà thôi”. Ấy là v́ Đại Thuấn nhận
thức t́nh thân bằng sự linh thông, sáng suốt (linh tánh,
chân tánh), c̣n Vương Tường nhận biết t́nh thân
nơi xác thân. Đại Thuấn coi Cổ Tẩu là bậc
chí thần, chí thánh, chí nhân, chí từ: “Nếu cha muốn giết
ta, chẳng muốn cho ta cưới vợ, [những tâm niệm
ấy] đều là những vọng tâm huân tập về
sau. Chân tâm vốn chẳng phải là như vậy”. Nếu
tuân theo cái mạng lệnh vô lư ấy ḥng [ḷng cha được]
vui thỏa một chốc, tuân phụng cái tâm tập khí của
cha, cắt đứt chủng tử chí thần, chí thành,
chí nhân của phụ mẫu chân thật, sao nỡ cam ḷng đối
với tâm, nỡ nào tàn nhẫn đối với tánh? V́ thế,
trăm cách duy tŕ, trăm cách đào bới, khêu gợi
để thật sự hiện ra chân phụ mẫu! Những
người như Vương Tường nằm băng
[khóc lóc xin trời ban cho cá chép để dâng lên mẹ], cố
nhiên là thiên tánh tha thiết, nhưng
đối tượng tùy thuận [của Vương
Tường] chính là cha mẹ theo phương diện t́nh
thức, vẫn là duyên theo phương diện thân thể
của Vương Tường, [cho nên] vẫn chưa đạt
tới địa vị như Ngu Thuấn[99].
V́ thế, sự nhận biết cũng chỉ đạt
tới mức đó; đấy chính là do chưa hiểu rơ
về thiện vậy.
Đă hiểu rơ thiện, sẽ hoàn toàn linh
hoạt, sống động, cách ứng xử trong từng
trường hợp sẽ đều có chừng mực.
[Như cha đánh bằng] gậy nhỏ th́ hứng chịu,
[cha dùng] gậy lớn th́ bỏ chạy. Những chuyện
như không thưa tŕnh mà lấy vợ[100]
chẳng phải là do có pháp đă thành lập sẵn bèn noi
theo, mà là do tâm linh của chính ḿnh [suy xét cẩn thận] như
thế rồi quyết định, tự lập chủ ư
như thế. V́ vậy, phụng sự cha mẹ cũng là
như thế. Do đó, nói: “Sự
phụ mẫu cơ gián” (Thờ
cha mẹ th́ phải can ngăn từ những ư niệm nhỏ
nhặt vừa dấy lên). “Cơ”
(幾) là những ư niệm
vi tế dấy lên; có thể thấy trước [điều xấu] lẽ tốt [từ
chỗ này]. Cha mẹ vốn chỉ có một tấm ḷng lành,
hoàn toàn thuộc về cát tường, thiện sự[101].
Do v́ có một ư niệm nhỏ nhặt dấy lên, ḷng lành ấy
cũng bị ẩn khuất, nhưng chưa hề hoàn toàn
bị mất sạch. Đấy cũng chính là ư niệm
vi tế để chuyển hung thành cát. Thờ cha mẹ
th́ hăy nên uyển chuyển từ chỗ này[102].
Nếu ư niệm vi tế ấy chưa dấy lên bèn khơi
gợi. Ư niệm vi tế ấy đă chớm động
bèn dẫn dắt. Ư niệm vi tế ấy bị mất đi,
hăy phục hồi lại. Đấy là dùng cái tâm [chân thành
của ta] để xoay chuyển cái tâm [của cha mẹ],
chính là công khóa “thấy cái vô
h́nh, nghe cái không có tiếng”. V́ thế, chẳng đợi
[cho đến khi cha mẹ] có chuyện
hành xử không
tuân theo đạo lư [mới can gián], mà hăy nên [can gián ngay]
khi trông thấy [cha mẹ] có chí hướng [hành xử] chẳng
tuân theo đạo lư, người con hiếu đă trọn
hết tâm cơ vậy. Chỉ có như vậy th́ mới
có thể khiến cho tâm [của chính ḿnh và tâm của cha mẹ]
ḥa thành một, chưa hề có trái nghịch.
Có ḷng thành như thế, thuận thảo như
thế, cái chân nguyên tương quan “có cùng một gốc” của ta và cha mẹ sẽ
được bao gồm toàn bộ trong ấy, mà chân nguyên
“trời đất có cùng
căn cội, muôn vật có cùng một Thể” cũng
được bao gồm toàn bộ trong ấy, há có tánh mạng[103]
nào chẳng trọn vẹn, có “địa
vị chánh đáng, vạn vật sanh thành”[104]
nào chẳng hành, có chuyện nào trong thiên hạ mà chẳng
trọn lẽ thông đạt quyền biến, chẳng vận
hành trong sự linh minh[105]
của ta? Đấy chính là nói “gom
góp trăm điều thuận thảo để làm vui ḷng
cha mẹ”. Sở dĩ Đại Thuấn có đức
hạnh của bậc thánh nhân là do đă trọn đủ
sự tôn kính, phụng dưỡng như vậy đó! Sở
dĩ Châu Vũ Vương và Châu Công thờ cha mẹ đă
mất giống hệt như cha mẹ hăy c̣n sống, thờ
cha mẹ đă khuất như hăy c̣n tại thế, cũng
là v́ lẽ này. Điều này thường tồn tại,
thường sống động, thấu triệt căn nguyên
của vạn sự vạn vật, quán thông mọi loài. V́
thế, vua Thuấn có thể gánh vác sứ mạng của
thượng thiên, thành tựu mỹ đức do trời
ban tặng, dùng thiên tánh để phụng sự cha mẹ.
Vũ Vương cúng tế tổ tiên của
chính ḿnh, đạt tới sự thờ phụng thiên địa
và tổ tiên của toàn thể thiên hạ, dùng t́nh chí thân nơi
bản tánh để phụng sự trời[106],
rốt cuộc là một chữ Sanh. Kể từ khi có trời
đất đến nay, chẳng ngày nào không sanh. Sự chí
thân [nơi bản tánh] và ta đều là sanh thành liên tục
trong suốt một đời[107].
Lại c̣n do cái Sanh ấy mà toàn thể những sự vật
tương quan trong suốt một đời đều bị
ảnh hưởng, tác động
theo, [đều được chuyển biến thành thanh
tịnh], đấy mới gọi là “chẳng thẹn với đấng sanh ra ta”. Bài Tây
Minh của Trương Tử[108]
hoàn toàn nhằm giảng rơ ư này.
C̣n như ḷng hiếu của Vương
Tường chẳng tránh khỏi là một cách thức [vận
dụng ḷng hiếu] chết cứng, [chẳng phải là đă]
lănh hội [ư nghĩa] “bất
tư, bất miễn” (chẳng suy lường, chẳng
gắng công), chưa thể nói là “bất tư nhi đắc, bất miễn nhi trúng” (chẳng
suy nghĩ mà đạt được, chẳng gắng sức
mà trúng) [109]. Đắc
và Trúng là vật như thế nào? Chúng là những thứ tự
nhiên, sống động, có thể tác động những
quy củ vô h́nh, có thể trọn hết những chuẩn
mực trong thiên hạ. V́ thế nói: “Quy củ là chuẩn mực đă đạt tới
tận cùng, là tột cùng của nhân luân”. Thung dung Trung Đạo
là thánh nhân, nhưng chẳng lănh hội Đắc, chẳng
lănh hội Trúng, th́ cũng có thể nói là “tư miễn” (思勉, suy nghĩ, gắng công). “Tư miễn” là ư, là thức.
Nếu tánh chẳng thật sự tỏ lộ toàn vẹn,
ắt sẽ thành ra xử sự theo t́nh cảm[110].
Nếu động đến Tánh Đế, tuy khóc lóc, buồn
bă mong cầu [cha mẹ nghĩ lại sẽ thương yêu
ḿnh] như vua Thuấn, chẳng thể là bậc thánh nhân,
mà cũng chẳng thể [trọn hết đạo tận
hiếu của] của kẻ làm con, như thế th́ sẽ
là khốn khó cùng cực [để giữ tṛn đạo
hiếu][111], [chẳng
thể] nghiễm nhiên [có thể trọn hết đạo
hiếu] chẳng do suy nghĩ, chẳng phải gắng sức
được!
Chúng ta đă chẳng thể sanh khởi [ḷng
đại hiếu] hoàn toàn giống như Nghiêu, Thuấn,
[vậy th́] hăy nên nghĩ cha mẹ đă ban cho ta vật ǵ?
[Vật ấy] vốn chẳng phải là một cái sọ
rỗng tuếch có mắt thấy, tai nghe, hoặc là một
túi rượu, đăy cơm thối tha! Há nên sống cả
đời khiến cho vật ấy bị khuất lấp,
hồ đồ? Hăy nên dùng vật ấy (chân tánh, linh tánh)
để phụng sự cha mẹ. Nghĩ đến đây,
phải [làm sao cho Tánh Đức được] hiển lộ,
toàn thân toát mồ hôi, chẳng chịu nhường chuyện
bậc nhất trong thiên hạ (hiếu kính) cho người
khác thực hiện! Chính ḿnh làm được một phần,
đó là trọn hết một phần hiếu đễ.
Khi đạt đến [mức độ] hoàn toàn, do Tu
Đức, phước sẽ trọn đủ, ắt ḷng
hiếu của vua Thuấn, vua Vũ, ḷng hiếu của thừa
tướng Châu Công, ḷng hiếu của Tố Vương[112]
Khổng Tử, không ǵ chẳng phải là tuy khác đường
mà cùng quay về một nơi vậy.
Lại nói:
- Thiên hạ chẳng phải là không có kẻ
bất hiếu. Tuy có kẻ bất hiếu, nhưng nếu
được gọi là hiếu th́ kẻ ấy sẽ vui
vẻ, gọi là bất hiếu, kẻ ấy sẽ tức
giận, hổ thẹn. Hơn nữa, trước mặt
người khác sẽ chú trọng, tô điểm danh tiết,
chẳng dám buông lung phóng túng như trong chốn riêng tư.
Đấy cũng là chỗ lương tâm không bị ch́m
đắm. Có trọn đủ cái lương tri ấy, sẽ
là căn cội và mầm mộng của ḷng đại hiếu.
Chỉ v́ chưa thể tự hóa giải tập tâm (習心, cái
tâm thuận theo tập khí) và tập khí. V́ thế, vẫn bất
hiếu y như cũ. Phân tích minh bạch [điều này],
cho nên cha [phải nên] biết dạy con, con [phải nên] biết
tự khắc chế [tập khí phiền năo của chính
ḿnh]. Ví như tấn công giặc, biết giặc ở chỗ
nào th́ mới ḥng dẹp yên chúng nó!
Lại nói:
-
Lư do khiến cho [mỗi cá nhân] huân tập thành tiểu bất
hiếu có bốn điều:
1)
Một là kiêu sủng, [tức là] v́ cha mẹ thương
yêu con quá đáng, thường thuận theo tánh khí của con.
Nó bỗng dưng ương bướng, [cha mẹ] chẳng
chịu nổi, thường nhường cho nó chiếm lẽ
tiện nghi, để mặc cho nó buông lung vui thú! Bảo
nó làm lụng hoặc phụng dưỡng, nó sẽ chẳng
quen. Ở trước mặt người khác, nó nói
năng phạm những sai lầm nho nhỏ, cha chẳng nỡ
ḷng làm mất mặt con, [thế mà] con dám mạo phạm
cha. Đối với phương diện văn
chương, phẩm hạnh, tài nghệ, năng lực,
cha khen ngợi con, chỉ sợ con chẳng hơn ḿnh,
nhưng con ắt mong cha phải thua kém ḿnh! Tích tập thói
kiêu căng, phóng túng ấy, đối trước kẻ
khác, sẽ chẳng thể thi thố được, chỉ
riêng đối trước cha mẹ là giở quẻ
đủ tṛ. Đúng là kẻ đă già đầu mà chẳng
có kiến thức vậy!
2) Hai là thói quen. Do quen ăn nói thô lỗ, bộp
chộp, nên dám xung đột [với người khác]. Do
quen thói hành động cục mịch, dễ dăi, cho nên dám
buông lung, tùy tiện. Do quen thói được cha mẹ chia
sẻ những thứ ngon lành, tốt đẹp nhất từ
bé, cho nên chẳng c̣n nhớ
tới sự ngọt ngào ấy. Do quen thấy cha mẹ chống
chọi bệnh tật, chịu đựng đau khổ,
cho nên [con cái] chẳng c̣n hỏi han cha mẹ đau đớn
ra sao.
3) Ba là thích buông tuồng. Thấy những kẻ
ngang vai bằng lứa bèn nhiệt thành khôn ngằn, nhưng
lạt lẽo đối với cha mẹ. Vào pḥng riêng ngàn
nỗi vui thú, gặp cha mẹ bèn lặng thinh. Thậm chí
rơ ràng coi cha con, anh em như những vật thô tục, chẳng
thích tiếp xúc; như vậy th́ ư niệm hiếu đễ
sẽ do đâu mà phát sanh cho được?
4) Bốn là quên ơn, nhớ oán. Đă quen
chịu ân lâu ngày, sẽ càng quên bẵng; thường oán hận
lâu ngày, sẽ càng chất chứa. T́nh cảm của con người
là như thế đó! V́ thế, đăi người khác một
bữa cơm, họ sẽ nhớ ân đức, nhưng
thường [đăi đằng như thế] lâu ngày, họ
sẽ dấy ḷng chê bai, chán ghét. Cho một lần th́ cảm
ơn, thường giúp đỡ th́ họ sẽ [so đo
vật được cho] ít hay nhiều! Gặp mặt một
lần th́ thân thiết, [thường gặp gỡ] lâu ngày
sẽ nghi kỵ, hiềm oán nặng nề. Huống hồ
cha mẹ, anh em đă quen gặp cả đời, bèn coi t́nh
thân ái là chuyện cố nhiên rất tầm thường. Lại
c̣n có khi [người thân tỏ ḷng] quan tâm đến ta mà
phải chuốc lấy sự bực bội. Coi những
lời giáo huấn, nhắc nhở như lời lẽ rác
tai! Lại c̣n có [những lúc người thân] khen ngợi
ta mà bị ta chán ghét. Coi chuyện [người thân] che chở,
giúp đỡ chẳng nài mệt nhọc, hết sức lo
toan [cho ta] là chuyện b́nh thường. Lại c̣n có khi [v́ người
thân] xen vào chuyện của ta quá mức mà bực bội.
Đối với đại ân trước mắt bèn điềm
nhiên chẳng nhận biết, làm sao có thể nghĩ tới
sự nhọc nhằn mang thai, nuôi dưỡng, nỗi khổ
sở bồng bế, bú mớm, nỗi đau đớn
kinh hồn [khi sanh nở] nơi thân thể yếu đuối
[của mẹ] cho được? V́ thế, nhân t́nh thế
thái có khi hết sức điên đảo, hết sức cổ
quái, mà chẳng tự nhận biết. Con cái đối với
cha mẹ là như thế đó, kẻ không v́ làm ân mà bị
mắc oán hiếm hoi lắm thay!
Những điều như vừa kể ấy
đều là thói quen thường t́nh của con người,
nhưng họ cũng chưa hề là không có chân tánh, chỉ
là v́ [thói quen] tích tập lâu ngày, cho nên chẳng biết là
sai lầm đó thôi! Do vậy, hăy nên gấp mau lay tỉnh,
khắc phục, đối trị cho sớm, luôn luôn suy
lường, đừng bảo “ḷng cha mẹ nhân từ,
ta có thể tự khoan dung [cho sự bất hiếu của
chính ḿnh]”, đừng nói “thói đời bạc bẽo, [dẫu
ta bất hiếu] vẫn c̣n đỡ hơn người khác”.
Tiểu bất hiếu tích lũy dần dần sẽ trở
thành đại bất hiếu, chẳng đáng sợ ư?
Lại nói:
- Nguyên do huân tập thành đại bất
hiếu có bốn điều.
1) Một là tài sản riêng. Hễ tiền tài
lọt vào tay ta, sẽ thành cái ta có, nhưng tiền tài ở
trong tay cha mẹ th́ lại nói: “Ta phải có phần chứ!”
Tiền tài đầy đủ bèn quên cha mẹ, tiền tài
thiếu thốn bèn ḍm ngó [tiền tài của] cha mẹ. Cầu
mong tiền tài không được bèn oán hờn cha mẹ.
Cha mẹ chẳng thể tự sống, phải ăn nhờ
ở đậu ta, ta sẽ lại oán trách cha mẹ. Thậm
chí có khi cha trơ trọi một thân, con là con một, nhưng
v́ tiền tài mà có chuyện hục hặc. [Hễ phải
phụng dưỡng cha mẹ th́ con cái] đứa lớn,
đứa nhỏ đùn đẩy lẫn nhau. Cũng có
khi bỏ mặc cha mẹ, không phụng dưỡng, chẳng
biết thân [của chúng ta] là thân của ai, tài sản [của
ta] là tài sản của ai! Ta chẳng đem theo một
đồng nào tới [thế gian này], nhưng ẵm bồng,
bú mớm chẳng khuyết cho đến hiện thời
là do ai làm vậy? Đến khi kiếm được tiền
nhiều hơn mấy đồng bèn toan so đo, tính toán cùng
cha mẹ!
2) Hai là mê luyến vợ con! Đang thân thiết
với vợ con, mà cha mẹ [vừa bước vào] bèn tẻ
ngắt. Có thức ăn ngon, tiền bạc, bèn toan chiều
vợ nuông con. Hễ có hội hè, dịp vui, bèn dẫn vợ,
bế con [đi dự], ư niệm làm vui ḷng cha mẹ ngày càng
nhỏ bé, chẳng nghĩ đứa con là con của ta, mà
ta là con của ai? Con của cha mẹ là ta, mà ta chẳng đoái
hoài, vậy th́ ta cũng [trông mong] nhờ cậy con cái nỗi
ǵ? Vợ chồng ḥa hảo cố nhiên là chuyện vui thú
trong gia đ́nh, nhưng lúc [chính ḿnh] c̣n đang oa oa đợi
bú, lúc tiêu tiểu c̣n chưa phân định rơ ràng, há có biết
mê luyến vợ hay không? Há vợ có thể chăm sóc cho
ta được sống sót hay không? Cha mẹ thấy con đă
trưởng thành, có gia đ́nh, vui sướng khôn xiết
suốt đời, [ngờ đâu] con có vợ, đâm ra
[cha mẹ] bị mất luôn đứa con rồi!
3) Ba là đàng điếm. Lửa dục hừng
hực, khách [bị gái làng chơi hoặc kẻ nữ lơi
lả] dụ dỗ như cuồng, dẫu có người
tựa cửa mong chờ, đau ḷng mà chẳng biết. Lăng
phí gia nghiệp, [khiến cho] vợ và mẹ chồng hục
hặc, có khi căi cọ, trách móc, mà [chồng vẫn thờ ơ]
chẳng quan tâm. [Vợ]
ôm con chẳng ngủ, hồn mơ màng mưa gió thê lương
thâu đêm. Người tóc bạc (cha mẹ) chẳng vui, sự
phụng dưỡng vật chất đơn bạc nửa
đời sau cũng bị chông chênh[113].
Than ôi! Sự mê cuồng ấy dấy lên mấy chốc, mà
nỡ khiến có chuyện xảy ra như thế ấy.
4) Bốn là tranh giành, đố kỵ. Trời
đất to tát [ngần ấy], thế mà c̣n có kẻ bực
bội [oán trời trách đất]. Cha mẹ đối với
các con, há chẳng khỏi có khi t́nh cảm thiên vị! Do vậy,
[các con] xắn tay áo tranh phần, gườm mắt nh́n
nhau tranh giành ḷng sủng ái [của cha mẹ], hoặc anh em
hục hặc bất b́nh, hoặc chị em so đo từng
chuyện nhỏ nhặt, che chắn khuyết điểm,
tranh chấp sở trường, chia bè lập phái công kích kẻ
không cùng phe, bêu riếu lẫn nhau khiến cho gia đạo
suy vi, chất chứa [những t́nh tự] sân hận, ưa
thích, [khiến cho] tâm t́nh hiếu thuận bị lợt lạt.
Bốn điều ấy cũng là thói
thường t́nh của mọi người, sợ rằng
hiếu tử cũng chẳng tránh khỏi, dần dần
trở thành đại bất hiếu. Ôi! Đáng sợ
thay!
Lại nói:
- Có kẻ dường như là có hiếu, mà
chẳng phải là có hiếu! Cha có lỗi, [con cái] hăy nên khéo
léo can gián. Cha phạm lỗi bèn lập tức che đậy.
Nếu chỉ biết thuận theo cha mẹ về mặt
t́nh cảm, chẳng biết tùy thuận cha mẹ theo phương
diện lư trí, hoặc mặc t́nh thiên vị chiều theo, sẽ
khiến cho gia đ́nh gặp nguy cơ; hoặc để
mặc cho cha mẹ phóng
túng [làm bậy], sẽ chuốc lấy sự ghét bỏ của
xóm giềng, hoặc do che giấu những chuyện lén lút
ngấm ngầm của cha mẹ,
sẽ đắc tội với trời đất. Đấy
là thành tựu điều ác của cha mẹ, há có phải
là hiếu! Có kẻ tự bảo chính ḿnh là hiếu, mà thật
ra chẳng phải là hiếu. Có thể chăm nom, hầu
hạ cha mẹ, có thể phụng dưỡng, nhưng lộ
vẻ tự đắc ta là
người có đức hạnh! Trong
những gia đ́nh thường dân, chỉ có một nhà,
cha con sớm tối quây quần, ắt sẽ có lúc lời
lẽ va chạm, phải t́m cách tiêu trừ ngay những
[xung đột] ấy, ḥng khôi phục t́nh cảm chân thành,
thân thiết. Có kẻ sĩ thông hiểu sách vở, nhưng
ngại ngần v́ cha già cả, bèn viện cớ muốn
cho cha sống an nhàn mà an trí [cha] ở nơi khác. Hoặc là
do sợ cha mẹ quá cổ hủ, bèn mượn cớ ấy
để chống trái, xa ĺa. Hoặc là v́ thấy cha mẹ
kém cỏi, bèn mượn cớ để đàn áp, đến
nỗi ngày càng lợt lạt, ít nói chuyện với cha mẹ,
biểu lộ thái độ lănh đạm, tuy tôn kính, nhưng
không thân thiết.
Cũng có hạng người thích rong chơi,
bỏ niềm vui quây quần trong gia đ́nh, để vầy
đoàn cùng bạn bè, [đi qua] làng khác, tỉnh xa lâu năm
chầy tháng, mong mỏi đạt được lợi
lộc từ người khác, mượn tiếng là v́ nhà
nghèo [phải t́m cách] nuôi sống gia đ́nh, thật ra là tích
cóp để phụng dưỡng vợ con, há có phải là
hiếu thảo! Lại có kẻ được người
khác thấy là hiếu, nhưng thần thấy [kẻ ấy]
chẳng phải là hiếu. [Cha mẹ] c̣n sống th́ cũng
tận hết sức phụng dưỡng, cũng quây quần
bên cha mẹ, [cung phụng] vật chất đầy đủ,
nhưng thiếu sót tấm ḷng, trọn chẳng có niềm
vui [đền đáp ân cha mẹ] thật sự. Đến
khi cha mẹ tạ thế, ma chay chu đáo, khóc lóc, vật
vă theo thói thường, nhưng cũng chẳng buồn rầu
thật sự. C̣n như kiếm cuộc đất để
an táng, bèn dốc cạn sức, tốn nhiều tiền, lại
là v́ mưu tính phước lộc cho con cháu, chẳng phải
v́ mong cho cha mẹ được yên nghỉ. Mắt của
chư thần thấy chuyện này rất rơ.
Lại có kẻ được khen là hiếu
trong một thời, chẳng thể được đề
cao ngàn đời. Dẫu có thể được truyền
tụng là hiếu thảo ngàn đời, vẫn chẳng
thể thỏa măn tấm ḷng. Kẻ ấy chẳng hề
phạm một lỗi nào trong những lỗi vừa kể
trên đây, không một hiếu hạnh nào chẳng trọn
vẹn, nhưng chưa nghe đại đạo, đối
với chuyện “tu thân, trọn hết tánh” vẫn c̣n khuyết
thiếu. Nói chung là di thể đọa lạc[114],
chẳng báo ân cha mẹ. V́ thế, [trau giồi] đức
hạnh trở thành bậc thánh nhân th́ sự hiếu thảo
ấy mới được gọi là đại hiếu.
Kẻ làm con hăy nên gấp phản tỉnh!
Lại nói:
- Tuổi già bị con cháu chán ghét cũng có mấy
loại [nguyên do].
1) Một là lạc hậu. Áo mũ, lễ số
chẳng hợp thời nghi. Hăy nên nghĩ tóc bạc da mồi,
sao c̣n măi được? [Những t́nh tự, kinh nghiệm,
đức hạnh] cổ xưa rất thú vị, khiến
cho kẻ khác yêu tiếc.
2) Hai là tiếc tiền tài. [Người già]
thâu gom [tiền tài], nắm giữ, tính toán, cấm con cháu lạm
dụng. Hăy nên nghĩ [người già] v́ ai mà gian khổ?
Những thứ ta ăn hoặc dùng hằng ngày là do ai
để lại?
3) Ba là gầy yếu, cử động chẳng
tiện, đến nỗi [con cháu] phải vất vả d́u
đỡ, trông nom. Hăy nên nghĩ báo đáp ân cù lao, cha mẹ
nuôi con ḥng nhờ cậy tuổi già chính là vào lúc này.
4) Bốn là lẩm cẩm, già suy. Nói năng
chẳng rơ ràng, nặng tai, câu cú trúc trắc. Hăy nên nghĩ
đến lúc chính ḿnh mới sanh ra, chẳng biết ǵ, chẳng
nói được, ai đă yêu thích chơi đùa với ta?
5) Năm là yêu chiều. Đối với trẻ
nhỏ bên nội, bên ngoại, [cha mẹ thường] nhường
cơm, nhường áo, che chở thiên vị quá đáng. Hăy
nên nghĩ: Đối với tôi tớ mà ta c̣n phải nên có
tấm ḷng thông hiểu thương yêu, huống hồ đối
với những người ruột thịt.
Nếu đối với những điều
này mà dấy ḷng chán ghét, sẽ là bất hiếu mà chẳng
tự biết. Hăy nên gấp phản tỉnh.
Lại nói:
- Lại nữa, giữa những đứa
con sanh trước và sanh sau, giữa con ḍng đích và con ḍng
thứ[115], nếu
cha mẹ có sự thiên vị th́ kẻ làm con cũng dễ
sanh ḷng hiềm oán. Đối với chuyện này, ta hăy nên
đối xử bằng tấm ḷng [chân thành], mong sao cha mẹ
vui ḷng mới thôi. Hàn Ngụy Công (Hàn Kỳ) đời Tống
đă nói: “Cha từ, con hiếu,
đó là chuyện thường t́nh, chẳng đáng phải
bàn luận. [Chỉ riêng trường hợp] cha mẹ chẳng
có ḷng từ, mà con chẳng đánh mất đạo hiếu
[th́ mới đáng bàn định]. Đấy là lư do v́ sao
xưa nay ca ngợi Đại Thuấn vậy”. Nói
chung, chuyện cấp bách nhất là tiêu trừ, hóa giải
[sự thiên vị trong t́nh thương của cha mẹ]. Ở
trong hoàn cảnh ấy, [phải tiêu trừ] cho đến
khi những cặn bă (chấp trước, sân hận, oán hận,
hiềm khích, chướng ngại) hoàn toàn bị tiêu tan, chẳng
c̣n một mảy tánh nóng giận nào! Hăy lưu tâm làm cho cha
mẹ vui ḷng bội phần cẩn thận hơn những
kẻ làm con thông thường. Nếu cha mẹ là người
có ḷng nhân, tự nhiên sẽ chuyển thành thương yêu
ta. Nếu [cha mẹ] là người không có ḷng nhân, [dẫu
ta] chẳng thể khiến cha mẹ cảm động, há
nên mâu thuẫn với cha mẹ? Vẫn
hăy chỉ nên tự ḿnh trọn hết đạo
làm con, ngơ hầu chẳng bị hăm vào phường ngỗ
nghịch mà thôi! Nếu cứ một mực thấy cha mẹ
sai trái, lửa giận đầy ắp trong bụng chẳng
thể tiêu trừ, chẳng thể tháo gỡ, ắt sẽ
có lúc chẳng đè nén được, [do v́] căn cội
nhỏ nhiệm chẳng trừ, sẽ dẫn đến
tức nước vỡ bờ. Tôi sợ rằng đến
khi ấy, trách cha mẹ th́ nhẹ, mà tội lỗi của
kẻ làm con sẽ chẳng thể trốn tránh được
đâu nhé!
Lại nói:
- Há chỉ là chớ nên tích lũy ư niệm
và tập khí oán giận[116],
mà c̣n phải làm cho cha mẹ, anh em hành theo thiên lư, phải làm
cho cha mẹ, anh em yêu thương ta, thân thiết với
ta. Đấy là ư tốt, nhưng cũng chớ nên quá nóng
vội, dùng biện pháp quá nặng nề. Quá nặng th́ họ
sẽ chấp nhặt, chẳng thể chuyển biến
được!
Lại nói:
- Lại c̣n có bốn hạng cha mẹ, càng
phải đối đăi hiếu thảo thiết tha hơn.
Phạm tội bất hiếu với [bốn hạng cha mẹ
ấy], sẽ đặc biệt nặng nề hơn đối
với những loại khác. Một là già cả, hai là bệnh
tật, ba là góa bụa, bốn là nghèo nàn, túng thiếu. Thuở
cha mẹ trẻ trung, khỏe mạnh, ăn, nghỉ, đi,
đứng vẫn có thể tự lo liệu được.
Tới lúc run rẩy, quạnh quẽ, chống gậy, dễ
ngă, lặng lẽ khổ sở trong đêm lạnh, xương
cứng khó thể chịu đựng. C̣n nếu như bị
trúng phong, bệnh tật lâu ngày, ngồi, nằm chẳng
thoải mái, vương văi những thứ bẩn thỉu,
khiến chiếu, đệm đáng gớm. Con khó phụng
dưỡng cha mẹ chỉ trong lúc này, mà cha mẹ cũng
trông cậy con chỉ trong lúc này.
Lại như tuổi già mất người
phối ngẫu, ai hỏi đến nóng lạnh, cùng nhau
chung bóng, chẳng thể thốt lên những lời ấp
ủ trong tâm! Bậc trượng phu th́ c̣n được,
chứ bà góa biết làm thế nào đây? Ngay như người
con cháu đông đầy, đứa có đôi lứa bèn vui
vầy đôi lứa, đứa có con thơ sẽ lo chăm
bẵm con thơ, mỗi người ngủ ngáy o o, mỗi
kẻ lo làm chuyện chính ḿnh vui thích. Đêm dài [người
già thao thức] nghe tiếng đồng hồ điểm bèn
chịu không nổi, lệ trào đẫm gối, biết
tỏ cùng ai? [Người nào] có con cháu hiếu thuận, có
thể chăm nom, phụng dưỡng th́ c̣n có thể tạm
thời gởi gắm tâm t́nh lạnh lẽo [v́ nỗi cô tịch
do góa bụa] nơi nhiệt tâm [hiếu thuận của
con cháu]. Bất hạnh gặp phải con dâu hung tợn,
quen thói thô tháo, vô lễ, hung tợn, nếu chồng hiếu
thuận với bố mẹ ruột, cô ả sẽ ngang
ngược gây trở ngại, cách tuyệt. Chỉ v́ ǵn
giữ nửa điểm cốt nhục [thân t́nh], [cha mẹ
vất vả cả đời
chăm chút cho con để] phí công đổi lấy một
đời thê lương, khổ sở!
Lại có kẻ v́ chăm chút cho con mà tiền
tài rỗng tuếch, do lo cưới gả mà tài cùng lực
kiệt. Thuở trẻ trung, khỏe mạnh, lo toan cho con ấm
áo, no cơm dư dật[117],
tới khi già cả, bần cùng, găi đầu do dự, do
mơ tưởng một món ăn ngon mà thèm rỏ dăi, nín
nhịn ăn mày ba bữa cơm [của con]! [Mẹ già] sáng
đun tối nấu mà vẫn bị mắng mỏ là ăn
không ngồi rồi. Dệt vải, thêu vá, ẵm cháu, vẫn
bị trù rủa cho mau chết! Những người làm cha
mẹ như thế ấy, oán khí đủ để thấu
trời, kẻ làm con cháu của họ càng phải nên hiếu
thảo gấp bội những đứa con thông thường
khác. Kẻ khuyến hóa cũng nên khẩn thiết [khuyên răn]
từ chỗ này!
Trong sách Khuyến Giới Toàn Thư của ông
Trần Thành Khanh có viết:
- Lại như kinh Tăng Nhất [A Hàm] đă
nói, trong đời có kẻ tỳ thiếp sanh con cho chủ
nhân. Họ cũng mang thân nữ như mọi người,
nhưng do sanh trong nhà nghèo hèn, bị rơi vào tay kẻ phú
quư, những tối chia chăn sẻ gối [với chồng]
th́ ít, những đêm ngủ đơn côi th́ nhiều. Kẻ
c̣n may mắn, gặp bà chủ (vợ cả) là người
hiền lành, hiểu biết, hoặc tánh t́nh lúc tốt lúc
xấu th́ c̣n có thể miễn cưỡng sống qua ngày.
Nếu gặp [vợ cả] có tánh ghen tuông, hung tợn, suốt
ngày chửi mắng dữ dằn, lăng nhục đủ
mọi cách. Hễ thốt một lời biện bác, ắt
bị chửi là quá phận, vô lễ. Kể khổ [với
chồng] nửa câu, [vợ cả] bèn căm hận [rủa
xả vợ lẽ] “xúi giục bên gối”. Lại gặp
phải con dâu bất hiếu, con trai, con gái bất hiếu,
chẳng nghĩ đến chuyện bố chồng thương
tiếc, cứ một mực xúc xiểm với mẹ đích
của chồng, lũ tôi tớ lại phụ họa theo,
sóng gió nổi nơi đất bằng, sấm sét giáng xuống
từ trời xanh!
Lại bất hạnh gặp phải chủ
nhân bạc t́nh, chẳng biết đến ấm lạnh,
chẳng thương xót lúc ốm đau. Trong khuê pḥng, lệ
đẫm áo xanh[118],
ở ngoài cửa, [chồng] ḥ reo, nhậu nhẹt thỏa
thích! Thậm chí có kẻ nuông chiều mê mệt người
yêu mới, chán ghét t́nh cũ. Tự thương ḿnh mạng
bạc, mấy phen t́m cái chết, thật đáng đau xót!
Ngẫu nhiên có thai, phải che giấu nhiều cách. Chẳng
che giấu được, sẽ chịu đủ mọi
nỗi ê chề, phẫn uất. Ngồi trên cỏ mà sanh nở,
lấy ai chăm sóc? Nếu may mắn có con, sẽ bị
[vợ cả] ghen ghét, chẳng dung, [người thiếp]
phải càng thêm dè dặt. Hở ra [sẽ bị nhiếc móc]
là “cậy có con rồi buông tuồng”! Hễ con mắc bệnh,
khoét thịt trị vết thương, cam chịu đói
rét! Kinh dạy: “Mười
tháng hoài thai mẹ vất vả, ba năm bồng ẵm
ḷng mẹ ân cần”. Nếu bản thân là tỳ thiếp,
sẽ phải siêng khổ gấp bội b́nh thường!
Đến khi con trưởng thành, được có vợ
con, được hưởng ruộng đất, nhà cửa,
hoàn toàn chẳng nghĩ những thứ được
hưởng thụ trong hiện thời đều là do mẹ
ta khô máu, ṃn xương, cạn lệ, đứt ruột
mà ra. Nói nghĩ đến đây, chẳng thể không cay mũi!
Kẻ làm con hăy nên thường nghĩ đến điều
này, phát phẫn lập chí, thề mong sẽ có ngày rạng
mày nở mặt [mẹ ruột], ḥng đền đáp muôn
ngàn nỗi đắng cay, khổ sở. Hăy thường
xuyên phụng dưỡng. Hăy nên nghĩ mẹ vất vả,
khổ sở, [mạng sống leo lét] như ngọn đuốc
trước gió đáng lo để sớm bề phụng
dưỡng. Nếu chẳng tận tâm kiệt lực, sẽ
càng là đại nghịch bất đạo hơn những
đứa con bất hiếu thông thường, chắc chắn
sẽ nhanh chóng bị trời diệt!
Hiếu đạo há trọn hết
được, quư ở chỗ kịp thời! Đừng
để cho tháng ngày [cha mẹ c̣n sống với ta] ngắn
dần, để rồi hối hận tâm ta chưa trọn
hết. Đừng dốc sức lo cho con cái [của chính
ḿnh] ngày càng nhiều, [để rồi lơ là cha mẹ],
khiến cho cha mẹ ta thương tâm mất rồi! Cha mẹ
đợi cho đến khi con có thể phụng dưỡng,
nói chung là đă năm,
sáu chục tuổi, ví như cầm cây đuốc ngắn
mà đi đường dài, bươn bả đến quán
trọ sợ c̣n chẳng kịp, há dám nhởn nhơ trên
đường ư? Kẻ làm con ôm vợ ẵm con, ăn
no, ngủ kỹ, nào có biết người già trong nhà tóc bạc,
mắt mờ lại bị mất đi một ngày? Vợ
con hăy c̣n ít tuổi, ngày tháng hưởng dụng hăy c̣n dài,
mà cha mẹ sanh ta bóng dâu sắp xế, ḍng sông [thời
gian] trôi măi chẳng ngừng! Vạn nhất sẩy chân, khó
báo đáp chừng bằng mảy bụi, giọt nước!
Lên trời, xuống đất, chẳng t́m được lối!
Than thở suông nỗi bi hoài “cây muốn lặng mà gió chẳng
ngừng”, đối trước gà lợn [dâng cúng vong linh
cha mẹ] tuôn trào nước mắt, chẳng phải là di
hận suốt đời ư? V́ thế, hằng ngày hăy
nghĩ cha mẹ ân sâu khôn sánh, ta chẳng thể thường
có cha mẹ, ắt hiếu tâm sẽ tự nhiên dấy khởi.
Xưa kia, đă có người truy điệu [cha mẹ] đă
khuất như sau: “Huyên huyên bất
hiếu khu, thốn thốn từ thân huyết. Ô điểu
chánh đa t́nh, bách niên không lệ kiệt” (Tấm thân bất hiếu
đẹp xinh, mỗi tấc đều do máu mẹ thành,
chẳng thể báo đền như chim quạ, trăm năm
khô cạn lệ suông thôi). Lời ấy bi thương
thay! May mắn là c̣n chưa đến nông nỗi ấy, hăy
nên mau hiếu dưỡng!
Đời Tống, Tư Mă Ôn Công (Tư Mă
Quang) đă nói:
- Ta thờ cha mẹ chẳng có ǵ hơn người
khác, chỉ có thể chẳng khinh dối mà thôi. Thờ vua
cũng thế!
Có bốn điều đại cương
về ḷng hiếu: Lập đức, kế thừa gia
nghiệp, giữ ǵn thân thể, dưỡng chí. Trong những
điều ấy, sẽ có điều chẳng trọn hết,
cho nên [thành ra] mỗi người một khác. Điều cốt yếu là tùy
phần, tùy sức, trọn hết những điều đáng
nên trọn hết. Thật sự có một niềm chí thành,
thực hiện những điều ấy suốt cả
một đời cho đến khi nhắm mắt, chẳng
có mảy may nuối
tiếc th́ cũng gần
như đă trọn hết ḷng hiếu vậy!
La Thị nói:
- Hiếu tử thờ song thân, chẳng thể
khiến cho cha mẹ ta sanh ḷng lănh đạm, chẳng thể
khiến cho cha mẹ ta sanh tâm phiền năo, chẳng thể
khiến cho cha mẹ ta có tâm kinh hăi, chẳng thể khiến
cho cha mẹ ta sanh ḷng sầu muộn, chẳng thể khiến
cho cha mẹ có nỗi niềm khó nói, chẳng thể khiến
cho cha mẹ ta có tâm xấu hổ, ân hận.
Vu Thiết Tiều nói:
- Kẻ làm con phải hoàn toàn thấu hiểu
tấm ḷng kỳ vọng của cha mẹ đối với
con. Tuy danh lợi trong thế gian, không phải là ai cũng ắt
đều đạt được, nhưng kẻ đọc
sách khắc khổ dùi mài, kẻ theo nghề nông bèn nỗ lực
làm lụng vất vả, kẻ buôn bán, tận tâm kinh doanh,
chuyên chở, ḥng tấm thân có thể đạt tới địa
vị sang giàu, khiến cho trong ḷng cha mẹ thường
nghĩ như ḿnh là người được phong tặng,
là người giàu có. Đấy cũng là bí quyết để
dưỡng chí. Kẻ làm con mà khiến cho cha mẹ chẳng
mong mỏi điều ǵ, đau ḷng lắm thay!
Ôn Tiết Hiếu[119]
nói:
- Trong nhà có người bạc đầu chính
là phước của con cháu. Một là liên lạc với
những bậc cố cựu, hai là được xóm làng
tin phục, ba là con cháu vâng theo mạng lệnh, tôi tớ tuân
theo quy củ, bốn là nói kể chuyện cũ của tổ
tiên, làm bậc tiền bối gương mẫu trong quận,
ấp, năm là ḥa giải thói mạnh bạo, nóng nảy
của bọn trẻ tuổi, sáu là chăm chút những điều
chi ly.
Trong bài Khuyến Hiếu Thiên của Vương
Trung Thư có đoạn:
- Đời có kẻ bất hiếu, sống
uổng kiếp phù sanh, chẳng nghĩ ơn cha mẹ, sống
nào khác cây khô? Khi thân chưa thành người, mười
tháng trong bụng mẹ, khát bèn uống huyết mẹ,
đói bèn ăn thịt mẹ. Khi thân con sắp sanh, thân mẹ
như bị chém, cha v́ mẹ đau xót, vợ khóc trước
mặt chồng, chỉ sợ khi sanh nở, sẽ thành quyến
thuộc quỷ. Đến khi thấy mặt con, mừng một
mạng hăy c̣n. Do tấm ḷng từ mẫu, ngày đêm siêng chăm
bẵm. Mẹ nằm đệm, chiếu ướt, con
ngủ mền đệm khô. Con đang ngủ yên ổn, mẹ
chẳng dám duỗi người. Thân vùi trong xú uế, chẳng
rảnh nghĩ tắm gội. Trâm lệch, mũ đội
ngược, h́nh dung chẳng đoái hoài. Đi lại sợ
sụp hố, giở chân sợ té lăn. Bú mớm suốt
ba năm, máu, mồ hôi mấy hộc? Vất vả muôn
ngàn nỗi! Con vừa tuổi choai choai, tánh t́nh dần cứng
cỏi, hành tung khó câu thúc. Theo bạn bè rong chơi, mặc sức
thỏa tửu sắc! Sáng tối chẳng về nhà, mẹ
tựa cửa ngóng trông, từ hoàng hôn tới sáng. Con đi
ngàn dặm đường, ḷng mẹ ruổi ngàn dặm.
Con cưới được vợ đẹp, t́nh cá
nước ḥa hợp, thấy mặt mẹ như đất,
thấy mặt vợ như ngọc! Nếu mẹ trách một
lời, nén giận, mắt đổ lửa! Nếu vợ
chửi mọi cách, cười mơn, chẳng thấy nhục.
Mẹ mặc áo xống cũ, vợ khoác lụa là mới,
chẳng ngại người ghét hiềm, chẳng hiểu
người thẹn ghét. Nếu cha mẹ góa bụa, lẻ
loi trong đêm trường. Khỏe th́ cho bữa cơm, bệnh
th́ cho bữa cháo, bỏ lửng trong pḥng trống, giống
như khách ở trọ! Sắp thành quỷ suối vàng, mạng
như đuốc trước gió, nhanh chóng sắp vô
thường, cô hồn vùi hang núi, hồn linh chốn suối
vàng. Ai nghĩ đang thọ khổ?[120]
Cha mẹ vừa nằm xuống, anh em chia của cải,
chẳng nghĩ ân mẹ cha, chỉ nhủ ta có phước!
Phải bảo hạng người ấy, chẳng bằng
loài cầm thú! Quạ hiền mớm ngược lại,
dê núi c̣n khụy chân[121].
Khuyên ngươi là phận con, kinh sách siêng tụng đọc.
Hoàng Hương[122]
hè quạt chiếu, đông bèn giữ ấm chăn, Vương
Tường nằm băng lạnh, Mạnh Tông[123]
khóc trúc khô. Quách Cự[124]
c̣n chôn con, Đinh Lan[125]
từng khắc gỗ. Cớ sao người thuở nay,
chẳng học theo thói
cổ, chớ mang đầu bất hiếu, sống uổng
trong nhà người! Chớ dùng thân bất hiếu, mặc
uổng y phục người. Chớ dùng mồm bất hiếu,
ăn uổng cả ngũ cốc! Đất trời tuy rộng
lớn, chẳng dung phường ngỗ nghịch, hăy sớm
hối lỗi trước, đừng chờ trời tru
lục!
Bài Thân Ân Ca (bài ca về ân cha mẹ) của Đường
tiên sinh như sau:
- Nay ta chưa nói, lệ
đă ướt đẫm trước. Ân cha mẹ dưỡng
dục khó thể báo đền! Đúng là đứt ruột
khó thể thốt lời. Ḷng đau như xé, thưa cùng mọi
người. Mẹ mang thai chịu đựng dập vùi, đủ
mọi nỗi ma chướng khó thể chịu nổi!
Đừng nói là sanh nở chẳng có tốt hay xấu, sống
chết trong khoảnh khắc, chẳng biết làm thế
nào? Bụng nay đau nhói ḷng hoảng hốt, gọi người
cởi bớt y phục cho. Ngàn sống vạn chết nhiều
khôn xiết, chỉ cậy trời thần che chở cho!
Sanh con máu đẫm, tâm hồi hộp. Hàm răng cắn
chặt, mắt trợn ngược. Cho đến khi đă
cắt nhau xong, lại phải ba hôm mới tỉnh người.
Phân tiểu thường xuyên vấy khắp ḿnh, tanh tưởi
hôi dơ khó
thể ngửi, ḷng mẹ chẳng chút nào chán ghét, rửa
giặt lắm phen thật nhọc nhằn. Nghe con thơ
khóc một tiếng bèn xoay ḿnh giơ tay bồng. Nghĩ ra
khi con mới nửa năm hoặc tṛn một tuổi, có
bao giờ mẹ được ngủ tṛn giấc? Ngày tháng
Chạp tuyết rơi dầy đặc, kề đầu
áp má ôm con ngủ. Chỉ v́ sữa để cho con bú, suốt
đêm phanh ngực lộ ra ngoài. Nghe nói trẻ con sẽ lên
đậu, mẹ lập tức sợ vàng cả mắt.
Một khi con vừa chớm lên đậu, mẹ suốt
ngày chẳng màng đến cơm nước. Dập đầu
lễ bái, thắp hương, suưt soa khấn vái Đậu
nương nương. Nếu có thể kêu van động
ḷng Đậu nương nương, nào ngại lủng
đầu, chảy năo ra! May sao con đă tṛn hai tuổi, có
thể bám vào bàn ghế để tự đi. Chỉ lo
con té, sưng đầu mặt, bụng đầy một
niềm lo ngay ngáy. Sanh phải đứa con tánh ngang ngược,
mặc t́nh làm theo ư nó thích, thế mà cha mẹ quá yêu chiều,
vẫn nói “con ta ngoan thế đấy!” Con nay tóc đă chấm
ngang vai, chớp mắt là con đă trưởng thành. [Ḷng
cha mẹ] hết sức đau xót không buông bỏ được,
[v́] con chẳng thể thường [lẩn quẩn] dưới
gối. Tuy kiếm được một chút ruộng
vườn, [cha mẹ] phải hứng chịu muôn ngàn vất
vả, chẳng phải v́ con trai th́ cũng v́ con gái, chính
ḿnh ăn xài được mấy đồng? Cha nh́n mẹ,
mẹ nh́n cha, v́ sao suốt ngày má hóp, mặt vàng vọt? Chỉ
v́ con cái sắp kết hôn. Cau mày nh́n nhau trong một pḥng. Từng
ly từng tư đều là ân đức, ai có thể miêu tả
đúng được nửa mảy? Giả sử bài thơ
Liễu Nga có thể miêu tả được, th́ cũng
chỉ là phảng phất sáu bảy phần!
Bài Hiếu Thuận Ca như sau:
- Khi mẹ mang thai mười tháng, bước
chân cao thấp đều sợ tổn thương con. Con
hăy nên suốt đời ghi nhớ ư ấy. Giữ thân chánh
đáng, tôn trọng cha mẹ, chẳng thiếu sót hai điều
ấy. Chữa trị cho con khi nó bị sốt hay cảm
lạnh, hận chẳng thể moi móc tim, phổi, gan! Nếu
cha mẹ có điều phiền năo, hăy nên t́m đủ mọi
cách khiến cho cha mẹ vui ḷng. [Cha mẹ] giận đến
mức quỷ thần đều bị dọa sợ, vừa
thấy con thơ mặt liền tươi cười. Kẻ
làm con cũng phải nên thường giống như vậy.
Đối với cha mẹ đừng mang một mảy
sân hận nào! Ẵm con dạy nói, bắt chước kiểu
nói của con, con cười hay mắng cha mẹ đều
khoan khoái. Mai sau ở trước cha mẹ nghe giáo huấn,
dẫu bị đánh đập chẳng rên siết. Cha mẹ
và con đừng sống tách riêng. Hăy xem thử xem quan chức
xét án, giám định cha con bằng cách trích máu, cho nên chẳng
đành sống khác nơi. Lúc con vừa cất tiếng khóc
lọt ḷng, anh em vốn là cùng một cội. Trời sanh cành
lá hăy chống đỡ nhau. Nếu nghĩ đến chuyện
chia cắt gia đ́nh, đó chính là đă chối bỏ ơn
cha mẹ vậy. Phú quư, bần cùng là do chính bản thân ta [đă
tạo nghiệp trong quá khứ], làm vương hầu hay
làm kẻ tôi đ̣i, đều do cái nhân khác nhau. Khuyên chàng nghèo
túng đừng trách hận song thân. Phú quư đừng quên người
sanh ra ḿnh. Thường chuyển t́nh cảm vợ chồng
thắm thiết vào hiếu đạo. Khuyên chàng hăy hiểu
rơ song thân là duy nhất. Chồng chết, vợ mất đều
tái hôn được, cha mẹ mất rồi, há tái sanh?
Cha mẹ vốn giống như cây cối, sao khỏi trút
lá trước gió thu? Khuyên chàng khi [cha mẹ] c̣n sống, hăy
tận lực phụng dưỡng, cha mẹ mất rồi
khóc lóc cũng như không! Kẻ làm con mang tấm thân bảy
thước sống trên đời, suốt đời khó
báo đền ơn song thân. Khuyên chàng hăy siêng năng vào dịp
tang tế, thường đến bên đầu núi tảo
mộ.
Kim Thiếu Tung nói:
- Xét ra, chuyện tang lễ cho tới nay đă
suy đồi cùng cực! Chuyện ǵ cũng đều chẳng
được như thuở xưa! Chuyện cưới
gả trong ṿng bảy thất càng chẳng hợp lẽ
thường! Bậc quân tử thời cổ cư tang, ăn
chẳng thấy ngon, nghe nhạc chẳng vui, chỗ ở
[dẫu tốt đẹp nhất vẫn cảm thấy]
không yên, [cư tang suốt] ba năm mà c̣n như vậy. Nay
những kẻ nhẫn tâm, trái nghịch lư lại ngược
ngạo toan tính cưới gả trong ṿng bảy thất, bỏ
nằm rơm gối đất để dùng đệm cỏ[126],
thay áo tang[127] để
khoác gấm thêu. Gạt bỏ niềm tang tóc cha mẹ
để mưu tính sự vui vợ chồng, có hợp lễ
hay chăng? Có an tâm được chăng? Đứa con
làm như thế đáng gọi là kẻ đại bất
hiếu. Cha mẹ dạy con làm như thế chính là dạy
con đại bất hiếu. Hơn nữa, trong lúc đang
có chuyện hung mà cử hành chuyện cát, cả vợ lẫn
chồng đều bất tường. Chẳng biết
do kẻ nào đầu têu, đến nay đă thành thói quen,
trở thành phong tục mất rồi! Thậm chí nhà thi lễ
cũng có kẻ làm như thế, quả thật là tội
nhân đối với Châu Công,
Khổng Tử vậy! Hăy nên thống thiết dứt
trừ!
Trầm Long Giang nói:
- Kẻ làm con thờ cha mẹ, không ǵ lớn
bằng chuyện lo hậu sự. Nếu đối với
chuyện này mà chẳng trọn hết tấm ḷng th́ c̣n có
chuyện ǵ để có thể trọn hết tấm ḷng
nữa đây? Hiềm rằng anh em đông đảo, đùn
đẩy lẫn nhau; do vậy, qua quít cho xong chuyện,
đến nỗi ôm hận về sau. Tôi trộm cho rằng,
nếu kẻ làm con trưởng mà có thể tự một
ḿnh lo liệu, hăy nên coi đó là trách nhiệm của chính
ḿnh, chẳng cần phải sai phái những đứa con
khác. Trong số các con, nếu ai có sức lo liệu, cũng
nên coi đó là nhiệm vụ chính ḿnh, chẳng cần phải
khăng khăng làm phiền con trưởng. Ai nấy tận
tâm, tranh nhau dốc sức trước hết th́ mới đúng
phận làm con. Nếu có cái tâm trông mong người khác góp sức
một phần, tức là trong cái tâm của chính ḿnh đă có
một phần chẳng thể tận tâm vậy!
Thời cổ, tang ma chú trọng đau buồn,
người thời nay chẳng buồn! Thời cổ, tế
lễ chủ yếu là cung kính, người thời nay bất
kính. Cả hai đều là phi lễ, mà thất lễ trong
tang ma lại càng quá đáng! V́ thế, đối với chuyện
này, phải hết sức chú ư.
Ông Châu Tại Am nói:
- [Thời cổ], đại phu th́ [quàn quan
tài] ba tháng, sĩ phu th́ hơn một tháng. V́ thế, chưa
chôn cất th́ chẳng biến đổi y phục, thay
đổi thức ăn, [nhằm biểu thị] ḷng đau
buồn v́ cha mẹ chưa an nghỉ. Người thời
nay bị mê hoặc bởi thuyết Phong Thủy, tham cầu
cuộc đất tốt, nên cứ kéo dài lâu ngày [không an táng].
[Có kẻ] đă chôn rồi, lại do có lắm nỗi nghi
ngại [chôn nhằm cuộc đất xấu], bèn lắm
phen đào lên, chẳng nghĩ đến ư nghĩa chọn
cuộc đất tốt của cổ nhân chỉ là v́ con
hiếu cháu thảo tôn trọng di thể [của ông bà, cha
mẹ], chẳng để cho [di thể ấy] bị gió và
nước xâm phạm, chẳng bị trùng kiến đục
khoét, chẳng bị cày bừa chạm đến, ngày sau
[chỗ mộ phần ấy] không trở thành đường
sá, không trở thành thành quách, ng̣i, ao, như thế là
được rồi. Há có phải là dùng hài cốt của
cha mẹ để làm công cụ tạo phước lợi
cho con cháu ư? V́ thế, chẳng cần phải tham cầu
Phong Thủy! Lại có kẻ lầm lạc v́ cái thuyết
phân pḥng[128], [khiến
cho] anh em bàn bạc nhiều lẽ, lần khân suốt năm.
Đă chọn năm, tháng, ngày, giờ, lại ngờ núi[129],
nước bị lệch hướng. Tức là cha mẹ
sanh nhiều hơn một đứa con, đâm ra sẽ tăng
thêm một ngày hài cốt bị phơi bày vậy! Há có biết
họa phước của con người, ai có nhân duyên nấy,
liên quan ǵ đến núi, nước? Tức là chẳng cần
phải chấp nhặt chuyện Phân Pḥng! Nếu cứ mê
muội chấp trước chẳng tỉnh ngộ, hễ
gặp phải lợi danh dẫn dắt, sẽ lần khân
[quàn linh cữu của cha mẹ] nơi quê người, năm
này qua năm kia, chẳng mong chi [người đă khuất]
sẽ được an táng! Hoặc gặp phải lụt
lội, hỏa tai, lại có nỗi lo lửa thiêu, nước
trôi! Kẻ làm con há có thể an tâm ư? Lại có chuyện
quàn xác chờ ngày tốt, muôn phần chớ nên để
lâu ngày! Hễ để lâu, sẽ bị nước mưa
thấm ướt, khí nóng nung nấu phía dưới, chưa
an táng mà gỗ đă mục nát. Người nhân từ, con
hiếu thảo, hăy nên thiết tha suy nghĩ!
Người có hiếu thời cổ như
Tăng Tử (Tăng Sâm) hễ đọc thấy điều
ǵ liên quan đến lễ, vạt áo ướt đẫm
[nước mắt], Mẫn Tử (Mẫn Tử Khiên) bằng
một lời an ḷng mẹ, Lăo Lai[130]
mặc áo màu sặc sỡ, giỡn hớt làm vui ḷng mẹ,
Hoa Bảo[131] không [làm
lễ] đội mũ, đau đớn khóc thương
cha, Bá Du[132] bị
gậy đập bèn khóc thảm, Vương Bầu[133]
vịn cây bách khóc ai oán, Quách B́nh ra sức làm thuê [để
có tiền] chôn cất cha mẹ, Giang Cách làm mướn để
nuôi mẹ. Ai nấy trọn đủ ḷng chí tánh, chí t́nh, tạo
khuôn mẫu lỗi lạc cho trăm đời, nay lại
nêu tạm lược vài chuyện ḥng bảo ban người
đời để cùng xem biết.
Hóa Thư[134]
nói:
- Văn Xương Đế Quân giáng sanh tại
Ngô Hội vào đầu thời Châu, thờ cha mẹ chí hiếu.
Mẹ tuổi đă sáu mươi, mọc mụn nhọt
lở loét ở lưng. Đế Quân bèn hút vết loét suốt
ba ngày, [máu mủ] đầy miệng. Nhổ ra xem, thấy
có màng như vải, mủ trắng như gạo, đấy
chính là nguyên do gây nên vết loét vậy. Mẹ bèn được
yên, nhưng do bệnh tật lâu ngày, mẹ bị gầy ṃn.
Thầy thuốc nói: “Đối với căn bệnh đă
lâu này, hăy dùng thịt người để bổ người,
dùng chân khí bồi bổ chân khí th́ mới mong b́nh phục
được”. Đế Quân ban đêm bèn khoét thịt nơi
bắp đùi, nấu lên dâng mẹ. Bỗng nghe trong không
trung có tiếng nói: “Do ngươi thuần hiếu, thượng
thiên cho mẹ ngươi thọ thêm mười hai năm
nữa”. Quả nhiên mẹ lành bệnh. Khi Đế Quân ba
mươi sáu tuổi, cha mẹ mất, tự dốc hết
tiền của đă dành dụm từ trước để
lo liệu tang ma, ngủ bên cạnh mộ. Rốt cuộc,
ba năm sau, lũ lụt bộc phát, Đế Quân trai giới
canh mộ, ngày đêm tụng kinh Đại Động[135]
chẳng thiếu sót, và nghiêm cẩn thờ tượng
Nguyên Thủy [Thiên Tôn], cầu thoát khỏi lũ lụt. Tới
khi nước rút, thấy khe hang trước mộ đă
biến thành g̣ cao, rộng khoảng một dặm. Từ
đấy, những cây tùng [trồng quanh mộ] vĩnh viễn
không bị lụt lội nữa. Sau khi mất, Thượng
Đế sai [Đế Quân] cai quản Quân Sơn. Về
sau, [Đế Quân] lại sanh trong nhà họ Trương,
phụng sự Châu Tuyên Vương, kết bạn với
Doăn Cát Phủ, [t́nh bạn ấy được] kinh Thi gọi
là “Trương Trọng hiếu
hữu”. Nay kẻ sĩ hằng ngày thờ phụng Văn
Xương, chẳng biết Đế Quân sở dĩ đạt
thành chánh quả toàn là do ḷng hiếu hữu! V́ thế, sao lục
[sự tích của Ngài đầu tiên] để dạy bậc
quân tử đọc sách.
Đời Tống, cha mẹ của Triệu
Cư Tiên tuổi đă ngoài chín mươi. Tánh t́nh [Cư
Tiên] rất nghiêm túc, cẩn trọng. Vợ chồng Cư
Tiên phụng dưỡng [song thân] siêng năng, cẩn trọng,
dốc ḷng hiếu hạnh. Hằng ngày thắp nhang cầu
xin cha mẹ khỏe mạnh, t́m đủ mọi cách khiến
cho cha mẹ vui vẻ trong lúc xế bóng mới thôi! Thượng
Đế thấy tâm ư ông chuyên nhất, thưởng cho ông
bảy con trai, ba rể đều đỗ đạt
cao. Vợ chồng Cư Tiên đều chứng quả thành
tiên.
Dương Phủ ở Thái Ḥa[136],
từ biệt mẹ vào đất Thục (Tứ Xuyên) để
đến bái phỏng Vô Tế
Đại Sĩ[137].
Trên đường đi, gặp một vị lăo tăng,
hỏi [Dương Phủ] đi đâu, thưa: “Con đến
bái phỏng ngài Vô Tế”. Vị Tăng bảo: “Chẳng bằng
thấy Phật”. Thưa: “Ở đâu ạ?” Vị Tăng
bảo: “Ngươi hăy quay về, thấy người mang
dép ngược, mặc áo màu như thế đó, vị ấy
chính là Phật”. Ông bèn quay về. Đêm khuya gơ cửa, mẹ mừng
rỡ khoác áo, đi ngược dép ra cửa, đấy chính
là h́nh dạng đức Phật
như vị Tăng đă nói. Dương Phủ kinh ngạc,
ngộ ra! Từ đó, dốc cạn sức kính mẹ, chú giải Hiếu
Kinh đến mấy vạn chữ, hễ nghiên mực sắp
cạn, nước mực bỗng tràn đầy, ai cũng
nói là do ḷng hiếu cảm vời.
Phật Di Lặc nói:
- “Trong nhà có hai vị Phật, bực thay người
đời chẳng biết. [Hai vị Phật ấy] chẳng
dùng vàng lấp lánh sơn thếp, cũng chẳng do chiên-đàn
khắc thành. Song thân nay hăy c̣n sống, chính là Thích Ca, Di Lặc.
Nếu có thể thành kính đối với cha mẹ, cần
ǵ phải mong cầu công đức nào khác”.
Mạo Khởi Tông nói:
- Bậc cao nhân danh sĩ thời Lục Triều
tín ngưỡng Hiếu Kinh, hoặc là tuẫn táng, hoặc
siêu độ vong linh, hoặc bị bệnh tụng [Hiếu
Kinh] bèn được lành, gặp tranh chấp bèn tụng
niệm mà được giải trừ, [có người
đang tụng kinh bỗng] gặp hỏa hoạn cứ
[nghiễm nhiên tụng tiếp] lửa
bèn tắt. [Có sự thần hiệu] chẳng thể nghĩ
bàn như thế! V́ vậy, Hoàng Khản hằng ngày tụng
Hiếu Kinh hai mươi lượt, phỏng theo [cách tụng
đọc] kinh Quán Âm (phẩm Phổ Môn). Than ôi! Bỏ vị
Phật hiện tại để cầu vị Phật quá
khứ hiển linh, tức là trái nghịch cái tâm vậy. Chẳng
niệm Hiếu Kinh, chỉ cầu may được
phước nơi các kinh khác, thần sẽ chán ghét!
Kinh Bảo Tạng dạy:
- Phụng sự hiếu thảo đối
với cha mẹ, tức là Thiên Chúa Đế Thích ở
trong nhà ngươi. Hiếu dưỡng cha mẹ, Đại
Phạm tôn thiên ở trong nhà ngươi. Hiếu kính cha mẹ,
Thích Ca Văn Phật ở trong nhà ngươi. V́ thế, Thiểm
Ma Bồ Tát[138]
khoét mắt cứu mẹ, bệnh trầm kha lành ngay trong một
ngày. Từ Tâm đồng tử phát nguyện chịu khổ
thay [cho các chúng sanh trong địa ngục], vầng lửa
tiêu tan ngay trong khoảnh khắc. Hạnh tột cùng động
ḷng trời, ḷng chân thành cảm Phật, từ xưa đều
luôn là như vậy! Ai nấy hăy nên dốc ḷng tin tưởng.
Theo giáo huấn của nhà Phật, chính ḿnh tuân thủ, vâng
theo giới luật, khắc khổ tu hành. Lại c̣n có thể
hướng dẫn song thân trai giới, niệm Phật th́
mới hợp với giáo chỉ của Như Lai, tổ
tiên chín đời được sanh lên thiên đường.
Người nương theo Đạo giáo cũng [phải nên
làm] như thế. Nay kẻ tục đạo, tục tăng
chẳng thể như vậy, cứ nói: “Ta xuất gia là đă
độ cha mẹ rồi”, đúng là tự dối ḿnh!
Thôi Miện tánh
rất hiếu thảo. Mẹ bị mù, ông bèn dốc cạn
gia sản để chữa trị, chẳng cởi mũ,
chẳng tháo đai để hầu hạ mẹ suốt
ba mươi năm. Mỗi khi có chỗ phong cảnh đẹp
đẽ, hoặc dịp tốt lành, ắt sẽ dắt
d́u mẹ [đến tham dự] ăn uống, cười
nói để mẹ quên nỗi khổ sở. Mẹ mất,
ông tiều tụy, hộc máu, ăn chay suốt đời.
Yêu mến anh chị gần như mẹ, thương yêu các
cháu c̣n hơn con ruột. Hễ có bổng lộc, ắt sẽ
chia sẻ, bảo: “Ta đă buồn v́ cây muốn lặng mà
gió chẳng ngừng, không thể nào biểu lộ ḷng hiếu
của ta. Xét ra, mẹ nghĩ nhớ chỉ có bốn năm
người này, đều phải đối xử nồng
hậu với họ, ngơ hầu an ủi [ḷng mẹ] nơi
chín suối”. Về sau, ông làm quan đến chức Trung Thư
Thị Lang. Con ông là Hữu Phủ là một vị tể
tướng hiền lương. Ôi! Ông Thôi là hiếu tử
thật sự. Mẹ c̣n sống bèn tận hết sức
làm vui ḷng mẹ; mẹ đă khuất bèn dưỡng chí.
Đời có kẻ thuộc hạng phú quư, nhưng đối
đăi với ruột thịt như kẻ qua đường,
tệ bạc với các cậu như khách lạ! Đọc
đến đây, ai mà chẳng toát mồ hôi, cảm hóa?
Lữ Thăng mất mẹ từ bé, thờ
bố đă trăm tuổi hết sức hiếu thảo.
Tuổi bố càng cao, tiêu tiểu không
kiểm soát được, Lữ Thăng bèn ngủ
chung với bố để hầu
hạ, chiều ư bố cẩn thận. Mỗi đêm, thức
dậy bốn năm lượt [để nâng đỡ
bố đi vệ sinh]. Gặp lúc chiến tranh, ông cơng bố
vào núi. Giặc cảm động trước ḷng hiếu
thảo của ông, nên ông giữ tṛn mạng sống. Bố
thích ăn trái hạnh ngọt, bị hàng xóm đoạt mất.
Lữ Thăng viết sớ cầu
thần, thần liền khiến cho gă hàng xóm cậy thế
bị mọc nhọt ở lưng. Thần bảo hắn
mau trả lại quả hạnh cho đứa con hiếu thảo
th́ mới được lành bệnh!
Lại như Quách Tông mất cha, chỉ c̣n
mẹ, thường than thở tưởng nhớ ơn mênh
mông của cha mẹ. Suốt ba mươi năm chẳng
dùng rượu thịt, sớm chiều kiền thành cầu
đảo. Mẹ thọ một trăm lẻ bốn tuổi,
tai mắt chẳng suy, ăn uống càng khỏe mạnh.
Dương Ất đi xin ăn để
phụng dưỡng cha mẹ. Hễ xin được thức
ăn, dẫu rất đói, chẳng dám nếm, ắt dâng
lên cha mẹ trước. Hễ có được thức ăn
ngon, ắt quỳ dâng lên. Ông nhảy nhót, múa may, hát những
bài sơn ca[139]
để đẹp ḷng cha mẹ. Suốt mười
năm như vậy, người trong làng cảm động
trước ḷng hiếu thảo ấy, bèn cho tiền, thuê
ông làm việc. Ông chẳng nhận, thưa: “Chẳng thể
ĺa khỏi cha mẹ một ngày!” Song thân đều chết,
ông xin được quan tài, cởi áo của chính ḿnh để
[làm vải] liệm, dẫu rét buốt căm căm, để
ḿnh trần chẳng quản! Ông chôn [cha mẹ] ngoài đồng,
ngày đêm gào khóc buồn bă, cúng tế hằng năm chưa
từng thiếu sót!
Đời Đường, Lư Huưnh Tú tánh chí
hiếu. Mẹ thuở trẻ xuất thân nghèo khó, thấp
hèn, vợ ông có lần mắng là kẻ nô tỳ. Mẹ bị
xúc phạm, chẳng vui ḷng. Ông liền bỏ mụ vợ
ấy. Có người hỏi, ông đáp: “Cưới vợ
là v́ muốn vợ hầu hạ mẹ chồng. Nếu ả
ta khiến cho mẹ buồn bực th́ giữ lại để
làm ǵ?” Ḷng hiếu cảm động ḷng trời, trong nhà mọc
nấm linh chi. Đường Trung Tông khen thưởng gia
đ́nh ông.
Cố Hùng nhà nghèo, phải ngồi dạy học
tại nhà người khác. Tiền lương mỗi năm
đều dâng lên cha, cha thường lăng phí. Chủ nhà thương
ông nghèo, tặng tiền lương cả năm cho ông, bảo:
“Cụ nhà không biết, ông có thể tậu ruộng để
làm kế thâu nhập cho vụ Thu”. Cố Hùng đáp: “Tôi há
nỡ ḷng v́ mấy thạch gạo mà thay đổi hiếu
tâm thường nhật ư?” Ông đưa trọn món tiền
ấy cho cha. Ông sanh con có tên là Tế Minh, tuổi c̣n thiếu
niên đă đỗ đạt.
Lư Quỳnh cưới vợ đă có con, liền
chuyển vào sống cùng chỗ với mẹ. Mỗi đêm,
Lư Quỳnh thường phải thức dậy mười
mấy lượt [để nâng đỡ mẹ]. Mẹ
nói: “Con mấy năm nay đă yếu rồi, hăy nên thuê tớ
gái hầu mẹ”. Lư Quỳnh thưa: “Đối với những
ǵ mẹ cần, nếu con không đích thân làm, trong tâm cảm
thấy như mất mát”. Do vậy, mẹ chẳng ép; v́
thế, người nhà chẳng có ai dám lười biếng.
Đời Hán, Tào Nga ở Thượng Ngu, cha
là Tào Hu, làm nghề thầy cúng. Ngày mồng Năm tháng Năm,
[Tào Hu làm lễ] đón thần bên sông, ngă xuống nước
chết đuối. Khi ấy, Tào Nga mười bốn tuổi,
t́m xác cha không được, khóc lóc dọc bờ sông suốt
bảy ngày đêm, nhảy xuống sông, tới ngày thứ
năm, cơng xác cha nổi lên mặt
sông. Quan lệnh doăn Thượng Ngu là Độ Thượng
tâu tŕnh chuyện ấy. Nhằm biểu dương người
con gái hiếu thảo, bèn lập miếu thờ bên sông, cho
đến nay vẫn được cúng tế.
Đời Tống, vợ của Ngô Hiếu
góa chồng từ trẻ, không có con, thờ mẹ chồng
chí hiếu. Mẹ chồng đă già, lại bị đau mắt,
nghĩ bà Ngô cô đơn, muốn kiếm một đứa
con nuôi. Bà Ngô khóc thưa: “Gái trinh liệt chẳng thờ
hai chồng! Vợ dốc hết sức hầu hạ [mẹ
chồng]”. Bà Ngô se gai bện sợi cho làng nước, hễ
được tiền bèn dùng để nuôi mẹ chồng.
Nếu có món ăn ngon, ắt sẽ gói
ôm về cho mẹ chồng
dùng. Đă có một lần, bà Ngô nấu
cơm chưa chín, do bà cụ hàng xóm gọi, bèn ra ngoài. Mẹ
chồng cho là cơm quá chín, bèn lấy ra đựng trong chậu.
Do chẳng nh́n thấy, cụ đổ lầm vào cái thùng đựng đồ
nhơ uế. Bà Ngô về đến nhà, chẳng nói ǵ, vội
sang nhà hàng xóm vay cơm cho mẹ ăn. [Sau đấy, bà] kéo
nước, gột sạch cơm bẩn mấy lượt,
hấp lên tự ăn. Một hôm, bỗng mộng thấy
có hai đứa trẻ mặc áo xanh (tiên đồng)
cưỡi mây đến, tay cầm công văn, nói là “Thượng
Đế triệu kiến”, dẫn bà vào triều kiến.
Thượng Đế nói: “Ngươi là một người
nữ ở làng quê, có thể phụng sự mẹ chồng
đă già, chịu thương, chịu khó tận tâm. Đúng
là đáng trọng! Thưởng cho ngươi một ngàn
đồng để có tiền ăn, từ nay chẳng cần
phải làm mướn nữa”. [Thượng Đế] sai
hai tiên đồng đưa [bà Ngô] về. [Bà tỉnh giấc],
quả nhiên thấy đầu giường có món tiền một
ngàn đồng. Từ đó, hễ dùng hết, lại có một
ngàn đồng khác, liên miên
chẳng ngừng!
Khâu Đạc chôn mẹ ở chỗ khoảng
khoát trên núi Phượng Minh, khóc kể: “Suốt đời
Đạc chẳng ĺa khỏi gối mẹ chừng gang tấc.
Nay mẹ đă qua đời, đành phải gởi thể
phách nơi g̣ hoang không người”, bèn dựng lều tranh
bên mộ, sớm chiều dâng thức ăn như khi c̣n sống.
Trong đêm lạnh, không trăng, gió thảm thổi ù ù, Khâu
Đạc sợ mẹ quạnh quẽ, liền đi rảo
quanh mộ, khóc lóc ai oán: “Đạc ở đây!” Vùng ấy
có nhiều cọp, nghe tiếng khóc của ông Đạc bèn
tránh đi, người ta xưng tụng ông là hiếu tử
thật sự.
Vào đời Minh, Ngô Chương mồ côi
[cha] từ bé. Khi lên mười, mẹ là Lục Thị
trong niên hiệu Vĩnh Lạc vâng theo lệnh tuyển, vào
cung. Mẹ theo thân vương (Hoài Tĩnh Vương Châu
Chiêm) đến đất phong ở Thiều Châu, Quảng
Đông. Ngô Chương nghe tin, cảm thán, tuôn trào nước
mắt, bỏ nhà t́m mẹ. Trong thuyền, Ngô Chương bày
tượng Quán Âm để lễ bái, cầu gặp
được mẹ. Thành tâm, khẩn thiết, cất tiếng
khóc thê thảm. Giữa đường, ông mắc bệnh
lỵ, ngày đêm đi ngoài cả trăm lượt. Trong
khi đă mê mệt, miệng vẫn gọi mẹ không thôi.
Đến Thiều Châu, [mới biết tin] mẹ lại
theo thân vương đổi sang đất phong ở
Giang Tây, ông bèn theo đường bộ qua Nhiêu Châu. Do ruổi
rong trên cát đá, hai chân đều sưng phù, nằm gục
ngoài đồng. Có một vị đạo nhân tự nói họ
là Tiêu, lấy thuốc thoa cho, [Ngô Chương] lập tức
khỏi. Qua núi, [Ngô Chương] bị một con rắn đen
mổ trúng chân, ngă lăn xuống đất. Lại thấy
Tiêu đạo nhân t́m đến bôi thuốc cho, đau
đớn hết sạch. Ông nghỉ đêm tại cô thôn,
chưa đến sáng đă đi, gặp trận tuyết
lớn, phải đụt tại ngôi miếu cổ. Bỗng
lại thấy Tiêu đạo nhân đến, phủ dụ
rằng: “V́ mẹ quên thân dường ấy, đúng là
người có ư chí cương quyết”. Lấy bánh cho ăn,
[ăn xong, Ngô Chương] nhanh chóng quên mất đói lạnh.
Tới Nhiêu Châu, hỏi thăm, mới biết mẹ ở
trong vương phủ, bèn dâng thư xin gặp, chẳng được
chấp thuận. Ông bèn thuê một pḥng trong phủ, chính giữa
viết chữ to “Tư Thân”
(nhớ mẹ). Bên cạnh đó viết: “Muôn dặm t́m mẹ, trải trăm nỗi gian nan
chẳng hối hận. Một mai được thấy
mẹ, thề chết chín lần nào ngại?” Về
sau, cầu thỉnh được, bèn vào cung gặp mẹ
ở nơi dưỡng bệnh. Bệnh t́nh mẹ đă
nguy ngập, hôn mê chẳng nhận biết con. Ngô Chương
thắp nhang cầu trời, cắt bắp đùi nấu
cháo dâng mẹ. Mẹ dần dần tỉnh lại, ôm con đau
đớn khóc ṛng. Thân vương nghe chuyện, biết ông
Chương là người hiền, vời đến ban vàng
lụa, sai đưa mẹ về. Về sau, con Ngô Chương
là Hồng, cháu là Sơn, đều làm quan đến chức
H́nh Bộ Thượng Thư. Cho đến nay [con cháu ông
Ngô] đỗ đạt chẳng dứt.
Lưu Tuân Trực vào thuở để chỏm,
cha mẹ đều mất, khóc lóc bi thương gần
đứt hơi. Gắng gỏi chuyên tâm học hành, đọc
sách tới nửa đêm. Có một đêm, người chú
nghe Tuân Trực khóc lóc hết sức ai oán, bèn hỏi nguyên
nhân. Ông thưa: “Cháu đọc truyện Mă Châu, tới chỗ
sách chép ông ta mất cha mẹ từ bé, không cách nào thể
hiện ḷng khuyển mă phụng dưỡng[140],
bèn buồn bă cảm thương không thể tự ngăn
được!” Chú cũng lắc đầu thở dài.
Sau này, [Lưu Tuân Trực] thi đỗ.
Thời Hán Vũ Đế, Trương
Thang và Đỗ Châu đều là hạng quan lại tàn khốc,
nhưng con của hai người ấy lại hết sức
công bằng, khoan dung. [Trong khi soạn bộ sử Hán Thư],
trong phần Khốc Lại (酷吏,
quan lại tàn khốc), [sử gia] Ban Cố đặc biệt
tỏ ra khoan dung đối với họ Trương, họ
Đỗ là v́ con của họ vậy. Con của Trương
Thang là Trương An Thế, làm quan suốt ba mươi
năm, trung tín, cẩn thận, đôn hậu, siêng năng
lo việc quan, ẩn giấu khuyết điểm của người
khác, chú trọng khoan hồng. Con Đỗ Châu là Diên Niên, phù
tá Hoắc Quang. Hoắc Quang vận dụng pháp luật rất
nghiêm, Diên Niên làm phụ tá lại khoan hồng. Thấy sau
khi Văn Đế bị hao hụt quốc khố, đă
nhiều lượt thưa với Hoắc Quang, “hăy nên cai trị như thời
Hiếu Văn, tiết kiệm, khoan dung, ḥa hoăn, ḥng thuận
ḷng trời, đẹp ư dân”. Hoắc Quang nghe theo lời
ấy. Về sau, An Thế làm quan tới chức Đại
Tướng Quân, được phong là Phú B́nh Hầu, con cháu
nối tiếp nhau kế thừa tước vị. Chắt
là Thuần lại làm Đại Tư Không. Diên Niên do công tôn lập thiên tử,
được phong tước hầu,
lại làm Ngự Sử Đại Phu. Con ông ta là Hoăn cũng
kế thừa tước hầu. Lễ Kư nói: “Phanh thục tiến hinh, thường
nhi trí chi, phi hiếu dă, dưỡng dă. Quân tử chi sở
vị hiếu giả, quốc nhân giai viết, hạnh tai”
(Nấu chín, dâng hiến đồ ăn thơm ngon, nếm
trước rồi mới dâng lên, đó chẳng phải là
hiếu, chỉ là dưỡng mà thôi. Bậc quân tử
được khen là người có hiếu, người trong
nước đều mừng rỡ bảo: “May mắn
thay!”). Có con như thế, có thể nói là hiếu vậy! Dám
dùng những điều này để khuyên mọi người
hăy kính trọng cha mẹ, che giấu những lỗi lầm
của cha mẹ.
Đời Tống, Hàn Trung Ngạn là con của
Hàn Kỳ. Hàn Kỳ tận trung, không có ư riêng tư. Trung Ngạn
làm tể tướng, trừ bỏ nạn thuế khóa hao
hụt, phục hồi chức vị cho những người
bị lưu đày, thâu nhận sử dụng những bậc
danh hiền. Đặng Tuân Vũ nói: “Trung Ngạn có thể
kế thừa chí cha”.
Lại nữa, Phạm Thuần Nhân là con của
Phạm Trọng Yêm. Trọng Yêm coi thiên hạ là trách nhiệm
của chính ḿnh. Thuần Nhân làm tri phủ Khánh Châu, do kêu oan
cho người khác mà bị b ắt
giam. [Lúc ông bị giải đi], mấy vạn người
chặn ngựa, khóc lóc. Ông làm quan từ Gián Nghị Xu Mật
thăng lên Tể Tướng, ba lần bị băi chức,
ba lần phục chức. Ông lấy khoan dung, rộng răi làm
phẩm đức chánh yếu, chẳng ghi sâu tội lỗi
của người khác. Khi đă bệnh nặng, vẫn cố
gắng biện giải chuyện Tuyên Nhân[141]
bị vu cáo, gièm báng. Ông mất đi, có thụy hiệu là
Trung Tuyên. Vua đích thân viết lên bia: “Cứu đời, trung trực” ḥng tỏ rơ ân
vua sủng ái.
Hai vị này có thể thừa kế chí của
người đời trước như vậy đó! Lại
thấy những kẻ giấu điều ác, bất tài, làm
nhục lây tổ tiên, sẽ biết [chính ḿnh phải nên làm]
như thế nào? V́ thế, sách Lễ Kư viết: “Phụ mẫu tuy một, tương
vi thiện, tư di phụ mẫu lệnh danh, tất quả.
Tương vi ác, tư di phụ mẫu tu nhục, tất
bất quả” (Tuy cha mẹ đă mất, làm lành để
tạo tiếng thơm cho cha mẹ, ắt sẽ làm
được. Toan làm ác khiến cho cha mẹ xấu hổ,
nhục nhă, ắt sẽ chẳng được). Lại
nói: “Phụ mẫu một, thận
hành kỳ thân, bất di phụ mẫu ác danh, khả vị
năng chung hỹ” (Cha mẹ đă mất, hành xử thận
trọng, chẳng gieo tiếng ác cho cha mẹ, có thể gọi
là người trọn vẹn vậy). Có thể thấy, bất
luận cha mẹ c̣n hay mất, chỉ giữ tấm ḷng lành
th́ là hiếu. Nếu cha mẹ chẳng c̣n, vẫn có thể
dốc ḷng hiếu từ chỗ này. Nếu làm chuyện sai quấy, khiến
cho cha mẹ bị nhục nhă, bị người khác ghét bỏ,
tức là đại bất hiếu.
Đời Minh, Dương Sĩ Kỳ là
nguyên lăo bốn triều, được quốc gia hết
sức ưu đăi, nhưng con ông là Tắc cậy thế
làm ác. Sĩ Kỳ nuông chiều con quá mức, chẳng biết.
Tới khi những kẻ bị hại đua nhau tâu lên triều
đ́nh [danh sách] những người đă bị hắn sát
hại và những chuyện ác của hắn đến mấy
chục điều, vua mới giao vụ án này cho pháp ty, lại
c̣n hạ chiếu chỉ đặc biệt an ủi Sĩ
Kỳ: “Con của khanh đă trái nghịch gia huấn, phạm
đến kỷ cương của quốc gia, trẫm chẳng
dám có ḷng riêng tư, khanh hăy nên xử sự đúng lẽ”.
Sĩ Kỳ bất đắc dĩ, luận tội xử
trảm [Dương Tắc]. Do vậy, thanh danh bị tổn
hại to lớn. Ôi! Sĩ Kỳ là nho sĩ cầm quyền
cai quản đất nước, Dương Tắc là con
trai của Tể Tướng bị chém đầu ngoài chợ,
bại hoại danh tiếng gia đ́nh, khiến cho cha mẹ
xấu hổ, nhục nhă, đă chết rồi vẫn c̣n
nợ. Những con cháu nhà sang cả kiêu căng, cậy thế
lực của cha mà hoành hành, trông thấy chuyện này, lẽ
nào chẳng sợ ư?
Tŕnh Ác Tử là người xứ Thuận
Nghĩa, có một đứa con trai, hết sức nuông chiều.
Tánh họ Tŕnh hung hăng, chẳng tôn trọng mẹ. Mẹ
đă già, thường bị đánh chửi. Một hôm, mẹ
ẵm cháu lỡ làm rơi xuống đất, khiến
đứa cháu bị sứt trán. Ác Tử trở về,
tưởng mẹ hại con ḿnh, cáu
giận, chửi bới dữ dội. Mẹ sợ hăi,
chạy sang nhà con gái, lánh mặt mấy ngày. Hắn chẳng
nguôi giận, bèn giấu dao bén sang đón mẹ, nói: “Cháu bé đă
lành, hăy mau trở về”. Mẹ theo về. Đến chỗ
vắng giữa đường, hắn rút dao đâm ruột
mẹ, nào ngờ dao tự đâm vào hông hắn, đổ
ruột ra. Chẳng biết v́ sao dao lại quay ngược
như thế! Xác hắn chôn nhiều lần, cứ bị
lộ ra, quạ, chó ăn sạch chẳng c̣n!
Trương Nghĩa mỗi ngày đều sám
hối tội lỗi với trời, bỗng bị bắt
xuống âm phủ, [được Diêm Vương] cho coi sổ
đen. Những tội ác trong ấy đều đă trừ
sạch, chỉ c̣n sót một chuyện. Chính là khi Trương
Nghĩa c̣n trẻ, do bị cha quở trách bèn cáu giận trợn
mắt nh́n cha. [Do vậy] mới biết cái tội bất
hiếu chẳng thể sám hối!
La Củng vào trường Thái Học.
Trước mỗi kỳ thi đều cầu đảo.
Đêm mộng thấy thần bảo: “Ngươi đă
đắc tội với cơi âm, hăy mau trở về”. La Củng
[van nài] hỏi nguyên do, thần bảo: “Ngươi không chôn
cất cha mẹ”. La Củng thưa: “Tôi c̣n có anh, cớ sao
riêng ḿnh tôi mắc tội?” Thần bảo: “Ngươi là
nho sĩ, biết rơ lễ nghĩa. Anh ngươi không hiểu
biết, chẳng đáng trách phạt”. Quả nhiên La Củng
chết trong năm ấy!
Khổng Tử soạn Hiếu Kinh, mỗi
tối ắt [búi tóc gọn ghẽ], dùng một chiếc bút
xanh nhạt làm trâm cài, mặc áo đơn sắc đỏ,
hướng về sao Bắc Cực, cúi ḿnh trầm ngâm hồi
lâu rồi mới lạy xuống. Tăng Tử ôm Hà Đồ
Lạc Thư, bảy mươi hai [đồ đệ]
đều [hành lễ] theo Ngài. Đại khái là có sự cầu
khấn như thế. Đến khi soạn kinh Xuân Thu, cũng
lại như thế. Một tối, bỗng có một tia
hắc khí từ sao Bắc Đẩu xẹt xuống, chiếu
thẳng trước án. Mở ra, chính là ư chỉ nhỏ
nhiệm [từ cơi trời, mong mỏi] Khổng Tử tṛn
đủ tâm lượng [rộng khắp để biên soạn
Hiếu Kinh ḥng làm chuẩn mực] tột cùng đến
muôn đời cho nhân luân. Hiếu Kinh gồm mười tám
thiên, phơi bày cặn kẽ trọn hết đạo phụng
sự cha mẹ của người làm con. Đó gọi là “trong cuộc sống, ăn uống
hàng ngày, chẳng thể ĺa khỏi [đạo hiếu] dẫu
khoảnh khắc”. Kẻ học Nho trong cơi đời há
có thể [nại cớ Hiếu Kinh] chưa được
xếp vào những sách [cần phải học] để
thi cử, mà bỏ qua sách này, chẳng nhắc tới ư?
Nay luận về hiếu th́ phải quy về cội gốc
nơi Phu Tử, sẽ suy ra ư định soạn Hiếu
Kinh của Ngài. Ấy là v́ Ngài hằng ngày mong mỏi những
nhà Nho sẽ dốc hết sức thực hành ḥng giúp sức
tuyên dương sự giáo hóa [của thánh hiền], khiến
cho thói tục được tốt đẹp hơn. Dụng
tâm hết sức khổ sở, thiết tha tột bậc
vậy thay!
Cảm Ứng Thiên Vựng Biên
Quyển 1 hết
Phần 3
[1] Do mùa
Thu thuộc về Kim trong Ngũ Hành, cây cối úa vàng rụng
lá trước gió Thu, nên cổ nhân nói gió mùa Thu có sát khí,
thường gọi là Thu Sát.
[2] Tây
Vương Mẫu c̣n gọi là Diêu Tŕ Kim Mẫu, Kim Mẫu
Nguyên Quân, Tây Linh Vương Mẫu, Cửu Linh Thái Diệu
Quy Sơn Kim Mẫu, Tây Tŕ Cực Lạc Kim Từ Thánh Mẫu,
hoặc Bạch Ngọc Quy Đài Cửu
Linh Thái Chân Kim Mẫu Nguyên Quân v.v… Bà được coi là
chúa các vị nữ tiên trong Đạo giáo. Theo Tây
Dương Tạp Trở, bà họ Dương, tên Hồi,
ngự trong cung điện ở Tây Bắc núi Côn Luân. Trong
niềm tin của dân gian, bà được coi là vợ của
Hạo Thiên Thượng Đế. Theo Thần Tiên Truyện,
bà và Thượng Đế có hai mươi bốn người
con gái, có thuyết nói bà có chín người con trai và hai
mươi ba người con gái. Trong bộ Chẩm Trung Thư, Cát Hồng nói: “Lúc lưỡng nghi chưa phân,
trời, đất, mặt trời mặt trăng chưa
xuất hiện, đă có Bàn Cổ Chân Nhân, tự xưng là
Nguyên Thỉ Thiên Vương, dạo chơi trong ấy. Về
sau, Ngài cùng Thái Nguyên Thánh Mẫu thông qua hai thứ khí kết
tinh sanh ra Đông Vương Công và Tây Vương Mẫu.
Sau đó lại sanh ra Địa Hoàng, Địa Hoàng lại
sanh ra Nhân Hoàng”. Sách Thần Tiên Thập Di nói chi tiết
hơn: “Phù Tang Đại Đế
Đông Vương Công tức là Hạo Thiên Thượng
Đế sanh thành vạn vật, Tây Vương Mẫu
được gọi là Cửu Quang Huyền Nữ hóa sanh
các hàm linh”.
[3] Hữu
Ty (有司) là những
cấp chủ quản của một viên chức trong chính
phủ, hoặc những cấp lănh đạo có liên quan
đến một cơ cấu chính quyền nào đó. Hữu
Ty cũng thường được dùng để chỉ
giới quan lại lo việc hành chánh và tư pháp nói chung.
[4] Tiền
Vương ở đây chính là Tiền Liêu (852-932), tự
là Cụ Mỹ, là vua nước Ngô Việt thời Ngũ
Đại Thập Lục Quốc. Nước Ngô Việt bao
gồm mười ba châu, tức là toàn bộ tỉnh Chiết
Giang hiện thời, phía Đông Nam tỉnh Giang Tô, và một
phần Đông Bắc tỉnh Phước Kiến. Trong
các tiểu quốc thời ấy, nước này tồn tại
lâu nhất măi cho đến khi Triệu Khuông Dẫn lập
ra nhà Bắc Tống, thống nhất Trung Hoa. Do các vua Ngô Việt cai trị đều nhân từ, sáng suốt,
việc học Phật rất thịnh hành, xă hội ổn
định, người đương thời thường
xưng tụng xứ Ngô Việt là Phật Quốc.
[5]
Nguyên văn “tiễn thổ, thực mao” (踐土食毛). Đây là một thành ngữ phát xuất
từ một đoạn văn trong Tả Truyện: “Phong lược chi nội, hà phi
quân thổ? Thực thổ chi mao, thùy phi quân thần?” (Trong
lănh thổ của nhà vua, có chỗ nào chẳng phải
đất nhà vua, ăn lông từ đất (tức ăn
rau cỏ mọc trên đất), có ai chẳng phải là bầy
tôi của vua?). V́ thế, “tiễn
thổ, thực mao” có nghĩa là (đi trên đất của
vua, ăn rau của vua), hiểu theo nghĩa bóng là nơi ta
sinh sống, những ǵ ta ăn uống, đều thuộc
về quốc gia. Cũng do ư này mà trong bài Văn Tế
Nghĩa Sĩ Cần Giuộc, cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu đă viết: “Tấc
đất, ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước
nhà ta”.
[6]
Nguyên văn “đương
giao tường tạo tựu” (當膠庠造就,
vào trường Thái Học hoặc
trường huyện để đào tạo bản lănh).
Đời Châu, trường Thái Học được gọi
là Giao (膠),
c̣n các trường huyện được gọi là Tường
(庠).
[7]
Nguyên văn “vinh thí tam đảng”
(榮施三黨).
Theo tự điển Nhĩ Nhă, “tam
đảng” là một từ ngữ cổ, dùng để
chỉ họ cha, họ mẹ và họ vợ. Câu này có
nghĩa là người đỗ đạt, vinh quy bái tổ,
ba họ được thơm lây.
[8]
Nguyên văn “long dĩ tư mục”
(隆以司牧),
“tư mục” có nghĩa là
quản lư, cai trị, thường được dùng
để chỉ các quan lại.
[9] “Cung khuyết” là từ ngữ
chỉ cung điện của nhà vua. Do ngoài cửa
cung có hai cái Khuyết, nên gọi là
cung khuyết. Khuyết (闕) là một cấu trúc gồm
một đài cao, trên có lầu cao, phía dưới th́ bỏ trống ở giữa để làm lối
đi lại.
[10]
Tể phụ (宰輔)
chính là ngôi Tể Tướng. Do Tể Tướng có vai tṛ
phụ tá hoàng đế trông coi việc triều chánh cho nhà
vua, đứng đầu các quan, nên gọi là Tể.
[11] Nguyên văn là “quân phụ”
(君父). Theo ông Hoàng Bách Lâm, do
coi vua giống như cha nên gọi là quân phụ, chứ “quân phụ” không có nghĩa là
vua và cha.
[12]
Hàn Thi Ngoại Truyện là một phần của một bộ
sách do Hàn Anh viết vào thời Tây Hán. Sách gồm có mười
quyển, chia thành hai phần Nội Truyện và Ngoại
Truyện. Nội Truyện đă thất truyền từ
lâu.
[13]
Thuyết Uyển (說苑) là tác phẩm thuộc
loại tạp sự tiểu thuyết do Lưu Hướng
viết vào thời Tây Hán. Đến đời Tống,
Tăng Củng nhuận sắc. Tác phẩm này gồm hai
mươi quyển, ghi chép những truyền thuyết và
những câu chuyện lịch sử từ thời Tiên Tần
cho đến đời Tây Hán, có kèm thêm những lời
b́nh luận theo quan điểm của Nho gia.
[14] Nhan Mậu
Du (?-1637), tự là Tráng Kỳ và Quang Trung, biệt hiệu
là Hoàn Bích Cư Sĩ, quê ở huyện B́nh Ḥa, thuộc phủ
Chương Châu, tỉnh Phước Kiến, đỗ Tiến
Sĩ năm Sùng Trinh thứ bảy (1634) đời Minh. Ông
viết rất nhiều về nhân quả, bộ sách nổi
tiếng nhất của ông là Địch Cát Lục cũng
bàn về lẽ nhân quả, được Trần Long
Chánh tôn xưng là “sách báu cứu đời”. Tác phẩm này
được lưu hành rộng răi tại Giang Nam chỉ
kém bộ Liễu Phàm Tứ Huấn.
[15] Quách Tử
Nghi do từng đảm nhiệm chức Trung Thư Lệnh
nên được gọi là Lệnh Công. Chữ Lỗ chỉ
quân Hồi Hột; chúng tôi tạm dịch là giặc Hồ
v́ người Trung Hoa có thói quen gọi tất cả các dân
tộc thiểu số ở Tân Cương là Hồ.
[16] Lư Lâm
Hoài tên thật là Lư Quang Bật, là một vị danh tướng
đời Đường. Do ông ta được phong làm
Lâm Hoài Vương, nên Sử thường
gọi ông là Lư Lâm Hoài. Ông Lư khỏe mạnh,
đa mưu, thiện chiến, giỏi bắn tên, giỏi
cưỡi ngựa. Ông làm Tiết Độ Sứ Lạc
Dương. Khi Sử Tư Minh giết chết con An Lộc
Sơn là An Khánh Tự, xưng là Đại Yên Hoàng Đế,
tấn công Lạc Dương ráo riết, Lư Lâm Hoài nhận
thấy khó thể giữ thành Lạc Dương, bèn chuyển
dân chúng đi nơi khác, lui quân về Hà Dương. Sau này,
Lư Lâm Hoài đánh bại cánh quân của Sử
Tư Minh tại Lạc Dương, góp phần dẹp yên
cuộc biến loạn của An Lộc Sơn. Trong khi
giao chiến, ông giấu một con dao nhọn trong ủng,
bảo thuộc hạ: “Ta thuộc vào địa vị Tam
Công, chẳng thể chịu nhục trong tay giặc
được. Nếu lỡ bị thua trận, ta sẽ
tự vẫn để tạ tội với thiên tử”.
[17] Hàn Kỳ
Vương chính là danh tướng Hàn Thế Trung của
nhà Nam Tống. Do được phong làm Kỳ Vương,
nên Sử thường gọi ông là Hàn Kỳ Vương.
Ông thân thể to lớn, anh dũng, thiện chiến, nhiều
mưu lược, cầm quân nghiêm minh, khinh tài, trọng
nghĩa. Do từng bị trúng phải độc tiễn, v́ thế, bàn tay của ông chỉ c̣n bốn ngón.
Cùng với Nhạc Phi, ông lập nhiều chiến công hiển
hách khiến cho quân Kim kinh hồn. Ông một mực phản
đối chính sách ḥa đàm của Tần Cối. Tần
Cối bèn giả chiếu chỉ gọi ông về triều,
giao cho trông coi Xu Mật Sứ, tước hết binh quyền.
Ông đă gặp thẳng vua, tâu rơ Tần Cối chính là kẻ
hại chết Nhạc Phi, nhưng nhà vua vẫn u mê,
chẳng nghe lời can gián. Chán nản, ông bỏ về
hưu, đóng cửa tạ khách.
[18] Lưu
Thuận Xương tên thật là Lưu Kỳ. Do từng
đánh bại quân Kim tại Thuận Xương, nên
người đời thường gọi ông là Lưu Thuận
Xương. Ông là một vị tướng nổi danh
kháng Kim của nhà Nam Tống. Lúc đó, tướng Hoàn Nhan
Xương của quân Kim nghị ḥa với Tần Cối.
Một điều khoản nghị ḥa là quân Kim sẽ trả
lại phủ Khai Phong của Đông Kinh, phủ Hà Nam của
Tây Kinh, và phủ Ứng Thiên của Nam Kinh cho Nam Tống.
Lưu Thuận Xương được phái đến
trấn thủ Thuận Xương. Khi c̣n cách Thuận
Xương ba trăm dặm, ông Lưu nghe tin quân Kim đă
đánh xuống miền Nam. Ông đă thành công chỉ huy quân
Tống phá tan đội quân chủ lực của Hoàn Nhan
Tông Bật tại Thuận Xương. Không lâu sau, Tần
Cối lại chủ trương tiếp tục nghị
ḥa, bắt ông phải triệt thoái, đổi sang làm tri phủ
Kinh Nam. Trong cuộc chiến Thuận Xương, khi Hoàn
Nhan Tông Bật dẫn đến bốn đạo binh cùng
tấn công Thuận Xương, ai nấy kinh sợ khuyên
ông nên tạm thời rút về Giang Nam để chờ thời
cơ. Ông hạ quyết tâm, ra lệnh: “Kẻ nào dám bàn ra
tán vào, sẽ chém”. Ông cho người đưa vợ con
đến một ngôi chùa gần đó, sắp sẵn một
đống củi to, dặn ḍ thuộc hạ: “Nếu
ta lỡ bị thua trận, hăy nổi lửa thiêu chết
vợ con ta để họ cùng ta hy sinh v́ nước”.
Nghe tin ấy, quân sĩ hăng hái, liều sức chiến
đấu khiến cho Hoàn Nhan Tông Bật bị thua to.
[19] Từ
Hữu Công là người huyện Yển Sư, tỉnh Hà
Nam, sống vào đời Đường. Ông vốn làm
quan thuộc ngành tư pháp, được cử làm chức
tư pháp tham quân, trông coi quân kỷ. Đối xử với
phạm nhân rất khoan hậu, chẳng dùng nhục h́nh.
Ông Từ tánh t́nh kiên quyết, chất trực,
không xu phụ quyền thế, dám tranh biện không e ngại
trước mặt Vũ Tắc Thiên, một mực bênh vực
những kẻ bị hàm oan do bọn gian thần sàm tấu.
Do ông nhiệt thành tận lực điều tra, minh oan cho
rất nhiều người, dân chúng gọi ông là Nhân Nhân
(người nhân từ).
[20] Địch
Lương Công chính là Địch Nhân Kiệt, một vị
quan văn nổi tiếng dưới thời Đường
Cao Tông. Ông Địch là người xứ Thái Nguyên, tỉnh
Sơn Tây, trung hiếu vẹn toàn, cương trực, vô
tư, tự gánh vác trách nhiệm phục hưng nhà
Đường. Ông đă dùng tài trí, khéo léo lái Vũ Tắc
Thiên thực hiện những kế sách khiến cho quốc
gia thịnh trị. Vũ Tắc Thiên hết sức kính nể
ông, tôn xưng ông là Quốc Lăo. Bọn gian thần như
Trương Diệc Chi, anh em nhà Vũ Tam Tư nhiều
phen t́m cách vu cáo, hăm hại ông, nhưng
đều thất bại.
[21] Lư Phiên
là một vị đại thần đời Đường,
tài đức vẹn toàn. Ông giữ chức Cấp Sự
Trung thời Đường Huyền Tông, dùng những lời
lẽ rất thẳng can gián nhà vua khi nhà vua u mê tin vào bọn
phương sĩ, chỉ mong trường sanh bất tử.
Về sau, ông được phong làm Đồng
Trung Thư Môn Hạ B́nh Chương Sự, thực chất
là tể tướng dưới đời Đường
Hiến Tông.
[22] Bùi Tấn
Công chính là Bùi Độ, làm ngự sử, chủ
trương tước quyền các phiên thần. Ông làm Tể
Tướng dưới bốn
đời vua, tức Đường Hiến Tông,
Đường Mục Tông, Đường Kính Tông và
Đường Văn Tông. Cuối đời, do can vua
đừng trọng dụng hoạn quan khiến triều
chánh bị lũng đoạn, nhưng vua không nghe theo, ông
chán nản, từ quan, đóng cửa tạ khách.
[23]
Trương Ngụy Công chính là Trương Tuấn, do
được phong là Ngụy Quốc Công, nên Sử thường
gọi ông là Trương Ngụy Công. Trương Tuấn
làm Tể Tướng, chủ trương kịch liệt
kháng Kim, trọng dụng Nhạc Phi và Hàn Thế Trung. Sau
này, Tần Cối khéo xu nịnh, trở thành Tể Tướng,
Trương Tuấn bị băi chức suốt hai
mươi năm. Ông vẫn liên tục dâng sớ lên triều
đ́nh phản đối nghị ḥa.
[24] Hàn Ngụy
Công chính là Tể Tướng
Hàn Kỳ thời Bắc Tống.
[25] Kiếm
khách ở đây là những gă thích khách do bọn gian thần
phái đến hăm hại những vị này.
[26]
Vương Diễn, tên tự là Di Phủ, sống vào thời
Đông Tấn, làm quan tới chức Tư Đồ, Trung
Thư Lệnh, và Thượng Thư Lệnh đời
Tây Tấn, giỏi văn chương, thích đàm huyền
thuyết diệu, tự coi ḿnh là người thanh cao, thực
chất là kẻ lười nhác chẳng màng chánh sự, chỉ
lo bo bo giữ cho thân ḿnh được vinh thân ph́ gia. Khi
Lưu Uyên lập ra nhà Hán để chống lại nhà Tấn,
Vương Diễn chỉ lo gom góp tiền bạc, kéo vây
cánh để t́m đường rút lui nếu nhà Tấn thất
trận. Khi Tư Mă Luân trong loạn bát vương giết
chết Giả Hậu, do có quan hệ huyết thống với
Giả Hậu, Vương Diễn đă giả điên
để lánh nạn, không nghĩ cách bảo vệ đất
nước.
Ân Hạo
là người thời Đông Tấn, học rộng, thông
thạo Lăo Trang, kinh Dịch, cũng thích đàm huyền thuyết
diệu, tự coi ḿnh là bậc thanh cao, tài cao chí cả
hơn người. Khi Hoàn Ôn chuyên quyền, Ân Hạo làm
Trung Quân Tướng Quân, nhưng thiếu năng lực,
chỉ biết nói suông. Hoàn Ôn trách tội, tâu vua phế Ân Hạo
làm thứ dân. Trong đoạn văn kế đó, ông Nhan
Quang Trung có chê họ thấy sói bèn run sợ, tức là chê
trách Vương Diễn khiếp nhược, hèn mọn
trước oai thế của Tư Mă Luân và Thạch Lặc,
Ân Hạo sợ Hoàn Ôn một phép!
[27] Ư nói cái
mà họ thể hiện bề ngoài đều là giả,
mang tấm ḷng giả dối, khoe khoang.
[28] Quan Tráng
Mục chính là Quan Vũ, tức Quan Công. Do sau khi chết,
Quan Vũ được truy tặng tước Tráng Mục
Hầu, nên ở đây gọi ông là Quan Tráng Mục. Nhạc
Vũ Mục chính là Nhạc Phi. Sau khi mất, Nhạc Phi
được triều đ́nh đặt thụy hiệu
là Vũ Mục. Trương Tuy Dương tên thật là
Trương Tuần (709-757), c̣n gọi là Trương Trung
Thừa, người xứ Bồ Châu, Hà Đông. Khi An Lộc
Sơn dấy loạn, ông làm huyện lệnh Chân Nguyên,
đă đem binh trấn giữ Ung Khưu, một ḿnh suất
lănh quân sĩ chống lại Yên Quân của An Lộc
Sơn. Sau đó, ông được điều sang trấn
giữ Tuy Dương (nay là Thương Khâu, tỉnh Hà
Nam), cộng đồng tác chiến với thái thú Hứa
Viễn. Ông thế lực trơ trọi, thiếu thốn
lương thảo, không người cứu viện, vẫn anh
dũng giữ vững Tuy Dương suốt hai năm.
Thành vỡ, bị bắt, ông khẳng khái đón nhận cái
chết, không chịu hàng giặc. Văn Văn Sơn chính
là Văn Thiên Tường. Khi quân Nguyên diệt Tống, ông
Văn phụng mạng bảo vệ hoàng đế. Về
sau, do giao chiến thất bại, ông bị quân Nguyên bắt,
nhưng nhất quyết không đầu hàng. Trước
khi bị tử h́nh, ông viết bài Chánh Khí Ca hào khí lẫm
liệt, khiến cho người đương thời
đọc đến không ai cầm được nước
mắt.
[29] Lư Lâm Phủ
là hoàng tộc nhà Đường, thích âm nhạc, làm quan tới
chức Lễ Bộ Thượng Thư. Gă này tánh t́nh giảo
hoạt, lắm mưu mẹo xảo trá, miệng lưỡi
ngọt ngào, thuộc loại “miệng
nam mô, bụng một bồ dao găm”, cấu kết với
bọn phi tần, khéo nịnh bợ hoàng đế, nên tuy
thiếu học thức, vẫn luôn được trọng
dụng. Lần lần hắn chiếm được ḷng
tin của vua, trở thành Tể Tướng dưới
đời Đường Huyền Tông, thao túng triều
chánh suốt mười chín năm, tận sức hưởng
lạc, hăm hại rất nhiều bậc đại thần
công chính, kể cả việc gây nên cái chết của ba vị
hoàng tử Lư Anh, Lư Dao và Lư Cứ. Hắn cấu kết với
Vũ Huệ Phi (Dương Quư Phi) chèn ép hoàng thái tử Lư
Dự, buộc Thái Tử phải bỏ vợ.
Dương
Quốc Trung vốn có tên là Dương Chiêu, là một tay
quyền thần dưới thời Đường Huyền
Tông. Hắn là anh em họ của Dương Quư Phi. Sau khi
Dương Quư Phi được Đường Huyền
Tông (Đường Minh Hoàng) sủng ái, hắn nịnh bợ
em họ để bà ta xúi giục vua cất nhắc ḿnh.
Vua mê muội nghe theo, c̣n đặt tên cho hắn là Quốc
Trung. Hắn nắm quyền Kinh Triệu Doăn (tương
đương với chức Đô Trưởng hiện
thời), kiêm nhiệm Binh Bộ Thị
Lang, kiêm Kiếm Nam Tiết Độ Sứ. Sau khi Lư Lâm Phủ
chết, hắn được cử làm Hữu Tướng,
kiêm Lại Bộ Thượng Thư, Tập Hiền Đại
Học Sĩ v.v… Tính ra, hắn kiêm nhiệm đến
hơn bốn mươi chức vị khác nhau, lại c̣n
được gia phong là Ngụy Quốc Công. Trong thời
gian hắn chấp chánh, đă phát động chiến tranh
với Nam Chiếu khiến cho quốc khố trống
rỗng, hao tổn hơn hai mươi vạn quân! Khi An Lộc
Sơn dấy loạn, hắn chỉ biết khuyên vua chạy
vào Tứ Xuyên lánh nạn. Khi chạy đến Mă Ngôi, quân
sĩ chán nản không chịu tiến nữa, Thái Tử Lư
Hanh, hoạn quan Lư Phủ Quốc, Cao Lực Sĩ v.v… truyền
hịch hạch tội Dương Quốc Trung, ép vua xử
trảm anh em Dương Quốc Trung. Dương Quốc
Trung chạy trốn đến Tây Môn th́ bị loạn quân
chém chết, Dương Quư Phi bị ép thắt cổ tự
tử.
Hàn
Thác Trụ là
chắt của Hàn Kỳ. Ông ta được Tống Ninh
Tông trọng dụng, thăng lên làm Tể Tướng. Thác
Trụ cực lực bài xích Lư Học,
thỉnh cầu hoàng đế cấm tuyệt Lư Học, bức
hại những người theo Lư Học. Ngay cả tông thất
là Triệu Nhữ Nguy v́ theo Lư Học mà bị ông ta hạch
tội, đến nỗi phải bị biếm trích. Về
sau, ông ta bị Sử Di Viễn âm mưu với
Dương Hoàng Hậu cắt đầu gởi cho quân
Kim.
Giả
Tự Đạo cũng sống vào thời Tống, do chị
ruột là quư phi của vua mà được sủng ái, làm
đến chức Hữu Thừa Tướng thời Tống
Lư Tông. Về sau, Giả Tự Đạo được
thăng lên chức Thái Sư B́nh Chương Quân Quốc Sự,
gia phong Ngụy Quốc Công. Ông ta xây một gian tư thất,
đặt tên là Bán Gian Đường, bắt các quan viên
phải mang công văn đến tư thất cho ông ta phê
duyệt. Sau khi Mông Cổ liên kết với Tống diệt
Kim, người Mông Cổ đă vi phạm ḥa ước, tấn
công Nam Tống, Giả Tự Đạo tuân lệnh vua cầm
quân, nhưng không biết ǵ về quân sự, bèn lén lút nghị
ḥa với quân Mông Cổ, nhưng bị quân Mông Cổ bác bỏ.
Khi hoàng đế Mông Kha chết trận ở thành Điếu
Ngư, Giả Tự Đạo lại lén lút ḥa đàm với
Hốt Tất Liệt, xưng thần, tiến cống triều
đ́nh Mông Cổ mỗi năm hai vạn lạng bạc.
Khi quân Mông Cổ rút quân, ông ta dẫn quân thừa cơ tấn
công, giết được hơn một trăm quân Mông Cổ,
khoe dối với triều đ́nh đă lập đại
công, liên tiếp báo tiệp. Khi thành Tương Dương
bị quân Mông triệt hạ, Giả Tự Đạo vẫn
lo ăn chơi, không màng đến việc triều chánh.
Khi quân Mông Cổ đă chiếm được Ngạc
Châu, t́nh h́nh nguy ngập, dưới sức ép của các
đồng liêu, Giả Tự Đạo phải thân chinh cầm
quân kháng địch, nhưng không làm ǵ, chỉ lo nghị
ḥa. Khi kinh đô Lâm An cũng mất, dưới sức ép
của các đại thần, Tạ Thái Hoàng Thái Hậu băi
truất Giả Tự Đạo, nhưng vẫn không xoa dịu
được sự phẫn nộ của quần chúng.
Không lâu sau đó, nhà Nam Tống diệt vong.
[30] Ca
Thư Hàn là thủ lănh của bộ tộc Ca Thư thuộc
sắc dân Đột Kỵ Thí (Türgish), là tướng lănh dưới
thời Đường Tuyên Tông. Ca Thư Hàn thuộc ḍng
dơi gia đ́nh giàu có, từng làm bộ tướng của
Vương Trung Tự (tiết độ sứ Lũng Hữu).
Khi An Lộc Sơn làm loạn, trước đó, Ca Thư
Hàn đă bị trúng phong, bán thân bất toại, phải lui
về Trường An nghỉ ngơi. Do bọn quyền thần
vu hăm, các danh tướng Phong Thường Thanh, Cao Tiên Chi
v.v… đều bị giáng chức rồi bị giết chết,
t́nh thế hết sức nguy ngập. Đường Huyền
Tông bèn sai Ca Thư Hàn trấn thủ Đồng Quan, Ca Thư Hàn phụng mạng, nhưng bệnh
t́nh nghiêm trọng, hoàn toàn phải cậy vào bọn Điền
Khâu Lương, Vương Tư Lễ, và Lư Thừa Quang
xử lư chiến sự. Ca Thư Hàn chủ trương cố
thủ; do vậy, Tể Tướng Dương Quốc
Trung nghi kỵ, sàm tấu, bắt ông ra quân giao chiến với
Thôi Càn Hựu (tướng của An Lộc Sơn).
Ca Thư Hàn thua trận, phải rút lui về Đồng
Quan. Bộ tướng của Ca Thư Hàn là Hỏa Bạt
Quy Nhân đă trói ông vào ngựa nộp cho An Lộc Sơn.
Khi bị giải đến trước An Lộc Sơn,
Ca Thư Hàn đă lộ vẻ sợ sệt, thỉnh tội
với An Lộc Sơn. An Lộc Sơn vui mừng, phong
cho Ca Thư Hàn làm Tư Không để chiêu dụ quân
Đường. Ca Thư Hàn bèn viết thư chiêu hàng các
tướng dưới quyền. Về sau, An Khánh Thư
(con trai của An Lộc Sơn) giết cha, chiếm ngôi.
Sau nhiều lần đại bại trước quân
Đường, An Khánh Thư phải bỏ Trường
An, chạy về đất Nghiệp. Trước khi rút
lui, hắn đă hạ lệnh giết chết Ca Thư
Hàn.
Tiêu Chí Trung sống vào đời
Đường, do xu phụ bọn Vũ Tam Tư (cháu
Vũ Tắc Thiên), nên được phong làm Trung Thừa.
Về sau, do An Lạc Công Chúa âm mưu thâu tóm quyền hành,
đă thông đồng với mẹ là Vi Hậu, giết chết
Đường Trung Tông. Nào ngờ một hoàng tử khác
là Lư Long Cơ đă ra tay trước, dẹp tan âm mưu của
mẹ con Vi Hậu. Sau khi An Lạc Công Chúa và Vi Hậu bị
giết chết, Lư Long Cơ lên ngôi, tức Đường
Huyền Tông, đă truy sát những tay chân của Vi Hậu.
Do đó, Tiêu Chí Trung cũng bị xử trảm.
Vương Nhai từng làm tới Tể
Tướng dưới thời Đường Văn
Tông. Trước đó, kể từ thời Đường
Huyền Tông, bọn hoạn quan đă thừa
cơ triều chánh suy vi, xâm nhập chánh quyền, ngày càng lớn
mạnh, trở thành một thế lực đáng gờm.
Năm Bảo Lịch thứ hai (826), Đường Kính
Tông bị hoạn quan Lưu Khắc Minh sát hại, các hoạn
quan Vương Thủ Trừng, Lương Thủ Khiêm
đưa Lư Ngang là con thứ của Đường Mục
Tông lên kế vị, tức Đường Văn
Tông. Vương Nhai tuy thân làm Tể Tướng, chẳng
lo củng cố triều chánh, chỉ lo lấy ḷng bọn
hoạn quan. Đường Văn Tông bất măn trước
sự chuyên quyền của bọn hoạn quan, bèn ngầm
âm mưu với Lư Huấn và Trịnh Chú diệt được
Vương Thủ Trừng. Sau khi Vương Thủ Trừng
chết, Lư Huấn và Trịnh Chú tranh công, hục hặc lẫn
nhau. Tháng Chín năm đó, Văn Tông phong cho Lư Huấn làm Tể
Tướng, đổi Trịnh Chú làm Phụng Tường
Tiết Độ Sứ. Theo kế hoạch, trong đám
tang Vương Thủ Trừng, Trịnh Chú sẽ đem
quân về Trường An phối hợp diệt trừ hoạn
quan, nhưng Lư Huấn sợ Trịnh Chú lập đại
công nên đă ra tay diệt hoạn quan trước. Ngày
Mười Bốn tháng Chạp, Văn Tông thiết triều
tại điện Tử Thần, Tả Kim Ngô Tướng
Quân Hàn Ước tâu vua là tối qua có cam lộ giáng xuống
cành thạch lựu trong vườn hoa của doanh trại
Tả Kim Ngô, thỉnh vua đến xem. Lư Huấn tuyên bố
chuyện này chẳng thật, vua liền sai các hoạn quan
đi xem. Do sự do dự của Quách Hành Dư và Hàn Ước,
bọn hoạn quan đánh hơi được t́nh thế,
nhanh chóng thoát thân, cướp vua chạy vào nội cung, sai
quân tàn sát các đại thần. Sử gọi chuyện này
là Cam Lộ Chi Biến, Vương Nhai cũng bị giết
trong vụ này.
Giả Tốc cũng là một đại
thần bị giết trong vụ biến loạn Cam Lộ,
ông ta giỏi văn chương, khéo ăn nói, nhưng thích
phô trương, tánh t́nh nóng vội, tâm lượng nhỏ
nhen, gió chiều nào che chiều ấy. Khi thấy vụ
tiêu diệt hoạn quan của Lư Huấn bị lộ, Giả
Tốc cứ nghĩ ḿnh thường lấy ḷng, nịnh
nọt bọn hoạn quan sẽ không sao. Nào ngờ Giả
Tốc cũng bị bọn chúng thảm sát.
[31] Cáo Quốc
Công Chúa vốn là Diên Quang công chúa, con gái út của Đường
Túc Tông (Lư Hanh). Thoạt đầu, bà được gả
cho cháu của Dương Quư Phi là Bùi Huy. Trong cuộc biến
loạn tại Mă Ngôi, do Bùi Huy bị
giết, bà lại được gả
cho Thái Bộc Khanh Tiêu Thăng. Bà sanh được một
con gái là Tiêu Phi với người chồng sau. Đến
đời Đường Đức Tông, do bà là cô của
nhà vua, nên được gọi là Trưởng Công Chúa, và
đổi phong hiệu là Cáo Quốc Trưởng Công Chúa.
Con gái của bà được gả cho Thái Tử Lư Tụng
của Đường Đức Tông. Do vậy, bà tự
do ra vào Đông Cung. Sau khi Tiêu Thăng mất, Cáo Quốc Trưởng
Công Chúa
tư thông lung tung. Các nhân t́nh của bà bao gồm Bành Châu
Tư Mă Lư Vạn, Thục Châu Biệt Hạ Tiêu Đỉnh,
huyện lệnh Phong Dương là Vi Uẩn,
Thái Tử Chiêm Sự là Lư Thăng v.v… Do Trương Đức
Thường vu cáo Cáo Quốc Công Chúa tằng tịu với
Lư Tụng nên Đường Đức Tông tức giận,
toan phế Thái Tử. Để trừng phạt, vua giam lỏng
Cáo Quốc tại nhà riêng. Bà ta bèn học cổ thuật
nguyền rủa vua Đường. Sự việc bị
phát giác, vua giận dữ, tước sạch phong hiệu
của công chúa, phế làm thứ dân, sai người
đánh chết Lư Vạn, đuổi bọn Tiêu Đỉnh,
Vi Uẩn, Lư Thăng, lưu đày năm đứa con
tư sinh của Cáo Quốc xuống vùng biên địa Lănh
Nam, đồng thời giết chết Tiêu Phi.
[32] Thư
Vương tên là Lư Mô, là con trai của Lư Mạo (em ruột
Đường Đức Tông).
[33] Lư Bí làm
Tể Tướng dưới bốn triều vua
Đường Huyền Tông, Đường Túc Tông,
Đường Đại Tông và Đường Đức
Tông.
[34] Văn
Đức Hoàng Hậu họ Trưởng Tôn, Sử không
chép rơ bà ta tên thật là ǵ. Bà là con của Trưởng Tôn
Thịnh. Trưởng Tôn Thịnh giữ chức Hữu
Nhiêu Vệ Tướng Quân của nhà
Tùy. Khi Trưởng Tôn Thịnh mất, bà và anh trai là
Trưởng Tôn Vô Kỵ (ông này về sau trở thành đại
thần khai quốc của nhà Đường) cùng mẹ
là Cao Thị bị con trưởng của Trưởng Tôn
Thịnh là Trưởng Tôn An Nghiệp đuổi khỏi
nhà, phải nương nhờ người cậu là Cao
Sĩ Liêm. Dưới sự giàn xếp của cậu,
bà được gả cho Lư Thế Dân. Bà đă âm thầm
giúp chồng qua việc tranh thủ sự hậu thuẫn
trong hậu cung của Lư Uyên. Bà thích đọc sách, có thể
cùng chồng tranh luận rất tâm đắc mọi chuyện
cổ kim. Vua rất quư mến bà đến nỗi sau khi
bà mất, vua đă sai dựng nhiều ngôi chùa để cầu
siêu cho bà, chẳng lập người khác làm hoàng hậu.
Chiêu Lăng chính là nơi an táng bà ta. Hiến Lăng là
nơi an táng Lư Uyên (Đường Cao Tổ).
[35] Hiệt
Lợi Khả Hăn (Illig-Baghatur qaghan), vốn có tên là A Sử
Na Đốt Bí, về sau được phong là Quy Nghĩa
Vương. Ông là Khả Hăn cuối cùng của Đông
Đột Quyết Hăn Quốc (Göktürks). Ông vốn là em trai của
Đột La Khả Hăn (Chulo Qaghan). Khi Đột La mất,
vợ ông ta là công chúa Nghĩa Thành thuộc hoàng tộc nhà
Tùy đă chọn Hiệt Lợi làm vua. Về sau, ông lấy
Nghĩa Thành làm vợ. Ông nhiều lần mưu toan xâm nhập
Trung Nguyên. Hiệt Lợi tin tưởng, trọng dụng
Triệu Đức Ngôn làm cố vấn, khiến nhiều
người Đột Quyết bất măn. Sau đó, ông
đă nhiều lần tấn công Trung Nguyên. Năm Trinh Quán
thứ tư (630), Hiệt Lợi bị thua trận dưới
tay Lư Tĩnh, Đông Đột Quyết diệt vong. Hiệt
Lợi bị giải về Trường An. Vua xá tội,
phong Hiệt Lợi làm thứ sử Quắc Châu, nhưng
ông từ chối. Do vậy, vua phong cho ông chức Hữu Vệ
Đại Tướng Quân.
[36] Cuộc
biến loạn này do An Lộc Sơn và Sử Tư Minh cầm
đầu, nên gọi là loạn An Sử.
[37] Hai kinh
thời Đường là Trường An và Lạc
Dương.
[38] Thổ
Phiên (Tubo, tiếng Tây Tạng là Bod Chenpo) là một
vương triều ở cao nguyên Thanh Tạng, cai quản
phần lớn vùng bồn địa Tây Tạng và vùng Tân
Cương hiện thời. Vương triều do Nhiếp
Xích Tán Phổ (Nyakhri Tsanpo) sáng lập, thịnh trị
dưới thời Tùng Tán Can Bố (Songtsan Gampo). Dưới
thời Songtsan Gampo, Thổ Phiên liên tục tấn công miền
Tây Trung Hoa. Nhà Đường phải gả công chúa Văn
Thành cho Songtsan Gampo để xoa dịu. Công chúa Văn Thành
đă mang Phật giáo vào Tây Tạng. Theo truyền thuyết,
tượng Thích Ca Mâu Ni Phật thờ tại chùa Đại
Chiêu (Jokhang) ở Lhasa là do công chúa Văn Thành đem tới.
Cho đến hiện thời, người Tây Tạng vẫn tin Songtsan Gampo là hóa thân của
Quán Thế Âm Bồ Tát, c̣n công chúa Văn Thành là hóa thân của
Tara Bồ Tát (c̣n dịch là Đà La Bồ Tát, hoặc Độ
Mẫu, một hóa thân khác của Quán Thế Âm Bồ Tát).
Dưới thời Ralpacan (Trisuk Detsen), vương triều
này chiếm trọn vùng bồn địa Tarim, mở rộng
tới Bengal ở phía Tây, cao nguyên Pamir và một phần tỉnh
Cam Túc cũng như Vân Nam của Trung Hoa. Dẫu đă có
ḥa ước từ thời Đường Thái Tông,
Thổ Phiên luôn kiếm cơ hội quấy nhiễu biên
thùy chiếm đất của nhà Đường. Dưới
thời Đường Minh Hoàng, quân Thổ Phiên đă liên
kết với An Lộc Sơn tấn công Trường An.
Vương triều sụp đổ dưới thời
Langdarma (Tri Uidumtsan) khi nhà vua do chính sách đàn áp Phật giáo
dữ dội, đă bị một ẩn sĩ giết chết,
nội loạn xảy ra liên miên khiến cho vương triều
sụp đổ.
[39] Hồi
Hột là từ ngữ người Hán thời Đường
dùng để gọi dân Uigur (c̣n viết là Uyghur, hiện thời
trong các văn bản chánh thức của Trung Hoa, họ
được gọi là Duy Ngô Nhĩ). Trải qua các triều
đại, họ được gọi bằng các danh
xưng Hồi Cốt, Ô Hộ, Ô Hột, Úy Ngột Nhi v.v…
Thời Đường, Hồi Hột Hăn Quốc do liên
minh nhiều bộ tộc người Uigur, gọi chung là
Orkhon Uyghur.
[40] Đây
là các biện pháp cải cách do Vương An Thạch đề
xướng. Pháp Thanh Miêu (青苗) là cho dân vay tiền và thóc quan phủ vào những
lúc thiếu kém, để đợi đến vụ mùa
sau khi thu hoạch sẽ trả. H́nh thức này rơ ràng là vay
nợ trong khi lúa c̣n non, nên gọi là Thanh Miêu. Do lăi suất
nặng nề, cách này gây hại, khiến dân chúng bị tô
thuế, mắc nợ nặng nề hơn. Miễn Dịch
(免役) là quy định được nộp tiền
để khỏi đi lao dịch. Sở dĩ các nho
sĩ chống đối cách này v́ khoản tiền miễn
dịch khá lớn, gây nên tệ nạn quan trên ăn hối
lộ, chèn ép bắt dân nghèo đóng góp nặng nề
hơn. Tướng Quan (將官) là cách
tinh giảm quân đội, sa thải những lính già, các
lănh đạo cao cấp trong quân đội phải là
người biết vơ nghệ, thông hiểu binh lược,
trái với truyền thống các quan văn là người
chỉ huy cao nhất, các quan vơ chỉ là phụ tá.
[41] Tây Hạ
là một vương triều do người Đảng Hạng
(Tangut) sáng lập, bao gồm vùng Ninh Hạ, Cam Túc, Thanh Hải,
Tây Bắc Tân Cương, Tây Nam Nội Mông và cực nam của
Ngoại Mông. Kinh đô thoạt đầu là ở Ninh Hạ,
sau dời sang Kharakhoto. Tên của
vương quốc là Đại Hạ Bạch Thượng
Quốc, nhưng do nằm ở phía Tây Trung Hoa, nên sử
Trung Hoa thường gọi tắt
là Tây Hạ. Vương quốc này h́nh thành bởi
bộ tộc Thác Bạt (Tuoba) của người Tiên Ty
(Xianbei) thuộc vương quốc Thổ Dục Hồn
(Tuyuhun). Sau khi người Tây Tạng tiêu diệt Thổ Dục
Hồn, lănh tụ Thác Bạt
Xích Từ (Tuoba Chici) quy thuận nhà Đường, góp phần
tiêu diệt quân phản loạn Hoàng Sào, nên được
ban quốc tánh là Lư. Đến
đời Tống, Lư Kế Thiên nổi lên chống
lại nhà Tống, tự xưng vương. Vua Tây Hạ
chính thức xưng đế dưới thời Lư Nguyên Hạo
(cháu nội Lư Kế Thiên) vào năm 1038. Vương triều
Tây Hạ thường xâm lăng lănh thổ nhà Tống, nhà
Tống phải triều cống, xưng thần. Tây Hạ
thường đánh nhau với nhà Kim, cuối cùng cả
Kim lẫn Tây Hạ đều bị nhà Nguyên của
người Mông Cổ tiêu diệt.
[42] Ngụy
Cao Tông tên thật là Thác Bạt Tuấn, vua thứ năm của
vương triều Bắc Ngụy (Nguyên Ngụy). Ông
được coi là một vị vua nhân từ. Dưới
thời Thái Vũ Đế do bận chinh chiến liên miên,
vua đă để Thái Tử Thác Bạt
Hoảng làm giám quốc. Hoạn quan Tông Ái vu hăm Thái Tử,
ám sát Thái Vũ Đế,
đưa Thác Bạt Dư lên làm vua. Khi Thác Bạt Dư chống
lại Tông Ái, hắn lại giết chết vua. Sau đó,
các quan như Độc Cô Ni, Nguyên Hạ, Bạt Bạt
Khát Hầu và Bộ Lục Cô Ly đă lật đổ Tông
Ái, đưa Thác Bạt Tuấn lên làm vua.
[43] Quư Minh
là tên tự của Tô Bỉnh.
[44] Nông (農) là làm
ruộng, Tang (桑) là trồng
dâu nuôi tằm. Nông Tang là từ ngữ phiếm chỉ sự
sản xuất.
[45] Đây là một hủ tục của Trung
Hoa. Khi đói kém, nếu sanh ra con gái, dân chúng sẽ giết
chết, chỉ giữ lại con trai để nối
ḍng. Ngoài ra, nếu người nữ bị coi là phạm
tội thất tiết hoặc bị vu cáo, sẽ thường
bị đem d́m xuống
sông cho chết.
[46] Đồng Thiện Hội (同善會) là hội từ thiện do giới sĩ
phu đề xướng từ thời Vạn Lịch nhà
Minh, bao gồm các hoạt động diễn thuyết khuyến
thiện, thí gạo, thí tiền giúp đỡ người
nghèo, khen thưởng, biểu dương người tiết
nghĩa.
[47] Nghĩa học (義學) là trường học miễn phí cho trẻ
em nhà nghèo, đôi khi c̣n chu cấp tiền bạc, gạo
cho chúng. Nghĩa trủng (義冢) là nghĩa trang miễn phí dành cho người
nghèo khổ, không có tiền mua đất chôn cất người thân.
[48] Đây
là một quy chế đă có từ đời Đường,
được gọi là “ngũ
bảo” (伍保), tức
năm nhà liên kết bảo vệ lẫn nhau. Mỗi thôn
xóm, thanh niên trai tráng từ mười sáu tuổi trở
lên, trừ những người già, yếu, bệnh tật,
trẻ nhỏ, đàn bà, tăng sĩ, con quan được
miễn (v́ đă có gia đinh đảm nhiệm) đều
kết thành đội chia phiên tuần hành, đảm bảo
trị an, giúp đỡ lẫn nhau bảo vệ chống
lại giặc cướp. Những đội gần nhau
đều phải có trách nhiệm tương trợ lẫn
nhau, nhất là khi có thiên tai hoặc giặc cướp tấn
công.
[49] Chữ
Hán thời cổ khi viết không có chấm câu. Người
đọc phải biết suy xét để ngắt câu cho
đúng. Do đó, đối với trẻ học vỡ
ḷng, thầy thường dùng bút son khuyên tṛn từng chỗ
để trẻ biết ngắt câu. Đôi khi, do thầy
không giỏi, chấm câu sai. Tŕnh Minh Hạo đă chấm
câu nhằm giúp cho trẻ hiểu đúng mạch văn.
[50] Tào (漕) ở đây
là cơ quan đặc trách đường thủy của
mỗi phủ, thường do quan Tào Vận Sứ trông
coi.
[51] Lộ
(路) là một
đơn vị hành chánh đời Tống. Cả nước
được chia thành mười lăm lộ (Kinh
Đông, Kinh Tây, Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây, Hoài Nam,
Giang Nam, Kinh Hồ Nam, Kinh Hồ Bắc, Lưỡng Chiết,
Phước Kiến, Tây Xuyên, Giáp, Quảng Nam Đông, và Quảng
Nam Tây). Về sau, các lộ lớn lại tách ra thành nhiều
lộ nhỏ hơn. Hà Đông Lộ bao gồm hai
mươi hai phủ, bao gồm miền Trung và Nam tỉnh Sơn
Tây ngày nay, cũng như một phần phía Bắc
tỉnh Thiểm Tây. Trị sở của lộ này là Thái
Nguyên.
[52] Nguyên
văn “khoa mại” (科買) là một quy
chế vào đời Tống, đối với các sản
vật lương thực mỗi năm, quan phủ có lập
ra hạn định thu mua để dự trữ.
[53] Tư
Nông (司農) là chức
quan quản lư tài chánh, thời Tiên Tần, chức quan này
được gọi là Trị Túc Nội Sử, đến
đời Hán Cảnh Đế đổi thành Đại
Nông Lệnh, thời Hán Vũ Đế lại đổi
thành Đại Tư Nông. Dưới chức quan này có
năm cấp thuộc hạ. Chức thuộc hạ quan
trọng nhất là Thái Thương trông coi kho thóc dự trữ,
vận chuyển, cung ứng lương thực, điều
ḥa giá cả, quản lư quốc khố. Đến đời
Thanh, Đại Tư Nông chính là Hộ Bộ Thượng
Thư. Theo mạch văn, Tư Nông ở đây có lẽ
là một chức quan trông coi về tài chánh thuộc một
Lộ mà thôi.
[54] Thạch
(石) là
đơn vị đo lường thời cổ, đặc
biệt dùng để đo lường ngũ cốc
(đúng ra, khi dùng như đơn vị đo lường,
phải đọc là Đán, nhưng theo thói quen, đều
dọc là Thạch). Theo chương Luật Lịch Chí
trong Hán Thư: “Hai mươi bốn
thù là một lượng, mười sáu lượng là một
cân, ba mươi cân là một quân, bốn quân là một thạch”.
Đại khái, một thạch bằng ba mươi sáu
kilogram hiện thời.
[55] Theo
Thành Ngữ Từ Điển, câu này có nghĩa là “luôn coi dân chúng như đang bị
thương tật”, có ư nói luôn quan tâm dân chúng như họ
đang ở trong cảnh ngặt nghèo, phải gắng sức
làm cho họ được an cư lạc nghiệp.
[56] Ông Tŕnh
Minh Đạo tên thật là Tŕnh Hạo, tên tự là Minh
Đạo.
[57] Nguyên
văn “trại hội” (賽會), tức là
các lễ hội địa phương ở miền Hoa
Nam, nhất là vùng Phước Kiến, Giang Tô. Dân chúng
ăn mặc rực rỡ, đốt pháo, thổi kèn,
đánh trống, gơ thanh la ỏm tỏi, rước kiệu
thần, vừa đi vừa ca hát, bọn đồng cốt
vờ xưng là được thần
nhập thân, cầm cờ lệnh nhảy múa, lắc lư trước kiệu
thần. Nam nữ có thể thừa dịp này cḥng ghẹo,
tán tỉnh nhau.
[58] Hộc
(斛) là
đơn vị đo lường, nhưng độ lớn
biến đổi theo thời gian. Theo quy chế đời
Đường, một hộc là mười đấu,
nhưng từ thời Tống trở đi, một hộc
là năm đấu. Một đấu khoảng chừng
năm kư lô hiện thời.
[59] Thường
B́nh Thương (常平倉) tức là kho
thóc dự trữ để cứu đói, giống như
Xă Thương, tại mỗi phủ huyện
đều có. Khi được mùa, giá gạo rẻ bèn thu
mua; lúc gặp tai nạn, sẽ lấy ra phát chẩn hay bán
cho dân với giá rẻ hơn thị trường nhằm
điều tiết giá cả, nên mới gọi là Thường
B́nh. Đề Cử Thường B́nh (提舉常平) là chức
quan có nhiệm vụ quản lư các kho thóc dự trữ ấy.
[60] Lục
Giá Thư chính là ông Lục Lũng Kỳ (1630-1692), vốn
có tên là Long Kỳ, tên tự là Giá Thư, là một nhà Lư Học
đầu đời Thanh. Ông đỗ Tiến Sĩ
năm Khang Hy thứ chín (1670), được bổ làm tri
huyện Gia Định (nay là khu Gia Định của thành
phố Thượng Hải). Do tánh t́nh cương trực,
không ăn cánh với tuần phủ Mộ Thiên Nhân, bị
hắn dâng sớ đàn hặc lên triều đ́nh, ông bị
băi chức. Ngày ông ra đi, dân chúng d́u già ôm trẻ khóc lóc
vang dội. Năm Khang Hy 22 (1683), Ngụy Tượng Xu
đă dùng lư do “thiên hạ đệ
nhất thanh liêm” để cực lực tiến cử
ông làm tri huyện Linh Thọ. Khi ông mất, được
phong tặng thụy hiệu là Thanh Hiến, phối thờ
trong Khổng Miếu.
[61] Nho
đồng (儒童) là danh
xưng gọi chung những người sắp đi thi Tú
Tài, bất luận tuổi tác lớn hay nhỏ, đều
gọi là “đồng sanh” hay “nho đồng”, hoặc
“văn đồng”. Trong khi đó, “chư sanh” là những
người đă đỗ Tú Tài, được vào
trường huyện chuẩn bị thi Cử Nhân. “Nghe giảng” ở đây là
nghe b́nh luận những bài viết nghị luận về
những kinh điển của Nho gia.
[62] Nguyên
văn “sở giảng chi
thư”. Từ ngữ này có ư nói đến một thể
loại văn thường gọi là Sách Vấn, ta thường
gọi là Văn Sách, tức là thầy lấy một câu hay
một đoạn trong kinh điển của Nho gia làm
đề tài, yêu cầu học tṛ tŕnh bày kiến giải.
Tṛ sẽ viết một bài nghị luận, tŕnh bày kiến
giải của chính ḿnh đối với đề tài ấy,
bài viết ấy thường gọi là Đối Sách. Vào
thời Minh Thanh, bài đối sách bắt buộc phải
viết bằng thể loại văn Bát Cổ.
[63] Nguyên
văn “ẩm băng” (飲冰). Thành ngữ
này xuất phát từ thiên sách Nhân Gian Thế của Trang Tử:
“Kim ngô triêu thọ mạng, nhi
tịch ẩm băng, ngă kỳ nội nhiệt dư?”
(Nay ta buổi sáng vâng chiếu, buổi chiều uống
băng, trong tâm ta chẳng nôn nóng ư)? Thành Huyền Anh chú
thích cả câu có ư nói người tận tụy trách nhiệm,
luôn giữ ḷng dè dặt, kinh sợ, cho nên trong tâm nóng nảy,
nặng ḷng ái quốc, giống như phải uống
băng cho đỡ nóng. Về sau, từ ngữ này
được dùng để chỉ người liêm khiết,
thanh cao.
[64] Nguyên
văn là “thi chúc” (尸祝), có nghĩa
là “bái tế người đă khuất”. Ở đây, từ
ngữ này được dùng với ư nghĩa dân chúng lập
hương án hai bên đường bái lạy tiễn biệt
ông Lục.
[65]
Hương học là mỗi làng đều lập trường
để dạy dỗ dân chúng.
[66] Cáu cặn
(tra chỉ, 渣滓) ở đây chính là
những thói quen xấu ác như tà vạy, dâm dật, phóng
túng v.v…
[67] Theo ông
Hoàng Bách Lâm, Linh Ấp ở đây là huyện Linh Thọ.
[68] Nguyên
văn “hành thủ” (行取) là một thuật
ngữ thông dụng trong giới quan trường thời
Minh - Thanh, có nghĩa là các quan lại địa
phương được đề cử, hoặc tiến
cử lên hoàng đế, được vua chọn về
làm quan tại kinh đô.
[69] Hữu
Tử (518-458 trước Công Nguyên), tên thật là Hữu
Nhược, tự là Tử Hữu, người nước
Lỗ. Đời Minh, ông được tôn xưng là Tiên
Hiền Hữu Tử. Mạnh Tử có nói, sau khi Khổng
Tử mất, các môn đệ là Tử Hạ, Tử
Trương, Tử Du đă coi Hữu Nhược như
thánh, muốn giữ lễ đối với Hữu Tử
giống như Khổng Tử vậy, nhưng Tăng Tử
phản đối. Khi ông mất, Lỗ Điệu Công
đích thân đến phúng điếu. Cháu đời thứ
bảy mươi hai của Hữu Tử là Hữu Thủ
Nghiệp làm quan Hàn Lâm Viện Ngũ Kinh Bác Sĩ dưới
đời Càn Long.
[70] Lư
Ngưu là hai phe đảng tranh chấp quyền lực từ
thời Đường Hiến Tông cho đến
Đường Tuyên Tông, kéo dài suốt năm mươi
năm. Phe Lư do cha con Lư Đức Dụ cầm đầu,
phe Ngưu do Ngưu Tăng Nho cầm đầu. Măi cho tới
thời Đường Tuyên Tông lên ngôi, Lư Đức Dụ
bị đày tới Nhai Châu (nay là Quỳnh Sơn, tỉnh
Quảng Đông), cuộc tranh chấp mới kết thúc. Lạc
Sóc là cuộc tranh chấp thời Tống. Phe cấp tiến,
phiêu lưu do Vương An Thạch cầm đầu cải
cách, đề ra nhiều biện pháp khắc nghiệt bị
phe bảo thủ phản đối quyết liệt. Trong
phe bảo thủ, lại tách ra thành ba phái. Phái được
cầm đầu bởi Tŕnh Di gọi là Lạc đảng
(tức phe phái ở Lạc Dương). Phe thứ hai do
Lưu Chí cầm đầu, v́ ở phương Bắc
nên gọi là Sóc Đảng. Phe thứ ba do Tô Thức và Lữ
Đào cầm đầu, gọi là Thục Đảng.
[71] Ông Hoàng
Bách Lâm bảo: Câu này có nghĩa là sự tranh chấp, chia rẽ
được dưỡng thành từ bé trong một gia
đ́nh. Do giữa anh chị em đă có sự tranh giành
đồ vật này nọ, tạo thành thói quen tranh đấu.
[72] Ông Hoàng
Bách Lâm giảng: Hiếu đễ là Tánh Đức, là
lương tri, lương năng, không có h́nh trạng, chẳng
thể t́m được h́nh tướng, nhưng nó khởi
tác dụng, nên nói là “vô b́ xác
đích vật” (vật chẳng có da, chẳng có vỏ).
[73] Câu này
hơi khó hiểu, nên xin dẫn lời ông Hoàng Bách Lâm giải
thích như sau: Đă có những phẩm hạnh vô ngă, nhẫn
nhục, khéo khiêm hạ như thế, th́ chẳng cần
phải thốt lời khoe khoang, người ta vẫn tự
nhận biết người ấy có đức hạnh, họ
sẽ ḥa quyện theo (tức là bị ảnh hưởng)
như gió thổi cỏ rạp.
[74] Nguyên
văn “Côn nhi thai yểu,
tương sồ dực noăn, thảo anh mộc tú, đới
căn kháo nha, nhất nhất chàng trước hiếu
đễ, tắc tất tư sở dĩ nhu mạt chi”. Côn (鯤) là con cá to trong sách Trang Tử, giống
như loài ḱnh ngư, có thể hóa thành chim bằng bay vạn
dặm. Nhi (鮞) là loài
cá bé. Sồ (雛) là con
chim non, gà con, “dực noăn” (翼卵) là x̣e cánh ấp trứng. “Nhu mạt” (濡沫) là dùng nước dăi để cho một vật
khác được thấm ướt, giống như cá mắc
cạn bèn nhả nước răi cho nó được
sống. Điều này tỷ dụ chuyện tận lực
giúp đỡ người khác trong cảnh khốn cùng. Câu
này hơi khó hiểu, chúng tôi xin dẫn lời giảng của
ông Hoàng Bách Lâm như sau: Phải mở rộng ḷng hiếu
đễ, đối với những loài động vật
lẫn thực vật, phải đối đăi bằng tấm
ḷng giống như gà mẹ dẫn dắt gà con, như gà mẹ
nâng niu x̣e cánh ấp trứng, ngăn dứt những chỗ
khiến cho trứng, cá con của những loài cá tránh khỏi
nguy cơ bị đoạn diệt, bảo vệ mầm
rễ của các loài thảo mộc cho chúng luôn xum xuê, giúp
đỡ cho chúng được sống sót trong những
hiểm cảnh. Mỗi điều ấy đều nhằm
khảo nghiệm tấm ḷng hiếu đễ của chúng
ta.
[75] Nguyên
văn “nhất đoạn ḥa
dự khí tượng, ân tiến Thượng Đế,
nhi nhân thiên địa, phối tổ khảo”, chúng tôi dịch đoạn này theo cách diễn
giải của ông Hoàng Bách Lâm. Theo đó, “ân tiến Thượng Đế” (殷薦上帝) nghĩa là dùng những thứ đẹp
nhất, ca nhạc hay nhất dâng lên thượng đế.
Ở đây, phải hiểu “ân
tiến Thượng Đế” chính là do có ḷng hiếu
đễ, thuận theo ḷng trời, đẹp ḷng trời,
nên sự hiếu đễ ấy chẳng khác ǵ đă phụng
hiến Thượng Đế trang trọng nhất. “Nhân thiên địa” (仁天地) là khắp trời đất đều
là một bầu nhân ái. “Phối
tổ khảo” (配祖考) là thờ cúng tổ tông, tổ (祖) là ông nội, khảo (考) là danh xưng để gọi cha đă
khuất. Ḷng hiếu đễ khiến con cháu thuận
ḥa, ḍng dơi hưng thịnh, đẹp ḷng tổ tiên, khác
nào đă cúng dường ông bà tổ tiên bằng những vật
thực ngon lành, trọng hậu nhất. Hoặc có thể
hiểu: Ḷng hiếu hạnh, ḥa thuận với anh em là những
lễ vật đẹp đẽ nhất, trang trọng
nhất, quư báu nhất để dâng lên Thượng Đế,
tổ tiên.
[76] Câu này
nhằm nói hoàn cảnh bên ngoài có thể ảnh hưởng
đến tâm t́nh của phàm nhân, biểu thị hoàn cảnh
bên ngoài và cái tâm có cùng một Thể.
[77] Tức
là cái tâm chấp vào sự không tịch thiên lệch của
hàng Nhị Thừa.
[78] Theo ông
Hoàng Bách Lâm câu này phải hiểu theo sự
biểu thị pháp là: Ḷng nhân chính là Tánh Đức sẵn
có của mỗi người.
[79] “Thủ nhất” (守一) là từ
ngữ xuất phát từ câu nói “thiên
địa hữu quan, âm dương hữu tàng, thận thủ
nhữ thân, vật tương tự tráng, ngă thủ kỳ
nhất, thiên nhị bách tuế hỹ” (trời đất
đều có chủ tể, âm dương ḥa hợp trong tạng
phủ, hăy cẩn thận giữ ǵn cái thân ngươi,
đừng nên tàn hại nó, ta giữ được nhất
tâm th́ có thể sống đến một ngàn hai trăm
năm). Đạo gia dùng khái niệm “thủ nhất” để chỉ trạng thái
đạt đến cái tâm không tạp niệm, chuyên nhất
một cảnh. Nếu hiểu theo mức độ cao
hơn, “thủ nhất”
tương ứng với “trụ
trong chân tâm” của Phật giáo.
[80] Theo ông
Hoàng Bách Lâm, ở đây, ông Nhan Quang Trung
không nhằm ca ngợi thuật tu luyện đan của
Đạo gia, mà chỉ dùng cách nói của họ, với ngụ
ư: Do hiếu đễ đạt đến tột bậc,
sẽ chứng nhập Nhất Chân pháp giới, tức là đă chuyển
phàm thành thánh, thoát ly mười pháp giới,
trở thành Pháp Thân đại sĩ. Ông Nhan Quang Trung tạm
tỷ dụ chuyện này giống như trong Đạo
gia, khi tu luyện đến mức nội đan và ngoại
đan hợp nhất, sẽ thoát thai hoán cốt
đăng tiên. Ông Nhan Quang Trung dùng tỷ dụ này để
nói với người b́nh phàm cho dễ hiểu đó thôi!
[81]
Trận chiến Trác Lộc là cuộc chiến quyết
định thắng bại giữa liên minh Hữu Hùng Thị
Hoàng Đế và Thần Nông Thị Viêm Đế đánh bại
tộc Cửu Lê dưới sự lănh đạo của
Xi Vưu. Hoàng Đế là thủ lănh của các bộ lạc
Hoa Hạ, chiếm cứ vùng Trung Nguyên vốn là địa
bàn của tộc Cửu Lê, nay thuộc địa bàn các tỉnh
Hà Nam, Hà Bắc, và Sơn Đông. Cuộc quyết chiến
nổ ra ở cánh đồng Trác Lộc. Theo truyền thuyết,
ba người con của Xi Vưu đă chia các bộ tộc
thành ba cánh. Một cánh chạy xuống miền Nam, trở
thành tộc Tam Miêu, một cánh chạy lên miền Bắc, số
người c̣n lại vẫn ở Trác Lộc, và bị
đồng hóa với bộ tộc Viêm Hoàng. Để biện
minh cho hành động cướp bóc, lấn
đoạt của người Hoa Hạ, sử Trung Hoa
thường tô vẽ Xi Vưu như một kẻ hung bạo,
nửa người nửa thú, độc tài, thiện chiến,
sử dụng phù phép, mưu toan phản loạn chống lại
liên minh Viêm Đế nên bị chinh phạt. Một số
các sắc dân ở Đông Á vẫn coi Xi Vưu là thủy tổ,
chẳng hạn người H’mong (ta thường gọi
là người Mèo) coi họ là con cháu của Xi Vưu, dân
Đại Hàn tôn Xi Vưu là quốc tổ.
[82] Nguyên
văn “thất hùng hao hám”, “thất hùng” (七雄) là bảy
nước chư hầu hùng mạnh thời Chiến Quốc,
đánh nhau liên miên nhằm tranh hùng xưng bá, tức Tần,
Sở, Yên, Triệu, Ngụy, Hàn, và Tề. “Hao hám” (虓闞) là thành ngữ phát xuất từ
câu thơ “hám như hao hổ”
(gào thét như con hổ đang giận dữ) trong bài
Thường Vũ thuộc phần Đại Nhă của
kinh Thi. Sử gia Ban Cố đă dùng cách nói “thất hùng hao hám” để phê phán tánh đam mê
quyền lực, tranh đấu dữ dội của bảy
nước chư hầu thời cổ.
[83] Nguyên
văn “hoàng tŕ ngư
dương chi bề cổ”. “Hoàng tŕ” (潢池) theo nghĩa đen là cái ao của hoàng đế,
thường dùng theo nghĩa bóng là “lănh thổ của hoàng
đế”. Lại có câu thành ngữ “hoàng tŕ lộng binh” (múa may vũ khí trong cái ao của
hoàng đế), hiểu theo nghĩa rộng là dấy binh
làm phản triều đ́nh. Ngư Dương nay là huyện
Kế thuộc thành phố Thiên Tân. Năm 755, dưới
đời Đường Huyền Tông, An Lộc Sơn khởi
binh dấy loạn tại Ngư Dương. “Bề cổ” (鼙鼓) là cái trống nhỏ do kỵ binh thường
cầm, mỗi khi xung trận, họ gơ ầm lên để
thôi thúc tinh thần chiến đấu. Toàn bộ câu “hoàng tŕ ngư dương chi bề
cổ” đă dựa theo ư thơ của Bạch Cư Dị:
“Ngư Dương bề cổ động địa
lai, kinh phá nghê thường vũ y khúc” (Trống trận
Ngư Dương rền cơi đất, kinh hoảng nghê
thường khúc múa tan). “Nghê
thường vũ y khúc” là một khúc ca múa do Đường
Huyền Tông chế ra sau khi nằm mộng thấy chính
ḿnh lên chơi cung trăng. Ông cho các cung nữ mặc xiêm áo
rực rỡ như bảy sắc cầu vồng, gọi
là “nghê thường y”. Vũ khúc được gọi là
“vũ y khúc”, nghĩa là khúc hát múa của những người
mặc áo kết bằng lông chim, tức tiên nữ.
[84] Dịch
Truyện là phần chú giải của kinh Dịch, tức
phần Thập Dực.
[85] Nguyên
văn “quyết trương
hoành hành”, “quyết
trương”
(蹶張) có nghĩa gốc là dùng chân đạp lên
loại nỏ cứng để bắn tên. Từ ngữ
này thường được dùng với ư nghĩa người
có sức mạnh, hung hăng thể
hiện sự oai vũ.
[86] Đan
Châu là con trai của vua Nghiêu. Ông này tên là Châu, nhưng do
được phong ở đất Đan Thủy, nên
thường gọi gộp chung là Đan Châu. Đan Châu
tánh t́nh ngạo mạn, hoang dâm.
[87] Trịnh
Trang Công (Cơ Ngụ Sanh) là vua nước Trịnh, là con
của Trịnh Vũ Công (Cơ Quật Đột). Trịnh
Trang Công có người em cùng mẹ tên là Cơ Đoạn;
do Cơ Đoạn được phong thái ấp ở
Kinh Ấp, nên thường gọi là Thái Thúc Đoạn
(Thúc có nghĩa là em trai thứ). Do được mẹ là
Vũ Khương nuông chiều, Thái Thúc Đoạn âm
mưu với mẹ làm phản ḥng đoạt ngôi của
Trịnh Trang Công. Sự việc thất bại, Thúc Đoạn
phải trốn sang đất Cộng, nên lại gọi
là Cộng Thúc Đoạn. Trịnh Trang Công tức giận,
sai người giam lỏng mẹ, tuyên cáo từ bỏ mẹ,
và thề độc: “Chỉ nh́n lại mặt mẹ khi
nào xuống suối vàng”. Có lần vua đăi yến cho quan
đại phu Dĩnh Thúc Khảo. Trong yến tiệc có món
thịt, Dĩnh Thúc Khảo không ăn, mà cẩn thận
gói lại. Vua hỏi v́ sao, Dĩnh Thúc Khảo thưa: “Thần
bổng lộc kém, không thể thường xuyên mua thịt
cho mẹ ăn được. Nay có món ngon, không nỡ
hưởng riêng, nên chừa lại đem về biếu mẹ”.
Vua cảm động, hối hận, nhân đó, hỏi
Dĩnh Thúc Khảo t́m cách nào tha lỗi cho mẹ ḿnh. Để
vua khỏi trái lời thề,
Dĩnh Thúc Khảo bày kế, đào hố sâu dưới
đất, vua xuống đó gặp mẹ, cơng về phụng
dưỡng.
[88] Đây
là cách giáo dục trong Nho gia theo giáo huấn trong Châu Tử
Trị Gia Cách Ngôn: Con em từ thuở lên ba, hằng ngày phải
dậy sớm, quét dọn trong ngoài cho sạch sẽ, giữ
tánh tiết kiệm, không phung phí vật thực, luôn
nghĩ hạt cơm manh áo là công khó của bao nhiêu người. Cha mẹ,
người trên hễ gọi liền dạ, nghe lời dạy
bèn vâng. Người trên hỏi đến phải thưa gởi
rành rẽ, không dối trá, quanh co, đó gọi là “ứng đối” (應對). Khi cha mẹ, bề trên ngồi, con em phải
đứng bên cạnh chờ xem có ǵ sai bảo. Cha mẹ
cho ngồi mới được ngồi. Đó là “thị lập” (侍立, đứng hầu). Luôn chú ư coi cha mẹ,
người bề trên có ǵ cần dùng, sai phái sẽ nhanh
chóng thực hiện, đó là “phụng
kỷ” (奉几, hầu bên bàn). Theo chú giải, “kỷ” phải hiểu là “kỷ án” (几案) tức cái bàn nhỏ.
[89] Vua Thuấn là người thuộc bộ
tộc Hữu Ngu, mẹ mất sớm. Cha là Cổ Tẩu
lấy mẹ kế, sanh được một đứa
con trai, đặt tên là Tượng. Cha nghe lời mẹ kế,
toan giết hại vua Thuấn nhiều lần. Có lần,
Cổ Tẩu sai vua Thuấn sửa chữa kho chứa lúa,
rồi rút mất thang, đốt kho cho vua
Thuấn chết cháy, nhưng vua Thuấn thoát thân được.
Cổ Tẩu lại sai vua Thuấn đào giếng, rồi
lấp giếng cho vua Thuấn chết ngộp, nhưng vua
Thuấn theo khe ngách thoát ra được. Ông không oán hận
cha và d́ ghẻ ác độc, chỉ tự trách ḿnh bạc
đức, chẳng trọn hiếu đến nỗi bị
ghét bỏ. Cổ Tẩu (瞽叟) có
nghĩa là “ông già mù”, nhưng các nhà chú giải cho rằng
đó là cách gọi bóng bảy của cổ nhân nhằm chê
trách một ông già có tầm nh́n thiển cận, mù quáng.
[90] Cha vua
Vũ là Đại Cổn được vua Thuấn sai trị
thủy (làm công tác thủy lợi để chống nạn
lụt), không thành công, bị vua Thuấn kết tội, bị
giết tại Vũ Sơn.
[91] Theo sách
Thuyết Uyển, vua Vũ đi ra ngoài thấy tội
nhân, bèn xuống xe, hỏi chuyện rồi khóc ṛng. Tùy tùng
can: “Gă này do chẳng thuận theo vương pháp nên thành ra
như vậy, cớ sao bệ hạ lại đau ḷng
đến nỗi ấy?” Vua Vũ nói: “Là con dân của vua Nghiêu, vua Thuấn, đều lấy
cái tâm của Nghiêu, Thuấn làm tâm của ḿnh. Nay quả
nhân làm vua, bá tánh mỗi người có cái tâm riêng, cho nên
đau ḷng vậy”.
[92]
Vương Quư là cha của Văn Vương, vốn tên là
Quư Lịch. Sau khi Văn Vương
(Cơ Xương) lên ngôi, đă tôn cha là Vương Quư làm
Thái Thượng Hoàng. Tẩm môn (寢門)
là cửa pḥng ngủ. Theo quy chế xưa, buồng ngủ
của vua có năm tầng cửa, chư hầu có ba tầng
cửa, các đại phu có hai tầng cửa. Tẩm môn
chính là cửa trực tiếp dẫn vào nội pḥng. Hằng
ngày, Văn Vương ba lượt đến tẩm môn
của cha để thỉnh an. Hễ nghe nội thụ (內豎, tức
thái giám) bảo vua cha b́nh an, Văn Vương sẽ hết
sức vui mừng. Vũ Vương là con
của Văn Vương (Cơ Phát), khi cha bị bệnh
đă không cởi áo ngoài, không bỏ măo, chầu hầu suốt
ngày đêm, lắng nghe từng hơi thở nặng nhọc của cha.
[93] Hữu Quan Thị (有鰥氏, người ở trong hoàn cảnh khốn khó) là biệt hiệu của vua Thuấn.
Danh xưng này phát xuất từ sách Thượng Thư,
chương viết về vua Nghiêu: “Đế viết: Tư! Tứ nhạc, trẫm tại
vị thất thập tải, nhữ năng dung mạng tập
trẫm vị?” Nhạc viết: “Bỉ đức thiêm
đế vị”. Viết: “Minh minh dương trắc lậu”.
Sư tích đế viết: “Hữu quan tại hạ, viết
Ngu Thuấn”. Đế viết: “Du! Dư văn, như
hà?” Nhạc viết: Cổ tử phụ ngoan, mẫu khí,
Tượng ngạo, khắc hài dĩ hiếu chưng
chưng, nghệ bất cách gian” (Vua Nghiêu nói: “Ôi! Này các vị
tù trưởng bốn phương! Ta đă làm vua bảy
mươi năm, các ông có thể vâng mạng trời nối
ngôi ta hay không?” Các tù trưởng thưa: “Chúng thần
đức kém, chẳng xứng ngôi vua”. Vua bảo: “Vậy
th́ các ông xét kỹ, đề cử những người
c̣n ẩn tàng!” Mọi người thưa: “Có người ở
trong hoàn cảnh khốn khó là Ngu Thuấn”. Vua nói: “À! Ta có
nghe nói, người ấy như thế nào?” Các tù trưởng
thưa: “Ông ta là con của Cổ Tẩu, cha ương
bướng, mẹ hay đặt điều gièm xiểm,
[em trai là] Tượng ngạo mạn, nhưng Thuấn luôn
cư xử thuận thảo, dùng ḷng hiếu cảm hóa,
khiến cho chẳng theo đường tà nữa). Ngũ
Điển (五典) chính là Ngũ Thường (nhân, lễ, nghĩa,
trí, tín). Bách Quỹ là (百揆) tận lực hành tŕ Ngũ Điển, khiến
cho mọi việc đều tuân theo nguyên tắc, pháp độ.
[94] Nguyên
văn là “viên đà đà” (圓陀陀).
Đây là
một thuật ngữ trong nhà Thiền để chỉ tự
tánh. “Viên đà đà”
nghĩa là viên măn, chẳng có ngằn mé.
[95] Ư nói mọi
người có cùng một Thể là chân tâm linh tri.
[96] “Chí đại công” là chí luôn
nghĩ đến trọn khắp mọi người,
không có t́nh chấp riêng tư.
[97] Ông Hoàng
Bách Lâm giảng: Câu này có nghĩa là dùng đủ mọi
cách chăm sóc, lời lẽ mềm mỏng khiến cho cha
mẹ thoải mái, nhu cầu đầy đủ, th́ vẫn
chỉ là phụng dưỡng cái thân máu thịt hư giả
nếu không chú trọng hướng dẫn cha mẹ thông
hiểu chân tánh (đó là thân thể chân thật), ĺa phiền
năo, tu hành ḥng thoát khỏi tam đồ.
[98] Tăng
Nguyên là con của Tăng Tử (Tăng Sâm). Câu này nhằm
nói đến lời phê phán Tăng Nguyên trong thiên Ly Lâu sách
Mạnh Tử: Tăng Tử phụng dưỡng cha là
Tăng Tích, mỗi bữa ăn đều có rượu
thịt. Khi cha ăn xong, lúc sắp dọn xuống, ắt
Tăng Tử sẽ thưa hỏi, thức ăn c̣n thừa
sẽ cho ai? Nếu Tăng Tích hỏi “có c̣n thức ăn
thừa hay không?”, Tăng Tử sẽ luôn
đáp là có, [khiến cho cha yên ḷng hưởng dụng].
Đến khi Tăng Nguyên phụng dưỡng Tăng Tử,
mỗi bữa ăn cũng có rượu thịt, nhưng
khi dọn xuống, hoàn toàn chẳng hỏi. Nếu như
Tăng Tử hỏi “có dư hay không?” Sẽ đáp là “chẳng
dư”, khiến cho Tăng Tử chẳng nỡ ḷng ăn
nhiều. Như vậy là Tăng Nguyên chỉ nuôi ăn, chứ
không quan tâm làm vui ḷng cha!
[99] Vua Thuấn
tên là Trọng Hoa, thuộc bộ tộc Hữu Ngu, v́ thế,
Sử hay gọi ông là Ngu Thuấn. Do ông được sanh
ra ở Diêu Khư, nên lấy chữ Diêu làm họ.
[100] Khi vua
Nghiêu gả hai con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh cho vua Thuấn,
ông đă lấy vợ mà chẳng xin phép cha mẹ.
[101] Ư nói: Từ
bản chất, cha mẹ luôn yêu thương con, đó là
thiên tánh, dẫu có lúc nóng giận, đánh đập hay chửi
mắng, nhưng ḷng yêu thương vẫn không hề mất.
[102] Ư nói hăy
khéo léo vận dụng ḷng thương yêu con sẵn có của
cha mẹ để khuyên can, khơi gợi cha mẹ hướng
thiện.
[103] “Tánh mạng” ở đây là một
khái niệm thuộc phạm trù triết học cổ của
Trung Hoa, bao hàm ư nghĩa “bẩm
tánh thiên phú của muôn vật”.
[104] Nguyên
văn là “vị dục” (位育). Đây
vốn là một thành ngữ xuất phát từ câu nói “trí trung ḥa, thiên địa vị
yên, vạn vật dục yên” (đạt tới sự
trung chánh, ḥa b́nh chính là địa vị vốn có của
trời đất, vạn vật được sanh
thành).
[105] “Linh minh” (靈明) ở
đây là nói đến nhất niệm chân tánh của ta vốn
sáng suốt, thấu triệt trọn khắp.
[106] Nguyên
văn “Vũ tự hồ kỳ
tiên, nhi đạt hồ giao miếu, dĩ thân sự thiên
dă”. Theo ông Hoàng Bách Lâm, “giao
miếu” (郊廟) là chỗ
thờ phụng trời đất và tổ tiên. “Nhi đạt hồ giao miếu”
phải hiểu là vua Vũ không chỉ cúng tế tổ
tiên của riêng ḿnh, mà c̣n thờ phụng tổ tiên của
toàn thể thiên hạ và trời đất. Chữ “thân” trong câu “dĩ thân sự thiên dă” phải hiểu là sự
chí thân nơi bản tánh.
[107] Nguyên
văn “tự hữu thiên địa
dĩ lai, vô nhật bất sanh, thân dữ ngă, đô thị
nhật sanh sanh tương tục”. Ông Hoàng Bách Lâm giảng:
Chữ Sanh ở đây phải hiểu là tánh tri giác, ta
thường nói là “linh tánh”.
Linh tánh bất sanh bất diệt, vĩnh viễn là sanh sôi
chẳng ngừng. V́ thế nói là “vĩnh sanh”. Giữa sự chí thân và ta, luôn luôn là
sanh sôi liên tục.
[108]
Trương Tử ở đây chính là Trương Tải,
tức Trương Hoành Cừ, một nhà Lư Học thời
Bắc Tống. Ông viết một bài văn, đặt tên
là Chánh Mông Càn Xứng Thiên, chia làm hai phần, phần
trước gọi là Biếm Ngu, phần sau gọi là
Đính Ngoan. Về sau, Tŕnh Di gọi phần Biếm Ngu là
Đông Minh, phần Đính Ngoan là Tây Minh. Trong bài Tây Minh,
Trương Tải đă đề xướng khái niệm
“dân bào vật dữ” (mọi
người là ruột thịt của ta, mọi vật có
cùng một Thể với ta).
[109] Do câu
này quá khó hiểu, chúng tôi xin dẫn lời giải thích của
ông Hoàng Bách Lâm như sau: “Ḷng hiếu
thuận của ông Vương Tường hoàn toàn chẳng
linh động, nên nói là cách thức chết cứng. Bởi
lẽ, do Vương Tường thấy mẹ đói,
mong được ăn cá, bèn cởi trần nằm trên
băng khóc xin băng nứt ra để bắt được
cá dâng mẹ. Tức là ḷng hiếu ấy có sự đối
đăi, có đối tượng để phát khởi. Ông
ta chẳng khế nhập ư nghĩa ‘bất tư nhi đắc,
bất miễn nhi trúng’ (chẳng suy nghĩ mà đạt
được, chẳng gắng sức mà trúng). Ḷng hiếu
thuận của vua Vũ, vua Thuấn là tự nhiên, không cần
suy nghĩ. Vua hiếu thảo với cha mẹ của chính
ḿnh và hiếu thảo đối với cha mẹ của
thiên hạ chẳng khác ǵ nhau, hoàn toàn lưu lộ từ
Tánh Đức”.
[110] Ông Hoàng
Bách Lâm giảng câu này như sau: “Nếu
chẳng tương ứng với Tánh Đức, ḷng hiếu
ấy sẽ dính đến t́nh cảm, có t́nh chấp, có
tác ư, có Năng và Sở, chẳng phải là lưu lộ từ
Tánh Đức. Do vậy, ḷng hiếu sẽ vướng mắc
nơi phương tiện ư thức, tức phân biệt,
chấp trước, và Tạng Thức”.
[111] Nguyên
văn “nhược động
trước Tánh Đế, tuy như Thuấn chi hào khấp
oán mộ, bất khả vi nhân, bất khả vi tử, giá
dạng khốn miễn chi cực”. Theo ông Hoàng Bách Lâm,
Tánh Đế chính là tên gọi khác của Tánh Đức.
Chữ “nhân” ở đây phải
hiểu là “thánh nhân”. Theo ông Hoàng, câu này phải hiểu
như sau: Nếu như ta dùng ư thức, tức là c̣n có t́nh
chấp, xử sự theo cảm t́nh, dẫu có lúc khế
nhập Chân Đế trong bản tánh đôi chút, dẫu
khóc lóc, ôm nỗi niềm ai oán mong được cha mẹ
thể hiện t́nh thân như vua Thuấn, nhưng v́ hăy c̣n
có t́nh chấp, cho nên chẳng thể trở thành bậc
thánh nhân, cũng chẳng thể trọn hết ḷng chí hiếu
của kẻ làm con. Do đó, để tṛn hết đạo
hiếu, sẽ rất miễn cưỡng, rất khó
khăn, nên mới nói là “khốn
miễn chi cực”.
[112] Tố
Vương (素王) có nghĩa là một vị vua
chân chánh, chẳng có lănh thổ, chẳng có nhân dân, nhưng
vĩnh viễn được tôn kính, giáo huấn của
Ngài vĩnh viễn được tuân phụng trong lịch
sử nhân loại.
[113] Nguyên
văn “thục thủy lănh bán
sanh chi phụng”. Chữ Thục Thủy (菽水) phát xuất
từ một đoạn văn trong thiên Đàn Cung của
sách Lễ Kư: “Tử Lộ viết:
Thương tai bần dă! Sanh vô dĩ vi dưỡng, tử
vô dĩ vi lễ dă. Khổng Tử viết: Xuyết thục
ẩm thủy, tận kỳ hoan, tư chi vị hiếu”
(Tử Lộ nói: “Đau ḷng thay! Con nghèo quá nên cha mẹ c̣n
sống th́ chẳng thể phụng dưỡng. Cha mẹ
đă khuất rồi chẳng có ǵ để cúng lễ”.
Khổng Tử bảo: “Ăn đậu, uống nước,
tận hết sức khiến cho cha mẹ vui ḷng, đó gọi
là hiếu”). Do vậy, chữ Thục Thủy thường
được hiểu theo nghĩa bóng là sự phụng
dưỡng trọn hết tấm ḷng, dẫu đơn bạc
về mặt vật chất. Ông Hoàng Bách Lâm giảng “thục thủy lănh bán sanh chi phụng”
phải hiểu là “cũng v́
con say mê đàng điếm, phá nát gia nghiệp mà ngay cả
cuộc sống vật chất đơn bạc trong nửa
đời sau của cha mẹ cũng gặp phải nguy
cơ”.
[114] Ư nói: Tấm
thân này do cha mẹ mà có, nên thân thể ta là do cha mẹ để
lại, nên gọi là “di thể”.
Ta không tu hành chân thật, nên không có khả năng hướng
dẫn cha mẹ văng sanh Cực Lạc, tức là đă phí
uổng tấm thân này! V́ thế nói là “di thể đọa lạc”.
[115] Con ḍng
đích là do vợ cả sanh ra, con ḍng thứ là con của
các người thiếp (vợ lẽ).
[116] Nguyên
văn: “Khởi duy oán nộ bất
khả sử hữu túc vật”. Ông Hoàng Bách Lâm giảng:
“Vật” ở đây chính là
ư niệm tích lũy trong tâm ta. Nói theo Phật pháp, “vật” chính là A Lại Da Thức.
“Túc” là nói đến tập
khí từ nhiều đời nhiều kiếp.
[117] Nguyên
văn là “ph́ noăn” (肥暖), đây vốn
là một từ ngữ có ư nghĩa “cuộc sống vật
chất dư dật, sung sướng”. Từ ngữ này
phát xuất từ một đoạn trong sách Mạnh Tử,
thiên Lương Huệ Văn Vương: “Vi ph́ cam bất túc ư khẩu dữ, khinh noăn bất
túc ư thể dữ, ức vi thái sắc bất túc thị
ư mục dữ, thanh âm bất túc thính ư nhĩ dữ.
Tiện bế bất túc sử linh ư tiền dữ.
Vương chi chư thần giai túc dĩ cung chi, nhi
vương khởi vi thị tai” (Có phải là v́ miệng
nhà vua chẳng ăn đủ những món ăn béo ngậy,
ngon ngọt ư? Có phải là v́ những thứ y phục
nhẹ, ấm chẳng đủ cho thân thể ư? Có phải
là mắt nh́n chẳng thỏa những thứ đẹp
đẽ ư? Có phải là tai nghe chẳng đủ những
thứ âm thanh [hay khéo] ư? Những kẻ bề tôi chẳng
đủ cho vua sai sử ư? Các bầy tôi của nhà vua
đều có thể cung cấp đầy đủ những
thứ đó, vậy th́ vua c̣n phải bận tâm đến
những chuyện ấy để làm ǵ?)
[118] Thuở
xưa, đầy tớ những nhà quyền quư mặc áo
màu chàm.
[119] Ôn Tiết
Hiếu tên thật là Ôn Hoàng, tên tự là Tiết Hiếu,
người tỉnh Chiết Giang, đỗ Tiến Sĩ
vào đời Sùng Trinh nhà Minh. Ông có biên soạn bộ Ôn Thị
Mẫu Huấn (lời giáo huấn của mẹ trong nhà họ
Ôn). Khi quân Măn Thanh diệt nhà Minh, ông đă tự sát.
[120] Nguyên
văn “thùy niệm ưng trất
cốc” (ai nghĩ đến người đang hứng
chịu gông xiềng). Ông Hoàng Bách Lâm giảng: Ư nói đứa
con vô tâm chẳng nghĩ đến cha mẹ c̣n sống, phải
ăn nhờ ở đậu con, giống như tù nhân
đang chịu đựng mọi nỗi tù túng, hạn chế.
[121] Đấy
là những tấm gương hiếu thảo được
kể trong quyển Vật Do Như Thử, quạ biết
mớm mồi cho cha mẹ già, dê khụy chân đỡ cho
mẹ khỏi lăn xuống vực.
[122] Hoàng
Hương là người xứ An Lục, Giang Hạ, sống
vào thời Đông Hán. Ông hết sức hiếu thuận, mồ
côi mẹ khi mới vừa chín tuổi. Vào tiết Hè, ông
thường quạt cho chiếu mát lạnh để cha nằm
ngủ thoải mái. Mùa Đông khi cha sắp ngủ, ông ủ
ấm chăn cho cha khỏi bị lạnh. Ông thông thạo
kinh điển, có tài văn chương, làm quan đến
chức Thượng Thư Lệnh.
[123] Mạnh
Tông là người xứ Giang Hạ ở Đông Ngô thời
Tam Quốc, thờ mẹ hết sức hiếu thảo. Mẹ
thích ăn măng, nhưng gặp tiết Đông không có
măng. Mạnh Tông bèn vào rừng trúc buồn khóc, hết sức
thương tâm van nài trúc hăy cho măng. Trúc bỗng nẩy một
gị măng to để ông cắt về nấu canh cho
mẹ ăn.
[124] Quách Cự
là người xứ Lũng Lự thuộc Hà Nội thời
Tây Hán. Nhà ông rất nghèo, thờ mẹ hết sức hiếu
thuận. Khi ông dâng thức ăn lên mẹ, mẹ thường
chia bớt cho cháu nội, tức là con của Quách Cự
ăn. Do nhà nghèo, thức ăn thiếu thốn, ông sợ
mẹ cứ nhịn cho cháu ăn sẽ bị đói, bèn
bàn với vợ: “Vợ chồng ta c̣n có thể có đứa
con khác, chứ mẹ mất rồi sẽ chẳng thể
có lại được”. Tính đem con chôn đi. Khi
đào đất, ông đào được hũ vàng, trên
vàng có đề chữ “trời
ban cho Quách Cự”.
[125] Đinh Lan là
người Hà Nội (ở phía Bắc Hoàng Hà), sống vào
thời Đông Hán, mồ côi cha mẹ từ bé. Ông hết
sức tưởng nhớ cha mẹ, bèn dùng gỗ khắc
tượng cha mẹ, thờ phụng trên bàn thờ. Hễ
đi đâu bèn vái chào xin phép đi. Lúc về bèn thưa bẩm
“con đă về”, hỏi thăm cha mẹ có khỏe hay
không.
[126] Nguyên văn “xả
thiêm khối nhi quản điệm”. Thiêm (苫) là cái
chiếu bện bằng rơm hoặc ổ rơm, Khối
(塊) tức là Thổ Khối, nghĩa là dùng
đất nắn thành cái gối hoặc gối đầu lên cục đất,
biểu thị ngủ không yên giấc v́ tưởng nhớ
cha mẹ. Quản điệm (筦簟) là cái đệm bện bằng cỏ bồ,
tương đối nằm thoải mái hơn chiếu bện
bằng rơm. Cả câu này hàm ư người
hiện thời dẫu cư tang vẫn chọn cách thức
ăn ngủ an nhàn, thoải
mái.
[127] Nguyên văn là “trảm
thôi” (斬衰) là một loại áo tang may bằng vải xô (vải
mùng), hoặc vải gai, không may mép và vắt gấu, để
các mép vải lờm xờm. Theo cổ lễ, con trai
và con gái chưa chồng, con dâu, cháu nội, vợ để
tang cho chồng đều phải mặc tang phục theo lối
Trảm Thôi. Thời Tiên Tần, các chư hầu để
tang thiên tử cũng như các quan để tang vua đều
mặc theo lối Trảm Thôi.
[128] Phân Pḥng (分房) là một thuyết của môn Địa Lư (chọn
huyệt chôn cất) cho rằng tùy theo cuộc đất
mà con cái sẽ bị ảnh hưởng khác nhau. Chẳng
hạn cha mẹ có nhiều con th́ chôn ở cuộc đất
này sẽ khiến cho con trưởng được
hưng vượng, nhưng người con thứ hai suy bại
v.v…
[129] Núi ở
đây là thuật ngữ được dùng trong Phong Thủy
để chỉ các g̣, đống, hoặc khối đất
nhô cao hơn mặt đất ở nơi chọn
lựa để an táng, không phải là núi non.
[130] Lăo Lai (老萊) là một nho sĩ ẩn cư của nước
Sở sống vào cuối thời Xuân Thu, hết sức hiếu
thuận. Tuổi đă bảy mươi vẫn mặc áo
màu mè sặc sỡ, cười nói như đứa trẻ
khiến cho cha mẹ bật cười.
[131] Hoa Bảo
là người xứ Vô Tích, sống vào thời nhà Tề của
Nam Bắc Triều. Cha ông là Hoa Hào có trách nhiệm bảo vệ
Trường An trong niên hiệu Nghĩa Hy của Tấn An
Đế nhà Đông Tấn. Khi ấy, Hoa Bảo mới
lên tám, cha ra đi, bảo Hoa Bảo: “Khi ta về sẽ làm
lễ đội mũ cho con”. Về sau, Trường An bị
vây hăm, Hoa Hào chết trận. Hoa Bảo đến tuổi
bảy mươi vẫn không kết hôn, không làm lễ
đội mũ. Hễ có người hỏi đến
nguyên cớ, ông khóc lóc rất thương tâm.
[132] Hàn Bá Du
là người sống vào thời Tây Hán cũng rất hiếu
thuận. Có một lần mẹ dùng gậy đập ông,
ông khóc ầm lên. Mẹ hỏi: “Trước kia ta đánh
ngươi, ngươi đều không khóc, v́ sao nay
ngươi lại khóc?” Hàn Bá Du thưa: “Trước kia,
con cảm thấy rất đau, biết là thân thể mẹ
hăy c̣n khỏe mạnh. Nay con bị mẹ đánh mà cảm
thấy không đau, cho thấy thân thể mẹ đă yếu,
cho nên con đau ḷng khóc lóc”.
[133]
Vương Bầu là người Doanh Lăng, tỉnh
Sơn Đông, sống vào thời Tây Tấn. Ông học rộng,
rất tài hoa. Do cha ông bị Tư Mă Chiêu làm hại, ông suốt
đời chẳng ngồi ở phía Tây, biểu thị chẳng
thần phục nhà Tấn. Ông ẩn cư, dạy học;
hễ đọc đến câu “ai
ai phụ mẫu, sanh ngă cù lao” (thương thay cha mẹ,
sanh ta nhọc nhằn) bèn khóc lóc. Quanh mộ song thân của
ông có mấy cây bách, mỗi lần đến viếng mộ,
ông đều vịn cây bách khóc lóc bi thương. Lệ thấm
vào lá khiến lá bách bị héo úa.
[134] Hóa
Thư (化書) chính là bộ
sách Tử Đồng Đế Quân Hóa Thư, không rơ tác giả,
xuất hiện vào thời Nguyên, chép về truyện kư của
Văn Xương Đế Quân. Vào năm Diên Hựu thứ
ba đời Nguyên Nhân Tông, nhà vua đă sắc phong Đế
Quân danh hiệu Tử Đồng Thần Hiệu Phụ
Nguyên Khai Hóa Văn Vương Tư Lộc Hoằng Nhân
Đế Quân. Theo sách ấy, Đế Quân đă nhiều
lần giáng sanh trong nhân gian, như vào đầu đời
Châu, Ngài thị hiện làm quan chữa bệnh tên là
Trương Thiện Huân. Thời Châu Tuyên Vương lại
giáng sanh làm quan đại phu Trương Trung Từ, đầu
đời Hán lại giáng sanh làm Hán Vương Như Ư v.v…
[135] Kinh
Đại Động là một bộ kinh của Đạo
giáo, có tên gọi đầy đủ là Thượng Thanh
Đại Động Chân Kinh Tam Thập Cửu
Chương. Đây là kinh điển chủ yếu của
phái Thượng Thanh trong Đạo giáo, được
tôn là kinh đứng đầu trong các kinh thuộc hệ
thống Thượng Thanh.
[136] Thái Ḥa
là tên một huyện thuộc thành phố Đại Lư, tỉnh
Vân Nam.
[137] Vô Tế
Đại Sĩ chính là cao tăng Vô Tế Thiền Sư sống
vào đời Minh, tác giả của bộ Đạo Lâm Lục
được lưu truyền trong cơi đời.
[138] Theo kinh
Bảo Tạng, xưa kia có một vị trưởng giả
hai vợ chồng đều bị mù, vào trong núi cầu
đạo. Khi ấy, có một vị Bồ Tát tên là Nhất
Thiết Diệu Kiến sanh ḷng thương xót, bèn đầu
thai làm con, được họ đặt tên là Thiểm
Ma. Thiểm Ma chí hiếu nhân từ, khi tṛn mười tuổi,
theo cha mẹ vào núi để phụng sự. Thiểm Ma mặc
áo da hươu, vác b́nh lấy nước. Khi ấy quốc
vương là Ca Di vào núi săn bắn, ngỡ là
hươu, giương cung bắn trúng Thiểm Ma. Cặp
vợ chồng ngửa mặt kêu trời: “Thiểm Ma chí
hiếu, trời biết cho, ắt sẽ giúp Thiểm Ma sống
lại”. Do vậy, Thích Phạm Tứ Thiên giáng xuống
trước Thiểm Ma, đổ thuốc vào miệng, nhổ
mũi tên ra, Thiểm Ma sống lại. Cha mẹ kinh ngạc,
mừng rỡ, hai mắt sáng lại.
[139] Sơn
ca là những khúc hát của dân miền núi.
[140] Từ
ngữ này phát xuất từ thiên Vi Chánh trong sách Luận Ngữ:
“Kim chi hiếu giả, thị
vị năng dưỡng. Chí ư khuyển mă, giai năng
hữu dưỡng, bất kính, hà dĩ biệt hồ?”
(Nay cứ cho con phụng dưỡng cha mẹ là hiếu,
nhưng chó, ngựa cũng đều có thể nuôi đấy
thôi! [Nuôi cha mẹ] mà chẳng kính, có khác ǵ [nuôi chó, ngựa]
đâu?)
[141] Tuyên
Nhân là hoàng hậu của Tống Anh Tông. Về sau,
được tôn là Tuyên Nhân Liệt Thánh Thái Hoàng Thái Hậu.
Bà họ Cao, tên là Thao Thao, là mẹ của Tống Thần
Tông (Triệu Húc), bà nội của Tống Triết Tông (Triệu
Hú) và Tống Huy Tông (Triệu Cát). Bà kịch liệt phản
đối các biện pháp của Vương An Thạch, trọng
dụng phe Tư Mă Quang. Bà được ca ngợi có tài
chấp chánh, giúp cháu là Tống Triết Tông cai trị. Các sử
gia đánh giá bà uyên bác, anh minh, nghiêm chỉnh chấp hành lễ
pháp, giúp cho thời kỳ đầu cai trị của Tống
Triết Tông khá thịnh trị. Do vậy, bà được
tôn là Nữ Trung Nghiêu Thuấn. Sau khi bà mất, những kẻ
căm ghét bà đă bôi bác, t́m mọi cách bêu xấu bà. Chuyện
bôi xấu này cũng do Tống Triết
Tông chỉ đạo v́ nhà vua vốn đă ham chơi, thích
hưởng lạc, lại luôn bị bà nội g̣ ép vào kỷ
cương, cho nên ngấm ngầm ôm ḷng oán hận!