33. Khuyến dụ sách tấn (勸 諭 策 進)
Phẩm trên đă chỉ rơ những điểm thù thắng
siêu tuyệt, tịnh định, an lạc của cơi Cực
Lạc nhằm làm cho chúng sanh ưa thích, hâm mộ, phát nguyện
cầu sanh; phẩm này nói lên những điều tệ ác
cơi Sa Bà:
- Chúng sanh chướng nặng, ba độc lừng lẫy.
- Do Si Hoặc nên tạo nghiệp, khổ báo vô tận,
ch́m đắm trong biển khổ, đau đớn không
cách ǵ diễn tả nổi.
V́ thế, Phật thương xót khuyên bảo nên chán
ĺa. Phật dạy răn, khuyên lơn chúng sanh nên dứt ác
làm lành, tinh tấn hành đạo, cầu sanh An Lạc.
Chánh kinh:
世 人 共 爭 不 急 之 務,於 此 劇 惡 極 苦 之 中,勤 身 營 務,以 自 給 濟。尊 卑、貧 富、少 長、男 女,累 念 積 慮,為 心 走 使。無 田 憂 田,無 宅 憂 宅,眷 屬 財 物,有 無 同 憂。有 一 少 一,思 欲 齊 等,適 小 具 有,又 憂 非 常。水 火 盜 賊,怨 家 債 主,焚 漂 劫 奪,消 散 磨 滅。心 慳 意 固,無 能 縱 捨。命 終 棄 捐,莫 誰 隨 者。貧 富 同 然,憂 苦 萬 端。
Thế
nhân cộng tranh bất cấp chi vụ, ư thử kịch
ác cực khổ chi trung, cần thân doanh vụ, dĩ tự
cấp tế, tôn ty, bần phú, thiếu trưởng, nam nữ,
lũy niệm tích lự, vị tâm tẩu sử, vô điền
ưu điền, vô trạch ưu trạch, quyến thuộc
tài vật, hữu vô đồng ưu. Hữu nhất thiếu nhất, tư dục
tề đẳng. Thích tiểu cụ hữu, hựu
ưu phi thường, thủy hỏa đạo tặc,
oán gia trái chủ, phần phiêu kiếp đoạt, tiêu tán
ma diệt. Tâm xan ư cố, vô năng túng xả. Mạng chung khí quyên, mạc thùy tùy giả, bần phú
đồng nhiên, ưu khổ vạn đoan.
Người đời
cùng tranh giành những chuyện không cần gấp. Trong chỗ khổ sở, ác độc
cùng cực, đem thân siêng gắng lo toan để tự
châu cấp. Sang hèn, nghèo giàu, nhỏ lớn,
nam nữ, lo lắng chất chồng, bị cái tâm sai khiến.
Không ruộng lo ruộng, không nhà lo nhà, quyến thuộc,
tài vật, có hay không đều lo. Có một
phần bèn thấy thiếu một phần, lo muốn cho bằng
được người. Nếu có đôi chút, lại
lo vô thường, nước, lửa, trộm cướp,
oán gia trái chủ, đốt, trôi, cướp, đoạt,
tiêu tan ṃn diệt. Tâm keo ư chắc, chẳng thể buông bỏ.
Mạng hết vứt sạch, ai mang theo
được? Giàu nghèo đều vậy, lo
khổ muôn mối.
Giải:
Trong đoạn kinh này, trước hết đức
Phật chỉ rơ: Toàn bộ chúng sanh cơi này đều bị
phiền năo, khuyên lơn chúng sanh nên nhàm ĺa.
“Thế nhân cộng tranh bất
cấp chi vụ” (Người
đời cùng nhau đua chen những chuyện không cần
gấp): Người đời cùng cạnh tranh với
nhau những chuyện thế tục không quan trọng, khẩn
yếu, chẳng trọng đại sự cấp bách
nơi bản thân, chẳng biết vô thường nhanh
chóng, sanh tử là việc lớn; chỉ tham danh lợi nên
sầu khổ muôn bề, chẳng biết lúc nào thoát khỏi.
Sách Hội Sớ nói: “Phàm vật
th́ có gốc, ngọn; việc có gấp, hoăn. Chỉ nên coi
một đại sự là nhiệm vụ cấp bách
trước hết. Ví như người vào trong ṭa thành lớn, trước tiên phải
kiếm chỗ ở yên, rồi mới ra tay làm lụng. Đến
khi chiều tà tăm tối, c̣n có chỗ nghỉ đêm.
‘Trước hết kiếm chỗ ở yên’ chính là tu Tịnh
Độ; ‘đến khi chiều tà tăm tối’ chính là đại hạn xảy đến
(chết). ‘Có chỗ nghỉ
đêm’ là sanh trong hoa sen, chẳng lạc vào nẻo ác. Vậy
mà người ta cứ lơ là đối với việc
gấp như lửa cháy, hối hả lo liệu việc
chẳng gấp rút ǵ. Khi mạng
người sắp hết, dẫu hối ích chi?”
“Kịch ác cực khổ”:
“Kịch” (劇) là rất, hết mức. Phẩm Trược
Thế Ác Khổ có câu: “Duy thử
ngũ ác thế gian, tối vi cực khổ” (Chỉ có
mỗi thế gian có năm sự ác này là khổ sở nhất)
và: “Như thị ngũ ác, ngũ
thống, ngũ thiêu, thí như đại hỏa, phần
thiêu nhân thân” (Năm sự ác,
năm sự đau đớn, năm sự đốt
cháy như thế ví như lửa lớn thiêu đốt
thân người). Ác là nhân, khổ là quả. Giết chóc, trộm
cắp, nói dối, uống rượu là những điều
rất ác. Hễ tạo ác ắt phải chịu quả ác
nên những điều ấy được gọi là “ngũ thống, ngũ thiêu” như
lửa đốt thân nên bảo là “cực khổ” (khổ sở cùng cực).
Sách Hội Sớ c̣n nói: “Hừng
hực nung người đời như đống lửa
nên bảo là kịch ác cực khổ”.
Sách Hội Sớ giảng câu “cần thân doanh vụ, dĩ tự cấp tế” (vất
vả làm lụng, lo toan để tự nuôi thân) như
sau:
“Doanh (營) là lo toan, đổ sức
vào việc ǵ gọi là Vụ (務). Thân siêng năng, vất vả làm những
điều ấy gọi là ‘cần thân’ (勤 身). Cấp (給) là làm cho đủ; khiến cho
đồ vật được đầy đủ,
dư dả là Cấp. Cấp c̣n có nghĩa là cung cấp. Tế
(濟) là vượt qua”. Do đó, câu “cần thân doanh vụ, dĩ tự
cấp tế” có nghĩa là: Nhọc nhằn, vất vả
cái thân, toan tính, làm lụng để ḿnh được
đầy đủ, no ấm cho qua khỏi cái kiếp
này. Như Hội Sớ viết: “Sĩ nông công thương, v́ chu cấp cho bản
thân, nên nói là ‘dĩ tự cấp tế’. Cấp là cung cấp.
Tế là lo liệu đầy đủ”.
Câu “tôn, ty, bần,
phú, thiếu, trưởng, nam, nữ” (sang, hèn, nghèo, giàu, trẻ, già, trai, gái) chỉ
hết thảy các loại người trong đời. Người có
địa vị cao quư trong đời là Tôn (尊), địa vị
thấp là Ty (卑). Lắm của là Phú (富), ít của là Bần
(貧). Nhỏ tuổi là Thiếu (少), lớn tuổi
là Trưởng (長). Trai, trai, gái,
gái bao hạng sai khác, nhưng chẳng ai lại không cùng ôm
tấm ḷng ngu si, tham dục, lao tâm khổ tứ, lo nghĩ
chất chồng, bôn ba, nhọc nhằn chẳng lúc nào yên.
Bởi thế, Phật mới bảo: “Lũy niệm tích lự, vị tâm tẩu
sử” (Lo toan chồng chất,
bị cái tâm sai khiến).
Ngài Nghĩa Tịch bảo: “Lo
măi chuyện đă qua, lo hoài chuyện chưa tới nên bảo
là ‘lũy niệm tích lự’.
Thường bị dục tâm lôi kéo khiến chộn rộn,
bôn ba nên bảo là ‘vị tâm tẩu sử’ (bị cái tâm sai
khiến)”. Ư Ngài nói: Nghĩ nhớ chuyện quá khứ
th́ là “lũy niệm”, lo lắng cho tương lai là “tích lự”.
V́ thế, tâm niệm ấy chẳng lúc nào an v́ hễ tâm có
điều ǵ mong muốn th́ thân phải nhọc nhằn
theo. Ví dụ như: Ḷng muốn sắm sửa vật ḿnh
yêu thích th́ nào ngại bưng bê, khuân vác bề bộn, bôn ba
sửa soạn; cho nên kinh mới nói là: “Vị tâm tẩu sử” (Bị cái tâm sai khiến);
chỉ v́ tâm ham muốn mà phải chạy vạy.
Ngài Gia Tường dùng câu “tâm
chất chứa tài sản chẳng buông bỏ” để
giảng câu “lũy niệm tích
lự”, dùng câu “siêng cầu
chẳng ngơi” để giảng câu “vị tâm tẩu sử”. Ư Ngài nói: Những điều
canh cánh trong tâm niệm chỉ toàn là tài vật, cho nên “lũy niệm tích lự”.
Lăm lăm mong cho có nên thân tâm chẳng an, đấy gọi
là “vị tâm tẩu sử” (bị
cái tâm sai khiến).
Ngài Cảnh Hưng lại giảng: “Vị tâm tẩu sử là như con nai khát nước
chạy đuổi theo bóng nắng gợn, kẻ mắt
kéo màng thấy hoa đốm lăng xăng trên không, đều
do cái tâm thấm đẫm nước ái, chẳng rơ hoa
đốm là bệnh nên cứ đuổi quàng theo”. Bóng nắng gợn
(dương diệm) chính huyễn ảnh xuất hiện
trong sa mạc, nh́n xa tưởng là chỗ có nước.
Những con nai, con ngựa bị khát, tâm thèm nước thiết
tha nên cứ đuổi theo t́m uống, nhưng chỉ phí
công. Lại như người mắt bệnh kéo màng, ngỡ
trên hư không có những đốm sáng bay lẩn vẩn
(hoa đốm) toan chụp bắt, chẳng biết vốn
chẳng có hoa đốm, nên mới bảo là “vị tâm tẩu sử”. “Tẩu
sử” nói thông tục là bôn ba, nhọc nhằn.
Cả một đoạn dài từ câu “vô điền ưu điền” (không ruộng lo
ruộng) cho đến “ưu
khổ vạn đoan” (ưu khổ muôn mối) là để
giảng rơ ư “lũy niệm
tích lự”. “Quyến thuộc”
là người trong nhà, thân thuộc, tôi tớ v.v… “Tài vật” là gia tài, sản
nghiệp, các vật dụng để sinh sống. Những
thứ nói trên đều là những điều khiến ta
phải lo lắng. Chưa có th́ muốn, lo sao cho có;
nhưng có rồi lại sợ mất đi, nên lại lo
hơn nữa, cũng vẫn là lo lắng hệt như
nhau. Bể dục khó lấp bằng, lo được, lo
mất nên mới nói: “Hữu vô
đồng ưu” (Có hay không có
đều lo cả).
“Hữu nhất thiếu nhất,
tư dục tề đẳng”
(Có một phần lại thấy
thiếu một phần, lo muốn cho bằng được
người ta): Ví như kẻ đă có được tài
khoản một vạn đồng, thấy người
khác có đến hai vạn, liền nghĩ cách sao cho có
được một vạn nữa. Đă có một cái TV, thấy
người ta có hai cái liền muốn ḿnh có thêm cái nữa
cho bằng người ta. Muốn mà chưa được
th́ lại sanh lo buồn. Thỏa nguyện rồi cũng
chẳng hết lo nghĩ; bởi ham muốn không cùng nên
vĩnh viễn lo lắng không dứt.
Vừa mới có được một chút lại toan
khư khư giữ lấy, sợ gặp tai biến, lo mất
mát đi, nên kinh mới nói: “Thích tiểu
cụ hữu, hựu ưu phi thường” (Vừa được chút ít lại lo vô
thường). “Phi thường”
chính là những tai họa bất thường được
kinh nêu tiếp ngay sau câu trên (tức là câu “thích tiểu cụ hữu, hựu ưu
phi thường” (vừa có một chút, lại lo vô thường)) như các họa
hoạn nước trôi, lửa cháy, đạo tặc
cướp đoạt… “Thủy,
hỏa” (水 火) là thủy tai,
hỏa tai, “đạo tặc”
(盜 賊) là cái họa
cướp đoạt, trộm cắp. “Oán gia” (怨 家) là những kẻ kết oán với
ḿnh. “Trái chủ” (債 主)
là
những người ḿnh thiếu nợ chưa trả.
Các điều như trên đều là những tai họa
th́nh ĺnh phát sanh, như lửa có thể đốt cháy rụi,
nước cuốn trôi mất, kẻ cướp cướp
đoạt, kẻ trộm cuỗm mất, oán gia báo cừu,
chủ nợ xiết nợ. Thậm chí trong khoảnh khắc
chẳng c̣n một thứ ǵ là của ḿnh nữa, cái giàu
sang ngày trước đột nhiên chẳng c̣n sót lại
chút ǵ nên bảo là “phần
phiêu kiếp đoạt, tiêu tán ma diệt” (đốt, trôi, cướp đoạt, tiêu
tan, ṃn diệt). Sách Hội Sớ nói: “Phần (焚) là đốt cháy, là các nạn như chiến
tranh tàn phá, hỏa tai bất ngờ… ‘Phiêu’ (漂) là cuốn trôi, là các nạn
như nước lũ, sóng
gió… ‘Kiếp đoạt’ (刧 奪) là nạn đạo tặc.
Bị oan gia làm cho tiêu tan, bị chủ nợ làm cho ṃn diệt”.
Người đời “tâm
xan, ư cố” (tâm keo, ư chắc) nghĩa là người
đời tấm ḷng keo kiệt đến mức ngoan cố.
Tài vật mà bị mất th́ trong ḷng càng thêm phẫn hận,
lo buồn, oán hận, sầu khổ, không thể rảnh
trí nổi, nên kinh mới nói: “Vô năng
túng xả” (Chẳng thể
buông bỏ nổi).
Bốn câu từ “mạng chung khí quyên” (mất mạng là mất hết) trở
đi phiếm chỉ hết thảy người đời.
Lúc lâm chung, hết thảy tài vật quyến thuộc yêu dấu
đă tích cóp đều phải buông bỏ hết; một
ḿnh ḿnh đến, một ḿnh ḿnh đi, không ai bầu bạn.
Dẫu người ḿnh thương yêu nhất cam chịu
chết cùng một lúc với ḿnh th́ cũng chẳng thể
đến cùng một chỗ! Nghiệp nhân bất đồng,
quả báo ngàn lần sai khác, nên mỗi người sẽ
sanh về một chỗ khác nhau. Bởi thế kinh dạy:
“Mạc thùy tùy giả” (Không có ai theo).
Trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có dạy:
“Thị nhân lâm mạng chung thời,
tối hậu sát-na, nhất thiết chư căn tất
giai tán hoại, nhất thiết thân thuộc tất giai xả
ly, nhất thiết oai thế tất giai thoái thất, phụ
tướng, đại thần, cung thành, nội ngoại,
tượng mă, xa thặng, trân bảo phục tạng,
như thị nhất thiết vô phục tương tùy” (Người ấy lúc lâm chung,
trong sát-na cuối cùng, hết thảy các căn thảy
đều tan hoại, hết thảy thân thuộc đều
ĺa bỏ, hết thảy oai thế thảy đều tan
mất. Phụ tướng, đại thần, cung thành
trong ngoài, voi, ngựa, xe cộ, kho tàng của báu, hết thảy
những thứ như vậy chẳng có thứ nào theo
ḿnh). Đoạn kinh ấy có cùng ư nghĩa với đoạn
kinh ở đây.
Thường nghe: “Vạn
ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân” (Mọi thứ không mang được,
chỉ c̣n nghiệp theo thân); bất luận giàu nghèo, không ai là chẳng giống
vậy, ai nấy ưu khổ vô tận nên kinh mới nói
là: “Ưu khổ vạn
đoan” (Ưu khổ muôn mối).
Chánh kinh:
世 間 人 民, 父 子 兄 弟 夫 婦 親 屬,當 相 敬 愛,無 相 憎 嫉。有 無 相 通,無 得 貪 惜。言 色 常 和,莫 相 違 戾。或 時 心 諍,有 所 恚 怒。後 世 轉 劇,至 成 大 怨。世 間 之 事,更 相 患 害,雖 不 臨 時,應 急 想 破。
Thế
gian nhân dân, phụ tử, huynh đệ, phu phụ, thân thuộc,
đương tương kính ái, vô tương tăng tật.
Hữu vô tương thông, vô
đắc tham tích. Ngôn sắc thường ḥa, mạc
tương vi lệ. Hoặc thời tâm
tránh, hữu sở khuể nộ. Hậu thế chuyển
kịch, chí thành đại oán. Thế gian chi sự, cánh
tương hoạn hại. Tuy bất lâm thời, ưng cấp
tưởng phá.
Thế gian nhân dân,
cha con, anh em, chồng vợ, thân thuộc, hăy nên kính yêu nhau,
chớ nên ganh ghét. Kẻ có chia sẻ cho người không,
đừng nên tham tiếc. Lời lẽ, vẻ mặt
thường ḥa nhă, đừng chống trái nhau, hoặc có
lúc tâm tranh đua, hoặc là nóng giận, đến đời
sau sẽ chuyển thành rất nặng nề, đến nỗi
thành đại oán. Chuyện trong thế gian sẽ biến
thành tai họa. Tuy chẳng xảy đến
ngay, hăy gấp nên nghĩ cách trừ khử.
Giải:
Đoạn kinh này khuyên dạy người đời
đối với thân thuộc phải nên ḥa kính, v́ nếu
chẳng ḥa kính sẽ trở thành oán thù.
“Kính ái” (敬 愛)
là cung
kính và từ ái, “tăng tật”
(憎 嫉) là ghét bỏ
và ganh tị. “Hữu vô tương thông”: Chữ “tương
thông” (相 通) ngụ ư chia sẻ tài vật, đem thứ
ḿnh có để giúp đỡ cho người không có. “Ngôn
sắc” (言 色) là ngôn ngữ
và vẻ mặt. “Vi” (違) là trái nghịch,
“lệ” (戾) là ḱnh chống, tàn nhẫn. Sách
Hội Sớ nói: “Giọng vui
vẻ chẳng nóng giận, lời lẽ chẳng chống
trái, gay gắt, ôn ḥa, khiêm cung. Mặt chẳng cau có th́ gọi là thường
ḥa hoăn”. Như vậy, “ngôn sắc thường ḥa” (vẻ mặt, lời nói
thường ḥa hoăn) chính là như ở phần trên kinh
đă dạy “ḥa nhan ái ngữ”
vậy.
Trên đây, Phật đă khuyên thường ḥa hoăn, tiếp
theo, Phật dạy nếu bất ḥa sẽ kết thành
đại oán. Chữ “tránh” (諍)
trong câu “hoặc thời tâm
tránh” (hoặc
có lúc tâm tranh chấp nhau) nghĩa là tranh chấp. Sách
Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa giảng “tránh” là “kiện tụng”.
Sách Hội Sớ bảo: “Thói
đời lúc b́nh thường vốn chẳng phẫn hận,
chợt gặp cảnh trái nghịch nên bất th́nh ĺnh
tranh chấp nhau nên mới bảo là ‘hoặc thời” (hoặc
có lúc)”. Có lúc chợt khởi lên cái tâm đấu đá,
kiện cáo, tranh chấp nhau nên mới nói là “hoặc thời tâm tránh”.
“Khuể nộ” (恚 怒) là nóng nảy, phẫn nộ. Giận
dữ là một trong tam độc. Một khi tâm sân lên th́ tạo
thành mối hận nhỏ, oan oan tương báo không lúc nào
thôi. Kẻ oán ghét thường chạm mặt nhau, sát hại
lẫn nhau, càng lúc thêm dữ dội nên kinh mới bảo: “Hậu thế chuyển kịch,
chí thành đại oán” (Đời
sau càng chuyển thành nặng nề đến nỗi thành
mối oán hận lớn) như vua Lưu Ly
v́ muốn báo thù cái oán đời trước mà giết hại
cả ḍng họ Thích.
“Thế
gian chi sự, cánh tương hoạn hại” (Sự trong thế gian càng thêm tai hại) là những
sự báo oán trong thế gian tạo thành họa hại. Đă tạo nghiệp
nhân, ắt kết thành ác quả. V́ sự báo ứng chẳng
lập tức hiển hiện ngay trong hiện tại nên
kinh mới nói “tuy bất
lâm thời” (tuy chẳng thấy ngay lập tức), nhưng nhân quả chẳng hư, quyết sẽ báo ứng
trong
đời sau nên kinh mới nói: “Ưng cấp
tưởng phá” (Phải gấp
nghĩ cách phá đi). Chúng sanh sợ quả, Bồ Tát sợ
nhân là vậy!
Chánh kinh:
人 在 愛 欲 之 中,獨 生 獨 死,獨 去 獨 來,苦 樂 自 當,無 有 代 者。善 惡 變 化,追 逐 所 生,道 路 不 同,會 見 無 期。何 不 於 強 健 時,努 力 修 善,欲 何 待 乎?
Nhân tại
ái dục chi trung, độc sanh độc tử, độc
khứ độc lai, khổ lạc tự
đương, vô hữu đại giả. Thiện ác biến hóa, truy trục sở
sanh, đạo lộ bất đồng, hội kiến
vô kỳ. Hà bất ư cường kiện thời, nỗ
lực tu thiện, dục hà đăi hồ?
Trong ái dục,
con người sanh một ḿnh, chết một ḿnh. Một ḿnh
đến, một ḿnh đi, khổ vui tự chịu lấy,
chẳng ai thế cho. Thiện, ác biến hóa theo đuổi
đến từng kiếp sống. Đường lối bất
đồng, không dịp gặp gỡ. Sao chẳng ngay trong
lúc c̣n khỏe mạnh, nỗ lực tu thiện, c̣n muốn
đợi đến khi nào?
Giải:
Đoạn này, Phật khuyến dụ người đời
bỏ ác tu thiện.
“Ái dục” là t́nh ái và tham
dục; ái dục chính là cội gốc sanh tử. Ái chẳng
nặng chẳng đọa Sa Bà! Toàn thể người
đời ch́m đắm trong ái dục cho nên chết
đây sanh kia, lưu chuyển vô cùng. Dẫu cho quyến thuộc
đầy nhà nhưng lúc sanh tử: Sanh th́ trơ trọi một
thân đi đến, chết thời riêng một ḿnh ta ra
đi, chẳng có ai theo, không ai thay được. V́ thế,
kinh nói: “Độc sanh
độc tử, độc khứ độc lai” (Sanh một ḿnh, chết một ḿnh; một ḿnh đến,
một ḿnh đi).
Câu “khổ lạc tự
đương, vô hữu đại giả” ư nói: Quả báo sướng hay khổ đều
do tự ḿnh tạo, tự ḿnh hưởng, cũng không ai
khác thay thế được. Ngài Cảnh Hưng nói: “Tự đương tức là
tự ḿnh nhận lấy”.
Câu “thiện ác biến hóa”
được ngài Cảnh Hưng giảng như sau: “Thiện biến hóa chính là quả
báo trong đường lành. Ác biến hóa là quả báo trong
đường ác”.
Sách Hội Sớ nói: “Đời
này tuy là thiện quả, nhưng tạo nghiệp nhân ác th́
đời sau sẽ chiêu cảm, biến thành tai
ương. Đời này tuy là ác quả nhưng làm lành th́
đời sau sẽ hưởng phước báo. Thiên biến
vạn hóa chẳng thể nói trọn”. Đây lại là một
cách giải thích khác của chữ “biến hóa”. Ngài Gia Tường lại giảng: “Nhân ác chịu khổ, nhân lành
hưởng vui. Quả báo nhanh chóng”.
“Truy trục sở sanh”: “Trục” (逐) là đuổi theo, [“truy trục sở sanh”] nghĩa là sanh về
đâu quả báo cũng đuổi theo ngay đó, chẳng
hề bỏ rời. Tùy theo nghiệp nhân mà cảm
được quả báo thiện hay là ác.
Gia Tường Sớ giảng câu “đạo lộ bất đồng” như sau: “Làm lành th́ quả báo chốn thiên
đường chờ sẵn. Làm ác th́ núi đao rừng
kiếm đón chờ”. Nhân quả mỗi người
sai khác nên sẽ sanh về những nơi khác xa nhau. Bởi
vậy, lúc lâm chung chia tay nhau trọn thành vĩnh biệt. Một
phen chịu báo trong tam đồ là cả năm ngàn kiếp,
trôi lăn trong sáu nẻo, biết ngày nào gặp lại
nhau. Dẫu có trùng phùng cũng chẳng hề nhận biết
nổi nhau nên mới nói: “Hội
kiến vô kỳ” (Không dịp gặp gỡ).
Bởi đấy, đức Thế Tôn xót
thương cảnh tỉnh khuyên lơn người đời
sao chẳng ngay lúc mạnh khoẻ hăy “nỗ lực tu thiện” chứ c̣n đợi
đến khi nào nữa? Người già thể xác suy yếu,
khó bề siêng tu như kinh Niết Bàn đă bảo: “Ca Diếp! Thí như cam giá, kư bị
áp dĩ, tể vô phục vị. Tráng niên thịnh sắc,
diệc phục như thị. Kư bị lăo áp, vô tam chủng
vị: Nhất, xuất gia vị. Nhị, độc tụng
vị. Tam, tọa Thiền vị” (Này Ca Diếp! Ví như cây mía đă bị ép, bă mía chẳng
c̣n vị ǵ. Tuổi trẻ khỏe mạnh cũng giống
như thế, khi bị tuổi già ép th́ chẳng c̣n có ba thứ
vị: một là vị xuất gia, hai là vị đọc
tụng, ba là vị tọa Thiền).
Tuổi già mất cả ba thứ vị như vậy
nên phải gấp rút nỗ lực, chớ nên chần chừ.
Chánh kinh:
世 人 善 惡 自 不 能 見,吉 凶 禍 福,競 各 作 之。身 愚 神 闇,轉 受 餘 教。顛 倒 相 續,無 常 根 本。蒙 冥 抵 突,不 信 經 法。心 無 遠 慮,各 欲 快 意。迷 於 瞋 恚,貪 於 財 色。終 不 休 止,哀 哉 可 傷!先 人 不 善,不 識 道 德,無 有 語 者,殊 無 怪 也。死 生 之 趣,善 惡 之 道,都 不 之 信,謂 無 有 是。更 相 瞻 視,且 自 見 之。或 父 哭 子,或 子 哭 父,兄 弟 夫 婦, 更 相 哭 泣 。
Thế
nhân thiện ác tự bất năng kiến, cát hung họa
phước, cạnh các tác chi. Thân ngu
thần ám, chuyển thọ dư giáo, điên đảo
tương tục, vô thường căn bản. Mông minh
để đột, bất tín kinh pháp. Tâm vô viễn lự,
các dục khoái ư. Mê ư sân khuể, tham ư tài sắc, chung bất hưu chỉ, ai tai khả
thương! Tiên nhân bất thiện, bất thức đạo
đức, vô hữu ngữ giả, thù vô quái dă. Tử sanh
chi thú, thiện ác chi đạo, đô bất chi tín, vị
vô hữu thị. Cánh tương chiêm thị, thả tự
kiến chi. Hoặc phụ khốc tử, hoặc tử
khốc phụ, huynh đệ phu phụ, cánh tương
khốc khấp.
Người
đời chẳng thể tự thấy thiện ác, cát,
hung, họa, phước, tranh nhau mà làm. Thân ngu dốt, tinh
thần tối tăm, đâm ra tin nhận các giáo lư khác,
điên đảo tiếp nối. [Do] căn bản vô
thường [nên] mù mịt, tối tăm, càn rỡ, chẳng
tin kinh pháp, tâm chẳng lo xa. Ai nấy chỉ muốn khoái
ư, mê man nóng giận, tham lam tài sắc, trọn chẳng ngừng
nghỉ. Ôi! Đáng thương thay! Người đời
trước chẳng lành, chẳng biết đạo đức;
[cha ông] không bàn đến [th́ con cháu chẳng biết ǵ] thật
chẳng có ǵ là lạ! Nẻo sanh tử, đường
thiện ác đều chẳng tin tưởng, nói là ‘đời
nào có!’ Hăy quan sát xem để tự thấy biết lấy:
Nào cha khóc con, hoặc con khóc cha. Anh, em, chồng, vợ khóc
thương lẫn nhau.
Giải:
Cả phẩm kinh này chỉ rơ chúng sanh trong uế độ
này ba độc lẫy lừng, tạo ác đáng buồn!
Đoạn đầu tiên nói về tham độc “bần phú đồng nhiên,
ưu khổ vạn đoan” (giàu nghèo đều vậy,
lo khổ muôn mối); đoạn kế đó nói về sân
độc “chí thành đại
oán” (đến nỗi thành mối oán hận lớn). Đoạn này giảng về si
độc: “Thân ngu thần ám,
bất tín kinh pháp, thiện ác chi đạo, đô bất
chi tín” (Thân ngu dốt, tinh thần tối tăm, chẳng tin kinh pháp,
đường thiện hay ác đều chẳng tin tưởng).
Cái họa si độc làm thương tổn huệ mạng
của con người. Si độc chính là cái gốc của
cả ba độc, v́ thế nó gây hại rất sâu. Đoạn
kinh này ư nói: Người đời ngu si, chẳng biết
thế nào là thiện, thế nào là ác, cứ theo ư ḿnh phân biệt
càng sai quấy thêm; chẳng thể tin nổi quy luật
thường hằng nhân quả thiện ác trong ba đời
nên kinh nói: “Thế nhân thiện
ác, tự bất năng kiến” (Người đời
chẳng thể tự thấy thiện ác). Đă chẳng biết
nhân lại chẳng sợ quả, chỉ cốt khoái ư chốc
lát, chẳng sợ hậu hoạn vô cùng. Phóng túng càn rỡ,
mặc sức làm ác, đua nhau gây nhân ác, chẳng đoái
hoài hung họa trong tương lai nên kinh mới bảo: “Cát hung họa phước, cạnh
các tác chi” (Cát, hung, họa
phước tranh nhau mà làm).
Ngài Gia Tường lại giảng: “Người đời cho rằng lúc chết, v́ cúng
tế mà sát sanh là hung, những dịp như cưới gả
v.v… là cát. Đối với hai việc này, người đời
đua nhau mà làm”. Ư nói: Cát, hung là nhân; họa phước
là quả. Sát sanh để cúng tế là hung, sát nghiệp cảm
lấy quả báo trong tam đồ nên là họa. Người
đời cho rằng cưới gả là cát, nhưng chẳng
biết do vui mừng mà sát sanh th́ lại trở thành hung sự,
chiêu cảm cái họa vô cùng trong tương lai. Ấy là v́
người đời chẳng hiểu dù thiện hay ác
đều chiêu cảm quả báo.
Sách Gia Tường Sớ giảng câu “thân ngu, thần ám” như sau: “Do thân tạo ác nên bảo là thân ngu, tâm chẳng tin
nên bảo là thần ám”. C̣n Tịnh Ảnh Sớ lại
giảng: “Thân ngu, thần ám là
tâm ư bế tắc, chẳng thể tự thấy nổi
chuyện thiện ác sanh tử”. Như vậy, ngu dốt,
tối tăm chính là si độc.
Do ngu si nên tâm ư bế tắc chẳng thể chánh tín
nhân quả, chẳng thể tin nhận kinh pháp ḥng nhập
chánh đạo. Ngược lại, càng dễ đâm ra tin
thờ các tà thuyết ngoại đạo. Bởi thế,
kinh nói: “Chuyển
thọ dư giáo” (Đâm ra tin nhận
các giáo lư khác). Thấy biết điên đảo như thế
liên tục chẳng dứt, ch́m đắm măi măi trong sanh tử;
nhưng nguồn gốc của những tà kiến ấy lại
chính là si nghiệp. Sanh tử vô thường là do si làm cội
gốc. Kinh gọi đó là: “Vô
thường căn bản”.
“Mông minh để đột”: “Mông” (蒙) là dẫu có
tṛng mắt mà chẳng thấy ǵ. Ngài Cảnh Hưng bảo:
“Mù mịt lại càng thêm mù mịt.
Mù mịt là v́ bị che lấp nên chẳng sáng suốt. Tối
tăm là do ám muội chẳng hiểu biết”. “Để”
(抵) là như con thú dùng sừng húc các vật, “đột” (突) là xông thẳng
vào.
Ngài Nghĩa Tịch giảng câu “mông minh để đột” như sau: “[Câu này] ư nói chẳng hiểu biết
ǵ, đụng việc là làm càn như đứa trẻ
đi đêm, như chó dại chạy quàng, không điều
ǵ không làm”. Do ngu muội, tăm tối nên chẳng hiểu
nghĩa kinh; quen tánh hung hăng, thích xung đột nên chẳng
thể tin nhận nổi kinh pháp. Do vậy, “tâm vô viễn lự, các dục
khoái ư” (tâm chẳng lo xa, chỉ cốt khoái ư). Sách Hội
Sớ viết: “Chẳng quan
tâm đến đời sau, chỉ cầu cái vui hiện tại
nên bảo là ‘các dục khoái ư’ (ai nấy chỉ muốn
khoái ư)”. Ôm ḷng giận dữ, tham tài hiếu sắc chẳng
lúc nào ngơi nên Phật mới than: “Ai tai khả thương” (Buồn thay đáng
thương).
Câu “Tiên nhân bất thiện,
bất thức đạo đức” (Người
đời trước chẳng lành, chẳng biết đạo
đức) ngụ ư: Đời
cha ông ngu si. Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Trọn chẳng làm lành nghĩa là vô hạnh. ‘Bất
thức đạo đức’ là chẳng hiểu biết”.
Đă không hiểu biết lại c̣n vô hạnh th́ thật
là ngu si cùng cực. Đời này tiếp nối đời
kia, những lời cha dạy con toàn là tà thuyết, chẳng
bàn đến quả báo thiện ác nên kinh mới bảo: “Vô hữu ngữ giả” (Chẳng
nói ǵ đến). Cha ông si độn, ngoan cố th́ con cháu
vô tri là chuyện tất nhiên nên kinh mới bảo: “Thù vô quái dă!” (Thật chẳng
có ǵ là lạ).
Tịnh Ảnh Sớ giảng câu “sanh tử chi thú, thiện ác chi đạo” (nẻo
sanh tử, đường thiện ác) như sau: “Chẳng thể tự thấy nẻo
sanh tử là chẳng biết quả. Chẳng thể tự
thấy đường thiện ác là chẳng hiểu nhân.
Tự tâm chẳng biết cả nhân lẫn quả, lại
không ai bảo cho nên trọn
chẳng hiểu biết”. Bởi thế mới “đô bất chi tín, vị vô hữu
thị” (đều chẳng tin nổi, nói là chẳng
có). Nếu chẳng biết việc sanh tử th́ cứ tự
xem đi: Cha con, anh em, chồng vợ bị cái chết chia
ĺa, thương khóc lẫn nhau, có ai tránh khỏi đâu!
Chánh kinh:
一 死 一 生,迭 相 顧 戀。憂 愛 結 縛,無 有 解 時。思 想 恩 好,不 離 情 欲。不 能 深 思 熟 計,專 精 行 道。年 壽 旋 盡,無 可 奈 何。
Nhất tử
nhất sanh, điệt tương cố luyến, ưu
ái kết phược, vô hữu giải thời, tư
tưởng ân hảo, bất ly t́nh dục. Bất năng thâm tư thục kế,
chuyên tinh hành đạo. Niên thọ toàn tận, vô khả nại
hà.
Một chết,
một sống, bịn rịn, luyến tiếc nhau. Ưu
khổ thắt buộc, không lúc nào tháo nổi. Nghĩ
tưởng [những niềm] ân ái, yêu mến, chẳng ĺa
t́nh dục, chẳng thể suy sâu nghĩ chín, chuyên ṛng hành
đạo. Tuổi thọ chớp mắt là hết, biết
làm sao đây!
Giải:
Người đời ngu si, tham ái, chẳng biết
muôn sự trong đời đều như huyễn mộng,
như hoa đốm trên không, lầm tưởng thật
có; nào hay vô thường vùn vụt, chẳng thể giữ
măi nổi. Lúc sanh càng yêu mến, lúc chết càng bội phần
xót xa. Lúc mất: Kẻ c̣n sống thương xót thân nhân từ
nay vĩnh biệt; kẻ chết thương ḿnh ra đi
vĩnh viễn, lưu luyến nhau khó thể bỏ nổi,
như mũi dao xoáy vào tim. Bởi thế, kinh nói: “Nhất tử nhất sanh,
điệt tương cố luyến” (Một sống, một chết, bịn rịn,
luyến tiếc nhau).
Những ân ái xưa kia nay thành ưu khổ, hai điều
này trói buộc thân tâm như dây thắt chặt mối, chẳng
thể thoát ra nổi nên kinh bảo: “Ưu ái kết phược, vô hữu giải
thời” (Lo khổ, yêu
thương thắt buộc, chẳng lúc nào tháo ra nổi).
Mà “kết phược” chính
là phiền năo. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương chép:
“Phiền năo, ám Hoặc (phiền
năo si ám) trói buộc hành nhân nên gọi là Kết. Nó lại
ràng buộc cái tâm nên gọi là Kết v́ nó kết tập hết
thảy sanh tử”. Như vậy, vướng vít vào
t́nh ái th́ liền bị sanh tử buộc ràng, chẳng có
lúc nào thoát khỏi.
“Tư tưởng ân hảo” (Nghĩ tưởng [những điều] ân
ái, yêu thích): Xét tận cội nguồn, những điều
người đời yêu quư thật sự là do t́nh dục
mà chẳng biết rằng “Dục
là cội khổ”, “thuần t́nh ắt đọa”. Nếu
đối với những điều ấy, ta chẳng
thể “thâm tư thục kế”
(suy sâu, nghĩ chín) để
nhất tâm tu đạo ḥng cầu giải thoát th́ nháy mắt
vô thường xộc đến, thọ mạng chấm
dứt, đến lúc ấy, làm sao bươn bả, kêu
van ǵ nổi!
Mạng người trong hơi thở nên kinh mới bảo:
“Niên thọ toàn tận” (Tuổi
thọ chớp mắt là hết). “Toàn tận” (旋 盡) là nháy mắt đă hết.
Chánh kinh:
惑 道 者 眾,悟 道 者 少。各 懷 殺 毒, 惡 氣 冥 冥。為 妄 興 事,違 逆 天 地。恣 意 罪 極,頓 奪 其 壽。下 入 惡 道,無 有出 期。
Hoặc
đạo giả chúng, ngộ đạo giả thiểu,
các hoài sát độc, ác khí minh minh. Vi vọng hưng sự, vi
nghịch thiên địa. Tứ ư tội cực, đốn
đoạt kỳ thọ. Hạ nhập ác đạo, vô hữu
xuất kỳ.
Kẻ lầm lẫn
nơi đạo rất nhiều, kẻ ngộ đạo
lại ít. Ai nấy ôm ḷng sát hại, độc ác, ác khí mịt
mù, làm chuyện sái quấy trái nghịch thiên địa,
mặc t́nh phóng túng tạo tội cùng cực; tuổi thọ
chợt bị đoạt mất, lọt xuống ác đạo
chẳng có thuở ra.
Giải:
Đoạn kinh này giảng về cái họa do từ si mê
mà khởi lên sân hận.
Trong ba ác nghiệp, sân nghiệp là nhân của địa
ngục. Có câu: “Nhất điểm
sân tâm hỏa, năng thiêu công đức lâm” (Một
đốm lửa sân tâm thiêu trụi rừng công đức).
Người đời ít kẻ tỉnh ngộ chánh đạo,
lắm kẻ mê hoặc nên ḷng luôn ôm ấp ư giết hại,
độc địa, tàn hại mạng người khác.
Ác khí hừng hực, từ chỗ tối vào trong chỗ tối
nên kinh mới nói “ác khí minh minh”
(ác khí mịt mù).
“Minh minh” (冥 冥) lại có
nghĩa là tối tăm, vô tri, đêm tối. Làm cái ǵ cũng sai lầm nên kinh bảo “vi vọng hưng sự” (làm chuyện sái quấy), bởi
thế mới “vi nghịch
thiên địa” (trái nghịch thiên địa). Ngài Gia Tường bảo: “Trên chẳng thuận ḷng trời,
dưới nghịch ư Diêm La vương”.
Mặc ḷng tạo ác như thế nên kinh bảo là “tứ ư” (恣 意: mặc t́nh phóng
túng). Suốt ngày tạo tội ngập trời
nên bảo là “tội
cực” (tội
cùng cực). Bởi đó, bị tội
nghiệp lôi kéo nên chẳng đợi đến khi tuổi
thọ hết đă bị mất mạng “hạ nhập ác đạo” (rớt xuống ác đạo).
“Đoạt” (奪) là cưỡng
lấy, làm cho mất hẳn đi. Mạng sống đột
ngột bị mất đi nên mới nói là: “Đốn đoạt kỳ thọ”
(Tuổi thọ chợt bị đoạt mất). Ngài
Tịnh Ảnh bảo: “Do si khởi
sân, tàn hại lẫn nhau, ai nấy ôm ḷng giết chóc. Ác
độc, ác khí mù mịt, làm các điều quấy”.
Ngài lại bảo: “Kẻ
tạo tội ác do sức túc nghiệp sẽ tự nhiên
chiêu cảm ác duyên phi pháp, thuận theo [những ác duyên ấy]
mặc sức tạo tội. Cho đến khi tội tới
mức cùng cực sẽ đọa ác đạo, chịu
khổ vô cực”.
Ư nói: Người đời do ngu si nên sanh tâm sân hận
mà giết chóc, tàn hại lẫn nhau, mặc t́nh làm ác; ôm
ḷng độc ác, chỉ làm các điều xằng bậy.
Kẻ tạo tội như thế do nghiệp lực tội
ác của đời trước sẽ mặc sức làm
ác. Tới khi sự ác ngập đầu, quả báo ắt
sẽ hiển hiện nên đột nhiên bị chết mất
đi, đọa lạc trong ba ác đạo, chịu lấy
quả báo chẳng có cùng cực, không biết khi nào mới
thoát nổi nên kinh nói: “Vô hữu
xuất kỳ” (Chẳng có thuở ra).
Chánh kinh:
若 曹 當 熟 思 計,遠 離 眾 惡。擇 其 善 者,勤 而 行 之。愛 欲 榮 華,不 可 常 保,皆 當 別 離, 無 可 樂 者。當 勤 精 進,生 安 樂 國。智 慧 明 達,功 德 殊 勝。勿 得 隨 心 所 欲,虧 負 經 戒,在 人 後 也。
Nhược tào
đương thục tư kế, viễn ly chúng ác, trạch
kỳ thiện giả, cần nhi hành chi. Ái dục vinh hoa,
bất khả thường bảo, giai đương biệt
ly, vô khả lạc giả. Đương cần tinh tiến,
sanh An Lạc quốc. Trí huệ minh đạt, công đức
thù thắng. Vật đắc tùy tâm sở dục, khuy phụ
kinh giới, tại nhân hậu dă.
Các ngươi
hăy nên suy nghĩ chín chắn, xa ĺa các ác, chọn lựa
điều thiện để siêng năng thực hành. Ái dục,
vinh hoa chẳng thể giữ măi được, đều
sẽ biệt ly, chẳng thể vui nổi. Phải nên
siêng tinh tấn sanh sang cơi An Lạc. Trí huệ minh đạt,
công đức thù thắng. Đừng chạy theo điều
ham muốn trong tâm mà khiếm khuyết kinh giới, tụt
hậu sau người khác.
Giải:
Đoạn cuối này là lời khuyên chung: Dứt ác làm
lành, cầu sanh Cực Lạc. “Nhược
tào” là “nhữ đẳng” (các
ông). “Thục tư kế” là
như ta thường nói “suy sâu, nghĩ chín”.
Toàn bộ đoạn kinh từ chữ “ái dục, vinh hoa” đến “vô khả lạc giả” (chẳng thể vui nổi)
được sách Hội Sớ giảng như sau: “Vinh hoa chẳng thể giữ nổi,
hội hợp rồi nhất định ly tán. Ái dục
chẳng thường c̣n, thịnh rồi ắt có suy. Điên
đảo lầm tưởng là vui nên [những điều
ấy] chẳng đáng ưa thích”.
Ông Bành Tế Thanh bảo: “Hết
thảy người đời coi dục là vui, chẳng biết
đó là khổ. Người trí xem thấy chỉ toàn là khổ,
không chút vui nào. V́ sao vậy? Cứ coi Có là vui, Không là khổ,
nào hay Có chính cái nhân của Không.
Xem ‘được’ là vui, coi ‘mất’ là khổ, nào hay
‘được’ chính là cái nhân của ‘mất’. Coi tụ tập
là vui, tan ĺa là khổ, nào hay tụ tập là cái nhân của
tan ĺa. Coi sanh là vui, coi diệt là khổ, nào hay sanh chính là
cái nhân của diệt”.
Ư nói: Những điều chúng sanh tưởng là vui thật
ra chính là cái nhân tạo khổ. Từ cái nhân tạo khổ
ấy ắt phải sanh ra quả khổ nên bảo là “vô khả lạc giả” (chẳng
thể vui nổi).
Tiếp đó, Phật khuyên nên tinh tấn cầu sanh Cực
Lạc. Được sanh về cơi ấy rồi th́ ai nấy
ắt đều “trí huệ
minh đạt, công đức thù thắng”. “Minh” (明) là hiểu rành
rẽ, “đạt” (達) là thông đạt.
Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Trí
huệ minh đạt là đạt được trí huệ
thù thắng. Công đức thù thắng là được
phước thù thắng”. Trí lẫn phước đều
thù thắng nên Phật khuyên người đời siêng
năng cầu văng sanh. Thật đúng là: “Vật đắc tùy tâm sở dục,
khuy phụ kinh giới, tại nhân hậu dă” (Đừng chạy theo điều
ham muốn trong tâm mà khiếm khuyết kinh giới, tụt
hậu sau người khác). “Khuy”
(虧) là khuyết, “phụ”
(負) là thiếu. “Kinh”
(經) là kinh giáo, “Giới” (戒) là giới hạnh. Ở đây,
Phật đặc biệt khuyên ta nên tŕ giới bởi Giới
là nền tảng của muôn hạnh.
“Vật đắc tùy tâm” (Đừng chạy
theo cái tâm) là như kinh Niết Bàn dạy: “Thường vi tâm sư, bất vị sư tâm” (Thường
làm thầy của cái tâm chớ để cái tâm làm thầy
ḿnh), nghĩa là: Nếu để cho cái tâm sai khiến
được ḿnh th́ hành nhân mắc sai lầm lớn. Ấy
là v́ cái vọng tâm này chính là cội rễ sanh tử, tuân
theo cái vọng tâm này th́ khác nào nhận giặc làm con, toan nấu
cát thành cơm, làm sao ăn nổi? Lẽ đâu rong ruổi
theo tâm tánh làm điều càn quấy hay sao? Câu kinh sau đây
trong kinh Tứ Thập Nhị Chương: “Thận vật tín nhữ ư, nhữ ư bất khả
tín” (Cẩn thận đừng
tin tâm ư của ngươi, tâm ư ngươi không thể tin
nổi!) có cùng một ư nghĩa với câu kinh ở
đây. “Tại nhân hậu dă” (Tụt
hậu sau người khác) là thua người khác vậy.