41. Hoặc tận kiến Phật (惑 盡 見 佛 - Hết phiền
năo sẽ gặp Phật)
Chánh kinh:
譬 如 轉 輪 聖 王,有 七 寶 獄,王 子 得 罪,禁 閉 其 中。層 樓 綺 殿,寶 帳 金 床。欄 窗 榻 座,妙 飾 奇 珍。飲 食 衣 服,如 轉 輪 王。而 以 金 鏁 繫 其 兩 足。諸 小 王 子,甯 樂 此 不?慈 氏 白 言:不 也 世 尊。彼 幽 縶 時,心 不 自 在,但 以 種 種 方 便,欲 求 出 離。求 諸 近 臣,終 不 從 心。輪 王 歡 喜,方 得 解 脫。
Thí như
Chuyển Luân thánh vương, hữu thất bảo ngục,
vương tử đắc tội, cấm bế kỳ
trung, tằng lâu, ỷ điện, bảo trướng, kim sàng. Lan,
song, tháp, tọa, diệu sức kỳ trân .
Ẩm thực y phục, như Chuyển Luân Vương, nhi dĩ kim tỏa hệ kỳ lưỡng
túc.
Từ Thị bạch ngôn: - Bất
dă, Thế Tôn! Bỉ u trập thời, tâm bất tự tại,
đản dĩ chủng chủng phương tiện, dục
cầu xuất ly, cầu chư cận
thần, chung bất túng tâm. Luân Vương hoan hỷ,
phương đắc giải thoát.
Thí như Chuyển
Luân thánh vương có ngục bảy báu, vương tử
đắc tội bị giam kín trong ấy. Lầu tầng,
điện vẽ, màn báu, giường vàng, bao lơn, cửa
sổ, sập, ṭa, trang hoàng khéo léo, quư lạ; thức
ăn, y phục đều như Chuyển Luân
vương, nhưng dùng xích vàng xiềng hai chân. Các tiểu
vương tử ấy có ưa thích chuyện ấy
chăng?
- Thưa Thế
Tôn, không ạ! Khi họ bị giam kín, tâm chẳng tự tại,
chỉ toan dùng mọi phương tiện để mong thoát
khỏi, cầu cạnh các cận thần, trọn chẳng
dám buông lung. Luân Vương hoan hỷ th́ mới được
giải thoát.
Giải:
Phẩm này tiếp tục khuyên hành giả phải
đoạn nghi trừ hoặc.
Trước hết, Phật dùng ngay chuyện
vương tử bị tù làm thí dụ. Ngài Gia Tường
nói: “Chuyển Luân Thánh
Vương ví cho Vô Lượng Thọ Phật. Cung điện
bảy báu ví cho cơi Tịnh Độ. Vương tử mắc
tội ví như người mắc tội nghi hoặc.
Xích vàng ví như hoa sen chẳng nở. Thức ăn,
y phục đều như Chuyển Luân vương là ví
hành nhân ở trong hoa sen hưởng các sự khoái lạc tự
tại…”
“Tằng lâu” (層 樓) là lầu gác nhiều tầng. “Sàng” (床) là chỗ để người ta ngồi hoặc nằm.“Trướng” (帳)
là bức
treo hay căng trên giường. “Tháp”
(榻) cũng là một
loại giường; loại giường dài, hẹp mà thấp
th́ gọi là “tháp”. “
Diệu sức kỳ trân” (Trang hoàng khéo
léo, quư lạ) nghĩa là dùng các thứ kỳ trân dị bảo
trang hoàng hết sức khéo léo.
Trong từ
ngữ “u trập” th́ U (幽) là tù tội, Trập (縶) là cầm giữ; như vậy, từ ngữ
“u trập” giống với từ ngữ “câu
lưu” (拘留) hiện thời.
Trong lời đáp, ngài Di Lặc trước hết
thưa rằng: Hễ bị giam cầm th́ thiếu hẳn
niềm vui tự tại nên ai nấy đều dùng mọi
phương tiện để mong thoát ra.
Chánh kinh:
佛 告 彌 勒:此 諸 眾 生,亦 復 如 是。若 有 墮 於 疑 悔, 希 求 佛 智,至 廣 大 智。於 自 善 根,不 能 生 信。由 聞 佛 名 起 信 心 故,雖 生 彼 國,於 蓮 華 中 不 得 出 現。彼 處 華 胎,猶 如 園 苑 宮 殿 之 想。何 以 故?彼 中 清 淨,無 諸 穢 惡。然 於 五 百 歲 中,不 見 三 寶,不 得 供 養 奉 事 諸 佛,遠 離 一 切 殊 勝 善 根。以 此 為 苦,不 生 欣 樂。若 此 眾 生 識 其 罪 本,深 自 悔 責,求 離 彼 處。往 昔 世 中,過 失 盡 已,然 後 乃 出。
Phật cáo Di Lặc: - Thử
chư chúng sanh, diệc phục như thị.
Nhược hữu đọa ư nghi hối, hy cầu
Phật trí, chí quảng đại trí. Ư tự thiện
căn, bất năng sanh tín. Do văn Phật
danh khởi tín tâm cố, tuy sanh bỉ quốc, ư liên hoa
trung bất đắc xuất hiện. Bỉ xử hoa thai, do như viên uyển cung điện chi
tưởng.
Hà dĩ cố? Bỉ trung thanh tịnh vô chư
uế ác; nhiên ư ngũ bách tuế trung, bất kiến
Tam Bảo, bất đắc cúng dường phụng sự
chư Phật, viễn ly nhất thiết thù thắng
thiện căn. Dĩ thử vi khổ,
bất sanh hân nhạo. Nhược thử chúng sanh thức
kỳ tội bổn, thâm tự hối trách, cầu ly bỉ
xứ. Văng tích thế trung, quá thất tận dĩ, nhiên hậu
năi xuất.
Phật bảo
Di Lặc:
- Các chúng sanh kia
cũng giống như thế. Nếu có kẻ do đọa
vào nghi hối, mong cầu từ Phật trí cho đến
quảng đại trí, chẳng thể sanh nổi ḷng tin
đối với thiện căn của chính ḿnh; nhưng
do nghe danh hiệu Phật phát khởi ḷng tin th́ tuy
được sanh về cơi ấy, nhưng phải ở
trong hoa sen chẳng được xuất hiện. Kẻ ấy
ở trong hoa thai mà tưởng như đang ở trong
vườn hoa, cung điện.
V́ sao thế?
Trong ấy thanh tịnh, không có các uế ác, nhưng trong
năm trăm năm chẳng thấy Tam Bảo, chẳng
được cúng dường, phụng sự chư Phật,
xa ĺa hết thảy thiện căn thù thắng, nên coi
đó là khổ, chẳng sanh ḷng vui thích. Nếu những
chúng sanh ấy biết rơ gốc tội của chính ḿnh, tự
hối trách sâu xa, cầu được thoát khỏi chốn
đó th́ khi những lỗi lầm trong đời trước
đă hết sạch rồi, sau đấy mới
được thoát khỏi.
Giải:
Câu “diệc phục như
thị” (cũng giống như vậy) là nêu sự việc
để phối hợp với những ví dụ trong phần
trước: “Hoa thai” tương
ứng với “thất bảo
ngục” (ngục bằng bảy báu); “bất đắc xuất hiện” (chẳng
được xuất hiện)
tương ứng với “nhi
dĩ kim tỏa, hệ kỳ lưỡng túc” (dùng xích
vàng xiềng cả hai chân); “do
như viên uyển cung điện chi tưởng” (tưởng
như đang ở trong vườn hoa, cung điện)
tương ứng với “tằng
lâu ỷ điện… như Chuyển Luân Vương” (lầu
tầng, điện vẽ… như Chuyển Luân
vương); “bất sanh hân nhạo” (chẳng
sanh ḷng ưa thích) tương ứng với “vương tử bất lạc”
(vương tử chẳng vui). Từ câu “thức kỳ tội bổn” (biết
gốc tội ḿnh) cho đến “nhiên hậu năi xuất” (sau đấy mới
được thoát khỏi) tương ứng với “Luân vương hoan hỷ,
phương đắc giải thoát” (Luân Vương
hoan hỷ mới được giải thoát).
Sách Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Ư nói Thai Sanh không có các nỗi khổ ǵ khác, chỉ v́
trong năm trăm năm chẳng được thấy
Tam Bảo, chẳng được tu thiện nên coi đó
là khổ. Do có nỗi khổ đó nên dẫu vui mà chẳng
thấy vui”.
Ngài Nghĩa Tịch lại bảo: “Do cầu sự vui thù thắng nên coi sự vui kém cỏi
là khổ; như ưa thích cái vui bậc thượng, chán
cái vui hèn kém, nên coi đó là cái khổ về bậc thô. Tuy gọi
là khổ, nhưng chẳng hề chịu khổ”.
Trong tác phẩm Vô Lượng Thọ Kinh Sao, ngài Vọng
Tây lại viết: “Hỏi:
Sanh vào Biên Địa là cái quả của tâm nghi hay là quả
của việc tu thiện?
Đáp: Chính là quả của việc
tu thiện, chứ chẳng phải là quả của tâm
nghi. Nhưng do tâm nghi xen tạp nên đạt được
cái quả chẳng thuần tịnh”.
Từ chữ “nhược
thử chúng sanh” (nếu chúng sanh ấy) trở đi
chính là lời khuyên đoạn nghi, biết tội, sám hối
cầu thoát khỏi. Bản Ngụy dịch ghi chữ gốc
tội (tội bổn) là “bổn
tội” (cái tội chánh yếu, tội căn bản). Sách Hội Sớ giảng: “Bổn tội là tội nghi hoặc”.
Ngài Vọng Tây bảo: “Nghi
năm trí của Phật th́ gọi là tội bổn, chứ
chẳng phải là những nghiệp Thập Ác v.v...”
Ngài Nghĩa Tịch giảng câu “thâm tự hối trách” (tự hối trách sâu xa) như sau: “Nói đến hối trách th́ tự
xét kỹ cái tâm là Hối
(悔); quở trách cái tâm mê là Trách (責)”.
Ngài Vọng Tây c̣n bảo: “Hết
năm trăm năm rồi th́ túc chướng mỏng nhẹ,
biết tội ḿnh nên sanh hối trách. Do hối trách nên hết
chướng, liền đến được chỗ A
Di Đà Phật”.
Trong tác phẩm Lược Luận, ngài Đàm Loan cũng bảo:
“Biết gốc tội của
ḿnh, tự hối trách sâu xa, cầu thoát khỏi chốn ấy
liền được như ư, lại thuộc vào ba
bậc văng sanh. Phải hết năm trăm năm rồi
mới biết tội mà sám hối”.
Cả hai vị Đàm Loan và Vọng Tây cùng cho rằng
đến cuối thời gian năm trăm năm mới
hối tội và được thoát khỏi Biên Địa.
Ngài Gia Tường lại nghĩ khác, trong Gia Tường
Sớ, Ngài viết: “Nói ‘thâm tự
hối trách’ là ngụ ư: [Chúng sanh trong chốn Biên Địa]
chẳng phải chỉ có một loại. Hễ sám hối
liền được thoát khỏi, chẳng cần phải
hối trách trọn cả năm trăm năm”.
Thật ra, hai thuyết trên chẳng hề mâu thuẫn
nhau. Cuối thời gian năm trăm năm mới biết
tội, sám hối là nói về đa số người
nơi Biên Địa; chẳng cần đợi đến
năm trăm năm, hễ sám hối liền được
thoát khỏi th́ chính là nói đến những kẻ thượng
căn.
“Quá thất dĩ tận” (Tội lỗi
hết sạch) là khi những cái tội nghi hoặc trong
quá khứ đă sám trừ hết sạch rồi th́ mới
được thoát khỏi nghi thành, gặp Phật, nghe
pháp.
Như vậy là chẳng cần biết là trong thời
gian năm trăm năm hay phải đến cuối thời
gian ấy; cứ hễ khi nào tội lỗi cũ đă
tiêu diệt hoàn toàn th́ mới được giải thoát.
Chánh kinh:
即 得 往 詣 無 量 壽 所,聽
聞 經 法。久 久 亦 當 開 解
歡 喜,亦 得 遍 供 無 數 無
量 諸 佛,修 諸 功 德。汝
阿 逸 多, 當 知 疑 惑 於 諸 菩
薩 為 大 損 害,為 失 大 利,是
故 應 當 明 信 諸 佛 無 上
智 慧。
Tức
đắc văng nghệ Vô Lượng Thọ sở, thính
văn kinh pháp. Cửu cửu
diệc đương khai giải, hoan hỷ, diệc
đắc biến cúng vô số vô lượng chư Phật, tu chư công đức. Nhữ
A Dật Đa! Đương tri nghi hoặc ư chư Bồ Tát vi đại tổn hại,
vi thất đại lợi. Thị cố ưng
đương minh tín chư Phật vô
thượng trí huệ.
Liền
được đến chỗ Vô Lượng Thọ Phật
nghe giảng kinh pháp, lâu ngày cũng sẽ khai giải, hoan hỷ,
cũng sẽ cúng dường khắp vô số vô lượng
chư Phật, tu các công đức. Ông A Dật Đa! Nên biết
rằng: Đối với các vị Bồ Tát, nghi hoặc
chính là điều tổn hại lớn, là mất lợi
ích lớn. V́ vậy, phải tin rành rẽ vào trí huệ vô
thượng của chư Phật.
Giải:
Ngài Gia Tường giảng câu “tức đắc văng nghệ Vô Lượng Thọ
sở” (liền được đến chỗ Phật
Vô Lượng Thọ) như sau: “Tức đắc nghĩa là chẳng cách trở về
mặt thời gian”, ư nói: Vừa ra khỏi hoa sen th́ ngay
lập tức diện kiến đức Phật, nghe pháp,
chẳng cần phải mất chút thời khắc nào.
“Cửu cửu diệc
đương khai giải hoan hỷ” (Lâu dần cũng sẽ được khai giải,
hoan hỷ) nghĩa là: Người ấy do đời
trước “trí huệ bất
minh, tri kinh phục thiểu” (trí huệ chẳng sáng suốt, biết kinh càng ít
hơn nữa) nên nay tuy được đích thân gặp
Phật Di Đà, tai nghe lời giáo huấn của Phật,
nhưng tâm cấu chưa trừ, t́nh chấp, kiến chấp
vẫn c̣n. Bởi thế cần phải đa văn huân tập,
tăng trưởng trí huệ th́ mới có thể tin hiểu
được lời Phật. V́ thế, kinh nói: “Cửu cửu diệc
đương khai giải hoan hỷ” (Lâu ngày cũng sẽ được khai giải,
hoan hỷ).
“Khai giải” (開 解) là tâm khai đắc giải. “Hoan hỷ” (歡 喜) là nghe pháp liền lănh hội nên
tự nhiên hoan hỷ.
“Diệc đắc biến
cúng” (Cũng được cúng khắp) chính là như ngài
Đàm Loan giảng: “Liền
được như ư, lại thuộc vào ba bậc văng
sanh”, đầy đủ các thần thông cúng trọn khắp
các đức Phật, tùy ư tu tập các công đức
đúng như bổn nguyện của Phật Di Đà.
“A Dật Đa” (Ajita) là tên của
ngài Từ Thị. Đức Thích Ca lại kêu tên Ngài lần nữa
để cảnh tỉnh đại chúng chuyên tâm lắng
nghe. “Đương
tri nghi hoặc ư chư Bồ Tát vi
đại tổn hại, vi thất đại lợi. Thị
cố ưng đương minh tín chư Phật vô thượng
trí huệ” (Nên biết rằng:
Đối với các Bồ Tát, nghi hoặc là điều tổn
hại lớn, là đánh mất lợi ích lớn. V́ vậy,
phải tin rành rẽ vào trí huệ vô thượng của
chư Phật).
Đối với vấn nạn “v́ sao Bồ Tát c̣n có nghi
hoặc”, sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao viết: “Phải chăng là phàm phu Đại
Thừa mà gọi là Bồ Tát? Hoặc là nói giả dụ:
Nếu Bồ Tát mà c̣n có nghi hoặc th́ cũng bị mất
lợi ích lớn nên phàm phu lại càng phải tin rành rẽ
[vào Phật trí] vậy”.
Lời bàn trên rất khiêm nhường, chưa dám quyết
đoán. Theo ư người viết, cả hai thuyết nêu
trong tác phẩm trên đều đúng:
1. Thứ nhất là bọn chúng ta tuy là phàm phu dẫy
đầy, nhưng nếu có thể chân thật phát khởi
Bồ Đề tâm th́ chính là Sơ Phát Tâm Bồ Tát. Sách Luận
Chú nói: “Tâm Bồ Đề vô
thượng này chính là tâm nguyện làm Phật. Tâm nguyện
làm Phật chính là tâm độ chúng sanh. Tâm độ chúng sanh
chính là tâm nhiếp thủ
chúng sanh sanh về cơi có Phật”. Hành nhân Tịnh nghiệp
nếu phát được cái tâm như thế th́ cũng
chính là sơ phát tâm Bồ Tát. Ngài Thiên Thai bảo Bồ Tát
thuộc Tín vị (thuộc những địa vị trong
Thập Tín) trong Biệt giáo giống như những sợi
tơ trên không trung lờ lững vô định. V́ thế,
Sơ Phát Tâm Bồ Tát thật sự c̣n có nguy cơ bị
thoái đọa.
2. Thứ hai là “nói giả dụ”,
nghĩa là dù thật sự là Bồ Tát mà nếu sanh ḷng
nghi hoặc th́ cũng bị mất lợi lớn. Do
đó, bọn phàm phu chúng ta càng lại chẳng nên sanh nghi.
V́ thế, cả hai thuyết này chẳng hề mâu thuẫn
nhau.
“Đại lợi” (Lợi lớn)
chính là “cái lợi chân thật”
như trong kinh đă dạy. Thập phương Bạc
Già Phạm (Thế Tôn) trụ trong Chân Thật Huệ để
khai hóa, hiển thị Chân Thật Tế “dục chửng quần manh, huệ dĩ chân thật
chi lợi, nan trị, nan kiến, như Ưu Đàm hoa hy
hữu xuất hiện” (muốn
cứu vớt quần manh, ban cho cái lợi chân thật, khó
gặp, khó thấy như hoa Ưu Đàm ít khi xuất hiện).
Nay đấng khó gặp đă được gặp,
điều khó nghe đă được nghe mà chẳng tin
nhận th́ thật là bội bạc ơn Phật nên bảo
là “vi thất đại lợi”
(mất lợi ích lớn).
Hơn nữa, pháp môn Tịnh Độ: Nhất Thừa
nguyện hải, sáu chữ hồng danh, tín nguyện tŕ
danh chứng ngay lên Bất Thoái đây chính là điều
chân thật nhất trong những điều chân thật,
là điều lợi lớn lao nhất trong những điều
lợi lớn lao. Chẳng tin pháp này th́ vĩnh viễn
đánh mất cái lợi lớn.
Kinh Thiên Thủ dạy: “Nhược
ư thử đà-ra-ni sanh nghi bất tín giả,
đương tri kỳ nhân vĩnh thất đại lợi.
Bách thiên vạn kiếp trung, luân chuyển ác thú, vô hữu
xuất kỳ, thường bất kiến Phật, bất
văn pháp, bất đổ tăng” (Nếu đối với đà-ra-ni này mà sanh nghi chẳng
tin th́ nên biết rằng người ấy vĩnh viễn
đánh mất cái lợi lớn. Trong trăm ngàn muôn kiếp
luân hồi trong nẻo ác, chẳng có lúc ra, thường chẳng
thấy Phật, chẳng nghe pháp, chẳng gặp Tăng).
Câu kinh này đă chỉ rơ nghi hoặc là “vi đại tổn hại” (điều tổn
hại lớn).
Trái lại th́ như kinh Thập Văng Sanh đă nói: “Nhược hữu thiện nam
tử, thiện nữ nhân, chánh tín thị kinh, ái nhạo thị
kinh, quán đạo chúng sanh, thuyết giả, thính giả,
tất giai văng sanh A Di Đà Phật quốc. Nhược hữu
như thị đẳng nhân, ngă tùng kim nhật thường
sử nhị thập ngũ Bồ Tát hộ tŕ thị
nhân, thường linh thị nhân vô bệnh, vô năo. Nhược
nhân, nhược phi nhân, bất đắc kỳ tiện.
Hành, trụ, tọa, ngọa, vô vấn trú dạ, thường
đắc an ổn” (Nếu
có thiện nam tử, thiện nữ nhân chánh tín kinh này, yêu
mến kinh này, quán sát, dẫn dắt chúng sanh th́ kẻ nói,
người nghe đều được văng sanh cơi A Di Đà
Phật. Nếu có những người như vậy th́ từ
hôm nay, ta thường sai hai mươi lăm vị Bồ
Tát hộ tŕ những người ấy, thường khiến
cho họ không bệnh tật, không khổ năo, dù là người
hay phi nhân chẳng có dịp khuấy nhiễu họ. Đi,
đứng, nằm, ngồi, bất luận là ngày hay
đêm thường được an ổn).
Câu kinh này đă nêu rơ điều đại lợi do
tin nhận. Điều nào nên bỏ, điều nào nên thuận
theo, xin hăy khéo suy nghĩ kỹ!
Tiếp đó, kinh nói đến cái tai hại lớn của
việc nghi báng. Kinh Thập Văng Sanh c̣n dạy:
“Ư hậu Diêm Phù Đề,
hoặc hữu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, kiến hữu
độc tụng thị kinh giả, hoặc tương
sân khuể, tâm hoài phỉ báng. Do thị báng chánh pháp cố,
thị nhân hiện thân chi trung, lai trí chư ác trọng bệnh,
thân căn bất cụ, lung, manh, ám, á, thủy thũng, quỷ
mị, tọa, ngọa bất an, cầu sanh bất đắc,
cầu tử bất đắc, hoặc năi trí tử,
đọa ư địa ngục. Bát vạn kiếp
trung, thọ đại khổ năo, bách thiên vạn thế,
vị tằng văn thủy thực chi danh. Cửu hậu
đắc xuất, tại ngưu, mă, trư, dương,
vị nhân sở sát, thọ đại khổ năo. Hậu
đắc vi nhân, thường sanh hạ xứ, bách thiên vạn
thế bất đắc tự tại, vĩnh bất
văn Tam Bảo danh tự. Thị cố, vô trí vô tín nhân
trung, mạc thuyết thị kinh dă” (Sau này trong Diêm Phù Đề có tỳ-kheo hoặc là tỳ-kheo
ni thấy có người đọc tụng kinh này mà nếu
sanh ḷng giận dữ, ôm ḷng phỉ báng th́ do báng chánh pháp,
ngay nơi thân hiện đời của người ấy
sẽ phát ra các bệnh nặng nề, thân căn chẳng
đầy đủ, điếc, mù, câm, ngọng, thủy
thũng, quỉ mỵ, nằm, ngồi chẳng yên, cầu
sống chẳng được, cầu chết không xong.
Hoặc đến khi chết đọa vào địa ngục,
trong tám vạn kiếp chịu đại khổ năo.
Trăm ngàn ức đời, chưa từng nghe danh từ
cơm, nước. Măi lâu sau mới được thoát ra,
sanh làm trâu, ngựa, lợn, dê, bị người ta giết
hại, chịu đại cực khổ. Sau đấy mới
được làm thân người, thường sanh vào nhà
hèn hạ, trăm ngàn vạn đời chẳng được
tự tại, trọn chẳng được nghe danh tự
Tam Bảo. V́ thế đối với những kẻ vô
tín, vô trí, chớ nói kinh này).
Tôi dẫn kèm thêm hai kinh trên đây để chứng tỏ
rơ nghi hay tin tuy chỉ thuộc trong một niệm của
đương cơ, nhưng chúng tạo thành họa hay
phước khác nhau một trời, một vực, bao kiếp
vô tận. Bởi thế, Phật mới dạy: “Ưng đương minh tín
chư Phật vô thượng trí huệ” (Phải nên tin rành rẽ vào trí huệ vô thượng
của chư Phật).
Chánh kinh:
慈 氏 白 言:云 何 此 界 一 類 眾 生,雖 亦 修 善,而 不 求 生?佛 告 慈 氏:此 等 眾 生,智 慧 微 淺。分 別 西 方,不 及 天 界,是 以 非 樂,不 求 生 彼。慈 氏 白 言:此 等 眾 生,虛 妄 分 別。不 求 佛 剎,何 免 輪 迴。
Từ Thị bạch ngôn: “Vân
hà thử giới nhất loại chúng sanh, tuy diệc tu thiện,
nhi bất cầu sanh?” Phật cáo Từ Thị: “Thử
đẳng chúng sanh, trí huệ vi thiển, phân biệt Tây
phương, bất cập thiên giới, thị dĩ phi lạc,
bất cầu sanh bỉ”. Từ Thị bạch ngôn: “Thử
đẳng chúng sanh, hư vọng phân biệt, bất cầu
Phật sát, hà miễn luân hồi”.
Ngài Từ Thị bạch rằng: - V́ sao có hạng
chúng sanh trong cơi này tuy cũng tu thiện mà chẳng cầu
sanh?
Phật bảo
Từ Thị: - Bọn chúng sanh ấy trí huệ ít ỏi,
nông cạn, phân biệt rằng Tây phương chẳng bằng
cơi trời; v́ thế cho là không vui nên chẳng cầu sanh về
đấy.
Từ Thị bạch
rằng: - Bọn chúng sanh ấy phân biệt hư vọng!
Chẳng cầu sanh về cơi Phật, làm sao thoát khỏi
luân hồi?
Giải:
Từ Thị đại sĩ do ḷng Vô Duyên Đại
Từ, xót nghĩ đến một hạng chúng sanh trong
đời sau tuy cũng tu thiện nhưng chẳng cầu
sanh Tây Phương Tịnh Độ nên Ngài mới nêu lời
hỏi ấy.
Phật đáp: Bọn chúng sanh ấy trí huệ thiếu
khuyết, mê luyến cái phước trong cơi trời người
nên chẳng nguyện sanh. Ngài Từ Thị lại thưa:
“Bất cầu Phật sát, hà
miễn luân hồi” (Chẳng
cầu sanh về cơi Phật, làm sao thoát khỏi luân hồi?)
Câu này có đến hai nghĩa:
1. Một là chuyên chỉ về hạng chúng sanh vừa
mới nói trên đây: Bọn họ suy nghĩ lầm lạc,
cho rằng sự vui nơi cơi Tây phương chẳng thể
bằng nổi sự vui cơi trời. Phân biệt hư vọng
như thế nên chẳng cầu sanh Tịnh Độ; chẳng
biết rằng do phước tu thiện tuy được
sanh thiên nhưng sau khi tuổi thọ cơi trời đă hết
th́ lại bị luân hồi.
2. Hai là chỉ chung hành nhân các tông tuy tinh tấn tu tŕ,
nhưng nếu chẳng lấy Tịnh Độ của Phật
Di Đà làm chỗ quy túc, chuyên cậy vào tự lực th́ khó
ḷng dứt trọn sanh tử ngay trong đời này, ắt
phải thọ thân sau, nên ngài Di Lặc mới nói: “Hà miễn luân hồi? (Làm sao
thoát khỏi luân hồi?)
Chánh kinh:
佛 言:彼 等 所 種 善 根,不 能 離 相,不 求 佛 慧,深 著 世 樂,人 間 福 報。雖 復 修 福,求 人 天 果,得 報 之 時,一 切 豐 足,而 未 能 出 三 界 獄 中。假 使 父 母、妻 子、男 女 眷 屬,欲 相 救 免,邪 見 業 王,未 能 捨 離,常 處 輪 迴,而 不 自 在。
Phật ngôn: - Bỉ đẳng
sở chủng thiện căn, bất năng ly tướng,
bất cầu Phật huệ, thâm trước thế lạc,
nhân gian phước báo. Tuy phục tu phước, cầu
nhân thiên quả, đắc báo chi thời, nhất thiết
phong túc, nhi vị năng xuất tam giới
ngục trung. Giả sử phụ mẫu, thê tử, nam nữ,
quyến thuộc, dục tương cứu miễn, tà kiến
nghiệp vương, vị năng xả ly, thường
xử luân hồi, nhi bất tự tại.
Phật dạy:
- Bọn họ gieo trồng thiện căn chẳng thể
ly tướng, chẳng cầu Phật huệ, tham đắm
sâu đậm niềm vui thế gian và phước báo nhân
gian. Tuy là tu phước lại cầu quả nhân thiên, khi
được hưởng báo, được hết thảy
dư dật, nhưng chưa thể thoát khỏi nhà ngục
tam giới. Giả sử cha mẹ, vợ con, nam nữ,
quyến thuộc muốn cứu vớt nhau, nhưng
chưa thể ĺa bỏ tà kiến nghiệp vương,
nên thường ở trong luân hồi, chẳng được
tự tại.
Giải:
Từ chữ “Phật ngôn”
trở đi, Phật lại dạy rơ những điều
lợi, hại, được mất của việc ly
tướng và chấp tướng. Chấp tướng tu
phước th́ khó tránh khỏi luân hồi. Ly tướng cầu
sanh vĩnh viễn được giải thoát.
Trong đoạn này, trước hết Phật nói
đến việc chấp vào phước thế gian, chẳng
thể thoát nổi luân hồi. Bọn chúng sanh ấy tuy trồng
các căn lành nhưng tham đắm phước báo nhân
thiên, chẳng thể ly tướng, chẳng cầu trí huệ
của Phật “tuy phục tu
phước, cầu nhân thiên quả” (tuy vẫn tu
phước [mà] cầu quả nhân thiên) nên chẳng thể thoát nổi ngục tam giới.
“Đắc báo
chi thời, nhất thiết phong túc” (Khi hưởng báo, được hết
thảy dư dật) là tạm hưởng sự vui thế
gian, nhưng hết phước lại bị đọa,
hậu hoạn vô cùng. Sau khi mạng chung, dẫu thân
quyến v́ ḿnh sám hối tội lỗi cầu phước,
tu pháp, tụng kinh hầu cứu độ cho, nhưng v́ kẻ
ấy cội rễ tà kiến sâu chắc, chấp mê chẳng
ngộ do bởi “tà kiến
nghiệp vương, vị năng xả ly” (chưa thể
ĺa bỏ tà kiến nghiệp vương). Bởi tà kiến
nên chẳng sanh chánh tín; do đó, tà kiến đúng là vua của
các ác nghiệp nên mới gọi là “tà kiến nghiệp vương”. Bởi thế, “thường xử luân hồi,
nhi bất tự tại” (thường ở trong luân hồi,
chẳng được tự tại).
Chánh kinh:
汝 見 愚 痴 之 人,不 種 善 根,但 以 世 智 聰 辯,增 益 邪 心。云 何 出 離 生 死 大 難。
Nhữ kiến
ngu si chi nhân, bất chủng thiện
căn, đản dĩ thế trí thông biện, tăng ích
tà tâm. Vân hà xuất
ly sanh tử đại nạn?
Ông có thấy: Kẻ
ngu si chẳng trồng căn lành, chỉ cậy vào thế
trí thông biện để tăng thêm tà tâm th́ làm sao thoát nổi
đại nạn sanh tử?
Giải:
Hạng người được nói đến trong
đoạn này c̣n nặng hơn hạng trên. Hạng trên c̣n
tu thiện, chỉ v́ cầu phước báo thế gian nên
chẳng thoát khỏi luân hồi; c̣n hạng người
được nói đến trong đoạn này c̣n ngu si
hơn nữa: Chẳng trồng căn lành, trái lại c̣n cậy
vào Thế Trí Biện Thông[1],
kiêu mạn, tự đại, chẳng sanh chánh tín, khiến
tà tâm càng thêm lớn. Họ chẳng biết rằng Thế
Trí Biện Thông chính là một trong tám nạn. Tà kiến
điên đảo lại tưởng là hay. Hạng người
như thế làm sao thoát nổi biển khổ sanh tử!
Chánh kinh:
復 有 眾 生,雖 種 善 根,作 大 福 田。取 相 分 別,情 執 深 重。求 出 輪 迴,終 不 能 得。若 以 無 相 智 慧,植 眾 德 本。身 心 清 淨,遠 離 分 別。求 生 淨 剎,趣 佛 菩 提。當 生 佛 剎,永 得 解 脫。
Phục hữu chúng sanh, tuy chủng
thiện căn, tác đại phước điền, thủ
tướng phân biệt, t́nh chấp thâm trọng, cầu
xuất luân hồi, chung bất năng đắc. Nhược
dĩ vô tướng trí huệ, thực chúng đức bổn.
Thân tâm thanh tịnh, viễn ly phân biệt, cầu sanh tịnh
sát, thú Phật Bồ Đề, đương sanh Phật
sát, vĩnh đắc giải thoát.
Lại có chúng sanh tuy trồng thiện căn, làm đại
phước điền, nhưng chấp tướng phân
biệt, t́nh chấp sâu nặng, cầu thoát luân hồi trọn
chẳng thoát nổi. Nếu dùng vô
tướng trí huệ trồng các cội đức, thân
tâm thanh tịnh, xa ĺa phân biệt, cầu sanh về cơi tịnh,
hướng đến quả Bồ Đề của Phật
th́ sẽ sanh về cơi Phật, vĩnh viễn được
giải thoát.
Giải:
Phật đáp lời ngài Từ Thị: Nói chung, chúng
sanh trong cơi này tuy cũng tu thiện nhưng chẳng chịu
cầu sanh Tịnh Độ th́ có ba hạng:
1) Một là tham đắm vào phước lạc thế
gian, cầu quả nhân thiên
2) Hai là Thế Trí Biện Thông, tà tâm lừng lẫy.
3) Ba là hạng “thủ
tướng phân biệt, t́nh chấp thâm trọng” (chấp
tướng phân biệt, t́nh chấp sâu nặng).
Ba hạng người như vậy dẫu tu phước
th́ chỉ đạt được phước báo thế
gian, khác nào mộng, huyễn, bọt nước, h́nh bóng
thoáng qua, chớp mắt đă hết. V́ thế,
“cầu xuất luân hồi, chung
bất năng đắc” (cầu thoát luân hồi, trọn chẳng
thể thoát nổi).
Trong câu “phục hữu
chúng sanh, tuy chủng thiện căn, tác đại phước
điền” (lại có chúng
sanh tuy trồng thiện căn, làm đại phước
điền), chữ “đại
phước điền” nghĩa là tŕ danh hiệu Phật
bởi tŕ danh là vua của các điều thiện nên ruộng
phước ấy mới đáng gọi là đại
phước điền. Hiềm v́ kẻ đó “thủ tướng phân biệt,
t́nh chấp thâm trọng” nên tuy niệm Phật cũng
chẳng thoát nổi luân hồi.
Ba bậc văng sanh được dạy trong kinh này
đều do phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm
A Di Đà Phật. Tâm Bồ Đề chính là đại trí, đại
bi, đại nguyện, tâm viên dung nhất thể.
“T́nh chấp thâm trọng” chính là ngu si,
làm sao gọi là đại trí được? “Thủ tướng phân biệt”
là c̣n có lấy, bỏ, cho nên làm sao có thể hưng khởi
nổi vô duyên đại từ, đồng thể đại
bi? Hạng người như thế làm sao có thể phát khởi
tâm Bồ Đề? Do đó, dẫu niệm Phật cũng chẳng
thuộc vào ba bậc văng sanh nổi!
Ngẫu Ích đại sư dạy nếu niệm Phật
mà chẳng có tín nguyện th́ cũng chẳng thể văng
sanh, thật tương đồng với ư kinh dạy ở
đây. Hơn nữa, chấp tướng tu phước
th́ phước ấy có cùng tận, như kinh Kim Cang đă
dạy: “Ưng vô sở trụ
hành ư bố thí, sở vị: Bất trụ Sắc bố
thí, bất trụ Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp bố
thí. Tu Bồ Đề! Bồ Tát ưng như thị bố
thí, bất trụ ư tướng. Hà dĩ cố? Nhược
Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ
phước đức bất khả tư lượng” (Hăy nên không trụ vào đâu cả
mà hành bố thí, tức là: Chẳng trụ vào Sắc để
bố thí, chẳng trụ vào Thanh, Hương, Vị, Xúc,
Pháp để bố thí. Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát nên bố
thí như vậy, chẳng trụ vào tướng. V́ sao thế?
Bồ Tát chẳng trụ vào tướng mà bố thí th́
phước ấy chẳng thể suy lường nổi).
Trong tác phẩm Phá Không Luận, đại sư Linh
Phong giảng câu kinh ấy như sau: “Lấy
pháp không trụ vào đâu cả để trụ vào Bát Nhă,
chăm chắm thực hành sáu Ba La Mật mà chẳng chấp
tướng. Bởi thế có thể khiến cho chút
phước thành nhiều như hư không…
Do trụ vào tướng nên chúng sanh tự hư vọng
so nhân, tính quả, xét lớn, xét nhỏ. Nếu có thể xứng
hợp với tánh mà trụ th́ chẳng trụ vào các tướng.
Ví như tánh của hư không chứa đựng trong hạt
cải cùng với tánh của hư không trong mười
phương không hai, không khác, v́ hư không chẳng phải
là trong, ngoài, đây, kia, phương, góc, h́nh tướng,
Tiểu Không cũng lại chẳng khác với Đại Không. Cái phước vô tướng
ấy rất lớn”.
Kinh Kim Cang c̣n dạy: “Nhược
tâm thủ tướng, tức vi trước ngă, nhân, chúng
sanh, thọ giả” (Nếu
tâm chấp tướng th́ chấp vào ngă, nhân, chúng sanh, thọ
giả). Kinh c̣n dạy thêm: “Nhược
Bồ Tát hữu ngă tướng, nhân tướng, chúng sanh
tướng, thọ giả tướng, tức phi Bồ
Tát” (Nếu Bồ Tát có
tướng ta, tướng người, tướng chúng
sanh, tướng thọ giả th́ chẳng phải là Bồ
Tát).
Trên đây, tôi đă dẫn nhiều đoạn trong
kinh Kim Cang Bát Nhă để nói lên cái hại của việc
chấp tướng phân biệt. Bởi đó, ở
đây, Phật mới dạy: “Cầu
xuất luân hồi, chung bất năng đắc” (Cầu thoát luân hồi, trọn
chẳng thể thoát nổi).
Cuối đoạn này, Phật lại dạy: “Nhược dĩ vô tướng
trí huệ, thực chúng đức bổn” (Nếu dùng trí huệ vô tướng
trồng các cội đức) cầu sanh Tịnh Độ
th́ vĩnh viễn được giải thoát. Gốc của
các đức chính là phát Bồ Đề tâm, một dạ
chuyên niệm.
Hơn nữa, “vô tướng”
chính là không có năm trần: Sắc, Thanh… không có mười
tướng: nam, nữ, sanh, trụ, hoại, diệt… th́ gọi
là vô tướng.
Kinh Bát Nhă cũng dạy: “Niết
Bàn danh vi vô tướng”
(Niết Bàn gọi là vô tướng). Sách Diễn Nghĩa Sao có câu: “Nghĩa của tịch diệt chính là vô tướng;
nhưng [tịch diệt] chỉ do tâm tự chứng, chứ
chẳng thể từ cái khác mà có được cho nên
không có các tướng”.
Như kinh Kim Cang dạy: “Phàm
sở hữu tướng, giai thị hư vọng.
Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức
kiến Như Lai” (Hễ
cái ǵ có tướng th́ đều là hư vọng. Nếu
thấy các tướng chẳng phải là tướng th́
chính là thấy Như Lai)” và: “Ly nhất thiết chư tướng, tức danh
chư Phật” (Ĺa hết
thảy tướng th́ gọi là chư Phật). Đấy
đều chính là “vô tướng
trí huệ” được nói trong phẩm kinh này.
Các câu kinh từ câu: “Nhược
dĩ vô tướng trí huệ, thực chư đức bổn”
(Nếu dùng trí huệ vô
tướng trồng các cội đức) cho đến
“vĩnh đắc giải
thoát” (vĩnh viễn
được giải thoát) đều nói lên diệu
chỉ “vô ngă, vô nhân, vô chúng
sanh, vô thọ giả tu hết thảy thiện pháp th́ chính là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác” của kinh Kim Cang.
Tác phẩm Phá Không Luận giảng về điều
này như sau: “V́ nếu chẳng
hiểu thấu vô ngă mà tu hết thảy thiện pháp th́ chỉ
trở thành cái quả hư ngụy trong cơi nhân thiên. Chẳng
tu hết thảy thiện pháp, chỉ chứng Ngă Không th́
chỉ thành Nhị Thừa Tiểu Quả. Vờ nói rằng
ngă pháp đều không nhưng mặc t́nh gây các ác pháp th́ trở
thành hạng Xiển-đề, địa ngục. Chỉ
có vô ngă tu hết thảy thiện pháp th́ mới đúng là
‘chẳng trụ vào đâu
mà sanh tâm’ nên liền đắc vô thượng Bồ Đề”.
So sánh hai kinh với nhau th́ những điều như “vô tướng trí huệ”, “viễn
ly phân biệt” trong kinh này chính là “vô ngă, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả” của
kinh Kim Cang; những điều như “thực chúng đức bổn” (trồng các cội đức), “cầu sanh tịnh sát, thú Phật Bồ Đề”
(cầu sanh cơi tịnh, hướng đến Phật
Bồ Đề) trong kinh này chính là “tu
hết thảy pháp lành” được nói trong kinh Kim
Cang. Ngoài ra, “đương
sanh Phật sát, vĩnh đắc giải thoát” (sẽ
sanh về cơi Phật, vĩnh viễn được giải
thoát) chính là “liền đắc
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác” trong kinh Kim Cang.
Vả lại, Tịnh Độ chính là pháp mà hết thảy
thế gian khó thể tin được nổi mà tin
được pháp này th́ đó chính là trí huệ vô tướng
như kinh Kim Cang dạy: “Văn
thị chương cú, năi chí nhất niệm sanh tịnh
tín giả... Thị chư chúng sanh vô phục ngă tướng,
nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng”
(Nghe chương cú này dẫu
chỉ sanh ḷng tin thanh tịnh trong một niệm… th́ các
chúng sanh ấy chẳng c̣n có ngă tướng, nhân tướng,
chúng sanh tướng, thọ giả tướng nữa).
Kinh c̣n nói: “Kỳ hữu
chúng sanh đắc văn thị kinh, tín giải thọ
tŕ, thị nhân tức đệ nhất hy hữu, hà dĩ
cố? Thử nhân vô ngă tướng, vô nhân tướng, vô
chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng” (Nếu có chúng sanh được
nghe kinh này, tin hiểu, thọ tŕ, th́ người ấy
chính là hy hữu bậc nhất, v́ sao vậy? Người ấy
không có ngă tướng, không có nhân tướng, không có chúng
sanh tướng, không có thọ giả tướng).
Sách Phá Không Luận giảng: “Giả
sử c̣n có chút xíu nhân tướng,
ngă tướng v.v… th́ quyết chẳng thể tin nổi kinh
này. Dẫu cho có tin hiểu, thọ tŕ kinh này th́ quyết chẳng
hiểu thông suốt các tướng: bản thể của
nhân, ngă... chính là vô tướng”.
Do đó ta thấy rằng toàn thể của diệu
đức “năng tín” chính là vô tướng trí huệ. Tịnh
tông chính là pháp môn
vi diệu tối cực viên đốn, siêu t́nh ly kiến
chẳng thể nghĩ bàn. Nếu ai có thể sanh
được ḷng tin chân thật nơi pháp môn này: tin Sự,
tin Lư, tin Tự, tin Tha, tin Nhân, tin Quả, đầy
đủ cả sáu thứ tín như thế; nên biết là
người ấy đă siêu t́nh ly kiến, đă khế hợp
với trí huệ vô tướng.
Bởi đó, trong phẩm Độc Lưu Thử Kinh
(riêng lưu lại kinh này) trong kinh đây có nói: “Nhược văn thử kinh,
tín nhạo thọ tŕ, nan trung chi nan, vô quá thử nan” (Nếu
nghe kinh này tin ưa thọ tŕ th́ là điều khó nhất
trong những điều khó, không có ǵ khó hơn việc
này). Ở phần trước, kinh đă nói “thủ tướng phân biệt”
tuy gieo đại phước điền “cầu xuất luân hồi, chung bất năng
đắc” (cầu
thoát luân hồi, trọn chẳng thể thoát nổi) là nói
đến cái hại của việc chấp tướng.
Trong phần này, kinh dạy “nhược
dĩ vô tướng trí huệ, thực chúng đức bổn”
(nếu dùng trí huệ vô tướng trồng các cội
đức), “đương
sanh Phật sát, vĩnh đắc giải thoát” (sẽ
sanh về cơi Phật, vĩnh viễn được giải
thoát) chính là giảng về công năng của việc ly
tướng cầu sanh. Thuộc vào trong ba bậc hay bị
đọa trong nghi thành hoàn toàn ở điểm mấu chốt
này, hăy nên xét kỹ để tự định đoạt
lấy.
“Thân tâm thanh tịnh, viễn
ly phân biệt” là vô tướng trí huệ, vạn pháp đều
giống hệt như nhau, nhiễm - tịnh b́nh đẳng
nên thân tâm thanh tịnh. Hết thảy đều Như nên
ĺa phân biệt. Hơn nữa, niệm Phật “đô nhiếp lục căn, tịnh
niệm tương kế” (nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối). V́
nhiếp trọn sáu căn nên thân tâm thanh tịnh, tịnh
niệm tiếp nối nên ĺa phân biệt.
Lại có kẻ nghi rằng Tịnh tông lấy “nhàm chán
Sa Bà, ưa cầu Cực Lạc” làm nguyện, chán - ưa
như thế th́ chẳng phải là phân biệt hay sao?
Sách Diệu Tông Sao đáp:
“Đạt đến chỗ cùng cực th́ lấy bỏ và chẳng
lấy bỏ cũng chẳng sai khác ǵ”. Ấy là v́ bỏ
đến chỗ cùng cực th́ vạn duyên đều
buông hết, sáu căn tịch tĩnh; lấy đến chỗ
cùng cực th́ chỉ c̣n giữ mỗi một niệm sáu
chữ hồng danh. Niệm Phật như thế th́ khác
chi chẳng lấy, chẳng bỏ nên mới bảo là: “Cũng chẳng sai khác ǵ”. Hoặc
như sách Di Đà Yếu Giải giải đáp: “Ví như nếu chẳng từ
Sự để lấy bỏ mà chỉ khăng khăng chẳng
lấy chẳng bỏ th́ là chấp Lư phế Sự. Đă phế
Sự th́ Lư cũng chẳng viên. Nếu thông đạt toàn
Sự chính là Lư th́ lấy
cũng là Lư mà bỏ cũng là Lư. Một lấy, một bỏ,
không chi chẳng phải là pháp giới”. Sự thật mầu
nhiệm như thế thật chẳng thể dùng t́nh chấp,
kiến giải để lănh hội nổi.
“Cầu sanh tịnh sát” (Cầu sanh sang
cơi tịnh) là chí tâm tin ưa, nguyện sanh cơi Cực Lạc.
Cầu được sanh như thế chính là đem một
niệm tâm nguyện nhỏ nhiệm của ta gieo vào biển
nguyện vô biên của Phật Di Đà; đó cũng chính là
đem cả biển nguyện Nhất Thừa vô biên ấy
trút vào trong một niệm tâm nhỏ nhiệm của ta. V́
thế, mười niệm liền được sanh, có
nguyện đều được thỏa măn.
“Thú Phật Bồ Đề”
(Hướng
đến quả Bồ Đề của Phật) nghĩa là:
Nhân là phát Bồ Đề tâm, quả là Bổ Xứ thành Phật,
rốt ráo Bồ Đề. Cả sáu câu trên chính là tông chỉ
của kinh này: Phát Bồ Đề tâm, nhất hướng
chuyên niệm. Tu hành đúng theo tông chỉ ấy nên “đương sanh Phật sát,
vĩnh đắc giải thoát” (sẽ được
sanh về cơi Phật, vĩnh viễn được giải
thoát).
[1] Kinh này ghi là “Thế Trí Thông Biện”
nhưng trong các kinh khác, thường gọi là Thế Trí Biện
Thông nên chúng tôi cũng ghi theo danh xưng
phổ biến.