17. Tuyền tŕ công đức (泉 池 功 德: Công đức của ao, suối)
Phẩm này tŕnh bày công đức chẳng thể
nghĩ bàn của các ao suối nơi cơi Cực Lạc:
1. Trước hết là những đặc tánh tổng
quát của những ao ấy và những tướng trạng
riêng biệt như kích thước, tánh chất của
nước, cây mọc bên bờ ao, hoa nở trong ao…
2. Ao tuyên dương diệu pháp, thành thục thiện
căn.
3. Chúng sanh trong mười phương sanh về Cực
Lạc đều hóa sanh trong ao hoa sen.
Chánh kinh:
又 其 講 堂 左 右,泉 池 交 流。縱 廣 深 淺,皆 各 一 等。或十 由 旬,二 十 由 旬,乃 至 百 千 由 旬。湛 然 香 潔,具 八 功 德。
Hựu kỳ
giảng đường tả hữu, tuyền tŕ giao
lưu. Tung quảng
thâm thiển, giai các nhất đẳng. Hoặc thập
do-tuần, nhị thập do-tuần, năi chí bách thiên do-tuần.
Trạm nhiên hương khiết, cụ bát công đức.
Hai bên giảng
đường lại có ao, suối chảy quanh, ngang, dọc,
sâu, cạn đều giống hệt nhau, hoặc là mười
do-tuần, hai mươi do-tuần, cho đến trăm
ngàn do-tuần, trong lặng, thơm, sạch, đủ tám
công đức.
Giải:
“Hựu kỳ giảng
đường tả hữu, tuyền tŕ giao lưu” (Hai bên giảng đường lại có ao, suối
chảy quanh) là tổng tướng, hàm ư: Cây báu, ao sen trọn
khắp cơi nước. Quán kinh nói: “Nhất nhất tŕ thủy, thất bảo sở
thành... Kỳ Ma Ni thủy, lưu chú hoa gian, tầm thụ
thượng hạ” (Nước
trong mỗi một ao do bảy báu hợp thành… Nước
Ma-ni ấy chảy rót vào hoa, lên xuống theo thân hoa). Ta thấy cơi nước Cực
Lạc vi diệu, trang nghiêm vượt xa hết thảy.
Trong phần biệt tướng, trước hết
nói đến h́nh dáng, kích thước của từng ao. “Tung” (縱) là nói về độ dài, “quảng” (廣) là nói về chiều rộng.
Kích thước, độ sâu cạn của mỗi ao
đều ứng hiện theo căn cơ nên chẳng phải
chỉ có một kích thước. Do h́nh thể tương
xứng nên mỗi chúng sanh đều thấy các ao giống
hệt nhau. Ao to từ mười do-tuần cho đến
trăm ngàn do-tuần; đấy đều là thích ứng
với từng căn cơ mà hiện ra lớn hay nhỏ.
Kế đó, kinh nói đến đức tánh của
nước. Các ao ấy là ao nước tám công đức.
Nước trong ao lặng, sạch, trong trẻo, thơm
tho nên bảo là “trạm nhiên
hương khiết” (trong lặng, thơm, sạch).
Nước có đủ tám công đức nên gọi là “bát công đức thủy”.
Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ bảo:
“Hà đẳng danh vi bát công
đức thủy? Nhất giả trừng tịnh, nhị
giả thanh lănh, tam giả cam mỹ, tứ giả khinh nhuyễn,
ngũ giả nhuận trạch, lục giả an ḥa, thất
giả ẩm thời trừ cơ khát đẳng vô lượng
quá hoạn, bát giả ẩm dĩ định năng
trưởng chư căn tứ đại, tăng ích chủng
chủng thù thắng thiện căn. Đa phước
chúng sanh, trường lạc thọ dụng” (Những ǵ là nước tám công
đức? Một là lặng sạch, hai là trong mát, ba là
ngon ngọt, bốn là mềm nhẹ, năm là nhuần thấm
sáng bóng, sáu là an ḥa, bảy là uống vào trừ được
đói, khát, vô lượng khổ sở, tám là uống xong
quyết định trưởng dưỡng các căn và
tứ đại, tăng ích các thứ thiện căn thù
thắng. Chúng sanh nhiều phước thọ dụng sự
vui dài lâu). Nước trong cơi Cực Lạc lại có
thể khiến cho người uống vào được
tăng trưởng các thiện căn thù thắng, thật
là cơi Cực Lạc chẳng thể nghĩ bàn.
Chánh kinh:
岸 邊 無 數 栴 檀 香 樹,吉 祥 果 樹,華 果 恆 芳,光 明 照 耀。 修 條 密 葉,交 覆 於 池。出 種 種 香,世 無 能 喻。隨 風 散 馥,沿 水 流 芬。
Ngạn
biên vô số chiên-đàn hương thụ, cát tường
quả thụ. Hoa quả
hằng phương, quang minh chiếu diệu, tu điều,
mật diệp, giao phú ư tŕ, xuất chủng chủng
hương, thế vô năng dụ. Tùy phong tán phức,
duyên thủy lưu phân.
Trên bờ có vô
số cây hương chiên-đàn, cây cát tường quả.
Hoa quả luôn thơm ngát, quang minh chói ngời, cành to, lá dày,
chen bóng phủ mặt ao, tỏa các mùi thơm không thể
dùng vật ǵ trong thế gian này để sánh ví nổi.
Hương thơm lan theo gió thoảng, nước cuốn
dậy mùi thơm.
Giải:
Đoạn kinh này mô tả tướng trạng trang nghiêm
của các loại cây mầu nhiệm mọc bên bờ ao.
Chữ “Chiên-đàn” xin
xem chú giải ở phần trước.
“Cát tường quả” chỉ có ở
Ấn Độ, Trung Hoa không có, h́nh dạng từa tựa trái dưa nhỏ, màu vàng ửng
đỏ. Ta có thể tạm dùng trái thạch lựu để
h́nh dung trái cát tường; trái thạch lựu một hoa
nhiều hạt nên có thể dùng để h́nh dung trái cát
tường.
Kinh dạy:
“Tŕ lưu hoa thụ … giai dĩ
vô lượng bảo
hương hợp thành” (Cây hoa bên bờ ao, ḍng suối…đều
do vô lượng hương báu hợp thành) nên “hoa quả hằng phương” (hoa
quả luôn thơm ngát). “Hằng phương” là luôn
thơm tho.
“Quang minh chiếu diệu” (Quang minh chói ngời) là như
trong đoạn trước kinh đă chép: “Vô lượng
quang viêm, chiếu diệu vô cực” (Vô lượng tia
sáng rực rỡ, chói ngời vô cùng tận). Cây cối cơi ấy
đă tỏa hương thơm ngát, lại c̣n phóng diệu
quang.
“Tu điều” (修 條)
là những
cành cây lớn. “Giao” (交) là các cành nhánh chạm
vào nhau. “Phú” (覆) là che trùm lên. Cả
câu ư nói: Rừng cây báu bên bờ ao, cành to khỏe, lá xum xuê,
vươn dài ra khắp không gian, chạm ngọn vào nhau,
soi bóng xuống mặt ao. Các rừng cây như thế tỏa
ra các thứ diệu hương. Những hương ấy
thù thắng chẳng phải là thứ thế gian này có nổi
nên kinh mới bảo: “Thế
vô năng dụ” (Không thể dùng vật ǵ trong thế
gian này để sánh ví nổi).
“Tùy phong tán phức” nghĩa là mùi hương ngào được gió đức
(đức phong) thổi lan khắp nơi.
“Duyên thủy lưu phân” (Nước cuốn dậy mùi thơm) nghĩa là theo ḍng nước
chảy, mùi thơm ngào ngạt lan đi. Đây chính là kết
quả của nguyện bốn mươi ba “hương báu xông khắp”.
Chánh kinh:
又 復 池 飾 七 寶,地 布 金 沙。優 鉢 羅 華、鉢 曇 摩 華、拘 牟 頭 華、芬 陀 利 華,雜 色 光 茂,彌 覆 水 上。
Hựu phục tŕ sức thất
bảo, địa bố kim sa. Ưu Bát La hoa, Bát Đàm Ma
hoa, Câu Mâu Đầu hoa, Phân Đà Lợi hoa, tạp sắc
quang mậu, di phú thủy thượng.
Lại nữa,
ao trang hoàng bằng bảy báu, đáy trải cát vàng. Hoa
Ưu Bát La, hoa Bát Đàm Ma, hoa Câu Mâu Đầu, hoa Phân
Đà Lợi nhiều màu tỏa sáng rạng ngời, phủ
kín mặt nước.
Giải:
Đoạn kinh này mô tả tướng trang nghiêm trong ao.
Về ư “tŕ sức thất
bảo” (ao trang hoàng bằng
bảy báu), bản Ngô dịch chép như sau: “Giai phục hữu tự nhiên
lưu tuyền, dục tŕ, giai dữ tự nhiên thất bảo
câu sanh” (Lại đều có suối chảy, ao tắm,
đều do bảy báu tự nhiên hợp thành).
Trong câu “địa bố
kim sa” (đáy trải cát vàng), chữ “địa” (地) chỉ đáy
ao. Bản Hán dịch ghi: “Hữu
thuần bạch ngân tŕ giả, kỳ để sa giai hoàng
kim dă. Trung hữu thuần hoàng kim tŕ giả, kỳ thủy
để sa giai bạch ngân dă… Trung phục hữu nhị
bảo cộng tác nhất tŕ giả, kỳ thủy để
sa giai kim ngân dă” (Có ao thuần bằng bạc trắng,
cát nơi đáy ao thuần là vàng ṛng. Trong ấy lại có
ao thuần bằng vàng ṛng, đáy ao phủ cát bạc trắng…Trong
ấy lại có ao bằng hai thứ báu hợp thành, đáy
ao trải cát bằng vàng lẫn bạc) cho đến “trung phục
hữu thất bảo cộng tác nhất tŕ giả, kỳ
tŕ để sa giai kim, ngân, thủy tinh, lưu ly, san hô, hổ
phách, xa cừ mă năo dă” (trong ấy có ao do bảy báu hợp
thành, đáy ao dùng vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, san hô,
xa cừ, mă năo làm cát trải).
Tiếp đó, kinh nói đến bốn thứ hoa xinh
đẹp trong ao. Sách Hội Sớ giảng: “Ưu Bát La Hán dịch là Thanh
Liên Hoa, Bát Đàm Ma dịch là Hồng Liên Hoa, Câu Mâu Đầu dịch
là Hoàng Liên Hoa, Phân Đà Lợi dịch là Bạch Liên Hoa. Đó là
hoa sen bốn màu nói trong kinh Tiểu Bổn”.
Sách Tiên Chú lại bảo:
“Sen nơi trời Tây gồm có bốn thứ: xanh, vàng, trắng,
đỏ. Lại c̣n tùy theo hoa c̣n búp, đă nở, rụng
cánh mà gọi tên khác nhau. Phân Đà Lợi là tên gọi của
hoa sen trắng đang nở. Thứ hoa này lại rất
to, có đến vài trăm cánh hoa nên c̣n có tên là Bách Diệp
Liên (sen trăm cánh). Chữ
‘liên hoa’ dùng trong tựa đề kinh Diệu Pháp Liên Hoa
chính là loại hoa Phân Đà Lợi màu trắng trăm cánh này.
Loại hoa này thường mọc trong ao A Nậu Đạt,
không thấy trong nhân gian, nên nó được xưng tụng
là hoa đẹp nhất trong loài người, là hoa hiếm
có v.v…”
Trong câu “tạp sắc quang
mậu” (nhiều màu tỏa sáng rạng ngời), chữ “tạp sắc” diễn tả nhiều thứ màu
sắc ḥa hợp lại, chữ
“quang mậu” diễn tả các ánh quang minh sáng chói. Câu kinh
trong Tiểu Bổn: “Tŕ trung
liên hoa, đại như xa luân, thanh sắc thanh quang, hoàng sắc
hoàng quang, xích sắc xích quang, bạch sắc bạch quang” (Hoa sen trong ao to như bánh xe, màu
xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng vàng, màu đỏ ánh sáng đỏ,
màu trắng ánh sáng trắng)
cũng diễn tả hoa có các thứ ánh sáng cùng chói rực.
Chữ “di” (彌) diễn tả
ư trọn khắp, ư nói: Hoa sen mọc kín khắp cả mặt
nước ao báu, che lấp mặt nước nên kinh bảo “di phú thủy thượng” (phủ kín mặt
nước).
Chánh kinh:
若 彼 眾 生,過 浴 此 水,欲 至 足 者,欲 至 膝 者,欲 至 腰 腋,欲 至 頸 者,或 欲 灌 身,或 欲 冷 者、溫 者、急 流 者、緩 流 者,其 水 一 一 隨 眾 生 意,開 神 悅 體,淨 若 無 形。寶 沙 映 澈,無 深 不 照。
Nhược
bỉ chúng sanh, quá dục thử thủy, dục chí túc giả,
dục chí tất giả, dục chí yêu dịch, dục chí
cảnh giả, hoặc dục quán thân, hoặc dục lănh
giả, ôn giả, cấp lưu giả, hoăn lưu giả,
kỳ thủy nhất nhất tùy chúng sanh ư, khai thần duyệt
thể, tịnh nhược vô h́nh. Bảo sa ánh triệt, vô thâm bất chiếu.
Nếu những
chúng sanh cơi kia đến tắm trong nước ấy th́
hễ muốn nước dâng đến chân, muốn
nước ngập đến gối, muốn nước
ngập ngang lưng hay nách,
muốn nước dâng đến cổ, hoặc muốn
nước xối lên thân, hay muốn nước lạnh, ấm,
nước chảy gấp, hay nước chảy thong thả
th́ nước đó mỗi mỗi đều thuận theo
ư chúng sanh. [Nước làm cho người tắm] khai hiển
thần thức, thân thể vui sướng. [Nước] sạch
dường như vô h́nh, cát báu chiếu rực lên, dẫu
sâu cách mấy cũng chiếu thấu.
Giải:
Đoạn này diễn tả nước có các diệu dụng,
khéo đáp ứng ư muốn con người.
Sách Hội Sớ giảng câu “quá dục thử thủy” (đến tắm
trong nước ấy) như sau: “Nhân thiên trong cơi ấy chẳng phải là thân ăn
cơm, uống nước, thân họ được thành
tựu một cách thanh tịnh sao lại cần phải tắm
rửa? Ấy chẳng qua chỉ là để tùy ư hưởng vui, gột rửa cấu
nhiễm trong tâm mà thôi”. Ư nói: Trời, người trong
cơi Cực Lạc là liên hoa hóa thân, chẳng cần phải
dùng đến cơm ăn, nước uống để
duy tŕ thân mạng. Thân họ vốn sẵn thanh tịnh sao
lại cần phải tắm gội? Chẳng qua là họ
thích vui nên tắm cũng như để gột rửa cấu
nhiễm trong tâm mà thôi. Cấu nhiễm trong tâm đă tiêu trừ
th́ tự nhiên tinh thần sảng khoái, thân thể an vui nên
kinh bảo “khai thần duyệt
thể” (khai hiển thần thức, thân thể vui
sướng).
Diệu dụng của nước công đức ấy
thật chẳng thể nghĩ bàn. Nước ấy dâng
cao hay hạ thấp, nước nóng hay lạnh, ḍng nước
chảy gấp hay từ từ “nhất
nhất tùy chúng sanh ư” (mỗi mỗi đều thuận
theo ư chúng sanh). Nếu ai thoạt đầu muốn nước
chỉ ngập đến chân, hoặc ngập đến
hông, đến cổ, hoặc muốn nước phủ
toàn thân th́ cũng chỉ một ḍng nước đó lại
có thể tùy theo ư nghĩ mỗi người mà dâng lên hay hạ
xuống tự tại; thậm chí nước có thể
dâng đến tận hư không để xối xuống.
Tánh của nước trong cơi thế gian này là luôn chảy
xuống; c̣n nước trong cơi kia dẫu lên hay xuống
đều vô ngại.
Hiểu ở mức cao hơn, chỉ cùng là một khối
nước trong ao, nhiều người vào tắm trong ao,
tùy theo ư thích mỗi người mà hiển hiện các sự
bất đồng: hoặc cao, hoặc thấp, hoặc ấm,
hoặc mát, hoặc chảy gấp, hoặc thong thả.
Ḍng nước ấy biết được ư của mỗi
chúng sanh và c̣n có thể thuận theo ư của từng người
khiến họ thỏa măn. Dẫu cùng một lúc, cùng một
chỗ nhưng nước lại có thể ứng hiện
khắp các sự như thế th́ nước ấy là thứ
nước ǵ, cảnh giới ấy là cảnh giới
nào? Kinh Pháp Hoa bảo: “Chỉ,
chỉ, bất tu thuyết, ngă pháp diệu nan tư” (Thôi, thôi, chớ nên nói, pháp của
ta mầu nhiệm khó nghĩ nổi). Những công dụng
của nước chính là diệu pháp khó nghĩ nổi.
Với điều chẳng thể diễn tả nổi
ấy, nay tôi lại miễn cưỡng tŕnh bày: Phật
Di Đà khi tu nhân đă trụ trong Chân Thật Huệ để
trang nghiêm Tịnh Độ, khai hóa, hiển thị Chân Thật
Tế. Nói một cách miễn cưỡng, cái Chân Thật Tế
ấy chính là Thật Tế lư thể, là tự tâm của
đương nhân, mà cũng chính là một pháp cú, thanh tịnh
cú, chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân. Nước ấy
chính là Chân Thật Tế nên có thể phổ môn thị hiện,
thỏa măn các nguyện một cách trọn vẹn, với
mỗi người đều ban cho cái lợi chân thật.
Trong đoạn sau, kinh nói nước ấy c̣n có khả
năng diễn nói diệu pháp, điều này càng hiển
thị rơ hơn ư nghĩa trên.
Trong câu “khai thần” (khai
hiển thần thức), chữ “thần” (神) có nghĩa là
sáng suốt. Do tâm thức của chúng sanh linh diệu chẳng
thể nghĩ bàn nên tâm thức c̣n gọi là “thần thức” (神 識: thế tục thường gọi lầm là “linh hồn”).
Trong lời tựa bản chú giải kinh Duy Ma, ngài Tăng
Triệu cũng giảng: “Đạo đến cùng cực,
há có thể h́nh dung nên dùng trí huệ quyền biến để
gọi nó là Thần Vực vậy!” Như vậy là cảnh
giới chân chứng chẳng thể nghĩ bàn được
gọi là Thần Vực (神 域). Thêm nữa,
Trí huệ thấy thông suốt sự lư một cách tự tại
nên gọi là “thần trí” (神 智). Như vậy chữ “khai thần” có thể hiểu là nước làm
cho người đến tắm khai hiển thần trí sẵn
có trong thức tánh vậy.
Nước lại có đủ tám công đức,
điều ḥa, hợp ư nên bảo là “duyệt thể” (làm cho thân thể vui sướng).
“Tịnh” là trong lặng,
không nhơ. Chữ “vô h́nh” diễn
tả nước hết sức thanh tịnh. Do nước
quá trong sạch nên cát báu trải đáy ao có thể phản
chiếu ánh sáng lên tận mặt nước, v́ vậy bảo
là “bảo sa ánh triệt” (cát
báu chói rực lên), trông thấy suốt tận đáy nên bảo
“vô thâm bất chiếu” (sâu
cách mấy cũng chiếu thấu). “Tịnh nhược vô h́nh” (sạch dường
như vô h́nh) là tướng
của nước; “khai thần
duyệt thể” (khai hiển thần thức, thân thể
vui sướng) là công dụng của nước. Tướng
lẫn Dụng đều vi diệu là v́ bản thể của
nước cũng rất vi diệu.
Chánh kinh:
微 瀾 徐 迴,轉 相 灌 注。波 揚 無 量 微 妙 音 聲,或 聞 佛 法 僧 聲、波 羅 密 聲、止 息 寂 靜 聲、無 生 無 滅 聲、十 力 無 畏 聲,或 聞 無 性 無 作 無 我 聲、大 慈 大 悲 喜 捨 聲、甘 露 灌 頂 受 位 聲。
Vi lan từ hồi, chuyển
tương quán chú. Ba dương vô lượng vi diệu
âm thanh, hoặc văn Phật Pháp Tăng thanh, Ba La Mật
thanh, chỉ tức tịch tĩnh thanh, vô sanh vô diệt
thanh, thập lực vô úy thanh, hoặc văn vô tánh vô tác vô
ngă thanh, đại từ đại bi hỷ xả thanh,
cam lộ quán đảnh thọ vị thanh.
Gợn sóng từ
từ lan ra, lan khắp mặt nước. Sóng vỗ vang
ra vô lượng âm thanh vi diệu, hoặc nghe tiếng Phật,
Pháp, Tăng, tiếng Ba La Mật, tiếng chỉ tức tịch
tĩnh, tiếng vô sanh vô diệt, tiếng thập lực
vô úy; hoặc nghe tiếng vô tánh, vô tác, vô ngă, tiếng đại
từ, đại bi, hỷ xả, tiếng cam lộ quán
đảnh thọ vị.
Giải:
Đoạn kinh nêu lên chủ điểm thứ hai của
phẩm kinh này: Nước có khả năng diễn thuyết
diệu pháp.
Đoạn này thuật tỉ mỉ một sự thật
mầu nhiệm: Trong cơi Cực Lạc, những thứ vô
t́nh có khả năng thuyết pháp để thành thục
thiện căn cho chúng sanh.
“Vi lan” (gợn sóng): Những nếp nhăn nho nhỏ
sanh trên mặt nước gọi là “ba” (波), sóng lớn gọi
là “lan” (瀾).
Chữ “vi lan” chỉ những
gợn sóng lăn tăn. “Từ hồi”: Từ (徐) là thong thả,
“hồi” (廻) là lan tỏa thành ṿng tṛn. Những
gợn sóng từ từ lan ra khiến mặt nước bập
bềnh, tạo nên những gợn sóng dập dềnh khác
nên bảo là “chuyển
tương quán chú” (lan khắp mặt nước). Sóng
vỗ lẫn nhau phát ra những tiếng êm tai. Những âm
thanh ấy nhiều đến vô lượng loại mà cũng
vi diệu vô lượng nên kinh bảo “ba dương vô lượng vi diệu âm
thanh” (sóng vỗ vang
ra vô lượng âm thanh vi diệu). Kinh chép “vô lượng vi diệu” nghĩa
là tiếng sóng có khả năng diễn nói vô lượng
diệu pháp.
“Phật, Pháp, Tăng thanh”: Phật, Pháp,
Tăng là Tam Bảo. Kinh Tiểu Bổn chép: “Văn thị âm giả, tự
nhiên giai sanh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng
chi tâm” (Nghe những âm ấy
tự nhiên đều sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp,
niệm Tăng).
“Ba La Mật” dịch là Đáo Bỉ
Ngạn hay Độ Vô Cực, hoặc là Sự Cứu Cánh.
Dùng đại hạnh Bồ Tát hoàn tất các sự nghiệp
của tự hạnh và hóa độ người khác nên bảo
là Sự Cứu Cánh. Nương đại hạnh ấy
để từ bờ này sanh tử vượt đến
bờ kia Niết Bàn nên bảo là Đáo Bỉ Ngạn. Do đại
hạnh nên có thể thấu đạt chỗ rộng sâu
của các pháp, v́ thế gọi là Độ Vô Cực.
Trong chữ “Chỉ Tức”,
“Chỉ” (止) có nghĩa là đ́nh chỉ, trụ
nơi lư chân thật bất động. “Tức” (息) là ngưng nghỉ. Sách Chỉ
Quán quyển ba nói: “Tức có
nghĩa là các ác giác quán, vọng niệm, tư tưởng
đều ngưng bặt vắng lặng”. V́ vậy, “Tức” là ngừng dứt các
vọng niệm. “Tức” là
do Quán mà thành nên “Chỉ Tức”
chính là “Chỉ Quán”.
Sách Chỉ Quán, quyển ba c̣n giảng: “Các pháp vắng lặng là Chỉ, tịch mà thường
chiếu là Quán” và: “Vô minh
chính là minh, chẳng bị động chuyển nữa nên
gọi là Chỉ. Đại tịnh rạng ngời nên bảo
là Quán”. Sách Chỉ Quán Phụ
Hành cũng nói: “Trung Đạo
chính là pháp giới, pháp giới chính là Chỉ Quán. Chỉ và
Quán bất nhị, cảnh và trí cùng bao la”.
Về chữ “tịch tĩnh”
xin xem lời giải thích nơi câu “chư căn tịch tĩnh” (các căn tịch tĩnh)
ở phần trước.
“Vô sanh vô diệt” là lư thể của
Niết Bàn vốn chẳng sanh, chẳng diệt. Kinh Nhân
Vương dạy: “Nhất
thiết pháp tánh chân thật không, bất lai bất khứ,
vô sanh vô diệt” (Tánh của
hết thảy các pháp là chân thật không, chẳng đến,
chẳng đi, vô sanh, vô diệt). Kinh Viên Giác cũng bảo:
“Nhất thiết chúng sanh ư vô sanh trung, vọng kiến
sanh diệt, thị cố thuyết danh luân chuyển sanh tử”
(Hết thảy chúng sanh đối với vô sanh lại
thấy lầm lạc là có sanh diệt. V́ thế gọi là
trôi lăn trong sanh tử). Ngài Thanh Lương lại bảo:
“Nếu nghe vô sanh th́ liền biết
hết thảy các pháp đều là không tịch, vô sanh vô diệt”.
“Thập lực” chính là trí thật
tướng, hiểu rơ hết thảy được chứng
đắc bởi Như Lai. Do trí ấy chẳng thể hoại
được, chẳng có ǵ hơn được nên gọi
là Lực (xin xem phần giải thích tường tận về
Thập Lực trong phẩm bốn mươi sáu).
Thập Lực là: Tri thị xứ phi xứ trí lực,
tri tam thế nghiệp báo trí lực, tri chư thiền giải
thoát trí lực, tri chư căn thắng liệt trí lực,
tri chủng chủng giải trí lực, tri chủng chủng
giới trí lực, tri nhất thiết chí xứ đạo
trí lực, tri thiên nhăn vô ngại trí lực, tri túc mạng
vô lậu trí lực, tri vĩnh đoạn tập khí trí lực.
Đấy là “thập lực”.
“Vô úy” c̣n gọi là “vô sở úy”; giữa đại
chúng Phật thong dong thuyết pháp chẳng sợ hăi. Có bốn
loại vô úy:
1. Nhất thiết trí vô sở úy: Giữa đại
chúng, đức Phật nói rơ ta là bậc Nhất Thiết
Trí ḷng không e ngại.
2. Lậu tận vô sở úy: Giữa đại
chúng, Phật nói ta đoạn sạch hết thảy phiền
năo ḷng không e ngại.
3. Thuyết chướng đạo vô sở úy: Giữa
đại chúng Phật nói các chướng pháp như Hoặc
nghiệp v.v… mà không sợ hăi.
4. Thuyết tận khổ đạo vô sở úy: Ở
giữa đại chúng, Phật nói chánh đạo diệt
khổ như giới, định, huệ v.v… ḷng không sợ
hăi.
Đó là bốn vô sở úy.
“Vô tánh” là như kinh
Pháp Hoa nói: “Tri chư pháp thường
vô tánh” (Biết các pháp
thường vô tánh). Tánh là Thể, hết thảy các
pháp đều không có thực thể nên bảo là “vô tánh”. Các kinh, luận như
kinh Lăng Già, Duy Thức Luận lại nói đến ba
thứ vô tánh:
1. Tướng vô tánh: Hết thảy chúng sanh do vọng
tâm nhân duyên nên thấy có sự vật, so đo rằng
đây là ta, đây là pháp, mê chấp là thật ngă và thật
pháp. Đó gọi là “biến kế sở chấp tánh”. Chẳng
hạn như thấy sợi dây ngỡ là con rắn. Vốn
chẳng thật sự có rắn, nhưng do vọng t́nh mê
chấp nên thấy có tướng rắn. Tướng rắn
ấy chẳng thật sự có, chỉ là do suy tưởng
lầm lạc nên mới hiện hữu. Đây gọi là
“tướng vô tánh”.
2. Sanh vô tánh: Do nhân duyên nên sanh khởi hết thảy
vạn pháp, đấy gọi là “y tha khởi tánh”. Chữ
“tha” chỉ nhân duyên. Ví dụ: Sợi dây thừng do chánh
nhân là những sợi gai và những trợ duyên khác cùng tạo
thành. Không c̣n có ư tưởng lầm lẫn th́ sợi thừng
chính là sợi thừng, nhưng sợi thừng chẳng có
thật tánh. Hễ các duyên chia ĺa th́ sợi thừng không
c̣n. V́ vậy, gọi là “sanh vô tánh”.
3. Thắng Nghĩa vô tánh: Thắng Nghĩa c̣n gọi
là Viên Thành Thật tánh, tức là tánh chân thật thành tựu
viên măn. Viên Thành Thật tánh c̣n gọi là Pháp Tánh, hoặc là
Chân Như, nó chính là thể tánh của hết pháp hữu
vi. Chẳng hạn như thật tánh của sợi dây thừng
là gai. Viên Thành Thật tánh là pháp dứt bặt các đối
đăi, ĺa hết thảy tướng. Nếu thấy biết
là gai th́ ĺa được cả tướng rắn lẫn
tướng thừng. V́ vậy bảo là “Thắng Nghĩa
vô tánh”.
“Vô tác” là không có nhân
duyên tạo tác, đồng nghĩa với chữ “vô vi”. Sách Hoa Nghiêm Đại Sớ
bảo: “Do c̣n có tạo tác nên gọi
là hữu vi; hữu vi là vô thường. Không c̣n tạo tác
th́ gọi là vô vi. Vô vi chính là thường”.
Sách Thám Huyền Kư nói: “Pháp
được phát khởi bởi duyên th́ gọi là hữu
vi; chân lư vô tánh gọi là vô vi”. Như vậy, “vô tác” lẫn “vô vi” chỉ là những tên gọi khác nhau của “chân lư”.
Sách Pháp Sự Tán lại bảo: “Cực Lạc vô vi Niết Bàn giới”. Niết
Bàn là chẳng sanh chẳng diệt, dứt sạch hết
thảy tướng hữu vi nên gọi là Vô Vi. Xa ĺa hết
thảy tạo tác hữu vi nên bảo là “vô tác”. Toàn thể cơi nước Cực Lạc là
thanh tịnh cú “chân thật trí
huệ vô vi Pháp Thân” nên Cực Lạc được gọi
là “vô vi Niết Bàn giới”.
“Vô ngă”: Ngă (我) được
hiểu là cái ǵ có thể tánh thường hằng, chẳng
biến đổi, có tác dụng làm chủ tể. Nếu
chấp trong thân người có cái Ngă như vậy th́ gọi
là “nhân ngă”. Chấp rằng pháp có cái Ngă như thế th́ gọi
là “pháp ngă”. Nhưng thân người vốn là do Ngũ Uẩn
giả hợp thành, Thể của cái Ngă đó nào phải
là thường hằng bất biến như sách Chỉ
Quán, quyển bảy đă nói: “Do
thiếu trí huệ nên chấp rằng có Ngă; dùng trí huệ quán sát th́ thật
sự chẳng có Ngă! Ngă ở chỗ nào: đầu, mắt,
hay chân tay? Quán sát kỹ càng mỗi thứ, trọn chẳng
thấy Ngă”.
Sách Nguyên Nhân Luận cũng bảo: “Từ vô thỉ đến nay, do sức nhân duyên nên
sắc thái, h́nh hài và cái tâm suy lường cứ sanh diệt
liên tục không ngừng trong mỗi niệm như sóng lớp sau đùa lớp
trước, như ngọn đèn cháy liên tục. Thân tâm giả
hợp tựa hồ là một, dường như là
thường (nhưng thật ra trong mỗi sát-na đều
sanh diệt không ngừng). Phàm
phu chẳng hay biết nên chấp đấy là Ngă, quư báu
cái Ngă ấy, sanh khởi ba độc tham, sân, si. Ba độc
khích động ư căn nên phát động thân, miệng tạo
tác hết thảy các nghiệp”.
“Pháp” th́ cũng là do
nhân duyên sanh ra; nó cũng chẳng có một cái Ngă thể
thường hằng bất biến. Sách Đại Thừa
Nghĩa Chương quyển hai bảo: “Pháp chẳng có thật tánh nên bảo là Vô Ngă”. V́ vậy,
kinh Thập Địa dạy: “Vô
Ngă Trí hữu nhị chủng, Ngă Không, Pháp Không” (Trí Vô Ngă có hai thứ: Ngă Không và
Pháp Không). Kinh Kim Cang cũng dạy: “Thông đạt vô ngă pháp giả, Như Lai thuyết
danh chân thị Bồ Tát” (Người
hiểu rơ không có Ngă và Pháp th́ Như Lai nói người ấy
thật sự là Bồ Tát).
“Đại từ đại
bi hỷ xả thanh” (chữ “hỷ xả”
trích từ bản Tống dịch). Từ bi hỷ xả
chính là Tứ Vô Lượng Tâm: Từ vô lượng tâm là
tâm ban vui; Bi vô lượng tâm là tâm dẹp khổ; Hỷ vô
lượng tâm là thấy người ĺa khổ hưởng
vui th́ sanh ḷng vui thích; Xả vô lượng tâm là buông bỏ
cả ba thứ tâm trên, chẳng hề chấp trước.
Xả vô lượng tâm c̣n có nghĩa là đối với
kẻ oán lẫn người thân đều b́nh đẳng,
không chấp trước là oán hay thân. Bốn vô lượng
tâm này duyên khắp chúng sanh, dẫn khởi vô lượng
phước, đắc vô lượng quả nên gọi là
“tứ vô lượng tâm”.
Trong câu “cam lộ quán đảnh
thọ vị thanh”, “cam lộ” (Amrta) là thứ
sương ngọt mà chư thiên thường ăn; vị
nó ngọt như mật. Sách Kim Quang Minh Văn Cú, quyển
năm giảng: “Cam lộ là
thuốc bất tử của chư thiên, ăn vào sống
lâu, thân an ổn, sức thêm
mạnh mẽ, thân thể sáng ngời”.
Trong Hiển giáo, “Quán Đảnh
thọ vị” là khi Đẳng Giác Bồ Tát sắp đạt
địa vị Diệu Giác th́ hết thảy mười
phương Phật dùng nước trí huệ rưới
lên đảnh Bồ Tát giống như Chuyển Luân Thánh
Vương dùng nước bốn biển rưới lên
đầu Thái Tử xướng rằng: “Thái Tử đă nhận lấy địa vị”.
Đấy là “Quán Đảnh thọ
vị” (rưới nước
lên đỉnh đầu để nhận chức).
C̣n trong Mật giáo th́ như sách Bí Tạng Kư Sao nói: Dùng
nước để rưới lên đảnh th́ gọi
là Cam Lộ Quán Đảnh. Sách Đại Nhật Kinh Sớ bảo:
“Nay đức Như Lai pháp
vương cũng giống như thế: V́ muốn cho giống
Phật chẳng đoạn tuyệt nên dùng cam lộ pháp
thủy rưới lên đảnh của Phật tử
khiến cho ḍng giống Phật vĩnh viễn chẳng
dứt. V́ thuận theo pháp thế
gian nên có pháp phương tiện ấn tŕ này. Từ nay trở
đi, hết thảy thánh chúng đều phải kính ngưỡng
người này, cũng phải biết là người này rốt
ráo chẳng thoái chuyển Vô Thượng Bồ Đề, quyết
định nối ngôi vị
pháp vương”. Sách Bí Tạng Kư cũng nói: “Bồ Tát từ Sơ Địa dần
dần đạt tới Đẳng Giác, lúc gần rốt ráo
thành Phật, chư Phật dùng nước đại bi
rưới lên đảnh th́ tự hạnh viên măn chứng
đắc Phật quả”.
Các pháp âm vi diệu như vậy đều từ tiếng
sóng tự nhiên phát ra. Vô t́nh thuyết pháp khắp trọn
cơi nước. Ao nước rừng cây đều tuyên
dương diệu pháp.
Chánh kinh:
得 聞 如 是 種 種 聲 已,其 心 清 淨,無 諸 分 別,正 直 平 等,成 熟 善 根。隨 其 所 聞,與 法 相 應。其 願 聞 者,輒 獨 聞 之,所 不 欲 聞,了 無 所 聞。永 不 退 於 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩 提 心。
Đắc
văn như thị chủng chủng thanh dĩ, kỳ tâm
thanh tịnh, vô chư phân biệt, chánh trực b́nh đẳng,
thành thục thiện căn. Tùy
kỳ sở văn, dữ pháp tương ứng. Kỳ
nguyện văn giả, triếp độc văn chi, sở
bất dục văn, liễu vô sở văn, vĩnh bất
thoái ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
tâm.
Được nghe
các thứ tiếng như vậy xong tâm họ thanh tịnh
không có các phân biệt, chánh trực b́nh đẳng, thành thục
thiện căn. Điều ǵ được nghe cũng
tương ứng với pháp. Ai muốn mong được
nghe, riêng người ấy liền nghe, ai không muốn
nghe, trọn chẳng nghe thấy, vĩnh viễn chẳng
thoái thất tâm Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác.
Giải:
Đoạn kinh này tường thuật việc nghe tiếng
được lợi ích: Lắng nghe diệu pháp tâm không
c̣n vọng niệm, ĺa các cấu nhiễm nên bảo “kỳ tâm thanh tịnh” (tâm họ
thanh tịnh).
“Phân biệt” là suy lường,
nhận thức các sự việc. Do tánh của nó là phân biệt
một cách lầm lạc nên với cái vô ngă, vô pháp lại
nhận lầm là có Ngă, có pháp. Nếu không thấy có ta,
người, chúng sanh, thọ giả[1],
tất cả đều là b́nh đẳng không sai biệt,
giống hệt nhau chẳng khác th́ bảo “vô chư phân biệt” (không có các phân biệt).
“Chánh trực” là đoan chánh,
chất trực, không tà, không cong quẹo. Văng Sanh Luận Chú bảo: “Chánh trực là ngay thẳng. Do
chánh trực nên sanh ḷng
thương xót hết thảy chúng sanh”. Kinh Pháp Hoa cũng
bảo: “Chánh trực xả
phương tiện, đản thuyết vô thượng
đạo” (Chánh trực,
bỏ phương tiện, chỉ nói đạo Vô Thượng).
Chữ “chánh trực” trong
câu kinh trên chỉ cho bổn hoài chỉ nói diệu pháp Nhất
Thừa Viên Giáo.
“B́nh đẳng” là chẳng sai
biệt. Văng Sanh Luận Chú nói: “B́nh
đẳng là thể tướng của các pháp”. Do Chân
Như hiện diện trong khắp các pháp nên vạn pháp
đều như một; v́ thế bảo là “b́nh đẳng”. Văng Sanh Luận
Chú c̣n bảo: “Nghe danh hiệu
chí đức (đức cao tột) của A Di Đà Như
Lai, nghe tiếng thuyết pháp th́ đều được thoát khỏi các điều
ràng buộc nơi khẩu nghiệp, sanh trong nhà Như Lai,
rốt ráo được khẩu nghiệp b́nh đẳng”.
Như vậy, người trong cơi Cực Lạc được
nghe các pháp âm như thế nên tâm họ thanh tịnh, xa ĺa
phân biệt, chánh trực, chẳng tà, rốt ráo đắc
khẩu nghiệp b́nh đẳng của Như Lai. Do
đó, bảo là “b́nh đẳng”.
Sách Pháp Hoa Khoa Chú, quyển bốn cũng nói: “B́nh đẳng có hai thứ: Một
là pháp b́nh đẳng tức là Lư Trung Đạo, hai là chúng sanh
b́nh đẳng tức là hết thảy chúng sanh đều
đắc Phật huệ”. Nghĩa là: Thứ nhất,
b́nh đẳng chính là Lư Thể của Trung Đạo, một
mảy lông, một hạt bụi không ǵ chẳng phải
là Trung Đạo nên bảo là “b́nh
đẳng”. Thứ hai, chúng sanh vốn sẵn đủ
trí huệ, đức tướng của Như Lai, cùng
đắc Phật huệ, nên bảo là “b́nh đẳng”.
Về “thiện căn”,
kinh Tiểu Bổn dạy: “Bất
khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức,
nhân duyên đắc sanh bỉ quốc” (Chẳng thể dùng chút ít thiện căn, phước
đức, nhân duyên mà được sanh về cơi kia).
Sách Di Đà Yếu Giải giảng câu này như sau: “Bồ Đề chánh đạo gọi
là thiện căn”. Sách Viên Trung Sao giảng: “Chấp tŕ danh hiệu, phát nguyện
văng sanh th́ mới gọi là nhiều thiện căn”.
Sách Di Đà Sớ Sao giảng: “Chấp
tŕ danh hiệu, nguyện thấy Di Đà chính là nhiều thiện
căn, đại thiện căn, thiện căn tối
thắng, thiện căn chẳng thể nghĩ bàn”.
Chúng sanh cơi ấy do nghe nước chảy thuyết pháp
nên tất cả các thiện căn như vậy đều
được thành thục cả.
Câu kinh “tùy kỳ sở
văn, dữ pháp tương ứng” (điều ǵ được nghe cũng
tương ứng với pháp) được bản
Đường dịch ghi là: “Đắc
văn như thị chủng chủng thanh dĩ, hoạch
đắc quảng đại thọ lạc, hân duyệt,
nhi dữ quán sát tương ứng, yếm ly tương ứng…
(năi chí) Niết Bàn tương ứng” (Được nghe các thứ tiếng như thế
xong liền đạt được sự vui mừng yêu
thích lớn lao, tương ứng với quán sát,
tương ứng với nhàm ĺa... cho đến
tương ứng với Niết Bàn). “Tương ứng” nghĩa là khế hợp. Sách
Văng Sanh Luận Chú bảo: “Tương
ứng nghĩa là như hộp và nắp hộp vừa
khít nhau”. Khởi Tín Luận lại bảo: “Với cảnh giới ly niệm
th́ chỉ có chứng tương ứng” (Chỉ có thật
chứng mới có thể khế nhập được cảnh
giới ly niệm). Hoa Nghiêm Luận cũng bảo: “Một niệm tương ứng
một niệm Phật, một ngày tương ứng một
ngày Phật”. Nay kinh này dạy: “Tùy kỳ sở văn, dữ pháp
tương ứng” (Điều ǵ
được nghe cũng tương ứng với pháp)
quả thật đă hiển thị sâu xa bổn nguyện
công đức của Phật Di Đà thật chẳng thể
nghĩ bàn. Những người đă văng sanh do thiện
căn thành thục nên với diệu pháp đă được
nghe đều lănh hội được cả. Do giải
ngộ nên khởi hạnh, hạnh khởi th́ giải tuyệt.
Vừa quên mất (không chấp trước vào điều
ḿnh đă hiểu) vừa quán chiếu nên Năng, Sở chẳng
hai; Lư, Trí sâu thẳm đến nỗi đối với
các điều được nghe liền khế hội
ngay, tương ứng với pháp.
Tiếp đó, kinh dạy:
“Kỳ
nguyện văn giả, triếp độc văn chi, sở
bất dục văn, liễu vô sở văn” (Ai muốn nghe, liền được nghe.
Ai chẳng muốn nghe, trọn chẳng nghe thấy). Câu
này lại càng nói rơ tánh chất viên minh cụ đức, tự
tại vô ngại khéo ứng hợp đến vô cùng tận
của nước đều “nhất
nhất tùy chúng sanh ư” (mỗi
mỗi tùy thuận ư của chúng sanh).
Trong cơi Cực Lạc, nước, chim, cây cối đều
diễn thuyết diệu pháp, ánh sáng nhiều màu, tiếng
động, mùi thơm cùng làm Phật sự. Những
điều đập vào mắt, dội vào tai đều
hiển hiện trọn vẹn bản tâm. Giở bước,
hạ chân, đều làm Phật sự. V́ thế, đối
với tâm vô thượng Bồ Đề, vĩnh viễn
chẳng thoái chuyển, thuần là nhân duyên tăng thượng.
Chánh kinh:
十方 世 界 諸 往 生 者,皆 於 七 寶 池 蓮 華 中,自 然 化 生。悉 受 清 虛 之 身,無 極 之 體。
Thập phương thế giới
chư văng sanh giả, giai ư thất bảo tŕ liên hoa
trung, tự nhiên hóa sanh, tất thọ thanh hư chi thân, vô
cực chi thể.
Những người
từ mười phương thế giới văng sanh đều
tự nhiên hóa sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu, đều
thọ thân thanh hư, thể vô cực.
Giải:
Đoạn này nói đến điểm chính thứ ba trong
phẩm này: Người từ mười phương văng
sanh đều hóa sanh trong hoa sen nơi ao báu. Đây chính là kết
quả của nguyện hai mươi bốn: “Liên hoa hóa sanh”.
Ngài Nghĩa Tịnh giảng chữ “tự nhiên” trong câu “tự
nhiên hóa sanh” như sau: “Chẳng
sanh trưởng từ thai tạng (bào thai) nên là tự
nhiên”. Sách Hội Sớ giảng: “Chẳng phải do vọng nghiệp chiêu cảm mà là
kết quả tự nhiên của lời Phật nguyện
nên bảo là tự nhiên”. Về chữ “hóa sanh” xin xem lại lời giải thích về lời
nguyện hai mươi bốn ở phần trước.
Trong câu “thanh hư
chi thân, vô cực chi thể” (thân thanh hư, thể vô cực), hai chữ “thanh hư” trích từ bản Hán dịch và Ngô dịch;
bản Ngụy dịch ghi là “hư
vô”, nhưng ư nghĩa vẫn tương đồng.
Ngài Nghĩa Tịch bảo: “Chẳng
do uống ăn mà được khôn lớn nên bảo là
hư vô; chẳng già chết, tổn hoại nên bảo là
vô cực”. Gia Tường Sớ giảng: “Do thần thông không đâu chẳng
đạt đến nên bảo là thể vô cực. Giống
như ánh sáng nên bảo là hư vô”. Sách Hội Sớ lại
bảo: “Có mà dường
như không, thong dong vô ngại nên bảo là thân hư vô; một
phen được sanh về th́ chẳng hề có lúc dứt
mạng nên bảo là thể vô cực”. Ngài Cảnh
Hưng nói: “Hư vô, vô cực
là không chướng ngại, là hy hữu; phải nên lần
lượt hiểu như thế”. Ư nói: Do không chướng
ngại nên “hư vô”; do hy hữu
nên bảo là “vô cực”. Các
lời giải thích của các vị đă bổ trợ ư
nghĩa lẫn nhau.
Chánh kinh:
不 聞 三 途 惡 惱 苦 難 之 名,尚 無 假 設,何 況 實 苦。但 有 自 然 快 樂 之 音。是 故 彼 國,名 為 極 樂。
Bất văn tam đồ ác
năo khổ nạn chi danh, thượng vô giả thiết,
hà huống thật khổ. Đản hữu tự nhiên
khoái lạc chi âm. Thị cố bỉ quốc, danh vi Cực
Lạc.
Chẳng nghe
danh từ tam đồ, phiền năo, khổ nạn, [những
danh từ ấy] c̣n chẳng được giả bày ra, huống là thật có; chỉ
có âm thanh khoái lạc tự nhiên. Do đó, cơi nước ấy
tên là Cực Lạc.
Giải:
Những điều được nói trong đoạn
kinh này chính là do nguyện thứ
nhất “nước không có
ác đạo” và nguyện hai mươi tám “nước không có sự bất
thiện” thành tựu.
Kinh Tiểu Bổn dạy: “Kỳ Phật quốc độ
thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thật” (Cơi nước Phật ấy
c̣n chẳng có cái tên ác đạo, huống là thật có) và:
“Kỳ quốc chúng sanh vô hữu chúng khổ, đản thọ
chư lạc, cố danh Cực Lạc” (Chúng sanh trong cơi ấy chẳng
có các nỗi khổ, chỉ hưởng các niềm vui, nên
cơi ấy tên là Cực Lạc). Sách Luận Chú cũng viết: “Vĩnh viễn dứt hết các khổ năo nơi thân
và tâm; thường hưởng vui không gián đoạn”. V́
thế, kinh dạy: “Đản hữu tự nhiên khoái lạc chi âm. Thị
cố bỉ quốc, danh vi Cực Lạc”
(Chỉ có âm thanh tự nhiên khoái lạc. V́ thế cơi nước ấy
tên là Cực Lạc).
[1] Thọ giả là cá thể có sanh mạng,
thông thường người ta cho rằng thọ giả
là linh hồn hoặc chủ thể của nhân cách;
nhưng trong Phật giáo không chấp nhận quan điểm
này. Ngài Cát Tạng viết trong Kim Cang Bát Nhă Sớ quyển
ba rằng: “Ngoại đạo chấp có thần ngă, chết
đây sanh kia, trải qua sáu đường, nên gọi là
thọ giả”. Trong Kim Cang Bát Nhă Kinh Tán Thuật, quyển
thượng, ngài Khuy Cơ giảng: “Mạng căn
đoạn diệt ở quá khứ, đời sau sanh trong
sáu đường, gọi là thọ giả tướng”.
Kinh Đại Phẩm Bát Nhă quyển hai cho rằng Thọ Giả
là một trong mười sáu tên khác nhau của Ngă.