B.2. BIỆT TỰ
Phẩm tiếp theo đây là Biệt Tự,
cũng là Phát Khởi Tự. Trong phần này, Như Lai hiện
tướng lành, phóng quang, A Nan hoan hỷ thưa hỏi, Thế
Tôn đáp thẳng vào điều nghi, diễn xuất một
bộ pháp bảo quảng đại, viên măn, giản dị,
nhanh tắt, phương tiện rốt ráo, hy hữu bậc
nhất, khó được gặp gỡ là kinh Phật Thuyết
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh
B́nh Đẳng Giác.
3. Đại Giáo duyên khởi (大 教 緣 起)
Chánh kinh:
爾 時 世 尊 威 光 赫 奕,如 融 金 聚,又 如 明 鏡,影 暢 表 裏,現 大 光 明 數 千 百 變。尊 者 阿 難 即 自 思 惟,今 日 世 尊 色 身 諸 根 悅 豫 清 淨,光 顏 巍 巍,寶 剎 莊 嚴,從 昔 以 來 所未 曾 見。喜 得 瞻 仰,生 希 有 心。即 從 座 起,偏 袒 右 肩,長 跪 合 掌,而 白 佛 言:世 尊 今 日 入 大 寂 定,住 奇 特 法,住 諸 佛 所 住 ,導 師 之 行,最 勝 之 道。去 來 現 在 佛 佛 相 念,為 念 過 去 未 來 諸 佛 耶?為 念 現 在 他 方 諸 佛 耶?何 故 威 神 顯 耀、光 瑞 殊 妙 乃 爾,願 為 宣 說。
Nhĩ thời
Thế Tôn oai quang hách dịch, như dung kim
tụ, hựu như minh kính, ảnh sướng biểu
lư, hiện đại quang minh sổ thiên bách biến. Tôn giả A
- Thế
Tôn kim nhật
nhập đại tịch định, trụ kỳ đặc
pháp, trụ chư Phật sở trụ, đạo sư
chi hạnh, tối thắng chi đạo. Khứ lai hiện
tại Phật Phật tương niệm, vị niệm
quá khứ vị lai chư Phật da? Vị
niệm hiện tại tha phương chư
Phật da? Hà cố oai thần hiển diệu, quang thụy
thù diệu năi nhĩ, nguyện vị
tuyên thuyết.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn oai quang rạng rỡ như khối
vàng nung, lại cũng như gương sáng trong ngoài sáng tỏ,
hiện quang minh lớn, biến hiện ra mấy trăm
ngàn thứ. Tôn giả A
- Thế Tôn ngày
nay nhập đại tịch định, trụ pháp kỳ
đặc, trụ hạnh đạo sư của chư
Phật trụ, là đạo tối thắng. Quá khứ, vị
lai, hiện tại chư Phật nghĩ đến nhau.
Ngài nghĩ đến quá khứ vị lai chư Phật
hay chăng? Ngài nghĩ đến chư Phật hiện tại
ở phương khác hay chăng? V́ sao Ngài lại oai thần
sáng đẹp, tướng lành trong quang minh tuyệt vời
đến mức như thế? Xin tuyên nói cho.
Giải:
Đức Thích Tôn muốn diễn thuyết pháp môn Tịnh
Độ vô thượng thù thắng nên hiện tướng
lành, phóng quang để tạo đầu mối cho A Nan
thưa hỏi, để khiến cho kẻ được
nghe liền sanh ư tưởng hy hữu, sanh ư tưởng
khó gặp gỡ, y giáo phụng hành, cầu sanh Tịnh Độ.
Xét ra, các kinh Viên Đốn đều có nói tướng Bổn
Sư Thích Tôn phóng quang, nay kinh này cũng như vậy. Bản
Hán dịch ghi:
“Ư thời Phật tọa,
tư niệm chánh đạo, diện hữu ngũ sắc
quang, sổ thiên bách biến,
quang thậm đại minh. Hiền giả A
Nan, tức tùng ṭa khởi, canh chánh y phục, khể thủ
Phật túc, tiền bạch Phật ngôn:
- Kim Phật diện mục
quang sắc, hà dĩ thời thời cánh biến! Minh năi nhĩ hồ? Kim Phật diện mục quang
tinh, sổ
bách thiên sắc,
thượng hạ minh triệt, hảo năi như thị.
Ngă thị Phật dĩ lai, vị tằng kiến Phật
thân thể quang diệu, nguy nguy trùng minh năi nhĩ,
ngă vị tằng kiến Chí Chân Đẳng Chánh Giác, quang
minh oai thần, hữu như kim nhật”
(Khi ấy, Phật
đang ngồi, nghĩ đến chánh đạo, mặt
Ngài có ánh sáng năm màu biến hiện mấy trăm ngàn thứ.
Ánh sáng hết sức sáng rực. Hiền giả A Nan liền
từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn
y phục, dập đầu lễ dưới chân Phật,
bạch trước đức Phật rằng:
- Nay vẻ mặt của Phật rạng rỡ, cớ
sao mỗi lúc lại biến đổi sáng rực đến
thế? Nay vẻ mặt đức Phật rạng ngời
tinh thuần có hơn trăm ngàn sắc, trên dưới
sáng tỏ, đẹp đẽ đến thế. Con từ
khi hầu Phật đến nay, chưa từng thấy
thân thể Phật rực sáng, sáng vằng vặc bội
phần đến như thế ấy. Con chưa từng
thấy đấng Chí Chân Đẳng Chánh Giác quang minh oai thần
giống như hôm nay).
Bản Ngô
dịch cũng ghi giống như vậy, chỉ dùng chữ
hơi khác. Các bản dịch khác có đề cập đến
điểm này, nhưng không ghi tỉ mỉ. Bản Ngụy
dịch hai lượt nói: “Quang
nhan nguy nguy (Vẻ mặt rực sáng ṿi vọi), lại
c̣n ghi: “Oai thần quang quang”
(Oai thần rạng rỡ). Bản Đường dịch
chép: “Oai quang hách dịch, như dung
kim tụ, hựu như minh kính, ngưng chiếu quang huy” (Oai quang rạng
rỡ như khối vàng nung, lại như gương sáng
tĩnh lặng, tỏa chiếu sáng ngời). Bản Tống
dịch ghi: “Diện sắc viên măn, bảo sát
trang nghiêm” (Vẻ mặt viên măn, cơi báu trang nghiêm)
So sánh năm bản dịch, bản Hán dịch mô tả
tường tận nhất, các bản dịch khác chỉ
nói giản lược. Câu “bảo
sát trang nghiêm” trong bản Tống dịch có nghĩa là
“trong quang minh hiện ra cơi nước”. Câu này có thể dùng
để bổ túc chỗ thiếu sót của các bản dịch
cũ. Do điểm này, đủ thấy việc hội
tập các bản dịch là điều tất yếu.
Hơn nữa, đa số các nhà chú thích kinh thời
xưa cho rằng khi đức Bổn Sư nói kinh này
chưa từng phóng quang. Đó là bởi họ chưa đọc
kỹ tường tận các bản dịch cổ đời
Ngô, Hán vậy.
Chữ “Thế Tôn” (世 尊) chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật. Tịnh
Ảnh Sớ giảng: “Phật
đủ các đức, được đời tôn trọng,
nên hiệu là Thế Tôn”. Phật là đấng tôn quí nhất
của thế gian nên xưng là Thế Tôn.
“Oai”: có oai đáng nể
th́ nói là “oai”. Chữ Oai (威) ở đây chỉ cho oai thần. Sách Thắng Man Bảo
Quật chép: “Bề ngoài khiến
cho muôn vật kính nể là Oai. Bên trong khó đo lường
nổi th́ gọi là Thần”.
“Quang” (光) là quang minh, tự tỏa sáng là Quang, chiếu soi vạn
vật là Minh (明), cũng có nghĩa là phóng quang
chiếu rạng ngời. Quang minh có hai công dụng: Một
là phá tối, hai là biểu thị pháp. Ấy là v́ quang minh của
Phật chính là tướng trí huệ.
“Hách” (赫) là sáng. “Dịch” (奕) là đông
đảo, tràn trề. V́ vậy, câu “oai quang hách dịch” (tạm dịch là “oai quang rạng
rỡ”) hàm ư quang minh do Phật phóng ra hùng mănh có oai thế,
sáng chói, số lượng rất nhiều. Tiếp theo
đó, dùng ngay h́nh ảnh vàng được nung chảy
để ví von. Sắc vàng vốn đă chói sáng, khi bị
nung chảy c̣n chói lọi hơn nữa. Ví quang minh của
Phật như vàng bị nung chảy ra đọng lại,
cho nên nói “như dung kim tụ” (như
khối vàng nung).
“Hựu như minh kính, ảnh
sướng biểu lư” (Lại như gương sáng
chiếu suốt trong ngoài): Ảnh (影) là bóng của
ánh sáng. Sướng (暢) là thông đạt.
Ngài Hải Đông Cảnh Hưng giảng: “Ánh sáng của gương chiếu
ra ngoài gọi là ‘ảnh biểu’, giống như thân Phật
có quang minh tỏa ra ngoài. H́nh ảnh bên ngoài được
chiếu rơ bởi ánh sáng lại hiện rơ trong
gương, cũng giống như quang minh đă phóng ra soi
ngược lại khiến vẻ
mặt rạng rỡ. Do vậy, bảo là biểu lư”.
Ngài Tịnh Ảnh giảng: “Ánh sáng chiếu ra ngoài gọi là ‘ảnh biểu’. Ánh
sáng chiếu ra ngoài rồi lại hiện rơ trong
gương gọi là ‘ảnh lư’. Thân Phật giống như vậy: Quang minh chiếu
ra ngoài là biểu (表), chiếu rạng thân Phật là lư (裏)”.
Theo hai thuyết trên, thân Phật trong ngoài rạng ngời
ví như tấm gương sáng sạch. Do gương phóng
quang chiếu ra ngoài th́ gọi là “ảnh biểu”. Quang minh
phóng ra ấy lại chiếu vào trong gương th́ gọi
là “ảnh lư”.
Trong hai bản Hán dịch và Ngô dịch chép rằng Phật
quang “sổ thiên bách sắc”
(mấy trăm ngàn sắc) và “sổ
bách thiên biến” (mấy trăm ngàn thứ biến hiện),
“quang thậm đại minh”
(quang minh rất mực sáng rực), “thượng hạ minh triệt” (trên dưới
sáng ngời), “nguy nguy trùng minh”
(càng sáng vằng vặc bội phần) đều chỉ
nhằm nói rơ ư nghĩa “ảnh
sướng biểu lư”.
Câu “diện sắc viên măn,
bảo sát trang nghiêm” (sắc mặt viên măn, cơi báu trang
nghiêm) trong bản Tống dịch chỉ rơ trong quang minh của
Phật hiện bóng mười phương cơi báu như
gương báu to tṛn hiện bóng mười phương.
Sách B́nh Giải giảng rằng: “Trong ánh quang minh vằng vặc, hiện bóng tướng
trang nghiêm các cơi báu mười phương, giống như
trong gương châu báu hiện ra tướng sum la vạn
hữu!” Thuyết trên đây thật đúng là đang
nói về cảnh giới Hoa Nghiêm.
Câu “hiện đại quang minh sổ
thiên bách biến” (hiện quang
minh lớn biến hiện mấy trăm ngàn thứ) ư nói:
Trong pháp hội, Phật phóng quang minh lớn, trong chớp mắt
biến hiện muôn thứ, màu sắc của các tia sáng chen
lẫn, trang nghiêm thù thắng tự nhiên như trong phẩm
Tự của kinh Pháp Hoa chép:
“Mi gian bạch hào, đại quang phổ chiếu” (Từ
tướng bạch hào giữa mày có ánh sáng lớn chiếu
khắp).
Do vậy, “hiện đại
quang minh” chính là “đại
quang phổ chiếu”. V́ vậy, câu “oai thần quang quang” (oai thần rạng ngời)
trong bản Ngụy dịch cũng tương đồng
với câu này, cùng biểu thị quang minh oai thế chiếu
soi rạng ngời của Phật rất rộng lớn,
không ǵ sánh nổi.
C̣n như câu “sổ
thiên bách biến” (mấy trăm
ngàn thứ) th́ cũng như câu “tự
nhiên quang sắc tham hồi, chuyển biến tối thắng”
(tự nhiên màu sắc của từng tia quang minh xen lẫn
nhau, chuyển biến tối thắng) trong phẩm Thọ
Lạc Vô Cực của kinh này, cùng biểu thị Phật
quang tự nhiên xen lẫn nhau, xoay chuyển, màu sắc của
quang minh biến hóa, càng biến hiện càng thù thắng chẳng
cùng cực.
“Tôn giả A
“Ngă
dữ A Nan đẳng ư Không
Vương Phật sở, đồng thời phát A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm. A
Xét về Tích (sự thị hiện trong thế gian),
ngài A Nan là người kết tập Kinh Tạng,
được truyền tâm ấn của Phật (làm vị
Tổ thứ hai của Thiền tông), truyền thọ Mật
Thừa, là nhân vật cốt lơi trong việc truyền thừa
Đại giáo. Kinh Liên Hoa Sanh Đại Sĩ Ứng Hóa Nhân Duyên
nói: “Từ ngài A
V́ vậy, truyền tŕ Phật pháp là bổn nguyện của
ngài A Nan, hiện đang thị hiện làm thị giả của
Phật, tiếp nối huệ mạng của Phật, tiếp
nối quá khứ dẫn đến tương lai. Do vậy,
trong kinh này, Ngài là đương cơ, lại có thể tự
khéo suy nghĩ phát ra lời hỏi hay khéo ấy.
“Sắc thân chư căn duyệt
dự thanh tịnh” (Sắc thân các
căn vui vẻ, thanh tịnh): Chữ “chư căn” chỉ cho năm căn: mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân của thân sắc tướng.
Gia Tường Sớ giải thích chữ “thanh tịnh” là “quang hiển” (sáng ngời, rơ rệt).
Kinh Bảo Tích lại chép:
“Như Lai thân giả, tự tánh
thanh triệt, hà dĩ cố? Như Lai cửu dĩ viễn
ly nhất thiết phiền năo chư cấu
uế cố, Như Lai thân giả, xuất quá thế gian. Hà dĩ cố? Bất vị thế pháp chi sở
nhiễm ô cố, năi chí Như Lai thân giả, như tịnh
kính trung vi diệu chi tượng, như tịnh thủy
trung minh măn chi nguyệt” (Thân Như Lai tự
tánh trong trẻo, v́ cớ sao? V́ Như Lai từ lâu đă xa
ĺa hết thảy phiền năo và các cấu uế. Thân
Như Lai vượt khỏi thế gian. V́ cớ sao? Chẳng
bị pháp thế gian làm nhiễm ô cho đến thân Như
Lai như h́nh ảnh vi diệu trong tấm gương sạch,
như vầng trăng tṛn sáng [hiện bóng] trong nước
sạch).
Tổng hợp những điều vừa dẫn trên
đây, ta có thể giải thích kinh văn như sau: Lúc ấy,
đức Thế Tôn nơi năm căn như mắt
v.v... đều hiện vẻ vui sướng, trong tâm an lạc,
diệu tướng trong trẻo như ảnh hiện
trong gương, như trăng in nước, quang minh viên
măn, thanh tịnh như không có h́nh chất, hoan hỷ sung
sướng, thanh tịnh trang nghiêm.
Lại nữa, v́ sao Phật vui? Tịnh Ảnh Sớ
chép: “Vui v́ có hai lư do:
- Nghĩ đến hạnh
đức đáng ưa đă thành tựu của A Di Đà Phật
cho nên vui.
- Nghĩ đến chúng sanh
đă đến lúc đạt được lợi ích
cho nên vui”.
“Quang nhan nguy nguy” (Quang nhan ṿi vọi): Quang (光) là quang minh.
Nhan (顏) là vẻ mặt. Sách Vô Lượng Thọ
Kinh Tiên Chú viết: “Vẻ mặt
của Phật có ánh sáng nên gọi là quang nhan”.
“Nguy nguy” (巍 巍: ṿi vọi) là ư nói vẻ mặt
cao quư, vĩ đại, đáng tôn trọng nhất. Gia
Tường Sớ giảng: “Nguy
nguy là ư nói đức rộng lớn, cao quư, rạng ngời”.
Nói chung, câu này diễn tả vẻ mặt của Phật
viên măn các đức, rạng ngời quang minh hơn hẳn
hết thảy các thứ.
“Bảo sát trang nghiêm”: Câu này trích từ
bản Tống dịch, phía trước câu này có bốn chữ
“diện sắc viên măn”, ư
nói: Trong quang minh vi diệu phóng ra từ khuôn mặt đức
Phật, hiện bóng cơi nước báu (bảo sát) trang
nghiêm của cơi Phật mười phương. Sách Pháp Hoa Văn Cú Kư, quyển hai
giảng chữ “sát” (剎) như sau: “Sát, Hán dịch là ‘điền’, tức là vương
thổ của một đức Phật”. V́ vậy, Sát (Ksetra) nghĩa là một
Phật độ, tức một nước Phật.
Tiếp ngay theo câu “bảo
sát trang nghiêm”, bản Tống dịch ghi thêm: “Như thị công đức,
đắc vị tằng hữu” (Công đức như
vậy là chưa từng có), ư nói: Quang minh hiển hiện
thập phương, Phật sẽ khai diễn pháp hy hữu
bậc nhất. V́ vậy, Phật hiện tướng lành
chưa từng bao giờ thấy như thế.
Do đó, kinh chép tiếp rằng: “Tùng tích dĩ lai sở vị tằng kiến,
hỷ đắc chiêm ngưỡng, sanh hy hữu tâm” (Từ xưa đến nay, chưa từng
được thấy, mừng rằng ḿnh được
chiêm ngưỡng, sanh tâm hy hữu). Ư câu này là ngài A Nan tuy hầu bên cạnh Phật
đă lâu, nhưng các tướng lành như thế ấy từ
trước đến nay Ngài chưa từng được
thấy. Ngày nay mừng được dịp ngắm nh́n,
khâm phục, thấy quang minh này trong tâm hoan hỷ, liền
khởi lên ư tưởng hy hữu, khó gặp.
Do vậy, A Nan liền từ chỗ ngồi đứng
lên, kéo áo ca-sa đắp thân để lộ vai hữu. Câu
“thiên đản hữu kiên” (trật
áo vai hữu) trong kinh chính là cách tỏ ḷng cung kính cùng cực
của tỳ-kheo. “Trường
quỵ” (quỳ dài) là cả hai đầu gối cùng
đặt sát đất. “Hiệp
chưởng” (chắp tay) là áp cả mười ngón của
hai tay trái và phải vào nhau, nên c̣n gọi là “hiệp thập”.
Ở Ấn Độ, chắp tay biểu thị kính lễ,
biểu thị cung cách nhất tâm chuyên chú, cung kính. “Bạch” là thưa bày. A
“Nhập đại tịch
định”: Ĺa hết thảy tán động, tịch
tĩnh rốt ráo là “đại
tịch”. Đại tịch định là Thiền Định
được đức Như Lai nhập. Quyển ba
mươi kinh Niết Bàn chép: “Ngă ư thử
gian Sa La song thọ, nhập đại tịch định,
đại tịch định giả, danh đại Niết
Bàn” (Ta ở Sa La song thọ
nơi cơi này, nhập đại tịch định. Đại
tịch định có tên là Đại Niết Bàn).
Sách B́nh Giải lại nói: “Phổ
Đẳng tam-muội và Đại Tịch Định chỉ là tên
khác của Niệm Phật tam-muội... Nay đức Phật
v́ để nói pháp môn Niệm Phật nên trụ Niệm Phật
tam-muội”.
Như vậy, Đại Tịch Định nói chung là một
thứ Thiền Định của Phật mang tên Đại Niết
Bàn. C̣n xét theo kinh này, chữ “đại
tịch định” chỉ Niệm Phật tam-muội.
Niệm Phật tam-muội được gọi là Bảo
Vương tam-muội, là vua trong các tam-muội. Giờ
đây, đức Thế Tôn khai diễn pháp môn Tịnh Độ
nên Ngài nhập Niệm Phật Bảo Vương tam-muội.
“Trụ kỳ đặc
pháp”: Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Phật đắc pháp thù thắng hơn những kẻ
khác, trong đời chẳng ai có pháp như vậy nên gọi
là kỳ đặc”. Sách Hợp Tán chép: “Bí thuật để cứu tế phàm phu hiện giờ
sẽ nói nên bảo là trụ kỳ đặc”.
Sách B́nh Giải lại giảng: “Pháp kỳ đặc là chánh giác quả hải của
Như Lai nên gọi là ‘kỳ đặc’. Kỳ đặc
đến cùng cực th́ như phần giảng về Hoa
Quang Xuất Phật sẽ nói rơ. Lại nữa, như
trong phẩm Tánh Khởi của kinh Hoa Nghiêm: ‘Nhất thiết
chúng sanh thân trung hữu chánh giác trí, thán chi vân kỳ tai’ (Trong thân hết thảy chúng sanh
có chánh giác trí, do khen ngợi nên nói là kỳ thay). [Điều này] kỳ th́ kỳ lạ
thật, nhưng chưa đặc biệt. Lại như
trong phẩm Đề Bà Đạt Đa kinh Pháp Hoa, long nữ thành Phật
mới thật là đặc biệt. Đặc biệt th́
đặc biệt thật, nhưng chưa kỳ lạ.
Chỉ có một pháp môn này kỳ lạ nhất, đặc
biệt nhất, v́ sao? Kinh dạy: ‘Chúng bảo liên hoa, châu
măn thế giới’ (Các hoa
sen báu khắp đầy thế giới).
Hoa sen ấy nếu bảo
là y báo th́ ngoài hoa nào có Chánh Giác của Phật, nếu bảo
là chánh báo th́ sao lại nói là trăm ngàn ức cánh? Nếu
cho là Nhân th́ hoa ấy chính là công đức của Như
Lai quả. Nếu cho là Quả, hoa ấy chính diệu hoa
được sanh trong thập phương. Nếu cho là
Chủ th́ hoa hàm chứa vô lượng huệ của
mười phương tam thế. Nếu bảo là Bạn,
lại chỉ là Chánh Giác của Như Lai. Nếu cho là một
pháp th́ trong ấy lại xuất sanh vô lượng pháp. Nếu
cho là vô lượng, hoa ấy cũng là một câu danh hiệu.
Kỳ kỳ, đặc đặc! Pháp chẳng thể
nêu, chẳng thể nói, chẳng thể nghĩ bàn nên cưỡng
gọi là pháp kỳ đặc”.
Nghĩa trên đây rất sâu, ở đây tôi chỉ
lược nói: Quả đức của Như Lai
được xưng tụng là kỳ đặc, tối
cực kỳ đặc như đoạn kinh nói về
“ánh sáng của hoa hiện ra đức Phật” trong kinh có
nói rơ.
Vả lại, như kinh Hoa Nghiêm nói: “Nhất thiết chúng sanh thân trung hữu chánh giác trí”
(Trong thân hết thảy chúng sanh có chánh giác trí), điều
này rất kỳ lạ, nhưng chúng sanh ai cũng có, chẳng
phải là hiện tượng đặc biệt, nên cho rằng:
“Kỳ lạ nhưng chưa đặc biệt”. Trong kinh
Pháp Hoa, long nữ thành Phật: Long nữ tám tuổi, ngay lập
tức thành Phật, thật là rất đặc biệt.
Nhưng là đặc biệt mà không kỳ lạ, do v́ chúng
sanh vốn sẵn là Phật, ai cũng có phần, ai
cũng hiện thành được. V́ vậy, long nữ
thành Phật cũng chẳng được coi là kỳ lạ!
Chỉ có một pháp Tịnh tông trong kinh đây đă là đặc
biệt nhất, lại cũng là kỳ lạ nhất. Phần
sau, trong phẩm Bảo Liên Phật Quang (hoa sen báu và quang
minh của Phật) sẽ nói rơ về phương diện
y báo, chánh báo, chủ, bạn, nhân quả, một, nhiều....
Nếu luận theo thường t́nh, do hoa sen ở trong
ao nên là Y Báo. Nhưng nếu bảo là Y Báo, th́ mỗi một
hoa có ba mươi sáu trăm ngàn ức ánh sáng, trong mỗi
một ánh sáng hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức
Phật; đủ thấy Phật từ hoa hiện ra, nên
nói: Ngoài hoa không có Phật. Do vậy, chẳng thể bảo
hoa là Y Báo.
Nếu cho là Chánh Báo, trong kinh nói hoa có trăm ngàn ức
cánh, rơ ràng là cánh hoa chẳng phải là thân Phật, nên chẳng
được nói là Chánh Báo.
Nếu xem là nhân, do hoa ấy từ quả đức của
Như Lai thành tựu, nên chẳng phải là nhân.
Nếu xem là quả, hoa ấy lại là vật
được sanh trong mười phương thế giới,
chẳng đợi đến khi hành nhân đạt đến
cái Quả Giác ngộ, viên măn công phu. V́ vậy, hoa sen chẳng
thể là quả.
Nếu xem là chủ th́ hoa hàm chứa được
mười phương tam thế vô lượng huệ,
dung chứa hết thảy, bạn của hoa quá nhiều!
Nếu xem là bạn, th́ ngoài tâm không có pháp, chỉ là
Chánh Giác của Như Lai. Y báo, chánh báo, chủ, bạn, hết
thảy mọi vật trong Cực Lạc đều chỉ
do tự tâm của Di Đà Như Lai hiện ra.
Muốn bảo là một pháp th́ một hoa có vô lượng
quang, trong mỗi quang minh xuất sanh vô lượng pháp. Nếu
nói là vô lượng, lại chỉ là một câu danh hiệu.
Ba thứ trang nghiêm vào trong một pháp cú.
V́ vậy, bảo đây là pháp kỳ lạ nhất
trong các sự kỳ lạ, pháp đặc biệt nhất
trong những chuyện đặc biệt, pháp chẳng thể
nêu, chẳng thể nói, chẳng nghĩ bàn, cũng chẳng
thể đặt tên nổi, chỉ đành cưỡng gọi
là “pháp kỳ đặc”.
Nay đức Thế Tôn muốn tuyên nói hoằng nguyện
Nhất Thừa của Phật Di Đà là pháp kỳ đặc
nhất, nên trụ vào sở trụ của Phật Di Đà, là
điều Phật nào cũng nghĩ đến, nên nói là “trụ kỳ đặc pháp”.
“Trụ chư
Phật sở trụ đạo sư chi hạnh, tối
thắng chi đạo” (Trụ hạnh đạo sư của chư
Phật trụ, là đạo tối thắng): Tịnh Ảnh
Sớ giảng chữ “Phật
sở trụ” như sau: “Chỗ
Phật trụ là Niết Bàn thường quả, chư Phật
cùng trụ. Nay đức Thế Hùng (chỉ đức
Thích Ca) trụ nơi chỗ trụ
ấy là trụ đại Niết Bàn để khởi
lên diệu dụng hóa độ”.
Sách Hội Sớ giảng: “Chỗ
Phật trụ chẳng phải là điều Nhị Thừa,
Bồ Tát có thể đạt đến nổi, chỉ có
Phật với Phật mới có thể trụ nổi”.
Lại viết: “Phật giảng
tam thừa, hễ khi nói các các giáo pháp khác đều trụ
trong pháp tam thừa. Nay Ngài trụ vào chỗ trụ của
chính ḿnh nên nói là trụ chỗ Phật trụ”.
Thuyết sau hay hơn, v́ hiện tại pháp được
Phật sẽ nói là Quả Giác của Phật, là cảnh
giới của Phật, cho nên phải trụ vào pháp chư
Phật tự trụ để tỏ bày diệu pháp thù thắng
này ngơ hầu làm nhân tâm (cái tâm phát khởi để làm nhân,
hầu đạt đến cái quả là sự giác ngộ
hoàn toàn) cho chúng sanh.
Sách B́nh Giải lại giảng: “Trụ chỗ trụ của Phật là trụ Phổ
Đẳng tam-muội. Phổ Đẳng tam-muội và Đại Tịch
Định đều là tên khác của Niệm Phật tam-muội.
Tam thế chư Phật đều trụ vào Niệm Phật
này nên bảo là chỗ trụ của Phật. Nay Phật v́ chúng sanh nói pháp môn Niệm
Phật nên trụ trong Niệm Phật tam-muội”. Thuyết
của sách B́nh Giải phù hợp với yếu chỉ của
kinh này nhất.
“Đạo sư” là bậc dẫn
dắt người khác nhập Phật đạo. Kinh Thập
Trụ Đoạn Kết nói: “Hiệu
đạo sư giả, linh chúng sanh hiển thị kỳ
chánh đạo giả” (Gọi là đạo
sư v́ chỉ bày rơ ràng chánh đạo cho chúng sanh). Kinh Hoa
Thủ chép: “Năng vị
nhân thuyết vô sanh tử đạo, cố danh đạo
sư” (Có thể v́
người khác nói đạo chẳng sanh tử nên gọi
là đạo sư). Kinh Phật Báo Ân nói: “Đại đạo sư giả,
dĩ chánh lộ thị Niết Bàn kinh, sử đắc vô
vi thường lạc cố” (Đại đạo sư là bậc dùng đường
chánh chỉ bày kinh Niết Bàn, khiến cho được
vô vi thường lạc – ‘Vô vi’ là pháp vô vi, ‘thường lạc’
là thường lạc ngă tịnh).
Sách B́nh Giải lại viết: “Hạnh đạo sư chính là Di Đà Thế Tôn b́nh
đẳng dẫn dắt không để sót vậy” và: “Đại đạo sư chính là
Di Đà Thế Tôn dùng bổn nguyện nhiếp dẫn năm
thừa”. Do đó, đức Bổn Sư diễn thuyết
kinh này chính là Ngài đă trụ vào hạnh của Phật Di
Đà vậy.
Chữ “tối thắng chi
đạo” (đạo tối thắng) được
Tịnh Ảnh Sớ giảng rằng: “Vô Thượng Bồ Đề là đạo tối thắng”.
Sách Hội Sớ lại giảng như sau: “Là pháp mà hết thảy pháp thế
gian, xuất thế gian chẳng thể sánh được”.
Sách B́nh Giải giảng: “Đạo
tối thắng là một đạo Niệm Phật Văng
Sanh v́ trong hết thảy phương tiện nó là vô
thượng tối thắng”. Lại c̣n viết: “Đạo tối thắng là giải
thoát đức. Kinh Niết Bàn dạy: ‘Vô thượng
thượng, chân giải thoát’. V́ vậy, vô thượng
thượng nghĩa là tối thắng”.
Hai thuyết của sách B́nh Giải bổ sung cho nhau. Ấy
là v́ Niệm Phật chính là đạo tối thắng vô
thượng thượng: Khi văng sanh ắt chứng Niết
Bàn.
Hơn nữa, ngay trong lúc đang niệm Phật, tâm là
Phật, tâm làm Phật, ngay khi ấy chính là Phật, chính là
lúc vô thượng thượng giải thoát. Ngày nay đức
Thích Tôn sắp khai diễn diệu pháp Di Đà nên trụ
nơi Phật Di Đà đă trụ, hành hạnh của Phật
Di Đà hành, niệm điều Phật Di Đà niệm. Do vậy,
ngài A Nan bảo Phật “trụ
chư Phật sở trụ tối thắng chi đạo”
(trụ đạo tối thắng của chư Phật
trụ).
Với các câu “khứ lai
hiện tại Phật Phật tương niệm” (quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật
nghĩ đến nhau) v.v... Gia Tường Sớ giảng:
“Điều mà vị quá khứ, vị
lai, hiện tại Phật nào cũng nghĩ nhớ là tam
thế chư Phật đều có ư niệm hóa độ
chúng sanh. Ánh sáng của mỗi
vị chiếu lẫn nhau, trí từng vị chiếu soi lẫn
nhau nên bảo là nghĩ nhớ lẫn nhau”.
Sách B́nh Giải viết: “Các
đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại, lấy
điều cả ba đời nghĩ nhớ để
suy lường điều đức Phật đang tâm niệm”.
Sách Hợp Tán lại viết: “Ta được tam thế chư Phật nghĩ
đến, suy ra lẽ nào đức Phật hiện tại
chẳng nghĩ đến chư Phật. Nhưng nay Ngài lại
hiện ra tướng lạ lùng này vượt hơn hẳn
chư Phật là có nguyên cớ ǵ?”
Kinh chép: “Oai thần hiển
diệu, quang thụy thù diệu” là ư nói: Hiện ra sắc
tướng, quang nhan ṿi vọi, oai thần khó lường,
phóng quang hiện điềm lành, tướng đẹp
thù thắng: Mười phương bảo sát (cơi báu) hiện
bóng trong quang minh. Do vậy, sách Hợp Tán khen ngợi là “vượt hẳn chư Phật”.
Ngài A Nan do
thấy hiện các quang minh, tướng tốt lành ḿnh
chưa hề được thấy như vậy, hoan hỷ,
mừng rỡ, nên lại tự suy nghĩ: Ngày hôm nay đức
Thế Tôn hiện quang minh hy hữu như thế, hiển
lộ tướng tốt lành khó thấy biết trọn vẹn
như thế, ắt hẳn đức Thế Tôn phải
nhập đại tịch định, trụ pháp kỳ
đặc.
Pháp ấy,
định ấy chính là Niệm Phật tam-muội, hạnh
đạo sư, đạo tối thắng. Do tam thế
Như Lai, mỗi vị Phật nghĩ đến nhau; suy
ra đức Thích Tôn nay ắt hẳn đang nghĩ đến
Phật khác, chỉ chưa biết rằng Ngài nghĩ
đến vị Phật nào, cho nên thưa hỏi: “Vị niệm quá khứ vị lai
chư Phật da? Vị niệm hiện tại
tha phương chư Phật da?” (Ngài
nghĩ đến chư Phật quá khứ, vị lai
chăng? Ngài nghĩ đến
chư Phật phương khác trong hiện tại
chăng?) Nếu chẳng phải là nghĩ đến
đức Phật, v́ sao ngày nay Phật lại “oai thần hiển diệu, quang thụy thù diệu
năi nhĩ” (oai thần chiếu ngời
đẹp đẽ, tướng lành nơi ánh sáng tuyệt
vời đến mức như thế). “Oai” (威) là dũng mănh.
“Thần” (神) là chẳng thể
nghĩ lường. “Hiển
diệu” (顯 燿) là sáng đẹp.
Trong quang minh của Phật hiện bóng mười
phương bảo sát trang nghiêm, hiển hiện Hoa Nghiêm
huyền môn nhiệm mầu chẳng thể nghĩ bàn.
Tướng tốt lành trong ánh sáng ấy (quang thụy) mầu
nhiệm tuyệt luân, cho nên A Nan thỉnh Phật giảng
cho.
Chánh kinh:
於 是 世 尊,告 阿 難 言:善 哉 善 哉!汝 為 哀 愍 利 樂 諸 眾 生 故,能 問 如 是 微 妙 之 義。 汝 今 斯 問,勝 於 供 養 一 天 下 阿 羅 漢、辟 支 佛,佈 施 累 劫 諸 天 人 民、蜎 飛 蠕 動 之 類,功 德 百 千 萬 倍。何 以 故?當 來 諸 天 人 民,一 切 含 靈,皆 因 汝 問 而 得 度 脫 故。
Ư thị Thế Tôn cáo A
- Thiện tai,
thiện tai! Nhữ vị ai mẫn lợi lạc chư chúng sanh cố, năng vấn như
thị vi diệu chi nghĩa. Nhữ kim tư vấn, thắng
ư cúng dường nhất thiên hạ A La Hán, Bích Chi Phật,
bố thí lũy kiếp chư thiên nhân dân, quyên phi nhuyễn
động chi loại, công đức bách thiên vạn bội.
Hà dĩ cố? Đương lai chư thiên nhân dân, nhất thiết hàm linh,
giai nhân nhữ vấn nhi đắc độ thoát cố.
Khi ấy, đức
Thế tôn bảo A
- Lành thay! Lành
thay! Ông v́ thương xót, lợi lạc các chúng sanh nên có thể
hỏi nghĩa vi diệu như vậy. Ông nay hỏi
như thế hơn cả công đức cúng dường
một thiên hạ A La Hán, Bích Chi Phật, bố thí suốt
nhiều kiếp cho chư thiên, nhân dân, các loài ngọ nguậy,
bay lượn, ḅ trườn đến trăm ngàn vạn
lần. V́ cớ sao? V́ chư thiên, nhân dân, hết thảy
hàm linh trong tương lai sẽ đều do lời hỏi
của ông mà được độ thoát!
Giải:
Đoạn kinh trên là lời đáp của đức Bổn
Sư. “Thiện” (善) là tốt. “Thiện tai!” (Lành thay - Sadhu)
là lời khen ngợi. Trí Độ Luận chép: “Lành thay, lành thay, nói đến
hai lần là tỏ sự vui mừng vậy”.
Sư Tịnh Ảnh bảo lời hỏi của A Nan
“xứng cơ, đương
pháp, hợp thời” nên đức Phật khen ngợi.
Sách B́nh Giải cho rằng “v́ lời
hỏi đó tương xứng tâm Phật”. Những
câu tiếp đó là lời đức Như Lai tự giải
thích lời khen ngợi của ḿnh.
“Nhữ vị ai mẫn, lợi
lạc chư chúng sanh cố, năng vấn như thị
vi diệu chi nghĩa” (Ông v́
thương xót, lợi lạc các chúng sanh nên có thể hỏi
nghĩa vi diệu như thế):
“Ai mẫn” (哀 愍: thương
xót) là bi tâm dẹp khổ. “Lợi
lạc” là từ tâm ban vui. Phật khen A Nan: Ông nay nguyện
dẹp tan nỗi khổ của hết thảy chúng sanh nên
mới hỏi nghĩa như vậy. “Vi diệu”: Pháp thể u huyền nên nói là “vi” (微), dứt bặt nghĩ lường nên gọi là “diệu”
(妙). Ấy là do bản thể của pháp u thâm,
diệu huyền, chẳng thể dùng ngôn ngữ, phân biệt
mà biết được nổi, v́ vậy, gọi là “vi diệu”.
Từ câu “nhữ kim tư vấn” (ông nay hỏi
như thế) cho đến hết đoạn kinh đều
nói về công đức của lời hỏi của A Nan.
“Nhất thiên hạ” chính là một
trong tứ thiên hạ. Tứ thiên hạ chính là bốn
đại châu vây quanh bốn phía núi Tu Di. Một là Nam Thiệm
Bộ Châu (tức là địa cầu), hai là Đông Thắng
Thần Châu, ba là Tây Ngưu Hóa Châu, bốn là Bắc Uất
Đan Châu. V́ vậy, “nhất thiên
hạ” là một đại châu.
Phật dạy: Công đức của lời hỏi ấy
của ngài A Nan c̣n hơn cả công đức cúng dường
A La Hán, Bích Chi Phật và bố thí chư thiên, nhân dân trong
nhiều kiếp và các loài trùng “ngọ nguậy, bay lượn,
ḅ trườn” trong cả một đại châu đến
trăm ngàn vạn lần.
“Kiếp” là cách gọi tắt
chữ Kiếp-ba (Kalpa) của tiếng Phạn, dịch là
Trường Thời. Trí Độ Luận nói: “Núi đá to bốn mươi dặm, có người
trường thọ, cứ mỗi trăm năm lại
đến một lần dùng chiếc áo mềm mại phất
qua. Khi ḥn đá to ấy đă bị phẩy đến ṃn
nát hết cả rồi mà kiếp vẫn chưa tận”.
“Quyên” (蜎: ngọ nguậy) chỉ cho loài
trùng nhỏ. “Quyên phi” là loại trùng nhỏ biết bay.
“Nhuyễn động” (蠕 動, c̣n đọc là “nhụ động”:
Ḅ trườn) là loài trùng không chân, chỉ loài trùng
đi bằng cách ḅ. Lời hỏi của A Nan v́ sao có công
đức đến thế? Là v́ “đương lai chư
thiên nhân dân, nhất thiết hàm linh giai nhân nhữ vấn
nhi đắc độ thoát cố” (chư thiên,
nhân dân, hết thảy hàm linh trong tương lai đều
nhân lời hỏi của ông mà được độ
thoát).
“Hàm linh” (含 靈) chỉ loài có
linh tánh, tức là chúng sanh. Bản Hán dịch ghi: “A
Chánh kinh:
阿 難, 如 來 以 無 盡 大 悲,矜 哀 三 界,所 以 出 興 於 世。光 闡 道 教,欲 拯 羣 萌,惠 以 真 實 之 利,難 值 難 見,如 優 曇 花,希 有 出 現。汝 今 所 問,多 所 饒 益。
A
A Nan, Như Lai
do vô tận đại bi, xót thương tam giới, cho nên
xuất hiện trong đời, quang xiển đạo
giáo, muốn cứu vớt quần manh, ban cho điều lợi
chân thật, khó gặp, khó thấy, như hoa Ưu Đàm ít khi
xuất hiện. Nay lời hỏi của ông gây lợi ích
rất nhiều.
Giải:
“Vô tận đại bi”: Phẩm Phổ
Hiền Hạnh Nguyện chép: “Chư
Phật Như Lai dĩ đại bi tâm nhi vi Thể cố”
(Chư Phật Như Lai dùng tâm đại bi để
làm Thể vậy) và “dĩ
đại bi thủy nhiêu ích chúng sanh, tắc năng thành tựu
chư Phật, Bồ Tát trí huệ hoa quả” (dùng
nước đại bi nhiêu ích chúng sanh th́ sẽ có thể
thành tựu hoa quả trí huệ của chư Phật, Bồ
Tát).
“Vô tận” chính là ư
nghĩa “chẳng có cùng tận” trong phẩm Phổ Hiền
Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm. Như Lai do tâm đại
bi chẳng cùng tận nên thương xót tam giới.
“Căng ai” (矜 哀) là thương
yêu, xót thương. “Tam giới”
là Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới.
Đức Phật v́ thương xót hết thảy chúng
sanh trong tam giới “sở
dĩ xuất hưng ư thế” (cho nên xuất
hiện trong đời).
Câu này chỉ rơ bổn hoài xuất hiện trong thế
gian của Như Lai. Kinh Pháp Hoa nói: “
“Quang xiển đạo giáo, dục
chửng quần manh” (Quang xiển
đạo giáo, muốn cứu vớt quần manh): Quang (光) là sáng sủa,
to lớn, rộng răi. Xiển (闡) là mở ra. “Đạo
giáo” chỉ chánh đạo thật giáo, tức là giáo hóa của
chư Phật, chỉ chung cho giáo pháp suốt cả một
đời của đức Thế Tôn gồm tám vạn bốn
ngàn pháp môn. V́ vậy, “quang xiển
đạo giáo” nghĩa là rộng tuyên kinh pháp của
Như Lai.
“Chửng” (拯) là cứu giúp.
“Manh” (萌) là mầm mộng,
“quần manh” chỉ quần
sanh. Chư Như Lai dùng đại bi làm Thể muốn cứu
hết thảy chúng sanh nên nói: “Dục chửng
quần manh” (Muốn cứu
giúp quần manh).
Sách Hội Sớ giảng: “Tiệm,
Đốn đều xứng với căn cơ, tùy duyên
đều được độ thoát, nên bảo là ‘chửng
quần manh’ (cứu giúp quần manh)”.
Sách c̣n viết: “Chữ Dục
(muốn) chỉ cho sở nguyện đại
bi của đức Thích Ca. Nhưng
một chữ này thông với cả đoạn trên lẫn
đoạn dưới, bao hàm hai nghĩa:
- Một là, khi nói ‘dục chửng
quần manh’ th́ chư Phật Như Lai dùng đại bi
làm Thể muốn làm cho kẻ chưa độ được
độ, kẻ chưa an được an, đó là ‘quang
xiển đạo giáo’. V́ vậy, ư câu này thông với câu
kinh văn trước đó.
- Hai là muốn thí cho lợi
lạc chân thật, tức là Như Lai muốn cho chúng sanh
nhập Di Đà nguyện hải”.
Sách B́nh Giải kết luận thuyết trên bằng
câu: “
“Huệ dĩ chân thật chi lợi” (Ban điều lợi chân thật): “Huệ” (惠) là ban cho,
cũng có nghĩa là ân tứ (thưởng cho). Theo Thiện
Đạo đại sư, “chân
thật chi lợi” là cái lợi chân thật phát xuất
từ thệ nguyện của Phật Di Đà. Bài kệ của
đại sư có câu: “Như
Lai sở dĩ xuất hiện trong đời là chỉ
để nói biển bổn nguyện của Phật A Di
Đà”.
Sách B́nh Giải khen ngợi rằng: “Nay riêng ḿnh kim gia (người Nhật gọi
đại sư Thiện Đạo là kim gia) giải thích khéo léo, những người khác chẳng
bàn được như vậy. Thuận theo cách giải
thích của Tổ, lấy Di Đà bổn nguyện làm cái lợi
chân thật th́ ư nghĩa dùng tám vạn bốn ngàn pháp môn
để quang xiển đạo giáo đă được
minh bạch”.
Sách B́nh Giải lại dẫn sách Lục Yếu: “Lợi chân thật chỉ cho danh
hiệu này, tức là Phật trí”.
Sách B́nh Giải viết thêm: “Nay
chân thật là Phật trí danh hiệu. Ngài Thiện Đạo
cho rằng Pháp Tạng trong lúc tu nhân thành tựu chân thật
nên bảo là bổn nguyện chân thật. Nói rộng ra th́ là năm nguyện
chân thật. Nói gọn lại th́ chỉ là một câu danh hiệu.
V́ vậy, ta biết rằng cái chân thật này bao gồm
giáo, hạnh, tín, chứng”
Như vậy, “lợi” là cái lợi lớn lao của
danh hiệu. Cứu cánh của cái lợi lớn lao ấy
chính là Niết Bàn vô thượng diệu quả. Sách B́nh Giải
c̣n viết:
“[Gọi là] lợi chân thật
là v́ so sánh với phương tiện quyền giả. V́ vậy,
đem pháp thế gian so với Tiểu Thừa th́ Tiểu
Thừa là chân mà pháp thế gian là giả. Dùng Tiểu Thừa
sánh với Quyền Đại Thừa th́ Quyền Đại Thừa
là chân mà Tiểu Thừa là giả. Dùng Quyền Đại Thừa
sánh với Thật Đại Thừa Pháp Hoa, Hoa Nghiêm v.v... th́
Thật Đại là chân, Quyền Đại là giả.
Dùng Thật Đại thừa
Pháp Hoa, Hoa Nghiêm v.v… sánh với nguyện thứ mười
chín của Phật Di Đà (Nguyện mười chín trong bản
Ngụy dịch như sau: “Phát
Bồ Đề tâm, tu chư công đức, chí tâm tín nguyện,
dục sanh ngă quốc” (Phát
Bồ Đề tâm, tu các công đức, chí tâm phát nguyện,
muốn sanh cơi ta)) th́ nguyện
mười chín là chân, mà Hoa Nghiêm, Pháp Hoa... là giả. V́ cớ
sao? Hoa Nghiêm, Pháp Hoa lấy văng sanh làm mặt lợi ích của
kinh, các kinh ấy vẫn chưa ra khỏi nguyện mười
chín.
Đem nguyện mười chín
sánh với nguyện hai mươi (bản Ngụy
dịch: “Văn ngă danh hiệu,
hệ niệm ngă quốc, thực chúng đức bổn,
chí tâm hồi hướng, dục sanh ngă quốc” (Nghe danh hiệu ta, hệ niệm
cơi ta, trồng các cội đức, chí tâm hồi hướng,
muốn sanh cơi ta)) th́ nguyện
hai mươi là chân, nguyện mười chín là giả.
Đem nguyện thứ hai
mươi sánh với nguyện mười tám (mười niệm
văng sanh) th́ nguyện hai
mươi là giả, nguyện thứ mười tám là
chân, là viên đốn nhất trong pháp viên đốn”.
Viên đốn tột bực không ǵ hơn kinh Hoa Nghiêm,
Pháp Hoa, mà nay c̣n chê là quyền giả, chỉ khen ngợi Nhất
Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh của kinh
này là viên nhất trong những pháp viên, pháp đốn nhất
trong pháp đốn, chân thật nhất trong các thứ chân
nhất là v́ cớ ǵ? Sách B́nh Giải giải thích:
“Nay bàn về mặt lợi
ích, pháp kia là giả, pháp này là chân. V́ sao? Pháp kia (chỉ cho Pháp
Hoa, Hoa Nghiêm) nói đến sự
nhanh chóng thành Phật đạo, nhưng chẳng thấy
có người nhanh chóng thành Phật, nên thành ra “biệt thời
ư”[1].
Pháp thể (bản thể
của Pháp) há có biệt
thời ư, chỉ do căn cơ của con người hèn
kém. Nay những kẻ tin tưởng chẳng nghi ngờ
th́ mười người tu cả mười được
sanh, văng sanh rồi sẽ tiến đến Bồ Đề
chẳng lui sụt: Ngay nơi đầu tiên ḿnh được
sanh về đă là Bồ Đề v́ dẫu Phật tại thế
hay diệt độ, cũng chỉ có một pháp này, bởi
lẽ hết thảy phàm thánh thực hành pháp này không phân biệt, bởi về mặt
lợi ích chân thật th́ không có ǵ hơn nổi pháp này”.
Đoạn văn trên ư nói: Nếu luận về pháp thể,
các kinh đều là chân, nhưng nếu bàn về mặt lợi
ích, các kinh khác đều là giả, chỉ có pháp này là chân.
V́ sao thế? Do các pháp như Pháp Hoa v.v... tuy nói có đạo
thành Phật nhanh chóng, nhưng chẳng thấy có người
y pháp tu tŕ ngay đời sau thành Phật, nên đó chỉ
là cái nhân để thành Phật một cách biệt thời
(tức là trong tương lai lâu xa sau này sẽ thành Phật).
Luận về pháp thể, vốn chẳng phải
đợi đến biệt thời mới thành Phật;
hiềm v́ căn cơ hành giả kém cỏi nên chẳng thể
nhanh chóng thành Phật. Chỉ có Nhất Thừa nguyện hải
của Tịnh Tông và sáu chữ hồng danh này, mười
người tu mười người được sanh,
vạn người tu vạn người văng sanh, nên vượt
trỗi hơn các kinh khác. Vả lại:
- Văng sanh ắt chứng Bồ Đề.
- Khi pháp diệt rồi chỉ c̣n kinh này để
độ sanh
- Phàm thánh niệm Phật b́nh đẳng. Sách Sớ Sao
viết: “Tề chư thánh
ư phiến ngôn” (Một câu ngang với chư thánh)
V́ vậy, ta bảo là “lợi chân thật” không có chi
hơn được pháp này.
Hơn nữa, kinh này có thể ban cho cái lợi chân thật
là do những điều được giảng trong kinh
đều là Chân Thật Tế. Cơi mầu nhiệm Cực
Lạc chính là do A Di Đà Phật trụ vào Chân Thật Tế
biến hiện ra như Văng Sanh Luận đă viết: “Ba thứ (chỉ cơi Phật,
Phật, Bồ Tát) thành tựu
nguyện tâm trang nghiêm... vào trong một pháp cú. Một pháp cú
là thanh tịnh cú. Thanh tịnh cú là chân thật trí huệ vô
vi Pháp Thân”. Chân Thật Tế là vô vi Pháp Thân. Y báo, chánh
báo của Cực Lạc là do trí huệ chân thật hiện
ra. Do v́ hết thảy chân thật nên có thể ban cho điều
lợi chân thật.
Vô vi Pháp Thân chính là Thật Tướng, cho nên sách Yếu
Giải nói:
“Năng thuyết (đức
Phật giảng kinh), sở thuyết (pháp môn Tịnh Độ),
năng độ (người hóa độ, tức Thích Ca
Mâu Ni Phật và A Di Đà Phật), sở độ (người
được hóa độ, tức chúng sanh tin tưởng
vào pháp môn Tịnh Độ rồi hành tŕ), năng tín (cái tâm tin vào pháp môn Tịnh Độ),
sở tín (điều được hành nhân Tịnh
nghiệp tin tưởng, tức bổn
nguyện của Phật Di Đà), năng nguyện (tức tâm phát nguyện cầu sanh của hành nhân), sở nguyện (điều
được phát nguyện, tức ư nguyện cầu sanh
Tịnh Độ), năng tŕ (người hành tŕ), sở tŕ (pháp được tŕ, tức hồng danh A Di Đà Phật), năng sanh (người văng
sanh cơi Cực Lạc), sở sanh (cơi để sanh về, tức Cực Lạc), năng tán (người khen ngợi), sở tán (đối tượng
được khen ngợi, tức y báo, chánh báo cơi Cực
Lạc), không thứ ǵ
chẳng do Thật Tướng chánh ấn in vào”. Đủ thấy:
Nhập được pháp môn này rồi th́ mỗi mỗi
việc đều là nhập Thật Tướng. V́ vậy,
trong những pháp ban bố cái lợi chân thật th́ không
pháp ǵ hơn được pháp này.
“Nan trị nan
kiến, như Ưu Đàm hoa, hy hữu xuất hiện” (Khó gặp, khó thấy như hoa Ưu Đàm ít khi
xuất hiện): “Trị” (値) là gặp gỡ.
Sách Hội Sớ giảng: “Phật
pháp khó nghe nên nói ‘nan trị’ (khó gặp). Phật thân khó
được trông thấy nên là ‘nan kiến’ (khó thấy)”.
Hoa Ưu Đàm (Udumbara)
có chỗ
dịch là Linh Thụy Hoa. Lá nó như lá cây lê, quả to bằng
nắm tay, vị ngọt, không hoa mà kết trái, tuy có hoa
nhưng rất ít khi thấy được hoa.
Kinh Bát Niết Bàn chép: “Hữu tôn thụ
vương, danh Ưu Đàm Bát, hữu thực vô hoa,
nhược kim hoa sanh giả, thế năi hữu Phật” (có loại cây tôn quư là vua của các
loài cây, tên là Ưu Đàm Bát, có trái, không hoa. Nếu nó sanh kim
hoa, trong cơi đời bèn có Phật).
Kinh Văn Thù Hiện Pháp Tạng lại chép: “Vô Phật thế,
hữu thực vô hoa” (Nhằm đời không có Phật, cây ấy chỉ
có trái, chứ không có hoa).
Kinh Xuất Diệu lại chép: “Sổ thiên vạn kiếp,
thời thời năi xuất. Quần sanh kiến hoa, vị
viết Như Lai tương xuất” (Hơn mấy ngàn vạn kiếp,
thỉnh thoảng mới trổ hoa. Chúng sanh thấy hoa bảo
rằng Như Lai sắp ra đời).
Theo các kinh trên, hoa này khó gặp ít có, khi nào có Phật ra
đời th́ nó mới xuất hiện. V́ vậy, nó
được dùng để ví với giáo pháp chân thật
của Phật khó thể gặp gỡ.
Nay do lời hỏi của A Nan, bổn hoài của
đấng Thích Tôn được mở toang, hoằng nguyện
của Phật Di Đà được tỏ rơ, nên bèn đem
pháp chân thật này giăi bầy hết cả ra để lợi
ích khắp quần sanh. V́ vậy, Phật khen A Nan rằng:
“Nhữ kim sở
vấn, đa sở nhiêu ích” (Nay
lời
hỏi của ông gây nhiều lợi ích).
Chánh kinh:
阿 難 當 知,如 來 正 覺, 其 智 難 量,無 有 障 礙。能 於 念 頃,住 無 量 億 劫。身 及 諸 根,無 有 增 減。所 以 者 何?如 來 定 慧,究 暢 無 極。於 一 切 法,而 得 最 勝 自 在 故。阿 難 諦 聽,善 思 念 之,吾 當 為 汝,分 別 解 說。
A
A
Giải:
Chánh Giác là giác trí chân chánh chứng ngộ hết thảy
các pháp, tức là Chân Trí của Như Lai. V́ vậy, ta bảo
thành Phật là thành Chánh Giác như Tịnh Ảnh Sớ viết:
“Như Lai chánh giác gọi chung
là Phật trí”. Đủ thấy bốn chữ “Như
Lai Chánh Giác” biểu thị Phật trí một cách hoàn
toàn. Trí ấy rất sâu nên bảo là “nan lượng” (khó suy lường).
V́ Phật chứng pháp Niết Bàn rất sâu đến
mức cùng cực, nên Gia Tường Sớ viết rằng: “Nói ‘trí Chánh Giác của Như
Lai khó lường’ là ư nói: Chân trí mầu nhiệm đến
cùng tuyệt, chiếu soi tột cùng pháp giới, chẳng
phải là điều kẻ hạ căn, phàm t́nh ḥng biết
được nổi”.
Sách B́nh Giải lại viết: “Như Lai Chánh Giác là nương vào Nhất Như của
Phật Di Đà để thành Chánh Giác, Ứng Thân ấy chính
là bổn địa thân. Trí ấy khó lường.... Niệm
Phật tam-muội là sở trụ (chỗ để an trụ,
pháp để an trụ), do trụ vào đấy bèn phát sanh
được diệu trí thù thắng”.
Câu này ư nói: Chánh Giác của Thích Ca Như Lai là do
nương theo Nhất Như thừa của Di Đà mà thành
Chánh Giác. V́ vậy, Ngài với Phật Di Đà là cùng một
Chân Như, mà cũng là cùng một Pháp Thân. Ứng Thân Phật
[của Phật Thích Ca] hiện tướng lành ngay trong
pháp hội đây thật ra chính là Pháp Thân (bổn địa
thân) của Như Lai. Nhất Như thừa của Phật
Di Đà trụ vào Niệm Phật tam-muội. Do trụ vào
tam-muội ấy phát sanh trí huệ thù thắng nhiệm mầu
nên “kỳ trí nan lượng”
(trí ấy khó lường).
Do vậy, điều này chẳng phải là điều
các Đại Sĩ Địa Thượng và Đẳng Giác có thể
tính kể, suy lường nổi. Dùng chân trí thù thắng
nhiệm mầu, hiểu thấu suốt Chân Như, lại
thông đạt hết thảy các pháp chẳng có chướng
ngại nên bảo là “vô hữu
chướng ngại” (chẳng có chướng ngại).
Câu “năng ư niệm khoảnh,
trụ vô lượng ức kiếp, thân cập chư
căn vô hữu tăng giảm”
(có thể trong một niệm,
trụ vô lượng ức kiếp mà thân và các căn chẳng
bị tăng giảm - bốn câu này trích từ bản
Đường dịch) hiển thị phẩm đức
của Bổn Địa Pháp Thân. Câu “trụ vô lượng ức kiếp” ngụ ư Phật
có thọ mạng vô lượng.
Phẩm Thọ Lượng trong kinh Tối Thắng
Vương có bài kệ rằng: “Nhược nhân
trụ ức kiếp, tận lực thường toán số,
diệc phục bất năng tri, Thế Tôn chi thọ
lượng” (Nếu ai trụ
ức kiếp, tận lực thường tính toán, cũng
chẳng biết được nổi thọ lượng
của Thế Tôn). Nay kinh này dạy trong khoảng một
niệm trụ vô lượng kiếp th́ đây chính là môn
“thập thế cách pháp dị thành môn” trong mười huyền
môn sự sự vô ngại pháp giới của kinh Hoa Nghiêm.
Bản dịch kinh Hoa Nghiêm đời Tấn có câu: “Tri vô lượng
kiếp thị nhất niệm, tri nhất niệm tức
thị vô lượng kiếp” (Biết vô lượng kiếp là một niệm,
biết một niệm chính là vô lượng kiếp). Sự
kéo dài hay rút ngắn đồng thời nói trên giống với
kinh này. Điều trên đủ chứng minh rằng kinh này chẳng
khác ǵ kinh Hoa Nghiêm! Thích Tôn là Tỳ Lô, Ứng Thân Giáo Chủ
nơi thế giới của chúng ta cũng chính là Pháp Thân
Vô Lượng Thọ Phật. Thích Ca và Tỳ Lô, Di Đà chẳng
một, chẳng khác.
Tiếp theo đó, kinh nói: “Thân cập
chư căn vô hữu tăng giảm” (Thân và các căn chẳng có tăng giảm), ngụ
ư: Phật thân tốt đẹp phi thường. Do Ngài trụ
vào bổn địa Pháp Thân thị hiện ứng thân nên
đầy đủ đức của viên măn báo thân.
“Như Lai định huệ
cứu sướng vô cực” (Định, huệ của Như
Lai đă trọn vẹn cùng tột đến vô cực): Định
là Thiền Định. Huệ là trí huệ. Giới, Định,
Huệ gọi là Tam Vô Lậu Học. Hội Sớ viết:
“Cứu (究) là cùng tột, rốt ráo. Sướng (暢) là thông suốt. Để phân biệt với sở
đắc của hạng c̣n tu nhân nên bảo là vô cực”.
V́ vậy, ư của câu kinh trên là Thiền Định,
trí huệ của Phật đă được thông suốt
trọn vẹn cùng cực, đó chẳng phải là điều
hết thảy các vị Đại Sĩ c̣n ở địa
vị tu nhân có thể đạt được nổi.
“Ư nhất thiết pháp, nhi
đắc tối thắng tự tại cố” (Do với hết thảy pháp được tự
tại tối thắng – hai chữ “tối thắng” lấy
từ bản Đường dịch): Tâm thoát khỏi sự
trói buộc của phiền năo, thông đạt vô ngại,
đó là “tự tại”. Hơn nữa, chẳng toan tính mà
đạt được, hết thảy vô ngại nên gọi
là “tự tại”. Như trong kinh Hoa Nghiêm, có mười thứ
tự tại:
1. Mạng tự tại: Bồ Tát
đắc huệ mạng trường thọ, trải qua
vô lượng A-tăng-kỳ kiếp trụ tŕ thế
gian chẳng có chướng ngại.
2. Tâm tự tại: Bồ Tát dùng
trí huệ phương tiện điều phục tự
tâm, nhập được vô lượng đại tam-muội,
du hư thần thông không chướng ngại.
3. Tư cụ[2]
tự tại: Bồ Tát có thể dùng vô lượng trân
bảo, các thứ vật dụng để trang nghiêm hết
thảy thế giới một cách thanh tịnh vô ngại.
4. Nghiệp tự tại: Bồ Tát có thể
tùy theo các nghiệp để ứng thời thị hiện,
thọ các quả báo không chướng không ngại.
5. Thọ sanh tự tại: Bồ Tát theo
tâm niệm có thể ở trong các thế giới thị hiện
thọ sanh không chướng không ngại.
6. Giải tự tại: Bồ Tát thành
tựu kiến giải thù thắng, thị hiện các thứ
sắc thân, diễn thuyết diệu pháp không chướng
không ngại.
7. Nguyện tự tại: Bồ Tát tùy
ḷng mong muốn, ở trong các cơi, ứng thời xuất hiện
thành Đẳng Chánh Giác không chướng không ngại.
8. Thần lực tự tại: Bồ Tát thần
thông quảng đại oai lực khó lường, trong các
thế giới thị hiện biến hóa không chướng
không ngại.
9. Pháp tự tại: Bồ Tát đắc
đại biện tài, trong các pháp diễn thuyết rộng
răi vô biên pháp môn một cách không chướng không ngại.
10. Trí tự tại: Bồ Tát trí huệ
đầy đủ, trong một niệm hiện ra thập
lực vô úy của Như Lai thành Đẳng Chánh Giác không
chướng không ngại.
Nay kinh đây nói “tối thắng
tự tại” là như kinh Pháp Hoa nói: “Ngă vi pháp vương, ư pháp tự tại” (Ta
làm pháp vương, tự tại trong các pháp). Viên măn mười tự tại
của Hoa Nghiêm một cách rốt ráo nên bảo là “tối thắng”. Tiếp theo
đó, đức Thế Tôn hứa nói, truyền dạy A
Nan lắng nghe kỹ (chú tâm nghe pháp), khéo tự suy nghĩ
nghĩa lư được nghe. Cuối cùng bảo: “Ngô đương vị nhữ,
phân biệt giải thuyết” (Ta sẽ v́ ông, phân biệt giải nói).
(Tới
đây, phần Biệt Tự đă hết)
Biệt Tự c̣n gọi là Phát Khởi Tự v́ nó dẫn
phát chánh văn của toàn bộ kinh. Hiện tại, do A
Nan phát ra câu hỏi, Thế Tôn hứa nói, diễn giảng
pháp môn Tịnh Độ là phương tiện rốt ráo, cực
viên, cực đốn, thù thắng này. Nhưng do đây là
pháp siêu t́nh ly kiến chẳng thể nghĩ bàn, khó tin,
chúng sanh t́nh chấp sâu nặng chẳng thể tin nổi,
nên trong phần phát khởi, thâm nhập chứng tín, tổng
cộng có đến năm tầng:
- Thứ nhất, Thế Tôn phóng quang, hiện tướng
lành để chứng tín.
- Thứ hai, A Nan hoan hỷ thưa hỏi. Lời hỏi
của A Nan có hai nghĩa trọng yếu:
1. Một là, A Nan thấy Phật phóng ra quang minh hy hữu,
biết là Phật ắt hẳn trụ pháp kỳ đặc,
hạnh đạo sư, đạo tối thắng;
nhưng pháp ấy, hạnh ấy, đạo ấy ắt
là những điều đều được chư Phật
nghĩ đến, chứ không phải là pháp nào khác.
2. Hai là A Nan do đâu có thể hỏi diệu nghĩa ấy?
Chính điểm này chỉ rơ A Nan vốn là vị đại
Bồ Tát đức tuân Phổ Hiền, từ quả
hướng nhân. Trong hội thuần nhất chẳng tạp,
diễn nói viên âm, nay chính là đúng lúc. Hội chúng thù thắng
chính là ngụ ư diệu pháp hy hữu.
- Lần chứng tín thứ ba là Thế Tôn khen ngợi
công đức của lời hỏi đó khó thể
nghĩ nổi. Phật nói hết thảy hàm linh trong
tương lai đều do lời hỏi này được
độ thoát. Chỉ một lời đă phô trọn chánh
nhân hưng khởi pháp môn Tịnh Độ. V́ vậy tên của
phẩm này là Đại Giáo Duyên Khởi.
- Thứ tư, Phật lại bảo A Nan: Như Lai sở
dĩ xuất hiện trong đời chỉ v́ muốn cứu
vớt quần manh, ban cho lợi ích chân thật. Ban cho
điều ǵ? Chính là “chỉ nên cậy vào sáu chữ hồng
danh Di Đà Nguyện Hải”. Chính bởi lời hỏi của
A Nan mà Phật khải thị diệu pháp khó gặp hy hữu
đến thế như hoa Ưu Đàm. Hết thảy chúng
sanh trong tương lai toàn là nhờ vào lời hỏi của
A Nan mà được độ thoát. V́ thế, Phật
khen ngợi A Nan để chứng tín.
- Thứ năm, Thế Tôn biết một cách sâu xa rằng
đây quả thật là pháp hết thảy thế gian khó
thể tin nổi, nên khuyên nhủ chúng sanh rằng: Giác trí của
Như Lai khó lường, thần thông vô ngại, Định
Huệ thông suốt rốt ráo, tự tại nơi pháp. Lời
Thế Tôn nói chân thật chẳng dối, muôn vàn chớ
khinh nghi, chỉ nên tín ngưỡng. Kinh lại c̣n dùng thí dụ
chỉ cho chúng ta: Phật là Quả Giác, ta là phàm phu, lẽ
nào ta lại dùng cái tâm phàm phu phân biệt ngu muội để
đo lường Như Lai trí một cách hư vọng? Chỉ
nên tin nhận ắt sẽ măn nguyện.
Do những điều trên, ta thấy được rằng
Tự phần của kinh toàn là chứng tín. Ngẫu Ích
đại sư chỉ ra tông của Tiểu Bổn kinh
này là “tín, nguyện, tŕ danh”.
Ba thứ tư lương ấy khuyết một chẳng
được, nhưng lấy Tín làm đầu, đủ
thấy sự trọng yếu của Tín. Trong Tự phần,
trước hết nói đến cái gốc của kinh này
là Chân Thật Tế, cho nên pháp này đáng tin. Diệu dụng
của kinh này rộng ban cho chúng sanh cái lợi chân thật,
cho nên phải tin.
Chân Thật Tế là ǵ? Chính là như Liên Tŕ Đại
Sư trong Sớ Sao đă dạy rằng: “Linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường
hằng, chẳng trược, chẳng thanh, không lui, không tới.
Lớn thay chân thể, chẳng thể nghĩ bàn được,
chỉ có mỗi tự tánh [mới được như
thế mà] thôi!” V́ vậy, Chân Thật Tế chính là tự
tánh của đương nhân.
Cái lợi chân thật là ǵ? Sớ Sao lại nói: “Lắng nhơ trược thành
thanh tịnh, quay lưng [bỏ cơi Sa Bà], hướng về
[Tịnh Độ], siêu việt ba A-tăng-kỳ trong một
niệm, ngang với chư thánh trong một lời. Diệu
dụng cùng cực thay, cũng chẳng thể nghĩ bàn nổi.
Chỉ là Phật Thuyết A Di Đà Kinh mà thôi!”.
Kinh A Di Đà chính là tiểu bổn của kinh này, cho nên biết
được rằng: “Diệu dụng đến cùng cực
chỉ là kinh này thôi!” Tông của kinh này là “phát Bồ Đề
tâm, nhất hướng chuyên niệm”. Phát Bồ Đề tâm
bao hàm trọn vẹn “tín nguyện”. “Nhất hướng
chuyên niệm” chính là tŕ danh.
Hai bổn Đại, Tiểu có cùng một cương
tông. Diệu pháp như thế cùng thâu gồm trọn vẹn
ba hạng, khiến cho phàm phu chóng cùng được Bổ
Xứ. Diệu dụng lớn lao, chẳng thể nghĩ
bàn chính là việc phát tâm niệm Phật dạy trong kinh
này. Đấy chính là cái lợi chân thật. Do diệu dụng
chân thật như thế nên trong khoảng một niệm,
vượt qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp một
cách nhanh chóng. Xưng danh một tiếng, địa vị
bằng với chư thánh. Chúng ta may mắn được
nghe, thật đúng là một dịp hy hữu trong vô lượng
kiếp đến nay
Hết
Quyển Một
(Bửu
Quang tự đệ tử Như Ḥa kính dịch xong ngày 17
tháng 01 năm 2002
Tăng
đính ngày 10 tháng 07 năm 2009)