25. Văng Sanh Chánh Nhân (往
生 正 因: Chánh nhân
của sự văng sanh)
Trong phẩm trước, kinh chú trọng phẩm vị
sau khi văng sanh chứ chưa bàn chi tiết về những
nhân hạnh để được văng sanh. V́ vậy, phẩm
này lại bàn rộng thêm về chánh nhân văng sanh và được
đặt tên là Văng Sanh Chánh Nhân. Hai phẩm này cùng tạo
thành cái cốt lơi của kinh, hỗ trợ lẫn nhau: Phẩm
trên tuy chỉ nói đến sở hạnh của ba bậc
văng sanh, nhưng đó cũng là một phần của chánh
nhân văng sanh. Ba bậc văng sanh chính là quả của những
chánh nhân sẽ được nói đến trong phẩm
này.
Đa số các chánh nhân được nói trong phẩm này
đều giống với các Tịnh nghiệp được
dạy trong Quán kinh. Quán kinh dạy:
“Sanh bỉ quốc giả,
đương tu tam phước:
- Nhất giả, hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng,
từ tâm bất sát, tu Thập Thiện nghiệp.
- Nhị giả, thọ tŕ
Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi.
- Tam giả, phát Bồ Đề
tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng Đại Thừa,
khuyến tấn hành giả.
Như thị tam sự, danh
vi Tịnh nghiệp.
Phật cáo Vy Đề Hy: -
Nhữ kim tri phủ? Thử tam chủng nghiệp, năi thị
quá khứ, vị lai, hiện tại tam thế chư Phật
Tịnh nghiệp chánh nhân”.
([Muốn] sanh về nước ấy
th́ nên tu ba phước:
- Một là hiếu dưỡng phụ mẫu,
phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết,
tu mười thiện nghiệp.
- Hai là thọ tŕ Tam Quy, đầy đủ
các giới, chẳng phạm oai nghi.
- Ba là phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả,
đọc tụng Đại Thừa, siêng năng tinh tấn
tu hành. Ba sự ấy gọi là Tịnh nghiệp.
Phật bảo Vy Đề Hy:
- Người biết hay chăng? Ba thứ
nghiệp ấy chính là chánh nhân tịnh nghiệp của quá
khứ, hiện tại, vị lai tam thế chư Phật).
Kinh c̣n dạy: “Phục hữu
tam chủng chúng sanh, đương đắc văng sanh. Hà
đẳng vi tam? Nhất giả từ tâm bất sát, cụ
chư giới hạnh. Nhị giả, độc tụng
Đại Thừa Phương Đẳng kinh điển.
Tam giả, tu hành lục niệm, hồi hướng phát
nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Cụ thử công
đức, nhất nhật năi chí thất nhật, tức
đắc văng sanh”
(Lại có ba
hạng chúng sanh sẽ được văng sanh. Những ǵ
là ba?
- Một là từ tâm chẳng giết,
đủ các giới hạnh.
- Hai là đọc tụng kinh điển
Phương Đẳng Đại Thừa.
- Ba là tu hành sáu niệm, hồi hướng
phát nguyện, nguyện sanh cơi ấy.
Đầy đủ các công đức
đó trong một ngày cho đến bảy ngày th́ được
văng sanh).
So với nội dung phẩm này, Quán kinh dạy nhiều
điểm thật giống hệt.
Chánh kinh:
復 次 阿 難,若 有 善 男 子、善 女 人,聞 此 經 典,受 持 讀 誦,書 寫 供 養,晝 夜 相 續,求 生 彼 剎。發 菩 提 心。持 諸 禁 戒,堅 守 不 犯。饒 益 有 情,所 作 善 根 悉 施 與 之,令 得 安 樂。憶 念 西 方 阿 彌 陀 佛,及 彼 國 土。是 人 命 終,如 佛 色 相 種 種 莊 嚴,生 寶 剎 中,速 得 聞 法,永 不 退 轉。
Phục
thứ A
Lại này A
Giải:
Đoạn văn mở đầu phẩm này nói về
chánh nhân thứ nhất: Phát tâm niệm Phật kiêm thọ
tŕ kinh, giới, làm lợi cho ḿnh lẫn người th́
được văng sanh (trọn đoạn văn trên
đây trích từ bản Tống dịch).
Chánh nhân thứ nhất gồm có sáu điều: Thọ
tŕ kinh này, cầu sanh Tịnh Độ, phát tâm Bồ Đề,
nghiêm tŕ các giới, lợi lạc hữu t́nh, nhớ Phật,
niệm Phật.
1. Quán kinh nói: “Độc tụng
Đại Thừa” (Đọc
tụng Đại Thừa), Sách Quán Kinh Ước Luận
bảo: “Chẳng đọc Đại
Thừa sẽ chẳng thể hiểu nổi tâm Phật.
Chẳng hiểu Phật tâm th́ chẳng khế hợp Phật
trí. Chẳng khế hợp Phật trí th́ dù có sanh cơi kia cũng chẳng thấy
được Phật”.
Trong kinh đây, ngay đầu phẩm này đă dạy:
“Văn thử kinh điển,
thọ tŕ, độc tụng” (Nghe kinh điển này thọ
tŕ, đọc tụng). “Thử kinh” (Kinh này) chính là
kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác. Kinh này chính là kinh Tịnh
Độ bậc nhất mà cũng chính là Trung Bổn Hoa Nghiêm.
Kinh này cũng chính là kinh đức Thế Tôn riêng lưu lại
tồn tại một trăm năm nữa vào lúc kinh đạo
diệt tận trong thời tương lai để làm
phương tiện cứu vớt chúng sanh đời mạt.
Chữ “thử kinh”
cũng chỉ tất cả các bản dịch Hán, Đường,
Ngô, Ngụy, Tống của kinh Vô Lượng Thọ lẫn
các hội bản, tiết bản của các ông Vương
Nhật Hưu, Bành Tế Thanh, Ngụy Thừa Quán. Chỉ
cần thọ tŕ các bản ấy th́ đều là chánh
nhân; nhưng riêng hội bản này được xưng tụng
là bản hoàn thiện nhất nên tŕ tụng bản này công
đức càng thù thắng hơn nữa. Chữ “trú dạ tương tục” (ngày
đêm liên tục) biểu thị sự dũng mănh, tinh tấn,
chẳng hề gián đoạn.
2. “Cầu sanh bỉ sát” (Cầu
sanh cơi kia): Đem các công đức thọ tŕ, đọc tụng,
biên chép, cúng dường hồi hướng Tịnh Độ.
3. “Phát Bồ Đề tâm”:
“Phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”
là tông của cả bộ kinh này, là khuôn phép chánh của ba
bậc văng sanh nên được nhắc lại trong phẩm
này.
4. “Tŕ chư cấm giới,
kiên thủ bất phạm” (Giữ các cấm giới,
giữ vững chẳng phạm): Đây chính là như Quán kinh dạy
“cụ chư giới hạnh”
(đủ các giới hạnh)
hoặc “cụ túc chúng giới,
bất phạm oai nghi” (đầy
đủ các giới, chẳng phạm oai nghi). Đó là v́ không
có giới hạnh th́ khác nào đồ đựng bị
lủng, dẫu siêng niệm Phật cũng khó bề viên
măn.
5. “Nhiêu ích hữu t́nh” (Lợi
lạc hữu t́nh) là hạnh lợi tha của Bồ Tát
như phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có dạy: “Bồ Tát nhược năng tùy
thuận chúng sanh, tắc vi tùy thuận chư Phật.
Nhược ư chúng sanh tôn trọng thừa sự, tắc
vi tôn trọng thừa sự Như Lai” (Bồ Tát nếu có thể tùy thuận
chúng sanh th́ là tùy thuận chư Phật. Nếu tôn trọng,
thừa sự chúng sanh th́ chính là tôn trọng, thừa sự
Như Lai). V́ vậy, hành nhân Tịnh nghiệp nên rộng
hành hạnh lợi lạc chúng sanh. “Sở tác thiện căn tất thí dữ chi”
nghĩa là: Hết thảy công đức và thiện căn
tự ḿnh đă làm đều đem thí cho hết thảy
chúng sanh. Hết thảy tội khổ của chúng sanh ta
đều chịu thay.
6. Nhớ Phật, niệm Phật: “Ức niệm Tây Phương A Di Đà Phật cập
bỉ quốc độ” (Ức niệm đức A Di
Đà Phật ở phương Tây và cơi nước kia). Diệu
hạnh Niệm Phật là vua của các điều thiện,
mầu nhiệm nhất trong các sự mầu nhiệm.
Trong các chánh nhân, phát tâm niệm Phật thật là điều
quan trọng hàng đầu.
Những điều trên là Nhân, tiếp đây sẽ nói
về Quả. Nhân quả phụ thuộc vào nhau như bóng
theo h́nh: “Thị nhân lâm chung,
như Phật sắc tướng” (Người ấy
lúc lâm chung, được sắc tướng như Phật). Người ấy giống
như Phật, [nghĩa là] thân sắc vàng ṛng, đủ ba
mươi hai tướng, lại đầy đủ các
thứ công đức trang nghiêm như Phật. “Sanh bảo sát trung, tốc đắc
văn pháp” (Sanh trong cơi báu, chóng được nghe pháp):
Người ấy mạng chung rồi sắc tướng
giống như Phật, lại chóng được nghe
pháp.
Chánh kinh:
復 次 阿 難,若 有 眾 生 欲 生 彼 國,雖 不 能 大 精 進 禪 定,盡 持 經 戒,要 當 作 善。所 謂 一 不 殺 生,二 不 偷 盜,三 不 淫 欲,四 不 妄 言,五 不 綺 語,六 不 惡口,七 不 兩 舌,八 不 貪,九 不 瞋,十 不 癡。如 是 晝 夜 思 惟 極 樂 世 界 阿 彌 陀 佛,種 種 功 德,種 種 莊 嚴。志 心 歸 依,頂 禮 供 養。是 人 臨 終,不 驚 不 怖,心 不 顛 倒,即 得 往 生 彼 佛 國 土。
Phục
thứ A
Lại này A
Giải:
Đây là chánh nhân thứ hai. Trong loại chánh nhân này có ba
điều: Tu hành Thập Thiện; ngày đêm niệm Phật;
chí tâm quy y, đảnh lễ cúng dường.
1. Tu
hành Thập Thiện: Theo sách Pháp Giới Thứ Đệ, Thập Thiện
là để dứt ác. Dứt những điều ác
như trên th́ chẳng năo loạn người khác. Nay ta thực
hành điều thiện để lợi lạc hết thảy.
* Chẳng sát sanh: Dứt ác hạnh sát sanh khi
trước, phải nên thực hành điều lành phóng
sanh.
* Chẳng trộm cắp: Dứt ác hạnh trộm
cắp tài vật của người, nên hành điều
lành bố thí.
* Chẳng dâm dục (Chẳng tà dâm): Dứt ác hạnh
hành dâm với người chẳng phải là thê, thiếp
của ḿnh, nên hành điều lành cung kính.
* Chẳng nói dối: Dứt ác hạnh dối gạt
người, nên hành điều lành nói lời chân thật.
* Chẳng nói thêu dệt: Dứt ác hạnh nói lời
ác, thêu dệt, điên đảo lư lẽ, nên hành hạnh
lành nói lời có nghĩa lợi ích người khác.
* Chẳng ác khẩu: Dứt ác hạnh nói năng
ác nghiệt, hại người, nên hành điều lành nói
năng mềm mỏng.
* Chẳng nói đôi chiều: Dứt ác hạnh nói
xúc xiểm, khuấy rối cả hai bên, nên hành hạnh
lành nói lời ḥa hợp.
* Chẳng tham: Đối với các ác hạnh chẳng
chán nhàm vừa kể trên nên hành hạnh lành Bất Tịnh
Quán, quán cả sáu trần đều là lừa dối, chẳng
sạch.
* Chẳng sân: Dứt những ác hạnh sân nộ
trước đây, nên hành hạnh lành từ bi, nhẫn nhục.
* Chẳng si (Chẳng tà kiến): Dứt các hạnh “bài bác không nhân quả[1],
tà tâm, nói bậy”, nên hành hạnh lành chánh tín, tâm quay về
chánh đạo, sanh tâm lành trí huệ.
Mười thứ thiện kể trên đều là hạnh
lành thế gian.
Báo Ân Luận bảo: “Hễ
là thiện hạnh đều có thể văng sanh; nhưng cần
phải thường niệm Phật hồi hướng
th́ chuyển được việc lành thế gian thành cái
nhân Tịnh Độ. V́ vậy, Phật giảng các kinh đều
nói kèm thêm hạnh lành thế
gian; nhưng riêng với mười điều thiện
này Phật giảng riêng một kinh (kinh Thập Thiện
Giới). Tịnh ba nghiệp
nơi thân, bốn nghiệp nơi miệng, ba nghiệp
nơi ư chính là căn bản
của việc tu tŕ vậy”.
2. Ngày
đêm niệm Phật: Kinh dạy: “Trú dạ
tư duy, Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật,
chủng chủng công đức, chủng chủng trang
nghiêm” (Ngày đêm tư
duy các thứ công đức, các thứ trang nghiêm của Cực
Lạc thế giới và của Phật A Di Đà).
Trong Văng Sanh Luận, Thiên Thân Bồ Tát đă lập ra
ngũ niệm môn: Lễ Bái môn, Tán Thán môn, Tác Nguyện môn,
Quán Sát môn, và Hồi Hướng môn. Luận viết: “Thế nào là tán thán? Khẩu nghiệp
tán thán, xưng danh đức Như Lai kia”. Và: “Quán sát có ba thứ, những ǵ là
ba? Một là quán sát công đức trang nghiêm của cơi
nước Phật ấy; hai
là quán sát công đức trang nghiêm của A Di Đà Phật; ba
là quán sát công đức trang nghiêm của các Bồ Tát trong
cơi ấy”.
Điều được nói trong kinh này chính là môn thứ
tư: Quán Sát môn. Nếu kèm cả miệng niệm th́ gồm
cả môn thứ hai là Tán Thán môn. Quán sát hoặc tán thán
như thế liên tục ngày đêm nên kinh nói: “Trú dạ tư duy” (Ngày
đêm tư duy).
3. “Chí
tâm quy y, đảnh lễ cúng dường” là môn thứ nhất,
tức Lễ Bái môn. Luận viết: “Thế nào là lễ bái? Thân nghiệp lễ bái A Di Đà
Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, ư mong sanh về cơi kia”.
“Quy y” lại chính là
quy mạng, Văng Sanh Luận nói: “Nên
biết rằng quy mạng chính là lễ bái, nhưng lễ
bái chỉ là cung kính, chứ chưa ắt là quy mạng. Quy
mạng tất nhiên là lễ bái. Nếu suy như vậy
th́ quy mạng đáng trọng
hơn”. Nay kinh dạy quy y đảnh lễ, lại
khuyên chí tâm và kiêm cả cúng dường th́ thật đă thể
hiện ḷng thành tinh chuyên rất mực.
Văng Sanh Luận nói: “Nếu
thiện nam tử, thiện nữ nhân tu thành tựu Ngũ
Niệm Môn th́ rốt ráo được văng sanh cơi nước
An Lạc, gặp đức A Di Đà Phật kia”. Diệu
nhân cảm diệu quả cho nên lúc lâm chung được
Phật thuận theo bổn nguyện dùng oai thần gia bị
“từ bi gia hựu khiến
cho tâm chẳng loạn”. V́ vậy, “bất kinh, bất bố, tâm bất điên đảo”
(chẳng kinh, chẳng sợ, tâm chẳng điên đảo). “Bất kinh” là chẳng kinh
hoàng, hoảng hốt. “Bất
bố” là chẳng sợ hăi, khiếp đảm; “bất điên đảo” là
tâm chẳng lầm loạn, chánh niệm tưởng nhớ
đến Phật vẫn hiện tiền như thường
cho nên được văng sanh.
Kinh văn trong phẩm này chẳng nói lâm chung thấy Phật,
nhưng đă được văng sanh th́ tất nhiên Phật
sẽ đến đón v́ bổn nguyện của Phật
là lâm chung đến tiếp dẫn. Nếu Phật chẳng
đến đón th́ chỉ với tự lực, phàm phu
làm sao có thể văng sanh nổi? Bởi vậy, kinh văn chẳng
nói đến. Hơn nữa, phẩm này chuyên giảng nhân
hạnh văng sanh nên chẳng bàn nhiều đến quả cảnh
văng sanh.
Chánh kinh:
若 多 事 物,不 能 離 家,不 暇 大 修 齋 戒,一 心 清 淨。有 空 閑 時,端 正 身 心。絕 欲 去 憂,慈 心 精 進。不 當 瞋 怒 嫉 妒,不 得 貪 餮 慳 惜。不 得 中 悔,不 得 狐 疑。要 當 孝 順,至 誠 忠 信。當 信 佛 經 語 深,當 信 作 善 得 福。奉 持 如 是 等 法,不 得 虧 失。思 惟 熟 計,欲 得 度 脫。晝 夜 常 念,願 欲 往 生 阿 彌 陀 佛 清 淨 佛 國。十 日 十 夜,乃 至 一 日 一 夜 不 斷 絕 者,壽 終 皆 得 往 生 其 國。
Nhược
đa sự vật, bất năng ly gia, bất hạ
đại tu trai giới, nhất tâm thanh tịnh. Hữu không nhàn thời, đoan chánh thân
tâm, tuyệt dục, khử ưu, từ tâm tinh tấn. Bất
đương sân nộ, tật đố, bất đắc
tham thiết, xan tích, bất đắc trung hối, bất
đắc hồ nghi. Yếu đương hiếu thuận,
chí thành trung tín, đương tín Phật kinh ngữ thâm,
đương tín tác thiện đắc phước. Phụng
tŕ như thị đẳng pháp, bất đắc khuy thất.
Tư duy thục kế, dục đắc độ thoát.
Trú dạ thường niệm, nguyện dục văng sanh A
Di Đà Phật thanh tịnh Phật quốc. Thập nhật
thập dạ, năi chí nhất nhật nhất dạ bất
đoạn tuyệt giả, thọ chung
giai đắc văng sanh kỳ quốc.
Nếu [người]
lắm sự vật chẳng thể ĺa nhà, chẳng rảnh
rỗi để rộng tu trai giới, nhất tâm thanh tịnh
th́ hễ có lúc rảnh rỗi liền đoan chánh thân tâm,
tuyệt dục, bỏ lo, từ tâm tinh tấn, chẳng
nên sân nộ, ghen ghét, chẳng được tham ăn, keo
tiếc, chẳng nên giữa chừng hối hận, chẳng
nên hồ nghi, phải nên hiếu thuận, chí thành, trung tín,
nên tin lời kinh Phật sâu xa, nên tin làm lành được
phước. Phụng tŕ những pháp như vậy chẳng
được thiếu sót, suy nghĩ kỹ càng, muốn
được độ thoát. Ngày đêm thường niệm,
nguyện muốn văng sanh cơi Phật thanh tịnh của A
Di Đà Phật. Trong mười ngày mười đêm cho
đến một ngày một đêm chẳng đoạn
tuyệt th́ lúc tuổi thọ hết đều được
văng sanh cơi ấy.
Giải:
Chánh nhân văng sanh thứ ba này gồm hai điều: Một
là tu hành các điều lành thế gian, hai là chộp ngay lúc
rảnh trong khi bận rộn để chánh niệm hầu
được văng sanh.
Loại chánh nhân này dành cho kẻ bận rộn trăm
công ngh́n việc, thời gian rảnh rỗi rất ít nên
chưa thể tu trai giới đầy đủ cũng
như khó ḷng giữ nhất tâm thanh tịnh được.
Những người như vậy nên nỗ lực làm
lành, nên chộp ngay lúc rảnh giữa cơn bận rộn,
khéo giành thời cơ: Hễ gặp duyên liền tu chẳng
để lỡ uổng th́ cũng quyết định
được văng sanh. Điểm kỳ diệu của Tịnh
tông là “chẳng ĺa Phật pháp
mà hành thế pháp, chẳng phế thế pháp mà chứng Phật
pháp” (xem Báo Ân Luận).
Câu “hữu
không nhàn thời” (hễ có lúc rảnh
rỗi) là câu thừa tiếp ư trên bận bịu công việc
nên chưa thể thân nhàn, tâm tịnh để tu rộng
các trai giới. Vậy th́ nên khéo giành thời cơ, hễ rảnh
liền tu, trừ khử những nỗi lo lắng việc
đời, dũng mănh chuyên tu. Ư này xuyên suốt
từ chữ “hữu không nhàn
thời” (hễ có lúc rảnh
rỗi) cho đến chữ “nhất nhật nhất dạ bất đoạn
tuyệt” (một ngày một đêm chẳng đoạn
tuyệt).
“Đoan chánh thân tâm” là thân giữ
trang nghiêm, tâm ư ngay chánh. Phẩm Trược Thế Ác Khổ
ghi: “Nhữ đẳng năng
ư thử thế, đoan thân chánh ư, bất vi chúng ác, kham
vi đại đức” (Các ông nếu có thể trong
đời này đoan tâm chánh ư, chẳng làm các điều
ác th́ thật có đức lớn). Phẩm Trùng Trùng Hối
Miễn (bao lượt khuyên lơn) cũng chép: “Nhược tào tác thiện vân
hà đệ nhất? Đương tự đoan tâm,
đương tự đoan thân, nhĩ,
mục, khẩu, tỵ, giai đương tự đoan” (Nếu các ông muốn làm lành th́ thế nào là bậc
nhất? Hăy nên tự đoan nghiêm tâm, nên tự đoan chánh
thân, tai, mắt, mũi , miệng, đều nên tự đoan chánh).
V́ vậy gặp lúc rảnh rỗi th́ trước hết
phải đoan thân, chánh ư.
“Tuyệt dục” là trong lúc tu tập
như vậy, phải dứt hết những ư tưởng
ái dục nam nữ. “Khử
ưu” là buông bỏ hết thảy những mối lo
nghĩ việc đời. “Từ
tâm” là tâm ban vui cho chúng sanh, tu tŕ như vậy nhằm lợi
lạc hữu t́nh.
“Tinh tấn” là dũng mănh
tu thiện, đoạn ác. Sách Phụ Hành, quyển hai nói: “Chẳng nhiễm pháp là Tinh (精), niệm niệm
cầu hướng đến là Tấn (進)”. Hoa Nghiêm Đại Sớ, quyển
năm ghi: “Tâm chuyên nơi pháp
th́ gọi là Tinh; chuyên tâm thực hành để đạt
bổn th́ gọi là Tấn”. Ư nói: Tinh là dốc một tấm
ḷng nơi Phật pháp. Dùng cái tâm tinh chuyên ấy để
hoàn thành nhiệm vụ thấu hiểu bản tâm th́ gọi
là Tấn. Hiểu thấu bản tâm, sáng tỏ bản tánh
của ḿnh th́ gọi là “đạt
bổn”. Ư nghĩa chữ “tinh
tấn” do Đại Sớ giảng có phần thù thắng
hơn.
Từ chữ “bất
đương sân nộ” (chẳng nên sân nộ) cho
đến “chí thành trung tín”
là nguyên một câu nói về điều lành thế gian của
người tu Đại Thừa.
“Tật đố” (嫉 妒) là ghen tỵ điều hay tốt
của người khác; làm hại người hiền
cũng gọi là “tật” (嫉). “Tham thiết”
(貪 餮): “thiết” (餮) là tham ăn tục
uống.
Sách Đại Thừa Nghĩa Chương giảng chữ
“xan tích” (慳 惜) như sau: “Tiếc rẻ cả tài lẫn pháp th́ gọi là Xan”,
tức là cái tâm tham đắm tài lẫn pháp, chẳng thể
đem tài và pháp làm lợi cho người khác.
“Trung hối” (中 悔: Giữa chừng hối hận) là ḷng tin chẳng
vững chắc, trước tin sau ngờ nên bảo là “trung hối”.
“Hồ nghi” là do tánh con cáo
(hồ: 狐) hay nghi ngờ nên gọi là “hồ nghi”. Do dự chẳng
quyết định nên gọi là “nghi” (疑). Do nghi niệm
làm hại căn lành giống như gai độc nên sách Vạn
Thiện Đồng Quy Tập ghi: “Vững
tín căn để nhổ gai ngờ”.
“Yếu đương hiếu
thuận” (Phải nên hiếu thuận) chính là ư “hiếu dưỡng phụ mẫu”
đă dạy trong Quán kinh; đây chính là phước đầu
tiên trong ba thứ phước được dạy trong
kinh ấy, đó chính là một trong những chánh nhân tịnh
nghiệp của tam thế chư Phật.
Trong cụm chữ “chí thành
trung tín”, “thành” (誠) là chân tâm, chân thật chẳng dối; “chí” (至) là đến
mức cùng tột nhất. Ḷng thành đạt đến mức
tột cùng nên bảo là “chí
thành”. “Trung” (忠) là tận tâm, kiệt lực
trung với nước nhà. Hai chữ trung hiếu chính là gốc
của mọi mỹ đức thế gian. Chữ “tín” (信) ở đây
chỉ về pháp thế gian, tức là chân thật chẳng
dối.
Hai câu kinh tiếp theo đó nói về cách thức niệm
Phật trong khi bận rộn.
“Đương tín Phật
kinh ngữ thâm” (Hăy nên tin lời kinh Phật sâu xa): Chữ “tín” (信) ở đây lại
chỉ pháp xuất thế, nghĩa là chữ Tín ở
đây chỉ cho thật thể của các pháp, là tịnh
đức của Tam Bảo. Tin ưa sâu xa căn lành thế
gian và xuất thế gian khiến cho tâm trong lặng th́ gọi
là “tín”.
Duy Thức Luận nói: “Thế
nào là Tín? Là có thể nhẫn chịu dục lạc một
cách sâu xa, tâm tịnh thành tánh”. Sách Đại Thừa
Nghĩa Chương lại bảo: “Đối với Tam Bảo tịnh tâm chẳng nghi th́
gọi là Tín”. Câu Xá Luận lại bảo: “Tín khiến cho [tâm] người
trong lặng”. Nay nghe kinh Phật liền tin tưởng
sâu xa vào lời kinh. Đại Luận nói: “Có tin mới chứng nhập nổi”. Do đó, mới
có thể từ nhân thừa tiến thẳng vào Đại Thừa
viên môn, niệm Phật cầu sanh.
Lại do tin nhân quả chẳng hư vọng nên tin “tác thiện đắc phước”
(làm lành được phước) để tinh tấn
hướng thiện. “Phụng
tŕ như thị đẳng pháp” (phụng tŕ các pháp
như vậy) là vâng giữ các điều lành như trên vừa
nói “vô đắc khuy thất” (chẳng
được thiếu sót);
“khuy thất” (虧失) là tổn giảm.
Những câu kinh vừa trên đều cùng nói về việc
từ nhân thừa tiến thẳng vào Cực Lạc Nhất
Thừa. Tiếp đó, kinh nói đến cách t́m cái nhàn trong
khi bận rộn để tinh tấn niệm Phật:
“Tư duy
thục kế, dục đắc độ thoát” (Suy nghĩ kỹ càng muốn được
độ thoát) chính là suy nghĩ chín chắn, sâu xa mong
được thoát khỏi sanh tử. “Nguyện dục
văng sanh” (Nguyện muốn văng sanh) là xả uế cầu
tịnh, đem hết thảy công đức hồi hướng
văng sanh. “Trú dạ thường
niệm A Di Đà Phật thanh tịnh Phật quốc” (Ngày
đêm thường niệm cơi nước thanh tịnh của
A Di Đà Phật). Đấy chính là chánh hạnh nhớ Phật,
niệm Phật để văng sanh. Liên tục như thế
trong mười ngày mười đêm là công hạnh phải
có của hết thảy hành nhân; c̣n thực hành được
như thế trong một ngày một đêm là công hạnh
phải có của bậc nhiều thiện căn. Cứ
tùy theo thiện căn mà thực hành chẳng đoạn
tuyệt trong mười ngày mười đêm hoặc trong
một ngày một đêm th́ khi mạng chung đều
được văng sanh. Do đó, kinh nói: “Thọ chung giai đắc
văng sanh kỳ quốc” (Khi tuổi thọ
hết đều được sanh về cơi ấy). Đây là chánh nhân văng sanh của
hành nhân thuộc loại thứ ba, công đức kém hơn
hai loại trước.
Đoạn kinh tiếp theo đây giảng rơ: Các hạng
người văng sanh, nhân hạnh tuy khác nhau nhưng hễ
sanh về cơi ấy rồi th́ đều là Đại Thừa
cả, đều thành cùng một loại.
Chánh kinh:
行 菩 薩 道。諸 往 生 者,皆 得 阿 惟 越 致, 皆 具 金 色 三 十 二 相,皆 當 作 佛。欲 於 何 方 佛 國 作 佛,從 心 所 願,隨 其 精 進 早 晚,求 道 不 休,會 當 得 之,不 失 其 所 願 也。阿 難,以 此 義 利 故,無 量 無 數 不 可 思 議 無 有 等 等 無 邊 世 界,諸 佛 如 來,皆 共 稱 讚 無 量 壽 佛 所 有 功 德。
Hành Bồ Tát đạo,
chư văng sanh giả, giai đắc A Duy Việt Trí, giai cụ
kim sắc tam thập nhị tướng, giai
đương tác Phật. Dục ư hà phương Phật
quốc tác Phật, tùng tâm sở nguyện, tùy kỳ tinh tấn
tảo văn, cầu đạo bất hưu, hội
đương đắc chi, bất thất kỳ sở
nguyện dă. A
Hành Bồ Tát
đạo, những người văng sanh đều đắc
A Duy Việt Trí, đều đầy đủ sắc
vàng ba mươi hai tướng, đều sẽ thành Phật.
Muốn làm Phật ở cơi nước Phật
phương nào đều như sở nguyện, tùy theo
người ấy tinh tấn sớm hay chậm. Cầu
đạo chẳng ngơi th́ sẽ đạt được,
chẳng bị thất vọng. Này A Nan! Do nghĩa lợi
này, vô lượng vô số bất khả tư nghị vô
hữu đẳng đẳng vô biên thế giới chư
Phật Như Lai đều cùng khen ngợi tất cả
công đức của Vô Lượng Thọ Phật.
Giải:
Câu “hành Bồ Tát đạo”
ngụ ư những người đă văng sanh đều là Đại
Thừa.
Tiếp đó, kinh nói đến cái quả nhân hạnh.
Nhân dẫu thiên sai vạn biệt, nhưng quả chỉ một
vị: Hành nhân Đại Thừa hết tuổi thọ sanh về
cơi kia đều “đắc A
Duy Việt Trí”, đều đạt thân sắc vàng tía,
đều đầy đủ ba mươi hai tướng
đại trượng phu; chẳng những thân tướng
giống như đức Phật mà c̣n “giai đương tác Phật” (đều sẽ
thành Phật).
Những người văng sanh nguyện làm Phật ở
phương nào th́ không ai lại chẳng được
thành tựu xứng với tâm nguyện; bởi vậy,
kinh nói: “tùng tâm sở
nguyện” (đều
như sở nguyện). C̣n lúc nào sẽ thành Phật lại
tùy thuộc vào hành nhân “tinh tấn
tảo văn” (tinh tấn chậm hay mau) khác nhau. Sớm
tinh tấn th́ sớm thành Phật; đây chính là điều
sai biệt trong lẽ b́nh đẳng. B́nh đẳng mà có
sai biệt nên có thành Phật sớm hay chậm. Điều
b́nh đẳng trong sai biệt chính là đều sẽ
thành Phật, nên kinh nói: “Cầu
đạo bất hưu, hội đương đắc
chi, bất thất kỳ sở nguyện dă” (Cầu đạo chẳng ngơi th́ sẽ
đạt được, chẳng bị thất vọng).
Nghĩa là: Cái tâm cầu đạo tinh tấn chẳng ngơi
th́ đều sẽ thành Phật, quyết định chẳng
trái nghịch với bổn nguyện được thành
Phật.
Câu “Phật cáo A
1. Một là cứng bén như kim cang phá hoại
được hết thảy mà chẳng bị hết thảy
phá hoại.
2. Hai là lợi ích do pháp môn này có thể ban bố cái lợi
chân thật cho hết thảy chúng sanh.
Nói cách khác: Toàn thể nghĩa lư pháp môn văng sanh là kim cang
trí huệ nên bảo là lợi (kiên lợi: cứng bén). Đồng
thời, “lợi” c̣n có
nghĩa là do đại từ đại bi lưu xuất
phổ độ chúng sanh bằng cái lợi chân thật rốt
ráo nên bảo là “lợi”. V́ vậy, chư Phật trong vô lượng, vô
biên không thể tính kể thế giới “giai cộng xưng tán Vô Lượng Thọ Phật
sở hữu công đức” (đều cùng khen ngợi
tất cả công đức của Vô Lượng Thọ
Phật). Phàm phu văng sanh đều là Bất Thoái Chuyển,
địa vị ngang với Bổ Xứ Bồ Tát. Đây
chính là điều cả mười phương thế giới
không nơi nào có nổi. Do vậy, mười phương
Như Lai đều cùng khen ngợi Vô Lượng Thọ
Phật.