Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

感應篇彙編

Quyển 1

Phần 3

(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2000)

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Chánh văn): Từ tâm ư vật.

          (正文)慈心於物。

          (Chánh văn: Từ tâm đối với muôn loài).

 

          Từ là cội gốc của muôn điều thiện, tức là ḷng nhân. Từ có hai nghĩa: Một là giúp nghèo, dẹp khổ; hai là kiêng giết, phóng sanh. Suy ngẫm chữ này, hăy nên nói theo phương diện “suy tới muôn loài”, có nghĩa là bậc quân tử tích lũy công đức, không chỉ là “thân thân nhân dân” (親親仁民, thân ái đối với người thân, có ḷng nhân đối với những người khác) mà thôi, mà ḷng Từ c̣n hướng đến muôn vật nữa.

          Đại Tạng Kinh nói: “Người chẳng sát sanh, yêu thương, bảo vệ sanh mạng muôn vật, và phóng sanh, thí thực, sẽ được quả báo sống lâu”. Người hiện thời, đối với chuyện trẻ con trong nhà chơi đùa, hăy đều nên ngăn cấm, đừng để cho chúng nó tổn hại các loài ruồi, muỗi, bướm, trùng, kiến, chim chóc v.v… [Nếu để mặc, không răn đe], không chỉ là thương tổn các sinh vật, mà c̣n khiến cho ư niệm giết chóc của chúng lừng lẫy; lớn lên, chúng nó sẽ chẳng biết nhân từ, khoan dung! Đối với tôi tớ, hễ họ đổ, hắt nước nóng, và đốt củi, quét đất, [sẽ khiến cho] các loài như đỉa, kiến v.v… phần nhiều bị tổn thương, cũng nên răn nhắc. Hễ ai trông thấy hết thảy chúng sanh gieo ḿnh vào tử địa, như thiêu thân đâm đầu vào đèn, trùng vướng vào lưới [nhện], chim chóc bị thương, dế, kiến bị đạp, tôm, cá, những loài có vảy nhỏ bé bị mắc lưới v.v… hăy nên tạo phương tiện cứu giúp, che chở khiến cho chúng nó được toàn mạng! Đấy là hành vi của bậc phước thọ lâu dài vậy!

          Kinh Quán Thế Âm nói Đại Phạm Thiên Vương hỏi về tướng mạo của Đà La Ni, Bồ Tát bèn đáp: “Là tâm đại từ bi”. Sách Hoa Nghiêm Hợp Luận nói: “Quán Thế Âm biểu thị vị trí Tây phương. Do phương Tây thuộc về chỗ Thu sát[1], Ngài hành ḷng Từ cứu khổ ở chỗ ‘sát’, nên tên là Quán Thế Âm”. Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm chép: “Nhược linh chúng sanh hoan hỷ, tắc nhất thiết Như Lai hoan hỷ. Hà dĩ cố? Chư Phật Như Lai dĩ đại bi tâm nhi vi Thể cố, nhân ư chúng sanh nhi khởi đại bi, nhân ư đại bi sanh Bồ Đề tâm. Nhân Bồ Đề tâm, thành Đẳng Chánh Giác” (Nếu làm cho chúng sanh hoan hỷ, hết thảy Như Lai sẽ hoan hỷ. V́ sao vậy? V́ chư Phật Như Lai dùng tâm đại bi làm Thể, do v́ chúng sanh mà dấy ḷng đại bi, do v́ đại bi mà sanh tâm Bồ Đề, do tâm Bồ Đề mà thành Đẳng Chánh Giác). Chúng sanh yêu quư thân mạng nhất, chư Phật yêu mến chúng sanh nhất. Có thể cứu thân mạng của chúng sanh, tức là có thể thành tựu tâm nguyện của chư Phật. Do vậy, xét ra, chư Phật, Bồ Tát ngàn lời vạn lẽ, không ǵ chẳng nhằm dạy mọi người hăy cứu khổ cho chúng sanh! Ngàn lời vạn lẽ của tà ma, ngoại đạo, không ǵ chẳng nhằm dạy con người ăn thịt chúng sanh. V́ thế biết: Khuyên kẻ khác phóng sanh, chính là khơi gợi ḷng từ bi của họ, là cái nhân lành để hưởng sự vui sướng dài lâu nhiều kiếp. Khuyên kẻ khác sát sanh, tức là dấy động ḷng tàn nhẫn của họ, sẽ là căn cội oan khiên bao kiếp! Một lời là then chốt gây nên họa hay phước như thế đó, há chẳng thận trọng ư?

          Đời Hán, Dương Bảo lúc chín tuổi, trông thấy một con sẻ lông vàng bị chim cú đánh văng xuống đất, lại bị kiến bu. Dương Bảo cứu nó, đặt trong rương, cho nó ăn hoa vàng. Đến khi nó mọc lông vũ, bèn thả đi. Một tối, có một đứa bé trai mặc áo vàng, hướng về Dương Bảo bái tạ: “Tôi là sứ giả của Tây Vương Mẫu[2], đến núi Bồng Lai, qua đây gặp phải ách nạn này, cảm tạ ông đă cứu giúp”. Bèn đem bốn chiếc ṿng ngọc tặng cho ông ta, nói: “Khiến cho con cháu ông làm tới Tam Công, trắng sạch như những chiếc ṿng này”. Nói xong, chẳng thấy đâu nữa! Về sau, Dương Bảo sanh ra Dương Chấn, Dương Chấn sanh Dương Bỉnh, Dương Bỉnh sanh Dương Tứ, Dương Tứ sanh ra Dương Bưu, bốn đời làm Tam Công, thanh bạch khôn sánh!

          Đời Minh, Trầm Vạn Tam thấy có người cầm mấy trăm con ếch sắp đem giết, bèn mua hết, đem thả trong ao. Một hôm, đến bên bờ ao, thấy lũ ếch ngồi quanh một cái chậu sành, Vạn Tam bèn cầm về làm chậu rửa mặt. Ngẫu nhiên rửa tay, đánh rớt một chiếc nhẫn vào đó. Sáng hôm sau, thức dậy, cầm đến, nhẫn đă đầy chậu. Ông Trầm kinh dị, lấy vàng, bạc thử bỏ vào cũng thế. Đấy chính là Tụ Bảo Bồn (聚寶, chậu gom chứa của báu), [ông Trầm trở thành] giàu có nhất nước.

          Đời Tống, thiền sư Diên Thọ là người xứ Đan Dương. Thoạt đầu, Sư làm nha lại ở huyện Dư Diêu, thâm thủng tiền trong kho mấy chục vạn. Hữu Ty[3] tra hỏi, [hóa ra] chỉ là do Sư mua những con vật đem phóng sanh, xài lố vào đó, chẳng ngờ thiếu hụt ngần ấy. [Quan trên phán định] tội phải chết, lúc sắp bị xử tử, Sư vẻ mặt chẳng đổi, nói: “Ta cứu sống mấy muôn vạn sanh mạng, nay tuy chết, sẽ mau chóng về Tây Phương, há chẳng vui ư?” Tiền Vương[4] nghe nói thương xót, tha tội ấy. Sư trở thành Tăng, mộng thấy ngài Quán Âm dùng cam lộ rưới vào miệng, huệ tánh ngày càng mở mang. Sư viết bộ Vạn Thiện Đồng Quy Tập gồm sáu quyển. Sư trụ tại chùa Vĩnh Minh, thọ chín mươi tám tuổi, ngồi chắp tay, qua đời. [Môn nhân] dựng tháp [an táng Sư] bên cạnh chùa, có một vị tăng hằng ngày nhiễu quanh tháp, lễ bái. Có người hỏi duyên cớ, Tăng đáp rằng:

          - Tôi là một ông sư ở Phủ Châu, do bị bệnh, đến cơi âm. Thấy bên góc điện có treo một cuộn tranh vẽ, Diêm Vương đích thân đến đảnh lễ. Tôi hỏi người đứng đầu các nha lại, người ấy đáp: “Thọ thiền sư đấy mà! Phàm người chết đều phải qua chỗ này, riêng có thiền sư đến thẳng Tây Phương Cực Lạc thế giới, thượng phẩm thượng sanh. V́ thế, Diêm Vương kính lễ”. Có thể thấy rơ là sanh về Tây Phương được âm phủ kính trọng dường ấy.

          Trong bài Giới Sát Văn (bài văn khuyên kiêng giết) của Liên Tŕ đại sư đời Minh có đoạn:

          - Ai nấy đều yêu mạng, muôn vật tham sống. Sao lại sát hại thân thể chúng nó để thỏa thích miệng bụng ta? Hoặc là dao bén mổ bụng, hoặc đao nhọn chọc tim. Hoặc lột da, lóc vẩy, hoặc cắt họng, chẻ mai, hoặc luộc sôi, nướng sống ba ba, lươn. Hoặc dùng muối, rượu để muối tươi cua, tôm. Đáng thương thay! Đau thảm thiết khôn nỗi giăi bày, khổ cùng cực khôn bề chịu đựng! Tạo ác nghiệp ngập trời, kết thành mối oán cừu sâu đậm muôn đời. Một mai vô thường, liền đọa địa ngục. Vạc sôi, ḷ than, rừng gươm, núi đao. Khi thọ tội xong, c̣n làm súc sanh. Oán oán báo thù, mạng mạng đền bồi. Hết nợ, được làm người, lắm bệnh, chết yểu. Tôi nay đau xót thưa cùng người đời, khuyên khắp mọi người chớ giết, càng nên tùy sức phóng sanh, lại c̣n tŕ niệm danh hiệu Phật, không chỉ là phước đức tăng cao, ắt c̣n tùy nguyện văng sanh, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, công đức vô lượng.

         

          (Chánh văn): Trung hiếu.

          (正文)忠孝。

          (Chánh văn: Trung hiếu).

 

          Làm bầy tôi tận trung, làm con tận hiếu, đấy là thiên lư thường hằng, là cội gốc của nhân luân. Nếu làm bầy tôi mà bất trung, ắt vua c̣n mong cậy ǵ bầy tôi nữa? Làm con bất hiếu, cha c̣n mong đợi ǵ ở con nữa đây? Súc sanh cầm thú đều chẳng bằng, há c̣n đáng gọi là người nữa ư?

          Loài người tuy đáng dự vào tiên phẩm, [nhưng để thành tiên], ắt cần phải trải qua nhiều năm tháng! Chỉ có kẻ tột trung, tột hiếu, hôm nay tạ thế, ngày mai liền sanh cơi trời. Người biết làm bầy tôi, làm con trung hiếu, tiết tháo cao cả, há có biết đấy lại càng là cội gốc để được siêu độ ư?

          Kẻ có hiếu, trước hết phải giữ yên đất nước. Do nước đă yên, [dân chúng] sẽ an cư. Do an cư, họ sẽ thực hiện hạnh hiếu thảo. V́ thế, cổ nhân t́m trung thần, ắt t́m nơi hiếu tử. Trung hiếu toàn vẹn đôi bề mới là đạo trọng yếu để đạt đến đức hạnh cao tột. Nhưng cũng có khi trung hiếu chẳng thể đều vẹn toàn được, do vậy, chia ra [thành từng phương diện] để luận định, ngơ hầu mỗi người sẽ tùy theo sự việc mà biết trọn hết tấm ḷng.

          “Trung” là tận tâm, chẳng lừa dối. Phàm trong các mối quan hệ giữa con người với nhau, như kẻ dưới phụng sự người trên, như những người cùng hàng chơi với nhau, xử sự, giao tiếp, đều nên có [ḷng Trung], nhưng đoạn kinh văn này nhằm chuyên nói về kẻ làm bầy tôi. Cha con, anh em, vợ chồng, ai nấy đều tự biết kính yêu, c̣n như [mối quan hệ] vua tôi là do đạo nghĩa mà kết hợp, ai nấy dễ phạm lỗi cẩu thả. Ở đây, nói ḷng Trung là nói tới chuyện thiên kinh địa nghĩa, là chuyện chẳng thể trốn tránh giữa ṿng trời đất vậy.

          Ông Phan Trọng Mưu nói:

          - Trong đời mỗi người, ngoài trời, đất, cha mẹ ra, ân vua lớn nhất. Trong thường nhật, bất luận cư trụ, ăn uống[5], không ǵ chẳng phải là ân vua. Khi vào trường học tập[6], cho đến lúc ra làm quan, được phong tước, vinh hiển tổ tông, rạng mặt nở mày ba họ[7], hoặc được vua coi như kẻ tâm phúc, phong cho quan cao chức cả[8], bất quá là mong bồi dưỡng kẻ sĩ ḥng báo đáp [nước nhà] đó thôi! Con người chẳng phải là cây cỏ, ai chẳng động ḷng? Thế mà có kẻ đă hưởng ân đất nước, chẳng nghĩ dốc sức như khuyển mă để báo đáp, chỉ biết vun vén cho bản thân và gia đ́nh, cái tâm sao mà tàn nhẫn vậy?

          Ông Vu Thiết Tiều nói:

          - Sĩ, nông, công, thương mắt chẳng thấy cửu trùng cung khuyết[9], dường như chẳng có ơn vua để đáng nói tới. Nhưng hăy thử nghĩ: Ở một phương, những chốn chằm, đầm là nơi bọn giặc cướp chiếm cứ, là nơi bọn vong mạng dấy binh, ắt [chúng nó] sẽ dâm, giết, cướp bóc, sáng chẳng bảo đảm tối. Nếu không có oai phước của quân đội triều đ́nh diệt sạch [giặc cướp, loạn quân] cho an toàn, há [dân chúng b́nh phàm] có thể yên ḷng ngồi hưởng phước bốn biển thái b́nh ư? Nghĩ đến đây, [sẽ thấy] gă phu gồng gánh, đứa trẻ chăn trâu, phụ nữ canh cửi, anh chàng cấy cày, chốn chốn đều thọ ơn vua, lúc nào cũng đều là do sức vua! Hăy nên tùy phận dốc trọn ḷng trung, huống hồ kẻ đọc sách ăn lộc vua ư? Kẻ chẳng biết một chữ Trung, cũng đáng thẹn lắm thay!

          Đạo làm bầy tôi không phải chỉ có một. Người làm tể phụ[10], ắt dốc trọn ḷng phù tá việc cai trị là trung. Là kẻ ngôn quan (, gián quan, ngự sử, gián nghị đại phu) ắt coi chuyện can gián nhằm khuông pḥ [hoàng đế theo đúng chánh đạo] là trung. Làm quan trông coi về h́nh pháp, bèn coi chuyện chấp hành pháp luật công bằng, khoan dung là trung. Làm quan lại, coi yêu dân, siêng năng nơi chức trách là trung. Làm quan vơ, coi dốc hết sức dẹp yên loạn lạc là trung. Những người giữ việc tiến cử, trông coi văn học, lấy chuyện tuyển chọn nhân tài cho đất nước là trung. Chuyện [tṛn hết trách nhiệm để tận trung] khó thể nêu trọn! Sở dĩ ư niệm [trung thành] của kẻ làm bầy tôi bị phân tán đến nỗi chẳng đoái nghĩ đấng quân vương[11] là do có mấy điều, tức là do gia đ́nh của chính ḿnh, do tước vị, do quyền thế, do ân oán, do danh dự. Ư niệm về bản thân, gia đ́nh, tước vị xuất phát từ kẻ tầm thường th́ chuyện xấu [gây nên bởi cái tâm bất trung ấy] vẫn c̣n nhỏ. Ư niệm quyền thế phần nhiều phát sanh từ kẻ gian nịnh, thường liên quan đến lẽ lợi hại của thiên hạ, nước nhà, nhưng nỗi hại ấy rốt cuộc cũng gây hại cho chính kẻ gian! C̣n như ân oán và danh dự, dẫu là kẻ được cơi đời xưng tụng là quân tử, vẫn có khi chẳng tránh khỏi! Từ thời Đường, Tống tới nay, mối họa kéo bè kết đảng là như thế đó. Chỉ có trung th́ sẽ tận tâm, chẳng lừa dối. Chẳng lừa dối th́ sẽ chí thành. Hễ chí thành th́ khởi tâm động niệm, hoàn toàn chẳng v́ bản thân, gia đ́nh, tước vị mà dấy lên, chẳng tránh né kẻ quyền thế mạnh mẽ, chẳng bị ảnh hưởng bởi t́nh cảm riêng tư, chẳng tiếc nuối công danh của chính ḿnh, trọn chẳng cầu được tiếng thơm là bậc trung nghĩa, chánh trực. Tuy khéo léo chu toàn sự việc, nhưng chẳng a dua, phụ họa, hoặc là chấp pháp chẳng nể nang t́nh cảm, chẳng v́ t́nh tự khích động mà uốn cong luật lệ. Chỉ cần là chuyện thật sự hữu ích cho quốc kế, dân sanh, [sẽ đều tận lực thực hiện]. Lại c̣n coi vua của ḿnh đúng là như vua Nghiêu, vua Thuấn, chẳng dám manh nha ư niệm coi thường. Đấy mới là ḷng trung cung kính vậy!

          Hàn Thi Ngoại Truyện[12] chép:

          - Đạo trung có ba loại. Một là thờ vua bằng cách dùng đạo để bảo vệ th́ là đại trung. Dùng đức hạnh để uốn nắn, pḥ tá vua th́ là thứ trung (trung thành bậc thứ). Dùng lời lẽ can gián những chuyện sai trái để cứu nhà vua th́ là hạ trung.

          Sách Thuyết Uyển[13] nói:

          - Tuân theo mạng lệnh, có lợi cho vua th́ gọi là Thuận. Tuân theo mạng lệnh mà có hại cho vua th́ gọi là A Dua. Trái mạng mà gây hại cho vua th́ gọi là Loạn. Trái mạng mà có lợi cho vua th́ gọi là Trung.

          Nhan Quang Trung[14] nói:

          - Phàm là người làm quan xử sự trong cơi đời, [khi gặp] những chuyện thị phi to tát, gặp những chỗ có ảnh hưởng lợi hại to lớn, thường liên quan đến tánh mạng, tuy lúc rảnh rang th́ có thể lo liệu chánh vụ, tuân thủ chánh đạo, nhưng cho đến khi ấy (đến khi phải quyết định những chuyện trọng đại), cứ ngập ngừng muốn nói lại thôi, [cứ phân vân nên] thuận theo hay trái ư cấp trên, ắt sẽ có chuyện giết người để lấy ḷng người khác! Nếu không, sẽ là phường hồ đồ, chẳng quyết đoán, bại hoại quốc sự, khiến cho thế gian này phải hứng chịu [hậu quả của] sự chần chừ ấy.

          Xưa nay, những bậc hào kiệt hành sự, thành tựu đại công danh, đại nhân phẩm, đều là do từ trong “muôn phần chết, một phần sống” mà ra, đạt được định lực từ nơi ấy; sau đấy, quốc gia mới được lợi ích. Như Gia Cát Lượng cúc cung tận tụy, Quách Lệnh Công (Quách Tử Nghi, 郭子儀)[15] một ḿnh một ngựa gặp giặc Hồ, Lư Lâm Hoài[16] giấu đao trong giày [để tỏ rơ chí], Hàn Kỳ Vương[17] mười ngón tay c̣n bốn, Lưu Thuận Xương[18] chứa củi đợi chết [nhằm tỏ ư sanh tử quyết chiến]. Ông ta ra vào giữa vạn quân, [trong ṿng] tên đạn chi chít, [thế mà] thần khí bất động, lặng lẽ thắng trận, há dễ dàng ư? Tấm thân đă sớm giao cho nước nhà rồi! Nhưng đó vẫn là nói về bậc chiến tướng. C̣n như Từ Hữu Công[19], Địch Lương Công[20], Lư Phiên[21] đều [bị vu cáo, hăm hại mà] mắc tội tử h́nh. Bùi Tấn Công[22], Trương Ngụy Công[23], Hàn Ngụy Công[24] bị vây hăm bởi kiếm khách[25], nhưng họ rốt cuộc bất tử, công huân trọn khắp trời đất, danh treo cùng nhật nguyệt. Cố nhiên là họ đă bỏ sạch [bản thân] như thế, nhưng sau đó đă đạt được tác dụng to lớn.

          Do vậy biết tạo vật, quỷ thần cũng dùng chuyện này để thử thách con người. Khi đă vượt được thử thách, thần linh sẽ luôn bảo vệ, vũ trụ sẽ thuộc quyền chấp chưởng của họ. Khi chẳng vượt được sự thử thách ấy, sẽ là thân bại danh liệt. Như Vương Diễn, Ân Hạo[26] v.v… thoạt đầu cũng tự phụ là hạng người đứng thẳng nơi cao muôn trượng, tiếng tăm lừng lẫy trong bốn biển, nhưng thấy cây cỏ th́ vui vẻ, thấy sói bèn run rẩy, v́ sẵn mang bản chất của loài dê! Hễ gặp chuyện biến hóa, bèn run giọng, líu lưỡi, bọn họ làm sao có thể tranh thủ xoay chuyển vận mạng càn khôn, có bản tánh của những nhân vật an định cho được? Ấy là v́ họ gieo trồng căn cội giả trất[27], giả sẽ ứng với giả, nếu nhận được đôi chút phước trạch nhỏ nhoi là đă tiện nghi lắm rồi! Hiềm rằng do được hưởng danh tiếng quá nặng, tự mong mỏi thái quá, đến khi lộ rơ bản chất, chẳng thi triển được một mánh khóe [giả dối] nào, bị thiên hạ cười nhạo. Do vậy bèn nói: Sự soi xét [của thiên địa, quỷ thần] rất ẩn nhiệm, chẳng dung kẻ dối trời lừa người ḥng cầu may mắn mà đạt được thành công đâu nhé! V́ thế, đối với chỗ này, phải gấp nên giữ cho thanh tịnh.

          Tấm thân này đă phó thác thiên địa, vạn vật, dẫu bất hạnh mà chết, như những cái chết của Quan Tráng Mục, Trương Tuy Dương, Nhạc Vũ Mục, Văn Văn Sơn[28] [vẫn hết sức có giá trị]. Hăy xem bọn Lư Lâm Phủ, Dương Quốc Trung, Hàn Thác Trụ, Giả Tự Đạo[29] có kết cục như thế nào? Có ai không chết? Chỉ có bậc chánh trực, trung hiếu, hễ chết sẽ thành thần, được triều đ́nh phong tặng hiển vinh, được tôn sùng, cúng tế vẻ vang, con cháu được tập ấm. Chẳng thấy bọn quyền thần, gian nịnh chết rồi sẽ được như vậy! Chẳng bàn đến bọn quyền thần, gian nịnh, ngay như bọn Ca Thư Hàn, Tiêu Chí Trung, Vương Nhai, Giả Tốc[30] nem nép xu phụ, mong giữ được đầu cổ, nhưng khi đại hạn xảy tới, ngọc đá chẳng c̣n! Đă sớm biết cũng bị chết ngang trái như vậy, sao không liệt liệt oanh oanh, đội trời đạp đất vậy thay?

          Lại như vào thời Hán Vũ Đế, thời Đường Vũ Hậu (Vũ Tắc Thiên), khí tượng như thế nào? Những kẻ bị họ vô cớ tru sát, tuyệt diệt vô số, nhưng những quan lại chủ tŕ công đạo thuở đó, chẳng có ai chết! Những gă đón ư xu phụ kẻ tàn khốc, bạo ngược khi ấy, chẳng có kẻ nào bất tử. Dẫu chẳng dám nhất loạt luận định [những trường hợp như thế đó] đều là họa phước, nhưng [đă hiểu] v́ sao mạng (vận mạng) được gọi là mạng, chẳng thể khiến cho ta càng thêm tự tin ư? Cớ ǵ cứ ắt phải nem nép để rồi v́ tiếc nuối tánh mạng này mà phụ bạc ơn vua, gieo rắc mầm độc trong cơi đời!

          Lư Bí làm Tể Tướng thời Đường Đức Tông. Đức Tông v́ chuyện Cáo Quốc Trưởng Công Chúa[31] mà muốn phế Thái Tử, gọi Lư Bí tới, kể cho biết. Lại c̣n bảo: “Thư Vương[32] gần đây đă trưởng thành, hiếu kính, thuận thảo, ôn ḥa, nhân từ”. Lư Bí nói: “[Thái Tử] là con trai duy nhất của bệ hạ, cớ sao bệ hạ muốn phế đi để lập cháu? Hơn nữa, đối với con ruột của bệ hạ mà c̣n hoài nghi, làm sao không có [ḷng nghi] đối với cháu? Thư Vương tuy hiếu, [nhưng chẳng phải là con ruột]; từ nay, bệ hạ hăy nên nỗ lực, chớ nên mong cầu nơi ḷng hiếu thuận ấy (ḷng hiếu thuận của Thư Vương)”. Vua nói: “Khanh không yêu thương gia tộc ư?” Lư Bí tâu: “Chỉ v́ thần yêu thương gia tộc, cho nên chẳng dám không nói hết lời. Nếu sợ cơn thịnh nộ của bệ hạ mà ép ḿnh thuận theo, ngày sau, bệ hạ hối hận, nhất định sẽ oán thần: ‘Ta riêng cử ngươi làm Tể Tướng, ngươi chẳng tận lực can gián!’ Đến nỗi ấy, ắt [bệ hạ] sẽ giết con thần. Thần đă già rồi, những năm tháng c̣n lại chẳng đáng tiếc! Nếu [bệ hạ] giết oan con thần, khiến cho thần phải lấy cháu làm người nối dơi, thần chẳng biết có được hưởng sự cúng tế ấy hay không?” Nhân đó, nghẹn ngào tuôn lệ; vua cũng khóc, nói: “Sự đă như vậy, biết làm sao?” Ông tâu: “Đối với chuyện lớn này, xin hăy suy xét. Từ xưa, hễ cha con ngờ nhau, chưa từng có chuyện không mất nước”. Vua nói: “Trong các niên hiệu Trinh Quán và Khai Nguyên đều thay Thái Tử, cớ sao chẳng mất nước?” Ông tâu: “Chuyện Thừa Càn âm mưu làm phản bị phát giác, Thái Tông bất đắc dĩ phế trừ và c̣n phế bỏ Ngụy Vương Thái. C̣n như Vũ Huệ Phi (Dương Quư Phi) gièm pha ba anh em Thái Tử Lư Anh, khiến họ bị giết, toàn quốc oán hận, phẫn nộ; đấy chính là chuyện trăm đời đều nên răn ngừa, há lại có thể phỏng theo ư? Thần xin bệ hạ hăy thong thả trong ba ngày, xét rơ đầu mối, ắt sẽ biết rơ Thái Tử không có tâm ǵ khác. Nếu thật sự có dấu tích ấy, xin bệ hạ hăy theo như phương pháp thời Trinh Quán, phế luôn Thư Vương, lập hoàng tôn, ắt trăm đời sau, người có được thiên hạ vẫn là con cháu của bệ hạ. Nếu nói với bọn người như Dương Tố, Hứa Kính Tông, Lư Lâm Phủ, họ sẽ vâng theo ư chỉ này, sẽ lập công mưu định sách lược với Thư Vương”. Vua nói: “Ta sẽ v́ khanh kéo dài chuyện này tới ngày mai để suy nghĩ”. Lư Bí tâu: “Như thế th́ thần biết cha con bệ hạ ‘cha nhân từ, con hiếu thuận’ như thuở đầu vậy. Nhưng bệ hạ hăy nên tự tra xét, đoán định, chớ để lộ ư này với kẻ chung quanh. Nếu để lộ ra, họ sẽ tâng công với Thư Vương, Thái Tử sẽ bị nguy”. Sau một ngày, vua ngự tại Diên Anh Điện, triệu kiến một ḿnh Lư Bí, tuôn nước mắt bảo: “Chẳng có lời [can gián] thống thiết của khanh, hôm nay trẫm sẽ hối hận chẳng kịp. Thái Tử nhân hiếu, thật sự chẳng có tâm ǵ khác”. Lư Bí làm Tể Tướng bốn triều[33], là bậc Tể Tướng lừng danh đời Đường; về sau, lại thành thần tiên.

          Đời Đường, Ngụy Trưng có đảm lược, khéo xoay chuyển ư vua. Đối với chuyện [nhà vua sai trái dẫu] lớn hay nhỏ, ông ắt cực lực can gián, chẳng ngại mất ḷng vua. Dẫu vua hết sức giận dữ, ông vẫn chẳng thôi. Vua từng có một con diều hâu đẹp đẽ, cho nó đứng trên cánh tay của ḿnh. Nó thấy Ngụy Trưng từ xa đến, bèn trốn trong ḷng vua. Ngụy Trưng cố ư tâu chuyện lâu lắc; rốt cuộc, diều hâu chết trong ḷng vua. Văn Đức hoàng hậu[34] băng, vua nghĩ nhớ không thôi, làm lầu mấy tầng trong thượng uyển để nh́n về phía Chiêu Lăng. Vua từng dẫn Ngụy Trưng theo lên đó, bảo hăy nh́n xem. Ngụy Trưng nh́n kỹ, tâu: “Thần hoa mắt chẳng thể thấy”. Vua bèn chỉ cho thấy, Ngụy Trưng tâu: “Thần ngỡ là bệ hạ dơi nh́n Hiến Lăng. Nếu là Chiêu Lăng th́ đương nhiên là thần trông thấy”. Vua khóc, sai hủy cái lầu ấy. Ngụy Trưng khuyên vua: “Hăy giảm bớt đao binh, chú trọng văn hóa. Trung Quốc đă yên, tứ di tự phục tùng”. Vua nghe theo lời ấy. Về sau, Hiệt Lợi[35] bị bắt, viên tù trưởng ấy c̣n đeo đao, làm túc vệ. [Thịnh trị] đến nỗi [nhà dân chúng] cửa ngoài không cần đóng, người đi xa chẳng mang theo lương thực, đều do sức của Ngụy Trưng vậy. Ngụy Trưng là bậc đại thần hữu danh đời Đường, được phong làm Trịnh Công, cháu năm đời là Mô lại làm Tể Tướng.

          Thời Vũ Tắc Thiên, các pháp quan đua nhau tàn khốc, chỉ riêng có quan Tư H́nh Thừa là Từ Hữu Công giữ ḷng công bằng, khoan dung. Thoạt đầu, ông trông coi về h́nh pháp ở Bồ Châu, chẳng đánh đập tù nhân. Các nha lại ước định với nhau: “Nếu vi phạm, sẽ bị Từ tư pháp đánh đ̣n, bị mọi người cùng chê trách”. Cho đến khi ông măn nhiệm, chẳng đánh đ̣n một ai, các người có chức trách cũng sửa đổi. Tới khi ông làm Tư H́nh Thừa, đối với những kẻ bị bọn nha lại tàn ác lại vu cáo, cấu kết tội trạng, ông đều làm rơ trắng đen, cứu sống vô số người. Ông từng tranh luận trước triều đ́nh về chuyện tù ngục, Thái Hậu (Vũ Tắc Thiên) nghiêm sắc mặt cật vấn, Hữu Công thần sắc không nao núng, tranh luận càng thêm thiết tha. Thái Hậu tuy hiếu sát, nhưng biết Hữu Công là người chánh trực, hết sức kính nể, kiêng dè. Bọn Châu Hưng v.v… sàm tấu, gièm xiểm đủ kiểu, rốt cuộc chẳng thể hại ông. Sau đó, ông được cất nhắc làm Tả Đài Điện Trung Thị Ngự Sử, con cháu nhiều người hiển đạt.

          Đời Đường, Quách Tử Nghi trong cơn biến loạn An Sử[36], đă thu phục hai kinh[37], công đứng đầu các tướng. Thời Đường Đại Tông, bọn hoạn quan (thái giám) nắm trọn quyền, Tử Nghi bị ngồi chơi xơi nước đă lâu, thuộc hạ ly tán. Bỗng Thổ Phiên[38] xâm nhập [Trung Hoa] cướp phá, kinh thành chấn động, kinh hăi. Vua phải chạy qua Thiểm Châu. Các đại tướng như Lư Quang Bật v.v… đều ghét bọn hoạn quan lộng quyền, đóng yên quân đội chẳng đến [cứu giá]. Riêng ḿnh Tử Nghi tuyển mộ hai mươi kỵ binh, lập tức lên đường, kết hợp các tướng, gióng trống, giăng cờ, đốt nhiều đống lửa để khiến cho quân Thổ Phiên nghi ngại. Bọn Thổ Phiên sợ hăi, tranh nhau rút lui. Về sau, lại có mấy chục vạn quân Hồi Hột[39] xâm nhập cướp bóc. Các tướng phần lớn chẳng dẫn quân đến đúng lúc. Tử Nghi một ḿnh cưỡi ngựa đến thuyết phục quân Hồi Hột, đại phá quân Thổ Phiên. Tử Nghi làm đại tướng, chỉ huy đoàn quân hùng mạnh, bọn Tŕnh Nguyên Chấn, Ngư Triều Ân sàm tấu, hủy báng đủ kiểu. Chiếu thư truyền xuống triệu tập ông, không lần nào ông chẳng lập tức lên đường; do vậy, bọn chúng sàm tấu, hủy báng không được. Ông làm quan đến chức Trung Thư Lệnh, đă làm chủ khảo hai mươi bốn lần, được phong làm Phần Dương Vương. Tám con trai, bảy rể, hiển đạt chẳng ai bằng!

          Đời Tống, Tư Mă Ôn Công (Tư Mă Quang) làm Tể Tướng, v́ nước mà hy sinh thân ḿnh, v́ nước mà hy sinh tấm thân. Khi đă bị bệnh, do các phép thanh miêu, miễn dịch, tướng quan[40] vẫn c̣n, Tây Hạ[41] chưa chịu hàng, ông than: “Bốn điều tai hại chưa trừ, ta chết chẳng nhắm mắt”. Tân khách thấy ông c̣m cơi, dẫn chuyện Gia Cát Lượng ăn ít, lắm việc [đến nỗi hao ṃn, chết sớm] để khuyên răn. Ông đáp: “Sanh tử là mạng” rồi càng thêm dốc sức. Tới khi bệnh đă ngặt nghèo, không c̣n tỉnh táo, những điều ông lẩm bẩm như nói trong mộng toàn là chuyện triều đ́nh, thiên hạ.

          Ngụy Cao Tông[42] bảo quần thần: - Vua và cha như một. Cha có lỗi, con không gởi thư cho mọi người can gián, mà can ngăn trong buồng riêng, chỗ khuất, chẳng muốn phô bày điều ác của cha. Như ông Cao Doăn, trẫm có lỗi, ông chưa hề nói ngay trước mặt khiến cho trẫm chẳng thể chịu nổi. Trẫm biết lỗi mà thiên hạ không biết, chẳng đáng gọi là trung ư? Cao Doăn một dạ trung thành, không chỉ là kẻ phê phán kịch liệt chẳng thể [sánh bằng ông ta], mà kẻ ưa châm biếm cũng chẳng thể bằng được. Đáng gọi là biết cách can gián vậy.

          Đời Tống, Tô Bỉnh dâng sớ bàn luận quốc sự, bị đổi đi Nhiêu Châu. Họ Tô đi qua đất Lạc, trọ ở chỗ ông Doăn Thuần. [Trong khi tṛ chuyện] có ư [phàn nàn] bị thiên chuyển, biếm trích. Ông Thuần nói: “Khi Quư Minh[43] dâng thư, chính là tính toán cho đất nước đó ư? Hay là v́ tính toán cho bản thân? Nếu tính toán cho đất nước, sẽ hoan hỷ phó nhậm Nhiêu Châu. Nếu v́ tính toán con đường tiến thủ, th́ bị biếm trích tới Nhiêu Châu vẫn c̣n là h́nh phạt nhẹ nhàng”. Ông Bỉnh vỡ lẽ. Trương Khả Am nói: “Sĩ tử làm quan, nếu có cái tâm mong cầu công danh, cầu được thong dong, vui sướng, sẽ chẳng làm được một chuyện ǵ ra hồn”! Nói đúng lắm thay!          

          Xem khắp xưa nay, những kẻ bầy tôi tận trung bèn được báo đáp, nhiều khôn kể xiết! C̣n những bậc chẳng đánh mất tiết tháo cao cả, thấy hiểm nguy bèn dâng hiến tánh mạng, [dẫu khi ấy] do vận mạng chông chênh, ôm hận ngàn thu, tợ hồ được trời trả báo đặc biệt lạ lùng. Nào có biết khi sống bèn hưởng tiếng tăm lừng lẫy trong thuở ấy, chết đi được muôn dân quỳ lạy. Trời báo đáp họ so với những kẻ hưởng phú quư, an lạc, há chỉ gấp trăm lần! Những kẻ quên ơn vua, hại dân, trời báo ứng thê thảm lại càng chẳng cần phải nói nữa! Nay khoan nói về sự báo ứng đối với kẻ có ḷng trung hay bất trung, hăy nh́n vào những kẻ hời hợt, qua loa, chẳng quan tâm dân đen, [sẽ thấy bọn họ] cũng chẳng có kết cuộc tốt đẹp! Có thể thấy bổng lộc của ông chắc chắn là chẳng thể phụ bạc một chữ Trung này. Từ Tể Tướng cho tới dân chúng, phần nhiều đáng nên trọn hết ḷng trung, nhưng tánh mạng của bọn dân đen liên quan đến quan huyện nhiều nhất. V́ thế, quan huyện càng chẳng thể không có ḷng trung. Quốc gia đặt ra quan huyện là để ông ta dưỡng dân. Cổ nhân nói: “Dân là cội gốc của đất nước”; cái gốc có vững vàng th́ đất nước mới yên ổn được. Được phó thác trọng trách như vậy, há có thể cô phụ ư?

          Ấy là v́ người đọc sách bèn phát khởi cái tâm cứu đời chân thật, thiết tha; đến khi nắm quyền, có thế, càng phải chú trọng sao cho phút giây nào cũng đều nghĩ đến trời, đất, vua, cha mẹ, hành thiện sự rộng lớn, thanh liêm, thận trọng hướng dẫn thuộc hạ, siêng năng t́m hiểu rơ nỗi khổ của dân, phỏng theo cách cai trị tốt đẹp của Tŕnh, Châu, học hỏi khuôn mẫu tốt lành của những bậc hiền năng đương thời. Đừng xử sự theo t́nh riêng, chớ yêu mến tiền của, hăy đề cao chuyện lành, trừng phạt kẻ dữ, hưng khởi điều lợi, trừ khử điều hại, đề xướng [tuân thủ] những ước định của mỗi làng, chú trọng nông tang[44], uốn nắn kẻ sĩ, quan tâm việc học, dạy dân siêng năng, tiết kiệm, thúc đẩy, răn đe [dân chúng] chú trọng nghĩ tưởng pháp lành. Đối với chuyện h́nh ngục, thường trọn hết ḷng nhân. Trừ bỏ những tục lệ nhảm nhí, trái lẽ, giám sát bọn nha lại gian ngoan, phát hiện sớm những vấn đề về lụt lội, hạn hán để nhanh chóng báo lên cấp trên. [Khi gặp] tai ương, đói kém, bèn t́m cách cứu tế, cắt cử người chăm nuôi kẻ góa bụa, cô đơn, mồ côi. Khuyến khích tu bổ đê điều, ng̣i, rạch hữu hiệu. Nghiêm cấm những chuyện ác như d́m chết con gái[45], bắt cóc người khác đem bán, cờ bạc, hút sách, chơi bời, nghênh thần, diễn tuồng, dâm thư, quật mồ, mổ trâu v.v… Đề xướng những việc lành như lập kho [trữ gạo cứu đói] trong xă, Đồng Thiện Hội[46], nuôi trẻ mồ côi, nghĩa học, nghĩa trủng[47], trạm phát thuốc mùa Hè, trạm phát cháo mùa Đông, xưởng in sách, trạm tạm trú cho những người lưu lạc v.v… Đúng như đă gom góp núi báu vậy. Trong lời chú giải cho phần trước đă nói “quan lại coi chuyện yêu dân, tận tụy chức trách là trung”, tôi nay lại không ngại đôi ba lượt rát miệng, thật sự là v́ [những chuyện này] liên quan đến tánh mạng của người dân nhiều nhất. Nếu có thể một niềm vâng giữ, có chuyện ǵ chẳng làm được? Phước đức ấy há có thể lường ư? Lại chuyên ghi thêm vài câu chuyện để những người làm “dân chi phụ mẫu” xem tới tiếp nhận lời khuyên.

          Đời Tống, Tŕnh Minh Đạo làm huyện lệnh Tấn Thành, giữ thân đoan chánh để làm gương cho mọi người, dùng lễ nghĩa dạy dân. Hễ dân có sự lên huyện, ông ắt bảo ban họ về hiếu, đễ, trung, tín: Ở nhà th́ phụng sự cha anh, ra ngoài xă hội ắt phụng sự bậc trưởng thượng. Ông ước lượng các làng quê xa hay gần để lập ra chế độ bảo vệ[48], khiến cho họ ra sức giúp đỡ lẫn nhau trong các việc lao dịch, đùm bọc nhau trong cơn hoạn nạn, chẳng dung kẻ gian dối, trá ngụy. Phàm những người cô quạnh, tàn phế, đều cắt cử thân thích, xóm giềng chăm nom, ngơ hầu họ chẳng đến nỗi bơ vơ. Những kẻ đi xa, lỡ bị ngă bệnh trên đường, đều có người chăm sóc. Nhân tiện, ông lập ra sáu mươi mấy ngôi trường làng. Lúc rảnh rang, bèn mời phụ lăo tới tṛ chuyện ḥng thăm hỏi nỗi khổ của dân. Đối với những sách học của trẻ nhỏ, ông đều đích thân chấm câu[49]. Kẻ nào dạy học không tốt, sẽ bị thay đổi, loại bỏ. Ông chọn lựa những đứa sáng dạ trong đám con em để gom lại dạy dỗ. Liên kết dân các làng để lập hội, đặt ra các quy định, nêu bày rành rẽ điều thiện, sự ác, khiến cho họ được khuyên răn mà biết hổ thẹn. Minh Đạo xem dân như con. Những kẻ muốn thưa gởi, có thể chẳng cần cầm theo đơn, cứ tới thẳng công đường, thưa bày đầu đuôi. Tiên sinh thong dong bảo ban, ra rả dặn ḍ chẳng biết mệt. Ông ở huyện ấy ba năm, dân chúng yêu mến như cha mẹ. Ngày ông rời đi, tiếng khóc vang rền ngoài đồng nội. Chỗ nào Minh Đạo đến trấn nhậm, trên dưới đều bị ảnh hưởng thuận theo; ấy là v́ ông đă hành xử hợp ḷng dân, cho nên họ bị ảnh hưởng. Thiên địa tạo hóa chỉ là [do hành xử hợp lẽ mà] tự nhiên ảnh hưởng mọi người đó thôi!

          Minh Đạo cai quản một huyện. Giữa Hè, đê bị vỡ to, theo đúng lẽ, phải bẩm lên phủ, phủ sẽ bẩm lên tào[50], sẽ phải mất hơn một tháng mới bắt đầu sửa chữa được. Tiên sinh sợ hư lúa mạ, bảo: “Cứu dân th́ mắc tội cũng chẳng từ”, bèn xướng suất dân chúng sửa chữa. Năm đó, [huyện ấy] được mùa to.

          Ông làm Chủ Bạ xứ Thượng Nguyên, thuộc Hà Đông Lộ[51]. [Sản vật trong vùng đă không nhiều lại c̣n phải] nộp thuế nên không sung túc. Hễ quan trên thu mua[52], vật giá vẫn tăng vọt, dân chúng sẽ bị khổ sở mỗi năm. Tiên sinh ước lượng nhu cầu, bảo các nhà giàu mua gạo dự trữ, theo giá đă định để bán ra. [Làm như vậy], nhà giàu chẳng bị lỗ, mà dân chúng phải tốn thêm chẳng quá hai ba phần mười so với trước đó. Hơn nữa, khoản thuế [lương thực] do dân đóng góp, thường được chuyển đến chỗ gần [phủ lỵ] hơn. Do phải chở đi đường xa, ắt cước phí sẽ tốn kém rất nhiều. Tiên sinh chọn những nhà giàu đảm nhiệm [chuyện vận chuyển thuế khóa], dặn họ mua gạo trữ sẵn ở quận, chi phí được giảm bớt rất lớn, dân được sống thoải mái hơn.

          Khi ông làm tri huyện Phù Câu, trong dân chúng có chuyện đốt phá, cướp bóc tài vật của các nhà thuyền. Mỗi năm ắt xảy ra mười mấy lần. Ông bắt được một tên, bèn bắt nó chỉ điểm để bắt được mấy chục đứa. Ông chẳng truy cứu lỗi cũ của chúng, mà tách chúng ra sống ở những chỗ khác nhau, cho bọn chúng sống bằng nghề kéo thuyền. Lại c̣n giám sát những kẻ làm ác. Từ đấy, vùng đó không có nạn đốt thuyền nữa.

          Ông làm tri huyện Kỳ Ấp, dân chúng đói rách v́ lụt lội, tiên sinh xin phát gạo cho dân chúng vay. Quan Tư Nông[53] bực tức, sai người xuống tra xét t́nh h́nh. Người ấy bẩm báo không nên cho vay, tiên sinh cứ xin vay măi không thôi, bèn vay được sáu ngàn thạch[54] gạo, dùng để cứu giúp những kẻ đói. Quan Tư Nông càng thêm giận, v́ thấy trong sổ ghi nợ, mỗi hộ được phân loại giống như nhau, [lẽ ra phải nên ghi số lượng cho vay giống nhau], nhưng số gạo đă vay mỗi nhà mỗi khác, bèn truyền lệnh xuống huyện đánh đ̣n người đứng đầu đám nha lại. Tiên sinh nói: “Để cứu đói, hăy nên xét xem mỗi hộ số người nhiều hay ít, chớ nên xét theo hộ giàu hay nghèo, hăy xét theo t́nh h́nh thật sự mà làm. Đó chẳng phải là tội của nha lại, mà đáng phải nên làm như thế”. Tiên sinh thường nói: “Đă giữ chức vụ huyện lệnh, ắt phải làm cho dân chúng trong vùng cai trị của chính ḿnh nhằm năm mất mùa, đói kém, chẳng bị tử vong, ăn no, ở yên, tuân theo giáo huấn lễ nghĩa th́ mới là trọn hết trách nhiệm vậy”.

          Làm huyện lệnh Phù Câu, ông hướng dẫn dân chúng tận lực khai thông ao, lạch. Tiếc là chưa xong chuyện ấy, đă bị điều đi nơi khác, cho nên chuyện đó phải ngưng lại. Khi tiên sinh trông coi phu phen, lúc rét buốt, hoặc khi nắng gắt, ông chẳng khoác áo cừu, chẳng che dù, luôn đi đôn đốc khắp nơi, mọi người chẳng thể biết lúc nào ông sẽ đến. V́ thế, ai nấy đều gắng sức, thường là hoàn tất trước kỳ hạn. Hễ tiên sinh làm quan huyện, ở chỗ ngồi đều viết bốn chữ “thị dân như thương”[55]. Thường nói: “Hạo[56] thường thẹn đối với bốn chữ ấy”.

          Đời Tống, khi Châu Tử làm tri huyện Chương Châu đă nói: “Ta muốn lưu tâm nơi trường học, bèn mời Hoàng Tri Lục nêu gương cho chư sanh. Lại thỉnh những bậc nho sĩ tiền bối cùng nêu gương sáng, khiến cho sĩ tử biết những điều nên tuân theo, hay nên kiêng giữ, biết cách làm lành, khiến cho người trong một nước cùng đều thành bậc quân tử”. Lại do thế tục chẳng biết lễ, ông bèn chọn lễ nghi chôn cất, cưới hỏi thời cổ để nêu ra, chỉ dạy, truyền các bậc phụ lăo giải nói, dạy bảo con em. Ông cấm dân Chương Châu trẩy hội[57], chơi núi. Ông nói: “Chỉ v́ nam nữ hỗn tạp, phải nên ngăn cấm”. Lại trừ bỏ những khoản đóng góp vô nghĩa trong huyện, hằng năm miễn đến bảy vạn [tiền thuế]. Ông từng đến Đường Thạch, tiếp đăi những ông cụ chốn làng quê và tiều phu như tiếp đăi tân khách, chẳng hề có mảy may ngăn cách, phân biệt. Ông nói: “Đối với hạng người ấy, nếu có sự cách biệt, làm sao có thể khiến cho họ dốc hết tấm ḷng được!”        

          Ông làm tri huyện Nam Khang, ra cáo thị: - Huyện này đất xấu, dân thưa, tạp dịch nhiều, thuế má nặng nề, sức dân ngày càng mệt mỏi, hết sức đáng thương. Nay dưới quyền cai trị của tôi, dân chúng, phụ lăo, tăng, đạo, quân, dân các giới, những ai biết được cội nguồn của điều lợi, lẽ hại, hăy lần lượt hợp tác, xử trí như thế nào ḥng có thể giúp giảm nhẹ, cứu văn. Lại xin hăy nêu cặn kẽ t́nh trạng thật sự chẳng nề hà sớm hay trễ, hăy đến huyện tŕnh bày để ta có thể tận mặt thăm hỏi, [t́m ṭi] nhiều cách thực hiện, ngơ hầu nhà nào cũng mỗi năm một khá hơn, gia đ́nh đông đủ.

          Làm tri huyện Nam Khang, ông có bài văn khuyến dụ rằng: “Tá điền cấy cày nơi ruộng đất của chủ ruộng, phải tốn nhiều công sức, hoàn toàn cậy vào sự thu tô của chủ ruộng. [Hăy nên] thương xót giúp đỡ cho họ được sống yên vui”.

          Ông khuyên dụ những nhà quan lại như sau: “Đă gọi là nhà sĩ hoạn, tức là chẳng giống như thường dân, càng phải nên an phận, noi theo lư, chú trọng khắc chế những thói xấu của chính ḿnh, tạo lợi ích cho người khác”.

          Ông khuyên dụ những nhà thuộc cùng một tổ liên kết bảo vệ nhau (ngũ bảo) hăy khuyên răn lẫn nhau như sau: “Đă là người cùng một tổ, hăy nên khuyên răn lẫn nhau, hiếu thuận với cha mẹ, cung kính bậc trưởng thượng, ḥa thuận với họ hàng, sui gia, giúp đỡ xóm giềng. Ai nấy tuân giữ bổn phận, ai nấy trau giồi nghề nghiệp của chính ḿnh. Đừng làm chuyện gian dâm, trộm cắp, đừng buông lung nhậu nhẹt, cờ bạc, đấu đá lẫn nhau, đừng thưa kiện nhau. Con hiếu, cháu ngoan, chồng có nghĩa, vợ tiết hạnh. Đối với những người có cách cư xử tốt đẹp rơ rệt, hăy bẩm báo đầy đủ lên trên, sẽ được biểu dương, tưởng thưởng theo đúng luật lệ. Kẻ nào chẳng nêu gương, cũng bẩm báo lên, [để quan trên] theo đúng pháp luật xem xét mà nghiêm trị”.

          Ông làm tri huyện Nam Khang, cứ năm ngày lại đến trường học một lần, gặp gỡ chư sanh, tận lực giảng giải, bảo: “Nay [các ngươi có] cảm thấy bị ảnh hưởng hay không, dần dà theo thời gian, những thói xấu trước kia cũng sẽ bị chuyển biến đôi chút!”

          Ông làm quan tại Sùng An, do dân bị đói, bèn xin quan đầu quận là ông Từ Gia sáu trăm thạch gạo để cho dân vay. Do đó, bèn lập xă thương (社倉, kho thóc cứu đói trong huyện) cho đến ba mươi năm sau, chứa trăm ngàn hộc[58] gạo. Hễ mất mùa bèn phát ra, trong làng chẳng có năm nào bị đói kém.

          Vùng Chiết Đông bị nạn đói lớn, vua sai Châu Tử giữ chức Đề Cử Thường B́nh[59]. Đă vâng mạng, ông bèn gởi thư cho các nhà buôn gạo ở các quận khác để khuyên họ quyên tặng, [người quyên tặng] sẽ được miễn thuế. Hằng ngày, ông cùng các thuộc hạ thảo luận, tra xét những ẩn t́nh của dân chúng đến nỗi bỏ cả ăn ngủ. Việc trù hoạch đă yên, ông bèn chiếu theo kế hoạch đă định, lần lượt đi khắp non sâu, hang thẳm, không chỗ nào chẳng đến ḥng thăm hỏi, vỗ về, giúp đỡ. Những người được sống sót [do ông giúp đỡ] chẳng thể kể xiết. Mỗi lần ông đi đâu, chỉ ngồi một xe, bỏ hết các tùy tùng, giảm thiểu nhu cầu đến mức thấp nhất, không phiền đến châu huyện [phải lo cung đốn]. Về sau, ông viết thư tŕnh báo cho quan thái thú phủ Kiến Ninh như sau: “Lo việc nước trong khi cứu tế tai nạn chẳng giống lúc b́nh thường, quyết chẳng có lẽ nào rũ tay ngồi yên mà có thể bắt được chim! Kẻ giàu lắm gạo, hăy cho họ giữ lại một phần để đợi đến năm sau. Họ nghe theo lệnh quan giúp đỡ xóm giềng bị thiếu hụt, lẽ nào không nên khuyên dụ họ hăy v́ ḷng nhân mà thi ân? Hăy dùng đại nghĩa để khuyên trách. Kẻ nào chẳng nghe theo, hăy dùng h́nh phạt trừng trị. Đối với kẻ vui ḷng làm theo, bèn ban thưởng để đền đáp. Sao lại đến nỗi sợ họ oán giận, lo họ dối trá ta rồi chẳng làm ư?”

          Ông lại hạ lệnh cho các huyện thuộc quyền hạn rằng:

          - Hăy khuyên dụ các nhà khá giả, chuẩn bị đôi chút rượu, quả, mời họ đến khuyên dụ, tỏ ư hết sức lễ độ, dùng điều lợi, lẽ hại bảo ban họ, chớ nên dung túng cho thuộc hạ quấy nhiễu họ! Những nhà khá giả đă là nhà giàu có, nhất định sẽ có thể thấu hiểu ư này. Trong số ấy, e rằng cũng có kẻ chưa thể hiểu chuyện, cũng nên khuyên dụ đôi ba lượt. Thẩm định hư thực như thế nào để tăng hay giảm số lượng [quyên góp]. Nếu họ dối trá, chống cự, liền bẩm báo danh tánh cụ thể để đợi cách xử trí đặc biệt.

          Lại nói:

          - Hăy mang theo một ít tùy tùng, đích thân đến nơi, chớ nên ngồi chỗ thảnh thơi, mát mẻ, chỉ trông cậy vào những người thuộc ngũ bảo dưới làng [lo liệu mọi việc giùm ta].

          Châu Tử thường nói:

          - Do cứu dân mà mắc tội, cũng chẳng dám từ nan.

          Đời Thanh, Lục Giá Thư[60] thường nói: “Bọn ta vâng mạng triều đ́nh mà được vẻ vang, chẳng thể dốc sức báo đáp, chỉ đành giữ chức phận nuôi nấng, yêu thương [dân chúng] như con đỏ, bồi dưỡng nguyên khí cho nước nhà”.

          Ông Lục thoạt đầu trấn nhậm xứ Gia Định. Đối với chuyện giục thuế, ông lập ra cách “cam hạn” (, cam kết kỳ hạn), tức là cho phép người đóng thuế hạn định bao nhiêu ngày đó, đến thời hạn ấy mà đóng được một nửa th́ coi như đă đóng đủ thuế. V́ vậy, trọn chẳng dùng h́nh phạt đánh trượng mà người đóng thuế tranh nhau nạp. Chỉ những kẻ quen thói ngoan cố, đôi khi mới phải phạt trượng. Ông thấy người nộp thuế đông đúc, sợ dân phải vay mượn [rồi quịt nợ], liền ra cáo thị buộc những người vay mượn phải có kỳ hạn trả nợ.

          Mỗi tháng vào ngày mồng Hai, mồng Bốn, mồng Sáu, mồng Tám, lo liệu việc ở công đường xong, ông đến trường nghe chư sanh giảng sách. Những nho đồng[61] có chí [học tập], ông bèn cho theo chư sanh nghe giảng. Đối với những quyển bài thi, ông phê chấm đại lược, chẳng phân hạng cao thấp. Đối với chuyện giảng sách[62], [ông yêu cầu nội dung bài văn] phải dẫn khởi chuyện liên quan đến [việc tăng tấn] thân tâm, chẳng phải chỉ luận định theo cách nh́n cử nghiệp. Ông lại nghĩ ra một đề tài văn sách để cho chư sanh trở về khảo cứu minh bạch, ngơ hầu người học sẽ thông thạo thêm về cách kinh bang tế thế.

          Ông Lục xử án, hoàn toàn chẳng câu nệ pháp luật. Khi phán xử, miệng nói đến hiếu, đễ, trung, tín chẳng ngớt, ḥa nhă, b́nh ổn, thông cảm, dùng lời lẽ chí t́nh để cảm động [các phạm nhân và những người kiện tụng]. Từ đó về sau, đất Gia Định cũng rất ít có những vụ thưa kiện. Lại do [người nơi ấy] quen thói xa hoa, ăn chơi, ông thống thiết răn đe cấm đoán, khẩn thiết răn dạy, lại c̣n tự ḿnh làm gương, thói tục bèn biến đổi. Trong thị trấn, lại có bọn đầu ḅ kết đảng, làm khổ xóm làng, ông nắm trọn tên tuổi chúng nó, chẳng bắt ngay. Hễ có ai tố cáo, bèn bắt giữ, giam trong nha môn, luôn luôn khuyến dụ. Nếu thấy kẻ đó thật sự hối cải, bèn thả. Chưa hết tháng, băng đảng ấy tự tan ră, trở thành dân lành. Ông lại soạn bài văn khuyên tù, sai nha lại vào tù giảng giải đọc cho tù nhân nghe. Các tù nhân đều đau ḷng, khóc khan cả tiếng!

          Ông Lục là người tiết tháo thanh cao, liêm khiết[63], yêu dân như con, do vô ư phạm lỗi mà bị cách chức. Muôn dân oán thán, đau xót. Khi ông chưa đi, [dân chúng] ngơ ngác chẳng họp chợ. Khi ông đă đi, nhà nhà đều đặt hương án đưa tiễn[64].

          Ông lại được bổ làm huyện lệnh huyện Thọ. Sợ dân làng ngu si, vô tri, ông đi khắp các làng để đề xướng chuyện hương học[65], khiến cho ai nấy đều biết nên làm lành. Phàm những lời giảng giải cho bọn tiểu dân được gộp thành một quyển sách, đem in. Ông từng nói: “Quyển sách của kẻ hèn này đem giảng giải vào ngày mồng Một và ngày Rằm sẽ có thể thắng hung tàn, trừ giết chóc ư? Chỉ đáng để khơi gợi đầu mối ấy mà thôi! Nếu như mở rộng ra, dẫn dắt ra, khiến cho nhà nào nhà nấy đều hiểu, thấm sâu tận xương tận thịt, gột sạch tà uế, tan hết cáu cặn[66], tùy thuộc từ nay trở đi sẽ hành như thế nào đó thôi!”

          Làm tri huyện Linh Ấp[67], được lệnh phải vận chuyển than đá nộp lên trên, dùng năm chiếc xe lừa [để chở]. Ông thấy các huyện khác [có xe chuyên chở] nhiều hơn, bèn đứng ra cầu thỉnh cho tới khi thượng cấp chấp thuận th́ mới được thay thế [bằng phương pháp vận chuyển khác].

          Ông làm tri huyện Linh Ấp, có [một người dân tên là] Vương Khôi bán thân cho người Măn Thanh. Người Măn Thanh cầm trát đ̣i người đến [huyện đường] xin cấp công văn [để làm bằng chứng], lại c̣n bắt cả vợ người ấy là Từ Thị đi theo. Ông kiên quyết bỏ tiền lương để chuộc người ấy về.

          Linh Ấp dựa vào núi, nh́n ra sông, cuộc đất nơi ấy có thể canh tác được, nhưng dân đen lo ngại hễ cày cấy th́ sẽ phải đóng thuế, thế mà thâu nhập sẽ chẳng đủ để nộp thuế. Lợi hữu hạn mà hại vô cùng, họ căn dặn nhau chẳng dám khai khẩn. Ông Lục yết thị cho mọi người đều biết: “Nếu quan trên chẳng điên cuồng, sẽ không bức ép các ngươi nộp thuế để gây nỗi hại vô cùng cho các ngươi”. Thế là dần dần có người [khai khẩn] cuộc đất ấy.

          Linh Ấp bị lụt to, ông Lục đích thân đến khảo sát t́nh h́nh tai ương tại các làng, bảo vệ nhiều cách, báo lên cấp trên, khẩn cầu [thượng cấp] tấu tŕnh xin miễn thuế. Đến khi cứu chẩn, ông mỗi ngày đem theo lương khô bươn bả khắp hang cùng ngơ hẻm [đôn đốc cứu trợ], hoàn tất [việc cứu tế] trong ṿng bốn mươi lăm ngày. Lại nữa, năm nào Linh Ấp thâu hoạch không khá, ông sẽ dùng nhiều cách cứu trợ, [khiến cho] muôn dân an toàn. Khi ấy, có kẻ thâu gom tiền của để [mời đoàn hát về] diễn tuồng, ông quở trách nghiêm khắc kẻ cầm đầu, dùng món tiền họ thâu góp được để giúp cho việc thí cháo. Về sau, ông được đề cử về kinh[68] làm Ngự Sử, húy là Thanh Hiến, được thờ phụng trong Khổng Miếu.

          Trong các bộ Nhị Tŕnh Toàn Thư, Châu Tử Văn Tập Đại Toàn, Ngữ Loại Đại Toàn đă chép các việc cai trị rất tường tận. Người có tâm lo cho đời, có thể chọn lựa, biên tập thành một quyển sách, [nghiền ngẫm kỹ lưỡng, sẽ thấy] không có người nào lo việc nước mà không có quy củ. Ngay như trong bộ sách gần đây là Lục Thanh Hiến Niên Phổ cũng có những pháp tắc cai trị tốt đẹp để có thể học theo. Do v́ bộ Vựng Biên này hạn hẹp, không thể trích lục đầy đủ được!

          Trong bài Hiếu Đễ Luận của tiên sinh Nhan Quang Trung có nói:

          - Hữu Tử[69] nói: “Hiếu đễ vi nhân chi bổn” (Hiếu đễ là cái gốc của ḷng nhân). Mạnh Tử nói: “Nghiêu Thuấn chi đạo, hiếu đễ nhi dĩ hỹ” (Đạo của Nghiêu, Thuấn là hiếu đễ mà thôi). Hiếu đễ có mối quan hệ rất lớn, ngang lẫn dọc, từ xưa tới nay, chẳng có bến bờ, đều là sự vật này, nhưng cần phải hiểu hiếu đễ là vật như thế nào? Cội rễ và mầm mộng của hiếu đễ là ǵ? Con người [tồn tại] trong ṿng trời đất chỉ là một hơi thở, kể từ khi có vũ trụ cho tới nay, chẳng có ngày nào không sanh, đều luôn sống động. “Nhân” (, nhân từ) là sống động; khi chân tay ta sống động, sẽ biết đau ngứa. Chỗ nào bị tê bại, sẽ chẳng biết đau ngứa. Hăy xem muôn vật trong trời đất hoạt động, [thực vật] xanh biếc, [sinh vật] nhảy nhót, bay vọt lên, rên rỉ, kêu, hót, đều khiến cho tâm ta xúc động, nẩy sanh ư tưởng nhận biết nỗi đau đớn của chúng có tương quan với ta. Đó gọi là ḷng Nhân.

          [Hăy thử xét xem] sự sống nơi thân ta do đâu mà có? Liên quan đến Tinh và Khí, mà Tinh Khí vốn chẳng phải là cái ta sẵn có, nó liên quan đến h́nh sắc này, nhưng h́nh sắc cũng chẳng phải là cái mà ta có sẵn, mà đều là được chia sớt từ cha mẹ. Hăy thử xét xem, ở trong bụng mẹ, mẹ thở th́ con cũng thở, mẹ hít vào, con cũng hít vào. Con được nuôi dưỡng trong thai mẹ, uống máu mẹ. Trong ấy, vốn sẵn có cái thân xác của chính ḿnh hay chăng? Một mai ra khỏi thai, mới có tánh mạng, nhưng có nơi nào chẳng quấn quít cha mẹ? Thử xem những đứa trẻ thơ, suốt ngày tỉnh th́ cũng tỉnh bên cha mẹ. Suốt ngày ngủ th́ cũng ngủ bên cha mẹ. Suốt ngày vui cười, khóc lóc, đều là vui cười, khóc lóc bên cha mẹ. Hễ rời khỏi cha mẹ, sẽ chẳng làm ǵ được, chẳng nẩy sanh được t́nh tự ǵ! Trong ấy c̣n có thân xác sẵn có của chính ḿnh hay chăng? Đó chính là cuộc sống trong một gia đ́nh, cả nhà cha, mẹ, anh, chị chăm bẵm đứa bé ấy. Đứa bé ấy một mực chẳng có ǵ cả, quấn quít với cha, mẹ, anh, chị thành một khối. Vậy th́ ân của ngươi, oán của ta, ngươi đúng, ta sai, há chẳng phải là một Thể ḥa quyện ư? Đó gọi là Nhân. Nhân chính là [mối quan hệ tốt đẹp] giữa con người với nhau, vốn ḥa hợp cha con, anh em trở thành như một người. Đến sau này, khi đă hơi lớn, [đứa trẻ ấy] chẳng quấn quít theo cha mẹ nữa, tự có ư muốn chạy nhảy một ḿnh. Chẳng c̣n vui giận bên cha mẹ, mà có ư tưởng đùa nghịch, ĺ lợm của riêng ḿnh. Chẳng c̣n lẩn quẩn ăn nghỉ bên cha mẹ, mà tự có ư thích của riêng ḿnh, có ư nghĩ mong cầu tiện nghi, há chẳng phải là cái Thể của ta (ư niệm chấp Ngă) ngày càng lộ rơ th́ dần dần càng xa cách cha mẹ đó ư?

          Nhưng kẻ làm cha mẹ lại chẳng nhận biết điều này, cứ dẫn dụ nó, chỉ sợ nó chẳng thuận theo t́nh cảm thông tục trong cơi đời, [sợ nó] chẳng trở thành chấp trước ngă tướng, đối với mọi việc luôn khen ngợi: “Bé ngoan của ta, cưng ngoan của ta”. Điều ấy dẫn khởi cái gốc khen chê, chú trọng bề ngoài của nó, mai sau sẽ trở thành thói khoe tài, hay làm khổ kẻ khác, ham mê danh tiếng, giả vờ chính ḿnh là người có phẩm tiết tốt đẹp. Đối với anh em [của bọn trẻ], bèn đùa bỡn nói: “Đứa này là con ta, đứa kia là con nuôi. Đứa này được ta thương, đứa kia chẳng được ta thương”, dẫn động cái gốc đố kỵ, cái gốc [phân biệt] ta người của chúng nó. Mai sau sẽ trở thành thói đố kỵ, làm trở ngại người hiền, ruột thịt chẳng thuận ḥa! Hễ gặp đồ ăn, bèn đùa giỡn bảo: “Đồ ăn của ta phải nhiều chớ!” dẫn động tánh tham ăn và ḷng tham lam [của trẻ], mai sau sẽ thành thói tranh ruộng, tranh tài vật, nhận hối lộ, đút lót. Gặp trẻ buồn khóc v́ được mất đôi chút [thứ ǵ đó], bèn nói: “Ai chọc con ta vậy? Ta sẽ đánh nó”, tức là dẫn động căn cội rất hung tợn, căn cội ân oán của nó. Mai sau sẽ thành thói lập đảng trái lẽ, âm hiểm, đấu đá tàn hại. Những thói ấy dần dần h́nh thành, dần dần lộ rơ, ngay cả cha mẹ cũng chẳng thể làm ǵ được đối với đứa con như thế.

          V́ sao? [Khi con c̣n thơ ấu], cha mẹ cũng chớ nên lúc nào cũng nói ngon ngọt, chớ nên lúc nào cũng nuông chiều, chớ nên cho ăn uống quá lố, chớ nên không dạy con hiểu rơ ràng về cách cư xử phải lẽ trong ân t́nh. Do vậy, những ǵ [do cha mẹ] đă dạy con trước kia, sẽ đều dội ngược lại thân cha mẹ. Giữa người nhà, cha con, bèn có ư nghĩ “ngươi sai, ta đúng”, mưu tính cho ḿnh được phần nhiều. Hễ bị mọi người phê b́nh, bèn nói “cha mẹ thật sự [dạy tôi] như thế đó”. Trong mỗi gia đ́nh, trong tiếng cười, lời nói, đều là ân ân, oán oán, thắng thắng, thua thua, không thể kể xiết! Các tranh chấp giữa phe đảng Lư Ngưu và Lạc Sóc[70] đều là do người nhà [xúi giục], mà cục diện nhường nhịn, tranh giành, hay soán đoạt đều là từ trong một nhà chia rẽ mà ra[71], huống hồ c̣n rong ruổi theo sự dụ hoặc bên ngoài, bị mê hoặc bởi lời vợ, con cái, người hầu xúi giục! Như thế th́ có thể giữ nổi ḷng nhân hay chăng? Nhà ḿnh là như thế, vậy th́ có thể cư xử với người khác bèn quên đi vật chất lẫn bản thân trong cảnh giới dù thuận hoặc nghịch hay chăng? Có lẽ sẽ có một hai người biết nghĩa lư, có chí khí, kiên quyết giữ được hiếu đễ. Nhưng từ vô thỉ tới nay, tâm quen nghĩ như thế, thói quen như thế khó thể san bằng, khó thể cởi gỡ được! Trăm bề khiêm tốn, hăng hái, bỗng hiện ra căn cội kiêu ngạo, lười nhác. Trăm bề thuận thảo, bỗng hiện ra căn cội lỗ măng, hung tợn. Trăm bề nhường nhịn, bỗng hiện căn cội “ta có thể, ta biết”. Chẳng đoạn trừ triệt để các căn cội ấy, tinh thần và khí sắc bỗng lưu lộ [những tập khí xấu ác]. Cha con, anh em ắt phải thầm quan sát những điều nhỏ nhặt ấy [để răn nhắc lẫn nhau]. Do vậy, chớ nên vui vẻ, hồn nhiên [coi như] không có chuyện ǵ!

          V́ thế, hiếu đễ chẳng phải là vật có h́nh chất[72]. Hễ có h́nh chất, sẽ trọn chẳng thể khởi tác dụng cảm ứng đạo giao được! Do không có h́nh chất, nó sẽ có thể thông đạt thiên hạ. V́ sao? Vô ngă, nhẫn nhục, khéo nhún nhường, tuy chẳng nói ra, nhưng người uống tự biết [nước nóng hay lạnh], sẽ bị ảnh hưởng[73]. Điều này (hiếu đễ) nếu tồn tại trong một nhà, cả nhà sẽ bị cảm động. Nếu tồn tại trong thiên hạ, thiên hạ sẽ bị cảm động. V́ thế, bên Đông gọi mẹ, bên Tây dựa vào con, mỗi mỗi đều dính dáng đến hiếu đễ, ắt phải nghĩ cách vỗ về, khuyên dụ. Già không nơi nương tựa, trẻ nhỏ lênh đênh, mỗi mỗi đều dính dáng đến hiếu đễ; cho nên ắt phải nghĩ đến chuyện phụng dưỡng suốt đời. Người đi lao dịch, kẻ đi lính thú ngoài biên thùy, không rảnh rang để phụng dưỡng cha mẹ, mỗi mỗi đều liên quan đến hiếu đễ, ắt phải suy nghĩ giúp đỡ họ. Cá to, cá con bị chết ngay trong thai, gà mẹ dẫn gà con, x̣e cánh ấp trứng, cỏ cây tươi tốt do cậy vào rễ mầm, mỗi mỗi đều dính đến hiếu đễ, ắt phải nghĩ đến chuyện tận lực giúp đỡ khi chúng gặp cảnh khốn cùng, bảo vệ cho toàn thể được sống sót linh động như thế[74]. Đúng là “thiên thiên linh, địa địa ứng” (trời hằng ngày đều linh, đất nơi nào cũng ứng). Cho đến mọi rợ, các thứ dị loại, hễ là người có tâm huyết, [sẽ cảm nhận] không ǵ chẳng có sự liên quan [đến chính ḿnh, như thế th́] làm sao bất nhân cho được? Thường thấy những bậc hiếu tử từ xưa, hoặc là các thứ chim dữ chẳng tấn công, thú dữ chẳng vồ người ấy, sao sáng, mây lành, điềm tốt lành ứng hiện, há chẳng phải là do thuận theo đức hạnh mà thành ra như thế ư? Trời đất vận hành thuận lư; v́ thế, mặt trời, mặt trăng chẳng vận hành sai lạc, bốn mùa chẳng sai lạc. Thánh nhân cư xử thuận theo lư, h́nh phạt rơ ràng, công bằng, dân chúng phục tùng, một bầu ḥa thuận. [Sự hiếu đễ ấy khác nào] trân trọng dâng cúng Thượng Đế, trời đất đầy ắp sự nhân ái; [sự hiếu đễ ấy khác nào] cúng quải tổ tông [bằng cỗ bàn thịnh soạn][75]. Ḷng hiếu thảo với cha mẹ đều ở tại nơi đây. Ngoài những điều này ra, chẳng có chuyện ǵ khác nữa.

          Mạnh Tử nói: “Nghiêu Thuấn, hiếu đễ nhi dĩ hỹ” (Đạo của Nghiêu, Thuấn là hiếu đễ mà thôi). Lại nói: “Học vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hỹ” (Đạo học vấn chẳng có ǵ khác, cầu sao thâu hồi cái tâm buông lung đó thôi). Hai điều “mà thôi” ấy liên quan khít khao với nhau. Nếu hiếu đễ, chẳng thể nào không t́m lại cái tâm đă đánh mất v́ buông lung. Hễ t́m lại cái tâm buông lung, sẽ không thể nào chẳng hiếu đễ! Chẳng phải là đă hoàn tất một chuyện, th́ trăm điều cũng sẽ hoàn tất ư? Bởi lẽ, tâm chẳng phải là quả tim trong lồng ngực, mà vốn là ôn ḥa, hoan hỷ, vốn là ḷng trắc ẩn, xót xa, vốn là tự nhiên sống động. Trời khoảng khoát, đất mênh mông, tâm nhăn trọn khai. Trời tối, đất đen, [sẽ khiến cho tâm người ta cảm thấy] sầu loạn, lặng lẽ, [điều ấy chứng tỏ] trời đất và tâm là một[76]. [Ngắm nh́n] cỏ xanh non, cây cao vót, chim rỉa lông, nai nằm, [sẽ cảm thấy] vui sướng vô hạn. [Trông thấy] núi non sụp đổ, hao khuyết, [trông thấy] kẻ hung ác, thú dữ [khiến cho chúng sanh] bị chết yểu, [chúng ta sẽ cảm nhận sự] thê lương, kinh hoàng vô hạn. Đấy chính là vạn vật có cùng một tâm. Bỏ điều này để đắm đuối những thứ tiện nghi, cầu lợi khi người khác bị tai ương, vui mừng v́ kẻ khác mắc họa, như thế sẽ gọi là “buông lung cái tâm”. Nếu chẳng phải vậy, th́ cái tâm mong cầu tiếng tăm, cái tâm ghét bỏ tiếng tăm xấu ác, cái tâm ham học rộng răi, tràn lan nhiều thứ, cái tâm yêu chuộng tô điểm tiếng tăm, cái tâm khô khan giữ lấy sự lặng lẽ[77], cũng đều gọi là “tâm buông lung”. V́ sao? [Những cái tâm như vậy] đều chẳng thuộc vào cái tâm sống động (chân tâm) của ta. Do vậy, trong phần trước đă nói phân minh: “Nhân là cái tâm của con người”[78].

          Hiếu đễ là sự thấu lộ đầu tiên từ căn cội ḷng nhân, là sự xum xuê tươi tốt bậc nhất. Từ chỗ này, do cội rễ nuôi sống, [dưỡng chất sẽ] thông thấu cành, lá, ngàn vạn đóa hoa cùng một lúc nở chi chít, như trong một thân người, tai nghe, mắt thấy, tay cầm, chân đi, không ǵ chẳng phải là một bầu ḥa thuận. Sự tu dưỡng của Đạo gia chỉ là luyện thần khí cho thuần thục, hễ “thủ nhất”[79], chuyện trường sanh sẽ dễ dàng thực hiện được. Ấy là v́ một chỗ đă linh th́ ngay cả các đốt xương cũng đều linh. Hiếu đễ đối với trời, đất, người, vật cũng thế, nó cũng là thần khí nơi toàn thân, chính là chỗ trọng yếu trong thuật luyện đan [tu dưỡng] của Đạo gia[80]. Hễ tu luyện từ chỗ trọng yếu ấy, sẽ thoát phàm thành thánh trong khoảnh khắc, chẳng c̣n phải [tu luyện công phu] điều ḥa nơi các đốt xương nữa. Do vậy, hạ một lời chuyển ngữ rằng: “Đạo học vấn chỉ là ḷng nhân mà thôi. Đạo của ḷng nhân chỉ là hiếu đễ mà thôi”. Do vậy, hai chữ “mà thôi” tương quan khít khao, chẳng có dấu vết vậy!

          Ông [Nhan Quang Trung] lại nói:

          - Sở dĩ thiên hạ rối bời không an tĩnh chỉ là v́ tâm tư, khí thế cường mănh, nóng giận bộc phát, ra sức đấu đá, xông xáo xung đột tấn công để tranh giành. Cuộc chiến Trác Lộc[81], thất hùng giận dữ thét gào[82], tiếng trống thúc quân phản loạn chốn Ngư Dương[83]. Hăy xem kẻ chỉ trong một hơi thở lật nhào đất trời là ǵ vậy? Họ thoạt đầu chỉ v́ đôi chút ḷng hung hăng, giận dữ chẹn ngang trong lồng ngực, dần dần sôi sục, nuốt xuống chẳng được, thế là kháng cự cha anh, ngạo mạn bậc trưởng thượng. Đấy là mầm cội của sự kháng cự, ngạo mạn, sẽ trở thành kềm kẹp quan trưởng, giết người vùi thây để báo cừu, sẽ là kéo bè tụ đảng những kẻ bất đắc chí [để cướp bóc, hoành hành]. V́ thế, Dịch Truyện[84] có câu: “Tụng tất hữu chúng khởi” (Thưa kiện là phải do nhiều người dấy lên). Không chỉ là thưa kiện lên quan trên, mà trong nhà ḿnh cũng tỏ lộ nỗi thị phi, có cái tâm tranh đoạt thua thắng, đă bộc lộ khí thế hung hăn hoành hành[85]. Vua Nghiêu bảo Đan Châu[86]: “Khí tụng khả hồ?” (Có nên chẳng trung tín và hay tranh chấp hay chăng?) Vua Vũ lại răn rằng: “Nhược vô Đan Châu ngạo” (Đừng nên ngạo mạn như Đan Châu).

          Xét ra, một chữ Tụng (, thưa kiện), chỉ là v́ một chữ Ngạo (,ngạo mạn). V́ thế, thờ cha mẹ mà ngạo mạn, ắt chẳng thể trọn hiếu được! Phụng sự bề trên mà ngạo mạn, ắt chẳng thể trung. Cai trị dân chúng mà ngạo mạn, ắt chẳng thể có ḷng nhân. Chỉ do một chữ Ngạo, sẽ thuộc về hạng cấu kết làm ác, bất tài, chẳng thể giải cứu! V́ thế, bậc quân tử có đại đạo, hễ kiêu căng, ngạo mạn, ắt sẽ đánh mất [đại đạo ấy]. Kẻ kiêu căng, tự cao, ngạo mạn, quư ḿnh, khinh người, tự cho ḿnh là đúng, coi người khác là sai bét, thấy ḿnh là trí huệ, kẻ khác ngu đần, há có tâm t́nh ǵ để mưu tính tạo lợi ích, trừ điều hại cho dân, nghĩ đến sự bệnh khổ của dân chúng ư? [Nội dung của] sách Đại Học, từ “tề gia” cho đến “b́nh thiên hạ” đều chẳng ngoài “hiếu, đễ, từ”. Do vậy, kẻ kiêu căng rơ ràng là bất hiếu, bất đễ (chẳng ḥa thuận, chẳng nhường nhịn anh em), chẳng Từ; nhưng tuy là bất hiếu, bất đễ, bất từ, rốt cuộc chẳng giống với người khác. V́ thế, tuy có kẻ hết sức ương bướng, nhưng không thể nào chẳng phục tùng cha mẹ; có kẻ tột cùng hung hăng, nhưng không thể nào chẳng khuất phục trước bậc tôn trưởng. Đó là thiên tánh chẳng thể nào cởi bỏ được!

          Thử xem những kẻ bất hiếu, đến trước người khác cũng sẽ tự kiềm chế, thu liễm đôi chút. Nếu để cho kẻ ấy ngồi, cha hắn phải đứng, chắc chắn hắn sẽ bất an. Nếu như lại bảo hắn là kẻ hiếu thảo, hắn sẽ vui vẻ; chê hắn là đứa bất hiếu, hắn sẽ tức giận! Đấy cũng là v́ căn cội làm người chưa bị dứt mất. Chỗ chưa bị đoạn dứt ấy chính là chỗ để dung nhập thiên tánh, có thể tiếp nhận sự cảm hóa của ta. V́ vậy, đối với con hiếu, em ḥa, hễ được khơi gợi từ chỗ này, sẽ có thể chuyển biến. Như Trịnh Trang Công đă từ bỏ mẹ ruột của chính ḿnh, [trông thấy] Dĩnh Khảo Thúc ăn thịt bèn chừa lại [để đem về] biếu mẹ, hết sức liên quan đến chuyện của nhà vua, bèn hoàn toàn hối hận, tỉnh ngộ[87]. Lại như Tử Cao cư tang, khóc ra máu suốt ba năm, chưa từng nhe răng cười, há c̣n tham dự vào việc cai trị trong huyện Thành ư? Nhưng xứ Thành có kẻ tuy anh ḿnh đă chết [mà chẳng đau buồn, không mặc tang phục], do Tử Cao [trở thành quan huyện], người ấy bèn mặc tang phục. Trong lúc ấy, chẳng biết v́ sao cảm, v́ sao ứng, [cái tâm của Tử Cao] không có h́nh tướng mà tiếp xúc, lay động [kẻ đó] tận tim phổi, tức là nếu không do thiên tánh xui khiến, sẽ không thể làm như vậy được!

          Xưa kia có ông Thí Hữu, anh em tranh nhau ruộng đất. Do Thí Hữu có lần cùng ngồi thuyền với Nghiêm Phượng, nhắc đến chuyện [tranh chấp] tài sản, ông Phượng không ngừng gạt lệ. Ông Hữu hết sức cảm ngộ, những chuyện như vậy đều chớ nên phô ra. Nhà ông Nghiêm hiếu thảo, ḥa thuận, việc ǵ phải quản chuyện nhà ông Thí mà nước mắt đầm đ́a; nào có biết từng giọt lệ ấy đă thấm vào ḷng ông Thí! Nói chung, trong ṿng trời đất, kẻ xử sự theo sự xung động của t́nh cảm, kẻ kèn cựa, kẻ so đo, sẽ đều phát sanh xung đột với người khác, [đó là] do chẳng có căn bản, [cho nên] không làm sao được, [bởi lẽ, kẻ ấy] chẳng tự biết. Riêng người có thể khiến cho kẻ khác cảm động, dẫu sanh trong hoàn cảnh nào, [dẫu] là kẻ ngu nhất, nghèo hèn nhất, nhưng là một đứa con có hiếu, há mọi người chẳng ca ngợi, chẳng kính phục, hoặc ngấm ngầm thẹn với kẻ ấy ư? Khi có ḷng kính trọng, thẹn thùng đối với kẻ ấy, đúng là cái tâm hung hăn sẽ lắng xuống, cái tâm bộp chộp sẽ tan đi, sẽ là cảnh giới một bầu đáng mến, đáng yêu. Trong một nhà th́ nhà ấy b́nh yên, trong thiên hạ th́ thiên hạ thanh b́nh. Trên là đến quan trưởng, cho đến quân vương, tể tướng, quyền lực càng lớn, [càng có sức] cổ vũ, khuyên dụ đại chúng [to lớn], há lẽ nào chẳng khiến cho khắp thiên hạ đều là con hiếu, em hiền ư? V́ thế nói: “Nhất gia nhân, nhất quốc hưng nhân” (Một nhà nhân từ sẽ khiến cho cả nước đều dấy lên ḷng nhân). Lại nói: “Nghiêu Thuấn soái thiên hạ dĩ nhân, nhi dân tùng chi” (Vua Nghiêu, vua Thuấn dùng ḷng nhân để dắt d́u thiên hạ, dân chúng đều vâng theo), then chốt ở ngay chỗ này.

          Khi phong tục trong thiên hạ bại hoại, nói chung là do [chính ḿnh] trước hết đă làm hỏng con em của ḿnh. Khi nhân phẩm, tâm thuật bại hoại, nói chung cũng là do trước hết [phụ huynh] đă làm hỏng con em. Từ bé, [nếu trẻ] đă có tánh sai trái, hung tợn chẳng thể dung túng được, hơi có chút tài năng đă chẳng thể thâu liễm, th́ khi đến lúc trưởng thành, [chúng nó] sẽ nẩy sanh [những chuyện tồi tệ] không thể h́nh dung được, chẳng thể chịu đựng được! Từ xưa, chuyện quét dọn, ứng đối, chầu chực bên án, đứng hầu[88], đều nhằm tiêu trừ cái tâm cường mănh của con em, khiến cho chúng nó tỉ mỉ, tinh tế. Lại như con của thiên tử, [khi vào trường học], sẽ chiếu theo độ tuổi mà xưng hô khiêm tốn với các bạn học. Nói “quân tại tắc lễ nhiên, phụ tại tắc lễ nhiên, trưởng tại tắc lễ nhiên” (hễ vua hiện diện bèn giữ đúng lễ quân thần, hễ cha hiện diện bèn giữ đúng lễ nghi giữa cha con, hễ người trên có mặt th́ giữ đúng lễ nghĩa giữa người trên kẻ dưới) là có ư nghĩa như thế nào? Chẳng lo thiên hạ không có kẻ tài cán, mà lo âu họ chẳng có tánh chân thật. Chẳng lo không thể làm vua, cha, thầy, mà lo không thể làm đệ tử tốt lành! Dùng đạo làm con để lănh đạo th́ chỗ nào cũng sẽ có ư nghĩ phụng sự, thương tiếc. Dùng đạo làm em để lănh đạo th́ khắp nơi sẽ đều có ư nghĩ: “Hễ cày cấy bèn có thể nhường ruộng, đi lại sẽ có thể nhường đường”.

          Xưa kia, vua Thuấn, vua Vũ có được thiên hạ, thiên hạ mới âu ca, [các vị vua ấy] xét xử, [được quan lại] chầu hầu tột bậc hiển hách, nhưng vua Thuấn tự coi ḿnh bất quá là kẻ nghèo cùng của họ Hữu Ngu. Giếng, kho vẫn c̣n[89], chỉ là chẳng thấy vận tải lương thực nữa! [Vua Thuấn] gào khóc ngoài đồng, mới hận không nơi giăi bày [nỗi niềm buồn bực v́ ḿnh chưa đủ hiếu thảo để cảm động cha mẹ], mà thiên hạ đă được b́nh trị. Vua Vũ tự thấy ḿnh bất quá là đứa con của tội nhân ở Vũ Sơn[90], chẳng chuộc được nỗi đau của cha, sóng lớn kinh rợn tận xương. Giữa đường gặp tội nhân, bất giác lệ tuôn mấy lượt[91], thế mà thiên hạ lại được b́nh trị. Cho đến Văn Vương, Vũ Vương, ḷng hiếu thảo đều là như thế. Vua (Văn Vương) vẫn hằng ngày đến chầu nơi tẩm môn của Vương Quư [để thỉnh an] ba lượt. Vẫn đối với mọi chuyện đều quan tâm tới từng hơi thở nặng nề của cha, lúc nào cũng vâng theo lời giáo huấn[92]. V́ thế nói: “Sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn” (Thờ phụng [cha mẹ] sau khi đă chết, giống như phụng sự họ khi c̣n sống; thờ phụng người đă khuất như hăy c̣n sống). Ấy là v́ Văn Vương, Vũ Vương trọn chẳng coi ḿnh là vua của mọi người, mà hoàn toàn coi ḿnh con của dân chúng để phụng sự họ, luôn mong tưởng tạo ân huệ cho người thiểu số, góa vợ, góa chồng, an ủi dân, trừng phạt kẻ tàn bạo, chỉ có những điều mong mỏi của tiền nhân rạng ngời trong gan ruột. Đan Châu là người thông minh, há chẳng phải là kẻ có tài, nhưng do một chữ Ngạo, đă đoạn sạch mạng căn của thiên hạ. Do vậy, ngũ điển, bách quỹ đều thuộc về họ Hữu Quan vậy[93].

          Lại nói:

          - Thánh nhân nói đến Hiếu đều chẳng coi đó là chuyện nhỏ nhặt. Sách Lễ Kư chép: “Tiểu hiếu dụng lực, trung hiếu dụng lao, đại hiếu bất quỹ” (Hiếu nhỏ là bỏ ra sức của chính ḿnh [để phụng dưỡng, chăm sóc nhu cầu của cha mẹ], trung hiếu là tạo lập công nghiệp [khiến cho cha mẹ được rạng mày nở mặt], đại hiếu là rộng thí muôn vật chẳng có ngằn mé). Phu Tử nói đến sự đại hiếu của vua Thuấn, bèn nói: Do đức hạnh mà vua là thánh nhân, do đại đức ắt sẽ tiếp nhận mạng trời, rơ ràng vẫn là dùng “cái được sanh ra bởi trời” (thiên tánh). Dùng thiên tánh ấy để phụng sự cha mẹ.

          Cần phải hiểu cha mẹ là vật ǵ, chẳng phải là nói đến cha mẹ theo kiểu một khối máu thịt! [Phải hiểu] ta do cha mẹ sanh ra vốn là vật ǵ, chẳng phải là cái ta một khối máu thịt đâu nhé! Vốn tṛn xoe[94], sáng vằng vặc, mọi người đều ḥa thành một khối[95]. Cha mẹ cũng là vật này, mà muôn vật trong trời đất cũng là vật này. Cha mẹ sanh ra thân ta; do vậy, phải dâng hiến tất cả những ǵ thuộc về thân ta, dâng hiến toàn bộ cho cha mẹ th́ mới là hiếu thuận. Nếu chỉ “dụng lực, dụng lao” (phụng dưỡng bằng vật chất, kiến lập công nghiệp), tức là đă phụng sự cha mẹ bằng h́nh tướng thô thiển bên ngoài; nhưng đối với một điểm chân cốt huyết rỗng rang, thông linh (chân tâm), tức là món bảo bối vô biên, bèn quăng đi, chẳng ngó ngàng tới, có thể gọi là hiếu tử hay chăng? Ta thờ cha mẹ, mong sao mỗi điều nhỏ nhặt, mỗi niệm, mỗi cử động của cha mẹ, cho tới khạc nhổ, bắc ghế, dâng gậy, không ǵ chẳng tận t́nh dâng hầu, nhưng đối với một điểm chân cốt huyết thông linh, rỗng rang, tức là đối với món bảo bối vô biên, lại ném đi, chẳng ngó ngàng tới, có thể nói là hiếu tử được chăng?

          V́ thế, hễ nói đến đại hiếu th́ chính là thuận thân, dưỡng chí. “Thuận thân” () chính là thuận theo t́nh thân linh diệu (giác tánh), thuận theo t́nh thân nơi phần tiên thiên chưa phân ra [để cứu họ thoát khỏi tam đồ]. Hễ ch́m đắm trong t́nh thức, sẽ là ngụy thân (t́nh thân hư ngụy). “Dưỡng chí” () là nuôi cái chí đại công [vô tư][96], dưỡng cái chí “bào dân dữ vật” (胞民與物, coi mọi người đều là ruột thịt, muôn loài chẳng khác ǵ ta) thông trời thấu đất. [Nếu chỉ quan tâm đến] cái thân xác này, sẽ là cái chí hư ngụy. Nhưng đă phải thuận thân, dưỡng chí rồi, lại c̣n phải “thành thân, thủ thân” (誠身守身, giữ cho cái thân chân thành, ǵn giữ cái thân). “Thủ thân” là giữ lấy cái thân tuân theo đạo lư sáng ngời, tốt lành, giữ lấy cái thân ḥng đạt được đức hạnh, đạt đạo. Nếu không, dẫu dốc cạn sức chăm nom, phụng dưỡng, vẻ mặt mềm mỏng, hầu hạ, vẫn là cái thân hư ngụy[97]! Có thể nhận biết cái thân thật sự th́ mới có thể nhận biết t́nh thân chân thật! V́ thế nói: “Chẳng thấu đạt cái thân chân thật, sẽ chẳng phải là tùy thuận t́nh thân”.

          Thân của Tăng Tử và thân của Tăng Nguyên[98] khác nhau vời vợi; do vậy, họ phụng sự cha mẹ cũng khác nhau. Nay lại xét đến ḷng hiếu của vua Thuấn và ḷng hiếu của Vương Tường. Ḷng hiếu của Vương Tường tột bậc chân thật, tột bậc khẩn thiết, chẳng tiếc nuối mảy may sức lực nào, há chẳng bằng [ḷng hiếu] “không suy nghĩ, không gắng sức” (ư nói: Ḷng hiếu hạnh tự nhiên lưu lộ) của vua Thuấn hay sao? Nếu luận theo ḷng hiếu th́ [ḷng hiếu của Vương Tường] giống hệt như [ḷng hiếu của] vua Thuấn, Vương Tường chính là Nghiêu Thuấn. Nếu nói theo địa vị phẩm hạnh th́ sẽ cách biệt vời vợi, tâm lượng [của Vương Tường] chưa hoàn măn.

          Lại gạn rằng: “Đạo của Nghiêu Thuấn chỉ là hiếu đễ mà thôi”. Ấy là v́ Đại Thuấn nhận thức t́nh thân bằng sự linh thông, sáng suốt (linh tánh, chân tánh), c̣n Vương Tường nhận biết t́nh thân nơi xác thân. Đại Thuấn coi Cổ Tẩu là bậc chí thần, chí thánh, chí nhân, chí từ: “Nếu cha muốn giết ta, chẳng muốn cho ta cưới vợ, [những tâm niệm ấy] đều là những vọng tâm huân tập về sau. Chân tâm vốn chẳng phải là như vậy”. Nếu tuân theo cái mạng lệnh vô lư ấy ḥng [ḷng cha được] vui thỏa một chốc, tuân phụng cái tâm tập khí của cha, cắt đứt chủng tử chí thần, chí thành, chí nhân của phụ mẫu chân thật, sao nỡ cam ḷng đối với tâm, nỡ nào tàn nhẫn đối với tánh? V́ thế, trăm cách duy tŕ, trăm cách đào bới, khêu gợi để thật sự hiện ra chân phụ mẫu! Những người như Vương Tường nằm băng [khóc lóc xin trời ban cho cá chép để dâng lên mẹ], cố nhiên là thiên tánh tha thiết, nhưng đối tượng tùy thuận [của Vương Tường] chính là cha mẹ theo phương diện t́nh thức, vẫn là duyên theo phương diện thân thể của Vương Tường, [cho nên] vẫn chưa đạt tới địa vị như Ngu Thuấn[99]. V́ thế, sự nhận biết cũng chỉ đạt tới mức đó; đấy chính là do chưa hiểu rơ về thiện vậy.

          Đă hiểu rơ thiện, sẽ hoàn toàn linh hoạt, sống động, cách ứng xử trong từng trường hợp sẽ đều có chừng mực. [Như cha đánh bằng] gậy nhỏ th́ hứng chịu, [cha dùng] gậy lớn th́ bỏ chạy. Những chuyện như không thưa tŕnh mà lấy vợ[100] chẳng phải là do có pháp đă thành lập sẵn bèn noi theo, mà là do tâm linh của chính ḿnh [suy xét cẩn thận] như thế rồi quyết định, tự lập chủ ư như thế. V́ vậy, phụng sự cha mẹ cũng là như thế. Do đó, nói: “Sự phụ mẫu cơ gián” (Thờ cha mẹ th́ phải can ngăn từ những ư niệm nhỏ nhặt vừa dấy lên). “Cơ” () là những ư niệm vi tế dấy lên; có thể thấy trước [điều xấu] lẽ tốt [từ chỗ này]. Cha mẹ vốn chỉ có một tấm ḷng lành, hoàn toàn thuộc về cát tường, thiện sự[101]. Do v́ có một ư niệm nhỏ nhặt dấy lên, ḷng lành ấy cũng bị ẩn khuất, nhưng chưa hề hoàn toàn bị mất sạch. Đấy cũng chính là ư niệm vi tế để chuyển hung thành cát. Thờ cha mẹ th́ hăy nên uyển chuyển từ chỗ này[102]. Nếu ư niệm vi tế ấy chưa dấy lên bèn khơi gợi. Ư niệm vi tế ấy đă chớm động bèn dẫn dắt. Ư niệm vi tế ấy bị mất đi, hăy phục hồi lại. Đấy là dùng cái tâm [chân thành của ta] để xoay chuyển cái tâm [của cha mẹ], chính là công khóa “thấy cái vô h́nh, nghe cái không có tiếng”. V́ thế, chẳng đợi [cho đến khi cha mẹ] có chuyện hành xử không tuân theo đạo lư [mới can gián], mà hăy nên [can gián ngay] khi trông thấy [cha mẹ] có chí hướng [hành xử] chẳng tuân theo đạo lư, người con hiếu đă trọn hết tâm cơ vậy. Chỉ có như vậy th́ mới có thể khiến cho tâm [của chính ḿnh và tâm của cha mẹ] ḥa thành một, chưa hề có trái nghịch.

          Có ḷng thành như thế, thuận thảo như thế, cái chân nguyên tương quan “có cùng một gốc” của ta và cha mẹ sẽ được bao gồm toàn bộ trong ấy, mà chân nguyên “trời đất có cùng căn cội, muôn vật có cùng một Thể” cũng được bao gồm toàn bộ trong ấy, há có tánh mạng[103] nào chẳng trọn vẹn, có “địa vị chánh đáng, vạn vật sanh thành”[104] nào chẳng hành, có chuyện nào trong thiên hạ mà chẳng trọn lẽ thông đạt quyền biến, chẳng vận hành trong sự linh minh[105] của ta? Đấy chính là nói “gom góp trăm điều thuận thảo để làm vui ḷng cha mẹ”. Sở dĩ Đại Thuấn có đức hạnh của bậc thánh nhân là do đă trọn đủ sự tôn kính, phụng dưỡng như vậy đó! Sở dĩ Châu Vũ Vương và Châu Công thờ cha mẹ đă mất giống hệt như cha mẹ hăy c̣n sống, thờ cha mẹ đă khuất như hăy c̣n tại thế, cũng là v́ lẽ này. Điều này thường tồn tại, thường sống động, thấu triệt căn nguyên của vạn sự vạn vật, quán thông mọi loài. V́ thế, vua Thuấn có thể gánh vác sứ mạng của thượng thiên, thành tựu mỹ đức do trời ban tặng, dùng thiên tánh để phụng sự cha mẹ.

          Vũ Vương cúng tế tổ tiên của chính ḿnh, đạt tới sự thờ phụng thiên địa và tổ tiên của toàn thể thiên hạ, dùng t́nh chí thân nơi bản tánh để phụng sự trời[106], rốt cuộc là một chữ Sanh. Kể từ khi có trời đất đến nay, chẳng ngày nào không sanh. Sự chí thân [nơi bản tánh] và ta đều là sanh thành liên tục trong suốt một đời[107]. Lại c̣n do cái Sanh ấy mà toàn thể những sự vật tương quan trong suốt một đời đều bị ảnh hưởng, tác động theo, [đều được chuyển biến thành thanh tịnh], đấy mới gọi là “chẳng thẹn với đấng sanh ra ta”. Bài Tây Minh của Trương Tử[108] hoàn toàn nhằm giảng rơ ư này.

          C̣n như ḷng hiếu của Vương Tường chẳng tránh khỏi là một cách thức [vận dụng ḷng hiếu] chết cứng, [chẳng phải là đă] lănh hội [ư nghĩa] “bất tư, bất miễn” (chẳng suy lường, chẳng gắng công), chưa thể nói là “bất tư nhi đắc, bất miễn nhi trúng” (chẳng suy nghĩ mà đạt được, chẳng gắng sức mà trúng) [109]. Đắc và Trúng là vật như thế nào? Chúng là những thứ tự nhiên, sống động, có thể tác động những quy củ vô h́nh, có thể trọn hết những chuẩn mực trong thiên hạ. V́ thế nói: “Quy củ là chuẩn mực đă đạt tới tận cùng, là tột cùng của nhân luân”. Thung dung Trung Đạo là thánh nhân, nhưng chẳng lănh hội Đắc, chẳng lănh hội Trúng, th́ cũng có thể nói là “tư miễn” (, suy nghĩ, gắng công). “Tư miễn” là ư, là thức. Nếu tánh chẳng thật sự tỏ lộ toàn vẹn, ắt sẽ thành ra xử sự theo t́nh cảm[110]. Nếu động đến Tánh Đế, tuy khóc lóc, buồn bă mong cầu [cha mẹ nghĩ lại sẽ thương yêu ḿnh] như vua Thuấn, chẳng thể là bậc thánh nhân, mà cũng chẳng thể [trọn hết đạo tận hiếu của] của kẻ làm con, như thế th́ sẽ là khốn khó cùng cực [để giữ tṛn đạo hiếu][111], [chẳng thể] nghiễm nhiên [có thể trọn hết đạo hiếu] chẳng do suy nghĩ, chẳng phải gắng sức được!

          Chúng ta đă chẳng thể sanh khởi [ḷng đại hiếu] hoàn toàn giống như Nghiêu, Thuấn, [vậy th́] hăy nên nghĩ cha mẹ đă ban cho ta vật ǵ? [Vật ấy] vốn chẳng phải là một cái sọ rỗng tuếch có mắt thấy, tai nghe, hoặc là một túi rượu, đăy cơm thối tha! Há nên sống cả đời khiến cho vật ấy bị khuất lấp, hồ đồ? Hăy nên dùng vật ấy (chân tánh, linh tánh) để phụng sự cha mẹ. Nghĩ đến đây, phải [làm sao cho Tánh Đức được] hiển lộ, toàn thân toát mồ hôi, chẳng chịu nhường chuyện bậc nhất trong thiên hạ (hiếu kính) cho người khác thực hiện! Chính ḿnh làm được một phần, đó là trọn hết một phần hiếu đễ. Khi đạt đến [mức độ] hoàn toàn, do Tu Đức, phước sẽ trọn đủ, ắt ḷng hiếu của vua Thuấn, vua Vũ, ḷng hiếu của thừa tướng Châu Công, ḷng hiếu của Tố Vương[112] Khổng Tử, không ǵ chẳng phải là tuy khác đường mà cùng quay về một nơi vậy.

          Lại nói:

          - Thiên hạ chẳng phải là không có kẻ bất hiếu. Tuy có kẻ bất hiếu, nhưng nếu được gọi là hiếu th́ kẻ ấy sẽ vui vẻ, gọi là bất hiếu, kẻ ấy sẽ tức giận, hổ thẹn. Hơn nữa, trước mặt người khác sẽ chú trọng, tô điểm danh tiết, chẳng dám buông lung phóng túng như trong chốn riêng tư. Đấy cũng là chỗ lương tâm không bị ch́m đắm. Có trọn đủ cái lương tri ấy, sẽ là căn cội và mầm mộng của ḷng đại hiếu. Chỉ v́ chưa thể tự hóa giải tập tâm (, cái tâm thuận theo tập khí) và tập khí. V́ thế, vẫn bất hiếu y như cũ. Phân tích minh bạch [điều này], cho nên cha [phải nên] biết dạy con, con [phải nên] biết tự khắc chế [tập khí phiền năo của chính ḿnh]. Ví như tấn công giặc, biết giặc ở chỗ nào th́ mới ḥng dẹp yên chúng nó!

          Lại nói:

          - Lư do khiến cho [mỗi cá nhân] huân tập thành tiểu bất hiếu có bốn điều:

          1) Một là kiêu sủng, [tức là] v́ cha mẹ thương yêu con quá đáng, thường thuận theo tánh khí của con. Nó bỗng dưng ương bướng, [cha mẹ] chẳng chịu nổi, thường nhường cho nó chiếm lẽ tiện nghi, để mặc cho nó buông lung vui thú! Bảo nó làm lụng hoặc phụng dưỡng, nó sẽ chẳng quen. Ở trước mặt người khác, nó nói năng phạm những sai lầm nho nhỏ, cha chẳng nỡ ḷng làm mất mặt con, [thế mà] con dám mạo phạm cha. Đối với phương diện văn chương, phẩm hạnh, tài nghệ, năng lực, cha khen ngợi con, chỉ sợ con chẳng hơn ḿnh, nhưng con ắt mong cha phải thua kém ḿnh! Tích tập thói kiêu căng, phóng túng ấy, đối trước kẻ khác, sẽ chẳng thể thi thố được, chỉ riêng đối trước cha mẹ là giở quẻ đủ tṛ. Đúng là kẻ đă già đầu mà chẳng có kiến thức vậy!

          2) Hai là thói quen. Do quen ăn nói thô lỗ, bộp chộp, nên dám xung đột [với người khác]. Do quen thói hành động cục mịch, dễ dăi, cho nên dám buông lung, tùy tiện. Do quen thói được cha mẹ chia sẻ những thứ ngon lành, tốt đẹp nhất từ bé, cho nên chẳng c̣n nhớ tới sự ngọt ngào ấy. Do quen thấy cha mẹ chống chọi bệnh tật, chịu đựng đau khổ, cho nên [con cái] chẳng c̣n hỏi han cha mẹ đau đớn ra sao.

          3) Ba là thích buông tuồng. Thấy những kẻ ngang vai bằng lứa bèn nhiệt thành khôn ngằn, nhưng lạt lẽo đối với cha mẹ. Vào pḥng riêng ngàn nỗi vui thú, gặp cha mẹ bèn lặng thinh. Thậm chí rơ ràng coi cha con, anh em như những vật thô tục, chẳng thích tiếp xúc; như vậy th́ ư niệm hiếu đễ sẽ do đâu mà phát sanh cho được?

          4) Bốn là quên ơn, nhớ oán. Đă quen chịu ân lâu ngày, sẽ càng quên bẵng; thường oán hận lâu ngày, sẽ càng chất chứa. T́nh cảm của con người là như thế đó! V́ thế, đăi người khác một bữa cơm, họ sẽ nhớ ân đức, nhưng thường [đăi đằng như thế] lâu ngày, họ sẽ dấy ḷng chê bai, chán ghét. Cho một lần th́ cảm ơn, thường giúp đỡ th́ họ sẽ [so đo vật được cho] ít hay nhiều! Gặp mặt một lần th́ thân thiết, [thường gặp gỡ] lâu ngày sẽ nghi kỵ, hiềm oán nặng nề. Huống hồ cha mẹ, anh em đă quen gặp cả đời, bèn coi t́nh thân ái là chuyện cố nhiên rất tầm thường. Lại c̣n có khi [người thân tỏ ḷng] quan tâm đến ta mà phải chuốc lấy sự bực bội. Coi những lời giáo huấn, nhắc nhở như lời lẽ rác tai! Lại c̣n có [những lúc người thân] khen ngợi ta mà bị ta chán ghét. Coi chuyện [người thân] che chở, giúp đỡ chẳng nài mệt nhọc, hết sức lo toan [cho ta] là chuyện b́nh thường. Lại c̣n có khi [v́ người thân] xen vào chuyện của ta quá mức mà bực bội. Đối với đại ân trước mắt bèn điềm nhiên chẳng nhận biết, làm sao có thể nghĩ tới sự nhọc nhằn mang thai, nuôi dưỡng, nỗi khổ sở bồng bế, bú mớm, nỗi đau đớn kinh hồn [khi sanh nở] nơi thân thể yếu đuối [của mẹ] cho được? V́ thế, nhân t́nh thế thái có khi hết sức điên đảo, hết sức cổ quái, mà chẳng tự nhận biết. Con cái đối với cha mẹ là như thế đó, kẻ không v́ làm ân mà bị mắc oán hiếm hoi lắm thay!

          Những điều như vừa kể ấy đều là thói quen thường t́nh của con người, nhưng họ cũng chưa hề là không có chân tánh, chỉ là v́ [thói quen] tích tập lâu ngày, cho nên chẳng biết là sai lầm đó thôi! Do vậy, hăy nên gấp mau lay tỉnh, khắc phục, đối trị cho sớm, luôn luôn suy lường, đừng bảo “ḷng cha mẹ nhân từ, ta có thể tự khoan dung [cho sự bất hiếu của chính ḿnh]”, đừng nói “thói đời bạc bẽo, [dẫu ta bất hiếu] vẫn c̣n đỡ hơn người khác”. Tiểu bất hiếu tích lũy dần dần sẽ trở thành đại bất hiếu, chẳng đáng sợ ư?

          Lại nói:

          - Nguyên do huân tập thành đại bất hiếu có bốn điều.

          1) Một là tài sản riêng. Hễ tiền tài lọt vào tay ta, sẽ thành cái ta có, nhưng tiền tài ở trong tay cha mẹ th́ lại nói: “Ta phải có phần chứ!” Tiền tài đầy đủ bèn quên cha mẹ, tiền tài thiếu thốn bèn ḍm ngó [tiền tài của] cha mẹ. Cầu mong tiền tài không được bèn oán hờn cha mẹ. Cha mẹ chẳng thể tự sống, phải ăn nhờ ở đậu ta, ta sẽ lại oán trách cha mẹ. Thậm chí có khi cha trơ trọi một thân, con là con một, nhưng v́ tiền tài mà có chuyện hục hặc. [Hễ phải phụng dưỡng cha mẹ th́ con cái] đứa lớn, đứa nhỏ đùn đẩy lẫn nhau. Cũng có khi bỏ mặc cha mẹ, không phụng dưỡng, chẳng biết thân [của chúng ta] là thân của ai, tài sản [của ta] là tài sản của ai! Ta chẳng đem theo một đồng nào tới [thế gian này], nhưng ẵm bồng, bú mớm chẳng khuyết cho đến hiện thời là do ai làm vậy? Đến khi kiếm được tiền nhiều hơn mấy đồng bèn toan so đo, tính toán cùng cha mẹ!

          2) Hai là mê luyến vợ con! Đang thân thiết với vợ con, mà cha mẹ [vừa bước vào] bèn tẻ ngắt. Có thức ăn ngon, tiền bạc, bèn toan chiều vợ nuông con. Hễ có hội hè, dịp vui, bèn dẫn vợ, bế con [đi dự], ư niệm làm vui ḷng cha mẹ ngày càng nhỏ bé, chẳng nghĩ đứa con là con của ta, mà ta là con của ai? Con của cha mẹ là ta, mà ta chẳng đoái hoài, vậy th́ ta cũng [trông mong] nhờ cậy con cái nỗi ǵ? Vợ chồng ḥa hảo cố nhiên là chuyện vui thú trong gia đ́nh, nhưng lúc [chính ḿnh] c̣n đang oa oa đợi bú, lúc tiêu tiểu c̣n chưa phân định rơ ràng, há có biết mê luyến vợ hay không? Há vợ có thể chăm sóc cho ta được sống sót hay không? Cha mẹ thấy con đă trưởng thành, có gia đ́nh, vui sướng khôn xiết suốt đời, [ngờ đâu] con có vợ, đâm ra [cha mẹ] bị mất luôn đứa con rồi!

          3) Ba là đàng điếm. Lửa dục hừng hực, khách [bị gái làng chơi hoặc kẻ nữ lơi lả] dụ dỗ như cuồng, dẫu có người tựa cửa mong chờ, đau ḷng mà chẳng biết. Lăng phí gia nghiệp, [khiến cho] vợ và mẹ chồng hục hặc, có khi căi cọ, trách móc, mà [chồng vẫn thờ ơ] chẳng quan tâm. [Vợ] ôm con chẳng ngủ, hồn mơ màng mưa gió thê lương thâu đêm. Người tóc bạc (cha mẹ) chẳng vui, sự phụng dưỡng vật chất đơn bạc nửa đời sau cũng bị chông chênh[113]. Than ôi! Sự mê cuồng ấy dấy lên mấy chốc, mà nỡ khiến có chuyện xảy ra như thế ấy.

          4) Bốn là tranh giành, đố kỵ. Trời đất to tát [ngần ấy], thế mà c̣n có kẻ bực bội [oán trời trách đất]. Cha mẹ đối với các con, há chẳng khỏi có khi t́nh cảm thiên vị! Do vậy, [các con] xắn tay áo tranh phần, gườm mắt nh́n nhau tranh giành ḷng sủng ái [của cha mẹ], hoặc anh em hục hặc bất b́nh, hoặc chị em so đo từng chuyện nhỏ nhặt, che chắn khuyết điểm, tranh chấp sở trường, chia bè lập phái công kích kẻ không cùng phe, bêu riếu lẫn nhau khiến cho gia đạo suy vi, chất chứa [những t́nh tự] sân hận, ưa thích, [khiến cho] tâm t́nh hiếu thuận bị lợt lạt.

          Bốn điều ấy cũng là thói thường t́nh của mọi người, sợ rằng hiếu tử cũng chẳng tránh khỏi, dần dần trở thành đại bất hiếu. Ôi! Đáng sợ thay!

           Lại nói:

          - Có kẻ dường như là có hiếu, mà chẳng phải là có hiếu! Cha có lỗi, [con cái] hăy nên khéo léo can gián. Cha phạm lỗi bèn lập tức che đậy. Nếu chỉ biết thuận theo cha mẹ về mặt t́nh cảm, chẳng biết tùy thuận cha mẹ theo phương diện lư trí, hoặc mặc t́nh thiên vị chiều theo, sẽ khiến cho gia đ́nh gặp nguy cơ; hoặc để mặc cho cha mẹ phóng túng [làm bậy], sẽ chuốc lấy sự ghét bỏ của xóm giềng, hoặc do che giấu những chuyện lén lút ngấm ngầm của cha mẹ, sẽ đắc tội với trời đất. Đấy là thành tựu điều ác của cha mẹ, há có phải là hiếu! Có kẻ tự bảo chính ḿnh là hiếu, mà thật ra chẳng phải là hiếu. Có thể chăm nom, hầu hạ cha mẹ, có thể phụng dưỡng, nhưng lộ vẻ tự đắc ta là người có đức hạnh! Trong những gia đ́nh thường dân, chỉ có một nhà, cha con sớm tối quây quần, ắt sẽ có lúc lời lẽ va chạm, phải t́m cách tiêu trừ ngay những [xung đột] ấy, ḥng khôi phục t́nh cảm chân thành, thân thiết. Có kẻ sĩ thông hiểu sách vở, nhưng ngại ngần v́ cha già cả, bèn viện cớ muốn cho cha sống an nhàn mà an trí [cha] ở nơi khác. Hoặc là do sợ cha mẹ quá cổ hủ, bèn mượn cớ ấy để chống trái, xa ĺa. Hoặc là v́ thấy cha mẹ kém cỏi, bèn mượn cớ để đàn áp, đến nỗi ngày càng lợt lạt, ít nói chuyện với cha mẹ, biểu lộ thái độ lănh đạm, tuy tôn kính, nhưng không thân thiết.

          Cũng có hạng người thích rong chơi, bỏ niềm vui quây quần trong gia đ́nh, để vầy đoàn cùng bạn bè, [đi qua] làng khác, tỉnh xa lâu năm chầy tháng, mong mỏi đạt được lợi lộc từ người khác, mượn tiếng là v́ nhà nghèo [phải t́m cách] nuôi sống gia đ́nh, thật ra là tích cóp để phụng dưỡng vợ con, há có phải là hiếu thảo! Lại có kẻ được người khác thấy là hiếu, nhưng thần thấy [kẻ ấy] chẳng phải là hiếu. [Cha mẹ] c̣n sống th́ cũng tận hết sức phụng dưỡng, cũng quây quần bên cha mẹ, [cung phụng] vật chất đầy đủ, nhưng thiếu sót tấm ḷng, trọn chẳng có niềm vui [đền đáp ân cha mẹ] thật sự. Đến khi cha mẹ tạ thế, ma chay chu đáo, khóc lóc, vật vă theo thói thường, nhưng cũng chẳng buồn rầu thật sự. C̣n như kiếm cuộc đất để an táng, bèn dốc cạn sức, tốn nhiều tiền, lại là v́ mưu tính phước lộc cho con cháu, chẳng phải v́ mong cho cha mẹ được yên nghỉ. Mắt của chư thần thấy chuyện này rất rơ.

          Lại có kẻ được khen là hiếu trong một thời, chẳng thể được đề cao ngàn đời. Dẫu có thể được truyền tụng là hiếu thảo ngàn đời, vẫn chẳng thể thỏa măn tấm ḷng. Kẻ ấy chẳng hề phạm một lỗi nào trong những lỗi vừa kể trên đây, không một hiếu hạnh nào chẳng trọn vẹn, nhưng chưa nghe đại đạo, đối với chuyện “tu thân, trọn hết tánh” vẫn c̣n khuyết thiếu. Nói chung là di thể đọa lạc[114], chẳng báo ân cha mẹ. V́ thế, [trau giồi] đức hạnh trở thành bậc thánh nhân th́ sự hiếu thảo ấy mới được gọi là đại hiếu. Kẻ làm con hăy nên gấp phản tỉnh!

          Lại nói:

          - Tuổi già bị con cháu chán ghét cũng có mấy loại [nguyên do].

          1) Một là lạc hậu. Áo mũ, lễ số chẳng hợp thời nghi. Hăy nên nghĩ tóc bạc da mồi, sao c̣n măi được? [Những t́nh tự, kinh nghiệm, đức hạnh] cổ xưa rất thú vị, khiến cho kẻ khác yêu tiếc.

          2) Hai là tiếc tiền tài. [Người già] thâu gom [tiền tài], nắm giữ, tính toán, cấm con cháu lạm dụng. Hăy nên nghĩ [người già] v́ ai mà gian khổ? Những thứ ta ăn hoặc dùng hằng ngày là do ai để lại?

          3) Ba là gầy yếu, cử động chẳng tiện, đến nỗi [con cháu] phải vất vả d́u đỡ, trông nom. Hăy nên nghĩ báo đáp ân cù lao, cha mẹ nuôi con ḥng nhờ cậy tuổi già chính là vào lúc này.

          4) Bốn là lẩm cẩm, già suy. Nói năng chẳng rơ ràng, nặng tai, câu cú trúc trắc. Hăy nên nghĩ đến lúc chính ḿnh mới sanh ra, chẳng biết ǵ, chẳng nói được, ai đă yêu thích chơi đùa với ta?

          5) Năm là yêu chiều. Đối với trẻ nhỏ bên nội, bên ngoại, [cha mẹ thường] nhường cơm, nhường áo, che chở thiên vị quá đáng. Hăy nên nghĩ: Đối với tôi tớ mà ta c̣n phải nên có tấm ḷng thông hiểu thương yêu, huống hồ đối với những người ruột thịt.

          Nếu đối với những điều này mà dấy ḷng chán ghét, sẽ là bất hiếu mà chẳng tự biết. Hăy nên gấp phản tỉnh.

          Lại nói:

          - Lại nữa, giữa những đứa con sanh trước và sanh sau, giữa con ḍng đích và con ḍng thứ[115], nếu cha mẹ có sự thiên vị th́ kẻ làm con cũng dễ sanh ḷng hiềm oán. Đối với chuyện này, ta hăy nên đối xử bằng tấm ḷng [chân thành], mong sao cha mẹ vui ḷng mới thôi. Hàn Ngụy Công (Hàn Kỳ) đời Tống đă nói: “Cha từ, con hiếu, đó là chuyện thường t́nh, chẳng đáng phải bàn luận. [Chỉ riêng trường hợp] cha mẹ chẳng có ḷng từ, mà con chẳng đánh mất đạo hiếu [th́ mới đáng bàn định]. Đấy là lư do v́ sao xưa nay ca ngợi Đại Thuấn vậy”. Nói chung, chuyện cấp bách nhất là tiêu trừ, hóa giải [sự thiên vị trong t́nh thương của cha mẹ]. Ở trong hoàn cảnh ấy, [phải tiêu trừ] cho đến khi những cặn bă (chấp trước, sân hận, oán hận, hiềm khích, chướng ngại) hoàn toàn bị tiêu tan, chẳng c̣n một mảy tánh nóng giận nào! Hăy lưu tâm làm cho cha mẹ vui ḷng bội phần cẩn thận hơn những kẻ làm con thông thường. Nếu cha mẹ là người có ḷng nhân, tự nhiên sẽ chuyển thành thương yêu ta. Nếu [cha mẹ] là người không có ḷng nhân, [dẫu ta] chẳng thể khiến cha mẹ cảm động, há nên mâu thuẫn với cha mẹ? Vẫn hăy chỉ nên tự ḿnh trọn hết đạo làm con, ngơ hầu chẳng bị hăm vào phường ngỗ nghịch mà thôi! Nếu cứ một mực thấy cha mẹ sai trái, lửa giận đầy ắp trong bụng chẳng thể tiêu trừ, chẳng thể tháo gỡ, ắt sẽ có lúc chẳng đè nén được, [do v́] căn cội nhỏ nhiệm chẳng trừ, sẽ dẫn đến tức nước vỡ bờ. Tôi sợ rằng đến khi ấy, trách cha mẹ th́ nhẹ, mà tội lỗi của kẻ làm con sẽ chẳng thể trốn tránh được đâu nhé!

          Lại nói:

          - Há chỉ là chớ nên tích lũy ư niệm và tập khí oán giận[116], mà c̣n phải làm cho cha mẹ, anh em hành theo thiên lư, phải làm cho cha mẹ, anh em yêu thương ta, thân thiết với ta. Đấy là ư tốt, nhưng cũng chớ nên quá nóng vội, dùng biện pháp quá nặng nề. Quá nặng th́ họ sẽ chấp nhặt, chẳng thể chuyển biến được!

          Lại nói:

          - Lại c̣n có bốn hạng cha mẹ, càng phải đối đăi hiếu thảo thiết tha hơn. Phạm tội bất hiếu với [bốn hạng cha mẹ ấy], sẽ đặc biệt nặng nề hơn đối với những loại khác. Một là già cả, hai là bệnh tật, ba là góa bụa, bốn là nghèo nàn, túng thiếu. Thuở cha mẹ trẻ trung, khỏe mạnh, ăn, nghỉ, đi, đứng vẫn có thể tự lo liệu được. Tới lúc run rẩy, quạnh quẽ, chống gậy, dễ ngă, lặng lẽ khổ sở trong đêm lạnh, xương cứng khó thể chịu đựng. C̣n nếu như bị trúng phong, bệnh tật lâu ngày, ngồi, nằm chẳng thoải mái, vương văi những thứ bẩn thỉu, khiến chiếu, đệm đáng gớm. Con khó phụng dưỡng cha mẹ chỉ trong lúc này, mà cha mẹ cũng trông cậy con chỉ trong lúc này.

          Lại như tuổi già mất người phối ngẫu, ai hỏi đến nóng lạnh, cùng nhau chung bóng, chẳng thể thốt lên những lời ấp ủ trong tâm! Bậc trượng phu th́ c̣n được, chứ bà góa biết làm thế nào đây? Ngay như người con cháu đông đầy, đứa có đôi lứa bèn vui vầy đôi lứa, đứa có con thơ sẽ lo chăm bẵm con thơ, mỗi người ngủ ngáy o o, mỗi kẻ lo làm chuyện chính ḿnh vui thích. Đêm dài [người già thao thức] nghe tiếng đồng hồ điểm bèn chịu không nổi, lệ trào đẫm gối, biết tỏ cùng ai? [Người nào] có con cháu hiếu thuận, có thể chăm nom, phụng dưỡng th́ c̣n có thể tạm thời gởi gắm tâm t́nh lạnh lẽo [v́ nỗi cô tịch do góa bụa] nơi nhiệt tâm [hiếu thuận của con cháu]. Bất hạnh gặp phải con dâu hung tợn, quen thói thô tháo, vô lễ, hung tợn, nếu chồng hiếu thuận với bố mẹ ruột, cô ả sẽ ngang ngược gây trở ngại, cách tuyệt. Chỉ v́ ǵn giữ nửa điểm cốt nhục [thân t́nh], [cha mẹ vất vả cả đời chăm chút cho con để] phí công đổi lấy một đời thê lương, khổ sở!

          Lại có kẻ v́ chăm chút cho con mà tiền tài rỗng tuếch, do lo cưới gả mà tài cùng lực kiệt. Thuở trẻ trung, khỏe mạnh, lo toan cho con ấm áo, no cơm dư dật[117], tới khi già cả, bần cùng, găi đầu do dự, do mơ tưởng một món ăn ngon mà thèm rỏ dăi, nín nhịn ăn mày ba bữa cơm [của con]! [Mẹ già] sáng đun tối nấu mà vẫn bị mắng mỏ là ăn không ngồi rồi. Dệt vải, thêu vá, ẵm cháu, vẫn bị trù rủa cho mau chết! Những người làm cha mẹ như thế ấy, oán khí đủ để thấu trời, kẻ làm con cháu của họ càng phải nên hiếu thảo gấp bội những đứa con thông thường khác. Kẻ khuyến hóa cũng nên khẩn thiết [khuyên răn] từ chỗ này!

          Trong sách Khuyến Giới Toàn Thư của ông Trần Thành Khanh có viết:

          - Lại như kinh Tăng Nhất [A Hàm] đă nói, trong đời có kẻ tỳ thiếp sanh con cho chủ nhân. Họ cũng mang thân nữ như mọi người, nhưng do sanh trong nhà nghèo hèn, bị rơi vào tay kẻ phú quư, những tối chia chăn sẻ gối [với chồng] th́ ít, những đêm ngủ đơn côi th́ nhiều. Kẻ c̣n may mắn, gặp bà chủ (vợ cả) là người hiền lành, hiểu biết, hoặc tánh t́nh lúc tốt lúc xấu th́ c̣n có thể miễn cưỡng sống qua ngày. Nếu gặp [vợ cả] có tánh ghen tuông, hung tợn, suốt ngày chửi mắng dữ dằn, lăng nhục đủ mọi cách. Hễ thốt một lời biện bác, ắt bị chửi là quá phận, vô lễ. Kể khổ [với chồng] nửa câu, [vợ cả] bèn căm hận [rủa xả vợ lẽ] “xúi giục bên gối”. Lại gặp phải con dâu bất hiếu, con trai, con gái bất hiếu, chẳng nghĩ đến chuyện bố chồng thương tiếc, cứ một mực xúc xiểm với mẹ đích của chồng, lũ tôi tớ lại phụ họa theo, sóng gió nổi nơi đất bằng, sấm sét giáng xuống từ trời xanh!

          Lại bất hạnh gặp phải chủ nhân bạc t́nh, chẳng biết đến ấm lạnh, chẳng thương xót lúc ốm đau. Trong khuê pḥng, lệ đẫm áo xanh[118], ở ngoài cửa, [chồng] ḥ reo, nhậu nhẹt thỏa thích! Thậm chí có kẻ nuông chiều mê mệt người yêu mới, chán ghét t́nh cũ. Tự thương ḿnh mạng bạc, mấy phen t́m cái chết, thật đáng đau xót! Ngẫu nhiên có thai, phải che giấu nhiều cách. Chẳng che giấu được, sẽ chịu đủ mọi nỗi ê chề, phẫn uất. Ngồi trên cỏ mà sanh nở, lấy ai chăm sóc? Nếu may mắn có con, sẽ bị [vợ cả] ghen ghét, chẳng dung, [người thiếp] phải càng thêm dè dặt. Hở ra [sẽ bị nhiếc móc] là “cậy có con rồi buông tuồng”! Hễ con mắc bệnh, khoét thịt trị vết thương, cam chịu đói rét! Kinh dạy: “Mười tháng hoài thai mẹ vất vả, ba năm bồng ẵm ḷng mẹ ân cần”. Nếu bản thân là tỳ thiếp, sẽ phải siêng khổ gấp bội b́nh thường! Đến khi con trưởng thành, được có vợ con, được hưởng ruộng đất, nhà cửa, hoàn toàn chẳng nghĩ những thứ được hưởng thụ trong hiện thời đều là do mẹ ta khô máu, ṃn xương, cạn lệ, đứt ruột mà ra. Nói nghĩ đến đây, chẳng thể không cay mũi! Kẻ làm con hăy nên thường nghĩ đến điều này, phát phẫn lập chí, thề mong sẽ có ngày rạng mày nở mặt [mẹ ruột], ḥng đền đáp muôn ngàn nỗi đắng cay, khổ sở. Hăy thường xuyên phụng dưỡng. Hăy nên nghĩ mẹ vất vả, khổ sở, [mạng sống leo lét] như ngọn đuốc trước gió đáng lo để sớm bề phụng dưỡng. Nếu chẳng tận tâm kiệt lực, sẽ càng là đại nghịch bất đạo hơn những đứa con bất hiếu thông thường, chắc chắn sẽ nhanh chóng bị trời diệt!

          Hiếu đạo há trọn hết được, quư ở chỗ kịp thời! Đừng để cho tháng ngày [cha mẹ c̣n sống với ta] ngắn dần, để rồi hối hận tâm ta chưa trọn hết. Đừng dốc sức lo cho con cái [của chính ḿnh] ngày càng nhiều, [để rồi lơ là cha mẹ], khiến cho cha mẹ ta thương tâm mất rồi! Cha mẹ đợi cho đến khi con có thể phụng dưỡng, nói chung là đă năm, sáu chục tuổi, ví như cầm cây đuốc ngắn mà đi đường dài, bươn bả đến quán trọ sợ c̣n chẳng kịp, há dám nhởn nhơ trên đường ư? Kẻ làm con ôm vợ ẵm con, ăn no, ngủ kỹ, nào có biết người già trong nhà tóc bạc, mắt mờ lại bị mất đi một ngày? Vợ con hăy c̣n ít tuổi, ngày tháng hưởng dụng hăy c̣n dài, mà cha mẹ sanh ta bóng dâu sắp xế, ḍng sông [thời gian] trôi măi chẳng ngừng! Vạn nhất sẩy chân, khó báo đáp chừng bằng mảy bụi, giọt nước! Lên trời, xuống đất, chẳng t́m được lối! Than thở suông nỗi bi hoài “cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng”, đối trước gà lợn [dâng cúng vong linh cha mẹ] tuôn trào nước mắt, chẳng phải là di hận suốt đời ư? V́ thế, hằng ngày hăy nghĩ cha mẹ ân sâu khôn sánh, ta chẳng thể thường có cha mẹ, ắt hiếu tâm sẽ tự nhiên dấy khởi. Xưa kia, đă có người truy điệu [cha mẹ] đă khuất như sau: “Huyên huyên bất hiếu khu, thốn thốn từ thân huyết. Ô điểu chánh đa t́nh, bách niên không lệ kiệt” (Tấm thân bất hiếu đẹp xinh, mỗi tấc đều do máu mẹ thành, chẳng thể báo đền như chim quạ, trăm năm khô cạn lệ suông thôi). Lời ấy bi thương thay! May mắn là c̣n chưa đến nông nỗi ấy, hăy nên mau hiếu dưỡng!

          Đời Tống, Tư Mă Ôn Công (Tư Mă Quang) đă nói:

          - Ta thờ cha mẹ chẳng có ǵ hơn người khác, chỉ có thể chẳng khinh dối mà thôi. Thờ vua cũng thế!

          Có bốn điều đại cương về ḷng hiếu: Lập đức, kế thừa gia nghiệp, giữ ǵn thân thể, dưỡng chí. Trong những điều ấy, sẽ có điều chẳng trọn hết, cho nên [thành ra] mỗi người một khác. Điều cốt yếu là tùy phần, tùy sức, trọn hết những điều đáng nên trọn hết. Thật sự có một niềm chí thành, thực hiện những điều ấy suốt cả một đời cho đến khi nhắm mắt, chẳng có mảy may nuối tiếc th́ cũng gần như đă trọn hết ḷng hiếu vậy!

          La Thị nói:

          - Hiếu tử thờ song thân, chẳng thể khiến cho cha mẹ ta sanh ḷng lănh đạm, chẳng thể khiến cho cha mẹ ta sanh tâm phiền năo, chẳng thể khiến cho cha mẹ ta có tâm kinh hăi, chẳng thể khiến cho cha mẹ ta sanh ḷng sầu muộn, chẳng thể khiến cho cha mẹ có nỗi niềm khó nói, chẳng thể khiến cho cha mẹ ta có tâm xấu hổ, ân hận.

          Vu Thiết Tiều nói:

          - Kẻ làm con phải hoàn toàn thấu hiểu tấm ḷng kỳ vọng của cha mẹ đối với con. Tuy danh lợi trong thế gian, không phải là ai cũng ắt đều đạt được, nhưng kẻ đọc sách khắc khổ dùi mài, kẻ theo nghề nông bèn nỗ lực làm lụng vất vả, kẻ buôn bán, tận tâm kinh doanh, chuyên chở, ḥng tấm thân có thể đạt tới địa vị sang giàu, khiến cho trong ḷng cha mẹ thường nghĩ như ḿnh là người được phong tặng, là người giàu có. Đấy cũng là bí quyết để dưỡng chí. Kẻ làm con mà khiến cho cha mẹ chẳng mong mỏi điều ǵ, đau ḷng lắm thay!

          Ôn Tiết Hiếu[119] nói:

          - Trong nhà có người bạc đầu chính là phước của con cháu. Một là liên lạc với những bậc cố cựu, hai là được xóm làng tin phục, ba là con cháu vâng theo mạng lệnh, tôi tớ tuân theo quy củ, bốn là nói kể chuyện cũ của tổ tiên, làm bậc tiền bối gương mẫu trong quận, ấp, năm là ḥa giải thói mạnh bạo, nóng nảy của bọn trẻ tuổi, sáu là chăm chút những điều chi ly.

          Trong bài Khuyến Hiếu Thiên của Vương Trung Thư có đoạn:

          - Đời có kẻ bất hiếu, sống uổng kiếp phù sanh, chẳng nghĩ ơn cha mẹ, sống nào khác cây khô? Khi thân chưa thành người, mười tháng trong bụng mẹ, khát bèn uống huyết mẹ, đói bèn ăn thịt mẹ. Khi thân con sắp sanh, thân mẹ như bị chém, cha v́ mẹ đau xót, vợ khóc trước mặt chồng, chỉ sợ khi sanh nở, sẽ thành quyến thuộc quỷ. Đến khi thấy mặt con, mừng một mạng hăy c̣n. Do tấm ḷng từ mẫu, ngày đêm siêng chăm bẵm. Mẹ nằm đệm, chiếu ướt, con ngủ mền đệm khô. Con đang ngủ yên ổn, mẹ chẳng dám duỗi người. Thân vùi trong xú uế, chẳng rảnh nghĩ tắm gội. Trâm lệch, mũ đội ngược, h́nh dung chẳng đoái hoài. Đi lại sợ sụp hố, giở chân sợ té lăn. Bú mớm suốt ba năm, máu, mồ hôi mấy hộc? Vất vả muôn ngàn nỗi! Con vừa tuổi choai choai, tánh t́nh dần cứng cỏi, hành tung khó câu thúc. Theo bạn bè rong chơi, mặc sức thỏa tửu sắc! Sáng tối chẳng về nhà, mẹ tựa cửa ngóng trông, từ hoàng hôn tới sáng. Con đi ngàn dặm đường, ḷng mẹ ruổi ngàn dặm. Con cưới được vợ đẹp, t́nh cá nước ḥa hợp, thấy mặt mẹ như đất, thấy mặt vợ như ngọc! Nếu mẹ trách một lời, nén giận, mắt đổ lửa! Nếu vợ chửi mọi cách, cười mơn, chẳng thấy nhục. Mẹ mặc áo xống cũ, vợ khoác lụa là mới, chẳng ngại người ghét hiềm, chẳng hiểu người thẹn ghét. Nếu cha mẹ góa bụa, lẻ loi trong đêm trường. Khỏe th́ cho bữa cơm, bệnh th́ cho bữa cháo, bỏ lửng trong pḥng trống, giống như khách ở trọ! Sắp thành quỷ suối vàng, mạng như đuốc trước gió, nhanh chóng sắp vô thường, cô hồn vùi hang núi, hồn linh chốn suối vàng. Ai nghĩ đang thọ khổ?[120] Cha mẹ vừa nằm xuống, anh em chia của cải, chẳng nghĩ ân mẹ cha, chỉ nhủ ta có phước! Phải bảo hạng người ấy, chẳng bằng loài cầm thú! Quạ hiền mớm ngược lại, dê núi c̣n khụy chân[121]. Khuyên ngươi là phận con, kinh sách siêng tụng đọc. Hoàng Hương[122] hè quạt chiếu, đông bèn giữ ấm chăn, Vương Tường nằm băng lạnh, Mạnh Tông[123] khóc trúc khô. Quách Cự[124] c̣n chôn con, Đinh Lan[125] từng khắc gỗ. Cớ sao người thuở nay, chẳng học theo thói cổ, chớ mang đầu bất hiếu, sống uổng trong nhà người! Chớ dùng thân bất hiếu, mặc uổng y phục người. Chớ dùng mồm bất hiếu, ăn uổng cả ngũ cốc! Đất trời tuy rộng lớn, chẳng dung phường ngỗ nghịch, hăy sớm hối lỗi trước, đừng chờ trời tru lục!

          Bài Thân Ân Ca (bài ca về ân cha mẹ) của Đường tiên sinh như sau:

          - Nay ta chưa nói, lệ đă ướt đẫm trước. Ân cha mẹ dưỡng dục khó thể báo đền! Đúng là đứt ruột khó thể thốt lời. Ḷng đau như xé, thưa cùng mọi người. Mẹ mang thai chịu đựng dập vùi, đủ mọi nỗi ma chướng khó thể chịu nổi! Đừng nói là sanh nở chẳng có tốt hay xấu, sống chết trong khoảnh khắc, chẳng biết làm thế nào? Bụng nay đau nhói ḷng hoảng hốt, gọi người cởi bớt y phục cho. Ngàn sống vạn chết nhiều khôn xiết, chỉ cậy trời thần che chở cho! Sanh con máu đẫm, tâm hồi hộp. Hàm răng cắn chặt, mắt trợn ngược. Cho đến khi đă cắt nhau xong, lại phải ba hôm mới tỉnh người. Phân tiểu thường xuyên vấy khắp ḿnh, tanh tưởi hôi khó thể ngửi, ḷng mẹ chẳng chút nào chán ghét, rửa giặt lắm phen thật nhọc nhằn. Nghe con thơ khóc một tiếng bèn xoay ḿnh giơ tay bồng. Nghĩ ra khi con mới nửa năm hoặc tṛn một tuổi, có bao giờ mẹ được ngủ tṛn giấc? Ngày tháng Chạp tuyết rơi dầy đặc, kề đầu áp má ôm con ngủ. Chỉ v́ sữa để cho con bú, suốt đêm phanh ngực lộ ra ngoài. Nghe nói trẻ con sẽ lên đậu, mẹ lập tức sợ vàng cả mắt. Một khi con vừa chớm lên đậu, mẹ suốt ngày chẳng màng đến cơm nước. Dập đầu lễ bái, thắp hương, suưt soa khấn vái Đậu nương nương. Nếu có thể kêu van động ḷng Đậu nương nương, nào ngại lủng đầu, chảy năo ra! May sao con đă tṛn hai tuổi, có thể bám vào bàn ghế để tự đi. Chỉ lo con té, sưng đầu mặt, bụng đầy một niềm lo ngay ngáy. Sanh phải đứa con tánh ngang ngược, mặc t́nh làm theo ư nó thích, thế mà cha mẹ quá yêu chiều, vẫn nói “con ta ngoan thế đấy!” Con nay tóc đă chấm ngang vai, chớp mắt là con đă trưởng thành. [Ḷng cha mẹ] hết sức đau xót không buông bỏ được, [v́] con chẳng thể thường [lẩn quẩn] dưới gối. Tuy kiếm được một chút ruộng vườn, [cha mẹ] phải hứng chịu muôn ngàn vất vả, chẳng phải v́ con trai th́ cũng v́ con gái, chính ḿnh ăn xài được mấy đồng? Cha nh́n mẹ, mẹ nh́n cha, v́ sao suốt ngày má hóp, mặt vàng vọt? Chỉ v́ con cái sắp kết hôn. Cau mày nh́n nhau trong một pḥng. Từng ly từng tư đều là ân đức, ai có thể miêu tả đúng được nửa mảy? Giả sử bài thơ Liễu Nga có thể miêu tả được, th́ cũng chỉ là phảng phất sáu bảy phần!

          Bài Hiếu Thuận Ca như sau:

          - Khi mẹ mang thai mười tháng, bước chân cao thấp đều sợ tổn thương con. Con hăy nên suốt đời ghi nhớ ư ấy. Giữ thân chánh đáng, tôn trọng cha mẹ, chẳng thiếu sót hai điều ấy. Chữa trị cho con khi nó bị sốt hay cảm lạnh, hận chẳng thể moi móc tim, phổi, gan! Nếu cha mẹ có điều phiền năo, hăy nên t́m đủ mọi cách khiến cho cha mẹ vui ḷng. [Cha mẹ] giận đến mức quỷ thần đều bị dọa sợ, vừa thấy con thơ mặt liền tươi cười. Kẻ làm con cũng phải nên thường giống như vậy. Đối với cha mẹ đừng mang một mảy sân hận nào! Ẵm con dạy nói, bắt chước kiểu nói của con, con cười hay mắng cha mẹ đều khoan khoái. Mai sau ở trước cha mẹ nghe giáo huấn, dẫu bị đánh đập chẳng rên siết. Cha mẹ và con đừng sống tách riêng. Hăy xem thử xem quan chức xét án, giám định cha con bằng cách trích máu, cho nên chẳng đành sống khác nơi. Lúc con vừa cất tiếng khóc lọt ḷng, anh em vốn là cùng một cội. Trời sanh cành lá hăy chống đỡ nhau. Nếu nghĩ đến chuyện chia cắt gia đ́nh, đó chính là đă chối bỏ ơn cha mẹ vậy. Phú quư, bần cùng là do chính bản thân ta [đă tạo nghiệp trong quá khứ], làm vương hầu hay làm kẻ tôi đ̣i, đều do cái nhân khác nhau. Khuyên chàng nghèo túng đừng trách hận song thân. Phú quư đừng quên người sanh ra ḿnh. Thường chuyển t́nh cảm vợ chồng thắm thiết vào hiếu đạo. Khuyên chàng hăy hiểu rơ song thân là duy nhất. Chồng chết, vợ mất đều tái hôn được, cha mẹ mất rồi, há tái sanh? Cha mẹ vốn giống như cây cối, sao khỏi trút lá trước gió thu? Khuyên chàng khi [cha mẹ] c̣n sống, hăy tận lực phụng dưỡng, cha mẹ mất rồi khóc lóc cũng như không! Kẻ làm con mang tấm thân bảy thước sống trên đời, suốt đời khó báo đền ơn song thân. Khuyên chàng hăy siêng năng vào dịp tang tế, thường đến bên đầu núi tảo mộ.

          Kim Thiếu Tung nói:

          - Xét ra, chuyện tang lễ cho tới nay đă suy đồi cùng cực! Chuyện ǵ cũng đều chẳng được như thuở xưa! Chuyện cưới gả trong ṿng bảy thất càng chẳng hợp lẽ thường! Bậc quân tử thời cổ cư tang, ăn chẳng thấy ngon, nghe nhạc chẳng vui, chỗ ở [dẫu tốt đẹp nhất vẫn cảm thấy] không yên, [cư tang suốt] ba năm mà c̣n như vậy. Nay những kẻ nhẫn tâm, trái nghịch lư lại ngược ngạo toan tính cưới gả trong ṿng bảy thất, bỏ nằm rơm gối đất để dùng đệm cỏ[126], thay áo tang[127] để khoác gấm thêu. Gạt bỏ niềm tang tóc cha mẹ để mưu tính sự vui vợ chồng, có hợp lễ hay chăng? Có an tâm được chăng? Đứa con làm như thế đáng gọi là kẻ đại bất hiếu. Cha mẹ dạy con làm như thế chính là dạy con đại bất hiếu. Hơn nữa, trong lúc đang có chuyện hung mà cử hành chuyện cát, cả vợ lẫn chồng đều bất tường. Chẳng biết do kẻ nào đầu têu, đến nay đă thành thói quen, trở thành phong tục mất rồi! Thậm chí nhà thi lễ cũng có kẻ làm như thế, quả thật là tội nhân đối với Châu Công, Khổng Tử vậy! Hăy nên thống thiết dứt trừ!

          Trầm Long Giang nói:

          - Kẻ làm con thờ cha mẹ, không ǵ lớn bằng chuyện lo hậu sự. Nếu đối với chuyện này mà chẳng trọn hết tấm ḷng th́ c̣n có chuyện ǵ để có thể trọn hết tấm ḷng nữa đây? Hiềm rằng anh em đông đảo, đùn đẩy lẫn nhau; do vậy, qua quít cho xong chuyện, đến nỗi ôm hận về sau. Tôi trộm cho rằng, nếu kẻ làm con trưởng mà có thể tự một ḿnh lo liệu, hăy nên coi đó là trách nhiệm của chính ḿnh, chẳng cần phải sai phái những đứa con khác. Trong số các con, nếu ai có sức lo liệu, cũng nên coi đó là nhiệm vụ chính ḿnh, chẳng cần phải khăng khăng làm phiền con trưởng. Ai nấy tận tâm, tranh nhau dốc sức trước hết th́ mới đúng phận làm con. Nếu có cái tâm trông mong người khác góp sức một phần, tức là trong cái tâm của chính ḿnh đă có một phần chẳng thể tận tâm vậy!

          Thời cổ, tang ma chú trọng đau buồn, người thời nay chẳng buồn! Thời cổ, tế lễ chủ yếu là cung kính, người thời nay bất kính. Cả hai đều là phi lễ, mà thất lễ trong tang ma lại càng quá đáng! V́ thế, đối với chuyện này, phải hết sức chú ư.

          Ông Châu Tại Am nói:

          - [Thời cổ], đại phu th́ [quàn quan tài] ba tháng, sĩ phu th́ hơn một tháng. V́ thế, chưa chôn cất th́ chẳng biến đổi y phục, thay đổi thức ăn, [nhằm biểu thị] ḷng đau buồn v́ cha mẹ chưa an nghỉ. Người thời nay bị mê hoặc bởi thuyết Phong Thủy, tham cầu cuộc đất tốt, nên cứ kéo dài lâu ngày [không an táng]. [Có kẻ] đă chôn rồi, lại do có lắm nỗi nghi ngại [chôn nhằm cuộc đất xấu], bèn lắm phen đào lên, chẳng nghĩ đến ư nghĩa chọn cuộc đất tốt của cổ nhân chỉ là v́ con hiếu cháu thảo tôn trọng di thể [của ông bà, cha mẹ], chẳng để cho [di thể ấy] bị gió và nước xâm phạm, chẳng bị trùng kiến đục khoét, chẳng bị cày bừa chạm đến, ngày sau [chỗ mộ phần ấy] không trở thành đường sá, không trở thành thành quách, ng̣i, ao, như thế là được rồi. Há có phải là dùng hài cốt của cha mẹ để làm công cụ tạo phước lợi cho con cháu ư? V́ thế, chẳng cần phải tham cầu Phong Thủy! Lại có kẻ lầm lạc v́ cái thuyết phân pḥng[128], [khiến cho] anh em bàn bạc nhiều lẽ, lần khân suốt năm. Đă chọn năm, tháng, ngày, giờ, lại ngờ núi[129], nước bị lệch hướng. Tức là cha mẹ sanh nhiều hơn một đứa con, đâm ra sẽ tăng thêm một ngày hài cốt bị phơi bày vậy! Há có biết họa phước của con người, ai có nhân duyên nấy, liên quan ǵ đến núi, nước? Tức là chẳng cần phải chấp nhặt chuyện Phân Pḥng! Nếu cứ mê muội chấp trước chẳng tỉnh ngộ, hễ gặp phải lợi danh dẫn dắt, sẽ lần khân [quàn linh cữu của cha mẹ] nơi quê người, năm này qua năm kia, chẳng mong chi [người đă khuất] sẽ được an táng! Hoặc gặp phải lụt lội, hỏa tai, lại có nỗi lo lửa thiêu, nước trôi! Kẻ làm con há có thể an tâm ư? Lại có chuyện quàn xác chờ ngày tốt, muôn phần chớ nên để lâu ngày! Hễ để lâu, sẽ bị nước mưa thấm ướt, khí nóng nung nấu phía dưới, chưa an táng mà gỗ đă mục nát. Người nhân từ, con hiếu thảo, hăy nên thiết tha suy nghĩ!

          Người có hiếu thời cổ như Tăng Tử (Tăng Sâm) hễ đọc thấy điều ǵ liên quan đến lễ, vạt áo ướt đẫm [nước mắt], Mẫn Tử (Mẫn Tử Khiên) bằng một lời an ḷng mẹ, Lăo Lai[130] mặc áo màu sặc sỡ, giỡn hớt làm vui ḷng mẹ, Hoa Bảo[131] không [làm lễ] đội mũ, đau đớn khóc thương cha, Bá Du[132] bị gậy đập bèn khóc thảm, Vương Bầu[133] vịn cây bách khóc ai oán, Quách B́nh ra sức làm thuê [để có tiền] chôn cất cha mẹ, Giang Cách làm mướn để nuôi mẹ. Ai nấy trọn đủ ḷng chí tánh, chí t́nh, tạo khuôn mẫu lỗi lạc cho trăm đời, nay lại nêu tạm lược vài chuyện ḥng bảo ban người đời để cùng xem biết.

          Hóa Thư[134] nói:

          - Văn Xương Đế Quân giáng sanh tại Ngô Hội vào đầu thời Châu, thờ cha mẹ chí hiếu. Mẹ tuổi đă sáu mươi, mọc mụn nhọt lở loét ở lưng. Đế Quân bèn hút vết loét suốt ba ngày, [máu mủ] đầy miệng. Nhổ ra xem, thấy có màng như vải, mủ trắng như gạo, đấy chính là nguyên do gây nên vết loét vậy. Mẹ bèn được yên, nhưng do bệnh tật lâu ngày, mẹ bị gầy ṃn. Thầy thuốc nói: “Đối với căn bệnh đă lâu này, hăy dùng thịt người để bổ người, dùng chân khí bồi bổ chân khí th́ mới mong b́nh phục được”. Đế Quân ban đêm bèn khoét thịt nơi bắp đùi, nấu lên dâng mẹ. Bỗng nghe trong không trung có tiếng nói: “Do ngươi thuần hiếu, thượng thiên cho mẹ ngươi thọ thêm mười hai năm nữa”. Quả nhiên mẹ lành bệnh. Khi Đế Quân ba mươi sáu tuổi, cha mẹ mất, tự dốc hết tiền của đă dành dụm từ trước để lo liệu tang ma, ngủ bên cạnh mộ. Rốt cuộc, ba năm sau, lũ lụt bộc phát, Đế Quân trai giới canh mộ, ngày đêm tụng kinh Đại Động[135] chẳng thiếu sót, và nghiêm cẩn thờ tượng Nguyên Thủy [Thiên Tôn], cầu thoát khỏi lũ lụt. Tới khi nước rút, thấy khe hang trước mộ đă biến thành g̣ cao, rộng khoảng một dặm. Từ đấy, những cây tùng [trồng quanh mộ] vĩnh viễn không bị lụt lội nữa. Sau khi mất, Thượng Đế sai [Đế Quân] cai quản Quân Sơn. Về sau, [Đế Quân] lại sanh trong nhà họ Trương, phụng sự Châu Tuyên Vương, kết bạn với Doăn Cát Phủ, [t́nh bạn ấy được] kinh Thi gọi là “Trương Trọng hiếu hữu”. Nay kẻ sĩ hằng ngày thờ phụng Văn Xương, chẳng biết Đế Quân sở dĩ đạt thành chánh quả toàn là do ḷng hiếu hữu! V́ thế, sao lục [sự tích của Ngài đầu tiên] để dạy bậc quân tử đọc sách.

          Đời Tống, cha mẹ của Triệu Cư Tiên tuổi đă ngoài chín mươi. Tánh t́nh [Cư Tiên] rất nghiêm túc, cẩn trọng. Vợ chồng Cư Tiên phụng dưỡng [song thân] siêng năng, cẩn trọng, dốc ḷng hiếu hạnh. Hằng ngày thắp nhang cầu xin cha mẹ khỏe mạnh, t́m đủ mọi cách khiến cho cha mẹ vui vẻ trong lúc xế bóng mới thôi! Thượng Đế thấy tâm ư ông chuyên nhất, thưởng cho ông bảy con trai, ba rể đều đỗ đạt cao. Vợ chồng Cư Tiên đều chứng quả thành tiên.

          Dương Phủ ở Thái Ḥa[136], từ biệt mẹ vào đất Thục (Tứ Xuyên) để đến bái phỏng Vô Tế Đại Sĩ[137]. Trên đường đi, gặp một vị lăo tăng, hỏi [Dương Phủ] đi đâu, thưa: “Con đến bái phỏng ngài Vô Tế”. Vị Tăng bảo: “Chẳng bằng thấy Phật”. Thưa: “Ở đâu ạ?” Vị Tăng bảo: “Ngươi hăy quay về, thấy người mang dép ngược, mặc áo màu như thế đó, vị ấy chính là Phật”. Ông bèn quay về. Đêm khuya gơ cửa, mẹ mừng rỡ khoác áo, đi ngược dép ra cửa, đấy chính là h́nh dạng đức Phật như vị Tăng đă nói. Dương Phủ kinh ngạc, ngộ ra! Từ đó, dốc cạn sức kính mẹ, chú giải Hiếu Kinh đến mấy vạn chữ, hễ nghiên mực sắp cạn, nước mực bỗng tràn đầy, ai cũng nói là do ḷng hiếu cảm vời.

          Phật Di Lặc nói:

          - “Trong nhà có hai vị Phật, bực thay người đời chẳng biết. [Hai vị Phật ấy] chẳng dùng vàng lấp lánh sơn thếp, cũng chẳng do chiên-đàn khắc thành. Song thân nay hăy c̣n sống, chính là Thích Ca, Di Lặc. Nếu có thể thành kính đối với cha mẹ, cần ǵ phải mong cầu công đức nào khác”.

          Mạo Khởi Tông nói:

          - Bậc cao nhân danh sĩ thời Lục Triều tín ngưỡng Hiếu Kinh, hoặc là tuẫn táng, hoặc siêu độ vong linh, hoặc bị bệnh tụng [Hiếu Kinh] bèn được lành, gặp tranh chấp bèn tụng niệm mà được giải trừ, [có người đang tụng kinh bỗng] gặp hỏa hoạn cứ [nghiễm nhiên tụng tiếp] lửa bèn tắt. [Có sự thần hiệu] chẳng thể nghĩ bàn như thế! V́ vậy, Hoàng Khản hằng ngày tụng Hiếu Kinh hai mươi lượt, phỏng theo [cách tụng đọc] kinh Quán Âm (phẩm Phổ Môn). Than ôi! Bỏ vị Phật hiện tại để cầu vị Phật quá khứ hiển linh, tức là trái nghịch cái tâm vậy. Chẳng niệm Hiếu Kinh, chỉ cầu may được phước nơi các kinh khác, thần sẽ chán ghét!

          Kinh Bảo Tạng dạy:

          - Phụng sự hiếu thảo đối với cha mẹ, tức là Thiên Chúa Đế Thích ở trong nhà ngươi. Hiếu dưỡng cha mẹ, Đại Phạm tôn thiên ở trong nhà ngươi. Hiếu kính cha mẹ, Thích Ca Văn Phật ở trong nhà ngươi. V́ thế, Thiểm Ma Bồ Tát[138] khoét mắt cứu mẹ, bệnh trầm kha lành ngay trong một ngày. Từ Tâm đồng tử phát nguyện chịu khổ thay [cho các chúng sanh trong địa ngục], vầng lửa tiêu tan ngay trong khoảnh khắc. Hạnh tột cùng động ḷng trời, ḷng chân thành cảm Phật, từ xưa đều luôn là như vậy! Ai nấy hăy nên dốc ḷng tin tưởng. Theo giáo huấn của nhà Phật, chính ḿnh tuân thủ, vâng theo giới luật, khắc khổ tu hành. Lại c̣n có thể hướng dẫn song thân trai giới, niệm Phật th́ mới hợp với giáo chỉ của Như Lai, tổ tiên chín đời được sanh lên thiên đường. Người nương theo Đạo giáo cũng [phải nên làm] như thế. Nay kẻ tục đạo, tục tăng chẳng thể như vậy, cứ nói: “Ta xuất gia là đă độ cha mẹ rồi”, đúng là tự dối ḿnh!

           Thôi Miện tánh rất hiếu thảo. Mẹ bị mù, ông bèn dốc cạn gia sản để chữa trị, chẳng cởi mũ, chẳng tháo đai để hầu hạ mẹ suốt ba mươi năm. Mỗi khi có chỗ phong cảnh đẹp đẽ, hoặc dịp tốt lành, ắt sẽ dắt d́u mẹ [đến tham dự] ăn uống, cười nói để mẹ quên nỗi khổ sở. Mẹ mất, ông tiều tụy, hộc máu, ăn chay suốt đời. Yêu mến anh chị gần như mẹ, thương yêu các cháu c̣n hơn con ruột. Hễ có bổng lộc, ắt sẽ chia sẻ, bảo: “Ta đă buồn v́ cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, không thể nào biểu lộ ḷng hiếu của ta. Xét ra, mẹ nghĩ nhớ chỉ có bốn năm người này, đều phải đối xử nồng hậu với họ, ngơ hầu an ủi [ḷng mẹ] nơi chín suối”. Về sau, ông làm quan đến chức Trung Thư Thị Lang. Con ông là Hữu Phủ là một vị tể tướng hiền lương. Ôi! Ông Thôi là hiếu tử thật sự. Mẹ c̣n sống bèn tận hết sức làm vui ḷng mẹ; mẹ đă khuất bèn dưỡng chí. Đời có kẻ thuộc hạng phú quư, nhưng đối đăi với ruột thịt như kẻ qua đường, tệ bạc với các cậu như khách lạ! Đọc đến đây, ai mà chẳng toát mồ hôi, cảm hóa?

          Lữ Thăng mất mẹ từ bé, thờ bố đă trăm tuổi hết sức hiếu thảo. Tuổi bố càng cao, tiêu tiểu không kiểm soát được, Lữ Thăng bèn ngủ chung với bố để hầu hạ, chiều ư bố cẩn thận. Mỗi đêm, thức dậy bốn năm lượt [để nâng đỡ bố đi vệ sinh]. Gặp lúc chiến tranh, ông cơng bố vào núi. Giặc cảm động trước ḷng hiếu thảo của ông, nên ông giữ tṛn mạng sống. Bố thích ăn trái hạnh ngọt, bị hàng xóm đoạt mất. Lữ Thăng viết sớ cầu thần, thần liền khiến cho gă hàng xóm cậy thế bị mọc nhọt ở lưng. Thần bảo hắn mau trả lại quả hạnh cho đứa con hiếu thảo th́ mới được lành bệnh!

          Lại như Quách Tông mất cha, chỉ c̣n mẹ, thường than thở tưởng nhớ ơn mênh mông của cha mẹ. Suốt ba mươi năm chẳng dùng rượu thịt, sớm chiều kiền thành cầu đảo. Mẹ thọ một trăm lẻ bốn tuổi, tai mắt chẳng suy, ăn uống càng khỏe mạnh.

          Dương Ất đi xin ăn để phụng dưỡng cha mẹ. Hễ xin được thức ăn, dẫu rất đói, chẳng dám nếm, ắt dâng lên cha mẹ trước. Hễ có được thức ăn ngon, ắt quỳ dâng lên. Ông nhảy nhót, múa may, hát những bài sơn ca[139] để đẹp ḷng cha mẹ. Suốt mười năm như vậy, người trong làng cảm động trước ḷng hiếu thảo ấy, bèn cho tiền, thuê ông làm việc. Ông chẳng nhận, thưa: “Chẳng thể ĺa khỏi cha mẹ một ngày!” Song thân đều chết, ông xin được quan tài, cởi áo của chính ḿnh để [làm vải] liệm, dẫu rét buốt căm căm, để ḿnh trần chẳng quản! Ông chôn [cha mẹ] ngoài đồng, ngày đêm gào khóc buồn bă, cúng tế hằng năm chưa từng thiếu sót!

          Đời Đường, Lư Huưnh Tú tánh chí hiếu. Mẹ thuở trẻ xuất thân nghèo khó, thấp hèn, vợ ông có lần mắng là kẻ nô tỳ. Mẹ bị xúc phạm, chẳng vui ḷng. Ông liền bỏ mụ vợ ấy. Có người hỏi, ông đáp: “Cưới vợ là v́ muốn vợ hầu hạ mẹ chồng. Nếu ả ta khiến cho mẹ buồn bực th́ giữ lại để làm ǵ?” Ḷng hiếu cảm động ḷng trời, trong nhà mọc nấm linh chi. Đường Trung Tông khen thưởng gia đ́nh ông.

          Cố Hùng nhà nghèo, phải ngồi dạy học tại nhà người khác. Tiền lương mỗi năm đều dâng lên cha, cha thường lăng phí. Chủ nhà thương ông nghèo, tặng tiền lương cả năm cho ông, bảo: “Cụ nhà không biết, ông có thể tậu ruộng để làm kế thâu nhập cho vụ Thu”. Cố Hùng đáp: “Tôi há nỡ ḷng v́ mấy thạch gạo mà thay đổi hiếu tâm thường nhật ư?” Ông đưa trọn món tiền ấy cho cha. Ông sanh con có tên là Tế Minh, tuổi c̣n thiếu niên đă đỗ đạt.

          Lư Quỳnh cưới vợ đă có con, liền chuyển vào sống cùng chỗ với mẹ. Mỗi đêm, Lư Quỳnh thường phải thức dậy mười mấy lượt [để nâng đỡ mẹ]. Mẹ nói: “Con mấy năm nay đă yếu rồi, hăy nên thuê tớ gái hầu mẹ”. Lư Quỳnh thưa: “Đối với những ǵ mẹ cần, nếu con không đích thân làm, trong tâm cảm thấy như mất mát”. Do vậy, mẹ chẳng ép; v́ thế, người nhà chẳng có ai dám lười biếng.

          Đời Hán, Tào Nga ở Thượng Ngu, cha là Tào Hu, làm nghề thầy cúng. Ngày mồng Năm tháng Năm, [Tào Hu làm lễ] đón thần bên sông, ngă xuống nước chết đuối. Khi ấy, Tào Nga mười bốn tuổi, t́m xác cha không được, khóc lóc dọc bờ sông suốt bảy ngày đêm, nhảy xuống sông, tới ngày thứ năm, cơng xác cha nổi lên mặt sông. Quan lệnh doăn Thượng Ngu là Độ Thượng tâu tŕnh chuyện ấy. Nhằm biểu dương người con gái hiếu thảo, bèn lập miếu thờ bên sông, cho đến nay vẫn được cúng tế.

          Đời Tống, vợ của Ngô Hiếu góa chồng từ trẻ, không có con, thờ mẹ chồng chí hiếu. Mẹ chồng đă già, lại bị đau mắt, nghĩ bà Ngô cô đơn, muốn kiếm một đứa con nuôi. Bà Ngô khóc thưa: “Gái trinh liệt chẳng thờ hai chồng! Vợ dốc hết sức hầu hạ [mẹ chồng]”. Bà Ngô se gai bện sợi cho làng nước, hễ được tiền bèn dùng để nuôi mẹ chồng. Nếu có món ăn ngon, ắt sẽ gói ôm về cho mẹ chồng dùng. Đă có một lần, bà Ngô nấu cơm chưa chín, do bà cụ hàng xóm gọi, bèn ra ngoài. Mẹ chồng cho là cơm quá chín, bèn lấy ra đựng trong chậu. Do chẳng nh́n thấy, cụ đổ lầm vào cái thùng đựng đồ nhơ uế. Bà Ngô về đến nhà, chẳng nói ǵ, vội sang nhà hàng xóm vay cơm cho mẹ ăn. [Sau đấy, bà] kéo nước, gột sạch cơm bẩn mấy lượt, hấp lên tự ăn. Một hôm, bỗng mộng thấy có hai đứa trẻ mặc áo xanh (tiên đồng) cưỡi mây đến, tay cầm công văn, nói là “Thượng Đế triệu kiến”, dẫn bà vào triều kiến. Thượng Đế nói: “Ngươi là một người nữ ở làng quê, có thể phụng sự mẹ chồng đă già, chịu thương, chịu khó tận tâm. Đúng là đáng trọng! Thưởng cho ngươi một ngàn đồng để có tiền ăn, từ nay chẳng cần phải làm mướn nữa”. [Thượng Đế] sai hai tiên đồng đưa [bà Ngô] về. [Bà tỉnh giấc], quả nhiên thấy đầu giường có món tiền một ngàn đồng. Từ đó, hễ dùng hết, lại có một ngàn đồng khác, liên miên chẳng ngừng!

          Khâu Đạc chôn mẹ ở chỗ khoảng khoát trên núi Phượng Minh, khóc kể: “Suốt đời Đạc chẳng ĺa khỏi gối mẹ chừng gang tấc. Nay mẹ đă qua đời, đành phải gởi thể phách nơi g̣ hoang không người”, bèn dựng lều tranh bên mộ, sớm chiều dâng thức ăn như khi c̣n sống. Trong đêm lạnh, không trăng, gió thảm thổi ù ù, Khâu Đạc sợ mẹ quạnh quẽ, liền đi rảo quanh mộ, khóc lóc ai oán: “Đạc ở đây!” Vùng ấy có nhiều cọp, nghe tiếng khóc của ông Đạc bèn tránh đi, người ta xưng tụng ông là hiếu tử thật sự.

          Vào đời Minh, Ngô Chương mồ côi [cha] từ bé. Khi lên mười, mẹ là Lục Thị trong niên hiệu Vĩnh Lạc vâng theo lệnh tuyển, vào cung. Mẹ theo thân vương (Hoài Tĩnh Vương Châu Chiêm) đến đất phong ở Thiều Châu, Quảng Đông. Ngô Chương nghe tin, cảm thán, tuôn trào nước mắt, bỏ nhà t́m mẹ. Trong thuyền, Ngô Chương bày tượng Quán Âm để lễ bái, cầu gặp được mẹ. Thành tâm, khẩn thiết, cất tiếng khóc thê thảm. Giữa đường, ông mắc bệnh lỵ, ngày đêm đi ngoài cả trăm lượt. Trong khi đă mê mệt, miệng vẫn gọi mẹ không thôi. Đến Thiều Châu, [mới biết tin] mẹ lại theo thân vương đổi sang đất phong ở Giang Tây, ông bèn theo đường bộ qua Nhiêu Châu. Do ruổi rong trên cát đá, hai chân đều sưng phù, nằm gục ngoài đồng. Có một vị đạo nhân tự nói họ là Tiêu, lấy thuốc thoa cho, [Ngô Chương] lập tức khỏi. Qua núi, [Ngô Chương] bị một con rắn đen mổ trúng chân, ngă lăn xuống đất. Lại thấy Tiêu đạo nhân t́m đến bôi thuốc cho, đau đớn hết sạch. Ông nghỉ đêm tại cô thôn, chưa đến sáng đă đi, gặp trận tuyết lớn, phải đụt tại ngôi miếu cổ. Bỗng lại thấy Tiêu đạo nhân đến, phủ dụ rằng: “V́ mẹ quên thân dường ấy, đúng là người có ư chí cương quyết”. Lấy bánh cho ăn, [ăn xong, Ngô Chương] nhanh chóng quên mất đói lạnh. Tới Nhiêu Châu, hỏi thăm, mới biết mẹ ở trong vương phủ, bèn dâng thư xin gặp, chẳng được chấp thuận. Ông bèn thuê một pḥng trong phủ, chính giữa viết chữ to “Tư Thân” (nhớ mẹ). Bên cạnh đó viết: “Muôn dặm t́m mẹ, trải trăm nỗi gian nan chẳng hối hận. Một mai được thấy mẹ, thề chết chín lần nào ngại?” Về sau, cầu thỉnh được, bèn vào cung gặp mẹ ở nơi dưỡng bệnh. Bệnh t́nh mẹ đă nguy ngập, hôn mê chẳng nhận biết con. Ngô Chương thắp nhang cầu trời, cắt bắp đùi nấu cháo dâng mẹ. Mẹ dần dần tỉnh lại, ôm con đau đớn khóc ṛng. Thân vương nghe chuyện, biết ông Chương là người hiền, vời đến ban vàng lụa, sai đưa mẹ về. Về sau, con Ngô Chương là Hồng, cháu là Sơn, đều làm quan đến chức H́nh Bộ Thượng Thư. Cho đến nay [con cháu ông Ngô] đỗ đạt chẳng dứt.

          Lưu Tuân Trực vào thuở để chỏm, cha mẹ đều mất, khóc lóc bi thương gần đứt hơi. Gắng gỏi chuyên tâm học hành, đọc sách tới nửa đêm. Có một đêm, người chú nghe Tuân Trực khóc lóc hết sức ai oán, bèn hỏi nguyên nhân. Ông thưa: “Cháu đọc truyện Mă Châu, tới chỗ sách chép ông ta mất cha mẹ từ bé, không cách nào thể hiện ḷng khuyển mă phụng dưỡng[140], bèn buồn bă cảm thương không thể tự ngăn được!” Chú cũng lắc đầu thở dài. Sau này, [Lưu Tuân Trực] thi đỗ.

          Thời Hán Vũ Đế, Trương Thang và Đỗ Châu đều là hạng quan lại tàn khốc, nhưng con của hai người ấy lại hết sức công bằng, khoan dung. [Trong khi soạn bộ sử Hán Thư], trong phần Khốc Lại (, quan lại tàn khốc), [sử gia] Ban Cố đặc biệt tỏ ra khoan dung đối với họ Trương, họ Đỗ là v́ con của họ vậy. Con của Trương Thang là Trương An Thế, làm quan suốt ba mươi năm, trung tín, cẩn thận, đôn hậu, siêng năng lo việc quan, ẩn giấu khuyết điểm của người khác, chú trọng khoan hồng. Con Đỗ Châu là Diên Niên, phù tá Hoắc Quang. Hoắc Quang vận dụng pháp luật rất nghiêm, Diên Niên làm phụ tá lại khoan hồng. Thấy sau khi Văn Đế bị hao hụt quốc khố, đă nhiều lượt thưa với Hoắc Quang, “hăy nên cai trị như thời Hiếu Văn, tiết kiệm, khoan dung, ḥa hoăn, ḥng thuận ḷng trời, đẹp ư dân”. Hoắc Quang nghe theo lời ấy. Về sau, An Thế làm quan tới chức Đại Tướng Quân, được phong là Phú B́nh Hầu, con cháu nối tiếp nhau kế thừa tước vị. Chắt là Thuần lại làm Đại Tư Không. Diên Niên do công tôn lập thiên tử, được phong tước hầu, lại làm Ngự Sử Đại Phu. Con ông ta là Hoăn cũng kế thừa tước hầu. Lễ Kư nói: “Phanh thục tiến hinh, thường nhi trí chi, phi hiếu dă, dưỡng dă. Quân tử chi sở vị hiếu giả, quốc nhân giai viết, hạnh tai” (Nấu chín, dâng hiến đồ ăn thơm ngon, nếm trước rồi mới dâng lên, đó chẳng phải là hiếu, chỉ là dưỡng mà thôi. Bậc quân tử được khen là người có hiếu, người trong nước đều mừng rỡ bảo: “May mắn thay!”). Có con như thế, có thể nói là hiếu vậy! Dám dùng những điều này để khuyên mọi người hăy kính trọng cha mẹ, che giấu những lỗi lầm của cha mẹ.

          Đời Tống, Hàn Trung Ngạn là con của Hàn Kỳ. Hàn Kỳ tận trung, không có ư riêng tư. Trung Ngạn làm tể tướng, trừ bỏ nạn thuế khóa hao hụt, phục hồi chức vị cho những người bị lưu đày, thâu nhận sử dụng những bậc danh hiền. Đặng Tuân Vũ nói: “Trung Ngạn có thể kế thừa chí cha”.

          Lại nữa, Phạm Thuần Nhân là con của Phạm Trọng Yêm. Trọng Yêm coi thiên hạ là trách nhiệm của chính ḿnh. Thuần Nhân làm tri phủ Khánh Châu, do kêu oan cho người khác mà bị b        ắt giam. [Lúc ông bị giải đi], mấy vạn người chặn ngựa, khóc lóc. Ông làm quan từ Gián Nghị Xu Mật thăng lên Tể Tướng, ba lần bị băi chức, ba lần phục chức. Ông lấy khoan dung, rộng răi làm phẩm đức chánh yếu, chẳng ghi sâu tội lỗi của người khác. Khi đă bệnh nặng, vẫn cố gắng biện giải chuyện Tuyên Nhân[141] bị vu cáo, gièm báng. Ông mất đi, có thụy hiệu là Trung Tuyên. Vua đích thân viết lên bia: “Cứu đời, trung trực” ḥng tỏ rơ ân vua sủng ái.

          Hai vị này có thể thừa kế chí của người đời trước như vậy đó! Lại thấy những kẻ giấu điều ác, bất tài, làm nhục lây tổ tiên, sẽ biết [chính ḿnh phải nên làm] như thế nào? V́ thế, sách Lễ Kư viết: “Phụ mẫu tuy một, tương vi thiện, tư di phụ mẫu lệnh danh, tất quả. Tương vi ác, tư di phụ mẫu tu nhục, tất bất quả” (Tuy cha mẹ đă mất, làm lành để tạo tiếng thơm cho cha mẹ, ắt sẽ làm được. Toan làm ác khiến cho cha mẹ xấu hổ, nhục nhă, ắt sẽ chẳng được). Lại nói: “Phụ mẫu một, thận hành kỳ thân, bất di phụ mẫu ác danh, khả vị năng chung hỹ” (Cha mẹ đă mất, hành xử thận trọng, chẳng gieo tiếng ác cho cha mẹ, có thể gọi là người trọn vẹn vậy). Có thể thấy, bất luận cha mẹ c̣n hay mất, chỉ giữ tấm ḷng lành th́ là hiếu. Nếu cha mẹ chẳng c̣n, vẫn có thể dốc ḷng hiếu từ chỗ này. Nếu làm chuyện sai quấy, khiến cho cha mẹ bị nhục nhă, bị người khác ghét bỏ, tức là đại bất hiếu.

          Đời Minh, Dương Sĩ Kỳ là nguyên lăo bốn triều, được quốc gia hết sức ưu đăi, nhưng con ông là Tắc cậy thế làm ác. Sĩ Kỳ nuông chiều con quá mức, chẳng biết. Tới khi những kẻ bị hại đua nhau tâu lên triều đ́nh [danh sách] những người đă bị hắn sát hại và những chuyện ác của hắn đến mấy chục điều, vua mới giao vụ án này cho pháp ty, lại c̣n hạ chiếu chỉ đặc biệt an ủi Sĩ Kỳ: “Con của khanh đă trái nghịch gia huấn, phạm đến kỷ cương của quốc gia, trẫm chẳng dám có ḷng riêng tư, khanh hăy nên xử sự đúng lẽ”. Sĩ Kỳ bất đắc dĩ, luận tội xử trảm [Dương Tắc]. Do vậy, thanh danh bị tổn hại to lớn. Ôi! Sĩ Kỳ là nho sĩ cầm quyền cai quản đất nước, Dương Tắc là con trai của Tể Tướng bị chém đầu ngoài chợ, bại hoại danh tiếng gia đ́nh, khiến cho cha mẹ xấu hổ, nhục nhă, đă chết rồi vẫn c̣n nợ. Những con cháu nhà sang cả kiêu căng, cậy thế lực của cha mà hoành hành, trông thấy chuyện này, lẽ nào chẳng sợ ư?

          Tŕnh Ác Tử là người xứ Thuận Nghĩa, có một đứa con trai, hết sức nuông chiều. Tánh họ Tŕnh hung hăng, chẳng tôn trọng mẹ. Mẹ đă già, thường bị đánh chửi. Một hôm, mẹ ẵm cháu lỡ làm rơi xuống đất, khiến đứa cháu bị sứt trán. Ác Tử trở về, tưởng mẹ hại con ḿnh, cáu giận, chửi bới dữ dội. Mẹ sợ hăi, chạy sang nhà con gái, lánh mặt mấy ngày. Hắn chẳng nguôi giận, bèn giấu dao bén sang đón mẹ, nói: “Cháu bé đă lành, hăy mau trở về”. Mẹ theo về. Đến chỗ vắng giữa đường, hắn rút dao đâm ruột mẹ, nào ngờ dao tự đâm vào hông hắn, đổ ruột ra. Chẳng biết v́ sao dao lại quay ngược như thế! Xác hắn chôn nhiều lần, cứ bị lộ ra, quạ, chó ăn sạch chẳng c̣n!

          Trương Nghĩa mỗi ngày đều sám hối tội lỗi với trời, bỗng bị bắt xuống âm phủ, [được Diêm Vương] cho coi sổ đen. Những tội ác trong ấy đều đă trừ sạch, chỉ c̣n sót một chuyện. Chính là khi Trương Nghĩa c̣n trẻ, do bị cha quở trách bèn cáu giận trợn mắt nh́n cha. [Do vậy] mới biết cái tội bất hiếu chẳng thể sám hối!

          La Củng vào trường Thái Học. Trước mỗi kỳ thi đều cầu đảo. Đêm mộng thấy thần bảo: “Ngươi đă đắc tội với cơi âm, hăy mau trở về”. La Củng [van nài] hỏi nguyên do, thần bảo: “Ngươi không chôn cất cha mẹ”. La Củng thưa: “Tôi c̣n có anh, cớ sao riêng ḿnh tôi mắc tội?” Thần bảo: “Ngươi là nho sĩ, biết rơ lễ nghĩa. Anh ngươi không hiểu biết, chẳng đáng trách phạt”. Quả nhiên La Củng chết trong năm ấy!

          Khổng Tử soạn Hiếu Kinh, mỗi tối ắt [búi tóc gọn ghẽ], dùng một chiếc bút xanh nhạt làm trâm cài, mặc áo đơn sắc đỏ, hướng về sao Bắc Cực, cúi ḿnh trầm ngâm hồi lâu rồi mới lạy xuống. Tăng Tử ôm Hà Đồ Lạc Thư, bảy mươi hai [đồ đệ] đều [hành lễ] theo Ngài. Đại khái là có sự cầu khấn như thế. Đến khi soạn kinh Xuân Thu, cũng lại như thế. Một tối, bỗng có một tia hắc khí từ sao Bắc Đẩu xẹt xuống, chiếu thẳng trước án. Mở ra, chính là ư chỉ nhỏ nhiệm [từ cơi trời, mong mỏi] Khổng Tử tṛn đủ tâm lượng [rộng khắp để biên soạn Hiếu Kinh ḥng làm chuẩn mực] tột cùng đến muôn đời cho nhân luân. Hiếu Kinh gồm mười tám thiên, phơi bày cặn kẽ trọn hết đạo phụng sự cha mẹ của người làm con. Đó gọi là “trong cuộc sống, ăn uống hàng ngày, chẳng thể ĺa khỏi [đạo hiếu] dẫu khoảnh khắc”. Kẻ học Nho trong cơi đời há có thể [nại cớ Hiếu Kinh] chưa được xếp vào những sách [cần phải học] để thi cử, mà bỏ qua sách này, chẳng nhắc tới ư? Nay luận về hiếu th́ phải quy về cội gốc nơi Phu Tử, sẽ suy ra ư định soạn Hiếu Kinh của Ngài. Ấy là v́ Ngài hằng ngày mong mỏi những nhà Nho sẽ dốc hết sức thực hành ḥng giúp sức tuyên dương sự giáo hóa [của thánh hiền], khiến cho thói tục được tốt đẹp hơn. Dụng tâm hết sức khổ sở, thiết tha tột bậc vậy thay!

Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

Quyển 1 hết

Phần 3

 

 

 



[1] Do mùa Thu thuộc về Kim trong Ngũ Hành, cây cối úa vàng rụng lá trước gió Thu, nên cổ nhân nói gió mùa Thu có sát khí, thường gọi là Thu Sát.

[2] Tây Vương Mẫu c̣n gọi là Diêu Tŕ Kim Mẫu, Kim Mẫu Nguyên Quân, Tây Linh Vương Mẫu, Cửu Linh Thái Diệu Quy Sơn Kim Mẫu, Tây Tŕ Cực Lạc Kim Từ Thánh Mẫu, hoặc Bạch Ngọc Quy Đài Cửu Linh Thái Chân Kim Mẫu Nguyên Quân v.v… Bà được coi là chúa các vị nữ tiên trong Đạo giáo. Theo Tây Dương Tạp Trở, bà họ Dương, tên Hồi, ngự trong cung điện ở Tây Bắc núi Côn Luân. Trong niềm tin của dân gian, bà được coi là vợ của Hạo Thiên Thượng Đế. Theo Thần Tiên Truyện, bà và Thượng Đế có hai mươi bốn người con gái, có thuyết nói bà có chín người con trai và hai mươi ba người con gái. Trong bộ Chẩm Trung Thư, Cát Hồng nói: “Lúc lưỡng nghi chưa phân, trời, đất, mặt trời mặt trăng chưa xuất hiện, đă có Bàn Cổ Chân Nhân, tự xưng là Nguyên Thỉ Thiên Vương, dạo chơi trong ấy. Về sau, Ngài cùng Thái Nguyên Thánh Mẫu thông qua hai thứ khí kết tinh sanh ra Đông Vương Công và Tây Vương Mẫu. Sau đó lại sanh ra Địa Hoàng, Địa Hoàng lại sanh ra Nhân Hoàng”. Sách Thần Tiên Thập Di nói chi tiết hơn: “Phù Tang Đại Đế Đông Vương Công tức là Hạo Thiên Thượng Đế sanh thành vạn vật, Tây Vương Mẫu được gọi là Cửu Quang Huyền Nữ hóa sanh các hàm linh”.

[3] Hữu Ty (有司) là những cấp chủ quản của một viên chức trong chính phủ, hoặc những cấp lănh đạo có liên quan đến một cơ cấu chính quyền nào đó. Hữu Ty cũng thường được dùng để chỉ giới quan lại lo việc hành chánh và tư pháp nói chung.

[4] Tiền Vương ở đây chính là Tiền Liêu (852-932), tự là Cụ Mỹ, là vua nước Ngô Việt thời Ngũ Đại Thập Lục Quốc. Nước Ngô Việt bao gồm mười ba châu, tức là toàn bộ tỉnh Chiết Giang hiện thời, phía Đông Nam tỉnh Giang Tô, và một phần Đông Bắc tỉnh Phước Kiến. Trong các tiểu quốc thời ấy, nước này tồn tại lâu nhất măi cho đến khi Triệu Khuông Dẫn lập ra nhà Bắc Tống, thống nhất Trung Hoa. Do các vua Ngô Việt cai trị đều nhân từ, sáng suốt, việc học Phật rất thịnh hành, xă hội ổn định, người đương thời thường xưng tụng xứ Ngô Việt là Phật Quốc.

[5] Nguyên văn “tiễn thổ, thực mao” (踐土食毛). Đây là một thành ngữ phát xuất từ một đoạn văn trong Tả Truyện: “Phong lược chi nội, hà phi quân thổ? Thực thổ chi mao, thùy phi quân thần?” (Trong lănh thổ của nhà vua, có chỗ nào chẳng phải đất nhà vua, ăn lông từ đất (tức ăn rau cỏ mọc trên đất), có ai chẳng phải là bầy tôi của vua?). V́ thế, “tiễn thổ, thực mao” có nghĩa là (đi trên đất của vua, ăn rau của vua), hiểu theo nghĩa bóng là nơi ta sinh sống, những ǵ ta ăn uống, đều thuộc về quốc gia. Cũng do ư này mà trong bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc, cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu đă viết: “Tấc đất, ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta”.

[6] Nguyên văn “đương giao tường tạo tựu” (當膠庠造就, vào trường Thái Học hoặc trường huyện để đào tạo bản lănh). Đời Châu, trường Thái Học được gọi là Giao (), c̣n các trường huyện được gọi là Tường ().

[7] Nguyên văn “vinh thí tam đảng” (榮施三黨). Theo tự điển Nhĩ Nhă, “tam đảng” là một từ ngữ cổ, dùng để chỉ họ cha, họ mẹ và họ vợ. Câu này có nghĩa là người đỗ đạt, vinh quy bái tổ, ba họ được thơm lây.

[8] Nguyên văn “long dĩ tư mục” (隆以司牧), “tư mục” có nghĩa là quản lư, cai trị, thường được dùng để chỉ các quan lại.

[9] “Cung khuyết” là từ ngữ chỉ cung điện của nhà vua. Do ngoài cửa cung có hai cái Khuyết, nên gọi là cung khuyết. Khuyết () là một cấu trúc gồm một đài cao, trên có lầu cao, phía dưới th́ bỏ trống ở giữa để làm lối đi lại.

[10] Tể phụ (宰輔) chính là ngôi Tể Tướng. Do Tể Tướng có vai tṛ phụ tá hoàng đế trông coi việc triều chánh cho nhà vua, đứng đầu các quan, nên gọi là Tể.

[11] Nguyên văn là “quân phụ” (君父). Theo ông Hoàng Bách Lâm, do coi vua giống như cha nên gọi là quân phụ, chứ “quân phụ” không có nghĩa là vua và cha.

[12] Hàn Thi Ngoại Truyện là một phần của một bộ sách do Hàn Anh viết vào thời Tây Hán. Sách gồm có mười quyển, chia thành hai phần Nội Truyện và Ngoại Truyện. Nội Truyện đă thất truyền từ lâu.

[13] Thuyết Uyển (說苑) là tác phẩm thuộc loại tạp sự tiểu thuyết do Lưu Hướng viết vào thời Tây Hán. Đến đời Tống, Tăng Củng nhuận sắc. Tác phẩm này gồm hai mươi quyển, ghi chép những truyền thuyết và những câu chuyện lịch sử từ thời Tiên Tần cho đến đời Tây Hán, có kèm thêm những lời b́nh luận theo quan điểm của Nho gia.

[14] Nhan Mậu Du (?-1637), tự là Tráng Kỳ và Quang Trung, biệt hiệu là Hoàn Bích Cư Sĩ, quê ở huyện B́nh Ḥa, thuộc phủ Chương Châu, tỉnh Phước Kiến, đỗ Tiến Sĩ năm Sùng Trinh thứ bảy (1634) đời Minh. Ông viết rất nhiều về nhân quả, bộ sách nổi tiếng nhất của ông là Địch Cát Lục cũng bàn về lẽ nhân quả, được Trần Long Chánh tôn xưng là “sách báu cứu đời”. Tác phẩm này được lưu hành rộng răi tại Giang Nam chỉ kém bộ Liễu Phàm Tứ Huấn.

[15] Quách Tử Nghi do từng đảm nhiệm chức Trung Thư Lệnh nên được gọi là Lệnh Công. Chữ Lỗ chỉ quân Hồi Hột; chúng tôi tạm dịch là giặc Hồ v́ người Trung Hoa có thói quen gọi tất cả các dân tộc thiểu số ở Tân Cương là Hồ.

[16] Lư Lâm Hoài tên thật là Lư Quang Bật, là một vị danh tướng đời Đường. Do ông ta được phong làm Lâm Hoài Vương, nên Sử thường gọi ông là Lư Lâm Hoài. Ông Lư khỏe mạnh, đa mưu, thiện chiến, giỏi bắn tên, giỏi cưỡi ngựa. Ông làm Tiết Độ Sứ Lạc Dương. Khi Sử Tư Minh giết chết con An Lộc Sơn là An Khánh Tự, xưng là Đại Yên Hoàng Đế, tấn công Lạc Dương ráo riết, Lư Lâm Hoài nhận thấy khó thể giữ thành Lạc Dương, bèn chuyển dân chúng đi nơi khác, lui quân về Hà Dương. Sau này, Lư Lâm Hoài đánh bại cánh quân của Sử Tư Minh tại Lạc Dương, góp phần dẹp yên cuộc biến loạn của An Lộc Sơn. Trong khi giao chiến, ông giấu một con dao nhọn trong ủng, bảo thuộc hạ: “Ta thuộc vào địa vị Tam Công, chẳng thể chịu nhục trong tay giặc được. Nếu lỡ bị thua trận, ta sẽ tự vẫn để tạ tội với thiên tử”.

[17] Hàn Kỳ Vương chính là danh tướng Hàn Thế Trung của nhà Nam Tống. Do được phong làm Kỳ Vương, nên Sử thường gọi ông là Hàn Kỳ Vương. Ông thân thể to lớn, anh dũng, thiện chiến, nhiều mưu lược, cầm quân nghiêm minh, khinh tài, trọng nghĩa. Do từng bị trúng phải độc tiễn, v́ thế, bàn tay của ông chỉ c̣n bốn ngón. Cùng với Nhạc Phi, ông lập nhiều chiến công hiển hách khiến cho quân Kim kinh hồn. Ông một mực phản đối chính sách ḥa đàm của Tần Cối. Tần Cối bèn giả chiếu chỉ gọi ông về triều, giao cho trông coi Xu Mật Sứ, tước hết binh quyền. Ông đă gặp thẳng vua, tâu rơ Tần Cối chính là kẻ hại chết Nhạc Phi, nhưng nhà vua vẫn u mê, chẳng nghe lời can gián. Chán nản, ông bỏ về hưu, đóng cửa tạ khách.

[18] Lưu Thuận Xương tên thật là Lưu Kỳ. Do từng đánh bại quân Kim tại Thuận Xương, nên người đời thường gọi ông là Lưu Thuận Xương. Ông là một vị tướng nổi danh kháng Kim của nhà Nam Tống. Lúc đó, tướng Hoàn Nhan Xương của quân Kim nghị ḥa với Tần Cối. Một điều khoản nghị ḥa là quân Kim sẽ trả lại phủ Khai Phong của Đông Kinh, phủ Hà Nam của Tây Kinh, và phủ Ứng Thiên của Nam Kinh cho Nam Tống. Lưu Thuận Xương được phái đến trấn thủ Thuận Xương. Khi c̣n cách Thuận Xương ba trăm dặm, ông Lưu nghe tin quân Kim đă đánh xuống miền Nam. Ông đă thành công chỉ huy quân Tống phá tan đội quân chủ lực của Hoàn Nhan Tông Bật tại Thuận Xương. Không lâu sau, Tần Cối lại chủ trương tiếp tục nghị ḥa, bắt ông phải triệt thoái, đổi sang làm tri phủ Kinh Nam. Trong cuộc chiến Thuận Xương, khi Hoàn Nhan Tông Bật dẫn đến bốn đạo binh cùng tấn công Thuận Xương, ai nấy kinh sợ khuyên ông nên tạm thời rút về Giang Nam để chờ thời cơ. Ông hạ quyết tâm, ra lệnh: “Kẻ nào dám bàn ra tán vào, sẽ chém”. Ông cho người đưa vợ con đến một ngôi chùa gần đó, sắp sẵn một đống củi to, dặn ḍ thuộc hạ: “Nếu ta lỡ bị thua trận, hăy nổi lửa thiêu chết vợ con ta để họ cùng ta hy sinh v́ nước”. Nghe tin ấy, quân sĩ hăng hái, liều sức chiến đấu khiến cho Hoàn Nhan Tông Bật bị thua to.

[19] Từ Hữu Công là người huyện Yển Sư, tỉnh Hà Nam, sống vào đời Đường. Ông vốn làm quan thuộc ngành tư pháp, được cử làm chức tư pháp tham quân, trông coi quân kỷ. Đối xử với phạm nhân rất khoan hậu, chẳng dùng nhục h́nh. Ông Từ tánh t́nh kiên quyết, chất trực, không xu phụ quyền thế, dám tranh biện không e ngại trước mặt Vũ Tắc Thiên, một mực bênh vực những kẻ bị hàm oan do bọn gian thần sàm tấu. Do ông nhiệt thành tận lực điều tra, minh oan cho rất nhiều người, dân chúng gọi ông là Nhân Nhân (người nhân từ).

[20] Địch Lương Công chính là Địch Nhân Kiệt, một vị quan văn nổi tiếng dưới thời Đường Cao Tông. Ông Địch là người xứ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, trung hiếu vẹn toàn, cương trực, vô tư, tự gánh vác trách nhiệm phục hưng nhà Đường. Ông đă dùng tài trí, khéo léo lái Vũ Tắc Thiên thực hiện những kế sách khiến cho quốc gia thịnh trị. Vũ Tắc Thiên hết sức kính nể ông, tôn xưng ông là Quốc Lăo. Bọn gian thần như Trương Diệc Chi, anh em nhà Vũ Tam Tư nhiều phen t́m cách vu cáo, hăm hại ông, nhưng đều thất bại.

[21] Lư Phiên là một vị đại thần đời Đường, tài đức vẹn toàn. Ông giữ chức Cấp Sự Trung thời Đường Huyền Tông, dùng những lời lẽ rất thẳng can gián nhà vua khi nhà vua u mê tin vào bọn phương sĩ, chỉ mong trường sanh bất tử. Về sau, ông được phong làm Đồng Trung Thư Môn Hạ B́nh Chương Sự, thực chất là tể tướng dưới đời Đường Hiến Tông.

[22] Bùi Tấn Công chính là Bùi Độ, làm ngự sử, chủ trương tước quyền các phiên thần. Ông làm TTướng dưới bốn đời vua, tức Đường Hiến Tông, Đường Mục Tông, Đường Kính Tông và Đường Văn Tông. Cuối đời, do can vua đừng trọng dụng hoạn quan khiến triều chánh bị lũng đoạn, nhưng vua không nghe theo, ông chán nản, từ quan, đóng cửa tạ khách.

[23] Trương Ngụy Công chính là Trương Tuấn, do được phong là Ngụy Quốc Công, nên Sử thường gọi ông là Trương Ngụy Công. Trương Tuấn làm Tể Tướng, chủ trương kịch liệt kháng Kim, trọng dụng Nhạc Phi và Hàn Thế Trung. Sau này, Tần Cối khéo xu nịnh, trở thành Tể Tướng, Trương Tuấn bị băi chức suốt hai mươi năm. Ông vẫn liên tục dâng sớ lên triều đ́nh phản đối nghị ḥa.

[24] Hàn Ngụy Công chính là TTướng Hàn Kỳ thời Bắc Tống.

[25] Kiếm khách ở đây là những gă thích khách do bọn gian thần phái đến hăm hại những vị này.

[26] Vương Diễn, tên tự là Di Phủ, sống vào thời Đông Tấn, làm quan tới chức Tư Đồ, Trung Thư Lệnh, và Thượng Thư Lệnh đời Tây Tấn, giỏi văn chương, thích đàm huyền thuyết diệu, tự coi ḿnh là người thanh cao, thực chất là kẻ lười nhác chẳng màng chánh sự, chỉ lo bo bo giữ cho thân ḿnh được vinh thân ph́ gia. Khi Lưu Uyên lập ra nhà Hán để chống lại nhà Tấn, Vương Diễn chỉ lo gom góp tiền bạc, kéo vây cánh để t́m đường rút lui nếu nhà Tấn thất trận. Khi Tư Mă Luân trong loạn bát vương giết chết Giả Hậu, do có quan hệ huyết thống với Giả Hậu, Vương Diễn đă giả điên để lánh nạn, không nghĩ cách bảo vệ đất nước.

Ân Hạo là người thời Đông Tấn, học rộng, thông thạo Lăo Trang, kinh Dịch, cũng thích đàm huyền thuyết diệu, tự coi ḿnh là bậc thanh cao, tài cao chí cả hơn người. Khi Hoàn Ôn chuyên quyền, Ân Hạo làm Trung Quân Tướng Quân, nhưng thiếu năng lực, chỉ biết nói suông. Hoàn Ôn trách tội, tâu vua phế Ân Hạo làm thứ dân. Trong đoạn văn kế đó, ông Nhan Quang Trung có chê họ thấy sói bèn run sợ, tức là chê trách Vương Diễn khiếp nhược, hèn mọn trước oai thế của Tư Mă Luân và Thạch Lặc, Ân Hạo sợ Hoàn Ôn một phép!

[27] Ư nói cái mà họ thể hiện bề ngoài đều là giả, mang tấm ḷng giả dối, khoe khoang.

[28] Quan Tráng Mục chính là Quan Vũ, tức Quan Công. Do sau khi chết, Quan Vũ được truy tặng tước Tráng Mục Hầu, nên ở đây gọi ông là Quan Tráng Mục. Nhạc Vũ Mục chính là Nhạc Phi. Sau khi mất, Nhạc Phi được triều đ́nh đặt thụy hiệu là Vũ Mục. Trương Tuy Dương tên thật là Trương Tuần (709-757), c̣n gọi là Trương Trung Thừa, người xứ Bồ Châu, Hà Đông. Khi An Lộc Sơn dấy loạn, ông làm huyện lệnh Chân Nguyên, đă đem binh trấn giữ Ung Khưu, một ḿnh suất lănh quân sĩ chống lại Yên Quân của An Lộc Sơn. Sau đó, ông được điều sang trấn giữ Tuy Dương (nay là Thương Khâu, tỉnh Hà Nam), cộng đồng tác chiến với thái thú Hứa Viễn. Ông thế lực trơ trọi, thiếu thốn lương thảo, không người cứu viện, vẫn anh dũng giữ vững Tuy Dương suốt hai năm. Thành vỡ, bị bắt, ông khẳng khái đón nhận cái chết, không chịu hàng giặc. Văn Văn Sơn chính là Văn Thiên Tường. Khi quân Nguyên diệt Tống, ông Văn phụng mạng bảo vệ hoàng đế. Về sau, do giao chiến thất bại, ông bị quân Nguyên bắt, nhưng nhất quyết không đầu hàng. Trước khi bị tử h́nh, ông viết bài Chánh Khí Ca hào khí lẫm liệt, khiến cho người đương thời đọc đến không ai cầm được nước mắt.

[29] Lư Lâm Phủ là hoàng tộc nhà Đường, thích âm nhạc, làm quan tới chức Lễ Bộ Thượng Thư. Gă này tánh t́nh giảo hoạt, lắm mưu mẹo xảo trá, miệng lưỡi ngọt ngào, thuộc loại “miệng nam mô, bụng một bồ dao găm”, cấu kết với bọn phi tần, khéo nịnh bợ hoàng đế, nên tuy thiếu học thức, vẫn luôn được trọng dụng. Lần lần hắn chiếm được ḷng tin của vua, trở thành Tể Tướng dưới đời Đường Huyền Tông, thao túng triều chánh suốt mười chín năm, tận sức hưởng lạc, hăm hại rất nhiều bậc đại thần công chính, kể cả việc gây nên cái chết của ba vị hoàng tử Lư Anh, Lư Dao và Lư Cứ. Hắn cấu kết với Vũ Huệ Phi (Dương Quư Phi) chèn ép hoàng thái tử Lư Dự, buộc Thái Tử phải bỏ vợ.

Dương Quốc Trung vốn có tên là Dương Chiêu, là một tay quyền thần dưới thời Đường Huyền Tông. Hắn là anh em họ của Dương Quư Phi. Sau khi Dương Quư Phi được Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng) sủng ái, hắn nịnh bợ em họ để bà ta xúi giục vua cất nhắc ḿnh. Vua mê muội nghe theo, c̣n đặt tên cho hắn là Quốc Trung. Hắn nắm quyền Kinh Triệu Doăn (tương đương với chức Đô Trưởng hiện thời), kiêm nhiệm Binh Bộ Thị Lang, kiêm Kiếm Nam Tiết Độ Sứ. Sau khi Lư Lâm Phủ chết, hắn được cử làm Hữu Tướng, kiêm Lại Bộ Thượng Thư, Tập Hiền Đại Học Sĩ v.v… Tính ra, hắn kiêm nhiệm đến hơn bốn mươi chức vị khác nhau, lại c̣n được gia phong là Ngụy Quốc Công. Trong thời gian hắn chấp chánh, đă phát động chiến tranh với Nam Chiếu khiến cho quốc khố trống rỗng, hao tổn hơn hai mươi vạn quân! Khi An Lộc Sơn dấy loạn, hắn chỉ biết khuyên vua chạy vào Tứ Xuyên lánh nạn. Khi chạy đến Mă Ngôi, quân sĩ chán nản không chịu tiến nữa, Thái Tử Lư Hanh, hoạn quan Lư Phủ Quốc, Cao Lực Sĩ v.v… truyền hịch hạch tội Dương Quốc Trung, ép vua xử trảm anh em Dương Quốc Trung. Dương Quốc Trung chạy trốn đến Tây Môn th́ bị loạn quân chém chết, Dương Quư Phi bị ép thắt cổ tự tử.

Hàn Thác Trụ là chắt của Hàn Kỳ. Ông ta được Tống Ninh Tông trọng dụng, thăng lên làm Tể Tướng. Thác Trụ cực lực bài xích Lư Học, thỉnh cầu hoàng đế cấm tuyệt Lư Học, bức hại những người theo Lư Học. Ngay cả tông thất là Triệu Nhữ Nguy v́ theo Lư Học mà bị ông ta hạch tội, đến nỗi phải bị biếm trích. Về sau, ông ta bị Sử Di Viễn âm mưu với Dương Hoàng Hậu cắt đầu gởi cho quân Kim.

Giả Tự Đạo cũng sống vào thời Tống, do chị ruột là quư phi của vua mà được sủng ái, làm đến chức Hữu Thừa Tướng thời Tống Lư Tông. Về sau, Giả Tự Đạo được thăng lên chức Thái Sư B́nh Chương Quân Quốc Sự, gia phong Ngụy Quốc Công. Ông ta xây một gian tư thất, đặt tên là Bán Gian Đường, bắt các quan viên phải mang công văn đến tư thất cho ông ta phê duyệt. Sau khi Mông Cổ liên kết với Tống diệt Kim, người Mông Cổ đă vi phạm ḥa ước, tấn công Nam Tống, Giả Tự Đạo tuân lệnh vua cầm quân, nhưng không biết ǵ về quân sự, bèn lén lút nghị ḥa với quân Mông Cổ, nhưng bị quân Mông Cổ bác bỏ. Khi hoàng đế Mông Kha chết trận ở thành Điếu Ngư, Giả Tự Đạo lại lén lút ḥa đàm với Hốt Tất Liệt, xưng thần, tiến cống triều đ́nh Mông Cổ mỗi năm hai vạn lạng bạc. Khi quân Mông Cổ rút quân, ông ta dẫn quân thừa cơ tấn công, giết được hơn một trăm quân Mông Cổ, khoe dối với triều đ́nh đă lập đại công, liên tiếp báo tiệp. Khi thành Tương Dương bị quân Mông triệt hạ, Giả Tự Đạo vẫn lo ăn chơi, không màng đến việc triều chánh. Khi quân Mông Cổ đă chiếm được Ngạc Châu, t́nh h́nh nguy ngập, dưới sức ép của các đồng liêu, Giả Tự Đạo phải thân chinh cầm quân kháng địch, nhưng không làm ǵ, chỉ lo nghị ḥa. Khi kinh đô Lâm An cũng mất, dưới sức ép của các đại thần, Tạ Thái Hoàng Thái Hậu băi truất Giả Tự Đạo, nhưng vẫn không xoa dịu được sự phẫn nộ của quần chúng. Không lâu sau đó, nhà Nam Tống diệt vong.

[30] Ca Thư Hàn là thủ lănh của bộ tộc Ca Thư thuộc sắc dân Đột Kỵ Thí (Türgish), là tướng lănh dưới thời Đường Tuyên Tông. Ca Thư Hàn thuộc ḍng dơi gia đ́nh giàu có, từng làm bộ tướng của Vương Trung Tự (tiết độ sứ Lũng Hữu). Khi An Lộc Sơn làm loạn, trước đó, Ca Thư Hàn đă bị trúng phong, bán thân bất toại, phải lui về Trường An nghỉ ngơi. Do bọn quyền thần vu hăm, các danh tướng Phong Thường Thanh, Cao Tiên Chi v.v… đều bị giáng chức rồi bị giết chết, t́nh thế hết sức nguy ngập. Đường Huyền Tông bèn sai Ca Thư Hàn trấn thủ Đồng Quan, Ca Thư Hàn phụng mạng, nhưng bệnh t́nh nghiêm trọng, hoàn toàn phải cậy vào bọn Điền Khâu Lương, Vương Tư Lễ, và Lư Thừa Quang xử lư chiến sự. Ca Thư Hàn chủ trương cố thủ; do vậy, Tể Tướng Dương Quốc Trung nghi kỵ, sàm tấu, bắt ông ra quân giao chiến với Thôi Càn Hựu (tướng của An Lộc Sơn). Ca Thư Hàn thua trận, phải rút lui về Đồng Quan. Bộ tướng của Ca Thư Hàn là Hỏa Bạt Quy Nhân đă trói ông vào ngựa nộp cho An Lộc Sơn. Khi bị giải đến trước An Lộc Sơn, Ca Thư Hàn đă lộ vẻ sợ sệt, thỉnh tội với An Lộc Sơn. An Lộc Sơn vui mừng, phong cho Ca Thư Hàn làm Tư Không để chiêu dụ quân Đường. Ca Thư Hàn bèn viết thư chiêu hàng các tướng dưới quyền. Về sau, An Khánh Thư (con trai của An Lộc Sơn) giết cha, chiếm ngôi. Sau nhiều lần đại bại trước quân Đường, An Khánh Thư phải bỏ Trường An, chạy về đất Nghiệp. Trước khi rút lui, hắn đă hạ lệnh giết chết Ca Thư Hàn.

Tiêu Chí Trung sống vào đời Đường, do xu phụ bọn Vũ Tam Tư (cháu Vũ Tắc Thiên), nên được phong làm Trung Thừa. Về sau, do An Lạc Công Chúa âm mưu thâu tóm quyền hành, đă thông đồng với mẹ là Vi Hậu, giết chết Đường Trung Tông. Nào ngờ một hoàng tử khác là Lư Long Cơ đă ra tay trước, dẹp tan âm mưu của mẹ con Vi Hậu. Sau khi An Lạc Công Chúa và Vi Hậu bị giết chết, Lư Long Cơ lên ngôi, tức Đường Huyền Tông, đă truy sát những tay chân của Vi Hậu. Do đó, Tiêu Chí Trung cũng bị xử trảm.

Vương Nhai từng làm tới Tể Tướng dưới thời Đường Văn Tông. Trước đó, kể từ thời Đường Huyền Tông, bọn hoạn quan đă thừa cơ triều chánh suy vi, xâm nhập chánh quyền, ngày càng lớn mạnh, trở thành một thế lực đáng gờm. Năm Bảo Lịch thứ hai (826), Đường Kính Tông bị hoạn quan Lưu Khắc Minh sát hại, các hoạn quan Vương Thủ Trừng, Lương Thủ Khiêm đưa Lư Ngang là con thứ của Đường Mục Tông lên kế vị, tức Đường Văn Tông. Vương Nhai tuy thân làm Tể Tướng, chẳng lo củng cố triều chánh, chỉ lo lấy ḷng bọn hoạn quan. Đường Văn Tông bất măn trước sự chuyên quyền của bọn hoạn quan, bèn ngầm âm mưu với Lư Huấn và Trịnh Chú diệt được Vương Thủ Trừng. Sau khi Vương Thủ Trừng chết, Lư Huấn và Trịnh Chú tranh công, hục hặc lẫn nhau. Tháng Chín năm đó, Văn Tông phong cho Lư Huấn làm Tể Tướng, đổi Trịnh Chú làm Phụng Tường Tiết Độ Sứ. Theo kế hoạch, trong đám tang Vương Thủ Trừng, Trịnh Chú sẽ đem quân về Trường An phối hợp diệt trừ hoạn quan, nhưng Lư Huấn sợ Trịnh Chú lập đại công nên đă ra tay diệt hoạn quan trước. Ngày Mười Bốn tháng Chạp, Văn Tông thiết triều tại điện Tử Thần, Tả Kim Ngô Tướng Quân Hàn Ước tâu vua là tối qua có cam lộ giáng xuống cành thạch lựu trong vườn hoa của doanh trại Tả Kim Ngô, thỉnh vua đến xem. Lư Huấn tuyên bố chuyện này chẳng thật, vua liền sai các hoạn quan đi xem. Do sự do dự của Quách Hành Dư và Hàn Ước, bọn hoạn quan đánh hơi được t́nh thế, nhanh chóng thoát thân, cướp vua chạy vào nội cung, sai quân tàn sát các đại thần. Sử gọi chuyện này là Cam Lộ Chi Biến, Vương Nhai cũng bị giết trong vụ này.

Giả Tốc cũng là một đại thần bị giết trong vụ biến loạn Cam Lộ, ông ta giỏi văn chương, khéo ăn nói, nhưng thích phô trương, tánh t́nh nóng vội, tâm lượng nhỏ nhen, gió chiều nào che chiều ấy. Khi thấy vụ tiêu diệt hoạn quan của Lư Huấn bị lộ, Giả Tốc cứ nghĩ ḿnh thường lấy ḷng, nịnh nọt bọn hoạn quan sẽ không sao. Nào ngờ Giả Tốc cũng bị bọn chúng thảm sát.

[31] Cáo Quốc Công Chúa vốn là Diên Quang công chúa, con gái út của Đường Túc Tông (Lư Hanh). Thoạt đầu, bà được gả cho cháu của Dương Quư Phi là Bùi Huy. Trong cuộc biến loạn tại Mă Ngôi, do Bùi Huy bị giết, bà lại được gả cho Thái Bộc Khanh Tiêu Thăng. Bà sanh được một con gái là Tiêu Phi với người chồng sau. Đến đời Đường Đức Tông, do bà là cô của nhà vua, nên được gọi là Trưởng Công Chúa, và đổi phong hiệu là Cáo Quốc Trưởng Công Chúa. Con gái của bà được gả cho Thái Tử Lư Tụng của Đường Đức Tông. Do vậy, bà tự do ra vào Đông Cung. Sau khi Tiêu Thăng mất, Cáo Quốc Trưởng Công Chúa tư thông lung tung. Các nhân t́nh của bà bao gồm Bành Châu Tư Mă Lư Vạn, Thục Châu Biệt Hạ Tiêu Đỉnh, huyện lệnh Phong Dương là Vi Uẩn, Thái Tử Chiêm Sự là Lư Thăng v.v… Do Trương Đức Thường vu cáo Cáo Quốc Công Chúa tằng tịu với Lư Tụng nên Đường Đức Tông tức giận, toan phế Thái Tử. Để trừng phạt, vua giam lỏng Cáo Quốc tại nhà riêng. Bà ta bèn học cổ thuật nguyền rủa vua Đường. Sự việc bị phát giác, vua giận dữ, tước sạch phong hiệu của công chúa, phế làm thứ dân, sai người đánh chết Lư Vạn, đuổi bọn Tiêu Đỉnh, Vi Uẩn, Lư Thăng, lưu đày năm đứa con tư sinh của Cáo Quốc xuống vùng biên địa Lănh Nam, đồng thời giết chết Tiêu Phi.

[32] Thư Vương tên là Lư Mô, là con trai của Lư Mạo (em ruột Đường Đức Tông).

[33] Lư Bí làm Tể Tướng dưới bốn triều vua Đường Huyền Tông, Đường Túc Tông, Đường Đại Tông và Đường Đức Tông.

[34] Văn Đức Hoàng Hậu họ Trưởng Tôn, Sử không chép rơ bà ta tên thật là ǵ. Bà là con của Trưởng Tôn Thịnh. Trưởng Tôn Thịnh giữ chức Hữu Nhiêu Vệ Tướng Quân của nhà Tùy. Khi Trưởng Tôn Thịnh mất, bà và anh trai là Trưởng Tôn Vô Kỵ (ông này về sau trở thành đại thần khai quốc của nhà Đường) cùng mẹ là Cao Thị bị con trưởng của Trưởng Tôn Thịnh là Trưởng Tôn An Nghiệp đuổi khỏi nhà, phải nương nhờ người cậu là Cao Sĩ Liêm. Dưới sự giàn xếp của cậu, bà được gả cho Lư Thế Dân. Bà đă âm thầm giúp chồng qua việc tranh thủ sự hậu thuẫn trong hậu cung của Lư Uyên. Bà thích đọc sách, có thể cùng chồng tranh luận rất tâm đắc mọi chuyện cổ kim. Vua rất quư mến bà đến nỗi sau khi bà mất, vua đă sai dựng nhiều ngôi chùa để cầu siêu cho bà, chẳng lập người khác làm hoàng hậu. Chiêu Lăng chính là nơi an táng bà ta. Hiến Lăng là nơi an táng Lư Uyên (Đường Cao Tổ).

[35] Hiệt Lợi Khả Hăn (Illig-Baghatur qaghan), vốn có tên là A Sử Na Đốt Bí, về sau được phong là Quy Nghĩa Vương. Ông là Khả Hăn cuối cùng của Đông Đột Quyết Hăn Quốc (Göktürks). Ông vốn là em trai của Đột La Khả Hăn (Chulo Qaghan). Khi Đột La mất, vợ ông ta là công chúa Nghĩa Thành thuộc hoàng tộc nhà Tùy đă chọn Hiệt Lợi làm vua. Về sau, ông lấy Nghĩa Thành làm vợ. Ông nhiều lần mưu toan xâm nhập Trung Nguyên. Hiệt Lợi tin tưởng, trọng dụng Triệu Đức Ngôn làm cố vấn, khiến nhiều người Đột Quyết bất măn. Sau đó, ông đă nhiều lần tấn công Trung Nguyên. Năm Trinh Quán thứ tư (630), Hiệt Lợi bị thua trận dưới tay Lư Tĩnh, Đông Đột Quyết diệt vong. Hiệt Lợi bị giải về Trường An. Vua xá tội, phong Hiệt Lợi làm thứ sử Quắc Châu, nhưng ông từ chối. Do vậy, vua phong cho ông chức Hữu Vệ Đại Tướng Quân.

[36] Cuộc biến loạn này do An Lộc Sơn và Sử Tư Minh cầm đầu, nên gọi là loạn An Sử.

[37] Hai kinh thời Đường là Trường An và Lạc Dương.

[38] Thổ Phiên (Tubo, tiếng Tây Tạng là Bod Chenpo) là một vương triều ở cao nguyên Thanh Tạng, cai quản phần lớn vùng bồn địa Tây Tạng và vùng Tân Cương hiện thời. Vương triều do Nhiếp Xích Tán Phổ (Nyakhri Tsanpo) sáng lập, thịnh trị dưới thời Tùng Tán Can Bố (Songtsan Gampo). Dưới thời Songtsan Gampo, Thổ Phiên liên tục tấn công miền Tây Trung Hoa. Nhà Đường phải gả công chúa Văn Thành cho Songtsan Gampo để xoa dịu. Công chúa Văn Thành đă mang Phật giáo vào Tây Tạng. Theo truyền thuyết, tượng Thích Ca Mâu Ni Phật thờ tại chùa Đại Chiêu (Jokhang) ở Lhasa là do công chúa Văn Thành đem tới. Cho đến hiện thời, người Tây Tạng vẫn tin Songtsan Gampo là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, c̣n công chúa Văn Thành là hóa thân của Tara Bồ Tát (c̣n dịch là Đà La Bồ Tát, hoặc Độ Mẫu, một hóa thân khác của Quán Thế Âm Bồ Tát). Dưới thời Ralpacan (Trisuk Detsen), vương triều này chiếm trọn vùng bồn địa Tarim, mở rộng tới Bengal ở phía Tây, cao nguyên Pamir và một phần tỉnh Cam Túc cũng như Vân Nam của Trung Hoa. Dẫu đă có ḥa ước từ thời Đường Thái Tông, Thổ Phiên luôn kiếm cơ hội quấy nhiễu biên thùy chiếm đất của nhà Đường. Dưới thời Đường Minh Hoàng, quân Thổ Phiên đă liên kết với An Lộc Sơn tấn công Trường An. Vương triều sụp đổ dưới thời Langdarma (Tri Uidumtsan) khi nhà vua do chính sách đàn áp Phật giáo dữ dội, đă bị một ẩn sĩ giết chết, nội loạn xảy ra liên miên khiến cho vương triều sụp đổ.

[39] Hồi Hột là từ ngữ người Hán thời Đường dùng để gọi dân Uigur (c̣n viết là Uyghur, hiện thời trong các văn bản chánh thức của Trung Hoa, họ được gọi là Duy Ngô Nhĩ). Trải qua các triều đại, họ được gọi bằng các danh xưng Hồi Cốt, Ô Hộ, Ô Hột, Úy Ngột Nhi v.v… Thời Đường, Hồi Hột Hăn Quốc do liên minh nhiều bộ tộc người Uigur, gọi chung là Orkhon Uyghur.

[40] Đây là các biện pháp cải cách do Vương An Thạch đề xướng. Pháp Thanh Miêu (青苗) là cho dân vay tiền và thóc quan phủ vào những lúc thiếu kém, để đợi đến vụ mùa sau khi thu hoạch sẽ trả. H́nh thức này rơ ràng là vay nợ trong khi lúa c̣n non, nên gọi là Thanh Miêu. Do lăi suất nặng nề, cách này gây hại, khiến dân chúng bị tô thuế, mắc nợ nặng nề hơn. Miễn Dịch (免役) là quy định được nộp tiền để khỏi đi lao dịch. Sở dĩ các nho sĩ chống đối cách này v́ khoản tiền miễn dịch khá lớn, gây nên tệ nạn quan trên ăn hối lộ, chèn ép bắt dân nghèo đóng góp nặng nề hơn. Tướng Quan (將官) là cách tinh giảm quân đội, sa thải những lính già, các lănh đạo cao cấp trong quân đội phải là người biết vơ nghệ, thông hiểu binh lược, trái với truyền thống các quan văn là người chỉ huy cao nhất, các quan vơ chỉ là phụ tá.

[41] Tây Hạ là một vương triều do người Đảng Hạng (Tangut) sáng lập, bao gồm vùng Ninh Hạ, Cam Túc, Thanh Hải, Tây Bắc Tân Cương, Tây Nam Nội Mông và cực nam của Ngoại Mông. Kinh đô thoạt đầu là ở Ninh Hạ, sau dời sang Kharakhoto. Tên của vương quốc là Đại Hạ Bạch Thượng Quốc, nhưng do nằm ở phía Tây Trung Hoa, nên sử Trung Hoa thường gọi tắt là Tây Hạ. Vương quốc này h́nh thành bởi bộ tộc Thác Bạt (Tuoba) của người Tiên Ty (Xianbei) thuộc vương quốc Thổ Dục Hồn (Tuyuhun). Sau khi người Tây Tạng tiêu diệt Thổ Dục Hồn, lănh tụ Thác Bạt Xích Từ (Tuoba Chici) quy thuận nhà Đường, góp phần tiêu diệt quân phản loạn Hoàng Sào, nên được ban quốc tánh là Lư. Đến đời Tống, Lư Kế Thiên nổi lên chống lại nhà Tống, tự xưng vương. Vua Tây Hạ chính thức xưng đế dưới thời Lư Nguyên Hạo (cháu nội Lư Kế Thiên) vào năm 1038. Vương triều Tây Hạ thường xâm lăng lănh thổ nhà Tống, nhà Tống phải triều cống, xưng thần. Tây Hạ thường đánh nhau với nhà Kim, cuối cùng cả Kim lẫn Tây Hạ đều bị nhà Nguyên của người Mông Cổ tiêu diệt.

[42] Ngụy Cao Tông tên thật là Thác Bạt Tuấn, vua thứ năm của vương triều Bắc Ngụy (Nguyên Ngụy). Ông được coi là một vị vua nhân từ. Dưới thời Thái Vũ Đế do bận chinh chiến liên miên, vua đă để Thái Tử Thác Bạt Hoảng làm giám quốc. Hoạn quan Tông Ái vu hăm Thái Tử, ám sát Thái Vũ Đế, đưa Thác Bạt Dư lên làm vua. Khi Thác Bạt Dư chống lại Tông Ái, hắn lại giết chết vua. Sau đó, các quan như Độc Cô Ni, Nguyên Hạ, Bạt Bạt Khát Hầu và Bộ Lục Cô Ly đă lật đổ Tông Ái, đưa Thác Bạt Tuấn lên làm vua.

[43] Quư Minh là tên tự của Tô Bỉnh.

[44] Nông () là làm ruộng, Tang () là trồng dâu nuôi tằm. Nông Tang là từ ngữ phiếm chỉ sự sản xuất.

[45] Đây là một hủ tục của Trung Hoa. Khi đói kém, nếu sanh ra con gái, dân chúng sẽ giết chết, chỉ giữ lại con trai để nối ḍng. Ngoài ra, nếu người nữ bị coi là phạm tội thất tiết hoặc bị vu cáo, sẽ thường bị đem d́m xuống sông cho chết.

[46] Đồng Thiện Hội (同善會) là hội từ thiện do giới sĩ phu đề xướng từ thời Vạn Lịch nhà Minh, bao gồm các hoạt động diễn thuyết khuyến thiện, thí gạo, thí tiền giúp đỡ người nghèo, khen thưởng, biểu dương người tiết nghĩa.

[47] Nghĩa học (義學) là trường học miễn phí cho trẻ em nhà nghèo, đôi khi c̣n chu cấp tiền bạc, gạo cho chúng. Nghĩa trủng (義冢) là nghĩa trang miễn phí dành cho người nghèo khổ, không có tiền mua đất chôn cất người thân.

[48] Đây là một quy chế đă có từ đời Đường, được gọi là “ngũ bảo” (伍保), tức năm nhà liên kết bảo vệ lẫn nhau. Mỗi thôn xóm, thanh niên trai tráng từ mười sáu tuổi trở lên, trừ những người già, yếu, bệnh tật, trẻ nhỏ, đàn bà, tăng sĩ, con quan được miễn (v́ đă có gia đinh đảm nhiệm) đều kết thành đội chia phiên tuần hành, đảm bảo trị an, giúp đỡ lẫn nhau bảo vệ chống lại giặc cướp. Những đội gần nhau đều phải có trách nhiệm tương trợ lẫn nhau, nhất là khi có thiên tai hoặc giặc cướp tấn công.

[49] Chữ Hán thời cổ khi viết không có chấm câu. Người đọc phải biết suy xét để ngắt câu cho đúng. Do đó, đối với trẻ học vỡ ḷng, thầy thường dùng bút son khuyên tṛn từng chỗ để trẻ biết ngắt câu. Đôi khi, do thầy không giỏi, chấm câu sai. Tŕnh Minh Hạo đă chấm câu nhằm giúp cho trẻ hiểu đúng mạch văn.

[50] Tào () ở đây là cơ quan đặc trách đường thủy của mỗi phủ, thường do quan Tào Vận Sứ trông coi.

[51] Lộ () là một đơn vị hành chánh đời Tống. Cả nước được chia thành mười lăm lộ (Kinh Đông, Kinh Tây, Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây, Hoài Nam, Giang Nam, Kinh Hồ Nam, Kinh Hồ Bắc, Lưỡng Chiết, Phước Kiến, Tây Xuyên, Giáp, Quảng Nam Đông, và Quảng Nam Tây). Về sau, các lộ lớn lại tách ra thành nhiều lộ nhỏ hơn. Hà Đông Lộ bao gồm hai mươi hai phủ, bao gồm miền Trung và Nam tỉnh Sơn Tây ngày nay, cũng như một phần phía Bắc tỉnh Thiểm Tây. Trị sở của lộ này là Thái Nguyên.

[52] Nguyên văn “khoa mại” (科買) là một quy chế vào đời Tống, đối với các sản vật lương thực mỗi năm, quan phủ có lập ra hạn định thu mua để dự trữ.

[53] Tư Nông (司農) là chức quan quản lư tài chánh, thời Tiên Tần, chức quan này được gọi là Trị Túc Nội Sử, đến đời Hán Cảnh Đế đổi thành Đại Nông Lệnh, thời Hán Vũ Đế lại đổi thành Đại Tư Nông. Dưới chức quan này có năm cấp thuộc hạ. Chức thuộc hạ quan trọng nhất là Thái Thương trông coi kho thóc dự trữ, vận chuyển, cung ứng lương thực, điều ḥa giá cả, quản lư quốc khố. Đến đời Thanh, Đại Tư Nông chính là Hộ Bộ Thượng Thư. Theo mạch văn, Tư Nông ở đây có lẽ là một chức quan trông coi về tài chánh thuộc một Lộ mà thôi.

[54] Thạch () là đơn vị đo lường thời cổ, đặc biệt dùng để đo lường ngũ cốc (đúng ra, khi dùng như đơn vị đo lường, phải đọc là Đán, nhưng theo thói quen, đều dọc là Thạch). Theo chương Luật Lịch Chí trong Hán Thư: “Hai mươi bốn thù là một lượng, mười sáu lượng là một cân, ba mươi cân là một quân, bốn quân là một thạch”. Đại khái, một thạch bằng ba mươi sáu kilogram hiện thời.

[55] Theo Thành Ngữ Từ Điển, câu này có nghĩa là “luôn coi dân chúng như đang bị thương tật”, có ư nói luôn quan tâm dân chúng như họ đang ở trong cảnh ngặt nghèo, phải gắng sức làm cho họ được an cư lạc nghiệp.

[56] Ông Tŕnh Minh Đạo tên thật là Tŕnh Hạo, tên tự là Minh Đạo.

[57] Nguyên văn “trại hội” (賽會), tức là các lễ hội địa phương ở miền Hoa Nam, nhất là vùng Phước Kiến, Giang Tô. Dân chúng ăn mặc rực rỡ, đốt pháo, thổi kèn, đánh trống, gơ thanh la ỏm tỏi, rước kiệu thần, vừa đi vừa ca hát, bọn đồng cốt vờ xưng là được thần nhập thân, cầm cờ lệnh nhảy múa, lắc lư trước kiệu thần. Nam nữ có thể thừa dịp này cḥng ghẹo, tán tỉnh nhau.

[58] Hộc () là đơn vị đo lường, nhưng độ lớn biến đổi theo thời gian. Theo quy chế đời Đường, một hộc là mười đấu, nhưng từ thời Tống trở đi, một hộc là năm đấu. Một đấu khoảng chừng năm kư lô hiện thời.

[59] Thường B́nh Thương (平倉) tức là kho thóc dự trữ để cứu đói, giống như Xă Thương, tại mỗi phủ huyện đều có. Khi được mùa, giá gạo rẻ bèn thu mua; lúc gặp tai nạn, sẽ lấy ra phát chẩn hay bán cho dân với giá rẻ hơn thị trường nhằm điều tiết giá cả, nên mới gọi là Thường B́nh. Đề Cử Thường B́nh (提舉常平) là chức quan có nhiệm vụ quản lư các kho thóc dự trữ ấy.

[60] Lục Giá Thư chính là ông Lục Lũng Kỳ (1630-1692), vốn có tên là Long Kỳ, tên tự là Giá Thư, là một nhà Lư Học đầu đời Thanh. Ông đỗ Tiến Sĩ năm Khang Hy thứ chín (1670), được bổ làm tri huyện Gia Định (nay là khu Gia Định của thành phố Thượng Hải). Do tánh t́nh cương trực, không ăn cánh với tuần phủ Mộ Thiên Nhân, bị hắn dâng sớ đàn hặc lên triều đ́nh, ông bị băi chức. Ngày ông ra đi, dân chúng d́u già ôm trẻ khóc lóc vang dội. Năm Khang Hy 22 (1683), Ngụy Tượng Xu đă dùng lư do “thiên hạ đệ nhất thanh liêm” để cực lực tiến cử ông làm tri huyện Linh Thọ. Khi ông mất, được phong tặng thụy hiệu là Thanh Hiến, phối thờ trong Khổng Miếu.

[61] Nho đồng (儒童) là danh xưng gọi chung những người sắp đi thi Tú Tài, bất luận tuổi tác lớn hay nhỏ, đều gọi là “đồng sanh” hay “nho đồng”, hoặc “văn đồng”. Trong khi đó, “chư sanh” là những người đă đỗ Tú Tài, được vào trường huyện chuẩn bị thi Cử Nhân. “Nghe giảng” ở đây là nghe b́nh luận những bài viết nghị luận về những kinh điển của Nho gia.

[62] Nguyên văn “sở giảng chi thư”. Từ ngữ này có ư nói đến một thể loại văn thường gọi là Sách Vấn, ta thường gọi là Văn Sách, tức là thầy lấy một câu hay một đoạn trong kinh điển của Nho gia làm đề tài, yêu cầu học tṛ tŕnh bày kiến giải. Tṛ sẽ viết một bài nghị luận, tŕnh bày kiến giải của chính ḿnh đối với đề tài ấy, bài viết ấy thường gọi là Đối Sách. Vào thời Minh Thanh, bài đối sách bắt buộc phải viết bằng thể loại văn Bát Cổ.

[63] Nguyên văn “ẩm băng” (飲冰). Thành ngữ này xuất phát từ thiên sách Nhân Gian Thế của Trang Tử: “Kim ngô triêu thọ mạng, nhi tịch ẩm băng, ngă kỳ nội nhiệt dư?” (Nay ta buổi sáng vâng chiếu, buổi chiều uống băng, trong tâm ta chẳng nôn nóng ư)? Thành Huyền Anh chú thích cả câu có ư nói người tận tụy trách nhiệm, luôn giữ ḷng dè dặt, kinh sợ, cho nên trong tâm nóng nảy, nặng ḷng ái quốc, giống như phải uống băng cho đỡ nóng. Về sau, từ ngữ này được dùng để chỉ người liêm khiết, thanh cao.

[64] Nguyên văn là “thi chúc” (尸祝), có nghĩa là “bái tế người đă khuất”. Ở đây, từ ngữ này được dùng với ư nghĩa dân chúng lập hương án hai bên đường bái lạy tiễn biệt ông Lục.

[65] Hương học là mỗi làng đều lập trường để dạy dỗ dân chúng.

[66] Cáu cặn (tra chỉ, 渣滓) ở đây chính là những thói quen xấu ác như tà vạy, dâm dật, phóng túng v.v…

[67] Theo ông Hoàng Bách Lâm, Linh Ấp ở đây là huyện Linh Thọ.

[68] Nguyên văn “hành thủ” (行取) là một thuật ngữ thông dụng trong giới quan trường thời Minh - Thanh, có nghĩa là các quan lại địa phương được đề cử, hoặc tiến cử lên hoàng đế, được vua chọn về làm quan tại kinh đô.

[69] Hữu Tử (518-458 trước Công Nguyên), tên thật là Hữu Nhược, tự là Tử Hữu, người nước Lỗ. Đời Minh, ông được tôn xưng là Tiên Hiền Hữu Tử. Mạnh Tử có nói, sau khi Khổng Tử mất, các môn đệ là Tử Hạ, Tử Trương, Tử Du đă coi Hữu Nhược như thánh, muốn giữ lễ đối với Hữu Tử giống như Khổng Tử vậy, nhưng Tăng Tử phản đối. Khi ông mất, Lỗ Điệu Công đích thân đến phúng điếu. Cháu đời thứ bảy mươi hai của Hữu Tử là Hữu Thủ Nghiệp làm quan Hàn Lâm Viện Ngũ Kinh Bác Sĩ dưới đời Càn Long.

[70] Lư Ngưu là hai phe đảng tranh chấp quyền lực từ thời Đường Hiến Tông cho đến Đường Tuyên Tông, kéo dài suốt năm mươi năm. Phe Lư do cha con Lư Đức Dụ cầm đầu, phe Ngưu do Ngưu Tăng Nho cầm đầu. Măi cho tới thời Đường Tuyên Tông lên ngôi, Lư Đức Dụ bị đày tới Nhai Châu (nay là Quỳnh Sơn, tỉnh Quảng Đông), cuộc tranh chấp mới kết thúc. Lạc Sóc là cuộc tranh chấp thời Tống. Phe cấp tiến, phiêu lưu do Vương An Thạch cầm đầu cải cách, đề ra nhiều biện pháp khắc nghiệt bị phe bảo thủ phản đối quyết liệt. Trong phe bảo thủ, lại tách ra thành ba phái. Phái được cầm đầu bởi Tŕnh Di gọi là Lạc đảng (tức phe phái ở Lạc Dương). Phe thứ hai do Lưu Chí cầm đầu, v́ ở phương Bắc nên gọi là Sóc Đảng. Phe thứ ba do Tô Thức và Lữ Đào cầm đầu, gọi là Thục Đảng.

[71] Ông Hoàng Bách Lâm bảo: Câu này có nghĩa là sự tranh chấp, chia rẽ được dưỡng thành từ bé trong một gia đ́nh. Do giữa anh chị em đă có sự tranh giành đồ vật này nọ, tạo thành thói quen tranh đấu.

[72] Ông Hoàng Bách Lâm giảng: Hiếu đễ là Tánh Đức, là lương tri, lương năng, không có h́nh trạng, chẳng thể t́m được h́nh tướng, nhưng nó khởi tác dụng, nên nói là “vô b́ xác đích vật” (vật chẳng có da, chẳng có vỏ).

[73] Câu này hơi khó hiểu, nên xin dẫn lời ông Hoàng Bách Lâm giải thích như sau: Đă có những phẩm hạnh vô ngă, nhẫn nhục, khéo khiêm hạ như thế, th́ chẳng cần phải thốt lời khoe khoang, người ta vẫn tự nhận biết người ấy có đức hạnh, họ sẽ ḥa quyện theo (tức là bị ảnh hưởng) như gió thổi cỏ rạp.

[74] Nguyên văn “Côn nhi thai yểu, tương sồ dực noăn, thảo anh mộc tú, đới căn kháo nha, nhất nhất chàng trước hiếu đễ, tắc tất tư sở dĩ nhu mạt chi”. Côn () là con cá to trong sách Trang Tử, giống như loài ḱnh ngư, có thể hóa thành chim bằng bay vạn dặm. Nhi () là loài cá bé. Sồ () là con chim non, gà con, “dực noăn” (翼卵) là x̣e cánh ấp trứng. “Nhu mạt” (濡沫) là dùng nước dăi để cho một vật khác được thấm ướt, giống như cá mắc cạn bèn nhả nước răi cho nó được sống. Điều này tỷ dụ chuyện tận lực giúp đỡ người khác trong cảnh khốn cùng. Câu này hơi khó hiểu, chúng tôi xin dẫn lời giảng của ông Hoàng Bách Lâm như sau: Phải mở rộng ḷng hiếu đễ, đối với những loài động vật lẫn thực vật, phải đối đăi bằng tấm ḷng giống như gà mẹ dẫn dắt gà con, như gà mẹ nâng niu x̣e cánh ấp trứng, ngăn dứt những chỗ khiến cho trứng, cá con của những loài cá tránh khỏi nguy cơ bị đoạn diệt, bảo vệ mầm rễ của các loài thảo mộc cho chúng luôn xum xuê, giúp đỡ cho chúng được sống sót trong những hiểm cảnh. Mỗi điều ấy đều nhằm khảo nghiệm tấm ḷng hiếu đễ của chúng ta.

[75] Nguyên văn “nhất đoạn ḥa dự khí tượng, ân tiến Thượng Đế, nhi nhân thiên địa, phối tổ khảo”, chúng tôi dịch đoạn này theo cách diễn giải của ông Hoàng Bách Lâm. Theo đó, “ân tiến Thượng Đế” (殷薦上帝) nghĩa là dùng những thứ đẹp nhất, ca nhạc hay nhất dâng lên thượng đế. Ở đây, phải hiểu “ân tiến Thượng Đế” chính là do có ḷng hiếu đễ, thuận theo ḷng trời, đẹp ḷng trời, nên sự hiếu đễ ấy chẳng khác ǵ đă phụng hiến Thượng Đế trang trọng nhất. “Nhân thiên địa” (仁天地) là khắp trời đất đều là một bầu nhân ái. “Phối tổ khảo” (配祖考) là thờ cúng tổ tông, tổ () là ông nội, khảo () là danh xưng để gọi cha đă khuất. Ḷng hiếu đễ khiến con cháu thuận ḥa, ḍng dơi hưng thịnh, đẹp ḷng tổ tiên, khác nào đă cúng dường ông bà tổ tiên bằng những vật thực ngon lành, trọng hậu nhất. Hoặc có thể hiểu: Ḷng hiếu hạnh, ḥa thuận với anh em là những lễ vật đẹp đẽ nhất, trang trọng nhất, quư báu nhất để dâng lên Thượng Đế, tổ tiên.

[76] Câu này nhằm nói hoàn cảnh bên ngoài có thể ảnh hưởng đến tâm t́nh của phàm nhân, biểu thị hoàn cảnh bên ngoài và cái tâm có cùng một Thể.

[77] Tức là cái tâm chấp vào sự không tịch thiên lệch của hàng Nhị Thừa.

[78] Theo ông Hoàng Bách Lâm câu này phải hiểu theo sự biểu thị pháp là: Ḷng nhân chính là Tánh Đức sẵn có của mỗi người.

[79] “Thủ nhất” (守一) là từ ngữ xuất phát từ câu nói “thiên địa hữu quan, âm dương hữu tàng, thận thủ nhữ thân, vật tương tự tráng, ngă thủ kỳ nhất, thiên nhị bách tuế hỹ” (trời đất đều có chủ tể, âm dương ḥa hợp trong tạng phủ, hăy cẩn thận giữ ǵn cái thân ngươi, đừng nên tàn hại nó, ta giữ được nhất tâm th́ có thể sống đến một ngàn hai trăm năm). Đạo gia dùng khái niệm “thủ nhất” để chỉ trạng thái đạt đến cái tâm không tạp niệm, chuyên nhất một cảnh. Nếu hiểu theo mức độ cao hơn, “thủ nhất” tương ứng với “trụ trong chân tâm” của Phật giáo.

[80] Theo ông Hoàng Bách Lâm, ở đây, ông Nhan Quang Trung không nhằm ca ngợi thuật tu luyện đan của Đạo gia, mà chỉ dùng cách nói của họ, với ngụ ư: Do hiếu đễ đạt đến tột bậc, sẽ chứng nhập Nhất Chân pháp giới, tức là đă chuyển phàm thành thánh, thoát ly mười pháp giới, trở thành Pháp Thân đại sĩ. Ông Nhan Quang Trung tạm tỷ dụ chuyện này giống như trong Đạo gia, khi tu luyện đến mức nội đan và ngoại đan hợp nhất, sẽ thoát thai hoán cốt đăng tiên. Ông Nhan Quang Trung dùng tỷ dụ này để nói với người b́nh phàm cho dễ hiểu đó thôi!

[81] Trận chiến Trác Lộc là cuộc chiến quyết định thắng bại giữa liên minh Hữu Hùng Thị Hoàng Đế và Thần Nông Thị Viêm Đế đánh bại tộc Cửu Lê dưới sự lănh đạo của Xi Vưu. Hoàng Đế là thủ lănh của các bộ lạc Hoa Hạ, chiếm cứ vùng Trung Nguyên vốn là địa bàn của tộc Cửu Lê, nay thuộc địa bàn các tỉnh Hà Nam, Hà Bắc, và Sơn Đông. Cuộc quyết chiến nổ ra ở cánh đồng Trác Lộc. Theo truyền thuyết, ba người con của Xi Vưu đă chia các bộ tộc thành ba cánh. Một cánh chạy xuống miền Nam, trở thành tộc Tam Miêu, một cánh chạy lên miền Bắc, số người c̣n lại vẫn ở Trác Lộc, và bị đồng hóa với bộ tộc Viêm Hoàng. Để biện minh cho hành động cướp bóc, lấn đoạt của người Hoa Hạ, sử Trung Hoa thường tô vẽ Xi Vưu như một kẻ hung bạo, nửa người nửa thú, độc tài, thiện chiến, sử dụng phù phép, mưu toan phản loạn chống lại liên minh Viêm Đế nên bị chinh phạt. Một số các sắc dân ở Đông Á vẫn coi Xi Vưu là thủy tổ, chẳng hạn người H’mong (ta thường gọi là người Mèo) coi họ là con cháu của Xi Vưu, dân Đại Hàn tôn Xi Vưu là quốc tổ.

[82] Nguyên văn “thất hùng hao hám”, “thất hùng” (七雄) là bảy nước chư hầu hùng mạnh thời Chiến Quốc, đánh nhau liên miên nhằm tranh hùng xưng bá, tức Tần, Sở, Yên, Triệu, Ngụy, Hàn, và Tề. “Hao hám” (虓闞) là thành ngữ phát xuất từ câu thơ “hám như hao hổ” (gào thét như con hổ đang giận dữ) trong bài Thường Vũ thuộc phần Đại Nhă của kinh Thi. Sử gia Ban Cố đă dùng cách nói “thất hùng hao hám” để phê phán tánh đam mê quyền lực, tranh đấu dữ dội của bảy nước chư hầu thời cổ.

[83] Nguyên văn hoàng tŕ ngư dương chi bề cổ”. “Hoàng tŕ” (潢池) theo nghĩa đen là cái ao của hoàng đế, thường dùng theo nghĩa bóng là “lănh thổ của hoàng đế”. Lại có câu thành ngữ “hoàng tŕ lộng binh” (múa may vũ khí trong cái ao của hoàng đế), hiểu theo nghĩa rộng là dấy binh làm phản triều đ́nh. Ngư Dương nay là huyện Kế thuộc thành phố Thiên Tân. Năm 755, dưới đời Đường Huyền Tông, An Lộc Sơn khởi binh dấy loạn tại Ngư Dương. “Bề cổ” (鼙鼓) là cái trống nhỏ do kỵ binh thường cầm, mỗi khi xung trận, họ gơ ầm lên để thôi thúc tinh thần chiến đấu. Toàn bộ câu “hoàng tŕ ngư dương chi bề cổ” đă dựa theo ư thơ của Bạch Cư Dị: “Ngư Dương bề cổ động địa lai, kinh phá nghê thường vũ y khúc” (Trống trận Ngư Dương rền cơi đất, kinh hoảng nghê thường khúc múa tan). “Nghê thường vũ y khúc” là một khúc ca múa do Đường Huyền Tông chế ra sau khi nằm mộng thấy chính ḿnh lên chơi cung trăng. Ông cho các cung nữ mặc xiêm áo rực rỡ như bảy sắc cầu vồng, gọi là “nghê thường y”. Vũ khúc được gọi là “vũ y khúc”, nghĩa là khúc hát múa của những người mặc áo kết bằng lông chim, tức tiên nữ.

[84] Dịch Truyện là phần chú giải của kinh Dịch, tức phần Thập Dực.

[85] Nguyên văn “quyết trương hoành hành”, “quyết trương” (蹶張) có nghĩa gốc là dùng chân đạp lên loại nỏ cứng để bắn tên. Từ ngữ này thường được dùng với ư nghĩa người có sức mạnh, hung hăng thể hiện sự oai vũ.

[86] Đan Châu là con trai của vua Nghiêu. Ông này tên là Châu, nhưng do được phong ở đất Đan Thủy, nên thường gọi gộp chung là Đan Châu. Đan Châu tánh t́nh ngạo mạn, hoang dâm.

[87] Trịnh Trang Công (Cơ Ngụ Sanh) là vua nước Trịnh, là con của Trịnh Vũ Công (Cơ Quật Đột). Trịnh Trang Công có người em cùng mẹ tên là Cơ Đoạn; do Cơ Đoạn được phong thái ấp ở Kinh Ấp, nên thường gọi là Thái Thúc Đoạn (Thúc có nghĩa là em trai thứ). Do được mẹ là Vũ Khương nuông chiều, Thái Thúc Đoạn âm mưu với mẹ làm phản ḥng đoạt ngôi của Trịnh Trang Công. Sự việc thất bại, Thúc Đoạn phải trốn sang đất Cộng, nên lại gọi là Cộng Thúc Đoạn. Trịnh Trang Công tức giận, sai người giam lỏng mẹ, tuyên cáo từ bỏ mẹ, và thề độc: “Chỉ nh́n lại mặt mẹ khi nào xuống suối vàng”. Có lần vua đăi yến cho quan đại phu Dĩnh Thúc Khảo. Trong yến tiệc có món thịt, Dĩnh Thúc Khảo không ăn, mà cẩn thận gói lại. Vua hỏi v́ sao, Dĩnh Thúc Khảo thưa: “Thần bổng lộc kém, không thể thường xuyên mua thịt cho mẹ ăn được. Nay có món ngon, không nỡ hưởng riêng, nên chừa lại đem về biếu mẹ”. Vua cảm động, hối hận, nhân đó, hỏi Dĩnh Thúc Khảo t́m cách nào tha lỗi cho mẹ ḿnh. Để vua khỏi trái lời thề, Dĩnh Thúc Khảo bày kế, đào hố sâu dưới đất, vua xuống đó gặp mẹ, cơng về phụng dưỡng.

[88] Đây là cách giáo dục trong Nho gia theo giáo huấn trong Châu Tử Trị Gia Cách Ngôn: Con em từ thuở lên ba, hằng ngày phải dậy sớm, quét dọn trong ngoài cho sạch sẽ, giữ tánh tiết kiệm, không phung phí vật thực, luôn nghĩ hạt cơm manh áo là công khó của bao nhiêu người. Cha mẹ, người trên hễ gọi liền dạ, nghe lời dạy bèn vâng. Người trên hỏi đến phải thưa gởi rành rẽ, không dối trá, quanh co, đó gọi là “ứng đối” (應對). Khi cha mẹ, bề trên ngồi, con em phải đứng bên cạnh chờ xem có ǵ sai bảo. Cha mẹ cho ngồi mới được ngồi. Đó là “thị lập” (侍立, đứng hầu). Luôn chú ư coi cha mẹ, người bề trên có ǵ cần dùng, sai phái sẽ nhanh chóng thực hiện, đó là “phụng kỷ” (奉几, hầu bên bàn). Theo chú giải, “kỷ” phải hiểu là “kỷ án” (几案) tức cái bàn nhỏ.

[89] Vua Thuấn là người thuộc bộ tộc Hữu Ngu, mẹ mất sớm. Cha là Cổ Tẩu lấy mẹ kế, sanh được một đứa con trai, đặt tên là Tượng. Cha nghe lời mẹ kế, toan giết hại vua Thuấn nhiều lần. Có lần, Cổ Tẩu sai vua Thuấn sửa chữa kho chứa lúa, rồi rút mất thang, đốt kho cho vua Thuấn chết cháy, nhưng vua Thuấn thoát thân được. Cổ Tẩu lại sai vua Thuấn đào giếng, rồi lấp giếng cho vua Thuấn chết ngộp, nhưng vua Thuấn theo khe ngách thoát ra được. Ông không oán hận cha và d́ ghẻ ác độc, chỉ tự trách ḿnh bạc đức, chẳng trọn hiếu đến nỗi bị ghét bỏ. Cổ Tẩu (瞽叟) có nghĩa là “ông già mù”, nhưng các nhà chú giải cho rằng đó là cách gọi bóng bảy của cổ nhân nhằm chê trách một ông già có tầm nh́n thiển cận, mù quáng.

[90] Cha vua Vũ là Đại Cổn được vua Thuấn sai trị thủy (làm công tác thủy lợi để chống nạn lụt), không thành công, bị vua Thuấn kết tội, bị giết tại Vũ Sơn.

[91] Theo sách Thuyết Uyển, vua Vũ đi ra ngoài thấy tội nhân, bèn xuống xe, hỏi chuyện rồi khóc ṛng. Tùy tùng can: “Gă này do chẳng thuận theo vương pháp nên thành ra như vậy, cớ sao bệ hạ lại đau ḷng đến nỗi ấy?” Vua Vũ nói: “Là con dân của vua Nghiêu, vua Thuấn, đều lấy cái tâm của Nghiêu, Thuấn làm tâm của ḿnh. Nay quả nhân làm vua, bá tánh mỗi người có cái tâm riêng, cho nên đau ḷng vậy”.

[92] Vương Quư là cha của Văn Vương, vốn tên là Quư Lịch. Sau khi Văn Vương (Cơ Xương) lên ngôi, đă tôn cha là Vương Quư làm Thái Thượng Hoàng. Tẩm môn (寢門) là cửa pḥng ngủ. Theo quy chế xưa, buồng ngủ của vua có năm tầng cửa, chư hầu có ba tầng cửa, các đại phu có hai tầng cửa. Tẩm môn chính là cửa trực tiếp dẫn vào nội pḥng. Hằng ngày, Văn Vương ba lượt đến tẩm môn của cha để thỉnh an. Hễ nghe nội thụ (內豎, tức thái giám) bảo vua cha b́nh an, Văn Vương sẽ hết sức vui mừng. Vũ Vương là con của Văn Vương (Cơ Phát), khi cha bị bệnh đă không cởi áo ngoài, không bỏ măo, chầu hầu suốt ngày đêm, lắng nghe từng hơi thở nặng nhọc của cha.

[93] Hữu Quan Thị (有鰥氏, người ở trong hoàn cảnh khốn khó) là biệt hiệu của vua Thuấn. Danh xưng này phát xuất từ sách Thượng Thư, chương viết về vua Nghiêu: “Đế viết: Tư! Tứ nhạc, trẫm tại vị thất thập tải, nhữ năng dung mạng tập trẫm vị?” Nhạc viết: “Bỉ đức thiêm đế vị”. Viết: “Minh minh dương trắc lậu”. Sư tích đế viết: “Hữu quan tại hạ, viết Ngu Thuấn”. Đế viết: “Du! Dư văn, như hà?” Nhạc viết: Cổ tử phụ ngoan, mẫu khí, Tượng ngạo, khắc hài dĩ hiếu chưng chưng, nghệ bất cách gian” (Vua Nghiêu nói: “Ôi! Này các vị tù trưởng bốn phương! Ta đă làm vua bảy mươi năm, các ông có thể vâng mạng trời nối ngôi ta hay không?” Các tù trưởng thưa: “Chúng thần đức kém, chẳng xứng ngôi vua”. Vua bảo: “Vậy th́ các ông xét kỹ, đề cử những người c̣n ẩn tàng!” Mọi người thưa: “Có người ở trong hoàn cảnh khốn khó là Ngu Thuấn”. Vua nói: “À! Ta có nghe nói, người ấy như thế nào?” Các tù trưởng thưa: “Ông ta là con của Cổ Tẩu, cha ương bướng, mẹ hay đặt điều gièm xiểm, [em trai là] Tượng ngạo mạn, nhưng Thuấn luôn cư xử thuận thảo, dùng ḷng hiếu cảm hóa, khiến cho chẳng theo đường tà nữa). Ngũ Điển (五典) chính là Ngũ Thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín). Bách Quỹ là (百揆) tận lực hành tŕ Ngũ Điển, khiến cho mọi việc đều tuân theo nguyên tắc, pháp độ.

[94] Nguyên văn là “viên đà đà” (圓陀陀). Đây là một thuật ngữ trong nhà Thiền để chỉ tự tánh. “Viên đà đà” nghĩa là viên măn, chẳng có ngằn mé.

[95] Ư nói mọi người có cùng một Thể là chân tâm linh tri.

[96] “Chí đại công” là chí luôn nghĩ đến trọn khắp mọi người, không có t́nh chấp riêng tư.

[97] Ông Hoàng Bách Lâm giảng: Câu này có nghĩa là dùng đủ mọi cách chăm sóc, lời lẽ mềm mỏng khiến cho cha mẹ thoải mái, nhu cầu đầy đủ, th́ vẫn chỉ là phụng dưỡng cái thân máu thịt hư giả nếu không chú trọng hướng dẫn cha mẹ thông hiểu chân tánh (đó là thân thể chân thật), ĺa phiền năo, tu hành ḥng thoát khỏi tam đồ.

[98] Tăng Nguyên là con của Tăng Tử (Tăng Sâm). Câu này nhằm nói đến lời phê phán Tăng Nguyên trong thiên Ly Lâu sách Mạnh Tử: Tăng Tử phụng dưỡng cha là Tăng Tích, mỗi bữa ăn đều có rượu thịt. Khi cha ăn xong, lúc sắp dọn xuống, ắt Tăng Tử sẽ thưa hỏi, thức ăn c̣n thừa sẽ cho ai? Nếu Tăng Tích hỏi “có c̣n thức ăn thừa hay không?”, Tăng Tử sẽ luôn đáp là có, [khiến cho cha yên ḷng hưởng dụng]. Đến khi Tăng Nguyên phụng dưỡng Tăng Tử, mỗi bữa ăn cũng có rượu thịt, nhưng khi dọn xuống, hoàn toàn chẳng hỏi. Nếu như Tăng Tử hỏi “có dư hay không?” Sẽ đáp là “chẳng dư”, khiến cho Tăng Tử chẳng nỡ ḷng ăn nhiều. Như vậy là Tăng Nguyên chỉ nuôi ăn, chứ không quan tâm làm vui ḷng cha!

[99] Vua Thuấn tên là Trọng Hoa, thuộc bộ tộc Hữu Ngu, v́ thế, Sử hay gọi ông là Ngu Thuấn. Do ông được sanh ra ở Diêu Khư, nên lấy chữ Diêu làm họ.

[100] Khi vua Nghiêu gả hai con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh cho vua Thuấn, ông đă lấy vợ mà chẳng xin phép cha mẹ.

[101] Ư nói: Từ bản chất, cha mẹ luôn yêu thương con, đó là thiên tánh, dẫu có lúc nóng giận, đánh đập hay chửi mắng, nhưng ḷng yêu thương vẫn không hề mất.

[102] Ư nói hăy khéo léo vận dụng ḷng thương yêu con sẵn có của cha mẹ để khuyên can, khơi gợi cha mẹ hướng thiện.

[103] “Tánh mạng” ở đây là một khái niệm thuộc phạm trù triết học cổ của Trung Hoa, bao hàm ư nghĩa “bẩm tánh thiên phú của muôn vật”.

[104] Nguyên văn là “vị dục” (位育). Đây vốn là một thành ngữ xuất phát từ câu nói “trí trung ḥa, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên” (đạt tới sự trung chánh, ḥa b́nh chính là địa vị vốn có của trời đất, vạn vật được sanh thành).

[105] “Linh minh” (靈明) ở đây là nói đến nhất niệm chân tánh của ta vốn sáng suốt, thấu triệt trọn khắp.

[106] Nguyên văn “Vũ tự hồ kỳ tiên, nhi đạt hồ giao miếu, dĩ thân sự thiên dă”. Theo ông Hoàng Bách Lâm, “giao miếu” () là chỗ thờ phụng trời đất và tổ tiên. “Nhi đạt hồ giao miếu” phải hiểu là vua Vũ không chỉ cúng tế tổ tiên của riêng ḿnh, mà c̣n thờ phụng tổ tiên của toàn thể thiên hạ và trời đất. Chữ “thân” trong câu “dĩ thân sự thiên dă” phải hiểu là sự chí thân nơi bản tánh.

[107] Nguyên văn “tự hữu thiên địa dĩ lai, vô nhật bất sanh, thân dữ ngă, đô thị nhật sanh sanh tương tục”. Ông Hoàng Bách Lâm giảng: Chữ Sanh ở đây phải hiểu là tánh tri giác, ta thường nói là “linh tánh”. Linh tánh bất sanh bất diệt, vĩnh viễn là sanh sôi chẳng ngừng. V́ thế nói là “vĩnh sanh”. Giữa sự chí thân và ta, luôn luôn là sanh sôi liên tục.

[108] Trương Tử ở đây chính là Trương Tải, tức Trương Hoành Cừ, một nhà Lư Học thời Bắc Tống. Ông viết một bài văn, đặt tên là Chánh Mông Càn Xứng Thiên, chia làm hai phần, phần trước gọi là Biếm Ngu, phần sau gọi là Đính Ngoan. Về sau, Tŕnh Di gọi phần Biếm Ngu là Đông Minh, phần Đính Ngoan là Tây Minh. Trong bài Tây Minh, Trương Tải đă đề xướng khái niệm “dân bào vật dữ” (mọi người là ruột thịt của ta, mọi vật có cùng một Thể với ta).

[109] Do câu này quá khó hiểu, chúng tôi xin dẫn lời giải thích của ông Hoàng Bách Lâm như sau: “Ḷng hiếu thuận của ông Vương Tường hoàn toàn chẳng linh động, nên nói là cách thức chết cứng. Bởi lẽ, do Vương Tường thấy mẹ đói, mong được ăn cá, bèn cởi trần nằm trên băng khóc xin băng nứt ra để bắt được cá dâng mẹ. Tức là ḷng hiếu ấy có sự đối đăi, có đối tượng để phát khởi. Ông ta chẳng khế nhập ư nghĩa ‘bất tư nhi đắc, bất miễn nhi trúng’ (chẳng suy nghĩ mà đạt được, chẳng gắng sức mà trúng). Ḷng hiếu thuận của vua Vũ, vua Thuấn là tự nhiên, không cần suy nghĩ. Vua hiếu thảo với cha mẹ của chính ḿnh và hiếu thảo đối với cha mẹ của thiên hạ chẳng khác ǵ nhau, hoàn toàn lưu lộ từ Tánh Đức”.

[110] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này như sau: “Nếu chẳng tương ứng với Tánh Đức, ḷng hiếu ấy sẽ dính đến t́nh cảm, có t́nh chấp, có tác ư, có Năng và Sở, chẳng phải là lưu lộ từ Tánh Đức. Do vậy, ḷng hiếu sẽ vướng mắc nơi phương tiện ư thức, tức phân biệt, chấp trước, và Tạng Thức”.

[111] Nguyên văn “nhược động trước Tánh Đế, tuy như Thuấn chi hào khấp oán mộ, bất khả vi nhân, bất khả vi tử, giá dạng khốn miễn chi cực”. Theo ông Hoàng Bách Lâm, Tánh Đế chính là tên gọi khác của Tánh Đức. Chữ “nhân” ở đây phải hiểu là “thánh nhân”. Theo ông Hoàng, câu này phải hiểu như sau: Nếu như ta dùng ư thức, tức là c̣n có t́nh chấp, xử sự theo cảm t́nh, dẫu có lúc khế nhập Chân Đế trong bản tánh đôi chút, dẫu khóc lóc, ôm nỗi niềm ai oán mong được cha mẹ thể hiện t́nh thân như vua Thuấn, nhưng v́ hăy c̣n có t́nh chấp, cho nên chẳng thể trở thành bậc thánh nhân, cũng chẳng thể trọn hết ḷng chí hiếu của kẻ làm con. Do đó, để tṛn hết đạo hiếu, sẽ rất miễn cưỡng, rất khó khăn, nên mới nói là “khốn miễn chi cực”.

[112] Tố Vương (素王) có nghĩa là một vị vua chân chánh, chẳng có lănh thổ, chẳng có nhân dân, nhưng vĩnh viễn được tôn kính, giáo huấn của Ngài vĩnh viễn được tuân phụng trong lịch sử nhân loại.

[113] Nguyên văn “thục thủy lănh bán sanh chi phụng”. Chữ Thục Thủy (菽水) phát xuất từ một đoạn văn trong thiên Đàn Cung của sách Lễ Kư: “Tử Lộ viết: Thương tai bần dă! Sanh vô dĩ vi dưỡng, tử vô dĩ vi lễ dă. Khổng Tử viết: Xuyết thục ẩm thủy, tận kỳ hoan, tư chi vị hiếu” (Tử Lộ nói: “Đau ḷng thay! Con nghèo quá nên cha mẹ c̣n sống th́ chẳng thể phụng dưỡng. Cha mẹ đă khuất rồi chẳng có ǵ để cúng lễ”. Khổng Tử bảo: “Ăn đậu, uống nước, tận hết sức khiến cho cha mẹ vui ḷng, đó gọi là hiếu”). Do vậy, chữ Thục Thủy thường được hiểu theo nghĩa bóng là sự phụng dưỡng trọn hết tấm ḷng, dẫu đơn bạc về mặt vật chất. Ông Hoàng Bách Lâm giảng “thục thủy lănh bán sanh chi phụng” phải hiểu là “cũng v́ con say mê đàng điếm, phá nát gia nghiệp mà ngay cả cuộc sống vật chất đơn bạc trong nửa đời sau của cha mẹ cũng gặp phải nguy cơ”.

[114] Ư nói: Tấm thân này do cha mẹ mà có, nên thân thể ta là do cha mẹ để lại, nên gọi là “di thể”. Ta không tu hành chân thật, nên không có khả năng hướng dẫn cha mẹ văng sanh Cực Lạc, tức là đă phí uổng tấm thân này! V́ thế nói là “di thể đọa lạc”.

[115] Con ḍng đích là do vợ cả sanh ra, con ḍng thứ là con của các người thiếp (vợ lẽ).

[116] Nguyên văn: “Khởi duy oán nộ bất khả sử hữu túc vật”. Ông Hoàng Bách Lâm giảng: “Vật” ở đây chính là ư niệm tích lũy trong tâm ta. Nói theo Phật pháp, “vật” chính là A Lại Da Thức. “Túc” là nói đến tập khí từ nhiều đời nhiều kiếp.

[117] Nguyên văn là “ph́ noăn” (), đây vốn là một từ ngữ có ư nghĩa “cuộc sống vật chất dư dật, sung sướng”. Từ ngữ này phát xuất từ một đoạn trong sách Mạnh Tử, thiên Lương Huệ Văn Vương: “Vi ph́ cam bất túc ư khẩu dữ, khinh noăn bất túc ư thể dữ, ức vi thái sắc bất túc thị ư mục dữ, thanh âm bất túc thính ư nhĩ dữ. Tiện bế bất túc sử linh ư tiền dữ. Vương chi chư thần giai túc dĩ cung chi, nhi vương khởi vi thị tai” (Có phải là v́ miệng nhà vua chẳng ăn đủ những món ăn béo ngậy, ngon ngọt ư? Có phải là v́ những thứ y phục nhẹ, ấm chẳng đủ cho thân thể ư? Có phải là mắt nh́n chẳng thỏa những thứ đẹp đẽ ư? Có phải là tai nghe chẳng đủ những thứ âm thanh [hay khéo] ư? Những kẻ bề tôi chẳng đủ cho vua sai sử ư? Các bầy tôi của nhà vua đều có thể cung cấp đầy đủ những thứ đó, vậy th́ vua c̣n phải bận tâm đến những chuyện ấy để làm ǵ?)

[118] Thuở xưa, đầy tớ những nhà quyền quư mặc áo màu chàm.

[119] Ôn Tiết Hiếu tên thật là Ôn Hoàng, tên tự là Tiết Hiếu, người tỉnh Chiết Giang, đỗ Tiến Sĩ vào đời Sùng Trinh nhà Minh. Ông có biên soạn bộ Ôn Thị Mẫu Huấn (lời giáo huấn của mẹ trong nhà họ Ôn). Khi quân Măn Thanh diệt nhà Minh, ông đă tự sát.

[120] Nguyên văn “thùy niệm ưng trất cốc” (ai nghĩ đến người đang hứng chịu gông xiềng). Ông Hoàng Bách Lâm giảng: Ư nói đứa con vô tâm chẳng nghĩ đến cha mẹ c̣n sống, phải ăn nhờ ở đậu con, giống như tù nhân đang chịu đựng mọi nỗi tù túng, hạn chế.

[121] Đấy là những tấm gương hiếu thảo được kể trong quyển Vật Do Như Thử, quạ biết mớm mồi cho cha mẹ già, dê khụy chân đỡ cho mẹ khỏi lăn xuống vực.

[122] Hoàng Hương là người xứ An Lục, Giang Hạ, sống vào thời Đông Hán. Ông hết sức hiếu thuận, mồ côi mẹ khi mới vừa chín tuổi. Vào tiết Hè, ông thường quạt cho chiếu mát lạnh để cha nằm ngủ thoải mái. Mùa Đông khi cha sắp ngủ, ông ủ ấm chăn cho cha khỏi bị lạnh. Ông thông thạo kinh điển, có tài văn chương, làm quan đến chức Thượng Thư Lệnh.

[123] Mạnh Tông là người xứ Giang Hạ ở Đông Ngô thời Tam Quốc, thờ mẹ hết sức hiếu thảo. Mẹ thích ăn măng, nhưng gặp tiết Đông không có măng. Mạnh Tông bèn vào rừng trúc buồn khóc, hết sức thương tâm van nài trúc hăy cho măng. Trúc bỗng nẩy một gị măng to để ông cắt về nấu canh cho mẹ ăn.

[124] Quách Cự là người xứ Lũng Lự thuộc Hà Nội thời Tây Hán. Nhà ông rất nghèo, thờ mẹ hết sức hiếu thuận. Khi ông dâng thức ăn lên mẹ, mẹ thường chia bớt cho cháu nội, tức là con của Quách Cự ăn. Do nhà nghèo, thức ăn thiếu thốn, ông sợ mẹ cứ nhịn cho cháu ăn sẽ bị đói, bèn bàn với vợ: “Vợ chồng ta c̣n có thể có đứa con khác, chứ mẹ mất rồi sẽ chẳng thể có lại được”. Tính đem con chôn đi. Khi đào đất, ông đào được hũ vàng, trên vàng có đề chữ “trời ban cho Quách Cự”.

[125] Đinh Lan là người Hà Nội (ở phía Bắc Hoàng Hà), sống vào thời Đông Hán, mồ côi cha mẹ từ bé. Ông hết sức tưởng nhớ cha mẹ, bèn dùng gỗ khắc tượng cha mẹ, thờ phụng trên bàn thờ. Hễ đi đâu bèn vái chào xin phép đi. Lúc về bèn thưa bẩm “con đă về”, hỏi thăm cha mẹ có khỏe hay không.

[126] Nguyên văn “xả thiêm khối nhi quản điệm”. Thiêm () là cái chiếu bện bằng rơm hoặc ổ rơm, Khối () tức là Thổ Khối, nghĩa là dùng đất nắn thành cái gối hoặc gối đầu lên cục đất, biểu thị ngủ không yên giấc v́ tưởng nhớ cha mẹ. Quản điệm (筦簟) là cái đệm bện bằng cỏ bồ, tương đối nằm thoải mái hơn chiếu bện bằng rơm. Cả câu này hàm ư người hiện thời dẫu cư tang vẫn chọn cách thức ăn ngủ an nhàn, thoải mái.

[127] Nguyên văn là “trảm thôi” (斬衰) là một loại áo tang may bằng vải xô (vải mùng), hoặc vải gai, không may mép và vắt gấu, để các mép vải lờm xờm. Theo cổ lễ, con trai và con gái chưa chồng, con dâu, cháu nội, vợ để tang cho chồng đều phải mặc tang phục theo lối Trảm Thôi. Thời Tiên Tần, các chư hầu để tang thiên tử cũng như các quan để tang vua đều mặc theo lối Trảm Thôi.

[128] Phân Pḥng (分房) là một thuyết của môn Địa Lư (chọn huyệt chôn cất) cho rằng tùy theo cuộc đất mà con cái sẽ bị ảnh hưởng khác nhau. Chẳng hạn cha mẹ có nhiều con th́ chôn ở cuộc đất này sẽ khiến cho con trưởng được hưng vượng, nhưng người con thứ hai suy bại v.v…

[129] Núi ở đây là thuật ngữ được dùng trong Phong Thủy để chỉ các g̣, đống, hoặc khối đất nhô cao hơn mặt đất ở nơi chọn lựa để an táng, không phải là núi non.

[130] Lăo Lai (老萊) là một nho sĩ ẩn cư của nước Sở sống vào cuối thời Xuân Thu, hết sức hiếu thuận. Tuổi đă bảy mươi vẫn mặc áo màu mè sặc sỡ, cười nói như đứa trẻ khiến cho cha mẹ bật cười.

[131] Hoa Bảo là người xứ Vô Tích, sống vào thời nhà Tề của Nam Bắc Triều. Cha ông là Hoa Hào có trách nhiệm bảo vệ Trường An trong niên hiệu Nghĩa Hy của Tấn An Đế nhà Đông Tấn. Khi ấy, Hoa Bảo mới lên tám, cha ra đi, bảo Hoa Bảo: “Khi ta về sẽ làm lễ đội mũ cho con”. Về sau, Trường An bị vây hăm, Hoa Hào chết trận. Hoa Bảo đến tuổi bảy mươi vẫn không kết hôn, không làm lễ đội mũ. Hễ có người hỏi đến nguyên cớ, ông khóc lóc rất thương tâm.

[132] Hàn Bá Du là người sống vào thời Tây Hán cũng rất hiếu thuận. Có một lần mẹ dùng gậy đập ông, ông khóc ầm lên. Mẹ hỏi: “Trước kia ta đánh ngươi, ngươi đều không khóc, v́ sao nay ngươi lại khóc?” Hàn Bá Du thưa: “Trước kia, con cảm thấy rất đau, biết là thân thể mẹ hăy c̣n khỏe mạnh. Nay con bị mẹ đánh mà cảm thấy không đau, cho thấy thân thể mẹ đă yếu, cho nên con đau ḷng khóc lóc”.

[133] Vương Bầu là người Doanh Lăng, tỉnh Sơn Đông, sống vào thời Tây Tấn. Ông học rộng, rất tài hoa. Do cha ông bị Tư Mă Chiêu làm hại, ông suốt đời chẳng ngồi ở phía Tây, biểu thị chẳng thần phục nhà Tấn. Ông ẩn cư, dạy học; hễ đọc đến câu “ai ai phụ mẫu, sanh ngă cù lao” (thương thay cha mẹ, sanh ta nhọc nhằn) bèn khóc lóc. Quanh mộ song thân của ông có mấy cây bách, mỗi lần đến viếng mộ, ông đều vịn cây bách khóc lóc bi thương. Lệ thấm vào lá khiến lá bách bị héo úa.

[134] Hóa Thư () chính là bộ sách Tử Đồng Đế Quân Hóa Thư, không rơ tác giả, xuất hiện vào thời Nguyên, chép về truyện kư của Văn Xương Đế Quân. Vào năm Diên Hựu thứ ba đời Nguyên Nhân Tông, nhà vua đă sắc phong Đế Quân danh hiệu Tử Đồng Thần Hiệu Phụ Nguyên Khai Hóa Văn Vương Tư Lộc Hoằng Nhân Đế Quân. Theo sách ấy, Đế Quân đă nhiều lần giáng sanh trong nhân gian, như vào đầu đời Châu, Ngài thị hiện làm quan chữa bệnh tên là Trương Thiện Huân. Thời Châu Tuyên Vương lại giáng sanh làm quan đại phu Trương Trung Từ, đầu đời Hán lại giáng sanh làm Hán Vương Như Ư v.v…

[135] Kinh Đại Động là một bộ kinh của Đạo giáo, có tên gọi đầy đủ là Thượng Thanh Đại Động Chân Kinh Tam Thập Cửu Chương. Đây là kinh điển chủ yếu của phái Thượng Thanh trong Đạo giáo, được tôn là kinh đứng đầu trong các kinh thuộc hệ thống Thượng Thanh.

[136] Thái Ḥa là tên một huyện thuộc thành phố Đại Lư, tỉnh Vân Nam.

[137] Vô Tế Đại Sĩ chính là cao tăng Vô Tế Thiền Sư sống vào đời Minh, tác giả của bộ Đạo Lâm Lục được lưu truyền trong cơi đời.

[138] Theo kinh Bảo Tạng, xưa kia có một vị trưởng giả hai vợ chồng đều bị mù, vào trong núi cầu đạo. Khi ấy, có một vị Bồ Tát tên là Nhất Thiết Diệu Kiến sanh ḷng thương xót, bèn đầu thai làm con, được họ đặt tên là Thiểm Ma. Thiểm Ma chí hiếu nhân từ, khi tṛn mười tuổi, theo cha mẹ vào núi để phụng sự. Thiểm Ma mặc áo da hươu, vác b́nh lấy nước. Khi ấy quốc vương là Ca Di vào núi săn bắn, ngỡ là hươu, giương cung bắn trúng Thiểm Ma. Cặp vợ chồng ngửa mặt kêu trời: “Thiểm Ma chí hiếu, trời biết cho, ắt sẽ giúp Thiểm Ma sống lại”. Do vậy, Thích Phạm Tứ Thiên giáng xuống trước Thiểm Ma, đổ thuốc vào miệng, nhổ mũi tên ra, Thiểm Ma sống lại. Cha mẹ kinh ngạc, mừng rỡ, hai mắt sáng lại.

[139] Sơn ca là những khúc hát của dân miền núi.

[140] Từ ngữ này phát xuất từ thiên Vi Chánh trong sách Luận Ngữ: “Kim chi hiếu giả, thị vị năng dưỡng. Chí ư khuyển mă, giai năng hữu dưỡng, bất kính, hà dĩ biệt hồ?” (Nay cứ cho con phụng dưỡng cha mẹ là hiếu, nhưng chó, ngựa cũng đều có thể nuôi đấy thôi! [Nuôi cha mẹ] mà chẳng kính, có khác ǵ [nuôi chó, ngựa] đâu?)

[141] Tuyên Nhân là hoàng hậu của Tống Anh Tông. Về sau, được tôn là Tuyên Nhân Liệt Thánh Thái Hoàng Thái Hậu. Bà họ Cao, tên là Thao Thao, là mẹ của Tống Thần Tông (Triệu Húc), bà nội của Tống Triết Tông (Triệu Hú) và Tống Huy Tông (Triệu Cát). Bà kịch liệt phản đối các biện pháp của Vương An Thạch, trọng dụng phe Tư Mă Quang. Bà được ca ngợi có tài chấp chánh, giúp cháu là Tống Triết Tông cai trị. Các sử gia đánh giá bà uyên bác, anh minh, nghiêm chỉnh chấp hành lễ pháp, giúp cho thời kỳ đầu cai trị của Tống Triết Tông khá thịnh trị. Do vậy, bà được tôn là Nữ Trung Nghiêu Thuấn. Sau khi bà mất, những kẻ căm ghét bà đă bôi bác, t́m mọi cách bêu xấu bà. Chuyện bôi xấu này cũng do Tống Triết Tông chỉ đạo v́ nhà vua vốn đă ham chơi, thích hưởng lạc, lại luôn bị bà nội g̣ ép vào kỷ cương, cho nên ngấm ngầm ôm ḷng oán hận!