15. Bồ Đề đạo
tràng (菩 提
道 場)
Cây Bồ Đề được nói trong phần này chính
là cây đạo tràng nói trong nguyện bốn mươi mốt.
Trước hết, kinh nói đến h́nh tướng cây
to lớn trang nghiêm, rồi tường thuật cây có diệu
đức khó nghĩ lường; cuối cùng là nói rơ nguyện
lực của Di Đà, nêu quả để làm sáng tỏ cái
nhân.
Chánh kinh:
又 其 道 場,有 菩 提 樹,高 四 百 萬 里,其 本 周 圍 五 千 由 旬,枝 葉 四 布 二 十 萬 里。一 切 眾 寶 自 然 合 成。華 果 敷 榮,光 暉 徧 照。復 有 紅 綠 青 白 諸 摩 尼 寶,眾 寶 之 王,以 為 瓔 珞。雲 聚 寶 鏁,飾 諸 寶 柱。金 珠 鈴 鐸,周 匝 條 間。珍 妙 寶 網,羅 覆 其 上。百 千 萬 色,互 相 映 飾。無 量 光 炎,照 耀 無 極。一 切 莊 嚴,隨 應 而 現。
Hựu kỳ
đạo tràng, hữu Bồ Đề thụ, cao tứ
bách vạn lư, kỳ bổn châu vi ngũ thiên do-tuần, chi
diệp tứ bố nhị thập vạn lư. Nhất thiết chúng bảo tự nhiên
hợp thành, hoa quả phu vinh, quang huy biến chiếu. Phục
hữu hồng, lục, thanh, bạch, chư ma-ni bảo,
chúng bảo chi vương, dĩ vi anh lạc. Vân tụ bảo
tỏa, sức chư bảo trụ. Kim, châu, linh, đạc,
châu táp điều gian. Trân diệu bảo vơng,
la phú kỳ thượng. Bách thiên vạn sắc, hỗ
tương ánh sức; vô lượng quang viêm, chiếu diệu
vô cực. Nhất thiết trang nghiêm, tùy ứng nhi hiện.
Nơi đạo
tràng lại có cây Bồ Đề cao bốn trăm vạn dặm.
Gốc nó to trọn năm ngàn do-tuần, cành lá x̣e ra bốn
phía đến hai mươi vạn dặm, do hết thảy
các thứ báu tự nhiên hợp thành. Hoa quả lồ lộ,
xum xuê, ánh sáng chói rạng khắp nơi. Lại có các thứ
báu Ma-ni vàng, lục, xanh dương, trắng, là vua trong các
thứ báu, để dùng làm anh lạc. Khóa báu Vân Tụ
trang hoàng các trụ báu. Vàng, châu, linh, đạc treo khắp
trên cành. Lưới báu trân diệu giăng che bên trên.
Trăm ngàn vạn sắc chói ngời lẫn nhau, vô lượng
tia sáng chiếu rực vô cực. Hết thảy trang nghiêm
hiện ra một cách thích ứng.
Giải:
Chữ “đạo tràng” có
đến năm nghĩa:
- Một là chỗ đức Phật Thích Ca thành đạo
dưới gốc Bồ Đề ở Ấn Độ
được gọi là Đạo Tràng.
- Hai là đắc đạo hành pháp như kinh Duy Ma nói:
“Trực tâm thị đạo
tràng” (Trực tâm là đạo
tràng).
- Ba là chỗ thờ Phật được gọi là Đạo
Tràng.
- Bốn là chỗ học đạo như bản Chú
Giải Kinh Duy Ma của Ngài Tăng Triệu có câu: “Chỗ tu đạo thanh vắng
gọi là đạo tràng”.
- Thời Tùy Dượng Đế, tự viện
được gọi là Đạo Tràng. Vua xuống chiếu
bắt gọi các chùa trong thiên hạ là Đạo Tràng hết.
Chữ “đạo tràng”
trong kinh này phải được hiểu theo nghĩa thứ
tư, tức là chỗ tu đạo.
Theo sách Tây Vực Kư, cây Bồ Đề chính là cây Tất
Bát La (Pipala), đức Phật ngồi dưới gốc
cây này thành Đẳng Chánh Giác nên cây được gọi là
cây Bồ Đề, dịch nghĩa là Đạo Thọ, hoặc
là Giác Thọ. Lúc Phật c̣n tại thế, cây cao bốn
trăm thước, lâu ngày tàn rụi dần chỉ c̣n cao
bốn, năm trượng. Đấy là cây Bồ Đề trong
thế giới này. Trong kinh này, cây Bồ Đề cao bốn
trăm vạn dặm; nhưng như Quán Kinh nói: “Phật thân cao lục thập vạn
ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần” (Thân Phật cao sáu mươi vạn ức na-do-tha hằng
hà sa do-tuần) th́ hóa ra thân Phật cao mà cây lại thấp,
chẳng tương xứng!
Thật ra điều này chẳng quan hệ ǵ, những
số lượng kinh nói đều chỉ là thuận theo
căn cơ của chúng sanh nên chúng ta chớ quá câu nệ.
Hơn nữa, toàn thể kinh này là cảnh giới sự sự
vô ngại chẳng thể nghĩ bàn, dẫu cho chốn ấy
cao thấp sai khác nhưng nếu đă thông đạt huyền
môn “quảng hiệp tự tại”
th́ liền có thể chứng nhập hết thảy
pháp giới vô ngại.
Từ chữ “nhất thiết
chúng bảo” (hết thảy các báu) trở đi diễn tả
sự trang nghiêm của cây Bồ Đề. Câu “tự nhiên hợp thành” ngụ ư: Cây do đại
nguyện, đại lực của Phật Di Đà mà thành, tự
nhiên như thế chẳng phải tạo tác. “Phu” (敷) có nghĩa là lộ
ra, hiển hiện. “Vinh” (榮) có nghĩa là
um tùm, tươi tốt. Cây Bồ Đề cũng do hết
thảy các thứ báu tự nhiên hợp thành nên hoa quả
xum xuê, tươi đẹp rực rỡ, tỏa sáng khắp
nơi.
Từ chữ “phục hữu”
(lại có) trở đi, kinh kể về những thứ
trang nghiêm nơi cây. Bài kệ sau đây trong Văng Sanh Luận:
“Vô lượng báu giăng xen,
lưới mành rợp hư không, các thứ linh vang tiếng,
phát ra tiếng pháp mầu nhiệm” thật tương ứng
với đoạn kinh này.
Chuỗi anh lạc, trụ báu, lưới báu được
nói trong kinh nói đều là để trang nghiêm nơi không
trung phía trên cây. Đầu tiên là báu Ma-ni bốn màu: Các thứ
báu này có đủ hết thảy những đặc tánh tốt
đẹp nhất của các báu nên là chúng là tối thượng
trong các báu. Do đó, kinh bảo: “Chúng bảo
chi vương” (Vua trong các báu).
Dùng các thứ báu tối thượng như thế làm chuỗi
anh lạc treo kín các cành nhánh cây để trang hoàng.
Trong câu “Vân Tụ bảo tỏa”,chữ
“tỏa” (鏁) tức là chữ
Tỏa (鎖: khóa) chỉ những chỗ kết
cấu ăn khớp vào nhau trong các thứ kiến trúc
nơi ấy. “Vân Tụ”
chính là tên một thứ báu như bản Đường dịch
ghi: “Hữu Sư Tử, Vân Tụ
bảo đẳng, dĩ vi kỳ tỏa” (Có các thứ
báu như Sư Tử, Vân Tụ… dùng làm khóa móc). Do đó, “Vân Tụ bảo tỏa” có
nghĩa là dùng chất báu Vân Tụ để làm các thứ
kết cấu dính móc vào nhau.
Bản Tống dịch nói về “bảo trụ” (trụ báu) như sau: “Bỉ Phật quốc độ,
hữu chủng chủng bảo trụ, giai dĩ bách thiên
trân bảo nhi dụng trang nghiêm. Sở vị kim trụ,
ngân trụ, lưu ly trụ, pha ly trụ, chân châu trụ,
xa cừ trụ, mă năo trụ” (Cơi đức Phật ấy
có các trụ báu, đều dùng trăm ngàn trân bảo để
trang nghiêm, như là trụ vàng, trụ bạc, trụ lưu
ly, trụ pha ly, trụ chân châu, trụ xa cừ, trụ mă
năo). Lại có những trụ do từ hai thứ báu cho
đến bảy thứ bảy hợp thành. Các trụ báu
như thế trang hoàng bằng các chuỗi anh lạc
cũng như các khóa báu.
Trong nhóm chữ “kim, châu,
linh, đạc” th́ “kim” (金) là vàng ṛng,
“châu” (珠) là chân châu; “linh” (玲) là cái linh
(chuông nhỏ có quả lắc) bằng kim loại, h́nh dáng
từa tựa như cái chuông nhưng nhỏ hơn nhiều;
“đạc” (鐸) là loại linh có lưỡi gỗ
(mộc thiệt: Lưỡi ở đây chỉ cái hạt
tṛn nhỏ được treo trong cái đạc), khi lắc
lên sẽ phát ra tiếng. Linh và đạc cùng đều bằng
diệu bảo hợp thành, phát ra những âm thanh vi diệu.
Bốn thứ nói trên treo đầy khắp các cành nhánh cây
Bồ Đề nên kinh nói “châu
táp điều gian” (treo khắp trên cành).
Bản Đường dịch ghi ư “trân diệu bảo vơng” (lưới báu quư đẹp) như sau: “Hựu dĩ thuần kim, chân
châu, tạp bảo linh đạc, dĩ vi kỳ vơng” (Lại
dùng vàng ṛng, chân châu, linh, đạc bằng các thứ báu kết
thành lưới). Như vậy, lưới báu cũng do
vàng ṛng, chân châu, linh, đạc tạo thành nên bảo là “trân diệu”.
Khi nói về “la phú” th́ “la” (羅) là căng rộng
ra, “phú” (覆) là trùm lấp,
phủ lên. Các lưới báu như thế căng ra phủ
trên cây Bồ Đề nên bảo “la
phú kỳ thượng” (giăng che bên trên). Bảo châu
phóng quang “bách thiên vạn sắc”
(trăm ngàn vạn sắc) như Quán kinh nói: “Nhất nhất bảo châu hữu
thiên quang minh, nhất nhất quang minh, bát vạn tứ
thiên sắc” (Mỗi một
bảo châu có ngàn quang minh. Mỗi một quang minh có tám vạn
bốn ngàn sắc). Mỗi một diệu sắc
như thế phản chiếu ánh sáng của nhau càng thêm
chói lọi khắp cả nên kinh bảo “hỗ tương ánh sức” (chói ngời lẫn
nhau). “Viêm” (炎) nghĩa là ánh
lửa tỏa rực lên nên “quang
viêm” có nghĩa là những tia sáng tỏa ánh rực rỡ.
Mỗi một viên châu tỏa ngàn quang minh; do có vô lượng
bảo châu nên kinh bảo “vô
lượng quang viêm, chiếu diệu vô cực” (tia sáng
chiếu rực vô cực). “Vô
cực” nghĩa là chẳng có hạn lượng.
Ngài Cảnh Hưng giảng câu: “Nhất thiết trang nghiêm, tùy ứng nhi
hiện” (hết thảy
trang nghiêm hiện ra một cách thích ứng) như sau: “Do thiện báo từ bi của
đức Như Lai hóa hiện nên thuận theo căn
cơ của chúng sanh mà hiện ra các thứ lớn, nhỏ,
dài, ngắn, từ một thứ báu, hai thứ báu cho đến các thứ báu, không thứ
nào lại chẳng đẹp ư người thấy”.
Hóa hiện một cách nhiệm mầu như thế để
thích ứng với khắp mọi căn cơ, biến hóa
chẳng ngăn ngại. Mỗi một thứ đều
mầu nhiệm viên măn hiển bày trọn vẹn sự sự
vô ngại.
Chánh kinh:
微 風 徐 動,吹 諸 枝 葉, 演 出 無 量 妙 法 音 聲。其 聲 流 布,徧 諸 佛 國。清 暢 哀 亮,微 妙 和 雅,十 方 世 界 音 聲 之 中,最 為 第 一。
Vi phong từ
động, xuy chư chi diệp, diễn xuất vô lượng
diệu pháp âm thanh. Kỳ
thanh lưu bố, biến chư Phật quốc. Thanh
sướng ai lượng, vi diệu ḥa nhă, thập
phương thế giới âm thanh chi trung, tối vi đệ
nhất.
Gió nhẹ khẽ
động thổi qua các cành, lá, diễn xuất vô lượng
âm thanh diệu pháp. Những âm thanh ấy lan truyền khắp
các cơi Phật: thanh tịnh, sảng khoái, bi mẫn, trong
sáng, vi diệu, ḥa nhă, thật là âm thanh bậc nhất trong
các âm thanh trong mười phương thế giới.
Giải:
Đoạn kinh này thuật rơ cây có khả năng diễn
nói diệu pháp, lợi ích chẳng thể nghĩ bàn.
“Diệu pháp” là pháp tối
thắng bậc nhất chẳng thể nghĩ bàn. Bài Tựa
sách Pháp Hoa Huyền Nghĩa có câu: “Diệu là [chữ để] khen ngợi pháp tốt
lành chẳng thể nghĩ bàn”. Gió thổi lay cành, lá cây
báu, phát ra âm thanh diễn nói chẳng thể tính kể nổi
pháp âm vi diệu nên bảo là “diễn
xuất vô lượng diệu pháp âm thanh” (diễn ra vô lượng âm
thanh diệu pháp).
Ngài Đàm Loan bảo: “Âm thanh ấy
làm Phật sự chẳng thể nghĩ bàn”. Chữ “Phật sự” chỉ sự
giáo hóa của chư Phật, cũng như hết thảy
việc có lợi cho Phật đạo. Thông thường
những pháp hội cầu phước, cầu siêu v.v…
cũng được gọi là Phật sự. Trong cơi Cực
Lạc, âm thanh do cây báu phát ra cũng làm được các
Phật sự nên ngài Đàm Loan mới khen ngợi là chẳng
thể nghĩ bàn.
Hơn nữa, âm thanh ấy lại “thanh, sướng, ai, lượng, vi diệu, ḥa nhă”
(tạm dịch là “thanh tịnh, sảng khoái, bi mẫn,
trong trẻo, vi diệu, ḥa nhă”). Ngài Nghĩa Tịch bảo:
“Thanh (清) là thanh tịnh, nghe
được chẳng sanh tâm trược nhiễm.
Dương (揚) là tuyên
dương do âm thanh ấy có thể tuyên dương pháp Thật
Tướng (bản ngài Nghĩa Tịch dùng để chú
giải ghi là “thanh dương”,
c̣n hội bản ghi là “thanh
sướng”. “Sướng”
(暢) có nghĩa là thông suốt, vui sướng,
khiến cho người nghe sảng khoái. Sướng lại
có nghĩa là thông hiểu, nghĩa là pháp âm ấy khiến
cho người nghe thông đạt được pháp Thật
Tướng). ‘Ai’ (哀) là bi ai, pháp ấy
khiến người nghe sanh tâm đại bi. ‘Lượng’
(亮) là trong trẻo, vang vọng,
thấu triệt, rơ ràng. Pháp âm ấy khiến cho người
nghe khai phát trí huệ. ‘Vi’ (微) là tinh tế, bí mật:
Pháp âm ấy tinh tế, bí mật như tiếng âm nhạc
cơi Phạm thiên. ‘Diệu’ (妙) là hay đẹp tuyệt diệu. Âm thanh ấy
hay tuyệt diệu như tiếng chim Loan (chim phụng
hoàng mái). ‘Ḥa’ (和) là điều ḥa, âm vận nhịp
nhàng, réo rắt. ‘Nhă’ (雅) là thanh nhă, đứng đắn; pháp âm ấy
thanh nhă, đứng đắn v́ thuận theo Phật pháp”.
Những đức tánh vừa thuật của những
âm thanh ấy không những chỉ đặc biệt lạ
lùng nhất đối với các cơi trời mà so trong mười
phương thế giới, những âm thanh ấy cũng
là bậc nhất nên kinh bảo: “Thập
phương thế giới âm thanh chi trung, tối vi đệ
nhất” (thật là bậc
nhất trong các âm thanh trong mười phương thế
giới).
Chánh kinh:
若 有 眾 生,覩 菩 提 樹、聞 聲、齅 香、嘗 其 果 味、觸 其 光 影、念 樹 功 德,皆 得 六 根 清 徹,無 諸 惱 患,住 不 退 轉,至 成 佛 道。復 由 見 彼 樹 故,獲 三 種 忍,一 音 響 忍,二 柔 順 忍,三 者 無 生 法 忍。
Nhược
hữu chúng sanh, đổ Bồ Đề thụ, văn thanh,
khứu hương, thường kỳ quả vị, xúc
kỳ quang ảnh, niệm thụ công đức, giai đắc
lục căn thanh triệt, vô chư năo hoạn, trụ Bất
Thoái Chuyển, chí thành Phật đạo. Phục do kiến bỉ thụ cố,
hoạch tam chủng Nhẫn, nhất Âm Hưởng Nhẫn,
nhị Nhu Thuận Nhẫn, tam giả Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Nếu có chúng
sanh thấy cây Bồ Đề, nghe tiếng, ngửi mùi, nếm
vị trái cây, chạm phải ánh sáng, h́nh bóng nó, nghĩ
đến công đức của cây th́ đều
được sáu căn thanh triệt, không có các năo hoạn,
trụ Bất Thoái Chuyển, cho đến thành Phật đạo. Lại
do thấy cây ấy sẽ đắc ba thứ nhẫn: Một
là Âm Hưởng Nhẫn, hai là Nhu Thuận Nhẫn, ba là Vô
Sanh Pháp Nhẫn.
Giải:
Đoạn kinh này chỉ rơ cây Bồ Đề tạo lợi
ích, rộng thí cái lợi chân thật. Nếu có chúng sanh nào
mắt thấy cây ấy, tai nghe tiếng từ cây phát ra,
mũi ngửi được mùi hương, miệng nếm
vị trái cây ấy, thân chạm phải ánh sáng, bóng cây, hoặc
ư căn nghĩ nhớ đến công đức của cây
th́ sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư, bất
cứ căn nào tiếp xúc với cây ấy cũng đều
khiến cho người ấy đắc Bất Thoái,
đắc Nhẫn, được cái lợi ích thành Phật.
Trước hết, kinh nói: “Giai đắc
lục căn thanh triệt” (Đều
được sáu căn thanh triệt). Sách Hội Sớ
giảng như sau: “Căn tai
không cấu nhiễm là Thanh, nghe tỏ tường các âm là
Triệt”. Cứ theo đó mà suy ra các căn khác: Nhăn căn
không cấu nhiễm là thanh, thấy tỏ tường các
Sắc là triệt; cho đến ư căn không cấu nhiễm
là thanh, hiểu tỏ tường các pháp là triệt. Sáu
căn đều phát sanh thắng trí, đều được
thanh triệt nên bảo là “lục
căn thanh triệt”.
Sách Tiên Chú giảng chữ “năo”
(惱) như sau: “Năo là
tên gọi của một thứ Tâm Sở[1],
là một trong các pháp thuộc về tiểu phiền năo
(Sáu pháp: vô minh, phóng dật, giải đăi (lười biếng),
bất tín (chẳng tin), hôn trầm và trạo cử (lao
chao) gọi là Đại Phiền Năo Pháp). Năo nghĩa là dẫu tự ḿnh biết những
điều ác do chính ḿnh làm là ác nhưng chẳng thay đổi,
cứ chấp trước đến cùng, chẳng chịu
nghe người khác can gián nhưng trong ḷng tự buồn
bă, phiền muộn. Năo cũng là một pháp trong mười
hai Tùy Phiền Năo (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến gọi
là Căn Bản Phiền Năo. Những phiền năo phát sanh từ
căn bản phiền năo gọi là Tùy Phiền Năo), nghĩa là nghĩ lại những
sự việc trong quá khứ, hoặc do hiện tại có
việc ǵ chẳng vừa ư khiến cho tinh thần tự
phiền năo”.
Sách Duy Thức Thuật Kư lại giảng: “Phiền là quấy rối. Năo là
làm loạn”. Xa rời cái khổ phiền năo nên bảo
là “vô chư năo hoạn” (không có các năo hoạn). Thậm chí được Bất
Thoái Chuyển, hướng thẳng đến chỗ thành
Phật nên bảo là “trụ Bất
Thoái Chuyển, chí thành Phật đạo” (trụ Bất
Thoái Chuyển, cho đến thành Phật đạo).
Kế tiếp, kinh dạy trông thấy cây Bồ Đề
sẽ đắc Nhẫn. Đoạn trên nói đủ cả
sáu căn, đoạn này chỉ nói ḿnh Nhăn Căn; đó là
chỉ lấy Nhăn Căn làm đại biểu cho các
căn khác. Việc trông thấy cây liền đắc Nhẫn
chính là kết quả của nguyện thứ bốn
mươi “từ nơi cây thấy
các cơi Phật” và nguyện bốn mươi bảy “nghe danh đắc Nhẫn”.
Sách Hội Sớ bảo: “Ngửa
xem cây Đạo Tràng chính là biểu tượng của quả
Chánh Giác viên măn, c̣n danh hiệu chính là thật thể của bổn nguyện thành tựu.
V́ thế, lời nguyện ‘nghe danh đắc Nhẫn’ là
nhân tạo thành cái quả thành tựu trông thấy cây đắc
Nhẫn (ư nói: Do đại nguyện của Phật Di
Đà đă thành tựu nên dùng việc thấy cây đắc Nhẫn
để chứng minh lời nguyện ấy). Nghe danh chính là nghe âm thanh mầu
nhiệm phát ra từ cây Đạo Tràng (như kinh Tiểu
Bổn chép: “Văn thị âm giả, tự nhiên giai sanh
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm” - nghe
tiếng ấy th́ tự nhiên đều sanh tâm niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng). Trông
thấy cây ấy là trông thấy quả đức của
A Di Đà Phật. Lấy đó mà suy th́ việc nghe danh đắc
Nhẫn đă rơ rành rành vậy”.
Nói tóm lại, danh hiệu và cây Bồ Đề đều
là từ diệu đức của quả địa Đại
Giác biến hiện, đều là viên viên quả hải,
đầy đủ viên dung muôn đức, đều là
thanh tịnh cú, chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân, đều
là “Chân Thật Tế” mà
cũng chính là tự tánh của đương nhân nên mới
có những lợi ích chân thật chẳng thể nghĩ
bàn như vậy.
Nhưng danh hiệu Ngài vang dội khắp mười
phương, độ trọn ba căn; c̣n muốn thấy
được cây ấy chỉ c̣n cách sanh về Tịnh Độ,
tận mắt thấy cây báu mới đạt được
lợi ích ấy. So sánh hai điều này th́ cái lợi nghe
danh đắc Nhẫn lại càng rơ rệt. Bởi thế
sách Hội Sớ mới viết: “Lấy đó mà suy th́ việc nghe danh đắc Nhẫn
càng rơ rành rành vậy”.
“Đắc Nhẫn”: Tin được
lư khó tin chẳng lầm lạc th́ gọi là “Nhẫn”. Ngài Tịnh Ảnh
nói: “Huệ tâm an trụ nơi
pháp th́ gọi là Nhẫn”. Sách Đại Thừa Nghĩa
Chương, quyển mười một bảo: “An trụ trong Thật Tướng
của các pháp là Nhẫn”. Sách Hội Sớ giảng: “Trí hạnh tăng tấn là Pháp
Nhẫn”.
Tịnh Ảnh Sớ giảng câu “hoạch tam chủng Nhẫn” (đắc ba thứ
Nhẫn) như sau: “Vừa nghe
tiếng liền giải ngộ, biết tiếng ấy
như tiếng vang th́ gọi là Âm Hưởng Nhẫn;
đó là từ bậc Tam Địa trở xuống. Xả
Thuyên hướng Thật th́ gọi là Nhu Thuận Nhẫn,
đó là pháp Nhẫn của
bậc Tứ, Ngũ, Lục Địa. Chứng Thật
ĺa tướng th́ gọi là Vô Sanh Nhẫn; đó là Nhẫn
của bậc Thất Địa trở lên”.
Ư nói: Nghe pháp ngộ đạo, biết hết thảy
pháp giống như tiếng vọng, như mộng, huyễn,
bọt nước, h́nh bóng th́ gọi là Âm Hưởng Nhẫn.
Bậc Bồ Tát trong Biệt Giáo từ Tam Địa trở
xuống đắc Nhẫn này. Xả ly ngôn thuyên[2],
hướng đến Thật Tướng th́ gọi là
Nhu Thuận Nhẫn; các vị Bồ Tát Tứ Địa,
Ngũ Địa, Lục Địa chứng đắc Nhẫn
này. Nếu chứng nhập Thật Tướng, ĺa hết
thảy tướng th́ gọi là đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn;
đây chính là pháp Nhẫn của bậc Bồ Tát từ Thất
Địa trở lên.
Sách Di Đà Sớ Sao lại giảng: “Nói giản lược, có hai thứ Vô Sanh Nhẫn: Một
là xét về pháp, hai là xét về hạnh.
- Xét theo pháp th́ về Lư, các
pháp chẳng phát khởi, tác dụng, đều gọi là
Vô Sanh. Huệ tâm an trụ vào đấy nên gọi là Nhẫn.
- Xét về hạnh th́ báo hạnh
thuần thục, trí hiểu rơ lư vô tướng, vô công dụng,
rộng dường hư không, sâu như biển thẳm,
vọng hoặc trong tâm thức chẳng c̣n, lặng lẽ
chẳng khởi th́ mới gọi là Vô Sanh.
Loại thứ nhất
địa nào cũng có, loại thứ hai chỉ bậc
Bát Địa mới có thể chứng nổi”.
Như vậy, Vô Sanh Pháp Nhẫn được giảng
trong Tịnh Ảnh Sớ chính là loại “Vô Sanh Pháp Nhẫn
xét theo hạnh” trong Di Đà Sớ Sao. Ngài Tịnh Ảnh bảo
từ bậc Thất Địa trở lên, đại sư
Liên Tŕ bảo là Bát Địa, hai thuyết chẳng mâu thuẫn
nhau. Hơn nữa, kinh Nhân Vương cũng bảo Vô Sanh
Pháp Nhẫn thuộc về Thất Địa, Bát Địa, Cửu
Địa (các thuyết của những vị khác chẳng
trích dẫn ở đây)
Trong ba pháp Nhẫn được nói trong kinh này, đầu
tiên là Âm Hưởng Nhẫn, kế đó là Nhu Thuận Nhẫn.
Như vậy, ba thứ Nhẫn này tuy khác với kinh Hiền
Kiếp nhưng lại giống những thứ Nhẫn
được nói trong phẩm Thập Nhẫn của kinh
Hoa Nghiêm và kinh Như Lai Hưng Hiển.
Phẩm Thập Nhẫn trong kinh Hoa Nghiêm, bản Cựu
dịch (bản dịch đời Tấn), ghi: “Một là Âm Thanh Nhẫn, hai là
Thuận Nhẫn, ba là Vô Sanh Pháp Nhẫn, bốn là Như
Huyễn Nhẫn, năm là Như Diệm Nhẫn, sáu là
Như Mộng Nhẫn, bảy là Như Hưởng Nhẫn,
tám là Như Ảnh Nhẫn, chín là Như Hóa Nhẫn, mười
là Như Không Nhẫn”. Ba Nhẫn đầu tiên giống
như ba Nhẫn được nói trong kinh này.
Phẩm Thập Nhẫn c̣n nói: “Nhược văn chân thật pháp, bất kinh, bất
bố, bất úy, tín giải thọ tŕ, ái nhạo thâm nhập,
tu tập, an trụ, thị vi đệ nhất Tùy Thuận
Âm Thanh Nhẫn” (Nếu
nghe pháp chân thật mà chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng
hăi, tin hiểu, thọ tŕ, yêu thích thâm nhập, tu tập, an
trụ th́ đấy là Nhẫn thứ nhất: Tùy Thuận
Âm Thanh Nhẫn); đó
chính là Âm Hưởng Nhẫn.
Kinh lại dạy: “Thử
Bồ Tát tùy thuận tịch tĩnh, quán nhất thiết
pháp b́nh đẳng, chánh niệm, bất vi chư pháp, tùy
thuận thâm nhập nhất thiết chư pháp thanh tịnh,
trực tâm phân biệt chư pháp, tu b́nh đẳng quán,
thâm nhập cụ túc, thị vi đệ nhị Thuận
Nhẫn” (Bồ Tát ấy tùy thuận tịch tĩnh, quán hết
thảy pháp b́nh đẳng chánh niệm, chẳng trái nghịch
chư pháp, tùy thuận thâm nhập hết thảy các pháp
thanh tịnh, trực tâm phân biệt các pháp, tu b́nh đẳng
quán, thâm nhập trọn vẹn th́ đấy là Thuận Nhẫn
thứ hai); đây chính là Nhu Thuận Nhẫn.
Kinh lại dạy: “Thử Bồ Tát bất kiến
hữu pháp sanh, bất kiến hữu pháp diệt, hà dĩ
cố? Nhược bất sanh, tắc bất diệt.
Nhược bất diệt, tắc vô tận. Nhược
vô tận, tắc ly cấu. Nhược ly cấu, tắc
vô hoại. Nhược vô hoại, tắc bất động.
Nhược bất động, tắc tịch diệt...
Thị vi đệ tam Vô Sanh Pháp Nhẫn” (Bồ Tát ấy
chẳng thấy có pháp sanh, chẳng thấy có pháp diệt,
v́ sao thế? Nếu chẳng sanh th́ chẳng diệt. Nếu
chẳng diệt th́ vô tận. Nếu vô tận th́ ly cấu.
Nếu ly cấu th́ vô hoại. Nếu vô hoại th́ bất
động. Nếu bất động th́ tịch diệt…
Đấy là Vô Sanh Pháp Nhẫn thứ ba).
Nói đơn giản, an trụ trong lư thể Chân
Như Thật Tướng bất sanh bất diệt th́ gọi
là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Việc thấy cây Bồ Đề sẽ
đạt được công đức như vậy thật
đă hiển thị sâu xa nguyện lực chẳng thể
nghĩ bàn của Phật Di Đà .
Chánh kinh:
佛 告 阿 難:如 是 佛 剎,華 果 樹 木,與 諸 眾 生 而 作 佛 事。此 皆 無 量 壽 佛,威 神 力 故,本 願 力 故,滿 足 願 故,明 了、堅 固、究 竟 願 故。
Phật cáo A Nan: - Như thị
Phật sát, hoa quả thụ mộc, dữ chư chúng sanh
nhi tác Phật sự. Thử giai Vô Lượng Thọ Phật,
oai thần lực cố, bổn nguyện lực cố,
măn túc nguyện cố, minh liễu, kiên cố, cứu cánh
nguyện cố.
Phật bảo
A
- Cơi Phật
như thế, hoa, quả, cây cối và các chúng sanh đều
làm Phật sự. Đấy đều là do sức oai thần,
do sức bổn nguyện, do măn túc nguyện, do nguyện
rơ ràng kiên cố, rốt ráo của Vô Lượng Thọ Phật
vậy.
Giải:
Đức Phật bảo A Nan: Thế giới Cực
Lạc hy hữu chẳng thể nghĩ bàn đến
như thế ấy. Hoa, quả, cây cối đều làm
Phật sự, tăng trưởng thiện căn thù thắng
của hữu t́nh khiến họ đắc Nhẫn, chứng
nhập Vô Sanh. Đấy là do sức oai thần của quả
đức của đức Phật ấy và sức bổn
nguyện, sức trọn vẹn đầy đủ, sức
rơ ràng, kiên cố, rốt ráo của Ngài vậy.
Ngài Tịnh Ảnh bảo: “Câu
‘giai
Vô Lượng Thọ Phật oai thần lực cố’ có nghĩa là do oai lực hiện tại của
đức Phật ấy nên đạt được ba
thứ Nhẫn. Chữ ‘bổn nguyện lực’ hàm ư do sức
bổn nguyện trong quá khứ của Ngài nên [chúng sanh trong
cơi ấy] đắc ba thứ Nhẫn. Bổn nguyện là
tổng, c̣n bốn thứ kia (tức nguyện rơ ràng, trọn
vẹn, kiên cố, cứu cánh)
là biệt. ‘Măn túc nguyện’
là nguyện tâm trọn vẹn, đầy đủ. ‘Nguyện
rơ ràng’ là tâm mong cầu rơ ràng, rành rẽ. ‘Nguyện kiên cố’
là các duyên chẳng hoại được [nguyện ấy].
‘Nguyện rốt ráo’ là rốt
cục chẳng thoái thất. Do các nguyện ấy nên
người sanh về cơi kia sẽ đắc ba thứ Nhẫn”.
Ngài Nghĩa Tịch, Cảnh Hưng đều cho rằng
“nguyện măn túc” nghĩa là “bốn mươi tám nguyện
chẳng khuyết giảm”. Ngài Nghĩa Tịch, Vọng
Tây cùng giảng “nguyện rơ
ràng” là “minh và huệ
tương ứng với nhau”; ngài Cảnh Hưng lại
giảng là “mong cầu chẳng
hư dối” (ư này giống
với ư ngài Tịnh Ảnh). Về “nguyện kiên cố”,
ngài Nghĩa Tịch bảo: “[Là] do tinh tấn chẳng thoái chuyển tạo thành”.
Ngài Nghĩa Tịch, ngài Vọng Tây cùng giảng “nguyện rốt ráo” là “đến tột cùng bờ mé của
pháp giới hữu t́nh” (độ sạch hết thảy
hữu t́nh trong pháp giới). Các thuyết trên đây bổ
sung lẫn nhau.
Về “bổn nguyện lực”
(sức bổn nguyện), Văng Sanh Luận bảo: “Quán sức bổn nguyện của
Phật, gặp gỡ chẳng luống uổng, khiến cho
được trọn đủ biển báu công đức
lớn”. Sách Luận Chú giảng như sau: “Vốn là từ bốn
mươi tám nguyện của Pháp Tạng Bồ Tát tạo
thành cái gọi là thần lực tự tại của A Di
Đà Như Lai. Nguyện biến thành lực, lực nhằm
thành tựu nguyện. Nguyện chẳng phí uổng, lực chẳng dối bày. Lực
và nguyện hỗ trợ nhau, rốt ráo chẳng sai biệt”.
Dựa trên bổn nguyện của Pháp Tạng Bồ Tát
nên ngày nay mới có thần lực tự tại của Phật
Di Đà. Do trong lúc tu nhân, Phật Di Đà phát nguyện “nghe danh đắc Nhẫn”
nên do nguyện lực nay thành tựu công đức thù thắng:
[Chúng sanh] trông thấy cây Bồ Đề liền đắc
Nhẫn nơi cơi Cực Lạc. Do nguyện phát sanh lực,
nguyện được thành là do lực nên kinh mới
chép: “Giai Vô Lượng Thọ Phật
oai thần lực cố, bổn nguyện lực cố” (Đều là do sức oai thần, sức
bổn nguyện của Vô Lượng Thọ Phật) nên
trông thấy cây Bồ Đề đều đắc Vô
Sanh Pháp Nhẫn, chứng ngay vào địa vị Bát Địa
Bồ Tát.