42. Bồ Tát văng sanh (菩 薩 往 生)
Cả ba bậc văng sanh cùng với nghi thành được
nói trong những phẩm trước đều là việc
văng sanh của hạng phàm phu; phẩm này giảng rộng
về việc thập phương Bồ Tát văng sanh số
đến vô lượng nhằm chỉ rơ diệu pháp Tịnh
Độ thâu nhiếp cả phàm lẫn thánh, độ cả
lợi căn lẫn độn căn, khuyên khắp chúng
sanh cầu sanh Tịnh Độ.
Chánh kinh:
彌 勒 菩 薩 白 佛 言:今 此 娑 婆 世 界,及 諸 佛 剎,不 退 菩 薩 當 生 極 樂 國 者,其 數 幾 何?佛 告 彌 勒:於 此 世 界,有七 百 二 十 億 菩 薩,已 曾 供 養 無 數 諸 佛,植 眾 德 本,當 生 彼 國。諸 小 行 菩 薩,修 習 功 德,當 往 生 者,不 可 稱 計。
Di Lặc Bồ Tát bạch Phật
ngôn: “Kim thử Sa Bà thế giới, cập chư
Phật sát, Bất Thoái Bồ Tát đương sanh Cực
Lạc quốc giả, kỳ số kỷ hà?” Phật cáo
Di Lặc: “Ư thử thế giới, hữu thất bách
nhị thập ức Bồ Tát, dĩ tằng cúng dường
vô số chư Phật, thực chúng
đức bổn, đương sanh bỉ quốc.
Chư tiểu hạnh Bồ Tát, tu tập công đức,
đương văng sanh giả, bất khả xưng kế”.
Di Lặc Bồ
Tát bạch Phật rằng:
- Nay các vị Bất
Thoái Bồ Tát trong thế giới Sa Bà đây và mười
phương cơi Phật sẽ sanh về cơi Cực Lạc
số đến bao nhiêu?
Phật bảo
Di Lặc:
- Trong thế giới
này có bảy trăm hai mươi ức Bồ Tát đă từng
cúng dường vô số chư Phật, trồng các cội
đức, sẽ sanh về cơi ấy. Chẳng thể tính
kể nổi số các tiểu hạnh Bồ Tát tu tập
công đức sẽ sanh về cơi ấy.
Giải:
Trước hết, Di Lặc đại sĩ thưa
hỏi số lượng các vị Bất Thoái Bồ Tát
(tức A Bệ Bạt Trí) trong cơi này và mười
phương sẽ văng sanh. Phật đáp rằng trong số
các Bồ Tát được văng sanh ở cơi này có bảy
trăm hai mươi ức đại hạnh Bồ Tát,
c̣n tiểu hạnh Bồ Tát th́ chẳng tính kể nổi
số lượng. Sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao giảng
chữ “tiểu hạnh”
như sau: “Những vị tiểu
hạnh: Thập Tín Bồ Tát th́ gọi là tiểu hạnh,
đấy là do v́ so với
địa vị Bất Thoái vậy”. Tức là: Bất
Thoái Bồ Tát th́ gọi là đại hạnh, c̣n hàng Thập
Tín th́ gọi là tiểu hạnh v́ họ c̣n thăng trầm
bất định.
Chánh kinh:
不 但 我 剎 諸 菩 薩 等,往 生 彼 國,他 方 佛 土,亦 復 如 是。從 遠 照 佛 剎,有 十 八 俱 胝 那 由 他 菩 薩 摩 訶 薩,生 彼 國 土。 東 北 方 寶 藏 佛 剎,有 九 十 億 不 退 菩 薩,當 生 彼 國。從 無 量 音 佛 剎、光 明 佛 剎、龍 天 佛 剎、勝 力 佛 剎、師 子 佛 剎、離 塵 佛 剎、德 首 佛 剎、仁 王 佛 剎、華 幢 佛 剎,不 退 菩 薩 當 往 生 者,或 數 十 百 億,或 數 百 千 億,乃 至 萬 億。
Bất
đản ngă sát chư Bồ Tát đẳng,
văng sanh bỉ quốc, tha phương Phật độ,
diệc phục như thị. Tùng Viễn Chiếu Phật
sát, hữu thập bát câu-chi na-do-tha Bồ Tát Ma Ha Tát, sanh bỉ
quốc độ. Đông Bắc
phương Bảo Tạng Phật sát, hữu cửu thập
ức Bất Thoái Bồ Tát, đương sanh bỉ quốc.
Tùng Vô Lượng Âm Phật sát, Quang Minh Phật sát, Long
Thiên Phật sát, Thắng Lực Phật sát, Sư Tử Phật
sát, Ly Trần Phật sát, Đức Thủ Phật sát,
Nhân Vương Phật sát, Hoa Tràng Phật sát, Bất Thoái
Bồ Tát đương văng sanh giả, hoặc số thập
bách ức, hoặc số bách thiên ức, năi chí vạn ức.
Chẳng những các hàng Bồ
Tát trong cơi ta văng sanh cơi ấy, mà trong các cơi Phật
phương khác cũng giống như vậy. Từ cơi Viễn
Chiếu Phật có mười tám câu-chi na-do-tha Bồ Tát Ma
Ha Tát sanh về cơi nước ấy. Cơi Bảo Sát Phật
ở phương Đông Bắc có chín mươi ức Bất
Thoái Bồ Tát sẽ sanh về cơi ấy. Từ cơi Vô Lượng
Âm Phật, cơi Quang Minh Phật, cơi Long Thiên Phật, cơi Thắng
Lực Phật, cơi Sư Tử Phật, cơi Ly Trần Phật,
cơi Đức Thủ Phật, cơi Nhân Vương Phật, cơi
Hoa Tràng Phật, các vị Bất Thoái Bồ Tát sẽ văng
sanh hoặc số đến mười trăm ức, hoặc
số đến trăm ngàn ức, cho đến vạn ức.
Giải:
Đoạn kinh này nói đến danh hiệu mười một
cơi Phật và số lượng các Bồ Tát được
văng sanh trong những phương khác. Đoạn kinh tiếp
theo đoạn này sẽ lại nêu tên hai cơi Phật thứ
mười hai và mười ba. Sách Hội Sớ viết: “Thứ tự của mười
ba vị Phật này là kể theo thứ tự xuất thế
hay là tính theo phương vị? Chưa rơ nghĩa này”. Bởi thế, ở đây tôi
cũng chẳng bàn sâu. Kinh nêu lên cơi này và mười ba cơi
Phật cũng chỉ là nêu đại lược một
số cơi trong vô lượng cơi Phật.
Chánh kinh:
其 第 十 二 佛 名 無 上 華,彼 有 無 數 諸 菩 薩 眾,皆 不 退 轉。智 慧 勇 猛,已 曾 供 養 無 量 諸 佛,具 大 精 進,發 趣 一 乘。於 七 日 中,即 能 攝 取 百 千 億 劫,大 士 所 修 堅 固 之 法。斯 等 菩 薩,皆 當 往 生。其 第 十 三 佛 名 曰 無 畏,彼 有 七 百 九 十 億 大 菩 薩 眾,諸 小 菩 薩 及 比 丘 等,不 可 稱 計,皆 當 往 生。十 方 世 界 諸 佛 名 號,及 菩 薩 眾 當 往 生 者,但 說 其 名,窮 劫 不 盡。
Kỳ
đệ thập nhị Phật danh Vô Thượng Hoa, bỉ
hữu vô số chư Bồ Tát chúng, giai bất thoái chuyển.
Trí huệ dũng mănh, dĩ tằng cúng dường vô
lượng chư Phật, cụ đại tinh tấn, phát
thú Nhất Thừa. Ư thất nhật trung, tức
năng nhiếp thủ bách thiên ức kiếp, đại sĩ sở tu kiên cố chi
pháp. Tư đẳng Bồ Tát, giai đương văng
sanh. Kỳ đệ thập tam Phật danh viết Vô Úy, bỉ
hữu thất bách cửu thập ức đại Bồ
Tát chúng, chư tiểu Bồ Tát cập tỳ-kheo đẳng,
bất khả xưng kế, giai đương văng sanh. Thập
phương thế giới chư Phật danh hiệu, cập
Bồ Tát chúng đương văng sanh giả, đản
thuyết kỳ danh, cùng kiếp bất tận.
Vị Phật
thứ mười hai tên là Vô Thượng Hoa. Ngài có vô số
các vị Bồ Tát đều là bất thoái chuyển, trí
huệ dũng mănh, đă từng cúng dường vô lượng
chư Phật, đủ đại tinh tấn, hướng
đến Nhất Thừa, trong ṿng bảy ngày liền có
thể nhiếp thủ những pháp của bậc đại
sĩ tu hành kiên cố trong trăm ngàn ức kiếp. Các vị
Bồ Tát ấy sẽ đều văng sanh. Vị Phật thứ
mười ba tên là Vô Úy, Ngài có bảy trăm chín
mươi ức đại Bồ Tát; chẳng thể tính
kể các tiểu hạnh Bồ Tát và các tỳ-kheo sẽ
đều văng sanh. Đối với mười phương
thế giới, danh hiệu chư Phật và hàng Bồ Tát
sẽ văng sanh dù chỉ kể tên th́ hết cả kiếp
cũng chẳng thể kể hết nổi.
Giải:
Đoạn này trích từ bản Ngụy dịch. Cứ
theo như bản Đường dịch th́ thật ra, câu
đầu tiên “kỳ đệ
thập nhị Phật” (vị Phật thứ mười
hai) nên hiểu là “cơi của vị
Phật thứ mười hai” (chẳng hạn như bản
Ngụy dịch ghi là “kỳ
đệ nhị Phật danh viết Bảo Tạng” (vị
Phật thứ hai tên là Bảo Tạng), bản Đường
dịch ghi là “Bảo Tạng
Phật quốc” (cơi Bảo Tạng Phật).
Trong cơi Phật thứ mười hai này, tuy đức
Phật có nêu những đức hạnh của các Bồ
Tát ấy nhưng cũng chỉ là nêu lên tượng
trưng một vài đức.
“Kiên cố chi pháp” (pháp kiên cố)
chính là Bất Thoái Chuyển. Ngay cả các vị Bất
Thoái Chuyển Bồ Tát cũng văng sanh Cực Lạc th́
nghĩa là làm sao? Đại Luận giải đáp:
“Hỏi: Pháp của Bồ
Tát lẽ ra phải độ chúng sanh, sao lại chỉ
sanh về thế giới thanh tịnh của Vô Lượng Thọ Phật?
Đáp: Bồ Tát có hai loại:
Một là có tâm từ bi thường v́ chúng sanh, hai là [thích]
tu tập nhiều các công đức của Phật. Hạng
thích tu tập nhiều các công
đức của chư Phật th́ sanh trong thế giới
Nhất Thừa thanh tịnh của Vô Lượng Thọ
Phật; hạng thích v́ chúng sanh th́ sanh vào nơi chẳng
có Phật pháp”.
Sách Luận Chú cũng nói: “Các
vị Bồ Tát chưa chứng tịnh tâm là các Bồ Tát
từ Sơ Địa trở lên, Thất Địa trở xuống.
Các vị Bồ Tát ấy
cũng có thể hiện thân trong trăm, hoặc ngàn, hoặc
vạn, hoặc ức, hoặc trăm ngàn vạn ức
cơi không có Phật để làm Phật sự. Nhưng họ
cần phải vận tâm nhập tam-muội th́ mới có
thể làm như thế, chứ chẳng thể không vận tâm. Do phải vận
tâm nên gọi là chưa đắc tịnh tâm. Các vị Bồ
Tát ấy nguyện sanh trong Tịnh Độ An Lạc liền
thấy A Di Đà Phật. Lúc thấy
A Di Đà Phật sẽ được thân rốt ráo, đắc
pháp b́nh đẳng với các bậc Địa Thượng Bồ
Tát.
Long Thọ Bồ Tát, Bà Tẩu Bàn Đậu Bồ
Tát (Vasubandhu, tức ngài Thế Thân) nguyện sanh về cơi ấy cũng chính v́ điều
đó”.
Sách c̣n viết thêm: “Bồ
Tát trong Thất Địa đắc đại tịch
tĩnh: trên chẳng thấy chư Phật để cầu,
dưới chẳng thấy chúng sanh để độ,
muốn bỏ Phật đạo chứng vào Thật Tế. Lúc bấy giờ, họ
chẳng được thần lực của thập
phương chư Phật hỗ trợ khuyến khích nên
liền diệt độ, chẳng khác ǵ Nhị Thừa.
C̣n nếu Bồ Tát văng sanh cơi An Lạc th́ do thấy A Di Đà Phật nên không mắc nạn ấy”.
Trên đây, cả Đại Luận lẫn Văng Sanh Luận Chú
đều đă nói rơ nguyên do Bất Thoái Bồ Tát nguyện
văng sanh cơi An Lạc.
Sách Vô Lượng Thọ Khởi Tín Luận viết: “Đoạn kinh trên đây nói rơ Bồ
Tát văng sanh chẳng thể tính nổi số, đều là
những người được nguyện lực của
Như Lai gia tŕ, quang minh của Phật nhiếp thọ. Bởi
thế, Trí Giả đại sư khi lâm chung sai môn đồ xướng tụng đề
mục các kinh Vô Lượng Thọ và Quán kinh, chắp tay
khen rằng: ‘Bốn mươi tám nguyện trang nghiêm Tịnh
Độ, ao hoa, cây báu, dễ đi mà chẳng có người.
Dẫu tướng xe lửa bốc cháy biến hiện,
nhất niệm cải hối
c̣n được văng sanh, huống hồ [là kẻ] giới,
định huân tu. Thánh hạnh đạo lực thật
chẳng luống uổng’. Nói xong, Ngài xưng danh hiệu Tam Bảo, nghiễm
nhiên viên tịch”.
Đời Đường, sư Pháp Chiếu lên núi Ngũ Đài,
vào chùa Trúc Lâm Đại Thánh, gặp hai vị Bồ Tát Văn
Thù, Phổ Hiền liền thưa hỏi pháp yếu tu
hành. Đức Văn Thù dạy:
“Các môn tu hành chẳng môn nào
bằng pháp Niệm Phật. Trong kiếp quá khứ, ta do niệm
Phật nên đắc Nhất Thiết Chủng Trí. V́ thế, hết thảy các pháp Bát
Nhă Ba La Mật Đa, Thiền Định rất sâu cho đến
biển Chánh Biến Tri của chư Phật đều từ
pháp Niệm Phật sanh ra”.
Ngài Pháp Chiếu thưa: “Nên niệm như thế nào?”
Đức Văn Thù dạy: “Phía
Tây thế giới này có đức A Di Đà Phật. Đức Phật
ấy nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn. Ông nên
liên tục niệm chớ gián đoạn th́ lúc mạng
chung quyết định
văng sanh”.
Nhân đó,
hai vị Bồ Tát thọ kư rằng: “Ông do niệm Phật bất tư nghị, rốt
ráo chứng được vô thượng giác. Thiện nam tử, thiện nữ nhân nếu muốn nguyện mau
được xuất ly th́ phải nên niệm Phật”.
Ngài Huệ Nhật cưỡi thuyền vượt biển
đến Thiên Trúc, tới nước Kiện Đà La
(Gandhara). Nơi ḥn núi lớn ở phía Đông Bắc nước
ấy có tượng Quán Âm. Ngài Huệ Nhật dập
đầu lễ bái suốt bảy ngày, lại nhịn
ăn cho đến khi hết mạng để làm kỳ
hạn [cầu được cảm ứng]. Đến
đêm hôm thứ bảy, chợt thấy Quán Âm hiện thân
tử kim, ngồi ṭa sen báu, đưa tay xoa đầu
Sư bảo: “Ông muốn truyền
pháp tự lợi, lợi tha th́ chỉ cần niệm
đức A Di Đà Phật ở
Ngoài ra, các tác phẩm Văng Sanh Luận của Thiên Thân
đại sĩ, Khởi Tín Luận của Mă Minh đại
sĩ, Thập Nghi Luận của Trí Giả đại
sư và bao nhiêu trước tác của các vị đại
đức Vĩnh Minh, Thiên Như, Sở Thạch, Liên Tŕ,
không tác phẩm nào lại chẳng ân cần khen ngợi, dẫn
dắt về việc văng sanh Tây phương, quyết chẳng
phải là việc lừa dối, gạt gẫm người
đời. Huống hồ chúng ta sanh nhằm đời mạt,
pháp nhược ma cường, lại độc lực
tu hành th́ há chẳng phải là đi lầm đường
hay sao? Nếu vẫn bồi hồi chẳng tin, tham đắm
trần lao sâu đắm như con thiêu thân đâm đầu
vào lửa, như cá mắc cạn, biết đến bao
giờ mới hết đại khổ? Ai nấy phải
nên dũng mănh phản tỉnh, đừng cầu pháp nào
khác nữa!
Trong tác phẩm Vô Lượng Thọ Khởi Tín Luận,
ông Bành Tế Thanh c̣n viết:
“Chánh tông là:
1) Một là trước hết
nói về nguyện hạnh rộng lớn của ngài Pháp Tạng
nhằm làm cho hành giả sanh tâm gánh vác, phát khởi Bi Trí,
đầy đủ nguyện Phổ Hiền.
2) Hai là nói đến công
đức rộng lớn của ngài Pháp Tạng khiến cho hành giả
sanh tâm chân thật, rộng hành phương tiện, đầy
đủ hạnh Phổ Hiền.
3) Ba là giảng về các thứ
trang nghiêm của y báo, chánh báo cơi Cực Lạc để
hành giả sanh tâm quyết định, chí thành hồi
hướng, nhập cảnh giới Phật, chẳng
đọa nghi thành.
Kế đó, tỏ bày chánh
nhân văng sanh và quả báo thế gian khiến cho hành giả
sanh tâm tinh tấn, nhất niệm niệm Phật, thành tựu
tam-muội, quyết sanh về cơi ấy”.
Theo thuyết của ông Bành, nói tóm gọn th́ hai điều
đầu chính là khuyến nguyện mà cũng chính là phát Bồ
Đề tâm; điều thứ ba là khuyến tín, điều
cuối cùng là khuyến hạnh: dứt ác làm lành; mà vua của
các điều thiện lại là Tŕ Danh. Tín nguyện chính
là phát Bồ Đề tâm, Tŕ Danh là một bề chuyên niệm.
Đấy chính là tông chỉ của bộ kinh này; nên gọi là
Chánh Tông Phần. Nếu xét theo kinh Tiểu Bổn th́ chính
là “tín nguyện tŕ danh”. Hai bản tuy có giản lược
hay chi tiết sai khác, nhưng cương tông chẳng khác.
Linh Phong đại sư đă nhận định trong
phần giải thích về Chánh Tông Phần của kinh Tiểu
Bổn như sau: “Trước
hết rộng bày diệu quả y báo, chánh báo cơi ấy
để khơi gợi ḷng tin. Hai là riêng khuyên chúng sanh nên
cầu văng sanh để phát nguyện. Ba là phần dạy
chánh yếu: dạy hành giả chấp tŕ danh hiệu để
lập hạnh. Tín nguyện tŕ danh là yếu chỉ của
cả bộ kinh”.
Đem cả hai bản kinh đối chiếu nhau, tông chỉ
của chúng càng phân minh.