8. Dịch, hội
hiệu, thích
“Dịch” (譯) chỉ cho bản dịch gốc.
“Hội hiệu” (會校) chỉ các bản
do căn cứ vào các bản dịch gốc để hội
tập (tổng hợp, khảo đính những bản dịch
của cùng một kinh để chọn ra những điểm
trọng yếu), hiệu đính. “Thích” (釋) chỉ cho các
bản chú giải kinh này.
8.1 Các bản
dịch kinh này
Kinh này “được
đức Phật thường nói, các sư đua nhau dịch,
được truyền đến Trung Hoa rất sớm,
riêng ḿnh nó có rất nhiều bản dịch” (xem lời
tựa kinh này của cư sĩ Mai Quang Hy). Từ Đường
đến Tống có mười hai bản dịch. Bản
đời Tống, Nguyên đă mất, nay chỉ c̣n lại
được năm bản dịch.
a. Vô Lượng Thọ Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác (無 量 清 淨 平 等覺 經) kinh do sa-môn người xứ Nhục Chi là Chi Lâu Ca Sấm
(支 婁 迦讖) dịch ở Lạc
Dương vào đời Hậu Hán (từ đây gọi tắt
là bản Hán dịch).
b. Phật Thuyết Chư Phật A Di Đà Tam Da Tam Phật
Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh (佛 說 諸 佛 阿 彌 陀 三 耶 三 佛 薩 樓佛 檀 過 度 人 道 經), tên khác là Vô
Lượng Thọ kinh, tên khác nữa là A Di Đà kinh, do
ưu-bà-tắc Chi Khiêm (支 謙) tự Cung Minh người xứ Nhục Chi
dịch vào đời Ngô (gọi tắt là bản Ngô dịch).
c. Vô Lượng Thọ Kinh (無 量 壽 經) do sa-môn người Ấn Độ
là Khang Tăng Khải (康 僧 鎧) dịch ở
chùa Bạch Mă, Lạc Dương vào đời Tào Ngụy
(gọi tắt là bản Ngụy dịch).
d. Vô Lượng Thọ Như Lai Hội (無 量 壽 如 來 會) do tam tạng Bồ Đề
Lưu Chí (菩 提 流 志) người
e. Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh (佛 說 大 乘 無 量 壽 莊 嚴 經) do sa-môn Pháp Hiền (法 賢) người xứ
Tây Vực dịch vào đời Tống (gọi tắt là
bản Tống dịch).
Bảy bản dịch, hiện đă mất, căn cứ
theo Khai Nguyên Thích Giáo Lục, liệt kê như sau:
a. Vô Lượng Thọ Kinh (無 量 壽 經), hai quyển, do sa-môn An Thế
Cao người nước An Tức dịch vào đời
Hán.
b. Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh (無 量 清 淨 平等 覺 經), hai quyển,
do sa-môn Bạch Diên dịch ở chùa Bạch Mă, Lạc
Dương vào đời Tào Ngụy.
c. Vô Lượng Thọ Kinh (無 量 壽 經), hai quyển do sa-môn Trúc Đàm Ma La
Đa (Pháp Hộ) dịch vào đời Tấn.
d. Vô Lượng Thọ Chí Chân Đẳng Chánh Giác Kinh (無 量 壽 至真 等 正 覺 經), hai quyển,
tên khác là Lạc Phật Độ Lạc Kinh, một tên nữa
là Cực Lạc Phật Độ Kinh, do sa-môn Trúc Pháp Lực
người Tây Vực dịch vào đời Đông Tấn.
e. Tân Vô Lượng Thọ Kinh (新 無 量 壽 經), hai quyển,
do sa-môn Phật Đà Bạt Đà La (Giác Hiền) người
nước Ca La Vệ La dịch ở chùa Đạo Tràng vào
đời Đông Tấn.
f. Tân Vô Lượng Thọ Kinh (新 無 量 壽 經), hai quyển,
do sa-môn Bảo Vân người Kinh Châu dịch ở chùa Đạo
Tràng vào đời Tống.
g. Tân Vô Lượng Thọ Kinh (新 無 量 壽 經) hai quyển,
sa-môn Đàm Ma La Mật Đa (Pháp Tú) người nước Kế
Tân dịch vào đời Tống.
Bảy bản bị thất lạc trên đây và
năm bản c̣n giữ được được gọi
là “thập nhị thế dịch” (các bản dịch trong
mười hai đời). Thật ra là tám đời,
mười hai lần dịch: Đời Hán hai bản dịch,
đời Ngô một bản, đời Tào Ngụy hai bản,
đời Tây Tấn một bản, Lưu Tống hai bản,
Đường một bản, Triệu Tống một bản.
Như vậy, về thời gian dịch thuật là trong
tám triều đại, số lượng bản dịch
là mười hai.
Sách B́nh Giải viết: “Phàm
trong các kinh, không có kinh nào được lưu truyền, dịch
thuật thịnh hành như kinh này. Đó là do kinh này giảng
thẳng lẽ xuất thế, lợi ích vô biên vậy”.
Sách Hội Sớ viết: “Trong
hết thảy các kinh được nhiều người
lưu truyền, dịch thuật không kinh nào được
như kinh này. Đó là bởi đạo lư thẳm sâu, lợi
ích tối thượng vậy”. Cả hai bộ sớ
có cùng một nhận định.
So sánh năm bản dịch c̣n lưu truyền trong
đời th́ chẳng giống với trường hợp
của hai bản dịch kinh A Di Đà hay sáu bản dịch của
kinh Kim Cang: Kinh văn tuy chi tiết hay giản lược
khác nhau đôi chút nhưng nội dung thật sự
tương đồng. Năm bản dịch của kinh
đây, chẳng những kinh văn chi tiết hay giản
lược khác nhau rất nhiều mà ngay cả nội dung
mức độ rộng lược cũng rất khác.
Lấy ví dụ, với đại nguyện của A
Di Đà Phật khi c̣n tu nhân, hai bản Hán dịch và Ngô dịch
liệt kê hai mươi bốn nguyện, bản Tống dịch
có ba mươi sáu nguyện, hai bản dịch đời
Ngụy và đời Đường là bốn mươi
tám nguyện; hơn nữa, nội dung các nguyện trong mỗi
bản dịch cũng khác nhau, đủ thấy sự
khác biệt khá lớn.
Được lưu truyền phổ biến nhất hiện
thời là bản Ngụy dịch. Sách B́nh Giải chỉ
ra rằng: Đem hai bản dịch đời Ngô và Hán so với
bản Ngụy dịch, chỉ kể những điểm
chính yếu đă có tám điểm khác nhau. C̣n nếu so với
bản Đường dịch, đại khái có bảy điểm
khác nhau. Ở đây, tôi không thuật rơ. C̣n đến bản
dịch đời Tống so với các bản dịch
khác, sự sai biệt c̣n lớn hơn nữa.
Các bản dịch v́ sao sai khác? Cư sĩ Trầm Thiện
Đăng đời Thanh viết trong sách Báo Ân Luận rằng:
“Lược khảo các kinh,
sở dĩ có sự bất đồng, nói tóm lại là do
ba nguyên nhân:
- Người dịch khéo, vụng
chẳng giống nhau.
- Phạn bản truyền
chép khác biệt
- Đức Bổn Sư
trước sau tuyên nói nhiều lượt chẳng giống
nhau. Đức Bổn Sư thuyết pháp hơn ba trăm hội,
nhiều lần chỉ dạy quy hướng Tịnh Độ
th́ tự nhiên mỗi lần nói không dùng cùng một bài giảng,
phải tùy thời, tùy cơ, khai
triển đại ư.
Phải căn cứ theo ư
chẳng chấp mặt chữ, lẽ hiển nhiên là
như vậy”.
V́ vậy, ta thấy rằng kinh Vô Lượng Thọ
được Phật giảng nhiều lần nên chẳng
phải chỉ có một Phạn bản. Do kinh văn
được dùng để dịch đă khác nhau nên bản
dịch có mức độ khéo hay vụng khác nhau. Bởi
vậy, lời văn của các bản dịch tự nhiên
sai khác.
Ông Trầm lại c̣n chỉ ra nguyên nhân Phạn bản
dễ bị sai lạc:
“Các bản kinh tiếng Phạn
đều là bản chép tay nên dễ bị chép sai, sót.
Như bản Hán dịch của kinh Đại Bổn trải
bao đời đến nay, bị chép lầm hay sót đến
vài mươi chữ, văn nghĩa không nhất quán.
Lại như tàng bản của
kinh Tứ Thập Nhị Chương so với bản khắc
đá do Triệu Văn Mẫn viết và các bản
được lưu thông ngoài Đại Tạng th́
chương, tiết trước sau, nhiều ít, đều
bất đồng. So với những đoạn trích dẫn
trong sách Pháp Uyển Châu Lâm cũng khác. Hơn nữa, những chữ [trong kinh ấy]
được chọn ra [để giải thích] trong sách
Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa đều không thấy trong
các bản lưu hành.
Đại để là do kinh
được tụng tŕ, tu tập nhiều th́ được
lưu truyền, chép lại nhiều nên lỗi đắc,
thất, dị, đồng cũng nhiều”.
Sách B́nh Giải của Nhật cũng viết: “Thẩm định các kinh th́ là
do quá nhiều bản Phạn đến nỗi văn
nghĩa được truyền dịch thành ra có chỗ
tường tận hay sơ lược chẳng đồng”.
Rơ ràng, tác giả sách B́nh Giải đồng ư với
ông Trầm, cùng cho rằng kinh này được Phật
nói nhiều lượt. Như vậy, tụng tập nhiều,
truyền chép Phạn bản nhiều lượt, Phạn
bản có nhiều bản c̣n, tỉ mỉ, hay sơ lược
sai khác. Các thẻ kinh tiếng Phạn lại dễ bị
lạc mất, thành ra hiện tại các bản dịch thật
khác biệt xa nhau.
Thuyết của sư Nhật Khê người Nhật
cũng giống thuyết ông Trầm. Ngài nói:
“Câu văn của bản dịch
khác so với kinh đây (chỉ bản Ngụy dịch) có chút sai khác chẳng phải là
ít. Xét ra, lắm dị bản,
truyền thọ lại chẳng phải một lần nên
thành ra sai khác như thế. Hoặc
là do chẳng phải chỉ nói có một lần, chẳng
hạn như các kinh Bát Nhă. Do kinh này là bổn hoài của
Như Lai, mỗi chỗ Ngài nói khác nhau nên có nhiều bản.
Đấy là do ḷng đại bi cùng cực vậy”.
Các vị đại đức trên đây đều
cho rằng kinh này là pháp được đức Thế
Tôn nhiều lần tuyên nói, điều này thật có chứng
cứ. Ví dụ như, bản Đường dịch mang tên
Vô Lượng Thọ Như Lai Hội là một hội của
kinh Bảo Tích, đủ chứng minh rằng khi Phật
nói kinh Đại Bảo Tích cũng nói ra kinh này. Ông Trầm lại
bảo:
“Bản Ngụy dịch
văn từ tường tận, nghĩa lư trọn vẹn
nên từ xưa đến nay các vị giảng sư hay
dùng bản này. Bản Đường dịch không sai khác mấy
do được dịch từ cùng một bản Phạn.
Bản Tống dịch rất lưu loát, rơ ràng, nhưng
câu cú, chữ nghĩa so với các bản trên khác nhau rất lớn nên phải
xuất phát từ bản Phạn khác. Hai bản dịch
đời Hán và Ngô, văn từ thô tháp, trúc trắc,
nhưng nghĩa lư bổ sung cho nhau nên ắt phải là được dịch theo một
Phạn bản khác nữa”
Ông Trầm tuy chưa thể trực tiếp đem Phạn
bản ra so sánh để chứng minh, nhưng nếu
nghiên cứu năm bản dịch c̣n tồn tại, ta có
thể suy ra rằng hiện tại có ít nhất ba bản
Phạn. V́ vậy, thuyết của ông Trầm rất
đáng tin.
C̣n như ư kiến của các sư khác cho rằng “năm bản dịch chỉ là
các bản dịch khác nhau từ cùng một Phạn bản,
nhưng có sai biệt là do ư thích của dịch giả khác
nhau” thật sự chưa đủ sức thuyết phục!
Chẳng hạn như, so hai bản dịch đời Tần
và Đường của kinh Tiểu Bổn, do người
đời Tần chuộng đơn giản nên ngài La Thập
gom mười phương Phật thành sáu phương Phật,
đấy thật là chỗ khéo léo ứng cơ của dịch
giả: Văn giản lược để thích ứng
căn cơ, nhưng nghĩa lư của kinh chẳng bị
mất. Đó mới là ư thích và sự khéo léo của dịch giả.
C̣n xét về sự sai biệt giữa các bản dịch
của kinh này, sự sai biệt lớn nhất là chẳng
những giản lược hay chi tiết sai khác mà
nghĩa lư cũng sâu rộng khác hẳn. V́ vậy, chẳng
thể bảo là do ư thích của người dịch sai
khác.
Lấy ví dụ, Di Đà đại nguyện là duyên khởi
của Tịnh tông, là cương tông của kinh này mà cái
nguyện “mười niệm ắt văng sanh” là cốt tủy
của Di Đà đại nguyện. Nguyện này thấy trong
hai bản Ngụy dịch và Đường dịch, nhưng
không có trong phần đại nguyện của hai bản dịch
Hán và Ngô.
Nếu cho rằng bốn mươi tám đại nguyện
của hai bản Đường, Ngụy đem so với hai
mươi bốn đại nguyện của hai bản
Ngô, Hán chỉ là cách dịch mở rộng hay nói gọn
khác nhau th́ thật khó bề thuyết phục. Trong đời
có người dịch nào lớn mật như thế, dám
dựa theo ư riêng, tự tiện lược đi đại
nguyện tâm tủy. V́ vậy, nguyên bản để dịch
phải khác nhau th́ dịch bản mới sai khác đến
như vậy.
Lại như trong hai mươi bốn đại nguyện
của bản Ngô dịch, có hai nguyện thù thắng:
“Nước không nữ nhân” và “liên hoa hóa sanh”, mà trong hai bản
dịch Đường và Ngụy tuy đủ bốn
mươi tám nguyện lại chẳng hề có hai nguyện
ấy. Nếu bảo rằng “cùng một bản gốc,
các bản dịch chỉ dịch đủ hay tóm gọn
chẳng đồng”, thử hỏi hai nguyện ấy của
bản Ngô dịch lấy từ đâu ra? V́ sao trong hai
mươi bốn nguyện th́ có, c̣n trong bốn
mươi tám nguyện lại hoàn toàn chẳng có? Rơ ràng,
các Phạn bản dùng để dịch không phải chỉ
là một bản. Thật đúng như thuyết của
cư sĩ Trầm Thiện Đăng: Kinh này được
đức Thế Tôn tuyên thuyết nhiều lần, lại
do các thẻ kinh Phạn dễ bị thất lạc, thành
ra có các bản gốc sai khác vậy.
Do những điều trên, ta thấy rơ việc hội
tập các bản dịch thật là cần thiết. Do vậy,
từ đời Tống đến nay, Vương Long
Thư, Bành Nhị Lâm, Ngụy Mặc Thâm, và tiên sư
cư sĩ Hạ Liên Cư, trước sau cùng hội tập,
hiệu đính kinh này.
8.2 Bốn loại
hội hiệu bản
Năm bản dịch nói trên đều có những chỗ
ưu, liệt, phô bày hay ẩn kín riêng. Chẳng hạn
như hai bản Hán và Ngô dịch không đề cập tới
bổn nguyện “mười niệm văng sanh” và yếu chỉ
“nhất hướng chuyên niệm”. Đến đoạn kinh
giảng rộng về ngũ ác, ngũ thống, ngũ
thiêu, đức Thế Tôn rát miệng, nhọc ḷng giảng
dạy chân thành mà hai bản Đường và Tống dịch
chẳng chép đủ. Bản Ngụy dịch chép đủ,
thật là bản đứng đầu trong các bản dịch,
nhưng lại thiếu hai nguyện “nước không nữ
nhân” và “liên hoa hóa sanh” nên cũng chưa phô bày đầy
đủ.
V́ vậy, ông Long Thư Vương Nhật Hưu đời
Tống phê b́nh các bản dịch như sau:
“Đại lược tuy giống
nhau nhưng trong ấy có rất nhiều chỗ sai khác…
Hơn nữa, lời văn mỗi bản dịch hoặc
bị thiếu sót hoặc quá rườm rà khiến người
ta ngại xem, hoặc thiếu chỗ rất quan trọng đến nỗi
mất cả ư nghĩa thật sự. Hoặc kinh văn
có đề cập đến nhưng ư nghĩa đă bị
mất. Do vậy, kinh của đức Thích Ca Văn Phật
nói, yếu chỉ độ sanh của A Di Đà Phật trở
nên rối rắm, chẳng rành mạch, dài ḍng nhưng không
rơ ràng, tôi thật tiếc lắm”.
Bởi thế, ông phối hợp bốn bản dịch
Hán, Ngô, Ngụy, Tống giảo chánh, hội tập, soạn
thành một bản, đặt tên Đại A Di Đà Kinh. Đây chính
là bản hội tập đầu tiên của kinh này.
Các bản hiệu hội từ đời Tống
đến nay, có bốn thứ:
1. Đại A Di Đà Kinh do quốc học tấn sĩ Long
Thư Vương Nhật Hưu đời Tống soạn.
2. Vô Lượng Thọ Kinh do Bồ Tát giới đệ
tử Bành Tế Thanh đời nhà Thanh phân định
chương mục và hiệu đính.
3. Ma Ha A Di Đà Kinh do Bồ Tát giới đệ tử Thừa
Quán Thiệu Dương Ngụy Nguyên hội dịch vào
đời Thanh (Vốn có tên là Vô Lượng Thọ Kinh,
sau này cư sĩ Chánh Định Vương Ấm Phúc giảo
đính, đổi thành tên này).
4. Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh do Bồ Tát giới
đệ tử Vận Thành Hạ Liên Cư hội tập
vào thời hiện đại.
Như vậy, kinh này có năm bản dịch gốc, bốn
bản hội tập, thành ra chín bản.
Trong năm bản dịch, riêng bản Ngụy dịch
phổ biến nhất, đến khi hội bản của
ông Vương ra đời liền chiếm lấy địa
vị ấy. Liên Tŕ đại sư viết trong tác phẩm
Sớ Sao rằng: “Phần nhiều
dẫn kinh theo bản của ông Vương do bản họ
Vương phổ biến trong đời, người
đời quen thấy”. Cuối đời Thanh, Ấn
Quang đại sư cũng khen bản họ Vương
là “văn nghĩa tường
tận, cặn kẽ, lưu thông mạnh mẽ trong đời”.
Do đây thấy được rằng bản của họ
Vương được phổ biến ở Trung Quốc
c̣n hơn bản Ngụy dịch.
Bản họ Vương tuy rất phổ biến, c̣n
được chép vào Càn Long Đại Tạng và Đại Chánh
Tân Tu Đại Tạng kinh của Nhật, nhưng tác phẩm
của họ Vương có ưu điểm lẫn khuyết
điểm. Chẳng hạn như Sớ Sao phê:
“Bản hội tập của
ông Vương so với năm bản dịch th́ giản dị,
rơ ràng, hiện đang lưu truyền, lợi ích rất lớn;
nhưng chẳng dựa vào Phạn bản, chỉ phối
hợp bản tiếng Hán, chưa đúng cách dịch thuật.
Nếu dùng Phạn bản để dịch lại thành bản
thứ sáu th́ không ai dị nghị. Do vậy, ông ta chẳng
gọi là dịch mà bảo là giảo chánh.
Cách ông ta chọn, bỏ lời
dịch cũ lại cũng chưa trọn vẹn; như
với ba bậc văng sanh, bản Ngụy dịch đều
nói phát Bồ Đề tâm, nhưng bản họ Vương
chỉ có bậc Trung phát Bồ Đề tâm, bậc Hạ
không phát, bậc Thượng chẳng đề cập
đến. Như vậy là cao, thấp lẫn lộn.
Vả lại, ‘nhiều
căn lành’ nói trong kinh là cốt ở phát Bồ Đề tâm,
tuy ba bậc chẳng đồng lại cùng phát tâm th́ đấy
đúng là yếu chỉ văng sanh. Nay ông ta lại lược
đi nên bảo là chưa trọn vẹn”.
Lời luận của Liên Tŕ Đại Sư về chỗ
tinh yếu thật là xác đáng! Trong lời tựa của
chính ông Vương có viết: “Chỗ
nào văn manh mún, không thứ tự, lầm loạn chẳng
so sánh được th́ dùng ư ḿnh để sửa chữ”.
Thật đúng với điều Liên Tŕ đại sư
chỉ ra: “Chẳng căn cứ
theo Phạn bản” là căn bệnh nặng, chẳng
đúng phép dịch thuật. Nếu căn cứ theo Phạn
bản dịch lại th́ mới được phép dùng câu
văn tự soạn để làm rơ nghĩa kinh. C̣n nếu
hội tập, sao chẳng dùng lời dịch gốc, lại
tự ư viết thêm, muôn phần chẳng nên vậy!
Đến phần ba bậc văng sanh cũng vậy, ông
Vương tự tiện sửa đổi bản Ngụy
dịch, đánh mất thứ tự cao thấp. Đấy
đều là những tỳ vết khó bưng bít của bản
họ Vương vậy!
Cư sĩ Bành Nhị Lâm (tên là Thiệu Thăng) đời
vua Càn Long nhà Thanh cũng chẳng thỏa măn với bản
họ Vương. Ông nhận định về bản của
họ Vương trong tác phẩm Vô Lượng Thọ
Kinh Khởi Tín Luận như sau:
“Bản của họ
Vương so ra lưu loát, phổ biến măi đến
nay, nhưng có điểm đáng phê b́nh. Như trong Tự
Phần từ chữ ‘du bộ thập phương’ trở
đi nói rộng về hạnh nguyện Bồ Tát nhằm
khiến cho hành giả phát khởi đại tâm, tích tập cội đức, rốt
ráo thành Phật, đấy chính là cương lănh trọng
yếu của chương mở đầu kinh này, họ
Vương lại lược
đi. Đến phần hai bậc văng sanh Thượng và Hạ,
bậc th́ gạt bỏ phát Bồ Đề tâm, bậc th́ nói
chẳng phát. Trong phần Thai Sanh, lược bỏ từ
chữ ‘ngờ vực Phật trí’ cho đến ‘thắng
trí’. Trước đă trái với
chánh nhân thành Phật, sau lại mất chánh trí văng sanh. Những
điểm khác như với thứ tự các nguyện, lẫn
lộn trước sau đều đáng giảo chánh”.
Họ Bành nh́n thấy lỗi của họ Vương
nên chuyên dùng bản Ngụy dịch, lược những chỗ
phiền phức, lại căn cứ theo bản của
ngài Vân Thê, thêm vào số thứ tự trước sau của
bốn mươi tám nguyện, đặt tên là Vô Lượng
Thọ Kinh, thành ra bản thứ bảy (bản của họ
Vương là bản thứ sáu). Nhưng bản này chỉ
là bản Ngụy dịch được phân chia thành từng
đoạn, chẳng phải là bản hội tập các bản
dịch.
So sánh hai bản th́ bản của ông Bành có ưu điểm
hơn bản Ngụy dịch. Cận đại, cư
sĩ Đinh Phước Bảo khi viết Vô Lượng Thọ
Kinh Tiên Chú th́ bản dùng để chú giải là bản của
họ Bành. Tiếc thay bản của họ Bành chỉ là
tiết hiệu bản, chưa bổ cứu được
khuyết điểm của bản ông Vương, vẫn
chưa được coi là bản tốt nhất.
Triều Hàm Phong nhà Thanh, cư sĩ Ngụy Thừa
Quán ở Thiệu Dương cho rằng các bản dịch
lẫn bản của ông Vương chưa hoàn thiện
bèn hội tập năm bản dịch gốc, soạn
riêng thành một bản, đặt tên là Vô Lượng Thọ
Kinh (Bản của ông Ngụy hội tập năm bản
dịch gốc, là nguồn gốc của ngũ hội bản.
Bản họ Vương chỉ là tứ hội bản, hội
bản không dùng bản Đường dịch).
Dưới triều Đồng Trị, cư sĩ
Vương Ấm Phước đặc biệt coi trọng
bản họ Ngụy, từng đích thân ghi rằng: “Gần đây, Thiệu
Dương Ngụy cư sĩ lại thuận theo lời
đại sư Vân Thê, khảo sát khắp các bản dịch,
soạn riêng thành một bản gồm trọn tông yếu,
văn từ giản dị, thích đáng, được
coi là bản hay nhất của
kinh này”. Ông Vương lại tra khảo khắp các bản,
đích thân hiệu đính, đặt tên kinh là Ma Ha A Di Đà
Kinh, thành ra phiên bản thứ tám của kinh này.
Ông Ngụy phát tâm rộng lớn, lại tinh thông
văn tự, muốn cứu chữa khuyết điểm
lớn là soạn kinh của cư sĩ Vương Long
Thư, nên gộp đủ năm bản dịch hội tập
thành một kinh, tận lực t́m ṭi lai lịch của từng
câu mong thành bản hoàn chỉnh. Sở nguyện thật thù
thắng, thành tựu cũng lớn lao. Bản hội tập
của ông vượt xa bản họ Vương. Cư
sĩ Vương Ấm Phúc khen là bậc nhất trong tám bản
kinh cũng chẳng quá đáng.
Đáng cảm khái là ông Ngụy tuy nguyện tận lực
sửa chữa khuyết điểm soạn kinh của họ
Vương, tiếc thay vẫn chưa hoàn toàn tránh khỏi.
Nay sẽ nêu lên những điểm lớn rành rành như
sau:
1. Nguyện thứ hai trong bản họ Ngụy là: “Thiết ngă thành Phật, quốc
trung thiên nhân, thuần thị hóa sanh, vô hữu thai sanh” (Nếu
tôi thành Phật, trời, người trong nước thuần
là hóa sanh, chẳng có thai sanh). Bốn chữ “vô hữu thai sanh” (chẳng có
thai sanh) không t́m thấy trong các bản dịch. Vả lại,
bốn chữ ấy mâu thuẫn với lời văn của
bản dịch gốc. Bản Ngụy dịch chép: “Phật cáo Di Lặc… bỉ quốc
nhân dân, hữu thai sanh giả” (Phật bảo Di Lặc....
nhân dân cơi ấy có kẻ thai sanh). Hai bản dịch Đường,
Tống cũng giống vậy mà hội bản của họ
Ngụy viết “chẳng có thai sanh”. Đây thật là tỳ vết
khó giấu vậy.
2. Một đoạn Ngũ Ác, Ngũ Thống, Ngũ
Thiêu có đến vài ngàn chữ, mà bản họ Ngụy
tóm tắt thành: “Lúc sanh đau,
lúc già đau, lúc bịnh đau, lúc chết đau, hoạn
nạn cùng khổ đau đớn, lửa dâm dục
đốt, lửa sân giận đốt, lửa tham trộm
cắp đốt, lửa tà ngụy đốt, lửa ngu
si đốt, đấy là ngũ thống, ngũ thiêu”.
Ngụy cư sĩ vốn nguyện “không một chữ
nào chẳng có lai lịch”, nhưng tiếc chưa thể
thật triệt để ư nguyện ban đầu. Đoạn
văn trên đây, so với các bản dịch th́ chẳng
có lai lịch.
3. Hội bản của họ Ngụy nói cung điện,
lầu quán, đường vũ, pḥng gác của Cực Lạc
“hoặc xử hư không, hoặc tại b́nh
địa, hoặc y bảo thụ nhi trụ” (hoặc ở trên hư
không, hoặc trên đất bằng, hoặc nương
cây báu mà trụ). Câu “hoặc y bảo thụ nhi trụ”
(hoặc nương cây báu mà trụ) không có trong bản dịch
nào cả.
4. Trong hội bản, câu “quá
thị dĩ hậu, Vô Lượng Thọ Kinh diệc giảm,
duy trừ A Di Đà Phật tứ tự, quảng độ
quần sanh” (từ đấy về sau, Vô Lượng
Thọ kinh cũng giảm, chỉ trừ bốn chữ A
Di Đà Phật rộng độ quần sanh) cũng không có
trong bản dịch nào.
Do những điều trên, bản của họ Ngụy
so với các bản có trước, tuy bản sau trội
hơn bản trước, tiếc rằng vẫn chưa
hoàn toàn tránh nổi cái lỗi thêm chữ sai lầm. Cái lỗi
lớn ấy ắt phải sửa chữa hầu tránh cho
đời sau tập theo thành thói, thậm chí soán cải
kinh văn. V́ vậy, cần phải ngừa lỗi nhỏ
lâu ngày thành to, tuyệt trừ nguồn tội, lại khiến
cho Đại kinh chóng có được bản tốt nhất.
Bởi thế, tiên sư là lăo cư sĩ Hạ Liên Cư
bèn soạn ra bản thứ chín.
Tiên sư cư sĩ Hạ Liên Cư, lúc nhỏ học
Nho, trước là Tŕnh, Chu, sau Lục, Vương, trưởng
thành học Phật, nhiếp Thiền, Mật quy về Tịnh
Độ. Cụ Hạ thông suốt các sách vở, hiểu sâu
văn tự, dụng công lâu dài, hiểu tường tận
giáo pháp. Năm Nhâm Thân (1932), phát nguyện hiệu đính
kinh này, đóng cửa tạ khách, suốt cả ba năm,
xét kỹ cả năm bản dịch gốc, khảo sát kỹ
càng hội bản của ba nhà, không một câu nào chẳng
xem xét kỹ, không một chữ nào chẳng cân nhắc,
cung kính, cẩn thận, ngày ngày khấn cầu trước
Phật, thiên châm vạn chước cả trong giấc ngủ.
Đến khi hoàn thành, tứ chúng hoan hỷ. Lăo pháp sư Huệ
Minh là bậc thông
triệt cả Tông lẫn Giáo (Ngài là thầy quy y của cụ
Hạ) đắp y, nâng kinh chụp ảnh trước
điện Phật, đích thân ấn chứng. Cậu tôi
là cư sĩ Mai Hiệt Vân[1]
giảng liên tục trên đài phát thanh, khen là bản hay nhất.
Pháp sư Từ Châu chuyên giảng kinh này ở đất
Kinh Lỗ, cũng đích thân soạn khoa phán. Lăo ḥa thượng
Diệu Thiền, phương trượng Cực Lạc
Am ở Bắc Kinh mời hội trưởng Sơn Đông Nữ
Tử Liên Xă (Hội Phụ Nữ Niệm Phật tỉnh
Sơn Đông) là Ngô Thiến Hương đến chùa giảng
kinh này suốt hai tháng. C̣n những người phát tâm hoằng
dương, chuyên chú tŕ tụng chẳng thể tính nổi
số. Ấn hành, lưu thông liên tục chẳng dứt.
V́ vậy, cậu tôi là Mai lăo cư sĩ khen rằng:
“Yếu chỉ của Tịnh
tông cùng thâm cực vi, phát huy được chỗ uẩn
áo tiền nhân chưa phát huy được” và “tinh đáng minh xác, rành rành có chứng
cứ, không một nghĩa nào chẳng thuộc bản dịch
gốc, không một câu nào ra khỏi kinh gốc... Đủ các điểm hay, không sự
thật nào chẳng thâu tóm. Tuy muốn cho là bản chẳng
hay cũng chẳng được”.
Lời của cậu tôi nay đă được mọi
người công nhận, c̣n đem bản kinh này thâu nhập
vào ấn bản mới của Tục Tạng. Đại kinh
bụi phủ ngàn năm, nay mới có được bản
hoàn thiện. Ư nguyện hội tập kinh của tiên hiền
đă viên măn. Đại kinh phóng quang, chúng sanh hữu hạnh,
bản kinh mang tên Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng
Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh là bản
thứ chín của Đại kinh.
8.3. Chú thích kinh này
Trong năm bản dịch, bản Ngụy dịch
tương đối đầy đủ. V́ vậy, các
chú sớ Đại kinh phần nhiều dùng bản Ngụy dịch.
Các bậc đại đức Trung Quốc nhiều vị
soạn chú giải cho Tiểu Bổn Di Đà, c̣n chú giải Đại
Bổn chỉ có hai vị Tịnh Ảnh (Huệ Viễn)
đời Tùy và Gia Tường (Cát Tạng) đời
Đường.
1. Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ, sáu quyển,
do sa-môn Huệ Viễn thuộc chùa Tịnh Ảnh ở
kinh đô đời Tùy soạn, tục gọi là Tịnh Ảnh
Sớ.
2. Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ do ngài Cát Tạng
ở chùa Gia Tường đời Đường soạn. Tục
gọi là Gia Tường Sớ.
Ngoài ra, chú giải của hai vị Cảnh Hưng,
Nguyên Hiểu ở nước Tân La (nay thuộc Triều
Tiên) nay cũng được lưu truyền ở Trung Quốc:
1. Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Thuật Văn Tán,
ba quyển do ngài Cảnh Hưng nước Tân La trứ
tác, tục gọi là Cảnh Hưng Sớ.
2. Vô Lượng Thọ Kinh Tông Yếu, một quyển,
do sa môn Nguyên Hiểu thuộc chùa Hoàng Long nước Tân La
soạn. Ngài từng qua Trung Hoa du học, sau về nước,
danh tiếng vang dội chốn Hải Đông. Sớ giải
của Ngài gọi là Hải Đông Sớ.
3. Du Tâm An Lạc Đạo, một quyển cũng do ngài
Nguyên Hiểu soạn, là một trong mười tác phẩm
cổ của Tịnh tông.
Quang minh của Đại kinh chiếu rực Nhật Bản,
chú thích rất thịnh, vượt xa Trung Hoa. Riêng bút giả
được biết đă hơn hai mươi loại,
như là:
1. Vô Lượng Thọ Phật Tán Sao, một quyển,
do ngài Thiện Châu chùa Hưng Phước viết.
2. Vô Lượng Thọ Kinh Thuật Nghĩa, ba quyển,
do ngài Tối Trừng soạn.
3. Vô Lượng Thọ Kinh Tư Kư, một quyển,
Trí Cảnh soạn.
4. Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Uyển, bảy quyển,
do ngài Nam Sở chùa Tổng Tŕ ở Kỷ Châu soạn.
5. Vô Lượng Thọ Kinh Lược Tiên, tám quyển
của ngài Viện Khê, chùa Thiền Lâm, Lạc Đông, soạn
vào năm Hưởng Bảo thứ năm.
6. Vô Lượng Thọ Kinh Sao, bảy quyển của
ngài Vọng Tây Lâu Liễu Huệ.
7. Vô Lượng Thọ Kinh Trực Đàm Yếu Chú Kư, hai
mươi bốn quyển, do ngài Tây Dự chùa Tăng
Thượng soạn vào năm Vĩnh Hưởng thứ
tư.
8. Vô Lượng Thọ Kinh Kiến Văn, bảy quyển
của ngài Lương Vinh.
9. Vô Lượng Thọ Kinh Khoa Huyền Khái, một quyển
của ngài Tiểu Thương Tây Ngâm.
10. Vô Lượng Thọ Kinh Hội Sớ, bảy quyển,
do ngài Tuấn Đế chùa Thắng Thọ ở Việt Tiền
soạn.
11. Vô Lượng Thọ Kinh Khai Nghĩa, sáu quyển,
do ngài Huệ Không chùa B́nh An Tây Phước soạn.
12. Vô Lượng Thọ Kinh Quán Tư Nghĩa, ba quyển,
do ngài Ư Châu Lư Viên soạn.
13. Vô Lượng Thọ Kinh Hiển Tông Sớ, mười
bảy quyển, do ngài Tánh Hải Vô Nhai ở Giang Châu soạn.
14. Vô Lượng Thọ Kinh Yếu Giải, ba quyển,
do ngài Pháp Sâm soạn.
15. Vô Lượng Thọ Kinh Giảng Lục, bảy
quyển, do ngài Nam Lân chùa Cơ Lặc An Lạc thuộc Kỷ
Châu soạn.
16. Vô Lượng Thọ Kinh Phạm Hưởng Kư, sáu
quyển, do ngài Linh Phượng soạn.
17. Vô Lượng Thọ Kinh Nhăn Tủy, mười một
quyển, do ngài Nguyệt Khê ở Định Chuyên Phường
thuộc Nhiếp Châu soạn.
18. Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Kư, năm quyển,
Giới Hoa Tạng Am Huệ Nhiên soạn.
19. Vô Lượng Thọ Kinh Hải Trích Kư, hai
mươi quyển, khoa chú hai quyển, Tiểu Tằng Nễ
Hiến Vinh Thái Nham ở Nhiếp Châu soạn.
20. Vô Lượng Thọ Kinh Vĩnh An Lục, mười
ba quyển, Ư Báo Chuyên Phường Huệ Vân soạn.
21. Vô Lượng Thọ Kinh B́nh Giải, mười
tám quyển, Thích Đạo Ẩn soạn.
22. Vô Lượng Thọ Kinh Hợp Tán, bốn quyển,
Quán Triệt soạn.
Trong những
tác phẩm này, cuốn thứ sáu, thứ mười, thứ
hai mươi mốt, thứ hai mươi hai được
dẫn chứng nhiều trong sách này.
Ngoài
ra, chú thích những bản hiệu hội gồm có ba tác phẩm:
1. Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận, ba quyển,
Bành Tế Thanh soạn vào đầu triều Thanh.
2. Vô Lượng Thọ Kinh Tiên Chú, Đinh Phước Bảo
soạn vào cuối triều Thanh.
Hai bản chú giải trên đều dùng tiết bản
của Bành Tế Thanh (tức bản thứ bảy của
Đại Kinh).
3. Phật Thuyết Ma Ha A Di Đà Kinh Chung Luận do Chánh Định
Vương Canh Tâm soạn dưới đời Quang Tự
nhà Thanh. Bản dùng để chú giải là bản hiệu
hội thứ tám của Ngụy Thừa Quán.
Ngoài ra, vào cuối đời Thanh, cư sĩ Trầm
Thiện Đăng soạn Báo Ân Luận ba quyển có các phần
Tịnh Độ Pháp Môn Cương Yếu, Vô Lượng Thọ
Kinh Cương Tông, Văng Sanh Chánh Nhân Luận v.v….